Post by Can Tho on Mar 8, 2009 7:40:00 GMT 9
'Phục hồi bu-gi'
Friday, February 06, 2009
Minh họa: Ánh Bùi
Như một định mệnh, Nguyễn Kỳ Cùng lại gặp Hà Văn Bá, người bạn vong niên thuở xưa, tại một địa điểm mới, được gọi là Cơ Sở Phục Hồi Bu-Gi. Câu chuyện ấy phải trở lui về qúa khứ.
Đó là thời kỳ “tiêu thổ kháng chiến.” Chính sách “vườn không nhà trống” thời ấy, cuối cùng đã làm cho nông thôn miền bắc vốn đã tiêu điều, đã trở nên xơ xác nhiều hơn. Đó là lúc trận đói năm Ất Dậu mới dứt. Nguyễn Kỳ Cùng, trong ký ức tuổi thơ của mình, chỉ còn in dấu những con phố xưa rất đìu hiu của thành phố Nam Định, trong những mùa đông rét mướt. Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng được bao phủ bởi những tháng năm buồn bã. Những xác người chỉ còn da với xương chồng chất trên những chiếc xe ba gác do một cái xác khác còn thở, kéo đến một chỗ chôn chung… và khi chiến tranh thế giới kết thúc, lại là lúc Nguyễn Kỳ Cùng phải rời bỏ thành phố để tản cư tới những miền quê hẻo lánh.
Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng là một chuỗi những tháng năm không may mắn. Vì chiến tranh luôn xô đẩy cái gia đình nhỏ bé ấy càng ngày càng đi sâu vào những miền đất xa xôi của đất nước.
Năm lên chín tuổi, Nguyễn Kỳ Cùng với gia đình trôi dạt đến một làng quê rất xa. Ngôi trường tiểu học là một căn nhà chứa thóc bỏ hoang của một tay phú hộ đã ra đi. Ở đây Nguyễn Kỳ Cùng có một người bạn vong niên: Hà Văn Bá.
Hà Văn Bá hơn Nguyễn Kỳ Cùng sáu tuổi. Nhà nghèo, lại tai trời ách nước, lên bẩy tuổi, Hà Văn Bá đã phải chăn trâu, cắt cỏ, và do đó mà Bá đi học rất trễ. Ngồi chung một lớp với Nguyễn Kỳ Cùng nhưng chênh lệch về tuổi tác không phải là trở ngại để họ không thể kết thân với nhau. Mười lăm tuổi, Bá mới học lớp nhì (sau này gọi là lớp bốn), Hà Văn Bá là một “thanh niên” có chí lớn và có lòng… yêu nước nồng nàn.
Tuổi lớn, cùng với sự khôn ngoan và những hành động khác người của Hà Văn Bá từng khiến Nguyễn Kỳ Cùng yêu mến, khâm phục, và tự hào về người bạn vong niên của mình.
Thuở ấy, thi thoảng Hà Văn Bá bỏ lớp đi đâu đó một hai ngày, có khi lâu hơn. Những lần ấy học trò trong lớp xôn xao, giống như mặt nước ao bèo bị dao động bởi một cục đất vô tình ném xuống, rồi những mảng bèo ấy khép lại bình yên như chưa từng có chuyện gì xẩy ra, khi Hà Văn Bá trở về lớp học, Bá lại cúi cái đầu trọc nghiêng nghiêng trên trang giấy vở học trò.
Hà Văn Bá có nhiều năng khiếu đáng nể. Anh có một cái ống đồng, với vài cục đất vê tròn phơi khô làm đạn, anh có thể thổi chết một con chim, bắn hạ một con gà. Anh có thể bơi qua sông trong mùa mưa lũ. Anh cũng có thể thả lời bông lơn chọc ghẹo gái làng, khiến các cô đỏ mặt. “Nữ thập tam, nam thập lục, sang năm tớ lấy vợ được rồi,” anh nói thế. “Nhưng cứ để đấy, khi nào cách mạng thành công hãy hay,” vẫn lời anh nói. Đó là lần đầu tiên Nguyễn Kỳ Cùng nghe được hai chữ “cách mạng.”
Trong lớp học, Nguyễn Kỳ Cùng ngồi cạnh Hà Văn Bá, và nhờ vậy Nguyễn Kỳ Cùng học hỏi được ở người “thanh niên” này nhiều điều. Kể từ ngày quen biết Bá, trí khôn của Nguyễn Kỳ Cùng như được mở rộng thêm ra. Người bạn vong niên này đã khai mở cho Nguyễn Kỳ Cùng những nẻo đường trí tuệ mới mẻ, cùng những chân trời hiểu biết rực rỡ. Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng in đậm dấu ấn về người “thanh niên” lỗi lạc ấy. Tuổi cao, vóc dáng nhỏ thó, mắt láo liên, học hành chậm lụt vì hình như tâm hồn người “thanh niên” ấy bao giờ cũng hướng ra bên ngoài lớp học, ở tận tít tắp chân trời xa, ở những ước mơ…
Nhà Hà Văn Bá ở tận cuối thôn, chỉ có hai mẹ con. Nghe đâu, ông bố đã qua đời vào những ngày cuối cùng của nạn đói năm Ất Dậu. Sau khi chôn cất, thật ra là vùi lấp ở một rẻo đất hoang, mẹ Bá tiếp tục cuộc đời cấy thuê, bữa đói bữa no. Bá phụ mẹ những công việc lặt vặt để mưu sinh. Hai mẹ con làm quần quật mà vẫn chẳng đủ ăn. Tuổi thơ của Bá đầy ắp những tháng năm đói lạnh. Bá đến trường học rất trễ trong hoàn cảnh đó. Vậy mà trong cái thôn nghèo xơ xác ấy, một thời từng âm ỉ những lời đồn thổi, những câu chuyện có vẻ như một thứ hoang đường về một cuộc đổi đời. Cuộc đổi đời đã bắt đầu ở một đất nước xa xôi, nơi không có kẻ giầu người nghèo, nơi chỉ có mùa xuân: Trẻ em thì ca hát, uống sữa trước khi đến trường. Người lớn làm việc trong các xưởng máy, trên những cánh đồng mà ở đó không có cai phu, không có phú hào, địa chủ, làm được bao nhiêu, chia đều lợi tức với nhau.
Có lần Hà Văn Bá bỏ học năm ngày. Khi trở lại lớp, thầy giáo hỏi lý do thì Bá nói anh đi theo lời yêu cầu của chú Thông Núi. Thầy lặng yên, trên nét mặt của thầy một thoáng âu lo. Từ đó, như là một sự mặc nhiên, Bá có thể đến lớp hay vắng mặt bất cứ khi nào. Thông Núi là ai, mà sao thầy có vẻ e dè? Một lần nọ, Bá lại nhắc đến hai tiếng “cách mạng.” Bấy giờ, ở nông thôn Miền Bắc đâu đó cũng có nghe… nhất là sau cái trận đói năm Ất Dậu 1945…
Sau này Bá nói lại, cái nạn đói ấy là do bọn địa chủ, bọn cường hào ác bá, bọn vua quan gây ra, bởi vì chúng đã cướp sạch của mọi người. Cách mạng sẽ lấy lại của cải của chúng để chia cho người nghèo. Người dạy cho Bá biết điều ấy là… chú Thông Núi. Vẫn theo lời Bá, chú Thông Núi đang hoạt động bí mật, và lâu lâu mới về làng một lần để xây dựng phong trào…. Năm ấy Thông Núi đã ngoài hai mươi. Chú Thông Núi thường về làng vào ban đêm. Theo lời Bá kể, chú về một cách âm thầm, khi thì với một cây mã tấu trên lưng, lại có khi với khẩu súng ngắn bên hông. Dạo ấy, các thôn làng chìm đắm trong một bầu không khí hoàn toàn vắng lặng về đêm. Người ta được lệnh phải giết sạch chó mèo để dành sự bí mật, yên tĩnh cho hoạt động cách mạng. Ban đầu người ta giết chó để ăn thịt rất hào hứng vì chỉ có lý do phục vụ cách mạng mà lại được ăn thịt chó thì không có gì chính nghĩa hơn. Nhưng rồi thì nguy cơ đàn chó sẽ… tuyệt chủng là điều có thật. Chuyện ấy mà xẩy ra thì là một đại họa chứ chẳng chơi. Và dân làng lại lén lút gầy dựng lại đàn chó một cách kín đáo, để mặc cách mạng hô hào giết chó, giết mèo.
Chú Thông Núi tự nhận mình là người Mác-xít. Người Mác-xít ấy có lần tuyên bố rằng con người là do loài khỉ mà ra. Chú truyền đạt điều này cho Hà Văn Bá. Nói như vậy thì còn Chúa, Phật gì nữa, mẹ Bá kịch liệt phản đối. Bá cũng cảm thấy khó tin… nhưng đó là chuyện xa vời, cái cụ thể của cách mạng là… sẽ được no bụng cái đã.
Chú Thông Núi, một vóc dáng uy quyền, một tấm gương sáng chói, một cuộc đời phong phú, một đầu óc uyên bác với súng ngắn bên hông… về làng xây dựng phong trào. Chú thuyết giảng về cách mạng, về nguồn gốc của con người. Một mình chú, chỉ một mình chú dám lên tiếng kêu gọi đấu tranh cho một cuộc đời cơm no áo ấm của dân làng. Chú bảo, Chúa, Phật là do bọn bóc lột bịa ra để kìm kẹp dân chúng. Chú bảo chắc chắn như đinh đóng cột rằng, con người đích thực là do loài khỉ mà ra. Cái này chú nói là… triết học Mác-Lênin. Đối với Hà Văn Bá thì triết học Mác-Lênin khó hiểu qúa nhưng những khẩu hiệu như cơm no áo ấm, làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu thì dễ hiểu hơn. Chú Thông Núi từng cắt nghĩa rằng, làm việc theo năng lực tức là sức mình làm tới đâu thì làm tới đó thôi. Còn hưởng theo nhu cầu là mình cần bao nhiêu, cứ hưởng theo bấy nhiêu. Theo Bá, cuộc cách mạng này hay qúa sức tưởng tượng. Vậy mà trên đất nước Liên-Xô xa xôi nọ, Lênin đã làm xong cuộc cách mạng ấy rồi. Lênin là ai? Con người mà mồm ngang mũi dọc như thế nào thì Bá không biết, nhưng người đã là xong cuộc cách mạng như thế thật đáng để mọi người phải biết ơn.
Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng được Hà Văn Bá, một người bạn, một người thầy khai mở những bài học đầu đời về cách mạng, và phái tính. Hà Văn Bá bảo phải có cách mạng, phải có đấu tranh thì đời sống mới tốt đẹp hơn được (điều này Hà Văn Bá chỉ nhắc lại lời của chú Thông Núi mà thôi). Cũng như giống đực và giống cái phải có đấu tranh thì mới sinh sôi nẩy nở (điều này thì chắc là Hà Văn Bá đã bịa ra, nhưng để cho có vẻ đáng tin, Bá cũng nói rằng chú Thông Núi bảo thế).
Lần ấy, Nguyễn Kỳ Cùng và Bá thấy một con chó đực đang “đấu tranh” với con chó cái ở bờ sông. Có lẽ không nên mô tả lại cuộc “đấu tranh” này, nhưng mà việc ấy đã gieo vào đầu óc Nguyễn Kỳ Cùng biết bao nhiêu là thắc mắc. Sau đó hai con chó cứ dính chặt lấy nhau trông rất tội nghiệp. Bá nói: “Ở đời phải có đấu tranh, phải có âm dương thì mới tiến bộ, chú Thông Núi bảo thế. Đấu tranh cho tiến bộ, đấu tranh để gìn giữ đời sau như ngọn lửa không bao giờ tắt.”
Chú Thông Núi đi làm cách mạng. Lâu lâu chú mới về làng, và mỗi lần chú về là có tin vui cho mọi người, cho đại cuộc. Khi thì quân đội đồng minh sắp tiến vào Béc-linh, khi thì những chiến sĩ Hồng quân đang bao vây quân Phát-xít… có khi thì người anh em Liên-Xô đã tìm ra phương pháp nuôi lợn chỉ trong vài tuần có thể to bằng con bò. Béc-linh ở đâu không ai biết, quân Phát-xít là cái gì cũng chẳng ai hay nhưng chuyện nuôi một con lợn to bằng con bò trong vài tuần thì quả là điều phấn khích rất cụ thể. Cái đó là năng suất, Thông Núi nhấn mạnh, và sau đó Hà Văn Bá lặp lại ở bất cứ nơi nào có thể. Thông Núi gào thét giữa đám đông, dưới ánh sáng mờ ảo của những ngọn đuốc hồng, rằng chỉ có cách mạng mới tạo được một năng suất to lớn như thế…
Hà Văn Bá lặp lại, cách mạng là đấu tranh, đấu tranh là năng suất, năng suất là… con lợn to bằng con bò.
Như vậy, cứ mỗi lần chú Thông Núi về làng là Hà Văn Bá lại bỏ học mất mấy buổi để đi theo chú trong những kỳ hội họp, mít tinh. Nhiệm vụ của Bá là đến từng nhà để thông báo địa điểm tập họp cũng như làm bất cứ điều gì chú cần. Bá trở thành một người quan trọng của phong trào, cho nên việc Bá đi học hay không đã trở thành chuyện bình thường. Chỉ có cách mạng mới dạy dỗ ta nên người, Bá vẫn nói như thế và còn nhấn mạnh, bọn phong kiến chỉ làm ngu dân, nên càng học theo chúng thì càng ngu… Bá đã tìm đúng con đường để Bá đi theo, đường cách mạng của chú Thông Núi mà ít khi hoặc không cần phải đến trường.
Có lần Bá kể cho Nguyễn Kỳ Cùng nghe về một cuộc “đấu tranh” trong một bầu không khí rất cách mạng. Tối hôm ấy, Bá kể, khi chú Thông Núi đang nói chuyện với quần chúng về một thành tựu khoa học ở nước Liên-Xô. Đứng cạnh Bá là con Lựu, đứa con gái cùng thôn và lớn hơn Bá hai tuổi. Cả hai đứa cùng đứng trong góc khuất, nơi những ánh đèn không dọi tới. Khi chú Thông Núi đang say sưa nói rằng ở Liên-Xô, người ta đã chế được cỗ máy mà chỉ cần bỏ một đống cỏ ở đầu vào thì ở đầu kia sẽ ra… một con bò. Mọi người ngơ ngác như nghe một câu chuyện thần tiên. Nhân lúc ấy, Bá nắm tay con Lựu. Nó để yên, thật ra thì nó có rút tay về nhưng rất nhẹ, không đủ để vuột khỏi bàn tay của Bá. Quần chúng đang say sưa đến chỗ chú Thông Núi bàn về năng suất thì Bá thọc tay vào lưng quần nó. Con ranh con khôn bỏ mẹ, Bá nói, nó thót cái bụng lại để bàn tay Bá chui qua lưng quần và xuống… dưới háng. Bản báo cáo tình hình thế giới của chú Thông Núi đến chỗ quân đồng minh tiến chiếm Béc-linh thì bàn tay của Bá đã ướt đẫm… mồ hôi. Cái đó chắc là mồ hôi thôi, Bá qủa quyết như thế, nhưng là mồ hôi… dầu vì nó rất trơn, trơn như mỡ lợn. Chú Thông Núi đang hùng hồn nói về tương lai của cách mạng thế giới, con Lựu bừng bừng trong bóng tối, bàn tay của Bá xông xáo khắp nơi như muốn đưa cuộc đấu tranh từ lượng đến biến thành chất mà chú Thông Núi đang nói. Con Lựu vừa ghì chặt lấy Bá thì chú Thông Núi kết thúc bài nói chuyện bằng một khẩu hiệu được hô rất to và quần chúng đáp trả cũng rất to. Liền đó, quần chúng xô đẩy, nhân dân ồn ào như vỡ chợ để ra về. Bá vội lỉnh vào với đám đông, để con Lựu đứng đó bơ vơ…
Sau cái lần ấy, không hiểu sao, con Lựu cứ đi tìm Bá khắp nơi, lần nào Bá cũng thoái thác là phải hoàn tất công tác do chú Thông Núi giao cho đã. Bá khẳng định rằng anh ta không thích cái mồ hôi dầu của con ranh này.
Một lần khác, cũng là đêm chú Thông Núi về làng phát động phong trào, nhưng đêm ấy trời mưa to nên quần chúng đến tham gia không đông. Chú Thông Núi bảo Bá đi vận động đồng bào đến tham dự. Nhiều người trong xóm đã đi theo lời yêu cầu của Bá. Sau cùng, Bá tạt vào nhà mụ Tình. Mụ Tình là một người đàn bà góa chồng đã lâu. Cái chết của người chồng có nhiều bí ẩn. Người thì nói ông ta chết vì buồn bực con vợ lăng loàn nên uống độc dược mà tự tử. Người nói ông ta bị thực dân tra tấn rồi mang bệnh mà chết. Lại cũng có người nói ông ta chết vì bị “thượng mã phong.” Thượng mã phong là cái quái gì, Bá không biết nhưng hình như nó có một cái gì đó ghê gớm và bí mật lắm vì người ta chỉ xầm xì nhỏ to như đang nói về những hội kín, những phong trào thì Bá đồ chừng rằng cái này hẳn là phải có liên quan gì đến cách mạng.
Khi Bá tới, thấy dưới chuồng lợn có ánh đèn dầu. Với một sự cảnh giác rất cao, Bá núp sau bụi chuối cách đó chỉ mấy bước để nghe ngóng. Lão Lý hoạn lợn và mụ Tình đứng cạnh nhau. Đêm nay cả lão Lý và mụ Tình đều không đi sinh hoạt hẳn phải có lý do. Lai lịch của lão Lý thì làng này ai mà chẳng biết. Lão sống bằng nghề hoạn lợn và thả lợn giống. Thật tình, hai việc này hoàn toàn khác nhau, có khi lại chửi cha nhau, nhưng phải ôm đồm như thế mới sống nổi, lão thường nói như thế. Lão bảo, lão chỉ hoạn con lợn cho người ta để lấy công. Cũng như lão chỉ thả con lợn giống của lão khi con lợn nái của nhà ai đó đòi đực, cũng chỉ để lấy công mà thôi. Việc này hoàn toàn không bóc lột ai, lão Lý nhấn mạnh, không hề mang tính giai cấp. Lão Lý sống đơn chiếc từ hồi nào ít ai nhớ. Hình như con vợ lão đã bỏ nhà đi theo trai ngay từ khi lão mới cưới về. Ngay sau đám cưới, có người kể lại rằng, con vợ mất nết ấy bỏ lão đi theo trai trước lúc… động phòng. Nỗi niềm uất ức này về sau được lão vận dụng vào công việc hoạn lợn rất thành công… và thả lợn giống cũng rất thành công.
Bá chú ý quan sát, dưới ánh đèn dầu, lão Lý vừa thả con lợn giống vào với con lợn nái trong chuồng. Con lợn nái đang phá phách điên cuồng bỗng lặng yên. Bá nghe rõ tiếng lão Lý:
“Nhanh nhanh lên mày, đêm nay người ta họp hành mà mày cũng không tha cho ông là làm sao.”
Tiếng mụ Tình: “Ấy chết, cứ từ từ đi ông anh. Nhà em có mỗi con nái này, vội vàng qúa mà nhỡ nó không đậu thì chết em thôi.”
Lão Lý nhấm nhẳng: “Chết thế… đếch nào được, không đậu thì làm lại….”
Mụ Tình dẫy nẩy: “Làm lại, để ông anh lại lấy công lần nữa thì… chết em mất.”
Thình lình lão Lý to giọng: “Kìa, nâng nó lên hộ một tí đi. Cha mẹ cái con nái nhà này to qúa, con giống của tao không tới rồi….”
Bá thấy mụ Tình hốt hoảng cúi xuống, nâng đít con lợn giống lên cho ngang tầm với con nái. Lão Lý giọng lè nhè:
“Đằng ấy thạo nhẩy, giúp tớ một tí như vậy được không?”
Mụ Tình: “Rõ nỡm….”
Một cơn gió nhẹ thổi qua, ngọn đèn dầu chợt bùng lên, khu chuồng lợn sáng thêm một tí, Bá thấy lão Lý tay cầm gấu váy mụ Tình kéo lên… mụ hơi hoảng hốt: “Đừng… ông anh, người ta thấy thì….”
Lão Lý lè nhè: “Có ai đâu mà thấy với không. Chỉ có đằng ấy với tớ thôi mà….”
Lão kéo gấu váy mụ Tình lên cao hơn nữa, và vẫn lè nhè:
“Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ….”
Mụ Tình lùi lại một tí, tựa lưng vào cây cột chuồng lợn, thoắt mụ ngã sõng xoài trên nền đất ướt… lão Lý đè lên mụ. Mụ Tình rên rỉ:
“Chết, chết… em mất…”
Bấy giờ thì Bá hiểu công dụng của cái váy dân miền bắc:
Cái thúng mà thủng hai đầu,
Bên ta thì có bên Tàu thì không.
Tai Bá nóng bừng bừng… Bá nhìn thấy rõ họ đang “đấu tranh” với nhau kịch liệt, trong lúc con lợn giống và con nái trong chuồng cũng đang “tranh đấu”… kịch liệt không kém.
Cho đến về sau, con lợn nái của mụ Tình thì không đậu thai. Nhà mụ Tình đã nghèo lại nghèo thêm. Mọi hy vọng về một đàn lợn con đã trôi theo cùng với những nỗi đau buồn khác.
Friday, February 06, 2009
Minh họa: Ánh Bùi
Như một định mệnh, Nguyễn Kỳ Cùng lại gặp Hà Văn Bá, người bạn vong niên thuở xưa, tại một địa điểm mới, được gọi là Cơ Sở Phục Hồi Bu-Gi. Câu chuyện ấy phải trở lui về qúa khứ.
Đó là thời kỳ “tiêu thổ kháng chiến.” Chính sách “vườn không nhà trống” thời ấy, cuối cùng đã làm cho nông thôn miền bắc vốn đã tiêu điều, đã trở nên xơ xác nhiều hơn. Đó là lúc trận đói năm Ất Dậu mới dứt. Nguyễn Kỳ Cùng, trong ký ức tuổi thơ của mình, chỉ còn in dấu những con phố xưa rất đìu hiu của thành phố Nam Định, trong những mùa đông rét mướt. Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng được bao phủ bởi những tháng năm buồn bã. Những xác người chỉ còn da với xương chồng chất trên những chiếc xe ba gác do một cái xác khác còn thở, kéo đến một chỗ chôn chung… và khi chiến tranh thế giới kết thúc, lại là lúc Nguyễn Kỳ Cùng phải rời bỏ thành phố để tản cư tới những miền quê hẻo lánh.
Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng là một chuỗi những tháng năm không may mắn. Vì chiến tranh luôn xô đẩy cái gia đình nhỏ bé ấy càng ngày càng đi sâu vào những miền đất xa xôi của đất nước.
Năm lên chín tuổi, Nguyễn Kỳ Cùng với gia đình trôi dạt đến một làng quê rất xa. Ngôi trường tiểu học là một căn nhà chứa thóc bỏ hoang của một tay phú hộ đã ra đi. Ở đây Nguyễn Kỳ Cùng có một người bạn vong niên: Hà Văn Bá.
Hà Văn Bá hơn Nguyễn Kỳ Cùng sáu tuổi. Nhà nghèo, lại tai trời ách nước, lên bẩy tuổi, Hà Văn Bá đã phải chăn trâu, cắt cỏ, và do đó mà Bá đi học rất trễ. Ngồi chung một lớp với Nguyễn Kỳ Cùng nhưng chênh lệch về tuổi tác không phải là trở ngại để họ không thể kết thân với nhau. Mười lăm tuổi, Bá mới học lớp nhì (sau này gọi là lớp bốn), Hà Văn Bá là một “thanh niên” có chí lớn và có lòng… yêu nước nồng nàn.
Tuổi lớn, cùng với sự khôn ngoan và những hành động khác người của Hà Văn Bá từng khiến Nguyễn Kỳ Cùng yêu mến, khâm phục, và tự hào về người bạn vong niên của mình.
Thuở ấy, thi thoảng Hà Văn Bá bỏ lớp đi đâu đó một hai ngày, có khi lâu hơn. Những lần ấy học trò trong lớp xôn xao, giống như mặt nước ao bèo bị dao động bởi một cục đất vô tình ném xuống, rồi những mảng bèo ấy khép lại bình yên như chưa từng có chuyện gì xẩy ra, khi Hà Văn Bá trở về lớp học, Bá lại cúi cái đầu trọc nghiêng nghiêng trên trang giấy vở học trò.
Hà Văn Bá có nhiều năng khiếu đáng nể. Anh có một cái ống đồng, với vài cục đất vê tròn phơi khô làm đạn, anh có thể thổi chết một con chim, bắn hạ một con gà. Anh có thể bơi qua sông trong mùa mưa lũ. Anh cũng có thể thả lời bông lơn chọc ghẹo gái làng, khiến các cô đỏ mặt. “Nữ thập tam, nam thập lục, sang năm tớ lấy vợ được rồi,” anh nói thế. “Nhưng cứ để đấy, khi nào cách mạng thành công hãy hay,” vẫn lời anh nói. Đó là lần đầu tiên Nguyễn Kỳ Cùng nghe được hai chữ “cách mạng.”
Trong lớp học, Nguyễn Kỳ Cùng ngồi cạnh Hà Văn Bá, và nhờ vậy Nguyễn Kỳ Cùng học hỏi được ở người “thanh niên” này nhiều điều. Kể từ ngày quen biết Bá, trí khôn của Nguyễn Kỳ Cùng như được mở rộng thêm ra. Người bạn vong niên này đã khai mở cho Nguyễn Kỳ Cùng những nẻo đường trí tuệ mới mẻ, cùng những chân trời hiểu biết rực rỡ. Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng in đậm dấu ấn về người “thanh niên” lỗi lạc ấy. Tuổi cao, vóc dáng nhỏ thó, mắt láo liên, học hành chậm lụt vì hình như tâm hồn người “thanh niên” ấy bao giờ cũng hướng ra bên ngoài lớp học, ở tận tít tắp chân trời xa, ở những ước mơ…
Nhà Hà Văn Bá ở tận cuối thôn, chỉ có hai mẹ con. Nghe đâu, ông bố đã qua đời vào những ngày cuối cùng của nạn đói năm Ất Dậu. Sau khi chôn cất, thật ra là vùi lấp ở một rẻo đất hoang, mẹ Bá tiếp tục cuộc đời cấy thuê, bữa đói bữa no. Bá phụ mẹ những công việc lặt vặt để mưu sinh. Hai mẹ con làm quần quật mà vẫn chẳng đủ ăn. Tuổi thơ của Bá đầy ắp những tháng năm đói lạnh. Bá đến trường học rất trễ trong hoàn cảnh đó. Vậy mà trong cái thôn nghèo xơ xác ấy, một thời từng âm ỉ những lời đồn thổi, những câu chuyện có vẻ như một thứ hoang đường về một cuộc đổi đời. Cuộc đổi đời đã bắt đầu ở một đất nước xa xôi, nơi không có kẻ giầu người nghèo, nơi chỉ có mùa xuân: Trẻ em thì ca hát, uống sữa trước khi đến trường. Người lớn làm việc trong các xưởng máy, trên những cánh đồng mà ở đó không có cai phu, không có phú hào, địa chủ, làm được bao nhiêu, chia đều lợi tức với nhau.
Có lần Hà Văn Bá bỏ học năm ngày. Khi trở lại lớp, thầy giáo hỏi lý do thì Bá nói anh đi theo lời yêu cầu của chú Thông Núi. Thầy lặng yên, trên nét mặt của thầy một thoáng âu lo. Từ đó, như là một sự mặc nhiên, Bá có thể đến lớp hay vắng mặt bất cứ khi nào. Thông Núi là ai, mà sao thầy có vẻ e dè? Một lần nọ, Bá lại nhắc đến hai tiếng “cách mạng.” Bấy giờ, ở nông thôn Miền Bắc đâu đó cũng có nghe… nhất là sau cái trận đói năm Ất Dậu 1945…
Sau này Bá nói lại, cái nạn đói ấy là do bọn địa chủ, bọn cường hào ác bá, bọn vua quan gây ra, bởi vì chúng đã cướp sạch của mọi người. Cách mạng sẽ lấy lại của cải của chúng để chia cho người nghèo. Người dạy cho Bá biết điều ấy là… chú Thông Núi. Vẫn theo lời Bá, chú Thông Núi đang hoạt động bí mật, và lâu lâu mới về làng một lần để xây dựng phong trào…. Năm ấy Thông Núi đã ngoài hai mươi. Chú Thông Núi thường về làng vào ban đêm. Theo lời Bá kể, chú về một cách âm thầm, khi thì với một cây mã tấu trên lưng, lại có khi với khẩu súng ngắn bên hông. Dạo ấy, các thôn làng chìm đắm trong một bầu không khí hoàn toàn vắng lặng về đêm. Người ta được lệnh phải giết sạch chó mèo để dành sự bí mật, yên tĩnh cho hoạt động cách mạng. Ban đầu người ta giết chó để ăn thịt rất hào hứng vì chỉ có lý do phục vụ cách mạng mà lại được ăn thịt chó thì không có gì chính nghĩa hơn. Nhưng rồi thì nguy cơ đàn chó sẽ… tuyệt chủng là điều có thật. Chuyện ấy mà xẩy ra thì là một đại họa chứ chẳng chơi. Và dân làng lại lén lút gầy dựng lại đàn chó một cách kín đáo, để mặc cách mạng hô hào giết chó, giết mèo.
Chú Thông Núi tự nhận mình là người Mác-xít. Người Mác-xít ấy có lần tuyên bố rằng con người là do loài khỉ mà ra. Chú truyền đạt điều này cho Hà Văn Bá. Nói như vậy thì còn Chúa, Phật gì nữa, mẹ Bá kịch liệt phản đối. Bá cũng cảm thấy khó tin… nhưng đó là chuyện xa vời, cái cụ thể của cách mạng là… sẽ được no bụng cái đã.
Chú Thông Núi, một vóc dáng uy quyền, một tấm gương sáng chói, một cuộc đời phong phú, một đầu óc uyên bác với súng ngắn bên hông… về làng xây dựng phong trào. Chú thuyết giảng về cách mạng, về nguồn gốc của con người. Một mình chú, chỉ một mình chú dám lên tiếng kêu gọi đấu tranh cho một cuộc đời cơm no áo ấm của dân làng. Chú bảo, Chúa, Phật là do bọn bóc lột bịa ra để kìm kẹp dân chúng. Chú bảo chắc chắn như đinh đóng cột rằng, con người đích thực là do loài khỉ mà ra. Cái này chú nói là… triết học Mác-Lênin. Đối với Hà Văn Bá thì triết học Mác-Lênin khó hiểu qúa nhưng những khẩu hiệu như cơm no áo ấm, làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu thì dễ hiểu hơn. Chú Thông Núi từng cắt nghĩa rằng, làm việc theo năng lực tức là sức mình làm tới đâu thì làm tới đó thôi. Còn hưởng theo nhu cầu là mình cần bao nhiêu, cứ hưởng theo bấy nhiêu. Theo Bá, cuộc cách mạng này hay qúa sức tưởng tượng. Vậy mà trên đất nước Liên-Xô xa xôi nọ, Lênin đã làm xong cuộc cách mạng ấy rồi. Lênin là ai? Con người mà mồm ngang mũi dọc như thế nào thì Bá không biết, nhưng người đã là xong cuộc cách mạng như thế thật đáng để mọi người phải biết ơn.
Tuổi thơ của Nguyễn Kỳ Cùng được Hà Văn Bá, một người bạn, một người thầy khai mở những bài học đầu đời về cách mạng, và phái tính. Hà Văn Bá bảo phải có cách mạng, phải có đấu tranh thì đời sống mới tốt đẹp hơn được (điều này Hà Văn Bá chỉ nhắc lại lời của chú Thông Núi mà thôi). Cũng như giống đực và giống cái phải có đấu tranh thì mới sinh sôi nẩy nở (điều này thì chắc là Hà Văn Bá đã bịa ra, nhưng để cho có vẻ đáng tin, Bá cũng nói rằng chú Thông Núi bảo thế).
Lần ấy, Nguyễn Kỳ Cùng và Bá thấy một con chó đực đang “đấu tranh” với con chó cái ở bờ sông. Có lẽ không nên mô tả lại cuộc “đấu tranh” này, nhưng mà việc ấy đã gieo vào đầu óc Nguyễn Kỳ Cùng biết bao nhiêu là thắc mắc. Sau đó hai con chó cứ dính chặt lấy nhau trông rất tội nghiệp. Bá nói: “Ở đời phải có đấu tranh, phải có âm dương thì mới tiến bộ, chú Thông Núi bảo thế. Đấu tranh cho tiến bộ, đấu tranh để gìn giữ đời sau như ngọn lửa không bao giờ tắt.”
Chú Thông Núi đi làm cách mạng. Lâu lâu chú mới về làng, và mỗi lần chú về là có tin vui cho mọi người, cho đại cuộc. Khi thì quân đội đồng minh sắp tiến vào Béc-linh, khi thì những chiến sĩ Hồng quân đang bao vây quân Phát-xít… có khi thì người anh em Liên-Xô đã tìm ra phương pháp nuôi lợn chỉ trong vài tuần có thể to bằng con bò. Béc-linh ở đâu không ai biết, quân Phát-xít là cái gì cũng chẳng ai hay nhưng chuyện nuôi một con lợn to bằng con bò trong vài tuần thì quả là điều phấn khích rất cụ thể. Cái đó là năng suất, Thông Núi nhấn mạnh, và sau đó Hà Văn Bá lặp lại ở bất cứ nơi nào có thể. Thông Núi gào thét giữa đám đông, dưới ánh sáng mờ ảo của những ngọn đuốc hồng, rằng chỉ có cách mạng mới tạo được một năng suất to lớn như thế…
Hà Văn Bá lặp lại, cách mạng là đấu tranh, đấu tranh là năng suất, năng suất là… con lợn to bằng con bò.
Như vậy, cứ mỗi lần chú Thông Núi về làng là Hà Văn Bá lại bỏ học mất mấy buổi để đi theo chú trong những kỳ hội họp, mít tinh. Nhiệm vụ của Bá là đến từng nhà để thông báo địa điểm tập họp cũng như làm bất cứ điều gì chú cần. Bá trở thành một người quan trọng của phong trào, cho nên việc Bá đi học hay không đã trở thành chuyện bình thường. Chỉ có cách mạng mới dạy dỗ ta nên người, Bá vẫn nói như thế và còn nhấn mạnh, bọn phong kiến chỉ làm ngu dân, nên càng học theo chúng thì càng ngu… Bá đã tìm đúng con đường để Bá đi theo, đường cách mạng của chú Thông Núi mà ít khi hoặc không cần phải đến trường.
Có lần Bá kể cho Nguyễn Kỳ Cùng nghe về một cuộc “đấu tranh” trong một bầu không khí rất cách mạng. Tối hôm ấy, Bá kể, khi chú Thông Núi đang nói chuyện với quần chúng về một thành tựu khoa học ở nước Liên-Xô. Đứng cạnh Bá là con Lựu, đứa con gái cùng thôn và lớn hơn Bá hai tuổi. Cả hai đứa cùng đứng trong góc khuất, nơi những ánh đèn không dọi tới. Khi chú Thông Núi đang say sưa nói rằng ở Liên-Xô, người ta đã chế được cỗ máy mà chỉ cần bỏ một đống cỏ ở đầu vào thì ở đầu kia sẽ ra… một con bò. Mọi người ngơ ngác như nghe một câu chuyện thần tiên. Nhân lúc ấy, Bá nắm tay con Lựu. Nó để yên, thật ra thì nó có rút tay về nhưng rất nhẹ, không đủ để vuột khỏi bàn tay của Bá. Quần chúng đang say sưa đến chỗ chú Thông Núi bàn về năng suất thì Bá thọc tay vào lưng quần nó. Con ranh con khôn bỏ mẹ, Bá nói, nó thót cái bụng lại để bàn tay Bá chui qua lưng quần và xuống… dưới háng. Bản báo cáo tình hình thế giới của chú Thông Núi đến chỗ quân đồng minh tiến chiếm Béc-linh thì bàn tay của Bá đã ướt đẫm… mồ hôi. Cái đó chắc là mồ hôi thôi, Bá qủa quyết như thế, nhưng là mồ hôi… dầu vì nó rất trơn, trơn như mỡ lợn. Chú Thông Núi đang hùng hồn nói về tương lai của cách mạng thế giới, con Lựu bừng bừng trong bóng tối, bàn tay của Bá xông xáo khắp nơi như muốn đưa cuộc đấu tranh từ lượng đến biến thành chất mà chú Thông Núi đang nói. Con Lựu vừa ghì chặt lấy Bá thì chú Thông Núi kết thúc bài nói chuyện bằng một khẩu hiệu được hô rất to và quần chúng đáp trả cũng rất to. Liền đó, quần chúng xô đẩy, nhân dân ồn ào như vỡ chợ để ra về. Bá vội lỉnh vào với đám đông, để con Lựu đứng đó bơ vơ…
Sau cái lần ấy, không hiểu sao, con Lựu cứ đi tìm Bá khắp nơi, lần nào Bá cũng thoái thác là phải hoàn tất công tác do chú Thông Núi giao cho đã. Bá khẳng định rằng anh ta không thích cái mồ hôi dầu của con ranh này.
Một lần khác, cũng là đêm chú Thông Núi về làng phát động phong trào, nhưng đêm ấy trời mưa to nên quần chúng đến tham gia không đông. Chú Thông Núi bảo Bá đi vận động đồng bào đến tham dự. Nhiều người trong xóm đã đi theo lời yêu cầu của Bá. Sau cùng, Bá tạt vào nhà mụ Tình. Mụ Tình là một người đàn bà góa chồng đã lâu. Cái chết của người chồng có nhiều bí ẩn. Người thì nói ông ta chết vì buồn bực con vợ lăng loàn nên uống độc dược mà tự tử. Người nói ông ta bị thực dân tra tấn rồi mang bệnh mà chết. Lại cũng có người nói ông ta chết vì bị “thượng mã phong.” Thượng mã phong là cái quái gì, Bá không biết nhưng hình như nó có một cái gì đó ghê gớm và bí mật lắm vì người ta chỉ xầm xì nhỏ to như đang nói về những hội kín, những phong trào thì Bá đồ chừng rằng cái này hẳn là phải có liên quan gì đến cách mạng.
Khi Bá tới, thấy dưới chuồng lợn có ánh đèn dầu. Với một sự cảnh giác rất cao, Bá núp sau bụi chuối cách đó chỉ mấy bước để nghe ngóng. Lão Lý hoạn lợn và mụ Tình đứng cạnh nhau. Đêm nay cả lão Lý và mụ Tình đều không đi sinh hoạt hẳn phải có lý do. Lai lịch của lão Lý thì làng này ai mà chẳng biết. Lão sống bằng nghề hoạn lợn và thả lợn giống. Thật tình, hai việc này hoàn toàn khác nhau, có khi lại chửi cha nhau, nhưng phải ôm đồm như thế mới sống nổi, lão thường nói như thế. Lão bảo, lão chỉ hoạn con lợn cho người ta để lấy công. Cũng như lão chỉ thả con lợn giống của lão khi con lợn nái của nhà ai đó đòi đực, cũng chỉ để lấy công mà thôi. Việc này hoàn toàn không bóc lột ai, lão Lý nhấn mạnh, không hề mang tính giai cấp. Lão Lý sống đơn chiếc từ hồi nào ít ai nhớ. Hình như con vợ lão đã bỏ nhà đi theo trai ngay từ khi lão mới cưới về. Ngay sau đám cưới, có người kể lại rằng, con vợ mất nết ấy bỏ lão đi theo trai trước lúc… động phòng. Nỗi niềm uất ức này về sau được lão vận dụng vào công việc hoạn lợn rất thành công… và thả lợn giống cũng rất thành công.
Bá chú ý quan sát, dưới ánh đèn dầu, lão Lý vừa thả con lợn giống vào với con lợn nái trong chuồng. Con lợn nái đang phá phách điên cuồng bỗng lặng yên. Bá nghe rõ tiếng lão Lý:
“Nhanh nhanh lên mày, đêm nay người ta họp hành mà mày cũng không tha cho ông là làm sao.”
Tiếng mụ Tình: “Ấy chết, cứ từ từ đi ông anh. Nhà em có mỗi con nái này, vội vàng qúa mà nhỡ nó không đậu thì chết em thôi.”
Lão Lý nhấm nhẳng: “Chết thế… đếch nào được, không đậu thì làm lại….”
Mụ Tình dẫy nẩy: “Làm lại, để ông anh lại lấy công lần nữa thì… chết em mất.”
Thình lình lão Lý to giọng: “Kìa, nâng nó lên hộ một tí đi. Cha mẹ cái con nái nhà này to qúa, con giống của tao không tới rồi….”
Bá thấy mụ Tình hốt hoảng cúi xuống, nâng đít con lợn giống lên cho ngang tầm với con nái. Lão Lý giọng lè nhè:
“Đằng ấy thạo nhẩy, giúp tớ một tí như vậy được không?”
Mụ Tình: “Rõ nỡm….”
Một cơn gió nhẹ thổi qua, ngọn đèn dầu chợt bùng lên, khu chuồng lợn sáng thêm một tí, Bá thấy lão Lý tay cầm gấu váy mụ Tình kéo lên… mụ hơi hoảng hốt: “Đừng… ông anh, người ta thấy thì….”
Lão Lý lè nhè: “Có ai đâu mà thấy với không. Chỉ có đằng ấy với tớ thôi mà….”
Lão kéo gấu váy mụ Tình lên cao hơn nữa, và vẫn lè nhè:
“Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ….”
Mụ Tình lùi lại một tí, tựa lưng vào cây cột chuồng lợn, thoắt mụ ngã sõng xoài trên nền đất ướt… lão Lý đè lên mụ. Mụ Tình rên rỉ:
“Chết, chết… em mất…”
Bấy giờ thì Bá hiểu công dụng của cái váy dân miền bắc:
Cái thúng mà thủng hai đầu,
Bên ta thì có bên Tàu thì không.
Tai Bá nóng bừng bừng… Bá nhìn thấy rõ họ đang “đấu tranh” với nhau kịch liệt, trong lúc con lợn giống và con nái trong chuồng cũng đang “tranh đấu”… kịch liệt không kém.
Cho đến về sau, con lợn nái của mụ Tình thì không đậu thai. Nhà mụ Tình đã nghèo lại nghèo thêm. Mọi hy vọng về một đàn lợn con đã trôi theo cùng với những nỗi đau buồn khác.