|
Post by NhiHa on Mar 20, 2009 5:51:29 GMT 9
Tình dục trong văn học Việt dưới cách nhìn của đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết Nguyễn Hữu Lê Tình dục với tư cách là đối tượng thưởng ngoạn trong văn học Việt thường được sàng lọc qua các thang bậc giá trị đạo lý hoặc triết lý. Rất hiếm trường hợp tình dục thuần tuý lọt được vào trong "khuôn viên" làng văn. Ngay cả những trường hợp thẳng thừng tuyên bố tuyên chiến với những sợi dây ràng buộc nào đó của đạo lý cũng đã bao hàm trong đó một quan niệm mới về đạo lý: Lẳng lơ cũng chẳng có mòn Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ. Trong lịch sử, nếu như đạo lý học thuyết hướng con người tới những khuôn mẫu đạo lý của một trật tự tôn ti tuyệt đối thì đạo lý hồn nhiên dân gian là một sự điều chỉnh, nhấn mạnh tính tương đối của các hệ giá trị, trong đó có đạo lý. Vì thế đạo lý hồn nhiên dân gian thường đóng vai trò đối trọng với vị trí độc tôn của đạo lý học thuyết như mầm mống đa nguyên sơ khai trong chế độ quân chủ hoặc các chế độ độc tài hiện đại. Đề tài tình dục cũng không nằm ngoài quy luật chung giản dị này. Nếu tính theo chu kỳ, tình dục từ thời kỳ chưa bị xã hội hoá trong xã hội bầy đàn nguyên thuỷ đến tình dục cưỡng bức lại quá trình xã hội hoá trong xã hội hiện đại, loài người đã đi gần hết một vòng xoáy trôn ốc. Tình dục giai đoạn thứ nhất là tình dục chưa bị xã hội hoá, thiết chế hoá bởi luật pháp và đạo lý. Ở đó chưa có quan niệm sở hữu trong quan hệ tình dục. Từ khi tình dục gắn liền với sở hữu, thậm chí sở hữu tuyệt đối thì hàng loạt các giá trị văn hoá của con người như hôn nhân, đạo đức gia đình, vai trò của huyết thống... lần lượt nẩy sinh; cũng từ đó, những rắc rối thường xuyên không thể giải quyết như vấn đề sở hữu tình dục và tình yêu tự do, vấn đề sở hữu một lần cho mãi mãi và các khả năng phát sinh bất thường những tình huống của con người trong xã hội mâu thuẫn thường xuyên với cái sở hữu tuyệt đối đó. Chính vì thế, đề tài tình dục trong văn chương mọi dân tộc trong quá khứ thường lại không còn là tình dục thuần tuý. Nó là vấn đề văn hoá-xã hội, là triết lý sống, là hệ giá trị hoặc chuẩn mực. Xu hướng ca ngợi quá trình xã hội hoá tình dục trong văn học thường nhấn mạnh tính hợp lý, hài hoà của sở hữu tuyệt đối trong quan hệ tình dục. Có thể nói từ văn học cổ trung đại Việt Nam, tình dục trong văn chương là vấn đề Trinh hay không Trinh, là sở hữu tuyệt đối hay loạn luân. Chỉ có điều, vấn đề sở hữu tình dục trong xã hội phong kiến còn phụ thuộc thuộc vào phái tính. Nó quy định sở hữu tuyệt đối nhưng chỉ theo một chiều: Đàn ông toàn quyền sở hữu tuyệt đối đối với đàn bà chứ không quy định chiều ngược lại, hay nói cách khác cho phép chiều ngược lại phá cái quy luật xã hội hoá khắc nghiệt này: "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Quyền sở hữu tình dục không đặt ra đối với giới tính nữ. Chuyện Trinh thử là chuyện đề cao phẩm hạnh trinh tiết của con chuột cái. Tất cả các truyện Nôm trung thế kỷ đều ngợi ca gương đàn bà tiết hạnh chứ không phải là đàn ông thờ một vợ. Đã một thời những giá trị văn hoá này khá bền vững. Nền tảng gia đình gắn với các mối quan hệ huyết thống đã quy định đặc tính tôn nghiêm của quan hệ tình dục dưới chế độ phong kiến. Theo đạo lý học thuyết, loại tình dục chân chính không đặt ra vấn đề hưởng lạc, còn ngược lại loại tình dục hưởng lạc là loại tình dục "trên bộc dưới dâu", "nguyệt nọ hoa kia" không được sự thừa nhận của các rường mối lễ nghi chính danh và thường gắn với loại vô luân bỏ đi, bị người đời phỉ báng hoặc gắn với loại ca kỹ, bị người đời khinh rẻ. Khác với đạo lý học thuyết, đạo lý hồn nhiên không bao giờ là một hệ thống giá trị được đúc kết hoàn chỉnh và do đó nó thường đầy mâu thuẫn. Nói đúng hơn, nó (đạo lý hồn nhiên) chỉ xuất hiện như là sự điều chỉnh cái phần thái quá, cứng nhắc của đạo lý học thuyết. Để lườm nguýt, đỏng đảnh với chữ Trinh khắc nghiệt của lễ giáo, đạo lý hồn nhiên không ngần ngại bốp chát: "Lẳng lơ cũng chẳng có mòn / Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ". Hoặc nhìn thẳng vào cái giả đạo đức của người quân tử trước cám dỗ của tình dục: "Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt / Đi thì cũng dở ở không xong" (Hồ Xuân Hương). Hoặc là cãi lại cái phi lý trong quy ước bất công sở hữu tình dục một chiều: "Chém cha cái kiếp lấy chồng chung" (Hồ Xuân Hương). Hoặc bỡn cợt cả với cái triết lý khổ hạnh thoát dục của các nhà tu hành: Ba cô đội gạo lên chùa Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư Sư về sư ốm tương tư Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu. Đối với các quy ước khắc nghiệt của đạo lý học thuyết được ngợi ca một cách vần vè kiểu: "Khoan khoan ngồi đó chớ ra / Nàng là phận gái ta là phận trai", đạo lý hồn nhiên ngược lại lại đưa ra những mẫu ứng xử suồng sã, thẳng băng, lột hết cái vỏ bọc xã giao bên ngoài: "Yêu em anh nắm cổ tay / Anh hỏi câu này, có lấy anh không?" Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu từ những ví dụ trên để cho rằng đạo lý hồn nhiên phỉ báng những giá trị của tình yêu chung thuỷ. Trong quan niệm dân gian, chung thuỷ là một trong những tiêu chuẩn đạo lý được đề cao. Chỉ có điều nó không thái quá máy móc, một chiều, mà nó có quan hệ song phương: " Chồng ta áo rách ta thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người." "Yêu nhau, cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay." Thái độ ăn miếng trả miếng trong đạo lý hồn nhiên thường nhằm đả vào cái bất công, phi lý một chiều của quan hệ đạo đức - tình dục phong kiến để khẳng định cái quyền bình đẳng "Ông ăn chả bà ăn nem". Tình dục lễ nghi bị dân gian chòng ghẹo cười cợt chỉ vì cái cứng nhắc và phi lý của nó như đã được đề cập ở phần trên. Trong văn học hiện đại, tình dục trong văn chương ngày càng vùng vằng đòi trả lại vị trí hồn nhiên, chưa bị xã hội hoá của thời tiền sử. Giải phóng tình dục ra khỏi những quy ước của hôn nhân, ra khỏi những tình yêu xã giao dài dòng văn tự để khẳng định tình dục thuần tuý, tình dục hưởng lạc. Trong trường hợp này những khuyến cáo đạo lý trở nên lạc lõng và thừa thãi. Chỉ có một trở ngại duy nhất mạnh hơn tất cả các lực cản của quy ước xã hội, đó là bệnh lý tình dục vô phương cứu chữa. Con người hiện đại có thể mặc sức thí nghiệm để trả giá. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng, khi tách tình dục ra khỏi quá trình xã hội hoá của văn hoá loài người, những giá trị hấp dẫn của tình dục trong văn học cũng sẽ biến mất. Tình dục trần trụi chỉ hấp dẫn thời "mở cửa", sau hàng thế kỷ triền miên báo động giới nghiêm. Nhưng chỉ ít lâu người ta sẽ lại chán nó. Sẽ đến lúc chẳng cần sự khuyến cáo nào cả, người ta lại trùm chiếc áo xã hội hoá, dù đã cũ lên cái loã lồ lông lá tiền sử để đi tiếp những chặng còn lại của tiến trình văn hoá loài người...
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 9:31:45 GMT 9
Trần Nghi Hoàng Kiệt Tấn: Rằng quen mất nết đi rồi! I. Nhà văn Kiệt Tấn. Cái thời tôi còn chủ trương tạp chí Văn Uyển. Văn Uyển ra một năm 4 số, theo... mùa. Trên tạp chí thì ghi là Xuân, Hạ, Thu, Đông, chả cần ngày tháng... Nên tôi muốn Văn Uyển xuất hiện giờ nào trong ba tháng của mùa đó năm đó, cũng an toàn, chưa có quý độc giả hay quý văn hữu cộng tác nào tỏ lời phiền trách. Một trong 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông của Văn Uyển năm 1992, có bài Thạch Các, một tay viết phê bình văn học rất sắc bén... mà nhân hậu của Văn Uyển, viết về Kiệt Tấn. Và sau đó, tôi và Kiệt Tấn có giao thiệp qua điện thoại. Từ California nói chuyện với một quận ngoại ô của Paris Pháp quốc. Kiệt Tấn cứ nằng nặc bài viết ký tên Thạch Các là của tôi. Tôi phải đưa tay thề thốt Thạch Các là một ông giáo hồi trước 1975, có xương da máu thịt ràng ràng, rất giỏi về ngữ pháp Việt Nam... Xin ông Kiệt Tấn đừng có lấy công của người mà giao cho tôi, tội nghiệp! Tôi đọc hầu hết của Kiệt Tấn. Dư luận về Kiệt Tấn trong văn đàn quả không phải ít! Nhưng tựu trung, những nhà phê bình đều nói, đại khái, Kiệt Tấn là một nhà văn nhân bản tuy có hơi bị nặng về tình dục; tự do mà yêu thiên nhiên; mê đắm và duyên dáng... Thậm chí xấu đẹp tùy người đối diện... Lúc chưa đối diện với Kiệt Tấn (tạn mặt đá vàng), tôi thấy Kiệt Tấn như sau: Kiệt Tấn từng viết: "Nếu có người xả mình binh vực những nhân vật không cần ai binh vực hết (như Thượng đế, như lãnh tụ, như chủ tịch, như tổng thống) thì tôi, tôi binh đĩ." Trong bức thư gửi cho Lộc (Lê Tấn Lộc, anh ruột của Lê Tấn Kiệt tức Kiệt Tấn) có in trong Nghe mưa [1] , Kiệt Tấn viết: "Em vừa vạch da cây vịnh bốn câu ba vần trong ‘Đêm cỏ tuyết’ là quần hùng nhốn nháo. Có thân hữu đề nghị bôi chữ cỏ. Em nói: Tao đã cạo chữ kia để thay bằng chữ cỏ, bây giờ mầy biểu tao cạo chữ cỏ thì biết thay bằng chữ gì bây giờ? Chẳng lẽ để cho em bé đoi luôn? Lại có thân hữu khác đưa ra nhận xét: Truyện mầy viết sao chỗ nào cũng thấy đưa ra đĩ điếm. Đáp: Tao ở gần xóm đĩ từ nhỏ tới lớn, không viết về đĩ thì biết viết về cái gì bây giờ? Hỏi: Sao truyện của mầy đầy ắp tình dục? Đáp: Tình dục nuôi nấng tao từ tấm bé cho tới lúc lưng dài vai rộng thì tao viết về tình dục là một lẽ đương nhiên..." (trang 246-247) Thực ra, có phải Kiệt Tấn chỉ chuyên viết về tình dục không? Và Kiệt Tấn là một nhà "Đĩ Quyền" chuyên bênh vực đĩ? Thưa, theo tôi thấy thì không hẳn vậy. Thấy vậy mà chưa chắc vậy đâu nghe! Kiệt Tấn viết về tình dục, đúng. Mà viết hay hết sẩy nữa! Nhưng điểm cần lưu ý là, thái độ của Kiệt Tấn đối với tình dục, đối với việc rờ rẩm sờ mó và mần tình nó hết sức... trong sáng mà mê đắm... Như một đứa bé đòi mẹ viên kẹo hay cái bánh... Thử đọc một đoạn thư của Louise, Nữ Chúa Tàu Ma hay người tình xứ tuyết Ca Ná Đà của Kiệt Tấn viết cho cho Kiệt Tấn: "Tức cười khi hình dung một ngày nào đó Bambino của em bắt buộc trở thành một đấng lang quân, dù là của em hay của ai khác. Thú thiệt em không hình dung nổi. Anh để ý mà coi. Khi gặp em, anh làm điều gì trước tiên? Anh luồn tay vào áo em... Mà khổ một cái là em cũng không đủ can đảm theo như bản tính mình để từ chối điều gì với anh được hết. Si tình là như vậy chăng? Nếu vậy thì em đã si tình anh mất rồi! Em chấp nhận. Em chấp nhận hết những gì anh muốn. Em có cảm tưởng nếu em gỡ tay anh ra thì biết đâu chừng anh sẽ lăn ra... nằm vạ! Anh muốn em. Vậy thôi. Rất dễ thương... " (Sđd, trang 57) Không ai nói về Kiệt Tấn tình dục có thể đúng bằng những... người đàn bà con gái trong đời Kiệt Tấn! Và tôi nhận ra, Kiệt Tấn không chỉ "binh đĩ", mà đối với phái đẹp, với tất cả những vị nữ lưu, Kiệt Tấn luôn dùng một ngôn ngữ văn chương gượng nhẹ, âu yếm, tôn xưng và nhất định đứng về phần... khép nép (giả dạng quân ta, hả cha nội?). Thử đọc một đoạn Kiệt Tấn "tả" chuyện người yêu xứ tuyết, nàng Louise tình cờ tới một dạ tiệc và bắt quả túm Kiệt Tấn ta đang ôm trong tay nàng Danyèle mà Kiệt Tấn tặng cho cái hỗn danh là "tấm nệm xốp": "Sau khi di tản từ góc này sang góc khác mà vẫn không trốn lánh được, tôi quyết định ra trình diện. Ôm tấm nệm xốp khư khư trong vòng tay học trò, tôi lăn lăn trong điệu luân vũ trong bóng mờ từ từ tiến ra pháp trường hồi chánh. Lả lướt hồi chánh. Và rồi chuyện gì phải xảy ra bèn xảy ra. Louise bước tới túm lấy cổ áo veston của dâm tặc, giận run, nghẹn lời. Và dâm tặc đã lưu lại một vết nhơ muôn đời không rửa sạch trong lịch sử tình ái: Dâm tặc từ từ rút hai cánh tay tỉnh bơ ra khỏi áo, để lại cái veston tòn teng trên tay Nữ Chúa! Mạnh Lệ Quân thoát hài! Tôi cũng không dè trong người mình lại ẩn tàng một tiềm năng tồi bại tới mức như vậy. Thiệt là cẩu trệ. Tuyệt cùng cẩu trệ! Tôi cũng không khỏi ngạc nhiên sao nàng lại không cầm chai rượu xáng lên đầu tôi một cái phun máu ngay lúc đó." (Sđd, trang 70) Kiệt Tấn không "gồng mình" khi viết văn. Ông viết về Kiệt Tấn hay viết về bất cứ gì cũng bằng giọng văn... thành thật một cách vô tội vạ như vậy. "Tôi cẩu trệ, tôi tồi bại. Vậy đó. Rồi sao?" Hai chữ "rồi sao?" không phải để thách thức. Mà là một câu hỏi cho thấy cái tình huống huề vốn của vấn đề! Tôi từng đọc nhiều đoạn văn tả cảnh đánh ghen. Nói rõ hơn là tả công cuộc đánh ghen của những bậc nữ lưu. Nhưng chưa ai tả một công cuộc đánh ghen mà mình là nhân vật chính, lại... vui và hấp dẫn như Kiệt Tấn. Không có níu tóc quào mặt. Không có xé quần xé áo tình địch. Không có "con đĩ ngựa này con đĩ chó kia..." giữa hai người phụ nữ. Mà chỉ thấy hành vi "cẩu trệ và tồi tệ" của thằng cha làm ra chuyện!!! Kiệt Tấn yêu "đầm Ca Ná Đà" thì như vậy. Chứ Kiệt Tấn mười bảy tuổi yêu nữ sinh tỉnh nhỏ thì sao? Kiệt Tấn đưa Hoa (người yêu của Kiệt Tấn trong "Bến đò trao thơ") đi xem hát bóng (tức xi-nê-ma) tuồng Việt Nam có cái tựa ly kỳ khó hiểu: Lý chơn tâm, Anh hùng cỡi củi! Tôi nhỏ hơn Kiệt Tấn nên chưa biết được có cái tuồng này (than ôi!). Trong rạp hát, dĩ nhiên chàng Kiệt Tấn ta còn tâm trí đâu để mà xem xi-nê-ma... Xin mời đọc: "Tôi không thiết gì tới tuồng tích. Bàn tay tôi lúc đầu nắm lấy bàn tay nàng trong bóng tối, từ từ buông ra dọ dẫm. Sa-ten mát rượi. Hoa rùng mình chụp lấy tay tôi giữ lại cứng ngắt. Nắm siết. Chặt chẽ. Rồi yếu dần, buông lỏng, thở dài... Tôi cũng thở dài mà ngực nghẹn tức..." (Kiệt Tấn, Nụ Cười Tre Trúc, Văn Nghệ xuất bản 1987. Trang 91) Thủ phạm thở dài mà nạn nhân cũng thở dài. Trời đất! Lý Chơn Tâm xẹp lép trong màn ảnh đang cỡi củi bay chập chờn trên mây, chứ chàng Kiệt Tấn nhà ta thì đã bay lên chín tầng mây mà chỉ cần có một... cây củi nhỏ xíu (nếu so với bó củi của Lý Chơn Tâm!!!) Đó chỉ mới là sự vụ mở đầu! Đừng nóng, từ từ mà đọc thêm đoạn sau đây: "Trước khi ra về, chúng tôi ra ngồi quán nước cạnh bờ sông giải khát hứng mát (và chờ cho Hoàng Tử Lưng Gù hạ hoả)... Đêm khuya thức dậy ngó trời, thấy sao phía Bắc đã dời phía Nam... Hai câu ca dao còn lởn vởn trong đầu, tôi vói bàn tay mặt ơ thờ cầm cái ly đá chanh ẩm hơi nước đọng bên vách ly đưa lên định... bỗng giật mình vì ly nước chợt vuột khỏi bàn tay nắm của mình, như bàn tay có thoa mỡ, trơn mướt! Ly đá chanh tuột xuống va trên mặt bàn khua một tiếng rè đục như sắp bể... Không ai hiểu. Tôi cũng không hiểu, ngay lúc đó. Tôi đổi ly sang tay trái, đưa lên uống bình thường. Ngẫm nghĩ. Chợt hiểu! Và cũng chợt bồi hồi xúc động thương người yêu bé bỏng của mình hết sức! ..." (Kiệt Tấn, Nụ Cười Tre Trúc, Văn Nghệ xuất bản 1987. Trang 91) Kiệt tấn hiểu chuyện gì vậy cà? Những chuyện mà hầu như những nhà văn đều... tránh viết ra, hoặc nếu viết ra theo kiểu... hiện đại của phái "cách mạng tình dục" gì đó bây giờ, thì vô duyên và thô tục, thì Kiệt Tấn đã viết được bằng những đoạn văn thơ mộng dễ thương. Nhất là, sau sự vụ đi xi-nê-ma tối đó về, chàng Kiệt leo lên chiếc giường trong phòng trọ học: "... Lưng đau như dần. Tôi lăn sấp người lại úp mặt trong lòng bàn tay, rên ư ử. Thoang thoảng một dư hương rất lạ, chưa từng biết, ngây ngất trong lòng bàn tay. Gì như thể... như thể... Đúng rồi! Hương Trinh Nữ! Hương của Hoa..." (Kiệt Tấn, Nụ cười tre trúc, trang 94 [2] ) Cách nay gần hai mươi năm, khi đọc truyện này, tôi đã phone cho Thạch Các: "Ông tìm đọc Kiệt Tấn đi." Theo nhận xét của tôi, Kiệt Tấn không "sáng tác" truyện... tình. Kiệt Tấn chỉ kể lại những mối tình của ông với những người đàn bà con gái trong đời ông. Kiệt Tấn yêu đĩ, yêu nữ sinh, yêu đàn bà, yêu con gái, yêu vũ nữ, yêu ca ve, yêu gái quê... đều "bằng như nhau". Kiệt Tấn không... phân biệt giai cấp trong tình yêu lẫn tình dục của ông. Đó là Kiệt Tấn qua "văn bản" mà tôi bắt gặp gần mười lăm năm trước... Cho đến khi... II. Năm 2002 thì phải, là lần đầu tôi gặp mặt Kiệt Tấn. Đó là buổi ra mắt thơ của PTNN tại Washington DC. Vợ chồng tôi và vợ chồng anh chị PTNN & QĐ khá quen thân. Trong buổi ra mắt thơ của chị PTNN, Kiệt Tấn và tôi là hai trong bốn diễn giả nói về "tác phẩm và tác giả"... Người nói trước tiên là Kiệt Tấn, rồi đến tôi. Lúc Kiệt Tấn nói, có lẽ vì buổi sáng chàng chưa đủ độ rượu, cũng có thể vì cái giọng lè nhè không "ăn micro" nên hơi bị khó nghe! Đã vậy, Kiệt Tấn còn soạn một bài khá dài (tuy rất có duyên và tinh tế) lên nói... Phía dưới, có dăm bảy người không biết Kiệt Tấn là ai. Và chắc cũng "đáp tàu" lỡ chuyến đến với buổi ra mắt sách sao đó nên dễ bề nóng ruột... bèn la inh ỏi đòi đuổi Kiệt Tấn xuống. Chàng Kiệt Tấn thản nhiên khoát tay xuống mấy quý vị đó rồi phán một câu xanh rờn: "Nhằm nhò gì mấy cái lẻ tẻ!" Rồi tiếp tục nói hết bài của Kiệt Tấn viết về tác giả PTNN. Sau đó, tôi và Kiệt Tấn cũng có ngồi với nhau qua dăm ba bữa rượu lai rai. Nhưng là ngồi chung với nhiều người ngoài giới... "giang hồ". Vả, Kiệt Tấn không ở Washington DC lâu mà đã "lưu diễn" qua California liền sau đó. Nên tôi và Kiệt Tấn chỉ kịp "nhận" nhau, cũng có nói chuyện qua lại, nhưng chưa có một bữa rượu tới bến để "biết" nhau. Còn nhớ, cả Kiệt Tấn lẫn QĐ sau đó đều kể cho tôi nghe một câu chuyện như sau: "Một lần, QĐ rụt rè hỏi Kiệt Tấn: "Anh Kiệt Tấn à, tôi nghe nhiều người nói là anh... điên! Mà anh có điên thiệt không vậy? Kiệt Tấn trợn mắt trả lời: "Điên thiệt quá đi chứ cha! Tui điên có 'bằng cấp' mà!" Hai năm sau, Kiệt Tấn lại từ Pháp bay qua Washington DC dự đám cưới của con gái anh chi PTNN & QĐ. Tôi quên nói, chị PTNN và Kiệt Tấn rất thân nhau, đã quen biết từ thời ở Việt Nam. Tôi được anh chị PTNN & QĐ nhờ lo phần tiếp tân và chiêu đãi quần hào văn nghệ sĩ. Do đó, hàn xá bèn biến thành biệt viện cho quần hào tạm trú mà bày đại tiểu yến, cũng như dưỡng quân sau khi đã liên hồi đánh đấm! Những danh tài như Nguyễn Xuân Thiệp, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Trọng Khôi, Lâm Chương... bèn mỗi ông được nhà tôi, Hoàng Thị Bích Ti phát cho hai tấm chăn, một cái gối... Có vị sẽ hỏi tại sao tới hai tấm chăn, bộ thời khoảng đó là mùa Đông, lạnh lắm hả? Xin thưa, lúc đó chưa tới mùa Đông. Nhưng mỗi danh tài được phát hai tấm chăn là vì một tấm để lót trên sàn nằm và một tấm để đắp! Thế là, không tiệc lớn ở nhà anh chị PTNN & QĐ thì tiệc nhỏ ở nhà tôi. Nhiều lần, Kiệt Tấn thấy bọn tôi vui quá, bèn bôn đào không chịu ở nhà PTNN & QĐ, mà lánh nạn qua nhà tôi để... tha hồ uống rượu và có bạn để đấu hót. Trong một bữa rượu, Nguyễn Trọng Khôi giả giọng ông Tông Tông Trần Văn Hương, đọc bài nói chuyện của Tông Tông cựu nhà giáo trong một trường trung học, như sau: "Kính thưa Ban Giám Học, kính thưa quý thầy, quý cô cùng các em học sinh thân ái! Tôi xin lưu ý Ban Giám Học rằng là, tôi nhận thấy các em nữ sinh của trường mình mặc quần áo hơi quá mỏng. Tôi xin lập lại là quá mỏỏỏỏng! Làm cho quý thầy và các em nam sinh trường ta đi đứng có phần hơi bị... khó khăn!" Cả nhà tất nhiên lăn ra cười! Riêng Kiệt Tấn, sau đó, cứ ngồi lẩm bẩm câu: "đi đứng có phần hơi bị... khó khăn" mà thấm ý cười tủm tỉm hoài! Lúc vừa gặp lại Kiệt Tấn tại nhà anh chị PTNN & QĐ, tôi nói: "Ông Kiệt Tấn, cái bài ‘Sục cặc trước bàn thờ’ của ông trên talawas, nhà tôi, Ti khen hay lắm. Tôi có đăng lại trên báo LP. Sau đó, liền bị mất hai trang quảng cáo, ông ạ!" Kiệt Tấn nhìn Ti gật gù: "Lạ thiệt! Lạ thiệt! Cô là vị nữ lưu đầu tiên mà chắc cũng là cuối cùng khen cái bài mắc dịch đó! Viết bài đó, tôi bị mấy bà, mấy cô càm ràm đay nghiến quá trời!" Tôi lại nói với Kiệt Tấn: "Còn phần tôi thì tâm đắc nhất hai câu của ông. Dĩ nhiên tôi cũng thích thú cả bài." Kiệt Tấn hỏi: "Hai câu nào? Tôi cười, đọc: "Ở hải ngoại lẫn trong nước, các bà các cô đều vọc lồn mình mà la làng hết ráo... (rồi) Đụ là đụ! Đâu có cần gì phải quăng cái lồn lông lên không trung mà đặt câu hỏi nhớn (không dè nó rớt xuống trúng u đầu có cục)." Chú thích thêm của Trần Nghi Hoàng: Kiệt Tấn vốn rất trang trọng và trân quý chuyện tình dục. Đối với Kiệt Tấn, tình dục và tình yêu đều rất đẹp như nhau. Kiệt Tấn không "chịu" được khi một số các nhà văn gần đây cứ mang chuyện tình dục ra mà viết một cách "thiếu nghệ thuật", tục tiũ. Đa số trong các nhà văn ấy lại là các cô, các bà! Do đó, ông viết "Sục cặc trước bàn thờ". Một bài viết tục và dữ dằn hết cỡ để phản bác, theo nguyên tắc "lấy độc công độc". Đoạn cuối bài, Kiệt Tấn có tuyên bố sẽ sẵn sàng "lý luận" tiếp, nếu có ai đó lên tiếng khó chịu về bài này. Cho đến hôm nay, Nov 26 - 2006, tôi chưa thấy có phản ứng nào một cách chính thức về bài viết này! "Sục cặc trước bàn thờ" là bài viết của Kiệt Tấn nhân đọc mấy bài tung hô các nhà văn nữ hiện đại đòi quyền "khoe lồn và các thứ" qua các văn bản của các nhà đòi "Lồn Quyền" và không đòi gì hết sau: "Tình dục và các nhà văn nữ di dân Việt Nam" của Thế Uyên. Hợp Lưu số 81, 2005. (Bài này tôi chưa đọc, nhưng nguyên cái tựa có ba chữ ‘nhà văn nữ’ đã không thấy ổn! Trên thế giới này, kể cả từ xưa cho đến hôm nay, dường như chỉ có Việt Nam ta mới ’đẻ’ ra ba chữ ’nhà văn nữ’!) "Nhận diện một số nhà văn Việt đầu thế kỷ 21" của Nguyễn Văn Lục, Hợp Lưu số 81, 2005. (Bài này tôi cũng chưa đọc luôn! Vốn dĩ, tôi rất ít khi nếu không muốn nói là chả bao giờ bỏ công đi đọc những cái vụ "nhận diện"... này nọ. Bởi, xấu đẹp tùy người đối diện. Mỗi người sẽ có một "đường lối" nhận diện khác nhau!) "Trò chuyện với hoa thủy tiên" của Nguyễn Huy Thiệp, Văn Học số 223, 2006. (Bài này thì tôi có đọc, đọc kỹ và đã có mấy bài "góp ý cò ý kiến".) "Có thật đa số các nhà văn đều vô học, các nhà thơ đều lưu manh" của Trần Mạnh Hảo, Văn Học số 223, 2005. Bài này tôi cũng có đọc, và cũng đã có bài "góp ý cò ý kiến".) "Khi nhà văn cưới nhà thơ" của Ngọc Anh, Văn Học số 223, 2005. Bài này tôi chưa đọc. Hết chú thích. Trong một bữa rượu ở nhà tôi, có mặt đầy đủ quần hào và thêm một vị nữ lưu vốn là nhà văn, xin tạm gọi là L. Cô nhà văn L này hay bị tôi và Nguyễn Trọng Khôi, người luôn tự nhận là Điền Bá Khôi... (nhưng xem ra lại rất đứng đắn đàng hoàng, chưa từng thấy dở trò... nài hoa ép liễu bất cứ ai!) cáp độ, tức là gán ép (chơi cho vui) với Phan Xuân Sinh. Thấy có bóng hồng trong bữa rượu, Kiệt Tấn ta bèn mặt mày sáng rỡ. Cái dáng lừ đừ biến mất hết năm chục phần trăm. Kiệt Tấn vừa ngồi bên kia bàn uống tì tì, vừa lom lom ngắm nghía nhà văn L. Câu chuyện trong bàn chắc chắn là đang diễn ra tưng bừng hào hứng. Hốt nhiên, Kiệt Tấn từ tốn đứng dậy khỏi ghế, đủng đỉnh bước qua phía bên kia bàn, tiến trước nhà văn L. rồi ôm cô này và hôn một phát! (Hôn ở đâu xin quý vị cứ tự do tưởng tượng, như vậy mới ly kỳ... hấp dẫn!) . Cô nhà văn L. tỏ ra là một cao thủ trong những trường hợp bất ngờ và thậm chí bất an (ninh) như vậy, cô cười cười nói: "Anh Kiệt Tấn hôn L., không sợ anh Phan Xuân Sinh ghen sao?" Phan Xuân Sinh cũng tỏ ra là một tay hào hoa phong (cá) độ: "Ai "hun" cứ "hun". Tôi yêu tôi cứ yêu." Kiệt Tấn đã về đến cái ghế của mình. Vừa ngồi xuống ghế, Kiệt Tấn vừa làu bàu: "Ai yêu cứ yêu. Tui thích "hun" thì cứ "hun" hà!" Quả là kỳ phùng địch thủ. Bên nửa cân, người tám lạng, phong vũ ma chiết trùng trùng nhưng không khí vẫn rất ồn ào vui vẻ! Bữa rượu cuối cùng sau tiệc cưới. Một bữa rượu khuya ở nhà anh chị PTNN & QĐ. Gần 3 giờ sáng. Đã vài anh hùng hảo hán rớt đài, nằm đâu đó hay la liệt nơi phòng khách mà an giấc điệp. Trong bàn còn anh Nguyễn Xuân Thiệp, Kiệt Tấn, Độc Cô Cầu Thắng, QĐ (ra vô on & off), anh Tòng, Hoàng Thị Bích Ti và tôi. Chẳng biết câu chuyện lan man thế nào, mà hai ông bạn lớn (tuổi) Kiệt Tấn và Nguyễn Xuân Thiệp lại đi vào đề tài tình yêu! Trời đất! Tôi nghe loáng thoáng Nguyễn Xuân Thiệp nói: "Tôi cho rằng, tình yêu đích thực nó tồn tại mãi với thời gian, dù rằng hai người xa xôi cách trở. Chỉ cần gặp lại, hôn lên trán người yêu một cái, là tôi thấy đã quá đủ. Quá hạnh phúc rồi!" Giọng Kiệt Tấn đã đến giai đoạn lè nhè, lè nhè ở mức không thể lè nhè hơn: "Ông nói sao tôi hổng biết! Chứ với tôi, yêu là phải sờ mó, phải nắn bóp, phải... đủ thứ. Tức là phải có mần tình thì nó mới "trọn vẹn cái chữ yêu" ông ơi!" Thế là hai ông bạn lớn (tuổi) của tôi cứ tiếp tục tranh luận về hai quan điểm "yêu" rất khác nhau như vậy tà tà. Cuộc tranh luận xem ra hết sức lăng lệ nhưng vẫn hoà bình và đầy tình thân ái. Đến nỗi, có lúc hai ông rót rượu cho nhau, ôm nhau thắm thiết (xin có hình đính kèm làm bằng, để tránh lời ong tiếng ve cho rằng là Trần Nghi Hoàng tôi bịa chuyện!). Tuy nhiên, chẳng bữa rượu nào mà kéo dài mãi... phải không? Có điều, cho đến lúc tàn cuộc rượu, đâu chừng khoảng 5, 6 giờ sáng (vì tôi nghe vẳng từ lùm cây ở sân sau nhà anh chị PTNN & QĐ có tiếng chim ríu rít), tôi không biết hai ông bạn lớn (tuổi) của tôi, Nguyễn Xuân Thiệp và Kiệt Tấn đã dắt nhau đi đến cái chỗ kết luận chung cuộc ra sao. Điều này vẫn còn là một bí mật cho đến ngày hôm nay. Quý vị nào thắc mắc, xin cảm phiền tìm hỏi thẳng hai đương sự để tận tường thoả mãn. Với tôi, từ tiếp cận Kiệt Tấn qua văn bản, tôi đã tiếp cận Kiệt Tấn tạn mặt đá vàng! Kiệt Tấn đáng yêu ngay ở tiềm năng tồi bại tới mức như vậy của ông ta. Kiệt Tấn có khả năng tồi bại một cách cực kỳ... trong sáng và vô (số) tội! Nov 26 - 2006 [1]Xuân Thu xuất bản, 1989 [2]Văn Nghệ xuất bản, 1987
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 9:33:32 GMT 9
Phỏng vấn Kiệt Tấn Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Mai Lan thực hiện 1 2
Nhà văn Kiệt TấnTruyện ngắn đầu tay anh viết lúc nào, trong bối cảnh nào?
Truyện ngắn đầu tay của tôi? Thiệt tình mà nói, tôi cũng không nhớ rõ. Bởi lẽ tôi đã viết lai rai từ thuở còn học trung học và đại học. Hình như truyện ngắn đầu tay tôi viết về Diane, người em xóm học, khi tôi từ Paris trở về Québec năm 1961, không còn nhớ rõ tựa, đăng trên nội san Đất Lạnh số 1 của nhóm sinh viên Việt du học tại Québec chủ trương. Đất Lạnh ra có mỗi một số thì toà soạn đóng cửa đình bản vì cụt vốn, các mầm non đại văn hào đều bị bắt buộc nghỉ dài hạn không ăn lương.
Trước khi nói về văn chương, xin lạc đề một chút: hình như anh hơi kì thị chủng tộc? Anh đã chẳng mê toàn mấy cô đầm, hết đầm Âu đến đầm (bắc) Mĩ. Hay là đầm dễ mê Kiệt Tấn hơn Mít?
Nói kì thị chủng tộc thì hơi quá đáng...
Hay là vì dạo đó có lẽ thiếu con gái Việt Nam đi du học? Hay là việc "giao du" trai gái Việt Nam có nhiều khó khăn, trở ngại (thí dụ: không thể có sex nếu không cưới nhau)? Con gái Việt Nam khó "thương" hơn? Anh nói sơ về khoảng thời gian du học ở Québec...
Thời buổi đó ở Québec chỉ có mỗi một cô sinh viên người Việt, lại lớn tuổi hơn tôi và chỉ có những là xương. Đành chịu thua. Sức người có hạn!
Mấy cô đầm mới ngó vô thấy lạ, bồ bịch rồi thì cũng quen lần. Lên giường, lúc lâm trận mịt mờ thì cô gái nào cũng chỉ là một cô gái thôi. Chỉ có chia động từ thì khác... Còn rên rỉ thì cũng y chang như nhau... Còn chuyện viết lách. À!... Để tôi động não ráng nhớ lại coi. Nếu không lầm thì "Trước mặt" là truyện tình đầu tay của tôi được lên mặt báo, nhưng báo nào thì tôi không còn nhớ rõ. Đó là sự nối tiếp của cuộc đời tình ái lăng nhăng của tôi. Truyện kể tôi đến nhà đón một cô vũ nữ bồ bịch đi chơi. Trong lúc ngồi chờ cô em trang điểm, tôi hồi tưởng lại những cuộc tình đã qua ba trật bốn vuột của mình mà ngán ngẩm. Những Hoa, những Tuyết, rồi Diane, Louise, Danyèle, những Nguyên, Hường, Nhung… đều lần lượt giã biệt. Buồn ơi! Ta xin chào mi. Truyện kết thúc bằng những câu hỏi miên man không dứt: Cô em sẽ phụ tôi, tôi sẽ bỏ nàng, tôi và nàng sẽ yêu nhau dai dẳng, nàng sẽ có con với tôi, tôi sẽ cưới nàng, nàng sẽ bỏ tôi bất thần để đi lấy chồng? Hoàng hôn lần lữa năm hầu hết, hờ hững ai xui thiếp phụ chàng... Tôi không còn dấu vết nào của truyện "Trước mặt".
Thời đó đưa vũ nữ bồ bịch đi chơi có "dễ dàng" không? Vì giới nghiêm, thiết quân luật, vợ nhà… vân vân.
Đưa vũ nữ bồ bịch đi chơi có "dễ dàng" hay không là tuỳ ở tài nghệ và tâm tánh của mỗi người. Giới giang hồ có câu "chịu chơi thì đừng có run". Nhắc giới nghiêm, tôi nhớ một lần đó, còi giới nghiêm vừa hụ, tôi lật đật nhảy lên xe bốn bánh phóng ào ào từ quán nhậu ở Chợ Đũi về Hàng Xanh, quẹo cua lỡ trớn lạc tay lái ủi sập bót cảnh sát ở gần nhà, may nhờ chỗ công chức quen mặt nên sếp bót thông cảm ...
Khi trở về Việt Nam, anh làm việc ở đâu? Làm công chức cao cấp có chán không?
Tôi làm chuyên viên ở Bộ Kinh tế. Tánh tình, tóc tai, áo quần dị hợm nên bị đì làm chuyên viên dài dài. Cho đến mười năm sau, đùng một cái, được đề cử lên làm Giám đốc Định chuẩn. Nghề đó không ai giành, không do bè cánh hay piston đẩy lên chi hết. Khi làm giám đốc một cơ quan tự trị gồm toàn những người trẻ do mình tuyển dụng, tôi rất phấn khởi...
Truyện của Kiệt Tấn đa số đều đưa vấn đề tình dục vào? Tại sao?
Câu trả lời thật ra khá đơn giản: Cuộc tình nào của tôi cũng tay chưn rối beng, thịt da bát ngát, đồi núi chập chùng, cỏ non mút mắt. Khi hồi tưởng và viết lại thì nó y chang như vậy thôi, cũng đất trời choáng váng, thịt da bấn loạn, đâu có mất công gì phải đưa với đón tình dục vào truyện hoặc hư cấu làm chi cho nó nhức cái đầu, mệt thằng nhỏ (Cười cười). Xin cô Hai thông cảm.
Có lần, khi nói về tình dục, tôi đã minh định: "Tôi viết về tình dục với mục đích cho độc giả thấy tình dục là một điều tự nhiên và đẹp đẽ". Lần khác, khi viết về tôi, Nguyễn Hưng Quốc đã nhận xét: "Nhiều người cho là Kiệt Tấn viết bạo. Thêm điều này nữa: Bạo nhưng không bao giờ nhớp nhúa. Thiếu cái trong sáng của Thạch Lam, tình yêu trong truyện Kiệt Tấn lại gần hơn với sự thực, với cuộc đời" (Tuyển tập Kiệt Tấn, trang 476).
Anh có thể đưa ra một vài đoạn văn tiêu biểu của anh khi viết về tình dục?
Khi đọc những truyện tình hôi hổi tình dục của tôi trong Tuyển tập, ở trang 17, Đoàn Nhã Văn đã phân tích và để ý được điểm này: "Một trong những điểm đặc thù ở chữ nghĩa của Kiệt Tấn, trong vùng cấm địa này, là đặt nhiều cặp tính từ đằng sau một câu nói để nhấn mạnh điều diễn tả. Cặp chữ này nối liền cặp chữ kia tạo nên những đợt sóng dập dồn trong dòng suy nghĩ người đọc. Vì thế, người đọc thấy mình tham gia đủ đầy qua những vùng chữ nghĩa mang hơi hướm đàn bà:
Tuyết vừa ngồi xuống là tôi đi thẳng vào nỗi ám ảnh của mình. Bàn tay tôi sục sạo tìm kiếm đoá hoa thầm kín của nàng. Mềm mại, ấm áp, trơn mượt, nhung êm. Mê mẩn, sung sướng, hạnh phúc. (TNBN, "Đêm cỏ tuyết", tr. 56).
Chân tay hai đứa quấn quýt chằng chịt rối beng, tưởng không thể tháo rời được nữa. Rên rỉ, năn nỉ, xô ra, quấn vào, cuồng nhiệt, mê tơi, cực điểm, chết ngất… (TNBN, "Người em Xóm Học", tr. 105)".
Cái gì anh cũng ngó, cũng mó, cũng sờ, cũng nếm tuốt tuột. Ừ, dê dễ sợ: anh cầm cái bông bưởi, anh hửi cái bông hồng, anh bồng cái bông cúc, anh hít cái bông mai, anh liếm luôn bông lys... Chẳng còn chi là đoá hoa thành thị/ núi rừng/vương giả! Chẳng lẽ với đàn bà anh luôn "phàm tục" như vậy sao? Chuyện tình của anh chóng vánh đi đến... đỉnh cao xác thịt, phải chăng anh cố ý bỏ quên phần... trái tim? Trái tim thì rất khó sờ mó! Bởi cách một lớp thịt mỡ!
(Đưa hai tay lên trời) Ối! Tôi chỉ sờ nếm cái gì mà đàn bà có thôi, chớ tôi đâu có sờ mó cái gì đàn bà không có đâu mà cô Hai cự nự? (Giở Tuyển tập ra) Ở trang 492, Thuỵ Khuê đã nhận xét: "Đứng trước vẻ đẹp của người đàn bà, Kiệt Tấn trở thành thi sĩ. Văn ông không hề gợi dục, khi viết dường như có chất thơ đâu đó lãng đãng bước vào. Nhục cảm của thi nhân bỗng nhiên trong sạch lắm: Hương nắng còn đọng trên da lụa, tay khua tưởng đánh thức mặt trời, dục lên sóng biển và điệu tây ban cầm sẽ phả ra từ khung cửa sổ khuất kín của nàng. Dấu cỏ mất còn đó? Dấu bầm bên vú trái còn đó. Lời thề yêu em suốt đời còn đó. Tôi nựng nịu gò tình. Hôn lên ẩm ướt. Yêu. Yêu." (TNBN, "Người em Xóm Học", trang 113)
Đó! Cái cung cách yêu đương và thưởng thức đàn bà của tôi là như vậy đó. Viết về tình dục kiểu đó cô Hai có bị dị ứng không?
Dạ dị ứng thì không dị ứng, chỉ thấy hơi sấm chớp... giùm mấy nàng. Toàn là những người nữ tội nghiệp hết sức. Thôi xin hỏi tiếp câu sau. Rất nhiều ca dao trong truyện Kiệt Tấn. Tại sao?
Tôi được cái may mắn là từ thuở lọt lòng, tôi sống ở nhà quê và xóm bình dân. Lối xóm ai ru con cũng đều biết ầu ơ ví dầu vài ba câu ca dao. Má tôi cũng biết ầu ơ… Ví dầu ví dẩu ví dâu, ví qua ví lại ví trâu vô chuồng. Hoặc: Má ơi đừng đánh con đau, để con hát bội làm đào má coi. Rồi lớn lên, khi đi học, nhờ học giỏi, tôi được lãnh thưởng mấy quyển sưu tầm tạp lục ca dao, tôi đọc thấy sướng ran, bèn đọc đi đọc lại nên thuộc lòng hồi nào không hay. Khi cầm bút lên viết thì nó cứ rỉ rả tuôn ra vậy thôi chứ chẳng có bí quyết gì hết ráo. Hơn nữa, khi viết về miền Nam ruộng đồng mút mắt, sông nước tư bề, khi viết về những người bình dân sống nơi miền đất này mà không có hò hát, không có ca dao, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Hò hát và ca dao tạo được bầu không khí quê mùa cho truyện viết, cũng hợp tình hợp cảnh lắm chớ. Nên lắm! Ngoài ra, khi còn đi học, đôi khi tôi còn dùng ca dao để chim gái, như dụ dỗ cô Hoa trong "Bến đò trao thơ" khiến cho cô xiêu lòng mà trao duyên cùng tướng cướp: "Hãy thề với anh hết miễu qua chùa, Ai cho anh uống thuốc bùa anh mê?" Rụng rún chưa em Hai?
Dạ rụng là cái chắc, nhất là mấy em nào tưởng ca dao là thơ anh... làm thiệt. Tiêu tùng mấy hồi cả một đời huê! Bây giờ xin nói chuyện liên hệ... với nhóm Sáng Tạo (Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền…) như thế nào?
Nhóm Sáng Tạo à? Để coi… Nói gần nói xa không qua nói thiệt. Tôi nghĩ sở dĩ nhiều người tưởng rằng tôi có liên hệ nhiều với nhóm Sáng Tạo là vì Sáng Tạo đã đứng tên xuất bản Điệp khúc tình yêu và trái phá, tập thơ đầu tay của tôi năm 1966. Thiệt ra, khi tôi về nước khoảng cuối năm 1963 thì tờ Sáng Tạo đã đình bản. Tôi cùng nhiệm sở với Cung Tiến nên nhân một dịp đi chơi chung, Cung Tiến có ghé ngang Thị Nghè giới thiệu tôi với Mai Thảo và Anh Ngọc ca sĩ khi đó đang lai rai ba sợi.
Giao tình Kiệt Tấn với các vị ấy ra sao?
Rủi thay, Chưa gặp anh, em đã có bầu! Mới gặp nhau lần đầu mà tôi và Mai Thảo đã chạm súng lẻ tẻ (Cười cười).
Anh còn nhớ lí do cuộc chạm súng đó không? Sau này bác Mai Thảo mỗi lần sang Pháp có gặp lại anh không? Và rồi sao nữa hả anh Kiệt Tấn?
Cũng chẳng có trăng sao gì hết. No stars where! Nói tiếp. Sau khi tờ Sáng Tạo đình bản thì Mai Thảo quay sang làm tờ Nghệ Thuật, toà soạn toạ lạc tại đường Phạm Ngũ Lão, máy in cũ mèm chạy sầm sập như trời đổ mưa. Viên Linh làm thư ký toà soạn, Anh Ngọc thủ quỹ. Ca sĩ nhà ta thủ rất kỹ nên tôi chẳng bao giờ được trả nhuận bút. Tới toà soạn chơi thỉnh thoảng gặp Thanh Nam, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền, Tạ Tỵ, Phan Lạc Phúc, Cung Trầm Tưởng và nhiều tay khác nữa. Bài thơ đầu tiên của tôi đăng báo Nghệ Thuật hình như là bài "Biết bao giờ" tặng Lộc và Diane. Trong những bài kế tiếp, có nhiều anh ngợi khen bài thơ "Dòng sông và con thuyền 20 tuổi" của tôi. Trong nhóm, có lẽ tôi còn lỏi nhứt thời đó.
Còn chuyện "bắn" nhau?
Mai Thảo khi đó tiếng tăm lẫy lừng trong giới văn nghệ, "rằng nghe nổi tiếng cầm đồ”. Mai Thảo ra cái vẻ đàn anh văn nghệ, còn tôi thì chẳng có viết lách gì. Văn nghệ văn gừng không mắc mớ gì tới tôi hết. Do đó mà có chạm súng lẻ tẻ. Sau này, thỉnh thoảng Mai Thảo sang Paris chơi, có gặp tôi vài lần. Một bận, tôi rủ Mai Thảo và một số bạn bè: Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Nguyễn Cầm, Nguyễn Hưng Quốc... về nhà nhậu nhẹt. Lần này thì chạm súng lớn hơn với Mai Thảo về chuyện ăn uống. Cứ cái giọng kênh kênh "Bắc kì là nhất” thì làm sao mà chịu đời cho thấu? Còn Thái Tuấn, hồi ở Sài Gòn ngày trước chỉ gặp nhau có một lần: bữa đó tôi xỉn quá xỉn nên bật ngửa cười hả hả trong buổi nhạc thính phòng tổ chức tại nhà một ông Bộ trưởng chịu chơi. Sang Pháp, thường lui tới với nhau vì hợp tính. Thái Tuấn tặng tranh miễn phí là tôi chíp ngay. Thích lắm.
Có còn cuộc "chạm súng" nào khác nữa không?
Thì thỉnh thoảng đi ăn nhậu với nhau cho vui vậy thôi. Tôi vốn không thích bàn cãi hay tranh luận văn nghệ. Tôi chủ trương “Viết không có chủ trương”, và viết từ bên trái sang phải, từ trên xuống dưới là ăn chắc. Thời viết cho tờ Nghệ Thuật, thỉnh thoảng tôi xách một chai Johnnie đi bộ tới toà soạn, rồi kéo nhau đi nhậu. Thế là xong.
Trước đây anh đọc tác giả Việt Nam nào. Anh thích ai? Tại sao? Anh có đọc tác giả hiện nay trong nước không?
Tôi đã có dịp trình bày ý kiến mình về văn chương Việt trong bài “Thơ văn quê nhà trong trí nhớ” đăng trên Văn Học số 203 & 204 năm 2002. Nhắc lại, khởi đầu tôi đọc và học thuộc lòng Quốc văn giáo khoa thư, kế tiếp là quyển tiểu thuyết đầu tiên Đồng quê của Phi Vân, theo sau là các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn cùng với các tiểu thuyết nẩy lửa của Vũ Trọng Phụng, trinh thám của Thế Lữ, Phạm Cao Củng... Vài truyện ngắn và tuỳ bút của Võ Phiến, Mai Thảo, truyện tình của Nguyễn Đình Toàn, biên khảo và truyện phong tục miền Nam của Sơn Nam. Thơ thì đầu tiên là Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính, theo tiếp là các nhà thơ tiền chiến. Rồi thì chiến tranh Pháp Việt bộc phát, kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ, đình chiến và chia cắt đất nước năm 1954. Thời kỳ từ 1954 đến 1975, chiến tranh Mỹ-Quốc-Cộng phừng phực đổ lửa, đất nước loạn cào cào, tôi đọc sách lung tung nhưng phần lớn thì ham chơi hơn là ham đọc và viết. Thời kỳ này, tôi thích Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Tạ Ký, Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Nhã Ca và còn những ai nữa, nhưng quanh đi quẩn lại thì vẫn là những người làm thơ, phần lớn.
Cũng nên nhắc lại là tôi thuộc thế hệ 40 nên lãnh đủ cuộc chiến tranh đằng đẵng 30 năm Pháp-Mỹ-Quốc-Cộng từ 1945 đến 1975. Thiệt là chó chết! (Lắc đầu).
Anh thích Nguyễn Bính và trích dẫn ông thi sĩ này khá nhiều, nhưng thơ anh không có tí ti âm hưởng của ông ấy.
Tôi khám phá Nguyễn Bính lúc 13, 14 tuổi gì đó. Thuở tôi bắt đầu biết si tình đàn bà con gái... và âm thầm đau khổ y hịch như sư phụ mình vậy. Tôi không hề có tham vọng làm một Nguyễn Bính thứ hai. Bởi lẽ đó là cách tự sát tốt nhất.
Hiện nay anh còn giữ được liên lạc với ai? Những suy nghĩ của Kiệt Tấn về văn học trong và ngoài nước? Và về những bạn văn của anh?
Để đáp câu này, tôi lại dựa vào bài viết “Thơ văn quê nhà trong trí nhớ” đã nhắc lại khi nãy. Nhưng lặp lại những ý kiến đó thì dài dòng lắm. Nếu tò mò muốn biết thì xin tìm đọc bài đó.
Anh nghĩ sao về tương lai (có vẻ đìu hiu) của văn học Việt Nam ngoài nước?
Khi nói về văn học ngoài nước, tôi tự ý giới hạn trong phần sáng tác bằng Việt ngữ. Theo tôi nghĩ, môi trường sống dài hạn của các sáng tác bằng tiếng Việt phải là nơi mà mọi người đều đọc được tiếng Việt, nói được tiếng Việt và viết được tiếng Việt. Vì có như vậy mới có người thưởng ngoạn, phê bình và bàn cãi. Một điều rõ boong [1] : Môi trường đó phải là đất nước Việt Nam. Ngoài nước, các sáng tác hải ngoại bằng Việt ngữ chỉ sống ngắc ngoải như người bị bệnh nan y, sống vất vưởng như một lũ cô hồn. Bởi lẽ ấy, tôi mong là một ngày nào đó, một ngày đẹp trời, các sáng tác hải ngoại sẽ được hồi hương, chấm dứt kiếp sống lưu đày, và được in lại trong nước. Chuyện này không mắc mớ gì tới cộng sản cộng siếc gì hết. Chế độ nào rồi cũng phải có ngày chấm dứt. Còn sờ sờ đó cái màn cộng sản Nga sập tiệm, phần cộng sản Tàu thì giờ đây còn tư bản hơn cả Mỹ. Chớ cộng sản mà cứ “kéo dài xa tít tận chân trời” thì bỏ mẹ người ta hết sao? Nếu sau này chẳng may không có cơ hội nào được in lại trong nước thì tất cả những sáng tác Việt ngữ có giá trị tại hải ngoại sẽ trở thành những mối tình ôm xuống tuyền đài chưa tan ráo trọi!
Biết đâu được sẽ có những giọt nước mắt Mị Nương bất ngờ? Nói chuyện gần gần cho dễ kiểm chứng, thưa anh. Ai cũng thở than cho tương lai của văn thi sĩ hải ngoại, anh thấy đúng không? Anh xủ cho một quẻ coi.
Thì thôi, thể theo lời yêu cầu của cô Hai, tui cũng làm gan đứng ra làm thầy rùa, rờ mu rùa mà xủ cho một quẻ, nếu không trúng thì thế nào cũng trật, mất mát gì đâu mà sợ! Theo tôi, biến cố lịch sử tháng Tư 75 đã làm phát sinh hiện tượng văn học hải ngoại. Và như mọi hiện tượng trong trời đất, nền văn học hải ngoại đã sống như một hiện tượng, rồi giờ đây mãn hơi đang thoi thóp như một hiện tượng, để rồi sẽ biến đi như một hiện tượng. Một điều rõ rệt, trong lãnh vực sáng tác bằng Việt Ngữ tại hải ngoại, số lượng người viết càng ngày càng ít đi, số lượng người đọc cũng càng ngày càng ít đi. Tuy nhiên bù lại, nhờ có mạng lưới nên hiện nay người viết tại hải ngoại đã mở rộng lượng người đọc của mình về địa bàn trong nước. Nhưng (lại nhưng!), ngày nào tại hải ngoại hết còn ai sáng tác “ra hồn” nữa thì cũng đành ngủm củ tỏi mà thôi! Bó giò! Xin kiếu gia chủ ta thăng!
Khoan! Khoan thăng đã thưa anh Kiệt Tấn. Anh có bi quan quá đáng không, bởi vì như anh đã nói, nhờ mạng lưới truyền thông, sáng tác, sách vở đôi bên trong và ngoài nước hầu như không còn biên giới nữa, và chuyện giao lưu, du lịch đôi bên cũng mở rộng: thì đến một ngày nào đó, khi chế độ độc tài nhiều ngăn cấm răn đe này cáo chung, khi đó việc phổ biến, in ấn, trao đổi... kể cả tương lai văn học trong ngoài lúc bấy giờ không còn là vấn đề nữa. Nhưng (lại nhưng!) đó là chuyện... tương lai. Anh chưa trả lời mục các bạn văn của anh.
Cô Hai đã trót la "Khoan! Khoan!" rồi thì phải xuống vọng cổ để tui đây / Tây đui còn phựt đèn màu chớ! Thì thôi, khoan khoan ngồi đó chớ ra. Như đã nói hồi đầu, tôi không thích bàn cãi hoặc tranh luận chuyện văn chương. Tôi chỉ chú trọng phần sáng tác. Tôi thấy phe ta cứ cãi gì mà cãi nhau như giặc, cãi như mổ bò. Có cầm bút lên mà sáng tác hay không thì bảo? Cũng bởi lẽ không thích tranh cãi văn nghệ nên không có luôn trao đổi văn-gừng, do đó làm sao mà có được bạn văn-dênh? Bạn nhậu thì có, cái đó thì không. Bạn cầm bút, nếu có gặp nhau thì cũng rủ đi nhậu. Nhưng rủi thay, cũng có người thích uống nước dừa, uống sữa đậu nành, hột é lười ươi hoặc sương sa hột lựu. Mấy cha nội này thuộc phe "trà đá chanh đường". Thì mấy chả rán mà chịu cho quen! Làm gì mà cứ nằng nặc chê rượu như mèo chê mỡ: "Em chã! Em chã!", nghe sốt cả ruột.
Cách dựng truyện của anh như thế nào? Hình như anh luôn luôn chủ trương "nói hết, nói thiệt ‘chăm phần chăm’"?
Hầu hết những truyện tôi viết đều là tự truyện, nên "Có sao nói dzậy người ơi! Xin người đừng gian dối đời nhau! ". Tuy nhiên, tôi không phải là một người đêm đêm kể chuyện đời xưa cho con nít nghe hay một ký giả chiến trường viết bài tường trình cho một tai nạn tình ái kèm theo ảnh chụp. Về cách dựng truyện, trước khi viết, tôi hồi tưởng lại cuộc tình của mình, sau đó tôi sắp xếp các sự kiện, các chi tiết để cho chúng xuất hiện theo một thứ tự nào đó mà tôi thấy là "hết xẩy". Tôi thường đảo lộn trật tự, cắt đổi thời gian, hoán chuyển không gian. Khi viết, tôi cố gắng tôn trọng sự thật tới mức có thể được. Thứ nữa, thêm một điều quan trọng: Độc giả chỉ muốn đọc một truyện hay chứ không nhất thiết phải là truyện thật một trăm phần trăm. Họ cóc cần, có thể nói thẳng ra như vậy. Thế nhưng nếu hư cấu quá trớn, truyện viết thấy "xạo" rõ ràng thì độc giả cũng chịu đời không thấu. Xem xong nàng khẽ thở dài, người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?
Khi viết anh quan tâm điều gì nhất? Chủ đề? Hình thức? Anh hạ bút viết thẳng một lèo hay "đứt rồi lại nối", cần một chỗ yên tĩnh, nghe nhạc, uống rượu, hút thuốc lá?
Có những truyện tôi viết suôn sẻ, có truyện viết xong tôi xé hết, viết lại từ đầu. Tôi viết chậm, có thể nói là rất chậm, sau đó là đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại, có khi thời gian sửa còn nhiều hơn cả thời gian viết. Không hiếm những lần tôi sửa tới sửa lui sửa xuôi sửa ngược một câu cho chán chê rồi cuối cùng trở lại giữ câu đầu tiên viết ra. Khùng thiệt! Tuỳ cảm hứng, có khi tôi viết cho tôi, nhưng phần lớn là tôi viết cho người đọc. Khi sửa chữa bản văn, tôi đặt mình vào địa vị người đọc, tôi sửa tới sửa lui, đọc đi đọc lại nhiều bận rồi tự hỏi: Liệu đọc như vầy đã sướng chưa? Cái cảm giác chung chung mà tôi đón nhận được ở những người đọc truyện của tôi là "đã". Đọc thấy đã (sướng ran!). Như đã đời! Như nuốt vô thấy đã. Nhậu biết đã. Gãi đúng chỗ ngứa, đã quá đã! Nhứt gái một con, nhì thuốc ngon nửa điếu. Đã ơi là đã! Tui nói thiệt đó cô Hai. Cô cứ thử đi thì biết.
Hầu hết những người phê bình sáng tác của tôi đều đi tới cùng một nhận xét chung chung: Kiệt Tấn sống thật, viết thật. Kiệt Tấn sống hết mình, viết hết mình. Và Thuỵ Khuê đã chung kết nhận định: "Cung cách đặc biệt dấn vào văn chương như thế, mấy khi chúng ta gặp được." (Tuyển tập, tr. 499)
Bên cạnh cái cảm giác đã là cười. Khi theo dõi truyện của tôi, bỗng phát bật lên cười một tiếng. Có nàng cho biết đã bị đấng ông chồng yêu dấu chất vấn: "Bộ khùng tới nơi rồi hả? Sao khi không phát cười khơi khơi một mình vậy?". Dẫu cho truyện tôi viết có kết cuộc không khá, kết cuộc không có hậu, kết cuộc buồn hiu buồn hắt đi nữa thì vẫn cười hoặc mỉm cười lai rai suốt khi đọc truyện. Chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ!
Những nhà phê bình đều cùng nhau đi tới chung nhận xét: Kiệt Tấn dí dỏm, hóm hỉnh, tinh nghịch. Rất tiếc chưa có ai viết một bài đặc biệt có dẫn chứng về điểm này cho vui nhà vui cửa. Theo chỗ tôi nghĩ, trong đời sống, nụ cười giải toả được rất nhiều chuyện rắc rối, loạn tâm, nhức đầu, táo bón. Tôi rất nghi ngờ, dị ứng và sợ run sự nghiêm chỉnh. Một điều hiển nhiên: bộ mặt đạo đức giả bao giờ cũng phết lên mình một lớp sơn nghiêm chỉnh. Ai không đồng ý điểm này xin hãy thay bộ đồ lớn, thắt cà vạt đen, giơ cao tay lên và đứng dậy bước lên bục gỗ lớn tiếng phản đối… một cách nghiêm chỉnh! Một cách nghiêm chỉnh, please! S'il vous plaît! Yakitori! Phần tôi, tôi xin được phép bận xà lỏn rằn, ngồi tại chỗ, giơ cao tay lên và đứng dậy… dết toa lô, dô toa lết. Sorry! Désolé! Hara kiri!
Khi dựng và viết truyện, anh chú trọng phần nào nhứt? Phần đầu, phần giữa hay phần cuối?
Khi thực hiện Tuyển tập Kiệt Tấn, tôi bắt buộc phải đọc lại hầu hết các truyện mà tôi đã viết ra. Nhứt là với những truyện đã được tuyển chọn, tôi phải dò tới dò lui để sửa chữa từng chữ một, hoặc để bổ túc hay cắt bỏ một vài chỗ, một vài đoạn mà mình không ưng ý. Trong lúc đọc lại các truyện viết của mình, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận thấy phần lớn cách dựng truyện với nhiều đề tài khác nhau của tôi, dù không cố tình, cũng có điểm giống nhau chung chung. Đó là cách thức vào truyện và phong cách ra khỏi truyện. Mở đầu, bằng một hình ảnh loá choá, tôi thường ném độc giả thẳng vào cuộc tình hay câu chuyện sắp được kể, đâu khoảng giữa chừng, khiến cho độc giả hoang mang không biết chuyện gì đã xảy ra trước đó, để rồi tò mò theo dõi, chờ đợi được giải thích, sự lôi cuốn đã được tạo nên. Rồi câu truyện được kể ra, không nhứt thiết theo thứ tự thời gian. Tôi sử dụng rất nhiều hình ảnh, rất nhiều sự kiện, rất nhiều chất sống thực, rất nhiều trải nghiệm, nói tóm rất cụ thể. Phần kết thúc, tôi thường đưa độc giả ra khỏi truyện bằng một xúc động. Cái cảm giác mà tôi muốn để lại cho người đọc là một nỗi bâng khuâng, man mác, có khi là một chút ngậm ngùi, tiếc nuối, có khi là một hoang mang, nghi vấn. Truyện tôi viết hiếm khi có kết thúc vui, một happy ending. Ý thì vậy nhưng không biết là tôi có tạo được xúc động mong muốn hay không, ngòi bút tôi có dẫn dắt độc giả vào những vùng cảm giác đó được hay không. Một đôi lần, có người cho biết là sau khi đọc xong truyện tôi viết đã ngùi ngùi sa nước mắt. Còn tôi thì khi viết, tôi đã nhiều lần khóc nghẹn ngào, đành phải buông bút ôm mặt khóc ngất. Hoài niệm thương động. Ôi! Những hoài niệm thương động! (Cúi mặt, bùi ngùi)... Theo cảm quan của tôi, sau khi đọc xong bất cứ một truyện nào đó, điều đáng kể là một chút cảm giác khó quên, một chút ám ảnh khôn nguôi, một chút không khí lạ lùng, một chút ấn tượng nhớ hoài còn sót lại ở người đọc. Truyện viết được như vậy mới có thể gọi là thành công, là "đạt". Bởi lẽ đó nên khi cầm bút, tôi viết theo cảm quan của tôi, tôi viết theo tính khí của tôi chớ tôi không viết theo một chủ trương nào hết, cho dù chủ trương đó mới toanh hay cũ mèm. Nguồn: Tạp chí Văn 117-118 (số đặc biệt về Kiệt Tấn) tháng 9 & 10.2006
[1]Kiệt Tấn giải thích: Nghĩa là "ça saute aux yeux", ở nhà quê miền Nam người hay nói "đúng y bon" (không có g) Chắc là từ tiếng Pháp "bon".
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 9:34:24 GMT 9
Anh viết rất ít về tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của chính đàn bà? Bà nào cũng "đồi núi chập chùng, cỏ hoa tưng bừng rậm rạp, động hang thăm thẳm" nhưng nhịp đập trái tim và sóng gió tâm hồn họ ra sao ít ai biết? Chỉ thấy họ rất "dễ thương", nhiều tình cảm, chất phác, mộc mạc, nhất là... dễ tin. Nhưng đó cũng chỉ là "cảnh trí" bên ngoài. Anh có thấy vậy không? Thật sự anh nghĩ sao về họ?
Đàn bà… Lại đàn bà! (Gật gù, đầy vẻ cảm khái)
"Nghĩ sao về đàn bà?", cô Hai hỏi chi khó vậy? Có câu nào dễ hơn không? Chẳng hạn đàn ông gặp đàn bà nơi thanh vắng thì làm cái gì? Hoặc: Thấy người đàn bà mặc áo hở ngực rộng có đôi vú lớn thì Kiệt Tấn ngó cái gì trước? Ôi thôi! Thiếu gì những câu hỏi dễ ợt, sao cô Hai không chịu hỏi? Lại đi hỏi "nghĩ sao về đàn bà?". Là giết đời nhau đấy biết không? Nhưng giờ đây cô Hai đã trót quăng câu hỏi nhớn lên không trung rồi thì tui cũng phải cố gắng động não để giả nhời sao cho lọt lỗ tai cô Hai: Trước nhứt, tôi đến với đàn bà không bằng trí tuệ, cho nên hỏi tôi nghĩ sao về đàn bà thì tôi đành quăng khăn lên đài chịu thua. Tôi đến với đàn bà bằng đam mê, bằng rung động, bằng linh tính và bằng năm giác quan trời cho: Thấy, nghe, sờ, ngửi, nếm. Y chang như loài thú vậy. Có đi thực tế mới hiểu được lòng dân. Bằng không thì chỉ nói khơi khơi về đàn bà, hư cấu khơi khơi về đàn bà mà chưa hề đụng tới một sợi lông, một sợi tóc nào của nàng hết. Như thầy tu chính cống mà lại đi thuyết pháp về đàn bà thì nhứt định phải hỏng bét là cái chắc!
"Sờ nếm nghe thấy"đàn bà? Vẫn rất là cụ thể! Vẫn rất là thể xác. Anh xác nhận đến với đàn bà không bằng trí tuệ, mà bằng đam mê, bằng rung động, bằng linh tính và bằng năm giác quan trời cho: Thấy, nghe, sờ, ngửi, nếm. Y chang như loài thú vậy.
Vì sao? Vì theo tôi, chỉ có cách đó mới thực sự xâm nhập được đối tượng và thực sự thấm nhập được tâm trạng người nữ ...
Thấm nhập được bên trong bằng "sờ" bên ngoài: nghe ra cũng rất là... tụng ca thân xác; rồi thì sao ạ? Người đàn bà nào cũng chỉ duy nhất "lồ lộ, dày dày" một thể xác? Mà về thể xác ấy, độc giả cũng không nghe thấy anh hỏi như ai kia "cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao?". Những người nữ của anh hình như là những con búp bê tội nghiệp, yếu đuối và... nạn nhân. Bộ anh không có ý nghĩ nào về đàn bà "siêu" hơn một chút?
(Ngần ngừ). Thiệt khó mà diễn tả được rốt ráo những gì tôi nghĩ về đàn bà. Mà nghĩ lại, thiệt tình có bao giờ tôi nghiêm chỉnh bóp trán nghĩ ngợi về đàn bà đâu! Tôi chỉ biết ham sống. Tôi chỉ biết si tình và đam mê đàn bà. Nhưng sự ràng buộc mật thiết giữa tôi với đàn bà nó kỳ lạ lắm. Nó vượt ngoài lý luận, ngoài phân tích. Tôi không diễn tả nổi!
Anh thú nhận là không nghiêm chỉnh suy nghĩ về họ, nhưng nếu chẳng diễn tả nổi thì anh cứ thử nói đại coi. Tuy nói vậy chứ anh hãy thận trọng, nhiều nhà nữ quyền đang "dòm chừng" anh đó. Coi như đây là câu hỏi thách thức: về đàn bà, dường như anh chỉ biết "yêu" cái thể xác, còn về cái "tinh anh"? Có ai thấy anh viết về nỗi đau, ước mơ hay nhu cầu, hoài bão, khó khăn của họ trong đời sống? Và nếu đàn bà mặt mũi xấu xí, ngực lép, mông teo hoặc quá dữ dằn, quá trí thức, hoặc "đòi" được "yêu toàn diện" thì anh... tính sao?
(Cười cười): Nói đại? Chết bỏ! Lại mấy bà nữ quyền! Mấy bà dòm chừng thì có dòm chừng thiệt đó, nhưng "ngó thấy" thì chưa chắc đã ngó thấy được cái gì. Các bà nữ quyền có cái quyền của người nữ, thì cứ tha hồ phất cờ khởi nghĩa đòi cái quyền của mình. Tôi không có quyền gì hết ráo, bởi lẽ đó muốn giành quyền với tôi cũng khó lắm thay! Lạ lắm: khi đàn ông chúng tôi mó tới các bà là các bà la toáng cả lên: nào là đồ lợn lòi, chỉ biết ham muốn hành dục với đàn bà, thứ đồ mắc dịch! Nhưng thử tưởng tượng, một ngày đẹp trời nào đó, nhờ ánh sáng Phúc Âm chiếu rọi, bọn lợn lòi chúng tôi hết còn ham muốn mó tới các bà nữa thì chừng đó các bà chỉ còn nước rút khăn mù soa ra mà lau lệ thương tiếc cho thời đại vàng son đã mất. Rồi đây các cô gái già biết đổ đâu cho hết! Đổ xuống sông sấu chê, đổ xuống biển cá mập lắc đầu! A, vẫn còn câu hỏi thách thức: Về đàn bà, dường như anh chỉ biết "yêu" có cái thể xác? Với tôi, cái thể xác của người nữ là để ôm ấp, thưởng thức và chung vui. Còn cái "tinh anh" là để chiêm ngưỡng, trân quý và duy trì liên hệ. Nếu cứ đem cái tinh anh ra mà "blablaba" thì cũng chỉ là bói mò, tán hươu tán vượn để kiếm điểm với các nàng (hầu kiếm chút cháo?)... Trong truyện tôi, qua các cuộc đối thoại và hành xử của các nhân vật nam nữ, người ta cũng có thể đoán biết được cái "tâm tình" và cái "tinh anh" của các nàng. Bởi lẽ nếu đem cái linh hồn ra mà cắt xẻ cho "banh xà rông" thì còn chi là nghệ thuật? Còn hỏi tôi tính sao với mấy bà "xấu xí, ngực lép, mông teo"? Nói gần nói xa chi cho mệt. Mẫu người đó tôi không có cơ hội xáp vô nên chưa hề bị đòi yêu trí thức, hoặc "yêu toàn diện". Vì vậy tôi chưa biết "giả nhời sao cho phải lẽ". Phải hỏi lại thằng bé. Thằng nhớn tuy hết sức xuề xoà nhưng ngược lại thằng bé vô cùng khó tính. Nhiều khi "trên" bảo mà "dưới" nó cứ nhứt định không nghe. Cứ gục mặt "Em chã! Em chã!" Thiệt là kẹt! "Giờ thì cũng yêu mà yêu... yếu xìu! "
Hình như anh dùng những luận điểm luận cứ rất chung chung, y như lúc phòng trào nữ quyền phát triển trong những năm 70 thế kỉ 20. Khi các nhà nữ quyền... phất cờ ở phương Tây, các ông Tây cũng phản pháo bằng từng ấy lời phê (vu cáo). Nói như thế là giản tiện hoá vấn đề.
Nếu các bà nữ quyền cứ nằng nặc "Em chã! Em chã!" hoài thì sẽ có ngày: đi đâu mà chẳng lấy chồng? Người ta lấy hết, chổng mông mà gào. Mở ngoặc, một giai thoại: bữa nọ một cô gái già từ lâu sống một mình, lén gọi điện thoại đến bót cảnh sát nhờ ông cò tới bắt hai cha con thằng ăn trộm đang trốn dưới gầm giường của mình. Cô dặn thêm: "Ông nhớ chỉ bắt thằng cha già thôi nghe, còn thằng nhỏ để lại cho tui". Đóng ngoặc.
Trở lại tiết mục "đàn bà". Hồi đầu, Nguyễn Hưng Quốc đã nói lai rai về ba cái tình dục của Kiệt Tấn rồi. Giờ xin để cho kép Đoàn Nhã Văn lên tiếng giùm tôi. (Lật lật Tuyển tập). Đây nè, trang 16: "Với ông (Kiệt Tấn), đàn bà là cả một thế giới bí mật. Con gái cũng vậy. Càng nhỏ tuổi càng bí mật. Nhưng khi lớn lên, các nàng lại tăng thêm bí mật một cách khác (EOBDT, tr. 40). Càng bí mật, ông càng nhứt mực tôn thờ. Ông đến với họ như một thứ tôn giáo của riêng ông, mà ở đó đã mở ra những đắm đuối, say mê, cởi mở, hạnh phúc, hừng hực, dập dồn, xốn xang, xao xuyến, thèm thuồng, quyến luyến v.v... Và ông bơi lội trong vùng không gian này thoả thích. Thiếu họ, ông mất quân bình, như một bình điện hết hơi, nằm cú rũ, phế thải." Ổng nói tôi tôn thờ và ghiền đàn bà như vậy đó, chịu chưa?
Trở lại chuyện này, tôi xin trích dẫn tiếp theo: "Ông viết về họ là muốn cho họ sống lâu dài trong lòng độc giả bằng một sự trân trọng của mình. Ông minh định một điều: ‘Tôi không thể yêu một người đàn bà không có thân thể. Thứ đến, tôi không tách rời nhục cảm ra khỏi tình yêu chớ tôi không nhìn đàn bà với con mắt thuần nhục cảm (EOBDT, tr. 70)’." Sao? Vừa lòng chưa cô Hai?
Dạ thưa chưa. Ai dám đòi anh tách rời nhục cảm ra khỏi tình yêu bao giờ đâu! Dĩ nhiên, yêu ai cũng vậy, yêu tôi, tôi cám ơn vì tôi sẽ... cất hết vô túi!! Yêu kiểu đó thì ai (ông nào) lại không ham! Yêu nhiều ở đây là nhiều người (cùng một lúc - như hai bà đầm đụng độ thời anh ở Canada! Thiệt anh đúng là... đào hoa nước Việt. Nói nôm na thì là... anh chắc cầm tinh con... dê!
Ạ! Ạ… Thì ra cô Hai vẫn chưa chịu tin mấy qua là người lớn tuổi. Nhưng không tin lời đàn ông nói thì chẳng lẽ lại không tin lời đàn bà luôn sao? (Lật lật Tuyển tập). Thì đây nè, trang 491-492 đào Thuỵ Khuê viết: "Tôi không chắc thứ tình Kiệt Tấn đối với đàn bà chỉ là tình yêu, mà còn đa mang, pha trộn giữa yêu thương, đam mê, ham muốn và che chở. Qua cái vỏ ngoài có vẻ sống sượng, trần truồng của ngôn ngữ, bên trong ấp ủ một tình yêu dịu dàng, êm ái. Tiếng Pháp có chữ tendresse, tôi không tìm được chữ tương tự trong tiếng Việt, để chỉ cái tình yêu của Kiệt Tấn đối với đàn bà: Âu yếm đã đành, mà thắm thiết cũng chưa gói tròn hết nghĩa. Kiệt hay Kiệt Tấn ngó đàn bà trong trạng thái nguyên thuỷ (không quần áo), với con mắt một hoạ sĩ trước vệ nữ khoả thân: Ông trân trân nhìn cái đẹp. Sự thèm muốn trước cái đẹp thể xác là điều tất đến như đói thì ăn, khát thì uống, không có gì xấu xa, không có gì cần phải che đậy, thật thà và hiện hữu như những nhu cầu chính yếu của con người." Qua lời phân tích của Thuỵ Khuê và Đoàn Nhã Văn, tôi cũng không dè tôi yêu, tôi mê, tôi ghiền đàn bà tới mức kỳ cục như vậy nữa. Giờ đây, sau phần trình bày, tôi để cho cô Hai tự nghiền ngẫm mà suy ra "cái nghĩ" của tôi về đàn bà. Thôi, tạm ngưng trình diễn cái tiết mục đàn bà ở đây. Đã câu giờ nhiều quá rồi. Cô Hai hỏi giùm cho câu khác.
Dạ, thì đành phải hỏi câu khác tuy vẫn còn ấm ức. Và vì ấm ức nên xin hỏi thêm: Đặc biệt đối với người đàn bà của Kiệt Tấn: Ánh, người yêu nữ sinh. Anh hãy nói đôi chút về người ấy.
Suỵt! Suỵt!... Cô Hai hỏi chi mà kẹt tôi quá vậy? Bộ tính làm khó dễ đàn anh văn nghệ đó hả? (Xuống nhỏ giọng). Mà tui có lỡ thành thật khai báo gì về nàng rồi thì cô Hai cũng đừng có méc lại với bả nghe. Cô Hai hứa với tui đi.
Thì xin hứa. Mai mốt báo tới, anh giấu chị ấy. Dễ ợt!
(Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu). Ánh, bà xã tôi, là mối tình duy nhứt mà kết cuộc có hậu. Còn những mối tình kia, những Hoa những Tuyết những Diane những Louise, những Danyèle những Nguyên những Hường… đều đi trớt quớt hết. Mà giả như những mối tình lăng nhăng này kết thúc bằng "hai mái đầu xanh chung một túp lều lý tưởng" thì có thể giờ này tôi đã trở thành ông chủ bến đò bụng phệ, hoặc đã mở tiệm cà phê, mở quán bán hủ tiếu, bán bia ôm, bán nước dừa, mở tiệm cắt may hoặc trở thành mục sư, mở nhà chứa lén hay là cái chi chi nữa đó, tôi cũng không rõ.
Không rõ vì rất có cơ may anh sẽ là tất cả các thành tựu nói trên: chủ đò kiêm chủ quán bia ôm & cà phê kiêm chủ tiệm hủ tíu & tiệm may, chủ chứa vân vân? Vì sao đây là cuộc tình có hậu? Chị Ánh có những "đường nét", cá tính nào đã khiến anh "dừng bước giang hồ" trái tim đa mê?
Ngoài những mối tình đầu với những bà-già-quê-hương, thiệt ra Ánh mới thực sự là mối tình đầu của tôi chớ không phải là Hoa. Tôi chíp Ánh từ thuở tôi còn học lớp đệ tứ, 15 tuổi. Còn tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba… Sau khi đậu xong tú tài 2, lúc 18 tuổi, tôi mới tỏ tình với Ánh và được nàng mở rộng vòng tay đón nhận… kẻ bạc tình. Tôi bạc tình Hoa. Lúc ấy Ánh có mái tóc đẹp và đôi mắt to đen, nhưng gầy lắm. Tôi thường hát tán tỉnh "Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy...". Có lẽ thời đó tôi còn thích gặm xương. Chớ nếu như thời đó mà tôi mê mấy cô vú bự như bây giờ thì chắc chắn là mộng sẽ không thành.
A, ra là vậy... Mối tình đầu cũng là tình cuối (?... Dấu chấm hỏi này lơ lửng vì nghe đâu dạo này anh hay bay về Việt Nam, những Hoa, những Tuyết, Hường... bây giờ nhiều, trẻ đẹp, và lắm cô cũng rất cần được thương yêu, che chở!) Biết đâu anh sẽ có dịp... tái bản những cuộc tình trong một hoàn cảnh hậu hiện đại, hậu chiến, hậu hoà bình... Tha hồ mà "sờ mó chiêm nghiệm sự thật"... Chết, lạc đề rồi! Xin trở lại cuộc tình có hậu. Kể ra thì anh đã thầm yêu trộm nhớ Ánh suốt ba năm liền. Nhưng sau khi kết tình với Ánh rồi thì thấy coi bộ anh... tỉnh bơ như chưa bao giờ... cưới vợ? Ra đường anh hãy còn ngon, về nhà anh đã lội non mấy lần!
Thì tôi vẫn tiếp tục... bạc tình (Dụi dụi mũi). Cùng lúc bắt bồ với Ánh, tôi lại cặp với Tuyết bán quán. Tình với Ánh thuộc loại tình phẳng lì, platonique, ngược lại tình của tôi với Tuyết thuộc loại tình áp rún đổ mồ hôi hột, tình lăn lộn trên bãi cỏ, tình ôm nhau ra rít trong nhà đêm đêm. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, có thể đó cũng là một điều may mắn cho Ánh. Sau này, thỉnh thoảng tôi có nói với Ánh: "Em nên cám ơn cô Tuyết, vì Tuyết đã dang thân ra đỡ đạn giùm em, Tuyết đã chịu trận sự ham muốn tình dục của anh ở thời mới lớn. Nếu không có Tuyết, anh sẽ trút hết dục tình lên em thì chắc là em đã bỏ chạy có cờ". Và Ánh đã gật đầu tán đồng.
Xin lỗi lại hỏi anh lần nữa chuyện đời tư: hình như chị không đọc truyện của anh hoặc chị không ghen với những gì có thể đem lại hứng cho anh tiếp tục viết?
Ánh vốn thuộc nòi chung thuỷ, còn tôi thì vốn có máu không được chung tình gì cho lắm. Dĩ nhiên là làm khổ nàng ngất ngư. Chết đứng chết ngồi nhiều phen. Tình yêu của Ánh rất sâu đậm, đằm thắm, chịu đựng và bền bỉ, thương chàng phải luỵ cùng chàng. Còn nhớ lúc tôi vào bệnh viện tâm thần lần thứ hai ngót ba tháng, trưa nào Ánh cũng tất bật phóng xe vèo vèo vào bệnh viện để được lên giường nằm song song bên cạnh mà thoi thóp với tôi cho đủ cặp uyên ương. Các cô y tá thỉnh thoảng ghé mắt vào buồng không khỏi ngạc nhiên, không biết ai là người thăm nuôi, ai là con bịnh thiệt.
Hồi ở Việt Nam, khi ra đường Ánh thường vái trời cho đừng bắt gặp đấng lang quân chung tình của mình đang cặp kè với một yêu nữ, bởi lẽ thịt da ai cũng là người, lẽ nào hồng rụng thắm rời chẳng đau? Bận nọ, một bà chị dâu điệp viên của tôi báo cáo với Ánh là tôi có bồ và rủ nàng đi bắt ghen. Ánh sợ xanh mặt, khoát tay lắc đầu lia lịa. Thà chết sướng hơn!
Thảo hèn nào, bây giờ thì bạn đọc sẽ không còn thắc mắc sao chị Ánh để yên cho anh viết những truyện tình nhăng nhện của anh. Viết thiệt kỹ, viết tận tường, đầy đủ hết, không thiếu một món nào, như thể làm báo cáo cho chị...
Có lẽ nên hỏi bà xã tôi thì hơn. Nhưng theo chỗ tôi nghĩ, những chuyện tình của tôi, tôi đã kể cho Ánh nghe hết rồi, nàng đã biết hết từ khuya. Có khác chăng là giờ đây tôi viết ra trên giấy trắng mực đen như một tờ tự thú. Mà tôi thì có tật không quen nói dóc, viết dóc. Vả lại cũng chớ nên lo lắng cho nàng lắm. Vì "Bụt chùa nhà không thiêng", bởi lẽ đó nên ít khi nàng ghé mắt vào sách của tôi mà khán binh thư.
Có lẽ chị lí luận: chuyện đã qua, ma nữ đã lặn hết, chỉ còn lại chàng Kiệt! Trở lại câu hỏi về bạn bè. Anh cho biết những người bạn tâm đắc là ai? Đề tài những cuộc nhậu: Cuộc đời? Văn chương?
Như đã nói, tôi vốn không có bạn văn nghệ văn gừng. Cũng không thích bàn chuyện văn chương. Hồi ở Việt Nam trước 75, tôi cũng chẳng viết lách được bao nhiêu, phần lớn là lách nhiều hơn là viết. Đi nhậu nhẹt và trai gái vui hơn. Cái gì khiến tôi suy nghĩ về cuộc đời? Thì cái đó chính là cuộc đời chớ chẳng có cái gì khác hơn! Với tôi, người ta sinh ra ở đời là để sống, mọi thứ khác chỉ là bày đặt. Còn văn chương hay nghệ thuật? Tôi chẳng dành cho nó một vị trí đặc biệt nào cao hơn hoặc thấp hơn trong đời sống. Nó chỉ là một sinh hoạt cũng như mọi sinh hoạt khác của con người, vậy thôi. Với tôi, đời sống bao trùm văn chương nghệ thuật chớ không phải văn chương nghệ thuật bao trùm đời sống. Bởi vậy khi nghe ai đó đánh trống dọng chuông ì xèo quanh văn chương nghệ thuật và đặt nó lên bàn thờ mà quỳ mọp, tôi rất lấy làm khó chịu. Vừa phải thôi chớ! Nhờ anh tí! Việc gì mà phải nghiêm trang và long trọng đến thế?
Vậy theo anh, cái gì quan trọng trong đời sống?
Từ lâu, tôi đã đi tới ý nghĩ sau đây: "Trong đời sống cái gì cũng quan trọng. Nhưng nghĩ cho cùng, cũng chẳng có cái gì quan trọng". Tôi xin nói rõ, ý nghĩ của tôi có hai mệnh đề chớ không phải chỉ vỏn vẹn có một mệnh đề là "trong đời sống chẳng có cái gì quan trọng". Có bí hiểm lắm không?
Trong thời chiến tranh Quốc-Cộng, anh viết Điệp khúc tình yêu và trái phá với tâm trạng như thế nào?
Trong thời chiến tranh Mỹ-Quốc-Cộng (1954-1975), ngay tại Sài Gòn, đảo chánh chỉnh lý liên miên, xuống đường và hít lựu đạn cay như ăn cơm bữa, chính khách xôi thịt thì trơ mặt mo ra mà giành ăn. Tôi viết Điệp khúc tình yêu và trái phá trong tâm trạng phẫn nộ. Phẫn nộ! Phải, phẫn nộ.
Bây giờ nhìn lại Điệp khúc tình yêu và trái phá, anh nghĩ gì? Hình ảnh Kiệt Tấn ngày đó khác với bây giờ như thế nào, ở chỗ nào?
Điệp khúc tình yêu và trái phá xuất hiện vào thời điểm chiến tranh khốc liệt, trong môi trường lửa đạn dai dẳng ở Việt Nam. Thời đó đã qua, tôi không muốn khơi lại nữa. Về hình ảnh tác giả khác nhau như thế nào à? Dễ ợt! Điểm nổi bật nhứt: Kiệt Tấn bây giờ già hơn khi xưa rất nhiều, đó là cái chắc! Còn nghĩ gì? Tôi cố gắng không nghĩ tới, hay đúng hơn là không muốn để ý tới chiến tranh. Như vậy tốt hơn. Tốt cho sức khoẻ, đỡ nhức đầu mà cũng chẳng làm được gì hết ráo.
Còn chiến tranh à? Thì từ thuở còn lông lá sù sụ ở trong hang động có đốt lửa ấm cho tới thế kỷ 21 ngày hôm nay rụng gần hết lông và ở trong nhà có gắn máy lạnh này, con người có ngớt đánh nhau bao giờ đâu? Chỉ có vũ khí thì càng lúc càng tinh vi, chớ còn lòng người thì trước sau vẫn vậy, vẫn tham lam, vẫn gây hấn, vẫn xuẩn ngốc. Trên mặt đất này chưa thấy có loài nào tìm cách giết và tiêu diệt đồng loại kỹ như con người. Vậy mà là "đỉnh cao trí tuệ" đấy! Đừng có giỡn mặt tử thần! Mẹ rượt! Bởi lẽ đó, lúc cuộc chiến Việt Nam sắp kết thúc, trong vài năm cuối cùng còn lại, tôi đã lấy một quyết định sáng suốt: bỏ làm thơ tình yêu và trái phá, quay sang làm thơ bia ôm và trái cóc. Vui hơn là cái chắc!
Bia ôm đã có từ dạo ấy rồi ư? Không phải nó xuất hiện sau tháng Tư 1975?
Hình như vào 1970, 1971 gì đó. Sau "giải phóng", khoảng 75 đến 85 làm gì có bia để mà tu và làm gì có em để mà ôm? Hoặc giả có bia thì phải uống lén, có em thì ôm lén, có "xúc cát" thì cũng phải "xúc cát" lén. Cả thịt heo, nếu có cũng phải ăn lén! Tới lúc "đổi mới" (lấy cũ) năm 1989 thì mấy em mới lai rai được phép hành nghề trở lại. Và bây giờ thì không chỉ phải có bia ôm mà thôi. Bây giờ cái gì cũng đều "ôm" hết ráo!
Bây giờ nhìn lại, anh nhớ tiếc điều gì của thời đó? Cái đau khổ rất "Romantique" (Anh trai thời loạn)? Tuổi thanh niên?
Nhìn lại, tôi chẳng thấy tiếc nuối một điều gì hết, ngay cả tuổi trẻ của mình. Thời buổi gì mà bầm vập như vậy, nhưng đó là lẽ trời, biết làm sao mà cãi bây giờ? Chẳng lẽ hát tuồng "con kiến mà kiện củ khoai"? Còn nhớ những gì? Cái đó còn tuỳ. Nhưng nói ra sợ vợ nhà cho ăn đòn. Đối với tôi chẳng có anh hùng và chẳng bao giờ tôi chiêm ngưỡng anh hùng hết ráo. Toàn là phỉnh gạt và ba xạo. Cái ba xạo chết người.
Hỏi tôi về đau khổ? Cái đau khổ nào cũng đều đau (đau lắm!) và cũng đều khổ (khổ lắm!) Anh, trai thời loạn (hề!); Héros romantique! Người hùng lãng mạn! Mấy em gái hậu phương nghe tới tên người ắt phải rụng rún. Đã làm anh hùng mà còn đèo thêm lãng mạn nữa thì chỉ có nước chầu Diêm Vương sớm!
Anh theo dõi và biết rất rõ về tình hình chính trị thế giới và cả Việt Nam, anh vẫn nói tình dục là "hơi thở của đời sống", nhưng còn chính trị? Chính trị có là hơi thở của đời sống?
Nói rằng tui "biết rất rõ về tình hình chính trị thế giới và cả Việt Nam" thì tội nghiệp tui lắm cô Hai. Vô tình cô đã xô tui vào "vũng lầy của chúng ta", tui sẽ phản đối trước Liên Hiệp Quốc tới cùng.
"Tình dục là hơi thở của đời sống". Ờ! Gì chớ cái đó thì quả nhiên tôi có nói. Một điều rất rõ rệt, sờ sờ trước mắt: Tình dục ban cho ta hơi thở đầu tiên và tình dục cũng cho phép ta ban hơi thở kế tiếp, và vân vân, vân vân, cứ thế mà làm. Sự tiến hoá đã xui khiến đất trời bày ra âm dương, đực cái, nam nữ, đàn ông đàn bà, lấy tình dục làm phương thức sinh sản. Nếu bây giờ đột nhiên tình dục biến mất trên mặt đất này thì sẽ có rất nhiều loài tắt thở, trong đó có phe ta: Loài người.
Còn chính trị? Theo tôi nghĩ, chính trị phát xuất từ nhu cầu sống xúm xít của con người. Xúm xít rồi thì chia phe, chia nhóm, chia bè, chia đảng: Chính trị phát sinh. Có tình dục thì đời sống có cơ tiếp tục. Có chính trị thì đời sống có cơ tiêu diệt. Bằng cớ: Thế chiến thứ nhứt, thế chiến thứ hai. Chưa hết. Năm 1962, Nga Mỹ kình chống, Kennedy và Khrouchtchev chơi trò chính trị thượng tầng và dùng vũ khí nguyên tử để thấu cáy nhau, thiếu chút nữa đã đẩy loài người vào con đường huỷ diệt tập thể, đưa tới cơ hoạ tuyệt chủng, và muôn loài khác cũng bị vạ lây. Vì vậy, nói rằng "Chính trị là hơi thở của đời sống" tôi nghi ngờ lắm, và quyết cự nự cho tới cùng. Chính trị từ xưa tới nay, theo tôi, là một tai hoạ chẳng đặng đừng đặc thù của loài người.
Chính trị có lẽ còn là cách thức tổ chức đời sống sao cho hài hoà sung sướng, khỏi tranh chấp, chiến tranh v.v... nhưng không lẽ chúng ta lại đi định nghĩa chính trị ở đây? Câu hỏi là sống đời thi sĩ cách nào trong một hoàn cảnh chính trị đảo điên, ngoài tác phẩm (Tình yêu và trái phá) một công dân thi sĩ (đã) có thể làm gì khác?
Tôi không biết thế nào là một công dân thi sĩ. Theo tôi, công dân và thi sĩ là hai ý niệm tách biệt nhau. Đã là công dân thì phải thi hành bổn phận công dân. Tới tuổi quân dịch thì đi lính đánh giặc. Dĩ nhiên cũng có thể trốn quân dịch hoặc đào ngũ, nhưng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn sự chọn lựa của mình.
Còn thi sĩ? Muốn đáng được gọi là thi sĩ thì phải làm thơ cho ra hồn. Thi sĩ chẳng có đặc ân hay đặc quyền gì trong chiến tranh hết ráo. A lê hấp! Cũng nón sắt, ba lô, giày đinh và ắc ê như mọi người. Lạng quạng là hít đất, là phạt dã chiến. Tuy nhiên, cũng có thể vừa đánh giặc vừa làm thơ, có sao đâu. Nhưng coi chừng, nếu rủi ro trúng nhằm số con rận hay lơ mơ không biết ẩn núp là sẽ bị bể gáo như chơi. Nếu may mắn còn sống sót thì lấy bút lấy giấy ra mà mần thơ tiếp tục. Như Quang Dũng thời kháng chiến Pháp-Việt chẳng hạn: Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến, Quạnh vắng chiều sông lạnh bến Tề (…) Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành (…) Hoặc gần đây hơn, Tô Thuỳ Yên trong cuộc chiến Mỹ-Việt: Di tản khó - sâu dòi lúc nhúc, Trong vết thương người bạn nín rên. Người chết mấy ngày chưa lấy xác, Thây sình mặt nát lạch mương tanh… Hoặc một Lâm Hảo Dũng giận điên người: Mai ôm đầu mộ dăm thằng chết, Hát lại bài ca hận chiến trường. Lúc điên muốn bắn dăm ba phát, Cho đã tay cò lãng việc quân. Muốn làm thơ chiến tranh thì phải có kinh nghiệm chiến trường, như vậy thơ mới đạt. Lỡ có gục ngã ngoài trận mạc thì đành thôi chứ biết làm sao bây giờ? Chết bỏ! Trời kêu ai nấy dạ. Chết bỏ! Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
Nghĩa là một con người là con người sống trong xã hội, vừa làm công dân vừa làm thi sĩ, hay bác sĩ kiêm nhạc sĩ, chẳng có gì tách rời hay loại trừ! Cũng như... đàn bà con gái không phải chỉ có cái thể xác... Về điểm này, xin phép trở lại vấn đề tình dục với Kiệt Tấn. Vì nói gì thì nói, thấy Kiệt Tấn vẫn cứ còn lẩn quẩn bên bóng dáng, bên nhục thể, bên "núi non, thung lũng" của người đàn bà và nhất là chỉ để ý nghe ngóng, diễn tả cái đê mê của mình. Nhưng còn trong thâm tâm anh, anh nghĩ gì? Có bao giờ anh hỏi: còn ẻm, ẻm đam mê và sung sướng thoả mãn ra sao? Thoả mãn, đam mê ấy có "xứng đôi vừa lứa" với cái "đê mê chết giấc" của mình không?
Em Ba đã trót hỏi khó qua quá thì qua sẽ trả lời dễ ợt. Nói đến thoả mãn thể xác thì đành phải nói thẳng? Dĩ nhiên tôi không nói theo kiểu "Xúc cát trước bàn thờ". Làm vậy kỳ chết!
Dạ, cám ơn, anh lịch sự với mấy em...
Em Ba thắc mắc tại sao tôi không đả động đến cái thoả mãn của người nữ trong truyện của tôi? Đọc kỹ lại đi, tại tôi chỉ nói loáng thoáng, nói tế nhị, bởi lẽ tôi tôn trọng người nữ...
Ô, I don' t agree with you, cái này là dường như hơi... nguỵ biện! Anh mải lo nghe ngóng cái Tôi của mình...
Thiệt mà cô Hai, khi vầy cuộc, người nữ biểu lộ cảm giác của mình hơn người nam rất nhiều: môi lệch lạc, miệng rên rỉ, đầu vật vã, tay cào cấu, mắt mở hờ, tuy có mở thiệt đó mà... đã hết thấy đường! Không lẽ tôi đem hết mấy món này vào trong truyện và cho các nàng la toáng lên: “Sướng quá! Đã quá! Khoái quá! Chết em rồi? Ối làng nước ôi!”. Thì còn chi là nghệ thuật? Khi đó em bé hậu phương chắc chỉ còn nước độn thổ và không quên xỉ vả tôi là đồ thô bỉ trước khi lặn xuống dưới mặt đất.
Ha ha, xin ngắt lời anh Kiệt Tấn, anh có nhớ cái màn diễn tả xuất thần trong quán ăn của Meg Ryan trong phim Quand Harry rencontre Sally chưa? Dạ, thôi, không sao, xin anh nói tiếp, hấp dẫn quá... bí quyết của nhà văn Kiệt Tấn đây rồi...
Cô Hai hỏi tôi chớ cái khoái cảm của các nàng có xứng với cái đê mê của tôi hay không? Xứng làm sao được mà xứng! Nếu đem ra mà so sánh thì cái tột đỉnh (đôi khi rất nhiều đỉnh) của mấy em nó chập chùng như Hi Mã Lạp Sơn, còn cái đê mê của tôi (và của bọn đàn ông nói chung) thì ôi thôi, nó giống như núi Bà Đen hay là cái núi Sam núi Sập lè tè bên xứ ta vậy đó! Khi viết, tôi đâu có nhằm mục đích tả chân tả cẳng những giây phút tơi bời hoa lá đó làm gì. Nếu thiệt sự tôi muốn viết dâm thư? Ạ, cái đó thì khác! Bảo đảm báo Playboy sẽ không dám đăng. Vả lại, chỉ những người nữ đã có trải nghiệm cái tột khoái, cái orgasme, mới hiểu được tôi muốn nói gì. Còn những người nữ không may mắn, cứ bị bất mãn kinh niên về tình dục thì khi đọc truyện của tôi, sẽ cảm thấy khó chịu, ấm ức và tức anh ách. Bởi lẽ họ tưởng tôi là “con yêu râu xanh” chuyên môn tấn công và giày vò người tình của mình. Đối với họ, trong truyện, người đàn bà là nạn nhân, chỉ có thể cảm thấy đớn đau chứ không thể nào khoái lạc được - y chang như họ vậy, bất mãn kinh niên (Đàn bà mà biết khoái lạc à? Đồ nói dóc!) Bèn bất bình, bèn tức khí! Và vớ lấy ngọn cờ nữ quyền mà phất loạn xị...
Xin ngắt lời anh, và lập lại: lí luận này của anh (féministes = mal baisées: mấy bà (làm) nữ quyền (là vì) không được thoả mãn tình dục) nghe xưa quá rồi! Có những ...
Tôi không có ý chụp mũ là các bà nữ quyền đều bị bất mãn tình dục, nôm na tiếng Tây là mal baisées. Tôi chỉ muốn nói các nàng bất mãn tình dục kinh niên khó thể có cảm tình với bọn đực rựa (vô tích sự!). Xin nói tiếp ý khi nãy. Các bà vừa phất cờ nữ quyền vừa la toáng lên “Ối làng nước ơi! Cái thằng Kiệt Tấn nó hiếp dâm con bồ của nó!”, hoặc hợp ca thống thiết bài Nữ quyền hành khúc: “Thằng Kiệt Tấn macho nó giành độc quyền, nó chửi, nó cấm nữ phái viết về tình dục!” Thiệt là ỳ xèo! Oan ơi ông địa! Về tấm lòng của tôi đối với đàn bà, tôi lại lôi kép Đoàn Nhã Văn ra làm chứng (Lật Tuyển tập). Đây nè, trang 15, ông kép viết: “Mỗi người một vẻ, mỗi kẻ một đam mê, và mỗi nàng một cháy bỏng khác nhau. Tất cả những nhân vật đó góp phần làm nên văn phong vui tươi, sinh động của Kiệt Tấn trong vùng tình cảm đầy ướt át này. Tuy vậy, chỉ cần để ý một chút, ta sẽ thấy ngay ông viết về những người đàn bà với một tấm lòng, một đam mê và đằng sau đó là chiêm ngưỡng, là trân quý”.
A, ông Nhã Văn sẽ trả lời bà Nguyễn Trần Khuyên giùm anh ra sao: bà là người đã làm “pétition” xin chữ kí [1] sau khi đọc bài viết bất hủ “Sục c. trước bàn thờ”, bà Khuyên kết án anh khinh thường phụ nữ. Mà hai đứa chúng tôi nghĩ khác: bài nói trên chỉ là phản ứng anh muốn trả lời những bài viết về sex tả chân quá sức văn chương đẹp đẽ nhưng vô cảm và vô cùng giả tạo hoặc coi vậy mà hổng phải vậy (chẳng khác nào phim érotique thiếu budget và tài tử yêu... sex thứ thiệt!) cũng như anh điểm mặt những tên đàn ông “voyeur” (khoái dòm trộm) khiêu khích đàn bà viết về tình dục cho họ được rửa mắt và thoả mãn lòng tò mò bệnh hoạn? Có đúng như vậy không? Theo như anh giãi bày, là oan ơi ông địa, vậy anh trả lời thế nào cho “hiểu lầm” này?
Khi viết về tình dục, tôi đặt nghệ thuật lên hàng đầu. Thiệt tình mà nói, viết gì cũng dễ, nhưng viết cho hay mới thiệt là khó. Viết về tình dục mà viết cho hay, quả thiệt là thiên nan vạn nan! Nói “hay” là có chủ quan trong đó rồi, dĩ nhiên. Vì vậy người viết phải tự lựa chọn một bút pháp riêng cho mình. Phải cẩn thận và tôn trọng người đọc. Không được cẩu thả, ném bừa bất kỳ rác rến tạp nhạp nào vào mặt độc giả. Ngay cả viết dâm thư thứ thiệt, cũng phải viết cho có nghệ thuật. Trừ phi viết với mục đích nhục mạ, buộc tội và làm cho người ta nhợn tình dục thì đó là chuyện khác. Người ta cứ tưởng bở: Gì chớ viết tình dục thì dễ ợt! Cứ việc cầm bút lên mà kể lể ê hề ba cái chuyện nằm sấp nằm ngửa, chổng mông, gậm củ cải... của mình ra. Thế là văn chương! Thế là nghệ thuật! Dễ ợt! Nói vậy thì mấy em sến biết đọc biết viết chỉ việc cầm bút lên mà kể lại tuốt tuột các cuộc hành dâm của mình là có thể ở truồng dồng dổng mà đi vào văn học sử như chơi! Xin nhắc lại: viết về tình dục mà viết cho hay thiệt là vô cùng khó khăn. Bởi lẽ quanh đi quẩn lại, diễn viên chỉ có hai người nam và nữ. Chỉ có ngần ấy bộ phận, chỉ có ngần ấy động tác, chỉ có ngần ấy cảm giác và rất ít đối thoại, ngoại trừ rên rỉ và thở ào ào. Loay hoay chỉ có vậy thôi. Trừ phi viết dâm tưởng và viết hoại dâm thì tha hồ! Nhưng chính vì vậy mà viết tình dục một cách nghệ thuật đòi hỏi một sự điêu luyện và một bản lĩnh rất cao ở người viết. Chỉ cần sai chạy một chữ là hỏng bét...
Hát nữa đi Hương, hát điệu nhạc... tình nghe Hương...
Trở lại cái vụ mal baisées. Tôi nghĩ có lẽ phải chờ một dịp may chó dắt, được rớt đúng vào vòng tay một tướng cướp điệu nghệ, khi trải nghiệm được cái "tột khoái", người nữ bất mãn tình dục sẽ bớt táo bón và bớt hằn học với bọn đàn ông (lợn lòi) chúng tôi. Nhắc lại lần nữa: viết về tình dục một cách nghệ thuật không phải dễ. Cũng bởi lẽ đó mà sau khi đọc những trích đoạn tình dục của các ngòi bút nữ trên Hợp Lưu (số 81/2005) tôi cảm thấy "nhợn" nên có phản ứng nóng. Dĩ nhiên, không có gì chứng minh rằng tôi đúng hay một ai đúng hết. Ở đây chỉ có vấn đề cảm nhận và thưởng ngoạn, và điều này vốn rất khác biệt nhau ở từng người một. Nhưng viết về tình dục như chèo xuồng tát nước, như đốn cây bửa củi, như phóng uế chùi đít. Viết để ơi ới nước nhiều nước ít, hay nó chảy re re. Viết để so sánh cu nhỏ cu lớn, cu ngắn cu dài (có cho cả kích thước chính xác). Viết để chấm điểm coi thằng nào chơi sướng thằng nào chơi dở, một ngày ta hạ được mấy thằng (ăn bứt cái bọn đàn ông le lói rất xa!). Nhiều cảnh hành dâm và bạo dâm để lộ tính cách hư cấu quá trớn (có ác ý?). Thú thiệt cái lối viết đó, cái chuyện làm đó, hồi mới lớn và tập tễnh đi chơi bời ba bốn chục năm về trước ở Gò Vấp, Ngã Ba Chú Ía, Cầu Hàng, tôi đã thấy mấy chị em ta làm rồi và có ghi chép sổ sách hẳn hòi. Đâu đợi gì phải học cao hiểu rộng, có bằng phó tiến sĩ hay Ph. D. mới làm nổi cái loại thống kê dương vật đó. Tôi có cảm tưởng các ngòi bút nữ viết tình dục của phe ta chưa hề đọc (nhiều) văn chương gợi dục (érotique) và ngay cả dâm thư (porno). Viết sần sùi kiểu đó, các nàng chỉ cần bỏ năm ba đồng và bước ra sạp báo vỉa hè là có ngay. Và hơn nữa, bài viết còn ly kỳ hấp dẫn hơn thập bội, đôi khi còn có cả phụ đề hình màu cho dễ hiểu. Than ôi! Văn chương (?) tình dục của phe nữ ta mà như thế đó ư? Theo chủ quan của tôi, nghệ thuật nó chẳng nghệ thuật, mới nó chẳng mới, nhưng om sòm thì nó lại rất là om sòm. Vì thế, tôi bị dị ứng sau khi đọc các trích đoạn trên Hợp Lưu. Dị ứng vì thấy cách viết về tình dục kiểu như vậy vô tình đã bôi nhọ và hạ bệ hình ảnh người đàn bà, nói riêng người đàn bà Việt Nam, trong đó có bà Khuyên (hy vọng rằng như vậy). Bởi lẽ ấy bèn xâm mình viết bài "Xúc cát trước bàn thờ" để đả kích loại viết đó cũng như để binh vực người đàn bà nói chung. Trước khi cầm bút lên, tôi biết chắc chắn bài viết của mình sẽ bị hiểu lầm và cá nhân mình sẽ bị các bà nữ quyền bề hội đồng.
Quả nhiên! Vừa mới xáp vô bài "Xúc cát", bà Khuyên đọc ba chớp ba nháng, hiểu chưa chắc đã hiểu được một chút gì, mà lại còn đổ quạu, te te thảo liền cái kiến nghị, cái pétition, đưa lên mạng lưới xin chữ ký khắp nơi để chụp mũ tôi "khinh thường phụ nữ"! Chẳng biết bà đã xin được chữ ký của Monica Lewinsky và Hilary Clinton chưa? Luôn tiện, xúi bà đưa luôn Bill Clinton vào liên danh tranh cử của Kiệt Tấn cho đỡ khỏi phải mất công thảo một kiến nghị thứ hai. Bà Khuyên kiến nghị để kiện tôi trước toà án nữ quyền? Nghe đâu đây tiếng hò hét như ong vỡ: "Thiến dái nó! Thiến dái nó! " Than ôi, trời đã hại Sa Vệ! Chắc phen này Hạng Võ phải biệt Ngu Cơ, xuống sáu câu vọng cổ thiệt mùi rồi gạt nước mắt hiên ngang vác chiếu ra hầu Toà án Quốc tế La Haye. Sạt nghiệp văn chương là cái chắc! Thôi nàng ở lại nuôi con một mình! Và hãy lấy chồng (người) khác mà làm ăn lương thiện!
Cám ơn anh Kiệt Tấn!
05.2006 Nguồn: Tạp chí Văn 117-118 (số đặc biệt về Kiệt Tấn) tháng 9 & 10.2006
|
|