|
Post by NhiHa on Apr 21, 2009 6:39:55 GMT 9
TRUYỆN NGẮN
TRỐN CHẠY *Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC Cụ ở cùng lều với tôi, tại Subic Bay – Phi luật Tân - từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975, sau khi tôi rời khỏi Sàigòn bằng đường biển vào trưa ngày 30-4-1975 ngay sau khi Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản. Không biết cụ tới đây lúc nào, chỉ biết khi tôi đặt chân lên hòn đảo tuyệt đẹp này thì đã thấy cụ ở đây rồi. Tên cụ là Tường - Lê văn Tường - người huyện Phú Thọ, tỉnh Thanh Hoá, Bắc Việt. Dáng người gầy nhưng trông còn khang kiện, năm đó cụ vào khoảng 65, 66 tuổi với những nét nhăn trên trán, trên má và chòm râu bạc trắng như cước. Ngày ba bữa cụ rủ tôi đi lấy cơm từ một nhà ăn rộng lớn do Chính Phủ Hoa Kỳ đài thọ, với số người làm bếp đủ để phục vụ mười lăm ngàn đến hai mươi ngàn người trên đảo mà tất cả toàn là người Việt tị nạn, sau khi đã đào thoát khỏi Việt Nam trước hoặc sau ngày 30-4-75. Mỗi buổi chiều, khi lấy đĩa cơm xong, tôi với cụ Tường thường mang ra bờ đá trước nhà ăn, sát chân sóng, vừa ăn vừa nói chuyện, có khi tới tối mịt mới trở về lều. Trong câu chuyện cụ kể cho tôi nghe, có câu chuyện vô cùng thương tâm của chính gia đình cụ mà hôm nay tôi viết lên đây để cống hiến bạn đọc. Và sau đây là lời cụ Tường. “Thanh Hóa được kể là một trong những tỉnh Chính phủ Cộng Sản Hà nội dùng làm thí điểm trong những đợt người Cộng Sản gọi là “Ðấu tranh chính trị, đấu tố địa chủ, cường hào ác bá” hay “Cải cách ruộng đất” tại Bắc Việt. Trước Hiệp Ðịnh Genève năm 1954, nghĩa là trước khi Cộng Sản hoàn toàn làm chủ đất Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, trong khi những vùng khác không có thì tại Thanh Hoá cũng đã có những cuộc đấu tố, hiến điền rầm rộ rồi. Trong những cuộc đấu tố đó, biết bao nhiêu lương dân đã gục ngã, biết bao gia đình đã tan nát chỉ vì chính sách quá thâm độc, dã man của Cộng Sản. Cộng Sản không muốn bị mang tiếng là cướp ruộng đất của dân nên chúng đánh thuế thật nặng qua những cuộc “lương giá” ruộng tốt, ruộng xấu để đóng nhiều hoặc ít lúa cho Chính phủ mà những nông dân ngồi bình nghị là chính những người được chúng huấn luyện để làm công việc đó. Vì vậy, nhiều gia đình, nhất là những gia đình địa chủ trước kia, đã phải “lậy” mà dâng ruộng đất cho chính phủ, Cộng sản gọi là “hiến điền”. Số lương dân bị đấu tố và bị chết trong vùng rất nhiều, tôi không thể nhớ hết. Chỉ xin kể ra vài trường hợp điển hình trong đó có một linh mục Công giáo, cha Phạm Tần - sau này lên Giám mục - và thân phụ tôi, một người tôi kính yêu suốt đời. Cha Tần ở xứ Phúc Lãng, huyện Quảng Xương, bị Cộng Sản đưa ra đấu tố vì Cộng sản muốn diệt ngài, diệt một người có uy tín với giáo dân, có thể kích động giáo dân nổi lên chống Cộng Sản, chống những sự tham tàn, độc ác của Cộng Sản. Dù là một người không Công giáo, tôi cũng biết rõ điều đó. Bọn Cộng Sản đánh cha hai trận bằng tầu lá cọ có gai nhọn và cứng dài đến hai đốt ngón tay, đánh từ chập tối đến nửa đêm, cho đến khi cha ngất đi không còn biết gì nữa mới thôi. Trong trận đấu tố này, chúng dùng một đứa con gái tên Chữ, khoảng 21, 22 tuổi. Bố mẹ con Chữ đang là câu, sãi cho nhà xứ Phúc Lãng, từ lâu vẫn sống nhờ sự giúp đỡ của các cha. Bọn cán bộ Cộng sản dạy con Chữ cách căm thù cha Tần. Ðầu tiên chúng nhồi vào đầu óc đứa con gái ngu dại này rằng chính cha Tần và các linh mục trong nhà xứ đã bóc lột sức lao đông của cha con nó từ bao lâu nay. Lẽ ra gia đình nó phải được ăn sung mặc sướng, có nhiều tiền, nhiều thóc như nhà xứ Phúc Lãng. Nhưng vì cha Tần tham lam, không trả công tương xứng nên cha Tần chỉ làm giầu cho chính mình trong khi gia đình nó nghèo túng, thiếu ăn, thiếu mặc. Bọn cán bộ còn bắt con Chữ phải dựng đứng câu chuyện bỉ ổi là trước mặt dân chúng, con Chữ phải nói ràng chính cha Tần đã bắt nó phải ngủ với ông bao nhiêu lần, đã trêu ghẹo nó, làm tầm bậy tầm bạ làm sao vv... Cán bộ Cộng Sản cũng bắt con Chữ và mọi người phải gọi là “thằng Tần” chứ không được gọi là cha Tần như trước. Ðến ngày đấu tố, bọn cán bộ vào nhà xứ lôi cha Tần ra trước sân cuối nhà thờ, ở đó dân chúng đã bị thúc đẩy đi dự đấu tố đông nghẹt một sân rộng. Con Chữ đã làm tất cả những gì bọn Cộng sản muốn, kể cả việc nó trùm váy của nó lên đầu cha. Và sau đó là những trận đòn cho đến khi ngất đi. Cần phải để ý là bọn cán bộ không dùng những người ngoài Công giáo để đấu tố các cha. Chúng dùng ngay những người Công giáo và dùng ngay chính những kẻ xưa nay được tiếng là thân tín với các cha để đấu tố các cha. Như cha Tần, sau khi bị đánh lần thứ hai, chúng tưởng ngài chết rồi nên gọi giáo dân đến khiêng về nhà xứ mà chôn. Lúc ngài được khiêng vào phòng khách nhà xứ, một người đàn ông tên Mạnh và con Chữ quì xuống nắm lấy tay ngài khóc, nói: “Chúng con bị bọn cán bộ bắt buộc phải đấu tố cha, phải nói dựng đứng những chuyện cha không có. Chúng con đã đấu tố bậy. Xin cha tha lỗi cho chúng con.” Nhưng cha Tần đã hôn mê, ngài còn biết gì nữa đâu. Tất nhiên sau đó bao nhiêu ruộng của nhà xứ Phúc Lãng mà chúng buộc là của cha Tần, bị xung công gần hết, chỉ còn để lại mấy sào không đủ nuôi vài miệng ăn trong nhà xứ. Sau đó đến cha Thước, xứ Thổ Ngõa. Cung cách chúng dùng để đấu tố cha Thước cũng y như những bài bảng đã áp dụng cho cha Tàn. Chúng muốn hạ uy tín các linh mục là những cán bộ nòng cốt của Giáo hội để không một giáo dân nào tin tưởng và tuân phục mệnh lệnh các cha và chúng tiến đến dần đến chỗ tiêu diệt tôn giáo.” Cụ Tường nói một thôi không nghỉ. Giọng cụ lẫn vào tiếng gió và sóng biẻn vỗ vào bờ đá làm tôi có cảm tưởng những linh hồn oan khuất của những lương dân vô tội bị Cộng sản giết oan trong các đợt đấu tố dã man như đang hiển hiện về đây nói cho chúng tôi nghe những căm hờn uất hận khôn nguôi. Cụ Tường ngưng một lúc, lấy trong túi áo ra một cái ví nhỏ xíu như của đàn bà vẫn dùng. Cụ mở ví lấy ra một tờ giấy mỏng, lấy thuốc lá sắp đều lên tờ giấy. Cụ vấn thuốc hút. Tôi phải giúp cụ bằng cách ngồi che gió và bật quẹt cho cụ. Khi điếu thuốc đã cháy, cụ rít một hơi, thở khói, nói: “Tôi đã bỏ hết quần áo sau khi chuyển qua mấy chiếc tầu nhưng cố giữ ít thuốc vấn vì tôi hút thuốc lá của Mỹ nóng lắm, chịu không được. Ông tính cuộc đời của tôi còn gì. Bố chết phải bỏ nằm đấy mà chạy. Hai lần bỏ vợ, bỏ con. Bây giờ trôi dạt ở đây một thân một mình...” Tôi an ủi cụ: “Thôi cụ ạ, vận nước. Vả lại chẳng qua cũng cái số. Cụ có buồn cũng không ích gì.” “Vẫn biết thế, ông Vũ ! Nhưng sao tôi vẫn cảm thấy buồn. Buồn cho nước, cho đồng bào bị cái khổ nạn không biết bao giờ mói qua. Buồn cho gia đình, cho thân thế mình, những người liên hệ với mình, cả một cuộc đời long đong lận đận đầy khổ nhục và nước mắt. Rồi mai sau, với cái hiện tại như thế thì con cháu mình sẽ ra sao, sẽ là cả một cuộc đời tăm tối ở trước mặt, hết thế hệ này sang thế hệ khác. Thôi được, tôi nói tới đâu rồi, hả ông Vũ ?” “Dạ, thưa cụ đang nói đến chỗ bọn cán bộ đấu tố cha Thước cùng một kiểu như cha Tần ...” Cụ Tường nâng ly nước vừa lấy từ nhà ăn lên nhấp một ngụm: “Ờ, ờ, tôi cũng cần phải thêm với ông rằng bọn cán bộ ghép cho các linh mục cái tội “phong kiến” để đem ra đấu tố. Ông có biết sau khi cha Tần bị đánh bằng cái tầu lá cọ , gai đâm vào người cha lấy kìm nhổ ra được gần một chén ăn cơm. Gai đâm khắp mình mẩy, chỉ trừ đầu là chúng chừa ra mà thôi vì sợ đánh vào đầu sẽ chết mau. Ông thấy chúng dã man chưa ? Các linh mục, như tôi nói, chúng dùng toàn người Công giáo để đấu tố; một số địa chủ thì chúng dùng toàn người làm, tá điền và chúng bắt cả con cái phải đấu tố cha mẹ như trường hợp cụ Cai Bái ở làng Gia Ðại. Cụ Bái có hai người con trai, một người làm tới chức Chủ tịch Tiểu khu, người kia là Cán bộ Liên khu 3, thế mà hai người này phải về đích thân đấu tố, chửi bố mẹ là địa chủ phú nông bóc lột vô sản, thậm chí nhổ nước miếng vào mặt bố mẹ, đứng nhìn cho những con vợ tá điền trùm váy vào mặt bố mẹ. Tôi hỏi ông, chủ nghĩa vô luân như thế thì còn trời đất nào không ?” “ Thưa cụ đúng. Chủ nghĩa nghịch lòng dân, trái đạo trời làm sao đứng vững được.” Tôi thấy gió bắt đầu lạnh, trời cũng đã muộn muộn mà ông cụ có vẻ không được khoẻ, bèn đề nghị: “ Nghe chuyên cụ thâu đêm còn muốn nghe, nhưng có lẽ đã hơi lành lạnh. Mời cụ về nghỉ, mai lại xin cụ cho nghe tiếp.” Thu nhặt chén đĩa giấy, tôi đem bỏ vào một cái thùng phuy lớn gần đó rồi cùng cụ trở về lều. Mặt biển đen thẫm mênh mông trước mặt với vài ngọn núi nhỏ trơ vơ. Tiếng sóng đập vào ghềnh đá bộp bộp thành một âm thanh đều dều nghe thật buồn nản. Nỗi kinh hoàng mới vài tuần trước đây tại Sàgòn khi Sàigòn rơi vào tay Cộng Sản cùng với nỗi đau đớn của cái cảnh quốc phá gia vong làm cho thần trí tôi nhiều lúc mê muội đi không còn nghĩ mình đang sống hay đã chết, hoặc sống nhưng là sống với cái xác không hồn. Một phút bỗng tiêu tan hết, một phút sụp đổ hết. Số phân mình cùng với số phận của đồng bào và cả quốc gia dân tộc. Ðau đớn biết chừng nào ! Những lời an ủi cụ Tường lúc nãy cũng chính là những lời tôi tự an ủi. Tôi và cụ Tường chui vào lều. Ðám trẻ đã rủ nhau đi coi xi-nê . Mỗi tối, quân đội Mỹ có ba, bốn chỗ chiếu phim để giải trí cho đồng bào tị nạn. Có những gia đình đi được cả vợ chồng con cái, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng. Họ vui như Tết và có thể họ mang được vàng bạc, đô-la theo. Họ thấy cuộc di tản này quả có lý. Ngày ba bữa, cả gia đình mấy chục người sắp hàng đi lấy cơm ăn xong ra bờ biển chơi, tối xem xi-nê. Họ vừa lòng với cảnh di tản và không có một điều gì phải lo nghĩ. Trái lại, có nhiều gia đình vợ mất chồng, con mất cha, anh em tứ tán. Họ buồn rầu, khổ sở, lo lắng. Có những người ngồi khóc cả ngày. Thậm chí có người sang tới Guam rồi ghi tên xin trở về Việt Nam. Có lần tôi hỏi cụ Tường: “Người ta kẹt gia đình ở Việt Nam nên có nhiều người xin trở về. Cụ nghĩ sao ?” Nét mặt rầu rầu, cụ đáp: “ Tôi bỏ lại nhà tôi và 5 đứa con tại Sàigòn. Tôi cũng đau khổ lắm chứ. Nhưng bảo trở về sống với Cộng sản thì nhất định không. Thà tôi chết dập chết vùi nơi đây còn hơn. Ông Vũ tính coi, tôi đã sống với chúng và chúng đã bắt chúng tôi phải làm tập thể, ăn tập thể. Ðàn ông ở riêng, đàn bà ở riêng. Mỗi buổi sáng đánh một tiếng cồng thì ra đồng làm. Trưa đánh một tiếng cồng thì về ăn cơm. Có ban hoả thực riêng lo việc nấu nướng. Chiều lại ra đồng làm rồi tối lại về. Ăn cơm tối xong, họp hành kiểm thảo đến nửa đêm mới được đi ngủ để sáng sớm lại ra đồng. Con người như cái máy chả còn gì là sinh thú của cuộc đời nữa. Vợ chồng thì ba, bốn tháng chúng cho gặp nhau một lần. Chết đem ra đồng chôn. Sống như thế thì ông bảo tôi trở về để làm cái gì ? Tôi quá sợ cái chế độ đó rồi.” Ngày hôm sau, cụ Tường và tôi đi lấy cơm sớm hơn. Lại ra chỗ cũ ngồi va cụ lại kể tiếp: “Hôm nay tôi kể cho ông Vũ nghe về cái thảm cảnh của gia đình tôi, cái thảm cảnh mà mỗi lần kể là tôi lại khóc. Hồi đó, ông bố tôi làm Chánh tổng, tổng Thủy Cơ. Phải biết tỉnh Thanh Hoá có bẩy phủ, bẩy huyện và tổng Thủy cơ. Tổng Thủy Cơ bao gồm tất cả các thuyền bè đậu ở khắp nơi thuộc về tỉnh Thanh Hoá. Nói thế chắc ông Vũ cũng mường tượng ra Tổng Thủy Cơ lớn như thế nào. Dân số trong tổng Thủy cơ rất đông và chức Chánh tổng tổng Thủy Cơ cũng được coi ngang hàng với các chức tri huyện, tri phủ trong tỉnh. Trong đợt đấu tố đầu vào những năm 1950-51, bố tôi thoát được vì ông tìm cách khéo léo với cán bộ xã, huyện để chúng khỏi báo cáo lên cấp trên. Nhưng đến đợt cải cách ruộng đất năm 1956-57 thì chúng đem bố tôi ra đấu tố. Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây là sau Hiệp định Genève tháng 8 năm 1954, dân Thanh Hoá, cả Công giáo và không Công giáo đều muốn di cư vào Nam. Số người muốn ở lại với bọn Cộng Sản đa số là cán bộ hoặc liên hệ gia đình với cán bộ, không có bao nhiêu. Nhưng bọn cán bộ rất tinh quái. Chúng tìm đủ mọi cách để ngăn chặn làn sóng di cư vào Nam, y như nhiều nơi khác. Có những gia đình rục rịch trốn đi, chúng biết được liền cản trở và để tâm trả thù, làm hại. Gia đình tôi muốn đi lắm lắm, nhất là bố mẹ tôi, thế mà không sao đi được. Chúng tôi biết chỉ có vào Miền Nam sống dưới chế độ Quốc gia thì mới có tự do sinh sống, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo. Còn ở với bọn chúng thì mất hết tự do, chẳng những vậy, gia đình tôi bị chúng để ý theo dõi, ngộp thở lắm ông à ! Tháng 9 năm 1956, nhân cái đợt gọi là “Cải cách ruộng đất” do tên đồ tể Trường Chinh phát động, bọn cán bộ đem bố tôi ra đấu tố. Chúng ghép cho bố tôi cái tội là địa chủ bóc lột tá điền, trước kia là Chánh tổng tổng Thủy Cơ ăn hối lộ và bóc lột dân thuyền bè sinh sống trên sông nước. Chúng kể ra cho bố tôi một trăm thứ tội. Nào là ngủ với vợ thằng tá điền này, đánh thằng tá điền kia, không cho vay lúa thóc, bỏ đói những tên tá điền khác. Còn mẹ tôi thì chúng ghép vào tội cho tá điền vay lúa thóc lấy lời nặng, trả công người làm với giá lương quá thấp, chết đói vv... Chúng đem trói bố mẹ tôi vào một cái cọc trước sân đình rồi cho các tá điền trước đây làm cho bố mẹ tôi cứ thế mà chửi rủa, quát tháo, lăng nhục. Con vợ một thằng tá điền tên Cam đã đứng vén váy đái vào đầu bố tôi, còn mẹ tôi thì nó tát cho sưng cả mặt. Chúng định đưa cả tôi ra đấu tố vì chúng đã ghép tôi vào hàng địa chủ. Vả lại, trước kia tôi có giúp đỡ bố tôi trong công việc hàng tổng, lo về giấy tờ hộ tịch mà người ta gọi tôi là hộ lại của Tổng Thủy Cơ. Nhưng hình như có một vài đứa đề nghị sao đó, nói rằng nên để tôi vào đợt sau thì hơn vì đem tôi ra đấu cả đợt này cùng với bố mẹ tôi thì e rằng nhân dân sẽ cho là nhà nước tư thù gia đình tôi, đem tất cả ra mà đấu tố. Nhờ thế mà tôi thoát chết. Sau khi chúng đấu tố bố mẹ tôi và đánh đập mắng nhiếc suốt một ngày trời thì chúng cho về, bảo rằng sẽ còn đưa ra đấu tố một lần nữa vào một tuần sau. Chúng ra hạn cho bố tôi phải làm bản tự thú hết mọi tội lỗi, những tội tưởng tượng mà chúng đưa ra đều phải nhận hết, đồng thời xin Chính phủ, Ðảng và nhân dân tha tội. Mục đích của chúng là khi đã nắm được bản thú tôi của bố tôi thì mọi chứng cớ đã hiển nhiên, tờ thú tội phù hợp với những lời khai gian, vu cáo của bọn tá điền. Rồi, từ đó, chúng sẽ tịch thu hết ruộng đất, tài sản của gia đình tôi bằng một toà án nhân dân do chúng lập ra. Sau trận đấu tố đó, bố tôi về mang bệnh nằm liệt giường. Mẹ tôi thì đỡ hơn nhưng ông nghĩ coi, tuổi già sức yếu, các ngài làm sao chịu được những điều khổ nhục đau đớn như thê ? Ngày xưa, mọi người đều gọi bố tôi là cụ Chánh (Chánh tổng), bây giờ chúng bắt mọi người phải gọi bằng thằng. Chúng cô lập gia đình nhà tôi. Ðem đồ đi chợ bán, chúng không cho người ta mua, nếu chúng tôi muốn mua những đồ cần thiết,chúng cũng không bán. Chúng cấm mọi người liên lạc, lui tới. Chúng rình rập đêm ngày và làm mọi cách để khủng bố tinh thần người trong nhà. Chúng cho người ta có cảm tưởng rằng giầu là một trọng tội, dù giầu bằng sự cần cù, chân chỉ, làm ăn lương thiện. Còn ra làm việc dưới thời Pháp thuộc, dù làm để giúp dân giúp nước, làm một cách ngay thẳng thanh liêm cũng là có tôi, có trọng tội đối với chúng. Tôi chỉ lấy làm lạ rằng sao hồi đó Việt cộng ghét thực dân Pháp đến thế mà bây giờ, sau 30 năm kể từ ngày 19-8-45, Việt cộng lại o bế Pháp hơn ai hết, thân thiện với Pháp hơn bất cứ nước nào. Vậy mà trước Hiệp định Genève 1954,người dân nào bị chúng gán vào tội Việt gian tay sai cho Pháp thì chỉ có chết, không cách gì sống nổi. Thật kỳ lạ cho cái miệng lưỡi của Cộng Sản.” Cụ Tường lại lấy thuốc ra vấn, thông lệ của cụ sau mỗi bữa ăn. Hôm nay gió nhẹ chứ không thổi mạnh như hôm qua. Mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm dần xuống mặt biển. Vài chiếc tầu đậu tít ngoài khơi hiện hình trên đám mây trắng trôi nổi trên nền trời xanh. Một đám trẻ hò hét ầm ĩ thả những chiếc tầu nhỏ xíu chúng gấp bằng giấy xuống biển và ngồi trên bờ nhìn cho chúng trôi. Thỉnh thoảng một cái kỳ đen của một con cá lớn chạy dài trên mặt nước làm đám người đứng trên bờ hô hoán lên là kỳ của cá mập. Tôi móc thuốc lá ra - bao Winston - hút với cụ Tường một điếu cho vui. Ðám người ngồi hóng gió thưa dần. Họ trở về lều hay chuẩn bị đi xi-nê. Chiều xuống lặng lẽ với vài tia nắng mờ nhạt còn thoi thóp trên lùm cây cao phía chân núi. Tôi chìm đắm trong nỗi buòn thấm thía, không biết rồi tương lai của mình sẽ đi về đâu. Kéo xong vài hơi thuốc, cụ Tường lại tiếp tục: “ Lẽ ra một tuần sau đó chúng lại đưa bố tôi ra đấu tố một lần nữa như chúng đã nói. Nhưng vì ông bố tôi đau nặng quá không lết nổi, nên chúng tuyên bố hoãn lại cho đến khi nào ông cụ khỏi. Tuy vậy, chúng vẫn cô lập và rình rập gia đình tôi đêm ngày. Mẹ tôi muốn mua bán thứ gì phải nhờ người em họ, chồng cô ấy vốn làm việc cho chúng từ hồi còn bí mật, để cô ấy mua bán giùm những thứ cần thiết và đến tối mới chui bụi tre phía sau đem vào cho chúng tôi. Dạo đó tôi đã có vợ và 4 đứa con. Gia đình tôi ở cách nhà bố mẹ tôi khá xa. Vả lại, như tôi đã nói, tôi chưa phải là mục tiêu của bọn chúng lúc đó vì vậy còn được thong thả đi lại, nhưng cứ nghĩ đến cái tai nạn bố mẹ đang phải chịu, tôi không cầm được nước mắt. Sau ba tháng, bố tôi hồi phục nhờ vì bà cô lén mua thuốc bắc giùm tại một ông lang mãi tận Ba Làng. Sắc thuốc thì phải sắc lén kẻo mùi thuốc bắc đánh sang hàng xóm, bọn công an vào khám được thì tội càng nặng thêm. Ðồ ăn đồ uống có cái gì ngon cũng phải xào nấu lén. Mua đượcmột con gà để nấu cháo cho bố tôi ăn cho chóng khỏi, phải cắt tiết ở ngoài cánh đồng, còn lông thì đem chôn ở góc vườn. Ăn giấu, ăn đút còn hơn là kẻ có tội nữa. Tôi chưa thấy cái chánh sách nào kỳ cục như thế. Chỉ còn mười ngày nữa là đến tết Ðinh Dậu (1957), bọn cán bộ đến báo cho bố mẹ tôi là chúng sẽ đem bố mẹ tôi ra đấu tố một lần nữa vào đúng ngày hăm ba tháng chạp năm Bính Thân, ngày ông Táo chầu trời. Trước đó, tôi cũng đã dược biết qua một người bạn rất thân đang làm việc với chúng là sau bố mẹ tôi thì sẽ đến lượt tôi. Tội nghiệp bố tôi, nào ông cụ đã khoẻ hẳn đâu cơ chứ. Mới hơi hơi lại người sau một cơn đánh đập tàn ác thập tử nhất sinh, thiếu thuốc, thiếu đồ bồi dưỡng. Ông cụ mới đi đi lại lại được trong sân nhà và từ nhà trên xuống nhà bếp thì chúng lại đưa ra đấu tố nữa. Hai thằng đầu trâu mặt ngựa vốn xưa kia là tá điền của bố tôi, bố tôi coi chúng như con, lấy tô rất nhẹ lại còn dựng vợ gả chồng cho chúng, cho tiền, cho thóc đối đãi hơn cả cháu ruột. Thế mà giờ này chúng nghe theo lời bọn cán bộ nhất định giết bố tôi cho bằng được. Ðối với chúng, “Trí, Phú, Ðịa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ” còn phải căm thù hơn cả giặc xâm lăng. Chúng muốn cho toàn dân ngu dốt và nghèo đói để chúng dễ cai trị và chỉ có một giai cấp thống trị là bọn chúng. Chiều hăm hai tháng chạp, bố tôi gọi tất cả con cái tề tựu lại trước bàn thờ tổ tiên. Có vài người chị gái tôi lấy chồng xa không thể đến được, còn thì tất cả đều hiện diện đầy đủ. Vì là gần Tết, bon cán bộ mải đi sám sửa tét nhất nên chúng lơ là việc canh chừng gia đình toi nên mọi người mới tề tựu đông đủ được. Khi con cái đã ngồi trên mấy cái chiếu trước bàn thờ, bố tôi sai tôi đi thắp hương và nến lên. Cụ mặc quần áo trịnh trọng, đội khăn và đi giầy tử tế rồi đứng trước bàn thờ lâm râm khấn và lễ. Xong cụ đúng bên cạnh để mẹ tôi, rồi lần lượt đến chúng tôi, ai ai cũng đều khấn vong linh ông bà tổ tiên và lạy trước bàn thờ. Mẹ tôi và mấy đứa em gái thấy khung cảnh trang nghiêm và cảm động, lại nhớ đến hoàn cảnh đau đớn của gia đình, bất giác bật khóc. Bố tôi thấy vậy không cho khóc, cụ nói bọn cán bộ nghe được thì chúng giết cả nhà. Vì vậy chỉ còn nghe những tiếng nấc tức tưởi với hàm răng nghiến chặt cho tiếng khóc khỏi bùng ra. Lễ xong, bố tôi bảo mọi người ngồi xuống chiếu, còn cụ thì ngồi ngay chính giữa sập, mẹ tôi ngồi một góc bên cạnh. Cụ dõng dạc nói: “ Nhà ta từ các cụ cho đến đời bố mẹ đều cố gắng ăn hiền ở lành. Làm việc cho hàng tổng thì bố cố giữ thanh liêm vì nhà ta có bát ăn bát để từ lâu, đâu có thiếu thốn gì mà phải đào khoét của dân. Còn ruộng nương, điền thổ trong nhà là do ông bà để lại, tá điền cấy rẽ thì lấy tô thật nhẹ, nhẹ hơn người ta nữa thế mà từ ngày chánh phủ mới lên, họ khép cho bố những tội tầy đình, nào địa chủ bóc lột, nào cường hào ác bá. Họ đã đem bố ra đấu tố một trận và kết quả là bố tưởng chết ngay sau đó. Bây giờ mới tỉnh dậy được một tí, họ lại đem ra đấu tố nữa. Bố nghĩ trước sau bọn cán bộ cũng sẽ tìm cách giết bố cho bằng được, mà giết một cách khổ nhục, ê chề. Vì vậy, có thể lúc lâm chung bố không còn kịp gặp mẹ và các con, ngày hôm nay bố gặp mẹ và các con một lần cuối.” Bố tôi nói đến đó thì nghẹn lời, cụ không nói tiếp đuợc nữa vì quá cảm động. Mà mẹ tôi với anh em chúng tôi cũng không cầm được nước mắt, tiếng khóc oà vỡ ra như nước lũ phá bờ đê. Bố tôi thấy vậy, nghĩ là quá nguy hiểm nên khoát tay ngăn mọi người và nói: “Bà và các con cấm không được khóc. Khóc tụi nó nghe thấy thì còn khổ hơn. Hãy nghe đây! Sau khi bố chết rồi thì cả nhà may ra sẽ được yên với chúng nó hơn, vì cái gai là bố chúng nó đã nhổ được rồi. Chỉ có thằng Tường có ra làm việc với tổng mà lại có tư điền mấy chục mẫu vậy sau bố có lẽ chúng nó để ý dến con. Con liệu xem có cách nào trốn để bảo toàn được cái mạng chứ con ở nhà thì bố chết không nhắm mắt đâu.” Nói xong, ông cụ bảo mọi người giải tán rồi vào trong buồng nằm. Tôi cũng trở về nhà vì lúc đó cũng gần tối. Ðêm hôm đó tôi không ngủ được. Phần nghĩ rằng ngày mai chúng sẽ đưa bố tôi ra đấu tố, có lẽ lần này bố tôi chết nên ông cụ đã trối trăn hết tất cả. Cứ nghĩ đến một đời bố tôi lo lắng cho mẹ tôi và chúng tôi, ăn hiền ở lành, người trong tổng Thủy Cơ, ngay cả nhiều nơi trong tỉnh Thanh Hoá cũng quí mến bố tôi vì tinh thần hay cứu giúp người và làm việc nghĩa. Thế mà bây giờ bọn chúng thù ghét bố tôi đến như thế, không muốn để bố tôi sống nữa. Về phần tôi là con trai cả trong gia đình, tôi có bổn phận nhiều hơn các chị và các em tôi để nhang khói cho ông bà cha mẹ. Nhưng tôi biết rõ, sau bố tôi là đến lượt tôi vì vậy bố tôi hết mực khuyên tôi phải cao chạy xa bay thì mới bảo toàn được mạng sống. Tôi có hai người đồng chí cùng muốn trốn với tôi. Người thứ nhất là bạn cùng làm việc trong hàng tổng, giữ chức thư ký, tên anh ta là Các, cũng trạc tuổi tôi, có vợ và năm đứa con. Người thứ hai là ông thầy bên Công giáo vẫn gọi là thầy Ðiền, đang dạy trẻ tại xứ Thổ Ngoã. Từ hôm cha Thước bị đem ra đấu tố vì mỗi cái tội bị ghép là “phong kiến”, ông thầy Ðiền đâm ra sợ hãi quá chừng. Ông tìm gặp tôi vì trước kia ông hay đến nhờ cậy bố tôi và tôi việc hàng tổng. Ông dám nói thật với tôi ý định trốn đi vì ông biết tôi cũng đang tìm đường trốn và có thể tin cậy tôi được. Có lẽ nay mai tôi phải kiếm cách gặp hai người đó để bàn tính ngày lên đường vì nghe đồn đã có ít người trốn được vào Nam rồi. Hai giờ đêm đó, con bé cháu con cô em tôi (ở chung nhà với bố mẹ tôi) đến báo cho tôi hay bố tôi đã mổ bụng tự sát. Nó nói sau khi con cái về hết rồi, bố tôi đi lấy một con dao đi rừng thật tốt đem ra mài. Cả nhà cứ nghĩ có lẽ tết gần đến, cụ mài dao như mọi năm, để có thái thịt thái rau gì chăng nên chẳng ai để ý. Mài dao xong lại thấy cụ vào phòng nằm. Ðến hai giờ đêm, mẹ tôi nghe tiếng bố tôi rên la nhè nhẹ, liền thắp đèn lên chạy vào thì thấy máu đổ ra hàng vũng lớn trên nền nhà mà bố tôi ruột gan phơi cả ra ngoài, mắt trợn trắng, sắp chết rồi. Khi ông cụ ra dấu cho bà cụ ghé tai vào miệng để ông cụ trối thì bà cụ chỉ nghe được có năm tiếng thì thào gần đứt hơi:” Bảo thằng Tường trốn ngay !” Nói xong câu đó, cụ trút hơi thở cuối cùng. Ngay lập tức, mẹ tôi cho đứa cháu gái len lỏi đi lối tắt đến nhà tôi báo tin dữ, đồng thời bảo tôi liệu mà trốn đi ngay, chớ có thương tiếc gì nữa. Nghe đứa cháu nói xong, tôi khóc oà lên, thương cho bố tôi quá và cũng cảm phục bố tôi quá can đảm, thà tư giết mình hơn là để bọn cán bộ giết, thà chết như thế còn hơn là sa vào tay bọn chó sói. Nhưng tôi phải bụm miệng ngay lại. Bố tôi đến lúc chết vẫn còn nghĩ dến tôi, mấy lời cuối cùng của cụ là giục tôi trốn đi. Vậy tôi phải cố gắng làm theo ước nguyện của Người để linh hồn Người được mát mẻ nơi chín suối. Tôi bảo con cháu ra về đồng thời quay dặn vợ tôi vài câu, nhìn qua mặt mấy đứa con đang ngủ, rồi cứ thế, với một bộ quần áo độc nhất trên người và ít tièn trong túi, tôi đến nhà anh Các. Tại đây, tôi bàn kế hoạch trốn đi với anh và anh đồng ý ngay. Tuy nhiên, chúng tôi phải đợi đến đêm hôm sau mới đi được vì còn nhờ người thông báo cho thầy Ðiền. Chúng tôi muốn có bạn đồng hành vì đi toàn đường rừng rất nguy hiểm, người nọ dựa vào người kia, lúc khoẻ đã vậy lúc đau ốm, có bạn cũng đỡ nhiều. Sở dĩ bọn cán bộ không truy lùng tôi ngay vì sau khi bố tôi chết rồi, mẹ tôi không động tĩnh gì hết, cứ mặc quần áo và đắp chăn chiếu cho ông cụ y như cụ hãy còn sống. Mẹ tôi cũng cấm con cháu trong nhà không được khóc và cấm loan tin bố tôi đã chết ra ngoài. Có lẽ mẹ tôi dụng tâm giúp tôi một lần cuối cùng để cho tôi đi thoát vì nếu bọn cán bộ biết bố tôi đã chết, chúng đến nhà không thấy có mặt tôi là truy lùng tôi ngay. Tối hăm ba ông Táo chầu trời, vào lúc vàng vàng mặt trời, bọn cán bộ kéo đến nhà bố tôi cùng với những tên tá điền phản chủ, vô ân bội nghĩa. Chúng vào trong nhà quát ầm ĩ lên:” Thằng Thiềng đâu ? Hãy ra đây cho nhân dân xử tội !” Mẹ tôi chỉ tay vào trong buồng. Bọn chúng tông cửa chạy vào nhưng tất cả đều bổ ngửa ra khi thấy bố tôi đã chết. Tự sát chết. Dĩ nhiên chúng tra khảo mẹ và các em tôi rất dữ nhưng đầu mối là bố tôi mà bố tôi đã chết rồi, chúng có làm gì chăng nữa thì cũng đến thế thôi. Một tên trong bọn sực nhớ đến tôi, liền la lên:”Còn thằng con của nó nữa, thằng Tường.” Thế là cả bọn bàn kế hoạch truy lùng tôi nhưng lúc đó tôi đã cùng hai người bạn vào sâu trong rừng rồi. Sở dĩ tôi biết được các chi tiét xẩy ra sau khi đi vì có mấy người làng sau này cũng trốn được vào Sàigòn kể lại cho nghe. * Cuộc hành trình xuyên sơn của chúng tôi vô cùng gian khổ. Khởi hành ngày 23 tháng chạp mà đến tháng tư năm sau chúng tôi mới tới được khu vực do quân đội Quốc gia kiểm soát tại Quảng Trị. Từ Thanh Hoá, nếu đi theo quốc lộ I, chúng toi phải đi qua Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng bình rồi mới đến Quảng Trị. Cách Quảng Trị hơn 30 km là cầu Hiền Lương, bắc qua sông Bến Hải, ranh giới giữa hai miền Nam Bắc. Sang được bờ phía Nam sông Bến Hải đã là điều mừng lắm rồi. Nhưng chúng tôi đâu có dám đi theo quốc lộ. Con đường chúng tôi đi còn xa và nguy hiểm hơn con đường mòn dọc Trường Sơn bọn cán bộ Việt Cộng sau này dùng để tải bom đạn và người vào quấy phá mièn Nam. Có khi, mỗi ngày chúng tôi chỉ đi được hơn chục cây số, lại phải nghỉ và trốn vì sợ bọn chúng bắt gặp. Ðã có những nhóm người bị chúng bắt, chúng đem xử tử ngay, không cần phải giải về quê quán. Một lần ba anh em chúng tôi lạc vào một bộ lạc người thiểu số, chẳng biết là Mường hay Mán, ở gần biên giới Lào - Việt. Mới đầu, bọn người này làm rất dữ, tôi tưởng phen này chắc là bị chúng giết vì ngôn ngữ bất đồng, không sao giải thích cho họ hiểu được. Nhưng sau nhờ có một ông già trong bộ lạc đứng ra nói với tên tù trưởng và đưa chúng tôi về nhà, một cái nhà sàn ngay giữa làng. Ông già và vợ con ông ta đối đãi với chúng tôi rất tử tế. Nào cho ăn, cho quần áo thay để tắm giặt, cho uống rượu cần và líu lo với chúng tôi cả ngày nhưng chúng tôi có biết họ nói gì. Ông bà già có một người con gái chừng hai mươi tuổi, xinh xắn, dễ thương. Tên cô là Mây Mali. Cô thường sắp cơm cho chúng tôi ăn, dẫn chúng tôi ra suối và kể cho chúng tôi nghe những chuyện thật dài nhưng chúng tôi hoàn toàn không hiểu, chỉ gật đầu tràn. Chúng tôi lưu lại nhà của Mây Mali một tuần lễ cho lại sức vì cả tháng chỉ toàn ăn đồ khô và ngủ trên cành cây trong rừng. Có mấy viên thuốc cảm đưa đi uống đã hết, chúng tôi chỉ sợ bệnh sốt rét rừng giữa đường thì thật là nguy khốn. Một bữa, ông già ra hiệu bảo với chúng tôi ông sẽ kiếm cho chúng tôi mỗi người một cô vợ. Riên thầy Ðiền trẻ nhất bọn và khá đẹp trai, ông sẽ gả Mây Mali cho. Nghe hai ông bà già nói, chúng tôi cứ cười ngặt cười nghẽo. Hoàn cảnh này mà dám nghĩ đến chuyện lấy vợ lấy con sao ? Giá có tiên thực chúng tôi cũng không dám. Mạng sống đang như sợi chỉ mành treo chuông còn dám bay bướm sao ? Chúng tôi khoát tay chối từ với ông già nhưng ông không hiểu lại nghĩ chúng tôi từ chối lấy lệ. Và ông làm ngay điều ông định làm. Tối hôm đó, ông già bảo thầy Ðiền nằm riêng ra rồi cho Mây Mali đến nằm cạnh thầy. Còn tôi và Các thì ông dẫn ở đâu đến hai cô con gái khác. Ông nói những gì với hai cô này rồi một cô lại kéo tay tôi và một cô đến kéo tay Các đưa ra cửa. Tôi và Các khựng lại không chịu đi. Hai cô này có vẻ rất ngạc nhiên, nói một tràng với ông già. Ông già lại nói với tôi và Các, và cầm tay tôi và tay Các đặt vào tay hai cô gái. Nhưng chúng tôi vẫn không chịu đi. Rốt cuộc hai cô gái Mường tiu nghỉu ra về trong khi ông già buồn bã lắm. Cuộc “tình duyên” của tôi và Các với hai cô gái không êm đẹp chút nào, nhưng cuộc “tình duyên” của Mây Mali và thầy Ðiền cũng không hơn gì. Sau khi hai cô gái ra khỏi nhà ông bà già, Ðiền lại chổ ba chúng tôi vẫn nằm ngủ và nằm miết ở đó tới sáng. Tội nghiệp cho Mây Mali, cô bị bẽ bàng lại còn bị bố mẹ phiền trách, làm như cô không đủ tài thu hút đàn ông. Sáng hôm sau gặp chúng tôi, mặt cô cứ đỏ nhừ lên. Dù ông bà già thiểu số tốt cách mấy, chúng tôi cũng phải lên đường. Vả lại, sau khi dàn xếp việc gả mấy cô gái cho chúng tôi không xong, ông bà già không còn mặn mà với chúng tôi như trước và có lẽ muốn chúng tôi đi sớm. Chúng tôi cũng biết điều đó và sửa soạn lại lên đường. Ngày nhìn thấy bờ sông Bến Hải là ngày vui mừng khôn tả. Chúng tôi nhìn thấy sự sống, nhìn thấy Tự Do, nhìn thấy tương lai sáng lạn. Riêng tôi không khỏi buồn vì trón đi giữa lúc bố chết. Mẹ, vợ, con và các chị em tôi bây giờ ra sao ? Có đỡ bị hành hạ không ? Cứ nghĩ đến đó, lòng tôi thắt lại. Sau khi trình diện toà Tỉnh Trưởng Quảng Trị, chúng tôi được cấp phát giấy tờ và ít tiền làm lộ phí. Sau đó cả ba chúng tôi đều quyết định vào Sàigòn để làm lại cuộc đời mới. Tôi bị cắt đứt với gia đình không liên lạc được. Năm 1960, tại Sàigòn, tôi lại lập gia đình với người con gái một gia đình hết lòng thương tôi như con ruột. Nhà tôi sau đó có với tôi năm đứa con, ba trai, hai gái. Cháu gái lớn nhất năm nay đã 13 tuổi. Cháu đang học lớp 8 trung học.” Cụ Tường ngưng một chút để nghỉ. Giọng cụ lạc đi khi nói đến người vợ và 5 đứa con thân yêu đang ở bên kia bờ đại dương , không biết sống chết thế nào. Cụ đúng lên. Tôi biết ý cụ đã muốn về. Trên đường về lều, cụ bảo tôi: “Tôi biết trước là phải chạy mà không sao thu xếp cho vợ con cùng đi được, ông Vũ ạ. Nhà tôi cũng biết tôi ở lại là chết nên khuyến khích cho tôi đi y như người vợ năm xưa ở Thanh Hoá cũng chỉ nghĩ đến cái mạng sống của tôi mà thôi. Chín đứa con thân yêu, hai lần chạy giặc Cộng, tôi không mang theo được đứa nào để an ủi khi tuổi già xế bóng. Hai người vợ sống chết với mình, cả hai lần bỏ lại. Ông nghĩ đã đau đớn chưa ? Nhưng tôi không làm sao hơn được. Tôi ghê sợ bọn chúng quá rồi, thà tôi chết còn hơn phải sống với Cộng Sản.” Tôi cứ để cụ nói cho vơi bớt đau khổ. Tôi chỉ nghe và cảm nhận. Càng thấm thía khi chính hoàn cảnh tôi lúc đó không hơn gì hoàn cảnh cụ, cũng như hoàn cảnh xẻ đàn tan nghé của một số đông đồng bào di tản đang ở trên đảo Subic Bay này. Ngày sang Guam, tôi với cụ Tường cùng đáp một chuyến bay và tôi với cụ lại ở cùng lều tại Orote Point. Sau đó, tôi đi đảo Wake kiếm gia đình (bị thất lạc), còn cụ đi Camp Pendleton, California và từ đó tôi không còn gặp cụ nữa. Orange County, CA 30-4-1978 Xuân Vũ TRẦN ÐÌNH NGỌC
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 14:29:48 GMT 9
Bộ răng vàng
Vũ Trọng Phụng Ông cụ già ngót tám mươi tuổi đầu ấy đã hứa với chúng cái chết của mình ba tháng nay rồi, mà ba tháng nay, ông cụ cứ nằm lỳ giữa giường để rên đấy, ăn đấy, và thi hành mọi việc cần dùng ở đấy... Cụ thật là người keo kiệt, đến lúc hấp hối rồi mà vẫn còn đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, hau háu ra chi li từng đồng xu nhỏ một, chẳng chịu rời chùm thìa khoá, mở tủ, lấy văn tự địa đồ chia của cho con. Đến bây giờ thì ông cụ quả thật chết rồi, nhẹ nợ!... Ông cụ chết rồi, thì thằng cả, thằng hai với vợ chúng xúm nhau vào vồ lấy chùm thìa khoá, tính việc chia gia tài. Chúng hãy để mặc cái thây ma nằm đấy. Cả hai ngày hôm ấy chúng bận bù đầu vào trăm công nghìn việc. Thằng hai nhường cho anh bộ đồ thờ với yến thư bàn độc, thì kỳ kèo ép anh phải bỏ tiền ra lo cho bố, thết đãi hàng xã, hàng tổng thì phải lấy lại hai con lợn nái của mình. Tối hôm sau cái chết của ông cụ, họ hàng cũng không một ai biết, vì chúng... tính toán chưa xong. Đến độ nửa đêm mọi việc đã thương lượng được với nhau đâu vào đấy cả. Lên giường nằm nghỉ, thằng cả mơ màng đến những cảnh phóng túng chơi bời cũng như thằng hai, sướng bằng mở cờ trong bụng định những việc mưu danh, cầu tước, mua lấy một chân chức sắc trong làng. Bốn vợ chồng chúng xì xào to nhỏ với nhau, khúc khích với nhau, duy chỉ một mình ông cụ, một cái thây ma phủ dưới một cái chăn đơn, nằm đờ với ngọn đèn dầu to không bằng hạt đỗ. Vì không có chúc thư để lại, cái chết kia là cái chết bất thình lình, chúng dã dấu kín ngày giờ với họ hàng, làng nước thì chúng kêu gào khóc lóc làm chi? Vợ chồng thằng cả muốn như ngủ rồi, thì vợ chồng thằng hai rón rén đẩy cửa lôi nhau ra ngoài chuyện kín. Thằng hai, óc lý tài sáng suốt hơn thằng cả, nhớ rõ ngay rằng trong lúc sinh thời, ông bố muốn thay vào hàm răng bằng cái còn cái gãy, đã lên tỉnh, vào nhà giồng răng vàng. Chúng cứ xì xào cãi lẫn với nhau: con vợ nhất định giãy giụa không nghe, kêu rằng trong nhà có kẻ qua đời, người sống muốn cho kẻ chết được thiêng liêng phù hộ cho mình, thường còn lắm khi bỏ vàng vào miệng. Nên khi thấy chồng bàn lấy bộ răng trong mồm bố để bán, nó chẳng bằng lòng... Thằng chồng phát gắt mà rằng: - Cái đời đàn bà chúng mày sao ngu thế? Chết rồi, thì việc cúng giỗ chẳng qua là việc lừa dối thiên hạ, bộ răng vàng ấy đem bán đi không được chục bạc hay sao? Mày không nghe ông mặc kệ mày, miễn sao mày đừng để cho vợ chồng anh cả biết. Ông làm gì thì mặc xác ông! Rồi nó nguây nguẩy quay vào, để cho vợ một mình đứng đấy. Trong nhà có người chết, ngoài sân lại thêm đom đóm bay liệng lập lòe, cây cau, cây chuối cọ lá sột sạt vào nhau, con vện thỉnh thoảng cắn bóng một cách tức bực buồn rầu, nghe sợ đến rủn người đi được. Chị vợ bỗng giật mình hoảng sợ, hấp tấp chạy vào những toan ngăn chồng không cho làm thế, nhưng khi đến cửa buồng, nhìn vào thây ma trơ trơ nằm đấy thì chị ta lại sợ, không dám bước vào. Nó biết vợ nó phải lánh mặt đi rồi thì nó cứ việc tự do hành động. Nó nhìn sau nhìn trước, lắng tai nghe kỹ, thấy vợ chồng anh mình đã ngáy mới yên trí, rón rén đến bên giường bố chết, lật cái chăn ra. Để một tay giữ trên đôi mắt người đã qua đời, còn một tay nó bóp lấy hàm, cố vành cho được. Thấy hơi răn rắn, nó liền dùng hết sức, cố vành mồm kẻ chết móc ra được bộ răng vàng. Như người sốt rét phải chậu nước lạnh dội vào mình, nó bỗng run lên lật bật. Bộ răng vàng rơi lăn xuống đất nó cũng không kịp nhặt, vì khi nhìn lại đôi mắt của kẻ qua đời đã bị bàn tay phũ phàng kia làm cho lật hẳn mi lên. Mà cái mồm, một cái mồm không răng trông sâu hoăm hoẳm mà tối om om, sau khi đã bị vành thì thôi, nhất định không thèm ngậm lại. Người chết hình như trợn mắt, há mồm, nguyền rủa thằng con bất hiếu, trông đáng sợ vô cùng. Nó đứng ngây ra đấy kinh khủng mà nhìn, không chớp mắt một hồi, rồi sau khi rú lên một tiếng, bưng mặt đẩy cửa chạy đi. Nghe thấy tiếng kêu ghê gớm lạ lùng hai vợ chồng anh đều ngồi nhổm dậy. Chúng không hiểu nguyên do sao cả, chỉ nhìn nhau một cách kinh ngạc rồi rón rén xuống đất, bước đến cửa phòng người chết, đứng đấy nhìn vào. Cái thây ma trợn mắt há mồm như đang chửi rủa. Hai vợ chồng sợ quá đứng sát nách nhau mà run lập cập, trống ngực đánh thình lình. Giữa cái lúc bối rối tâm thần, mơ màng đến những chuyện "quỷ nhập tràng" của bộ Liêu trai, không biết nên đứng ỳ ra đấy hay cuống cẳng bỏ chạy đi đâu, thì thằng anh nhìn thấy cái bộ răng vàng nằm dưới gậm giường nhờ ánh sáng đèn chiếu ra lóng lánh. Cái việc thằng em vào đây, rú lên rồi ôm đầu bỏ chạy, nó hiểu rõ ra ngay. Nhìn ra sau lưng, thấy vợ chồng thằng em đã đứng tái mặt đấy rồi, thì nó lên giọng đàn anh, mắng trùm: "Chúng mày thực là bất hiếu!". Người đàn bà kia cố cãi cho ra lẽ, kêu rằng đã hết lời ngăn cản mà chồng chẳng chịu nghe nào. Rồi chị ta xin lỗi cho chồng, những mong được lượng ông giữ kín những chuyện nhơ nhuốc trong nhà, cứ việc lắp lại hàm răng vào mồm cho bố. Nhưng thằng anh lại không làm thế, sau khi không có cách nào vuốt mắt, đậy mồm cho người đã mất thì nó chỉ đành trùm chăn lên trên một cách gọn gàng. Rồi nó quay lại mắng đứa em dâu: - Chú thím đã định lừa tôi như thế, thì bộ răng này, sau khi tôi bán được, mong rằng chú thím đừng nhớ đến chuyện chia... Sau cùng, thì một cách tự nhiên, nhanh nhẹn nhất đời, nó cúi xuống nhặt bộ răng vàng, bỏ túi. Đăng Hà Nội báo, số 34; tháng 8.1936
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 12, 2009 14:32:02 GMT 9
Cái ghen đàn ông
Vũ Trọng Phụng Chờ cho người ấy trổ tài hùng biện đã chán chê đi rồi, Giao Đài mới bỏ tờ tạp chí xuống bàn và nói: - Không, người ta chẳng nên thật thà, nhất là khi người ta yêu nhau. Tuy rằng chẳng ai lại hoàn toàn thật thà với ai bao giờ, điều ấy thì ai cũng thừa biết, vậy mà người nào cũng cứ ao ước sẽ có kẻ thật thà với mình thì có lạ không. Khôi hài nhất là khi ta thấy ai có vẻ hơi thật thà với ta, chỉ hơi hơi thôi, ta cũng lấy làm sung sướng lắm! Những kẻ đương lăn lóc trong tình trường cũng vẫn có cái ảo tưởng là đôi bên hoàn toàn thật thà với nhau... tựa hồ sự thực làm cho ta sung sướng như ta trúng số độc đắc! Này, các anh, thôi đừng ai nên để cái lòng thật thà của người ta yêu đi kèm với hạnh phúc! Nó tai hại lắm. Nó chỉ phá hoại chớ chẳng kiến thiết bao giờ. Nghe đến đây, Lê Văn Thư, một người lúc nào cũng lạc quan, bèn nổi giận mà rằng: - Chà! Một người đàn bà như Giao Đài mà lại để ở miệng thốt ra những lời lẽ đáng buồn đến như thế nữa ư? Này, chị Giao Đài, coi chừng kẻo mà chị sẽ trở nên một thứ quái vật! Giao Đài chỉ cười nhạt, lại khoan thai nói thêm: - Nghĩa là cũng như mọi người, phải không, các anh? Người ta ai không là một thứ quái vật? Không để ý, Lê Văn Thư lại sốt sắng tiếp: - Chết nỗi! Nếu lại không có sự thật thà cứu vớt thì nhân loại còn có gì nữa! Thì làm gì có những ái tình, làm gì có cái tình bằng hữu, làm gì có những tính tình tốt đẹp và những dây liên lạc mà người ta bảo là thiêng liêng! Mà làm gì còn có hạnh phúc nữa! Giao Đài lại cười rộ, coi anh Thư như một đứa trẻ ngây thơ. Rồi nói: - Coi chừng đó, anh ạ. Yêu nhau là một việc mà thật thà với nhau lại là một việc khác. Một người bèn hỏi: - Vậy thì khi đã yêu nhau, người ta có nên thật thà với nhau không? Giao Đài chẳng cần nghĩ đáp ngay: - Không! Không! Chẳng bao giờ, và chẳng nên một tí nào! Sau cùng, Giao Đài khoan thai kể lại câu chuyện dưới đây để dẫn chứng cho cái thuyết ấy. * * * Các anh, các chị đây hẳn còn nhớ vợ chồng anh giáo Hiển đấy chứ? Chị ấy vì hậu sản mà thiệt phận năm ngoái ấy mà! ấy đó, một người đàn bà đáng quý và đáng thương. Kẻ ngoại cuộc là các anh, các chị, ngồi đây hẳn phải tưởng cặp vợ chồng ấy sung sướng cực điểm. Thưa không ạ! Anh Hiển, chi Hiển là hai kẻ đau khổ nhất đời. Lúc buông tay nhắm mắt, chị ấy còn phải đem theo xuống suối vàng một thứ mà ta quen gọi là "hận nghìn thu". Lúc khâm liệm cho vợ, anh giáo Hiển cũng vẫn còn là kẻ không chút đỉnh lương tâm nào nữa! Chỉ tại sự thật thà! Tôi sở dĩ được rõ mọi điều vì chị Hiển coi tôi là bạn thân hơn hết. Những chuyện gia đình, những điều tâm sự, những cái éo le, khuất khúc mà không ai dám nói với một người thứ hai nào nữa, thì chị Hiển đã có kể lể cả với tôi. Việc đôi lứa ấy vì ái tình mà lấy nhau, rồi ăn ở với nhau vẻ bề ngoài ra làm sao, chẳng cần nói, các anh, các chị cũng thừa rõ... Sau ngày cưới được năm hôm, chị Hiển đã đến chơi với tôi. Cứ như những lời chị nói, cứ trông những cử chỉ của chị, cũng đủ hiểu chị bằng lòng cuộc trăm năm đến có thể hoá điên vì sung sướng. Chồng chị là người quân tử, có nhiều đức tính, lại yêu quý vợ nồng nàn hơn ai. Nếu cứ theo nhịp ấy mà đi, thì giữa cái loài người khốn khổ này, anh Hiển, chị Hiển, là một cặp vợ chồng tiên. Mấy hôm sau nữa, khi lại thăm bạn vào lúc anh Hiển vắng nhà, tôi thấy chị ấy có cái vẻ mặt của người hối hận vì đã trót làm điều gì tai hại mà không còn phương gì cứu chữa nổi nữa. Mà quả vậy! Luôn mấy năm sau trong cặp mắt ngây thơ vốn đầy những ánh sáng của chị, tôi thấy hình như có một thứ bóng tối nó ám ảnh, nó làm thần thái của chị Hiển lu mờ như mặt trời bị lấp bóng mây. Chị đã kể lể: - Chị Đài ơi! Có lẽ từ nay mà đi, tôi đành cam phận là người đàn bà khổ sở nhất đời rồi! Tôi đã nhỡ tay để hạnh phúc của tôi vỡ ra làm trăm nghìn mảnh. Từ nay mà đi, tôi không còn dám màng tưởng đến những ngày mà tôi đã thấy cuộc đời là có nghĩa lý là đáng sống như những ngày mới bước chân về nhà chồng nữa. Thôi, thế là xong! Nói thế rồi, chị Hiển buông xuôi hai bàn tay như người thất vọng trước những mảnh vụn của một cái lọ quý giá mà mình đã vô ý đánh vỡ vậy. Chỉ một cử chỉ ấy cũng đủ khiến tôi xúc động lắm, và đủ đoán nổi cái hệ trọng của việc đã xảy ra. Tôi vội đứng lên, ra khép chặt cửa phòng rồi quay vào nghe chuyện. - Chị ạ, mấy ngày tân hôn, nhà tôi không nói những lời nào khác những lời của một kẻ si tình, say mê, yêu quý tôi. Nhà tôi đã có những lời lẽ ngây ngô vô cùng, những lời mà tôi tưởng không ai biết nói như thế... Tôi đã sung sướng bao nhiêu, bây giờ lại hối hận bấy nhiêu. Là vì đêm vừa qua, khi lên giường chung gối chung chăn, không hiểu bởi những duyên cớ khốc hại gì, bởi thứ ma quỷ độc địa nào nó xui giục, mà nhà tôi lại chợt hỏi: - Anh hỏi thế này em đừng cho là lẩn thẩn nhé? Trước khi biết anh, em có hề yêu một người nào không? Tôi ngạc nhiên thì ít, mà nổi giận thì nhiều. Bèn làm bộ bình tĩnh hỏi lại: - Sao anh lại hỏi thế nhỉ? Chồng tôi vội vàng cắt nghĩa: - Không! Anh hỏi thế không có gì là can hệ! Nếu em ngạc nhiên là vì em chưa hiểu rõ nghĩa chữ yêu mà anh muốn nói. Yêu đây chẳng phải là thư từ, đi lại, rồi làm những điều mà đức hạnh phải kết tội đâu. Yêu đây có nghĩa trong sạch hơn, bi đát hơn, có thi vị hơn, vì yêu đây là ngưỡng mộ, là kính trọng, là yêu vụng, giấu thầm, là "để ý", là vắng mặt thì khao khát mà gặp mặt thì không dám ngỏ bầu tâm sự... Nói nôm na thì yêu đây nghĩa là có ý muốn người ta hỏi mình làm vợ. Ngừng một lát, chồng em lại tươi cười mà tiếp: - Không can hệ, thật thế! Cũng như anh chẳng hạn... Trước khi biết em và lấy được em, anh đã yêu không biết bao nhiêu người đàn bà, yêu theo cái nghĩa đã nói trên. ừ, thế đi nữa thì có sao đâu! Việc gì có thành sự thực hiển nhiên thì mới đáng kể, và nếu anh nói thế, chính là vì đối với em anh muốn xử sự đặc biệt, nghĩa là cho em được hưởng cái lòng thật thà, có một không hai của bọn đàn ông phần nhiều ích kỷ, gian ngoan. Ngây ngô em hỏi lại: - Sao bỗng dưng anh lại thật thà như thế? - Là vì anh đoán anh biết. Anh hiểu rằng nhiều khi em thấy trong óc thoáng qua cái ý tò mò muốn biết ấy cũng như đại đa số phụ nữ đối với chồng. Nếu em chưa hỏi là vì chưa tiện dịp, và thế nào rồi cũng có phen em muốn thử hỏi thế một câu chơi. Đã thế thì liệu rồi anh có giấu được em không? Giấu sao được, em tin sao được. Chẳng khi nào một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi mà trước khi lấy vợ lại chẳng hề "để ý" đến một người đàn bà nào khác bao giờ! Nếu quả trên đời này có hạng đàn ông ấy thật, đó phải là một hạng kỳ dị! Em ngây mặt ra nghĩ, càng nghĩ càng thấy chồng nói đúng sự thật lắm. Chợt chồng em lại nói: - Thí dụ như em chẳng hạn... năm nay em đã 24 tuổi rồi. Vậy mà ái tình đến với người thiếu nữ rất sớm. "Nữ thập tam nam thập lục" thật đúng như lời cổ nhân. Tạo hóa đã an bài ra thế, không một người con gái nào lại vượt qua được cái công lệ ấy. Vậy thì vào tuổi dậy thì, người ta phải mơ mộng, phải khao khát lòng yêu, phải để ý đến đàn ông. Anh nói chuyện đây là dựa vào khoa học chứ không nói hồ đồ, vu vơ gì. Đã thế thì không thể nào em lại không hề để ý đến một người đàn ông nào, trước khi là vợ anh, trong cái thời hạn từ mười tám đến hai mươi tư tuổi. Vì rằng không phải ở đời này chỉ có một anh là người đàn ông đáng yêu thôi, có phải thế không? Trước những lý luận đanh thép của một người có khối óc tỉ mỉ sáng suốt như thế, tôi biết là chối cãi thì không được, biết chối cãi thế nào? Có ai lại đủ nghĩa lý để chối cãi một chân lý hay không? Vả chăng, chồng tôi đã bảo là "không can hệ". Mà muốn yêu chồng một cách hoàn toàn, tôi tưởng không còn cách nào khác là đem lòng thật thà của mình mà dâng lên. Chỉ nghĩ được có thế, tôi chẳng ngại đáp: - Anh nói đúng đấy. Năm mười bảy tuổi, em cũng đã có yêu một người, yêu theo những cái nghĩa anh đã phân giải lúc nãy. Không biết người ấy có để ý đến em không! Người ấy không hề hỏi em làm vợ, và giá có chắc hẳn cũng không được nào. Bây giờ thì người ấy cũng đã lấy vợ, cũng đã có con... - Thế rồi sao nữa? - Thế rồi... chả có gì nữa. - Sau người ấy thì không để ý đến ai khác nữa? Em thật thà cả cười: - Thì đến anh, và lấy được anh, thế thôi. Nhà em ngẫm nghĩ một lát, phê bình: - Thế nghĩa là em đã yêu người ấy lắm, yêu lắm. Đến nỗi phải chán đời cho đến lúc lấy chồng, nghĩa là trong bảy năm không còn sức để ý đến một ai nữa, nếu không có anh. Tôi không đáp. Chồng tôi thở dài, khiến tôi phải hỏi: - Anh vì thế mà buồn đấy à? Sao anh ác thế? Sao anh lại bắt em phải thật thà với anh để rồi làm em phải đau đớn? Nhưng nhà tôi đứng lên, thản nhiên: - Việc gì mà buồn! Có người đàn bà nào mãi cho đến lúc lấy chồng mà cũng còn nguyên cái trinh tiết tinh thần bao giờ! Tôi chỉ cần sau khi lấy tôi rồi thì vợ tôi không tư tưởng đến ai nữa. Thế thôi! Rồi chúng tôi nói những chuyện khác, mãi cho đến lúc cả hai cùng ngủ. Nhưng mà, ba giờ đêm, chợt thức dậy, tôi thấy nhà tôi, chị ạ, nhà tôi ngồi ở bàn, hai tay bịt lấy thái dương. Tôi vùng dậy, hỏi một cách run sợ: - Anh? Anh nghĩ ngợi đấy à? Tôi muốn thà nhà tôi nói nặng còn hơn chỉ thản nhiên đáp một cách độc địa thế này: - Có thế! Lúc ấy tôi bực lắm. Bao nhiêu nỗi phẫn uất của giống đàn bà đã mấy nghìn năm bị áp chế, bị bó buộc vào vòng nô lệ của giống đàn ông ích kỷ hình như dồn cả vào óc tôi. Tôi bèn nói: - Thế tại ai gây ra chuyện ấy? Anh đã thật thà với em thì em cũng phải thật thà với anh. Anh nghĩ xem, em chối có nổi không? Vả lại như ai đã nói, điều ấy cũng chẳng can hệ gì. Chồng tôi rền rĩ: - Không! Chẳng can hệ gì cả! ấy cái ghen của đàn ông là như thế đấy. Họ tò mò, họ bắt mình cung khai sự thật, để họ phải đau khổ, và làm mình cũng đau khổ. Họ có hàng trăm cô nhân tình, họ ngủ với hàng nghìn con đĩ thì không sao. Vợ họ mà để ý một người nào trước khi biết họ, thế cũng đủ họ muốn tự tử. Chồng tôi lại đứng lên, đau đớn nói: - Bây giờ thì tôi đã rõ sự thật, đã rõ rằng cái hạnh phúc của tôi không hoàn toàn, và chỉ có giới hạn mà thôi. Tức thì tôi hiểu ngay rằng thế là xong, vợ chồng mà đã thế thì không thể nào có hạnh phúc được nữa. Tôi bưng mặt ngồi khóc như đứa trẻ không có tội mà bị cha mẹ đánh mắng, chị có biết trong bao lâu không? Ngót một tiếng đồng hồ! Tuy rằng không ai to tiếng với ai, song đêm ấy quả thật có một tấn kịch vô cùng thảm đạm. Sau cùng thì chồng tôi đứng lên, ra vuốt ve tôi. - Thôi, nín đi, em ạ. Anh xin lỗi em. Anh sẽ quên đi, và anh cam đoan là sẽ quên được. Thật ra, trong việc này, em chẳng có một phần lỗi mọn nào. Tôi đã phải tìm nhiều lời lẽ an ủi chị Hiển, và tôi đã cầm tay chị lôi lên miệng tôi mà hôn một cách đau thương như hôn một người yêu trong một cảnh ngộ xót xa. Năm sau, vì có giấy bổ tôi đi Thái Nguyên, tôi không được cùng anh giáo Hiển dạy một trường, và do thế, phải cách biệt chị Hiển. Thỉnh thoảng lắm mới lại có một lá thư trao đổi tin tức cho nhau. Không bao giờ quên những tâm sự của mình, có khi chị Hiển gửi tôi những lá thư dài sáu trang, tám trang, và tôi đã phải nhiều phen tùy chuyện kể trong thư mà hoặc vui hoặc buồn cho bạn. Một lần tôi rất vui vẻ vì chị Hiển báo tin rằng đã tìm thấy cái hạnh phúc tưởng đã mất tích. Lời lẽ trong thư đại khái rằng: - "Chị Giao Đài ơi, em hồi hộp báo tin mừng rằng có lẽ chồng em đã không còn muốn làm một người vô nghĩa lý nữa. Nhà em đã biết nói đại khái như thế này: "Theo ý tôi, một cuộc tình duyên hoàn toàn tốt đẹp phải là: Hai người, trước khi yêu nhau đều chưa để ý đến người thứ ba hay là người thứ tư nào cả, và sau khi đã ăn đời ở kiếp với nhau rồi, tất nhiên cũng phải giữ chung tình như trước, nghĩa là vợ cũng như chồng không ai được có một phút điên rồ, mặc dầu là chỉ trong một phút, ngoại tình bằng tinh thần. Như thế cho đến lúc chết. Vì lẽ người đời không ai lại vợ chồng cùng chết cả một lúc, tất nhiên phải còn lại một người góa vợ hoặc một người góa chồng. Vậy thì các người sống lại ấy cũng không bao giờ mơ tưởng đến một người thứ ba. Mãi cho đến lúc chết nốt! ấy đó. Nhưng mà trên thế gian này, làm gì có cuộc tình duyên nào lại duy nhất, lại tự nó chịu những sự kiềm chế như thế được. Vậy ta có thể kết luận rằng không có cuộc tình duyên nào lại hoàn toàn cũng như không ai được hưởng cái "không thể có được" thì chỉ là điên. Nói thế rồi, chồng em kết luận rằng không quan tâm đến cái điều của em mà xưa kia chàng coi như một cái tội lỗi. Em sung sướng vô cùng". Tôi để ý đến cách phân tích nghĩa lý cuộc "tình duyên hoàn toàn" của anh giáo Hiển thì nhiều, và mừng cho người bạn gái thì ít. Nhân một dịp nghỉ, tôi về, đến chơi người bạn đồng nghiệp hiếu sự và điên ấy, thấy hai vợ chồng đều vui tươi như hai cái hoa. Tôi đã toan đem cái ghen của anh Hiển ra làm đầu đề câu chuyện mà chỉ vì sợ nhắc lại chuyện cũ thì không tốt cho vợ chồng người ta lúc đương yên lành, nên lại thôi. ấy thế mà một tháng về sau, tôi lại nhận được một bức thư của bạn trong đó bạn khóc lóc rầm rĩ, lại khổ sở đau đớn. Rõ sốt ruột làm sao! Thật là chuyện trẻ con! Anh Hiển nhất định buồn rầu, vì cho rằng chỉ có sự trinh tiết của tinh thần mới là đáng quý, và, chị Hiển đã yêu một người khác trước khi lấy anh ấy, thế là đủ không còn trinh tiết nữa rồi, và anh ấy tất phải khổ sở! Chị Hiển viết dưới cuối thư: "Trong khi nói là quên, chồng em đã dùng hết thời giờ, hết cả tâm trí để nhớ, để buồn rầu!". Cái ghen của anh Hiển có một thứ thế lực ở tâm giới anh đến nỗi khiến anh hóa ra tầm thường, hóa ra đê hèn, hóa ra "bất thành nhân dạng". Năm ngoái, chị Hiển sinh được một mụn con gái rồi lại bỏ mất. Có lẽ vì phiền não quá nhiều. Chị đã lâm sản mà thiệt phận. Vì nhằm vào ba tháng hè nên tôi thường ở bên giường chị ta. Lúc thở hắt ra, chị cũng lại có tôi để chứng kiến cái khổ của chị, và tôi cũng không hiểu tại một lẽ huyền bí gì của tạo hoá mà lại cứ tình cờ phải nhìn thấy tất cả những cái đau đớn của người bạn khốn khổ ấy. Khi thấy ông đốc tờ đã lắc đầu thất vọng ở một góc phòng rồi, biết rằng cái giờ cuối cùng của mình đã đến, chị Hiển bèn gọi chồng vào để "rối răng". Tôi đứng lên bước ra cửa thì chị bảo cứ ngồi lại. Trước mặt tôi, chị Hiển kéo hai bàn tay của chồng về lòng, run rẩy nói bằng một thứ giọng kỳ lạ: - Em chết rồi, anh ơi! Quan đốc chẳng nói thì em cũng biết! Chẳng còn bao lâu nữa! Em kiểm soát lại cuộc đời thì thấy rằng cũng không đến nỗi thiếu thốn gì mấy, mà cũng đã hưởng nhiều thứ lắm, nhất là lại được làm vợ anh để tự do yêu quý anh!... Em có thiếu thì chỉ thiếu cái lòng yêu của anh, không phải cái yêu thương nhưng mà cái yêu hoàn toàn của anh, mà thôi... Xin anh cho em được mang cái lòng yêu hoàn toàn ấy, cái ái tình bất vong bất diệt ấy, xuống cửu tuyền! (Vì sắp chết nên chị nói văn chương kiểu cách lắm). Từ khi em ốm nặng đã nhiều lần anh an ủi em là quên hẳn chuyện xưa. Bây giờ xin anh cam đoan lần nữa trước mặt người bạn thân của em đây, cho linh hồn em được thỏa. Anh nói đi, cho em nhờ! Vào trường hợp này, trí người ta thông minh sáng suốt lắm. Vì rằng khi thấy chồng ôm đầu nghĩ ngợi thì chị nói một cách xót xa: - Giời ơi! Thì ra anh không yêu em, anh chưa quên hẳn chuyện xưa! Anh còn phải nghĩ lâu như thế cơ mà! Tôi rùng mình run sợ vì thấy anh Hiển đáp: - Phải, anh đã nghĩ. Bây giờ nói thế nào, chắc em cũng không tin đâu! Đấy em xem: anh không thể thật thà với em được! Người vợ đáng thương ấy nấc lên mấy cái thì người chồng chữa một cách đã quá muộn: - Tuy vậy anh cũng vẫn yêu em, vì anh còn có bổn phận của một người chồng. Chị Hiển nấc lên một cái cuối cùng. Thế là tắt nghỉ. Và cách đấy một phút chị còn ai oán nhìn tôi. Cái nhìn ấy phân vua với tôi về những sự thống khổ của một linh hồn phải ôm một mối hận để lên cái thế giới của những linh hồn. * * * Giao Đài thuật chuyện xong thì im lặng để chờ mọi người bình phẩm. Một người trong bọn chúng tôi đứng lên bực tức nói: - Tội nghiệp! Một cuộc tình duyên như thế mà để đến nỗi một điều nhỏ mọn vô nghĩa lý như thế phá hoại được. Một người khác nói tiếp: - Vì ái tình là một vật mỏng manh, chóng hỏng và dễ vỡ. Người thứ ba thở dài mà rằng: - Cái anh chồng trẻ con đáng khôi hài như thế mà không ngờ là một tác giả của tấn thảm kịch như thế! Người thứ tư nói: - Tôi, tôi muốn nói rằng người vợ ấy không thật thà với chồng ngay từ lúc mới bước chân về nhà chồng. Nhưng anh Lê Văn Thư đứng lên hậm hực: - Nhưng mà tôi thì tôi muốn cái thằng chồng khốn nạn ấy không nên thật thà với vợ nó nữa vào lúc vợ nó đã thở hắt ra! Giao Đài mỉm cười phân vua cả bọn: - ấy đấy! Anh Thư bây giờ đã phản đối cái anh Thư lúc tôi chưa kể chuyện rồi đấy nhé! Sao anh không chủ trương cái lòng thật thà mãi đi! Tưởng chừng không ai phê phán gì nữa, sắp nói sang chuyện khác, thì chị giáo Bích - một người từ nãy chưa nói gì - đứng lên cầm cái chặn giấy gõ xuống bàn như lúc ra lệnh im lặng cho học trò và hỏi cả bọn: - Các anh các chị nghĩ về anh giáo Hiển ấy thế nào? Một người đàn ông mà tầm thường như thế ư? Mà khi người ta đã ghen đến như thế thì liệu người ta còn có biết được cái hạnh phúc nữa không? ừ, ghen đến thế thì cuộc đời có thấy sướng gì nữa không? Vì chị giáo Bích cũng sắp lấy chồng nên người ta mỉm cười nhìn nhau một cách kín đáo và nói lảng sang chuyện khác. Đông Dương tạp chí, số 13; ngày 7.8.1937
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:26:29 GMT 9
Việt Kiều hồi hương Vô Danh thị Tôi du học Tây về! Câu đơn giản thế nhưng lanh lảnh như tiếng chuông mới đúc. Chữ “Tây” không chính xác về địa lý nhưng chuẩn xác về sự phân chia cấp bậc cũng như cái nhìn trong xã hội. Có điều tôi chỉ đi “Tây” Nga về chứ không “Tây” Mỹ, “Tây” Úc hay “Tây” Đức, Pháp… Cái “thiệt thòi” hôm nay là “ưu đãi” trước kia của Bộ đại học dành cho tôi. Chả gì nước Nga cũng “ông anh cả” của Việt nam – “nước cộng hòa thứ 16 của Liên xô”. Tôi là kỹ sư kinh tế ở Nga về. Nghe không vang như câu trên. Phải thôi. Kinh tế Nga chục năm nay lu mu, chả ra “kế hoạch quốc gia”, chả ra “kinh tế thị trường”. Sách vở là phương tiện cãi nhau của các nhà “đổi mới”. Năm năm đèn sách nhét thứ đó vào đầu không ngớ ngẩn là may. Tôi mang chiếc bằng đi xin việc. Đầu tiên tôi mua báo, nghiên cứu “tuyển người”, đánh dấu xanh đỏ những chỗ “khả thi” và bắt đầu gọi điện. Nhà có điện thoại lợi đủ đường. Tuy nhiên, mỗi lần “bắt” được giọng đầu dây kia, hiện tượng này chiếm 30% số lần gọi, mẹ và bà chị dâu đều “ý tứ” xem đồng hồ. Nào tôi có ham “nấu cháo điện thoại” mà tại phí điện thoại “cấu” vào đồng lương gớm quá. Tôi đi Tây, tưởng “kinh tế” cho gia đình mấy năm sinh viên. Nào đâu đúng thời kỳ khó khăn. Việt nam qua thời “tem phiếu” từ lâu mà nước Nga bắt đầu “talon”*. Tháng 2 kg đường, 7 lạng thịt, 2 chai vôtka là tiêu chuẩn sinh viên! “Talon” đường, rượu tạm đủ còn thịt thiếu nặng. Ra chợ, có đấy, nhưng học bổng eo hẹp. Chẳng nhẽ để con gái chết đói ở đất nước Xã hội chủ nghĩa, mẹ tôi đành tiếp viện. Năm năm “hạch toán” ra chắc cũng lõm của mẹ tôi ối. Biết thân, biết phận, về nước tôi không dám làm mình, làm mẩy “quen ở Tây” thế nọ, thế kia. Chỉ duy nhất cái “màn tra tấn” 6 giờ sáng bị khua bằng đủ âm thanh “nội” “ngoại” là tôi “choáng” hẳn. “Nội” là tiếng mẹ tôi mở cửa sắt đi tập thể dục, chị dâu tranh thủ sáng có nước bơm giặt giũ. Xô chậu “duyệt binh” xủng xoảng ra trữ nước dùng trong ngày. “Ngoại” là tiếng rao bán. Từ “mỳ nóng”, “bánh cuốn”, “xôi” các loại đến gạo tẻ, gạo nếp “tên tuổi” nghe như tiếng Thổ, hoặc mắm muối kèm mùi khó tả… Điên nhất là ông mãnh “mỳ nóng” sáng nào cũng như “đồng hồ Tây”. Nó đứng dưới cửa sổ tôi gào “mì nóng” lanh lỏi, kết thúc bằng chữ “ròn”. Chao ôi, khâm phục độ nẩy của lưỡi nó. Đồ rằng, cả miền Bắc có mình nó biết phát âm chữ R! Không trốn được những âm thanh đó, tôi chúi đầu vào đống chăn chịu đựng qua “cơn bĩ cực”. Nhưng giờ “thái lai” đến là lúc mẹ tôi đi tập thể dục về. Nhìn con gái còn “giương đò”, bà lại ca “dậy sớm có lợi cho sức khỏe” là lá la… Thôi thà dậy béng cho xong. Chuyện xin việc không thể gọi điện thoại. Tôi đã qua bài học thứ nhất khi tổng kết thông tin qua điện thoại là con số 0 tròn trĩnh. Mấy người trực điện thoại hoặc nhấm nhẳng hoặc chẳng trả lời câu nào cho ra hồn. Tôi mò tới “Trung tâm giới thiệu việc làm” và thấy ngay mình là con ngớ ngẩn. Vừa lộ “tốt nghiệp ở Nga về”, họ hỏi ngay: - Sao không ở lại, về làm gì? - Làm việc. - Việc gì mà làm? Tôi trố mắt nhìn họ, thầm điểm lại xem mình có vào nhầm chỗ. - Ở đây không giới thiệu việc à? Sao ngoài kia cả chục người làm hồ sơ? - Họ làm hồ sơ xin đi ra nước ngoài lao động, làm ăn. Đi Hàn quốc, Libi, Iran… có cả đi Nga đấy. Cô có muốn… Tôi xua tay cám ơn rồi chuồn thẳng ra cổng. Bài học thứ hai. Tránh lai vãng ở “Trung tâm giới thiệu mờ ám”. Không khéo bị lẫn vào hàng ngũ các cô gái “sính” chồng Đài Loan. Sau hai bài học, 50% nhiệt tình “phục vụ đất nước” đã đi tong. Tôi chuyển sang “xu hướng” nghe ngóng chứ không đâm đầu làm theo báo nữa. Người thân mong ngóng tôi về sau những năm xa cách, qua 5 tháng, tình cảm cũng vơi đi. Đến mẹ tôi còn sốt ruột khi thấy con gái thất nghiệp nằm chỏng gọng ở nhà. Bà rỉ rả “nhàn cư vi rồi đấy con ạ”. Đúng quá, nhàn đến “rách việc” đây. Sáng chiều cơm nước. Từ ngày tôi về, tự dưng “Osin” về quê. Chả hiểu bà chị dâu tốt nghiệp khoa kinh tế ở đâu mà giỏi tính thế. Tôi hậm hực cũng chịu, nhăn nhó mẹ tôi chả “hát” nửa tiếng đến ong thủ mất. Bạn bè, đứa có việc đi cả ngày, đứa chưa có việc lại có người yêu, chồng con. Tôi trơ thổ địa, chẳng nhẽ trách ông Trời. May còn dăm ba đứa “lơ lửng giữa trời”. Tối tối tôi xách xe chạy qua nhà chúng tán gẫu, chia xẻ “mánh khóe sống đời”. Tôi hiểu giờ người ta xin việc là xin vào chỗ có “mầu”. “Mầu” là bổng lộc. Khoản này không thể có ngay khi mới làm mà phải nhích lên “lão làng”. Không phải ai cũng nhấp nhổm lên được. Chỉ những “tinh hoa” thôi. “Mầu” nữa là “mầu đi Tây” theo suất “nâng cao”. Tụi bạn tôi may mắn có việc thấy chí tiến thủ của chúng nhuộm sắc “hướng ngoại”. Chúng cong mông theo các lớp tiếng Anh, tiếng Pháp như lũ “sống gấp”, xem ngoại ngữ là cái “cánh” mang chúng ra bầu trời tự do. Sau mấy tháng “thất nghiệp” từ một con “Nga ngố” tôi kết hợp tính nói thẳng, nói thật của Tây với ngoa ngoắt của mấy bà hàng rau, hàng thịt mà mỗi ngày hai lần tôi nhẵn mặt thành một dạng “củ chuối” mà mẹ tôi không chấp nhận được. Bạn bè bầu tôi là “huấn luyện viên phụ huynh” tầm cỡ. Từ chỗ mẹ tôi muốn lấy lại hình ảnh đứa con gái út thùy mị của trước ngày đi Tây, chuyển sang tôi “biến” bà phải chấp nhận triết lý “cái gì cũng có thể với con gái mình”, thậm chí là cướp biển! Một kết quả đôi bên cùng có lợi. Tôi được tự do, mẹ tôi khỏi thấp thỏm khi khuya khoắt. Nhưng một cái lợi nữa mà tôi chưa lường được. Tình trạng “bụi đời” của tôi khủng bố tinh thần cả nhà nên họ huy động toàn bộ các mối quen biết họ hàng từ “bắn đại bác” đến “phi dao” để tìm việc cho tôi. Vào một bữa cơm chiều, ông anh trai yêu quý thông báo một tin quan trọng rằng ông giám đốc, bạn cũ hồi phổ thông, dù mới tìm lại nhưng có nhiều duyên nợ, nhận tôi vào công ty ông ta. Mà đó là công ty nhà nước trăm phần trăm, thuộc Bộ khoa học và Công nghệ môi trường cơ mà. Cả nhà xôn xao, khởi sắc. Tôi cũng hí hửng như sắp thành “ông nọ, bà kia”. Thêm bài học thứ ba. Muốn xin được việc phải quen biết. Tổng quát, muốn được bất kỳ việc gì đều phải có “quan hệ”. Cứ kiểm chứng bằng những buổi tôi “đánh quả” nhà bạn bè là biết. Chị dâu hay mẹ tôi đi chợ, y rằng bọn bán hàng nó giúi cho rau già, bí xơ, thịt dai nhoách. Không có “quan hệ khách hàng thường xuyên” tôi xây dựng mấy tháng nay làm sao có đồ ăn ngon. Tôi giờ ra chợ mua cả tuần không trả tiền là cứ vô tư. Quen thế, không chừng khi nào cưới, tôi phát đại cho chúng thiếp mời cũng chẳng có gì muối mặt hết! Ông anh giục tôi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo xin giấy chứng nhận tốt nghiệp làm hồ sơ. Tôi ngoạc mồm cãi “bằng sờ sờ ra còn chứng nhận, chứng nhiếc gì” liền bị cả nhà xúm vào sỉ vả ác liệt. Mỗi người một giọng lên lớp hòng dẹp cái thói “ngông nghênh” của tôi. Mười giờ sáng tôi có mặt ở cổng Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” có khác, nhà cửa của Bộ đàng hoàng, khang trang. Khu vườn thênh thang giữa thủ đô tấc đất, tấc vàng nhìn sướng mắt. Tôi tiến đến khu nhà 5 tầng, bắt đầu một chuỗi những “xin lỗi chú”, “xin lỗi cô” và cuộc “việt dã” theo cầu thang. Giờ tôi mới biết người Việt nam nào có tính “nhúng mũi” vào chuyện người khác. Tất cả các câu hỏi của tôi đều được trả lời u ơ “không rõ”, “hình như”. Tôi khùng người vì leo thang nhưng ngộ ra vì sao mẹ tôi về hưu rồi còn tập chạy(!). Cuối cùng tôi cũng mò ra phòng phụ trách lưu học sinh tốt nghiệp. Tôi gõ cửa dõng dạc, bước vào sau tiếng hừm. Tôi chào lịch sự dù chỉ nhận lại chiếc gật hay lay động cơ cổ. - Cô cần gì? Một trong hai người đàn ông đang đọc báo hất hàm hỏi. - Thưa, cháu xin chứng nhận tốt nghiệp để làm hồ sơ xin việc. - Về bao giờ? - Dạ, gần một năm. - Sao giờ mới lên đây? - Dạ… chẳng ai bảo cháu phải lên ngay cả. - Cô này vô tổ chức, nguyên tắc về nước phải báo cáo ngay, còn chờ ai bảo. Bị mắng “ngứa tai” lắm nhưng bài học cả nhà dạy hôm qua còn nguyên nên tôi im như hến. Tôi rút bằng, sổ điểm cùng giấy sứ quán cấp trình ông ta. Ông ta cầm tấm bằng, không đọc mà lật qua, lật lại. Lật chán ông quay nhìn tôi. Nhìn như đánh giá mặt hàng, không khác gì tôi chọn cá. Thậm chí còn bĩu môi. Tôi nghĩ, ông này mua cá mà “thể hiện” thế, bọn hàng cá chửi cho tanh người. Nghĩ gì thì nghĩ tôi vẫn làm mặt khép nép. Chợt ông ta ném bẹt cả bằng lẫn giấy tờ của tôi xuống bàn, hỏi gọn lỏn: - Học gì? Ở đâu? - Dạ kinh tế, trường Plekhanov ở Matxcơva. - Học từ năm nào? Tốt nghiệp năm nào? - Dạ… những điều đó có cả trong bằng rồi, sao chú còn hỏi. - Tôi hỏi là việc của tôi. Cô không trả lời được phải không? Ông ta ngẩng nhìn tôi mãn nguyện. Chả hiểu ông ta phát minh được cái quái gì từ mấy câu hỏi trẻ con đó mà mắt ông chợt ánh lên ranh mãnh. - Cô học hành cái gì. Sang chỉ lo đi buôn, bằng thì mua. Tôi há hốc mồm còn chưa tin ông ta đang “vu cáo” mình. Ông ta dồn tiếp: - Cô nói tôi nghe, bằng này cô mua bao nhiêu? Đến nước này tôi chịu hết nổi. Bao kinh nghiệm cãi nhau với mấy bà ngoài chợ chợt loang loáng trở về. Tôi vênh mặt không kém ông ta, mắt cũng “đèn pha ôtô” xoáy áp đảo: - Chú nói bằng này giả? Chú nói bằng này mua? Nghĩa là bảng điểm cũng giả, giấy chứng nhận của chú trưởng phòng Lưu học sinh Matxcơva cũng mua nốt. Vậy chú làm ơn ghi cho cháu mấy chữ vào đây. Tiện ký và đóng dấu luôn cho cháu. “Nói có sách, mách có chứng”, mai kia có người sang Matxcơva, cháu kiểm chứng lời chú. Vừa nói tôi vừa rút xoạch tờ giấy và cây bút đặt trước mặt ông ta. Ông ta đứng bật dậy, há hốc mồm chẳng khác gì tôi lúc trước, lắp bắp: - Cô… cô ăn nói với tôi thế hả. Giọng lưỡi con buôn… - Chú nhìn người như thần. Cháu học kinh tế chú nói đi buôn. Bằng chú lật qua mà biết giả, thật kém gì người buôn “xanh”… Ông ta đập bàn đánh rầm: - Cô tưởng đây là chợ, cô phát biểu vô tổ chức… biết đây là đâu không? Tôi suýt nữa cũng học bà bán thịt bò kèm 70% thịt trâu ngoài chợ chống tay vô hông, “quạc” lại: - Cháu biết… thì chỉ có chợ mới nói “giả, thật, giá bao nhiêu” chứ. Mặt ông ta đỏ rần như người có triệu chứng huyết áp “quá tải”. Tôi trót “cưỡi lưng hổ”, tự biết không đường lui. Cuộc đấu khẩu sẽ đến đâu nếu không có tiếng cười của người đàn ông thứ hai trong phòng. Cả hai “đối thủ” cùng dồn mắt sang ông ta. Người đàn ông chậm rãi tới bên tôi. Nét mặt hòa nhã nhưng mắt giấu vẻ khoái chí sau cặp kính. - Cháu nói với chú Đạo thế là không được. Chú Đạo người lớn chẳng chấp cháu “trẻ người, non dạ” làm gì. Đứa nào mới đi Tây về chẳng thế. Đưa bộ copy đây chú vào sổ. Chiều mai lên lấy giấy ở phòng 32. Thôi, chưa xin lỗi chú Đạo còn chờ gì? Nghe vậy là tôi đủ “thông minh” hiểu ý. Một trọng tài kinh nghiệm thổi còi đúng lúc nhắc hai cầu thủ “fair play”! Tôi chuyển tần số lời nói: - Chú Đạo bỏ qua cho cháu mấy lời láo lếu vừa rồi. Ở nhà cháu vẫn bị mẹ mắng suốt vì tội cãi bướng mà. “Chú Đạo” kia mặt vẫn đỏ nhưng lẽ nào không “miễn cưỡng bắt tay đối thủ”. Ông ta lầm lỳ chẳng ra gật, ra lắc ngồi xuống cầm tờ báo đọc tiếp. Tôi lại gần người đàn ông mang kính để ký vào sổ, khẽ nói nhỏ: - Cháu cám ơn chú nhiều. Ông ta mỉm cười với tôi: - Molodec! (Cừ lắm!) Bữa cơm chiều, tôi “tường thuật” lại chuyện “chú Đạo”. Chị dâu tôi khoái bất ngờ tới mức trước mặt mẹ chồng dám vỗ đùi đôm đốp. Tôi ngờ rằng bà này cũng từng bị cái Bộ kia “đì” rồi nên giờ được “trả thù quá khứ”. Mẹ và anh tôi nhăn nhó. Mãi sau mẹ mới chép miệng: - Mày thật chả khác bố mày ngày xưa. Bố tôi ra đi sớm khi tôi mới 10 tuổi. Tôi chẳng còn nhớ nhiều về bố. Nhưng tôi tin, nếu ông còn, ông sẽ xoa đầu con gái rượu chứ chẳng mắng đâu. Đầu tuần, theo lời ông giám đốc tôi đến cơ quan làm việc. Không biết nếu tôi đi làm dâu mẹ tôi có lo như tối hôm trước ngày tôi đi làm. Bà đi ra nhắc, đi vào dặn. Anh trai tôi răn đe: - Mày làm thế nào cho tao còn gặp lại được bạn bè. Bớt mồm đi. Người ta hỏi, trả lời cho ngoan ngoãn. Lớn rồi, nghe hỏi phải biết ý họ mà trả lời. Con bạn thân đọc “lesson” cho tôi lĩnh hội. Nào bánh kẹo, thuốc lá, trà ra sao, chào ai cô chú, ai anh chị… Đặc biệt khoản “ngoại hình”: - Mặc đầm cho nữ tính. Đầm dài bớt ganh ghét của đồng nghiệp nữ nhưng mất cổ động viên nam. Độ ngắn của đầm tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa. Tôi lục tung valy tìm ra chiếc đầm xanh. Màu hơi ngớ ngẩn nhưng có vẻ nữ tính. Độ dài của nó vừa khéo để không sexy cái đầu gối củ lạc, lại chứng tỏ tính kín đáo của bằng Đại học. Tôi đi sớm, lởn vởn chờ phòng số 4 có người. Theo lời giám đốc, tôi xông tới “làm quen”. Ở nhà mẹ vẫn khen tôi có đức “trơ tráo”. Tôi còn nhiễm tính “tự tin mù quáng” của người Nga nên chả bối rối chút nào khi bước vào. - Chào các chị, các anh – Tôi hơi nghêng người và nở nụ cười bài bản – Em là Thu, anh Bình giám đốc nhận em vào làm công ty mình từ hôm nay. Năm người, định vị năm bàn quay nhìn tôi. Một giây, hai giây… năm giây. Tôi chợt thấy nụ cười trên môi mình vô duyên trước 10 chiếc mắt dọi vào. Từ hôm về nước, tôi xem nhiều phim Việt nam và không chịu được vẻ vô cảm của các “sao” điện ảnh. Giá họ học được vẻ mặt của năm người đang chiếu tướng tôi đây chắc nền điện ảnh Việt nam sẽ phất kém gì Holywood. Sang giây thứ sáu, muốn hay không nụ cười của tôi cũng không le lói hơn được nữa. Tôi đứng đực ra chờ phản hồi nhưng hình như họ cố làm vẻ nghễnh ngãng. Tôi thầm rủa số mình đi đâu cũng không xuôi xẻ. - Sao tôi chả biết gì nhỉ? Một giọng nam chất kim vang lên phá tan bầu không khí “mặc niệm”. - Ông Bình làm những chuyện lạ đời. Đùng đùng cái gì cũng theo ý mình, hay dở thế nào cho người khác đổ vỏ. Giọng nữ ồ ồ cằn nhằn. - Em có nghe loáng thoáng – giọng cô gái khá trẻ ngồi bàn gần cửa – Anh Bình nói nhận người về. Sắp tới công ty mình ký hợp đồng với công ty thiết bị y học của Nga. - Ôi dào, viện này thiếu gì kỹ sư học Nga về. Toàn thằng chẳng làm được việc gì lại còn nhận thêm. Giọng kim vừa nẫy nhưng tôi đã phát hiện ra của người đàn ông ngồi góc phải. Dù cửa sổ mang ánh sáng ban mai vào nhưng khuôn mặt ông vẫn không vì thế bớt già nua và nhăn nhó như quả táo Tàu. Kinh nhất là cặp mắt kẻ chỉ, khó đăm đăm đang tranh thủ “miệt thị” tôi. Tôi vẫn đứng vì chả có ai định mời mình ngồi xuống chịu trận. May hôm nay tôi mặc chiếc đầm xanh. Tuy ngớ ngẩn nhưng theo các nhà “tâm lý học”, màu sắc có tác dụng giải tỏa. Màu xanh lờ lợ đó như lá chuối đặt trên thùng nước đang sánh qua sánh lại. Khổ nỗi “chiếc lá chuối” này không mảy may tác dụng “tâm lý” ông giọng kim. Ông chán bâng quơ, chuyển sang chĩa mũi dùi vào tôi: - Ai bảo cô tới đây? Kinh nghiệm ở Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dạy tôi chẳng nên ngạc nhiên trước câu hỏi thừa. Ngoan ngoãn như lời ông anh dặn, tôi thỏ thẻ: - Dạ thưa, anh Bình dặn sáng nay em tới làm quen với các anh chị. Tình hình nghe ra chẳng sáng sủa hơn sau câu trả lời nhún nhường của tôi. May cô gái gần cửa bước tới kéo ghế mời tôi. Tôi đầy cảm kích. Tôi liếc tìm bộ ấm pha trà, lấy mấy gói bánh kẹo, thuốc lá ra đặt trên bàn, mạnh dạn hỏi cô gái còn đang đứng gần tôi: - Cho mình mượn mấy chiếc a được không? “Đồng minh trong hy vọng” của tôi nhanh nhẹn mở tủ lấy đồ và giúp tôi. Tôi thầm cám ơn Trời. Dù thái độ của tôi giờ không còn tự tin như trước nhưng tôi vẫn đủ “khả năng” bê ra từng bàn mời các vị đang chiễm chệ đọc báo và bình luận chuyện không đâu. Tất nhiên họ uống trà. Tất nhiên họ gặm nhấm bánh kẹo và coi sự phục vụ của tôi là “tất nhiên” khỏi cần cảm ơn. Còn tôi “tất nhiên” phải quên thói lịch sự của Tây mà coi đó là văn hóa Việt nam! Người đàn ông ngồi gần cửa sổ chợt cắt ngang câu chuyện về giá xe máy Thái lan đang xuống: - Em học ngành gì bên Nga? - Dạ em học Kinh tế. - Lại Kinh tế – giọng kim lần này hơi méo có lẽ do chiếc kẹo Hải châu còn mắc trong răng – Đâu cũng nhan nhản kỹ sư kinh tế. Mang tiếng học hành mà chả biết “đếch” gì. Làm hợp đồng viết ngu bỏ mẹ. Cháu ông Viện phó học Kinh tế vừa vào Viện, con bà Hoài phòng “Công nghệ nguyên tử” cũng đang làm hợp đồng bên đó. Tôi khẽ nhăn mặt. “Lại gặp bạn “chú Đạo” rồi. Giờ mà ông hỏi giá bằng Đại học, mình phải hô bao nhiêu đây?”. - Cô ở đâu đến đây? Chiếc kẹo đã chui tọt vào họng nên câu hỏi vang lên lanh lảnh. Một câu hỏi đơn giản như bài học đầu tiên của chương trình học ngoại ngữ, ông có hỏi bằng tiếng Anh tôi vẫn trả lời vô tư. - Em ở Hà nội ạ. Những khuôn mặt “đầy ấn tượng” hiện ra. Cáu kỉnh là của ông giọng kim: - Ai chả biết Hà nội. Quen ai mà tới đây? - Á… – hơi ngượng vì sự “chậm hiểu” nhưng tôi chữa ngay- Dạ, em chỉ quen anh Bình giám đốc thôi ạ. - Quen mỗi ông Bình mà xin được vào Viện lớn thế này. Giọng ồ ồ thắc mắc kèm theo cái nhìn nghi vấn rất “nữ tính”. Tôi còn quen thêm được ai từ ngày về nước ngoài mấy bà buôn ngoài chợ. - Thế cô con ai? Cái hất hàm đầy tính “khảo sát” của ông giọng kim chĩa vào tôi. Tất nhiên lần này tôi đã “thấu” câu hỏi. Ông anh tôi chả dặn phải xem ý người ta mà trả lời là gì. Tôi dõng dạc: - Dạ em không con ai cả ạ. Có bịt tai tôi cũng nghe tiếng cô gái “đồng minh” cười váng lên. Tiếng ho khục khục giấu tiếng cười “thiên nhiên” là của ông ngồi kế cửa sổ, anh chàng trung niên từ đầu chưa nói gì chợt rút kính lau lấy, lau để. Chỉ còn lại hai khuôn mặt của hai chất giọng “ngược đời” là thộn ra. Giọng kim rít lên: - Cô học đâu kiểu nói trêu ngươi thế hả? Cô biết tôi là ai không? Tôi nghệt mặt chả hiểu mình có tội gì. Tôi quay sang “đồng minh” cầu cứu nhưng cô ta còn mải cười đến mức chạy bắn ra hành lang, vội vàng lao ngay vào ông Bình đang bước tới. Cô khẽ “Ối”, ngượng nghịu. Bốn người còn lại kéo ghế đứng lên chào đồng loạt. Chỉ có tôi đang ngẩn ngơ vì “quả mắng” nên ngồi tại chỗ khẽ lúng búng. - Chào mọi người! – Giọng sang sảng đúng chất Sếp – Làm quen vui quá. Nhân viên mới có quà cho anh em hả. Được đấy. Quay sang bên, ông giám đốc nói: - Anh Trung tổ chức và chị kế toán lên phòng tôi có việc cần bàn nhé! Hai người đứng dậy theo ông lên phòng. Tôi toát mồ hôi. Thôi xong. Ông anh nhắc “khéo lời với ông trưởng phòng tổ chức mới hòng được vào biên chế”. Loạng quạng thế nào tôi “trêu ngươi” ông ta rồi. Vụ này khéo đứt! Ngày sau, tôi đến, chẳng có chỗ riêng của mình trong phòng, chẳng có việc cụ thể. Giám đốc bảo làm quen công việc nhưng có ai nói năng gì với tôi đâu. Cô “đồng minh” trở nên giữ kẽ. Mặt ai cũng như bức tường. Cảm tưởng tôi bị tẩy chay. Tôi ra hành lang nghe chim sẻ chíu chít trên nhánh xà cừ, buồn bã như giữa đảo hoang. Vài ngày sau, giám đốc chỉ tôi phòng nhỏ, kêu dọn dẹp, kê bàn vào lấy chỗ làm việc. Sáng 8 giờ đi, trưa cơm nhà, chiều lại công ty. Việc duy nhất là ngồi và ngó qua cửa sổ. “8 giờ vàng ngọc” thoải mái tiêu. Chán, tôi lò dò xuống phố thăm tình hình Model của Hà nội. Từ ngày tôi đi làm, dù tập sự không lương, mẹ yên lòng hẳn. Tôi thành “thất nghiệp” toàn phần. Hiếm hoi gặp bọn bạn chẳng biết kể chuyện gì. Chẳng lẽ kể chuyện “năm anh em trên chiếc xe tăng” hở ra là nã đạn vào tôi. Hay kể chuyện Sếp sáng đảo qua công ty vài phút là biến. Thỉnh thoảng, ông định vị trong phòng thì toàn thấy “họp… kín”. Có lần không nén được tò mò, tôi ghé tai nghe trộm. Hoá ra các bố chơi “tá lả”. Tôi chán ngấy đóng vai người thừa. Ho hoe tính chuyện xin thử chỗ khác đã bị ông anh dạy thế nào là đức kiên tâm “trường kỳ kháng chiến”. Tiền tiêu do mẹ tài trợ đủ ăn sáng, bơm xe, tình rỗng tuyếch, công việc đuổi ruồi. Tôi tù túng trong mọi ràng buộc từ nhà đến công ty. Mẹ tôi nhắc khéo chuyện “gia đình”. Tôi tỉnh queo: - Mẹ chi tiền. Con ra chợ coi thằng nào “sạch nước cản” mua về làm chồng. Bà chán. Tôi buồn, tôi nhớ nước Nga. Khi ở đó tôi chỉ nhìn thấy những điều đen tối mà chê nhưng khi về rồi, tôi biết, tôi thiếu nó. Cho dù ngày đó có bơ vơ, có khó khăn, khắc nghiệt nhưng tất cả thật rõ rằng để mình phải vượt qua. Còn sống nơi quê hương sao tôi lạc lõng. Ai giúp tôi mài bớt những sù sì, góc cạnh để có thể lăn tròn trong xã hội này? Tối thứ bảy, tôi ngồi nhà xem vở tuồng “tân cổ giao duyên”, ngoan như bà góa thủ tiết với chồng. Chuông điện thoại kêu, tôi uể oải nhấc. - Thu hả? - Thu đây, ai đó? - Còn nhớ Thắng “mập” không? Tao đây. - Ôi Thắng, mày đang ở đâu vậy? Tôi reo lên khi nhận ra thằng bạn thân từ ngày học phổ thông đến suốt năm tháng ở Nga. - Matxcơva chứ ở đâu. Mày thế nào, nghe tụi nó bảo đi làm rồi hả? - Làm khỉ gì, chán muốn bỏ. Tao đã thấy lời mày khuyên ở lại là “chân lý”. - Thế mày còn thích đến với “chân lý” không? - Thích cũng phải qua ối “cửa” mới tới được “chân lý”. Còn mày thế nào? - Tao gọi về hỏi mày chịu qua giúp tao phụ trách phần kế toán cho công ty của tao ở Matxcơva không? Đồng ý tao gửi giấy tờ về làm hộ chiếu. Tao điểm ra chỉ mày đủ khả năng, đúng nghề và tính “bà la sát” của mày mới trị được bọn trong công ty. Nghĩ sao? Tôi bất ngờ chẳng nói được lời nào. Hơn một năm qua, tôi đã biết, ở Việt Nam “nghề” sáng giá nhất là “nghề đi Tây”, “nghề xuất ngoại” dù ngắn hạn, dài hạn. Những ai chê “nghề” này chắc chắn là Sếp. Mà Sếp chỉ chê “dài hạn” vì đi lâu dễ “vênh cạ” chứ “ngắn hạn” Sếp OK đầu tiên. - Ê, chán nước Nga chưa mà im như thóc vậy? - Không… tao đang tính – tôi lúng túng không biết nên nói kiểu gì để hợp “phong cách người Hà nội”- mẹ tao lo đi nữa sẽ “ê sắc ế”… - À… mày định lấy chồng kiểu gì tao không biết nhưng nếu định lấy thằng yêu mày thì lấy tao đi. Tao yêu mày lâu rồi. Lần này tôi “cấm khẩu” hoàn toàn. Thắng chợt chuyển giọng: - Nói thật đấy. Trời ạ, mẹ tôi nói cấm có sai “Ngưu tầm ngưu, báng bổ như mày, chỉ gặp thằng ngang ngửa”. Nhưng dù “củ chuối” cỡ nào tôi cũng không thể tưởng tượng ra được màn tỏ tình “mày” “tao” qua điện thoại quốc tế! - Thu ơi, suy nghĩ đến trưa mai nhé! Thời Edison chỉ cho suy nghĩ 5 phút thôi mà -Thắng cười hì hì- không đùa đâu, 100% nghiêm túc. Hẹn mai! Máy bay cất cánh, mảnh đất quê hương chao nghiêng. Dòng sông Hồng kia rồi, quanh năm đỏ đậm phù sa. Hà nội li ti, nhấp nhô mái ngói. Tôi lại ra đi lần nữa. Chút nhơ nhớ, bâng khuâng về Hà nội, về mẹ. Giọng cô chiêu đãi viên Nga nhắc người ngồi cạnh đeo dây an toàn nghe quen như mới hôm qua. Nhưng hình như vẫn có gì là lạ. Có lẽ, lạ vì không ngơ ngác như khi xưa sang học. Con đường phía trước sẽ không trải thảm, sẽ không ít khó khăn, nhưng tôi biết, ở đó tôi có thể sống và làm việc mình mong muốn. Cảm giác tự do ngọt ngào. Hà nội mờ dần qua làn mây mỏng. Quê hương ơi, ta sẽ về như tìm bóng cây giữa con đường chang nắng. Sẽ về để thêm động lực ra đi. Về để hiểu ta Người Việt Nam và Quê hương ngàn đời vẫn một…
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:28:50 GMT 9
Rồi sẽ yêu ai? Phan Thị Vàng Anh Hoàn ơi, có thằng mết mày lắm đấy. Ở cùng tổ mày, nhà trên đường mày về. Mày đứng, nó ngồi thì cao bằng nhau - Cả bọn ngồi vắt vẻo trên lan can nhìn tôi chờ đợi. - Tao biết rồi, thằng Tường chứ gì? Nó đáng tuổi em tao! Tôi biết có nói cũng thừa. Giờ này trường vắng tanh. Văn phòng, căng tin đều đóng cửa. Thực tập xong, chúng tôi ở lại một chút để tán dóc. Con gái 19, 20, chuyện nào cũng quay về chuyện tình yêu. Tôi băn khoăn nhìn Lan và Xuân, không hiểu tụi nó nói đùa hay thật về cái tin lúc nãy nhỉ? Tường nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hôm qua là sinh nhật nó, tôi vào căng tin mua một gói me: "Mừng oắt con thêm một tuổi nhé". Tường không cười, chăm chú nhìn gói me: "Sao lại không thêm được ba tuổi nhỉ". Vì sao hôm qua tôi lại không nghĩ gì cả. Trong thâm tâm, tôi coi nó như em, con gái trong lớp cũng coi nó như em út. Tôi đọc một quyển truyện nói về tình yêu giữa một cô bé và một người lớn tuổi . Vì chênh lệch nên họ xưng hô là "ông" và "em". Khép sách lại, tự nhiên tôi nảy ra ý nghĩ vô cùng bất ngờ là mình phải có một người lớn để yêu và phải hơn tôi nhiều tuổi để có thể áp dụng cách xưng hô của truyện. Người ta bảo con gái hay coi thường con trai bằng tuổi, và tôi, tôi đã chán cái cảnh ngồi cãi nhau om lên với mấy thằng bạn trong lớp chỉ vì chép khác nhau một chữ trong bài . Tôi hỏi mẹ: "Nếu bồ mình lớn tuổi quá thì mình gọi là ông, xưng là em hả". Mẹ đang đếm tiền nên cáu: "Im đi, tao nhầm bây giờ. Mà mày bồ với người lớn làm gì? Ðể con rể là bạn của tao với ba mày à?". Sáng nay không có nắng, trời lại có vẻ muốn mưa. Gửi xe xong tôi đi vòng vòng qua cây thị xem may ra có nhặt được quả nào không. Tổ trực đêm qua đã vơ vét hết, chỉ để lại mấy quả nát bét trên sân. Ở sân hành lang, tôi gặp Tường, nó đi ngược lại, xòe năm ngón tay ngó ngoáy như định móc mắt tôi, cái miệng non choẹt méo qua một bên. Tôi bảo: "Thằng điên!". Tường bỏ vào túi tôi một quả thị con rồi cùng đi vào giảng đường. Hai tiết đầu là Sinh Vật, tôi luôn luôn quên đem viết chì. Thầy Sinh vật chưa già nhưng dáng đi chậm chạp, các bạn của tôi gặp thầy đi chợ mua toàn những bó rau bé tí, phòng thầy ở trọ cũng bé tí. Tôi nghe kể bỗng thấy mũi mình cay cay . Lan ngồi cạnh tôi, mặt bé như con chuột con, chép miệng như một bà già: "Trí thức chân chính là khổ thế đấy!". Tôi nhìn nó, phì cười, không hiểu cô ả học phong cách người lớn ấy ở đâu . Tôi ở lại trường buổi trưa . Tất cả lên hành lang các phòng thực tập ngủ. Con gái ở lầu hai, con trai ở lầu bạ Ðôi khi có những cậu sinh viên lớ ngớ xuống nhầm lầu làm các cô nháo nhác như gà phát hiện ra trong chuồng mình có chuột. Ngủ dậy, ở vòi nước rửa mặt, tôi gặp Bảo. Bảo chờ tôi, nôn nóng: - Ði uống nước, Hoàn! - Sắp đến giờ rồi!. - Còn mười phút nữa mà! Bảo bằng tuổi tôi nhưng người lớn hơn, là một nhân viên chép bài hộ khi tôi nghỉ học. Nước chanh ở trường tôi rẻ và dở hơn bất cứ nơi đâu, vị ngọt của nó làm người ta càng khát hơn. Ở cuối căng tin, Tường ngồi với mấy đứa bạn, nhìn tôi buồn bã, miệng hút thuốc phì phèo . Bảo nói với tôi ra vẻ đàn anh: "Tường nó đang tập thở ra vòng tròn!". Tôi không hiểu hút thuốc thì ngon lành gì nhỉ. Ở phòng thực tập, Tường úp mặt lên cái túi của tôi trông thảm não lắm. "Tường đau đầu hả, xin nghỉ đi!". "Không, sao Hoàn lúc nào cũng muốn tôi nghỉ học?". Tôi nhìn cái gáy trẻ con của nó, tóc có cái đuôi dế mèn, người ta bảo đây là dấu hiệu của trẻ con ăn tham. Tôi đi mượn dầu, dù biết rằng dầu chẳng có tác dụng gì trong việc này. "Thôi đi Hoàn, tôi có bệnh đâu mà cần dầu". Tôi thừa hiểu cái giọng trách móc ấy nhưng cố giả ngu ngơ "Vậy Tường buồn khổ cái gì mà thảm vậy Ai làm khổ Tường?". "Chẳng ai cả, tôi làm khổ tôi" rồi nó bỏ sang bàn thực tập bên cạnh. Tôi thắng 1- 0. Hình như tôi đã có tình cảm gì đó dành cho Tường. Rất dịu dàng, mơ hồ... không thể hiểu nổi . Mặt Tường non choẹt, răng khểnh dùng vào việc nhe ra trêu tôi hơn làm dùng để cười duyên. Cả lớp hình như lờ mờ đoán ra, nhưng Tường chỉ bằng tuổi em tôi! Buổi chiều tôi, Xuân, Lan ngồi học bài trên hành lang dẫn vào thư quán. Một chỗ ngồi lý tưởng trên đầu là tàn me, nhìn xuống hồ cá như một quả tim xây theo kiểu tượng trưng. Ba đứa ngồi xa nhau để tránh nói chuyện. Chợt tôi nghe Lan rít lên nho nhỏ: "Em mày kìa Hoàn!" rồi tôi nghe rất rõ bước chân Tường đang tới gần, gần lắm rồi đi mất, không có gì thêm. "Sao kỳ vậy Hoàn, mày và nó giận nhau hả?" - "Không, quen vậy rồi, xem kẽ một ngày là lơ, một ngày vồn vã, hai đứa điên mà!". "Tếu vậy! Tụi mày làm vậy để làm gì?". Tôi cũng chịu, không hiểu cả cái trò ú tim này dùng để làm gì. Có lẽ, cả tôi lẫn Tường đều sợ người kia đoán được tình cảm của mình cho nên có ngày, cả hai cùng vui quá mức, có ngày lại lạnh như tiền. Chị tôi bảo "Ðồ con nít!". Tôi vặn lại: "Khi đi học, bà có vậy không! Bà chị tôi đanh mặt: "Tao không điên như mày!". Có lẽ tôi điên thật! Ban đêm, trường tôi như khác hẳn, vắng lặng. Tự nhiên xuất hiện mấy con mèo to tướng, mắt sáng quắc, chạy vụt trong sân tối . Tôi ngồi trên bệ tường, đằng sau là cây mận hương hoa ngai ngái dễ chịu; phiá dưới là vòi nước khóa không kỹ, nhỏ tí tách, tí tách. Tôi muốn ngồi một mình như thế này mãi không phải nói chuyện với ai, thở cái không khí mát mẻ, lạ lùng của ngôi trường ban đêm. Đêm nay, chúng tôi trực, không chè cháo vì trường sẽ cúp nước. Mỗi tổ viên mang theo một loại bánh kẹo để liên hoan chung. Có tiếng chân bước lại, tôi biết là Tường nên quay mặt về phía sân trường nơi ánh sáng của mấy ngọn đèm nê-ông xanh xao hắt xuống. Quay đi như thế này sẽ làm tôi đỡ bối rối hơn. "Vô lâu chưa Hoàn?" - "Mới. Tường mới vào?" - "Ừ. Mệt quá!". Sau cái câu muôn thuở đó, chúng tôi ngồi im. Ngày thường tôi vẫn hay tưởng tượng một hoàn cảnh như tối nay, ngồi cạnh Tường, tôi sẽ kể mọi thứ chuyện cho Tường nghe . Vậy mà lúc này, đầu óc tôi trống rỗng, bối rối cực độ . . . Tường ngắt một cái lá mận, vò vò rồi đưa tôi: "Hoàn ngửi thử coi, giống như sắp được ăn mận vậy!". Tôi cầm lấy và thấy bàn tay mình bị giữ lại một cách vụng về của trẻ con. Mọi ngày, tôi vẫn mong sẽ hiểu được tình cảm Tường giành cho tôi, yêu hay không yêu, đừng ú tim nữa . Nhưng lúc này, một tiếng nói khác trong tôi, rã rời: "Thôi, thế là hết, chẳng còn gì là bí mật nữa!". Tôi cười: "Tường còn trẻ con lắm, đừng bao giờ làm cái trò này nữa nhé!". Mắt Tường bối rối rồi cụp xuống hối hận, cả tôi cũng hối hận ngay lúc đó. Tường bỏ ra bàn trực cách không xa nơi tôi ngồi. Hai phút sau đã nghe tiếng cười của Tường và tôi bắt đầu rối trí. Ðêm trực đi qua, Tường hút thuốc và đánh cờ như mọi khi và tôi càng bối rối. Sáng ra, Tường lấy xe về trước, để tôi lại sau. Mặt Tường bình thản, còn tôi, tôi hối hận vì sao đêm qua, mình thốt ra cái câu điên rồ ấy . . . Có lẽ, chẳng bao giờ Tường tỏ tình lần thứ hai với tôi ? Tôi mua những đặc san về tình yêu, không thấy hoàn cảnh nào như vậy . Mỗi sáng, tôi mong vào trường gặp lại Tường, nhìn quanh quất giảng đường, tìm cái dáng cao cao quen thuộc. Chiều nay, trời mưa và tôi buồn hơn. Tường không vào ôn bài nữa. Mặt Tường không tỏ vẻ buồn bã nhưng lạnh lùng, xã giao với tôi hơn xưa. Giờ thì đến lượt tôi khổ vì Tường, Tường không chào bằng những cái méo để tôi có thể mắng "Thằng điên" được nữa, bây giờ Tường gật đầu như người lớn chào nhau. Tôi đưa Tường cái kẹo. Tường cười: "Cảm ơn nhe!". Tôi muốn vặn cổ hai chữ "cám ơn". Tôi hỏi mẹ: "Mẹ này, yêu người nhỏ tuổi hơn thì buồn lắm nhỉ!" - "Không biết, sao chẳng bao giờ mày hỏi về yêu cùng tuổi thì như thế nào, lúc thì đòi chơi với ông già lúc thì đòi chơi với trẻ con!" - "Không phải con mẹ ạ! Con bạn con . . ." Mẹ ngủ rồi, tờ báo rơi bên cạnh. Ngày mai, tôi sẽ mua một quyển sổ làm nhật ký. Không thể tâm sự cùng ai những trò ấm ớ này.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:30:47 GMT 9
Học tiếng Việt từ ... dân quê Nguyễn Lân Dũng Thời đi học tôi luôn luôn là người bé nhất lớp và cũng được cưng chiều nhất lớp. Thế hệ chúng tôi có rất nhiều người thành danh trong các lĩnh vực khác nhau. Họ là những thầy giáo đầu tiên sau ngày giải phóng Thủ đô dạy ở các Trường Đại học và nay đều đã về hưu hết cả, mặc dầu nhiều người vẫn còn đang tham gia các hoạt động xã hội hoặc hướng dẫn các cán bộ trẻ trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên trở thành nhà văn tài hoa có lẽ chỉ có một người. Đó là Ma Văn Kháng. Gần đây Kháng bị bệnh tim phải vào điều trị tại Viện tim mạch trung ương, nơi em trai tôi làm Viện trưởng. Tôi giao cho Lân Việt phải chăm sóc Kháng, vậy mà một tháng sau mới tìm thấy ông nhà văn bạn thân của anh mình. Hóa ra Kháng lấy tên khai sinh ghi trong Y bạ là Đinh Trọng Đoàn nên Lân Việt không thấy có bệnh nhân nào tên Ma Văn Kháng nhập viện. Tôi nhớ năm 1954 sau khi tốt nghiệp Sư phạm trung cấp tại Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) tôi vì ít tuổi quá nên được cử về học tiếp tại Đại học Sư phạm khoa học Hà Nội, còn Kháng hơn tôi 2 tuổi thì được cử về tiếp quản Thủ đô. Đấy là vinh dự lớn mà chỉ rất ít bạn được lựa chọn. Tuy nhiên Kháng lại từ chối và xin về dạy học ở Lào Cai. Tôi tưởng Kháng quê ở Lào Cai nhưng Kháng bảo: Quê mình chính là ở làng cổ Kim Liên Hà Nội, chả quen ai ở Lào Cai cả . Nhưng mình muốn viết văn thành ra dám liều mạng lên miền biên ải một phen xem sao.Kháng về dạy cấp II ở Lào Cai và bắt đầu xung phong tham gia nhiều hoạt động xã hội. Đáng nhớ nhất là những ngày đi làm thuế nông nghiệp ở thôn người Giáy Tùng Tung huyện Bảo Thắng. Tại đây Kháng bị sốt rét ác tính, may mà có anh Ma Văn Nho là Phó bí thư huyện ủy Bảo Thắng cứu sống cho nhờ kiếm được mấy mũi tiêm. Thế là kết nghĩa anh em và đổi luôn tên là Ma Văn Kháng. Buồn cười ngay anh Nho cũng là người Kinh, họ thật là Mè (quê Hạ Hòa , Phú Thọ) nhưng trên này nhiều người họ Ma nên cũng đổi luôn họ của mình. Kháng vào Đảng năm 1959 và lấy vợ năm 1962. Năm 1961 Kháng gừi truyện ngắn đầu tay Phố Cụt về báo Văn học (tiền thân của báo Văn nghệ) và được đăng ngay. Ban biên tập chắc sướng lắm vì phát hiện ra một anh người Tày biết viết văn (!) và nhờ có đà động viên ấy mà Kháng sau đó gửi liên tiếp nhiều truyện ngắn khác. Tôi từ Hà Nội ngược sông Hồng lên thăm Kháng vào dạo ấy. Tại một gian phòng nhỏ vào tối thứ bảy tôi gặp rất nhiều người yêu văn thơ từ rất xa về tụ tập quanh Kháng để nghe Kháng thuyết giảng như một bậc thầy văn chương. Tại đấy lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Thu Phòng, cô công nhân xinh đẹp của Nhà máy điện Lào Cai. Phòng rất mê văn chương và tình nguyện chép lại các bản thảo dập xóa lằng nhằng của Kháng. Rất tiếc ngày Kháng lấy Phòng tôi không lên dự được vì đường xá quá xa xôi. Sau đó ít lâu Kháng được cử về học Đại học Sư phạm Hà Nội, khi tốt nghiệp lại một lần làm mọi người ngạc nhiên vì trong khi nhiều Bộ môn muốn giữ Kháng ở lại trường thì Kháng vẫn một mực đòi về Lào Cai để dạy cấp III. Sau đó Kháng chuyển sang làm thư ký cho đồng chí Bí thư Tỉnh Ủy, rồi làm Phó Tổng biên tập tờ báo của Đảng bộ Tỉnh. Mãi đến năm 1976 Kháng và cả gia đình mới chuyển về công tác tại Hà Nội. Cuộc đời rất phong phú và sôi nổi của Kháng được anh gần đây ghi lại trong hai cuốn: Hồi ký-Năm tháng nhọc nhằn,năm tháng nhớ thương (NXB Hội nhà văn, 2009) và tiểu thuyết Một mình một ngựa (NXB Phụ nữ, 2009). Tôi đã đọc rất kỹ một loạt các tác phẩm của Kháng ( Đồng bạc trắng hoa xoè (1979); Vùng biên ải (1983);Trăng non (1984); Mưa mùa hạ (1982); Mùa lá rụng trong vườn (1985);Võ sĩ lên đài (1986); Côi cút giữa cảnh đời (1989 );Đám cưới không giấy giá thú (1989 ); Chó Bi, đời lưu lạc (1992); Ngày đẹp trời (1986);Vệ sĩ của Quan Châu (1988), Trái chín mùa thu (1988);Heo may gió lộng (1992);Trăng soi sân nhỏ (1994);Ngoại thành (1996); Truyện ngắn Ma Văn Kháng (1996);Vòng quay cổ điển (1997); Đầm sen (1997); Một chiều giông gió (1998); Ngược dòng nước lũ (1999); Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (2001)....Tôi không đủ khả năng bình luận về văn tài của Kháng vì nghe nói đã có không ít luận văn Cử nhân,Thạc sĩ, Tiến sĩ lấy làm đề tài rồi. Giả thưởng Hội Nhà văn (1986), Tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn (1995), Gỉải thưởng Văn học Đông Nam Á (1998) cũng đã xác định vị trí của Kháng trên văn đàn nước ta. Cũng như đối với các nhà văn đàn anh như Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nam Cao, tác phẩm của Ma Văn Kháng để lại cho tôi một ấn tượng sâu đậm về ngôn từ tiếng Việt. Hóa ra không phải chúng ta ai cũng biết hết tiếng Việt. Đây là tôi nói tới tiếng Việt phổ thông chứ chưa nói đến các phương ngữ (như trong văn của Nguyễn Ngọc Tư). Có lần trả lời phỏng vấn Kháng đã nói: Tôi có thói quen quan sát và ghi chép tỉ mỉ. Chính những vùng đất tôi đã sống và đã đi qua, những con người hiền hậu, trong trẻo, hồn nhiên, giàu tình cảm đã thôi thúc tôi viết... Tôi luôn tâm niệm sống rồi mới viết, quan trọng là sự trải nghiệm của bản thân, của suy ngẫm trước cuộc sống. Cuộc sống mà Kháng đã từng trải rất gần gũi với người dân quê ở các địa phương miền Bắc và ngôn ngữ của anh thật phong phú cũng nhờ vào việc biết lắng nghe và ghi nhớ tiếng nói hàng ngày của quần chúng. GS Phong Lê đã nhận xét rất xác đáng: “Nếu muốn tìm đến sự phong phú của ngôn ngữ- áp cận được vào thì hiện tại, tôi nghĩ cần đọc Ma Văn Kháng. Và trước đó-Tô Hoài. Đó là hai trong số ít người viết có được cả một kho chữ thật rủng rỉnh để tiêu dùng. Và do có cả một cái kho, nên anh là người không ưa dùng những chữ mòn; và ít khi làm cho mòn chữ. Dẫu là quen hoặc lạ, chữ nghĩa khi qua tay Ma Văn Kháng là cứ ánh chói lên cái nội lực bên trong của nó” Tâm sự với tôi, Kháng viết: Mình sinh ra không ở nông thôn. Chẳng được thừa hưởng chút nào lời ăn tiếng nói của làng quê, chẳng được tiếp nhận cái hay cái đẹp của dòng văn học dân gian. Mình cũng chỉ như bao nhiêu anh em ta là có được một bà mẹ xuất thân con gái một làng ngoại ô Hà Nội, có được một lượng ngôn ngữ dồi dào phong vị ca dao,tục ngữ giầu hình tượng, với nhiều tích chuyện cổ mà thôi. Thành ra khi quàng vào cổ cái ách văn chương rồi thì đành phải lấy sự tự học để bù đắp vào cái thiệt thòi, kém cỏi của mình vậy. Có thói quen do lâu ngày mà hình thành là mình rất nhạy cảm với sự mới lạ của ngôn ngữ. Đọc một trang sách, nghe một người nói chuyện. Sức hấp dẫn với mình ngay lúc đó chưa hẳn đã là nội dung đâu,mà trước hết, có khi lại là ngôn ngữ. Thấy có cách diễn đạt, kiểu câu, từ ngữ lạ, hay, chính xác, nghĩa là đi đến tận cùng của ý tứ, là mình ghi chép, găm vào trí nhớ liền. Sách phổ biến khoa học mà Lân Dũng tặng là những kho tàng chữ mới, mình không bao giờ bỏ qua. Ở thành phố mình hay chú ý tới ngôn ngữ giao tiếp ở các ngõ xóm, nơi đời sống xa lạ với tính quan phương, nơi cuộc sống trần thế đa tạp, đa sắc, nơi lưu hành một thứ ngôn ngữ sống động tràn trề. Góp nhặt nó, đặt nó đúng chỗ, gia thêm cho nó hàm lượng văn hóa, làm nó sang trọng lên là việc của anh nhà văn. Mình cũng rất thích trò chuyện, gần gũi với các bà, các chị. Phụ nữ là đời sống tự nhiên, là cái thường ngày. Ngôn ngữ của họ là tiếng nói đời sống, sống động, đầy khía cạnh, sắc sảo, giàu biểu tượng, chứ không thẳng bẹt như cánh đàn ông đâu. Ấy thế, phụ nữ đẹp, ngoa ngoắt, đáo để lợi khẩu là cái kho ngôn ngữ giàu có lắm.Học chữ là việc ngày ngày, học mãi vẫn thấy chưa đủ của cánh nhà văn bọn mình...” Ví dụ thì vô vàn, tôi chỉ xin trích dẫn ít câu trong mấy chương đầu của tập Hồi ký mới xuất bản của Kháng. như thế đã thấy là quá nhiều rồi. Chẳng hạn như: -Ở đó ngần ngật ảnh tượng Phật tổ,các chư phật và các đồ thờ lúc này đang mờ mờ khói hương và phăng phắc những ngọn bạch lạp cháy dựng đứng hình búp đa. -Khối vàng đinh đứt dây, tung tở từng thoi lem lém cùng hai con ngựa, chiếc ti vi, cái xe máy bát lửa lòe cháy đùng đùng, phát tiếng ù ù như reo vui. -Nẩy nhẹ hai rảnh đùi, tiếp tục dòng ký ức đầy vẻ khoái hoạt, ông Cát cao giọng vừa định tiếp thì chị Nứa từ mâm dưới đã quát với lên: Này, ông râu rậm, bô lô ba la mãi thôi, không để bà nói à? -Mỗi lần từ Kim Liên lên thăm cậu em tức ba tôi,bác Cả Tre, mẹ chị Nứa tôi đều chân xỏ dép lá đa đi bộ từ sớm bửng đến tối mịt thì tới. -Hay đây chỉ là cái trò bày đặt ra cốt để dọa dẫm, đe loi của người Nhật? -Ấy , cái anh thuốc phiện lúc đầu hút thấy nó ngài ngài rất khó chịu... -Đang rầm rì, bỗng nổi lên tiếng một ông già khan re. -Tôi nói thế là chết mất nửa ruột rồi đây. -Cầy đất ải, đặt bừa xuống, trâu kéo, bừa nẩy tâng tâng đau ngực lắm. Bừa san cũng mệt lắm. -Ông chủ tịch Chung đứng trên bờ bắt quyết, rồi đun 15 ống nứa đổ xuống suối. năm sáu chục con người nhong nhóng bên bờ suối. - Không có ăn thì cố với gắng làm sao được. -Có chăng còn lại là một nỗi buồn, một niềm thương, một nỗi nhớ vương vương -Dưới kia ,dòng sông Nậm Thi liu riu chảy. -Còn vương vương một chút buồn vì một phen thay đổi sơn hà, mảnh thân chiếc lá biết là về đâu. -Chăn tằm một tháng một lứa, vất vả vì chăm chút tỷ mỷ, từ công đoạn lấy ngài đến lúc sang tằm, khi tằm ngái ngủ, rồi ngủ đều, giai đoạn này phủ lá dâu thái chỉ nhỏ như sợi thuốc lào chủ yếu đẻ cho tằm ngửi, ba tiếng một lần phải ra xem... -Là con phải giữ lấy nghề cha mới ra người hiếu hĩ. -Thày đọc nhiều thơ lắm. Giọng thày trầm ấm và cao sang. Những bài thơ thể ngôn chí, thuật hứng, tức cảnh. Cuối cùng thày pha một ấm trà mới, trà móc câu tuyết san. -Chờ tôi thưởng trà xong, thày mới mở cuốn sổ tay nhỏ, cất giọng thật thanh sảng đọc bài thơ thày mới làm. -Ra về thày bảo tôi: Ông Tuân nói, tôi không phải là đảng viên, nheng Đảng coi tôi dục tâm sáng như vầng nhật nguyệt. -Thày nói cho ông người Anh đó hiểu thế nào là tay cưa, đốc cưa, thế nào là cưa đã rửa. -Thày sợ thói đời thông tục: đã ghét thì ghét cả tông ty họ hàng. -Trong tôi, một sức sống mới đang nẩy mầm,cựa động. -Tôi trở về Lào Cai với nghề làm báo, với bao bồi hồi và dự cảm. -Tôi cảm hội được sự thành công và niềm vinh dự này. -Mỏi mệt thì giải lao bằng hớp nước đun sôi và tự thưởng bằng một điếu thuốc lào hút hết khói say lơ mơ. -Cả đêm ấy tôi không sao chợp mắt được.Nỗi vui râm ran làm thao thức cả nhà. -Mà ông Tạo thì biết đâu mà lần. Cái quay búng sẵn trên trời. Số phận mỗi con người là từ bên trong họ bước ra hay từ bên ngoài họ bước vào, nào ai mà biết đươc? -Toàn những tuấn mã máu me ngửi thấy mùi đồng cỏ cao nguyên là cất tiếng hí, đòi cất vó lên đường cả. Có gì ngăn trở được nỗi hăm hở trước cái vẫy gọi của vùng đất lạ. -Đi để trở về với thân hình gầy gùa, xanh xao, mệt nhọc rã rời, thậm chí ốm đau lử lả, nhưng phục sức một chút, mắt đã lại ngóng về phía trời xa. -Đêm trong rừng, mắt con nhện ăn đèn đỏ chóe, mắt nai xanh xếch chéo. -Xa rồi những thôn bản, những con suối, eo đồi, mom núi. -Tôi ngùi ngùi tự bảo mình: phải viết nốt những gì đã ấp ủ về mảnh đất này. -Vào ngõ, qua mấy ngăn hố xí thùng, rẽ phải, qua một căn hộ, lại ngoặt phải, qua ba căn buồng nhỏ của ba hộ, một cái sân chung lầy lội than bùn, mặt tiền của hai hộ nữa, thì đến căn buồng kiệt cùng, đó là nơi ở của chúng tôi. -Ngày hè, màn xô bí hơi, muỗi như ong, vậy mà sáng dậy mặt mũi, chân tay ai cũng lấm chấm như lên sởi. -Bế con ra vườn hoa Canh nông cho nó chơi ở đó, nhìn những ngôi biệt thự, những cặp vợ chồng, con cái người ta sởn sơ vui vẻ mà đau tủi. -Nhiều lúc thấy con nằm vắt trên vai bà nội như cái dải khoai héo mà đứt ruột, đứt gan. -Cơm gạo càng ít càng phải phân miêng. -Miếng ăn quả là miếng nhục. Nhưng người ta không thể sống mà không ăn. -Đồng tiền cháy ngay trên lòng bàn tay người tiêu dùng. Người nội trợ đi chợ, có cảm giác như bị ăn cắp giữa ban ngày. -Thì cũng phải bới đất nhặt cỏ, tìm thêm công việc để làm chứ còn thế nào! -Phòng là người cơ chỉ, dè sẻn trong chi tiêu, mẫu mực trong lối sống của một người mẹ, người vợ hiền thục, nhịn nhường. -Ngồi trong căn buồng chật hẹp mùa hè như cái lò thiêu,tôi viết, được trang nào lại dúi xuống cất giấu ở dưới gầm giường cùng lũ nồi niêu sông chảo nhọ nhem. -Ở đây lũ gà vịt ngan ngỗng lấm lem làm chủ. Chúng được thả rông. Con nào con nấy đều ngược ngạo, táo tợn, chúng đá nhau, mổ nhau loạn xạ, chúng bay vù vù để mổ thóc ngô trên các kiêu gạch , các mái gẩy. -Cái ngõ như kẻ mắc bệnh động kinh, hơi một tý là lên cơn sài giật. -Cậu nên nhớ thế giới người ta cho vay, nhưng còn xem giỏ bỏ thóc nhé... Nhà văn, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng viết: “ Ma Văn Kháng là nhà văn có ý thức chăm chút câu chữ và đó cũng chính là sức hấp dẫn có được của tác phẩm” Tôi nghĩ, chúng ta nếu muốn tự làm giàu thêm kho tàng tiếng Việt của mình thì tốt nhất nên đọc sách của các nhà văn trong đó đặc biệt là của nhà văn Ma Văn Kháng. Đọc sách của Kháng, qua những ngôn từ mà Kháng đã dày công gạn lọc từ dân chúng, nhất là dân quê và dân nghèo thành thị,chúng ta sẽ thấy cuộc sống phong phú , tinh tế, thú vị thêm biết nhường nào!
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:32:17 GMT 9
Sư Phụ Trần Long hồ Huỳnh Đệ được mười tuổi nhưng tâm trí như đứa trẻ lên năm. Đệ cao lớn so với tuổi, đứng ngang vai một người lớn. Tuy hình dáng Đệ khôi ngô, cử động lanh lẹ, nói chuyện nhanh nhẩu, và ứng biến giỏi, nhưng Đệ lại là đứa trẻ dốt. Khuôn mặt Đệ thon đều, trán rộng, mắt to, chân mày rậm. Mũi Đệ cao, cánh mũi nhỏ. Miệng Đệ rộng, môi dày. Tóc Đệ đen nhánh và dài, thường được cha mẹ cột ra sau gáy. Nhưng Đệ không thích như vậy. Ra khỏi nhà, Đệ xỏa tóc lòa xòa xuống vai. Hình hài và dáng dấp của Huỳnh Đệ như vậy. Rõ ràng, Đệ không phải là đứa trẻ trì độn. Nhưng Đệ có tật lớn là chẳng chịu học hành, chỉ thích rong chơi ngoài đồng. Hằng ngày Đệ câu được nhiều cá, bẫy được nhiều thú rừng. Nhờ vậy, cha mẹ Đệ không phải mua thức ăn. Cha Đệ vốn là thầy giáo trong làng, thông thạo chữ nghĩa, thường mong muốn Đệ phải được học hành đến nơi đến chốn. Cha Đệ dạy được bốn chữ thì Đệ quên hết ba. Ngày hôm sau, không ôn lại thì Đệ quên hết, chẳng giữ được chữ nào. Ngồi trong lớp học, Đệ thích nhìn qua cửa sổ. Thầy giáo bắt Đệ chăm chú thì Đệ mơ tưởng đến sông rộng, rừng rậm, tôm cá , và chim muông. Cha mẹ Đệ buồn lắm, bèn gởi Đệ đến nhà một người bạn, vốn là thầy giáo giỏi và nghiêm khắc. Được ba tháng, người bạn trả Đệ về ông ấy bảo rằng, thằng nhỏ này coi vậy mà ngu độn, không thể dạy được. Cha mẹ Đệ buồn lắm nhưng vốn hiếm hoi, chỉ có Đệ là con một nên ông bà quyết chí tìm thầy cho Đệ. Một hôm có người mách bảo trên núi cao gần đó có ngôi chùa Bạch Vân là nơi thanh tịnh. Vị Phương trượng của chùa là người đạo hạnh, nghiêm túc, tinh thông chữ nghĩa. Bất cứ ai lên chùa học đạo đều trở thành người tốt. Nghe vậy, cha mẹ Đệ mừng lắm, liền chuẩn bị đồ cúng, hoa quả, và tiền bạc để đưa Đệ lên chùa . Sáng hôm đó, cha mẹ dẫn Đệ lên núi. Đường dốc lên, khúc khuỷu. Cha mẹ Đệ mang nhiều hành trang nặng nề. Đệ tuy mười tuổi nhưng lớn xác, khỏe mạnh nên gánh vác đồ đạc cho cha mẹ . Đệ không sợ làm việc nặng nhưng ngại lên chùa, phải học chữ. Đệ vừa đi lên chùa vừa nhớ sông, nhớ rừng. Đệ thèm câu cá bẫy thú. Tất cả không còn nữa. Đệ buồn lắm. Từ nay, Đệ không còn gặp lại bạn bè, cảnh cũ. Đường lên cao, quanh co, dốc ngược. Đệ nhìn lại, làng xóm khuất sau mấy rặng cây xanh . Trời về trưa, nắng càng gắt. Mặt trời lên cao, xéo trên đỉnh đầu. Nắng chiếu nóng bỏng, Đệ mệt, thở hồng hộc nhưng không dám than vãn. Quá trưa, ba người lên đến chùa. Đệ ngồi chờ bên ngoài phòng đợi. Cha mẹ vào trong yết kiến Phương trượng. Chùa rộng mênh mông. Đệ không biết có bao nhiêu phòng. Từng dãy nhà nối nhau san sát. Phía trước chùa có trồng nhiều cây lớn, tàng lá thật rộng, che mát cả một vùng. Phía sau chùa, Đệ không biết được, nhưng thấy cây rừng bát ngát, lá xanh vươn cao ngất tận trời. Đệ mừng lắm, có rừng là có thú. Chờ một hồi lâu. Cha mẹ trở ra, dẫn Đệ vào bái tạ Phương trượng. Đệ thấy một vị sư già, râu tóc bạc phơ, mặt hồng hào, dáng điệu hiền lành. Vị sư không nhìn tới Đệ, ra lệnh cho một chú tiểu hướng dẫn Đệ đi. Cha mẹ Đệ bùi ngùi từ giã. Ông bà dặn dò Đệ đủ chuyện nhưng Đệ chẳng nhớ điều gì. Căn dặn Đệ nhắm chừng đã đủ, cha mẹ vái lạy phương trượng, cám ơn mấy nhà sư chung quanh rồi cáo lui. Đệ hết nhìn các tượng Phật, bàn thờ, lư hương, ... rồi ngó vách tường, cột nhà .. .. Lúc Đệ nhìn lại, bắt gặp ánh mắt Phương trượng nghiêm trang, sắc lạnh. Đệ rùng mình, ngơ ngác. Một chú tiểu bước lại gần, nói như ra lệnh: - Tôi là A Du. Chú mang đồ đạc theo tôi. Đệ nhìn chú tiểu A Du, định cự nự vì lối xưng hô kiểu đàn anh. Mặt A Du non choẹt nhưng có lẽ lớn tuổi hơn nên Đệ nhẫn nhịn. Đầu A Du trơn láng, để tóc ba chỏm. Đệ nhìn A Du rồi tưởng tượng đến lúc các nhà sư trong chùa sẽ cạo đầu mình. Mái tóc dài xỏa vai của Đệ sẽ bị họ cắt phăng đi. Da đầu Đệ sẽ trọc nhẵn như vậy. Đệ ngó A Du, chán nản. Nước da A Du trắng xanh, ánh mắt buồn bã. A Du nói như đọc kinh: - Chú Đệ, có nghe tôi nói không, mang đồ đạc theo tôi về phòng. Đệ gật đầu, nối gót A Du, dật dờ bước đi. Chùa rộng quá, đường xá quanh co, phòng ốc ngổn ngang, Đệ không định được phương hướng. Đệ bắt đầu lo, tìm đường trốn ra khỏi chùa không phải dễ dàng như Đệ tưởng. Đi được một khoảng, Đệ càng cố nhớ càng nhức đầu thêm. Rồi đi một hồi lâu, Đệ hoàn toàn mất phương hướng . Bỗng dưng, A Du rẽ qua một hành lang âm u. Chỗ này, phòng ốc làm bằng gỗ, cũ kỹ. A Du dừng lại trước một căn phòng tối tăm, từ tốn nói: - Đây là phòng của chú. Đệ nản quá, lên giọng: - Anh nói lớn một chút có được không? Anh nói sao giống như đọc kinh vậy. A Du trừng mắt: - Chú không được nói lớn, sư phụ sẽ quở phạt. Đệ hậm hực hỏi: - Sư phụ anh là Phương trượng phải không ? A Du lạnh lùng đáp: - Không phải, Phương trượng lớn hơn sư phụ tôi nhiều lắm. - Thế thì, anh gọi Phương trượng bằng gì ? - Tôi không biết, Phương trượng là sư phụ của sư phụ tôi. Đệ lắc đầu hỏi lại: - Anh nói khó hiểu quá. Phương trượng cao tới hai lần sư phụ, tu gì mà phân nhiều cấp quá vậy ? A Du hoảng hốt bịt miệng Đệ: - Chú coi chừng, nói bậy bị phạt nặng lắm. Đệ hỏi: - Bị phạt như thế nào? - Gánh nước, bửa củi, nấu cơm, quét nhà... Đệ bật cười: - Phạt gì mà nhẹ quá vậy, tôi đâu có sợ. Có khi nào anh bị đánh đòn không ? - Có chớ. Mấy thứ hình phạt mà tôi vừa kể cho chú nghe là dành cho tội nhẹ. - Còn làm thế nào bị tội nặng ? - Ăn mặn, nói dối, uống rượu, trộm cắp... - Ăn mặn cũng bị tội hay sao ? - Đương nhiên. - Nếu gây tội ăn mặn, bị phạt gì ? - Ngồi trong phòng sám hối từ một đến ba ngày, hay hơn nữa. Đệ le lưỡi: - Ngồi trong phòng sám hối thì chán thật. A Du hất hàm nói: - Chú vào phòng. Nhớ, không được nói lớn, không được cười giỡn, chỉ đi chớ không được chạy, còn nhiều chuyện lắm.. . Tôi sẽ dạy cho chú. Đệ ngạc nhiên, trố mắt hỏi: - Anh dạy cho tôi. - Chứ sao. Tôi sẽ dạy chú chữ và nhiều thứ khác. - Vậy anh là sư phụ của tôi. A Du đáp: - Không phải, tôi chỉ là sư huynh của chú mà thôi. Khi nào làm lễ xong, chú phải gọi tôi là sư huynh. Đệ lắc đầu: - Anh lớn hơn tôi chừng năm tuổi là cùng. Ba tôi, các bác, các chú còn dạy chữ cho tôi không nổi nữa mà. Con nít như anh mà đòi dạy chữ cho tôi sao. A Du lạnh lùng nói: - Phương trượng đã cắt đặt công việc cho sư phụ tôi rồi. Sư phụ bảo tôi dạy chữ cho chú. Biết cãi cũng không được gì, Đệ hỏi tiếp: - Thế tên tôi sẽ là gì ? Tôi có được giữ tên cũ không ? - Chú sẽ có tên mới. - Pháp danh phải không ? - Cái gì mà pháp danh. - Tên chú có thể là A Đệ. Đệ vừa thất vọng vừa bực bội: - Cái gì mà A Đệ. Tên tôi là Huỳnh Đệ. Thế thì cứ thêm chữ A trước chữ Đệ là thành pháp danh. - Đó không phải là pháp danh, chỉ là cái tên để mọi người gọi chú, biết không ? A Du nói xong, khoác tay ra hiệu cho Đệ bước vào phòng và trừng mắt, ý chừng bảo Đệ khôn hồn thì câm họng. Đệ im lặng, chẳng phải vì sợ A Du mà chán hắn và cả mọi người trong chùa. Đến chiều, A Du trở lại. Hắn cho biết, từ nay tên gọi của Đệ là A Đệ. Sau đó, hắn trao cho Đệ một mảnh giấy ghi lịch trình làm việc hàng ngày. Xem lướt qua tờ giấy, Đệ không hiểu gì cả, bèn hỏi: - Giấy ghi chuyện gì vậy ? A Du nhìn Đệ với ánh mắt giễu cợt rồi nói: - Từ sáng, chú phải thức dậy sớm và đến phòng tụng niệm chung với mọi người để tụng kinh. Sau đó, chú đi xách nước, quét nhà, bửa củi, khiêng gạo, nhóm lửa. Rồi chú ăn trưa, sau đó tụng kinh và tiếp tục làm những việc ban sáng. Đến chiều, chú được ăn cơm, dọn dẹp, và tụng kinh cho đến tối. Nghe qua, Đệ vừa kinh hãi vừa tức giận, xô A Du qua một bên, quát lớn: - Tôi đi về. A Du chậm rãi nói: - Làm sao chú biết đường mà về. Hơn nữa ai cho phép chú. Đệ nghe A Du nói có lý, bèn quay lại: - Được, tôi sẽ làm việc, nhưng tôi có phạm tội gì đâu. - Tất cả mọi người mới vào đây phải làm những công việc giống nhau như vậy, chứ không phải bị tội. Đệ gật đầu vâng dạ. Từ đó, Đệ chăm chỉ làm việc với mưu toan trốn thoát khỏi chùa. Đệ làm việc cật lực suất ngày như vậy gần một tháng thì một hôm A Du đến, bảo rằng: - Ngày mai, chú sẽ bắt đầu học chữ. Đệ vâng dạ: - Được, anh sẽ dạy cho tôi phải không ? A Du ưỡn ngực nói: - Tôi sẽ dạy chữ cho chú. Khi chú thông thạo chữ, tôi sẽ dạy cho chú học kinh sách. Đệ ngán ngẩm nói: - Từ từ mà, tôi còn phải làm việc, đâu có thì giờ. A Du nghiêm sắc mặt: - Chú không được cãi. Ngày mai có người mới vào, sẽ phụ việc với chú. Lúc ấy, chú sẽ có thì giờ học chữ. Biết thoái thác cũng không được, Đệ đành gật đầu: - Tôi sẵn sàng. A Du lên giọng: - Bắt đầu ngày mai chú phải gọi tôi là sư huynh. Đệ ngước lên nhìn A Du. Mặt hắn trắng xanh, đầu trọc nhẵn, chỉ có ba chỏm tóc. Gọi hắn là sư huynh cũng được nhưng Đệ cảm thấy khó chịu quá : - Này, tôi gọi anh là sư huynh cũng được nhưng anh không được bày đặt chuyện bắt tôi học nhiều. A Du nghiêm giọng, ra vẻ quan trọng: - Không dược. Ngày ta vào chùa, năm năm trước, ta cũng làm mọi chuyên như ngươi. Người sư huynh của ta đã hành hạ ta nhiều lắm. Đệ trợn mắt nhìn A Du, gằn hỏi: - Thế thì, bây giờ anh định hành hạ lại tôi phải không ? A Du lạnh lùng hăm dọa: - Nếu ngươi cãi lệnh ta, tức là cãi sư phụ ta, có nghĩa là bất tuân lệnh Phương trượng. Ta sẽ tâu lên Phương trượng, nhốt ngươi vào phòng sám hối. Đệ nổi nóng, nhất định không nghe lời A Du, không chịu học chữ. Đúng như A Du hăm dọa, chiều hôm sau có mấy chú tiểu nữa đi cùng với hắn đến áp tải Đệ vào phòng tối. Họ nhốt Đệ nhiều ngày. Mỗi ngày, Đệ được hai bữa cơm nguội và nước lạnh. Cứ cuối ngày, A Du đến hỏi: - Chú đã hối tội chưa ? Đệ đáp: - Tôi không có tội. Ngày hôm sau, A Du lại đến hỏi: - Chú biết hối tội chưa ? Đệ một mực trả lời: - Tôi không có tội. Được bảy ngày như thế, Đệ mệt lả và chán chường phòng tối quá. Đến chiều, khi A Du vừa đến, Đệ vội la lên: - Tôi biết tội rồi. A Du gật đầu: - Tốt, ngươi chịu học chữ chứ gì ? Đệ vâng dạ: - Thưa sư huynh, tôi biết tội rồi. Đệ nói vậy, nhưng trong óc tìm hết lời chửi A Du cho thỏa thích. A Du nào biết như vậy, khoái chí lắm, đi gọi người đến thả Đệ ra. Ngày hôm sau, Đệ bắt đầu học chữ. Cũng y như lúc Đệ ở với cha mẹ. A Du dạy được ba chữ thì Đệ quên hết hai. Ngày hôm sau Đệ quên nốt chữ đó . A Du giận lắm, cố sức dạy cho Đệ . Ban đầu A Du còn nói nhỏ nhẹ, khuyên bảo, sau lớn tiếng hơn, nhưng không có kết quả gì khả quan. Một hôm A Du dạy hoài mà Đệ không nhớ, liền lớn giọng thóa mạ : - Ngươi là một thằng ngu. Đệ cãi lại: - Tôi ngu mới để cho anh dạy. A Du tức tối hỏi: - Ngươi nói lời bất kính với ta phải không ? - Đúng vậy. . . A Du không dằn được cơn giận, liền tát Đệ một bạt tai nẩy đom đóm mắt. Nào ngờ, Đệ nổi hung đấm lại một phát khiến A Du té ngửa xuống đất, sặc cả máu mũi. A Du bịt mũi, cố cầm máu, rồi chạy ra ngoài, tri hô lên. Mấy nhà sư của Chấp Pháp Đường đến hài tội và bắt Đệ ra sau chùa. Từ đó Đệ phải ở trong một căn nhà chứa củi, không được tham dự các sinh hoạt tụng niệm và học hành của chùa nữa. Ngoài ra, để đổi lại các bữa ăn, Đệ phải quét lá và dọn đẹp phía sau chùa. Ngay hôm đó sau bữa ăn chiều, hai nhà sư trẻ đến áp tải Đệ ra sau căn nhà chứa củi. Họ dẫn Đệ đi quanh co một hồi rồi đẩy Đệ vào một căn nhà tối om. Đệ không sợ hãi, tìm một xó, quấn mền rách mà ngủ. Sáng hôm sau, Đệ tỉnh dậy đã nghe chim hót líu lo bên ngoài. Chung quanh yên lặng quá , ngoài tiếng chim và lá cây rung xào xạc, Đệ không nghe một âm thanh nào khác. Đệ lần mò đi ra ngoài, mới biết căn nhà chứa củi làm bằng gỗ, khá rộng. Nhà nằm hẳn ra ngoài vòng tường của chùa. Phía sau nhà là rừng cây. Từ nhà đi ra có con đường mòn nhỏ. Đệ không biết con đường này dẫn tới đâu. Suy nghĩ một lúc, Đệ quyết chí trốn khỏi chùa nên gom góp vật dụng, theo con dường mòn mà đi . Buổi sáng vừa bắt đầu, mặt trời chưa lên, sương đêm còn phủ mịt mờ. Không khí mát lạnh khiến Đệ cảm thấy dễ chịu. Vừa đi được một quãng, bất chợt Đệ thấy một người đi loáng thoáng trong sương. Người này đi trước cùng chiều, nên quay lưng về phía Đệ. Đó là một ông già mặc áo xám. Đệ biết các nhà sư trong chùa đều mặc áo vàng. Chỉ những người làm chuyện tạp dịch , hay mới vào chùa như Đệ mới mặc áo xám. Như vậy, chức phận người này chắc hẳn rất thấp trong chùa. Trong buổi sáng tinh mơ, Đệ không biết ông già ra đây làm gì. Đệ thấy ông ấy cầm cây chổi, vừa đi vừa quét lá. Ông già đi thật nhẹ nhàng, tựa như bay trên mặt đất. Đệ đi sau lưng ông già một lúc mà không thấy ông ta quay lại, liền bước nhanh qua mặt ông. Đi được vài bước Đệ tò mò ngoái đầu nhìn lại. Thì ra ông già áo xám là một nhà sư rất già, râu tóc bạc phơ. Tóc ông để dài chứ không cạo như các nhà sư trong chùa. Ông vừa đi vừa quét lá nhưng nhắm nghiền hai mắt. Lạ thay, ông đi không vấp mà cái chổi trên tay ông quét thật đúng lá khô trên đường. Đệ thấy chuyện lạ, thích chí đứng dừng lại, đưa tay ra trước mặt ông. Đột nhiên ông già bước xéo qua bên trái, tránh bàn tay của Đệ rồi tiếp tục bước đi. Hành động của ông già áo xám nhanh quá khiến Đệ nghi ngờ. Đệ liền vòi tay nắm cái chổi của ông. Nhưng bàn tay Đệ còn cách cái chổi một gang tay thì ông già đưa tay nhanh ra trước, hất tung lá khô vào mặt Đệ. Đệ nổi giận, chạy qua mặt ông già, đạp lên cái chổi. Thình lình, ông già xoay ngược cái chổi lại, dùng cái cán gạt mạnh vào chân khiến Đệ té lăn xuống đường. Ông già áo xám cử động vừa nhanh vừa chính xác nhưng mắt không hề mở. Ông nhắm mắt mà như thấy hết mọi vật trước mặt. Đệ tức giận nhưng thích chí, liền đi trước ông già, vừa bước vừa hất lá phía ngoài trở vào đường đi. Lạ thay, Đệ hất chiếc lá nào vào thì ông già nhanh tay quét trở ra. Hai người cứ làm như vậy suốt một khoảng đường dài. Được một hồi lâu, Đệ không nhịn nhục được nữa, phải lên tiếng: - Ông giả bộ nhắm mắt phải không? Ông già làm thinh, bước tới trước, tiếp tục quét lá. Cái chổi di chuyển thật nhanh nhưng không hề trúng chân Đệ. Thấy vậy Đệ chờ cái chổi đến gần liền đá lá ra chỗ khác. Nhưng mặc cho Đệ làm thế nào đi nữa, cái chổi của ông già vẫn bắt trúng lá và hất ra khỏi đường. Đệ và ông già áo xám thi đua nhau như vậy cho đến khi mặt trời lên. Nắng bắt đầu gay gắt khiến Đệ mệt lả, thở hồng hộc . Cuối cùng, Đệ nổi nóng thét lớn: - Ông già, có chịu mở mắt ra không ? Đệ vừa nói xong thì cái chổi trên tay ông già đột nhiên chuyển hướng, lông chổi quất vào chân Đệ rát rát, còn cán thì đập vào đít Đệ một phát . Đệ bị đau quá la hoảng lên: - Ê ông già không chơi như vậy chớ. Đột nhiên, ông già lên tiếng: - Thằng nhỏ kia, chịu thua chưa. Đệ nhảy lùi ra sau, thảng thốt đáp: - Con chịu thua. Ông già áo xám mở mắt ra. Trời sáng tỏ, ánh nắng chiếu nghiêng một bên người ông. Râu tóc ông già bạc trắng nhưng khuôn mặt ông hồng hào, da trơn láng như trẻ thơ. Ông nhìn Đệ, cười hiền hậu: - Ngươi định trốn thoát khỏi chùa phải không? Đệ sợ hãi, nhớn nhác nhìn chung quanh. Ông già bật cười: - Ngươi tưởng ta là người của Chấp Pháp Đường gởi tới để bắt ngươi sao? Đệ lo lắng hỏi: - Ông là ai ? Ông già thản nhiên đáp: - Ta là ta. - Ông tên gì ? - Ta không biết. - Tên của ông mà ông không biết à? Lâu quá, ta quên mất tên ta rồi. - Vậy người trong chùa gọi ông là gì ? - Họ gọi ta là Lão Cuồng. Ngươi cứ kêu ta như vậy được rồi. Đệ lắc đầu: - Ông già rồi, con không dám gọi ông như vậy. - Lão Cuồng là Lão Cuồng. Có gì xấu đâu mà ngươi không dám gọi ta. - Ông bao nhiêu tuổi rồi ? - Sáu mươi năm trước, lúc vào chùa ta được mười tuổi. Đệ thấy ông già nói chuyện hiền lành, cảm thấy bớt sợ: - Vậy lúc đó ông bằng tuổi con. Lão Cuồng nheo mắt nhìn Đệ: - Thế ra ngươi được mười tuổi. Ông già im lặng một lúc rồi hỏi: - Ngươi là thằng bé thông minh. Tên ngươi là gì ? Đệ ngạc nhiên nói: - Con tên Huỳnh Đệ. Từ xưa tới giờ người ta nói con ngu độn, chưa có ai khen con thông minh. Ông già gật gù: - Người đời chỉ thấy bằng mắt, suy nghĩ bằng não làm sao mà biết được. Này, nhà ngươi phạm tội trong chùa rồi định tẩu thoát chứ gì ? Đệ gật đầu: - Dạ phải. - Nhà ngươi đã gây tội gì ? - Con đánh sư huynh. Tại sao ngươi đánh sư huynh ngươi ? - Hắn bắt con phải học chữ. Hắn ép con học. Con học không nhớ nên bị hắn chửi và đánh. - Thế rồi ngươi đánh trả lại sư huynh ngươi ? Đệ bực tức nói: - Hắn không phải là sư huynh con. Từ nay con không gọi hắn là sư huynh nữa. Ông già gục gặc đầu: - Không ai bắt ép được ai. Được rồi, nhà ngươi lại đây. Lão Cuồng dẫn Đệ đến bên một tảng đá, nhỏ nhẹ nói: - Ngươi ngồi đây. Lão Cuồng leo lên tảng đá. Lão moi phía sau tảng đá ra một chai nước và một gói giấy. Bên trong gói giấy có một ít cơm khô . Lão chia cho Đệ một nửa: - Nhà ngươi ăn cơm với ta. Đệ nhảy thót lên, ngồi bên cạnh Lão Cuồng. Hai người vừa ăn cơm khô vừa nhìn xuống phía rừng cây và thung lũng. Đệ vừa ăn vừa hỏi: - Ông nói không nhìn bằng mắt thì nhìn bằng gì ? Còn không nghĩ bằng não thì nghĩ bằng gì ? Lão Cuồng thong thả đáp: - Nếu ngươi nhìn bằng mắt thì ngươi chỉ thấy được những gì phía trước mặt, không thấy được phía sau lưng. Nếu ngươi suy nghĩ bằng não thì ngươi chỉ hiểu những gì có mà không thể hiểu những gì không có. Đệ lắc đầu: - Ông nói gì con không hiểu. Lão Cuồng thản nhiên nói: - Nếu ngươi không chỉ nhìn bằng mắt mà nhìn bằng não thì không những ngươi thấy được những gì trước mặt mà còn thấy cả phía sau lưng và tất cả mọi vật ở mọi nơi. Nếu ngươi suy nghĩ bằng tâm linh thì ngươi hiểu cả những gì có mặt và cả những gì không có. Đệ lắc đầu: - Con không hiểu ông nói gì. Lão Cuồng gật đầu: - Ta quên, ngươi chỉ mười tuổi, làm sao hiểu được, nhưng sau này ngươi sẽ hiểu. Lão Cuồng đưa chai nước cho Đệ: - Ngươi uống chút nước này rồi muốn đi đâu thì đi. Đệ lắc đầu: - Con không biết đi đâu bây giờ. Về nhà, cha mẹ con sẽ đánh chết. Lão Cuồng im lặng một lúc rồi nói: - Ngày xưa, sáu mươi năm trước, ta bị đưa vào chùa cùng lúc với Phương trượng bây giờ. Người tự xưng là sư phụ ta đã dạy ta những điều xằng bậy trong kinh sách. Sau đó, sư phụ ta uống nhằm nước tiểu của ta. Rồi giày sư phụ ta bị trét phân. Vì thế, Phương trượng đời trước phạt ta ra sau chùa quét lá. Sau đó, mọi người quên bẵng ta. Đến khi Phương trượng chết, ta cứ sống ngoài này. Vậy mà đã sáu mươi năm rồi. Đệ trố mắt nhìn Lão Cuồng: - Ông ở ngoài này quét lá đã sáu mươi năm rồi à ? Lão Cuồng gật đầu: - Chứ sao. Sáu mươi năm, ta quen hết mọi vật. - Hèn gì ông nhắm mắt mà thấy hết mọi thứ. - Ta đã bảo ngươi, ta nhìn bằng não mà. Đệ thích chí hỏi: - Thế thì ông nhắm mắt mà thấy được tất cả mọi vật. Ông dạy cho con làm sao nhắm mắt mà câu được cá và bẫy được thú đi. Lão Cuồng gật đầu: - Ta chỉ cho ngươi biết cách chứ không phải dạy , rồi tự ngươi sẽ hành xử. Ta không dạy và ta không là sư phụ của ai cả. - Vậy ông có bắt con học chữ hay không ? - Ta không bao giờ bắt ép ngươi. Đến một lúc nào đó, ngươi sẽ cần học chữ và tự ngươi tìm học. Lúc ấy, dù ta có ngăn cản ngươi cũng không được. - Thế thì con ở đây với ông được không ? - Ngươi muốn ở đây bao lâu cũng được. Ta với ngươi sẽ trò chuyện hàng ngày. Ngươi cùng ta quét lá. Từ đó Đệ ở lại sau chùa. Hàng ngày, Đệ cùng Lão Cuồng quét lá và rong chơi. Cơm nước, ngày hai bữa có nhà chùa lo. Ngày qua, ban đầu Đệ nói chuyện chơi với Lão Cuồng, dần đần Đệ hiểu nhiều hơn. Lão Cuồng gợi cho Đệ suy nghĩ nhiều chuyện. Lão Cuồng chăm chỉ đọc sách. Lão biết rất nhiều thứ. Bất cứ chuyện gì, Lão Cuồng cũng bàn bạc được. Cả chuyện câu cá và bẫy thú, Lão Cuồng chưa hề làm qua nhưng lão không những bàn được mà còn chỉ cho Đệ nhiều cách thức khác, làm sao câu được nhiều cá và bẫy được nhiều thú . Đệ không hiểu tại sao Lão Cuồng biết được. Lão trả lời, đọc sách mà biết được . Sống với Lão Cuồng gần một năm. Đệ cảm thấy cần biết nhiều điều. Nhưng khi Đệ hỏi Lão Cuồng, có lúc lão giải thích, có lúc lão bảo tìm trong sách mà đọc. Đệ bèn năn nỉ Lão Cuồng dạy chữ. Bấy giờ, Lão Cuồng đem giấy mực ra dạy cho Đệ . Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa thay đổi đến ba lần. Thấm thoát, Đệ sống với Lão Cuồng đã được ba năm. Đệ rất thích Lão Cuồng. Lão không bao giờ bắt ép Đệ làm điều gì, nhưng lão biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra cho Đệ. Do đó, lão gợi ý điều gì cho Đệ là trúng ngay điều đó. Một hôm, sau khi ăm cơm chiều, Lão Cuồng bảo: - Tối nay, ngươi đi theo ta làm chuyện này. Đệ gật đầu, không cần biết sẽ làm chuyện gì. Đến nửa khuya, Lão Cuồng đánh thức Đệ dậy, bảo mặc quần áo sậm màu, lấy vải quấn giày lại để đi cho êm. Sau đó, Lão Cuồng ra dấu cho Đệ đi theo. Hai người ra khỏi căn nhà chứa củi, đi về phía chùa. Đệ biết ý Lão Cuồng nên lẳng lặng làm theo mà không hỏi điều gì . Đệ theo lão, trèo qua tường vào chùa. Lão đi rất nhanh, thoăn thoắt. Lão Cuồng rất rành mọi ngõ ngách, chứng tỏ lão thường vào ra chùa. Lão Cuồng dẫn Đệ đi quanh co, khi núp vào chỗ này, khi lách qua ngõ khác để tránh các nhà sư tuần hành trong đêm. Đi một hồi lâu, hai người tới một tòa nhà rất cũ. Lão Cuồng chỉ tấm bảng treo trên cao trước cửa. Nhờ ánh trăng lờ mờ. Đệ đọc được mấy chữ, mới biết tòa nhà dó là Tàng Kinh Các của chùa . Lão Cuồng lấy mấy que cây và một sợi dây, lòn qua khe cửa mở chốt bên trong. Lão hành động rất thuần thục, giỏi hơn cả một tên trộm rành nghề . Đệ theo Lão Cuồng lẻn vào trong, đi men theo các dãy kệ sách. Lão Cuồng rút một cuốn sách trong người ra, để lên kệ, rồi lựa hai cuốn sách, nhét vào trong bọc. Xong, Lão Cuồng đi trở ra, cài chốt y như cũ. Bấy giờ, Đệ mới hiểu những cuốn sách mà Lão Cuồng đọc lâu nay là sách mượn của Tàng Kinh Các trong chùa . Đến sáng hôm sau. Lão Cuồng lấy một cuốn sách ra dạy cho Đệ học. Cứ như thế, nhiều năm trôi qua. Lão Cuồng dạy cho Đệ học rất nhiều sách. Lão rất thông minh và sức hiểu biết sâu rộng vô bờ. Lần đầu lão bảo Đệ đọc sách cho thông. Sau đó, Đệ bàn luận với lão. Cách giải thích của Lão Cuồng khác hẳn trong kinh sách. Lão bảo Đệ: - Người đời dạy cho ngươi vui vì được, ta chỉ cho ngươi biết vui vì mất. Đệ lắc đầu: - Lão Cuồng à, con đi câu để sẩy một con cá, buồn cả một ngày. Con bẫy thú, để sổng một con thỏ. rầu đến ba hôm. Lão bảo con để sẩy cá. sổng thỏ mà vui thì vui làm sao được. Lão Cuồng thản nhiên nói: - Ngươi để sẩy một con cá, buồn một ngày. Nếu ngươi để sẩy ba con cá thì buồn ba ngày. Ngươi làm sổng một con thỏ, rầu ba hôm. Nếu ngươi để sổng hai con thỏ sẽ rầu sáu ngày. Sẩy cá và sổng thỏ đã là mầm mống nghiệp chướng của đời ngươi đó. Ngươi còn buồn rầu là còn chìm đắm trong đạo đời khổ ải. Khi nào, ngươi cảm thấy mất mà vui thì mới nên người.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:32:59 GMT 9
Mặc cho Lão Cuồng nói gì thì nói. Đệ ấm ức không chịu được. Để sẩy cá và sổng thỏ, lại lấy chuyện đó làm vui thì Đệ không nghe lọt tai được.
Một lúc khác, Lão Cuồng nói: - Người đời dạy cho ngươi phải đi tới, ta chỉ cho ngươi biết nơi đâu nên dừng lại và phải biết đi lùi.
Đệ bật cười: - Đi tới thì dễ và đi lùi cũng có gì là khó đâu.
Lão Cuồng bảo: - Ngươi đi tới thì nhanh và dễ dàng. Ngươi đi lui khó khăn và chậm chạp. Tại vì mắt ngươi ở phía trước mặt.
Đệ mỉm cười hỏi: - Nếu con có hai mắt ở sau lưng thì sẽ lùi dễ hơn phải không ?
Lão Cuồng lắc đầu. - Mọi người được sinh ra chỉ có hai mắt phía trước. Ngươi đừng có tham lam đòi hỏi nhiều mắt. Ngươi cứ tưởng tượng xem, một người có bốn mắt sẽ trông quái dị như thế nào. Tại vì ngươi nhìn bằng mắt cho nên chỉ thấy được phía trước. Như ta đã nói, ngươi nhìn bằng não không những thấy được phía trước mà luôn cả phía sau và khắp mọi bề.
- Như vậy, con phải làm sao để nhìn bằng não ? Chừng nào con mới nhìn bằng não được ?
Lão Cuồng thong thả đáp: - Con người có lục quan, thông thường chỉ xử dụng một quan cho một việc.
Đệ bật cười: - Ai cũng nói con người có ngũ quan, sao lão bảo có tới lục quan?
Lão Cuồng giải thích: - Thật sự con người có tới lục quan. Năm quan đầu là thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, và xúc giác. Đồng thời con người có thất khiếu là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, và miệng. Người ta dùng mắt cho thị giác, dùng tai cho thính giác, dùng mũi cho khứu giác, dùng miệng lưỡi cho vị giác, dùng da cho xúc giác. Nhưng con người không biết dùng cái gì cho giác quan thứ sáu là trực giác.
Đệ lắng tai nghe. Những điều mà Lão Cuồng nói quả nhiên hợp lý, nhưng Đệ không hiểu được giác quan thứ sáu là gì.
Lão Cuồng hỏi: - Ngươi dùng cái gì cho giác quan thứ sáu ?
Đệ lắc đầu: - Con không biết.
Lão Cuồng từ tốn giải thích. - Giác quan thứ sáu là trực giác quan trọng hơn cả . Trực giác vô hình, vô sắc, vô thanh, vô vị. Ngươi phải biết dùng trực giác, phải dùng tâm linh cho trực giác. Giác quan thứ sáu này có uy lực vô biên, phối hợp cả ngũ quan kia.
Đệ lắc dầu: - Con không hiểu. - Nhưng ngươi có nhớ không? - Dạ có. - Được lắm. Với trực giác, ngươi không mở mắt mà thấy, không dùng tai mà nghe được, không cần mũi mà ngửi được, không dùng lưỡi mà biết vị, không sờ mà biết được. - Con vẫn không hiểu. - Nhưng ngươi có nhớ không? - Dạ có. - Hay lắm. Cho thị giác, ngươi không chỉ dùng mắt mà còn dùng não để thấy. Cho thính giác, ngươi không chỉ dùng tai mà còn dùng mắt để nghe. Cho khứu giác, ngươi không chỉ dùng mũi mà còn dùng não để ngửi. Cho vị giác, ngươi không chỉ dùng lưỡi mà còn dùng mắt để nếm. Cho xúc giác, ngươi không chỉ dùng tay mà dùng mắt và tay để sờ.
Lão Cuồng nói huyên thiên một hồi khiến Đệ hoang mang, không biết lão nói cái gì.
Đệ thảng thốt nói: - Con không hiểu gì cả. - Nhưng ngươi có nhớ không? - Con cảm thấy mơ hồ, không chắc có nhớ hay không.
Lão Cuồng mừng rỡ nói: - Tốt lắm, ngươi là đứa trẻ thông minh và thành thật.
Rồi Lão Cuồng và Đệ đi quét lá, xong, họ trở về căn nhà chứa củi ăn cơm .
Được vài ngày, đến đêm, Lão Cuồng lại dẫn Đệ vào Tàng Kinh Các của chùa tìm sách khác. Nơi đây, nhà chùa có đủ loại sách, không chỉ có sách về Phật giáo mà còn có đủ sách của các đạo khác. Lão Cuồng lần lượt, qua nhiều năm, chọn cho Đệ hết sách này đến sách khác.
Thời gian trôi qua, Đệ ở sau chùa quét lá với Lão Cuồng được bảy năm. Bấy giờ Đệ đã lớn, trở thành một thanh niên tuấn tú. Trong khoảng thời gian đó, cha mẹ Đệ bệnh nặng, lần lượt qua đời. Đệ về lo chôn cất cha mẹ rồi trở lên sống với Lão Cuồng.
Một hôm, trong khi quét lá, Lão Cuồng nói: - Tuần sau, chùa sẽ có buổi thi quan trọng.
Đệ nhìn Lão Cuồng, không nói gì. Lâu nay sống với Lão Cuồng, dần dà Đệ chẳng màng chuyện gì khác. Nhưng lần này, vẻ mặt lão Cuồng có vẻ quan trọng, khiến Đệ phải suy nghĩ.
Lão Cuồng nói tiếp: - Cứ bảy năm một lần, triều đình cho người đi tuyển sư phụ cho vua. Chùa Bạch Vân này có tiếng tăm như nhiều nơi khác nên được triều đình chọn là một địa điểm thi.
Đệ thản nhiên nói: - Người trong chùa dự thi đâu có liên can gì đến chúng ta. - Có chớ, ta và ngươi cũng thuộc về chùa. Bao nhiêu năm nay chúng ta ăn cơm và quét lá cho chùa, ngươi không nhớ sao. - Con nhớ chớ. Chúng ta vẫn quét lá hàng ngày mà. - Này, ta bảo cho biết. Ta già rồi, nhưng ngươi còn trẻ, phải ra dự thi.
Đệ lắc đầu: - Lão đã dạy con phải biết đi lùi. Hôm nay, lão xúi con đi tới
Lão Cuồng mỉm cười: - Ngươi học những gì của ta thì phải biết vận dụng. Ngươi phải đi tới rồi mới lùi được, có phải không? Từ trước tới giờ, ngươi chưa đi tới bao giờ mà, thế thì ngươi lui chỗ nào.
Đệ ngẫm nghĩ một lúc, gật đầu: - Lão nói đúng.
Lão Cuồng gục gặc đầu. giải thích tiếp: - Tới và lui dựa nhau mà hành xử. Người ta chết vì biết tới mà không biết lui. Người ta trở thành ngu si, đần độn vì biết lui mà không biết tới. Ngươi chỉ lui sau khi đã đi tới. Ngươi không thể tới mãi mà cũng không thể lui mãi. Khi nào tới và khi nào lui, ngươi phải thông hiểu điều đó.
Đệ gật đầu: - Dạ.
Lão Cuồng tiếp: - Hơn nữa, nhà ngươi còn trẻ, ngươi phải ra đời lập thân, lấy vợ đẻ con, làm nên công danh sự nghiệp cho đất nước. - Dạ. - Tốt. Mỗi bảy năm, triều đình cử người tới chùa này để tuyển sư phụ cho vua. Nhưng hơn nửa thế kỷ qua, chùa Bạch Vân này cũng như các nơi khác, chưa có ai được chọn.
Đệ suy nghĩ một lúc rồi hỏi: - Vậy thì đề thi chắc khó lắm? - Khó hay không, tùy ở con người. Bao nhiêu năm qua đề thi chỉ có một không hề thay đổi, mà không ai trúng tuyển. Những kẻ lớn tuổi như Phương trượng và ta đều biết rõ, chỉ có một đề thi mà thôi. Đề thi này do một vị vua đời trước bày ra gần một thế kỷ rồi.
Đệ ngồi im lặng. Dự thi hay không, Đệ không suy nghĩ tới nên không hỏi.
Lão Cuồng biết vậy nên nói tiếp: - Ngày xưa, vị vua đó cho làm ra một bia đá, khắc một bài thơ bằng một thứ chữ cổ. Cách thi rất đơn giản, thí sinh phải đọc và nhớ thuộc lòng bài thơ, chép lại nguyên bản trên giấy và dịch ra cho mọi người hiểu. Vị hoàng đế ấy cho biết rằng, khi nào có người nhớ hết cả bài thơ trong thời gian ngắn như vậy là lúc ngài tái sinh, và phải chọn người đó làm sư phụ cho vua.
Đệ lắc đầu: - Lão nói cách thi đơn giản nhưng phải có khó khăn như thế nào nên bao nhiêu năm nay không có người trúng tuyển.
Lão Cuồng gật đầu: - Đúng vậy. Họ để tấm bia vào trong một bồn nước rồi cho quân sĩ múc nước đổ vào bồn. Khi nước đầy bồn thì ngập hết tấm bia. Lúc đó thời gian của buổi thi chấm dứt.
Đệ vẫn lắc đầu: - Con đi thi làm gì, sống nơi đây với lão cũng được rồi.
Lão Cuồng ung dung nói: - Ta không ép ngươi nhưng cha mẹ ngươi luôn luôn muốn ngươi trở thành người có công danh và sự nghiệp. Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ.
Lão Cuồng nói xong, cùng Đệ đi quét lá. Lão ung dung làm việc, thư thái mà sống. Từ đó, lão không nhắc gì tới chuyện dự thi nữa.
Đệ chờ Lão Cuồng đề cập đến chuyện dự thi nhưng không nghe lão nói gì. Hình như lão quên bẵng chuyện đó.
Một hôm, trời vừa hừng sáng, Lão Cuồng đánh thức Đệ dậy: - Ngươi có đi với ta xem lễ hay không ?
Đệ sống với Lão Cuồng quá lâu, hiểu rõ tính lão, vốn không ưa náo nhiệt. Đột nhiên, sáng nay lão rủ Đệ đi xem lễ khiến Đệ ngạc nhiên: - Lễ ở đâu ? - Hôm nay, trong chùa có làm lễ thi tuyển sư phụ cho vua. Ngươi theo ta đi xem cho vui .
Đệ biết Lão Cuồng có dụng ý khác, chẳng phải vì vui và náo nhiệt mà lão mời mọc Đệ đi chơi. Đệ nhớ tới lời đề nghị của lão hôm trước nên lòng rộn rã , muốn biết người ta tổ chức thi như thế nào. Đệ gật đầu: - Con đi với lão.
Lão Cuồng ậm ừ nói: - Ngươi muốn đi thì theo, chứ ta không ép. - Dạ, con muốn đi mà . - Được.
Lão Cuồng moi sau đống củi ra một cái gói bọc bằng giấy dầu. Lão mở ra, bên trong có bộ quần áo màu xám còn mới. Lão nói: - Ta cho ngươi áo mới đi dự lễ.
Đệ ngạc nhiên hỏi: - Lão tìm bộ quần áo này ở đâu ?
Thấy Đệ nhìn với ánh mắt nghi ngờ, Lão Cuồng liền cải chính: - Bộ quần áo này của mấy tên sư trẻ trong nhà bếp cho ta.
Đệ gật đầu nói: - Con tin lão, nhưng chẳng phải lão xin đâu. - Ta không ăn trộm quần áo của ai. - Lão không ăn trộm nhưng lão lại gạt mấy tên trong nhà bếp chuyện gì đó để lấy bộ quần áo này.
Lão Cuồng gật đầu: - Đúng vậy, chúng nó thua trí ta.
Đệ bật cười: - Lão cá với họ chuyện gì ?
Lão Cuồng mỉm cười, thú thật: - Đâu có chuyện gì lạ . Bọn chúng đâu biết ta nhắm mắt mà thấy được, nên cá với ta. Thế là cả bọn đều thua. - Lão cá với họ chuyện gì. - Ta đưa chúng nhiều viên sỏi . Bảo chúng nó giấu mấy viên sỏi trong lòng bàn tay. Nếu ta nói đúng số viên sỏi, ta thắng, thì họ thua . - Con biết đương nhiên họ thua, nhưng làm cách nào mà lão thắng được.
Lão Cuồng thản nhiên nói: - Ngươi theo ta khá lâu mà chưa biết sao? Mỗi khi tên nào giấu bao nhiêu viên sỏi, chúng nó đều nhìn vào lòng bàn tay trước. Thế rồi, ta nhìn vào mắt chúng, ta đọc được hết. Ta có bao giờ thèm nhìn vào bàn tay nắm chặt của chúng đâu.
Nói xong, Lão Cuồng thúc giục: - Ngươi thay quần áo rồi chúng ta đi.
Đệ cởi bộ quần áo rách nát ra, mặc bộ mới vào. Lão Cuồng nhìn Đệ, tấm tắc khen: - Quả nhiên ngươi không xấu, thật xứng đáng là sư phụ của vua.
Đệ giật mình hỏi: - Lão vừa nói gì ?
Lão Cuồng nói lảng sang chuyện khác: - Ngươi theo ta đi mau.
Hai người ra khỏi nhà chứa củi, trèo qua bức tường, vào phía sau nhà bếp của chùa. Sáng nay, trong chùa thật vắng lặng, chỉ còn vài người lo chuyện nấu bếp và canh phòng.
Lão Cuồng nói nhỏ: - Họ ra ngoài chánh điện rồi.
Lão vừa nói vừa đi thật nhanh. Đệ sống với Lão Cuồng đã lâu, chỉ thấy lão đi khoan thai, nhẹ nhàng. Chưa bao giờ Đệ thấy lão đi nhanh. Người Lão Cuồng tuy đi nhưng tựa như bay trên mặt đất. Đệ rán sức chạy theo nhưng không đuổi kịp, đành gọi vòi theo: - Lão làm gì mà chạy nhanh quá vậy. - Ta đang đi mà .
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, thoáng chốc đã đến một tòa nhà thật rộng. Lão Cuồng đi vào cửa phía bên phải. Đệ thấy bên trong có rất nhiều người. Các nhà sư của chùa ngồi hai bên thành ba dãy. Phía trên bày hương án, ngay dưới là một dãy bàn, có nhiều người ngồi. Chính giữa có bốn vị quan mặc triều phục xanh, đỏ, đen, vàng. Kế đó là Phương trượng và ba nhà sư già nữa. Đệ thấy Lão Cuồng ngang nhiên đi vào. Mọi người trong sảnh đường đều nhìn lão, lấy làm kinh ngạc.
Một nhà sư đứng gần cửa đưa tay chận Lão Cuồng lại: - Nam mô A Di Đà Phật, xin thí chủ dừng chân .
Lão Cuồng ung dung hỏi: - Ta vào trong kia được không?
Nhà sư liền hỏi: - Thí chủ là ai? - Ta là Lão Cuồng.
Nhà sư ngơ ngác hỏi: - Lão Cuồng là ai ? Tại sao thí chủ xâm nhập vào bổn chùa ?
Lão Cuồng ngạc nhiên hỏi: - Ta ở trong chùa này mà .
Nhà sư liền nạt: - Thí chủ đừng nói những điều không thật. - Ta ở đây đã sáu mươi năm rồi mà ngươi không biết sao ?
Trong sảnh đường đang im lặng nên cuộc đối thoại của hai người vang rõ mồn một .
Hai vị sư phía trên thềm điện liền bước xuống. Một trong hai người là Phương trượng của chùa . Vị sư kia liền hỏi: - Thí chủ là ai ? Tại sao dám đường đột vào đây ?
Lão Cuồng nhíu mày nhìn sắc phục của nhà sư rồi nói: - À, ngươi là thủ tọa của Chấp Pháp Đường. Ngươi vào chùa được bao nhiêu lâu rồi? - Ta vào chùa được bao lâu có liên can gì đến thí chủ? - Có chứ. Có lẽ ngươi vào chùa sau này nên không biết ta.
Hai người đang đối đáp, chợt Phương trượng lên tiếng: - Vô Chấn, lâu nay ông mạnh giỏi chớ? Lão Cuồng bật cười: - Thế ra cũng có người nhớ tên ta. Vô Chung, ta vẫn khỏe mạnh, nhưng ông chắc thường đau ốm luôn .
Lão Cuồng vừa nói xong thì các nhà sư trong chùa đều đứng lên, lộ vẻ giận dữ.
Lão Cuồng thản nhiên nói: - Tên thầy của các ngươi có gì đâu mà phải úy kỵ . Nhà sư thủ tọa Chấp Pháp Đường liền lên tiếng: - Lão Cuồng, Phương trượng đời trước đã phạt ông không được vào chùa, tại sao ông cãi lệnh ?
Lão Cuồng bật cười: - Chuyện Phương trượng đời trước phạt ta cách đây hơn năm mươi năm rồi. Lúc ngài viên tịch đã quên mất ta. Nếu nhớ, ngài đã tha tội cho ta rồi. Ta lỡ để cho sư phụ ta uống nhằm nước tiểu của ta, hay trét phân vào giày sư phụ ta, chẳng lẽ tội ấy nặng đến nỗi phải phạt hơn năm mươi năm hay sao ? Ngươi là thủ tọa Chấp Pháp Đường, làm việc tắc trách, không nhớ ai bị phạt trong chùa để đem ra duyệt xét. Ngươi bỏ ta sau chùa bao nhiêu năm nay, tội làm việc thiếu xót ấy đáng bị xử như thế nào ?
Lão Cuồng nói thao thao bất tuyệt, tranh luận thật hùng hồn. Đệ không ngờ, cứ tưởng lão không biết nói chuyện .
Nghe Lão Cuồng hạch sách thủ tọa Chấp Pháp Đường, Phương trượng liền can thiệp: - Vô Chấn, ông không được nói chuyện vô lễ như vậy. Chuyện của ông, ta sẽ cứu xét sau buổi thi này .
Lão Cuồng ung dung nói: - Hơn năm mươi năm nay ta không chính thức vào chùa, nhưng hôm nay ta trở lại chẳng phải vì chuyện năm xưa. Ta chỉ xin Phương trượng cho thằng nhỏ kia được dự thi .
Lão Cuồng vừa nói vừa chỉ về phía Đệ. Mọi người đều quay lại nhìn .
Đệ mặc quần áo xám, tăng chúng đều biết chức phận Đệ rất thấp. Đệ lại quá trẻ nếu so với ba người được chùa tuyển lựa để dự thi, đều đã hơn bốn mươi .
Thủ tọa Chấp Pháp Đường kề tai phương trượng nói nhỏ .
Vừa nghe xong, Phương trượng lên tiếng ngay: - Thí chủ , trẻ đó phạm tội đánh sư huynh, chưa mãn hạn tội.
Lão Cuồng điềm nhiên nói: - Ta không bàn về chuyện đó. Ta chỉ muốn nói rằng, nước tiểu ta.. .
Lão Cuồng chưa nói xong thì Phương trượng cất cao giọng nói át: - Vô Chấn, ngươi không được nói chuyện điên giữa chỗ trang nghiêm như thế này .
Mọi người đang theo dõi cuộc đối đáp của Phương trượng và Lão Cuồng thì vị quan mặc triều phục đỏ đứng dậy, bực tức nói: - Quí vị muốn giải quyết chuyện nội bộ ở đây hay là chúng ta hủy bỏ cuộc thi .
Giọng người này vang lên sang sảng trong sảnh đường .
Phương trượng nghe xong, liền quay lại cúi đầu: - A Di Đà Phật, xin đại nhân cho bắt đầu cuộc thi. Ta đồng ý cho thí chủ trẻ kia được tham dự cuộc thi .
Lời tuyên bố của Phương trượng làm mọi người ngỡ ngàng. Tuy vậy, họ lại nghĩ rằng Phương trượng vì danh dự của Phật môn mà phải chịu như vậy .
Sau lời tuyên bố của Phương trượng mọi người trở về chỗ cũ .
Lão Cuồng tiến lại gần Đệ, nói nhỏ: - Ngươi phải nhớ, không chỉ nhìn bằng mắt mà còn nhìn bằng não. Người ta đi tới thì ngươi phải biết đi lui. Người ta đi thuận thì ngươi phải đi ngược .
Lão Cuồng vừa dứt lời thì một nhà sư bước tới, dẫn Đệ đến ngồi trên một cái ghế bên cạnh ba nhà sư dự thi. Họ đang ngồi phía trước, gần thềm đại điện.
Lão Cuồng lẳng lặng lui ra phía sau.
Một người trong bốn vị quan giám khảo gõ một tiếng chuông. Tức thì tất cả mọi người trong sảnh đường đều quay mặt ra sau, ngó vào tường. Rồi mỗi người rút ra một khăn đen, tự bịt mắt. Ba nhà sư dự thi cũng hành động y như vậy.
Đệ còn đang ngơ ngác thì một nhà sư bước tới, lấy khăn đen bịt mắt Đệ rồi xoay Đệ ra phía sau.
Một tiếng chuông nữa vang lên.
Bốn quân sĩ khiêng một bia đá từ phía sau, để vào bồn nước thật lớn ở giữa sảnh đường. Thí sinh ngồi trên ghế, có thể nhìn trọn tấm bia và đọc được hết chữ của bài thơ. Thời gian thi không lâu mà cũng không mau. Khi nào nước trong bồn ngập hết tấm bia là xong một lần thi.
Một tiếng chuông vang lên.
Nhà sư đầu tiên bên phải được quay lại và mở khăn bịt mắt ra. Trước mắt người dự thi là tấm bia bằng đá hoa cương có khấc nguyên một bài thơ bằng chữ cổ. Nét khắc thật sâu và rõ ràng.
Trong khi nhà sư dự thi ra sức đọc và cố nhớ bài thơ trên tấm bia đá thì bốn quân sĩ gánh nước đổ vào bồn. Tiếng chân người di chuyển rầm rập và tiếng nước đổ xào xát, ùng ục. Bốn người này mang áo giáp, đeo gươm, gắn lục lạc, nên mỗi khi di chuyển phát ra những tiếng leng keng, lẻng xẻng .
Nước trong bồn càng lúc càng dâng cao lên, thời gian càng thu ngắn lại. Dần dần, trên trán nhà sư bắt đầu lấm tấm mồ hôi, vẻ mặt căng thẳng hơn, và thần sắc càng mệt mỏi. Khi nước ngập đầy bồn thì cũng vừa che lấp tấm bia. Một tiếng chuông vang lên. Nhà sư dự thi được dẫn đến cái bàn đối diện với bốn vị quan. Nơi đó có giấy bút sẵn sàng. Nhà sư liền ngồi xuống hí hoáy chép ngay.
Kết quả không khả quan. Bốn vị giám khảo đều lắc đầu. Nhà sư này không nhớ được một phần sáu bài thơ, lại nhớ loạn lên, đảo lộn cả thứ tự trước sau, trên dưới .
Đến nhà sư thứ hai, kết quả không khá hơn: Chỉ nhớ được chừng một phần năm và lộn xộn chữ và câu.
Phiên nhà sư thứ ba , khá nhất, nhớ được một phần tư, giữ đúng được thứ tự.
Bốn vị quan mỉm cười thoải mái .
Cuối cùng, đến phiên Đệ. Mọi người trong sảnh đường nhìn thấy Đệ còn quá trẻ, bộ dạng ngơ ngác, đều tỏ vẻ xem thường .
Tiếng chuông bắt đầu.
Bốn quân sĩ cũng di chuyển, đổ nước vào bồn. Những âm thanh của họ phát ra thật ồn ào. Nào tiếng chân đi, tiếng lục lạc, áo giáp, gươm chạm nhau, rồi tiếng nước đổ chạm vào thành bồn. Hình ảnh xoay chuyển và âm thanh náo động làm Đệ xao lảng ngay từ phút đầu.
Đệ thấy những chữ trên bia đá bắt đầu nhảy múa loạn lên, chữ này trợt lên chữ kia, hàng này chồng lên hàng nọ. Đệ đang hoang mang, chợt nghe lời Lão Cuồng văng vẳng bên tai, không chỉ nhìn bằng mắt mà còn nhìn bằng não..., không chỉ nhìn bằng mắt mà còn nhìn bằng não...
Ráng trấn tỉnh, Đệ nhìn thẳng vào tấm bia, cố nhớ thật kỹ rồi từ từ nhấm mắt lại. Lạ thay, bao nhiêu hình ảnh và âm thanh rối loạn không còn nữa. Giữa một vùng tối mờ, hiện ra trước mặt Đệ nguyên tấm bia đá với trọn cả bài thơ. Đệ lại nghe lời Lão Cuồng nhắc nhở, người ta đi tới thì ngươi phải biết đi lùi, người ta đi thuận thì ngươi phải biết đi ngược...
Vừa nghe xong, Đệ tỉnh ngộ ngay. Đệ bắt đọc ngược từ chữ cuối cùng, đi trở lên. Người ta đọc từ phải qua trái thì Đệ nhớ từ trái qua phải. Lạ lùng thay, khi đọc ngược thì nghĩa bài thơ bày tỏ ra rõ ràng.
Đệ vừa đọc vừa cố nhớ. Đệ nhớ được chừng phân nửa bài thơ thì tấm bia đá với bài thơ trước mặt Đệ vụt biến mất. Đệ mở mắt ra, bị chi phối ngay bởi hình ảnh rối loạn và âm thanh xao động ầm ĩ. Trong bồn, nước đã ngập gần nửa tấm bia. Đệ nhìn kỹ, cố nhớ rồi nhắm mắt lại. Lần này, Đệ nhớ được thêm một phần tư nữa của bài thơ thì hình ảnh trong não lại biến mất. Đệ mở mắt ra, nước trong bồn dâng lên xấp xỉ ba phần tư tấm bia rồi. Đệ theo phương pháp của Lão Cuồng đã chỉ, nhắm mắt lai cố nhớ phần còn lại.
Khi Đệ vừa nhớ trọn bài thơ thì tiếng chuông vang lên. Đệ mở mắt ra, trong bồn, nước đã ngập phủ hết lấm bia. Cả bài thơ đã bị chìm trong nước, Đệ chầm chậm đứng lên, bước theo nhà sư hướng dẫn đến trước mặt bốn vị quan. Đệ ngồi xuống nhắm mắt lại và cầm bút lên.
Bốn vị giám khảo và bốn nhà sư ngồi kế cận là Phương trượng, thủ tọa Chấp Pháp Đường, La Hán Đường, Tàng Kinh Các đều trố mắt ngạc nhiên. Họ không ngờ Đệ có hành động lạ lùng như vậy. Trong đời, họ chưa bao giờ thấy ai vừa nhắm mắt vừa viết chữ .
Đệ ngồi đối diện với bốn vị giám khảo. Khi Đệ chép tới nửa bài thơ thì thần sắc bốn vị bắt đầu thay đổi. Đệ cứ chép thong thả. Từ trong ngọn bút của Đệ, chữ cứ tuôn ra không ngừng.
Đột nhiên vị quan áo đỏ cười lên hăng hắc như một đứa trẻ. Vị quan áo xanh đổi sắc mặt tái nhợt. Vị quan áo vàng khóc rưng rức, tức tưởi. Còn vị quan áo đen ngơ ngác nhìn quanh.
Bốn người đều già, da mặt nhăn nheo và tóc bạc, biểu lộ ra bốn sắc thái khác nhau.
Khi Đệ viết xong chữ cuối cùng của bài thơ thì bốn vị giám khảo đã đến trạng thái quá độ. Vị áo đỏ gập người mà cười hăng hắc. Vị áo xanh ngồi im tái nhợt như một xác chết. Vị áo vàng khóc hu hu, kêu gào thảm thiết. Vị áo đen ngơ ngẩn như một kẻ mất hồn .
Tăng chúng trong sảnh đường không biết Đệ làm chuyện gì mà khiến bốn vị giám khảo đang oai vệ trong triều phục lộng lẫy, đột nhiên biểu lộ như bốn kẻ điên khùng .
Nguyên bốn vị quan này. Vị áo đỏ là hoạn quan đã phục vụ cho Hoàng đế, người làm ra tấm bia và bài thơ đó, còn ba người kia là học trò của ngài .
Mọi người trong hội trường đang ngơ ngác thì bốn vị quan, đột nhiên đứng lên, bước ra trước mặt Đệ, sụp xuống lạy .
Vị áo đỏ kêu lên: - Thái thượng, thái thượng .
Ba vị kia tung hô: - Sư phụ, sư phụ,.. .
Đệ hoảng hốt đứng dậy, loạng choạng bước ra sau.
Bốn vị quan bước tới bằng đầu gối, không ngớt gọi: - Thái thượng, sư phụ, sư phụ, sư phụ .
Cả sảnh đường xôn xao. Phương trượng phải đứng lên, ra hiệu cho mọi người im lặng .
Ba vị thủ tọa của Chấp Đường, La Hán Đường, và Tàng Kinh Các lần lượt bước ra cúi đầu chào: - A Di Đà Phật, các bần tăng xin chúc mừng ngài .
Đệ còn hoảng hốt, lắp bắp hỏi: - Tôi đã làm gì ?
Thái độ thất thần của Đệ càng làm cho bốn vị quan tin hơn nữa. Họ quì lạy liên hồi, dập đầu xuống nền đá đến chạy máu trán .
Phương trượng thấy cảnh tượng thương tâm quá liền bước lại gần Đệ, khuyên nhủ: - Ngài hãy mau mau cho phép họ đứng dậy. - Tôi, tôi.. .
Phương trượng giải thích: - Họ nghĩ rằng ngài là Hoàng đế đời trước tái sinh .
Bấy giờ Đệ mới hiểu ra, liền hỏi: - Tôi phải làm sao ?
Phương trượng ôn tồn nói: - Bây giờ ngài là một người khác rồi. Tiếng nói của ngài có uy lực vô biên. Ngài hãy cho phép họ đứng lên .
Đệ liền dõng dạc nói: - Bốn người đứng lên mau .
Bốn vị quan lật đật đứng dậy. Họ đứng xuôi tay thật nghiêm túc. Trên nét mặt họ vẫn giữ nguyên sắc thái ban đầu .
Bấy giờ, tăng chúng trong sảnh đường mới trông thấy họ rõ ràng.
Vị áo đỏ vẫn cười toe toét. Vị áo xanh còn tái nhợt. Vị áo vàng khóc rưng rức, nước mắt chảy xuống đầy mặt. Vị áo đen ngơ ngẩn, thất thần .
Bọn quân sĩ đã dọn dẹp mọi thứ, cùng đám tùy tùng tiến lên, xếp thành hai hàng chờ lệnh .
Một lúc lâu sau, bốn vị quan dịu bớt xúc động. Vị áo đỏ nói với phương trượng: - Hơn năm mươi năm, qua biết bao kỳ thi chúng tôi chưa thấy ai nhớ nỗi quá nửa bài thơ. Mà bây giờ... thật may mắn, Thái thượng đã chọn chùa Bạch Vân làm chỗ tái sinh .
Vị áo xanh tiếp lời: - Chúng tôi sẽ tâu với hoàng thượng sắc phong cho chùa Bạch Vân làm Quốc Tự .
Vị áo vàng cũng nói: - Chúng tôi cũng xin hoàng thượng chu cấp bổng lộc cho chùa đời đời .
Vị áo đen phụ họa: - Chúng tôi cũng xin Hoàng thượng một ngân khoản lớn để trùng tu chùa Bạch Vân .
Phương trương và các Thủ tọa cúi đầu nói: - Đa tạ các đại nhân .
Vị áo đỏ nói tiếp: - Chúng tôi phải hộ tống Thái thượng về ngay kinh đô .
Các vị quan kia cùng gật đầu: - Chúng tôi cử người cấp báo cho Hoàng thượng ngay. Bây giờ xin phương trượng cho chúng tôi được cáo từ .
Trong khi mọi người đang nói chuyện, Lão Cuồng đi lại gần .
Vị áo đỏ chỉ lão hỏi nhỏ: - Người này là ai?
Phương trượng đáp: - Người này tên là Vô Chấn, một người làm việc trong chùa .
Vị áo xanh hỏi: - Ông ấy liên hệ như thế nào với sư phụ ?
Phương trượng còn đang ngập ngừng thì Lão Cuồng bước lại gần: - Chúng tôi chỉ là bạn hữu .
Lão Cuồng quay sang phía Đệ: - Ngươi phải cẩn thận, từ nay trở đi không còn ta bên cạnh nữa đâu .
Đệ cúi đầu vâng dạ: - Con biết .
Lão Cuồng quay lưng bước đi. Lúc đi ngang Phương trượng, lão nói: - Nước tiểu của ta không khai và phân ta không thối như vậy .
Mọi người nghe Lão Cuồng nói đều ngơ ngác. Họ tưởng lão nổi cơn điên. Nhưng Phương trượng vừa nghe xong, chợt biến sắc mặt, chân tay run rẩy .
Lão Cuồng vừa đi vừa nói vòi lại: - Ta chỉ nói thế thôi .
Đệ nhớ lại câu chuyện mà Lão Cuồng đã kể năm xưa. Lão Cuồng bảo rằng, sư phụ lão uống nhằm nước tiểu của lão. Ngoài ra giày sư phụ của lão bị trét phân. Vì những chuyện đó mà Lão Cuồng bị phạt ra quét lá sau chùa đã gần sáu mươi năm. Tại sao bây giờ, lão nói ra những điều này? Đệ còn đang thắc mắc thì Lão Cuồng đã đi gần tới cửa. Đệ chạy theo, run giọng nói: - Lão ở lại nhớ bảo trọng .
Lão Cuồng cười hiền hậu: - Ngươi nghe đây.
Đệ cúi đầu ngẫm nghĩ Lão Cuồng lặp lại: - Giữ làm chi cho nhiều không bằng thôi bỏ bớt. Trau chuốt chi cho bén nhọn mà không giữ được lâu dài. Của cải chi cho nhiều để mang thêm phiền lụy. Công thành, việc trọn, nên lui .
Lão Cuồng vừa nói vừa bước đi.
Đệ chạy theo, gọi vòi: - Sư phụ . - Ta không phải sư phụ ngươi. Hãy nhớ những lời ta dặn .
Thoáng qua, Lão Cuồng đã khuất sau khung cửa. Tiếng lão còn vọng lại: - Giữ làm chi cho nhiều không bằng thôi bỏ bớt...
Bốn mươi năm sau. Buổi chiều đông lạnh, mưa phùn, gió bấc. Dinh Tể Tướng nằm im lìm trong sương mờ. Bên trong dinh tối tăm. Chỉ có một căn phòng còn để đèn.
Tể Tướng Huỳnh Đệ đã gần lục tuần, tóc hoa râm, nhưng ông còn khỏe mạnh. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mơ màng nhìn ra khung cửa sổ. Bao nhiêu năm qua, Tể Tướng được từ vua tới dân nể trọng. Ông không những là Thái sư, thầy của vua, mà còn là Tể Tướng có quyền hành cao nhất nước, chỉ dưới vua mà thôi. Tể Tướng được vua trao gươm vàng, tiền trảm hậu tấu. Ngài được quyền đeo gươm, bước lên thềm điện trong buổi chầu. Ngài được quyền mang gươm vào cả trong hậu cung vua. Phu nhân ngài mất sớm, còn hai con, một trai một gái, đã lớn, đều có công danh, sự nghiệp, và gia đình. Tuy quyền cao, chức trọng, giàu sang như vậy nhưng Tể Tướng không vui bao giờ. Lúc nào ông cũng đăm chiêu, suy nghĩ. Chiều nay, ngài ngồi bên cửa sổ như trông đợi chuyện gì .
Chợt có lính hầu vào thông báo có sứ giả phương xa về tới .
Một người trung niên bước vào, quần áo đẫm ướt nước mưa và sương lạnh. Người ấy quì xuống: - Thưa đại nhân, thuộc hạ vừa về tới, vội vàng đến báo cáo cho đại nhân rõ. - Ta nghe đây. - Thưa đại nhân. Thuộc hạ vâng lệnh ngài, nhờ các nhà sư trong chùa chuyển thức ăn và quần áo cho người ấy trong bao nhiêu năm qua nhưng ông ấy vẫn từ chối. Tiểu nhân nghĩ rằng, đại nhân đã biết những chuyện đó rồi. - Ta biết. Còn những chuyện gần đây thì sao? - Thưa đại nhân, các nhà sư cho biết, người ấy càng ngày càng điên nhiều lắm.
Tể Tướng bực bội hỏi: - Tại sao họ bảo ông ấy điên? - Dạ, ông ấy, chẳng những không nhận quần áo và thức ăn mà còn lấy phân và nước tiểu ném vào người các nhà sư.
Tể Tướng trầm ngâm một lúc rồi nói: - Người ấy không bao giờ điên. - Thưa đại nhân... - Ta bảo ông ấy không điên là không điên. Nếu có điên thì ta điên, ngươi điên, hay thiên hạ đều điên. - Thưa đại nhân... - Chuyện gì ? - Các nhà sư... - Ta đã nói với ngươi rồi. Các nhà sư trong chùa không sao hiểu nổi ông ấy. Nếu thiên hạ chỉ có một người sáng suốt, người đó phải là ông ấy. Tể Tướng đứng lên, bước lại gần cửa sổ. Ông nhìn ra ngoài trời lạnh giá. Ông lẩm bẩm: - Ta phải về với ông ấy. - Thưa đại nhân, ngài vừa nói gì ? - Ta đã viết sẵn lá thư cho Hoàng thượng. Ngày mai, ngươi mang thư cùng với ấn tín, và thanh gươm này vào đệ trình cho Hoàng thượng .
Người sứ giả run giọng hỏi: - Thưa đại nhân, tại sao ngài quyết định như vậy ? - Ngươi đừng hỏi. Vì ngươi có biết cũng không thể hiểu nổi. Gần bốn mươi năm nay, ngươi đã theo phò tá ta, một lòng trung kiên. Khi ta đi, một phần tư gia sản của ta, thuộc về ngươi, còn lại ba phần tư, ngươi phân phát hết cho người nghèo. - Thưa đại nhân. Kẻ hèn này chỉ muốn theo ngài. - Ngươi theo ta sẽ không được gì. Bởi vì ta chẳng còn thứ gì. - Đại nhân. - Đây là lệnh. - Dạ, thuộc hạ xin tuân theo. - Trong thư, ta đã căn dặn mọi điều. Ngươi cứ làm theo những gì ta dặn. Ngày mai, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa. Cho ngươi lui. - Dạ , thuộc hạ cáo từ. Xin đại nhân bảo trọng. - Ngươi đi đi.
Chùa Bạch Vân trông cũ kỹ hơn, quanh chùa, cây cối nhiều và già cỗi. Tăng chúng trong chùa đã thay đổi quá nhiều. Chùa đã hai lần đổi Phương trượng .
Một buổi sáng, sau chùa Bạch Vân. Trong sương sớm có hai người vừa đi vừa quét lá. Người đi đầu là một ông già, râu tóc bạc phơ. Người đi sau tuổi quá trung niên, râu đen nhánh, tóc hoa râm. Cả hai vừa đi, vừa nhắm mắt.
Ông già đi đầu, từ tốn nói: - Có một chiếc lá vừa rơi sau lưng ngươi. - Dạ, con vừa biết được. - Tốt. - Có một chiếc lá vừa rơi trước mặt sư phụ. - Ờ, ta cũng biết, nhưng ngươi vừa gọi ta bằng gì ? - Dạ, sư phụ. - Sao ngươi lại gọi ta là sư phụ ? - Sư phụ là sư phụ mà cũng không là sư phụ. Tại sao sư phụ lại trói mình trong hai chữ sư phụ .
Ông già bật cười: - Ngươi giỏi lắm. Bây giờ ngươi gọi ta như thế nào cũng được, Lão Cuồng hay Sư Phụ, có khác gì đâu. - Có một con chim vừa đậu trên vai sư phụ. - Ờ , cứ mặc kệ nó .
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:35:14 GMT 9
Giờ học khó quên Ðặng Ngọc chức Kính tặng nhà văn Võ hồng Nha Trang Từ năm 1955-1975, những ai học trường Trung học Bồ Ðề Nha Trang nói riêng ít nhiều gì cũng được ngắm nét chữ tài hoa, bay bướm, bài giảng ngắn gọn, hàm súc và cốt cách phong lưu, nho nhã của thầy Võ Hồng. Chúng tôi thường kháo nhau: "Kim Trọng hào hoa đến thế là cùng". Thầy thường dạy ba môn: Sinh vật cho học sinh đệ nhất cấp, nay là phổ thông cơ sở. Việt văn và Pháp văn cho đệ nhị cấp, tức phổ thông trung học, nhưng hình như thầy thích dạy môn Sinh vật nhất. Hẳn là thầy muốn dành thì giờ cho việc sáng tác văn học. Thầy không những là nhà văn nổi tiếng, rất được độc giả hâm mộ, mà còn là một nhà giáo uyên bác, kinh nghiệm, nghiêm túc và suốt đời tận tụy với sự nghiệp giáo dục. Những tác phẩm văn học của thầy cũng không ngoài mục đích giáo dục: tán dương cái hay, phê phán cái dở một cách tế nhị, khiêm tốn, nhẹ nhàng. Những tiết học Sinh vật với thầy thật tuyệt vời. Thầy trò làm việc ở lớp lúc nào cũng hài hòa và dung nhiếp như nước với sữa. Thầy dạy thoải mái, ít ghi chép nhưng học sinh nắm được nội dung cơ bản và về nhà học sách giáo khoa. Bài giảng của thầy thường là những nét vẽ kỳ diệu: khi chấm phá trào lộng, lúc đậm đà sâu sắc, tất cả thể hiện vẻ đẹp thanh lịch và nội lực thâm hậu của thầy. Cứ nhìn thầy cắp viên phấn bằng hai ngón tay trỏ và giữa và rồi đi những nét bay bướm, khi hoa lá, côn trùng, lúc cơ bắp, cân cốt từ trái sang phải trên bảng là chúng tôi bắt đầu rọ rạy, liếc nhìn nhau, nhéo nhau và mím miệng để khỏi cười ra tiếng. Thầy chỉ tốn năm mười phút thao diễn điệu nghệ rồi ngồi vào bàn -trông nghiêm nghị như một quan tòa nhưng hiền hòa như ông Bụt- với ngòi bút lăn đều trên trang giấy. Còn đám học sinh chúng tôi tha hồ mà trề môi, méo miệng, tẩy xóa, cà quẹt!... cố chạy theo thầy với tâm trạng khẩn trương, sảng khoái. Một hôm dạy bài thân thể người ta, để học sinh có cái nhìn tổng hợp trước khi đi vào nội dung chi tiết, thầy vẽ khái quát nhưng cực kỳ sinh động. Thứ nhất là một bé gái bụ bẫm, dễ thương đang ngồi "bô", hai tay chống cằm với khuôn mặt thụng xuống. Thế là các cô cúi mặt với nụ cười lỏn lẻn, còn các cậu thì ngẩng đầu, gật gù lia lịa với hai tay ôm miệng. Thứ hai là một thiếu nữ có khuôn mặt trái xoan, dáng người thon thả, tay vịn vành nón bài thơ, chân đi guốc cao gót với tà áo dài nghiêng nghiêng phất phơ theo gió trông hấp dẫn và quyến rũ làm sao! Các cậu đã quá, hai tay nắm lại giật giật, còn các cô thì... hồn đang theo mơ! Thứ ba là bà cụ gầy guộc, hom hem với búi tóc củ hành và cái miệng móm chút xíu đưa tay che trán, nheo mắt như thể đang vọng người thân sắp về, hay đang tìm một cái gì quý hiếm đã mất. Học sinh bấy giờ lặng yên phăng phắc, căng mắt dõi theo từng nét vẽ đậm nhạt tài tình nhưng "buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn". Và thứ tư là bộ xương người thuần túy với những hốc mắt, hốc mũi, hốc miệng sâu hoắm; răng cái còn ái mất; gân cốt hiện ra ngoằn ngoèo, nhìn phát ớn! Các cậu các cô trông rợn người, ngơ ngác; còn nhóm tăng sinh thì vô cùng thán phục bàn tay đạo diễn thâm trầm: bốn hình ảnh, một kiếp người với bốn chặng đường: sanh-lão-bệnh-tử hay thành-trụ-hoại-không đang quay cuồng theo nghiệp cảm duyên khởi trong cơn lốc vô thường, vô ngã, sinh diệt và biến dị. Thầy chỉ phác họa đôi nét mà đáp ứng được nhu cầu kiến thức và thẩm mỹ cho học sinh cả lớp, Tăng cũng như tục. Ðỉnh cao của nghệ thuật giảng dạy là thế. Có lần tiếp xúc với thầy Ðoàn Văn Ðiện, phó giáo sư Tiến sĩ, hiệu trưởng trường Ðại học Dân lập Lạc Hồng, Biên Hòa, tôi hỏi: "Thầy người Phú Yên, vậy thầy có biết thầy Võ Hồng không?". "Biết chứ! Thầy của tôi". Thầy Ðiện nói một cách hãnh diện và trịnh trọng: "Ngày về miền Nam, tôi tìm gặp thầy tôi liền. Chín năm kháng chiến chống Pháp, thầy trò chúng tôi đã từng ăn khoai lang, khoai mì thay cơm và dắt nhau đi tản cư từ lũy tre này đến hầm mương nọ." Nghe nói khoai mì, tôi mới sực nhớ thảo nào có lần thầy vẽ cây mì, cây bắp và cây đu đủ trên bảng, nhưng tôi thấy cây mì đẹp hơn cả, đẹp từ gốc đến ngọn, đẹp từ cọng đến lá. Không biết dân miền Trung (Bình Ðịnh) chúng tôi thấy cây mì đẹp, hay phải chăng linh cảm quê hương của thầy đã được gởi gấm vào lá khoai mì! Rồi một hôm, nhân lúc gác thi môn dịch Việt-Anh, thấy trong đề thi "Thủ thỉ với dòng sông" có đoạn: "Mỗi dòng sông khi gặp trở ngại, khó khăn đều luôn đi vòng để tránh chứ không bao giờ chịu lùi" (Trầm tư Võ Hồng). Tôi cảm thấy vui vui, vì ngót ba mươi năm đó đây nối bước chân thầy, nay lại tình cờ gặp thầy giữa lớp học với bầu không khí trang trọng. Tôi chợt nhớ cái gì trên đời rồi cũng tan biến theo quá trình sanh-trụ-dị-diệt như thầy đã có lần trình bày theo phong cách vô ngôn, chỉ có tâm hồn trong sáng, nhân cách cao thượng được thể hiện qua lời hay ý đẹp thì tồn tại với đất trời miên viễn. Ôi! Vị Lão Sư (chữ Sư này, theo cách viết Hán ngữ có bộ khuyển phía trước) khiêm cung, dung dị kia, nay ít có dịp qua lại sườn đồi Hải Ðức Nha Trang để ngắm màu hoa thanh long, phượng vĩ, hoa khế, hoa xoài... hay hít thở hương vi ngọt ngào của hoa lài hoa sứ, nhưng âm hưởng của Lão Sư cứ mặc nhiên trải dài, vang vọng cùng khắp đồng ruộng bao la, núi rừng trùng điệp: cứ mỗi lúc một từ từ thấm đượm vào lòng người lớn giữa quê hương. Nhân dịp Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11-2001, kính gởi đến thầy Võ Hồng cùng tất cả các thầy cô Bồ Ðề và Võ Tánh Nha Trang năm xưa chúc mừng khánh thọ, an khang, vui vẻ như nụ cười lành của Ðức Tử Phu trên đỉnh núi cao
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:36:21 GMT 9
Những năm Tiểu học Thuần Ngọc Sáng ngày hôm đó tôi được mặc quần áo mới, vác cái cạt táp to gần nửa người và theo ba tôi đi học trường lớn. Mà trường lớn thiệt, nhà ngang, dãy dọc, sân trước minh mông, có hơn mười cây cổ thụ, tàng rộng, lá xanh. Từ cổng trường phải đi qua hai dãy nhà lớn mới tới sân chơi ở sau. Các thầy giáo phụ trách lớp đều mặc một kiểu áo thụng đen, trước cổ cài một cái thẻ trắng không biết làm bằng gì. Không có cô giáo. Phải hơn tuần sau tôi mới biết trường tên là Institution Taberd, do các Frères (sau này gọi là các Sư huynh) dòng La Salle (La-San) điều khiển và giảng dạy. Khi vào lớp, thầy và trò đều đứng, làm dấu thánh giá, đọc kinh xong học trò mới được phép ngồi xuống. Bàn Frère ngồi đặt trên bục, giữa hai tấm bảng đen lớn. Tôi đã biết đọc, biết viết và làm toán, nên vào ngay lớp ba, nhưng vì không có đạo, nên rất bỡ ngỡ. Lúc đầu phải ngó và tập theo các bạn hai bên. Học đến sáng ngày thứ bảy, thầy dạy lớp tôi là Frère Marcien, cho biết là "các trò có thể lên nhà thờ xưng tội." Tôi cũng theo hai bạn ngồi kế bên lên nhà thờ ở từng cao nhứt trong dãy nhà ngang lớn. Dũng, ngồi bên tay mặt tôi trong lớp, hỏi "mày có đạo không mà lên đây?" chừng đó tôi mới biết tôi chưa dính líu gì đến việc đi xưng tội. Nhưng vẫn phải ngồi lại nhà thờ, chờ về chung với Dũng, vì sợ đi lạc. Dần dà rồi tôi cũng biết là buổi sáng vô lớp đọc kinh Lạy Cha, xong đến kinh Tin Kính, kinh Cáo Mình, và kết với kinh Sáng Danh. Ra chơi hay khi trở lại lớp chỉ đọc một kinh Kính Mừng. Trưa lại, khi vào lớp đọc một kinh Lạy Cha và mười kinh Kính Mừng và cũng kết bằng kinh Sáng Danh. Học được gần một tháng, vào giờ thứ nhì chiều thứ sáu, các lớp Tiểu học lên nhà thờ "chầu Mình Thánh." Lúc đó lớp chúng tôi đã được học hát bài "Dâng hoa," bắt đầu bằng câu "Chúng con bao xiết mừng..." hát ngay khi bắt đầu lễ. Trong buổi lễ, tôi thích nhứt lúc người phụ lễ rung chuông sau khi linh mục xông hương, và cả nhà thờ đều kính cẩn cúi đầu. Lâu lâu lại lên nhà thờ vào buổi sáng, dự thánh lễ Mi-sa. Trong năm học này tôi chẳng hiểu gì về thánh lễ, chỉ nhớ có rung chuông hai lần, và sau dó có người đi lên phía bàn thờ, quì gối, xong rồi đi trở xuống, người nào cũng nghiêm trang và yên lặng, Lúc đó trường còn theo chương trình bổn xứ theo Pháp (programme Franco-Indigène) nên lớp tôi học mang tên Cours Élémentaire 1, ngoài cửa lớp có ghi tấm bảng Lớp Ba 1 . Hơn giữa năm học, mỗi tuần có một buổi học, Frère Marcien cho chúng tôi tập thi Sơ học yếu lược. Có bài Ám tả với câu hỏi, xong làm hai bài toán đố, rồi trả lời các câu hỏi thường thức về sử ký, địa lý, vệ sinh, cách trí, và luân lý. Tôi chỉ được dự mà không được xếp hạng, vì theo lời Frère Marcien, tôi chưa đủ tuổi nên chưa chắc được dự thi. Ba tôi phải làm đơn xin miễn tuổi. Qua tết tôi mới biết là sẽ được đi thi, và từ đó mới được dự vào việc xếp hạng. Frère Marcien có cách dạy toán rất độc đáo. Sau khi chúng tôi chép đầu đề bài toán, Frère cho chúng tôi đọc lại, và suy nghĩ một chút. Xong, Frère bắt đầu từ câu hỏi của bài, cho chúng tôi viết vào tập "người ta muốn biết gì ?" thí dụ như số cây trồng quanh vườn ? = số cây trồng quanh nửa vườn X 2 (toán nhơn) số cây trồng quanh nửa vườn ? = số cây trồng theo chiều dài + số cây trồng theo chiều ngang (toán cộng) số cây trồng theo chiều dài = chiều dài / khoảng cách giữa hai cây (toán chia), biết được. số cây trồng theo chiều ngang = chiều ngang / khoảng cách giữa hai cây (toán chia), biết được. Tất nhiên là chúng tôi phải giải thích thêm là số cây từng chiều tính ra sẽ phải cộng thêm một (trồng cả hai đầu), trừ bớt một khi không trồng ở hai đầu), hay giữ nguyên, như khi trồng giáp vòng vườn. Và từ những cái biết được đi dần lên để tính cái cần phải biết. Lên trung học, tôi mới biết đó là cách giải toán theo Đại số học. Đến kỳ thi, chúng tôi phải đi đến trường Tiểu học Đa Kao trên đường Albert Premier, sau đổi lại là đường Đinh Tiên Hoàng, để dự thi. Có lẽ vì còn quá nhỏ để biết lo, sợ, nên chúng tôi đi thi mà cứ dửng dưng như đi chơi, không hề nghĩ đến chuyện đậu rớt. Tôi chỉ nhớ là dường như mấy bạn cùng đi thi trong lớp tôi đều đậu. Đến ngày bãi trường có lễ phát phần thưởng, và tôi đưọc giải nhứt về toán. Mỗi học trò đều được một quyển Palmarès, có hình chụp chung từng lớp, có ghi tên người được giải danh dự, ba người đứng đầu lớp, và những người được giải nhứt từng môn học. Trong những trang đầu có ghi lại các diễn biến quan trọng trong năm học, hình chụp Frère directeur (Sư huynh hiệu trưởng), các dịp du ngoạn của học sinh, vân vân. Mỗi năm, ba tôi đều lấy quyển Palmarès tôi đem về, đưa ra tiệm để đóng bìa da, gáy có in chữ mạ vàng, và khi lấy về, trân trọng cất vào tủ sách. Bãi trường từ đầu tháng 7, đến đầu tháng 9 mới đi học lại. Tiếng là nghỉ hè, nhưng miền Nam dường như không có hè, dù nhạc sĩ Hùng Lân trong khoảng thời gian đó đã cho trời hồng hồng và ngàn phượng rung nắng ngoài sân, nên học trò chúng tôi phải vác về nhà một cuốn tập đề Bài làm trong kỳ nghỉ bằng tiếng Pháp Devoirs de vacances. Thành ra cứ sáng sáng, sau khi Đài Phát thanh hát chào Quốc ca xong là Má chúng tôi gọi anh em tôi lại, ngồi vào bàn, mở tập ra, làm bài, học bài, theo đề mục đã ghi trong cuốn tập Bài làm trong kỳ nghỉ. Và năm nào cũng thế cho hết khi học tiểu học. Tựu trường tôi lên lớp Ba 2 (tức Cours Élémentaire 2). Ba tôi giải thích là học như thế, khi học xong tiểu học, học trò đã 17, 18 tuỗi, phải lo đi làm việc, kiếm sống và lập gia đình. Nhà nước Pháp đâu có muốn dân mình học lên cao, chỉ cần có người biết đọc, viết chút ít tiếng Pháp để làm cho họ. Lớp tôi học với Frère Apollinaire. Frère rất hoạt động. Mỗi đầu tháng, chúng tôi phải đem nộp hai cuốn sách tiếng Việt để làm thư viện lớp, đặt trong một cái thùng cạt tông cũ đựng sữa. Rồi vào ngày thứ năm, chúng tôi theo thứ tự từng bàn lên lựa một quyển, ghi tên vào sổ thư viện, mượn sách về đọc trong tuần. Cứ thế tiếp tục cho đến đầu tháng sau, lấy sách của mình về và nộp sách mới cho thư viện lớp. Nhờ thế mà tôi được đọc vài ba quyển sách hay, đến giờ còn nhớ như "Ba ông tướng đi tản cư" và "15 ngày trên băng tuyết" . Frère Apollinaire còn phụ trách hội Nghĩa sĩ Chúa Hài đồng. Tôi nghe lời Dũng, xin vào hội, được phát khăn quàng xanh, viền trắng, và sáng thứ bảy đi họp. Tôi giấu không cho ba, má tôi biết, nhưng ba tôi cũng biết tôi vô hội. Có điều là không bị la rầy, và ba tôi chỉ dặn, "làm gì thì làm, nhưng phải ráng lo học cho giỏi" . Vì có chân trong hội Nghĩa sĩ, chiều thứ năm thay vì ở nhà, tôi được vào trường, dự các trò chơi như hướng đạo. Trong lớp Ba 2 có một nửa chưa thi Sơ học yếu lược, phải lo học thêm để đi thi. Tôi ở trong nhóm còn lại và được chọn vào toán múa khoảng 25 trò của ba lớp Ba 1, Ba 2 và lớp nhì. Vào dịp Giáng sinh đọc kết quả thi Lục cá nguyệt đầu, chúng tôi múa bài "Mừng Xuân," và hôm lễ bãi trường múa bài "Rừng hương" câu hát đầu tiên như là "Ngàn thông reo ca trên đồi thông ..." Ở lớp Ba 2, chúng tôi học tiếng Pháp nhiều hơn. Sách do một Frère người Pháp rất rành tiếng Việt, năm đó làm Préfet (Giám học) tiểu học soạn. Mỗi bài học có phần ngữ vựng Pháp, Việt độ mươi, mười lăm chữ, phần đặt câu ngắn, bài đọc ngắn, văn phạm, lúc đầu chỉ có học chia động từ, đến giữa sách mới có học về danh từ, tĩnh từ ... Bài đầu tiên học Bonjour Monsieur là Chào ông, Bonjour Madame là Chào bà ... nhưng không có Chào cô ! Tôi sợ và ghét nhứt hai phần chót trong mỗi bài gồm Version (dịch Pháp văn ra Việt văn) và Thème (dịch Việt văn ra Pháp văn). Không biết có phải là "ghét của nào trời trao của nấy" không, mà hai mươi mấy năm nay, tôi đã phải phụ trách dịch Anh, Pháp, Việt. Hoạt động trong hội Nghĩa sĩ, chúng tôi tập làm báo thông tin trong hội và cách in báo bằng xu xoa. Xu soa nấu chảy ra, đổ vào khuôn cở trang giấy tập, để nguội cho đông lại. Trang chính viết bằng mực tím, đặt lên trên mặt xu xoa, để cho mực thấm. Gỡ ra thấy trên xu xoa có chữ, lấy giấy trắng ép lên, chữ chuyền qua giấy này, đọc cũng rõ. Nhưng in chỉ được mươi tờ thì phải bóp vụn xu xoa ra, nấu lại và làm lại từ đầu. Sau này lớn lên, khi in Ditto, cũng ra nét mực màu tím như thế, nhớ lại những hồi quây quần in xu xoa, khó quên lúc nhỏ. Trường Taberd, ở phần tiểu học, ngoài ban theo chương trình nửa Pháp nửa Việt chúng tôi còn có ban học chương trình tiểu học Pháp thuần túy, mang tên Section française, theo chương trình áp dụng bên Pháp. Các lớp ban này ở từng trệt dãy nhà sau, bên kia sân chơi. Mặt sau là tường gạch cao, ngăn với đường Lagrandière, sau gọi là Gia Long. Bên ban Pháp, không có hội Nghĩa sĩ, mà có hội Coeur vaillant tức Hùng tâm. Hội này lúc đó do Frère Firmin trông coi, mỗi sáng thứ năm vào giờ ra chơi, có bán sách hình ra hàng tuần như Coeur Vaillant, Tintin, Spirou (và Fantasio), và các sách in thành từng tập truyện của Tintin, Pat'A'pouf, Red Ryder, Hopalong Cassidy, Buck Roger và các phi công Mỹ ... Nhờ thế mà tôi được làm quen với các phi cơ loại Bearcat, Hellcat, P51 Mustang, Zero, Messerschmitt ... Tôi không có tiền ăn quà nên chỉ qua hội quán Coeur vaillant xem ké sách. Sau này lớn lên, mua Astérix và Obélix, cùng Lucky Luke, và Tintin, xem lại thấy cũng còn hay, vui nhứt là khi đi dọc bờ sông Seine, tìm được trong các quán sách nhỏ, những quyển Tintin xưa, cũ, bìa dày vẫn lành lặn và còn đầy đủ trang. Khi lên lớp nhì, Cours Moyen, dường như có thay đổi chương trình học vì chỉ có một lớp Nhì chứ không có Nhì 1, Nhì 2 như các năm trước. Chúng tôi học với Frère Léopold. Frère viết chữ rất đẹp, và rất lo cho học trò. Chúng tôi học Giáo lý nhiều hơn và thường được Frère Roger, giám học mới, đến giảng về Cựu ước, kể chuyện Môi Se, 12 bộ tộc Ít ra ên, và các tiên tri người Do thái cũng như vua Solomon, vua David và anh hùng Samson. Chúng tôi mỗi ngày đều có giờ học Sách phần của địa phận Sài gòn và mỗi kỳ thi đều có thi phần Giáo lý. Thường vào sáng thứ bảy hàng tuần, Frère Roger đến từng lớp. Khi ông vào, Frère Léopold gỏ thước xuống bàn, cả lớp đứng lên chào. Frère Roger ngồi vào ghế và bắt đầu gọi tên từng người theo hạng thứ trong lớp và phát sổ điểm hàng tuần. Chúng tôi phải đem sổ điểm về nhà cho cha mẹ ký tên. Chỉ có hai môn là Luân lý (Morale) và Chuyên cần (Application) tính trên 20 là không cộng vào điểm xếp hạng và thường ai nấy cũng được 20/20. Cứ độ sáu, bảy tuần là có thi, đợt đầu là bán tam cá nguyệt, kêu điễm xếp hạng trong lớp, đợt kế là thi tam cá nguyệt. Khi có kết quả kỳ thi này, tất cả học sinh trong ban tiểu học tập họp ở nhà chơi, ngồi theo lớp, trên các băng ghế dài, chờ nghe kêu điễm, xếp hạng, không khí rất long trọng và trang nghiêm. Frère Léopold nói được tiếng Anh nên có liên lạc với phòng thông tin Anh hoặc Mỹ, nhờ đó chúng tôi thường được xem chiếu phim hoạt họa trong lớp. Tôi học thêm được chữ The End là Hết, với chữ T viết như chữ J của Pháp. Chúng tôi thích nhứt phim về chích ngừa, vẻ hồng huyết cầu, bạch huyết cầu đấu với vi trùng bệnh, khi gần thua, được thuốc ngừa tăng viện, giúp hồi phục sức lực, đánh đuổi vi trùng bệnh ra ngoài. Có xe tăng màu đỏ, màu xanh đánh xe tăng vi trùng bệnh màu đen, máy bay, súng lớn, súng nhỏ, súng máy gắn trên xe mô tô, đủ hết. Thời gian này, hàng tháng, trường có tổ chức chiếu phim vào chiều thứ năm, vé vào cửa là 5 đồng. Thường chiếu phim Charlot, Zorro bắn súng hay đánh kiếm, phim Tarzan, phim Les trois mousquetaires ... Có lần chiếu phim Le capitaine courageux kể về đời sống người đi biển, chuyện rất thương tâm và cảm động. Phim thường nói tiếng Pháp, những trò trong lớp chúng tôi nghe chữ được, chữ mất, thường đoán già về cốt chuyện, và chỉ mê say theo dỏi ông đóng tuồng, tức kép thủ vai chánh. Năm học lớp nhì có thể nói là không mấy sôi nổi, tuy ngoài việc học, tôi vẫn tham gia hội Nghĩa sĩ. Học trường Taberd được ba năm tôi mới biết là có bạn cùng lớp bị điểm trung bình kém, cuối năm không được đương nhiên lên lớp trên, mà phải học hè và thi lên lớp vào khoảng hai tuần trước khi bắt đầu niên học mới. Thi đậu mới lên lớp, còn rớt thì phải học lại. Năm học lớp nhì, tôi chơi thân với Phước, và Phước phải thi để lên lớp nhất. Phước may mắn được lên lớp, nhưng cho biết trong số 12 người cùng thi với Phước, chỉ có năm người đậu. Tôi không rỏ mỗi niên học có bao nhiêu học sinh phải ở lại lớp củ, và cũng không rỏ sự hiệu nghiệm của việc bắt học sinh ở lại, học thêm một năm lớp củ. Tôi chỉ nhớ là Phước khi lên Trung học, học rất giỏi, năm nào cũng có phần thưởng. Đến năm này tôi cũng được biết là trường thu học phí rất cao, lại đóng từng tam cá nguyệt, tức là tiền học thu từng ba tháng một. Thành ra học sinh phần lớn đều là con nhà giàu, tan học ra hơn một nửa học sinh các lớp nhỏ có xe hơi và tài xế đón. Ba tôi làm việc ở Sở hành chánh số 6 (sau này là Bộ Kinh tế, thời Đệ nhất Cng hòa) cách trường khoảng bốn trăm thước, nên tan học tôi đến đó, chờ ba tôi chở về. Tôi nhớ cũng có lúc Cậu 12 tôi, sáng, trưa ngày bốn bận, đưa đón tôi đi học, chở tôi bằng xe đạp. Về học phí, sau này tôi biết là trong tiền học hai học sinh trường Taberd, sau mọi chi phí thì nhà trường có dư tiền để dạy miễn phí một học sinh nghèo ở một trường Nghĩa Thục của Dòng. Đó là cách chia sẻ để bớt bất công xã hội, theo đường hướng và tôn chỉ của Thánh Gioan La-San, Sư huynh sáng lập Dòng. Lên lớp Nhứt tức Cours Supérieur chúng tôi cảm thấy mình lớn hơn, có trách nhiệm và biết lo nghĩ đến kỳ thi Tiểu học vào cuối năm. Frère Adolphe dạy chúng tôi. Toán khó hơn, chính tả và luận văn cũng khó hơn. Riêng có môn Compte rendu de lecture, Frère Adolphe đọc một bài bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Việt, dài chừng 300, 400 chữ. Chúng tôi ngồi chăm chỉ nghe vì Frère chỉ đọc một lần. Khi đọc xong, chúng tôi phải viết lại những gì còn nhớ về bài đã đọc, thường thì phải tóm lược ý chính, chớ không chép lại nguyên câu. Có khi tôi cũng không hiểu bài đọc đó nói về cái gì. Những lúc như thế thì khó mà viết lại được. Frère Adolphe cho chúng tôi học ngữ vựng Pháp theo chuyên đề mà Frère gọi là Vocabulaire par centre d'intérêt. Nhờ đó mà chúng tôi biết thêm vừa tiếng Pháp vừa tiếng Việt nhiều chữ mới hoặc xa lạ với chúng tôi như then, chốt cửa, bản lề, đinh tán, cây song hồng, búa, kềm, cây xà beng vân vân Chúng tôi còn học thêm về canh nông, cách trí, cách trồng đậu, trồng khoai, hay các chứng bệnh thương hàn, sốt rét vàng da, đậu mùa. Chúng tôi đã lớn nên không dự vào ban múa. Năm đó cả lớp tập hát và được đến Đài Phát Thanh Sài Gòn thâu thanh bài hát về Giáng sinh với câu "Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời." Đến ngày lễ Giáng sinh đón nghe phát thanh bài hát và lời giới thiệu "do học sinh lớp Nhứt trường Taberd đồng ca," cũng thấy nở lỗ mũi một chút. Frère Adolphe cao lớn con, ông có vẻ thích kỷ luật và trật tự. Trong giờ rảnh rỗi, ông kể cho chúng tôi nghe các trận chiến oanh liệt của Hải quân Đức, từ chiến trận Coronel đến Falkland, qua Rio de la Plata ... Frère thích các chiến công của chiếc tàu chiến Emden, giả dạng thuyền buôn đi bắt các thương thuyền Anh quốc. Lúc đó trong lớp vẫn có nghe nói là Hitler còn sống, trốn ở Nam Băng Dương và dĩa bay là khí cụ thám thính của Hitler. Trong năm học này, trường tổ chức cho vài ba lớp đi chơi xa. Thật ra, chỉ xa đối với chúng tôi lúc đó, vì chúng tôi đi lên trường Mossard, cũng của Dòng các Sư huynh, ở Thủ Đúc. Xe nhà binh Pháp đến trường đón, chạy ngang qua chợ Bà chiểu, qua Bình hòa, trực chỉ dường như là Quốc lộ 1, qua cầu Bình lợi, cầu Gò dưa, ngang chợ Thủ đúc, quẹo mặt, chạy một đoạn nữa là đến. Dường như khoảng cách chỉ có 15 hay 20 cây số, nhưng đi gần một tiếng đồng hồ mới tới. Trường Mossard có hai cái đặc biệt mà trường Taberd không có, đó là sân đá banh, dài, rộng, cỏ xanh, hai đầu sân có cột gôn gắn lưới, và sau đó là hồ bơi. Do đó chúng tôi rất mê. Giờ nhớ lại, mỗi lớp gần 60 học sinh, chạy chơi xong rồi đi tắm, hồ bơi rộng và một đầu khá sâu, thế mà chỉ có một Sư huynh trông coi. Công việc quả thật nặng nhọc, nhưng lúc nhỏ, ham chơi, chúng tôi đâu có để ý. Qua Tết ta, lớp chúng tôi bắt đầu làm đơn ghi danh thi Tiểu học. Đơn viết tay, trên mẫu giấy dài, kèm theo khai sinh và giấy chứng nhận của trường. Tất cả được ghim lại bằng kim gút ở góc trên, bên trái, mũi nhọn của kim phải chỉa xuống phía dưới, và đầu kim không được nằm gần lề giấy dưới hai phân ! Chúng tôi cũng được thi thử, dùng giấy thi có phách như khi đi thi thiệt. Nhờ thế mà vào trường thi, cũng trường Tiểu học Đa Kao, chúng tôi không bị bỡ ngỡ. Trong kỳ thi này chúng tôi thi toàn tiếng Việt, xong có thể thi một bài ám tả tiếng Pháp, trả lời bốn câu hỏi liên quan đến bài và làm một bài luận ngắn. Nếu được trên trung bình, trong văn bằng tiểu học sẽ có ghi chú "Avec mention française." Hơn một tháng sau khi có kết quả Tiểu học, một số bạn cùng lớp tôi ghi tên thi vào lớp Đệ Thất trưòng công. Riêng tôi, ba tôi muốn tôi vẫn theo học trường Taberd, lên lớp Sixième, chương trình Pháp. Tôi theo học trường Taberd cho tới khi xong Tú tài 2 ban Toán. Trong hai năm chót ban Trung học, có lẽ vì ở nội trú và đã theo học lâu năm nên tuy không có đạo, tôi vẫn được chọn giúp lễ Misa, và phụ lễ Chầu Mình Thánh. Mỗi lần nắm chuông lắc leng keng, tôi vẫn nhớ ngày còn ngồi dãy ghế đằng sau, kính cẩn cúi đầu khi nghe tiếng chuông. So với các trường khác ở Sàigòn lúc đó, trường Taberd thuộc vào loại lớn, nhưng người ta biết đến trường vì kỷ luật trường rất nghiêm. Giờ vào lớp, giờ ra chơi, lúc nào học trò cũng xếp hàng ngay ngắn, tử tế, và nhanh chóng. Đi vào lớp theo hàng, trật tự, và giữ im lặng. Học trò phần lớn đều siêng học, trong lớp không nói chuyện, mà chú ý nghe lời giảng. Mỗi Sư huynh đều có một cây roi mây dài hơn một thước rưỡi, để kế bên bàn, nhưng thường dùng để dương oai, nhắc nhở học trò giữ kỷ luật, chớ ít khi dùng để đánh. Phạm lỗi nhỏ như nói chuyện hay lơ đãng trong lúc Sư huynh giảng bài thì bị quỳ gối sau bảng đen từ 10 phút đến nửa giờ. Một vài trò nghịch ngợm, quấy phá quá, hay đánh lộn hoặc không thuộc bài nhiều lần thì bị consigne (cấm túc), phải mang giấy phạt về nhà cho cha mẹ ký tên, rồi chiều thứ bảy trở vô trường vào lúc 3 giờ, trình diện Frère coi nhóm bị phạt, được giao một bài phải học thuộc lòng, hoặc chép phạt, cho đến 5 giờ mới được về. Khi bị ba hay bốn lần consignes thì sẽ bị blâme, tức là bị gọi ra chịu khiển trách trước cả trường. Nhưng trong suốt thới gian học Taberd, từ tiểu học cho đến hết trung học, tôi chỉ thấy có một ngưới bị blâme. Tháng 11 năm 2002, khi sang Pháp, tôi được dự bữa cơm gây quỹ do nhóm Chim én tổ chức để lấy tiền giúp trường học cho trẻ em nghèo, do Sư huynh Désiré (một cựu hiệu trưởng trường Taberd) gây dựng ở Cái Nhum. Ban tổ chức có chiếu vài âm bản hình trường Taberd, tuy vẫn còn vẻ đồ sộ, nhưng nét điêu tàn vì thiếu bảo trì và chăm sóc vẫn có thể nhận được. Nhìn lại hình ảnh trường cũ, kỷ niệm xưa vẫn còn âm trong tâm tưởng. Khi nghĩ đến nền giáo dục đang gặp khó khăn bên nhà, tôi không khỏi ngậm ngùi. Ai đó có thể mơ làm Quang Trung, mang về cho đất nước một mùa Xuân lớn, tôi chỉ mong sao bên nhà có một Gioan La-San, mang ánh sáng hiểu biết đến với các em thiếu nhi, trai cũng như gái, để các em có một tương lai sáng sủa hơn.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:38:02 GMT 9
Đường vào khoa học Võ Quang Yến Bùi ngùi nhớ mẹ thuở xưa, Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.
Ca dao Đảo chính Nhật 9.3.1945 rồi Cách mạng mùa thu. Đến kỳ khai giảng năm ấy, trường Trung học Khải Định nhường chỗ cho Giải Phóng Quân. Học sinh phải vào học trong Đại Nội, sáng học chữ, chiều tập quân sự. Nói tập quân sự cho oai, thật ra học cử chỉ ném lựu đạn, học đi theo nhịp, học chạy, học trèo như học thể thao. Học chữ thì có nhưng học sinh cũng như bao công dân thời buổi ấy bị tình hình chính trị chi phối, khó lòng ngồi yên dùi mài kinh sử. Những học sinh lớn tuổi đã hăng hái xung phong gia nhập bộ đội lên đường vào Nam đánh giặc chống xâm lăng. Học sinh trẻ còn lại, ngoài những giờ cố gắng ngồi nghe thầy giảng bài, họp nhau bàn luận về tương lai đất nước. Tôi còn nhớ một ban được cử ra soạn lập một bảng câu hỏi về nguyện vọng của học sinh, hầu mong giúp chính phủ phác họa chương trình giáo dục sau nầy. Câu hỏi chính trong bảng ấy là sau nầy muốn làm nghề gì. Tôi không ngần ngại kê theo thứ tự: 1) Nông học; 2) Hóa học; 3) Điện học. Ưu tiên cho ngành nông có lẽ vì những năm đói kém, tôi được anh tôi động viên lên trồng khoai ở ven đầm trên truông Phò Trạch, từ đấy nhận định vai trò quan trọng của môn nuôi trồng. Định mệnh đã đưa đẩy tôi tiếp xúc cả ba ngành ấy nhưng qua ba mức khác nhau. Tản cư về, học sinh vội vã soạn thi bằng Trung học phổ thông tổ chức trước hè năm 1947, bất chấp đã học qua những lớp nào, nhưng phần lớn đều ở mức lớp đệ tứ niên nghĩa là đúng vào năm phải thi. Môn nào cũng phải tự học lấy, đặc biệt môn toán. Tôi nhớ thời học ở trường dòng Pellerin, thầy cho không biết bao nhiêu bài toán để làm ở nhà. Thì đây, một số bạn họp nhau buổi chiều tại nhà anh tôi ở trên đường Bờ sông An Cựu để cùng học: chúng tôi chỉ định trong cuốn sách toán Brachet mỗi kỳ một chương nào đó, học cho thuộc, lúc gặp nhau chỉ làm toán. Ai làm xong một bài thì mọi người phải dừng để nghe lời giải. Cứ thế cho hết các bài toán trong chương mới được nghỉ. Với lối học nầy, chúng tôi thấy tiến bộ rõ ràng vì làm được tất cả những bài toán là thuộc chương. Sau hè, trường Trung học Khải Định mở khoa thi tuyển vào những lớp đệ nhất chuyên khoa. Có hai ban A (Toán) và B (Vạn vật học). Mặc dầu đã tiến bộ ít nhiều trong môn toán, tôi ghi tên thi vào ban B, luôn trong mục đích nhắm ngành nông học sau nầy. Nhờ môn toán, tôi đậu đầu. Chấm điểm, xếp hạng cho vui mà thôi vì mọi thí sinh đều được nhận vào học. Tưởng tàu đã đặt trên đường rầy thì chỉ còn chạy đến đích, không dè một sự kiện xảy ra như máy bẻ ghi hướng tàu qua một lối khác: giữa năm 1948, Viện Đại học Sài Gòn mở Trường Vô tuyến điện. Đặc biệt năm đầu, thí sinh không cần có bằng Tú tài. Thế là cả bọn hai lớp đệ Nhất chuyên khoa đổ xô vào ghi tên thi. Qua vấn đáp chỉ có một môn toán mà giám khảo lại là ông Harter, giáo sư toán của chúng tôi ở trường trước cuộc đảo chính Nhật. Tôi may mắn được ghi trong số những học trò đậu. Thế là cùng bốn bạn cùng lớp, tôi lên đường đi du học Sài Gòn. Cuối năm học đầu tiên của tôi ở Trường Vô tuyến điện, phong trào đi học bên Pháp lên cao. Cụ mạ tôi liên tiếp nhau từ trần sau mấy tháng phải lìa bỏ nhà cửa xây dựng suốt một đời ở Mỹ Cang vào Huế, tôi thấy ít còn ràng buộc với gia đình nữa. Chị tôi và mấy anh tôi chịu giúp tôi đi du học trong một thời gian ngắn. Thế là tôi chạy mua một vé hạng ba từ Sài Gòn lên tàu thủy đi Pháp. Đi tàu hạng ba nghĩa là ngủ ở đầu tàu cùng với binh sĩ Pháp hồi hương, xếp hàng lãnh bữa ăn khoai tây luộc trên mâm thiếc rồi ngồi ăn trên boong tàu. Không quen, khoai tây thật khó nuốt. Thèm da diết những hột cơm thơm dẻo. Nói cho đúng, khi vượt Ấn Độ Dương, tàu tròng trành lắc lư dữ dội thì cũng chẳng ăn uống gì được, suốt ngày ngồi nhìn trời ngắm mây là cách tiêu khiển giản dị nhất nếu không đi dạo xem mấy cô đầm bơi lội trong bể tắm hay vào phòng chiếu xem đi xem lại cuốn phim La symphonie pastorale để mặc sức chùi mắt khóc thầm. Sau 17 ngày đêm lướt sóng, dừng 4 lần ở các hải cảng Singapore, Colombo, Djibouti, Port-Said, chiếc tàu La Marseillaise cập bến Marseille ngày 10.10.1949. Ở đúng tuổi 20 tôi không ngần ngại trước một tương lai còn mờ mịt và chắc đầy chông gai hiểm trở. Đây là một ngày lịch sử quan trọng trong đời tôi, ngày thứ nhì sau ngày sinh. (Chàng trai 20 tuổi xăn tay áo mạnh dạn xông vào miền đất lạ) Ghi tên vào Trường Kỹ thuật Điện thuộc Viện Đại học Grenoble, tôi được gởi về học một năm dự bị ở Chambéry ở vùng Savoie giá tuyết. Mức Pháp ngữ, toán học trung bình so với những sinh viên học đều đặn trung học, tôi cố gắng vượt qua được năm dự bị nầy nhưng bước lên năm học chính thức thì thấy mình thiếu hẳn căn bản. Đi học tự túc, sợ sẽ không có đủ tiền để học cho đến khi có nghề độ thân, tôi lên Paris ghi tên vào học Trường Kỹ thuật Hóa học. Giã từ điện học. Hai năm sau, một mảnh bằng nhỏ trong túi, tôi sung sướng lãnh đuợc những đồng tiền đầu tiên, hết còn sợ phải bị đói. Vừa đi làm, tôi vừa ghi tên đi học lớp ban tối dành cho người đi làm ở Trường Quốc gia Nghệ thuật và Nghề nghiệp CNAM. Hồi ấy, cũng phải 7-8 năm mới học xong bằng kỹ sư. Năm 1954, một ông giáo sĩ quen giới thiệu tôi qua học ở Viện Đại học Fribourg bên Thụy Sĩ, ăn ở với những tu sĩ trong nhà dòng Saint-Justin, mặc dầu tôi không phải là người công giáo. Ở đây tôi đã sống mấy tháng gần kề cựu huynh trưởng hướng đạo Dạ Mã Võ Thành Minh, người cắm trại thổi sáo đòi hòa bình trên bờ hồ Leman. Thấy tôi đạt kết quả tốt, Cha bề trên nhà dòng xin được cho tôi một học bổng qua Mainz ở tiểu bang công giáo Rheinland bên Cộng hòa Liên bang (Tây) Đức. Lúc lấy tàu hỏa qua Đức tôi mới bắt đầu học tiếng Đức. Tình cờ tôi gặp trên tàu một ông giáo sĩ người Mỹ tình nguyện giảng bài Đức ngữ đầu tiên cho tôi bằng tiếng Anh. Mặc dầu chưa khắc phục được sinh ngữ, với rất nhiều khó khăn, tôi cố gắng tiếp tục những chứng chỉ cử nhân hóa học đã bắt đầu ở Fribourg. Nhưng vì những duyên cớ hiện giờ tôi cũng không biết rõ, trước khi dự thảo luận án tiến sĩ, tôi bị cắt học bổng! Trở về lại Paris, bằng cấp Đức hồi đó không có tương đương ở Pháp, ví chi đi làm kiếm sống, tôi ghi tên dự thảo luận văn thi bằng Cao học DES (tiền thân của DEA sau này) trong phòng thí nghiệm hóa học hữu cơ của Giáo sư Bửu Hội ở Viện Radium. Ở Thụy Sĩ và ở Đức, nếu chỉ phải lo tiền túi thôi, giờ đây tôi còn phải chạy kiếm tiền ăn ở. Tôi không đi giữ em hay làm người chạy giấy trong nhà sách như lúc trước, cũng không xin dọn bàn trong các quán cơm như nhiều sinh viên khác mà kiếm việc ngay trong lãnh vực hóa học. Tôi còn nhớ mãi những hôm trời lạnh cóng tay từ sáng sớm đến trưa phải chế tạo những chất thuốc trong một nhà kho không sưởi, không chút bảo vệ an toàn lao động, mệnh danh là phòng thí nghiệm. Ăn vội ở quán cơm sinh viên xong là phải đi học cho đến tối mịt. Lại quán cơm sinh viên trước khi về nhà. Tính ra tôi, và sau này cùng với nhà tôi, sử dụng những quán cơm công cộng nầy hơn cả chục năm. Cũng may là trời sinh voi sinh cỏ: với một sức khỏe tương đối tốt và một sức chịu đựng vượt mức, tôi cũng đạt được mảnh bằng sau hai năm (1958). Trong khoảng này, tôi lại may mắn gặp người bạn đường tâm đấu ý hợp, đồng tâm đồng chí, nhà nghèo, ham học, sau này sẽ cùng tôi thành lập một nhóm khảo cứu, và chúng tôi cưới nhau ngày 23.2.1957, nàng mới vào Trường Đại học Sư phạm (ENS Cachan), tôi chuẩn bị thi bằng cao học, hơn một nửa thế kỷ rồi! Đây là ngày lịch sử thứ ba trong đời tôi. Kinh nghiệm ở phòng thí nghiệm sẵn có, tôi xin vào dự thảo luận án tiến sĩ ở Trường Quốc gia Cao đẳng Hóa học ENSCP thuộc Viện Đại học Paris, luôn trong môn hóa học hữu cơ. Được ông giáo sư kiếm cách giúp đỡ về mặt tài chánh, tôi được rảnh rang hơn để học hành. Cũng phải bốn năm mới hoàn thành luận án và tôi đệ trình ngày 27.2.1962 tại Sorbonne, 13 năm sau khi đặt chân lên đất Pháp, ngày lịch sử thứ tư trong đời tôi. Tương đối, đậu tiến sĩ ở tuổi 33 là chậm so với những sinh viên có điều kiện học hành điều hòa, nhưng tôi tự hào đã học được trong trường đời năng lực chịu đựng, khả năng vượt sức, những đức tính kiên nhẫn, chịu khó, tiết kiệm, tảo tần… thành công với một khả năng tài chánh tối thiểu, một trí thông minh vừa phải nhưng với một sức thích nghi liên tục, một tính tháo vát trường kỳ. Được tuyển vào Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học CNRS, từ nay tôi chuyên làm về hóa học hữu cơ. Lúc ban đầu, tôi chỉ làm nghiên cứu thuần túy, tìm cách chế tạo những acetylenic là những phân tử mang dấu nối ba và xem xét những phản ứng của chúng. Sau có dịp, cùng với cả nhóm, chúng tôi chuyển hướng qua cộng tác với những nhà sinh vật học, tổng hợp những chất thuốc kháng sinh mới, chẳng hạn những phân tử amin acid mang phospho P thay thế carbon C để đánh lầm vi trùng ở một giai đoạn nào đó khi chúng xây dựng màng cơ thể, trong khuôn khổ những chất ức chế enzym. Đây là một thử thách lớn cho nhà khảo cứu vì những phân tử này vừa khó chế tạo vừa không vững bền. Nhóm của chúng tôi chỉ học hỏi phản ứng ở phòng thí nghiệm, đưa ra chế thành thuốc là việc của những viện bào chế. Chúng tôi sẽ rất hãnh diện nếu sau này có một chất thuốc kháng sinh lấy những amin acid phospho kia làm nền tảng. Làm việc say sưa nhưng đến tuổi cũng phải về hưu. Tôi nghỉ việc cuối hè 1994, ở chức Giám đốc Nghiên cứu, vào tuổi 66. Tương đối rảnh rang hơn trước, tôi dành thì giờ viết lách như nhiều chục năm qua. Thật ra, từ những năm sinh viên, tôi đã viết những bài phổ thông khoa học đăng ở các báo Bách Khoa, Phổ Thông ở Sài Gòn. Ngày nay, song song với những bài bút ký du hành, ấn tượng những chuyến về thăm quê hương,… tôi được tờ Thông tin Khoa học nay đổi thành Nghiên cứu và Phát triển ở Huế yêu cầu viết về những vị thuốc và cây thuốc. Nhắm mục tiêu khai thác tài nguyên đất nước, tôi chọn những đề tài liên quan đến những sản vật (nhựa hương, một dược, hổ phách), súc vật (con sam, chim yến, cà cuống), cây công nghệ (cỏ ngọt, rau câu, bèo dâu), nhưng cốt yếu là những cây thuốc được dùng trong dân gian. Không có ý muốn kê khai mọi vị thuốc đã có trong nhiều sách, tôi chọn những cây có một vài đặc điểm: - Những cây ăn trái: bắp (chữa áp suất, thông tiểu tiện, trị sỏi thận); đu đủ (thuốc mạnh tim, trị viêm vú, khử độc trùng); khế (chống vi khuẩn, chữa lở loét, trị scorbut); mít (gián phân bạch huyết bào, kích thích tăng sinh tế bào, phá rối độc trùng sida); sầu riêng (ngăn cản sinh đẻ, đặc tính kích dục, thức tỉnh say rượu); măng cụt (chống dị ứng, chữa sâu răng, kháng vi sinh); xoài (chống viêm, giảm đau, chữa sốt) v.v… - Những cây có hoa: mai (điều trị bệnh lao phổi, bệnh mồ hôi nặng mùi, chữa tinh dịch vô sinh); sen (bổ dưỡng, an thần, giải độc); hổ ngươi (nhức đầu, ù tai, khó ngủ); đỗ quyên (chống viêm, dị ứng, hen suyển); vông vang (nhuận tràng, sát trùng, hoạt thai); trà mi (tuần hoàn tim mạch, giảm đau an thần, phá phách hành khí) v.v… - Những cây có hương, có vị: xương bồ (điều hòa nhịp tim, dự phòng viêm răng, bảo dưỡng da đầu); hồi hương (chống co thắt, kích thích tim, giúp tiêu hóa); me đất (thanh nhiệt, mát máu, điều kinh); hành, tỏi (kháng sinh, diệt trùng, trừ nấm), quế (hạ sốt, tiêu chảy, khử nấm); cau (trị u khối, chống mảng răng, bảo vệ da), trầu (hạ huyết áp, duỗi bắp cơ, trị giun sán), những cây rau dùng trong canh rau thập toàn như cải cúc (ho cảm, thổ huyết, chậm tiêu), dâu tằm (diệt khuẩn, kháng sinh, chống già), khoai lang (thuốc diệt trùng, phòng viêm khớp, điều huyết áp), lá lốt (giun sán, chống viêm, ngừa thai), mồng tơi (tán nhiệt, hoạt trường, giải độc), rau má (giải nhiệt, thông tiểu, thống kinh), rau ngót (sót nhau, hóc xương, tưa lưỡi), rau sam (huyết nhiệt, táo bón, chốc đầu), cây sung (nhức răng, nhức xương, phong thấp), vông nem (an thần, gây ngủ, sát trùng),… (Trải qua 60 năm người tha hương luôn mãi hướng lòng về quê nhà) Không định trước, từ hóa học các vị thuốc, tôi đã lấn qua môn thực vật học, nối lại với mối tình nuôi sẵn từ thuở học sinh trung học tuy không phải là hoàn toàn nông học. Muốn bài viết hấp dẫn, không chỉ dành riêng cho những nhà khoa học, tôi cố gắng tìm kiếm những mốc lịch sử, những chuyện cổ tích, những truyện thần thoại, thêm vào những giai thoại cá nhân, góp chung lại thành những bài mà bạn bè thường cho là có tính chất dân tộc - thực vật học. Tôi mừng thầm thấy những bài tổng luận được hưởng ứng, trái lại với trước kia, theo yêu cầu tôi lục tìm tài liệu, sao chụp gởi về mà chẳng thấy một tiếng vang. Ngày nay, quá tuổi cổ lai hy, hồi tưởng lại những ước mong thời trẻ, làm bảng tổng kết, tôi hân hoan thấy đã đạt được nguyện vọng mà hồi ấy ngay chính mình cũng nghi hoặc. Vào tuổi đôi mươi ở Huế giữa những năm thập niên 40, ăn mặc thiếu thốn, trường ốc thất thường, tình thế bất ổn, học sinh nào dám cam đoan sẽ thành công giảm nghèo, vượt khó được để trở thành một khảo cứu viên khoa học hằng mộng mơ suốt thời niên thiếu của mình. Xô thành trước thềm xuân Kỷ Sửu V.Q.Y
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:43:45 GMT 9
Câu chuyện xây cầu với thép bị mỏi Nguyễn Thanh Lâm Trên nền đất yếu, thật không dễ dàng xây những cây cầu, dù là cầu Bailey. Tấm lòng của những chuyên gia trung hậu, ở một đất nước còn ngổn ngang hy vọng và thất vọng, đã buộc tôi ghi lại câu chuyện này, như một nhịp cầu từ trái tim đến trái tim, dù thép bị mỏi ! Trên đường từ Hà Tiên qua Long Xuyên, xe cộ bỗng từ từ giảm tốc độ rồi chậm rãi bò qua một cây cầu đang được tu sửa. Thoáng nhìn thấy một anh chàng ăn mặc rất bình dân đang ngồi trên ghế đẩu hút thuốc, mắt chăm chăm nhìn cây cầu với dáng vẻ nghĩ ngợi, ông bạn nối khố của tôi là giáo sư Nguyễn Thành Nhân (hiện giảng dạy tại Bochum/CHLB Đức) đã dừng xe tắp vào lề trống và lội bộ trở ngược lại, làm quen và trò chuyện. Anh Nhân hỏi: Đây là một cây cầu Bailey theo kiểu Mỹ phải không ? (ghi chú: Quân đội Mỹ trong thế chiến thứ II xây loại cây cầu Bailey dã chiến với những chi tiết lắp ráp và tháo gỡ nhanh, vận chuyển dễ dàng qua địa điểm khác) - Tôi biết, nhưng đây là một cây cầu do người Việt Nam xây sau này. - Ai xây ? - Tôi. Không chỉ cây cầu này mà còn nhiều cây cầu khác nữa. - !!! với loại thép gì ? - Thép của Nga, sức tải chỉ 2700 kp/cm2, không như nguyên bản của loại cầu này. Vị giáo sư việt kiều biết là mình đang nói chuyện với một đồng nghiệp kỹ sư và hỏi tiếp: - Thế có vấn đề gì không ? - Thép bị mỏi ( anh ta không nói thép cũ hay già, mà dùng một thuật ngữ chuyên môn là thép mỏi vì bị xì-trét năng động liên tục) và cây cầu lại quá lớn. - Thế sao anh không làm những trụ cầu với đường kính 1m ? - Cả nước Việt Nam không có thiết bị cho trụ cầu lớn, chỉ tối đa cho trụ cầu với đường kính 60 cm. - Với cọc dài cho vùng này, anh sẽ gặp vấn đề liên quan đến tính vững chắc của nó, với nguy cơ bị gãy cọc. - Đúng vậy, tôi biết, vì Lambda lớn quá. Vị giáo sư giật mình như tay chạm phải điện nhẹ. Con chữ Lambda trong tiếng Hy lạp được sử dụng trong ngành xây dựng để chỉ độ gãy của trụ chịu lực, nghĩa là xu hướng gãy khi quá tải. {Xin mở ngoặc ở đây: cọc khoan (khác với cọc đóng), được máy khoan hình ống đi sâu vào lòng đất, đặt cốt thép vào và đổ bê tông thành cọc. Trụ cầu là phần trên mặt đất. Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, tất cả trụ cầu lớn đều xây trên cọc vì đất ở đây toàn là phù sa, cọc phải đóng hoặc khoan cho đến khi đụng đến lớp đất (hay đá) có sức chịu đựng trọng tải của cầu. Ở Sài gòn có những cọc trụ cầu dài đến 125 mét.} Thật bất ngờ khi gặp được một chuyên gia mộc mạc giữa một vùng sâu, vùng xa quê mùa, mà lại có những kiến thức căn cơ như thế. Như Bá Nha gặp Tử Kỳ, hai người nói chuyện với nhau rất lâu. Sau 20 phút, anh Nhân biết rằng anh Đức tốt nghiệp Bách Khoa Sài gòn vào năm 1983 là một kỹ sư tuyệt vời, có cả những hiểu biết về đường thủy, vì đang làm việc cho một Khu quản lý thủy bộ . Sau 40 phút, anh Nhân giáo sư việt kiều biết rằng mình không cần phải kể hay nói gì thêm về công nghệ xây cầu hiện đại vì anh Đức đã biết rất rõ những thông tin chuyên ngành mới nhất. Chia tay vì phải đi tiếp, giáo sư Nhân bắt tay thật chặt và nói thật lòng không chút khách sáo ngoại giao” thật là hân hạnh cho tôi khi được gặp anh Đức ở đây!” Anh Nhân nói với bạn bè mình: “ bao lâu còn có những người như anh kỹ sư tài giỏi này thì đất nước không thể lụn bại được ”. Rất tiếc là tôi vẫn cứ lo lo và không thấm được cái tinh thần lạc quan vẫn biết là rất cần từ anh Nhân. Có lẽ vì tôi nghĩ đến cách làm việc đã dẫn đến sập cầu Cần Thơ và nghĩ đến nỗi buồn có thể gọi là Sầu Chung. Tuy vậy, từ nay, tôi đã biết nhìn những chiếc cầu bằng trái tim. Cầu Cần Thơ bị sập
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:45:45 GMT 9
Đi con đường khác Võ Hồng Ngày Phật đản 2552 - Bác gắng tăng thêm tốc độ. - Dạ. - Gắng tăng thêm nữa. - Dạ. Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài, lác đác có thôn ấp nấp sau những lũy tre. Chúng nằm bất động, cản ngăn tầm mắt khiến tôi có cảm tưởng là xe vẫn còn chạy chậm. Tôi muốn giục thêm bác tài nhưng tự nhiên thấy mình khiếm nhã. Tôi đã giục nhiều lần rồi. Giục thêm, có khác nào bảo rằng bác ta thiếu thiện chí hay kém tài năng. Tôi ngồi chồm ra trước, làm như tư thế đó giúp cho xe chạy mau hơn. Tôi rung những ngón tay tưởng như điều đó làm cho chiếc xe cũng sốt ruột mà gắng chạy nhanh hơn. Rặng núi thấp có những rẫy sắn rẫy đậu nằm bắc thang trên sườn, từ nãy giờ vẫn chưa vượt qua. Tôi muốn bất chấp xã giao lên tiếng giục bác tài chạy mau hơn nữa, nhưng chợt nhìn xuống cây kim đỏ chỉ tốc độ tôi phát hoảng : 110 cây số giờ. Đó là tốc độ nguy hiểm đối với đoạn đường này. Là đùa với Thần Chết và đi kề cái chết. Tôi lẩm nhẩm nghĩ : "Đằng nào cũng trễ rồi. Hôm nay đã 16 tháng chín. Xe không thể chạy về đêm. Trưa ngày 17 là hết. Là xong hết..." Tôi cảm thấy nóng nơi khóe mắt. Tôi cảm thấy nước mắt đang tụ tập về điểm lệ nhưng tôi cố ngăn không chúng họp thành giọt. Tôi cắn răng, cầm chắc sự can đảm trong bàn tay trái nắm chặt. Chợt xe phanh gấp một tiếng két nhức tai. Tiếng bánh xe lết trên mặt đường. Người tôi nhảy chồm lên, ngã nhào tới trước. Nhưng tôi hoàn toàn không có chút hoảng sợ. Tôi bình tĩnh đến mức độ lạ lùng. Tôi sửa lại tư thế ngồi, dựa lưng ra nệm và chậm rãi ra lệnh : - Thôi bác chạy chậm lại. Tám mươi đến chín mươi cây số thôi. Tôi không cần biết cái hãm phanh vừa rồi có nguyên do nào. Mọi nguyên do đều vô ích khi không sửa chữa được Thực tại. Tôi nhắm mắt lắng nghe hơi thở của mình. Trong trí óc tôi có tiếng kêu. "Chương ơi! Chương ơi!", tiếng kêu của tiềm thức tôi. Không có tiếng đáp lại. Vĩnh viễn từ nay sẽ không còn tiếng đáp lại. Tôi lần mở xắc lấy ra tờ chương trình. Năm chữ "Đại giới đàn Phước Huệ" in màu chữ đỏ. Những danh từ xa lạ. Lật trang sau... Điều kiện thọ giới Sa-di : Thuộc hai thời công phu Thuộc hai cuốn luật tiểu Điều kiện thọ giới Tỳ-kheo : Đã thọ Sa-di ít nhất hai năm Đủ hai mươi tuổi đời. Thuộc hai thời công phu và bốn cuốn luật tiểu. Phải có đầy đủ y bát, tọa cụ và đãy lọc nước. Những điều kiện này đang ràng buộc Chương. Đang thắt cột Chương vào một tập thể lớn có qui luật, nơi đó Chương xóa bỏ Quá Khứ của anh. Nơi đó Chương sẽ là một cái lá trong nhiều cái lá, một cành cây giữa những cành cây, một hạt bụi lẫn lộn trong hằng hà sa số hạt bụi. Và tôi, Trâm, người yêu của anh sẽ không còn chiếm nửa linh hồn anh, ba phần tư linh hồn anh, bốn phần năm linh hồn anh... mà tôi rút gọn lại chỉ còn là một chúng sinh xếp đồng đẳng với muôn triệu chúng sinh trước đôi mắt anh. Tôi tham lam hơn, Chương ơi! Tôi không chịu được ý niệm Dân chủ, tôi ghét cái cân của ngành Luật pháp bởi tôi không chịu đồng đẳng với ai, tôi phải chiếm chỗ cao hơn hoặc là tôi đoạn tuyệt. Mà anh có đi tu thật không? Có thể là con Như nó lầm không? Em nhận được thư hỏa tốc của nó bảo đích xác là có tên anh trong danh sách những người nhận giới trong Đại giới đàn. Có thể có sự trùng tên không? Em không hi vọng lắm. Khó có hai người cùng mang tên Lại Tăng Chương. Như nó gởi luôn cho tôi tờ chương trình. Ngày 17 tháng 9 Quí Sửu, sáu giờ : Hưng tác thượng phan, khai chung bản, khai kinh bạch Phật. Tôi chẳng hiểu nói cái gì trong đó. Đoán lờ mờ là có treo cờ, đánh chuông, tụng kinh. Chắc không sai mấy, 8 giờ : Tấn đàn Sa-di. Chắc có nghĩa là truyền giới cho mấy ông Sa-di. 12 giờ : Quá đường. Có phải nghĩa là đi qua phòng ăn để thọ trai? Có thể là không phải vậy. Mặc kệ. Chiều ngày 19 và sáng ngày 20 : Tấn đàn Tỳ-kheo. Lễ truyền giới cho Tỳ-kheo kéo dài lâu hơn chắc bởi cấp bực tu trì cao hơn. Chẳng biết Chương sẽ nhận giới ở cấp bực nào. Tôi hỏi bác tài : - Bác dự tính chạy hết tốc lực thì tối nay nghỉ ở đâu? - Theo cái đà này thì chúng ta phải nghỉ đêm tại Sông Cầu. - Sông Cầu là chỗ nào? - Giữa Qui Nhơn và Nha Trang. - Chỗ đó có khách sạn không? - Không hi vọng có. Tôi định hỏi thêm "Nếu không có khách sạn thì ngủ ở đâu và đậu xe ở đâu" nhưng trí óc tôi lười biếng quá rồi, tôi không muốn đặt câu hỏi nữa. Thà để trí óc trống rỗng, trắng bệch còn hơn là bắt nó nghĩ suy lấy lệ. Con đường chạy dài, xe vượt quá một cánh đồng thì bắt gặp một xóm làng. Những ngôi nhà tranh đứng hiu quạnh bên cạnh những bụi chuối bụi sả trông thật buồn. Tưởng chừng như những ngôi nhà bỏ hoang nếu nhìn quanh quất đâu đấy không thấy một con chó đang nằm khoanh nơi cháy bếp, một con gà giò ốm lỏng khỏng đi thơ thẩn nơi vạt nước hay một bà lão gầy gò da mặt nhăn nheo đang nhíu mắt nhìn ánh nắng rung rinh. Chương sống cô đơn từ những ngày nhỏ. Gia đình anh là một thảm kịch : Cha mẹ ly dị nhau, cha cưới vợ riêng và mẹ đi lấy chồng. Anh trở thành đứa trẻ mồ côi bởi vì về ở với cha thì không chịu được dì ghẻ, về ở với mẹ thì không chịu được dượng ghẻ. Cha và mẹ anh khi cùng ở với nhau thì điều khiển một nhà xuất nhập cảng lớn, khi ly dị nhau thì trở nên hai nhà xuất nhập cảng còn lớn hơn xưa. Trong việc tái lập gia đình, hai người đều tỏ ra gặp được hạnh phúc. Tóm lại chỉ có Chương mới là kẻ bất hạnh cho dù cha và mẹ anh đều nài nỉ anh về ở với mình, và ở với người nào thì anh cũng được chìu đãi sung sướng. Chương sống tự lập ngay khi vào Đại học. Khi ra trường, anh xin đi dạy học ở một tỉnh miền trung. Gia đình tôi và gia đình Chương quen nhau từ nhiều năm vì Ba mẹ tôi cũng mở hãng xuất nhập cảng. Cảm tình giữa chúng tôi biến thành tình yêu và sóng gió trong gia đình Chương khiến tôi càng yêu anh nhiều hơn. Tôi thấy tôi có bổn phận đối với Chương, giúp đỡ và an ủi anh. Chương chỉ còn có tôi ở trên đời để yêu ngoài cái đam mê suy tưởng Triết học. Yêu tôi, nhưng khi ba mẹ tôi đề cập đến hôn lễ thì Chương tỏ vẻ ngại ngùng. - Hôn lễ, đó là nghi thức cần thiết. – tôi nói. Chương gật đầu : - Đúng vậy, - Nhưng sao anh... - Tại vì... Tại vì... Tôi đoán biết tại vì sao rồi. Ba mẹ tôi giàu lớn còn anh thì hiện thời đang đứng sắp hàng theo chỉ số. Phải đi nhích tới từng bước. Nếu không muốn để cho đồng tiền cám dỗ thì mắt phải chăm chăm nhìn lên những chữ Lễ nghĩa, Liêm sỉ, Đạo đức. Chương yêu tôi mà không dám cưới tôi. Ngoài ra, những hình ảnh của cuộc hôn lễ linh đình ngày cha anh đi cưới mẹ anh đã ám ảnh anh. Chính tôi đã được nhiều lần ngồi nhìn say mê những bức hình chụp đám cưới ấy. Cha anh mặc áo thụng gấm có thêu những cái hoa to bằng cái bát úp. Má anh đội khăn màu vàng như một nàng công chúa. Xung quanh hai người là cả một rừng áo gấm và một bầy công chúa xinh đẹp như nhau. Bây giờ thì những chữ Song Hỉ bị bẻ ra làm đôi, mỗi người cầm giữ một nửa. Chương không thuộc về một bên nào. Anh lửng lơ ở nơi biên giới, ở nơi ranh giới, ở no men’land , ở chỗ đáng lẽ không có người. Tôi nói : - Nhưng em không thể đến sồng với anh mà không hôn lễ. - Anh biết. - Biết mà vẫn cứ để vậy? - Anh không có lối thoát. - Ba mẹ em không thể đợi anh lâu. - Chắc là anh mất em. Từ ngày anh ra miền trung, tôi làm gan không biên thư cho anh nữa. Tôi đợi sự hồi tâm của anh. Thì đột nhiên có bức thư khẩn cấp của Như. - Bác liệu có thể chạy xa hơn Sông Cầu không? - Thưa cô chắc không được. Giờ này mà mình còn leo đèo Cù mông thì không hi vọng đi vượt quá Sông Cầu. - Cù Mông là cái gì? - Cái đèo lớn nằm giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên. - Sao mà lắm đèo lắm ải vậy? - Miền Trung mà cô. Hết đèo đến ải. Y như cuộc đời của Chương. Y như mối tình của chúng tôi. Người bình dân hát rằng : "Thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội cửu thập đèo cũng qua". Đó là những sông những núi những đèo của Thiên nhiên, dẫu cao dẫu sâu dẫu trắc trở mà với quyết tâm người ta vẫn có thể vượt được. Chỉ cần thời gian. Với núi đèo do con người tạo ra thì vượt qua không phải dễ. Và Chương đang chọn một lối vượt qua của anh. Tôi ngủ lại đêm ở Sông Cầu. Đêm thật đen và thật buồn. Thành phố nằm bẹp dí xuống mặt đất, nhà thấp và mặt biển liếm sát bờ cát. Không thấy một sự cố gắng vượt lên. Hạnh phúc xuề xòa. Hạnh phúc cao một thước năm ngang vòng tay ôm. Hạnh phúc cao một thước sáu ngang đôi môi hôn. Hạnh phúc trong giây phút hiện tại, trong đêm tối an nghỉ, giữa hai tràng đạn bắn vu vơ, giữa hai quả hỏa tiễn câu vu vơ... Chương ơi anh coi thường thứ hạnh phúc trần gian này, anh ngước nhìn lên cao hơn, anh rướn mình lên cao hơn. Sau một đêm ngủ chập chờn, mới mờ sáng chiếc Falcon đã lại lướt gió, nuốt vội đường trường. Những cánh đồng còn chìm trong một biển sương trắng đục mênh mông. Những toán dân vệ đi thành hàng lặng lẽ trên những bờ ruộng thấp, mũi súng chĩa xuống đất. Một đêm tối bất trắc đã qua, mọi người đón nhận ánh sáng mặt trời, vui mừng như giữa những thời xa xưa loài người còn cư ngụ trong hang đá. Xe nhẫn nại bỏ lui lại những xóm làng. Xe hớn hở lượn theo vòng đèo, xe mê mải bò lên những dốc cao. Ánh nắng đã lên, nhuộm hồng những tàu lá cau, nhuộm vàng những ruộng lúa. Tôi không có cách nào trì níu thời gian, chiếc kim đồng hồ cứ lặng lẽ quay vòng và khi xe tôi ngút hơi đậu lại chân núi nơi địa điểm của giới đàn thì mặt trời đã lên cao. Trễ giờ rồi. Tôi không còn hi vọng nắm giữ lấy đôi tay Chương và đổ ra những giọt nước mắt để bắt anh lưỡng lự, khí giới của tôi chỉ có thế. Tôi hơ hãi leo lên triền núi, đặt chân bất kể lên những viên đá gập ghềnh. Những bụi me đất, những đám lá dang lá bìm bìm bò vô tư dưới chân những cây mít cao. Lối đi thoai thoải rải rác lá vàng, lẩn quất dưới những tàn cây âm u. Leo được nửa dốc, tôi mệt quá ngồi bệt xuống một tảng đá. Đằng nào thì cũng đã trễ rồi. Bóng người lao xao ở đỉnh núi, di động rộn ràng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, tiếng mõ gõ nhịp đều đều được máy phóng thanh chuyền vang xuống núi. Tôi gượng đứng dậy bước tiếp. Vài người lên xuống cùng chia với tôi lối đi hẹp. Tôi bước lên những bực cấp xây bằng đá. Tôi vịn tay lên đường lan can bằng xi măng. Tôi bước lên những bước cuối cùng. Người đi dự lễ mặc áo dài nghiêm trang đứng nhấp nhô ỡ dãy nhà trù, ở hiên nhà khách, ở sân chùa chen chúc bụi trúc khóm tùng. Tôi len vào giữa những thân người, tôi luồn vào giữa những thân cây. Tôi đi lần tới chánh điện. Uy nghi lặng lẽ, một tượng Phật lớn thếp vàng ngồi tĩnh tọa trên đài cao. Phía dưới nhiều vị sư đắp y vàng ngồi nghiêm trang sau những chiếc bàn thấp sắp dàn ra hai bên. Nơi bàn giữa dưới chân tượng Phật, một vị Đại lão hòa thượng đang chậm rãi cân nhắc từng tiếng giữa cái im lặng mênh mông, cái im lặng mắc kẹt dưới những góc bàn chân ghế, cái im lặng rung rinh trên đầu người : - Các giới tử ! Phật vì đại sự nhân duyên mà ra đời cho nên nói ra không lường pháp môn, tám vạn bốn ngàn diệu nghĩa ... (tôi đang nhích tới để nhìn cho rõ mặt vị Đại lão hòa thượng) ... tóm lại không ngoài ba môn học là giới, định, huệ. Song huệ do định mà phát, định nhờ giới mà sinh, công năng sinh ra giới ... Các bậc Thánh nhờ giữ giới mà chứng Bồ đề, chư Phật do nơi giới mà thành Chánh giác. Tôi đưa mắt nhìn sang đám đông gần ba trăm vị sư trẻ đang quì trật tự trước lễ đài, cúi đầu lắng tai. Không cần hỏi ai tôi cũng biết đó là những ông Sa di. Tôi vội vàng rời chỗ đứng đi lần về phía giới trường đó. Những ông Sa-di mặc áo tràng màu xám. Vì giới trường hẹp, họ sắp thành mười mấy hàng, mỗi hàng gần hai mươi ông. Tôi điểm mặt từng người một để tìm khuôn mặt của Chương. Hàng đầu : một, hai, ba, tư, năm ... mười ba, mười bảy... Không có. Hàng nhì : một, hai, ba, tư ... mười lăm, mười sáu. Không có. Hàng ba : một, hai ... năm ... bảy ... mười hai ... Hàng tư : một, hai ... tám ... chín ...... Tim tôi đập rộn ràng. Lạy Trời đừng có Chương. Sự thể sẽ không quá chậm đâu miễn là không có Chương trong đó. Tôi sẽ chấp nhận mọi điều kiện của Chương, tôi sẽ không cần đám cưới linh đình, tôi sẽ ở cạnh Chương giúp anh vượt qua những khổ não chập chùng đang bủa vây anh. Tôi sẽ quày xe lại đi ngay ra Trung tìm anh, tôi sẽ tự lái xe lấy và lần này kim tốc độ sẽ chỉ tám mươi cây số là cùng, bởi chưng tôi yêu đời, bởi chưng tôi quý trọng sự sống. Hàng chín : một, hai... tám... mười bảy... Không. Hàng mười : một, hai... mười bốn, mười lăm... Không. Hàng mười một : Một... Tim tôi nhói lên. Mắt tôi hoa đi. Tôi vội bấu tay vào khung cửa. Chương đó. Rõ ràng là Chương đó. Tôi nhìn anh trừng trừng. Anh cúi đầu lắng nghe pháp ngôn của Hòa Thượng. - Nay các vị nguyện bỏ thế tục theo phép xuất gia, vượt khỏi thường tình là không lạy cha mẹ. Song các vị phải nhớ bốn ân đức lớn trong giờ phút này phải chuyên tỉnh lễ tạ, về sau không còn lạy nữa. Có tiếng phát ra từ loa phóng thanh : - Giới tử xoay về hướng Bắc lễ tạ bốn ơn. Những tấm lưng cúi xuống, quì lạy, đứng lên, rồi lại nhịp nhàng cúi xuống, cuồn cuộn như những lượn sóng nhấp nhô. Lạy Tạ cha mẹ! Phải lắm, cha mẹ "sinh thành chi đức", công lao như bể trời. Tôi nghe người ta nói "cát ái từ thân", nhưng cát ái từ thân đâu phải chỉ có cắt đứt tình thương đối với cha mẹ. Nơi những quả tim kia chỉ có tình thương cha mẹ thôi sao? Chương ơi, thế em không có một chỗ đứng nào trong trái tim của anh sao? Sao anh không lẩm nhẩm nói tiếp lời Hòa thượng rằng : "Còn riêng con, con xin lạy thêm một lạy để tạ từ..." Không, không, anh tha lỗi cho em, em không dám đòi hỏi một cái lạy của anh. Tình yêu không có nghĩa gì hết. Đối với cha mẹ, từ giờ phút này anh đã xin cắt đứt bổn phận rồi mà. Bốn cái lạy cuối cùng hướng về cha mẹ trả nghĩa sinh thành. Từ nay dù cha mẹ anh có từ trần, anh cũng không được quyền quì lạy trước bàn thờ nữa. Anh đã cắt đứt mọi dây liên lạc tìm cảm, cắt đứt mọi bổn phận riêng tư, như cái cây đã bứt lìa hết mọi lớp rễ chằng chịt bám vào lòng đất và thay vào đó, cây sẽ nhú ra những lớp rễ mới, bám vào những sinh môi mới. Em thuộc vào sinh môi cũ của anh. Đã cắt đứt lìa rồi. Hai giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má tôi. Cùng với các vị Sa-di, anh vừa tụng niệm bốn lời thệ nguyện vừa quỳ lạy liên hồi: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn Pháp môn vô lượng thệ nguyện học Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Anh lạy vụng hơn mọi người, luôn luôn quỳ gối chậm hơn và đứng dậy cũng chậm hơn. Có hồi vướng víu gấp gáp, anh lúng túng sắp ngã. Nhưng anh đã gượng lại được. Nhìn anh quỳ lạy mà lòng em xót xa. Quỳ lạy là cái hình thái khiêm tốn cùng cực, hạ mình cùng cực, là xóa bỏ cái ngã mạn to lớn mà ngoài đời, trước kia anh đã dựng lên với tất cả niềm kiêu hãnh. Bây giờ, ở giữa chốn này, anh xếp lại đôi cánh đại bàng. Giọng trầm trầm của Hòa thượng chủ lễ : - Các giới tử, cái y này tiếng Phạn gọi là Ca sa. Mặc y này có thể giải thoát tham, sân, si... Tôi nay trao y này cho các vị, các vị phải gia pháp mà thọ trì. Tiếng Hòa thượng vừa dứt, mỗi Sa-di lần mở chiếc y vàng mới tinh còn nguyên lằn xếp choàng vào người, choàng ra ngoài chiếc áo xám đang mặc. Gần ba trăm vị vươn tay duỗi vai, xốc cổ vuốt lưng... đã tạo ra một sinh hoạt rộn ràng. Nhiều vị lúng túng trong việc tháo cái dải áo và cột lại dải áo. Nhiều vị vội vàng, xỏ tay lộn ngược. Chương là một trong những người lúng túng. Ngoài đời anh vẫn vậy. Anh như con hải âu bay vượt trùng dương, thách thức bão tố, nhưng để đứng trên boong tàu thì chỉ làm trò cười cho lũ thủy thủ độc ác nhỏ nhen. Một vị Tỳ kheo đứng cạnh đó đã tiến lại choàng chiếc y vàng lên vai anh. Vị đó còn ân cần buộc dải áo giúp anh và vuốt thẳng bâu áo. Xin cảm tạ vị Tỳ kheo rộng lòng lân mẫn. Chương hôm nay chỉ còn quý vị để giúp đỡ, để an ủi. Ngày trước đôi mắt tôi chọn ca-vát cho anh. Đôi tay tôi chọn bít-tất cho anh. Mũi tôi chọn nước hoa cho anh. Hôm nay thì những món kể trên trở thành kỷ niệm. Hòa thượng lúc nãy có trao giới tướng : - Các ông suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào người, không xem nghe ca múa hát xướng, không ngồi giường cao, không tham chứa vàng bạc... Mọi giới cấm đều không nặng đối với Chương. Khi ở ngoài đời anh cũng chỉ bị nhuộm màu đời một cách lợt lạt. Luôn luôn anh là kẻ phong phú trong suy tưởng mà bần cùng trong hưởng thụ. Khi các vị Sa-di đã tề chỉnh y vàng đứng sát cạnh nhau thì cái quang cảnh giới trường bỗng sáng rực hẳn lên. Màu vàng rực rỡ, màu của tâm niệm giải thoát, màu của Đông Nam Á Châu tràn đầy ánh nắng và tràn đầy khổ đau. Chương bây giờ đã hòa mình vào cái khối màu vàng kia rồi. Anh lẫn lộn trong đó, anh biến mất trong đó, không thể chỉ nhìn sau lưng mà biết được anh, không thể chỉ nhìn dáng đi mà biết được anh. Mà bây giờ cho dù có nhìn rõ mặt, thì anh cũng đã không còn là anh nữa rồi. Anh đã thay đổi khác rồi. Tiếng chuông trống đổ hồi chấm dứt buổi lễ. Các Sa-di sắp hàng một đi vòng trước sân chùa, đi theo một hành lang dài để về các liêu. Từ một góc hoa viên, đoàn nhã nhạc bốn người mặc áo đen dài luân phiên nhau thổi những điệu kèn thật buồn. Tôi rời chỗ đứng, đi ra phía hành lang, ẩn mình dưới một gốc trắc bách diệp. Đoàn Sa-di lần lượt đi qua, áo vàng rực rỡ, mắt nhìn xuống đất, chân bước khoan thai. Tiếng kèn thánh thót, tiếng kèn nỉ non như dẫn dụ gót chân, như nâng nhẹ gót chân, những gót chân trần chạm nhẹ trên nền xi măng. Một vị Sa-di đi qua, gương mặt nông dân nặng và chắc. Tiếp tới một vị nét mặt ngây thơ, tuổi chưa đến 18. Một vị mày rậm và dài, mắt xếch như môn sinh của một Thiếu lâm tự. Một vị gầy gò mảnh khảnh tuổi có đến 30. Một vị đẫm thấp mập mạp dáng khoan dung yêu đời. Một vị da mặt đen đúa lấm tấm nhiều mụn. Chương lững thững đi tới kia. Luôn luôn nét mặt anh rạng rỡ và dáng dấp uy nghi. Không một cử động dư. Anh đi ngang qua chỗ tôi đứng. Ánh sáng nơi khuôn mặt bất động làm tôi bỗng nhiên bối rối kinh sợ. Tự nhiên tôi quỳ xuống. Hành động bất ngờ khiến có người lao xao di chuyển gần tôi. Họ đoán một biến động, phòng ngừa một bạo động. Tôi phải giơ tay ra hiệu cho họ yên tâm. Tôi không muốn xáo động những bước chân của Chương. Lúc nãy tôi có ý định đợi khi anh đi qua tôi sẽ khẽ gọi tên anh. Tiếng gọi sẽ khua động cả tâm thức anh, sẽ chấn động cả tâm linh anh, sẽ phá đổ cả cái mặt biển bình lặng của tâm hồn anh hiện tại. Tôi tự tin bởi tôi biết tôi ngự trị nơi cái vùng trời Quá Khứ của anh. Nhưng khi nhìn ánh sáng nơi khuôn mặt bất động của anh, tôi vụt thấy tôi là kẻ bại trận. Vô nghĩa, phù du là tình yêu của một người đàn bà, là chính ngay người đàn bà. Trời ơi! Một con phù du vừa có ảo vọng ngông cuồng là vỗ cánh lên để làm giật mình một con sư tử. Bóng của Chương đi khuất, nối tiếp theo là những bóng khác, cũng chậm rãi đều đặn theo một nhịp điệu êm êm, mê hoặc của giọng kèn nỉ non. Tôi vẫn cứ quỳ đó bất động, bất lực, cảm thấm thía lần đầu tiên thân phận phù du của mình.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 4:15:09 GMT 9
Câu Chuyện Nhà Sư - Nguyễn Bá Học
Ngày tháng 6 năm 1906, vừa độ các trường nghỉ hè, tôi cũng đi thăm một vị sư ở chùa hàng Bưởi, về hạt Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh. Đến nơi thì bản sư cùng tăng chúng đi đọc hạ (1) bên chùa Thiên Thai, từ mấy hôm trước. Bấy giờ trời đã gần hôm, tôi phải nghỉ lại đó. Một mình ngồi trong phòng khách trông sang hiên tây, vắng ngắt không có người đi lại. Bóng chiều phản chiếu, lá cây lẫn với rêu sân một màu nhàn nhạt, trong cảnh thanh tịch hiện ra một cái vẻ thê lương, khiến cho lòng kẻ khách du ngao ngán nỗi mây ngàn hạc nội. Trong một cái phòng sâu và tối, nghe có tiếng người ho khoải khắc(2). Hỏi ra mới biết là một vị hành tăng (3) tạm trụ cảnh chùa để xem kinh và dưỡng bệnh. Tôi liền tới nơi, có ý cùng sư nói mấy câu chuyện nhà chùa cho khuây cơn sầu tịch. Bước vào, vừa thấy một người chừng năm mươi tuổi, mặt xanh mình gầy, ngồi tựa lưng vào cột, nét mặt đăm đăm, trông ra cửa sổ, thỉnh thoảng thở dài một cái, như đem bao nhiêu cái uất cái não đã chất chứa trong óc nhờ hơi thở để tiết ra bên ngoài. Tôi sẽ lên tiếng mà chào: - A di đà Phật! Tôi là người có quyến thuộc với sư bản tự (4) đến chào người. Người kia nhìn tôi lúc lâu, rồi nói một tiếng nặng nề rằng: - Thầy hãy đứng xa tôi ra. Tôi là một người có tội: Tôi là người sắp xuống địa ngục. Thầy hỏi tôi làm gì? Tôi nghe nói phát lạnh cả người, như mình đứng bên ma quỷ. Tôi nói: - Tội nghiệp thay, người ở cảnh nào? Người có bệnh gì? Sao người không vào nhà thương mà uống thuốc? Người kia nói: - Tôi không có nơi thường trụ. Bệnh tôi đã lâu, không có thể chữa khỏi, mà cũng không ai có thể chữa khỏi; chẳng bao lâu mà tôi sẽ ra người dưới cửu trùng địa ngục. Thôi, thầy về phòng khách mà nghỉ. Nói rồi cứ đăm đăm trông ra cửa sổ. Tôi lui về phòng khách, cứ một mình mình nghĩ: Người này hẳn có oan nghiệt gì đây, cho nên cái lương tâm nó cứ dõi theo mà cắn giắt (5), ấy là một sự hình phạt rất nặng. Than ôi sinh, lão, bệnh, tử là bốn nghiệp của loài người, đã có thân phải có nghiệp. Kìa người đã xả thân diệt tục còn phải mang lấy nghiệp vào mình, huống chi người túng dục tứ tình (6), biết bao giờ cho ra khỏi bến mê bể khổ. Đương ngồi đương nghĩ thấy thoáng có bóng người vào cửa, như có hơi gió lạnh thổi lọt vào mình, sởn cả gai ốc. Trông ra thì là người bên tây hiên, bước vào kéo ghế mà ngồi. Tôi cũng vội vàng đứng lên mà chào hỏi. Người kia liền nói: - Hẳn thầy đang nghĩ ngợi về việc tôi. Nếu tôi không nói chuyện cho thầy nghe, để cái nghi đoan (7) bận trí khôn cho thầy cũng không phải. Vả lại, chẳng bao lâu mà tôi sẽ bỏ cái thế giới này, cũng nên đem chuyện mình để làm gương cho thiên hạ. Tôi xem thầy cũng là người văn sĩ, cũng nên ký lấy những nỗi khắt khe ở đời, điều hay để mà khuyên, điều dở để mà răn, cũng không phải là sự vô ích. Tôi nói: - Người ta ai cũng có điều hay điều dở, hễ biết dở ấy là người hay. Cho nên đạo Thích Ca cho chúng sinh sám hối, đạo Thiên Chúa cho con chiên rửa tội. Nếu người đã sẵn lòng nói thật, tự mình không phụ với lương tâm, trời Phật nào chẳng chứng minh cho lòng người ngay thật. Người kia ngồi đối diện với tôi mà nói: - Tôi họ Trần, hiệu là Nguyễn Khuê, người Hà Đông. Cha mẹ mất sớm ở với chị, cũng cho ăn đi học. Năm 15 tuổi chị chết, anh rể lấy vợ khác, thế không ở được, phải bỏ mà đi. May gặp một bà họ Lý, ở một làng bên, thấy con nhà khốn khó, đem về mà nuôi. Bà không có con trai, chỉ nuôi một người cháu gái tên là Lý Cô. Bà thấy tôi đã lớn, cho lên tỉnh vào tràng (8) Pháp Việt mà học. Nghĩ tôi có khác gì chiếc lá lìa rừng, con chim lạc tổ; sao cho khỏi sa ngã chìm đắm đã là khá, còn mong gì sự học hành, dù có thiên tư thông tuệ thế nào, cũng phải đoạ lạc ra con nhà thất giáo (9). Nay thân trầm luân đã được nhờ tay tế độ, được ấm no, có giáo dục tưởng cái ân cái nghĩa ấy, biết lấy gì mà trả cho phu (10). Một hôm nhân ngày nghỉ học, tôi về thăm Lý bà. Bà lấy mẹ con mà xưng hô, tình âu yếm, cách ôn tồn, đã cảm động lòng tôi cho đến rơm rớm hai hàng nước mắt. Tôi nói: "Tôi là một đứa con nhà bạc đức, đã không cha không mẹ lại không anh không em. Trời đất sinh tôi ra có ý đày đoạ vào một đời khốn cùng khổ nhục, dù bà có lòng từ thiện thế nào, không tô điểm đất bùn cho nên tượng được". Lý bà nói: "Già hiếm hoi, thèm chút con hiền cháu thảo, thấy con cũng là con nhà lương thiện, coi người dĩnh ngộ, có vẻ thông minh, để già sớm khuya bầu bạn và tin cậy về sau. Con ôi, đường sinh phúc con còn dài, việc gì mà lỗi chí (11). Từ nay mẹ khuyên con phải phấn phát tinh thần, học hành tấn tới cho bằng người, cho khỏi phụ lòng mẹ đã thương con ngày nay". Nói rồi Lý bà gọi Lý cô đến mà bảo: "Nay Trần sinh đã là người trong một nhà, cháu phải lấy đạo anh em mà xử, không có điều gì phải hiềm nghi, phải giúp anh mày những việc mà mày có thể làm được". Lý cô nghe nói, sẽ ngoảnh lại mà chào tôi, rồi cứ cúi đầu mà đứng. Tôi vô ý cứ chú mắt mà nhìn, làm cho Lý cô thẹn đỏ cả tai cả cổ. Lý bà biết ý gọi Lý cô ra ngoài nói sang chuyện khác. Tôi cũng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi xin trở về trường học. Tự bấy giờ Lý cô thường đem tiền gạo cho tôi ở nhà trọ, vá may giặt gịa đều là việc Lý cô. Lần kia tôi phải đau ở nhà trọ, một tay Lý cô thuốc thang cơm nước; thực là một người có nữ công, có đức hạnh; con nhà khuê tú chưa dễ đã có mấy người. Vả từ thuở nhỏ đã quen ăn cần ở kiệm, không nhiễm một chút gì là thói đãng tình kiêu. Một bữa, Lý cô bưng thuốc đến, tôi lấy lời cảm tạ mà bảo Lý cô rằng: "Lý cô đã khó nhọc với tôi là biết dường nào! Tôi là con nhà bạc đức, sống thác có kể chi mà cái ân cho toàn, nghĩa trân trọng của Lý cô tôi biết lấy gì mà đền bù cho xứng đáng?" Lý cô nói: "Việc giúp đỡ anh em cũng là việc trong nhà, có gì mà kể ân kể nghĩa". Tôi nói: "Tôi thương Lý cô hết lòng, không biết Lý cô có thương tôi như thế không?" Lý cô nói: "Anh em thương nhau là lẽ tự nhiên". Tôi nói: "Tuy nhiên, chẳng những tôi thương Lý cô vì tình anh em, và thương Lý cô vì tình...:". Nói đến đây tôi ngừng lại. Lý cô lại hỏi: "Còn vì tình gì?" Tôi nói: "Vì tình ân ái". Lý cô nhìn tôi một cách nghiêm nghị mà nói: "Tôi không hiểu lời anh nói. Thôi anh uống thuốc đi kẻo nguội, tôi cũng phải về kẻo cô mong". Nói rồi thảo thảo(12) ra về, đến cửa còn trông lại. Bấy giờ tinh thần tôi chuyên chú vào mình Lý cô. Lý cô mới mười sáu tuổi, kém tôi hai tuổi. Như trăng còn non, như hoa còn tụ, chưa có thể lấy tình động, lấy ý dụ. Vả Lý bà đã hứa nhận mình là con nuôi, hẳn không có ý cho mình là cháu rể. Nếu nghe Lý cô kể lại những lời thô bỉ của mình vừa rồi, có khi bao nhiêu lòng âu yếm xưa nay sẽ đổi ra tình yếm bạc (13). Tôi cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn, nửa thẹn nửa buồn. Sau thấy Lý cô vẫn đi lại như thường, mới yên lòng dần dần. Từ đó không còn dám giở thói khinh bạc ra nữa. ấy là sự giao thiệp lần thứ nhất của tôi với người họ Lý; mà chính là điều ân sâu tình nặng đã in sâu vào óc đã nhuộm vào lòng, không bao giờ tôi quên đi cho được. Năm 20 tuổi, tôi thi đỗ thông ngôn (14), 21 tuổi bổ lên thượng du. Vừa được bảy tháng thuỷ thổ bất phục (15), phải cáo mà về. Lần ấy Lý cô lại vất vả nuôi tôi hơn là lần trước. Một tối tôi đang băn khoăn dằn dọc vì mối tình riêng, Lý bà liền lại mà hỏi rằng: "Nay bệnh con đã thanh thả, sao còn trằn trọc canh khuya! Nay con đã đến ngày khôn lớn, mà mẹ cũng một tuổi một già, mong cho con trẻ sớm thành gia thất, để già được yên lòng. Nay Lý cô là con nhà có nết, có thể giúp cho con trong việc tảo tần, thực đã hoa vừa thắm cánh, trăng vừa tròn gương; để đợi ngày lành tháng tốt, mẹ hãy định liệu cho chúng con thành duyên phu phụ". Tôi nghe nói như thừa ngọc sắc (16) tự chín tầng mây trời chuyền xuống, mừng mừng tủi tủi, không biết lấy gì mà hình dung. Chẳng bao lâu nguyện xưa đã vẹn, duyên mới càng nồng, thực là cái hạnh phúc mà sinh bình tôi mới được hưởng là lần thứ nhất. Bây giờ Lý bà đã nên vật hóa (17), Lý cô cũng còn phải trầm oan. Trời ơi! Biết bao giờ... Đến đấy tiếng thổn thức làm cho dứt câu nói, cứ gục đầu xuống cánh tay mà khóc, nước mắt ròng ròng, không ngẩng đầu lên được.Chưa biết câu chuyện kết cục ra làm sao, mà cái tình đau đớn của người này đến cực điểm. Một lúc nhà sư lại ngồi ngay lên, hai tay ôm lấy ngực, lông mày chau lại thành một cái rãnh giữa trán, vai so lên tận tai. Trông bộ gớm ghiếc, như một người tù bị giam đã lâu nay đem ra mà hỏi án. Tôi trông mặt cầm lòng không đậu, bảo hãy ngồi yên mà nghỉ cho khỏi mệt. Nhà sư mỉm cười miễn cưỡng làm bộ mạnh mẽ, cho tôi khỏi chán. Rồi cứ tiếp tục mà nói: "Chúng tôi cùng hưởng cái lạc cảnh đoàn viên trong gia đình được hơn một năm, sinh được một đứa con trai, rồi tôi lại bổ ra làm thông ngôn dưới tàu trận (18), nay đóng cửa này, mai ra bể nọ. Từ bấy giờ lại kẻ ra hồ thỉ bốn phương, người chịu sớm hôm chiếc bóng, sum họp có ít biệt ly thì nhiều; thương thay! Sự sinh hoạt của chúng tôi nó đã tiêu ma mất bao nhiêu là cái thanh niên hạnh phúc! Sáu năm sau tôi mới lại được đổi về toà Sứ ở trung châu, thì Lý bà mất đã hết việc (19), bao nhiêu di sản cũng để lại cho vợ chồng tôi. Đứa con trai tôi cũng đã biết đi học. Làm việc ở toà Sứ như tôi cũng là bậc có danh giá, từ tỉnh quan cho đến phủ huyện ai cũng tới lui, cho nên bổng lộc cũng nhiều mà chi tiêu cũng lắm. Tưởng ngày nào vợ còn cắp từng rổ khoai, đội từng thúng gạo đi nuôi chồng, nay đã dù che ngựa cưỡi, ăn trắng mặc trơn, sự hy vọng của chúng tôi, tưởng thế đã là mãn nguyện. Ai ngờ no đủ sinh ra dâm dật, quyền quý sinh ra kiêu căng; sự tai hoạ ở đời thường phát đoan (20) từ những khi đắc chí. Một hôm tôi vừa ở nhà hầu ra thấy có cái xe sừng sực (21) trước mặt đi lại, một người trong xe bước xuống mà nói: "Thầy quên tôi rồi ư? Tôi đã đến mấy hôm nay, cứ đi tìm thầy mãi". Tôi cũng mừng rỡ mà nói: "Chào cô Ba". Cô Ba nói: "Quan lớn tôi đã về, có khi không sang đất thuộc địa nữa". Tôi vừa cười vừa nói: "Thế thì cô Ba càng được tự do". Cô Ba nói: "Phải, chẳng thế sao tôi được đến đây mà tìm thầy?". Nguyên người này là vợ một viên quan ở tàu trận. Vẫn ở trên bộ, trước có dan díu cùng tôi. Ngày nay lại gặp, không kịp tính gần tính xa, cứ đón rước về nhà, nhận là người quen thuộc cũ. Đại để những người đã lũa (22) đường giao thiệp, không quen lấy lễ phép buộc mình, từ lời ăn tiếng nói cho đến nết đứng nết ngồi, đều đủ cho người ta chỉ trích. Trong bấy nhiêu ngày cô Ba lui tới ở nhà tôi thì Lý cô miệng nói không ra, mà thực như đanh đóng trong con mắt. Sau tôi phải thuê một cái nhà khác cho cô Ba ở, mà một mình tôi cứ tả xung hữu đột, như ông chiến tướng đứng giữa trùng vi. Một là tránh cho khỏi tiếng chì tiếng bấc trong gia đình, hai là dê béo rượu nồng; ai thấy của trời mà chẳng tiếc. Thân thế tôi bấy giờ chẳng khác gì Tiết Đinh Sơn đã hãm vào mê hồn trận, lên, lui, tả, hữu, chẳng còn bước nào là một bước quang minh. Mấy nơi ca quán, mấy chỗ để trường, không chỗ nào là không có tôi với cô Ba làm khai mạc chủ. Một hôm canh đã tàn, rượu đã tỉnh, cô Ba ngần ngại mà nói với tôi rằng: "Sự hành lạc của chúng ta nay sắp đến ngày thu cục (23), vậy phải liệu mà tính cách duy trì, cuộc cạnh tranh có nhanh chân, nhẹ bước mới hơn người, nếu ngồi chờ nước đến chân có khi nhỡ bước. Tôi ngắm anh cũng có vẻ phát đạt, sao anh không liệu thế mà ra làm quan? Cứ lấy tài lực tôi mà xem, tưởng cũng là việc dung dị (24)". Mới nghe thấy hai chữ "làm quan" thì tôi rộn rịp cả tâm thần, như ai đã mở lá cờ trong bụng, xưa nay chỉ tơ tưởng quan lớn, bây giờ hóa ra sự thực thì biết đâu? Tôi vội vàng hỏi: "Nói chơi hay nói thật? Đường sĩ hoạn bây giờ mỗi ngày một hẹp; có phải đồ trong túi đâu để tuỳ ý mình vơ vét". Cô Ba tủm tỉm mà nói: "Không phải nói chơi. Nếu mấy tay cốt yếu với mình đã là người quen; nhất sắc nhị tài (25), thiên hạ còn có sự gì là khó!". Tôi mới nghe, mặt nóng lên bừng bừng, sau lạnh như nước đổ vào lưng, bao nhiêu ý khí tiêu ma đi đâu mất cả. Nghĩ mình với người này chẳng qua là duyên gặp gỡ, có lý gì lấy trinh bạch mà buộc nhau. Và xem tính tình cô Ba như chim ngoài lồng, như thú sổ cũi, hồ dễ chịu cho ai lung lạc hay cơ mi (26), của tam bảo chỉ để bố thí cho thập phương ai có duyên thì hưởng. Tôi làm bộ ngẩn ngơ mà nói: "Tôi coi cô Ba mày cao trán rộng, đường đường một vị phu nhân, mà trong số tôi quan lộc có đào hồng lại là số công danh phải nhờ nội trợ. Không biết cô Ba sẽ liệu ra cách nào?". Cô Ba nói: "Muốn ăn lãi thì phải bỏ vốn. Thầy cần phải chuộc về cho tôi mấy bọn đồ vàng là đồ cần dùng của tôi, còn việc gì nữa thì cứ mặc tôi tuỳ cơ ứng biến". Tôi vội vàng về nhà vơ vét được bao nhiêu đưa cả cho cô Ba mà cô Ba vẫn còn chưa đủ dụng. Nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn mấy bức văn tự của di sản Lý bà để lại và còn ở tay Lý cô, phải lập thế mà lấy cho được, thế là hết. Tối hôm ấy về nhà, thấy Lý cô đang ngồi dưới bóng đèn mà vá áo. Tôi ghé lại mà bảo rằng: "Nay vì chút công danh nên phải tiêu cũng tốn. Tôi muốn mượn mấy bức văn tự của Lý bà để lại. Rồi đây có bổng có lộc lại kiếm ra bằng trăm bằng nghìn bấy nhiêu, bấy giờ cũng của chồng công vợ chớ đi đâu mất mà sợ". Lý cô vội gạt lời tôi đi mà nói: "Thôi, lâu nay tôi đã biết thân phận mẹ con tôi rồi. Công danh phú quý cũng xin nhường cả cho ai. Thầy hãy xem tôi bây giờ đã mình trần tay trắng còn có cái gì mà cho ai nhờ được nữa". Nghe mấy tiếng châm phong (27), tôi đã tím gan tức ruột phải bấm bụng mà lui ra. Vừa gặp cô Ba vồn vã mà hỏi: "Này, đây vừa có tin may mắn lắm, thật là cái dịp tốt cho mình. Nào khoản tôi bảo thầy biện đã đủ chưa? Sợ chậm ra thì nhỡ cả". Nhiệt trường của tôi bấy giờ lại nóng như lửa đốt. Nghĩ đến mấy bức văn tự phải dùng vũ đoán mới xong. Tối hôm ấy lại về nhà, không thấy Lý cô ngồi ngoài. Hỏi con ở nói Lý cô đau bụng, từ mấy bữa không ăn, phải uống thuốc mới vào phòng nghỉ. Tôi biết ngay Lý cô thoái thác: Vợ con như thế, còn nhờ nhau lấy gì! Tôi vào ngay chỗ nằm mà hỏi: "Mấy bức văn tự cô để đâu? Nếu cô chối tôi một lời là có sự chẳng lành đến tính mệnh". Lý cô còn tưởng là nói dọa, cứ thủng thỉnh mà nói: "Văn tự nào của thầy mà cứ tra hỏi?". Nói rồi lại cứ nằm vật xuống. Tôi căm quá, vừa bước ra rít lên một tiếng. Như có người giẫy lại, hai con mắt nóng như kéo màng, bao nhiêu mạch máu trong mình sưng lên hết. Bấy giờ tôi trông thấy Lý cô như người đi săn đè được con thú dữ, cố đánh cho thật phải phục xuống kẻo chạy thoát đi chăng. Khi đã móc được cuốn văn tự ở trong lưng Lý cô, thì Lý cô không còn một hơi thở. Tôi cũng bước rảo ra mà đi thẳng. Đem cuộn văn tự ký lấy mấy trăm đồng bạc mà đưa hết cho cô Ba. Mấy hôm sau, lén về nhà, vừa đến cửa đã thấy rộn rịp kẻ vào người ra, nghe nói Lý cô phải chứng băng huyết đã mấy hôm nay nguy lắm. Thấy nói chột dạ mà mình không mặt nào dám vào trông thấy Lý cô, cứ bàng hoàng thất thế, như người không hồn không vía. Dù xin phép ở nhà nuôi vợ ốm, cũng cứ lẩn lút một nơi, bưng mặt mà khóc. Một hôm thấy thằng con chạy lại, mắt hoe hoe đỏ nói: "Mẹ cứ gọi thầy mãi, xin thầy vào". Tôi liền theo đứa con mà vào. Lý cô còn trông tôi miệng muốn nói mà không nên tiếng nữa. Tôi đứng chân không vững, dựa mình vào vách, hai tay bưng lấy mặt, tưởng mình như một đứa tù nặng đưa ra mà xử án. Thấy có người vực tôi ra ngoài rồi mê thẳng đi. Việc Lý cô mất rồi tống táng ra làm sao không biết gì nữa. Bâng khuâng tưởng mình ra khỏi cửa lại tìm đến nhà cô Ba. Trông lên nhà gác, không có bóng đèn, đã hồ nghi. Hỏi người ở nói: "Cô đi chơi ngay từ hôm thầy không ở đó". Hỏi cô đi với ai? Người ở nói: "Cô đi với một ông khách lạ". Tôi tưởng chẳng có lẽ thấy anh vừa dốc túi mà chị đã đổi lòng; hẳn cô này đi vận động câu chuyện của mình, hãy chờ lâu thế nào cũng có giai tín. Cô này những lúc biếng son nhạt phấn, tóc xoã ngang vai áo che nửa ngực, cũng đủ cho người ta điên đảo, huống lại vàng đeo ngọc giắt, gấm bọc hoa cài, thì sắt nào mà chẳng ngây, đá nào mà chẳng chuyển. Tôi lại thơ thẩn đi ra, vừa đến cửa nhà hát, thấy suýt qua một cái xe ngựa. Người trong xe chính là cô Ba ngồi với một người luật sư, nhác thấy tôi ngoảnh mặt làm thinh, giục đứa đánh xe ra roi cho ngựa tế. Tôi cứ đứng đực một bên đường, rồi đến nhà một người chị em mà hỏi chuyện, vừa đến, người chị em đưa cho tôi cái thư của cô Ba để lại. Tôi bóc tuột cái thư ra mà xem. Thư rằng: "Anh Phán, khi anh đọc cái thư này, thì tôi đã thuộc về tay một người khác. Duyên kỳ phùng chúng ta có thế mà thôi, không còn bồi tiếp với anh được nữa. Xin anh về nhà mà hưởng cái hạnh phúc vợ hiền con thảo, bấy giờ sẽ quên có biết một người con gái tên là cô Ba. Cái khoản anh đã gửi cho tôi cũng đủ chi son phấn. Cảm ơn anh lắm". Đọc cái thư rồi, mắt nẩy đom đóm, tay run cầm cập, như con thú dữ phải cái tên thuốc mà phát điên. Muốn hét lên một tiếng: "Ai ngờ?" giật mình thành ra một cơn ác mộng. Biết chính mình đã phạm một tội rất lớn là tội giết người, biết Lý cô đã chịu khuất nhục đau đớn mà chết; biết cái lòng tham dục mình nó đã đưa dắt mình vào những đường tội lỗi, biết nhân tình thế lợi chẳng qua là một cảnh chiêm bao, bấy giờ óc tôi không sao mà chứa cho hết những điều hối hận. Thôi! Mình đã vị một người xấu xa, rất hèn hạ, mà phụ với một người đáng quý hóa, đáng ơn nghĩa; mặt mũi nào còn đối với mọi người? Lý cô có biết cũng tha thứ cho tôi chăng? Đa mang phóng túng cũng là cái thông bệnh của người đàn ông, còn tội ngộ phạm của người nóng, cũng như người điên, hoặc có thể nguyên tình mà khoan giảm. Tuy nhiên cái lương tâm tôi nó càng nghiêm nhặt, nó bắt tôi nhớ mãi cái tội tôi, rửa cũng không phai, mài cũng không sạch, đã mười năm nay, tôi bỏ hết mọi sự ái luyến ở đời, đã quy y đầu Phật, đội đức từ bi, mở đường tế độ, cho tôi gặp lại bạn tôi cùng về chính giác. Đứa con tôi cũng theo chúng bạn mà đi Sài Gòn. Khi đi có gửi lại cho tôi một cái thư, xin thầy hãy đọc cái thư này, thì biết can tràng con trẻ...". Nói rồi đưa tôi một cái thư gói kỹ lưỡng lắm, rồi cứ dựa ghế mà ngồi, hoặc sa nước mắt hoặc cau đôi mày, tình thái thê lương, lâu lâu thiu ngủ. Tôi đem cái thư đến bóng đèn mà đọc. Thư rằng: "Thưa cha. Tôi là một đứa con trẻ rất khốn nạn (28). Vì chính mắt con đã làm chứng một cái thảm kịch đáng kinh hãi đã diễn ra ở trong gia đình. Cái ác cảm ấy không bao giờ cho con khuây đi được. Thù mẹ khôn trả, nghĩa cha chưa đền, thực con không đáng kể là một người trên thế giới. Nếu con chưa tìm đến non cao vực thẳm cũng vì không nỡ để cha thêm nặng tội tình. Xin cha hãy quên có sinh đứa con tên là X... hãy sẵn lòng mạnh mẽ ăn năn cải hối. Sự sum họp của chúng ta ở nơi chín suối, ngày hãy còn dài". Tôi vừa đọc cái thư xong thì nhà sư cũng vừa thức dậy; hỏi tôi đọc đã xong chưa. Tôi nói: - Sự tình thuộc thực, thì cái thương tâm của người cũng là quá đáng. Khi về nhà nhân ký đầu đuôi như thế. Năm sau có người nhà chùa về hội Phủ Giầy, hỏi thăm, thì nói: Vị hành tăng ấy đã tịch tại chùa Thiên Thai ngày tháng Chạp năm ấy. Nguyễn Bá Học (Tạp chí Nam Phong - số 26 - Tháng 8 – 1919). 1. Mỗi năm, sư tăng phải tập trung học tập kinh sách một thời gian, vào mùa hạ, nên gọi là "kết hạ", "đọc hạ". 2. Như khúc khắc. 3. Vị sư đi vân du nơi này nơi khác. 4. Chùa sở tại. 5. Cắn rứt. 6. Buông thả tình dục. 7. Mối ngờ. 8. Trường. 9. Như thất học. 10. Có lẽ là phủ hoặc phù: vừa, đủ. 11. Bại chí. 12. Tất tả, qua loa. 13. Khinh rẻ. 14. Phiên dịch 15. Không hợp thuỷ thổ. 16. Nhận được sắc chỉ quý báu. 17. Hóa thành vật khác, tức đã chết. 18. Tàu chiến. 19. Mãn tang. 20. Bắt nguồn. 21. Như sừng sững. 22. Lũa: thạo, sành. 23. Kết cục. 24. Dễ dàng. 25. Thứ nhất là sắc đẹp, thứ nhì là tiền tài. 26. Cơ my hay ky my là dây giàm ngựa, bò, ý là ràng buộc. 27. Như mũi kim chích vào mình. 28. Chữ khốn nạn ở đây chỉ có nghĩa như khốn khổ. Nguyễn Văn Vĩnh thời ấy dịch Những người khốn khổ là Những kẻ khốn nạn
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 6, 2018 5:29:55 GMT 9
LỜI NGUYỀN Truyện của Phương Lan
Lần nào cũng vậy, mỗi khi xe đò sắp tới Đà Lạt là lòng tôi lại nôn nao những cảm giác xao xuyến khó tả. Nhất là lần này, không hiểu sao bỗng dưng tôi cảm thấy bồn chồn và hồi hộp một cách kỳ lạ… Có lẽ vì tôi sắp đi lấy chồng nên sẽ ít còn dịp trở về thăm lại chốn xưa, nơi đã ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm không thể quên.
Qua khỏi Định Quán, xe bắt đầu tăng tốc độ, gió ào ạt lùa qua cửa xe, mang theo không khí trong lành của miền cao nguyên, làm mọi người đều cảm thấy dễ chịu. Trời mới vào thu nhưng hãy còn hơi hướm của mùa hè, hoa hồng, hoa tường vi vẫn đang nở rộ, và những hàng cây phong hai bên đường, lá vẫn chưa đổi màu. Đã quá trưa, mặt trời ngay trên đỉnh đầu, chiếu những tia nắng ấm áp làm tan đi cái giá lạnh của miền rừng núi, tuy vậy nhưng cũng có vài người sửa soạn đem áo len ra mặc. Xe qua khỏi Bảo Lộc đã lâu rồi, và bây giờ đang trên đường vào thị xã Đà Lạt. Con đường này, đối với tôi quen thuộc lắm, tôi nhớ từng khúc quanh, con đường đất đỏ, từng khóm cây và những ngôi nhà hai bên đường dọc theo sườn đồi…
Một đặc điểm của Đà Lạt là đứng ở chỗ nào cũng nhìn thấy cảnh vật ở những cao độ khác nhau. Phía trên dốc cao, nổi bật ngôi nhà thờ mái đỏ với cây thánh giá cao vút, in lên nền trời màu xanh lơ có vài cụm mây trắng trôi lang thang. Dưới dốc là thung lũng bạt ngàn, nhà cửa mọc san sát, bên kia thung lũng là nghĩa trang của thành phố, nơi Quân đang yên nghỉ. Phía xa, trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất là tu viện Domaine De Marie của dòng nữ tu áo trắng, nơi mà Quỳnh Như, người bạn thân nhất của tôi đang ẩn mình tu tập, hiến dâng đời mình cho thiên Chúa.
Quỳnh Như và tôi là bạn với nhau từ lúc còn nhỏ, học chung trường Couvent des Oiseaux. Gia đình Như gốc gác ở đây, còn gia đình tôi từ Sài Gòn lên Đà Lạt lập nghiệp từ những năm đầu của thập niên 1960. Hai gia đình ở gần nhau, chỉ cách một con đường ngắn. Dạo đó, chúng tôi còn bé lắm, ngày chủ nhật thường theo cha mẹ đi nhà thờ, nhưng chúng tôi không vào bên trong đọc kinh, mà chỉ thích chơi đùa ở bên ngoài, nơi vườn hoa rất đẹp trong khuôn viên của nhà thờ. Chúng tôi đuổi bắt bướm, hái hoa, hoặc đi lượm những quả thông rơi đầy trong vườn. Những chiều tan học, chúng tôi thường tụ tập với lũ trẻ cùng tuổi, rủ nhau đi bắt dế, bẻ trộm trái cây, hoặc chơi những trò nhảy dây, bóng chuyền, hay trốn tìm…
Tôi hiếu động, tinh nghịch như con trai, còn Như thì nhu mì, hiền lành. Mặc dù chỉ hơn tôi một tuổi, Như lúc nào cũng nhường nhịn tôi như một người chị, nên giữa chúng tôi không bao giờ xảy xa những chuyện cãi cọ, hoặc tranh dành. Như và tôi cùng lớn lên ở đây, và Đà lạt đã ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm của chúng tôi khi còn thơ ấu, cũng như khi lớn lên thành những thiếu nữ dậy thì. Như đẹp lắm, dáng dấp mảnh mai, quí phái, đôi mắt trong suốt như nước hồ thu, khuôn mặt trái soan trắng nõn, và đôi môi mọng đỏ, nhìn là thấy mê. Như đẹp một vẻ dịu dàng, mong manh như liễu, còn tôi thì khoẻ mạnh, nẩy nở như một thiếu nữ Tây phương, cả hai chúng tôi đều nổi tiếng là những hoa khôi của trường. Chúng tôi đều không có chị em gái, nên coi nhau như chị em ruột, thân nhau tới độ dùng chung son phấn, mặc áo quần cùng mẫu thời trang, hay đi khiêu vũ, thích ca nhạc, và cùng mê những tài tử chiếu bóng… Ngay cả chuyện tình cảm, chúng tôi cũng không dấu giếm, Như và tôi thường đem những lá thơ tình của mình vào lớp cho nhau đọc, đến khi có bạn trai, chúng tôi cũng thường hẹn hò đi chơi chung. Năm hai mươi tuổi, Như có người yêu là một bác sĩ y khoa mới ra trường tên Quân, người phương phi cao lớn, vui vẻ, bặt thiệp, và rất đẹp trai. Quân giống như một thỏi nam châm thu hút sự chú ý của các cô gái mới lớn, anh chàng lại hay nịnh đầm và tính tình rất bay bướm. Chúng tôi vẫn thường đi chơi chung, Như rất tế nhị trong cách đối xử, nên tôi luôn luôn thấy thoải mái và không hề có mặc cảm thừa thãi trong các cuộc đi chơi tay ba đó, còn Quân thì lúc nào cũng lịch sự, chiều chuộng cả hai. Như thường tâm sự với tôi về tình yêu và những dự tính trong tương lai. Hai người yêu nhau dòng dã hai năm mới quyết định làm đám cưới, và tôi được Như mời làm phù dâu. Gia đình Như và gia đình Quân đều giàu có, nên đám cưới thật linh đình, cô dâu Quỳnh Như yêu kiều, tươi như hoa, e lệ đi bên chú rể đẹp trai, cùng tiến vào thờ trong tiếng vỗ tay vang dội của mọi người, ai cũng khen hai người thật xứng đôi, đúng là một cặp vợ chồng lý tưởng.
Cuộc hôn nhân tưởng rằng hạnh phúc đó, không kéo dài được bao lâu, chỉ ba năm sau ngày cưới, Quân đã ra người thiên cổ trong một tai nạn xe hơi thật rùng rợn. Như tự cho mình là thủ phạm trong cái chết của Quân, vì đêm hôm cuối cùng trước khi xảy ra thảm trạng, hai người đã cãi nhau thật kịch liệt, và Quân đã giận dữ, đùng đùng lái xe bỏ đi và xảy ra tai nạn, chiếc xe lao xuống vực thẳm, bốc cháy và Quân chết tan xác.
Điên cuồng vì đau khổ và hối hận dày vò, Như thề nguyền sẽ suốt đời ở vậy, sám hối để chuộc tội với Quân, lúc đó Như mới hai mươi lăm tuổi. Để thực hiện lời hứa, Như đã xin vào ở trong tu viện, quyết tâm xa lánh việc đời. Sau vụ đó ít lâu, tôi cũng rời Đà Lạt, xin hoán chuyển về Sài Gòn để tiếp tục nghề dạy học. Trước khi chia tay, chúng tôi hẹn gặp nhau một lần chót. Như làm một bữa cơm tiễn biệt, nhìn thức ăn ê hề, tôi hỏi:
- Chỉ có hai đứa mình, sao bồ làm nhiều đồ ăn dữ vậy?
- Thì mai bồ đi xa, tôi phải làm tiệc tiễn hành chứ.
Như nói với giọng bình thường, nhưng khoé mắt hơi đỏ, tôi cũng nghẹn ngào, gượng cười:
- Bồ làm như tôi là tráng sĩ Kinh Kha, ra đi không hẹn ngày về… Tôi có đi đâu, rồi cũng sẽ về thăm bồ, vì làm sao tôi có thể dứt khoát xa rời người bạn thân của tôi, và xa rời Đà Lạt là quê hương thứ hai của tôi được chứ?
- Bồ nói đúng, chúng ta đã có với nhau quá nhiều kỷ niệm, tôi tin rằng bồ sẽ không quên được đâu.
Nói tới đây, Như ngưng lại, nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạ, rồi mới buồn rầu tiếp tục:
- Chúa đã sắp đặt cuộc đời của hai đứa mình có liên quan với nhau. Chúng ta cùng lớn lên ở đây, là bạn thân của nhau hai mươi năm rồi, cùng chia xẻ mọi thứ, vui cũng như buồn… Quân chết đi là tôi mất tất cả, đời tôi chẳng còn vui thú gì nữa, tôi biết bồ cũng đau lòng lắm, phải không?
Tôi gật đầu, mặc dù trong thâm tôi nghĩ khác, cái chết của Quân có làm tôi bàng hoàng, xúc động thật đấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn, rồi đâu lại vào đấy, không như Như đau khổ đến tuyệt vọng, có lẽ vì Như đã yêu quá sâu đậm người đàn ông duy nhất của đời nàng. Nhìn Như giống như một cái xác không hồn, tôi thầm thương xót cho bạn. Cá tính của chúng tôi từ thuở nhỏ vẫn không thay đổi, tôi luôn luôn hiếu thắng nhưng nông nổi, hễ thích cái gì thì tìm cách chiếm đoạt cho kỳ được, xong rồi lại chán, không giống như Như âm thầm nhưng sâu sắc. Như sống về nội tâm nhiều hơn, tình cảm cũng kín đáo, không để lộ ra ngoài, đố ai có thể đoán được những ý nghĩ thầm kín trong đầu của cô nàng qua bộ mặt luôn luôn trầm lặng, khép kín.
Bữa ăn rất buồn, gần như không ai đụng đũa. Lúc tiễn tôi ra cửa, Như cố gượng một nụ cười héo hon:
- Đâu có ngờ cuộc đời của tôi lại trở thành thế này? tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần để chịu đựng. Nhưng bồ đừng lo, tôi sẽ không tự tử đâu, vì tôi còn phải sám hối, còn nhiều việc phải làm trước khi nhắm mắt.
Tôi rùng mình, lời nói sao nghe như một lời nguyền… Tôi cúi mặt, tránh những tia nhìn quan sát toát ra từ cặp mắt rất buồn của Quỳnh Như lúc này trông giống như hai cái giếng sâu thăm thẳm, đầy bí hiểm khiến tôi rờn rợn. Tôi nắm lấy tay bạn một lúc rồi mới buông ra:
- Thôi chúng mình chia tay nghe! Bồ ở lại mạnh giỏi, nhớ giữ gìn sức khoẻ. Thu xếp xong công việc, thế nào tôi cũng sẽ lên thăm bồ, đây với Sài Gòn đâu có bao xa?
Như gật đầu, giọng sũng nước mắt:
- Bồ thì bỏ đi, Quân cũng đã chết, tôi cô đơn quá, chẳng còn ai để tâm sự, để an ủi… Làm sao tôi chịu đựng nổi đây?
- Hy vọng thời gian sẽ hàn gắn vết thương cho bồ. Thôi, tôi đi nhé?
- Bồ cũng bảo trọng. Như dặn với, khi tôi bước ra cửa, nhớ giữ liên lạc!
- Ừ, tôi không quên đâu! Bồ vô nhà đi kẻo lạnh, sương xuống nhiều rồi đó.
Nhìn dáng Như thiểu não, lòng tôi bỗng man mác buồn và tôi thương bạn vô kể. Giữ lời hứa, chúng tôi vẫn thường xuyên thơ từ cho nhau và mỗi năm một lần, tôi đi thăm Như, đã năm năm rồi, thành một thói quen.
Năm nay lên Đà Lạt, tôi đem tặng bạn một cái áo lạnh có cả khăn quàng màu tím nhạt thật đẹp, một gói nho khô và mấy cái băng nhạc. Như mọi lần, Quỳnh Như chờ tôi ở phòng tiếp khách của tu viện. Trông Như bây giờ khác xưa nhiều quá, mái tóc dài mượt mà khi xưa vẫn để xõa xuống vai, ôm lấy khuôn mặt trái soan trắng nõn, bây giờ được vén cao, che dấu dưới nếp mũ vải xám, Như mặc bộ đồ nữ tu cũng màu xám, cổ đeo một chuỗi hạt có cây thánh giá bằng bạc lủng lẳng ở trước ngực. Tôi mỉm cười, nói đùa:
- Chào sơ Therese Như! Sơ có khoẻ không? dạo này trông sơ gầy đi nhiều.
- Đừng gọi tôi như thế. Như vội vã nói, tôi chưa được ơn Chúa cứu rỗi nên chưa được làm phép Chúa, tôi vẫn còn trong thời kỳ thử thách.
- Trông bồ đạo mạo quá. Ở tu viện đã lâu, sao không quyết định dứt khoát?
- Tôi đã nguyện hiến dâng đời mình cho Chúa, nhưng lòng trần còn vấn vương nhiều quá. Mẹ bề trên cho tôi thêm một thời gian nữa để suy nghĩ cho chín chắn.
Như nói xong, thở dài:
- Tuần trước, ba má tôi cũng tới thăm. Tội nghiệp, ông bà đã già rồi và buồn bã hết sức, ông bà chỉ mong tôi sớm quyết định dứt khoát, và bảo tôi nếu không tu được thì trở lại cuộc đời của một người bình thường và đi lấy chồng…
- Ông bà cụ kể cũng có lý. Tôi nói, bồ mới ba mươi tuổi, còn trẻ lắm, lại đẹp nữa, sao không làm lại cuộc đời?
Như nói một cách nghiêm trang:
- Bồ tính làm sao tôi có thể bước đi bước nữa khi lòng đã nguội lạnh và tôi vẫn chưa quên được Quân? Tôi vào đây là để sám hối tội lỗi mình đã gây ra, chính tôi đã giết Quân, hôm đó nếu tôi không cãi nhau với Quân thì anh ấy đâu có giận dữ bỏ đi và lao xe xuống vực? Vì tôi mà Quân đã chết, tôi không bao giờ quên được cảnh tượng đêm hôm đó, hãi hùng quá, nó sẽ ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời… Đã giết người thì phải đền tội, tuy pháp luật không bỏ tù, nhưng lương tâm tôi khong bao giờ tha thứ.
Như nói xong, nhắm mắt lại, khuôn mặt hằn lên những nét đau đớn không thể tả. Thương bạn quá, tôi nắm chặt lấy tay Như an ủi, và để cho bạn quên đi những ám ảnh về một tội lỗi tưởng tượng, tôi cố xoay câu chuyện qua một hướng khác. Đưa cho Như gói quà tặng, tôi nói:
- Vào thu rồi, Đà Lạt bắt đầu lạnh rồi đấy. Như xem cái áo này có đẹp không? tôi đã mất cả một buổi chiều để đi chọn cho bồ đó. Mặc thử đi, ấm lắm.
Như mân mê mãi làn vải dạ mịn màng của cái áo măng tô màu tím nhạt, mắt nhìn lơ đãng vào khoảng không một lúc sau mới quay lại nói, giọng trầm hẳm xuống:
- Màu này là màu Quân vẫn thích… Bồ còn nhớ không? xưa kia tôi cũng có một cái áo dài màu như thế, mặc vào, Quân khen không tiếc lời, thế là mấy hôm sau, bồ cũng bắt chước, may một cái áo y hệt.
Tôi nói hơi có vẻ ngượng:
- Ừ, dạo đó tụi mình thích mặc giống nhau.
Như im lặng, nét mặt đăm chiêu như đang nghĩ ngợi, tôi vội vã nói sang chuyện khác, tôi hỏi Như về đời sống ở trong tu viện, Như đáp:
- Trầm lặng và buồn, mỗi người hình như đều sống trong một thế giới riêng, chỉ trừ những lúc đọc kinh thì tất cả đều hướng về Chúa.
- Mẹ bề trên thế nào?
- Mẹ Maria là một người đáng kính, bà chăm sóc phần hồn cho tất cả các sơ và những người tập tu như tôi.
Như vừa nói vừa mở gói nho khô ra nếm vài hạt, khen ngon rồi rủ tôi ra vườn. Chúng tôi vừa đi vừa nói chuyện, Như hỏi tôi về gia đình, về công ăn việc làm của tôi. Thong thả, tôi kể cho Như nghe về cha mẹ tôi, về vài người bạn cũ, về Sài Gòn với những biến động chính trị, những cuộc biểu tình… Như chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng mỉm cười. Nhân một lúc thấy Như vui vẻ, tôi mới nói:
- Hôm nay tôi tới cho bồ hay một tin vui của tôi, tôi sắp lập gia đình.
Đang đi, Như dừng ngay lại, nhìn tôi một lúc, sắc mặt không hề biến đổi, rồi lại tiếp tục đếm bước. Tưởng Như chưa nghe rõ, tôi nhắc lại:
- Tôi sắp lấy chồng, bồ ạ, bọn tôi định Noel năm nay sẽ làm đám cưới.
Bấy giờ Như mới nói:
- Mừng cho bồ, hai người quen nhau lâu chưa?
- Mới năm ngoái, tôi gặp Tường trong một buổi dạ vũ…
- Tên anh chàng là Tường à? anh ta làm nghề gì vậy?
Tôi ngập ngừng:
- Tường cũng là một… bác sĩ.
- Cũng là bác sĩ? Như lập lại, thế anh ta có biết Quân không?
Tôi lắc đầu:
- Tường học ở bên Pháp và mới về nước.
- Không, tôi muốn hỏi Tường có biết chuyện giữa bồ và Quân không?
Tôi lạnh toát người, có cảm tưởng như máu vừa đông lại trong huyết quản, lảo đảo vịn vào một thân cây để đứng vững, tôi hỏi không ra hơi:
- Chuyện gì giữa tôi và Quân?
Như bỗng bật lên một tràng cười dài nghe lạnh mình, tiếng cười vừa mỉa mai vừa có vẻ chế diễu khiến tôi càng thêm nhột nhạt. Dứt chuỗi cười, Như mới chậm rãi nói:
- Thôi đi, đừng có vờ! bồ tưởng tôi không biết gì hay sao? Hai người có tình ý với nhau từ thuở vẫn đi chơi chung, dạo đó Quân và tôi chưa làm đám cưới. Tính Quân vẫn hay lăng nhăng như vậy, chỉ thích bắt cá bằng cả hai tay.
Tôi nuốt nước bọt hai, ba lần, phải khó khăn lắm mới mở miệng được, tôi nói gần như thì thầm:
- Bồ biết vậy sao còn lấy hắn?
Như thở dài:
- Tại tôi lỡ yêu Quân rồi. Trong đời tôi chỉ yêu một lần thôi, và cũng tại Quân nữa, Quân nói với tôi bồ khiêu khích hắn trước, hắn thấy bồ dễ dãi nên tán tỉnh chơi, còn lấy làm vợ thì Quân chọn tôi.
Như nói và nhìn tôi với một vẻ thương hại. Tôi đứng im như trời trồng, đầu cúi xuống, mặt nóng bừng một cảm giác vừa trơ trẽn, vừa xấu hổ, nhục nhã. Không bút nào tả được tâm trạng của tôi lúc đó, tôi chỉ muốn độn thổ ngay tức khắc, ước gì mặt đất nứt ra, tôi sẽ chun ngay xuống đó… Như vẫn thong thả tiếp tục:
- Quân đã thề thốt đủ thứ, vậy mà sau khi cưới tôi, hắn vẫn lén lút đi lại với bồ. Chúa ơi! bồ có hiểu tôi đã đau lòng đến thế nào không? khi người bạn thân nhất của tôi đã phản tôi, cướp chồng của tôi…
- !?!
- Nhưng tôi biết tính bồ mau chán, hy vọng rồi thế nào bồ cũng buông Quân ra, và Quân sẽ thuộc về một mình tôi thôi. Ai dè…
- !?!
- Quân nói hắn muốn ly dị tôi để cưới bồ. Điều đó làm tôi đau đớn đến cùng cực, đêm hôm đó chúng tôi đã cãi nhau một trận dữ dội, tôi không tiếc lời thoá mạ Quân, vì vậy mà Quân đã giận dữ lái xe bỏ đi và xảy ra tai nạn.
Tới đây thì tôi không thể đứng vững được nữa, hai đầu gối tôi lỏng lẻo như chỉ chực sụm xuống. Như phải dìu tôi ngồi xuống một băng ghế trong vườn, rồi mới tiếp tục câu chuyện còn dang dở. Như nhìn thẳng vào mặt tôi, thong thả nói từng tiếng một:
- Tôi nghĩ bồ cũng có một phần trách nhiệm trong cái chết của Quân, vì bồ là nguyên nhân của cuộc cãi vã.
Như ngưng lại một chút, lơ đãng nhìn lên trời cao. Tôi run rẩy đưa tay quệt mồ hôi đang vã ra trên trán, mặc dù lúc đó trời lạnh, cảm thấy toàn thân rã rời như không còn một chút sức lực nào cả, phải cố gắng lắm, tôi mới mở miệng được, lắp bắp:
- Tôi… tôi ư?
Như gật đầu, vẻ mặt vẫn không thay đổi, cô ta nhìn tôi quan sát một lúc, rồi mới lạnh lùng buông một câu nguyền rủa thật nhẹ nhàng, nhưng cũng thật là độc địa:
- Phải, bồ tưởng rằng cứ bỏ đi xa là có thể trốn tránh được tội lỗi? đâu có dễ dàng như thế? Tôi tin rằng rồi đây trong suốt cuộc đời còn lại của bồ, bồ sẽ bị hối hận dằn vặt vì những gì bồ đã gây ra cho tôi, người bạn thân nhất của bồ. Tôi bây giờ còn sống, nhưng cũng chẳng khác gì đã chết. Chỉ trừ khi bồ có can đảm giết tôi, bồ mới có thể xoá bỏ hết tang chứng của cái quá khứ tội lỗi của bồ. Nhưng dù sống hay chết, tôi vẫn sẽ là một cái bóng ma ám ảnh bồ suốt đời. Bồ sẽ không bao giờ có thể sung sướng, an tâm hưởng hạnh phúc được đâu, vì lương tâm của bồ sẽ không để yên cho bồ.
PHƯƠNG – LAN
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 12, 2018 1:11:14 GMT 9
Câu chuyện ở đầu sôngPhạm Thái Yên
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ Mộng xanh ngần dậy nối mộng em xưa Bùi Giáng
1. Người họa sĩ sau nhiều năm lưu vong xứ người trở về thăm quê ở cuối dòng sông Hương rồi theo đò ngược lên bến Tuần vào một ngày không lâu sau Tết. Ông sống trọ ở đó rồi chết vào một đêm cuối mùa Xuân. Mỗi sáng sớm, Ôn Thiên, người lão bộc mù lòa quanh quẩn suốt đời trong ngôi nhà được dùng làm quán trọ duy nhất của bến Tuần, vẫn chăm chỉ quét dọn căn phòng y nguyên chăn chiếu, vãng vất hơi hướng của người bạn vong niên sớm thành tri kỷ. Ôn nhớ bạn, hốc mắt quầng sâu, chòm râu thưa xơ xác, tiếng ho khan, và mùi thơm của những hớp rượu Tây uống vào buổi sáng. Ôn sờ nắn từng bức tranh được treo ngay ngắn trên bức tường vôi rạn vết thời gian. Tay ôn run rẩy vuốt ve lên những tảng màu sông núi cau gợn tang thương. Ôn dừng ngón tay mình ở khoảng thân hình người thiếu nữ đứng tắm khỏa thân trong bức tranh cuối cùng người họa sĩ không kịp hoàn thành trước khi lìa đời… Ôn Thiên nhớ tới lần người họa sĩ cầm tay để ôn dò dẫm lên vùng quánh đặc giữa thân thể người đàn bà trong tranh, cắc cớ hỏi. Ôn có biết chỗ ni là chi không? Ôn Thiên lắc đầu khi nghe bạn giải thích về nơi cửa rừng đam mê đó. Ôn Lê ! Cụ mi vẽ vời chi mà tô hô ra rứa, ai mà coi cho được !? Ôn Thiên trách cứ xong rồi nối dòng cười với bạn … Ôn lắc đầu cười một mình, bước ra khỏi nhà, lần rải đi về phía bến đò. Nỗi ước ao rực rỡ sắc màu vùi ngủ trong ôn từ rất nhiều năm qua chợt thức giấc muộn màng. Bừng lên trong nhận chịu vô thức về một định mệnh đã an bài chợt bàng hoàng cánh phượng đỏ vấy nắng lung linh trong màu xanh của lá la đà trên mặt nước lúc đò chèo qua Thiên Mụ. Đã hơn sáu mươi năm, sau lần xuống Huế đầu tiên của thằng Thiên năm mười một tuổi. Cơn bệnh đậu mùa thập tử nhất sanh đã cướp mất ánh sáng của một đời người.
Trời như đang bắt đầu cho một ngày nắng. Ôn Thiên cảm thấy mặt mình hây hây chút ấm của ánh mặt trời. Ôn nghe gió về lao xao lướt trên mặt sông. Tiếng máy đò khản nghẹt nặng nề như muốn chìm úng vào sông để mặc cho nguồn nước thượng dòng đẩy con đò trôi. Đò xuôi về Nguyệt Biều, Long Thọ hay tấp qua Xước Dũ, Văn Thánh. Những thôn xóm nên thơ dọc theo thượng dòng sông Hương la đà màu xanh của từng khu vườn mít, thanh trà, hun hút êm đềm trong cái nhìn lan trải của trí nhớ một người mù. Con sông nhỏ Bạch Yến lượn lờ uốn quanh Nham Biều, Ngọc Hồ, Hải Cát, Đình Môn, thả hương cây trái về xuôi cho giáng châu đỏ lòng Kim Luông xanh mướt vườn dâu. Làng Hồ, quê ôn, với mùi mít chín thơm tay. Anh đưa em tới làng Hồ. Em mua trái mít, anh bồ trái thơm...(Ca Dao). Màu xanh của lá, màu vàng đỏ của bông hoa. Ôn chợt nghe mình bâng khuâng lẩm bẩm thành lời từng miếng màu sắc đến từ trí nhớ đọng xoay trong hốc mắt khô rốc mỏi rời.
Tiếng gàu nước kéo từ sông lên, xối róc rách lên mạn thuyền gỗ. Mùi chanh chùm kết từ dưới bến đò thơm vọng lên nơi ông đang đứng dưới bóng mát cây ngô đồng. Cây không già như ôn, nhưng ôn chẳng còn nhớ nó được trồng từ lúc nào. Có lẽ một ngày nào đó thời Ôn Diệm. Trước những năm chiến trận hung hăng tác loạn, cuốn hút mọi người, cuốn hút tất cả vào cuộc chiến tranh tàn hoại điêu linh. Cả ôn Thiên mù lòa, tẩm quất kiếm sống qua ngày, cũng phải nhắm mắt làm chuyện không ngờ để cùng người mà tất tả sống qua cuộc biển dâu. Ôn Thiên rờ dọc theo thân ngô đồng, vỏ cây xù xì nhám nhúa. Có người nói lá cây ngô đồng trở màu xám vào mùa đông. Đang cuối mùa xuân, có lẽ lá đã về lại với màu xanh. Hay cây ngô đồng chẳng có ai trồng mà mọc? Cây lớn lên với thời gian, bấm mình vào đất cứng, vươn dài cội rễ dọc ngang mà khứng chịu gió núi mưa nguồn như ôn sống già với quanh quẩn mù lòa như một chứng nhân câm nín chẳng ai ngại ngần.
Chuyện đời người bạn tự tha phương được kể ra giữa những cơn say làm ông buồn bã nhớ nhiều về quá khứ đời mình tưởng đã chìm đắm trôi sông. Ôn đi về phía bờ sông, vốc nước vả ướt mặt. Ôn đầm người xuống nước, tiếng sóng bên tai âm trầm nhịp đập của dòng sông đang thở quyện lẫn đâu đó tiếng máy con đò đưa xác người họa sĩ xuôi dòng về lại với gia đình. Ôn thấy trong trí nhớ mình xóm Bao Vinh lao xao con đường lát gạch mấp mé bờ nước. Màu gạch đỏ cũng tươi tắn như trong cơn mộng của bạn mỗi đêm về. Nằm trăn trở nhớ quê, nhớ đời mình… Từ một biển xa.
2. Chuyến xe khách cuối ngày từ bến xe chợ Đông Ba đưa người sinh viên trường Mỹ Thuật lên tới Văn Thánh lúc trời đã nhá nhem tối. Nhớ lời dặn của người liên lạc, anh quảy túi xách lên vai đi nhanh về phía làng Ngọc Hồ. Chân bước mà lòng thì ngổn ngang bao nỗi buồn lo ngại ngùng lẫn lộn. Anh buồn vì sắp phải bỏ nhà, bỏ phố, và lo lắng cho cuộc sống xa lạ sắp tới. Huế sau tết Mậu Thân đã rõ mắt nhìn tang thương đổ nát, phân tán chia lìa. Không còn những ngày sinh viên hào hứng, la cà ở Trương Định uống café và cảm thấy mình cao lớn. Khúc phố Trần Hưng Đạo âu sầu nhớ bạn. Quán Lạc Sơn rộn ràng lớp người gươm súng. Chân chẳng buồn qua lối về Bãi Dâu vì cô học trò nổi tiếng ngổ ngáo và đẹp tản thần đã bỏ nhà, bỏ trường, bỏ quán chè nhạc tiền chiến, vô bưng. Một số đông bạn bè đã vào Đà Nẳng hay Sài Gòn để trốn lính hoặc đi lính. Một số thì ngưỡng mộ quyền năng sinh sát của nhóm người từ núi về, tay thử nhúng chàm để thỏa chút lòng còn mang mối mặc cảm tự ti cũng đã kéo theo nhau vào núi. Chỉ còn anh và một nhóm nhỏ bạn bè ở lại thành phố. Từng chiều rời rạc bước chân qua triền dốc đoạn đành của chiếc cầu gãy nhịp. Vai cầu cong oằn chúi vào nhau cũng buồn như lòng người đi trên cầu lo lắng về một tương lai không lối thoát đầy thách đố. Gần đây, trong sự hối thúc của lệnh động viên nhập ngũ, ba mạ anh đã đồng ý cho anh vào vùng giải phóng qua sự móc nối của bạn bè để tạm lánh một thời gian chờ hòa bình đến.
Mãi suy nghĩ vẩn vơ, anh đến điểm hẹn ở bìa làng lúc nào không hay. Anh lo sợ nhìn màn đêm như tấm vải sô đen đang phủ trùm lên cảnh vật quanh mình. Người giao liên đã đứng chờ anh tự lúc nào, ra dấu đi về phía bờ sông. Không kịp nghĩ đến dáng đi uyển chuyển mà nhanh nhẹn của bóng người trước mặt, anh vội vã bước theo sau để khỏi bị lạc lối. Anh quờ quạng lần từng bước vào trong khoang đò chật hẹp, ngồi xuống bên chiếc túi xách người nữ giao liên vừa trao cho. Những ngón tay thuôn mịn thị thành khiến anh bất giác quay nhìn bóng người ngồi cạnh. Trong tăm tối, làn hơi thở thơm hương con gái chuyền dậy trong anh cảm giác mơn man diệu kỳ làm phập phồng cánh mũi… Hai đứa mi nằm sát xuống, không được noái chuyện nghe! Tiếng người chèo đò thì thào vọng qua vách nứa khép kín. Người sinh viên và bóng người con gái im lìm nằm xuống bên nhau. Anh nằm trân mình không dám một mảy may động đậy. Hơi thở, làn hương, như sợi dây vô hình trói ghì cảm giác làm tê rần những đầu ngón tay bấu cứng mảnh ván khoang đò. Tiếng nước vỗ vào mạn đò đều đặn theo nhịp chèo ru anh vào giấc ngủ chập chờn, loáng thoáng những hình ảnh thân yêu đang trôi vào kỷ niệm. Bóng mạ tất tả mỗi buổi mai cho kịp phiên chợ. Dáng người cha cần mẫn làm thợ may ngoài phố, ngày hai buổi cong lưng đạp xe đi về qua khoảng đường lát gạch đỏ của khu xóm Bao Vinh. Bóng cầu thướt tha bầy con gái học trò, khăn san bay thắm màu chiều cho hồn ai áo lụa trông vời. Tất cả đang xa dần theo dòng nước trôi xuôi. Còn lại anh hoảng hốt lao đao trong con đò chèo ngược nước. Ý nghĩ buồn bã trào tới như nước triều dâng khiến anh muốn đưa tay vuốt mặt, mắt mở trừng nhìn vào màu đêm tăm tối… Cô gái trở mình trong giấc ngủ say. Nàng nằm nghiêng người, bầu ngực êm mượt chạm lên cánh tay anh. Người sinh viên nằm im nghe tiếng thở mình và hơi thở cô gái hiền thơm quyện vào nhau, bềnh bồng tâm trí…
Đò lên tới bến Tuần vào lúc nửa đêm. Họ sẽ tạm trú qua đêm ở khu bến chợ để ngày mai tiếp tục đi bộ vào khu giải phóng. Trong gian phòng trọ lù mù ánh đèn dầu, anh sinh viên nhìn sững cô gái quên cả tiếng chào từ giã của người chèo đò.
Cô gái mỉm cười, nhìn khuôn mặt ngạc nhiên đến sững sờ của người sinh viên.
– Anh Lê bộ á khẩu rồi hỉ ? “Con Gái Thầy Nô” đây. Bộ lạ lắm răng!? – Thiệt không ngờ gặp Đông ở đây…Có cả bà chằng “Con Gái Thầy Nô” nữa. – Mình Đông thôi. Cái tên tê là vì người ta đặt cho mình. Dù không ưa, không đúng, người ta cũng cứ gán cho. – Rứa mà tui lại nghe đồn là Đông đã trưng bằng cớ rõ ràng cho người đặt tên rồi mà!?
Nhìn khuôn mặt không vui của cô gái, anh nói lảng sang chuyện khác. Có lẽ vì hoàn cảnh, vì chuyến đò vừa qua, hai người chuyện trò thân mật như bạn cũ lâu ngày gặp nhau, cho dù người sinh viên cũng như nhiều thanh niên khác đều là khách quen của quán chè gia đình cô gái. Họ đến chẳng phải vì chè ngon trong chiếc quán vườn thơ mộng, mà để thả hồn mơ mộng, ngắm nhìn đôi mày liễu cong dài và nét đẹp rúng lòng với thân hình vệ nữ của cô học trò ngổ ngáo trong cánh áo tay trần mịn óng măng tơ.
Cái tên “Con Gái Thầy Nô” được gán ghép cho Đông sau lần một gã học trò trường Nguyễn Du đến quán chè hỏi có phải nàng là con gái của thầy Nô. Gã học trò và đám bạn cười phá lên khi nghe nàng ngây thơ trả lời cha mình là một ông Đội Cảnh Sát. Vài ngày sau khi Đông tìm hiểu ra được ý bỡn cợt quá đáng của gã học trò muốn hỏi có phải hạ thân nàng bạch bản và lấy đó rêu rao làm trò đùa, nàng tức giận đến phát khóc quyết chí trả thù. Giữa lúc gã học trò đang quây quần cùng bầy bạn, cô gái bưng chè đặt lên bàn xong lấy trong túi áo ra vài sợi lông dài đen nhánh thả vào ly chè. Của “Con Gái Thầy Nô” tặng đó! Ăn vô cho bổ bề ngang, sang bề dọc… Từ sau ngày đó, cái biệt danh quái ác đã gắn liền với cô học trò dạn miệng ngổ ngáo và gã học trò thì mất biệt tông tích, chẳng còn thấy đến quán chè ba hoa cùng bè bạn.
Cho đến một ngày… sau Tết Mậu Thân. Thành phố Huế tang thương, lửa đạn ngút trời. Gã học trò trường Nguyễn Du xuất hiện trước cửa nhà Đông với súng ngắn, băng đỏ, và một nhóm người gươm súng nạt nộ oai phong. Gã học trò đọc án lệnh của Ủy Ban Cách Mạng Thành Phố để bắt giữ người cha là Cảnh Sát Ngụy. Sau một hồi lâu khóc xin, gã học trò đồng ý cho Đông đi theo Cách Mạng để cha khỏi phải bị bắt. Không kịp từ giã cha mẹ gia đình, cô gái ra đi. Cuộc đời nàng sa vào lối rẽ không ngờ. Nàng thoát chết lúc băng qua Tây Lộc, theo nhóm du kích vũ trang rút về Văn Thánh, An Hòa, rồi an toàn vào khu giải phóng. Gã học trò ba hoa vô hại trong quán chè ngày nào nay là một xã đội trưởng du kích, lầm lì, tính toán. Ngày Đông hay tin cha bị sát hại tuy nàng đã bằng lòng vô bưng theo kháng chiến là ngày đau buồn nhất trong cuộc đời nàng. Nỗi đau thương tiếc cha và sự uất giận sao quá ngây thơ để bị phỉnh gạt khiến nàng quên sợ tìm gặp gã học trò du kích, nguyền rủa không tiếc lời. Sắc đẹp của cô gái mà hắn vẫn hằng thương tưởng và tập thể những người trẻ tuổi mới vào bưng quanh nàng khiến hắn đành tìm lời dịu ngọt. Công việc hàng ngày dạy học cho trẻ em trong làng, gần gũi với tiếng cười trẻ thơ, giúp nàng nguôi ngoai phần nào nỗi nhớ gia đình, phố xá. Chuyến đi Ngọc Hồ đêm qua là công tác giao liên đầu tiên nàng được tập thể giao sau gần ba tháng quẩn quanh trong khu rừng ngán ngẩm mặt người…
Đêm đầu sông trôi sâu vào quá canh tàn, rời rạc tiếng chó sủa sao khuya. Trong gian phòng mờ ngọn dầu hao, tiếng cô gái mềm theo dòng lệ rưng.
– Gặp anh, Đông mừng mà tủi. Em vui, nhưng không biết mình nên buồn hay vui. Cuộc sống tai ương lao tới quá nhanh đến choáng váng, ngã khụy.
Mái tóc cô gái dài hơn dạo trước Tết, thả bóng tối vào đôi mắt sâu huyền diễm rồi buông hờ xuống bờ vai tròn trịa thanh xuân
– Đông còn nhớ bức tranh tôi vẽ cô gái với đôi mắt màu tím biếc.
Cô gái nhìn người thanh niên mỉm cười chế diễu.
– Ông họa sĩ ni vẽ đẹp mà lối tặng tranh lại càng độc đáo hơn ai hết. Ai đời đem tranh đến tặng mà lén nhét vô giữa bụi bông cẩn rồi bỏ về. Mạ dọn vườn thấy đem vô… Vẽ vời chi mà cắc cớ rứa không biết ? Mắt to như khu chén, cổ dài như cổ cò, tay chưn thì lòng thòng… Nói thì nói rứa, mà khi em xin treo phía sau quầy thì mạ chịu liền… Mắt tím có lẽ vì khóc nhiều phải không anh?
Người họa sĩ bước khẽ đến bên cô gái. Anh cầm tay nàng. Họ im lặng nhìn nhau. Bên ngoài trời vẫn còn đêm.
3. Bãi sông khuất vắng mấp mé bờ nước lúc triều dâng. Tàng cây si già rậm xanh mái lá la đà tỏa bóng xuống khoảng bờ cát phủ lá mục êm ái bước chân. Đôi trai gái tình cờ tìm ra chỗ hẹn hò lý tưởng vào một buổi trưa sau buổi dạy tìm chỗ trốn nắng trốn người. Lớp rơm khô trải ra ân cần mời họ ngồi xuống bên nhau. Thân xác chìm ngập vào nhau trong chiếc nôi êm hạnh phúc tuyệt vời. Không gian ríu lại chẳng một thoát hương, đôi vòng tay tìm nhau ghì xiết cơn giật động vỡ bờ cho vành môi sặc trào từ lồng ngực đam mê từng âm thanh nguyên thủy thấm lộng đến tận cùng cảm giác. Cô gái trễ tràng khuy áo, trầm mình xuống dòng sông lặng lờ con nước. Sau lớp vải mong manh, cặp đỉnh vú nhọn hoắt xuân thì lồng lộng trong bóng nước. Buổi trưa im ngát, râm ran tiếng ve luân chuyền trong rừng cây vắng gió. Trời xanh không một vẩn mây. Bóng Trường Sơn chập chờn dao động lúc cô gái khua đôi tay trần làm thành những vòng sóng dần lan trên mặt nước.
Người họa sĩ căng mắt nhìn dòng sông trước mặt. Mái tóc người yêu thon thả bồng bềnh theo điệu sóng lơi lả trên bờ vai trắng ngần. Chàng cảm thấy hồn như tan loãng theo từng giọt nước vỗ về lên dáng nàng nguyên sơ ngà ngọc. Người họa sĩ nín thở say sưa chuyền lên khung vải qua từng nhát cọ, từng tảng màu, mối tình cảm nồng say đang rần rật trong thân xác mình.
Cô gái e thẹn nhìn người thiếu nữ khỏa thân trong bức họa.
– Ông ni thiệt ! Vẽ chi mà cả vạc dễ sợ rứa?
Người họa sĩ mang giá vẽ lên vai. Anh sánh bước cùng người yêu, nói nhỏ vào tai nàng.
– Em vừa có biệt danh mới… Em là “Con Gái Thầy Đồ”…
Tiếng cười đôi trai gái giòn tan trên con dốc nắng lúc họ đuổi nhau chạy về phía trường học.
Cặp tình nhân đang sống những ngày chứa chan hạnh phúc. Họ chẳng ngớt nhìn nhau rồi cùng nhìn về phía cuối dòng sông. Nơi phố xá gia đình, nơi ước mơ đậu lại cho một cuộc trở về. Họ chỉ cần có nhau, ngoài ra tất cả đều là phụ thuộc. Chẳng ngại chi cuộc sống thiếu thốn gian khổ, hai người chỉ mong làm tròn trách vụ giao phó ở trường học để được yên thân. Người họa sĩ quen dần với công tác kẻ biểu ngữ. Những khẩu hiệu thi đua, diệt Ngụy chống Mỹ cứu nước, màu vàng đỏ treo khắp cùng thôn làng giải phóng. Sau vài lần bị phê bình kiểm điểm, anh học được thói quen cất xếp suy nghĩ sáng tạo ở một góc riêng trong trí tưởng mình để thuần thục hoàn thành những bức vẽ hiện thực theo đúng yêu cầu. Anh vẽ đi vẽ lại mặt mày những cô gái khỏe mạnh, cổ ngắn mà to, không có nét ngực, cánh tay tròn trục nắm lại giương cao trong nền trời đỏ rực chói chang. Anh vẽ với nỗi phiền hà chôn kín trong lòng.
Nhiều đêm mỗi tuần, lớp học được dọn làm nơi học tập kiểm thảo cho nhóm thanh niên sinh viên bỏ phố vào bưng. Lá cờ giải phóng xanh đỏ sao vàng may vụng về được treo phủ lên tấm bảng đen. Dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn thắp bằng đá khí xì tỏa mùi hôi, phần xanh bẩn bạc nhược của lá cờ xám chìm vào tấm bảng loang lổ vết phấn. Người xã đội trưởng du kích, gã học trò đệ nhị trường Nguyễn Du, không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để hậm hực bóng gió về liên hệ tình cảm giữa người họa sĩ và cô gái hắn vẫn hằng mơ tưởng. Những lần như thế, họ chỉ im lặng nhìn nhau cười qua ánh mắt.
Cho đến một hôm, điều mà đôi tình nhân không hề dám nghĩ tới đã giáng xuống cuộc đời họ như nỗi khe khắt nhất của định mệnh. Người họa sĩ được trên “chiếu cố” cho đi “thực tế” ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Gã xã đội trưởng mừng rỡ ra mặt khi mang lệnh công tác đến cho anh. Hắn hí hửng ra điều biết chuyện.
– Anh Phủ trong chiến đoàn Nguyễn Đại Thức ngày trước, chừ làm lớn ngoài Vinh, giúp anh đó. Rứa là anh đạt được nguyện vọng rồi, sướng hỉ!
Cô gái thành phố lớn nhanh qua những tai ương dồn dập xảy đến với nàng. Mất cha, mất liên lạc với gia đình, nay lại phải xa cách người yêu. Họ bám víu vào hi vọng anh chỉ đi công tác vài tháng sau đó sẽ trở về lại. Buổi chiều trước ngày đi, đôi tình nhân yêu nhau trong tổ ấm của họ lần cuối. Hai người ôm nhau, im lặng nhìn bóng Trường Sơn u uẩn đổ chìm trong dòng sông đục màu mây xám lao đao.
Người họa sĩ trao cho nàng bức họa ghi dấu thời yêu thương vô vàn của hai người. Cô gái gạt lệ, nhìn thật lâu vào mắt người yêu…chỉ để rồi khóc nức nở trên đường về qua con dốc hiu hắt nắng tàn.
Niềm hi vọng được trở về với người yêu sau vài tháng đi “thực tế” đã kéo lê thành phần đời đau thương suốt bảy năm dài. Năm đầu tiên là giai đoạn khổ sở nhất của người họa sĩ. Nỗi quay quắt nhớ người yêu và sự thất vọng khi nhìn ra khuôn mặt thật điêu tàn của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa khiến anh quá đỗi đau lòng. Anh tìm cách nhắn tin nhưng tất cả đều không có kết quả. Biết bất cứ ai đi công tác Trị Thiên anh đều viết thư nhắn gởi rồi thấp thỏm vắn dài chờ đợi mãi một hồi âm không bao giờ đến. Bảy năm đăng đẳng chậm chạp trôi qua với công việc tẻ nhạt của một gã thợ vẽ quẩn quanh với hai màu vàng đỏ nghèo nàn. Trong giấc ngủ đến khó khăn từng đêm, hình ảnh người mẹ bồng con đứng buồn bã bên dòng sông vẫn thường hiện về khiến anh bừng tỉnh ngờ ngợ hỏi lòng rồi chong mắt đếm canh dài. Sau tháng Tư năm bảy lăm, niềm vui của người họa sĩ chóng tàn như ngàn cánh sen tả tơi trong hồ Tịnh Tâm thiếu nước đọng bùn khô. Gia đình Đông, sau ngày nàng vô bưng rồi người cha bị sát hại chôn tập thể ở Bãi Dâu, bà mẹ và hai đứa em nàng đã bỏ xứ vào Nam lập nghiệp, không hề trở lại Huế. Anh theo đò lên khu làng xưa bên tận đầu nguồn sông Hương tìm hỏi dấu tích người yêu. Dân trong làng cho hay không lâu sau ngày anh phải đi “thực tế”, vì có vấn đề với người xã đội trưởng du kích, Đông đã bỏ vùng giải phóng đi biệt. Gã du kích thì bị lính Sài Gòn bắn chết trong một trận càn.
Những ngày sum họp tự hào cũng qua nhanh với gia đình người họa sĩ như nước nguồn chảy trào qua Bao Vinh đầm đìa lối gạch cũ mòn hưng phế. Đứa con kháng chiến trở về thất vọng với công việc nhàm chán là cán bộ thông tin văn hóa ở một xã nghèo nằm cuối dòng sông Hương trắng xác bơ phờ cánh đồng muối mặn. Anh chẳng lo toan được chi cho gia đình. Cha mẹ cần mẫn chắt chiu từ bao năm, vất vả gầy dựng được tiệm may ở Ngã Giữa, nay phải hàng ngày ra vào âu lo phờ phạc vì bị quy là tiểu tư sản, thuộc diện kiểm kê. Người em trai là sĩ quan quân đội miền Nam thì vất vả lao đao trong trại cải tạo mờ mịt núi xa.
Niềm đau lớn nhất của anh là ước mơ được diễn tả suy tưởng và cái nhìn của người họa sĩ qua màu sắc riêng biệt của mình thì đã như cánh đóm lẻ loi, chập chờn, mất hút đêm thâu. Đã bao lần sau đêm thức trắng say sưa với dao cọ, người họa sĩ đành phải bất lực buồn bã nhìn tác phẩm mình trước khi xếp cất vào nơi khuất lấp. Từng hoàng hôn nhìn ráng chiều lung linh trên nóc hàng dương rũ đầu muộn phiền lối gió thấp thoáng cánh buồm từ biển về, lòng anh càng nung nấu giấc mộng ra đi.
Vùng đất tự do cuối biển Thái Bình xa đã giúp hiện thực giấc mơ của người họa sĩ. Anh được nhiều người trong xã hội phương Tây mến mộ qua nét vẽ độc đáo đầy sức sống lứa đôi. Thế nhưng càng vẽ anh càng nhớ nhiều tới người xưa nơi nguồn sông khốn đốn. Đời sống vật chất đầy đủ và cuộc hôn nhân vội vàng chẳng giúp được chi cho cuộc sống tinh thần sa sút. Chỉ sau vài năm trong cảnh sống gia đình bế tắc, với chiếc bàn chải đánh răng trong túi áo và chai rượu trên tay, anh bỏ nhà từ giã người đàn bà đã không mang lại sự bình an trong tâm hồn anh vẫn mãi hoài tìm kiếm. Hội họa, nỗi cô đơn trong nuối tiếc dằn vặt chẳng nguôi…và như thế người họa sĩ sống cuộc đời mình, từng ngày, bắt đầu bằng cơn say vào buổi sáng.
Sự bồng bột oan khiên thời tuổi trẻ đã khiến anh và biết bao người cùng trang lứa ngờ vực chối bỏ hạnh phúc niềm vui đến trong tầm với. Chỉ để rồi chẳng thể nào tìm lại được trong suốt quãng đời còn lại. Cô học trò duyên dáng hồn nhiên, sống trọn vẹn cho tình yêu bên bờ nhân duyên đành đoạn. Cô gái Gio Linh héo hon bầu ngực, gồng gánh nước sông dưới bóng trăng lu khuyết huyễn giấc mơ tàn. Người đàn bà trên vùng đất lưu vong, sòng phẳng trong cuộc sống và tình yêu. Bức họa đầu tay anh vẽ bằng tất cả đam mê thuở vừa yêu, hoang sâu bờ mắt tím và dáng em dìu dặt quán chiều. Bức tranh cổ động d? xanh, cánh tay cô gái nắm chặt giương cao hô hào nhân dân ra sức thi đua lao động. Những họa phẩm được trang trọng trưng bày tại các phòng triển lãm kiêu kỳ ở Sydney, Melbourne, Paris… Anh say bằng những chai rượu đắt tiền để rồi giữa cơn say hình ảnh quá khứ thoắt động trở về vỡ tràn bờ nuối tiếc. Người họa sĩ bồi hồi nghĩ tới hình ảnh gã trai tơ lúc hắn luống cuống giấu món quà tặng tình yêu đầy đam mê vào bụi hoa trongvườn nhà cô gái… Anh có tất cả và anh đã khờ dại bỏ đi.
Sự hối tiếc đã thôi thúc người họa sĩ về bên nguồn sông xưa. Như con thú hoang trở về hang động thoa liếm vết thương đau, anh trở về tìm lại dấu vết yêu thương ngày cũ, mong vá víu manh áo đời đã quá tang thương.
4. Chuyện đời người họa sĩ đắng cay như từng hớp rượu mạnh ép mời ôn Thiên ráng uống để bạn vui. Quán chiều bên bến đò im bặt tiếng cười nói của nhóm khách cuối ngày vừa rời quán cho kịp chuyến xe nôn nóng đợi trên cầu. Gió từ sông thổi ruồng qua dãy bàn ghế lỏng chỏng, trơ trọi hai ông già ngồi trăn trải lòng mình qua men cay. Ôn Thiên lắng nghe tiếng dòng sông trôi về xuôi, xốn xang sóng động trong hồn rêu phong bờ đá. Biết bao mảnh đời đi qua bến đò Tuần bằng bước chân tình cờ của định mệnh. Họ tất tả lên rừng xuống phố, giết chóc khóc cười, sống vội sống mòn, than vãn trần tình, đi biệt. Ôn Thiên vẫn một đời ở lại, âm thầm như bóng, nghe ngóng loanh quanh. Từng âm động, tiếng người, rớt đọng vào tai rồi trầm tích trong ngăn phần trí nhớ của một kiếp mù lòa. Xúc động theo câu chuyện tình của bạn, ôn Thiên nghe từ trong quá khứ trỗi dậy từng tràng âm thanh náo động đạn bom và giọng nói ngọt ấm của người thai phụ trẻ tuổi giữa những ngày hè năm sáu tám. Ôn xúc động lần tìm tay bạn. Những ngón tay già nua run rẩy vỗ về nhau, thiệt thà như tiếng khóc hóa mòn dấu đá in hằn trong ký ức vừa chợt nhão ra thành giọt nước mắt hoen bờ mắt sâu khép kín.
Không lâu sau ngày người họa sĩ đi “thực tế”, cô gái biết mình có thai. Nàng vui mừng báo cho tập thể hay với hi vọng gã xã đội trưởng sẽ buông tha, không còn theo đuổi ve vãn để được yên thân. Không ngờ hắn lại càng tỏ ra cay cú thô bạo hơn. Một lần lợi dụng lúc vắng người, hắn dùng sức mạnh toan làm hỗn, nàng đã may mắn chạy thoát được. Cô gái quyết định trốn khỏi vùng giải phóng về lại Huế. Tên xã đội trưởng dẫn du kích đi tìm bắt nàng lại. Nhằm lúc một đơn vị lính quốc gia đang hành quân lục soát trong vùng, vài du kích bị tử thương trong số đó có cả tên xã đội. Cô gái bị tình nghi là cán bộ giao liên, nàng được đưa về hậu trạm của đơn vị hành quân đóng ở bến đò Tuần để điều tra. Một sĩ quan người miền Nam, biết cô gái lúc ở Huế, đã đứng ra cứu vớt, bảo lãnh cho nàng được tự do.
Ôn Thiên uống cạn ly rượu. Ôn ngồi quay mặt về phía dòng sông, bóng chiều trầm lặng phủ lên lũng mắt sâu kín niềm đau.
– Nghe nói người sĩ quan, chẳng sá chi chuyện lỡ lầm, đã cưới cô gái rồi đưa vô sống trong Nam. Dù răng thì cụ mi cũng có được đứa con sống ở mô đó trên cõi đời ni. Còn tui phải chôn con mình lúc chỉ mới là cái bào thai năm sáu tháng.
Người lão bộc mù nghe tiếng thở dài của bạn lặng chìm vào tiếng nấc nghẹn, ấp úng rã rời men rượu. Ôn Thiên nghĩ tới nơi sinh trưởng, làng Hồ. Thuở thằng Thiên mắt sáng, bàn chân tuổi chín mười rón rén bước theo tiếng chim rúc trên con đường làng lổ đổ bóng nắng trưa thơm mùi mít chín. Phần số mù lòa đẩy đưa ôn đi ngược dòng sông Hương đến bến đò Tuần rồi buộc chặt đời mình ở đó. Năm mươi năm qua ôn Thiên sống âm thầm kiếp đời nô bộc trong quán trọ nghèo nàn bên bến sông. Hòa bình. Chiến tranh. Quốc gia. Cọng Sản. Sống chết. Đói nghèo. Cười khóc… Tất cả là tiếng đời quen lạ vây quanh, là âm động cuồng quay vùng thính giác bơ phờ nghe ngóng. Trong gian phòng nhỏ cuối quán trọ, chiếc phản gỗ mít lâu đời trơn bóng là nơi ôn Thiên hành nghề tẩm quất kiếm sống qua ngày. Tấm gỗ dày cả gang tay có bao cát chắn quanh cũng là trần che chắn cái hầm trú ẩn đã bao lần giúp ôn sống còn qua hơn hai mươi năm súng đạn vô tình. Trên tấm phản đó biết bao thân xác rã rời đã trong một giây lát nằm lại thơ thới mà quên đi chiến trường mỏi mệt. Lính quốc gia, lính Sài Gòn, du kích, bộ đội, nam, nữ… chỉ là những sợi gân cốt mỏi rời được ôn xoa bóp chăm lo. Ở đó, có khi những mảnh đời đã được trải ra, kể lể, than thân… trong lúc ôn Thiên chỉ im lìm lắng nghe và cần mẫn làm tròn công việc với đôi tay nô bộc mù lòa.
Cho đến một đêm… Tiếng rên dồn dập lạ tai của o du kích và những ngón tay bấu chặt lên người khiến ôn Thiên dừng tay nghe ngóng hỏi han. Chỉ có tiếng trở người và chút âm thanh cấp bách vừa kịp ghì ríu trong cổ họng. Lúc tay vừa chạm vào đôi bầu ngực căng tròn của cô gái thì trong người ôn cũng chợt rùng rùng cảm giác trào ngợp khó tả làm tim đập nhịp liên hồi. Hai con thú hoang vồ siết nhau trên vùng châu thổ cuộn sóng đam mê mênh mang bờ bãi. Từ đó, căn hầm tăm tối là nơi họ chìm ngập vào nhau cho thỏa thuê cảm giác mở toang trên từng phân li da thịt.
Ngày o du kích cho biết có thai, ôn Thiên vui mừng nhưng cô gái chẳng nói năng chi. Vài tháng sau, cô gái cho ôn biết tập thể đã đưa nàng ra kiểm thảo, buộc phải phá thai và đưa đi làm công tác giao liên ở vùng khác. Ngày chia tay, cô gái nói cho ôn biết nơi nàng quăng giấu cái bào thai rồi lặng lẽ bỏ đi. Ôn Thiên đã khóc suốt trên đường về làng Hồ nơi ôn chôn cất đứa con vừa tượng hình hài. Và biết bao năm sau đó mỗi khi nghĩ tới cảnh sống cô đơn đời mình.
Cách đây không lâu, trong ngày khánh thành chiếc cầu mới bắt qua sông gần bến Tuần, ôn đang đứng dưới tàng cây ngô đồng thì nghe có tiếng phụ nữ hỏi chào. Ôn Thiên đó hỉ !? … Giọng người đọng vào tai thì cho dù bao nhiêu năm ôn cũng chẳng thể quên. Huống chi… Ôn chợt rúng người, nghe tiếng mình bật hỏi… Rứa O đó hỉ !? Tui đây… Tiếng trả lời nhỏ lại bước theo người. Ôn Thiên đang lóng ngóng thì có người đẩy ôn suýt té . Tránh ra cho đồng chí chủ tịch huyện đi cắt băng cầu mới…
Lời phát biểu của người đàn bà trong buổi lễ qua hệ thống khuếch thanh theo gió lởn vởn lúc gần lúc xa vọng xuống bến đò. Giọng nói chen vô đầu quẩy động lớp âm thanh đã từ lâu lắm ôn không hề muốn nghĩ tới. Bàn tay người tẩm quất mù đã khơi mở cơn thèm muốn ăm ắp lâu đời của o du kích khỏe mạnh mà xấu xí chẳng ai để ý tới. Ôn nghĩ tới những vết rổ sần kín trên mặt của người đàn bà rồi chợt vuốt mặt mình lúc lần bước về phía bờ sông… 5. Tiếng chuyện vãn của nhóm đàn bà ở dưới vạn đò đi chợ về làm ôn Thiên chợt tỉnh giấc mê ngày … Ôn Thiên ni thiệt, ra tuốt ngoài sông mà ngủ nướng. Ôn nằm trên nắng dưới nước như rứa coi chừng bị đau thương hàn đó nghe… Ôn Thiên răng mà giống như ngày càng lẩn từ cái hồi ôn họa sĩ Việt kiều chết tới chừ… Tội nghiệp, đi Đông đi Tây cho bưa rồi về cái xó ni mà chết một mình… Ôn Thiên ầm ừ vài tiếng khản nghẹt trong cổ họng chừng như để trả lời câu quở trách của mấy mụ o dưới đò thiếu chuyện nói. Đầu óc ôn bềnh bồng với ý nghĩ hình như mình đã nằm yên ở vị thế này từ lâu lắm. Cảm giác nóng rát trên mặt trên ngực vì ánh mặt trời trưa gay gắt khiến ôn muốn chuồi người hẳn vào lòng nước mát. Ôn biếng lười nằm yên lắng nghe tiếng mái chèo khua xuôi ngược trên sông, lắng nghe từng con sóng nhỏ thì thầm vỗ về quanh thân thể mình. Chỉ có dòng sông mới thấu hiểu được nỗi lòng người sống đời khốn khó, nổi trôi theo định mệnh u hoài của nó. Ôn mường tượng tới đôi bờ sông mãi ngó về nhau, cách biệt một dòng trôi, thất vọng lỡ làng. Sự cách biệt của đôi bờ, thời gian, kiếp người, cũng đau lòng như đắng cay không nói hết.
Ông Trời khiến ôn mù lòa quẩn quanh một chỗ lại cắt cớ bắt phải làm chứng nhân câm nín cho biết bao chuyện thương tiếc lỡ làng. Phải chi hai mẹ con người đàn bà ghé bến Tuần sớm hơn đôi ba ngày hay người họa sĩ sống thêm mươi hôm nữa. Phải chi… Ôn Thiên nghĩ tới hình ảnh cha con trùng phùng sẽ không bao giờ có trong sự thực mà cảm thấy lòng dạ mình đau như xé. Ôn đã giữ yên lặng để được nghe tiếng cười tràn ngập niềm vui của người mẹ và đứa con gái nhỏ nô đùa trên bến sông. Để rồi, buổi sáng hôm sau, khi họ đi rồi, ôn lại băn khoăn tự trách về sự im lặng của mình.
Hai mẹ con người đàn bà Việt kiều đến thăm bến Tuần chỉ mấy ngày sau khi người họa sĩ qua đời. Trên quãng đường ngắn từ quán nước về nhà trọ, tiếng trò chuyện bằng ngôn ngữ ngoại quốc thánh thót như chim của hai mẹ con chen lẫn trong tiếng cười khúc khích của cô gái nhỏ khiến ôn Thiên trong giây phút quên cả muộn phiền. Người mẹ nhanh nhân sánh bước với ôn Thiên.
– Xin lỗi bác Hai. Cháu nó nói tiếng Việt không rành lắm. Cháu vừa hỏi tôi, mắt bác Hai như vậy mà sao bác đi nhanh hay quá? – Chỉ một khúc đường ngắn, đi tới đi lui mỗi ngày cả hơn năm mươi năm ni nên chi quen rồi O ơi.
Ôn Thiên đưa hai mẹ con vào căn phòng khang trang duy nhất của quán trọ, nơi người họa sĩ đã sống mấy tháng cuối cùng của cuộc đời. Người đàn bà vui vẻ giúp ôn Thiên trải xếp lại chăn chiếu trong phòng. Lắng nghe giọng nói miền Nam hồn nhiên vui tai của người khách trọ làm ôn Thiên cũng trở nên bặt thiệp góp chuyện. Tiếng người đàn bà nói như reo từ phía cuối phòng nơi treo tranh của người họa sĩ quá cố.
– Sao nhà trọ có nhiều tranh của họa sĩ Lê vậy bác Hai? Ông ta ở Úc mà nổi tiếng qua tận bên Mỹ đó bác. Ủa, có một tấm hình như đang vẽ dở dang …
Nghe nhắc tới bạn, ôn Thiên chợt buồn đến lạc giọng.
– Ôn Lê về thăm quê ở Huế, rồi lên Tuần mấy tháng, uống rượu vẽ tranh. Ôn họa sĩ chết đột ngột vì bệnh tim, chẳng kịp vẽ cho xong bức tranh ôn nuôi dưỡng trong đầu suốt một đời lưu lạc.
Tiếng người đàn bà chùng xuống ngậm ngùi.
– Tội nghiệp quá! Thuở sinh thời của cha mẹ, cháu nhớ không hề nghe cha hay mẹ đề cập gì đến họa sĩ Lê nhưng có lẽ họ có quen biết nhau. Một lúc nào đó thời son trẻ. Nhà cha cháu để lại bên Mỹ vẫn còn treo bức tranh thiếu nữ bên sông của họa sĩ Lê ký tặng mẹ. Bức họa cũ , tương tự như bức đang vẽ dở dang, nhưng màu sắc thì tươi thắm chứ không xám chìm ảm đạm thế này.
Ôn Thiên đứng lặng người, đôi hỏm mắt phủ mây đục nhướng lên cố nhìn ngoái vào vùng trí nhớ in hằn từng phiến tích âm động khóc cười của những nỗi đời sa chân bước qua bến Tuần một ngày một đêm nào đó.
– Mẹ con O về bến Tuần thăm ai rứa? – Mẹ cháu mất đã hai mươi năm, còn ông Ngoại của bé Thu qua đời gần ba năm rồi. Trước ngày mất, ông trăng trối ân hận đã không về thăm lại bến Tuần một lần. Ông nói bến Tuần là nơi cha mẹ gặp nhau rồi thành vợ chồng ở đó. Thời đó ba cháu là sĩ quan quân đội miền Nam. – Tui đui mù loanh quanh ở đây suốt đời, có khi đã gặp cha mẹ O rồi mà không nhớ. Rứa chớ mẹ O tên chi ? – Ba thế hệ, ba mùa. Mẹ là mùa Đông, gởi gắm mùa Xuân cho con gái. Tới phiên cháu, Hạ nghe con trai quá, hơn nữa vùng cháu định cư ở Mỹ mùa Thu đẹp lắm, lá rừng phong đỏ ối in hình xuống mặt hồ gương lắng đọng mây trời. – Có giống màu đỏ của bông phượng không O? Tui chỉ còn sót lại màu đỏ của phượng trong trí nhớ. Và màu xanh của lá…
Ôn Thiên thẫn thờ bước ra cửa. Gió từ sông thổi ruồng qua hiên trống, mát mùi hơi nước. Hình như có cơn mưa từ nguồn về bay tạt qua đây mang theo tiếng cười của đôi tình nhân lồng lộng suốt dọc một chiều sông dài đăng đẳng mấy mươi năm. Hình như có giọt lệ lắng đọng trong bóng tối của đôi mắt khép, sâu hút kỷ niệm. Ôn Thiên nuốt tiếng thở dài, quay vô nhà lần tìm chiếc dù, đưa cho cô gái nhỏ.
– Cháu đói bụng chưa ? Che dù cho mạ kẻo mưa ướt. Ra quán, vừa ăn vừa coi mưa, nói chuyện nhà.
Đứa bé che tay, thầm thì vào tai mẹ. Người đàn bà tát yêu vào má con, méc với ôn Thiên.
– Bé Thu vừa nói với cháu là ông Hai nên nói là nghe mưa thì mới đúng. Con bé này lí lắc thiệt mà…!
Bàn tay chai sạn ôn Thiên ngại ngần run rẩy xoa lên mái tóc mịn màng của đứa bé. Ôn nhớ tới đứa con chưa kịp ra đời đã phải đành cuộc vĩnh ly.
– Cha mi! Ôn ni coi mưa bằng hai lỗ tai mấy chục năm ni không sót một giọt.
Người đàn bà nhìn mưa giăng sa mù lên mặt sông, biệt tăm dáng núi. Những con đò mong manh như lá co ro nép vào nhau nhỏ nhoi tội nghiệp trên dòng nước bất chợt mênh mông . Bà bỗng nhớ quay quắt người mẹ hẩm hiu vắn số, nhớ tới người cha cam chịu sống đời cô đơn , trải lòng hy sinh cho con gái. Số phận nào đã khiến mẹ cha tất tả qua đây, tình cờ nào đẩy đưa họ gặp nhau nơi bến giang đầu rồi dắt díu nhau theo dòng mệnh hệ nổi trôi ? Trong cơn mưa chiều từ một đầu sông xa lạ, quá khứ đời người trở về bồi hồi gõ nhịp như tiếng mưa đang thánh thót rơi đều trên mái lá. Lướt thướt theo làn mưa bay là hình ảnh từng chặng đời thương khổ của mẹ cha. Tháng ngày con thơ dại trong lòng quê nội, êm đềm như cây trái sông nước miền Nam. Năm tháng long đong cơ cầu mẹ vất vả nuôi con, nuôi chồng, trong trại cải tạo. Cái chết oan khiên của mẹ trên đường vượt biển. Cuộc sống trầm lặng của cha trong suốt quãng kiều cư, chấm dứt bằng căn bệnh trầm kha đã hành hạ đớn đau thân xác ông năm cuối đời. Hình ảnh kỷ niệm như khúc phim quay chậm trong sướt mướt mưa chiều, bật thành tiếng nấc kêu thương nghẹn chìm câu chuyện kể.
Người đàn bà ôm con vào lòng, cất tiếng cười nhẹ, cố dằn cơn xúc động.
– Trời nước ở đây buồn quá, có lẽ con người cũng đa cảm đa sầu lắm, phải không bác Hai? – Thì lúc buồn, khi vui. Như tiếng khóc, tiếng cười, tui vẫn nghe vẫn nhớ tới mỗi ngày. Mãi rồi quen đi. Như O thấy tui cứ lần rải đi ra đi vô mỗi sáng mỗi chiều, rứa mà đã sáu mươi năm trên bãi sông quạnh quẽ ni.
Mưa vẫn rơi. Ôn Thiên ngồi lặng hồn nghĩ tới sự lỡ làng của thời gian, nơi chốn. Cũng chiếc ghế kia, chỉ vài ngày trước đây, người họa sĩ đã ngồi thương tiếc đời mình qua men rượu. Thôi thì cái chi rồi cũng có nguồn cơn. Cho dù là tiếng con khóc nhớ cha mẹ hôm ni hay tiếng người thương khóc số phần nhơn duyên mình ba bốn mươi năm trước. Tội nghiệp là mỗi con người phải đành theo ngả rẽ không vừa ý. Ôn Thiên nghĩ tới mười mấy năm luân lạc của người mẹ. Ôn cảm kích mối tình cao thượng của người sĩ quan miền Nam. Ôn không thể làm chi khác hơn là trân quí mối tình phụ tử của người cha đã suốt đời hi sinh cho con, tình cảm mà suốt đời ôn chỉ là tưởng mơ vô vọng.
– Thôi, mẹ con O đói thì kêu cơm ăn đi nghe. Để tui về gói bức hình tự họa của ôn họa sĩ Lê tặng lại O đem về Mỹ treo kế bên bức họa con gái cho vui.
6. Lúc nhóm đàn bà đi chợ chiều ngang qua bến sông phác giác ôn Thiên nằm mê man, nửa người chìm trong nước sông, thì đã quá muộn. Ôn qua đời trên đường chở tới bệnh xá. Người bến Tuần đưa ôn Thiên về làng quê Ngọc Hồ. Trời đang giữa mùa hè. Đò chèo theo con sông Bạch Yến lừng hương mùi mít chín. Dòng sông lung linh bóng nắng của hàng phượng nở bông đỏ rực. Ôn Thiên đã chết rồi.
Phan Thái Yên Tháng Tư, 2005www.bienkhoi.com/so-26/cau-chuyen-o-dau-song.htm
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 12, 2018 1:14:49 GMT 9
Tử Thần bỏ sótSắc Võ Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng một hồi ức Mậu Thân. Ông sinh năm 1942 tại Huế. Qua Mỹ diện HO 21 định cư tại Thành Phố Tucson Arizona, hiện nghỉ hưu. Mong ông sẽ tiếp tục viết. *** Mậu Thân 1968. Những ngày đầu năm mới, Huế tang tóc, Huế bi thương.
Năm nay, Mậu Tuất, 2018. Thời gian qua đã 50 năm.
Nén hương thành kính xin tưởng nhớ bà con, anh em trong hai làng Nguyệt Biều, Lương Quán đã bị những người thân ruột thịt theo CS sát hại dã man trong biến cố Mậu Thân.
Kể lại chuyện cũ, nhưng không cũ, vì năm nào sau thú vui mừng Xuân, làng Nguyệt Biều nằm bên bờ tả ngạn sông Hương cách trung tâm thành phố Huế 5 km về hướng tây, nhiều gia đình lại bùi ngùi tố chức lễ kỵ cho thân nhân là nạn nhân chiến cuộc Mậu Thân.
Điểm lại danh sách những người bị giết tức tưởi, họ không mang tội gì ghê gớm để phải đền mạng, họ là những ông già, đàn bà, trẻ em, cha, con của những người không cùng giới tuyến với Cộng Sản hoặc sống vùng nào làm việc theo chế độ vùng đó. Khá nhiều người là nạn nhân của sự trả thù cá nhân mà bọn thời cơ lợi dụng.
Hận thù nên gỡ không nên buộc. 50 năm thời gian dài đủ nguôi ngoai, quên đi hận thù và cùng bắt tay nhau xây dựng. Nhưng năm nào đến Tết, chính quyền Cộng Sản cũng tổ chức ăn mừng chiến thắng Mậu Thân 1968, vui trên thành tích tàn sát đồng bào, huyênh hoan khoe công trạng, tuyên truyền một chiều, gắn cho những nạn nhân bị giết oan là “mang nợ máu”, làm cho lớp hậu sinh không phân được trắng đen.
Vì vậy, những nhân chứng không thể không kể lại. Nhân chứng phản biện để nói lên tội ác diệt chủng mà chính quyền CS qua tay bọn nằm vùng và bọn thời cơ đã giết dân Huế nói chung và dân hai làng Nguyệt Biều, Lương Quán nói riêng. Mong nỗi oan khiên được giải để cho các nạn nhân được siêu thoát.
Trong số người bị sát hại, điểm qua không thấy ai chống Cộng mãnh liệt, họ sợ cộng sản nhiều hơn chống, phần lớn họ là dân thường, chỉ muốn bình an. Hầu hết những người có thành tích chống cộng thì đã tự lánh mặt, vào ở trong các đồn trại của QĐVNCH, như đồn Long Thọ, Văn Thánh từ lúc nghe tin Cộng quân bất ngờ phản bội ký kết lệnh ngưng bắn, tấn công vào thành phố Huế trong đêm 30 rạng mồng một Tết.
Mậu Thân, 1968. Lệnh các đài phát thanh thông báo: hưu chiến ba ngày. Hai phe ngưng tiếng súng để mừng vui trong ba ngày Tết. Chiều 30 tết, tiếng pháo nổ đì đùng khắp đó đây. Khuya 30 tiếng nổ lại rền vang hơn. Sáng mồng một Tết tin Việt cộng đã tấn công vào Huế. Nhưng Nguyệt Biều vẫn còn yên tĩnh, chỉ nghe tiếng nổ và chớp loé sáng ở xa.
Sáng nào tôi cũng sang nhà anh A. ngồi bàn chuyện và nghe ngóng tình hình. Hai anh em cũng đã bàn chuyện ra đồn Long Thọ lánh nạn. Cuối cùng, quyết định ở nhà vì cả hai là giáo viên, tự nghĩ, dại gì ra đồn quân sự mà lãnh đạn.
Anh Thân Trọng A. lớn hơn tôi chừng 4 hoặc 5 tuổi, nhà đối diện nhà tôi. Anh là thầy dạy kèm toán cho tôi thời tôi học trung học, vừa là cháu rể của nhà tôi. Anh là giáo sư trường trung học Đồng Khánh. Tôi quen anh, ở gần anh tôi biết khá rõ. Anh ở trong nhóm học sinh, sinh viên ngoại thành Huế trước năm 1954. Bạn bè cùng lứa của anh đi tập kết ra Bắc, Anh vì hoàn cảnh bà nội già, mồ côi cha mẹ, còn phải đùm bọc hai em còn nhỏ nên ở lại miền Nam.
Anh có giấy gọi quân dịch lớp sĩ quan từ khoá 13 vào năm 1962. Nhưng lần nào Anh cũng nhịn đói để không đủ cân và được hoãn dịch, lần lữa cho đến khoá 25 trừ bị Thủ Đức, năm 1967 anh mới bị dính. Sau 9 tháng ở quân trường, anh được phân bổ về Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Dịp nghỉ Tết, lệnh cho phép hoãn trình diện. Anh nằm nhà, nghĩ mình có cảm tình với Việt Minh, sợ gì đi tránh, nhưng anh lầm.
Ngày 13 tháng giêng m lịch, khoản 9 giờ sáng cậu Nguyện tôi từ ngoài đường chạy vào, hổn hển:
– Việt cộng về tới trên đập rồi. Hai bên bắn nhau đã có người chết. Lính kéo nhau chạy ra Long Thọ hết!
Ba tôi bảo:
– Cậu và thằng Sắc lên trần nhà trốn đi.
Hai cậu cháu kéo nhau lên trần nhà ngồi, chừng 10 phút sau, nghe nhiều tiểng nói ngoài đường, rồi một toán không biết bao nhiêu người vào nhà.
– Chào Bác, Bác khoẻ không?
– Chào mấy anh.
– Cháu là Thân, đây là Gô và đây là Chiêm.
Hai cậu cháu ngồi trên trần, cậu tôi thì run cầm cập. Sao lạ lúc này tôi không thấy sợ sệt gì hết. Lại nghe hỏi:
– Con Bác đi đâu hết rồi?
– Thằng lớn thì về ăn Tết nhà vợ, chưa thấy lên. Còn thằng nhỏ thì đi khỏi, vào Buôn mê thuột thăm chị nó.
Toán người chỉ thăm hỏi qua loa một chút rồi đi. Nói thật, trước Mậu Thân tôi không mảy may ác cảm với Việt cộng mà còn có cảm tình, vì hào quang Việt minh chiến thắng Điện Bièn Phủ, có công trong kháng chiến chống Pháp. Vì thế, lúc đó tôi có ý muốn leo xuống gặp. Cậu tôi thì thầm, van vỉ:
– Cậu lạy con, con xuống là cậu chết.
Sau khi cả toán rời nhà tôi chừng 10 phút, mợ tôi le te bồng con nhỏ vừa chạy vào, vừa khóc.
– Anh lo về ngay, ngươi ta đòi bắn thằng Sinh nếu anh không ra trình diện!
Mạ tôi cũng giục.
– Cậu về đi! Mợ đã biết cậu ở đây thì ai cũng biết! Về đi.
Cậu tôi với gương mặt âu lo, băng qua vườn O Liễn về nhà và đã bị đem đi, đến nay, vẫn chưa tìm ra tông tích. Chức vụ cậu tôi lúc đó là phó ấp trưởng.
Tôi thì xuống hầm tránh bom đạn, ẩn mình luôn.
Trưa ngày 18, có hai bộ đội vào xin được ăn cơm tối, mẹ tôi từ chối, xong chạy vào hầm mách lại với hai cha con. Tôi nghĩ chuyện này chắc mạ chết rồi, không kịp đắn đo tôi rời hầm ra đường đón hai anh bộ đội nói:
– Mời hai anh chiều ghé ăn cơm, mẹ tôi không biết, vì gạo hết từ hôm qua, nhưng vợ tôi đã qua hàng xóm mượn được một ít.
– Lần sau nghe. Có nhà bên kia cho ăn rồi!
Từ đó tôi không còn trốn được nữa mà hằng ngày theo lênh tập trung tại nhà thờ họ Hoàng để nghe phổ biến tin tức và thông báo tin thắng trận. Trưa ai được về nhà nấy, ai cũng yên tâm, nghĩ chắc không có gì xảy ra cho mình. Nhưng vài người thân quen rỉ tai nhau cho biết tên một vài người trong làng đã bị bắt đi, kể cả anh A. Sau này mới tìm ra là anh A. bị chôn sống.
Những ngày đến điểm tập trung, tôi mới nhận ra, lâu nay số bạn bè qua lại với mình cũng như một số dân trong xã họ là cảm tình viên hoạt động chìm cho cộng sản.
Sáng 25 tháng giêng âm lịch. Anh Gô đạp xe đạp vào nhà tôi bảo:
– Anh Sắc, anh có lệnh đi học tập hai mươi ngày, xong về đi dạy. Đem theo 20 ngày ăn và đồ dùng cá nhân, 10 giờ đúng, tập trung tại nhà thờ họ Hoàng nghe.
Tôi mặc vội vào người bộ đồ đen của xây dựng nông thôn, ngoài mặc thêm bộ đồ ngủ màu xanh dương, bỏ gạo, thức ăn, đồ dùng cá nhân vảo trong cái bao cát do vợ may cho, bao có hai quai để mang sau lưng thế cái ba lô.
Gần 10 giờ rời nhà, vợ bồng con đầu ba tháng tuổi đi theo lên tập trung tại nhà thờ họ Hoàng. Khi đến nơi tôi thấy rất đông, đủ các hạng người, đông nhất là hoc sinh, sinh viên. Mười ba người đuoc gọi tên đi học tập là:
Nguyệt Biều: Sắc, Đằng, Hưng, Mẫn, Thổ, Vũ, Tâm (đàn bà )
Lương Quán: Khá, Thú, Đủ và 3 người nữa tôi không nhớ tên là nghĩa quân hoặc lính trong quân đội về phép vì có lệnh đình chiến. (Số người này bị đưa ra Bắc, đến năm 1976 mới được cho về, trừ Vũ nghe nói bị bệnh chết.)
Một du kích có mang súng dẫn đi lên hướng đập đầu làng, băng qua nhà máy nước Vạn Niên, vào địa phận Thuỷ Xuân, nhốt vào trong một nhà thờ cũ ba gian tên gọi nhà thờ Trung Chỉ. Ở đây đã tập trung rất đông chừng khoảng 200 người.
Cả hai hôm đó chúng tôi bị cầm giữ tại đó, thỉnh thoảng thấy đưa thêm một số người vào, nhưng không thấy ai ở Nguyệt Biều nữa. Lúc mới nhập kho nghe thấy em Hồ ngọc Vinh người Lương Quán được cho về nhà. Trong số nạn nhân bị nhốt chung tôi còn nhớ mãi là: ông Võ Thành Minh người thổi sáo tại Geneve phản đối Hiệp định chia đôi dất nước năm 54, và hai cha dòng Thiên An. Sau này các báo đều đã đăng tin và hình ảnh cả ba người bị thảm sát tại một địa điểm gần lăng Tự Đức.
Tuy chỉ hai đêm nhưng tôi thấy mỗi đêm có cán bộ Cộng sản vào gọi tên một vài người và dẫn đi, sau này về được, tôi nghe những người đó đều bị chôn sống. Cái ghê gớm của người Cộng sản là khéo che dấu, nạn nhân đến khi chết mới biết được tâm địa gian ác của họ.
Đêm thứ hai, lệnh cho 13 người Nguyệt Biều ăn cơm dể di chuyển, mỗi người được phát một chén cơm và mấy lát su hào kho muối.
Thật là điếc không sợ súng, tôi không thấy buồn, lo lắng gì cả, còn bạo miệng nói:
– Thưa đồng chí, số 13 xui, xin dồng chỉ cho thêm một người cho đủ 14.
– Ai đồng chí với anh? Cách mạng 13 hay 14 gì cũng tốt hết.
Mắng thì mắng nhưng rồi họ cũng cho chuẩn uý Tôn Thất Bưởi rể ông Khương ở Trường Đá, đi theo cùng toán.
Khoảng 8 giờ 30 tối khởi hành. Trời cuối tháng giêng, tối mờ mờ, mưa, lạnh cắt da. Đang đi lệnh đột ngột dừng lại. Đằng xa, cảch khoảng chừng mười lăm mét có bóng một lính Mỹ đen, tay xách khẩu AR 15 đang bước băng qua đường.
Lạy trời! Chỉ đi nhanh hay chậm một phút cả toán lọt vào ổ phục kích của Mỹ tại Cầu Lim rồi! Lệnh cho trở lui lại nhà thờ Trung Chỉ, ngày mai đi tiếp. Lần đi hôm sau trót lọt, chúng tôi được dẫn đi lên qua cầu Lim, vòng ngã sau quận Nam Hoà, lên Võ Xá, Định Xá đi đò qua sông, băng rừng, lội bộ và ngừng ở hai triền đồi, dưới có dòng suổi chảy. Ở đây đã sẵn láng, trại và số người đang bị giam giữ chừng ba trăm người, tôi thấy có vài người người ngoại quốc, tất cả đều sinh hoạt quanh lán trại, không ai bị cùm trói.
Hai ngày sau toán Thuỷ Biều mười người được gọi tên, phân công đi tải gạo, men theo đường rừng, đến các làng sau chùa Thiên Mụ để tải về cho trại một số gạo. Cả đi và về thời gian 6 ngày. Toán đươc một bộ đội người Bắc tên Chèo mang khẩu AK 47 dẫn đi. Đang thanh niên, lúc bấy giờ tôi mới 27 tuổi không hiểu gì về người Cộng sản cũng như Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lại lém miệng, tôi liên tục chuyện trò với tay bộ đội suốt cả đường đi. Gã có cảm tình với tôi đến nỗi đeo súng thấy nặng, giao cho tôi mang giúp. Chúng tôi đi theo đường mòn băng qua một con đường lớn là con đường 612 Tuần -Asao và Aluoi. Đường đươc mở rộng và hoàn chỉnh từ năm 1962.
Ngày thứ hai trên đường đi tải gạo về, cả toán bọn tôi thấy toàn bộ cán bộ cũng như số người mới theo Việt Cộng của Nguyệt Biều hớt hơ, hớt hải chạy lên. Chỉ gặp thoáng qua thôi những vẫn giọng tên Gô:
– Viết thư đi! Viết thư đi! Mai tôi chuyển về cho!
Thật là Cộng sản. Láo đến cùng! Đang bỏ chạy mà cũng còn láo.
Lúc gặp nhau thì trên vai tôi đang mang khẩu AK 47. Không biết đám Việt Cộng đang vội chạy thoát có nhìn thấy không? Mà thấy, không biết họ nghĩ sao về tôi? Chắc chắn khi thấy tôi mang súng họ sẽ một phen kinh ngạc!
Về lại trại, chúng tôi được lệnh chuẩn bị sửa soạn mai lên đường ra Bắc. Việt Cộng không còn dấu giếm che đậy, tuyên bố công khai.
Tôi bắt đầu đánh giá tình hình. Trên trời, trực thăng, L19 đã hoạt động rộng quá vùng tù binh đang bị giam giữ. Vì gặp Việt Cộng đào tẩu, tôi tin chắc quân đội VNCH đã đẩy lùi Cộng Sản.
Lúc kêu mình đi, Việt Cộng nói là học tập hai mươi ngày, có học gì đâu?
Chết rồi! Tôi đã sáng mắt. Tù rồi! Ra Bắc thì bao giờ mới trở lại?
Vợ thì mới cưới, con vừa sinh, cha mẹ già yếu. Phải trốn. Tôi bàn với người bạn tên Hưng, Hưng thuận ý. Hai anh em quyết định ngày mai. Đêm nay, hai đứa nhịn ăn dể lại phần cơm dành vượt thoát. Hưng bảo tôi lội khe theo đường nước chảy. Tôi nghĩ khác, theo đường mòn ra đường 612 chạy về hướng đông tuy mạo hiểm, trống trải mà nhanh, không lạc, đang tranh tối tranh sáng, cán bộ, dân công di chuyển xô bồ, mình giả dạng dân công.
Hưng đồng ý, tôi học thuộc bốn câu bài hát thời mở trận chiến Điện Biên Phủ để vừa di vừa hát tránh khỏi nghi ngờ:
“Hành quân xa tuy có nhiều gian khổ. Vai vác nặng ta đà đổ mồ hôi. Mắt ta sáng chí căm thù, bảo vệ đồng quê ta tiến bước. Đời chúng ta đâu có giặc là ta tiến lên.”
Sáng 7 giờ khới hành, đi 55 phút nghỉ 5 phút, đoàn tù binh tống số lên gần ba trăm, chỉ hai bộ đội dẫn đường, một trước, một sau. Tôi nháy Hưng đi vào đoạn giữa, xong 5 phút nghỉ, lại bắt dầu tiếp tục, tôi bấm tay Hưng, hai đứa lách vào bụi, chờ toán qua hết tôi cởi bộ ao quần ngủ cho vào bao cát thêm một ít sỏi dá, cùi vào vai. Hai anh em chạy theo đường cùi gạo mà hôm trước đã di qua, lên đường 612.
Bất ngờ một giọng hỏi lớn:
– Đi đâu?
– Công tác.
Sau tiếng đáp trả của tôi, không gian im bặt, tụi tôi vẫn chạy, vừa chạy vừa hát bốn câu hát đã thuộc lòng. Tôi liếc qua thấy Hưng run cầm cập. Hưng ở làng nổi tiếng gan lì, lại là quân nhân, trong bụng tôi từng nghĩ trốn thoát dựa vào Hưng mình sẽ an tâm hơn mà sao giờ này cậu ta run quá! Còn tôi không biết sao giây phút đó lại bình tĩnh lạ. Tôi chạy sát vào Hưng thì thầm:
– Đừng sợ. Nó kêu đứng lại. Đừng đứng. Cứ chạy. Nó bắn, cứ chạy. Bị thương cũng cứ chạy nghe.
Nhắc xong tôi lại càng hát to hơn. Mọi việc vẫn bình yên, không một bóng người qua lại, chỉ thấy trên đường loang lổ những vết đạn pháo bị cày xới.
Chạy vào khoảng 3 hoặc 4 cây số, thấy chiếc trực thăng đằng xa, tôi lấy khăn tay vẫy, vẫy, nó bay mất dạng. Chừng 5 phút sau, một chiếc trực thăng khác xuất hiện. Lần này khi vẫy khăn thì phi công đã phát hiện người kêu cứu. Máy bay quần hai lần trên đầu, lần thứ ba, một cánh tay đưa ra vẫy, ý bảo chạy tiếp về hướng trước. Một đoạn máy bay hạ xuống đậu trên đường cách hai anh em ba chục mét. Một ông Mỹ cao, to, tay xách súng bước xuống máy bay gọi lớn bằng tiếng Việt:
– Đứng lại. Cới hết áo quần ngoài, bỏ xách xuống. Bước tới trước năm bước, nằm sấp, hai tay giơ thẳng về đằng trước.
Sau khi quan sát từ xa thấy chúng tôi làm đúng theo lệnh, ngươi Mỹ tay vẫn cầm súng trong thế sẵn sàng, tiến lại gần, lục soát, xong cho lệnh mặc lại áo quần dẫn dến máy bay, bảo lên và chở về hạ xuống ở vị trí gần lăng Minh Mạng.
Chừng vài giờ sau lệnh cho chúng tôi lên máy bay trực thăng bay về Phú Bài căn cứ cuả Sư đoàn Không kỵ Hoa kỳ. Tai đây tôi được đưa vào phòng phỏng vấn. Một Trung uý Mỹ nói tiếng Việt như người Việt sau khi hỏi qua các câu hỏi lý lịch ông ta nói:
– Mày Việt cộng.
– Tại sao ông gọi tôi là Việt cộng?
– Mày đeo dồng hồ là mày là Việt cộng. Tau vừa cứu một thằng Việt nam như mày, nó bảo Việt cộng lấy đồng hồ của nó. Tại sao Việt cộng không lấy đồng hồ của mày?
– Ông biết, quân đội nào cũng có người tốt người xấu. Tôi với người ông vừa nói, không cùng bị bắt một chỗ. Tôi gặp được thằng Việt cộng tốt nó không lấy đồng hồ của tôi, đơn giản thế thôi.
Nói vừa dửt câu, một tiếng hỏi lớn từ bên ngoài.
– A! Mi trong đó há Sắc?
Tay Mỹ bảo tôi ngồi chờ một lát, anh ta ra ngoài xem ai. Khi trở vào anh tươi cười bảo:
– Thằng Ron. Thân trọng Ron thông dịch viên ở đây. Nó xác nhận mày đã bị Việt cộng bắt, anh nó cũng bị bắt nhưng bị giết rồi. Tau chúc mừng mày. Giờ mày cần gì tau sẽ giúp
– Tôi cần tắm, mấy ngày ni tôi chưa được tắm.
Mười phút sau nó đem cho môt viên xà phòng Dove và cho người dẫn đến một cái hồ ở Phú bài.
Sau khi cho tắm và cho ăn, hai anh em bị đem nhốt ngoài trời, chung quanh và trên đầu được bao bọc bởi dây kẽm gai, khom người ngồi như trong cái lồng chim. Người đã ngồi sẵn trong lồng đông lắm, người Nguyệt Biều tôi còn nhớ có ông Giáo Đường, ông Kiểm Kha.
Mấy ngày sau nhờ Ron can thiệp, hai anh em được chuyển về Sư đoàn 1 đơn vị quân đội Việt nam. Hưng đang là quân nhân nên được chuyển qua an ninh quân dội đóng tại Tàng Thơ, Mang Cá. Riêng tôi trong người không còn giấy tờ gì khác nên bị xe dân sự chở qua nhốt tại lao Thừa Phủ.
Vừa lọt vào cổng lao nghe hai ba tiếng gọi tên. Nhìn lên, thấy Bác Phạm Tập và anh Nguyễn hữu Hạng, hai người ném cho hai ổ mì. Cám ơn hai người, khi hoạn nạn mới biết chân tình.
Lao Thừa phủ, rệp ơi là rệp! Tôi nhốt tại đó hơn 10 ngày. Buổi sáng tù nhân đươc phân công di dọn dẹp các nơi, vì sau chiến sự tất cả đã bị đổ vỡ, ngổn ngang. Tôi thường được phân qua toán thu dọn sạch sẽ chợ Đông Ba. Sáng sớm chưa rời lao đi làm thì nghe gọi tên có người gặp. Anh họ tôi là Thiếu Tá Ngô đình Trung về Huế chôn cha và em chết Mậu Thân, đến bảo lãnh. Không có anh Trung không biết tôi còn trong lao Thừa Phủ bao lâu nữa, có lẽ phải đợi chính quyền xã, quận về can thiệp.
Thế là thoát nạn. Hơn một tháng qua bốn nhà tù. Nhà tù nào cũng có cái đau thường, nghiệt ngã của nhà tù đó. Quá bất hạnh cho dân tộc Việt nam, thời chiến một cổ hai tròng. Khôn cũng chết, dại cũng chết, mà biết cũng chết, chỉ may mắn mới còn sống.
Sau khi được về lại với gia đình tôi mới lạnh gáy. Tử thần đã bỏ sót tên tôi. Tất cả mọi người bị Việt Cộng gọi đi học tập về chủ trương đường lối Cách mạng trong các đợt ngày 13, 17, 22 tháng 1 năm 1968 đều bị giết. Họ chết vì bị chôn sống hoặc bị đập vỡ sọ bằng cuốc xẻng, báng súng, hoặc bắn vào đầu. Xác tìm được hơn sáu mươi người, thân nhân họ moi lên từ các hầm chôn vội quanh lăng Tự Đức, mang về quàng trước lò vôi Long Thọ để làm đám. Còn một số nữa không tìm ra xác (như cậu Nguyện, chú Bạn, cháu bé mới mười ba tuổi con chú Dung).
Bi thương, oán hận ngập trời xanh. Tiếng kêu than dậy đất. Dân cả làng muốn tìm bọn Việt Cộng nằm vùng và cảm tình viên của Cộng Sản để trả thù, nợ máu phải trả bằng máu. Nhưng may thay, Thiếu tá Ngô đình Trung thuộc Tổng Nha Cảnh Sát (có cha và em là nạn nhân), Đại uý Hoàng trọng Khuê chỉ huy lực lượng tái chiếm Nguyệt Biều (có hai cháu ruột một trai, một gái bị sát hại) đã kịp thời ngăn cản tránh cuộc đổ máu, đồng hương sát hại lẫn nhau. Đám cảm tình viên trong làng sau 1975 và cho đến bây giờ, chẳng thấy được đãi ngộ gì! Một số không sống chung đựợc với lũ CS, đã vượt biên, vượt thoát tìm cách định cư tại các nước phương Tây.
Kể từ Mậu Thân, suy nghĩ của tôi về người Cộng sản đã thay đổi hoàn toàn.
Tôi thấy sự khác biệt lớn lao giữa người Quốc Gia và Cộng Sản.
Người Quốc Gia: nhân đạo, nhân bản, pháp luật được tôn trọng. Ai làm, người đó chịu.
Người Cộng Sản: giết, giết, giết. Giết lầm còn hơn bỏ sót. Giết để diệt khẩu. Giết để trả thù. Giết để khủng bố. Giết để gây tâm lý sợ hãi.
Bạo lực “cách mạng” tại Huế đã được lãnh đạo Cộng Sản ra lệnh và khuyến khích để gây một tội ác không thể quên. Oan khiên không nguôi đi được khi dân Huế dân Việt vẫn còn tồn tại, khi chính quyền Cộng Sản chưa chịu một lần tạ lỗi hay chính thức nhận trách nhiệm đã gây ra tàn sát Mậu Thân.
Kể lại, gợi lại, không phải để làm đậm thêm mối hận thù mà chỉ là góp phần vào bài học lịch sử dành cho thế hệ sau. Xin coi bài viết này là một nén hương lòng kính cẩn tưởng niệm vong linh bà con đồng hương bị chết oan khiên trong cuộc thảm sát Mậu Thân, 1968.
Sắc Võ vvnm.vietbao.com/a246841/tu-than-bo-sot
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 13, 2019 10:17:26 GMT 9
Khu Trục Bọc Thây Truyện Ngắn - Trường Sơn Lê Xuân Nhị
“Chúng ta phải đánh giặc kiểu nhà nghèo”, lời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Để tưởng nhớ cố Trung úy phi công khu trục Hoàng Phi Hùng, thứ nam Bác Sĩ Hoàng Văn Đức, đã "Về với đất..." tại chiến trường An Lộc năm 1972. Phi công A1, Thái Dương Phạm Văn Thặng, đã bỏ mình tại chiến trường Tây Nguyên... Đồng thời, xin quý mến thân tặng các Thái Dương lẫy lừng của phi đoàn 530 khu trục A1 Skyraider, những "đao phủ thủ lừng danh" nhất của vòm trời Tam Biên với những định mệnh nghiệt ngã đau thương cuối cùng.... Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Người sĩ quan ban 3 thuyết trình xong, phòng họp hành quân của sư đoàn trở nên im lặng lạ thường. Người ta nghe rõ được tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ treo cuối phòng. Bỗng ông trung tá trung đoàn trưởng đứng dậy, tiến lên bục thuyết trình. Ông là một sĩ quan trẻ, mới về nắm trung đoàn chưa tới ba tháng. Áo quần ông nhăn nhúm hình như cả tuần lễ chưa thay, mắt ông ngầu đỏ, tóc ông rối bời... Đứng trên bục, ông đưa mắt nhìn xuống phòng họp, đặc biệt ở dãy bàn có lố nhố mấy chiếc áo bay của không quân. Cái nhìn của ông thật là khó hiểu nhưng chẳng ai mở miệng hỏi. Người sĩ quan trung đoàn trưởng bộ binh trẻ tuổi đứng lặng yên như vậy một lúc. Mấy ông phi công của sư đoàn VI Không Quân tự nhiên thấy mình được để ý, liền sửa thế ngồi, ngoan ngoãn nhìn lên, chờ đợi. Cuối Cùng thì ông trung tá lên tiếng: - Các ông tiểu đoàn trưởng của tôi chắc biết hai ngày sắp tới sẽ quan trọng như thế nào rồi, tôi khỏi cần phải nói thêm ở đây... Rồi ông mỉm cười. Nụ cười bất ngờ chẳng ai mong đợi nở lên lúc này không làm giảm bớt được bầu không khí căng thẳng của phòng họp. Ông nói liền như sợ mất đi cái giá trị của nụ cười mình vừa biểu diễn: - Thuyết trình xong, tôi sẽ có vào lời tâm tình với mấy anh em Không Quân một chút... Mấy người mặc áo bay phía sau nghe tới đó lại ...sửa thêm thế ngồi một lần nữa, mặt mày ai nấy đều cố gắng làm ra vẻ nghiêm trọng. Một trong những người mặc áo bay đó là đại uý Trần anh Trí, trẻ măng, phi tuần trưởng sáng giá nhất của Không Lực Việt Nam vùng II chiến thuật, người vang danh là "đệ nhất đao phủ thủ" của phi đoàn khu trục 530. - Các anh em biết, cách đây vài ngày, tổng thống ta vừa tuyên bố một câu rất ...giật gân là chúng ta phải "đánh giặc theo lối con nhà nghèo"... Đây không phải là lần đầu tiên Trí đi họp hành quân với bộ binh. Thông thường những buổi họp này rất giống nhau. Mới đầu, sĩ quan ban 3 của trung đoàn hay sư đoàn lên thuyết trình. Đại khái ông sẽ trình bày một lô tin tình báo như: Sư đoàn sao vàng sư đoàn sao đỏ hay gì đó đã xâm nhập, trang bị những vũ khí nặng đủ cỡ với những cái tên mà Trí không thể nào nhớ hết. Tiếp đến là ý đồ "thâm độc" của địch, âm mưu cắt khúc này, đánh chỗ nọ. Phần thứ ba là quân ta đang mở một cuộc hành quân tại tọa độ ... Mục đích của mọi cuộc hành quân, dĩ nhiên là để tiêu diệt và bao vây địch, là "đánh chết mẹ nó ra". Hào hứng nhứt là phần hội thảo và kế hoạch. Sau đó, thông thường là một vị cấp bậc cao nhất trong phòng họp lên cho chỉ thị hay phương thức tấn công và cuối cùng, trước khi chấm dứt buổi họp thì thế nào cũng có màn yêu cầu khu trục yểm trợ tối đa, hay trực thăng bốc cho thật đẹp v.v... Hôm nay, Trí thấy phòng họp có không khí lạ vì ông trung đoàn trưởng này mới tinh. Gặp lần đầu là thấy chịu liền. Trí nhận xét ông ta có khẩu khí hoàn toàn khác hẳn những ông trước. Sĩ quan trẻ xuất thân từ lò Đà Lạt ra có khác. Dám chê tổng thống là ăn nói giật gân thì ắt phải là "nhân tài." Mà ông ta muốn tâm tình gì với anh em khu trục đây, Trí thắc mắc. Vậy là có chuyện rồi. - Anh em biết, tổng thống nói đúng, nhưng chỉ đúng ...một phần. Thứ nhất, trên chiến trường không có vấn đề giàu nghèo mà chỉ có thắng bại, sống hay chết, tủi nhục hay vinh quang. Nhưng, anh em cũng như tôi, chúng ta đều biết rằng từ ngày hiệp ước ngưng bắn ký xong, chính phủ Hoa kỳ cúp bớt viện trợ cho chúng ta rất nhiều... Ông dừng lại một chút như chờ cho mọi người thấm ý câu nói rồi tiếp tục: - Tôi không dốt đến độ không biết những gì đang xảy ra trên đất nước mình. Tiếp tế và tiếp liệu của chúng ta càng ngày càng cạn đi. Ngay cả chiếc xe díp của tôi, thiếu cái bình điện mà còm măng cả tháng chưa có, phải lấy xe của người khác đi... Nói như vậy để anh em hiểu tình hình bi đát như thế nào. Ngày xưa chúng ta đánh giặc kiểu Mỹ, bây giờ, tôi không muốn nói chúng ta phải đánh giặc kiểu con nhà nghèo, nhưng chúng ta phải đánh giặc kiểu Việt Nam. Đúng. Tôi nhấn mạnh, đánh kiểu Việt Nam. Ý tôi muốn nói là mình phải "Suy nghĩ ba lần trước khi bắn một trái pháo, suy nghĩ bẩy lần trước khi thả một trái bom..." Thật là một câu "châm ngôn" nghe rất tới nhưng không kém đau thương. Trí nhớ lại câu tục ngữ của người Pháp: "Uốn lưỡi bẩy lần trước khi nói" mà thuở xa xưa có lần thầy giáo đã bắt chàng chép 500 lần vì tội ăn nói bậy bạ trong lớp. Rồi ông trung tá trẻ tuổi xoay người, cầm lấy cây thước, chỉ vào một cao độ trên tấm bản đồ treo phía sau. Khỏi cần nhìn Trí cũng biết cái "hột lạc" mà ông ta đang chỉ là ngọn đồi chiến lược 982 nằm ở phía bắc Kontum, nơi chàng đã đánh xuống không biết nhiêu là trái bom suốt mấy năm qua. Ngọn đồi chiến lược này là "con mắt" của thành phố Kon Tum. Ai đứng trên này có thể nhìn thấy hết được thành phố. Ngày xưa ngọn đồi này được một đơn vị LLĐB Hoa Kỳ trấn đóng, nhưng sau khi Mỹ rút đi thì ta và giặc thay phiên nhau làm chủ ngọn đồi này. - Trước khi đi vào chi tiết, anh em cho tôi bắt đầu bằng câu này: Bằng mọi giá, vào lúc 1800 giờ ngày mốt, anh em phải ..."đem nó về cho tôi." Để tôi lập lại một lần nữa lệnh của tôi cho quí vị tiểu đoàn trưởng nghe rõ: Trễ lắm là 1800 giờ ngày mốt, chúng ta phải chiếm được ngọn đồi này. Ông đưa mắt nhìn xuống cuối phòng, nơi có treo cái đồng hồ: - Bây giờ là 17 giờ 45 phút. Các anh có 48 giờ 15 phút đúng để "đem" ngọn đồi đó về cho tôi. Một "dàn" bốn ông tiểu đoàn trưởng và mấy ông tá khác đen đủi sạm nắng trong bộ đồ nhà binh bạc màu ngồi ở bàn đầu im lìm nhìn lên. Cũng như Trí, mấy ông tiểu đoàn trưởng này đâu có lạ gì với cao điểm 982. Giày họ đã vẹt gót khắp "giang sơn" của vùng hai chiến thuật, nhiều người bạn đồng đội của họ đã nằm xuống, hoặc đã bị tàn phế để gìn giữ những địa danh vô nghĩa như tên của ngọn đồi máu này. - Sĩ quan ban 3 vừa trình bày cho các anh biết tình hình địch. Với quân số 3 tiểu đoàn của ta tấn công 1 tiểu đoàn của chúng, theo binh pháp thì quá ít. Con số lý tưởng là 7-1 chứ không phải 3-1. Anh em thấy chốt nó nằm dài dài bắt đầu từ dưới chân đồi lên tới trên đỉnh. Mấy hôm nay bay trực thăng quan sát chiến trường, tôi đã đi đến một kế hoạch tấn công như thế này... Ông lật tấm bản đồ thứ hai. Trí nhìn lên thấy toàn những ô vuông đánh dấu vị trí của quân bạn và địch. - Trước khi tiếp tục, tôi xin giới thiệu với anh em một nhân vật quan trọng của cuộc hành quân này. Ông đưa tay ra, hướng về phía một người sĩ quan bộ binh nãy giờ ngồi im lặng trong một góc phòng: - Mời Trung úy An đứng dậy. Một ông trung uý bộ binh trẻ tuổi, nhỏ người đứng lên dơ tay chào mọi người. Tất cả đều quay nhìn nhân vật được giới thiệu. Trí cũng nhìn sang và thoáng giật mình vì khuôn mặt của người này thấy hơi quen quen. Chắc chắn Trí đã gặp hắn ở một nơi nào đó... - Tôi xin giới thiệu với anh em, trung úy An là đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát của trung đoàn, đơn vị nắm phần quyết định cho trận đánh này. Trung úy có thể ngồi xuống được rồi. Trí nhìn người trung uý trẻ hơn tuổi mình ngồi xuống và cố moi óc để nhớ xem đã gặp anh chàng này ở đâu. Tất cả các đơn vị bộ binh từ cấp trung đoàn trở lên, đều có một đại đội trinh sát. Hai chữ trinh sát thôi đủ nói lên sự hiểm nghèo. Đơn vị này luôn luôn là con cưng của trung đoàn trưởng. Trong quân đội, người ta không có thì giờ để đi "cưng" bậy bạ. Được "cưng" thì phiền toái lắm. Những công tác nguy hiểm, những công việc không ai làm nổi đều giao khoán cho mấy đứa con cưng này. Vì thế, tuổi thâm niên trung bình của lính trong đại đội trinh sát rất thấp và cấp chỉ huy thì thay đổi luôn luôn. Ủa, thì có vinh quang nào mà không được xây bằng máu kìa? Trí biết trung uý trẻ măng như vậy mà nắm được đại đội trinh sát thì phải là "nhân tài." Mà chắc phải là tài lắm vì bộ binh ít có khi nào thèm biểu diễn mấy cái màn giới thiệu vớ vẩn như vậy. Vị trung tá chỉ vào một chỗ phía đông ngọn đồi tiếp tục: - Nội trong sáng mốt, tiểu đoàn một phải sẵn sàng ở tuyến xuất phát tại đây, tiểu đoàn hai bên này, tiểu đoàn ba sẽ nằm ngay đây làm trừ bị và để chặn luôn quân cứu viện của chúng nó nếu có. Khu trục tiền oanh kích xong là hai ông một và hai cho chúng nó xung phong lên... Tới đây, ông dừng lại, và nhìn xuống hàng ghế có mấy chiếc áo bay. Cả phòng họp lại im lặng như tờ. Rồi ông chỉ cây thước vào lưng chừng phía Đông của ngọn đồi trên bản đồ, tiết lộ một bí mật bất ngờ: - Vào khoảng giữa trưa hay tùy theo tình hình cho phép, tôi sẽ cho thằng 45 Trinh sát nhảy vào giữa đỉnh đồi, ngay chỗ này này. Từ trên cao, chúng nó sẽ đánh xuống, vòng ra hai bên để bắt tay với anh một và hai. Cả phòng họp im lặng đến rợn người. Biết ngày mà, trong quân đội, hễ có chút vinh quang thì thế nào cũng có một cú "chết người" như vậy kèm theo. - Tiểu đoàn một và tiểu đoàn hai phải ráng làm cho đẹp. Mấy thằng nhỏ trinh sát của tôi đánh thọc xuống mà không gặp được các anh để bắt tay thì hết đường quay lui... Trí liếc mắt nhìn qua bàn ông trung úy An, thấy gã vẫn ngồi yên, bình thản. Ông trung tá xoay người, bước vài bước tới trước, thảy cây thước trên bàn thuyết trình rồi hỏi: - Những chi tiết nhỏ khác, anh em có thể liên lạc và phối hợp với ban 3 Trung đoàn để giải quyết. Có ai thắc mắc gì không? Một ông tiểu đoàn trưởng bộ binh dơ tay lên liền. - Mời anh. - Thưa trung tá, trung tá vừa nói tiền oanh kích, xin trung tá cho biết sẽ có bao nhiêu phi tuần và sẽ đánh vào đâu? Một nụ cười gượng hiện ra trên khuôn mặt ông trung tá. Hình như ông biết câu hỏi này sẽ được hỏi, và ông thì không muốn trả lời. - Phòng không trợ Sư đoàn cho tôi biết chúng ta sẽ có hai phi tuần A-1 sẽ làm việc với chúng ta. Một phi tuần tiền oanh kích và một phi tuần đánh yểm trợ tiếp cận. - Vậy là chỉ có một phi tuần A-1 tiền oanh kích? - Đúng, một phi tuần A-1. Lần đầu tiên kể từ khi bước vào đây, Trí nghe được những tiếng xì xầm to nhỏ. Trả lời xong câu này, ông trung đoàn trưởng thấy nhói trong tim. Rừng núi tam biên dày đặc, chúng nó lại có công sự phòng thủ vững chắc, hai chục phi tuần còn chưa thấy thấm thía vào đâu thì hai phi tuần nghĩa lý gì? Lính của ông làm sao đánh giặc nổi? Ông lại nhớ đến những ngày còn quân đội Đồng Minh yểm trợ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên thì nào là "F-4", "F-111" đủ thứ "F" bay trên trời, thậm chí nếu muốn có cả B-52 cũng được. Nhưng tình thế bây giờ đã khác rồi. Ông trung tá gõ nhè nhẹ ngón tay vào bục thuyết trình. Chờ cho phòng họp lại trở lại yên lặng, ông tiếp: - Các anh em có nhớ khi bắt đầu buổi họp, tôi có nói là tôi có vào lời muốn tâm tình với anh em Không Quân? Ông dừng lại một chút rồi tiếp tục: - Lời tâm tình rất chân thật của tôi với anh em Không Quân là: Mong anh em ráng giúp chúng tôi. Anh em biết pháo của ta bắn không xa bằng pháo địch, chúng ta lại không được chọn chiến trường. Vậy, sự chiến thắng tùy thuộc rất nhiều vào các anh em Không Quân. Nếu anh em cố gắng giúp, chúng tôi sẽ tiết kiệm được rất nhiều xương máu của binh sĩ tôi, bằng không, chúng tôi vẫn đánh được chúng nó, nhưng cái giá của chiến thắng có thể sẽ rất mắc... Đi họp hành quân đã bao lần, Trí chưa bao giờ nghe được một lời nói thống thiết của một vị chỉ huy như ngày hôm nay. Trí nhìn lên bục chỉ huy. Chàng cảm thấy khâm phục hơn khi nhận ra vẻ bơ phờ mệt mỏi của ông trung đoàn trưởng trẻ tuổi. Mắt ông quầng sâu vì thiếu ngủ, áo quần nhăn nhó dính đầy bụi đỏ cao nguyên. Ông kết luận: - Nếu không còn gì, anh em có thể ra về liền bây giờ để chuẩn bị cuộc hành quân. Mong anh em hiểu rõ những gì tôi nói. 18 giờ ngày mốt, chính tôi sẽ có mặt trên đỉnh ngọn 982. Cám ơn tất cả các anh em. Từng người một, họ từ từ rời phòng họp, không ai nói với ai một câu nào. Ngay cả những cái bắt tay thông thường cũng không có. Trí đón được trung úy An khi hắn vừa leo lên xe díp: - Tôi thấy anh quen quen. An cũng nói: - Tôi thấy đại úy cũng quen quen.... Đúng rồi, phải hồi xưa đại úy học La San Tabert không? Trí cười hớn hở: - Tôi nhớ ra rồi, anh học Lasan Tabert sau tôi hai lớp phải không? - Dạ phải. Đại úy hay lái chiếc Vélo Solex đen. Ngày đại úy tình nguyện đi lính Không Quân, cả trường đều biết... - Gọi tôi là anh đi, đại úy mẹ gì... Có rảnh không, mình ghé vào câu lạc bộ này làm một ly cà phê? - Dạ rảnh thì không nhưng với đại úy thì được. - Đại úy mẹ gì, mình học chung trường, gọi anh em cho tiện. Trí quay lui kêu mấy người bạn mình về trước rồi cùng An bước vào câu lạc bộ. Khi người hầu bàn xuất hiện, thay vì gọi cà phê, Trí dơ 2 ngón tay: - Cho hai chai 33 đi "cưng"... Hai người nói đủ chuyện đời xưa của tuổi học trò yêu dấu. Trí hỏi: - Ông tình nguyên đi lính à? - Dạ không... Ngu gì. Em thi rớt tú II hai lần, bị lọt sổ phong trần. Trí uống một ngụm bia: - Ông làm gì mà trung đoàn trưởng để ý dữ vậy? Vài hôm nữa được thay lon là cái chắc. An lắc đầu, cười: - May mắn thôi anh. Ông này hồi trước là tiểu đoàn trưởng của em. Năm 72, tiểu đoàn bị chúng nó vây kín ở Võ Định, tưởng tan hàng rồi. Tối đó, ổng dụ em: "Đù mẹ đàng nào cũng chết. Tụi nó vây mình mấy ngày nay rồi, đang chắc ăn như bắp. Tối nay chú mày bất ngờ dắt lính đột kích thẳng vào bộ chỉ huy chúng nó. Không xanh cỏ thì thế nào cũng đỏ ngực. Tao sẽ thừa cơ đánh thốc ra, mình có hy vọng dọt về..." Nghe như chuyện thời tam quốc. Trí hỏi: - Rồi có đỏ ngực được không? - Không nhưng tụi em đánh một trận ra gì, phá tan nát bộ chỉ huy của chúng nó. Tiểu đoàn thoát về được gần hết... Ổng lên nắm trung đoàn là giao trinh sát cho em liền. - Làm ăn gì được chưa? An mồi điếu thuốc, lý luận: - Đại đội còn nhiều lính mới quá. Người cũ chết hết rồi. Từ sĩ quan xuống tới lính, ông nào thâm niên nhất là 6 tháng chiến trường. Cần phải huấn luyện nhiều thì mới đánh giặc tới được. - Bây giờ sẵn sàng chưa? Đủ khả năng để từ trên đánh thốc xuống chưa? - Nói sẵn sàng thì chẳng bao giờ được như ý mình cả, nhưng cũng tạm được. Nhưng em có thể bảo đảm với anh là trận này mình nhất định thắng. - Chắc ăn vậy? - Có gì đâu, ông trung đoàn trưởng đánh "xa luân chiến", đem mấy tiểu đoàn thay phiên nhau quần chúng nó cả tháng nay rồi, bây giờ xông vô dứt điểm làm sao chúng nó chịu nổi? Trí uống cạn ly bia, tính kêu thêm thì nghe tiếng gọi tên mình. Tưởng ai, té ra thiếu tá Quân, người bạn thân trong phi đoàn đang lù lù bước vào. Ông tướng này từ ngày đeo lon thiếu tá làm việc gì cũng có vẻ nghiêm trọng như... đi hỏi vợ. Chưa tới gần, ngài đã hét toang lên: - Bố Trí, tụi tôi kiếm bố mãi. - Kiếm làm gì, ngồi xuống đây làm một ly đã. Quân lắc đầu, giọng có vẻ nghiêm trọng, pha lẫn một chút buồn phiền: - Phi đoàn trưởng kêu về họp liền, có chuyện không hay rồi. Nhìn sắc mặt và lời nói, Trí biết Quân không đùa. Chàng gọi bồi tính tiền nhưng An cản lại: - Anh để đó cho em. Khỏi cần khách sáo từ chối, Trí đứng lên ngay, xiết chặt tay An: - Chúc ông may mắn. Ngày mốt tôi sẽ cố gắng đánh thật đẹp cho ông. - Cám ơn anh. Anh ráng đánh cho đẹp giùm. Chỉ sợ trực thăng đáp không được. Nếu chạm được đôi bốt đờ sô xuống đất, con cái em sẽ làm đẹp. - O.K. Hẹn lúc khác mình gặp lại. Ngồi bên phải chiếc pick up do Quân lái, Trí hỏi dồn dập: - Có chuyện gì mà gấp vậy mày, lâu lâu gặp lại một người bạn học cũ mà mày cũng không cho tụi tao có thì giờ uống với nhau vài chai bia. Quân im lặng. Trí biết xưa nay ông phi công này là một người có tật ham đấu. Chuyện gì cũng vậy, chưa ai hỏi là đã mở miệng ra bô bô lên rồi. Vậy mà hôm nay hắn câm như thế thì nhất định là có chuyện rồi, mà phải là chuyện lớn chứ chẳng chơi. Trí thắc mắc: - Có việc gì thế? Hay có thằng nào mới rớt tàu? Quân vẫn im lìm không nói gì. Quái lạ, phi đoàn lâu lâu cũng có đứa "đi không ai tìm xác rơi" mà Quân đâu có phản ứng kỳ cục vậy? Vào phi trường, Trí nhìn thấy những chiếc khu trục A1 nằm im lìm thành từng dẫy. Dưới trời chiều cao nguyên đang tắt nắng, coi chúng oai hùng như những con mãnh hổ đang nằm thiêm thiếp ngủ sau một ngày chiến đấu oanh liệt. Tự nhiên, Trí để ý thấy hai hàng nước mắt ứa ra từ đôi mắt Quân. Quen biết Quân từ bao nhiêu lâu, chàng biết bạn không phải là hạng mau nước mắt. Ngày thằng Sanh, bạn thân nhất của Quân bị SA7 bắn nổ tung giữa trời, hắn đã không khóc. Nhất định phải có chuyện lớn rồi. Đù mẹ bạn bè với nhau từ đời nào, có cái gì không biết mà lại giấu kỹ vậy. Trí bực tức, gầm lên: - Có chuyện gì? Đù mẹ có chuyện gì thì nói mẹ nó ra, sao mày cứ giấu tao. Đù mẹ lớn hết rồi, đủ sức lái tàu bay đánh giặc thì đủ can đảm để nghe bất cứ nguồn tin nào dù nó bi thảm đến đâu. Mày nói đi, thằng nào vừa chết? Quân thắng xe, quẹo vào bờ cỏ rồi tắt máy. Vẫn không thèm nói năng gì, chàng leo xuống, bước từng bước một tới phía hàng rào, đứng nhìn vào bãi đậu có những chiếc khu trục A-1 của phi đoàn. Trí lắc đầu, mở cửa phóng xuống theo. Đứng bên cạnh Trí nơi hàng rào, Quân lắc đầu nói: - Chẳng có đứa nào trong phi đoàn mình chết cả... Rồi chàng đưa tay chỉ vào những chiếc tàu bay, giọng nói thẩn thờ như người mất hồn: - Đúng ra, tất cả những con chim sắt thây yêu này đều sắp chết hết. Chúng nó đều sắp sửa bị bức tử hàng loạt, chỉ trong vòng vài ngày nữa thôi. Trí kinh hoảng: - Mày nói gì? Ai giết chúng nó? Không có nó thì mình làm sao sống được? Lần này thì hai hàng nước mắt Quân xuất hiện rõ ràng trên gò má: - Bộ tư lệnh vừa đánh điện ra, cho lệnh ground hết tất cả phi cơ của phi đoàn mình. Trí gầm lên, phẫn nộ: - Ground, ground, đù mẹ lệnh lạc c... gì mà ngu vậy? Chúng nó vừa mở một loạt các cuộc tổng tấn công ở khắp nơi. Tại sao lại ground? Giọng Quân lạc đi, chua xót và buồn thảm: - Đơn giản lắm: Hết xăng và không có phụ tùng thay thế. Không ground thì cũng chẳng kiếm đâu ra xăng mà bay. Chính phủ không còn đủ xăng cho khu trục cơ A1 nữa. Phi vụ của mày là phi vụ cuối cùng. Sau đó, A-37 sẽ bao vùng. Chúng nó xài Jet Fuel, nên còn nhiều... Không còn gì để cãi nữa. Trí đưa hai tay bưng lấy mặt. Cái tin này quả kinh khủng hơn chàng nghĩ. Có sống đến một ngàn năm nữa, Trí vẫn không tưởng tượng được chuyện này sẽ xảy ra. Dù từ ngày hiệp ước ngưng bắn ký, Trí đã biết tiếp liệu của quân đội bị cắt rất nhiều. Tàu bay hư không có cơ phận thay thế, phải lấy từ chiếc này để sửa chiếc khác. Bom đạn nếu không đánh được thì phải đem về mà đáp. Nhưng ai có thể ngờ được lại có một ngày như hôm nay. Ngay đến cả xăng cũng không còn để mà bay. Trí hỏi Quân, lần này thì chính giọng của chàng lạc đi: - Mày nói thật, mày không đùa giai với tao đấy hả Quân? Quân không trả lời nhưng Trí cũng biết là bạn mình không đùa. Ai thèm đùa cái chuyện đau thương như vầy. Chàng hỏi để mà hỏi, buồn quá mà hỏi. Chẳng cần nghe trả lời. Hai người phi công khu trục đứng yên lặng bên nhau cạnh hàng rào, nhìn đăm đăm vào nơi bãi đậu phi cơ. Dưới những tia nắng yếu ớt của trời chiều cao nguyên, đoàn khu trục cơ A-1 vẫn nằm im lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng cao cả và oai hùng như những con cọp già trở về hang mình nằm im lặng và bình thản chờ cái chết ụp tới sau một cuộc đời tung hoành ngang dọc. Những con cọp già đã trở về lại khu rừng xưa yêu dấu, nhưng sao rừng chưa hề bị tàn phá mà cọp đành phải nhắm mắt vĩnh biệt rừng... Trời hởi, có nỗi buồn nào lớn hơn nỗi buồn của phi công bị mất tàu, của rừng bị mất thú.. Trí thấy đôi mắt mình ngứa ngứa, chàng đưa tay lên chùi theo phản ứng và nhận ra là mặt mình đã đầm đìa nước mắt... Chẳng muốn chạy đến, ôm xiết những con cọp yêu dấu kia vào lòng mình, nói một lời xin lỗi, một lời an ủi, một lời gì cũng được cho chúng nó đỡ tủi hờn... Đau thương quá... Cọp ơi là cọp, buồn quá đi thôi. Ta đã từng cỡi ngươi tung hoành khắp nơi trong những cõi trời bập bùng lửa đạn, người đã che chở ta, ngoan ngoãn nghe lời ta... Đã bao nhiêu lần thân xác người lổ chỗ những viết đạn thù, từ đạn đại liên cho tới đạn phòng không lớn nhỏ, nhưng chỉ sau vài ngày nằm dưỡng bệnh, người lại lặng lẽ bò ra bãi đậu, nằm im lim ngạo nghể dưới anh mặt trời để chờ một phi vụ khác. Với 2200 mã lực, lúc cất cánh lên, ngươi gầm thét vang dội cả núi rừng, đánh thức cả thành phố Pleiku dậy. Thú lắm hả? Lúc lâm trận, ngươi dù chậm chạp hơn anh A-37, nhưng sự chậm chạp chính là điểm son của ngươi, chính là điểu làm cho kẻ thù kinh hồn tản đởm. Người khạc ra trái bom nào là trúng ngay mục tiêu quả bom đó. Còn 4 cây cà-nông 20 ly của ngươi mới là đáng sợ. Mỗi một lần ngươi khạc lửa ra là giặc chạy như một đàn vịt dưới chân ngươi... Hồi ta mới tập bay, thấy ngươi cũng khó tánh bỏ mẹ. Phi công đáp không chính xác để ngươi bị văng lên cao, nếu không bình tĩnh nhấn ga từ từ mà cứ chụp cần ga đẩy tới thì sức votex của cánh quạt sẽ làm tàu bay lộn đầu liền. Ngươi cũng có tật .. ở dơ nữa. Anh A-37, cậu F-5 sạch sẽ bóng bẩy thế nào thì người dơ bẩn thế ấy. Mình mẩy ngươi lúc nào cũng đầy khói, dính đầy dầu mở, pilot leo lên tàu mà không cẩn thận thì có ngày sẽ té lộn đầu... Nhưng khi được làm bạn với ngươi rồi thì ngươi dễ thương ngoan ngoản lắm. Bao nhiêu người phi công khác thèm được cỡi ngươi một lần mà chẳng bao giờ được. Ta lấy làm hãnh diện lắm... Vĩnh biệt tất cả các ngươi... Thôi, hãy yên nghĩ đi nhé. Các ngươi đã làm tròn bổn phận của mình. Dù các ngươi không sinh ra trên cái quê hương khỏi lửa này, nhưng các ngươi đã sống trọn quảng đời tươi trẻ của mình trên quê hương đầy đau khổ này, đã chia xẻ những vui buồn sướng khổ, những nắng sớm mưa chiều, những cay đắng cùng những ngọt ngào với anh em ta trên quê hương khốn khổ của ta... Trí thầm thì: "Rest in peace, dear old boys..." Còn ta, ngày nào đất nước ta còn điêu linh thì ta còn phải chia xẻ những điêu linh này với đồng bào ta, dân tộc ta.... Cả hai người đứng đó thẫn thờ nhìn vào đàn chim sắt và đốt thuốc lá liên miên cho đến khi mặt trời lặn, phi trường lên đèn. Cuối cùng, Trí hỏi: - Mày kêu tao về họp cũng chỉ để nghe chuyện này thôi phải không? - Ờ. Nhưng giờ này thì họp hành gì nữa, trễ rồi. Trí quay lại nhìn Quân, giọng chắc nịch: - Vậy thì đi. Đù mẹ đi. Mày đi với tao ra phố, tao cầm cái đồng hồ rồi hai đứa mình kiếm một chỗ nào ngồi uống rượu tới sáng để ghi nhớ ngày đại tang của mấy con chim sắt yêu quí này. - Sáng mốt, tao và mày sẽ dẫn hai phi tuần đánh 2 phi vụ cuối cùng... Hai người trở lại, leo lên chiếc pick-up. Lần này Trí lái. Chàng sang số nhấn ga, miệng vẫn còn lẩm bẩm: - Phi vụ cuối cùng...
**********
Sáng ngày N, ngày tấn công đồi 982, Trí thức dậy vào lúc 5 giờ. Tối qua, chàng thức đến 3 giờ sáng để biên lá thư gởi cho Trang, người yêu của chàng. Trí có một thói quen đáng yêu là những khi gặp chuyện buồn bực, chàng hay lấy giấy bút ra để biên thư tâm sự cho người yêu. Mỗi lần gởi lá thư đi, Trí cảm thấy tâm hồn nhẹ nhỏm thư thái. Tối qua, Trí viết thư cho Trang như sau: Pleiku ngày 24 tháng 10 năm 1974 Trang yêu dấu, Nhận được thư anh, chắc thế nào em cũng nhăn mặt nói: "Mon petit prince lại có tâm sự u uẩn rồi đây..." Không, lần nay em trật lất. Chiều nay biên thư cho em, anh chẳng có tâm sự gì u uẩn cả mà chỉ có một tin buồn muốn nói cho em biết. Nghe xong, anh cấm Trang không được khóc, không được than vãn gì cả vì phần số nước mình nó như vậy rồi em ạ. Em biết là anh mê nghiệp bay bổng như thế nào rồi. Anh mê lái tàu bay như người nghiện á phiện nhớ thuốc. Đối với anh, đời anh, kể từ ngày anh được đeo cánh, anh chỉ biết có một cách sống. Đó là sống ngang dọc trên trời, trong không gian bát ngát, với mây ngàn gió lộng... Nhưng, khốn nạn thay, tất cả những chuyện đó sắp hết rồi Trang ơi. Bộ tư lệnh vừa ra lệnh ground tất cả các phi cơ của phi đoàn anh lại. Tại sao em biết không? Vì một lý do mà có sống đến ngàn năm anh cũng không thể nào ngờ được: Mình không còn loại xăng đó cho phi cơ nữa. Nhưng em đừng vội sợ cho anh thất nghiệp. Quân đội không bao giờ để cho những phi công như bọn anh ngồi chơi xơi nước. Bọn anh sẽ được thuyên chuyển qua các phi đoàn khác để bay A37, loại phi cơ phản lực mà anh thường gọi là "tàu bay con rệp" vì nó có hình dáng giống con rệp. Chắc em sẽ thắc mắc, tàu bay gì cũng là tàu bay, sao lại u buồn quá sức như vậy? Trang yêu dấu, Em chưa bao giờ lái tàu bay, nên em chắc sẽ không thể hiểu được sự ràng buộc kỳ lạ giữa con người và chiếc phi cơ mình đang lái. Mỗi lần cất cánh đem tàu lên cao giữa không gian bát ngát, với mây ngàn và gió lộng, anh luôn luôn coi chiếc phi cơ của anh là một con thiên mã mà anh là người chiến sĩ cỡi nó. Nó đã gần gũi anh suốt bao nhiêu năm qua, đã cùng anh xông pha khắp nơi trong cõi sơn hà, đã chia sẻ với anh từng hòn tên mũi đạn, đã đem vinh quang đến cho anh khi chiến thắng, cũng như đã cùng anh nghẹn ngào xót thương khi nhìn thấy bạn mình tan nát giữa trời... Anh nhớ mãi một lần, sau trận yểm trợ tiếp cận đồn Dakto, con thiên mã bị bắn rách bươm. Nó khục khặc, nó ho ra khói, nó mửa ra dầu nhớt văng đầy cả kính tàu bay. Vậy mà, dù sắp chết, nó vẫn gượng hết sức tàn để khập khểnh đưa anh về bến đậu. Em biết không, khi anh leo xuống tàu, nhìn thấy thân thể nó rách tươm, thịt da nát nhừ từng chỗ mà cảm giác như chính người mình bị ai dày xéo hành hạ. Lớn nhỏ gần một trăm lỗ đạn, chắc gì ai sẽ vá nổi. Và anh đã ngậm ngùi khi biết người ta quyết định đưa nó vào ụ phế thải để chết già ở đó... Sáng ngày mai, anh sẽ cỡi con thiên mã yêu dấu của anh một lần cuối cùng. Sau đó, người ta sẽ leo lên bịt mắt nó lại, lấy vải phủ kín thân người nó như người ta tẩm liệm những xác chết. Anh còn nhớ, khi làm lễ đón nhận nó từ tay những người bạn Hoa Kỳ, chúng ta đã mở party, đã khui sâm banh, đã đọc diễn văn diễn từ rất là long trọng. Bây giờ, sau bao nhiêu năm góp công sức để gìn giữ và phục vụ tổ quốc chúng ta, chúng ta chôn sống chúng đồng loạt mà không thổi được một hồi kèn đưa linh... Riêng anh, ngày mai đi bay về, anh sẽ đốt cho chúng nó vài cây nhang rồi cắm trong phòng lái. Người Việt Nam mình vốn trọng lễ nghĩa tình cảm mà em, anh không thể bạc như thế được. Trang, Cổ truyện có nhiều điển tích mà khi còn bé anh không thể nào hiểu nổi, như chuyện Chung Bá Nha và Trương Tử Kỳ. Chắc em còn nhớ chuyện này. Bá Nha đánh đờn hay, và Tử Kỳ thì biết nghe đờn nên hai người trở thành tương đắc. Một ngày, Bá Nha nghe tin Tử Kỳ chết, ông liền đập cây đờn liệng đi và từ đó về sau chẳng bao giờ rờ tới đờn nữa. Hồi còn đi học, anh luôn luôn cho rằng là Chung Bá Nha đã quá "quân tử tàu". Chiều hôm kia, khi đứng với anh Quân nơi hàng rào để ngắm nhìn những chiếc khu trục sắp sửa bị bức tử, anh đã thấm thiá hiểu được tâm trạng đau khổ của Chung Bá Nha ngày nào. Và, Trang ơi, có lẽ em không thể nào hiểu nổi nhưng anh lại đang có một tâm trạng như Chung Bá Nha ngày xưa vậy. Nếu không lái được A-1, anh có lẽ sẽ chẳng bao giờ thèm lái một thứ tàu bay nào khác nữa. Có lẽ anh sẽ xin xuống đất để chôn đời mình trong bốn bức tường, treo một chiếc áo bay đen trong văn phòng để cho thiên hạ biết là ta đây cũng đã một thời "cỡi gió lướt mây" như ai, và sống bình dị âm thầm như những anh công chức nhà binh khác. Hoặc anh sẽ xin ra bộ binh, hay, khốn nạn hơn, anh sẽ đào ngũ... Nói vậy thôi nhưng anh biết nỗi buồn nào cũng qua đi, nỗi nhớ thương nào rồi cũng theo thời gian mà âm thầm chìm xuống, kể cả sự mất mát này. Anh không viết lá thư này chỉ để nói bấy nhiêu. Điều làm anh lo sợ đến mất ăn mất ngủ là, Trang ơi, nếu ngày hôm nay chúng ta không có đủ xăng cho phi cơ A-1 thì ai dám chắc rằng ngày mai chúng ta sẽ còn đủ xăng cho phi cơ A-37? Anh theo dõi báo chí hằng ngày và mơ hồ cảm thấy một ngày như vậy sẽ xảy ra. Chỉ cần nghĩ đến đó là anh thấy lạnh mình. Anh muốn nhấn mạnh một lần nữa cho em hiểu là anh như mơ hồ nhìn thấy một chuyện gì đại bất hạnh sẽ xảy ra cho đất nước mình. Anh thấy như vậy. Bây giờ là 1 một giờ sáng. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là anh lên yên ngựa để rong đuổi nơi cõi trời thênh thang lần cuối cùng với con cọp già yêu dấu của anh. Anh thường nói với em, đời anh, anh chỉ biết một cách sống. Anh hiểu, khi anh đem tàu trở về đáp, đời anh sẽ chẳng còn bao giờ như xưa nữa. Sau ngày mai, cả em nữa, chúng mình phải bắt đầu học lại từ đầu để sống một cách khác... Một cách sống khác mà chúng ta chưa bao giờ biết tới, chưa bao giờ nghĩ đến... Trước khi dừng bút, Trang này, anh có bao giờ nói là anh yêu em chưa nhỉ? Anh quên rồi. Nếu chưa, cho phép anh tâm tình là "Anh yêu em từ lúc mới gặp em". Còn nếu đã, thì cho anh nói thêm là, anh chưa bao giờ thấy mình cô đơn và cần em như sáng hôm nay... Bức hình em tặng hồi tết, anh để trong bóp, nằm ngay trong túi áo bay bên trái, sát ngay trái tim anh. Yêu em, Trần anh Trí Đọc lại lá thư thêm một lần nữa, Trí bỏ vào phong bì rồi dán lại, viết địa chỉ lên. Vừa cất lá thư vào túi, Trí chợt nhớ đến một điều gì, liền phóng như bay chạy ra ngoài nhìn lên trời. Hãy còn tối mịt, chưa thấy gì cả. Trí chỉ sợ thời tiết xấu, phi vụ bị trì hoãn thì coi như không cất cánh phi vụ cuối cùng được. Đúng hơn, Trí sợ người ta cúp luôn cái phi vụ cuối cùng của chàng. Thời buổi này, lệnh lạc ra rất bất ngờ, bất cứ chuyện gì cũng có thể thay đổi. Trí là người có mặt đầu tiên trong phi đoàn. Ông thiếu úy sĩ quan trực đêm còn đang nằm ngủ ngáy khò khò trên đi văng, cây P-38 để dưới tấm nệm lòi cán ra ngoài làm như đang ở trong rừng vậy. Những anh chàng thiếu úy sữa mới về phi đoàn luôn luôn là như vậy. Thích mặc áo bay đi tán gái, thích đeo súng trệ trệ như Dăng Gô trong phim cao bồi và vô tư yêu đời một cách hồn nhiên, chân thật. Trí lắc đầu cười và nhớ lại lúc chàng mới ra trường, cũng trực phi đoàn và cũng nằm ngủ như vậy ban đêm. Chàng bỏ lá thư vào hộp thư, nhẹ nhàng đánh thức sĩ quan trực dậy rồi gọi điện thoại lên phòng khí tượng để xin tiên đoán thời tiết trong ngày. Tốt. Trời hôm nay tương đối khá, tuy buổi sáng có mây broken ở khoảng 8000 bộ. Trí trao đổi vài câu nói bâng quơ với người sĩ quan trực rồi lặng lẽ qua phòng locker để trang bị phi hành. Vừa xách nón ra khỏi phi đoàn, nhìn thấy một dàn phi cơ A-1 nằm im lìm dưới ánh đèn của bến đậu, Trí lại thấy đau nhói trong tim mình. Dù đã chuẩn bị trước, tâm hồn Trí vẫn không tránh khỏi những thổn thức. Sinh hoạt của phi đạo hôm nay cũng có một vẻ buồn thảm lạ lùng. Không khí tang tóc như bao trùm cả không gian. Những người cơ khí viên xưa nay ưa cười ưa nói vậy mà bây giờ mặt mày ai nấy cũng thấy ủ rủ. Ủ rủ đến độ Trí phải bắt chuyện với họ để kiếm vài nụ cười. Trí leo cánh con tàu được cắt cho chàng bay ngày hôm nay: chiếc NB 167. N-B tức NovemberBravo, đọc theo âm thoại truyền tin của hàng không thế giới, hay "Non Nước-Bắc Bình" theo âm thoại của QLVNCH. Trí vừa đẩy kiếng cokpit ra sau vừa lẩm bẩm: "Non Nước Bắc Bình, Non Nước Bắc Bình..." Mặt trời rồi cũng từ từ ló lên ở đằng xa. Trí chầm chậm làm các phương thức tiền phi của người phi công trước khi cất cánh. Chàng làm việc chậm rải và trịnh trọng như ông linh mục thi hành các nghi lễ thờ phượng ở trong nhà thờ. Kiểm soát trong phòng lái xong, Trí leo ra, đứng trên chiếc cánh đầy dầu mỡ của chiếc phi cơ, nhìn lên những cao độ chập chùng của dãy Trường Sơn mờ mờ sau làn sương mỏng. Núi non hùng vĩ như thế này, giang sơn cẩm tú như thế này mà biết chừng nào mới được gặp lại? Gió cao nguyên buổi sớm thổi phần phật vào chiếc khăn quàng cổ màu trắng của chàng... Trí leo xuống tàu, đánh một vòng thật chậm chung quanh để kiểm soát tiền phi. Chàng gõ gõ vào thân tàu mà cảm thấy như mình đang vỗ vào lưng một người bạn già thân thiết. Càng vỗ thì lòng càng thấy dâng lên một niềm nhớ thương và tiếc nuối vô vàn. Rồi không cầm được, nước mắt Trí tự nhiên ứa ra. Ôi, hỡi con tàu vô tri giác, không biết ngươi có linh hồn hay không mà sao làm cho lòng ta sao xuyến quá đỗi. Trí có cảm giác như mình là người nông phu cần mẫn vì túng quẫn đành phải đem con trâu yêu quí nhất đời ra chợ bán. Trí vuốt ve thân tàu, nghẹn ngào tâm sự: "Người bạn già thân thiết, người bạn đã cùng tôi sống qua một quãng đời, tôi biết nói gì để diễn tả hết tâm trạng của tôi cho bạn hiểu? Bạn là sản phẩm của một nền văn minh giàu mạnh, một quốc gia phú cường bậc nhất thế giới. Còn tôi, một "anh lính" của một nước nghèo. Bạn đã đến đây từ một chân trời xa lạ và chúng ta đã trở thành một đôi bạn thân khắng khít. Bạn và tôi, chúng ta đã cùng nhau chia sẻ những giây phút vinh quanh cũng như những khoảnh khắc u buồn để làm hết bổn phận mình, đã cùng nhau chia ngọt sẻ bùi qua bao nhiêu ngày tháng. Tôi biết rằng trước sau gì chúng mình sẽ có ngày chia tay nhau nhưng không ngờ lại trong một hoàn cảnh như thế này. Sau chuyến bay này, người ta sẽ xếp cánh bạn, đẩy vào ụ để bạn chìm vào quên lãng..." Trí đã ra đến đầu phi cơ, đưa tay cầm cánh quạt và ngước nhìn lên đầu máy như ngắm nhìn một kiệt tác bất hủ, một kỳ công tuyệt hảo của nhân loại: "Số phận bạn vậy, còn tôi chưa chắc đã hơn gì. Tôi cũng không biết ngày mai đời mình sẽ ra sao?" Trí vuốt ve thân cánh quạt: "Thôi, dù sao thì cũng xin chúc bạn được yên nghỉ an bình. Sinh Ly Tử Biệt bạn ạ. Bạn đã làm xong bổn phận của mình. Còn tôi, bạn biết, vẫn còn trách nhiệm nặng nề của một người trai thời loạn. Tôi sẽ bay một loại phi cơ khác..." Trí nhìn ra xa, nơi mặt trời vừa từ từ ló dạng đàng sau dãy Trường Sơn, giọng đanh lại: "Tôi sẽ chiến đấu đến giây phút cuối cùng để bảo vệ quê hương tôi. Nếu ngày nào đó, không còn điều kiện để bay nữa, tôi sẽ xuống đất cầm súng. Hoặc, ví dù có ngày chẳng còn súng đạn nữa, chúng tôi sẽ mài đá làm dao để bảo vệ mảnh đất thân yêu này..."
* * * *
Chừng mười lăm phút trước giờ phi tuần thứ nhất cất cánh, Trí, Quân, Dương và Hiển tụ tập chung quanh tấm bản đồ trải trên mặt đất. Quân bắt đầu phần briefing: - Mấy ông biết hết mục tiêu rồi, ngọn đồi này đây, đánh nó cả ngàn lần rồi, còn lạ gì nữa. L-19 sẽ cho biết đích xác đánh chỗ nào. Thời tiết sáng nay tương đối tốt, có một ít mây broken ở khoảng 8 ngàn bộ. Mình sẽ piqué từ trên 8000. Quân báo cho biết phòng không của chúng nó rất dữ dội, đan kín bầu trời. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA -7, lần đầu tiên họ ghi nhận có đại bác phòng không 100 ly bắn bằng Ra Đa. Súng này bắn cả B-52 cũng rớt chứ nói gì khu trục mình. Anh em nên cẩn thận, có gì thay đổi L-19 sẽ thông báo thêm. Có ai hỏi gì không? Ngừng một chút, Quân nhìn Trí tiếp: - Tôi và Hiển sẽ bay phi tuần đầu, đánh tiền oanh kích. Ông Trí và ông Dương bay phi tuần thứ hai đánh yểm trợ tiếp cận. Còn ai có ý kiến gì không? Bốn năm cái đầu... phi công cùng cúi xuống im lìm, không ai nói với ai một lời nào. Quân chép miệng than: - Phi vụ cuối cùng trước khi gói tàu bay lại trả cho chính phủ... Đù mẹ chúng nó đặt súng dầy đặc như rừng để chờ mình vào mà tập bắn, bom thì chỉ có mấy trái 500 cân và quân ta thì nhất định lấy cho được ngọn đồi này... Rắc rối quá, lần cuối cùng, mấy ông cố gắng đánh cho đẹp một phát để... làm kỷ niệm. Vài hôm nữa muốn chụp một tấm hình đứng cười nhe răng dưới chân chiếc A-1 chưa chắc đã có mà chụp. Họp xong, Quân và Hiển lững thững xách nón bay ra phi cơ. Trí hỏi trung uý Dương, người phi tuần viên của chàng: - Còn lâu mới tới phiên mình, ông cà phê cà pháo gì chưa? - Dạ rồi. - Rồi thì uống thêm một ly cũng chả chết thằng Tây nào, ông vào đây tôi mời ông một ly... Hai người sóng bước vào căn nhà nhỏ dùng làm nơi làm việc của anh em phi đạo. Tại đây, bên cạnh chiếc bàn dài có một bộ domino và vài bộ cờ tướng, một anh thợ máy nào đó đã nẩy ra sáng kiến kê cái bình cà phê bí tất lớn cỡ... 15 lít. Cà phê đen được bán với giá 25 đồng một ly. Ai muốn uống sữa, xin chi thêm 5 đồng. Rẻ chán và uống rất ngon. Trí có hơi thắc mắc là từ khi về phi đoàn đến giờ, chàng chưa bao giờ nhìn thấy người ta lôi cái bít tất ra thay. Phi công khu trục vốn là những người ít thắc mắc những chuyện lặt vặt nên không ai để ý. Miễn cà phê uống ngon và có tí mùi... cà phê là được. Trí mua cho Dương một ly cà phê. Hai người thả bộ ra sân bay, ngồi trên mặt đất ngó mông lung ra phi trường. Xa xa, hình ảnh của hai chiếc A-1 nối đuôi nhau tà tà ra phi đạo. Chong chóng đánh từng vòng đều đặn chậm rải, con tàu run lên nhẹ nhàng sau làn khói xanh của động cơ. Trí lại thấy đau nhói trong tim. Chàng hỏi Dương: - Ông có biết là sau phi vụ này mình sẽ xếp cánh mấy chiếc Skyraider lại không? - Dạ biết. Rồi cả hai bỗng im lặng như vừa cắn phải một trái đắng không thể nào nuốt nỗi. Trí cắn răng che dấu một nỗi nghẹn ngào vừa xông lên. Suốt từ khi được tin phi đoàn sẽ ground mấy chiếc phi cơ, tâm hồn chàng đâm ra thờ thẫn như người vừa bị mất mát một cái gì to lớn lắm. Chàng hỏi Dương: - Thất nghiệp, ông tính làm gì? Dương dụi điếu thuốc lá: - Em tốt nghiệp trường bộ binh Thủ Đức, có bằng trung đội trưởng bộ binh. Nếu không đánh nhau trên trời được thì mình đánh nhau dưới đất... - Ông thấy rồi tương lai đất nước mình sẽ như thế nào? - Đen tối quá. Tụi Mỹ đã phủi được bàn tay của họ. Quốc hội Hoa Kỳ càng ngày càng siết chặt cái vòng viện trợ quanh cổ mình. Nước mình bây giờ như một con bệnh bị xuất huyết trầm trọng, đang nằm chờ tử thần. Cái bi kịch đau đớn nhất của mình là biết rằng trước sau gì cũng chết mà không ai đủ sáng suốt và can đảm tự tìm lấy cho mình một con đường nào để tự giải thoát... Trí cảm thấy hơi ngạc nhiên về những nhận định của ông trung úy trẻ tuổi: - Theo ông, mình sẽ tự giải thoát được bằng cách nào? - Có gì khó đâu, đằng nào cũng chết, mình đem hết lực lượng đổ ra miền Bắc sống mái với chúng nó một trận "trời sầu đất thảm." Mày đốt nhà tao thì tao đốt nhà mày, nếu có chết thì cũng chết được một cái chết ra hồn, đỡ hơn chờ chúng nó đến cắt cổ... - Còn yếu tố Mỹ... Mắt Dương long lên, oán hận: - Xin lỗi đại úy, đấm c... thằng Mỹ. Nó bắt mình chết, mình có quyền chọn lựa cách chết cho mình. Mình có quyền bắt hàng khối đứa đi theo... Trí đã nhiều lần nghĩ đến chuyện này nhưng làm gì được? Mình chỉ là một đại úy phi công hạng bét. Nói lạng chạng không vừa ý chúng nó đì cho hộc máu. Chàng cười: - Ông biết muốn chơi chúng nó, có cách nào làm chúng nó sợ nhất không? - Cách nào? - Chỉ có đem bom thả tận nhà chúng là chúng mới sợ. Mình cứ chờ vào ngày lễ lao động hay lễ quốc khánh, đúng lúc cha con chúng nó tập họp đầy đủ, lẳng lặng chất vài trái bom con heo lên C-130, bay tuốt ra Hà Nội, biến cái Bắc bộ phủ của chúng nó thành một cái hố bom khổng lồ thì có hoà bình liền chớ gì. Dương khoái chí nhe răng cười, nhưng nghĩ ra điều gì, gã chặc lưỡi: - Hay quá đại úy nhưng bom con heo của Mỹ, sức mấy mà nó đưa cho mình khơi khơi như vậy. - Tôi đã nghĩ đến chuyện này, mình chế lấy cũng được. Có gì khó đâu, chỉ việc gom chừng vài chục trái bom 500 pound lại cột thành một chùm, tăng cường thêm chừng chục phuy xăng ở chung quanh, đóng chung chúng nó lại thành một thùng rồi mở cửa C-130 đẩy lên. Tới nơi cứ việc bung cửa ra mà cho nó rớt xuống. Bom con heo cũng nổ đến như vậy là hết cỡ... - Ý kiến hay vậy mà sao không thấy mình áp dụng nhỉ? Trí lắc đầu: - Ông biết rồi. Lãnh đạo của mình là một bọn tham nhũng, hèn nhát và thụ động. Chúng nó đâu biết rằng chúng nó đang xé nát cái quê hương này ra hàng trăm mảnh... Mắt Dương tự nhiên thoáng một tia nhìn bí ẩn: - Vậy thì diệt chúng đi. Mình lái khu trục, mình làm được. Trí nói nhỏ vào tai Dương: - Nói nhỏ thôi, tai vách mạch rừng. Tôi đã nghĩ đến chuyện này rồi nhưng ông nghĩ coi, diệt nó đi thì biết ai đủ khả năng để lên thay thế? Ông không nhớ cái thời "Đông châu liệt quốc" ở Sài Gòn sau năm 1963 à? Dương nhún vai, nhìn lên trời: - Tôi nghĩ thời thế sẽ tạo được anh hùng đại úy. Có nhiều người muốn làm chuyện này mà không bao giờ có cơ hội. Mình lái khu trục, có bom đạn trong tay nếu không dám xả thân một lần thì sau nay chắc sẽ hối hận... Trí vỗ vai Dương: - Ông muốn "làm" thiệt không? Dương nhìn thẳng vào mắt Trí: - Một người biết mình sắp chết chẳng có gì để sợ cả. - Nếu vậy thì tối nay qua barrack tôi, anh em mình bàn lại. Vài hôm nữa lái A-37 mình có nhiều cơ hội hơn... Ngồi tán gẫu một lúc mà mặt trời lên cao lúc nào không hay. Quân đã dắt thằng em về đáp. Thân tàu loang lổ những lỗ đạn. Chàng nhìn đồng hồ rồi nói với Dương: - Tới giờ cất cánh rồi ông, mình ra quay máy. Phi vụ cuối, ráng đánh cho đẹp. Dương cười: - Tôi đánh phi vụ này mà không đẹp thì nghỉ ăn lương chính phủ. Trí trịnh trọng leo lên tàu, ngồi vào phòng lái. Chàng đeo đôi găng tay vào rồi run run nâng từng sợi dây an toàn, thắt vào người. Trí siết dây thật chặt, và càng chặt thì càng cảm thấy mình như gắn liền với con chim sắt yêu dấu này. Trí ra dấu cho người thợ máy dưới đất chuẩn bị rồi mở nút xăng, nhấn động cơ quay máy. Con chim sắt khổng lồ khục khặc cái đầu, run mình, cánh quạt quay uể oải vài vòng. Trí nói nhỏ: - Ráng lên bạn, phi vụ này là "kỷ niệm cuối cùng của đôi ta". Chiếc khu trục bỗng thở ra một mớ khói đen rồi máy nổ lên dòn dã. Chong chóng đánh những vòng tròn đều đặn, "quí phái." Dù đã bay hàng ngàn phi vụ, mỗi lần nghe tiếng động cơ nổ lên ròn rã lòng Trí tự nhiên lại rộn lên một nổi niềm cảm khoái lâng lâng khó tả. Đó là âm thanh của niềm vui, của ngày xanh êm ái lúc nghe mẹ gọi tên để cho một món quà, của thuở học trò trắng tinh màu giấy khi nghe tên mình vừa trúng tuyển một kỳ thi, của tuổi đôi mươi chất ngất khi nghe một người con gái thì thầm kêu tên mình một cách bẽn lẽn. Những tiếng động cơ của máy móc vô tri giác mà sao nghe ấm cúng, thân thiện, hiền hoà. Một lần nữa, Trí lại tự hỏi rằng không biết chiếc phi cơ này có linh hồn hay không. Sao nó làm người ta xao xuyến quá đỗi... Và ngàn lần như một, hễ chong chóng bắt đầu quay đều thì Trí liền biến thành một con người khác. Giống y như một cái radio đang khò khè bỗng được vặn vào trúng băng tần có đài phát thanh cực mạnh. Chàng thấy bình tĩnh, tự tin, lạc quan và thoải mái như một con người mới. Mọi ưu phiền, mọi khó khăn vụn vặt của kiếp người bỗng biến mất. Đâu đây, xa thẳm trong đáy trái tim của Trí, hình như dậy lên bài hát "Xuất quân". "Này, bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết chiến..." Hai bàn tay của Trí chuyển động mau lẹ, nhịp nhàng. Điều chỉnh máy, sửa lại đồng hồ, mở vô tuyến, check in vô tuyến với thằng hai. - Pleiku đây Thái Dương 22, radio check và xin chỉ thị di chuyển hai phi cơ A1-H, bạn. - Thái Dương 22 đây Pleiku. Bạn di chuyển ra đầu phi đạo 26, gió êm, áp lực là 30.03. Trí "Roger" rồi ra đưa hai tay trỏ lên trời. Hai người thợ máy dưới đất nhận được dấu hiệu, gỡ chèn bánh ra... Bài xuất quân lại văng vẳng: "Bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành, quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành..." Chàng mớm nhẹ tay ga, con tàu ngoan ngoãn nhào tới trước. Trí đạp nhẹ hai thắng. "Từ từ, làm gì gấp vậy bạn hiền, trước sau gì mình cũng lên trời..." Dương nối đuôi Trí đem phi cơ đến cuối cầu phi đạo, hai chiếc đậu xéo xéo bên nhau thử máy lần cuối cùng. Trí kéo cần lái vào người, đạp mạnh thắng, tống ga lên 1700 vòng phút. Con tàu rung chuyển và gầm lên dữ tợn như cọp rống. Gió đánh phần phật vào thân tàu, thổi rạp cả một bãi cỏ rộng phía sau. Tay chân Trí cử động nhịp nhàng theo từng động tác phải làm. Left magneto, right magneto... Tốt, máy móc và tất cả mọi cơ phận trong phi cơ hoạt động hoàn hảo. Trí cười. Con chim sắt này ra đời khi đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, đến bây giờ tuổi hạc đã cao mà vẫn còn oai phong lẫm liệt không thua lão tướng Hoàng Trung thời Tam Quốc. Thử máy xong, Trí quay đầu phi cơ vào núi, thòng hai tay ra ngoài phòng lái cho chuyên viên vũ khí được... an tâm tháo chốt an toàn. Buổi sáng hôm nay trời trong xanh và đẹp lạ thường trong không khí gây gây lạnh của những ngày tháng mười... - Pleiku, Thái Dương 22 số một cuối đường bay xin ra phi đạo cất cánh hai phi cơ A1H. - Thái Dương 22 chấp thuận ra phi đạo, gió yên. Chúc bạn may mắn. "Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành. Đi là đi chiến đấu, đi là đi chiến thắng, đi là mang mối thù thiên thu..." Trí hạ cánh cản, kéo thingypit ra trước, đóng cửa phòng lái rồi mớm chút ga cho tàu ra so hàng nơi phi đạo. Dương lái chiếc thứ hai bám theo như một cái đuôi. Chờ cho số hai xếp hàng ngay ngắn, Trí quan sát phi cụ một lần chót rồi đẩy hết cần ga tới trước, lút cán. 2200 mã lực của sản phẩm cơ khí tuyệt hảo và vĩ đại được xử dụng tận lực, rống lên một tiếng gào khủng khiếp tưởng có thể xé nát không gian. Trí cảm thấy như máu tự nhiên chảy rần rần trong người chàng. Cánh quạt xoay tít như điên cuồng, ép gió thổi ra sau, biến hơi nước trong không khí thành những đường chỉ trắng chạy dài chung quanh. Chiếc phi cơ run lên, lồng lộn như con ngựa chứng. Trí giữ cần lái và nhả thắng ra. Con chim sắt vĩ đại với cái bụng đầy ắp bom ào tới trước, hung hãn và dũng mãnh như một con bò mộng. "Đi là đi chiến thắng, đi là đi chiến đấu, bước lên đây người Việt Nam..." Hai chiếc phi cơ A-1H cùng bốc lên cao một lúc ở khoảng giữa phi đạo. Tiếng gầm thét của động cơ sáng hôm nay nghe như những gầm than thở oai oán của hai chú mãnh hổ biết mình chỉ được lên trời rong chơi lần cuối cùng. Trí nghiêng phi cơ rời vòng kiểm soát không lưu phi trường. Ôi, quê hương đất nước dưới cánh chiếc khu trục đẹp không làm sao nói được. Đồi núi chập chùng xanh biếc với những con sông con lạch nhỏ. Theo luật địa lý, đã có núi cao, thì phải có sông rộng đi kèm mới hoà hợp. Núi của dãy Trường Sơn quá cao, mà sông lạch thì ít, lại ngoằn ngèo đứt khúc nên chả trách gì lòng người có những ý chí phi thường nhưng hẹp hòi ít quảng đại, khó tha thứ. Hơn mấy chục năm chiến tranh chưa làm ai thấy mệt mỏi. Trí leo lên 10 ngàn bộ, Dương bám sát phía sau. Trí rời tần số đài kiểm soát Pleiku sang đài kiểm báo Peathingy. Giọng chàng ồ ồ vang vang: - Peathingy đây Thái Dương 22! - Thái Dương 22 Peathingy! nghe. - Thái Dương 22, hai phi cơ A 1 -H, cất cánh được 5 phút lên làm việc với Sao Mai 10 ở toạ độ Zulu Papa ... - Roger! Sao mai 10 chờ bạn ở tần số UHF 226.7 Rồi Peathingy... im luôn, không thấy thông báo tác xạ pháo binh. Trí thấy nhói trong tim. Vậy là quân ta ngay đến đạn pháo binh cũng gần hết. Chàng nhớ ngày xưa,đánh lớn như thế này thì một đoạn đường từ Pleiku đến Dakto có ít những khoảng vài trăm khẩu pháo đặt khắp nơi gây thành một trận địa pháo như thiên la địa võng. Bây giờ mọi chuyện đã đổi khác. "Đánh giặc kiểu con nhà nghèo" là như vậy sao? Đường đến điểm hẹn với cô Lan 19 bay không đến mười phút là tới nơi. Đang đấu loạn cào cào với mấy cánh quân dưới đất, nghe Trí lên, người phi công L-19 mừng rỡ: - Thái Dương 22 đây Sao Mai 10. - Nghe năm. Hai A 1-H, tám trái 500 pounds và hai... trái tim rực lửa căm thù. Có tiếng cười hềnh hệch trong máy: - Thái Dương nói nghe được. Phòng không của chúng nó dày đặc như thế này, không rực lửa thì nên về nhà mà ngủ cho ... bà xã vui lòng. - Chưa có vợ bạn ơi... O.K., chúng tôi đang ở phía bắc mục tiêu khoảng 10 ngàn, cho biết tình hình đi bạn. - Tình hình đại khái như thế này: bộ binh xung phong lên hai lần mới mớm được một chút nơi chân đồi. Mẹ, chưa kịp làm ăn gì thì pháo chúng nó đã lồng khung sẵn rớt tùm lum xuống quân mình. Vất vả quá. Nhưng pháo mình cũng phản pháo đẹp đáo để, hai bên đang đấu pháo loạn xị xà ngầu. - Bây giờ bạn muốn tôi đánh đâu? - Đánh đâu thì dễ quá, có khoảng vài trăm mục tiêu cho bạn đánh. Nhưng chuyện quan trọng nhất hiện giờ là tụi chuồn chuồn sắp vào để đổ thằng 45 trinh sát, kẹt một cái là cây phòng không 100 ly nằm trên đỉnh đồi. Từ trên đó, nó có thể quất sụm bất kỳ một hợp đoàn trực thăng nào của mình. Khỏi cần suy nghĩ lâu Trí cũng hiểu được sự thành công của lối đánh diều hâu táo bạo này tùy thuộc vào yếu tố... chuồn chuồn. Trực thăng không vào được thì lấy gì mà nhảy? Cũng không thể vào lần thứ hai vì yếu tố bất ngờ sẽ bị mất. Chúng nó sẽ gom súng trên đỉnh đồi chờ mình vào để tập bắn... tàu bay lên thẳng. Trí đề nghị: - Vậy bạn muốn đánh nó phải không? - Biết còn phải hỏi. Bạn bứng giùm nó thì may ra hợp đoàn trực thăng mới vào được. - Xong ngay. Vào cho trái khói đi bạn. - Có ngay. - Trí lắc nhẹ cánh và hỏi Dương qua vô tuyến: - Hai đây một. - Nghe năm. - Ông nghe Sao Mai nói rồi chớ gì, mình qua combat formation. - Hai nhận rõ. Combat formation. - Mình sẽ piqué ở 10 ngàn. Phòng không như thế này thì phải đánh 60 độ bank. - Hai rõ. Chiếc L-19 quẹo một vòng rất quí phái nhàn nhã rồi tự nhiên cắm đầu thẳng xuống từ 8 ngàn bộ. Nàng lắc lư thân mình rồi xịt ra một trái khói. Trí mỉm cười. Ông nội nào lái chiếc L-19 này chắc là có máu khu trục trong người. Bắn rất đẹp, gần ngay trên đỉnh ngọn đồi. - Thái Dương 22 đây Sao Mai mười. - Thấy trái khói rồi bạn. - O.K. phía bắc trái khói khoảng 200 thước là cây phòng không 100 ly đó. Phòng không mạnh quá, bạn muốn đánh trục nào cũng được. Chúc bạn may mắn, coi chừng súng chúng nó đặt khắp mọi nơi. Hình như Trí lại nghe được bài tiến quân văng vẳng trong nón bay: "Cờ vang thay tiếng tiếng chân đang dồn dập xa xa, tiếng gào, thiết tha..." Trí sửa lại đôi găng tay, mở nút bom, nói thật chậm vào máy vô tuyến: - Số một Dô. Trí nghiêng cánh rồi lật ngược chiếc tàu bay và đưa tay kéo cần gà về. Trí mớm nhẹ cần lái cho đầu phi cơ rớt xuống... Con tàu rơi xuống gần như thẳng đứng. Ở khoảng 8 ngàn bộ hoa khói bắt đầu nở chung quanh tàu. Đù mẹ bắn gì... sớm vậy mấy cha? Trí lẩm bẩm. Rõ là quân thừa đạn bắn vãi. Trí tiếp tục cho tàu cắm xuống. Kia rồi, từ đàng xa, Trí nhận rõ được vị trí của ít nhất mười mấy cây phòng không. Tất cả đồng loạt nổ vang rền. Đù mẹ sao chúng nó lắm súng thế này. Những giây phút đối diện với tử thần thật là khủng khiếp. Thằng nào lái tàu bay mà nói coi phòng không giặc không ra gì là những thằng nói phét. Làm người, ai lại không sợ chết, tại sao lại phải phét lác nhỉ? Xuống thêm một chút nữa, Trí vẫn không nhìn thấy cây 100 ly đâu cả. Câu nói của ông trung đoàn trưởng bộ binh lại vang vang trong đầu chàng: "Suy nghĩ bảy lần trước khi thả một trái bom..." Không thể được, mình phải kéo tàu lên làm một vòng khác. Mấy cây 12 ly 7 nhí này không xứng đáng để lãnh bom của chàng. Trí tống hết ga, lướt tàu qua mục tiêu rồi kéo lên. Phòng không vẫn bám cứng lấy phía sau. - Sao mai đây Thái Dương. - Nghe năm, không thấy bom của một nổ. - Có thả đâu mà nổ. Không tìm thấy súng của chúng nó, thả uổng bạn ơi. - Thái Dương hôm nay đánh lì quá. Lúc nãy bạn xuống, tôi thấy nó khạc lửa tưng bừng lên đó bạn. - Để thằng hai xuống tôi quan sát thử coi. Dương lên vô tuyến: - Số hai dô... Dương nghiêng cánh nhào xuống như một cành lá. Trí quẹo ngược trở lại, đảo mắt quan sát. Nhìn chúng nó bắn thằng số hai Trí mới thấy xót ruột. Vừa lớn vừa nhỏ, ít nhất cả trăm khẩu. Phòng không chúng nó không những chỉ đặt trên ngọn đồi 982 thôi, ngay cả những ngọn đồi chung quanh nó cũng đầy những súng. Chiếc phi cơ của Dương như con thuyền nhỏ bé ngụp lặn trong một biển lửa hãi hùng. Nó kia rồi, cây 100 ly mà chàng đang tìm kiếm vừa khạc lửa ra dữ dội. Ông đã thấy rồi thì mày có chạy đàng trời. Dương xuống sâu thêm nữa rồi bấm rớt bom, kéo lên. Hai đoá hoa khói đen nở tung trên mặt đất. Sao mai la ùm trời đất: - Số hai đánh trúng mấy cây phòng không rồi đó bạn. Số một thấy cây 100 ly của nó chưa? - Thấy rồi bạn, số một "Dô" lại đây. Miệng nói, tay Trí lật ngược tàu bay, lại cắm đầu xuống. Lần này Trí nhắm thẳng vào hướng cây 100 ly, cứ thế mà tới. Hình như chúng nó cũng biết đã bị lộ mục tiêu, nên khạc lửa lên rất dữ dội. Trí nhìn thấy những viên đạn lửa bay lên, tưởng như cắm thẳng vào mặt mình nhưng khi đến gần thì lại biến mất. Và tiếng nổ mới là khiếp đảm. Tiếng nổ phát ra từ họng súng đang chĩa thẳng vào người mình khác hẳn bất cứ một loại tiếng động nào khác trên thế giới này mà chàng đã nghe được. Nó lạnh, sắc, khô và rờn rợn. 6 ngàn bộ, Trí biết mồ hôi trán mình toát ra đầy trong nón bay. Chàng còn biết là có vài viên đạn đã ghim vào thân tàu. Mặc kệ, "Mày sinh Bắc Tử Nam" thì tao "Sinh Nam chôn sống mày". Tiếng Sao Mai la chói lói trong tần số: - Thái Dương 22, bạn xuống thấp quá bạn ơi, nguy hiểm lắm. 5 ngàn, Trí bấm rớt bom rồi nghiến răng kéo phi cơ lên. Tốc độ quá cao, cả người chàng bị một tảng đá nặng nghìn cân đè dính vào ghế. Trí nghe tiếng nói của người phi công L-19: - Đẹp quá bạn ơi, nhưng... hụt mẹ nó rồi. Chưa lấy hết cao độ nhưng Trí đã thấy muốn nhào xuống trở lại ngay. Chẳng bung một tiếng chửi thề trong bụng. Đù mẹ, công dã tràng. Chàng bấm máy: - Hai đây một. - Nghe năm. - Ông thấy cây 100 ly của nó không? - Thấy! - Pass cuối cùng, ráng làm đẹp đi. - O.K. roll. Dương nghiêng cánh chúi mũi xuống. Lại một lần nữa Trí căm phẫn nhìn những tràng đạn của quân thù bắn lên như muốn xé cả bầu trời ra hàng trăm mảnh. Chàng cứ suy nghĩ và không hiểu sao chúng nó chuyển được hàng núi súng vào đây được. Số hai vừa kéo tàu lên, Trí biết ngay là Dương đánh không trúng. Chúng nó bắn rát quá, làm sao thả bom cho chính xác? Trí mím môi nghiêng cánh vào thử một lần chót. Quái lạ, từ lúc cất cánh đến giờ, Trí mới để ý là văng vẳng trong nón bay có bài hát "Tiến quân ca" như đến từ một cõi vô hình. "Này bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết chiến, bước oai nghiêm theo tiếng súng đi tung hoành, quân Việt Nam đem hồn non nước xây thành..." Lần này, với một quyết tâm trong đầu Trí bình thản lượn chiếc phi cơ hầu như thẳng góc xuống mặt đất. Dù đã cắt hết ga, chỉ trong phút chốc, tàu đã đạt đến tốc độ tối đa. Gió ép vào thân tàu, làm cặp cánh như uốn cong lên. Đến 6 ngàn bộ, Trí hơi kéo nhẹ cần lái. Tàu hơi chếch mũi lên, tốc độ giảm vừa đủ để Trí đưa cây 100 ly của giặc vào đường nhắm. Có tiếng la hốt hoảng của Sao Mai trong nón bay:"Thái Dương 22, bạn xuống thấp quá, coi chừng..." Nhưng Trí đâu còn nghe thấy gì nữa. Ở gần 400 dặm một giờ trên vùng địch, giữa những lằn đạn thù nổ chung quanh, người phi công không còn nghe thấy gì ngoại trừ tiếng gọi của non sông và trách nhiệm. Phi cơ chàng cứ nhắm cây súng mà vùn vụt lao tới như một mũi tên sắt. Trời đất như trở thành mờ ảo ở chung quanh. Cuối cùng thì nó cũng nằm trên đường bắn của chàng. Trí bấm rớt bom, tống hết ga và kéo phi cơ lên. Cú này không trúng không ăn tiền. Chàng thoáng nhìn thấy nhiều bộ đồ ka ki Nam Định từ trong ổ súng bỏ chạy loạn cào cào. Vừa bốc tàu lên, Trí đã nghe được hai tiếng nổ liên tiếp và tiếng hò reo vui mừng của Sao Mai 10 "Xong rồi, Thái Dương 22, xong rồi." Đù mẹ thật là sướng hơn... chơi. Trí ôm cần lái sát vào bụng, người chàng bi áp lực như đè lún sâu vào trong ghế ngồi nhưng lòng chàng lâng lâng một niềm cảm khoái vô bờ bến. Số hai không bỏ phí một giây đồng hồ nào, lật ngửa tàu bay, cắm đầu thẳng xuống như một chiếc lá tre để tiếp tục trò chơi dang dở. Có qua có lại, cuộc tranh hùng bắt đầu trở hào hứng kể từ giây phút này. Trí mỉm cười: "Ai bảo đi bay là khổ, đi bay sướng lắm chứ..." Lấy được một chút cao độ, Trí xoay đầu nhìn lại "tác phẩm" của mình. Một cục lửa lớn cháy bùng lên, khói đen bốc cao thành từng cụm. Trí đang quan sát Dương thì nghe được tiếng gọi của hợp đoàn trực thăng. Một C and C, 12 slick và 4 gunship đang xình xình bay tới. Trí cảm thấy yên bụng khi thấy Dương kéo tàu lên. Thêm hai ổ phòng không bị bứng mất gốc. Tốt. Chúng nó chỉ còn mấy cây 12 ly 7 lẻ tẻ này làm sao bắn lại Minigun của Gunship. Thua là cái chắc. Dương đã kéo tàu lên, vào hợp đoàn trở lại với Trí. Hết bom rồi, coi như nhiệm vụ đã xong nhưng Trí vẫn chưa muốn đi về. Phi vụ cuối cùng thật hào hứng nhưng ngắn quá. Trí muốn kéo dài thời gian ly biệt này để được gần gũi với người bạn già càng lâu càng tốt lần cuối cùng. Dương hiểu ý Trí, cho tàu bay vào thật sát bên người phi tuần trưởng. Sát đến độ nếu rờ tay ra, Dương có thể chạm vào cánh bay của Trí. Trong phòng lái phi cơ, Trí như một chàng dũng sĩ trên yên ngựa bách thắng của mình. Lúc nãy, nhìn những tràng đạn thù bắn lên, ít ai có thể tưởng tượng được chiếc phi cơ sẽ "còn nguyên một miếng". Vậy mà không có một viên nào trúng tàu mới là tài. Trí lượn những vòng tròn lớn phía trên ngọn đồi, đưa mắt nhìn xuống hợp đoàn trực thăng đang nối đuôi nhau tiến tới. Ủa, sao chúng nó không bay thẳng vào đỉnh đồi mà lại bay ngược lên hướng Bắc làm gì kìa? Bọn chuồn chuồn chấm lộn toạ độ chăng? Nhưng rồi Trí nghĩ ra liền. Ra là mấy anh bay như vậy để đánh lạc hướng địch quân. Xuất kỳ bất ý, làm cái quẹo gắt rồi "rớt" gọn gàng xuống đỉnh thì ai mà biết được. Hay lắm, hay lắm. Quả đúng là "Ôi phi công danh tiếng muôn đời..." Trí xuống 8 ngàn bộ, Dương bám sát phía sau, đánh những vòng lớn ngay trên mục tiêu. Địch quân trên đồi 982 hình như đang bối rối vì tiếng động cơ trực thăng xuất hiện bất ngờ. Phòng không bắn đã thấy rời rạc. Cú này cho chúng mày đi theo Bác luôn. Bỗng Trí nẩy ra một ý tưởng ngộ nghĩnh. Chàng bấm máy hỏi Dương: - Hai đây một. - Nghe năm. - Phi vụ cuối cùng rồi, ông muốn xuống dưới đó "ngao du một vòng" không? - Sợ thằng Tây nào mà không xuống. Xuống để coi thử phòng không chúng nó bắn hay tới cỡ nào. - Ông nhớ bám cứng theo tôi. Trí gọi máy cho Sao Mai, thông báo mình sẽ xuống thấp để quan sát một vòng. Phi công L-19 có lẽ đang bận rộn điều chỉnh pháo cho bộ binh nên không có ý kiến. Trí nghiêng cánh và đạp bàn đạp cho tàu trượt xuống. Hàng chục đoá hoa khói vây lấy con tàu liền. Dương bám theo cứng ngắc như nhựa đường. Thằng này bay hay thật, không thua gì Pilot Navy, Trí thầm nghĩ. Trí cứ để cho tàu trượt xuống, rơi mãi cho đến gần sát ngọn cây, mới lấy thăng bằng lại. Thấp như thế này thì mấy chú có muốn bắn cũng không biết đường đâu mà mò. Nhìn "thiên hạ" ở cao độ trên ngọn cây coi thấy rõ ràng quá. Phi cơ chàng lướt qua trên những hàng cây dầy đặc bằng một tốc độ nhanh như hỏa tiễn. Dưới cánh chàng, thỉnh thoảng là hình ảnh của những giao thông hào và hầm hố cá nhân không hiểu của ta hay của địch lướt qua thật mau. Trí lượn một vòng ra quốc lộ, nơi phe ta vừa mớm được một tí ở chân đồi. Đây rồi, mấy ông bộ binh đang đánh nhau tưng bừng cũng phải ngạc nhiên dở nón sắt nhìn lên hai chiếc khu trục bay sát ngọn cây, chơi trò chơi táo bạo... Lượn đến vòng thứ ba Trí mới có một ý niệm về tình hình bên dưới. Quân ta vừa hùng hổ xung phong lên, không biết lần thứ mấy sau một loạt pháo mở đường. Hình như họ muốn đánh lạc hướng để hợp đoàn trực thăng có thể vào đáp bất ngờ. Trí nghe tiếng C and C vừa chỉ thị cho hợp đoàn trực thăng đổi hướng, bay thẳng vào mục tiêu. Trí thoáng nhìn được những cây 12 ly 7 từ trên cao, chĩa nòng xuống nổ ròn rã vào những người lính của sư đoàn 23 bộ binh. Còn 300 viên cà nông để làm gì, Trí gọi máy cho Dương, bảo mở nút cà nông và chuẩn bị tấn công. Chàng ước lượn mấy con chuồn chuồn phải ít nhất 10 phút nữa mới đến mục tiêu được, dư sức cho chàng cùng Dương làm vài straffing pass. Trí lắc cánh, Dương hiểu ý, nới rộng khoảng cách để chuẩn bị cho trò chơi mới. Hết vòng thứ tư, Trí quẹo ra xa để chuẩn bị một đường bắn dài. Dương làm một vòng lớn hơn ở phía sau. Bỗng chàng kinh ngạc suýt reo lên một tiếng. Cặp mắt thần của người phi công khu trục vừa thoáng nhìn thấy một đám bộ đội bu quanh cây súng ở ngọn đồi kế bên ngọn đồi 982. Cây súng lớn lắm, không biết là bao nhiêu ly với cái nòng dài thòng lòng. Tiên sư, chúng nó giấu kín như thế này thì tàu bay nào kiếm ra được? Trí thấy toát mồ hôi lạnh. Rõ ràng là chúng nó dấu súng ở đây để yểm trợ cho ngọn đồi 982. Từ cao điểm đó, nếu chúng nó bắn thì nãy giờ chắc chàng và Dương đã rụng từ lâu rồi. Vậy tại sao nãy giờ chúng không bắn mình kìa? Trí thắc mắc. Trí bấm máy báo cho Dương "Ông ở ngoài này chờ tôi một chút" rồi bất thình lình đổi mục tiêu, lấy cây cao xạ vừa nhìn thấy làm chuẩn, quẹo một vòng tròn lớn chung quanh đó. Cha con chúng nó đang hì hục quay nòng xuống hướng về phía đỉnh ngọn 982. Chàng có thể nhìn thấy rõ hai ba thằng xạ thủ cầm mấy cái tay quay quay lấy quay để. Đù mẹ chúng mày, muốn quay súng để bắn ông sao? Câu chửi thề vừa dứt thì Trí biết ngay là mình lầm. Tàu bay khu trục mà hết bom thì cũng như con rắn không có nọc, chỉ có nước đi bay duyệt binh cho đẹp, chúng nó đâu thèm bắn. Bọn khát máu này đang quay súng để chờ đón một món mồi ngon hơn gấp ngàn lần hai chiếc khu trục... già nua ốm yếu: Một hợp đoàn trực thăng mười mấy chiếc với hàng trăm chiến sĩ trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn 23 bộ binh. Trí quẹo tàu trở ra, thầm cám ơn trời đất. Chàng ráng bình tĩnh để suy nghĩ thật mau những gì mình phải làm. Trước hết, Trí có thể gọi máy cho C and C để kêu họ cho hợp đoàn trực thăng... thôi đáp, chở lính về nhà. Không được. QLVNCH ít khi nào làm như vậy, dù ngay cả khi biết rằng đi là chết. Hơn nữa, nếu bỏ về thì chừng nào cờ ta mới cắm được trên ngọn 982 đồi. Và chưa chắc đã còn xăng để làm chuyến thứ hai. Hoặc chàng có thể gọi cho Sao Mai biết để hắn xin pháo binh hỏa tập. Dẹp chuyện này đi. Mấy ông nội bay tuốt trên mây xanh làm sao điều động pháo kịp. Hợp đoàn trực thăng lại đang xình xình tống hết ga bay vào, phải nghĩ ra cách nào để khoá họng cây súng này liền lập tức trước khi đại họa xảy ra. Một lần nữa, văng vẳng trong nón bay của Trí, bài tiến quân ca lại vang lên. Lần này nhịp nhàng dồn dập: "Đi là đi chiến đấu, đi là đi chiến thắng, đi là mang mối thù thiên thu..." Xong rồi, Trí đã có quyết định. Trận này thắng hay bại là do Trần Anh Trí này đây! Chàng nghiến răng tống hết ga, vừa quẹo vừa kéo tàu lên để chuẩn bị tấn công. Nhưng, người phi công khu trục của QLVNCH với mấy ngàn giờ bay vừa phạm phải một lỗi lầm nặng quá. Ở những nơi mà "phòng không kèm cứng một rừng" như vậy, ngoại trừ những khi tấn công, một là bay thật thấp, hoặc là bay thật cao, ai lại kéo tàu lên đưa cái bụng trắng hếu cho chúng nó tập bắn bao giờ? Cái chuyện căn bản này thằng phi công mới ra trường cũng biết, nhưng Trí quên mất. Tàu vừa quẹo lên được vài ngàn bộ thì Trí nghe hàng loạt đạn chát chúa của ít nhứt một chục cây súng nổ lên dòn dã. Trí biết là mình vừa phạm một lỗi lầm không thể nào tha thứ được, tàu bị trúng đạn nặng lắm. Và chính chàng, chàng cũng thấy đau nhói nơi ba sườn. Trí chưa bao giờ bị đau như vậy trong đời mình. Phản ứng tự nhiên của người phi công gần mười năm bay bổng, bày tay Trí ôm cần ga đẩy mạnh tới và đồng thời tay kia đè mũi con tàu xuống và lộn một vòng tránh đạn. Khốn nạn thay, mấy chục cây súng quái ác kia vẫn bám cứng chàng như sam. Trí nhận thêm vài chục viên nữa. Có tiếng la hốt hoảng của Dương trong máy: - Một đây hai, một đây hai, nghe không trả lời... Ngay lúc đó, khi hai chiếc gunship đang xình xình bay vào, vừa cách mục tiêu độ 5 dặm thì một tràng đạn từ cây súng bí mật dấu ở sườn đồi bên cạnh nổ lớn lên nghe khủng khiếp. Đạn đạo này chúng nó đã nghiên cứu và lồng khung bao nhiêu ngày nên bắn làm sao trật được. Loạt đạn nổ chưa hết đã thấy một chiếc gunship bốc cháy bùng lên như bó đuốc, cắm đầu xuống. Chiếc kia hốt hoảng cho tàu rớt xuống theo để mong tránh tràng đạn. Mấy cây Minigun cũng trả đủa như mưa nhưng đâu có thấm thía gì. Chúng nó dấu súng trong hầm trong hố làm sao đạn của minigun lách vào nỗi. Hợp đoàn đổ quân từ phía sau vẫn chưa biết tai họa đang chờ đợi mọi người, đang xếp hàng dọc xình xình quẹo vào. Hai chiếc gunship còn lại của hợp đoàn đang hùng hổ bắn phá trên đỉnh ngọn đồi 982. Hình như chưa ai biết những gì đang chờ đón họ ở cao điểm kế cận. Giây phút quan trọng và hãi hùng nhất của cuộc đổ quân đã bắt đầu. C and C, L-19, pháo binh và bộ binh gọi nhau trên tần số nghe loạn xạ. Không hiểu tại sao trong giây phút mà ai cũng căng thẳng tột cùng đó, dù tàu vừa bị trúng đạn, Trí thấy bình thản lạ thường. Chìa khoá của cuộc đổ quân ngày hôm nay là cây phòng không quái ác kia. Khoá họng được nó là thành công. Bằng không thì có vào cả sư đoàn cũng chết nữa, nói gì một hợp đoàn lẻ. Hợp đoàn trực thăng bây giờ đã bay gần đến nơi phòng không lồng khung của chúng nó lắm rồi. Trễ một chút là từng chiếc một của hợp đoàn sẽ rụng như sung chín cho mà coi. Trí xuống thấp được một chút, không có thì giờ kiểm soát phi cụ và tình trạng tàu, quẹo lại thật gắt, mở nút cà nông nhắm cây cao xạ lao tới. Bây giờ thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Ra là bọn chúng nó đã bố trí sẵn súng để yểm trợ lẫn nhau. Mình nhắm thằng này thì thằng kia ở phía đối diện bắn sang, đánh thằng kia thì thằng này bắn tới. Đạn đan kín cả bầu trời. Trí vẫn nghiến răng lao tới như một con thuyền giữa con bão. Nhìn thấy mục tiêu, chàng bóp cò, kéo một tràng cà nông dài từ phía ngoài vào tới tận cây súng rồi quẹo tàu lên. Ngay lúc ấy, Trí bỗng nghe một tiếng nổ to khủng khiếp trong phòng lái như xét đánh ngang tai. Mặt chàng như bị ai đấm vào một trái thôi sơn. Cặp mắt Trí nhắm tít lại theo phản ứng tự nhiên. Khi mở ra, Trí nhận ra kính phòng lái đã vỡ nát, gió, khói, và dầu của tàu bay ùa vào khắp nơi trong phòng lái. Chàng chỉ còn thấy mờ mờ nhưng trí óc thì minh mẫn vô cùng. Phải thoát ra khỏi nơi này cái đã rồi sẽ nhảy dù. Chàng kéo tàu lên nhưng quái lạ, sao mà cần lái lại trở nên nặng thế này. Dù đã dùng hết hai tay mà kéo, con tàu chỉ lơ lững lướt qua đỉnh mấy ngọn cây. Hơn ai hết, Trí biết chàng đang bay trên một vùng núi non trùng điệp, nếu không kéo lên kịp thì tàu sẽ đâm vào núi. Mà con mãnh hổ của chàng như bị thương nặng quá rồi, nhất định không thèm lên nữa. Trí đành nghiến răng đạp hết bàn dạp trái và nghiêng hết về bên trái. Chiếc A1-H quẹo sát ngọn cây, cánh phi cơ móc theo một mớ lá. Trí lại nghe tiếng la hốt hoảng của Dương trong máy: - Một đây hai, một đây hai, tàu của một bốc khói rồi. Nhảy đi, nhảy đi... Nguy hiểm nhất là chàng không biết mình đang ở đâu và ở cao độ nào. Trí bấm máy tính hỏi Dương nhưng radio không còn làm việc nữa. Đó là lần cuối cùng chàng nghe được tiếng gọi của Dương. Kể từ giây phút này, Đại úy Trần Anh Trí đơn độc một mình trên bầu trời, không liên lạc được với ai và không biết mình ở đâu. Mắt mình sao mờ vậy kìa? Trí đưa tay lên dụi và nhận ra là mặt mũi tay chân toàn những máu là máu. Máu ướt đẫm bộ găng tay, máu trong nón bay, máu trong microphone... Càng dụi càng không thấy đường. Thế này thì đành phải nhảy dù ra vậy. Vĩnh biệt người bạn già thân thiết. Chẳng còn gì để suy nghĩ nữa. Phải nhảy ra ngoài trước khi tàu đâm vào núi hay nổ tung trên trời bởi đạn phòng không. Có thể mình sẽ nhảy ngay xuống đầu địch và sẽ được đi "du học Bắc Việt" nhưng ít nhất, xuống dưới đất còn có hy vọng sống để lập kế thoát hiểm. Trí thò tay xuống nắm chặt cần thoát hiểm và kéo mạnh. Không thấy gì. Trí kéo lần nữa, và lần nữa cũng chẳng thấy gì. Tiên sư, hoả tiển bắn ghế thoát hiểm ra ngoài đã tịt ngòi nó từ đời nào rồi. Vậy là hết. Chàng bị kẹt cứng trong phòng lái, không biết mình bị thương ở đâu, mắt không thấy đường và con tàu chỉ bay nghiêng mà không bay lên được. Lần đầu tiên, Trí nghĩ đến cái chết. Đời người trước sau ai cũng một lần chết mà. Điều quan trọng là cái chết của mình có hữu ích cho gia đình, cho tổ quốc, cho tha nhân hay không kìa? Chàng nhận ra là mình đã bay nghiêng như vậy được gần một phút đồng hồ mà không đụng núi. Với độ nghiêng này, một phút đồng hồ là đủ để làm thành một vòng tròn. Sách hình học ngày xưa dạy rằng quỹ tích của những điểm cách đều một điểm cố định sẽ là vòng tròn mà điểm cố định là tâm. Sách cơ học phi hành dạy rằng nếu quẹo một phi cơ và giữ mãi ở một độ nghiêng cố định, phi cơ sẽ làm một vòng tròn và quan trọng nhất, sẽ trở về điểm khởi hành. Vấn đề quan trọng là, chỉ sợ phi cơ phát nổ trước khi chàng trở về điểm khởi hành. Trí bỗng tìm ra đáp số cho số mạng của mình và cây súng phòng không khốn nạn kia. "Ông sẽ lao nguyên chiếc phi cơ này vào chúng mày, coi thử còn bắn được không cho biết." Dù chỉ thấy đường mờ mờ, Trí biết là nếu mình giữ được tàu ở một độ nghiêng cố định, mình sẽ trở về được điểm khởi hành tức là điểm có cây cao xạ của chúng nó, lúc chàng vừa kéo tàu lên. Bằng cảm giác, Trí giữ cho tàu quẹo ở một độ nghiêng không thay đổi. Con cọp già vẫn gầm gừ đểu đều, không có dấu hiệu gì sẽ bị phát nổ bất ngờ. Nhưng ai biết được, có thể giây phút đồng hồ tới, nó sẽ thay đổi... Giữa cảnh bi đát thê lương đó, tự nhiên lòng Trí thấy thanh thản vô cùng. Thanh thản như lần đầu tiên được lái máy bay đi solo, rong đuổi con tàu một mình trong vùng trời thênh thang im vắng. Nếu lấy cái chết của đại úy Trí để thế cho mấy trăm cái chết của các anh em bộ binh và trực thăng thì mình lời chán. Từ những ngày bắt đầu bay khu trục, Trí chưa bao giờ phục hay thích cái hình ảnh đâm tàu bay vào mục tiêu để tự sát của các phi công Nhật. Chàng cho như vậy là bất trí và dã man. Nhưng trong hoàn cảnh này, mình đã chiến đấu hết sức để làm trọn bổn phận, đã làm mọi cách để sống còn nhưng không được, thì sự lựa chọn "đâm cả phi cơ vào chúng mày" là một quyết định can đảm và sáng suốt, không phải là một cuộc tự sát điên cuồng. Khi quẹo đến vòng thứ hai, nhờ chút nhãn quan lờ mờ và tiếng tiếng nổ to lớn dị thường phát ra từ họng cây súng vĩ đại, Trí tìm được vị trí nó ngay. Nhìn thấy là mắt Trí long lên sòng sọc, mắt tóe lửa ra, uất hận thấu trời. Bọn khốn nạn! Chúng mày đem quỷ thuyết ngoại bang về đầu độc dân tộc, đem súng đạn ngoại bang về tàn phá và giết chóc đồng bào anh em, đã biến cả một nửa quê hương thành một địa ngục tăm tối nhất trần gian, chúng mày chưa biết hối hận hay sao mà còn muốn nuốt thêm cả mảnh đất thân yêu còn lại này? Tội lỗi này của bọn chúng mày biết mấy giòng sông mới rửa cho sạch? Bốn ngàn năm dựng nước của dân tộc có bao giờ đất nước lại lầm than và khốn nạn như thế này chưa? Tao chỉ tiếc lãnh đạo miền Nam yếu hèn để đến nổi quê hương gấm vóc phải tả tơi như thế này, và số mạng tao nửa đường đứt gánh, nhưng Trần Anh Trí này chết đi thì vẫn còn trăm ngàn Trần Anh Trí khác sẵn sàng đem máu đào ra để bảo vệ mảnh đất này. Chẳng còn gì để suy nghĩ và tiếc nuối nữa. Ai rồi cũng một lần chết. Được chết mà lấy xác khu trục bọc thân mình như ngày xưa người ta lấy da ngựa bọc thây là một vinh hạnh của người chiến sĩ. Đời người mấy ai được chết như thế? Trí nghiến răng, thét lên một tiếng kêu bi ai rùng rợn rồi lật úp tàu bay, cắm đầu thẳng xuống, nhắm cây phòng không đang nổ ròn rã lao tới. Làm sao trật được. Tuy nhản quan bị giới hạn nhưng trước khi phi cơ đâm vào ụ súng, Trí còn nhìn thấy rõ ràng mấy thằng lính bộ đội xâm lược hoảng hốt bỏ chạy lấy thân khi chiếc phi cơ lao tới... Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên khi chiếc Skyraider A1-H cắm đầu xuống ổ súng. Bụi và khói bốc lên cao đến nổi từ dưới chân đồi 982, các chiến sĩ của trung đoàn 45 bộ binh ai ai cũng nhìn thấy rõ. Trên cao, bất kể phòng không, chiếc A-1 còn lại đánh những vòng tròn dài nặng nhọc chung quanh đám bụi đất điêu tàn. Giữa những tiếng súng nổ, tiếng pháo rớt, tiếng cánh quạt trực thăng vừa đáp trên đỉnh đồi, tiếng động cơ lẻ loi của chiếc khu trục đơn độc trên bầu trời nghe u buồn và ai oán như tiếng tru thảm thiết của một con diều hâu khóc bạn... 16 giờ chiều ngày hôm đó, đúng như lời hứa, trung tá trung đoàn trường trung đoàn 45 bộ binh đáp trực thăng, đặt chân lên đỉnh ngọn đồi 982 để gắn lon đại uý cho trung úy An, đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát. Trận này, dù hiếm xăng hết đạn, quân ta đã thắng lớn. Xác chúng nó nằm dài dài khắp nơi... Thư viện Trần Quốc Tuấn 2 giờ sáng Oct 17, 1990
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 4:25:57 GMT 9
Giọt Nước Mắt của LínhNguồn: Bản Tin Của Tạp Chí Dân Văn để riêng tặng cô Hoàng Mai, chủ Snack-Bar tại mũi Nhà Bè các năm 1969, 1970 và các bạn MN đã từng đóng quân nơi này. Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo: - Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti (nick của tôi) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết.. Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi : - Cánh Hoa Thời Loạn, xong quay lại nói với chị, Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng. Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ Tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh... (Thơ của anh) * Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả... Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái... Họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó… Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhìn Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó. Chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cởi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã.... Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi thấy nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy. Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai Martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cả bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi. Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuốc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng dơ dáy của những lần làm tình trước. Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật... tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy. Rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút. - Tôi làm em ho ? Em không chịu được khóí thuốc? Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì. Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời... Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên. Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh. Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên. Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng. Anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng, trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói: - Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành! Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên! Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói: - Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi. - À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh: - Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, em giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan. Nhưng thú thật với em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh. Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh. Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm... Chút Quà Gửi Em Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác. Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng... Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn. Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì. Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: - Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon? Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây. Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị. Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn. Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp. Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ. Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ. - Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh, Gửi Em Chút Quà (Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.) mai lên nớ bao giờ gặp lại ta biết em trong phút si cuồng thằng lính trận thấy lòng ấm lại tình của mình dù chỉ một đêm.... mai lên nớ thèm môi nào ngọt phút hiến dâng như cả đời mình ta bỗng chốc thành thằng ngu độn chín bệ vàng hoàng hậu nương nương mai lên nớ say cùng chiến trận dòng chữ ghi ân hận chút tình bao giấy thuốc thơm tình lính trận gửi cho người tấc dạ trung trinh mai lên nớ nhớ thân thể nóng em rướn người vào bóng trăng tan..... Người lính không tên... Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt chan hoà.. Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh...hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi... Giọt Nước Mắt Biết Đau Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương. Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên. Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé, Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình. Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình. Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân.Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào. Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả...Pleime. Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn xe chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá. Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị. Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây.... Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom. Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết. Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa. Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa. ... Cuối tháng Tư 75. Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp. Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa con voi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát. Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm. Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi. Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu. Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng. Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy. Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình! Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu... Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ... 4 - Giọt Nước Mắt Trở Hồng Long Lanh (Tiếp theo giọt nước mắt biết đau ) Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm. Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam. Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người. Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ. Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm: Giữa khuya tay gối đợi chờ em đi vào giấc mơ đời lênh đênh trăng vào xiêm áo nhẹ tênh oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn.... Mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu... Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân . Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn. Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh ta leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình.... Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi. Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu: - Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu. Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản. Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng. Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận. Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt. Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu. Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con. Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt. Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà. ………….. 40 năm sau Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi: - Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo: - Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? Bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi, đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người: - Anh - Em... Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến. Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa. Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa? - Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em. Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi. Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp. Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi. Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh. - Sao em lại để dành số tiền này vậy? - Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi. - Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được - - Vì em không phải cần đến số tiền đó nên... Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước: - Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má. Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói: - Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba. Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói : - Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi: - Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường. - Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm... Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2020 7:07:22 GMT 9
CHUYỆN 30-4: VỢ CHỒNG ĐIỆP VIÊN Tác giả: Phạm Thành Châu
Tôi làm tình báo vì có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. Vì là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho Việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gõ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rõ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ vì một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người. Dĩ nhiên tôi trả thù. Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong phòng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có phòng vệ sinh trong nhà, khi cần thì ra sau vườn. Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn: - Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp. Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cõng trên lưng, ì ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi. Tôi khai thác tận tình cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật. Hắn van lạy, nhưng vô ích, hình ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đình tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài Gòn ở. Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các Tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác tình báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua Tỉnh khác. Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dõi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung. Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào Thị xã. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán. Họ chở bằng xe đạp, xe Lam hay xe bò. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát rình ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng tình nghi cả. Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quãng đường tối. Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố. Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay. Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đình nầy mới từ một Quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may. Tiệm của cô khá đông khách vì cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch. Nhiệm vụ của tôi là tìm cách tiếp cận cô để theo dõi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si tình cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng. Một buổi sáng Chúa nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô thì xe chết máy phải dừng lại sửa. Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo bình xăng con… toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ. Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về. Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà vì tôi là khách. Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ gì đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ. Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ý, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc trò chuyện tôi cho cô biết về gia đình tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết. Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít tinh, tôi phát ngôn bừa bãi ra người bất mãn chế độ. Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn. Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết mình đã được để ý, nhưng chỉ đến đấy thì hầu như bế tắc, tôi không biết được những gì chúng tôi cần. Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Thì ra, không hiểu vì sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng. - Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, còn quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em còn đồng nào đâu! Tôi hứa với cô là sẽ hết lòng tìm cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle còn xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra còn mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn. Từ đấy thái độ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa. Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như mình đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối. Vì nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm tìm một chỗ an toàn phía sau lưng. Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may. Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đình. Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng lòng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô. Tuần sau cô đồng ý nhận học trò. Được độ ba tháng nhờ sáng ý, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước. Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện. - Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi? - Em cắt chưa vững nhưng may thì khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp. - Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách. - Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền. Tôi tâm sự với cô học trò. - Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy còn ngại hình như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy tìm hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện trò với chị ấy không? Em sẽ chẳng làm gì cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với phòng thử áo quần. Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh. Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức. Thế là chúng tôi nghe rõ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong phòng thử quần áo. Một bộ phận khác rình thu hình những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra. Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa tìm ra! Trong nghề nầy, một chút sơ ý là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dõi mà không hay biết. Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đã bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đòn. Có thể cô làm bộ chuyện trò, hỏi han để tìm hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự… Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm. Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay. Mạng tôi đổi mạng cô thì không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú gì trong vai trò nầy cả. Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là nhược điểm của một tên tình báo non tay nghề như tôi. Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công Tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya. Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật… Chúng tôi đề nghị cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gõ cửa, còng tay, đẩy lên xe cây. Thường thì sau khi vở kịch đã hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Nhưng không hiểu sao hình ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi. Khi cô bị bắt, bị giam giữ, lòng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ý vấp ngã thấy đã động lòng rồi, huống gì cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đã bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt. Tôi đã nhiều lần bí mật nhìn cô ủ rũ ngồi ở một góc phòng giam, héo úa như không có linh hồn, không còn cảm giác, suy nghĩ gì. Tương lai là chết rũ trong tù, tình yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đã chấm hết. Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không còn là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đã được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đã được chùi sạch, để lộ ra hình ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi. Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô. Từ phòng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô. Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết gì về Việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh cảnh sát bỏ đi làm giấy tờ. Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nhìn tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố tình cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra vì tôi yêu cô. - Như em đã nghe lúc nãy, anh xin bảo lãnh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy. Nếu em thương yêu anh thực lòng thì em hãy lánh xa những gì có thể gây nguy hiểm cho em. Em còn mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đình, có con cái, sống hạnh phúc như bao người bình thường khác. Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm. Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài Gòn sống lẫn trong đồng bào thì sẽ không có ai quấy rầy em nữa. Chúng mình sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài Gòn sẽ làm đám cưới. Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cô đã hiểu ý tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may. Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài Gòn. Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi tìm mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dõi cô không phải đã chấm dứt. Công tác của chúng tôi thường được tình báo Mỹ yểm trợ. Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đã vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong. Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đã đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác. Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài Gòn với gia đình. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đình cô. Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, còn cô thì xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất. Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn vò mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nhìn tôi mỉm cười. Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rõ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô… Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện trò đến khuya mới chia tay. Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi. Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu “Được thư anh, em khóc mấy hôm nay vì vui mừng. Cám ơn anh đã hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em”. Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài Gòn, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đã sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn phòng vừa mới được xây thêm. - Mẹ ngủ phòng ngoài kia, em ngủ trong nầy. - Còn anh thì nằm dưới đất? Cô đỏ mặt nhưng sung sướng. - Anh với em phòng nầy chứ. Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đình tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đình với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp gì mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường mình dạy. Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị. Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi thì tíu tít hỏi han, trò chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về vì cảm động. Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đã hứa với nhau phải giữ gìn, để dành cho ngày hôn lễ. Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có hình quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, hình đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu thì cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó. Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm 1975 miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan rã như bọt nước. Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế vì miền Trung đã rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù hình như chưa biết gì về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Việt cộng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lý lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học. Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gõ cửa, còng tay tôi dẫn ra xe. Thoạt nhìn, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi còn thấy một xe mang số ẩn tế Sài Gòn, tôi biết ngay bọn chúng đã tìm ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ? Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội còn trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào Ty cảnh sát (cũ), còn xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài Gòn khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức. Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội trình giấy và nói gì đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngãi trời đã rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nhìn quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi. Hoá ra chúng tôi đã lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gã thầy tu khất thực. Tôi cay đắng cười thầm mình thua trí một người đàn bà, cô đã ngụy trang một cách tài tình, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà còn đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô. Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đã đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ. Ấy vậy mà tôi cứ tưởng tình yêu chân thành của tôi đã cảm hoá được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ gì về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lãng mạng tiểu tư sản? Xe đến Bình Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở còng nhưng dặn: - Cần gì nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ. Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, còn cô ta thì ngồi riêng. Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoãn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi. Nhưng tôi đã lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngã ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo. Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hoà quẹo hướng Vũng Tàu. Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đã bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù. Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh mì thịt, xe vào một khách sạn hạng trung bình. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị còng tay cho vào phòng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa. Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay. Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái còng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đã có được lúc tôi đòi đi tiểu ở hàng cơm ở Bình Định. Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh mì nữa, chúng lại còng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong phòng tôi, thay phiên nhau lõ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi. Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đã dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ý tôi rất tài. Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng mình có được cô vợ toàn tâm toàn ý, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ý kia lại hại tôi. Cô đã thấy được không sai chạy những gì tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề phòng ngay. Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Bãi Sau. Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ rì rào, buồn bã. Xe chạy đến cuối bãi thì dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại. - Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra. Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại. - Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đã giết hại gia đình mình và bao nhiêu đồng chí khác nữa. Đúng là oan oan tương báo. Tôi đã xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy. Nhưng tôi không nhớ rõ mình đã làm gì để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia? Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đã phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quãng cách giữa cô và tôi. Tầm vóc cô thì tôi còn lạ gì. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đòn chân, tôi có thể đá gãy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắc. Trong bóng tối thì bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau. Tôi lần tìm cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khoá còng tay. Được một quãng, khi đoán đã xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đòn thì cô mở băng bịt mắt tôi. - Anh cõng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện gì, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia. Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cõng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng. Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam. Phạm Thành Châu
|
|
|
Post by Can Tho on May 16, 2020 2:24:45 GMT 9
NÂNG CẤP Ô SIN
Câu chuyện siết nợ bằng cách cưới con nợ làm vợ .
Sao các đại gia không vào hành lang bệnh viện mà tìm tình một đêm?
Năm trăm đô, hai trăm đô cũng được. Tôi cao 1m68, ba vòng đủ chuẩn, mặt xinh, da trắng. Tôi sẽ bán tôi ngay để đủ tiền phẫu thuật cho mẹ. *** 1. Đã một tuần ăn chực nằm chờ trong bệnh viện, nhưng tôi vẫn không thể nào thích nghi được với không khí ở đây.
Từ khoa điều trị của mẹ muốn xuống căng tin phải đi qua lối vào nhà xác. Mỗi lần hai mẹ con dìu nhau đi, tôi cứ phải cố dấn bước cho nhanh và mắt nhìn thẳng tắp. Để bảo vệ chút mạnh mẽ còn lại mà không đổ gục. Nhà tôi, mẹ góa con côi, nếu tôi cũng quỵ, sẽ chẳng còn ai làm chỗ dựa cho mẹ.
Hết một tuần, tất cả kết quả xét nghiệm đều đi đến chung một kết luận: Khối u của mẹ lành tính nhưng bắt buộc phải phẫu thuật.
Nỗi vui mừng chưa kịp nhen nhóm thì số tiền dự tính phải chi trả đã tàn bạo bóp nghẹt trái tim tôi lần nữa.Tôi có bán răng, bán tóc, bán máu, bán cả nhà cũng không thể đủ một nửa con số hơn trăm triệu đồng. Huy động tất cả người thân, bạn bè quen biết được vỏn vẹn hai chục triệu. Cây vàng mẹ định để dành làm của hồi môn cho tôi phải bán đúng lúc giá chạm đáy cũng chỉ gom thêm được bốn chục triệu nữa. Con số sáu mươi triệu đồng còn lại cứ như cái thòng lọng treo lơ lửng trên đầu tôi.Không có nó, mẹ không thể phẫu thuật được.
Thời gian càng kéo dài, xác suất an toàn sẽ càng giảm. Chưa bao giờ tôi lâm vào tình trạng quẫn trí như lúc này. Sao các đại gia không vào hành lang bệnh viện mà tìm tình một đêm? Năm trăm đô, hai trăm đô cũng được. Tôi cao 1m68, ba vòng đủ chuẩn, mặt xinh, da trắng. Tôi sẽ bán tôi ngay để đủ tiền phẫu thuật cho mẹ. *** Mỗi buổi sáng, bác sĩ điều trị cho mẹ đi qua thăm khám đều hỏi han về tình hình chuẩn bị của chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ khóc trước mặt bác sĩ, nhưng sắc mặt tôi trông còn thảm hơn cả khóc, nên bao giờ anh cũng ái ngại quay đi. Phòng bệnh của mẹ có mười hai người, chen chúc trong sáu cái giường cá nhân.
Buổi sáng hôm thứ sáu, bác sĩ điều trị của mẹ đi vào, mang theo mười hai cái phong bì, bảo là của các nhà hảo tâm gửi tặng. Mười một cái đều chỉ có một triệu đồng, riêng cái của mẹ tôi là năm triệu đồng, kèm theo tín hiệu "bí mật". Có nhiều tiếng khóc cùng lúc sụt sùi. Bác sĩ thấy ngại sao đó mà đi ra ngay, còn bảo tôi cuối giờ lên khoa gặp.
Ai đã từng vào chăm bệnh nhân trong viện mới cảm nhận được hết cái thấp thỏm trong câu hẹn gặp với bác sĩ. Thường là vì tình trạng bệnh tiến triển không tốt bác sĩ điều trị mới phải gặp riêng người nhà. Cũng có khi vì phí điều trị tự nhiên lại đội lên quá cao. Với người giàu mà nói, đây không phải là khó khăn gì ghê gớm. Nhưng với dân nghèo như chúng tôi, mức độ sát thương của nó như các cư dân mạng hay nói, đúng là "vô đối". Cho nên, suốt cả ngày hôm ấy tôi hết đi ra lại đi vào, giơ tay xem đồng hồ liên tục, đến mức chính mẹ cũng bị lây cảm giác căng thẳng. Khi kim giờ chỉ đúng số năm, tôi lao như tên bắn qua hành lang bệnh viện. Ngồi trong phòng của anh rồi, hơi thở vẫn chưa điều hòa nổi, lòng bàn tay tôi túa mồ hôi lạnh toát.
Không có tiên liệu xấu nào cả. Anh chỉ cho tôi thêm một con đường sống. Tôi phải cấp tốc mua bảo hiểm cho mẹ, trước thời gian phẫu thuật. Anh thậm chí còn giới thiệu người có thể giúp tôi đẩy nhanh và hợp thức hóa các thủ tục. Tôi trào nước mắt cám ơn. Anh lại lúng túng: - Cũng không giúp được gì nhiều đâu, vì ca mổ của mẹ em là tự nguyện, nên bảo hiểm chỉ trả giúp một phần viện phí. Giảm được khoảng 20% tổng chi phí là cùng! Tôi lẩm nhẩm trong óc, 20% của 120 triệu nghĩa là hơn hai chục triệu. Nghĩa là nỗi lo của tôi giảm xuống chỉ còn hơn ba chục triệu nữa thôi. Một triệu đồng lúc này cũng quý, nói gì đến hơn hai chục triệu. Nhưng một tuần sau đó tôi vẫn không biết làm cách nào để xoay ra hơn ba chục triệu đồng.
Túng quá hóa liều. Tôi một lần nữa gõ cửa phòng bác sĩ điều trị chính. Trong tay là một hợp đồng đã soạn sẵn, ký sẵn.
Tôi mạo muội đề nghị anh bảo lãnh cho ca mổ của mẹ tôi.
Tôi biết điều này là bất khả thi. Trong bệnh viện lúc nào cũng có người nghèo. Mạng ai cũng quý. Ai cũng muốn nhờ bác sĩ bảo lãnh. Mà bác sĩ thì không là thánh. Nhưng tôi có một niềm tin mơ hồ: Hình như anh để ý đến tôi. Có để ý mới đưa phong bị dày hơn những người khác. Có để ý mới nói giúp việc làm bảo hiểm, không bác sĩ nào rỗi hơi lại đi mách bệnh nhân cách lách luật rắc rối và có phần trái quy tắc như vậy? Trong hợp đồng thảo sẵn, tôi đề nghị làm giúp việc không công cho gia đình bác sĩ trong 3 năm, bảy ngày trên tuần, ba giờ mỗi ngày.
Không ngờ, anh nhìn tờ giấy rồi cười, đẩy lại phía tôi không nói gì. Cuống quá, tôi nói thẳng tưng mà không hề đỏ mặt: - Hay là anh mua em đi, toàn quyền sử dụng trong một năm. Em cam tâm tình nguyện! Lần này, anh đơ ra một lúc, mặt đỏ bừng. Tôi gần như tuyệt vọng, thiếu chút nữa thì nằm lăn ra phòng anh ăn vạ.
Một lúc sau anh bảo tôi chuẩn bị, thứ ba sẽ mổ cho mẹ.
Tôi gần như bay ra khỏi phòng anh, bất chấp nỗi ê chề bán thân vô tiền khoáng hậu kia.
Trước mắt tôi chỉ còn viễn cảnh mẹ sẽ được phẫu thật, sẽ khỏi bệnh, khỏe mạnh trở lại. Tôi làm gì còn người thân nào khác trên đời này! Ca phẫu thuật của mẹ rất thành công. Lúc này tâm trí tôi mới trở lại trạng thái bình thường. Nghĩ đến cái hợp đồng vẫn bỏ lại trong phòng anh, không khỏi ngượng ngùng. Nhưng mãi vẫn không thấy khổ chủ đòi nợ. Gần ngày mẹ ra viện, tôi lần nữa vác mặt mo đi đề nghị người ta "nghiệm thu" mình. **** 2. Tôi ngoài ba mươi tuổi. Bác sĩ của một bệnh viện lớn. Độc thân nhưng hình như không có duyên lắm với phụ nữ. Lần đầu nhìn thấy em đã rung rinh. Em rất đẹp, lại hiếu thuận. Chăm chút mẹ từng li từng tí.
Làm việc trong bệnh viện lâu rồi, tôi đã chứng kiến không ít cảnh các ông bố bà mẹ cô đơn vò võ điều trị nội trú, toàn bộ việc chăm sóc phó mặc cả cho điều dưỡng viên, con cái một tuần tới điểm danh một lần đã là nhiều. Thế nên, hình ảnh của em ngày ngày chăm chút mẹ tận tâm tận lực lại khiến tôi để tâm. Mẹ em phải phẫu thuật, lần lữa mãi mà không thu xếp đủ tiền, tôi cũng có chút động lòng.
Mẹ tôi năm nay ngoài bảy mươi tuổi. Bố tôi mất đã năm năm, sở thích còn lại duy nhất của bà là chăm tôi và làm từ thiện. Lương hưu của bà không đáng là bao, ngày ngày bà may áo, đan len, rồi cứ gom lại từng tí một, thành một chục là hớn hở mang cho trẻ con nghèo.
Trước đây, mẹ cũng hay mang vào viện tôi nhưng từ khi tôi bảo: Bệnh nhân thường họ không thiếu mấy thứ mẹ cho, cái họ thiếu nhất là tiền, thế là mẹ chuyển mục tiêu sang mấy xã ngoại thành và các xã vùng núi theo chương trình của Hội Chữ thập đỏ.
Gần đây, mẹ vận động được cả các cô chú và bạn bè ở nước ngoài gửi tiền về làm từ thiện, thỉnh thoảng được một cục, mẹ lại tất tả đem cho.
Tháng trước, mẹ đi đường bị xe tông gãy chân, thế là phải nằm một chỗ, không đi lại được. Cục tiền của mẹ, tôi phải làm nhiệm vụ mang vào viện phân phát. Thực lòng, tôi không quen làm việc này nhưng trước sức ép của mẹ, đành chia ra các phần bằng nhau, đem chia cho phòng điều trị của mình, năm phút là xong. Riêng phong bì của mẹ em, tôi cố tình nhét thêm bốn triệu đồng. Cũng như muối bỏ bể mà thôi!
Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được em lại đề nghị "bán mình" cho tôi với cái giá như vậy. Nhất thời không biết phản ứng thế nào nên cứ ngồi ngậm hột thị.
Nhìn gương mặt tuyệt vọng của em, tôi biết mình chẳng còn lựa chọn nào khác. Thế là rút tiền túi ra giúp bệnh nhân. Cũng chẳng phải vì lòng tốt như mẹ tôi, mà là vào cái thế không thể rút chân ra được nữa.
Ngày mẹ em ra viện, em lần nữa nhắc lại chuyện phải "thanh toán" hợp đồng. Tôi lại lần nữa bị ép phải nói rằng: -“Cứ coi như nợ anh, khi nào có tiền thì trả!". Không ngờ em "chốt hạ" ngay: -Thế này vậy, nếu anh đã chê em thì làm theo phương án thứ nhất đi! Em biết mẹ anh đang ốm, cũng cần người giúp đỡ. Từ tuần sau, sau giờ làm em sẽ đến nhà anh giúp việc nhà. Em biết địa chỉ rồi, anh đừng ngại!
Em làm Ôsin cho nhà tôi được đúng sáu tháng thì mẹ tôi một hai đòi nâng cấp em làm con dâu. Đến nước này tôi mà còn vờ vịt lập topic "có nên siết nợ bằng cách cưới con nợ hay không?" thì thật nhảm!!!
St # nhungcauchuyenthuvi
|
|
|
Post by Can Tho on May 28, 2020 9:23:50 GMT 9
NGƯỜI BẠN HỌC VÀ ÔNG THẦY CŨ PHẠM TÍN AN NINH
Đơn vị tôi, dù đã tạo được những chiến thắng lẫy lừng trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, để có một “Kontum Kiêu Hùng” và giữ vững được Tây Nguyên, nhưng có chiến thắng nào lại không phải trả giá bằng máu xương chiến sĩ. Để kịp thời đối phó với tình hình chiến tranh leo thang, ngày một khốc liệt, đơn vị cần được khẩn cấp bổ sung quân số, từ cấp đại đội trưởng cho đến khinh binh. Số lượng sĩ quan, hạ sĩ quan tốt nghiệp ở các quân trường không đủ, nên Bộ TTM phải ban hành kế hoạch “đôn quân”, đưa những quân nhân phục vụ lâu năm từ các tiểu khu, các quân trường, trung tâm huấn luyện, ra bổ sung cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt quân số.
Tháng 5-1973. Thời gian này tôi đang đảm trách một phần hành tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Trong lần đơn vị tiếp nhận một số khá đông sĩ quan và hạ sĩ quan, tôi bất ngờ nhận ra trong số những người đang xếp hàng trình diện ông Trung Đoàn Trưởng có một người bạn học khá thân và một vị giáo sư thời trung học ngày xưa. Thằng bạn mang cấp bậc đại úy – tôi đã biết từ trước, nhưng điều đặc biệt làm tôi ngạc nhiên là ông thầy chỉ mang cấp bậc trung sĩ nhất. Thoáng có một chút ngờ vực, tôi bước tới gần ông hơn để chắc chắn là trí nhớ của mình không tệ lắm.
Chờ thủ tục trình diện xong và sau khi ông Trung Đoàn Trưởng dặn dò vài điều cần thiết, tôi chạy đến ôm chầm lấy người bạn và kéo đến gặp ông thầy còn đang đứng ngơ ngác trong hàng. Thằng bạn không nhớ ông thầy, có lẽ nó chỉ học với ông một vài tháng ngắn ngủi. Và dường như ông thầy cũng chưa nhận ra tôi, nên vội đứng nghiêm đưa tay lên chào. Tôi kéo cả hai người vào một căn hầm lớn được dùng làm Trung Tâm Hành Quân, nơi tôi đang làm việc.
Đỗ Bê, bạn tôi, quê ở trên Thành – Diên Khánh. Học cùng lớp với tôi những năm đệ nhất cấp bên trường Văn Hóa. Lớn hơn tôi một tuổi, đẹp trai, tính tình hiền lành và rất hiếu học. Bê và người bạn cùng quê, anh Phan Ái Minh, cũng là bà con họ hàng, thuê một căn nhà nhỏ ở sau khu đình Phương Sài trọ học. Tôi thường đến đây chơi với Bê, nên sau này cũng trở nên thân thiết với Minh. Sau khi đỗ trung học, Bê và tôi cùng vào đệ tam trường Võ Tánh. Bê học Ban A còn tôi Ban C. Phan Ái Minh thì học ở đây từ trước và trên bọn tôi một lớp. Sau này, cả ba thằng đều đi lính. Phan Ái Minh vào Khóa 20 trường Võ Bị Đà Lạt, còn Bê và tôi vào Thủ Đức. Minh nhập học Võ Bị trước một năm nhưng ra trường sau tôi sáu tháng. Ra trường Minh được bổ sung về cùng trung đoàn với tôi, nhưng khác tiểu đoàn. Một tháng sau, khi tôi còn đang hành quân trên Lâm Đồng thì nghe Minh tử trận ở Lạc An. Hai đứa đã hẹn nhau trong hệ thống vô tuyến, để rồi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại.
Đỗ Bê vào Thủ Đức sau tôi một khóa. Ra trường được bổ sung về làm huấn luyện viên tại Trung Tấm Huấn Luyện Lam Sơn – Dục Mỹ. Sau đó, tôi chỉ gặp Bê một lần duy nhất vào cuối năm 1970, khi bạn tìm đến thăm tôi đang nằm điều trị vết thương tại Quân y Viện Nguyễn Huệ, mang cho tôi ít đồ dùng, một xâu nem Ninh Hòa và mấy lon bia. Bê dìu tôi ra chiếc ghế đá phía sân sau, vừa uống bia vừa nghe tôi kể chuyện chiến trường. Thấy tôi hành quân vất vả, bị thương mấy lần, nó an ủi, bảo là số nó nhiều may mắn hơn tôi.
Thầy tôi, giáo sư Hồ Đắc Huế, là ông thầy đầu tiên khi tôi bắt đầu bậc trung học. Năm 1958 tôi thi rớt vào lớp đệ thất trường công lậpVõ Tánh. Ngôi trường nổi tiếng vùng duyên hải miền Trung. Buồn và xấu hổ với đám bạn bè cùng quê, nhất là hối hận vì đã làm cha tôi thất vọng. Thời ấy ở quê tôi chưa có trường trung học nào. Chưa biết phải làm gì thì một buổi chiều, sau khi đi làm về, cha tôi cho biết có một giáo sư từ trường trung học Bồ Đề Nha Trang ra Vạn Giã, quê tôi, mở trung học tư (cũng mang tên Bồ Đề), nhưng trước khi niên học bắt đầu vào mùa thu, ông sẽ mở một khóa Hè đặc biệt dành cho các học sinh trung học. Điều đặc biệt bất ngờ hơn, cha tôi bảo là thời gian đầu ông sẽ trọ ở nhà tôi, vì chưa tìm được nhà để thuê. Ông tên Huế và cũng là người gốc Huế, bà con họ hàng với người bạn thân của cha tôi ở Nha Trang, cũng là một ông thầy giáo gốc Huế khác. Chính ông giới thiệu thầy và nhờ cha tôi giúp.
Không biết là thầy có những bằng cấp gì, nhưng ông dạy rất nhiều môn, từ Việt Văn, Pháp Văn đến Toán, Lý Hóa. Môn nào thầy dạy cũng hay, đặc biệt thầy nói tiếng Pháp nghe cứ như Tây. Sau này tôi mới biết là thầy từng du học ở Pháp. Nghe tiếng của thầy, học trò kéo đến học rất đông. Học phí thấp. Biết đứa nào nhà nghèo thầy chỉ lấy tượng trưng.
Thầy khá đẹp trai, mái tóc bồng bềnh và đôi mắt thật buồn. Trông thầy có dáng dấp một nghệ sĩ hơn là ông thầy giáo. Có hai điều giống cha tôi là thầy rất thích đánh cờ tướng và hút thuốc liên tục. Dường như lúc nào tôi cũng thấy có điếu thuốc trên tay thầy. Và cả hai người đều hút Bastos xanh. Cứ mỗi lần tôi đi mua thuốc cho cha tôi thì thầy nhờ mua thêm cho thầy mấy gói. Cha tôi dành cho thầy căn phòng lớn nhất trong nhà, có cửa ra vườn sau. Khu vườn nhỏ chỉ trồng mấy cây cam và một vòm hoa giấy. Có lẽ lúc ấy tôi còn con nít, nên thầy chỉ thường ngồi đánh cờ và tâm tình với cha tôi. Nhưng buổi tối, những lúc thầy ngồi đàn hát phía sau vườn, tôi được thầy gọi cho ngồi nghe và bảo tôi “chấm điểm những bài hát của thầy”. Thầy hát rất hay những bài do chính thầy sáng tác, hoặc phổ từ những bài thơ của thầy. Hầu hết là những bản nhạc buồn. Giọng trầm và tha thiết. Thầy nhìn vào xa xăm và hát như là đang trút tâm sự cùng ai đó chứ không phải cho tôi nghe. Ban đầu tôi cứ tưởng tôi là thính giả duy nhất của thầy, nhưng sau này tôi mới bất ngờ khám phá một điều, có một người đàn bà trẻ thường xuất hiện sau vườn nhà tôi, phía bên kia hàng rào dâm bụt, trong những đêm thầy ngồi đàn hát.
Không biết là vì đẹp trai hay hát hay, mà thầy đã làm xiêu lòng người góa phụ trẻ có nhan sắc. Tôi biết chắc điều này, vì bà đã “hối lộ” tôi mấy lần để đưa cho thầy mấy bài thơ, và dặn dò tôi không được cho ai biết, kể cả cha tôi. Nghe nói bà là vợ của một ông cán sự Nông Lâm Súc làm việc ở Hiệp Hội Nông Dân, bị tử nạn giao thông trên Đèo Cả, chỉ sau một tháng làm đám cưới. Bà là cô giáo dạy trường huyện, ở xa tới, hình như là Phan Rang hay Đà Lạt gì đó, thuê nhà phía sau nhà tôi. Thỉnh thoảng tôi thấy có mấy ông thầy giáo trẻ đồng nghiệp và cả mấy ông Hiến Binh mũ đỏ lai vãng trước nhà bà.
Một hôm thầy đột ngột dọn ra khỏi nhà tôi, sau khi nói chuyện với ba tôi. Thầy sang tá túc bên hông chùa, nằm ngay phía sau trường Bồ Đề, lúc ấy chỉ có ba phòng học. Cha tôi ngạc nhiên, vì trước đây thầy cho biết thầy ăn mặn và sống hơi phóng túng, ngại làm phiền nhà chùa nên mới đến trọ ở nhà tôi. Sau khi tôi tiết lộ chuyện những bài thơ của người đàn bà trẻ phía sau nhà, cha tôi tròn mắt rồi gật đầu bảo có lẽ đó chính là lý do thầy dọn đi. Trong những lúc tâm tình, thầy thường nói với cha tôi, thầy rất sợ đàn bà.
Mãn khóa Hè, thầy ghé lại nhà tôi, thăm và cám ơn cha tôi. Thầy khen tôi học khá, đề nghị nên cho tôi học đệ lục thay vì đệ thất. Hơn nữa tuổi tôi cũng hơi cao. Cuối cùng trước khi chia tay, thầy cho biết là sẽ rời quê tôi về lại Nha Trang, và có thầy Trần Đức Trang, một vị giáo sư lớn tuổi, có kinh nghiệm về tổ chức và hành chánh, ra thay thế thầy để thành lập và làm hiệu trưởng trường Bồ Đề Vạn Ninh, nhưng không phải bắt đầu từ niên khóa này mà phải chờ đến niên khóa tới, vì các thủ tục chưa hoàn tất kịp. Do đó, tôi phải khăn gói vào Nha Trang. Và theo sự khuyến khích của thầy, thay vì bắt đầu lớp đệ thất, tôi vào học lớp đệ lục trường Văn Hóa, ngôi trường tư thục mới mở ở đầu đường Quốc Lộ 1, gần nhà chú tôi, nơi tôi trọ học.
Bẵng một thời gian hơn hai năm tôi không gặp thầy, mặc dù nhiều lần lên trường Bồ Đề Nha Trang hỏi thăm thầy, nhưng không ai biết. Có người bảo thầy đã về Huế, có người lại bảo đang dạy ở Sài Gòn. Bỗng một hôm tôi bất ngờ thấy thầy xuất hiện trong văn phòng trường Văn Hóa, nơi tôi đang theo học. Gặp lại nhau, thầy trò mừng lắm. Thầy bảo từ Sài Gòn mới về lại Nha Trang và sẽ dạy môn Sử Địa cho các lớp đệ tứ và đệ nhị, thay cho thầy Nguyễn Mậu, vừa đắc cử vào Hạ Nghị Viện. Tôi nhảy cỡn lên vui mừng, vì tôi đang học lớp đệ tứ, sẽ được học với thầy. Thầy chỉ cho tôi đường đến nhà thầy và bảo cuối tuần ghé lại chơi. Thầy thuê một căn nhà nhỏ trong con hẻm lớn, phía trước trường đi xuống Rộc Rau Muống. Ngôi nhà khá xinh xắn, khang trang. Khu vườn nhỏ phía sau trồng đầy hoa cúc và một hàng rào phủ kín hoa tigôn.
Một ngày cuối tuần tôi đến thăm thầy, bất ngờ gặp một chị bạn cùng lớp đang ngồi đánh cờ tướng với thầy. Chị bạn mới vào học năm đệ tứ, cũng gốc Huế, là một người con gái đẹp, nhưng lúc nào cũng u buồn, nhất là đôi mắt. Chị có vẻ lớn tuổi hơn bọn tôi. Trong lớp thường ngồi im lặng, không thân thiết và đùa giỡn với bất cứ ai, kể cả nữ sinh, nhưng ai cũng quý chị. Tôi ngồi xem ba ván cờ. Không biết thầy có nhường hay không nhưng chị bạn tôi thắng cả ba bàn. Lần đầu tiên tôi biết có một người con gái giỏi cờ tướng như vậy. Và cũng lần đầu tiên tôi thấy được nụ cười của chị. Lần sau đến thăm thầy, tôi lại gặp chị, đang ngồi hát cho thầy đệm đàn. Khung cảnh thật lãng mạn. Hết bản nhạc, thầy đứng lên treo cây đàn trên vách, đi lấy thêm một cái tách nhỏ, mời tôi cùng ngồi uống trà. Loại trà Huế có mùi thơm rất đặc biệt. Trông hai người khá tâm đắc. Tôi ái ngại khi phải xen vào cái không khí yên ả và tình tự của hai người, nên viện nhiều lý do để không đến thăm thầy nữa.
Khoảng hơn một tháng sau, chị bạn nghỉ học. Chúng tôi đọc trên báo mới biết chị vừa đóng vai chính một cuốn phim khá nổi tiếng. Nghe nói, khi thực hiện bộ phim này, ông đạo diễn Lê Hoàng Hoa không tìm được tài tử nào thich hợp để thủ vai chính. Một hôm ghé lại Nha Trang, lang thang một mình trên bãi biển, bất chợt ông bắt gặp ánh mắt u buồn của một cô con gái đang ngồi một mình nhìn về cõi xa xăm, tĩnh lặng và đẹp như một bức tượng, không hề biết có ông đang đứng thật gần. Ông lặng yên khá lâu rồi xin phép được nói chuyện. Cô con gái lưỡng lự, gật đầu. Ông đạo diễn đã tìm được một người lý tưởng để thủ vai chính cho cuốn phim đắc ý của mình. Cuốn phim nói về một cuộc tình buồn, có nhiều cảnh đóng ở Nha Trang. Ông đạo diễn muốn thực hiện một bộ phim để kỷ niệm nơi ông đã sinh ra, mặc dù sau đó ông đã sống những ngày tuổi thơ và lớn lên ở Huế.
Bộ phim đã làm cho khán giả tốn nhiều nước mắt, qua khuôn mặt xinh xắn và đôi mắt u buồn rất thật của cô gái Huế thủ vai chính. Bộ phim thu nhiều lợi nhuận cho đạo diễn và nhà sản xuất. Nhưng người thủ vai chính không bao giờ còn xuất hiện. Cô đã uống thuốc độc quyên sinh. Hôm đám tang, thầy Huế dẫn cả lớp đệ tứ chúng tôi theo sau quan tài tiễn đưa chị về cõi vô cùng. Đám tang thật buồn. Thầy Huế mang kính đen, nhưng tôi có cảm giác phía trong đôi kính ấy đong đầy nước mắt. Báo chí có đề cập đến cái chết của chị, người “tài tử” bất đắc dĩ rất tuyệt vời này, nhưng không ai biết chính xác lý do vì sao chị phải tìm cái chết, ngoài những tin đồn.
Một lần nữa, thầy bỗng dưng biến mất. Không ai gặp thầy ở Nha Trang. Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Bá Mậu, chuyên dạy Pháp văn, phải tạm thời thay thầy, dạy môn Sử Địa lớp tôi để kịp kỳ thi trung học. Và cũng từ hôm ấy tôi không biết tin tức gì về thầy Huế, và trong lòng cứ mãi băn khoăn bao điều không hiểu được, về thầy.
Hôm nay, ở một nơi chẳng một ai muốn hẹn, tôi bất ngờ gặp thầy. Thầy lại mang đến cho tôi thêm một điều khó hiểu: tại sao thầy chỉ là trung sĩ 1? Tôi khui hộp bánh trong khẩu phần lương khô (Ration C) và làm ba ly cà phê “dã chiến” mời thầy Huế và bạn Đỗ Bê uống mừng cuộc trùng phùng. Nghe thầy cứ gọi thưa chúng tôi bằng cấp bậc, tôi ôm vai thầy:
– Bất cứ trong hoàn cảnh nào, hai thằng chúng em cũng luôn là học trò của thầy. Xin thầy cứ gọi chúng em là em như thưở nào, chỉ ngoại trừ khi phải đứng trước hàng quân. Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng này, em rất thèm được nghe có người gọi mình là em.
Thầy nở nụ cười rồi lưỡng lự gật đầu. Lâu lắm gặp lại nhau, có bao nhiêu điều muốn hỏi, nhưng thấy ánh mắt lo lắng của hai người khi nhìn ra khung cảnh đổ nát chung quanh còn ngổn ngang các xác xe tăng bị cháy, tôi chỉ hỏi thăm sức khỏe và gia đình. Điều thắc mắc nhất là cái lon trung sĩ 1 của thầy, nhưng việc này khá tế nhị nên tôi cũng không dám hỏi. Thầy bảo thầy thuộc quân số Tiểu khu Tuyên Đức hơn năm năm nay nhưng may mắn được nằm trong toán phụ trách trông coi các biệt điện của Vua Bảo Đại để lại ở Đà Lạt. Có lệnh đôn quân, cần 20 hạ sĩ quan bổ sung gấp cho Sư Đoàn 23, tất cả hạ sĩ quan đều phải bắt thăm. Ông là một trong số 20 người “không may mắn” đó. Tôi bảo sẽ cố gắng giúp hai người bằng tất cả khả năng của mình. Thầy Huế thì dễ dàng hơn để xin sắp xếp vào một ban tham mưu nào đó ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn, còn bạn Đỗ Bê với cấp bậc Đại úy, rất khó, hơn nữa theo lệnh ông Tư Lệnh Sư Đoàn, phải bổ sung tất cả sĩ quan cho các tiểu đoàn tác chiến, mặc dù Bê chưa có một kinh nghiệm chiến trường nào.
Tôi nhớ tới khả năng làm thơ, soạn nhạc và đàn hát của thầy Huế ngày xưa, nên đi gặp anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT xin anh nhận thầy về làm việc với anh. Tôi cũng giới thiệu với anh, ông là thầy cũ rất đáng kính của tôi thời trung học. Nể tình quen biết, anh Thiếu tá theo tôi đến Ban Quân số, xin nhận Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế về Khối CTCT. Thầy nắm tay tôi ái ngại, bảo là không muốn làm phiền tôi, và cũng không muốn người chỉ huy nghĩ là thầy nhờ tôi gởi gấm. Tôi ôm vai thầy bảo là khả năng của thầy rất xứng đáng để làm việc ở Khối CTCT. Sau này, thầy cho biết là anh Thiếu Tá Trưởng Khối đối xử rất tốt với thầy. Tôi không nhận thầy về làm việc với tôi, vì muốn tránh gây sự khó chịu cho thầy và cả cho tôi.
Người bạn Đỗ Bê thì được bổ sung về Tiểu Đoàn 1. Tôi gặp ông Trung Đoàn Trưởng trình bày trường hợp Đỗ Bê, là bạn học và từ khi ra trường Thủ Đức, anh chưa giữ chức vụ tác chiến bao giờ nên đề nghị không đưa Bê ra làm đại đội trưởng tác chiến, mà nắm đại đội chỉ huy của Tiểu Đoàn 1, đang khiếm khuyết, để có thời gian làm quen với chiến trận.
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 là Thiếu Tá Phan Văn Khánh, từ binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt (giải tán) mới thuyên chuyển về. Anh Khánh tốt nghiệp Khóa 12 VBĐL, nhưng vì phục vụ trong Liên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, thời chính phủ Ngô Đình Diệm, dưới quyền Đại tá Lê Quang Tung, nên sau ngày 1.11.63, anh bị đám tướng tá đảo chánh bắt giam, và sau này còn gặp nhiều rắc rối. Khi mới về Trung Đoàn, anh tạm thời ở Bộ Chỉ Huy, chưa được giữ chức vụ gì. Biết anh là một niên trưởng, rất tư cách, lại có gia đình ở Nha Trang, nên tôi rất kính trọng và thân thiết. Tôi giới thiệu Bê với anh và nhờ anh giúp đỡ, chỉ vẽ cho Bê thời gian đầu ở đơn vị tác chiến. Chỉ hai tháng sau, anh Khánh cho biết Bê rất tư cách, sớm thích nghi, can đảm và có khả năng lãnh đạo chỉ huy, nên anh đã đề nghị đưa Bê lên làm tiểu đoàn phó thay cho người tiền nhiệm vừa bị trọng thương vì đạn pháo kích của địch. Hơn nữa, so với các đại đội trưởng, Bê có cấp bậc thâm niên nhất. Sau cuộc hành quân, khi Tiểu Đoàn về dưỡng quân tại khu Phương Hòa, bên bờ sông Dakbla, tôi ghé lại thăm Bê, mừng và khen nó. Tôi mời anh Khánh và Bê ra tiệm Thiên Nam Phúc ăn thịt rừng uống rượu.
Thầy Huế được đề cử làm Trưởng Ban Văn Nghệ kiêm Hạ Sĩ Quan Tâm Lý Chiến. Trong hoàn cảnh này, thầy có vẻ tạm hài lòng với công việc. Tôi thường đến thăm và đón thầy đi uống cà phê mỗi khi có dịp về phố Kontum. Trong tâm tình, tôi được biết thầy vẫn còn độc thân, và sau khi rời khỏi Nha Trang thầy về Sài Gòn, dạy một vài trường trung học tư và một số giờ Pháp Văn ở Đại Học Vạn Hạnh.
Nhắc tới chị bạn cùng lớp xinh đẹp có đôi mắt u buồn, đóng vai chính bộ phim nổi tiếng của ông đạo diễn Lê Hoàng Hoa lúc trước, tôi hỏi thầy:
– Có phải chị ấy là người yêu của thầy và vì sao chị lại quyên sinh trong lúc cuộc đời đang đẹp?
Thầy cúi xuống, trầm ngâm giây lát rồi lắc đầu:
– Tội nghiệp, cô ấy là một người con gái đặc biệt, tài hoa và rất đáng yêu, nhưng ông trời lại bất công, bắt cô chết sớm. Cô có hoàn cảnh buồn và bị đau tim nên không muốn sống! Đặc biệt cô rất giống người con gái tôi đã từng yêu. Phải nói là từng say mê mới đúng!
Khi ngẩng đầu lên, thầy lấy cặp kiếng cận ra và lau nước mắt. Tôi hỏi thêm:
– Có phải vì vậy mà thầy không lấy vợ? Thầy rất nghệ sĩ và đào hoa, em tin là có nhiều cô con gái yêu thầy.
Bỗng tôi khựng lại, khi thấy thầy lắc đầu:
– Tôi chỉ có một người yêu, người con gái mà tôi từng say mê đó! Nhưng khi tôi học bên Pháp thì cô ấy bỏ tôi đi lấy chồng.
Và đột nhiên thầy hỏi lại tôi:
-Em có biết cô ấy lấy ai không?
Tôi im lặng. Thầy bảo:
– Cô lấy em trai tôi. Chính vì vậy mà sau khi ở Pháp về, sau lần dự đám cưới em tôi, tôi không bao giờ trở về Huế nữa.
Tôi khá bất ngờ, câu chuyện gợi cho tôi sự tò mò:
– Chắc thầy buồn và trách cô ấy lắm?
– Buồn, đương nhiên, nhưng trách thì không. Vì lỗi tất cả là ở tôi. Giữa cô ấy và đi du học, tôi đã chọn du học. Tôi chấp nhận trả giá cho sự ích kỷ và ngu xuẩn ấy của mình, không ngờ cái giá lại quá đắt. Còn em tôi, không biết nhiều về tình cảm mà tôi đã dành cho nàng, vì lúc ấy tôi muốn giấu ba tôi, ông rất nghiêm khắc và lúc nào cũng muốn tôi phải tập trung vào việc học.
– Vì cái giá ấy mà thầy không bao giờ lấy vợ?
Ông im lặng một lúc rồi lắc đầu:
– Hồi ấy tính như vậy, nhưng rồi cuối cùng có lẽ tôi cũng sẽ lấy vợ. Lần này lại là một người khổ vì tôi. Tôi không thể ích kỷ và ngu xuẩn thêm một lần nữa. Người con gái, à quên, người đàn bà đó có thể em còn nhớ.
Định nói thêm điều gì nữa đó, nhưng ông khựng lại:
– Nhưng thôi, tôi đã từng có một kinh nghiệm khá đau đớn, nên chuyện gì chưa xảy ra, không thể nói trước được.
Tôi thầm nghĩ, hóa ra cuộc đời ông thầy này có quá nhiều chuyện kỳ lạ. Tôi lại nhớ tới cấp bậc trung sĩ 1 của ông, nhưng rồi không dám hỏi. Nhiều lần tôi nghĩ, có thể ông sinh hoạt trong nhóm sinh viên Phật tử Ấn Quang ở Trường Vạn Hạnh, có tiếng thân Cộng, chống chính phủ, nên gặp rắc rối? Tôi đã có gặp anh Trưởng Ban 1 (Quân Số) để xin được xem qua hồ sơ quân bạ của ông, trong đó chắc chắn có ghi rõ mọi lý do. Nhưng hồ sơ của thầy gởi theo đường Quân Bưu, chưa đến. Tôi đang chờ.
Bất ngờ, Thiếu Tá Phan Văn Khánh được điều động sang một trung đoàn khác để giữ chức vụ trung đoàn phó. Bạn tôi, Đại úy Đỗ Bê, tiểu đoàn phó của anh, được chỉ định xử lý thường vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1. Trong một chuyến bay tiếp tế, tôi đáp xuống bộ chỉ huy tiểu đoàn chỉ để kịp bắt tay khen và tặng một chai Black and White mừng nó lên chức.
Hai tuần sau, trong một cuộc chạm súng với một tiểu đoàn địch, Tiểu Đoàn 1 của Bê được hai trực thăng võ trang của Phi Đoàn Lạc Long 229 yểm trợ, đã tạo một chiến thắng vẻ vang. Đánh tan đơn vị địch, tịch thu trên 60 vũ khí đủ loại và bắt sống 8 tù binh. Ngay sau khi trận chiến vừa kết thúc, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đáp xuống vị trí ngợi khen đơn vị, gắn cho Bê anh dũng bội tinh với nhành dương liễu và cho làm Quyền Tiểu Đoàn trưởng. Tôi gọi máy chúc mừng và bả0:
-Bắc Bình ơi! “Con bò tứ” (lon thiếu tá) đang ở trước mặt mày đó!
Khoảng hai tháng sau, tin tức tình báo cho biết, có một sư đoàn Cộng quân từ miền Bắc mới xâm nhập, đang có mặt ở Pleiku, gần biên giới Miên- Việt.Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn dự đoán Pleiku, nơi đặc bản doanh Bộ Tư Lệnh QĐ II, sẽ là mục tiêu tấn công qui mô của địch. Trung Đoàn chúng tôi được điều động xuống Pleiku, trách nhiệm phòng thủ trên tuyến vòng đai cách tỉnh lỵ Pleiku khoảng 20 km hướng tây nam. Bộ Chỉ Huy chúng tôi đóng tại Căn Cứ 801, nằm phía tây QL 14 khoảng 10 km, và cách Hàm Rồng cũng khoảng hơn 10 km đường chim bay. Tiểu đoàn 1 của Bê hành quân tảo thanh bên ngoài, cách căn cứ chừng 5 cây số về hướng biên giới. Một hôm, khoảng 10 giờ sáng, trong một cuộc tao ngộ chiến với một lực lượng địch, Bê bị hứng trọn một quả B-40, tử thương tại chỗ. Xác Bê được đưa thẳng về QYV Pleiku.
Tôi thẩn thờ khi nghe tin Bê chết. Chết một cách bất ngờ và tức tưởi. Trên chiến trường, nhiều cấp chỉ huy từng tạo nên bao chiến thắng hiển hách nhưng cuối cùng lại chết vì một viên đạn vô tình, không đáng.Tôi theo trực thăng CNC của ông Trung Đoàn Trưởng bay đến QYV. Thân xác Bê đầy những vết thương đang còn bê bết máu. Đôi mắt chưa khép hẳn.
Tôi vuốt mắt Bê mà nước mắt tôi đổ xuống, đầm đìa. Điều cuối cùng tôi có thể làm được cho Bê, là xin phương tiện để sớm đưa Bê về nguyên quán. Tôi hình dung đến vùng quê Gò Cam, Diên Khánh hiền hòa, ngôi nhà mái ngói đỏ và những người trong gia đình Bê mà tôi bao lần đến đó, gặp gỡ. Tôi cũng nhớ tới Phan Ái Minh người anh em ở chung nhà trọ học với Bê lúc xưa, cũng là bạn thân của tôi sau này, một con người tài hoa, đã hy sinh chỉ hơn một tháng sau ngày tốt nghiệp từ Trường Võ Bị. Trong không khí yên lặng của khu nhà xác bệnh viện, tôi mơ hồ như bên tai đang văng vẳng bài truy điệu của chính vị Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị vang tiếng một thời: “Ôi! sự nghiệp đang công đeo đuổi thôi đành gián đoạn nửa đường. Chí tang bồng hằng mong thực hiện thôi cũng đành ôm hận ngàn thu.”
Tôi tìm thầy Huế báo tin Đỗ Bê tử trận. Ông tròn mắt rồi bật khóc. Hôm nghe tin có phi cơ chở quan tài của Bê về Nha Trang, thầy xin theo tôi và anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT ra phi trường để chào tiễn Bê lần cuối. Trước khi đi, tôi hỏi thầy có muốn “hộ tống” quan tài Bê về Nha Trang cùng với anh sĩ quan CTCT của Tiểu Đoàn 1, tôi sẽ xin phép cho thầy. Thầy vui mừng gật đầu, nhưng thoáng một chút ái ngại. Tôi vỗ vai thầy, bảo yên chí, tôi sẽ xin anh Trưởng Khối CTCT và anh Trưởng Ban 1 làm sự vụ lệnh cho thầy thêm một tuần để thầy ghé về Đà Lạt thăm nhà.
Thêm một người bạn nữa ra đi. Cũng ở Tiểu Đoàn này, trước đây một năm, tôi đã mất Đặng Trung Đức, Khóa 19 VB, một người bạn thân quý như anh em kể từ ngày hai đứa mới ra trường, cùng làm trung đội trưởng cho một anh trung úy Khóa 16 VB rất tài ba. Đức là một tiểu đoàn trưởng xuất sắc, đã lập nhiều chiến công hiển hách trong Mùa Hè 1972. Và cũng chỉ mới 8 tháng trước, Trần Công Lâm , thằng bạn thân thiết cùng khóa Thủ Đức, cùng trung đội SVSQ với tôi, (nó giường trên tôi giường dưới), đã bỏ mình trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú, khi đang nắm Tiểu Đoàn 3. Dẫu biết trong chiến tranh, sinh tử là lẽ thường tình, nhất là thời gian này, chiến trường thật thảm khốc, con số thương vong rất lớn, nhưng chứng kiến những cái chết trẻ của bạn mình, lòng đau đớn tựa hồ như có trăm ngàn vết chém.
Quá thời gian 15 ngày trong sự vụ lệnh, vẫn chưa thấy thầy Huế trở lại đơn vị. Anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT và cả anh Trưởng Ban 1 hỏi tôi mấy lần, như là một lời nhắc nhở, bởi chính tôi là người xin phép cho thầy. Tôi bồn chồn lo lắng. Chẳng lẽ thầy đào ngũ vì thấy quá khổ sở và nguy hiểm, nhất là bị ám ảnh cái chết của Đỗ Bê, người học trò cũ cùng đến trình diện đơn vị một lúc với thầy? Tôi không tin là thầy đã phụ lòng tốt của mình, nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh chết chóc này, điều gì cũng có thể xảy ra.
Đã đến hạn phải báo cáo đào ngũ Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế. Được anh Trưởng Ban 1 cho biết và hỏi ý kiến, tôi năn nỉ xin anh chờ thêm hai tuần nữa. Cuối cùng thầy tôi vẫn bặt vô âm tín.
Một tuần, sau khi báo cáo đào ngũ và lệnh truy nã đã gởi đi, bỗng một hôm anh Trưởng Ban 1 cho tôi biết, có người đàn bà tìm đến hậu trạm Trung Đoàn (tại Hàm Rồng), đưa giấy chứng nhận của Cảnh Sát, cho biết là Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế đã bị Việt Cộng giết chết trên đường trở về đơn vị. Tôi lái xe xuống hậu trạm, chờ cho bà làm thủ tục xong, tôi đến mời bà về Ban Xã Hội (nơi bà tạm nghỉ) để xin phép được nói chuyện.
Gặp bà, tôi sửng sốt. Vì dù có thay đổi ít nhiều với thời gian, và trên đầu quấn chiếc khăn tang, nhưng tôi vẫn nhận ra bà chính là cô giáo, người góa phụ trẻ, từng có thời thuê nhà ngay sau nhà tôi, và đã nhờ tôi đưa mấy bài thơ cho thầy Huế phổ nhạc, nhưng đọc qua tôi biết đó là lời tâm sự bà muốn tỏ cùng thầy.
Bà cho biết, vì không tìm được phương tiện quân sự khác, khi sự vụ lệnh đã hết hạn, nên thầy rất nôn nóng, quyết định đi xe đò qua ngõ Nha Trang – Quy Nhơn. Xe bị một đám Việt Cộng giả dạng lính mình, chặn ngay phía dưới Sông Pha. Bọn họ lục soát xem giấy tờ, cướp hết tư trang vàng bạc của hành khách, bắt vào rừng một số đàn ông và bắn chết ba người, trong đó có thầy.
Sau khi nhận ra tôi, bà tỏ ra thân tình, gần gũi hơn, và có lẽ tôi là người để bà có thể trút hết tâm tư đang đè nặng trong lòng. Bà đổi cách xưng hô:
– Chị là bạn và cũng có thể nói là vợ chưa cưới của thầy Huế. Chị lên đây với giấy ủy quyền của bà cụ, mẹ anh ấy. Bẵng đi một thời gian rất lâu, từ dạo nghe tiếng đàn và giọng hát của thầy ở sau vườn nhà em, chị gặp lại thầy ở Đà Lạt, quê của chị và nơi làm việc của thầy.
– Em không hiểu tại sao thầy không là sĩ quan mà chỉ mang trung sĩ? Em thắc mắc điều này mà chưa dám hỏi thầy – Tôi hỏi chị.
– Thầy có tâm sự việc này với chị. Sở dĩ thầy không khai bằng cấp là để khỏi phải vào Thủ Đức. Thầy muốn tránh gặp mặt vợ chồng người em trai, người làm đám cưới với cô nữ sinh Đồng Khánh mà không hề biết là ông anh mình hết lòng yêu trước ngày đi du học. Chú em vào Thủ Đức và khi ra trường được giữ lại làm huấn luyện viên. Cô vợ thì xin được công việc trong một ngân hàng ở Sài Gòn, nhưng nhờ vốn của cha mẹ cho, nên sang lại và làm chủ một câu lạc bộ ngay trong trường Sĩ quanThủ Đức. Thầy Huế không hề trách em mình, nhưng chú em đã buồn và khổ tâm vô cùng khi biết đươc điều này. Thầy Huế muốn tránh gặp mặt vợ chồng chú em trai vì không muốn gây khó chịu cho cô chú ấy và cả cho thầy. Sau đó, có một thời gian ông gần như mất trí khi biết được tin cả hai vợ chồng chú em bị VC giết chết trong Tết Mậu Thân cùng với ông cụ. Trước Tết chú em nghỉ phép dắt vợ về thăm gia đình ở Huế. Riêng thầy, tìm mọi cách xin hoãn được một thời gian, đầu năm 1967 thầy vào Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Ra trường may mắn được chọn về Tiểu khu Tuyên Đức. Nhờ một người học trò cũ là một Phó Đốc Sự quen thân với ông tỉnh trưởng giúp đỡ, thầy được bổ sung vào toán “quản gia” cho mấy cái biệt điện của Vua Bảo Đại để lại. Công việc nhàn nhã, rất ít khi phải mặc quân phục, nên rất ít người biết chức vụ hay cấp bậc của thầy. Thầy xin dạy thêm ở một vài trường tại Đà Lạt, nên tiền bạc cũng không thiếu. Anh mãn nguyện với công việc và rất mê Đà Lạt, nên không có ý định thay đổi, cho đến khi phải bắt thăm và ra Sư Đoàn 23 này.
Tôi hỏi lại bà:
– Sao người học trò làm Phó Đốc Sự không giúp, giữ thầy lại.
– Cả ông tỉnh trưởng và ông Phó Đốc Sự cũng đã thuyên chuyển đi trước đó lâu rồi.
Tôi hỏi sang chuyện khác:
– Gia đình cha mẹ thầy vẫn còn ở Huế, và thầy được chôn cất ở đâu?
– Tết Mậu Thân, ông cụ và hai vợ chồng chú em bị giết. Thầy còn hai cô em gái và cậu em trai út, tất cả đều đã lập gia đình. Bà cụ không muốn ở chung với dâu rể, thấy thầy sống một mình tội nghiệp, nên dọn vào Đà Lạt ở với trưởng nam. Chị vẫn thường xuyên đến phụ giúp bà. Từ ngày anh Huế đổi ra Kontum, chị dọn về ở chung với bà, bây giờ bà đã khá già. Khi sống thầy rất yêu Đà Lạt, nên chị xin phép bà cụ an táng anh ở Đà Lạt. Dù chưa chính thức kết hôn, nhưng chị xem anh ấy đã là chồng mình. Thêm một lần nữa chị để tang chồng, mặc dù chị chỉ có một mối tình duy nhất trong đời, với anh ấy. Người chồng trước lớn hơn chị nhiều tuổi, chị lấy cho vui lòng mẹ chị. Khi ấy chị còn nhỏ quá, chưa biết tình yêu là gì và cũng chưa làm chủ được mình. Khi ông ấy chết vì một tai nạn, chị thấy tội nghiệp cho ông và cũng tội nghiệp cho chị.
Tôi mời chị dùng một bữa cơm chiều ở một cái quán“dã chiến” phía trước, do vợ của một anh lính tài xế Biệt Động Quân làm chủ. Tôi khoe ở đó có món cá kho tộ và canh chua nấu với lá giang tuyệt lắm, nhưng chị bảo đã nhận lời dùng cơm và ở lại đêm với các cô nữ quân nhân bên Ban Xã Hội.
Sáng hôm sau, tôi mời chị, anh Thiếu tá Trưởng Khối CTCT và cô Trung úy Trưởng ban Xã Hội đi ăn sáng. Phòng Không Trợ cho biết, có một phi đội trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng 215 hoán đổi, sắp trở về lại căn cứ Nha Trang, chúng tôi đưa chị lại bãi đáp, giới thiệu với anh phi công trưởng hợp đoàn, để xin cho chị được tháp tùng.
Vẫy tay chào tiễn chị, trong lòng tôi dấy lên bao nỗi ngậm ngùi. Một người bạn rồi một ông thầy ra đi. Nhanh quá. Tôi nhớ đã từng hứa giúp họ hết lòng, nhưng quyền hạn và khả năng của mình quá hạn hẹp mà chiến tranh thì lại khốc liệt, tàn nhẫn vô cùng! Và những cuộc tình trong thời chiến tranh cũng sôi nổi, buồn, và ngắn ngủi như đời một người lính chiến.
PHẠM TÍN AN NINH
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 27, 2022 18:54:07 GMT 9
Ở CUỐI HAI CON ĐƯỜNG Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Ðây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi. Sau đó, tôi được chuyển về trại 6 Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn. Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái lán lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận. Vài phút sau, một sĩ quan mang lon thượng úy đi vào lán. Ðiều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Ðịnh, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: Ðây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ? Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu. Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" một số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang". Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi: - Trong này có anh nào thuộc Sư 23? Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng: - Thưa cán bộ, có tôi ạ. - Anh ở trung đoàn mấy? - Trung Ðoàn 44. - Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972? - Vâng, có ạ. Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên: - Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó. Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Ðể lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động: - Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào? - Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320. Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục: - Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh. - Sau đó cán bộ được trao trả? Tôi hỏi. - Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê. Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói: - Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy. Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững. Một chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bắng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối. Ðêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng: - Tôi để một giỏ cá sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết. Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động. Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân , quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc giấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn. Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no - dù chỉ là no sắn. Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng? Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ: - Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm. Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em: - Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang lon trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về. Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh nghẹn ngào. - Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - Một anh tù hỏi. - Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố giấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay. Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6 Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng. Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại. *** Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình. Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Ðặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm. Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Ðộ. Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm, anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt Nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh. Cô gái tên Ðoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nở, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Ðông Ðức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Ðộ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Ðộ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Ðông Ðức. Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Ðức phá sập, nước CHND Ðức (Ðông Ðức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Ðức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho biết, bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Ðông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai. Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Ðoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô. Việc cô Ðoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ dến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thưở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Ðoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "Ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6 Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Ðoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ. Một tháng sau, cô Ðoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc. Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà. Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn 2 giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe, đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên. - Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi. - Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ. Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng: - Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ? - Ông Thà? Nguyễn văn Thà! Bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan? - Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi. - Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền. Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Ðông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Ðông Âu. Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi. - Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi. - Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác. - Ba cháu bây giờ làm gì? - Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ. Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan. Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Ðoàn Ðoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Ðức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị. Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Ðoàn Ðoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ mọât chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ. Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này. Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Ðưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về. Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt Nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu. Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: Hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học. *** "Các Anh thân quí! Khi ngồi viết những dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Ðọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Ðiều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác. Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết, một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người. Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình. Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây. Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Ðôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..." Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại, khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: “Xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ....?”. Phạm Tín An Ninh
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 10, 2023 7:58:06 GMT 9
CON NGƯỜI CÓ SỐ… Tên hắn là Khải. Hắn học với tôi năm lớp 11 tại trường Tân Phương, Gò Vấp. Nhà hắn ở trại định cư Cái Sắn nằm giữa hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá. Hình như bố mẹ hắn có quen với một ông trùm họ đạo ngày trước cũng ở Cái Sắn, sau lên Sài Gòn, trông coi giúp Cha sở ở nhà thờ Ngã năm Bình Hòa, Gia Định. Rồi hắn lên Sài Gòn, nhờ ông trùm đó xin với Cha cho ở nhờ ngoài hành lang nhà thờ, làm người kéo chuông, trông coi, quét dọn... để có chỗ ăn ở, đi học. Cha thấy hắn ngoan ngoãn, lễ phép, nhất là trước đây lại cùng họ đạo với ông trùm nên rất vui lòng. Lúc ấy, tại Xóm Gà Gia Định có trường Tân Phương của ông Phan Ngô mới mở, dạy tới lớp Đệ Nhị (tức lớp 11 bây giờ). Cha nói với ông Phan Ngô xin cho hắn học miễn phí để chuẩn bị đi thi Tú tài I. Phần vì trường mới mở đang cần học sinh, phần vì nể lời Cha nên ông Phan Ngô cũng đồng ý. Ngoài ra, Cha thấy hắn ham học ngoại ngữ, giỏi tiếng Anh nên mỗi tháng cho tiền hắn học thêm Anh văn cao cấp ở Hội Việt-Mỹ đường Mạc Đĩnh Chi, Tân Định. Như vậy, ngoài việc học ở trường Tân Phương vào các buổi sáng, cứ đến buổi chiều, mỗi tuần ba lần, hắn cuốc bộ từ Gia Định lên Tân Định để học tại Hội Việt-Mỹ. Cha cũng thích ngoại ngữ, buổi tối hắn thường chỉ dẫn thêm tiếng Anh cho Cha. Trường hợp tôi thì lại khác. Nhà tôi cũng nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt nhưng tôi thi đậu hạng nhì vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Trãi nên được học bổng, mỗi tháng 300 đồng, tương đương với một chỉ vàng lúc bấy giờ, việc sách vở, học hành đỡ phải lo lắng. Ba năm sau, khi bắt đầu lên đến lớp Đệ Ngũ (lớp 😎, tôi và hai bạn khác trong lớp rủ nhau “học nhảy”: Trường Nguyễn Trãi lúc đó chưa có cơ sở nên phải học nhờ tại trường Tiểu học Đa Kao ở số 94 đường Phan Đình Phùng (bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu). Tất cả các lớp đều học buổi chiều, còn buổi sáng thì học sinh trường Đa Kao học. Buổi sáng được nghỉ, ba đứa chúng tôi đóng học phí học lớp Đệ Tứ (lớp 9) trường Cộng Hòa của giáo sư Phạm Văn Vận ở đường Pasteur để thi Trung học Phổ thông, nếu đậu sẽ sớm được một năm, cái đó kêu là “học nhảy”. Nhà nghèo, nên dù học thêm lớp Đệ Tứ trường tư nhưng tôi vẫn tiếp tục học lớp Đệ Ngũ trường công để được học bổng và đề phòng nếu rớt Trung học thì vẫn có chân trong trường công. Cuối năm ấy, cả ba đứa chúng tôi đều đậu Trung học, rồi thi vào lớp Đệ Tam (lớp 10) trường Hồ Ngọc Cẩn, tức lại trở lại trường công. Tôi đậu hạng 5 trong số 52 học sinh thi đậu, hơi thấp, không được học bổng vì Bộ Quốc gia Giáo dục chỉ cho mỗi lớp có 3 người, từ hạng 1 tới hạng 3. Hai anh bạn yên tâm học lớp Đệ Tam tại Hồ Ngọc Cẩn, còn tôi, nhảy được một năm nhưng mất học bổng, tôi ân hận lắm. Đúng lúc ấy ông Phan Ngô mở trường Tân Phương có tới lớp Đệ Nhị (lớp 11 bây giờ – thời đó trường tư chưa trường nào có lớp Đệ Nhất, học xong lớp Đệ Nhị, đậu xong Tú tài I được quyền xin vào Đệ Nhất trường công, bắt buộc trường công phải nhận, thời ông Diệm là như thế, rất ưu tiên cho học sinh). Ông Phan Ngô là hiệu trưởng trường Tân Thạnh ở đường Đinh Công Tráng, Tân Định. Người em con chú con bác với ông là ông Phan Thuyết làm giám đốc. Trường dạy giỏi, nổi tiếng nên rất đông học sinh. Nhưng không hiểu hai anh em có chuyện xích mích gì đó nên bán trường, ông Phan Thuyết về mở trường Đạt Đức ở Phú Nhuận, còn ông Phan Ngô mở trường Tân Phương ở Gò Vấp. Vào học lớp Đệ Nhị trường Tân Phương, tôi quen với hắn rồi dần dần hai đứa trở thành thân thiết với nhau. Tôi chưa từng thấy một người bạn nào nghèo như vậy. Ngày nào đi học hắn cũng mặc một bộ đồ duy nhất: chiếc áo sơ mi cũ màu cháo lòng có hai miếng vá, một miếng ở lưng, một miếng ở vai; chiếc quần ka ki cũng cũ, vá một miếng lớn ở mông. Có lẽ hắn tự vá lấy bằng chỉ đen, đường chỉ vụng về trông thô kệch chẳng ra sao cả. Chân hắn đi đôi dép Nhật mòn vẹt, sứt mẻ, một quai màu xanh, một quai màu đỏ, cột bằng dây kẽm. Có lần tôi hỏi sao hai quai dép lại bên xanh bên đỏ? Hắn cười, hơi mắc cỡ: “Tại mình nhặt được trong thùng rác ấy mà. Nó bị đứt, họ vứt đi, mình kiếm được hai cái quai cột vô đi tạm chứ chẳng lẽ đi học lại đi chân không”. Hắn nghèo, cả lớp ai cũng biết nhưng ai cũng thông cảm, chẳng ai chê cười. Nhất là các chị, nhiều khi giấm giúi cho hắn tiền uống nước. Ngày tết, trường tổ chức cắm trại, thi đấu bóng chuyền và văn nghệ ở trong sân, mỗi lớp có một cái quầy nho nhỏ cung cấp bánh mì, kẹo bánh và nước ngọt cho lớp của mình. Mỗi bạn trong lớp đóng mỗi người 10 đồng, hắn không có tiền, định không tham dự, các chị bàn nhau không bắt hắn đóng. Cuối năm ấy, lớp chúng tôi có 51 người, thi đậu ngay trong khóa 1 là 13 người, trong đó có tôi và hắn. Tỉ lệ như vậy là khá cao, bởi vì thi tú tài thời đó rất khó, trường tư giỏi lắm cũng chỉ đậu khoảng 10% là cùng, đằng này đậu tới hơn 25%. Thầy Phan Ngô mừng lắm, thầy nói: “Trường Tân Phương là nhứt, không khác gì trường Tân Thịnh ngày trước”. Sau khi đậu xong Tú tài phần I, các bạn người Nam thì đa số nộp đơn vào học lớp Đệ Nhất (lớp 12) trường Petrus Ký, còn tôi và hắn là người Bắc nên nộp đơn vào trường Chu Văn An. Tôi từ trường công lại trở lại trường công, “nhảy” được hai năm. Còn hắn, có sự tiến bộ: ông trùm nhà thờ Ngã năm Bình Hòa cho hắn mượn một chiếc xe đạp cũ. Hội Phụ huynh học sinh Chu Văn An cứu xét, thấy hắn nghèo, cho hai kỳ học bổng, mỗi kỳ 500 đồng và một bộ quần áo may sẵn, hơi ngắn. Cuối năm ấy, đậu xong Tú tài phần II, tôi thi vào Đại học Sư Phạm còn hắn thì thi vào trường Kỹ sư Phú Thọ nhưng rớt. “Cậu ngốc lắm, giá thi Sư Phạm với tớ có lẽ đã đậu, thi Kỹ sư Phú Thọ khó muốn chết, tớ không dám nghĩ đến”. “Tại tớ thi ngành Điện nên mới rớt chứ giá thi Công chánh hay Công nghệ thì đỡ hơn”. Hắn rớt, đáng lẽ bị kêu đi sĩ quan Thủ Đức nhưng có người anh cũng đã ở trong quân đội nên được hoãn. “Tớ phải về Cái Sắn làm giấy tờ nộp hồ sơ hoãn dịch cậu ạ”. “Hoãn thì được rồi nhưng làm sao có tiền đi xe?”. “Cha có cho. Cha dặn làm giấy tờ xong, nhớ lên xem người ta có cho thi vào ngành nào thì thi chứ không lại lỡ mất một năm học”. Hôm lên, hắn đến nhà tôi chơi và hỏi những ngày hắn về Cái Sắn, ở Sài Gòn họ có cho thi gì không. Tôi nói Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho thi lấy 50 người vào học khóa Biên tập viên cảnh sát, học bổng mỗi tháng cũng 1,500 đồng giống như Đại học Sư phạm và Quốc gia Hành chánh. “Biên tập viên cảnh sát là làm gì?”. “Tớ không rõ, họ nói cũng học 3 năm, ra làm phó quận cảnh sát”. “Được đấy, có lẽ tớ sẽ nộp đơn thi Biên tập viên cảnh sát”. Thời chúng tôi, con nhà nghèo, thi vào ngành nào thì phải nhắm có học bổng chứ nếu học những trường không có học bổng như Y khoa, Dược khoa, Luật, Văn khoa, Khoa học v.v..., tuy không phải thi tuyển nhưng không có tiền ăn học suốt bao nhiêu năm. Giữa lúc hắn đang lo làm đơn thi Biên tập viên cảnh sát thì có tin Bộ Quốc gia Giáo dục ra thông cáo, Cơ quan Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO cho hai học bổng, một thi tiếng Anh, du học tại Mỹ, một thi tiếng Pháp, du học tại Pháp hay Thuỵ Sĩ gì đó, tất cả mọi khoản đều do Liên Hiệp Quốc đài thọ, học tiến sĩ kinh tế, sau này sẽ ra làm cho Liên Hiệp Quốc, giúp đỡ các nước nghèo. “Cậu đã biết tin đó chưa?”. “Chưa, tớ không biết gì hết, nhà thờ đâu có radio mà nghe. Cậu có nộp đơn không?”. “Không, Tú tài II tớ đậu Bình Thứ chứ đâu phải hạng Bình như cậu. Họ bắt phải từ hạng Bình trở lên mới được thi”. Thời chúng tôi, thi tú tài I hay tú tài II, kết quả thi đậu có 5 hạng gọi theo tiếng Pháp: đậu thường gọi là hạng Thứ (Passable); trên Thứ là Bình Thứ (Assez Bien); trên Bình Thứ là Bình (Bien); trên Bình là Ưu (Honorable); rồi đến Tối Ưu (Très Honorable) là hết mức, môn nào cũng phải đạt tối đa khoảng 20 điểm. Hắn đậu Bình, cao hơn tôi một bậc. “Nộp thì nộp vậy thôi chứ cả Anh văn lẫn Pháp văn mới lấy có hai người, khó lắm, chắc tớ không đậu được đâu”. “Biết đâu đấy, cứ nộp đơn đi, may mà giờ vinh quang đã điểm thì bọn cắc ké nghèo mạt rệp như tụi mình cũng ngon lành ra phết”. “Vậy tớ nộp đơn cả bên UNESCO lẫn bên Biên tập viên cho chắc ăn”. Hắn nộp đơn xong, khoảng hai tháng sau thì dự cuộc thi của UNESCO. Hắn kể rằng, đợt thứ nhất, hơn 200 người cả Anh văn lẫn Pháp văn, thi viết, loại bớt còn 50 người. Đợt thứ nhì, 50 người lại loại lần nữa, còn lại 10 người trong đó có hắn. Rồi 5 người trong nhóm Anh văn bọn hắn vào “sát hạch” tại tòa đại sứ Mỹ, còn 5 người nhóm Pháp văn thì sát hạch tại tòa đại sứ Pháp hay Thuỵ Sĩ, hắn không để ý. Hắn kể, giám khảo nhóm Anh văn của hắn gồm ba giáo sư, một ông người Mỹ, một ông người Canada, một ông người Úc hay Tân Tây Lan gì đó hắn không biết rõ, tất cả đều nói tiếng Anh. Họ thay đổi nhau quay hắn về tình hình kinh tế các nước trên thế giới, về vai trò của một nhà kinh tế học đối với các nước nghèo như ở châu Phi chẳng hạn. Cuối cùng, vị giáo sư người Úc hay Tân Tây Lan hỏi hắn quê ở đâu, cha mẹ làm nghề gì, từ nhỏ tới lớn sống như thế nào..., hắn nói thật rằng quê hắn ở Nam Định, di cư vào Nam năm 1954, ở trại định cư Cái Sắn thuộc tỉnh Long Xuyên, bố mẹ hắn rất nghèo, làm nghề trồng cói và dệt chiếu ở Cái Sắn, còn hắn thì kéo chuông và hầu hạ trong Nhà thờ Bình Hòa để có chỗ ăn học. Tất cả ba vị giám khảo đều trợn tròn mắt, không ngờ một học sinh được vào chung kết của một cuộc thi quan trọng như vậy mà gia đình lại nghèo đến thế. “Dám cậu thắng mấy người kia nhờ cái nghèo của cậu lắm ạ! Người Tây phương họ có cái nhìn khác lắm, sẵn sàng ưu tiên cho người nghèo nếu thấy thực sự đó là người giỏi chứ không khinh bỉ người nghèo như bên Việt Nam mình”. “Tớ cũng hy vọng như vậy. Trông nét mặt ba vị giám khảo thấy họ có vẻ có cảm tình với tớ lắm. Nhưng thôi, kệ, muốn đến đâu thì đến. Tớ cam đoan với cậu thi Biên tập viên cảnh sát tớ đậu là cái chắc. Làm phó quận trưởng cảnh sát cũng bảnh ra phết!”. Trong khi tâm sự, hắn kể với tôi rằng bữa đi mua giấy tờ lập hồ sơ thi du học, hắn mua ở tiệm sách Thanh Trúc gần Ngã tư Phú Nhuận. Cô con gái bà chủ cỡ chừng 15 – 16 tuổi, xinh lắm và rất tốt bụng. Thấy hắn vét túi mà vẫn không đủ tiền trả, cô ta cười rồi cho luôn, không tính một đồng nào cả. “Cô bé cỡ 15 – 16 tuổi, vậy là cô em. Cô chị lớn hơn, khoảng 17 – 18 tuổi, mặt tròn, cũng đẹp nhưng không xinh bằng cô em”. “Ủa, thế cậu cũng biết tiệm đó?”. “Biết chứ, tớ là dân Phú Nhuận mà, vẫn mua sách ở tiệm đó”. Tôi kể cho hắn nghe bà mẹ còn tốt hơn nữa. Hồi tôi được phần thưởng cuối năm ở trường Tân Phương, trong số các cuốn sách lãnh thưởng có cuốn Triết Học Nhập Môn của tác giả gì tôi quên mất tên. Cuốn sách đó nghiên cứu về triết học nói chung chứ không phải sách lớp Đệ Nhất dạy về triết học để đi thi tú tài II. Tôi đem đến tiệm Thanh Trúc nhờ bà chủ đổi cho cuốn Luận Lý Học của tác giả Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa, giáo sư triết trường Chu Văn An. Bà coi qua cuốn sách của tôi rồi cười: “Sách người ta tặng cho các trường để phát phần thưởng thường là sách khó bán nên họ mới tặng. Tiệm tôi không bán loại này. Nhưng thôi, cậu được phần thưởng như vậy là quý, muốn đổi thì tôi cũng đổi để cậu may mắn, năm tới thi đậu. Một vài cuốn sách chẳng đáng bao nhiêu...”. Cuốn Luận Lý Học của giáo sư Trần Bích Lan đắt hơn cuốn Triết Học Nhập Môn một chút nhưng bà chủ tiệm cũng cho luôn, không bắt trả tiền chênh lệch. Tôi kết luận rằng bà mẹ tốt bụng như thế nên các cô con gái cũng tốt là một chuyện thường. Hắn thở dài, nét mặt hơi buồn: “Nhà họ giàu, tiệm sách có tới mấy tầng lầu ở ngoài mặt đường, còn mình thì nghèo rớt mồng tơi không đáng xách dép cho họ. Tớ nói thật, nếu tớ được học bổng đi du học bên Mỹ kỳ này, đậu xong tiến sĩ tớ sẽ trở về, quỳ xuống dưới chân cô ấy, nói với cô ấy rằng nhờ cô cho giấy tờ lập hồ sơ nên tôi mới được du học, không bao giờ tôi dám quên ơn cô...”. Tôi bật cười: “Cậu ngốc thấy mẹ, nếu đậu thì đến báo tin từ trước khi đi cho người ta còn chờ đợi chứ đậu xong tiến sĩ, hàng chục năm trời, họ lấy chồng mất tiêu rồi thì lúc ấy có ngồi mà khóc!”. “Ừ há, mình cũng ngu thật. Nhưng biết họ có đợi hay không?”. “Tại sao lại không? Vấn đề là cậu có thắng được mấy người kia hay không chứ nhà giàu thì họ khôn lắm, họ dư biết giá trị của một thằng học sinh nghèo được học bổng du học bên Mỹ”. Và tôi nói thêm: “Ngoài ra, sang đấy ăn ở ra sao, học hành thế nào cậu luôn luôn viết thư về cho em chứ đâu phải như Kinh Kha sang Tần, một đi là không trở lại”. “Ờ há, vậy mà tớ không nghĩ ra, tớ phải ghi địa chỉ tiệm sách nhà em mới được”. Thế rồi hắn đậu thật, hơn 200 người, lấy có 2 người, khó chứ không phải dễ. Tội nghiệp, trước khi đi hắn vẫn còn nghèo bởi vì sang bên ấy, vào học trường nào rồi người ta mới trả lại tiền vé máy bay và bắt đầu cho lãnh học bổng chứ không phải họ đưa trước. Mọi thứ chi phí như mua sắm va-li, giày dép, quần áo mặc trong mùa lạnh, kể cả tiền vé máy bay v.v... đều là của Cha (LM) cho. Cha còn nói hôm hắn đi, Cha bận không đưa tiễn được nhưng sẽ cho tài xế chở hắn ra phi trường. “Rồi ông cụ bà cụ cậu ở dưới Cái Sắn có lên không?”. Hắn lắc đầu, vẻ mặt buồn buồn: “Không, gia đình tớ nghèo lắm, không có bà con anh em gì ở trên này. Bố mẹ tớ nói lên đây vừa tốn tiền lại vừa làm phiền Cha, không có chỗ ở chẳng lẽ lại ở nhờ Cha trong nhà thờ”. Tôi tưởng tượng ra cảnh hôm hắn đi, chắc chỉ có mình tôi và người tài xế của Cha đưa hắn ra phi trường. Nhưng ra đến đấy người tài xế sẽ quay trở lại chứ đâu có tiễn làm gì, chung quy chỉ có mình tôi mà thôi. - “Cậu đã đến từ biệt cô bé chưa?”. - “Có, tớ có đến nhưng cô ấy mắc đi học, chỉ gặp bà mẹ. Tớ kể cho bà ấy nghe chuyện cô bé cho giấy tờ làm đơn, nhờ đó tớ mới được du học, tớ đến chào từ biệt và gửi lời nhờ bà cám ơn cô bé giùm”. “Bà ấy có nói gì không?”. “Có, bà ấy xuýt xoa, thế ạ, quý hóa quá nhỉ, tôi không biết gì hết chứ nếu biết tôi đã mời cậu đến nhà dùng bữa cơm thân mật. - Bao giờ cậu đi? – - Dạ, thưa sáng mai. – - Sáng mai, sớm vậy sao? Vậy là không kịp rồi, cậu không đến đây từ trước. Bà ấy tiếc lắm. Tớ cám ơn bà ấy rồi đi...”. “Đó, cậu thấy chưa, tớ đã nói nhà giàu, nhất là một tiệm sách quen với chữ nghĩa, họ không dại gì mà không biết giá trị của con người”, và tôi giục: - “Cậu đến nữa đi, phải gặp cô bé bằng được và dặn cô ấy chờ đợi, học xong cậu sẽ trở về”. Hắn lắc đầu: - “Không dám đâu, đến sợ lại gặp bà ấy nữa tớ mắc cỡ lắm. Dù sao cô ấy cũng hãy còn nhỏ...”. - “Trời đất ơi, 15-16 tuổi mà nhỏ cái gì! Sang đấy cậu phải học cử nhân, cao học, tiến sĩ, ít nhất cũng 8 năm nữa. Lúc ấy cậu khoảng 28, cô bé 24, chả nhỏ một tí nào cả”. Hắn khẽ thở dài: - “Nói thật với cậu, từ bé tới lớn tớ khổ sở quá nên không dám nghĩ tới chuyện cao xa. Trước khi ra đi, tớ chỉ mong được nhìn thấy cô ấy một lần, được nghe thấy cô ấy nói một tiếng là sung sướng lắm rồi. Sang đấy tớ sẽ cố gắng học hành để đền đáp ơn nghĩa cô ấy...”. Thật kỳ cục, có đáng gì đâu mấy tờ sơ yếu lý lịch, mấy tờ mẫu đơn tiếng Việt phải dịch sang tiếng Anh để nộp cho cơ quan UNESCO mà tên bạn tôi lại đặt nặng vấn đề đến thế? Nếu cô bé không xinh xắn, tính tình không vui vẻ và không có lòng thương người thì hắn có mê cô ta đến mức đó hay không? Tưởng tượng tới cảnh hắn lên máy bay chẳng có ai đưa tiễn, tôi nghĩ ra cách là ngay buổi chiều hôm đó đến tiệm sách kể hết mọi chuyện với bà mẹ. Có cả cô bé cũng có ở đấy. Nghe tôi kể, cô chỉ cúi mặt mỉm cười, hai gò má ửng hồng còn bà mẹ thì rất chú ý. Cuối cùng, bà cười dễ dãi: “Hồi sáng cậu ấy có đến đây, tôi có biết mọi chuyện. Ý cậu là muốn nhờ em Trúc đi tiễn cậu ấy giùm phải không?”. “Vâng ạ”. “Mấy giờ thì cậu ấy lên máy bay?”. “Dạ thưa 11 giờ 30, nhưng phải đến sớm ít nhất 2 tiếng đồng hồ để nó còn vào làm thủ tục”. “Có, tôi biết. Sáng mai Chủ nhật em Trúc đi được. Vậy khoảng 8 giờ 30 cậu đến đây đi cả với em cho vui. Chắc có em Thanh cũng đi nữa”. Tôi đoán Thanh là tên người con gái lớn của bà. “Dạ, vâng ạ”. Cô bé vẫn cúi mặt cười, tay cầm cây bút Bic không mở nắp vẽ vẽ bâng quơ trên mặt tủ kính quầy hàng cho đỡ mắc cỡ, chắc cô cũng quên không nhớ mặt hắn. Sáng hôm sau, tôi đến. Hai cô con gái mặc juýp theo kiểu đơn giản thời đó, cô lớn juýp trắng, cô bé juýp hồng nhưng cũng rất đẹp. Nhất là cô chị, cô có thoa chút phấn hồng nên lại càng đẹp, tôi nghe đâu đây thoang thoảng mùi thơm của phấn son hay của hương trinh nữ? Ôi chao, đời đẹp quá, tôi, một thằng sinh viên bắt đầu học năm thứ nhất ĐHSP, nhà nghèo, mẹ làm thợ dệt nhưng đứng bên cô, ngửi mùi hương ngan ngát đó tôi vẫn thấy đời đẹp như thường. Chắc cô cũng có cảm tình với tôi, thấy trong lúc đợi xe taxi, cô đứng sát bên cạnh tôi. Bà mẹ tiễn ra tận vỉa hè. Bà đưa tiền cho cô lớn: “Đây, tiền đây, nhớ trả tiền cho anh, đừng để anh trả nghe con!”. Cô không cầm, giọng con gái Bắc ngọt như mía lùi: “Con có rồi mẹ!”. Chúng tôi đến. Hắn đang đứng một mình bên cạnh chiếc va-li hơi cũ, có lẽ của Cha cho mượn và một chiếc túi xách để trên mặt chiếc va-li đó. Thấy chúng tôi tới, hắn cứ ngớ ra coi bộ hết sức ngạc nhiên. Tôi cười, giới thiệu: - “Đây là cô Thanh, chị của cô Trúc. Còn đây là cô Trúc, người bạn vẫn nhớ ơn đó. Các cô thân hành ra đây tiễn bạn...”. Hắn không ngờ mình được hân hạnh đó nên lúng túng như gà mắc dây thun, mỉm cười khẽ gật đầu chào. Các cô chào lại. Cô chị nói: - “Chúng em đến tiễn anh, chúc anh lên đường mạnh giỏi. Thỉnh thoảng anh nhớ viết thư về cho Trúc”. - “Vâng, cám ơn các cô, thế nào tôi cũng phải viết”. Tôi cười: - “Được viết thư cho người đẹp sướng thấy bố rồi lại còn phải viết với không phải viết. Sao nào, nếu học xong tiến sĩ kinh tế, có trở lại thăm cô Trúc không nào?”. Hắn cười, mặt đỏ bừng, bây giờ tôi mới thấy hắn nói được một câu có thể coi là thông minh: - “Có chứ, đó là mơ ước lớn nhất trong đời mình, nếu hai cụ nhà cho phép và cô Trúc sẵn sàng chờ đợi”. Cô chị hỏi: “Học tiến sĩ thì mất chừng bao lâu hả anh?”. Hắn nói: “Khoảng chừng 8 năm, sớm nhất cũng phải 6 năm. Bên Mỹ nếu cố gắng vẫn có cách học vượt thời gian như vậy. Bên mình thường thường là phải 10 năm...”. Cô chị nói: - “Lúc ấy Trúc mới 22 hay 24 tuổi, còn sớm chán”. Tôi cười, nói đùa: - “Sao, ‘cô bé đẹp’, có đợi được không thì cho biết ý kiến?”. Cô bé chỉ cúi mặt cười, không nói gì cả. Tôi hỏi gặng quá bắt buộc cô phải trả lời: - “Dạ được”. “Được thì ngoéo tay đi, hắn là dân Công giáo, đã nói là sẽ giữ lời, có tôi làm chứng!”. Cô chị cười: “Em cũng làm chứng luôn”. Mọi người cùng cười, hắn đã bạo dạn nên đưa tay ra ngoéo tay cô bé khiến cô đỏ mặt nhưng cũng ngoéo lại. Trời đất ơi, phải chi tôi được ngoéo tay cô chị nữa thì đỡ quá! Nhưng nhà tôi nghèo, mẹ tôi làm thợ dệt, tôi 20 tuổi, còn cô thì khoảng 18 tuổi, kém tôi 2 tuổi, làm sao tôi có điều kiện lấy vợ trong lúc còn đang đi học mặc dầu cô cũng có vẻ quý mến tôi, luôn luôn đứng sát cạnh tôi. Cuộc tiễn đưa chỉ có thế. Ba năm sau, tôi tốt nghiệp, đi dạy. Thời đó chúng tôi học Đại Học Sư Phạm theo régime 3 năm, các ban khoa học đều phải học bằng tiếng Pháp, thi cử cũng bằng tiếng Pháp. Sau khóa của tôi thì được đổi sang régime 4 năm và đã được chuyển ngữ, học bằng tiếng Việt. Ngoài ra, thời đó các trường trung học đệ nhị cấp dạy tới lớp 12 rất ít, ở các tỉnh lớn mới có, nên tôi đậu hạng 5 mà phải đi xa, Bạc Liêu cách Sài Gòn gần 300 cây số, vài tháng lễ, tết mới về nhà một lần. Có lẽ cũng đến 5-6 năm, một lần tôi về, thấy trên mặt bàn có tấm thiệp của hắn làm đám cưới với Thanh Trúc. Hai chị em nhà đó có cái lạ là cô em tên Thanh Trúc, cô chị tên Trúc Thanh, ngược lại với nhau. Phong bì bên ngoài đã có vẻ cũ, bám bụi. Tấm thiệp bên trong đề ngày cưới cách đấy đã hơn hai tháng. “Thằng Khải nó về rồi hở mẹ?”. “Ừ, cậu ấy về, nghe đâu đã đậu tiến sĩ, về làm đám cưới với cô con gái tiệm sách ở gần ngã tư Phú Nhuận. Cả hai cô cậu ấy đến chơi, đem thiệp cưới đến mời anh nhưng tôi nói anh dạy học ở mãi Bạc Liêu, chắc không về kịp. Cậu ấy nói cưới xong sẽ đưa cô ấy sang Mỹ, bao giờ có dịp về sẽ gặp anh sau”. Thời chúng tôi, người Việt ở bên Mỹ rất ít, nên họa hoằn lắm, hễ có ai về Việt Nam cưới vợ thì sau khi cưới xong, đem đi rất dễ chứ không khó khăn, phải làm đủ thứ giấy tờ bảo lãnh mới được đi như bây giờ. Cái thằng đó giỏi thật, lúc nó ra đi thì tôi bắt đầu vào Sư Phạm, học xong 3 năm, đi dạy 6 năm, tức mới 9 năm mà nó đã đậu đạt, đi làm, để dành được tiền về cưới vợ, giỏi thật. Tôi rất phục nó. Thế rồi tôi được đổi về trường Trung học Dĩ An, Biên Hòa, cách Thủ Đức khoảng 10 cây số. Năm năm sau, 1975, miền Nam sụp đổ, các giáo viên – giáo sư trung học bây giờ gọi là giáo viên – của 7 trường thuộc hai huyện Dĩ An và Lái Thiêu chúng tôi phải đi cải tạo tại K4 Long Khánh. Người cán bộ giáo dục về tiếp thu các trường thuộc hai huyện đó thấy người ta cách ly các sĩ quan và hạ sĩ quan cảnh sát thuộc hai tỉnh Bình Dương và Biên Hòa tại hai trường An Mỹ và Trịnh Hoài Đức, có du kích gác, rồi sẽ đưa đi học tập cải tạo thì bắt các nam giáo viên chúng tôi đi học tập cho... có tinh thần yêu nước vậy thôi. Hơn sáu tháng trời cải tạo tại K4 Long Khánh, tôi suýt bỏ mạng tại đấy. Bởi vì cơ thể tôi ưa lạnh chứ không ưa nóng. Cứ hễ trời nóng là tôi ho rũ rượi, ở nhà thường uống Terpin-Codein, một thứ thuốc rất rẻ do Việt Nam chế tạo. Đi học tập, trong trại không có thuốc men, lại ăn uống kham khổ nên tôi ho liên tục, ban đêm không ngủ được, thân hình gầy xác như con cá mắm. Sáu tháng sau, các giáo viên được thả về. Sài Gòn buồn thê thảm và nghèo không thể tưởng tượng nổi. Mẹ và em gái tôi nói chuyện người ta đánh tư sản mại bản (nghĩa là tư sản mất gốc), các tiệm lớn ở Phú Nhuận bị tịch thu nhà cửa, hàng hóa, gia đình bị đuổi đi kinh tế mới, tiếng khóc như di. Còn ở Chợ Lớn, các tiệm người Tàu sợ quá, ném những cây vải còn nguyên cả xấp và các đồ đạc xuống đường, kệ ai muốn nhặt thì nhặt nhưng chẳng ai dám nhặt. Em tôi kể thêm: “May hồi trước anh Khải về làm đám cưới với cô con gái thứ hai tiệm sách Thanh Trúc rồi đưa cô ấy sang Mỹ chứ không thì bây giờ bị kẹt, tiệm đó bị đánh, muốn cưới cũng chẳng được”. Tôi ngạc nhiên: “Sao, tiệm sách Thanh Trúc cũng bị đánh? Người ta bán sách chứ có làm gì đâu mà đánh?”. “Có, cả nhà may Bảo Toàn cũng bị đánh, tiệm bị tịch thu, nghe đâu người ta đuổi ông bà ấy lên cái gác xép nhỏ tí mãi tuốt tầng ba trên lầu, bây giờ nghèo lắm”. Bảo Toàn là nhà may lớn nhất Phú Nhuận, trước đây tôi thường may quần áo ở đấy nên cũng khá quen, ông bà Bảo Toàn rất tốt, đối đãi với khách hàng rất niềm nở, ân cần. “Tiệm sách Thanh Trúc còn một cô con gái lớn nữa tên là Thanh. Cô có nghe nói gì về cô con gái lớn đó không?”. “Họ nói cô ấy lấy chồng, có bầu, nhà chồng là một tiệm vàng cũng ở gần đấy. Hôm đánh tư sản, cả hai tiệm bị tịch thâu, cô ấy buồn quá định tự tử nhưng người ta cứu được...”. Miệng tôi đắng ngắt. Tôi nhớ đến hôm tiễn Khải ra phi trường, có cả cô chị cùng đi, cô thường đứng sát bên cạnh tôi, cái mùi son phấn thơm thơm sang trọng tôi không thể nào quên được. Rồi chúng tôi được Ty Giáo dục Sông Bé – Dĩ An trước thuộc Biên Hòa, bây giờ thuộc tỉnh Sông Bé – cho đi học tập chính trị hè sau đó cho đi dạy lại. Nghèo lắm. Lương tôi trước 63 ngàn, bây giờ chỉ còn 41 đồng, nghèo không chịu nổi. Rồi tôi lấy vợ. Nhà tôi cũng dạy cùng trường nhưng môn Anh văn, tốt nghiệp ĐHSP sau tôi 6 năm. Năm ấy tôi 32 tuổi. Lương của hai vợ chồng cộng lại chưa đầy 80 đồng. Nhà tôi dạy thêm Anh văn buổi tối cho các học sinh gia đình sắp đi vượt biên hoặc được bảo lãnh. Còn tôi, lúc rảnh tôi dịch truyện bán cho các nhà xuất bản ở trên Sài Gòn, buổi tối giữ con cho vợ dạy học. Giáo viên chúng tôi anh nào cũng gầy như cò bợ, quần áo ngày trước mặc vừa, bây giờ rộng thùng thình, áo thì mặc được còn quần cài dây nịt dúm dím, mặc không được. Một hôm tôi nghĩ ra cách là khi về nhà ở Phú Nhuận, Sài Gòn thì đem hai chiếc quần tây đến tiệm Bảo Toàn, leo lên cái gác xép tận trên lầu ba theo cái cầu thang bên cạnh, nhờ ông Bảo Toàn sửa lại giùm. Ông đo người tôi, xem kỹ hai chiếc quần tây rồi nói: “Sửa không được đâu. Bây giờ phải tháo hết các đường chỉ ra, ủi cho thẳng rồi cắt lại như cắt quần mới chứ sửa đâu có được”. Tôi hỏi giá cả, ông nói: “Ông là người quen, tôi tính ông mỗi chiếc ba đồng gọi là có thôi”. Tôi mừng quá, cám ơn rối rít. Ông nói: “Ông thấy tôi khổ như vậy đó. Ngày trước tiệm tôi lớn nhất Phú Nhuận, ngay cả may đồ cho khách tôi cũng chỉ trông nom chứ đã có thợ, đâu phải nhúng tay vào. Bây giờ thì đi may lại chiếc quần, kiếm ba đồng bạc...” . “Hình như tiệm sách Thanh Trúc bên kia cũng bị đánh tư sản như bên tiệm bác?”. “Có chứ, tiệm nào hơi có máu mặt một chút mà chả bị đánh. Họ bảo bán sách là toàn các thứ phản động, đáng lẽ họ đuổi đi kinh tế mới nhưng cô Thanh cô ấy tự tử, họ cho cả nhà ở tạm cái bếp ở phía đằng sau”. Rồi ông nói thêm: “Nhà bà ấy cũng bị tịch thu hết, nghèo lắm. May nhờ có vợ chồng cô Trúc ở bên Mỹ gửi quà về nên mới sống được”. Tưởng tôi không biết gì về vợ chồng Khải, ông kể: “Nghe nói người chồng cô Trúc đậu tiến sĩ kinh tế, trước làm trong cơ quan Liên Hiệp Quốc, sau làm giáo sư dạy đại học tại California”. Rồi ông kết luận: “Con người ta có số cả. Lúc lấy chồng, cô Trúc mới hăm mấy tuổi, gia đình lại khá giả nhưng vẫn quyết định đi, bây giờ đang bảo lãnh cho cả nhà sang bên ấy đấy. Tôi thấy họ đi được là đúng, gia đình bà ấy đối xử với ai cũng tốt lắm”. Con người có số hay không tôi không biết, nhưng theo tôi nghĩ, câu chuyện giữa cô bé 16 tuổi tên Trúc và anh chàng học sinh nghèo tên Khải hơi giống chuyện cổ tích của một thời đã qua, nay khó có nữa. Đoàn Dự
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 12, 2023 0:39:30 GMT 9
Một chuyện tình thời chinh chiến LUẬN
Tháng 10/70 tôi theo đại đội di chuyển về chi khu Buôn Hô. Khi làn bụi đỏ mịt mù vừa lắng xuống, thị trấn Buôn Hô hiện ra trước mắt làm tôi chới với . Thị trấn gì đâu mà chỉ có một nhúm nhà tole thấp lè tè nằm phơi mình dưới nắng, xa hơn tí nữa là những dãy nhà sàn của người thiểu số . Còn đang ngơ ngác thì bị pháo kích. Nghe tiếng đạn bay sèn sẹt trên đầu tôi hoảng hồn nhảy đại xuống một chiếc hố cá nhân ngồi núp. Mấy người lính thuộc quyền đứng phía trên cười ngất, tôi ngạc nhiên hỏi lý do cười, họ bảo : - Tiếng đạn đi như thế nó không rớt trúng mình đâu, chuẩn úy đừng sợ Quả như thế thật. Trái đạn rơi cách xa chi khu hơn nửa cây số. Nhưng tiếng sợ làm tôi bị chạm tự ái. Dù gì tôi cũng là cấp chỉ huy. Thế là tôi bèn nhảy phóc lên đứng hiên ngang tỏ vẽ mình ngon lành . Một tiếng khác bay vèo tới , nghe tiếng riu ríu trên đầu tôi ngước cổ lên nhìn . Nhưng đám lính lần này nhanh hơn con sóc . Thoáng một cái họ đã ở dưới hầm chiến đấu gọn gàng . Một bàn tay kéo tôi té nhào theo . - Chuẩn úy ơi khi nào tiếng đạn bay nghe kin kít như đàn bà nghiến răng đánh ghen thì lo mà chui vào hầm ngay vì nó sẽ rớt rất gần mình đó . Chưa kịp quay qua cự nự nghe nói thế tôi bèn im . Quả đạn rớt ngay vòng rào . Bụi đất cát đá bay phủ đầy trên miệng hầm . Tôi nghe rõ tiếng loãng xoãng của mảnh đạn chém vào mái tole của chi khu . Một mãnh đạn nhỏ bay sợt ngang gò má, tôi nghe ran rát như bị móng tay ai cào. Thế là còn đang chân ướt chân ráo mùi mực thư sinh chưa kịp phai, tôi đã lãnh thẹo . Đúng là lãng xẹt. Bài học đầu tiên của chiến trường đã dạy cho tôi nhiều kinh nghiệm đáng giá sau nàỵ Hôm nhận trung đội, đứng trước 23 người lính thuộc quyền xì xào mặt ông chuẩn úy này còn búng chảy ra sữa chắc mới rời vú mẹ quả chẳng sai . Nhưng thực sự vết thương trên mặt tôi không chảy ra sữa mà chảy ra máu . Đó là những giọt máu đầu tiên tôi đã đổ ra trong đời quân ngũ . Khi bị chảy máu người đầu tiên tôi nghĩ đến là má tôi . Má giờ này ở Ninh Hòa chắc không biết thằng con đang trở thành người lớn. Bây giờ mỗi khi soi gương nhìn vết sẹo theo thời gian cộng thêm da mặt xếp ly nên chỉ còn thấy lờ mờ , lòng tôi sống lại cảm giác nao nao. Vết sẹo vẫn còn đây nhưng người cũ đâu hết rồi? Nhớ những đồng đội thuở nào mà sau này đã gắn bó cùng tôi suốt mấy năm trời ròng rã . Tôi ra đơn vị nửa năm sau là đến tết . Để mong muốn có một cái tết yên lành, thiếu tá chi khu trưởng quyết định đưa hai khẩu pháo 105 ly trú đóng trên một ngọn đồi cách quận lỵ14 cây số . Tôi có nhiệm vụ phải dẫn trung đội theo làm vòng đai. Lần này thì thực sự chơi với khỉ vì chung quanh là rừng núi bạt ngàn không có một bóng dáng người dân. Lúc mới đến Buôn Hô chê lên chê xuống, giờ lên nằm cố thủ đỉnh đèo Kati mới thấy hết dám chê ỏng chê eo. Buôn Hô coi vậy mà dù sao cũng còn có vài ba cô gái Thượng đen đúa chọc đở ghiền. Những sợi lông tơ trên mép giờ đã biến thành râu mọc khiêm nhường hai chùm ở hai bên . Dưới chóp mũi là những sợi lông lờ mờ lưa thưa giống như quẹt lọ nghẹ. Nhưng không để râu thì không thể được vì đám lính thuộc quyền chê là con nít. Rừng rú có ma nào thèm nhìn thành ra tôi quyết định không cạo. Chính quyết định này mà về sau hàm râu đúng là hại bạn khi tôi gặp Luận . Nằm trên đỉnh Kati thét rồi rồi cũng có ngày tôi theo chiếc xe dodge đại đội về thị trấn để nhận tiếp tế. Việc đầu tiên khi về đến Buôn Hô lủi vô chợ để kiếm một ly cà phê vớ uống cho ấm lòng chiến sĩ (cà phê vớ là cà phê được người Thượng đựng trong chiếc vớ bỏ vào ấm nước nấu sôi lên xong chế ra ly chứ không dùng phin vì có phin đâu mà dùng). Đang nhấp nháp thì chợt tôi trông thấy một cô gái người kinh. Giữa một rừng người Thượng đen đủi, bóng dáng cô gái nổi lên như một vì sao giữa đêm tối trời. Cô gái bán mấy món hàng tạp hóa lặt vặt được bày trải trên một tấm ni lông. Chẳng có món nào để tôi có thể tìm cớ mua được. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở dễ gì tôi bỏ qua . Thế là tôi bèn mò tới ngồi chồm hổm trước mặt cô chủ. Dọ hỏi tên họ thì được biết tên Linh 18 tuổi . Thấy tướng tá của tôi râu ria không cạo, câu chào đầu tiên là : chào chú . Tôi thì bước vào tuổi 21 . Cách biệt nhau chỉ khoảng ba tuổi bị gọi bằng chú hơi ức . Tôi bèn mua một hộp dao lam. Linh hỏi chi vậy. Tôi đáp phen này thề quyết xuống tóc cạo râu để không bị gọi bằng chú. Đêm đó về đồn tôi cạo râu nhẳn thín . Mặt mũi lâu ngày được “ giải phóng “ nhẹ nhõm hẳn ra. Đám lính thấy thế tủm tỉm cười . Sau khi cạo râu xuống trình diện Linh, tưởng được xuống cấp anh ai dè Linh vẫn gọi bằng chú. Lần này lại kèm theo tiếng cháu khi xưng hô cho chắc ăn để phân định rõ ràng vai vế . Mùa mưa bụi đất đỏ biến thành bùn nhão nhẹt theo bám gót dày nặng trịch. Lớp bùn thật lì lợm bám chặt đến nổi phải dùng lưỡi lê nạy mới ra. Tôi cũng lì không kém. Dựa vào vai vế người lớn, tôi hiên ngang xuống chợ la cà. Bao nhiêu tiền lương mua hết cái này cái nọ đến độ Linh không còn hàng để bán : - Mua hàng chỉ là cái cớ, tiền lính đâu có bao nhiêu chú nên để dành uống cà phê. Có rãnh thì xuống ngồi chơi với cháu cũng được không có sao đâu Linh gọi tôi bằng chú, tôi không có lý do để xưng anh . Nhưng chú đứng cạnh cháu trông thiệt xứng đôi vừa cặp . Tuy thế tôi vẫn không thể xác định được rõ ràng tình cảm của tôi dành cho Linh là thứ tình cảm gì? Hình như tôi thương mến Linh bằng một thứ tình thân thiết ruột rà như anh với em. Chắc có lẽ hai đứa tôi cùng là người kinh, cùng xa quê, vì thời thế phải lưu giạt lên tận miền cao heo hút nên cần thiết nương tựa vào nhau . Hè đến, tôi gặp Luận. Luận là cháu ruột Linh, gọi Linh bằng cô và chỉ thua Linh có một tuổi ( nghĩa là thua tôi 4 tuổi). Luận học ở Ban Mê Thuột nghĩ hè lên Buôn Hô thăm cô . Lần này thì tôi thực sự bị tiếng sét ái tình đánh trúng . Khi thấy Luận ngồi với Linh tôi mơ hồ dường như cô bé này tôi đã gặp ở đâu đây . Hồn tôi xính quýnh . Luận gọi Linh bằng cô nên suy ra gọi tôi bằng ông cho lễ phép ( vì tôi tụ trì ở vai vế chú của cô) . Xưng hô tréo cẳng ngỗng như vầy thì làm sao mà cua ? Rõ ràng bước đầu không thuận lợi. Nhưng sét đã đánh trúng rồi cho dẫu chết cháy, ông cháu gì tôi cũng phải liều mạng nhào vô . Luận có một cái nút ruồi duyên trên gò má phải. Tất cả nét đẹp dịu dàng tự nó toát ra không hề có một tí make up nào dính vào . Giọng nói của Luận nhẹ nhàng như chim hót . Nhất là khi Luận nói tiếng Thượng với những người dân tộc thiểu số, nghe líu lo ríu rít . Tôi không biết tiếng Thượng, tôi không hiểu được tiếng chim, nhưng âm thanh phát ra từ hai bờ môi xinh xắn kia bảo đảm nghe du dương hơn tiếng nhạc . (Sau này ở Mỹ mỗi sáng trước khi đi làm có con chim đứng trên ngọn cây trước nhà thức dậy líu lo thay cho lời chào " good morning" thế nào tôi cũng đứng lại chậm năm ba phút để mà thưởng thức . Tôi đem điều này kể cho bà xã tôi nghe . Vợ tôi hỏi: - Anh có biết tại sao con chim nó hót nghe ngọt ngào trong trẻo hay không? - Tại sao ? - Là vì nó không phải nấu ăn, không phải giặt đồ, không phải rửa chén, không phải clean up nhà cửa , không phải đau đầu vì cái tật làm biếng , bày đâu xả rác đó , nhất là không phải nghe những câu hỏi vớ vẫn giống như anh (Xét ra, lý lẽ của bà xã đúng vô cùng , hèn chi được tôi tin tưởng bâu vào chức vụ thủ lãnh của mình và dám con ) Sống trên rừng núi âm u, khí hậu ẩm thấp quanh năm lính tráng đứa nào cũng phì phèo điếu thuốc. Có chuyện gì vui : chia nhau điếu thuốc . Có chuyện gì buồn : chia nhau điếu thuốc . Tiễn đồng đội ra đi : cũng là điếu thuốc thay nhang . Điếu thuốc vì thế trở nên gắn bó . Khi sống ở Mỹ hành vi duy trì hút thuốc là một hành vi bị bà xã và đám con tôi biểu tình phản đối vì nó lạc hậu có hại cho sức khoẻ . Tôi ghi nhận ý kiến phản đối hợp lẽ với nếp sống văn hóa cao đó , nhưng vẫn cứng đầu làm người lạc hậu . Nghĩa là hút thuốc dài dài . Hút trường giang không được thì hút lén , bị cấm giữa đám đông thì tìm nơi nào vắng vẻ mà hút. Nghĩ cho cùng đời tôi gắn bó với điếu thuốc chừng ấy năm , chừng ấy kỷ niệm dễ gì một sớm một chiều là có thể dứt bỏ được? Quãng thời gian còn lại là bao ngày , hơi đâu lo . Số mạng đâu có phải mình muốn sao là được vậy . Có ai biết được ngày mai Hồi đó đám lính tráng cùng đại đội đa số hút Ruby quân tiếp vụ hoặc Basto xanh. Chỉ riêng mình tôi là hút Pall Mall. Không phải tôi xài sang mà vì diếu thuốc Pall Mall nó dài hơn các loại thuốc thường lại thẳng thóm quấn bằng loại giấy trắng trẻo có độ dai, mỗi khi viết chữ lên đó dễ đọc, ngòi bút bi cũng khó làm rách giấy. Tiện lợi nhất là vì nó dài nên số chử viết lên đó được nhiều hơn là viết trên điếu ngắn. Quen với Luận một thời gian, chứng tỏ lòng thành cách mấy cũng không được gọi bằng anh, tôi tức lắm . Dưới sự nhận định đầy kinh nghiệm tình trường tôi cảm nhận được rõ ràng Luận đang kín đáo lo lắng cho tôi. Những tuần bận hành quân không xuống chợ Luận nhấp nha nhấp nhỏm hỏi thăm . Tình cảm của tôi dành cho Luận đâu khác gì? Không máu mủ, không bà con , mắc chi lên chức ông với cháu cho khó ăn khó nói ? Khó nói bằng lời thì phải nói bằng cách viết thư , tôi là đàn ông con trai đương nhiên phải ra tay trước . Trâu tìm cột chứ ai đời cột lại đi tìm trâu ? Sẳn gói Pall Mall trong túi áo tôi đánh số từ 1 đến 20 , thế là cứ trên mỗi điếu tôi nắn nót một câu thơ tống tình thiệt là lâm ly bi đát. Thực hiện xong ý định tôi cho ngay ngắn vào gói . Xét theo chiến lược, viết thư trên tờ giấy trắng gấp lại khi gửi, sợ e lộ liễu quá Luận sợ không dám cầm, không gây được yếu tố bất ngờ về phía đối phương. Trong chiến thuật yếu tố bất ngờ là yếu tố then chốt quyết định mỗi trận đánh. Dùng điếu thuốc là yếu tố bất ngờ. Tôi là dân nhà binh, nên phải áp dụng yếu tố bất ngờ đó vào trận này. Mục tiêu là Luận . Khi tôi móc từ trong túi ra gói thuốc, Luận hỏi: - Cái gì đây ? - Gói thuốc - Cháu đâu có hút thuốc , ông đưa cháu làm gì? - Chú muốn cai thuốc nhưng vất đi thấy uổng gửi Luận cất giùm - Ông mà cai thuốc có mà trời sập - Trời cũng sắp sập rồi đó cô bé . Cất cho kỹ đừng cho ai thấy nhen . Luận ngây thơ nghe tôi nói sao tin vậy đem gói thuốc cất kỹ. Còn tôi thì hồi hộp chờ kết quả . Hai ngày sau , tôi mò xuống chợ. Thấy trên môi tôi vẫn còn điếu thuốc đang phì phèo , Luận nói: - Ông đã bảo cai thuốc sao còn ngậm cái gì thế kia ? Hay là cháu trả lại cho ông gói thuốc ông đã gửi nhé . Tôi vội vàng xua tay. Thì ra cô bé không tò mò mở gói thuốc ra xem. Ăn gian không được thì bỏ. Tôi hì hục viết thêm lá thư thứ hai. Khi đưa cho Luận kỳ này tôi đóng khuôn mặt thểu não hơn trước (cũng không quên ma giáo hơn trước) - Chú lục trong ba lô thấy còn sót lại một gói . Luận trót giữ gói kia thì giữ luôn gói này luôn một thể cho có đôi có cặp - Cháu đã nói rồi. Ông mà bỏ được cháu cạo đầu đi tu liền - Luận có biết tại sao chú ghiền thuốc lá không? - Không - Ý nghĩa của điếu thuốc rất đặc biệt . Nó mang một sứ mệnh . Chỉ những ai có duyên phận thì ý nghĩa đó mới hiện ra . - Gì mà ghê gớm vậy ? - Không tin tối nay về nhà Luận thử mở ra sẽ thấy . - Đâu cần tối nay . Cháu mở ra liền bây giờ . Ông coi nè . Luận rút ra một điếu , hết hồn khi thấy trên đó có những chử viết li ti . Khẻ bật lên tiếng kêu ngạc nhiên Luận chợt hiểu ý đồ của tôi, hai gò má nàng ửng đỏ : - Cháu sợ Gươm đã rút ra khỏi vỏ đâu dễ gì tra vô. Tôi hỏi: - Luận sợ gì ? - Luận không biết . Đang từ cách xưng hô bằng cháu, Luận ha giọng xuống xưng tên , tôi nắm phần chắc ăn được khoảng 70%. Phần 30% còn lại chỉ cần điều động hai con mắt biểu diễn làm sao đó thật "thê thảm" khi nhìn vào đối phương, bảo đảm đối phương chạy trời không khỏi nắng. Trong khoảng thời gian vài ba cái tích tắc của đồng hồ , khi tôi chưa kịp thực hiện trò ma mảnh đó thì cảm xúc không biết xuất phát từ đâu dâng lên trong lòng tôi ào ạt. Hai con mắt rơm rớm, tôi nhìn thẳng vào Luận một cách thiết tha, cái nhìn chân thật của một người yêu một người, cái nhìn sẳn sàng xả thân. Tóm lại những gì tôi biểu hiện ra ngoài nét mặt đều phát tiết từ con tim chân thành chứ không nằm trong kế hoạch dự trù. ( lại nghệm ra thêm một chân lý : không thể dùng lý trí để mà cãi lý lẽ với con tim ). Tôi run giọng nói với Luận : - Những gì anh muốn nói với Luận anh đều viết trong hai gói thuốc. Anh hy vọng sau khi đọc xong Luận sẽ hiểu Tự nhiên tôi xưng anh ngon lành. Nhưng mặc kệ bất kỳ Luận nghĩ gì, tôi quyết định sẳn dịp này xuống chức làm "anh " chứ không thèm làm "ông " nữa . - Luận không biết Lại không biết. Những tiếng "không biết" nghe sao mà dể thương . Dể thương ở chổ không phản đối tiếng anh khi tôi chuyển hệ và không gọi tôi bằng ông xưng cháu nghe chói tai như trước. Đảo hai con mắt một vòng chung quanh chợ thấy không có ai , tôi làm bạo nắm tay Luận , Luận sợ hải rụt lại , nhưng sau đó để yên run rẫy. Tôi 21 Luận 17 hơn nhau có bốn tuổi , nhưng khi tỏ tình với Luận giống y như ông già đi dụ dỗ con nít . Chắc có lẽ tại vì tôi sớm lăn vào vùng sương gió nên kinh nghiệm già trước tuổi , còn Luận dù sao cũng chỉ là một bông hoa đồng nội mộc mạc đơm lên từ chốn thâm u cùng cốc. Nhưng tình cảm tôi dành cho Luận không hề giả trá, đó là tình yêu chân thật phát xuất từ trái tim. Hôm sau tôi lại xuống núi ( tôi đóng quân trên ngọn đồi , nên khi xuống chợ gọi là xuống núi). Luận trong chiếc áo bà ba màu trắng, thấy tôi từ xa khuôn mặt Luận rạng rỡ hẳn lên - Đọc thư anh viết chưa - Không biết - Nghĩ sao - Không biết Thuở đó chưa có câu hát " con gái nói không là có ", nhưng tôi biết những tiếng trả lời không biết của Luận có nghĩa là có biết - Nhưng em sợ cô Linh buồn Tự giác xưng em ngọt sớt . Chợ miền núi tuy nhỏ bé tí tẹo nhưng vẫn có lác đác vài ba chục người dòm ngó chứ nếu không thì tiếng em ngọt ngào kia thế nào cũng bị tôi thưởng cho một chục cái hôn là ít . Sau này có một lần tôi canh vào lúc trời chạng vạng tối vắng người , tôi ôm Luận và hôn trên đôi môi đó . Khi " bị" tôi hôn hai con mắt Luận nhắm nghiền lại . Luận chưa biết cách hôn đáp trả . Đã thế khi tôi hôn xong Luận lại còn đưa tay lên chùi hai bên mép một cách vụng về lúng túng . Cử động phủ phàng đó không làm tôi phiền lòng mà ngược lại tôi rất vui vì nó chứng tỏ lần đầu tiên đôi môi Luận được áp vào bởi đôi môi của người khác phái . - Em là cháu của cô Linh , ở cùng chung nhà , chắc em cũng hiểu rõ tình cảm của anh dành cho Linh không giống như tình cảm của anh dành cho em phải không? Anh sẽ giải thích với Linh sau Sau này Linh nói với tôi như một lời gửi gấm : - Luận tuy 17 nhưng hãy còn con nít lắm, mong chú thật tình, đừng làm nó khổ - Chú hứa ( xưng chú với người cô , xưng anh với người cháu mất cả tôn ti trật tự , nhưng ai bảo Linh gọi tôi bằng chú ráng chịu) Luận tặng tôi một chiếc cong nhỏ đeo vào cườm tay làm bùa may mắn . Chiếc cong chỉ là một thanh đồng được uốn tròn lại . Người Rhadé dùng để tặng cho nhau biểu hiện ký thác niềm tin . Tài sản của người Thượng được dịnh giá bởi những cái ché , những con trâu những con bò, họ dùng dao nhọn khắc lên chiếc cong một vạch mỗi khi mua được thêm một cái ché hoặc một con trâu hay bò đó. Nhìn những vạch được khắc trên chiếc cong thì biết người chủ chiếc cong giàu hay nghèo. Chiếc cong Luận tặng, tôi khắc lên đó một vạch mỗi khi tôi nhớ. Những khi nào mắc bận hành quân không xuống chợ được nghĩ đến Luận, tôi dùng lưỡi lê dồn lên nhiều vạch. Sau khi đi hành quân về tôi đem chiếc cong xuống khoe. Luận cảm động nhưng thường chống chế : - Anh xạo ghê - Anh xạo nhưng xạo đầy chân thành - Xạo cũng có chân thành nữa sao - Có chứ - Làm sao để phân biệt ? - Nhìn vào mắt -Nhìn vào mắt ? - Phải. Người xạo chân thành ánh mắt họ thẩn thờ, hai tròng đen đứng yên một chổ - Còn giả dối ? - Xạo giả dối thì hai tròng đen chạy qua chạy lại không hề đứng yên . - Xạo . Xạọ Xạo Luận cười sung sướng . Nhìn Luận cười rạng rỡ , bước phong sương của tôi tưởng chừng như muốn mỏi . Tôi muốn dừng chân . Tôi muốn có một mái ấm gia đình trong đó chỉ có tôi và Luận . Nhưng Luận thì còn quá nhỏ . Còn tôi đang là một chiến binh , tương lai mù mịt không biết chết sống giờ nào . Trong ba lô mỗi khi đi hành quân tôi thường bỏ vào đó một cây thuốc Pall Mall ( một cây 10 gói , một gói 20 điếu) , Mỗi lúc dừng quân tôi làm thơ trên mỗi điếu thuốc . Điếu nào câu thơ ưng ý thì tôi đánh số thứ tự để Luận còn biết đường mà đọc . Điếu nào viết dỡ thay vì vứt đi thì tôi hút .Vừa tiện vừa lợi . Vừa lãng mạn, vừa thực dụng . Đêm 27 rạng sáng ngày 28/01/73 lợi dụng hiệp định ngưng bắn Paris vừa hiệu lực việt cộng mở một cuộc tấn công chiếm Hà Lan đánh thẳng vào Buôn Hô . Đại đội tôi tham chiến. Đại úy đại đội trưởng tử trận. Đại đội phó bị thương . Tôi tạm thời nắm quyền đại đội . Dằn co mãi đến cả tháng sau Hà Lan mới được giải tỏa. Buôn Hô đã vốn tiêu điều, khói lửa chiến tranh càng làm thêm xơ xác . Tôi trở lại tìm Luận và Linh. Dân chúng đã chạy sơ tán hầu hết . Chỉ còn sót lại một số ít người dân tộc thiểu số. Tôi không biết Luận và Linh đang ở đâu? Pleiku ? Thuần Mẫn? Ban Mê Thuột? Địa thế Buôn Hô tọa lạc trong cái lòng chảo, ngửa mình nằm trên một con đường duy nhất nối liền Ban Mê Thuột - Pleiku , còn chung quanh là rừng và núi . Đầu con đường về hướng đông là Hà Lan đang xảy ra chiến trận, chỉ còn một lối cho dân chúng chạy giặc ngược lên đó là Thuần Mẫn hoặc Pleiku . Đơn vị tôi sau khi lâm trận đang bận chỉnh đốn, tôi không thể bỏ đi . Còn Luận thì chắc chắn không biết đơn vị tôi đang di chuyển về hướng nào để liên lạc vì nguyên tắc nhà binh luôn luôn bảo mật lệnh di quân. Kế tiếp tôi được thuyên chuyển về phòng 1 tiểu khu Darlac. Lúc quen với Luận tôi nghe phong phanh nhà Luận ở đường Hai Bà Trưng . Suốt một tháng trời tôi quầng nát cả một khúc đường , nhưng bóng chim tăm cá. Rồi thì lệnh của quân đoàn 2 chỉ định tôi biệt phái qua CSQG . Tôi nhận sự vụ lệnh giả từ Ban Mê Thuột để về trình diện Bộ chỉ huy CSQG Khu 2 (Nha Trang) . Tôi được gửi đi học một khoá nghiệp vụ tại Cam Ranh. Khi mãn khoá tôi được đổi ra Bình Định.Tất cả mọi sự việc xảy ra quá nhanh với một tốc độ dồn dập làm tôi trở tay không kịp . Trong khi tôi chưa có được nghỉ phép để trở lại Buôn Hô tìm Luận thì biến cố 30/04/75 ập đến . Thế là tôi bặt tin Luận . Xem như tôi là một kẻ phụ tình . Trước đây tôi cũng đã từng yêu và từng bị phụ tình , Khi bị bồ đá lòng tôi vô cùng đau đớn , cứ tưởng không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau bị đá . Nhưng khi tôi phụ tình Luận trong lòng tôi còn đau hơn thế nữa . Phụ người cả là một ray rức vô bờ. Tôi đâm ra thông cảm được nỗi khó khăn của những người phụ tôi . Chắc họ không vui sướng gì khi quyết định chia tay. Chiều nay xứ người nơi cách chiến trường xưa nửa vòng trái đất, những cơn mưa cuối hạ rơi hoài không tạnh . Hai bàn tay xoáy chặt lại với nhau, tôi nhìn những mảnh vụn của gỗ cây mục từ cánh rừng trước nhà bị mưa cuốn đi trong dòng nước, rồi lẫn thẫn lẩn thẩn nghi vấn : những mảnh gỗ vụn kia sẽ trôi qua bao nhiêu ải trạm của mệnh số để ra sông trước khi tuôn về biển? Hay chỉ trôi tạm trên cõi đời này trong một cơn mưa để rồi bị vùi dập vào một ống cống hay một đường mương cống rãnh nào đó? Và nỗi nhớ có như những mảnh vụn kia trôi qua bao nhiêu phiền muộn, trôi qua bao nhiêu sóng gió của tai ương ? Trong đầu óc trống trơn khô héo này bừng bừng lên cái không có. Cái không còn gì cả . Hay chỉ là những cảm xúc thoáng ẩn hiện qua cuộc sống quá khô khốc này? Tôi chẳng tìm được ra câu giải đáp, chỉ biết rằng bỗng chiều nay chiến trường xưa mưa bay chập chùng. Bỗng chiều nay rưng rưng trong tôi nỗi nhớ . Quan Dương
|
|