|
Post by Can Tho on May 1, 2009 4:22:22 GMT 9
Miền Nam quê hương tôi: Kỷ niệm thời thơ ấu (Bài 5) Thursday, April 23, 2009 Võ Long Triều
Câu sông
Câu cá cũng nhiều kiểu cách, câu sông, câu rạch, câu ruộng, câu đìa tùy theo loại cá mình muốn câu tùy thời gian ngày hay đêm. Câu sông theo con nước, muốn bắt cá lớn có hai loại thông thường là cá lăng, cá bông lau. Phải có dây dài và chắc, quấn trên một miếng ván dài ba tấc, hai đầu khuyết sâu để cuốn chỉ vào đó. Lưỡi câu lớn, mồi to, cột thêm cục chì nặng, nhà quê không có chì thường lượm sắt vụn, thậm chí cột một chùm đinh nặng chừng 5 hoặc 10 gờ-ram. Khác với ngày nay cần câu có máy quay, có chỉ nylon rắn chắc đủ cỡ lớn nhỏ, có chì nặng nhẹ hình tròn hình dài, có lưỡi dành cho đủ loại cá.
Thời tôi còn nhỏ người câu cầm dây có chì nặng quay vòng vòng để lấy trớn quăng mồi thật xa ra sông chìm ngấm tận đáy. Thời đó tôi chưa có sức cũng chưa biết quay chì để lấy trớn nên mồi không đi xa, tôi chỉ bắt được cá út bằng cườm tay là thường, nhưng cũng có đôi ba lần may mắn bắt được cá bông lau nặng một hai ký. Những lần đó cả nhà và anh em chúng tôi xúm nhau bàn tán. Người thì nói con cá đó nó đui nên lội ngang vướng câu, người thì nói số mạng tôi lớn nên Hà Bá sợ mới bắt cá móc vào câu tặng tôi, người thì nói chó dắt gặp may! Sự thật có lẽ cá đói vào bờ kiếm ăn hay vì nước chảy mạnh giữa dòng sông cá nhỏ trốn vào bờ nước yếu dễ bơi, cũng có thể nó đi tìm những trái bần chín mùi từ trên cây rụng xuống, nổi lình bình trên mặt nước hay chúng nó đi tìm những con vật chết trôi chết nổi ven bờ.
Có một lần tôi thấy ông Hương Lễ, tên Tự, câu một con cá bông lau nó lôi quá mạnh ông cầm dây tuốt rát tay rướm máu, ông phải cởi áo quấn vào tay để chịu trận. Vừa cầm dây ông vừa la bài hãi có lúc ông quýnh quáng la: bớ làng xóm ơi! Nhưng kịp thấy mình hố nên sửa lại bớ “bà con” ơi. Bởi vì câu bớ làng xóm là chỉ để kêu cấp cứu hay báo động mà thôi. Thiên hạ ở gần xóm nghe la xúm nhau bu quanh ông Tự. Chừng đó ông lấy lại bình tĩnh huênh hoang tự hào: “Con cá quá bự bà con ơi, quá bự, tôi gặp vận may rồi, quá bự, con heo con hay con bò con đây? Bán con cá nầy gia đình tôi mua gạo ăn cả tháng vân vân và vân vân. “Bà con”, trong đó có tôi nôn nóng chờ xem con gì mà to dữ vậy? Giằng co mãi gần nửa giờ con cá mệt đừ ông Tự mới lôi được nó vào bờ. Không cân nhưng ai cũng đoán mò con cá nầy phải trên mười kí, dài hơn một thước. Ông Tự phải chạy về nhà lấy giây cột đầu và đuôi mượn người cầm đầu cây phụ khiêng cá về nhà vì ông không muốn lôi nó lết bết trên đất làm trầy da con cá khó bán. Tôi về nhà thuật chưa hết chuyện ông Tự câu được cá bông lau trên mười kí thì bà Hương Lễ Tự đầu đội khăn vằn tay bưng rổ cá khứa sẵn từng khứa đem vào nhà tôi bán. Ông nội tôi nghe nói bước ra sân chắt lưỡi mỉm cười nói với bà nội: Bà biểu sắp nhỏ mua giùm cho thím Hương Lễ ba khứa đi, lựa khứa bụng có mỡ ngon chiều nấu canh chua.
Câu cắm
Câu cắm là một thú vui khác, nó khá nhộn nhịp, hồi hộp, hấp dẫn, có khi cũng mệt nếu khi nào có cá nhiều. Cần câu cắm ngắn, làm bằng tre thật già chẻ ra từng cọng bằng ngón tay út. Vót bỏ ruột tre của phân nữa thân trên, chỉ chừa vỏ tre cứng diệu, quặt lên quặt xuống dễ dàng, đầu cần chừa một mắt nhỏ để thắt dây câu vào không bị tuột. Phân nửa thân dưới người ta vót nhọn gốc cây câu để dễ cắm vào đất mềm của bờ ruộng. Dây câu ngắn có tra lưỡi vào, ngay một phần ba đầu dưới cần câu có một vòng dây cột ngang dùng để móc lưỡi câu vào trong tư thế nghỉ câu. Tư thế nầy giống như một cây cung nhỏ bị bẻ công một phần ba đầu trên.
Anh em chúng tôi không đứa nào biết chuốt cần câu cắm. Mấy chú giúp việc trong nhà chỉ vót giùm vài ba cần để cắm quanh nhà chơi mà thôi. Vì thế kỳ nghỉ hè năm đó anh Năm và tôi quyết định đặt mua một trăm cần. Chúng tôi lựa đêm tối trời, cá dạn ăn hơn là khi có trăng sáng. Anh Năm quẩy đục lớn chờ đựng cá, đục nhỏ đựng nhái con, gáo dừa đựng trùng nằm dưới một lớp đất. Tôi mang nóp đi theo vào sở ruộng Ðìa Sen, ruộng sâu của nhà, tá điền là ông sáu Mọi.
Cắm câu người ta móc mồi trùng hay mồi nhái, sau đó cắm chặt gốc cần vào bờ đê ruộng, lưỡi câu và mồi chìm xấp xỉ dưới mặt nước. Nếu là mồi nhái thì chỉ móc vào đùi nó để cho con nhái nhảy vọt tới vọt lui khêu gợi cá lóc vồ nó cho sớm.
Mỗi lần cắm câu người ta thường mang theo năm bảy chục hay một trăm cần, có người cắm tới hai trăm cần trên một bờ đê dài mấy trăm thước. Chúng tôi cắm mỗi cần dang xa gần hai thước, cắm xong một trăm cần trời mới chạng vạng tối. Vậy mà giữa lúc đang cắm nghe đầu kia cá mắc câu giãy lủm chủm phải bỏ chạy tới đó gỡ bỏ vào đục, đậy nắp kỹ, thả xuống nước ngâm cho nó sống. Thế rồi anh Năm và tôi thay phiên nhau chạy nhanh hết đầu nầy đến đầu khác, có khi hai đứa đang gỡ cá mà nghe có chỗ nào đó giãy lủm chủm gỡ không kịp. Nhưng cũng trong một thời gian ngắn thôi, rồi chúng tôi lại trải nóp ngồi vui sướng kiểm điểm sự thắng lợi.
- Ðêm nay coi bộ khai trương có nhiều khách hàng đó mầy.
- Nhiều cá thì ham thiệt mà sao thấy hồi hộp tim đập thình thình. Nhứt là khi nó giãy một lượt hai ba con sợ gỡ không kịp nó sút.
Lại lủm chủm nữa, tiếng giãy khá mạnh, có lẽ cá lớn, anh Năm chạy gỡ, tiếng anh vọng từ xa, đúng rồi cá lóc lớn hơn cườm tay.
Cái khoái lạc của sự thành công nó lâng lâng trong người, cái hồi hộp chờ đợi còn làm tăng thêm niềm vui sướng. Tôi không biết những người cắm câu bắt cá bán để nuôi gia đình có cảm giác như thế nào? Có lẽ ngoài cái sung sướng nắm được con cá trong tay còn cái vui, cái an ủi là sẽ có được thêm ít tiền. Ngoài cái hồi hộp chờ cá cắn câu giãy lủm chủm họ còn ước mơ nghe được nghe tiếng giãy thường hơn nữa. Họ tưởng tượng vợ con sẽ vui mừng. Chắc sự thưởng thức của họ nhiều hơn và sâu đậm hơn sự vui mừng của tôi.
Hay là cũng có thể giống nhau, vì khi đứng nhìn một “chiến lợi phẩm” cường độ vui mừng chắc cũng giống nhau trong khoảnh khắc đó.
Riêng tôi, ngoài những con cá bắt được, còn có mùi thơm cỏ lúa của đồng quê mà tôi đã từng hít thở từ lúc mới lên năm lên mười, cảnh vật buổi hoàng hôn chiều xuống tối dần, gió thoảng sương lạnh, muôn ngàn sao lấp lánh trên nền trời tối đen. Tất cả những thứ đó nó in sâu trong đầu tôi, nó gợi nhớ gợi thương những lúc xa quê hương tôi cảm thấy chạnh lòng.
Ruộng sâu, lúa cao, muỗi nhiều. Chúng tôi đứa nào cũng mặc quần đùi áo tay ngắn, cả hai đập xành xạch nhưng chưa đứa nào chịu chung vô nóp vì còn muống nghe tiếng cá giãy dù là đã thưa dần. Trời về khuya sương càng lạnh hai anh em tôi đành chui vào nóp. Nằm yên, cơn ngủ ru tôi vào giấc lúc nào không hay biết. Hừng sáng anh Năm đánh thức tôi dậy.
- Mầy ngủ như chết, đêm hồi hôm tao còn đi gỡ thêm hai con nữa, toàn cá trê.
Chúng tôi quảy cá về nhà, phân chia cho đầu nầy vài con đầu kia vài con, hãnh diện khoe rằng chúng tôi cũng thuộc vào thợ câu chớ có phải là công tử bột đâu. Kỳ thật câu là một thú vui đặt biệt, một sự đam mê mà những lúc bãi trường chúng tôi bỏ mặc những “bài làm hè”, phải góp khi vào lớp lúc tựu trường. Năm nào tôi cũng bị phạt quì gối vì có làm bài đâu mà góp. Nhưng lúc quì gối tôi sung sướng hồi tưởng lại những thú vui hưởng được trong kỳ nghỉ hè. Bây giờ nhớ lại thời thơ ấu, tôi cảm thấy lâng lâng buồn muốn sống lại những ngày đã qua nhưng vĩnh viễn không bao giờ đi ngược thời gian được!
Những trái nhãn lồng, chùm giuộc, trứng cá là niềm vui của tuổi trẻ ở nhà quê
Con nhà giàu hay con nhà nghèo ở thôn quê chỉ khác nhau khi tối về nhà cha mẹ, đứa được nuông chìu ăn ngon ngủ kỹ, đứa chỉ có đủ cơm no bụng, chăn gối mùng mền tả tơi rách rưới. Nhưng ban ngày khi chúng chạy rong trong làng tìm bạn vui chơi với nhau thì thằng nào cũng như thằng nấy. Mấy đứa con nhà giàu thường lâm vào thế hạ phong bởi vì chúng nó không thuộc đường đi nước bước, không biết hang cùng ngõ hẻm, nơi nào có cây có trái, chỗ nào có thể hái trộm, trái nào ăn được, trái nào không. Thời còn thơ ấu tôi thích nhứt là đi chơi với thằng Có, nó chăn bầy trâu của ông Hương Quản, tên Họa, ở gần nhà tôi.
Thằng Có nó biết rành nhà của ai có cây chùm giuộc ở sát mí rào, nhà của ông bà nào có cây trứng cá, de nhánh ra đường, mồ mả của ông Bái Ba có nhiều cây trứng cá che mát toàn khu mộ, trái chín đầy, chim trao trảo ăn không hết. Những tháng nghỉ hè từ trường Saint Joseph ở Mỹ Tho về làng, sáng hôm sau là tôi đi kiếm thằng Có. Chúng tôi hẹn nhau vào những buổi chiều nắng nhẹ khi thì ngoài ruộng gần Mỏ Neo, khi thì trên giồng cỏ gần nhà bác Hai Châu. Bởi vì buổi trưa trời nắng chan chan, ra khỏi nhà là bị rầy, có khi còn bị hăm sẽ ăn đòn nếu người nhà thấy tôi dang nắng đầu trần.
Việc trước tiên và hấp dẫn nhứt đối với tôi là cỡi trâu. Bởi vì khi tôi còn học trường làng, thầy tư Nhơn bắt phải học thuộc lòng bài:
Ai bảo chăn trâu là khổ?
Không, chăn trâu sướng lắm chớ!
Ðầu đội nón mê như che lọng
Tay cầm cành tre như roi ngựa
Ngất nghểu trên mình trâu
Hai câu trên nó in sâu trong đầu và có những lúc ngán học, lười biếng tôi tự nhủ: Thà đi chăn trâu tôi cũng bằng lòng, còn hơn phải học nhọc nhằn với chữ nghĩa, cộng trừ nhơn chia.
Thằng Có đỡ tôi ngồi trên lưng trâu rồi nó thót lên ngồi sau vịn sợ tôi té. Con trâu đi chậm rãi nhưng cái lưng của nó lớn quá, hai chân tôi thì ngắn nhỏ không kẹp được vào đâu, không đạp vào chỗ nào để giữ được thăng bằng. Vậy mà sao thằng Có nó ngồi vắt võng vững vàng như không. Tin vào bàn tay của nó vịn trên vai, tôi yên lòng ngắm cảnh đẹp của nắng chiều bao trùm cánh đồng rộng mênh mông trước mắt, tôi khoan khoái hưởng cái mát dịu của gió nhẹ lay động mấy ngọn trâm bầu hay cây me keo, tôi hít thở mùi rơm rạ, mùi bông bắp, mùi mạ non, xen lẫn mùi hôi trâu mà bây giờ nhớ lại tôi hình dung rõ, phân biệt được mùi hương của từng thứ như tôi đang sống trong cảnh vật đó dù là tưởng tượng.
Thằng Có và tôi thường hái trứng cá ở khu mộ ông Hương Bái, thường gọi là Bái Ba. Nó thích ăn thứ trái đó còn tôi thì ưa những trái nhãn lồng chín vàng, ruột chua chua ngọt ngọt thắm mát miệng. Cũng có khi tính con nít muốn phá làng phá xóm thằng Có rủ tôi đi hái trộm chùm giuộc. Nhà ông Hương Cả tên Hộ, con của ông Bái Ba, có cây chùm giuộc chua ở gần mé rào nó có thể chui qua hàng rào cây dúi vào hái được. Ăn chua lè chua lét mà nó nhai luôn cả hột nghe giòn rụm, ngốn ngáo thấy phát thèm, bây giờ nghĩ lại vị chua tôi còn nhỏ giãi rùng mình.
Sâu tuốt phía trong gần nhà có cây chùm giuộc ngọt, thằng Có nói khó ăn cắp lắm vì nhà nầy có chó. Nó nói lâu lâu mầy về chơi tao cũng liều hái cho mầy vài trái thử coi được không. Nó bỏ trâu ăn trên mé giồng xa, hai đứa đi hái trộm trái cây của người ta, một trò nghịch ngợm lý thú nhưng tôi hồi hộp lo sợ quá. Còn thằng Có tỉnh bơ cười chúm chím lộ vẻ anh hùng coi chuyện nguy hiểm “như pha”. Vừa nghe nó nói vào sâu trong sân nhà có chó là tôi tản đi xa, trở về phía bầy trâu 5 con đang ăn trên mé đồng. Ði chưa được bao xa là tôi nghe tiếng chó sủa, nhìn lại thấy thằng Có chạy trối chết tay cầm một nắm vật gì trắng có đất có lá tôi đoán là chùm giuộc. Thì ra anh ta bị chó phát hiện hoảng hồn, hốt đại một nắm trái cây rụng dưới đất chạy ù ra, chui càn qua hàng rào dúi, bị cây cào tét tay áo, sướt thịt rướm máu, nhưng miệng nó cười toe tét đưa tôi mấy trái cát bụi dính đầy: Cho mầy nè, mầy ăn chua không được thì có trái ngọt đây. Ba trái còn nguyên, hai ba trái khác thúi dập bỏ đi, tôi chùi hai trái bỏ vào miệng một trái còn một trái nhét vào mồm nó, trái kia tôi bỏ túi để dành.
Gặp lại bầy trâu, chúng nó đang liếm sang đầu hai hàng bắp non của người ta, thằng Có thất thanh chạy lại cầm roi tre quất bừa hết con nầy đến con khác, rượt chúng nó chạy thật xa ra giồng bỏ tôi lại một mình lủi thủi theo sau. Tới nơi nó nói không ra lời: Chết mẹ tao rồi, nếu ai biết được trâu tao ăn bắp của họ thì tao sẽ bị đòn nát đít.
Tội nghiệp thằng Có quá, chiều hôm đó đi chơi mất vui, nhưng cũng chiều hôm đó lòng tôi biết rung động vì tình bạn mặn nồng thắm thiết qua sự liều lĩnh hy sinh của thằng Có. Nó muốn tìm trái cây ngọt cho tôi nên chấp nhận rủi ro, có thể bị đòn. Bị đòn là cái chắc, vì ở miệt Giòng Lớn nầy có trâu ai ngoài trâu của ông Hương Quản Họa? Về nhà, tối ngủ tôi nhớ thằng Có và thương nó quá, nó nghèo phải đi ở đợ chăn trâu, mấy thằng con nít trong làng có đứa nào dám chơi với nó đâu? Con nhà khá giả đi chơi với chăn trâu là điều cấm kỵ. Mỗi khi đi chơi với thằng Có tôi phải lén trốn nhà vì khoái cỡi trâu. Cũng có lần anh Năm kiếm tôi không được, bắt gặp tôi đi chơi với thằng Có, anh mét cô Bảy tôi bị đòn, và nhiều lần bà gì ghẻ hửi thấy mùi trâu, biết tôi đi chơi với thằng Có bà mét cha, khi thì ông rầy la hăm he dữ dội, khi thì ông đánh cho mấy roi, khóc nhưng cũng không chừa. Bạn thân của thằng Có là 5 con trâu của ông Quản Họa. Cái bánh ngon nhứt nó được ăn là “bánh ít” mỗi khi có đám giỗ trong nhà ông chủ.
Ðôi khi trong nhà làm bánh, tôi bỏ túi vài cái bánh men bánh gai đem cho nó. Thằng Có mừng rỡ sáng mắt cười toe tét. Nó không nói cám ơn mà chỉ nói: Mầy giàu sướng quá có bánh ăn hoài. Nó ăn hai cái để dành mấy cái, nói là để dành chớ một hồi sau dằn cơn thèm không được, nó lấy ra nuốt hết. Nghĩ như vậy tôi thấy buồn, cái buồn của thằng con nít, không sâu sắc có lý có ý nghĩa, mà do tính ngây thơ nhẹ dạ, đã là con nít hễ vui thì cười, buồn thì khóc. Tôi không khóc nhưng nước mắt tràn ra khóe, quẹt đôi ba lần tay áo ẩm ướt.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2009 2:33:00 GMT 9
Mùa mưa, ăn nấm mối Monday, May 04, 2009 Nấm mối bán tại chợ Mỹ Tho. Nấm mối nướng lá cách. Nấm mối xào muối ớt. Bài và hình: Phương Kiều/Người Việt Miệt vườn nước ta từ xa xưa nổi tiếng với nấm rơm. Những tai nấm tròn như chiếc đinh dù “trốn” trong đống rơm sao mà dễ thương quá! Nhưng, đám con nít lại càng “thương” hơn những tai nấm rơm nở xòe, coi đó như là những chiếc dù nhỏ xíu trong trò chơi nhà chòi của tụi nó. Nấm rơm cùng với thịt heo, tép bạc... sau khi pha chế với một vài loại rau vườn sẽ là món ăn ngon ngọt cho cả nhà. Tuy nhiên, ngày nay, nấm rơm đang trở thành một loại rau “công nghiệp”, vì được nông dân cấy meo trên liếp, phát triển rất nhanh, rất nhiều, nên có mặt quanh năm trên thị trường, chứ không theo mùa như xưa. Giá rẻ và nhiều dinh dưỡng, nhất là giá trị “miếng ngon” của nấm rơm vì vậy nay không còn như trước nữa! Ở miền Tây nước ta, từ lâu còn có một loại nấm khác, ngon hơn, có giá trị hơn nấm rơm nhiều, đó là nấm mối. Thường, cứ sau một vài cơn mưa đầu mùa, nắng hừng hực đổ xuống thì ở các gò mối, bên bụi tre hay nơi vườn dừa ẩm thấp, những tai nấm nhỏ hơn nấm rơm, màu hồng đẹp mắt nhú lên, từng giề. Nấm mối có mặt ở nhiều nơi trên cả nước. Nhưng, có thể nói “quê hương” của nấm mối là Bến Tre, kế đó là Mỹ Tho (Tiền Giang). Nhổ nấm phải có kỹ thuật: nhổ vào sáng sớm, lúc mặt trời chưa mọc. Người ta nói hái trễ, nắng lên, nấm tàn, không ngon. Khi nhổ nấm phải kéo nhẹ tay mới lấy hết cả phần chân nấm. Nấm nhổ về loại bỏ đất cát, rửa sạch trước khi pha chế. Người ta nói nấm mối nấu canh thịt gà là “ngon lắm”. Không ngon sao được khi nấm mối vốn đã ngọt ngon cộng với thịt gà thì có món nào sánh bằng. Song, ăn như vậy là phí phạm, bởi, ai lại nấu thịt (có thể ví von nấm mối như vậy) với thịt. Cũng phí phạm như vậy là món nấm mối hầm đuôi heo. “Rằng ngon thì thật là ngon”, nhưng sao nghe tiêng tiếc quá chừng! Người “biết chuyện” chỉ nấu món này khi nấm mối đã vào lúc cuối mùa, khan hiếm. Còn khi vào mùa thì chỉ cần mỗi một mình nấm mối cũng dư sức khiến món ăn bảng lảng cái thần hồn! Dân Bến Tre, Tiền Giang dùng nấm mối để hoàn thành nhiều món ăn cho gia đình. Vốn được mệnh danh là xứ dừa, cho nên “bản sắc văn hóa ẩm thực” của người Bến Tre là nấu với dừa. Ở địa phương này có món nấm mối um lá cách nước cốt dừa. Bên cạnh vị béo của nước cốt dừa, nhẩn nha nhai, cảm nghe vị ngọt giòn của nấm mối hòa trong vị đắng “đáng yêu” của lá cách, đột ngột “bắt gặp” tiếng nổ vui tai của hột đậu phộng trong răng. Đã đời cái thần khẩu là vị ngon tổng hòa của món um khi húp một muỗng nước. Nấm mối xào lá cách sẽ cho hương vị khác. Gắp mấy tai nấm chín tới, cho vào miệng, cảm giác giòn, xốp, mịn như tơ, càng nhai càng thấy vị ngọt quyến rũ các chân răng. Gắp đũa lá cách, nghe vị đắng thanh tan loãng khắp mặt lưỡi, bắt ngây. Gắp cả nấm và lá cách, chấm nước mắm giằm ớt hiểm xanh, nhai và nghe vị đắng của lá cách hòa trong vị ngọt của nấm và vị cay giòn thơm của ớt hiểm chưa trôi xuống dạ dày đã nghe bao nhiêu hương vị của đất trời, ruộng vườn hoang dã ngấm vào từng sợi tóc, chân lông. Thế nhưng những người sành thưởng thức nấm mối thì trên đời chỉ có tai búp nấm mối mới là thứ ngon nhất hạng. Người ta dồn hột đậu phộng vào bên trong tai búp nấm, lăn trên dĩa muối hột đâm ớt sừng trâu, gói bằng lá cách rồi đem nướng. Gần gần như vậy là nấm mối xào muối ớt. Món này cũng chấm muối ớt, sẽ cho bạn cảm giác ngọt mặn một cách thú vị với vị béo của dầu mỡ “thoa” bờ môi. Nhưng người ta cho rằng ăn nấm mối xào lá cách, lá cách sẽ bán mùi nấm mối, mất ngon. Cho nên người ta thích chiên nấm với hột vịt tươi. Dù làm thành món gì, nấm mối cũng “ngon quá chừng chừng”. Nhưng vào ngày Tết Đoan ngọ - mồng năm tháng năm âm lịch - thì cái món bánh xèo nấm mối được xem là “vô địch”. Bánh xèo là món “tủ” của dân miền Tây sông nước. Bánh ngon phải biết pha hỗn hợp một số loại bột vừa độ. Bột pha nhiều nước bánh sẽ nhão, nát và dính chảo. Bột đặc bánh sẽ mềm và sống. Trong bột còn có sự hiện diện của nước cốt dừa, đường, muối, hành, nghệ, đặc biệt là nấm mối, khi chiên chín sẽ tỏa mùi thơm và có màu vàng bắt mắt. Bánh xèo nấm mối ăn với dĩa rau tươi non, xanh dờn, hái từ vườn nhà, cùng chén nước mắm ớt bằm cay tê đầu lưỡi. Bấy giờ, khi ăn miếng bánh xèo, bạn sẽ thưởng thức vị béo của dừa, vị ngọt của đường, vị mặn của muối, vị nồng của tỏi, mùi thơm của hành và nghệ, vị tươi mát của các loại rau vườn, nhưng bật lên trên hết là vị ngọt giòn và dai của nấm mối. Cái ngon của món ăn dân dã miền Tây này còn được thể hiện ở cách ăn: ăn bốc. Vừa nhồm nhoàm nhai bánh vừa cùng bạn bè nhấm nháp ly rượu Phú Lễ - đặc sản Bến Tre – hoặc rượu gốc thì miếng ngon càng thêm ngon hơn. Dù được pha chế thành món gì, nấm mối cũng tạo cho thực khách vị ngọt khó quên. Đó là cái hương vị không thể diễn tả, chỉ có miệng lưỡi người ăn mới cảm nhận hết, đủ đầy. Nhưng bên cạnh cái ngon, nấm mối (cũng như hơn 100 loài nấm ăn được khác) còn là nguồn dược liệu giúp tăng cường sức đề kháng của cơ thể, chống lão hóa, làm giảm nguy cơ mắc các bệnh ung thư, tim mạch... Người ta nói nấm mối chỉ có trong mấy ngày đầu mùa mưa. Nhưng thực tế ở một số nơi có nhiều nấm mối, đặc biệt là Bến Tre và Mỹ Tho, thì loại nấm độc đáo này có mặt hầu như suốt mùa mưa. Nấm được đem ra chợ bán, giá “cao vời”, trên trăm ngàn đồng một ký, mắc hơn thịt heo, tùy theo thời điểm. “Biết” và quý nấm mối, ở Bến Tre, có người đã tìm cách “giữ” nấm mối để ăn dài dài khi mùa nấm lụi tàn, bằng cách đông lạnh nấm. Nấm mua về, rửa sạch, để trong rổ cho thật ráo nước. Sau đó cho nấm vào bọc ni lông, cột kín miệng rồi cho vào ngăn đá tủ lạnh. Khi nào cần dùng, rã đông nấm, pha chế thành món. Dù là nấm đông lạnh nhưng nó cũng làm đã đời cái thần khẩu của ta biết bao nhiêu!
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 24, 2010 9:09:39 GMT 9
Những chiếc scooter qua các thời đại ở Sài Gòn Nguyên Huy Nếu lấy mốc thời gian là 1954 thì những chiếc xe gắn máy (Scooter) có mặt ở Saigon Việt Nam đã trải qua nhiều thời đại. Trước hết là thời của "Mobylette vàng" và Velo Solex. Cả hai loại này đều có hình dáng như chiếc xe đạp đầm nhưng lớn hơn và có gắn bộ máy vận hành chạy bằng xăng pha nhớt. Tốc độ của Mobylette có thể lên tới trên 60 km/giờ nếu còn mới. Nó cũng có thể chuyển sang đạp bằng đôi chân khi bất ngờ hết xăng dọc đường. Cái tiện nghi của nó ngoài tốc độ nhanh hơn xe đạp, ngồi thảnh thơi mà rú máy lớn nhỏ cho xe chạy nhanh hay chậm, còn phải kể đến hai "phuộc" trước là hai ống nhún. Thời oanh liệt của xe gắn máy Mobylette là thời Tây (thực dân Pháp). Khi nền Ðệ I Cộng Hòa thành lập, chính phủ Ngô Ðình Diệm trong tư thế chính phủ của một quốc gia độc lập nên đã thoát dần sự độc quyền thương mại với Pháp. Vào đầu những năm 1955, 1956, xe gắn máy Mobylette đã phải nhường chỗ cho các loại xe khác của Ðức như Goebel, Puch, Sach mặc dù xe Mobylette cũng đã đổi kiểu khá nhiều. Mobylette Xe gắn máy của Ðức như Sach hay Puch khác với Mobylette của Pháp là có nhiều tiện nghi hơn như có còi điện, có ống nhún trước và sau và ở vận tốc có hai ba nấc gọi là số cho xe thay đổi để chạy nhanh hay chậm, lên dốc xuống dốc hay khi chở nặng. Dù chỉ với 50 phân khối lý thuyết (thực tế là 49cc) như Mobylette nhưng xe của Ðức chạy mạnh hơn nhiều. Tất cả những loại xe gắn máy này giá thường chỉ gấp ba chiếc xe đạp tốt hiệu Peugoet, Alcyon hay Dura nên giới trẻ thuộc các gia đình trung lưu đều có thể có được. Phong trào của tuổi trẻ lúc này ở Saigon là mở thông ống phun khói của xe bằng cách tháo bỏ ống hãm thanh để cho xe chạy nhanh hơn khiến thành phố thêm náo động. Cũng trong thời gian này, một loại xe gắn máy của Ý cũng được tuổi trẻ mê thích nhưng không có mấy ai có được vì giá cao hơn các loại xe gắn máy nhỏ nhiều. Ðó là chiếc Vespa của Ý, và sau đó là của Pháp cũng y chang vì Pháp mua lại được bản quyền sản xuất. Xe Vespa của Pháp giá rẻ hơn nhưng máy móc không tốt bằng của Ý. Ðể phân biệt Vespa Pháp hay Vespa Ý, "dân chơi" thường nhìn trước hết là mầu sắc sau đến là hàng chữ trên bửng xe trước. Vespa Ý thường chỉ có một mầu xam xám và có chữ Piaggio, còn Vespa Pháp thường có mầu vàng sậm và có chữ A.C.M.A. Vespa Bạn trẻ hải ngoại ngày nay có thể không biết đến chiếc Scooter Vespa nhưng 50 năm trước đây Vespa đã là nỗi mơ ước thường hằng của tuổi trẻ. Nó là chiếc xe hai bánh gắn máy của Ý ra đời sau các thế hệ Motobecane, Terro của Pháp, Harley của Anh hay BMW của Ðức trong các thập niên 30 và 40. Vespa ngay từ chiếc xe đầu tiên xuất hiện ở Ý nó đã nhanh chóng được dân Âu Châu đón nhận nồng nhiệt. Bởi, Vespa gọn nhẹ hơn xe "bình bịch" (danh từ gọi xe gắn máy ở miền Bắc), kiểu dáng lại có vẻ tình tứ lả lướt thích hợp với tuổi trẻ. Cái quyến rũ nhất là hai bánh xe đã thu nhỏ lại, chỉ bằng hơn 1/3 các loại xe gắn máy thuộc các thế hệ trước. Về hình dáng thì được thu gọn trong một "body" khá kín đáo. Cả bộ phận máy móc vận hành được giấu dưới ghế ngồi hơi xiên về bên phải. Ba số vận hành được điều khiển bằng tay trên cần lái rất tiện dụng thay vì là cái cần số bên hông của các loại xe gắn máy trước đó. Nó còn có cả bánh "sơ cua" để chạy đường dài như đi "Ô Cấp". Nói tóm lại Vespa là sự đột phá, là cuộc cách mạng của loại Scouter. Riêng ở Việt Nam thì ngay từ những năm đầu thập niên 1950 ở Hà Nội đã thấy xuất hiện một hai chiếc do người Việt làm chủ. Người viết bài còn nhớ ông Vĩnh, quản đốc garage Avia có một chiếc được mọi người chú ý trầm trồ hơn cả người có xe hơi. Ðến khi vào Saigon sau khi đất nước bị chia cắt, người viết thấy dân Saigon giầu hơn dân Hà Nội nhiều vì số người đi xe Vespa đông hơn hẳn. Nhưng vẫn còn là của hiếm, chỉ có dân công chức trung lưu trở lên mới đủ tiền mua nổi. Giá một chiếc Vespa của Ý vào thời đó khoảng 17, 18 ngàn trong khi một tô phở khoảng 5 đồng. Lúc đó thì cũng chưa có hệ thống bán trả góp nên ai mua là phải "pay off" ngay. Có chiếc Vespa trong nhà là như có "của để" nên chủ của nó thường may áo chùm cho xe khi để xe nơi sân trước nhà hay trong phòng khách. Vào những năm 1958, 1960, Vespa ở Việt Nam có một đối thủ, đó là chiếc Lambretta. Nghe nói hãng nhập cảng độc quyền Lambretta trên đường Trần Hưng Ðạo Saigon là của bà Ngô Ðình Nhu nên hãng có bán chịu một phần cho công chức. Nhưng Lambretta cũng không lấn át được với Vespa vì kiểu dáng vẫn không độc đáo bằng Vespa. Lambretta Cho đến cuối năm 1968 thì Vespa, Lambretta và nhất là các loại gắn máy Pháp Ðức đã đành phải "chào thua" các loại gắn máy của Nhật. Honda S50 Ðầu tiên là loại Honda có hai kiểu dáng cho nam nữ. Nam thì có SS50, S50 và nữ thì có Honda Dame C50... Còn nhớ chuyến hàng nhập cảng đầu tiên là do Tổng Cục Tiếp Tế, Bộ Kinh Tế của nội các Nguyễn Cao Kỳ ào ạt nhập xe gắn máy Honda về bán trả góp cho công chức và quân nhân vào năm 1968. Ðầu tiên thì gắn máy Honda cũng chưa làm cho giới tiêu thụ ở Saigon lưu ý. Ai cũng chê "xe gì mà làm bằng mủ". Chả là xe Honda có vè xe và bửng xe làm bằng mủ cứng cho xe được nhẹ hơn nên dù máy cũng chỉ 49cc mà tốc độ lên tới 70, 80 km/giờ. Chỉ sau ít tháng, xe gắn máy Honda đã trở thành món hàng được giới tiêu thụ săn đón mua đi bán lại với giá cả cứ tăng vùn vụt. Chả là người sử dụng đã thấy loại Honda tiện nghi hơn các loại gắn máy trước nhiều. Tiếng máy nổ thì rất êm vì máy được chế loại 4 thì với ống nhún trước và sau rất mềm và khỏe. Thêm vào đó là loại còi điện chạy bằng bình ắc quy nhỏ nên kêu rất vang. Thêm nữa là hai cặp đèn hiệu (signal) trước và sau với hai kính chiếu hậu hai bên tay lái. Khi vận hành lại có ba số ( loại C50) hay 4, 5 số thay đổi (loại SS50) mà xe C50 lại bán tự động (semi automatic) nữa nên rất dễ cho các bà các cô sử dụng. Ngồi trên chiếc Honda nhỏ bé nhưng người sử dụng lại dễ có cảm tưởng như đang sử dụng xe hơi. Honda C50 Chỉ một năm sau các loại gắn máy của Nhật đã tràn ngập thành phố không chỉ có Honda mà còn Suzuki, Yamaha, Bridgeston, Kawasaki nữa. Bây giờ thì phong trào chơi xe gắn máy trong tuổi trẻ Saigon không chỉ là tháo bỏ ống hãm thanh mà còn "xoáy xy lanh" cho lòng phân khối của xe lớn hơn để đua nhau trên xa lộ (lúc này chính phủ không cho nhập cảng loại xe gắn máy trên 50 phân khối vì chủ trương tiết kiệm). Từ đó mới có danh từ "anh hùng xa lộ" để chỉ những tay đua bặm trợn, liều lĩnh phóng xe xả hết tay ga luồn lách qua các hàng xe đang chạy, kể cả chui qua những chiếc xe "be" đang kéo những cây gỗ dài thượt. Nhiều anh hùng còn "biểu diễn" trên chiếc Honda của mình nữa như đứng thẳng trên yên xe đang chạy với tốc độ cao hay nằm dọc trên chiếc xe mà tay ga đã được căng hết mức và ghim chặt. Người Saigon mỗi khi thấy những anh hùng xa lộ này thường kinh hoàng tránh xa vì tai nạn thê thảm bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra đưoc. Suzuki Yamaha Kawasaki Ðến ngày miền Nam bị Cộng Sản "giải phóng" thì xe Honda và xe gắn máy các loại của Nhật đã được dân miền Bắc vào "chiếu cố" tận tình cùng với các vật dụng khác mang về Bắc, vừa tịch thu vừa mua lại với giá rẻ mạt vì không còn xăng chạy "vô tư" như trước (miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng). Thời thế đổi thay nhưng xe gắn máy Honda vẫn không thay đổi mà trái lại còn gia tăng thị hiếu người dân Việt nhất là người dân miền Bắc. Nhu cầu khao khát trước đây của người dân miền Bắc là ba "Ðê" tức Ðạp (xe đạp), Ðồng (đồng hồ) và Ðài (radio nhỏ bán dẫn transitor) thì nay là chiếc Honda từ miền Nam mang ra. Từ đây mở ra một phong trào "xe nghĩa địa" của Nhật do các chàng thủy thủ viễn dương mang về. Món hàng "xe nghĩa địa" được nhập vào nước bán chính thức để đáp ứng sự khao khát "đồ tư bản" đã vượt khỏi tầm tay "bóp hầu bóp cổ" dân chúng của nhà nước Cộng Sản vì giới tiêu thụ loại xe gắn máy Nhật lại chính là lớp cán bộ bực trung mà nhà nước không thể nào cản nổi. Bao nhiêu của chìm của nổi của dân miền Bắc trong mấy chục năm dưới sự hà khắc, cấm cản của nhà nước thì nay được lớp cán bộ trung cấp đem ra để mua bán theo sự bùng nổ nhu cầu của người dân Việt ở cả hai miền Nam Bắc. Xe "nghĩa địa" của Nhật qua những chuyến đổi chác hàng hải sản đánh bắt được trên biển của các hợp tác xã ngư nghiệp đã tràn vào đất nước Việt Nam giải quyết cho phần lớn kỹ nghệ phế thải của Nhật. Ðến khi nhà nước Cộng Sản phải "hé cửa đổi mới" thì xe Honda Nhật đã là "chủ quản" phương tiện của người dân Việt đến độ Trung Cộng cũng gia nhập mà chế tạo ào ạt loại xe gắn máy giống như Honda nhưng phẩm chất thì kém rất xa để nhập vào Việt Nam. Cho đến nay thì xe gắn máy Nhật đã là một nỗi lo không giải quyết nổi cho sự giao thông ở trong nước vì sự tiện ích của nó cho sự di chuyển làm ăn của người dân Việt không ai có thể chối cãi nổi. Hình ảnh thân yêu lãng mạn qua xe gắn máy ở Saigon trước năm 1975 Ðó là hình ảnh của tuổi trẻ. Vào những năm cuối thập niên 50 sang đầu thập niên 60, hình ảnh những nữ sinh ngồi trên chiếc xe gắn máy Solex đen bóng có lẽ vẫn còn là những hình ảnh không thể nào quên được của một thế hệ thanh niên thời đó. Nó vừa là sự sang cả vì nữ sinh có xe solex đi thường thuộc con nhà khá giả. Nó cũng là sự duyên dáng phô trương kín đáo của người phụ nữ Việt Nam với chiếc áo dài mà vạt sau được gài trên yên xe không che kín được toàn vẹn. Nó còn là sự gợi cảm khi hai chân cô nữ sinh khép nép đặt trên bậc chính giữa thân xe.. Ngoài giới nữ sinh trung học, hình như các giới nữ khác ít dùng đến loại xe gắn máy này. Có điều lạ là cùng xe gắn máy, nhưng nhìn một cô gái ngồi trên chiếc Mobylette thấy rõ sự khác biệt với cô gái ngồi trên chiếc Solex. Hình như có đôi nét thanh tao duyên dáng ở Solex mà ở Mobylette thì không. Do đó mà Saigon thời ấy nữ sinh ít đi xe Mobylette chăng. VeloSolex Cũng có lẽ xã hội Việt Nam lúc ấy còn chưa chấp nhận những mạnh bạo, ngổ ngáo nơi nữ giới cho nên người con gái vẫn còn được nhìn với sự dịu dàng, duyên dáng, e thẹn. Mà những tính chất này thì loại xe gắn máy, trừ Solex, lại không tạo ra được cho người sử dụng. Nhưng ở một thế ngồi khác trên chiếc Vespa thì người phụ nữ Việt Nam đã là một hình ảnh tuyệt vời cho đường phố Saigon . Hãy nhớ lại đi những dáng ngồi ấy. Chiếc Vespa có hai yên xe, một cho người lái và một cho người ngồi sau. Hai yên xe đó rất sát nhau nên người ngồi sau gần như kề vào người ngồi trước một cách tự nhiên không cần phải giấu giếm. Cái thế ngồi của các cô gái Saigon trên chiếc Vespa hầu hết là hai chân để một bên. Không có một trường hợp nào ngồi hai chân hai bên như sau này. Chính cái thế ngồi hai chân một bên ấy đã đẩy thân hình cô gái nép sát người lái. Còn gì thân yêu, trìu mến cho bằng khi đôi trai gái trên xe là một cặp tình nhân. Cặp tình nhân ấy có thể là mới quen nhau nên cô gái còn e dè ngượng ngập. Vì thế nên dáng ngồi có cách xa người nam đôi chút. Nhưng để cho được vững thì bàn tay mặt của cô gái đã tì lên phía sau yên người lái để cho cánh tay được thẳng mà chống đỡ cho cả thân hình. Hai chân cô thường vắt chéo lên nhau tạo cho cô cái dáng khép nép duyên dáng đáng yêu biết mấy trong những vạt áo dài nhấp nhô theo gió. Nếu mà đã thân nhau rồi thì cô gái có thể tựa hẳn vào người lái, tì hẳn cái cằm của cô lên vai trái của người lái để mà thì thầm trò chuyện với nhau trên những con đường cây dài bóng mát. Ở những đôi tình nhân này thì bàn tay và cánh tay phải của cô lại tì trên đùi phải của người yêu, để mỗi khi bất như ý cô lại véo lên đùi người yêu mà trừng phạt... Những chiếc Vespa hay cả Lambretta như thế, từng cặp từng cặp rong ruổi trên các con đường lớn nhỏ của Saigon vào những chiều Thứ Bẩy sau bẩy ngày đợi mong, đã vẽ nên một Saigon đáng yêu quá thể. Khi ấy thì dân số Saigon mới chỉ ngoài ba triệu và số xe gắn máy, Vespa cũng mới chỉ trên 700 ngàn chiếc nên đường phố còn thênh thang. Họ có thể chạy vòng vòng hết Bô Na (Lê Lợi) ra Catinat (Tự Do) quành ra bờ sông mà ghé vào Point des Blagueurs (nhà hàng Cột cờ Thủ Ngữ) để "uống ly chanh đường cho thấy môi em ngọt" hay ghé quán kem Hà Nội, Mai Hương để nhìn trai gái tấp nập đi lên đi xuống dọc theo con phố Bô Na. Lúc ấy tuổi trẻ có danh từ gọi là "đi bát phố Bô Na". Hay thong dong hơn thì "cưỡi ếch bà" hai đứa chạy ra xa lộ Saigon Biên Hòa để qua cầu bến Tân Cảng rồi quẹo vào những con đường đất của khu Cát Lái mà trông trăng hưởng gió đồng quê. Bảo đảm là chưa thể nào tìm ra được quán cà phê có võng nằm hay ghế dựa như sau ngày "giải phóng" để cả hai đứa còn giữ được băng trinh cho mối tình lung linh mầu ly loạn. Saigon như thế, đã qua để chúng ta có một thời để nhớ.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 5:13:12 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2011 7:52:01 GMT 9
ĐỌT NHÃN LỒNG - MÓN ĂN DÂN DÃ PHƯƠNG NAM Suu TamMùa mưa là mùa của những món ăn dân dã, những đặc sản của vùng quê Nam Bộ, trong đó có đọt nhãn lồng. Món ăn ngon không chỉ nhờ tài pha chế của người nấu mà còn rất ngon bởi nó đượm nồng hương vị của quê nhà, đong đầy những kỷ niệm của thời thơ bé, và bàn tay chắt chiu của mẹ một đời lam lũ nuôi con. "Chim quyên ăn trái nhãn lồng Lia thia quen chậu vợ chồng quen hơi." Nếu biết, chắc bạn cũng thích ăn những trái nhãn lồng như tôi hồi thơ bé. Những trái chín vàng thơm nức có vị ngọt ngọt, chua chua. Nó không chỉ là món ăn ngon của tụi trẻ mà còn là món khoái khẩu của loài chim. Bởi vậy, chúng mình cứ phải chực chờ giành ăn với các chú chim nhỏ những khi trái chín. Tuổi thơ của tôi gắn với quê hương, với dây nhãn lồng hoang dại. Lúc còn nhỏ chưa dám ra khỏi nhà, tôi cứ mong ngóng chờ đón mẹ đi ruộng về, bao giờ mẹ cũng có quà cho các con bằng một vốc trái nhãn lồng chín. Lớn thêm chút nữa đã biết đi kiếm những trái nhãn lồng còn xanh. Trái tròn dài, bọng bọng, (bên ngoài là lớp vỏ mỏng trong có nhiều hột nhỏ) đập vào trán nhau nổ bôm bốp rồi ù té chạy, rồi rượt đuổi nhau um xùm trong nhà ngoài xóm. Hồi nhỏ, tôi cứ tưởng chỉ có quê mình mới có cây nhãn lồng. Lớn lên đi đây, đi đó tôi mới biết cây mọc dại ở khắp mọi miền đất nước. Ở phương Bắc cây có tên: "Lục Vân Tiên". "À tưởng cây gì" Tôi biết bạn sẽ nói như thế. Nhưng một điều chắc chắn nếu bạn không phải dân miệt đồng bằng sông Cửu Long thì bạn sẽ không biết cây nhãn lồng là một món ăn "đặc sản". Vào mùa mưa, những cây nhãn lồng cũng như các loại rau dại ở đồng quê mọc rất nhiều, rất nhanh và rất ngon. Sau buổi đi ruộng về mẹ hái vội một nắm đọt nhãn lồng. Những chiếc lá non trong nhìn mà mắc thèm. Mẹ luộc lên, để rau vừa chín tới còn nguyên màu rau xanh non. Đọt nhãn lồng luộc chẳng là gì nếu không có nước chấm ngon. Nước chấm không thể là nước mắm hay nước tương mà phải là tương hột được xào lên. Ở quê tôi, thường nạo trái dừa khô vắt lấy một chút nước cốt rồi đổ vào tương xào lên, nếu không có nước cốt dừa thì người ta cho mỡ vào chảo, rồi đập vài tép tỏi phi cho thiệt thơm sau đó đổ tương vào nêm thêm chút đường, chút bột ngọt. Trời mưa lạnh lạnh, nồi cơm trắng thơm bốc khói, dĩa rau luộc xanh rờn, chén tương xào thơm phức. Vị dẻo thơm của cơm lúa mới, vị bùi bùi của đọt nhãn lồng, vị mặn mặn, ngọt ngọt, béo béo của tương. Chẳng cần thịt thà, cá tép. Vèo một cái là nồi cơm sạch trơn (mà tương hột quê tôi cũng đặc biệt lắm. Từ hột đậu nành nấu chín ủ lại rồi thắng nước đường cho vô bởi vậy tương hột có màu nâu vàng óng). Cây nhãn lồng không chỉ là món rau ngon miệng mà còn là vị thuốc nam trị bệnh tim mạch và an thần rất tốt. Hiện nay, khi các loại rau khác là nỗi lo về các lượng thuốc và phân bón quá nhiều thì cây nhãn lồng cũng như các thứ rau tập tàng khác lại lên ngôi. Nó không khép nép trong các xề rau nho nhỏ của các bà cụ ngồi ở một góc chợ mà nó đã ngang hàng đồng giá trị với một số loại rau thượng đẳng. Cây nhãn lồng quanh năm sống dại ở khắp nơi, chẳng cần phải chăm sóc vẫn xanh um.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 9, 2013 6:12:14 GMT 9
Chuyện quê hương trên đất MỹVienDongDaily.Com Cao Thu Cúc Sông nước miền Nam Gần ngày Black Friday, cả nước Mỹ như bị cuốn vào một làn sóng sôi động. Thiên hạ ào ào đổ xô đi mua sắm. Mùa bán sale, mùa mua sắm đây mà. Các siêu thị, các cửa hàng, các tiệm bán đồ như bừng tỉnh, rực rỡ đủ sắc màu âm thanh đường nét. Cả bầu trời như ra sức làm duyên làm dáng để cuốn hút con người vào vòng quay của những ngày lễ sắp đến: Thanksgiving, Christmas, New Year. Những ngày lễ sắp đến! Tôi nghe nói cũng cảm thấy cõi lòng nao nao. Một ngày không đẹp trời nhưng tôi cũng cao hứng muốn làm đẹp cho mái tóc của mình. Tôi vào một tiệm làm tóc ở một khu phố Nhật. Hai cô gái Việt Nam làm chủ ở đó. Cô Phương nhu mì làm tóc cho tôi. Phương dịu dàng, khuôn mặt rất hiền. Giọng nói chậm và đều. Sau vài phút xã giao, chúng tôi dễ dàng thân thiện vì là người cùng dòng giống rồng tiên. Quê Phương ở Tiền Giang cách thành phố Sài Gòn không xa, nhưng ruộng đồng mênh mông ngập nước, những con đường đất ruộng ngoằn ngoèo, những cầu tre cheo leo lơ lửng đã làm cho cuộc sống miền sông nước khác hẳn lối sống ở thành thị. Thấy tôi thích nghe những câu chuyện về đồng bằng sông Cửu Long, Phương hào hứng kể đủ thứ chuyện. -Con sắp về thăm nhà. Tháng Ba mới về mà bây giờ con đã thấy nôn nao rồi. Con qua đây tám năm rồi, con sinh năm 1978, thỉnh thoảng con về thăm nhà. - Cô biết không? Cha mẹ con bây giờ già rồi nên không làm ruộng nữa. Chỉ ngày ngày hái trái cây trong vườn đem ra chợ bán mà thôi. Mẹ con lúc trước bỏ vô hai cái thúng gánh hai đầu, cô biết gánh không. (Tôi nói biết chớ, biết chớ, lúc nhỏ tôi cũng có đi gánh nước.) Bây giờ mẹ con biết đi xe đạp. Móc hai giỏ trái cây hai bên xe đạp, mẹ con đạp xe đi bán... Lúc trước cha con hay nói tấc đất tấc vàng, lúc đó thấy vàng quý quá trời, còn ruộng nhà con cũng quá trời mà có thấy vàng đâu. Bây giờ mới thấy ổng nói đúng. Ờ, con nhớ lúc nhỏ tụi con đi học, ba tháng hè phải mua lát về đan giỏ đem bán lấy tiền vô năm học mua sách vở, cha mẹ chỉ lo cho ăn và áo quần mặc chứ không có nhiều tiền. Lúc đó những ngày không đi học tụi con phải ra đồng cấy mạ, nhổ cỏ, gặt lúa. Gặp mùa khô, lúa chín, bụi bay mù trời tụi con phải lấy khăn che mặt. Ờ mà lúc bấy giờ vừa gặt lúa vừa bắt tôm cá, đi gặt về là có cả giỏ tôm cá đủ ăn cả ngày. À cô biết không? Cá lóc đẻ con bơi cả bầy, thấy bầy cá lóc là biết có con cá cha trốn ở đó... Tôi bỗng kêu lên mà thấy tiếc như vừa mất cả mâm vàng: -Thật vậy sao? Trời ơi, vậy mà tôi không biết. Tôi đã từng thấy cả bầy cá con bơi ngoài ruộng và tôi đã từng lấy rổ vớt nó lên... Ôi trời vậy mà không biết để bắt con cá mẹ. - Không không, con cá cha, con cá mẹ đẻ xong là bỏ đi liền, chỉ có con cá cha ở đó để canh bầy con thôi. Tôi cảm thấy mắt mình cay cay. Chao ôi, tình cha con của bầy cá đã đánh đổi sinh mạng của cá cha tôi nghiệp. Phương nói: -Người ta biết vậy nên bắt con vịt nhỏ, cột mấy lưỡi câu và mấy con tép nhỏ ở chân rồi thả con vịt trên mặt nước, cá cha trong hang nổi lên đớp mồi và mắc câu. (Rồi Phương cũng chép miệng nghe đau buồn). Tội nghiệp bầy cá con không ai chăm sóc... Con bỏ thuốc xong rồi, cô vô đây con gội đầu cho cô. Tôi nằm dài trên chiếc ghế gội đầu, nghe nước chảy róc rách, tiếng Phương kể càng lúc càng sôi nổi, khác với lúc đầu. Phương đang ngược dòng thời gian về dự cuộc sum họp gia đình tuổi thơ. - Cha con xay lúa rồi giã gạo. Mẹ con lấy sàng sàng gạo. Hạt gạo trên sàng để nấu cơm, gạo nhỏ dưới sàng mẹ con xay bột làm bánh. Mẹ con lấy vải mùng cũ, cột túm bốn góc lại, lấy bột bánh trét dính lên. Mẹ con làm năm cái như vậy, mấy chị em con đem ra bờ ruộng cột vào gốc lúa, khoảng vài giờ sau ra thấy đầy cả tôm tép trong đó, đem vô đủ nấu canh chua ăn cả nhà. Tôi vội hỏi: - Cuộc sống như vậy kéo dài cho đến bao lâu? Hiện nay có còn không? - Tụi con vẫn sống như vậy rất lâu... Nay thì không còn nữa vì người ta dùng nhiều phân bón hóa học nên tôm cá chết hết. Tôi xuýt xoa : - Cuộc sống thật là thần tiên. Tôi đã từng đọc sách của Sơn Nam và nghe nói cuộc sống sung túc ở vùng đồng ruộng phương Nam nhưng tôi tưởng đó là chuyện đời xưa. Ai dè gần đây cuộc sống vẫn còn sướng như vậy. - Cô biết trái mù u không? Câu hỏi bất ngờ của Phương như chuyến đò ngang đưa tôi trở về quê hương khói lửa cách đây hơn 60 năm. Lúc đó gia đình chúng tôi ở Bình Định, quê nội của tôi, chúng tôi cũng đã từng thắp đèn dầu hao, đèn mù u, đèn đom đóm của Trần Minh khố chuối. Tôi muốn đi xa hơn nữa, ngược về quá khứ, kể cho Phương nghe huyền thoại trái mù u, những trái tròn nhỏ xanh bóng lăn lăn trên những con đường trong Thành Nội cố ngăn chận bước chân của kẻ thù khi quân Pháp lần đầu tiên tấn công kinh thành Huế, nhưng giọng Phương như dòng nước chảy xiết, sợ ngưng lại sẽ lạc mất đường về. -...Lúc đó nhà con đông anh chị em, năm chị em gái và ba em trai. Buổi tối tụi con học ngồi cả bàn dài, không có đủ dầu để thắp, ngày hè trái mù u khô rụng, tụi con lượm về phơi khô, lấy hột xâu thành cây dài như người ta xâu nem nướng, buổi tối đốt lên, khói bay mù mịt trần gian. Những lúc đó chị Hai con hay bắt chước giọng dì Bảy bên cạnh nhà cất tiếng hát ngớ ngẩn: Bướm vàng đậu trái mù u, lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn... - A còn chuyện đi bắt cá bống dừa nữa mới thật là vui. Tôi thở một hơi dài cố gắng chen vào một câu để chứng tỏ mình không ‘quê’ lắm, cũng biết chút ít về chuyện đồng ruộng ao hồ. - Con cá bống dừa ở trong vườn dừa, mua về kho rim ươm vàng ăn say quên cả trời đất. Phương cười nói như mơ: -Vào mùa nước lên, cá ngoài sông bơi vào vườn trốn trong bọng dừa. Bắt cá bống dừa tụi con phải đi mua mấy cái nôm về đặt trước bọng dừa, bỏ mồi vào đó, cá bống tham mồi ra ăn, rơi vào giỏ, vậy là tụi con có cá đem về cho mẹ. Tôi như thấy trước mắt hình ảnh cô bé nhỏ nhắn đi sau cùng vấp phải dây bìm bìm và cô té lăn tròn trên cát, cô lấy hai tay che mặt trời và kêu lên: “Chị ơi! Chị ơi!” Tiếng ‘chị’ vang lên như một chớp sáng có khả năng mở ra một cánh cửa thời gian khác, và tôi thấy một cô bé bé nhỏ hơn, cùng với chị đang chơi trên một đồi cát vào một buổi sáng trời trong xanh, phía trước là bãi cát chạy dài và biển cả mênh mông. Cô bé trèo lên một chỗ cao, ngước mắt nhìn trời, hai tay che mắt, rồi cô cười lên khanh khách và gọi: “Chị ơi! Chị ơi! Em thấy bà tiên đang bay trên trời, chị đến đây coi, mau lên, mau lên chị”. Hai chị em cùng ngước mắt nhìn trời và cười vang. Rồi bỗng có tiếng máy gầm rú và bóng một chiếc máy bay che hết cả bầu trời. Hai chị em sợ hãi, cúi thấp người, hai tay che kín đầu vội vàng chạy về nhà tìm mẹ như tìm một nơi che chở an toàn nhất. Đó là quê ngoại tôi ở Quảng Trị, một làng ven biển, năm 1946, chúng tôi chạy về đó để tránh cuộc tranh giành quyền lực giữa Pháp-Nhật ngay trên đất nước của chúng ta! Quê ngoại tôi cũng nghèo, cũng thuộc loại ‘chó ăn đá gà ăn muối’, và người thì ăn canh nấu với trái ớt vì không có rau xanh. Cả miền Nam ngập nước, quê tôi khô cằn. Gặp năm hạn hán, mọi người phải đào mương lên tận chân Núi Bà để dẫn nước về ruộng. Mẹ tôi đi suốt đêm. Ruộng nhà chúng tôi ở cuối làng nên bà phải về sau cùng, dòng nước chảy đến điểm cuối cũng chỉ còn như dải yếm đào. Tôi nghe chị Ba con bác tôi vừa đi vào ngõ vừa ngâm: -Ước gì sông hẹp bằng gang, Bắc cầu dải yếm cho chàng qua chơi. Mẹ tôi thở dài sầu não: -Cháu ơi, dòng nước mình dẫn về còn nhỏ hơn dải yếm nữa, cháu còn ước nỗi gì! Chị Ba tôi hiện đang ở Mỹ. Và cùng với một số ít bạn bè lưu vong qua đây thường xuyên trở về vun đắp quê nghèo. Những người cùng quê tôi, họ ở quanh đây, gần đây, và mỗi mùa xuân mới, họ lại đem tiếng trống trận Quang Trung để đánh thức tình quê hương nơi những người con lưu lạc và cố gắng làm bừng lên trong lòng thế hệ trẻ một ngọn lửa chưa được nhóm lên đã vội tàn. Phương bây giờ cũng đang ngóng về quê mẹ nhưng Phương không đứng ngõ sau, Phương mang nỗi buồn vui đi về trong lòng nước Mỹ, vun xới ước mơ và náo nức chờ ngày về thăm quê. Phương đã hoàn thành một công trình nghệ thuật, nhưng khuôn mặt hao gầy và những đường nhăn trên mặt tôi thì không mỹ thuật chút nào. Tuy vậy tôi vẫn còn mơ màng theo chuyện bắt cá bống của Phương (chen lẫn những hồi ức của tôi) nên nói đùa: - Bắt cá bống dừa vậy Phương có bắt cá bống mủ đem về nuôi không? Sao bây giờ Phương có đôi giày và áo quần đẹp như vậy? Đẹp còn hơn cô Tấm khi đi dự dạ hội ở hoàng cung. Chúng tôi cùng cười vang. Phương cười như vừa tỉnh khỏi giấc mơ hồi hương và vui vẻ nhận lời khen của tôi. Tôi cười, miệng hơi méo một chút, vừa nhìn mái tóc cắt ngắn và uốn quăn kiểu mấy bà già ở tuổi 70 của mình. Trời vẫn còn mưa bay bay, có phải “cơn mưa lâm thâm ướt dầm lá hẹ?” Tôi ra về mang theo cả bầu trời quê hương man mác cõi lòng.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 9, 2013 6:18:29 GMT 9
Tràm Chim Đồng Tháp(VienDongDaily.Com - 18/11/2013) Trần Công Nhung Thuyềncứu nạn Miền Nam cảnh trí mênh mông bình bình, sông nước như xa lộ, thuyền bè như xe cộ trên đường. Nghĩa là không có gì hấp dẫn khách du lịch. Miền Bắc thì đồi núi chập chùng, sương mù huyền ảo, màu sắc bốn mùa, hội hè quanh năm… nhiều thứ lôi cuốn du khách. Nhưng, trong cái đơn sơ mộc mạc của miền Nam lại có một hình ảnh độc đáo mà miền Bắc không có, một hình ảnh được tổ chức quốc tế theo dõi bảo vệ, đó là Sân Chim, nổi tiếng là Tràm Chim Đồng Tháp. Hôm ở Cái Bè tôi định đi Tràm Chim, song khi xuống đến Cao Lãnh đã phải đổi lộ trình đi Trà Vinh, Sóc Trăng, Hà Tiên, Phú Quốc…Trở lại Sài Gòn hình ảnh Tràm Chim cứ lẩn quẩn không rời, thời gian đã cạn, chỉ còn 3 hôm. Nghiên cứu kỹ, có thể đi được. Chuyến xe sớm về đến Tam Nông khoảng 12 giờ, buổi chiều thăm Tràm Chim, hôm sau trở lại Sài Gòn, còn một đêm để nghỉ ngơi trước khi lên máy bay. Di chuyển ở quê nhà tiện và nhanh là xe ôm, nhưng không an toàn lại tốn kém. Nếu biết, đi xe Bus là hay nhất. Xe chạy đúng giờ, an toàn, lại rất rẻ. Vé 2,500 đồng (17cent) từ Sài Gòn ra bến xe Miền Tây, Miền Đông, trong khi xe ôm đắt hơn mười lần, Taxi hai mươi lần. Thăm dò xe cộ mà hỏi lơ xe là coi như “nhờ ma dẫn đường.” Tôi cẩn thận hỏi mấy ông an ninh (Security) bến, họ chỉ cho chuyến xe đi Tam Nông sớm nhất. Các ông đã đưa tôi vào phòng vé đi Hồng Ngự. Trích, cò Đồng Tháp Cậu thanh niên trong phòng vé khẳng định: “Xe Tam Nông không còn, chú đi Hồng Ngự, qua Thanh Bình đi xe ôm vô Tam Nông 7 ngàn thôi. Như vậy nhanh hơn.” Chẳng biết thực hư nhưng cứ nghe nhanh là thích rồi. Tôi hỏi vặn một câu, “Chắc có xe từ Thanh Bình đi Tam Nông không?” “Dạ, đảm bảo.” Việt Nam thứ gì cũng “đảm bảo” mà chẳng có gì bảo đảm (toàn là ăn xuôi nói ngược). Vé mua khỏi trả, hàng mua khỏi đổi, ăn uống đau bụng ráng chịu, không ai phân xử chuyện bất công gạt gẫm hàng ngày. Dù biết vậy cũng chẳng có cách nào hơn. Tôi lấy vé lên xe, đợi chừng nửa tiếng, xe chạy. Xe tốt chạy nhanh, về đến ngã ba Thanh Bình đúng 11 giờ. Xe ôm đang chờ sẵn ở ngã ba, nhưng phải 30 chục ngàn đi Tam Nông (20km) chứ làm gì có giá 7 ngàn. Đã đến đây rồi, giá nào cũng phải đi. Tiếp viên cafe. Tuy nắng to song đi giữa trời bao la lộng gió nên không thấy nóng bức. Tầm nhìn phóng xa, người lại thư thái. Dọc theo đường, lác đác những chòi tranh trên đê thấp lè tè bên kia con kênh, chung quanh toàn nước, chẳng hiểu đến mùa nước nổi họ đi đâu. Qua chỗ cánh đồng có lúa xanh, anh xe ôm cho biết, nhờ đắp đập chận nước trên Miên đổ về mới sạ được lúa, bên trái chưa có đập nên mùa này ngập nước. Khoảng nửa đường về Tam Nông có công trình đang xây chung cư cho dân. Những căn nhà đúc chạy dài hai bên lộ, rồi đây sẽ thành phố xá, đời sống dân quê có cơ tiến lên. Về đến trụ sở Vườn Quốc Gia Tràm Chim đã quá trưa. Bây giờ mới thấy nóng và mệt. Có lẽ do cảnh vật một phần, Vườn Quốc Gia sao mà luộm thuộm vắng hoe. Gặp một hai nhân viên, họ như không muốn tiếp. Gặng hỏi họ mới chỉ cho phòng hướng dẫn “tham quan.” Phòng chẳng có ai, dòm mãi mới thấy một chị nằm võng đu đưa phía trong. Làng quê ĐT “Tôi muốn đi thăm Tràm Chim, thủ tục thế nào chị?” “Đoàn chú mấy người?” “Một người.” Chị nhân viên cười rồi hỏi lại, “Có hai tour, gần 100 trăm ngàn, xa 300 ngàn.” “Xa gần gì cũng được, chỗ nào có nhiều Chim đưa tôi tới. Tôi cần chụp ít hình.” “Mùa này Sếu về bên Miên chú à. Chú có thể xem Trích, Cò.” Một anh bước vào hăm hở nhìn tôi : “Máy chú tele có dài không, phải dài mới chụp được Chim.” Tôi cũng nhìn lại anh nhưng không trả lời. “Dài ngắn mặc bố tôi, có Chim hay không thì bảo.” “Chú ngồi chơi, cháu đi gọi ghe.” “Mà đi xa hay gần?” “Chú đi gần được rồi.” “Nghĩa là 100 nghìn?” “Dạ.” Lát sau có người đàn ông đến, tôi theo ra bến ngay sau hè văn phòng. Thật tình tôi không hiểu người ta làm ăn cách gì mà một trung tâm mang tính Quốc Gia lại bê bối như vậy. Bến ghe cỏ ngập đầy, dơ bẩn như bãi rác. Tôi bước xuống chiếc xuồng tam bản suýt bị lật nhào. Hoa bồ đề nước Trước khi rời bến, một nhân viên ra hỏi: “Có mang phao theo không?” Anh ghe trả lời “Không.” Tự nhiên tôi thấy chùn bước. Tôi bảo, “Hay anh cho tôi qua ghe lớn bên kia tôi sẽ chung tiền đi với họ?” Anh ghe lẳng lặng nổ máy, “Không sao đâu.” Đành phó thác cho anh. Giữa ban ngày mà có sao thì kêu ai đây. Chòng chành lúc xuống ghe, chạy một đoạn, ghe êm như ngồi trên giường, nhưng phải ngồi yên. Thỉnh thoảng nhớm người chụp ảnh, ghe lắc cũng hãi lắm. Ghe chạy theo một con kênh rộng, mặt nước như mặt gương, rừng Tràm soi bóng giữa trời mây bao la thật tuyêt vời. Cố nhìn xem có gì lạ, chỉ có tràm với nước, trời với mây, chẳng thấy chim chóc. Tự nhiên ghe chậm lại rồi tắt máy, tôi nghĩ có gì đáng chụp đâu mà ghe dừng. “Chú có cây dao không?” “Tôi chụp ảnh mang dao làm gì? Mà sao?” “Bị lưới quấn.” “Rừng cấm ai vào đây giăng lưới?” “Mấy ông đóng chốt trên kia chớ ai.” Vừa nói anh vừa khom lưng lôi chân vịt máy ghe lên, rồi cưa lưới vào chong chóng chân vịt để tháo gỡ. Tôi hơi nản, đã không có chim lại mất thì giờ, rõ là mình không có duyên với Tràm Chim. Trong khi anh ghe cù cưa tháo lưới, tôi chợt thấy cạnh ghe có một loại hoa Súng trắng, lá to dày mà hoa nhỏ xíu. Cầu treo “Ở đây có giống hoa Súng lạ quá hả?” “Dạ, không phải, người ta kêu Bồ Đề Nước.” “Bồ Đề Nước,” tôi chưa nghe bao giờ, và mới thấy lần đầu. Lá thuộc dạng Súng Sen, dày như mo cau, hoa trắng nhụy vàng, bảy cánh nhưng “cánh Long Tu,” chứ không như cánh Sen. Hoa lá tương phản nhau, lá thô, hoa mảnh, nho nhỏ xinh xinh. Chụp được mấy ảnh Bồ Đề Nước, anh ghe cũng gỡ xong lưới, tiếp tục nổ máy. Chạy một lúc, ghe tấp vào bờ, nghe tiếng cười nói oang oang, tôi hỏi: “Ai vậy?” “Công An, em lên mượn cây dao.” Tôi ngồi dưới ghe nghe tiếng họ chào nhau, “Đâu mậy?” “Có khách, cho mượn cây dao.” “Làm chầu rồi đi.” Anh ghe trở lại lăm lăm cây dao bầu trong tay, tự nhiên tôi thấy ơn ớn. Trong tình thế bắt buộc phải “hiệp thương.” “Lần sau anh nên để sẵn dao trong ghe.” “Mọi lần đâu có, nay sao mấy ỗng giăng ẩu dậy chớ.” Ý tưởng e ngại tan mau. Tôi tiếp tục ngồi ngắm trời mây. Cảnh bao ba, thanh tịnh, lặng như tờ. Bóng Tràm in đáy nước thật sắc, nhưng chỉ mỗi màu xanh. Miền Nam ít trồng hoa, miền Bắc, hoa trong thành phố hoa dọc bờ sông, con sông Yến vào chùa Hương hoa Bàng Lăng tím hai bên bờ rất đẹp. Tưởng tượng dọc bờ kênh, có những cây hoa muồng vàng soi bóng thì tuyệt quá! Mãi vẫn chẳng có gì lạ tôi hỏi “Chỉ thế này thôi hả? Nếu vậy anh quay về được rồi.” Nhà bên kênh đào “Dạ, để qua đồng bên kia chú chụp Trích, Cò.” “Tôi tưởng có nhiều chim chứ rừng Tràm không thì làm gì. Mà rừng cấm sao có lúa?” “Dạ, lúa trời, cho chim ăn chứ có ai trồng đâu.” Tôi kiên nhẫn chờ đợi. Nghỉ ngơi một hai tiếng cũng không sao, được tự do một mình giữa trời bát ngát đâu phải lúc nào cũng có. Con kênh chạy mãi chẳng biết đến tận đâu, anh ghe chỉ về phía tít mù bảo: “Cam Bù Chia bên đó.” Tôi giật mình, lỡ mà gặp mấy ông con xứ Chùa Tháp nó lôi về bên đó thì ai biết mà tìm. Nhưng ghe đã kịp rẽ trái, vất vả lắm mới băng qua được rừng Tràm và đồng lác dày đặc. Bây giờ ghe xuôi về hướng Nam, Sen đầy đồng, nhưng toan lá nên chẳng có gì đáng chụp. Đáng lý mùa hè Sen nở mới phải. Xa mãi bên kia lại cũng rừng Tràm. Chốc chốc một vài con trích, gà nước giật mình bay lên. Qua hết cánh đồng Sen, thuyền vào một con kênh do Máy Xáng mới móc, bờ đất chỗ đỏ chỗ đen, thoạt nhìn tôi cứ tưởng đá nổi. Một đàn chim Trích phía sau bờ kênh, tôi bảo ghe nhẹ ghé vào. Nghe tiếng động chim ngưng ăn, nhìn ngơ ngác. Trích Đồng Tháp lớn con, màu lông xanh óng, mào đỏ tươi. Trích ăn cây Năn con, tập trung ăn hết bãi này đi bãi khác. Một gia đình nhà cò đang họp đàn trên bờ, làm tiền cảnh cho tấm hình tiêu biểu của Tràm Chim. Cò miền Trung, trên đồng lúa xanh, chụp không đẹp. Ở đây có bóng nước có rừng Tràm, có bờ kênh, lại ngồi dưới ghe chỉa máy lên, chụp thích hơn. Hơn hai tiếng đồng hồ giờ mới thật sự có việc làm. Vào rừng nghe chim hót, vào Đồng Tháp ngắm chim bay, chim múa, xem chim bầy. Tiếc là không gặp mùa, phải từ tháng 11 trở đi, nước cạn, Đồng Tháp có nhiều bãi cho chim về. Đặc biệt Sếu đầu đỏ. Từ bãi chim về bến rất gần, giá mà biết, tôi bảo đến đây ngay lúc đầu, đỡ mất thì giờ đỡ sốt ruột. Trở lại văn phòng chẳng thấy ai, cửa khóa, ba lô tôi gửi trong phòng, anh ghe phải chạy mượn chìa khóa. Lúc nhận tiền nghe tôi phàn nàn, anh nói cách tự nhiên: “Làm ăn bê bối quá chú hả”. Tôi vội tìm xe ôm ra thị trấn Tam Nông, kiếm chỗ nghỉ. Thị trấn Tam Nông trông sáng sủa, nhà tầng, hàng vàng bạc thì nhiều mà không có khách sạn. Anh xe ôm lanh quanh hỏi mãi, có người chỉ cho một nhà trọ tuốt ngoài đồng. Một tấm bảng nhỏ cắm bên đường: “Nhà trọ 701.” Qua mấy thửa ruộng vào ngôi nhà nhiều phòng mới xây. Phòng không, chỉ mỗi tấm nệm. Nghỉ tạm một đêm không sao. Tôi gửi đồ và trở ra thị trấn. Có chiếc xe lôi chạy qua, tôi ngoắc lại: “Anh chở tôi đi một vòng Thị Trấn, xem sinh hoạt phố xá, rồi đưa tôi về lại đây, bao nhiêu?” Anh xe lôi do dự một lúc rồi bảo 20 ngàn. Lần đầu ngồi xe lôi, thấy nó lỏng chỏng buồn cười. Thiên hạ dọc đường nhìn tôi có vẻ lạ lắm. Thị Trấn không lớn, vài ba đường phố buôn bán, nhiều tiệm vàng. Nhiều cầu treo qua sông ra ngoại ô. Nhà cửa những nơi này còn đơn sơ, tre lá, mà trông hay. Những chiếc cầu ván mảnh khảnh từ đường lộ vào tuốt căn nhà nhỏ trong xa, hình ảnh gợi cảm đối với dân nhiếp ảnh. Mỗi lần lên dốc cầu, anh xe còng lưng xuống cố đạp, nhưng tôi kịp tốp lại, nhảy xuống đi bộ. Đứng trên cầu nhìn thuyền qua lại, nhà cửa ven sông, với du khách là điều thú vị. Đời sống như có tự thủơ nào, không mấy bị ảnh hưởng máy móc thời nay. Dưới một chân cầu có nhiều thuyền nhỏ gỗ nâu mới tinh. Người đàn bà phụ trách cho hay, đấy là bến thuyền cấp cứu của Hồng Thập Tự. Có lẽ mùa nước thường có ghe xuồng bị chìm. Nhưng không hiểu với chiếc xuồng nhỏ như vậy thì cấp cứu cách nào! Chỉ hơn tiếng đồng hồ đã đi khắp Thị Trấn. Ngang qua một tiệm cơm, tôi xuống và dặn anh xe một giờ sau quay lại. Tôi rảo một vòng rồi vào quán gọi thức ăn. Tam Nông nổi tiếng món cá Lóc hấp. Nói chủ quán làm cho một con vừa ăn, rau bảo đảm sạch. Tiếng đồn không ngoa, món cá lóc cuốn bánh tráng ngon tuyệt. Giá lại rẻ, 30 nghìn có thêm chai Heinickel (chưa tới 2 đô). Trở lại nhà trọ mới thấy cảnh hoàng hôn rực rỡ đẹp lạ lùng. Nhà trọ nhìn ra cánh đồng mênh mông nước, mây chiều mấy mảng nhuốm sắc hồng, dạng mây ít thấy, mạnh thật mạnh. Rừng Tràm bắt đầu tối, tôi lấy máy ra bấm. Chỉ mấy giây mà được việc, đi cả ngày chẳng có chi. Tôi lặng ngắm hoàng hôn Đồng Tháp xuống từ từ, chầm chậm, mọi màu sắc chìm dần, tiếng ếch nhái nổi lên quanh nhà. Đêm chốn đồng quê cô tịch, buồn hiu. Kẻ tha phương, chiến sỹ xa nhà, làm sao khỏi trạnh lòng. Chủ nhà cho biết hàng ngày có xe Tam Nông Sài gòn, chuyến sớm lúc 2 giờ sáng. Tôi nhờ gọi phone đặt vé trước. Đêm xuống rồi mà trời vẫn nóng, tôi hỏi mượn chiếc chiếu. Trải chiếu lên nệm đỡ nóng hơn. Nằm một lúc, lưng nghe nhột nhột như có con gì bò, tôi lần bắt từng con, dưới ánh đèn mờ nó đen nhỏ như đầu tăm. Quái lạ, mùng chèn rất kỹ sao nó chui vào được. Cửa sổ mở cho mát nên bao nhiêu côn trùng ngoài đồng bay vào bu đen cả mùng. Trời nóng toát mồ hôi lại bị thứ yêu gì châm chích dưới lưng, không sao ngủ được. Chỉ còn cách măn bắt cho hết mới yên. Tôi đã khám phá ra “lũ yêu” là những con mọt chiếu. Chiếc chiếu quá lâu ngày không dùng, sinh mọt. Vừa khó chịu vừa bực mình, trằn trọc một hồi, nhưng rồi chợt nhớ thời cải tạo chỉ có 5 tấc sạp chà rang mà còn nằm êm những mấy năm, đêm nay dẫu có phải thức để ôn lại chuyện qua, nghĩ đến việc sắp làm…cũng là dịp hay. Nhưng một ngày tất tả như vậy thì còn suy với nghĩ gì nữa chỉ một lát, tôi đã ngon giấc… Sáng hôm sau, đúng 2 giờ xe đến đón, chủ nhà thức tôi dậy và vui vẻ hỏi: “ Ngủ ngon không chú?”. Tôi trả lời như không có gì: “Ngon lắm”. Lên xe, nối tiếp thêm giấc nữa, về đến Sài Gòn khoảng 7 giờ. Con đường Bùi Viện quen thuộc tấp nập khách, mọi sinh hoạt vẫn bình thường. Tôi gọi phone báo cho các bạn văn nghệ để lát nữa qua quán “cà phê rốn” khu Miếu Nổi, kháo chuyện “Phiêu Lưu Con Dế Mèn.” Trần Công Nhung Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 14, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng. Độc giả muốn có sách nguyên bộ discount 50% , xin Liên lạc với tác giả qua: PO.Box 163 Garden Grove, CA. 92842. Tel. (714) 657-2177. Website: www.ltcn.net – email: trannhungcong46@gmail.com
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 9, 2013 6:22:12 GMT 9
Cà Mau (kỳ 1) (VienDongDaily.Com - 06/12/2013) Trần Công Nhung Sông nước miền Tây Ba điểm xác định mặt phẳng quê hương Việt Nam là Hà Giang với núi rừng trùng điệp, sương mù quanh năm. Móng Cái, cửa ngõ quốc tế qua lại, có bãi biển phẳng dài đẹp không kém ai. Cà Mau(1) với sông rạch chằng chịt, rừng đước bạt ngàn, có Mũi Tàu, điểm cuối cùng của đất nước…. Đã lên Hà Giang, ra Móng Cái tất phải về Cà Mau Đất Mũi. Cảnh mua bán nơi bến xe. Sài Gòn có hai bến xe lớn, Miền Đông, bến xe chạy miệt ngoài, Miền Tây, bến xe chạy miệt dưới. Xe đò ngày nay toàn Mercedes Benz, Fort, không sợ hỏng máy dọc đường. Khách đi xe bây giờ cũng tươm tất hơn, gọn gàng hơn và do luật định nên không còn chuyện đón con buôn dọc đường. Vé đi Cà Mau 86 nghìn đồng, tôi hỏi xe có chạy suốt không thì quầy vé bảo phải sang xe ở Cần Thơ nhưng xe cùng một hãng. Cô bán vé gọi điện thoại về Cần Thơ giữ chỗ trước cho tôi. Đi xe bao giờ tôi cũng tìm cách ngồi ghế trước bên cửa sổ, phòng khi qua những nơi cảnh đẹp hoặc bất chợt gặp một sinh hoạt lạ thường, là “tranh thủ tác nghiệp” (kịp thời chụp ảnh). - Chú yên tâm cháu đã dành ghế số 1 để chú ngồi trước, chuyến 11giờ 30. Xe Mẹc chất lượng cao như xe ở đây. - Vậy mấy giờ đến Cà Mau? - Dạ, 4 giờ. Cứ cho 5 giờ cũng không sao, miễn đừng tối quá khó khăn việc tìm chỗ trọ. Chuyến xe hôm nay có vẻ suôn sẻ, xe máy lạnh, không ai hút thuốc, tài xế trẻ không thích Cải Lương, khách được nghe nhạc, “tin tức, bình luận.” Radio đang phát bài nói về “Kiểm duyệt nội dung quảng cáo,” quảng cáo phải trung thực, không dùng chữ nghĩa đánh lừa khách “tiêu dùng.” Quảng cáo là giới thiệu sản phẩm chứ không chê bai hàng khác. Đã có chỉ thị cấm dùng chữ “nhất,” nhưng mặt hàng nào cũng “tốt nhất,” “đẹp nhất.” Tôi nghĩ, đây là việc làm đúng đắn và cần thiết, giúp người dân phần nào khi chọn lựa mua bán hàng ngày. Nhưng từ lý thuyết đến thực hành thì xa vạn dặm. Lại còn vấn đề “thầy” bảo người ta ngay thẳng mà “thầy” thì gian dối, lươn lẹo, ma mảnh, từ trên xuống dưới thì ai nghe. Thực tế đã có nhiều chuyện đau lòng. Dân bắt cướp nộp công an, ba bữa sau cướp vác dao đến chém trả thù. Bà con đành bảo nhau “thôi sống như tượng khỉ” (bịt miệng, bịt mắt, bịt tai) cho yên. Bến tắc ráng Rạch Hào Chừng hơn nửa buổi, xe ghé quán Vân Mập, cách Cần Thơ 50km, chưa đúng bữa, nhiều khách than phiền, nhưng có lẽ là quán đáng tin cậy nên hầu như xe nào cũng dừng. Quán ăn rộng rãi thoáng mát. Nhân viên chạy bàn đều đồng phục, có bảng tên, nhìn chung có tổ chức và sạch sẽ gọn gàng. Vấn đề vệ sinh rất đàng hoàng, hơn hẵn ga Hàng Cỏ Hà Nội. Bên cạnh khu nhà vệ sinh là một vườn cây kiểng, hoa trái, tạo cho khách cảm giác dễ chịu. Giá cả cũng không vì thế mà đắt hơn nơi khác, một tô hủ tiếu 8,000 đồng. Khách ăn uống hay không cũng được mời ngồi ghế nghỉ ngơi, không có lối “cơm tù” ép buộc như trước đây. Nếu không có Cảnh Sát Giao thông bắn tốc độ thì 11 giờ xe về bến. Thấy những xe ngược chiều huơ tay ra dấu là đường chạy an toàn, nếu một ngón tay chỉ xuống là có “phục kích,” nghĩa là Cảnh Sát núp đâu đó. Có những lần tôi không hề thấy cảnh sát nhưng xe nhạy chậm rì, cho đến khi qua được đoạn đường an toàn xe mới phóng nhanh. Đây là điều gây nhiều khó khăn cho giới lái xe và mất nhiều thì giờ đối khách đi đường. Nhất là với khách ngoại quốc họ không sao hiểu được.(1) Đường cao tốc thẳng băng, vắng xe mà lại chỉ được phép chạy 40km giờ (25 mile). Không một nước nào trên thế giới có luật giao thông cẩn thận quá đáng như vậy. Xe qua cầu Mỹ Thuận, chiếc cầu lớn và tân kỳ nhất hiện nay. Tuy nhiên tôi có cảm tưởng nếu cây cầu nằm ở một nước Tây Phương nào đó, như nước Ý chẳng hạn, có lẽ hợp hơn. Không hiểu sao tôi thấy đường nét dáng dấp của chiếc cầu nó chỏi với mọi thứ chung quanh, nó làm giảm đi tính mềm mại, hiền hòa, mộc mạc của người Việt Nam, nó sắc bén quá, nó ngạo nghễ, nó mang nhiều nét ngoại lai. Cầu Mỹ Thuận giúp cho giao thông giữa Sài gòn và miền Tây thuận lợi, đỡ mất thì giờ hơn nhiều. Từ cầu Mỹ Thuận về Cần Thơ còn hơn 30km và qua thêm một lần phà. Đi “xe chất lượng cao” được cái rất tiện là không bị giới hàng rong quấy rầy, vì cửa gương kín mít. Tuy vậy trong khi xe chờ xuống phà, họ cũng bu quanh, hàng chục cánh tay chen nhau đưa hàng tận cửa xe mời mọc: Nem chả, trái cây, bánh mì, nước ngọt. Cứ nghĩ đến vệ sinh là đã sợ chứ chưa nói ăn uống. Thế nhưng phần đông người mình cho là chuyện thường, “không có vấn đề.” Tôi không hiểu sao buôn bán như vậy mà họ có thể đủ sống ngày này qua ngày khác, trong khi một bữa nhậu “sương sương” cũng cả trăm nghìn. Thành phố Cà Mau Xe về bến, tôi lại phải sang xe khác, Tân Hải Cường qua Hải Cường. Nhà xe năn nỉ xin thông cảm, xe hư. Xe chất lượng cao mà hở ra là hư. Có lẽ không đủ khách đi Cà Mau nên bán tôi cho hãng khác. Cũng xe tốt nhưng chỗ ngồi không còn như ý. Ghế số 1 thành số 11, tôi phải thương lượng với tài xế bù thêm tiền để ngồi trên, vừa có chỗ để ba lô, vừa có thể chụp cảnh bên ngoài. Rốt cuộc tôi là người khách duy nhất trả tiền cao hơn ai hết. Bốn tháng trước đường đi Sóc Trăng Cà Mau, hẹp và xấu, nay nhiều đoạn đã mở rộng, đường đang tiếp tục được tái thiết. Về đến thị trấn Hộ Phòng, xe chạy dọc theo kênh xáng, cảnh trên bộ dưới thuyền trông rất hay, song nhà cửa dân chúng sống hai bên bờ kênh vẫn còn mái lá phên tre, nghèo khó, có những túp lều chẳng khác gì chòi chăn vịt. Bến xe Cà Mau cách trung tâm thành phố 3km, xe ôm 5,000 đồng. Hầu hết các tỉnh thành ở Việt Nam, tượng đài như một thứ không thể thiếu, khi anh xe chạy qua ngã tư có tượng đài cao dát đá ốp lát màu nâu, từ xa trông như đất nung, tôi biết đã vào trung tâm thành phố. Xe đưa tôi đến khách sạn Kim Yến trên đường Hùng Vương, trông ra Tượng Đài. Tuy vắng khách nhưng giá phòng hơi cao, tiện nghi tương đối. Thực ra nếu đi du lịch kiểu “xuân thu nhị kỳ” thì cao thấp đôi ba ngày chẳng phải suy tính, nhưng do “nghiệp vụ” lang thang suốt mùa nên cũng cần “liệu cơm gắp mắm.”(2) Phố xá Cà Mau không đồ sộ mà gọn gàng, nhiều nét cổ. Ngay phía bên kia đường Hùng Vương có mấy toà nhà kiến trúc theo thời Tây còn lại. Một vài nhà mới làm cũng không kiểu cọ màu mè như nhà ngoài Bắc. Cà Mau đang trên đà phát triển và xây dựng. Tại trung tâm thành phố có một bãi đất còn bỏ hoang, có lẽ nay mai sẽ là công viên hay quãng trường (cũng có thể một siêu thị Coop Mart, Metro). Di chuyển trong thành phố đa số xe lôi và xe ôm, nhanh tiện, phù hợp với hoàn cảnh người dân thời nay. Cầu Mỹ Thuận Đường Hùng Vương nhiều nhà tầng, khách sạn, nhưng lại bày hàng quán bán ở mặt tiền, lề đường thì lở lói chỗ lát gạch chỗ xi măng. Trời đã chiều, tôi ghé vào quầy hủ tiếu, vừa ngồi xuống đã có một em bé ốm tong, chừng 5, 6 tuổi, mời mua vé số. Thường khi tôi chỉ lắc đầu, người bán vé số bỏ đi, nhưng em bé này nhất định cố nài: - Ông mua giùm cháu, một vé cũng được. Chỉ 2,000 thôi, (3) chiều ông trúng cho coi. Tôi làm thinh và lo cho bao tử, suốt từ 10 giờ sáng chưa ăn gì. Em bé tiếp tục mời, em nói những gì tôi không để ý, nhưng chợt nghe: - Có hai ngàn thôi, chiều nay ông trúng mà, ông giúp cháu. Tôi quay lại hỏi em: - Cháu mấy tuổi? - Dạ, 12 tuổi. Tôi sửng sốt khi nghe số tuổi của em, người có tí tẹo tưởng chỉ mới lớp một lớp hai. - Cháu có bao nhiêu chị em? Phà qua Cần Thơ - Dạ, 4 . - Cháu thứ mấy? - Út . - Anh chị làm gì? - Bán vé số. - Ba má ? - Bán vé số. Ông mua giùm cháu. - Ông không mua, ông cho cháu hai ngàn chịu không? Em bé lặng thinh nhìn tôi, tỏ vẻ nghi ngờ. Người đàn bà ngồi bàn bên kia, lên tiếng: - Ông cho mày hai ngàn mày chịu hôn? Em bé gật đầu. (còn tiếp) Trần Công Nhung (1) Luật giao thông ở VN không hề giống ai: Dấu hiệu hình thoi ở Mỹ là “Car pool lane” mà ở VN là “chạy chậm lại.” Đèn đỏ được phép chạy thẳng. Đèn đỏ rẽ phải bị phạt (không có bảng cấm) nay “âm thầm” bỏ, nhưng muốn phạt cũng được. (2) Lần đầu (2001) về Hà Nội có người giới thiệu cho một khách sạn ở phố Hàng Dầu 300 nghìn/ngày (20 USD) quá đắt lại bị mất cái đồng hồ. (3) Vé năm 2005, Nay (2012) vé số 10,000 đồng. Sách đã in: Quê Hương Qua Ống Kính tập 1 đến tập 16, Buồn Vui Nghề Chơi Cây Kiểng, Mùa Nước Lũ (Truyện), Về Nhiếp Ảnh, Thăng Trầm (chuyện buồn vui một đời người), sách dày trên 200 trang, có 8 phụ bản ảnh màu và cả trăm ảnh đen trắng. Độc giả muốn có sách nguyên bộ discount 50% , xin Liên lạc với tác giả qua: PO.Box 163 Garden Grove, CA. 92842. Tel. (714) 657-2177. Website: www.ltcn.net – email: trannhungcong46@gmail.com
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 9, 2014 3:58:24 GMT 9
TỈNH VĨNH LONG
Tỉnh Vĩnh Long, diện tích 1.500 km vuông. Dân số năm 2011 là: 1.060.000 người, mật độ 687 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Miên, Hoa... Gồm có thành phố Vĩnh Long và 7 huyện: Long Hồ, Mang Thít, Bình Minh, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm, Bình Tân. Tỉnh lỵ ở thành phố Vĩnh Long. Vĩnh Long ở giữa sông Tiền và sông Hậu, phía bắc giáp Tiền Giang, tây giáp Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang. Nam giáp Sóc Trăng, Trà Vinh, đông giáp Bến Tre. Nhiệt độ trung bình 27 độ C. Vĩnh Long nhiều sông suối, các sông lớn: sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ Chiên, sông Mang Thít. Kinh tế phát triển, buôn bán, đường sá thuận tiện, hoa quả sum sê.
Lịch sử tỉnh Vĩnh Long: Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Trú cho lập ở phía nam dinh Phiên Trấn, một đơn vị hành chính mới là Dinh Long Hồ, Châu Định Viễn, là vùng đất Vĩnh Long ngày nay. Đến giữa thế kỷ 18, Dinh Long Hồ, là thủ phủ vùng đất phía nam. Năm 1823, vua Minh Mạng chia huyện Tân An thành 2 huyện: Tân An và Bảo An thuộc phủ mới là Hoằng An. Năm 1832, Minh Mạng đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long, lấy thêm 2 huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh của phủ Lạc Hóa thuộc Gia Định nhập vào Vĩnh Long và đổi trấn thành tỉnh Vĩnh Long.
Tỉnh Vĩnh Long có nhiều chùa miếu: Văn Thánh Miếu, xây cất năm 1864, bên cạnh Văn Miếu là Văn Xương, thờ: Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản... Chùa Tiên Châu ở huyện Long Hồ. Tịnh xá Ngọc Viên ở thành phố Vĩnh Long. Chùa Phước Hậu ở huyện Tam Bình có các pho tượng Phật và tượng thập bát La Hán cổ kính. Chùa Kỳ Sơn ở huyện Tam Bình cất khoảng năm 1812 kiểu người Miên, có nhiều tượng Phật, chạm trổ công phu.
Vĩnh Long, người Miên lễ hội khá linh đình, như lễ hội mừng năm mới vào khoảng 15 tháng 4 (DL). Lễ cúng ông bà (lễ Đolta) từ 29-8 đến 1-9 (ÂL). Lễ cúng Trăng, lễ cầu phước. Nhiều lễ nhưng tựu trung là van vái cầu phước lộc, đời sống bình an.
Cầu Mỹ Thuận trên sông Tiền, nối liền giữa hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long, Cầu Mỹ Thuận xây dựng bằng bê tông cốt sắt, rộng rãi chắc chắn, cầu dài 1.535m, mặt cầu rộng 23,6m.
Cù lao An Bình và cù lao Bình Hòa Phước là cù lao nổi giữa sông Tiền, có diện tích khoảng 60 km2, gồm 4 xã: An Bình, Bình Hoà Phước, Hoà Ninh và Đồng Phú, thuộc huyện Long Hồ. Những vườn cây bên sông nước, xanh tốt mượt mà, hoa quả sum sê, các loại trái cây: Xoài, sầu riêng, nhãn, chôm chôm trông sởn sơ. Cây cảnh “bon sai” xinh xắn, ở đây còn có ao nuôi cá, cá Tai Tượng là một loại cá ăn rất ngon. Ngoài ra, còn vườn bưởi trên cù lao Mỹ Hòa là loại bưởi thơm ngon nổi tiếng.
Trường An ở Vĩnh Long bên sông Tiền, cây trái tươi tốt, sởn sơ, có nhà hàng thanh lịch, không khí luôn mát mẻ.
Tốt tươi hoa quả Vĩnh Long Đất đai màu mỡ, ruộng đồng thênh thang
Cảm tác: Non nước Vĩnh Long
Vĩnh Long bắc giáp tỉnh Tiền Giang Kinh tế mở mang, tiến nhịp nhàng Cây trái sum sê, cây mướt mượt Đất đai màu mỡ, đất thênh thang . Vĩnh Long chùa miếu ở nhiều nơi Dẫn dắt tu tâm, dẫn dắt đời Phước Hậu chuông khuya, nhè nhẹ điểm Kỳ Sơn kinh sớm, nặng nề vơi . Người Miên, lễ hội khá linh đình Ngày tết tháng tư, tụng niệm kinh Sắm sửa cầu Trăng, xin xỏ lộc Vái van xin phước, ước ao linh . Cây cầu Mỹ Thuận, đứng nhìn trông Tiếp cận Tiền Giang với Vĩnh Long Cầu sắt bê tông, nhìn chắc chắn Sông Tiền sóng nước, ngắm mênh mông . Bốn xã chơi vơi, sóng dạt dào Quẩn quanh sông nước, mấy cù lao Bon sai, cây cảnh, hình xinh xắn Xoài, mít, chôm chôm, vị ngọt ngào . Trường An phồn thịnh biết bao nhiêu! Mát mẻ, đông vui cảnh mỹ miều Cây cối Vĩnh Long, tươi tốt lắm Nước non sông rạch, thiết tha nhiều.
Nguyễn Lộc Yên
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:25:31 GMT 9
CÁC LOẠI RAU GỢI NHỚ ĐẾN SÔNG NƯỚC MIỀN TÂYTùng Phạm Miền Tây sông nước mênh mang nổi tiếng với những cù lao cây trái xanh tươi, những món ăn dân dã chất phác mà vô cùng ngon miệng như lẩu mắm, canh cá chua, kho quẹt, bánh xèo… tuy nhiên nhắc đến miền Tây mà không kể đến những những loại rau phong phú thì quả là một thiếu sót không hề nhỏ. Miền Tây được xem thiên đường của các loài rau ngon và lạ nhất mà chẳng thể bắt gặp ở đâu khác ngoài mảnh đất này. Rau “bông”Đất miền Tây có một loại rau đặc sản đó là rau “bông”. Thực chất rau “bông” chính là các loại hoa có thể ăn được. Ở vùng đất sông nước này, các món rau bông phổ biến và nhiều loại đến nỗi, để có thể kể hết tên của chúng, bạn có thể sẽ phải mất cả giờ đồng hồ. Rau bông rất đa dạng từ những loại bông phổ biến như bông bí, thiên lý cho đến những loại bông “đặc sản” như là bông điển điển, bông so đũa, bông lục bình, bông súng, bông mướp… Mỗi loại bông có hương vị khác nhau, có bông ngọt giòn nhưng cũng có loại bông có vị nhẫn đắng, ăn xong mới thấy ngọt nơi cuống họng. Mỗi loại rau bông đều có thể được chế biến thành nhiều món khác nhau, từ ăn ghém, đổ bánh xèo, nhúng lẩu đến xào, nấu canh chua. Món lẩu cá, lẩu mắm nổi tiếng với các loại rau ăn kèm, có khi số loại rau dùng nhúng lẩu còn lên đến con số hai, ba chục loại như rau đắng, rau rút, rau kèo nèo, đậu rồng, bông súng, đọt muống, đọt xoài cả các loại hoa như bông bí, so đũa, điên điển, lục bình… Rau đọt choạiĐừng vội băn khoăn về cái tên lạ lùng rau “đọt” vì thực chất “đọt” chính là những chiếc đọt (mầm) non của các loại cây. Ở miền Tây, dường như tất cả mọi loại cây đều cho một loại rau xanh nào đó, chỉ cần đi một vòng quanh vườn là bạn sẽ có ngay một rổ các loại đọt non: từ đọt xoài, cóc, chùm ruột, chùm bát, chùm bao, đọt sộp, đọt bình linh, lá lụa hay đọt sen non… về làm rau. Chắc chắn đây không phải là loại rau chính thống, những chính những nhúm rau tập tàng, dân dã này đã chính tạo nên cho các món ăn miền tây một hương vị không thể nào lẫn lộn. Rau “thân xốp”Rau thân xốp là thứ rau đặc trưng chỉ có ở vùng sông nước mênh mang như ở miền Tây Việt Nam. Các loại rau thân xốp rất đa dạng, nào là lục bình, thân bông súng, bạc hà, kèo nèo hay bồn bồn… Thân xốp của các loại rau này rất nhanh ngấm gia vị và tạo nên những món ăn rất đặc sắc. Bạn có thể xắt rau thân xốp nhỏ làm rau ăn ghém, khi chấm mắm phần thân xốp ngấm đầy thứ mắm thơm ngọt quyện hòa tạo nên vị ngon cho từng miếng rau. Những loại rau này cũng dùng để nấu canh chua hay muối dưa đều rất ngon và đưa cơm. Cho đến muôn vàn loại rau khácCó thể nói, miền Tây như một khu bảo tàng lớn với muôn vàn các loại rau, mà để nhớ, để thuộc và để kể tên được hết những loại rau này, bạn có thể phải mất đến hàng giờ đồng hồ. Chính vì sở hữu những loại rau phong phú mà các món ăn miền Tây như được sinh ra để kết hợp chúng với nhau. Bạn sẽ bắt gặp ở nồi lẩu mắm những cải xanh, đậu rồng, bắp chuối, giá, cà tím, nấm rơm, nấm dai, khổ qua, đậu bắp, rau càng cua, hẹ, đọt xoài, đọt chùm ruột, cần tây, thơm, chuối chát… ở nồi lẩu mắm U Minh là rau đọt choại, rau the, nhãn lòng, bông súng, rau trai, tàu bay, rau mác… những canh chua bông so đũa, bánh xèo bông điên điển… Có lẽ không một từ ngữ nào có thể diễn đạt được hết cái hay, cái thú vị của các loại rau miền Tây, vì thế đừng chần chừ mà sắp xếp cho mình một hành trình du lịch đến miền Tây để tự mình thưởng thức bạn nhé.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:28:08 GMT 9
CHỢT THÈM RAU ĐẮNG NẤU CANHTùng Phạm Xa quê, mưu sinh giữa nơi xứ lạ đất người, có những lúc tôi nhớ quay quắt, nhớ đến nao lòng những khoảng thời gian yên bình, thong thả ít suy tư và vướng bận những chuyện cơm áo gạo tiền. Tôi nhớ nhiều thứ, nhiều thứ lắm mà không sao kể xiết. Tôi nhớ những ngày cùng lũ nhóc choai choai kéo bầy kéo nhóm tắm mưa la hét inh ỏi cả một góc làng; nhớ những buổi chăn trâu trên đồng chia quân đánh nhau, diệt địch; nhớ những buổi đốt đồng khói bay nghi ngút cay xè khóe mắt và đặc biệt hơn tôi nhớ đến những bữa cơm gia đình quây quần giữa buổi trưa hè nắng oi ả như đổ lửa hay những ngày mưa tầm tã, rả rích với các món ăn bình dị, giản đơn. Đó có thể là vài lát cá kho tộ, một ít cà muối xổi, và một tô canh rau đắng nhưng sao lại ấm cúng và ngon đến lạ lùng. Có lẽ rằng những bữa cơm mộc mạc với các món ăn dân dã, ngọt lành của đồng quê ấy đã nuôi tôi khôn lớn và ăn sâu vào máu thịt tôi để rồi khi xa quê tôi lại thèm, lại nhớ. Phải chăng đó là tình yêu quê hương, xứ sở bởi tôi nhớ có một nhà văn từng nói: Tình yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho mình ăn lúc mình nhỏ tuổi. Và chắc cũng giống như tôi và nhiều người khác mà nhạc sĩ Bắc Sơn khi rời xa nơi chôn rau cắt rốn của mình cũng đã nhớ đến những món ăn quê nhà để rồi viết nên những lời ca, tiếng hát nổi tiếng đi sâu vào lòng người, hồn người, lòng dân tộc như một điều bình thường nhất, giản dị nhất: Ai cách xa cội nguồn, ngồi một mình nhớ lũy tre xanh, dạo quanh khung trời kỷ niệm, chợt thèm rau đắng nấu canh (Còn thương rau đắng mọc sau hè). Cũng có thể thuở trước dân quê mình còn nghèo, chợ búa xa xôi, đi lại khó khăn cộng với chuyện tìm kiếm nguyên liệu cho một bữa ăn lót lòng rất vất vả cho nên họ đã tận dụng triệt để những gì có sẵn ở quanh nhà, quanh vườn. Hẳn vì thế mà loài rau đắng vốn “mọc sau hè” được chọn đưa vào trong bữa cơm thường nhật như một điều tất nhiên bên cạnh đọt lang, cọng rau muống, rau càng cua, rau nhút, rau má… và dần dà cái vị đắng của loài rau ấy trở nên ngọt ngào thấm vào miền ký ức của biết bao người. Chỉ cần nghe câu hát ru con da diết của bà và mẹ thường ngày ở quê tôi (và có thể ở nhiều nơi khác) là biết ngay nguyên liệu chính của món canh rau đắng: À ơi… Canh rau đắng, cá rô đồng; Nồi cơm mẹ nấu thơm nồng ban trưa. Vâng, ở quê tôi, canh rau đắng phổ biến nhất là thường nấu với cá rô đồng, có chỗ nấu với cá lóc, cá trê (Rau đắng nấu với cá trê; Ai đi lục tỉnh thì mê không về), không thì nấu với một ít tôm, tép vừa mới bắt ở dưới rạch, dưới đìa, dưới mương, khá hơn một tí thì nấu chung với thịt heo bằm. Đối với rau đắng, người xưa đã dựa vào vị đăng đắng của nó mà gọi tên và thường thường nhiều người không biết chúng có hai loại là rau đắng biển và rau đắng đất. Đối với rau đắng biển (còn gọi là rau đắng đồng) rất dễ tìm. Ban đầu thoạt nghe cái tên rau đắng biển ta cứ tưởng rằng loài rau này mọc ở vùng biển nhưng thực ra nó chỉ mọc ở vùng đồng ruộng, chỗ trũng, thấp ẩm chứ không thể mọc ở vùng biển được bởi vị mặn của muối. Rau đắng biển có vị hơi đắng, thân tròn lẳn, thon nhỏ, lá xanh tròn dẹt và mọng nước. Vào mùa mưa, cọng rau trổ giò lớn nhanh thư thổi và mọc thành đám như rau muống với màu xanh tươi nhìn mát mắt, chỉ cần cầm dao hay lưỡi liềm cắt một loáng là có cả thúng đem ra chợ bán. Rau đắng đất nếu xét về nhan sắc thì khiêm tốn hơn rau đắng biển, mộc mạc như chính tên gọi của nó vậy. Rau đắng đất khó mọc và có vị đắng hơn rất nhiều so với rau đắng biển. Rau đắng đất chỉ thấy mọc ở sau hè, hay bên những bờ mương, liếp vườn quanh nhà, quanh các gốc cây và dưới chân những gốc rạ khi lúa mùa một vụ mới vừa gặt xong. Những hạt rau đắng đất đã ngủ quên từ mùa nước để chờ khi chân ruộng chớm khô là chợt bừng tỉnh giấc, nẩy mầm vươn lên từ lòng đất. Rau đắng đất mọc thành bụi riêng lẻ chứ không mọc thành đám như rau đắng biển, thân của nó cũng mảnh mai, lá mỏng tròn tròn như móng tay út với màu xanh pha sắc tím khi tiếp xúc với ánh mặt trời. Chỉ khi nào mọc ẩn trong vườn hay ẩn dưới các gốc rạ thì mới có màu xanh nhợt nhạt. Rau đắng đất thỉnh thoảng mới thấy có bán ngoài chợ và giá của nó cũng mắc hơn so với rau đắng biển cũng như một số loại rau khác như rau cải, rau muống… Rau đắng đất ngoài tác dụng đơn thuần của một loại rau, nó còn là một trong những vị thuốc Nam có tác dụng hạ hỏa, giải nhiệt, an thần, làm cho sáng mắt, phụ nữ ăn vào da dẻ mịn màng. Từ cách chọn rau cho đến cách chế biến thành món ăn tuy đơn giản nhưng cũng cần một chút điệu nghệ nếu không nói là cầu kỳ. Phải tùy vào từng mùa mà chọn loại rau nào để nấu với từng nguyên liệu và cách ăn như thế nào mới đúng cũng đủ chứng minh hùng hồn rằng “nghề ăn cũng lắm công phu” và người Việt Nam quả là những người sành điệu trong nghệ thuật ẩm thực. Như đã nói, khi chọn hái rau đắng biển cách tốt nhất là ta nên hái vào đầu mùa mưa. Những ngọn rau non xanh, căng mọng mơn mởn đua nhau mọc, lúc ấy tha hồ mà cắt, nếu kỹ hơn thì ta cứ vạch tìm trong đám cỏ tìm ngắt từng cọng rau một, những cọng rau này thường to và chất lượng hơn. Còn đối với rau đắng đất, ta nên nhổ cả gốc lẫn ngọn. Cũng như những đọt rau đắng biển được bới tìm trong đám cỏ dại, những cọng rau đắng đất được lấy từ gốc rơm rạ ủ mới lạ thứ “thượng phẩm” mà bất kỳ những tay sành ăn nào cũng đều biết. Tuyệt chiêu của rau đắng là khi nấu canh với các loại cá đồng và nấu cháo tống. Ngoài ra nó còn dùng để luộc chấm với mắm kho hay là loại rau chủ đạo của món lẩu. Rau đắng sau khi hái về được rửa cho thật sạch, để ráo. Trong lúc rửa rau phải chú ý thật nhẹ tay, phải “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, tránh để bị rau dập nát vì khi ấy rau sẽ trở nên quá đắng và mất ngon. Cá rô phải là loại cá rô mề, con nào con nấy nhìn cứ phây phây béo tốt. Cá được móc ruột và đánh vảy thật sạch rồi cho vào luộc sơ hay hấp cũng được. Khi thấy cá vừa chín tới thì vớt ra, sau đó nhẹ tay gỡ toàn bộ phần thịt để riêng, phần xương cho vào cối giã nát, chắt lấy nước. Xong đâu đấy, phi hành cho thật thơm rồi nhẹ nhàng cho phần thịt cá vào xào sơ, tiếp theo cho toàn bộ phần nước chắt từ xương cá và nước luộc (hấp) cá vào đun sôi, nhớ hớt bỏ phần bọt nổi bên mép nồi, nêm nếm gia vị cho vừa ăn. Cuối cùng, khi nước đã thật sôi thì cho rau đắng vào và nhắc ra, thêm chút tiêu và hành lá. Khi ăn, ta lâng lâng với cái đăng đắng của rau, cái ngọt ngọt, beo béo của thịt và xương cá, cái thơm thơm của hành và tiêu… Trong cái nắng oi nồng của ngày hè cùng gia đình quây quần giữa mâm cơm giản dị mà vừa ăn vừa xuýt xoa, hít hà, mồ hôi mẹ, mồ hôi con vã ra như tắm bởi đĩa cá kho tộ cay nồng, tô canh rau đắng nóng hôi hổi… thì thật là sung sướng hay ngồi ăn trong cái mênh mang của đất trời khi mưa, ta lại cảm thấy ấm lòng, thú vị. Bởi thế mà thi sĩ Nguyệt Lãng từng có những nỗi nhớ quê, nhớ loài rau đồng nội khó quên trong tâm thức của mình: Ai buộc đời mình vì một cọng rau Ai khôn lớn qua cầu đi hút bóng Nhìn quãng đồng xa một làn khói trắng Cũng bâng khuâng nhớ lắm quê mình Bỗng nghe thèm rau đắng nấu canh... " Hai Lúa Miền Tây"
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:30:19 GMT 9
CHUYỆN VỀ LOÀI THỰC VẬT MANG TÊN... BÌNH BÁT!Tùng Phạm Phải nói ngay rằng trong đời sống người bình dân miền Tây Nam bộ có hai loài thực vật rất quen thuộc có cùng tên là bình bát. Loại bình bát thân gỗ cao khoảng năm, ba thước tây. Lá đơn, mọc so le, lá có mùi hôi đặc trưng. Vùng đất thấp ven sông, có nhiều phèn, cùng với khí hậu nóng ẩm là điều kiện để cây bình bát - một loại cây hoang mọc đầy, tạo nên một màu xanh ngát cả vùng. Bình bát sống trên dưới chục năm. Cây bình bát thường được làm củi đốt. Người bình dân thường đốn bình bát về ngâm, bỏ lớp da ngoài, lấy lớp da trong làm dây bện thắt thành những chiếc võng đưa, vừa dai, vừa chắc. Bình bát trổ bông màu trắng, cánh hình trái tim. Bông cho quả non màu xanh, da sần sùi, đến khi bình bát chín trái ngả sang màu vàng tươi. Trái chín gặp cơn gió nhẹ là rụng xuống đất. Ngày trước, người bình dân miền quê Tây Nam bộ sống chủ yếu bằng kinh tế tự túc tự cấp. Đặc trưng cơ bản của cuộc sống ấy đó là kiếm được gì ăn nấy. Trẻ con lâu lắm mới được vài miếng bánh hay vài viên kẹo mẹ đi chợ về mua cho. Còn lại, cứ mỗi sáng ngày các em chạy ra vườn, dọc theo bờ kênh, mé rạch lượm bình bát chín bẻ ra ăn ngay vừa ngọt vừa có mùi hôi hôi đặc biệt. Người tha hương, có lúc bồi hồi nhớ tiếng võng kẽo kẹt với lời ru ngọt ngào của mẹ: À … ơi! Xa quê vẫn nhớ quê nhà Nhớ trái bình bát … à .. ơ … nhớ trái bình bát đậm đà ngọt ngon. Cầu kỳ hơn thì đem những trái bình bát ấy về, dùng tay bẻ ra, gợt bỏ vỏ rồi bỏ vô ly dầm với đường, thêm ít viên nước đá là thứ giải khát tuyệt diệu lúc trưa hè. Có người làm sạch vỏ, ướp ít đường cát hay đường phèn trộn đều đợi đêm xuống phơi ngoài trời để hứng sương. Sáng hôm sau được ly bình bát ngọt lịm và mát lạnh. Người ta cho rằng ăn như vậy sẽ chữa được bệnh nhức đầu đông. Do cùng họ với với mãng cầu xiêm, nên dân gian miền Tây còn sáng tạo bằng việc ghép chồi non của mãng cầu vào bình bát. Sau đó thân mãng cầu sống trên gốc cây bình bát. Trái mãng cầu tháp cho nhiều nước, vị ngọt lẫn chua mềm, thơm và có vị ngon đặc trưng khác đi ít nhiều so với mãng cầu chính gốc của nó. Bình bát chín rụng đầy, lượm ăn không hết thì cho cá ăn. Ở miền Tây Nam bộ có tập quán nuôi cá dồ cầu. Thời gian sau cá lớn, người ta chuyển từ hầm này sang hầm rọng để cá sạch mình và sẽ ăn dần. Đây chính là lúc người ta lượm những trái bình bát chín rụng về nuôi cá. Cá ăn bình bát vừa sạch, vừa béo, chừng nửa tháng sau lấy lưới kéo lên tả pín lù hay kho tương đều ngon miệng. Loại thứ hai là bình bát dây. Dân gian ở miệt đất này hay ngâm nga rằng: Chiều chiều bắt cá nấu canh Sao mà ngon lạ lá bình bát dây Những buổi chiều hè, sau công việc đồng ruộng, người lao động miền Tây Nam bộ thường phải tất bật lo cho bữa cơm chiều. Bữa cơm nhà quê thường không thể thiếu món canh. Đây là món ăn rất đa dạng và phong phú. Nét độc đáo vừa lạ mà vừa quen trong số đó phải kể đến nồi canh đọt bình bát dây nấu với cá trê vàng hoặc tép bạc, tép trấu… Khác với cây bình bát, loài gỗ tạp cho trái màu vàng mọc ven các bờ kênh, mé rạch, bình bát dây là loại dây leo mọc hoang, bò phủ um tùm trên các tán cây lớn với lá xanh mướt. Lá bình bát dây mọc so le, hình trái tim, hoa màu trắng, có năm cánh. Trái bình bát dây lúc còn non có màu xanh giống như dưa leo, to bằng ngón tay cái, vị đắng, lúc chín có màu đỏ rực, vị trở nên ngọt. Con nít thường hay hái trái hoang này lúc chín vừa ăn vừa đùa nghịch, để rồi sau này dù tha phương vẫn luôn hoài niệm về ngày xưa ấy! Người ta thường hái những chiếc lá bình bát dây xanh tươi kèm với những đọt non đem về để nấu canh. Cá trê vàng chạy lộp hay cắm câu còn tươi rói được làm sạch râu, mang và bụng cá, để nguyên con hoặc khứa hai, ba tùy ý. Sau đó, thả cá vào nồi nước sôi nấu thêm vài dạo, hớt sạch bọt, nêm nếm cho vừa ăn. Cuối cùng cho lá bình bát vào. Nồi canh vừa sôi lại thì nhắc xuống, cho lên phía trên ít gừng xắt chỉ, nhuyễn. Hương vị đặc trưng này không thể thiếu trong nồi canh cá trê nấu lá bình bát dây. Vị nồng cay của gừng tăng thêm hương vị quyến rũ của món ăn. Bên nồi cơm gạo mới nóng hổi, chan miếng canh bình bát dây húp mấy cái đã hết chén. Mồ hôi vả ra, bao miệt nhọc dường như tan biến. Thịt cá trê vàng ươm chấm với nước mắm gừng, hoặc nước mắm ớt để lắng lòng nghe tiếng vọng của hồn quê dân dã. Nấu tô canh nóng mời anh Thủy chung vẫn vẹn mối tình thôn quê…
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:31:44 GMT 9
NGỌT BÙI NƯỚC CƠM SÔITùng Phạm Nhớ hồi bé,lâu lâu tôi nhõng nhẽo đòi má cho uống nước cơm sôi. Má lụm cụm vo sơ gạo trong cái nồi xi kên, cho khá nhiều nước lạnh vào trước khi bắc lên bếp lửa. Cơm sôi lụp bụp đội nắp vung, má hai tay cầm giẻ bếp, nghiêng miệng nồi vào cái tô để chắt nước cơm. Sau đó, má đặt nồi cơm lên bếp, giở nắp vung, dùng đũa bếp xơ cơm. Đậy nắp vung xong, má cho vào tô nước cơm sôi lượng đường cát vàng vừa đủ ngọt, tôi húp một cách khoái trá Nước cơm sôi, gợi nhớ một thời nuôi tôi khôn lớn. Nhìn tôi húp nước cơm sôi một cách hả hê, má tôi cười, mắng: “Tổ cha mầy!”. Rồi má nhắc chuyện “đời xưa” mà tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần những khi được uống nước cơm sôi. Rằng, hồi tôi chào đời là lúc kinh tế cả nước trong cơn thắt ngặt mà người ta gọi là thời “bao cấp”. Bấy giờ người dân được nhà nước phân phối từ cây kim sợi chỉ đến những mặt hàng thiết yếu theo định lượng ít ỏi. Sữa bò là món hàng “xa xỉ”. Nhà nghèo, không đủ tiền mua sữa, nội tôi phải chắt nước cơm sôi pha đường, giặm thêm chút muối đút tôi uống. Tôi lớn lên theo thời gian với nước cơm sôi pha đường. Không cả sữa bò, chỉ với nước cơm sôi pha chút đường mà tôi lớn phổng phao, thế mới ngộ. Ai cũng khen tôi đẹp trai. Không biết có phải vì uống quá nhiều nước cơm sôi mà trong tôi lúc nào cũng thòm thèm chất nước hơi sệt béo ngọt kia? Bẵng đi một thời gian, khi đã lớn, với việc đi học xa nhà; sau này lại làm việc nơi cơ quan cùng bao nhiêu phức tạp trong đời sống, vẫn không làm sao xóa nhòa chất nước “linh diệu” kia trong tôi. Tôi vẫn thèm! Ngày nay, cuộc sống ồn ào, náo nhiệt, cuốn theo vòng xoáy thời gian với bao nỗi lo toan cơm áo, gạo tiền…, chính vì thế nồi cơm điện luôn hiện hữu trong tất cả gia đình bởi tính tiện lợi của nó. Bao năm về lại quê nhà, hình bóng người mẹ già cặm cụi chắt chiu từng giọt nước cơm nuôi con khôn lớn ngày nào, giờ đây vẫn không phai mờ trong tôi...
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:33:04 GMT 9
NGHĨA TÌNH CẶP LU CHỨA NƯỚC NGÀY “RA RIÊNG”Tùng Phạm Cặp lu chứa nước từ bao đời đã gắn bó với người nông dân, từ lúc mới khai hoang, lập ấp. Gần như ở quê tôi miền Tây nhà nào cũng đều có ít nhất một cặp lu dùng để chứa nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt, ăn uống hằng ngày. Cặp lu thân thương nghĩa tình ấy giờ vẫn luôn đồng hành trong cuộc sống giản dị của người dân. Dạo quanh làng xóm, điều mà mọi người ấn tượng nhất khi đặt chân đến nơi này là cặp lu tròn trĩnh, nó như một biểu tượng cho một mái nhà, một gia đình. Người quê tôi thường cho con cái của mình lập gia đình từ rất sớm với mục đích mong cho cái của mình chí thú làm ăn, xây dựng cuộc sống gia đình. Sau khi lấy nhau, họ làm nhà rồi cho con cái ra ở riêng (gọi là ra riêng), cung cấp cho các vật dụng cần thiết để sử dụng hằng ngày như: nồi, niêu, giường, chiếu… nhất là phải có cặp lu chứa nước được các gia đình chuẩn bị từ lâu. Cặp lu quê ấy được đúc khuôn với chất liệu bằng xi măng truyền thống, bên ngoài nhẵn, có vẽ hình hoa văn, bên trong thì hơi sần sùi nhưng quan trọng là không bị chảy nước. Thường khi “ra riêng”, không có tiền mua kiệu (loại lu làm bằng sành) nên chỉ sử dụng cái lu để ngoài sàn nước để tắm rửa, nấu ăn; cái còn lại dùng để đựng nước mưa dự trữ uống trong mùa nắng. Cặp lu ấy gắn bó thân thiết với người dân không thể tách rời. Dường như mọi sinh hoạt hằng ngày đều phải dùng nước đựng trong lu; nấu cơm, giặt giũ, rửa chén đều lấy nước từ cái lu ấy. Đến tháng mưa, người dân dùng lu để chứa nước, bỏ trái bí đao vào lu nước mưa tạo nên vị ngọt lành, mát mẻ của nước mưa được chứa trong lu. Ba tôi kể lại ngày “ra riêng’ của mình, nội tôi cũng tặng cho vợ chồng ba cặp lu mà nội tôi đã cẩn thận cất kỹ từ lâu, nội nói rằng, đây là cặp lu đầu tiên nội tặng, sau này các con sẽ mua thật nhiều lu để chứa nước mưa mà dùng. Thật đúng như nội nói, sau ngày “trọng đại” ấy, ba tôi đã mua thêm được nhiều cặp lu nhưng cặp lu cũ kỹ mà nội tặng thì vẫn còn đó, đồng hành với gia đình chúng tôi trong cuộc sống gia đình. Giờ đây, quê tôi đã có nước cây để sử dụng, không còn cảnh đợi nước lớn để gánh vào lu như những ngày xưa. Tuy nhiên, ba tôi vẫn giữ mãi thói quen dùng lu để chứa nước mưa mà uống. Ba nói rằng, chỉ khi uống nước ở trong lu này, ba mới cảm nhận được mùi vị ngọt lành của nước, nhận ra được hương quê trong từng giọt nước mát trong lu. Vì vậy, lúc nào ba cũng để sẵn cặp lu ở ngoài sân, đợi mùa mưa đến hứng nước mà dùng. Cặp lu chứa nước ngày xưa nội tặng vẫn còn đấy, dù hơi cũ kỹ nhưng vẫn chứa nước tốt như những ngày nào. Đối với tôi, cặp lu thân thương ấy có giá trị thiêng liêng, như một nhân chứng cho sự gắn bó, thủy chung, son sắc đối với con người. Mỗi lần nhìn lại cặp lu, trong lòng tôi trào dâng nhiều xúc cảm, chính cặp lu này đã mang lại cho chúng tôi những giọt nước ấp áp, nghĩa tình.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:34:57 GMT 9
CẦU TRE DUYÊN DÁNG TÌNH QUÊTùng Phạm Chiếc cầu tre miệt vườn vẫn mãi in sâu trong ký ức người dân miền Tây Nam bộ như một nét văn hóa miệt vườn vùng sông nước. Chiếc cầu tre hay “cầu khỉ” bắc qua sông rạch kênh mương chằng chịt, là nét đẹp hết sức độc đáo về cảnh quan và sinh hoạt của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Chiếc cầu khỉ là hình ảnh quen thuộc của bao thế hệ người dân miền tây Trước kia, sông rạch là huyết mạch kinh tế của người dân nông thôn, ngày ấy, vùng quê còn nghèo, cây cầu tre đã chung tình với mảnh đất quê hương, quen thuộc với người dân nông thôn, khi chân bước lên cầu tre từ người lớn đến trẻ em dường như đã quen với “nhịp lắc” và cái gập ghềnh mỗi khi đến trường hay đi học về. “Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi Khó đi mẹ dắt con đi Con đi trường học, mẹ đi trường đời”. Có lẽ cái sợi đây gắn kết ấy đã có từ khi đứa trẻ ra đời, hình ảnh cây cầu tre đã theo lời ru của mẹ mà lớn lên theo năm tháng. Rồi dù ta có trưởng thành, đi xa hình ảnh cây cầu tre thuở bé vẫn theo chân mỗi người như hành trang quý báo, kết chặt nghĩa tình, gợi lên sự dịu dàng yêu thương. Khi nhắc đến làng quê miền Tây Nam bộ, người ta nghĩ ngay đến vùng sông nước mênh mông trù phú, cùng với các chiếc cầu tre, chiếc xuồng ba lá chiếm một vị trí văn hóa quan trọng trong đời sống. Nếu hình ảnh cây cầu tre quen thuộc với người dân miệt vườn thì nó lại là nỗi sợ của người dân chốn thị thành, những bước chân run run khi bước nhẹ lên “chiếc lưng trần” của cây cầu giống đôi chân của một cụ già. Mùa mưa, nước dâng ngập con mương, con rạch, cây cầu bị nước ngập lâu ngày, trở nên trơn trợt bởi bám rong, bùn. Lũ học trò mỗi lần đi học, một tay vịn thành cầu, tay kia cứ khư khư cặp chiếc cặp nhỏ bên hông, sợ chẳng may trượt chân rơi xuống nước làm ướt trang vở học trò. Những em học sinh đến trường Cầu tre miền quê là vậy, lúc nào cũng đơn sơ và giản dị. Với vài cây tre, năm ba cây gáo, cây bần, cây cau, cây dừa, cây sao, cây sến và thêm một mớ dây cổ rùa, dây mây rừng, dây choại là cây cầu đã có mặt bên dòng đời nơi thôn dã miền sông nước quê mùa. Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang, cây cầu đã “hòa mình” vào cuộc sống ở kênh rạch, nối liền hai bờ cho mọi người qua lại giao hòa cùng nhau, mỗi ngày như mọi ngày mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ cho con rạch làng quê.. Cây cầu lắt lẻo đã tô thêm nét đẹp cho làng quê khi những con đường bị dòng sông, kênh rạch ngăn đôi. Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân cầu tre gọn gàng nối bên này bên kia bằng khúc gỗ gòn gọn gàng. Dòng nước sâu, con sông rộng, cầu tre cũng nối dài thêm nhiều nhịp thành cây cầu lắt lẻo trên dòng nước bao mùa… Những cầu tre dài có từ ba nhịp, năm nhịp, bảy nhịp là những cây cầu qua những con rạch có bờ bến xa vời. Cây cầu tre luôn có những nhịp lẻ vì người đời muốn dành nhịp giữa ngay giữa dòng nước sâu cho ghe xuồng chở nặng tiện đường qua lại, nên cầu tre chia dòng sông làm hai phần đều nhau. Ở trong kinh, trong rạch, nên cầu tre mang trên mình cái nét riêng của con kinh hiền hòa, của con rạch bùn lầy, của xứ sở quê mùa… Không có bùn trên lưng, không có nắng trên tay vịn, không có mưa trên đầu, không có nước làm đung đưa chân cầu như chân cụ già, có lẽ, đã không còn là cây cầu tre lắt lẻo miền quê. Từng đoạn của cây cầu tre như những mảnh ghép của năm tháng đã qua, để lại màu nâu xỉn in hằn những dấu chân đi về. Cầu tre duyên dáng tình quê Những cây cầu đúc bằng xi măng dần dần xuất hiện rải rác hết khúc sông này đến đầu sông nọ, cây cầu tre cũng mất dần trên những con rạch, những dòng kinh đào khắp miền đồng bằng này… Giờ đây, không còn dễ dàng để có thể bắt gặp hình ảnh đứa trẻ bắt đầu tự đi qua cầu bằng cách ngồi lên cầu và nhích từng chút một trước khi có thể bước đi thành thạo trên cây cầu tre quê hương. Nhớ quá những cây cầu tre gập ghềnh ngày nào qua câu ca dao mộc mạc, quê mùa như khúc hát ân tình, nhớ đêm trăng sáng vằng vặc nơi miền quê, những thanh niên nông thôn ngồi vắt vẻo trên cầu đong đưa thả chân xuống nước, đá những trảng lục bình hờ hững trôi ngang, gió hiu hiu thổi thấy quê hương yên bình quá đỗi. Giờ đây, quê tôi đang từng ngày thay đổi với nhiều chiếc cầu mới khang trang mọc lên thay thế cho những chiếc cầu khỉ nối nhịp đôi bờ. Nhưng về sâu trong từng ngõ ngách thôn xóm, ta vẫn bắt gặp đâu đó vài chiếc cầu tre vẫn đang vươn mình nối nhịp cho bà con đi lại. Có thể nói, cầu tre như là một biểu tượng cho vùng đất và con người miền Tây mộc mạc nhưng ấm áp, nghĩa tình.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 17:59:30 GMT 9
ĐÁNH CỌP GÒ QUAO Sơn Nam
Non trăm năm về trước, làn sóng người Việt từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang. Họ đã gặp những trở ngại thiên nhiên nào? Tài trí, sự dũng cảm của họ ra sao? Lòng chúng ta không khỏi phập phồng âu lo, khi ngày nay đọc lại “Truyện đời xưa” của cụ Trương Vĩnh Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp ở vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt đuôi trong dừa nước. Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng hành, dám bỏ rừng sâu, bén mảng đến các xóm nhà sát mé sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất thế nhứt. Ông cha ta đã đánh lũ cọp ấy thế nào? Có người đáp: Nhờ các thầy võ giỏi, chuyên môn đánh cọp, xuất thân ở các trường võ Quảng Ngãi, Bình Định. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, các thầy chạy vào vùng Cà Mau mà ẩn lánh. Võ nghệ của các thầy quá đỗi cao cường. Gặp cọp là rượt bắt, nắm cổ đè xuống, nện vào lưng cọp những quả đấm thôi sơn chẳng khác nào chúng ta ngày nay đánh một con mèo hoặc một con chó con. Người khác bảo rằng họ đã từng gặp mấy ông thầy bùa Xiêm, chuyên môn dụ dỗ cọp. Các thầy Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây, giữa rừng mà thổi kèn, nói đúng hơn là thổi một miếng lá tre. Tức thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quì xuống hầu hạ, canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức dậy, thầy Xiêm vỗ về từng con cọp, nhổ vài sợi râu hoặc vài sợi lông để nuôi sâu. Lông cọp, râu cọp đem về cắm trong một mụt măng tre đang mọc. Vài hôm sau thì ô hô! Mỗi sợi râu là một con sâu. Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt đỏ hói, mình mẩy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người nuôi nó trong một cái hũ kín để giữ nhà. Khi có khách đến, con sâu cọp nọ nhảy dựng trong hũ nghe rổn rổn rồi la hét! Ngoài ra, phẩn của loại sâu này rất lợi hại vì nó là vị thuốc độc, giết người trong nháy mắt v.v... Sự thật ra sao? Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị tiêu diệt hoặc bị xua về bên kia biên giới Cao Miên, phải chăng là nhờ các thầy võ Quảng Ngãi, Bình Định hoặc các thầy Xiêm có bùa phép? Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt là đến tìm các ông kỳ lão hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà Ban (Rạch Giá). Mấy ông nầy nếu không trực tiếp đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy và nghe rõ ràng hơn chúng ta. Vậy xin mời bạn đọc thân mến đến phỏng vấn và nghe trả lời. Đây là cuộc phỏng vấn ông Tư Bá: - Thưa ông, ông xuống đây lập nghiệp từ hồi nào? - Điều đó không nhớ chắc chắn ngày, tháng. Nhưng mà mấy cháu nên nhớ: Hồi Tây đánh nước mình, miệt Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển có ghe đánh lưới của người Hải Nam. Còn trong đất liền có mấy nhóm người Triều Châu, Phước Kiến qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ ở gần chợ Rạch Giá, chợ Bạc Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài sốc người Miên ở giữa đồng. “Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Rau Dừa, Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao nầy, ở miệt dưới đã có vườn tược, có cau lão rồi. Nhưng đó là chuyện xa xôi, cách đây một khoảng rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ tôi chưa từng đi tới. - Lúc đó miệt Trà Ban này phải chăng là hoàn toàn không có ai ở? - Sự thật là vậy. Vài nhà người Miên ở tận giữa đồng, nhưng họ không muốn làm ăn chung đụng với người mình. Kỳ dư, bờ sông Cái Lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban ngày, chừng vài trăm thước là thấy sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng, nghe cọp rống, rung rinh mặt nước. Có lẽ lúc rống, mấy ổng úp mặt xuống nên có tiếng dội. - Hồi mới tới cất nhà, chắc cọp khuấy rối mình dữ lắm? - Không có! Không có! Mình ngu dại gì vô rừng già mà cất nhà ở. Cứ lựa mấy vàm rạch nhỏ, chèo ghe vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi. Làm như vậy có hai điều lợi. Một là trong mấy ngọn rạch, không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô chừng hai ngàn thước. Phía trong toàn là sậy, đế, cây mốp, rừng chồi. Mình có thể phá lớp sậy, đế ấy để làm ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Điều lợi thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần có sự yên ổn. Hơi đâu mà lo chuyện đánh cọp, trong lúc mình không rành võ nghệ. - Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ cọp dữ lắm. Cọp ưa tìm người mà ăn thịt... - Vài người lo xa, đốn cây rào chung quanh chuồng heo. Sợ nhứt là khi mình ra ruộng, cọp lén vào nhà bắt con nít. Lần đó, cọp tới sân nhà tôi, chạy vòng quanh tìm cách vô nhà. Đứa con tôi ở một mình. Nghe tiếng động đậy, nó chạy ra sát hàng rào. Cọp ta không phương kế nào vô trong được nên day lại, thò đuôi vô kẽ hàng rào. Trưa về nhà, nghe con tôi nói lại: “Ba ơi! Hồi ba đi ruộng, có con chó vện lại đây, thò đuôi vô, con nắm đuôi mà nó mạnh lắm, kéo ra được, chạy vuột”. Chừng đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ, xây thêm hàng rào chung quanh nhà. Đêm cũng như ngày, hễ nghe động tịnh là nghĩ tới cọp. Nhưng dân mình gốc ở Hai Huyện, Cần Thơ, Long Xuyên xuống. Ở đó, đất khai khẩn lâu đời rồi nên phần đông nghe tới cọp là sợ chớ ít ai thấy tường tận ông cọp lần nào! Có một cô nọ ngồi rửa chén sau nhà, thấy cái tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy vô nhà, đóng cửa lại mà la lớn: - Má ơi! cọp! cọp! Hỏi: cọp ra sao? Cô ta nói: “Nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng nó trắng”. Chừng xem kỹ lại tàu cau rõ ràng là tàu cau... Có bà lão khác ngồi câu cá, sát gốc cây xộp. Cọp trong rừng men ra chụp một cái. Bà nọ té nhào bên gốc cây. Nhờ vậy mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy cong đuôi vô rừng. Bà ngồi dậy, mở mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà nói lại: “Bữa nay xui xẻo quá. Câu cá không được con nào, nhè gặp con heo rừng ra nhát!” “Cả nhà hồ nghi, trở ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là dấu móng cọp. Kể từ đó thiên hạ bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại. Có người bàn: Nên thành lập một đội binh để vô rừng đánh cọp. Công việc đầu tiên là đốn cây tầm vông, vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe qua, dường như có lý. “Nhưng năm đó, ở rạch Cái Cam (Phong Điền, Cần Thơ) có người xuống cho hay: “Ở xứ tôi, có bày bố như vậy nhưng thất bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng, thu hình một chỗ. Thinh không, ổng thét lên. Tức thì ai nấy chạy tán loạn. Có người thiếu điều đổ ruột vì chạy càn, đụng nhằm ngọn tầm vông vạt nhọn của bạn mình. Về sau, có người gài bẫy được một ông cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng cọp để đâm. Dè đâu, cọp nhai nát như... mình ăn mía! - Vậy làm thế nào để đánh cọp không còn sót một con như ngày nay? - Chuyện đó phải làm lần hồi. Bố trí một đạo binh đánh cọp không xong, dân xóm nầy mới bày đặt cất miễu thờ cọp. Đó là ngụ ý: “Chúng tôi là người làm ăn, không dám đá động tới ông, xin ông cứ ở trong rừng cho chúng tôi được yên ổn”. Cất miễu xong, chạng vạng có người tới đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp đi vòng quanh miễu, đứng nhìn rồi về. Bữa sau, dân làng đem cúng một cái đầu heo rừng. Cọp mừng lắm. Từ đó xóm riềng được yên. “Nhưng tạo hóa vần xoay, dân miệt trên xuống đây khai khẩn ngày thêm đông. “Đất giữa đồng đã khai thác hết. Bây giờ chỉ còn đất rừng sát mé sông, nơi cọp ở. Đó là hồi nguy nan nhứt cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều người làm gan, cất nhà sát mé rừng. Ban đầu đôi ba nhà, sau năm mười nhà. Họ thấy ở gần mé sông tuy là nguy hiểm nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong, làm rẫy. Một công rẫy trúng mùa được tới một trăm hai chục giạ khoai lang. Lúc nầy, nhiều người chết vì đi một mình vô rừng, bị cọp chụp bất thình lình. Họ sắm mác thông, thứ có cán dài, để ứng phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con người khó bề xoay trở để tấn thối! “Thời thế tạo anh hùng. Bận đó, ông thầy Râu (thầy thuốc Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy Râu) có đứa con gái bị cọp vồ. Tức mình, ông cầm mác rượt theo tận giữa rừng, chém cọp rớt một cẳng. Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo nái. Chú rượt theo, cầm cự với cọp suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu nên mới thoát nạn. Từ đó về sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt luôn luôn đỏ ngầu. “Kinh nghiệm là không nên đánh cọp nơi chật chội, tư bề có cây cối. Cọp sợ người, bằng cớ là ở giữa đồng trống, mình cầm mác, thét lớn là cọp chạy mất. Vì vậy, khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ. Rạch Cái Bần nầy lần hồi còn sót lại được ông Mun. - Tại sao ông Mun dám ở lại? - Vì ổng thuộc về loại cọp già, đã từng chống chỏi nhiều phen với loài người. Cọp nhỏ thì đi. Cọp già ở lại. Thứ già là thứ dữ. Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên đặt tên. Có hai ông. Ông Vện với ông Mun. Vện là cọp đực, Mun là cọp cái. “Trời đất dành riêng cho đôi cọp nầy số phận riêng. Trước hết, xin nói về ông Mun. “Thường ngày, ông Mun tới lui vàm Xẻo Gừa - một xẻo nhỏ, nước cạn, ít ai tới lui. Tại vàm Xẻo, có cây gừa to, “nhỏ gừa” (rễ thòng xuống) buông xuống hàng trăm cọng to bằng cổ tay, bằng cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát gốc, chung quanh có nhỏ gừa che chở nhiều lớp. Ổng dạn lắm... Sáng đi, chạng vạng về. Tháng tư năm đó, ổng sanh được bốn con một lần, cũng đều là Mun hết thảy. “Thật là khủng khiếp, lạ thường. Xưa nay, cọp sanh một hay đôi là cùng. Đằng này sanh tới bốn con, nội một lần! Dân làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng một ngày kia bốn ông Mun nhỏ lớn lên, sung sức... “Phải đối xử bằng cách nào? “Bắt bốn ông Mun con chăng? Chuyện đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường đi tìm mồi, để bầy con bơ vơ ở gốc gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ sẽ đổ quạu, trả thù, gây nhiều chuyện bất an cho xóm. Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri Khách Lừa bày ra một kế: Bắt bớt ba, chừa lại một. Thi hành xong, ba ông mua nhang đèn về, dựng bàn trước nhà mà khấn vái: - Xin trình cùng ông Mun được hay: thói thường xưa nay một mẹ thì một con. Đằng này, ông sanh tới bốn con. Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa lúc ông đi vắng, có tới xin bớt ba con, chừa lại cho ông một con. Như vậy, không mích lòng ông mà cũng không hẹp bụng chúng tôi... “Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm thét rồi vài hôm sau dẫn đứa con còn lại đi mất. - Bây giờ làm sao để nuôi ba ông cọp con nọ? - Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại, bò tới bò lui, cái lưng uốn éo như con mèo lớn. Tối ngày, mấy cậu cứ đòi sữa. Biết được chuyện ấy, mấy người đàn bà động lòng, xúm xít lại đặt mấy cậu nằm giữa bộ ván; ai nấy ngồi vòng quanh mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu đánh hơi rồi từ từ bò ngay lại người đàn bà nào có sữa để đòi bú. Bà chủ H. cho bú thử. Kết quả: vài ngày sau vú sưng lên làm độc đau sứt núm vú. Bấy giờ, thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, họ chở ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp cho quan Phó chủ tỉnh. Ông Phó tên “Quít-xy” thưởng cho hai mươi lăm đồng bạc trắng, ổng đem cọp con về bên Tây nuôi. - Còn ông Vện? - Ông Vện có lẽ là chồng ông Mun, cha của mấy cậu nọ. Phải chăng vì già nua, bịnh hoạn mà ông Vện không theo vợ, theo con? Buổi sáng đó, người ta thấy ông Vện nằm dài trên bờ rẫy, sát mí rừng. Ban đầu ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời lên cao, ngạc nhiên làm sao, ông vẫn nằm ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm lại gần, lấy đất chọi thử, rồi lấy cây dài mà thọc, chừng đó mới biết ổng chết. Họ thui râu ổng, rồi lấy thước đo: ổng dài một thước sáu. Người khác đòi khiêng lên cân thử, mấy ông kỳ lão cản ngăn, cho rằng làm như vậy là quá khinh thị, mạt sát kẻ đã chết... “Rạch Cái Bần không còn cọp nữa. Mấy rạch khác cũng thưa cọp. Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương ngày đêm, từ ngọn Cái Cau đến vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời xưa: U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua không còn nữa. Ghe xuồng, tàu bè tấp nập, sấu phải lui về vàm biển. Cũng thời câu hát xưa, thiên hạ sửa lại như vầy: - Đường đi Rạch Giá thị quá sơn trường, Gió rung bông sậy, dạ buồn nhớ ai... Bông sậy chỉ trổ nơi rừng đã khai phá thành rẫy. Lòng dạ con người thơ thới hơn. Không còn sợ cọp, sợ sấu. Họ rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ ai bây giờ? Trai nhớ gái. Vợ nhớ chồng. Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để tạo lập nên làng, nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa. “Chẳng qua là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít. “Sự thiệt về chuyện đánh cọp Gò Quao là vậy. “Nó dễ mà khó, khó mà dễ. Người đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ không cần bảng đồng bia đá. Vậy mà về sau nầy có không biết bao nhiêu người tự xưng là thầy đánh cọp thời xưa để hát thuật Sơn Đông, bán thuốc trật đả hoặc bán bùa Xiêm để dụ dỗ gái tơ. Thiệt đáng trách biết chừng nào.
Trích "HƯƠNG QUÊ, TÂY ĐẦU ĐỎ VÀ MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN KHÁC" - Sơn Nam
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 28, 2019 16:18:42 GMT 9
Bệnh viện Hồng Bàng. Phần 1: Khoa cấp cứu.
(Truyện ngắn, dành tặng các anh chị em thân thương đã làm , và còn đang làm việc trong BV Lao PhamNgocThach ). Đầu thập niên 80 , người dân SG còn nghèo khó lắm,thiếu ăn, thiếu mặc ,tật bệnh khắp nơi …tôi được phân công về Khoa Cấp Cứu , BV Hồng Bàng Quận 5 ( nay là TT bệnh phổI PNT ).Bạn cùng khóa điều dưỡng về đây cũng khá đông , có một số bỏ việc , có một số vộI vàng làm đơn xin chuyển công tác BV khác vì những khó khăn, cực khổ tạI đây , công việc nặng nề , mức độ lây nhiễm cao , nhiều nhân viên sau khi làm việc tạI đây bị lây nhiễm lao phổI từ bệnh nhân. Một số vì hoàn cảnh bắt buộc nên phảI miễn cưỡng nhận nhiệm sở sau khi đã khóc lóc hết cả nước mắt và còn những người khác nhận công việc như một nghề nghiệp nhất định rồi sau đó đã gắn bó ,cống hiến suốt cuộc đời mình cho lý tưởng cứu đời, cứu người. Trong số về nhận việc đó có tôi , được chọn về khoa cấp cứu , là một nơi được gọI là “đầu sóng ngọn gió “ của toàn BV .Được về làm việc tại khoa cấp cứu, tôi hãnh diện nhưng phần khác cũng lo lắng không ít do lờI truyền miệng của các đàn anh,đàn chị trong ngành đi trước rằng khoa cấp cứu ngườI chết nhiều lắm! Chết vì bệnh tật , chết vì tự vẫn do nghèo ,bệnh chữa không khỏI, vì là khoa cấp cứu nên buộc phải nhận tất cả các trường hợp cấp cứu khác ngoài bệnh lao: tai nạn giao thông ,thương tích đánh nhau, tự tử …ngườI ta cũng đem vào để sơ cứu rồI được chuyển đi các bệnh viện chuyên khoa khác, nhiều khi chưa kịp chuyển đi người bệnh đã qua đời ngay tại khoa Cấp Cứu của chúng tôi. Nhưng chuyện tôi quan tâm hơn hẳn là do nhiều ngườI qua đờI nên có liên quan đến thế giớI siêu hình! Nhiều anh chị trong khoa đã cho tôi biết về nhiều hiện tượng lạ đã xảy ra mà không giảI thích được . BV Hồng Bàng thuở ấy còn cũ kỹ vô cùng . Do kiến trúc từ thờI Pháp nên mang đậm tính cổ kính theo lối Châu Âu ,tường gạch mái ngói đỏ rêu phong , cửa gỗ lá sách . Ở dướI các khu trại bệnh lại được xây dựng tầng hầm song sắt ,làm việc tạI đây nhiều năm nhưng thực sự tôi không biết ngườI ta bố trí tầng hầm để làm gì , một số ngườI cho rằng để nhốt can phạm hồI xưa (?). Chỉ biết rằng trong tầng hầm này là nơi trú ngụ của hàng triệu triệu con chuột to nhỏ , có những con chuột cống to như con …mèo !Có những lần trực đêm BV tôi đã tận mắt chứng kiến những con chuột trụI lông to tướng, vừa đi vừa ho húng hắng như một …ông già, cứ lững thững bước đi không sợ ngườI !Giữa BV là khu đất trống được xây dựng như công viên , có những bụI cây , hoa các loạI , rồI được lắp đặt những chiếc ghế đá để bệnh nhân có nơi ngồI thoáng mát dưới những hàng cây dầu , sọ khỉ ,hoa phượng…cao lớn . Các khoa phòng được liên kết vớI nhau bằng những đường đi , có chỗ còn tráng nhựa , có chỗ bong tróc , đất đá lồI lõm do thiếu duy tu qua nhiều năm tháng. Có lẽ khoa Cấp Cứu là khoa xấu xí và tồI tàn nhất BV . Đây là một dãy nhà trệt tối tăm và ẩm thấp, hai khu : phòng hành chánh và phòng bệnh nhân được nối nhau bằng một lối đi nhỏ hẹp. Bên ngoài khoa, sát cửa sổ phòng bệnh nhân là khu vườn “Xuyên Tâm Liên” là một công trình của thanh niên chúng tôi phải góp công lao động trồng trọt. Thuở ấy,xuyên tâm liên được coi là một loại thần dược, không một loại trụ sinh nào trên thế giới có thể tốt hơn! Mái ngói khoa Cấp Cứu được lợp bằng tôn fibro ciment ,trần nhà thấp lè tè ,buổI trưa trờI nắng , nóng như đổ lửa. Khi trời mưa, những thau chậu được sử dụng làm vật hứng nước mưa trực tiếp trên trần nhà đổ xuống. Tường gạch quét vôi chỗ còn chỗ mất,bóng đèn lù mù làm tăng thêm không khí u tịch cho khoa, trưa nắng vẫn phải bật đèn cho sáng vì phòng bệnh quá tối tăm .Bệnh nhân nằm tràn ngập , một giường hai ngườI , đôi khi đông quá chúng tôi phảI cho 2 giường nhập lạI và cho 5 người nằm ! Tôi vẫn còn nhớ như in cái giường đặc biệt số 37 , được sắp đặt trong một căn phòng bé xíu dành cho bệnh nhân vô gia cư ,kích thước căn phòng chỉ khoảng độ 12 m vuông, những bệnh nhân này tiêu tiểu tại chỗ,không người thăm nuôi phải cần đến chế độ chăm sóc đặc biệt. Hầu như luôn luôn ,bn đã nằm phòng này chỉ còn con đường xuống nhà Vĩnh Biệt .(nhà quàn của bệnh viện) Ngoài sân trước cửa khoa Cấp Cứu có một cây đa lớn , hai ba người ôm , dướI gốc đã được thân nhân nuôi bệnh lập nên một bàn thờ lúc nào cũng khói nhang nghi ngút, ba chén nước lạnh nho nhỏ kèm theo nảI chuốI và một vài cái bánh in . Ngày ấy ông Bảy BồI là ngườI phụ trách Nhà Vĩnh Biệt của bệnh viện , ông đã trên 70 nhưng sức khoẻ còn tốt lắm , mỗI sáng thức dậy là ông phảI có một” Xị “để mở đầu cho một ngày mớI , còn các xị khác thì lai rai trong ngày .Công việc của ông là đẩy một chiếc xe hòm (giống như một chiếc quan tài ) bằng nhôm kín , có bánh xe và có hai càng hai bên , giống như một chiếc xe cút kít đẩy gạch ,vận chuyển những thi thể, hình hài xuống nhà Vĩnh Biệt .Nhà Vĩnh Biệt lúc này nằm phiá bên kia đường Ngô Quyền phiá sau BV Hồng Bàng nên ông phảI đẩy một đoạn đường khá xa .MỗI lần chúng tôi thấy dáng đi liêu xiêu của ông Bảy BồI cùng chiếc xe “đặc chủng “là chúng tôi biết rằng vừa có ngườI về bên kia thế giớI, một người đã từ bỏ "thiên đường chốn này" để sang một thế giới khác, an bình và hạnh phúc hơn …
Phần 2 : Phiên trực đêm.
Trong một buổI tốI trực đêm khoảng tháng tư, thời tiết nóng nực, cái quạt trần kẽo kẹt quay hết tốc độ vẫng không đủ sức xua tan cơn bức bối ,khỏang gần nửa đêm đang ngồI viết hồ sơ trong văn phòng , tôi được báo rằng có một bệnh nhân ho ra máu nhiều mà bệnh nhân này lạI không có thân nhân tạI đấy. Cùng hai điều dưỡng chung ca đêm, chúng tôi chạy vộI sang phòng bệnh , ngườI bệnh này đang ho ra máu dữ dộI , máu ứa ra cả miệng và mũi ,loang đỏ tấm nệm trắng , trong chuyên môn chúng tôi gọI tình trạng này là “ho ra máu sét đánh” .Thường thì rất khó để cứu sống những trường hợp này ,nói chị hộ lý báo BS trực còn chúng tôi lo việc cấp cứu hồI sinh . Bằng một số kỹ thuật như hút máu đọng trong họng bằng máy hút , oxygene , xoa bóp tim ngoài lồng ngực , Adrenaline …nhưng bệnh nhân vẫn không qua khỏI vì tình trạng đã quá nặng, lúc này tôi mớI để ý ngườI bệnh này là một thiếu nữ còn rất trẻ khuôn mặt trái soan .Lau sơ những vệt máu đọng nơi khoé miệng, tôi vuốt lại cặp mắt chưa đóng kín hoàn toàn cho cô gái mệnh yểu . Anh BS trực nhanh chóng xuống đến nơi nhưng cũng không thể làm gì thêm , anh quay trở lên văn phòng để ký khai tử .Làm hồ sơ khai tử , tôi biết ngườI đã khuất tên VT Bạch Sương . 20 tuổI , mớI nhập viện buổI chiều ,nhà ở Quảng Nam . chỉ có điều lạ là có tên bố mẹ trong hồ sơ bệnh án ,mà lúc nhập viện lạI không có thân nhân đi theo. Hoàn tất hồ sơ xong , liếc nhìn đồng đã chỉ 12g 30 đêm .Tôi thở một hơi dài bước ra ngoài sân ,sau ca tử vong ấy , tình hình chung của khoa cò vẻ yên ổn hơn . Gởi bệnh cho hai chị điều dưỡng coi giúp ,tôi lững thững đi xuống khoa Dược vì đêm nay có thằng bạn trực ở đấy , định bụng tán gẫu rồI ăn ca ba vớI nó luôn . Trên đường đi xuống khoa Dược vớI thằng bạn , tôi thấy ông Bảy BồI đang luí húi đẩy chiếc xe nhôm quen thuộc từ khoa tôi ra , tôi tin rằng trong chiếc xe đẩy ấy là hình hài cô Sương mà tôi vừa hoàn tất hồ sơ. Lòng tôi chùng xuống và chiũ nặng .Thời tiết dường như có vẻ dịu mát hơn,ngước nhìn lên bầu trờI , một ngọn sao băng tạo một vệt dài tới gần cuốI chân trờI . Ba điều bốn chuyện vớI thằng bạn xong , tôi quay trở về khoa lúc này đã hơn 1g sáng .Con đường trong BV này tôi đi có lẽ đã hơn ngàn lần , đêm nay tôi có cảm giác như xa xôi thế nào đấy . Tất cả khoa phòng đều chìm trong giấc ngủ mặc dù đèn bên trong vẫn bật sáng , trong không gian tĩnh lặng ấy , tôi bước đi trên con đường nhấp nhô ,thỉnh thoảng có những viên đá bị văng lên nghe rất rõ trong đêm khuya ,tiếng côn trùng như nỉ non ai oán , những cơn gió thoảng qua làm tôi hơi rùng mình , dướI ngọn đèn mù mù ở căng tin BV hắt ra , tôi nhận ra có một cô gái trẻ đang ngồI ghế đá , lúc đầu tôi cho là một bà hộ lý ra ngồI chơi nhưng sau đó chợt nhận ra nàng mặc đồ thường chứ không phảI áo choàng , đầu hơi gục xuống , tóc khá dài , chắc chắn không phảI nhân viên rồI .Khoảng cách tôi và cô ta gần hơn , càng ngạc nhiên hơn khi tôi nghe cô khóc . Cô khóc nhẹ nhẹ , như không muốn tôi nghe thấy . Thỉnh thoảng lạI nấc lên u uẩn lắm . Tôi đứng gần bên :”Sao không về ngủ đi ,ngoài này lạnh , tôi có thể làm gì giúp …em ? “. HỏI xong tôi mớI nhận ra mình ngớ ngẩn thật ,nếu muốn về ngủ thì cô ấy đã về ngủ chứ làm gì phảI cần đến tôi nhắc nhở chứ ? Sau đó tôi cảm thấy thật lúng túng vì cô quá xinh đẹp. Nàng lắc đầu nhẹ nhàng không nói gì .DướI ánh đèn đêm lù mù của căng tin BV hắt ra , khuôn mặt nhìn nghiêng của cô thật là những gì hoàn hảo nhất của lứa tuổI đôi mươi , hàng mi cong vút ướt át , chiếc mũi dọc dừa thanh tú trên bờ môi mím nhẹ để ngăn tiếng khóc .Chỉ làn da hơi xanh tái do những cơn gió nhẹ hất mái tóc làm lộ chiếc cổ cao do chiếc áo hở cổ .Thật ra tôi hơi ngờ ngợ , quen quen , không lẽ … Nghe tôi hỏI , nàng chỉ lắc đầu nhẹ nhàng một lúc rồI nàng lạI nấc lên. Nhắc lạI lờI đề nghị ban đầu ,tôi còn nói thêm : “Cô ở đâu ,tôi dẫn cô về ? Chứ ở ngoàI này e nguy hiểm“. Tôi có ý hơi doạ để nàng có thể trở vào trong . Nghe lờI tôi nói thật tình nên nàng đáp : “Em là bệnh nhân ở đây ,buồn quá nên ra đây !Em chỉ có một mình ! “ Nàng đang ngồI trên băng đá dài thấy tôi đứng nên cố tình ngồI sang một bên để tôi có thể ngồI cùng . Nhưng dù sao tôi vẫn chỉ dám đứng để nói chuyện vì hơi ngạI . “Em buồn như thế nào , có thể cho tôi biết ? “Tôi hỏI . Chờ cho cơn xúc động vơi bớt ,nàng cho biết hòan cảnh nàng có gia đình bố mẹ và những đứa em dưới quê. Mới lấy chồng, chưa có con,theo chồng lên thành phố lập nghiệp . Thuê mướn một căn nhà nhỏ tạI đường Vĩnh Viễn ,quận 10, nhưng rủI thay gặp thằng chồng không chịu làm lụng chỉ bê tha , nhậu nhẹt , có được một chút vốn hắn ăn nhậu chơi bờI sạch . Hai tháng nay hắn bỏ nhà đi biệt , tiền nhà hai tháng nay chưa đóng .Cách nay hơn tháng ,do ho lâu ngày nên nàng xin khám tạI phòng khám lao Q 10 lạI phát hiện lao phổI khá nặng .Chiều nay đang ở nhà thì cơn ho dữ dộI làm ra máu khá nhiều nên bà chủ nhà kêu xe xích lô chở thẳng vào BV Hồng Bàng . “ Em giờ đây chỉ muốn báo tin cho ba mẹ em hay thôi !“Nàng tiếp . “Sáng sớm mai em ghé văn phòng , anh viết thư báo cho ! “ Tôi tiếp “Anh làm việc tạI khoa cấp cứu…Mà quê em ở xa không , em tên gì …?” Nàng ngước lên nhìn tôi :”Em quê ở ngòai Trung …Quế Sơn , Quảng Nam…” Tai tôi ù đi , miệng tôi há hốc ,một luồng hơi lạnh chạy dọc theo sống lưng . Một cơn gió lạnh ở đâu đó thổI qua làm tôi run lên … ”Em tên Sương …VT Bạch Sương …! “ Cái tên Bạch Sương trong hồ sơ khai tử mà tôi vừa viết cách đây vài giờ đồng hồ tái hiện trong đầu làm tôi run lên trong đêm. Về đến văn phòng , công việc đầu tiên là lật ngay cái hồ sơ khai tử vẫn còn trên bàn , lấy thông tin địa chỉ để viết ngay một thư báo cho gia đình bệnh nhân tên Sương . Bình thường công việc này do hành chánh BV đảm trách nhưng nếu tôi gửI thư có lẽ sẽ rút ngắn được thờI gian hơn vì thuở ấy thông tin liên lạc bằng điện thoạI còn kém lắm . Sau buổI giao ban sáng , ra trực tôi đạp xe ghé bưu điện Chợ Lớn để thực hiện ngay lờI hứa của mình . Không biết lá thư của tôi có đến tay ngườI nhận hay không ,nhưng chỉ biết trong thờI gian ấy bão lụt miền trung đã tàn phá quá nhiều , trong đó Quế Sơn Quảng Nam là nơi bị nặng nề nhất ... Sau khi gởI được lá thư cho gia đình cô Sương , tôi cảm thấy nhẹ lòng hơn cho dù không biết lá thư ấy có một tác dụng gì hay không vì tôi không nhận được hồI âm và tin bão miền trung vẫn đang tiếp tục hoành hành. Sau bốn ngày lạI đến tua trực đêm của tôi,cũng giờ khắc ấy , cũng khung cảnh ấy do một động lực vô hình ,tôi lững thững bước chân về hướng khoa Dược . Cảnh đêm vẫn như cũ ,bàn thờ gốc cây đa vẫn nghi ngút cùng nảI chuốI xanh ,cũng ngọn đèn vàng vọt của căng tin BV hắt ra …chiếc ghế đá trống vắng , cô đơn như chờ đợI ai đấy …tôi vừa buồn vừa vui , buồn cho một số phận hẩm hiu ,bạc mệnh, vui vì mọI chuyện coi như đã xong ,có lẽ ngườI khuất mặt đã yên tâm vì nỗI ưu tư đã hết . Liên tiếp những ngày sau và những năm tháng sau ,chiếc ghế đá ấy vẫn trống vắng hoặc có khi chỉ là các bệnh nhân khác , ban đêm không ngủ được nên tìm đến hầu mong một làn gió mát trong đêm …Tôi thầm cầu mong cô nàng mau siêu thóat về cõi vĩnh hằng …
Quyen Ly Cali 9/17/18
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 24, 2019 14:21:19 GMT 9
VƯỜN TƯỢC MIỀN NAM Bàng Bá Lân
Những năm đất nước còn thanh bình, đồng ruộng không bị bỏ hoang, miền Nam được coi là vựa lúa của nước ta. Nhưng miền Nam không chỉ có ruộng tốt phì nhiêu, mà còn có vườn tược sum sê nữa. Vườn tược đã chứng tỏ sự màu mỡ của đất đai và đóng góp một phần đáng kể vào sự phồn thịnh của xứ sở.
Không kể miền Trung là xứ nghèo, ở những làng quê miền Bắc tuy mỗi nhà thường cũng cũng có vườn, nhưng là mảnh vườn nhỏ bé, khiêm tốn chỉ đủ trồng vài ba cây ăn trái lớn, còn toàn là loại cây nhỏ như na, ổi, chuối, chanh... và ít cây thuộc loại rau cỏ.
Vườn tược miền Nam, trái lại, khoảng khoát hơn nhiều. Cả một xóm làng nằm trong vườn tược. Xóm nọ giáp xóm với làng kia, vườn nhà này sát liền vườn nhà khác. Xa trông như một rừng cây bát ngát xanh tươi. Mà toàn là cây ăn trái.
Bây giờ, xin mời bạn đọc cùng chúng tôi đi thăm từng loại vườn cây, từ loại cây tầm thường đến những loại cây đặc biệt. Trước hết là chuối. Chuối thì đâu cũng có. Nhưng muốn thưởng thức đủ mọi thứ chuối và ngắm cảnh vườn chuối bao la thì phải đi về miền Tây. Và không cần đi xa, ta dừng lại ở Mỹ Tho là đủ. Ở đây, chuối nhiều vô kể. Vài chục năm trước đây, chúng tôi đã được mắt thấy cả ngàn buồng chuối đủ loại được chủ vườn hái xuống, khuân ra để sẵn bên lề đường từ chiều hôm trước, đợi sáng sớm hôm sau xe vận tải chuyên chở về Saigon cho khỏi mất thì giờ chờ đợi.
Hỏi: "Không sợ mất ư?" thì được trả lời: "Nhiều quá mà! Ai cũng ăn chán ngấy, hết còn ham". Mà nhiều quá thiệt! Bán không kịp, không hết, người ta phải lột vỏ đem phơi làm kẹo chuối.
Ta sản xuất nhiều, ta ăn chán, ta "hết còn ham". Nhưng người ngoại quốc thì ham lắm. Còn nhớ hồi đệ nhị thế chiến, quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương, lệnh Nhật ra chợ chỉ lùng mua chuối. Và tại các nước Tây phương (chẳng hạn như nước Pháp), muốn ăn chuối có khi phải "com-măng", và chuối được bán tại các cửa hàng thực phẩm một cách trịnh trọng mắc giá còn hơn là ở chợ Bến Thành người ta bán táo, lê, nho ngoại quốc. Từ Saigon đi về miền Tây, trước khi tới Mỹ Tho, xe đò dừng lại một lúc ở ngã ba Trung Lương. Ở đây, thứ trái cây được bán nhiều nhất là mận. Mận Trung Lương ngon có tiếng, vì vừa lớn trái, vừa ngọt, vừa dòn. Nhìn sang hai bên đường thật là sướng mắt: Vườn mận san sát, xanh um xen lẫn màu trắng hồng của trái cây núc-nỉu. Từ Mỹ Tho, ta vượt nhánh sông Cửu, sang địa phận Kiến Hòa nổi danh là xứ dừa Dừa thì khắp miền Nam đâu đâu cũng có, nhưng đây mới là xứ sở của dừa. Dừa, ở đây, được trồng thành vườn quy mô rộng lớn. Làng xóm núp dưới tàu của lá dừa.
Đường phố xuyên giữa hai hàng dừa cao rợp bóng. Nhìn chỗ nào cũng thấy là dừa đưa đẩy, cũng thấy trái dừa chi chít từng chùm.
Trước sân nhiều nhà, từng đống sọ dừa cao ngất... Nhắc lại hồi đầu năm 1954, trước hiệp định Genève, mỗi trái dừa tươi ở đây chỉ bán có một đồng bạc. Và nếu lùi xa về dĩ vãng mười lăm năm trước nữa thì mỗi trái dừa giá chỉ có một xu, trong khi ấy tại bờ hồ Gươm Hành khách thừa lương muốn thưởng thức một ly nước dừa đá lạnh chỉ phải trả có nữa cắc.
Mỗi trái dừa bán có một xu mà nhiều chủ vườn dừa sống khá phong lưu thì đủ hiểu vườn tược miền Nam sản xuất mạnh là chừng nào và đất đai ở đây thật là mầu mỡ.
Thứ trái cây của miền Nam - mà trước kia chỉ những người Bắc thuộc hạng giầu sang hay ít ra cũng khá giả mới thỉnh thoảng được thưởng thức là xoài. Ngoài Bắc, người ta không kêu xoài mà gọi là "muỗm Saigon" để phân biệt với muỗm địa phương. Tuy cùng một loại, nhưng giữa muỗm bắc với xoài sự phân định "giai cấp" thế là rõ rệt. Bên cạnh xoài, muỗm Bắc như cô gái quê mộc mạc đứng bên cô gái thị thành đúng mốt thời trang.
Vào đây người Bắc mới được tha hồ thường thức thứ trái cây mà trước kia nhiều người không dám mơ tưởng và mới biết xoài có nhiều loại như xoài cát, xoài thơm, xoài tượng v.v... Và ngạc nhiên một cách sung sướng và cảm kích khi mua một chục được cô hàng trao cho những mười hai. Càng ngạc nhiên thích thú hơn nữa khi về tỉnh lẻ thấy mỗi chục được những mười bốn, có nơi mười sáu... Ôi, cái thời dễ dãi một chục mười lăm, mười sáu ấy nay còn đâu? Biết có bao giờ trở lại?
Cam quít thì không có gì đáng kể. Ở đây người ta chuộng cam Nam Vang, nhưng so với cam Bố-hạ thì cam Nam Vang có nhiều thua sút. Nhãn cũng vậy: trái nhỏ, vỏ dầy, hột lớn, cùi mỏng, ướt và ít chất ngọt... Nhãn này ngoài Bắc gọi là nhãn trơn, khiến ta lại thèm thuồng nhớ tới nhãn lồng Hưng Yên. Ấy vậy mà chủ nhân những cây nhãn ấy chịu tốn công bọc cẩn thận từng chùm nhãn để ngăn chim chóc hoặc dơi ăn. Phải chăng cái gì hiếm thì quý?
Có một thứ trái cây nữa cũng hiếm, hầu như không có. Đó là trái vải. Ở miền Nam, chỉ có thứ trái cây tương tự trái vải thiều, nhưng hương vị không giống vải thiều, mà người ta kêu là chôm-chôm. Còn dâu-da thì nhiều và không khác gì ở ngoài Bắc.
Ổi, đu-đủ, na cũng giống như ở người Bắc. Na không ngon bằng na ngoài Bắc. Nhưng ổi, đu đủ thì lớn hơn. Và thứ ổi lớn trái gọi là xá-lị. Có một loại na, trái lớn hơn na Bắc, hình dáng và hương vị cũng khác, gọi là mãng cầu. Ăn thì không ngon lắm, nhưng dầm với nước đá đường làm thành một thứ giải khát rất thông dụng.
Thứ quà thiên nhiên được bán rong nhiều nhất tại các bến xe đò, tại các nơi xe dừng bánh dọc đường là mía và thơm, khóm. Mía được trồng rất nhiều ở miền Nam, nên ngoài việc dùng để kéo mật làm đường và ép làm một thứ nước giải khát bình dân, còn được cắt ra thành miếng cắm que từng chùm bán khắp dọc đường cho hành khách.
Thơm, khóm cũng vậy, cũng được bổ ra từng miếng bán rong. Thơm và khóm, tiếng Bắc đều gọi chung là dứa, nhưng cũng có chút phân biệt: thơm là dứa ta và khóm là dứa tây. Mùa dứa, người ta chỉ từ các nơi sản xuất lên Saigon bằng ghe và các xe vận tải, đổ xuống các vựa trái cây ở chợ Cầu Ông Lãnh, rồi từ đó mới phân phối đi.
Nói đến bưởi thì phải nghĩ ngay đến bưởi Biên Hòa. Vì đó là nơi sản xuất bưởi nhiều và ngon. Cũng vì thế Biên Hòa được mệnh danh là xứ Bưởi, cũng như Kiến Hòa xứ dừa. Bưởi Biên Hòa có hơi khác bưởi ngoài Bắc: khác về hình dáng không tròn và màu da vàng tươi. Ngày Tết, bày mâm ngũ quả trông thiệt đẹp.
Mùa bưởi, người ta đem ra bày bán suốt dọc xa lộ Saigon - Biên Hòa. Khách du lịch ngoại quốc trông thấy hẳn phải có cảm nghĩ tốt đẹp về đất đai màu mỡ của vườn tược miền Nam.
Nhưng thứ trái cây đặc biệt của vườn tược miền Nam là vú sữa, măng cụt và sầu riêng. Vú sữa, khắp miền Nam, chỗ nào cũng có, nên không được coi là trái cây quý, nhưng lá cây vú sữa lại thiệt đẹp. Mặt trên xanh mà lá hạ, mặt dưới úa màu lá thu; những lúc lá đùa với gió, lấp loáng hai màu xao động trông thiệt là vui mắt.
Muốn thưởng thức măng cụt và sầu riêng tại chỗ thì phải lên miệt Lái-thiêu, Bình-dương. Ở đây, vườn măng cụt, vườn sầu riêng liền nhau san sát. Xa trông như những cánh rừng. Đang ở ngoài đường nắng chang chang mà bước vào những vườn cây cao lớn đầy bóng rợp này thì nhẹ nhõm cả người. Cảm giác khoan khoái còn gấp bội phần khi vào trong phòng có máy điều hòa không khí.
Nếu lại gặp mùa trái chín thì cảm giác khoan khoái còn tăng hơn nhiều nhiều, vì hương sầu riêng tỏa ra thơm ngát cả không gian. Nhưng hãy coi chừng trái sầu riêng chín rụng. Cho nên, để đề phòng, chủ vườn sầu riêng khi hái trái phải đội nón sắt như chiến sĩ hành quân.
Mùa măng cụt, mùa sầu riêng, người các nơi đổ về đây ông đảo, nhất là những ngày chủ nhật và nghỉ lễ. Khách buôn trái cây đã lắm, mà người lên thưởng thức hóng mát cũng nhiều.
Có một loại trái cây nữa cũng đặc biệt lắm. Đó là mít. Nhưng không phải thứ một như mít ngoài Bắc, mà là thứ mít nhỏ trái rất ít múi và có mùi thơm mường tượng sầu riêng. Một này gọi là mít tố-nữ rất được ưa chuộng và thuộc loại trái cây mắc tiền, chỉ thua giá sầu riêng một chút.
Còn một loại trái cây nữa mà trước đây ở ngoài Bắc thỉnh thoảng mới được ăn. Đó là trái xa-bô-ti (do tiếng Pháp sapotille). Sapotille là trái cây sapotier, vì thế người ta còn kêu là xa-bô-chê hoặc xa-cô-chê. Hình dáng và hương vị hơi giống trái hồng, nên người Bắc gọi là hồng xiêm (không biết có phải gốc gấc tự Thái Lan chăng?)
Thứ cây này được trồng nhiều ở chợ Thủ, một miền thuộc tỉnh Long Xuyên, ở hữu ngạn sông Tiền Giang, vào khoảng giữa đường từ Mỹ Luông lên Chợ Mới.
Sau hết, phải kể đến dưa hấu. Tuy là trái cây không lạ vì cả ba miền Trung Nam Bắc đều có; nhưng đặc biệt ở miền Nam mùa dưa hấu lại rộ vào dịp Tết, trong khi ở Trung và Bắc người ta chỉ được ăn dưa hấu vào mùa hè. Ở đây, hễ cứ thấy dưa hấu bày bán đầy đường, chất đống tại các chợ búa là thấy không khí Tết là ngày tết gần kề. Cho nên dưa hấu là một trong những sắc thái đặc biệt của cái Tết miền Nam. Dưa hấu là trái cây có sự tích. Theo một truyện tích đời Hùng Vương - mà nhà văn Nguyễn Trọng Thuật đã dựa theo đó để viết truyện "Quả dưa đỏ" (xuất bản lần đầu năm 1927) - thì thứ dưa này do An Tiêm (đời Hùng Vương thứ 10) tìm được tại một hoang đảo ở Nam Hải khi bị tội lưu đày. Hạt dưa do chim tha lại từ phương tây, nên mới đầu An Tiêm đặt tên là tây quả, sau thấy cùi trắng nõn như da thiếu nữ, ruột đỏ tươi như má hồng giai nhân, hạt đen lánh như hàm răng hạt huyền của cô gái Việt, nên chàng cải tên là Việt-Nga quả. Và lựa một số trái to đẹp, khắc lên má dưa bài thơ chữ Hán, đoạn thả xuống biển cho trôi ới với hy vọng nhờ dưa may bắt được liên lạc với người đất liền. Bài thơ như sau:
Hải chi nam hề thiên chi nha,
Đảo hữu qua hề danh Việt-Nga
Ký chu thần hề tất xỉ,
Tương phi anh hề đằng ba.
nghĩa là:
Hải nam quê thiếp nghìn trùng
Trời sinh phận gái má hồng răng đen
Việt Nga hai chữ là tên
Nước non non nước chờ duyên tao phùng
(N.T. Thuật dịch)
Mỗi năm An Tiêm mỗi tăng gia sản xuất, và mỗi năm dưa được thả nhiều thêm. Và rồi duyên tao phùng đến thật. Một chiếc thuyền buôn Trung Hoa gặp bão, giạt đến gần đảo, vớt được một trái. Dưa lạ, không biết là trái gì, bổ ra chia cho người trên thuyền mỗi người một chút ăn thử. Ai cũng cho là ngon và đồng khen "Hẩu! hẩu!" tức là "hảo, hảo", nghĩa là "tốt, tốt". Nhân đọc bài thơ trên vỏ tri dưa, họ bèn cho thuyền đi vòng vòng tìm kiếm và đến được hoang đảo, trao đổi thực phẩm vải lụa để lấy thứ dưa "hẩu" ấy đem về bán...
Nhờ đó, An Tiêm liên lạc thường xuyên được với đất liền, mở mang được đảo hoang thành nơi trù mật, rồi được nhà vua ân xá triệu hồi.
Hạt giống dưa được An Tiêm đem về trồng tại nước nhà và được kêu là dưa hấu (do tiếng hẩu đọc trại ra). Theo truyện tích thì xưa trái dưa lớn và dài hơn bây giờ nhiều, vỏ xanh biếc, ruột đỏ thẫm, nhiều cát, rất ngọt và mát. Ngày nay, trải qua nhiều đời, có một số dưa biến giống, vỏ xanh lợt đôi khi ngả màu vàng, ruột cũng vàng và hạt thì nâu nâu không còn đen lánh nữa. Có thứ lại mất cả hương vị ngọt thơm nguyên thủy!
Suýt nữa thì quên mất thứ trái cây rất đặc biệt của vườn tược miền Nam và cũng rất đặc biệt về hình dáng. Đó là trái điều lộn hột ăn không ngon, nhưng hột rất được ưa chuộng vì dùng được nhiều việc...
Ngoài những vườn tược trồng cây ăn trái, miền Nam còn có rất nhiều vườn trầu, vườn cau.. chưa kể những vườn cao su mênh mông, bát ngát.
Rồi đây, khi đất nước thanh bình, kỹ nghệ phát triển, những trái cây quý được đóng hộp tinh xảo, giá bán ra nước ngoài thì nguồn lợi ngoại tệ thâu về không phải nhỏ, đồng thời còn làm cho ngoại quốc phải chú ý đến "hương hoa" của đất nước chúng ta...
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 27, 2020 17:36:03 GMT 9
Các nông cụ Việt Namvang bóng một thời Tiểu Đệ Trong dân gian ai cũng biết : "Đời sống con người hay vật dụng hằng ngày cũng chỉ có một thời kỳ mà thôi". Bởi vì, sự vô thường phải đến để thay đổi không ai thoát khỏi, từ con người cho đến vật dụng. Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian khoảng non một lục hoa giáp (60 năm), thì chúng ta sẽ thấy sự thay đổi đời sống con người đáng lưu ý, bằng chứng những nông cụ Việt Nam chúng ta đã không còn sử dụng nữa, ví như : Cối xay lúa, cối xay bột, cối giả gạo... cho đến cái phảng, cái cù nèo, cái nọc để cấy lúa v.v. Trước đây, trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH tôi để bút hiệu Hàn Lâm NGUYỄN PHÚ THỨ (nay bước sang năm 2011 tôi chỉ dùng Tiểu Đệ NGUYỄN PHÚ THỨ), có nêu đến các Nông Cụ Việt Nam, ngõ hầu góp phần giữ gìn và phổ biến cho thế hệ sau biết (xin xem Sinh Hoạt Đời Sống Việt Nam trong quyển sách 4000 TỪ NGỮ THỰC HÀNH từ trang 567 đén trrang 599). Nay, xin góp phần mọn về Vang bóng một thời qua các nông cụ Việt Nam, như chúng ta biết, đất nước VN phần đông sống về nông nghiệp, cho nên mới thấy trong dân gian có câu : Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, Tháng hai trồng cà, Tháng ba cày vỡ ruộng ra, Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng... Lưỡi cày và trâu cày ruộng Vì thế, công việc làm ruộng bắt dầu tháng 3 âm lịch (Tháng ba cày vỡ ruộng ra), ngày trước dùng lưỡi cày với đôi trâu cày đất làm ruộng. Sau đó, mới lựa lúa tốt làm giống để chuẩn bị rải lúa xuống miếng đất gieo mạ (Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng) và bừa trục miếng đất. Trâu bừa trục dất Mãi đến khoảng 14 tháng 7 âm lịch hằng năm, nước dâng bò lên tớicác ruộng đất gò, thì bắt đầu nhổ mạ, bởi vì, con nước rong chỉ thuận tiện để cấy được mấy ngày, nếu nhổ mạ trễ thì cây mạ kể như bị nằm phơi nắng, hoặc là có nơi mùa cấy bắt đầu rất muộn, khoảng đầu tháng 8 âm lịch. Đó là, lúc mưa dầm nước lụt, ngập đến lưng quần, nông dân phải cấy các loại giống lúa mùa có thân cao như : nàng thơm, nàng tét, trắng lùn... lúc đầu thì cấy nọc, sau đất thuộc dùng trâu cày thì cấy tay. Nhổ mạ để cấy Cây nọc Quang cảnh các thợ cấy Khoảng bốn giờ hay hơn một chút, người thợ cấy đến miếng ruộng để bắt công cấy và khoảng năm giờ sáng bắt đầu cấy, họ cấy thật nhanh thoan thoát với cái âm thanh tay người rút khỏi mặt nước nghe chong chóc vang đều, có nơi họ phải trầm mình dưới nước hoặc bị những đám mưa, mặc cho muỗi mòng đĩa vắt. Trên lưng họ là tấm lá chằm và chiếc nón lá để che mưa, nắng. Bữa cơm trưa của họ thường ăn trên bờ giồng gồm : Cơm, một chén Mắm chưng hoặc là Cá kho và một tô Bí rợ hầm dừa... Khi nói đến cấy lúa, thường dành đàn bà, phải dùng cây nọc để cấy lúa. Cây nọc thường dùng cây Căm xe, Cà chất để đẽo làm cây nọc, nếu làm bằng cây tạp như cây : Sao, Dầu, Mù U... thì cấy chỉ được một mùa mà thôi. Còn đàn ông thì lo chuyển gánh mạ, đôi khi bằng trâu để cung cấp cho đàn bà cấy. Ngoài ra, họ phải lo cày bừa, trục và phát cỏ để dọn đất, cào cỏ thành bờ giồng cho sạch để trước khi quý đàn bà cấy lúa. Khi nhắc đến cây Phảng phát cỏ, thì nó phải đi kèm với cây Cù nèo móc cỏ. Hồi xưa, dân làng phát cỏ dọn đất vào mùa mưa, vì cỏ mọc xanh dờn cả cánh đồng. Đây là, công việc nặng nhọc, người nông dân trai tráng chỉ có thể phát cỏ một công đất mỗi ngày, là mệt đừ, cho nên phải ăn cơm trước dằn bụng mới phát nổi, từ sáng sớm khoảng 4 giờ 30 hay 5 giờ đã ra đồng để phát cỏ, nghe tiếng phảng đập xuống phình phịch, làm dậy lên cả cánh đồng. Cây Phảng với Cù nèo và người phát cỏ Như chúng ta đã biết việc làm ruộng bắt đầu : Tháng ba cày vỡ ruộng ra, Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng Cho đến gần Tết tức tháng Chạp mới đem lúa được về nhà và chuẩn bị ăn Tết nguyên Đán chào mừng năm mới. Vì thế, nhà nông có nơi làm tới 2 hoặc 3 vụ mùa, tùy theo lúa giống và khu đất ruộng đã được phân chia khoanh vùng manh mún để thực hiện. vì thế, trên đồng ruộng lúc nào cũng có lúa chín, mới ngậm đồng đồng, mới cấy, mới gieo mạ hay cấy giâm... Nhưng đa phần, mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúavà bắt đầu tháng 11 cho đến tháng Chạp là mùa gặt lúa chín vàng ngoài đồng. Dưới đây, là quang cảnh cắt lúa, đập lúa của nhà nông : Sau đó, mới phơi lúa, quạt lúa, giê lúa... mới đem lúa vào nhà, hoặc lúa bán đong bằng cái gịa 40 lít như dưới đây : Khi có lúa vào bồ nhà rồi, quý bà con nhà nông còn phải qua giai đoạn xay lúa, rồi giả gạo mới có hạt gạo trắng để nấu cơm dùng hằng ngày, giai đoạn này thời xa xưa cũng không kém phần cơ cực mới có miếng ăn. Nhân đây, xin kể Cối xay lúa, Cối giả gạo, Cối xay bột....ngày xưa Vang bóng một thời nay không còn hữu dụng nữa như sau : 1.- Cối xay lúa : Ngày trước không có nhà máy xay lúa như ngày nay, cho nên phải dùng Cối xay lúa, trong thời gian trước kia, khoảng nửa thế kỷ, ngày nay cối này không còn thấy để sữ dụng nữa, chỉ thấy ở trong viện bảo tàng, để các em cháu thuộc thế hệ trẻ sau biết được Cối xay lúa, xin trích hình ảnh tôi đã chụp được như sau : Khi nhìn chúng ta thấy Cối xay lúa có hai thớt trên và dưới chồng lên nhau, cho nên Ông bà mình nói Cối xay lúa này có âm dương kết hợp giống như Cối xay bột vậy, ngoài ra còn có cần trục để xay lúa. Cái thớt trên để đổ lúa vào như chúng ta thấy hình ảnh dưới đây : Việc làm Cối xay lúa rất cơ cực, tôi đã nghe các bô lão xa xưa kể lại,xin trích dẫn như sau : Khi nhìn cái cối, chúng ta thấy cái vỏ của nó làm bằng tre hoặc trúc, cho nên trước hết phải đương như cái hình dạng giống như cái cần xé, rồi chọn đất sét thật tốt và dẽo, có khi dùng chân đạp vào cho de?, kế đến chọn cây như : Căm xe, Cà chất để chẻ làm răng đặt lên trên, nếu làm bằng cây tạp như cây : Đước,Sao, Dầu, Mù U... thì chỉ xài không được lâu, tuy giá rẻ hơn. Việc làm cối phải biết chẻ răng cho đúng kỹ thuật, nếu không xay lúa không ra gạo lức tốt mà còn làm nát gạo... Việc làm cối thớt trên và thớt dưới làm giống như nhau,chỉ khác thớt trên phải khoét lỗ để khi xay lúa mà cho lúa vào và làm thêm 2 tay để gắn cần trục xay lúa. Sau đó, làm cái chân cối và cái cần cần trục để xay lúa bằng tay. Về việc làm cối, mỗi miền đất nước khác nhau, có nơi rất cầu ky?, dùng Tre để đan vỏ cối phải đốn vào tháng chạp, bởi vì, mùa khô, Tre khô ráo nước, vừa dễ đan và có độ bền. Còn răng cối được làm bằng rễ cây dẻvà được trét một lớp đất ổ mối lên các kẽ răng, bởi vì, các Cụ ngày xưa cho rằng đất ổ mối chịu được khí hậu nóng lạnh không nứt nẻ rất tốt. Cối xay lúa chỉ để xay ra gạo lức, còn muốn có gạo trắng để ăn thì phải dùng chiếc cối giã gạo. Muốn có gạo lức sạch sau khi xay lúa xong, lại phải đem ra gió để giê lúa cho sạch vỏ lúa trước khi đem giã gạo trắng. 2.- Cối giã gạo gồm có cái cối và cái chày, thông thường thời xưa cái Cối làm bằng cây quý như Căm xe, Cà chất, Cẩm lai.... để cho nó cứng, chắc bền, quết (giã) lâu ngày không ra dăm, có hình trụ, sau thập niên 60 - 70 Cối không làm bằng cây nữa, mả được thay thế Cối bằng đá, bởi cây quý càng ngày khó tìm chăng ? còn cái chày thường làm 2 cái bằng cây tạp như : Sao, Dầu, Mù U...dài khoảng từ 1 thước 2 đến 1 thước rưỡi (1,5m), để hai người cùng giã cho mau trắng gạo, vào dịp năm hết Tết đến, thường dùng cái cối này để quết Bánh Phòng (xin xem bài Phong Tục Tết trích quyển Tìm Hiểu Đời Sống An Lạc từ trang 590 đến trang 616 của Tiểu Đệ Nguyễn Phú Thứ). Cối chày giã gạo Gạo tấm Bà đang sàng gạo Các cái Sàng Sau khi giã gạo xong, còn phải dùng cái sàng để sàng lọc Cám và gạo tấm ra. Cám để cho heo ăn, còn gạo tấm để nấu cơm tấm sau này. Cối xay bột 3.- Cối xay bột : Sau khi dùng Cối giã gạo để có gạo trắng nấu cơm ăn mỗi ngày, giống như người Pháp ăn bánh mì vậy. Nhưng muốn có bột dể làm bánh, thì phải dùng gạo ngâm nước trước một đêm trước khi xay ra bột. Cối xay bột, làm bằng khối đá, rồi đẽo thành hai thớt trên và dưới như hình kế bên đây. Ngày xưa, nhứt là trong dịp cận Tết, thông thường, quý bà con đồng hương dùngCối xay bột để xay ra bột, rồi làm các loại bánh, đặc biệt còn mang bột đến lò để tráng các bánh tráng như :bánh tráng mỏng đểlàm bánh cuốn, chả giò, bánh tráng mỏng ngọt để ăn sống,bánh tráng dày để nướng. Ngoài ra, quý bà trong khi tráng bánh, còn mang theo nhưn đậu xanh, dừa nạo mới rán vỏ... rồilấy bánh tráng ngọt mõng làm da bánh ướt ăn rất ngon. Đó là, thời kỳ xa xưa, Cối xay bột ngày nay không còn dùng nữa, vì bột đã được bày bán khắp nơi rất tiện dụng. 4.- Dụng cụ bắt Cá, lươn : Trở lại mùa nước nổi từ tháng bảy đến tháng tám là mùa đông ken để cấy lúa, các loại cá cũng thi nhau lên đồng tìm chổ đẻ và đến mùa lúa chín vàng đồng , nước bắt đầu rút cạn, thì cá cũng bắt đầu trở ra sông rach, cho nên nhà nông bắt cá quanh năm và thường dùng dụng cụ để bắt cá, xin trích dẫn trang 586 quyển 4000 Từ Ngữ Thực Hành 2 viết 4 ngôn ngữ : Anh Pháp Việt và Hoa (Đức) Ngữ của Nguyễn Phú Thứ có nêu lên các dụng cụ nhà nông đã vang danh một thời dưới đây : Cái bung Cái đụt Cái giỏ Cái rộng cá Cái đăng Cái nôm Nôm bắt cá Cái đó Cái lờ Cái trúm đặt bắt lươn (Nếu cần tìm hiểu thêm phương cách Soi cá, Câu cá, Nhấp cá, Cấm câu, Giăng câu, Bủa lưới cá, Đặt lờ bắt cá Sặt, Đặt trúm bắt lươn, bắt chuột.... xin mời tìm đọc các bài viết của nhà văn Lê Cần Thơ, chủ bút tạp chi Văn Hóa Việt Nam, phát hành Houston, Texas, Hoa Kỳ, đặc biệt bài viết của Anh Kể Chuyện Bắt Cá Miệt Vườn Trên Sông Nước Quê Tôi, đã đăng trên đặc san Phù Sa Cửu Long Xuân Kỷ Sửu 2009 từ trang 93 đến trang 102, rất giá trị, trân trọng giới thiệu đến thế hệ trẻ nghiên cứu sưu tầm làm tài liệu khi cần). Nếu chúng ta nhìn ngược thời gian trên dưới 50 năm, đời sống của chúng ta ở nông thôn VN, mặc dù với nông cụ thô sơ miệt vườn, không được văn minh máy móc tối tân như bây giờ, nhưng có đời sống thoải mái, bởi ngoài đồng có ruộng lúa, có cá tôm, chim, chuột rất nhiều, sau vườn có cây trái và có sông nước trong lành, không bị nhiểm trùng như hiện nay, làm cho sức khỏe con người bị bịnh đe dọa, bởi hóa chất và kỷ nghệ máy móc tạo nên. Hơn nữa, ngày nay dân số đã tăng trên 85 triệu người, trong khi các loại cá tôm sanh nở không đáp ứng lại nhu cầu đòi hỏi, cho nên không còn cảnh rải Cám ran thơm trên đất sình khi nước cạn rồi chờ các lũ Cá Mè Dinh theo nước lớn lên ăn mồi, để Chài vài mẻ bắt Cá Mè Dinh, như thời thân phụ tôi đã chài xa xưa, bởi vì, bị nguồn nước không được trong sạch do các chất thải độc hại ô nhiểm của các nhà máy, ngoài ra, do sự đánh bắt quá nhiều mà không biết bảo dưỡng các loại cá tôm cá, ví như rà điện.... làm tiêu hao những trứng và cá con, đôi khi không còn thấy xuất hiện những con cá quen thuộc như cá : Trê vàng, Lăng, Phèn, Rô đồng (chỉ thấy Cá Rô Phi).... Để tạm kết thúc bài này, xin góp phần mọn cho những ai muốn tìm hiểu các Nông Cụ Vang Bóng Một Thời, đồng thời rất mong những vị đã từng sanh sống ở nông thôn hiểu biết, xin cho biết thêm để bổ túc bài này đầy đủ hơn. Trân trọng Cảm Ơn trước. Tiểu Đệ
|
|