|
Post by NhiHa on Jun 22, 2008 4:58:23 GMT 9
DA LATSự Hình Thành Và Phát Triển Của Ðà Lạt (Phần 1) Tác giả: Hứa Hoành Lập trên cao nguyên Lâm Viên đồi núi chập chùng, Ðà Lạt là một đô thị nghỉ mát xinh đẹp nằm giữa những khu rừng thông, thác nước thơ mộng: Ðà Lạt là thành phố của tuổi trẻ, tình yêu và kỷ niệm. Ai đã đến đó một lần, chắc chắn sẽ giữ lại trong lòng những hình ảnh và kỷ niệm thân thương. Tài liệu viết bài này ngoài quyển sách Những Ðứa Con Của Rừng Núi (The Sons of Mountains) của Gerald Cannon Hickey, còn nhiều tài liệu khác mà chúng tôi sưu tầm trong sách báo cũ. Trong chương viết về Ðà Lạt, tác giả G. Hickey có nhắc đến tác phẩm, bài báo kê cứu hiếm như báo Indochine năm 1943-1944, Monographie de la province Dalat do trường Viễn Ðông Bác Cổ Hà Nội in năm 1931, tạp chí Bulletin des Amis du vieux Hue năm 1938. Trong các Toàn Quyền Ðông Dương chỉ có Paul Doumer, Pasquier và Decoux để lại nhiều kỷ niệm trên đất nước ta hơn hết. Mặc dù khi tạo lập đường xá, cầu cống, tiện nghi công cộng, người Pháp không nghĩ đến phúc lợi cho người bản xứ, nhưng dầu sao đi nữa các cơ sở hạ tầng ở các thuộc địa cũng đem lại lợi ích lâu dài. Chúng tôi còn nhớ ngày 10 tháng 12 năm 1896, toàn quyền Rousseau lâm trọng bện và từ trần ở bệnh viện Hà Nội thì Paul Doumer được lệnh qua Ðông Dương kế vị. Vừa đến Việt nam, Paul Doumer liền nghĩ đến một chương trình kiến thiết đầy tham vọng. Mục đích nhằm khai thác kinh tế Việt nam. Hai dự án lớn lao nhất của Paul Doumer là: Tìm các địa điểm lập các đô thị nghỉ mát ở miền núi Trung Kỳ. Lập lại đường xe lửa xuyên Việt. Năm 1879, Paul Doumer gặp bác sĩ Yersin là người đã hướng dẫn nhiều cuộc thám hiểm sâu vào vùng rừng núi Tây Nguyên để thảo luận việc tìm kiếm những địa điểm thuận tiện có thể lập khu nghỉ dưỡng. Nơi đó phải có khí hậu mát mẻ để các kiều dân Pháp và các viên chức Pháp ở Ðông dương đến nghỉ hè thay vì mỗi năm phải về Pháp. Bác sĩ Yersin khuyến cáo nên chọn đỉnh Lâm Viên (Lang Biang). Sau đó Paul Doumer ra lệnh cho một đoàn thám hiểm quân sự tìm kiếm một con đường từ miền duyên hải lên Lâm Viên. Năm 1898, Pháp lập ra tỉnh Đồng Nai Thượng, cơ sở hành chánh đặt tại Ðà Lạt. Ngoài ra, còn có một tỉnh nhỏ mới thành lập ở Tánh Linh, nằm trên đường mòn trao đổi hàng hóa giữa cao nguyên và đồng bằng. Một đoàn thám hiểm khác khởi hành vào năm 1908 để phát quang dọn dẹp con đường mòn từ đồng bằng lên cao nguyên. Công việc này hoàn tất năm 1899. Với sắc lệnh 1 tháng 11 năm 1899, người Pháp lập ra tỉnh Đồng Nai Thượng với trung tâm hành chính đật tại Ðà Lạt, một tỉnh nhỏ hơn là Tánh Linh với cơ sở hành chánh tại Djirinh (Di Linh). Một ngôi nhà bằng thiết đầu tiên được xây dựng coi như ngôi nhà nghỉ mát đầu tiên tại đây. Mấy năm sau, nhận thấy rằng vùng rừng núi này có nhiều vách đá dốc đứng, cheo leo, khó thiết lập đường xe lửa, nên họ chọn cách làm đường lộ cho xe hơi chạy. Từ đó, Pháp bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng, còn đại lý hành chánh Djirinh sát nhập vào tỉnh Phan Thiết và Ðà Lạt nhập vào Phan Rang. Công việc đang tiến hành thì năm 1902, toàn Quyền Paul Doumer đột ngột về Pháp, khiến nhiều chương trình kiến thiết bị đình trệ. Tuy là một thành phố sinh non, nhưng nhiều người Pháp có đầu óc làm giàu chú ý ngay đến Ðà Lạt. Lợi dụng sắc luật nhượng đất đai của chính phủ, vào ngày 1 tháng 4 năm1900, một người Pháp tên Gresieu được cấp cho không 885 mẫu đất thuộc Đồng Nai Thượng. Ngày 18 tháng 10 năm 1901, một người Pháp khác tên Armavon được cấp 300 mẫu ở gần Ðà Lạt. Ngày nay du khách đi chơi Ðà Lạt thường theo Quốc Lộ 20, từ Ngã Ba Dầu Giây lên Định Quán, Bảo Lộc, rồi Di Linh tới Ðà Lạt, hay dùng Quốc Lộ 21 từ Phan Rang đi lên, chớ ít ai ngờ rằng con đường lộ đầu tiên nối liền giữa Sài Gòn và Ðà Lạt đi qua ngã đường Phan Thiết. Ðường ấy bắt đầu từ Ma Lâm, qua đèo Datrum đến Di Linh, rồi từ đó mới đi tiếp lên Ðà Lạt. Từ năm 1914 đến 1915, Phan Thiết là trạm dừng chân của lữ khách đi Ðà Lạt. Từ năm 1908, Ðà Lạt mới có ngôi nhà gạch đầu tiên là Tòa Công Sứ Pháp. Năm 1912 toàn Quyền Albert Sarraut kế tục chương trình dang dở của Paul Doumer, phát triển Ðà Lạt thành một trung tâm nghỉ dưỡng. Ban đầu người Pháp khởi công làm con đường từ Phan Rang lên Ðà Lạt qua Ða Nhim và đèo Ngoạn Mục (Bellevue). Con đường ấy sau này mở rộng thành Quốc Lộ 21. Từ năm 1914, hãng xe hơi chở khách "Société des Correspondances Automobiles du Lang Biang" cho chạy những chiếc xe hiệu Lorraine-Dietrich trên lộ trình Sài Gòn - Phan Thiết - Di Linh tới Ðà Lạt. Người cố cựu cho biết rằng hồi đó người ta gọi tắt hãng xe đò này bằng chữ "SCAL." Phi trường Ðà-Lạt Cam-Ly, thập niên 70. (HÌNH ẢNH: Bob Dugan) Năm sau, tỉnh Lang Biang thành hình vẫn lấy Ðà Lạt làm tỉnh lỵ. Ðà Lạt bắt đầu thu hút du khách đến nghỉ mát và săn bắn vào mùa hè. Năm 1916, Lang Biang Palace Hotel là khách sạn đầu tiên được xây dựng theo kiểu nhà sàn, nhưng có hành lang rộng và mái che. Cũng năm đó, Ðà Lạt có trạm bưu chính, sở công chánh và trắc địa, tòa công sứ, cảnh binh. Còn người Việt nam (kinh) đầu tiên đến cư ngụ Ðà Lạt là những người phu khuân vác trắc địa hay những người buôn bán. Năm 1920, Pháp tái lập tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh, trong khi Ðà Lạt trở thành một khu vực tự trị về hành chánh, do một tổng ủy viên cai trị. Năm 1922, Ðà Lạt bước qua một giai đoạn phát triển mới, kiến trúc sư được chỉ định vẽ đồ án nới rộng Ðà Lạt, mở rộng thành phố thành một đô thị tân tiến. Ðặc biệt theo đồ án này không được xây cất gì che khuất đỉnh Lâm Viên để giữ vẻ đẹp cho thành phố thơ mộng. Pháp muốn thành phố Ðà Lạt sẽ là một góc của nước Pháp ở miền núi Alpes của Á Châu. Do đó Ðà Lạt phải có hồ nhơn tạo, hàng trăm biệt thự rải rác trên các sườn đồi, xây dựng ngôi chợ trung ương hình khối chữ nhật với tháp chuông vươn cao. Ðó là vị trí rạp hát Hòa Bình hiện nay. Kể từ năm 1930 trở đi, Ðà Lạt phát triển thành một đô thị có vườn hoa xinh đẹp, nhiều công viên cây xanh, ngàn hoa khoe sắc thắm vào mùa xuân. Người Mỹ đầu tiên có mặt tại Ðà Lạt là vợ chồng nhà truyền giáo Tin Lành Hebert Jackson. Ông này đến Ðà Lạt năm 1930, lập nhà truyền giáo đầu tiên cho đồng bào Thượng, có một mục sư Việt nam làm thông ngôn. Năm 1925, Ðà Lạt có chương trình gắn điện các đường phố chính bằng cách xây đập thủy điện Ankroet. Dự án này không thực hiện được vì thiếu ngân sách. Năm 1929 một nhà trồng tỉa Pháp làm một máy phát điện nhỏ sử dụng thác nước Cam Ly để cung cấp điện lực cho Ðà Lạt. Tháng 7 năm 1932, con đường Quốc Lộ 20 từ Sài Gòn lên Bảo Lộc đi Ðà Lạt hoàn thành. ĐÀ LẠT: MỘT TRUNG TÂM GIÁO DỤC Các nhà khoa học đều nhận định rằng môi trường, khí hậu trong lành, mát mẻ rất thích hợp cho các hoạt động trí tuệ. Từ đó, Ðà Lạt sớm phát triển thành một trung tâm giáo dục quan trọng nhất nước. Năm 1927, nhằm phục vụ cho con em người Pháp và số gia đình người Việt giàu có, Pháp cho lập ra Petit Lycée de Dalat. Ngôi trường Việt nam đầu tiên do cụ Bùi Thúc Bàng mở ra năm 1927, gần rạp Ngọc Lan. Cùng năm đó, dòng nữ tu Soeur St. Paul mở trường Crèche de Nazareth, dành riêng cho trẻ em. Trước năm 1932, trường Petit Lycée de Dalat đổi thành Grand Lycée de Dalat và chương trình học dạy tới bực tú tài Pháp. Năm 1935, trường này lấy tên Lycée Yersin cho tới nay, để kỷ niệm bác sĩ Yersin, ân nhân của Việt nam và cả nhân loại nữa. Cuối năm 1932, người Pháp xây dựng cơ sở giáo dục cho nhà dòng sư huynh (trường Christian Brothers) và trường Collège d'Adran cho các chủng sinh. Năm 1935, nhà dòng Notre Dames mở rộng thêm bằng cách thiết lập chương trình giáo dục đệ nhị cấp, còn gọi là "Notre Dames de Lang Biang" và sau này chúng ta quen gọi trường ấy là Couvent des Oiseaux. Trường nữ này dành riêng cho các thiếu nữ con các gia đình Pháp và Việt giàu có cùng các gia đình quan lại. Trường này thu nhận các nữ sinh từ Cam Bốt và Lào theo học nữa. Ðến ngày 27 tháng 6 năm 1939, Ðà Lạt có thêm trường Thiếu Sinh Quân đầu tiên dành cho các thiếu nhi và thiếu niên các gia đình quân nhân Pháp Việt. Năm 1936 bác sĩ Yersin lập ra viện Pasteur ở Ðà Lạt, sau này trở thành Nha Địa Dư, nằm trên ngọn đồi gần trường Yersin và ga xe lửa Ðà Lạt. Ngày 1 tháng 1 năm 1953, Trường Quốc Gia Hành Chánh thành lập tại Ðà Lạt để đào tạo công chức cao cấp cho chánh phủ. Nhiều người Việt nam tốt nghiệp khoa này, về sau đều làm tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và giám đốc các công sở. Trường trung học Trần Hưng Ðạo khởi thủy lập gần chợ Hòa Bình, có hoàng tử Bảo Long theo học, nên sau lấy tên là trường Bảo Long. Còn trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, lúc mới lập lấy tên công chúa Phương Mai, sau đổi thành trường Quang Trung. Trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam nguyên thủy là Trường Sĩ Quan Huế, thành lập năm 1948 bên cạnh sông Hương. Năm 1950, trường này di chuyển về Ðà Lạt, lấy cơ sở Trường Chỉ Huy Tham Mưu sau này làm địa điểm. Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, trường này lấy tên là Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Ðến năm 1960, trường này đổi tên thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam trên ngọn đồi 1515. Đến năm 1967, trường này có cơ sở hiện đại nhất so với các trường võ bị Ðông Nam Á. Áp dụng chương trình huấn luyện quân sự và phần lớn chương trình văn hóa của trường Võ bị West Point (từ Hoa Kỳ), trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam dạy văn hóa bậc đại học 4 năm, đào tạo các sĩ quan hiện dịch đủ trình độ kiến thức chỉ huy và kiến thiết sau này. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp tốt nghiệp do trường Võ Bị cấp phát, mỗi sinh viên còn được cấp bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng. Cho tới ngày Cộng Sản chiếm miền Nam, trường Võ Bị đã đào tạo được 29 khóa sĩ quan hiện dịch (khóa 30 và 31 đang trong thời kỳ huấn luyện) làm nòng cốt cho quân đội Việt Nam Cộnhg Hòa (VNCH). Viện Ðại Học Ðà Lạt thành lập năm 1957. Tiền thân của viện đại học này là Trường Sư Huynh Công Giáo ở Huế do giám mục Ngô Ðình Thục thành lập với sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman ở New York. Viện Ðại Học Ðà Lạt xây cất trên khu đất rộng 38 mẫu tây, có khoảng 1,500 sinh viên theo học các phân khoa Chính Trị, Kinh Doanh, Sư Phạm, Khoa Học nằm tại số 1 đường Phù Đổng Thiên Vương. Thật là một sự ngạc nhiên lạ lùng, Ðà Lạt trước năm 1975 có độ 80,000 dân mà có đến 4 cơ sở giáo dục đại học: Viện Ðại Học Đà Lạt, Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Phía Giáo Hội còn có trường Giáo Hoàng Pio X. Ngoài ra còn có 15 trường trung học đệ nhị cấp và 56 trường tiểu học. VÀI NHÂN SĨ THƯỢNG Ở ĐÀ LẠT Ðà Lạt nguyên thủy là quê hương của người Thượng. Khi nói đến Ðà Lạt mà không nhắc qua vài tên tuổi lớn người Thượng thì thất là thiếu sót. Từ cuối năm 1920, Ðà Lạt phát triển bề rộng lẫn chiều sâu, mà vài người Thượng đã đóng vai trò quan trọng. Tại thung lũng Ða Nhim, có bộ tộc Churu (Chru) tuy dân số ít (độ 1,500 người) nhưng được coi là bộ lạc tiến bộ nhất cao nguyên Lâm Viên, vì lịch sử của họ có liên hệ với lịch sử người Chiêm Thành. Là thị dân Ðà Lạt, tôi chắc nhiều đồng hương còn nhớ con đường Ya Gut, nằm giữa đường Trần Bình Trọng và Hoàng Diệu, gần Trung tâm Y Tế Toàn khoa? Theo Touneh Han Tho thì Banahria Ya Gut được coi như lãnh tụ người Churu nhiều thập niên đầu thế kỷ 20. Sinh năm 1870 tại một buôn làng thuộc vùng Ðơn Dương ngày nay, Ya Gut kết hôn với một người chị bà con của thân phụ Han Tho. Ya Gut có một đứa con gái tên Ame Mabo, cho đến năm1975 vẫn còn sống tại làng Diom là quê hương của ông ta. Ông Ya Gut là một người có tâm hồn nghệ sĩ, môt Nguyễn Du của người Churu, từng sáng tác nhiều thên anh hùng ca cho dân tộc Churu. Tài năng ấy Ya Gut thừa hưởng của tổ tiên. Năm 1909, Pháp lập một đồn hành chánh tại Dran (Ðơn Dương) và phong cho Ya Gut làm tri huyện cai trị vùng này, giống như trường hợp tù trưởng có thế lực Khunjenob cai trị tại Ban Mê Thuột. Hồi đó Ya Gut đóng vai trò trung gian giao thiệp giữa Pháp và dân chúng. Ngoài chức vụ hành chánh, Ya Gut còn đóng vai thẩm phán hòa giải các vụ xung đột, làm trọng tài giải quyết các cuộc tranh chấp của đồng bào ông ta. Theo Touneh Han Din, một người bà con với Han Tho, thì trong thời gian làm tri huyện ở Dran, nhiệm vụ căn bản của Ya Gut là chiêu mộ dân Thượng làm phu đắp đường giao thông. Dân Thượng cũng bị bắt buộc phải khiêng cáng cho các viên chức Pháp Việt và vợ con của họ. Ðối với các bà vợ công chức Việt nam, những người Thượng này gọi đùa rằng đó là các "bà đầm mũi tẹt." Một lãnh tụ khác là Touneh Han Dang, sinh năm 1880 tại Diom, trong một gia đình có 7 anh em. Ba mẹ là người thuộc chi tộc Banahria. Cũng như cha, thuở nhỏ Han Dang theo cha làm rẫy. Thời gian nhàn rỗi cậu thường đi săn bắn thú rừng. Ðến tuổi 15, Han Dang tháp tùng theo các thường nhân người Churu buôn chuyến từ Phan Rang lên Dran. Chuyến xuống họ mang mật ong, thịt rừng phơi khô, vài loại măng... xuống Phan Rang đổi lấy muối, nước mắm, vải vóc. Là một thanh niên cường tráng, có chí tự lập, chỉ mấy năm sau, Han Dang tự mình tổ chức các chuyến hàng riêng biệt. Tại Phan Rang có làng An phước là nơi nổi tiếng văn vật của người Chàm, có trường tiểu học. Nhờ vậy Han Dang được theo học các môn Pháp Việt và Chàm ngữ. Thấy việc học thích thú và có lợi, Han Dang rất tích cực trau dồi. Nhưng có một điều làm cho Han Dang lo lắng đó là cha mẹ cậu sợ cậu ở mãi dưới An Phước sẽ lưu lạc rồi bỏ rơi ông bà. Vì thế ông bà thu xếp cho hai người anh lớn đang làm giáo viên, dạy kèm tiếng Việt và Chàm cho Han Dang tại nhà ở Diom. Hàng ngày, sau khi tập ca hát cùng các ban hợp ca trong hai giờ, Han Dang học kèm với anh, và sau đó, học võ với một võ sư người Việt. Năm 1905, Pháp bắt đầu làm con đường từ Phan Rang lên Ðà Lạt. Han Dang và cha đều bị bắt đi làm sưu. Thấy cha già yếu, Han Dang tình nguyện làm việc cho cả hai người, nhưng lại từ chối khiêng cáng cho các "bà đầm mũi tẹt." Con đường từ Krong Pha lên Ðà Lạt có nhiều dốc cao, mỗi ngày Han Dang chỉ mang vác vượt 15 cây số thôi. Hàng hóa thường là những két rượu vang dành cho các công chức Pháp ở Ðà Lạt. Trong thời gian ấy Han Dang dành dụm được một số tiền, bắt đầu mua ngà voi, mật ong ở Roglai đem xuống Phan Rang bán. Năm 1907, Han Dang có ý nghĩ sẽ cải tiến đời sống người Churu. Ðầu tiên, Han Dang yêu cầu một người đàn bà Chàm đến Ða Nhim dạy bộ lạc Churu dệt vải. Kế tiếp, Han Dang gởi cô em họ là Ba Cam xuống Phan Rang học kỹ thuật làm nồi đất nung. Khi trở về, Ba Cam bắt đầu làm toàn bộ nồi đất mới cho cả làng. Han Dang còn học được kỹ thuật cày ruộng: cày sâu và hiệu quả hơn. Có một điều không thành công lắm là bắt đàn bà Churu mặc quần thay vì mặc váy. Năm 1910, Han Dang được bổ làm lý trưởng Diom. Năm sau Pháp lập huyện Tân Khai, sau này gọi là Di Linh và Han Dang trở thành thông ngôn cho Ya Gut. Ðến năm 1919, tri huyện Ya Gut hưu trí và Han Dang được cử thay thế chức tri huyện của Ya Gut. Mãi đến ngày 22 tháng 2 năm 1922, triều đình Huế (Khải Ðịnh) mới bổ Han Dang làm "Thổ Huyện Tân Khai" và gọi là "tri huyện Mọi." Trong thời gian này, Han Dang đề nghị mở trường ở Ða Nhim bị công sứ Cunhac và quản đạo Trần Văn Lý phản đối với lý do "người mọi không cần giáo dục, vì họ chỉ làm những việc nặng nhọc, không cần đến sự khéo léo." Dù thất bại, Han Dang không nản, tiếp tục tranh đấu để cải tiến mức sống của đồng bào ông. Năm 1922, người Pháp làm đường Sài Gòn đi Ðà Lạt qua ngả Bảo Lộc, cần nhiều phu người Thượng. Với tư cách tri huyện Mọi, Han Dang có bổn phận cung ứng dân phu, nhưng đồng thời cũng nhắc lại yêu sách mở trường học. Lần này có kết quả. Tại các buôn người Lat, người Chil, người Churu, bắt đầu có trường sơ cấp, nhưng mỗi trường chỉ có độ 10 học sinh. Cho đến năm 1927, quản đạo Trần Văn Lý liên tục bất đồng ý kiến với Han Dang, và bỏ qua các đề nghị của Han Dang về những cải cách nâng cao mức sống của đồng bào Thượng. Tấm hình chụp vào năm 1969 gần "Vallee D'Amour," tức Thung Lũng Tình Yêu tại Ðà Lạt. Nơi này là một thắng cảnh thơ mộng nhất tại Ðà Lạt, cách trung tâm thành phố khoảng 6 km về phía đông bắc. Vào thời Pháp, họ gọi nơi này là Vallée D'Armour. Tuy cũng có lúc được gọi là Thung Lũng Hòa Bình, nhưng về sau du khách vẫn thường biết đến địa danh này qua tên gọi quen thuộc và dễ thương là "Thung Lũng Tình Yêu." (HÌNH ẢNH: Pham Q. Dan). Khi quản đạo Trần Văn Lý đi rồi, tình hình người Thượng được cải thiện hơn: Han Dang tranh đấu để tỉnh cấp tiền bạc cho học sinh, tăng chương trình học lên 4 năm, và lúc ấy có 40 học sinh theo học. Những học trò giỏi được gửi lên Ðà Lạt sẽ ở trọ nhà Han Dang đi học. Những học sinh ưu tú, sau khi tốt nghiệp sẽ được gửi đi Qui Nhơn học tiếp "Collège de Qui Nhon." Ngày 2 tháng 9 năm 1925, Toàn Quyền Ðông Dương ban tặng cho Han Dang huy chương Bắc Ðẩu Bội Tinh. Theo Touneh Han Tho, trong khi khánh thành đường xe lửa từ Krong Pha lên đèo Ngoạn Mục, công sứ Đồng Nai Thượng có ban cho Han Dang huy chương "Kim Tiền Hạng 3." Sau đó, Han Dang còn liên tiếp nhận được các huy chương Bắc Ðẩu Bội Tinh (năm 1929), mề đay Kim Khánh Hạng 3 (năm 1933). Theo Touneh Han Tho, Han Dang tiếp tục tranh đấu để cải thiện mức sống của đồng bào Thượng quanh vùng Ðà Lạt. Ông tranh đấu cho dân làm đường được lãnh lương cao hơn. Mội khi có những thắc mắc ông khiếu nại với các viên chức cao cấp Pháp tại Ðà Lạt, nếu như không được giải quyết, không nản, ông làm đơn gởi lên hoàng đế Bảo Ðại, thủ tướng Pháp Léon Blum và cả tổng thống Pháp. Năm 1937, để phản đối viên công sứ Pháp lạm quyền, Han Dang từ quan, về làng làm lãnh tụ cho bộ lạc của ông đến ngày mãn phần. NGUYỄN THÔNG HAY YERSIN, AI ÐÃ TÌM RA VỊ TRÍ ĐÀ LẠT? Ðúng 100 năm trước, vào lúc 3 giờ chiều ngày 21 tháng 6 năm 1893, vừa từ một khu rừng rậm chui ra, bác sĩ Yersin và đoàn thám hiểm ngạc nhiên đến sững sờ trước một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú mà họ chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Trong nhật ký, bác sĩ Yersin đã ghi lại: "Một cao nguyên rộng lớn, không cây cối, đó đây thấp thoáng những trái đồi thấp, phủ một lớp cỏ xanh mịn màng." Vào năm 1905, một du khách người Anh có dịp đật chân đến Ðà Lạt, đã ghi lại khung cảnh thành phố buổi sơ khai: "Nhiều đồi núi thấp nằm trên một diện tích rộng lớn, không cây cối, chỉ phủ một lớp cỏ ngắn. Tất cả cùng một cao độ, tựa hồ như những đợt sóng màu xanh nhấp nhô. Ở chính giữa, đỉnh Lâm Viên vượt lên như một hòn đảo lởm chởm. Ðăng Kia (Dankia) nằm dưới chân dãy núi ấy, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên thật yên tĩnh và mát mẻ, không dốc đứng, không một bụi rậm. Trong các thung lũng hẹp là những rừng thông nằm xen giữa những ngọn đồi." Mới đây, tại quê nhà, trên tạp chí Du Lịch Lâm Ðồng, tác giả Nguyễn Diệp có viết bài Ai Là Người Đầu Tiên Thám Hiểm Và Tìm Ra Ðà Lạt? nêu lên ý kiến cho rằng chính Nguyễn Thông (1827-1884) trong khi làm chức Dinh Điền Sứ đóng ở Bình Thuận, đã có lần lên thăm vùng rừng núi cao nguyên Lâm Viên ngày nay. Ông tìm ra vị trí Ðà Lạt 25 năm trước khi bác sĩ Yersin đật chân tới. Bài viết có vẻ là một phát kiến mới lạ, làm thỏa mãn tự ái người Việt, nhưng thiếu những bằng chứng xác thực. Dù cho sau này chúng ta có thể tìm được thêm những chứng cớ nào đáng tin cậy hơn nữa để kết luận Nguyễn Thông là người đã khám phá cao nguyên Lâm Viên, cũng không quan hệ đến sự ra đời của đô thị này. Cho dù Nguyễn Thông trong lúc làm Dinh Điền Sứ lo việc khẩn hoang có đến cao nguyên Lâm Viên thực sự, rồi sau đó báo cáo về triều đình nhà Nguyễn, thì việc thực hiện công cuộc di dân lên khai phá, đặt nền tảng cho một đô thị như Ðà Lạt hiện nay cũng không thể nào có được. Các khái niệm về thành phố nghỉ mát, trung tâm điều dưỡng, phải đợi người Pháp du nhập. Ngoài người Tây phương, không triều đại nào ở nước ta có thể thực hiện được.
|
|
|
Post by Can Tho on May 13, 2009 23:58:12 GMT 9
Ðất Đai Việt Nam Bị Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Xâm Chiếm NGUYÊN VŨ VŨ NGỰ CHIÊU Thứ Tư, Ngày 29 tháng 4-2009
Không ai có thể phủ nhận một sự thực: quốc gia tự nhận là Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc [Zhonghua Renmin Gongheguo] đã kiên nhẫn xâm chiếm và cướp đoạt đất đai của các lân bang hơn 2000 năm để lập nên đế quốc hiện nay. [Trung Hoa có lẽ đã trở thành quốc gia từ đời nhà Shang [Thương, khoảng 1500-1000 TTL. Chính quyền thống nhất đầu tiên ở miền Bắc sông Dương tử là Ch’in Shih Huangti [Tần Thủy Hoàng (246-210 TTL). Chế độ bắt đầu xâm lăng các tiểu quốc miền Nam là Tây Hán hay Tiền Hán (206 TTL-5STL)] Ngoài những phần lãnh thổ của dân Mongols, Tibet và Manchu bị cưỡng ép sát nhập, THNDCHQ còn tự nhận chủ quyền trên đảo Ðài Loan và cả vùng biển Nam, nơi có dầu hỏa và nhiều tài nguyên thiên nhiên khác dưới thềm lục địa, mà họ mệnh danh là “vùng chiến lược sinh tồn.” [Vũ Ngự Chiêu, “From Embargo to Normalization: The Human Rights Aspects Of The United States-Vietnam Relations, 1975-1995;” unpublished J. D. Human Rights Seminar (Spring 1999) under the supervision of Professor Jordan J. Paust, University of Houston Law School, Houston, TX] Gần đây, một số tác giả ngụy biện cho tham tâm “làm chủ thiên hạ” của Hán tộc bằng cách qui trách cho âm mưu đế quốc của Bri-tên trong việc tạo nên một quốc gia “Tibet,” hay cuộc tàn sát dân Tibet năm 1959–một thứ tội ác diệt chủng [genocide] mà ít người dám lên tiếng tố cáo–chỉ là hậu qủa cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Ðông. Xem, chẳng hạn, Dibyesh Anand, “Strategic Hypocrisy: The British Imperial Scripting of Tibet’s Geopolitical Identity;” Journal of Asian Studies, vol. 68, No. 1 (Feb 2009), pp. 227-252]. Việt Nam là một trong những nạn nhân trường kỳ của tham vọng đế quốc, thực dân Hán tộc [Hanism]. Những người cầm quyền ở Bắc Kinh hay các thủ đô chính trị khác luôn tự nhận “chủ quyền thượng quốc” trên Việt Nam. Ngang ngược hơn, vua quan Hán muốn vua Việt phải chấp nhận thứ quan hệ thông hiếu “cha-con, giữ gìn nhau như môi với răng” [“do tử dữ phụ mẫu chi tương thân,” “phụ tử chi quốc, thần xỉ chi bang”], “thuận trời thì sống, nghịch trời thì diệt” [thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả vong] (Thư Trương Lập Ðạo gửi Trần Nhân Tông năm 1291; ANCL, q. 5, 1961:102-103) Năm 1789, sau khi đại bại ở Ðại Việt, Ái Tân Giác La Hoàng Lịch (1736-1796)–thường được biết như Càn Long hay Cao Tông–vẫn vui vẻ đón nhận một “Nguyễn Quang Bình” giả mạo tới Bắc Kinh làm lễ “bảo tất” [ôm đầu gối] để tỏ lòng trung hiếu. Năm 1407, dưới danh nghĩa [pretext] “phù Trần, diệt Hồ” Chu Lệ (Yên vương Lệ, Minh Thành Tông, 1403-1424) xâm lăng và cướp đoạt chủ quyền Việt Nam, đặt ra “Giao Chỉ” rồi “An Nam đô hộ.” Sau 20 năm kháng chiến–do con cháu nhà Trần cầm đầu, hay những lãnh tụ địa phương khác, đặc biệt là Lê Lợi–quân Minh phải triệt thoái khỏi nước ta. “Bình Ngô Ðại Cáo” của Lê Lợi–do Nguyễn Trãi soạn thảo–là tuyên ngôn độc lập hùng hồn nhất của người Việt với cường quốc phía Bắc. Tuy nhiên, thực tế chính trị–trong thế giới luật kẻ mạnh–khiến Ðại Việt phải chấp nhận hệ thống quan hệ ngoại giao thông hiếu qui tâm về Yên Kinh; nhận sắc phong và triều cống định kỳ vua Trung Hoa. Hệ thống “thông hiếu” [tributary network] này khiến có thể ngộ nhận về chủ quyền chính trị thực sự ở Ðại Việt. Thực tế, vua quan Việt luôn tự giữ một khoảng cách vừa phải theo luật kẻ yếu–mềm dẻo, uốn cong mà không gãy. Hoàng Lịch là vua Trung Hoa cuối cùng nếm mùi thất bại trong cuộc xâm chiếm Ðại Việt bằng võ lực năm 1788-1789. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, mang quân xâm chiếm, chia ra quận huyện để đặt dân Việt vào “vòng lễ giáo” Hán tộc [kiểu cho đào mộ tổ tiên Lê Lợi năm 1418 (Thông sử, 208 [truyện Trịnh Khả]), chỉ là một trong những biện pháp lấn đất giành dân. Vua quan Trung Hoa không bỏ qua bất cứ cơ hội rối loạn chính trị, hay tranh chấp quyền lực nào trong nội địa Việt Nam để mở rộng bờ cõi. “Mềm nắn, rắn buông,” khi mạnh thì xâm lăng, chiếm đóng, chia đặt quận huyện, lúc yếu thì lên giọng giả đạo đức như chẳng xá gì một thôn động trong núi, hay ví thử có vàng mọc trên mặt đất cũng chẳng tham. (Xem, chẳng hạn, cuộc chiến biên giới năm 1313 tại Du Thôn, Lạng Sơn; ANCL, q. 5, 1961:106 [105-107]; ÐVSKTB, 1997:415-416; CM 9:8-9; 1998, I:582-584) Tháng 11/1313, Trần Anh Tông tấn công Trấn An, Qui Thuận và Dưỡng Lợi thuộc Quảng Tây, rồi định lại biên giới phía Ðông Bắc với nhà Nguyên. Tri châu Trấn An là Triệu Giác bắt người đi buôn châu Tư Lăng của Ðại Việt cướp đoạt 1 lọ vàng, lấn hơn 1000 khoảnh ruộng, Anh Tông cho quân qua đánh châu Qui Thuận và Dưỡng Lợi để trả thù. [Theo ÐVSKTB, Nguyên sử chép là quân Trần lên tới hơn 30,000 tiến vào Trấn An; rồi chia quân xâm lược châu Thuận. Ðích thân Anh Tông vây hãm châu Dưỡng Lợi, phao tin Tri châu Trấn An là Triệu Giác bắt người đi buôn châu Tư Lăng của Ðại Việt cướp đoạt 1 lọ vàng, lấn hơn 1000 khoảnh ruộng, cho nên đến báo thù]. (ÐVSKTB, 1997:415-416) Ái Dục Lê Bạt Lục Bát Ðạt (Nhân Tông 1309-1318) sai bọn Vạn Hộ Ðăng Dực, Thiên hộ Lưu Nguyên Hanh [Lưu Hưởng tự Ðạo Tông] và Triệu Trung Lương thuộc Soái Phủ Quảng Tây qua tra xét. Bọn Hanh tới Du Thôn [xã Bảo Lâm, huyện Văn Uyên, Lạng Sơn, nơi có ải Du Thôn], rồi gửi thông điệp cho vua Trần. Sau đó trình lên Ái Dục Lê Bạt Lục Bát Ðạt yêu cầu cử người sang thương thuyết. Trần Anh Tông đồng ý bãi binh. [Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục nhà Nguyễn ghi sơ lược hơn. (CM 9:8-9; 1998, I:582-584). ANCL chép là năm Diên Hựu 3, tức Bính Thìn [25/1/1316-13/1/1317], Ái Dục Lê Bạt Lục Bát Ðạt (Nhân Tông 1309-1318) sai Lưu Hưởng gửi văn thư cho An Nam [Trần Thuyên hay Thuyến, tức Trần Minh Tông, 1314-1329). Anh Tông đã lên Thái Thượng Hoàng (1314-1320)]. Theo Hưởng, An Nam vẫn được “cơ mi,” hưởng quyền “phế trí.” Cống phẩm thì bạc, triều đình trả lại hậu, “cái ân huệ yên vỗ của triều đình rất đầy đủ.” Tuy một khoảnh đất trong sơn thôn không trọng hệ gì, nhưng quan hệ đến bản đồ quốc gia là việc rất lớn [Kim hồ tắc bất định, cầu yên tư khải, tuy sơn thôn chi địa, sở hệ chỉ vi, nhi quốc gia dư đồ, sở quan thậm đại]. Thế Tử An Nam sai Nguyễn Tất Quả và Ðỗ Tắc Dương sang phúc đáp và tặng quà. Hưởng chỉ nhận thư, không nhận quà tặng. (ANCL, q. 5, 1961:106 [105-107]) Chua chát là từ đời con cháu nhà Trần trở đi, triều đại sắp bị diệt vong nào cũng cầu viện Trung Hoa–và chỉ những người mới đẻ ngày hôm trước mới tin rằng có sự hiện hữu của thứ “viện trợ không mắc câu hay thòng lọng” hoặc “cống hiến vô tư” của Thiên Triều! Những chế độ mới lên cầm quyền ở Việt Nam thường phải “cắt đất đổi hòa bình”–chẳng khác biệt bao lăm những cuộc chiến nối ngôi ở Kampuchea hay Lào, và số đất đai cắt xén cho Ðại Việt cùng Xiêm La Hộc. Cách này hay cách khác, Trung Hoa đã cướp đoạt của Ðại Việt nhiều vùng quặng mỏ dài theo biên giới. Mỏ vàng Quảng Nguyên (Cao Bằng), hay những mỏ sắt, mỏ đồng (Tụ Long), mỏ bạc ở Tây Bắc Bắc Việt đều từng có tranh chấp. Ðiển hình nhất là vào thời nhà Hồ (1400-1407), Mạc (1527-1593, 1593-1677), và Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn (1769-1802). Các vua đầu nhà Nguyễn (1802-1884), từ Gia Long tới Thiệu Trị, cũng chấp nhận “bỏ quên” 6 châu Hưng Hóa mất vào tỉnh Vân Nam. Năm 1882, dưới áp lực thực dân Pháp, Tự Ðức và những “Hán nhân” khác, còn xin nội phụ nhà Thanh–một việc làm khó giữ bí mật ngàn đời! [Sử quan Nguyễn chép vào Thực Lục đời Minh Mạng “Hán nhân” thay vì người Việt. Diễn giải Hán nhân là người thấm nhuần văn hóa Hán là một ngụy biện] Nếu người Pháp không chiếm đóng Việt Nam–“đặt lại quận huyện, mở cửa cho dân An-na-mít vào thế giới văn minh” Ðại Pháp [tiêu biểu bằng việc cho Nguyễn Thân-Ngô Ðình Khả-Lê Tựu Khiết đào mộ lãnh tụ kháng chiến Phan Ðình Phùng năm 1896, trộn với thuốc súng mà bắn đi, hay treo thủ cấp Hoàng “Ba” Thám ở Nhã Nam suốt 3 ngày năm 1913]–chẳng hiểu tình trạng biên giới Việt Nam biến hóa ra sao dưới sự khuynh đảo của bọn thổ phỉ và hải tặc Trung Hoa, cùng lính đánh thuê cho Pháp. (Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, tập III) Khi cuộc nội chiến Quốc-Cộng (1945-1975) còn đang tiếp diễn, THNDCHQ lại bắt đầu một chu trình tằm thực mới. Tấn công Hoàng Sa đầu năm 1973, hay hai hòa ước về biên giới đất liền và lãnh hải vịnh Bắc Bộ năm 1999 và 2000 mới chỉ là khởi đầu. Ðầu thiên kỷ 2000, bắt chước Mao Trạch Ðông, lãnh đạo THNDCHQ tới tắm bãi biển Ðà Nẵng, tuyên bố muốn thấy thanh thiếu niên Hoa-Việt vui cười tung tăng an bình sống bên nhau, nhưng thỉnh thoảng lại sai chiến hạm tới bắn giết thanh niên Việt chỉ để giành độc quyền những túi vàng đen ở khu vực quần đảo Trường Sa mà THNDCHQ đặt tên là Nansha! [Ðó là chưa kể đưa hàng mạo hóa [“nhái”] vào lũng đoạn thị trường Việt Nam; thu mua quặng thô từ những tỉnh biên giới; thường trực áp lực Việt Nam trong nhiều lãnh vực, kiểu trúng thầu với giá rẻ mạt những công trình tái thiết do viện trợ quốc tế bảo trợ] Trong khi đó, một viên chức Lai Châu tiết lộ (năm 2005) rằng thổ dân và thổ quan THNDCHQ ở vùng biên giới tiếp tục xâm lấn lãnh thổ Việt Nam. Họ tuyên bố “ở đâu có chuối xanh là lãnh thổ Trung Quốc.” Phương cách tằm thực này–tạo nên những cuộc va chạm ở các tỉnh biên giới–nhiều khi không do chính quyền trung ương chủ xướng, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là làng bênh làng, “Thiên triều” bắt ép “bồi thần.” Những vùng đất bị TH xâm lấn nhiều nhất nằm ở phía Tây Bắc hơn phía Ðông Bắc (như Trấn Nam Quan [ải Pha Lũy, nay là Hữu Nghị Quan] hay Thác Bản Giốc mà dư luận hải ngoại khua chiêng gõ trống). Vài địa danh lịch sử như “ải Lê Hoa” trong trận chiến đánh đuổi quân Minh của Lê Lợi, đã “vào bản đồ” Mông Tự, Vân Nam, từ năm nào không rõ. Nhiều “chuyên viên Trung Hoa” trong nước–vì một lý do nào đó–vẫn nuôi ảo tưởng về lòng thành thực của Mao Trạch Ðông và tinh thần “quốc tế vô sản” của Mao, đổ mọi trách nhiệm cho Ðặng Tiểu Bình. Không nhận hiểu dã tâm của Mao khi sử dụng xương máu người Việt để củng cố trận tuyến chiến lược Ðông Nam, trong cuộc đương đầu sắt máu với Liên Bang Mỹ. “La vérité sur les relations sino-vietnmiennes;” La Chine et le Monde [“Sự thật về quan hệ Trung Hoa-Việt Nam,” trong Trung Hoa và Thế Giới] (Beijing: Beijing Information, 1982), tr. [102-141] Nếu còn sống và đủ tỉnh táo, những “chuyên viên” này nên đọc lại hồi ký Vũ Ðình Hoè, đoạn nói về cảnh Mao tiếp phái đoàn VNDCCH ở Di Niên Ðường năm 1951. Mao thỉnh thoảng ném kẹo táo, trái cây cho Tôn Ðức Thắng, Vũ Ðình Hoè và các đại diện nhân dân Việt (kể cả nữ anh hùng dân công Triệu Thị Soi), ân cần nói: Ăn đi, ăn nhiều đi, rồi đánh giặc cho khoẻ! (Vũ Ðình Hoè, Hồi ký, 2004:938) Cũng nên đọc lại những bài viết của Trường Chinh về tư tưởng “Mao Trạch Ðông vĩ đại,” v.. v... trên tờ Tạp Chí Cộng Sản, trước khi chết không nhắm mắt vào năm 1988. Việc cắt đất, cắt lãnh hải cho Trung Cộng của nhóm Lê Công Phụng, do lệnh từ Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, là một sự thực lịch sử. Giống như lá thư Phạm Văn Ðồng gửi cho Chu Ân Lai năm 1958 mà chúng tôi đã công bố cách đây hơn 20 năm [Xem Chính Ðạo, 55 Ngày & 55 Ðêm, in lần thứ 5 (Houston: Văn Hóa, 1987, 1999), tr. 20; & Việt Nam Niên Biểu, I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000), tr. 120]. Dù chi tiết hành động “cắt đất đổi hòa bình” chưa bạch hóa, không thể không nghĩ đến số phận quặng uranium ở mỏ Tĩnh Túc, Pia Ouac, mà chuyên viên Nhật tìm ra trong khoảng 1946-1947. Xin ghi lại những trường hợp mất đất tiêu biểu nhất trước thời Pháp thuộc: I. GIA ÐÌNH HỒ QUÍ LY (1400-1407): Vì nhà Hồ (1400-1407)–giống như nhà Mạc (1527-1593) và Tây Sơn (1778-1802), chỉ phụ chép trong “quốc sử” phong kiến như “Ngụy” và “nghịch thần truyện”–xin ghi lại những chi tiết sau theo “quốc sử”: (Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư [ÐVSKTT], q. IX; Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM], XI:36-43, XII:1-21; (1998), I:707-735); Lê Quí Ðôn, Thông sử, 1978, III:253-397) A. Tháng 3/1405, Hồ Hán Thương sai Hoàng Hối Khanh cắt đất Lộc Châu (59 xã thôn) của Lạng Sơn cho nhà Minh. (CM, XII:7; (1998), I:720-721; ÐVSKTB, 1997:518) Hoàng Quảng Thành, thổ quan Tư Minh, tâu lên rằng nhà Trần đã cướp đất Cổ Lâu [Lộc Châu] (Lạng Sơn). Chu Lệ (1403-1424)—con thứ tư Nguyên Chương; cướp ngôi của cháu là Doãn Văn (Kiến Văn hay Huệ Tông 1399-1402); ÐVSKTB, 1997:515)—cho lệnh Quí Ly trả lại đất trên. Hán Thương sai Hối Khanh làm “cát địa sứ.” Không hài lòng việc Hối Khanh cắt nhượng quá nhiều đất, Quí Ly ngầm cho lệnh đầu độc các thổ quan do nhà Minh bổ nhiệm. Tuy nhiên, châu Tây Long và huyện Tây Lâm này ngày nay nằm trong lãnh thổ đạo Ðiền Nam, tỉnh Quảng Tây, của THNDCHQ. (CM XII:7, 1998, I:721) B. Mùa Thu 1406, Chu Lệ còn sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 2 đạo quân tràn sang xâm chiếm Ðại Việt, dưới danh nghĩa phù Trần diệt Hồ. Ngày 20/1/1407, quân Minh chiếm Ðông Ðô (Hà Nội). Cướp đoạt con gái, của cải, lụa là, lương thực, chiêu tập dân phiêu dạt làm kế lâu dài. Con trai ít tuổi phần lớn bị thiến. Của cải các lộ bị thu lại rồi chở về Kim Lăng. (ÐVSKTB, 1997:523) Tháng 6/1407, quân Minh chiếm cửa biển Kỳ La, châu Nhật Nam (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hoa [Hà Tĩnh đời Nguyễn]). Hồ Quí Ly, Hồ Hán Thương và toàn gia bị Liễu Thăng bắt sống. (ÐVSKTB, 1997:526; CM, q. XII:17-19, 21; (1998), I:731-732, 734-735. Theo ÐVSKTT, VIII, 2:229 [Hồ Quí Ly bị bắt ngày 16/6, Hán Thương bị bắt ngày 17/6 ở núi Cao Vọng] ) Trương Phụ cho lệnh Liễu Thăng giải Quí Ly và gia quyến về Kim Lăng. Chu Lệ làm lễ đón nhận tù binh. Nhốt bọn Quí Ly vào ngục. Có tin giết đi. Lại cũng có tin được tha, nhờ con là Hồ Nguyên Trừng dâng cách chế súng thần công. (ÐVSKTB, 1997:528) Người giúp bắt Quí Ly là Nguyễn Ðại. Quân Minh thu được chiến lợi phẩm khá hậu hĩ: 112 voi, 420 ngựa, 35,750 trâu, 8,865 thuyền, 3,129,500 hộ dân, có lẽ gồm cả những hộ ở vùng Hóa Châu mới chiếm năm 1402. (ÐVSKTT, IX, 2:230) Tháng 7/1407, Chu Lệ cải tên Ðại Việt thành Giao Chỉ. Lập quan lại, phủ huyện (17 phủ, 5 châu, 12 vệ), miễn thuế tô 3 năm. (CM, XII:20-22; I:733-734; ÐVSKTB, 1997:525 ghi là tháng 4 Ðinh Hợi. Sau lại đổi thành An Nam Ðô Hộ Phủ. (CM, CB XII:20-23; 1998, I:733-737]
|
|
|
Post by Can Tho on May 13, 2009 23:58:58 GMT 9
II. GIA ÐÌNH MẠC ÐĂNG DUNG:
A. Ngày 30/11/1540, Mạc Ðăng Dung giao cho Mạc Phúc Hải (1540-1546) giữ chính quyền, rồi cùng Minh Văn và hơn 40 thuộc hạ qua Trấn Nam Quan tạ tội với quan tướng Minh.
Nguyên bọn Tướng nhà Minh là Cừu Loan và Mao Bá Ôn đã tới Quảng Tây, tập trung quân lính chuẩn bị đánh Ðại Việt. Ðạo quân nhà Minh, kể cả chính binh và kỳ binh (quân lưu động), dự trù lên tới 220,000, chia làm ba cánh xâm phạm Ðại Việt theo ngả Bằng Tường, Long Châu và Tư Minh. Vân Nam cũng được lệnh mang ba đội tiễu binh, mỗi đội 21,000, từ ghềnh Liên Hoa (Mông Tự, phủ Khai Hóa nhà Thanh [nguyên là đất của Việt, mất vào dịp nào không rõ]) tràn vào Ðại Việt.
Lại truyền hịch hạch tội Ðăng Dung diệt nhà Lê, ai bắt được một tội nhân sẽ thưởng 2 nén vàng và ban quan tước. (CM,CB, 27:31-32; 1998, II:114-115)
Mặt khác, dụ bảo cha con Ðăng Dung tự trói mình đợi tội, dâng nạp sổ sách đất đai, dân đinh, sẽ được tha tội chết.
Ðăng Dung bèn sai sứ sang gặp bọn Bá Ôn dàn xếp. Bá Ôn đồng ý ngày 30/11/1540, Ðăng Dung phải làm lễ đầu hàng tại Trấn Nam Quan. Ngày này, Ðăng Dung cùng cháu là Văn Minh và hơn 40 tùy tùng
“[M]ỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, giập đầu quì dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương của châu Vĩnh Yên, trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc lệ vào Khâm Châu.” Rồi sai cháu vào Yên Kinh dâng biểu đầu hàng. (ÐVSK, BKTB, XVI:131-132).
[Thông sử của Lê Quí Ðôn thiếu đoạn này; Thông sử, 272 [truyện Mạc Ðăng Dung]
Theo sử quan nhà Nguyễn, Khâm châu chí của nhà Thanh chỉ chép là “năm Gia Tĩnh nhà Minh” (Chu HậuTổng, 1522- 1566), Ðăng Dung nạp trả 5 động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, không có An Lương.
Quảng Yên sách thì chép động An Lương nay là phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh, phủ Hải Ninh, tỉnh Quảng Yên.
KÐVSTGCM cho rằng không cắt động An Lương. (CM,CB, 27:34; 1998, II:116)
Nam Quan ở về phía Tây Nam châu Bằng Tường, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây nhà Thanh. (CM,CB, 27:34-35; 1998, II:116-117)
Minh sử thông sự (q.32) chép là mãi tới năm 1538 Ðăng Dung mới cử sứ qua nhà Minh vì đường ra biên ải bị bọn Trần Cung ngăn chặn.
Bọn Bá Ôn cho Ðăng Dung về nước đợi lệnh. Văn Minh và Nguyễn Văn Thái lên Yên Kinh yết kiến vua Minh. Ngày 7/11/1541, bọn Bá Ôn và Văn Minh tới Yên Kinh. Bá Ôn đề nghị Hậu Tổng nhìn nhận Ðăng Dung, vì Ðăng Dung thành khẩn qui phục, lại nộp đất. Phần bọn Trịnh Duy Liêu, sứ giả của Nguyễn Kim gửi tới–dưới danh nghĩa một dòng giõi nhà Lê giả là Lê Ninh–chẳng nên cứu xét thêm. (ÐVSKTT, XVII, 3:132-133)
Hậu Tổng đồng ý, đặt An Nam đô thống sứ ti, cho Ðăng Dung chức quan tòng nhị phẩm (đô thống sứ), được quyền thế tập. Tuy nhiên, ngày 11/9/1541, Ðăng Dung đã chết. (Thông sử, 272-273, 280; CM 27:36-37; 1998, II:118-120).
Ngày 19/1/1543, Hậu Tổng phong Phúc Hải làm An Nam đô thống sứ ti đô thống sứ. Cống hiến hàng năm. (ÐVSKTT, 3:134; CM,CB, 27:39; 1998, II:121)
B. Ðời Hậu Lê, con cháu nhà Mạc được nhà Minh can thiệp cho giữ 4 châu thuộc Cao Bằng.
Theo Phan Huy Chú, tác giả Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, [“Dư Ðịa Chí,” (1819), bản dịch Viện Sử học (Hà Nội: 1992), 3 tập, quyển 4, 151-154], Cao Bằng trước kia, thuộc trấn Thái Nguyên. Từ cuối đời nhà Mạc, nhà Thanh áp lực Lê-Trịnh phải cắt cho nhà Mạc 4 châu: Thạch Lâm (22 xã), Quảng Uyên (38 xã), Thượng Lang (32 xã), Hạ Lang (22 xã) [tới 1677].
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, năm 1677 mới đặt tên Cao Bình. Tây Sơn đổi làm Cao Bằng. Năm 1826, Minh Mạng đổi làm phủ Trùng Khánh. Năm 1831, đổi thành tỉnh. Ðặt 2 phủ Hòa An và Trùng Khánh. Chia Thạch Lâm làm 2 huyện Thạch An và Thạch Lâm. Ðặt tuần phủ Lạng-Bằng. Tự Ðức bỏ phủ Hòa An. [(q. 25; bản dịch Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, Viện Sử Học, (NXB Thuận Hóa, 1997), 5 tập, IV: 402-403 [401-430.]
Năm 1677, Ðinh Văn Tả dẹp được họ Mạc. Nhưng một phần đất trong các châu này bị thổ quan châu Tư Minh và Quảng Tây lấn chiếm. Sử quan nhà Nguyễn, chẳng hạn, không thể khảo cứu được “Ðương Châu” phủ Bắc Bình dưới đời Lê Thánh Tông. (ÐNNTC, 1997, IV:419)
C. Về Lạng Sơn-Nam Quan:
Ðịa danh Trấn Nam Quan–mà nhiều người dưới thời Pháp thuộc gọi là “Ải Nam Quan”–xuất hiện lần đầu tiên trong đoạn sử nói về việc họ Mạc cắt đất cho nhà Minh nói trên. Trước đó, thời nhà Trần (1226-1400), chỉ ghi việc Trần Thái Tông đưa quân qua Bằng Tường để khai thông đường liên lạc với nhà Nam Tống. Ðầu đời nhà Hồ, hai lần nhắc đến “Ải Pha Lũy” (1406 và 1427).
Vì không tìm được dấu vết ngày xây dựng Trấn Nam Quan trong cả tài liệu Hoa và Việt, sử quan nhà Lê và Nguyễn chú thích rằng “Cửa quan Nam Giao” hay Trấn Nam Quan chỉ được ghi vào sử từ đời Mạc Ðăng Dung [1540]. (ÐNNTC, IV:384-386) Ðây là cửa ải chính thức cho các sứ đoàn, chỉ có một cánh cổng bằng gỗ, có khóa. Trên lãnh thổ Việt chỉ có “Ngưỡng Ðức Ðài.” Những dịch vụ khác–như giao giải tù nhân–dùng “Ải Du Thôn,” cách tỉnh Lạng Sơn 30 dặm về phía Bắc, nằm về phía hữu của Trấn Nam Quan. Ði đường núi mất khoảng 2 canh giờ rưỡi [5 tiếng đồng hồ tới Trấn Nam Quan].
Khi đi sứ Trung Hoa năm 1760 để báo tang Lê Thuận Tông, Bảng nhãn Lê Quí Ðôn ghi chép được hai bản văn bia của quan lại Trung Hoa về vấn đề quan ải.
Bia thứ nhất do Tuần phủ Quảng Tây Lý Công Phất dựng khoảng năm 1725, sau khi tu bổ lại Trấn Nam Quan từ tháng 3/1725 tới cuối năm mới xong.
(Lý Công Phất, “Trùng tu Trấn Nam Quan ký;” (1725), Lê Quí Ðôn, Vân Ðài Luận Ngữ, bản dịch Phạm Vũ, Lê Hiền (Sài Gòn: 1972), tr. 160-162.
Bia thứ hai, “Tuần duyệt An Nam biên ải ký” của Án sát Quảng Tây Hoàng Nhạc Mục. (VÐLN, 1972:162-165) Theo Nhạc Mục, ngày 13/3/1746, Mục đến Ðiền Châu, cách Bách Sắc chừng 100 dặm. Ngày 22/3, đi từ phủ Thái Bình tới quận Bằng Tường. Từ Bằng Tường tới Trấn Nam Quan mất 4 ngày.
Khu vực Lạng Sơn-Cao Bằng này vừa cũ, vừa mới có 116 cửa quan dài theo biên giới, quân biên phòng 1935 tên, quân thổ dân 1170 người. (VÐLN, 1972:165)
Ở Thủy Khẩu quan, có một con sông nước trong, rộng hơn 10 trượng từ Cao Bằng chảy tới. (VÐLN, 1972:164)
Ngày 3/5/1746 Hoàng Nhạc Mục về lại Liễu Châu. Ngày 19/5 tới tỉnh Quảng Tây. Ngày 27/6/1746 trở lại Liễu Châu vẽ bản đồ và khắc bia đá. (VÐLN, 1972:165) [Lịch Thanh ghi tháng 3 nhuận. Lịch Lê-Trịnh ghi tháng 12 Ất Sửu nhuận].
Lạng Sơn: Gồm 2 phủ Tràng Khánh (châu Lộc Bình, châu Ôn, huyện Yên Bác) và Tràng Ðịnh (châu Vân Uyên, huyện Văn Quan, Thất Khê, châu Thoát Lãng). Phủ lị thành Lạng Sơn cách châu lị Tư Minh (nay là Ninh Minh) 10 dặm về phía Tây Nam. (Ðại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, q. 24; bản dịch Phạm Trọng Ðiềm và Ðào Duy Anh, Viện Sử Học, 5 tập, (NXB Thuận Hóa, 1997), IV:365-400).
Một cách tổng quát, việc kiểm soát biên giới rất lỏng lẻo. Dân địa phương cũng vượt biên giới một cách dễ dàng–nhất là những toán thổ phỉ, xạ phang, và/hay những đoàn buôn thuốc phiện và gạo muối lậu.
III. ẢI LÊ HOA (MÔNG TỰ NGÀY NAY):
Tháng 10/1427, giữa khí thế đang lên của Lê Lợi, viện quân của Liễu Thăng và Mộc Thạnh kéo vào lãnh thổ Ðại Việt, hy vọng cứu nguy cho Ðông Ðô. Trần Nguyên Hãn, Lê Sát và Lê Nhân Chú giữ ải Chi Lăng [ngăn chặn Liễu Thăng]; Phạm Văn Xảo và Lê Khả giữ ải Lê Hoa ở Mông Tự [ngăn chặn Mộc Thạnh]. (Thông sử, 64-65, 191-192 [truyện Phạm Văn Xảo], 209 [truyện Trịnh Khả])
Ngày 8/10/1427, Liễu Thăng kéo quân qua ải Pha Lũy. Trần Lựu lui quân về Ải Lựu, rồi ải Chi Lăng. Hai ngày sau, 10/10, Trần Nguyên Hãn và Lê Sát phục binh giết chết Liễu Thăng tại núi Mã Yên (Chi Lăng). (Thông sử, 66)
Ngày 15/10/1427, viện binh Lê đến Chi Lăng. Giết thêm Lương Minh.
Ngày 18/10, từ Chi Lăng, Thôi Tụ và Hoàng Phúc tiếp tục tiến binh. Nhưng Thái úy Trần Nguyên Hãn, Tư mã Lê Sát, Thiếu úy Lê Lý chiếm được thành Xương Giang. Tri phủ nhà Minh Lưu Tử Phu tử trận cùng Kim Dận, Lý Nhậm. Vòng vây quanh Ðông đô xiết chặt hơn. Rồi ngày 3/11, Lê Vấn và Lê Khôi phá tan quân Minh ở Xương Giang. Bắt sống Thôi Tụ cùng Hoàng Phúc và hơn 3,000 quân. Giết chết 50,000 quân Minh.
Quân Mộc Thạnh được tin tan rã. Trịnh Khả chém chết hơn 10,000, bắt hơn 1000 tù giặc Ngô, hơn 1000 ngựa ở Lãnh Câu, Ðan Xá. Mộc Thạnh một mình thoát thân. (Thông Sử, 67, 209 [truyện Trịnh Khả]; CM XIV, 1998, I:820)
[Theo Ngô Thì Sĩ, Lê Lợi mật chỉ cho các Tướng là Tổng binh Vân Nam Mộc Thạnh đã già. Chỉ có ý cầm cự với quân Phạm Văn Xảo, chờ tin Liễu Thăng. Khi quân Lê đưa tù nhân và cờ xí tới nơi, quân Thạnh chưa đánh đã tan. Mộc Thạnh một mình thoát thân. Quân Lê bắt được vũ khí, xe cộ nhiều gấp 2 lần thành Xương Giang; ÐVSKTB, 1997:562)]
Tháng 11 Ðinh Mùi [19/11-17/12/1427], hai thành Tây đô và Cổ Lộng đầu hàng.
Từ Ðông Quan, Vương Thông đưa thư xin hòa. Lê Lợi chấp thuận. Sai Hành khiển Nguyễn Trãi viết thư cho Chu Chiêm Cơ (1426-1434), xin sắc phong Trần Cảo [một người giả dòng giõi họ Trần], nhờ Mộc Thạnh ở Vân Nam và Cố Hưng Tổ ở Quảng Tây chuyển về triều. Tha Hoàng Phúc về nước. (Thông sử, 68)
Ngày 10/12/1427, Lê Lợi và Vương Thông định hòa ước. (Thông sử, 69) Ngày 29/12, quân Minh rút lui. (ÐVSKTB, 1997:563)
Trước đó, Lê Lợi cũng sai Nguyễn Trãi viết hai lá thư nhân danh Trần Cảo xin hòa. (ÐVSKTB, 1997:563)
Tháng 12/1427, sau khi nghe tin Liễu Thăng tử trận và Vương Thông bị vây khốn ở Ðông Quan, Chu Chiêm Cơ đồng ý bãi binh. [Trương Phụ không đồng ý; quan nội các Kiến Nghĩa và Hạ Nguyên Cát cũng vậy. Dương Vĩnh Kỳ và Dương Vinh muốn hòa. Theo họ, 20 năm chiến tranh đã quá dài. Chiêm Cơ đồng ý, sai La Nhữ Kính mang chiếu phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương. (Thông sử, 70; ÐVSKTB, 1997:563)
Ngày 29/12/1427, Vương Thông dẫn quân về nước. Mười phần khi đến chỉ còn lại hai. La Nhữ Kính tới Long Châu đã gặp Vương Thông. Thông sau bị tống giam, tước đoạt tài sản. (ÐVSKTB, 1997:564)
[20/1/1407: Quân Minh chiếm Hà Nội. (ÐVSKTB, 1997:523, 564). Ngày 29/12/1427, Vương Thông dẫn quân về nước. Phan Phu Tiên: số trời; ÐVSKTB, 1997:564)
[Ngô Thì Sĩ: Vài vạn người Minh ở lại; ÐVSKTB, 1997:564]
Tuy nhiên, sau đó ải Lê Hoa bị mất vào Trung Hoa. Trong lời chú, sử quan KÐVSTGCM cho rằng có tin quân Mộc Thạnh kéo tới châu Thủy Vĩ [ranh giới Tuyên Quang].
IV. LÊ-TRỊNH: “HƯNG HÓA”
A. Năm 1728 [đời Huỳnh Hoa (1662-1735), niên hiệu Ung Chính thứ 6, quan Việt và Thanh đặt bia đá giới mốc “châu Vị Xuyên, Tuyên Quang” trên bờ sông Ðỗ Chú, huyện Vĩnh Tuy. Năm 1831, Minh Mạng cho lệnh làm lại bia, khắc thêm văn bia nhà Thanh như sau: Ngày 11/10/1728 Ngô Sĩ Côn, Tri phủ Khai Hoá và Vương Võ Ðảng, Du kích trung dinh trấn Khai Hóa, bàn định biên giới với đại diện “Giao Chỉ” là Nguyễn Huy Nhuận [tả thị lang bộ Binh, và tế tửu Nguyễn Công Thái]. Hai bên đồng ý dựng bia biên giới ngày 22/10/1728, lấy sông Ðỗ Chú làm căn cứ. (ÐNNTC, 1997, 4:353-354].
Tháng 2/1769, Tướng Trịnh là Ðoàn Nguyễn Thục chiếm được động Mãnh Thiên (huyện Thanh Châu) của “giặc” Hoàng Công Chất. Chất đã chết. Con là Công Toản chạy thoát qua Vân Nam. (CM 43:21-22, 1998, II:684-685) (CM, 43:20-22, 1998, II:691-692) 7 châu dưới quyền Công Toản [Tung Lãng (Mường La), Lễ Tuyên, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu] đều xin qui phụ nhà Thanh [nay là 6 trại thuộc huyện Kiến Thủy, phủ Lâm An, Vân Nam]. (LTHCLC, q.IV, “Hưng Hóa,” Dư Ðịa Chí, 1992, I:142-143)
B. Năm 1780, Quảng Lăng, Khiêm Châu thành lãnh thổ huyện Kiến Thủy, phủ Khai Hóa. (CM 45:23; 1998, II:754-755)
Nhà Thanh xâm lấn thêm 4 châu Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, và Lễ Tuyên thuộc phủ An Tây (Hưng Hóa, nay thuộc Lai Châu), sát nhập vào phủ Khai Hóa, Vân Nam. Cuối năm đó, Trịnh Sâm viết thư cho quan Thanh ở Vân Quí, họ chỉ im lặng. Sau Sâm bệnh, phải bỏ qua. (CM XLV:23; 1998, II:754-755)
C. Tháng 6-7/1806, dân Thanh lấn chiếm một số động ở biên giới Hưng Hóa. Ðây là cuộc tranh chấp lãnh thổ và dân cư từ đời Lê-Trịnh. Không những từ chối trả lại 6 châu thuộc phủ An Tây, quan địa phương Vân Nam còn lấn chiếm dân hai châu Chiêu Tấn và Lai Chính vào trại Mãnh. Tổng trấn Nguyễn Văn Thành làm sớ xin Gia Long cho người bàn luận việc biên giới với Tổng đốc Vân Quí. Gia Long tuyên bố mới dựng nước, chưa tiện. Bởi thế 6 châu mất vào nhà Thanh. (ÐNTLCB, I, 3:286; ÐNNTC, 1997, IV:288-289. Châu Quảng Lăng hay Tung Lăng (Mương La) có mỏ vàng. Quan Thanh đưa dân Hồ Quảng tới, mở 3 phố.)
D. Năm 1831, nhàThanh lại định xâm lấn một phần lãnh thổ Hưng Hóa. Mục luyện phủ Lâm An đưa 600 lính tới đòi chiếm đồn Phong Thu. Nói Phong Thu là lãnh thổ Thanh. Minh Mạng sai Hộ tào Ðặng Văn Thiêm và thống quản Nguyễn Ðình Phổ đem 1000 quân và 10 thớt voi lên đóng giữ trấn Hưng Hóa. Tới Hưng Hóa, trích giao trấn thủ Vũ Văn Tín 300 biền binh, trấn binh và thổ binh cùng 5 thớt voi tới Chiêu Tấn phòng ngự. Rồi viết thư cho chỉ huy người Thanh, khẳng định Phong Thu là đất Việt.
Tháng 7/1831, Mục luyện Thanh tấn công Phong Thu. Thủ đồn Chử Ðình Thông rút về động Bình Lư.
Minh Mạng cho Ðặng Văn Thiêm thêm 200 biền binh và 2 thớt voi để theo Vũ Văn Tín tới Phong Thu. Ðến nơi, quân Thanh đã triệt thoái vì bệnh tật, bỏ lại súng, cờ. Giao cho Chánh xuất đội Bùi Văn Lương giữ đồn với 100 lính. Sau đó viết thư cho nhà Thanh. Nhà Thanh muốn giảng hòa, hẹn ngày bàn thảo. (ÐNTLCB, II, 10:284-285)
Tháng 9/1831, sau khi bắt được Ðiêu Doãn An–một thổ tù thân nhà Thanh, đã xúi bẩy quan Thanh chiếm Phong Thu–Vũ Văn Tín rút quân về Hưng Hóa. Dọc đường, Tín ốm chết. Ngô Huy Tuấn bị bệnh. Hơn 300 biền binh cũng bị bệnh, ốm chết dọc đường. Dẫn bọn Ðiêu Doãn An, Ðiêu Doãn Kiên và Ðiêu Doãn Võ về kinh. Dùng Ðiêu Quốc Long, con Quốc Thuyên, quản trị 2 động Phong Thu và Bình Lự. Nhưng muốn giữ tình hữu nghị với nhà Thanh, bỏ qua việc 6 châu mất từ đời Lê-Trịnh. (ÐNTL, CB, II, 10:325-327. Theo Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, họ “Ðiêu” chính xác hơn “Ðèo.”)
Tháng 11/1831, Minh Mạng bỏ tổ chức Bắc thành và 11 trấn. Ðặt tỉnh hạt từ Quảng Trị trở ra. Hiệu lực từ ngày 2/2/1832. (ÐNTL, CB, II, 10:355-73, 394)
Tỉnh Hưng Hóa mới gồm 3 phủ [Qui Hóa, Gia Hưng, An Tây], 5 huyện, 16 châu. [Phủ Gia Hưng là huyện Tam Nông, phủ Sơn Tây cũ]
Tuyên Quang: 1 phủ [Yên Bình], 1 huyện [Hàm Yên], 5 châu [Vị Xuyên, Thu Châu, Ðại Man, Lục Yên, Bảo Lạc].
Tháng 6-7/1841, Thiệu Trị lập phủ Ðiện Biên, kiêm lý cả châu Ninh Biên, lấy Lai Châu và Tuần Giáo làm thống hạt. (ÐNTL, CB, III, 23:263-265) Tháng 7-8/1852, Tự Ðức cắt thêm châu Quỳnh Nhai và châu Luân vào phủ Ðiện Biên. Phủ An Tây chỉ còn 1 châu Chiêu Tấn [Mường So hay Mường Thu]. (Ðại Nam Nhất Thống Chí, 1997, IV:285-291)
Dịp này, ranh giới Tuyên Quang cũng định lại. Ðịa phận xã Bình Di/làng Ðông An (Khai Hoá). Tuần phủ Khai Hóa bí mật sai người tràn sang lập nhà cửa, đuổi dân cư chạy đi. Phó Kinh lược sứ Ngụy Khắc Tuần mang quân tới người Thanh mới rút. (ÐNTL, CB, III, 27:349-350)
Từ năm 1848, thổ phỉ và hải tặc Thanh bắt đầu lộng hành ở miền thượng du. Tình hình nghiêm trọng đến độ sau này Tự Ðức sẽ phải mời quân Thanh vào tiếp tay diệt phỉ. Ðồng thời “nuôi vỗ” những nhóm thổ phỉ mạnh, “dĩ phỉ trị phỉ.” Giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng, chẳng hạn, được giao quyền cai trị và thu thuế ở các tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang.
Houston, 20/2/2009
Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu
Fulbright Scholar, 1982-1983, 1985-1986 & 2004-2005
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:24:31 GMT 9
Một tháng ở Nam kỳ-Phần I Phạm Quỳnh Làm trai đã đáng nền trai, Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng. Cứ theo lời ca dao đó thì tôi đây có lẽ cũng đã đủ tư cách làm một “nền trai” đất Nam Việt vậy. Mùa xuân năm nay đã trải qua mười ngày ở Huế, mùa thu này lại từng ở một tháng Nam Kỳ,... không kể trong ngoại hai mươi năm trời đã sinh trưởng ở chốn Thăng Long đô cũ, trong khoảng sông Nhị núi Nùng; nếu có thế mà đủ làm trai Nam Việt, thì tôi đây thật đã thập phần xứng đáng rồi. Nhưng mà đoái nghĩ: nghề làm trai ở đời, nhất là làm trai nước Nam này, há phải dung dị lắm rư? Lời ca dao kia há có thiển nghĩa thế ru? Ôi! Đương buổi Quốc Triều gây dựng cơ đồ, đánh nam dẹp bắc, thiếu gì những kẻ tang bồng hồ thỉ, chí khí nam nhi, nay tòng quân ở Thuận Hóa, mai viễn thú đất Đồng Nai, vào sinh ra tử chốn sa tràng, mong lập công danh cùng xã tắc: lời ca dao kia là tả cái chí của những bậc vô danh anh hùng đó, chớ có đâu lại hợp với cái cảnh một kẻ thư sinh nhỏ mọn như bỉ nhân đây, thừa lúc trong nước còn hiếm người mới ra lạm một phần ngôn luận với quốc dân, nghĩ mình lắm lúc đã thẹn thay, có đâu lại mê cuồng đến đem lời khen của cổ nhân mà tự gán cho mình!... Song Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ đến ngày nào khôn. ca dao cũng lại có câu như thế, thì tuy ở Huế mười ngày, Nam Kỳ một tháng, chưa đủ làm được “nền trai” Nam Việt, mà cũng đủ học “khôn” được ít nhiều. Huống tuy khác xứ mà cũng đất nước nhà, tuy người lạ mà cùng là anh em, thời càng quen biết lại càng đậm đà cái tình máu mủ, càng đằm thắm cái nghĩa quê hương; như thế thì mấy phen du lịch cũng là mấy lần đi học cho biết cái nghề làm trai nước nhà vậy. Lần trước đã từng thuật những sự tư tưởng cảm giác ở Trường An, lần này lại xin kể những sự kinh lịch kiến văn ở Lục Tỉnh; không phải là muốn khoe với ai cái văn chương sốc nổi, chỉ muốn đem lời thành thực mà giãi bày bàn bạc cùng quốc dân, hoặc lòng nhiệt thành có người cảm, lời bàn ngay có kẻ nghe, ấy là mãn nguyện vậy. Nhưng trước khi kể chuyện Nam Kỳ, tưởng nên giải qua cái tính cách hai cuộc du lịch trước sau khác nhau thế nào. Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích đời xưa, mỗi bước như động đến tấm lòng hoài cổ, chạnh những nông nỗi cố hương; nghe tiếng chim kêu trên bãi cát mà nỗi thương nước nhớ nhà không thể cầm được, ngắm bức phong cảnh chốn tôn lăng mà lòng cảm hoài về lịch sử như chan như chứa; bao nhiêu những giọng ngậm ngùi ai oán thủa bình sinh không ngờ mà lâm li trên tờ giấy, khiến người đọc cũng phải lạnh lẽo trong lòng. Đương buổi thế giới cấp tiến, người đời xô đuổi nhau vào con đường tương lai vô hạn, quay đầu lại nhìn về đời trước, còn gì buồn bằng! Lần này thì thật khác: cái khí vị lạnh lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là một nơi đất mới, mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng bận lòng đến những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa, đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai. Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng. Ấy hai cuộc du lịch khác nhau như thế, lời kỷ thuật tất cũng không in một giọng. Đó là một lẽ tự nhiên, không lấy gì làm lạ. Song sự vui sự buồn tuy gốc tự lòng người mà thực bởi cảnh vật khiến nên. Hoặc giả có kẻ nói có biết nghĩ mới biết buồn, muốn vui ắt phải vô tâm, thì lỗi ấy tác giả cũng xin nhận một phần, mà cảnh vật xứ Nam Kỳ mới thật là đáng quá nửa vậy. Từ Hà Nội vào Sài Gòn muốn đi đường thủy hay đường bộ cũng được. Nhưng đường bộ đi bằng xe hơi mới giao thông được ít lây nay, vừa khó nhọc và vừa có khi nguy hiểm nữa. Vì con đường quan lộ về địa phận Trung Kỳ, nhất là từ Huế trở vào, còn xấu lắm, lại lắm chỗ cách sông cách núi, thật là chưa tiện cho xe đi lại. Hoặc có những người hiếu kỳ mới đi bằng xe hơi tự Hà Nội về Sài Gòn như thế, là muốn cho mới lạ, chớ thực chưa phải là một cách tiện lợi cho hành khách Bắc Nam. Hiện bây giờ xe hơi dùng chở thơ nhiều hơn là chở khách. Sau này bao giờ đường xe lửa chạy suốt Đông Dương làm xong thì bấy giờ sự giao thông xứ Bắc với Nam bằng đường bộ mới thật là tiện lợi. Hiện nay vẫn chỉ có đường bể là hơn. Chỉ ngặt từ khi có chiến tranh, phần nhiều các tàu bể bị Nhà nước thu để dùng về việc quốc phòng bên Âu châu, ở đây thường thiếu tàu đi lại, sự giao thông có chậm trễ hơn xưa. Vài tháng mới có một chuyến tàu lớn ở Tây đáp sang, còn chạy thường chỉ có vài chiếc nhỏ, khi xuống Tân Gia Ba, khi lên Hương Cảng, đi lại không kỳ, hành khách thường phải chờ đợi đầy tuần. Bắc Kỳ ta có công ti Bạch Thái Bưởi có tàu đi bể được, nếu đủ sức mà đặt được một đường Hải Phòng - Sài Gòn thì đương buổi hiếm tàu này chắc là chóng phát đạt lắm. Các nhà buôn ta trong Nam ngoài Bắc đều ước ao như thế cả. Hồi sửa soạn đi Nam Kỳ vừa gặp có chuyến tàu lớn ở Nhật Bản về. Tàu hiệu Porthos của công ty Hằng hải Á Đông (Cie des Messageries maritimes), vừa to, vừa mau, các chiếc khác đi Hải Phòng - Sài Gòn phải năm ngày năm đêm, chiếc này đi chỉ đầy ba đêm hai ngày. Được tin có tàu, vội vàng đi xe lửa xuống Hải Phòng. Bữa ấy là ngày 21 tháng tám tây, tức là rằm tháng bảy ta. Sông Nhị Hà đương lên, tin báo lụt đã thấy truyền lại nhiều nơi. Ngồi trong xe lửa trông ra có chỗ mênh mang những nước. Thôi, cái nạn lớn hằng năm năm nay cũng lại không tha cho dân xứ Bắc! Trước khi tạm biệt đất Bắc Kỳ, nhìn lại cái cảnh nước bùn trời nặng kia mà thương thay cho bọn nông dân xứ Bắc mình, thật là cất đầu không nổi với ông Thủy vương cay nghiệt! Khi tới Nam Kỳ, thấy đồng bào ta trong Lục Tỉnh cách làm ăn dễ dãi như thế, nghĩ đến đường sinh nhai eo hẹp của người mình, cái lòng thương anh em nơi cố quận lại càng thiết tha lắm nữa. Tới Hải Phòng được tin đích rằng 3 giờ trưa ngày mai là ngày 22 tàu mới cất neo ra bến. Vậy còn phải đợi một ngày nữa, muốn nhân dịp sang chơi qua bên Kiến An. Đi xe tay mất hơn một giờ, phải qua một cái đò ngang. Kiến An là một tỉnh mới, trước thuộc Hải Dương, nay gồm mấy phủ huyện quanh thành phố Hải Phòng. Tuy Kiến An đối với Hải Phòng cũng như Hà Đông đối với Hà Nội, mà tỉnh lỵ sơ sài, phố phường vắng vẻ, không có cái cơ phát đạt như Hà Đông. Lệ xưa nay, một tỉnh nhỏ ở cạnh nơi đô hội lớn thì cái sức sinh hoạt hình như bị thu rút cả vào nơi đô hội ấy: Kiến An đối với Hải Phòng cũng tức như vậy. Hà Đông có khác là vì Hà Đông ở chốn trung ương, tuy cũng bị Hà Nội át về đường buôn bán mà vẫn là nơi trung tâm của một miền quê giàu có đông đủ đệ nhất ở Bắc Kỳ. Cả Kiến An hình như núp ở dưới nhà Thiên văn đài Phù Liễn, xây trên cái đồi cao, nhìn xa như một cái thành lớn hám chế một địa phương. Khi sắp tới đã thấy đột ngột trước mắt, khi quay về còn thấy sừng sững sau lưng, mà tiếc trời đã về chiều, giời đã có hẹn, không thể lên xem tận nơi được, khiến cho đến nay cái hình ảnh nhà Thiên văn đài Kiến An vẫn còn phảng phất trong tưởng tượng vậy. Buổi tối đi dạo chơi trong thành phố. Hải Phòng thật là đáng làm nơi đô hội thứ nhì xứ Bắc Kỳ. Về đường buôn bán hơn Hà Nội đã cố nhiên rồi, mà cái tương lai xem ra còn có thể bành trướng hơn chốn cổ đô mình nhiều. Hà Nội đã già quá, cũ quá rồi, cái sức phát đạt hình như có hạn, không thể ra ngoài được nữa. Chắc cái phong thể riêng không bao giờ mất hết được, cái nền nếp cũ rồi cũng vẫn còn, về đường học thức, về đường mỹ nghệ, về cách đàn điếm phong lưu, bao giờ cũng vẫn giữ được bậc nhất mà không đến nỗi phụ cái thanh danh cũ, cũng tức như cô con gái thế gia dù vào cảnh ngộ nào vẫn ra con người nền nếp. Nhưng về đường buôn bán, đường công nghệ, về cách làm ăn kiếm tiền, thì không sao tranh nổi với Hải Phòng được. Hải Phòng còn đương vào cái thời kỳ trai trẻ, chưa biết lớn đến đâu, thịnh đến đâu là cùng. Vả bởi cái địa thế làm nơi cửa bể chung cho cả Bắc Kỳ, hành khách đồ hàng đâu đâu cũng tất phải qua đấy, thì Hải Phòng lại hình như gồm được cả sự sinh hoạt của xứ Bắc Kỳ về đường kinh tế nữa. Cho nên cái tương lai của Hải Phòng thật không thể lượng được vậy. Mà đoái nghĩ cái thành phố lớn ấy, cái cửa bể to ấy, thành lập chưa đầy năm mươi năm trời. Trước kia chẳng qua là một xóm nhỏ ở gần bể, khi nước ta bắt đầu giao thông với Đại Pháp, Triều đình mới đặt một tòa Thương chánh để kiểm tra tàu bè cùng hàng hóa xuất nhập. Kế sau Đại Pháp sang bảo hộ, nhân đấy đặt nên cơ sở một nơi đô hội lớn, từ đó cứ mỗi ngày một phát đạt mãi lên, thực là bởi công Nhà nước Bảo hộ sáng tạo ra vậy. Có người làm sách đã nói: “Cửa bể Hải Phòng là tay người Đại Pháp tự không mà gây dựng nên, trên đống bùn lầy sông Cửa Cấm”, thực không phải là nói ngoa vậy. Đường phố Hải Phòng phần nhiều rộng rãi hơn Hà Nội, nhà cửa đều đặn hơn, và thường làm theo một kiểu, không có cái cao cái thấp, cái ra cái vào như nhiều phố cũ ở tỉnh ta. Là bởi những đường phố nhà cửa ấy mới đặt mới làm cả, nên có thể nhất luật theo cách mới, coi rộng rãi thảnh thơi hơn. Buổi chiều, vào sáu giờ, nhất là ở đường Cầu Đất, là đường đi thẳng ra Đồ Sơn, xe ngựa xe hơi chạy lũ lượt không dứt, coi như cảnh tượng ngày hội: đó là xe của những nhà buôn to bán lớn trong thành phố, cả ngày làm việc nhọc mệt, kế lợi thương công, chiều đến ra hóng mát bờ bể. Các chú ở phố khách thì chiều đến cũng xô nhau vào ăn uống om sòm trong các nhà cao lâu: đó tức là cách giải trí của các chú. Mà người mình lắm người cả ngày không nhọc trí chút nào, tối đến cũng đua nhau mà giải trí như người! Bữa đó là tối ngày rầm tháng bảy, phố khách nhà nào nhà nấy đốt đèn nến, bày vàng mã ngay ngoài hè, khói hương nghi ngút, tàn lửa tơi bời, kẻ đi người lại tấp nập, tiếng hò tiếng hét om sòm. Sau này tới Nam Kỳ mỗi lần dạo chơi phố phường Chợ Lớn hay là dạo qua đường Chợ Cũ Chợ Mới Sài Gòn, lại sực nhớ đến cái cảnh tượng mấy phố khách ở Hải Phòng chiều hôm ấy. Nhưng cái “China họa” (le péril chinois) ở xứ Bắc mình tuy đã thâm lắm mà tỉ với Nam Kỳ còn chưa thấm vào đâu: Hải Phòng tức là Chợ Lớn Bắc Kỳ có 8.991 người Khách, mà Chợ Lớn Nam Kỳ có những 75.000 Khách với 4.873 người Minh Hương! Hà Nội có 3.377 người Khách với 825 người Minh Hương, mà Sài Gòn có những 22.079 người Khách với 677 người Minh Hương! Coi đó thì biết cái nguy cho xứ Nam Kỳ to là dường nào. Nhưng chưa tới Nam Kỳ đã nói chuyện Khách Nam Kỳ, thật là kỷ thuật không có thứ tự. Vậy xin để sau này sẽ nói tường hơn. Nay nhân nói về Khách Hải Phòng, chỉ muốn so sánh qua cái số người Tàu trong Nam ngoài Bắc, cho biết cái vạ China ở hai xứ hơn kém nhau thế nào . Song dù hơn, dù kém, dù ít, dù nhiều, cũng vẫn là một cái vạ lớn cho nước Nam mình, quốc dân ta nên sớm tỉnh ngộ mà mưu trừ đi, mới mong có ngày thu phục được mối thương quyền mà ra tranh đua trên thị trường thế giới. Hai giờ trưa ngày 22 dọn đồ xuống tàu. Tàu to lớn thay! Thật như một cái thành thả trên mặt nước vậy. Bề dài ước một trăm rưởi thước tây, bề rộng ở giữa đến 25, 30 thước. Vào trong không quen như mê li, chẳng biết đường nào vào đường nào, phải có người dẫn mới tìm thấy buồng. Sau đi dạo qua một lượt các hạng các từng mới biết cách sắp đặt thật là khéo, thật là chỉnh tề, thật là có ngăn nắp mà rõ ra đâu vào đấy, nghĩ người nào vẽ ra cái qui mô ấy thật cũng tài thay. Có ba hạng, hạng tư là đi trên “boong”. Hạng nhất, nhì, ba đều có buồng ăn buồng ngủ, chỗ ngồi chơi chỉnh đốn lắm, mà hạng nhất thì thật là lịch sự: các buồng trang sức cực đẹp, đồ gỗ bóng lộn, pha lê trong suốt, mặt gương lấp loáng, màn đệm trắng bong, bồi khách ăn bận sạch sẽ, nhất loạt đầu trọc, áo trắng, quần táo tầu, hầu hạ rất có phép tắc, thật là nghiễm nhiên như một nhà khách sạn thượng hạng ở Hà Nội hay Sài Gòn vậy. Nghe nói chiếc Porthos này là vào hạng tàu lớn nhất đẹp nhất của công ty Hằng Hải Á Đông, cũng ngang với chiếc Athos bị trúng thủy lôi ở Địa Trung Hải năm trước. Nghĩ một chiếc tàu thôi ngôi vĩ đại như thế này mà không may phải đánh đắm thì thiệt hại biết bao nhiêu, bao nhiêu công mà bao nhiêu của! Từ ngày quân Đức khởi ra cái cách chiến tranh tối dã man, là dùng tàu ngầm mà đánh đắm những tàu buôn của địch quốc, các công ty hằng hải tổn hại cũng đã nhiều, mà bể Địa Trung Hải (Méditerranée) đã thành cái vực sâu nuốt mất bao nhiêu những con kềnh nghê bằng sắt bằng gỗ như chiếc Porthos này, lại thành cái mồ chung của mấy nghìn vạn kẻ vô cô chết vì tay oan nghiệt giống dã man. Cho nên đã lâu nay các tàu lớn về Tây chỉ đi đến Hồng Hải (Mer Rouge) mà thôi, tới đấy đã có tàu riêng nhận lấy đồ hàng lấy khách, rồi kèm thêm những tàu chiến, như khu trục hạm (croiseurs de chasse) ngư lô đĩnh (torpillenrs) mới dám đi vào Đại Trung Hải. Hoặc có tàu ngầm Đức thì những tàu chiến đi kèm ấy phải ra đuổi đánh. Nghe những người đi Tây thuật lại, thật cũng nguy hiểm thay. Nhưng mới rồi được tin chiếc Porthos đã đi tới Marseille trót lọt, không phải đậu ở cửa Hồng Hải, như thế thì biết gần đây cái hoạn tàu ngầm đã bớt đi nhiều và sự giao thông đã được dễ hơn mấy tháng trước. Nhưng cũng là cái triệu chứng rằng quân Đức đã kiệt lực, sắp đến ngày không còn sức đâu mà phạm ác với nhân loại được nữa. Chuyến ấy có chở hơn hai nghìn lính mộ vẫn ở “Bãi Cháy” (Ile de la Table) chờ tàu về Tây đã mấy tháng nay. Tự sáng sớm đến quá trưa quân quan kiểm điểm cho lính xuống tàu, gần nơi bến tàu canh giữ nghiêm lắm. Đứng xa trông nhan nhản những người ăn bận đồ vàng, vai đeo chăn áo, tay sách nồi niêu, lũ lượt kéo đến dưới chân tàu, mà cái thang chỉ đi được người một, nối gót nhau trèo lên, coi xa như một cái chão lớn buộc tàu mà có người đứng trên từ từ kéo vậy. Mà cứ thế, trong mấy giờ đồng hồ, nhìn cũng vui mắt thật. Ấy có vài ba nghìn người mà thế, những khi tàu chở đến một quân đoàn mấy vạn người thì còn oai nghiêm đến thế nào! Khá khen thay là sức cái tàu kia, mạnh đến bao nhiêu mà coi vững như Thái Sơn, có bấy nhiêu người chớ giá tưởng cả bao nhiêu người trong phố phường này trút xuống cũng có thể dung được. Đúng 3 giờ, tàu thổi hiệu cất cầu. Kẻ trên người dưới xôn xao: những bà con anh em xuống tiễn nhau, ai nấy tất tả chạy lên cho kịp, mà vừa đi vừa ngoảnh lại, nhìn mặt bắt tay một lần nữa. Những người đi gần, mươi lăm hôm, một vài tháng lại về, thì kẻ mừng nhau đi cho bình yên, người chúc nhau ở lại mạnh khỏe. Đến như những người biệt nhau mà chưa biết bao giờ lại gặp, nghĩ đến nông nỗi xa xôi, đường đi nguy hiểm, thì cái cảm tình lúc sau cùng ấy lời mừng lời chúc nào mà nói cho xiết được. Có kẻ nhịn khóc, có kẻ gượng cười, mà tưởng bấy giờ lắm người tấm lòng thổn thức khôn cầm. Lại đoái nghĩ đến mấy nghìn con người quê mùa mộc mạc kia, vị nghĩa quyên thân mà bỏ cửa bỏ nhà đi xa lần này là thứ nhất, tuy lúc bấy giờ vợ con xa, anh em vắng, không có kẻ đưa người tiễn như ai, mà trong lòng chắc cũng nao nao, cũng ngậm ngùi thương nhớ chốn quê hương. Rồi mà phu tàu cất thang, trong tàu mở máy, kẻ ở người đi mới thật cách nhau từ đấy. Nay mới cách nhau có vài thước, mà rồi nữa cách nhau mấy nghìn mấy muôn dặm có khác gì. Cũng là không được gần nhau rồi, và chỉ trong mấy phút đây là không nhìn thấy mặt nhau nữa. Não nùng thay lúc phân kỳ! Nhân sinh thật không có cái lúc nào đáng nên thơ bằng. Tàu từ từ quay mũi, rồi cứ xa dần mãi ra. Bẩy giờ mới đến cái lúc phất khăn mặt là đoạn tương biệt sau cùng. Trên tàu dưới bến phấp phới những mảnh vải lụa, cái xanh, cái trắng, cái hồng như đàn bươm bướm bay. Bay mà không tiến được thước nào, bay mà không tới được gần nhau, càng bay lại càng xa, cho đến lúc không trông rõ người nữa. Tàu đã ra đến ngoài cửa Cấm, đến chỗ nước xanh nước đỏ giao nhau. Tới ngang bãi Đồ Sơn thì trời vừa tối. Gió chiều thổi lộng bốn bề, giải cơn phiền nhiệt lúc ban ngày, mà mát mẻ tấm lòng người viễn khách. Ai nấy sửa soạn buồng the, kiểm điểm hành lý, đành lòng rằng đã gửi thân vào chiếc bách vững vàng; trong mấy ngày mấy đêm phó mặc cho bể khơi sóng biếc. Chợt nghe tiếng chuông, là hiệu ăn bữa tối. Các hành khách đều ra buồng ăn, đèn điện thắp sáng choang, đĩa cốc bày la liệt. n cơm xong, ai nấy đóng cửa phòng, lên trên boong hóng mát. Bấy giờ trăng vừa mọc, - bữa đó là ngày 16 tháng 7 ta, - trước còn ngậm nửa vành dưới nước, áng chiếu một góc trời, sau từ từ cao dần lên, tuy không được sáng tỏ lắm mà cũng không mờ, đủ biến mặt bể thành một áng thủy tinh lấp loáng. Tàu thật là rẽ sóng mà đi: nước bị gạt ra hai bên xa ước vài mươi thước, rồi gặp sóng xô, lại cuốn trở lại, bắn bọt lên trắng xóa. Cứ đẩy ra xô vào như thế đều đặn, tưởng không sai một ly một tấc nào, tưởng như cái bọt mỗi lần bắn lên rơi xuống ấy lần nào cũng đúng bấy nhiêu giọt vậy. Ấy là lúc trời bể bình tĩnh, trên trăng sáng dưới sông êm, mới được thế, chớ những khi phong ba bão táp, trời tối nước đen, thì cái cảnh tượng lại khác nhiều. Chuyến đi này thật là sóng gió êm đềm, ngồi trong tàu không biết rằng tàu có chuyển động, cũng là một sự may vậy. Chẳng bù với chuyến về, phải một ngày một đêm lắc lư điên đảo, đầu lao đao, ruột xôn xao, thật cũng khổ thay! Là vì trong tuần tháng bảy, bể còn yên lặng, từ tháng chín tháng mười trở đi mới bắt đầu có sóng gió. Đêm đã khuya, trăng đã tà, gió đã lạnh, mới xuống phòng nằm nghỉ. Trong tàu bấy giờ đã vắng kẻ đi người lại, lắng tai nghe như có tiếng rền rĩ âm thầm tự đâu dưới đáy bể đưa lên, lại có lúc như tiếng diều sáo kêu tự đâu trên mấy từng mây vẳng xuống: vo vo ve ve, hu hu hi hi, văng vẳng xa nghe như não như nùng, như ai như oán, như mấy muôn vàn cái oan hồn vừa than vừa khóc trong khoảng trời nước mênh mông. Đêm khuya thanh vắng, nghĩ mà rùng mình, tưởng tượng như đó là oan hồn của những kẻ tử trận bên Âu châu, thừa lúc đêm đã gần tàn, trời sắp sáng, thoát li chốn chiến trường hôi hám mà bay bổng trong khoảng rộng thanh cao thân ngâm nỗi biệt ly sinh tử mà kinh hoàng giấc mộng tàn của lũ người đời say tỉnh... Nhưng nghe kỹ mới biết rằng đêm đã khuya, nằm chưa ngủ, tinh thần mệt nhọc mà cuồng tư loạn tưởng đó mà thôi: cái tiếng vo vo ve ve, hu hu hi hi kia chẳng qua là tiếng gió thổi qua những ống thông hơi thông gió ở xung quanh tàu, ban ngày tiếng người xôn xao nghe không rõ, đêm khuya thanh vắng mới như văng vẳng bên tai. Cho hay không gì vô bằng bằng cái tư tưởng của người ta! Mà cũng không gì huyền diệu bằng!... Mấy bữa sau trời vẫn bình tĩnh như vậy. Ngày tuy có nóng mà gió bể làm ra ấm áp, đêm thì gió mát trăng thanh. Trừ buổi ngủ buổi ăn, còn các giờ khác ở luôn trên boong, hoặc đi bách bộ, hoặc bắc cái ghế dài ngồi đọc sách, hoặc đứng giờ lâu nhìn mặt trăng soi làn sóng, trước mặt là bể khơi vô hạn, sau lưng là dẫy núi Trung Kỳ. Có lúc chợt quay lại, thấy một đám đèn lửa xa xa, lốm đốm như sao sa: tàu bấy giờ vừa đi ngang tỉnh Quảng Ngãi. Nghe người ta nói nếu đi ban ngày mà đi gần bờ thì thấy cái nhà mát của quan cố quận công Nguyễn Thân, xây ngay trên núi, nhìn ra ngoài bể. Nhưng bữa đi vào đêm mà lại xa bờ, đến hồi về thì tới ngang Bình Định trời trở gió, tàu lắc lư, người lảo đảo, nằm rí trong buồng, không cất đầu nổi, còn ra ngắm phong cảnh sao được! Mới biết sự đời không cái gì là chắc, tổng thị là một mớ ngẫu nhiên: ngẫu nhiên mà biết cảnh này, ngẫu nhiên mà gặp người kia, chớ có rắp mà không được, đừng có hẹn mà sai nhau, tấm thân trong trời đất đã như chiếc bách ở giữa dòng, thời trôi dạt vào đâu là hay đó, đừng có nói tiền định, đừng có nói thiên duyên, đừng có cậy ở câu Nhân định thắng thiên mà làm. Răn thay những kẻ cơ quyền... Tàu đi cả thảy hai ngày rưỡi ba đêm, đường đi tới hơn một ngàn rưởi cây lô mét. Tang tảng sáng ngày thứ tư đã vào tới cửa Sài Gòn. Đi qua “Vũng Tàu” (Cap Saint-Jacques) vào hồi quá nửa đêm, nên không được trông rõ phong cảnh một nơi hiểm yếu có tiếng của Đông Dương ta. Đến khi trở về sẽ được hết sức ngắm kỹ. Nay thế là đã tới đất Nam Kỳ rồi. Sài Gòn cách bể những 60 cây lô mét, nên tự cửa Cần Giờ vào, đi ngược con sông Sài Gòn, còn phải mất mấy giờ đồng hồ. 7 giờ sáng thì tàu vừa ghé bến. Trông dưới bến đã thấy nhan nhản những người ra đón anh em bà con sắp ở tàu xuống. Quan cảnh sát lên kiểm giấy thông hành, ước một khắc đồng hồ thì cu li mỗi đứa cái thẻ đồng ở tay ồ vào tranh nhau khiêng đồ hành lý. Tuy vậy coi còn nghiêm hơn cu li Hải Phòng, vì bọn đó chừng có pháp luật riêng phải theo, không dám làm nhũng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:25:42 GMT 9
Một tháng ở Nam kỳ-Phần II Phạm Quỳnh Bước xuống đất, ngoảnh lại chào cái tàu lớn kia đã chở mình tới đây được an toàn trót lọt. Càng nhìn càng thấy to lớn thay! Ôi! Ta từ biệt ngươi từ đây, mong rằng có ngày lại được gặp ngươi lần nữa. Người đời đi chuyến đò còn nên nghĩa, huống chi là ngươi với ta, trong mấy đêm ngày đã cùng nhau bềnh bồng trên mặt sóng!... Ta từ biệt ngươi, ngươi có biết không, hỡi kềnh nghê bằng gỗ sắt?... Khi đã ngồi trên xe kéo, chạy qua cầu Khánh Hội, hô hấp cái không khí mát buổi sáng, mới bắt đầu tiếp xúc cái cảnh sắc, cái khí vị đất Sài Gòn từ đấy. Ngay lúc mới đầu ấy đã biết ngay cái cảnh sắc ấy là cảnh sắc một nơi thành phố tây, cái khí vị ấy là khí vị một chốn đô hội lớn. Tạm để đồ hành lý ở nhà khách sạn, rồi đi thăm các người quen thuộc, phần nhiều là quen tên thuộc tiếng mà chưa từng tiếp mặt bao giờ. Nhân thể đi dạo chơi trong mấy đường phố lớn. Đường có tiếng nhất ở Sài Gòn là đường Catinat. Catinat nguyên là tên một quan nguyên soái nước Pháp về đời vua Louis thứ 14, sau là tên chiếc chiến thuyền sang đánh cửa Sài Gòn trước tiên cả. Nay đặt tên cho một đường lớn ở Sài Gòn là có ý muốn lưu một mối kỷ niệm cho người sau vậy. Kể to lớn thì đường Catinat chưa phải là to lớn nhất ở Sài Gòn. Nhưng cũng tức như đường Paul Bert ở Hà Nội là nơi người Tây đến lập phố trước nhất, rồi sau mỗi ngày một bành trướng mãi ra, thành nơi trung tâm, đâu đâu cũng đổ xô về đấy, các đường mở sau đều tiếp phụ xung quanh. Đông đúc phồn thịnh đến nỗi đã phải mở một con đường chạy dọc theo, to lớn rộng rãi hơn nhiều, gọi là đường Charner - tức là tên quan thủy quân phó nguyên súy coi chiếc tàu Catinat vào đánh Sài Gòn - để rút bớt cái sức bành trướng đi ít nhiều, mà vẫnhằng ngày hằng phát đạt, không giảm đi chút nào. Các cửa hàng lớn, hàng tây, hàng ta (phần nhiều người Bắc Kỳ), hàng Chà (phần nhiều người Bombay bên Ấn Độ), hàng khách, chen nhau xin xít. Lại thêm có mấy nhà khách sạn lớn, nhà chớp bóng, nhà hát tây, nên chiều chiều cứ tự năm giờ trở đi kẻ đi người lại như nước chẩy. Người sang trọng, kẻ thượng lưu, tất mỗi buổi phải dạo qua đường Catinat một lượt mới là nền. Những trai thanh gái lịch đất Sài Gòn lấy đấy làm chốn cực phẩm phong lưu. Trên đường thì xe hơi không biết mấy trăm mấy chục mà kể, tiến lên êm như ru, như vô số những làn sóng tự ngoài xa đưa lại, rạt cả bên bờ nhà “Đại lục khách sạn” (Hôtel Continental). Nhất là ngày chúa nhật, sau khi tan lễ nhà Thờ Chánh, không cảnh tượng gì đẹp bằng đường Catinat chừng hồi chín mười giờ. Đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, người Tây, người Nam, ăn bận rất lịch sự, ở nhà thờ ra đi dạo qua các cửa hàng, lũ lượt như ngày hội. Thật là nghiễm nhiên ra cái cảnh tượng một nơi đại đô hội, đương buổi quốc dân phong phú, thiên hạ thái bình. Coi đó không ngờ rằng trong thế giới hiện còn mấy nghìn vạn con người đương lầm than trong vòng máu lửa! Người ta thường gọi Sài Gòn là cái “hạt báu của Á Đông” (la perle de l'Extrême-Orient). Tôi chưa từng được biết những nơi đô hội lớn ở Á Đông, như Hương Cảng (Hongkong), Thượng Hải (Changhai), Tân Gia Ba (Singapore), nhưng chắc rằng những nơi ấy tuy có lớn, có đông, có sầm uất phồn thịnh hơn, mà về cách sửa sang sắp đặt, về cái qui mô các đường phố, các lâu đài, về cái vẻ chỉnh đốn sạch sẽ, mĩ miều khả ái, chơn chu mà sán lạn như hạt châu mới rũa, thì còn kém Sài Gòn nhiều. Đường phố như vẽ bằng tay, kẻ bằng thước, đều đặn, thẳng thắn, rộng rãi khang trang, nhiều đường ở giữa lại để những khoảng rộng trồng cỏ, đặt những tượng đồng kỷ niệm, chiều đến hàng trăm cái đèn điện lớn chiếu sáng như một dẫy dài những quả ba lông lấp loáng thả phấp phới ngay trên giữa đường phố, coi rất là ngoạn mục. Đẹp nhất, coi trang nghiêm nhất là con đường đi thẳng vào phủ Toàn quyền (người Sài Gòn thường gọi là tòa Chánh soái). Hai bên có hai khu vườn trồng những cây lớn, tối trông như hai đám rừng nhỏ, ở giữa một con đường rộng chạy thẳng băng tự đầu tỉnh đằng kia cho tới ngang cửa phủ. Coi thật là có bề thế, có vẻ tôn nghiêm, xứng đáng với một nơi tướng phủ. Mà phủ Toàn Quyền ở đây, qui mô cũng đẹp hơn ở Hà Nội. Phủ Toàn Quyền Hà Nội tựa hồ như một đống gạch xếp vuông, trông có vững vàng bền chặt mà nặng nề biết bao nhiêu! Ở Sài Gòn thì như hình chữ đinh J, nét ngang trên là chánh dinh, nét sổ dưới là các tơ tào. Mặt trước ở gian giữa có bậc lên, hai bên hai con đường dốc quanh lại như hình bán nguyệt, trông ra cái vườn rộng thênh thang, giữa có bãi cỏ phẳng lì như một tấm thảm xanh, trên chỉ trồng hai khóm trúc in nhau như hệt. Còn xung quanh thì vườn trại mênh mông, cây cối rậm rạp. Những khi quan Toàn quyền ở Sài Gòn, tối đến trong dinh đèn điện thắp sáng choang, trông xa tưởng tượng như một tòa lâu đài bằng ngọc có trăng chiếu, chon von ở giữa khoảng rừng rậm tịch mịch u sầu, khác nào như trong truyện thần tiên vậy. Khen cho ông quan tạo tác nào kinh doanh cái phủ Toàn Quyền đó cũng khéo tay. Sài Gòn còn nhiều những dinh thự cùng các nhà công sở đẹp lắm, như nhà dây thép, tòa án, dinh quan Thống đốc Nam Kỳ (tức trong ấy gọi là dinh Phó soái), nhà hát tây, v.v... Nhưng đẹp nhất là nhà Thị sảnh Sài Gòn (Hôtel de ville, trong ấy gọi là nhà “xã tây”, vì ông đốc lý thành phố tục kêu là ông xã tây). Kiểu đại khái cũng giống như các nhà thị sảnh bên Tây, trên có cái chòi vuông mấy từng cao chót vót. Mặt trước trông thẳng ra đường Charner vừa dài vừa rộng, đi đằng xa lại, coi cũng có cái vẻ trang nghiêm, xứng đáng làm nơi công sở của một chốn đô hội lớn như Sài Gòn. Chẳng bì với nhà Đốc lý Hà Nội ta, thật so sánh mà thẹn thay. Mà Hà Nội lại là nơi thủ đô của Đông Dương! Hà Nội có cái nhà hát to quá không biết dùng để làm gì, suốt cả năm bỏ vắng ngắt như chùa bà Đanh, mà đến cái nơi công sở để hằng ngày lo công tính việc cho ngót mười vạn con người, để phòng khi có quan sang khách quí ở nước ngoài qua lại đón tiếp cho xứng đáng, thì coi như cái nhà hầm, bốn bề kín mít, khí trời ánh sáng không lọt tới bao giờ! Xin các ông hội viên phải lưu tâm đến sự đó, thật là có quan hệ cho danh dự Hà thành ta. - Nhà thờ Sài Gòn tuy không có cái nền đá cao như nhà thờ Hà Nội, mà có hai cái tháp nhọn cao ngất trời, những khi trời sáng sủa đi tự ngoài Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) cũng trông rõ. Lại nhà dây thép, trong gian giữa có cái tượng đồng người đàn bà ngồi trên quả địa cầu, để biểu hiện cái tin tức của người ta nhờ dây thép mà truyền được đi khắp thế giới, coi cũng mạnh mẽ và có ý tứ lắm. Chỉ hiềm chỗ đặt khí tối, giá người nào bước vào vô ý không ngửng mặt lên thì không biết! Còn Chợ Mới Sài Gòn cũng có cái nhà chòi ở cửa giữa thật là vĩ đại, vừa cao vừa vững vàng lực lưỡng, coi như một cái pháo đài vậy. Mà trong chợ thì rộng mênh mông, chợ Đồng Xuân Hà Nội chẳng thấm vào đâu. Nói tóm lại, cái hình thức của thành phố Sài Gòn sánh với thành phố Hà Nội còn hơn nhiều. Từ cách đặt đường phố cho đến cách dựng cửa nhà, từ cách thắp đèn điện cho đến cách đặt máy nước ở các nhà, cho đến cách tuần phòng vệ sinh trong phố xá, nhất nhất đều có tiến bộ hơn Hà thành ta cả. Ở Sài Gòn thật là có cái cảm giác một nơi đô hội mới, nghĩa là một nơi đô hội theo lối tây. Vào đến Chợ Lớn thì lại ra cái cảm giác một nơi đô hội theo lối tàu. Còn các châu thành khác ở Lục tỉnh, thì những nơi quan sở là tây mà chốn phố phường là tàu, phần An Nam thật ít lắm. Xét về phương diện đó thì những đô hội Bắc kỳ tuy coi cũ kỹ mà còn có cái vẻ An Nam hơn. Người khách ngoại quốc nào sang du lịch đây, nếu không có cái chủ ý quan sát phong tục người dân thì ở Sài Gòn sướng tiện hơn, nếu muốn biết cái chân tướng sự sinh hoạt dân An Nam thì cứ đi chơi qua phố phường Hà Nội cũng đủ làm một cái kho khảo cứu không cùng. Tuy vậy, các tỉnh thành khác không nói làm gì, mà Hà Nội đã là nơi thủ đô của Đông Dương thì về phần hình thức mới cũng không kém Sài Gòn mới là phải. Nếu cái hình thức mới cũng đủ mà các đặc sắc cũ vẫn còn thì mới thật là xứng đáng vậy. Ngay chiều bữa tới Sài Gòn, gặp ông chủ bút “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) là một tờ báo bằng chữ Pháp của mấy ông danh giá trong Lục châu lập ra, và rất có thế lực trong các hạng tân học ta. Thường đọc báo đó, biết tiếng các ông, phục cái tài của các ông viết văn Pháp như người Pháp, khen cái chủ nghĩa của các ông muốn bênh vực cho quyền lợi dân An Nam, vẫn ước ao được tiếp mặt. Nay được gặp lấy làm mừng lắm. Chủ nhiệm “Nam Kỳ tân báo” có hai ông Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai, nhưng đứng tên quản lý chỉ có ông Nguyễn mà thôi. “Quan bác vật Bùi” thì trong Nam ngoài Bắc ai ai cũng đã biết tiếng. Nguyên ngài có chức “nông nghiệp kỹ sư”, sung giám đốc các sở canh nông Nhà nước, trong Nam kêu vắn tắt là quan “bác vật”. Ngài năm nay đã đứng tuổi, đã từng ở Bắc lâu, ở Kinh cũng nhiều, cái học vấn đã sâu, sự kiến văn lại rộng, thật là xứng đáng làm một tay lĩnh tụ (leader) cho dư luận xứ Nam Kỳ. Lại thêm người ôn nhã, điềm đạm, lễ độ, tiếp chuyện thật là vui. Ông Nguyễn Phú Khai thì người còn trai trẻ lắm, cũng đã từng đi học bên Tây và có văn bằng “Kỹ sư” (ingénieur). Người lanh lợi thông minh, cũng là một tay lỗi lạc trong bọn tây học nước ta. Ngay khi mới gặp, hai ông có cho biết bữa đó chính là ngày kỷ niệm “Nam Kỳ tân báo” đã đầy năm và mời đến dự tiệc chiều hôm ấy. Tôi lấy làm vui mừng mà nhận lời ngay, thật cũng là một sự may mới tới Nam Kỳ đã được cái dịp tốt để biểu chút cảm tình với bạn đồng nghiệp. Tiệc dọn tại nhà cao lâu khách ở Chợ Lớn. Vậy 7 giờ chiều cùng ông Bùi và mấy người bạn nữa đi xe ngựa về Chợ Lớn. Nhân thể được ngó qua cái cảnh tượng Chợ Lớn buổi tối, thật ngày thường như ngày hội, các phố khách Hà Nội Hải Phòng chửa thấm vào đâu. Nhưng bữa đó mới đi lượt qua mà thôi, khi tiệc tan rồi thì đã khuya, không thể dạo chơi các phố phường được, định bữa khác sẽ coi kỹ hơn. Tiệc đông lắm, ước đến bốn năm chục người, phần nhiều là những bậc tai mắt ở Sài Gòn và Chợ Lớn. Cũng lại là một dịp may được gặp mặt các ông ấy để nối cái dây thân ái kẻ Bắc người Nam. Bữa tiệc thật vui, có cái vẻ đậm đà thân mật, không có những lối kiểu cách như ngoài ta. Nói chuyện toàn bằng tiếng tây, ông nào cũng nói giỏi, không những nói giỏi mà đến cái giọng nói, cái cách cử động cũng hệt như tây vậy. Trong các ông dự tiệc đấy, có nhiều ông đã vào dân tây. Coi đó thì biết các bậc thượng lưu trong Nam Kỳ tây hóa đã sâu lắm, hầu như không còn chút gì là cái phong thể An Nam nữa. Về đường đó thì ngoài Bắc Kỳ Trung Kỳ còn kém Nam Kỳ nhiều. Đến cách nghị luận cũng đường đột mãnh liệt, trực mà không có những lối khép mở xa xôi như các nhà cựu học ngoài ta. Hai cái tâm lý khác nhau biết dường nào! Cái nào là hơn? Khó mà quyết được. Song thiết tưởng nếu điều hòa được cả hai thì hơn nhất. Nhưng sự điều hòa ấy có thể thành được không? Đó là cái vấn đề rất quan trọng cho cuộc tiến hóa dân ta sau này vậy. Khi trở về Sài Gòn, vừa ngồi xe vừa nghĩ lan man về cái tương lai nước nhà, thật có lắm sự hi vọng đáng vui mà cũng nhiều cái hiểm tượng đáng buồn. Nhưng mà cái tương lai là cái tương lai, ai là người dự đoán được bao giờ? Vả con đường tiến hóa của mỗi dân mỗi nước là bởi lịch sử, bởi thời thế khiến nên; người ta dẫu hết sức tư tưởng nghĩ ra đường này là hơn hay là đường kia là phải, cũng không thể nào đổi được lịch sử, chuyển được thời thế mà mong khuynh hướng cái cuộc tiến hóa kia về đường mình. Cho nên nghĩ xa xôi lắm mà làm chi?... Mấy bữa sau đi thăm các bạn “đồng nghiệp”, tức là các anh em làm báo ở Sài Gòn. Gặp ông nào cũng được chuyện trò vui vẻ lắm, mới biết kẻ Nam người Bắc tuy ít dịp gần nhau thân nhau, mà mỗi lần biết nhau, thật là dễ nên cái tình thân ái vậy. Cho hay người một nước một nhà, dẫu xa cách mà cũng là anh em, miễn là đối với nhau lấy lòng thành thực, đừng có cái thói ghẻ lạnh người thường, thì khó gì mà chẳng nên thân mật được? Huống bọn mình lại cùng theo đuổi một nghề, tức là cái nghề khua chuông gõ mõ trong quốc dân, đem những lời hay lẽ phải mà bàn bạc với bạn đồng bào, mong gây lấy một mối tư tưởng cảm tình chung, mưu cho nước nhà giống nhà sau này được cường mạnh vẻ vang, có ngày mở mặt mở mày với thế giới, thì cái mục đích cao xa ấy há lại không đủ khiến cho ta đồng tâm hiệp lực mà cùng nhau đạt cho tới rư? Ôi! Nếu hết thảy các nhà làm báo ai cũng hiểu cái nghĩa vụ của nghề làm báo thì còn nghề gì đẹp bằng, hay bằng, cao thượng bằng, đủ khiến cho người ta tận tụy một đời mà theo đuổi cho cùng? Đương buổi mới cũ giao nhau, cái tư tưởng quốc dân chưa biết lấy gì làm chuẩn đích, bọn mình nên đề xướng những chủ nghĩa hay để dìu dắt quốc dân vào con đường chánh đáng, đừng để cho xa lạc vào những ngõ ngách hiểm nghèo. Về đường giáo dục, về đường xã hội, về đường chính trị, về đường phong tục, về đường văn chương, về đường đạo đức, cái thế lực của bọn ta có thể bao gồm hết thảy. Một lời công luận của ta có thể làm cho người ta bỏ đường tà mà theo đường chánh, hay là bỏ đường chánh mà theo đường tà được. Vậy cái lời công luận đó ta chẳng nên quí báu lắm rư? Ta chẳng nên cẩn thận lắm rư? Ta há lại nên phản cái mục đích của ta mà dùng lời công luận đó làm cái khí giới để công kích lẫn nhau, bày ra một cái gương xấu cho quốc dân rư? Dám chắc rằng các anh em trong báo giới ta không có ai hiểu lầm cái nghĩa vụ đến vậy. Nếu quả được như vậy thì may cho nước nhà lắm lắm. Bây giờ cần nhất cho dân ta chỉ có sự học, nhất thiết cái gì cũng phải học cả, như đứa con nít mới đến tuổi vào trường vậy. Bọn ta phải hết sức giúp một phần vào sự học ấy, cho cái trình độ quốc dân mỗi ngày một cao thêm lên, cho cái tư tưởng quốc dân mỗi ngày một rộng thêm ra, để có ngày đủ khôn đủ lớn mà ra tranh đua với đời được. Chắc cái trách dạy dân không phải ở đâu bọn mình, mà thực thuộc quyền Nhà nước. Nhưng mình có thể giúp vào đó một phần to: Nhà nước là ông thày dạy dân, thì mình cũng có thể đương được một chân trợ giáo. Có lẽ nhiều điều mật thiết trong dân gian, Nhà nước không xét tới mà mình tường hơn, cái công giáo dục của mình có khi ích lợi hơn Nhà nước nhiều. Thiết tưởng hiện nay cái nghĩa vụ nhà báo phải như vậy mới là chánh đáng, chớ những kẻ coi báo giới như một nơi tranh ăn nói, dành lợi danh, hay là một chốn hí trường để đem những lời nghiêng ngửa, truyện dâm bôn mà mơn man, mà khêu gợi cái dục tình sằng của công chúng, thì thật là làm mất giá một cái nghề rất hay, rất cần, rất có ích lợi cho nước nhà đương buổi bây giờ. Báo giới trong Nam Kỳ thạnh lắm, phát đạt hơn ngoài Bắc nhiều. Hiện nay có đến mười tờ báo bằng quốc ngữ. Không kể “Nam Kỳ tân báo” (La Tribune indigène) viết bằng chữ Pháp, - gần đây báo ấy cũng mới xuất bản thêm một tập phụ trương bằng quốc ngữ, mỗi tuần lễ một kỳ, đều là Quốc dân diễn đàn, - còn các báo khác thì có những tờ như sau này:Nông cổ mín đàm, chuyên chủ về nông nghiệp, thương nghiệp, mở ra đã lâu, là tờ báo có tuổi nhất ở Nam Kỳ, hiện ông Nguyễn Chánh Sắt làm quản lý và chủ bút, ông cũng là một nhà trước thuật có tiếng ở Nam Kỳ; -Nam trung nhựt báo, chủ nhân là quan huyện Nguyễn Văn Của chủ nhà in Union, là một bậc thân hào danh giá ở Sài Gòn, sinh ra quan hai Nguyễn Văn Xuân hiện tùng chinh bên Đại Pháp; chủ bút là ông Nguyễn Tử Thực, có ông Nguyễn Viên Kiều giúp; -Công luận báo, quản lý ông Nguyễn Kim Đính, chủ bút ông Lê Hoằng Mưu; - Lục tỉnh tân văn, của ông chủ nhà in Schncider, ông phủ Gilbert Trần Chánh Chiến làm chủ bút; Nữ giới chung (Femina annamite) là tờ báo riêng cho các bậc nữ lưu, chủ nhiệm là ông Trần Văn Chim và ông Lê Đức; -Nam Việt tề gia nhựt báo (Journal de la famille annamite), của một bà đầm làm báo ở Sài Gòn mở ra để riêng cho đàn bà con gái An Nam coi; -Nhựt báo tỉnh (Moniteur des provinces), là một tờ công báo, dịch những nghị định công văn của Nhà nước, đăng những tin thuyên chuyển trong quan lại; -Nam Kỳ địa phận, là một tờ báo của nhà Trung. - Lại gần đây nghe nói mới xuất bản một tờ Thời báo, một tờ đặt tên nôm là Đèn nhà Nam. Đèn nhà Nam, cái tên sáng sủa thay! Ước gì đèn được sáng tỏ mà chiếu khắp chốn kẻ chợ nhà quê, nơi hang cùng ngõ hẻm, phá được cái thành hôn mê mà soi tỏ con đường tiến bộ. Đó là cái mục đích chung của cả báo giới ta vậy. Mấy tờ báo trên đó là xuất bản ở Sài Gòn. Còn ở Long Xuyên có Đại Việt tập chí, thể tạp chí, mỗi tháng một kỳ, của hội Khuyến học Long Xuyên, cái chủ nghĩa, cái tôn chỉ cũng giống như Nam Phong vậy. Lại ở Cần Thơ, có tờ An Hà nhựt báo, ông huyện Võ Văn Thơm làm quản lý, có một phần chữ tây, một phần quốc ngữ, chuyên về nông nghiệp thương nghiệp. Một địa hạt Nam Kỳ mà bấy nhiêu tờ báo kể cũng đã nhiều lắm vậy. Cứ lấy cái “lượng” (quantité) mà xét thì thật đủ khiến cho Bắc Kỳ Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về đường ngôn luận còn chậm kém xa quá. Nhưng cái “phẩm” (qualité) có được xứng đáng với cái “lượng” không? Điều đó thì chưa dám chắc vậy. Xưa nay phàm cái gì muốn cho nhiều tất giá phải kém, không thể vừa nhiều vừa tốt cả được. Muốn giữ cho cái “phẩm” cao, tất phải hạn cái “lượng” lại mới được. Ấy công lệ từ xưa vẫn thế: nghề làm báo, nghề làm sách, có thể ra ngoài được cái công lệ ấy không? Thiết tưởng rằng không. Cho nên xét ra các đồng bào ta trong Lục tỉnh hình như có ý trọng cái “lượng” hơn cái “phẩm” vậy. Đó cũng là một điều khuyết điểm trong học giới báo giới xứ Nam Kỳ. Ta vừa nói nghề làm sách: nghề làm sách ở Nam Kỳ cũng thịnh lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo nhiều. Tuy vài năm gần đây đã bớt đi nhiều, mà trong khoảng năm năm mười năm về trước, cái số những sách quốc ngữ xuất bản ở Sài Gòn không biết bao nhiêu mà kể. Thứ nhất là những bản dịch các tiểu thuyết tàu cũ, như Tam quốc, Thủy hử,Chinh Đông, Chinh Tây, Phản Đường, Tùy Đường,Đông Châu, Phong thần, Đại Hồng bào, Tiểu Hồng bào, v.v... nếu sưu tập cả lại thì làm được một cái thư viện nhỏ! Những tiểu thuyết tàu tự tám mươi đời triều ấy văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn những truyện huyền hoặc quái đản, của mấy bác cuồng nho bên tàu đời xưa ngồi không bịa đặt ra để khoái trá những bọn hạ lưu vô học. Thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng khả kinh thay! Không trách cái tư tưởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi sinh ra những việc xuẩn động hại đến cuộc trị an trong xã hội cũng vì đó. Có người nói việc phá khám Sài Gòn năm nọ cũng là bởi cái di độc của các tiểu thuyết tàu mà ra, tưởng không phải là nói quá vậy. Cả ngày cả đêm những ca tụng cái tài ông Tiết Đinh Sơn, ông Tiết Đinh Qui, hay những ông tướng kỳ khôi từ đời hồng mang nào, trách sao trong trí không loạn lên mà muốn làm thực những việc mình thường đọc thấy trong truyện? Càng những bọn hạ lưu hung hãn lại càng dễ nhiễm hơn cả. Coi đó thì biết văn chương không phải là không có quan hệ đến nhân quần; các nhà làm sách há chẳng nên cẩn thận lắm rư? Chắc ai cầm bút viết trong bụng cũng có cái ý tốt cả, và như các nhà dịch tiểu thuyết tàu kia là chỉ chủ làm một món mua vui cho các bạn đồng bào trong khi tửu hậu trà dư, lại vừa làm một mối lợi riêng cho mình; nhưng phải nghĩ đến cái ảnh hưởng những truyện vô bằng ấy vào trong óc mộc mạc của những kẻ ít học, chưa biết suy nghĩ sâu xa, thường lấy hư làm thật, lấy giả làm chân, nó hại biết dường nào! Ấy là cái tệ các tiểu thuyết cũ dịch của Tàu. Đến cái tệ của phần nhiều các tiểu thuyết mới ngày nay thì lại thậm hơn nữa, vì cách đặt để đủ làm cho bại hoại phong tục, điên đảo luân thường vậy. Tôi biết có bộ tiểu thuyết cực là dâm bôn mà lại rất là thịnh hành trong bọn phụ nữ. Coi đó thì biết cái hại sâu biết dường nào! Gia đình tan cũng vì đó, xã hội nát cũng vì đó, cái tương lai nước nhà nguy hiểm cũng vì đó. Các nhà làm sách có nghĩ tới không? Hay chỉ chủ bán cho chạy hàng, thâu được nhiều bạc, còn những lẽ cương thường luân lý mặc quách cho ai? Ôi! Cổ nhân đã dạy: làm người sĩ phu trong nước cái trách là phải phù cho thế đạo, giúp lấy cương thường. Nếu những nhà làm sách lại cố ý làm nghịch thế đạo, đạp đổ cương thường, thì một nước như vậy sống làm sao được? Thiết tưởng các bậc trí thức trong Lục châu ai trông thấy văn vận suy đồi như vậy, phong túc bại hoại như vậy cũng phải lo, mà tìm cách duy trì cho kịp. Nên mau mau, kẻo cái tệ đã sâu lắm rồi. Song có một điều nên chú ý, là báo nhiều như thế, sách nhiều như thế, mà bán được chạy, có nhiều người mua, thời cũng là một cái chứng rằng dân Nam Kỳ có tính ham đọc sách và có tiền thừa mua sách. Như vậy mà nếu có những báo thiệt tốt, sách thiệt hay cho mà đọc thì ích lợi biết bao nhiêu. Chẳng bù với dân Bắc Kỳ Trung Kỳ, trăm người chưa được một người đọc thông chữ quốc ngữ, mười người đọc thông chữ quốc ngữ chưa được một người thích xem văn quốc ngữ, lại thêm dân nghèo, bỏ ra mấy đồng bạc mua báo một năm đã lấy làm một món tiền nặng; đến những bậc sĩ phu thì phần nhiều những quẩn quanh trong vòng danh lợi mà sao nhãng những việc văn chương; nghề làm báo làm sách thật không được đủ điều tiện lợi như Nam Kỳ. Cho nên khá tiếc thay cho những bậc trí thức trong Lục châu không biết khéo lợi dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt để ra những sách vở hay có ích cho phong hóa, nỡ để cho cái lòng ham đọc sách, ham mua sách của người dân ấy ngập vào những sách vở hoặc vô vị, hoặc tầm bậy không ra gì, thật uổng quá. Nay nhân nói về nghề làm báo làm sách, nên xét qua cái tình trạng văn quốc ngữ ở Nam Kỳ thế nào. Chữ quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc biết viết cả, nhưng đến văn quốc ngữ thì xem ra chưa được phát đạt lắm. Trừ mấy nhà văn sĩ có tiếng, còn thì cái trình độ quốc văn đại để hãy còn kém. Sự kém đó là bởi nhiều lẽ. Thứ nhất là Nam Kỳ bỏ nho học đã lâu, bao nhiêu cái văn điển cũ đã hầu mất hết không còn. Mà văn quốc ngữ ngày nay muốn cho thành văn chương, muốn cho phát đạt được, phi nương tựa, phi tổ thuật cái văn điển cũ ngày xưa thì không thể nào được. Lẽ đó tưởng tầm thường ai cũng hiểu, mà thật nhiều người chưa hiểu rõ, là vì nhiều người đặt sai cái vấn đề. Có người nói rằng nếu quả cần phải biết chữ nho mới làm được văn quốc ngữ thì muốn làm văn quốc ngữ tất phải học lâu năm chữ nho, tất phải trở lại những lối giáo dục hủ lậu ngày xưa, tất phải ra công rùi mài kinh sử, nghiền ngẫm một cái “tử văn” (lanque morte) vô dụng cho đời nay, như vậy thì chẳng uổng công lắm rư? Nay ta được nhờ nhà nước Đại Pháp dạy dỗ cho ta, mở mang cho ta con đường văn minh học thuật mới, đã mừng thay được thoát khỏi cái áp chế của chữ tàu trong mấy nghìn năm, có đâu ta lại mê cuồng đến nỗi lại đâm đầu vào cái chốn lao lung ấy lần nữa! Những người nào nói thế là hiểu sai. Nước Nam ta học chữ nho đã mấy nghìn năm, bất luận rằng cái cách học đời xưa hay hay là dở, phải hay là trái, có một điều hiển nhiên, ai cũng phải công nhận, là chữ nho đã tiêm nhiễm vào trong tinh thần ta sâu quá rồi, cái vết nó đã in vào trong óc ta không thể nhất đán đem mà gột rửa đi được, đến nỗi tiếng nói của ta ngoài những tiếng nhật dụng tầm thường phải dùng quá nửa chữ nho mới thành văn được, như vậy mà nếu bỏ hẳn chữ nho không học thì sao cho thuộc hết tiếng nước mình được? Đã không thuộc hết tiếng nước mình thì sao đặt cho thành văn chương được? Nhưng nói rằng cần phải biết chữ nho, không phải rằng phải học chữ nho như lối ngày xưa đâu; không phải rằng phải học cho làm được thơ, được phú, được văn sách kinh nghĩa như xưa đâu; không phải rằng lại phải trở về cái lối thi cử phiền toái, khảo cứu tỉ mỉ như xưa đâu. Xưa học chữ nho là vị chữ nho mà học chữ nho, nay học chữ nho là vị quốc văn mà học chữ nho. Cái mục đích đã khác, cái phương pháp cũng không giống. Xưa phải rùi mài kinh sử, từng trải Thiên kinh vạn quyển mới thi đậu được một chân đại khoa, mới làm nổi được một nhà văn sĩ có tiếng. Nay chỉ học cho đủ sự cần dùng về quốc văn mà thôi, chỉ học cho đủ hiểu hết một quyển Kim Vân Kiều hay một quyển Lục Vân Tiên mà thôi, thì có khó gì? Trước trăm phần nay không được một phần. Nhưng cái một phần ấy rất cần, không biết thời không thể nào cầm ngọn bút mà viết thành bài văn quốc ngữ được, dẫu tài giỏi khôn khéo đến đâu cũng không làm thế nào ra cái “hơi” văn An Nam được, vì cái “hơi” ấy là tự mấy mươi đời truyền lại cho ta, không thể tự mình mà đặt lấy ra được. Cho nên những người nào đã quyết không cho văn quốc ngữ là cần, đành bỏ vào cái địa vị yếu hèn, chỉ đợi ngày tiêu diệt cho xong, thì không nói làm chi, còn ai đã có bụng thương đến tiếng nước nhà, muốn gây dựng cho thành một nền quốc văn có thể sống được ở đời này, thì phải noi theo lấy cái văn điển cũ của ông cha, mà cái văn điển cũ của ông cha ấy ngoài chữ nho không kiếm đâu cho thấy được. Nay ở Nam Kỳ cái văn điển cũ đã xa lạc đi mất rồi. Tuy cũng có mấy nhà có chí muốn ra sức mà vãn hồi lại, nhưng cái phần phản đối với chữ nho, cái phần khảng khái một cách sai lầm, muốn thị hùng ra tay tước hết những cái văn vẻ tốt đẹp thanh tao của mấy mươi đời nho học đã di truyền lại cho tiếng An Nam mình, để bày trần cái khí vũ bỉ li nôm na ra, cái phần ấy thì nhiều lắm. Những người có chí kia thể nào mà chống lại cho nổi, thể nào mà cứu vớt lại cho toàn được. Đó là một cái nhược điểm cho hậu vận quốc văn ở Nam Kỳ vậy. Còn một cái nhược điểm to hơn nữa, là hiện nay phàm những bậc thượng lưu, những người có học thức, thông giỏi chữ Pháp, phần nhiều khinh rẻ tiếng An Nam, không thèm nhìn đến, cho là một thứ chữ đê tiện để cho hạng tầm thường dùng mà thôi. Như vậy thì quốc văn mong sao cho phát đạt được? Những người mong cho quốc văn có thể phát đạt được là thứ nhất trông cậy ở các nhà tân học ngày nay ra công giúp sức vào, đem cái tinh thần của văn minh học thuật Thái Tây mà đúc vào cái khuôn văn cũ của nước nhà, khiến cho thành được một nền văn thiết dụng với đời, không phải chịu mang cái tiếng hư văn như xưa nữa. Nếu những nhà ấy lại khảng tảng, không để bụng sốt sắng vào, không những thế, lại khinh bỉ nữa, thì quốc văn còn trông vào đâu mà sinh tồn, mà phát đạt được? Nếu cái nghề quốc văn chỉ riêng để cho những ông lão hủ ngồi mà ngâm nga đẽo gọt với nhau thì cái văn chương ấy sao cho thích hiệp với đời? Mà rồi những tay lão hủ kia một ngày một mất lần đi, một hết dần đi, sau này ai kế nghiệp, ai giữ được cho cái văn An Nam kia còn chút thoi thóp ở đời? Nguy vậy thay! Hai cái nhược điểm trên kia mà không phá được thì thật khá buồn thay cho hậu vận quốc văn mình, biết bao giờ cho ra khỏi được cái địa vị kém hèn. Cái tình trạng văn quốc ngữ ấy không những ở Nam Kỳ, mà ở Bắc Kỳ Trung Kỳ cũng có cái hiểm tượng như vậy. Duy có ở Nam kỳ là cái hiểm tượng ấy trình bày ra một cách rõ ràng hơn mà thôi. Cho nên mỗi lần nghĩ đến cái vấn đề này mà như nóng lòng sốt ruột, không biết giải quyết ra làm sao!... hết Phạm Quỳnh
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:28:57 GMT 9
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam Lời giới thiệu Cuốn sách này chủ yêu gồm các bài tuyển chọn từ tuần báo INDOCHINE. Indochine là một tờ báo bằng tiếng Pháp của Hội Alexandre de Rhodes. Báo ra từ đầu năm 1940 tới cuối năm 1944 thì đình bản. Cộng tác viên của báo chủ yếu là người Pháp. Có người là hội viên của Học viện Pháp quốc Viễn Đông như G.Coedes, Louis Malleret, có người đúng đầu một cơ quan chuyên môn như Paul Boudet, Giám đốc Sở lưu trữ và các Thư viện, J.Y. Claeys, Giám đốc Sở Khảo cổ... Cộng tác viên người Việt có: Trần Đăng, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Tôn, Nguyễn Tiên Lãng, Nguyễn Việt Nam, Trịnh Thục Oanh, Hoàng Thiếu Sơn, Dương Minh Thới, Đặng Phúc Thông, Lê Tài Trường, Nguyễn Mạnh Tường. Các họa sĩ minh họa người Việt có: Ngô Thúc Dụng, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tiên Lợi, Nam Sơn, Vũ văn Thu, Tô Ngọc Vân. Về nội dung Indochine có nội dung rất đa dạng: địa chí, nhân vật phong tục, dân tộc học, ngôn ngữ, giáo dục, giao thông, xây dưng, thủy lợi... với rất nhiều tranh ảnh minh họa đúng như tiêu đề hebdomadaire illustré của báo. Thật hiếm có một tờ báo lúc đó có nội dung rộng và phong phú như Indochine. Các bài của Indochine có chất lượng cao do được viết bởi các thành phần trí thức ưu tú Pháp và Việt lúc đó, nhất là bởi những người làm nghiệp vụ chuyên môn. Do đó đối tượng của báo chủ yếu là trí thức. Chúng tôi chọn dịch các bài của Indochine vì các bài đó mô tả khá đầy đủ diện mạo mọi mặt của nước Việt xưa. Ngoài các bài tuyển chọn từ Indochine, chúng tôi chọn thêm, rất ít, một số bài khác ngoài nguồn Indochine, trong đó có một bài duy nhất viết bằng Việt ngữ là bài Người đầm của Thạch Lam. Các bài chọn thêm này đều được ghi rõ xuất xứ để phân biệt với các bài của Indochine. Các bài không ghi tên tác giả xin hiểu là bài riêng của Indochine. Để bảo đảm tính thời đại của từ ngữ và, xin thú thực, đôi khi không tra cứu được, chúng tôi để một số danh từ riêng ở dạng nguyên văn, chẳng hạn Laokay thay vì Lào Cai. Chúng tôi nghĩ rằng bạn đọc sẽ dễ dàng nhận biết những từ đó. Về dung lượng cuốn sách, chúng tôi tạm bằng lòng với số lượng bài như bạn đọc sẽ thấy trong cuốn sách và hy vọng sẽ ra tiếp được một tập nữa. Các tranh ảnh trong cuốn sách này là chính tranh ảnh các tác giả bài viết đã sử dụng. Để hoàn thành cuốn sách này chúng tôi xin cám ơn ông bà Bùi Thế Kỷ, ông Vương An Lợi và cô Nguyễn Thị Phương. Người tuyển và dịch ______________________ Nhà xuất bản Hải Phòng, 5 Nguyễn Khuyến - TP Hải Phòng. Trung tâm VHNN Đông Tây, 8/91 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội In 700 cuốn khổ 13x19 tại Công ty in Khuyến học Giấy phép xuất bản số: 53-531/XBQLXB cấp ngày 20/5/2003 In xong và nộp lưu chiểu Quý 2, năm 2004 Tổng đại lý phát hành: Nhà sách Đông Tây Số 466 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội. Tel/fax: (04) 7733041 32 Bà Triệu, Hà Nội Tel/fax: (04) 8251374 Tỉnh thành xưa ở Việt Nam Louis Malleret Trong một bài mới đây chúng tôi đã mô tả cảnh quan tỉnh thành Sài gòn vào khoảng năm 1860. Nói đúng ra Sài gòn lúc đó là một điểm dân cư gồm các làng nửa An - Nam, nửa Tầu. Sau đó có những biến đổi rất nhanh. Nhưng trước hết chúng tôi thấy cần phải dẫn độc giả tới một số tỉnh thành của Đông Dương như những gì chúng hiện ra trước mắt các du khách thăm xứ này từ 1870 tới 1880. Khoảng tháng 7-1872, bác sĩ Morica từ Pháp tới Đông Dương sau một chuyến đi dài 45 ngày. Ông đi thăm các nơi với sự tò mò của một nhà tự nhiên học. Thoạt tiên, ông thăm Sài gòn, sau đó là Chợ Lớn. Trong số các điểm hấp dẫn ông đi thăm có các khu vườn nuôi cá sấu, mỗi vườn có từ 200 tới 300 con để cung cấp thịt cho khách ăn. Hồi đó người ta rất thích thịt cá sấu. Ba tháng sau, ông đi thăm Gò Công, một trong những trung tâm trồng lúa quan trọng. Lúc đó Gò Công được xem là một tỉnh đông dân với 33.000 dân tập trung trong 45 làng. Tỉnh lỵ chẳng có gì khác mấy so với các khu phố toàn nhà lá ở Sài gòn. Một số nhà lá vẫn còn ôm lấy một phần bến tầu và người ta có thể thấy vắt qua sông là một cây cầu theo kiểu Trung Hoa (hình 2). Đầu tiên, ông đi thăm Sở Thanh tra. Sở này nằm sau một con lạch và thông vào làng qua một chiếc cầu. Đó là một ngôi nhà cổ và sang trọng kiểu Tàu có một hàng hiên rất đẹp. Pháo đài liền ngay với Sở và chỉ cách nhau một hàng rào. Chỗ lượn của con lạch và nhiều đầm lầy bao lấy Sở ở các mặt còn lại. Lúc đó tỉnh Gò Công đã là một miền dễ chịu và yên bình nhờ lãnh binh Tân. Ông này mời bác sĩ Morice ăn cơm. Tại nhà viên lãnh binh, bác sĩ được chiêm ngưỡng các loại đồ nội thất khảm xà cừ và dự một bữa tiệc thịnh soạn trong khi một người mã-tà ở phía sau nhịp nhàng kéo chiếc quạt làm bằng lông chim. Gió quạt mạnh đến nỗi làm nghiêng ngả những nến. Bác sĩ còn đi thăm một ngôi chùa trong tỉnh. Giống như nhiều chùa khác ở Nam Kỳ, ngôi chùa có rất nhiều dơi. Bác sĩ lưu lại Gò Công ba tháng; sau đó, trở lại Sài gòn để đi Hà Tiên trên chiếc tàu hơi nước Valco. Tới Châu Đốc, bác sĩ Morice dùng thuyền tới. Giang - thanh theo kênh Vĩnh Tế. Con kênh này do viên quan Nguyễn Ngọc Thoại đào dưới triều vua Minh Mạng. Mộ của ông hiện còn ở vùng núi gần tỉnh lỵ Hà Tiên, lúc bác sĩ Monce tới, chỉ gồm một nhóm nhà lá rải rác trong các vườn cây (hình 3). Thành tỉnh ba mươi thắng cảnh được Mạc Thiên Tích Ca ngợi làm bác sĩ rất thích. Ông viết: “Tôi muốn là nhà thơ để mô tả phong cảnh tráng lệ hiện ra trước mắt. Các đồi cây xanh tươi ôm lấy bờ biển phía Tây. Dưới chân đồi, một hồ đổ nước vào vịnh Xiêm La. Trước mặt chúng tôi, về phía xa xa là Hà Tiên lờ mờ. Tỉnh thành này nửa nằm trên hồ, nửa nằm trên biển”. Từ Sở Thanh tra trên đồi, có thể phóng tầm nhìn xuống vịnh và các đồi xung quanh. Một hàng phi lao dài chạy xuyên qua chỗ xưa kia là thành men theo các bức tường của lâu đài họ Mạc ngày xưa dẫn tới thành tỉnh nằm trên đầm nước mặn có những ngôi nhà lá trát đất bùn. Tại Hà Tiên, bác sĩ Morice ở trong một cái túp xung quanh là đầm lầy. Ông viết “một trong những nét đặc trưng của Hà Tiên là nó giống nhu Vơ-ni-dơ. Một phố thẳng và dài nối hồ với biển, hai bên phố là nhũng ngôi nhà làm bằng bùn lấy ở cửa sông. Để có thể đi bộ giữa hai hàng nhà kỳ lạ đó, người ta làm một con đường lát ván dài khoảng hai trăm mét. Đổ vào con đường lát ván này là nhiều con đường lát ván khác nhỏ hơn từ các túp đơn độc dẫn tới”. Trong cái thành phố nửa đất nửa nước này, bác sĩ Morice đã được thưởng thức tết với tiếng pháo và những trò chơi như ném lao qua một chiếc vòng đặt trên ba chân cách xa từ sáu tới tám mét, trò ném cầu và đá cầu. Sau một tháng lưu lại Phú Quốc và một chuyến đi thăm ngắn ngủi Kampot, nơi đường điện tín nối với Hà Tiên rất khó bảo vệ khỏi sự giận dữ của voi rừng, nhà tự nhiên học của chúng ta quay về Châu Đốc và tiến hành nghiên cứu loài bò sát núi Sam. Sau đó ông tới Vĩnh Long (hình 4). Lúc đó Vĩnh Long là một quân trấn trong đó thành, giống như thành Châu Đốc và nhiều thánh khác ở Nam Kỳ, sao rập kiểu thành Van ban mà Olivier de Puymanuel và Théodore Brun truyền cách xây dựng cho người xứ này. Tuy nhiên, sự sao rập được đơn giản hoá và có những biến tấu mang tính cách châu Á. Bác sĩ Morice viết: “Phía sau các hồ bùn và tường đất cắm chông dày đặc là nhà sĩ quan và dãy nhà dành cho binh lính và bệnh viện. Tre và các bụi cỏ rậm rạp che kín một phần tường luỹ. Thỉnh thoảng người ta lại giết được những con trăn rất to trong đám cỏ đó trong khi rắn đeo kính ngủ trong các bụi cây ẩm ướt mọc lộn xộn trong các hố. Ngoài pháo đài là khu dân cư với vài dãy phố đẹp được những cây dừa cao to phủ mát. Vĩnh Long là một trung tâm nhộn nhịp, tới nay vẫn còn tiếng. Nó là lỵ sở của một tỉnh giầu có gồm 222 làng với 162.000 nhân khẩu. Bác sĩ Morice quay lại Sài gòn qua Mỹ Tho và Tân An. Mỹ Tho lúc đó bắt đầu có bộ mặt của một thành phố lớn, còn Tân An là “một trong những nơi chán nhất của thuộc địa”. Từ Sài gòn, bác sĩ Morice đi Tây Ninh. Được xây dựng ở chân pháo đài trên nền đất khô, Tây Ninh là một trung tâm khá vui, nhưng đêm đêm vẫn có hổ đi quanh nhà. Trong những năm đầu ở Nam Kỳ, “nhiều binh lính của chúng ta bị hổ bắt ở các vùng phụ cận Sài gòn. Con vật kinh khủng này thường vào các làng tha người đi. Ngày nay vào ban đêm, người ta vẫn nghe thấy tiếng hổ gầm ở sát các pháo đài ở miền Đông như Bà Rịa, Biên Hoà, Tây Ninh. Ơ Tây Ninh, tôi thường nghe thấy rất rõ tiếng hổ quanh nhà và nhiều lần thấy dấu chân hổ cách đồn không xa”. Theo một tài liệu lưu trữ của Nam Kỳ, chỉ riêng ở một làng gần Gò Công từ ngày 3-5 tới ngày 11-11-1868 người ta đã bắt và giết được 64 con hổ. Sự có mặt của động vật hoang dã gần các điểm dân cư rất phong phú và vị du khách của chúng ta đã bắn hạ ngay gần Tây Ninh một con tê giác, một loài ngày nay đã biến mất. Sau một chuyến quan sát bội thu, bác sĩ Morice quay lại Sài gòn. Chỉ sau mấy tháng xa cách, Sài gòn đã có nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù Sài gòn duy trì sự phát triển lâu dài theo nhiều hướng, nó vẫn cung cấp những kinh nghiệm sống cho các trung tâm nhỏ ở Nam Kỳ, các ly sở của các tỉnh rộng, nơi dân cư không dày đặc lắm. Các tỉnh thành khác ở Đông Dương cũng không khác mấy so với Sài gòn hoặc các thị tứ ở miền Tây Nam Kỳ xưa kia. Năm 1875, Brossard de Corbigny, trong chuyến đi công cán ở Huế, đã để lại cho chúng ta những hình ảnh đẹp đầy sắc màu của hoàng cung ở Huế. Tuy nhiên, khu phố buôn bán gần hoàng thành vẫn còn nghèo nàn và xấu xí. Ông viết “phố chính khá buồn. Nhà cửa nói chung bằng đá, đen thui và tối tăm, nối tiếp nhau, không có hàng lối. Mặt đường đầy rác và các vũng nước mỗi khi mưa không biết đặt chân xuống đâu nữa”. (hình) Tình trạng như trên cũng là tình trạng của Phnompenh, một thành phố hiện nay rất đáng yêu với những mài nhà dát vàng. Trung uý hải quân Da-vin mô tả thành phố này năm 1888 “có vẻ nghèo khổ, chỗ nào cũng đen đúa và tối tăm. Các cung điện hư hại, đền đài đô nát, nhà bằng sàn ghép cẩu thả hoặc đơn giản chỉ là nhà lợp rạ”. (hình). Còn các tỉnh thành ở Bắc kỳ, để biết bộ dạng xưa kia của chúng như thế nào chỉ cần giở lại tập báo illustration hoặc Tour du Monde sẽ thấy, ngoài toà thành và mấy ngôi chùa cổ rất quyến rũ, các tỉnh thành đó chẳng có gì đẹp ngoài những ngôi nhà lá buồn tẻ nằm dọc theo con đường đất (hình). Tôi đã mô tả một số nơi những người châu Âu đầu tiên tới Đông Dương nhìn vào thấy lúng túng đối với phần châu Á ở tận cùng này, nơi từ lâu được Gérard de Nerval tô vẽ là một phương Đông lý tưởng. Là nạn nhân của trí tưởng tượng và của những mô tả sáng lạn theo con mắt lãng mạn, họ không biết rằng các thành phố châu Á chỉ là những phố xá lầy lội hoặc những túp nhà khốn khổ, tối tăm đâu phải các cung điện lộng lẫy và những đám rước long trọng họ vẫn mơ tưởng. Tuy nhiên có cần phải bực mình không khi gợi nhắc lại các thành trấn không mấy cảm tình này, những thành trấn vẻ cổ kính của chúng trong các bức hình như dấu đi sự xấu kinh người trong thực tế các dấu tích câm lặng này mãi mãi còn xa mới thơ mộng. Người ta hiểu rằng sự buồn chán lặp đi lặp lại có thể làm thất vọng người mới tới. Thực tế, Đông Dương xưa chẳng có gì ngoài cảnh sắc quyến rũ. Cuộc sống ở đây khó khăn đối với mọi người và chính việc biến đổi cuộc sống đó từ một ý chí thống nhất đã gắn bó người Đông Dương với người Pháp. ______________________ Cảnh đẹp Bắc Kỳ Arnaud Barthouet Trong một lần nói đùa, có người nào đó kêu lên: “Cảnh đẹp Bắc Kỳ à? Làm gì có! Cứ đều đều, nói đúng ra là đơn điệu. Chỉ có bốn cảnh: đồng bằng, miền biển, trung du, thượng du; những cảnh như vậy đầy trong các ảnh...”. Chúng tôi không chê bai các ảnh đó và chúng tôi không hề xem chúng là những thứ bỏ đi. Trong cỗ máy của cuộc đời thường nhật này, cảnh đẹp có khắp nơi và có lẽ chỉ những người nói liều hay tinh quái là những người khăng khăng cho rằng bản thân cảnh không chứa cái đẹp. Cảnh đẹp có ở khắp nơi, khắp lúc. Trong những cảnh đẹp của Bắc Kỳ, trước tiên phải kể tới Hà Nội, thủ đô của toàn xứ Đông Dương. Hà Nội, đô thị kiến trúc tinh tế, cư dân chọn lọc, sức sống thanh xuân mạnh mẽ ngập tinh thần thể thao trong các trường. Nhà thờ, đền chùa, nhà bảo tàng, câu lạc bộ, các phố buôn bán, thợ thuyền và thợ thủ công, hàng trăm nghìn người hiếu kỳ lang thang qua các phố trong những ngày lễ lớn. Nét yêu kiều của những chiếc hồ, các ốc đảo xanh tươi - các công viên, những bồn cây, vườn cây ăn quả, các vùng ven đô, những mùa thu dịu hồn, những mùa đông xiết bao dịu dàng... Chúng tôi sẽ không nói thêm gì nữa về Hà Nội, người ta không thể tàn nhẫn đến nỗi vặt hết cỏ ở các thảm cỏ hay hoa ở các vườn cây. Tiếp đến, cảnh đẹp Bắc Kỳ nằm trong thiên nhiên, trong các cánh đồng, cánh rừng mà chúng tôi hân hạnh được nêu ra ở đây một số hình ảnh và một số nét. Những cảnh đẹp đó rất đáng xem trước khi đánh giá dứt khoát hay phát biểu nhận xét. Này đây: Biển lúa ở vùng châu thổ thật đẹp khi các hạt lúa nặng trĩu hứa hẹn một vụ thu hoạch tốt cho những người nông dân cần cù đang vội vã trong những ốc đảo xanh của vựa lúa Bắc Kỳ. Vịnh Hạ Long, quần đảo tuyệt vời và vui tươi của bờ biển Đông Dương. Những đồi núi của miền trung du, các tầng cây vui tươi, những con suối trong cuộn nước đôi khi làm tung bọt. Mùa xuân thần tiên ở vùng núi biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ với bạt ngàn hoa của những cánh rừng đào và mận, của phong lan, huệ; sự tương phản tinh tế giữa mầu xanh đậm của các loài cây nhiệt đới với mầu xanh của cây xuân thay lá. Mùa thu ở thượng du với bầu trời trong xanh, với những thời khắc bình minh và hoàng hôn, như một phép mầu, làm tôn giá trị những đường viền đa dạng của các chỏm núi. Các phiên chợ thượng du ở mạn Tuyên Quang, Bắc-kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn với mầu sắc đa dạng của các bộ lạc miền núi: Thái, Mán, Mèo, Lô Lô. Những cánh rừng ở khu vực Kép-Lang-Met-Thanh-Moi, dưới chân dẫy Cai Kinh, nguyên sơ tuyệt vời. Chúng tôi có thể kể những khu rừng khác nữa, nhưng thôi. Những rừng hạt dẻ của xứ Cao Bằng còn phong phú hơn rừng thông bá hương ở Liban. Và vẫn tại Cao Bằng, cạnh thác Bản Giốc, một Niagara của chúng ta, trong một con sông chẩy từ dẫy núi Quay-son-chau (núi quý) ở Trung Quốc sang có một giống cá có hương thơm. Dĩ nhiên là sẽ có những người nói rằng họ không nhận ra hương thơm này ta nên trả lời họ rằng phải có một sự cảm nhận nào đó và không phải ai cũng có được cảm nhận đó ngay một lúc. Những cây hồ đào ở Đồng Văn, điểm cực Bắc của Bắc Kỳ. Ở đây phải đi ngựa và khi ta từ phía Đông tiến vào hay khi gặp cánh đồng thuốc phiện của người Mèo, ta sẽ gặp một gam mầu phong phú bất tận và mê hoặc với những mầu sắc dịu dàng mờ mờ uốn lượn theo sự mơn trớn cua gió xuân. Trên con đường đó, ta phải leo qua một cái đèo gọi là đèo Ma-pi-leang (đèo yên con ngựa có mũi đẹp, nghĩa của từ đủ nói giá trị của đèo). Phía trên đèo khoảng vài trăm mét, trong một khu bằng phẳng như thềm nhà có một loại cải soong chỉ có ở vùng ôn đới. Bạn ơi, nếu tới được đây, bạn hãy xuống ngay ngựa, bỏ hết những thứ trong túi bên hông ngựa ra, hái cho đầy túi vì đi xa hơn sẽ không có nữa và chuyện được ăn món sa lát cải soong đó do tự tay mình hái bên đường ở vùng nhiệt đới cũng là một chuyện đáng nói. Tại biên giới Trung Quốc - Bắc Kỳ, các lô cốt và các chòi canh nổi trên nền trời như những tổ chim ưng là những đồn người xưa dựng lên để theo dõi những vùng đất xung quanh và đánh thuế các băng từ Trung Quốc sang. Việc bình định xong hàn Bắc Kỳ, xứ quan trọng nhất của Liên bang Đông Dương, xuất phát từ vùng này. Chúng ta đang ở một thời kỳ khác và các lô cốt, mãi mãi là một phần của sự trang trí, giờ đây là những chứng vật; những viên đá của chúng có tiếng nói mạnh mẽ hơn những diễn văn, thậm chí hơn cả những bài viết. Sẽ là vô ích nếu nói nhiều hơn nữa; chúng tôi chỉ lướt qua vì đề tài không bao giờ cạn; đó là tặng vật của mùa xuân bất tận. Cầm một đầu của sợi dây ba sợi sự nhạy cảm, sự yêu thích mầu sắc, sự nồng thắm - buộc chúng ta với cảnh đẹp của Bắc Kỳ, ta có thể kéo dài nó ra mãi mãi vì đó là một sợi dây mềm mại hơn lụa và dẻo hơn vàng. Không thể tìm thấy sợi dây này trong các cửa hàng hay tại nhà các thương nhản vì chính chúng ta là những người làm ra nó và kéo nó. Thực tế, chúng ta không biết hết sự giầu có của chúng ta, một sự giầu có rõ ràng minh bạch mà không phải chịu một khoản thuế nào. Các bạn đọc các bạn hãy tin tôi. Có đầy rẫy cảnh đẹp ở Bắc Kỳ. Ta có thể thưởng thức nó với niềm hân hoan chẳng cần phải đi đâu xa, chỉ cần mở mắt nhìn. ______________________ Hà Nội 1911 Claude Bourrin Claude Bourrin tới Đông Dương năm 1898 làm công chức ngành quan thuế nhưng rất ham mê các hoạt động văn học và kịch nghệ. Ông ở Đông Dương khá lâu, nhất là ở Bắc Kỳ, và đi lại nhiều nên đã viết các cuốn Xứ Bắc Kỳ Xưa (Le Vieux Tonkin), Người và việc ở Đông Dương (Choses & Gens en Indochine), Pháp Á (France d' Asie), Môlie và người An Nam (Molière ét Les Annammites). Cuốn Người và việc ở Đông Dương gồm 3 tập: tập I (1898 - 1908), tập II (1908 - 1916), tập III (1917- 1927). Đoạn dưới đây trích dịch từ cuốn Choses & Gens en Indochine (1908-1916) do nhà xuất bản IDEO ở Hà Nội in năm 1941. ... Nhân dịp Van Der Born, phi công người Hà Lan, vừa thực hiện thành công một số cuộc bay biểu diễn ở Sài gòn và Băng Cốc, tháng hai năm 1911, Besse, Chủ tịch hiệp hội Thuyền Buồm mở cuộc lạc quyên để tổ chức một tuần lễ hàng không ở Hà Nội. Bắc Kỳ phải mời cho được Van ghé qua biểu diễn trước khi anh đi Hồng Công. Trước đây đã có một số phi công đàm phán với Bắc Kỳ nhưng họ đòi ít nhất từ 30.000 tới 40.000 quan trong khi Van bằng lòng với cái giá từ 15.000 tới 20.000. Ý đồ của Besse không thành nhưng lại được thực hiện dưới hình thức khác. Số là khi đó một Uỷ ban do Trú sứ Trung Bắc Kỳ là Henn de Monpezat làm chủ tịch quyết định mua một chiếc máy bay cho Liên đoàn Hàng không. Uỷ ban gồm toàn người Pháp trong đó có dược sĩ, trưởng phòng vô tuyến điện báo, quản trị khách sạn Métropole, một kỹ sư, một ông cò phụ mãi tận cuối năm 1912 chuyến bay đầu tiên mới được thực hiện trên bầu trời sân đua ngựa ở Hải Phòng mà lại do một người Nga tên là Cuminski lái. Người Pháp tự an ủi cho rằng người Nga là bạn và đồng minh của mình; hơn nữa động cơ máy bay là động cơ Blériot của Pháp. Mỗi lần bay kéo dài khoảng 10 phút. Vài ngày sau đó, buổi biểu diễn bay được thực hiện ở Hà Nội trước một cử tọa đông đảo và nồng nhiệt. Chỉ có người Trung Quốc không có mặt vì nhận được lệnh tẩy chay. Nguyên nhân tẩy chay là quốc tịch của phi công. Mãi năm sau, chuyến bay trên bầu trời Bắc Kỳ mới do phi công Pháp thực hiện. Phi công này tên là Marc Pourpe. Ngày 13 tháng 6 năm 1913, Marc Pourpe tụ hội bạn bè ở Hải Phòng. Ngày hôm sau, anh bay đi Hà Nội và hạ cánh thành công. Ngày 16 anh bay đi Lạng Sơn nhưng bị chói nắng khi hạ cánh nên phải quay lại Kép và hạ cánh trên một thửa ruộng ở Seno(? ND) không có hư hại gì. Vài ngày sau đó, anh lại bay đi Lạng Sơn và hạ cánh an toàn vì đã tính toán để quay lưng lại phía mặt trời khi hạ cánh. Cũng trên bầu trời Đông Dương, bạn của Marc là Verminck đã không được may mắn: anh bị chết trong lần bay biểu diễn ở Nam Kỳ. Có lẽ đây là phi công đầu tiên chết trên bầu trời Đông Dương. Song song với hoạt động hàng không là hoạt động sân khấu. Tháng hai năm 1911, Besse mở lạc quyên thì ngày 1 tháng tư, nhóm kịch nghiệp dư của người Pháp, trong đó có Claude Bourrin, tổ chức vở Ami Fritz của Erckmann-chatrian để lấy tiền giúp Liên trách hộ tịch một thời là phi công, một nhà thầu khoán và một số nhà buôn, tất nhiên có Besse. Sau khi có máy bay, người ta triệu một phi công Pháp sang để chuyến bay đầu tiên được thực hiện bởi phi công Pháp, chứng tỏ nước Pháp đã có một bước đáng kể trên thế giới về mặt hàng không. Cuối cùng thì đoàn Hàng không Hà Nội. Buổi diễn được thực hiện ở rạp Philharnonique vì lúc đó Nhà hát lớn Hà Nội đang được hoàn thành. Từ nhiều năm qua, thành phố Hà Nội đã thực hiện việc xây dựng một nhà hát thành phố xứng đáng với thủ đô hành chính của Đông Dương hơn cái phòng diễn cổ lỗ ở phố Takou (Hàng Cót - ND). Mặc dù chưa hoàn thành đầy đủ do thiếu kinh phí, cuối cùng thì tòa nhà cũng dùng được. Tuy việc sơn quét các phòng, hành lang và nhiều thứ khác không bao giờ được thực hiện nhưng như thế là mừng rồi. Tòa nhà có vóc dáng to lớn với những nét thô xấu của lâu đài Garnier (có lẽ là nguyên mẫu của là Hát lớn Hà Nội - ND) và khách dạo chơi trên đường Paul Bert (tức Tràng Tiền) tự hỏi khi nào khai trương nhà hát mới. Nhóm kịch Philharmonique có tham vọng gắn tên tuổi của họ vào ngày lễ khánh thành. Nhóm quyết định diễn vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon (Le voyage de M.Perrichon) trong ngày khánh thành Nhà hát lớn với mục đích lấy tiền ủng hộ trẻ em lai lang thang. Thành phố trao cho nhóm kịch một sân khấu trống trơn, không màn kéo, không thiết bị trang trí. Một diễn viên là thú y sĩ sửa chữa những khiếm khuyết đó bằng một sự năng động ghê gớm: ông đã làm màn kéo và vẽ trên đó cảnh Hồ Gươm có Tháp Rùa. Chiếc màn kéo này được cách tân vào năm 1927 và mãi tới tận năm 1932 mới được thay thế bằng chiếc màn nhung kiểu Ý. Ngày 9-12-1911, Nhà Hát thành phố Hà Nội được khánh thành với vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon. ______________________ Hải phòng 1884 Bonnal
Trú sứ Hải Phòng
trích Au Tonkin 1872-1881-1886
Sau sáu tháng sống leo lắt ở Sơn Tây, tôi được bổ làm Trú sứ Hải Phòng, một vị trí quan trọng và thú vị hơn. Sau này tôi mới biết Thống tướng (Général en chef) nâng đỡ tôi vì ông hài lòng về việc tôi đã tuyển mộ thành công, nhưng không phải không khó khăn, 1500 phu ở Sơn Tây phục vụ quân đội hành quân đi Lạng Sơn.
... Khi bước chân lên Hải Phòng, tôi ngạc nhiên thấy tòa lãnh sự bị viên chỉ huy quân sự tỉnh thành chiếm mặc dù chỗ đó đã chính thức dành riêng cho Trú sứ để làm nhiệm vụ lãnh sự. Tố cáo chỉ vô ích vì lúc đó ở Bắc Kỳ đang thịnh hành nguyên tắc “tôi đã ở đây rồi thì anh hãy tránh ra”. Rất may, lúc đó tòa nhà của viên quan đứng đầu địa phương bỏ trống nên tôi cùng với văn phòng đóng ở đó sau khi tưởng sẽ phải thuê một cái nhà lá trong cánh đồng. Hải Phòng không thay đổi gì so với lúc tôi tới đây vào tháng 7-1883. Cũng như 18 tháng trước đây, hiện nay cái thiếu nhất của cái người ta gọi là tỉnh thành Hải Phòng là nhà ở và mặt bằng khô ráo để xây nhà. Lúc này, Hải Phòng không còn đội quân của Francis Garnier nữa và, theo hiệp ước 1874, Hải Phòng phải tạo ra một vùng đất nằm giữa con sông và sông Tam Bạc, tức là tạo ra một vùng bằng phẳng được các đê sông bảo vệ khỏi thủy triều nhưng lại hoàn toàn không bị ngập úng trong mùa mưa.
Để xây dựng tòa lãnh sự và các công trình phụ trợ, các văn phòng, trại lính và bệnh viện, các sĩ quan công binh chẳng có cách nào hơn là đào một hố rộng để lấy đất đắp nền. Để bảo đảm vệ sinh, họ cho hố thông với sông nhờ các van chuyển động. Do việc mở thương cảng ở Hải Phòng nên nhiều người châu Âu kéo tới đây. Họ xây nhà trên cánh đồng ngập nước bằng cách áp dụng quy trình như trên, tức là đào hố lấy đất để tôn nền. Các hố đào sâu và nhiều tới mức các hố xen kẽ lộn xộn với các nền nhà và ngay trong mùa khô cũng đầy nước. Những chỗ ở khiêm tốn như vậy chỉ được nối liền với khu nhượng địa hoặc đê bằng những con đường đất hay bằng các bờ ruộng lúa rải rác đây đó trong cánh đồng ngập nước.
Từ 1875, sự xuất hiện của các công trình lớn do Chính phủ Nam Kỳ (chỉ chính quyền của Thống Đốc Nam Kỳ - ND) thầu sau hiệp ước 1874 và sự có mặt của Lãnh sự Pháp, của đơn vị pháo binh hải quân bảo vệ tòa lãnh sự... đã thu hút tới đây một số lượng lớn phu khuân vác và thợ An Nam. Cho tới lúc này, các đơn vị bản xứ có mặt tại đây chỉ là một số lính ít ỏi ăn lương của các quan ở Hải Dương để trấn giữ một pháo đài nhỏ bằng đất tại cửa sông Tam Bạc đổ vào sông Cửa Cấm. Một số thương nhân Tầu nhanh chóng tới ở trong cảng mới mở. Họ xây dựng những ngôi nhà bằng gạch ở hai bên bờ sông Tam Bạc, trong đó bờ trái nhiều hơn tạo ra khu Hạ Lý.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:30:30 GMT 9
Theo các điều khoản của hiệp ước, lãnh sự Pháp không có quyền hành bên ngoài khu nhượng địa. Các quan tỉnh Hải Dương thì làm như không biết có một trung tâm dân cư mới vì trung tâm này được tạo ra bằng đủ thứ tạp nham, đầy những kẻ lang thang và những tên bất hảo, không có sự phê chuẩn của triều đình, không có quy chế của một cộng đồng thông thường.
Không cảnh sát, phố xá và các bờ sông bẩn thỉu, các hố đào ở chân đê hôi thối và thiếu đường đi vào mùa mưa là những yếu tố làm cho Hải Phòng kém hấp dẫn người Pháp. Tuy nhiên, nếu những bất tiện này là một vấn đề lớn vào lúc cộng đồng người Pháp còn rất nhỏ bé thì nó không còn là vấn đề nữa khi đội quân chiếm đóng hàng ngày thu hút tới đây một số lượng đông đảo thương nhân châu Âu. Những người mới tới tràn đầy tin tưởng vào tương lai của tỉnh thành và cảng.
Vấn đề cảng của Bắc Kỳ đã gây ra những cuộc tranh cãi sôi nổi, đặc biệt là trong giới hàng hải. Các kỹ sư thủy văn và các sĩ quan hải quân không nhất trí được với nhau trong việc chọn một cảng mới trước khi thay thế cho cảng Hải Phòng. Một số người ca ngợi Quảng Yên, số khác ca ngợi Hòn gay trong vịnh Hạ Long, nhưng tất cả đều nhất trí yêu cầu Chính phủ Pháp bỏ Hải Phòng vì không có lối vào cho các tàu trọng tải lớn, được “xây dựng trên bùn” không bao giờ có thể nối với Hà Nội bằng đường sắt, bị các dòng chẩy rộng và xiết cắt ngang cắt dọc tạo ra ngập lụt lớn và tính kém ổn định của nền đất trong vùng châu thổ làm cho công tác xây dựng “tôn kém tới mức tất cả các nguồn tài nguyên của Bộ Thuộc Địa sẽ bị hút vào đây”. Mặc dù có những lời công kích mạnh mẽ chống lại cảng đặc biệt và có thể xây dựng được cầu cống. Nếu đất bùn nhão, có thể có sạt lở và thẩm lậu, và do đó các máy bơm sẽ không có tác dụng khi xây dựng dưới mực nước của các con sông bên cạnh. Cũng cần phải nâng cao các tường chống ít ra là ở một số điểm. Những thăm dò cho tôi biết khắp nơi là đất sét pha cát nén chặt và người ta có thể đào sâu tới 8 mét mà vẫn không có nước.
Yên tâm với vấn đề cốt tử này, tôi chuyển sang nghiên cứu kỹ chế độ sở hữu ruộng đất ở vùng lân cận khu nhượng địa. Một cuộc điều tra tiến hành kín đáo cho tôi biết rằng sẽ không có vấn đề trưng dụng ruộng đất với giá cao (à prix d'argent). Vị trí của con kênh tương lai hoàn toàn nằm ở khu vực người châu Âu không có mảnh đất nào. Thêm vào đó, ở xứ An Nam, việc trưng dụng ruộng đất vì lợi ích công cộng không được đền bù. Như vậy, tôi có thể trưng dụng những mảnh đất của người bản xứ nằm trong khu vực kênh, nhất là các quan tỉnh tôi dò ý hứa sẽ đền cho những người bị trưng dụng những mảnh đất tương đương nhưng mầu mỡ hơn thuộc nhà nước nằm bên Núi Voi cách Hải Phòng không xa. Thế là vùng đất giới hạn bởi con kênh và hai con sông hầu như hoàn toàn thuộc về người Pháp bằng cách hoặc mua lại của nhà cầm quyền địa phương, hoặc điều đình với những người bản xứ tự xưng là sở hữu chủ. Những người này thường lạm dụng sự cả tin của người mua nhưng nói chung giá cả luôn luôn rất thấp.
Tôi tham dự vào quá trình chuyển nhượng đó bằng cách coi mọi giao dịch là có giá trị và để cho tòa án lãnh sự xét xử cẩn thận các tranh chấp có thể có. Để lập dự án vạch ra các đường phố và đại lộ của thành phố tương lai, tôi giữ nguyên các con đường hiện có và tôn trọng đất của người Pháp bằng cách không chia nhỏ đất của họ ra. Điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Chỉ tới lúc này tôi mới cho những người bị cai trị biết dự án của mình. Đồng thời, tôi ngăn cấm mọi sự giao dịch về đất đai nhằm tránh những vụ đầu cơ đất có thể có hại cho lợi ích chung. Sau khi được thông báo dự án của tôi, mọi người Pháp ở Hải Phòng tỏ ra thỏa mãn và chúc mừng sáng kiến của tôi.
Giờ đây phải tìm nhân công cần thiết cho công trình tôi sắp đảm nhiệm mà không có một khoản tín dụng nào. May thay, ở An Nam có một thiết chế mà tên của nó người châu Âu nghe khó lọt tai, mặc dù thiết chế này vẫn còn tồn tại ở châu Âu dưới cái tên cỏ vê (corvée) kém tàn nhẫn hơn cái tên đi sâu.
Ở Bắc Kỳ, trừ một số người có đặc quyền, mọi người dân đều phải đi sâu. Họ phải làm không công trong việc xây dựng và sửa sang đê điều, đường xá, kênh mương, nói chung là các công trình mang lại lợi ích chung.
Từ hai năm nay, do chiến tranh và biến động, dân trong vùng Hải Phòng thoát khỏi sự đóng góp khá nặng này, nhất là khi thời gian đi sâu quá dài hay trùng vào mùa cấy hái. Chúng tôi đang ở vào mùa khô. dân bản xứ đang nhàn rỗi. Thật là thời điểm thuận lợi cho việc tập trung về Hải Phòng những người phải đi sâu trong các tổng lân cận.
Các quan tỉnh rất sẵn sàng cho việc đó và thậm chí còn hứa cung cấp cho nhân công khẩu phần gạo và tiền trích từ ngân khố tỉnh. Họ cho tôi một viên võ quan hàm Lãnh Binh để làm nhiệm vụ cảnh sát trong các công trường do ông Bédat, phụ trách công chính, làm chỉ huy trưởng.
Công trình được khởi công ngay. Những nông dân Bắc Kỳ là những người thợ đất tuyệt vời. Việc xây dựng các con đê ở vùng châu thổ Bắc Kỳ là tác phẩm của dân tộc cần cù và kiên nhẫn này. Không có một dụng cụ gì khác ngoài chiếc mai và cái thúng đan bằng tre, họ đã dựng lên trên bờ của tất cả các dòng sông một mạng đê điều rộng lớn, kết quả của một khối lượng lao động vĩ đại, để bảo vệ vùng châu thổ khỏi những trận ngập lụt theo chu kỳ của Sông Hồng.
Ngay từ đầu, chất đất làm cho công việc tiến hành rất dễ dàng. Mai cắm sâu vào đất sét pha cát ướt sắn ra những miếng đất đều đặn để thợ bốc lên. Những người khác kém khỏe mạnh hơn hoặc có tuổi, đôi khi có cả trẻ em và phụ nữ bị lôi cuốn bởi khẩu phần gạo, làm thành dây chuyền chuyển đất tới tận chỗ san lấp. Công việc tiến hành như vậy trong khoảng hai tháng bằng các đội phu thay phiên nhau cứ tám ngày một lần mà không hề có sự phản đối nào của dân chúng bản xứ. Khi lòng kênh đã hình thành giữa các con đê được dựng lên để ngăn nước tràn vào thì một sự cố đáng buồn xảy ra làm ngưng trệ công việc và ảnh hưởng tới việc hoàn thành nó.
Trong khi áp dụng các sáng kiến để tạo ra mặt bằng cho người Pháp xây dựng nhà ở và các công trình công thương nghiệp, tôi không hề nghĩ tới sự phản đối của các quan chức ở Hà Nội. Tại Bộ tham mưu của Thống tướng, người ta lo ngại về công việc của viên Trú sứ, không tiền và, chỉ bằng một thiết chế của dân bản xứ, dám xấc xược tạo ra một thành phố. Giới quan liêu dân sự ở Hà Nội phản đối kịch liệt công trình và nóng lòng chờ đợi cơ hội để làm nó sụp đổ.
Chẳng lâu la gì, các biến cố trên chiến trường Lạng Sơn đã cung cấp cơ hội cho những chống đối đó. Để chuẩn bị cho cuộc viễn chinh tới một vùng quan trọng như Lạng Sơn, cần phải tuyển mộ phu khuân vác trong thời hạn một năm để vận chuyển lương thực và đạn dược. Giới cầm quyền quân sự đã kêu gọi các trú sứ hợp tác. Trước đây khi ở Sơn Tây, tôi đã tuyển mộ, không phải là không vất vả, được 1.500 người bản xứ tình nguyện để đưa về Hà Nội. Các tỉnh khác ở vùng châu thổ không thể tuyển được nhiều như thế. Hiện nay công việc vận chuyển rất khó khăn. Bị thuyết phục bởi những báo cáo có dụng ý của công binh Hải Phòng rằng hàng ngàn người lao động đang bị thu hút vào các công trình của thành phố, giới quân sự liền ra lệnh cho tôi bằng điện tín phải dùng dân binh bao vây công trường, sau đó dùng vũ lực tập trung số người lao động đó lại và cho người áp giải lên Lạng Sơn. Tôi đang sẵn sàng từ chức công sứ để không a tòng theo một hành động mà tôi cho là lạm quyền không thể tha thứ được thì có người báo cho tôi biết là những người khỏe mạnh đã trốn khỏi công trường từ nhiều giờ rồi, chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em. Không còn nghi ngờ gì nữa: đã có sự bất cẩn và chắc chắn một nhân viên nào đó người bản xứ đã thông báo cho nhà cầm quyền An Nam kế hoạch mai phục và họ đã làm trống trơn các công trường.
Tôi cho Hà Nội biết và sự việc lúc này tạm gác lại. Thế là công trình bị đình lại trong sự luyến tiếc của những người Pháp ở Hải Phòng. Năm sau, công trình do tôi phụ trách lại tiếp tục và tiến hành cho tới kết quả mỹ mãn, khi chế độ dân sự bắt đầu ở Bắc Kỳ dưới chính quyền của Paul Bert.
______________________
Một vọng gác tiền tiêu của Vịnh Hạ Long: Đảo Bạch Long Vỹ Trích nghiên cứu chưa công bố của P.A. Lapicque
Các chỉ dẫn hàng hải về đảo Bạch Long Vĩ khá khiêm tốn. Các chỉ dẫn đó xếp đảo này vào khu vực nguy hiểm trên đường vào Hải Phòng và cho biết:
“Đảo này nằm giữa vịnh Bắc Kỳ ở tọa độ 20o08 Bắc và 107o43 Đông, một điểm thám sát tốt. Đảo có dạng tam giác, chu vi 7 km. Giữa đảo là một bình nguyên cao 58m, sườn có chỗ dốc đứng, có chỗ cây bao phủ. Cách đảo từ 0,5 tới 0,75 hải lý là những bãi đá ngầm, vì thế muốn cẩn thận nên đi cách đảo khoảng 2 hải lý. Thường thường, có những đàn cá mà từ xa người ta tưởng là sóng bạc đầu”.
Hiện nay, với sự phát triển của máy bay thương mại và sự tinh vi của trang thiết bị hàng hải, mọi hòn đảo nhỏ nhất,bãi đá ngầm, bãi san hô v.v... đều có vai trò quan trọng vì chúng được các phi cơ hay thủy phi cơ sử dụng làm các trạm khí tượng hoặc trạm vô tuyến điện nếu vị trí hoặc địa hình của chúng thuận lợi cho những việc đó.
Vì thế, việc thu thập các thông tin về đảo Bạch Long Vỹ và xác định các thông số về hòn đảo tiền tiêu trong vịnh Hạ Long là một việc rất có ích. Thực vậy đảo Bạch Long Vỹ chỉ cách đảo Lai Tao ở cực Nam Vịnh 38 hải lý, cách đèn biển Norway 42 hải lý, cách cửa sông Hồng 65 hải lý, cách mũi Pillar, điểm cực Tây của đảo Hải Nam, 83 hải lý.
Đảo Bạch Long Vỹ, chữ Tầu có nghĩa là “đuôi rồng trắng”, còn được người An Nam gọi là Vô thuỷ đảo, hay đảo không có nước, và người Tầu gọi là Ma Sheuo Tchap, Mao Xui Chao hay Mao Xứng Chao tùy theo phương ngữ.
Bạch Long Vĩ nằm trong chuỗi khép kín các đảo phải đi tuần tra định kỳ do nhà cầm quyền cao cấp ở Đông Dương quy định: bắt đầu là băng ngang vịnh Hạ Long, tới các đảo Gow Tow (Cô Tô), Bạch Long Vỹ vòng quanh quần đảo Hoàng Sa (Paracels), sau đó vòng lại qua các đảo ven biển Trung Kỳ và kết thúc tại trạm Quan thuế Appowan trên đảo Các Bà.
Viên chủ sự Quan thuế là phái viên hành chính tại trạm Bạch Long Vỹ. Tất cả các thuyền đánh cá của người Tầu trong vịnh Bắc Kỳ phải tới đây đăng ký; các thuyền này cũng buộc phải mua muối trong các cửa hàng của Quan thuế Các Bà mới được phép đánh cá trong vùng biển của Pháp và được bảo đảm an toàn trong các vịnh và đảo của chúng ta.
Phái viên hành chính này, qua trung gian của Công sứ Quảng Yên, giữ hên hệ thường xuyên với trưởng hạt Cô Tô hay Kao Tao, vì Bạch Long Vỹ trực thuộc hạt này về mặt hành chính. Như vậy, Bạch Long Vỹ trực tiếp thuộc quyền quản lý của trưởng hạt Cô Tô. Theo quy định, hàng năm, trưởng hạt Cô Tô phải thực hiện thanh tra Bạch Long Vỹ, viết một biên bản kèm theo báo cáo chi tiết tình hình đảo.
Trên đảo Bạch Long Vỹ, ly-trong (lý trưởng), chức danh do chính quyền Pháp lập ra với nhiệm vụ đứng đầu làng, được phát một lá cờ Pháp và có nhiệm vụ kéo lên khi có tàu bỏ neo ở đảo. Lý trưởng có con dấu đúng với các quyền hạn của ông ta. Mặt khác, các thẻ thuế thân, trong các kỳ tuần tra, được phát cho dân đảo để dễ dàng kiểm soát người và điều tra dân số.
Các văn bản tham khảo để viết lịch sử đảo có rất ít. Tuy nhiên, người ta đã ghi nhận được 25, 30, thậm chí 50 chiếc thuyền buồm đăng ký ở đảo Các Bà hàng năm vẫn ra đánh bắt cá ở vùng biển Bạch Long Vỹ từ tháng chín. Trong mùa gió Đông Bắc, các thuyền tìm được chỗ thả neo tốt ở phía Nam đảo. Tại đây, các thuyền này gặp các thuyền từ đảo Hải Nam tới. Đó là thời kỳ hoạt động trao đổi, mua bán duy nhất trong năm. Do thiếu nước ngọt nên những hoạt động này diễn ra rất khó khăn.
Tình hình cứ diễn ra như vậy cho tới năm 1920, giai đoạn như mô tả ở trên, khi người ta tìm ra nguồn nước và xây dựng giếng tại một điểm ở phía Nam bình nguyên.
Sự kiện này được trưởng hạt Cô Tô báo cáo vào tháng 8- 1921 cho chỉ huy trưởng đội lính cơ (Garde Indigène) ở Quảng yên, kèm theo một lá đơn bằng chữ nho của một người Tầu tên là Hung Lin Xao. Ông này vừa là nông dân vừa là ngư dân ở làng Giáp Nam trên đảo Cô Tô. Trong đơn, ông Xao xin phép được trồng cấy trên mảnh đất thấp của đảo.
Báo cáo cho biết “người Tầu này, nhận là đã tìm ra nguồn nước, muôn khai khẩn chỗ đất quanh nguồn nước. Khu đất ông ta khai phá trồng ngô và khoai lang rất tốt. Ông ta mang theo gia đình và một số người gốc ở đảo Hải Nam. Nhũng người này trước đây hàng năm vẫn tới đảo bắt tôm cua, sò và cá có rất nhiều quanh đảo. Ngoài đánh bắt, họ còn thu mua tất cả cá đánh được trên đảo. Số cá này nếu không bán hết ở Bắc Kỳ sẽ được xuất sang Bắc Hải (Pak Hoi) sau khi có giấy phép xuất khẩu của các văn phòng Quan thuế ven bờ”
Sau báo cáo trên, chính quyền thiết lập những cơ sở lâu dài để tăng cường kiểm soát phần lãnh thố phụ thuộc vào chính quyền bảo hộ. Vì thế, phụ cho các tàu tuần tra của Quan thuế và các thuyền gỗ chạy động cơ ở các đảo Cô Tô, chính quyền trung ương còn quy định các đơn vị của hạm đội phải đăng ký chương trình thăm Bạch Long Vỹ mỗi năm ít nhất một lần.
Dưới đây là một số dữ liệu về hình thể, diện tích v.v... của đảo.
Đảo hình tam giác lệch, trong đó cạnh dài nhất nằm gần theo hướng Bắc Đông Bắc - Tây Nam, dài khoảng 3 km. Chiều cao hạ xuống cạnh dài nhất này khoảng 1,5 km cho ta diện tích toàn đảo khoảng 225 hecta.
Đảo hình như được cấu tạo từ các trầm tích. Cát kết, có ở khắp ven biển, ở dạng tầng có độ nghiêng thường là Đông sang Tây. Theo thời gian, chúng bị cắt theo tầng thăng đứng. Có rất nhiều mảnh san hô được sóng đánh lên bờ và đôi khi tạo thành những cồn dài hàng trăm mét. Trên đảo có những bãi cát rất rộng, trong đó có một bãi chạy từ Đông sang Tây chiếm hết phần phía Nam của đảo, trên có làng.
Các làng.
- Vì lý do thuận tiện và an ninh, ba điểm dân cư nói trên tập trung trong một làng lớn hơn, tức là làng hiện nay, gồm có 75, 80 nóc nhà. Các nhà này lợp rơm, tường trát bùn hoặc những chỗ trú thân đơn giản. Số dân làng giao động quanh con số 200, trong đó có 30 phụ nữ và 60 trẻ em. Các nhà được xây dựng trên những cồn cát ở vách phía tây và tập trung gần một ngôi chùa nhỏ.
Những điểm có nước.
- Đảo được cung cấp nước ngọt bằng ba nguồn là:
Giếng nằm gần làng, cách chỏm đao khoảng 300 m. Lưu lượng giếng này rất nhỏ và cho nước lẫn bùn. Giếng này đã bị bỏ.
Giếng nằm trong vùng đồng lầy, cách làng về phía bắc theo đường chim bay khoảng một cây số. Giếng cho một lưu lượng khá. Nằm sâu trong một thung lung cây cối rậm rạp, giếng nhận nước của tất cả thung lũng và tạo ra một nguồn ngang mặt đất ở phía thượng lưu. Điều này giải thích vì sao các khu đất xung quanh nó lại đẫm nước.
Giếng thử ba nằm cách các đầm lầy khoảng 500 m về phía Bắc. Giếng nằm trong một khu đất bằng phẳng cao hơn các khu đất khác khoảng 5 m. Giếng này cũng cho một lượng nước đáng kể và chất lượng có vẻ tốt.
Như vậy, khu dân cư của đảo có vẻ được cung cấp nước tốt nhưng một vài điểm ở sườn tây thiếu nước. Ngoài ra, sự có mặt của lớp cát kết dưới sâu là dấu hiệu gần như chắc chắn cho thấy sự tồn tại của nước ngọt.
Có một ngôi chùa nhỏ nằm bên bờ biển và cách làng khoảng 500 m thờ Thần Giếng. Thực vậy, ở trong chùa, có một chiếc bia trên ghi dòng chữ Thủy Thang Phúc Thần Vi bằng chữ nho, có nghĩa là bia thờ phúc thần nước giếng. Chùa quay ra biển, mặt trước được che bằng một bức bình phong xây bằng đá. Người ta bố trí một hốc khoét vào tường mặt trước để thờ thần núi. Hốc được trang trí bằng một lá cờ bằng lụa đỏ có hàng chữ Sơn Đầu Đại vương bằng chữ nho.
Trồng trọt và chăn nuôi.
Người ta trồng trọt trên khắp các cồn ở phía đông bình nguyên. Trồng trọt cũng được thực hiện ở chỏm đảo nhưng bao giờ cũng ở phía Đông. Những cuộc khai hoang lớn mới đây nhắm trồng trọt trong tương lai đã gây ra hậu quả là các thực vật tự nhiên của đảo bị tàn phá. Cây trồng chủ yếu trên đảo là khoai lang, loại cây trồng rất tốt trên đất cát giầu các chất hữu cơ. Người ta cũng thấy một số mảnh ruộng nước, các mảnh trồng lạc, rau... và cả cao lương. Diện tích trồng trọt được đánh giá khoảng hai mươi hecta. Những cuộc khai hoang mới cho phép suy ra cư dân trên đảo có ý định mở rộng trồng trọt.
Súc vật trên đảo đặc biệt có bò. Nếu căn cứ theo vết chân bò để lại, có thể suy ra số lượng của chúng khá lớn. Người ta cũng thấy lợn và các loại gia cầm khá phong phú.
Hiện nay còn thiếu những thống kê chính xác về nghề đánh bắt cá. Đây là nghề duy nhất kiếm tốt hiện nay trên đảo, nhưng các thương vụ vẫn không đáng kể do gần như không có dấu hiệu của tiền trên đảo Vì thế các thương vụ phải thực hiện bằng trao đổi tại chỗ. Cá đánh được tiêu thụ tại chỗ hoặc phơi khô dự trừ, nhưng phần lớn được gửi đi Các Bà hoặc đảo Hải Nam. Các loại tôm, cua và sò là mặt hàng buôn bán với vùng ven biển tỉnh Quảng Đông qua sự vận chuyển của các thuyền tới từ tỉnh này.
Về mặt chính trị và hành chính, chính quyền Pháp tại Đông Dương còn lâu mới buông lỏng hòn đảo tí xíu này, mặc dù nó rất nhỏ và khá nghèo.
Trước những sự kiện hiện nay, chính quyền Bắc Kỳ có ý định xây dựng một ngọn đèn biển trên đảo. Thực vậy, rất nhiều báo cáo của các nhà hàng hải chỉ rõ những lợi ích ngọn đèn biển trên đảo sẽ mang lại cho các tàu từ phía Nam ra lẫn các tàu từ Hải Nam tới để vào các cảng của Bắc Kỳ.
Về mặt kinh tế, các doanh nhân Pháp cho biết đã có đơn xin một khu vực mỏ phủ gần hết đảo. Tuy nhiên các kết quả thăm dò vẫn còn thiếu chính xác. Những người chơi thuyền buồm của Câu lạc bộ Hàng hải ở Vịnh Hạ Long, trong một lần tạm dừng ở đảo Bạch Long Vĩ khi đi tuần, đã mang về những ảnh xương thú khá cổ khá nhiều trên đỉnh cao nguyên. Đối với đường hàng không, đặc biệt là đường hàng không từ Đà Nẵng đi Hongkong, Bạch Long Vĩ có thể có vai trò đáng quan tâm vì tất cả cho phép người ta tin rằng có thể xây dựng một bãi đỗ khẩn cấp ở Đông Nam đảo. Chỗ này có kích thước và độ cứng đạt yêu cầu mà thi công lại không tốn kém lắm.
______________________
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:31:59 GMT 9
Những điểm nghỉ mát bên biển của Bắc Kỳ:
Đồ Sơn Đồ Sơn là một bán đảo hẹp dài 7 km gồm những đồi núi nhấp nhô chạy dài ra biển giữa Cua Câm (Cửa Cấm) và Cua Van Uc (Cửa Văn Úc). Các cánh rừng thông non trên các đồi phô các biệt thự duyên dáng hiên ngang trên các sườn núi hoặc lười biếng nép mình dọc theo bãi biển. Bán đảo nằm gần trùng theo hướng Bắc Đông Bắc - Nam Tây Nam và bị các mỏm đá chia cắt thành nhiều vụng nhỏ. Dãy núi tạo thành bán đảo được cấu tạo từ cát kết thạch anh chống được sói mòn và có nguồn gốc địa chất giống như các núi ở vịnh Hạ Long. Chắc chắn trước đây bán đảo là một chuỗi các đảo nhỏ và các vách dựng đứng thường xuyên bị sóng biển xô đập đinh tai nhức óc trước khi được phù sa các sông ở Bắc Kỳ bồi đắp cùng với vùng hạ châu thổ. Một truyền thuyết cho biết những cư dân đầu tiên của Đồ Sơn là các ngư dân gốc Thanh Hóa bị bão đánh giạt lên đảo trong mùa gió Đông Nam.
Một thuyết khác lại cho rằng cư dân ở đây có nguồn gốc từ các gia đình ở Hưng Yên đi tìm đất hoặc trốn tránh pháp luật hà khắc.
Số ngày 17-9-1942 của tạp chí này đã kể lại một truyền thuyết đẹp về nguồn gốc hội chọi trâu ở Đồ Sơn vào ngày 10-8 âm lịch hàng năm diễn ra trước Dinh - Chung (Đình Chung - ND) thuộc thôn Đồ Hải.
Văn học dân gian vùng Đồ Sơn cũng rất phong phú với sự tích Bà Đế. Rất nhiều văn nhân, thi sĩ lấy tứ thơ từ cái chết bi thảm của bà. Hồn bà vẫn lang thang trong những đêm giông bão vì thế dân chúng dựng một miếu thờ bà trên một hòn đá lớn ở phía Bắc biệt thự Joséphine. Sau đây là câu chuyện một ngư dân có tuổi kể cho tôi nghe về sự tích bà sau khi tước bỏ những chi tiết rườm rà:
Bà Đế là một thiếu nữ xinh đẹp của gia đình họ Dao (Đào? - ND) ở làng Ngọc Xuyên. Sắc đẹp và giọng nói trong trẻo của cô thiếu nữ đã làm nhiều bạn gái phải ghen tức. Một con trai chúa Trịnh chạy loạn trốn trong một hang núi ở Đồ Sơn một hôm nghe thấy tiếng hát trong thung lũng:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
Bao nhiêu thảo mộc lai hàng tay ta
Anh hùng ví biết tay ta,
Rồng mây gập gỡ ắt là thành danh.
Đó chính là Bà Đế vừa hát vừa cắt cỏ. Vị vương tử họ Trịnh rất thích, bền gọi thiếu nữ lại và hứa sẽ đưa nàng về triều đình khi mình trở lại kinh thành. Nhưng vị vương tử trẻ đã quên lời hứa trong khi Bà Đế bị làng phạt vạ rất nặng. Không ai tin chuyện nàng kể và làng quyết định sẽ ném người con gái phạm luật làng xuống biển. Mặc dù cổ bị buộc đá rất nặng vì có thai. Bà Đế vẫn ngoi lên mặt biển được hai lần như chứng thực cho sự trung thực và ngây thơ của mình. Những kẻ giết người phải dùng sào dìm nàng cho tới khi chết. Ngày kỷ niệm tấn thảm kịch diễn ra hàng năm vào ngày 16 tháng giêng âm lịch đã lôi cuốn nhiều người tới đền dâng hương.
Trên các sườn đồi và các bãi biển bị sông Do-hông (Đô Họng, tên đúng của sông là Sông Họng hay Họng giang - ND) cách ly với châu thổ và bị gió bão quất tơi tả là những chiếc lều nhỏ bé của các ngư dân bị đất liền quên lãng. Khách duy nhất tới thăm họ là những tên cướp biển người Tầu ở đảo Các Bà.
Chiến thắng to lớn của Trần Hưng Đạo trước quân Mông Cổ năm 1288, cuộc nổi dậy của Lê Lợi năm 1420 chống lại ách cai trị của người Tầu có lẽ chẳng có tiếng vang nào trên bán đảo, thậm chí người ta còn ngờ rằng Đồ Sơn tham gia vào đời sống của tiếm vương Mạc Đăng Dung khi ông này thiết lập kinh đô của mình ở phủ Kiến Thụy, một nơi chỉ cách khu nghỉ mát hiện nay khoảng mười cây số.
Năm 1880, Jean Dupuis đổ bộ lên bán đảo nhưng chỉ khảo sát qua loa các địa điểm. Năm 1886, các ông Vlaveanos, Costa và Gouma (độc giả chú ý gốc Bồ Đào Nha của các tên này - ND) “phát hiện” ra Đồ Sơn.
Bị chinh phục bởi sự trong lành của khí hậu, ba người giới thiệu các bãi biển cho các gia đình muốn trốn cái nóng oi bức của Bắc Kỳ. Làm theo những người táo gan đi ngựa qua các bãi và đầm lầy hoặc trên những chiếc thuyền tam bản thô sơ, các gia đình này mạo hiểm ra Đồ Sơn và dựng tại đó những ngôi nhà lá.
Các năm sau đó, một công ty thương mại, rồi thuế quan, thiết lập liên lạc mỗi tuần một lần với Đồ Sơn bằng một chiếc xà lúp mà những người Hải Phòng có tuổi gọi là xà lúp của những ông chồng. Chiếc xà lúp này không thể cập sát vào các bãi biển, do đó những người đi nghỉ hè phải thuê ngư dân dùng thuyền chở vào bờ hoặc cõng.
Năm 1891, một con đường bộ nối Hải Phòng với Đồ Sơn được khởi công và năm 1892 thì hoàn thành. Vào thời kỳ này, trú sứ Kiến An cho xây dựng ở Đồ Sơn một ngôi biệt thự. Việc làm của ông ngay lập tức được hàng chục gia đình làm theo và các nhà bằng gạch ở Đồ Sơn mỗi năm một nhiều. Những chiếc xe hơi đầu tiên ra đời càng tạo điều kiện cho Đồ Sơn phát triển. Các con đường lớn thay dần cho những con đường mòn và ngày nay người ta có thể đi lại khắp thị trấn trên những con đường đẹp phần lớn đã được trải nhựa. Càng ngày trung tâm nghỉ mát Đồ Sơn càng được nhiều người biết và lui tới. Đường vào thuận lợi, cảnh trí như tranh, sự đón chào niềm nở, khí hậu trong lành là những yếu tố khiến Đồ Sơn được mọi người tán thưởng. Hàng năm từ tháng 5 tới tháng 10, Bãi Lớn, vịnh Clateau, vịnh Hoa tiêu (Bai des Pilotes), vịnh Pagodon rất nhộn nhịp. Một trăm năm mươi biệt thự, ba khách sạn, nhiều hàng ăn không đủ phục vụ khách đi nghỉ hè.
Bán đảo Đồ Sơn hoàn toàn xứng đáng với sự ưu ái của Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Là vọng gác của đất liền vươn ra biển, dãy núi liên tục được gió biển mang lại sự trong mát và lành mạnh. Đồ Sơn không chỉ thu được những thành quả to lớn vào mùa nóng nực mà sự duyên dáng lôi cuốn của nó còn sinh động hơn vào mùa xuân và mùa thu. Vào hai mùa này, sự biến mất của cái nóng cho phép người ta đi dạo trên những đoạn đường dài hay đua thuyền ra Hon - dau (Hòn Dáu) và những ngày chủ nhật thị trấn nhỏ nhộn nhịp trong vài giờ.
Dân cư Đồ Sơn đa phần là dân các làng chài nằm bên bờ biển lô nhô đá. Cho tới thời gian gần đây, người châu Âu không nhiều nhưng hiện nay số người châu Âu tăng đáng kể do nhiều gia đình ở Hải Phòng chạy ra để tránh bom.
Nghị định ngày 18-5-1909 của Toàn quyền Klobukowski nâng Đồ Sơn lên thành đô thị.
Năm 1911, lãnh thổ của đô thị này được chia thành ba khu và được xác định rõ vào năm 1929. Sự phê chuẩn được thực hiện vào năm 1933 và việc đăng ký nhà đất được thực hiện bằng nghị định 27-5-1940. Ngày 31-12-1921, thị trấn được coi như ngoại ô và đặt dưới quyền thị trưởng Hải Phòng. Nghị định 29-2-1924 của toàn quyền Đông Dương lại đặt Đồ Sơn thuộc vào tỉnh Kiến An.
Thời gian gần đây, các công trình đô thị được đẩy mạnh: hai con đường, một nối biệt thự của Trú sứ với Nhà Thanh Niên, một chạy men theo bờ biển có biệt thự Saint Mathurin tới tận khu quân sự, một sân thể thao cạnh đồn binh, một chợ và một bò sát sinh phù hợp với quy mô của thị trấn, sẽ xem xét lại quy hoạch của các làng cá, trong đó mỗi nhà từ nay trở đi sẽ có vườn rau.
Câu lạc bộ Hàng hải Đồ Sơn có một cơ sở khá duyên dáng. Thuyền đơn, ván lướt, thuyền máy phao hơi là những thứ gây hứng thú cho các nhà thể thao trong mùa nghỉ hè. Hàng năm, các cuộc đua thuyền thu được những thành công và lôi cuốn tới bãi những người nhiệt tình với thuyền buồm.
Cuối cùng chúng tôi xin nhấn mạnh là các cầu nổi của câu lạc bộ bị cơn bão ngày 11-11-1942 phá hủy đang được gia cố và nối dài từ ngày 19-6-1943. Công trình được thực hiện. dưới sự hướng dẫn của Cục Hàng hải Cảng Hải Phòng và cho ra đời hai chiếc cầu tàu vững vàng ngay cả khi thời tiết xấu.
Sự quan tâm của Đô đốc Jean Decoux trong việc làm đẹp khu nghỉ mát là một đảm bảo vững chắc cho sự thành công của các công trình đã thực hiện. Nhưng các quan chức cao cấp của Đông Dương không chỉ chú ý tới những người đi nghỉ hè. Các nỗ lực to lớn đang được thực hiện để giúp ngư dân làng Ngọc Xuyên. Một hợp tác xã vừa được thành lập nhằm mục đích khuyến khích, bảo đảm và tạo thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của các xã viên cũng như chế biến, bảo quản và bán các sản phẩm thô hoặc đã chế biến tới người tiêu dùng.
Trong tình hình khó khăn ngày càng lớn hiện nay, do tình hình chính trị cũng như do thiếu sợi đay để sản xuất và sửa chữa lưới, những tiềm năng vốn có của nghề cá ở Đồ Sơn khó thực hiện được một sản lượng ổn định như các ngành công nghiệp khác. Tuy nhiên, hiện nay ngư dân Đồ Sơn có thể cung cấp mỗi năm từ 80 tới 100 tấn cá, trong đó phần lớn cung cấp cho các tỉnh vùng châu thổ.
Cũng cần phải ghi nhận là mỗi năm Đồ Sơn sản xuất được khoảng 30 tấn mắm tôm đáp ứng được yêu cầu thực phẩm cho dân chúng Hải Phòng và các vùng xung quanh.
Vừa là khu nghỉ mát nổi tiếng vừa là trung tâm đánh cá quan trọng, bán đảo Đồ Sơn giữ một vai trò quan trọng ở Bắc Kỳ. Những kết quả thu được hiện nay về mặt nghỉ mát cũng như về mặt kinh tế cho phép chúng ta tiên báo một tương lai rất thuận lợi của Đồ Sơn.
______________________
trích đọan 1
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Trú sứ Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:33:19 GMT 9
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam-phần 2 Một trạm nghỉ mát trên cao của Đông Dương:
Ba Vì G. Tucat
Trú sứ Pháp tại Sơn tây
Sự xa xôi hoặc chật hẹp của các khu nghỉ mát trên cao có từ trước ở Bắc Kỳ như Sa pa (Chapa), Tam Đảo (Tam dao) và Mẫu Sơn (Mau son) đã buộc chính quyền, từ đầu năm 1942, phải xây dựng một khu nghỉ mát mới ở núi Ba Vì (Bavi) trong tỉnh Sơn Tây (Son tây).
Điều ngạc nhiên là cách đây hai năm nhiều người Pháp và An Nam vẫn còn chưa biết có một địa điểm như vậy chỉ cách Hà Nội có 55 km và đã có đường theo sườn Bắc lên tới độ cao 400, 500 mét ngay từ năm 1924.
Tại sao trước đây người ta dừng lại ở độ cao 400 mét? Tại sao không lên cao hơn nữa? Đường phân thủy không dùng được chăng? Địa hình của nó ra sao? Bí mật của ngọn núi thần đáng gờm đối với những người không bao giờ thỏa mãn như Jules Boissière là gì? là các hang động hay các khu rừng của nó? ảo ảnh nào trong các hang tối do những người am tường báo trước đang chờ đợi khách mạo hiểm? Ngược với mọi suy nghĩ thông thường, vì sao trước đây không một điểm nghỉ mát quan trọng nào được thiết lập trong dãy núi này?
Đó là những câu hỏi được báo chí, kể cả tạp chí của chúng tôi, tranh luận mới đây. Lý do gì đi nữa, tình trạng đó là kết quả của các văn bản cho thấy chính quyền bảo hộ luôn luôn từ chối ném tiền vào Ba Vì trước khi trang bị xong cho các khu Sa pa và Tam đảo.
Ba Vì là nơi ở của các thần của người An Nam.
Trong số những lý lẽ rất chặt chẽ và thuyết phục, ai dám không tin là các thần không chịu bỏ núi Tản viên, nơi từ lâu quyến rũ con người? Các thần gợi ý con người xây dựng nơi nghỉ hè xa chỗ các thần, về phía Thập lục châu (Seize Châu), một nơi rất khan hiếm thực phẩm và vào đó chỉ nhờ một chiếc xe cổ lỗ để vào được rồi, oái oăm thay, lèn nhau như trong một rạp xiếc chật chội, trong đó chân phải dò từng bước và sương mù khắp nơi.
Các thần tươi cười vui vẻ với những ai vào khu vực của các thần với tấm lòng nhiệt tình, khoan dung và từ thiện? Không phải là những thần như Boissière mô tả: núi của các thần không ẩn sau những hang động hay rừng cây đầy mãng xà ác thú. Núi của các thần chỉ có các giống thú thần tiên: sóc đủ cỡ và đủ màu da, đen, xám, đỏ hung hung, gà lôi trắng, hoẵng và từng đàn chim dẽ nhiều đến ngạc nhiên khi chúng ra đi vào tháng mười một.
Ba Vì, tên thường gọi của núi Tản Viên, có sự tích rất dân dã. Theo sự tích này, núi là nơi ở của Sơn Tinh. Trong cuộc sống trần thế, vị thần này là một tiều phu tên là Nguyễn Trung ở làng Giáp Thượng dưới chân núi. Do có đức độ, Sơn Tinh được phú cho những phép thuật ghê gớm. Sơn Tinh tranh với Thủy Tinh chinh phục con gái vua Hùng Vương, một vị vua sống vào khoảng năm 350 trước công nguyên và có kinh đô ở quãng Việt Trì hiện nay. Để phục thù sự thất bại, Thủy Tinh vây hãm núi Tản Viên bằng nhiều con sông: Sông Đáy ở phía Đông, Sông Đà ở phía Tây và ở phía Bắc là Sông Hồng rất lớn với những dòng nước khôn lường. Từ đó, năm nào vào tháng sáu, tháng bảy, Sơn Tinh cũng phải chống chọi với sự hận thù không sao nguôi của Thủy Tinh. Từ cuộc chiến đó, xuất hiện hai câu thơ nổi tiếng:
Chừng nào còn núi còn sông
(Tanh qưon verra le mong Tan Viên et les neuves du Tonkin)
Còn chuyện báo oán còn ghen chuyện tình
La guerre allumée par le vengeanee et la ìalousie se répétera cha que année sanh pouvoir jamais s,éteindre)
Nguyễn Trung làm nhiều việc tốt cho nhân dân với lòng thanh thản. Ông mang lại sự thanh bình cho những nơi bị tàn phá. Nhằm bố trí các trạm trong khu vực của mình, ông ra lệnh xây dựng ba ngôi đền ở núi Tản Viên: Đền Thượng ở trên đỉnh núi, đền này nay đã biến mất, Đền Trung trên sườn phía tây và Đền Hạ dưới chân núi thuộc địa phận làng Thu Pháp. Ông còn cho xây bốn đền khác quanh núi nằm theo bốn hướng: Đền Và ở phía Đông trong làng Yên Vệ, đền Yên Cư ở phía Tây, đền Yên Lạc ở phía Bắc trong địa phận tỉnh Vĩnh Yên, đền Vật Lai ở phía Nam trong địa phận phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn tây.
Năm 31 tuổi, nhằm tháng 5 năm Đinh Hợi, Nguyễn Trung biến mất trong vùng rừng núi thanh lãng. Ngọc hoàng thượng đế xếp Nguyễn Trung vào hàng bất tử và cho làm thần núi Tản Viên. Từ đó, thỉnh thoảng thần lại xuống trần để làm vơi bớt nỗi khổ ải của đồng bào. Khi thần tới núi Ba Vì, hổ báo và các thần khác ngoan ngoãn đi theo hầu. Năm 618, quan đô hộ của nhà Đường là Cao Biền, một người giỏi thuật phong thủy, lên núi Tản Viên tìm cách đuổi thần đi nhưng mọi cố gắng của ông ta bị thất bại thảm hại.
Theo dân chúng, ngày xưa trên núi Ba Vì có một cây tên là vô phong độc giao thảo có thể tự di chuyển không cần tác động của gió. Lá của cây này có hai phiến có thể mở ra khép lại theo ý.
Năm 1072, vua Lý Nhân Tôn cho xây trên đỉnh núi một cái tháp hai mươi tầng.
Năm 1836, tức năm Minh Mệnh thứ 17, nhà vua ra lệnh khắc hình núi Tản Viên vào cửa đỉnh thờ vua Thuận Tôn. Thần Tản Viên là một trong Tứ Bất Tử (bốn thần không chết) của An Nam, ba vị kia là Phù Đổng Thiên Vương thờ ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Trử Đồng Tử thờ ở Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Từ Đạo Hạnh thờ ở chùa Sài Sơn, phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Thần Tản Viên là thần của các tỉnh Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phú Thọ. Theo địa bạ thời Gia Long, làng Giáp Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây đã cúng 278 mẫu ruộng làm ruộng thờ thần Tản Viên.
Trong thời kỳ hiện đại, cuộc thâm nhập đầu tiên vào núi do Trú sứ Pháp tại Sơn Tây là Muselier thực hiện vào năm 1902. Bia khắc tại chùa Vi Thuy (Tông) cho thấy, ông này đã cho trùng tu lại Đền Thượng ở trên đỉnh núi tại một khu đất bằng phẳng rộng khoảng 2000 m2 và cho làm một con đường lên đó. Con đường này được ghi trên bản đồ tỉ lệ 1/100.000. Xuất phát từ một con đường của trại binh, con Lagarrigue xây dựng từ tháng 5-1937 tới tháng 3- 1938 thì hoàn thành. Trung tâm của quân đội tiếp nhận các đơn vị người gốc châu Âu. Hiện nay, khu có mười lăm ngôi nhà kiên cố và hai nhà ăn. Bất chấp những khó khăn hiện nay, công tác xây dựng vẫn tiếp tục một cách tích cực.
Năm 1937, ông Regimbaud, chủ khách sạn Tông, xây dựng ở giữa rừng tại độ cao 600 mét trên sườn Bắc một ngôi nhà sàn nhỏ làm nơi nghỉ hè và trồng thử các loại rau và cây ăn quả.
Hè 1940, khoảng sáu mươi trẻ em Pháp và An Nam, dưới sự hướng dẫn của ông R.P. Seitz, tới cắm trại trong rừng ở độ cao 800 mét trên sườn Bắc, trên “cao nguyên Regimbaud”. Đó chính là xuất xứ của Trại Thanh Niên (Cam de Jeunesse) hiện nay. Năm 1941, ông Seitz thành công trong việc xây dựng, bằng phương tiện riêng, tại đây hai ngôi nhà xây, trong đó một ngôi dài tới 30 mét.
Năm 1942, với sự giúp đỡ của chính quyền, thêm ba ngôi nhà mới nữa được xây dựng. Được hoạch định để đón nhận 400 thanh niên, trại này nằm ở sườn Bắc, trải dài từ Đông sang Tây trên một diện tích khoảng mười hecta. Trại có hai nhà lớn, dành làm nhà ăn và nhà ngủ, một nhà lớn dành cho quản trị hành chính, các nhà phụ trợ (xưởng giặt, xưởng cơ khí, các của hàng...), một nhà bếp rộng rãi, một nhà thờ nhỏ với những hàng ghế lễ đơn giản đến cảm động. Có một sân rộng rãi giữa nhà thờ và ngôi nhà chính nằm bên đỉnh Bắc. Trong đêm tối khối núi đồ sộ này tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ trong ánh lửa trại.
Núi rừng chỉ nhường vừa đủ chỗ cho Trại xây dựng các công trình cần thiết. Chỉ và chỉ do cần thiết nên chỉ có nhà bếp được dành cho những “tiện nghi”. Các nơi khác đều đòi hỏi sự nỗ lực của các trại viên.
Dưới sự lãnh đạo của ông Seitz, một nhà giáo dục sâu sắc và nhiệt tình được trợ giúp của các sĩ quan và tu sĩ tận tụy, khoảng 250 tới 350 thanh niên Pháp- Nam bó mình hai tháng liền trong những bài rèn luyện thân thể và kỷ luật tinh thần, nhúng bài chỉ tạo ra những con người rắn chắc và lành mạnh. Khi lê bước ở cuối hàng trong một buổi tập, viên cai lính thủy đánh bộ này (chỉ Seitz) đã càu nhàu một cách hoàn toàn không sáo rỗng “người ta đi bằng đầu hơn là đi bằng chân”. Ông đã nhận được nhiều lời xin lỗi.
Con đường lên độ cao 1000 mét bắt đầu ngày 26-2-1942. Hai kilômét đầu lên tới độ cao 600 mét được hoàn thành ngày 1-5-1942 sau trong hai tháng thi công, cho phép lên tới Trại Thanh niên. Các công trình đã được tiếp tục sau khi hoàn thành việc nghiên cứu đường vạch ngày 18-9-1942: lô số 1 ở độ cao 1000 mét hoàn thành ngày 23-4-1943. Hiện nay, con đường lên tới độ cao 500 mét của lô thứ hai. Con đường, dài 6 km từ đường quân sự tới đỉnh đèo, đã được các tù nhân thi công dưới sự giám sát của hai ông thanh tra lính cơ (Garde Indochinoise) là Méehard và Grimaud. Ông Grimaud, vốn là thành phần ưu tú, chết vì lao lực vào tháng 1-1944. Cần phải san phẳng những khối đá lớn, xây một bức tường chống sạt lở dài khoảng 200 mét. Có ba khuỷu gấp độ nghiêng không quá 10%.
Đúng như tên gọi, núi Ba Vì có ba đỉnh. Núi chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam dạng vòng cung có bề lồi hướng về phía Tây Nam. Đỉnh Đông Nam cao nhất: 1284 mét. Đỉnh giữa: 1160 mét và đỉnh Tây Bắc: 1140 mét.
Tương lai của trại hiện nay như thế nào? Nó có những lợi ích gì so với các trại có trước như Chapa, Tam Đảo?
Từ hai mươi năm nay đã có ý kiến dai dẳng Ba Vì không thể là một trại nghỉ mát vì không có nước. Người ta thấy khẳng định này trong các thư từ chính thức cách đây mười lăm năm. Đúng là ở Ba Vì không có những thác nước lớn như ở Tam Đảo. Tuy nhiên, thác nước đầu tiên đã được phát hiện ở đỉnh và đã được nhìn thấy từ máy bay. Nhưng thác này lại đổ xuống sườn phía sông Đà và đường dẫn tới nó rất độc hại nếu để nguyên rừng. Điều chứng minh cho khẳng định này là tại cao nguyên tọa lạc ở lô số 1, lô dễ vào và dễ khai thác nhất, quả thực không có một con suối nào. Nhưng những cuộc thăm dò năm 1942 từ đỉnh Giữa tới đỉnh Nam, trong khu vực lô thứ 2, đã phát hiện được những nguồn nước thường xuyên đủ cung ứng cho yêu cầu hàng ngày của 4000 người. Các nguồn nước này cách lô số 1 khoảng 1,5 km. Do đó có thể dẫn nước về lô này. Việc dẫn nước, trên bản vẽ mới chỉ là phác thảo, hiện đang được thực hiện.
Trại Ba Vì, ngay cả khi phát triển hết cỡ, không thể so được với trạm Sapa. Nó sẽ phát triển theo chiều dài và khi phát triển hết cỡ cũng chỉ được 4 cây số Nhưng trại sẽ quan trọng hơn trại Tam Đảo và có thể chứa được số biệt thự nhiều gấp đôi Tam Đảo. Ở đây có 50 lô với lô nhỏ nhất có diện tích 1200m2, trong đó chỉ riêng lô số 1 đã có số biệt thự bằng một nửa con số 105 biệt thự của Tam Đảo.
Tại độ cao 600 mét cũng có thể xây dựng được nhiều lô nữa để có thể nói tới một trại nghỉ mát Ba Vì.
Các thông số khí hậu thu thập trong hai năm qua cho phép khẳng định Ba Vì không ẩm như Tam Đảo. Đường phân thủy luôn luôn thông thoáng gió, về mùa hè không có sương mù. Nhiệt độ thấp nhất và cao nhất quan sát được là 17o8 và 29o6. Về mưa, vũ lượng ở đây bằng vũ lượng ở Sơn Tây. Trại nghỉ mát Ba Vì sẽ được nhiều người quan tâm hơn do gần Hà Nội và dễ tới hơn so với những trại khác. Chẳng cần vượt cầu Doumer hay cầu Đuống. Quãng đường chỉ có 65 km: 40km từ Hà Nội tới Sơn Tây, 19km từ Sơn Tây tới độ cao 400 và 6km từ độ cao 400 tới độ cao 1000. Trong 65km trên, có 11km đường đèo.
Khu đồng bằng dưới chân núi là nguồn cung cấp thực phẩm. Sơn Tây - Tông là một khu dân cư quan trọng, điểm dân cư có số lượng người châu Âu xếp thứ hai hiện nay ở Bắc Kỳ. Ở Tông có một khách sạn kiểu châu Âu. Việc cung ứng sữa và bơ, thứ rất cần cho trẻ em, do các trang trại của ông Michaud bảo đảm. Hơn mọi nơi khác, Ba Vì là xứ sở của trẻ em. Chúng tôi đã nói qua về Trại Thanh niên, nơi chỉ nhận những trẻ em trên mười tuổi. Hiện nay, các em nhỏ tuổi hơn ở trong biệt thự Borel tại độ cao 400 dưới sự điều khiển của các nữ tu Dòng Đức Mẹ.
Ba Vì lôi cuốn các em bởi sự huyền bí. Đây là nơi lý tưởng của những cuộc “thám hiểm”: rừng hoang sơ và hầu như không có một con đường mòn nào. Ai là người đầu tiên phát hiện ra Hồ Gấu, ra những hốc đá có dầu tuôn chảy? Ai cũng có thể là những khách viễn du liều lĩnh, kể cả những khách chưa tới mười tuổi. Núi rừng là nơi thần tiên của khách. Như vậy Ba Vì đang được quy hoạch cho nhiều năm.
Những khó khăn về giao thông, chỉ vừa mới xuất hiện gần đây, đã cản trở việc xây dựng của tư nhân và chính quyền. Khi điều kiện cho phép, việc phát triển các trại ở đây sẽ được thực hiện theo quy củ và có phương pháp của một kế hoạch vạch trước. Tất nhiên sẽ có một số tư nhân ngoan cố và có thái độ ác cảm, những người không hòa hợp được với lợi ích chung.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:34:19 GMT 9
Những trạm nghỉ mát trên cao của Đông Dương:
Sapa 103o52 Đông
22o22 Bắc
Đỉnh Fansipan, ông hoàng của các ngọn núi ở Đông Dương, “núi có sườn gập ghềnh” người Mán gọi là Hoàng Liên Sơn, khối núi vươn lên trời, bức tường mầu xanh sẫm, những đỉnh núi kỳ vĩ ở độ cao ba nghìn mét. Những đám mây nặng nề, những màn sương nhẹ che phủ dãy núi thay đổi không ngừng. Những chiếc thác rạch vách núi thành những đường thẳng đứng dài óng áng như bạc.
Dưới chân núi, Sapa mỉm cười trong ánh mặt trời tháng sáu.
Những cây đào trĩu quả đổ bóng lên những bức tường đá xám. Rồi những dàn nho. Cao hơn, nơi gợi nhớ tới những đồng cỏ trên cao ở châu Âu, là bãi chăn thả với những con bò hung hung đỏ, trắng và những hàng rào bằng cây đầy mấu. Trong buổi lễ ở thị trấn, chiếc gác chuông mới nâng cây thập tự bằng đá trắng lên bầu trời.
Những ngôi biệt thự rêu phong hoặc mới vững chắc, những lán gỗ, bãi tập đua ngựa quây bằng đá trắng như đá hoa cương, một đường phố lúc vụt lên, lúc lao xuống giữa những cửa hàng sặc sỡ; một ngôi chợ sạch sẽ với mái ngói, gỗ pơmu và, than ôi, cả mái tôn kinh khiếp!
Lướt nhanh qua mọi thứ đang vui tươi dưới ánh mặt trời là những giải sương mảnh mai. Một sự thanh lãng tràn ngập, một sự trong mát cao nhã ngoài đồng bằng Sông Hồng ngột ngạt pha đôi chút lộn xộn.
Thật ngạc nhiên khi thấy những cặp má hồng hào của những đứa trẻ ở Sapa, thế nhưng má của những người bạn Pháp của chúng cũng bắt đầu hồng theo.
Sapa đã phát triển.
Từ năm 1910 tới năm 1920, có sáu biệt thự được xây dựng trong đó có biệt thự Mangin.
Từ năm 1920 tới năm 1930: Tòa Công sứ, các khách sạn và hai mươi tám ngôi nhà.
Từ năm 1930 tới năm 1940: hai mươi sáu biệt thự và nhà thờ.
1941: một biệt thự.
1942: bẩy biệt thự.
1943: mười ngôi nhà.
Người đứng đầu Liên bang[ii] quyết định vạch ra một quy hoạch trước khi xảy ra những sai lầm không thể sửa chữa được. Một nhà quy hoạch đô thị, nói đúng ra là một nghệ sĩ toàn diện, chuẩn bị công việc.
Thoạt đầu, bản quy hoạch làm ta bối rối. Giống như một bức tranh siêu thực khó hiểu, bản quy hoạch như một chiếc bảng mầu của một họa sĩ thuốc nước: đỏ son, hồng, nâu hạt dẻ, nâu đen, xanh lục, xanh dương, cam, tím quỳ. Tất cả thể hiện trên một mặt phẳng trong khi thực địa là các thung lũng, khe, đồi, dốc. Bản quy hoạch nghiêm ngặt có đôi chút gai góc làm người ta sáng ý ra. Bằng các thuật ngữ nghề nghiệp chính xác, ý đồ của nhà đô thị học rõ ra và trở nên sinh động. Trước mắt chúng ta, ẩn sau Sapa hiện tại là Sapa tương lai. Quy hoạch tôn trọng những gì quá khứ và hiện tại đã xây dựng. Tuy nhiên, ở mức độ không đừng được, quy hoạch đã sửa chữa những sai lầm quá lộ liễu. Quy hoạch chuẩn bị cho sự phát triển hài hoà của một đô thị to lớn. Đường thuộc địa số 4 mở rộng sẽ là một con đường rộng và đẹp đi qua trung tâm thành phố. Trên đường vào thành phố, phía bên bên trái là những biệt thự của Ngân hàng Đông Dương; tiếp đến, con đường sẽ chạy qua một khu vực lưu không, men theo sườn Bắc của dãy Sang-ta-van. Ở phía Bắc và phía Nam thành phố sẽ có những khu dành riêng để bảo vệ thành phố. Tại đó sẽ có các công viên và khách sạn xanh tươi cây lá.
Xa hơn nữa về phía Bắc là khu công nghiệp và thương mại.
Về phía Tây của khu trên, các vườn cây sẽ tạo thành một khu đệm giữa khu công thương nghiệp và một chiếc hồ. Tiếp đến là khu thể thao với sân bóng và các bãi chơi trong vùng đầm lầy hiện nay của cao nguyên Lo-sui-Tong. Những nhát cuốc đầu tiên đã bắt đầu cho các công trình này.
Trên các sườn phía Nam của cao nguyên Lo-sui-Tong là các biệt thự hạng hai. Người ta đã vạch ra chỉ giới của các con đường. Một số đường đã bắt đầu khởi công. Tuy nhiên, tại khu vực cao, các khu rừng cấm một khi trở thành không thể thiếu được sẽ ngăn cản việc mở rộng thành phố.
Trung tâm thành phố sẽ thay đổi ít. Tại đây, một gara ôtô buýt hiện đại, một trạm hiến binh, một trạm y tế và một trường học sẽ thay thế cho các cơ sở khiêm tốn hiện nay. Khu hành chính của chính quyền An Nam ở trung tâm sẽ nằm ở vị trí tốt hơn.
Người ta sẽ xây một chiếc cổng đôi để trang trí cho phố Muong-bo đồng thời làm chỗ trú mưa cho khách bộ hành.
Một khu vực rộng được dành cho khu hành chính.
Nhà của Toàn quyền sẽ được xây dựng ở phía Tây dãy Song-ta-van, tại một chỗ cao có những khối đá đen lẫn trong rừng pơmu trông xuống thành phố.
Ở phía Bắc sân vận động, sẽ xây dựng về phía Tây thành phố những bãi rộng dành cho thanh niên, khu làng đại học, các khu rừng phục vụ công tác y tế.
Về phía Nam thành phố, trên những đồi trông xuống thung lũng Sông Muong-bo là các biệt thự đẹp hạng nhất ngăn cách với các biệt thự hạng hai ở phía Bắc bằng một khu trồng rau hàng lối ngay ngắn. Các biệt thự hạng hai này sẽ phủ kín hết các sườn núi phía Nam của khu dân cư hiện nay.
Về phía Đông Bắc của thành phố, khu quân đội vẫn giữ nguyên nhưng có thể hy vọng khu doanh trại này sẽ có sự cải thiện về mặt mỹ học. Hiện nay đang tiến hành mở rộng biệt thự dành cho hạ sĩ quan.
Khắp nơi là những khoảng lưu không thoáng đãng, những vùng cây xanh, ánh sáng, những cảnh mang lại niềm vui cho sự thưởng ngoạn, cho trẻ em. Những người thợ sẽ cố gắng thực hiện điều đô đốc muốn và nhũng thai nghén của các nghệ sĩ. Như một thiếu niên tươi cười, Sapa, nữ hoàng của độ cao, đang chuẩn bị bộ áo cho ngày mai.
______________________
Sầm sơn Ưng Quả
Sự chú ý của khách du lịch hoặc khách nghỉ hè khi đi trên tỉnh lộ 8 nối Thanh Hoá với Sầm Sơn trước hết hướng vào sự thẳng băng đến kỳ lạ của con đường trải nhựa đẹp đẽ này. Hai hàng phi lao đều đặn bên đường thỉnh thoảng lại rắc ánh nắng trong trẻo lên đường khiến người ta muốn đích tới cứ mãi mãi ở vô tận để khỏi mất cảm giác vui tươi của chuyến đi.
Tuy vậy, tới cây số 9, sau khi tiếng ồn ào của thị tứ nhỏ bé Chợ - môi biến mất, đường không một bóng cây và trở nên ngoằn nghèo nhưng vẫn không lệch khỏi hướng chung Tây Bắc - Đông Nam. Tới cây số 14, ta gặp ở bên phải những đồi như bát úp của dãy Sầm Sơn. Chúng ta đi song song với dãy núi hoa cương này hai cây số. Tên nguyên thuỷ của dãy núi được dùng đặt cho cả khu nghỉ mát. Cuối cùng hiện ra những ngôi biệt thự hồng và trắng ngà của thị trấn vui tươi. Các biệt thự, ngôi ở chót vót trên đỉnh núi, ngôi ở lưng chừng núi, nhiều hơn cả là những ngôi thu mình trong rừng phi lao. Khu rừng này chạy từ mũi đá phía Nam đổ về phía Bắc bao lấy biển. Thế là chúng ta đã tới chỗ tiếp giáp của hai khu đô thị. Sầm Sơn Thượng (Sam-son le Haut) ở bên phải và Sầm Sơn Hạ (Sam-son le Bas) ở bên trái.
Mặc dù trông có vẻ phức tạp nhưng thực ra toàn bộ khu vực hoàn toàn được xác định về mặt tạo sơn học. Từ xa xưa, toàn khu vực Sầm Sơn được hình thành từ dãy đá hoa cương hiện nay. Dãy này chạy theo hướng chung Đông - Tây gồm 12 ngọn đồi liên tiếp có chiều cao không quá 100m. Đỉnh cao nhất của dãy (79,3m) nằm xa nhất về phía Đông tại Núi Voi. Cực Bắc của Núi Voi nhô ra một bán đảo nhỏ gọi là Núi Cô - Giai. Khắp nơi là đá hoa cương bị đứt gãy thành các khối mà phong hoá đã làm tròn trịa và thời gian phủ lên màu xám. Bị kích thích vì sự giống nhau đến khó hiểu, óc tưởng tượng dân dã đã đặt cho chúng những cái tên đẹp: chỗ này là Tổ Rùa (Cou de la Tortue) chỗ kia là Đầu Voi (Tête de Eléphant) lại có chỗ là Núi Mũ (Bonnet), núi Mào Gà (Crête du Merle). Chen giữa các khối, các núi là những bãi đất, bãi cát hay những thùng nước sâu suối đổ vào. Dựa vào bức tường đá, qua nhiều thế kỷ đã hình thành dải duyên hải mà phần rìa chính là bãi biển Sầm Sơn. Bãi chạy dài 10 km từ mũi Núi Voi tới Cửa Lạch - Triều, cửa chính của Sông Mã. Bãi biển hầu như bằng phẳng. Chính sự bằng phẳng này phần nào giải thích sự di chuyển của cửa Lạch Triều về phía Nam. Theo sách Địa chí đời Tự Đức, cửa này trước thời Tây Sơn (1778-1802) nằm xa hơn về phía Bắc 4 km trên đất hiện nay của làng Xuân - vi và Bang - Tri. Các rừng phi lao khắp nơi đã ngăn chặn được sự di chuyển của cát và nhóm rừng dày đặc xa nhất về phía Bắc mang một cái tên khá nên thơ: Rừng Huyền bí (Forêt Mystérieuse).
Điểm nghỉ mát xinh đẹp này được phát hiện ra vào khoảng năm 1900, lúc đường Xuyên Đông Dương làm tới Thanh Hoá. Không kể những người sau này, chỉ riêng ba viên quan liên tiếp cai trị Thanh Hoá sớm nhất là Moulié, Soler, Pasquier đã đua với các quan Nam triều phát triển Sầm Sơn, nơi họ biết sẽ phát triển rất nhanh. Lúc đó các điểm nghỉ mát trên cao còn chưa được biết tới nên hầu như các viên chức Bắc Kỳ tới thuê ở các làng Sầm Sơn hoặc cho gia đình tới.
Sau chiến tranh 1914-1918, các điểm Tam Đảo và Sapa được sửa sang lại, phần lớn dân nghỉ hè Bắc Kỳ rời bỏ Sầm Sơn để lên các điểm nghỉ trên cao xem thế nào. Nhưng sự chững lại một thời gian của Sầm Sơn như chuẩn bị một bước nhảy xa hơn. Bãi biển lại lôi cuốn một lượng lớn người châu Âu. Thêm vào đó là nhiều người An Nam từ Thanh Hoá, Hà Nội, Nam Định và các đô thị ở châu thổ sông Hồng cũng đổ tới. Ngày nay, Sầm Sơn là một trong những điểm nghỉ mát bên biển quan trọng nhất của Đông Dương.
Lẽ tự nhiên, quy hoạch đô thị của Sầm Sơn đã thúc đẩy sự phát triển bộ mặt của nó. Sầm Sơn hiện nay gồm hai trung tâm đô thị với tổng diện tích 244 hecta.
1. Sầm Sơn thượng. Khu đô thị này nằm trên những sườn núi đá tạo nên vùng cao chúng tôi mô tả ở trên. Khu này chiếm phía Nam khu nghỉ mát, trông ra biển, phía tây là những cánh đồng lúa ngút mắt. Đất quanh khu cao này đã được phân chia và 40 biệt thự, (32 biệt thự một tầng và 8 biệt thự có tầng lầu) trong đó có biệt thự của Trú sứ và Tổng đốc, đã được xây dựng. Nhiều đường rộng và tốt ngang dọc khu cho phép đi dạo bộ hoặc bằng ô tô. Trung tâm được phủ xanh bằng thông, phi lao và các loại cây có hương thơm của địa phương.
2. Sầm Sơn Hạ. Đây là khu dân cư cổ nhất nằm từ mũi Sầm Sơn Thượng tới Cửa Lạch - Triều. Trong khu, 214 nhà gạch, trong đó có 22 nhà tầng, không kể nhà trong chợ, xếp thành 4 dãy phố dọc theo 2km bờ biển. Ngăn cách bãi biển với các phố là một hàng rào phi lao để bảo vệ khu dân cư khỏi cát lấn Đó là những ngôi nhà duyên dáng kiểu cách khác nhau được dậu cây hay thảm cỏ bao quanh đóng bằng cổng gỗ hoặc cổng xi măng. Chính trong khu này, người ta vạch các đường phố chính và xây dựng khách sạn, công sở, trong đó có nhà Bưu điện, trạm Điện báo và Điện thoại, chưa kể một nhà máy phát điện.
Nếu Sẩm Sơn bị phân chia thành hai khu đô thị khác nhau thì nó lại hoàn toàn thống nhất về khí hậu, biển cả và sự quyến rũ.
Khí hậu Sầm Sơn gần giống khí hậu Thanh Hoá cách đó 16km nhưng với đặc điểm dễ nhận ra là được gió biển và gió từ đất liền thổi ra làm thông thoáng.
Tháng lạnh nhất là tháng Một và tháng Hai. Nhiệt độ trung bình vào tháng Một là 15,7o, nhiệt độ thấp nhất trong tháng này là 13,1o. Tháng 6 và tháng 7 là những tháng nóng nhất. Tháng 6 nhiệt độ trung bình là 28,9o, nhiệt độ cao nhất là 33oc. Khí hậu ấm áp đó tương đối khô. Vũ lượng hàng tháng của các tháng 12, 1 và 2 không bao giờ vượt quá 7,5 mm và lượng mưa hàng tháng ít khi vượt quá 1800mm. Biển Sầm Sơn yên tĩnh suất mùa nóng. Nước biển mát và khá trong. Khu vực này có nhiều loại cá khác nhau: nục, thu, các loại; rồi tới các loại giáp xác: tôm, cua, tôm hùm. Cuối cùng là ốc, sò, nghêu. Đó là chỉ những loại nhuyễn thể đáng chú ý nhất đánh bắt đòi hỏi những ngư dân cần cù có te, lưới và thuyền tam bản.
Bãi Sầm Sơn Hạ dài gần 10km. Khi nước triều rút xuống, lộ ra bải phẳng lì chạy dài hàng trăm mét xuống biển. Sầm Sơn Thượng có những bãi nhỏ trong các vụng đá. Các vụng này chia cắt rìa ngoài của doi đá nhô ra biển. Trong các vũng thụt vào như vậy sinh sôi nẩy nở các loài động vật tĩnh lặng. Cầu gai, ngọ nguậy dưới các hốc đá, san hô mọc trong các vụng nhỏ trong suốt. Chính ở khu vực này, về phía đông của Núi Voi, có Bãi Kho báu (Plage du Trésor). Bãi được đặt tên như vậy sau khi người ta tìm thấy ở đây vào năm 1934 một kho báu gồm nhiều thỏi vàng và bạc và nhiều tiền đúc năm Cảnh Hưng cũng như tiền Trung Quốc có niên đại từ thời nhà Minh và nhà Thanh.
Với tiện nghi như ý, Sầm Sơn hiến cho khách nghỉ hè những thú vui thông thường của một điểm nghỉ bên bãi bể như tắm, câu cá, quần vợt. Mặc khác, sự tráng lệ của Sầm Sơn mời chào những chuyến đi dạo và dã ngoại. Sầm Sơn Hạ chìm trong bóng mát êm dịu của vô số loại cây có hương thơ, ấn trong màn phi lao chạy dài về khu Rừng Huyền bí ở phía Bắc. Trở thành rừng bảo tồn số 494 từ năm 1928 với diện tích 175 hecta và bị phân chia thành mười lô rừng cây sống một năm, khu rừng này sẽ luôn luôn giữ được đủ huyền bí để lôi cuốn những người mơ mộng và cô đơn. Một con đường bộ nằm hoàn toàn dưới bóng cây chạy xuyên suốt chiều dài khu rừng. Đi quá xa nữa tới tận những làng mạc cần cù của Phủ Quảng Xương người ta có thể vui thích quan sát một số công nghệ địa phương như làm nước mắm, làm quạt, dệt chiếu.
Các bãi biển Sầm Sơn Thượng lôi cuốn những người tìm kiếm vẻ lạ của thiên nhiên và đôi khi thuần tuý khoa học. Nhưng một trong những niềm vui hiếm hoi nhất Sầm Sơn cung hiến cho khách nghỉ hè là leo lên chỗ cao nhất của Núi Voi vào lúc sáng sớm hay chiều tà. Tại đây có một chòi ngắm cảnh cho phép du khách bao quát hết toàn cảnh vui tươi ở phía dưới. Về phía Đông và phía Nam, biển xanh ngắt gợn sóng phản chiếu nghiêng nghiêng. các tia nắng, đây đó là mầu nâu của những thuyền tam bản hoặc mầu trắng của những cánh chim hải âu Về phái Bắc là cảnh tượng mà người ta đoán là Rừng Huyền bí; về phía Tây là những cánh đồng mầu mỡ bao la của Thanh Hoá với những đảo nhỏ xanh tươi. Đó là những ngôi làng bị chia cắt bởi Sông Mã, Sông Chu và chi lưu của chúng cũng như mạng thuỷ nông.
Tới Sầm Sơn cần phải tới thăm đền Độc Cước. Theo truyền thuyết, đền thờ thần hộ mệnh cho Sầm Sơn. Vị thần này nguyên là một người chỉ có một chân thích làm việc thiên. Sùng tín đạo Phật, người này lên đỉnh ngọn đồi cao nhất của Sầm Sơn để tu niệm. Trong một hôm giông bão, theo truyền thuyết là ngày 7 tháng 1 âm lịch, sau khi nước biển rút xuống và sóng rút khỏi các sườn núi, các tín đồ kinh hoàng và thương tiếc khi thấy vị thánh của họ biến mất. Khi thấy một vết chân to lớn trên tảng đá núi Cô-giai, mọi người tin rằng đó là vết chân vị chân tu để lại trước khi thoát khỏi kiếp luân hồi lên niết bàn. Tháng ba ngay năm đó, dân trong vùng thấy bồng bềnh ở biển dưới chân núi một bè gồm một trăm cây gỗ lim. Họ cho đó là ý thần nên quyết định dùng số gỗ đó dựng ba ngôi chùa để thờ thần, trong đó ngôi chính nằm trên tảng đá có dấu chân của thần.
Điều chúng ta quan tâm trên hết không phải là thần tích về Sầm Sơn, sự méo mó của dân chúng về một số sự kiện tích cực, mà là sự lôi cuốn không cưỡng được đặt dấu ấn vào hồn du khách và âm hưởng trữ tình và tôn giáo lan toả trong những người của thi giới đã tới đây. Bài thơ xúc cảm nhất là những bài làm vào đầu thế kỷ, khi Sầm Sơn bắt đầu rũ bỏ tấm màn che huyền thoại và huyền bí để. trở thành một điểm nghỉ mát hiện đại. Trong số nhiều bài thơ làm vào năm Thành Thái thứ 14 (1902) chúng tôi xin kể bài của ông Phạm Liêu, tri huyện Nga Sơn và ông Vương Duy Trinh, tổng đốc Thanh Hoá lúc đó. Hai vị là những nhà nho nổi tiếng thời đó. Chúng tôi xin chép lại dưới đây bài bát cú của ông Vương Duy Trinh xem như một thí dụ cổ điển về sự tôn vinh Sầm Sơn và các vị thần bản địa:
Giám[iii] hỏi duyên gì với nước non,
Đã lâu hay mới dấu chân còn?
Bể sâu dài rộng bao nhiêu thước,
Núi đó kìa đây mấy chục hòn?
Đà dựng cây xanh lồng gió mặn,
Sóng dồi cát bạc lẫn trắng tròn.
Có Thầy có cảnh thêm vui vẻ
Non nước thề cùng mảnh sắt son.
(Tháng 11 năm Thành Thái thứ 14)
Người ta có thể thấy trước tương lai của Sầm Sơn với sự tin cậy và lạc quan. Sự phát triển nhanh chóng vừa qua của nó sẽ tiếp tục hàng năm với những tiến bộ mới. Sầm Sơn Thượng, mới xây dựng gần đây, sẽ nhanh chóng mở rộng ra theo hướng trở thành một trung tâm theo kiểu châu Âu trong khi Sầm Sơn Hạ càng ngày càng chiếm được sự chiếu cố của khách nghỉ hè An Nam. Khí hậu dễ chịu và trong lành, vị trí không đâu sánh được khiến Sầm Sơn trở thành một trong những điểm nghỉ mát bên biển hàng đầu của Đông Dương.
______________________
--------------------------------------------------------------------------------
Viên chức thuộc địa, nhà văn, nghiện thuốc phiện
[ii] Chỉ Đô đốc Decoux, Toàn quyền Liên bang Đông Dương
[iii] Giám trong nguyên văn.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:36:06 GMT 9
Tỉnh thành xưa ở Việt Nam-phần 3 Bạch Mã X.O
Năm 1932, ông Girard, kỹ sư trưởng ngành cầu đường, trong khi tìm địa điểm thuận lợi cho một khu nghỉ mát trên núi quanh Huế, đã thăm dò rừng núi quanh Truồi và Núi Bạch Mã nằm gần đường thuộc địa số 1 (nay là quốc lộ 1 - ND). Hai địa điểm này trông ra biển và nằm giữa Huế và Đèo Hải Vân (Coi des Nuages).
Vì cách xa Đà Lạt nên chí phí cho các gia đình ở Huế và các tỉnh lận cận muốn đi nghỉ hè ở trại nghỉ mát tại Nam Đông Dương này rất cao. Có một trạm nữa là Bà Nà (Banh), một điểm nghỉ mát nhỏ nằm trên vịnh Đà Nẵng (Tourane), nhưng đường tới đó khá khó khăn, nhất là phải vượt qua Đèo Hải Vân, nên thiếu thực tế đối với người Huế.
Trong lần khảo sát ngày 28 và 29-7-1932, ông Girard đã quyết định chọn Núi Bạch Mã, một núi cao 1450m trông xuống phá Cầu Hai và cách Huế 40km về phía Nam.
Từ năm 1933, Hạt Công chánh Trung Kỳ đã cho xây dựng tại Bạch Mã ngôi nhà gỗ khiêm tốn đầu tiên của khu nghỉ mát. Ngay lập tức, khu này xác chứng những gì người ta mong muốn: khí hậu dễ chịu nhất Đông Dương.
Do gần biển nên nhiệt độ không bao giờ xuống dưới +40 về mùa đông và vượt quá +26o về mùa hè. Từ tháng hai tới tháng năm, vũ lượng ở đây nhỏ nhất. Tiết trời mát mẻ nhưng không lạnh. Nhiệt độ thay đổi từ 100 tới 220. Không thời kỳ nào rừng, đầy hoa, lại đẹp như thời kỳ này và không thời kỳ nào khí hậu lại thần tiên như thời kỳ này. Từ tháng 6 tới tháng 9, các buổi sáng huy hoàng trong nắng. Đôi khi vào buổi chiều có những cơn giông ngắn. Nhiệt độ trở nên dịu hơn, người ta ghi nhận được nhiệt độ 180 vào buổi sáng và ban đêm. Những trận mưa lớn chỉ bắt đầu vào cuối tháng 9 và kéo dài ba tháng theo chế độ mưa của miền trung Trung Kỳ.
Năm 1934, người ta làm một con đường dùng cho cáng lên Bạch Mã. Trong một thời gian dài, con đường này là con đường duy nhất. Nhưng những khó khăn đó không làm nản dân Huế, những người bị viễn cảnh của Bạch Mã quyến rũ. Nhờ sự dẻo dai, sự cố gắng liên tục cũng như những đầu tư, họ đã buộc chính quyền không chỉ quan tâm tới các hành động của họ mà còn lập quy hoạch cho Bạch Mã. Niềm tin của những người đi tiên phong đó xứng đáng được kể ra đây.
Năm 1936, đã có 17 ngôi nhà gỗ dựng trên đường phân thủy. Năm 1937, người ta bắt đầu mở một đường xe hơi tới độ cao 500. Được hoàn thành năm 1938, con đường này đã đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng khu nghỉ mát, thêm 40 ngôi nhà nữa được xây dựng. Năm 1942, nhịp độ xây dựng tăng dần đã cho ra đời thêm 45 ngôi nhà mới nữa. Năm 1943, mặc dù có những khó khăn về cung ứng thực phẩm và vật tư, vẫn có thêm 30 ngôi nhà được xây dựng, nâng tổng số nhà của khu nghỉ mát lên con số 130.
Khu nghỉ mát Bạch Mã có diện tích 900 hecta chia thành 300 lô nhưng mới chỉ có 1/10 diện tích mênh mông này có chủ. Ở Bạch Mã có hai khách sạn, mỗi khách sạn có từ 6 tới 15 phòng, hoạt động từ đầu tháng 5 tới 15-9. Về phần mình, quân đội có 12 hecta để xây dựng một trung tâm nghỉ hè cho phép nhận một số lượng lớn quân nhân, trong đó có 300 người âu. Các cửa hàng ở Huế và một ngôi chợ đông đúc của dân bản xứ bảo đảm cung cấp thực phẩm cho khu nghỉ mát. Ngoài ra, trong tương lai gần, các sản phẩm chăn nuôi và trồng trọt của một trang trại trong thung lũng Con Rùa sẽ góp phần vào sự thoải mái của khu nghỉ mát. Một trạm bưu điện và một trung tâm điện thoại cho phép những người đi nghỉ hè liên lạc bình thường với thế giới bên ngoài.
Một con đường đi lại dễ dàng sẽ cống hiến cho các loại xe hơi 19km đường núi cảnh trí đẹp như tranh, làm cho Huế chỉ còn cách khu nghỉ giờ 15 phút xe hơi. Ga Cầu Hai nằm dưới chân núi. Dịch vụ xe hơi thường kỳ bảo đảm cho du khách, thư tín và hàng hóa từ Huế lên.
Một bể bơi đặc biệt dành cho trẻ em liền kề với sân quần vợt. Cuối cùng, tại trung tâm Bạch Mã, trẻ em có thể nô đùa một cách an toàn trên thảm cỏ của Công viên Pierre hát được thiết kế cho các em. Tại khu nghỉ mát còn có nhiều đường đi dạo, trong đó đẹp nhất là thung lũng Morang với các thác nước hoang dã, các bồn nước tráng lệ, một con suối chậm rãi ẩn hiện thất thường. Trước khi đổ nước vào một thác nước khổng lồ cao 600m, con suối này uốn lượn hàng cây số trong một công viên thiên nhiên gồm dương xỉ, thông, phong lan. Nhờ vào khí hậu, các lối đi dạo và sự đáng yêu, Bạch Mã, với các nguồn suối vô tận, tự khẳng định là một trong những điểm nghỉ mát của Đông Dương.
______________________
Ô Cấp
Có quá ít tài liệu nói về quá khứ Ô Cấp (còn được gọi ngắn gọn là Cấp - ND). Tên Cap Saint Jacques do người Bồ Đào Nha đặt ra để nhớ tới thánh đỡ đầu nước họ là Jacques de Compstelle.
Các ngư dân An Nam đã tới đây sau khi chinh phục được người Khơmer vào cuối thế kỷ 16. Trước họ đã có những người đi biển thường tới trú ở đây. Không hiểu có ai nhớ tới tên vịnh này trong hai bài tứ tuyệt trong tập thơ Lusiade của nhà thơ Bồ Đào Nha Camõens? Hiện nay, không còn một dấu vết rõ ràng nào của các thủy thủ Bordeaux, những người đi tiên phong trong việc buôn bán với Đông Dương từ thế kỷ 18 và đã mang tới đây nhiều hàng hóa. Trong số những bạn của giám mục Bá Đa Lộc, có một người là Manuel la Mang đã chiến đấu ở Ô Cấp, trong các hào của tòa pháo đài An Nam ở đây. Sau này, người ta đã khẩn quật được trong các hào đó nhiều khẩu pháo, trong đó một khẩu mang biểu tượng hoa huệ[ii] của nước Pháp. Khẩu này thực sự là một tuyệt tác nghệ thuật nhưng bị nấu chảy ở Amsterdam vào năm 1636.
Năm 1860, Hải quân cho xây dựng ở đây các kho chứa quân cụ. Năm 1871, Hải quân nhường một trong những kho này cho người Anh để làm trạm cáp ngầm dưới biển Âu - Á qua Suez. Các hoa tiêu dẫn tàu trên sông Sài gòn cũng tới Ô Cấp trong khoảng thời gian trên. Thực hiện phương châm “mỗi người vì mình”, họ cạnh tranh nhau một cách rất nguy hiểm. Đi trên những chiếc thuyền buồm mỏng manh, họ ngang dọc trên biển và tranh nhau dẫn tàu vào Sài gòn. Một số còn táo tợn đi tới giáp hải phận Singapor. Không biết bao nhiêu người đã mất tích trên biển.
Khoảng năm 1900, Bộ Chỉ huy quyết định biến bán đảo thành một cứ điểm mạnh ngăn chặn sự xâm nhập vào Sài gòn, đồng thời làm chỗ trú cho hạm đội.
Dưới sự hướng dẫn của Công binh, các công trình nhanh chóng được hoàn thành. Tuy nhiên, huyền thoại cho biết, trong thời gian xảy ra chiến tranh Nga - Nhật (1905), chiếc tuần dương hạm năm ống khói Askold đã xuất hiện ở cảng Sài gòn, không dừng lại ở Ô Cấp mà chẳng lính canh nào ở đó trông thấy.
Năm 1914, tại hai dãy núi mọc lên các khẩu đại bác đủ các cỡ. Để bù đắp sự thiếu hụt pháo hạng nặng của quân đội, các khẩu pháo ở Ô Cấp được gửi sang mặt trận ở Pháp. Chỉ có một ít khẩu tới được Pháp, còn phần lớn chìm theo chiếc tàu Athos bị đánh đắm ở Địa Trung Hải năm 1915.
Vào đầu thế kỷ, bán đảo không có đường giao thông nào nối với các vùng sâu trong đất liền ngoài đường thuỷ. Có một chiếc xà lúp chạy tuyến Sài gòn- Cap- Baria. Cho tới năm 1900, chiếc xà lúp này luôn luôn cập vào bãi Dừa (Cocotiers, nay là bãi Dứa, không hiểu có sự ngẫu nhiên hay nhầm lẫn nào giữa dừa và dứa không? - ND), chỗ phía trước nhà Bưu điện. Nhà bưu điện này mấp mé nước khi nước triều dâng cao.
Các điều kiện khí hậu tuyệt vời của Ô Cấp, được nhiều người biết, đã lôi cuốn người Sài gòn tới nghỉ ngơi, hồi phục sức khoẻ. Một dưỡng đường được xây dựng, hiện nay dưỡng đường này được ghép vào Đại Khách sạn (Grand Hôtel). Để nghỉ ngơi sau những chuyến đi ở Đông Dương, Paul Doumer đã cho xây dựng một ngôi biệt thự đẹp tại pháo đài cũ của người An Nam. Biệt thự được đặt tên là Biệt thự Trắng (Villa Blanche), lấy tên con gái ông ta, người tổ chức đám cưới tại đây. Phòng làm việc của ông trong biệt thự hiện nay được giữ nguyên như cũ. Đây là nơi Paul Doumer đã thai nghén ra Liên bang Đông Dương cùng những kế hoạch to lớn để xây dựng nó.
Quy hoạch đô thị hoá đầu tiên cho Ô Cấp do ông Outrey, quan chức hành chính, vạch ra. Được thực hiện từ 1895 tới 1902, quy hoạch đã vạch ra các đường phố, xây dựng các toà hành chính và bán các lô đất Trong quy hoạch biến Ô Cấp thành tiền cảng của Sài gòn, ông Outrey, cho xây dựng trên biển một đê chắn sóng dài 400 mét. Con đê này, về nguyên tắc, buộc nước triều sông Sài gòn khi xuống phải rửa trôi phần vịnh trước bãi Cây Dừa. Kết quả thu được ngược với ý muốn. Trước sự bồi cát cực nhanh, người ta phải mở một lối thoát qua thân đê. Cơn bão năm 1904 đã cuốn hết những gì lộ ra khi nước triều thấp cũng như những khối đá sóng biến vỗ vào khi có gió Tây – Nam.
Chỉ tới năm 1917, đường thuộc địa số 15 (route Colonial No. 15), đắp qua các đầm lầy với các cây cầu lớn qua các sông, mới nối Ô Cấp với đất liền bằng đường bộ. Từ đó, Ô Cấp phát triển nhanh chóng, đặc biệt sau năm 1929, năm khôi phục lại hội động hỗn hợp vốn đã bị giải thể vào năm 1905. Hiện nay, ngoài các trại lính và cơ sở quân sự hoặc hành chính, thành phố có hơn 800 công trình xây dựng, biệt thự, nhà.
______________________
Quần đảo Côn Nôn J.C. Demariaux
Hội viên Hội Nghiên cứu Đông Dương
Trong mười năm qua, sự may mắn đã ba lần đưa tôi tới quần đảo Poulo Condore. Mỗi lần như vậy, tôi không sao cưỡng được ham muốn tìm hiểu cái quần đảo bí hiểm này. Nhưng than ôi, không còn một mảnh tài liệu nào trong kho lưu trữ của Nhà tù, không còn một hồ sơ nào để thỏa mãn sự tò mò cắn sẽ trong tôi. Cuối cùng, tôi thổ lộ sự buồn phiền của mình cho ông Pagès, Thống đốc Nam Kỳ. Ông này liền cho phép tôi tra cứu các hồ sơ lưu trữ của chính phủ.
Trong hai tháng liền, tôi lục lọi hàng trăm hồ sơ gồm các báo cáo hàng ngày về sinh hoạt của đảo tù từ sau nền Đệ nhị Đế chế. Rải rác trong các báo cáo, có những ghi chép ngắn mang tính lịch sử. Ẩn sau những báo cáo cách đây hàng tám mươi năm, hiện ra bóng dáng của các sĩ quan hải quân thời kỳ chinh phục (chỉ thời kỳ xâm lược nước ta - ND) với hàng ria xoắn, chiếc áo khoác xanh thiên thanh, chiếc mũ cát trắng chỏm bằng giống như chiếc chậu của người thợ cạo.
Nằm cách Ô Cấp (tên nhân dân ta gọi lược để chỉ Cap Sam Jacques, nay là Vũng Tàu - ND) 97 hải lý về phía Đông Nam, cách cửa sông Mêkông 45 hải lý, quần đảo Poulo-Condore gồm mười hai đảo. Quẩn đảo mang tên của đảo lớn nhất và có diện tích 200.000 m2.
Người An Nam gọi Poulo-Condore là Côn Nôn, có nghĩa là đảo của rắn. Sở dĩ có tên như vậy vì có rất nhiều động vật bò sát trong các thung lũng. Trong tiếng Mã Lai; từ Condore có nghĩa là quả bầu. Từ thời xa xưa, chắc chắn quần đảo phải là sào huyệt của bọn cướp biển. Bọn này có gốc gác trong đất liền và thường hay cướp phá vùng ven biển Đông Dương. Hình như người Tây Ban Nha là những người châu Âu đầu tiên tới thăm quần đảo vào thế kỷ 16 vì rằng thời gian người Pháp chiếm đóng quần đảo, người ta tìm thấy những đồng tiền có in hình Charìes - Quint và những đồng tiền ghi năm 1521.
Sau người Tây Ban Nha, người Anh đặt cơ sở ở quần đảo vào năm 1702 sau khi nghe một báo cáo lạc quan của Veret, nhân viên của Công ty Pháp Ấn (Compagnie Frantaise des Indes). Ông này khuyên nên chiếm Poulo-Condore, “một điểm trên đường hàng hải rất quan trọng đôi với các tàu của Trung Quốc, Bắc Kỳ, Ma cao, Manille, Java”.
Công ty Đông Ấn của người Anh đi trước người Pháp và quyết định xây dựng một pháo đài trên đảo lớn nhất của quần đảo. Chính chủ tịch công ty đồng thời là trưởng thương điếm Chusan ở Trung Quốc là Allen Catchpole tới quần đảo để điều khiển công việc xây dựng.
Theo cung cách và kỹ thuật thời bấy giờ, Catchpole đưa tới quần đảo những lính mộ gốc ở đảo Célèbes (thuộc Indonesia hiện nay - ND) gọi là lính Macassar. Để họ yên tâm, Catchpole cam kết sẽ cho họ về sau ba năm ở đảo.
Không may, ngày tháng cứ trôi đi nhưng vị chủ tịch không giữ được cam kết. Lính Macassar rất trung thành nếu các giao kèo với họ được tôn trọng nhưng trở nên rất yêu sách và dữ tợn trong trường hợp ngược lại. Họ nhớ nhà và ốm đau nên chỉ nghĩ tới việc được trở về; do đó bí mật quyết định nổi loạn.
Đêm 3-3-1705, những tiếng hò la man rợ đột nhiên nổi lên trong pháo đài đang say giấc. Đó là tiếng của những người lính dữ tợn đang tàn sát các ông chủ người Anh của họ. Chỉ có một số ít người Anh, trong đó có mục sư bác sĩ Pound và ông Salomon Llyod, ở ngoài pháo đài, nghe thấy tiếng kêu của đồng bào nên chạy trốn lên được một chiếc tàu. Với đủ khổ cực vượt quá sức người, họ tới được lãnh thổ của quốc vương Johore ở phía Nam bán đảo Malacca. Ngày nay, người ta có thể thấy dấu vết của tòa thương điếm ngắn ngủi này tại một cái gò: những đống đá, những mảnh vỡ của chiếc lò, vài mảnh pha lê vỡ trong các bụi cây. Các tài liệu liên quan tới biến cố này hiện lưu trữ tại Calcutta.
Trên đường phân thủy với biển có một cái vịnh nhỏ viền cát tạo thành một vành lấp lánh trên nền rừng xanh ngắt. Có lẽ đây là nơi người Anh, khi đổ bộ, đã nhìn thấy những con rùa khổng lồ mai xanh kéo theo hàng ngàn con rùa nhỏ vừa mới nở “bụng vẫn còn dính vỏ”.
Sau vụ nổi loạn trên, người Anh vẫn quan tâm tới quần đảo Poulo-Condore và tìm cách nối lại quan hệ với cư dân trên đảo.
Thuyền trưởng Gore, người kế nhiệm thuyền trưởng Cook bị giết ở đảo Sandwich năm 1779, ghé qua quần đảo từ ngày 20 tới ngày 28-1-1870 trong hành trình vòng quanh thế giới với hai chiến hạm Cương quyết (Résolution) và Khám phá (Découverte). Vào thời kỳ này, quần đảo Poulo- Condore thuộc triều đình An Nam, trên đảo chỉ có một thị trấn nhỏ với khoảng ba mươi nóc nhà. Gore cho biết số lượng lương thực thực phẩm cần mua. Viên quan theo đạo Cơ đốc tên là Lúc cho biết có thể bán trâu với giá bốn hay năm đồng một con. Lúc lên đường, Gore nhờ viên quan chuyển cho giám mục Bá Đa Lộc một bức thư và một chiếc kính.
Huân tước Macartney, sứ thần của Anh hoàng Georges III bên cạnh Hoàng đế Trung Quốc, dừng chân trên đảo hai ngày 17 và 18-5-1793 để biết người Pháp có đặt cơ sở ở đây không. Một số thủy thủ trên hai chiến hạm Sư tử (Lion) và Indoustan lên bờ mua thực phẩm trong một ngôi làng nhỏ. Dân làng hứa sẽ thực hiện các yêu cầu vào sáng hôm sau.
Hôm sau khi người Anh quay lại lấy thực phẩm, họ rất ngạc nhiên thấy ngôi làng vắng tanh. Cửa các ngôi nhà đều mở nhưng không một thứ gì bị mang đi trừ vũ khí người Anh thấy ngày hôm trước. Thậm chí các gia cầm cũng được để lại và đang tìm thức ăn quanh nhà. Trong ngôi nhà chính, người Anh tìm thấy một mảnh giấy viết bằng chữ nho bản dịch như sau:
“Chúng tôi rất ít người và rất nghèo nhưng lương thiện, không làm điều xấu. Chúng tôi rất kinh sợ thấy nhiều người và nhiều tàu quá mạnh và chúng tôi không đủ sức cung cấp cho các ông số gia súc và thực phẩm yêu cầu. Chúng tôi chỉ có thể cung cấp được một ít và không thể làm những điều các ông chờ đợi ở chúng tôi. Chúng tôi buộc phải chạy trôn để tránh ngược đãi và cứu lấy thân. Chúng tôi xin các ông thương chúng tôi. Chúng tôi để lại trong làng tất cả những gì chúng tôi có, chỉ xin các ông đừng đốt nhà chúng tôi. Chúng tôi cúi lạy trăm lạy dưới chân các ông”.
Có vẻ các tác giả bức thư trước đây đã bị những người nước ngoài ngược đãi. Người Anh không động tới một thứ gì và để lại một tặng phẩm nhẹ nhàng trong ngôi nhà chính kèm theo một bức thư bằng chữ nho:
“Các chiến hạm tới quần đảo và những người lên thăm quần đảo là người Anh. Chúng tôi tới đây để mua thực phẩm và không hề có ý định xấu. Nước chúng tôi là nước văn minh theo nguyên tắc nhân đạo không cho phép cướp phá”.
Hình như người Anh không bao giờ gặp may trong vùng quần đảo Poulo-Condore vì khi họ nhổ neo đi Trung Quốc thì tời đứng bị đứt. Chiếc neo kéo lên được nửa chừng thì rơi xuống với vận tốc càng ngày càng tăng làm cho tời quay nhanh tới mức các thanh quay trôi ra khỏi các chốt cắm dưới tác dụng của lực ly tâm. Các thanh quay tời bay tứ tung làm ngất xỉu nhiều thủy thủ và lính. Boong tàu đầy người bị thương và xác chết. Tai nạn gây ấn tượng đến nỗi viên chỉ huy hạm đội phải ra lệnh nhanh chóng rời quần đảo, bỏ lại neo của chiếc Indoustan, trực chỉ bờ biển Ciampa mặc dù đang có gió giật.
***
Người ta biết rất ít về lịch sử người Pháp chiếm đóng quần đảo lúc khởi đầu. Sau khi đội quân đồn trú của Anh bị tàn sát vào năm 1705, đảo chắc chắn là người Pháp đã nghĩ tới việc chiếm đoạt các hòn đảo vô chủ này.
Alexis Faure, trong Tạp chí Địa lý (Revue de Géographie) xuất bản từ 1889 tới 1890, đã báo cáo về chuyến điều tra dân cư, khí hậu, sản phẩm ở đảo do Renault, nhân viên của Công ty Pháp Ấn, tiến hành. Lúc đó, đảo Condore Lớn được đặt tên là đảo Orléans để kỷ niệm phó vương nhưng không một cơ sở nào được thiết lập trên đảo.
Năm 1752, được các nhà truyền giáo chỉ dẫn, Dupleix đang định thực hiện kế hoạch chiếm lại quần đảo Poulo-Condore thì bị gọi về Pháp và những người kế nhiệm ông bị thua người Anh trong cuộc
Chiến tranh bẩy năm.
Charles May bon cho biết có một kế hoạch khác của Protais Leroux, thương nhân Pháp đã ở Ấn độ khoảng tám, chín năm. Ông này trình kế hoạch lên ông Machault, tổng thanh tra Bộ Tài chính. Kế hoạch trình bày những ưu điểm của các cơ sở thương mại trên quần đảo Poulo-Condore, “nằm ở lối vào eo biển Malacca”. Protais Leroux cũng nêu lên những lý do chiến lược: “quần đảo là chỗ trú cho các tàu thuyền châu Âu trên đường tới Trung Quốc. Các cảng ở phía Bắc đảo cho phép tàu tránh thời tiết xấu, cạo vỏ tàu, sửa chữa vững chắc tất cả các loại tàu thuyền bằng các loại gỗ cần thiết. Các cảng ở phía Nam cũng rất tiện dụng”. Protais Leroux khẩn thiết xin ông Machault thiết lập các cơ sở càng sớm càng tốt.
Nhưng tình hình của Công ty Pháp Ấn không cho phép các giám đốc nghĩ tới những thương vụ táo bạo như vậy. Như người ta biết, công ty này ngưng hoạt động vào năm 1769 và sau chiến thắng của Clive (huân tước, toàn quyền đầu tiên của Anh tại Bengal - ND) ở Plassey, Công ty Đông Ấn của Anh có ưu thế trên bán đảo và Hiệp hội Các Thương nhân Luân đôn biến thành một tổ chức quân sự hùng mạnh mang tính chinh phục. Trước tình hình đó, Công ty của Pháp mờ dần và, cuối cùng, biến mất.
Trong lịch sử của Đoàn Truyền giáo Nam Kỳ, Cha Launay, theo nhật ký của Cha Levasseur, nói rằng vấn đề thiết lập các cơ sở trên quần đảo Poulo-Condore được đặt ra vào năm 1768. Trong một bức thư của giám mục Piguel gửi các giám đốc Đoàn Truyền giáo nước ngoài (Missions étrangères) cũng có vấn đề thành lập thương điếm của Pháp trên quần đảo.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:36:31 GMT 9
Như đã thấy ở trên, tất cả các ý đồ của người Pháp từ 1705 chỉ là những ý đồ không rõ ràng. Phải tới khi có cuộc nổi dậy của Tây Sơn năm 1773, một người Pháp là Đức Cha Bá Đa Lộc, giám mục giáo xứ Adran, mới đi theo vua An Nam Nguyễn Ánh. Vị vua chạy trốn này ẩn náu hết đảo này tới đảo khác ở ven biển Nam Kỳ. Tháng 9-1788, chiếc tàu Dryade bốc lên đảo Poulo-Condore 1000 khẩu súng; vài tháng sau, chiếc tàu Garonne để lại đảo một số khẩu đại bác. Hiện nay, phần lớn dân làng Anh Hai trên Đảo Lớn là con cháu trực tiếp của Gia Long. Họ giữ cẩn thận những quyển sách cổ viết bằng chữ nho. Người ta cũng nói tới những bộ áo giáp và súng cổ tìm thấy trong một hầm mộ dưới thời thống đốc đảo Lambert. Khắp nơi trên đảo đồn đại về chuyện những kho vàng được chôn dấu. Tôi đã được đọc câu chuyện kỳ lạ dưới đây trong một hồ sơ cũ: Ngày 25-11-1896 trong phòng giam khổ sai, tên tù Dang-Van-Tam trong khi đào hố đã tìm được hai hũ lớn, một hũ đầy tiền bằng bạc, một hũ toàn vòng vàng. Có lẽ đây là một trong những kho vị vua chạy trốn chôn dấu trước khi bỏ chạy sang Xiêm khi bị cáo thuyền Tây Sơn vây hãm. Để xử lý kho báu, Thống đốc Nam Kỳ, thiếu tá Ducos, đã ra một quyết định ngạc nhiên nhưng đúng luật. Ông ra lệnh cho nhân viên thu ngân Sở Công sản Sài gòn bán kho báu và chia số tiền bán được thành hai phần bằng nhau; một phần nộp cho Bộ Thuộc địa, một phần trả cho tên tù khổ sai Dang - Van - Tam. Ông giải thích việc này trong báo cáo ngày 14-1-1897: “Khi một kho báu được tìm thấy một cách tình cờ, theo điều 716 của bộ luật dân sự người tìm ra nó có quyền được hưởng một nửa, nửa kia thuộc sở hữu chủ mảnh đất”. Ta biết rằng hiệp ước Versailles ngày 28-11-1787 do Giám mục Bá Đa Lộc soạn thảo theo tinh thần liên minh phòng thủ và tấn công giữa Vua Louis 15 và Hoàng đế Gia Long. Hiệp ước này nhường cho chúng ta quyền sở hữu hoàn toàn quần đảo Poulo-Condore. Mặc dù đã có hiệp ước nhưng không một binh đội Pháp nào được gửi tới quần đảo và chúng ta thấy rằng khi Huân tước Macartney ghé vào đảo ngày 17 và 18-5-1793 ông không thấy một đồng bào nào của chúng ta. Người Pháp chỉ thực sự chiếm hữu đảo khi thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ Bonard phái thông báo hạm Norzagaray tới đảo vào ngày 28-11- 1861. Trước đó, thống đốc tuyên bố “muốn thực hiện ngay những ý định của Hoàng đế Naloléon III”. Trong các hồ sơ lưu trữ của Nam Kỳ, tôi có may mắn tìm thấy biên bản chiếm hữu. Đó là một tờ giấy da đã ngả vàng, ở giữa đã bị mối đục thủng[iii]. Biên bản này đã được trưng bày ở gian Hiệp hội Nghiên cứu Đông Dương trong Triển lãm mới đây. Khi người Pháp tới quần đảo, có 129 người bị triều đình An Nam cầm giữ đang sống trong một thứ như pháo đài dường như để bảo vệ họ chống lại sự cướp phá của bọn cướp biển Tầu. Ban ngày, họ được tự do và sống bằng cách làm cho nông dân trong vùng. Ban đem họ bị cùm. Phần lớn mang theo vợ con. Số vợ con này sống trong những túp lều nghèo nàn gần pháo đài, xung quanh có hàng rào chông. Binh đội triều đình có khoảng 80 người gồm quân-tù và linh-bàu. Tất cả do một quan văn gọi là Quan Chanh (Quan Chánh? - ND) chỉ huy. Đó là một quan chức An Nam của tỉnh Binh-Long (hiện nay là Hà Tiên). Lính ở trên đảo một năm trước khi rút về đất liền. Họ không có súng mà chỉ có giáo. Quân tù đòi về đất liền và họ đã ra đi. Đi theo họ còn có tù khổ sai Cao Mên và gia đình. Trong thời gian này, các kỳ hào lần lượt từ chức. Ngày 15-12-1861, thuyền trưởng Durand, chỉ huy thông báo hạm chạy hơi nước Monge thay cho chiếc Norzagaray, tiếp Ong Chanh (ông Chánh? - ND). Thuyền trưởng nói với ông này: “Lá cờ Pháp tôi trao cho ông để kéo trên bãi biển phải luôn luôn tung bay trên đảo và, từ nay trở đi, các yêu cầu của ông phải đề đạt lên bộ chỉ huy Pháp”. Hàng thùng chanh, cam, mít, soài, bưởi, ngô, khoai lang, thuốc lá và cả trâu được tặng cho thuyền trưởng và người Pháp. Durand báo cáo cho đô đốc Bonard: “Viên quan không biết làm gì hơn để làm chúng tôi thoải mái”. Than ôi, quan hệ tốt đẹp đó không kéo dài! Các lính An Nam quê trên đảo và linh-bàu liên kết với các tù nhân để chống lại người Pháp. Họ chọn một người tên là Nguyet, cựu tù khổ sai ở Cho-quan (Chợ Quán? -ND) làm thủ lĩnh. Người này bí mật cho đóng một chiếc thuyền. Kế hoạch của ông ta là giết các thủy binh của chúng ta, sau đó trốn về đất liền. Một người tù khổ sai nhát gan tố cáo âm mưu và tên Nguyet bị treo cổ. Có một chi tiết làm các sĩ quan đồ bản phải cười bò ra: khi đại úy Manen của thông báo hạm Norzagaray, người đồng thời làm nhiệm vụ kỹ sư thủy văn, làm nhiệm vụ, ông nhận ra các bản đồ của người Anh, những bản đồ duy nhất lưu hành vào thời đó, có nhiều sai sót. Theo các bản đồ đó, quần đảo Poulo-Condore nằm quá về phía Đông bốn hải lý và quá về phía Bắc một hải lý so với vị trí thực của nó. Sự lầm lẫn này có nguyên nhãn là các tàu đi Trung Quốc không đủ gió nên đã tạt vào gần bờ hơn. Vì thế nhiều truyền trưởng không có kinh nghiệm đã bị lạc vì bản đồ của người Anh. Theo kể lại, nước Anh định phản đối việc gửi thông báo hạm Norzagaray tới quần đảo. Họ cho rằng, về mặt lý thuyết, chúng ta không có quyền đối với quần đảo Poulo-Condore, rằng hiệp ước Versailles ký với Gia Long đã lỗi thời vì cuộc Cách mạng Pháp đã thay đổi hình thái của Chính phủ Pháp. Tuy nhiên, sự phản kháng ngay lập tức bị tắt ngấm vì, năm sau, hiệp ước Sài gòn ngày 3-6-1862 giữa một bên là Hoàng đế Pháp và Nữ hoàng Tây Ban Nha và một bên là Hoàng đế Tự Đức của An Nam, nhường cho chúng ta toàn bộ chủ quyền quần đảo cùng với ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường (Mỹ Tho). Từ năm 1862, đô đốc Bonard cho xây dựng một nhà tù trên đảo để giam các tù nhân bị kết án trên một năm và dưới mười năm. Đó chính là nguồn gốc nhà tù biệt xứ hiện nay. *** Trong thời kỳ các đô đốc cầm quyền, quần đảo và nhà tù do các sĩ quan hải quân cai trị. Người ta có thể viết một quyển sách lớn về nỗi thống khổ và cuộc chiến đấu hào hùng của họ chống lại bệnh tật và thiên nhiên khắc nghiệt. Giám đốc đầu tiên của nhà tù là đại úy hải quân F. Roussel. Ông này yêu cầu đô đốc Bonard gửi nữ tù nhân ra Poulo-Condore. Roussel viết ngày 18-3-1862: “Sự ra đi của vợ các quân-tù và vợ của những người Mên làm thiếu phụ nữ trên một hòn đảo vốn đã khan hiếm phụ nữ. Tôi cho rằng việc đưa ra đây một số phụ nữ phạm tội sẽ tốt cho thuộc địa và làm cho dân chúng gắn bó hơn với mảnh đất này”. Đô đốc Bonard không chấp nhận ý muốn của thuộc viên. Phải tới một trong những người kế nhiệm ông là đô đốc Lafont, những chuyến nữ tù đầu tiên mới được đưa ra đảo. Thông báo về những chuyến tù này làm viên sĩ quan hải quân cai trị đảo không vui. Ngày 29-10-1879, ông ta gửi đô đốc Lafont một bức thư hài hước có lẽ ngày nay không ai viết: “Hai con gà trống đang sống trong hòa bình. Một con gà mái tới và thế là chiến tranh nổ ra. Điều đó nói lên rằng khi số gà trống nhiều hơn số gà mái thì không thể có hòa bình trong chuồng gà. Để tránh lộn xộn, tôi sẽ buộc phải cách ly hoàn toàn nam nữ tù nhân. Tôi giả sử rằng các nữ tù nhân không trẻ và đẹp, nhưng phụ nữ ở đảo rất hiếm. Chính các dân binh và lính gác gốc châu Âu cũng rất thiếu thốn vì thế không thể nào lường hết những hậu quả có thể hình dung ra. Để tránh cái xấu hoặc ít ra là lạm dụng cái xấu, thứ luôn luôn không thiếu, cần có một số quan hoạn, loại tôi không hề có trong Cơ quan Quản lý Nhà ngục. Tuy nhiên, tôi đã để ý tới một nhân viên già người Tagan (một sắc tộc ở Philippin - ND) đã có vợ. Tôi thấy chỉ có người này mới có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh tại khu nữ tù nhân. Tôi nghĩ giám đốc nhà ngục có thể tìm được hai trợ lý trong số những dân binh đã vượt quá tuổi đam mê...”. Các tù nhân ở Poulo-Condore là những tên trộm cắp làm tiền giả, tay chân hội kín Thiên Địa hội, nhưng trước hết là những tên bắt cóc trẻ em. Số vụ bắt cóc có lúc nhiều đến nỗi, ngày 31-3-1896, Bộ trưởng Thuộc địa Guieysse ra lệnh đày sang Guyanne các phụ nữ An Nam bị kết án lao động cưỡng bức. Dịch tả là nguồn cung cấp phong phú cho nghĩa địa Pháp ở Poulo-Condore. Chính vụ dịch trong hai tháng 4 và 5 năm 1864 đã giáng một đòn chí mạng vào số binh lính Pháp ít ỏi đồn trú trên đảo. Một sự hoảng loạn thực sự bao trùm khắp nhà ngục khi lính thủy và pháo thủ chết như ruồi mặc dù có sự săn sóc của bác sĩ trưởng Viaud. Không thoát khỏi lượt, giám đốc nhà ngục, trung úy hải quân Bizot, bị dính bệnh. Trong một lần đi tuần ở vịnh Cohong, ông đã mặc bộ quần áo ướt cho tới tận tối. Sáng hôm sau, thấy người mệt, sốt và đi tiêu chảy, ông nằm liệt giường và biết mình sẽ chết. Từ giờ phút đó, bệnh tiến triển rất nhanh làm mọi người phải từ bỏ hy vọng. Trước đó ông đã quan tâm theo dõi sự tiến triển của bệnh ở những người nằm tại trạm quân y, do đó nhận ra mình có những dấu hiệu phức tạp của một căn bệnh kinh khủng hơn: chứng hoại thư ruột. Hai ngày sau, những cơn đau bụng không sao chịu nổi đột nhiên biến mất và ông hiểu cái chết đã tới gần. Chính lúc đó ông lại bình tĩnh nhất để đón cái chết. Dùng hơi sức còn lại cố ngồi lên, ông viết thư vĩnh biệt mẹ; sau đó gặp mấy người lính ông vẫn quý mến vì sự nhiệt tình và hạnh kiểm tốt. Ông tìm thấy trong mỗi người lính một lời vĩnh biệt cảm động. Theo yêu cầu của ông, bác sĩ Viaud đọc cho ông nghe một số trang về lời mời của Jésus Christ, một số chương trong Kinh Thánh và những lời cẩu nguyện. Những lời cuối cùng dành cho đô đốc Lagrandière: “Hãy xin ông ta báo cho giám mục Dijon, người quen biết người mẹ khốn khổ của tôi, chịu đựng nỗi bất hạnh sẽ giáng xuống Người...” Một tình tiết bí mật của lịch sử quần đảo Poulo-Condore là chuyến ghé thăm của nhà soạn nhạc lớn Saint Saens. Ông tới quần đảo không ai hay biết dưới bí danh Sannois. Không phải sự ngẫu nhiên đưa nhà soạn nhạc tới những hòn đảo nhỏ bé nằm gần bên xích đạo, nơi chỉ có giấy phép đặc biệt mới tới được. Nguyên Camille Saint Saens ở Đông Dương tháng 3 và tháng 4 năm 1895 để đáp cùng một lúc hai lời mời: một của Louis Jacquet, giám đốc nhà ngục Poulo-Condore, và một của Armand Rousseau, toàn quyền Đông Dương năm 1895. Nhạc sĩ quen với Louis Jacquet trên con tàu đưa ông tới Tích Lan (Ceylan, nay là Sri Lanca - ND) năm 1890. Hai người kết bạn với nhau; họ nói chuyện về thiên văn, thực vật và cả âm nhạc vì Louis Jacquet cũng là một người chơi dương cầm tài năng. Về phần Armand Rousseau, ông ta là người cùng thuê nhà với Saint Saens ở phố Monsieur le Prince ở Paris. Tình hàng xóm cũng chưa phải là sự ngẫu nhiên duy nhất đưa nhà soạn nhạc tới Đông Dương. Vị toàn quyền tương lai của Đông Dương là cháu ông Le Libon, giám đốc Bưu điện khu Seine, ông này là bạn thân của Saint Saens. ... Chính tại Poulo-Condore, Saint Saens đã sáng tác phần lớn bản giao hưởng Brunehilda. Thật là một sự kỳ lạ lịch sử dành cho vở nhạc kịch. Về Pháp, Saint Saens tiếp tục giữ quan hệ thư từ với Armand Rousseau, nhà văn An Nam Pétrus Ký và Louis Jacquet. Năm 1896, Louis Jacquet viện ra quan hệ của mình với nhà soạn nhạc để được công nhận chức giám đốc nhà tù. Trong kho lưu trữ của chính quyền Nam Kỳ, tôi tìm thấy một bức thư kỳ lạ của Louis Jacquet gửi cho Armand Rousseau: “Theo một thư chúc mùng của Camille Saint Saens tôi vừa nhận được, việc bổ nhiệm tôi làm giám đốc nhà ngục đã được được công bố từ ba hay bôn tháng nay rồi...”. Bên lề lá thư, Armand Rousseau viết: “Được Camille Saint Saens, viện sĩ nhạc viện, nhiệt tình giới thiệu”. Đầu năm 1939, theo gợi ý của tôi, ông Louis Vidal, nghị viên Hội đồng Thành phố Sài gòn, đệ lên hội đồng thành phố đề nghị đặt tên Phố Saint Saens cho phố của một tỉnh lỵ ở Nam Kỳ. Than ôi, những bận rộn do cuộc thế chiến gây ra đã làm dự án đó phải hoãn lại. Tuy nhiên, chúng ta hy vọng sẽ tới ngày thuận lợi và người ta sẽ tổ chức kỷ niệm chuyến thăm Nam Kỳ cho “ông hoàng của âm nhạc thuần khiết”, người sánh với Weber, người tiếp cận với những sự kỳ lạ của phương Đông. Chúng ta cũng không được quên rằng trong hai tháng lưu lại Đông Dương và Poulo-Condore, Saint Saens đã tích lũy được những ấn tượng âm nhạc tuyệt vời. Trong hai tháng đó, đầu óc ông tràn đầy những tứ nhạc mới, những cảm hứng sinh động và luôn luôn thay đổi. Không còn nghi ngờ gì về những điều trên: trong một số giai điệu sau năm 1895 của nhà soạn nhạc vĩ đại, người ta thấy có những tiết tấu của vũ đạo Viễn Đông và sự hoài tưởng trong các bước nhảy được cách điệu hóa. Trước khi bị người Pháp chiếm, quần đảo Poulo-Condore thuộc tỉnh Hà-tiên (Binh-long). Hiện nay quần đảo trực thuộc Chính phủ Nam Kỳ và được đặt dưới quyền một quan chức hành chính hoặc một sĩ quan mang chức danh Giám đốc Ngục và Quần đảo. Số lượng tù nhân thay đổi từ 1500 tới 2000 người. Hàng trăm tù nhân sống trong làng và các trang trại. Họ chăn nuôi và trồng trọt. Một số đánh cá hoặc nung vôi từ nguyên liệu san hô. Năm 1863, trung úy Bizot hứa với đô đốc La Grandière “sẽ cho chạy sáu lò vôi và, nếu cả sáu lò chạy đồng thời, có thể cung cấp vôi cho Nam Kỳ nhờ nguồn san hô vô tận”. Cũng cần phải kể tới việc đánh bắt rùa biển. Các loại rùa ở đây, trong đó một số con nặng tới hơn một trăm cân, đẻ trứng trong cát nóng, nhất là vào khoảng giữa tháng tư và tháng bẩy âm lịch. Các tù nhân lật ngửa rùa lên rồi sẻ thịt. Thịt rùa cải thiện xuất ăn bình thường của tù nhân. Quần đảo còn có loại rùa có mai. Loại này nhỏ hơn và hiếm hơn; người ta chỉ bắt được khoảng ba mươi con một năm. Các xưởng của nhà tù biến những tấm mai xanh, mai đen của chúng thành những chiếc quạt, hộp phấn, hộp thuốc lá, lược, vòng tay...xinh xắn. Ngày xưa, có những hồ nước lợ trải rộng dưới các chân núi, nhất là cạnh hai con suối dân chúng gọi là Sông Cao Mên (Rivière du Cambodge) và Thamin. Sau này, phần lớn các khu đầm lầy đó biến thành ruộng với các kênh, mương. Khắp nơi mọc lên những cánh đồng bông, nhô, lạc, cây ăn trái, dứa, khoai lang, thầu dầu, sắn, cà phê. Dần dần, tình trạng vệ sinh trên quần đảo được cải thiện đáng kể. Bệnh dịch tả hoàn toàn biến mất, chỉ có mấy vị kỳ lão râu tóc bạc phơ là còn nhớ được những trận dịch ngày xưa, khi người ta thả trôi trên suối của đảo những chiếc thuyền giấy chở bùa yêu trôi ra biển, còn thầy phù thủy thì đặt dưới gầm giường người bệnh những con cá da xanh không có vảy để hút nọc độc của người bệnh. Bệnh sốt rét gần như bị chôn vùi. Trong phòng bác sĩ trên đảo, đồ thị của tai họa khủng khiếp này gần như đi xuống thẳng đứng. Các khu rừng đẹp nằm ở trung tâm Đảo Lớn, còn các khu rừng rậm rạp ở chỗ cao nhất của đảo, nơi có độ cao 596 m. Một đường dây cáp giúp cho việc đưa gỗ xây dựng xuống. Các sĩ quan hải quân thời các đô đốc đếm chính xác được ba mươi sáu loại gỗ khác nhau: sao, dâu, gáo, gụ, mun... Than ôi, hiện nay nhiều loại gỗ đã biến mất? Trong các thập kỷ qua, một số giám đốc ngục đã không áp dụng câu châm ngôn của Colbert: “khi nhổ lên một cây, phải trồng lại hai cây”. Trên Đảo Lớn, người ta không tìm thấy cây sao nữa. Đối với các cây khác phải tìm trên đảo Bai Kinh, nơi có một ngọn đèn biển trên một đỉnh cao 212 m soi đường cho các tàu đi Singapour. Động vật trên đảo khá nghèo nàn. Ngoài trăn, người ta thấy có bồ câu xanh, sóc, thằn lằn lớn, một loại chim rất lớn gọi là Cong-cương (công? - ND) và khỉ núi. Giống thằn lằn lớn phát ra tiếng kêu chói tai và vết cắn rất nguy hiểm. Nếu tin vào bức thư kỳ lạ của đại úy Morand, thuyền trưởng tàu Monge vào năm 1861, thì ngày xưa có nhiều khỉ hơn bây giờ. Trong thư, ông viết: “...Khỉ trên đảo Cohong nhiều đến nỗi chúng đuổi cả dân địa phương...”. Trong thời gian cơn bão lớn năm 1930 tàn phá đảo, nhiều lợn nuôi chạy vào rừng; chúng sinh sản và trở thành lợn rừng rất hung dữ. Các bờ biển bị cá mập quấy nhiễu và rất nhiều tù nhân trốn trại đi trên các bè đã bị loài động vật hoang dã ở biển này cắn xé. Để câu cá mập, người ta dùng một lưỡi câu đánh bằng sắt, lưỡi câu móc một miếng thịt to buộc vào một đầu dây thả xuống từ một chiếc thuyền tam bản. Những con cá nhám bị lao xuyên qua nhảy lên khỏi mặt nước đôi khi suýt làm lật cả thuyền. Thịt cá mập dai, người An Nam rất thích. Vây cá mập là một mỹ vị của những người sành ăn trong khi da nó được dùng làm đồ da. Tất cả bìa sách trong thư viện nhà tù được làm bằng da cá mập. Gan cá mập được chế thành một loại dầu bôi trơn rất tốt. Trong những chuyến ra Poulo-Condore, tôi được nghe kể nhiều chuyện về rắn biển, trong đó có chuyện một người tên là Trân-van-Côn bắt được một con rắn biển rất lớn vào năm 1883. Ông ta gọi nó là con rit (mille-pattes). Con rit dài mười chín mét. Thân nó có nhiều đốt, da vàng gõ vào kêu như gõ vào tấm tôn. Chắc chắn có một phần sự thực trong những câu chuyện huyền thoại trên. Khi có bão, tất cả động vật trên các đảo nhỏ đều bị tiêu diệt trừ giống trăn. Gầy đi vì đói, giống to nhất của loài bò sát này cố bơi sang Đảo Lớn và các ngư dân trên thuyền đã gặp chúng trên đường đi. *** Để kết thúc câu chuyện lịch sử ngắn gọn này, cần nêu ra đây việc có lúc người ta đã tính chuyện bãi bỏ nhà tù trên quần đảo. Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ đã thông qua quyết định này ngày 28-9-1899 tiếp theo sau trận dịch tê phù ở quần đảo. Lúc đó, người ta dự kiến phân bố các tù nhân trong 20 hay 30 trung tâm trong đất liền và tổ chức các công trường lao động tại các nơi đó. Nhưng vào phút cuối, một báo cáo viên tên là Monceaux đề xuất ý kiến phản đối. Ông này viết: “Tôi chia sẻ sự e ngại của chính quyền về vấn đề các tù nhân hình sự bị giam trong các trại tù ngoài đảo. Trong tất cả các xã hội có tổ chức, người ta luôn luôn có những biện pháp cần thiết để cách ly các tên tội phạm khỏi các trung tâm dân cư”. Người ta cũng đã có ý định xây dựng ở quần đảo một casino (sòng bạc) lớn cạnh tranh với Macao và sẽ là nơi hẹn hò của những người giầu có rỗi rãi ở Viễn Đông. Dự án bãi bỏ nhà ngục trên đảo được hai ông bộ trưởng của Mặt trận Bình dân là Marius Moutet và Max Rucart nêu ra vào năm 1936 nhưng không thành công. Và chẳng có gì mới dưới ánh mặt trời... Hình ảnh xưa của Sài gòn Louis Malleret Giống như trẻ em và các nghệ sĩ, các nhà sử học có cái thú riêng được vui sướng khi thấy các tranh khắc hoặc hình vẽ ngây ngô do các nhà biên niên hay các du khách thuở xưa minh hoạ cho các câu chuyện của họ. Qua các sách cổ, các nhà sử học thấy lại những hình ảnh tái hiện của quá khứ. Mỗi hình thực sự có một cuộc bí ẩn và sâu kín. Tuy nhiên, giống như những người tạo ra chúng, chúng có sự thêm thắt. Ngược lại, có những bức giữ nguyên được hình ảnh nguyên sơ của sự kiện. Tôi xếp các bức phác thảo lính và lính thuỷ của đạo quân viễn chinh Nam Kỳ vào loại này. Không gì giúp ta hiểu hơn về những năm đầu tiên của Đông Dương thuộc Pháp bằng những bài trong tờ Vòng quanh thế giới (Tour du Monde) hay loạt bài trong Báo ảnh (Illustration). Giống như La Fontaine hỏi mọi người: “Anh đã đọc Baruch chưa?”, tôi xin hỏi các nhà sử học chuyên nghiệp: “Các ông đã xem những nơi đẹp trên thế giới trong Tạp chí Phong cảnh (Magazin Pittoresque) và Thế giới qua hình ảnh (Monde Illustré) chưa?”. Thành phố Sài gòn như thế nào trong con mắt người châu Âu lần đầu tiên nhìn thấy nó vào năm 1860? Từ một ngôi thành lớn kiểu Vauban do Olivier de Puymanuel, cố vấn của Gia Long, xây dựng năm 1790 và bị vua Minh Mạng phá năm 1835, thành chỉ còn lại những hố đào và lớp luỹ thứ hai ngắn hơn vừa mới bị san bằng. Ra khỏi phố Grandière là bắt đầu đồng ruộng. Theo báo Thư tín Sài gòn (Courrier de Sai gon), phần đất thấp của Sài gòn “chỉ là một cánh động lầy mênh mông nước mỗi khi triều lên” trên đó sinh sống những người dân cần cù “trong những ngôi nhà lá chông chênh ven các con sông”. Đường xá không có và ban đêm chỉ có một vài ngọn đèn dầu soi đường cho khách bộ hành. Một vài con đường nhỏ men theo bờ taluy rồi vượt qua những chiếc cầu gỗ trên vùng đầm lầy đưa chúng ta lên phần đất Cao của thành phố. Trên sông Thị Nghè và các con rạch, các bến đò rất nhộn nhịp (h.1). Giống như mọi điểm dân cư An Nam khác, các khu phố buôn bán thường nằm ven sông. Trung uý hải quân Pallu de la Barière cho biết “hàng ngàn chiếc ghe chen chúc nhau trên bờ sông tạo thành một thành phố nổi”. Ngược lại, quang cảnh thành phố làm đám dân di cư thất vọng. Tác giả trên viết tiếp: “Những người mới tới Sài gòn nhìn thấy trên hữu ngạn những dãy trông như phố xen kẽ với những khoảng trống trơn. Các nhà phần lớn bằng gỗ lợp lá cọ. Một số nhà khác ít hơn xây bằng đá. Những mái ngói đỏ của chúng trong cũng vui vui mắt. Rồi tới những ngôi chùa mái cong, những làn nước đứt đoạn của con kênh và hai con rạch nhỏ dùng làm lối ra vào cho tầu bè, một ngôi nhà kho không vững chắc lắm dùng làm chỗ bán hàng, mái lúc nào cũng như sắp tuột xuống”. Các bức tranh của tờ Thế giới qua hình ảnh và tờ Báo ảnh (Illustration) cho chúng ta một số hình ảnh trung thành về thành phố Sài gòn. Đó là con đường, sau này chúng ta đặt tên là đường Catinat, trên đó có một ngôi chùa (h.2). Các ngôi nhà bằng gỗ trên đường này rất giống với ngôi nhà của hiệu Cà phê Lion (Café Lionnais) (h. 3) nằm trên cùng phố. Một số ngôi nhà bằng đá, đúng hơn là bằng gạch, lợp ngói nằm ở khu Cầu ông Lãnh (h.4) dọc theo kênh. Các kênh chảy qua các khu vườn xanh tươi. Người ta tìm thấy các con kênh này bên các đường phố trong ảnh của tờ Thế giới qua hình ảnh (h.5). Đối với một người Pháp quen nhìn các đô thị và các công trình theo kiểu châu Âu thì thật là đáng nản khi nhìn thấy Sài gòn lần đầu. Vì thế những họ thấy các hình lưu giữ kỷ niệm của mình như đua nhau nhấn mạnh “sự nghèo nàn và buồn tẻ của một thành phố chẳng có gì đáng yêu”. Tạp chí Hai Thế giới (Revue des des Deux Monde) số ngày 1-5-1861 cho biết “Sài gòn không đáp ứng được danh xưng hoa mỹ là ly sở của tổng đốc Cao Mên (capital de la vice-royauté du Cambodge). Đó chỉ là một khu làng khôn khổ gồm những túp lều rách nát bằng lá cọ. Không một ngôi nhà nào, công cũng như tư, đáng làm du khách chú ý”. Pallu de Barrière mô tả thêm: “Phố xá lầy lội nhà cửa dày đặc. Tất cả khá nghèo nàn. Đó là thành Gia Định mà chúng ta gọi là Sài gòn”. Ở phần đất cao của thành phố, sau khi vượt qua Trường thi (Cam des Lettrés), nơi kỵ binh và lính thuỷ đánh bộ của chúng ta đang đóng, người ta gặp nhiều lăng mộ và các vườn cây ăn quả ẩn mình trong các ngôi làng toàn nhà lá. Cuộc kê khai số đinh trong khu vực đô thị Sài gòn - Chợ Lớn cho phép chúng ta xác định được một số những ngôi làng này. Đi theo con “đường chiến lược”, ngày nay đã trở thành phố Frère Louis (nay là Trần Hưng Đạo -ND), ta có thể tới được khu buôn bán lâu đời nhất (chỉ Chợ Lớn- ND), trong đó Sài gòn, đúng hơn là Bến Nghé, chỉ là một khu ngoại ô xa xôi. Là những ông chủ buôn bán lúa gạo, người Tàu thích nghi rất nhanh với sự có mặt của người Pháp. Các tổ chức của họ rất vững chắc và có lịch sử lâu đời. Sách vở cho biết sự di cư của người Tàu tới Chợ Lớn bắt đầu từ năm 1778 và có lẽ sự kiện người Tàu rời bỏ các trung tâm ở sâu trong nội địa tới Chợ Lớn để chạy trốn cuộc chiến tranh của Tây Sơn là có thực. Nếu chú ý rằng Nam Kỳ xưa kia thuộc Cao Mên và trước khi có Chợ Lớn đã có một thành phố Khơme gọi là Prei Nokor thì ta có thể giả thiết rằng người Tàu đã ở Chợ Lớn từ rất sớm như đã ở khu vực Angkor và nhiều thành phố khác trong nước Cao Mên cổ. Nhìn từ trên máy bay, dấu vết của Prei Nokor là một đường bao với một trường đua ở bên trong. Với các đền chùa của các bang hội Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu của người Minh Hương..., chỉ riêng Chợ Lớn đã có đặc trưng của một thành phố. Vùng hoang vu phân chia trung tâm, ngày nay đang dần dần biến mất, ngày xưa rộng mênh mông. Hồi đó hai trung tâm chỉ được nối với nhau bằng một con rạch, một con đường thấp và con đường chiến lược chạy qua các làng trồng cây ăn quả và cau và một làng làm nghề đúc ở chỗ hiện nay là khu vực Chợ Quán. Trên con đường đó, khách bộ hành gặp một vài ngôi chùa. Quá Chợ Lớn, trên một gò gọi là gò Cây Mai, nơi ngày xưa có một chiếc tháp Khơme, khách sẽ gặp một ngôi chùa có nhiều cây bao quanh rất được các thi nhân ưa thích. Gần nơi ngày nay là nhà thờ Hồi giáo ở Chợ Lớn là một ngôi chùa có nhiều tháp chuông bị biến thành lô cốt (h.6). Trên đường đi về Sài gòn, phía sau bãi sau này xây trường Chasseloup Laubat, người ta thấy chùa Khai Tương. Vua Minh Mạng đã ra đời trong chùa này và pho tượng Phật bằng gỗ mạ vàng của chùa hiện nay nằm tại Bảo tàng Blanchard de la Brosse như một chứng nhân của thời đại. Dân chúng trong hai thành phố như thế nào? Các số liệu chúng tôi có được rất mâu thuẫn nhau. Năm 1862, đại uý Grammont viết: “Dân số vào năm 1859 cùng lắm người ta chỉ dám cho là 2000 người thì nay được đánh giá khoảng từ 7000 tới 8000 người chưa kể thành phố Tàu”. Phải nói thực là chiến tranh và tương lai mờ mịt trong những ngày đầu chiếm đóng đã làm một phần dân chúng bỏ thành phố ra đi. Niên bạ Nam Kỳ năm 1865 đưa ra con số 50.000 người phân bố trong khoảng 40 làng. Nhưng những làng này đã bị những người bảo vệ Sài gòn phá hủy. Họ muốn để lại những đổ nát cho những người chiếm đóng mới, do đó vào năm 1865 chỉ còn khoảng 12 làng với khoảng 8000 người cộng thêm khoảng 6000 người Tầu sống quanh Sài gòn. Tổng dân số người gốc châu Á trong hai thành phố khoảng 20.000 người. Mọi lượng định chính xác lúc đó hầu như không thể có được, vì thế các con số chỉ được chấp nhận một cách thận trọng. Nhưng nếu nghiên cứu diện tích xây dựng của hai thành phố suy từ bản đồ năm 1862, có thể xem các con số trên khá gần sự thực. Tuy nhiên, trong hai thành phố, cuộc sống của người dân bản địa không hoàn toàn mất hết ý vị như mô tả của một số nhà biên niên lúc đó. Những người thông dịch đã Tây phương hoá một phần nhưng vẫn chưa mang ô, kính xanh và giày vécni. Trong các phố ở phần cao của thành phố, ta có thể gặp vài ông quan được những người phu quần áo sặc sỡ cầm lọng đi hầu (h.7). Ở một chỗ khác, các kỵ sĩ ngồi trên những con ngựa nhỏ yên đỏ cổ đeo lục lạc đi lại trên những con đường nhỏ bé (h.8). Lúc này thành phố đã có vẻ của một thành phố quốc tế với đủ loại người nguồn gốc và thể dáng khác nhau (h.9). Lúc đó có 200 người Ấn Độ sống lẫn với người An Nam và người Tàu. Bên cạnh ba chủng tộc này, trong các phố xá và chợ, ngoài người Tagan (một dân tộc ở Philipin- ND), còn có các binh lính Tây Ban Nha, kỵ binh Thổ Nhĩ Kỳ và Bắc Phi và thuỷ thủ Pháp trong đạo quân chiếm đóng. ______________________ -------------------------------------------------------------------------------- Gần trùng với Vũng Tầu hiện nay - ND
[ii] Hoa huệ là biểu tượng của nước Pháp quân chủ.
[iii] Để tránh rườm rà, chúng tôi không dịch văn bản này. Tuy nhiên có thể hiểu tóm tắt đây là một biên bản đơn phương theo kiểu tàu thuyền của các cường quốc thực dân thám hiểm, phát hiện ra một hòn đảo nào đó ở Thái Bình Dương rồi tuyên bố sở hữu hòn đảo đó - ND
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 3:54:00 GMT 9
Hoạt động của Nguyễn An Ninh ở Trà VinhChâu Xuân Thiện Trong cuộc đời hoạt động yêu nước, chống thực dân Pháp sôi động và dầy gian khổ của mình, Nguyễn An Ninh đã có nhiều dịp đến Trà Vinh để gặp gỡ, bàn bạc các đồng chí đàn em địa phương như nhà điền chủ yêu nước TTừ Bá Đước, bác sĩ Mạch Dùng, bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, nhà trí thức Phan Thoại Xương, nhà sư Huệ Quang (Nguyễn Văn Ân)...; để cổ động cho đảng Thanh niên Cao vọng, cho báo La Lutte, báo L'Avant Garde. Chí sĩ họ Nguyễn đã bị nhà cầm quyền thực dân đưa về xét tại Tòa án Trà Vinh với bản án 5 năm tù và 5 năm biệt xứ. Bản án có hiệu lực ngay ngày xử: 23-10-1937. Lúc ấy, sau thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội năm 1936, cánh tả lên nắm chính quyền ở Pháp. Tranh thủ thời cơ đó, Đảng Cộng sản Đông dương chuyển hướng hoạt động công khai và chủ trương thành lập Mặt trận Thống Nhất, tập hợp các lực lượng yêu nước chống đế quốc. Trong phong trào Đông Dương Đại hội, Ủy ban hành động được thành lập hầu hết mọi nơi, mọi cấp tiến hành thu thập dân nguyện để đón phái viên Chính phủ Bình dân Pháp. Nguyển An Ninh và Nguyễn Văn Nguyễn được tín nhiệm cử vào Ủy ban Hành Động Nam Kỳ. Năm 1937 hai ông được cử xuống Trà Vinh chỉ đạo phối hợp Ủy ban Hành Động tỉnh thống nhất với phong trào chung cả nước. Vừa lúc đó, cánh Lê Quang Liêm, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Le Quang Nhường, Nguyễn Văn Quợt... tở chức cuộc nói chuyện vận động cử tri Trà Vinh trước cuộc bầu cử Hội Đồng Địa Hạt Nam Kỳ. Buổi nói chuyện diễn ra tại trường tiểu học Nguyễn Văn Chưởng, mà thành phần được mời là những nhân sĩ, trí thức tên tuổi ở địa phương. Nhân phần dịp này, sau khi hội ý cùng hai phái viên của Ủy Ban Hành Động Nam Bộ Bí thư tỉnh Ủy kiêm Chủ Tịch Ban hành động Trà Vinh Dương Quang Đông, qua các hội đòan quần chúng, tổ chức cuộc biểu tình quần chúng vây quanh trường ông Chưởng, hỗ trợ cho các nhân sĩ Từ Bá Đước, Mạch Tùng, sư Huệ Quang ( cùng là các Ủy Viên Ủy ban hành động tỉnh)...đấu tranh trực diện với cánh Bùi Quang Chiêu. Buổi ra mắt cử tri thất bại, cánh Bùi Quang Chiêu hậm hực kéo nhau về Tòa Bố, dưới sự hộ tống của mã tà. Sau đó, hai phái viên Nguyễn An Ninh và Nguyễn Văn Nguyễn rời Trà Vinh về Sài Gòn với danh nghĩa những chuyến đi quảng cáo dầu cù là tự chế. Vài ngày sau, ở Càng Long nổ ra một cuộc biểu tình rầm rộ của nông dân các xã An Trường, Tân An, Huyền Hội, Bình Phú...tẩy chay thực dân, địa chủ, tẩy chay cuộc bầu cử Hội Đồng Địa hạt... Về cuộc biểu tình này, Chánh Tham biện Trà Vinh đã phải báo cáo lên Thống đốc Nam Kỳ, tòan văn như sau:" Tôi trân trọng báo để ngài biết, ngày mùng 3 vừa qua, khỏang 21 giờ, tôi được quan Đại Lý An Trường báo cáo cho biết lá có một cuộc họp được tổ chức trong địa phận của khu vực. Tôi đã cho 10 hiến binh tăng cường đến tại chỗ, theo chỉ dẫn của quan Đại lý tren đường Làng số 2. Đòan hiến binh đã phải ngừng lại ở đầu cầu thứ nhất ngòai An Trường vì gặp phải một cây gỗ và giây thép cản đường. Trên tòan bộ mặt cầu đa75t sát đất có nhiều tấm ván lởm chởm đinh sắt. Sau khi diễu hành được vài trăm mét những người biểu tình đã vỗ tay ầm ĩ, khi khi một người trong bọn tuyên bố là " đã đến lúc biểu dương lực lượng" và họ giải tán trong đêm trước khi hiến binh đến".(Note Postale, No 76 confidentiel, Travinh le 7 Aõut 1937 Administrateur à Gouverneur Cochinchine, Saigon). Liên kềt hai sự kiện này, thực dân Pháp qui cho Nguyễn An Ninh là chủ Mưu tỗ chức. Chúng ra lệnh tập nã ông. Lính kín, mả tàn lùng sục nhà riêng, báo La Lutte, nhà những người thân quen của ông. Trong khi đó, Nguyễn An Ninh bỏ xuống ở nhà của Hội đồng Võ Công Tồn tại Gò Đen mà theo bà Phương Lan Phạm Thế Mỹ, là để bõ ghét, thực dân phải bỏ công tìm chơi vì ông vẫn liên tục viết báo, ký đúng tên Nguyễn An Ninh không hề có ý lẩn trốn. Sau khi bắt được, thực dân Pháp liền giải Nguyễn An Ninh về xử tại Trà Vinh ( cùng lúc đó, Bí thư tỉnh Ủy kiêm chủ tịch Ủy ban hành động Trà Vinh là Dương Quang Đông cũng bị bắt tại Cầu Ngang). Chúng tôi xin trích nguyên văn một đoạn trong tập sách " nhà cách mạng Nguyễn AN Ninh, 1899 - 1943" của Phương Lan Phạm Thế Mỹ diễn tả lại phiên tòa này: "Giam được ít lâu, tòa Trà Vinh đem vụ Ninh ra xử. Nhiều phóng viên báo chí từ Sài Gòn xuống dự cuộc để lấy tin tức đăng báo. Có nhiều nhân chứng được đòiđến, như Phan Thoại Xương, Từ Bá Đước...Vì theo lời khai của Nguyễn An Ninh và Nguyễn Văn Nguyễn là sự có mặt tại Trà Vinh là đi thăm những người bạn quen từ lúc ở Pháp về, như Từ Bá Đước một vị điền chủ giàu có và có nhiều cảm tình với Ninh. Thăm để mượn tiền mua mộ cái náy in, để thành lập một nhà in, là mộ sự cần dùng cho nghề in sách của Ninh. nhưng Từ Bá Đước không giúp được, vì ông đã bị phá sản vì cuộc khủng hỏang đã qua, nên không thể cho mượn được, vì tiền không có. Và Nguyễn An Ninh luôn tiện mượn vốn, thành lập nhà in, với đi thu tiền báo La lutte và báo L'Avant Garde với cổ động them độc giả mới. Ngoài ra họ cũng có đi thăm các anh em bạn tù ở Côn Nôn lúc trứơc. Chớ không có xúi giục, tổ chức biễu tình gì cả... Lời khai của Ninh rõ ràng, những nhân chứng củng khai đúng như lời Ninh nói, them vị trạng sư Pháp Jean Loye hùng biện, hết lòng bênh vực Ninh, nhưng Ninh vẫn bị kêu án ở tù như thường. Do một vị quan tòa người Việt là Tạ Trung Nhan ngồi chánh án xử Ninh - Nguyễn (23-10-1937) NĂM NĂM TÙ và NĂM NĂM BIỆT XỨ. Ninh chống án. Ông Võ Công Tồn và cô con gái của ông là Võ Thị Lang cũng bị tù vì tội đồng lõa chứa chấp Ninh rất lâu trong nhà" (SĐD, Tr 236, 237). Về sự kiện này, trong hồi ký " Cùng anh đi suốt cuộc đời" của bà Trương Thị Sáu, người bạn đời của Nguyễn An Ninh ghi lại: " Anh Ninh thường đi các no8i để vận động quần chúng. Lần đi Trà Vinh, anh Ninh có nói chuyện nhiều về vai trò của phụ nữ trong đấu tranh cách mạng. Sau đó, có cuộc biểu tình lớn của nông dân huyện Càng Long, phần lớn là phụ nữ tham gia. Bọn Pháp buộc tôi anh Ninh tổ chức cuộc biểu tình. Anh Ninh lại bị bắt và vào tù lần thứ tư. Anh bị tòa án tỉnh Trà Vinh kêu án 5 năm tù và 10 năm biệt xứ (Có lẽ bà Ninh nhớ không chính xác, án khố Trà Vinh ghi "NĂM NĂM BIỆT XỨ - CXT). Tôi liền viết ngay một bức thư gời tòan quyền Đông Dương và Thống đốc Nam kỳ khẳng định "Ninh - Nguyễn vô tội", vạch rõ sự phi lý của năm điều má tòa án Trà Vinh đã buộc tội anh Ninh. Đồng thời, anh Ninh cũng gởi đơn chống án sang Pháp. Cuối cùng, Tòan án Sài Gòn phải xử lại, giãm mức án còn 2 năm tù và 5 năm biệt xứ". Những năm thuộc thập niên 1920, chí sĩ Nguyễn An Ninh trở thành ngọn cờ tập hợp thanh niên Nam bộ đấu tranh chống thực dân Pháp. Nhiều người trong số họ, sau này, chiến đấu kiên cường và trở thành những gương mặt tiêu biểu củ trí thức Nam bộ dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản. Ở Trà Vinh cũng vậy, nhiều thanh niên trí thức dấn thân theo con đường đấu tranh của Nguyễn An Ninh dần dần trở thành những nhân vật lãnh đạo quần chúng trong cụộc khởi nghĩa tháng tám và cuộc kháng chiến trường kỳ củ a dân tộc như Tiến sị luật Phạm Văn Bạch, điền chủ yêu nước Từ Bá Đước, nhà sư Nguyễn Văn Ân ( sư Huệ Quang)... Lần trang sử cũ, tìm hiểu những họat động của vị chí sĩ họ Nguyễn tại đất Trà Vinh, chúng ta thêm tôn kính bậc tiền bối hết lòng vì dân, vì nước này. Và, cáng thêm lời khẳng định của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng:Nguyễn An Ninh có tầm vóc một nhà lạnh đạo của một cuộc cách mạng, cho nên chúng ta phải ghi nhớ những cống hiến quan trọng của một nhân vật có tầm vóc lịch sử"(Lời bạt quyển " Cùng anh đi suốt cuộc đời").
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2009 7:43:30 GMT 9
Rắn là một loài bò… Tương Lai (TuanVietNam) - Chỉ có khởi động được ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc làm chỗ dựa vững chắc cho những giải pháp ngoại giao và tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế về chính nghĩa của Việt Nam mới có thể tìm ra giải pháp cho những “lưỡi bò”, “lưỡi rắn” hiện nay! Trung Quốc đã đệ trình công hàm gửi ông Tổng thư ký LHQ để phản đối Việt Nam nộp báo cáo về ranh giới ngoài thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của LHQ theo công ước của Luật biển 1982. Đường “lưỡi bò” chữ U hay đứt đoạn đều là cách gọi khác nhau để chỉ yêu sách lạ đời của TQ đối với 80% diện tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines. “Lưỡi bò” này từng thè ra từ thời Tưởng Giới Thạch năm 1947, sau đó nhiều lần thè ra thụt vào, nhưng đây là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua TQ chính thức đưa ra yêu sách về đường “lưỡi bò” đứt đoạn này để vơ trọn phần lớn vùng biển giữa các nước Đông Nam Á. Đường “lưỡi bò” chữ U hay đứt đoạn (màu đỏ) là cách gọi khác nhau để chỉ yêu sách lạ đời của TQ đối với 80% diện tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines. Về yêu sách ngang ngược không có giá trị pháp lý quốc tế và đi ngược với xu thế chung của khu vực đã có nhiều học giả lên tiếng, ở đây chỉ gợi lên một liên tưởng dân gian về một chuyện tiếu lâm hiện đại. Có một chú học trò lú lẫn, do không thông hiểu nội dung bài học, cứ tự tiện cắt đứt đoạn của câu định nghĩa về loài rắn và rồi cứ thế gào thật to “rắn là một loài bò”, “rắn là một loài bò”, “sát mặt đất”, “sát mặt đất…”. Cái lối đọc “đứt đoạn” này đã gắn kết một cách oan uổng loài bò hiền lành nổi tiếng ngu dại với loài rắn hiểm độc khéo ẩn mình để bất thần tấn công đối thủ. Nhân đây, xin kiến nghị gọi Biển Đông là “Biển Đông Nam Á” thì chính xác hơn, vì với Việt Nam thì biển này ở phía đông, nhưng với Philippines thì biển ở phía tây, còn với Malaysia và Indonesia thì biển này ở phía bắc. Lợi ích dân tộc là một chân lý vĩnh hằng mà mọi quốc gia, dân tộc đều theo đuổi, chuyện này dễ hiểu. Chỉ có điều, trong thời đại của hội nhập toàn cầu để cùng phát triển, thì việc theo đuổi luật rừng mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết xem ra đã lỗi thời. Mỗi quốc gia dân tộc đều tự biết phải làm gì trước những yêu sách để dân tộc mình tồn tại, đất nước mình phát triển. Trong vị thế địa-chính trị ngặt nghèo của một bán đảo nằm trên ngả tư giao lộ quốc tế trên đường biển, đầu cầu nối liền với các nước Đông Nam Á, ông cha ta đã nhận thức rất rõ “có cứng mới đứng đầu gió” nên đã coi trọng hun đúc, rèn luyện khí phách cho con em mình. Truyền thuyết Thánh Gióng là một ví dụ tiêu biểu. Còn nằm trong nôi, em bé nước Việt đã phải nghe tiếng vó ngựa xâm lược. Chú phải lớn thật nhanh để kịp đánh giặc cứu làng, cứu nước. Roi sắt, kiếm sắt gãy, nhưng những bụi tre thì trên đất nước ta trùng trùng, điệp điệp có thể dùng làm vũ khí diệt giặc. Tâm thế người Việt vẫn sâu thẵm niềm tin rằng lốt chân ngựa Thánh Gióng còn in trên cánh đồng Quế Võ-Băc Ninh hiện nay trên hình hài những ao, chuôm! Biến truyền thuyết thành lịch sử, hay lịch sử thăng hoa trong truyền thuyết? Chỉ biết rằng, người Việt Nam bao đời, ông bà dạy cháu, cha mẹ truyền cho con hình tượng Thánh Gióng. Và rồi sức mạnh Thánh Gióng thể hiện trong khí phách Trần Bình Trọng “Ta thà làm Quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”, trong lời răn dạy của Trần Hưng Đạo : “Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ mà không biết căm”, là sự khởi động lòng căm thù quân giặc trong lời Nguyễn Trãi: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sách mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, ai bảo thần nhân chịu được”. Bằng khí phách ấy, bản lĩnh ấy, ông cha ta đã đập tan mọi cuộc xâm lăng của kẻ thù luôn lớn hơn mình gấp bội, kiên cường chống trả mọi thủ đoạn thâm hiểm và xảo trá, biết nhu, biết cương để tồn tại và phát triển. Trong mọi tình huống, ý chí “sóng cả không ngả tay chèo” khiến cho có những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua được nhưng rồi vẫn tìm ra được những giải pháp khi khởi động được sức mạnh của toàn dân. Trong những ngày lịch sử này, cần nhớ đến bài học của Cách mạng Tháng Tám: khơi dậy tinh thần yêu nước của mỗi người Việt Nam, làm cho nó “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn” như Bác Hồ từng đòi hỏi. Vào thời điểm nhạy cảm này càng phải thấy cho ra đòi hỏi ấy chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, đã làm nên sức sống Việt Nam. Cũng chính vì thế, trong những lời cuối cùng Bác dặn lại trong Di chúc cũng là “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Cũng chính vì lẽ ấy Đảng cộng sản Việt Nam đã được nhân dân tin cậy giao phó trách nhiệm lãnh đạo đất nước, và cũng chính vì biết dựa vào nhân dân và phát huy sức mạnh của dân tộc mà Đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giành độc lập và thống nhất đất nước. Chỉ có khởi động được ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc làm chỗ dựa vững chắc cho những giải pháp ngoại giao và tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế về chính nghĩa của Việt Nam mới có thể tìm ra giải pháp cho những “lưỡi bò”, “lưỡi rắn” hiện nay!
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2009 7:46:25 GMT 9
Việt Nam và áp lực từ Phương Bắc Ngô Vĩnh Long Trong thời gian gần đây, Việt Nam xem chừng như ngày càng bị áp lực khá dồn dập từ Phương Bắc trên nhiều lĩnh vực. AFP photo Hiện nay nhiều tàu thuyền Việt Nam không dám ra khơi đánh cá sợ bị đánh chìm hoặc bị TQ bắt Thái độ lấn lướt của bắc Kinh được thể hiện qua những diễn biến như phân định ranh giới trên bộ và trên biển; việc Bắc Kinh đe dọa các công ty nước ngoài hợp tác với VN dò tìm dầu khí; đông đảo công nhân TQ vào vùng Tây Nguyên qua dự án khai thác bauxite; và gần đây nhất, tàu TQ bắt, bắn giết ngư phủ VN hoạt động trong vùng biển của mình... Câu hỏi được nêu lên trước tiên là những nguy cơ như vậy có thể đưa VN về đâu? Qua cuộc trao đổi với Thanh Quang, Giáo sư Ngô Vĩnh Long chuyên về các vấn đề Á Châu và đang giảng dạy tại Đại Học Maine (Hoa Kỳ) nhận xét: Lợi thế của Biển Đông GS Ngô Vĩnh Long : Việt Nam phân chia ranh giới trên bộ với Trung Quốc đã ba bốn năm nay rồi, tôi cho vấn đề đó là hữu lý là bởi vì Việt Nam là một nước nhỏ, Trung Quốc là một nước to, trên bộ mà không giải quyết vấn đề biên giới vốn bị một áp lực rất lớn của khối người Trung Quốc ở vùng biên giới thì Việt Nam bị kẹt vấn đề đó thì không thể lo những vấn đề lớn khác như là vấn đề an ninh trên Biển Đông, cho nên tôi nghĩ rằng phải giải quyết vấn đề trên bộ để có thời gian chuẩn bị cho an ninh trên Biển Đông và an ninh trên các khu vực khác. Nếu Trung Quốc lấn chiếm hay là bành trướng mạnh vô khu vực Biển Đông thì sẽ rất là khó khăn cho thông thương trên Biển Đông, nhất là qua vùng eo Malacca, có đến 52 đến 55% hàng hoá thế giới lưu thông qua đường hàng hải này Nhưng vấn đề chính là vấn đề Biển Đông. Đây không những là vấn đề an ninh của riêng Việt Nam mà là vấn đề an ninh của cả thế giới, trong đó có cả Trung Quốc. Nếu Trung Quốc lấn chiếm hay là bành trướng mạnh vô khu vực Biển Đông thì sẽ rất là khó khăn cho thông thương trên Biển Đông, nhất là qua vùng eo Malacca, có đến 52 đến 55% hàng hoá thế giới lưu thông qua đường hàng hải này, như là dầu cho Trung Quốc, dầu cho Đài Loan, dầu cho Hàn Quốc, dầu cho Nhật ở trên vùng Bắc Á. Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan là 3 nước đã là đồng minh của Mỹ từ lâu, thì nếu Trung Quốc càng lấn vào Biển Đông thì trước sau gì Mỹ cũng phải có phản ứng. Đó là một. Thứ hai nữa, an ninh Biển Đông là an ninh cho cả khu vực Đông Nam Á, vì thế phần lớn những nước trong khu vực đối với họ an ninh trên Biển Đông là vấn đề rất quan trọng. Nếu Việt Nam biết kéo sự đồng tình của các nước trong khu vực và ngoài khu vực như Mỹ và các nước khác, thì có thể không những bảo đảm vấn đề an ninh Biển Đông mà bảo đảm cả tương lai của đất nước việt Nam. Từ xưa tới giờ Việt Nam cũng giống như Trung Quốc chỉ nghĩ tới vấn đề trên bộ mà thôi chớ không nghĩ rằng vấn đề đi ra biển tức là đi ra thế giới là vấn đề quan trọng. Trung Quốc đã hiểu vấn đề đó từ khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền, từ đó Trung Quốc mới hướng tới toàn cầu hoá, vân vân. Nếu Trung Quốc lấn chiếm hay là bành trướng mạnh vô khu vực Biển Đông thì sẽ rất là khó khăn cho thông thương trên Biển Đông, nhất là qua vùng eo Malacca, có đến 52 đến 55% hàng hoá thế giới lưu thông qua đường hàng hải này Còn Việt Nam lại chậm hơn Trung Quốc mấy chục năm rồi. Tôi nghĩ Việt Nam phải khôn ngoan để thấy cái lợi của mình ở đâu. Sai lầm của sự nhượng bộ thái quá Thanh Quang : Như vậy, nhà cầm quyền Việt Nam lẽ ra phải khôn ngoan như thế nào, thưa Giáo Sư? GS Ngô Vĩnh Long : Việt Nam trong những năm qua thay vì mua thời gian để mà hợp tác với các nước trong khu vực cũng như với các nước ngoài khu vực như Mỹ, vân vân, thì Việt Nam lại không làm chuyện đó cho tốt mà Việt Nam càng ngày càng đi sâu vào quỹ đạo Trung Quốc, tưởng rằng nhượng bộ Trung Quốc, làm cái gì cho Trung Quốc bằng lòng thì Trung Quốc sẽ tha cho Việt Nam, sẽ không ép Việt Nam nữa. Cách đây hơn 2 năm Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc bằng cách cho Trung Quốc mở vùng cao nguyên khai thác bauxite. Việt Nam tưởng nhượng bộ lớn như thế này thì Trung Quốc sẽ không ép, nhưng Việt Nam không thuộc lịch sử Trung Quốc trong mấy nghìn năm là càng nhượng bộ thì Trung Quốc càng ép. Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc bằng cách cho Trung Quốc mở vùng cao nguyên khai thác bauxite. Việt Nam tưởng nhượng bộ lớn như thế này thì Trung Quốc sẽ không ép, nhưng Việt Nam không thuộc lịch sử Trung Quốc trong mấy nghìn năm là càng nhượng bộ thì Trung Quốc càng ép. Thanh Quang : Nhưng thực trạng là Việt Nam đã nhượng bộ như vậy rồi. GS Ngô Vĩnh Long : Bây giờ nếu Việt Nam không khéo thì như tôi đã nói nhiều lần, Việt Nam cũng giống như một tuýp thuốc đánh răng, Trung Quốc sẽ ép từ biên giới phía Bắc xuống, Biển Đông sang, nó bóp Việt Nam bây giờ anh có phọt ra Phú Quốc thì nó cũng không tha, giống như là nó ép Tưởng Giới Thách ngày xưa chạy ra Đài Loan rồi bây giờ nó cũng không tha, thành ra Đài Loan phải nhờ cậy mấy nước khác mới có thể giữ được. Mà Việt Nam, tôi nghĩ rằng đi lá bài trong 2 năm qua càng ngày càng nghiêng về Trung Quốc, tưởng rằng như vậy thì Trung Quốc sẽ tha, đây là lá bài sai. Mà cùng lúc Việt Nam lại đòi phần lớn các đảo Trường Sa là của Việt Nam thì tôi nghĩ rằng cái này là vấn đề càng sai nữa, vì mình muốn các nước Đông Nam Á ủng hộ mình thì phải nhượng bộ cho họ về những gì mà mình thấy không quan trọng thì mình nên bỏ, những cái gì mình thấy là đúng về phần mình thì mình thương lượng với họ. Trung Quốc thấy Mỹ đang bị kẹt ở vùng Trung Đông, mà nó muốn làm cho Việt Nam sợ trước, vì Việt Nam là tiền đồn ở Đông Nam Á, thì Việt Nam sợ trước mà nhượng bộ cho nó nhiều thì các nước khác nghĩ rằng vấn đề lớn nhất của Việt Nam mà nó nhượng thì mình dại gì lại chường đâu ra. Nhưng mà vấn đề lớn không phải là mấy cái đảo nhỏ xíu, vấn đề lớn là vấn đề thông thương, vấn đề an ninh của quốc gia. Tôi nghĩ rằng chính sách của Việt Nam bây giờ là sai trong vấn đề này. Mà Trung Quốc thấy vậy lại càng lấn. Trung Quốc thấy Mỹ đang bị kẹt ở vùng Trung Đông, mà nó muốn làm cho Việt Nam sợ trước, vì Việt Nam là tiền đồn ở Đông Nam Á, thì Việt Nam sợ trước mà nhượng bộ cho nó nhiều thì các nước khác nghĩ rằng vấn đề lớn nhất của Việt Nam mà nó nhượng thì mình dại gì lại chường đâu ra. Vấn đề này Trung Quốc lại chơi quá, không những nó thách đố tàu Mỹ Impaccable, nó lại theo dõi tàu Mỹ và đụng tàu Mỹ trên đường đi đến Phi Luật Tân, rồi thấy Mỹ chưa nói gì thì Trung Quốc lại quá lố đâm vào các tàu của ngư dân Việt Nam, bắt ngư dân Việt Nam. Đây là cơ hội rất tốt cho Việt Nam để đem vấn đề này ra trước công luận thế giới, trước Liên Hiệp Quốc, mà bây giờ Việt Nam đang là thành viên của Hội Đồng Bảo An, cho nên nếu Việt Nam đưa vấn đề này ra thế giới thì Trung Quốc sẽ bị kẹt. Đây là một cơ hội để Việt Nam phản công, vậy mà Hà Nội lại phản ứng bằng cách đề nghị Trung Quốc đừng bắt ngư dân, đề nghị thế này đề nghị thế kia, mà là những đề nghị không ra gì cả. Việt Nam quá nhu nhược hay ở thế kẹt? Thanh Quang : Như Giáo Sư vừa giải thích là vấn đề phát xuất từ sự nhượng bộ thái quá của Việt Nam. Theo nhận xét của Giáo Sư, có phải là nhà cầm quyền Hà Nội vì trong thế kẹt mà hành động như vậy, hay theo như chỉ trích của công luận là vì quá nhu nhược mà hành động như vậy? Thay vì tự do để phát triển thì Việt Nam lại theo mô hình đàn áp để phát triển. Mô hình này thì trước đó Nhật đã theo rồi, Hàn Quốc đã theo rồi, nhưng mà lúc đó là trong thế chiến tranh lạnh. Bây giờ thời đại đã khác rồi, không thể làm như vậy được nữa. GS Ngô Vĩnh Long : Nó là cả hai. Việt Nam có vấn đề kinh tế thế giới đi xuống, và Việt Nam nghĩ cách phát triển của các nước Âu Mỹ là không hợp thời, và của Bắc Kinh là hợp thời tức là đàn áp để phát triển. Thay vì tự do để phát triển thì Việt Nam lại theo mô hình đàn áp để phát triển. Mô hình này thì trước đó Nhật đã theo rồi, Hàn Quốc đã theo rồi, nhưng mà lúc đó là trong thế chiến tranh lạnh. Bây giờ thời đại đã khác rồi, không thể làm như vậy được nữa. Nhưng mà Trung Quốc nó vẫn làm theo mô hình đàn áp để phát triển, mà phát triển bằng cách xuất khẩu. Nó tưởng rằng mô hình đó là mô hình thắng thế, nhưng mà bây giờ anh có đàn áp đi nữa, anh có thể sản xuất rất là nhiều, nhưng mà nếu Mỹ và Châu Âu và các nước khác không nhập hàng của anh thì anh làm gì? Trung Quốc là nước lớn nên nó có thể quậy lung tung để các nước khác nhượng bộ nó, nhnưg Việt Nam là nước nhỏ nên quậy lung tung không được, đàn áp dân chúng cũng không đàn áp được giống như Trung Quốc, thành ra Việt Nam đi theo mô hình Trung Quốc là theo cái mô hình bậy. Vấn đề là không phải chống Trung Quốc, vấn đề là chống chính sách bành trướng của một giới nào bên Trung Quốc thì mình phải có chính sách khôn ngoan. Chứ bây giờ mà đi ra chửi đổng dân tộc Hán như thế nào, Trung Quốc như thế nào, thì chả làm được cái gì hết trơn mà nó còn gây rối thêm. Thanh Quang : Thưa Giáo Sư, thật ra dân tộc Việt Nam mình từng chứng tỏ bất khuất và từng ngăn chặn được Phương Bắc dù bị Tàu đô hộ một ngàn năm. Nhưng liệu phản ứng hiện nay của chính quyền Hà Nội như vừa nói có thể là một trở lực cho nhân dân Việt Nam ngăn chặn sự bàng trướng cố hữu của Bắc kinh hay không? GS Ngô Vĩnh Long : Vấn đề này cũng khó nói. Tôi nghĩ khi một số lãnh đạo trong chính phủ khiếp nhược hay hèn hạ thì nó sẽ giúp cho dân chúng thấy rằng có sự khiếm khuyết và dân chúng có thể vì đó mà đoàn kết và đồng tình hơn. Vấn đề bất khuất thì tôi nghĩ có một lúc bất khuất cũng được, nhưng Việt Nam bây giờ là phải khôn ngoan. Vấn đề này không phải là vấn đề dân tộc với Trung Quốc, vấn đề này là mình sống gần bên Trung Quốc, mình muốn Trung Quốc đối đãi với Việt Nam đàng hoàng để cho cả khu vực có thể phát triển. Vấn đề là không phải chống Trung Quốc, vấn đề là chống chính sách bành trướng của một giới nào bên Trung Quốc thì mình phải có chính sách khôn ngoan. Chứ bây giờ mà đi ra chửi đổng dân tộc Hán như thế nào, Trung Quốc như thế nào, thì chả làm được cái gì hết trơn mà nó còn gây rối thêm. Vấn đề không phải là vấn đề dân tộc, mà Trung Quốc là liền núi liền sông với mình, nếu mình không khôn ngoan thì mình bị khó khăn liền.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2009 7:48:18 GMT 9
Đàn áp để ổn định và phát triển: Mô hình Trung Quốc Ngô Vĩnh Long 13/08/2009
Xem video Tiananmen Square - Holding Up A Tank
1. Lời nói đầu Bài “Ổn định và phát triển: Trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì?” của Trần Hữu Dũng (Thời Đại Mới, số này) rất hữu ích vì không những nó cho biết trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì về ổn định và phát triển trên đất nước họ mà còn cho thấy người trí thức nước nầy, tuy không giữ chức vị trong chính quyền, vẫn có những cơ hội và vai trò nhất định để đóng góp cho việc ổn định và phát triển của đất nước.
Thật ra, trong suốt lịch sử của Trung Quốc từ thời nhà Chu (周) cho đến thời Mao Trạch Đông, giới trí thức (知識) mà ngày xưa gọi là kẻ sĩ (士), thường được coi là quan trọng hàng đầu (sau vua) trong việc trị quốc (zhì guo 治國) và bình thiên hạ (píng tian xìa 平天下).[1] Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-476) chế độ quân chủ (君主) phát triển và ngày càng chuyên chế, gây nên mất ổn định triền miên. Khổng Tử, một trong những nhà “hiền triết” trưởng thành trong giai đoạn nầy, thấy không thể nào dẹp chế độ quân chủ được. Nhưng ông nghĩ rằng nếu có một tầng lớp sĩ phu được trau dồi với những giá trị đạo đức chung (nhân 仁, trí 智, nghĩa 義, trung 忠, thứ 恕) để làm cố vấn hay để phò các vị vua thì việc bạo chúa sử dụng bạo lực để “cai trị” sẽ được giảm bớt. Khổng Tử gọi những người có ngũ đức và có học nầy là “quân tử” (君子) và ông khuyên vua chúa nên sử dụng những người như thế. Nếu không thì sẽ có “cách mạng.”[2]
Cuộc cách mạng trong nửa đầu thế kỷ 20 phần lớn do trí thức lãnh đạo, tuy thành phần nông dân là tuyệt đại đa số. Sau khi cách mạng thành công và đảng Cộng Sản Trung Quốc, do Mao Trạch Đông lãnh đạo, lên nắm chính quyền cuối năm 1949, các thành phần trí thức (kể cả những người theo Quốc Dân Đảng và Tưởng Giới Thạch không bỏ nước ra đi) vẫn còn được trọng dụng. Do đó, tuy có khác nhau về quan điểm, sự đóng góp của các tầng lớp trí thức đã giúp kinh tế và xã hội phục hồi và phát triển rất nhanh chóng trong 7 năm đầu.
Để vận động các tầng lớp trí thức thi đua tích cực và thẳng thắn phát biểu những ý kiến của mình đối với các chính sách của nhà nước hòng thu được nhiều kết quả tốt đẹp hơn, đến cuối năm 1956 và đầu năm 1957 Mao đồng ý phát động phong trào “trăm hoa đua nở” (tiếng Trung Quốc gọi là “trăm hoa vận động” 百花運動). Tên của phong trào nầy được đặt ra từ một câu thơ của Mao mà tiếng Việt dịch ra là: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” (Tiếng Trung Quốc là: 百花齊放,百家爭鳴 bǎi huā qífàng, bǎi jiā zhēngmíng). Trong câu nầy Mao muốn ám chỉ việc “hàng trăm” (tức là nhiều) nhà hiền triết thời Chiến Quốc đã thi đua trên bình diện ý thức hệ, chứ không phải trên bình diện bạo lực, để tìm ra những tiêu chuẩn tốt cho việc ổn định và phát triển. Mao nghĩ rằng vì các cuộc tranh luận thời Chiến Quốc đã phát sinh ra triết lý Khổng Tử và Lão Tử và bổ sung cho nhau như âm dương cuồn cuộn, thì phong trào “trăm hoa đua nở” cũng sẽ giúp chứng minh tính “hơn hẳn” của chủ nghĩa xã hội và tư tưởng của Mao (được trình bày trong “Mâu thuẩn Luận” và “Thực tiễn Luận” là hai trước tác kinh điển của Mao Trạch Đông.)
Hàng triệu trí thức và sinh viên (cùng với nhiều phần tử xã hội khác) hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ từ đầu tháng 6 đến giữa tháng 7 năm 1957 họ đã gởi cho văn phòng thủ tướng Chu Ân-Lai và các cơ quan chính quyền các cấp mấy triệu bức thư. Nhiều bức thư này chỉ trích các chính sách của chính phủ cũng như sự tham nhũng của cán bộ đảng và quan chức nhà nước khá nặng nề. Thậm chí còn đòi đảng Cộng Sản phải tự giải tán vì nếu đảng nầy còn nắm quyền thì sẽ còn mất tự do dân chủ và trí thức sẽ còn tiếp tục bị ngược đãi. Mao thấy sẽ có nguy cơ cho chế độ nếu cái đà này tiếp tục nên ra lệnh cho dẹp phong trào, nói rằng (dịch nôm na ra tiếng Việt) “trí thức không bằng cục phân.” Đã có nhiều phân tích cho biết tại sao họ Mao nghĩ như thế, tại sao ông ta mở các chiến dịch đàn áp trí thức sau đó, và tại sao việc nầy dẫn đến hậu quả xã hội mất ổn định và kinh tế suy thoái trầm trọng trong gần hai thập kỷ. Việc tôi muốn đề cập đến ở đây là theo nghiên cứu và phân tích của Uông Huy (Wang Hui), cùng với nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khác, bắt đầu từ năm 1976 Đặng Tiểu Bình đã cố tình tạo cơ sở cho việc hoàn toàn phủ định những thành quả trong thời kỳ Mao làm tiền đề cho việc ổn định và phát triển trong thời kỳ mới. Để thiết lập một trật tự mới, Đặng Tiểu Bình không những đã triệt tiêu các hình thức trại lính và “nhân dân công xã” mà còn (oái ăm thay!) đưa ra những chính sách đàn áp mới mà cuối cùng đã dẫn đến sự kiện đẫm máu Thiên An Môn năm 1989.
Trong bài tham luận tại hội thảo “Trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển” tại Nha Trang tháng 7 năm 2008 tôi đã trích Uông Huy khá nhiều trong phần nói về Trung Quốc.[3] Theo trình bày của Trần Hữu Dũng tại hội thảo Nha Trang (cũng như đọc bài đã hoàn chỉnh trong số Thời Đại Mới nầy) về ba trường phái trí thức Trung Quốc hiện nay thì không “ba phải” đi nữa cũng phải công nhận là mỗi trường phái có những quan điểm đúng và sai ̶ có những quan niệm xây dựng và bổ ích, nhưng cũng có những nhận xét rất nguy hiểm không những cho nhân dân Trung Quốc mà còn cho các dân tộc khác nữa. Vì thế, nhân bài Trần Hữu Dũng đã hoàn chỉnh và đăng trong số Thời Đại Mới nầy tôi cũng xin trích phần tham luận của tôi về Trung Quốc (bắt đầu từ lúc tôi đề cập đến Uông Huy cho đến cuối bài) tại Nha Trang dưới đây ̶ một là, để nối kết với bài của Trần Hữu Dũng; và hai là, để độc giả xem cục diện đã có gì thay đổi sau một năm không. Trong “phần viết thêm” (postscript) tôi sẽ đề cập đến một vài số diễn biến và kèm theo những nhận định và phân tích trong năm qua của vài nhà nghiên cứu.
Tại Nha Trang tôi đã mở đầu phần phát biểu của mình qua cách đặt vấn đề như sau:
Có quan hệ gì giữa trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển không? Nếu có, thì ai có trách nhiệm chủ yếu? Ổn định như thế nào và với phương thức gì? Và phát triển những gì, cho ai và vì ai? Để có thể một phần nào giúp trả lời những câu hỏi trên, trong bài nầy tôi trình bày một số kinh nghiệm của một số nước Á Châu, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh lạnh và toàn cầu hóa. Chúng ta hãy bắt đầu với Trung Quốc ̶ một là vì Trung Quốc lớn nhất ở Á Châu và có kinh nghiệm “trị quốc” và “bình thiên hạ” lâu nhất, hai là vì việc ổn định hóa và hiện đại hóa của Trung Quốc trong vài thập kỷ vừa qua đã làm cho một số người tung ra khẩu hiệu “Đồng thuận Bắc Kinh” (Beijing Consensus) để thay cho khẩu hiệu “Đồng thuận Hoa Thịnh Đốn” (Washington Consensus) như là mô hình phát triển tối ưu cho tất cả các nước đang phát triển, và ba là Trung Quốc “núi liền núi sông liền sông” với Việt Nam cho nên những kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc cũng có thể có ảnh hưởng trực tiếp với Việt Nam. 2. Trích trình bày về Trung Quốc tại Nha Trang Theo Uông Huy và một số nhà nghiên cứu khác thì cuộc đấu tranh chính trị trong những năm 1975-1976 phản ánh việc tranh luận sâu đậm về ý nghĩa của sự bình đẳng là phải như thế nào trong xã hội chủ nghĩa và dưới một thể chế do đảng và nhà nước lãnh đạo mà Mao Trạch Đông đã nêu lên trong năm 1974. Đây là vấn đề được gọi là “pháp quyền tư sản” (bourgeois right) trong hệ tư tưởng Mác-xít, tức là quan hệ giữa hệ thống của sự bất bình đẳng xã hội và cơ cấu nhà nước. Đặng Tiểu Bình cho đây là vấn đề giả tạo được đưa ra với mục đích tranh chấp phe nhóm và gây thêm mất ổn định. Đặng Tiểu Bình dùng từ ngữ chính thống Mác-xít để nói lên rằng vấn đề lúc nầy không phải là việc bàn luận về “pháp quyền tư sản” mà là làm sao phát triển các lực lượng sản xuất vẫn còn ở dạng tiềm năng. Bàn về quan hệ sản xuất, theo Đặng Tiểu Bình, là đề cập đến việc còn quá xa vời. Từ đó trở đi vấn đề bất bình đẳng bị đẩy ra khỏi chân trời chính trị của Trung Quốc và việc phát triển các lực lượng sản xuất đã giành được thế thượng phong. Mãi cho đến nay chế độ nhà nước đảng (party-state) Trung Quốc vẫn tự cho mình là đại diện của các “lực lượng sản xuất tiên tiến” gồm đủ các thành phần vô sản và tư bản.[4]
A. Hai sự kiện quyết định: Phá vỡ “nhân dân công xã” và đàn áp Thiên An Môn Để phát triển các lực lượng sản xuất, chương trình hành động của Đặng Tiểu Bình là tìm cách triệt tiêu tất cả các thí nghiệm chính trị về bình đẳng và đàn áp các xã hội dân sự. Để dọn đường cho việc đàn áp các “công xã nhân dân” năm 1976 Đặng Tiểu Bình phục hồi “danh dự” cho Bành Đức Hoài (彭德懷 Péng Déhuai) người được xem là nạn nhân tiêu biểu của chính sách Mao-ít. Mao Trạch Đông đã ủng hộ Bành Đức Hoài trở thành nguyên soái của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tại Hội nghị Tuân Nghĩa tháng giêng năm 1934. Nhưng tháng 6 năm 1959, tại Hội nghị Lư Sơn, Bành Đức Hoài đã tranh cãi với Mao về Đại Nhảy Vọt; về việc quân đội phải chính quy, chuyên nghiệp và giảm tính chính trị; và về việc triệt tiêu các “nhân dân công xã.” Theo một cuốn sách có tựa đề Lushan huiyi shilu (Báo cáo trung thực về Hội nghị Lư Sơn), mà tác giả là một người đã ủng hộ Bằng Hoài Đức rất mạnh mẽ, thì đây không phải là một cuộc tranh chấp giữa một trung thần dám nói lên sự thật và một vị hoàng đế bạo tàn, mà là một cuộc đấu tranh chính trị công khai và trực diện. Lập trường của Bành Đức Hoài lúc đó đơn giản là phải nhất thiết triệt tiêu tất cả các hình thức hợp tác nông nghiệp. Ông ta có gần hai tuần để giải thích quan điểm của mình trước khi ông Mao trả lời ông ta.[5]
Nhưng mãi đến sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa thì tình hình mới cho phép bắt đầu triệt tiêu các “nhân dân công xã.” Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã phủ định tất cả các hình thức thí nghiệm chính trị mà cơ chế nhà nước đảng đã ủng hộ, mặc dầu các hình thức hợp tác xã là những thí nghiệm bắt nguồn từ những yêu cầu bức thiết của thực tế ở những vùng nghèo khổ của Trung Quốc. Mao đã nhiệt tình ủng hộ “nhân dân công xã” vì ông ta tin chắc rằng nông dân biết suy nghĩ, rằng họ có quan điểm chính trị, và có năng lực phát minh ra những quan hệ xã hội mới. Chiến lược chính trị của Mao từ những thập kỷ 20 bắt nguồn từ niềm tin nầy.
Nhưng việc coi nông thôn như là nơi có thể phát minh những hình thái chính trị mới đã tạo thêm trọng trách cho nhà nước đảng. Việc triệt tiêu “nhân dân công xã” cho đến nay được chính thức giải thích là để giúp nông dân thoát ly khỏi những gánh nặng tàn bạo của hợp tác xã. Nhưng trên thực tế là giúp “nhà nước đảng” thoát khỏi trọng trách với nông dân, khỏi trách nhiệm phải xem họ là chủ thể chính trị một cách chủ quan. Đối với Đặng Tiểu Bình vấn đề không phải là nông dân có thể suy nghĩ hay không, mà là làm sao biến nông dân thành lực lượng lao động với giá rẻ mạt. Kết quả là phần lớn nông dân đã mất sở hữu đất đai và hiện nay có khoảng 150 triệu “du dân” (youmin) hay “lưu dân” đi lang thang khắp mọi nơi tìm việc làm. Trong khi đó thì có khoảng 150 triệu người khác làm trong các xí nghiệp quốc doanh với đồng lương rất thấp vì nếu họ tranh đấu đòi lên lương thì họ có thể lập tức bị sa thải và thay thế bởi những người khác đang thất nghiệp. Những người du dân thất nghiệp và bán thất nghiệp sẵn sàng bán sức lao động của mình với giá rẻ mạt nầy đã được Mác gọi là “đạo quân dự trữ công nghiệp.” Việc giải thể các “nhân dân công xã” là việc làm có chủ định để kiềm chế công nhân và các xí nghiệp và để tạo thêm sự phân hóa (bất bình đẳng) giữa thành thị và nông thôn hầu thúc đẩy phát triển kinh tế ở các thành thị.[6]
Một sự kiện then chốt khác giúp “nhà nước đảng” Trung Quốc dựng lên “trật tự mới” là sự kiện Thiên An Môn. Uông Huy, trong cuốn sách đã dẫn, chứng minh rằng việc đàn áp đẫm máu phong trào tranh đấu năm 1989 là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của “chủ nghĩa tân tự do của Trung Quốc” từ đầu thập kỷ 90. Đây là luận điểm chính của cuốn sách. Luận điểm thứ hai bổ sung cho luận điểm trên là các phát triển kinh tế của Trung Quốc trong thập niên trước không bắt nguồn từ sự tự phát cá biệt của các quá trình kinh tế được tạo ra do sự rút lui của nhà nước ra khỏi lĩnh vực kinh tế. Ngược lại, những phát triển đó đã chỉ có thể xảy ra vì những can thiệp hàng loạt của nhà nước. Hai luận điểm nầy nói lên sự quan hệ giữa chính trị và nhà nước và giữa nhà nước và nền kinh tế. Trọng tâm của phong trào đấu tranh năm 1989 là một sự căng thẳng rất lớn về quan hệ bất bình đẳng trong xã hội. Những chính sách kinh tế của thập kỷ 90 chỉ có thể được thi hành sau khi căng thẳng ấy đã bị triệt tiêu.[7]
Sự kiện Thiên An Môn đã được trình bày với rất nhiều chi tiết trong cuốn sách tập hợp các văn kiện chính thức gọi là The Tiananmen papers (Những văn kiện Thiên An Môn.)[8] Sách nầy gồm những tài liệu Uông Huy cung cấp trong cuốn sách của ông ta, và những nhận xét của Claudia Pozzana và Alessandro Russo (hai nhà nghiên cứu về Trung Quốc và cũng là nhân chứng sự kiện Thiên An Môn) đều cho biết rằng cuộc đấu tranh ở Thiên An Môn gồm nhiều phần tử xã hội khác nhau với nhiều đòi hỏi khác nhau. Nhưng ngay khi cuộc đấu tranh chưa lan rộng thì Đặng Tiểu Bình, theo các bản sao các cuộc họp của Đặng Tiểu Bình với Bộ Chính Trị, đã qui kết các cuộc biểu tình của sinh viên là đồng loạn gây mất ổn định và buộc phải đàn áp vô điều kiện. Ông ta cho rằng tất cả các hình thức tổ chức chính trị độc lập đều là nguyên nhân của mất ổn định và phải được dẹp lập tức. Đặng Tiểu Bình đọc từng chữ bài xã luận đăng trên các báo ngày 26 tháng 4 để công bố chính thức là ông ta sẽ đàn áp phong trào đấu tranh. Nhưng trong khi Đặng Tiểu Bình chưa điều động kịp quân đội để đàn áp thì phong trào đã dịu xuống từ giữa tháng 5, số người biểu tình ở Thiên An Môn đã thưa dần. Đến cuối tháng 5 thì hầu hết các nhà báo nước ngoài đã bỏ về nước vì họ cho rằng cuộc đấu tranh đã kết thúc. Nhưng đối với Đặng Tiểu Bình nếu để cho những người biểu tình còn lại ở Thiên An Môn tự giải tán một cách yên ổn thì không giải quyết được vấn đề là làm sao có thể đàn áp thẳng tay nhằm gây một dấu ấn kinh hoàng trong đầu óc của người dân khiến cho họ không dám màng đến những hoạt động chính trị nữa trong tương lai. Do đó, Đặng Tiểu Bình và Lý Bằng (Thủ tướng chính phủ đương nhiệm) đã ra lệnh cho các tướng lĩnh cố tình gây hàng loạt vụ khiêu khích chết người ngày 2 và ngày 3 tháng 6 để kéo dân chúng trở lại Thiên An Môn. Sau đó lấy cớ đàn áp một cách tàn bạo từ ngày 4 tháng 6 trở đi. Công nhân là những người bị đàn áp tàn nhẫn nhất vì họ có tổ chức.[9]
B. Đàn áp và Phát triển sau sự kiện Thiên An Môn
Như đã đề cập ở trên, Uông Huy đã chứng minh rất rõ là trong những tháng sau sự kiện Thiên An Môn chính quyền Trung Quốc thi hành hàng loạt các biện pháp kinh tế chống bình đẳng mà đã không thể thông qua được trước đó. Luận điểm chính của Uông Huy là cuộc đàn áp phong trào đấu tranh năm 1989 đã giúp đẩy mạnh chủ nghĩa tân tự do. Uông Huy cho biết là không có sự khác biệt giữa các nhóm “tân tự do” và các phe nhóm của “nhà nước đảng,” cả hai đều không khoan nhượng nhất là trong việc dùng bạo lực để đàn áp. Trên thực tế có sự liên minh chặt chẽ giữa các nhóm nầy; và các lực lượng kinh tế chóp bu của Trung Quốc chưa bao giờ độc lập đối với “nhà nước đảng.” Đảng Cộng Sản Trung Quốc bảo đảm trật tự tuyệt đối, không ai có thể nhúng tay vào các hoạt động của nhà nước từ bên ngoài, và chính trị là lĩnh vực biệt lập của tầng lớp thống trị. Do đó, trong 20 năm qua tầng lớp lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bóp chẹt tất cả các nguyện vọng đổi mới trong hầu hết mọi lĩnh vực, trừ lĩnh vực tăng trưởng kinh tế một cách vô tội vạ.[10]
Nhưng tăng trưởng kinh tế như thế nào, cho ai, và có mầm móng bền vững không? Theo nhiều nghiên cứu thì cuộc đổi mới theo chủ nghĩa tư bản “mang màu sắc Trung Quốc” trong 20 năm qua đã đưa Trung Quốc, vốn là một nước liệt vào hạng thu nhập thấp nhất thế giới, trở thành một nước có cách biệt giàu-nghèo cao nhất thế giới. Thu nhập ở Thượng Hải cao gấp 8 đến 10 lần thu nhập tại các địa phương khác.[11] Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Trung Quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã phải công nhận rằng sự cách biệt giàu-nghèo ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cao nhất thế giới, trong đó mức thu nhập ở các thành thị cao hơn nông thôn gấp 6 lần.[12] Đến năm 2006, trong khoảng trên dưới 10 năm, hơn 70 triệu hộ nông dân đã bị tước đoạt toàn bộ ruộng đất và khoảng 30 triệu hộ nữa đang trong danh sách sắp bị truất hữu.[13] Trong khi đó, để có được tăng trưởng GDP với tỷ lệ trung bình là 10% trong 20 năm qua, Trung Quốc đã gây ô nhiễm rất lớn và đã sử dụng cạn kiệt các nguồn nguyên liệu và nhiên liệu trong nước.[14]
Hơn thế nữa, theo phân tích của nhiều kinh tế gia trên thế giới, con số tăng trưởng GDP được chính phủ Trung Quốc đưa ra là giả tạo, là trong thực tế tỷ lệ tăng trưởng chỉ khoảng 5% nếu không có đầu tư rất cao của tư bản toàn cầu.[15] Ngân Hàng Phát Triển Châu Á cho rằng các số liệu tăng trưởng GDP của Trung Quốc đã được thổi phồng quá lớn, phải trừ ít nhất là 2% ra khỏi các báo cáo chính thức. Họ cũng trừ thêm 3% khỏi tỷ lệ tăng trưởng GDP vì cho là việc nông dân bỏ đất đai trồng trọt để lên thành thị kiếm việc làm chỉ có thể kích thích phát triển kinh tế trong tạm thời, nhưng lâu dài sẽ gây rất nhiều khó khăn xã hội. Nếu không có đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI, Foreign Direct Investment), đến năm 2004 đã lên đến 60 tỷ Mỹ kim, thì kinh tế Trung Quốc đã có thể bị suy thoái liên miên.[16] Một đều lạ nên được lưu ý là mặc dầu những con số chính thức của Trung Quốc cho biết là trong 20 năm qua GDP tăng trưởng trung bình 10% một năm, tỷ lệ tăng việc làm chỉ trung bình có 1% một năm trong suốt thập kỷ 90. Trên thực tế số người có việc làm chỉ tăng trong khu vực kinh tế không chính thức, trong khi chất lượng việc làm giảm sút trầm trọng.[17] Số người thất nghiệp hiện nay rất lớn. Một số nghiên cứu cho biết là trong 10 năm tới Trung Quốc phải tìm việc làm mới cho 300 triệu người hầu mong có thể ngăn chặn được một sự bùng nổ của khủng hoảng xã hội.[18]
C. “Phát triển khoa học, xã hội hài hòa”?
Theo những con số chính thức chính quyền Trung Quốc đưa ra thì đã có những “sự cố” lớn bùng nổ trong nông thôn vì một số lý do như đất đai bị quan chức địa phương cướp: Năm 1993 có 8,700 vụ biểu tình và nổi loạn của nông dân, năm 1999 có 32,000 vụ, năm 2003 có 58,000 vụ, năm 2004 có 74,000 vụ, và năm 2005 có 87,000 vụ.[19] Đầu năm 2006 bộ trưởng an ninh công cộng của Trung Quốc, ông Zhou Yongkang (周永康 Chu Vĩnh Khang), công nhận là hàng năm có hàng vạn “sự cố lớn” (mass incidents) và những cuộc biểu tình nổi loạn đã tăng 10 lần trong thời gian 10 năm. Ông Zhou Yongkang cũng cho biết thêm rằng Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bắt đầu truyền bá các “tiêu chuẩn đạo đức” của Khổng Tử hòng kiềm chế các sự bùng nổ khủng hoảng xã hội.[20] Hồ Cẩm Đào cũng đã thường phải đề cập đến “bình đẳng xã hội”, phát triển một cách khoa học để xây dựng một “xã hội hài hòa,” và một “nông thôn xã hội chủ nghĩa mới.” Nông dân được cam kết giáo dục sẽ miễn phí, y tế và các phương tiện công cộng sẽ tốt hơn, và bao cấp của nhà nước cấp sẽ lớn hơn. Nhưng quyền sở hữu đất đai mà nông dân đang cầy cấy thì không có trong danh sách hứa hẹn ấy vì Hồ Cẩm Đào phải làm vừa lòng các thế lực tư bản trong và ngoài nước.[21] Không có quyền cơ bản nầy thì nông thôn sẽ không có thể chui vào con lốc của quyền lực và lợi nhuận hiện nay tại Trung Quốc. Sự phân cấp xã hội-kinh tế sẽ tiếp diễn và sẽ không cho phép Hồ Cẩm Đào thực hiện lời hứa xây dựng một “xã hội hài hòa” cho Trung Quốc.
Thật ra Hồ Cẩm Đào và hầu hết các lãnh tụ của “nhà nước đảng” Trung Quốc chỉ muốn cho “xì hơi” bớt để tránh bùng nổ và để cho hệ thống thống trị có thể tiếp tục hoạt động. Nếu không cải thiện, sự căng thẳng nầy sẽ đẩy một số công ty đa quốc gia chuyển đầu tư sang các nước khác ở Châu Á và sẽ tạo điều kiện cho các nước nầy có cơ hội cạnh tranh với Trung Quốc. Hồ Cẩm Đào dùng khẩu hiệu xây dựng một “nông thôn xã hội chủ nghĩa mới” và “phát triển khoa học, xã hội hài hòa” như là chiêu bài đấu tranh quyền lực với các nhóm tư bản thành thị, nhất là nhóm Thượng Hải. Từ khi trở thành chủ tịch nước năm 2002 Hồ Cẩm Đào đã cố gắng củng cố quyền lực của chính quyền trung ương và thiết lập một trật tự mới mà nhiều nghiên cứu cho rằng áp bức hơn tất cả các chính quyền nào khác từ thời Mao Trạch Đông.[22]
Thế thì tại sao các chính quyền phương Tây, đặc biệt là Hoa Thịnh Đốn, đã hô hào là Trung Quốc càng ngày càng dân chủ và đã đối đãi với Trung Quốc đặc biệt hơn tất cả các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương? Đó là vì có các thế lực công ty đa quốc gia giựt dây phía sau, nhất là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ/kinh tế năm 1997-98. Những năm phát triển “thần kỳ” đã giúp cho các nước Đông Nam Á có năng lực và thế cạnh tranh tốt hơn. Sau cuộc khủng hoảng thì các nước nầy và Hàn Quốc có cơ hội trở thành những nước dân chủ hơn, là những nước có nhiều tài nguyên; và sau các cuộc cải cách do áp lực của IMF cũng đã có thể cạnh tranh tốt hơn nhờ chi phí lao động còn rẻ. Trung Quốc có sức hấp dẫn lớn hơn cả vì có một chính quyền có thể ra tay trấn áp nhân dân lao động mạnh nhất và có chính sách thương mại khá thông thoáng. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tháng 4 năm 2006 ông Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ mở cửa rộng thêm hơn nữa cho đầu tư nước ngoài vào vì ông ta biết rằng đối với các chính quyền tư bản, đặc biệt là Hoa Kỳ, vấn đề có hàng tiêu dùng rẻ vẫn quan trọng hơn những giá trị căn bản nhưng trừu tượng như là tự do và nhân quyền.
D. Càng phát triển càng tự do?
Mô hình phát triển của Trung Quốc là dùng tăng trưởng kinh tế để đè bẹp tự do và dân chủ. Đặng Tiểu Bình đã nói: “Làm giàu là vinh quang.” Nhưng làm giàu cho ai? Ai vinh quang? Theo số liệu chính thức của Trung Quốc thì từ năm 1980-1997, tức là những năm nền kinh tế Trung Quốc cất cánh, tỷ lệ bất bình đẳng tăng 50%. Sau đó, tốc độ còn tăng nhanh hơn; để rồi đến năm 2006 hơn 60% giá trị của tất cả của cải và tài sản nội địa Trung Quốc đã thu gom vào tay của dưới 1% tổng số hộ gia đình.[23] Gần 30% số hộ nông thôn không dủ ăn, thu nhập trung bình dưới 1 Mỹ kim một ngày.[24] Số người ăn xin trong các thành phố tăng lên gấp bội vì các chính quyền địa phương bất lực và vì chính sách hộ khẩu không còn có thể kiểm soát các luồng dân nông thôn chảy vào thành phố để kiếm việc làm.[25] Mặt khác, Trung Quốc đã trở thành nước tiêu dùng xa xí phẩm nhiều thứ ba trên thế giới.[26]
Lý do chính cho sự cách biệt trên là chính trị chứ không phải kinh tế. Nếu người dân Trung Quốc có tiếng nói chính trị thì sự cách biệt nầy đã không xảy ra lớn và nhanh như vậy. Câu hỏi được đặt ra ở đây là liệu mô hình phát triển kiểu Trung Quốc nầy có thể tồn tại lâu dài và đem đến “an cư lạc nghiệp” cho nhân dân Trung Quốc không? Antonio Gramsci, nhà tư tưởng chính trị người Ý theo truyền thống Mác-xít, nói rằng bất cứ một chính quyền nào cũng cần có hai vòng đai bảo vệ: Vòng ngoài là vòng “thiết giáp của trấn áp”; vòng trong là vòng đồng thuận (vòng ý thức hệ) được thiết lập để củng cố vòng ngoài và để biện minh hay chính thống hóa sự trấn áp của chính quyền. Vòng trong được cấu tạo với xã hội dân sự và là vòng đai bảo vệ quan trọng nhất của chính quyền.[27] Vì “nhà nước đảng” Trung Quốc hiện nay chủ yếu chỉ có một vòng đai, vòng đai trấn áp bằng vũ lực, họ đã và đang phải cố gắng hô hào và cổ vũ cho một loại chủ nghĩa dân tộc (chủ yếu là chủ nghĩa Đại Hán) để tạo nên một ý thức hệ đồng thuận có thể dùng làm vòng đai phía trong. Chủ nghĩa dân tộc nầy được nhào nặn và sử dụng bằng nhiều hình thức mà một số nhà nghiên cứu đã phân tích.[28] Những thể hiện hết sức nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc nầy trong các lĩnh vực quân sự và ngoại giao cũng đã được người viết bài nầy phân tích trong một số nghiên cứu đăng trên các tạp chí nước ngoài.[29] Nếu Trung Quốc không thể giải quyết những mâu thuẫn trong nước bằng bạo lực được thì Trung Quốc sẽ có thể dùng vũ lực để xuất khẩu các mâu thuẫn đó ra bên ngoài như Nhật Bản đã áp dụng từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 dưới học thuyết “phú quốc cường binh” hay không? Các nước khác ở châu Á có nên bắt chước mô hình phát triển Trung Quốc không?
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2009 7:49:26 GMT 9
3. Phần viết thêm (Postscript) Trong năm qua tình hình kinh tế xã hội của Trung Quốc chỉ xấu thêm chứ không khá hơn. Theo các công bố chính thức của chính phủ Trung Quốc vào đầu tháng 3 năm 2009 thì trong 5 tháng trước đó đã có hơn 20 triệu công nhân trong các xí nhiệp đã bị mất việc và đã phải chạy về nông thôn. Đây là một con số lớn bằng tổng dân số của Australia. Cũng theo các báo cáo chính thức, Trung Quốc cần tăng trưởng GDP khoảng 9-10% mới có thể cung cấp việc làm cho khoảng 24 triệu người đến tuổi lao động mỗi năm. Thủ tướng Ôn Gia Bảo tuyên bố là GDP của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 8% năm 2009.[30] Nhưng theo phân tích của nhiều kinh tế gia nước ngoài thì GDP Trung Quốc sẽ tăng tối đa khoảng 6,5% vì một số lý do như sau. Lý do thứ nhất là tuy chính phủ Trung Quốc đã công bố (ngày 9 tháng 11 năm 2008) một chương trình kích cầu với tổng số tiền là 586 tỷ Mỹ kim cho 2 năm 2009-10 (khoảng 7,5% GDP mỗi năm), trong thực tế thì chính quyền Trung Ương chỉ hứa sẽ bỏ ra khoảng 175 tỷ Mỹ kim mà thôi. Số còn lại là do đầu tư của địa phương và tư nhân. Khó mà hiểu được trong lúc tình trạng kinh tế trong nước và thế giới sa sút như trong năm qua thì làm sao địa phương và tư nhân muốn đầu tư thêm. Nên nhớ rằng 40% GDP của Trung Quốc là từ công nghiệp chế biến, 40% GDP là do xuất khẩu; và xuất khẩu ròng (tức xuất siêu) là 12% GDP năm 2007-2008. Đầu tư cho sản xuất các năm trước trung bình khoảng 45% GDP và vì thế đã giúp Trung Quốc tăng xuất khẩu sang Mỹ, chẳng hạn, khoảng 20% mỗi năm. Nhưng các con số trao đổi mậu dịch song phương Trung-Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2009 đã cho thấy là xuất siêu của Trung Quốc đối với Mỹ đã giảm gần đến số không. Năm 2007 xuất siêu Trung Quốc sang Mỹ là 252 tỷ Mỹ kim, tức khoảng 100 tỷ Mỹ kim nhiều hơn số tiền mà chính quyền Trung Ương Trung Quốc nói là sẽ dành cho kích cầu trong hai năm 2009-2010. Nếu Trung Quốc vẫn dựa vào xuất khẩu để phát triển thay vì tìm cách tăng mại lực của nhân dân, nhất là cho những người có thu nhập thấp, thì kinh tế Trung Quốc khó mà phục hồi nhanh chóng. Vì Trung Quốc không có quỹ an sinh xã hội, người dân Trung Quốc phải để dành, khoảng 20% thu nhập, để phòng những lúc khó khăn hay rủi ro. Các xí nghiệp lớn của Trung Quốc cũng để dành tiền. Cho nên tổng số tiền để dành của Trung Quốc là khoảng 45-50% GDP. Chính phủ lấy tiền nầy để đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Đó là lý do tại sao tỷ lệ đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu chiếm khoảng 45% GDP. Phần lớn tiền để dành của các xí nghiệp quốc doanh là tiền dự trữ ngoại tệ giữ ở nước ngoài để cho nước ngoài vay mua hàng của Trung Quốc. Theo một bài nghiên cứu đăng trong tờ The Wall Street Journal thì phần lớn của cải của Trung Quốc đang nằm trong tay của 140 tổng công ty quốc doanh.[31] Từ năm 2003-2008 tài sản (assets) của các tổng công ty nầy mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,5 nghìn tỷ nhân dân tệ (1.5 trillion yuan) và giá trị hàng bán ra (sales) mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,3 nghìn tỷ. Các công ty nầy được các ngân hàng quốc doanh cho vay 1,08 nghìn tỷ nhân dân tệ trong 6 tháng đầu năm 2009, con số lớn hơn tổng số cho vay năm 2008. Trong khi đó chưa đến 5% của số tiền nầy được cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay. Phần lớn các xí nghiệp nhỏ và vừa nầy là của tư nhân và chính phủ Trung ương ngăn cấm họ hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh có lợi nhuận lớn nhất. Cũng theo bài báo trên thì người giàu càng ngày càng giàu thêm và người nghèo càng ngày càng nghèo thêm. Hiện nay tại Trung Quốc có khoảng 300 nghìn người có tài sản trên 10 triệu đồng nguyên mỗi người. Trong khi đó thì thu nhập của nông dân và công nhân (hơn 65% của tổng số 1,3 tỷ người) đã giảm xuống đến 41,4% GDP năm 2006—tức năm cuối cùng có số liệu chính thức—so với 53% năm 1998. Ở các nước phát triển như Nhật và Mỹ thu nhập của công nhân và nông dân thường là từ 50-60% GDP. Thêm vào đó y tế và giáo dục cho nông dân và công nhân một là, không có, hai là, nếu có, thì rất tồi tệ. Theo báo cáo năm 2008 của Bộ Y Tế có khoảng 200 triệu công nhân và nông dân mắc bệnh từ những công việc làm của họ. Không phải giới cầm quyền Trung Quốc không biết là khoảng cách giàu-nghèo đã đến mức trầm trọng. Trong một bài báo đăng ngày 26 tháng 6 năm 2009 một tác giả khác cho biết là trước đó vài ngày một thành viên của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc công bố một vài con số chính thức về phân cấp giàu-nghèo như sau: 70% của tất cả của cải tài sản tại Trung Quốc tập trung trong tay của 0,4% dân số (tập trung cao hơn tại Mỹ). Hay nói cách khác, 99,6% tổng dân số Trung Quốc chỉ hưởng có 30% của cải của nước họ.[32] Giới cầm quyền Trung Quốc biết là phân cấp giàu-nghèo nầy, chủ yếu là qua tham nhũng và lạm quyền của quan chức các cấp, đã và sẽ gây thêm nhiều cuộc nổi dậy của quần chúng mà họ dùng mỹ từ “sự kiện đại chúng” để gọi. Vì thế, giới cầm quyền Trung Quốc đã dùng mọi thủ đoạn ̶ từ làm “công tác tư tưởng” đến đàn áp bằng vũ lực ̶ để “trị an.”[33] Theo Perry Link và Joshua Kurlantzick, hai học giả về Trung Quốc, “Điều rất đáng lo ngại hơn là chính phủ [Trung Quốc] đang chuyển sự thành công của họ trong nước ra thành sự thành công ở nước ngoài, nơi mà “mô hình Trung Quốc” về chủ nghĩa tư bản độc đoán đang rất ăn tiền. Chính phủ các nước từ Syria đến Việt Nam đang ca ngợi Trung Quốc.”[34] Nhiều người đang quan tâm, nếu không nói là quan ngại, trước thái độ khâm phục Trung Quốc của một số lãnh tụ và trí thức Việt Nam hiện nay cũng như trước các hoạt động bành trướng của Trung Quốc tại Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á. Các hành động khiêu khích của Trung Quốc trên biển Đông Nam Á như vây quanh hay va chạm chiến thuyền của Mỹ và bắt ngư dân Việt Nam buộc Mỹ gần đây phải đưa ra hàng loạt chính sách cụ thể để chứng tỏ rằng Hoa Kỳ vẫn còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của họ cũng như của những quốc gia khác trong khu vực.[35] Đây là vấn đề khá phức tạp và ngoài phạm vi bài nầy. Nhưng cũng đã có một số phân tích về chính sách hiện nay của Mỹ và Trung Quốc trên một số diễn đàn khác.[36] Tháng 7-2009 Ngô Vĩnh Long Chú thích [1] Hai tên gọi, Trung Quốc (中國 zhongguó) và Trung Hoa (中華 zhonghuá), đã được sử dụng từ thời nhà Chu (周) — từ thế kỷ thứ 10 đến năm 221 trước công nguyên — để phân biệt với “thiên hạ” (天下 tian xìa), tức là những nước và dân tộc chưa được nhà Chu thôn tính và khai hóa. [2] Ngay sau khi nhà Chu vừa mới thôn tính nhà Thương (商) thì Chu Công đã nói là người ta có thể chiếm một nước trên lưng ngựa nhưng không có thể giữ nước đó trên lưng ngựa được. Nghĩa là không có thể dùng vũ lực và bạo lực để cai trị một cách ổn định được. Để trị an, Chu Công quan niệm rằng phải có một ý thức hệ bao trùm tạo ra được sự đồng thuận trong xã hội, đặc biệt là trong các tầng lớp cai trị. Vì thế, Chu Công và các vị vua đầu tiên của triều đại Tiền Chu hay Tây Chu (1122-771 trước công nguyên) giới thiệu hai khái niệm đi đôi với nhau là “Thiên” (天 ) và “Đức” (德). Thiên là một động lực đạo đức bao quát cai quản toàn thể vũ trụ và loài người và được nhà Chu dùng để thay thế “Thượng Đế” (上 帝), ông tổ của nhà Thương và cũng là vị thần làm mưa làm gió. Đức là hành động đứng đắng của con người, hài hòa với các nguyên lý đạo đức của vũ trụ. Thiên ngồi trên phán xét, một cách không thiên vị, các hành động của người cầm đầu thiên hạ và cho người nầy có quyền, gọi là “thiên mạng” (天 命), để làm trung gian giữa thiên ý và nhân mạng, tức là vận mạng của con người. Người có thiên mạng để cai trị (thiên tử 天 子) là người phải có Đức, tức là phải có trách nhiệm đối với xã hội loài người bằng cách làm cho dân chúng được “an cư lạc nghiệp.” An cư lạc nghiệp có nghĩa là xã hội ổn định và kinh tế phát triển cho hạnh phúc của quần chúng. Khái niệm trên được coi như là một khế ước giữa trời và người (thiên và thiên hạ) và trời không có quyền tự hủy cái giao kèo đó. Khi có “thiên tai” làm cho con người bị đau khổ, đó không phải là vì trời thất hứa mà là vì giới cầm quyền không có chính sách đứng đắng và hài hòa với các nguyên lý đạo đức của vũ trụ nên mới gây mất ổn định. An lạc là nguyên lý trọng tâm. Nếu dân chúng bị đau khổ, vì thiên tai hay là vì chính sách không đứng đắng của nhà cầm quyền, thì quần chúng có quyền “cách mạng” (革 命). Hai luận điểm trên được nhà Chu phát triển như là một ý thức hệ giúp cho triều đại nầy cai trị ổn định mấy trăm năm. Sáu trăm năm sau giai đoạn Chu Công thi hành hai luận điểm trên thì Khổng Tử dùng chúng làm cốt lõi cho hệ thống tư tưởng của ông. Sau đó, các trường phái Nho học, đặc biệt dưới thời Hán, thể chế hóa các luận điểm nầy thành nền tảng của ý thức hệ cai trị mà các triều đại đế chế Trung Quốc đã liên tục sử dụng để ổn định xã hội và bảo vệ chính quyền. Một tầng lớp sĩ phu đã được đào tạo và liên tục trưởng thành trong hơn hai nghìn năm để điều hành và củng cố các thể chế đặt ra. Vị trí của “Sĩ” phản ánh qua câu: Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên Có giang sơn thì Sĩ đã có tên Thời Chu Hán vốn Sĩ nầy là quí… (Kẻ Sĩ—Nguyễn Công Trứ) [3] Bài tham luận đó có tựa đề là: “Một vài nhận xét về quan hệ giữa ‘trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển’ trong lịch sử một vài nước Á Châu.” Vì lý do kỹ thuật, chỉ có phần nói về Trung Quốc đã được đưa lên mạng hội thảo trước và hiện nay còn nằm tại đây: hoithao.viet-studies.info/2008_NgoVinhLong.pdf. Trong bài tham luận của tôi tại hội thảo tôi đã dùng hơn một nửa thời gian trình bày diễn tiến của mô hình phát triển Hàn Quốc từ đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước cho đến năm 2007. Sau hội thảo tôi đã phát triển phần Hàn Quốc nầy đến gần 50 trang và hiện nay còn đang hiệu đính để có thể cho xuất bản. [4] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 348-349. [5] Như trên, trang 339. Li Rui, Lushan huiyi shilu (Báo cáo trung thực về Hội nghị Lư Sơn). Changsha: Hunan jiaoyu chubanshe, 1989. [6] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 341-342. [7] Wang Hui, như trên. “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 330-331. [8] Perry Link and Andrew Nathan, eds. The Tiananmen Papers. New York: Public Affairs, 2001. [9] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 330-339. Muốn có thêm chi tiết, xin xem The Tiananmen Papers. [10] Xem: William H. Thortorn, “Hu Goes There? Sino-globalism and the Ghost of Tiananmen,” ZNet, ngày 25 tháng 4 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.zmag.org/content/print_article.cfm?itemID=10153§ionID=103[11] Richard Baum, “Where is China Going?” UCLA Asia Institute, ngày 13 tháng 12 năm 2002. Bài nầy có thể tải về từ: international.ucla.edu/asia/print.asp?parentid=2799. [12] Richard Spencer, “China Rich-Poor Gap is World’s Worst,” Telegraph, ngày 17 tháng 2 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.telegraph.co.uk. [13] Jim Yardley, “Farmers Being Moved Aside by China’s Real Estate Boom,” The New York Times, ngày 8 tháng 12 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/12/08/international/asia/08china.html[14] Jim Yardley, “Bad Air and Water, and a Bully Pulpit in China,” The New York Times, ngày 25 tháng 9 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/09/25/international/asia/25fprofile.html[15] Xem: Thomas G. Rawski, “What’s Happening to China’s GDP Statistics?” China Economic Review 12:4 (2001), Bài nầy có thể tải về từ: www.pitt.edu/~tgrawski/papers2001/gdp912f.pdf. Arthur Waldron, “China’s Economic Façade,” Washington Post, ngày 21 tháng 3 năm 2002. Bài nầy có thể tải về từ: www.taiwandc.org/wp-2002-01.htm[16] William H. Thornton, “Sino-Globalization: Politics of the CCP/TNC Symbiosis,” New Political Science, Volume 29, Number 2, June 2007, trang 217. [17] Như trên. [18] Guy Ryder, “Whose Miracle in China?” New Perspectives Quarterly 23:1 (2006). Bài nầy có thể tải về từ: www.digitalnpq.org/archive/2006_winter/ryder.hmtl[19] “Sino-Globalization…”, trang 219. [20] “Who Should Own the Good Earth of China,” The Christian Science Monitor, ngày 15 tháng 3 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.csmonitor.com/2006/0315/p08s01-comv.html[21] Jim Yardley, “China Unveils Plan to Aid Farmers, but Avoids Land Issue,” The New York Times, ngày 23 tháng 2 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2006/02/23/international/23rural.html[22] Xem: Robert Marquand, “Hu Sets Out Blueprint for China’s Future,” The Christian Science Monitor, ngày 6 tháng 10 năm 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.csmonitor.com/2005/1006/p06s02-woap.htm. Minxin Pei, “The Chinese Communist Party,” Foreing Policy, September/October 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.foreignpolicy.com/story/cms.php?story-id=3174&print=1. [23] C. T. Kurien, “Giants of the East,” FrontLine 23:26, ngày 30 tháng 12 năm 2006—ngày 12 tháng giêng năm 2007. Bài nầy có thể tải về từ: www.hinduonnet.com/fline/fl2326/stories/20070112000507400.htm. [24] Pranab Bardhan, “Does Globalization Help or Hurt the World’s Poor?” ScientificAmerican.com, ngày 26 tháng 3 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.sciam.com. [25] Jim Yardley, “China is Paying a Price of Modernization: More Beggars,” The New York Times, ngày 7 tháng 4 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/04/07/international/asia/07beggars.html. [26] Zijun Li, “Luxury Spending: China’s Affluent Entering ‘Enjoy Now’ Phase of Consumption,” World Watch Institute, ngày 16 tháng 12 năm 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.worldwatch.org/features/chinawatch/stories/20051216-1. [27] Antonio Gramsci, Selections from the Prison Notebooks. London: Lawrence and Wishart (1971), trang 124, 238, 263, 363. [28] Một ví dụ là: William A. Callahan, “History, Identity, and Security: Producing and Consuming Nationalism in China,” Critical Asian Studies 38: 2 (2006), trang 179-208. [29] Một số bài tiếng Việt đã đăng trên Tạp Chí Thời Đại Mới: tapchithoidaimoi.info. [30] “Wen says China to grow about 8% despite crisis.” Bài nầy có thể tải về từ trạm: www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific_business/view/413312/1/.html. “PM Wen says China faces ‘unprecedented’ challenges over crisis.” Tải về từ trạm: www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific_business/view/413202/1/.html. [31] Willy Lam, “Rich China, Poor Peasants: A Country where weatlh trickles up,” The Wall Street Journal, July 24, 2009. Bài nầy có thể tải về từ: online.wsj.com/article/SB10001424052970203946904574301110723410346. [32] Alice thingy, “"A Country Whose People Are Poor Cannot Be Called a Rich Country." Nguyên văn câu tiếng Anh như sau: “A few days ago, Politburo member 蔡繼明 quoted a report issued by the authorities that says presently 0.4 percent of China’s population controls about 70 percent of the country’s wealth – the degree of wealth concentration is higher than in America. In other words, the remaining 99.6 percent of China’s citizens share only 30 percent of its wealth.” Bài nầy có thể tải về từ: www.asiasentinel.com/index2.php?option=com_content&task=view&id=1951&pop=1&page=0&Itemid=324. [33] Xem: Hugo Restall, “China Enters a Period of Eruptions,” Far Eastern Economic Review, July 2009. Bài nầy có thể tải về từ: www.viet-studies.info/kinhte/china_period_of_eruption.htm. [34] Perry Link và Joshua Kurlantzick, “China's Modern Authoritarianism: The Communist Party's ultimate goal is to stay in power, not to liberalize,” The Wall Street Journal, May 25, 2009. Bài nầy có thể tải về từ: online.wsj.com/article/SB124319304482150525.html#printMode. Nguyên văn tiếng Anh: “Even more worryingly, the government is translating its success at home into success abroad, where the "China model" of authoritarian capitalism is gaining currency. Governments from Syria to Vietnam have sung its praises.” [35] Những tài liệu về chính sách của Mỹ gần đây cũng như những bài vở về hoạt động của Trung Quốc tại Việt Nam và khu vực trong những tháng qua có thể tải về từ trạm: www.viet-studies.info/kinhte/kinhte.htm. [36] Một ví dụ là bài phỏng vấn Radio France Internationale (RFI) tại đây: www.rfi.fr/actuvi/articles/115/article_4360.asp. www.tapchithoidai.org/ThoiDai16/200916_NgoVinhLong_TQ.htm
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2009 8:01:23 GMT 9
Đập Tiểu Loan của Trung Quốc trên thượng nguồn sông Mêkông có thể tác hại nặng nề đến Việt Nam và các nước hạ nguồn Trọng Nghĩa-RFI Nghe phỏng vấn TS Nguyễn Đức Hiệp Tai họa mà các con đập của Trung Quốc ở bên trên dòng sông Mêkông gây ra cho các quốc gia phiá dưới đã từng được gợi lên, nhưng lần này hiểm họa được cho là sẽ nghiêm trọng hẳn lên vì Bắc Kinh chuẩn bị cho vận hành một con đập thứ tư, lớn hơn rất nhiều so với các con đập Mạn Loan, Cảnh Hồng và Đại Chiếu Sơn đã đi vào hoạt động.. Đập Tiểu Loan (Nguồn : Mekongriver.org) Trong tháng 07/2009 vừa qua, nhiều bài viết khác nhau đã liên tiếp được công bố nhằm đánh động công luận về các tác hại của các con đập nói chung và đặc biệt là loạt đập nước mà Trung Quốc xây dựng trên thượng nguồn sông Mêkông, đối với môi trường và đời sống các cư dân ở vùng hạ lưu là Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam. Đáng chú ý hơn cả là bài “Đập tại Trung Quốc biến Mêkông thành dòng sông bất hoà’’ của nhà nghiên cứu Michael Richardson, thuộc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á tại Singapore, đăng trên trang web YaleGlobal của trường Đại Học Yale (Hoa Kỳ) ngày 16/07/2009, và bài “Đập thủy điện đe dọa hàng triệu sinh linh bên dòng Mêkông’’ của Cơ quan phân tích thông tin nhân đạo IRIN thuộc Văn Phòng điều phối các vấn đề Nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, công bố ngày 22/07. Tai họa mà các con đập của Trung Quốc ở bên trên dòng sông Mêkông gây ra cho các quốc gia phía dưới đã từng được nhiều quan sát viên gợi lên, nhưng lần này hiểm họa được cho là sẽ nghiêm trọng hẳn lên vì chính quyền Bắc Kinh chuẩn bị cho vận hành một con đập thứ tư chắn ngang sông Mêkông, to lớn hơn rất nhiều so với các con đập Mạn Loan, Cảnh Hồng và Đại Chiếu Sơn đã đi vào hoạt động. Đó là đập Tiểu Loan (phiên âm tiếng Anh là Xiaowan), cao 292 thước, tức là gần bằng tháp Eiffel Paris, công suất dự trù 4.200 Mêgawatt, hơn gấp ba lần công suất của ba đập nước đang vận hành. Điều đáng lo ngại hơn cả là dung lượng cực lớn của hồ chứa nước của con đập Tiểu Loan, lên đến 15 tỷ thước khối, tức là gấp năm lần tổng dung lượng của ba con đập đã hoàn thành trước cộng lại. Cơn khát năng lượng của Trung Quốc đã thúc đẩy nước này hoàn tất công trình xây đập Tiểu Loan sớm hơn một năm. Đập này đã bắt đầu lấy nước vào hồ chứa và chuẩn bị cho chạy tổ máy phát điện đầu tiên vào tháng 9/2009 ! Song song với Tiểu Loan, một con đập khác cũng đang được Bắc Kinh ráo riết thi công là đập Nọa Trác Độ (Nuozhadu), còn to lớn hơn, với hồ chứa hút tới gần 23 tỷ mét khối nước, gần gấp đôi hồ Tiểu Loan. Theo kế hoạch, con đập đó sẽ hoàn tất vào năm 2014 ! Nguy cơ nước sông Mêkông bị các đập thuỷ điện Trung Quốc ở đầu dòng hút hết là một trong những vấn đề từng được các nhà nghiên cứu nêu bật từ mấy năm nay, với những hậu quả khôn lường đối với các nước thiếu may mắn nằm ở dưới hạ lưu trong đó có Việt Nam. Vào tháng Năm vừa qua, một công trình nghiên cứu hỗn hợp giữa Cơ quan Bảo vệ Môi trường Liên Hiệp Quốc UNEP và Viện Công Nghệ học Châu Á AIT đã công khai cảnh cáo rằng kế hoạch xây dựng 8 con đập trên thượng nguồn sông Mêkông có thể trở thành một “mối đe dọa đáng kể” cho dòng sông và nguồn tài nguyên thiên nhiên đến từ con sông, nêu bật nguy cơ đối với Việt Nam và Cam Bốt. Đối với Việt Nam, việc lưu lượng nước sông Mêkông bị giảm do bị đập nước Trung Quốc hút từ trên thượng nguồn sẽ làm gia tăng hiểm họa vùng đồng bằng sông Cửu Long bị nước biễn tràn vào, và đất đai bị hoá phèn, không trồng trọt được. Cộng thêm với nguy cơ mực nước biển dâng lên do biến đổi khí hậu, những diện tích canh tác rộng lớn có thể sẽ bị ngập lụt, buộc hàng triệu con người phải di tản. Đồng Bằng sông Cửu Long vốn là vựa thóc của cả nước, các thiệt hại sẽ cực kỳ nghiêm trọng. Đối với Cam Bốt, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Mực nước sông Mêkông bị giảm sẽ đe doạ đến Biển Hồ, vựa cá của toàn vùng, khiến cho kế sinh nhai của hàng triệu ngư dân bên dòng Mêkông bị tổn hại. Lẽ dĩ nhiên là phiá Trung Quốc đã nhất loạt bênh vực cho các con đập của họ, cho rằng các công trình này sẽ ảnh hưởng tích cực đến môi trường khu vực. Các hồ chứa sẽ giúp điều hoà mực nước sông Mêkông, giảm được lượng nước chẩy vào mùa mưa, giúp các nước phiá dưới không bị lụt, giúp cho bờ sông không bị sói mòn. Còn trong mùa khô, nước xả ra từ các đập thuỷ điện sẽ giúp các quốc gia hạ nguồn không bị khô hạn. Vấn đề trên lý thuyết là như vậy, nhưng trong thực tế thì theo giới bảo vệ môi trường trong khu vực, thì chỉ mới có ba con đập nhỏ đi vào hoạt động mà thôi mà tác động tiêu cực đối với các nước ở phiá dưới đã xuất hiện, chẳng hạn như nguồn cá đã giảm sút hẳn trong lúc hiện tượng bờ sông bị sạt lở vì sói mòn đã phát sinh từ Miến Điện qua miền Bắc Thái Lan và miền Bắc Lào. Vấn đề đặt ra hiện nay là những lời báo động chủ yếu đến từ xã hội công dân, từ các tổ chức phi chính phủ, trong lúc chính quyền các nước hạ nguồn sông Mêkông tránh trực diện đối đầu với Trung Quốc trên vấn đề này. Ủy Ban Sông Mekong, một định chế liên chính phủ tập hợp 4 nước hạ nguồn sông Mêkông tuy rất quan tâm đến hồ sơ, nhưng lại không có uy thế gì đối với Trung Quốc. Theo nhà nghiên cứu Micheal Richardson, cho đến nay, Trung Quốc chỉ đồng ý làm “đối tác đối thoại” của Ủy Ban sông Mêkông mà tránh không gia nhập định chế này hay tuân thủ những quy định hướng dẫn quản lý tài nguyên thiên của Uỷ Ban. Theo Richardson, quy chế thành viên sẽ khiến cho kế hoạch xây đập của Trung Quốc trên thượng nguồn dòng Mêkông bị các nước Đông Nam Á ở hạ nguồn giám sát kỹ lưỡng hơn, qua đó gây sức ép buộc Bắc Kinh quan tâm đến quyền lợi của họ. Để hiểu rõ hơn về tác hại của đập Tiểu Loan cũng như các con đập khác trên thượng nguồn sông Mêkông đối với Việt Nam, RFI đã đặt câu hỏi cho chuyên viên môi trường Nguyễn Đức Hiệp tại Úc. Mời quý vị nghe toàn bộ bài phỏng vấn. www.rfi.fr/actuvi/articles/116/article_4443.asp
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:33:20 GMT 9
Văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam Nguyễn Văn Tuấn - Cung Ðình Thanh - Nguyễn Ðức Hiệp Một vài ghi chép thêm về văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt NamI. Có lẽ, phát biểu rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa chắc không quá đáng, bởi vì một khuynh hướng chung hiện nay là các quốc gia trên thế giới đang (hay sắp) qui tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa, mà không dựa trên ý thức hệ (như Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Tư bản trong thời gian qua). Trong thế kỷ 21, người ta sẽ hỏi "Anh là ai", thay vì "Anh thuộc phe nào" trong thế kỷ vừa qua. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ ý thức hệ sang văn hóa. Nhưng câu hỏi "Chúng ta là ai" tuy đơn giản, câu trả lời thì không đơn giản chút nào. Tổ tiên chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là những vấn đề khoa học, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Từ thập niên 60 thế kỷ trước, nhiều người, nhất là giới trẻ, đã khao khát muốn tìm về nguồn gốc dân tộc. Nhiều đoàn thể đã tự chọn cho mình cái mục tiêu "về nguồn". Đến khi chiến tranh trên quê hương chấm dứt năm 1975, rồi cả triệu người phải bỏ nước ra đi, sự khao khát tìm về cội nguồn trong những người xa quê hương này lại có phần gia tăng, dù người ta đã phải vất vả nhiều hơn cho cuộc sống mới. Nhưng khi tìm trong cổ sử Việt, về đời sống tinh thần của người xưa, để thực hiện việc về nguồn này, người ta chỉ gặp một cảnh hoang sơ: ngoài một số truyền thuyết, và những lời răn thực tế trong tục ngữ ca dao, những tác phẩm để lại, phần lớn do người ngoại quốc viết, thường đã bị khoa học ngày nay vượt qua từ lâu, không kể một số không ít đã được sáng tác với dụng ý xuyên tạc sự thực, bôi bác nguồn gốc dân tộc, hạ thấp giá trị văn hóa cổ truyền. Trong cảnh tiêu sơ đến thảm hại đó, cũng đã xuất hiện vài quyển sách có thiện ý muốn viết lại cho trung thực nguồn gốc dân tộc mình (1). Nhưng được thực hiện trong hoàn cảnh tư liệu thiếu thốn, các sách này chưa đạt được mục đích, vả cũng đã nhanh chóng bị khoa học ngày nay vượt qua. Ở trong nước, nhờ có đội ngũ những nhà biên khảo khoa học xã hội đông đảo, có những cơ quan chuyên nghiên cứu về triết học, văn hóa và khoa học xã hội có tổ chức, nên có được nhiều biên khảo chuyên ngành và công phu hơn. Nhất là về phương diện khảo cổ, từ thập niên 60 (thế kỷ trước), ngành này đã đạt được những kết quả vô cùng ngoạn mục. Nhưng những tác phẩm nghiên cứu có hệ thống và khoa học vẫn còn cực kỳ ít, ngoại trừ tập một vài tác phẩm mới xuất bản gần đây (2). Đặc biệt về phương diện triết học tư tưởng, nhiều hội nghị đã được triệu tập, nhưng vẫn đi đến kết luận hết sức lạ lùng là: trong hoàn cảnh tài liệu hiện tại, còn quá sớm để có thể hình thành một tác phẩm loại này(3). Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi, một nhóm tư nhân rất thiếu phương tiện, nhưng đã quyết tâm làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn, không có tài trợ từ bất cứ nguồn nào, đã tự cho mình trách nhiệm góp phần trong việc soạn thảo những tài liệu cung ứng cho khát vọng tìm về cội nguồn, mà chúng tôi biết trước là rất khó khăn, này. Một tập san mang tên Tư Tưởng, với mục đích phi thương mại, chỉ lưu hành trong nhóm thân hữu và các nhà biên khảo có lòng với văn hóa dân tộc, sống rải rác khắp mọi nơi trên thế giới, đã được phát hành từ đầu năm 1999 để làm cây cầu nối những ai muốn thực hiện con đường tìm về cội nguồn. Đến nay Tập san đã ra được 19 số. Cách đây không lâu, Giáo sư Stephen Oppenheimer, một nhà nghiên cứu y học nhưng từng nghiên cứu về thời tiền sử, có xuất bản quyển sách "Eden in the East" bàn về văn minh Đông Nam Á. Cuốn sách làm chấn động giới nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á. Nhận thấy quyển sách có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc, nên một người trong nhóm chúng tôi (Gs. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn) có viết một bài điểm sách, và nhân đó, đưa đề nghị "Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam" đăng trên Tập San Tư Tưởng số 15 tháng 8 năm 2001. Bài điểm sách đã được nhiều tạp chí trong và ngoài nước in lại, và chúng tôi đã nhận được khá nhiều góp ý cũng như phê bình. Vấn đề đặt ra được sự hưởng ứng nồng nhiệt của nhiều người ở trong cũng như ngoài nước. Trong số những tác giả đã khai triển thêm đề tài này bằng những bài phê bình hết sức xây dựng, Tác giả Nguyễn Quang Trọng, trong bài "Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và ?Địa đàng ở phương Đông? của ppenheimer" (Hợp Lưu, số 64) là đáng bàn thảo thêm, và đó cũng là đề tài chính của bài viết này của chúng tôi. Chúng tôi cám ơn tác giả Nguyễn Quang Trọng và các tác giả khác đã bỏ công viết những bài thảo luận có giá trị về vài điều mà chúng tôi đã nêu ra một cách vắn tắt trong bài điểm sách. Bởi bài viết trước của chúng tôi nằm trong dạng "điểm sách", nên chúng tôi không có cơ hội khai triển thêm những điều đã phát biểu. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày thêm một vài quan điểm chung quanh những ý kiến của tác giả Nguyễn Quang Trọng, và chắc cũng là ý kiến của một số bạn đọc quan tâm khác. Cố nhiên, có một số điểm chúng tôi sẽ không đề cập đến, không phải vì chúng tôi đồng ý (hay không đồng ý) với tác giả, mà chỉ vì muốn hạn chế trong phạm vi những điều có liên quan đến bài điểm sách của chúng tôi. II. Trước hết, chúng tôi muốn bàn và phát triển thêm những điểm trong bài viết của Nguyễn Văn Tuấn mà tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng có thể gây ngộ nhận : Thứ nhất, về giả thuyết người Hòa Bình tràn lan về phía Nam (Indonesia), lên hướng Bắc (Trung Hoa) và sang hướng Tây (Thái Lan), tác giả Nguyễn Quang Trọng, tuy không bác hẳn, nhưng tỏ vẻ không đồng ý với quan điểm này vì có hàm ý văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt) còn trẻ hơn các văn hóa kể trên. Dụng cụ đá ở Hòa Bình có niên đại trẻ hơn dụng cụ đá ở Úc Châu, và "Theo tôi (NQT), chữ ?người Hòa Bình? dùng cho các di tích ở nơi khác không có nghĩa là người Hòa Bình - Bắc Việt - vào thời điểm đó (7.000 đến 12.000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa". Thực ra, niên đại văn hóa Hòa Bình là một vấn đề đương đại, vì cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí. Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30-01-1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá mới (Choppers, hay chopping tools). Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là Bắc phần Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước đây (4). Nhưng khoảng không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên đã đem Văn hóa Hòa Bình vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa Bình ở Miến Điện, Kampuchia, Lào, Mã Lai Á, Sumatra, Thái Lan, Ần Độ, Tứ Xuyên ... Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông Bắc đến Phi Luật Tân, Nhật Bản, phía Tây đến Thái Lan, phía Nam đến tận Úc Đại Lợi và phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn (5). Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Úc Châu có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằng C14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến 50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học thế giới" đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970 (6). Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ: • Hòa Bình sớm hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên (TrCN)), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN). • Hòa Bình giữa hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN). • Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I). Tính cách rộng lớn và phức tạp của Văn hóa Hòa Bình đã đến độ có đề nghị đổi tên Văn hóa Hòa Bình thành Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (7). Chúng tôi đồng ý cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" nay được dùng để chỉ nền văn hóa đá mới có đặc tính chung rộng khắp tại Đông Nam Á, Bắc lên đến Nhật Bản, Nam xuống tận Úc Châu, và không nhất thiết nó phải phát xuất từ Hòa Bình, Việt Nam. Nhưng văn hóa thiên di theo con người, và gần đây đã có dữ kiện di truyền học cho thấy có lẽ người Đông Nam Á, gần gốc Phi Châu hơn Đông Bắc Á và người Việt Nam có lẽ là sắc dân cổ nhất của Đông Nam Á (chúng tôi sẽ bàn thêm về điểm này trong phần sau). Thứ hai, có phải kỹ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông Sơn có trình độ cao nhất, nhì thế giới? Tác giả Nguyễn Quang Trọng không đồng ý với phát biểu này của chúng tôi, ông cho rằng trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn (từ 700 năm trước CN về sau) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn các nơi khác, nhất là những nơi này đã có kỹ thuật đúc đồng xưa hơn Đông Sơn rất nhiều. Tác giả nêu một thí dụ về kỹ thuật đúc đồng ở Sanxingdai (Bắc Trung Hoa) cổ hơn Đông Sơn mấy ngàn năm, Thái Lan, xưa hơn Đông Sơn 1.000 năm, và ở các nơi khác như Irak, Ai Cập, vùng Cận Đông cũng sớm hơn Đông Sơn rất nhiều. Rất tiếc là tác giả không dẫn chứng được những niên đại chính xác ("mấy ngàn năm" là mấy ngàn? Sớm hơn là sớm như thế nào?), và nguồn gốc của những dữ kiện được nêu ra. Nhưng chúng ta cứ giả thiết kỹ thuật đồng của những nơi này đã có trước mấy ngàn năm, cái niên đại 700 năm trước CN (mà ông gắn cho là niên đại của văn minh Đông Sơn) đi nữa, thì cũng không chắc đã có trước kỹ thuật của văn minh Đông Sơn, bởi một lẽ giản dị, niên đại 700 trước CN chỉ là niên đại của Đông Sơn trễ, Đông Sơn trẻ nhất. Như sẽ được dẫn chứng dưới đây, Văn hóa Đông Sơn kể từ thời Phùng Nguyên cho đến nay, vẫn có thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V. Gouloubew, R.H. Geldern, B. Karlgrenvà O. Jansé, đều lầm khi cho nền văn minh độc đáo này có nguồn gốc ngoại lai, từ nơi khác truyền đến. Người thì cho nó bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn, cho nó bắt nguồn từ văn minh Hallstatt ở Ấu Châu, truyền qua vùng thảo nguyên Ấu Á, đến Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn (8). Có người lại dựng lên một nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycèle Hi Lạp và theo một hành trình rất nhiêu khê qua trung gian các nền văn minh Trung Ấu, rồi Trung Á, đến đây mới chia hai ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, và một theo lưu vực sông Hà, sinh ra văn hóa đồng thau đời nhà Thương ở Trung Hoa (9). Những nhận xét này tuy có tính ngạo mạn, nhưng có thể hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền văn hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa đồng thau ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà nghiên cứu trên cứ nghĩ, văn hóa đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại Việt Nam. Thực ra, đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót của một nền văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng Nguyên. Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn minh Tây phương đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ nó phát xuất từ một nền văn minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu gốc Tây phương này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khách quan của mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại những di vật hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người mà dưới mắt họ, thấy đang bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ, nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng chế ra! Nhưng sự hiểu lầm đó đến nay đã thuộc về dĩ vãng, ít nhất là sau Hội nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về Nguồn gốc văn minh Trung Hoa năm 1978, mà các bản tham luận, sau khi các dữ kiện được kiểm nghiệm, so sánh với ý kiến của các học giả khác, đã được xuất bản năm 1980 (10). Cho đến lúc này (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ đồng tìm thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại C14 = 1425 ± 100BC [BLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở Anyang có niên đại C14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi) (11); đồ đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì khiến hợp kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều nơi khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng không có chì) (12). Có lẽ Nguyễn Quang Trọng đã hiểu đồ đồng Đông Sơn theo nghĩa hẹp là đồ đồng tìm thấy ở làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Tuy đồ đồng tìm thấy ở đây đầu tiên, nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà trẻ nhất trong nền văn hóa mang tên Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được nó là hậu duệ của những sản phẩm đồng từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun trước khi đến vùng Đông Sơn, Thanh Hóa. Bốn nền văn hóa này, mỗi nền văn hóa có những nét độc đáo riêng, nhưng cùng thuộc một chủng tộc làm chủ. Chúng kế thừa nhau một cách chặt chẽ, liên hệ với nhau một cách khắng khít. Bởi vậy khoa học ngày nay gọi chúng một tên chung là Văn hóa Đông Sơn. Như trên đã nói, Đông Sơn là nơi tìm ra đồ đồng ở Việt Nam đầu tiên nhưng lại là giai đoạn sau cùng của văn minh đồng thau này, kéo dài hơn 2.000 năm, khởi đầu từ Phùng Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay (C14 Gò Bông = 1850 ? 60 BC [BLn - 3001]). Đây là một hiểu lầm đến nay thì không còn nhiều người mắc phải và cũng không tai hại như sự hiểu lầm ở điểm 3 dưới đây mà nhiều nhà nghiên cứu về cổ học Việt Nam còn đang lúng túng chưa có câu giải đáp minh bạch. Thứ ba, về đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á, đến tận Malanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ, tác giả Nguyễn Quang Trọng viết "tôi e rằng có sự nhầm lẫn về điểm này", vì theo tác giả, "Hòa Bình là văn hóa không có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kỳ cuối (Bắc Sơn)". Có lẽ tác giả viết như thế vì ông đã căn cứ vào mẫu đồ gốm tìm được ở Hang Đắng thuộc rừng Cúc Phương, có niên đại C14 = 7.665 năm trước đây, mà các nhà khảo cổ Việt Nam cho thuộc thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn hay Văn hóa Hòa Bình muộn. Viết như thế là rất thận trọng, cũng giống như sự thận trọng của những nhà khảo cổ học Việt Nam, những người đã đích thân đào những di tích khảo cổ trên đất nước mình và khai quật được những di vật - ở đây là đồ gốm - và khi định niên đại thì những gốm này, ngay cả những gốm cổ nhất, cũng có niên đại trẻ hơn niên đại của gốm ở các nơi khác (Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, cả một số những đảo Thái Bình Dương), nghĩa là những nơi mà những ngành khác đã chứng minh được do người thuộc văn hóa Hòa Bình di cư đến đem theo cả văn hóa của mình. Sự bất lực không giải thích được điều mâu thuẫn này dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Gốm là một di vật rất quan trọng nếu không muốn nói là quan trọng nhất trong ngành khảo cổ, vì nó phản ảnh rõ nhất, đầy đủ nhất nếp sống, tư duy, nói chung, văn hóa của người xưa. Vậy thì, dù các ngành khoa học khác cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình có thể là nguồn gốc của nhân loại Đông Á, mà gốm Hòa Bình lại có niên đại trẻ hơn gốm các nơi khác cũng sẽ làm cho nguồn gốc nhân loại Đông Á từ người thuộc văn hóa Hòa Bình trở thành có tì vết! Chính vì hiểu rõ sự quan trọng của gốm trong vấn đề giải thích đời sống tiền sử và sự mâu thuẫn có tính sinh tử này mà chúng tôi đã cố công tìm hiểu. Và chúng tôi nghĩ là chúng tôi đã tìm ra được câu trả lời cho vấn đề khó khăn này bằng bài "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", đăng trong Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2 năm 2001. Những ý kiến đã giúp chúng tôi tìm được câu giải đáp, ngoài những di vật khảo cổ rất phong phú mới tìm thấy ở Việt Nam và Nam Trung Hoa trong những năm gần đây, trước hết, phải kể đến kiến giải của GS. W. G. Solheim II, khi ông giả thiết gốm Văn Thừng, đặc trưng của gốm Hòa Bình phải có niên đại 15.000 năm cách ngày nay dù ông chưa có trong tay tài liệu để chứng minh. Tiếp đến, ý kiến của GS. S. Oppenheimer trong sách "Địa đàng tại phương Đông" giả thiết về một sự hiện hữu của vùng Sundaland coi như nguồn gốc của nhân loại Đông phương, có thể của cả thế giới. Rồi thuyết về ngôn ngữ học của nhà ngữ học Johana Nichols và các nhà ngôn ngữ mới khác chứng minh ngôn ngữ Đông Nam Á Austronesian và Austro - Asiatic từ miền biển, miền thấp, ngược các con sông tiến lên miền cao, miền núi, chứ không phải từ miền núi xuôi xuống miền biển theo dọc dòng sông (13). Quan trọng nhất là các bằng chứng về di truyền học khẳng định rằng nguồn gốc người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapi-ens) từ Đông Phi Châu đến Đông Nam Á, rồi từ đó mới thiên di đi các nơi khác (14). Việc tìm hiểu về đời sống tiền sử, đời sống thời chưa có chữ viết, chúng ta không thể chỉ trông cậy vào một ngành khảo cổ học mà phải phối hợp các ngành đó để tiếp cận sự thực. Và một khi những lý thuyết này có điều gì chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì bổn phận của nhà viết cổ sử, các nhà phân tích nói chung phải so sánh, cân nhắc và thực hiện một sự tổng hợp các khoa ngành một cách thận trọng. Nếu sự tổng hợp này vẫn còn khó khăn để rút ra một kết luận, phải biết trong trường hợp này khoa học nào nói tiếng nói quyết định. Ngày nay, di truyền học DNA, tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng có độ chính xác cao nhất, và thường nói tiếng nói quyết định khi những mâu thuẫn trong những ngành cổ học khác không giải quyết được vấn đề. Có lẽ cũng nên nói thêm về một điểm nhỏ, Nguyễn Quang Trọng đã nói đến là gốm Lapita nổi tiếng nhất Đông Nam Á tìm được ở các đảo Thái Bình Dương, cụ thể đó là vùng bờ biển phía Tây đảo New Caledonia. Không thấy Stephen Oppenheimer hay Peter Bellwood đề cập đến trong các thuyết "Chuyến tầu nhanh, chậm" hay "chuyến tầu nhanh" của ông là do từ gốm Phùng Nguyên mà ra. Chúng tôi xin nói ngay rằng gốm Phùng Nguyên không phải là gốm cổ nhất ở Việt Nam (Phùng Nguyên nay thuộc vùng Vĩnh Phú, sâu trong đất liền). Những gốm cổ nhất, sau Hang Đắng, là gốm tìm thấy ở bờ biển từ Hạ Long, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn vào đến Bầu Tró, Sa Huỳnh. Đây là một điều trái với qui luật bình thường của khảo cổ, như đã trình bày trong bài viết trên nên xin miễn nói lại ở đây. Chỉ xin nhấn mạnh rằng khảo cổ học đã chứng minh được gốm Lapita mà Nguyễn Quang Trọng nói ở trên có nguồn gốc từ gốm trong hang động ở Thường Xuân (Thanh Hóa), Quỳ Châu (Nghệ An), Xóm Thân (Quảng Bình), là con đẻ của các gốm Đa Bút, Quỳnh Văn, Bầu Tró nói ở trên (15). Thứ tư, về quê hương của kỹ thuật trồng lúa mà chúng tôi phát biểu là ở quanh vùng Đông Nam Á đã được giới khoa học trên thế giới bàn luận đến từ lâu, đã tạm thời đi đến kết luận trong đại hội bàn về nguồn gốc dân tộc Trung Hoa ở Berkeley như nói ở trên. Riêng Tập San TƯ TƯỞNG cũng đã nhiều lần bàn đến, cụ thể là trả lời mục Bạn Đọc Góp Ý trong TƯ TƯỞNG số 12 (trang 27 - 28). Chúng tôi xin không bàn vào chi tiết nữa. Trong phần trên, Nguyễn Quang Trọng có nhắc đến bữa cơm tiền sử nấu với gạo của lúa mọc hoang tìm thấy ở hang Diaotonghuan 13.000 năm trước, và một số địa danh đã biết thuần hóa lúa nước từ 9.000 năm trước trở lại đây. Chúng tôi mong sẽ có dịp bàn lại về vấn đề này. Ở đây, chỉ xin nói ngay vào chủ đề điều 4, rằng đề tài này hầu như đã được giới khoa học quốc tế, kể cả khoa học gia hàng đầu Trung Hoa đồng thuận : quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á. Quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á là một sự thực, dù còn nhiều chi tiết cần tìm hiểu, bàn luận thêm. Nay nếu cứ đem những tiểu tiết che lấp đại thể thì vấn đề chỉ thêm rối rắm. Ngay sự thực trước mắt ngày nay cũng cho thấy người Hoa Hán ăn mì, người Hoa Nam, cả Nhật Bản, Đại Hàn và các dân Đông Nam Á khác ăn gạo. Chính thuyết trình viên người Trung Hoa, GS. Te-Tzu-Chang, phát biểu trước hội nghị quốc tế cũng trình bầy rõ, xét theo lịch sử Trung Hoa, lúa mạch là thực phẩm chính từ thời tiền sử đến nhà Chu, lúa tắc, mạch và đậu nành là thực phẩm thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúa nước chỉ là thực phẩm phổ biến tại Trung Hoa từ đời Hán về sau. Như vậy, phải chăng ông đã khẳng định lúa nước thuộc văn hóa phương Nam, chỉ trở thành thực phẩm chính ở Trung Hoa khi đất đai phương Nam thuộc tộc Bách Việt đã sát nhập vào Trung Hoa (16). Ngay cả tác giả Nguyễn Quang Trọng sau khi đã nêu ra một số những địa danh từ Trường Giang trở về Nam có niên đại lúa nước xưa hơn vùng châu thổ sông Hồng, cũng xác nhận người Cổ Việt, nhưng đây là U Việt ở vùng Cối Kê (Hemedu ngày nay) đã dậy Hoa Hán trồng lúa nước (chứ không phải dân Lạc Việt ở châu thổ sông Hồng, mà di vật liên quan đến lúa nước tìm được ở Sũng Sàm mới chỉ không quá 3.500 năm cách ngày nay). Mặt khác, ông lại quay sang phía Tây để phát biểu di tích hạt lúa ở Thái Lan tuy xưa hơn ở Việt Nam, nhưng không xưa bằng ở Nam Trường Giang (ông không tin vào niên đại C14 = 9260 - 7620 BP đã dẫn trong sách của S. Oppenheimer), nên quê hương lúa nước không phải ở Thái Lan. Những con số tác giả nêu ra đều có cơ sở. Có điều ông không để ý đến yếu tố quan trọng nhất là toàn bộ đồng bằng Bắc Việt ngày nay đã bị nhận chìm dưới làn nước biển suốt từ 8.000 năm đến 5.000 năm trước đây (5.500 năm trước nước biển mới bắt đầu rút). Đấy là nói đồng bằng ngày nay. So với đồng bằng sông Hồng từ 18.000 năm đến khoảng 30.000 năm trước đây, nó nhỏ hơn nhiều. Lúc ấy, nước biển thấp hơn ngày nay 130m, châu thổ sông Hồng xưa (cứ gọi như vậy) kéo dài đến tận đảo Hải Nam. Vậy nếu lúa nước có được thuần hóa thì di tích phần lớn đã bị hủy hoại (ở phần nước biển đã rút trả lại đất đai như ta thấy ngày nay) hay hãy còn ở sâu dưới lòng biển (ở phần vẫn bị nước biển tràn ngập). Việc không tìm ra di vật lúa nước có niên đại tối cổ (cổ hơn ở phần đất nay là Trung Hoa hay Thái Lan) cũng như việc không tìm ra di vật gốm tối cổ, ngoài lý do nó bị nước biển tàn phá, còn có thể vì nền khảo cổ của ta còn non trẻ lại thiếu phương tiện, nước ta trước đây có chiến tranh lại không quan tâm đến việc kêu gọi các nhà khảo cổ quốc tế tới thực hiện việc thám quật khảo cổ như các nước lân cận, chứ không hẳn vì không có. Vả lại, dù quê hương cây lúa ở Thái Lan, ở Nam Trường Giang, hay ở châu thổ sông Hồng, vấn đề quê hương của kỹ thuật trồng lúa nước ở quanh vùng Đông Nam Á cũng vẫn đúng, chẳng có gì phải đặt dấu hỏi, đặt nghi vấn cho một sự thực đã được khoa học và dư luận quốc tế chấp nhận như vậy. Theo thiển ý, lý giải như vậy mới không trái với kết quả nghiên cứu di truyền học, hải dương học, ngôn ngữ học như đã trình bày. Và như vậy tưởng mới là tiếp cận sự thực (17). Thứ năm, về câu phát biểu của chúng tôi rằng trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á. Thực ra, tổ tiên chúng ta với tổ tiên những người vùng Đông Nam Á, nếu xét tự nguồn gốc thì cũng chỉ là một. Tổ tiên chúng ta và tổ tiên những người thuộc các nước vùng Đông Nam Á chỉ coi như khác nhau trong thời gian sau này mà thôi. Nguyễn Quang Trọng đặt câu hỏi đúng "Thế nào là văn hóa (văn minh) cao nhất Đông Nam Á?" Bởi riêng từ văn minh cũng đã có nhiều nghĩa mà cho đến nay vẫn chưa có nghĩa nào được mọi người cùng chấp nhận, vậy làm sao có thể chấp nhận thế nào là văn minh cao nhất? Nương theo lý luận của tác giả, đại khái ta có thể nói văn minh Tây phương (Western civilization) là cao nhất. Chẳng thế mà suốt hơn bốn thế kỷ qua, nền văn minh này đã thực hiện được những tiến bộ khoa học rất ngoạn mục, chinh phục các phần đất khác trên thế giới, bắt dân các nơi đó làm nô lệ cho họ. Nhưng cũng chính nền văn minh này là nguyên nhân của những cuộc chiến triền miên (thế chiến I, thế chiến II) có thể đưa nhân loại đến chỗ diệt vong. Trong trường hợp này thì văn minh nhất lại đồng nghĩa với man rợ nhất. Nay, nếu lấy tiêu chuẩn của những nhà viết văn minh cổ sử mà xét, thì một xã hội được coi là văn minh khi có được những sáng chế đưa nhân loại thoát khỏi thời kỳ mông muội. Ba sáng chế quan trọng nhất trong tiêu chuẩn này là sự phát minh ra kỹ thuật thuần hóa lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị (18). Và theo cái chuẩn này thì những ngưới chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình, như các mục trên đã đề cập, được hiểu là những người phát xuất từ Đông Nam Á, tổ tiên của người Bách Việt, đáng gọi là có nền văn minh cao nhất thời ấy, nghĩa là thời mà nhân loại mới bước từ đời sống mông muội sang đời sống văn minh. Đó mới chỉ nói đến nền văn minh vật chất, chưa nói đến văn minh tinh thần. Khảo về văn minh tinh thần, về triết học tư tưởng của người cổ Việt, thì hiện tại, gần như chưa có ai nói tới một cách có hệ thống. Những tư tưởng Đông phương rất cao thâm như Nho, Lão, Phật . đều nói là hoặc của người Trung Hoa, hoặc của người Ần Độ, không có gì là của tổ tiên người Việt. Nhưng nếu đã khẳng định bằng di truyền học DNA, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo cổ học, dân tộc học, tập tục truyền thống học... rằng người Hòa Bình, tức người Bách Việt ở Đông Nam Á đã có sớm nhất và là nguồn gốc của văn minh Đông phương thì cũng phải khẳng định tư tưởng đầu tiên, nền văn minh tinh thần đầu tiên của nhân loại Đông phương cũng do người Hòa Bình này khởi động. Điều này đến nay không có văn bản nào nói như vậy vì từ khi con người sáng chế được ra chữ viết đủ để ghi chép lại thành sách, người thuộc Đại tộc Bách Việt đã mất độc lập về tay người Hoa Hán, vì vậy những văn minh văn hóa của người Bách Việt, nếu có, (và chắc phải có), đều đã trở thành văn minh Trung Hoa. Nằm trong khung "văn minh" đó, tư tưởng của người Cổ Việt cũng đã được mang nhãn hiệu Trung Hoa cả. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều thứ như di vật khảo cổ, văn minh truyền khẩu, tập tục truyền thống . nếu biết "đọc" chúng, biết khai thác thì chúng sẽ cho ta biết nền văn hóa, văn minh tinh thần đó gốc gác nó từ đâu, nội dung chân chính của nó như thế nào. Nay chỉ nói về hoa văn trên trống đồng Đông Sơn, nếu biết giải mã, ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, gần với văn minh hậu nguyên tử, văn minh lượng tử như điều Giáo sư F. Capra đã nói đến (19). Nhưng đó không phải là đối tượng của đề tài này. Nói như vậy chỉ để làm cơ sở để phát biểu rằng, trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán, quả người Hòa Bình, tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh rất cao. Còn việc nghi ngờ văn minh này không chắc là "cao nhất", bằng cớ là đã bị người Hoa Hán đánh thua vì họ có kỹ thuật quân sự dựa trên văn minh đồ sắt cao hơn văn minh đồng thau của tổ tiên ta thì lại là một vấn đề khác. Nó không hề phủ định đã có thời tổ tiên ta có nền văn minh cao nhất.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:34:27 GMT 9
III. Bây giờ, chúng tôi muốn phát biểu vài điều về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt. Phải nói ngay rằng đây là một vấn đề phức tạp, vì chúng ta vẫn còn thiếu thốn dữ kiện khoa học liên quan đến người Việt để phát biểu một cách khẳng định. Vì thế, người ta vẫn còn suy đoán, và có khi suy đoán thiếu cơ sở. Có thể nói hai giả thiết phổ thông liên quan đến vấn đề này: một là giả thiết [có lẽ chiếm đa số quần chúng] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa; và giả thiết hai [có lẽ phần thiểu số] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ Mã Lai (tức là kết luận của Bình Nguyên Lộc). Chúng tôi cho rằng cả hai giả thiết này đều cần phải xét lại, bởi một lý do đơn giản: hai giả thiết đó thiếu dữ kiện khoa học làm cơ sở, và chưa được phản nghiệm. Giả thiết về nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt phần lớn dựa vào các dữ kiện khảo cổ và ngôn ngữ. Những dữ kiện về đặc tính cơ thể và các chỉ số nhân trắc (như màu da, xương, sọ, khuôn mặt, v.v..) từng được dùng làm các đơn vị thông tin để nghiên cứu nguồn gốc dân tộc và sự tiến hóa của loài người. Nhưng các đặc tính này thay đổi theo thời gian, và chịu ảnh hưởng vào môi trường sinh sống. Chẳng hạn như chiều cao của con người trong vòng 200 năm qua đã tăng một cách đáng kể do những cải thiện về dinh dưỡng và môi trường sinh sống. Ngay cả cấu trúc xương cũng thay đổi theo thời gian và môi trường. Do đó các đặc tính nêu trên không phải là những thông tin lý tưởng cho việc nghiên cứu lịch sử di truyền của con người. Những dữ kiện về ngôn ngữ cũng có nhiều khiếm khuyết, vì mức độ tương đương về từ ngữ không thể nói lên một cách đầy đủ khuynh hướng di cư của các sắc dân. Ngay cả việc xác định mức độ tương đồng từ ngữ giữa các ngôn ngữ cũng là một vấn đề mang tính kỹ thuật mà các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý về phương pháp làm. Vả lại, sự tương đồng giữa các ngôn ngữ có thể là một hằng số mang tính văn hóa, chứ không hẳn do các cơ chế sinh học và di truyền. Nói tóm lại, những bằng chứng khảo cổ và ngôn ngữ không phải là những loại thông số đáng tin cậy để xác định nguồn gốc dân tộc. Trong quá khứ, giới khảo cổ học và nhân chủng học dựa vào các bằng chứng về khảo cổ, xương, hóa thạch, v.v. để phát triển lý thuyết, nhưng những đối tượng này hàm chứa nhiều hạn chế thông tin về tiến hóa, vì mối quan hệ phức tạp giữa môi trường và tiến hóa. Hậu quả của sự tập trung vào các đối tượng như thế trong một thời gian dài đã làm cho chúng ta xao lãng các dữ kiện cho chúng ta nhiều thông tinhơn: đó là gien (20). Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v... cho chúng ta những thông tin cực kỳ quí giá về sự tiến hóa của con người. Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kỳ quan trọng trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa các dân tộc. Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm nguồn gốc dân tộc đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy. Di truyền học là một cửa sổ để chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực kỳ khiêm tốn, nếu không muốn nói là không đáng kể. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta có lý do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt. Những bằng chứng này là: • Trong một nghiên cứu trên 103 người ở Hà Nội, các nhà nghiên cứu Việt - Pháp phân tích DNA trong hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh kết quả này với các sắc dân thuộc châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á. Sau khi ước tính khoảng cách di truyền (genetic distance) giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc di truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái và người Hoa. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương (21). Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ phần phương pháp nghiên cứu, chúng tôi cho rằng kết luận này rất có thể không đúng, vì : (a) nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền không ổn định; (b) ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủng loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc được. • Khoảng hai năm sau, các nhà nghiên cứu này lại tiến hành một nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà Nội, và cũng qua dùng kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) họ phân tích 6 "restriction enzymes", và ghi nhận khoảng cách di truyền (22) giữa người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người Việt và Ần Độ thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa giống người Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ần (23). Nghiên cứu nàycũng có những yếu điểm như nghiên cứu trình bày phần, tức là số lượng gien quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gien), và tác giả cũng không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di truyền, nên không thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt - Hoa gần hơn khoảng cách giữa Việt - Ần. Thực ra, sau khi tính toán lại, chúng tôi thấy hai khoảng cách di truyền (Việt - Hoa và Việt - Ần) không có sự khác biệt đáng kể (non-significant)! Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 gien trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á (24)! Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của Giáo sư Chu (14), người Hoa phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền khác với người Hoa phía Nam Trung Quốc. Do đó, phát hiện này quả rất khó giải thích. Càng khó giải thích hơn nữa khi phần lớn những người Việt trong nghiên cứu này là cư dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc. • Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger và đồng nghiệp (24) ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di truyền học gọi là Fvalue) trong người Việt cao nhất trong các sắc dân vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các dữ kiện này cho thấy "người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông" (nguyên văn : "The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNA with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians") (25). Thực ra, các dữ kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận như thế, bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên vài mẫu gien rất nhỏ. Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng tôi có thể phát biểu rằng trong hai gien mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là một sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á. • Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc Trường Đại học Texas (14)) phân tích 15 đến 30 mẫu "vi vệ tinh" DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai thuộc thổ dân Mỹ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng một phương pháp phân tích thống kê có tên là "phân tích phát sinh chủ?g loại" (Phylogenetic analysis)", một số kết quả đáng ghi nhận như sau: (i) hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu; (ii) tất cả các nhóm dân Đông Nam Á "tập hợp" thành một nhóm, và nhóm dân có đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mỹ châu, kế đến là thổ dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian định cư ở Mỹ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây); (iii) các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2, và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1 và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và (iv) các sắc dân miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1 gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia [6]. Từ những phát hiện trên, chúng ta có thể đặt ra một số mô hình để giải thích, nhưng mô hình thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu. Các dữ kiện liên quan đến răng, sọ [26-27] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: "Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á." • Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một chất liệu di truyền rất "nhạy" (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation [28]). Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mỹ - Trung Quốc phân tích DNA trong nhiễm sắc thể Y [29] trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3 nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mỹ châu, 2 từ Ấu châu, và 4 từ châu Đại dương). Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình thái (polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong các nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông Nam Á có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á. Dùng các phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các nhà nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu sang đến Đông Nam Á [30] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã di chuyển lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [29]. Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á [31]. Những dữ kiện di truyền học mà chúng tôi tóm lược trên đây tuy chưa hoàn toàn đầy đủ để chúng ta khẳng định nguồn gốc dân tộc Việt, nhưng đủ để chúng ta phát biểu rằng: xác suất mà người Việt có nguồn gốc [hay di dân] từ Trung Quốc là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là con số gần zêrô. Bây giờ chúng tôi muốn nhân cơ hội này để bàn thêm vài điều chung quanh vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam. Theo Nguyễn Quang Trọng, dân Đài Loan ở trên núi, ít bị Hán hóa, có thể coi như nhóm dân tiêu biểu cho người nói tiếng Nam Đảo vì họ còn giữ được gien nguyên thủy và còn sống theo văn hóa cổ. Mặt khác, những cư dân sống ở vùng Phúc Kiến, Kim Môn, Quảng Đông, Bắc Việt có thể cũng cùng một gốc với dân cổ Đài Loan này, và quê hương của họ có thể là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vì vậy, [tác giả viết] "tại sao không thể xem vùng thềm biển này, trước khi hồng thủy đến, là một trung tâm văn hóa lớn của dân nói tiếng Nam Đảo". Dữ kiện ông đưa ra để minh chứng cho thuyết này là chày đập vỏ cây cho mềm để làm khố che thân đã tìm được ở bờ biển Nam Trung Hoa từ Hồng Kong đến Bắc Việt. Về điểm này chúng tôi cũng đã từng đề nghị, ngoài vùng đất Sundaland, đồng bằng Nanhailand, châu thổ sông Hồng xưa, là trung tâm văn minh Đông Nam Á thời đó, cũng có thể là nguồn gốc của văn minh toàn cầu (32). Có điều chúng tôi không khẳng định đây là trung tâm văn hóa của dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesian) vì chúng tôi nghĩ, cũng như W. Solheim II, dân thời đó còn nói chung tiếng Austric chưa chia hai Nam Đảo và Nam Á. Về quá trình tiến triển dân tộc Việt, Tác giả Nguyễn Quang Trọng đưa ra vài đề nghị rất đáng bàn thêm, mà theo cách hiểu của chúng tôi, như sau : Bước 1: Người cổ thiên di từ Phi Châu đến Đông Nam Á, khi gặp biển Đông ngăn chặn, họ chia theo hai hướng : một lên phía Bắc đến sống ở miền Nam Trung Hoa, và càng ngày càng tiến về Bắc đến tận Mông Cổ; một đi về phía Nam đến thềm Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía Nam, đến tận Úc Châu. Tất cả đều là người chủng tộc Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to...) Bước 2: Lớp di dân lên phía Bắc Đông Á, đổi dần nhân dạng vì môi trường lạnh, gió, ít nắng. Khoảng 15.000 năm trước giống này lai với chủng Altaic thiên di từ Tây Á đến đổi thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc thẳng ...) Bước 3: Chủng Bắc Mongoloid này bành trướng về phía Nam lai với chủng Australoid vào khoảng giữa đất Trung Hoa (nay) để tạo thành chủng Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc gợn sóng ...) Theo tác giả, chủng lai Nam Mongoloid này chính là tổ tiên của người Cổ Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương. Bước 4: Xin trích nguyên văn của tác giả: "Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền Nam Á sống phía trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn hóa Hòa Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền Nam Đảo, sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục lài thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua đến đảo Hải Nam", và ông kết luận : "Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước ! Văn hóa Hạ Long và các văn hóa tiền Nam Đảo khác sau đó đã góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hóa và con người Việt Nam". Bước 5: Bắt đầu từ thời đá mới, dân nói tiếng Nam Á trong đất liền và dân nói tiếng Nam Đảo dọc bờ biển đều tăng nhanh nên cùng tràn về châu thổ các sông. Sự hợp chủng của hai sắc dân này có lẽ xẩy ra khoảng 4.000 năm cách ngày nay. Và tác giả đặt câu hỏi phải chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Ấu Cơ Nam Á từ vùng núi xuống, và đi đến kết luận : "Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt (phía Nam Trường Giang), và những Viêm Đế, Thần Nông của huyền thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt". Cũng theo tác giả: "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa". Bước 6: Cũng xin trích nguyên văn : "Như đã nói ở trên, cuộc sống chung này tương đối hòa bình vì các di tích khai quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân ?đột nhiên? biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ ?) hoặc đến lúc suy vi sau thời kỳ sung mãn". Và để kết luận, ông cho rằng người dân Việt đã lai nhiều suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc, nhưng văn hóa Việt thành hình từ văn hóa bản địa của những tộc nói tiếng tiền Nam Á trong lục địa và tiền Nam Đảo vùng thềm lục địa nên giữ được độc lập quốc gia trong khi toàn vùng Trường Giang đều bị Hán hóa. Trong những giai đoạn này, ba giai đoạn sau có nhiều điều khó hiểu cần bàn lại, nhiều chỗ hình như chưa được thống nhất, và về thời gian hình như có nhiều chỗ chồng chéo. Có điểm chúng tôi đồng ý (ba giai đoạn đầu), và cũng đã từng chủ trương như vậy, nhưng cũng có điểm chúng tôi không đồng ý. Nguyễn Quang Trọng giả thiết người Đông Nam Á đi ra hải đảo Thái Bình Dương hay lên phía Bắc đều thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to), rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng ở miền Bắc, họ biến đổi nhân dạng với chủng Altaic mà dần dần thành chủng Bắc Mongoloid (tóc thẳng, mắt hí, da vàng trắng). Chủng Bắc Mongoloid này khi bành trướng về phương Nam một lần nữa lại lai với chủng Australoid đã sống trước ở đó mà tác giả gọi là giữa đất Trung Hoa, để thành người Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc dợn sóng ...). Theo tác giả, đây là tổ tiên của người Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương. Điều này cũng tương đồng với một giả thiết mà các nhà nghiên cứu về nguồn gốc người Trung Hoa đã tranh cãi nhau về ba mô hình (33): • Mô hình 1: Giả thiết người Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống pha trộn với dân bản địa mà hình thành. • Mô hình 2: Ngược lại, giả thiết người Bắc Trung Hoa là hậu duệ của người phương Nam. • Mô hình 3: Dân cư ở cả hai miền tiến hóa và phát triển độc lập. Như đã thấy, Nguyễn Quang Trọng theo mô hình 1. Mô hình này có ưu điểm là nó có vẻ phù hợp với bản đồ ngôn ngữ ở Trung Quốc, đã một thời được nhiều nhà ngôn ngữ học công nhận. Chúng tôi sẽkhông đi vào chi tiết bởi nó rất phức tạp mà cũng không cần thiết. Nhưng qua phân tích DNA của nhóm Giáo sư Chu (mà chúng tôi đề cập trên đây), mô hình này không còn thích hợp nữa. Nói một cách khác, các dữ kiện di truyền học cho thấy tổ tiên của những người nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ không phải từ ngả Trung Á (14). Nghiên cứu của các nhà nhân chủng học uy tín khác Lugi Luca Cavallli-Sforza (Đại học Stanford), Li Yin (Đại học Stanford và nhiều học giả khác cũng nhất quán với mô hình này (34). Liên quan đến sự khác biệt về đặc tính cơ thể (người hải đảo da sậm, tóc quăn, trong khi người sống trong lục địa có da vàng, tóc đen, không quăn), chúng tôi thấy có vài điều cần thảo luận như sau: Thứ nhất, không có gì chứng minh được người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã lên phía Bắc đến tận Mông Cổ ngày nay. Nếu tại đất nay thuộc lãnh thổ Bắc phần Việt Nam, trong 70 xương sọ mà ta sưu tầm được cho đến ngày nay, 38 xương sọ thuộc thời Đồ Đá (cũng không xác định được niên đại rõ ràng), phần lớn do học giả Pháp tìm ra trước 1945 (29 sọ trên 38 cái) cho là thuộc chủng Australoid, Indonesian, Malanesian Ẫ và 32 sọ, đa số do học giả Việt tìm thuộc thời Đồng Sắt ngược lại, phần lớn là chủng Mongoloid vào những năm chưa có sự chứng minh ngược lại của di truyền học, đã một thời là nguyên nhân cho thuyết nguồn gốc người Việt tại đất liền là do cư dân hải đảo Thái Bình Dương di cư vào (35). Chúng ta không thấy bảng xương sọ tương tự như ở Trung Quốc. Những xương cốt thường được nói đến nhiều nhất và được coi là tổ tiên của người Trung Hoa là 3 bộ xương do J. Anderson tìm được ở Chu Khẩu Điếm (Chou-Kon-Tien). Thời đó, vì thiếu những phương tiện khoa học đo đạc chính xác nên có người đã cho xương này là tổ tiên của người Hoa có từ rất xa xưa! Sau này nhờ có phương tiện định tuổi bằng C14, Noel Bernard đã chứng minh được niên đại của xương đó chỉ là 16.922 năm trước CN (2k - 136-0; Bernard 1980) (36). Cũng có người chứng minh được đó chẳng phải là xương của một gia đình vì ở ba tầng lớp khác nhau trong hang (Weiderich, 1939), lại thuộc ba chủng khác nhau và chẳng liên hệ gì đến người Trung Hoa hiện nay cả (Wu, 1961) (27). Sở dĩ có hiện tượng đó vì phương pháp cổ điển để tìm chủng tộc và niên đại của các sọ thời trước chỉ là phương pháp so sánh (so cái chưa biết với mẫu đã biết gốc tích). Trong trường hợp đó, giá trị của các kết luận rất tương đối. Xương cốt cổ đào được nhiều nhất ở Yang-Shao là xương thuộc chủng Nam Mongoloid, giống với người Hoa hiện đại mà cũng giống cả với người Việt và các chủng Đông Nam Á khác. Vậy lấy gì để khẳng định người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã di cư đến tận cực Bắc Trung Hoa ngày nay ? Thứ hai, giả thiết người Australoid đến Bắc Đông Á, rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng nên dần dần thay đổi nhân dạng là cho con người thay đổi hình dạng chỉ do yếu tố môi sinh ngoại tại. Thực sự, muốn có sự thay đổi hình dạng phải có sự đột biến di truyền (28). Đó là một sự kiện sinh học xẩy ra trong tế bào, do sự tương tác giữa môi trường và sinh học. Giả thiết rằng người Australoid lai với người Altaic (các dân tiêu biểu là Buryat, Yakut, Uyghur, Mãn Châu, Hán, Đại Hàn, Nhật) thì lại càng khó hiểu vì người Altaic, theo di truyền học đã chứng minh cũng do người Đông Nam Á di lên chứ không phải từ Trung Á đi lại như trên vừa trình bầy. Có thể họ lai với một sắc dân đến muộn hơn từ Trung Á và Ấu Châu, như sẽ nói rõ hơn ở sau, nhưng đó là chuyện xẩy ra về sau khi băng hà lần cuối cùng đã tan. Thứ ba, chủng Bắc Mongoloid vì nhu cầu bành trướng, tràn xuống phương Nam, gặp chủng Australoid đã cư ngụ sẵn nơi đây, lai giống mà thành người Nam Mongoloid. Đây là tổ tiên của chủng Bách Việt. Ý kiến này rất mới, chỉ tiếc tác giả đã không đưa dữ kiện chứng minh để có thể kiểm nghiệm lại một cách khoa học. Mặt khác, những dữ kiện khoa học có được đến ngày hôm nay hình như không hỗ trợ cho giả thiết của tác giả. Về phương diện di truyền học, phân tích di truyền của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp, cộng với nhiều phân tích DNA gần đây như trên vừa trình bầy, đã cho thấy ngược lại phát biểu của Nguyễn Quang Trọng rằng người Nam Mongoloid đã từ Đông Nam Á, phía Nam Trung Hoa, bành trướng lên phía Bắc. Nói rõ hơn, người Hoa Bắc là hậu duệ của người Hoa Nam. Cây hệ di truyền từ cuộc nghiên cứu của Giáo sư Chu cũng cho thấy đã không có sự hợp chủng giữa dân Hoa Nam (Nam Mongoloid) với dân Altaic. Chỉ có sự hợp chủng giữa dân Altaic với các dân cư đến muộn hơn từ Trung Á và Ấu Châu, sau thời băng hà cuối cùng (15.000 trở lại đây). Về phương diện khảo cổ học, hầu hết xương cốt tìm thấy được ở văn hóa Ngưỡng Thiều đều thuộc chủng Nam Mongoloid, giống người Trung Hoa hiện đại, cũng giống với những người hiện đại tại các quốc gia Đông Nam Á khác, đặc biệt ở Việt Nam. Không thấy dấu hiệu hợp chủng có tính toàn diện giữa Bắc Mongoloid và Australoid như Nguyễn Quang Trọng phát biểu. Nói tóm lại, qua các dữ kiện di truyền học gần đây, tuy còn hạn chế (vì những nghiên cứu về di truyền học trong vùng Đông Nam Á, nhất là với người Việt, còn ít), nhưng chúng tôi thấy có thể phát biểu rằng người hắc chủng từ Phi Châu di cư đến Đông Nam Á lục địa, khi tiếp cận biển Đông, thì một phần đi thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và Úc Châu, lúc đó vẫn còn là hắc chủng; phần khác trụ lại tại Đông Nam Á, ở địa điểm đâu đó, có thể là lưu vực con sông nay mang tên sông Hồng, vì may đã hội đủ cơ duyên nên có đột biến di truyền, và do đó, từ giống hắc chủng (da ngăm, tóc xoăn) đã biến đổi thành giống hoàng chủng (da vàng, tóc đen, sợi thẳng). Từ đó, họ mới bắt đầu di chuyển lên hướng Bắc, nay là đất Trung Hoa. Giả thiết của chúng tôi dựa trên ba cơ sở như sau : Một, mực nước biển lên xuống. Trước thập niên 60 thế kỷ trước, người ta chỉ biết có độ 5 thời kỳ bằng hà (nước biển xuống), gián băng (nước biển tăng), nhưng ngày người ta đã biết được có đến 20 kỳ trong khoảng 2 triệu năm qua. Riêng trong hậu kỳ Pleistocène khoảng từ 125.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay, nghĩa là khi loài người Hiện Đại (Homo Sapiens Sapiens) đã xuất hiện thì mực nước biển ở Đông Nam Á cũng đã 5 lần lên xuống. Những lần xuống đó là vào khoảng 115.000 năm, 90.000 năm, 55.000 năm, 35.000 năm và lần cuối cùng 18.000 năm cách ngày nay (37). Ở 90.000 năm trước khi nước biển xuống thì người Hiện Đại chưa đến vùng Đông Nam Á. Họ đến khoảng 60.000 năm trước đây, vậy khi nước biển xuống khoảng 55.000 năm trước, chính là lúc người Hiện Đại Đông Nam Á đất liền bắt đầu thiên di ra các hải đảo Nam Thái Bình Dương, vì lúc đó nước biển cạn dần, đã nổi lên những triền đất nối liền với đại lục. Vậy gần như người Hiện Đại từ Đông Phi Châu thiên di đến Đông Nam Á đã có dịp tiến thẳng ra hải đảo vì khí hậu thích hợp và vì thuận đường lui tới. Lúc đó họ vẫn còn thuộc dân hắc chủng. Khảo cổ học đã có dấu tích của người Hiện Đại ở Úc Châu, khoảng 50.000 năm trước đây, ở New Guinéa 40.000 năm . Hai, điều kiện môi trường và khí hậu. Người Hiện Đại Đông Phi tiến được ra hải đảo Thái Bình Dương nhưng lại chưa thể tiến ngay lên phía Bắc vì lúc đó miền Bắc đang trong thời băng hà. Không khí chỉ ấm dần từ 40.000 năm trước cho đến 21.000 năm trước lại bắt đầu thời kỳ băng hà cuối cùng thường gọi là băng hà Wurm. Sau lần băng hà cuối cùng này, không khí ấm lại dần cho đến nay khoảng từ 15.000 năm trước (34). Chính trong thời kỳ ấm lại giữa hai khoảng băng hà (- 400.000 đến - 21.000 năm) người Hiện Đại đã tiến lên phía Bắc là đất Trung Hoa ngày nay. Khảo cổ học cho thấy dấu tích của họ ở đại lục khoảng 35.000 năm trước, ở Đài Loan khoảng - 30.000, họ vượt eo biển Beringa khoảng - 30.000 (lúc đó nước biển xuống như trước lần biển xuống cuối cùng nên eo biển đã thành một giải đất liền). Ta thấy dấu tích người Hiện Đại ở bờ biển Tây Mỹ Châu khoảng - 30.000. Họ là tổ tiên của văn hóa Maya, còn dấu vết ở Nam Mỹ ngày nay (38). Tất cả những điều trên đã được khoa di truyền hiện đại ngày nay xác định là đúng : người da đỏ ở Mỹ Châu, người thổ dân ở Úc Châu có yếu tố di truyền giống với người Đông Nam Á, và Đông Á (đều thuộc chủng Nam Mongoloid) và khác với người Bắc Á (thuộc Bắc Mongoloid). Ba, hội đủ tính đột biến di truyền. Về điểm này, còn cần thêm nhiều phân tích, nhiều chứng cớ, mới có thể trở thành một giả thuyết có tính khoa học. Tuy nhiên, khảo cổ học đã chứng minh được những người thiên di lên phía Bắc, cả những người sang Mỹ Châu, không còn hay còn rất ít yếu tố hắc chủng. Không thể kết luận họ lên phía Bắc vì lạnh, vì ánh sáng mặt trời hay nhiều gió mà biến đổi đi như vậy (như từ da đen, tóc xoăn thành da vàng hay trắng, tóc thẳng, mũi nhọn), dù không ai phủ nhận môi trường bên ngoài có làm thay đổi hình dạng con người. Nhưng để thay đổi cả hình dáng, màu da, râu tóc một cách triệt để như da đang đen trở thành trắng hay vàng, tóc đang quăn trở thành thẳng, mắt đang nâu trở thành xanh . thì phải có sự thay đổi nhiễm sắc thể DNA trong gien mà giới di truyền học gọi là có sự đột biến di truyền. Sinh học phân tử cho chúng ta biết rằng đột biến di truyền là một quá trình chậm, do nhiều yếu tố (trong đó có yếu tố môi trường, như tia sáng mặt trời, và tiến hóa) gây nên. Đột biến DNA dẫn đến nhiều thay đổi (và bệnh tật), trong đó có cả những thay đổi về hình dáng cơ thể như tóc, tai, da, mắt.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:35:41 GMT 9
Tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng vào thời kỳ Đồ Đá (không minh định đá cũ, đá giữa hay đá mới) dân Cổ Việt lúc ấy thuộc chủng Australoid nói tiếng Austric vì cách sinh sống khác nhau, dần dần phân chia thành hai nhóm: nhóm nói tiếng Nam Á (Austro-Asiatic) sống trên đất liền và nhóm nói tiếng Nam Đảo (Austranesia) sống ở vùng đồng bằng ven biển. Bắt đầu thời đá mới, trước là vì nhu cầu dân số gia tăng, sau vì biển tiến, hai tộc đã phân chia, lại cùng tìm về đồng bằng các sông nay thuộc Bắc Việt, sống đan xen với nhau và kết hợp lại với nhau. Tác giả đã ví sự kết hợp này, mà ông gọi là kết hợp yếu tố văn hóa Biển - Lục Địa, với chuyện Ấu Cơ kết hợp với Lạc Long Quân, một cuộc kết hợp êm thắm vì là kết hợp giữa hai tộc người vốn cùng một chủng tộc và một ngôn ngữ. Chuyện đó xẩy ra vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và ông kết luận "Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn (850 trước CN đến 280 sau CN), tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa". Về điểm này, chúng tôi xin được nhắc lại quan điểm của chúng tôi đã phát biểu trước đây. Thứ nhất, vào thời điểm trước khi có nạn Đại hồng thủy cuối cùng (từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng mỗi năm 1cm, đến 8.000 năm trước nước biển đột ngột dâng cao nhận chìm toàn bộ đồng bằng Nanhailand đến tận Việt Trì ngày nay), dân cư đồng bằng Nanhailand còn thống nhất, nói tiếng Austric chứ chưa chia làm hai Austronesian và Austro-Asiatic. Thứ hai, vào lúc này (từ 18.000 năm đến khoảng 50.000 năm trước) chắc đã có sự đột biến di truyền, và người nói tiếng Austric ấy chắc đã là da vàng, tóc thẳng mà khảo cổ học gọi là Nam Mongoloid, chứ không còn da đen, tóc quăn, mũi rộng thuộc Hắc chủng, mà khảo cổ học gọi là Australoid. Sự đột biến di truyền xẩy ra vào thời điểm nào thì còn cần có thêm những cuộc sưu khảo, nhất là những thí nghiệm về di truyền học DNA mới có thể khẳng định được. Thứ ba, khi nước biển dâng, chia Đông Nam Á ra thành Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á đất liền thì lúc đó người nói tiếng Austric cũng bắt đầu chia hai : phần ở hải đảo và ven biển nói tiếng Austronesian và phần ở sâu trong lục địa nói tiếng Austro-Asiatic. Thứ tư, chỉ khi nước biển bắt đầu rút (khoảng 5.500 năm cách ngày nay), trả dần lại đồng bằng sông Hồng mới thì người đã di tản đi nơi khác vì nạn Đại hồng thủy nay mới đổ về tái htiết đồng bằng này, và đó cũng là thời kỳ dựng nước Văn Lang. Lạc Long Quân Nam Đảo và Ấu Cơ Nam Á kết hợp với nhau vào lúc này. Và đây là điểm khác biệt giữa chúng tôi với tác giả. Lạc Long Quân gặp Ấu Cơ khoảng từ 5.500 năm trước, từ lúc nước biển bắt đầu lui chứ không phải vào 4.000 năm trước đây khi biển tiến. Nhưng tại sao Lạc Long Quân và Ấu Cơ lại chia lìa, người đem 50 con lên núi, người đem 50 con xuống biển? Sự chia lìa đó xẩy ra vào lúc nào? Truyền thuyết chỉ nhắc lại lời Lạc Long Quân: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, ở lâu với nhau không được, nay phải chia ly". Dù có nói thêm một câu: "Hữu sự bảo cho nhau biết, đừng quên". Cái thông điệp mà truyền thuyết đómuốn gửi đi, qua câu nói của Lạc Long Quân, vẫn còn là một bí ẩn. Nói tóm lại, về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề với giả thiết Bắc xuống Nam, và nghiêm túc thử nghiệm giả thiết Nam lên Bắc. Thực ra, chúng ta cũng chẳng còn quyền lựa chọn nào khác vì khoa học, nhất là khoa di truyền học, đã lựa chọn dùm chúng ta: Khởi thủy, người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi đến Đông Nam Á; rồi từ đó họ tiến lên phía Bắc. Sau vì có sự phối hợp với chủng từ Tây Bắc xuống, họ hợp thành cái cốt lõi của dân sống ở Trung Quốc ngày nay. Đó là giai đoạn Nam lên Bắc. Giai đoạn này khoảng từ sau 40.000 năm cách ngày nay cho đến 3.000 năm cách ngày nay thì Trung Hoa bắt đầu có loạn Xuân Thu Chiến Quốc. Đến khi nhà Tần thống nhất lục quốc, nhất là từ khi nhà Hán cai trị Trung nguyên, những dân thuộc Đại tộc Bách Việt ở các nước lưu vực sông Dương Tử xuôi về Nam, không chịu sự đồng hóa của người Hoa Hán đã di dần về phương Nam. Một số những người thuộc nhóm này đã sát nhập với dân Lạc Việt. Giai đoạn này kéo dài cũng cả ngàn năm, nhưng những thiên di từ đời Tần đến đời Đông Hán (khoảng 300 năm trước CN đến 100 năm sau CN) có lẽ là quan trọng hơn cả. Chúng tôi tin rằng đó là một phần của kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Cung Ðình Thanh Nguyễn văn Tuấn Nguyễn Ðức Hiệp Tài liệu tham khảo và chú thích: 1. Nguyễn Khắc Ngữ, "Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam", Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Montréal: 1985; Bình Nguyên Lộc, "Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam", Nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn: 1971. 2. Gần đây mới thấy có "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" của Trần Ngọc Thêm - Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2001. 3. Đọc "Một số vấn đề lý luận về Lịch sử Tư tưởng Việt Nam", sách lưu hành nội bộ, Hà Nội: 1984 - Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học xuất bản. 4. Phạm Huy Thông, "Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984. 5. W. G. Solheim II, "Thắp sáng lại quá khứ bị lãng quên", Tạp chí National Geographic số tháng 3/1971, bản dịch của Hoài Văn Tử & Vĩnh Như, trong Tập San TƯ TƯỞNG số 2, tháng 4/1999. 6. W. G. Solheim II - Bài đã dẫn [5]. 7. Ngô Thế Phong ,"Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á", Khảo cổ học, số 1 & 2/1984. Chữ Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (Techno-complex) là đề nghị của C. F. Gorman, học trò của W. G. Solheim II. Xem thêm "The Hoabinhnian and after : subsistence pattern in S.A. during the Latest Pleistocene and Early Recent periods" - Word Archaeology 2: 300-320, 171; "Hoabinhnian: A pebble-teal complex with Early Plant association in S.A.", Science, CL XIII No.3868, 14 Feb 1969. 8. Higham C, "The Bronze Age of Southeast Asia", Cambridge University Press, 1966. 9. R. H. Geldern, "Research on Southeast Asia : Problems and Suggestions", American Anthropologist, No.4, New York, 1996. 10. David N. Keightly (biên tập), "The Origins of Chinese Civilization", University of California Press, Berkeley, Los Angeles: 1983. 11. Li Chi, "The Beginnings of Chinese Civilization", Seattle: 1957. 12. I. R. Solin Khanov, 1979 : 37. Theo Trịnh Sinh, "Những hiện vật đồng đỏ trong văn hóa Đông Sơn", Khảo cổ học số 1/1992; "Nhận dạng trống giả cổ", Khảo cổ học, số 4/1997. Đọc thêm "The Cradle of the East" của Ping-Ting- Ho, phần Appendix I", "Excavation at Non Nok Tha, Northeastern Thailand, 1968", Interim Report, Asia Perapective XIII (1970), p.139; "Early Bronze in Northern Thailand", 1968 của W.G. Solheim II.; "Further Evidence to Support the Hypothesis of Indigenous Origins of Metallurgy in Ancient China" do Noel Barnard đọc trong Hội nghị Berkeley 1978 và in trong The Origins of Chinese Civilization - University of California Press, 1980. 13. "It will use the big rivers as language conduct, but the direction of dipersal is the exact reverse of the Himalaya centrifugal radiation hypothesis" - "Linguistic Diversity in Space and Time" - Johana Nicols, trích theo Eden in the East, trang 138-139. 14. J. Y. Chu và đồng nghiệp, "Genetic relationship of populations in China", Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768, 1998. 15. Cung Đình Thanh, "Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử", Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2/2001. 16. Đọc "The Origins and Early Cultures of The Cereal Grains and Food Legumes" của Te-Tzu Chang, Chương 3 trong "The Origins of Chinese Civilization" - sđd [10]. 17. Cung Đình Thanh, "Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam" và bài "Sự thuần hóa cây lúa nước và ảnh hưởng của nó đối với tư duy người Việt Cổ", Tập San TƯ TƯỞNG số 3, tháng 7/1999. 18. Trích Eden in the East (trang 70-71) của Stephen Oppenheimer: "The prime "home" the most likely of rice - where climatically, the least manipulation is required to grow it - are in tropical Indo-China down to the Malay border Burma Bangladesh and the extreme South coast of China" - Peter Bellwood - "The Prehistory of Southeast Asia and Oceania" - Collins, Auckland, 1978; "Rice, though, was clearly pivotal t the Neolithic stay-athome mainland Indo-China from a very early stage, that is, if the Sakai cave findings are confirmed we now have a strange new image : Instead of the sinocentric model with the Chinese inventing rice cultivation, we have Austro- Asiatic speaking "Southern Barbarians" from Indo-China teaching the knowhow about rice to the Chinese". 19. Fritjof Capra, "The Tao of Physics", Fontana Paperbacks, London, 1983. 20. Con người được cấu tạo bằng nhiều tỷ tế bào. Tất cả các tế bào đều có cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA. DNA gồm có bốn mẫu tự (yếu tố hóa học): A (adeline), C (cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều gien tạo thành một bộ di truyền hay nhiễm sắc thể, còn gọi là chromosome. Con người có 23 nhiễm sắc thể. 21. A. Vu-Trieu và đồng nghiệp, "HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh population in Ha Noi", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356. 22. Khoảng cách di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số di truyền học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này có giá trị tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di truyền), và giá trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau). 23. R. Ivanova và đồng nghiệp, "Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population", Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422. 24. W. Kim và đồng nghiệp, "Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its potential for inferring the peopling of Korea", Tập san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83. 25. S. W. Ballinger và đồng nghiệp, "Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration," Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45. 26. C. G. Turner, "Major features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions about East Asian microevolution, population history, and late Pleistocene relationships with Australian aboriginals", Tập san American Journal of Physical Anthropology, năm 1990; bộ 82, trang 295-317. 27. T. Hanihara, "Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed from craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII", American Journal of Physical Anthropology, năm 1993, bộ 91, trang 173-87. 28. Đột biến (mutation) là một sự kiện sinh học xảy ra ở trong tế bào. Gien được cấu trúc bằng một chuỗi DNA gồm 4 mẫu tự A, G, C, T. Khi một chuỗi DNA bị thay đổi, tức đột biến (chẳng hạn như từ GCAATGGCCC thành GCAACGGCCC) thì các đặc tính sinh học liên quan đến gien, chẳng hạn như mật độ xương, có thể bị thay đổi. 29. Bing Su và đồng nghiệp, "Y-chromosome evidence for a northward mi-gration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age," American Journal of Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724. 30. Yuehai Ke và đồng nghiệp, "African origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y chromosomes," Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153. 31. Bing Su và đồng nghiệp, "Polynesian origins: insights from the Y chromosome," Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228. 32. Xin đọc bài "Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang", Tập San TƯ TƯỞNG số 13, tháng 4/2001, trg 7. 33. Alberto Piazza, "Human evolution: towards a genetic history of China", Nature, Vol. 395, No. 6703, 1998. 34. Li Yin và đồng nghiệp, "Distribution of halstypes from a chromosome 21 region distinguishes multiple prehistoric human migrations", Proc. Natl. Acad. Sci. USA, Vol. 96, pp. 3796-3800, 1999. 35. Kwang-Chih-Chang, "The Archaeology of Ancient China", New Haven, Conn: 1968. 36. Barnard Noel, "Radiocarbon Dates and Their Significance in the Chinese Archaeological Scene: A list of 420 Entries from Chinese", Sources Published up to Close of 1979, Canberra. 37. Hà Văn Tấn dẫn theo Chapell (1987 - 83), "Năm lần nước biển lên xuống ở Đông Nam Á thời hậu kỳ Pleistocène", Khảo cổ học, số 1/1992; và "Sự biến chuyển từ Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á" cũng cùng số. Cũng có thể xem thêm Tập San TƯ TƯỞNG các số 2, 3, 4, 7, 12, 13, 18. 38. Dẫn theo "The Cambridge Encyclopedia of Human Revolution", Cambridge University Press.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:19:45 GMT 9
CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM TRÊN VÙNG ĐẤT NAM BỘ Nam VietNam GS.TSKH Vũ Minh Giang Từ lâu Nam Bộ đã là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng, phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc ta, bài viết này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Mặc dù những vướng mắc về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của Campuchia. Lập luận chủ yếu (mà không chứng minh) của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của vung hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer[1]. Trong một hội thảo về Bảo tồn di sản văn hoá tổ chức năm 1993 tại thành phố Nara (Nhật Bản), báo cáo chính thức của Campuchia do ông Vann Molivann, Bộ trưởng Quốc vụ khanh trình bày trước hội nghị cũng xếp văn minh Phù Nam vào nhóm “dạng thức đặc biệt của nhóm Khmer”[2]. Để giải quyết thoả đáng vấn đề này không thể không trở lại xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này. Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam. 1. Vấn đề nước Phù Nam Căn cứ vào những ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía nam của Lâm Ấp (Champa) nghĩa là tương đương với đất Nam Bộ ngày nay[3]. Cũng dựa vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định rằng nước Phù Nam xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên và biến mất vào khoảng thế kỷ thứ VII [4]. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc khai quật có ý nghiã lịch sử ở khu vực gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất hiện khái niệm văn hoá Ốc Eo và một cách tự nhiên các nhà khoa học đã dễ dàng đi tới nhận định rằng vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Ốc Eo. Hay nói cách khác, hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu đồng nhất những di vật thuộc văn hoá Ốc Eo là di tích văn hoá vật thể của nước Phù Nam. Vấn đề này đã được khắng định trong nhiều tác phẩm và hội thảo khoa học, đặc biệt là hội thảo về Văn hoá Ốc Eo - Phù Nam do Bộ KH-CN tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2004, nhân kỷ niệm 60 năm sự kiện phát hiện văn hoá ốc Eo. Các học giả cũng đã khẳng định Ốc Eo là một nền văn hoá có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí và trong thời kỳ cường thịnh nhất, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn bao gồm toàn bộ phần phía nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước Campuchia, một phần nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malaca, nhưng trung tâm vẫn là vùng đất Nam Bộ. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định chủ nhân của văn hoá ốc Eo. Trước đây, người ta thường nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hoá này là tổ tiên của người Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Ốc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam[5]. Về phong tục tập quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết rằng tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần giống với Lâm ấp (tức Champa). Về mặt lịch sử, các tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp (quốc gia của người Khmer). Sử ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía tây nam Lâm ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam [6]. Sử ký nhà Đường cũng chép: “Trong nước [Phù Nam] bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền nam, trú ở thị trấn Na Phất Na”[7]. Những sự kiện được chép trên đây diễn ra vào đầu thế kỷ VII. Căn cứ vào sự kiện 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường lần cuối cùng, các học giả cho rằng đó có thể coi đó là năm sớm nhất nước Phù Nam bị tiêu diệt[8]. Như vậy Chân Lạp là một quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông nghiệp là nghề sống chính. Còn Phù Nam là một quốc gia ven biển có truyền thống hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy. Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc chiến tranh. 2. Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân Lạp Sau khi chiếm được Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thuỷ Chân Lạp[9]. Việc cai quản vùng lãnh thổ mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Vào nửa sau thế kỉ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm 802 mới kết thúc. Tuy nhiên người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Trong khi đó qua các di tích khảo cổ học, dấu tích của văn hoá Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai - Gia Định hết sức mờ nhạt[10]. Do chiến tranh và phải tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo Chu Đạt Quan, vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một vùng đất hoang vu với những “bụi rậm của khu rừng thấp... tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm…”[11]. Bắt đầu từ thế kỷ XIV Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Thái từ phía tây, đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng. 3. Công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ Từ thế kỉ XVI, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống. Năm 1620 vua Chân Lạp Chey chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp, việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước, được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong. Năm 1623 chúa Nguyễn chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này[12] . Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn. Sau cái chết của Chey Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ. Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa - Đồng Nai. Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới buôn bán. Trên cơ sở những đơn vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình. Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm (sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757 khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành. Từ quá trình lịch sử trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên. Quá trình thụ đắc vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:20:38 GMT 9
4. Thực thi và bảo vệ chủ quyền Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của cộng đồng cư dân, các chính quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII để thực thi chủ quyền, các chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế. Phủ Gia Định thành lập năm 1698 gồm hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) quản lý hơn 4 vạn hộ. Sau năm 1774 vùng đất từ nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau được chia làm 12 dinh, trong đó vùng đất Nam Bộ chia thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện toàn. Triều Nguyễn thành lập vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn đã hoàn thiện hệ thống hành chính và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập sổ địa bạ toàn bộ Lục tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự, triều đình khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, mở mang phát triển các dinh điền, đồn điền, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển giao thông thuỷ bộ. Năm 1817 vua Gia Long cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng giao cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70km. Ngay từ khi mới khẳng định quyền quản lý, các chính quyền người Việt đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ của quân Xiêm vào các năm 1715,1771... Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút vang dội của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm 1785. Sang thế kỷ XIX, các Vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống các trường luỹ và đồn bảo trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ. Khi thực dân Pháp tấn công xâm lược, triều Nguyễn đã tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều đình tỏ rõ sự bất lực thì nhân dân Việt Nam đã không tiệc máu xương liên tục đứng lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của mình. Thắng lợi vẻ vang năm 1975 là đỉnh cao của quá trình chiến đấu hy sinh bền bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó. 5. Cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính thức ghi nhận trong văn bản các Hiệp ước quốc tế. Tháng 12 năm 1845 ba nước An Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cămpuchia) đã ký một Hiệp ước, trong đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, trriều Nguyễn và Xiêm lại ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng tham gia[13]. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt Nam, trong đó có cả Cămphuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam. Pháp tấn công Nam Bộ rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Cămpuchia không có bất cứ một phản ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này. Sau khi lập ra Liên bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia theo luật của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các chuyên gia Pháp và Cămpuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Cămpuchia đã ký một loạt các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn toàn thuộc về Việt Nam. Trước những thắng lợi liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng 6 năm1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 - 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp. Giải thích những thắc mắc của vương quốc Cămpuchia về quyết định này, ngày 8 tháng 6 năm 1949 Chính phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ: “Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Cămpuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thoả thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”. Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: “thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới ” và “Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến” [14]. Vậy là đến năm 1949, vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử và luật pháp của văn bản này với vương quốc Cămpuchia. Từ đó về sau chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định định có giá trị pháp lý quốc tế như Hiệp định Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận. Như vậy, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không chỉ được khẳng định bởi tính tính chính đáng trong quá trình thụ đắc lãnh thổ cũng như công lao của Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng lãnh thổ đó suốt từ thế kỷ XVII đến nay mà còn phù hợp với nguyên tắc uti possidetis (tôn trọng nguyên trạng), phù hợp thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành. Kết luận Vùng đất Nam Bộ vốn là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thé kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay). Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không đựơc cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt đã nhành chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến (người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Trong suốt hơn ba thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì thế mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng. [1] Bộ ngoại giao Campuchia: Sách đen. Phnom Penh, 1978 [2] Vann Molivann: Plan d’ urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des Sites d’Ankor, trong tập “Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries”, Nara 1993, tr. 45. [3] Lịch Đạo Nguyên: Thủy Kinh chú. [4] Xem Lê Hương: Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn 1974. [5] ý kiến của các chuyên gia Ramesh, Raman (Ấn Độ) và N. Karashima (Nhật Bản). [6] Tùy thư. [7] Tân Đường thư. [8] Lê Hương, sđd, tr. 93. [9] Mã Đoan Lâm: Văn Hiến thông khảo [10] Võ Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ ốc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985. [11] Chu Đạt Quan: Chân Lạp phong thổ kí (bản chữ Hán, mục Sơn xuyên) [12] A. Dauphin Meunier: Le Cambodge, Paris 1965, tr.56. [13] Raoul Marc Jennar, Les Frontières du Cambodge contemporain. INALCO, Paris 1998, tr. 89 [14] Dẫn theo Raoul Marc Jennar, sđd, tr. 97.
Sách dẫn 1. Bộ ngoại giao Campuchia: Sách đen.Phnom Penh, 1978 2. Christopho Borri: Xứ Đàng trong năm 1621, Hà Nội, 1998. 3. Cœdès G.: Deux inscriptions sanskrites du Fou-nan, BEFEO vol. XXXI, 1931. 4. Dauphin Meunier A.: Le Cambodge, Paris, 1965. 5. Lê Hương: Sử liệu Phù Nam, Sài Gòn, 1974 6. Hà Văn Tấn: Phù Nam và Óc Eo: ở đâu? Khi nào? và Ai? // Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996. 7. Vũ Minh Giang: Quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ phía nam của Việt Nam // Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biên giới Tây Nam, ĐHQG HN, 1996. 8. Malleret L.: L’Archeologie du Dellta du Mékong, BEFEO vol XL-IXI, Paris 1959 -1963. 9. Nguyễn Văn Hầu: Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long, chặng cuối cùng của cuộc Nam tiến, Sử Địa, 1970 số 19 - 20. 10. Raoul Marc Jennar: Les Frontières du Cambodge contemporain. INALCO, Paris 1998. 11.Vann Molivann: Plan d’urgence pour la réhabilitation des ressources culturelles, humaines et economiques des Sites d’Angkor // Conservation of Cultural Heritage and International Assistance in Asian Countries, Nara 1993. 12. Võ Sỹ Khải: Nghiên cứu văn hoá khảo cổ Óc Eo: mười năm nhìn lại, Khảo cổ học, số 4/1985.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 19, 2010 9:57:45 GMT 9
“Ðại Nam Thực Lục Chính Biên”Friday, February 27, 2004 VIỆT NAM 27-02.- Trong di sản thư tịch cha ông ta để lại, sách “Ðại Nam thực lục” là bộ sử lớn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên, chép việc triều Nguyễn qua chín đời chúa Nguyễn, và chín đời vua Nguyễn (từ Gia Long đến Ðồng Khánh) trong khoảng 1558 đến 1888. Theo phó giáo sư, tiến sĩ Trần Ðức Cường, Viện trưởng Sử học Việt Nam: “Trong kho sách sử triều Nguyễn viết bằng chữ Hán, Ðại Nam thực lục chính biên là bộ sử quan trọng, hiện vẫn còn được lưu giữ và bảo quản cẩn thận tại Thư viện Viện Sử học Việt Nam, Viện nghiên cứu Hán-Nôm. Bộ sách này được biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành (1821-1909)”. Cuối năm 2003, Hội Việt Nam - Những ký ức gửi tặng Viện Sử học bộ tiếp theo Ðại Nam thực lục chính biên này, được chụp bằng máy chụp hình kỹ thuật số, cùng với một bộ sử khác cũng không có ở trong nước, là bộ Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ tục biên hậu thứ. Năm 1962, Viện Sử học Việt Nam công bố tập đầu tiên bản dịch bộ Ðại Nam thực lục, do Nhà xuất bản Sử học ấn hành, và tới năm 1978, với sự hợp tác của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, đã in xong 38 tập, hoàn thành việc công bố toàn bộ văn bản Ðại Nam thực lục (tiền biên, chính biên) mà Việt Nam đang có. Năm 2001, Viện Sử học cùng Nhà xuất bản Giáo dục hợp tác tái bản bộ Ðại Nam thực lục, 10 tập (khổ 16 x 24). Tập I đã phát hành năm 2002. Theo kế hoạch, trong năm 2004 sẽ in và phát hành các tập II, III và IV. Thông qua Hội Việt Nam - Những ký ức (Vietnam-Mémoires) của cộng hòa Pháp, Viện Sử học Việt Nam được biết tại Thư viện Trường Viễn Ðông bác cổ (Paris) còn lưu giữ một bộ sách chữ Hán chép tay, viết tiếp Ðại Nam thực lục chính biên. Ðây là một thông tin mới mẻ, bất ngờ, thú vị, bởi vì sách này không có ở Việt Nam và cũng chưa thấy tài liệu nào trong nước nhắc tới. Văn bản ghi chép tiếp theo của Ðại Nam thực lục chính biên mà Viện Sử học đã nhận được từ ông Roger Ngô Thiết Hùng gửi tặng, chia làm hai phần là Ðại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên và Ðại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ. Ðệ lục kỷ phụ biên, nghĩa là biên chép phụ vào kỷ thứ sáu, kỷ chép về đời Ðồng Khánh, là phần viết về hai đời vua Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916). Phần Ðệ thất kỷ, viết về đời Khải Ðịnh (1916-1925). Thành Thái, Duy Tân là hai ông vua không có miếu hiệu, vì vào đời Khải Ðịnh, khi biên soạn sách này, hai ông đang bị thực dân Pháp đưa đi đày, nên trong Ðại Nam thực lục chính biên, chỉ được chép phụ vào Kỷ Ðồng Khánh và gọi Thành Thái phế đế phụ biên, Duy Tân phế đế phụ biên. (Phế đế là vua bị ép phải thoái vị). Thành Thái (Nguyễn Bửu Lân) lên ngôi vua năm 1889 (10 tuổi), làm vua 19 năm. Trong phụ biên chép về ông mỗi năm một quyển, cộng lại 19 quyển. Duy Tân (Nguyễn Vĩnh San) lên ngôi năm 1907 (8 tuổi), làm vua 10 năm. Trong Duy Tân phế đế phụ biên, có 10 quyển chép về ông. Ở Ðại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ, chép về đời Khải Ðịnh, có 10 quyển, vì Khải Ðịnh làm vua 10 năm, mỗi năm một quyển. Như vậy, phần tiếp theo của Ðại Nam thực lục chính biên, có tất cả 39 quyển. Với phần bổ sung này, chúng ta đã có trọn bộ Ðại Nam thực lục chính biên 587 quyển (phần tiền biên có 12 quyển). Việc phát hiện phần tiếp theo trọn bộ Ðại Nam thực lục chính biên là một đóng góp học thuật rất có ý nghĩa. Sau khi nhận được bản chụp phần tiếp theo của sách Ðại Nam thực lục chính biên, Viện Sử học đã tổ chức dịch với mong muốn công trình này sẽ sớm được ra mắt bạn đọc trong và ngoài Việt Nam.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 15:25:56 GMT 9
Vĩnh long xưa – một địa chí văn hóa thu nhỏ của đất nam bộ Tăng Tấn Lộc 1. Vài nét về địa lý hành chính của Vĩnh Long xưa: Cũng như bao tỉnh miền Tây khác, Vĩnh Long vốn do đất phù sa cấu tạo, phì nhiêu thích hợp để trồng lúa các loại cây ăn trái và cây kỹ nghệ như: bố, bông vải. Đa số người dân sống bằng nghề nông. Vĩnh Long nằm ở vị trí trung tâm của Nam phần Việt Nam, giáp ranh với các tỉnh: Kiến Tường, Định Tường, Phong Dinh, Vĩnh Bình, Kiến Hoà và An Giang. Khảo sát về lịch sử tỉnh Vĩnh Long qua nhiều giai đoạn, chúng tôi nhận thấy: từ 1658 trở về trước, Vĩnh Long thuộc địa phận nước Chân Lạp; từ 1658 -1730 Vĩnh Long được đặt dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn; từ 1730 -1759 là thuộc địa của chúa Nguyễn; từ 1760 trở về sau, vua Chân Lạp nhượng đứt cho Việt Nam; từ 1867 bị đặt dưới chế độ thuộc địa của Pháp. Năm 1867, quân Pháp từ Định Tường (Mỹ Tho) kéo đến chiếm thành Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, dân tình sống trong cảnh lầm than, Vĩnh Long đầy tang tóc. Cụ Phan Thanh Giản tử tiết trên mảnh đất này, làm cho mọi người xúc động, cảm phục sự hy sinh cao quý của cụ, thà chết chứ không bao giờ khuất phục trước vũ lực bạo tàn của kẻ xâm lăng. 2. Những di tích lịch sử - văn hoá: 2.1. Đình: Khi nói đến một làng xưa Việt Nam thì tâm điểm trọng yếu đầu tiên mà ai cũng nghĩ đến là đình làng. Ngôi đình là nét đặc trưng hay có thể gọi là bản sắc của làng xã truyền thống Việt Nam. Đình là nơi tôn thờThành hoàng, vị thần bảo hộ cho làng, là trái tim điều khiển chi phối những hoạt động đời sống cộng đồng của đơn vị hành chính cơ sở tạo nên đất nước. Ngôi đình không chỉ là cơ sở tín ngưỡng quyền lực siêu nhiên mà còn là nơi hội họp bàn bạc tất cả những vấn đề to nhỏ liên quan đến làng. Đời sống cộng đồng hưng thịnh hay suy bại, cư dân có an khang phú quý hay không, phong tục thuần hậu tốt đẹp hay không, tất cả đều liên quan đến tâm điểm thiêng liêng – ngôi đình. Đó là nơi biểu hiện chỉnh thể kinh tế, văn hoá, xã hội của một địa phương. Các triều đại hưng rồi vong, đất nước có thể thăng trầm nhưng đình vẫn sừng sững đứng đó và làng không thể mất đi, làng lại kết tụ thành đất nước. Qua hai cuộc chiến tranh kháng Pháp và chống cong, có biết bao đình, chùa của làng quê Việt Nam đã bị cong san huỷ hoại. Sau 1975, do thiếu ý thức bảo vệ, chúng ta đã tự làm mất đi không ít ngôi đình. Ngoài ra, sự tác động hàng trăm năm của văn hoá phương Tây, tinh thần thiêng liêng của ngôi đình cũng không tránh khỏi mờ khuất, dần dần bị mai một và biến dạng. May thay, có một ngôi đình cổ ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn giữ được khá toàn vẹn diện mạo ban sơ – đình Tân Giai (một ngôi đình cổ kính từ thời Gia Long). Bên cạnh đình Khao cổ kính, Vĩnh Long còn có nhiều ngôi đình mang nhiều sắc thái độc đáo và lạ kỳ. Đình Tân Giai là ngôi đình lớn nhất trong tỉnh Vĩnh Long. Được biết, vào đời Gia Long, nhận thấy dân chúng địa phương rất nặng lòng tín ngưỡng, chính quyền tán thành công cuộc xây dựng một ngôi đình thần. Đình toạ lạc trên vuông đất công điền, nằm sát mé sông Cổ Chiên, tại Vàm Cái Cá, mặt tiền hướng về phía bờ sông. Dân chúng đều hoan hỉ, tới nơi sùng phụng, tưởng niệm đất nước, tiền nhân, khói hương chiêm bái không ngớt. Đặc biệt nhất là vào những ngày đáo lệ Kỳ Yên, đủ mọi tầng lớp nhân dân hội họp cung thỉnh sắc thần, cực kỳ long trọng và tôn nghiêm. Trải qua cuộc binh biến, ngôi đình vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, biểu dương tinh thần dân tộc. Chạnh lòng hoài cổ, các ông Phó tổng Ngô Văn Lân, hương cả Tống Hữu Viên là thân phụ ông Tống Hữu Trung có công lập làng Tân Giai, các vị kỳ lão trong làng cùng nhau đứng ra lo việc tu bổ ngôi đình, nối tiếp phụng thờ. Năm 1924, vì bị dòng nước sông Cửu Long đổ xuống sông Cổ Chiên, làm lở mé hữu ngạn sông này, từ trên Vàm Tuần Bắc Mỹ Thuận chạy xuống Vàm Cái Cá và sông Long Hồ, làm ảnh hưởng đến ngôi đình. Quý vị hương chức hội tề bèn lo việc dời ngôi đình vào trong giữa đất liền của làng Tân Giai, gần mé rạch Cái Cá, cầu Kinh Cụt. Hiện nay, nhằm đáp ứng niềm sùng kính của nhân dân địa phương, các vị trong ban hội hương đã đứng ra trông nom và tái thiết lại ngôi đình. Trước hết là để bảo tồn cổ tích, sau nữa là nơi tôn nghiêm thờ phụng trong làng, gợi tinh thần yêu nước thương nòi, nhen nhúm lửa thiêng nơi lòng đồng bào không quên đất nước, tiền nhân. 2.2. Miếu: Miếu Văn Thánh là dấu tích cổ xưa nhất ở Vĩnh Long (theo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long). Với lòng nhiệt thành của mình, Đề học Nguyễn Thông đã đứng ra vận động và xây cất Văn Thánh Miếu để thờ Đức Khổng Tử và các bậc hiền triết là môn đệ của đức Khổng. Công trình được khởi công năm Giáp Tý 1864 và hoàn thành vào cuối năm Bính Dần 1866 với kiểu kiến trúc truyền thống Việt Nam: 1) Chánh điện: Thờ Đức Khổng Tử. Hai bên Tả ban, Hữu ban thờ Tứ phối, Thập triết. 2) Hai miếu nhỏ hai bên: Tả vu, Hữu vu thờ Thất thập nhị hiền. 3) Văn Xương Các: Phía trước và bên tả Văn Thánh Miếu có xây dựng toà Văn Xương Các. Tầng trên lầu thờ 3 vị Văn Xương Đế Quân. Tầng dưới lầu, căn giữa để một cái khánh sơn son thiếp vàng, để bài vị thờ cụ Võ Trường Toản và hình cụ Phan Thanh Giản, phía ngoài cái khánh có khắc một đôi liễn với nội dung: "Hoàng phong xử sĩ thanh cao lão. Tự hiệu thư sinh tiết liệt thần" (Câu trên nói về cụ Võ Trường Toản, là một ông già thanh cao, ở ẩn dạy học, không chịu ra làm quan, được vua Gia Long cho là "Sùng đức xử sĩ". Câu dưới nói về cụ Phan Thanh Giản, vốn là bề tôi tiết liệt, khi sắp chết, dặn ghi trong tấm triện là "lão thư sinh" mà thôi) 2.3. Danh nhân: Theo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long xưa vốn là một dinh, một trấn lớn, bao trùm một góc miền Tây. Biết bao nhân vật ưu tú đã làm rạng danh đất Vĩnh. Ngày nay, nhiều di tích vẫn còn lưu lại trên đất Sa Đéc (Đồng Tháp), Bến Tre, là những vùng thuộc Long Hồ dinh ngày trước. Chẳng hạn như: Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du – hai nhân tài đã dày công khai phá Long Hồ dinh; quốc công Tống Phước Hiệp – quan lưu phủ Long Hồ dinh đầy đủ ân oai được dân chúng xưng phục; Lâm thao quận công Châu Văn Tiếp; Kinh môn quận công Nguyễn Văn Nhơn; Nguyễn Khoa Thuyên – cai bộ Long Hồ dinh, từng sát cánh với Tống Phước Hiệp xông pha chiến trận, Nam Kỳ kinh lược đại thần Phan Thanh Giản; Trương Vĩnh Ký – nhà bác học, nhân tài của nước Việt Nam; Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao – hai vị hào kiệt chống thực dân Pháp; Lê Long An - vị tiền hiền có công khai mở ba thôn: Mỹ Thạnh, Mỹ Hưng và Mỹ Hội; Tri huyện Tống Hữu Trung - một viên quan gương mẫu được nhiều người cảm đức; Bà Trần Thị Thọ - nhà từ thiện nổi tiếng khắp ba kỳ, được vua Khải Định tặng Kim Bảng "Háo Nghĩa Khả Gia",.v.v… 2.4. Văn hoá - Nghệ thuật: 2.4.1. Văn học: Nếu xưa kia Hà tiên từng nổi tiếng là nơi văn học do Mạc Thiên Tích chấn hưng nền văn hoá thì vĩnh Long cũng chẳng kém chi phong khí nho văn. Mặt khác, khi họ Mạc bị suy sụp, nhóm Chiêu Anh Các phân tán, nền văn học Hà Tiên cũng dần sút kém, trong khi đó ở Vĩnh Long lại rất hưng khởi dẫn đầu 3 tỉnh miền Tây lúc bấy giờ. Từ lúc Vĩnh Long bắt đầu thiết lập "Nền văn" và miếu Văn Thánh, hằng năm sĩ phu miền Tây tề tựu về đây để nhóm họp đàm luận vă chương, giảng binh kinh sách tạo nên học phong sĩ khí đáng ca ngợi. Trong lĩnh vực văn học không ai lại chẳng nghe tên, biết tiếng những tao nhân mặc khách đất Vĩnh như: Đỗ Minh Giám (Nhiêu Tâm), Đỗ Văn Sỏi (Bồng Dinh), Nguyễn Hữu Đức, nữ sĩ Trần Ngọc Lầu, Tống Hữu Định… Ông Phan Quốc Sang – tác giả 10 bài "Khuê phụ thán" nổi tiếng, ông Nguyễn Văn Dần – tác giả hai quyển sưu khảo "Vĩnh Long nhân vật chí" và "Sa Đéc nhân vật chí" . Ngoài ra, còn có các ông Nguyễn Phú Toàn (Nhập Vương Thị), Lê Ngũ Bá, Bùi Văn Khánh, Bùi Văn Triều, Lương Tử Mạnh, Nguyễn Phan Tần đều là những trang văn học tiếng tăm. 2.4.2. Sân khấu cải lương: Ở bộ môn sân khấu, Vĩnh Long cũng có nhhiều nhân tài đặc sắc. Trong đó, ông Tống Hữu Định được biết đến như người có công đầu trong việc sáng tác tuồng và cũng là ngưồi đầu tiên đưa vở tuồng cải lương lên sân khấu trình diễn. Ông Tống Hữu Định xuất thân là một Phó tổng, tổng Bình Long, thường gọi là ông Phó Mười Hai, đặc biệt có năng khiếu văn chương, luôn yêu mến và quý trọng nghệ thuật. Ông họp bạn đồng điệu lại để cùng trao đổi ý kiến rồi sáng chế ra điệu ca ra bộ, đặt để bài ca cho hoà rập với dàn đờn thêm vui tai, làm thích ý những người mộ điệu ca cầm. Bên cạnh đó, còn có ông Trần Quan Quờn, thường gọi là ông Kinh Lịch Quờn, nổi tiếng là bậc ưu tú về cổ nhạc, sáng tác rất nhiều bài vọng cổ nổi tiếng. Có thể nói, Vĩnh Long là "cái nôi" của nhệ thuật ca kịch, cùng với các nghệ sĩ ở Sa Đéc, Mỹ Tho đã đẩy mạnh sân khấu cải lương phát triển. Ngoài ra, có thể kể đến nữ sĩ Bảy Ngọc – ca sĩ hữu danh nổi tiếng nhất ở Vĩnh Long xưa nay. Soạn giả nổi tiếng có ông Năm Mãn với vở "Phật Tổ Thích Ca đắc đạo". Lớp hậu bối có kịch sĩ Duy Lân, nhạc sĩ Bửu, danh ca Út Trà Ôn lừng danh với bài vọng cổ "Tình anh bán chiếu" của soạn giả Viễn Châu. Nữ ca sĩ Thanh Tùng với làn hơi thiên phú và độc đáo làm say lòng khách mộ điệu cầm ca. Cô đã từng vô dĩa phô trương tài nghệ góp công tô điểm nền ca kịch nước nhà nói chung, Vĩnh Long nói riêng. Nhắc đến Vĩnh Long, chúng ta không thể không hoài niệm về các nhân vật: Nguyễn Văn Nhơn, Tống Phước Hiệp, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông,v,v… lại thêm đình Khao, Nền Văn, Văn Thánh Miếu… Tất cả những nét cổ kính và khả ái ấy ngày nay hãy còn di tích. Điều đó đã chứng tỏ đất Long Hồ là nơi văn hiến, đầy vượng khí. Có thể nói, nhân dân Vĩnh Long nói riêng, người Nam bộ nói chung đã trải qua mấy trăm năm văn hiến rạng rỡ và xứng đáng để thế hệ sau tưởng niệm với tấc lòng cảm khái, miên man niềm hoài cổ, xứng đáng là địa chí văn hoá của vùng đất phương Nam. NGUYỄN BÌNH ĐÔNG TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Vĩnh Long xưa, Huỳnh Minh, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2002. - Địa phương chí tỉnh Vĩnh Long. - Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long, Khoa Ngữ Văn Đại học Cần Thơ, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997.
|
|