|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:01:15 GMT 9
Sài gòn-Chợ Lớn: thế kỷ 17 đến thế kỷ 19- 1Nguyễn Đức Hiệp Đồng nai xứ sở lạ lùng Dưới sông cá lội, trên giồng cọp um Tư liệu quan trọng và hầu như duy nhất về vùng đất Sài gòn-Gia Định thuở ban đầu nói riêng và miền Nam nói chung là quyển Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765-1825). Trịnh Hoài Đức có lúc cũng là quan tổng trấn Gia Định thành (1816-1819). Ngoài ra ta có các tư liệu và sách của các doanh nhân, nhà ngoại giao, giáo sĩ, y sĩ Tây phương; như R. Purefoy, John White, George Finlayson và John Crawfurd; viết về Sài gòn - Gia Định khi họ viếng thăm nơi này trong khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tư liệu chính về Sài gòn trong các thập niên đầu thế kỷ 19 trước khi người Pháp đến lập thuộc địa (1859) và phát triển Sài gòn làm trung tâm Nam kỳ là các tác phẩm của Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) viết giữa thế kỷ 19. Petrus Trương Vĩnh Ký là người của thời đó nên ông đã ghi lại các sự kiện, phong cảnh và sinh hoạt đời sống trong các thập niên trước thời kỳ Pháp thuộc. Các quan sát của ông rất có giá trị về lịch sử phát triển thành phố Sài gòn. Ngoài ra các dữ kiện trước thời ông không xa lắm vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 cũng được ông ghi lại bổ sung cho những tư liệu trong chính sử và các nguồn của các tác giả nước ngoài ghi lại khi viếng Sài gòn và Nam bộ. Có thể nói Trịnh Hoài Đức, R. Purefoy, George Finlayson, John White và Petrus Trương Vĩnh Ký đã phác họa cho ta thấy một chân dung mặc dầu không toàn diện chi tiết lắm nhưng đủ để ta hình dung lại hình ảnh về vùng đất Gia Định trong thời kỳ đầu trước khi người Pháp đến. Bài viết này có mục đích phác họa sự phát triển thành phố Sài gòn về phương diện lịch sử văn hóa và con người vào thế kỷ 17 đến nửa đầu thế kỷ 19. Ngoài những tư liệu đã được biết như của Trịnh Hoài Đức, John Barrow, John White, John Crawfurd và George Finlayson, nguồn tư liệu mới của một thương gia người Anh tên R. Purefoy sẽ được dùng để bổ túc thêm về thông tin liên quan đến đời sống và con người Sài gòn ở đầu thế kỷ 19. Đặc biệt tư liệu của thuyền trưởng John White và bác sĩ người Tô Cách Lan George Finlayson sẽ được để ý và phân tích chi tiết hơn cho thấy đặc tính và hành xử của người Sài gòn đủ mọi giai cấp, nhất là tả quân Lê Văn Duyệt. Chính Charles Darwin, nhà khoa học đề xuất ra thuyết tiến hóa nổi tiếng, đã đọc và dùng tư liệu của Georges Finlayson quan sát về hình dạng và đặc tính của người Sài gòn để làm một trong nhiều dữ liệu chứng minh về nguồn gốc con người trong sách “The Descent of Man” của ông. 1. Sài gòn theo Trịnh Hoài Đức Theo biên niên sử Khmer, mà Maspéro và Moura đã dịch (18) thì vua Cao Miên Chey Chetta II sau khi lên ngôi và cưới một người con gái của chúa Nguyễn Phước Nguyên năm 1618 có khuynh hướng dùng hậu thuẫn của chúa Nguyễn để đương đầu với Xiêm (Thái Lan). Năm 1623, chúa Nguyễn xin phép vua Chey Chetta II mượn xứ Prei Nokor và Kras Krobey (Sài gòn và Bến Nghé) để mở trạm thuế thương chính và được phép gởi quan đến quản lý thương mại, hành chánh và thu thuế. Điều này chứng tỏ trước đó, ít nhất ở đầu thế kỷ 17, đã có lưu dân người Việt đến định cư trong khu vực gần Sài gòn, chủ yếu là vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai phía gần biển mà Trịnh Hoài Đức đã ghi như sau (1): “Lúc ấy địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên Hòa) đã có lưu dân của nước ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì.” Trạm thu thuế này, kho Quản Thảo, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (18) là ở vị trí khu đất chợ Cầu Kho (Quận 1, ngày nay), sát sông Sài gòn cũ (sông An Thông hay rạch Bến Nghé ngày nay) và cạnh rạch Cầu Kho (rạch bắt đầu từ đầu đường Lê Lai chảy dọc đường Nguyễn Trãi ngày nay rồi đổ ra rạch Bến Nghé). Gia Định thành thông chí có nói: “Tháng 9 mùa thu năm thứ 11 Mậu Tuất (1658) thời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) vua Cao Miên là Nặc Ong Chăn xâm phạm biên giới. Khâm mệnh dinh Trấn Biên (thời mới khai thác thì những chỗ đầu biên giới gọi là Trấn Biên, ở đây tức Phú Yên ngày nay), Phó tướng quân Yến Vũ hầu, Tham mưu Minh Lộc hầu, Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem 3 ngàn quân đi trong 2 tuần đến thành Mô Xoài của nước Cao Miên, phá thành và bắt vua Nặc Ong Chăn giải về Quảng Bình là nơi hành tại. Vua ra dụ xá tội cho, rồi phong làm Cao Miên quốc vương, luôn phải giữ đạo phiên thần, thường xuyên phải triều cống, không được xâm lấn cư dân ở ngoài biên, rồi sai quan binh hộ tống cho về nước.” Sử Việt Nam lần đầu tiên nói đến Sài gòn là vào năm 1674 khi Nặc Ông Đài (Neac Ang Chei theo biên niên sử Khmer) đuổi vua Nặc Ông Nộn (Neac Ang Non), tiến xuống chiếm lũy Sài gòn. Nộn cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn (Thái Tông) sai Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Diên Phái đem binh đánh, phá vỡ 3 lũy Sài gòn, Gò Bích và Nam Vang. Đài thua và tử trận. Chúa Nguyễn phong cho Nặc Ông Thu làm Cao Miên quốc vương ngự trị ở thành Vũng Long (Oudong), còn Nặc Ông Nộn làm phó vương ngự trị ở Sài gòn (18). Nặc Ông Nộn đóng đô ở Sài gòn 15 năm (1674 -1688) đã nhiều lần chiêu mộ lính (chắc là chủ yếu lưu dân Việt, người Minh hương và Chăm) để đánh Nặc Ông Thu ở Cao Miên (Thu dựa vào Xiêm La). Chúa Nguyễn cũng lập đồn dinh Tân Mỹ gần đó năm 1679, coi như một thứ chính quyền bán chính thức ở vùng Sài gòn để hỗ trợ nặc Ông Nộn và bảo vệ lưu dân. Cũng theo Nguyễn Đình Đầu thì doanh trại và dinh thự của phó vương Nặc Ông Nộn có lẽ là ở vùng từ chùa Cây Mai tới trường đua Phú Thọ trên một dải đất gò cao ráo. Thuyết này có nhiều cơ sở vì vùng quanh chùa Cây Mai, Phú Lâm, trường đua Phú Thọ (và xa hơn nữa đi về phía Bà Hom, An Sơn, Đức Hòa, tỉnh Long An) là những nơi có nhiều di tích khảo cổ, di tích văn hóa định cư của người Khmer được tìm thấy nhiều hơn những nơi khác ở gần sông Sài gòn như vùng Tân Kiểng, thành Ô ma. Và người Khmer theo phong tục tôn giáo của họ thì vua chúa đều xây đền thờ, chùa trên gò cao (như gò Cây Mai) chung quanh là ao hồ, tượng trưng cho núi Meru nơi các thần linh ngự trị giữa đại dương. Vì thế nơi phó vương trú đóng là phải ở gần gò Cây Mai. Riêng khu trường đua Phú Thọ, nhà khảo cổ Pháp Malleret cho biết từ các không ảnh chụp trong thập niên 1930 có thể thấy các đường chạy cắt nhau như bàn cờ. Đấy có thể là vết tích của một khu định cư cổ xưa còn nhận dạng được. Cũng theo Malleret thì có thể cung điện này mà người Việt gọi là “Tây cung” (cung điện phía tây) gần Chợ Lớn để phân biệt với thành Sài gòn ở Bến Nghé phía đông, và từ “Tây Cung” sau này để chỉ Chợ Lớn mà người Hoa gọi là “Xigong” phát âm gần với từ Sài gòn. Trịnh Hoài Đức nói về vùng đất Sài gòn trong giai đoạn này: “Gia Định (tức đất Sài Gòn) nguyên xưa có nhiều ao chằm rừng rú, thuở vua Thái Tông (Nguyễn Phước Tần, 1648-1686) sai tướng vào khai thác phong cương ở nơi bằng phẳng rộng rãi, tức là chỗ chợ Điều Khiển ngày nay, xây cất đồn dinh làm chỗ cho quan Tổng tham mưu cư trú, lại đặt dinh Tân Thuận, tức nay là Lân Tân Thuận, có cất nhà thự cho các quan Giám quân, Cai bộ và Ký lục ở, lại có quân trại hộ vệ, ngăn ra từng khu rào, ngoài ra thì cho dân trưng chiếm chia lập làng xóm phố chợ” (1). Lân Tân Thuận ở khoảng xóm chợ Đũi trên đường Nguyễn Trãi ngày nay. Chợ Điều Khiển ở vị trí ngã ba đường Nguyễn Trãi và Nam Quốc Cang ngày nay và đồn Tân Mỹ ở vùng sau này là thành Ô Ma mà Pháp thiết lập (18). Trịnh Hoài Đức cũng có tả về một thắng cảnh khác ở vùng Sài gòn: Mai khâu (Gò Cây Mai): “Ở về phía nam cách trấn thành 13 dặm rưỡi, gò đất nổi cao, có nhiều cây nam mai thân cỗi nghiêng ngang, nhưng khi trổ hoa nở không bung xòe trắng tinh rạng rỡ, cánh hoa vẫn còn úp túm giữ mùi thơm. Thứ hoa này vốn bẩm linh khí mà sinh ra, không thể dời trồng ở nơi khác được. Trên có chùa Ân Tông, đêm tụng kinh, chiều giộng chuông, âm thanh tản mạn trong mây khói, giống như đang ở giữa thế giới núi Linh Thứu của Phật. Lại có suối trong chảy quanh chân núi, các du nữ chiều mát quẫy mạnh mái chèo đi hái sen; gặp khi trời đẹp, văn nhân thi sĩ mang bầu rượu leo từng bậc cấp lên đây ngâm vịnh dưới gốc hoa ở đầu gò, câu chữ nồng nàn, thật là một thắng cảnh cho người du lãm. Nơi đây, ngày xưa là chỗ chùa tháp đất Phật của nước Cao Miên, nền móng xưa còn thấy rõ. Năm Bính Tý (1816) niên hiệu Gia Long thứ 15, có nhà sư sửa sang lại chùa và đã đào lấy được nhiều gạch lớn, ngói xưa, và cả 2 miếng vàng lá hình vuông, mỗi bề hơn 3 phân, mỗi miếng nặng 3 đồng cân, trên mặt chạm hình cổ Phật kỵ tượng (Phật cưỡi voi), có thể đây là cái vật của Hồ tăng dùng để trấn tháp đó chăng ?” (1) Chùa trên gò Cây Mai, Mai khâu tự hay Mai Sơn tự, còn được gọi là chùa Cây Mai. Gò cây Mai là nơi mà nhiều văn nhân như Trịnh Hoài Đức trong nhóm “Bình Dương thi xã” ở cuối thế kỷ 18 và sau này nhóm “Bạch Mai thi xã” của Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Hồ Huấn Nghiệp, Nguyễn Thông, Bùi Hữu Nghĩa…đến thưởng ngoạn. Khi Pháp đến Sài gòn, họ chiếm chùa làm đồn để làm phòng tuyến tấn công đồn Kì Hòa. Ngày nay là trại quân đội ở đường Hồng Bàng, vết tích chùa không còn, chỉ còn một gốc cây mai trong trại. Chùa Cây Mai khác với chùa gần đó gọi là chùa Gò. Địa điểm chùa Gò ngày nay là Phụng Sơn Tự, trên đường 3 tháng 2, Quận 10. Theo Charles Lemire (24) vào năm 1869 (chỉ vài năm sau khi Pháp chiếm Sài gòn), lúc ông đến gò Cây Mai trong chuyến viếng thăm Sài gòn-Chợ Lớn thì từ trên gò Cây Mai, có thể nhìn thấy các ruộng lúa trải dài dọc theo rạch Tàu Hủ, cánh đồng mã, chiến tuyến đồn Kì Hòa, cách đồng và rừng Gò Vấp, cho đến tận núi ở Tây Ninh, với khoảng cách ba mươi dặm. Ông tả cảnh ở gò Cây Mai như sau: “Khoảng 15 phút từ Cholen (Chợ Lớn), trên đường đi Mitho (Mỹ Tho), là đồn Cây Mai. Một lối đi, hai bên trồng cây keo (acacia), dẫn chúng tôi đến chân một ngọn núi nhân tạo, trong một cảnh quan tuyệt diệu; một ngọn suối nhỏ chảy róc rách đến chân một bậc thang làm bằng đá; ba cửa vòng cung, một còn nguyên vẹn, tạo thành cổng vào đồn, trong đồn người ta thấy trên đỉnh gò là một chùa tám cạnh có tháp chuông; bên cạnh đó là cây cọ (palmier à sucre) và đặc biệt là Cay-mai, một loại cây họ mận (prunier rhéédia), có hoa thơm, mà ngày xưa không ai được sờ đụng nếu không phải bị tội tử hình. Những hoa này được tiến cung dâng vua, và được dùng để ướp trà cho vua. Những vị sư ở đây giữ chùa và cây mai này. Nơi đây là điểm hành hương của nhiều tín đồ. Một viên quan bậc lớn người An Nam, vị tổng trấn Sài gòn và tác giả Gia-dinh thong chi, đã tả cho chúng ta một cảnh rất ý nhị. Đây là một đại diện tiêu biểu của thơ người An Nam…“ Cũng theo Lemire thì người Việt cho đến đầu thế kỷ 19 vẫn còn gọi thành phố Cholen (Chợ Lớn) là Sài gòn và vùng đa số cư dân người Việt ở cạnh sông Sài gòn (Tân Bình) lúc đó là Bến Nghé hay Bến Thành (tức bến cạnh thành Phiên An). Nhưng người Pháp đã nhầm lẫn gọi cả khu vực là Sài gòn, mà chủ yếu tập trung vào khu trung tâm gần thành (citadelle). Theo Petrus Trương Vĩnh Ký (3), trước 1680, Sài gòn chỉ là một làng Khmer nhỏ. Năm 1680, Sài gòn là địa điểm của vua thứ hai Khmer, vị vua chính ở Gò Bích (bên Cambodge). Đây cũng là thời gian mà hai tướng nhà Minh dẫn 3000 quân, cùng gia đình của họ trên 60 thuyền đi từ Nam Trung quốc vào lập nghiệp sau khi được chúa Nguyễn cho phép. Trong hai vị tướng chỉ huy, một vị tướng là Trần Thượng Xuyên dẫn một đoàn đến Cù Lao phố (Biên Hòa) và một là Dương Ngạn Địch đi xuống Mỹ Tho lập nghiệp. Vài năm sau, vị vua Khmer ở Sài gòn, vì nằm ở giữa 2 đạo quân nhà Minh cảm thấy bị đe dọa nên đã báo chúa Nguyễn là các quân nhà Minh có ý làm phản (sau khi phó tướng của Dương Ngạn Địch là Hoàng Tấn giết Ngạn Địch và mưu đồ cát cứ làm phản). Chúa Nguyễn gởi tướng Mai Vạn Long vào đánh thắng quân Hoàng Tấn ở Mỹ Tho. Sau đó cùng với Trần Thượng Xuyên ở Cù Lao Phố và Nặc Ông Nôn tiến lên Gò Bích (Oudong) đánh vua Nặc Ông Thu (1688). Trong cuộc hành quân này, Nặc Ông Nộn chết. Con Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm lên thay làm phó vương ở Sài gòn. Năm 1697, Nặc Ông Nêm về Oudong vì được nặc Ông Thu gả con gái và hy vọng sẽ lên thay Ông Thu làm vua Cao Miên sau khi Ông Thu mất. Từ năm đó, chức phó vương ở Sài gòn không còn nữa.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:07:07 GMT 9
Năm sau (1698), chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, chính thức hóa cai trị vùng đất mới mà trên thực tế phó vương Cao Miên chỉ đứng tên, quyền hành và hành chánh thực sự nằm trong tay chúa Nguyễn. Gia Định thành thông chí viết như sau: “Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (chúa Nguyễn Phúc Chu), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch.” “Mùa thu năm thứ 9, Kỷ Mão (1699), triều đình tra xét bắt đạo Hoa Lang, phàm nhân dân ta ai có đạo thì phải bỏ để trở lại làm dân bình thường, lấy nhà tu làm nhà ở, lại còn đốt sách vở của đạo ấy, còn người phương Tây thì buộc họ phải về nước. Tháng 8 mùa thu năm thứ 18, Mậu Tý (1708), triều đình phong cho người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông là Mạc Cửu làm Thống binh Hà Tiên.” (…) Tháng 6 mùa hạ năm thứ 17, Giáp Tuất (1754), chia quân Gia Định ra làm hai đạo, Nghi Biểu hầu đem kỳ binh từ sông Bát Đông tiến phát, quân đến đâu địch thua đến đó, rồi đến Tần Lê Bắc ra sông lớn hội cùng chính binh Tiền Giang của Thiện Chính hầu ở đồn Lò Yêm. Bốn phủ Xoài Lạp (Soi Rạp), Tầm Đôn, Cầu Nôm và Nam Vang của Cao Miên đều hàng. Tiếp đó liền sai thuộc tướng Cai đội Chấn Long hầu đến phủ Tầm Phong Tiêm chiêu dụ người Côn Man Thuận Thành để gây thanh thế. Lúc ấy quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên chạy lánh sang phủ Tầm Phong Thu (nay là phủ La Vách) lại gặp trận lụt mùa thu quá lớn, quan quân phải trở về đồn nghỉ ngơi. Mùa xuân năm thứ 18, Ất Hợi (1755), đại binh của Thiện Chính hầu đã về trước ở đồn Mỹ Tho, rồi lệnh cho người Côn Man Thuận Thành phải bỏ vùng Ca Khâm đem hết bộ lạc xe cộ xuống đồn trú ở Bình Thanh, tinh tráng hơn vạn người, khi đến đất Vô Tà Ân liền bị hơn một vạn binh của Cao Miên thừa cơ tập kích, quân Côn Man sức yếu thế cô, liền đem hết xe chất thành lũy và một lòng chống giữ, mặt khác cho quân đi cấp báo. Thiện Chính hầu vì ao đầm ngăn trở nhất thời khó bề cứu viện ngay được, chỉ Nghi Biểu hầu dẫn 5 đội tùy quân đến ứng cứu, quân Cao Miên nghe hơi đã phải rút lui. Nghi Biểu hầu đón hơn 5000 dân Côn Man cả nam lẫn nữ về trú dưới chân núi Bà Đinh (Đen) rồi hạch tấu Thiện Chánh hầu về tội làm hỏng quân cơ, rút quân thiếu kỷ luật, bỏ rơi người mới quy phụ, không cứu viện - để quân giặc bắt đi. Tấu được dâng lên, triều đình cho tra xét rồi giáng Thiện Chánh hầu xuống làm Cai đội, thu quyền Thống suất, ra lệnh cho Cai đội Du chính hầu Trương Phúc Du làm Thống suất, dùng người Côn Man dẫn đường để tiến đánh Cầu Nôm và Nam Vang và giết được một số Ốc nha. Vua nước ấy quá sợ nên phải chạy sang nương thân vào Đô đốc Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ ở trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ thay lời tâu rằng: Việc ấy do biên tướng Cao Miên là Chiêu trùy Ếch đàn áp người Côn Man, vua nước ấy xin chịu nhận tội. Năm thứ 19, Bính Tý (1756). Quốc vương Cao Miên là Nặc Ông Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Đôn và Xoài Lạp (Soi Rạp) để chuộc tội, đồng thời xin cống nạp lễ vật còn thiếu ba năm trước đó.” (Gia Định thành thông chí) Người Côn Man Thuận Thành (Chiêm Thành) đây là chỉ người Chăm ở Bình Thuận và ở vùng đất thuộc Cao Miên trong xứ Gia Định-Đồng Nai. Như vậy vùng đất Sài gòn-Gia Định vào giữa thế kỷ 18 đã có người Chăm, lưu dân Việt, Hoa và người Khmer cư ngụ cùng với những người bản xứ, chủ nhân cũ của miền Sài gòn, Biên Hòa, Gia Định, Bà Rịa và Cần Giờ: người Mạ và người Stieng. Trịnh Hoài Đức mô tả một thắng cảnh chùa Gíác Lâm gần thành Sài gòn như sau (1): “Ở trên gò Cẩm Sơn, cách lũy Bán Bích về phía tây 3 dặm, gò chùa nầy như đống vàng bỗng nổi lên giữa chỗ đồng bằng trải thẳng cả trăm dặm, giống như tựa bình phong, đội nón, mở trướng, trải thảm, rộng 3 dặm, cây to thành rừng, hoa núi dệt gấm, sớm chiều mây khói bốc lên quấn cuộn, tuy nhỏ nhưng lý thú. Mùa xuân năm Giáp Tý (1744) đời Thế Tông năm thứ 7, người xã Minh Hương là Lý Thụy Long quyên của xây dựng chùa trang nghiêm, cửa thiền u tịch, đến ngày Thanh minh, Trùng cửu nhàn hạ, thi nhân du khách kết đoàn 5, 3 người đến đây mở tiệc thưởng hoa, nâng chén quỳnh mà ngâm vịnh, ngó xuống chợ búa đời thường, bụi bặm xa cách ra ngoài tầm mắt, thật là một nơi đáng du lịch và thưởng ngoạn. Gần đây có Viên Quang đại lão hòa thượng đời thứ 36 thuộc phái Lâm Tế chính tông, mật hạnh kiên trì, trải từ tuổi nhỏ cho đến khi già, kiên trì tu hành ngày càng tinh tấn, lại có tính yêu cảnh sương khói suối khe, ít khi để chân đến chốn thị thành huyên náo. Từ khi ông đến đây dừng trụ trong núi dứt phiền não, dưới rừng lộ chùa chiền. Năm Gia Long thứ 16 (1817) ông mở đại giới đàn, từ đó thiện nam tín nữ đến quy y rất đông, mà sơn môn lại thêm phần khởi sắc.” Và chợ Tân Kiển (hay chợ Quán): “Cách trấn về phía nam hơn 6 dặm, phố chợ rất đông đúc, thường năm đến ngày Nguyên đán có tổ chức chơi đu tiên vân xa, đáng gọi là một chợ lớn. Từ trước, đến cuối năm thường có chém tù ở đây. Cách sông ở bờ phía đông, ngày trước có người Cao Miên là Nặc Đích theo Nặc Tha đến, cắm dùi sống luôn ở đấy, y bèn làm cầu ngang qua sông để thông đến chợ, gọi là cầu Nặc Đích, sau trải qua loạn lạc nên hư hỏng. Đầu phía tây đường lớn có đồn bắt trộm cướp đóng giữ. Ngày 25 tháng giêng năm Canh Dần (1770) đời Duệ Tông (Định vương Nguyễn Phúc Thuần), sau khi bình định, có con hổ dữ vào nhà dân ở phía nam chợ, nó gầm rống rất dữ, dân quanh vùng đều hoảng sợ, họ báo với đồn dinh để phái quân vây bắt. Sau phải triệt hạ phòng ốc, làm nhiều lớp hàng rào bao quanh, nhưng con hổ rất dữ, không ai dám đối đầu. Qua ngày thứ 3, có thầy tu đi vân du là Hồng Ân cùng đồ đệ là Trí Năng xin vào đánh cọp. Hồng Ân cùng hổ quần thảo một hồi, hổ bị côn đánh rát quá, nhảy núp vào lùm tre, Hồng Ân đuổi nà theo, hổ bị dồn ngặt nên cự trở lại với Hồng Ân. Hồng Ân lui chân té xuống mương nhỏ, bị hổ tát thọ thương. Trí Năng tiếp viện đánh trúng đầu, hổ chết dưới làn côn, nhưng Hồng Ân bị thương nặng nên cũng mất liền khi ấy. Người ở chợ cảm nghĩa đem xác Hồng Ân chôn tại chỗ đấy rồi xây tháp, nay vẫn còn.” Về văn hóa, trong giai đoạn này cũng bắt đầu phát triển và có những đặc thù riêng biệt phản ảnh tinh thần ở vùng đất mới. Gia định thành thông chí viết về người Sài gòn như sau: "Gia định ở về địa vị Dương Minh, nhiều người trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dầu là hàng phụ nữ cũng thế". Văn học có Nguyễn Đình Chiểu làm truyện “Lục Vân Tiên” ở Sài gòn nói lên đạo đức nghĩa tiết của con người lục tỉnh. Sách dạy chữ nho đặc biệt "Minh tâm bửu giám", không có trong chương trình thi cử, được soạn ra và trở thành cuốn sách gối đầu giường của miền Lục tỉnh. Sách hướng về ứng dụng thực tế tập hợp những trích đoạn của những sách Nho, Lão, Phật gồm những câu nói đạo đức, triết lý nhân sinh nhằm rèn luyện bồi dưỡng đức hạnh hướng dẫn việc ứng xữ hàng ngày (19). Sách phản ảnh triết lý bao dung và tinh thần phóng khoáng thực tế của con người đất Sài gòn-Gia Định. Trường học nổi tiếng đất Sài gòn - Gia Định vào thế kỷ 18 là trường của nhà giáo Võ Trường Toản ở Hòa Hưng. Học trò của ông có nhiều người được ghi danh trong văn học như Trịnh Hoài Đức, ông nghè Chiêu, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định. Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh còn lập ra "Bình Dương thi xã", các hội viên thi xã thường gặp nhau ở khu vực chùa Cây Mai và xã Minh hương vùng đất Sài gòn làm thơ phú lấy hứng thú từ cảnh vật chung quanh lúc đó vẫn còn thiên nhiên hoang dại với cây nước, ao hồ, gò cao và chim thú... Bài vịnh Cổ Gia Định bằng chữ Nôm (có lẽ là của Ngô Nhân Tĩnh) nói về cảng Sài gòn, nơi tàu các nước đến, như sau (19) "Thuyền bắc nam lui tới Ghe đen mũi, ghe vàng mũi, ra vào coi lòa nước Người đông tây qua lại, Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa chất ngất trời" Có mặt người Việt, Hoa, người Âu, và cả người Phi châu hay Ấn độ da đen nữa: "Lũ Tây dương da trắng bạc Mồm giớn giác, miệng xếch xác, hình vóc khác Quân Ô rồ mặt đen thui Thể lọ nồi, đầu quấn rít, miệng trớt môi, In thiên bồng, thiên tướng, thiên lôi" Sau cuộc khởi nghĩa Tây Sơn năm 1772 ở Bình Định, chúa Nguyễn Ánh cùng thân quyến chạy vào Gia Định - Đồng Nai - Sài gòn lánh nạn vào năm 1774. Chiến tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn trở nên gay gắt và Nguyễn Ánh phải nhiều lần bỏ đất Sài gòn bôn ba ra các đảo và sang Xiêm La. Năm 1789, sau khi chiếm lại Sài gòn, Gia Long cho xây thành bát quái với sự trợ giúp của một viên sĩ quan hải quân người Pháp, Victor Olivier de Puymaniel, thiết kế thành theo kiểu Vauban ở Âu châu. Đá ong xây thành được lấy từ Biên Hòa (2). Về phía đông bắc Sài gòn (Biên Hòa) và bắc Sài gòn (Thủ dầu một, Bình Dương, Tây Ninh) lúc này là đất của người Mạ và người Stieng. Họ vẫn còn cư ngụ rất đông mà người Việt và sau này người Pháp gọi họ là “mọi”. Ở Sài gòn cũng có một đường người Pháp gọi là “rue des Moïs” (đường người Mọi, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Trong năm 1823, theo John Crawfurd khi ông đến Sài gòn thì hôm 31/10/1823, sau khi được hội kiến với tổng trấn Gia Định trước khi tổng trấn ra Huế trình với vua về việc đoàn sứ giả Anh do Crawfurd cầm đầu đến Sài gòn, một buổi trình diễn giải trí sau đó đã được tổ chức trong nguyên ngày với nhiều triển lãm và trình diễn. Trong số khán giả Crawfurd thấy có 8 người ít ăn mặc và diện mạo hoàn toàn khác với những người chung quanh. Vị tổng trấn cho họ mỗi người một bộ quần áo và nói cho Crawfurd biết là những người này mới chính là những thổ dân đích thực của miền Nam trước khi người Việt đến thống trị và dân số họ đông hơn người Việt (7). 2. Sài gòn và đàng trong theo quan sát của John Barrow (1792-1793) Người nước ngoài đầu tiên đến và viết lại nhiều tư liệu giá trị về Sài gòn và đàng trong vào thế kỷ 18 là John Barrow. Năm 1792, thuyền trưởng người Anh John Barrow đi từ Anh, qua Ba Tây (Nam Mỹ), ghé Nam Phi, Java và cuối cùng đến vùng đất mà ông mô tả là Cochinchina thuộc Đàng Trong từ Sài gòn miền Nam đến Qui Nhơn, Đà Nẵng, Huế, ở Trung phần (12). Ông đến trong năm 1792-1793 vào lúc chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh đang diễn ra kịch liệt. Sài gòn đang nằm trong tay Nguyễn Ánh, trong khi Huế và Đà Nẵng dưới sự ngự trị của vua Quang Toản. Vì thế, như ông viết, không lạ gì mà khi từ Sài gòn ra Đà Nẵng năm 1793 đoàn tàu Anh của ông đã gây lo âu và nghi ngờ từ triều đình Tây Sơn “mà người bạn Bồ Đào Nha của chúng ta, Manuel Duomé, đã dùng để làm lợi thế cho ông ta và không bị cản trở đứt đoạn sự buôn bán độc quyền và rất lợi mà ông ta đã có từ nhiều năm qua với những người dân ở xứ này”. Hình 1: Cảnh một kịch hát ở Đàng Trong (theo John Barrow, 1792) Qua tư liệu hồi ký của một sĩ quan Pháp tên là Barissy phục vụ cho Nguyễn Ánh, John Barrow đã tóm tắt tình hình lịch sử từ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đến lúc Nguyễn Huệ lên ngôi và đánh bại quân Thanh ở Đông Kinh (Thăng Long) và sau đó Nguyễn Huệ được vua Càn Long nhà Thanh mời sang Bắc Kinh để được tấn phong vua ở Đàng ngoài. Trong khi đó Nguyễn Ánh được Bá Đa Lộc (évêque d’Adran) và các giáo sĩ (như 1 giáo sĩ tên Paul) và giáo dân giúp đỡ lánh nạn Tây Sơn ở miền Nam. Khi chạy vào Sài gòn thì lúc đó ở Sài gòn đã có một tàu thương mại do một người Pháp tên là Manuel chỉ huy, 7 thương thuyền Bồ Đào Nha và một số ghe buồm đang trú trong cảng để buôn bán (chú thích của dịch giả: ông Manuel này chính là người có bài vị thờ trong chùa Hiển trung do vua Gia Long sau này xây ở Sài gòn mà Vương Hồng Sển có nói đến (6)). Hình 2: Một nhóm người ở Đàng Trong tụ tập chơi một trò chơi (theo John Barrow, 1792). Qua cố vấn của giám mục Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh đã mua lại và mướn người cho hạm đội đủ loại tàu này, trang bị chúng nhanh chóng để mong sẽ đánh úp thình lình vào vịnh Qui Nhơn lúc Tây Sơn không nghĩ là sự kiện này có thể xảy ra. Nhưng sự tấn công vào Qui Nhơn không thành, Nguyễn Ánh phải bỏ chạy lại vào Sài gòn, sau đó bị rượt đuổi phải trốn ở đảo “Poulo wai” trong vịnh Thái Lan, sau đó chạy qua Siam để lánh nạn. Không bao lâu, Nguyễn Ánh cũng phải rời Siam, trở lại Poulo Wai khi có hiềm khích với vua Siam. Từ đảo này giám mục Bá Đa Lộc đã mang hoàng tử Cảnh sang Pháp hy vọng gặp vua Louis 16 để được giúp đỡ. Một hiệp ước đã được ký kết giữa vua Louis 16 và hoàng tử Cảnh, qua đó vua Pháp gởi quân và tàu chiến đến giúp đỡ và được đặt dưới quyền của Nguyễn Ánh. Đổi lại sau khi thống nhất, nhà vua Việt Nam phải nhường lại cảng Đà Nẵng, các đảo ngoài Hội An. Sau khi đã ký, Bá Đa Lộc được Louis 16 bổ nhiệm là Đại sứ của vua Pháp ở Việt Nam. Hình 3: Cúng trái cây cho thần (theo John Barrow, 1792) Hạm đội Pháp trên đường đến Cochinchine ghé vào Pondichery (một nhượng địa của Pháp ở Ấn Độ, nơi mà nhiều người Ấn sau này đến Sài gòn và Việt Nam). Ở đây vì Bá Đa Lộc không hài lòng với việc toàn quyền Pháp Conway có vợ lẽ, bà Madame de Vienne, bà này vì thế gây hiềm khích giữa Conway với Bá Đa Lộc, Conway ra lệnh đoàn tàu dừng lại vô hạn định và không đi tiếp cho đến khi Conway trực tiếp nhận được tin từ vua Louis 16. Không lâu sau đó cách mạng Pháp nổi lên, chấm dứt sự can thiệp của Pháp và chuyến đi bị bỏ hẳn. Chỉ có Bá Đa Lộc, vài người thân cận và hoàng tử Cảnh trở về Nam kỳ. Lúc này Nguyễn Ánh cũng đã bỏ đảo quay về Sài gòn sau 2 năm khổ cực ăn rễ cây trên đảo. Hoàng tử Cảnh đoàn tụ với chúa Nguyễn năm 1790 ở Sài gòn. (chú thích: Conway là người Pháp gốc Ái Nhĩ Lan. Rất nhiều người Ái Nhĩ Lan theo đạo công giáo khác với Tin lành ở Anh làm sĩ quan trong quân đội Pháp như Hennessey mà sau này lập nghiệp và sản xuất rượu mạnh Hennessey ở Pháp). 3. Sài gòn theo quan sát của R. Purefoy (1800-1807) Đầu thế kỷ 19, trong các năm 1800 đến 1807, ông R. Purefoy đến Sài gòn để buôn bán. Năm 1826 viết lại về vùng Sài gòn trong tập san Á châu vùng Ấn và phụ cận, ông cho biết (22) như sau: “Sài gòn chính thật ra, hay như người bản xứ phát âm, Thai Gone, nằm ở phía trên một nhánh nhỏ của con sông, khoảng tám hay mười dặm Tây Bắc của Bến Nghé, là cảng chính của thương mại. Thành phố này lớn đáng kể, được xây chủ yếu bằng gạch: nơi đây là các nhà thương gia chủ yếu của đất nước này cư ngụ. Người Bồ Đào Nha ở Macao đã giao thương độc quyền ở cảng này từ nhiều năm trước 1800, nên khi một tàu Anh đến đây từ Madras, sự ghen ghét của họ dao động lên cao đến độ họ viết thư lên tổng trấn Sài gòn nói là họ coi họ mang nhiều ơn lớn với ngài vua đàng trong nên báo cho ngài biết về sự nguy cơ to lớn khi cho phép những tàu người Anh vào bất cứ cảng nào trong xứ, và bảo đảm với ngài là người Anh đến dựng cớ là thương mại nhưng kỳ thực là học biết thông tin về nước này để làm dễ dàng sau này ý định xâm chiếm, và trong dịp này họ cũng nói về những thuộc địa của chúng ta ở Ấn Độ. Con trưởng của nhà vua lúc đó là tổng trấn Sài gòn; ông ta không để ý gì đến bức thư này; rõ ràng ông ta thấy là các tác giả bức thư chỉ có các động cơ tư lợi riêng, bởi vì họ chẳng mang ra được chứng cớ gì về những điều họ nói, và trong lúc tra hỏi ở hội đồng họ đã có ý trái nghịch lẫn nhau. Vị hoàng tử này, là một người trai trẻ thông minh, nói tiếng Pháp lưu loát, đã được mang qua Pháp khi còn nhỏ bởi giám mục D’Adran, một phần được giáo dục ở Paris. Ông ấy mất vì bị bệnh đậu mùa năm 1802.” (chú thích: như vậy Sài gòn, bắt nguồn từ một từ phát âm ra “Thai Gone”, thật sự là chỉ thành phố Chợ Lớn ngày nay) Ông Purefoy viết tiếp: “Những sản phẩm chính của tỉnh này là trầu (betel-nut) gồm ba loại, đỏ, trắng và một loại nhỏ, mà ở Trung Quốc có nhu cầu rất lớn, đường, gạo, tiêu, quế, bạch đậu khấu (cardamom), lụa, vải, sừng tê giác và nai, thỏi vàng và bạc, ngà voi, và cá khô với số lượng lớn hàng năm được nhập vào Quảng Đông và các cảng khác ở Trung Quốc. Đồng Nai cũng sản xuất gỗ rất tốt để đóng tàu, gọi là ‘shaou’ (sao), một loại gỗ tếch (teak), rất giống gỗ cây sồi Anh (English oak), một loại gỗ khác nữa giống như gỗ cây tần bì (ash), được dùng làm mái chèo thuyền để xuất khẩu, và cột gỗ thông và mù u, rất tốt để làm cột thuyền và sân thuyền; nhựa đen (tar), nhựa vàng (dammar), dầu từ cây (wood oil) có thể thêm vào danh sách trên. Năm 1801, lượng trầu xuất khẩu đạt tới 135000 peculs (1 pecul hay tạ Trung quốc tương đương với 68kg). Lương thực rất rẻ ở cảng Sài gòn, nơi đây có bán ba loại gạo, gạo trắng, gạo đỏ và gạo đen; hai loại gạo sau được nghe nói là có đặc tính bổ tốt cho sức khỏe. Họ sấy thịt heo ở đây bằng một quá trình bí mật, làm thịt heo khô có thể được mang lên tàu và dự trữ được rất lâu.…“ Điều này cho thấy vùng Sài gòn và các tỉnh chung quanh như Đồng Nai rất sung túc về sản phẩm nông nghiệp, hải sản và lâm nghiệp. Từ Sài gòn (tức Chợ Lớn) hàng hoá được thông thương buôn bán với các nước ngoài và xuất khẩu rất nhiều đi các nơi. Tham Khảo (1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf(2) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille), 1883. (3) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885. (4) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890. (5) Trần Ngọc Quang, Sài gòn và những tên đường xưa, namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-Sài gòntenduongxua.pdf. (6) Vương Hồng Sển, Sài gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ (7) John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street. 1830. (8) John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London, 1824. Online: www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up (9) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993, motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Sài gòn (10) Hình ảnh, tư liệu, belleindochine.free.fr/Sài gòn1882.htm (11) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876. (12) John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London, 1806. online : purl.pt/126(13) Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879. (14) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887. (15) P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon-Cholon, Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon), 1934. (16) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880. gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination(17) J. Bouchot, Sài gòn sous la domination cambodgienne et annamite, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1926, 1926 (Nouv Ser,T1), pp. 3-82, Société des études indochinoises (Saïgon). (18) Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 125-231. (19) Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 235-420. (20) Josiah Conder, Birmah, Siam, and Anam, London: printed for J. Duncan, Oliver & Boyd, Edingburgh, M. Ogle, Glasgow and R. M. Tims, Dublin, 1826, www.archive.org/stream/birmahsiamanam00condrich#page/ n11/mode/2up (21) George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochin China in the years 1821-2, London, John Murray, Albemale Street, 1826. www.archive.org/stream/missiontosiaman00raffgoog#page/n7/mode/1up (22) R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826. (23) Charles Darwin, The Descent of Man: and selection in relation to sex, John Murray, London, 1879. (24) Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aine, Paris, 1869.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:11:08 GMT 9
4. Sài Gòn dưới quan sát và nhận xét của John White (1819-1823) Thế thì đời sống ở Sài Gòn trong giai đoạn này ra sao?. Trước hết ta hãy xem mô tả Sài Gòn và cuộc sống ở đây vào các năm 1819-1823 qua quan sát của thuyền trưởng Mỹ John White, người đã đến và sống tại đây một thời gian. Với mục đích tìm hiểu xứ đàng trong, liên hệ ngoại giao để giao thương buôn bán, trung úy hải quân Mỹ John White, năm 1819 trong chuyến viếng thăm Sài Gòn trên tàu Franklin, từ cảng Salem tiểu bang Massachuset, đã cho ta những thông tin giá trị. Salem là một thương cảng sầm uất có tàu buôn và đánh cá voi đi khắp thế giới trong thế kỷ 17-19. Trước khi viếng Sài Gòn và đàng trong, ông đã có đọc sách nói về đàng trong của John Barrow. Với những kinh nghiệm và chứng kiến ở Sài Gòn trong nhiều tháng sống ở đấy, ông đã viết lại một hồi ký được giữ trong kho lưu trữ của hội "Hội hàng hải Đông Ấn của Salem" (East India Marine Society of Salem). Nhưng các bạn của ông khi đọc, họ thấy có những thông tin hữu ích, nên đã in thành sách. Hành trình của tàu Franklin đi từ Salem ngày 2 tháng 1, 1819 là đi xuống Ba Tây, Nam Mỹ, vượt Đại Tây Dương đến mũi Hảo Vọng để đến Batavia (Nam Dương) thuộc Hòa Lan rồi đến Nam kỳ đàng trong. Sau Côn Đảo, Vũng Tàu, đến Cần Giờ; nhưng ở Cần Giờ tàu Franklin gặp khó khăn phải ở đến 5 ngày đợi lấy giấy phép vào Sài Gòn. Khó khăn nhất là từ quan địa phương quấy nhiễu lên tàu lấy đồ, đòi hỏi đồ tặng như rượu, tiền, quà cáp... Nghĩ là tàu phải chờ đợi rất lâu trước khi xin được phép vào cảng Sài Gòn. ông bỏ ra Đà Nẵng (Turon) hy vọng đến Huế để xin được phép. Nhưng khi tới Đà Nẵng, qua tiếp xúc với các quan lại, ông được biết nhà vua đã ra Bắc Hà và qua sự khó khăn về ngôn ngữ truyền thông, ông quyết định đi Phi Luật Tân với hy vọng tìm người thông hiểu tiếng Onam (Cochinchina, đàng trong) rồi sẽ trở lại đàng trong. Ở Manila, ông cũng ngạc nhiên là hầu như không ai biết về xứ đàng trong, một vương quốc cạnh đấy. Ông chỉ gặp 3 người có chút kiến thức: một người Đan Mạch, đã sống ở Sài Gòn vài năm nhưng vì đã lâu rồi nên không còn nhớ gì nhiều, một thủy thủ già Tây Ban Nha đã từng buôn bán ở sông Cam Bốt (các sông ở nam kỳ như Cửu Long) và có thấy người đàng trong và nghe nói vê xứ đàng trong. Và một ông cha, giáo sĩ, đã từng ở địa phận Huế một thời gian ngắn trong thời nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh, và đã từ đấy thoát về đây. Cả ba không ai biết tiếng Onam và không biết gì nhiều về đất nước này hay cho thông tin hữu ích về xứ sở này. Tuy nhiên họ đều cho biết ý kiến không thuận lợi về đặc tính của chính phủ và người dân Onam. Những khó khăn và nản chí mà chính ông đã gặp khi đến đàng trong ở Cần Giờ và Đà Nẵng dường như trở thành hoàn toàn khi nghe những người này nói về đàng trong. Ông sửa soạn đến Canton (Quảng Đông) lấy hàng thay vì lấy ở Manila trên đường về Mỹ thì xảy ra một sự kiện may mắn hi hữu và không ngờ đã làm ý nghĩ viếng đàng trong của ông quay trở lại. Số là khi tàu ông được coi là tàu Mỹ đầu tiên đến Cần Giờ, mong đi ngược dòng sông Đồng Nai viếng Sài Gòn nhưng đã phải ra đi Đà Nẵng, thì một tàu Mỹ khác vài ngày sau tình cờ cũng đến với cùng mục đích. Tàu này là tàu Marmion từ Boston, một cảng gần Salem, do thuyền trưởng Oliver Blanchard điều khiển. Lúc bấy giờ, vị phó vương (tổng trấn Lê Văn Duyệt) nhận được tin là tàu của John White đã có mặt ở sông, nên ông đã gởi một người thông dịch bản xứ, biết nói tiếng Bồ Đào Nha phương đông, đến Cần Giờ với mục đích là truyền thông được với bất cứ tàu nào sau đó đến. Đúng vào dịp đó, tàu Marmion đến, trên tàu có một thư ký và thủy thủ nói được tiếng Bồ Đào Nha. Sau một vài khó khăn, thuyền trưởng Blanchard được phép vào Sài Gòn trên tàu của làng Cần Giờ. Nhưng ông không thể mua bán gì được vì số tiền vàng (doubloon) Tây ban Nha mà thuyền mang theo không được người Onam biết mặc dầu chúng có giá trị hơn tiền dollar Tây ban Nha. Một vài người bản xứ chịu nhận tiền vàng nhưng với giá rẻ. Thuyền trưởng quyết định không vào cảng để buôn bán vì sẽ trả giá cắt cổ tiền thuế, tặng phẩm, quà cáp. Người Onam bảo đảm với Blanchard là giá đường và các hàng khác rất rẻ, và nếu tàu có mang tiền dollar Tây ban Nha thì sẽ có hàng ngay lập tức. Nhưng vì chỉ có tiền vàng Tây ban Nha nên tàu Marmion quyết định đi Manilla để mua hàng thay vì ở Sài Gòn. Thuyền trưởng Blanchard bị bệnh và mất khi tàu vừa rời Cần Giờ. Ở Manilla thuyền trưởng John White tàu Franklin gặp người thay thế Blanchard trên tàu Marmion và bàn tính cùng đi trở lại Sài Gòn, sau khi tiền vàng trên tàu Marmion được đổi qua dollar Tây ban Nha ở Manila. Trở lại Vũng Tàu và Cần giờ lần này ở cửa sông ông thấy nhiều cá heo sông sống ở nước ngọt (fresh water river dolphin) màu hồng (ngày nay như ta biết không còn cá heo sông ở sông Sài Gòn - Đồng Nai nữa, chỉ còn một ít gần tuyệt chủng ở sông Cửu Long), sau vài ngày chờ đợi cuối cùng được phép cho vào cảng buôn bán nhưng với điều kiện là ngoài tiền thuế phải trả do vua chỉ định, phải có tặng phẩm như là thông lệ bắt buộc (gọi là sagouetes, quà triều cống) cho ngài phó vương và các quan lại. Mặc dầu chấp nhận nhưng White muốn gợi lên vấn đề triều cống khi gặp phó vương vì ông không nghĩ đó là thông lệ tốt cho sự buôn bán có lợi cho cả hai bên. Sau bao nhiêu thăng trầm, tàu Franklin và Marmion cuối cùng cũng vào đến cảng Sài Gòn. John White và đoàn tùy tùng lên bờ đi qua chợ giữa sự tò mò, bu quanh của dân cư, ồn ào đủ loại chó chạy rông, vào thành qua cửa nam để diện kiến vị phó tổng trấn (lúc đó là Huỳnh Công Lý). Ông mô tả như sau, sau khi qua khỏi khu chợ: "Ở cuối đường đầu tiên, tuy vậy, khung cảnh trở thành dễ chịu hơn. Con đường chúng tôi đi khúc khuỷu che khuất và hai bên đường là hai tường đá chắn, dài khoảng một phần tư dặm qua một dốc ngược vừa phải, che phủ bởi cây xanh, chúng tôi chẳng bao lâu đến một cầu đá, lúc mà tiện dân, hai chân và bốn chân (chỉ chó rông) đã xa chúng tôi; cầu bằng đá và đất, băng ngang qua một hào nước sâu và rộng, dẫn tới cửa đông nam của thành, hay đúng hơn một thành phố quân sự; vì tường của thành, bằng đá và đất, cao khoảng 20 feet (8m), tường dầy vô cùng, bao quanh khu hình tứ giác dài khoảng 3 phần tư dặm mỗi cạnh. Nơi đây là nơi vị phó vương (tổng trấn) và các lãnh binh cư ngụ, và có rất nhiều doanh trại rộng tiện nghi, đủ chứa 50000 binh lính. Dinh hoàng gia ở ngay giữa thành, trên khu đất xanh tươi đẹp rộng khoảng 8 acres (mẫu anh, 0.4 hecta) bao quanh bởi hàng rào cọc cao." Dinh hoàng gia xây bằng gạch, nền gạch trên mặt đất khoảng 6 feet (2.5m) được dành cho vua khi đến ngự. Dinh bỏ trống vì vua Gia Long đã chuyển về Huế, nên dinh được dùng làm kho dữ liệu chứa giấy tờ và dấu ấn hoàng gia. Hình 4. Sài Gòn – Thành Quy (Gia Định thành) 1795, vẽ bởi Jean-Marie Dayot năm 1799. Dayot (tên người Việt gọi ông là Đồng Nai) là một trong những sĩ quan hải quân Pháp (như người em Felix Dayot, Jean-Baptiste Chaigneau (Nguyễn Văn Thăng), Phillipe Vannier (Lê Văn Lang hay Nguyễn Văn Long), Victor Olivier (Ông Tín)) giúp Nguyễn Ánh trang bị hải quân và chỉ huy hai tàu Dong-nai và Prince de Cochinchine tham dự đánh Tây Sơn. J. M. Dayot bị đắm tàu chết ở vịnh Bắc Hà (Tonkin) năm 1809. Đi qua cửa vào dinh tổng trấn, trong dinh, trên bục gỗ quí, giống như gỗ hoàng dương bóng loáng như gương là vị phó tổng trấn "Trên bệ cao này, vị phó tổng trấn ngồi chân xếp hai bên kiểu người Á, và vuốt râu trắng lưa thưa; ông là một người già ốm, da nhăn, rất thận trọng mà điệu bộ, mặc dù có nở nụ cười không đáng tin cậy, không cho ta thấy một điều gì công chính và thành thật. Trên các bục hai bên là các quan, lãnh binh đủ chức tước được ngồi xa hay gần nhân vật oai phong đại diện đất nước tùy theo chức hạng." Trong thành về phía đông bắc có 6 tòa nhà lớn, bao bọc bởi hàng rào cọc, mỗi tòa nhà dài khoảng 120 feet chiều dài và 80 feet chiều ngang. Đây là những nhà kho chứa lương thực, vũ khí, đạn dược…Rải rác trong thành là các nhóm nhà cho binh sĩ giữa những cây vùng nhiệt đới trông rất đẹp mắt, trong đó có vài bụi cây hương hải ly (castor). Nhiều đường đi rất dễ chịu với hai bên thường trồng các cây bông sứ (palmaria) khi nở hoa trắng vào tháng 10 và tháng 11 tỏa hương thơm xa khắp nơi. John White cho biết dân số Sài Gòn là 180.000 trong đó có khoảng 10 ngàn người Hoa. Số liệu này ông cho biết là từ nguồn thông tin xác đáng và chính thức mà ông nhận được từ cha Joseph và chính từ vị tổng trấn Gia định thành Lê Văn Duyệt khi tổng trấn trở lại Sài Gòn từ Huế không lâu sau khi John White đến Sài Gòn. Ở phía tây của thành phố là hai chùa người Hoa, chùa người Việt (Onamese, chữ dùng của John White chỉ người Việt và Onam xứ sở Việt đàng trong) ở rải rác khắp thành phố. Ở chính giữa thành phố có một nhà thờ do hai giáo sĩ Ý cai quản, họ có vài học trò và nhiều người theo đạo. Theo các giáo sĩ và tổng trấn Gia định thành thì ở nam kỳ (đây chỉ cả miền trung và nam việt nam trừ Đông kinh miền bắc) tín đồ công giáo có 70 ngàn và ở địa phận Đồng Nai là 16 ngàn. Sau khi diện kiến vị phó tổng trấn, đoàn John White viếng chợ ngoài thành, đi xem đường phố. Ông mô tả chi tiết sinh hoạt, con người đủ loại tầng lớp trong xã hội, cũng như lần trước đi đâu đoàn của ông cũng bị mọi người bu quanh, thích thú tò mò sờ mó đến nỗi khi về thuyền, quần áo mọi người tơi tả. Trong sách John White nói rõ gạo là sản phẩm chiến lược quan trọng, không ai được xuất cảng, người đi tàu xa chỉ được cung cấp đúng khẩu phần cho thủy thủ đoàn trong thời gian đi mà thôi. Ông thấy một tàu kiểu Siam của người bản xứ trên cạn gần sông, và được biết là thuyền trưởng và nhân viên đã bị tử hình và thủy thủ đoàn bị giam vì đã vi phạm điều luật xuất cảng gạo này. Ông cũng viếng thăm khu đóng tàu ở phía gần sông Sài Gòn và rạch Thị nghè, ông thán phục kỹ thuật đóng tàu và chất lượng của gỗ quí làm tàu từ nguồn tài nguyên trù phú ở đàng trong. Ông cho biết thành phố Sài Gòn lúc đầu là ở phía cực tây của địa điểm gần thành Sài Gòn. Tức là Chợ Lớn thành lập trước và là Sài Gòn xưa. Vì thế phía Chợ Lớn có những kiến trúc cao tốt đặc sắc hơn. Một vài con đường ở Chợ Lớn được lót bằng đá phiến; các bến tàu làm bằng gạch dài gần một dặm dọc theo sông. Thành Sài Gòn và xưởng hải quân, trừ một vài chòi cho các thợ máy, là duy nhất có cư ngụ ở phần phía đông; nhưng sau khi chiến tranh Nguyễn Ánh - Tây Sơn chấm dứt, dân cư phát triển nhanh chóng về phía đông cho đến khi cả hai nơi trở thành một thành phố, lên đến bên kia rạch Thị nghè bao bọc thành Sài Gòn và công xưởng hải quân. Cũng theo John White ở Chợ Lớn có con kênh vừa được đào: "Ở phía tây của thành phố, một sông hay kênh vừa được đào (thật ra chưa hoàn tất khi chúng tôi đến) dài 23 dặm Anh, nối với một nhánh của sông Cam Bốt, từ đó thông thương qua đường thủy với Cam Bốt, mà người Việt gọi là Cou-maigne (Cao Miên). Kênh này sâu 12 feet (5m), rộng 80 feet (32m), được đào xuyên qua rừng đầm lầy lớn bao la, trong vòng 6 tuần. Hai mươi sáu ngàn dân công, ngày và đêm đào công trình vĩ đại này, với 7 ngàn người chết vì cực nhọc hay bệnh. Hai bên bờ kênh này đã đựợc trồng các cây hoa bông sứ, là cây mà người Việt rất thích.". Kênh này chính là kênh An Thông Hà do Huỳnh Công Lý đứng ra huy động xây theo lệnh vua Gia Long. An Thông Hà, thay thế Kinh Ruột ngựa (Mã Trường Giang) đã bị cạn lấp, nối rạch Tàu Hủ xuống sông Rạch Cát và từ đó xuống Cần Giuộc, Tân An và sông Vàm Cỏ và các tỉnh miền Tây. Cuôi cùng sau khi tổng trấn Lê Văn Duyệt hoàn thành công tác ở Huế (năm sau 1820 thì vua Gia Long mất) trở về Sài Gòn, John White cũng được diện kiến với Lê Văn Duyệt trong dịp bá quan văn võ nghênh đón ông tổng trấn và ngày hôm sau tại chính dinh thự của ngài tổng trấn trong bữa tiếp chuyện và khoãn đãi dành riêng cho phái đoàn ông John White “…Đúng thời điểm hẹn, chúng tôi đến dinh phó vương, ngài phó vương (vice-roy, chỉ Lê Văn Duyệt) đã có chủ đích trong dịp này không tiếp khách bản xứ, chỉ có những nhân viên thân cận giúp việc trong dinh ông, độ khoảng 40 người và 4 thông dịch viên của chính quyền là Antonio, Mariano, Joseph và Vicente, họ là người bản xứ theo đạo. Chúng tôi được tiếp đón rất thân tình và chi li. Ngài phó vương lúc này đã bỏ qua tất cả những “hãnh diện, nghi lễ, nghi thức” của chức vụ ngài, ngài nói chuyện thoải mái tự do với chúng tôi; và sự háo hức tò mò của ngài, sự chọn lựa sáng suốt đúng đắn các đề tài trong sự tìm hiểu thẩm tra, chứng tỏ ông có một đầu óc mở rộng, thúc đẩy bởi một sự khao khát không nguôi về tri thức và thông tin; và những lời bình chính chắn của ông trong nhiều đề tài đã thuyết phục chúng tôi về khả năng thiên tư cao độ của ông. Chiến tranh, chính trị, tôn giáo, phong tục, cách xử sự của các nước Âu châu là những đề tài mà ông rất chú trọng; và khi nghe là tôi từng phục vụ trong hải quân ở nước tôi, ông đặc biệt tập trung tìm hiểu hỏi tôi về các chiến thuật hải quân và chiến trận hàng hải. Khi sự tò mò của ông đã được thỏa mãn về các chi tiết này, ông vui vẻ khen ngợi sự thông minh, kỹ năng và năng lực của người “Olan” (Tây dương), và, với một cảm xúc buồn tủi, ông lấy làm tiếc phàn nàn về tình trạng còn thiếu văn minh của nước ông. Sau hai giờ đàm đạo rất thích thú, ông thông báo chúng tôi là có một buổi tiệc giải lao đãi chúng tôi theo kiểu Âu, dưới sự điều hành của Antonio, thông dịch viên trước đây đã ở Macao. Trên một bàn nhỏ ở giữa sảnh đường có đầy các dĩa, chén chứa đủ loại thức ăn Á châu, gà, vịt luộc, cơm, khoai, khoai lang, heo nướng, cá, bánh và cá giầm muối… Antonio đã tìm được ở đâu đó, có thể từ Pasqual, hai con dao và một nĩa cũ, để chúng tôi chia nhau dùng để cắt thịt, và sau đó dùng các lông nhím để cắm đồ ăn và bỏ vào miệng. Ngay lúc đầu buổi tiệc, ngài phó vương đã thân tình chăm sóc chúng tôi, cầm chai rượu mà chúng tôi đã tặng ngài trong một tay còn tay kia cầm một ly, ông mời chúng tôi uống không ngưng nghỉ cho đến khi chúng tôi van xin được tha, lúc đó ông mới cho phép chúng tôi nghỉ mệt khỏi sự hiếu khách nhiệt thành, nhưng cản trở của ông. Tuy nhiên, vì sự băn khoăn muốn cho chúng tôi được tận hưởng tất cả những cao lương thú vui trước mắt chúng tôi, ông đã tiếp tục ép chúng tôi ăn uống, và ông đã tự tay cầm đưa vào miệng chúng tôi đủ loại thức ăn, cá, gà, cơm, cơm chiên, cà ri, thịt heo, khoai, kẹo bi, v.v… không cần thứ tự, cho đến khi mắt chúng tôi bắt đầu lồi ra khỏi tròng, và nước mắt chảy liên tục xuống má chúng tôi. “ Sự hiếu khách, luôn mong học hỏi, phát triển hiện đại đất nước của Lê Văn Duyệt lại là tương phản với hầu hết những quan lại, nhân viên viên chính quyền dưới quyền ông ở Gia Định. John White đã kể lại các chi tiết về hành xử của quan lại, nhân viên cũng không khác như tình hình ngày nay là bao. Tàu Franklin và Marmion đậu tại cảng và phải trả thuế tính theo trọng tải, được ước lượng qua chiều ngang gần mũi tàu. Tàu Franklin được tính ngang gần mũi tàu 17.6 covids (1 covid khoảng 40cm) hay 176 tấc (đơn vị thời đó) với giá 160 quan (1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, đồng làm bằng kẽm (zinc) có lỗ hổng ở giữa để tiện cho việc xâu lại thành bó. Ngoài ra còn có “bạc đính” tức thỏi bạc lớn bằng ngón tay út và “bạc nén” lớn nặng 375gr có giá trị 16 tiền (piaster) mexicaine, mỗi tiền mexicaine là 7 quan (29 )). Giá trị 1 quan tương đương với 50 cent dollar Tây ban Nha (Spanish dollar). John White than về chi phí tặng phẩm cho quan lại vua chúa, quà cáp cho đủ loại nhân viên từ thuế vụ đến lãnh bình. Riêng thuế lên đến 2700 dollars chỉ riêng tàu Franklin. Vào 9 giờ sáng, trước khi đo đạc để trả thuế, nhân viên thuế đòi phải có rượu uống trước. Sau khi thâu thuế, nhân viên thuế vụ đòi hỏi được đãi ăn, nhậu. Đến 12 giờ trưa, sau khi đã say sưa họ ra về, để lại cho thủy thủ đoàn lau rửa dọn dẹp, mà khó rửa nhất là các bãi nước trầu đỏ ghê tởm mà họ phun từ miệng xuống đầy sàn tàu. Những người đầu tiên muốn tiếp xúc và buôn bán hàng hóa với ông là những thương gia phụ nữ, ông gặp họ khi ông đến nhà của một người Tagal (gốc Phi Luật Tân, đảo Luzon) nói tiếng Tây ban Nha tên là Pasqual định cư ở Sài Gòn khi lấy một người Việt. Pasqual trước đó đã lên tàu Franklin mời đoàn của ông John White đến thăm nhà. John White cho biết đa số các thương gia môi giới hàng là phụ nữ và họ giỏi hơn đàn ông. Trong những lần thương lượng với các nhà buôn để mua đường, ông đã gặp rất nhiều khó khăn về sự thiếu thành thật. Các nhà buôn hôm nay đồng ý giá này nhưng không lâu sau đó thấy có cơ hội lại đưa giá cao hơn nhiều, hứa sẽ có mẫu hàng nhưng không có, luôn luôn tìm cách bóp chẹt... Ông đã gặp phó tổng trấn (chỉ Huỳnh Công Lý) xin giúp để nhanh chóng làm việc, nhưng sau nhiều lần tiếp thì ông mới biết là chính vị phó tổng trấn đã thông đồng và cùng làm chung với các nhà buôn để bắt chẹt, lừa dối và tống tiền gây giá cao so với giá ở chợ, cùng với các quan chức với các thủ tục quan liêu làm tiền bằng mọi cách. Khi phái đoàn John White cho ý kiến về tư cách của các nhà buôn " Có thể ông ấy cảm thấy bị đụng chạm nao núng; nhưng làm sao mà chúng tôi có thể biết, hay đoán là, ngài 'Oung-quan tung keon' (ông quan tổng trấn), người giữ chức vị thứ hai ở Đồng Nai, và đã một lần có vinh dự đại diện cho nhà vua oai nghiêm ở triều đình Bắc Kinh (đây là sự kiến có thật), thực ra là một người nhỏ mọn buôn đường và các hàng khác, thông đồng với các con buôn lặt vặt tầm thường khác để hưởng lợi bằng sự lừa gạt và tống tiền những người nước ngoài, đã dùng hết sức của mình để đến từ xa mong đáp lại những thuận lợi và vui thú trong cuộc trao đổi thương mại thân thiện với họ ?... Sau bữa ăn ngắn, ông ta đứng lên khỏi ghế và trở lại bục ngồi, và ngay lập tức hỏi là chúng tôi có những đồ gì đặc sắc lạ không để cho ông xem; chúng tôi trả lời là không có, vì biết được hậu ý của ông ta; nhưng một trong những người thông ngôn (những người này, nói ra, đều là đểu cáng không biết xấu hổ) nói với ông ta là nó đã thấy trong phòng tôi một khẩu súng săn hai nòng, nên bắt buộc tôi phải đưa ra; sau khi chiêm nghiệm thán phục tài nghệ khéo léo của cây súng; ông ta tỏ ý hạ cố muốn mượn cho chuyến đi săn ngày mai. Tôi đành phải tuân theo ước muốn một cách miễn cưỡng hết sức của tôi; và may mắn đây là cơ hội mà tôi rời nó cuối cùng, không có cơ hội nào khác sau này, bởi vì tôi không bao giờ thấy nó lại nữa, ngay cả những cố gắng sau này trong lúc còn ở đây, tôi cũng không thấy một thoáng của nó, ngài phó tổng trấn tự cho rằng đây là một món quà." Ngày hôm sau, đoàn đến gặp phó tổng trấn về thủ tục trả thuế tàu đậu tính theo tiền Việt. Đoàn muốn trả tiền thuế bằng đô la Tây Ban Nha theo giá thị trường ở chợ nhưng vị phó tổng trấn bắt là phải trả đô la theo giá chính thức mà xê xích 1 đô la là 18 tiền chính thức so với 19 tiền ở chợ. Đoàn thương lượng tìm cách trả thẳng bằng tiền Việt, cuối cùng vị tổng trấn cũng miễn cưỡng đồng ý. Đoàn ông White ra chợ đổi tiền và sâu vào thành bó trong các bao mang đến ngân khố trả mới biết là họ tìm cách làm khó khăn, đóng cửa, đếm sai gian trá, kéo dài thì giờ và ngay cả ăn cắp... Về nhà trọ mướn thì tối đến bị ném đá liên tục mà hướng là từ phía nhà của vị phó tổng trấn bên kia kênh. "Sau khi trả thuế, phái đoàn chúng tôi đến gặp phó tổng trấn với mục đích bàn về vấn đề qui luật triều cống. Vị phó tổng trấn tiếp ở nhà trong một phòng lớn có 1 thư viện nhỏ, một trường kỷ bên cạnh một bục nhỏ mà vị tổng trấn ngồi và một vài đồ đạc kiểu Trung hoa. Ở đây không có lính hậu vệ mà chỉ có hai cậu bé giúp việc, một cậu đứng quạt cho vị phó tổng trấn. Ông phó tổng trấn tiếp khách ân cần mời phái đoàn ngồi với nước trà, trầu và đồ ngọt. Sau khi trả lời thỏa mãn sự tò mò của ông qua các câu hỏi về Âu châu mà tổng trấn cũng coi Mỹ như là thuộc châu này (gọi chung không phân biệt là người ‘Olan’), chúng tôi nêu vấn đề mong muốn không có triều cống. Ông cho chúng tôi biết là có một luật cố định và không thể thay đổi của vương quốc về vấn đề này, mà ông không dám bãi bỏ hay tránh được; và ngay cả nếu ông ta muốn nhưng vì có quá nhiều các giới chức sắc khác cũng có can dự, nên có cố gắng cũng là vô vọng. Sau buổi tiếp chuyện khoảng ba phần tư tiếng đồng hồ, lúc chúng tôi đứng lên ra về thì ông nói gì đó với các người thông dịch, muốn chúng tôi ngồi lại. Các thông dịch nói với chúng tôi là tổng trấn sửa soạn gởi người mang thơ đến cho vua, với các giấy tờ chính thức liên quan đến sự việc chúng tôi đến đây, và muốn biết là chúng tôi có muốn gởi nhà vua quà tặng gì không. Chúng tôi trả lời là có, và biết rằng có một sĩ quan người Pháp đang phục vụ cho vị vua này, chúng tôi xin phép được viết cho vị sĩ quan này. Ông phó tổng trấn chấp nhận ngay. Chúng tôi sau đó ra về hứa là sáng sớm mai quà và lá thơ sẽ có sẵn. Khi chúng tôi trở về tàu, chúng tôi gặp một viên quan quân nhu đi cùng với một viên chức khác; người viên chức này mời chúng tôi đến nhà ông, cũng gần tàu. Sau khi mời chúng tôi nước trà, trầu, etc.., chủ nhà mang ra một chai không chứa mù tạc với hình huy hiệu Vua nước Anh trên tờ nhản hiệu của chai và hàng chữ lớn "Best Durham Mustard" ở phía dưới, và trình thêm một miếng giấy mà trên đó có một phệt dài gì đó. Vệt đó giống như thuốc cao của người bào chế thuốc nhưng màu đen, đã khô không còn mùi hay vị nữa. Cái này họ cho biết là mẫu mà chai này trước đây đã chứa, và hỏi chúng tôi có thứ này trên tàu chúng tôi không. Chúng tôi trả lời là có, và chúng tôi đã mang một vài thứ này để cho vua. nghe vậy, họ rất vui và nói chúng tôi là nhà vua cực kỳ thích thứ này, và đã gói cẩn thận gởi chai không và giấy có hàng mẫu đến từ Huế vài tháng trước như là mẫu để đưa cho người nước ngoài mà nhà vua muốn có hàng như vậy. Đây cũng là mẫu hàng mà họ đã đưa cho chúng tôi hồi ở Đà Nẵng tháng 8 năm ngoái, vì thế khi ở Phi Luật Tân chúng tôi đã mua nhiều hàng này trước khi trở lại Cochinchina. Trở lại tàu, chúng tôi soạn lá thư viết cho ông Vannier, đề đốc của nhà vua ở Huế, nhờ ông đại diện chúng tôi cố gắng thương thảo giảm lượng quà cáp triều cống (sagouète); và trao cho nhà vua bảo kiếm kèm theo bức thơ này. (chú thích dịch giả: Vannier và các sĩ quan Pháp như Chaigneau, Dayot theo Gia Long sau khi được Bá Đa Lộc tuyển ở Pondicherry vừa khi cách mạng Pháp bùng nổ. Vannier đã từng tham dự chiến tranh cách mạng dành độc lập ở Mỹ. Sau này, cũng như Chaigneau, làm quan ở Huế dưới triều Gia Long. Cả hai đều có vợ Việt, con trai Chagneau là Đức Chaigneau, tác giả sách “Souvenirs de Hue”. Không lâu sau khi Minh Mạng lên ngôi với chính sách cấm đạo và thù ghét người ngoại quốc, Chaigneau và Vannier gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng cả hai mang gia đình hồi hương trở về Pháp) Sáng ngày mai, những thông dịch viên và vài viên chức đến đòi hỏi và được trao tặng phẩm cho vua. Họ hết sức vui với cái sáng long lanh rất đẹp, và trang trí của lưỡi gươm, và cán gươm lộng lẫy, các câu thốt ra, "Kaa", "Kaa" (chú thích dịch giả: có lẽ là “kìa”, “kìa”) tỏ vẻ thán phục và ngạc nhiên được lập đi lập lại nhiều lần. Lá thư gởi ông Vannier sau đó được đưa cho họ cùng với một chục chai mù tạc cho nhà vua, khi họ đi, mà họ chỉ ra đi sau khi đã xỉn và uống rất nhiều cốc rượu.”
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:18:12 GMT 9
Trong thời gian ở Sài Gòn, đoàn ông White mướn một nhà, do một góa phụ người Việt, vợ một thương gia Bồ ở Macao làm chủ. Nhà ở dọc bờ một con kênh trong Chợ Lớn nơi có nhiều người nước ngoài trú khi họ đến Sài Gòn vì nơi đây có nhiều hàng hóa, kho chứa hàng và nhà buôn. Ông đã đi thăm những kho chứa hàng của người Hoa dọc theo kênh để xem nhưng gì có thể mua được. Đối diện với nhà mướn này bên kia kênh là nhà của vị phó tổng trấn (Huỳnh Công Lý). Ông được biết là khi tổng trấn (Lê Văn Duyệt) ra Huế để trả lời về các vu khống nặc danh là lạm dụng chức quyền, vị tổng trấn thay vì bị khiển trách lại được vua Gia Long an thưởng, trở về an toàn sau khi đã giải bày tình hình.
Trong hồi ký của John White viết về vị tổng trấn (Lê Văn Duyệt) và phó tổng trấn (Huỳnh Công Lý), ta thấy rõ đặc tính, tư cách và tầm nhìn của hai người hoàn toàn khác nhau như một trời một vực. Về chức vụ, Lê Văn Duyệt là tổng trấn và là quan võ, trong khi Huỳnh Công Lý là phó tổng trấn và là quan văn. Lê Văn Duyệt rất chính trực, cai trị nghiêm minh đôi lúc có phần độc đoán thì Huỳnh Công Lý rất tham ô, lươn lẹo và hèn nhát. Lê Văn Duyệt hiểu rõ tình hình trong và ngoài nước (ông biết rõ diễn biến tình hình của Napoleon và chính trị ở Âu châu đương thời, hàng hải, khoa học kỹ thuật hiện đại... và thường đàm đạo với những người nước ngoài), mong muốn phát triển và khuyến khích thương mại, thường than phiền về sự yếu kém, suy nghĩ thấp và thiển cận nhưng vẫn tự mãn của người Việt trong khi Huỳnh Công Lý thì lại hoàn toàn ngược lại. Không lạ gì mà sau này Lê Văn Duyệt đã xử tội Huỳnh Công Lý, dù lúc đó Huỳnh Công Lý là cha vợ của vua Minh Mạng.
Qua nhiều thử thách và kinh nghiệm, ông nói về tính cách cá biệt của người Cochinchina trong sự giao dịch buôn bán như sau:
“Họ hoàn toàn dựa vào lòng tin cậy. Luôn muốn gạt và tìm lợi thế trên chúng tôi, sự kiên trì bướng bỉnh cố được hơn bằng cách thay qua đổi lại và bằng các thủ đoạn, mà thật ra họ có thể dễ dàng đạt được bằng sự thoáng mở trong suốt và thỏa thuận công bình; những thủ tục, hình thức nhiêu khê trong đủ loại giao dịch thương mại, cho đến những giao dịch tầm thường nhất; sự bất định trong sự đồng ý coi như là sau cùng sau thương lượng (với hy vọng mỏng manh sẽ làm người mua hết kiên nhẫn, và làm người mua phải trả thêm một chút, cũng đủ để làm vô hiệu những qui định hợp đồng bằng miệng), và không có đường khiếu nại, trừ khi có hợp đồng được ghi ra giấy, mà nói ra không bao giờ có được, cho đến khi mọi phương thức được dùng, mọi cách lạm thâu ép buộc được đưa ra và dùng hết sức để lợi hơn một chút ít; những phiền nhiễu này cộng với sự tham lam, không có niềm tin, độc tài, và đặc tính chống ghét thương mại của chính phủ, cho đến khi nào mà các cơ nguyên này vẫn còn, sẽ làm cho Cochinchina (xứ đàng trong) là một nước ít được ưa thích nhất cho những nhà thám hiểm thương mại. Những lý do này cũng làm cho người Nhật từ bỏ thương mại: họ đã đẩy những người Bồ Đào Nha ở Macao ra khỏi xứ, chuyển thương mại qua những kênh khác, và nhanh chóng hàng năm giảm thông thương với Trung Quốc và Siam. Những người có thiện ý, những nhà doanh nghiệp kỹ nghệ, và nói chung cả thế giới văn minh, có thể thấy tình trạng khốn khổ hiện nay của một đất nước đẹp trời cho này, không có gì hơn là tiếc và buồn cho nó.”
(chú thích dịch giả: Lúc này Nhật vẫn còn bế quan tỏa cảng chống thương mại)
John White kể lại ngày cuối ở Sài Gòn trước khi hai tàu Franklin và Marmion nhổ neo ra đi. Qua những gì ông viết trong nhật ký, ta thấy tình cảm quí trọng của ông cho vị tổng trấn Gia Định thành, Lê Văn Duyệt sau nhiều tháng sống ở đây, chứng kiến bao nhiêu thăng trầm và kinh nghiệm với nhiều tầng lớp trong xã hội:
“Sau khi trả tiền hết các đòi hỏi, chúng tôi đến gặp phó vương để từ giã và lấy các chữ ký cho giấy tờ để chúng tôi ra đi cũng như biên nhận thuế tàu neo tai cảng Sài Gòn, quà triều cống, v.v... Ngài phó vương bày tỏ rất hối tiếc về những gì chúng tôi đã gặp khó khăn khổ sở ở đây, và than phiền về sự mong muốn ông có được quyền lực để diệt hết những nguyên cơ của những sự than van của chúng tôi, ông mong rằng sẽ được gặp lại chúng tôi sớm lần nữa ở Sài Gòn, và nói lời từ giã chúng tôi với nhiều xúc động và quan tâm.
Cảm tưởng sau khi giã từ con người vĩ đại này, mang đến trong lòng tôi một sự hối tiếc vô cùng là tình huống đã không trao gậy trị vì của bán đảo tốt đẹp này vào tay ông, một người biết hơn nhiều làm sao mang nước này thành một nước vinh quang và hạnh phúc, hơn vị vua độc tài hiện nay, mà con tim ích kỷ chỉ đập để đáp ứng với cái đầu óc lạnh và dễ sai trái bao quanh bởi một mũ miệng vương quyền.
Bây giờ là lúc chúng tôi đi theo vị quan quân nhu, và hai vị quan khác đến điện hoàng gia, vào một phòng rộng rãi và nghiêm trang với nền nhà gỗ đánh bóng. Trên tường, ở ba bên treo các màn chiếu và ở mặt thứ tư là một ngăn chia bằng gạch tráng vôi, ngăn với một phòng tiếp khách (saloon) rộng hơn mà chúng tôi được dip ghé mắt nhìn vào. Chúng tôi không thấy trong đó có gì đặc biệt; ngoại trừ một tủ lớn bằng gỗ hồng mộc, còn lại hoàn toàn không có đồ đạc hay vật cố định nào, gian nhà tối và ẩm hầu như hoàn toàn đóng lại. Từ cái tủ trên, một hộp bằng gỗ mun trang trí đẹp được lấy ra, chứa những con dấu lớn được ấn trên các giấy tờ của chúng tôi chỉ với sự hiện diện của ba hay bốn người lính canh gác đi chậm và yên lặng qua lại dưới ánh sáng yếu ớt của hoàng hôn trong điện cô đơn này.
Sáng ngày hôm sau, 30 tháng 1 (1820), chúng tôi nhổ neo và ra sông. Ngày kế, dòng nước xiết làm tàu Marmion trôi tới một giải đất ngầm như đã đề cập trước đây khi vào Sài Gòn, bắt buộc tàu phải thả neo chờ thủy triều lên. Khi đi qua 'Seven Mouths" ("bảy miệng", khúc sông Đồng Nai có nhiều cửa rạch chảy ra biển), chúng tôi lại nghe tiếng hòa tấu của đàn cá dưới lòng tàu. Và ngày 1 tháng 2 lúc 8 giờ sáng chúng tôi thả neo đối diện với Cần Giờ, và thả xuống hai người lính đi kèm chúng tôi từ Sài Gòn, và tiếp một quan văn ở Cần Giờ. Tôi cũng nên nói ở đây là tất cả các trạm lính canh ở dọc bờ biển xứ này, nơi mà khi ở chổ đất thấp thì có các bục được dựa trên bởi 4 cột cao từ 20 đến 40 feet (9 đến 18 m) là những đài quan sát mà một người lính trên đó có thể quan sát tất cả những gì trong tầm nhìn ở dưới. Ở Cần Giờ cũng có 1 đài như vậy.
Lúc 8 giờ sáng hôm sau, chúng tôi thả neo ở Vũng Tàu để chờ đợi tàu Marmion, và cũng để dựng lại cột buồm chính vì cây cột đang dùng đã bị bật sút ra. Ngày mùng ba, tàu Marmion gặp lại chúng tôi.
Và lúc 3 giờ chiều, chúng tôi nhổ neo ra biển cả. Một dải san hô ngầm, dưới mặt nước ít nhất khoảng 4 sải (7.2m) ở phía nam của mũi Cape St James (Cap St Jacques hay mũi Vũng Tàu) khoảng hơn 2 dặm, nhưng không coi là nguy hiểm cho tàu thương mại.
Tôi nghĩ tôi sẵn sàng tin, khi tôi nói ra, là một vài giọt nước mắt của chúng tôi đã nhỏ xuống, khi chúng tôi rời khỏi một đất nước, nơi mà chúng tôi đã gặp quá nhiều trục trặc gian nan và khó khăn; chỉ có vài người mà chúng tôi kính trọng thật sự đó là vị phó vương (tổng trấn), Cha Joseph và ông già Polonio. Pasqual là người thành thật nhưng tính khờ dại, và hoàn toàn bị lấn áp bởi một người vợ mưu mô và tham lam. Joachim (đã lấy được thông hành và sắp sửa rời khỏi nước để đi Siam, khi chúng tôi ra khơi) mặc dầu anh ta đã đi nhiều nơi ở Á châu, một người có nhiều nhận xét đáng kể và có trí nhớ lâu, và nói được nhiều ngôn ngữ phương đông, mặc dầu không hoàn toàn, lại thêm biết được tiếng Pháp và vài từ tiếng Anh, vẫn chưa phải là con người đáng quí trọng, vì ngoài nguồn gốc xuất thân từ một dân tộc nơi có một số lượng lớn những thói xấu không đáng kể có nguồn gốc Âu châu, ông ta lại ghép thêm những mầm trồi, từ đất màu mỡ nhất, của các phần xấu mất phẩm cách Á châu. ”
5. Sài Gòn qua nhận xét của bác sĩ George Finlayson (1821)
Sau John White không lâu, năm 1821 John Crawfurd được toàn quyền Anh ở Ấn độ cử là sứ giả đến Siam và Cochinchina (đàng trong), ông đã tường thuật chi tiết những gì ông hoạt động và chứng kiến ở Sài Gòn và Đàng Trong trong năm 1823. Ông cũng gặp một số nhân vật mà John White trước đó đã tiếp xúc, như tổng trấn, Antonio (thông dịch viên)… ông cho biết những sản vật mà Nam Kỳ sản xuất, lương của lính là một quan một tháng,… Tuy nhiên vì đây là bản tường trình chính thức nên những chi tiết về đời sống xã hội ở Sài Gòn không có được chi tiết, cho ta nhiều thông tin như là những gì ghi chép của bác sĩ và nhà thiên nhiên học đi cùng với ông John Crawfurd là bác sĩ và nhà thiên nhiên học George Finlayson.
Bác sĩ Finlayson đã viết hồi ký về chuyến đi và sau khi ông mất trên đường trở về Anh, quyển hồi ký được lưu lại trong viện bảo tàng của công ty Đông Ấn cho đến khi được in và xuất bản vào năm 1826 (21).
Một đoạn Finlayson mô tả là sau khi đoàn của ông được đón tiếp từ trên tàu đậu ở Cần Giờ xuống ghe vào Sài Gòn, và được cho ở trong một nhà có lính canh chung quanh. Ông có gặp và tiếp một nhà thiên nhiên học người Pháp tên là M. Diard, đã sống ở đây hơn 1 năm, ăn mặc như người Việt . Sau đó ngày 30/8/1821, ông đã tự đi ra ngoài sau khi được lính canh cho phép ông và người họa sĩ trên tàu được ra. Ông quan sát ở khu chợ ở Bến Nghé như sau:
“Những sản phẩm mà người bản xứ dùng đều có rất nhiều ở mọi cửa hàng. Có lẽ không có nước nào sản xuất nhiều trầu hay cau như nơi này. Lá trầu ít dồi dào hơn; cá khô và tươi; gạo, khoai lang chất lượng rất tốt; ngô bắp Ấn độ (Indian corn), măng (tre) đã được nấu chín; hạt lúa đã nảy mầm, đường thô, chuối lá, cam, bưởi, mãng cầu, lựu, và thuốc lá, có rất nhiều. Heo được bán ở tất cả các cửa tiệm, và gà trong tình trạng tốt đều bán rất rẻ. Thịt cá sấu(*) rất được chuộng, và người thông ngôn Hoa kiều của chúng tôi nói rằng ở đây cũng có bán thịt chó.
Các cửa tiệm rộng đủ thuận tiện, trong đó các hàng được trưng bày thuận lợi nhất. Một trường hợp không thể bỏ qua, vì nó cho thấy một sự khác nhau rõ ràng về thị hiếu và phong tục của dân ở đây với các dân ở các nước ở Ấn độ. Ở những nước này, trong rất nhiều trường hợp, sản phẩm chế tạo của Âu châu tràn lấn sản phẩm bản xứ; và anh khó có thể kêu một tên sản phẩm Âu nào mà không tìm thấy ở các cửa tiệm. Ở đây trái lại, trừ duy nhất ba hay bốn thùng chai với thủy tinh thô, không có một sản phẩm nào tìm thấy được mà giống chút ít gì sản phẩm Âu châu. Một tiêu chuẩn thị hiếu khác thống lãnh ở đây. Vải bông rất hiếm. Vải kếp đen, satin và lụa duy nhất là được dùng; đa số là được sản xuất từ Trung quốc và Bắc kỳ (Tonkin), ở đây hầu như rất ít hay không có kỹ nghệ chế tạo nào.
Những sản phẩm mà họ làm không có nhiều. Tôi có thể liệt ra vài thứ như sau: các loại chiếu đẹp và thô, đan để làm buồm cho tàu và ghe, các giỏ thô, các hộp mạ vàng và đánh bóng véc ni, dù, các túi lụa đẹp, chúng được dùng phổ thông mà cả đàn ông và đàn bà đều mang theo mình; đinh sắt, và một loại kéo thô sơ. Tất cả những thứ khác đều được nhập từ các xứ sở chung quanh. Để đổi lại các hàng nhập, xứ của họ có gạo rất nhiều, bột gia vị bạch đậu khấu, tiêu, đường, ngà voi, trầu, etc… Ở đây có một vài người Hoa giàu có, họ buôn bán trãi rộng khắp nơi trong khu vực này; còn lại đa số là rất nghèo, chỉ một số ít có điều kiện buôn bán nhưng trong một giới hạn rất nhỏ. Rất ít các tiệm trong phố buôn bán chứa đựng những hàng có giá trị hơn giá tiền mua bốn chục hoặc sáu chục đô la, và đa số hàng không có giá bằng nửa số tiền trên.
Khó có thể tưởng tượng là một dân số lớn lao như vậy, sống chung và hiện hữu trong hình thái này mà doanh thương lại quá nhỏ bé: thật ra có hai thành phố ở đây, mỗi thành phố lớn bằng như là thủ đô của Xiêm La (Siam). Một thành phố xây dựng gần mới đây gọi là Binghe; và thành phố kia ở cách đó khoảng một hay hai dặm, gọi là Sài Gòn. Thành phố đầu ở cạnh một thành, được xây dựng các năm gần đây, dựa trên nguyên lý thành quách của Âu châu. Nó được dựng trên đồi có dốc là, có hào nước và tường thành cao, nhìn xuống chung quanh vùng. Thành có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng nửa dặm. Thành chưa hoàn tất xây xong, không có ô cửa lỗ châu mai, và cũng không có các khẩu đại bác trên tường thành. Đường ngoành vòng quanh lên thành rất ngắn, và lối đi vào cổng thành thẳng tắp; các cửa thành được làm rất đẹp và trang trí theo kiểu Trung Hoa. Chúng tôi không lấy được thông tin gì về dân số của hai thành phố này. …“
((*) Cá sấu xưa kia có nhiều ở sông Đồng Nai từ cửa Cần Giờ đến thượng nguồn mà các tác giả Pháp cuối thế kỷ 19 còn ghi nhận. Ngày nay chúng chỉ còn rất ít ở bầu Sấu, trong vườn quốc gia Nam Cát Tiên, thượng nguồn sông Đồng Nai)
Finlayson nói rõ có hai thành phố cách nhau khoảng một hay hai dặm: Binghe (Bến Nghé) vừa mới thành lập và Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) lớn hơn và đã thành lập trước lâu. Như vậy Sài Gòn là tên của thành phố Chợ Lớn ngày nay. Và nguồn gốc của từ “Sài Gòn” chắc là bắt nguồn từ vùng Chợ Lớn. Gia Định thành thông chí cũng như Đại nam nhất thống chí cũng có nói: "Chợ Sài Gòn cách phía nam trấn (tức thành Bát quái) 12 dặm". John Crawfurd cũng viết: "Thành phố Saigun gồm hai thị tứ tách biệt nhau, cách nhau 3 dặm. Pingeh (bến nghé) là lỵ sở cai trị và thành trì, nằm ở phía tây bờ sông lớn, còn Saigun đích thực thì nằm cạnh sông nhỏ thông liền với Pingeh" (19).
Finlayson đã tả một buổi viếng thăm Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) như sau:
“Ngày 1 tháng 9 - Dường như là vị tổng trấn Sài Gòn không có gì phủ nhận về đề tài của các giấy tờ đã đưa trình lên hôm qua; một viên quan hôm nay trở lại để lấy các bản sao, nói rằng các giấy tờ đã trình lúc ban đầu đã được gởi ngay lập tức đến triều đình. Ngay sau khi các bản sao đã được đưa cho viên quan, chúng tôi đi lên tàu với ông Diard để viếng Sài Gòn. Khoảng cách của thành phố này khoảng 3 dặm cách thành. Nhưng trên đường đến thành phố phần lớn có nhiều nhà dọc theo hai bờ sông. Có ít ghe và các tàu đi biển là do ở cuối mùa. Số lượng tàu đi qua đi lại tuy vậy rất đáng kể. Vùng đất chung quanh đây cho thấy rất là màu mỡ; các bờ sông rạch được che phủ bởi các cây cau và cây dừa, chuối, mít và những cây ăn trái khác. Rất nhiều các con rạch đi lại đan xéo cắt ngang vùng đất này ở đủ mọi hướng, tạo ra mọi phương tiện để gia tăng kỹ nghệ thương mại.
Ở đây, cũng giống như ở Xiêm La, các nghề và việc cực nhọc đều do đàn bà làm, và các ghe tàu trên sông thông thường là do những người đàn bà chèo lái. Một thông lệ, không được "ga lăng" cũng như bất công, được áp dụng thường thấy ở đây cũng như ở Xiêm La, là chỉ bắt đàn bà trả tiền khi đò ghe chở khách qua sông rạch còn đàn ông đưa qua thì không tốn tiền. Lý do biện hộ cho thông lệ này là đàn ông tất cả đều được tuyển dụng làm dịch vụ cho nhà vua. Rất là đáng tiếc, khi thấy rằng một số rất lớn đàn ông ở nước này được xử dụng trong những nghề hoàn toàn không giúp ích, sản xuất gì cho xứ sở, mà còn gây thiệt hại cho kỹ nghệ quốc gia. Tất cả mọi viên quan dù nhỏ bé cũng đều có nhiều người hầu hạ.
Thành phố Sài Gòn được xây trên một nhánh đáng kể của con sông lớn và trên các bờ của hằng hà các kênh rạch. Nó là trung tâm thương mại của tỉnh màu mỡ này. Thành phố Bingeh (Bến Nghé), trong khi đó ít bận tâm theo đuổi mục đích thương mại này. Một vài di dân từ Trung Hoa buôn bán lớn ở một mức độ qui mô vượt bực rất đáng kể, nhưng còn người đàng Trong (Cochin China, chỉ người Việt) thì đa phần là quá nghèo để có thể tham gia vào những nghề nghiệp như vậy.
Chúng tôi đáp tàu xuống khoảng ở giữa thành phố, và sau khi đi một khoảng ngắn, chúng tôi vào nhà một người Trung Hoa. Ông ta tiếp đón chúng tôi rất lịch sự và mời chúng tôi cùng dùng giải khát. Ông ta nói là ông ta rất mong mỏi muốn thông thương với người Anh, và hiện trong tay ông có nhiều hàng rất hợp thuận cho thương mại này.
Chúng tôi bỏ ra vài tiếng để viếng thăm nhiều khu khác nhau của thành phố, và trở về chỗ chúng tôi trú ngụ vào lúc chiều tối rất là hài lòng với những gì chúng tôi đã chứng kiến, và với ấn tượng tốt nhất về tư cách đối xử và tâm tính của người dân ở đó.
Sự tân tâm, tử tế và hiếu khách mà chúng tôi kinh nghiệm nhận được, cho đến nay vượt quá những gì chúng tôi đã chứng kiến ở các nước Á châu, đến nỗi chúng tôi không thể tin và mơ tưởng rằng chúng tôi đang ở giữa những người dân hoàn toàn có một tính tình khác. Chúng tôi là những người hoàn toàn lạ, chỉ trãi qua vài tiếng đến thành phố này vậy mà hầu như ở mọi đường phố chúng tôi được mời bởi nhiều người Hoa giàu có vào thăm nhà, và dùng giải khát. Họ không thể biết trước được là chúng tôi đến thăm thành phố này, vậy mà một vài chiêu đãi giải trí mà chúng tôi nhận được rất là thanh lịch và phong phú dư dật, nói lên sự giàu có và lòng hiếu khách của chủ nhà mời chúng tôi.
Trong số họ, chúng tôi được mời bởi ba anh em người Hoa đã đến lập nghiệp ở xứ này từ lâu. Họ mặc đồ người Đàng Trong, và trông không khác gì người bản xứ. Phong cách của họ rất là hấp dẫn lôi kéo, hoàn toàn dễ dãi và lịch sự; nhà của họ rất đẹp và rộng rãi; không có đồ gì làm ra vẽ đây là một biệt thự cao cấp, ngay cả trong ý kiến của một người Âu. Họ tiếp chúng tôi trong một phòng khách lớn được trang bị đầy đủ đồ đạc; một bàn ngay sau đó được phủ đầy các loại trái cây, các loại mứt kẹo thanh nhã nhất, và nhiều loại bánh và thạch. Tự họ khẩn khoản mời chúng tôi ngồi xuống bàn và lo cho chúng tôi, và dù làm cách nào họ cũng không ngồi xuống cùng bàn khi chúng tôi hiện diện trong nhà họ. Trà được dọn mời trong những tách nhỏ; một bàn lớn cũng được trãi ra cho những tùy tùng của chúng tôi với rất nhiều bánh, mứt, kẹo. Chủ nhà của chúng tôi nói rất ít; họ có vẽ rất hài lòng chúng tôi đến viếng, cũng như chúng tôi với sự tiếp đãi ân cần độ lượng của họ cho chúng tôi.
Hãy để những người khác nói về mục đích gì mà sự hiếu khách và quan tâm quá mức của những người Hoa thông minh và có đầu óc cấp tiến này cho những người thật xa lạ; về phần tôi, tôi phải công tâm bảo vệ thật đúng cho họ và tin là họ hoàn toàn vô vụ lợi.
Các hàng chợ ở Sài Gòn chứa nhiều hơn tất cả các thứ hàng ở Binghe (Bến Nghé). Các nhiễu, kếp đen (crape) Trung Hoa và Bắc Hà (Tonkin), lụa, satin, quạt Trung Hoa, đồ gốm etc..là những loại thường có trong các tiệm. Đường phố thẳng, rộng và tiện lợi. Dân số rất đông. Chúng tôi vào thăm một đền Trung Hoa rất đẹp, xây rất mỹ thuật, và có rất nhiều trang trí. Những đền của người Đàng Trọng, mặc dầu có vẽ thờ giống nhau, nhưng bề ngoài kém hơn không bằng đền Trung Hoa...“
Qua Finlayson và Purefoy ta thấy ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, thành phố Chợ Lớn là trung tâm thương mại rất trù phú ở Nam kỳ với các trạm thương mại của người Bồ Đào Nha đặt ở đó, các tàu nước ngoài đến mua bán và người Hoa đã có hệ thống doanh thương rộng lớn khắp trong vùng. Sản phẩm chính là gạo, tiêu, đường, cá khô, ngà voi, sừng tê giác. Trần Văn Giàu (19) khi trích một đoạn rất ngắn về sự tận tâm hiếu khách của những người Hoa mà Finlayson đã tả như trên để tổng quát là con người Sài Gòn tử tế và lịch thiệp thì e không đúng lắm vì thật ra Finlayson nói về con người ở khu Chợ Lớn ngày nay.
Finlayson có tả về hình thái của người Việt ở Sài Gòn mà Charles Darwin đã viết như sau trong quyển “The Descent of Man: and selection in relation to sex” (23):
“Finlayson, sau khi mô tả chi tiết người ở Nam kỳ (Cochinchina), nói rằng đầu và mặt tròn của họ là đặc tính chính; và ông thêm là ‘dáng người tròn của họ nổi bật ở phụ nữ, được coi là đẹp cân xứng trên khuôn mặt của họ’. Người Xiêm La có mũi nhỏ với hai lỗ mũi chìa ra, miệng rộng, môi hơi dầy, khuôn mặt thật lớn, với xương má cao và rộng. Vì thế không có gì ngạc nhiên kỳ thú là ‘cái đẹp, dưới quan điểm của chúng ta, là rất lạ lùng với họ. Họ coi là phụ nữ của họ đẹp hơn hẳn các phụ nữ Âu châu.”
Nói về thành Sài Gòn, Finlayson cho biết thêm về cuộc gặp gỡ trong Thành của sứ bộ Crawfurd (do Toàn quyền Anh ở Ấn Độ gởi đến Xiêm và Đàng Trong để giao thương) với tổng trấn Lê Văn Duyệt sau khi Crawfurd được tổng trấn mời đến Sài Gòn từ tàu của sứ bộ đang đậu ở Cần Giờ trên đường đi Đà Nẵng, và sau đó chứng kiến cuộc đấu ngoạn mục giữa cọp và voi ở Sài Gòn như sau:
“Ngày 2 tháng 9 – Chúng tôi được thông báo là ngài tổng trấn sẽ cho tiếp sứ giả của Toàn Quyền Ấn Độ sang sớm hôm nay. Lúc 10 giờ, viên quan, người đã đưa chúng tôi từ tàu trước đây, đến nói là Tổng Trấn đang chờ chúng tôi. Sau khi chúng tôi hỏi được dùng phương tiện nào để đến thành, ông ta nói rằng chúng tôi phải đi bộ đến thành. Sau khi chúng tôi không đồng ý, năm con voi được rước đến. Các con voi này đều có ghế (haudah) ngồi trên lưng voi, như những ghế mà người dân ở Ấn Độ dùng. Một vài phút chở chúng tôi vào thành nơi ngài Tổng Trấn cư ngụ. Nhà của ông, mặc dù lớn, nhưng giản dị không có nhiều trang trí ở phía trong và phía ngoài. Dinh này tọa lạc hầu như ở giữa trung tâm thành giữa khoảng trống rộng. Khi chúng tôi đến trong khoảng năm mươi thước Anh (yard) trước cửa dinh, chúng tôi được thông báo xuống voi và đi bộ phần còn lại. Một đám binh sĩ, đa số cầm giáo, đứng hai bên sân. Ngài Tổng Trấn, chung quanh là các quan, ngồi ở trong điện lớn nhìn ra phía sân. Chúng tôi đi tiến lên, trực tiếp trước ông, lấy nón ra và chào ông như phong tục của nước chúng tôi. Ghế đã được sửa soạn sẵn, và chúng tôi ngồi xuống phía trước một chút, ở phía phải các vị quan. Ở phía sau của điện là viên Tổng Trấn ngồi trên một bục cao không có trang trí, rộng khoảng mười hai phút (foot) vuông có chiếu phủ ở trên, và bên trên chiếu có một hay hai nệm. Ở bục thấp hơn, phía bên trái ông, và một chút về phía trước là ông Phó Tổng Trấn ngồi, một ông già dễ nhìn, có vẽ đã hơn bảy mươi tuổi. Trực tiếp đối diện với ông phó Tổng trấn là khoảng một chục viên quan, mặc áo đóng đen, ngồi xếp chân kiểu Ấn, trên một bục giống như bục đối diện, và phía sau có các người hầu cầm vũ khí đứng tụ lại một chỗ. Trước mặt ngài Tổng Trấn, có hai người Xiêm, đã đến trước có việc riêng, đang nằm phủ phục ở dưới đất, theo phong cách mà họ theo khi tiếp kiến thủ lãnh của họ.
Ngài Tổng Trấn được biết là một hoạn quan, và hình dạng của ông đúng một mức nào đó với ý niệm trên. Ông ta có vẻ khoảng năm mươi tuổi, dáng thông minh, và có lẽ được kính trọng là có hoạt động trí tuệ và thể lực dồi dào; gương mặt của ông tròn và mịn, hình thể nhão và nhăn; ông ta không có râu, và có dạng giống một bà già: giọng nói của ông, cũng vậy, the thé và nữ tính; nhưng điều này tôi cũng quan sát thấy, mặc dầu mức độ ít hơn, ở những người đàn ông ở nước này. Y phục của ông, không những trơn tru không màu mè, hầu như nhớp nhúa, trông giống như đồ dơ của những người nghèo nhất.
Ông ta đã đòi hỏi là lá thư của Toàn Quyền Bengal phải được chúng tôi mang đến khi diện kiến. Trông thấy lá thư ấy ở trong tay tôi, ông hỏi tôi đang cầm gì; và sau khi đã xem xét mảnh vải vàng đựng bức thư, ông ta trả lại và cùng lúc nói rằng sau khi đã làm cóp-pi bản chính, theo như thông luật của xứ này, là không được mở ra nữa.
Bây giờ ông ta mới tìm hiểu hỏi chúng tôi là đã bao lâu từ khi chúng tôi rời Calcutta đến nay và tuổi của chúng tôi. Ông cho rằng thường thì chỉ có vua mới viết thư gửi cho vua khác, “Vậy thì tại sao”, ông ta nói, “Toàn quyền Bengal lại có thể gửi thư cho vua Đàng Trong ?”. Ông ta có vẽ hiểu các mục đích của chuyến đi chúng tôi, và có nhận xét thuận lợi về các mục đích này. “Tất cả các tàu”, ông cho rằng, “đều được thông thương buôn bán với Đàng Trong. Nếu”, ông nói tiếp, “thần dân của vua Đàng Trong đến Bengal hay bất cứ lập địa nào của Anh, thì rất đúng khi ở đó họ phải theo luật của nơi đó và xử theo luật. Cũng như vậy, thần dân của những nước khác đến Đàng Trong phải theo và được xử theo luật hiện hành của nước đó. Nếu không thì sẽ không có sự công bình thực sự. Ông hỏi chúng tôi là sẽ đi thẳng đến Turon (Đà Nẵng), hay là cảng ở Huế, và với tư cách gì sứ bộ của Toàn Quyền muốn theo đuổi khi đến nơi ấy. Chúng tôi nói với ông là bản tường trình về việc chúng tôi đến nên được gởi ngay đến triều đình khi chúng đến cảng. Khi nghe xong, ông cho ý kiến là vị quan coi về voi (mandarin of the elephants) là vị có nhiệm vụ về vấn đề này và sẽ cho biết tất cả những thông tin cần thiết về vấn đề thương mại.
Tôi đã diễn tả như trên, dùng những từ tổng quát về nội dung và phạm vi của cuộc đối thoại đã diễn ra. Các viên quan có vẻ như rất thoải mái dưới sự hiện diện của ngài Tổng Trấn, không có lộ vẻ gì sợ hay kinh sợ. Họ thường đặt câu hỏi với chúng tôi trong buổi phỏng vấn này. Cuộc đối thoại diễn ra dùng tiếng Bồ Đao Nha là phương tiện diễn đạt, qua một người bản xứ tên là Antonio.
Gần cuối của cuộc đàm thoại, ông Diard đi vào, ông mặc một bồ đồ kiểu quan lại, và ngồi xuống ghế cạnh chúng tôi. Chúng tôi được mời uống trà, như thông lệ.
Ở trước điện là một cái chuồng nhốt trong đó một con cọp rất lớn, mà ngài Tổng trấn đã ra lệnh bắt để ngài có thể triển lãm cho chúng tôi thấy một cuộc giao đấu giữa con vật hung dữ nhất trong các loài vật, với một con voi. Chúng tôi được hỏi là liệu cảnh tượng của cuộc đấu voi và cọp này có hợp với chúng tôi không, sau khi nhận được trả lời là đồng ý, ngài Tổng trấn ra chỉ thị sửa soạn bắt đầu cuộc đấu voi-cọp. Ở ngay giữa một đồng cỏ dài khoảng nữa dặm, và chiều ngang cũng có khoảng cách dài như vậy, có chừng khoảng sáu chục hay bảy chục con voi rất đẹp mắt, đứng xếp theo vài hàng, mỗi con voi có một quản tượng ngồi trên đầu điều khiển và một ghế trống trên lưng voi.
Ở một bên khán đài có các ghế ngồi được xếp đặt thuận lợi; tổng trấn, các quan và nhiều binh lính đều có mặt xem cảnh đấu voi-cọp này. Ở phía bên kia là đám đông khán giả. Con cọp được cột vào một cây cột đặt giữa cánh đồng, bằng một sợi dây chắc nịch buộc chung quanh lưng của nó. Chẳng bao lâu chúng tôi nhận thấy cuộc đấu này rất không cân bằng; các móng vuốt của con vật tội nghiệp này đã bị rút ra và hai môi của nó đã bị khâu lại bằng chỉ chắc, không cho nó mở miệng ra được. Khi được thả ra khỏi chuồng, nó cố gắng nhảy qua cánh đồng nhưng khi biết mọi cố gắng tự giải thoát đều vô ích, nó nằm dài xuống cỏ, và khi thấy con voi lớn với ngà dài tiến đến, nó đứng dậy và đối diện với hiểm nguy đang tới.
Con voi thấy thái độ của con cọp và nghe tiếng gầm gừ ghê sợ của con cọp, cảm thấy sợ hãi, và quay lại chạy trong khi con cọp đuổi nhanh phía sau, quất vào hông sau của con voi bằng chân trước, làm con voi chạy nhanh thêm. Người quản tượng thành công kéo con voi quay tấn công trở lại trước khi nó chạy quá xa, và lần này con voi giận giữ chạy nhanh lại, chúi hai sừng của nó vào mặt đất dưới con cọp, nâng con cọp lên cao và quăng nó ra xa khoảng ba mươi feet (tức khoảng 9 mét). Tới đây là điểm lý thú của cuộc chiến; con cọp nằm dài dưới đất như là đã chết, nhưng dường như nó không bị suy suyển gì mấy, bởi vì trong lần tấn công kế tiếp nó đứng dậy trong dáng điệu phòng thủ, và khi con voi sửa soạn húc nó lên, nó phóng vào trán con voi, hai chân sau bám chặc vào vòi voi. Con voi bị thương trong cuộc tấn công này, và quá sợ nên không có gì cản nó chạy phá qua các chướng ngại vật, nó chạy biến mất. Người quản tượng coi như là không hoàn thành nhiệm vụ, và chẳng bao lâu sau với hai tay trói buộc sau lưng được mang tới trước mặt Tổng trấn, và ngay tại chỗ bị đánh 100 roi phạt tội.
Một con voi khác được mang ra, nhưng con cọp chống cự yếu dần với mỗi lần tấn công kế nhau. Rõ ràng các lần bị quăng ra xa, chẳng bao lâu sẽ làm nó chết. Tất cả các con voi mang ra đấu đều có ngà, và phương thức tấn công ở mọi lần, của các con voi kế tiếp nhau, là chạy đến con cọp dùng ngà húc phía dưới rồi nâng lên, và quăng ra xa. Các con voi dĩ nhiên rất cẩn thận với vòi của chúng, cẩn thận cuốn vòi dưới cằm. Khi con cọp hoàn toàn chết, một con voi được mang tới, thay vì nâng con cọp bằng ngà của nó, nó dùng vòi túm con cọp, và quăng con cọp xa ba chục feet.
Cuộc trình diễn tiếp theo hoàn toàn khác. Mục đích của cuộc đấu này là cho thấy khả năng của một hàng voi vững chãi tiến lên và phá phòng tuyến của quân thù.
Hai hàng phòng thủ được thiết lập tại chỗ, và trước mỗi hàng là các cây cọc phía trên được đốt cháy bằng một chất liệu với pháo bông tủa ra đủ loại hình, và một vài khẩu đại bác loại nhỏ. Chỉ trong một chốc tất cả đều cháy sáng chói và lửa pháo bông hay đẹp như vậy được giữ cháy. Các con voi tiến lên thẳng hàng, bước đều và nhanh, nhưng mặc dầu chúng đến gần hàng cột lửa, chỉ có rất ít con bị thúc tiến qua được, còn lại chạy vòng quanh lửa qua lối này hay lối nọ. Tấn công kiểu này được lập lại lần nữa, và sau đó chấm dứt thú vui tiêu khiển. Ngài tổng trấn lúc này kêu chúng tôi lại chỗ ông ngồi và nói rằng ông ta rất vui lòng nếu chúng tôi ở lại thêm một ngày nữa để tham quan thành phố; và sẽ có một hài kịch được diễn cho chúng tôi xem giải trí. Ông Crawfurd nói những lý do mà chúng tôi muốn lên đường ra đi, và chúng tôi từ giã ông; và biết ơn ông rất nhiều đã tận tình tiếp đã chúng tôi.
Ngày 3 tháng 9 - Các thuyền trước đây chở chúng tôi (từ Cần Giờ vào Sài Gòn) đợi chúng tôi vào sáng sớm. Chúng tôi lên vào lúc 6 giờ sáng và đến tàu lớn của chúng tôi khoảng 5 giờ chiều cùng ngày.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi nhổ neo, và tiếp tục hành trình đến Turon (Đà Nẵng) dưới hướng gió thổi mạnh từ Tây Nam. Trên đường ra khỏi sông, tàu suýt đụng một cồn cát hay bờ cát, không có ghi trên bản đồ...“
Qua những gì Finlayson viết, ta thấy tổng trấn Sài Gòn Lê Văn Duyệt rất là hiếu khách và muốn mở rộng buôn bán với các nước tây phương. Ông hiểu biết rất nhiều về họ. Điều này phù hợp với những gì John White viết về ông. Tuy vậy sứ bộ Crawfurd sau đó thất bại trong mục đích thiết lập đường thương mại với Việt Nam. Khi phái đoàn đi ra Đà Nẵng và Huế, vua Minh Mạng (vừa lên ngôi 1 năm sau khi Gia Long mất) đã từ chối không tiếp sứ bộ Crawfurd, cho rằng sứ bộ Crawfurd không xứng đáng vì Crawfurd chỉ là sứ giả của vị toàn quyền Anh ở Ấn Độ chứ không phải là do vua nước Anh gởi qua. Cuộc đấu giữa cọp và các con voi chắc chắn là xảy ra ở phía ngoài, sát cạnh thành Sài Gòn vì đồng cỏ nơi diễn ra trận đấu có chiều dài và ngang khoảng nửa dặm và thành Sài Gòn cũng lớn bằng cánh đồng cỏ này. Vì thế trận đấu không thể ở trong thành. Khả năng lớn là cánh đồng cỏ này chính là cánh đồng tập trận ở phía tây kế thành Sài Gòn và cạnh cánh đồng mả.
Ta cũng thấy George Finlayson có cảm tưởng tốt đẹp về Sài Gòn và con người ở đó so với John White. Lý do chính là Finlayson nằm trong phái bộ ngoại giao trong khi John White chỉ là thuyền trưởng tàu thương mại Mỹ đến Sài Gòn để buôn bán nên sự tiếp đãi và đối xử có khác nhau. Hơn nữa John White đã sống tại Sài Gòn lâu dài (nhiều tháng) trong khi George Finlayson chỉ viếng có ba ngày nên không thể có kinh nghiệm sống thật sự với tất cả bề mặt và bề trái mà John White đã trải qua.
Sau John Barrow, John White, John Crawfurd và George Finlayson, Trương Vĩnh Ký cho ta biết thêm nhiều chi tiết về các khía cạnh địa phương ở các khu vực trong Sài Gòn. Quyển “Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs” viết bằng tiếng Pháp của ông xuất bản năm 1885 ghi lại phố xá Sài Gòn vào những năm trước khi người Pháp phát triển thành phố này. Vì thế ông so sánh vị trí thành phố, đường xá thời kỳ trước dựa vào các đường đang có ở thời kỳ người Pháp đến thiết lập 25 năm sau khi họ chiếm Sài Gòn-Gia Định (1859). Một thời gian không lâu lắm để có thể hoàn toàn biến dạng bộ mặt thành phố.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:19:50 GMT 9
Tham Khảo : (1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf (2) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille), 1883. (3) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885. (4) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890. (5) Trần Ngọc Quang, Sài Gòn và những tên đường xưa, namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-Sài Gòntenduongxua.pdf. (6) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ (7) John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street. 1830. (8) John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London, 1824. Online: www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up (9) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993, motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Sài Gòn (10) Hình ảnh, tư liệu, belleindochine.free.fr/Sài Gòn1882.htm (11) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876. (12) John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London, 1806. online : purl.pt/126(13) Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879. (14) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887. (15) P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon-Cholon, Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon), 1934. (16) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880. gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination(17) J. Bouchot, Sài Gòn sous la domination cambodgienne et annamite, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1926, 1926 (Nouv Ser,T1), pp. 3-82, Société des études indochinoises (Saïgon). (18) Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 125-231. (19) Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 235-420. (20) Josiah Conder, Birmah, Siam, and Anam, London: printed for J. Duncan, Oliver & Boyd, Edingburgh, M. Ogle, Glasgow and R. M. Tims, Dublin, 1826, www.archive.org/stream/birmahsiamanam00condrich#page/n11/mode/2up (21) George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochin China in the years 1821-2, London, John Murray, Albemale Street, 1826. www.archive.org/stream/missiontosiaman00raffgoog#page/n7/mode/1up (22) R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826. (23) Charles Darwin, The Descent of Man: and selection in relation to sex, John Murray, London, 1879. (24) Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aine, Paris, 1869. Nguyễn Đức Hiệp
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:26:44 GMT 9
6. Sài Gòn mô tả chi tiết qua Trương Vĩnh Ký Những chi tiết sau đây đa số là trích từ sách “Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs” của Petrus Trương Vĩnh Ký (3). Trước khi có thành, ở đất Gia Định chỉ có đồn Dinh, lũy Hoa Phong, sau có lũy Bán bích. Thành này được gọi là thành Quy, xây theo kiểu thành Vauban của Pháp. Tường thành cao 5m20. Trung tâm thành là cột cờ và hành cung, ở vị trí gần nơi ngày nay là nhà thờ đức bà. Thành xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba bậc.Trong thành đặt nhà Thái miếu và kho về bên tả, bên hữu là xưởng trại, ở giữa là hành cung. Trại lính thì bố liệt chung quanh (4). Ở phía đông là hai cửa tiền (đông môn), một gọi là Gia định môn nhìn ra công trường và rạch chợ Sài Gòn, cửa kia gọi là Phan Yên môn ngay cạnh các đại pháo, nằm trên đường chạy dọc xuống theo kênh Kinh Cây Cám. Rạch chợ Sài Gòn (rạch chợ Vải) sau này thời Pháp có hai con đường chạy dọc theo rạch gọi là đường Rigault de Genouilly (chạy xuống sông) và đường Charner (chạy từ sông lên). Khi rạch chợ Vải được lấp đi thì thành một đường lớn gọi là đường Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Người dân gọi là đường Kinh Lấp. Hai cửa hậu ở phía Tây (tây môn) gọi là Vọng Khuyết môn và Cọng thìn môn hướng về cầu thứ hai (cầu Bông) và thứ ba (cầu xóm Kiệu) trên rạch Avalanche (Thị Nghè). Hình 5. Vị trí thành Sài Gòn (Gia định thành) Ở cửa trái về hướng bắc (bắc môn) là hai cửa Hoài Lai môn và Phục viễn môn, hướng về cầu trên rạch Thị Nghè (gọi là cầu thứ nhất). Cửa phải của thành (nam môn) có hai cửa Định biên môn và Tuyên hóa môn, ở phía đường sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai (Định Biên môn) và góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Trãi (Tuyên Hóa môn). Hai cửa này dần ra hai đường, một là đường chiến lược (rue strategique, đường đi Phú Thọ, Phú Lâm hay đường 3/2 ngày nay, và một nữa là đường cao đi Chợ Lớn (route haute, sau là gồm đường Frère Louis nay là đường Nguyễn Trãi chạy tới đường Nancy, hay Cộng Hòa trước 1975 nay là Nguyễn Văn Cừ và cuối cùng vào Chợ Lớn cũng theo con đường Nguyễn Trãi nối dài ngày nay). Xưa đi Chợ Lớn còn có một đường nữa từ trung tâm Sài Gòn dọc theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ qua vùng cầu Ông lãnh và dưới Chợ quán ngày nay, gọi là “route basse” hay đường dưới, đường Trần Hưng Đạo sau này vào thế kỷ 20 mới có. Hình 6: Đường Sài Gòn-Chợ Lớn (route haute, đường trên), từ Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Văn Cừ (Thuận Kiều xưa) vào Chợ Lớn Thành này nằm gọn trong khu vực các đường Lê Thánh Tôn (rue d’Espagne), Nguyễn Đình Chiểu (Rue Richaud hay Phan Đình Phùng trước 1975), Đinh Tiên Hoàng-Tôn Đức Thắng (Boulevard de la Citadelle (1865), Boulevard Luro (1901), hay Cường Để trước 1975), Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Rue Mac Mahon hay Công Lý trước 1975) như trong hình 5. Thành xây hướng về Đông Bắc và cao độ 1 trượng 3 xích có ba bậc. Hào thành sâu 14 xích; bề ngang 10 trượng 5 xích; chu vi 794 trượng. Có xây điếu kiều, ngoài kiều có đắp thạch trại (4). Thành Sài Gòn được Nguyễn Ánh ở trong 12 năm làm cơ dinh đánh Tây Sơn, năm 1802, sau khi lên ngôi ở Huế, Gia Long trao lại cho Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định thành (1812-1815 và 1820-1832). Lê Văn Duyệt ở cung Hoàng cung, vị trí của cung này là đường Norodom (nay là Lê Duẩn), phía ngoài thành Gia Định (3). Vòng ngoài thành, vua Gia Long cũng có xây một ngôi nhà cho giám mục Pigneau de Béhaine (gọi là Evêque d'Adran tức Bá Đa Lộc hay cha Cả) trên đường sau này gọi là rue Richaud (đường Nguyễn Đình Chiểu ngày nay) để trả ơn cho sự giúp đỡ của ông này trong lúc còn chiến tranh với Tây Sơn. Ngày nay vị trí tòa nhà này là Tòa Tổng Giám mục (5). Nhà của ông giám mục Bá Đa Lộc trước đó ở cạnh thành Sài Gòn, vị trí ngày nay là trong khuôn viên sở thú gần viện bảo tàng. Khi chiếm lại thành Sài Gòn, ngôi nhà này đã bị Minh Mạng phá hủy sau khi dẹp loạn Lê Văn Khôi. Hàng năm, sau Tết, Lê Văn Duyệt (gọi là Ông lớn thượng) tổ chức diễn tập lính từ 6 tỉnh Nam kỳ ở cánh đồng mả (plain de tombeaux), "đồn tập trận" ở phia đất giữa Sài Gòn và hướng trường đua, Phú Lâm (chú thích: sau này gọi là cánh đồng mả vì có nhiều mộ chôn, kể cả mả của những người bị chết trận hay bị vua Minh Mạng hành hình sau cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi, chôn ở “mả ngụy” gần khu ngã 6 đường 3/2 và cách mạng tháng 8, tức khu Vườn Chuối ngày nay) Vào đêm trước ngày 16 tháng một năm mới, vị tổng trấn cùng đoàn tùy tùng đến bái (homage) vua trong đền thờ của ông, sau đó sau ba phát súng cà nông, ông lên kiệu giữa hàng đầu lính mở đường và hàng lính hộ tống phía sau ra khỏi thành, ngang qua cửa Gia Định môn, và cửa Phan yên môn, đi đến cạnh Chợ Vải (gần cửa rạch kế chợ Cũ), sau đó đi lên đường sau này gọi là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) để lên các gò cao gọi là mô súng. Ở đó, là nơi các khẩu đại bác được bắn và trình diễn quân sự được tiến hành với các voi. Tổng trấn sau đó đi vòng sau thành và đến xưởng tàu thủy quân xem tập trận rồi trở về thành. Trong khi diễn hành, dân chúng trong nhà đánh âm thanh lớn, đốt pháo để đuổi đi ma quỷ có thể ám nhà họ. Vào dịp tết thứ hai (tức vào tháng năm, tổng trấn trở về nơi tịch điền (nơi nhà vua hay đại diện vua, làm gương cho dân bằng sự làm việc lao động chính mình). Nơi làm nghi lễ này rất gần mặt nhà thương của các sơ Sainte-Enfance, ở Thị Nghè. Từ tường của thành Sài Gòn xuống đến bến sông Sài Gòn tức là từ đường Espagne (Lê Thánh Tôn) xuống bến Bạch Đằng là một phần chính của thành phố thương mại xưa của người Việt gồm một số nhà, cửa tiệm xen kẽ với các đường hẻm ít được bảo trì nằm trong địa phận của bốn làng từ cửa rạch Thị nghè (arroyo de l'Avalanche) đến rạch Bến Nghé (arroyo chinois): làng Hòa Mĩ (nơi xưởng Ba son), làng Tân Khai, Long Điền và Trường Hòa, mà giới hạn là đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Làng Mĩ Hội bao gồm thành Sài Gòn trở lên trên. Thời kỳ này thì lý trưởng của làng này là một trong những lý trưởng quan trọng nhất của thành phố, ông ta có quyền đội nón hình trái bí và có quyền hành chính như huyện trưởng (canton). Làng có xây một đình, một chùa hay một nhà họp và nhà vua có gởi người mang ấn chiếu trên một khâm vàng, năm dây vải thắt (ligatures) và các tặng phẩm để khai trương các tòa nhà này. Khu này gọi là Hàng đinh nằm ở phía trên đường Catinat, từ cạnh khách sạn Laval cho đến chỗ ở của giám đốc nội vụ. Ở tòa đô chính Sài Gòn, có một kênh băng qua ống cống trên cầu gọi là “Cống cầu dầu”. Dọc theo bờ sông Sài Gòn phủ đầy các nhà sàn dựng trên cột sông. Ở cuối đường Catinat nơi bến phà Thủ Thiêm có một nhà "Thủy các" (kiosk hoàng gia), nhà tắm "lương tạ" cho vua được xây trên những bè nổi làm bằng tre. Người ta gọi chỗ này là Bến ngự (Kompong Luong theo tiếng Khmer), tức bến của vua. Từ cửa rạch Thị nghè đến đường thành Sài Gòn là các xưởng đóng tàu và các thuyền hải quân. Từ bờ chạy ra sông có một bến gọi là "Cầu gọ" hay "Cầu quan". Trước khi đến pháo đài trước thành Sài Gòn là một rạch nhỏ gọi là Kinh Cây Cám, kinh này lên đến tận đường Lê Thánh Tôn (rue d'Espagne), băng qua pháo đài đến thành. Kênh chợ Sài Gòn là Kinh chợ vải, chạy lên đến tận giếng nước cùng tên, đối diện với nhà của ông Brun, người làm và bán yên ngựa. Giữa nhà của ông Vương Thái (Wang Tai) góc kênh Chợ Vải và sông Sài Gòn trên đường Rigault de Genouilly và hướng về cảng thuơng mại Sài Gòn có một rạch nhỏ nữa, gọi là Rạch cầu sấu chạy lên đến tận đầu phía trên của kinh Chợ Vải. Nối Rạch cầu sấu và kinh Chợ Vải là kinh Coffine mà đại tá Coffine đã cho đào để nối hai đầu kinh. Nhà ông Vương Thái, năm 1868 được hội đồng thành phố mướn làm trụ sở tạm thời, nhà ở vị trí đằng sau sở thương chánh (Douanes ) nằm giữa đại lộ Nguyễn Huệ (Charner) và Hàm Nghi (Boulevard de la Somme). Ngôi nhà này còn được dùng làm phòng thương mãi và chứng khoán. Năm 1880, thị trưởng Blancsubé đặt vấn đề xây cất một tòa thị chánh cho Sài Gòn. Kinh Coffine sau này được lấp và trở thành đường Bonard (đường Lê Lợi ngày nay) và rạch cầu sấu (tên gọi vì nơi đây trước có trại nuôi cá sấu) khi được lấp trở thành đường Boulevard de la Somme (nay là đường Hàm Nghi). Từ nhà của ông Vương Thái về hướng cảng thương mại Sài Gòn, dọc theo rạch Bến Nghé (arroyo chinois) là các xưởng làm gạch và ngói của ông Vương Thái. Trong các ngói đỏ hơn trăm năm trên nóc nhà thờ đức bà ở Sài Gòn là một số ngói làm từ các xưởng gạch này của ông, số còn lại là nhập từ Pháp. Gần đây năm 2009 chi tiết này được biết khi một số ngói bị hư tháo xuống ở nhà thờ thì thấy có chữ đề xuất xứ “Wang-Tai Sài Gòn” trên mặt các ngói. Các xưởng làm gạch của ông Vương Thái sản xuất gạch tốt được dùng ở Sài Gòn và ở nhiều nơi trong Nam kỳ. Trong cuộc triển lãm công nghiệp và nông nghiệp năm 1880, các sản phẩm gạch của ông được huy chương bạc (16). Ở phía cảng thương mại Sài Gòn là nơi có xây một đồn và nơi cư ngụ của các chức sắc từ Huế vào, và cũng là nơi xưa kia Duệ tông, Mục Vương và Gia Long đến lánh nạn. Đối diện với Sài Gòn bên kia bờ sông thời Gia Long là Xóm tàu ô (xóm thuyền đen). Đây là nơi trú ở của các hải tặc người Hoa mà tàu họ sơn đen. Vì họ chịu thần phục vua Gia Long, nên nhà vua cho họ đến cư trú và cho làm Tuần hải đô dinh và đặt họ dưới quyền của tướng họ là "Tướng quân Xiền". Họ có nhiệm vụ tuần tra bờ biển và những người ở lại trên bờ được dùng để bảo trì, làm kín vỏ tàu của hạm đội nhà vua. Hình 7: Khu vực phía tây thành phố Sài Gòn 1772 Năm 1822, khi lệnh cấm đạo thiên chúa nói riêng và người Âu nói chung, cùng lúc là lệnh phá hủy nhà thờ được vua Minh Mạng ban hành. Ngài phó vua (tổng trấn Lê Văn Duyệt) đang xem đá gà, thì lệnh được đưa đến tay ông "Làm sao, ông kêu lên, chúng ta có thể đối xử những người cùng đạo với giám mục Adran (Bá Đa Lộc hay cha Cả) và những người Pháp đã giúp chúng ta trước kia như vậy, nhờ họ mà ngày nay chúng ta vẫn còn nhai gạo giữa hai hàm răng của chúng ta ?”. “Không”, ông nói tiếp, trong lúc tức giận về sự phản bội này, đã xé tờ lệnh của vua trong tay, “khi nào mà ta còn sống thì không thể làm như vậy được, nhà vua có thể làm như ý muốn sau khi ta chết." (3). Lê Văn Duyệt trị rất nghiêm khắc, làm dân ở Nam kỳ và Cao Miên nể sợ, tuy vậy có lúc hơi quá đáng. Ông xử trảm trước không hỏi ý kiến vua hay thượng thư bộ hình. Một thí dụ điển hình là ông đã xử tử một thơ lại của ông không thương tiếc. Người thơ lại này lúc đi ra khỏi văn phòng thấy ở cửa thành một người đàn bà đang bán cháo hay bán đường. Ông ta muốn giỡn chọc ghẹo bà ấy, ông để tay lên hộp trầu mà bà đã để trên nắp giỏ của bà. Bà này kêu lên ăn cắp. Ông thơ lại bị bắt và bị xử trảm trên cánh đồng theo lệnh của Lê Văn Duyệt không qua một quá trình xét xử nào cả. Chẳng bao lâu, vụ này được truyền làm sợ hãi khắp Nam kỳ. Để làm người Cao Miên kính nể và sợ hãi, ông cho vua Cao Miên Udong thấy con người phi thường và đầy quyền lực của ông. Ngồi trên bệ cao kế vua Oudong, ông ăn đường phèn và uống trà. Những người Cao Miên ngồi gần đó nghe tiếng kêu gảy giòn dưới răng của Lê Văn Duyệt lúc nhai mấy cục đường, bèn hỏi những quan lại Việt nam có mặt ở buổi chiêu đãi này là ông tướng trời đang ăn gì vậy. Những người này trả lời là đó là những viên đá sỏi mà ngài tướng trời đang nhai trong miệng. Hình 8: Sài Gòn – 1815, vẽ theo bản đồ của Trần Văn Học, người theo vua Gia Long và giáo sĩ Bá Đa Lộc trong những năm bôn tảo và chiến tranh với Tây Sơn ở Gia Định (nguồn: “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nguyễn Đình Đầu) Cao Miên lúc đó đang dưới sự bảo hộ của Việt nam, vị vua xứ này hàng năm vào dịp tết buộc phải đến Sài Gòn để thần phục hoàng đế Việt Nam trong chùa hoàng gia, cùng lúc với phó vương tổng trấn Gia định thành. Nhà vua cao Miên đi cùng sứ giả Việt có nhiệm vụ lo việc bảo hộ đến đêm trước của ngày đầu năm; nhưng thay vì ở Sài Gòn, lại ngủ qua đêm ở Chợ Lớn. Đến 5 giờ sáng đầu năm, tổng trấn cử hành nghi thức lễ trong tiếng nhạc mà nhà vua không có mặt. Nhà vua Cao Miên đến thì buổi lễ đã chấm dứt. Ông bị phạt không thương tiếc 3000 tiền franc bắt buộc phải trả trước khi trở lại Cao Miên. Ông tổng trấn rất thích chơi đá gà, hài kịch và hát tuồng. Ông nâng đỡ, nuôi nhiều nghệ sĩ và có rạp hát riêng. Các toà nhà dùng trong các giải trí này ở ngoài tường thành Sài Gòn (thành Quy) trên vùng đất mà ngày nay là dinh thống đốc và trường Chasseloup Laubat (Lê Quý Đôn). Trong cánh đồng mả (plaine des tombeaux) có vài mộ nổi tiếng, có liên hệ đến lịch sử. Một ngôi mộ ở cạnh đường rầy xe lửa (tramway), kế nhà Vandelet (chú thích: Octave Vandelet là thương gia người Pháp, chủ trại đầu tư trồng nho nhưng thất bại ở Vũng Tàu, cố vấn và là bạn vua Cam Bốt Norodom và Sri Sowath). Ngôi mộ này được vua Minh Mạng xây và săn sóc cẩn thận để tưởng niệm cha vợ của nhà vua, ông Huỳnh Công Lý. Huỳnh Công Lý là quan trấn của tỉnh Gia Định (Sài Gòn) dưới quyền của tổng trấn Lê Văn Duyệt, bị xử trảm qua lệnh của Lê Văn Duyệt vì trong lúc ngài phó vương ra Huế, Lý có gian díu với các người vợ của ngài phó vương tổng trấn. Khi trở về, được nghe nói lại như vậy, đã xử trảm Huỳnh Công Lý không cần phải có lý do hệ trọng nào và không để ý đến vua Minh Mạng. Một mộ lớn khác kế lăng mộ Cha Cả là mộ Tả dinh, em của phó vương Lê Văn Duyệt, chết một năm trước ngài phó vương mất. Năm 1832, tổng trấn Lê Văn Duyệt mất. Sau khi ông mất, Minh Mạng bổ người thay thế và thẳng tay trừng trị Lê Văn Duyệt và những người theo ông đã không theo chánh sách bài ngoại, đóng cửa, bảo thủ phong kiến tập trung quyền lực của Minh Mạng, bằng cách đàn áp và bắt nhốt các người thân cận theo ông. Người con nuôi của ông là một người Mường, tên là Lê Văn Khôi đã nổi lên, giết viên tổng trấn mới, rồi đứng lên kêu gọi chống lại triều đình Minh Mạng. Lê Văn Khôi được sự ủng hộ của các người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn, giáo dân theo đạo, người Chăm ở Pandagura, người Khmer, các dân tộc bản xứ gốc Tây nguyên, các lưu dân Việt và của kiều dân và giáo sĩ Pháp trước đây theo Gia Long ở Sài Gòn. Sự khởi nghĩa của Lê Văn Khôi phản ảnh sự bất bình cao độ của người dân Gia Định về chính sách của Minh Mạng. Cuộc khởi nghĩa này đồng thời với cuộc khởi nghĩa lớn ở Cao bằng vùng Bắc bộ của người Tày-Nùng do Nông Văn Vân lãnh đạo. Miền Nam đã có liên hệ lịch sử và cảm tình với các chúa Nguyễn từ bao đời qua công sức mở đất cho lưu dân tứ xứ đủ mọi dân tộc và tinh thần bao dung và chấp nhận sự đa dạng, nhưng đây là một sứt mẻ to lớn về ý thức hệ và niềm tin vào triều đình nhà Nguyễn, bước đầu cho sự chia cắt về nhân sinh quan và ý thức hệ giữa hai miền. Sau khi khởi nghĩa của Lê Văn Khôi không thành, thành Sài Gòn nơi Lê Văn Khôi rút vào trấn thủ bị quân triều đình chiếm lại tháng 9-1835. Lê Văn Khôi đã mất vì bệnh trước đó nhưng có 1137 người bị triều đình Minh Mạng xử tử ở “cánh đồng mả” (plaine de tombeaux), ngay tại “cánh đồng đa giác” (champ du polygone), gần đường Thuận Kiều (nay là đường Cách mạng tháng 8) và chôn ngay tai đó gọi là mả biền tru hay mả ngụy. Người con của Lê Văn Khôi mới 7 tuổi cùng 4 đồng đảng trong đó có một người Hoa và một giáo sĩ người Pháp tên là Joseph Marchand (có mặt trong thành) đã bị đóng cũi nhốt và mang ra Huế chịu nhục hình. Thủ cấp sau đó được mang bày ở miền Bắc để răn đe. Người Hoa chịu nhục hình có tên là Mạch Tấn Giai, là tác giả bài thơ truyện lục bát 308 câu kể lại cuộc khởi nghĩa trước khi bị xử tử. Bài thơ truyện này có tên là Bốn bang. Có thể Bốn bang ở đây là ý chỉ 4 bang người Hoa đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Thành Gia Định kiên cố theo kiểu Vauban của Victor Olivier de Puymaniel bi Minh Mạng ra lệnh phá đi và cho xây lại nhỏ và yếu hơn, được gọi là thành Phụng hay thành Phiên An mà sau này vào năm 1859 quân Pháp đã đánh chiếm. Minh Mạng còn cho phá mộ của ông Lê Văn Duyệt ở làng Bà Chiểu, xiềng xích trên mộ với hàng chữ “Quyền yêm hoạn Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (nơi đây viên hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu phép nước), Năm 1848, vua Tự Đức đã minh oan cho Lê Văn Duyệt và cho xây lại lăng mộ. Theo Nguyễn Công Tánh trích dẫn Đại nam Nhất thống chí (9) thì “Thành tỉnh Gia Định do Minh Mạng xây cất có chu vi 429 trượng (1960m), cao 10 thước 3 tấc (4m70), hào rộng 11 trượng 4 thước (52m07), sâu 7 thước (3m19), có 4 cửa ở địa phận thôn Nghĩa Hòa huyện Bình Dương. Trên bản đồ thành phố Sài Gòn ngày nay thành Gia Định của Minh Mạng thường được gọi là thành Phụng xây cất nằm ở góc đông bắc của thành cũ (thành Quy của Gia Long) tức là nằm trong chu vi của 4 con đường: Nguyễn Du là mặt trước, Nguyễn Đình Chiểu là mặt sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm là mặt bên trái, Mạc Đĩnh Chi là ở bên phía tay mặt. Thành Phụng (1836) mặt trước nhìn ra đường Cường Để-Bến Bạch Đằng; mặt sau nhìn ra đường Đinh Tiên Hoàng; mặt trái và phải đều hướng ra đường Hồng Thập Tự (Chasseloup Laubat)” (9). Hình 9: Sài Gòn 1867 – Thành Sài Gòn vẫn còn trên bản đồ. Có thể chỉ còn là khu đất trống với mấy bức tường vì năm 1859, Rigault de Genouilly đã cho đốt phá hết các kho lương thực gạo, trại lính, dinh điện... sau khi đã hạ được thành. Thành Sài Gòn (thành Phụng) nhỏ hơn và không kiên cố như Gia Định thành (thành Quy) bị Minh Mạng phá đi. Theo bản đồ Sài Gòn 1867 ở trên, để ý là đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) và đường Boulevard de la Citadelle (Tôn Đức Thắng và Đinh Tiên Hoàng) giao nhau ở ngay trung tâm thành Phụng. Thành Phụng nằm gọn giữa bốn đường: rue Taberd (Nguyễn Du), rue des Mois (Nguyễn Đình Chiểu), rue de Bangkok (Mạc Đĩnh Chi) và rue Rousseau (Nguyễn Bỉnh Khiêm trước sở thú). Miếu Barbé nằm bên phải đường Chasseloup Laubat đi về hướng Phú Lâm - Chợ Lớn ở cánh đồng mả (plaine des tombeaux) đối diện với dinh Độc Lập (Thống Nhất). Tại miếu Barbé trước đây, viên tướng Pháp Charner đã đặt trọng pháo cùng với các trọng pháo khác ở phía đồn Cây Mai chĩa mũi tấn công vào đồn Chí Hòa (Pháp gọi là Kỳ Hòa) vào năm 1861 trong một thời gian, cuối cùng họ đã chiếm và hạ được đồn Kỳ Hòa, nơi Nguyễn Tri Phương trấn thủ. (chú thích: Nicolas Barbé là viên đại úy Pháp trấn giữ chùa Khải Tường, khi đề đốc Rigault de Genouilly để một ít quân lại ở Sài Gòn để ra Đà Nẵng. Ngày 7/12/1860, Barbé bị quân Việt Nam phóng lao phục kích khi đi ngựa ra ngoài trên đường đến chùa Hiển Trung (pagoda des Mares) và thủ cấp ông được mang về thành Kì Hòa, được thiết lập gần đó để bao vây quân Pháp trấn đóng ở “phòng tuyến chùa” từ Sài Gòn đến Chợ Lớn. Nhà văn Le Verdier dùng Barbé là một nhân vật chính trong tác phẩm ”Scène de la vie annammite, Ki-Hoa”). Ta hãy đi theo hành trình mà ông Trương Vĩnh Ký mô tả (3) trên con đường từ Sài Gòn đến Chợ Lớn (người Pháp gọi là route haute tức đường trên), qua các địa danh cũ của Sài Gòn - Chợ Lớn trước khi người Pháp đến trong các đoạn sau.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 29, 2010 16:40:32 GMT 9
Đường trên đi từ Sài Gòn đến Chợ Lớn bắt đầu từ khu tòa án ngày nay (thời Trương Vĩnh Ký, Pháp mới xây thay thế tòa án trong thành Sài Gòn đã bị phá) và nhà tù gần đó. Khu tòa án ngày xưa gọi là xóm Vườn Mít vì nơi đây có một vườn mít lớn. Tại nơi tòa án và nhà giam xưa có một chợ gọi là “Chợ da còm”, nơi đây có một cây đa rất lớn với thân cong queo. Sau chợ này về phía phải đi về hướng Chợ Lớn là “Chợ đũi” bán vải. Xa chút nữa trước khi đến đường Thuận Kiều (nay là Cách mạng tháng 8) là “Xóm đệm buồm”. Trên đường Thuận Kiều đi qua “Chợ cây đa thằng mọi” và “Chợ điều khiển”. Sở dĩ gọi là “Chợ cây đa thằng mọi” vì ở chợ này có nhiều người bán đèn dầu bằng đất có hình thằng mọi đội đèn trên đầu. Chợ này kéo dài từ trước nhà ông Blancsubé cho đến đường sắt. Đi xa hơn qua cánh đồng mả (plaine des tombeaux), nước từ vùng này đổ vào một rạch sau nhà Blancsubé. Khúc đường ở đây lúc nào cũng ẩm. Người ta gọi khúc đường này là "Nước nhĩ" do nước chảy nhĩ ra. (ghi chú của dịch giả: Jules Blancsubé là thị trưởng Sài Gòn và chủ tịch Hội đồng quản hạt. Ông là luật sư cải cách, chống lại sự lạm quyền, và quyền hạn độc đoán của chức vụ thống đốc Nam kỳ như (Duperré) mà ông cho là đi ngược lại nguyên lý bình đẳng của hiến pháp cách mạng Pháp, và nguyên lý phân cách quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; ông có tư tưởng cộng hòa chống độc tài của hoàng đế Napoleon III của Pháp. Công lý theo ông phải được áp dụng như nhau cho mọi công dân Sài Gòn không kể chủng tộc, tư pháp phải độc lập với hành pháp mà chức vụ tối cao là thống đốc, thống đốc không được quyền bổ nhiệm người vào tòa án, tòa án xét lại, kiểm tra. Ông tự nhận mình là công dân Sài Gòn và khi đắc cử thị trưởng ông đã thiết lập những cải cách rộng lớn về luật pháp (13). Sau này có con đường Blancsubé đi qua gần nhà ông, sau đổi thành rue d’Arras, ngày nay là đường Cống Quỳnh. Đường Blancsubé về sau là đường Catinat nối dài nay là Phạm Ngọc Thạch. Quảng trường hồ con rùa ngày nay trước đây cũng được gọi là quảng trường Blancsubé) Sau đó là đến chùa Kim Chương. Chùa Kim Chương do vua Gia Long xây trên nền một chùa xưa của người Khmer. Nơi đây có hai biến cố mà lịch sử chưa được biết nhiều. Chúa Duệ Tông, chú của vua Gia Long và hoàng tử Mục vương bị Tây sơn bắt ở Bassac (Cà Mau) năm 1776 và Mục Vương bị bắt ở Ba vác (xưa thuộc tỉnh Vĩnh Long, nay trong phạm vi tỉnh Bến Tre phía đông bắc Mỏ Cày) không lâu sau đó. Cả hai bị xử tử trong chùa này năm 1776. Ngày nay (thời Trương Vĩnh Ký) trong chùa này có hai điện: Hiển trung tự và miễu công thần. Hình 10: Bản đồ Sài Gòn-Chợ Lớn sau khi Pháp chiếm 1859 Hình 11: Bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn lúc người Pháp đến 1859 (nguồn: Tour du Monde 1860). Để ý gần Chợ Lớn có một chùa (pagode) trên bản đồ đó là chùa Cây Mai. Sông “Donnai” trên bản đồ là sông Sài Gòn hay sông Tân Bình và trước khi vào cảng Sài Gòn có 2 đồn (fort) ở hai bên bờ sông, có thể là pháo đồn Cá Trê (Tả binh pháo) và pháo đồn Giao khẩu (hữu binh pháo). Bên trong thành Sài Gòn có ghi vị trí “điện vua”, “điện hoàng hậu”, “điện hoàng tử”, các trại lính, nhà thương, cột cờ, kho thuốc súng…như trong bản đồ hình 5. Bắt đầu vào Chợ Lớn, trước hết là gặp “Xóm bột”, làng này làm và bán bột vì thế gọi là xóm bột. Sau làng này là “Chợ hôm” (chợ, họp lúc chiều tối). Sau chợ này là một ngôi chùa gọi là Trần tướng, Trần tướng là một trong các tướng của Gia Long bị Tây sơn giết và được vua Gia Long xây một ngôi chùa tại đây để tưởng niệm. Trên một rạch nhỏ, nơi có các chùa của nghĩa địa người Hoa, có một cầu nhỏ gọi là “Cầu Linh Yển”. Theo truyền thống thì một binh sĩ tên là Yển đã cõng vua Gia Long lên vai trốn chạy Tây sơn rượt đuổi. Khi đến cầu này, một binh sĩ khác đã thay thế binh sĩ Yển để tiếp tục cõng vua chạy. Vì mệt nên anh ta (Yển) đã phải dừng lại để nghỉ mệt và vì thế bị quân Tây Sơn đuổi kịp và giết chết. Vua Gia Long đã xây tại nơi này một ngôi chùa để tưởng niệm. Làng này gọi là Tân Thuận hay Hàm luông. Khu này có một cây me lớn và dưới báng cây me này là các quán gọi là “Quán bánh nghệ”. Ở đó trên đường nay (thời Trương Vĩnh Ký) gọi là Rue des Marins (nay là Trần Hưng Đạo nối dài) có nhiều nhà tập trung lại thành “Xóm cốm” và “Xóm chỉ”. …. Giờ chúng ta trở bước lại ra về, chúng ta đến Chợ quán. Tên Chợ quán, áp dụng cho các làng Tân Kiểng, Nhơn Giang, Bình Yên, là tên một chợ họp ở dưới các cây me lớn ở đại lộ nhà thương Chợ Quán (avenue de l'hôpital de Chợ Quán). Ở đây cũng có nhiều quán trọ nên gọi là Chợ quán. Giữa đại lộ nhà thương và một nông trại trong khu các đầm ao (des Mares, khu này thời Trương Vĩnh Ký gọi là ao đầm vì có nhiều đầm và ao, sau này là trạm quân sự thành Ô Ma hay Camp des Mares và là trụ sở công an thành phố giáp đường Nguyễn Văn Cừ ngày nay) là làng thợ đúc, Nhơn ngãi (nay, tức thời Trương Vĩnh Ký, gọi là Nhơn Giang). Nơi đây người ta có thể thấy được các vết tích của một làng cổ Cao Miên với nhiều tháp làm bằng đá được tìm thấy ở một khu nhà. Lúc đào ở đây, người ta tìm thấy những đá Khmer, các đá nung hình lục bình, các tượng phật nhỏ bằng đồng, bằng đá. Còn có hai tảng đá granit lớn được đánh bóng với các tượng chạm trổ khắc nổi trên đá. Từ Chợ quán (làng Nhơn Giang) cho đến đường xuống "Cầu kho", bên đường là các nhà chung quanh có vườn rải rác cách nhau. Phía trên đường Cầu kho cho đến nhà Blancsubé, cũng có một số người ở. Vùng này thời Gia Long, có nhiều người ăn mày sống rất cực khổ. Khi thấy quân Tây Sơn rượt đuổi vua Gia Long đi ngang qua, họ đã tụ lại đánh trống khiêng nghe rất lớn kinh thiên động địa. Quân Tây Sơn phải dừng lại, tưởng là gặp phải một chướng ngại khó vượt qua. Vua Gia Long sau đó đã xây khu nhà cho những người ăn mày này để thưởng công họ. Làng này có tên là Tân lộc phường. Cầu trên rạch sau nhà ông Blancsubé gọi là "Cầu gạo", nơi đây người ta bán gạo. Ngày xưa người Cao Miên trồng lúa và làm chiếu ở vùng này. Trước nhà ông Sthingyer, người ta bán lá buôn và các nhà tụ lại gọi là "xóm lá buôn". Từ đây đi đến nhà giam thành phố, bên bờ đường là các nhà vườn quê của các quan (mandarin) và chức sắc triều đình. Phía trên đường Boresse (rue Boresse, tức đường Yersin ngày nay) là "Cầu quan" (rue des mandarins). (Chú thích dịch giả: “Cầu quan” ở trên rạch cùng tên. Boresse là tên trung úy hải quân Pháp được đô đốc Jauréguiberry chỉ định thiết lập cảnh sát và cơ quan hành chánh Sài Gòn sau khi Pháp chiếm, có đi cùng với phái bộ Phan Thanh Giản trở về Sài Gòn năm 1864 sau khi phái đoàn qua Pháp điều đình. Ông Andrew Sthingyer là thương gia có cơ sở nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước đầu tiên ở Chợ Lớn. Ông là người Mỹ sinh năm 1840, mất ngày 29/7/1884. Từ năm 18 tuổi đã qua Á châu làm ăn, ông là thuơng gia (negociant) ở Singapore 1 năm, sau đó đến Sài Gòn. Hai năm sau ông là ký giả cho báo “l’Ilustration” ở Nam kỳ năm 1861, theo đoàn quân Pháp đánh Biên Hòa ngày 9/12/1861 và tường trình trận đánh này trên tờ báo “l’Illustration”. Trong giai đoạn phôi thai Pháp đến Sài Gòn, vì có tài thương mại, ông được nhà cầm quyền Pháp cử làm Ủy viên (commissaire) quản lý Sở quan thuế (Douanes et Regis) từ năm 1870 đến lúc chính thức thành lập năm 1882. Sở này nằm cạnh sông Sài Gòn, gần nhà ông Vương Thái và gần Xưởng làm thuốc phiện. Ông cũng hợp tác với người Hoa làm thuốc phiện. Năm 1862, đề đốc Bonard cử ông dẫn đầu đoàn thám hiểm đi ngược dòng sông Mekong lên Angkor và Battambang để nghiên cứu và tường trình về kinh tế, khả năng thương mại ở Cam Bốt (55). Ông đầu tư vào một nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước đầu tiên ở Chợ Lớn, mở dịch vụ chuyên chở Sài Gòn - Pnom Penh bằng tàu hơi nước hai lần mỗi tháng. Ông làm thêm dịch vụ cung cấp gas đốt đèn đường và nhà trong thành phố Sài Gòn. Ông cũng là hội viên của Hội đồng tư vấn thuộc địa (conseil prive de la colonie) (54). Ông là người Mỹ đầu tiên sống và định cư ở Sài Gòn) Trở lại lên đường Mac Mahon cho đến đường Mọi, nơi có toà án mới, dinh thống đốc, trường Chasseloup Laubat (Lê Quí Đôn) mà chúng ta thấy bên trái, tất cả đều nằm ngoài thành Sài Gòn xưa. Ở đây dưới thời quan tổng trấn hoạn quan, phó vương Lê Văn Duyệt, là dinh của vợ ông (dinh bà lớn), nhà hoa của phó vương, nhà hát và trường ná (trường bắn). Cạnh nhà của ông de Lanneau, người ta vẫn còn thấy 2 cây phi lao, ở đây ngày xưa là Nền xã tắc, hình cái nón cúng thần đất. Công viên của thành phố là Xóm lụa xưa kia (nơi làm lụa, tẩy trắng và bán lụa). Trên đường chiến lược (route strategique, đi Chợ Lớn, tức đường Chasseloup Laubat sau này, ngày nay là Nguyễn Thị Minh Khai)) cho đến phía trên của Sở nuôi ngựa, là Xóm thuẫn, Xóm chậu và Xóm củ cải. (chú thích: de Lanneau là giám đốc hành chánh và tài chánh ở Nam kỳ, l’inspecteur des services administratives et financiers) Giờ ta hãy quay về phía phải đi theo con đường Mọi (rue des Mois, Nguyễn Đình Chiểu ngày nay) cho đến cầu thứ hai trên Rạch Thị Nghè, chúng ta sẽ thấy bên phải đối diện với nhà ông Potteaux, là nhà tù xưa của Sài Gòn và xa hơn nữa là công viên cho voi (xưa thành Sài Gòn có nuôi voi dùng trong chiến tranh và để di chuyển) và một chợ tên là Chợ vông, ở giữa nghĩa địa và cầu thứ hai. (chú thích: Ernest Potteaux là người đứng ra làm tờ Gia Định báo năm 1865, báo quốc ngữ đầu tiên mà sau này Trương Vĩnh Ký thay thế làm chủ nhiệm năm 1869. Potteaux thông thạo tiếng Việt và làm thông ngôn cho chính quyền Pháp). Cầu thứ ba, Cầu Xóm kiệu (nay là Tân Định), cho đến chợ Chợ xã tài, ngày xưa là một làng lớn có 72 chùa. Giờ chúng ta đi xuống cầu thứ hai ở cửa rạch Thị Nghè. Cầu thứ hai ngày xưa có tên là Cầu Cao mên; sau đó gọi là Cầu Hoa. Từ "Hoa" bị kị húy bởi tên của một hoàng tử, vì thế người ta đổi tên là Cầu Bông. Sự cấm đạo gay gắt dưới thời Minh Mạng được tiếp tục trong thời Thiệu Tri và Tự Đức. Từ năm 1857 khi linh mục Pellerin từ Nam kỳ trở về Pháp, Pellerin đã vận động với các cấp trong Công giáo (như Père Huc), nữ hoàng Eugenie, bộ ngoại giao Pháp ở quai d’Orsay và báo chí. Qua bức thư của cha Huc gởi Hoàng đế Napoleon III, một Ủy ban đặc biệt về Nam kỳ (Commission spéciale pour la Cochinchine) được thành lập sau đó. Pellerin và Huc thuyết trình ở Ủy ban và gặp hoàng đế Napoleon III. Tháng 9 năm 1857, vua Tự Đức xử trảm Monsignor Diaz, một linh mục người Tây Ban Nha ở Bắc hà. Thêm một cái cớ để Pháp đánh Việt Nam. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha được thành lập dưới sự chỉ huy của đề đốc (amiral) Rigault de Genouilly. Hạm đội của Genouiily tháng 9 năm 1858 đánh phá và đổ bộ Đà Nẵng, nhưng gặp khó khăn do quan quân triều đình Huế chống trả. Để lại một số quân và chiến thuyền ở Đà Nẵng, đề đốc Genouilly mang hạm đội vào Nam tấn công Gia Định. Thành Sài Gòn thất thủ ngày 17 tháng 2 1859. Nhưng vì thành quá lớn để có thể giữ được, quân Pháp phá hủy thành Sài Gòn và đốt cháy kho lương chứa gạo khổng lồ. Để lại một số quân giữ Sài Gòn, Genouilly quay trở lại Đà nẵng nhưng tại đấy không đạt được tiến triển mong muốn. Rigault de Genouilly bị chỉ trích ở Pháp và được thay bởi đề đốc Francois Page. Quân Pháp tấn công thành Sài Gòn 17-2-1859 Pháp lập phòng tuyến các chùa (ligne des pagodes) gồm chùa Cây Mai, chùa Barbé (chùa Khải Tường), chùa Clochetons (Kiểng Phước, theo Vương Hồng Sển thì ở đầu đường Phù Đổng Thiên Vương ngày nay, trước kia mang tên là đường Clochetons, gần thánh đường Hồi giáo trên vùng đất cao ráo nay là nền trường Đại học Y khoa), chùa Pagode des Mares (chùa Hiển Trung). Phòng tuyến này trải dài từ Chợ Lớn đến Sài Gòn để bao vây đánh đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa), viện binh do Nguyễn Tri Phương chỉ huy mà triều đình Huế gởi vào để đánh chiếm lại Sài Gòn khỏi tay người Pháp. Hai chùa Barbé và Kiểng Phước là gạch nối liên lạc giữa Sài Gòn và Chợ Lớn nơi có đồn Cây Mai. Chùa Kiểng Phước vào năm 1860 đã bị lính Pháp do đại úy Malet chỉ huy chiếm đóng và biến thành đồn “clochetons” làm nơi đóng quân, phòng thủ trong khi đề đốc Charner đang ở Trung Quốc. Chùa Kiểng Phước (đồn clochetons) là đầu mối liên lạc giữa Chợ Lớn với Sài Gòn và Chợ quán. Trong lúc liên quân Pháp-Tây Ban Nha ở lại cầm cự trấn giữ Sài Gòn sau khi Genouilly ra Đà Nẵng, thì cảng Sài Gòn được Pháp cho mở cửa tự do thông thương với các tàu nước ngoài. Tàu từ nhiều nơi đến mua bán hàng hóa ở cảng Sài Gòn-Chợ Lớn tấp nập gần sông và kinh rạch Chợ Lớn trong khi đại binh Nguyễn Tri Phương đóng ở phòng tuyến Kỳ Hòa cách đó không xa đang tìm cách phản công lấy lại Sài Gòn. Lúc này là thời vàng son của người Hoa buôn bán ở Chợ Lớn: không thuế má, cản trở và hoàn toàn tự do với hàng từ mọi nơi đổ về. Quân Pháp mua lương thực tiếp vận từ Chợ Lớn vì thế không lạ gì mà việc đầu tiên Nguyễn Tri Phương sau khi củng cố đồn Kỳ Hòa là bắt đầu tấn công vào đồn Cây Mai và chùa Kiểng Phước để cắt đứt sự liên lạc của Pháp với Chợ Lớn. Theo Midan (15) thì qua các bản vẽ sơ đồ 1:5000 kế hoạch thành phố “Sài Gòn, ville de 500.000 âmes” có chữ ký của thượng sĩ Clipet, trung tá công binh Coffyn và đề đốc Bonard mà Midan tìm được trong kho lưu trữ “Archives de la Direction de l’Artillerie à Sài Gòn” thì có ghi vị trí chùa pagode des clochetons thành đồn clochetons. Dùng bản đồ kế hoạch tương lai xây cất Sài Gòn thành phố 500000 dân xưa nhất này của trung tá Coffyn và so sánh với bản đồ thật sự lúc đó (1934) với cùng tỉ lệ, Midan đi đến kết luận: “Chùa Kiểng Phước (clochetons) ở đại lộ Marechal Foch kéo dài từ đường Rue des clochetons, bắt ngang qua hai lô đất 21 và 22 của bản đồ mới, phần chính là nằm trên địa điểm thật sự của trường Ecoles des Filles và khu đất cạnh đường Armand Rousseau”. (chú thích: đại lộ Marechal Foch là Lý Thường Kiệt và Armand Rousseau là Nguyễn Chí Thanh ngày nay) Cũng theo Midan, thì trong thơ của ông Passerat de la Chapelle, kế toán trưởng Chợ Lớn, gởi cho ông chủ tịch thành phố nói là khi ông mới đến Chợ Lớn vào tháng 6-1891, ông được thành phố cho ở trong một tòa nhà trong khu chùa Kiểng Phước, mà ông nói thật ra là một trường mẫu giáo. Trường mẫu giáo (ecole maternelle) đổi thành trường nữ sinh (ecole des filles) vào năm 1917. Như vậy trái với Vương Hồng Sển, chùa Kiểng Phước không nằm ở phía đại học y dược ngày nay mà ở nhích phía trên, nơi trường mầm non gần bệnh viện Chợ Rẫy góc đường Lý Thường Kiệt và Nguyễn Chí Thanh ngày nay. Tư liệu cho thấy chùa Kiểng Phước của người Hoa có cột bằng gỗ, hai cổng và tường là gạch và đã biến mất chỉ còn mấy cây gỗ mục trong khuôn viên chùa vào năm 1866 (14). Chùa Khải Tường (Berbet) là nơi vua Minh Mạng sanh năm 1790 khi Nguyễn Ánh còn trú tại Sài Gòn trong cuộc chiến với Tây Sơn. Sau này để tưởng nhớ, vua Gia Long đã dâng cúng tượng Phật A di Đà rất đẹp cho chùa, tượng này nay ở Viện bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh (trong sở thú). Vi trí chùa Khải Tường ngày nay là Viện bảo tàng chứng tích chiến tranh, số 28 đường Võ Văn Tần (đường Testard thời Pháp, Trần Quí Cáp trước 1975). Trước đó khi chùa không còn, chỉ còn lại là nền, người ta cho xây một biệt thự sau này bà bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu (con ông Bùi Quang Chiêu) mướn làm dưỡng đường sản phụ khoa mà sau này năm 1947 trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội và vào năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Sài Gòn, trước khi đại học y-dược dời đi nơi khác lớn hơn (6). Theo Midan, sau khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn, thì 10 năm sau (1869), chuẩn đô đốc G. Ohier cho xây lại chùa và trong khuôn viên xây các trại lính cảnh sát. Hợp đồng xây sau đó được ký kết giữa ông Hermite, kiến trúc sư thuộc địa, trưởng phòng sở công chánh với một doanh nhân người Hoa giàu có ở Sài Gòn tên là A-Fo. Nhưng hợp đồng không được thực hiện. Dùng bản đồ 1:2000 năm 1871, so sánh với bản đồ năm 1931, Midan đưa đến kết luận: “Chùa Berbet ở lô đất 1 (số 93 đường Richaud, xưa là rue no. 27, đường 27, sau đó là rue des Mois, đường người Mọi) và lô đất 8 và 9 (số 26 đường Testard). Lô 1 ngày nay (1934) là tòa nhà của Chartered Bank, lô 8 và 9 là biệt thự của ông Matthieu ở góc đường Testard và Berbet. Đồn Berbet mà chỉ dụ của thống đốc Ohier ban ngày 10 tháng 9 năm 1869 nói đến là ở lô 24 nay là nhà của Chủ tịch Tòa án đầu tiên, số 6 đường Berbet” (chú thích: đường Richaud là Nguyễn Đình Chiểu, Testard là Võ Văn Tần và Berbet là Lê Quý Đôn ngày nay). Theo Bouchot thì chùa Barbé (đúng hơn tên mà nhiều người gọi nhầm lẫn Berbet) bị phá hủy năm 1904 (17). Chùa Hiển Trung gồm hai miếu miếu Công thần và miếu Hội đồng do vua Gia Long xây dựng ở khu xóm nhiều đầm lầy gần làng Chợ Quán về phía Chợ Lớn gọi là xóm Ô Ma (sau này thành nơi đóng quân, nuôi ngựa của Pháp gọi là thành Ô Ma, đường Nancy nay là trụ sở công an đường Nguyễn Văn Cừ). Quân thủy binh, bộ binh Pháp - Tây Ban Nha chiếm giữ các phòng tuyến chùa này cùng các đại pháo mang từ các tàu chiến đậu trên sông, rạch Sài Gòn và Chợ Lớn tham gia cuộc tấn công đồn Kỳ Hòa năm 1860-1861. Chỉ huy trong trận này là phó đô đốc Charner, người thay thế đề đốc Francois Page và Rigault de Genouilly mà năm trước đó (1859) đứng đầu liên quân Pháp - Tây ban Nha đã hạ và phá hủy thành Sài Gòn. Grenouilly chiếm giũ và thành lập các đồn gần trung tâm Sài Gòn, như đồn Sài Gòn, chùa Berbet để phòng sự phản công của triều đình Huế. Sau chiến dịch ở Trung quốc, đoàn tàu chiến hạm Pháp đi vào Sài Gòn để tiếp viện cho quân Pháp - Tây Ban Nha đang cầm cự và đánh chiếm nốt các tỉnh thành chung quanh Sài Gòn. Khu trú ngụ của nhiều thủy quân là khu vực Rue des Marins (đường Đồng Khánh, ngày nay gọi là Trần Hưng Đạo nối dài) gần đường Tản Đà (rue de Jacccario) nơi trước kia chiến hạm Jaccario đậu để hỗ trợ thủy binh và lính đóng tại đồn Cây Mai trong trận vây đánh thành Kì Hòa do Nguyễn Tri Phương trấn giữ. Đa số quân Tây Ban Nha đóng dinh trại tại vùng sau này gọi là rue d’ Espagne (Lê Thánh Tôn ngày nay). Hình 13: Thành Sài Gòn 1870 – bên trong người Pháp đã thay đổi tất cả, xây chỗ ở cho sĩ quan, trại lính, kho bạc, nhà tù. Năm 1860, vừa sau khi đánh chiếm Sài Gòn, đã có đề nghị trong Hội đồng quản hạt (consei colonial) về vấn đề lấp kinh chợ Vải (ngay đường Nguyễn Huệ ngày nay). Vấn đề này đưa đến sự tranh cãi sôi nổi giữa hai bên: nhóm ủng hộ về vấn đề vệ sinh rạch và nhóm thương nhân chống vì lợi ích thực tiễn thương mại (10). Vấn đề lấp kinh được hoãn cho tới 25 năm sau. 7. Tổng kết: Sài Gòn giai đoạn thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19 Sài Gòn từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19 là thời kỳ lưu dân người Việt từ miền Trung và người Hoa từ nam trung quốc đến lập nghiệp và biến vùng đất hoang vu ít người này thành một vùng định cư trù phú mang dấu ấn văn hóa Việt-Hoa hấp thụ và thay thế dần nét văn hóa và đời sống của các dân tộc bản xứ và người Khmer. Dù vậy cho đến đầu thế kỷ 20, chung quanh Sài Gòn vẫn còn nhiều người bản xứ như ở vùng Biên Hòa, Tân Uyên, Thủ Dầu Một, Thủ Đức, Bà Rịa (còn được gọi là xứ Mọi và là nơi có nhiều thú dữ như voi, cọp) và người Khmer cư ngụ như ở Long An. Ngay tại Sài Gòn, cho đến đầu thế kỷ 19, vẫn còn một số người bản xứ và nhiều người Khmer. Người Âu từ phương tây cũng đã đến Sài Gòn và các vùng phụ cận từ trước thế kỷ 18. Những người này là người Bồ, Pháp, Ý, đa số là giáo sĩ, thương gia và các người mạo hiểm. Sau này có thêm các quân nhân, sĩ quan hải quân Pháp tình nguyện đi cùng giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh. Các biến cố quan trọng ở Sài Gòn trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 - Sài Gòn là chiến trường giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Trong giai đoạn này có sự có mặt của Bá Đa Lộc là một người thông thạo tiếng Việt, để lại nhiều sách, bài viết về ngôn ngữ, văn hóa (22). Không thành công khi trở lại Pháp với hoàng tử Cảnh trong sự việc mang đoàn tàu Pháp đến Gia Định giúp Nguyễn Ánh như mong ước, nhưng đã có một số lính và sĩ quan tình nguyện bỏ Hải quân theo Bá Đa Lộc đến Việt Nam như Dayot, Chaigneau, Vannier.. - Lê Văn Duyệt làm tổng trấn sau khi Nguyễn Ánh trở lại Huế. Chính sách của Lê Văn Duyệt phản ảnh tư tưởng mở rộng đa chiều mà xã hội Sài Gòn và miền Nam được tạo thành. Nguyễn Ánh sau khi thống nhất đất nước thay vì ở lại Sài Gòn, vùng đất với tinh thần khai phóng lại trở về nguồn để tái lập truyền thống phong kiến xưa. Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung mất cơ hội phát triển với hệ thống mở, trở nên đầu nguồn của các tư tưởng mới - Khởi nghĩa của Lê Văn Khôi. Sự bất đồng giữa tổng trấn Lê Văn Duyệt với chính sách độc đoán, bài ngoại, và đóng cửa với thế giới bên ngoài của vua Minh Mạng dẫn tới sự trừng phạt những người thân tín và theo tổng trấn của Minh Mạng sau khi Lê Văn Duyệt mất dẫn đến sự nổi dậy của Lê Văn Khôi với sự tham dự của lưu dân người Việt, Hoa, người Chăm, Khmer và bản xứ. Sự thất bại của khởi nghĩa và Việt Nam, qua Minh Mạng, đã chọn lựa đi theo một chủ thuyết độc tôn văn hóa, cứng rắn tập trung, bài thương mại, dẫn đến sự chạm trán các nền văn minh sau này. /. Tham khảo (1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf (2) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur: Impr. de L. Danel (Lille), 1883. (3) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur: Impr. coloniale (Saïgon), 1885. (4) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890. (5) Trần Ngọc Quang, Sài Gòn và những tên đường xưa, namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-Sài Gòntenduongxua.pdf. (6) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ (7) John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street. 1830. (8) John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London, 1824. Online: www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/ n15/mode/2up (9) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993, motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Sài Gòn (10) Hình ảnh, tư liệu, belleindochine.free.fr/Sài Gòn1882.htm (11) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876. (12) John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London, 1806. online : purl.pt/126(13) Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879. (14) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887. (15) P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon- Cholon, Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon), 1934. (16) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880. gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination(17) J. Bouchot, Sài Gòn sous la domination cambodgienne et annamite, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1926, 1926 (Nouv Ser,T1), pp. 3-82, Société des études indochinoises (Saïgon). (18) Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 125-231. (19) Trần Văn Giàu, Lược sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb Tph Hồ Chí Minh, 1987, Quyển I, trang 235-420. (20) Josiah Conder, Birmah, Siam, and Anam, London: printed for J. Duncan, Oliver & Boyd, Edingburgh, M. Ogle, Glasgow and R. M. Tims, Dublin, 1826, www.archive.org/stream/birmahsiamanam00condrich#page/n11/mode/2up(21) George Finlayson, The mission to Siam and Hue the capital of Cochin China in the years 1821-2, London, John Murray, Albemale Street, 1826. www.archive.org/stream/missiontosiaman00raffgoog#page/n7/mode/1up (22) R. Purefoy, Cursory remarks on Cochin-China, The Asiatic journal and monthly register for Bitish India and its dependencies, Vol. 22, pp. 143-147, pp. 652-655 London, 1826. (23) Charles Darwin, The Descent of Man: and selection in relation to sex, John Murray, London, 1879. (24) Charles Lemire, Cochinchine française et royaume de Cambodge, avec l'itinéraire de Paris à Saïgon et à la capitale cambodgienne, Challamel aine, Paris, 1869. Nguyễn Đức Hiệp
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 6:56:44 GMT 9
Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 Vietsciences- Nguyễn Đức Hiệp Du khách khi đã đến khu phố cổ dọc Clark Quay và Boat Quay gần sông ở Singapore, hay ở phố cổ người Hoa ở Melaka (Mã Lai) và nếu cũng đến khu phố có các nhà cổ dọc kênh Tàu Hủ và khu đường Phùng Hưng ở Chợ Lớn sẽ nhận thấy có những sự giống nhau hầu như không phân biệt được của các kiến trúc đông tây của các nhà cổ ở hai thành phố trên. Điều này ít ai để ý, nhưng nếu ta lật lại trang sử cách đây gần hai thế kỷ, ta sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng rất nhiều các tòa nhà này đã được các thương gia người Baba (Peranakan hay Straits-settlement Chinese) từ Melaka ở Singapore xây dựng khi họ cư trú làm ăn ở Chợ Lớn. Ba anh em Trần Khánh Hòa, Trần Khánh Vân và Trần Khánh Tinh là thầu xây dựng ở Saigon-Chợ Lớn cho chính quyền. Theo Paul Vial thì tờ Courrier Saigon số ngày 20/12/1864 (16) cho biết các nhà gạch dọc theo rạch Bến Nghé-kênh Tàu Hủ (Arroyo chinois) phía Chợ Lớn đã được xây nhanh chóng và một người Baba gọi là Ban-hap (Vạn Hòa), tên thật là Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên), có ngôi nhà hai tầng đẹp nhất được thống đốc de la Grandière mời đến tặng thưởng. Sự liên hệ của người Baba gốc Hoa ở Singapore và Saigon, Hong Kong trong lãnh vực kinh tế văn hóa xã hội vào thế kỷ 19 khi Singapore trở thành trung tâm thương mại ở Đông nam Á, vai trò của họ trong sự thành lập đặc tính con người nước Singapore qua sự kết hợp văn hóa và tư tưởng Đông Tây và sự ảnh hưởng của họ trong sự phát triển Saigon-Chợ Lớn sẽ được trình bày trong bài này. Sự thành lập Singapore và hệ quả kinh tế xã hội ở Đông Nam Á Trước năm 1819, đảo Singapore chỉ là một làng đánh cá Mã Lai và đã có một số người Hoa rất ít sống rải rác nơi này. Gần Singapore về phía bắc dọc bờ biển phía tây bán đảo Mã Lai và bắc Sumatra, lưu dân người Hoa đã đến định cư từ các thế kỷ trước trong cộng đồng người bản sứ Mã Lai. Họ sống nhiều đời ở các nơi này và du nhập một số các tập tục đời sống, tiếng nói văn hóa Mã Lai, tuy vậy đa số vẫn giữ phong tục tập quán và nguồn gốc ở các tỉnh dọc bờ biển Hoa Nam mà tổ tiên họ đã từ đó ra đi. Rất nhiều người con cháu họ không còn biết tiếng Trung quốc, họ được gọi là người Baba hay paranakan Cina (tiếng Mã Lai nghĩa là con cháu người Hoa), tương tự như người Minh Hương ở miền nam Việt Nam. Các thành phố Melaka, Penang, Tangerang, Riau… là nơi có nhiều người Baba gốc Hoa định cư, họ sống chung với cư dân Mã Lai và tiếp xúc buôn bán với người Bồ Đào Nha và Hòa Lan đã đến bờ biển Mã Lai buôn bán trước khi người Anh đến thiết lập thuộc địa.Năm 1819, Sir Stamford Raffles lập Singapore, một thành phố cảng gần cửa sông và tuyên bố thành phố này là cảng trao đổi hàng hóa, buôn bán tự do, không thâu thuế, cho tất cả các thương nhân, thuyền buôn từ tất cả các nước. Sự thành lập Singapore và vị trí thuận lợi của thành phố này là nơi trao đổi hàng hóa giữa Siam, Miến Điện, Nam kỳ (Cochinchina), quần đảo Nam Dương, Mã Lai nơi sản xuất gạo, hồ tiêu, gia vị, thiết, Trung Quốc nơi cung cấp trà, lụa và các nước Ấn Độ, Tây phương, khởi đầu cho sự thay đổi toàn diện sự phát triển kinh tế, xã hội ở Đông Nam Á. Người Baba từ Melaka là những người đầu tiên đến Singapore tạo lập sự nghiệp, lập cơ sở làm ăn, buôn bán. Như ông Trần Đốc Sinh (Tan Tock Seng) từ Melaka đến Singapore từ lúc đầu (1819) buôn bán trái cây, rau quả và trở thành người Baba giàu có và một trong những người tiên phong phát triển Singapore (bệnh viện Tan Tock Seng là bệnh viện lâu đời nhất ở Singapore do ông lập). Chỉ vài năm sau, Singpapore trở thành thương cảng phát đạt, thịnh vượng. Năm 1821, tàu buôn đầu tiên đến Singapore từ Hạ Môn (Amoy hay Xiamen) và sau đó nhiều người di dân Trung quốc từ Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu đến Singapore và từ đây đa số đã đi lập nghiệp dọc bờ biển bán đảo Mã Lai hay Riau, Medan ở Sumatra làm ăn. Rất nhiều người trong họ đi khẩn hoang, phá rừng lập nông trại trồng tiêu, cau mứt (gambier) hay làm nhân công trong các công ty, cu li ở cảng Singapore hay các mỏ thiết, vàng ở Mã Lai, các đảo Indonesia. Singapore trở thành trạm trung chuyển cung cấp dịch vụ, chuyển tiếp cho các người di dân Trung quốc nhập cư ngày càng nhiều đến các vùng lân cận để khẩn hoang lập nghiệp ngay cả đến các nơi xa như Australia. Quang cảnh sông Singapore gần vịnh Sau chiến tranh nha phiến chấm dứt vào năm 1842, do có nhiều thay đổi loạn lạc, làn sóng di cư người Hoa xuống Đông Nam Á tăng nhiều. Những người không đủ tiền trả lộ phí đi tàu để di dân, nên phải chịu thiếu chủ tàu hay chủ các công ty ở Singapore đang cần và tuyển người làm công. Những người di dân này phải trả tiền thiếu lại sau nhiều năm tháng làm công. Nam Trung Hoa là nguồn cung cấp lao động có năng lực, rẻ. Sự đòi hỏi lao động càng nhiều đã tạo ra cơ hội lớn cho các nhà doanh nhân thương nghiệp, chủ các công ty ở Singapore để gởi các đại diện qua Quảng Châu, Phúc Kiến và cả Thượng Hải tuyển nhân công, dân di cư nghèo khổ đi lập nghiệp. Lúc đầu di dân nghèo bị bóc lột, đối xử như nô lệ qua số nợ phải trả coi như làm không công ở các nhà kho, cảng, nông trại hồ tiêu, cau mứt (gambier), thuốc phiện, mỏ thiết. Gambier (cau mứt) được trồng nhiều để lấy chất triết từ cây, chất này dùng để thuộc da (tanning) hay nhuộm. Người Triều Châu chủ yếu thống lãnh nghề trồng tiêu, cau mứt ở Singapore lúc đầu rồi sau đó phát tán ra các vùng chung quanh như Johor ở bán đảo Mã Lai hay Sumatra. Người gốc Hoa chẳng bao lâu trở thành đa số ở Singapore và càng đông ở các thành phố như Penang, Medan, Riau. Boat Quay – Các kho hàng ở dọc bờ nam sông Singapore Dân số càng đông nên nhu cầu thực phẩm như gạo càng nhiều. Siam (Thái Lan) và Nam kỳ (Cochinchina) là hai vựa lúa lớn trong vùng, vì thế gạo được nhập khẩu từ hai nơi này càng lúc càng tăng. Các người gốc Hoa ở Singapore, đa số là Baba thông thạo qui cách làm ăn và mang quốc tịch Anh, chủ các công ty hay doanh nhân đã qua Siam và Saigon, để thiết lập các cơ xưởng, kho hàng, trạm thâu mua gạo. Gạo là sản phẩm chiến lược cho thị trường Singapore đi Đông Nam Á, Hong Kong, nam Trung quốc và trực tiếp đến Manila. Boat quay – cu li khiêng gạo lên kho Một sản phẩm mang lợi nhuận nhiều là thuốc phiện. Những người di dân Trung quốc mang theo thói quen hút thuốc phiện đến các vùng đất mới ở Mã Lai, quần đảo Nam Dương. Thuốc phiện được người Anh du nhập vào Trung quốc đầu thế kỷ 19 từ các vùng sản xuất ở Ấn Độ để cân bằng cán cân thương mại do sự nhập khẩu quá nhiều trà, tơ lụa từ Trung quốc vào Âu châu của công ty Đông Ấn. Các công ty này không đủ số lượng bạc và vàng phải trả, nên sản phẩm thuốc phiện là hàng bán có lợi nhuận lớn nhất hơn vũ khí, hàng kỹ thuật. Chẳng bao lâu, thuốc phiện là hàng nhập khẩu chủ yếu của Trung quốc. Sự nghiêm cấm nhập thuốc phiện của nhà Thanh cũng là nguyên nhân chính đã đưa đến chiến tranh nha phiến dẫn đến hòa ước bất bình đẳng buộc Trung quốc phải nhượng địa và mở cử các hải cảng ở bờ biển Trung quốc cho thương mại tự do. Thuốc phiện được dân công làm cu li dùng để giải sầu, trong lúc buồn vắng, xa nhà. Đây là nguồn lợi nhuận lớn cho các nhà buôn, và chính quyền sở tại qua thuế. Các chủ nhà buôn, công ty có thế lực được gọi là “tào kê” (tiếng Triều Châu). Đối với công nhân, cu li làm trong các mỏ xa xôi, khẩn hoang ở các trại gần rừng, tiện nghi không có, làm việc cực nhoc, thuốc phiện không những là nguồn giải sầu cô đơn, mà còn là thuốc duy nhất có tác dụng trị đau nhức, giảm kiết lỵ, sốt hay sốt rét. Quả thật nếu không có tác dụng làm nghiện và nguy hại nếu dùng quá liều, thì thuốc phiện là thứ quí giá nhất cho họ ở những vùng hoang vắng. Vì thế thuốc phiện là nguồn mà các tào kê cung cấp cho những cu li, công nhân làm việc và trở thành thứ cần thiết vừa cho công nhân mà còn mang lại lợi nhuận cho chủ. Điều này làm công nhân trở thành tùy thuộc các tào kê qua nợ mua thuốc giá cao từ nguồn cung cấp gần như độc quyền của các tào kê.Các chủ thường bán thuốc phiện cho nhân công, cu li trong cảng, bến tàu, rừng, mỏ, nông trại hoang vắng với giá cao so với giá thành và ngay cả cho họ thiếu nếu không đủ tiền vì thế họ lúc nào cũng phải thiếu nợ chủ, phải làm việc để trả nợ, coi như làm không công. Do đó làm chủ các nông trại trồng và xưởng làm thuốc phiện là một nguồn lợi nhuận khổng lồ. Chính quyền sở tại biết thế, nên để dễ kiểm soát và thâu thuế, họ thường cho đấu giá độc quyền trồng thuốc phiện ở các nông trại và xưởng làm thuốc phiện trong một số năm hạn định. Các công ty tranh nhau được độc quyền ở Singapore, Hong Kong. Siam, Nam Kỳ, Cam Bốt khi đấu giá được tổ chức ở những nơi này. Ở Cam Bốt, hầu như lợi tức của hoàng gia triều đình nước này là từ các trại thuốc phiện. Một người baba ở Singapore, gọi là Ban-hap (Vạn Hòa), qua Saigon buôn bán gạo và thuốc phiện và trong thời kỳ Pháp chiếm Nam kỳ đã được độc quyền một thời gian trồng thuốc phiện ở Nam Kỳ và sau đó ở Cam Bốt do vua Cam Bốt giao thầu trồng và lấy thuế thuốc phiện. Sau này do sự lan tràn các tệ nạn xã hội thiệt hại kinh tế lâu dài do thuốc phiện gây ra, thuốc phiện bị bãi bỏ và cấm vào đầu thế kỷ 20 (1907) ở Singapore và bán đảo Mã Lai và từ đó lần lần nguồn sản xuất và thị trường biến mất vào giữa thế kỷ 20. Tuy nhiên ta phải để ý là vai trò của thuốc phiện trong lãnh vực kinh tế ở thế kỷ 19 rất là quan trọng trong thời kỳ phát triển ở Đông Nam Á.Những người Hoa có vốn, để làm ăn ở vùng đất mới và tương trợ nhau, họ bỏ chung nhau một số vốn, phần hùn vào một tổ chức mà họ gọi là kongsi (“công ty”). Nếu kongsi làm ăn phát đạt, thì tài sản lợi nhuận được chia theo phần hùn. Người có phần hùn có thể bán lại hay mua phần hùn của người khác. Kongsi nổi tiếng lớn và có thế lực lâu đời là Khâu “công ty” của gia đình người baba họ Khâu ở Penang. Trong hoạt động của công ty, con dấu (“chop”) mang ấn hiệu của công ty trong giấy tờ chính thức có biểu tượng đặc biệt, như “chop” Chin Sing (Thành Hạnh), vì thế con dấu cũng là công ty. Các lưu dân lúc đầu đa số là nghèo khó, họ thường tương trợ lẫn nhau giữa những người đồng cảnh với tinh thần tứ hải giai huynh đệ trong kongxi, với người vai vế cao nhất đứng đầu gọi là “đại ca” (anh lớn). Một số kongxi không có tính chất thương mại mà trở thành hội kính như Nghee Hin (Nghĩa Hưng), tương tự như các hội kính ở Nam kỳ đầu thế kỷ 20 như hội kính Phan Xích Long.Trong bối cảnh như vậy ban đầu ở Singapore, Mã Lai, Indonesia, người Baba (còn gọi là Peranakan hay Straits-born Chinese) rất mạnh và thống lĩnh về thương mai, vì sinh trưởng và sống qua nhiều đời ở Đông Nam Á. Rất nhiều trong số họ không còn nói được tiếng Hoa, đa số được học và giáo dục tại các trường cao cấp ở Singapore hay ở Anh. Họ thông thạo tiếng Anh và Mã Lai, do đã có liên hệ từ trước với thương gia người Âu và công chức chính quyền thuộc địa từ Bồ Đào Nha, Hòa Lan đến Anh. Vì thế họ có lợi thế trong thương mại, có chân trong các cơ quan chính quyền, trong các chức vị quan trọng như thẩm phán, hội viên Hội đồng lập pháp (Legislative Council)… so với những người mới nhập cư. Cựu thủ tướng Lý Quang Diệu cũng là người Baba gốc Hẹ (Hakka), sống ở Singapore từ nhiều đời..Người Anh rất cần những trung gian buôn bán, làm thương mại như người Baba vì vậy họ khuyến khích họ từ Melaka đến lập văn phòng thương mại, lập nghiệp ở Singapore khi cảng Singapore mới được thành lập. Khi chiến tranh nha phiến chấm dứt, các cửa khẩu ở Trung quốc cũng được mở tự do mậu dịch. Cũng như lúc trước khi thành lập Singapore, người Anh lại tiếp tục khuyến khích họ từ Singapore và Melaka đến làm ăn ở các cửa khẩu này ở Trung quốc. Để có thể làm dễ dàng và không sợ bị rắc rối với chính quyền nhà Thanh ở Trung quốc với những người Baba gốc Hoa làm việc trên tàu Anh (chính quyền Thanh vẫn coi họ là người Trung quốc và áp dụng luật Trung quốc), nên bắt đầu từ năm 1844, chính quyền ở Penang, Singapore và Melaka cung cấp họ giấy tờ quốc tịch Anh để họ làm việc ở nước ngoài dưới sự bảo hộ của lãnh sự Anh ở các nước, kể cả ở Siam, Nhật, hay thuộc địa các nước Âu châu khác trong vùng (như Pháp, Hòa Lan) (13). Vì thế các thương gia Baba rất có lợi khi đầu tư, hoạt động ở nước ngoài. Nhiều công ty tàu biển của người Baba thường mướn cả thuyền trưởng và thuyền viên người Anh đảm trách vận chuyển.Ông Ang Choon Seng (Hồng Tuấn Thành), chủ công ty ‘chop’ Chin Seng (Thành Hạnh), sở hữu hai tàu Patah Salam and Kong Kek, buôn bán chở hàng với hai thành phố Saigon và Bangkok. Hai công ty Low Poh Jim co. (Lưu Bảo Nhâm). and Yap Sian Tee and co. buôn bán hàng hóa với Bangkok. Công ty của Khâu Chánh Trung nhập gạo từ các nhà máy của công ty này ở Saigon. Trong khi đó công ty Wee Bin and co., trở thành công ty nhập khẩu lớn nhất hàng hóa từ Bali và đủ loại đồ gốm, sau đó lớn mạnh với hơn hai mươi tàu dùng trong thương mại với Đông Ấn thuộc Hòa Lan (Indonesia). Công ty Chip Hock and Co. bắt đầu buôn bán với Nhật Bản sau khi ông Tan Beng Teck (Trần Minh Đức), người Baba, trú ngụ ở đó một thời gian và mang về các hàng sơn mài, gốm và hàng bạc (Tan Beng Teck cũng là tác giả các sách truyện Trung quốc dịch sang tiếng Mã Lai). Ông Ho Chong Lay (Hà Tông Lễ), đến Singapore từ Hạ Môn năm 1844, thành lập ‘chop Teng Hin’, chủ vài tàu chở hàng buôn bán với Siam và Saigon (9)Các thương gia người Hoa ở Chợ Lớn cũng thường tiếp xúc, liên hệ với các người Hoa Baba ở Đông Nam Á: họ đã có những liên hệ thương mại mật thiết với các cộng đồng người Hoa ở Nam Dương, Singapore và Mã Lai. Ở Chợ Lớn có hai câu lạc bộ của người Baba gốc Hoa Singapore, một thiết lập năm 1878 tọa lạc ở số 64 đường Paris (Phùng Hưng kế đường Phúc Kiến) và một thành lập năm 1886 ở số 105 đường Rue de marins (Đồng Khánh sau này là Trần Hưng Đạo nối dài) sau khi có sự đòi hỏi từ lãnh sự Anh ở Saigon năm 1885 (1). Hội trưởng của hội người Bà Ba là Tay Chow Beng (鄭昭明. Trịnh Chiêu Minh). Trong số họ có một người giàu có làm chủ hảng thuốc phiện là Cheang Hong Lim (章芳林, Chương Phương Lâm) (20). Họ có chùa riêng của họ gọi là chùa Phụng Sơn (còn gọi là chùa Ông Bổn xóm Bà Ba, ngã tư đường Ký Con và Nguyễn Công Trứ) ở quận 1 ngày nay. Chủ yếu họ mua bán lúa gạo, nông phẩm, thầu xây dựng địa ốc, sản xuất thuốc phiện. Lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp từ các tỉnh miền tây mang vào Chợ Lớn-Saigon và xuất khẩu qua nhiều nước ở Đông Nam Á. Có từ hai mươi đến ba mươi gia đình người Hoa ở Melaka và Singapore trú tại Chợ Lớn, phần lớn trên đường Phúc Kiến, vì thế đường này được họ gọi là “đường Bà ba” (rue des Baba). Baba là tên những người gốc Hoa ở vùng Strait Settlement (Singapore và Malaysia) tự gọi họ (1). Vết tích văn hóa của họ còn để lại trong ngôn ngữ Việt Nam như áo bà ba, bánh gỏi bà ba, chè bà ba (gula Malaka) (1). Qua sự liên hệ thương mại giữa người Hoa ở Chợ Lớn và các thành phố khác ở Đông Nam Á như Singapore, Hong Kong, ta cũng không lạ gì nhiều nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn nhập máy xay bằng hơi nước hiệu “Barley Mill” từ Anh qua Singapore hay Hong Kong mặc dầu có sự phàn nàn từ người Pháp do không mua máy của Pháp (3). Các thương gia nổi tiếng người Hoa gốc Phúc Kiến từ Singapore là ba anh em Tan Keng Ho (Trần Khánh Hòa), Tan Keng Hoon (Trần Khánh Vân), Tan Keng Sing (Trần Khánh Tinh), Khâu Chánh Trung (Khoo Cheng Tiong), Trần Kim Chung (Tan Kim Ching) và ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) đều có nhà máy xay lúa hay phần hùn trong đó. Saigon-Chợ Lớn, trạm trung chuyển hàng hải giữa Singapore và Hong Kong Con đường thông thương hàng hải giữa Âu châu, Singapore và các thành phố Đông Á như Hong Kong, Quảng Châu, Thượng Hải, Nagasaki, Osaka, Tokyo trở nên rất tấp nập vào các thập niên cuối thế kỷ 19, nhất là từ khi kênh đào Suez được mở. Các tàu hơi nước đi từ Singapore đi Hong Kong đều ghé cảng Saigon. Vì thế rất nhiều du khách đã viếng Saigon trong trạm dừng nghĩ và viết về thành phố này, như Vincent (12), Gray (11), Trần Công Sơn (8), Lý Thanh Hội (13) và một người Hoa từ Batavia (Jakarta ngày nay) (1). Đầu năm 1875, ông Gray, phó chủ giáo Anh giáo, địa phận Hong Kong, sau khi sống ở Trung quốc 23 năm, trở về Anh từ Hong Kong trên tàu “Anadyr” của công ty Pháp Messageries Maritimes Compagnie, ghé Saigon. Ông Gray đã mô tả Saigon và so sánh với Hong Kong. Saigon đèn đường được đốt sáng ban đêm bằng dầu trong khi Hong Kong là gas và nói chung đường sá không tốt như ở Hong Kong và hoạt động thương mại kém hơn. Một đoạn nói về Saigon như sau (11): “Tòa nhà đồ sộ nhất mà người Saigon thường khoe, đó là dinh mà viên thống đốc toàn quyền ở. Tòa nhà rất lớn, bằng nếu không nói là hơn các dinh thự khác ở Âu châu, về phương diện thiết kế kiến trúc và huy hoàng,”Năm 1888, người Baba Singapore tên là Tan Keong Sum (陳功山, Trần Công Sơn, sinh khoảng năm 1861) đi du lịch từ Singapore đến Saigon-Chợ Lớn trên tàu hơi nước “Djemnah” của công ty Messageries Maritimes vào ngày 19/4/1888 với cha mẹ và 2 người chị gái và gia đình (8). Trần Công Sơn (với bút hiệu Shengtang) làm việc cho công ty “chop” Hong Hin (Phùng Hưng), công ty tàu biển của Tan Kim Seng (Trần Kim Thanh). Anh của Trần Công Sơn là Trần Công Tích (陈恭锡), người Baba sinh ở Malaka là một trong những người thành lập Phòng thương mại Trung hoa ở Singapore, giám đốc công ty tàu biển Straits Steamship Co. và công ty cảng Tanjung pagar Dock Ltd., hiện nay có một con đường ở Singapore mang tên ông.Trong 8 ngày ở Saigon-Chợ Lớn, Trần Công Sơn đã ghi chép lại những gì ông chứng kiến và nhận xét có giá trị về cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn và thành phố Saigon nói chung. Bài “Việt Nam du ký” (越南遊記) của ông sau đó được đăng lại nhiều kỳ trên nhật báo tiếng Hoa gọi là Lat Pau (Lặc Báo) ở Singapore vào năm 1888. Vì bài có nhiều thông tin mới có giá trị được nhiều người để ý, nên sau đó các bài trên báo được in lại thành 1 cuốn sách nhỏ do Lat Pau Press in (7). Cuối sách là phần ghi chú của chủ bút báo Lat Pau, Ye Jiuyun, cho biết khi Trần Công Sơn đưa ông bản thảo, ông nhận thấy có giá trị, thấy cần xuất bản, ca ngợi đức tánh con người tác giả và những dòng ghi chú này được ông Trần Công Sơn kêu ông viết ở cuối sách. Mặc dầu quyển sách nhỏ này của Trần Công Sơn chỉ in có 100 số, vậy mà nó cũng có đến Trung Quốc vào thế kỷ 19, khi nhà khoa bảng nghiên cứu nổi tiếng Wang Xiqi (王錫祺) (Vương Tích Kỳ) đăng lại tóm tắt trong bộ sách của ông “Xiaofanghuzhai yudi congkao” (小方壺齋輿地叢鈔, Tiểu phương hồ trai dư địa tùng sao) "Collected texts on Geography from the Xiaofanghu study" (sưu tập về địa dư từ bộ nghiên cứu Tiểu phương) xuất bản năm 1891 với cùng tựa đề "Việt nam du chí" nhưng tác giả thì chỉ đề là "Ông Trần ở Singapore”.Đây là cuốn sách văn học đầu tiên của người Baba (Peranakan Cina) ở vùng Strait Settlement, được đánh giá là tác phẩm cột mốc trong lịch sử người Hoa trong thế giới Mã Lai ở Singapore và Malaysia (7). Trần Công Sơn cho biết ở Chợ Lớn có khoảng 20-30 gia đình người Singapore, Melaka và một số trong họ có vợ lẽ ở Viêt Nam. Thành phố đốt đèn bằng dầu thay vì gaz, dầu được nhập từ Nga và Mỹ. Ban đêm sau mười giờ ra đường phải mang đèn nếu không phải trả thuế. Nếu người ta muốn đi lại trong thành phố, phải đóng 3 quan 6 một năm và ra ngoài 12 quan; nếu không sẽ không được phép đi. Ông không có cảm tình với người Pháp, ngoài khi đến Saigon ở hải quan ngay trạm quan thuế gần bến cảng, ông và gia đình phải đợi hai tiếng khám xét và sau đó phải về để ngày mai mới lấy được hành lý vì hôm đó là chủ nhật, ông đã mô tả cảnh ông đi dạo và gặp một nhóm người Pháp như sau (8): “Ngày 18, chúng tôi đi xe ngựa hóng mát cùng với bạn bè; con đường dẫn chúng tôi đến gần sở thú thì gặp tám người lính Pháp; tất cả đều có trang bị súng đi ở giữa đường. Người lái xe la lên để họ cho xe qua, và khi xe đến gần họ, xe vừa tránh đúng khỏi họ; họ nhìn chúng tôi giận dữ và chửi rủa rất lâu mà tôi không hiểu tiếng Pháp gì. Thôi mà, trách chi họ chỉ là những người phục dịch nhỏ bé tầm thường và mặc dầu họ tự phát ra sự khinh thị người Hoa; người ta có thể thấy qua đó tâm địa của người Pháp.” Chợ Lớn: Kênh Tàu Hủ - Bến Hàm Tử - Bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu ngày nay) Chen Shengtang (tức Trần Công Sơn) nói là trong rạp hát Shengping (Thăng Bình) ở Chợ Lớn ông có xem tuồng Quảng và ông nhận ra các diễn viên diễn tuồng này đã có diễn ở Singapore trước đó. Rạp rất sập xệ, rạp Liangquing (Liên Thanh) còn tệ hơn nữa. (8) “Tòa nhà rạp Thăng Bình gần như sắp đổ xập, gỗ đã mục hoàn toàn và đồ vật trong rạp rất tàn tệ; các diễn viên hát tiếng Quảng, diễn xuất theo kiểu ‘thanh thái’ (Qingcai)(*); phân nữa đoàn mặc y phục cũ và phân nửa mới; đoàn gồm đủ loại người, tôi nhận ra các diễn viên đã diễn ở Singapore với đoàn Xinxinfeng, vì thế tôi cũng có thể hiểu họ đã trình diễn cái gì. Rạp Liên Thanh còn tệ hơn rạp Thăng Bình, ở rạp này có trình diễn tuồng hát bằng tiếng Việt Nam” Điều này cho thấy, cộng đồng người Hoa ở hai thành phố Singapore-Saigon đã có trao đổi văn hóa lẫn nhau vào cuối thế kỷ 19. Hiện nay ở Saigon, ông Trần Công Sơn còn để lại thủ bút tên chùa Phụng Sơn của ông ở trên cửa vào chùa. Nhà hát Trung hoa – đường Phùng Hưng (rue de Paris), Chợ Lớn. Đây có thể là một trong hai rạp hát mà Trần Công Sơn có đến xem trình diễn.Một người Baba khác gốc từ Melaka, ông LiQuingHui (Lý Thanh Hội) năm 1889, cùng với người em, cũng đã ghé Saigon trên đường đi Hong Kong, Thượng Hải, Kobe, Oaska, Kyoto, Nagasaki, Phúc Châu, Hạ Môn, Quảng Châu. Lý Thanh Hội để lại tư liệu về đời sống ở Chợ Lớn, trên các bài “Đông du chí lược” đăng trên Lặc Báo (Lat Pau, n° 2162-2180, 12/2.-5/3, 1889). Ông viếng các nhà máy xay lúa của người Baba gốc Phúc Kiến, đồng hương Singapore của ông ở bến dọc rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ và kho hàng của ông Trần Hưng Long.Lý Thanh Hội là con rể của một thương gia Baba từ Melaka gốc Phúc Kiến giàu và có tiếng ở Singapore, ông Tan Kim Seng (陈金声, Trần Kim Thanh), chủ công ty Kim Seng & Co., người xây các cầu, đường trong thành phố Singapore và là thẩm phán người Hoa đầu tiên ở Singapore. Ông Trần Công Sơn cũng làm việc cho công ty (“chop” Hong Hin hay Phùng Hưng) của ông Trần Kim Thanh và vì thế hai ông Lý Thanh Hội và Trần Công Sơn có quen biết nhau. Khi ghé thăm Chợ Lớn, Lý Thanh Hội được con của ông Trần Khánh Tinh (Tan Keng Sing, em của Trần Kim Thanh) là Tan Hin Long (Trần Hưng Long) ở Chợ Lớn mời đến nhà ăn tối (lúc này Trần Khánh Tinh đã mất và người con thừa hưởng tất cả nhà cửa tài sản ở Chợ Lớn). Ở đây ông có gặp thêm hai đồng hương Singapore khác, trong đó một người làm cho Banque de France, và một người có rất nhiều nhà cửa, địa ốc ở Saigon-Chợ Lớn. Quai My Tho - Bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu ngày nay) - Chợ Lớn Những gì hai ông Trần Công Sơn và Lý Thanh Hội viết về Chợ Lớn cho thấy cộng đồng các thương gia người Singapore đã có cơ sở khá quan trọng trong sự phát triển Chợ Lớn. Quan hệ hỗ tương, liên kết giữa tầng lớp thương mại và trí thức ở Singapore Sự liên hệ giữa các nhà thương mại, công nghệ với các trí thức người Baba trong sự phát triển Singapore là một yếu tố quan trọng lịch sử nước này. Thương mại đi đầu, làm nền tảng có cơ sở giúp đở xây dựng lớp trí thức và qua đó trí thức ủng hộ tư tưởng thực dụng, tinh thần cải cách tạo nên tạo ra một sự phối hợp tư tưởng, văn hóa Đông Tây tối ưu trong sự phát triển hài hòa. Năm 1896, Lim Boon Keng (林文慶, Lâm Văn Khánh, người baba gốc phúc Kiến ở Penang), Song Ong Siang (宋旺相, Tống Vượng Tương) và Trần Võ Liệt (陈武烈, Tan Boo Liat, cháu nội của tào kê Trần Kim Chung) thành lập trường nữ sinh người Hoa đầu tiên ở Singapore (Singapore Chinese Girls' School). Đây là một cuộc cách mạng đối với thái độ trong xã hội phong kiến của người Hoa ở Trung quốc thời bấy giờ. Ngoài ra ông Lâm Văn Khánh còn lập ra mặt trận chống hút thuốc phiện và một trung tâm điều trị cho những người nghiện thuốc. Ông kêu gọi người Hoa từ bỏ hút thuốc phiện trong nhiều buổi thuyết trình trước công chúng từ 1893 đến 1895Họ cùng với các nhân vật baba lão thành khác như Tan Jiak Kim (陈若锦. Trần Nhược Cẩm) và Siah Liang Siah (佘连城, Xà Liên Thành), thành lập Hảo Học Hội (The Chinese Philomathic Society). Các ông này đều là những tào kê thương gia, công nghệ giàu có ở Singapore. Tan Jiak Kim là cháu nội của Trần Kim Thanh (Tan Kim Seng) và là người đầu tiên đề nghị thống đốc Straits Settlements lập trường y khoa tiền thân của Đai học Malaya (Universiti Malaya) và Đại học Singapore (National University of Singapore) ngày nay. Seah Liang Seah, người Triều Châu, là chủ đồn điền trồng tiêu và cau mứt ở Singapore.Hảo Học Hội có mục đích tạo môi trường cho các hội viên và công chúng có các hội thảo, nói chuyện, tranh luận văn học, các đề tài cải cách, nghiên cứu văn học Anh, nhạc tây phương và ngôn ngữ Trung quốc. Hảo học Hội tương tự như Hội Khai trí tiến đức (A.F.I.M.A, Association pour la formation intellectual et moral des Annamites), Hội Đức Trí Thể Dục (S.A.M.I.P.I.C, Société d'Améloration Morale, Intellectuelle et Physique des Indigènes de Cochinchine) được thành lập vài thập kỷ sau này ở Việt Nam. Nhóm Hảo Hội Học có liên hệ với giới trí thức tiến bộ ở Trung quốc. Ông Lâm Văn Khánh là chủ tịch thứ hai của Đại học Hạ Môn (Xiamen University) khi Tôn Dật Tiên kêu gọi ông giúp đở quản lý. Khi Tôn Dật Tiên và sau này gia đình của ông đến Singapore đều ở tại nhà của Trần Võ Liệt. Tống Vượng Tương, người Baba đầu tiên được phong tước hầu (knighted), là nghị viên Hội đồng thành phố Singapore và tác giả quyển “100 năm lịch sử người Hoa ở Singapore” (18). Năm sau (1897), ông Tống Vượng Tương và Lâm Văn Khánh xuất bản tạp chí “Straits Chinese Magazine: A Quarterly Journal of Oriental and Occidental Culture”. Tân Khổng giáo đối với họ là cần thiết để xây dựng một nền tảng văn hóa mới. Tân Khổng giáo là một quan niệm triết lý sống với những điểm tích cực trong một thời đại mới, không hủ tục, mê tín, phong kiến, giải phóng phụ nữ, thích hợp với trào lưu tư tưởng hiện đại. Tống Vượng Tương nhấn mạnh là người baba (Straits Chinese) phải tạo ra một chổ đứng trong xã hội thuộc địa bằng đòi hỏi quyền lợi vì họ là công dân Anh. Trong một bài xã luận đăng trên tạp chí Straits Chinese Magazine, ông Lâm Văn Khánh phân tách vị trí pháp lý của người Hoa sinh ra ở thuộc địa vùng Straits Settlements (Mã Lai, Singapore) và xác định họ là công dân Anh, trung thành với vua Anh chứ không phải nhà Thanh qua lãnh sự Thanh ở Singapore (9).Số đầu tiên của tạp chí, chỉ phát hành 800 số, nhưng sau đó bán sạch mà sau này những người để ý thích đọc tạp chí muốn mua lại số cũ cũng không mua được. Độc giả của tạp chí lan ra ngoài Singapore, Malaysia đến những thành phố xa như Batavia (Jakarta ngày nay), Bangkok, Saigon và Yokohama. Lâm Văn Khánh được sự trợ giúp đắc lực từ ông Tan Teck Soon (Trần Đế Thuấn 1859-1922, 陈帝舜). Đối với ông Trần Đế Thuấn thì tạp chí là phương tiện mà người Baba gốc Hoa có dịp học lại lịch sử và văn hóa của ông cha mình, trong bộ “y phục người Anh” (9). Trần Đế Thuấn là một học giả hoạt động tích cực ở Singapore vào đầu thế kỷ 20. Ông là hội viên sáng lập của câu lạc bộ tranh luận của giới trí thức gọi là “The Straits Philosophical Society” (Hội Triết học vùng Eo biển Mã Lai, 1893-1916), và là một trong hai hội viên gốc Hoa duy nhất (người gốc Hoa khác là ông Lâm Văn Khánh) (19). Ông làm cho công ty Kim Ching & co. của tào kê Trần Kim Chung, người có nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn và Siam. Ở văn phòng chuyên trách về Siam của công ty, ông cố vấn chính phủ Siam (Trần Kim Chung còn là lãnh sự cho Siam).Trần Đế Thuấn, người baba theo đạo Ki-tô, nghiên cứu văn minh Trung quốc và sự cống hiến đáng kể nhất của ông là quan niệm lại về nền văn minh Trung Hoa là nền văn minh tiến bộ và rộng mở với sự thay đổi chứ không đóng cửa lạc hậu, thách thức với quan điểm của đa số người Âu lúc đó là nền văn minh Trung quốc là lỗi thời và không tiến bộ (9).Năm 1898, Trần Đế Thuấn, Lâm Văn Khánh và Khâu Thục Viên (Khoo Seok Wan) thành lập tờ Thien Nan Shin Pao (Thiên Nam Tân Báo). Khâu Thục Viên là con của tào kê Khâu Chánh Trung, một đại thương gia có 5 nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn. Lâm Văn Khánh còn mua lại tờ Sing Po (星报, Tinh Báo) và đổi tên thành tờ báo Jit Shin Pao (日新报, Nhật Tân báo). Tờ Thiên Nam Tân Báo và Nhật Tân Báo phổ biến tư tưởng Tân Khổng giáo trong quần chúng độc giả và những hoạt động khôi phục, cải cách. Nhiều bài của Trần Đế Thuấn và Lâm Văn Khánh là dịch lại những bài nói chuyện và bài viết bằng tiếng Anh của họ đã đăng trên tạp chí “Straits Chinese Magazine”. Một trong những bài viết có giá trị và ảnh hưởng của Trần Đế Thuấn là bài “The Reform movement in China” (“Phong trào cải cách ở Trung quốc”). Các bài sau của ông chỉ trích một số quan niệm người Âu cho là Trung quốc chỉ có cải cách từ ngoài được mà không có sức mạnh hay ý tưởng nội tại đã gây tranh luận và các phản ứng trên tạp chí Hội Triết học. Tờ Thiên Nam đứng trên quan điểm và truyền bá tư tưởng yêu nước của người Hoa. Tuy vậy khác với các tờ báo Hoa ở Singapore, tờ báo không phải không chỉ trích chính quyền nhà Thanh hay trở thành công cụ tuyên truyền cho những lời bịa đặt mất phẩm cách đã xuất hiện trong thời chiến tranh Nhật –Trung (9). Trong khi đó tờ Nhật Tân (Jit Shin), có mục đích phổ biến nâng cao kiến thức khoa học và kỷ thuật phương Tây qua những bài dịch từ báo chí và các nhà văn nổi tiếng phương Tây. Hai tờ báo Thiên Nam và Nhật Tân thường tường trình về các hoạt động của Hảo Học Hội và in lại các tin tức hay bình luận của các tờ báo cải cách ở Trung quốc hay hải ngoại ngoài Trung quốc, vì thế là cầu nối hữu hiệu cho những nhà cải cách ở Singapore với hệ thống toàn cầu của những người cải lương tiến bộ gốc Hoa (9).Ta có thể nhận thấy tinh thần của nước và con người Singapore hiện nay bắt nguồn và chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những nhà trí thức, học giả, thương công kỹ nghệ gia tiên phong tạo lập cơ sở hạ tầng vật chất và tinh thần ở vùng này vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 6:59:45 GMT 9
Tiêu biểu người Baba ở Saigon và Singapore trong thế kỷ 19 Chỉ trong vòng hơn 10 năm khi Pháp thiết lập chính quyền và mở cửa tự do kinh doanh cảng, khuyến khích thương mại, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các người Hoa ở vùng Saigon-Chợ Lớn trong đó có nhiều người Baba từ Singapore đã phát vượt bực qua truyền thống doanh thương, nhạy bén và mạo hiểm trên thương trường của họ. Họ có nhiều vốn và đã có kinh nghiệm và cung cách làm việc ở Singapore, Melaka với người Hòa Lan, Anh từ nhiều năm trước nên khi được có cơ hội làm ăn trong tình thế mới đã trở nên giàu có nhanh chóng, thầu các công trình lớn phát triển cơ sở hạ tầng ở Saigon-Chợ Lớn tạo sự khâm phục và ấn tượng đối với người PhápSau đây là sơ lược tiểu sự các “tào kê” nổi tiếng ở Saigon và Singapore, một số là những người tiên phong trong lịch sử phát triển thành phố Singapore lúc khởi đầu. (1) Vạn Hòa (Ban-hap) Người Pháp gọi ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) bằng tên Ban-hap (萬和, Vạn Hòa). Vạn Hòa là tên công ty mà ông Wee Tin lập ra ở các tỉnh miền Nam trồng và buôn bán thuốc phiện, lúa gạo trong các năm ở thập niên 1850, trước khi người Pháp đến (1)(4). Công ty Vạn Hòa sau đó làm ăn phát đạt mở rộng đến Cam Bốt với các đặc quyền từ vua nước này cho phép trồng, sản xuất thuốc phiện năm 1869 và ở Nam kỳ năm 1869 được chính quyền Pháp tiếp tục cho phép độc quyền mặc đầu bị sức ép của các thương gia và công ty Pháp muốn cạnh tranh ở Cam Bốt. Ban-hap còn có độc quyền ở Cam Bốt sản xuất bán vé số, mở các tiệm cầm đồ, sòng cờ bạc, trại nuôi và bán thịt heo. Năm 1864, vài năm sau khi Pháp chiếm Saigon, đề đốc de la Grandière đã mời ông Vạn Hòa, người đầu tiên xây ngôi nhà lầu đẹp, đến dinh đô đốc để thưởng một đồng hồ quả lắc. Ban-hap mặc dầu là triệu phú nhưng rất thích món quà này. Ông ta đã dành riêng trong nhà ông một phòng đẹp nhất để chứa đồng hồ quả lắc này. Và ông đã bỏ ra nguyên ngày trong bộ đồ lễ, đi sau 4 người thợ khiêng trên một kiệu vàng chiếc đồng hồ quả lắc, quà của thống đốc, cùng với bằng khen. Ông đã để cho các chức sắc chiêm ngưỡng trước khi đặt vào trong phòng danh dự mà ông đã sữa soạn sẵn (16). Ban-hap cũng là hội viên sáng lập Hội trung ương cứu trợ tàu bị đắm (Société centrale de sauvetage des naufragés) thành lập năm 1865 ở Pháp với hội viên trên khắp thế giới. Ông cũng là chủ một xưởng làm thuốc phiện ở Saigon. Người Pháp gọi ông là Ban-hap, vì ông là chủ nhân của công ty Ban-hap (Vạn Hòa). Ông là người Singapore gốc Hoa (Baba) đến Saigon và lục tỉnh từ những năm của thập niên 1830 làm ăn buôn bán gạo và lập cơ sở trồng và làm thuốc phiện để xuất khẩu đến Singapore, Penang và Melaka. Tên thật của ông là Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên). Lúc người Anh lập thành phố Singapore năm 1819, rất nhiều người Hoa trong vùng bán đảo Mã Lai và từ nam Trung quốc đến đây và vùng Cư trú Eo biển (Strait Settlement gồm 3 thành phố chính Penang, Melaka, Singapore) lập nghiệp và khai phá. Vì thế nhu cầu gạo và dịch vụ rất lớn nên rất nhiều thương gia người Hoa đến Bangkok và Saigon để buôn bán, trong đó có ông Nhan Vĩ Thiên. Ông có nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn.Trong một số vài hội viên mà đa số là người Pháp vào lúc sơ khai của Phòng Thương mại (chambre de commerce) ở Saigon, năm 1886, ông Vương Thái và ông Vạn Hòa (Ban-Hap), là hai hội viên buổi ban đầu này, duy nhất một hội viên người Việt là ông Nguyễn Trọng Tạo (1).Năm 1879, các “tào kê” ở Saigon, ông Vạn Hòa cùng với các đồng hương Baba gốc Phúc Kiến (Trần Khánh Hòa, Trần Khánh Vân và Trần Khánh Tinh) quyết định củng cố thị trường và cơ sở sản xuất thuốc phiện ở Đông Nam Á. Chính quyền Anh ở Hong Kong muốn lợi tức từ hợp đồng sản xuất độc quyền thuốc phiện có gia cao hơn hiện do những người Hoa Quảng Đông nắm giữ nên khuyến khích Vạn Hòa và nhóm Baba ở Saigon và Singapore lấy được hợp đồng (15). Sự thành công của Vạn Hòa tạo thêm uy thế của ông. Ông có lúc ở Saigon, Hong Kong hay Singapore nhưng Saigon là cơ sở chính và là nơi ông cư ngụ.Quyền hạn và sự giàu có qua thuốc phiện của Vạn Hòa đã làm chính quyền Pháp ở Nam kỳ lục tỉnh lo ngại và muốn giới hạn lại. Bắt đầu từ năm 1881, qua các bản báo cáo điều tra của Groeneveldt và các điều trần với sự tham dự từ nhiều tầng lớp xã hội đã cho thấy không những Vạn Hòa độc quyền sản xuất phân phối thuốc phiện đến tận các làng, chợ, cửa tiệm và bán với giá cắt cổ mà còn nắm thị trường gạo và ngay cả hàng tiêu dùng nhập từ Pháp. Người Việt địa phương sẵn sàng đứng về phía chính quyền, các thương gia Pháp chống lại sự độc quyền của công ty Vạn Hòa (14). Năm 1883, Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial) bỏ phiếu bãi bỏ các trại trồng thuốc phiện độc quyền hiện công ty Vạn Hòa nắm giữ và thiết lập Regie Directe do chính quyền trực tiếp quản lý độc quyền trồng và sản xuất thuốc phiện. Ở Hội đồng Quản hạt các đại biểu Việt cũng bỏ phiếu chống sự độc quyền của Vạn Hòa. Công ty Vạn Hòa mất thế lực ở Saigon từ đấy. Không lâu sau, đường thương mại thuốc phiện và cu li đến Mỹ và Australia phát triển trong thời tìm vàng giảm xuống nhanh chóng và gần như chấm dứt khi luật ở hai nơi này ban hành hạn chế di dân người Hoa từ Trung quốc. Các trại thuốc phiện ở Hong Kong vì thế cũng không còn có giá trị như xưa nữa, cho đến khi chúng hoàn toàn chấm dứt vào đầu thế kỷ 20. (2) Trần Khánh Hòa Ông Trần Khánh Hòa (陳慶和) cũng thành công và có thế lực kinh tế không kém ông Vạn Hòa. Ngày 8/7/1869, đề đốc Ohier đổi tên Ủy ban thành phố (Commission municipal) mà trước đó vào năm 1867 thống đốc de la Grandière đã thành lập sau khi Pháp vừa chiếm Saigon, thành tên chính thức Hôi đồng thành phố Saigon (Conseil municipale de la ville de Saigon), gồm 1 thị trưởng và 13 hội đồng viên với nhiệm kỳ 2 năm (7 người được bầu và 6 người được thống đốc chọn), trong đó có Trương Vĩnh Ký và Tang Keng Ho (Trần Khánh Hòa). Đây là Hội đồng thành phố đầu tiên của Saigon (6).Ông Trần Khánh Hòa và hai người em Tan Keng Hoon (陳慶云, Trần Khánh Vân) và Tan Keng Sing (陳慶星, Trần Khánh Tinh) có cơ sở làm gỗ và xưởng đóng tàu ở Saigon khi họ đến Saigon từ Singapore trước khi người Pháp chiếm Saigon và Nam kỳ. Công ty đã có cơ sở thiết lập từ năm 1861 và phát triễn thành công mà tờ báo “Le Courrier Saigon” đã đề cập vào năm 1865. Năm 1865 cũng là năm các anh em họ Trần hợp tác hùn vốn với công ty “Ban-hap et cie.” (Vạn Hòa) trong xưởng làm thuốc phiện. Trần Khánh Vân mất năm 1877, để lại gia sản to lớn ở Singapore và Saigon cho con gái vẫn còn sống ở Singapore. Con gái của Trần Khánh Vân, Tan Yean Neo, lấy cháu nội của ông Ang Choon Seng (Hồng Tuấn Thành), một người Baba gốc Phúc Kiến từ Melaka, chủ công ty ‘chop Chin Seng’, có hai tàu biển buôn bán giữa Singapore và Saigon. Khi Trần Khánh Sinh mất, nhà và cơ sở thương mại ở Chợ Lớn được người con trai là Trần Hưng Long kế nghiệp mà ông Lý Thanh Hội có đề cập đến khi viếng Chợ Lớn vào năm 1889.Công ty của Trần Khánh Hòa có trụ sở đặt tại Quai de commerce (bến Bạch Đằng ngày nay) và trong niên giám đề là “nhà thầu các công trình cho chính phủ” (14). (3) Khâu Chánh Trung Khâu Chánh Trung (邱正忠, 1820-1896) là một trong những người tiên phong trong lịch sử thành lập Singapore. Sinh năm 1820, người Baba gốc Phúc Kiến (làng Tân An, Hạ Môn), đến Singapore năm 1840, có thể là bà con với dòng họ Khâu thuộc Khoo Kongsi (‘Công ti” Khâu) ở Penang, vì Khâu công ty cũng gốc từ làng Tân An. Em ông là Khâu Chính Triều (Khoo Cheng Cheok, có tên đường ở Tanjong Pagar). Khâu Chánh Trung trở thành một thương gia gạo rất thành công, công ty ông Khoo Cheng Tiong & co. có văn phòng và kho chứa gạo ở Boat Quay. Khâu Chánh Trung có 5 xưởng xay lúa gạo ở Chợ Lớn. Khi ông mất, gia sản ông để lại hơn 1 triệu dollar (18). Ông là chủ tịch của Viện y khoa Đồng Tế (同济, Thong Chia Medical Institution)Con của ông, Khâu Thục Viên (邱菽园, Khoo Seok Wan, 1874-1941), học giả và thi sĩ nổi tiếng, người cùng với Lâm Văn Khánh thành lập báo đổi mới tiến bộ Thiên Nam Tân Báo (天南新报, 1898), và chủ bút tờ Sin Chew Jit Poh (星洲日報, Tinh Châu Nhật báo). Khâu Thục Viên ủng hộ phong trào cải lương, cách mạng cải cách ở Trung Quốc, cũng như Lâm Văn Khánh khuyến khích ủng hộ giáo dục cho phụ nữ ở Singapore Với tài sản của cha ông để lại, ông giúp đỡ tài chánh rất nhiều trong phong trào “Một trăm ngày cải cách” (百日维新, Bách nhật duy tân 1898) vào năm 1898, nhưng phong trào bị Từ hi Thái hậu nhà Thanh đàn áp dẹp tắt. Ngày 2 tháng 2 1900, ông mời Kang Yu-wei (康有为, Khang Huu Vi), một trong những lãnh đạo phong trào đến Singapore, trả hết chi phí và bảo hộ Khang Hữu Vi ở đó 6 tháng để gây quỷ cải cách từ mọi người Baba, người Hoa ở Singapore và khắp nơi trên thế giới như Australia. Cách đây vài năm (2006), trong khu vực Vườn bách thảo Singapore, vùng Bukit Timah, có 3 ngôi mộ cổ ở thành phố này mà một mộ (1842) là của ông Qiu Zheng Zhi và vợ Li Ci Shu sống vào thời Stamford Raffles thành lập. Trên bia có đề tên con cháu trong đó nhiều tên họ Khâu, vì thế mộ cổ nhất này cho biết có thể là ông Qiu Zheng Xhi là từ Penang thuộc Khâu Kongxi (10). Theo bản đồ xưa thì khu mộ này ngày xưa trong thập niên 1840 là đồn điền trồng gambier (cây cau mứt). (4) Trần Kim Chung Tan Kim Ching 1829-1892 (陳金鐘, Trần Kim Chung) được người bản sứ Mã Lai ở Singapore gọi là “Kapitan Cina” (Captain of China). Ông là con trưởng của Tan Tock Seng (Trần Đốc Sinh, 1798-1850), người Baba ở Melaka gốc Phúc Kiến. Ông nói sành tiếng Mã Lai. Khi cha ông mất, ông thay thế thương nghiệp của cha ông, lập ra “chop” Chin Seng (Thành Hạnh) với người em ở số 24 Boat Quay, sau đổi là Tan Kim Ching & bro và Kim Ching & co. Năm 1863, ông bỏ vốn thiết lập công ty vận hành cảng, Tanjong Pagar Dock Company (tiền thân của cơ quan quản lý cảng Singapore ngày nay, Port of Singapore Authority), và mua hai tàu hơi nước, “Siam” và “Singapore” chuyên chở hàng, lúa gạo từ Siam, Saigon và các nơi đến Singapore cho tất cả các khách hàng. Ông tích cực quảng bá, tiếp thị công ty cảng Tanjong Pagar Dock Co. Ông có các nhà máy xay lúa ở Saigon và Siam và văn phòng ở Hong Kong. Thế lực trên thương trường của ông được coi là bậc nhất ở Singapore. Ông là bang trưởng bang Phúc Kiến ở Singapore và được chính phủ bổ nhiệm vào Hội đồng thành phố Singapore vào năm 1888. Ông có liên hệ cá nhân rất tốt và thân cận với nhà vua và hoàng gia Siam. Qua sự liên hệ thương mại sâu đậm với Siam lúc đầu, Trần Kim Chung quen biết và lần trở thành người thân tín của hoàng gia Siam. Ông vừa hiểu rõ và hoạt động hữu hiệu trong thế giới văn hóa Âu châu lại thấm nhuần tôn trọng truyền thống văn hóa phẩm giá Á đông nên ông là người lý tưởng mà vua Siam tin tưởng. Năm 1863, vua Mongkut (Rama IV) nhờ ông là lãnh sự đại diện cho Siam ở Singapore. Ở cùng thời điểm này, ở Việt Nam Nguyễn Trường Tộ đệ trình bản tường trình canh tân đất nước lên vua Tự Đức nhưng không có kết quả khả quanSau khi vua Mongkut mất, vua Chulalongkorn ủy nhiệm chức Tổng lãnh Sự. Khi vua Rama IV muốn tìm một người Âu để dạy các con cháu trong gia đình hoàng gia theo nền giáo dục phương Tây, nhưng vẫn giữ và kính trọng nếp văn hóa Siam, thì chính ông Trần Kim Chung là người giới thiệu Anna Leonowens, một góa phụ người Anh với hai con còn nhỏ đang tìm việc ở Singapore, cho vua Mongkut để giáo dục gia đình hoàng gia. Vào năm 1862 Sau này Anna viết chuyện pha lẫn hồi ký về kinh nghiệm của bà ở Siam trong quyển “The English Governess at the Siamese court”, bán rất chạy và được dựng thành phim “The King And I”, “Anna and the King”. Khi vua và hoàng hậu Siam đến viếng Singapore năm 1890, họ ở nhà ông Trần Kim Chung, ngày nay nhà này được gọi là "Siam House", ở đường North Bridge Road. Khi có ý muốn mua nhà ở Singapore, nhà vua cũng đã hỏi ý ông Trần Kim Chung và nhà vua đã mua căn nhà "Hurricane House" ở đường Orchard Road, đường trung tâm của thành phố Singapore.hiện nay. Hiện nay có con đường mang tên ông, Tan Kim Ching Street, ở Singapore (5) Vương Thái Người Hoa nổi tiếng ở Saigon-Chợ Lớn cuối thế kỷ 19 là ông Cheung Ah Lum (Trương Á Lâm, hay Zhang Peilin, Trương Bội Lâm). Cũng như ông Ban-hap (Vạn Hòa, tên thật là Gan Wee Tin hay Nhan Vĩ Thiên), người Pháp gọi ông là Wang-Tai (王太, Vương Thái). Wang-Tai là tên công ty ông lập ở Saigon sau khi ông đến từ Hồng Kông vào năm 1862 để giao các tàu buồm (junks) mà một sĩ quan người Pháp, đại diện cho chính quyền Pháp mới thành lập ở Saigon, đã đến Macao trước đó vào năm 1860 để đặt hàng đóng các tàu từ công ty của ông ở Macao (4). Sau khi giao tàu xong, ông quyết định ở lại định cư hẳn tại vùng Saigon-Chợ Lớn. Có kinh nghiệm ở Hồng Kông khi người Anh đến ở đó để lập thuộc địa, công ty Wang-Tai đi ngay vào kỹ nghệ xây cất, thiết lập các xưởng gạch và xây các nhà kiểu Âu châu khi người Pháp còn chân ướt chân ráo. Các nhà này được cho mướn cho chính quyền Pháp và Phòng Thương mại mà ông là một hội viên từ lúc ban đầu. Ông trở thành phát đạt và giàu có còn hơn lúc ở Hồng Kông. Bưu điện thành phố, nhà thờ đức bà và tòa ngân khố (gần nhà thờ) là những công trình ông trúng thầu xây dựng. Lúc còn ở Hồng Kông, có lần ông suýt bị rơi vào vòng lao lý khi một hôm, vào ngày 15/1/1857, công ty làm bánh mì của ông (Esing Bakery) sản xuất bánh mì có chứa độc tố arsenic làm nhiều người bị ói mửa ngày đó. Trong số rất nhiều thợ mà ông không kiểm soát được, có một số đã bỏ arsenic để đầu độc đa số các người Anh ở Hồng Kông. Ông bị đưa ra tòa, nhưng vì không có chứng cớ và với luật sư giỏi ông được tha bổng, nhưng không được lui tới ở Hồng Kông trong 5 năm. Vì thế ông đến Macao (nơi ông học buôn bán lúc còn nhỏ với chú ông) mở tiệm và xưởng sau biến cố này, và chính ở Macao ông gặp đại diện Pháp nhờ ông đóng tàu (5). Công ty Wang-Tai đi vào các lãnh vực khác của kinh tế như mua bán, sản xuất gạo. Ông Zhang Peilin (Trương Bội Lâm) sau được chọn bầu vào công ty China Merchants’ Steam Navigation Company (Công ty hàng hải tàu hơi nước của thương nhân Trung Hoa) để xuất khẩu gạo sang Trung quốc. Đến các năm của thập niên 1880, ông là chủ của nhiều đất đai nhà cửa ở Saigon, trong đó có khu Wang-Tai (la cité Wang-tai), một khu nghèo và dơ mà các người di dân Trung quốc đến Saigon-Chợ Lớn lúc ban đầu cư ngụ chung với gà, vịt, trái cây và các đồ nhập khẩu (4). Năm 1879, ông gởi con ông và một người Hoa Quảng đông khác là Lưu Chap (Pháp gọi là A Chap hay “Taokhe” Tào Kê Chap) sang Cam Bốt mở tiệm cầm đồ ở Nam Vang. Sau này Lưu Chap là một người giàu có khét tiếng có thế lực ở Nam Vang. Theo tờ tuần báo "Les tablettes coloniales" xuất bản tại Paris ngày 19/12/1888, có đăng một mẫu tin nhỏ về ngày lễ sinh nhật của ông Vương Thái như sau (17): “Một ngày lễ rất thành công và ấn tượng rất lý thú vừa xảy ra ở Saigon, để mừng sinh nhật thứ 61 ngày sinh và kỷ niệm 30 năm ngày ông thương gia người Hoa tên là Vương Thái đến Saigon. Những người con trai ông Vương Thái và gia đình của họ, những đồng hương và bạn bè của ông trong dịp lễ này đã mời “quí bà, quí ông người Pháp và người Âu ở Saigon, Chợ Lớn và các tỉnh”. Cộng đồng người Âu đã đáp lại lời mời ân cần này. Đèn đuốc, pháo bông, trình diễn kịch, hát tuồng, không thiếu cái gì trong ngày lễ vui này. Ông Vương Thái là một trong những chức sắc người Hoa được kính trọng nhất ở Saigon; ông không những đã có những dịch vụ cống hiến lớn lao cho đồng bào ông mà còn cho chính quyền Pháp. Vì thế đương nhiên đúng khi người ta đáp lại tương ứng qua sự tham dự hoạt động hòa bình này mà ông là đối tượng” Ông Trương Bội Lâm (Wang-Tai, hay Vương Thái) mất năm 1900, thọ 73 tuổi (sinh năm 1827). Các con trai và cháu nội ông ở Chợ Lớn mang quan tài ông về quê hương, làng Ya-kang, huyện Hoàng Sơn ở Quảng Đông để chôn cất. Rất nhiều người Hoa, Pháp, Việt và quan chức, chức sắc trong chính quyền ra bến tàu để tiễn ông. Sau đó có một con đường ở Chợ Lớn được mang tên ông (1). Tổng luận Người Baba từ Singapore và người Hoa từ Hong Kong, cũng như người Minh hương ở Việt Nam đã có đóng góp rất lớn vào sự phát triển Saigon-Chợ Lớn trong những thập niên cuối thế kỷ 19. Tư tưởng kết hợp văn hóa đông tây và triết lý sống thoáng, mở rộng, rất thực dụng của họ trong một môi trường ổn định, có lề lối trong cơ chế, đa nguyên và đa văn hóa, luôn khuyến khích cá nhân với tinh thần thương mại mạo hiểm đã được phát huy hoàn toàn để tạo ra con người như Singapore, Hong Kong ngày nay.Họ đến Saigon-Chợ Lớn trong những ngày khởi đầu của một thành phố bước vào thời kỳ hiện đại với số vốn đầu tư lớn thiết lập nhà máy xay lúa, thầu xây dựng những công trình kiến trúc để lại nhưng dấu ấn cảnh quan tạo nên cá tính của một thành phố như nhà thờ, bưu điện, khách sạn, ngân khố, chùa, nhà cổ có kiến trúc kết hợp đông tây ở Chợ Lớn. Nhờ họ mà Chợ Lớn trở thành đầu máy của sự tăng trưởng kinh tế ở Nam kỳ vào thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 khi người Việt thức tỉnh với phong trào Minh Tân và Duy Tân bắt đầu đổi mới tư tưởng, nếp sống, thực dụng và tham gia vào đời sống thương mại, kinh tế. Saigon không thể tách ra khỏi lịch sử Chợ Lớn, đầu mối của lục tỉnh. Di sản văn hóa ở Chợ Lớn cũng là phần hồn của Saigon-Chợ Lớn: hai thành phố sinh đôi. Saigon-Chợ Lớn từ lúc ban đầu là thành phố của kinh rạch, sông nước, thành phố cảng. Không có gì cảm thấy sự khởi nguyên của cá tính thành phố hơn khi đi dọc bến ở Saigon và Chợ Lớn. Lấp kinh rạch là phá phong thủy, thủy văn của thành phố với hệ quả ngập lụt không tránh khỏi. Ngày nay bộ mặt của bến Chương Dương, Hàm Tử, Lê Quang Liêm đã thay đổi rất nhiều, nhất là từ khi đại lộ Đông Tây xây dọc theo bờ bên phải kênh Tàu Hủ từ bến Chương Dương đến bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu). Tất cả các bến này đã biến mất. Đối diện bên kia kênh là các bến Vân Đồn, Phạm Thế Hiển, Bến Bình Đông. Các bến này vẫn còn nhưng đã biến dạng nhiều, nhất là bến Bình Đông, nhiều nhà, chùa cổ đã biến mất. Nơi đây xưa kia là các nhà máy xay lúa gạo nơi lúa gạo từ miền Tây đổ về, và từ đây được xuất cảng đi nhiều nước. Từ bến Lê Quang Liêm (thời Pháp gọi là “quai My Tho” vì là bến tàu ghe từ Mỹ Tho, miền Tây), hàng hóa nông phẩm, trái cây được đưa đến chợ Bình Tây và các chợ khác khắp Saigon và hàng sản xuất từ Chợ Lớn được đưa xuống trở lại miền Tây. Vì thế Chợ Lớn là trung tâm thương mại ở miền Nam. Dọc bến, có nhiều nhà kho, nhà ở đã có từ lâu đời với kiến trúc đông tây. Các nhà này giống như kiến trúc nhà cổ ở Singapore vì xưa kia các thương gia, nhà thầu Singapore đã có mặt nơi đây. Họ cùng các thương gia Chợ Lớn xây dựng các cơ sở vật chất, nhà cửa, kho hàng… Hiện nay các khu phố cổ Chinatown, Boat Quay và Clark Quay ở Singapore được bảo tồn và trở thành nơi du lịch có giá trị văn hóa nổi tiếng ở xứ này. Khu Boat Quay và Clark Quay kế bờ sông, xưa kia là nơi buôn bán, có nhiều nhà kho chứa hàng và nhà ở san sát từ các tàu buôn (giống như bến Lê Quang Liêm, bến Bình Đông dọc kênh Tàu Hủ), ngày nay là khu thanh lịch có nhiều nhà cổ đầy cá tính đặc biệt của kiến trúc đầu thế kỷ 20 và được người dân và du khách đông đảo ưa chuộng viếng thăm. Tiếc thay ở Chợ Lớn, chúng ta đã không làm như vậy, mà ngược lại nhiều nhà cổ, đình chùa đã biến mất. Singapore - Boat Quay ngày nay Ngày nay tốc độ phát triển đô thị ở Saigon-Chợ Lớn rất là nhanh chóng, bộ mặt thành phố đổi thay rất nhiều. Điều quan trọng là các di sản, kiến trúc văn hóa lịch sử, nơi sinh hoạt tôn giáo, văn hóa nên được bảo tồn, gìn giữ để chúng trở thành cảnh quan có giá trị tinh thần vô giá cho thành phố và các thế hệ sau nối tiếp. Chú thích (*) Claudine Salmon dịch theo nguyên tác của Trần Công Sơn (8) vẫn để từ Qingcai (thanh thái) mà không giải thích rõ. Đây là từ trong kịch hát bộ trong đó diễn viên dùng điệu bộ hay thái độ để diễn tả lời nói, âm thanh. Tham khảo (1) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191. www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/arch_0044-8613_1994_num_47_1_2973(2) Hình ảnh, tư liệu, belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm(3) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du décorticage du riz, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1 (no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon). (4) Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. ( csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf ). (5) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7. (sunzi.lib.hku.hk/hkjo/view/44/4401560.pdf). (6) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (157 rue Catinat, Saïgon), 1917, gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5843454w.r=%22notice+historique%22+ville+de+Saigon.langEN(7) David Chng, The yuenan Youji: a rare book published in Singapore (1888), Archipel, no 43, 1992, pp 131-138 (8) Tang Keong Sum (traduction de Claudine Salmon), Recit d’un voyage au Vietnam, Archipel, no 43, 1992 pp. 145-166. (9) Mark Frost, Transcultural Diaspora: The Straits Chinese in Singapore, 1819-1918, ARI WPS No. 10, August 2003. (10) Radha Basu, Straits Times, Aug 19, 2006 (11) J. Henry Gray, A journey round the world in the years 1875-1876-1877, London, Harrison, 59 Pall Mall, 1879 (12) Mrs. Howard Vincent, Newfoundland to Cochin China by the golden wave, new Nippon, and the the Forbidden city (1892), Sampson Low, Marston & Co London, 1892. (13) Claudine Lombard-Salmon, Sur les traces de la diaspora des Baba des Détroits: Li Qinghui et son « Récit sommaire d'un voyage vers l'Est » ( 1889), Archipel. Volume 56, 1998. pp. 71-120. (14) Carl Trocki, The internationalization of Chinese revenue farming networks, in “Water frontier: commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880”, edited by Nola Cooke, Tana Li, Rowman and Littlefield, Maryland, pp. 159-174. (15) Carl A. Trocki, Chinese Capitalism and the British Empire, paper presented to the International Association of Historians of Asia, Conference, Taiwan, Taipei, 6-10 December 2004 eprints.qut.edu.au/679/1/trocki_chinese.PDF(16) Paulin Francois Alexandre Vial, Les premières années de la Cochinchine, colonie française, Challamet Ainé, Paris,1874 (17) Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888, gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5512296p.image.r=Wang-Tai.f1.langEN(18) Song Ong Siang, One hundred years' history of the Chinese in Singapore, Oxford University Press, Singapore, 1984 (19) Chistine Doran, Bright celestial: progress in the political thought of Tan Teck Soon, Journal of Social Issues in Southeast Asia, April, 2006. (20) Michel Dolinski, Cholon, ville chinoise?, 3ème Congrès du Réseau Asie - IMASIE / 3rd Congress of Réseau Asie – IMASIE 26-27-28 sept. 2007, Paris, France, www.reseau-asie.com/cgi-bin/prog/gateway.cgi?langue=fr&password=&email=&dir=myfile_colloque&type=jhg54gfd98gfd4fgd4gfdg&id=430&telecharge_now=1&file=a09dolinski_michel.pdf
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 7, 2010 12:30:05 GMT 9
Đà Nẵng - cánh cửa biển Đông 05/04/2010 Đà Nẵng, cánh cửa của biển Đông, gắn liền với cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc nay thành cánh cửa hòa bình với thành phố hiền hòa và bãi biển đẹp nhất hành tinh. Năm 1837, hoàng đế Napoleon 3 quyết định thành lập Hội đồng nghiên cứu Việt Nam. Hội đồng này đã đệ trình lên nhà vua ý kiến đánh chiếm Việt Nam vì ba mục đích, tôn giáo, chính trị và kinh tế. Napoleon đã giao quyền cho Phó đô đốc hải quân Rigault de Genouilly tiến hành cuộc viễn chinh Việt Nam vào tháng 1/1858. Ngày 1/9/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng vào thành Điện Hải và An Hải ngay cửa Hàn, sau đó cho quân đổ bộ. Không phải ngẫu nhiên mà quân Pháp tấn công vào Việt Nam tại Đà Nẵng. Tầm quan trọng chiến lược của cảng biển này đã được giáo sĩ Pierre Poivre đến Đàng Trong 1748 - 1749 đã xác định: “Cần phải làm chủ hai cảng Cửa Hàn và Hội An”. Con đường chiếm đóng Việt Nam của các nước phương Tây luôn bắt đầu từ Đà Nẵng. Tàu vào cảng Đà Nẵng. Tuy nhiên, người lính phương Tây đầu tiên chết tại Việt Nam không phải là lính viễn chinh Pháp, Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha mà chính là người lính Mỹ đi trên chiến hạm USS Constitution. Đó là ngày 10/5/1845. Người lính Mỹ đầu tiên nằm lại Việt Nam ấy không biết cầm súng - William Cook, một thanh niên chơi đàn trong ban nhạc trên chiến hạm lừng danh USS Constitution. Cuộc đời hải quân ngắn ngủi của anh chỉ dài 14 tháng, chưa bằng thời gian chuyến hải hành dài 495 ngày đêm vòng quanh thế giới lần cuối cùng của chiến hạm này. USS Constitution là chiến hạm đầu tiên và lừng danh nhất trong lịch sử hải quân Mỹ, từng là soái hạm của hạm đội Địa Trung Hải, hạm đội Thái Bình Dương và hạm đội nội địa Mỹ. Chiến hạm được đóng năm 1794 và được Quốc hội nước này ra quyết định hạ thuỷ năm 1798. Chỉ trong hai năm sau, USS Constitution đã vượt Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Tripoli. Hiệp ước lịch sử Tripoli đã được ký ngay trên chiến hạm này. Với 54 khẩu đại pháo, chiến hạm được đóng từ 1.500 loại thân cây chọn lọc từ khắp nước Mỹ, thành tàu rắn tới mức có huyền thoại cho rằng đại bác bắn vào phải… dội ngược trở lại(!). Cái tên “Thành Sắt Cổ” (Old Ironsides) cũng từ đấy mà ra… Đó là những điều được ghi lại trên trang web về USS Constitution. Năm 1845, chiến hạm USS Constitution đã 50 tuổi. Lẽ ra từ năm 1830 nó phải vào viện bảo tàng. Viên hạm trưởng cũng già nua không kém John Percival, còn có biệt danh “Mad Jack”, khi đó 65 tuổi, bị bệnh phong thấp đã vận động tha thiết để đưa được tàu đi chuyến hải trình cuối cùng vòng quanh thế giới với nhiệm vụ dân sự. Chuyến đi cuối cùng ấy dài 495 ngày. Cây bút nổi tiếng của tạp chí Boston Globe - nhà báo Peter Kneisel - người đầu tiên cùng một nhóm cựu binh Mỹ từng có mặt tại chiến trường Việt Nam, cách đây mấy năm đã lặn lội đến Đà Nẵng tìm thuỷ thủ Cook, trong bài báo “The Search For Seaman Cook” đã viết: “Có lẽ không một yếu tố nào trong câu chuyện hấp dẫn đến nỗi chúng tôi phải bôn ba nửa vòng trái đất để đi tìm. Percival chôn cất thuỷ thủ của ông ta tại hàng tá hải cảng ngoại quốc trong suốt hai năm hải hành vòng quanh thế giới. Nhưng bởi vì đây là Đà Nẵng, thành phố quen thuộc với hàng trăm nghìn cựu chiến binh, những người từng đặt chân qua đây trong suốt bảy năm dài của cuộc chiến tranh”. Thuỷ thủ thường không được phép chọn lựa nơi an nghỉ của mình. Thường thì họ được hải táng với thân xác quấn trong vải buồm, cộng thêm một mớ sắt vụn cho nặng. Tuy nhiên, với những thuyền trưởng nặng tình thì nếu điều kiện có thể, họ sẽ cố gắng mọi cách để chôn thuỷ thủ của mình trên đất liền, như trường hợp của Percival đối với Cook. Nhưng đi xa hơn việc “nghĩa tử là nghĩa tận”, Percival lại chính là người Mỹ bắn phát súng đầu tiên vào Việt Nam, vào chính cái nơi mà 13 năm sau (1858) vang rền phát đại bác xâm lược đầu tiên của người Pháp. Nguyên nhân do viên hạm trưởng bức xúc trước việc triều đình nhà Nguyễn giam giữ một nhà truyền giáo Pháp mà không cần biết cặn kẽ căn nguyên. Peter Kneisel viết: “Ông ta đã “thực hiện các mệnh lệnh chỉ huy sai lạc và điều này đã thể hiện một lần nữa trong cuộc xung đột đẫm máu 120 năm sau. Tai hoạ lẽ ra nên được xem là một điều cần được lưu tâm sau này, nhưng chưa ai thật sự nhớ được”. Sau công hàm ngoại giao phản đối của triều đình Huế gửi tới toà lãnh sự Mỹ tại Singapore, Tổng thống Mỹ Zachary Taylor đã phải gửi một thư xin lỗi đến vua Thiệu Trị và cho đây là một hành động ngoại giao bất thường trong lịch sử ngoại giao nước này. Trên 160 năm dằng dặc trôi qua với triền miên biến cố… Hai mươi năm trước, bãi biển hoang sơ có cái tên Tiên Sa này, người địa phương vẫn gọi bằng cái tên ngộ nghĩnh: bãi tắm Liên Xô! Bởi nơi đây gần cảng, một thời thuỷ thủ Liên Xô sang Việt Nam thường ra tắm. Nhưng ít ai biết phía bờ đá nơi quả đồi lúp xúp cỏ hoang nhìn xuống vịnh biển kia, có một “người Mỹ thầm lặng” đang yên nghỉ từ hơn 160 năm về trước. Hiếu, một người làm du lịch ở Đà Nẵng, từng hướng dẫn Peter Kneisel và các bạn đi tìm mộ Cook, kể: “Tìm ra mộ Cook, họ vui lắm. Và điều mà họ thấy bất ngờ hơn nữa là sự giúp đỡ nhiệt tình và thái độ chia sẻ của chính quyền thành phố. Nên trong cuốn Globe Guidebook phát hành toàn thế giới có hẳn một trang do Peter Kneisel viết về Đà Nẵng năm 1845 gắn với sự kiện USS Constitution. Khách du lịch của tôi nhiều người tỏ ra rất quan tâm tới Đà Nẵng cũng từ sau những bài viết ấy”. Theo chỉ dẫn của Hiếu, chúng tôi tìm tới ngôi mộ mà ký giả Mỹ Peter Kneisel cho là của William Cook. Người thuỷ thủ chơi nhạc quê biển Boston của hơn một thế kỷ về trước giờ nằm xen giữa mấy ngôi miếu nhỏ của những người dân chài vô danh làng Thọ Quang. Dấu vết dường như chẳng còn gì. Chỉ còn rất nhiều những chân nhang mới với hoa và cả trái cây - điều từng khiến Peter Kneisel và các bạn vô cùng sửng sốt. Và cả hạm trưởng John Percival nếu có sống dậy cũng không thể tưởng tượng nổi. “Mọi linh hồn đều được đưa tiễn”, đây là triết lý sống giản dị của người Việt. Đà Nẵng luôn là cánh cửa của biển Đông, gắn liền với cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Đúng 120 năm sau khi chiến hạm USS Constitution ghé cảng biển này, người Mỹ lại đổ bộ vào đây trong kế hoạch Staley - Taylor, thực thi chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Sau khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, hai bên bình thường hóa quan hệ, những năm gần đây những chiến hạm của Mỹ lại thường xuyên ghé vào cảng biển quan trọng này với mục đích nhân đạo và từ thiện. Người viết bài này đã từng được bước lên những con tàu như USS Peleliu, USS Mustin, USNS Bruce Heezen để tham quan và dự tiệc. Đà Nẵng - cánh cửa từng phải mở ra vì những cuộc chiến tranh một thời, nay đã thành cánh cửa hòa bình với thành phố hiền hòa và bãi biển đẹp nhất hành tinh. Ngoài việc hằng ngày đón tiếp hàng trăm chuyến tàu chở hàng, chở khách tới Đà Nẵng, người dân nơi đây cũng đã bắt đầu quen với việc đón tiếp những tàu chiến hiện đại của quân đội các nước đến thăm như một cử chỉ hữu hảo. Theo www.baodatviet.vnTừ khóa bài viết "Đà Nẵng - cánh cửa biển Đông": biển Đông, Bồ Đào Nha, Boston, Boston Globe, cảng biển, cánh cửa, chiến tranh, hải quân, hạm đội, Hội An, Huế, Liên Xô, lính Mỹ, Mỹ, Napoléon Bonaparte, người Mỹ, người Pháp, người Việt, Nhà Nguyễn, Pháp, Singapore, tàu chiến, Tây Ban Nha, Thái Bình Dương, Thiệu Trị, thủy thủ, tổng thống Mỹ, Trái Đất, Tripoli, vòng quanh thế giới, website, Đà Nẵng, Địa Trung Hải *********************************** Ngư dân lại bị tấn công ở ngư trường Hoàng Sa 06/01/2014 Trong lúc đánh bắt tại quần đảo Hoàng Sa, một tàu cá ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi đã bị tàu lạ của Kiểm ngư Trung Quốc ( ? ) khống chế, chặt cột cờ, đập phá và lấy đi nhiều tài sản. Ngư dân Mai Khắc Vũ (ngụ xã An Hải, Lý Sơn) bàng hoàng kể lại sự việc bị phía tàu lạ (Trung Quốc ? ) khống chế, đập phá thiết bị trên tàu. Trong lúc đánh bắt tại quần đảo Hoàng Sa, một tàu cá ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi đã bị tàu lạ của Kiểm ngư Trung Quốc khống chế, chặt cột cờ, đập phá và lấy đi nhiều tài sản. Theo thuyền trưởng Phạm Quang Thạch, vào 11h trưa 3/1, khi tàu cá của ông đang bủa lưới cách đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) chừng 18 hải lý về hướng Tây Bắc thì bất ngờ có một tàu của lực lượng Kiểm ngư Trung Quốc, trên tàu khoảng 18-20 người, ập đến. “Họ dùng roi điện, dùi cui khống chế tất cả ngư dân trên tàu rồi đập phá, thu giữ số máy móc, dụng cụ, nhiên liệu trên tàu (gồm một Icom, 1 máy dò cá, 1 định vị, 4 bành dây hơi, 2 thúng chai, 200 lít dầu diesel)”, ông Thạch kể lại. Theo lời những ngư dân đi cùng ông Thạch, sau khi hùng hục đập phá, thu giữ máy móc, Kiểm ngư Trung Quốc bắt 5 ngư dân xuống khoang tàu, chọn lựa số cá chất lượng nhất, lấy hơn 5 tấn, chuyển sang tàu của Kiểm ngư Trung Quốc. Ông Ngô Văn Hiếu, Đồn phó Đồn biên phòng Lý Sơn, cho biết: “Sáng 5/1, chúng tôi đã tiếp nhận tin báo từ những thuyền viên trên tàu cá QNg 95739 do ông Phạm Quang Thạch làm thuyền trưởng về việc tàu bị khống chế, đập phá đồ đạc và cướp đi gần sáu tấn cá. Hiện chúng tôi đang tiến hành điều tra làm rõ và báo thông tin trên cho đồn biên phòng tỉnh”. Tổng hợp từ Dân Việt, Pháp luật TP HCM
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 3:59:11 GMT 9
Các Lực Lượng Ngoại Quốc Tham Dự Chiến Tranh Việt Nam 1960-1975 Trần Gia Phụng Ngay trước khi ký hiệp định Genève (20-7-1954), đảng Lao Động (LĐ) đã chủ trương tiếp tục chiến tranh để bành trướng thế lực. Vì chủ trương nầy, đảng LĐ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt Nam đã cầu viện Trung Quốc, Liên Xô và các nước cộng sản khác, nhằm bảo vệ hậu cứ Bắc Việt Nam và cung cấp võ khí tối tân để Bắc Việt Nam tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam. Ở thế yếu và để tự bảo vệ, Nam Việt Nam đành phải nhờ Hoa Kỳ và các nước đồng minh giúp đỡ nhằm chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt Nam. Đó là lý do sự hiện diện của quân đội nước ngoài ở cả hai phía tại Việt Nam. 1. LỰC LƯỢNG HOA KỲ Ngày 4-2-1950, Hoa Kỳ thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Military Assistance and Advisory Group-Indochina (MAAG-I) tức Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ chính thức thành lập ngày 17-9-1950, nhằm mục đích cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Miên Lào. Trong chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, (1) trước sự bành trướng của cộng sản, đại diện ba nước Australia, New Zealand, United States of Anmerica họp tại San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu vì an ninh bị đe dọa. Sau hiệp định Genève (20-7-1954), lo ngại sự bành trướng của cộng sản tại vùng Đông Nam Á, Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization viết tắt là SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC) Australia (Úc), France (Pháp), New Zealand (Tân Tây Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines (Phi Luật Tân), Thailand (Thái Lan), United Kingdom (Anh), và United States of America (Hoa Kỳ). Trong phụ bản của hiệp ước nầy, ba nước Cambodia (Cao Miên), Laos (Lào) và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào văn bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á. Sau khi Pháp rút lui, Hoa Kỳ thiết lập đoàn MAAG-Việt Nam tháng 10-1955, để trực tiếp cố vấn và huấn luyện quân đội Việt Nam, nhằm xây dựng cho miền Nam Việt Nam một đội quân có thể tự bảo vệ an ninh lãnh thổ. Theo đà phát triển của quân đội VNCH, đoàn MAAG-Việt Nam được chuyển thành Military Assistance Command, Vietnam (MACV) tức Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam ngày 8-2-1962. Nhân số MACV lúc đó khoảng 3,000 người. Bộ Tư lệnh Quân viện Việt Nam (MACV) là bộ chỉ huy liên quân Mỹ tại Việt Nam, nằm dưới sự chỉ huy của Pacific Command (PACCOM) tức Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dưới quyền MACV là tất cả các lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, gồm có: Bộ chỉ huy Lục quân (United States Army Vietnam – USARV), Bộ tư lệnh Hải quân (Naval Forces Vietnam -NAVFORV), Không lực 7 (Seventh Air Force – 7AF), Lực lượng Thủy bộ số 3 (III Marine Amphibious Force – IIIMAF), Lực lượng Dã chiến số 1 (I Field Force, Vietnam – I FFV), Lực lượng Dã chiến số 2 (II Field Force, Vietnam – II FFV), Quân đoàn 24 (XXIV Corps), Lực lượng Đặc biệt số 5 (5th. Special Forces Group), Cơ quan Điều phối Dân sự vụ và Phát triển Nông thôn (Civil Operations and Rural Development Support – CORDS), Nhóm Nghiên cứu và Quan sát (Studies and Observations Group – SOG). (2) Các Tư lệnh MACV là đại tướng Paul D. Harkins (từ tháng 2-1962), William C. Westmoreland (từ tháng 6-1964), Creighton W. Abrams (từ tháng 7-1968) và Frederick C. Weyand (từ tháng 6-1972). Vai trò của MACV càng ngày càng quan trọng khi Hoa Kỳ tung quân vào Việt Nam từ năm 1965. Tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Nguyên vào ngày 2-8-1964, khu trục hạm Maddox (Hoa Kỳ) đang tuần tra trong hải phận quốc tế trong vịnh Bắc Việt ở ngoài khơi Thanh Hóa, thì bị ba ngư lôi đĩnh Bắc Việt tấn công. Theo các tài liệu cũ của Hoa Kỳ, hai ngày sau, chiều tối 4-8-1964 hai chiến hạm Maddox và Turney Joy bị tấn công lần nữa, trong khi thi hành nhiệm vụ trong hải phận quốc tế. Tuy nhiên, ngày nay, nhiều tài liệu cho thấy lần tấn công thứ hai vào tối 4-8-1964 không có thật. (Đỗ Cẩm, ) Ngày 7-8, theo yêu cầu của tổng thống Hoa Kỳ, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép ông được sử dụng mọi biện pháp cần thiết để đánh trả, nghĩa là cho phép ông có thể đưa quân qua Việt Nam và mở rộng chiến tranh. Trong thời gian thủ tướng Phan Huy Quát cầm quyền (từ 16-2-1965 đến 19-6-1965), những báo cáo của các giới chức Hoa Kỳ cho thấy tình hình quân sự VNCH càng ngày càng bi đát, nhất là báo cáo ngày 24-2-1965 của Cơ quan Trung ương tình báo (CIA), báo cáo vào đầu tháng 3 của tướng Westmoreland và báo cáo của cố vấn McGeorge Bundy sau khi từ Việt Nam trở về. (3) Bundy đề nghị thực hiện ngay kế hoạch “trả đũa liên tục” chống lại miền Bắc. Tổng thống Johnson liền quyết định mở chiến dịch oanh tạc thường xuyên Bắc Việt, đặt tên là Rolling Thunder, chính thức bắt đầu vào ngày 2-3-1965. Do hoạt động của không quân Hoa Kỳ càng ngày càng gia tăng, phi trường Đà Nẵng được dùng làm nơi xuất phát các phản lực cơ bay đi oanh tạc Bắc Việt. Ngày 22-2-1965, tướng Westmoreland, tư lệnh MACV, yêu cầu tổng thống Johnson cho đổ bộ hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến (TQLC) Hoa Kỳ, nhằm bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Johnson đồng ý đề nghị nầy với điều kiện phải có sự ưng thuận của chính phủ Việt Nam. Được lệnh của bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, ngày 1-3-1965, đại sứ Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson gặp thủ tướng Phan Huy Quát, đưa đề nghị về việc Hoa Kỳ gởi hai tiểu đoàn TQLC đến Đà Nẵng. Thủ tướng Quát chấp thuận. Ngày hôm sau, 2-3-1965, tướng Westmoreland gặp và thông báo cho các tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng trưởng Quân lực và Trần Văn Minh, tổng tư lệnh quân đội. Người Mỹ còn ra Đà Nẵng, gặp thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Quân đoàn I để thảo luận kế hoạch đổ bộ. Cần nhấn mạnh là quyết định tối quan trọng nầy chỉ được thỏa thuận bằng lời chứ không bằng văn bản, giữa các giới chức Hoa Kỳ với thủ tướng Phan Huy Quát và một số tướng lãnh Việt Nam chứ, không có ý kiến của Hội đồng chính phủ hay của HĐQL. Cuối cùng, ngày 8-3-1965, tiểu đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ là đơn vị chiến đấu Mỹ đầu tiên đổ bộ vào bãi biển Nam Ô, phía bắc Đà Nẵng khoảng 10 cây số. (4) Các đơn vị còn lại đến Đà Nẵng bằng không vận. Việc người Mỹ bắt đầu đổ quân chiến đấu vào Việt Nam là một biến cố quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ tình hình Việt Nam. Quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam từ tháng 4-1965 là 32,000 người. Cuối năm 1965, số quân nầy tăng thành 186,000. Cuối năm 1966 là 376,800 quân. Cuối năm 1967 lại tăng nữa: 486,000 quân. (5) (6) Sau biến cố Mậu Thân vào đầu năm 1968, quân số Hoa Kỳ lên cao điểm là 536,100 người. Sau đó, từ giữa năm 1969, tổng thống Richard Nixon thay đổi sách lược, rút quân dần dần theo kế hoạch mà người Mỹ gọi là “Việt Nam hóa” và dự tính sẽ còn 405,000 vào 1972. Sau hiệp định Paris (27-1-1973), toàn bộ quân Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam, MACV bị giải thể ngày 29-3-1973. Cơ quan Defense Attach Office (DAO) tức Phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ được thành lập do thiếu tướng John Murray chỉ huy và trong năm sau (1974), thiếu tướng Homer Smith thay thế, cho đến tháng 4-1975. Số quân nhân Hoa Kỳ hy sinh tại chiến trường Việt Nam lên khoảng 58, 217 người và 19 dân sự; 153,452 bị thương và 1,740 người mất tích. (7) Cần chú ý, chính phủ các nước trên thế giới đều chỉ lo phục vụ quyền lợi nước họ, nên khi quyết định giúp đỡ một nước khác, cũng chỉ vì quyền lợi gần hay xa của nước họ. Người Hoa Kỳ rất thực dụng. Do đó, chính phủ Hoa Kỳ quyết định can thiệp vào Việt Nam vì chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ chứ không phải chỉ vì giúp đỡ VNCH. Khi đến vì quyền lợi, thì cũng vì quyền lợi người Hoa Kỳ ra đi, sẵn sàng bỏ rơi VNCH khi cần.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 15, 2010 4:00:21 GMT 9
2. LỰC LƯỢNG CÁC NƯỚC TRONG KHỐI TỰ DO THAM CHIẾN Hoa Kỳ là thành viên của khối ANZUS và tổ chức SEATO, nên Hoa Kỳ kêu gọi, thúc đẩy các nước đồng minh Đông Á giúp đỡ Việt Nam. Lúc đầu là những toán chuyên viên dân sự. Dần dần nhiều nước gởi quân chiến đấu đến giúp VNCH. Năm 1962, Australia (Úc) gởi qua Việt Nam một biệt đội cố vấn chiến tranh rừng rậm khoảng 30 người. Số quân Úc tăng dần lên đến 7,672 năm 1969 và từ năm 1970 giảm xuống trở lại (6,763 quân). (8) Khi rút hết quân về nước tháng 12-1972, Úc chỉ để lại một trung đội bảo vệ sứ quán Úc tại Sài Gòn. Số quân Úc tử trận tại Việt Nam là 521 người. (9) New Zealand (Tân Tây Lan) gởi quân giúp Việt Nam từ tháng 6-1964 đến tháng 12-1972. Đầu tiên là một toán cố vấn 30 người năm 1964 tăng dần theo từng năm. Số quân New Zealand cao nhất vào năm 1970 là 441 người. (10) Tổng số quân tử trận tại Việt Nam là 36 người. (11) Năm 1964, Republic of Korea (South Korea) tức Cộng Hòa Đại Hàn (hay Nam Hàn) gởi sang Việt Nam 200 quân, nhưng ngay từ năm sau (1965), quân Đại Hàn tăng lên 20,620 người, rồi lại tăng thành 45,566 quân năm 1966. Cao điểm vào năm 1969, quân Đại Hàn hiện diện ở Việt Nam là 48, 869 người. Sau đó quân số giảm dần cho đến khi rút lui đầu năm 1973. Quân Đại Hàn đóng giữ các tỉnh duyên hải từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận. Các dơn vị nổi tiếng là Sư đoàn Mãnh Hổ (bản doanh ở Bình Định), Lữ đoàn Thủy quân lục chiến Thanh Long (bản doanh ở Cam Ranh) và sư đoàn Bạch Mã (bản doanh ở Tuy Hòa). Số quân tử trận khoảng 5,099, bị thương 11,232 và mất tích 4. (12) Ngày 29-9-1964, 16 quân nhân viên Không lực Thái Lan đến Sài Gòn để giúp Không quân Việt Nam. Dần dần quân Thái Lan lên đến 6 tiểu đoàn với 11,586 quân năm 1970, đóng bản doanh trong vùng tỉnh Biên Hòa. Thái Lan bắt đầu rút quân từ tháng 3-1971 và chấm dứt giữa năm 1972. (13a) Thái Lan mất 351 quân nhân và bị thương 1,358 người. Nước Philippines gởi Đoàn Công tác Dân vụ (Civic Action Group) qua giúp VNCH từ năm 1964. Cao điểm năm 1967, quân Philippines lên đến 534 người. Sau đó giảm xuống dần dần và chỉ còn 74 người năm 1970. Quân Philippines đảm trách các công tác dân vụ như y tế, làm đường sá, xây cầu cống, dựng nhà giúp dân tái định cư tại các tỉnh Hậu Nghĩa, Bình Dương và Tây Ninh. (13b) Số thiệt hại quân nhân Phi Luật Tân không đáng kể, 7 người chết, 2 người bị thương. Ngoài ra, còn hai nước chỉ gởi chuyên viên kỹ thuật và y tế sang giúp VNCH là Trung Hoa Dân Quốc (Republic of China) và Tây Ban Nha (Spain). Trung Hoa Dân Quốc tức Đài Loan (Taiwan) gởi 20 người năm 1964 và 31 người năm 1970. Tây Ban Nha gởi 13 chuyên viên năm 1966 và chỉ còn 7 người năm 1970. (14) DIỄN BIẾN QUÂN SỐ ĐỒNG MINH TỰ DO (14) Quốc Gia 1964 1965 1966 1967 1968 1969 1970 Australia 200 1,557 4,525 6,818 7,611 7,672 6,763 New Zealand 30 119 155 534 516 552 441 Republic of Korea 200 20,620 45,566 47,828 50,003 48,869 48,537 Thái Lan 16 240 2,205 6,005 11,568 11,586 Philippines 17 72 20,61 2,020 1,576 189 74 Republic of China 20 20 23 31 29 29 31 Tây Ban Nha 13 12 10 07 3. LỰC LƯỢNG CÁC NƯỚC CỘNG SẢN THAM CHIẾN Quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong khối Tự do đến giúp VNCH (Nam Việt Nam) có tính cách công khai, nên chẳng những người Việt Nam biết, mà cả thế giới đều biết. Ngược lại, lực lượng các nước trong khối Cộng sản đến giúp VNDCCH (Bắc Việt Nam) hết sức bí mật và được giấu kín trong thời gian chiến tranh. Sau năm 1975, tin tức dần dần mới được tiết lộ. Để chuẩn bị chiến tranh, đầu tháng 7-1959 Hồ Chí Minh qua Moscow đề nghị Liên Xô yểm trợ Bắc Việt Nam trong cuộc chiến mà đảng LĐ đang sửa soạn tấn công miền Nam Việt Nam, nhưng Liên Xô khuyên Hồ Chí Minh nên tiếp tục mưu tìm sự thống nhất trong hòa bình. (15) Vào lúc nầy, Nikita Khrushchev đang cầm quyền ở Liên Xô từ năm 1953. Năm 1956, trong Đại hội đảng lần thứ 20 đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX) tháng 2-1956, ông đưa ra chủ trương “chung sống hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị. Một thành tựu quân sự quan trọng của LX dưới thời Khrushchev là Liên Xô đã phóng thành công vệ tinh Sputnik lên quỹ đạo ngày 4-10-1957, mở đầu kỷ nguyên chinh phục không gian. Sau những cuộc thương lượng kéo dài, ngày 5-8-1963, ngoại trưởng Liên Xô (Andrei Gromyko), ngoại trưởng Anh Quốc (Alec Douglas Home) và ngoại trưởng Hoa Kỳ (Dean Rusk) ký thỏa hiệp giới hạn thử nghiệm bom nguyên tử trên khí quyển và ngoài biển khơi, chỉ được thử nghiệm trên đất liền. Thỏa hiệp nầy chính thức có hiêu lực từ ngày 10-10-1963. Khi Leonid Brezhnev lên làm thư ký thứ nhất đảng CSLX thay Nikita Khrushchev vào tháng 10-1964, thì LX thay đổi thái đô, viện trợ và gởi người sang giúp Bắc Việt Nam. Quân đội Liên Xô đến Bắc Việt khoảng 3,000 người, thuộc Phòng Tùy viên Quân sự Tòa đại sứ Liên Xô tại Hà Nội, đều là những chuyên viên không quân, kỹ thuật phòng không và hỏa tiễn (Bắc Việt gọi là tên lửa). Nhiệm vụ của chuyên viên LX là huấn luyện lắp ráp tại chỗ các loại máy bay chiến đấu MIG-21 và SU, huấn luyện phi công Bắc Việt lái máy bay, lắp ráp các bệ phóng hỏa tiễn và điều khiển hỏa tiễn. Ngoài ra còn có một số chuyên gia về hải quân và các binh chủng khác. Khi phục vụ tại Bắc Việt, các quân nhân LX đều dùng thường phục, chỉ trong những buổi lễ mới dùng quân phục, sinh sống tập trung nhiều nhất ở trong một số khu vực ở Hà Nội và ở các phi trường lớn có trang bị hỏa tiễn phòng không tại Bắc Việt. (16) Nước cộng sản lớn thứ hai đưa quân vào Bắc Việt Nam là Trung Quốc (TQ). Bắc Việt Nam nằm sát phía nam TQ. Ngày 4-9-1958, Quốc Vụ Viện TQ ra nghị quyết về ranh giới biển của TQ là 12 hải lý kể từ bờ biển, áp dụng cho toàn thể lãnh thổ TQ, bao gồm các hải đảo, trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa. Để lấy lòng TQ, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng LĐ, ký quốc thư ngày 14-9-1958, tán thành quyết định trên của TQ ngày 4-9-1958, nghĩa là mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Cần chú ý thêm TQ đã thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên ngày 16-10-1964, phóng hỏa tiễn nguyên tử đầu tiên ngày 25-10-1966 và thử nghiệm quả bom khinh khí đầu tiên ngày 14-6-1967. (17) Sự thành công nầy làm tăng giá trị vị thế của TQ trong bang giao quốc tế. Trước đây, chỉ có Liên Xô là nước cộng sản duy nhất thủ đắc bom nguyên tử, có thể đối trọng với Hoa Kỳ. Nay Trung Quốc cũng có bom nguyên tử nên càng làm cho Bắc Việt tin tưởng thêm hơn trong cuộc đối đầu với Hoa Kỳ. Mối bang giao Liên Xô-Trung Quốc rạn nứt từ năm 1956, khi Nikita Khrushchev chủ trương “sống chung hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị. Nay có bom nguyên tử, TQ càng tỏ ra khiêu khích đối với Liên Xô. Riêng Hoa Kỳ, sau khi TQ nắm được bom nguyên tử, Hoa Kỳ cũng phải tính toán lại sách lược bang giao đối với Trung Quốc, tạo nhiều hệ lụy trong chiến tranh Việt Nam. Trong khi đó, vào đầu tháng 8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt. Quốc hội Hoa Kỳ liền đưa ra “Quyết nghị vịnh Bắc Việt” (Gulf of Tonkin Resolution) ngày 7-8-1964, cho phép tổng thống Hoa Kỳ thi hành các biện pháp cần thiết, kể cả việc dùng võ lực, để đối phó với tình hình tại Đông Nam Á. Trung Quốc tỏ ra quan ngại, cho rằng chẳng những Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt mà Hoa Kỳ sẽ có thể giúp Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đổ bộ lục địa Trung Quốc. Một mặt, Trung Quốc tái bố trí lực lượng nội địa để phòng thủ, một mặt Trung Quốc tăng cường giúp đỡ VNDCCH nhằm chống lại Hoa Kỳ. (18) Các lãnh tụ Bắc Việt là Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Văn Tiến Dũng liên tục qua Trung Quốc hội họp và thương lượng với các lãnh tụ Trung Quốc. Ngoài việc gởi quân viện, từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt Nam 320,000 quân, trú đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà Nội, điều khiển các súng phòng không, sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, xây dựng các hãng xưởng, bảo vệ các tỉnh phía bắc nhằm giúp Bắc Việt kéo hết quân xuống tấn công miền Nam. Khi Trung Quốc rút quân về nước vào tháng 8-1973 (7 tháng sau hiệp định Paris), tổng số lính Trung Quốc thiệt mạng tại Việt Nam là 1,100 người và bị thương là 4,200 người. (19) Cuối năm 1966, Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên (Bắc Hàn) gởi hai trung đoàn pháo binh phòng không và hai phi đội sang Bắc Việt Nam giúp bảo vệ Hà Nội. Kim Nhật Thành đã nói với các phi công Bắc Hàn là hãy chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt giống như tại Triều Tiên. Khi rút về vào 1972, Bắc Hàn để lại khoảng vài chục quân nhân bị giết trong các cuộc dội bom của phi cơ Hoa Kỳ. (20) Ngoài ra, Cuba, một nước ở Trung Mỹ theo cộng sản, cũng gởi người đến giúp Bắc Việt, qua hình thức dân sự thuộc Tòa đại sứ Cuba ở Hà Nội. Đó là những chuyên viên phụ trách khai thác tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt bắt được. Đa số quân nhân Hoa Kỳ bị bắt là phi công. Theo lời kể của những tù binh Hoa Kỳ còn sống sót và trở về Hoa Kỳ sau hiệp định Paris năm 1973, các chuyên viên Cuba tra tấn một cách tàn nhẫn và có khi đánh đập đến chết một số tù binh Hoa Kỳ. (21) KẾT LUẬN Sau khi đất nước bị chia hai, miền Nam Việt Nam muốn sống yên ổn, hòa bình để phát triển kinh tế, nhưng lại bị Bắc Việt Nam khiêu khích và tấn công vì cho rằng miền Nam Việt Nam không thi hành việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève (20-7-1954). Lý do nầy hoàn toàn không hợp lý vì hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chỉ chiến sự, không nói gì đến giải pháp chính trị. Việc dự tính tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước chỉ được đề cập đến trong điều 7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của các nước tham dự hội nghị nên không có giá trị cưỡng hành. Quân đội các nước cộng sản kín đáo đến giúp Bắc Việt Nam, được ngụy trang dưới hình thức chuyên viên kỹ thuật dân sự. Truyền thông Bắc Việt hoàn toàn do nhà nước kiểm soát, nên không đưa tin về việc nầy. Bắc Việt bưng bít tin tức rất kỹ, thế giới hoàn toàn không hay biết về sự hiện diện của quân đội các nước cộng sản tại Bắc Việt. Trong khi đó, Hoa Kỳ cùng đồng minh công khai đổ quân ồ ạt vào Nam Việt Nam. Cộng sản Bắc Việt lợi dụng sự hiện diện công khai của quân nhân nước ngoài tại miền Nam Việt Nam để tuyên truyền chống VNCH và chống “đế quốc xâm lược Mỹ”, chẳng những trong dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam, mà cả trưóc dư luận thế giới. Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh vào miền Nam Việt Nam khá nhanh từ năm 1965 và cũng rút nhanh vào đầu thập niên 70. Tuy vậy, quân đội VNCH vẫn một mình chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam, và chỉ phải buông súng vì thiếu đạn dược do Hoa Kỳ cắt quân viện, trong khi Bắc Việt Nam được toàn khối cộng sản yểm trợ mạnh mẽ cho đến khi thành công năm 1975. (Trích Việt sử đại cương tập 6.) Trần Gia Phụng (phungtrangia@yahoo.com) CHÚ THÍCH 1. Sau thế chiến thứ hai, thế giới chia thành hai khối rõ rệt. Khối tư bản do Hoa Kỳ đứng đầu và khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo. Hoa Kỳ thử thành công bom nguyên tử lần đầu tiên ngày 16-7-1945, và đã dùng bom nguyên tử thả xuống hai thành phố Nhật Bản là Hiroshima (6-8-1945) và Nagasaki (9-8-1945), kết thúc thế chiến thứ hai. Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử đầu tiên ngày 29-8-1949. Vì cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô, tuy tranh chấp nhau quyết liệt, nhưng tránh trực tiếp đụng độ nhau. Tình trạng nầy gọi là chiến tranh lạnh Trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và khối cộng sản dựa vào chiêu bài giải phóng dân tộc để tuyên truyền và bành trướng thế lực. Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vận dụng thuyết địa lý chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. 2. Wikipedia, The free encyclopedia, “Military Assistance Advisory Group”. 3. Lâm Vĩnh Thế trích dịch, Bạch hóa tài liệu mật của Hoa Kỳ về Việt Nam Cộng Hòa, Hamilton, Ontario: Hoài Việt, 2008, tt. 162-166. Đọc thêm: William Westmoreland, A Soldier’s Report, Duy Nguyên dịch, Hồi ký cựu đại tướng Westmoreland, San Jose: Nxb. Thế Giới, 1996, chương VII, “Quyết định khó khăn nhất”, tt. 171-206. 4. Làng Nam Ô nằm ven vịnh Đà Nẵng, dân địa phương gọi là Vũng Thùng. Trước đó hơn 100 năm, những TQLC Pháp đầu tiên cũng đã đổ bộ ở Vũng Thùng năm 1856. Ca dao Quảng Nam có câu: “Tai nghe súng nổ cái đùng/ Tàu Tây đã đến Vũng Thùng hôm qua.” Làng Nam Ô thuộc huyện Hòa Vang, tiếp giáp với Liên Chiểu, ngay dưới chân phía nam đèo Hải Vân. 5. Đoàn Thêm, Việc từng ngày 1965, Việc từng ngày 1966, Việc từng ngày 1967, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, mục cuối mỗi sách: “Quân số Hoa Kỳ”. 6. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “Việt nam War”, mục “Strenght”.() 7. Wikipedia, the Free Encyclopedia, “Vietnam War” “Casualities” [Thương vong trong chiến tranh Việt Nam]. (http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnam_War_casualties) 8. Trung tướng Stanley Robert Larson và Thiếu tướng James Lawton Collins, Jr., Allied Participation in Vietnam, Washingtong D.C.: Department of Army, 1985, tr. 23. 9. Australian War Memorial, “Vietnam War 1962-1975”.() 10. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd. tr. 23. 11. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “New Zealand in the Vietnam War”. 12. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd, chương: “The Republic of Korea”, tt. 120-156; và Wikipedia, The free encyclopedia, “Vietnam War Casualities”. 13. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd, tt.. 23, 51 (13a), 23, 63 (13b). 14. Robert Larson và Lawton Collins, Jr., sđd. tr. 23. 15. Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 83. 16. www.russiatoday.ru/news/news/21019 “USSR ’secret’ Vietnam soldiers speak out”, 16-2-2008. Xem thêm: Bản tin đài RFA (Radio Free Asia) ngày 20-2-2008. RFA còn phỏng vấn nhà báo Bùi Tín, cựu đại tá Bộ đội cộng sản Bắc Việt. Ngoài ra, tham khảo thêm BBC Vietnamese ngày 19-11-2008. 17. Google: “China Nuclear Forces”.(Trích ngày 4-6-2008.) 18. Lorenz Luthi, “The Vietnam War and Chinas Third-Line Defense Planning before the Cultural Revolution, 1964-1966″ Journal of Cold War Studies, Vol. 10, No. 1, Winter 2008, pp. 26-51, bản dịch của Trần Quốc Tân, “Chiến tranh Việt Nam và kế hoạch phòng tuyến ba của Trung Quốc trước Cách mạng Văn hóa, 1964-1966, (Nguồn: Tạp chí Thời Đại Mới, số 13, tháng 03-2008. (tapchithoidai.org/ThoiDai13/2008). 19. Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 135. 20. Wikipedia, The Free Encyclopedia, “Koreans in Vietnam”, “Vietnam War casualties”, và BBC NEWS (Anh ngữ) các ngày 31-3-2000, 7-7-2001, và 12-7-2001. 21. www2.fiu.edu/~fcf/warcrimes.cuba.vietnam.html. “War Crimes: The Cuban-Vietnam Connection”, 20-2-1997. webcache.googleusercontent.com/ “Cuban Torturers in Viet Nam-Eye-Witness Report, 12-Apr-2004”.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 16, 2010 12:14:19 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 16, 2010 12:36:33 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 16, 2010 12:40:10 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 16, 2010 12:52:34 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 16, 2010 13:01:50 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 28, 2011 9:45:11 GMT 9
Sài Gòn xưa (03/02/2010)
(Qua một bài báo của A. Lomon 1864)
Hai năm sau khi triều đình Tự Đức nhường cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhà báo A.Lomon gửi về báo L'Illustration ở Paris một bài phóng sự viết về Sài Gòn.
Tác giả cho biết: Trước đó vài năm, khi Sài Gòn nằm dưới quyền triều đình Việt Nam thì dân số thành phố này chỉ còn 4 vạn. Tác giả không giải thích tại sao, song chúng ta biết 60% dân số Sài Gòn đã rời thành phố để tránh chiến tranh, và nhất là không muốn sống dưới sự cai trị của ngoại bang.
Cảnh quan miền nhiệt đới thu hút sự chú ý của nhà báo phương Tây: “Cảnh trí ở đây thật đẹp đẽ. Tầng đất thực vật thường dày hơn. Ở đây có nhiều dòng nước nên giữ độ ẩm, và cùng với sức nóng mặt trời giúp cho cây cối xanh tươi. Nông nghiệp phát đạt sẽ sinh lợi nhiều hơn nếu đường sá giao thông được cải thiện.”
“Một mạng lưới sông rạch chằng chịt khắp nơi. Ngoài ra còn có những kinh đào nối liền giữa các sông rạch với nhau. Thật khó xác định đâu là nguồn, đâu là cửa. Mỗi con rạch có hai cửa và hai dòng nước chảy.”
Phong cảnh trên bờ thật quyến rũ theo tác giả: “Bờ kênh rạch được che bởi những cây dừa nước, xoài, mận, mây, táo. Kênh rạch quanh co uốn khúc, tạo ra những vịnh nhỏ, ở đó bọn bất lương thường ẩn náu và dùng ghe có vũ trang để cướp bóc dân làng. Cây lá xanh tươi tỏa bóng mát xuống kênh rạch, thỉnh thoảng lại điểm những bông hoa trắng, đỏ của các dây leo, xương rồng gai, dứa rừng... cùng với những bụi gai mọc ven bờ tạo thành những rừng rậm không ra vào được.
Ở xa các con kênh một quãng, người ta thấy những cây mít, măng cụt, ổi, dừa, đa, một loại cây có dầu, thân thẳng và trần trụi, chuối, cau.”
“Cây cau cao 10 thước, cho trái trong 25 năm. Gỗ cau có sợi, chỉ dùng trong xây dựng thông thường, nhưng trái cau lại mang lại hoa lợi lớn. Trung bình mỗi năm một cây cau cho 7kg quả. Cứ 100kg quả bán được 1 quan tiền (ligature). Như vậy mỗi cây cau mang lại hoa lợi hàng năm 0.7 centime”(1).
“Các vườn trầu khá giống như những đồn điền trồng cây hoa bia (houblon) ở Bỉ và Anh. Lá trầu lớn hơn và xanh đậm hơn. Dây trầu leo xung quanh các cọc chống, khác với cây hoa bia được thu hoạch sau 1 năm, cây trầu được hái lá vào năm thứ ba. Người ta ăn trầu chung với vôi và trái cau. Người bản xứ nhai trầu luôn miệng. Thói quen này khiến răng của họ hóa đen và miệng của họ lúc nào cũng đỏ như máu. Song họ cho rằng trầu là một chất kích thích rất hợp vệ sinh. Có thể họ có lý.”
“Xa hơn nữa người ta thấy những thảm xanh trải dài mút mắt. Đó là những ruộng lúa. Lúa ở Viễn Đông cũng như lúa mì ở châu Âu. Nam Kỳ có thể trở thành vựa lúa của châu Á khi việc xuất khẩu trở nên dễ dàng hơn. Các ruộng lúa có thể cho đến 3 vụ thu hoạch mỗi năm. Hiện nay chỉ mới trồng được 1 vụ, nhưng sản phẩm vẫn thừa sức thỏa mãn các nhu cầu trong nước.”
Tác giả đặc biệt quan tâm đến những hoạt động trên sông nước, ông viết: “Không đâu nhộn nhịp bằng sông Sài Gòn. Mọi hoạt động thương mại đều diễn ra trên sông nước, ở đó có thuyền bè luôn đông đúc.”
“Mỗi tuần hai lần, các đoàn thuyền gồm từ 1,000 đến 2,000 chiếc đi Cam-bốt. Những đội hộ tống đi theo để bảo vệ chống lại bọn cướp. Thật là một cảnh tượng kỳ thú khi nhìn những người chèo thuyền đẩy mái chèo ra phía trước (thay vì quay lưng lại để chèo như những người lái đò ở châu Âu).”
“Tàu đi biển có 3 buồm gọi là tàu cánh én (houaris) đan bằng đệm rơm. Cột buồm đặt ở giữa và nghiêng về phía sau. Thuyền độc mộc tuyệt đẹp, được đẽo trên thân gỗ. Có những chiếc thuyền dài từ 8 đến 10 mét, rộng từ 1.2 đến 1.5 mét làm rất khéo.”
“Kiến trúc lạ mắt của người Việt Nam cũng được tác giả chú ý và miêu tả như sau: “Chín phần mười nhà cửa làm bằng gỗ. Người bản xứ rất khéo léo trong nghề mộc. Họ là những người làm đồ gỗ xuất sắc. Ở Sài Gòn, ta thấy những tiệm bán đồ gỗ điêu khắc một cách công phu và mỹ thuật, chạm trổ như ren. Họ biết làm ra những tác phẩm khảm xà cừ thật đẹp.”
“Nhà của dân quê gồm 2 phần riêng biệt. Một phần dành cho việc tụ họp ban ngày, ở đó họ tiếp khách, ăn uống. Phần còn lại dùng làm nơi ở của gia đình. Mỗi phần có mái riêng và mỗi mái được đặt nghiêng để nước mưa đổ về phía giữa của căn nhà. Tường xây bằng gạch. Mái nhà cao, nghiêng sát xuống mặt đất, gợi nhớ các ngôi nhà tranh xứ Bourgogne. Ra vào phải khom lưng cuối đầu. Các mái được chống đỡ bằng nhiều cột gỗ nối liền với nhau.”
Đó là nhà của người sống, còn ‘nhà’ của người chết thì sao? Tác giả viết: “Cũng như người Trung Quốc, người Việt Nam có lòng tôn kính đối với mồ mả. Đối với họ, thờ cúng tổ tiên là một vấn đề đức tin, một trong những nền tảng đạo đức. Tiêu bản đầy đủ nhất của kiến trúc mồ mả của người Việt Nam là một ngôi mộ nằm cách Sài Gòn vài dặm, trong Đồng Mả (Plain des Tombeaux)(2). Đây là mộ một viên quan.”
“Đồng Mả này, mồ mả chôn lộn xộn, không có tường rào bao quanh. Bên cạnh những ngôi mộ của những nhân vật quan trọng, những lăng nhỏ xây theo kiểu chùa chiền Trung Hoa, ta thấy có những ngôi mộ vuông vắn, thấp, trang trí những hình chạm khá đa dạng. Ở bốn góc ta thấy hình ngọn lửa (3). Người dân bình thường chỉ có những nấm mồ bằng đất sét.”
Mỗi người Việt Nam có một cổ quan riêng cho mình và đặt nó ở vị trí dễ thấy nhất trong nhà. Áo quan của người Việt có hình dáng giống như áo quan ở châu Âu nhưng lớn hơn và nặng hơn. Áo quan của người nghèo bằng gỗ tạp, trị giá 5 quan tiền. Còn áo quan của nhà giàu bằng gỗ kiền kiền, gỗ mun hay gỗ trầm.”
Cũng nên biết là lương hàng tháng của một công chức cao cấp lúc ấy là 30 quan tiền.
Đa số người Việt Nam theo đạo Phật nên chùa chiền khá nhiều.
Đây là cảnh chùa trên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi): “Những cây táo và cây cau tỏa bóng mát xuống ngôi chùa. Trên mái chùa là một cạnh hình răng cưa và trang trí bằng những tác phẩm điêu khắc rất độc đáo.”
“Từ khi Pháp chiếm Sài Gòn, họ xây một số công trình mới như: Nhà ở đầu tiên của thống đốc (gouverneur), các nhà thương, một nhà thờ nhỏ đạo Thiên Chúa (khánh thành ngày 15 tháng 5 năm 1860) và nhà in Hoàng Đế”(4).
Trước sự xuất hiện ngày càng nhiều những công trình xây dựng mới, tác giả bày tỏ sự lo ngại: “Kiến trúc châu Âu từng bước thay thế những công trình xây dựng bản xứ. Tất cả chùa chiền đã biến mất, chỉ còn duy nhất 1 ngôi chùa nằm trên đường Catinat, song có thể ngôi chùa này cũng sẽ bị phá dỡ trong nay mai. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ biến mất và chúng ta sẽ mất đi những tiêu bản hiếm của phong cách Nam kỳ cổ.”
Xin kết thúc bài giới thiệu này với những nhận xét của A.Lomon về phụ nữ Sài Gòn nói riêng và phụ nữ Việt Nam nói chung: “Phụ nữ Việt Nam rất đẹp, vóc người nhỏ nhắn gọn gàng và đẹp đẽ, nét mặt rất dịu dàng. Bàn tay nhỏ, tóc đen rất đẹp. Mắt không xếch như đàn bà Tàu. Khuôn mặt của họ gần với người châu Âu hơn là giống dân Mông Cổ. Đáng tiếc là hay ăn trầu nên miệng họ rộng ra và đen sì. Tuy nhiên, răng của họ vẫn bóng láng và nếu họ bỏ tục ăn trầu thì răng họ sẽ trắng trở lại.”
“Phụ nữ Việt Nam không thiếu sự tao nhã và thanh tú. Kiểu tóc của họ giản dị. Họ bới lên, cuộn lại rồi ghim tóc bằng một cây trâm dài bằng bạc. Họ đeo một chuỗi nhỏ bằng hổ phách ở cổ. Dưới cổ này là một vòng lớn bằng bạc đeo trước ngực. Ở cổ tay là một vòng xuyến bằng hổ phách. Thông thường phụ nữ Việt Nam vui vẻ và hay thổ lộ tâm tình. Họ là những bà mẹ xuất sắc, kiên nhẫn trong công việc và chịu đựng những nỗi nhọc nhằn không sao tưởng tượng nổi.”
A. Lomon thuật lại một câu chuyện mà đại úy Lucien de Granmont đã kể lại: “Một hôm, một thương gia người Âu tên L. thấy một một phụ nữ Việt Nam đẹp tuyệt trần đi ngang qua quảng trường trước chợ. Y tiến lại gần, buông lời tán tỉnh và rủ rê một cuộc hẹn hò, song bị người người phụ nữ phản đối. L. vẫn trơ tráo, cuối cùng y dúi vào tay chị 6 đồng (piastre), một món tiền khá lớn so với thu nhập của người bản xứ lúc đó, hòng lung lạc chị.”
Và người phụ nữ Sài Gòn sống cách nay 130 năm đã phản ứng ra sao? “Chị cầm tiền rồi đi thẳng đến Đồn chợ trao cho viên Đồn trưởng.”
Thuật lại câu chuyện trên, cả Grammont lẫn A. Lomon đều bày tỏ sự khâm phục trước lòng tự trọng cao quý của người phụ nữ Việt Nam.
<<ITALIC
1. Một quan tiền Việt Nam có giá trị bằng 1 franc (100 centimes), như thế mỗi cây cau mang lại hoa lợi hàng năm 7 centimes chứ không phải 0.7 centime như tác giả đã viết.
2. Đồng Mả là nơi vùi thây 1,831 người đã tham gia cuộc khởi binh Lê Văn Khôi (1833 - 1835). Theo Lê Văn Phát, Khảo về Tả quân Lê Văn Duyệt, nhà in Nguyễn Văn Của, Sài Gòn, 1942, tr. 22 thì Đồng Mả ngụy nằm trong làng Chí Hòa, tại góc đường Điện Biên Phủ (Cách Mạng Tháng Tám hiện nay), nhưng theo Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hóa tập 1 - lịch sử, 1987, tr. 221 thì Đồng Mả ở gần ngã Sáu, góc đường 3 tháng 2 - Cách Mạng Tháng Tám hiện nay.
3. Thật ra là hình búp sen.
4. Theo Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1968, tr. 109 thì tất cả các công trình này nằm “trong vùng gần nhà thương Đồn Đất” tức bệnh viện Nhi Đồng II hiện nay. Nhà in Hoàng Đế (Imprimerie Impériable), sau bán lại cho Nguyễn Văn Của. Theo Vương Hồng Sển, Sài Gòn tạp pín lù, NXB Hội nhà văn, 1992, tr. 98 thì nhà in này ở Sở Địa Chính hiện nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 17:12:52 GMT 9
Việt Nam Văn Hiến Ngàn Năm * 2. Thời Ngô – Ðinh – Tiền Lê của văn hóa Hoa Lư
Lê Văn Hảo Sau thời đại Hùng-Thục-Trưng của văn hóa Ðông Sơn, văn minh sông Hồng, lịch sử văn hóa văn minh Việt Nam bước vào thời đại lớn thứ hai của nó là thời đại Ðại Cồ Việt – Ðại Việt – Việt Nam – Ðại Nam, với ba thời kỳ văn hóa dài ngắn khác nhau : văn hóa Hoa Lư, văn hóa Thăng Long và văn hóa Phú Xuân. Nói cách khác, văn hóa văn minh Việt Nam nếu chỉ tính từ thời trung cận đại tới thời cận hiện đại đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử dài ngắn khác nhau : thời Ngô-Ðinh-Tiền Lê, thời Lý, thời Trần-Hồ, thời Lê sơ, thời Mạc-Trịnh, thời các chúa Nguyễn, thời Tây Sơn-Nguyễn mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét và cố gắng nắm bắt những nét chính yếu về mặt văn hóa học. Trước khi đi vào thời Ngô-Ðinh-Tiền Lê của văn hóa Hoa Lư phải bàn tới : Thời kỳ giao lưu tiếp biến văn hóa Việt-Ấn, văn hóa Việt-Trung Ðứng về mặt lịch sử thì đây là thời kỳ quen gọi là Bắc thuộc, dài tới 900 năm từ sau Hai Bà Trưng tới trước Ngô Quyền, một thời kỳ mà kẻ đô hộ đến từ phương Bắc đã phải chạm trán với bản lĩnh Việt cổ, thể hiện qua tinh thần dũng liệt, bất khuất của những Bà Triệu, Lý Bôn, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Thanh, Khúc Thừa Dụ, Dương Ðình Nghệ… đã cùng với người dân Việt cổ liên tục khởi nghĩa để tập dợt, chuẩn bị cho một đại thắng Bạch Ðằng cuối năm 938, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc sau kỷ nguyên Việt cổ : kỷ nguyên Việt Nam. Giữa hai kỷ nguyên cũ và mới đã xảy ra một biến cố văn hóa lớn : quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt-Ấn và văn hóa Việt-Trung đã làm biến đổi cấu trúc văn hóa văn minh Việt cổ và góp phần quan trọng cho sự hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam từ truyền thống tới cận đại. Ngót ngàn năm Bắc thuộc đã là một thử thách ghê gớm đối với sự còn mất của dân tộc Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Sau khi nước Văn Lang-Âu Lạc của vua Hùng, vua Thục, vua Trưng bị kẻ thù phương Bắc chiếm đóng, nhiều chính sách nô dịch, bóc lột về vật chất, thủ đoạn đồng hóa về tinh thần đã được liên tục triển khai. Tướng Mã Viện nhà Hán là người đầu tiên cố gắng áp dụng một âm mưu diệt chủng toàn diện : đàn áp dã man, giết hại vô số dân Việt cổ, trấn áp dữ dội giới quý tộc Văn Lang-Âu Lạc. Họ Mã bắt đày sang Hồ Nam hơn 300 thủ lãnh Việt cổ, những người có uy tín và khả năng đoàn kết dân Việt cổ chống ách áp bức bóc lột. Họ Mã đã cướp đi hàng trăm trống đồng, thạp đồng để đúc thành một con ngựa lớn làm quà biếu dâng công trạng lên vua Hán. Họ Mã cũng đã thu gom nhiều đồ đồng Việt cổ khác để đúc thành một cái cột mốc khẳng định địa giới nhà Hán trên đất Văn Lang-Âu Lạc cũ với lời nguyền độc địa : “Nếu để cột đồng gãy thì sẽ tiêu diệt hết dân Giao Chỉ” (“Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”). Họ Mã biết trống và thạp đồng tượng trưng cho uy quyền các vua Việt cổ, các Lạc tướng, Lạc hầu, quan lang, mỵ nương, và được sử dụng trong chiến trận cũng như trong các lễ hội Việt cổ, là những sáng tạo có giá trị lớn về kỹ thuật và nghệ thuật, triệt phá những báu vật đó cũng như giết hại nhân dân đày ải thủ lãnh và quý tộc Việt cổ đều là hành động diệt chủng nằm trong một âm mưu thủ đoạn đồng hóa đại qui mô và lâu dài. Sau Mã Viện tới những Sĩ Nhiếp, Tôn Tư, Cao Biền, v.v., bằng các thủ đoạn khác nhau đều cố gắng đồng hóa, Hán hóa vĩnh viễn đất nước và văn minh Việt cổ. Nhưng người Việt cổ, chủ nhân của một nền văn hóa Ðông Sơn, văn minh sông Hồng có trình độ khá cao, đã chống lại và làm thất bại mọi âm mưu đồng hóa, diệt chủng của kẻ thù. Mất nước, người Việt cổ vẫn giữ vững xóm làng sau lũy tre xanh. Trong những làng chạ ấy, văn hóa dân gian, cái cốt lõi của văn minh Việt cổ, vẫn được bảo tồn, tiếng nói Việt cổ vẫn được gìn giữ với những âm tiết và từ ngữ thuần Việt, mặc dầu nó đón nhận thêm ngày càng nhiều những âm tiết và từ ngữ Hán. Sau ngót ngàn năm Bắc thuộc, tiếng Việt vẫn tồn tại như một thứ tiếng khác với Hán ngữ và với bất cứ phương ngữ nào của Trung Quốc. Tiếng Việt là chứng cứ hùng hồn nhất về bản sắc, bản lĩnh của người Việt và văn minh Việt từ nhiều ngàn năm nay. Về tư tưởng và tín ngưỡng tôn giáo, người Việt đã tiếp thu có chọn lọc Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo tới từ Ấn Ðộ và Trung Quốc mà vẫn giữ vững tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, truyền thống tôn trọng anh hùng, người già và phụ nữ. Còn Nho giáo, tuy có thịnh hành trong một vài thời kỳ lịch sử nhưng với những nguyên lý phi nhân bản như quá đề cao quyền vua, quyền cha, trọng nam khinh nữ, bảo thủ, giáo điều, hư văn… đã chỉ ảnh hưởng nhiều tới các tầng lớp trên của xã hội, trong khi đó Phật giáo của từ bi bác ái và của tư tưởng thiền mới là tôn giáo, đạo lý được ưa thích nhất của đại đa số dân Việt ở mọi thời đại. Nói tóm lại, sau ngót ngàn năm giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt-Ấn, văn hóa Việt-Trung, người Việt đã có đầy đủ sức sống và sức mạnh để bước vào một thời đại mới độc lập, tự chủ lâu dài mà bắt đầu là thời Ngô-Ðinh-Tiền-Lê của văn hóa Hoa Lư nước Ðại Cồ Việt. 1. Về Ðường Lâm thăm quê hương Ngô Quyền, vị tổ trung hưng thứ nhất của dân tộc Làng Ðường Lâm (tỉnh Hà Tây, cách thị xã Sơn Tây 4 km) là một làng Việt cổ ở vùng trung du miền Bắc. Ðây là quê hương hiển hách của Phùng Hưng và Ngô Quyền, hai vị anh hùng dân tộc đã đánh đuổi kẻ thù phương Bắc ở thế kỷ 8 và thế kỷ 10. Ngôi làng trung du này có tới 21 đồi gò, 18 rộc (ngòi), nước sâu và dòng sông Tích xanh trong uốn lượn quanh làng. Nơi đây có đình thờ Phùng Hưng, tức Ðại Vương Bố Cái (?-789), vị thủ lãnh Việt cổ đã cùng hai em dựng cờ khởi nghĩa chống ách đô hộ nhà Ðường giành lại đất nước xây dựng nền tự chủ trong 25 năm ngắn ngủi (767-791). Nơi đây còn có lăng và đền thờ Ngô Quyền, chung quanh có đồi Hùm, giếng Ngọc, rặng Duối buộc voi. Nhà truyền thống Ðường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quí như rìu đá Phùng Nguyên, cọc gỗ Bạch Ðằng, khánh đá, chuông đồng… Cạnh đó có rọc sâu, tương truyền thuở xưa là hồ sen Ngô Quyền cùng bạn bè thiếu niên chơi trò thủy chiến. Những ai đã từng đi thăm viếng hành hương tới đền Ðô (đền Lý Bát Ðế) thờ 8 vua Lý tại làng Ðình Bảng (Bắc Ninh), tới hai khu thái miếu thờ các vua Trần ở Tức Mạc (Nam Ðịnh) và Long Hưng (Thái Bình), tới đền Kiếp Bạc ở Vạn Kiếp (Hải Dương), tới khu Thái Miếu thờ các vua Lê tại Lam Sơn (Thanh Hóa), hay tới khu thờ các chúa và vua Nguyễn trong Ðại nội Huế, đều không khỏi bồi hồi, bâng khuâng, thắc mắc trước vị thế và qui mô quá khiêm tốn của những di tích đình đền, lăng mộ dành cho Phùng Hưng và Ngô Quyền ở một ngôi làng trung du hẻo lánh : có chăng một cách nào khác để thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với đại vương Bố Cái anh hùng, và nhất là đối với vị tổ trung hưng thứ nhất của dân tộc : Ngô Quyền ? 2. Về thăm Hoa Lư, kinh đô nước Ðại Cồ Việt thời Ðinh và thời Tiền Lê Cố đô Hoa Lư của hai triều đại Ðinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009), nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình), nằm trong một vùng núi đá vôi có diện tích hơn 300 ha, giữa hai vòng thành : thành ngoại và thành nội, với những địa danh cổ kính : núi Ðầm, núi Chẽ, quèn Dót, núi Mồng Mang, tường Bồ, tường Bìm… Các nhà khảo cổ học đã đào được một số đoạn tường thành, móng thành, đá tảng, cọc gỗ, nền cung điện với những loại gạch có kích thước to lớn (30x16x4 cm) mang dòng chữ “Giang Tây quân” hay “Ðại Việt quốc quân thành chuyên”. Cũng tại khu vực Hoa Lư đã đào được những cột kinh Phật thời Ðinh và Tiền Lê. Ðộng Hoa Lư là căn cứ ban đầu của Ðinh Bộ Lĩnh, mộ vua Ðinh còn trên đỉnh núi Mã Yên, và dưới chân núi là mộ vua Lê Ðại Hành. Gần cố đô Hoa Lư có hai thắng cảnh là Bích Ðộng và Tam Cốc. Ði vào Bích Ðộng sẽ thấy những vú đá, măng đá đẹp độc đáo mà trí tưởng tượng người đời đã biến thành những tiên ông, tiên cô, tiểu đồng, rồng lượn, rùa bơi, đại bàng vẫy cánh… Từ Bích Ðộng khách du tiếp tục ngồi thuyền đi thăm thắng cảnh Tam Cốc (nghĩa là ba hang : hang Cả, hang Hai, hang Ba). Thuyền vào mỗi hang là vào cả một thế giới vừa mát lạnh, vừa kỳ ảo vì những thạch nhũ rủ xuống nhô lên óng ánh như những khối châu ngọc. Hai di tích lịch sử – văn hóa quan trọng nhất của vùng Hoa Lư là Ðền vua Ðinh và Ðền vua Lê, chỉ cách nhau 500 m (nên dân gian thường gọi chung là đền Ðinh Lê), hai đối tượng sáng giá của một trong những lễ hội lớn nhất ở Việt Nam : hội Trường Yên. 3. Hội Trường Yên vang bóng văn hóa Hoa Lư Ðể vinh danh hai vị vua, người dân Hoa Lư tổ chức một hội lễ tưng bừng kéo dài ba ngày, ngày chính là mồng 10 tháng Ba (trùng ngày với hội đền Hùng). Ca dao địa phương có câu: Nào ai con cháu Rồng Tiên Tháng Ba mở hội Trường Yên thì về Về thăm đền cũ Ðinh Lê Non xanh nước biếc bốn bề thênh thang Hội diễn ra tại khu vực đền vua Ðinh và đền vua Lê, tương truyền là được xây trên nền cung điện cố đô Hoa Lư. Ðền vua Ðinh ở thôn Yên Thượng nên còn gọi là đền Thượng, xây trên khu đất rộng 5 ha, lấy núi Mã Yên làm tiền án và núi Dù làm hậu tẩm, gồm Bái Ðường (nhà tiền tế), nhà Thiên Hương (thờ bốn vị công thần nhà Ðinh) và Hậu Cung (chính cung) thờ tượng vua Ðinh và ba hoàng tử. Văn vật đáng chú ý nhất của đền vua Ðinh là Sập Rồng (long sàng) khắc nổi hình rồng phượng tinh vi, hai bên sập là hai con nghê đá càng làm tăng vẻ uy nghi của nội thất. Ðền vua Lê ở thôn Yên Hạ nên gọi là đền Hạ, về kiến trúc đại thể cũng như đền vua Ðinh, nhưng qui mô nhỏ hơn. Trong đền thờ tượng vua Lê Ðại Hành, hoàng hậu Dương Vân Nga, Lê Long Ðĩnh (Lê ngọa triều) và tướng Phạm Cự Lượng. Nơi đây nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. So với nhiều lễ hội khác trên đất nước ta, Hội Trường Yên có nhiều trò diễn và hoạt động văn hóa nghệ thuật hơn cả. Mở đầu là lễ rước nước : đám rước lớn khởi hành từ đền vua Ðinh trong tiếng trống chiêng và nhạc của phường bát âm. Ði tới bến Trường Yên trên sông Hoàng Long rồi về lại đền. Sau đó diễn ra nghi thức trọng thể nhất của hội là lễ tế, luôn luôn được cử hành về đêm. Ðèn được bật sáng hồng, ánh sáng hòa sắc với đồ tế khí óng ánh rực rỡ, làm cảnh quan càng thêm uy nghi. Ðặc biệt có hai cây nến to như hai cây cột cháy sáng rừng rực từ 6 giờ chiều tới nửa đêm. Trong lễ tế có sự hiện diện của hai ông thượng xướng, hạ xướng, ông chiêng, ông trống và chín ông đọc chín khúc của một bài ca nghi lễ dài ca ngợi công đức vua Ðinh. Sau mỗi khúc có hai nghệ nhân phường nhà trò, nữ hát ả đào, nam đệm đàn đáy, minh họa thêm cho nội dung khúc hát. Trong lúc ấy quần chúng nô nức reo hò trước cây pháo bông dựng trong sân đền. Sáng ngày 10 tháng Ba (âm lịch), lễ dâng hương được cử hành cùng một lúc tại hai đền thượng và hạ, báo hiệu các trò vui của hội lễ sắp bắt đầu : trò “cờ lau tập trận” diễn ra tại bãi Hang Trâu, phía bên mặt đền vua Ðinh, với sự tham dự của từ 70 đến 100 thiếu niên 15-16 tuổi đóng vai trẻ chăn trâu đánh nhau, một trò chơi biểu lộ khí phách và tài năng của người anh hùng đã dẹp yên loạn 12 sứ quân, dựng lại nền thống nhất của Ðại Cồ Việt. Sau cờ lau tập trận là trò “kéo chữ” diễn ra bên cạnh đền vua Lê. Một đoàn 32 thiếu niên 15-16 tuổi mặc đồng phục, thắt lưng xanh đỏ, mỗi em cầm một cuộn giấy màu sặc sỡ, xếp hàng một kéo dài cách nhau một mét chuyển động trên thảm cỏ xanh, để xếp thành hai chữ Hán : Thái Bình (niên hiệu triều vua Ðinh). Sau một hiệu trống, đoàn người kéo chữ ngồi đều đặn nhịp nhàng như bông hoa nở trông rất đẹp mắt. Lại một hiệu trống khác, đoàn người đứng dậy xếp thành hai chữ : Thiên Phúc (niên hiệu triều vua Lê). Rồi lại ngồi xuống theo hiệu trống tạo ra một quang cảnh uy nghi khác trong sự reo hò, hoan nghênh của nhiều ngàn người xem thuộc mọi lứa tuổi. Sau trò kéo chữ, mọi người nghỉ ngơi một lúc rồi lại kéo nhau tới hai bên bờ đoạn sông Hoàng Long chảy qua trước mặt hai ngôi đền để xem trò bơi trải, kỷ niệm những cuộc duyệt quân thủy của vua Ðinh và vua Tiền Lê thuở xưa. Mỗi thôn của xã Trường Yên sắm một thuyền đua, gọi là trải. Trên mỗi trải có 9 trai bơi cường tráng, cởi trần, đóng khố, đầu quấn thủ rìu. Riêng người lái cắm một lá cờ nhỏ trên đầu, mỗi cờ một màu khác nhau. Cuộc đua diễn ra giữa những tiếng trống chiêng và hò hét vang trời. Sau trò bơi trải mọi người nghỉ một lúc rồi tiếp tục tham gia hay thưởng thức những trò vui khác : múa rồng, đu tiên, đấu vật, chèo… cho tới nửa đêm là lúc Hội Trường Yên kết thúc với một trò vui tuyệt vời : đốt pháo bông. Các nghệ nhân pháo bông tài giỏi nhất của vùng Hoa Lư và cả tỉnh Ninh Bình đã khéo léo sáng tạo được hình ảnh vua Ðinh mặc hoàng bào, cỡi rồng hiện lên rực rỡ giữa không trung, một kỳ công mỹ thuật, mỹ nghệ dân gian không thấy ở các lễ hội khác.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 17:17:08 GMT 9
4. Văn học, tư tưởng và tôn giáo thời kỳ văn hóa Hoa Lư Thế kỷ 10, khi đất nước Ðại Cồ Việt của các vua Ngô-Ðinh-Tiền Lê bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài, cũng là lúc nảy sinh những mầm mống của một nền văn học dân tộc dưới hình thức chữ Hán và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo. Nhờ tác phẩm Thiền uyển tập anh (Tập hợp tinh hoa vườn thiền), ghi lại các tông phái thiền Việt Nam, và 68 tiểu truyện các thiền sư nổi tiếng từ cuối thời Bắc thuộc cho đến đầu thời Trần mà chúng ta được biết về một số hoạt động nội chính, ngoại giao và một vài khuôn mặt lớn của văn hóa Hoa Lư. Ðỗ Pháp Thuận (915-990) là một thiền sư và nhà thơ sống vào thời Ðinh-Tiền Lê. Nhờ kiến thức uyên bác, có tài văn thơ và tích cực tham gia vào việc khuôn phò nhà Tiền Lê thay thế nhà Ðinh nên ông được Lê Ðại Hành phong chức pháp sư. Cùng với các sư Khuông Việt và Vạn Hạnh, ôÂng đã cố vấn cho triều Tiền Lê về chính trị và ngoại giao. Vào năm 987, Lê Ðại Hành nhờ ông giả làm người lái đò đi tiếp sứ giả nhà Tống là Lý Giác. Trên đường đi tình cờ thấy đôi ngỗng bơi trên mặt nước, Lý Giác ngâm : (tạm dịch) Ngỗng kìa ngỗng một đôi Nghểnh cổ nhìn chân trời Sư Pháp Thuận vừa lái đò vừa ứng khẩu đọc tiếp : Nước xanh lông trắng phủ Sóng biếc chân hồng bơi Bằng tài ứng đối mẫn tiệp, khả năng xướng họa thơ văn và vận dụng tri thức cổ học nhanh nhạy, ông đã làm cho Lý Giác khâm phục nên trước khi về Trung Quốc, sứ giả nhà Tống đã làm thơ để lại tặng ông. Khi Lê Ðại Hành hỏi ông về vận nước, ông trả lời vua bằng bài thơ vừa thắm đượm tinh thần thiền vừa phản ánh tinh thần hiếu hòa Việt Nam : (tạm dịch) Trả lời nhà vua hỏi về vận nước Vận nước như mây quyện Trời Nam mở thái bình Vô vi trên điện gác Chốn chốn dứt đao binh Ngô Chân Lưu (933-1011), tên quen gọi là đại sư Khuông Việt, sống ở thời Ðinh và Tiền Lê. Vì nổi tiếng tinh thông thiền học nên ở tuổi 40 ông được Ðinh Tiên Hoàng mời về Hoa Lư phong chức tăng thống. Sau khi Lê Ðại Hành lên ngôi, ông lại càng được trọng đãi trong chức vụ cố vấn của triều đình. Cùng với sư Pháp Thuận, ông được cử đi đón tiếp Lý Giác, sứ giả nhà Tống. Khi Lý Giác sắp về nước, Lê Ðại Hành nhờ ông làm bài thơ tiễn, lời lẽ trân trọng, thắm thiết làm sứ giả xúc động khâm phục và có lẽ đã hiểu rằng tuy là áng văn chương thù tạc ngoại giao với lời lẽ nhún nhường nhưng vẫn chứa đựng cả một tinh thần tự cường, tự trọng của vua tôi nhà Tiền Lê : (tạm dịch) Chàng Vương trở về Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương Ngóng vị thần tiên lai đế hương Non nước ngàn trùng vượt đại dương Trời xa bao dặm trường Tình thắm thiết, chén đưa đường Vin xe sứ giả lòng vấn vương Dám nhờ tâu rõ cùng thánh thượng Lưu ý chốn biên cương Vạn Hạnh (?-1018) là nhà sư và nhà thơ nổi tiếng thông minh từ nhỏ, tinh thông Phật, Lão và Nho, mặc dầu tu hành nhưng vẫn quan tâm tới các biến cố chính trị, xã hội, từng vào triều bàn bạc, cố vấn cho Lê Ðại Hành trong công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Ðến cuối thời Tiền Lê, ông đã tham gia vạch kế hoạch khuông phò Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra nhà Lý nên được Lý Thái Tổ trọng vọng tôn làm quốc sư. Sư Vạn Hạnh sáng tác những gì và số lượng bao nhiêu chưa rõ nhưng trong số thơ văn còn lại của ông nổi tiếng nhất là bài thơ Bảo học trò làm trước lúc mất, bàn giải về lẽ xoay vần tự nhiên giữa sống và chết, và khuyên bảo đồ đệ hãy có cái nhìn tỉnh táo, triết lý, tiếp nhận cái chết một cách điềm nhiên, không sợ sệt : (tạm dịch) Bảo học trò Thân như bóng chớp có rồi không Cây cối xuân tươi thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông Qua thơ Vạn Hạnh có thể thấy được một sự hòa quyện sâu đậm giữa tín ngưỡng dân gian với tư tưởng Phật giáo. Lê Văn Hảo
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 9, 2011 17:23:04 GMT 9
Việt Nam Văn Hiến Ngàn Năm; Thời đại Hùng – Thục – Trưng của Văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng December 31, 2010 Tác giả: Lê Văn Hảo 1. Thời đại Hùng – Thục – Trưng của Văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng 2. Thời Ngô – Ðinh – Tiền Lê của văn hóa Hoa Lư 3. Thời Lý (1009-1225) – Hai thế kỷ hưng khởi đầu tiên của văn hóa Thăng Long 4. Thời Trần (1225-1400) – 175 năm tiếp tục phát triển văn hóa Thăng Long 5. Thời Hồ (1400-1407) - 7 năm ngắn ngủi mà độc đáo của văn hóa Tây Đô 6. Thời Lê Sơ (1420-1527) – 100 năm ưu việt của văn hóa Đông Đô 7. Thời Mạc (1527-1592) – hay 65 năm phục hưng văn hóa dân gian Đại Việt 8. Thời Trịnh – Lê Mạt (1592-1788) – hay Hai thế kỷ rực rỡ của văn hóa Thăng Long 9. Thời Tiền Nguyễn (1558-1777) – hay Hai thế kỉ hình thành và bước đầu hưng khởi của văn hóa Phú Xuân 10. Thời Tây Sơn (1771-1802) – và 15 năm văn hóa Phú Xuân 11. Thời Nguyễn Sơ (1802-1883) với 80 năm rực rỡ của văn hóa Phú Xuân 12. Thời Nguyễn Mạt – thuộc Pháp (1885-1945) với 60 năm phong phú của văn hóa Việt Nam cận hiện đại 1. Thời đại Hùng – Thục – Trưng của Văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng Chúng ta đã vượt không gian đi từ Lũng Cú tới Cà Mau, từ Trường Sơn tới Biển Đông để thăm thú hơn mười đại vùng và vùng văn hóa của dân tộc (xem “Việt Nam nước non ngàn dặm” ). Bây giờ hãy vượt thời gian đi từ thuở các vua Hùng, vua Thục, vua Trưng tới ngày nay để : Thử điểm lại các thời đại và thời kỳ của lịch sử văn hóa văn minh Việt Nam. Sau đây là một giả thuyết làm việc để tiếp tục tìm hiểu các vấn đề phân vùng, phân kỳ và định danh (đặt tên) trong nghiên cứu văn hóa văn minh. Lịch sử nền văn hóa văn minh Việt Nam trải qua bốn thời đại lớn, dài ngắn khác nhau. 1. Thời cổ đại gồm : - Thời đại Hùng-Thục-Trưng, hay thời đại văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng, văn minh Việt cổ (khoảng từ thế kỷ 7 trước CN tới thế kỷ 1 sau CN), - và thời kỳ giao lưu tiếp biến văn hóa Việt-Ấn, Việt-Hoa (từ sau Hai Bà Trưng tới trước Ngô Quyền : 43-938). tượng người Việt cổ quỳ dâng đèn. 2. Thời trung-cận đại hay thời đại Đại Cồ Việt – Đại Việt – Việt Nam – Đại Nam (938-1885) gồm : - Thời Ngô-Đinh-tiền Lê là thời kỳ văn hóa Hoa Lư (từ Ngô Quyền đến hết nhà Đinh) ; - Thời Lý-Trần-Lê sơ là thời kỳ phục hưng văn hóa dân tộc đầu tiên, thời kỳ bắt đầu hưng khởi của văn hóa Thăng Long (thế kỷ 10-thế kỷ 15) ; - Thời Mạc-Trịnh- là thời kỳ phục hưng văn hóa dân gian và cũng là thời kỳ thịnh đạt của văn hóa Thăng Long ở Đàng Ngoài (đầu thế kỷ 16-cuối thế kỷ 18) ; - Thời các chúa Nguyễn là thời kỳ bắt đầu hưng khởi của văn hóa Phú Xuân ở Đàng Trong (1558-1788) ; - Thời Tây Sơn-Nguyễn là thời kỳ thịnh đạt của văn hóa Phú Xuân trên toàn lãnh thổ đất nước (1789-1885). 3. Thời cận-hiện đại là thời kỳ giao lưu tiếp biến mạnh mẽ văn hóa Việt Nam-văn hóa phương Tây (1885-1975) 4. Thời hiện đại – hiện kim là thời kỳ thống nhất lại đất nước, hiện đại hóa văn hóa dân tộc, giao lưu tiếp biến văn hóa thế giới —– 1. Thời đại Hùng-Thục-Trưng hay thời đại văn hóa Đông Sơn, văn minh Việt cổ Thời đại đầu tiên này của lịch sử văn hóa văn minh dân tộc còn để lại nhiều vết tích, di tích trên nửa phía Bắc đất nước ta, từ biên giới Việt-Trung tới xứ Nghệ. Đó là những đền Hùng, đền Gióng, đền Cổ Loa, đền Cuông, đền Hai Bà Trưng : ở các nơi này nhiều lễ hội lớn đã và đang được tổ chức vào mùa Xuân để chào mừng các anh hùng dựng nước và giữ nước thời Văn Lang-Âu Lạc. Theo truyền thuyết, 18 vua Hùng là con cháu của vua Rồng xứ Lạc và nàng Tiên xứ Âu. Tiên và Rồng kết hôn với nhau, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm con trai, tổ tiên xa xôi của người Việt : từ đó người Việt thân ái gọi nhau là đồng bào (cùng một bọc). Về sau, mẹ Âu chia tay cha Rồng, 50 người con theo mẹ lên vùng núi và trung du ; 50 người con theo cha xuống đồng bằng và vùng biển. Người con cả được tôn làm vua Hùng, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ) truyền ngôi được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Về sau, các nhà sử, nhà văn (trong Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái…) sẽ đưa các vua Hùng của thời huyền thoại này vào chính sử. Vua Thục tên Phán, hiệu An Dương Vương, ở vùng núi phía Bắc nước Văn Lang, từng xung đột với vua Hùng, cũng từng thắng quân Tần xâm lược, đã lên nối ngôi Hùng Vương và hợp nhất xứ Tây Âu với xứ Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Được Rùa thần cho móng làm lẫy nỏ, bắn trăm phát trăm trúng, vua nhiều lần đánh bại Triệu Đà nhưng vua Triệu đã dùng mưu kế cho con là Trọng Thủy cầu hôn với công chúa Mỵ Châu để ăn cắp nỏ thần, rồi tráo trở đem quân qua đánh sui gia (179 trước Công Nguyên). Vua Thục thua chạy tới vùng Cuông (Nghệ An, nơi có nhiều chim công, thổ ngữ xứ Nghệ gọi là cuông), rồi được Rùa Vàng rước xuống Biển Đông. Còn Trưng Trắc là một thủ lãnh dòng Lạc tướng, cùng em là Trưng Nhị, đứng lên xưng vương khởi nghĩa chống ách thống trị của quân Đông Hán, cả hai nữ anh hùng đều hy sinh trên sông Hát (năm 43), chấm dứt thời đại độc lập tự do của tổ quốc Văn Lang-Âu Lạc. Sự hình thành và hưng khởi của văn hóa Đông Sơn Các vua Hùng-Thục-Trưng (thế kỷ 7 trước CN – thế kỷ 1 sau CN) đã chứng kiến sự hình thành và hưng khởi của văn hóa Đông Sơn (tên do người châu Âu đặt theo tên di tích Đông Sơn bên bờ sông Mã, Thanh Hóa), còn ta thì gọi là nền văn hóa Văn Lang-Âu Lạc, hay văn minh sông Hồng, văn minh Việt cổ. - Cùng thời với văn hóa văn minh Hy Lạp cổ đại, văn hóa Đông Sơn là một nền văn minh xán lạn, đó là điều cần khẳng định và chứng minh. rìu bằng đồng . - Nó có địa bàn rộng lớn trên phần đất phía Bắc của tổ quốc, từ biên giới Việt-Trung tới sông Gianh ; - Các địa điểm của nó bao gồm những làng xóm (tên cổ là chạ, là kẻ), có ruộng vườn để trồng lúa nước và nhiều loài rau quả, có cả khu mộ địa (mộ huyệt đất, mộ vò, mộ thuyền làm bằng quan tài thân cây khoét rỗng) ; Chủ nhân của nó có cuộc sống vật chất và tinh thần ở trình độ cao, thể hiện ở bộ đồ dùng, đồ nghề, đồ trang sức, nhạc khí, vũ khí : nào là thố, bình, thạp … , nào là dáo, dao găm (đẹp nhất là loại có cán hình người, hình động vật …), nỏ và mũi tên (trong lòng đất thành Cổ Loa đã tìm thấy hơn 10.000 mũi tên đồng), nào là cồng chiêng, chuông nhạc, lục lạc, mõ, sênh phách, khèn, trống da, trống đồng, v.v. Đặc biệt người Việt cổ đã có những khái niệm về số học và hình học, về đối xứng (đối xứng gương, đối xứng trục, đối xứng tịnh tiến), đã biết sử dụng một loại compa và đã nắm vững nhiều nghề thủ công từ đơn giản tới phức tạp : gốm, mộc, sơn, luyện kim, chế tác kim loại. Họ đã đúc trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng : các trống Ngọc Lũ, thạp Đào Thịnh… là những kiệt tác về kỹ thuật và mỹ thuật mà những kỹ sư đúc đồng lành nghề người Việt, người Nhật… ngày nay chưa tìm ra được bí quyêt chế tạo. Cho nên đúc lại trồng đồng Đông Sơn cũng chỉ thành công khoảng 75-80% mà thôi. Điều thú vị là hiện nay một trống đồng Đông Sơn là chiếc trống Ngọc Lũ được các cụ nghệ nhân đúc đồng chế tác lại, đang được trưng bày tại tiền sảnh đường của Liên Hiệp Quốc ở New York để đại diện cho văn hóa văn minh Việt Nam. Người Việt cổ còn văn minh ở chỗ họ đã để lại cho đời sau những hình ảnh tốt đẹp của mình qua các pho tượng, các hình chạm khắc trên trồng đồng, thạp đồng… Qua những hiện vật quí hiếm ấy, tổ tiên Việt cổ mách bảo cho ta biết : họ ở nhà sàn, dựng nhà kho, làm thuyền lớn để đi trên sông biển, thích tổ chức hội mùa để vui chơi múa hát, có khi cầm theo cả vũ khí để phô trương lực lượng. Họ chăn nuôi nhiều gia súc : gà, heo, chó, voi… Họ sống hài hòa với chim trời, thú rừng. Họ đã có những tín ngưỡng, tôn giáo như biết chôn cất người chết, có lẽ biết thờ vật tổ, họ tổ chức bơi chải cầu mưa, cho gái trai tự do thương yêu để tác động đến cỏ cây, mùa màng, thời tiết theo tín ngưỡng phồn thực thấy ở nhiều dân tộc khác. Từ bốn hội nghị khoa học về Hùng Vương tới “Hành trình về thời đại Hùng Vương” Trong thập niên 1970 của thế kỷ trước, khói lửa của cuộc nội chiến tương tàn nồi da xáo thịt đã ngập tràn. Người Việt ta ở hai miền Nam Bắc, con cháu các vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, vua Triệu, vì những lý do ý thức hệ đã say sưa bắn giết nhau bằng vũ khí hiện đại do nước ngoài cung cấp, thật rất đau lòng. Nhưng vào lúc ấy, tôi lại có may mắn được dự liên tiếp bốn hội nghị khoa học về thời đại Hùng Vương, được tổ chức ngay trên mảnh đất trung du, gần đền và mộ vua Hùng. Tôi cũng đã được đến thăm các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng : Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, Việt Khê… Sau đó được sự khuyến khích, giúp đỡ quí báu của một số đồng nghiệp và bạn bè, những Cao Huy Đỉnh, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan, Đặng Văn Lung, Nguyễn Hữu Thu… người còn kẻ mất, cũng như của các anh chị ở Sở Văn Hóa Vĩnh Phú và Viện Bảo Tàng Hùng Vương, tôi đã mạnh dạn soạn tập sách Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước cho giới thanh niên, sinh viên, được nhà xuất bản Thanh Niên công bố (1982), rồi tái bản (2000), và mới đây lại được bạn Lại Như Bằng đưa lên website của tạp chí điện tử Chim Việt Cành Nam Nhờ đó tôi đã có dịp trình bày với đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước gần 20 đề tài tôi quan tâm tìm hiểu : - Hùng Vương, từ trong mây mù huyền thoại tới hiện thực lịch sử, - Hành hương về đất tổ trung du : đền Hùng và hội đền Hùng, - Hùng vương đã khơi nguồn truyền thống thống nhất và văn minh cho dân tộc, - Đi tìm dấu vết một thời đại trên những di tích khảo cổ, - Bên bờ sông Hồng, sông Mã, chứng tích của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, - Ngắm nghía và suy nghĩ về văn vật kỳ diệu nhất của thời đại dựng nước : trống đồng Đông Sơn, - Thiên nhiên thời Hùng Vương, - Thăm lại làng xưa chạ cổ cách nay mấy ngàn năm - Cuộc sống đầm ấm của gia đình Việt cổ - Nếp phong tục thuần phác cổ xưa, - Hội làng, hội mùa thời Hùng Vương, - Những nghệ sĩ tạo hình Việt cổ tài hoa, - Thần thoại và truyền thuyết anh hùng Việt cổ, - Tín ngưỡng và tư duy người xưa, - Thời đại Hùng Vương đã khơi nguồn truyền thống thượng võ của dân tộc, - Bản anh hùng ca dựng nước, xây thành, chống Tần, chống Triêïu của vua Thục - Hai chị em bà Trưng khởi nghĩa chống Hán, lập chiến công oanh liệt ngàn thu. Ngẫm nghĩ về thời đại Hùng-Thục-Trưng và tinh hoa văn minh Việt cổ Hôm nay, đối với những đồng bào và bầu bạn chưa nắm vững lịch sử văn hóa văn minh của cha ông, khởi đầu từ thời đại Hùng-Thục-Trưng mà lại hờ hững coi thường, hay đánh giá không thỏa đáng, tôi muốn đưa ra vài ngẫm nghĩ: Trong bản trường ca dựng nước, giữ nước, sáng tạo văn hóa văn minh của dân tộc ta, có một thời đại Văn Lang-Âu lạc lâu đời và tốt đẹp. Tinh thần mở núi phá đá, làm chủ thiên nhiên, dựng nên ruộng vườn, sáng tạo văn hóa, quyết thắng thù trong giặc ngoài của mẹ Âu và cha Rồng, của ông Gióng, ông Tản, của vua Hùng, vua Thục, vua Trưng, vua Triệu, vua Đen… vẫn luôn ngời sáng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, yêu nước thương dân của người Việt Nam trước đây, hôm nay và mai sau. Vì muốn trả ơn dân đền nợ nước nên người Việt luôn có ý chí giành độc lập cho nước, tự do và hạnh phúc cho dân, với mối tình gắn bó nước với nhà, làng với nước, đồng bào với nhau, cộng với đức tính cần cù, ham học, thông minh, sáng tạo, mềm mỏng nhẫn nại mà không khuất phục trước bất cứ nghịch cảnh nào : tất cả những nét đặc sắc đó của tính cách dân tộc đã xuất hiện nơi con người Việt cổ, những người làm ruộng nước, đúc trống đồng, vui hội mùa và quyết liệt chống giặc. Phải nhấn mạnh rằng, trên dải đất mà ngày nay hơn 80 triệu đồng bào chúng ta đang lao động vất vả và không ngừng đấu tranh cho dân chủ tự do để đắp xây hạnh phúc cho chính mình và cho muôn đời con cháu, đã xuất hiện trước đây nhiều ngàn năm một nền văn minh Việt cổ, còn gọi là văn minh sông Hồng ở trình độ cao, là một đóng góp đáng kể vào lịch sử văn minh nhân loại, và là niềm tự hào chính đáng của một dân tộc văn hiến lâu đời. Tìm hiểu sâu sắc thời đại Hùng-Thục-Trưng, các bạn sẽ thấy con người Việt cổ hăng say trong lao động sản xuất và phát huy nghị lực để chế ngự thiên nhiên, chiến thắng giặc giã, cũng là con người nhởn nhơ vui chơi múa hát trong ngày hội mùa, ung dung thư thái thổi khèn, giã trống, giã cối, đánh cồng chiêng, hay nhiệt tình tham gia các cuộc đua thuyền rộn rịp trên sông nước. Sau những tháng ngày vất vả làm ăn, khẩn trương đánh giặc, người Việt cổ tự ru mình trong giấc mơ thanh bình, trong ước vọng mưa hòa gió thuận, mùa màng bội thu, con đàn cháu đống và cả trong niềm khát khao cái đẹp. Người Việt cổ yêu cái đẹp, cần cái đẹp trong sinh hoạt nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày như một nhu cầu về sự tế nhị hài hòa, tròn trặn, vuông vức, đối xứng, cân phân, gọn mắt, vừa tay, vừa tầm con người. Từ chiếc thuyền độc mộc thon thả, ngôi nhà sàn mái cong cong đến hình dáng khỏe mà thanh của ngọn giáo, cán dao găm, dáng hình hài hòa cân đối của cổ trống, chiếc thạp… sắc thái dân tộc tỏa ra tươi mát, vừa mềm mại uyển chuyển vừa rắn rỏi vững vàng như muốn phản ánh tâm hồn Việt cổ tao nhã mà hăng say, thành khẩn mà vẫn dung dị. Mặc dù trình độ trí tuệ đã khá cao, thể hiện qua các khái niệm về hình học, số học, về đối xứng, cân phân, qua những sáng tạo nghệ thuật đáng kể như các pho tượng, các trống, thạp, văn minh Việt cổ đã không sản sinh những nhà hiền triết, nhà bác học, những áng văn lớn như ở Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc, Ấn Độ cùng thời, không để lại những công trình kiến trúc kỳ vĩ như tháp chữ Kim, khu đền Parthénon, Trường Thành Vạn Lý… Nền văn minh được tượng trưng bằng trống đồng Đông Sơn quả thật khiêm tốn quá, thiếu hẳn cái lộng lẫy, đồ sộ, nguy nga thấy ở các thành tựu khác của một số nền văn minh cổ đại. Thật ra tiêu chuẩn chân chính của một nền văn minh không phải ở kích thước to lớn, số lượng phong phú. Một nền văn minh thực sự lớn là ở những giá trị tinh thần, những bài học về phẩm chất con người, về chủ nghĩa nhân văn truyền lại cho đời sau. Người Việt cổ thực sự văn minh vì tuy có chú trọng tới vật chất, sản xuất, văn nghệ như làm ruộng nước, tạc tượng, đúc trống, mở hội… nhưng chủ yếu họ hướng vào chiều sâu của tâm hồn, tình cảm, ý chí, và phẩm chất con người. Người Việt cổ không vì hư danh, vì hưởng thụ mà xây dựng những công trình to lớn, hao công tốn của, phải hy sinh nhiều mạng người để chiều theo ước vọng ngông cuồng của bọn bạo chúa. Tổ tiên Việt cổ của chúng ta chỉ muốn phát huy cái thông minh sáng tạo, cái khéo léo tài hoa để phục vụ cuộc sống, phục vụ cộng đồng, phục vụ dân lành mà thôi. Tinh hoa của nền văn minh Việt cổ, theo tôi nghĩ, chính là tấm lòng yêu nước, mến dân, thương người, vì hạnh phúc của đồng bào và người thân mà lao động hăng say, chiến đấu gan dạ, ước mơ hòa hợp, khao khát thanh bình. Tinh hoa Việt cổ là ở cái tinh vi, tế nhị, hài hòa, tao nhã, tô điểm cho cuộc sống hàng ngày (trống đồng, thạp đồng đã nói lên được điều đó). Tinh hoa Việt cổ bao gồm những giá trị nhân văn thiết thực, gần gũi với con người chứ không phải ở những kỳ tích, những tư tưởng cao xa diệu vợi đối với con người. Lê Văn Hảo (chimviet.free)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 12:49:56 GMT 9
TÂN ĐẢO NGÀY NAY VÀ HẬU DUỆ VIỆT “CHÂN ĐEN”(02/09/2011) (Xem: 73) Tác giả : ĐẶNG ĐỨC/KIM VÂN Việt Báo Xuân Tân Mão 2011 Nouvelle-Calédonie, còn có tên thông dụng là Kanaky và Le caillou, là lãnh thổ phụ thuộc của Pháp tại châu Đại Dương. Đối với người Việt Nouvelle-Calédonie còn được gọi với tên Tân Đảo, Tân Ca-lê-đô-ni-a. Lãnh thổ này nằm trong khu vực tây nam Thái Bình Dương, vùng Melanesia, gồm đảo chính (Grand Terre), quần đảo Loyauté và một số đảo nhỏ. Tổng diện tích là 18.575 km² với dân số 240.400 người tính vào đầu năm 2007. Thủ phủ Nouméa cũng là thành phố lớn nhất. Năm 1891, người Pháp đã đưa những người tù chính trị Việt Nam sang Tân đảo để đày ải, bắt họ sống và lao động như một nô lệ thực thụ. Không một ai biết ở trên quần đảo xa xôi đó, số phận những người tù chính trị này ra sao. Đó là những người Việt đầu tiên đặt chân lên Tân đảo. Nhưng phải đến những năm đầu thế kỷ XX, người Việt mới thực sự có những "cuộc đổ bộ lịch sử" lên vùng đất này. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam và nhiều thuộc địa khác của Pháp. Tại Tân đảo, các chủ đồn điền, chủ nô người Pháp đã yêu cầu chính quyền Pháp tuyển mộ thêm phu mỏ để đẩy mạnh việc khai thác quần đảo này. Thực dân Pháp đã đăng tin tuyển mộ trên nhiều tờ báo Việt Nam rồi gửi về từng địa phương, đặc biệt là đồng bằng Bắc Bộ. Những bản chiêu mộ này đưa ra hàng loạt những điều kiện hấp dẫn, thu hút người dân nghèo, ngoài chế độ tiền lương, mỗi ngày một người mộ phu sẽ được nửa cân gạo, 2 lạng thịt cá, rau củ quả và các loại đường, muối, xà phòng. Hàng nghìn thanh niên nam nữ lao động nghèo khó ở các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Nam Hà, Hải Phòng... vì tin vào lời chiêu mộ đó nên đã ghi tên mộ phu sang Tân đảo, với ước mơ đổi đời, họ đã điểm chỉ vào bản giao kèo, và bắt đầu hành trình chân đăng ở một đất nước hoàn toàn xa lạ. Lên tàu ở cảng Hải Phòng, những người chân đăng đã phải vượt 2.000km trên Thái Bình Dương mới đến được Tân đảo. Trên đường đi, họ phải ở chen chúc trong những khoang tàu hạng bét, bị say sóng, nôn mửa, đau bụng vì buộc phải ăn thực phẩm kém vệ sinh do người Pháp cung cấp. Tất cả đều cắn răng chịu đựng với hi vọng khi đặt chân sang miền đất hứa, cuộc đời họ sẽ sang một trang khác. Nhưng chờ đợi họ ở Tân đảo không phải là cuộc sống sung sướng, đầy đủ như người Pháp hứa hẹn, mà là những chủ đồn điền tay cầm roi da, mặt mũi hung hữ; là những lời lẽ miệt thị dành cho những "nô lệ da vàng"; là những trận đòn khắc nghiệt, những mỏ quặng vắt kiệt sức lao động của người chân đăng. * Kể từ khi người Pháp mở dài cánh tay về miền đất Viễn Đông, trợ giúp Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long (năm 1802), con dân nước Việt chìm trong thay đổi với chủ mưu của người Tây Dương (nói theo dân Tầu thời bấy giờ). Triều đình họ Nguyễn tự cho là đã xóa bỏ được giới tuyến sông Gianh chia cắt Bắc Trịnh Nam Nguyễn, triển khai đất đai, thống nhất đất nước, nhà Tây Sơn chỉ là một đám giặc cỏ phản Chúa mà thôi. Một cảnh dân phu miền Bắc chờ đợi đầu thế kỷ Cũng kể từ đó, người Pháp càng ngày càng lộng quyền, có kẻ lộng ngôn đã cho rằng nếu thời ấy nước Pháp không bị khủng hoảng chính trị thì Việt Nam có thể đã bị đô hộ ngay từ khi được cho là thống nhất, không đợi đến tới đời vua Tự- Đức, phải nhường đất Nam Kỳ và chịu sự bảo hộ từ Trung ra Bắc của Pháp. Thực dân, cường hào ác bá cấu kết đè đầu đè cổ dân lành, bóc lột từ xương tới tủy con dân nước Việt không một sót thương. Những phong trào xả thân vì nước kháng chiến, cách mạng giành lại quyền độc lập nổi lên khắp nơi. Từ vua (Thành Thái, Hàm Nghi, Duy Tân...) đến những anh hùng vô danh, kẻ bị Pháp đầy đi đảo Reunuion tận Châu Phi, người bị chặt đầu bêu rếu ngoài chợ, không làm sờn lòng yêu nước. Sĩ phu đất Việt cuồn cuộn đứng lên, lớp nọ ngã xuống, lớp kia vùng dậy đòi quyền sống, quyền làm người, mong đạp đổ ách thực dân đô hộ mạnh như lớp sóng thủy triều dâng trào. Rồi nổi lên ồn ào phong trào ám sát, tiêu diệt thực dân ác ôn, hội kín, đảng phái kết hợp âm thầm.. Ngày 30 Tết Xuân Kỷ Tị (9/2/1929) một người Pháp tên René Bazin đột nhiên bị ám sát bằng súng lục chết ở trước cửa chợ Hôm trên phố Huế trong trong lúc dân chúng đang sửa soạn đón giao thừa. Người dân Hà Nội xôn xao đến hốt hoảng. René Bazin được cho là một gã thực dân ác ôn, lưu manh, xảo trá vô cùng, đại diện cho "Hội Đồn Điền Cao Su và Hầm Mỏ " của Pháp, chủ trương mộ phu với chính sách áp bức, bóc lột, dụ dỗ, bắt cóc, lừa phỉnh dân quê nghèo nàn thực thà chất phác đi làm nô lệ cho những đồn diền cao su ở Nam Kỳ, hoặc bí mật chở đi làm phu mỏ tại Tân Đảo mà hắn gọi là Tân Thế Giới tít tận Nam Bán Cầu, giữa Thái Bình Dương, với giá lương rẻ mạt, không bao giờ có hy vọng trở về cố hương. Đó là một nơi xa lạ đối với người Việt thuộc quần đảo Nouvelle Calédonie (New Caledonia) thuộc địa mới, nơi Pháp đang khai thác Nickel và vàng. Người đi phu mỏ thời đó bị ngược đãi, đánh đập, chẳng khác gì nô lệ đời đời kiếp kiếp. Các đàn bà con gái có nhan sắc ngoài làm phu còn phải phục vụ "ông" cai. Họ khốn khổ khốn cùng sống mà như chết. Họ chính là những kẻ đi " xuất cảng lao động " đầu tiên của nước ta thời bấy giờ. Người đi làm phu mỏ được mang danh nôm na là " Chân Đăng " có nghĩa là đăng ký bằng chân. Khi sinh con đẻ cái, họ vẫn phải đi làm bởi thế đành đặt con vào tay nải treo lên cành cây nhauly để dễ trông chừng, nên có thời kẻ lộng ngôn đặt luôn hậu duệ của họ là thế hệ " Nhau Ly ". Dân ta giản dị đến thế nhưng thật ra đó cũng chỉ là dấu mốc phân biệt thời gian mà thôi. Giờ đây đã gần một thế kỷ, mời bạn đi thăm tìm hiểu những hậu duệ của những người Việt thân thương ấy. Quần đảo New Caledonia nằm cách 1000 hải lý tính từ Sydney, (khoảng hơn 1200 miles) đông bắc Úc châu, giữa Thái Bình Dương, kế cận nhóm đảo Fiji. Người Pháp chiếm cứ đô hộ đảo này cho đến năm 1980 mới đây đã trả lại chủ quyền cho người bản xứ nhưng vẫn giữ ảnh hưởng trong môi trường chính trị và kinh tế như tất cả các xứ thuộc Pháp trước kia kể cả Tahiti...được mang danh là xứ French polynésian. Diện tích khoảng hơn 19,000 cây số vuông với 220,000 dân, nói tiếng Pháp và thổ ngữ Kanak. Đảo Cả hay là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này được người Pháp đặt tên là Grand Terre, có thủ đô là Nouméa (tiếng Kanak có nghĩa là đảo cá). Cách đảo này về hướng Đông, 100 km đường biển, là đảo Lifou (Drehu) còn gọi là đảo san hô Trung Thành (Loyalty), tiêu biểu văn hóa cổ truyền còn lại của thổ dân Kanak với dân số 10,000 nguời. Nổi tiếng với các bãi biển cát trắng phau phau, hàng dừa ngả nghiêng soi bóng trên mặt nước, sóng lăn tăn xanh ngắt, với những đàn cá muôn mầu tung tăng bơi lội như bãi Luecila, Luengoni, Chateaubriand. Vào khỏang thế kỷ thứ 19, người Pháp đầy các nô lệ (kể cả nô lệ người Việt) tới đây, khai thác lâm sản, đường mía, nay chỉ còn sản xuất các sản phẩm lấy từ dừa và công nghệ du lịch mà thôi. Dân Kanak rất hiếu khách hiền lành thật thà và chất phác. Thoạt tiên cũng như Việt Nam, Tây đến với các giáo sĩ truyền đạo Ki Tô và Tin Lành rồi mánh mung xâm chiếm ngang nhiên. Bây giờ Tây đi, dân Kanak sống gom lại từng xóm, từng làng, đứng đầu là tù trưởng và thường xuyên hội họp tại nhà ròng (đình) như các bản người dân tộc ở Việt Nam để bàn cãi về lề lối sinh hoạt, chính trị hay trừng phạt kẻ phạm tội. -Các ông bà còn thấy người Việt Nam nào sinh sống tại đây không? -Xưa kia có, nhưng họ theo người Pháp bỏ đi rồi. Vào những ngày đình đám hay hội hè lớn, dân Kanak thường làm món Bougna thết đãi. Đó là món gà ướp muối, gia vị, rồi cuộn chặt vào trong lòng lá chuối xanh trộn với dứa, hành, khoai môn, dưa bở...và nước cốt dừa, rồi hạ thổ, đắp lên trên bằng những cục đá đã nung nóng, để âm ỉ nấu hàng tiếng đồng hồ như món lợn thui của dân Hawaii hay món gà "Hồng Thất Công". Món này rất thơm và đậm đà, thơm lừng mùi lá chuối trộn lẫn vị bùi béo của nước dừa và khoai môn...Sau đấy chắc chắn thể nào tù trưởng cũng mời bạn thưởng thức một gáo Kava dịu ngọt, khiến bạn ngây ngất lịm đi trong thư dãn sảng khoái. Kava là dung dịch ép từ rễ cây kava nghiền nát, đôi khi được trộn với nước cốt dừa cho thơm, có đặc tính làm người uống lâng lâng giữa trạng thái say rượu và cần sa đấy bạn ạ. Dân đảo Kanak rất hiếu khách, thường mời khách thưởng thức rượu Kava dịu ngọt, Kava là dung dịch ép từ rễ cây kava nghiền nát Về hướng quần đảo Fiji, còn có những đảo nhỏ như Inyueng, Aneityum do xa xưa hệ núi lửa tạo thành. Nhà thám hiểm người Pháp Bruny D Entrecasteaux tới đảo này vào năm 1793 và đặt tên là đảo Bí Mật (Mystery), mãi tới Thế chiến thứ hai 1940 Mỹ mới dùng làm nơi xây dựng hàng không mẫu hạm. Người ta chỉ tới du lịch tắm biển, không có dân số, không có điện, không có nước và bóng dáng di tích người Việt tồn tại.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 12:51:53 GMT 9
Xa nữa là Vanuatu dưới thể chế Cộng Hòa, cai quản 83 đảo, hơn 12,000 cây số vuông với gần 200,000 dân, thuộc giống Melanesian và Polynesians. Quần đảo Vanuatu được khám phá bởi Louis-Antoine de Bougainville vào năm 1768 và đô hộ bởi hai chính phủ Pháp, Anh. Sự hợp tác này là để tránh sự dòm ngó chia phần thực dân của Đức. Vanuatu giành lại độc lập vào năm 1980, thủ đô là tỉnh Vila với 35,000 dân, tiêu chuẩn văn minh ngang ngửa so với Úc hay New Zealand, ngôn ngữ chính Anh, Pháp và Bislama. Đại lộ Lini Highway dài tăm tắp, tất nập người qua lại với các trung tâm thương mại, khách sạn, quán ăn hiện đại, la liệt chợ búa như tất cả các đại lộ chính (Main street) khác trên thế giới. Dân chúng hiền hòa, thật thà không có vẻ láu lỉnh, mánh mung như những thành phố du lịch khác. Ngoài những bãi biển tuyệt đẹp, Vila còn hãnh diện về thác nước Abseil vĩ đại, dù chỉ là hòn đảo nhưng bốn mùa nước cứ ào ào đổ xuống trắng xóa như bạc, giữa những hoa rừng sặc sỡ ngào ngạt hương thơm, tiếng chim hót líu lo không ngừng. Tất cả còn là thiên nhiên, là vẻ đẹp quyến rũ của núi rừng miền nhiệt đới, không có bàn tay nhân tạo. Mời bạn tới khu quartier français, thưởng thức các " món ăn kỷ niệm " một thời do những ông bếp Tây chính gốc tự tay xào nấu nêm nếm như thời xa xưa. Ôi, ngon tuyệt vời, ngon chết bỏ, ta những tưởng đang ngồi tại tiệm La Cigale ở Saigon, Metropol ở Hà Nội dạo nào cùng với bạn bè thân hữu trò chuyện quanh ta. Cạnh khu ấy là dẫy China Town của tỉnh. -Ở đây có người Việt sinh sống không ? -Tôi nghĩ là có đấy, ông ạ. Người tài xế taxi ngỏn ngoẻn trả lời. "Ông có biết gia đình ông Trần, người Việt Nam, làm ăn khá lắm ở đây không?" Tôi chưa nghe thấy! Tiếc quá. Gia đình ông Trần được DVD Ký sự từng nói đến, có lẽ ở miền nào khác của Vanuatu chăng. Chúng tôi tạt vào vài cửa tiệm tạp hóa, hàng ăn của người Á Đông, khi được hỏi bằng tiếng Việt, họ ớ họng thì mới biết họ không phải người đồng hương. Chán thật đấy. Quay lại thủ đô Nouméa, dân số 91,000 người cũng do James Cook khám phá ra vào năm 1774, với những bãi biển thiên nhiên một thời là bãi tắm khỏa thân của ông Tây bà đầm như bãi Moselle, Citrons, Anse Vata...Khi người Pháp thống trị, đã đổ những tội đồ, nô lệ xuống New Caledonia để khai phá mỏ Nickel/ mỏ vàng, trong đó có hàng ngàn hàng vạn phu mỏ, nô lệ bất đắc dĩ, bắt từ Việt Nam giải đi với gông kẹp cùm đóng, dồn lên tầu, chở sang vào những năm 1929-1930. Sau Thế chiến thứ hai, mới xuất hiện người Tầu, người Mỹ và các giống dân khác đến 116 Dân đảo Kanak rất hiếu khách, thường mời khách thưởng thức rượu Kava dịu ngọt, Kava là dung dịch ép từ rễ cây kava nghiền nát lập nghiệp. Ngôn ngữ chính vẫn là Kanak và tiếng Pháp. Đây là một thành phố dáng một tỉnh nhỏ của Âu châu, thơ mộng, với các con đường chia từng ô rợp bóng cây phượng lá xanh ươm đan kẽ nhau, tỏa hoa đỏ ối rực rỡ như những nét sắc sảo của các họa sĩ tài danh vẽ lên khung trời mây trắng. Sau khi độc lập, thủ đô Nouméa được cho là an bình nhất, ít kẻ phạm tội nhất của miền nam Thái Bình Dương. Cô hướng dẫn viên Isabelle, người tộc Kanak, da đen thẫm, tóc kết bím thẳng hàng sát đầu với khuôn mặt nhẹ nhõm, lúc nào cũng như mỉm cười nói tiếng Anh-Pháp lưu loát: -Ở Mỹ, Úc , Âu quý vị lúc nào cũng đuổi không kịp thời gian, ngược lại, tại đây chúng tôi dành thời gian để cho quý vị hưởng thụ. Việc gì cũng thong thả, chẳng ai bắt ai đến đúng giờ. Thành phố của chúng tôi lúc nào cũng luôn luôn đóng cửa, nghỉ trưa 2 tiếng đồng hồ (siesta). Kìa góc bãi biển kia, có để hòn đá chứa Nickel, kỷ niệm thời huy hoàng của kỹ nghệ hầm mỏ của chúng tôi... -Cô có biết ông họ Đặng, người Việt Nam, chủ mỏ Nickel ở đây không ? -Hình như tôi có nghe nói tới. Cộng đồng người Việt Nam ở tỉnh này lớn lắm có khoảng hơn năm nghìn người. Họ đều làm ăn khá giả như ông họ Bùi có một dẫy khách sạn phía chân đồi xa kia, ông Duy có cả một trung tâm điện tử lớn nhất thủ đô đấy... Con đường Verdun trải dài đưa đến China Town, nhưng đa số các cửa tiệm đều do người Việt làm chủ. Ông chủ tiệm bách hóa đã 80 tuổi, tóc bạc phơ, còn tráng kiện minh mẫn và quắc thước tươi cười niềm nở: -Thầy u tôi làm phu mỏ lâu lắm rồi, từ thời xa xưa, tôi sống từ bé ở đây. Vào năm 1963, chúng tôi theo đoàn người hồi hương, rồi cũng chẳng sống được dưới chính sách khắc nghiệt của Cộng Sản, phải quay lại đây. Thằng lớn cưới vợ mang từ Việt Nam sang, giờ tôi đã có ba cháu nội ... Vào một trung tâm nữ trang khang trang thời thượng tại một góc phố lại tưởng nhớ tới cửa hàng Đức Âm thời nào ở phố Tràng Tiền, Hà nội xưa kia. Không khí mát ruợi do máy điều hòa tỏa ra so với cái nắng trưa hè gay gắt đang chan hòa bên ngoài. Bà chủ tiệm người Việt và các nhân viên nhẹ nhõm xinh xắn người Kanak đon đả tươi chào mời mua những chuỗi ngọc trai Tahiti, South Sea óng ánh sắc nước, đẹp mê hồn người mà giá chỉ rẻ bằng nửa so với đồng loại bán tại trung tâm Phước Lộc Thọ bên quận Cam, Cali. -Quý vị từ đâu tới ? Ôi, ở Cali, bên Mỹ thì sung sướng quá đi thôi. -Bà từ Việt Nam qua đây làm ăn lâu chưa ? -Chúng tôi sinh ra ở đây. Các cụ qua theo diện phu mỏ, gọi là thế cho oai chứ làm nô lệ cho tụi thực dân Pháp, khổ ải nhục nhã lắm các bác ơi. Mười người chết bảy còn ba đấy. Như tôi cũng chẳng biết bố mẹ là ai nữa là. Làm con nuôi cho người ta, lớn lên, buôn bán, lấy chồng đẻ con... -Ông nhà là người Pháp hay Việt ? -Dạ người Việt mới khổ chứ...(?) Nghe nước nhà hết chiến tranh, vợ chồng kéo nhau về, tính ở hẳn. Khốn nỗi chẳng còn họ hàng hang hốc gì cả, rồi ông ấy ôm một số tiền bỏ đi theo một con bé " khốn nạn ", nhỏ hơn tới mười mấy tuổi. Tôi lại phải trở về đây hợp với con cái buôn bán lăng nhăng vậy thôi. Sống đâu quen đó mà, các bác ơi... Chủ một tiệm hàng vải hoành tráng chiếm một góc phố, với hàng chục nhân viên, chị Tâm nói thông thạo tiếng Pháp và thổ ngữ Kanak: -Các bác hỏi quê quán của em ư, nào có biết gì đâu. Em đẻ ở đây, ba mẹ làm phu mỏ chẳng hề nói cho em biết quê ở đâu, chỉ biết là người Việt. Chồng em cũng là người Việt đấy. Các cháu cũng đang học Đại học, hy vọng sẽ được sang Pháp hoặc Úc du học... Các bác muốn ăn phở à, để em gọi tiệm anh Phương, tiệm ngon nhất ở đây nhé... Qua đường bên kia, phía trước công viên là một tiệm phở mang tên Tây, với các cô chiêu đãi viên người Kanak nhanh nhẹn theo lệnh thu xếp bàn ghế của một phụ nữ Á Đông, chắc mẩm là Việt Nam rồi: -Làm cho chúng tôi một bát phở bò ! -Cửa hàng chúng em đang đóng cửa nghỉ trưa, tiếc quá các bác ơi. Em tưởng các bác là dân du lịch từ Việt Nam sang ? Em cũng đã về Việt Nam mấy lần, vui thì vui thật, nhưng coi thế mà khó làm ăn lắm đấy bác ạ. -Chị có thấy dân Việt sau 1975 sang đây lập nghiệp không ? -Theo chúng em biết chẳng có ai đâu, chỉ toàn là con cháu các cụ phu mỏ cũ như chúng em đây đấy thôi. Nhìn lên bảng đề giá cả: Bát phở lớn giá chừng 9 đô Mỹ, cà phê loại thông dụng giá 3 đô... Đi một quãng nữa là đến khu chợ, một số hàng quán vẫn còn sinh hoạt như thường. Bạn sẽ thấy những sạp bán tạp hóa, đồ tượng khắc, quần áo, quầy bán giò chả, món ăn làm sẵn, trái cây tươi đủ loại của miền nhiệt đới, quầy rau tươi mát, còn có cả rau muống, đọt bí rợ... Bạn sẽ lắng nghe họ nói chuyện với giọng Bắc Kỳ " cũ " với nhau, tiếng Kanak với thổ dân ào ào. Vui đáo để. Chẳng là cái giọng Bắc " chuẩn " bây giờ thì lơ lớ pha Thanh Nghệ như nước mắm nhĩ pha đường hóa học, còn cái anh Bắc kỳ di cư nói cứ như chồng Bắc vợ Nam ấy mà. Nghe được tiếng xưa yêu mến, nhìn thấy những khuôn mặt đồng hương rạng rỡ, hiểu được nỗi gian khổ của cha ông xưa kia và nỗi phấu đấu để tồn tại, mấy ai mà không vui, mấy ai mà không khâm phục. Thế hệ " Chân Đăng " rồi đến hậu duệ " Nhau Ly "... rồi đến ... ở đâu đâu cũng chỉ thấy là người Việt Nam kiên cường, bất khuất, vững tiến mà thôi. Ngàn lần là thế đấy ! Thế rồi thành phố dần dần im lìm trong cơn siesta buổi trưa hè (mùa hè vào tháng 12 của miền Nam Bán Cầu), giữa cơn nắng gắt gao. Những cánh hoa phượng rơi đỏ rực rỡ trải dài trên lề đường được những dân Kanak lững lờ tay xách những bó rau muống xanh ngắt, dẫm lên thơ thới nhàn nhã như an phận. Noumea là nơi có hơn 5,000 người Việt, hậu duệ của “chân đen”. Hình từ trái: Linh mục nhạc sĩ Ngô Duy Linh từ Hoa Kỳ từng đến đây làm việc năm 1991. Tiếp theo là một cửa tiệm của người Việt. Về phía Đông Nam, cách Nouméa 50 cây số là Tùng Đảo (Isle of Pines, cũng thuộc Cộng Hòa New Caledonia) có khoảng 2000 dân gốc Kunies sinh sống. Xưa kia, một thời Pháp cũng lợi dụng dùng rượu, ma túy đầu độc thổ dân để xâm chiếm, đô hộ. Đây là thiên đàng của địa giới. Những cây tùng cổ đại cành uốn éo đan vào nhau thành vòm tỏa bóng râm trên cát, những dẫy phi lao thẳng tuốt xen kẽ hàng dừa rủ bóng, bao quanh vịnh Kuto và Kanumera, kìa là hòn đá thiêng (Sacred Rock) mà dân Kuníe tin rằng ai mà trèo lên sẽ gặp bất hạnh cho đời mình. Bãi cát trắng phau phau mịn như bột, như nước da mơn mởn của cô gái dậy thì, nước biển mầu xanh lục trong biếc trông rõ từng đàn cá đủ mầu quấn quít lững lờ đùa rỡn. Gió mát từng cơn mơn trớn, tiếng thông xào xạc reo ru hồn người lâng lâng xa lìa phàm tục. Chỉ tiếc, còn vài anh Tây chị đầm đứng bán đồ lưu niệm tại vài lán, mặt mũi vênh vênh, gắt gỏng, trả lời cộc lốc, khinh khỉnh như chưa gột hết tì vết thực dân xa xưa. ĐẶNG ĐỨC/ KIM VÂN New Caledonia,
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 6, 2011 4:53:28 GMT 9
16. Hải chiến Việt - Hòa Lan (1644) Lê Ngọc Hồ Từ ba căn cứ hải quân (2) Chiến thuyền vào khoảng hai trăm trương cờ. Triều ban nghiêm lệnh quân cơ Tiếng hô uy dũng sòng mơ đáp lời!... Một hỏa lực của miền Nam hung hãn Giữ non sông, đánh bại thủy quân Chiêm, Thắng Hòa Lan, phá hạm đội chiến thuyền Trận hải chiến đã lừng danh Nam Hải... Đúng ngày Chúa Nguyễn duyệt binh, Hoa - Lan hạm đội cố tình cứ qua.. Tham mưu Chúa hỏi gần xa, Có nên truy kích hay tha quân này? Bị bão giạt người Hòa Lan đi lính Cho hải quân Việt đã mấy năm nay. Quá tự kiêu nên hắn trả lời ngay Hạm đội họ chỉ có Trời mới sợ! Không thèm đáp, Chúa lệnh truyền phẫn nộ “Hạm đội kia phải đánh bại chúng liền Tổng chỉ huy trao thế tử cầm quyền...” Phăng phăng nuốt sóng trùng dương, Hải quân nước Việt phi thường tiến quân. Trên boong đại pháo đã dàn, Thêm cung tên lửa sẵn sàng bay đi. Lệnh truyền thế tử ra uy. Toàn quân vâng lệnh nghiêm quỳ hô vang. Hải quân nước Việt hàng hàng, Tấn công vũ bão Hòa Lan ngỡ ngàng Chiến thuyền Việt bỗng dàn ngay, Chẻ ba hạm đội Hòa Lan bất ngờ. Một tàu địch hải quân ta săn đuổi, Lửa sáng tên cùng đại pháo mưa theo Khí thế hăng dồn địch chỗ hiểm nghèo. Toan chạy trốn tàu họ thường loạng hoạng. Đụng đá ngầm, tàu chiến vỡ tan tành, Khắp đó đây mảnh gỗ cháy lửa loang. Tiếng hô chiến thắng ầm vang, Quân ta đã thắng! Hòa Lan chìm tàu!.. Đo đây sông máu đỏ ngầu, Hải quân sử chiến thắng đầu quân Nam, Quân ta chiến đấu quyết tâm, Nuốt trôi tàu địch, lính cầm tù súng thu. Lửa cháy lớn, cuồng phong càng hung dữ, Khói mịt mù vùng biển tưởng màu đêm, Chớp thời cơ tàu địch nhỏ chuồn êm. Hải quân Việt truy đối phương rất gắt, Hạm đội địch duy chiếc tàu nhỏ nhất. Con cà còn lọt lưới hải quân ta, Chúng sợ run khi quát tháo tiếng loa. Đối phưong khi đã biết uy, Đành lòng trốn chạy một khi tranh hùng. Việt Nam nghĩa hiệp anh hùng, Đánh người ngã ngựa đau lòng quân ta. Hải quân qua chiến sử ca, Sóng triều dâng chiến thắng hoa đầu mùa. Tham mưu địch trong chiếc tàu lớn nhất, Thay thế nhuy nổ đại pháo như mưa, Hải quân ta dòng khí thế có thừa!... Gọi mưa pháo tỏa bao vây, bám riết, Bão tên lửa trận thắng thua quyết liệt. Oâm bó rơm tàu địch chạy thành hàng. Quân đổ bộ xung phong lên tàu địch, Quyết chiến thắng làm men say kích thích. Quân lưng trần túm được áo giết phăng! Lệnh tập trung toán người nhái rất hăng. Sườn tàu địch quyết phá toang đục lỗ, Sàn ngập nước không có còn một chỗ... Bánh lái tàu bị gãy bỡi quân ta. Chặt cột buồm, hầm lửa cháy lan ra Thuyền trưởng địch, bộ tham mưu tuyệt vọng, Hết cứu vãn chờ nổ kho thuốc súng!... Hơn hai trăm thủy thủ địch hỏa thiêu, Tàu Hòa Lan cháy từ sáng đến chiều... Chỉ còn có bảy người liều nhảy xuống, Hải quân Việt lệnh vớt lên bắt sống. Mang tù binh nộp Chúa Nguyễn lập công... Nguyễn Vương thi sát thuyền rồng, Hai hàng hạm đội song song theo hầu. Thưởng ban ai lập công đầu! Hải quân chiến sỉ cùng màu tuyên dương. Bảy tù binh nạp trước vương. Tay đốc kiếm, mắt nhìn tù binh địch -Lính nước nào? Chúa hỏi kẻ tự kiêu? Người Hòa Lan quá run sợ trả lời. -Tâu chúa thượng! Đây những người thoát nạn Trận Hải chiến Hòa Lan vừa bại trận!... Đâu cần chi nhờ quân đội của Trời! Chiến thuyền ta đủ phá địch như chơi! Mau trói lại tên Hòa Lan phạm thượng!... Điều quân một Nguyễn Phúc Tần, Là Hiền Vương đó một lần nối ngôi. Sóng thần cũng thấy chơi vơi, Triều dâng chen lấn nối lời suy tôn. Hải quân Việt quyết một lòng! Một trang chiến sử thơm hương! Ngàn sau, ngàn trước một phương giống nòi! Giưong buồm uống gió căng rồi, Aàm vang loa réo! Chơi vơi sóng dài! Trùng dương loan báo độ dài sóng âm. Trận này hải chiến quân Nam, Hòa Lan hạm đội bi tan chạy dài! Việt quân chiến thuật quá tài, Bao vây, xé lẻ, giặc ngoài lâm nguy! Hải triều nói với trăng thì, Phi lao gọi gió cùng suy tốn hoài. Mây chiều biểu ngữ nắng cài, Hoan hô chiến thắng vượt ngoài ước mong, Vầng trăng vừa ló biển đông, Cũng thơ chúc tụng! Cũng lòng kính yêu! Quân ta can đảm đã nhiều, Hòa Lan đề đốc chết thiêu lửa hồng! Pierre Breck! Cũng anh hùng! Chết cùng với lính trên boong tàu mình... Hải chiến đầu tiên địch với ta, Một trang quân sự nét son hoa. Ngàn sau con cháu yêu tình nước, Loa gió dâng triều, dợt sóng ca... Lê Ngọc Hồ (Ngày 13 tháng 6 năm 1985) (2) - Căn cứ 1 Nguyên Hải, chỗ sông Hương đổ ra biển nay gọi là Thuận An; Căn cứ 2 lớn mạnh hơn dinh Chiêm nay gọi là Thành Chiêm cách Hội An 9 km trên sông Thu Bồn ngày nay; Căn cứ 3 trại Thủy trên bờ sông làng Hội Phú, xã An Ninh, quận Tuy An, Phú Yên. (Phạm Đình Khiêm, xã hội V.N thế kỷ XVI I dưới mắt giáo sĩ Đắc Lộ, V.N khảo cổ tập san, tr.49, 50, Sài gòn tháng 6/1961.)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 28, 2011 4:27:27 GMT 9
|
|