|
Post by Huu Le on May 23, 2009 8:11:39 GMT 9
ĐỪNG TIN VẸT NÓI, HẢY NHÌN KỶ CHÚNG LÀM .
Chúng Tôi Xin Giới Thiệu Con Vẹt :An Ninh Thế Giới Tháng 4-2009
Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói
Khánh Thy
Sau nhiều lần ngoái đầu về cố quốc, Tết năm 2005, nhạc sỹ Phạm Duy chính thức trở về với quê hương, mảnh đất luôn luôn coi trọng tình nghĩa, không bao giờ “đánh người chạy lại”. Ông đã chọn TP Hồ Chí Minh làm nới sinh sống cho những năm tháng cuối đời của mình. Sau không ít những ấp ủ, liveshow ‘Ngày trở về” của Phạm Duy đã vang lên trong một đêm diễn duy nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội vào cuối tháng 3-2009. Sự trở về của bản thân nhạc sỹ Phạm Duy và âm nhạc của ông mới đây đã làm dậy lên một làn sóng báo chí quan tâm. Tuy nhiên, không ít điều xuất hiện trên một số phương tiện thông tin đại chúng xung quanh đêm nhạc Phạm Duy đã gây nên những bức xúc cho người chính trực.
Nhình lại bản chất vấn đề, đánh giá một cách công bằng nhất những giá trị đích thực của Phạm Duy và âm nhạc của ông, Báo ANTG đã mở ra một diễn đàn nhỏ để mời các nhạc sỹ lớn, những người có tên tuổi có trọng lượng trong nền âm nhạc Việt Nam nói về sự kiện này.
Nhạc sỹ-NSND Trọng Bằng:
Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen. Nhạc sỹ Phạm Duy nếu nói ngắn gọn chỉ 4 “thứ” thôi. Thứ nhất, anh là một người đầu kháng chiến chống Pháp có một số bài hát được quần chúng yêu thích. Thứ hai, sau khi anh bỏ Tổ quốc ra đi, không biết anh có công nhận không nhưng lúc đó cả nước người ta nói anh đi theo giặc, đi phục vụ địch. Và một số bài hát của nah, anh đã làm lời lại để phục vụ hoàn cảnh mới. Thứ ba là khi anh về nước, anh nói rằng anh trở về với nguồn cội. Anh có đến Hội Nhạc sỹ gặp tôi. Tôi cũng có nói chuyện và bảo anh rằng: Ngày xưa khi tôi còn bé, anh Phạm Duy và anh Trọng Loan (anh trai của tôi) cùng ở một đoàn nghệ thuật. Ngày xưa tôi cũng thích những bài hát của anh. Nhưng âm nhạc bây giờ khác chứ không ít ỏi như thời anh viết những tác phẩm ngày xưa nữa đâu. Cả một cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi viết hàng ngàn bài hát, hàng ngàn ca khúc. Chúng tôi viết và được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam hôm trước thì ngay hôm sau cả nước hát, và hát cho đến bây giờ. Thứ tư tôi muốn nói là anh về thì cứ về, cứ thế mà làm việc, cứ sáng tác, viết thêm được gì thì viết, cống hiến được gì thì cống hiến chứ đừng lợi dụng lúc này mà tâng bốc mình lên như vị nọ vị kia. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự tâng bốc này là lỗi một phần ở các nhà báo, dễ dãi và chạy theo thị hiếu, cứ coi đây như sự kiện âm nhạc lớn, Phạm Duy được tâng bốc như là nhà sáng tạo ghê gớm. Vì nói đến Phạm Duy những người chân chính ở Việt Nam đã biết cả rồi, biết Phạm Duy như thế nào trong quá khứ, Phạm Duy có cái gì tốt, cái gì chưa tốt, bản chất của Phạm Duy và giá trị thật âm nhạc của anh người nghe đều hiểu cả. Sự trở về của Phạm Duy là sự ưu ái của Đảng và Nhà nước, sự rộng lượng của nhân dân ta, nên đừng đặt mình ở vị trí cao, cứ nên im lặng mà làm việc thôi. Có những tác phẩm anh sáng tác đầu kháng chiển rất tốt, bây giờ Cục biểu diễn người ta khuyến khích cho phép anh trở về biểu diễn, thì cứ thế mà cống hiến thôi. Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.
NS Phạm Tuyên:
Hôm nhạc sỹ Phạm Duy ra đây nói chuyện nhân việc phổ nhạc các trích đoạn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tôi có được mời tới dự. Sau đó một số người hỏi tôi về chương trình này. Tôi nói rằng đây là một sự tìm về một áng văn chương tuyệt tác của văn học Việt Nam. Nhưng nếu vào âm nhạc thì còn xa lắm so với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Tuy nhiên đó là sự biểu hiện của tìm về với cội nguồn. Riêng tôi lúc vào trong TP Hồ Chí Minh, nghe tin ông Phạm Duy về, tôi nghĩ đó là một sự trở về với nguồn cội thôi. Dân gian có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Chính lúc đó các nhạc sỹ ở trong TP Hồ Chí Minh cũng cho rằng không nên làm rùm beng cái chuyện này, thậm chí báo chí đề cao quá như vừa rồi thì người ta không tán thành. Tôi lại không nghĩ như thế. Ai cũng có những sai lầm trong quá khứ cuộc đời. Trong cơ chế thị trường hiện nay có những công ty nhạy bén với thị hiếu của thị trường, người ta săn đón, mua bán quyền của nhạc sỹ Phạm Duy, xuất bản và tổ chức biểu diễn rầm rộ. Một số anh em nhạc sỹ trong Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh gặp tôi và nói rằng không nên làm như thế. Còn việc đánh giá về phẩm chất nghệ thuật thì phải nhìn cả một quá trình. Đóng góp như thế nào, sai lầm như thế nào. Nếu bây giờ chúng ta chỉ đánh giá phần đóng góp mà quên đi phần sai lầm, thậm chí gạt bỏ hết mọi sai lầm để tâng bốc đóng góp thì như thế chẳng công bằng với các nhạc sỹ trong nước. Có một số anh em nhạc sỹ sau khi đọc báo nói về “Ngày về” của Phạm Duy, sự trở lại rầm rộ, được báo chí săn đón và tâng bốc thái quá đã thốt lên: “Trời đất ơi, thế thì thành tựu âm nhạc của chúng ta mấy chục năm qua nhỏ nhoi quá nhỉ!”. Trong khi đó, tôi là người trong cuộc, cảm thấy được sức mạnh của vũ khí âm nhạc, đúng ra trong thành công của Cách mạng chúng ta, trong chiến thắng thống nhất đất nước, có sự đóng góp lớn của âm nhạc, và chúng tôi rất tự hào. Một số anh em ở Huế hỏi tôi đánh giá như thế nào về nhạc sỹ Phạm Duy, tôi trả lời hồi nhỏ tôi có thuộc và thích một số bài hát của Phạm Duy. Nhưng sau khi nhạc sỹ Phạm Duy rời bỏ đất nước ra đi, thậm chí có một thời gian đưa âm nhạc phục vụ chính quyền Mỹ-ngụy. Tôi nghĩ, rồi cũng sẽ có lúc bản thân anh Phạm Duy phải nhìn thẳng vào sự thật. Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao. Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng. Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam. Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.
NS Hồng Đăng:
Vấn đề này thực ra rất tế nhị đối với anh em nhạc sỹ. Vì đối với những người sáng tác với nhau, bao giờ chúng tôi cũng hết sức rộng lượng, nhìn nhau bằng cặp mắt tốt đẹp và mong cho nhau thành công. Riêng trong vấn đề Phạm Duy, cái nhìn của tôi có thể khác hơn. Ngay trong giai đoạn đầu kháng chiến, nhạc sỹ Phạm Duy là một trong những nhạc sỹ có ý thức khai thác vốn dân ca, đưa chất liệu dân ca vào sáng tác mới. Cho nên những “Bà mẹ Gio Linh”, những “Về miền Trung”… ngày ấy rất được nhiều người tán thưởng. Nhưng thời kỳ ấy chúng tôi đang còn bé quá. Sau này lớn lên thì có nghe tin nhạc sỹ Phạm Duy đã vào trong thành, sau đấy bẵng đi thời gian 5 đến 6 chục năm, chúng tôi cũng không mấy lưu tâm. Vừa rồi ông Phạm Duy xin phép được trở về, và được Nhà nước ta cho phép. Lúc Phạm Duy về, rất nhiều anh em nhạc sỹ vui vẻ vì thấy rằng đây là một lần quay lại của các anh em mà trước kia có một thời kỳ bẵng đi không thấy mặt nhau. Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!). Những giá trị thật của một người nghệ sỹ, thứ nhất là tinh thần yêu nước, những đóng góp tâm hồn mình cho dân tộc… So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích. Có một thời nghe nói các tác phẩm của ông cũng không được người ta ưa chuộng lắm đâu ngay cả ở nước ngoài. Điều ấy chúng ta phải có sự cân nhắc tử tế. Nếu như có sự đóng góp nào đấy thì nên ghi nhận. Nhưng đừng nghĩ rằng như thế thì tất cả các anh em khác không ra gì. Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy như Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Từ ngày anh ra đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Điều đáng nói là nhiều anh em thành thực mong cho anh có nhiều đêm nhạc tốt đẹp, trong khi hàng trăm hàng nghìn người không có nổi kinh phí để lo một đêm nhạc của riêng mình dù tác phẩm cứ ngồn ngộn ra đấy…Muốn nhìn nhận công bằng, nên nhích xa ra một tí để nhìn toàn cảnh. Còn nhớ năm 1994, chúng tôi tổ chức được 4 đêm, 4 chương trình khác nhau ở Nhà hát Lớn Hà Nội lấy tên là “Nửa thế kỷ Bài hát Việt Nam” chỉ giới thiệu được gần 80 bài cho 80 tác giả, trong đó riêng anh Văn Cao được 2 bài. Chương trình có tiếng vang lớn nhưng hàng trăm nhạc sỹ khác nằm chờ giới thiệu ở TP Hồ Chí Minh thì vướng quá nhiều thứ, nhất là kinh phí mà không giới thiệu được thêm nữa, đành cay đắng mà chịu thiệt thòi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm. Có thể kể Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây…Tư liệu này ở Hội Nhạc sỹ Việt Nam, Viện nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam đều có cả. Anh Phạm Duy trở về, chúng tôi chúc mừng anh và mong anh khỏe mạnh để có những sáng tác mới.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 8:17:23 GMT 9
Chúng Tôi Xin Giới Thiệu Bài Viết Về Những Kỳ Tích Của Những Con Vẹt Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người , Đảng cs đã có công kéo lùi dân tộc Việt về nhiều chục năm lịch sử , thời kỳ thuộc địa thực dân Pháp .
Chính sách, chủ trương của Đảng trong quá khứ
Phạm Viết Đào
Ai đã có điều kiện dự các khoá học chính trị trung, cao cấp do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh mở thì đều được thụ giảng những bài phân tích khá kỹ, sâu sắc, tổng hợp khá nhiều tư liệu, luận chứng do các giảng viên của Học viện truyền thụ về những sai lầm trong chính sách, chủ trương của Đảng trong quá khứ như là một bài học lịch sử về xây dựng và phát triển Đảng. Những bài học kinh ngiệm về các sai lầm của Đảng trong quá khứ đã được biên soạn trong loạt bài giảng của các giáo trình về Xây dựng Đảng và Lịch sử Đảng. Đây là những kiến thức về Đảng mà về nguyên tắc và cơ cấu tổ chức cán bộ hiện hành, những cán bộ cấp từ Trưởng phòng cấp Bộ trở lên đều được truyền thụ kiến thức này...
Người viết bài này cũng đã có dịp được thụ giáo những bài giảng đó và xin phép được chép lại những điều do nhà trường truyền thụ mà hiện còn được ghi lại trong sổ học tập của mình.
1/ Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ là một trong những cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ra đời cùng thời kỳ với sự ra đời Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1930... Về cương lĩnh chính trị này của Đảng, hiện các giáo trình đánh giá: đó là căn bệnh ấu trĩ tả khuynh mà các đảng cánh tả thường mắc phải không chỉ ở Việt Nam.
Căn bệnh ấu trĩ tả khuynh này nếu trên nền tảng chính trị, kinh tế, xã hội của Pháp, của Đức, của Nga và thậm chỉ của ngay Trung Quốc thì đều có cơ sở để giải thích; riêng đối với Việt Nam thì người viết bài này đã không ít lần đặt ra câu hỏi cho các thầy nhưng chưa lần nào được giải thích rõ vì sao: Tr trở thành đối tượng số 1 phải bị "đào tận gốc" của Đảng?
Căn bệnh lạ này không khỏi có lúc đã ám ảnh, làm khiếp nhược giới trí thức và ảnh hưởng tai hại trong suốt tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, thu phục nhân tâm...
2/ Cuộc cải cách ruộng đất được đánh giá, phân tích là một chủ trương sai lầm mà Đảng và đích danh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng ra nhận lỗi trước nhân dân, một số cán bộ của Đảng đã phải chịu kỷ luật sau cải cách năm 1956...
Chủ trương này một mặt do sự sao chép, rập khuôn giáo điều theo cách làm của Trung Quốc nhưng mặt khác, không thể không nói đến sự tác động, sự ám ảnh của cái cương lĩnh khởi thảo lúc đầu của Đảng: Trí, phú, địa, hào...
Còn công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh tại thành phố vào quãng năm 1958 và sau giải phóng miền Nam quãng 1977 cũng được đánh giá lại là sai lầm vì đã làm khiếp nhược, thui chột những người có tham vọng làm giàu bằng trí tuệ và sự sức lao động của mình.
3/ Cương lĩnh chính trị được đưa vào Nghị quyết của Đại hội 3 của Đảng: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, và đến Đại hội 4 chỉnh lại: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, cả hai chủ trương này đến bây giờ được đánh giá là không thực tế và không thích hợp với nền tảng kinh tế, công nghiệp của Việt Nam.
4/ Chính sách xây dựng pháo đài cấp huyện là một chủ trương không căn cứ vào một cơ sở lý luận, thực tiễn, kinh tế xã hội nào. Chủ trương này bắt chước theo cách làm của Bungari và sau đó nhanh chóng bị lãng quên.
5/ Chính sách giá-lương-tiền đã làm rối loạn nền kinh tế đẩy kinh tế lún sâu vào khủng hoảng, lạm phát, rối loạn xã hội...
6/ Cơ chế tập trung quan liêu kéo dài quá thời hạn, thời điểm lịch sử cần thiết dẫn đến nền kinh tế bị suy kiệt, nhân tâm ly tán...
Không ai phủ nhận trong thời kỳ chiến tranh, nhân dân chấp nhận cơ chế tập trung quan liêu cao độ, mọi người dân chấp nhận hy sinh mọi thứ riêng tư để dốc lòng, dốc sức giành lại độc lập cho dân tộc. Một con gà, con vịt do người nông dân chăn nuôi ra đều chịu sự kiểm soát và điều tiết của chính quyền các cấp. Những khẩu hiệu của Đảng như Tất cả cho tiền tuyến, Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... nhận được sự đồng thuận của đại đa số nhân dân.
Vì sự nghiệp cao cả này mả cả dân tộc chấp nhận hy sinh, ghìm nén thậm chí gạt bỏ mọi toan tính riêng tư để dồn của, dồn sức người, dồn máu xương cho sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm. Thế nhưng giặc ngoại xâm đã rút rồi thì không mở khoá, thả cổng để nhân dân làm ăn và mưu cầu hạnh phúc là một sai lầm lớn và thiếu biện chứng trong việc ban hành các chính sách... Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói đại ý: độc lập, tự do mà nhân dân đói khổ thì độc lập, tự do ấy có ý nghĩa gì? Do chậm thay đổi các chính sách về quản lý kinh tế-xã hội nên Việt Nam ở giai đoạn 1984-1985 bị đẩy thật sự đến bên bờ vực của sự sụp đổ...
Trên đây chúng tôi chỉ kiểm lại những sai lầm trong các chính sách kinh tế của Đảng ở cấp trung ương mà chưa đề cập tới các sai lầm của đảng bộ, chính quyền cuả các địa phương, của các ngành, các cấp để khẳng định một điều: Đảng từng phạm sai lầm, mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói một câu đại ý: một đảng không dám nhìn thẳng vào sai lầm để mà sửa chữa mới là một đảng hỏng...
Các bài giảng đều đặt vấn đề: Điều đáng tiếc là các cương lĩnh, chủ trương, chính sách sai lầm đó đã được áp dụng và gây tác dụng xấu, tiêu cực hoặc không mang lại hiệu quả như mong muốn đề ra. Vậy thì làm sao những chủ trương, chính sách sai phải được kịp thời ngăn chặn để nó không gây hậu quả? Điều này đòi hỏi phải đặt lại vấn đề: cơ chế dân chủ trong đảng; cơ chế phản biện trong nội bộ của Đảng, của nhân dân và nhất là vai trò và ý kiến của tầng lớp trí thức đối với Đảng.
Xuất phát từ những bài học rút ra từ các sai lầm trong quá khứ của Đảng, Hội nghị BCH TW khoá VII họp từ ngày 9 tới ngày 17/7/2008 đã ban hành một nghị quyết chuyên đề về trí thức. Tại phiên bế mạc, giải thích lý do ban hành Nghị quyết này, ông Nông Đức Mạnh,Tổng Bí thư đã phát biểu: "Để xây dựng đội ngũ trí thức theo yêu cầu mới, cần tập trung hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo..." Ông Nông Đức Mạnh cũng lưu ý Ban chấp hành TW: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ, sức mạnh của đất nước, của Đảng và của cả hệ thống chính trị"; Ông Nông Đức Mạnh khẳng định thêm:"Xây dựng cơ chế để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xoá bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng" (Nguồn Vietnamnet).
Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã nhận thức đúng vai trò và trách nhiệm của trí thức. Vậy trong thực tiễn nghị quyết này đã được các cơ quan thừa hành của Đảng áp dụng như thế nào? Theo chúng tôi, thái độ và cách ứng xử của Bộ Công thương, của Văn phòng Chính phủ và Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội đã chứng tỏ họ không quan tâm gì đến Nghị quyết về trí thức của Đảng vừa ban hành cách đó mới nửa năm; họ không đếm xỉa gì đến những ý kiến mà ông Nông Đức Mạnh với tư cách Tổng Bí thư đã phát biểu, giải thích và nhấn mạnh khi ban hành Nghị quyết này. Chúng tôi xin lưu ý, đứng đầu Văn phòng Chính phủ và Bộ Công thương đều là các uỷ viên Trung ương, đứng đầu Quốc hội là một Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, tại Quốc hội có rất nhiều Uỷ viên trung ương...
Trở lại vụ bauxite Tây Nguyên, mặc dù có rất nhiều trí thức lên tiếng một cách có trách nhiệm nhưng hình như chẳng ai thèm nghe; hình như đang tồn tại một "bức tường lửa" đang ngăn cách những người lãnh đạo nắm quyền lực nhà nước với nhân dân, với anh em trí thức. Về cơ cấu tổ chức vận hành bộ máy của Đảng, Chính phủ và Nhà nước thì Bộ Công thương là cơ quan tham mưu số một về dự án này. Vậy người tham mưu số 1, người được phép trực tiếp trình bày đến tai các vị lãnh đạo nắm quyền quyết định dự án này là ai? Chắc chắn là ông Lê Dương Quang, Thứ trưởng Bộ Công thương phụ trách chuyên về mảng này. Vậy ông Lê Dương Quang là ai? Cách đây 7 năm theo báo chí đã đưa, ông này từng bị kỷ luật về hành động gian manh trong một vụ kiểm tra mà ông là Trưởng Đoàn; hành động này nếu không được phát hiện kịp thời có thể gây thất thoát cho nhà nước hàng trăm tỷ đồng; thế mà 7 năm sau ông này được đề bạt liển 2 cấp, từ Vụ phó lên Thứ trưởng! Nhân cách của ông này còn bộc lộ rõ trong văn bản họp báo ngày 28/4/2009, ông đã nhân danh công quyền, đổi trắng thay đen, quy chụp những ý kiến xây dựng đầy trách nhiệm và tâm huyết của anh em trí thức thành những ý kiến gây rối; xếp anh em trí thức vào hàng kẻ thù của dân tộc...
Với những bộ máy tham mưu như Bộ Công thương, như Văn phòng Chính phủ, như Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội thì làm sao những người chịu trách nhiệm trước các vấn đề liên quan tới vận mệnh của đất nước có được những quyết sách đúng được?
Chỉ xin nói một điều hết sức đơn giản: về hiệu quả kinh tế, nhiều nhà kinh tế chứng minh dự án khai thác bauxite Tây Nguyên không mang lại hiệu quả kinh tế; điều này đã được chứng minh cộng trừ về con số chứ không bằng các lập luận chung chung.
Xin lấy số liệu của Tập đoàn Than Khoáng sản do ông Đoàn Văn Kiển phát biểu: mỗi năm lãi 250 triệu USD; ông Kiển cho biết 13 năm đầu đủ thu hồi vốn, sau đó bắt đầu có lãi với đời dự án là 40-50 năm. Cứ cho ông Đoàn Văn Kiển đúng đi thì dự án này sau 50 năm thu được bao nhiêu tiền: 10 đến 15 tỷ USD là cùng! Và như ông Đoàn Văn Kiển bộc bạch thì kết quả dự án này là 50/50, có nghĩa lợi nhuận trong năm mươi năm cũng chỉ được dăm, bảy tỷ là cùng theo cách tính của ông Kiển. Nếu theo tính toán của ông Kiển số tiền này có quá lớn không so với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam để đem đánh đổi tất cả mọi thứ mà làm cho bằng được? Còn nếu âm như các nhà khoa học tính toán, nếu môi trường bị ô nhiễm, an ninh quốc gia bị xâm phạm, thì ai chịu?
Xin tham gia một ý kiến nhỏ về môi trường. Chúng tôi chăm chú theo dõi cách thức quản lý và xử lý bùn đỏ được các chuyên gia của dự án khai thác bauxite của Bộ Công thương trình bày trong chương trình truyền hình tối 19/5 trên VTV1. Mô hình quản lý và xử lý bùn đỏ (thực chất chất thải hoá chất lỏng trộn bùn đỏ), trông không khác gì cách chống thấm của mấy hộ đào ao nuôi tôm nước mặn tại nhiều vùng ven biển miền Trung và còn lâu mới an toàn so với bể phốt gia đình. Các ao nuôi tôm nó chỉ rộng một vài ha và cũng chỉ nuôi tạm trong vòng dăm, ba năm nên mới có khả năng chịu đựng được với mô hình thiết kế kiểu đó, với cách làm đó. Thế mà cái hồ mà các vị thiết kế được trình bày trên VTV1 rộng hàng trăm ha, được xây bờ xung quanh, phía dưới lót 1 lớp đất sét 20-30 cm, sau đấy là lớp vải chống thấm và trên lớp vải theo trình bày là một lớp đất sét 20-30 cm nữa. Chấm hết!
Trời đất ơi, để giữ cho hàng chục triệu tấn chất lỏng hóa chất độc hại không lan ra môi trường mà chỉ có thế thôi ư? Trước hết xin lưu ý các vị rằng, quy luật của nước đó là quy luật bình thông nhau và nước chảy chỗ trũng... Con người có thể dùng các biện pháp kỹ thuật để ngăn sự ngấm tràn nhưng nếu chỉ như cách các vị trinh bày trên VTV1 thì chỉ để ngăn giữ nước mặn dùng để nuôi tôm. Xin hỏi nhỏ các nhà lập dự án: Các vị lấy đâu ra loại vải chống thấm rộng hàng ha để mà lót dước đáy hồ? Khi các vị đã ghép nối nhiều mảnh với nhau thì làm sao giữ được các dung dịch hoá chất không tràn thấm qua? Ngoài ra hoá chất còn khuếch tán trong không khí qua sự bay hơi; hiện nay rất nhiều nước công nghiệp phát triển đang phải hứng chịu những cơ mưa axit không phải do trời ban mà do con người sản sinh ra.
Thứ hai, xin lấy nguồn nước ngầm Hà Nội làm minh chứng; đây là số liệu đã được các cơ quan chức năng công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay nguồn nước ngầm Hà Nội đang bị ô nhiễm nặng, bị hỏng hoàn toàn ở khu vực phía nam thành phố do nước thải sinh hoạt là chủ yếu; nước thải công nghiệp ở Hà Nội không đáng kể ngoài một số bệnh viện. Các cơ quan chức năng đã khoan sâu hàng trăm mét tại những khu vực phía nam Hà Nội, nơi đổ dồn các nguồn nước thải của Hà Nội và có nghĩa trang Văn Điển cho thấy: nước bị ô nhiễm nặng nề có các hợp chất kim loại nặng và có mỡ.
Trong khi đó địa tầng Hà Nội như thế nào? Phía trên độ quãng 1 m là đất phù sa, sau lớp đất phù sa là tầng đất sét có độ dày 4 mét, nhà nào khoan giếng sẽ thấy rõ điều này; sau tầng đất sét là cát quãng 5-10 mét, sau đấy là sỏi, là đất sét... Thế mà không ngăn được nguồn nước ngầm Hà Nội không bị ô nhiễm bởi nước thải sinh hoạt, chứ chưa phải là hàng chục triệu tấn dung dịch hoá chất được thải ra hoà với bùn đỏ dồn ứ lại. Mô hình thiết kế mà các vị trình bày ngon lành trên VTV1 chỉ có thể lừa trẻ con. Với mấy chục cm đất sét bôi trát ra như vậy, làm sao mà quản và giữ được hoá chất độc?! Xin lạy các bố!
Cách đây hơn 2 tháng, 20 nước công nghiệp phát triển đã nhóm họp tại Davos, Thuỵ Sĩ, hội nghị do Liên hiệp quốc chủ trì. Một trong những chủ đề lớn được đem ra bàn nghị sự đó làm thế nào để bảo vệ nguồn nước cho thế kỷ XXI? Tại diễn đàn này theo Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon: "20 năm nữa nước sẽ trở thành vấn đề chính trị của thế giới, chứ không phải là dầu mỏ. Nạn thiếu nước đã trở thành vấn đề chín muồi của cả hệ thống chính trị toàn cầu".
Hiện nay lượng nước được sử dụng để sản xuất năng lượng chiếm 40 % số lượng nước khai thác hàng năm ở Mỹ; trong khi đó lượng nước sử dụng cho sinh hoạt gia đình của người dân chỉ chiếm 3 %. Nhu cầu nước sử dụng vào mục đích sản xuất năng lượng tăng 165 % năm tại Mỹ và 130 % tại các quốc gia EU. Trong khi đó thì những khối băng khổng lồ ở Himalaya và Tây Tạng sẽ tan chảy hết vào năm 2100. Hai tỷ người trên hành tinh sẽ đứng trước nguy cơ thiếu nước; 70 con sông lớn trên thế giới sẽ khô cạn vì các hệ thống tưới tiêu nông nghiệp...
Trong khi thế giới đang mất ăn, mất ngủ vì nước thì Việt Nam đang xa xỉ nước, đi vay tiền để điều chế ra một quả bom nổ chậm bằng nước hoá chất đặt trên mái nhà mình và để thu một khoản lợi nhuận theo lời ông Đoàn Văn Kiển cũng được dăm bảy tỷ trong vòng năm chục năm...
Vấn đề phản biện cuối cùng chúng tôi xin đưa ra, đó là vấn đề an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ liên quan đến dự án bauxite Tây Nguyên. Những tuyên bố mới nhất của những người đứng đầu nước Nga cho thấy: Nga đã xí phần 1,2 triệu km ở vùng Bắc Cực, từ tháng tư này bắt đầu xây dựng các cắn cứ tại Bắc Cực và sẵn sàng dùng vũ lực với những ai nhòm ngó tới vùng băng mà Nga đã xí phần. Nga cũng đã và sẽ dùng vũ lực tới những nơi nào mà công dân Nga bị người dân bản địa chèn ép như Gruzia, Moldavi và Tresnia... Ở đâu có người Nga, ở đó có chủ quyền của Nga. Còn Trung Quốc thì chúng tôi và nhiều người đã biết và đã viết nhiều rồi...
Chúng tôi mong rằng vụ bauxite Tây Nguyên không trở thành một chuyên đề cho các lớp đảng viên ra đời vài ba chục năm nữa đưa ra làm bài học cay đắng, ngậm ngùi phân tích như là lớp đảng viên hiện nay đang tìm câu hỏi và chưa tìm ra câu trả lời: Vì sao năm 30 Đảng lại nêu cương lĩnh: Trí là số 1 phải bị đào tận gốc...
P. V. Đ.
|
|
|
Post by Huu Le on May 26, 2009 5:17:57 GMT 9
Cựu tổng thống Nam Hàn tự tử?HÁN THÀNH (Seoul), Nam Hàn - Cựu tổng thống Nam Hàn (South Korea) ông Roh Moo-hyun qua đời hôm nay thứ Bảy sau khi té từ ngọn núi sau lưng nhà ông ở miền nam Nam Hàn, cảnh sát và nhân viên bệnh viện cho hay. Tuy nhiên, viên phụ tá cao cấp nhất của ông cựu tổng thống nói rằng hình như ông Roh nhảy xuống núi tự tử. “Cựu tổng thống Roh rời nhà lúc 5:45 sáng và trong lúc leo núi ở Ponghwa, ông tuồng như đã nhảy xuống từ một mõm đá khoảng lúc 6:40.” Ông Moon Jae-in, từng làm việc như cố vấn trưởng cho cựu tổng thống Roh nói trong một bản thông báo được tải đi trên hệ thống truyền hình toàn quốc. Ông cựu tổng thống Roh Moo-hyun đến văn phòng Công tố viên Tối cao để bị thẩm vấn cho một vụ án tham nhũng có liên quan đến ông hôm 30 tháng Tư năm 2009. Nguồn: AP Một luật sư của gia đình ông Roh cho báo chí hay ông Roh, 62 tuổi, đã để lại một lá thư tuyệt mệnh ngắn. Cảnh sát đang điều tra để xác định xem ông Roh chết vì tự tử hay vì tai nạn, theo thông tấn xã Yonhap. Ông Roh đã bị thương ở đầu trầm trọng và qua đời lúc 9:30 sáng thứ Bảy sau khi được chuyển đến một bệnh viện ở phía nam thành phố Busan từ thành phố Gimhae nơi ông sống, theo viên chức bệnh viện. Ông Roh đang bị điều tra về tội nhận hơn 6 triệu đô-la từ một thương gia lúc ông còn tại chức. Vụ tham nhũng tai tiếng liên quan đến ông Roh và gia đình ông đã làm xấu đi cái hình ảnh của ông như là một chính trị gia “trong sạch” ở một nước vốn có một lịch sử tham nhũng lâu dài. Ông đã bị thẩm vấn bởi các công tố viên ở thủ đô Hán Thành tháng rồi như là một phần của cuộc điều tra. Ông Roh - một cựu luật sư bảo vệ nhân quyền đã từng là tổng thống Nam Hàn từ năm 2003 cho đến 2008 - được biết đến như là người thúc đẩy cho những nỗ lực hòa giải với Bắn Hàn, và ông đã từng đi Bình Nhưỡng (Pyongyang) năm 2007 để tham dự buổi họp thượng đỉnh với lãnh đạo Bắc Hàn ông Kim Jong Il. Trich Dan Chim Viet Online ********************** Đứng trước tin tức về cái chết của ông cựu T Thóng Đại Hàn này , ở trang nhà Talawas / Talacu có loan đi một " báo cáo chính trị " mang ý nghĩa vô cùng to lớn có tính " bí mật quốc gia " cao độ . " Sáng nay loa gọi ngoài đồng , tin ông tổng thống gặp liền bác ta Ôi thôi thôi đã thôi rồi thương hồ chí một thương ông thương mười " trích tư tưởng hồ chí minh và nhà thơ lớn vĩ đại Tố Hữu . Vì lợi ích trăm năm , mong rằng tác giả Nhã Nam sẽ cho phép chúng ta trích đọc báo cáo chính trị của Talacu ở đây . Bộ Chính trị Việt Nam phát động chiến dịch “Làm theo gương sáng Roh Moo-hyun”25/05/2009 | 11:07 chiều | Tác giả: Nhã Nam Chuyên mục: talaCu Thẻ: Roh Moo-hyun > tham nhũng Cựu Tổng thống Hàn Quốc Roh Moo-hyun vừa nhảy xuống vực tự sát vì “cảm thấy hổ thẹn” sau nhiều ngày ưu tư, cảm thấy cuộc sống khó khăn và khi bị cáo buộc người thân của ông đã nhận 6 triệu USD từ một doanh gia. Nhận thấy đây là một gương sáng, góp phần rửa cho bộ mặt vốn không mấy sạch sẽ của các quan chức đảng viên và giúp loại trừ các vụ tham nhũng, hối lộ đang lan tràn như một quốc nạn của Việt Nam hiện tại, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định phát động chiến dịch “Làm theo gương sáng Roh Moo-hyun” cho toàn bộ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vừa ra Nghị quyết số 0477/ĐCSVN/TW, triển khai chiến dịch có tên như trên. Theo đó, chiến dịch có trưởng ban là TBT Nông Đức Mạnh với các phó ban là các thành viên khác trong Bộ Chính trị. Dự trù chiến dịch này sẽ kéo dài cho đến khi tham nhũng không còn là quốc nạn nữa, hoặc kết quả đạt được là tuyệt đối mỹ mãn. Cũng nhân dịp này, Bộ Chính trị Đảng CSVN cử nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN Lê Đức Thúy và con trai là Lê Đức Minh, nguyên lãnh đạo của Banktech - CFTD, làm trưởng và phó đoàn đi dự lễ an táng cựu Tổng thống Roh Moo-hyun, đồng thời tham quan, khảo sát hẻm núi Bonghwa, nơi ông Roh Moo-hyun tự sát. Sau khi có kết quả khảo sát hẻm núi nói trên, Bộ Chính trị Đảng CSVN sẽ tiến hành tìm kiếm các hẻm núi tương tự tại Việt Nam, đồng thời lập kế hoạch mở mạng giao thông hiện đại đến những nơi này. Nếu các hẻm núi tại Việt Nam chưa đủ tiêu chuẩn như hẻm núi Bonghwa, thì cần gấp rút xây dựng cho đạt hoặc vượt chuẩn hẻm núi Bonghwa. Ban xây dựng hẻm núi “Bonghwa Việt Nam” sẽ giao cho nguyên Thứ trưởng Mai Văn Dâu và con trai là Mai Thanh Hải làm trưởng và phó ban. Ban chỉ đạo chiến dịch cũng chỉ đạo cho Ban Văn hóa Tư tưởng, Bộ Thông tin Truyền thông đưa nhiều tin tức, bài viết về tiểu sử cựu Tổng thống Roh Moo-hyun, đặc biệt nêu cao về xuất thân của ông là từ một gia đình nông dân nghèo, rồi thành một luật sư đấu tranh cho nhân quyền, là một trong các lãnh đạo của phong trào “Đấu tranh tháng Sáu” năm 1987, chống lại nhà độc tài Chun Doo-hwan, từng bị giam ba tuần trong năm đó về tội kêu gọi công nhân đình công, từng bảo vệ cho 12 trong số 24 sinh viên bị bắt vì tàng trữ văn chương cấm, và vì tội này, họ bị giam cầm và tra tấn trong gần hai tháng. Ông Roh Moo-hyun cũng từng là thành viên của đảng ủng hộ dân chủ do nhà hoạt động Kim Young-sam dẫn đầu, người sau này trở thành Tổng thống. Đặc biệt nhấn mạnh về chi tiết ông Roo Moo-hyun xin lỗi nhân dân qua truyền hình vì làm nhân dân thất vọng. Phim ảnh, truyền hình, ca nhạc, văn nghệ phải lấy hình tượng biết hổ thẹn của ông Roo Moo-hyun làm cảm hứng sáng tạo. Cử đoàn Việt Nam đi sang Hàn Quốc tìm cách học tập bí quyết hổ thẹn của chính khách. Có thể tham khảo thêm trường hợp của Tổng thống Trần Thủy Biển - Đài Loan, Thủ tướng Thaksin - Thái Lan, vân vân. Ban chỉ đạo chiến dịch quyết định tại tất cả các công sở phải có một tượng bán thân Tổng thống Roh Moo-hyun đặt ở vị trí trang trọng, cử nhân viên nhang khói, hoa quả tươi quanh năm. Tượng hoặc chân dung nên thể hiện lúc ông Roh Moo-hyun trong trạng thái đau buồn. Hàng tuần tất cả các công sở phải có báo cáo về ban chỉ đạo về tiến độ học tập gương sáng, những đồng chí đảng viên nào có biểu hiện biết đỏ mặt, biết ngượng ngùng sẽ được nêu cao thành tích, nhất thiết phải lấy đồng chí đó làm nhân tố để nhân rộng toàn cơ quan. Thường xuyên mở các đợt tham quan hẻm núi Bonghwa Việt Nam. Phải có chế độ khen thưởng hậu hĩnh cho các đồng chí đang thử tập nhảy, tất nhiên chỉ nên nhảy ở độ cao vừa phải, hết sức tránh gây sốc không đáng như cú nhảy của Tổng thống Roh Moo-hyun. Ban chỉ đạo chiến dịch cũng chỉ đạo cho phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân gấp rút cho soạn sách giáo khoa về cuộc đời Roo Moo-hyun, phải nêu bật tấm gương “hổ thẹn” cho các thế hệ thầy giáo, sinh viên - học sinh Việt Nam. Đồng thời đưa các bài diễn văn xin lỗi của ông này làm bài “văn mẫu”. Tất cả các trường lớp tại Việt Nam phải có câu khẩu hiệu: “Sống, lao động, học tập và hổ thẹn theo gương Roo Moo-hyun”. Kể từ ngày ra Nghị quyết và phát động chiến dịch lớn này, mọi đảng viên, công chức, quân đội… phải nghiêm chỉnh chấp hành. Mọi biểu hiện không quán triệt, không chấp hành sẽ bị xử lý tối đa. Nghiêm cấm mọi hành vi gian dối như vờ đỏ mặt, giải phẫu dây thần kinh xấu hổ, đi mỹ viện mài bớt da mặt… Nghị quyết này sẽ được chỉnh lý tùy vào tình hình thực tế diễn ra. Ban chỉ đạo chiến dịch có thể thay đổi bất cứ điều nào, câu văn nào trong Nghị quyết mà không cần báo trước. Nhã Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 18:34:51 GMT 9
Sự thật về hình tượng Lê Văn Tám Thư mục: Tổng hợp ."Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực" - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh sau khi giải thích về hình tượng nhân vật Lê Văn Tám. GS Trần Huy Liệu căn dặn chúng tôi phải nói lại "Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám" - GS Phan Huy Lê. Bấy giờ là vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi có nhiều dịp làm việc với GS Trần Huy Liệu trong công trình khoa học do GS chủ trì và tôi được mời tham gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, kiêm Viện trưởng Viện sử học. Ngoài những buổi họp ban biên soạn ở cơ quan, tôi có một số buổi làm việc với GS tại nhà riêng. Ngoài công việc biên soạn công trình, GS thường trao đổi một cách thân tình những vấn đề thời sự sử học trong và ngoài nước, kể lại một số chuyện trong đời hoạt động cách mạng của mình. Trong những năm 1954 - 1956, khi tôi đang học ở trường Đại học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, GS Trần Huy Liệu có đến giảng một số bài về cách mạng Việt Nam. Về câu chuyện Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 - 1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét. GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm. Tôi nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch. GS giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám. Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta. Cũng xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28 - 8 - 1945 đến ngày 1 - 1 - 1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1 - 1 - 1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2 - 3 - 1946, nghĩa là trong thời gian xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy, chứ không phải trong thời gian “1946 - 1948?” sau sự kiện trên. Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử. GS Trần Huy Liệu là một con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến và tôi lĩnh hội lời dặn của GS như một trách nhiệm phải thực hiện một cách nghiêm túc. Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học. Ngày nay, từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại, trong hoàn cảnh chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ hơn 30 năm, đất nước đã giành lại độc lập, thống nhất, tôi xin đặt ra hai vấn đề sau đây để thế hệ chúng ta cùng bàn luận. - Xác minh rõ sự kiện Kho xăng địch bị đốt cháy trong tháng 10-1945. - Thái độ ứng xử đối với biểu tượng Lê Văn Tám. Vấn đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm tư liệu đáng tin cậy để xác định rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng 10-1945: Tôi nói tư liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không phải là các sách báo viết về sau này, mà là tư liệu gốc khai thác từ nhân chứng lịch sử hay những thông tin trực tiếp từ sự kiện thời bấy giờ và dĩ nhiên đều phải đối chiếu, xác minh một cách khoa học. Nhân chứng lịch sử: Tôi đã có dịp hỏi GS Trần Văn Giàu - lúc đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam bộ, thì GS khẳng định có sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết ai tổ chức và người nào thực hiện. Nhà cách mạng lão thành Dương Quang Đông trong hồi ký viết rằng, người đốt Kho đạn Thị Nghè ngày 1-1-1946 không phải là Lê Văn Tám mà là tổ đánh mìn của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán (tạp chí Xưa & Nay số 154).
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 18:35:47 GMT 9
Tư liệu báo chí:
Tư liệu báo chí lúc bấy giờ thì tại Thư viện quốc gia Hà Nội lưu giữ được rất ít, các số báo lại không đủ. Bước đầu tôi mới tìm thấy thông tin liên quan với Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy trong báo Quyết chiến là “cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân”, tòa soạn đặt ở phố Nguyễn Tri Phương, Thuận Hóa; báo Cờ giải phóng là “cơ quan tuyên truyền cổ động trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương” và báo Thời mới do Nguyễn Văn Luận làm Chủ nhiệm; nhưng các số không liên tục, không đủ.
Báo Quyết chiến số ngày thứ sáu, ?- 10 - 1945 đưa tin dưới tít lớn Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình đốt cháy kho dầu Simon Piétri với nội dung như sau: “Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình tự làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm hai ngày.
Đài Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối 17 - 10 công nhận rằng kho dầu này đã hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt hại đến mấy chục triệu đồng”.
Ngày phát hành số báo, in ngày “thứ sáu”, số ngày không rõ và có người viết thêm bút mực con số 7, tiếp theo là tháng “10 - 45”. Theo lịch năm 1945, trong tháng 10 có 3 ngày thứ sáu là ngày 12, 19 và 26. Trong bản tin có nhắc đến buổi phát thanh của Đài Sài Gòn ngày 17, vậy ngày thứ sáu của tờ báo phải sau ngày đó và có thể xác định là ngày 19 - 10 - 1945.
Báo Thời mới số 6 ngày 28 - 10 - 1945, nhân lễ khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội sinh viên cứu quốc tổ chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo lời kể của một người từ Nam Bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau: “Một người bạn tôi ở Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe mắt thấy ở Nam Bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh dũng đó. Thứ nhất là chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-săng và cao su sống ở Sài Gòn.
Có người nói rằng nhà chiến sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông giầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự châm mình như một cây đinh liệu, xông vào kho cao su sống kia. Không phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho.
Thực ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu nhiều lắm. Trước khi vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc giặc Pháp canh phòng không cẩn thận, trèo lên những cái cây to ở xung quanh kho cao su, bắn tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến sĩ, nhằm chính lúc cơ hội thuận tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng liên thanh, bò qua tường vào trong kho cao su tìm bắn những người Pháp. Chúng bâu lại như đàn ruồi.
Chiến sĩ Việt Nam biết không thể làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những thùng ét-săng ở hai bên, ét-săng tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một mồi riêm vào người, nhảy lên đám thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ.
Trong lúc đó, cả mình mẩy anh bừng bừng lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho đến khi gục nằm xuống như một đấng thiên thần hiện ra rồi mờ đi trong giấc mơ dữ dội. Những người đứng xa ngoài ba mươi cây số còn trông thấy ngọn lửa đám cháy này và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp và phái bộ Anh không thể nào rập tắt”.
Báo Cờ giải phóng số ra ngày 25-10-1945, đưa lên trang đầu hình ảnh một người đang bốc cháy xông về phía trước kèm theo lời “Tinh thần anh dũng của đồng bào Nam Bộ muôn năm”.
Báo Cờ giải phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm: "trích đăng một vài tấm gương xung phong anh dũng đã được nêu lên trên mặt báo chí miền Nam”, có đoạn đưa tin: “Trước kho đạn Thị Nghè có rất đông lính Anh, Ấn, Pháp gác nghiêm ngặt, khó bề đến gần phóng hỏa.
Một em thiếu sinh 16 tuổi, nhất định không nói tên họ, làng, tình nguyện ra lấy thân mình làm mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn tuế”, chân chạy đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra như mưa. Một lần trúng đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luồn vào.
Lính Anh khiếp đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho đạn Thị Nghè của giặc”.
Dưới bản tin có ghi chú “Kèn gọi lính, ngày 8 - 10 - 1945”. Như vậy báo đưa tin theo tin của báo Kèn gọi lính ngày 8 - 10 - 1945 và theo đó, kho đạn bị đốt cháy phải trước ngày 8 - 10 - 1945, ít ra là ngày 7-10-1945.
Trên đây là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự kiện liên quan đến chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan tâm đến chuyện này có thể tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà tôi chưa được tiếp cận.
Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.
Trong những báo trên, thông tin sớm nhất là "Kèn gọi lính" do báo Cờ giải phóng trích đăng ngày 5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ theo đoạn trích của Cờ giải phóng. Theo thông tin này thì “một em thiếu nhi 16 tuổi” đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải kho xăng Thị Nghè.
Báo Quyết Chiến ngày 19? - 10 - 1945 lại đưa tin “kho dầu Simon Piétri” bị “một chiến sĩ ta” đốt cháy vào trước ngày 17 - 10 - 1945. Kho đạn ở Sở thú và kho xăng ở Thị Nghè là hai địa điểm gần nhau. Như vậy theo những thông tin gần thời điểm xảy ra sự kiện thì vẫn còn phải tìm thêm cứ liệu để xác định là kho đạn hay kho xăng và thời điểm là ngày nào, chắc hẳn trước ngày 17 - 10 - 1945.
Rồi người thực hiện là “em thiếu nhi 16 tuổi” (Kèn gọi lính) hay “một chiến sĩ ta” (Quyết chiến) hay “anh dân quân tẩm dầu vào người” (Thời mới). Việc tẩm xăng vào người, lúc đó cũng đã gây ra sự bàn luận.
Thời mới đã bác bỏ chuyện người chiến sĩ tẩm dầu vào người xông vào kho xăng vì “không phải thế, làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho” và cho rằng người chiến sĩ phải “dùng mưu nhiều lắm” để lẻn vào gần kho xăng rồi mới “tẩm dầu vào người”, dùng súng bắn thủng các thùng xăng và châm diêm vào người, nhảy vào đám thùng xăng. Không biết tác giả dựa trên căn cứ nào nhưng về khách quan, cách trình bày này hợp lý hơn.
Với những thông tin đã tập hợp, tuy chưa đủ và còn một số khía cạnh chưa xác minh được (kho xăng hay kho đạn, thời điểm, người đốt) nhưng sự kiện kho xăng (hay đạn) của địch ở Thị Nghè (hay gần Thị Nghè) bị ta đốt cháy là có thật.
Ngay lúc đó, trên báo chí đã xuất hiện những thông tin khác nhau về người đốt và cách đốt kho xăng, tuy nhiên có điểm chung là gắn với hình ảnh một chiến sĩ tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch và không có tên Lê Văn Tám hay tính danh của người chiến sĩ đã hi sinh.
Điểm lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng “ngọn đuốc sống” gắn với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám.
Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám”:
Trong bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” đã đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới một “biểu tượng”, một “tượng đài” yêu nước. Tôi quan niệm hoàn toàn khác.
Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ nhiên, với trách nhiệm công dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ thể nào đó liên quan đến bí mật quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của dân tộc, nhà sử học chưa được công bố.
Về nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học càng khách quan và trung thực, càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận thức lịch sử đúng đắn và không có gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch sử, các tượng đài yêu nước có giá trị được nhân dân tôn vinh.
Ngay đối với những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Con Rồng-Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần An Dương Vương, vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên cứu khoa học chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử của biểu tượng.
Ví dụ những phát hiện khảo cổ học về đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn, kho mũi tên đồng ở Cổ Loa và gần đây, hệ thống lò đúc mũi tên đồng ngay trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn cốt lõi lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai trò của nỏ thần của An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm vẫn nguyên giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi việc nghiên cứu giống rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...
Biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám.
Đó không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.
Tôi nghĩ rằng tất cả các đường phố, trường học, công viên... mang tên Lê Văn Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng với nội dung giải thích đúng sự thật và ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên lý lịch Lê Văn Tám như một nhân vật có thật rồi có người lại nhận là hậu duệ của nhân vật này.
Đến đây, tôi đã làm tròn trách nhiệm đối với lời dặn của cố GS Trần Huy Liệu, kèm thêm một số đề xuất để xử lý câu chuyện Lê Văn Tám. Tôi hoàn toàn không coi đấy là việc làm trái với phẩm chất trung thực hay lương tâm của nhà sử học, cũng không ảnh hưởng đến uy tín của GS Trần Huy Liệu và càng không làm đổ một biểu tượng hay tượng đài yêu nước. Tôi nhấn mạnh, theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
GS Phan Huy Lê (Bài đăng trên Tạp chí Xưa&Nay số ra tháng 10 năm 2009)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 11, 2012 7:56:25 GMT 9
Y Kien Tranngocthuyvn : Đề nghị Đảng và nhà nước cấp cho Đại Ca Triết áo giáp săt, ngựa sắt, roi sắt để Gióng Triết.. chống con chau giặc Ân đang chiêm biên đảo VN. ... làm như mèo mửa nhưng nói như Thánh " Gióng" .
|
|