|
Post by Can Tho on Apr 15, 2010 9:25:26 GMT 9
Tư Bản Luận - Karl Marx Phạm Văn Tuấn
Tiểu sử Karl Marx
Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản bắt đầu bằng lời xác nhận rằng Lịch Sử của Nhân Loại là “lịch sử của đấu tranh giai cấp” (history of class struggle). Chính sự tranh chấp giữa các giai cấp đã gây nên các hoạt động của xã hội. Trong thời đại La Mã, đã có các giai cấp quý tộc, hạ lưu và nô lệ. Tới thời Trung Cổ của châu Âu, các giai tầng là hầu tước, kẻ bộ hạ, giới chủ nhân nghề nghiệp (guild-master), các kẻ học nghề và giới nông nô (serf). Sang thế kỷ 19, đã có các tranh chấp giữa giới tư sản (the bourgeoisie) với đa số thuộc giai cấp trung lưu thành thị mới, sở hữu các cơ xưởng sản xuất, và giới vô sản (the proletariat) gồm các công nhân làm việc cho các kỹ nghệ sản xuất.
Marx và Engels đã mô tả sự phát triển của giới tư sản là do giới này đã nắm được quyền lực chính trị cùng với sức mạnh kinh tế nhờ vào nền kỹ nghệ sản xuất. Do bành trướng thị trường, giới tư sản đã thiết lập được các mạng lưới mậu dịch nhờ đó mang về các nguyên liệu rẻ tiền đồng thời giới tư sản này siết chặt quyền kiểm soát tư bản, các phương tiện sản xuất và trao đổi. Sự bành trướng kỹ nghệ đã khiến cho gia tăng giai cấp công nhân vô sản, họ là những người giỏi làm việc hay không có tay nghề, và gồm cả các phụ nữ. Một số người thuộc tầng lớp thấp kém của giai cấp tư sản cũng dần dần tham gia vào giai cấp vô sản đang lớn mạnh này.
Theo Marx và Engels, trước các bóc lột, giới vô sản sẽ tham gia vào các nghiệp đoàn để đòi hỏi tăng lương. Các vụ rối loạn đôi khi xẩy ra, nghiệp đoàn có khi bị coi là bất hợp pháp nhưng các công nhân dần dần đoàn kết lại, để chống lại các kẻ đàn áp. Sẽ có một cuộc cách mạng, chế độ mới được gọi là “cộng sản”, sẽ kiểm soát chính quyền vì quyền lợi của giới vô sản. Trong xã hội cộng sản này, quyền tư hữu sẽ bị bãi bỏ, các nhà máy và các phương tiện sản xuất sẽ thuộc về Nhà Nước (state). Nhà Nước kiểm soát ngân hàng, nền kinh tế, các phương tiện giao thông và truyền thông. Nhà Nước chăm lo công việc giáo dục. Sẽ có thuế nặng để chi trả các chi phí nhưng mục đích của các hoạt động xã hội là sự an lạc của giai cấp lao động, giai cấp này lớn mạnh dần khiến cho sẽ không còn sự phân biệt giai cấp nữa và mọi người sẽ “làm việc theo năng lực, hưởng thụ theo nhu cầu”.
Những lời tiên đoán của Marx và Engels đã bị chứng minh hoàn toàn sai, bởi vì sau khi chế độ cộng sản lan tràn tại nước Nga và tại phần Đông Âu sau Thế Chiến Thứ Hai, giới đảng viên Cộng Sản đã khéo léo bóc lột nhân dân hơn cả bọn tư bản, đã hưởng thụ mọi đặc quyền đặc lợi một cách kín đáo nhờ tuyên truyền bịp bợm về công bằng trong khi ngoài xã hội, hai tầng lớp “công nhân và nông dân” thực sự vẫn nghèo khổ, vẫn bị bóc lột và khai thác tàn tệ mà không được phép kêu than bởi vì mọi tổ chức xã hội do Đảng Cộng Sản độc quyền nắm giữ, mọi sinh hoạt xã hội do bọn Công An canh chừng và theo dõi nghiêm ngặt.
Do quan niệm về Tiến Hóa đã được mọi người quan tâm trong thế kỷ 19, Karl Marx đã dùng lý thuyết về “Đấu Tranh Giai Cấp” để cắt nghĩa lịch sử và tin rằng điều này không thể bác bỏ được. Ngoài ra, một đóng góp khá sâu xa của Karl Marx về kinh tế, lịch sử và các ngành khoa học xã hội là cách phát triển một nguyên tắc được gọi là “Duy Vật Biện Chứng” (dialectical materialism), một danh từ vừa mơ hồ, vừa khó hiểu.
Phương pháp biện chứng (dialectical method) bắt nguồn từ nhà triết học người Đức Georg Wilhelm Hegel (1770 – 1831) chủ trương rằng mọi sự vật đều ở trong trạng thái biển đổi. Sở dĩ có sự tiến bộ là do phản lực của các lực đối kháng. Thí dụ hệ thống thuộc địa của người Anh đối nghịch do cuộc Cách Mạng tại Bắc Mỹ đã sinh ra nước Hoa Kỳ và như vậy “định luật của đời sống là các tương phản do chiến tranh với kết quả là các phát triển”. Chủ đề này đã dẫn Karl Marx tới cách thành lập lý thuyết về Duy Vật Sử Quan (the theory of historical materialism) hay cách cắt nghĩa lịch sử bằng kinh tế. Marx và Engels đã cho rằng “lịch sử của các xã hội hiện hữu là lịch sử của giai cấp đấu tranh. Người tự do và kẻ nô lệ, giới quý tộc và giới hạ lưu, hạng hầu tước và hạng nông nô, giới chủ và giới thợ, tóm lại các kẻ áp chế và các kẻ bị áp chế luôn luôn đối đầu với nhau, họ thường xuyên gây chiến với nhau”.
Trong bài điếu văn nói về Marx, Engels cho biết rõ hơn: “Karl Marx đã khám phá ra một sự việc đơn giản, ẩn nấp dưới sự phát triển ý thức hệ, đó là các con người trước tiên cần tới đồ ăn và nước uống, quần áo và nơi trú ẩn trước khi quan tâm tới chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo. Điều này có nghĩa là việc sản xuất ra các phương tiện sinh tồn và các giai đoạn của cuộc phát triển kinh tế của một quốc gia hay một thời đại, đã tạo nên nền móng của các định chế của quốc gia, cũng như các quan niệm về luật pháp, nghệ thuật và ngay cả các ý tưởng tôn giáo”. Tóm lại, cuộc tranh giành vì đồ ăn và nơi trú ẩn rõ ràng xác định mọi hành động của con người.
Theo Karl Marx, lịch sử của nhân loại bao gồm các bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp kia. Trong thời tiền sử, chỉ có các bộ lạc, đây là loại xã hội không giai cấp nhưng cũng theo Marx, các giai cấp lớn dần theo thời gian, đầu tiên xuất hiện các nô lệ rồi các nông nô, kế tới là giới nô lệ không tài sản và lãnh lương trong chế độ tư bản. Áp dụng lý thuyết Duy Vật Biện Chứng, Karl Marx kết luận rằng bước tiến không tránh khỏi là một cuộc cách mạng của các công nhân, là “nền độc tài của giai cấp vô sản” rồi tới quyền sở hữu cộng đồng và sự quay về cách tổ chức một xã hội không giai cấp. Trong cuốn “Tư Bản Luận”, Marx đã làm phát triển một trường hợp chống lại hệ thống tư bản để chứng minh rằng chế độ này về sau sẽ bị tiêu diệt, một điều không tránh khỏi.
Những người Cộng Sản coi sự đóng góp quan trọng thứ hai của Karl Marx vào nền khoa học xã hội là “lý thuyết về giá trị lao động” (the theory of labor value). Thực ra, căn gốc của lý thuyết này cũng không phải của Karl Marx. Dựa theo các nhà kinh tế của các thời đại trước như Adam Smith và David Ricardo, Marx xác nhận rằng lao động là nguồn gốc của mọi giá trị. Marx đã dẫn chứng lời nói của Benjamin Franklin theo đó “một cách tổng quát, mậu dịch là sự trao đổi giữa các lao động, giá trị của mọi thứ được đo lường bằng lao động”. Từ Adam Smith, Marx đã mượn định nghĩa về tư bản như sau: “tư bản là một lượng lao động được lưu trữ”, còn Ricardo đã từng nói rằng giá trị (value) và giá tiền (price) của bất cứ một vật dụng nào phải được xác định theo số lượng lao động bên trong.
Dùng các tiêu chuẩn kể trên, Karl Marx làm phát triển lý thuyết về “giá trị thặng dư”, vấn đề này được xác định trong cuốn sách “Phê Bình nền Kinh Tế Chính Trị Học” (Critique of Political Economy, 1859) và cũng được xét lại trong tác phẩm “Tư Bản Luận” theo đó người công nhân vì không có tài sản nên chỉ có một thứ hàng hóa (commodity) để bán hầu mong tránh khỏi bị chết đói, đó là sức lao động của chính mình. Chủ nhân đã mua thứ hàng hóa này với giá rẻ mạt, vì vậy giá trị thực của sức lao động không đúng theo số tiền lương đã trả cho người công nhân. Người công nhân được trả 4 xu do làm việc 6 giờ, nhưng đã bị bắt buộc lao động trong 10 giờ. Số 4 giờ dư này đã bị giới tư bản ăn chặn. Karl Marx lý luận rằng vì vậy, lợi tức, tiền lời v.v. đều xuất ra từ sự thặng dư lao động do người công nhân bị bóc lột và như vậy hệ thống tư bản chỉ là một chế độ khai thác và bóc lột giới lao công.
Lý thuyết về giá trị và thặng dư lao động của Karl Marx đã được dùng trong các công tác tuyên truyền và khuấy động. Ngày nay, các nhà kinh tế đã coi lý thuyết này vô giá trị. Một lý do để bác bỏ lý thuyết về sức lao động của người công nhân là việc dùng tới các máy móc (machinery) nhờ đó đã có các thay đổi lớn lao về sức lao động cần dùng. Solomon Bennett Freehof đã viết rằng: “nhà hóa học đã khám phá ra cách làm cho đất đai phì nhiêu gấp 100 lần sức sản xuất của 10 triệu nông dân. Năng suất (productivity) được tạo nên do nhà hóa học”. Một học giả khác lý luận rằng: “người ta lặn xuống nước mò ngọc trai bởi vì ngọc trai có giá trị, ngọc trai có giá trị không vì công sức của thợ lặn”. Karl Marx đã không biết rằng khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, các cách quản lý và tổ chức đã góp phần vào các giá trị (values) và các giá tiền (prices). Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không đồng ý với Karl Marx về cách đo lường giá trị. Các tiêu chuẩn được chấp nhận là sức cầu (demand) và công dụng (utility) của món hàng.
Trở về lý thuyết giá trị thặng dư (surplus value theory), Karl Marx tin rằng các nhà tư bản cố công bóc lột các công nhân bằng cách kéo dài thời giờ làm việc, giảm bớt lương bổng, dùng các lao động rẻ tiền hơn như đàn bà và trẻ em. Karl Marx mô tả như sau: “giới tư bản đã cắt xén người lao động thành một phần của con người, làm giảm giá con người tới mức độ là một thành phần của máy móc, phá hủy những điều thích thú trong việc làm và biến người công nhân thành một dụng cụ đáng ghét. Giới tư bản đã bóp nghẹt các tiềm năng trí thức của người công nhân, làm lệch đi các điều kiện lao động, bắt người công nhân phải sống trong một chế độ độc đoán, khiến cho người công nhân phải thêm giờ làm việc và lôi cuốn vợ con của người công nhân nằm dưới bánh xe khủng khiếp của tư bản”.
Karl Marx nhấn mạnh rằng việc trang bị các máy móc để gia tăng sản xuất không làm dễ dàng cho người công nhân mà còn tạo ra nạn thất nghiệp, nạn khai thác đàn bà và trẻ em; cách sản xuất quá mức các hàng hóa làm mất đi hứng thú của người công nhân trong việc làm. Karl Marx xác nhận rằng “máy móc là vũ khí mạnh nhất để đàn áp các vụ đình công, tức là các vụ nổi loạn của giới công nhân chống lại nền độc tài của giới tư bản. Máy hơi nước là bước đầu tiên của nhà tư bản đạp lên các đòi hỏi của các công nhân. Kể từ năm 1830 có cả một lịch sử các phát minh được dùng làm vũ khí chống lại các vụ nổi dậy của giới công nhân”.
Karl Marx còn cho rằng “sự quá đông dân” (overpopulation) luôn luôn đi kèm với con đường tư bản, khi mà các kỹ nghệ mới được tạo ra, các kỹ nghệ cũ được sửa lại thì hệ thống tư bản cần đến “một đạo quân trừ bị của kỹ nghệ” (an industrial reserve army). Sự thặng dư lao động dẫn tới các suy thoái kinh tế (depressions) và các khủng hoảng (panics). Bởi vì các công nhân bị trả lương tối thiểu, họ không thể mua nổi các sản phẩm mà nhà máy làm ra, các thị trường bị ứ đọng, sức lao động giảm đi và tiếp theo là các suy thoái kinh tế. Trong khi tìm tòi các lối thoát cho các nhà kho chứa đầy hàng hóa, nhà tư bản chuyển sản phẩm sang các thị trường ngoại quốc, cố gắng tìm kiếm các xứ chậm tiến để đổ tháo các hàng hóa mà người công nhân không có khả năng mua vào. Sự cố gắng này và việc tìm kiếm các nguyên liệu rẻ tiền để giữ cho các nhà máy tiếp tục hoạt động đã dẫn tới các xung đột quốc tế và các cuộc chiến đế quốc.
Karl Marx tin tưởng rằng kết quả của các xung đột và rối loạn của chủ nghĩa tư bản là sự gia tăng việc tập trung và độc quyền bởi vì “một nhà tư bản sẽ giết chết các nhà tư bản khác”. Như vậy giới trung lưu sẽ biến đi, các tư bản nhỏ sẽ bị các tư bản lớn nuốt mất và cuối cùng chỉ còn một số nhỏ tư bản gộc đối đầu với giới vô sản là đa số. Lúc này là cơ hội của giai cấp vô sản. Trong cuốn Tư Bản Luận, có đoạn nói như sau: “Trong khi số các tài phiệt lớn giảm dần thì cũng tăng dần số lượng nghèo khó, đàn áp, nô lệ hóa, xuống cấp và bóc lột. Đồng thời cũng gia tăng lòng phẫn nộ của giai cấp lao động, một hạng người mỗi ngày một đông hơn, có kỷ luật hơn, biết đoàn kết và có tổ chức. Sự độc quyền của chế độ tư bản trở thành cách kiềm chế phương pháp sản xuất trước kia đã phát triển. Việc tập trung các phương tiện sản xuất và xã hội hóa lao động đi tới một điểm không thích ứng với lớp vỏ ngoài tư bản khiến cho lớp vỏ này bị vỡ ra từng mảnh. Sẽ vang lên hồi chuông báo tử của nền tư sản và các nhà tư bản sẽ bị tịch thu tài sản”.
Theo Karl Marx, cuộc đấu tranh giai cấp sẽ chấm dứt bằng chiến thắng của giai cấp vô sản. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp này sẽ thiết lập nền độc tài và Karl Marx báo trước rằng “đây là giai đoạn chuyển tiếp tới việc hủy bỏ mọi giai cấp và tới việc tạo ra một xã hội tự do và công bằng”. Karl Marx không nói rõ nền độc tài của giai cấp vô sản sẽ kéo dài trong bao lâu. Đất nước Liên Xô nằm trong tầm tay của chế độ cộng sản độc tài sắt máu hơn 70 năm mà người dân Nga vẫn nghèo đói, vẫn ngạt thở. Hơn nữa Karl Marx rất mơ hồ trong việc mô tả một xã hội không giai cấp mà chỉ nói rằng mục đích chính của xã hội cộng sản là “mỗi cá nhân được phát triển toàn diện và hoàn toàn tự do” theo đúng nguyên tắc cộng sản là “mọi người làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo nhu cầu” (From each according to his abilities, to each according to his needs!)
Giấc mơ không tưởng hoàn toàn đẹp đẽ này rất tương phản với công cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu và vô cùng tàn ác đã từng xẩy ra trong các xứ cộng sản. Ngoài ra Karl Marx còn công bố rằng các tôn giáo cổ xưa như Thiên Chúa giáo, đã dạy cho mọi người cách cam chịu số mệnh, khuyến khích các đức tính nhẫn nhục và khiêm tốn, vì vậy Karl Marx coi tôn giáo là “thuốc phiện của dân chúng”, đã làm cho giai cấp vô sản mù lòa, không nhìn thấy đường lối phải đi và tôn giáo đã đặt các chướng ngại trên con đường cách mạng.
Theo thực tế, lý thuyết và các tiên đoán của Karl Marx đã hàm chứa các sai nhầm căn bản bởi vì chế độ tư bản đã đi theo một con đường khác, bởi vì trong khi xã hội tư bản phát triển thì các sửa chữa vẫn được thực hiện. Tại các quốc gia tư bản, giai cấp công nhân đã không bị nghèo đói. Các nghiệp đoàn lao động và các luật lệ của chính quyền đã kiểm soát sự cạnh tranh, loại bớt các bất công và các xấu xa của chế độ tư bản, mang lại sự phong phú cho mọi người. Karl Marx đặt hy vọng vào tình đoàn kết quốc tế của các công nhân trên toàn thế giới nhưng thực tế cho thấy đã xẩy ra các trận chiến cục bộ giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và Trung Cộng, giữa Trung Cộng và Việt Cộng, giữa Việt Cộng và Khmer Đỏ, và các xung đột giữa các xứ cộng sản như Liên Xô và Nam Tư, Liên Xô và Albany. Karl Marx cũng tiên đoán rằng các cuộc cách mạng vô sản sẽ bùng nổ tại các quốc gia kỹ nghệ cao như nước Anh, nước Đức, Hoa Kỳ v.v. trong khi Liên Xô và Trung Quốc bị Karl Marx khinh rẻ, không coi là các nơi thích hợp cho chế độ cộng sản. Nhìn lại lịch sử của Liên Xô, mọi người thấy rằng quốc gia này không phải là một đất nước Cộng Sản và Stalin không phải là một con người Cộng Sản theo như Karl Marx đã định nghĩa, và các lãnh tụ Cộng Sản kể từ Lenin đã dễ dàng tuyên truyền Chủ Nghĩa Mác Xít hơn là thực hiện đúng theo chủ nghĩa này, cho nên có người đã nói rằng “nếu Karl Marx sống vào thời Stalin, ông ta sẽ chết sớm”.
Tập sách đầu tiên của Bộ “Tư Bản Luận” được xuất bản vào năm 1867, đã được coi là “Thánh Kinh của giai cấp lao động”. Sau khi Karl Marx qua đời vào năm 1883, Fredrick Engels đã thu thập các tài liệu của Marx một cách thiếu đầy đủ, thiếu xếp đặt phân minh rồi Tập II ra đời vào năm 1885 và Tập III vào năm 1894. Hai tập sách này đề cập tới “sự lưu thông của tư bản” (the circulation of capital) và phương pháp sản xuất của chế độ tư bản. Đối với 3 tập sách, nhiều người chỉ đọc Tập I và danh tiếng của Karl Marx nhờ vào tập sách này. Ngoài ra Karl Marx còn viết ra tập thứ tư, tên gọi là “Lý thuyết của Giá Trị Thặng Dư” (The Theory of Surplus Value) do Karl Kautsky biên tập từ các bản thảo của Karl Marx và xuất bản tại nước Đức từ năm 1905 tới 1910.
Cuốn “Tư Bản Luận” (Das Kapital) là một cuốn sách khó hiểu. Nhà phê bình Barzun đã mô tả cuốn này là “viết dở, thiếu thứ tự, thiếu lý luận và tính đồng nhất về tài liệu”. Nhà sử học William Henry Chamberlin bình luận rằng phương pháp Duy Vật Sử Quan của Karl Marx đã bỏ qua các yếu tố quan trọng như sắc dân, tôn giáo và đặc tính quốc gia, đã không kể tới sự quan trọng của bản chất con người. Một nhà phê bình khác nhận xét rằng Karl Marx gây nên nhiều chết chóc, nghèo khổ, suy thoái và thất vọng cho nhân loại, nhiều hơn tất cả các nhà tư tưởng khác. Theo Thomas Patrick Neill, Karl Marx là “lãnh tụ đại diện cho các kẻ không có gì (the have-nots) trong công cuộc chống lại các kẻ có tài sản (the haves)”. Karl Marx thôi thúc lòng tham vọng và ghen tuông về quyền lực, chủ trương phá bỏ nền đạo lý đương thời, bởi vì ông ta quá kiêu căng, nhiều ghen tức.
Karl Marx vì sống trong cảnh nghèo túng, đã nói lên các bất công trong xã hội tư bản khiến cho xã hội này phải sửa chữa các sai lầm; mặt khác, lý thuyết của Karl Marx có sức tàn phá ghê gớm, đã từng giết hại hàng chục triệu con người vô tội trong chính các xứ cộng sản do chủ trương “đấu tranh giai cấp”.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:46:40 GMT 9
Nguyễn Ước Ba mươi triết gia Tây phương (“Phần đọc thêm” của cuốn sách Ðại cương Triết học Tây phương, sắp xuất bản) 1. Socrates (469 tr.C.N. – 399 tr.C.N.)
Triết gia Hi Lạp. Người thành Athens. Socrates được xem là người khai mở thời kỳ thứ hai của triết học Hi Lạp và bắt đầu triết học Tây phương từ gần 25 thế kỷ nay. Có người so sánh ông với Khổng Tử, vị vạn thế sư biểu Á Đông. Nổi tiếng vì quan điểm nhìn triết học như cuộc tìm kiếm thích đáng và thiết yếu cho mọi người có trí tuệ, ông là gương mẫu vĩ đại và có tính lịch sử của một người sống theo niềm tin, sứ mệnh và nguyên tắc của mình cho dẫu phải trả giá bằng mạng sống, vì cái chết lúc ấy chỉ như một cam kết bảo đảm cho chân lý của lời mình phát biểu. Những gì hậu thế biết về con người và lời giảng của Socrates đều gián tiếp qua các đối thoại, khi rõ nét khi thấp thoáng, của Platon và cuốn Memorabilia của Xenophon; cả hai đều là môn đệ ông. Bất chấp những thông giải không giống nhau về lời giảng của sư phụ, tường trình của hai tác giả ấy bổ sung nhau trên một qui mô lớn, biến con người và niềm tin của Socrates trở thành bất tử. Socrates là con của Sophroniscus, một người tạc tượng. Người ta nói rằng những năm mới vào đời, ông theo nghề mỹ thuật của phụ thân. Tới tuổi trung niên, ông kết hôn với Xanthippa, người theo truyền thuyết là một phụ nữ đanh đá dù những chuyện kể về bà ít có cơ sở thực tế xác minh — Will Durant cho rằng bà là người yêu Socrates và rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần. Cũng không thể biết chắc các vị thầy dạy triết cho Socrates là ai, nhưng dường như ông đã làm quen với các học thuyết của Parmenides, Heraclitus, Anaxagoras cùng những người theo thuyết nguyên tử; họ ở trong những vị được hậu thế xếp vào hàng ngũ ‘các triết gia tiền Socrates’. Trước năm 40 tuổi, Socrates nổi tiếng về năng lực trí tuệ. Theo tường trình của Plato về lời biện minh của Socrates trong phiên tòa xử ông, lời sấm ở đền Delphi tuyên bố Socrates là người thông thái nhất Hi Lạp. Trong diễn từ đó, Socrates quả quyết rằng lời sấm nói ông sáng suốt có lẽ là vì ông nhận ra rằng mình chẳng biết gì cả trong khi những người tự xưng thông thái không nhận ra sự ngu dốt của họ. Socrates bắt đầu tin rằng thiên hướng của ông là tìm kiếm minh triết và đức hạnh chân chính để qua đó ông có thể hướng dẫn người dân thành quốc Athens cải thiện đạo đức và trí tuệ. Vì thế, hoàn toàn bỏ sang một bên sinh kế cùng những công việc riêng tư, ông dành trọn thì giờ thảo luận về đức hạnh, công bình, lòng mộ đạo ở bất cứ nơi nào đồng bào ông hằng ngày tụ họp. Ông thường qui tụ quanh mình một nhóm thanh niên và truyền cho họ tình yêu tra vấn, dẫn tới tri thức và công chính. Một số người cảm thấy Socrates cũng lơ là nghĩa vụ công cộng vì ông không bao giờ tìm cách tham chính dù nổi tiếng can trường trong các chiến dịch thời ông đi nghĩa vụ quân sự. Trong công tác tự mình đề ra cho mình như một người châm biếm những kẻ nổi tiếng về chính trị và trí thức của thành Athens, Socrates tạo nên nhiều kẻ thù, Aristophane nhại diễu Socrates trong vở kịch The Clouds (Các đám mây) của mình, và qui cho ông một số khuyết điểm của các biện sĩ, là những người giỏi ngụy luận, nhận thù lao để dạy khoa hùng biện. Dù Socrates thường trêu tức các biện sĩ, nhưng những người kết án ông dường như duy trì một quan điểm chung với Aristophane. Năm 399 tr.C.N., Socrates bị đem ra tòa án Athens xử vì bị cáo giác tội làm hư hoại thanh niên, đặc biệt là những môn đệ hằng ngày ở bên ông, và tội bất kính thần linh thành Athens cùng giới thiệu các thần linh xa lạ. Phiên tòa bị vây phủ các vấn đề chính trị phức tạp nhưng dường như Socrates bị xử như một người bạn và người thầy của hai kẻ đã phản bội Athens là Critias và Aleibiades. Diễn tiến vụ xử án và cái chết của Socrates được mô tả trong cuốn Apology, Crito và Phaedo của Platon với sức mạnh đầy kịch tính. Những giờ đi vào cõi chết của ông được Plato kể lại với giọng cảm động như một bài thơ bi tráng. Bạn đọc Việt ngữ có thể tìm thấy trong cuốn Câu chuyện triết học của Trí Hải và Bửu Ðích (bản dịch từ cuốn The Story of Philosophy của Will Durant). Socrates đóng góp cho triết học một định hướng nhân văn cùng phương pháp mới mẻ tiếp cận tri thức, một khái niệm về linh hồn như tâm điểm của ý thức tỉnh táo bình thường lẫn đặc tính đạo đức và về ý nghĩa vũ trụ như một tinh thần ngăn nắp có chủ ý. Kỹ thuật tra vấn của ông — được gọi là phương pháp Socrates — là yêu cầu người đối thoại định nghĩa các khái niệm có ý nghĩa đạo đức, thí dụ công bình, dũng cảm, mộ đạo, v.v. để cho thấy những mâu thuẩn trong câu trả lời, qua đó phô bày sự ngu dốt của kẻ trả lời, và thúc đẩy phải tra vấn thêm nữa các khái niệm. Phương pháp đó, gọi là biện chứng pháp, cốt ở chỗ dùng hình thức vấn đáp để khảo sát những lời phát biểu, bằng cách tra xét định nghĩa, đào sâu khái niệm, truy nã nội hàm của chúng, với giả định rằng một lời phát biểu đúng không thể nào dẫn tới hệ quả sai. Phương pháp này có thể do triết gia Zeno thành Elea gợi ra từ trước, nhưng được Socrates cải tiến và áp dụng vào các vấn đề luân lý. Socrates thường nhấn mạnh câu châm ngôn khắc trên cửa đền Delphi là ‘Người ơi, hãy tự biết mình’. Khác với những triết gia về trước, Socrates quan tâm chủ yếu các vấn đề thuộc nội tâm con người; ông xem chúng ưu tiên hơn các vấn đề thuộc thế giới vật lý. Học thuyết của Socrates đưa ông tới niềm tin rằng mọi đức hạnh đều qui về một mối, đó là cái thiện, hoặc sự tự am hiểu bản ngã — ‘cái tôi’ chân chính của ta — cùng những cứu cánh của nó qua quá trình diễn tiến cuộc đời mình. Rồi tới lượt tri thức tùy thuộc vào bản tính hoặc yếu tính của vạn vật đúng như chúng hiện hữu, thí dụ hình thái của vật thì thật hơn bản sao mà chúng ta có được từ kinh nghiệm cảm giác. Khái niệm ấy dẫn tới một thế giới quan có tính cứu cánh luận, cho rằng hết thảy các hình thái đều dự phần vào và dẫn tới một hình thái cao nhất, đó là hình thái của cái thiện. Các ý tưởng ấy về sau được Plato trau chuốt tỉ mỉ thành tâm điểm cho học thuyết triết lý của mình. Quan điểm của Socrates thường được mô tả bằng lập trường cho rằng mục đích của tri thức là đức hạnh — tri thức và đức hạnh là một — khiến con người không thể làm điều sai trái một cách chủ tâm. Vì đức hạnh đồng hóa với tri thức nên có thể giảng dạy nó. Nhưng việc giảng dạy ấy không phải là một nghề mưu sinh như các biện sĩ chuyên nghiệp và trá ngụy đem ra dạy bảo. Tuy thế, trước khi đưa chén thuốc độc lên môi, chấp nhận cái chết như một hình thức làm chứng cho chân lý và bảo vệ quyền tự do tư tưởng, dù có thể bỏ trốn sang thành quốc khác, bản thân Socrates không đưa ra câu trả lời dứt khoát làm thế nào con người có thể học hỏi về đức hạnh. 2. Plato (427 tr.C.N. – 347 tr.C.N.)Triết gia Hi Lạp, sở hữu tên Plato do bởi có lần đoạt giải vô địch trong một đại hội điền kinh cấp quốc gia. Ông xuất thân từ một gia đình đại quí tộc, cháu ngoại của Solon, một trong bảy vị hiền triết Hi Lạp và là nhà lập pháp, còn bên nội ông lại thuộc dòng dõi của vị vua Athens cuối cùng là Codrus. Người ta biết rất ít về cuộc thời trẻ của ông ngoài việc từ năm 20 tuổi, ông là một môn đệ tận tụy của Socrates. Sau khi sư phụ qua đời, Plato du hành tới rất nhiều nơi. Từ Mega, Plato du hành sang Cyrene, Ai Cập và Ý. Tại đó, ông đi lại với giáo đoàn Pythagoras và tiêm nhiễm học thuyết của họ. Năm 388, Plato rời Athens sang sống một thời gian trong triều đình của bạo chúa Dionysus Cả ở Syracuse. Bị vị vua ấy ngược đãi, đem bán cho nô lệ, may nhờ nhà hiền triết Annikeris ở Cyrenaique chuộc với giá 20 đồng mines và giải phóng ông. Tới năm 367, ông thành lập trường Academy, với câu châm ngôn treo trước cửa ‘Kẻ nào không thông suốt hình học thì xin chớ vào đây’. Tại đó, ông dạy toán học và triết học cho tới ngày qua đời. Việc dạy học của ông có bị gián đoạn hai lần vì đến thăm Syracuse — vào năm 368 và năm 361 — với vị vua mới và hoài bão vô vọng thực hiện các lý tưởng chính trị của mình ở đảo quốc Sicily. Tác phẩm của Plato truyền lại cho hậu thế dưới hình thức các văn bản đối thoại và thư từ. Một số đối thoại và nhiều thư từ qui cho ông đã được xác minh là thực, một số đáng ngờ. 35 bài đối thoại ấy, hoặc nhiều hơn, của Plato, thường được chia thành 3 nhóm theo 3 thời kỳ của đời ông. Nhóm sớm sủa nhất, được gọi là mang bản sắc Socrates, chủ yếu gồm Apology, ghi lại lời biện hộ của Socrates; Meno, đặt vấn đề có thể hay không thể giảng dạy đức hạnh; và Georgias quan tâm tới bản tính tuyệt đối của ‘phải’ và ‘trái’. Các văn bản sớm sủa ấy trình bày Socrates bằng những cuộc đối thoại minh họa các ý tưởng chính của ông: tính đồng nhất của đức hạnh và tri thức, của đức hạnh và hạnh phúc. Mỗi đối thoại ứng xử với một vấn đề cá biệt nhưng không nhất thiết giải quyết rốt ráo vấn đề ấy. Plato luôn luôn quan tâm tới một vấn đề nền tảng của triết học, đó là đề ra tỉ mỉ lý thuyết về nghệ thuật sống và hiểu biết. Giống như vị đại sư phụ kính yêu, Plato bắt đầu với niềm xác tín vào cấu trúc hòa điệu một cách tối hậu của vũ trụ, nhưng ông đi xa hơn trong nỗ lực thiết lập một lược đồ triết học tổng hợp. Mục tiêu của Plato là trình bày mối tương quan hợp lý giữa linh hồn, quốc gia và vũ trụ. Ðó là chủ đề bao quát của Republic, Phaedo, Symposium, Theaetus, Phaedrus, Timaeus và Philebus, những đối thoại qui mô được ông viết ra trong tuổi trung niên. Cũng trong những đối thoại ấy, Plato triển khai các học thuyết tích cực của mình. Thí dụ tri thức như một hồi tưởng, sự bất tử của linh hồn, sự phân chia linh hồn thành ba thành phần. Và trên tất cả là lý thuyết về các ‘hình thái’ (hoặc các ‘ý tưởng’) thường hằng, tương phản với thế giới vật chất nhất thời của các ‘đặc thù’ (các đối tượng đơn thuần của nhận thức giác quan, ý kiến và niềm tin) cùng thế giới bất biến, phi thời gian, của những cái phổ quát hoặc hình thái (các đối tượng chân chính của tri thức). Trong Republic (Nền cộng hoà), Plato trình bày làm thế nào thao tác của công bình trong một cá nhân, qua cách áp dụng phép loại suy, có thể đưa tới sự am hiểu sâu sắc về thao tác của công bình trong một quốc gia, để từ đó tiến tới theo mô hình quốc gia lý tưởng được ông thành lập bằng khái niệm và cho nó sinh hoạt trong thế giới ý tưởng của ông. (Kể từ giây phút đó, nó trở thành nguồn cảm hứng cho mọi tưởng quốc Utopia được hàng chục triết gia và nhà xã hội thiết lập trong tác phẩm của họ rải rác suốtù hai ngàn năm sau). Tuy thế, theo Plato, không thể am hiểu đầy đủ về công bình nếu không nhìn nó trong tương quan với Ý tưởng về cái Thiện, cái là nguyên tắc tối thượng của trật tự và chân lý. Chính trong đối thoại Republic mà các Ý tưởng nổi tiếng và tiêu biểu cho bản sắc Plato được ông đem ra trình bày dưới hình thức thảo luận. Plato lập luận biện hộ cho thực tại độc lập của Ý tưởng, như một bảo đảm duy nhất cho các định chuẩn đạo đức và tri thức khoa học khách quan. Như đã nói ở trên, trong cuốn ấy và Phaedo, ông mặc nhiên công nhận lý thuyết của mình về các ‘hình thái’ (forms). Các ý tưởng về ‘hình thái’ là các Tổng kiểu thức (Archtypes) bất di bất dịch của mọi hiện tượng nhất thời, và chỉ những Ý tưởng mới hoàn toàn thật, còn thế giới vật lý chỉ sở hữu thực tại tương đối. Các ‘hình thái’ bảo đảm trật tự và trí huệ trong một thế giới đang trong trạng thái biến đổi liên tục và không ngớt. Chúng cung cấp ‘mẫu thức’ (pattern) để từ đó thế giới giác quan rút ra ý nghĩa của nó. Ý tưởng tối thượng là Ý tưởng về cái Thiện mà chức năng và địa vị của nó trong thế giới Ý tưởng tương tự chức năng và địa vị của mặt trời trong thế giới vật lý. Plato thấy mình có sứ mệnh hướng dẫn loài người tới việc nhận ra các hình thái và tới dấu vết của cái thiện tối thượng. Con đường chân chính ấy được gợi ra trong ẩn dụ ‘Cái hang’ nổi tiếng của ông. Trong Republic, con người trong trạng thái chưa được dạy bảo, bị xiềng xích trong thế giới của các chiếc bóng. Tuy thế, con người có thể chuyển động hướng tới mặt trời, hoặc cái thiện tối thượng bằng cách học tập cái được Plato gọi là biện chứng pháp. Biện chứng pháp là khoa học cao nhất, là phương pháp thẩm tra được tiến hành bằng việc chất vấn các giả định, bằng việc giải thích một ý tưởng đặc thù trong tương quan với ý tưởng tổng quát hơn, cho tới khi đạt được cơ sở giải thích tối hậu. Republic, cuốn Utopia đầu tiên trong văn học thế giới, quả quyết rằng triết gia là kẻ duy nhất có năng lực cai trị quốc gia công chính do Plato mô tả, vì qua học hỏi biện chứng pháp, kẻ ấy am hiểu sự hòa điệu của mọi thành phần trong vũ trụ trong tương quan của chúng với Ý tưởng về cái Thiện. Mỗi giai cấp xã hội sung sướng thể hiện chức năng thích hợp với nó: triết gia cai trị, chiến sĩ đánh giặc và người lao động thưởng thức thành quả lao động của mình. Trong Symposium, bản văn có lẽ thi vị nhất trong các đối thoại, con đường dẫn tới cái thiện tối thượng được mô tả như hành động hướng thượng qua những tình nhân chân chính yêu nhau trong tình yêu cái đẹp hằng cửu, được người đời truyền tụng là ‘tình yêu lý tưởng kiểu Plato’. Và trong Phaedo, con đường ấy được Plato nhìn như cuộc hành hương của triết gia đi qua cái chết để tới thế giới của chân lý vĩnh cửu. Trong những đối thoại về sau, có nhiều cuộc dành cho các chủ đề kỹ thuật triết học. Trong đó, quan trọng nhất là Parmenides ứng xử với tương quan giữa nhiều cái khác nhau, và Sophist thảo luận về bản tính của phi hữu thể. Tác phẩm cuối cùng và dài nhất của Plato là Laws (Luật pháp) thảo luận bằng từ ngữ thiết thực về bản tính của quốc gia. Những lời giảng của Plato về học thuyết lý tưởng của ông ở trong số những tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong lịch sử văn minh phương Tây. Suốt hơn hai ngàn năm qua, trong các đối thoại muôn hình muôn vẻ, ông chạm tới hầu hết các vấn đề chiếm lĩnh tâm trí các triết gia đi sau ông, đặc biệt trong thần học Kitô giáo thiên niên kỷ thứ nhất. Plato cũng là một nghệ sĩ vĩ đại; các tác phẩm đầy thi vị và tráng lệ của ông là có chỗ đứng lộng lẫy trong kho tàng văn học thế giới.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:47:41 GMT 9
3. Aristotle (384 tr.C.N. – 322 tr.C.N.)
Triết gia, nhà khoa học và nhà vật lý Hi Lạp. Sinh ở Stagia. Ðôi khi còn được gọi là ‘Aristotle người Stagia’.
Thân phụ của Socrates, Nichomachus, là quan ngự y nổi tiếng của triều đình Macedonia. Năm 367, ông tới Athens và gắn bó đời mình vào trường Academy của Plato cho tới khi vị thầy ấy qua đời. Tại đó, ông viết nhiều đối thoại được tán dương là rất hùng hồn. Nhưng nay chỉ tồn tại vài đoạn tản mác. Năm 347 tr.C.N., ông sang ở Tiểu Á và Mitilene, Leobos. Năm 342 tr.C.N., ông được vua Philip xứ Macedonia mời làm gia sư cho hoàng tử Alexander, người về sau trở thành Ðại đế.
Năm 325 tr.C.N., Aristotle quay lại Athens, mở trường Lyceum. Ðược Alexander Ðại đế hỗ trợ, ông lập thảo cầm viên đầu tiên của loài người để làm cơ sở học hỏi. Tại hai nơi đó, người ta kể rằng thầy lẫn trò trong các buổi học tập đều đi tới đi lui không ngừng. Sau khi Ðại đế Alexander chết sớm (325 tr.C.N.), tại Athens nổi lên phong trào bài xích người Macedonia. Aristotle bị kết tội không sùng bái thần linh. Có lẽ cảm thấy mình sẽ chung số phận với thái sư phụ Socrates, ông bỏ trốn tới Chalcis ở Enbea. Qua năm sau, 62 tuổi, ông tự tử.
Công trình của Aristotle mà hậu thế có được, phần nhiều là những bài giảng của ông do môn đệ ghi chép và đích thân ông duyệt lại. Tới thế kỷ thứ nhất tr.C.N., chúng lại được biên tập thêm lần nữa. Trong số đó, chủ yếu là Organum, gồm 6 luận văn về luận lý học; Physics (vật lý học); Metaphysics (siêu hình học); De Anima (bàn về linh hồn); Nichomachean Ethics và Eudemian (đạo đức học); Rhetoric (khoa hùng biện); và một chuỗi các tác phẩm về sinh học cùng vật lý học. Tới thế kỷ 19, còn tìm được cuốn Constitution of Athens (Hiến pháp Athens), trong đó ông tường trình về chính quyền của thành quốc Athens.
Tại trường Lyceum, Aristotle nhấn cực kỳ mạnh lên sự quan sát trực tiếp thiên nhiên và ông giảng dạy rằng, trong khoa học, lý thuyết phải đi đôi với thực tế. Ông đánh giá triết học là môn học thể hiện sự suy xét sâu sắc và thận trọng các nguyên lý đệ nhất có tính hiển nhiên và bất biến, hình thành toàn bộ tri thức. Ðối với Aristotle, ‘luận lý học là khí cụ cơ bản cho mọi thẩm tra, và tam đoạn luận là chuỗi lập luận mà hết thảy các tư tưởng dựa trên lý tính phải đi theo’. Ông đưa khái niệm phạm trù vào sử dụng trong luận lý học, qua đó, ông dạy rằng thực tại có thể được xếp loại theo vài phạm trù như bản thể (phạm trù đệ nhất), phẩm tính, lượng tính, tương quan, sự ấn định cụ thể trong thời gian và không gian, hành động, đam mê hoặc thụ động, vai trò và hoàn cảnh.
Aristotle cũng giảng dạy rằng tri thức về một sự vật — ở quá bên kia sự phân loại và mô tả nó — đòi hỏi lời giải thích lý do hiện hữu của nó. Ông đề ra bốn nguyên nhân, hay bốn nguyên tắc giải thích: nguyên nhân chất liệu (bản chất làm thành vật ấy); nguyên nhân dạng thức (hình thể dự kiến của nó); nguyên nhân hiệu ứng (tác nhân thúc đẩy hoặc dựng lên nó); và nguyên nhân tối hậu (cứu cánh hoặc chức năng của nó).
Trong tư tưởng hiện đại, người ta xem nguyên nhân hiệu ứng là lời giải thích có tính trung tâm nhưng đối với Aristotle thì nguyên nhân tối hậu đứng ở địa vị chủ yếu. Ông dùng phép rút gọn các nguyên nhân để xét tương quan giữa các dạng thức và vật chất và các kết luận của ông khác biệt sắc nét với Plato. Dạng thức (form) của Aristotle hoàn toàn khác với hình thái (form) của thầy mình. Aristotle tin rằng mọi dạng thức đều hiện hữu bất phân ly và nội tại (ở bên trong) chất liệu của nó — trừ Thượng đế hoặc Ðấng Thiêng liêng. Như thế, trong hệ thống của Aristotle, dạng thức và vật chất cùng nhau lập thành một thực tại cá biệt và cụ thể, trong khi hệ thống của Plato cho rằng thực tại cụ thể cùng nhau chia sẻ một hình thái nhưng không là hiện thân của hình thái mà chỉ là chiếc bóng hoặc bản sao bất toàn của nó.
Aristotle tin rằng dạng thức tác động khiến vật chất chuyển động cùng xác định sự chuyển động ấy như một quá trình để tiềm năng vật chất (vật tự thân – thing itself) trở thành cái thật sự của dạng thức (chuyển động tự thân – motion itself). Như hạt bắp trở thành cây bắp rồi trái bắp, chứ không trở thành cây lúa rồi hạt thóc. Ông cho rằng chỉ duy nhất Thượng đế là dạng thức đơn thuần, như một ‘chuyển động bất động’, như nguyên nhân tối hậu, ngài là cùng đích của toàn bộ sự chuyển động.
Ðạo đức học Aristotle hoàn toàn phản ánh siêu hình học Aristotle. Theo bước Plato, ông lập luận rằng cái thiện và đức hạnh của vật nằm trong cách thế thể hiện bản tính chuyên biệt của nó. Ðối với con người, cái thiện tối thượng là thực hiện thường xuyên và đầy đủ chức năng làm người, đặc trưng con người, cái hợp lẽ với nó. Hạnh phúc (eudaemonia) không phải là sống theo chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) mà là theo đuổi cuộc sống chiêm nghiệm. Aristotle cũng nhấn mạnh khái niệm truyền thống của Hi Lạp xem đức hạnh là trung dung giữa những cực độ.
Cuốn Polictics (Chính trị học) nghiên cứu con người như một hữu thể chính trị, và quả quyết rằng trong khi chu toàn chức năng công dân, con người nhận ra phần đức hạnh nội tại trong con người của nó. Aristotle đề ra quan điểm mỹ học của ông trong cuốn Poetics (Thi học). Thí dụ, bi kịch ứng xử với đau khổ cũng như dũng cảm của con người, vì đấng anh hùng thì phải chiến đấu với người khác, với thần linh và số mệnh; một vở kịch tường thuật những bất hạnh được chấp nhận một cách cam chịu, hoàn toàn không có sự lĩnh hội của nhân vật, thì có thể là một thể văn áo nảo hay một vở kịch thống thiết, chứ không phải là bi kịch.
Sau năm 460 s.C.N., cùng với sự suy tàn của Đế quốc La Mã, tác phẩm của Aristotle bị thất lạc ở phương Tây. Mãi tới thế kỷ 9, ông mới được các học giả A Rập giới thiệu với người Islam, và rồi thần học, triết học, khoa học tự nhiên của người Hồi giáo đều mang sắc thái Aristotle. Thông qua các học giả Hồi giáo và Do Thái giáo, tư tưởng của Aristotle được dẫn nhập trở lại phương Tây trên một qui mô lớn. Người ta phát hiện ở ngay trong những phần còn lại không trọn vẹn của những công trình Aristotle sự phi thường về hạng mục, tính độc đáo, tính hệ thống hóa đồng nhất của nó.
Các tác phẩm của Aristotle từ lúc đó trở thành nền móng cho triết học kinh viện trung cổ; ảnh hưởng lên phần lớn thần học Công giáo La Mã qua Thomas Aquinas, lên triết học Hồi giáo qua Averroes; và quả thật lên toàn bộ truyền thống khoa học và trí thức phương Tây.
Người ta cũng làm sống lại ảnh hưởng của Aristotle trong triết học thế kỷ 20. Lối tiếp cận mang tính cứu cánh luận của ông tiếp tục là tâm điểm của sinh học, nhưng nó đã bị xua đuổi khỏi vật lý học kể từ cuộc cách mạng khoa học trong thế kỷ 17. Công trình của Aristotle trong thiên văn học từng được Ptolemy trau chuốt và ảnh hưởng lên phương Tây đã bị quyết liệt bác bỏ bởi những kết quả thẩm tra của Copernicus và Galileo.
Ngày nay, các tác phẩm của Aristotle được đọc nhiều nhất gồm Metaphysics (Siêu hình học), Nicomachean Ethics (Đạo đức học tặng Nicomachus), Politics (Chính trị học), Poetics (Thi học), De Anima (Bàn về linh hồn) và Organon (Công cụ) – một cẩm nang về lô-gích học. [1]
4. Plotinus (~205 – 270)
Triết gia phái tân-Plato (neoplatonism). Có lẽ sinh ở Lycopolis thuộc miền Thượng Ai Cập, nhưng thuộc một dòng họ La Mã.
Plotinus học ở Alexandria, Ai Cập, thành phố có thư viện lớn nhất thời cổ. Sau đó ông theo đoàn quân viễn chinh của Ðại đế Gordion III đi Ba Tư nhằm thu thập kiến thức. Sống sót, ông quay về định cư ở La Mã (244). Tại đó ông nổi tiếng và trở thành người giảng thuyết xuất sắc cho đại chúng, cổ vũ lối sống khổ hạnh và cuộc sống chiêm nghiệm. Theo ông, chân lý không ở trong các sơ đồ trừu tượng, phải tìm kiếm nó trong mọi cuộc tranh luận cụ thể và nhiệt tình.
Tới năm 60 tuổi, Plotinus dồn mọi nỗ lực để lập cho được một cộng đồng kiểu ‘Cộng hòa’ của Plato tại Campania, một mảnh đất được vua Gallien cấp cho ông. Năm 268, Gallien bị ám sát, uy tín của Plotinus sa sút. Ông lại bị bệnh cùi, hai mắt mù hẳn, chân tay vỡ mủ và qua đời trong cô quạnh.
Hơn năm chục tác phẩm của Plotinus được môn sinh có tên là Porphyry, một người Phoenicia, biên tập và sắp xếp thành sáu loại, trong một bộ sách chín quyển có tên là Ennneads. Chúng lập nền tảng trên đó thuyết tân Plato được hệ thống hóa thành một lý thuyết triết học.
Chủ yếu từ hệ thống triết học của Plato trước đó, cộng thêm một số thành tố của Pythagoras, Aristotle, thuyết khắc kỷ cùng tôn giáo đại chúng và huyền thoại, Plotinus triển khai thành thuyết tân Plato ngay thời buổi xuất hiện các thuyết triết học lớn lao bị lên án là tà giáo. Dù Plotinus là nhân vật trung tâm của thuyết tân Plato, nhưng thầy của ông, Ammonius Saccus (175–242), một người lao động tự học tại Alexandria, có lẽ là kẻ thành lập thật sự. Tuy nhiên, không tồn tại văn bản nào của vị ấy vì các môn đệ thề cùng nhau bảo mật lời giảng của thầy. Plotinus chỉ bắt đầu trước tác, năm 49 tuổi, khi có hai đồng môn bội ước.
Thuyết tân Plato có sức mạnh đứng vững từ thế kỷ thứ 3 s.C.N. cho dù năm 529 khi hoàng đế La Mã Justinian (527–565) đóng cửa trường Academy ở Athens. Từ đó, nó kéo dài ảnh hưởng trong siêu hình học và huyền học phương Tây tới nổi có lẽ chính bản thân Plotinus cũng không tưởng tượng nổi và cũng không thể đoán trước tư tưởng nguyên thủy của mình đã trải qua cuộc chuyển thể tận gốc như thế nào trong bàn tay các đồ đệ.
Mục đích ban đầu của Plotinus là diễn tả triết học duy lý tưởng (idealism) thành một hình thức có hệ thống và như thế, gián tiếp chống lại khuynh hướng khắc kỷ chủ nghĩa và hoài nghi chủ nghĩa đang lẻn vào các thông giải về triết học của Plato. Plotinus bác bỏ nhị nguyên luận về hai cảnh giới riêng biệt của hiện hữu (thiện và ác, vật chất và siêu việt, phổ quát và đặc thù); thay vào đó, ông đề ra một trật tự bao la và duy nhất, chứa đựng mọi thứ bậc và mọi loại khác nhau của cuộc sinh tồn. Tại tâm điểm của trật tự đó là Nhất thể, một thống nhất hoàn toàn đầy đủ và không thể lĩnh hội nổi. Bằng quá trình phóng xuất, Nhất thể ấy nảy sinh Tâm trí Thiêng liêng hoặc Logos (ngôn từ), cái chứa đựng hết thảy các hình thái hoặc trí huệ sống động của các cá thể. Bởi thế, cái chứa đựng Tâm trí Thiêng liêng lập nên sự phản ánh vô lượng tính chất hoàn hảo đồng nhất tính của Nhất thể.
Bên dưới tâm trí thiêng liêng là Linh hồn Thế giới, nối kết các cảnh giới có tính trí tuệ và có tính vật chất. Có ba thực tại siêu việt hoặc thực thể (Nhất thể, Tâm trí Thiêng liêng và Linh hồn Thế giới) nâng đỡ thế giới hữu hình và hữu hạn trong đó gồm con người và vật chất cá biệt. Ðôi khi Plotinus so sánh Nhất thể với nguồn suối trên cao từ đó tuôn trào các cấp bậc thấp hơn của thực tại.
Vũ trụ luận của thuyết tân Plato cũng có những ngụ ý tôn giáo vì Plotinus tin rằng con người có tiềm năng tìm kiếm một cuộc sống trong đó linh hồn cá thể sẽ, qua chiêm nghiệm, hướng lên cấp bậc trí huệ (Tâm trí Thiêng liêng) và rồi qua sự hiệp nhất bí nhiệm, sẽ thẩm thấu vào chính Nhất thể. Trái lại, tình trạng thiếu thốn của hữu thể, hoặc thiếu khát vọng hướng về Nhất thể là nguyên nhân của tội lỗi, vốn bị cho là một phẩm tính từ khước, nghĩa là không tham dự vào sự hoàn hảo của Nhất thể.
Trong thuyết tân Plato, có hai chuyển động thuận nghịch: chuyển động siêu hình của phóng xuất từ Nhất thể, và chuyển động tôn giáo hoặc đạo đức của phản tỉnh quay về Nhất thể qua chiêm nghiệm các hình thái của Tâm trí Thiêng liêng. Trong khi tư tưởng của Plotinus có tính huyền học — nghĩa là liên quan tới cái vô hạn và vô hình bên trong thế giới hữu hạn và hữu hình — phương pháp của ông, từ đầu chí cuối, đâm chồi từ truyền thống nhân văn và luận lý của Hi Lạp.
Nhiều thành tố triết học của Plotinus có xuất xứ từ các triết học trước đó; sự hiện hữu của Nhất thể và lý thuyết đi kèm về các ý tưởng là những khía cạnh trong các văn bản cuối đời của Plato, cách riêng trong cuốn Timaeus, và chủ nghĩa khắc kỷ đã đồng hóa Linh hồn Thế giới với lý trí phổ quát siêu việt. Cái làm cho hệ thống của Plotinus khác biệt là việc cấu trúc có thứ bậc và hiệp nhất các thành tố ấy với lý thuyết về phóng xuất.
Các môn đệ của Plotinus chọn những con đường trệch hướng với ông. Porphyry, người vẫn ở lại La Mã, tạo nên sự sử dụng bao quát nội hàm đạo đức bằng cách giải nghĩa chi tiết tư tưởng duy lý của Plotinus và công kích Kitô giáo nhân danh thuyết ngoại đạo mang bản sắc Hi Lạp. Lamblichus giảng dạy tại La Mã một thời gian rồi quay về Chalcis — nơi qua đời của Aristotle — tại Syria để thành lập ở đó một trung tâm tân Plato chủ nghĩa. Tại trung tâm này, cũng như tại các trung tâm khác ở Athens và Alexandria, các khuynh hướng thần bí của phương Ðông, bao gồm bói toán, nghiên cứu quỉ thần và chiêm tinh học, đều được ghép vào học thuyết tân Plato.
Các khuôn mặt chủ yếu của trường phái này tại Athens là Plutarch Trẻ (350–433) và Proclus, người từ xứ Byzantium đến là viện trưởng trường Academy. Trường phái Athens cuối cùng tụ lại trong Simplicius, người bình giải Aristotle, và Danascius, người ra sức khôi phục tư tưởng nguyên thủy của Plotinus; cả hai đều sống sót khi Academy bị đóng cửa năm 529. Trường phái tân Plato ở Alexandria, gồm phụ nữ Hypatia, thông thái hơn nhưng ít tính lý thuyết hơn các trường phái ngược lại ở Syria và Athens, và tầm quan trọng chính yếu của nó là bình giải Aristotle.
Một số người tân Plato chủ nghĩa ở Alexandria trong đó Synesius nổi bật nhất, trở thành Kitô hữu. Từ đó, thuyết tân Plato có ảnh hưởng sớm sủa lên các nhà tư tưởng Kitô giáo. Những nhà biện giải Kitô giáo như đệ tử Clement thành Alexandria (~150 – ~215) và Origen (~185 – ~254) đã ganh đua với thuyết tân Plato trong thời kỳ phôi thai nhằm kiểm soát di sản của Plato.
Tuy thế, người kết hiệp chặt chẽ triết học ấy với Kitô giáo chính là Augustine, kẻ trước khi cải giáo, đã là người tân Plato chủ nghĩa. Chính qua thuyết tân Plato mà Augustine quan niệm tinh thần như một hiện hữu phi vật chất và nhìn cái ác như một bản thể không có thật (tương phản với học thuyết của phái Manichaea – ‘đạo Mani’). Các văn bản của Pseudo-Dionysus và Anicius Boethius (~480–524) cho thấy các ảnh hưởng của thuyết tân Plato.
Thời trung cổ, người ta lại thấy các thành tố của tư tưởng Plotinus trong Thomas Aquinas và nhà thần học Kitô giáo Ái Nhĩ Lan John Scotus Erigena (~810 – ~877), cách riêng trong sự đồng hóa Nhất thể với Thiên Chúa và Tâm trí Thiêng liêng với các thiên thần. Triết học tân Plato tồn tại và chế ngự phương Tây suốt một thiên niên kỷ, qua Augustine và thần học Kitô giáo.
Hệ thống tân Plato cũng ảnh hưởng lên triết học Do Thái và A Rập thời trung cổ. Siêu hình học của Hegel có pha lẫn các thành tố tân Plato. Siêu hình học và mỹ học tân Plato ảnh hưởng lên thuyết lãng mạn của Ðức, thi ca siêu hình học của Anh thế kỷ 17 và nhà thơ William Blake (1757–1827). Nhiều phong trào thần bí tại phương Tây, bao gồm của Meister Ekhartd và Jacob Boehme (1575– 1624) cũng nợ ít nhiều của người tân Plato chủ nghĩa. Tới thời Phục hưng, hình ảnh Plotinus được Ficino, Pico và một số người khác làm cho sống động trở lại.
5. Augustine (354–430)
Triết gia và nhà thần học Kitô giáo, người Bắc Phi. Tên La-tin là Aurelius Augustinus, hoặc còn gọi là Thánh Augustino.
Augustine sinh tại Tagaste, Numidia, phía nam Hippo, nơi hiện nay thuộc Algeria. Từ đó, ông bắt đầu cuộc sống phấn đấu của một triết gia hành giả, rồi trở thành vị giáo phụ vĩ đại nhất trong bốn giáo phụ Latin của Kitô giáo và để lại ảnh hưởng lớn lao trong triết học phương Tây cùng thần học Kitô giáo.
Tuy được mẹ giáo dưỡng như một Kitô hữu, chàng thanh niên Augustine từ bỏ tập quán ấy khi sang Carthage du học. Ở đó, ông tinh thông khoa hùng biện. Trong cuốn Confessions (Tự thú), ông kể lại, bằng giọng ăn năn, quãng thời gian tuổi trẻ hoang dại tại Carthage với kết quả có với tình nhân một đứa con trai tên là Adeonatus. Vào một thời điểm nào đó ông cải giáo sang Manichea — thường gọi là đạo Mani, một hệ thống tôn giáo khá thịnh hành từ thế kỷ 3 tới thế kỷ 5, chủ trương Satan, cái ác hoặc bóng tối ở trong tình trạng xung khắc thường trực và bất tận với Thượng đế, cái thiện hoặc ánh sáng.
Sau năm 376, Augustine bỏ đi La Mã, dạy khoa hùng biện, rất thành công. Tới năm 384, các tín đồ Mani thúc giục ông sang Milan dạy học. Milan là khoảng thời gian then chốt của đời ông. Không còn tín nhiệm giáo phái Mani, ông tuyên bố từ bỏ đạo ấy sau khi nghiên cứu triết học Plato, thuyết tân Plato và thuyết hoài nghi. Khủng hoảng tâm linh, Augustine bị lôi cuốn mãnh liệt bởi nhiệt tình hùng biện của thánh Ambrose, giám mục Milan.
Kết thúc hai năm sống với tâm trạng hoài nghi sâu xa và rối rắm tinh thần, Augustine đột nhiên đi theo Kitô giáo. Ông làm lễ nhập đạo vào dịp lễ Phục sinh năm 387. Sau đó chẳng bao lâu, ông quay về Tagaste, sống đời tu viện với một nhóm bạn. Năm 391, trong khi thăm viếng Hippo, ông được chọn — ngoài ý muốn của mình — làm linh mục của hội thánh Kitô ở đó. Suốt phần đời còn lại, ông sống ở Hippo, làm giám mục phụ tá năm 395 rồi không lâu sau, làm giám mục. Ông qua đời khi thành Hippo bị quân Vandal bao vây.
Ảnh hưởng của Augustine lên Kitô giáo được nhiều người đánh giá là chỉ đứng sau Phaolô, vị tông đồ thời lập đạo. Các nhà thần học, cả giáo hội Công giáo, Chính thống giáo lẫn Tin Lành đều xem ông là người thành lập thần học. Cuốn Confessions (Tự thú, ra đời khoảng năm 400) được xem là kinh điển của chủ nghĩa thần bí Kitô giáo. Tác phẩm này, nguồn thông tin chính về cuộc đời của Augustine, là một biện hộ cho việc tác giả cải sang Kitô giáo, và được viết với giọng văn tuyệt vời.
Tác phẩm nổi tiếng kế đó là City of God (Thành đô của Thiên Chúa, sau năm 412), một chống trả lớn lao của Kitô giáo trước những lời phê bình nó là tà giáo, đặc biệt nổi tiếng vì quan điểm Kitô giáo được tác giả trau chuốt tỉ mỉ xuyên suốt từng trang sách. Trong đó, Augustine đánh giá toàn bộ lịch sử như một chuẩn bị có tính quan phòng của Thiên Chúa cho hai thành đô bí nhiệm, một của Thiên Chúa và một của quỉ dữ; và toàn thể nhân loại sẽ tối hậu thuộc về thành đô này hoặc thành đô kia. Và cái ác là do bởi sự thiếu cái thiện.
Tác phẩm đơn thuần giáo điều và vĩ đại nhất của ông là On the Trinity (Bàn về Chúa Ba Ngôi), một hệ thống hóa học thuyết Kitô giáo, nhưng phần lớn văn bản ấy có xuất xứ từ các bài luận chiến của ông. Các tác phẩm chống giáo phái Mani, đặc biệt Against Faustus (Chống Faustus), vị thầy Mani cũ của ông, là quan trọng vì nó chiếu rọi lên tôn giáo ấy. Ðể chống giáo phái Donatus ỏ Bắc Phi chủ thương thanh khiết và tái thanh tẩy, Augustine viết hai tác phẩm On Baptism (Bàn về phép rửa tội) và On the Correction of the Donatists (Bàn về sự sửa chữa của người Donatus) trong đó ông công thức hóa một ý tưởng mà kể từ đó, nó trở nên thành phần của học thuyết của Kitô giáo, cho rằng thẩm quyền của Giáo hội Công giáo là một bảo đảm cho Ðức tin Kitô do bởi tính chất chắc chắn của tông truyền — được truyền thừa trực tiếp từ mười hai Tông đồ của Ðức Kitô, đặc biệt Phêrô, giám mục La Mã đầu tiên.
Cuộc tranh luận ngoạn mục nhất mà Augustin can dự là trận đánh chống lại giáo phái Pelagion. Người Pelagion phủ định tội tổ tông và cuộc sa ngã của con người. Quan điểm ấy có hàm ý rằng ân sủng của Thiên Chúa không nhất thiết là bước tiên khởi để hướng tới sự cứu độ, và như thế, nó kích động Augustine, kẻ cho rằng loài người bị hư hoại và không có khả năng tự lo liệu. Trong cuộc luận chiến này, ông viết nhiều luận văn, và sau đó, tiếp tục trau chuốt các ý tưởng ấy.
Từ các văn bản của Augustine, cuộc tranh luận vĩ đại về ân sủng cứ thế tiếp diễn. Và những người tự cho mình đi theo đúng con đường của Augustine, như nhà cải cách Thệ phản người Pháp John Calvin (15091564) và những người theo giáo phái Hà Lan Cornelius Jansen (1585–1638) triển khai thành các thần học có tính tiền định chủ nghĩa. Dù vẫn tôn kính Augustine, nhiều nhà thần học không chịu chấp nhận những phát biểu quá cực đoan của ông về ân sủng.
Một trong các luận văn quan trọng của Augustine, On the Work of Monks (Về công việc của tu sĩ) được dùng rộng rãi trong các tu viện. Ông cũng soạn các tác phẩm bình giải Kinh thánh. Một trong những luận văn đáng quan tâm nhất của ông, được gọi là Retractions (Xóa bỏ), được biên soạn thời cuối đời, như một cách thức duyệt xét các tác phẩm và các quan điểm của mình.
Augustine là bậc thầy về bút pháp, các bức thư của ông nhiều về số lượng, rất cởi mở và bộc trực. Ngày nay, mỗi khi các Hội thánh Kitô giáo gặp tranh luận hay khủng hoảng về thần học, người ta có thói quen tìm về các tác phẩm của Augustine và của các giáo phụ thời sơ khai ấy, để tham chiếu cùng tìm sự soi sáng.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:48:43 GMT 9
6. Thomas Aquinas (1225–1274)
Khuôn mặt vĩ đại nhất của triết học kinh viện và nhà thần học người Ý. Cũng được gọi là Tiến sĩ Thiên thần (Doctor Angelicus).
Sinh tại Rocca Secca, gần Naples, trong một gia đình quan quyền, Aquinas theo học các thầy dòng Bênêdictô (Biển Ðức) tại Monte Cassino rồi Ðại học Naples. Sau đó, cưỡng lại quyết định của gia đình, ông vào dòng Ðôminicô (Ða Minh), làm tu sĩ khất thực (1244). Ông bị các anh em bắt cóc và giam trong một lâu đài của cha mẹ hơn một năm. Cuối cùng, thoát ra được, ông đi Cologne và trở thành môn sinh của Albertus Magnus. Năm 1248, ông cùng thầy đi Cologne, rồi từ đó đi Paris lần nữa và nổi tiếng, trở thành giáo sư thần học rất thành công tại Anagni, Orieto, Rome và Vitenbo.
Aquinas xuất hiện khi giới thế tục tìm cách giới hạn đặc quyền của giới tu sĩ tại các đại học. Sau năm 1259, ông trải qua vài năm ở Ý, làm giáo sư và cố vấn cho Tòa thánh Vatican. Việc ông quay lại Paris có lẽ do gấp rút vì nổi giận với Siger De Brabant và bài đọc của học giả ấy trình bày quan điểm của triết gia Hồi giáo Tây Ban Nha Averroës về Aristotle. Cuộc chiến đấu học thuyết với Siger là biến cố đáng nhớ nhất trong đời Aquinas; chiến thắng ấy có nghĩa rằng lập trường của ông đã khải hoàn.
Năm 1272, Thomas Aquinas rời Paris đi Naples để tổ chức một viện nghiên cứu. Hai năm sau, đang cùng với người bạn lâu năm, Sư huynh Reginald ở Fossanuova, trên đường đi dự Công đồng Lyons với tư cánh cố vấn cho giáo hoàng, Aquinas qua đời, hưởng dương 49 tuổi.
Ngang đây, tưởng nên nói đôi chút về vị triết gia Hồi giáo Averroës. Tên A Rập của ông là Ibn Rushd (1126–1198), người nổi tiếng nhất trong các triết gia Hồi giáo thời trung cổ, còn Averroës là tên gọi theo hình thức Latin. Là quan tòa và bác sĩ ở Córdoba, Seville, nơi ông chào đời, ông sang sống một thời gian tại Marocco, Bắc Phi. Ở đó, ông làm bác sĩ ngự y cho vua Hồi Abu Yusuf nhưng rồi bị trục xuất về Tây Ban Nha vì tình nghi dị giáo. Sau đó, ông được phục hồi và quay lại sống ở Marrakesh cho tới ngày qua đời.
Tác phẩm vĩ đại nhất của Averroës là Commentaries on Aristotle (Bình luận về Aristotle). Những thông giải của ông về Aristotle vẫn ảnh hưởng lâu dài sau khi ông qua đời và trở thành vấn đề suy tưởng lý tính, góp phần dọn đường cho thời Phục hưng. Ông nỗ lực đặt ranh giới tương ứng cho từng lãnh vực đức tin và lí trí, chỉ ra rằng cả hai không cần phải hòa giải vì chúng chẳng xung khắc nhau. Averroës tuyên bố triết học là hình thức thẩm tra cao nhất. Siêu hình học của ông mang sắc thái tân Plato chủ nghĩa, giống y như Avempace, người ông mang nợ trong các ý tưởng về trí thức.
Các học thuyết của Averroës về sự bất tử của cá nhân và sự hằng cửu của vật chất bị Giáo hội Công giáo lên án. Thomas Aquinas tôn trọng Averroës nhưng tấn công cuộc phấn đấu của Averroës khi vị triết gia Hồi giáo người Tây Ban Nha ấy cho rằng chân lý triết học bắt nguồn từ lý trí chứ không từ đức tin. Hầu hết tác phẩm của Averroës được châu Âu biết tới qua bản dịch bằng tiếng La-tin và Do Thái Hi-bru, về sau có ảnh hưởng lên các nhà văn Do Thái giáo, Kitô giáo và cung cấp một tổng hợp từng phần cho hai truyền thống triết học A Rập và Hi Lạp.
Khác với bản tính lầm lì và phong thái chậm chạp, Thomas Aquinas là người diễn giảng xuất sắc, rõ ràng với những tư tưởng bén nhạy, như các tác phẩm của ông cho thấy, với lối lý luận khúc chiết và sử dụng tiếng La-tin giản dị, chính xác đáng phục. Càng khiêm tốn và đức hạnh, ông càng chứng tỏ một cuộc sống tâm linh phong phú và lòng mộ đạo sâu xa. Không một tác phẩm nào vén lộ đầy đủ triết học Aquinas. Có thể xếp loại công trình trước tác suốt 20 năm của ông theo hình thức và chủ đích của từng tác phẩm.
Những cuốn chính là Commentary in the Sentences (Bình luận trong những châm ngôn, 1254–1256), tác phẩm vĩ đại và sớm sủa nhất gồm một tập hợp các bài giảng cho công chúng; bảy quaestiones disputatae (các vấn đề tranh luận công khai, 1256–1271); những bình luận triết học về các tác phẩm của Aristotle như Mỹ học, Siêu hình học, Linh hồn, Vật lý học; một phần của De Interpretatione (Về thông giải), và Posterior Analytics (Phân tích về sau); các luận văn về nhiều chủ đề trong đó có Summa theologica contra Gentiles (Tổng luận thần học chống người ngoài Công giáo, 1258–1260), cũng là Summa philosophica (Tổng luận triết học); và cuốn quan trọng hơn hết là Summa theologica (Tổng luận thần học, 1267–1273), tác phẩm trình bày thần học có tính hệ thống nhưng chưa hoàn tất. Hơn 600 năm sau, năm 1879, Giáo hoàng Leo XIII, trong Thông điệp Aetterni Patris, chính thức tuyên bố triết học của Aquinas là triết học Kitô giáo.
Triết học Aquinas được công khai thừa nhận là mang bản sắc Aristotle với những phương pháp và những phân biệt của người Hi Lạp được thích nghi theo với mạc khải. Thế kỷ 13 là thời kỳ chủ chốt trong tư tưởng Kitô giáo, bị xâu xé giữa những tuyên bố của người theo phái Averroës và những người cực đoan theo Augustine. Aquinas chống đối cả hai trường phái ấy. Người theo Averroës do Siger de Brabant lãnh đạo, tách riêng đức tin và chân lý một cách tuyệt đối, còn người theo Augustine muốn biến chân lý thành vấn đề đức tin.
Aquinas cho rằng lý trí và đức tin lập thành hai cảnh giới hòa điệu trong đó các chân lý của đức tin bổ sung cho chân lý của lí trí; cả hai đều là tặng phẩm của Thượng đế, nhưng lí trí có sự tự quản của chính nó. Như thế, ông biện hộ cho quyền của lí trí chống lại nỗi sợ hãi của những kẻ muốn trấn áp Aristotle, xem ông là tổ phụ của Averroës và dị giáo. Theo Aquinas, nguyên lý đệ nhất của triết học là sự khẳng định hữu thể. Từ quan điểm ấy, ông tiến hành cuộc xem xét thái độ trong đó trí tuệ hiểu biết hữu thể là gì.
Ðối với con người, toàn bộ tri thức bắt đầu bằng con đường giác quan; qua trung gian đó, hắn nắm bắt cái phổ quát, tức là thế giới chỉ có thể nhận thức được bằng trí tuệ. Theo lập trường được cho là chủ nghĩa duy thực vừa phải (moderate realism) của Aquinas, một dạng thức hoặc cái phổ quát có thể hiện hữu theo ba cách: trong Thượng đế, trong vạn vật và trong tâm trí. Chính qua tri thức về vạn vật mà chúng ta đi tới hiểu biết sự hiện hữu của Thượng đế. Trong trật tự thiên nhiên thì chỉ có thể biết Thượng đế bằng loại suy và phủ định.
Niềm xác tín của Aquinas vào việc lí trí có thể phát hiện sự hiện hữu của Thượng đế được chứng minh bằng các chứng cớ của ông về sự hiện hữu của Thượng đế. Phân tích của Aquinas về vấn đề này được tiến hành bằng các khái niệm của Aristotle về tính hiệu ứng và hành động, vật chất và dạng thức, hữu thể và yếu tính. Một vật đòi hỏi phải có vật khác mới trọn vẹn thì được cho là hiện hữu trong hiệu ứng của cái khác; sự nhận ra hiệu ứng ấy được gọi là thực tại.
Vũ trụ được nhận thức như một chuỗi sự vật được sắp xếp theo trật tự hướng thượng hoặc hiệu ứng và hành động, trong cùng một lúc được ban thưởng và được tạo nên bởi Thượng đế, kẻ một mình ngài là hành động đơn thuần. Thượng đế thì bất biến vì biến đổi có nghĩa là đi từ hiệu ứng tới hành động. Và như thế, Thượng đế hiện hữu mà không có bắt đầu cũng chẳng có kết thúc, vì cả hai cái đó đòi hỏi sự biến đổi. Vật chất và dạng thức đều thiết yếu để am hiểu sự biến đổi, vì biến đổi đòi hỏi đồng nhất tính của cái trở thành và cái mà nó trở thành. Vật chất là cái đầu và dạng thức là cái sau. Mọi vật có tính vật lý đều được làm thành bởi vật chất và dạng thức.
Sự khác biệt giữa cái là dạng thức hoặc đặc tính với sự hiện hữu thật sự của nó được biểu hiệu bằng các thuật ngữ yếu tính và hữu thể. Chỉ ở trong Thượng đế mới có sự phân biệt giữa vật chất và dạng thức. Từng cặp một: vật chất và dạng thức, yếu tính và hữu thể, đều là những trùng hợp đặc biệt của hiệu ứng và hành động.
Hệ thống của Aquinas dựa trên ba phân biệt đó. Hữu thể cũng có thể được đặc điểm hóa bằng ‘kiểu thức’ (mode). Kiểu thức không thêm được gì vào ý tưởng về hữu thể nhưng nó là phương cách để làm rõ ràng và dứt khoát cái tiềm ẩn bên trong hữu thể. Theo ý nghĩa nào đó, kiểu thức có nghĩa là sự phân chia hữu thể thành các phạm trù. Theo ý nghĩa khác, nó phô diễn những phân biệt nhất định của hữu thể trong sự chung chia với mọi loại. Theo ý nghĩa này, các kiểu thức được biết như là những cái tiên nghiệm; cùng với hữu thể, một cách chủ yếu, những cái đó là sự hiệp nhất, chân lý và cái thiện. Những từ ngữ ấy có thể hoán đổi cho nhau. Vì cái đối lập của hữu thể không hiện hữu và cái thiện thì đồng hóa với hữu thể, nên đối với Aquinas, thật rõràng rằng cái ác chỉ là sự vắng mặt cái thiện.
Suốt một thời gian dài, Aquinas bị bỏ sang một bên hoặc bị hiểu sai bởi ngay cả những triết gia vĩ đại nhất, nhưng tối hậu, những lời giảng của ông đã khải hoàn. Sự kiện chúng được công nhận chính thức trong Giáo hội Công giáo La Mã không có nghĩa người Công Giáo có thể không bám sát các triết học khác, đặc biệt các lời giảng mang bản sắc Scotus, được triển khai từ học thuyết của Duns Scotus (~1270–1308), người sáng lập trường phái dòng thánh Phanxicô và mở cuộc tranh luận sôi nổi với Thomas Aquinas. Tổng hợp tuyệt vời của Aquinas ngày nay được khái quát công nhận là một trong những công trình vĩ đại nhất của tư tưởng loài người.
Triết học bao quát của ông được áp dụng vào mọi cảnh giới của cuộc sống con người. Thuyết Thomas — Thomist, được gọi cách ấy vì lòng kính trọng thánh vị Aquinô của ông do Giáo hội Công giáo phong — là một cấu trúc toàn vẹn trong chính nó, và không đơn giản là một bộ sưu tập các lý thuyết triết học. Các thuật ngữ tân Thomas và tân kinh viện được dùng để gọi một trường phái triết học trong thế kỷ 20. Các thủ lãnh Công giáo Pháp của trường phái này là Etienne Gilson (1884–1978), sử gia triết học và nhà thần học, và Jacques Maritain (1882–1973), nhà thần học, những kẻ tìm cách áp dụng các nguyên tắc của thuyết Thomas vào các điều kiện xã hội, kinh tế và chính trị hiện đại. Người ngoài Công giáo cũng tìm cách thích nghi các nguyên tắc của thuyết Thomas vào dời sống hiện đại; họ cũng được gọi là những người tân Thomas chủ nghĩa.
Chu Thich
[1]Cách đây nửa thế kỷ, từng xuất hiện một cuộc tranh cãi về nghi án cho rằng toàn bộ các công trình triết học của Aristotle, – và do đó, toàn bộ triết học Hi Lạp cổ đại nói chung –, là kết quả của một quá trình “đạo văn” có hệ thống của Aristotle. Mở màn cho cuộc tranh cãi này là ấn phẩm Stolen Legacy (Một di sản bị đánh cắp), xuất bản lần đầu vào năm 1954, của Tiến sĩ George James, trong đó G. James chứng minh rằng toàn bộ di sản triết học của Aristotle, cùng với những gì vẫn được gọi là “triết học Hi Lạp”, thực chất là thành quả trí tuệ của các dân tộc cổ đại ở Bắc Phi – mà cổ sử vẫn gọi là người Ai Cập cổ (Egyptians). Tuy nhiên, theo nhiều nhà phân tích thì một phần [lớn] những chứng cứ mà G. James đưa ra mang tính suy diễn hoặc chỉ là những hồ nghi về sử liệu. (Chú thích của Ban biên tập talawas.)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:49:58 GMT 9
7. Bacon (1561–1626)
Triết gia, nhà nghị luận và chính khách người Anh. Tên đầy đủ: Francis Bacon.
Bacon chào đời tại Luân Ðôn, theo học Ðại học Cambridge và trường luật Gray’s Inn.Phụ thân ông là nhà quí tộc Nicholas Bacon, chưởng quản của nữ hoàng Elizabeth I. Trong khi làm nghị sĩ quốc hội, Nicholas chống chính sách thuế của nữ hoàng nên sự nghiệp chính trị bị trục trặc. Mãi về sau, Nicholas mới được tái bổ dụng, nhưng chỉ cho làm thành viên không chính thức của Hội đồng Luật gia.
Sự nghiệp chính trị của Francis Bacon bắt đầu năm 1601, khi ông đặt nhiệm vụ quốc gia lên trên tình bằng hữu, chống lại một ân nhân và là bạn thiết. Liền đó ông được bổ nhiệm một vai trò tích cực trong công tố viện, và quá trình ấy khiến ông bị nhiều người chê trách. Khi James I lên kế vị, vận mệnh của Bacon tăng tiến. Ông được phong hiệp sĩ năm 1603, chưởng quản năm 1617 và chánh thẩm tòa án tối cao năm 1618. Cùng năm đó, ông được phong Nam tước Verulam và ba năm sau, 1621, Tử tước St. Albans.
Nhưng vừa nhận tước Tử tước, Bacon liền bị cáo giác nhận hối lộ khi làm chánh thẩm — một tệ nạn thông dụng thời ấy. Ông nhận tội, bị phạt 40.000 bảng, loại khỏi pháp đình, cấm tham chính và tống ngục Tower. Sau đó, hình phat bằng tiền và tù được tái xét. Tuy thế, sự nghiệp chính trị của Bacon chấm dứt. Ông về hưu, dành trọn phần đời còn lại để viết.
Bacon viết cả triết học lẫn văn chương. Ông dự trù một công trình lớn lao. Ðó là bộ sách Instauratio Magna, nhưng chỉ hoàn tất hai phần, cuốn The Advancement of Learning (Tăng tiến kiến thức, 1605) về sau được ông triển khai ra tiếng La-tin thành cuốn De Augments Scientiarum (1623), và cuốn Novum Organum. Người ta còn đồn rằng có một số vở kịch mang tên Shakespeare là do ông viết vì trong đó, có nhiều chi tiết liên quan tới sinh hoạt cung đình trong khi Shakespeare chỉ là dân giả.
Ðóng góp của Bacon vào triết học chính là việc ông áp dụng phương pháp qui nạp của khoa học hiện đại vào triết học, đối lập với phương pháp tiên nghiệm của kinh viện học trung cổ. Ông thúc giục sự thẩm tra triệt để vào mọi trường hợp và tránh việc đặt lý thuyết trên các dữ liệu không thỏa đáng. Nhiều người phê bình Bacon là quá máy móc, không thành công trong việc tiến hành những thẩm tra của chính ông cho tới tận cùng luận lý của chúng, và không bắt kịp kiến thức đương thời.
Tới thế kỷ 19, Thomas Macaulay (1800-1859), sử gia và nhà nghị luận người Anh, phát động phong trào phục hồi uy tín cho Bacon như một nhà khoa học. Ngày nay, những đóng góp của ông được đánh giá với lòng tôn kính đáng kể. Cuốn The New Atlantis (Lục địa Atlantis mới, 1627) là một loại tưởng quốc Utopia khoa học. Các chi tiết của nó được phần nào thực hiện bởi tổ chức Hiệp hội Hoàng gia năm 1660, ba mươi tư năm sau khi tác giả qua đời. Các luận văn Essays (1567–1625), phần lớn có tính cách giảng huấn cách tiếp nhân xử thế, là những bài viết được đại chúng ưa thích nhất. Chúng nổi tiếng nhờ bút pháp sinh động, những quan sát tinh tế và phát biểu đánh động lòng người. Cho đến nay, chúng vẫn được nhiều người dùng làm sách ‘học làm người’.
8. Descartes (1596–1650)
Triết gia và nhà khoa học người Pháp. Tên đầy đủ: René Descates.
Thuở nhỏ, ông theo học trường của Dòng Tên (Jesuits). Sau khi tốt nghiệp Ðại học Poitiers, ông gia nhập quân đội của Hoàng thân Maurice of Nassau. Tới năm 32 tuổi, ông giải ngũ, sống ở Hà Lan. Tại đó, ông dành trọn thời gian để nghiên cứu khoa học, suy tưởng triết học và viết về những thành quả của mình.
Năm 1649, Descartes sang Stockholm để làm gia sư cho nữ hoàng Thụy Ðiển Christina, nhưng không chịu đựng nổi bầu khí nghiêm ngặt của cung đình và khí hậu khắc nghiệt phương bắc. Qua năm sau, ông từ trần vì bệnh sưng phổi, thọ 54 tuổi.
Trước ngày đi Hà Lan, Decartes đã bắt đầu công trình vĩ đại của đời mình. Các tiểu luận về Ðại số và Compendium musicae (Bản tóm lược về âm nhạc) có lẽ nên ghi lùi thời điểm, trước năm 1628. Thế nhưng cả hai xuất hiện năm 1637 với một nhóm các tiểu luận lần đầu tiên được Descates ký bằng tên của ông. Các tiểu luận ấy gồm văn bản danh tiếng Discours de la méthode (Luận về phương pháp), các luận văn về khúc xạ, về sao băng, về hình học phân tích.
Toán học là sở thích lớn nhất của Descartes. Ðược xây dựng trên công trình của những người khác, ông tạo ra các tọa độ Descartes, các vòng cung Descartes, và ông thường được cho là người sáng lập hình học phân tích. Ðối với đại số, Descates đóng góp vào việc giải căn số âm và qui ước ký hiệu mũ. Chính do bởi dự tính mở rộng phương pháp toán học tới mọi lĩnh vực của tri thức mà Descartes triển khai phương pháp luận của ông, và đó là khía cạnh chủ yếu của triết học Descartes.
Vứt bỏ hệ thống thế giá và thẩm quyền của triết học kinh viện, Descartes bắt đầu với sự hoài nghi mọi cái, kể cả những gì ông trải nghiệm vì ông cho rằng các giác quan thường đánh lừa ông. Nhưng có một cái ông không thể hoài nghi, đó là chính sự hoài nghi. Ðây là cốt lõi được ông trình bày trong câu nói danh tiếng của mình: Cogito, ergo sum – Je pense dons je suis: Tôi suy nghĩ, vậy tôi hiện hữu.
Từ tính chất chắc chắn do sự hiện hữu của hữu thể tư duy, Descartes lần bước tới sự hiện hữu của Thượng đế. Ông biện hộ cho sự hiện hữu ấy bằng cách đưa ra bằng chứng dựa trên luận cứ mang tính bản thể luận của Anselm và bằng chứng dựa trên nguyên nhân đệ nhất, cái chắc chắn tạo ra trong người tư duy ý tưởng về Thượng đế. Như thế, trong khi đạt tới sự hiện hữu của Thượng đế, Descartes cũng với tới thực tại của thế giới vật lý thông qua Thượng đế, đấng không lừa dối tâm trí đang tư duy bằng các tri giác vốn là ảo giác.
Do đó, thế giới ngoại tại mà chúng ta đang tri giác phải hiện hữu. Như thế, Descartes rơi trở lại sự chấp nhận là thật những cái được chúng ta tri giác một cách rõ rệt và riêng biệt. Và ông nghiên cứu thế giới vật chất bằng cách tri giác các nối kết của nó. Ông nhìn thế giới vật chất như có tính máy móc chủ nghĩa, hoàn toàn cách ly với tâm trí, cái độc nhất nối kết giữa hai hữu thể bằng sự can thiệp của Thượng đế. Tới ngang đây, quan điểm của Descartes gần như hoàn toàn mang tính nhị nguyên luận.
Trong khoa học, Descartes vứt bỏ truyền thống. Bằng cuộc cách mạng ấy, ông ủng hộ phương pháp giống y như của Francis Bacon, nhưng ông nhấn mạnh sự hợp lý hóa và luận lý học chứ không nhấn mạnh kinh nghiệm. Trong lý thuyết vật lý, các học thuyết của Descartes được đề ra như một thỏa hiệp giữa đức tin Công giáo — ông suốt đời mộ đạo — và các phương pháp khoa học vốn bị người giáo hội thời đó chống đối. Ông viết Traité de l’homme et de la formation du foetus (Luận về con người và sự hình thành bào thai, 1664), một văn bản về sinh lý học.
Thao tác trong tâm lý học, ông khẳng định rằng cuối cùng, cảm xúc đặt nền tảng trên sinh lý học, và ông cho rằng sự phô diễn vật lý của các cảm xúc tự chúng kiểm soát chúng. Tác phẩm chính của Descartes về tâm lý học thì có Traité de passions de l’âme (Luận về những đam mê của linh hồn, 1650); triển khai triết học thì có Meditations de prima philosophia (Trầm tư triết học, 1641); cuốn Principia philosophiae (Nguyên lý triết học, 1664) cũng rất quan trọng.
Ảnh hưởng của Descartes trên triết học thật mênh mông. Người ta thường gọi ông là cha đẻ của triết học hiện đại. Thế nhưng, trong những năm giữa thế kỷ 20, địa vị quan trọng của ông bị thách đố vì có vài học giả chứng minh rằng ông mắc các nhà kinh viện học một món nợ lớn. Bước sang thế kỷ 21, khi tinh thần nhất nguyên của triết học Ðông phương thâm nhập văn hóa Tây phương, Descartes lại bị thách đố sâu sắc hơn.
Descartes ảnh hưởng lên người duy lý chủ nghĩa. Spinoza cũng phản ánh học thuyết Descartes tới một mức độ nào đó. Các môn đồ trực tiếp hơn của Descartes, các triết gia mang bản sắc Descartes tận tụy với vấn đề quan hệ của thể xác và linh hồn, của vật chất và tâm trí. Từ đó, đưa tới học thuyết về cơ hội chủ nghĩa (occationalism), được triển khai bởi triết gia Pháp Nicolas Malebranche (1638–1715) và triết gia Bỉ, Arnold Geulincx (1624–1669). Descartes cũng ảnh hưởng rất rộng trong lãnh vực luật pháp và thần học.
9. Spinoza (1632–1677)
Triết gia người Hà Lan. Tên đầy đủ: Baruch hoặc Benedict Spinoza.
Spinoza thuộc một cộng đồng Do Thái từ Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha di cư sang, để lánh nạn Tòa án Dị giáo. Ðược giáo dục theo phong cách Do Thái giáo chính thống, ông cũng học tiếng La-tin và đọc các tác phẩm của Descartes cùng các nhà văn thuộc thời kỳ khác. Sự độc lập tư tưởng của Spinoza dẫn tới việc ông bị khai trừ khỏi cộng đoàn Do Thái năm 1656.
Cho tới khoảng năm 1660, Spinoza sống gần hay ngay trong thủ đô Armsterdam, nơi sinh quán, và sau đó tại Rijinsburg, Voorburg, và La Hague. Bằng khả năng mài tròng kính tuyệt giỏi, ông sống khiêm tốn, dành thời giờ để triển khai triết học của mình. Dù sống ẩn dật, ông học hành liên tục, trao đổi thư tín rộng rãi, và được nhiều triết gia ghé thăm. Năm 1673, Spinoza được mời làm giáo sư Ðại học Heidelberg nhưng ông từ chối để tiếp tục được sống an tĩnh. Ông qua đời năm 42 tuổi vì bệnh lao, mà rõ ràng ngày càng trầm trọng thêm vì bụi kính khi ông mài.
Các tác phẩm chính của Spinoza đều đã được dịch ra tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Nhật, v.v. kể cả một bản ông viết lại một phần những thuật ngữ được dùng trong công trình của Descartes (1663), cuốn Treatise on Religious and Political Philosophy (Luận về triết học tôn giáo và chính trị, 1670), và tác phẩm quan trọng của ông Ethics (Ðạo đức học), có lẽ viết xong năm 1665 nhưng chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời (1677). Tác phẩm Opera Posthuma của ông gồm cả Political Treatise (Luận văn chính trị), Treatise on the Improvement of Understanding (Luận về cải thiện tri thức), Letters (Thư từ) và Hebrew Grammar (Văn phạm tiếng Do Thái Hi-bru).
Spinoza bắt đầu bằng việc dịch Kinh thánh tiếng Hi-bru, và đó là bản đầu tiên nêu lên những câu hỏi cao cấp về Kinh thánh. Ðược triển khai trong cuốn Ðạo đức học, hệ thống triết học của ông đặt cơ sở trên thuyết duy nhất thể trong đó toàn bộ hiện hữu được gồm trọn trong một bản thể duy nhất, đó là Thượng đế. Ðấng thiêng liêng này, đôi khi được gọi là Thiên nhiên hoặc Tự nhiên, có vô lượng thuộc tính, nhưng chúng ta chỉ biết được có hai: tư tưởng và sự dàn trải.
Do đó, toàn bộ hiện hữu như chúng ta biết, được lĩnh hội trong hai khía cạnh ấy của cuộc sống thiêng liêng. Thuyết phiếm thần của Spinoza không dành chỗ cho tự do, cơ hội hoặc các ý tưởng truyền thống về sự bất tử. Cái đánh động tâm trí con người như cái ác, trong thực tại, là một thành phần của sự hoàn hảo của Thượng đế. Con người được tự do theo ý nghĩa rằng nó có thể hiểu và chấp nhận sự dự phần của nó vào trật tự thiêng liêng, nhưng nó không được tự do khi nó, phát xuất từ mù lòa cá nhân vị kỷ, kháng cự sự thiết yếu đó. Qua ‘tình yêu Thượng đế, có tính trí huệ’, người khôn ngoan đi tới nỗi hân hoan, nhưng Spinoza tin rằng các tôn giáo đại chúng và Kinh thánh có thể thành tựu hạnh phúc phù hợp với con người thông thường.
Spinoza là người sáng lập chế độ dân chủ và thúc giục giáo hội phải lệ thuộc vào quốc gia. Ông bảo vệ quyền tự do bày tỏ ý kiến và trên tất cả, tìm cách giải phóng con người khỏi sự sợ hãi. Trong thời của ông, thuyết phiếm thần dường như là một sự báng bổ, và khi ông còn sống, một số tác phẩm của ông bị cấm xuất bản. Qua các triết gia Gotthold Lessing (1729–1781), Johan G.Herder (1744–1803) và Johann Goethe (1749–1832), Spinoza ảnh hưởng lên chủ nghĩa duy tâm của Ðức.
10. Hume (1711-1776)
Triết gia và sử gia người Tô Cách Lan, Anh. Tên đầy đủ: David Hume.
Là nhân vật dẫn đầu trong thời Khai sáng tại Tô Cách Lan, Hume theo học luật tại Ðại học Edinburgh. Tới năm 1734, ông sang ở La Flèche tại Anjou, Pháp.
Tại Pháp, Hume viết đại tác phẩm A Treatise of Human Nature (Luận văn về bản tính con người, 1739–1740), trong đó ông đúc kết và triển khai di sản thực nghiệm của Locke và Berkeley. Tuy thế, quan điểm của ông chỉ được biết tới rộng rãi khi ông viết hai cuốn Essays on Moral and Political (Tiểu luận về đạo đức và chính trị, 1741–1742), và bản tóm lược cuốn luận văn có nhan đề Enquiry concerning Human Understanding (Thẩm tra liên quan tới hiểu biết của con người) trong đó ông khiêu khích Kant và những người duy tâm chủ nghĩa đang phản bác chủ nghĩa duy nghiệm và chủ nghĩa hoài nghi của ông.
Trong thập niên 1750, Hume viết tác phẩm, được xuất bản sau khi ông qua đời, Dialogues Concerning Natural Religion (Những đối thoại liên quan tới tôn giáo tự nhiên). Chủ nghĩa vô thần của Hume gây trở ngại cho những lần ông thỉnh cầu học hàm giáo sư tại các Ðại học Edinburgh và Glasgow. Ông trở thành gia sư, thư ký, thủ thư tại Thư viện Advocate ở Edinburgh, nơi ông viết cuốn sách có tính đại chúng Political Discourses (Các nghị luận chính trị, 1752) và bộ sách 6 quyển History of England (Lịch sử xứ England, 1754-1762).
Từ năm 1763 tới 1765, Hume làm thư ký cho đại sứ Anh tại Paris, và là khuôn mặt nổi bật trong xã hội Pháp. Sau đó ông về lại Luân Ðôn năm 1766 rồi ở Edinburgh từ năm 1768 cho tới ngày qua đời.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:50:39 GMT 9
11. Kant (1724–1804)
Nhà siêu hình học Ðức, một trong những khuôn mặt vĩ đại nhất trong triết học. Tên đầy đủ Emmanuel Kant.
Ông chào đời tại Konigsberg, lúc đó là Phổ, nay là Kaliningrad thuộc Nga. Ông theo học và gần như sống suốt đời ở đó. Bắt đầu làm gia sư cho vài gia đình, tới sau năm 1775, ông giảng dạy tại Ðại học Konigsberg về triết học cùng vài môn khoa học khác nhau. Tới năm 1770, ông nhận được qui chế giáo sư luận lý học cùng siêu hình học, và nổi tiếng rộng rãi qua các bài giảng và bài viết.
Các tác phẩm xuất bản sớm sủa của Kant thuộc lãnh vực khoa học tự nhiên, cách riêng thiên văn học và khoa học vật lý. Suốt cuộc đời mình, ông xuất bản rất nhiều tác phẩm với các đề tài trong một phạm vi rộng lớn.
Cuốn đầu tay phản ánh những nghiên cứu của ông về Christian von Wolff (1679–1754), và Leibniz, được tiếp theo bằng một giai đoạn triển khai, cuối cùng đạt kết quả trong Critique of Pure Reason (Phê phán lí tính thuần túy, 1781). Tác phẩm cung cấp các luận cứ đánh phá chủ nghĩa duy nghiệm của Hume và trở thành kinh điển ấy, đánh dấu cho cái được hậu thế gọi là ‘giai đoạn chủ chốt’ với những văn bản chính.
Trong số đó, những cuốn quan trọng gồm Prolegomena to Future Metaphysics (Lời giới thiệu siêu hình học tương lai, 1783), Foundations of the Metaphysics of Ethics (Cơ sở siêu hình học của đạo đức học, 1785), Critique of Practical Reason (Phê phán lí tính thực tiễn, 1788), và Critique of Judgment (Phê phán óc suy xét, 1790). Cuốn Religion within the Limits of Reason Alone (Tôn giáo trong các giới hạn của riêng lý trí, 1793), kích động lệnh của chính phủ cấm không cho ông xuất bản thêm sách về tôn giáo. Ông còn viết về chính trị học, và cuốn Perpetual Peace (Hòa bình vĩnh cửu, 1795) cổ vũ một hệ thống toàn cầu của các quốc gia tự do.
Theo Kant, việc ông đọc Hume đã đánh thức ông ra khỏi cơn mê ngủ giáo điều và đặt ông lên đường đi làm một ‘triết gia phê phán’, có thể xem như một tổng hợp đề của chủ nghĩa duy lý của Leibniz-Wolff và chủ nghĩa hoài nghi của Hume. Kant gọi đó là cái nhìn thấu suốt vào bản tính của tri thức, ‘Cuộc cách mạng Copernic trong triết học’.
Thay vì giả định rằng các ý tưởng của chúng ta nếu đúng thì phải phù hợp với thực tại ngoại tại độc lập với sự hiểu biết của chúng ta, Kant đề nghị rằng thực tại khách quan chỉ được biết tới trong chừng mực nó phù hợp với cấu trúc cốt tủy của tâm trí đang hiểu biết. Ông quả quyết rằng các đối tượng của kinh nghiệm — tức là các hiện tượng — có thể được biết tới, nhưng ông cho rằng những sự vật nằm bên kia cảnh giới có thể kinh nghiệm — đó là các bản thể hoặc các vật tự thân — thì không thể biết tới dù sự hiện hữu của chúng là một tiền giả định thiết yếu. Hiện tượng có thể được tri giác theo các hình thức thuần khiết của nhạy cảm, không gian và thời gian, nhưng để được am hiểu, nó phải sở hữu những đặc tính lập nên các phạm trù am hiểu của chúng ta.
Do đó, các nhà khoa học có thể chắc chắn rằng các sự kiện tự nhiên — mà chúng ta quan sát — có thể được am hiểu trong tương quan với các phạm trù. Như thế, lãnh vực tri thức của con người được giải phóng khỏi chủ nghĩa hoài nghi của Hume, nhưng vẫn bị giới hạn đối với thế giới hiện tượng. Mọi nỗ lực thuần lý thuyết nhằm am hiểu các vật tự thân đều bắt buộc phải thất bại. Sự thất bại không tránh khỏi ấy là chủ đề của cuốn Critique of Pure Reason, dưới tiểu đề ‘Transcendental Dialectic – Biện chứng pháp siêu nghiệm’. Trong đó, Kant trình bày rằng có ba vấn đề siêu hình học lớn lao: Thượng đế, tự do và sự bất tử. Cả ba vấn đề ấy đều không thể giải quyết bằng suy lý. Chúng ta không thể khẳng định hoặc phủ định sự hiện hữu của chúng dựa trên các cơ sở thuần lý thuyết, cũng không thể chứng minh chúng bằng khoa học, nhưng Kant thấy sự hiện hữu của chúng là thiết yếu trong triết học đạo đức của ông.
Ðạo đức học của Kant tập trung trong ‘mệnh lệnh vô điều kiện’ của ông (hoặc gọi là luật đạo đức): Hãy hành động như thể châm ngôn — hoặc nguyên tắc — mà bạn hành động theo đó, sẽ qua ý chí của bạn, trở thành luật phổ quát [cho mọi người trong cộng đồng]. Ðây là định luật có nguồn gốc trong sự tự quản của hữu thể có lý trí, và nó là công thức lập thành thiện chí tuyệt đối. Tuy nhiên, vì con người là thành viên của hai thế giới, một có thể cảm nhận bằng giác quan và một có thể nhận thức bằng trí óc, nên nó có thể hành động sai lầm, không theo định luật đó, mà thường hay theo thiên hướng hoặc sở thích cá nhân của y. Như thế, cái thiết yếu khách quan, nghĩa là ý nguyện tuân theo định luật, lại tình cờ chủ quan, và vì lý do đó, luật đạo đức mà con người đối mặt chính là hành động mà con người cảm thấy mình ‘nên’ làm. Thí dụ, thay vì làm điều kia theo sở thích thì vì đối mặt với luật đạo đức, ta cảm thấy mình ‘nên’ làm điều này.
Trong cuốn Phê phán lí tính thực tiễn, Kant tiếp tục phát biểu rằng đạo đức đòi hỏi phải tin vào sự hiện hữu của Thượng đế, tự do và sự bất tử, vì không có sự hiện hữu của cả ba cái đó thì không thể có đạo đức.
Trong cuốn Phê phán óc suy xét, Kant áp dụng phương pháp phê bình của mình vào các phán quyết có tính cứu cánh luận và mỹ học. Kant lập luận rằng mọi phán đoán mỹ học, dù phổ quát, cũng không tùy thuộc vào bất cứ đặc tính nào của đối tượng, thí dụ cái đẹp hoặc tính thoát tục. Chủ đích của Kant trong cuốn này là khám phá cho ra chiếc cầu nối giữa thế giới có thể cảm nhận bằng giác quan với thế giới có thể nhận thức bằng trí óc. Ðây là chiếc cầu được tìm thấy trong các khái niệm về cái đẹp và về cứu cánh, và ít nhất nó cũng gợi cho thấy cả hai thế giới ấy, tối hậu, có khả năng hiệp nhất.
Không thể nào tính hết các kết quả do công trình của Kant mang lại. Ngoài sự thúc đẩy triển khai thêm các thuyết duy tâm tại Ðức của Johann G. Fichte (1762–1814), Friedrich von Schelling (1775–1854) và Hegel, triết học Kant còn ảnh hưởng lên hầu hết các lãnh vực tư tưởng. Trong số những kết quả tự nhiên do ảnh hưởng của Kant có thuyết tân Kant vào cuối thế kỷ 19. Phong trào này có nhiều chi nhánh ở Ðức, Pháp và Ý. Hai chi nhánh chính là trường phái Marburg tại Ðức, được thành lập bởi Hermann Cohen (1842–1918) và gồm có Ernst Sassirer (1874–1945) và trường phái Heidelberg cũng tại Ðức với áp dụng của Kant vào các môn học văn hóa và lịch sử. Nối kết mật thiết với phái sau là Wilhelon Dilthey (1833–1911).
Kant ảnh hưởng lên tư tưởng Anh Mỹ qua triết học của William Hamilton (1788–1856) và Thomas H. Green (1836–1882), và một số tư tưởng mang bản sắc Kant được tìm thấy trong chủ nghĩa thực dụng của Williams James và John Dewey. Trong thần học, có thể tìm thấy ảnh hưởng của Kant trong các văn bản của Friedrich Schleirmacher (1768–1834) và Albrecht Ritschl (1822–1889); các ý tưởng của ông trong sinh học được triển khai bởi Hans Driesch (1867–1941), và trong tâm lý học Gestalt bởi Wolfgang Kohler (1887–1967).
12. Hegel (1770–1831)
Triết gia Ðức. Tên đầy đủ Georg Wilhelm Friedrich Hegel.
Hegel chào đời tại Stuttgard và là con của một công chức thư ký. Ông theo học thần học ở Tubingen rồi làm phụ giảng tại các Ðại học Bern và Frankfurt; tới năm 1805, làm giáo sư Ðại học Jena. Cùng Schelling, ông là biên tập tờ Kritische Journal der Philosophie (Tạp chí Phê bình Triết học, 1802–1803). Dù được xem là môn đồ của Schelling, ông vẫn công kích chủ trương của thầy mình, triển khai hệ thống do ông phác thảo, nhấn mạnh lên lý trí chứ không trên trực giác lãng mạn như Schelling, và lần đầu tiên trình bày nó trong Phenomenology of Mind (Hiện tượng học tâm trí, 1807).
Trong thời gian Napoléeon chiếm đóng, Hegel biên tập một tờ báo (1807–1808), sau đó, ông thôi làm để giữ chức hiệu trưởng một trường giáo dục và rèn luyện thể lực, theo mô hình Gymnasium Hi Lạp, tại Nuremberg. Kế đó, ông quay về làm giáo sư tại các Ðại học Heidelberg (1816–1818) và Berlin (1818–1831), nơi ông càng ngày càng nổi tiếng.
Trong các bài giảng tại Berlin, Hegel đề ra một hệ thống được ông trau chuốt tỉ mỉ trong những tác phẩm sau đó của mình. Chủ yếu là các cuốn Science of Logic (Khoa học lô-gích, 1812–1816), Encyclopedia of the Philosophical Science (Bách khoa khoa học triết lý, 1817), một phác thảo toàn bộ triết học của ông, và Philosophy of Right (Triết học về cái đúng, 1821). Ngoài ra, còn có các cuốn về đạo đức học, mỹ học, lịch sử và tôn giáo.
Các quan tâm của Hegel rất rộng, và chúng quyện vào nhau làm thành triết học đồng nhất của ông. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel đương đầu với ‘Linh hồn thế giới’, triển khai từ đó và qua đó ông trình bày cái được gọi là ‘Biện chứng pháp Hegel’. Theo biện chứng pháp ấy, một khái niệm (chính đề) đương nhiên phát sinh cái đối lập của nó (phản đề), và cả hai đề ấy tương tác dẫn tới một khái niệm mới (hợp đề). Tới lượt cái thứ ba này trở thành chính đề của một bộ ba mới.
Hegel đánh giá nghiên cứu của Kant về các phạm trù là chưa đầy đủ. Ý tưởng về hữu thể thì có tính nền tảng nhưng nó gợi ra phản đề phi hữu thể của nó. Tuy thế, hai cái đó không hỗ tương loại trừ nhau vì nhất thiết chúng tương tác ra hợp đề, là cái chúng phải trở thành. Vì thế, hoạt động là cơ bản, tiến bộ là phải lẽ và luận lý là căn bản của tiến trình thế giới. Nghiên cứu thiên nhiên và tâm trí đều vén lộ cho thấy lý trí nhận biết chính nó trong vũ trụ luận và lịch sử. Tiến trình thế giới thì có tính tuyệt đối, và nguyên lý tích cực ấy không vượt lên trên thực tại nhưng hiện hữu qua thực tại và trong thực tại. Vũ trụ triển khai bằng một kế hoạch tự tạo, tiến lên từ các thiên thể tới thế giới này, từ lĩnh vực khoáng vật tới thực vật, từ lĩnh vực thực vật tới sinh vật.
Có thể phát hiện trong xã hội một quá trình diễn tiến y như thế. Hoạt động của con người dẫn tới của cải và của cải dẫn tới luật pháp. Từ mối quan hệ giữa cá nhân và luật pháp phát triển tổng hợp đề của đạo đức, ở đó, sự tương thuộc và tự do của cá nhân tương tác tạo thành quốc gia. Do đó, quốc gia là một tổng số ở bên trên mọi cá nhân, và vì thế, nó là một đơn vị. Sự phát triển cao nhất của đơn vị ấy là nền cai trị bằng chế độ quân chủ. Một quốc gia như thế là hiện thân của ý tưởng tuyệt đối. Trong nghiên cứu của mình về lịch sử, Hegel duyệt lại lịch sử của các quốc gia, tuần tự từ các nước ít có ảnh hưởng lên nhân dân cho tới các nước đại diện cao hơn cho cái tuyệt đối. Dù phần lớn triển khai ấy của ông đáng ngờ, nhưng khái niệm của ông về sự xung đột giữa các nền văn hóa kích thích người ta phải phân tích lịch sử.
Hegel xem nghệ thuật như một lối tiếp cận gần cái tuyệt đối hơn là chính quyền. Hegel chia lịch sử nghệ thuật thành ba thời kỳ: thời Ðông phương, thời Hi Lạp và thời Lãng mạn. Ông tin rằng hình thức lãng mạn nghệ thuật hiện đại không dung chứa nổi tính chất trọng đại của lý tưởng Kitô giáo.
Hegel giảng dạy rằng tôn giáo chuyển dịch qua một chuỗi cấp bậc, từ sự bái lạy thiên nhiên tới Kitô giáo, nơi Ðức Kitô biểu hiện sự hiệp nhất của Thiên Chúa và con người, của linh hồn và vật chất. Triết học đi quá bên kia tôn giáo khi nó làm cho con người có khả năng lĩnh hội sự phơi mở của cái tuyệt đối trong toàn bộ lịch sử.
Hegel ảnh hưởng lên nhiều triết gia đi sau ông. Chủ nghĩa duy tâm hậu Hegel, chủ nghĩa hiện sinh của Kierkegaard và Sartre, chủ nghĩa xã hội của Marx và Ferdinand Lasalle (1825–1864) và chủ nghĩa công cụ của John Dewey. Lý thuyết của ông về quốc gia là sức mạnh dẫn đạo cho Phong trào Thanh niên Hegel tìm cách thống nhất nước Ðức.
Sau khi Hegel qua đời, các bài giảng của ông về triết học, tôn giáo, mỹ học và lịch sử được kết tập thành một bộ sách tám cuốn.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:49:59 GMT 9
13. Marx (1818–1883)
Triết gia xã hội và là người thành lập chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Tên đầy đủ Karl Marx.
Marx sinh tại Ðức, con của một luật sư Do Thái cải từ đạo Do Thái sang Kitô giáo hệ Thệ phản Luther. Trong lịch sử triết học thế giới, Marx là một triết gia với động cơ không chỉ là nhu cầu tri thức hàn lâm mà còn giấc mơ cứu thế, suy tưởng và trực tiếp ứng dụng hệ thống triết học của mình nhằm, theo quan điểm của Marx, đẩy nhanh hơn diễn biến tiến hóa của thế giới. Các sử gia viết về thế kỷ 20 không thể không nhấn mạnh vai trò của Marx trong cả chính trị lẫn triết lý.
Marx học luật tại Bonn và Berlin, nhưng chuyển sang học triết, cách riêng học thuyết Hegel và chủ nghĩa duy vật của Luwig Feurbach (1804-1872). Năm 1841, ông nhận văn bằng tiến sĩ của Ðại học Jena. Năm 1842-1843, ông làm biên tập viên – chủ bút, cho tạp chí cấp tiến Rheinnische Zeitung (Báo miền sông Rhein).
Sau khi tờ báo bị đàn áp và phải đóng cửa, Marx sang ở Paris (1843) và Brussell (1845). Ở đó, cùng với Friedrich Engels (1820-1895) như một cộng sự viên thân thiết, đệ tử và là người bảo trợ, ông tái tổ chức Liên minh của người công chính theo chủ nghĩa xã hội, về sau dược đặt lại tên là Liên hiệp những người Cộng sản, hội họp nhau ở Luân Ðôn năm 1847.
Năm 1848, kết hợp với Engels, Marx kết thúc bản Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản, trong đó thông giải lịch sử là của đấu tranh giai cấp và công kích nhà nước là công cụ áp bức. Nó cũng tiên đoán cuộc cách mạng xã hội được lãnh đạo bởi giới vô sản, và đồng thời tấn công chủ nghĩa tư bản, quyền tư hữu, gia đình, tôn giáo và đạo đức là những hệ tư tưởng của giới trưởng giả.
Bị trục xuất khỏi hầu hết các nước ở lục địa châu Âu, Marx sang Anh, định cư tại Luân Ðôn năm 1849. Ở đó, ông nghiên cứu kinh tế và viết quyển thứ nhất của tác phẩm chính là Tư bản luận (1867), hai quyển sau do Engels kết tập từ bản thảo của Marx, được xuất bản sau khi Marx qua đời, vào các năm 1884 và 1894.
Trong ba quyển ấy, Marx triển khai lý thuyết về cuộc cách mạng chính trị và toàn cầu, là kết quả tất yếu của cuộc xung đột giữa giai cấp lao động và giai cấp trưởng giả. Mục đích của Marx là đoàn kết mọi người lao động trên thế giới nhằm mục đích nắm quyền lực chính trị và vượt lên trên biên giới giữa các quốc gia.
Marx là nhân vật hàng đầu trong Quốc tế Ðệ nhất từ năm 1864 cho tới khi nó thoái chuyển năm 1872. Người ta có thể tìm thấy trong các văn bản của Marx những luận giải về đủ loại vấn đề văn hóa, lịch sử, tôn giáo, xã hội, v.v. Thập niên sau cùng của đời ông bị đánh dấu bởi đau ốm bệnh tật ngày càng tăng. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Highgate ở Luân Ðôn.
Chủ nghĩa Marx là một bộ phận của tư tưởng chính trị và xã hội được thấm nhuần từ các văn bản của Karl Marx. Theo Marx, toàn bộ lịch sử loài người bị thúc đẩy bởi lịch sử đấu tranh giai cấp. Với Marx, sức mạnh lèo lái cuộc đổi thay xã hội là tính chất mâu thuẫn giữa cấu trúc của ‘các lực lượng sản xuất’ và thứ bậc xã hội. Những mâu thuẫn ấy tăng dần, nhiên hậu chỉ có thể bị thủ tiêu bởi cuộc cách mạng xã hội lật đổ giai cấp thống trị và thay vào đó bằng một giai cấp khác. Tối hậu, chỉ có giai cấp lao động đánh bại giai cấp tư bản để cuối cùng thiết lập xã hội cộng sản vô giai cấp.
Theo thông giải của chủ nghĩa cộng sản, duy vật biện chứng pháp nằm ở cấp bậc cao hơn chủ nghĩa duy vật, đặt cơ sở trên chủ nghĩa xã hội không tưởng mang bản sắc Anh, thí dụ Thomas More (1478-1535), chính khách và học giả Anh, tác giả cuốn Utopia, cũng như trên triết học duy vật, chủ yếu được định nghĩa bởi Feurbach, và trên biện chứng pháp, tuy duy tâm, của Hegel.
Chủ nghĩa Marx do đó, chủ yếu là sự phân tích mang tính phê phán xã hội tư bản, cuộc cách mạng vô sản và sự chuyển thể sang chế độ xã hội chủ nghĩa.
Phần lớn tác phẩm của Marx, đặc biệt bộ Tư bản luận, đều liên quan tới động lực kinh tế của xã hội tư bản, nhìn nhà nước như công cụ của giai cấp thống trị nhằm hỗ trợ tư bản cá thể và áp bức tập thể quần chúng. Vì nhu cầu tư bản cá thể là thu lợi nhuận hoặc bòn rút giá trị thặng dư, nên nó phải giữ lương bổng ở mức tối thiểu để tồn tại. Tình trạng ấy làm phát sinh các mâu thuẫn kinh tế vì nó cản trở sức mua của người lao động trong việc tiêu thụ các hàng hóa sản xuất. Chủ nghĩa tư bản do đó bất ổn một cách cố hữu, và là chủ thể gây nên những cuộc khủng hoảng khiến ngày càng tăng thêm sự đình trệ.
Marx cho rằng những khủng hoảng ấy càng lúc càng tồi tệ, cuối cùng dẫn tới cuộc cách mạng qua đó giai cấp lao động nắm lấy nhà nước, thiết lập nền độc tài của người vô sản, sức mạnh sản xuất nằm trong tay của nhân dân và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, không còn tình trạng khác biệt giai cấp. Xã hội vô giai cấp ấy cuối cùng sẽ dẫn tới sự tàn lụi của nhà nước, sản sinh xã hội cộng sản.
Chủ nghĩa Marx tìm cách mở rộng phương pháp phân tích ấy tới các tình huống đương đại. Ðặc biệt, chủ nghĩa Marx phương Tây xem xét khả năng can thiệp của nhà nước nhằm làm dịu hẳn các cuộc khủng hoảng của tư bản chủ nghĩa và thiết lập tính chính thống hợp pháp cho trật tự tư bản hiện hành thông qua sự kiểm soát của nó trên giáo dục và truyền thông. Trong các xã hội chưa phát triển mạnh kỹ nghệ, chủ nghĩa Marx được thích nghi nhằm giải thích các cuộc cách mạng tại những xứ sở mà chủ nghĩa tư bản chưa phát triển rộng rãi, tương phản với quan điểm lịch sử của Marx.
Nói chung, có sự thừa nhận rằng các văn bản của Marx có liên quan tới sự chuyển thể sang một xã hội mang tính xã hội chủ nghĩa, nhưng chúng thiếu các chi tiết về bản tính của xã hội chủ nghĩa. Vì thế, nó đưa tới hậu quả là chủ nghĩa Marx lôi cuốn một qui mô lớn rộng những thông giải của các nhà lý thuyết chính trị trong tình trạng thiếu sự đồng thuận phổ quát.
14. Nietzsche (1844–1900)
Triết gia người Ðức. Tên đầy đủ Friedrich Wilelon Nietzsche.
Ông chào đời tại Saxony, là con của một mục sư và thuở bé rất ngoan đạo. Nietzsche học tiếng Hi Lạp và La-tin tại Bonn và Leipziz. Là sinh viên cực kỳ sáng chói, ông được bổ nhiệm vào ghế giáo sư môn triết học cổ điển tại Ðại học Basel năm 25 tuổi (1869) dù lúc ấy chưa hoàn tất học trình tiến sĩ.
Trong những năm đầu đời, Nietzsche kết tình bằng hữu thắm thiết với Richard Wagner, mà ông đánh giá rằng với các bản hợp xướng, Wagner là kẻ kế thừa chân chính bi kịch Hi Lạp. Nhưng về sau ông quay sang đối nghịch đầy cay đắng với nhà đại nhạc sĩ ấy; cả hai tuyệt giao năm 1876.
Những rối loạn thần kinh và khủng hoảng thị lực buộc Nietzsche phải rời Ðại học Basel năm 1879, rồi viết và sống trôi nổi khắp các nhà trọ ở châu Âu, trong nỗ lực vô vọng cải thiện sức khỏe. Cho tới năm 1889, tâm thần ông không bao giờ còn có khả năng hồi phục, và ông qua đời năm 56 tuổi.
Nói chung, Nietzsche không phải là triết gia có hệ thống, nhưng đúng hơn, ông là một nhà đạo đức học nhiệt liệt bác bỏ nền văn minh trưởng giả Tây phương. Câu nói thời danh của ông là ‘Thượng đế đã chết’. Ðánh giá văn minh Kitô giáo là suy đồi và thay vào ‘đạo đức nô lệ’ của nó, Nietzsche giới thiệu và đưa mắt hướng tới ‘siêu nhân’, kẻ sẽ phát động một nền đạo đức anh hùng mới, trong đó cuộc sống và giá trị cuộc đời sẽ được khẳng định với đầy đủ ý thức. Siêu nhân của Nietzsche sẽ biểu hiện niềm đam mê và cơn sáng tạo cao nhất, và sẽ sống ở cấp bậc kinh nghiệm, vượt quá bên kia những định chuẩn qui ước của thiện và ác. ‘Ý chí quyền lực’ có tính sáng tạo của siêu nhân sẽ khiến cho y tách biệt với ‘bầy đoàn’ của loài người thấp hèn.
Tư tưởng của Nietzche tạo được ảnh hưởng lan rộng và có tầm quan trọng cách riêng tại Ðức. Những người cổ vũ cho chủ nghĩa Quốc xã Ðức nắm lấy phần lớn văn bản của ông như lời biện hộ triết học cho lý thuyết của họ về quyền tối thượng của quốc gia và chủng tộc cùng sự khinh rẻ thể chế dân chủ và bình đẳng chính trị. Một số học giả đánh giá hành động ấy là xuyên tạc tư tưởng của Nietzsche; họ vạch ra chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ của Nietzsche và thái độ của ông coi thường định chế quốc gia, đặc biệt tại nước Ðức.
Trong số các tác phẩm nổi tiếng của Nietzsche có On the Genealogy of Morals (Bàn về phả hệ của đạo đức, 1887), The Birth of Tragedy (Ngày sinh của bi kịch, 1872), Thus Spoke Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế, 1883–1891), Beyond Good and Evil (Bên kia thiện và ác, 1886), cuốn tiểu sử tự thuật Ecce Homo (1908), v.v. Tác phẩm của Nietzsche đang càng ngày càng được nhiều người tìm đọc và đào sâu. Ông là một trong những nguồn ảnh hưởng chính lên chủ nghĩa hiện sinh.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:52:25 GMT 9
15. Husserl (1859–1938)
Triết gia Ðức, người đặt nền tảng cho trường phái hiện tượng luận. Tên đầy đủ Edmund Husserl.
Ông sinh tại Cộng hòa Czech, học toán ở Berlin và tâm lý học ở Vienna. Sau đó, ông dạy ở các Ðại học Halle (1887), Gotingen (1901) và Freiburg (1016) và chịu ảnh hưởng của Franz Bentado (1838-1917), triết gia và nhà tâm lý học Ðức. Bộ sách hai cuốn của ông Logische Untersuchungen (Các thẩm tra luận lý, 1900–1901) biện hộ cho quan điểm cho rằng triết học là bộ môn tiên nghiệm, khác với tâm lý học. Trong cuốn Ideen zu either rein Phanomenologischen Philosophie (Nhập môn tổng quát hiện tượng luận thuần lý, 1913), ông trình bày một chương trình thẩm tra có hệ thống ý thức và các đối tượng của nó.
Triết học của Husserl là công trình nghiên cứu có tính mô tả ý thức, nhằm mục đích phát hiện cấu trúc của kinh nghiệm, nghĩa là các định luật qua đó ta có kinh nghiệm. Phương pháp của ông là ‘cho vào ngoặc đơn’ các dữ liệu của ý thức bằng cách để lơ lửng mọi tri giác, đặc biệt những tri giác rút tỉa từ ‘điểm quan sát mang tính tự nhiên chủ nghĩa’. Như thế, các đối tượng của sự tưởng tượng thuần túy, thí dụ đầu thú hay đầu người trong kiểu kiến trúc gô-tic, được khảo sát nghiêm chỉnh không kém các dữ liệu lấy từ thế giới khách quan.
Husserl kết luận rằng ý thức không có đời sống tách biệt với các đối tượng được nó xem xét. Ông gọi đặc tính này là ‘có chủ tâm’ (sự định hướng khách thể – object-directeness), một thuật ngữ được ông dùng theo Bentano. Trong các tác phẩm về sau, ông chuyển hướng qua chủ nghĩa duy tâm và không chấp nhận quan điểm cho rằng các đối tượng hiện hữu bên ngoài ý thức.
Tiếp cận của Husserl gây ảnh hưởng lớn lao lên các triết gia Ðức và Hoa Kỳ, cách riêng Heidegger và nâng cao tâm lý học Gestalt (thế giới quan), một trường phái tư tưởng tâm lý học độc đáo với châm ngôn, ‘toàn thể lớn hơn tổng số các phần của nó’.
16. Kierkegaard (1813–1855)
Triết gia, nhà văn và là nhà thần học người Ðan Mạch. Tên đầy đủ: Søren Kierkegaard.
Ông chào đời tại Copenhague, học triết học cùng văn chương tại đó và hầu như suốt đời không ra khỏi xứ mình. Cuộc sống bề ngoài yên ổn của Kierkegaard trong thầm kín lại là một quá trình khảo sát mãnh liệt bản ngã và xã hội, đưa tới kết quả nhiều văn bản đa dạng và sâu sắc với chủ đề xuyên suốt: ‘Chân lý thì chủ quan’.
Tuy sống vào nửa đầu thế kỷ 19, nhưng quả thật Kiekegaard đã đặt những khởi đầu cho chủ nghĩa hiện sinh. Những suy nghiệm về mối quan hệ giữa Thượng đế và mỗi cá nhân con người đã đưa Kierkegaard tới việc phê phán các hệ thống suy lý thuần túy. Ông phê bình siêu hình học của Hegel là trừu tượng và cằn cổi, không thích đáng cho việc lập các chọn lựa. Ông cay đắng công kích thái độ tự mãn phàm tục của giáo hội Kitô Ðan Mạch.
Bằng cái nhìn thấu suốt tận nền tảng, Kierkegaard nhận ra những yêu cầu cụ thể về tôn giáo và đạo đức mà mỗi cá nhân đang đối mặt, và theo ông, cá nhân không thể đáp ứng thỏa mãn chúng bằng quyết định thuần túy trí tuệ. Chúng đòi hỏi phải có sự dấn thân có tính chủ quan của mỗi cá nhân. Với Kierkegaard, trong tôn giáo, điều quan trọng không phải vấn đề chân lý có là một thực tế khách quan hay không, mà là mối quan hệ của cá nhân đối với chân lý. Như thế, chỉ tin vào học thuyết tôn giáo thôi thì không đủ, người ta phải sống nó.
Có thể xếp các tác phẩm của ông vào hai phạm trù: mỹ học và tôn giáo. Các tác phẩm về mỹ học gồm có: Either/On (1843), chủ yếu chống Hegel, Philosophical Fragments (Các tản văn triết lý, 1844), Stage on Life’s Way ( Cấp bậc trong lối sống, 1845), The Concluding Unscientific Postcript (Tái bút đúc kết phi khoa học, 1846) đều được xuất bản với bút hiệu, và đều thông giải sự hiện hữu của con người qua con mắt của những nhân vật được ông mô tả muôn hình muôn vẻ bằng thơ.
Trong các tác phẩm đó, Kierkegaard triển khai một ‘biện chứng pháp’ hiện sinh, đối lập với biện chứng pháp duy tâm của Hegel. Biện chứng pháp Kierkegaard miêu tả các cấp độ đa dạng của cuộc hiện sinh mà ông mô tả như có tính mỹ học, đạo đức học và tôn giáo. Khi cá nhân thăng tiến qua các cấp độ đó, y càng ngày càng nhận biết rõ rệt hơn mối quan hệ của y với Thượng đế. Y đồng thời càng ngày càng đối mặt với những quyết định đạo đức thiết yếu và nghiêm chỉnh. Trong khi đó, y cũng nhận ra phản đề giữa cuộc hiện sinh nhất thời và chân lý vĩnh hằng. Chính sự nhận biết đó là nguồn suối của sợ hãi cùng thất vọng. Như thế, phân tích ấy của Kierkegaard về tình cảnh của con người đã cung cấp chủ đề trung tâm cho chủ nghĩa hiện sinh trong thế kỷ 20.
Các tác phẩm chuyên đề tôn giáo của ông gồm có Works of Love (Công trình của tình yêu, 1847) và Training in Christiany (Tôi luyện trong Kitô giáo, 1850). Kierkegaard cũng giữ một cuốn nhật ký bao quát, chứa nhiều cái nhìn sắc bén và thấu suốt. Dù trên thực tế thời ấy, ngoài biên giới Ðan Mạch, Kierkegaard ít được biết tới trong suốt thế kỷ 19, nhưng về sau, ông có ảnh hưởng lớn lao lên thần học Tin Lành đương đại; và đối với phong trào triết học có tên là hiện sinh chủ nghĩa, ông được xem là là triết gia khai sáng.
17. Heidegger (1889–1976)
Triết gia Ðức. Tên đầy đủ Martin Heidegger.
Khi còn là sinh viên của Ðại học Freiburg. Heidegger chịu ảnh hưởng của hiện tượng học của Edmund Husserl và của Heinrich Rickert, người theo thuyết tân Kant. Năm 1923, ông trở thành giáo sư tại Marburg. Ở đó, ông viết và xuất bản phần duy nhất của tác phẩm chính của mình là Sein und Zeit (Hữu thể và thời gian, 1927) để kế tục chiếc ghế giáo sư triết học của Husserl tại Freiburg. Tới năm 1933, ông trở thành viện trưởng đại học ấy. Sau năm 1945, ông về hưu vì những quan hệ của mình với chế độ Ðức Quốc xã.
Dù được đánh giá rộng rãi là người hiện sinh chủ nghĩa, Heidegger quyết liệt bác bỏ danh vị đó, cũng như ông sắp bác bỏ hiện tượng học của Husserl. Quan tâm căn bản của Heidegger, như đã được công bố trong cuốn Hữu thể và thời gian, và được triển khai trong các tác phẩm sau đó, là vấn đề hữu thể. Trong Hữu thể và thời gian, hữu thể được chứng minh là nối kết mật thiết với sự tạm thời; mối quan hệ này được thẩm tra bằng cách phân tích sự hiện hữu của con người.
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Kiekergaard, ông phác họa các khía cạnh đa dạng của kinh nghiệm con người thí dụ ‘lo toan’, ‘âu sầu’ và mối quan hệ của con người với cái chết. Chính những nghiên cứu này cùng những ảnh hưởng của chúng lên Jean Paul Sartre đã khiến nhiều nhà phê bình đánh giá Heidegger là người hiện sinh chủ nghĩa. Heidegger không chỉ quan tâm tới sự hiện hữu của cá nhân cùng những chọn lựa luân lý của nó mà còn xem những vấn đề có tính bản thể luận là ưu tiên. Khía cạnh bản thể luận của tư tưởng Heidegger nổi bật sắc nét trong các văn bản về sau của ông.
Ông tự xem mình là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử triết học phương Tây đã nêu những câu hỏi minh bạch và dứt khoát liên quan tới ‘ý nghĩa của hữu thể’, và ông định vị cuộc khủng hoảng của văn minh Tây phương hiện nay là ở chỗ tình trạng tập thể ‘lãng quên hữu thể’. Ngoài ảnh hưởng lên Sartre, tư tưởng của Heidegger còn ảnh hưởng lên thần học Tin Lành qua Paul Tillich và Rudolf Bultman (1884-1976). Trong số các tác phẩm của Heidegger có Kant and the Problem of Metaphysics (Kant và vấn đề của siêu hình học, 1929); What is Metaphysics (Siêu hình học là gì, 1929); Introduction to Metaphysics (Nhập môn siêu hình học, 1959); What is Philosophy (Triết học là gì, 1958).
18. Sartre (1905-1980)
Triết gia hiện sinh chủ nghĩa, nhà văn và nhà viết kịch người Pháp. Tên đầy đủ: Jean Paul Sarte.
Ông tốt nghiệp trường École Normale Superieure (Đại học Sư phạm); và bắt đầu để ý tới triết học vào năm ngoài 20 tuổi, khi đọc cuốn Essai sur les données immédiates de la conscience (Luận về những dữ kiện lập tức của ý thức, 1889) của triết gia Pháp Henry Bergson (1859–1941). Chịu ảnh hưởng của triết học Ðức, đặc biệt Heidegger, Sartre trở thành triết gia tiên phong và hàng đầu của phong trào triết học hiện sinh thế kỷ 20. Trong thời gian đó, ông dạy triết tại Le Havre, Paris và Berlin.
Sartre đi lính và bị bắt làm tù binh năm 1941 tại Ðức. Sau khi được phóng thích, ông tham gia phong trào kháng chiến ở Paris. Năm 1945, ông nổi bật như ngọn hải đăng dẫn đường cho cuộc sống trí thức cánh tả ở Paris. Tên ông đồng nghĩa với chủ nghĩa hiện sinh, một phong trào triết học tìm kiếm sự tự do cho cá nhân con người và được ông chia sẻ với người bạn đồng hành là Simone de Beauvoir, cùng chủ trương tạp chí Les temps modernes (Thời hiện đại). Qua các tác phẩm của mình, ông khảo sát tình huống con người chịu trách nhiệm cuộc đời mình nhưng cô đơn bồng bềnh phiêu dạt trong một vũ trụ vô nghĩa và phi lý.
Trong khi Heidegger bác bỏ nhãn hiệu ‘người hiện sinh chủ nghĩa’ của mình, thì trong số các nhà tư tưởng có liên qua tới phong trào ấy, chỉ có Sartre đích thân tuyên bố mình là ‘người hiện sinh chủ nghĩa’.
Ðối với Sartre, không có Thượng đế, và do đó không có bản tính cố định của con người, quyết định cái ta phải hành động. Trong tình thế bị can dự và phải nhập cuộc vào thế giới, con người sống thể hiện mình một cách đích thực. Con người hoàn toàn tự do và hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì mình đã làm cho mình, nghĩa là đã làm thành mình. Nhưng cũng như quan điểm của Kierkegaard, chính sự tự do và trách nhiệm ấy là nguồn suối âu lo sợ hãi của con người. Tư tưởng của Sartre ảnh hưởng mạnh mẽ lên văn chương Pháp sau Thế chiến Hai, tiêu biểu rõ rệt trong các tác phẩm của Albert Camus và Simone de Beauvoir.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là La Nausée (Buồn nôn, 1938). Các tiểu thuyết của ông bao gồm bộ ba Les Chemins de la liberté (Những con đường tự do, 1945-1949); và ông cũng viết, đặc biệt sau Thế chiến Hai, nhiều vở kịch, thí dụ Huis clos (Kín cửa, 1944) và Le Diable et le bon Dieu (Con quỉ và Thượng đế tốt lành, 1951). Triết học của ông được thể hiện trong L’Être et le néant (Hữu thể và hư không, 1943). Ngoài ra, ông còn hàng chục tác phẩm văn học và bút ký triết học khác. Năm 1964, ông xuất bản cuốn tự thuật Les Mots (Những chữ), và được tặng thưởng, nhưng không nhận, giải Nobel văn chương. Vào cuối thập niên 1960, ông ngày càng dính líu xâu sa vào việc chống đối chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam, và ủng hộ cuộc nổi loạn của sinh viên tại Pháp năm 1968. Ông qua đời trong sự tưởng tiếc sâu xa của người dân Pháp.
19. De Beauvoir (1908–1986)
Nhà văn và tiểu thuyết gia hiện sinh chủ nghĩa người Pháp. Tên đầy đủ Simone de Beauvoir.
Bà sinh tại thủ đô Paris. Ban đầu, bà học triết với Jean Paul Sartre tại Ðai học Sorbonne, nơi sau này bà trở thành giáo sư (1941–1943). Kết hợp mật thiết với các hoạt động văn chương và cuộc sống của Sartre từ sau Thế chiến Hai, bà là người bạn đời của ông cho tới sau ngày ông từ trần (1980).
Các tác phẩm của De Beauvoir cung cấp cho chủ nghĩa hiện sinh sự nhạy cảm đầy nữ tính và thiết yếu, đồng thời như một cách thức nhập cuộc tích cực, và đầy tính hiện sinh chủ nghĩa, của bà vào phong trào nữ quyền. Nỗi bật nhất là cuốn La deuxième sexe (Phái tính thứ hai, 1949) viết về nữ quyền, đặc biệt nghiên cứu về địa vị của phụ nữ, và trở thành tác phẩm kinh điển của văn học nữ quyền.
Cuốn Mandarins (Những viên quan, 1941) được giải văn học Goncourt, mô tả các nhóm theo hiện sinh chủ nghĩa tại Paris thời hậu thế chiến, những thông giải về tình trạng tiến thoái lưỡng nan mang tính hiện sinh chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự đóng góp bền bỉ nhất của bà có thể là các tập hồi ký, trong đó có nhiều ghi chép về các chuyến đi của bà sang Hoa Kỳ và Trung Hoa. Chúng bao gồm Mémoires d’un jeune fille ranquée (Hồi ký của một cô gái đã hứa hôn, 1963). Cùng với Sartre, bà thành lập và điều hành nguyệt san Les temps modernes (Thời hiện đại) từ năm 1945.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:53:34 GMT 9
20. Freud (1856–1939)
Cha đẻ ngành phân tâm học, người Áo. Tên đầy đủ Sigmund Freud.
Ông sinh tại Freiburg, Moravia, nay là Pribor, Cộng hòa Czech, trong một gia đình cha mẹ là người Do Thái. Ông học y tại Vienna, rồi theo chuyên khoa thần kinh học, sau đó, tâm bệnh học.
Nhận thấy khoa thôi miên không thích đáng trong việc chữa trị bệnh thần kinh, ông thay vào đó bằng phương pháp ‘hợp tác tự do’, cho phép bệnh nhân trình bày các ý nghĩ trong trạng thái thư giản tỉnh táo, và ông thông giải các ý tưởng thời thơ ấu cùng những hồi tưởng các giấc mơ. Bất chấp những nhạy cảm mang tính thanh giáo của chính mình, Freud càng ngày càng tin vào thực tế bản năng tính dục thời thơ ấu, một lý thuyết cô lập ông với nghề nghiệp thầy thuốc.
Năm 1900, ông xuất bản tác phẩm chủ yếu Die Traumdeutung (Thông giải các giấc mộng). Trong đó ông lập luận rằng các giấc mộng là những biểu thị che giấu sự thèm muốn tình dục bị ức chế – libido, tương phản với cái nhìn hiện đại được chấp nhận rộng rãi rằng các giấc mộng chỉ đơn giản là sự biểu thị có tính sinh vật học của sự tình cờ phát nhiệt các nơ-ron não bộ trong một trạng thái ý thức cá biệt.
Danh xưng ‘Phân tâm học’ do chính Freud đặt ra cho một hệ thống tâm thần bệnh học cùng quá trình điều trị để đặc biệt ứng xử với bệnh loạn thần kinh chức năng. Freud thấy vô thức có tính động và là một khu vực hoạt động rộng lớn, tác động lên mọi hành động của chủ thể, nhưng nó thao tác từ những chất liệu bị đè nén tới độ chống lại sự hồi tưởng. Do đó, ông tạo cho bệnh nhân sự nhận biết, một cách có ý thức, các tình huống bị quên lãng, đặc biệt bằng sự kết hợp tự nguyện giữa bệnh nhân và người chữa trị, để làm cơ sở cho việc điều trị; các giấc mộng cũng là chìa khóa để mở cánh cửa vô thức.
Lý thuyết của Freud nhấn rất mạnh lên hai bản năng đối kháng nhau: bản năng tự hủy diệt (như xâm lấn, háo thắng hoặc thù nghịch) và bản năng tính dục kiến tạo. Sự điều chỉnh hoàn hảo sẽ trung hòa những biểu lộ có tính nguyên sơ và công khai của mỗi bản năng; ngược lại, sự kiềm chế các năng lượng bản năng là thành tố tạo ra chứng rối loạn thần kinh chức năng.
Freud tin rằng đối với người lớn tuổi, về mặt cảm xúc, phần nhiều năng lượng bị ức chế ấy có thể tạo thăng bằng hoặc làm lệch mục đích tính dục vô thức của nó mà hướng tới những mục đích phi tính dục và hữu ích cho xã hội. Các nhà phân tâm học tin rằng bên cạnh sự ức chế và thăng hoa, bản ngã còn có sẵn trong nó những phương cách khác để tự vệ chống lại những đòi hỏi của xung động bản năng, cái vốn là kho dự trữ của những lèo lái có tính bản năng nằm sâu trong tâm trí.
Năm 1902, Freud được bổ nhiệm làm giáo sư tại Ðại học Vienne, bất chấp phong trào bài Do Thái trong giới hàn lâm trước đó, và khởi sự tập hợp các môn đệ. Từ đó, bắt đầu mọc lên Hiệp hội Phân tâm học Vienna (1908), Hội Phân tâm học Quốc tế (1910), trong đó có Alfred Adler (1870–1937) và Carl Jung. Chính quyền Ðức Quốc xã càng ngày càng gia tăng sự chống đối tích cực công cuộc của Freud, kể cả khi ông được tưởng thưởng giải Goethe năm 1930. Năm 1933, Hitler cấm phân tâm học. Sau khi Áo bị Ðức chiếm đóng, Freud và gia đình lọt khỏi bàn tay của Gestapo và được phép di dân. Ông sống ở Luân Ðôn cho tới ngày qua đời.
Một cách khái quát, không phải mọi người đều đồng ý với Freud. Ngay từ thập niên 1920 cho tới nay, phân tâm học của Freud ngày càng bị thách thức nhiều hơn bởi các nhóm triết gia và chuyên gia tâm lý trị liệu. Họ nhấn mạnh lên các thành tố văn hóa và xã hội của bệnh rối loạn thần kinh chức năng. Và trong việc điều trị, họ nhấn mạnh tới khía cạnh tương liên nhân tính trong mối quan hệ với bệnh nhân.
21. Jung (1875–1961)
Nhà phân tâm học người Thụy Ðiển. Tên đầy đủ Carl Gustav Jung.
Jung sinh tại Thụy Ðiển và theo học y khoa tại Ðại học Basel. Sau khi ra trường, ông làm việc tại viện tâm thần Burgholzli tại Zurich (1900–1909). Ông gặp Freud ở Vienna năm 1907, trở thành người cộng tác hàng đầu của Freud, và làm chủ tịch Hội Phân tâm học Quốc tế (1911–1914).
Càng ngày Jung càng gia tăng lời chỉ trích lối tiếp cận của Freud. Cuốn Wandlungen und Symbole der Libido (Tâm lý học và biểu tượng của sự ức chế, 1911–1912) của Jung gây ra sự đổ vỡ giữa hai người. Kế đó, ông triển khai các lý thuyết của riêng mình mà ông gọi là ‘tâm lý học phân tích’ để phân biệt với ‘phân tích tâm lý’ của Freud và ‘tâm lý học cá nhân’ của Alfred Adler.
Tâm lý học của Jung đặt cơ sở trên tính chất toàn bộ của tâm lý và năng lượng tâm thần. Ông mặc nhiên thừa nhận trong vô thức có hai chiều kích: chiều kích cá nhân (những sự kiện bị ức chế trong cuộc sống mỗi người) và những ‘tổng kiểu thức’ (archtypes) của vô thức tập thể, gồm các khuynh hướng kế tục có tính nòi giống, chủng tộc, v.v. Tiếp cận của Jung bao gồm khái niệm về tâm thần như một ‘hệ thống tự điều chỉnh’ tự phô bày chính nó trong tiến trình ‘cá nhân hóa’.
Ðối với Jung, libido không phải là ức chế sinh lý, như Freud phân tích. Jung dùng tiếng libido để chỉ chung cho các năng lượng có tính bản năng. Jung đưa vào phân tâm học thuật ngữ hướng nội và hướng ngoại để nói tới các kiểu thức đối lập nhau có tính phân tâm học. Hoạt động tổng quát hoặc năng lượng lèo lái (libido) của người hướng ngoại thì hướng ra thế giới bên ngoài, trong khi của người hướng nội thì ngược lại, hướng vào bên trong bản thân.
Người nào cũng có cả hai huynh hướng ấy nhưng tùy vào kết quả của tính khí và môi trường mà khuynh hướng nào trở thành khống chế. Ðộng thái của người cực độ hướng ngoại thì ngoại lý, phiêu diêu bay bổng khỏi bản ngã, hành động như trong trạng thái kích động, phát xuất từ các cảm xúc trong xã hội. Người hướng nội cực độ thì rút về thế giới nội tâm, với những tưởng tượng thay cho thực tại. Jung thấy bệnh tâm thần phân liệt là khủng hoảng tâm lý của người hướng nội. Ðối với Jung, công tác quan trọng và suốt đời của con người là thông qua quá trình diễn tiến của cá nhân, thành tựu sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức để làm cho con người trở thành một toàn bộ.
Cùng đồng ý với Jung về vấn đề libido, nhiều nhà phân tâm học thời nay cho rằng Freud đã quá nhấn mạnh lên khái niệm libido như một thứ ức chế tính dục, xem nó có tính quyết định trong quá trình phát triển nhân vị, và rằng Freud đã xem nhẹ sức mạnh chi phối của xã hội và môi trường. Jung giữ ghế giáo sư tại hai Ðai học Basel và Zurich.
22. Wittgenstein (1889–1951)
Triết gia Áo. Tên đầy đủ Luwid Josef Johann Wittgenstein.
Chào đời tại thủ đô Vienna. Wittgenstein theo học ngành kỹ sư ở Berlin, Ðức, và Manchester, Anh, nhưng ông ngày càng quan tâm tới luận lý toán học lúc theo học với Bertrand Russell. Khi đang phục vụ trong quân đội Áo thời Thế chiến Một, Wittgenstein viết cuốn Tractatus logico-philosophicus (Luận về triết học lô-gic, 1921). Trong đó, ông lập luận rằng để một báo cáo về ngôn ngữ đạt tiêu chuẩn thích đáng, nó phải thừa nhận rằng bất cứ câu nào cũng là hình ảnh của sự việc mà nó tiêu biểu, và rằng bất cứ tư tưởng nào cũng là một câu.
Kế đó, Wittgenstein tạm thời không ngó ngàng gì tới triết học, cho tới khi tiêu hết số tiền thừa kế và sống cuộc đời khắc khổ, giản dị. Năm 1929, ông bắt đầu giảng dạy tại Ðại học Cambridge, và đăng ký cuốn Tractatus như một luận án tiến sĩ. Thời Thế chiến Hai, Wittgenstein làm việc tại các nhà thương ở Luân Ðôn và Newcastle vùng Tyne. Sau đó, ông quay lại dạy ở Cambridge, cho tới năm 1947 thì từ chức giáo sư.
Từ năm 1936 tới năm 1949, trong suốt 14 năm, ông viết đi viết lại mãi cuốn Philosophische Untersuchungen (Các thẩm tra triết học), được xuất bản năm 1953, hai năm sau khi ông từ trần. Trong cuốn đó, Wittgenstein từ khước các học thuyết của mình trong cuốn Tractatus và tuyên bố rằng ý nghĩa ngôn ngữ học là chức năng của sử dụng đối với cái được diễn tả, hoặc ‘trò chơi ngôn ngữ’ mà trong đó chúng ta dự phần.
23. Russell (1872–1970)
Triết gia, nhà toán học và nhà nghị luận người Anh. Tên đầy đủ Bertrand Arthur William Russel the 3rd Earl.
Xuất thân từ một dòng họ quí tộc. Ông chào đời tại Wales. Ông theo học Ðại học Cambridge, nơi về sau ông trở thành giảng viên rồi giáo sư và ban quản trị. Thời Thế chiến Một, những vận động hòa bình của Russell khiến ông mất chức trong ban quản trị, phải ở tù một thời gian vì xuất bản sách báo phản chiến. Năm 1931, ông kế thừa tước hiệu Bá tước. Tới năm 1938, ông sang Hoa Kỳ, dạy tại Ðại học Chicago và Ðại học California. Khi việc bổ dụng ông vào Ðại học New York không thành công do quan điểm cấp tiến của ông, Russell đến dạy tại Cơ sở Barnes Foundation ở Merion, Pennsylvania.
Phần lớn các văn bản của Russell trong thời kỳ đầu đều tập trung vào toán học và luận lý học. Chung với Alfred Whitehead (1861–1947), ông viết bộ ba quyển Principia Mathematica (Nguyên tắc toán học, 1910–1913), vạch ra những mâu thuẫn trong hệ thống ký hiệu của Frege, và là một đóng góp lớn vào luận lý học biểu tượng. Bị quyến rũ mạnh mẽ vì tính chất hoàn hảo của toán học nên Russell ra sức tìm cách trả lời các vấn đề triết học theo những hình thức khắc nghiệt và trừu tượng của toán học. Tuy nhiên, về sau, trong cuốn Human Knowledge (Tri thức của con người, 1948), Russell không còn nhấn mạnh tới quyền năng của phân tích có tính luận lý học. Cũng trong thời kỳ này, ông khởi sự nỗ lực cho một công trình suốt đời, kéo giới hàn lâm đại học tới sát với giới đại chúng bình dân hơn, thí dụ cuốn Introduction to Mathematical Philosophy (Nhập môn triết học toán học, 1919).
Thời Thế chiến Hai, nhờ từ bỏ chủ trương phản chiến và tuyên bố bênh vực chiến tranh trong một số tình huống nhất định, Russell được phục hồi địa vị trong ban quản trị Ðại học Cambridge vào năm 1944. Tới năm 1950, ông được giải Nobel Văn chương. Sau chiến tranh, Russell trở thành khuôn mặt hàng đầu cổ vũ cho chủ nghĩa hòa bình và đẩy mạnh ý tưởng tuyệt đối chống lại chương trình vũ trang và chạy đua vũ khí hạt nhân. Vào những năm cuối thập niên 1960, Russell cùng với Jean Paul Sartre chống lại Chiến tranh Việt Nam. Cả hai mở tại Geneve phiên tòa nổi tiếng, gọi là ‘Phiên tòa Russell xử tội ác chiến tranh Việt Nam’.
Bên cạnh toán học và triết học, Russell viết về rất nhiều đề tài, gồm tâm lý học, đạo đức, giáo dục, cải tổ xã hội. Các văn bản của ông rất thông minh, sáng sủa với những ẩn dụ sống động. Trong cuốn Power (Quyền lực) Russell lập luận rằng động cơ chi phối những biến động và tranh đoạt chính trị trong một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau chính là lòng ham muốn quyền lực.
Russell đã xuất bản hàng chục tác phẩm. Nổi tiếng nhất về triết học là những cuốn Philosophical Essays (Các tiểu luận triết học, 1910); History of Western Philosophy (Lịch sử triết học Tây phương, 1945); My Philosophical Development (Sự mở mang triết học của tôi, 1959); Wisdom of the West (Minh triết của Tây phương, 1959); Why I am not a Christian (Lý do tôi không là Kitô hữu, 1957), v.v. Bộ sách xuất bản sau cùng của ông là Autobiography (Tự truyện, 3 cuốn, 1967–1969).
Bỏ qua một bên những quan điểm chiến tranh và chính trị đầy tranh cãi của Russell, sự đóng góp của ông về toán học, triết học có giá trị rất lớn. Ông đã mang tinh thần và phương pháp toán học vào triết học, hệ thống hóa tư tưởng triết học Tây phương và đem truyền thống triết học phân tích tới gần với truyền thống triết học lục đia. Ông là một trong các triết gia có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.
24. James (1842–1910)
Triết gia và nhà phân tâm học người Mỹ. Anh ruột của nhà văn Henry James (1843–1916). Tên đầy đủ William James.
James học ở Ðại học New York và châu Âu. Sau đó, ông tốt nghiệp y khoa Ðại học Harvard (1869), nơi ông bắt đầu dạy về khoa giải phẫu và sinh lý học (1873) rồi triết học (1879). Các tác phẩm của ông gồm có The Principles of Psychology (Những nguyên lý của tâm lý học, 1890), The Will to Believe and other Essays (Ý chí đối với đức tin và các tiểu luận khác, 1897) và The Varieties of Religious Experience (Những đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo, 1902).
James là thủ lãnh của triết thuyết thực dụng chủ nghĩa. Ông xem ý thức thì năng động và có cứu cánh. Ý chí và sở thích là ưu tiên số một và tri thức chỉ là công cụ. Chân lý cũng chỉ là ‘phương tiện trong cách tư duy của chúng ta để đạt mục đích’, và các ý tưởng chỉ dẫn đường tới thế giới khách quan. Chủ trương duy nghiệm chủ nghĩa tận gốc rễ, James bác bỏ mọi nguyên tắc siêu nghiệm. Ông lập luận rằng toàn bộ kinh nghiệm được tổ chức bởi những ‘mối quan hệ tương liên’ và chính chúng định hướng kinh nghiệm.
Khởi đi từ các ý tưởng của triết gia Mỹ Charles S. Peirce (1839-1914), người cho rằng ý nghĩa của ý tưởng nằm trong các hệ quả mà ý tưởng ấy dẫn tới, James xây dựng thực dụng chủ nghĩa.
Theo James, ta phải ‘cân đo’ chân lý của mệnh đề của bất cứ hệ thống triết học nào trong tương ứng với các kết quả thực nghiệm và qua các hậu quả thực tiễn của nó. Như thế, trong thực dụng chủ nghĩa, phải vất bỏ bất cứ ý nghĩa biểu tượng siêu hình học nào của tư tưởng, và cũng phải bác bỏ mọi phương pháp được giả định là sẽ dẫn tới chân lý qua phép loại suy từ những cơ sở tiên nghiệm.
Người thực dụng chủ nghĩa quả quyết rằng chân lý bị điều chỉnh khi nó vừa được khám phá và rằng chân lý thì tiến hóa nên nó chỉ có giá trị tương đối theo với thời gian, nơi chốn và mục đích. Hầu hết người thực dụng chủ nghĩa đều cho rằng tri thức đạo đức đóng góp vào các giá trị nhân văn là thật và rằng các giá trị thì có sẵn trong các phương tiện cũng như trong cứu cánh.
Quá trình của chủ nghĩa thực dụng được James triển khai tổng quát và cải tiến nó từ ý tưởng của Peirce. Từ đó, nó trở thành sức mạnh trong thời hiện đại, và cách riêng, đưa tới chủ nghĩa duy công cụ của John Dewey.
Tuy thế, về sau, James góp phần thành lập American Society for Psychical Research (Hiệp hội Nghiên cứu Siêu linh tại Mỹ) và xuất bản vố số sách báo về chủ đề đó.
25. Dewey (1859–1952)
Triết gia và nhà giáo dục người Mỹ. Tên đầy đủ John Dewey.
Dewey chào đời tại Burlington. Ông tốt nghiệp Ðại học Vermont năm 1879, sau đó, lấy văn bằng tiến sĩ của Ðại học Johns Hopkins năm 1884. Từ đó, ông dạy tại nhiều nơi, nhất là ở Ðại học Columbia từ năm 1904 tới năm 1830, rồi về hưu với danh vị Giáo sư Danh dự. Ông từng được thỉnh giảng tại Ðại học Bắc Kinh năm 1912 và năm 1931. Năm 1924, ông cũng đóng góp cho Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách soạn thảo bản báo cáo tổ chức lại hệ thống trường học của nước ấy.
Triết thuyết được gọi là duy công cụ chủ nghĩa (instrumentalism) của Dewey có liên quan rất mật thiết với thực dụng chủ nghĩa ủa William James. Dewey cho rằng chân lý thì có tính tiến hóa, không cố định hoặc vĩnh hằng, và rằng các kiểu mẫu và các hình thức đa dạng của hoạt động con người là công cụ cho con người phát triển để giải quyết vô số vấn đề của xã hội và của tâm lý cá nhân. Vì các vấn đề đó liên tục biến đổi nên các công cụ dùng để ứng xử với chúng cũng phải biến đổi theo. Chân lý tiến hóa trong tự nhiên, hợp thành một thực tại không vĩnh hằng cũng chẳng siêu nghiệm, và được đặt trên kinh nghiệm, cái có thể kiểm nghiệm và chia sẻ bởi hết thảy những ai tiến hành thẩm tra.
Dewey quan niệm dân chủ là giá trị đạo đức số một, và vì thế, ông nỗ lực đề ra các nguyên tắc nhằm thao tác cho một xã hội dân chủ và kỹ nghệ. Ở lãnh vực giáo dục, ảnh hưởng của Dewey là thành tố hàng đầu trong quá trình buông bỏ các phương pháp thế giá thẩm quyền, và càng ngày càng nhấn mạnh lên sự học hỏi thông qua thực nghiệm và thực hành. Làm cách mạng chống lại lối học trừu tượng, Dewey xem giáo dục như một công cụ giúp cá nhân có khả năng hiệp nhất lối sống văn hóa và thiên hướng của mình một cách hiệu quả và thực dụng. Sự đóng góp của Dewey vào cuộc vận động cho một học đường cấp tiến đã được công nhận trên khắp thế giới.
Dewey còn tham gia tích cực vào phong trào đẩy mạnh trợ cấp an sinh xã hội, bảo vệ quyền tự do học thuật và cải thiện hiệu năng chính trị. Ông để lại hàng chục cuốn sách gồm các chủ đề đa dạng, trong đó có thể kể: về triết học – The Quest for Certainty (Cuộc truy lùng cái chắc chắn, 1929); về giáo dục – The School and Society (Học đường và xã hội, 1899), The Child and the Curriculum (Trẻ em và học trình, 1902), v.v.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 7:54:49 GMT 9
26. Derrida (1930–2007)
Triết gia hậu hiện đại Pháp, thành lập và là thủ lãnh của thuyết giải cấu trúc (deconstruction). Tên đầy đủ Jacques Derrida.
Sinh tại Algeria, sau khi vỡ lòng về văn học, năm 19 tuổi, ông sang Pháp học triết tại trường Ecole Normale Supérieure của Paris, chuyên nghiên cứu hai triết gia Ðức là Husserl và Heidegger. Năm 1956, ông được học bổng du học Ðại học Harvard; bốn năm sau, về dạy triết tại Ðại học Sorbonne.
Từ năm 1985, ông dạy tại trường môn khoa học xã hội tại Ecole des Hautes Etudes.
Từ thập niên 1990, công trình của Derrida gợi được sự chú ý trong những nhà phê bình văn học và phê bình lý thuyết trong phần thế giới nói tiếng Anh. Năm 1992, Ðại học Cambridge trao ông văn bằng danh dự. Sự việc ấy khích động cuộc tranh luận công khai giữa những người ủng hộ và những người chống đối ông. Và có lẽ sự đối lập rõ nét của hai phía từng đọc tác phẩm Derrida sẽ không bao giờ chấm dứt. Tính tới năm 1999, đã có 400 cuốn sách lấy quan điểm mới mẻ của Derrida làm đề tài nghiên cứu, 500 sinh viên Anh Mỹ lấy ông làm đề tài luận án tiến sĩ và hơn 14.000 bài báo có nhắc tới tên ông.
Derrida nổi danh vì công trình của ông liên quan tới tư tưởng và ngôn ngữ với những thẩm tra đùa giỡn bên lề văn bản triết học và văn học. Ông tấn công vào cái mà ông gọi là duy tập trung ngôn từ (logoscentrism) của triết học phương Tây. Ông xem lý trí bị chế ngự bởi siêu hình học từng thời kỳ, trong khi thật ra lập luận thì chỉ để mà lập luận.
Khái niệm giải cấu trúc được ông trình bày lần đầu trong Lời dẫn nhập cho bản dịch của ông cuốn Origine de Geometrie (Nguồn gốc hình học) của Husserl. Với thuyết giải cấu trúc, câu nói thời danh của Derrida là ‘Không có gì ngoài văn bản’.
Phê bình của Derrida về những gì ngôn ngữ chứa đựng và tính chất khách quan của các cấu trúc được đặt cơ sở trên trường phái phê bình có tên là giải cấu trúc. Ý tưởng thì không thể tách rời khỏi phương cách diễn tả tuy ngôn ngữ dù cố diễn đạt tới mấy đi nữa, cũng không hoàn toàn nêu bật được ý nghĩa. Thế nên theo Derrida, độc giả nên nhìn vào cách thức văn bản được đặt liền nhau — gọi là liên văn bản — để làm bộc lộ những ý nghĩa ẩn giấu và những giả định của tác giả. Tuy có thể ta không xác định được ý nghĩa, nhưng vẫn có thể vạch trần những nơi ẩn náu các mâu thuẫn của người tự cho mình là lý trí và nhất thể, để phá hủy cái gọi là mạch lạc trong luận cứ của họ.
Trong hàng chục tác phẩm của Derrida, các cuốn gây được ảnh hưởng lớn có L’écriture et la difference (Văn bản và khác biệt, 1967); Ba cuốn giản yếu La voix et la phenomène (Lời nói và hiện tượng, 19767); Marge de la philosophie (Bản lề triết học, 1972), v.v.
27. Foucault (1926–1984)
Triết gia Pháp. Tên đầy đủ Michel Foucault.
Ông chào đời ở Poitiers, Pháp. Trong thời gian theo học triết và tâm lý học tại trường Ecole Normale Supérieure, Paris, ông là sinh viên của triết gia theo chủ nghĩa Marx Louis Althusser. Thập niên 1960, Foucault làm trưởng khoa triết Ðại học Clermont-Ferrant rồi Ðại học Vincennes. Năm 1970, được bầu vào học hiệu cao nhất của Pháp, College de France, nơi ông giữ ghế Giáo sư Lịch sử các Hệ thống Tư tưởng. Suốt hai thập niên 1970 và 1980, uy tín ông tăng cao khi được thỉnh giảng tại nhiều nơi trên thế giới.
Tư tưởng của Foucault chịu ảnh hưởng chính của hai triết gia Ðức Nietzsche và Heidegger. Ông thăm dò các mẫu thức biến ảo của quyền lực trong lòng xã hội và những phương cách nó gắn liền với bản ngã. Ông nỗ lực trình bày những ý tưởng căn bản về con người và xã hội vốn được người ta thường xem là chân lý thường trực nhưng trên thực tế, bị thay đổi theo dòng lịch sử.
Ngay cả đối với lịch sử, Foucault liên tục tìm kiếm để kiểm chứng các giả định văn hóa trong các bối cảnh lịch sử đã định. Với ông, không có sự phân biệt minh bạch giữa tự sự và hư cấu, vì những tường thuật lịch sử là những đại tự sự do bị chi phối bởi ý định chủ quan và giới hạn của tri thức trong thời kỳ liên hệ, v.v. Tiểu thuyết thì không là lịch sử, nhưng một cuốn lịch sử, về cơ bản, thật ra tính hư cấu của nó cũng không thua kém gì một cuốn tiểu thuyết.
Các tác phẩm quan trọng nhất của Foucault gồm có Histoire de folies (Ðiên khùng và văn minh, 1961), Les mots et les choses (Chữ và vật, 1966); L’Archeologie du savoir (Khảo cổ học về tri thức, 1969) và tác phẩm dở dang Histoire sexualité (Lịch sử tính dục, 1976–1984), v.v.
28. Lyotard (1924–1998)
Triết gia và nhà lý thuyết văn học, người Pháp. Tên đầy đủ Jean-Francois Lyotard.
Lyotard lấy văn bằng thạc sĩ triết năm 1950 và tiến sĩ văn chương năm 1971. Ông từng dạy trung học ở Constantine, Algeria rồi các Ðại học Sorbonne, Nanterre, CNRS Vincennes, v.v. Sau đó, ông là thành viên quản trị Collège Internationale de Philosophie (Trường Quốc tế Triết học), Giáo sư Danh dự Ðại học Paris, Giáo sư Pháp ngữ và Triết Ðại học California, ÐH Irvin rồi ÐH Atlanta.
Trong nhiều năm trời, cho tới 1966, Lyotard là thành viên của nhóm theo chủ nghĩa Marx ‘Socialisme ou barbarie – Hoặc chủ nghĩa xã hội hoặc man rợ’. Các văn bản của ông trong thập niên 1970 không còn mang dấu vết của chủ nghĩa Marx giáo điều và cũng không còn bám chặt các lý thuyết của Freud và Lacan như trước đó. Tuy thế, ông vẫn kết hợp vào nhau các quan tâm triết học và chính trị.
Trong cuốn Le Differend (Sự khác biệt, 1984), Lyotard quả quyết rằng những luận thuyết về con người đều xuất hiện trong cảnh giới riêng tư và đặc thù nên không cái nào được xem là ưu tiên, có thẩm quyền duyệt xét thành quả và giá trị của những cái khác.
Chủ đề chính trong các tác phẩm của Lyotard là đối kháng lại hoài bão thường được qui cho “thời hiện đại” là có khả năng thiết lập các lý thuyết và các thông giải bao quát, nhất quán cùng dứt khoát nhằm đưa ra những đáp án tuyệt vời nhất cho mọi câu hỏi.
Sự bác bỏ khái quát các ‘đại tự sự’ có xuất xứ từ trong cuốn La Condition postmoderne (Tình huống hậu hiện đại, 1979) của Lyotard. Một trong những đặc điểm của hậu hiện đại là sự bác bỏ các ‘đại tự sự’, nghĩa là các hệ thống chính của các ý tưởng tôn giáo, chính trị và văn hóa (Kitô giáo, giải phóng, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, tiến bộ công nghệ) được dùng làm trụ cốt cho các định chế chính trị và xã hội, các thực hành cùng các kiểu mẫu trí tuệ.
Một đặc điểm thêm nữa của thời hậu hiện đại là tính không thể đối chiếu của các hình thức luận bàn đa dạng, có nghĩa rằng sự nhất trí — vốn được dùng như một cơ sở khách quan cho các khái niệm về công bình và chân lý — không bao giờ có thể đạt tới một cách lý tưởng. Tuy thế, trong thời buổi hậu hiện đại, người dân càng ngày càng nhạy cảm hơn với những thất bại trong các phương tiện truyền đạt và càng ngày càng hiểu rõ hơn về chúng.
Ngoài hai tác phẩm vừa kể, Lyotard còn cuốn Misère de la philosophie (Sự khốn khổ của triết học, 2000).
29. Baudrillard (1929–2004)
Triết gia xã hội, nhà phê bình văn hóa và công nghệ truyền thông, người Pháp. Tên đầy đủ Jean Baudrillard.
Là khuôn mặt hàng đầu của chủ nghĩa hậu hiện đại, cho tới ngày qua đời, Baudrillard làm Giáo sư Danh dự Ðại học Paris và được thỉnh giảng ở nhiều đại học trên thế giới. Ông khởi nghiệp bằng tác phẩm nghiên cứu Marxism Critique of Capitalism (Phê bình Mác-xít đối với chủ nghĩa tư bản). Trong thời kỳ viết tác phẩm ấy, ông nêu luận cứ đối tượng tiêu dùng cấu thành một hệ thống các ký hiệu gây phân biệt trong cư dân. Theo Baudrillard, cá nhân tìm kiếm trật tự trong lòng xã hội từ các đối tượng; tuy thế, một thời gian sau, Baudrillard lại cảm thấy lý thuyết Marx không hiệu quả trong việc thẩm định hàng hóa, do đó, ông hướng tới chủ nghĩa hậu hiện đại.
Bằng nỗ lực phân chia thời hiện đại và thời hậu hiện đại thành hai thời kỳ, Baudrillard giải thích thế giới như một chuỗi các kiểu mẫu. Ông nhận dạng thời kỳ đầu của hiện đại là giai đoạn giữa thời Phục hưng và Cách mạng Kỹ nghệ, thời kỳ hậu hiện đại là giai đoạn đầu của truyền thông đại chúng (điện ảnh và chụp hình). Baudrillard tuyên bố rằng chúng ta hiện sống trong thế giới của hình ảnh nhưng chúng chỉ là những bản-thế-vì (simulations) cho các hình ảnh ấy.
Ông ngụ ý rằng nhiều người không hiểu nổi khái niệm đó nên “ngày nay chúng ta đang đi vào một kỷ nguyên, ở đó, chân lý chỉ là sản phẩm của các giá trị được tập thể đồng ý, và ở đó, khoa học chỉ là một cái tên mà chúng ta gán cho các phương cách nhất định.”
Một số tác phẩm của Baudrillard là Le Système des objets (Hệ thống và các đối tượng, 1968); La Société de la consommation (Xã hội tiêu thụ, 1970 ); Pour une critique de l’économie politique du signe (Phê bình nền kinh tế chính trị của ký hiệu, 1972), và khoảng bốn chục cuốn khác...
30. Rorty (1931–2007)
Triết gia Mỹ. Tên đầy đủ là Richard McKay Rorty.
Rorty chào đời tại thành phố New York, Hoa Kỳ. Ông lớn lên trong bầu khí của gia đình và thân hữu gồm những người có khuynh hướng chính trị, triết học và xã hội đối lập nhau nhưng giao lưu hài hòa. Năm 15 tuổi, ông vào học triết Ðại học Chicago. Sau khi lấy văn bằng tiến sĩ của Ðại học Yale, ông đi lính hai năm. Từ năm 1958 tới nay, ông lần lượt dạy tại các Ðại học Wellesley, Princeton, Virginia, Stanford... và được thỉnh giảng tại Ðại học Cambridge, Luân Ðôn, Ðại học Harvard.
Năm 1979, Rorty xuất bản cuốn sách đầu tay Philosophy and the Mirror of Nature (Triết học và chiếc gương của thiên nhiên). Vô số cuộc tranh luận xoay quanh cuốn ấy làm thành cuộc tấn công mạnh mẽ, rất gay cấn và ngày càng dâng cao vào khát vọng siêu hình và bảo căn của triết học truyền thống. Theo Rorty, cái được chúng ta gọi là ‘triết học’ đã biến thành ngõ cụt trong tri thức luận, siêu hình học và trở thành lý thuyết đạo đức khiến có lẽ chúng ta cần tái thẩm định những gì đang được ‘triết học hóa’, và nếu chúng ta tìm thấy quá ít hoặc chẳng có gì đằng sau những gì chúng ta tìm kiếm thì có lẽ cũng cần phải tái khám phá thuật ngữ đó.
Trong các tiểu luận gom thành cuốn Consequenses of Pragmatism (Các hậu quả của chủ nghĩa thực dụng, 1982), và cách riêng trong cuốn Solidary, Irony and Contigency (Ðoàn kết, châm biếm và ngẫu nhiên, 1989), Rorty phác họa một quan điểm về loài người như các sinh vật sử dụng ngôn ngữ đang liên tục ra sức xác định thế giới của chúng, không chỉ vì chúng ta có thể làm được việc đó mà còn vì chúng ta đang ra sức làm cho thế giới tốt đẹp hơn cho mình.
Tư tưởng của Rorty đặt trọng tâm lên phạm vi phê bình ấy, và việc làm đó đưa ông, tuy là một triết gia hậu hiện đại chủ nghĩa, vào hàng ngũ các nhà thực dụng chủ nghĩa Mỹ trước ông, với ý tưởng rằng chỉ có chân lý được mô tả về mặt xã hội của những phát biểu về thế giới, niềm tin và các ý kiến của chúng ta mới có thể biến chúng trở thành có ý nghĩa.
Ngày 8 tháng Sáu năm 2007, Rorty qua đời tại nhà riêng vì ung thư tụy tạng.
Không bao lâu trước khi từ trần, ông viết bài thơ The Fire of Life (Ngọn lửa đời), in trong Tạp chí Thơ tháng Mười Một năm 2007, trong đó ông chiêm nghiệm cơn bệnh của mình và làm thơ. Ông kết luận:
“Giờ đây, tôi ao ước dành đôi chút đời mình cho thơ. Chẳng phải vì tôi sợ vuột mất những chân lý không thể nói bằng thơ. Không có những chân lý như thế; cũng chẳng có gì về cái chết mà [hai thi sĩ] Swinburne và Landor biết nhưng [hai triết gia] Epicurus và Heidegger không nắm bắt nổi. Thật ra chỉ vì tôi hẳn sống đầy đủ hơn nếu tôi có khả năng nói huyên thuyên về những hạt dẻ rất già, tựa như tôi đã làm nếu tôi có thêm nhiều bằng hữu thân thiết.”
Tai liệu tham khao:
* Anthony Falikowski, Experiencing Philosophy, Pearson Prentice Hall, Hong Kong, 2004. * Bertrand Russell, History of Western Philosophy, Unwin University Books, Hong Kong, 1969. * C. Hugh Holman, A Handbook to Literature, The Odyssey Press, Hoa Kỳ 1970. * Cao Văn Luận, Ðào Văn Tập, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Tuyên, Danh từ Triết học, LM Xuân (Carpet), Sàigòn, 1969. * Dion Scott-Karkures, S. Castagneto, H. Benson, W. Taschek, P. Hurke, History of Philosophy, Harper Perennial, Hong Kong, 1993. * en.wikipedia.org/wiki/Portal:Biography * Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tăng, Từ Ðiển Triết Học Giản Yếu, NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987. * Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử Triết học Tây phương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
Một số từ điển triết học bằng tiếng Anh:
* Robert Paul Wolff, About Philosophy, Prentice Hall, Hong Kong, 1992. * Trần Văn Hiến Minh, Từ điển & Danh từ Triết học, Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1966. * Will Durant, Câu chuyện Triết học, Trí Hải & Bửu Ðích dịch, Nha Tu thư và Sưu khảo, Viện Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1971. * Will Durant, The Pleasures of Philosophy, Touchstone Book, Hong Kong, 1953. * Will Durant, The Story of Philosophy, Washington Square Press, Hong Kong, 1970.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:25:02 GMT 9
Triết lý khoa học hiện đại Vietsciences- Nguyễn Đức Hiệp
Khoa học hiện đại có những đóng góp to lớn vào đời sống xã hội con người. Nhưng khoa học là gì và có phải chỉ có một hay là có nhiều nền khoa học khác nhau tùy thuộc vào vũ trụ quan của một nền văn hóa hay một nền tảng triết học mà các nhà hậu hiện đại đã đặt ra. Bài này có mục đích tóm tắt quá trình lịch sử triết học khoa học và những vấn đề khúc mắc tồn tại từ thời Khai sáng đến nay. 1. Phác hoạ tổng quan Khoa học ở Tây phương phát xuất và bùng nổ mạnh từ cuộc tranh đấu giữa tôn giáo và các "triết gia thiên nhiên" (natural philosophers) trong thời Khai sáng. Chỉ từ thế kỷ 19 mới có các từ "khoa học" và "khoa học gia"(scientist) (do William Whewell đặt ra) như ta hiểu hiện nay [**]. Trước đó, những người nghiên cứu hiện tượng thiên nhiên và đưa ra các định luật về tự nhiên được gọi là “triết gia” (philosopher) hay “triết gia thiên nhiên” (natural philosopher). Francis Bacon là người hệ thống hoá và kêu gọi vận dụng triết lý thực nghiệm làm nền tảng cho kiến thức. Con người chỉ có thể tìm và biết được sự thật về sự vận hành của thế giới thiên nhiên qua cảm nghiệm (senses) về thế giới bên ngoài chứ không từ tâm linh, niềm tin hay thượng đế. Nền tảng khoa học phương Tây vì thế dựa trên cảm nghiệm và thực nghiệm. Từ Bacon đến Whewell và đến ngày nay, khoa học ngày càng phát triển và chia ra nhiều ngành, nhiều nhánh khác nhau. Khác với triết lý thực nghiệm (empirical) của Bacon và William Whewhell Ernst Mach William Whewhell phát triển mạnh ở Anh, triết lý thực chứng (positivism) của Ernst Mach và sau đó chủ nghĩa thực chứng logic (logical positivism) của Nhóm Vienna phát triển mạnh ở những nước Âu châu nói tiếng Đức. Tuy vậy, ngay cả ở những nước nói tiếng Anh, nơi triết lý thực nghiệm phát sinh và làm nền tảng cho việc khám phá ra một số lớn các định luật tự nhiên trong khoa học, ít ai biết về chủ nghĩa thực chứng vào các thập niên 1950, 1960. Lý do là vì truyền thống lịch sử triết lý khoa học ở hai nước khác nhau do đã có lúc các triết gia ở Đức lái triết lý khoa học thực nghiệm của thời Khai sáng vào một ngã rẽ quan trọng theo con đường của chủ nghĩa lãng mạn. Các triết gia thuộc trường phái lãng mạn và triết học duy tâm Đức đã đem "siêu hình học" về với triết lý khoa học, gọi là Naturphilosophie, một hỗn hợp của cảm tính, huyền bí và giả thuyết nửa khoa học (quasi-scientific). Mục đích của họ là kết hợp nhân bản với khoa học, một mục đích cao thượng. Tuy nhiên, hậu quả là sự xuất hiện của các lý thuyết không hoàn toàn "khoa học" mà sau này Karl Popper gọi là "ngụy khoa học" (pseudo-science). Sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng của Popper là phản ứng lại các lý thuyết trên. Theo chủ nghĩa thực chứng logic, khoa học là cái gì có thể kiểm chứng được, bằng quan sát, dữ liệu, theo một số quy luật. Những gì không thể kiểm chứng được một cách logic là siêu hình học, hay "ngụy khoa học". Chủ nghĩa thực chứng sau này bộc lộ nhiều giới hạn. Giới hạn nổi bật nhất là lắm khi một lý thuyết (thí dụ như thuyết nguyên tử với các điện tử (electrons)) dù không quan sát được với kỹ thuật đương thời nhưng rồi đã được kiểm nghiệm với kỹ thuật tiến bộ hơn. Karl Popper đã đưa ra quan điểm mới tốt hơn triết lý thực chứng logic. Theo ông, để phân biệt "khoa học thật" sự với "ngụy khoa học" và siêu hình học, ta cần tiêu chuẩn: một lý thuyết chỉ mang tính khoa học khi nó có thể chứng nghiệm là sai. Đây là tính phản nghiệm (falsification) nổi tiếng của Popper, có nhiều ảnh hưởng vào thập niên 1970. Tuy vậy chủ nghĩa phản nghiệm (falsificationism) có những khúc mắc, nhất là với những nhà khoa học xã hội. Theo những người này thì tiêu chuẩn ấy quá cứng nhắc, áp dụng nó một cách rạch ròi thì ngay cả thuyết tiến hoá của Darwin cũng không là khoa học. Đối thủ nổi tiếng nhất của Karl Popper là Thomas Kuhn. Theo Kuhn, ít môn khoa học nào thật sự là "khoa học" theo tiêu chuẩn của Popper. Kuhn cho rằng chúng ta không thể so sánh lý thuyết khoa học này với lý thuyết khoa học khác, vì chúng thuộc những phạm trù khác nhau, với những giới hạn khác nhau. Charles Darwin Thomas S. Kuhn Paul Feyerabend Theo Thomas Samuel Kuhn, các lý thuyết khoa học đều tiến hoá theo "bước nhảy cách mạng" (revolutionary jump). Khi một lý thuyết hoạt động và gặp những giới hạn hay khủng hoảng (chẳng hạn như khi vật lý Newton gặp những hiện tượng lượng tử), thì một cuộc cách mạng về cách nhìn là cần thiết. Nói theo Kuhn là cần chuyển sang một "mô thức" ("paradigm") mới (“paradigm shift” là một cụm từ dấu ấn của Kuhn). Không thể so sánh các mô thức, dù với tiêu chuẩn nào, vì chúng thuộc các phạm trù khác nhau. Thuyết của Kuhn được hồ hởi chấp nhận, nhất là bởi những người theo chủ thuyết tương đối (relativism) trong các thập niên 1960, 1970 chống lại phái bảo thủ tuyệt đối. Song thuyết của Kuhn cũng có nhiều khúc mắc. Lịch sử khoa học cho thấy hiếm có các chu kỳ lý thuyết như Kuhn mô tả. Ngay vật lý Newton cũng không phải là cách mạng khoa học (revolution) mà là tiến hóa khoa học (evolution). Paul Feyerabend, bạn của Kuhn, thì mạnh bạo hơn: ông cho rằng thật sự không có cái gì gọi là "phương pháp khoa học". Theo Feyerabend, chúng ta có thể dùng bất cứ phương tiện nào miễn là phương tiện ấy giúp hiểu biết vấn đề trước mắt. Dễ thấy, nhiều nhà khoa học đã cho khẳng định "khoa học là cái gì mà các nhà khoa học làm" như Feyerabend đề xướng là đi quá xa! Cơ bản quan điểm của Kuhn và Feyerabend là phản ứng lại “mô hình cứng” của Popper, người chủ trương chủ thuyết phản nghiệm như nói trên. Imre Lakatos cũng là một phản ứng khác, nhưng không quá khích, "vô trật tự" hay "vô chính phủ" ("anarchist") như Feyerabend, Lakatos không phân chia rạch ròi giữa khoa học duy lý ("rational" science) và khoa học vô duy lý (non-rational science). Triết gia này kết hợp quan điểm của Kuhn với phương pháp phản nghiệm (có cải tiến) của Popper, cho rằng khoa học là một chuỗi những "chương trình nghiên cứu" (research programs), từng bước tiến lên từ một vấn đề này đến vấn đề khác. Quan điểm của Lakatos có vẻ hợp lý nhất đối với đa số các ngành khoa học hiện đại (kể cả các ngành khoa học xã hội). Gần đây có một cuộc tranh luận là liệu thật sự có một nền khoa học phổ quát (universal science) hay là có nhiều nền khoa học tuỳ theo vũ trụ quan của một nền văn minh (thí dụ có “khoa học hồi giáo”, “khoa học Trung quốc”... khác với khoa học hiện đại mà ta nên gọi là “khoa học Tây phương” không?). Nhiều nhà khoa học cho là chỉ có một nền khoa học phổ quát (luật khoa học bất biến) chứ không có nhiều loại khoa học tuỳ theo vũ trụ quan của những văn minh khác nhau. Steven Weinberg (giải Nobel vật lý) (1), và Alan Sokal (2) là tiêu biểu trong nhóm này. Mặt khác, một số người như Jacques Derrida, Helen Verran (3) lại cho rằng khoa học có nhiều loại, có thể khác với khoa học mà ta vẫn biết hiện nay ở Tây phương. 2. Từ thực nghiệm quy nạp (induction) đến chủ nghĩa thực chứng logic (logical positivism) Các phương pháp và triết lý khoa học hiện nay cũng như thành quả của chúng xuất phát từ sự phát triển triết lý mạnh mẽ ở thời Khai sáng. (a) Quy nạp thực nghiệm Rũ bỏ quan niệm thần quyền theo đó tri thức phát sinh từ sự tiết lộ của đấng tối cao qua niềm tin và thuyết giáo, nhiều nhà tư tưởng và triết gia "thiên nhiên" đã tìm hiểu và nghiên cứu về sự liên hệ giữa thế giới bên ngoài và tri thức. Họ quan sát, nhận thức tự nhiên qua cảm quan, rồi từ đó, qua phương pháp quy nạp, khám phá ra các nguyên lý và định luật thiên nhiên. Do đó tất cả các hiện tượng trong thiên nhiên đều có thể giải thích và hiểu được bằng lý trí, trí tuệ suy xét. Chủ nghĩa duy lý trong thời Khai sáng cho rằng sự tiến bộ của con người là kết quả của sự thâu thập và tích lũy tri thức vào kiến thức của con người. Tiêu biểu trong giai đoạn này là các khoa học gia và triết gia như John Locke và Francis Bacon. Theo họ, từ sự quan sát lâu dài các hiện tượng thiên nhiên, ta có thể dùng quy nạp (induction) để thiết lập định luật chung cho các hiện tượng ấy. Đây là nền tảng của sự phát triển và bùng nổ kiến thức khoa học trong nhiều ngành từ thế kỷ 18 cho đến đầu thế kỷ 20. Nước Anh là nơi mà truyền thống khoa học thực nghiệm phát sinh và phát triển rộng rãi. Cơ học Newton là một thành tựu lớn lao của khoa học thực nghiệm quy nạp và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nhà tư tưởng của thời Khai sáng. Trong giai đoạn phát triển của khoa học thực nghiệm quy nạp, một nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng kỹ nghệ lịch sử, còn có ảnh hưởng của hai nhà triết học Descartes và Kant. Descartes với "triết lý cơ học" cho rằng mọi hiện tượng liên quan đến vật thể trong thiên nhiên đều có thể hiểu được bằng lý trí: thiên nhiên vận hành qua các lực đẩy, lực kéo do sự liên tác của các vật thể rắn hay lỏng. Tất cả đều theo quy luật cơ khí chứ không theo quy luật huyền bí hay mê tín về một đấng tối cao. Sau thời Khai sáng, triết lý này có ảnh hưởng rất lớn ở thế kỷ 19, trong các ngành hoá học và nhiệt học được phát triển với giải thích cơ bản dựa vào các nguyên tử. Tuy vậy, các triết gia theo triết lý cơ học khó chấp nhận vật lý Newton, vì theo họ thì khó giải thích sức hút hay liên tác giữa các vật thể qua không gian mà không qua sự tiếp xúc của các vật thể. Tuy có những giới hạn, triết lý Descartes đã có nhiều đóng góp đáng kể vào khoa học và vẫn còn được áp dụng, ngay cả trong thời kỳ hưng thịnh của vật lý Newton. David Hume là người đã vạch ra những khó khăn cơ bản của triết lý quy nạp thực nghiệm. Theo ông, các sự kiện xảy ra kế tiếp nhau ở thế giới bên ngoài mà ta cảm nhận cho ta ấn tượng là chúng có liên hệ nhân quả. Song, thật ra, có thể chúng không liên hệ gì nhau, và chưa chắc là các chuỗi sự kiện ấy cũng sẽ như vậy trong tương lai. Cơ bản là kinh nghiệm của chúng ta chỉ dựa vào cái gì đã qua và hôm nay, không ai có kinh nghiệm về tương lai. Hume đưa thí dụ: thấy mặt trời mọc hôm qua và hôm nay, rồi nghĩ là mặt trời sẽ mọc ngày mai, thì thật sự chỉ là một thói quen. Dùng quy nạp qua cảm nhận thực nghiệm để thiết lập nguyên nhân và hậu quả vì thế rất đáng nghi ngờ. Tri thức, lý thuyết khoa học kiểu đó có thể hoàn toàn sai lầm . Qua triết lý của Kant, khúc mắc trên được giải quyết ở một mức trừu tượng hơn. Kant cho rằng chúng ta có thể có nhận thức một cách tiên nghiệm (a priori) các phạm trù có sẵn trong vật thể. Song, theo ông, dù chúng ta có biết được mọi đặc tính của các vật thể và sự liên hệ giữa chúng, chúng ta vẫn không thể thực sự biết chính vật thể đó. Theo Kant, có thể giải thích hoàn toàn liên hệ giữa các vật thể bằng lý trí thuần tuý (pure reason), và phương pháp khoa học có thể giải thích được tất cả thế giới hiện tượng. Ông cũng nghĩ rằng có thể chỉ dùng lý trí thuần tuý mà chứng minh được là luật sức hút và cơ học Newton. Kant cho rằng không gian và thời gian không phải là một bộ phận của thế giới bên ngoài mà là sản phẩm của tư tưởng. Ý niệm thời gian, theo ông, không phát sinh từ sự thu nhận qua các giác quan của con người về thế giới bên ngoài. Vì thế, ta có thể hoàn toàn qua lý trí thuần túy mà phát huy kiến thức về những gì liên quan đến thời gian. Triết học của Kant do đó khó dung hoà với thuyết vật lý tương đối của Einstein sau này, qua đó không gian và thời gian là những khía cạnh thông thường của vũ trụ vật thể, những khía cạnh có thể bị ảnh hưởng bởi chuyển động và lực hút. Tư tưởng duy lý với quy nạp thực nghiệm trong thời Khai sáng bắt nguồn từ mục đích nhân bản: kiến thức mà lý trí Khai sáng tạo ra là để giải phóng con người bằng cách nâng con người vượt qua khỏi thế giới hoang dã. Tuy vậy, trong thực tế, việc giảm đi giá trị tinh thần và niềm tin tôn giáo cũng có nguy cơ đưa đến tư tưởng và chủ nghĩa duy ý chí cực đoan nhằm tìm ra một xã hội "hoàn hảo" như trong lý tưởng của cách mạng Pháp, và điều này có thể đưa đến việc áp dụng triệt để chúng trước khi biết được giới hạn của chúng. Tư tưởng thời Khai sáng đã bị nhiều phong trào theo chủ nghĩa lãng mạn phản kháng. Họ chủ trương "lý trí đi ngủ" là tốt cho con người. Rousseau đã kết án văn minh và lý trí đồng thời cổ vũ cho hoang dã thanh liêm, cho việc trở lại với thiên nhiên và sự hồn nhiên trong sáng để đạt trạng thái không bị thoái hóa. Phong trào lãng mạn ở Đức, mặt khác, không quá cực đoan như lãng mạn kiểu Rousseau. Các triết gia lãng mạn ở Đức cố gắng kết hợp nhân bản với duy lý. Goethe là một nhà văn, triết gia nhân bản, ông cũng đặt hy vọng vào khoa học và tin là khoa học giải phóng con người. Bản thân ông muốn mình là một nhà khoa học tìm hiểu thiên nhiên vì lợi ích nhân loại. Như nói ở trên, các triết gia ở Đức lái triết lý khoa học thực nghiệm của thời Khai sáng vào hẳn một ngã khác. Các nhà triết gia trường phái lãng mạn đã mang siêu hình học trở lại triết lý khoa học, gọi nó là Naturphilosophie, một hỗn hợp của cảm tính, huyền bí và giả thuyết bán khoa học (quasi-scientific). Hậu quả là sự ra đời sau này của các lý thuyết không hoàn toàn "khoa học". (b) Chủ nghĩa thực chứng logic (logical positivism) Chủ nghĩa thực chứng vẫn xem quy nạp thực nghiệm là nền tảng của phương pháp khoa học. Ernst Mach, nhà vật lý và triết gia của trường phái cuối thế kỷ 19 ở Vienna, đưa triết lý thực chứng vào khoa học vật lý. Trong tay Mach, thực chứng được dùng như đối trọng và liều giải độc (antidote) chống lại siêu hình học của Kant và các lý thuyết bán khoa học của phái lãng mạn. Tuy nhiên chỉ sau thế chiến thứ nhất, khi một nhóm các nhà vật lý, toán học và triết học thành lập Nhóm Vienna (Vienna Circle) do Moritz Schlick dẫn đầu. thì chủ nghĩa thực chứng logic mới phát triển và có ảnh hưởng rộng rãi. Qua tuyên ngôn “Vũ trụ quan khoa học: Nhóm Vienna" những người này đưa ra một triết lý mới kết hợp thực chứng của Mach và logic của Russell. Trong bối cảnh chán nản hậu quả chiến tranh và các quan điểm, tư tưởng tôn giáo, chính trị đầy rẫy đè nặng trong xã hội, thực chứng logic đã được nhiều trí thức xem là như phương tiện giải thoát con người khỏi lầm than và tranh chấp. Có thể nói đây là khởi đầu của một phong trào, tập trung từ Trung Âu và phát tán ra các nước bắc Âu, Anh và sau này là Mỹ, chống lại triết lý trừu tượng. Phong trào này trở về nguồn với những gì cơ bản, giản dị, logic, có thể kiểm nghiệm được, và loại bỏ những vô nghĩa, siêu hình đã trói buộc và nô lệ hoá con người trong đời sống xã hội. Cốt lõi của thực chứng logic là chỉ chấp nhận những gì gọi là khoa học khi có thể quan sát hay đo được, và do đó có thể kiểm chứng. Đây là nguyên lý kiểm chứng nổi tiếng mà Alfred Ayer mô tả như sau: "Chúng ta nói rằng một câu rất đáng kể có sự thật, dựa trên sự kiện cho bất cứ một người nào, nếu và chỉ nếu người ấy biết cách kiểm chứng được định đề mà câu đó có ngụ ý hay mục đích muốn nói lên - nghĩa là người đó biết những quan sát nào, trong một số điều kiện nhất định, sẽ làm họ chấp nhận định đề đó là đúng, hay không chấp nhận nó vì nó sai." (28) Những gì không quan sát và kiểm chứng được bị xếp vào một loại tương tự với siêu hình. Các câu như "Bức tranh này đẹp", hay "Có một thượng đế toàn năng" là vô nghĩa, là siêu hình. Những siêu hình học truyền thống, với những ước đoán trừu tượng về thế giới bên ngoài, không thể kiểm được bằng quan sát khoa học và vì thế đều vô nghĩa, vô dụng cho con người. Dùng nguyên lý cơ bản trên, các nhà triết học theo thực chứng logic như Neurath nghiên cứu về triết lý khoa học, đã phát triển một cách có hệ thống những nguyên lý để tìm hiểu thế giới thiên nhiên. Một số, như Gregory Bergman, nghiên cứu về triết lý ngôn ngữ để tiến đến một ngôn ngữ logic lý tưởng, hay như Rudolf Carnap, dùng phương pháp chính thống của logic toán học để tìm ra một ngôn ngữ hoàn toàn khoa học nhằm thể hiện được thế giới thiên nhiên bên ngoài. Các nhà toán học Kurt Godel, Peter Frank cũng dùng lý luận tinh vi để tìm hiểu giới hạn của logic. Như Hume, họ cho rằng hiện tượng không có nguyên nhân. Song, khác Hume, họ dùng quy nạp làm cơ sở lý luận. Cơ bản là chúng ta chỉ biết quá khứ và hiện tại, vì thế dùng quy nạp để khám phá các định luật khoa học thì liệu định luật ấy có đúng với tương lai? Vì dùng quan sát để kiểm chứng sự thật, sự kiện khoa học, để biết được sự thật định luật khoa học, họ đã phải dùng quy nạp và logic để biết xác suất của định luật. Các người chủ trương chủ nghĩa thực chứng logic, như Carnap, đã dùng lý luận và logic để chứng minh tiên đoán xác suất sự chính xác và độ tin cậy (confidence) của các định luật qua quy nạp thực nghiệm với toán học xác suất. Nhưng mặc dầu đã rất cố gắng, họ vẫn thất bại. Vấn đề cơ bản là quy nạp có nhiều khó khăn, như Hume đã cho thấy, và cuối cùng không thể tổng quát hoá bằng quy nạp trong hệ thống thế giới logic như thế. Sau này, Popper đã học hỏi và thấy được giới hạn của thực chứng logic khi ông làm việc chung với họ. Triết lý thực chứng logic có ảnh hưởng đến một số các nhà khoa học vật lý ở thế kỷ 20 như Ludwig von Mises, Werner Heisenberg và đóng góp vào việc phát triển nguyên lý vô định, không chắc chắn (uncertainty principle), sinh ra từ phân tích thực chứng logic về sự giới hạn khi vừa quan sát vị trí vừa đo động lực (momentum) của vật thể cùng một lúc. Einstein và Bohr cũng có nhiều liên hệ với Nhóm Vienna. Nhưng triết lý này cũng là khuynh hướng đối lập chính chống lại thuyết nguyên tử vào đầu thế kỷ 20. Các môn đồ của thực chứng logic cho là thuyết nguyên tử không phải là khoa học thực sự bởi vì các nguyên tử không thể quan sát được, và vì thế không thể kiểm chứng, với những kỹ thuật có thể mường tượng vào thời đó Ngay cả sau này khi thuyết nguyên tử đã được nhiều người chấp nhận, Mach vẫn cương quyết tranh luận khi viết cho Plank là ".. nếu sự tin tưởng vào sự thật của các nguyên tử là thiết yếu trong khoa học, thì tôi xin từ nay bỏ đi phương cách suy nghĩ làm khoa học vật lý. Tôi sẽ không còn là một nhà vật lý chuyên nghiệp và tôi trả lại hết những danh dự khoa học mà tôi có" (4) Triết lý thực chứng không còn hữu dụng khi nghiên cứu về tương lai. Như nhà vật lý Weinberg viết: "Làm sao chúng ta có thể tạo lập một lý thuyết dựa vào các vật quan sát khi mà không một khía cạnh nào của kinh nghiệm chúng ta - có thể ngay cả ở không gian và thời gian tương lai - đã được dùng ở mức cơ bản nhất của các lý thuyết chúng ta? "(4) Oái oăm thay, khi thuyết về hạt tử “quarks” ra đời thì triết lý thực chứng không còn chỗ đứng trong vật lý, nơi mà nó đã khai sanh và được áp dụng. Theo hai nhà vật lý Murray Gell-Mann và George Zweig thì tất cả các loại hạt tử (như electron, neutron, meson, proton, vv) đều được cấu tạo bởi vài hạt tử cơ bản (elementary) giản dị mà họ gọi là “quarks”. Ngày nay, hầu hết các nhà vật lý đều chấp nhận lối giải thích này. Đến đầu thế kỷ 20, người ta bắt đầu thấy rõ triết lý khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa thực chứng là có nhiều giới hạn trong hầu hết mọi ngành. Ngay cả khi có những vật thể quan sát được, điểm then chốt của thực chứng cũng đã bị chỉ trích và phủ định khi nó cho là có những quan sát hoàn toàn độc lập, và trung tính (neutral) với các lý thuyết, ý niệm, và ngôn ngữ. Ngay trong vật lý học, triết lý thực chứng cũng bị xem là lạc hậu và được thay thế bởi triết lý phản nghiệm của Popper. 3. Triết lý phản nghiệm của Karl Popper Tuy xuất thân từ phái thực chứng, Popper đã vượt qua những khuyết điểm của phái này và có nhiều đóng góp vào triết lý khoa học hiện đại. Trái với thực chứng, ông cho rằng tất cả những quan sát (observations) đều không trung tính, mà đầy lý thuyết (theory laden). Ông nghĩ rằng không có các môn đề (subject matters) như tâm lý, xã hội, thiên nhiên mà chỉ có các vấn đề (problems) và ước muốn của chúng ta để giải thích chúng. Đối với Popper, câu hỏi then chốt là: làm sao chúng ta có thể xác định một lý thuyết là khoa học hay không khoa học (mà ông gọi là ngụy khoa học). Theo ông, một lý thuyết được gọi là khoa học khi nó có những điều kiện sau: (i) Có thể đưa tới (liable) chứng nghiệm theo dữ liệu. Nói khác đi, thuyết ấy phải cho cơ hội kiểm nghiệm để chứng tỏ là nó sai; (ii) Đưa ra những tiên đoán: thuyết phải “gan dạ”, “táo bạo” tiên đoán những hiện tượng chưa được quan sát và kiểm nghiệm. Điều (i) rất là quan trọng, vì thế thuyết Popper được gọi là chủ nghĩa phản nghiệm (falsificationism). Theo đó ta có thể có nhiều quan sát (observations) phù hợp (fit) với lý thuyết đặt ra. Song điều quan trọng là thuyết đó phải cho phép ta có thể tìm dữ kiện (data) để chứng tỏ là nó sai. Lý thuyết chỉ thật sự là khoa học khi nó liều lĩnh, táo bạo, "mở cửa" cho nhiều cơ hội kiểm chứng, chứa nhiều thông tin với bằng chứng có thể phản biện. Theo Popper, một lý thuyết khoa học mới chỉ xứng đáng thay thế một lý thuyết đang có khi lý thuyết mới ấy tổng quát hơn, giải thích được hết những gì lý thuyết cũ có khả năng giải thích, và hơn nữa, giải thích được nhiều trường hợp mà lý thuyết cũ đã bị phản nghiệm. Rồi, bản thân lý thuyết mới ấy tự nó phải cho nhiều cơ hội phản nghiệm. Và sau cùng, khoa học "thực sự" phải có những tiên đoán về các hiện tượng chưa quan sát nhưng sẽ xảy ra, và có thể kiểm chứng. Để hiểu rõ nguyên nhân sự ra đời của thuyết phản nghiệm, nên biết đôi chút về cuộc đời và môi trường trí thức của Popper khi ông còn ở Áo (5). Popper, gốc Do Thái, sinh trưởng ở Vienna, lúc đầu thân cận với nhiều người trong trường phái thực chứng. Có thời ông là Marxist, và đã có những kinh nghiệm về sự không định, thiếu logic khoa học của các giải thích hiện tượng xã hội qua các thuyết tâm lý của Freud và Adler khi ông làm phụ tá cho Adler trong các văn phòng xã hội giúp trẻ em và thanh niên nghèo ở Vienna. Adler là học trò của Freud và là người đưa ra lý thuyết xã hội gọi là thuyết Adler (Adlerism), theo đó con người có một nhu cầu cơ bản trong xã hội: đó là muốn có quyền lực. Khi quyền lực mình mong muốn vượt quá tầm tay của mình vì các trở lực bên ngoài, thì con người hình thành những tâm trạng, hành động tâm lý. Những tâm trạng, hành động này được thể hiện qua một mặc cảm tự ti nhằm che giấu cái yếu, cái bất lực của mình. Theo Popper, mọi hành vi đều có thể được diễn giải theo thuyết tâm lý của Freud hay Adler. Popper đưa ra thí dụ hai hành vi rất khác nhau. Một người đàn ông xô đứa trẻ xuống nước để nó bị chết đuối, và một người nhảy xuống nước để cứu đứa bé. Theo thuyết của Freud, thì người thứ nhất bị mắc bệnh kiềm chế một phần phức cảm Oedipus (Oedipus complex) của mình. Người thứ hai đã đạt được tuyệt đỉnh. Theo thuyết Adler, thì người đàn ông thứ nhất muốn vượt qua mặc cảm tự ti của mình bằng sự thách thức chính mình hãy giết đứa trẻ; và người thứ hai cũng muốn chế ngự được mặc cảm tự ti bằng thử thách chính mình và cứu đứa trẻ. Popper đã tương phản hai lý thuyết trên với lý thuyết cơ học Newton và tương đối của Einstein, hai lý thuyết có nhiều bằng chứng để kiểm nghiệm hay phản nghiệm. Đây là hạt nhân cho sự hình thành và xuất hiện thuyết phản nghiệm của Popper. Có hay không các loại khoa học khác nhau tùy theo vũ trụ quan của văn hoá? Nếu theo tiêu chuẩn của Popper thì không. Theo Popper, khoa học phải tách rời với tất cả, ngay cả những gì liên hệ đến con người như ngôn ngữ, cảm nhận v.v... Khoa học thực nghiệm theo hệ thống quy nạp với tri thức tiếp nhận qua giác quan mà khoa học từ Bacon, Newton cho đến ngày nay phần lớn đã dựa vào, cũng không đúng (mặc dù ông có đồng cảm với tư tưởng trên) "Tôi là một người rất ngưỡng mộ cảm quan kinh nghiệm (common sense), và tôi cho rằng nó cơ bản rất tự phản biện (self-critical). Tuy vậy, mặc dầu tôi vẫn giữ sự thật cơ bản cuối cùng tính hiện thực của cảm quan kinh nghiệm (common sense realism), tôi cho rằng lý thuyết cảm quan về tri thức là một sai lầm chủ quan. Sự sai lầm này ngự trị triết lý Tây phương đã lâu. Tôi đã cố gắng xoá bỏ nó, và thay bằng một thuyết khách quan về tri thức chủ yếu qua phỏng đoán. Điều này có thể là một tuyên bố bạo dạn nhưng tôi không hề xin thứ lỗi cho thuyết này.”(6) Tất cả mọi thuyết và phương pháp khoa học phải khách quan. Popper cho là luật thiên nhiên và vũ trụ là phổ quát, ông tin là lý thuyết khoa học phải cạnh tranh trong môi trường phản nghiệm. Lý thuyết phải có tính chất phản nghiệm (falsifiability), mạnh dạn cấp tiến trong tiên đoán và qua nguyên lý phản nghiệm để có và được thay thế bởi các lý thuyết nào gần với sự thật hơn (Popper gọi là "versimilitude"). Vì thế, khoa học là một chuỗi các lý thuyết bị đổ để đến lý thuyết gần hơn với "versimilitude". Chủ nghĩa thực chứng và thuyết Popper chủ yếu dựa vào vật lý học như mô hình triết lý khoa học. Trái với các thuyết thật sự khoa học có tính phản nghiệm và mạnh dạn đứng ra chịu sự thử thách tiên đoán, các thuyết "ngụy khoa học" hay bán khoa học đều dùng kế hoạch tự phòng thủ nhằm tránh bị phê bình, chỉ trích, qua các chắp vá, niềm tin mà ông gọi là chiến thuật miễn nhiễm ("immunizing stratagem"). Quan điểm của Popper về sự phản nghiệm rất được phổ biến và thường được các nhà khoa học áp dụng để bác bỏ các lý thuyết ngụy khoa học. Trong thời của Popper, hai đối tượng chính là tâm lý học theo Freud và triết học Marx về lịch sử mà ông dùng để phân biệt với khoa học thực sự. Nhưng ngay cả các lý thuyết khoa học ở các ngành khoa học đã đạt tiêu chuẩn có thể phản nghiệm thì hầu như trong thực tế khó có lý thuyết khoa học nào mà không bị loại hay chối bỏ (reject) bởi một tập hợp quan sát (observations) trong một thí nghiệm quyết định, như Kuhn đã cho thấy. Điều này cũng xuất phát từ bối cảnh thời Popper lúc ấy đặt trọng tâm vào việc chống lại "siêu hình" và "ngụy" khoa học, và nhất là thời huy hoàng của vật lý khi mà vật lý là trung tâm của khoa học. Thuyết phản nghiệm của Popper có vài khuyết điểm dễ thấy. Thứ nhất, nếu mục đích của khoa học là làm giàu tri thức thì việc "phản nghiệm một giả thuyết là sai" khó thể xảy ra, và không cho ta thêm tri thức nhiều hơn khi một giả thuyết khoa học rất có thể đúng và chấp nhận được bị phản nghiệm là sai. Nói cách khác, phản nghiệm là sai một "ngụy khoa học" hay lý thuyết tồi không mang lại cho chúng ta điều gì mới để tiến lên. Thứ hai, có những xác định không thể phản nghiệm (chẳng hạn, làm sao xác định sự hiện hữu của một vật thể tưởng tượng?). Và quan trọng hơn, Popper tự mâu thuẫn về vấn đề quy nạp. Một đàng, ông không cho rằng những chứng cớ thực nghiệm (evidence) có thể củng cố giả thuyết khoa học bằng phương pháp quy nạp (theo ông, quy nạp là vô ích và vô tác dụng). Đàng khác, ông lại dùng ý niệm "chứng thực thêm" (corroboration), thật ra không khác ý niệm quy nạp. Đối với Popper, những giả thuyết khoa học “tốt” là giả thuyết đã được "chứng thực thêm" với các bằng chứng thực nghiệm. Nếu bác bỏ quy nạp thì đa số lý thuyết khoa học đều sai vì bị phản biện, và nếu có thuyết đúng thì ta cũng không biết là nó đúng. Để tránh bế tắc này, theo Popper, khoa học không cần dùng phương pháp quy nạp. Khoa học tiến bộ là nhờ sự cạnh tranh giữa các lý thuyết, lý thuyết nào gần với “verisimilitude” hơn thì được chấp nhận. Giả thuyết nào chứa nhiều “sự thật” được suy diễn từ giả thuyết, và ít sai (qua phản nghiệm hay “chứng thực thêm”) hơn giả thuyết khác, thì được chấp nhận. Vì thế, một giả thuyết khoa học dù có bị phản nghiệm đôi lần, nhưng nếu bị ít hơn thuyết khác, và có chứa nhiều thông tin, nhiều “sự thật” hơn, thì nó vẫn có giá trị và được chấp nhận. Ít ra là cho đến khi giả thuyết khác, tốt hơn, được đề xuất. Nói chung nền tảng cơ bản của triết lý khoa học Popper vẫn là máy móc (mechanistic), thể vật (physical) và khách quan (objective), không khác nhiều với triết lý thực chứng logic, sinh ra để đối lập lại chủ thuyết tâm lý của Freud và chủ nghĩa Marx. Trong thời kỳ vật lý là "vua" khoa học, Popper cho là Freud và Marx không thực sự khoa học. (Theo Popper, lúc đầu chủ nghĩa Marx về lịch sử có khoa học, nhưng sau các tiên đoán không đúng, đã được chắp vá, sửa đổi thêm nên mang khía cạnh niềm tin và siêu hình và do đó không còn là khoa học). Mô hình này không còn được áp dụng trong khoa học, ngoài sự hữu dụng của nó hiện nay để chống ngụy khoa học như chiêm tinh, hay các "khoa học" huyền bí khác, chủ yếu là vì tâm lý học theo Freud dựa vào sinh lý (sex) đã được cho thấy là không còn thích hợp hay lỗi thời, không còn được áp dụng, hoặc được thay thế bởi những mô hình khác. Sự chạm trán, tính "phản" là di sản của thuyết Popper. Sự hữu dụng của nguyên lý phản nghiệm năng hiện nay đã không còn đóng vai trò lớn trong các ngành khoa học, nó chỉ hữu dụng để bác bỏ các ngành ngụy khoa học không thể kiểm nghiệm. Thực ra, trong cộng đồng khoa học thì các ngành và lý thuyết ngụy khoa học này chỉ đứng ngoài và đã không được coi là khoa học rồi. Như sẽ trình bày dưới đây, quan niệm về khoa học đã đi đến cái nhìn đa hướng, đa phương pháp để đạt đến tri thức từ mọi khía cạnh mà các nhà triết học hậu hiện đại sau này đã triển khai và phát triển qua nhiều quan niệm của các nhà tư tưởng như Kuhn, Feyerabend, Derrida, v.v... Tuy vậy, đi từ phản nghiệm, Popper cũng đã có nhiều đóng góp quý báu qua “duy lý luận phê bình” (critical rationalism) với tác phẩm "The Open Society and its Enemies" ("Xã hội mở và các kẻ thù của nó")(7). Ông cho rằng trong cộng đồng khoa học cũng như trong xã hội, để có tiến bộ và phát triển, phải chấp nhận có phê phán, mở rộng phê bình các lý thuyết, chủ thuyết cạnh tranh qua duy lý để đi đến "sự thật". Thái độ trong “duy lý luận phê bình” có thể được diễn tả là "anh có thể đúng, tôi có thể sai, nhưng với một chút cố gắng, chúng ta có thể đến gần với sự thật". “Duy lý luận phê bình” mạnh dạn cho rằng có "sự thật" tuyệt đối, và chấp nhận có sự thiếu hiểu biết trong kiến thức của con người. Nó kêu gọi cộng tác và cạnh tranh để đưa đến ý niệm mới, kiến thức mới gần với sự thật, có lợi cho tất cả mọi người trong xã hội qua quá trình chỉ trích không giới hạn. 4. Triết lý Thomas Kuhn Thuyết phản nghiệm của Popper đã có những đóng góp nhất định trong một giai đoạn, như Kuhn và Lakatos nhận xét. Tuy nhiên, mô hình "vật lý" quá giới hạn, nếu phủ nhận một lý thuyết khoa học bởi vì có một hiện tượng không phù hợp với nó. Sự kiện này không đúng với thực tế ở các ngành khác. Lý thuyết cũ vẫn được dùng trong phạm vi giới hạn của nó. Theo Popper thì tất cả lý thuyết, phương pháp phải khách quan và phải tách rời khỏi ngôn ngữ và vũ trụ quan của con người. Kuhn cũng cho là không thực tế.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:27:53 GMT 9
Triết lý khoa học của Kuhn được trình bày trong quyển "The structure of scientific revolutions" ("Cấu trúc của các cách mạng khoa học") (8). Đối với Kuhn, lịch sử khoa học được thể hiện bởi những cuộc cách mạng về cách nhìn và phương pháp. Thoạt tiên các nhà khoa học chấp nhận và hoạt động trong khuôn khổ của một mô thức chính (môi trường khoa học bình thường) với một số niềm tin sẵn có, được coi như đúng và truyền đạt trong thế hệ đương thời. Đến khi có những dị thường (anomalies) xảy ra mà không giải thích được, bế tắc hay trái ngược với gì được mong đợi, là khởi đầu của khủng hoảng. Các nhà khoa học bắt đầu đặt lại câu hỏi về những điểm cơ bản của mô thức (paradigm) cũ và từ đó các lý thuyết mới được tạo lập, cho đến khi một trong các lý thuyết này được chấp nhận vì nó có những thành tích mà cộng đồng khoa học cho là quan trọng, đặt nền tảng cho sự hoạt động và phát triển khoa học trong một hệ thống mô thức mới. Những thành tích này có thể được gọi là mô thức. Nó là khuôn khổ cần thiết để nghiên cứu khoa học, nó là một cấu thể đan nhau lại các lý thuyết và phương pháp của các niềm tin, tư tưởng. Thuyết của Kuhn cho thấy mô thức (một tập hợp suy nghĩ, văn hoá, vũ trụ quan của một thời) thực tế hơn và đã hiện hữu trong khoa học. Một khi một "paradigm" đã được đa số chấp nhận, nó được dùng để phát triển với nhiều nghiên cứu tăng thêm kiến thức, tăng lên sự tương ứng giữa dữ kiện và tiên đoán dùng "paradigm" làm nền tảng. Đây là những hoạt động mà Kuhn gọi là "chiến dịch dọn dẹp" ("mop-up operations"). "Paradigm" bắt đầu trở thành “khoa học bình thường” (normal science). Nghiên cứu trong “khoa học bình thường” không khác gì giải các câu đố (puzzles). Thực vậy, một đặc tính của nghiên cứu trong “khoa học bình thường” là khám phá cái gì đã biết rồi, chứ không phải hiện tượng hoàn toàn mới lạ. Trong khuôn khổ ấy, những nghiên cứu không cho phép tìm thấy những điều mong đợi thì không được công bố. “Khoa học bình thường” trở thành “bảo thủ” cho đến khi có khủng hoảng và một cuộc cách mạng mới ra đời. Theo Kuhn, thật ra chúng ta không thể có tiêu chuẩn nào để so sánh các "paradigm", vì mỗi "paradigm" có các suy nghĩ, cách nhìn và phương pháp hoàn toàn khác nhau. Mỗi "r trong những hoàn cảnh và điều kiện đặc thù của chúng. Nói cách khác, các khoa học gia theo vật lý Newton và khoa học gia theo vật lý Einstein sống riêng rẽ trong thế giới của nhóm họ. Vì thế, theo Kuhn, ta đều không thể không chấp nhận các mô thức "paradigm" của các cộng đồng những người nghiên cứu khoa học hoạt động theo tiêu chuẩn hệ thống "văn hoá" riêng của mỗi cộng đồng. Đây chính là chìa khoá mở rộng khoa học đến nhiều thành phần trong xã hội, để khoa học không còn là “sân chơi” của một thiểu số. Nó cũng khởi điểm một phong trào dùng thuyết của Kuhn để chỉ trích cái gọi là “khoa học khách quan”, coi đó chẳng qua chỉ là một hiện tượng xã hội, một thời trang tri thức. Thuyết của Kuhn đã làm sáng tỏ phương thức hoạt động khoa học, làm mất đi sự bí ẩn, hào quang và nể sợ trong quần chúng trước đây về sự tìm hiểu, nghiên cứu khoa học, và từ đó nó mở rộng cho nhiều giới tham gia đề cập cũng như tranh luận về khoa học. Điểm đặc biệt là Kuhn xuất thân là một nhà vật lý nhưng chính triết lý khoa học của ông lại được dùng làm nền tảng khởi đầu của các nhà xã hội học và hậu hiện đại nghiên cứu về khoa học như một hiện tượng xã hội. Ngẫu nhiên, Kuhn đã tạo ra một sự chuyển dịch mô thức ("paradigm shift") từ triết lý khoa học duy lý đến sự nghiên cứu cấu tạo tri thức qua lăng kính xã hội. Thuyết của Kuhn ra đời vào đầu thập niên 1960 khi mà xã hội phương Tây bắt đầu cởi mở về văn hoá, chính trị với nhiều phong trào phản kháng các nền tảng và trật tự xã hội hiện hữu. Các nhóm trí thức xã hội học, triết học, đa số từ phe tả chống lại những gì đại diện cho chính thống trong xã hội, đã dùng thuyết của Kuhn để nghiên cứu vấn đề xã hội trong sự phát triển khoa học và tri thức. Từ đó một ngành mới được thành hình song song với ngành triết lý khoa học và lần lần lấn át ngành triết lý khoa học cổ điển. Ngành mới này sau được gọi là xã hội học về tri thức khoa học (sociology of scientific knowledge). Bản thân Kuhn muốn mình là một triết gia khoa học, nhưng lý thuyết của Kuhn đã được dùng ngoài dự tính của ông để đánh đổ chính ngành mà ông muốn tham gia với tư cách đồng nghiệp của các triết gia trong ngành triết lý khoa học. Nhưng họ đã không chấp nhận ông và cáo buộc ông đã kéo khoa học và triết lý khoa học xuống tâm lý của đám đông (mob psychology) và coi ý niệm của Kuhn về cái mà ông gọi "khoa học bình thường" là sỉ nhục cho hoạt động khoa học. Theo họ, thuyết của Kuhn không đưa ra phương tiện nào giúp ta chọn lựa một lý thuyết khoa học giữa nhiều lý thuyết khoa học khác nhau. Chính Kuhn cũng khẳng định ông là người của khoa học, không cực đoan, và phản đối việc dùng thuyết của ông trong lý thuyết xã hội. Nhưng quá trễ, lý thuyết của ông đã không còn là của ông nữa mà là của tất cả mọi người trong khoa học xã hội, trong mọi ngành khoa học. Stephen Jay Gould, nhà cổ sinh vật học, là một người đã dùng quan niệm chuyển dịch mô thức của Kuhn để đề xuất thuyết tiến hoá với ý niệm "cân bằng đứt đoạn" ("punctuated equilibrum"). Trong ngành sinh học tiến hoá, thuyết của Gould đã bị những người theo thuyết Darwin cổ điển (9) chỉ trích kịch liệt, một phần cũng vì những quan niệm khác nhau về khoa học và vai trò của khoa học.
5. Từ Lakatos đến Feyerabend
Lakatos trước là môn đồ của Popper, ông chấp nhận một số ý niệm của Kuhn nhưng cải thiện thuyết phản nghiệm của Popper. Cũng như Popper và Kuhn, Lakatos không cho rằng lý thuyết khoa học bắt nguồn từ quy nạp các dữ kiện. Tuy vậy, ông (cũng như Kuhn) không cho rằng động cơ của tiến bộ khoa học là sự phủ nhận qua phản nghiệm các lý thuyết khoa học hiện tại, song là sự phát triển của cái mà ông gọi là những "chương trình nghiên cứu khoa học". Thật ra "chương trình nghiên cứu khoa học" cũng tương tự như khái niệm "mô thức" (paradigm) của Kuhn. Lakatos cho thấy thêm những khuyết điểm của thuyết phản nghiệm Popper: một lý thuyết bị phản nghiệm là sai (do bằng chứng) vẫn có thể được giữ lại nếu có sự thay đổi về các giả định (assumption) đàng sau bằng chứng ấy. Ông chỉ trích thuyết Popper vì theo thuyết này thì chỉ cần một phản nghiệm duy nhất có tính quyết định (crucial) là phải vứt bỏ ngay một giả thuyết khoa học. Kuhn cho đó là ngây thơ (naive), không chín chắn. Không bao giờ có một duy lý (rationality) tức thì. Cho rằng phản nghiệm của Popper là ngây thơ, Lakatos đưa ra một lý thuyết về phương pháp mà ông gọi là phương pháp "phản nghiệm tinh vi". Theo phương pháp này, các giả thuyết khoa học chỉ bị loại bỏ khi về lâu dài chúng không mang lại kết quả, chứ không dựa vào chỉ một thử nghiệm duy nhất. Ông cho rằng khoa học là sự phát triển có kế tục của cái mà ông gọi là các "chương trình nghiên cứu" (research programs). Cụ thể, một chương trình nghiên cứu được cho là có "tiến bộ lý thuyết" nếu mỗi lý thuyết của chương trình đó hàm chứa nhiều nội dung (content) thực nghiệm hơn chương trình trước, và "tiến bộ thực nghiệm" nếu một số nội dung thực nghiệm này được phối hợp kiểm chứng. Nói tóm lại, phản nghiệm kiểu Lakatos là dựa vào sự liên hệ giữa các thuyết khoa học, trong khi phản nghiệm kiểu Popper chỉ xem xét một lý thuyết nào đó có khoa học hay không. Paul Feyerabend, cũng triết gia người Áo như Popper, trong tác phẩm nổi tiếng "Against method" ("Chống phương pháp")(10), đi xa hơn nữa. Feyerabend cho rằng không có một phương pháp khoa học nào là thích hợp cho mọi trường hợp, và hô hào "dân chủ" trong nghiên cứu khoa học. Ông định nghĩa "khoa học là cái gì mà các nhà khoa học làm"! Feyerabend kêu gọi phân chia, tách rời ảnh hưởng khoa học ra khỏi xã hội, giống như tách rời tôn giáo và nhà nước, để tránh sự độc tôn của một chủ thuyết khoa học trong việc vận hành xã hội (11). Ông cho rằng không một phương pháp hay phương thức nào có thể gọi là chuẩn để tuân theo trong nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, không nên loại bỏ phương pháp nào. Kết quả của các nhà khoa học dựa vào các phương pháp không phải lúc nào cũng thành công. Ta chỉ có thể đánh giá thành tựu sau kết quả của nghiên cứu, và không thể tiên đoán chắc chắn về sự thành công của các phương pháp. Công chúng có thể tham gia vào các cuộc tranh luận khoa học, và nếu nó có ảnh hưởng đến mọi người trong xã hội thì công chúng nên tham gia. Khoa học phải được dân chủ hoá và những khoa học gia thiểu số có ý kiến, phương thức khác với đa số phải được bảo vệ. Theo Feyerabend, có nhiều loại khoa học khi con người tiếp cận với thế giới bên ngoài và học hỏi qua nhiều phong cách, quan niệm khác nhau. Thí dụ, ở vùng sa mạc nam California xưa kia có cả ngàn thổ dân Cuahila mà ngày nay chỉ có một vài gia đình da trắng có thể ở và tồn tại được. Dân tộc Cuahila sống được là vì họ có những kiến thức mà họ tiếp thu qua con đường khác phương pháp mà chúng ta gọi là "khoa học". Khoa học của Tây phương hiện nay chỉ là một trong nhiều loại khoa học mà thôi. Chúng ta phải chấp nhận và sử dụng thành quả kiến thức của các xã hội bản địa để phục vụ và làm lợi cho họ chứ không phải áp đặt thay thế hoàn toàn những kiến thức ấy. Cơ bản, khoa học là một hoạt động "vô tổ chức" và nhân bản, Feyerabend khẳng định. Vì thế, theo ông, nên khuyến khích, thúc đẩy sự tiến bộ, thay vì ép buộc khoa học vào một khuôn khổ được chỉ đạo theo "luật lệ và trật tự". Một nguyên lý duy nhất không ngăn cản sự tiến bộ của con người là: tất cả đều được cho phép và hoạt động. Feyerabend cho rằng nên bãi bỏ sự phân biệt giữa bối cảnh (context) của sự khám phá và bối cảnh của sự phản nghiệm, của tiêu chuẩn, của dữ kiện quan sát. Cố gắng phân biệt chúng sẽ có những kết quả thảm hại không lường được. Theo Feyerabend, chủ nghĩa duy lý phê phán của Popper thất bại là vì thế. Trong xã hội dân chủ, khoa học phải được tách rời ra khỏi chính quyền cũng như tôn giáo đã được tách ra khỏi chính quyền như hiện nay; không một phương pháp hay một tôn giáo nào được độc tôn trong hệ thống chính quyền xã hội.
6. Hậu hiện đại (postmodernism) và chủ thuyết tương đối (relativism) trong "chiến tranh khoa học"
Theo nhà vật lý Weinberg thì trong vài năm gần đây khoa học đã bị tấn công từ nhiều phía đứng chung dưới bảng hiệu "chủ nghĩa tương đối" (relativism) hay chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo ông, họ phản bác tuyên bố của khoa học là khám phá tìm ra sự thật khách quan. Các nhà triết học hậu hiện đại cho rằng khoa học chỉ là một hiện tượng xã hội, không khác chi những hiện tượng xã hội khác như tôn giáo, mê tín, nghệ thuật. Theo họ, quá trình tiến tới các tư tưởng khoa học có nhiều yếu tố chủ quan. Như đã trình bày ở trên, các nhà xã hội học và triết gia hậu hiện đại đã bị ảnh hưởng lúc đầu bởi ý niệm "mô thức" (paradigm) của Kuhn, nhưng ta cũng thấy ngay là triết lý của Feyerabend cũng là một phần chủ yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại. Khác với chủ nghĩa lãng mạn (là một phản ứng với một thế giới quan dựa vào lý trí trong thời Khai sáng, quan niệm rằng con người nên trở về với thế giới thiên nhiên, dựa vào cảm tính, tình cảm mãnh liệt và sự nhất thời), chủ nghĩa hậu hiện đại ít nhất vẫn tin vào duy lý trong sự tương đối. Như Wilson (12) đã nói, chủ nghĩa hậu hiện đại mới chính là phản đề (antithesis) tối hậu của tư tưởng duy lý thời Khai sáng. Sự khác biệt giữa hai tư tưởng này có thể được tóm tắt như sau: những nhà tư tưởng khoa học thời Khai sáng cho rằng chúng ta có thể hiểu biết tất cả, còn những nhà hậu hiện đại tin rằng chúng ta có thể không hiểu biết gì hết. Quan điểm trên của chủ nghĩa hậu hiện đại có thể bắt nguồn từ sự giảm tin tưởng vào khả năng của khoa học trong việc giúp con người hiểu rõ và giải quyết các vấn đề khó khăn trong đời sống. Trước kia, con người, nhất là từ đầu thế kỷ 20 đến thập niên 1960, rất tin là khoa học sẽ cho phép hiểu biết cặn kẽ, rõ ràng mọi vấn đề trong đời sống. Các khám phá khoa học đã ảnh hưởng rất nhiều lên cuộc sống, nhưng thực tế cho ta thấy có những hệ thống rất phức tạp, không tiên đoán chính xác được (như kinh tế, thời tiết, môi trường, v.v... ). Các nhà xã hội và nhân chủng học của chủ nghĩa hậu hiện đại đã đưa ra luận cứ cho rằng ngay cả tiến trình thay đổi trong các lý thuyết khoa học là một tiến trình xã hội: hệ thống thẩm định bài vở giữa các nhà nghiên cứu cùng ngành (peer review) cho thấy "các sự thật khoa học, thực ra là những thoả thuận xã hội phổ cập và cái gì là "thật" (real) khoa học, đạt được rõ ràng qua một "tiến trình khoa học" thương lượng" (13). "Thương lượng để đi đến kết luận" là điều đã được chứng minh, hay là một thí nghiệm tốt, thì cũng rối rắm như bất cứ tranh luận nào giữa các luật sư hoặc các chính trị gia. Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành phổ biến và phát triển rộng rãi trong văn học, nghệ thuật và khoa học xã hội vì với cái nhìn tương đối trong việc đánh giá và thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, nó tỏ ra phóng khoáng và bao gồm. Nó cũng dựa vào triết lý “hậu cấu trúc luận” (post-structuralism), mà hai triết gia Pháp Roland Barthes và Jacques Derrida là tiêu biểu. “Cấu trúc luận” (structuralism) của Claude Levi-Straus cho rằng bất luận tác phẩm viết về thiên nhiên, lịch sử hay chủ đề gì, cả chủ đề lẫn ngôn ngữ dùng để cấu tạo tác phẩm cũng phải được xem xét trên một hệ thống rộng lớn hơn, bao gồm quy ước, hoàn cảnh lịch sử, xã hội trong thời đại mà tác phẩm ra đời, chứ không chỉ chuyên về chủ đề mà thôi. Do đó ta có thể dùng hệ thống cấu trúc cùng ngôn ngữ, lý luận, phương pháp khoa học để khám phá ra sự thật cụ thể. Mặt khác, những người hậu cấu trúc luận như Derrida thì cho rằng cả hệ thống cấu trúc như vậy là tự mâu thuẫn không tưởng, và sụp đổ do sự thiếu nhất quán của nó. Ngay cả ngôn ngữ diễn đạt dùng trong tác phẩm cũng không hàm chứa sự thật, và ý nghĩa của bản văn luôn thay đổi chứ không cố định. Derrida cho rằng một cấu trúc (structure) phải có một “trung tâm” mà các thành phần liên hệ của cấu thể dựa vào. “Trung tâm” này không thể thay thế được và vì thế không phải là một bộ phận hoạt động của cấu trúc. Trung tâm vừa nằm trong cấu trúc vừa nằm ngoài cấu trúc. Điều này có vẻ như mâu thuẫn. Thí dụ Thánh Kinh (Bible) có thể được coi là trung tâm của đạo Cơ đốc, nhưng nếu ta cho rằng Thánh kinh gồm có hai phần, Cựu ước và Tân ước, thì trung tâm lại đổi khác. Sự bền vững của cấu trúc vì thế bị tháo giải ra (deconstruct) và không còn giá trị hay chỉ còn giá trị tương đối với các khuyết điểm của nó. Để hiểu một cấu trúc, cần phải phá trung tâm (de-center) và tháo giải (deconstruct). Derrida cho rằng tất cả lịch sử khái niệm về cấu trúc trong tư tưởng chỉ là một chuỗi các sự thay thế của các trung tâm. Trường phái cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận cũng là sự thay đổi nối tiếp của các trung tâm với các giá trị khác nhau. Mỗi nền văn hoá là một tập hợp các niềm tin khác nhau, vì thế có các trung tâm khác nhau. Tất cả đều tương đối. Không có một ý niệm nào tuyệt đối khách quan về sự thật. Theo hậu cấu trúc luận thì không thể nào hoàn toàn định nghĩa một "văn bản", và không bị giới hạn bởi nghĩa mà chính tác giả đặt định. Nói cách khác, văn bản có nhiều tự chủ, trong đó nghĩa của nó được tách khỏi sự ràng buộc theo ý muốn của tác giả. Muốn hiểu nghĩa của văn bản sao cũng được vì ngữ và nghĩa luôn thay đổi, không cố định. Từ vài thập niên gần đây, có nhiều câu hỏi và tranh luận, cũng như đụng độ giữa các khuynh hướng khác nhau về thế nào là khoa học, và phương pháp khoa học "đích thực" là gì. Quan niệm về các mô thức của Kuhn, và hậu cấu trúc luận của Derrida như đã trình bày ở trên, rất ăn khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo đó mỗi mô thức đều có giá trị khác nhau và ta không thể so sánh chúng dựa vào tiêu chuẩn chung nào, vì chúng hoạt động trong một khuôn khổ, môi trường với quan niệm khác nhau. Ngày nay có sự phân chia rất sâu đậm giữa khoa học theo Popper (chủ yếu là vật lý) và các khoa học nhân văn xã hội dựa vào Kuhn, Feyerabend và Derrida. Hố sâu "văn hoá" đó là rất lớn. Nhà vật lý Weinberg đã công kích các nhóm khoa học nhân văn (humanity sciences), xã hội văn hoá học (cultural sociology) theo chủ thuyết hậu hiện đại (post-modernism) khi họ cho rằng khoa học như ta biết được từ xưa đến nay đều mang ảnh hưởng và cái nhìn văn hoá của nền văn minh phương Tây và vì thế phủ nhận tính khách quan của mọi khoa học. Weinberg, mặc dù rất phục Kuhn, nghĩ rằng ý niệm "mô thức" của Kuhn quá mơ hồ và đã bị các nhà hậu hiện đại lạm dụng để đả phá các ngành khoa học khách quan nhằm lập ra các ngành mới, với ý đồ. Rất nhiều người theo chủ thuyết hậu hiện đại tự cho mình là tiên phong (avant-garde), đã đi vào vật lý cơ học lượng tử (quantum) hay thuyết hỗn loạn (chaos theory), những lãnh vực rất mới, thời trang để tìm, dẫn thêm, phác họa, hay để chứng minh tính chất rời rạc và ngẫu nhiên của kinh nghiệm con người và tính chủ quan của môi trường văn hoá xã hội trong mọi hoạt động của cuộc sống. Cách đây không lâu Sokal (xem phụ đính) đã tạo một cú sốc đối với nhóm xã hội học (sociology) và hậu hiện đại, cho phép Weinberg hân hoan tuyên bố rằng tất cả những môn đồ của khoa học xã hội theo hậu hiện đại quả thật chỉ là một bọn bá láp. Cuộc chiến tranh "hai văn hoá" này đã xảy ra trong hơn 30 năm qua. Nó tạo ra hình ảnh rập khuôn (stereotype) về hai phe: một bên là phe Popper "hữu khuynh", "khách quan", còn bên kia là phe Kuhn - Derrida thì "tả khuynh", "chủ quan". Không ít khoa học gia nằm ở hai chiến tuyến, nhưng cũng có một số nghiên cứu liên ngành nằm giữa hai gọng kìm: khoa học "cứng" ("hard science") và khoa học "mềm" ("soft science").
7. Tổng luận về triết lý khoa học ngày nay
Về triết lý, sự khác nhau cơ bản của hai trường phái trong "chiến tranh khoa học" là tri thức của con người được "khám phá" (theo phái khoa học khách quan) hay là được "tạo ra" (theo phái chủ nghĩa tương đối hậu hiện đại). Theo đó không có đụng chạm giữa khoa học vật lý và khoa học nhân văn về phương pháp khoa học và đặc tính chân lý, về sự thật của tính tương đối hay tuyệt đối trong khoa học ngày nay. Ngay trong ngành sử học của khoa học nhân văn cũng có khác nhau giữa trường phái khách quan khoa học và chủ quan hậu hiện đại, và trong ngành sinh học trình bày ở phần trên cũng có sự khác biệt phản ánh qua cuộc tranh luận về khoa học tiến hoá giữa Gould và những người theo thuyết Darwin cổ điển. Thí dụ gần đây là cuộc thảo luận sôi nổi về việc có hay không tính khách quan trong nghiên cứu lịch sử tại đại học New South Wales ở Sydney (Úc) vào tháng 8, 2002 (18) có sự tham dự của Richard Evans, một sử gia "trường phái khách quan" ở đại học Cambridge, tác giả "In Defence of History" ("Bảo vệ lịch sử") từng là nhân chứng chuyên gia cho vụ án David Irving. (Irving là sử gia theo phát xít Nazi đã phủ nhận vụ thiêu người Do thái (holocaust) và dùng mập mờ, uốn nắn tài liệu sử học để tô hồng hình ảnh của Đức quốc xã. Irving bị kiện là đã xuyên tạc lịch sử và xúc phạm nhân bản.) Tại diễn đàn, Evans chỉ trích các nhà sử học hậu hiện đại khi họ cho rằng không có gì có thể gọi là sự thật khách quan. Ông hỏi lại: vậy thì chính câu hỏi này có là sự thật khách quan không? Richard Evans đưa ra thí dụ về vụ Irving để khẳng định là có sự thật khách quan. Ông giải thích: nếu mọi cách nhìn lịch sử đều là đúng thì sự không có lò thiêu người (như Irving khẳng định) cũng là đúng sao? Giáo sư Stephen Garton (một sử gia hậu cấu trúc) ở đại học Sydney nhìn nhận là lịch sử có đúng hoặc sai, cũng như trong hàng ngũ các nhà hậu hiện đại có người giỏi người dở, nhưng ông cho rằng một nhà hậu cấu trúc như Foucault có nhiều cống hiến quí báu bằng cách dùng tư tưởng này để vạch ra các hướng đi mới cho sử học như lịch sử sinh lý học, lịch sử thực phẩm, y khoa v.v.. Keith Windshuttle, tác giả "The killing of history: how literary critics and social theorists are murdering our past" (Ám sát lịch sử: các nhà bình luận văn học và lý thuyết xã hội đã giết chết quá khứ của chúng ta như thế nào")(19), phát biểu rằng quan hệ giữa thổ dân và người da trắng trong lịch sử Úc lúc đầu thường là thân thiện chứ không phải bao giờ cũng là thù địch, nhằm tiêu diệt nhau. Và việc chúng ta có thể viết lịch sử một cách khách quan hay không là tùy thuộc vào hệ thống tôn giáo, chính trị. Giáo sư Dirk Moses ở đại học Sydney phê bình ý kiến này của Windshuttle, cho rằng khi ông không dùng những tư liệu truyền khẩu của thổ dân vì đứng trên quan điểm của người da trắng thì đấy là điều rất khách quan, nhưng điều khách quan này thực sự có màu sắc chính trị, không khách quan. Behan McCullagh, giáo sư đại học La Trobe, tác giả "The truth of history" ("Sự thật lịch sử"), theo trường phái lịch sử khách quan, thì hòa hoãn hơn, cho rằng các sử gia khách quan cũng đã chấp nhận và áp dụng một số điểm đúng của hậu hiện đại về ảnh hưởng của văn hoá, chính trị khi viết sử. Theo McCullagh, khó có lịch sử nào hoàn toàn đúng, nhưng không vì thế mà cho là lịch sử sai khi nó không hợp với thiên kiến của một số người đọc. Ông đưa ra một ý niệm về thực tiễn, nằm giữa sự thật tuyệt đối và sự thật tương đối: lịch sử không hoàn toàn nhưng nó đúng trong những mục đích thực tiễn cốt yếu trong hoàn cảnh có được. Joy Damoussi, giáo sư đại học Melbourne, cho rằng tất cả lịch sử đều chủ quan, nhưng đó cũng không phải là xấu. Rất tốt nếu chúng ta có nhiều quan điểm khác nhau về lịch sử dưới góc độ khác nhau của các văn hoá truyền thống, và từ đó có thể tổng hợp đi đến cái gì gần đúng với sự thật hơn. Người phương Tây có khuynh hướng phân tích, máy móc mổ xẻ vấn đề và tiến đến vĩ mô để hiểu tường tận. Phân tích là một bộ phận quan trọng nhất của nền khoa học phương Tây. Cũng không có gì lạ khi mà triết lý tổng hợp, hợp nhất hoà đồng, ít được phát triển ở Tây phương. Ngược lại, ở Đông phương, sự đồng nhất, hợp nhất và khuynh hướng nhìn chủ toàn là yếu tố quan trọng hơn. Nó thể hiện trong tâm linh, suy nghĩ và phản ánh trong đời sống xã hội và văn hoá của người phương Đông. Để giải quyết sự bế tắc trong cuộc "chiến tranh hai văn hóa" (cũng gọi là "chiến tranh khoa học") giữa hai quan điểm trên, cần một khái niệm tổng hợp có ích cho khoa học tự nhiên lẩn khoa học nhân văn. Như đã trình bày trên, hiện có khuynh hướng của khoa học tìm về triết lý tổng hợp của Đông phương để bổ sung cho triết lý Tây phương. Edward Wilson (12), người sáng lập ngành "sinh học xã hội" (sociobiology), đã kêu gọi "đình chiến" và đưa ra viễn ảnh hợp nhất khoa học tự nhiên, thực nghiệm với khoa học xã hội qua khái niệm "đồng hợp" ("consilience"). Có lẽ đây là khái niệm tổng hợp liên ngành nổi bật nhất trong hơn 3 thập kỷ qua. Đích thân Wilson cố gắng đem sinh học vào khoa học nhân văn, và kêu gọi các nhà khoa học xã hội mang kiến thức sinh học vào vấn đề xã hội. Tuy nhiên nhiều nhà khoa hoc không đồng ý với Wilson. Stephen Jay Gould (cổ sinh học) và Nils Eldredge (sinh học tiến hoá) (20), chẳng hạn, cho rằng xã hội và văn hoá là một hệ thống vô cùng phức tạp, khó có thể đem hệ thống sinh học vào. Khuynh hướng và phương pháp tổng hợp tri thức để tìm và chứng minh một giả thuyết, hay một tri thức mới, thật sự đã được Whewell đề cập và phát hiện từ thế kỷ 19. Chính Whewell đã đặt ra từ "đồng hợp" để mô tả phương pháp này. (Nên nhắc lại, Whewell cũng là người đặt ra "scientist" hay khoa học gia trong tiếng Anh.) Theo Whewell, khái niệm "đồng hợp" trong đó các hiểu biết tìm được qua một phương pháp hay một ngành nghiên cứu, nếu có những hội ứng bổ xung hoặc hỗ tương bất ngờ với những kiến thức biết được qua một ngành nghiên cứu với phương pháp hoàn toàn khác, sẽ làm ta tin tưởng vào kiến thức và phương pháp ta đang dùng. Và vì thế giúp ta khám phá được nhiều điều mới lạ hơn. Thật ra gần đây, ngoài những người can dự vào cuộc chiến tranh khoa học, các nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và nhân văn đã hợp tác hay tổng hợp, dựa vào các kết quả nghiên cứu của nhau để tìm ra những khám phá mới. Sự khảo cứu phối hợp liên ngành đòi hỏi các nhà khoa học hiểu biết những kiến thức ngoài chuyên môn của mình. Một thí dụ cho sự khám phá tri thức mới qua cộng tác liên ngành gần đây là công trình tìm ra được cội nguồn xuất phát của dân tộc Thái qua ngôn ngữ học, khoa học hệ thống thông tin địa hình GIS (Geographic Information System) và canh nông (21). Nghiên cứu sinh học di truyền của cây ngô (bắp) đã cho thấy nơi nào ngô đã được dùng trong canh nông đầu tiên và giúp các nhà khảo cổ học tìm những địa điểm khảo cổ (22). Ở Việt Nam, nhà sử học Trần Quốc Vượng là một trong những người đầu tiên đã phối hợp nhiều ngành để giải đáp nhiều khúc mắc trong lịch sử cổ đại Việt Nam, mà nếu chỉ dựa vào sử liệu thì là đi vào ngõ cụt. Nhiều nhà khoa học tự nhiên và nhân văn hiện nay cũng có khuynh hướng này. Baker (23) nghiên cứu về những trận đại hồng thuỷ sau thời kỳ Băng hà đã dùng những dự kiện địa chất, hải dương học, khí tượng học để nghiên cứu về các trận hồng thuỷ và cho thấy là có sự hỗ tương không ngờ. Phương pháp cổ điển dùng quy nạp trong địa chất của Lyell thật sự không phải là phương pháp để nghiên cứu vấn đề này mà là phương pháp đồng hợp của Whewell với những kiểm chứng qua những liên hệ bất ngờ và các giải thích ngạc nhiên.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:28:45 GMT 9
Một thí dụ khác là công trình của nhà khoa học y khoa Stephen Oppenheimer (24). Tác giả này đã kết hợp kết quả của nghiên cứu di truyền, hải dương học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học,v.v. để tìm nguồn gốc và sự phát tán văn minh Đông Nam Á đến các khu vực lân cận và xa hơn nữa trên thế giới sau thời kỳ băng hà và việc biển tiến ở vùng đồng bằng Sundaland. Gần đây các nhà khoa học tự nhiên đã dùng tri thức về di truyền học để giải đáp về nguồn gốc con người xuất phát từ Phi châu và toả ra khắp các lục địa. Kết quả di truyền học thực hiện trên các dân tộc vùng Á Châu đã cho thấy rõ, cũng có con người đi từ Đông Nam Á đến Trung Quốc góp thành các dân tộc ở Đông Á (25); điều này hợp với thuyết về nguồn gốc phương Nam của nhiều thành phần truyền thống văn hoá, văn minh phía Bắc. Các nhà khoa học tự nhiên đã giúp giải đáp các câu hỏi then chốt trong các ngành khảo cổ, nhân chủng và xã hội học. Tóm lại, phương pháp đồng hợp đã bắt đầu có những áp dụng thực tiễn trong nhiều ngành khác nhau, và đã cho thấy những khám phá bất ngờ. Điểm đặc biệt của phương pháp này là nó không bó buộc các nhà nghiên cứu phải theo một phương pháp tiêu chuẩn chung nào. Quan điểm này phù hợp và không trái lại với triết lý hậu hiện đại. Từ nhiều phương pháp khác nhau, đứng từ quan điểm lịch sử phát triển riêng của các ngành, "đồng hợp" giúp ta tổng hợp kiến thức và tăng thêm tin tưởng vào các khám phá khoa học. Con người trong xã hội thường sống trong các môi trường cạnh tranh, và mong ước có một phương tiện điều hòa, một tiêu chuẩn khách quan để giải quyết tranh chấp. Một trong những phương tiện mà nhiều người cho là khách quan và gần với sự thật là khoa học. Nhưng như ta đã thấy, khoa học cũng tương đối và tuỳ thuộc vào văn hoá, thời điểm, và không hoàn toàn khách quan. Từ đó dẫn đến dân chủ trong đa phương pháp và sau cùng khoa học là "khoa học" được chấp nhận bởi đa số khoa học gia. Trong số các phương pháp khoa học cạnh tranh nhau, phương pháp khoa học nào không mang lợi ích cho con người trong việc tìm hiểu hay áp dụng khoa học sẽ bị loại bỏ, số còn lại sẽ được chấp nhận tùy theo hoàn cảnh áp dụng. Sau "Hội nghị Thế giới về Khoa học" (World Conference on Science) tổ chức ở Budapest năm 1999, Hội đồng Khoa học Thế giới (International Council for Science, ICSU) đã ra thông cáo đánh giá sự đóng góp vào khoa học và viễn tượng tương lai của tri thức truyền thống bản địa (traditional knowledge), lập ra chương trình hành động kêu gọi sự liên hệ và hợp tác giữa khoa học và khoa học truyền thống bản xứ. Tuy nhiên ở Đại hội của Hội đồng Khoa học Thế giới (ICSU), có những quan tâm đã được nói lên, và Đại hội đã biểu quyết đồng ý phải phân biệt giữa tri thức truyền thống và khoa học và những phương pháp tiếp cận khuyến khích ngụy khoa học và phản khoa học (26). Một Nhóm Nghiên cứu được thành lập để giải quyết vấn đề khúc mắc này. Dưới sự lãnh đạo của nhà toán học Na Uy Jens Erik Fenstad, nhóm này quy tụ các nhà khoa học ở nhiều nước thuộc các ngành khác nhau như xã hội học, triết học khoa học, thảo vật học, kỹ thuật. Nhiệm vụ của Nhóm Nghiên cứu rất quan trọng vì nếu không cẩn thận, có thể dễ dàng gây ra sự chia rẽ trầm trọng trong Hội đồng về quan điểm khoa học, như ta đã chứng kiến trong "chiến tranh khoa học". Năm 2002, Nhóm Nghiên cứu đã ra bản tường trình với các hướng dẫn về "tiêu chuẩn" dùng tri thức qua các loại "khoa học" khác nhau, nhất là sự liên quan giữa tri thức truyền thống bản xứ chẳng hạn như y học truyền thống dân tộc (traditional medicine) và khoa học hiện đại để phân biệt với "ngụy khoa học" ) chẳng hạn như thuyết "ngụy khoa học" cho rằng thế giới tạo ra bởi thượng đế (creation science) . Hướng dẫn này đưa ra hai phương án để phân biệt khoa học, ngụy khoa học và tri thức truyền thống bản xứ và được tóm tắt như sau. Mặc dầu không có một tiêu chuẩn duy nhất chung để phân biệt khoa học với ngụy khoa học nhưng có hai phương án tổng quát để tiếp cận vấn đề, phương án xã hội và phương án tri thức học. Phương án xã hội cho rằng ngành ngụy khoa học luôn luôn cạnh tranh công khai, ít hay nhiều, với một ngành khoa học tương ứng từ lúc khởi đầu của ngành này, và thường không được đưa ra từ các nhân vật đã được đào tạo trong ngành khoa học đó. Phương án xã hội phải được bổ túc bằng phương án tri thức học qua đó khoa học có tính cách hệ thống hơn tri thức thường ngày. Có 6 phương diện để một hệ thống được gọi là khoa học: nó diễn tả cách nào, nó giải thích ra sao, nó thiết lập được tri thức bằng cách nào, nó phải có một lý thuyết, trường hợp về sự hoàn toàn, toàn vẹn, nó mở rộng tri thức ra sao và nó diễn đạt tri thức thế nào. Trong mọi ngành khoa học, ta có thể thấy khuynh hướng tăng trưởng tri thức có hệ thống ở mọi hướng, mọi mặt. Trái lại, hầu hết các ngành ngụy khoa học đều không năng động và dậm chân tại chỗ. Tri thức truyền thống bản xứ rất dể phân biệt với ngụy khoa học, vì tri thức truyền thống là một hệ thống tri thức thâu thập từ nhiều thế hệ, với cách làm, thực hành được gìn giữ, phát triển bởi một sắc dân có lịch sử cộng sinh lâu dài với môi trường thiên nhiên. Nó có nguồn gốc từ một văn hoá khác với văn hoá Tây phương và vì thế độc lập và không cạnh tranh với khoa học. Phụ đính Hiện tượng Sokal Khoảng cuối năm 1994, nhà vật lý Alan Sokal đã gởi bài cho Social Text, một tạp chí nghiên cứu văn hoá, xã hội có tiếng ở Mỹ. Bài của ông được đăng trong số Xuân/Hè 1996, chuyên đề "Chiến tranh Khoa học". Tựa của bài là "Transgressing the boundaries - Toward a transformative hermeneutics of Quantum gravity" ("Vượt quá các biên giới - Đi đến một biến đổi nghiên cứu văn bản của lực hút lượng tử")(14), rất tiêu biểu cho loại thảo luận, nghiên cứu của tạp chí này và những tạp chí triết học xã hội tương tự. Ngay cả tựa đề, ngôn từ dùng rất thời trang và khó hiểu (rất nhiều nhà khoa học phải tra từ điển từ "hermeneutics", một ngành triết học nghiên cứu nghĩa và diễn giải văn bản (15)). Như nhiều bài khác trong tạp chí, bài của Sokal cũng đã chỉ trích, bài bác cái gọi là khoa học khách quan, một giáo điều của thời Khai sáng. Nhưng khác những bài kia, Sokal đã cố ý dùng những lý luận lệch lạc, viết sai những lý thuyết và sự kiện vật lý nằm trong những câu văn với những từ ngữ mang màu sắc rất hậu hiện đại. Sau khi bài được đăng, Sokal viết một bài trên tạp chí Lingua Franca(2) trong đó ông tiết lộ là bài ông gởi cho Social Text chứa đầy những sai lầm lý luận, với những sự kiện vô lý, vô nghĩa trong vật lý học, mà bất cứ ai có vài hiểu biêt về vật lý cũng có thể thấy rõ là vô nghĩa, cũng có thể ngạc nhiên về sự ngây thơ, và biết ngay là bài chỉ để đùa cợt, chế nhạo, khôi hài. Thế mà các nhà biên tập của Social Text đã đăng mà không kiểm trước với các nhà vật lý, chỉ vì bài có ý và kết luận đúng với ý thức hệ có sẵn và định kiến của Social Text. Sokal còn cho thấy rõ, cả tạp chí và cộng đồng gọi là khoa học xã hội theo hậu hiện đại thiếu tiêu chuẩn nghiêm ngặt về trí thức và đầy ý thức hệ, định kiến sẵn, cố ý tự mình khép đóng. Họ không bao giờ có tinh thần học hỏi điều nghiên theo tư cách của các nhà khoa học chân chính, tôn trọng và thẩm định những ý kiến, nghiên cứu dù khác hoặc trái với tư tưởng và phương pháp của mình. Bài của Sokal đã có tiếng vang rộng lớn ngoài cộng đồng triết học, khoa học. Nó làm xôn xao và gây tranh cãi, bình luận trên nhiều tạp chí và diễn đàn của nhiều ngành, cũng như trên báo chí ở Mỹ, Âu châu và nhiều nước khác. Sokal, sau đó với sự cộng tác của nhà vật lý và triết học Bỉ Jean Bricmont, ra quyển sách "Fashionable nonsense: Postmodern intellectuals's abuse of science" (16) (bản Pháp ngữ là "Impostures intellectuelles") trình bày cặn kẽ sự lạm dụng các thuyết và từ ngữ trong toán học và vật lý của một số trí thức hậu hiện đại ở Pháp, như Bruno Latour, Gilles Deleuze, Jacques Lacan, Julia Kristeva, Luce Irigary, Jean Baudrillard, và Paul Virilio. Sokal và Bricmont vạch rõ sự vô nghĩa và thiếu hiểu biết toán học và vật lý trong các bài viết của những người này và cho thấy họ không hiểu chính những gì họ viết. Quyển sách cũng cho thấy sự rỗng tuếch, dùng sáo ngữ làm bình phong cho những tư tưởng vô nghĩa của một số triết gia, đa số là thiên tả, ở Pháp có ảnh hưởng đến các trí thức ở Mỹ. Những từ ngữ thời thượng mang tính triết học hậu hiện đại rất khó hiểu ngay cả đối với những người trong ngành, theo Sokal và Bricmont, thật ra chỉ là sáo ngữ che giấu sự thiếu hiểu biết của chính họ về những đề tài thời thượng. Nhiều nhà triết học và khoa học đã cho rằng đây là một trong những quyển sách quan trọng nhất về triết học khoa học trong thế kỷ 20. Trong bài đăng ở Social Text, Sokal cũng chế nhạo sự thiếu hiểu biết về vật lý của các nhà hậu hiện đại khi dùng từ tuyến tính "theo đường thẳng" (linear) mà theo họ là cũ, không hợp thời, thiếu sáng tạo, trong khi họ nghĩ từ vô tuyến tính "theo đường cong" (non-linear) là tiên phong và phong phú hơn. Trong bài ấy Sokal cũng bàn về tầm quan trọng trên phương diện văn hoá của thuyết lượng tử trọng lực (quantum gravity), dùng trọng lực trường là một toán tử (operator) "không hoán chuyển"(noncommuting) và vì thế "theo đường cong". Đó là một phát biểu cố tình sai lầm của Sokal, vì "không hoán chuyển" không có nghĩa là "theo đường cong". Ai học vật lý đều biết là trong cơ học lượng tử có nhiều đặc tính "không hoán chuyển" nhưng đồng thời cũng có tuyến tính "theo đường thẳng". Thế mà không ai trong ban biên tập Social Text thấy điều này vì cứ nghĩ rằng không tuyến tính "theo đường cong" là tiên phong, mới mẻ. Sokal là nhà vật lý phái tả, từng tình nguyện đi dạy toán ở Nicaragua trong thời chính phủ cách mạng Sandinista. Vì thế, trong bài viết trên Lingua Franca, ông cũng tỏ vẻ buồn là các nhà hậu hiện đại, đa số là phái tả, đã không dùng lý trí khoa học khách quan để chống lại mê tín huyền bí như truyền thống phe tả, mà lại đả phá phương pháp khoa học khách quan để trở về với huyền bí, hỗn độn của nguyên thuỷ. Sự tiết lộ về mục đích của Sokal đã gây tranh cãi về quy trình chọn bài. Các nhà biên tập của tạp chí Social Text giải thích rằng họ nhận đăng bài Sokal là vì họ thấy đấy là cố gắng của một nhà vật lý tìm kiếm bằng chứng trong triết lý hậu hiện đại để phát triển ngành của mình, và Social Text không phải là tạp chí khoa học có hệ thống kiểm bài (peer review) mà là tạp chí ý kiến. Một số nhà xã hội học như Steve Fuller cũng đã trả lời giận dữ là Sokal đã lạm dụng sự tin tưởng của ban biên tập và như vậy là thiếu tư cách. Ảnh hưởng và dư âm của sự kiện Sokal mạnh nhất là ở Pháp, nơi rất nhiều nhà triết học hậu hiện đại tiên phong bị "lột mặt nạ". Bên cạnh vấn đề sử dụng hay lạm dụng lý thuyết khoa học để hậu thuẫn cho những lý thuyết, triết học hậu hiện đại của một số trí thức, như Sokal và Bricmont đã trình bày, chính đáng hơn là nghiên cứu xã hội về cách ứng xử trong hoạt động khoa học của cộng đồng khoa học gia. Harry Collins (17), nhà xã hội học chuyên về tri thức, kiến thức khoa học, tuy đồng ý với Bricmont rằng các nhà xã hội học, sử học về khoa học nên biết nhiều hơn về khoa học, vẫn nghĩ rằng vấn đề có thể đuợc tiếp cận từ một gốc độ khác. Theo Collins, nếu ta phân biệt chủ nghĩa "tương đối triết học" và "tương đối về phương pháp" như Bricmont đã luận cứ, thì chính sự tương đối của phương pháp mới là có giá trị. Đó mới chính là điểm cơ bản để thảo luận trong ngành xã hội học về tri thức khoa học (sociology of scientific knowledge). Như vậy các nhà xã hội học trước tiên không nên có thành kiến là không biết nhiều đến các khoa học khác. Nghĩa là họ không nên biết nhiều khoa học hơn cả các nhà khoa học để nghiên cứu về các hiện tượng xã hội. Đưa ra các thí dụ trong lãnh vực vật lý như thí nghiệm Michelson-Morley và máy của Dayton Miller nhằm tìm sự hiện hữu và độ dời của "ether" (ether drift) trong thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng. Miller được giải thưởng của Hiệp hội Ủng hộ Sự Tiến bộ của Khoa học Mỹ (American Association for the Advancement of Science), trong khi Michelson-Morley không tìm được độ dời ether. Sau này các nhà vật lý mới phát giác là Miller đã sai. Nếu đòi hỏi các nhà khoa học xã hội nghiên cứu vụ này phải có những kiến thức vật lý mà chính Miller thời đó cũng chưa đạt được thì thật là vô lý. Collins cũng cho rằng việc các khoa học gia trong các lãnh vực hiện được nghiên cứu có nhiều ý kiến khác nhau, có bất đồng trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, là thường tình. Ngay cả khi có thêm nhiều dữ kiện, quan sát, tri thức hay lý thuyết hiện đại hơn, sự bất đồng vẫn còn chưa được giải quyết, ít nhất là thoả đáng giữa các bên đối nghịch nhau. Điều này có nghĩa là tất cả các tuyên bố gọi là khoa học đều cần được diễn giải theo ý của cộng đồng khoa học. Trong khoảng thời gian "ngắn hạn", quan điểm cho rằng cần có sự đồng thuận, ngay trong ngành "cứng" nhất của khoa học, là một quan điểm không thực tế. Thực tế cho thấy có nhiều góc cạnh, phương pháp, lý thuyết khác nhau trong khoa học mà ta chưa thẩm định hết giá trị. Không có phương pháp nào là tuyệt đối. Đây chính là quan điểm của cái gọi là chủ nghĩa tương đối phương pháp (methodological relativism). Tham khảo (1) Weinberg, S., "Facing up: Science and its cultural adversaries", Harvard University Press, 1999. (2) Sokal, A., "A physicist experiments with cultural studies", Lingua Franca, May/June 1996, pp. 62-64. (3) Verran, H., "Science and an African logic", University of Chicago Press, 2001. (4) Weinberg, S., "Dreams of a final theory", Patheon books, New York, 1992. (5) Popper, K., "Unended quest: an intellectual autobiography", Routledge, Edition 5, 2002. (6) Popper, K., "Objective knowledge, an evolutionary approach", Clarendon Press, Oxford, 1989 (7) Popper, K., "The Open Society and its enemies", Routledge & Kegan Paul, London 1966. (8) Kuhn, T., "The structure of scientific revolutions", University of Chicago Press, 1966. (9) Sterelny, K., "Dawkins vs Gould: Survival of the fittest", Totem Books, 2001. (10) Feyerabend, P., "Against method", Verso Books, Edition 3, Sep. 1993. (11) Feyerabend, P.,"Explanation, reduction and empiricism", In Feigl/Maxwell, Scientific Explanation: Space and Time, University of Minnesota Press, 1962. (12) Wilson, E., "Consilience, the Unity of knowledge", Knopf, 1998. (13) Pickering, A., "Constructing Quarks: A sociological history of particle physics", Chicago, Chicago University Press, 1984 (14) Sokal, A., "Transgressing the boundaries - Toward a transformative hermeneutics of Quantum gravity", Social Text, 46/47, 1996, pp. 217-252. (15) Weinberg, S., "Sokal 's hoax", The New York Review of Books, Vol XLIII, nọ 13, pp. 11-15, Aug. 8, 1996. (16) Sokal, A., Bricmont, J., "Fashionable nonsense: postmodern intellectuals's abuse of science", Picador USA, Oct 1999. (17) Collins, H., "What's wrong with relativism", Physics World, Apr 1998. (18) Keenan, C., "In the right corner..", Sydney Morning Herald, Aug 17 - 18, 2002. (19) Windshuttle, K., "The killing of history: How literary critics & social theorists are murdering our Past", Encounter Books, 2000. (20) Eldredge, N., Gould, S., "Biology rules", Civilization 5 (Oct/Nov): 86 - 88. (21) Luo W., Hartmann, J.F, Li, J. and Sysamouth V., "GIS Mapping and analysis of Tai linguistic and settlement pattern of Southern China", Geographic Information Sciences, 2000, 6(2):129 - 136. (xem thêm ở NASA web (22) Smith, B., "Documenting plant domestication: The consilience of biological and archaelogical approaches", Proceedings of National Academy of Sciences (PNAS, Feb. 13 2001, Vol. 98, no 4, pp. 1324-1326. (23) Baker, V., "The study of superfloods", Science, 295, 2379 - 2380 (March 29 2002) (24) Oppenheimer, S., Eden in the East, the drowned continent of Southeast Asia, Phoenix, 1998. (25) Nguyễn Đức Hiệp, Khám phá mới di truyền học về nguồn gốc con người ở Đông Á, Ts Tư Tưởng, Số 7, trang 9 - 13, 4/2000. (26) International Council for Science, ICSU, "Science and traditional knowledge", Report from the ICSU Study Group on Science and Traditional Knowledge, March 2002. (27) Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản, Tạp chí Việt, Số 7, 2001. (28) Ayer, A.J., “Language, Truth and Logic”, New York: Dover Publications, 1952. [**] Từ "science" đã có từ thế kỷ 13, được các nhà lý luận Pháp dùng rất rộng rãi trong thế kỷ ánh sáng, cũng như chữ "scientifique" dùng như tính từ. (cf. các trích dẫn trong Littré) Còn "L'Encyclopédie" của nhóm Diderot, mà quyển đầu ra năm 1751, có tên dài hơn là " Dictionnaire raisonné des sciences, des arts et des métiers" . W. Whewell đặt ra từ scientist - tiếng Pháp là scientifique (danh từ). Nguyễn Đức Hiệp Chuyên viên khoa học khí quyển và môi trường, Cơ quan bảo vệ môi trường ở New South Wales, Australia Đã đăng trên Thời Đại Mới
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 6:48:04 GMT 9
ARISTOTE(384 – 322 tcn) Will Durant (1885-1981)
Trí Hải, Bửu Đích dịch Aristote (384-322 tcn) 1. MỘT CHÚT LỊCH SỬ Aristote sinh tại Stagira tại tiểu quốc Macédoine cách Athènes 200 dặm, vào năm 384 tTL. Cha của ông làm nghề thầy thuốc, bạn thân của quốc vương Macédoine Amyntas. Ông này là tổ phụ của Alexandre đại đế. Hình như Aristote là đoàn viên của một y sĩ đoàn danh tiếng thời ấy, ông có tất cả những cơ hội thuận tiện để học hỏi và phát triển tri thức. Có hai giả thuyết về thời kỳ niên thiếu của Aristote. Một giả thuyết cho rằng ông là một thiếu niên thích ăn chơi, phung phí tiền của đến nỗi trở nên nghèo nàn đói rách, không có nghề sinh nhai phải vào lính trong một thời gian. Mãi đến năm 30 tuổi mới đến xin học và trở thành môn đệ của Platon (427 – 348 tTL) . Giả thuyết thứ hai không chấp nhận thời kỳ ăn chơi và phung phí tiền của. Theo giả thuyết này Aristote đến Athènes từ lúc 18 tuổi và trở thành môn đệ của Platon bắt đầu từ đó. Ông học với Platon vào khoảng từ 8 đến 20 năm, con số 20 năm có lẽ đúng hơn nếu ta xét ảnh hưởng của Platon trong các tác phẩm của Aristote. Người ta có thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kỳ lý tưởng trong cuộc đời Aristote. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn hơn Aristote gần 50 tuổi (43 tuổi – chú thích của người đánh máy !), chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông cảm. Platon công nhận rằng Aristote là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristote là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của Aristote được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của Aristote. Một sự bất hoà khác quan trọng hơn xảy ra vào cuối đời Platon. Aristote có vẻ chống lại tư tưởng của Platon và nhiều khi không đồng ý với Platon. Thái độ này làm Platon rất bất bình coi Aristote như một đứa con vô ơn. Một vài học giả cho rằng Aristote lập một trường hùng biện. Trong số các môn sinh có Hermias sau này thành người cầm quyền tiểu quốc Atarneus. Để tỏ lòng nhớ ơn thầy cũ, Hermias mời Aristote về sống tại triều đình và năm 344 tTL, Hermias giới thiệu người chị của mình làm vợ Aristote. Cuộc hôn nhân là một sự thành công mỹ mãn. Sau đó một năm quốc vương Macédoine là Philippe mời Aristote về triều đình để dạy cho thái tử Alexandre. Đó là một vinh dự rất lớn cho Aristote, vì Philippe cũng như Alexandre là những vị vua danh tiếng và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại. Philipe chinh phục Thrace năm 356 tTL để chiếm những mỏ vàng vô cùng phong phú gấp 10 lần số vàng của Athènes. Thần dân của Philippe là những nông dân khoẻ mạnh, những chiến sĩ dũng cảm biết chịu đựng gian khổ. Nhờ những yếu tố ấy Philippe và Alexandre đã thôn tính hàng trăm tiểu quốc và thực hiện được sự thống nhất Hy lạp. Philippe không ưa chủ nghĩa cá nhân đương thời mặc dù chủ nghĩa này có kết quả tốt đẹp đối với nghệ thuật và đời sống tinh thần của dân Hy Lạp. Philippe cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của sự đồi truỵ kinh tế cũng như chính trị. Chính dựa vào chủ nghĩa này mà những kẻ lưu manh chính trị có thể lơi dụng sự tin tưởng quá dễ dãi của dân chúng để mặc tình thao túng chính trường gây nên bè phái, giai cấp, âm mưu chống đối nhau. Philippe quyết chấm dứt tình trạng trên để thực hiện một nước Hy Lạp thống nhất và hùng mạnh xứng đáng là trung tâm chính trị của thế giới thời bấy giờ. Trong thời niên thiếu Philippe đã học quân sự tại Thèbes. Năm 338 tTL ông chiến thắng tại Athènes và thực hiện được sự thống nhất của nước Hy Lạp. Ông mong mỏi sẽ cùng người con là Alexandre tiếp tục cuộc chinh phục thế giới nhưng giấc mộng của ông bị tan vỡ vì ông bị ám sát. Khi Aristote đến nhận việc thì Alexandre là một cậu bé 13 tuổi bồng bột và ốm yếu, ưa cưỡi ngựa và tập ngựa. Những cố gắng của Aristote để làm dịu sự bồng bột của Alexandre hình như không đem lại nhiều kết quả. Theo một vài sử gia Alexandre coi Aristote như cha ruột của mình và về phần Alexandre cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandre luôn luôn là một chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristote, Alexandre nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của Alexandre có lẽ một phần nào do ảnh hưởng của Aristote và người ta thường so sánh thiên tài của Aristote trong lãnh vực triết lý với thiên tài của Alexandre trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân loại: một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý. Sau khi cất quân chinh phục Á châu, Alexandre để lại ở Hy Lạp những chính phủ trung thành với ông nhưng không được dân chúng ủng hộ. Truyền thống dân chủ của người Hy Lạp không thể một sớm một chiều bị lu mờ trước sức mạnh của đội quân Alexandre. Tại những chính phủ này, những đảng lên cầm quyền được mệnh danh là đảng Macédoine hay là đảng thân Alexandre. Năm 334 tTL Aristote trở về Athènes sau một cuộc du hành và lẽ cố nhiên không dấu cảm tình đối với đảng Macédoine tại đó. Công trình khảo cứu khoa học, triết lý, chính trị của Athènes tuy rất bao la nhưng không phải là hoàn toàn theo đuổi trong sự yên tĩnh. Nhiều biến cố chính trị luôn luôn đe doạ Aristote và nhóm cộng sự viên, công trình này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự thành công của Alexandre trên lãnh vực chính trị. Những nhận xét trên đây còn cho phép chúng ta hiểu rõ tư tưởng chính trị của Aristote. 2. CÔNG VIỆC CỦA ARISTOTE Mặc dù ở trong một tiểu quốc đang sôi sục vì những biến cố chính trị, Aristote đã thành công trong việc lập nên một trường học lấy tên là Lyceum. Rất nhiều môn đồ đến xin thụ giáo đến nỗi cần phải đặt ra những phép tắc luật lệ để giữ gìn trật tự. Những môn đồ này tự bầu cử một uỷ ban để cai quản các công việc của trường. Họ thường ở lại và ăn uống ngay trong trường, các buổi học thường được tổ chức ngoài đồng trống. Trước kia Platon cũng đã thành lập một trường lấy tên là Academy chuyên nghiên cứu về toán học và chính trị. Lyceum của Aristote chuyên nghiên cứu về sinh lý học và động vật học. Alexandre ra lệnh cho các nhà săn bắn và chài lưới phải đem nộp cho Aristote tất cả những giống vật mới lạ. Tục truyền có cả thảy một đội quân 1000 người rải rác khắp Hy Lạp và Á châu để sưu tầm những giống vật mới lạ, Aristote là người đầu tiên đã lập nên vườn bách thảo và sở bách thú trên toàn thế giới. Ngoài sự ủng hộ của Alexandre Aristote còn bỏ vào đó một số vốn rất lớn, ông là một người có nhiều tiền của nhờ cưới vợ giàu và có quyền thế, có lần bên nhà vợ đã tặng Aristote một số tiền tương đương với 4 triệu Mỹ kim theo thời giá hiện nay để dùng vào việc nghiên cứu khoa học. Có người cho rằng chính Aristote đã khuyến cáo Alexandre chinh phục Ai cập với mục đích thám hiểm vùng thượng lưu sông Nil để biết rõ nguyên nhân những trận lụt xảy ra ở Ai cập. Ngoài ra, Aristote còn sưu tầm 158 bản hiến pháp. Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng những phương tiện nghiên cứu của Aristote vô cùng thô sơ so với những phương tiện nghiên cứu tối tân của chúng ta ngày nay. Ông phải đo lường thời gian mà không có đồng hồ, đo lường nhiệt độ mà không có hàn thử biểu, xem thiên văn mà không có viễn vọng kính, đoán thời tiết mà không có phong vũ biểu. Những phương tiện duy nhất mà Aristote đã sử dụng là một cái thước và một cái compas. Sức hút của trái đất, hiện tượng phát điện, áp lực không khí, nguyên lý ánh sáng, nhiệt lượng và hầu hết những lý thuyết tân tiến của khoa học hiện đại đều hoàn toàn chưa được phát minh. Những tác phẩm của Aristote lên đến hàng trăm cuốn. Có người bảo 400 cuốn, có người bảo 1000 cuốn. Những cuốn còn lại đến dời nay chỉ là một số nhỏ nhưng cũng có thể lập thành một tủ sách. Trước hết là những tác phẩm về luận lý dạy các cách xếp đặt và phân loại các ý nghĩ. Rồi đến các tác phẩm khoa học như vật lý học, thiên văn học, khí tượng học, vạn vật học, những sách nói về sự phát triển và suy tàn, về linh hồn, về cơ thể sinh vật, về cử động và về sự sinh đẻ. Loại thứ ba là những sách dạy về cách viết văn và làm thơ. Loại thứ tư là những sách về triết lý như đạo đức học, chính trị học và siêu hình học. Toàn thể các tác phẩm có thể xem là một bộ bách khoa của Hy Lạp nhưng khác với bộ bách khoa của các nước khác ở chỗ chỉ do một người viết ra. Công trình của Aristote xứng đáng được so sánh với công trình của Alexandre. Văn chương của Aristote không bóng bẩy và thi vị như của Platon, đó là một loại văn chương chính xác và khoa học. Aristote phải đặt thêm nhiều từ ngữ mới để có thể diễn tả tư tưởng. Những từ ngữ Âu Mỹ hiện nay phải mượn ở những tác phẩm của Aristote như "faculty, mean, maxim, category, energy, actuality, motive, end, priciple, form ...". Những chữ này không khác gì những viên gạch để xây dựng tư tưởng và góp phần rất lớn trong công cuộc phát triển tư tưởng đời sau. Aristote còn viết nhiều tác phẩm văn chương nhưng đến nay đã thất truyền. Có người cho rằng những tác phẩm của Aristote không phải do chính Aristote soạn thảo mà do các môn đệ soạn thảo sau khi ghi chú các bài giảng của Aristote. Phần lớn những tác phẩm này được xuất bản sau khi Aristote qua đời. Chỉ có một số ít tác phẩm về luận lý và văn chương được xuất bản khi Aristote còn sống. Một số những tác phẩm khác về siêu hình học và chính trị được sưu tầm từ đống giấy tờ do Aristote để lại. Có người cho rằng trong tất cả các tác phẩm và Aristote chúng ta có thể tìm thấy một lối viết văn giống nhau, điều này chứng tỏ rằng các môn đệ của Aristote thấm nhuần tư tưởng của thầy một cách sâu xa, nếu không phải tự tay Aristote soạn thảo ra các tác phảm của mình thì các tư tưởng trình bày chắc chắn là của Aristote. 3. NỀN TẢNG CỦA LUẬN LÝ HỌC Giá trị của Aristote là ở chỗ ông đã phát minh môn học mới, hoàn toàn không dựa vào các tác phẩm từ trước để lại. Lối suy luận của người Hy Lạp trước thời Aristote không được minh bạch, chính Aristote đã chấn chỉnh tình trạng này bằng cách đặt ra những quy luật cho sự suy luận. Ngay cả Platon đôi khi cũng vấp phải lỗi lầm suy luận không chính xác. Dưới thời trung cổ, một ngàn năm sau khi Aristote qua đời người ta còn hăng say dịch lại các sách về luận lý để theo đó mà hướng dẫn tư tưởng. Luận lý có nghĩa là nghệ thuật và phương pháp suy nghĩ chính xác. Đó là phương pháp của tất cả các khoa học , tất cả các nghệ thuật kể cả âm nhạc. Luận lý học là một khoa học vì nó có thể được trình bày dưới nhiều định luật giống như các định luật vật lý và hình học, nó cũng là một nghệ thuật vì nó tập cho tư tưởng quen với lối suy nghĩ chính xác. Socrate rất chú trọng đến những định nghĩa, đó là bước đầu của luận lý học. Platon luôn luôn tìm cách làm sáng tỏ các ý niệm của mình. Voltaire thường nói: "Nếu anh muốn nói chuyện với tôi, trước hết hãy định nghĩa các danh từ của anh !". Rất nhiều cuộc tranh luận vô ích, rườm rà, tốn nhiều giấy mực và xương máu có thể tránh khỏi nếu các phe liên hệ định nghĩa rõ ràng những danh từ của mình. Đó là nền tảng của luận lý học, tất cả các ý niệm, các danh từ đều phải được cân nhắc kỹ càng, đó là một công việc khó khăn, nhưng một khi đã làm xong thì mọi khó khăn đã bớt đi được một nửa. Làm thế nào để định nghĩa một vật hoặc một danh từ ? Aristote trả lời rằng trong mọi định nghĩa chính xác cần phải có 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ vật ấy thuộc loại nào, phần thứ hai chỉ rõ trong loại ấy, vật ấy có những gì đặc biệt ? Ví dụ người là một con vật có lý trí. Định nghĩa này nêu rõ 2 phần: phần thứ nhất chỉ rõ người là một con vật, phần thứ hai chỉ rõ người khác những con vật khác ở chỗ nào: ở lý trí. Có một vấn đề đã làm cho Aristote bất đồng với Platon và gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi. Theo Aristote thì những danh từ như: người, sách, cây ... chỉ những vật tổng quát và trừu tượng không có trên thực tế. Những vật có thật phải được xác định bằng những tên gọi như ông Athènes, ông B. Theo Platon thì những vật tổng quát có thực chất và tồn tại lâu dài hơn những vật đã được xác định. Vì lẽ ấy mà Platon đã cho rằng Quốc gia có trước cá nhân. Sự cách biệt này có ảnh hưởng rộng lớn trong tư tưởng của hai triết gia. Aristote thì thực tế, luôn luôn chú trọng đến hiện tại và có một thái độ khách quan. Trong khi Platon thì mơ mộng, luôn luôn nghĩ đến tương lai và có một thái độ chủ quan. Một trong các phát minh của Aristote trong lãnh vực luận lý là tam đoạn luận. Đó là một lối suy luận theo 3 phần, phần thứ ba hay là phần kết luận theo sau phần thứ nhất và phần thứ hai. Thí dụ người là con vật có lý trí, Socrate là người, vậy Socrate là một con vật có lý trí. Tam đoạn luận có thể được áp dụng trong toán học theo các công thức sau đây: A = B, B = C vậy C = A. Điều khó khăn cần phải giải quyết trong một tam đoạn luận là nếu phần thứ nhất không được chính xác thì phần kết luận lẽ cố nhiên cũng sai. Tuy nhiên, người ta thường chú trọng đến phần kết luận hơn là phần thứ nhất, do đó tam đoạn luận không đem đến những kết quả tốt. Với sự trình bày các phương pháp luận lý Aristote đã có công lớn với nhân loại là đặt nền tảng cho phương pháp suy luận chính xác mặc dù môn luận lý học gặp những chông gai và được coi như một môn học khó hiểu. 4. HỆ THỐNG KHOA HỌC 4.1. Khoa học Hy Lạp trước thời Aristote Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem khoa học cho nhân loại. Đành rằng trước Socrate và trước Aristote cũng có khoa học và triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Đã có nhiều cuộc nghiên cứu của người Hy Lạp để phát triển khoa học nhưng những cuộc nghiên cứu ấy ngày nay không thể xem là khoa học mà chỉ có thể xem như một loại thần học. Nói một cách khác, dân Cổ Hy Lạp có khuynh hướng giảng giải tất cả những hiện tượng thiên nhiên như là hành vi của các thần linh. Một vài người tiên phong tìm cách đi ra khỏi ngõ bí ấy. Thalès (649 - 550 tTL) được coi là cha đẻ của triết lý xuất thân là một nhà thiên văn lên tiếng công kích thói mê tín, xem các tinh tú trên trời như những thần linh. Môn đệ của Thalès là Anaximandre có công vẽ những vị trí của những tinh tú và đưa ra thuyết táo bạo rằng vũ trụ trước kia chỉ là một khối loãng, các hành tinh và định tinh từ trong khối ấy mà ra. Vũ trụ xoay vần theo từng chu kỳ hợp rồi tan, tan rồi hợp. Trái đất nằm trên không trung nhờ sức hút, tất cả các hành tinh đều có chất lỏng, dần dần chất lỏng ấy bốc hơi do ảnh hưởng của mặt trời. Đời sống bắt đầu ở dưới biển và lần lần xuất hiện trên mặt đất vì biển bị bốc hơi. Những con vật không còn nước để sống dần dần tập thở không khí, đó là thuỷ tổ của những giống vật sống trên đất. Ngay cả loài người cũng phải có một hình dáng khác bây giờ. Vì nếu loài người quá yếu ớt lúc sơ sinh và đòi hỏi quá nhiều thời gian để trưởng thành như ngày nay thì không sao có thể tồn tại đến ngày nay. Một triết gia khác Anaximènes cho rằng vũ trụ bắt đầu bằng một khối chất loãng. Khối ấy dần dần cô đọng lại thành gió, mây, nước, đất và đá. Ba trạng thái của vật là trạng thái khí, lỏng và đặc là 3 giai đoạn của sự cô đọng. Động đất là do sự cô đọng chất lỏng trong lòng đất. Đời sống và linh hồn là một sức mạnh tiềm tàng có mặt khắp nơi. Anaxagoras tìm cách giảng giải nhật thực và nguyệt thực. Ông là thầy học của danh tướng Periclès. Ông khám phá sự hô hấp của cây cỏ và loài vật. Ông đưa ra giả thuyết rằng sở dĩ loài người thông minh hơn súc vật là nhờ biết đi 2 chân trong khi dành 2 tay để làm những việc khác. Một học giả khác tên là Héraclite đã hy sinh tất cả của cải để hiến mình cho sự nghiên cứu khoa học. Ông tìm thấy rằng tất cả mọi vật đều thay đổi. Tạo hoá xoay vần theo từng chu kỳ. Sự đấu tranh là cha đẻ của vạn vật. Một học giả khác đã đưa ra thuyết tiến hoá: ông cho rằng các bộ phận trong cơ thể của muôn loài đều thay đổi theo với luật đào thải. Những bộ phận nào đáp ứng với nhu cầu và thích hợp với hoàn cảnh sẽ được tồn tại trong khi những bộ phận khác không thích hợp sẽ bị đào thãi. Một vài học giả khác đã đi gần đến thuyết nguyên tử dù một cách rất thô sơ. Họ cho rằng ngoài thế giới hiện tại còn có vô số thế giới khác. Các hành tinh trong vũ trụ thường va chạm nhau và làm tan vỡ nhiều thế giới. Trên đây là những điều mà các học giả Hy Lạp dưới thời Aristote đã tìm thấy. Cần phải công nhận mặc dù với những dụng cụ thô sơ, công trình phát minh của họ không phải nhỏ. Mặt khác, chính chế độ nô lệ làm trì hoãn các phát minh khoa học giúp ích đời sống: trong khi các nô lệ làm tất cả những công việc nặng nhọc thì không ai nghĩ đến việc phát minh máy móc làm gì. Trái lại phần lớn tư tưởng các học giả hướng về các vấn đề chính trị và xã hội trong một nước Hy Lạp bị chia rẽ bởi nhiều phe nhóm chống đối nhau gay gắt. Do đó triết lý và khoa học chính trị có phần phong phú hơn những ngành khoa học khác. 4.2 Aristote một nhà nghiên cứu thiên nhiên: Nếu chúng ta bắt đầu bằng cách khảo sát một tác phẩm của Aristote nhan đề là Vật lý học, chúng ta sẽ bị thất vọng. Sự thật là trong cuốn vật lý học ấy chỉ trình bày những khái niệm siêu hình về vật chất, sự chuyển động, không gian, thời gian, nguyên lý, và những khái niệm tương tự. Một đoạn đặc sắc trong tác phẩm trên là đoạn công kích khái niệm chân không của một học giả đương thời. Aristote cho rằng trong vũ trụ không làm gì có chân không. Ngày nay thuyết của Aristote đã bị khoa học chứng minh là sai, nhưng chính nhờ sự công kích mà chúng ta biết được một thuyết khoa học có giá trị. Về khoa thiên văn Aristote không tiến bộ hơn các học giả đương thời là bao. Ông công kích thuyết của Pythagore cho rằng mặt trời là trung tâm điểm của thái dương hệ, ông một dành vinh dự ấy cho trái đất. Tuy nhiên ông cũng có nhiều nhận xét giá trị về sức nóng của mặt trời làm bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành mây và rơi xuống thành mưa. Ông cho rằng xứ Ai cập là công trình của xông Nil: chính phù sa của nước sông này trong hàng ngàn thế kỷ đã đem lại cho xứ Ai cập những vùng đất phì nhiêu. Aristote cũng đã giảng giải một cách thoả đáng sự thành lập các lục địa trên trái đất, ông cho rằng các lục địa được nảy sinh và dần dần biến mất dưới đáy biển cùng với tất cả những nền văn minh ở trên ấy trong một sự thay đổi tuần hoàn. Con người đi từ trạng thái sơ khai đến trạng thái văn minh cực độ rồi sẽ trở về trạng thái sơ khai do những biến cố vĩ đại của tạo hoá. 4.3 Nền tảng của khoa sinh vật học Trong khi Aristote quan sát những loại sinh vật trong vườn bách thảo rộng lớn của ông, tự nhiên ông nhận thấy rằng những loại sinh vật có thể được xếp hạng và giữa những hạng ấy có những mối liên hệ mật thiết trong nhiều phương diện khác nhau chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách sinh sống, sự thụ thai, sự cảm xúc... Những mối liên hệ này nối liền những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé nhất đến những loại sinh vật phức tạp nhất. Trong lĩnh vực những loại sinh vật thô sơ nhỏ bé người ta rất khó lòng phân biệt một sinh vật và một khoáng chất. Aristote cho rằng ranh giới giữa một sinh vật và một khoáng chất trong lãnh vực này rất mơ hồ và đáng nghi ngờ. Mặt khác, người ta không thể phân biệt động vật và thực vật. Đối với một vài loại có thể xem là thực vật cũng được mà xem là động vật cũng được. Trong nhiều trường hợp khác rất khó phân biệt một loại này với một loại khác. Người ta có thể kết luận rằng đời sống trên trái đất phát triển một cách liên tục từ trạng thái thô sơ nhất đến trạng thái phức tạp nhất. Trí thông minh cùng phát triển theo với trạng thái, nói cách khác: trạng thái càng phức tạp, trí thông minh càng phát triển. Đồng thời các cơ quan kiểm soát càng ngày càng tập trung, thần kinh hệ được phát triển cùng với sự tập trung này. Mặc dù có những nhận xét xác đáng kể trên, Aristote không chủ trương thuyết tiến hoá. Ông đả kích thuyết cho rằng các sinh vật đấu tranh để sống và chỉ những sinh vật nào thích hợp nhất mới được tồn tại. Ông cũng phủ nhận thuyết cho rằng con người trở nên thông minh nhờ dùng 2 tay để làm việc thay vì để di chuyển. Ông nói rằng cần phải suy nghĩ ngược lại nghiã là con người biết dùng 2 tay để làm việc vì đã trở nên thông minh. Vì các phương tiện nghiên cứu và quan sát trong lãnh vực này còn thiếu sót nên Aristote có nhiều lầm lẫn: Ông không biết gì về sự hiện hữu của các bắp thịt trong cơ thể, ông không phân biệt động mạch và tĩnh mạch, ông tưởng rằng khối óc dùng để làm cho máu trở nên lạnh, ông tin rằng đàn ông có nhiều mảnh xương sọ hơn đàn bà, ông tin rằng người ta chỉ có 8 cặp xương sườn và đàn bà có ít răng hơn đàn ông. Đó là những sự nhầm lẫn tuy rõ ràng nhưng không quan trọng so với sự đóng góp của Aristote vào nền sinh vật học. Ví dụ ông biết rằng loài chim và loài bò sát có cơ thể rất giống nhau, loài khỉ là một loài trung gian giữa người và vật 4 chân. Ông nhận xét rằng linh hồn của trẻ sơ sinh cũng giống như linh hồn của súc vật. Các món ăn quyết định cách sinh sống: có những con thú sống theo đàn, có những con thú sống cô độc, miễn làm sao chúng có thể kiếm ăn một cách dễ dàng. Ông đã tìm ra kết luận gần giống như thuyết của Von Baer về các đặc tính của giống nòi và thuyết của Spencer về sự tương quan của các giống vật và sự phát triển của chúng. Nói một cách khác, một giống vật càng phát triển thì sự sinh đẻ càng ít. Ông nhận xét khuynh hướng bình đẳng của các giống vật nghĩa là những phần tử xuất chúng, do sự giao cấu với các phần tử thấp kém hơn dần dần sẽ mất các đặc tính của mình. Sau hết Aristote tạo nên một khoa học về sự phát triển của bào thai. Ông nói rằng muốn quan sát sự vật một cách chính xác không gì bằng quan sát ngay trong thời kỳ thai nghén. Hyppocrate cũng đã áp dụng phương pháp này bằng cách quan sát trứng gà lộn trong những thời kỳ khác nhau và đã viết cuốn sách nhan đề là Nguồn gốc của đứa trẻ. Aristote cũng nghiên cứu hiện tượng này và những nhận xét của ông còn làm cho các nhà khoa học ngày nay phải ngạc nhiên. Chắc ông đã làm nhiều thí nghiệm về khoa sinh sản vì ông phủ nhận thuyết cho rằng nam tính hoặc nữ tính của bào thai phụ thuộc vào vị trí của ngọc hành. Ông còn đưa ra nhiều vấn đề thời sự về nhân chủng chẳng hạn như ông đã nhận xét một cuộc hôn nhân giữa người đàn bà da trắng và người đàn ông da đen. Tất cả những đứa con sinh ra đều da trắng nhưng đến thế hệ thứ hai thì nhiều đứa con da đen xuất hiện. Đó chỉ là một nhận xét mở đầu cho định luật danh tiếng về nhân chủng học mệnh danh là định luật Mendel. Nói tóm lại mặc dù những sai lầm trong các tác phẩm về sinh lý học của ông, Aristote cũng đã đặt nền móng cho khoa học này. Nếu chúng ta để ý rằng các phương pháp sưu tầm và nghiên cứu thời ấy rất thô sơ, chúng ta phải công nhận thiên tài vĩ đại của Aristote. 5. SIÊU HÌNH HỌC VÀ THỰC CHẤT CỦA THIÊN CHÚA Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristote là sự tiếp tục của sinh lý học. Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi một thực thể có thể được xem như một hình thể do một nguyên thể mà phát sinh ra. Ví dụ con người là hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát sinh. Đứa trẻ là hình thể do bào thai là nguyên thể phát sinh. Bào thai là hình thể do noãn châu là nguyên thể phát sinh. Nếu chúng ta đi lần mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ tìm thấy một ý niệm về nguyên thể mà không có hình thể (tức là Thiên chúa). Tất cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến triển đến một cứu cánh, cứu cánh cuối cùng mới là quan trọng. Những sự nhầm lẫn của tạo hoá là nguyên do của những quái thai. Sự phát triển không phải là một việc ngẫu nhiên mà chính đã được hướng dẫn từ bên trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu tạo để thành một con gà chứ không phải một con vịt, hột bồ đề được cấu tạo để thành một cây bồ đề chứ không phải một cây lau. Do đó theo quan niệm của Aristote thì quyền lực của Thiên chúa được thể hiện trong các hiện tượng thiên nhiên. Aristote quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động trong vũ trụ: mọi vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự cử động ấy là ở đâu ? Aristote cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên chúa, đó là vị chúa tể đã làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ hơn được xoay vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này không có hình thể, không thể phân chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt. Theo Aristote thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ, ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động. Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là toàn thể những diễn tiến sinh lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn toàn, có thể so sánh được với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý hiện đại. Aristote còn quan niệm rằng thượng đế là một thực thể có nhiều bí hiểm vì ngài không bao giờ làm gì, không có ý muốn, không có mục đích, không có hành động. Vì ngài là đấng toàn năng nên không bao giờ ngài ước muốn, vì không ước muốn nên không bao giờ ngài hành động.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 6:49:49 GMT 9
6. TÂM LÝ HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA NGHỆ THUẬT
Tâm lý học của Aristote cũng có nhiều khó hiểu và mâu thuẫn. Trong của tác phẩm có nhiều đoạn đáng để ý, chẳng hạn Aristote là người đầu tiên biết đến mãnh lực của thói quen và xem đó như thiên chất thứ hai của con người. Đối với vấn đề tự do của ý chí và bất tử của linh hồn thì ý kiến của Aristote không được đồng nhất, khi thì ông lý luận theo thuyết định mệnh nghĩa là con người không thể làm khác hơn cái gì định mệnh đã an bài. Khi thì ông cho rằng con người có tự do định đoạt số phận của mình bằng cách lựa chọn những bối cảnh của cuộc sống, ví dụ chúng ta có thể tự tạo nên một nhân cách bằng cách chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và các trò giải trí. Aristote không tiên liệu rằng những kẻ theo thuyết định mệnh sẽ cãi lại ông ta bằng cách nói rằng chính tánh tình của chúng ta ảnh hưởng đến sự chọn lựa bè bạn, sách báo, nghề nghiệp và trò giải trí của chúng ta. Aristote còn cho rằng con người muốn được khen và sợ bị chỉ trích, chính yếu tố này làm cho họ phải chọn lựa và cũng chứng minh sự tự do chọn lựa của con người. Lý luận này cũng không đứng vững vì chính sự khen chê định đọat hành vi của con người chứ không phải sự tự do lựa chọn.
Aristote còn đưa ra một lý thuyết về linh hồn. Theo ông thì linh hồn là sức sống của mọi sinh vật. Trong cỏ cây thì linh hồn chỉ là khả năng dinh dưỡng và sinh sản, trong loài động vật linh hồn là khả năng di chuyển và cảm xúc, trong loài người linh hồn là khả năng lý luận và suy tư. Vì là một khả năng, linh hồn không thể tồn tại ngoài thể chất. Tuy nhiên trong một đoạn khác bằng một lối lý luận dông dài, Aristote lại cho rằng linh hồn có thể tồn tại. Lối lý luận này tỏ ra mâu thuẫn và có nhiều chỗ tối nghĩa.
Trong một tác phẩm khác, Aristote bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng nghệ thuật phát minh do nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ, cảm giác của mình. Trong bản chất, nghệ thuật là một sự bắt chước và phản ảnh thiên nhiên giống như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất cả mọi người đều có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có. Tuy nhiên mục đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật mà chính là diễn tả ý nghĩa ở bên trong.
Nghệ thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên một khoái cảm cao cả nhất cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật phải hướng về sự đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt chuyện đồng nhất, nghĩa là không được có những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng nhiệm vụ của nghệ thuật là sự thanh lọc: những cảm giác chất chứa trong con người do đời sống xã hội tạo nên có thể tìm thấy ở nghệ thuật một lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động. Những ý nghĩ trên đây ngày nay vẫn còn có giá trị và mở màn cho những thuyết tân kỳ về sức mạnh của nghệ thuật.
7. ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC
Số môn đồ đến xin học với Aristote càng ngày càng đông, môn học càng ngày càng mở rộng từ vấn đề khoa học đến các vấn đề đạo đức. Những câu hỏi sau đây được đặt ra: cuộc đời lý tưởng phải thế nào ? Cái gì là mục đích tối thượng của cuộc đời ? Đạo đức là gì ? Làm sao có thể tìm thấy hạnh phúc ?
Thái độ của Aristote rất thực tế trước những vấn đề này. Ông không khuyên bảo môn đệ phải theo những lý tưởng quá cao xa. Quan niệm về bản chất con người của Aristote là một quan niệm rất lành mạnh: tất cả những lý tưởng đều có một căn bản thiên nhiên và tất cả những cái gì thiên nhiên đều có thể nẩy nở thành lý tưởng. Aristote chấp nhận một cách thẳng thắn rằng mục đích trực tiếp của cuộc đời không phải là cái hay cái đẹp mà chính là hạnh phúc. Aristote nói rằng người ta tìm kiếm tiền tài, danh vọng, khoái lạc vì người ta tưởng rằng những thứ đó đem đến hạnh phúc. Tuy nhiên cần phải biết rõ hạnh phúc thật sự là gì và con đường nào đưa đến hạnh phúc. Aristote trả lời câu hỏi này bằng cách tìm những đặc điểm phân biệt loài người và những loài vật khác. Ông cho rằng hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức tính của con người. Đức tính nổi bật nhất của loài người là khả năng suy luận, chính nhờ đức tính này mà loài người đứng trên tất cả loài vật khác. Chính vì vậy mà khả năng suy luận một khi được phát triển hoàn toàn đầy đủ sự đem đến hạnh phúc hoàn toàn cho con người.
Điều kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển của khả năng suy luận. Đạo đức tuỳ thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình của lòng ham muốn. đó không phải là những đức tính của những người thường mà là kết quả của sự tập luyện và kinh nghiệm trong những người hoàn toàn trưởng thành. Con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung dung. Mỗi một đặc tính có thể xếp thành 3 loại: loại đầu và loại chót là những đặc tính quá khích, chỉ loại giữa mới là đạo đức . Ví dụ sự nhút nhát và tánh liều lĩnh thuộc về loại đầu và loại chót, nghĩa là những đặc tính quá khích. Tánh rộng rãi nằm giữa tánh biển lận và phung phí. Tánh khiêm nhượng nằm giữa tánh rụt rè và ngạo mạn. Tánh vui vẻ nằm giữa tánh cau có và tánh ba hoa sống sượng ...
Thuyết trung dung không phải là một thuyết có thể áp dụng một cách máy móc theo toán học. Điểm trung dung có thể thay đổi tuỳ theo trường hợp và chỉ có thể tìm thấy bằng sự suy luận trưởng thành. Chính thói quen quy luận đưa người ta đến chỗ thánh thiện. Một người hành động chính đáng không phải vì lý do họ là một người có đạo đức nhưng ngược lại chính vì họ có đạo đức do sự huấn luyện suy tư công phu mà họ hành động chính đáng. Con người có thể được đánh giá bằng những hành động của họ. Do đó sự thánh thiện không phải là một hành động đơn độc mà chính là một thói quen. Người ta còn nhớ câu nói bất hủ của Aristote về vấn đề này: "Một con én không làm nổi một mùa xuân". Tuổi trẻ là thời kỳ quá khích: nếu một thiếu niên lầm lỗi thì chắc chắn lỗi lầm đó là do sự quá khích mà ra. Sự khó khăn của tuổi trẻ là làm sao không đi từ thái cực này đến thái cực khác vì người ta thường có khuynh hướng sửa sai một cách quá đáng. Những người ở một thái cực có khuynh hướng cho rằng đạo đức không phải nằm ở điểm trung dung mà nằm ở thái cực kia.
Họ có khuynh hướng sửa mình như một người uốn một khúc tre cong: muốn làm khúc tre thẳng họ phải uốn cong về chiều ngược lại. Cũng có trường hợp những kẻ quá khích xem điểm trung dung như một lỗi lầm lớn, người can đảm bị kẻ nhút nhát xem là liều lĩnh trong khi đó những người liều lĩnh lại xem những người can đảm như là nhút nhát. Trong lãnh vực chính trị những kẻ ôn hoà bị kẻ quá khích xem là bảo thủ và bị kẻ bảo thủ xem là quá khích.
Thuyết trung dung là một đặc điểm chẳng những của Aristote mà còn của nền triết lý Hy Lạp. Platon xem đạo đức là những hành động điều hoà không quá khích, Socrate xem đạo đức là do sự suy luận mà có, trong đền thờ Apollon người ta có khắc những chữ meden agan có nghĩa là không làm cái gì quá trớn. Người Hy Lạp cho rằng sự đam mê tự nó không phải là một điều xấu, nó là nguyên liệu tạo nên điều xấu hoặc điều tốt tuỳ theo cách sử dụng có chừng mực hoặc không có chừng mực.
Tuy nhiên thuyết trung dung chưa phải là bí quyết đem đến hạnh phúc. Aristote cho rằng những nhu cầu vật chất cũng cần thiết. Sự nghèo túng quá độ làm cho con người đâm ra biển lận, một tài sản vừa phải đem đến cho con người một đời sống tự do không tham lam giành giựt quá đáng, đó cũng là một đặc điểm của chế độ quý tộc. Một yếu tố khác rất cần thiết cho đời sống hạnh phúc là sự kết bạn. Càng được san sẻ, hạnh phúc càng tăng trưởng. Khái niệm về công bằng không quan trọng trong tình bằng hữu, khi đã là bạn, người ta không nghĩ đến sự công bằng so đo tính toán trong việc giao thiệp. Mặt khác, số bạn chân thật không thể có nhiều: kẻ nào có quá nhiều bạn thật ra không có người bạn nào. Làm bạn với tất cả mọi người là một điều không thể thực hiện được. Tình bạn chân thật phải được thử thách với thời gian, nó đòi hỏi sự ổn định trong tánh tình. Một khi tánh tình không ổn định thì sự kết bạn lẽ cố nhiên cũng bị ảnh hưởng. Bình đẳng là một yếu tố cần thiết trong sự giao thiệp, sự biết ơn không làm cho sự giao thiệp được lâu dài. Những kẻ thi ơn luôn luôn muốn người khác chịu ơn mình mãi mãi trong khi những kẻ chịu ơn luôn luôn muốn xa lánh kẻ thi ơn càng sớm càng tốt. Do đó, sự giao thiệp không thể nào được vững bền.
Mặc dù các tiện nghi vật chất cần thiết cho đời sống hạnh phúc, yếu tố chính là sự sáng suốt của tâm hồn. Những khoái lạc giác quan không phải là chìa khoá của hạnh phúc. Một đời sống chính trị như làm lãnh tụ một quốc gia hoặc một đảng phái không thể đi đôi với hạnh phúc. Những người làm chính trị phải chiều theo sở thích của quần chúng mà không có gì thay đổi bấp bênh bằng sở thích quần chúng. Hạnh phúc phải là sự khoái lạc của tâm trí.
Con người lý tưởng của Aristote không làm việc nguy hiểm một cách vô ích nhưng gặp trường hợp cần thiết họ có thể hy sinh tánh mạng vì có nhiều lúc đời sống thật không còn đáng sống. Họ sẵn lòng giúp đỡ kẻ khác nhưng nhận sự giúp đỡ một cách rất dè dặt. Họ không tìm cách phô trương, họ thẳng thắn nói lên những điều ưa và ghét, hành động một cách chân thật.
Họ không bao giờ khen ai quá đáng vì họ nhận thấy rằng ở trên đời thật sự không có cái gì đáng khen cả. Họ không thể sống a dua với kẻ khác vì tánh a dua là đặc tính của kẻ nô lệ. Họ không bao giờ muốn làm hại ai và sẵn lòng tha thứ tất cả những lỗi lầm của kẻ khác. Họ không muốn nói chuyện nhiều, cũng không muốn được người khác tâng bốc hoặc chỉ trích người khác. Họ không nói xấu người khác dù đó là kẻ thù của họ. Họ đi đứng khoan thai, nói năng ôn tồn, không bao giờ hấp tấp vì tâm trí họ không bị bận rộn bởi những điều phức tạp. Họ không bao giờ hăng hái quá độ vì họ biết rằng trên đời này không có cái gì quan trọng. Họ chịu đựng những sự bất trắc ở đời một cách vui vẻ và đoan trang, giống như một tướng lãnh giỏi cầm quân ngoài mặt trận nắm vững chiến thuật chiến lược. Họ thích sống một mình và không sợ sự cô đơn. Đó là con người lý tưởng của Aristote.
8. KHOA HỌC - CHÍNH TRỊ
8.1. Cộng sản và bảo thủ
Tư tưởng chính trị của Aristote lẽ tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của những tư tưởng về đạo đức kể trên. Nói cách khác Aristote thiên về chế độ quí tộc. Mặt khác, với tư cách là thầy học của một vị hoàng đế và chồng của một vị công chúa, Aristote không có lý do để thiên về thuyết dân chủ hoặc có cảm tình với giai cấp thương gia: Túi tiền của chúng ta nằm ở đâu, triết lý của chúng ta nằm ở đó.
Thêm vào đó tư tưởng ôn hoà của Aristote có thể xem là hậu quả của những tệ đoan do một nền dân chủ quá bê bối. Ông ước mong tìm lại nền an ninh trật tự và hoà bình. Ông cho rằng cần phải chấm dứt những cuộc phiêu lưu chính trị. Chỉ trong những tình thế ổn định con người mới có quyền quá khích. Aristote nói rằng :"người ta có thói quen thay đổi luật lệ quá dễ dàng, làm như vậy lợi bất cập hại. Chúng ta cần phải chịu đựng những điểm thiếu sót nhỏ nhặt của nhà làm luật hơn là đòi thay đổi luật pháp. Quốc gia sẽ không có lợi gì một khi dân chúng làm quen với thái độ bất phục tùng và luôn luôn đòi thay đổi luật pháp. Sự tuân hành luật pháp (rất cần thiết cho sự ổn cố chính trị ) thường bắt nguồn ở tập tục. Thay đổi luật pháp khác gì phá vỡ nguồn gốc của sự tuân hành luật pháp.
Aristote chỉ trích chế độ cộng sản của Platon, cho đó là một chế độ không tưởng. Ông không đồng ý với cuộc sống tập thể của giai cấp thống trị theo kiểu Platon; ông thích những đức tính cá nhân, sự tự do, sự hữu hiệu và trật tự xã hội. Ông không muốn xem tất cả người xung quanh là anh chị, xem tất cả người có tuổi là cha mẹ. Nếu tất cả đều là anh chị, lẽ tất nhiên không có người nào thực sự là anh chị. Thà rằng có một người bà con xa, song thật sự là bà con còn hơn có những người bà con theo kiểu Platon. Trong một xã hội mà tất cả phụ nữ và nhi đồng đều là của chung, tình yêu thương sẽ phai nhạt. Chỉ những cái gì thực sự của ta mới được chiều chuộng và gắn bó.
Rất có thể rằng trong quá khứ xa xôi có một xã hội sống theo chế độ cộng sản. Trong xã hội đó một gia đình được coi như một quốc gia và tất cả hoạt động kinh tế tập trung vào việc cày ruộng và nuôi súc vật. Đối với một xã hội phát triển hơn, cần có sự phân công phức tạp hơn, khả năng của con người không thể đồng nhất như xưa và do đó không thể áp dụng chế độ cộng sản được. Cần phải có sự thúc đẩy tâm lý con người mới chịu tự rèn luyện để đảm nhận những công việc chuyên môn, cần phải có phần thưởng của tư sản con người mới chịu hăng hái phát triển kỹ nghệ và chăn nuôi. Khi tất cả tài sản là của chung, thì không một ai chịu lo lắng giữ gìn tài sản ấy, người ta có khuynh hướng lo lắng cho cái gì thuộc riêng mình và hoàn toàn lơ là trước các vấn đề chung. Cuộc sống tập thể theo kiểu cộng sản tạo nhiều vấn đề nan giải, không chóng thì chầy các cá nhân sẽ tìm cách gây gổ nhau để phân chia của cải.
Người ta thường chỉ trích chế độ tư sản, cho đó là nguyên do của tất cả các tệ đoan xã hội. Sự thật thì nguyên do của các tệ đoan ấy không phải ở chế độ tư sản mà ở bản tánh con người. Khoa học chính trị không đủ sức để làm nên những con người mới mà phải quan tâm đến đặc tánh hiện hữu của con người. Nói một cách tổng quát, con người gần con thú hơn là gần các thiên thần. Phần đông đều u mê và lười biếng. Dù ở trong chế độ nào đi chăng nữa những người ấy cũng nằm vào hạng chót. Chủ trương giúp đữ họ không khác gì chủ trương đổ nước vào một cái thùng bể. Họ phải được cai trị trên phương diện chính trị và sai bảo trên phương diện kinh tế, sự đồng ý của họ hoàn toàn không cần thiết. Từ lúc ra đời đã có những người sinh ra để bị sai khiến và những người khác sinh ra để sai khiến. Những người có khả năng suy nghĩ và tiên liệu là những người sinh ra để làm chủ, những người chỉ có thể làm việc bằng chân tay là những người sinh ra để bị sai khiến. Sự phân công trong xã hội không khác gì sự phân công trong cơ thể: những người chỉ huy không khác gì bộ óc, những người thi hành không khác gì chân tay, chân tay phải phụ thuộc vào bộ óc cũng như người thừa hành phụ thuộc vào người chỉ huy. Người thừa hành là một dụng cụ có đời sống và dụng cụ là một người thừa hành không có đời sống. Aristote tiên liệu sự tiến triển của xã hội đến một đời sống máy móc khi ông viết những dòng sau đây: "Nếu tất cả các dụng cụ đều tự động làm việc, nếu máy dệt tự dệt lấy quần áo, nếu cái đàn tự phát ra những âm thanh... thì lúc đó người ta không cần đến những kẻ thừa hành hoặc những nô lệ nữa".
Lối suy nghĩ trên chứng tỏ thái độ khinh nghề lao động chân tay của người Hy Lạp. Nguyên do là đời sống lúc bấy giờ còn thô sơ và công việc lao động chân tay không đòi hỏi nhiều khả năng như bây giờ. Aristote xem những người lao động chân tay như những người hoàn toàn không biết suy nghĩ. Những công việc ấy chỉ thích hợp với giai cấp nô lệ và cũng dễ nô lệ hoá con người. Aristote cho rằng công việc lao động chân tay làm cho trí óc cằn cỗi, không có thì giờ hoặc năng lực để suy nghĩ về chính trị. Do đó Aristote cho rằng chỉ những người rảnh rang mới được quyền tham gia chính trị. Những kẻ làm thợ nhiều khi còn bị mất quyền công dân. Ở Thèbes còn có một đạo luật cấm những thương gia giữ chức vụ trong chính phủ nếu họ chưa hoàn toàn từ bỏ tất cả các hoạt động thương mãi trong thời hạn 10 năm trở về trước. Những kẻ cho vay, đổi tiền, được Aristote xếp vào hạng nô lệ. Ông coi việc buôn bán như một hành động bất chính và sự cho vay nặng lãi như một hành động đáng ghét. Tiền bạc dùng để giao hoán, không phải để sinh lợi. Sự nghiên cứu tài chánh là những việc đáng làm đối với một triết gia, nhưng các hoạt động tài chánh là những việc không xứng đáng với một công dân.
8.2. Hôn nhân và giáo dục
Đàn bà là nô lệ, đàn ông là chủ. Sự tương quan giữa đàn bà và đàn ông không khác gì sự tương quan giữa những kẻ trí thức và những kẻ lao động chân tay hoặc giữa những kẻ man rợ và những công dân Hy Lạp. Aristote cho rằng đàn bà chỉ có thể tuân lệnh. Theo bản chất, phụ nữ không có ý chí, do đó không thể tự lập. Việc làm thích hợp nhất đối với phụ nữ là coi sóc nhà cửa. Không nên làm cho phụ nữ được ngang quyền với nam giới như Platon đã chủ trương. Trái lại sự cách biệt cần phải được tăng thêm vì chính sự cách biệt ấy khuyến khích gần gũi giữa nam giới và nữ giới. Sự can đảm của nam giới không giống như sự can đảm của nữ giới như Socrate đã chủ trương. Aristote cho rằng sự can đảm của nam giới thể hiện trong việc chỉ huy, sự can đảm của nữ giới thể hiện trong sự phục tòng. Giữ im lặng là sự vinh quang của nữ giới.
Trên thực tế Aristote cũng nhận rằng sự phân chia khả năng trên ít khi được thực hiện. Thường thường trong gia đình chiến thắng không phải về tay kẻ có sức mạnh vật chất mà về tay kẻ biết nói nhiều và nói dai. Để cứu vãn nam giới khỏi thiệt thòi, Aristote khuyên nam giới chỉ nên lập gia đình vào lúc 37 tuổi và chỉ nên cưới những người vợ vào khoảng 20 tuổi. Một thiếu nữ vào khoảng 20 đủ sức đương đầu với một nam nhi vào khoảng 30, do đó cần phải lấy người chồng vào khoảng 37 thì trật tự gia đình mới bảo toàn. Mặt khác, Aristote bênh vực cho thuyết của mình với nhận xét rằng với số tuổi chênh lệch ấy, khả năng sinh sản của hai vợ chồng mới có thể chấm dứt vào một lúc. Nếu người chồng còn khả năng này hoặc ngược lại thi đời sống gia đình sẽ khó khăn. Đối với nam giới tuổi chấm dứt sinh sản là 70, đối với nữ giới tuổi chấm dứt sinh sản là 50, do đó tuổi cưới hỏi cần phải phù hợp.
Nếu 2 vợ chồng trẻ quá thì sức khoẻ của con cái sẽ bị tổn thương. Những cặp vợ chồng trẻ thường sinh con gái nhiều hơn con trai. Sức khoẻ quan trọng hơn tình yêu giữa vợ chồng. Những phụ nữ lập gia đình quá sớm thường dễ hư hỏng, những thanh niên lập gia đình quá sớm thường không phát triển được tất cả những khả năng vật chất và tinh thần của mình. Vấn đề hôn nhân là một vấn đề tối quan trọng đối với quốc gia xã hội, vì vậy cần phải được hướng dẫn và kiểm soát bởi chính phủ: chính phủ phải ấn định tuổi tối thiểu và tuổi tối đa để kết hôn cho mọi công dân nam nữ, những thời kỳ nào được phép sanh sản và mức độ gia tăng của dân số. Nếu mức độ này quá lớn cần phải áp dụng phương pháp phá thai. Dân số trong mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào các nguồn lợi và vị trí của quốc gia ấy. Nếu dân số quá ít quốc gia không thể tự túc, nếu dân số quá nhiều các nguyên tắc dân chủ sẽ khó áp dụng. Dân số một quốc gia không nên quá 10 000 người.
Chính phủ cũng phải kiểm soát nền giáo dục. Muốn chính thể được lâu dài, nền giáo dục phải thích hợp. Những kẻ xuất chúng phải được huấn luyện để trở nên những nhà cai trị. Họ sẽ sống một cuộc đời hoàn toàn vì quyền lợi chung, không đếm xỉa đến của cải riêng. Toàn dân phải được huấn luyện để biết tuân theo pháp luật. Những công dân tốt trước khi trở thành người chỉ huy giỏi phải là người thừa hành giỏi. Nền giáo dục còn có tác dụng thống nhất quốc gia, vượt lên trên những vấn đề chia rẽ địa phương. Các thanh thiếu niên cần phải thấm nhuần các điều lợi ích do cuộc sống tập thể đưa lại. Một con người có giáo dục là một con vật (người ?) tốt nhất, những kẻ sống cô độc làm những kẻ tệ hại nhất. Nếu sự bất công được sử dụng võ khí thì tệ hại càng lớn hơn. Những kẻ có giáo dục không biết hoà mình vào đời sống xã hội cũng đáng sợ hơn, chúng là những con vật tham lam, chỉ sự kiểm soát của xã hội mới đem chúng về con đường đạo đức.Nhờ lời nói con người họp thành một xã hội, nhờ xã hội con người phát triển trí thông minh, nhờ trí thông minh con người sống trong trật tự, nhờ trật tự con người đi đến văn minh. Chính trong xã hội con người mới có những cơ hội để phát triển. Chỉ những thú vật hoặc những thánh hiền mới sống cô độc.
Những cuộc cách mạng bao giờ cũng đáng trách. Chúng có thể đem lại một vài cải cách, nhưng con người phải trả giá quá đắt. Khuyết điểm lớn nhất là tình trạng hỗn độn có thể đưa đến sự phá huỷ trật tự xã hội và cơ cấu quốc gia. Những sự cải cách đôi khi có thể thấy được hoặc tính toán được nhưng các điều bất tiện thì thường thường không thể ngừa trước được mà có khi lại rất quan trọng. Sở dĩ người ta phê phán một cách dễ dàng là vì người ta chỉ nhìn sự vật một cách hời hợt. Những người trẻ tuổi thường dễ bị lừa gạt vì họ tin một cách quá dễ dàng. Huỷ bỏ những tập tục cổ xưa là một việc làm rất nguy hiểm có thể đe doạ sự ổn cố của chính thể. Mặc dù được chính thức huỷ bỏ các tập tục cổ xưa vẫn còn sống trong dân chúng. Nếu một hiến pháp muốn được tồn tại lâu dài, hiến pháp đó phải được đại đa số dân chúng tán thành. Một nhà cai trị muốn tránh các cuộc nổi dậy cần phải làm thế nào để xã hội không có những người quá giàu hoặc quá nghèo. Họ phải khuyến khích dân chúng ra khai khẩn đất đai ở nước ngoài để sự cạnh tranh ở trong nước có lối thoát; họ phải khuyến khích và thực hành tôn giáo. Một lãnh tụ "cần phải tỏ ra ngoan đạo. Nếu dân chúng thấy rằng lãnh tụ của mình ngoan đạo họ sẽ tin tưởng vào vị lãnh tụ nhiều hơn. Do sự tin tưởng ấy họ sẽ không tìm cách lật đổ vị lãnh tụ, những kẻ yếu bóng vía còn tưởng rằng vị lãnh tụ của mình thế nào cũng được các thần thánh giúp đỡ".
8.3. Dân chủ và quý tộc
Với những bảo đảm về phương diện tôn giáo, giáo dục và nền tảng gia đình, cơ cấu chính trị mới có thể vững chắc. Trong tất cả mọi chính thể đều có những ưu điểm và những khuyết điểm. Trên lý thuyết, chính thể lý tưởng là sự tập trung tất cả quyền hành chính trị vào người khôn ngoan nhất. Thi sĩ Homère có nói rằng : "để cho đám đông cai trị là không tốt, việc cai trị chỉ nên giao cho một người". Đối với một người như vậy, luật pháp chỉ là một phương tiện hơn là một giới hạn. Đối với người xuất chúng không thể có luật pháp nào ràng buộc được : chính họ là luật pháp. Trên thực tế, chế độ quân chủ thường là chế độ dở nhất. Sức mạnh và đạo đức thường không đi đôi với nhau. Do đó chế độ tạm dùng được là chế độ quý tộc trong đó một số người xuất chúng nắm giữ guồng máy của quốc gia. Việc cai trị là một việc quá chuyên môn không thể giao cho dân chúng ngu dốt đảm nhiệm được. Trong ngành y khoa, chỉ những bác sĩ mới được hỏi ý kiến, tại sao không áp dụng nguyên tắc này trong lãnh vực chính trị. Một nhà toán học có thể chọn lựa những nhà toán học, một thuyền trưởng có thể chọn lựa những thuyền trưởng, do đó sự chọn lựa những nhà cai trị phải giao cho những nhà cai trị.
Sự khó khăn của một chế độ quý tộc cha truyền con nối là sự thiếu một căn bản kinh tế. Trong xã hội luôn luôn có những người đột nhiên trở nên giàu và do đó đòi quyền được tham dự vào công cuộc chính trị . Họ sẽ bỏ tiền ra để mua bất cứ cái gì kể cả chức tước. Đó là tình trạng đáng tránh vì khả năng chính trị và khả năng làm giàu là 2 lãnh vực hoàn toàn trái ngược. Để cho kẻ làm giàu lên nắm chính quyền tức là khuyến khích dân chúng có những thủ đoạn của kẻ gian thương vì dân chúng luôn luôn có khuynh hướng nghĩ theo và làm theo người lãnh đạo. Một chế độ quý tộc không căn cứ trên khả năng chính trị không phải là một chế độ quý tộc thực sự.
Chế độ dân chủ thường thường là kết quả của một cuộc cách mạng chống giai cấp giàu sang. Aristote đã có một tư tưởng gần như Karl Marx khi ông nhận xét rằng : Sự cạnh tranh để làm giàu khiến cho giai cấp trọc phú càng ngày càng bị thu hẹp, đám dân chúng vô sản càng ngày càng đông đảo. Những phần tử này sẽ làm cách mạng để lật đổ giai cấp thống trị." Sự chấp chính của giai cấp vô sản có một vài ưu điểm. Xét theo từng cá nhân thì giai cấp này không ra gì nhưng xét theo ý chí chung thì giai cấp này cũng tạm gọi là được. Dân chúng là những người thừa hưởng và trực tiếp chịu ảnh hưởng những chế độ chính trị, với tư cách đó họ có nhiều kinh nghiệm quý giá mà giai cấp lãnh đạo không có. Những kẻ hưởng dụng những tiện nghi của một toà nhà có thể phê bình toà nhà ấy xác đáng hơn là những kiến trúc sư. Những thực khách trong một bữa tiệc có thể phê bình những món ăn xác đáng hơn là những người nấu bếp. Mặt khác, một ưu điểm khác của chế độ dân chủ mà Aristote đã nêu ra là khi đại đa số dân chúng được tham dự chính quyền, sự kiểm soát lẫn nhau sẽ làm khó khăn cho các hành vi tham nhũng. Người ta có thể làm dơ bẩn một ly nước dễ dàng hơn làm dơ bẩn một hồ nước. Hơn nữa, cá nhân dễ bị chi phối vì tham sân si và dễ có những xét đoán sai lầm trong khi đoàn thể khó bị rơi vào tình trạng trên.
Tuy nhiên, Aristote vẫn cho rằng chế độ dân chủ không bằng chế độ quý tộc. Ông không chấp nhận nguyên tắc bình đẳng trong chế độ dân chủ . Ông cho rằng mọi người có thể bình đẳng trên một vài phương diện nhưng không thể bình đẳng trên tất cả mọi phương diện. Ông sợ rằng trong chế độ dân chủ các phần tử sáng suốt sẽ bị hy sinh cho quyền lợi của đa số. Ông còn sợ rằng một thiểu số sẽ nấp sau đa số mà thao túng chính trường. Vì lẽ đó, ông vẫn chủ trương rằng chỉ nên trao quyền đầu phiếu cho những kẻ sáng suốt. Ông muốn có một sự dung hoà giữa 2 chế độ dân chủ và quý tộc.
Một nền cai trị theo hiến pháp hình như là câu trả lời cho giải pháp dung hoà nói trên. Chúng ta cần phải tìm hiểu thế nào là một hiến pháp tốt đẹp nhất cho hầu hết các quốc gia, thế nào là đời sống lý tưởng nhất cho hầu hết các công dân. Chúng ta không nên đặt những tiêu chuẩn quá cao hoặc chủ trương một nền giáo dục quá lý tưởng , chỉ một số ít người theo kịp. Trái lại cần phải đặt những tiêu chuẩn trung bình khiến cho đại đa số dân chúng có thể đạt được dễ dàng. Cần dựa vào những lực lượng muốn duy trì hiến pháp. Lực lượng này không thể gồm toàn dân chúng, hoặc những kẻ có của cải, hoặc những quân nhân, hoặc những công chức mà phải bao gồm tất cả những thành phần kể trên. Lực lượng nòng cốt phải được tìm thấy ở giai cấp trung lưu.
Nếu tất cả mọi người đều có cơ hội tham gia chính phủ thì chế độ dân chủ được bảo đảm. Tuy nhiên Aristote thấy rằng việc chọn lựa người tham gia chính phủ phải được cân nhắc kỹ lưỡng chỉ những người có đầy đủ điều kiện mới được vào, đó là nguyên tắc của chế độ quý tộc. Mặc dù nhìn công việc chính trị dưới khía cạnh nào đi nữa người ta cũng sẽ cùng đi đến một kết luận chung: đó là dân chúng phải có quyền ấn định mục tiêu của quốc gia trong khi đó chỉ những người chuyên môn mới có thể thực hiện mục tiêu đó.
9. PHÊ BÌNH
Đối với Aristote chúng ta khó có những cảm nghĩ khen hoặc chê một cách nồng nhiệt vì chính Aristote cũng chủ trương rằng không có cái gì làm chúng ta hăng hái quá đáng, không có cái gì đáng khen. Aristote không hăng hái như Platon cũng không có những tư tưởng độc đáo, trí tưởng tượng cao siêu của Platon. Tuy nhiên, sau khi thưởng thức những tư tưởng động trời của Platon chúng ta thấy rằng những tư tưởng của Aristote không khác gì một cơn gió mát thổi vào một buổi trưa hè.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 6:50:37 GMT 9
Chúng ta có thể bất đồng ý kiến với Aristote về một vài điểm chẳng hạn như Aristote cho rằng tam đoạn luận là một lối suy luận thông thường và chính xác trong khi ngày nay chúng ta có khuynh hướng coi rằng tam đoạn luận cũng chỉ là một mánh lới để thuyết phục kẻ khác. Ông tưởng rằng tư tưởng con người đi từ các nguyên đề để tìm đến kết luận trong khi trên thực tế có rất nhiều trường hợp con người đi tìm kết luận trước rồi mới cố đặt ra những nguyên đề để chứng minh kết luận của mình. Những nhận xét của Aristote về thiên nhiên chứa rất nhiều sai lầm quan trọng. Ông thường để cho các tư tưởng siêu hình ảnh hưởng đến các nhận xét khoa học. Đây cũng là một đặc điểm của nền văn hoá Hy Lạp : Các học giả thời ấy thường đi đến kết luận một cách quá hấp tấp. Trong thế giới hiện nay chúng ta lại gặp một trường hợp trái ngược : chúng ta có quá nhiều nhận xét đến nỗi chúng ta cảm thấy vô cùng bối rối khi phải đi đến một kết luận vì các sự kiện, các con số, các nhận xét không ăn khớp với nhau. Công trình nghiên cứu của Aristote về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều của luận lý học. Kết quả là một công trình quá khô khan không đủ sức thúc đẩy con người tự cải thiện. Lý tưởng của Aristote thiên về một đời sống quá bình thản, quá ôn hoà, một đời sống mà người ta thường gán cho giai cấp thượng lưu ở Anh-cát-lợi. Một điểm đặc biệt là những tác phẩm về đạo đức học của Aristote được 2 trường đại học danh tiếng tại Anh-cát-lợi là Oxford và Cambridge dùng làm sách giáo khoa. Nhiều thế hệ sinh viên Anh-cát-lợi xem tác phẩm của Aristote như kinh nhật tụng. Tác phẩm nhan đề là "chính trị" đã góp phần xây dựng tư tưởng của người Anh để đem lại một nền chính trị ôn hoà và hữu hiệu. Nếu thay vì mến chuộng những tác phẩm của Aristote, người Anh lại ham mê và áp dụng những tư tưởng của Platon thì bộ mặt của thế giới có lẽ đã đổi khác. Chúng ta cần phải để ý rằng tư tưởng của Aristote thuộc về một loại riêng biệt và không có những đặc tính của những tư tưởng thuần tuý Hy Lạp. Khi ông đến thành Athènes, một thành phố Hy Lạp thì ông đã là một người trưởng thành. Vì lẽ đó ông không bị ảnh hưởng bởi đặc tính bồng bột của người Hy Lạp, luôn luôn tìm sự mới lạ trong lãnh vực chính trị, đi từ cải cách này đến cải cách khác cho đến khi sát nhập vào một chính quyền trung ương. Trái lại Aristote luôn luôn tìm cách tránh sự quá khích. Đặc tính ôn hoà của ông làm cho tư tưởng ông một đôi khi có vẻ quá tầm thường. Ông rất sợ những tình trạng hỗn loạn trong xã hội đến nỗi đã lên tiếng bênh vực chế độ nô lệ. Ông sợ những sự thay đổi và chủ trương một xã hội trung thành với các tập tục cổ xưa. Ông quên rằng chế độ cộng sản của Platon chỉ áp dụng đối với giai cấp thống trị, một giai cấp lý tưởng mà Platon đã coi như hoàn toàn giác ngộ, không còn tham lam vị kỷ. Mặc dù đả kích Platon, Aristote cũng đi đến kết luận gần giống như Platon khi ông chủ trương rằng các tài sản trong xã hội cần phải đem ra sử dụng chung. Ông bênh vực quyền sở hữu những ông không thấy rằng quyền sở hữu chỉ có ích đối với xã hội khi vật sở hữu là những món đồ dùng cá nhân không quan trọng . Trái lại khi quyền sở hữu cá nhân liên quan đến các phương tiện sản xuất rộng lớn nó sẽ đưa đến sự tập trung quyền hành quá mạnh và sự bất bình đẳng quá lớn trong xã hội. Tuy nhiên những nhận xét kể trên thật ra hoàn toàn không cần thiết đối với một hệ thống tư tưởng đã ra đời cách đây 2500 năm. Dù sao đi nữa Aristote đã nêu cao ngọn đuốc văn minh cho nhân loại đồng soi chung. Ông đã đặt nền móng cho một hệ thống tư tưởng vững chắc và giúp cho các thế hệ tương lai dựa vào đó để phát triển sự nghiên cứu sưu tầm hầu mạnh tiến trên con đường tìm chân lý. Những nền văn minh kế tiếp đều mang một món nợ tinh thần đối với Aristote. Những tác phẩm của ông lần lượt được phiên dịch trong suốt quá trình tiến triển của nhân loại nhất là vào thế kỷ thứ 5, thế kỷ thứ 10, thứ 13 và thứ 15. Đạo quân thánh chiến đã đem về Âu châu nhiều tác phẩm của Aristote và các học giả thành Constantinople đã mang theo những tác phẩm của Aristote như những bảo vật khi họ phải tản cư khỏi thành phố này trước những đội quân xâm lăng Thổ-nhĩ-kỳ. Các tác phẩm của Aristote được mến chuộng nhiều cho đến nỗi các cấp lãnh đạo giáo hội Thiên chúa giáo đem lòng ganh ghét vì sợ làm lu mờ các điều truyền dạy trong thánh kinh. Năm 1215 việc giảng dạy các tác phẩm của Aristote bị giáo hoàng cấm, năm 1231 đức giáo hoàng Gregory IX thành lập một uỷ ban để khai trừ Aristote, tuy nhiên đến 1260 thì thái độ của giáo hội thiên chúa giáo đối với Aristote hoàn toàn thay đổi. Việc giảng dạy các tác phẩm của ông chẳng những không bị cấm mà còn bị bắt buộc trong các trường thiên chúa giáo. Những thi sĩ như Chaucer và Dante không tiếc lời ca tụng Aristote. Một số tư tưởng của ông đã ngự trị trong lịch sử văn minh nhân loại hàng chục thế kỷ trước khi bị lu mờ bởi những chứng minh khoa học. 10. TUỔI GIÀ VÀ CHẾT Cuộc đời của Aristote có rất nhiều nỗi truân chuyên. Ông có sự bất bình với vua Alexandre vì nhà vua đã xử tử một người cháu của ông. Nguyên do vụ án này là vì cháu của Aristote không chịu phục tòng Alexandre. Trong lúc đó, Aristote lên tiếng bênh vực Alexandre trước những chỉ trích của phe chống đối tại Athènes. Ông binh vực cho sự thống nhất các tiểu quốc người Hy Lạp và muốn thấy tình trạng chia rẽ chấm dứt càng sớm càng tốt. Ông muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc Hy Lạp cho Alexandre cũng như sau này văn hào Goethe muốn dành vai trò thống nhất các dân tộc Âu châu cho Napoléon. Trong khi đó các nhóm chia rẽ tại Athènes càng ngày càng bành trướng, họ cương quyết phản đối việc Alexandre cho đúc một bức tượng của Aristote và đặt ở Athènes. Trước tình thế này Aristote rất khó lòng giữ được vẻ lạnh lùng và bình tĩnh trước cuộc đời như ông thường cổ võ trong tác phẩm „Đạo đức học“. Những môn đệ của Platon phụ họa với các nhóm chính trị khác vận động để kết tội Aristote. Năm 323 tTL vua Alexandre chết. Dân chúng thành Athènes thừa dịp đó tuyên bố ly khai và đánh đổ đảng Macédoine là đảng đã ủng hộ Alexandre. Một nhà lãnh đạo tôn giáo cầm đầu phong trào chống đối Aristote vì cho rằng Aristote đã phản lại tôn giáo bằng cách cổ võ dân chúng không nên cầu nguyện và cúng tế. Aristote biết trước thế nào ông cũng bị đem ra xử trước một đám dân chúng cuồng tín và có nhiều ác cảm. Ông bèn rời bỏ thành phố Athènes để đi nơi khác. Cử chỉ này không phải là một cử chỉ ươn hèn vì theo tục lệ thời ấy, nếu một chính trị gia không muốn bị dân chúng xét xử họ có quyền bỏ thành phố để đi nơi khác. Đến Chalcis Aristote nhuốm bịnh và chết. Có người cho rằng ông đã uống thuốc độc tự tử vì quá ngao ngán cho nhân tình thế thái. Cũng trong năm ấy và cũng trong lứa tuổi 62, một vĩ nhân Hy-lạp khác là Démosthène cũng uống thuốc độc tự tử. Thế là trong vòng một năm dân Hy-lạp đã mất một nhà lãnh đạo tài ba nhất, một nhà hùng biện hùng hồn nhất và một triết gia thông thái nhất. Ngôi sao của Hy-lạp mờ dần trước sự tiến triển vượt bực của người La-mã. Tuy nhiên sự lộng lẫy của La-mã căn cứ vào sức mạnh hơn là vào nền văn hoá. Sau đó nền văn minh La-mã cũng tàn rụi. Dân chúng Âu châu phải trải qua 1000 năm đen tối trong khi chờ đợi sự tái sinh của triết học.
Nguồn: Will Durant. 1971. Câu truyện triết học. Trí Hải và Bửu Đích dịch. Sài Gòn: Nha Tu thư và Sưu khảo, Viện Đại học Vạn Hạnh. Bản điện tử của vnthuquan.net
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 6:53:35 GMT 9
PLATON
1. BỐI CẢNH
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.
Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh.
Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận thù để hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte cung cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội và chịu sự khủng hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề canh nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng và là một nơi giao điểm của nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.
Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và được cô đọng lại. Trong khi có hàng ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những thương gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có khuynh hướng coi người khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư tưởng. Theo với thời gian họ phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học nảy sinh với nhu cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một không khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho những bài toán trước kia được giao phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học, triết lý bắt đầu từ đó.
Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 tTL). Démocrite nói rằng: "trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không", đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 tTL) và Lucrèce (98-55 tTL). Tuy nhiên khía cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận gia đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của mình hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công luận. Về mặt chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên nhiên là tốt, văn minh xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình đẳng với các định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm khác giống như Nietzsche cho rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên nhiên con người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo đức tối thượng và sự ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế độ quý tộc.
Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người giàu có ở Athènes họ tự lập một đảng gọi là lực lượng những người ưu tú. Đảng này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra cái dân chủ mà họ chỉ trích khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm ngày hôm nay. Trong số 400 ngàn dân của Athènes, đã có 250 ngàn thuộc vào hạng nô lệ bị tước đoạt tất cả quyền chính trị, trong số 150 ngàn người còn lại chỉ có một thiểu số được đại diện tại quốc hội để bàn cãi và quyết định về các vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên cái nền dân chủ còn lại đó là một nền dân chủ có thể nói là hoàn hảo nhất từ xưa đến nay. Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của quốc gia, tối cao pháp viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng những kẻ hối lộ), số thẩm phán này được tuyển chọn theo thứ tự ABC trong danh sách của toàn thể công dân. Không một chế độ chính trị nào dám thực hành tư tưởng dân chủ đi xa đến mức độ ấy.
Trong cuộc chiến tranh giữa Sparte và Athènes (430 - 400 tTL) lực lượng các người ưu tú của Athènes do Critias lãnh đạo, chủ trương nên bãi bỏ chế độ dân chủ vì cho đó là mầm mống của cuộc chiến bại và thành lập một chính thể giống như chính thể quý tộc của thành Sparte. Kết quả là nhiều lãnh tụ của lực lượng bị lưu đày. Sau khi chiến tranh chấm dứt với sự đầu hàng của Athènes, một trong các điều kiện đình chiến là phải đại xá cho những người trong lực lượng bị lưu đày. Những người này tôn Critias làm minh chủ và lăm le đảo chánh để thành lập một chính phủ của lực lượng ưu tú. Cuộc đảo chánh thất bại, Critias tử trận. Critias là môn đệ của Socrate và có họ hàng với Platon.
2. SOCRATE
Nếu chúng ta suy xét trong khi ngắm bức tượng bán thân của Socrate còn sót lại trải qua bao nhiêu điêu tàn hoang phế thì ta sẽ nhận thấy rằng Socrate có một diện mạo không đẹp đẽ gì. Một cái đầu hói, cái mặt lớn và tròn, một cặp mắt sâu và nhìn thẳng, lỗ mũi lớn ... Cái mặt đó làm ta liên tưởng đến một người gác cổng hơn là một triết gia danh tiếng vào bậc nhất. Nhưng nếu nhìn lại lần thứ hai ta sẽ thấy rằng, qua những nét khắc trong đá, một cái gì hoà nhã và bình dị thoát ra từ bộ mặt đó, những nét ấy đã làm cho Socrate được hầu hết các thanh niên thành Athènes kính mến. Ta biết rất ít về Socrate, nhưng đồng thời ta hiểu Socrate hơn triết gia có vẻ quý phái như Platon hoặc thông thái như Aristote. Sau hơn hai ngàn năm, ta còn mường tượng được hình dáng của Socrate với chiếc áo choàng thụng thịnh bước từng bước khoan thai trước các đền thờ, tâm tư hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị. Ông tụ họp những thanh niên và những học giả xung quanh mình vào những nơi có bóng mát trước cửa các đền thờ để cùng nhau đàm đạo.
Những người đi theo Socrate thuộc rất nhiều thành phần khác nhau, chính những người này đã tạo nên nền triết lý tây phương. Có những người con nhà giàu như Platon và Alcibiade, họ thích lối chỉ trích chế độ dân chủ của Socrate, cũng có những kẻ về phe xã hội chủ nghĩa ưa thích nếp sống nghèo nàn của Socrate và cho đó là một dấu hiệu của sự thánh thiện, cũng có những kẻ chủ trương diệt trật tự như Aristippe, họ chủ trương một xã hội không có nô lệ cũng không có chủ nô lệ, tất cả đều sống tự do và không lo lắng như chính Socrate. Tất cả những vấn đề làm con người suy nghĩ và làm cho những thiếu niên bàn cãi suốt ngày đều được đem ra mổ xẻ trong cái nhóm nhỏ ấy, họ tin tưởng một cách thành thật rằng nếu cuộc đời mà không có bàn luận về triết lý thì đó là một cuộc đời không đáng sống. Trong nhóm nhỏ ấy hầu hết các nguồn tư tưởng của nhân loại đều được đại diện.
Socrate làm gì để sống ? Ít ai biết đến. Ông không bao giờ làm việc, không bao giờ nghĩ đến ngày mai. Ông ăn khi nào có người mời, có lẽ người ta rất thích mời ông vì xem ra ông cũng béo tốt phương phi như ai. Đối với vợ con thì ông ta không được hoan nghênh lắm. Theo Xanthippe, Socrate là một kẻ du thủ du thực chỉ đem về cho gia đình một ít tiếng tăm mà không bao giờ đem về tiền bạc hoặc lương thực. Xanthippe cũng thích đàm đạo như Socrate, những cuộc đàm đạo này, rũi thay, không được lưu truyền. Nhưng chúng ta biết rằng bà ta yêu Socrate và rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần.
Tại sao những môn đệ kính mến Socrate đến thế ? Có lẽ tại rằng Socrate là một người trước khi là một triết gia: ông đã khinh thường gian nguy để cứu Alcibiade trong vòng tên đạn khói lửa, ông có tửu lượng rất khá, không từ chối mà cũng không đi đến chỗ say sưa. Nhưng điều làm người ta yêu thích Socrate nhất có lẽ là sự khiêm nhượng của ông ta: ông không tự cho rằng mình hiểu triết lý, ông chỉ đi tìm triết lý, ông là người thích triết lý, không phải là triết gia nhà nghề. Một câu sấm tại đền Delphe cho biết rằng Socrate là người thông minh nhất của xứ Hy lạp. Socrate cho rằng câu sấm này ám chỉ đến thuyết bất tri của ông ta: "Tôi chỉ biết một điều, đó là tôi không biết gì hết". Triết lý bắt đầu khi người ta biết hoài nghi, nhất là hoài nghi những niềm tin của chính chúng ta. Biết đâu rằng chính những niềm hy vọng ao ước thầm kín, những khao khát đã trở thành những niềm tin đối với chúng ta ? Biết đâu rằng những tư tưởng có vẻ khách quan chỉ là những niềm ước vọng trá hình. Sẽ không có triết lý nếu chúng ta không chịu khó đi một vòng quanh và quan sát lại chính chúng ta: "Hãy tự biết mình !" Socrate nói thế.
Trước Socrate cũng đã có nhiều triết gia. Những người với lý luận đanh thép như Thalès và Héraclite, tế nhị như Parménide và Zénon, sâu sắc như Pythagore và Empedocle. Nhưng phần nhiều những người ấy là những triết gia hướng về vật lý, họ tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố của thế giới bên ngoài. Những nỗ lực ấy rất đáng khen, Socrate nói, nhưng có một điều vô cùng quý giá hơn những cây cỏ, sông núi, trăng sao, đó là con người. Con người là gì, và con người sẽ đi đến đâu ?
Rồi từ đó ông chuyên chú vào tâm hồn con người, tìm hiểu những định lý, hoài nghi những tư tưởng sẵn có. Người ta thường nói đến hai chữ công bằng, Socrate liền hỏi công bằng là gì ? Anh hiểu gì về hai chữ ấy, tại sao anh dám đem hai chữ ấy để giải quyết vấn đề sống chết của đồng loại ? Danh dự là gì ? Đạo đức là gì ? Bản ngã của anh là gì ? Đó là những vấn đề đạo đức và tâm lý mà Socrate thường tự hỏi. Có những người lấy làm khó chịu về phương pháp của Socrate, một phương pháp đòi hỏi những định nghĩa chính xác, những tư tưởng minh bạch, những phân tích xác đáng. Họ cho rằng Socrate hỏi nhiều hơn trả lời và làm rối trí con người nhiều hơn sau khi đã thụ huấn với ông. Tuy nhiên Socrate đã để lại cho triết học hai câu trả lời minh bạch cho hai bài toán khó khăn nhất của chúng ta: Đạo đức là gì? Quốc gia tốt đẹp nhất là gì ?
Không một vấn đề nào thiết yếu hơn những vấn đề trên. Những nguỵ luận gia đã làm tan rã sự tin tưởng của đám thanh niên thành Athènes đối với các vị thần thánh và những điều khoản luân lý căn cứ vào sự thưởng phạt của các vị thần thánh, bây giờ không có lý do nào kềm giữ họ trong các hành vi của họ nếu không bị pháp luật ràng buộc. Một chủ nghĩa cá nhân lan tràn và làm suy yếu đức tính của người Athènes khiến cho nước này trở nên một món mồi ngon của liên bang Sparte. Về phương diện chính trị, thuyết dân chủ cực đoan đã làm say mê dân Athènes cũng đem đến nhiều điều bất tiện. Quá nhiều quyền hành đã được giao cho quốc hội, các cuộc bầu cử được tổ chức quá vội vàng, người có trách nhiệm như các tướng lãnh đã được tấn phong và cách chức một cách quá dễ dàng, sự chỉ định những nông phu, thương gia làm thẩm phán trong tối cao pháp viện theo thứ tự ABC là những yếu tố làm tan rã một nền hành chính và chính trị vững mạnh. Làm thế nào để thiết lập một nền đạo đức mới, làm thế nào để cứu vãn tình trạng suy đồi của quốc gia do các định chế dân chủ cực đoan gây nên ?
Chính vì trả lời cho các câu hỏi trên mà Socrate đã nhận lấy cái chết và đồng thời trở nên bất tử. Phái thủ cựu có lẽ sẽ thương tiếc ông ta nếu ông lên tiếng bênh vực lối thờ phượng đa thần của ngày xưa, nếu ông xúi giục các môn đệ của ông đến các nơi thờ phượng và dâng lễ cúng cho những đấng thần linh ngày trước. Trái lại, Socrate cho rằng làm như vậy tức là đi ngược với nền tiến triển của nhân loại, đó là một sự tiến tới diệt vong. Ông chủ trương rằng chỉ có một đấng tối cao mà thôi, nhưng ông lại cho rằng một nền đạo đức thực tiễn không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn không lệ thuộc thần học, hoàn toàn thích hợp với người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo thì xã hội có thể được ổn định mà không cần đến thần học.
Nếu có ai nhận thức rằng con người tốt là con người thông minh, con người đức hạnh là con người khôn ngoan, nếu họ nhận thức được đâu là quyền lợi chính đáng, thấu triệt được luật nhân quả, kiểm soát được lòng ham muốn để khỏi cảnh hỗn độn tự diệt và đi đến một xã hội có kỷ cương, thì họ đã nắm được cái tinh hoa của nền luân lý, họ không cần dựa theo lời răn dạy của thần học hay những điều ngăn cấm khác.
Tất cả tội lỗi đều do vô minh mà ra. Người trí huệ cũng bị cám dỗ bởi tham sân si như người vô minh nhưng họ biết dùng trí huệ để chế ngự sự cám dỗ và không rơi vào vòng tội lỗi. Một xã hội sáng suốt là một xã hội trong đó người dân cảm thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế tự do thí ít. Trong xã hội ấy, ăn ở ngay thẳng là giữ đúng quyền lợi mình và an ninh trật tự cũng như thiện chí trong xã hội đều phát xuất từ sự nhận định sáng suốt của cá nhân.
Nhưng nếu chính phủ là một sự hỗn độn và phi lý, nếu chính phủ cai trị mà không giúp đỡ, chỉ huy mà không lãnh đạo thì làm sao có thể thuyết phục người dân đồng hoá quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội ? Alcibiade nổi loạn chính vì để chống một chính phủ lung lạc nhân tài và mị dân. Không suy nghĩ sáng suốt tất nhiên đi đến cảnh hỗn độn, đám đông quyết định trong hấp tấp và vô ý thức tất nhiên có ngày phải hối hận vì sai lầm. Ai có thể tin rằng đám đông có lẽ phải ? Sự thật thì đám đông luôn luôn ngông cuồng hơn, độc ác hơn những cá nhân hành động đơn độc. Để cho kẻ miệng lưỡi lung lạc quần chúng là một điều sỉ nhục, họ chỉ là những cái máy nói, mỗi khi vặn lên là thao thao bất tuyệt. Việc trị nước an dân là một việc tối quan trọng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và suy xét. Xã hội chỉ có thể được cứu vãn và trở nên hùng mạnh nếu được lãnh đạo bởi những người khôn ngoan và sáng suốt nhất.
Các bạn thử tưởng tượng phản ứng của nhà cầm quyền Athènes khi nghe những lời trên đúng vào lúc phải giải quyết chiến tranh, đúng vào lúc một thiểu số trí thức và quí tộc đang âm mưu một cuộc đảo chánh. Các bạn hãy đặt mình vào địa vị của Anytus nhà lãnh đạo thành Athènes bị cậu con trai về nhà đổ lư hương vì cậu này là một môn đệ của Socrate.
Rồi cuộc nội chiến bùng nổ, phe trí thức và quý tộc choảng nhau hết mình với phe nhân dân. Cuối cùng phe nhân dân thắng. Biến cố này quyết định luôn cả số phận của Socrate : ông là nhà lãnh đạo tinh thần của phe nổi loạn, dù ông có yêu chuộng hoà bình đến mấy cũng mặc, chính ông đã chủ trương thuyết quý tộc cầm quyền, chính ông đã xúi giục đám thanh niên hội thảo. Anytus kết luận: Socrate cần phải chết.
Cái chết của Socrate được Platon kể lại trong một quyển sách bất hủ. Với những lời lẽ cảm động Platon suy tôn bậc Thầy đã hy sinh vì chân lý, vì tự do tư tưởng, thà chết chứ không chịu xin đám đông tha tội vì xưa nay Socrate vẫn khinh thường phán quyết của đám đông.
Socrate bị xử phải uống thuốc độc. Môn đệ của ông tìm cách cứu ông một lần chót: những kẻ giữ ngục đồng ý nhận một món tiền hối lộ và làm ngơ cho Socrate trốn đi. Socrate từ chối. Ông đã bảy mươi tuổi, có lẽ ông nghĩ rằng có chết cũng vừa, vả lại đây cũng là một cơ hội tốt để mà chết. Với các môn đệ đến ngục thất để tiễn đưa Socrate về cõi chết, Socrate nói: Hãy cứ vui đi, các con chỉ chôn cái thể phách của thầy.
Nói xong ông đứng dậy và đi vào phòng tắm với Criton. Chúng tôi (theo Platon kể lại) ngồi đợi ở ngoài, lòng buồn vô hạn. Ông cũng như cha, bây giờ ông chết, chúng tôi không khác gì những kẻ mồ côi. Giờ mặt trời lặn đã gần kề. Khi ông trở ra, ông lại ngồi với chúng tôi, chuyện trò rất ít. Chằng bao lâu người giữ ngục đi vào, đến gần ông và nói như sau: - Ông thật là người cao quý nhất, hiền lành nhất trong đời. Chắc rằng ông không có ý nghĩ giận tôi giống như những kẻ thường chửi bới mắng nhiếc tôi khi tôi tuân lệnh trên, đem chén thuốc độc vào đây cho họ uống. Xin ông thông cảm, tôi với ông không thù hằn gì. Chúc ông can đảm chịu đựng. Nói xong người giữ ngục oà khóc và ôm mặt đi ra ngoài. Socrate trả lời như sau: - Tôi sẽ làm như lời ông nói và chúc ông mọi sự tốt lành. Quay về phía chúng tôi Socrate nói như sau: - Người đó rất tốt với thầy từ lúc thầy vào đây, y đến thăm hỏi luôn, bây giờ y thực tình mến tiếc, nhưng Criton ơi, hãy đem chén thuốc vào đây nếu thuốc đã chế xong. Nếu thuốc chưa chế xong, hãy nói người ta chế. Criton nói: - Thưa sư phụ, mặt trời còn trên đỉnh đồi. Nhiều kẻ đợi trời tối mới uống và trước khi uống họ được quyền ăn uống no say thoả thích. Xin sư phụ chớ gấp gáp, hãy còn thì giờ. Socrate nói: - Những kẻ ấy làm rất phải, vì họ có lợi trong sự chần chờ, nhưng ta thì không thấy có lợi gì khi uống chén thuốc độc chậm hơn một chút, đời của ta kể như đã hết. Hãy làm như ta đã nói và xin đừng từ chối. Criton ra dấu cho người giúp việc, người này đi ra một lúc rồi trở lại với người giữ ngục, tay cầm chén thuốc. Socrate nói: - Ông bạn là người thông thạo về vấn đề này, xin ông cho biết tôi phải làm thế nào? Người giữ ngục trả lời: - Uống xong ông nên đi dạo một lúc, khi nào cảm thấy nặng ở hai chân thì nằm xuống, thuốc sẽ ngấm dần lên đến tim. Nói xong hắn đưa chén thuốc cho Socrate. Socrate nhận lấy một cách vô cùng nhã nhặn, không chút sợ sệt hoặc thay đổi sắc mặt. - Trước khi uống, tôi cần dành một phần chén thuốc để dâng cúng thần linh không ? - Chúng tôi chế thuốc vừa đủ. - Tôi hiểu rồi, nhưng dù sao tôi cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho tôi trong cuộc hành trình sang thế giới bên kia. Nói xong Socrate cầm chén thuốc đưa lên môi và uống một cách vui vẻ.
Từ trước đến giờ chúng tôi cố nén sự đau buồn thương tiếc, nhưng khi thấy ông uống cạn chén thuốc, chúng tôi không còn cầm lòng được nữa. Nước mắt tôi tuôn trào, tôi ôm mặt khóc. Không phải tôi khóc ông, mà chính là tôi khóc tôi từ nay vĩnh biệt tôn sư. Criton khóc trước tôi, y ôm mặt đi lãng xa vì không thể chứng kiến nổi cảnh ấy. Tôi cũng ôm mặt theo Criton. Trong lúc ấy thì Apollodorus đang khóc bỗng thét lên một tiếng làm tất cả chúng tôi đều giật mình. Socrate vẫn bình tĩnh, ông nói: - Cái gì lạ vậy ? Không cho phụ nữ vào đây là để tránh cái cảnh này. Người ta cần phải chết trong thanh tịnh. Các con hãy bình tĩnh và nhẫn nại. Nghe những lời nói ấy chúng tôi hổ thẹn và thôi không khóc. Ông đi dạo một hồi cho đến khi cảm thấy nặng ở chân, rồi nằm xuống đúng theo lời dặn. Người giữ ngục quan sát tay chân ông, đè mạnh xuống hai bàn chân và hỏi: - Ông cảm thấy gì không ? - Không. Người ấy đi lần lên phía trên, vừa đè vừa hỏi. Chúng tôi thấy hai chân ông đã cứng và lạnh, Socrate cũng lấy tay ấn thử và nói: - Khi nào thuốc ngấm đến tim là xong. Khi lạnh đến thắt lưng, ông bỏ miếng vải che mặt và nói: - Criton, thầy nợ Asclepius một con gà, con nhớ trả món nợ ấy. - Con sẽ trả, còn gì nữa không ?
Không có tiếng trả lời, vài phút sau Socrate cử động, người giữ ngục bỏ miếng vải che mặt ra, Criton vuốt mắt và miệng cho người chết. Đó là giây phút cuối cùng của tôn sư chúng tôi, ông là người minh triết nhất, công bằng nhất và tốt nhất.
3. THỜI KỲ HỌC HỎI CỦA PLATON
Cuộc gặp gỡ giữa Platon và Socrate có một tầm quan trọng đặc biệt. Platon thuộc về giai cấp trung lưu, đẹp trai và khoẻ mạnh. Ông đã từng ở trong quân ngũ và đã đoạt giải quán quân về thể thao. Không ai có thể ngờ rằng một người như vậy có thể trở nên một triết gia. Tâm hồn tế nhị của Platon tìm thấy vui thích trong biện chứng pháp của Socrate. Platon rất sung sướng khi nghiền ngẫm những lý thuyết của Socrate nhằm đả kích các luận điệu sai lầm đương thời: Platon dự vào cuộc tranh luận triết lý cũng như ông ta đã dự vào những cuộc tranh giải thể thao, và từ những cuộc tranh luận đó Platon đã đi đến những suy tư thâm thuý hơn. Chàng ta trở thành một người yêu triết lý và một môn đệ ưu tú của Socrate. Chàng thường nói rằng: "Tôi cám ơn trời đã cho tôi làm một người Hy lạp chứ không phải một dân mọi rợ, một người tự do chứ không phải một người nô lệ, một người đàn ông chứ không phải một người đàn bà, và quan trọng nhất là được sinh vào thời Socrate."
Khi Socrate chết, Platon mới được 28 tuổi, và biến cố cảm động này đã in sâu vào tâm thức của Platon. Nó làm cho Platon thù ghét những tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng thêm vào sự thù ghét phát sinh từ giai cấp quý tộc của Platon. Do đó ông ta chủ trương rằng cần phải tận diệt chế độ dân chủ và thay vào đó một chính thể do những phần tử quý tộc và sáng suốt lãnh đạo. Một trong những vấn đề trọng đại mà Platon đã nghiên cứu suốt đời là làm sao tìm ra người khôn ngoan nhất để giao phó việc lãnh đạo quốc gia.
Trong lúc đó những liên hệ giữa Platon và Socrate làm cho chính quyền đương thời nghi ngờ Platon. Những bạn bè của ông khuyên ông nên trốn khỏi Athènes và ông cũng cho rằng đây là một dịp tốt để chu du thế giới. Năm 399 tTL ông xách gói ra đi.
Những nơi nào ông đã đi qua chúng ta không được biết rõ. Hình như ông đã đi Ai cập trước tiên và ông rất bất bình khi nghe các nhà lãnh đạo tôn giáo cai trị xứ này nói rằng Hy lạp là một quốc gia ấu trĩ không có truyền thống và văn hoá và không thể so sánh được với quốc gia Ai cập. Sự bất mãn này làm ông ta suy nghĩ nhiều hơn và chuyến đi Ai Cập đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm của ông nhan đề là Utopia. Sau đó ông đáp tàu qua Sicie và đến Ý. Ở đó ông gia nhập nhóm triết gia do Pythagore sáng lập. Cảnh tượng một nhóm người có quyền chính trị rộng rãi lại say mê trong việc nghiên cứu và học hỏi, sống một cuộc đời bình dị mặc dù nắm nhiều quyền thế trong tay là một đề tài để Platon suy nghĩ. Ông đi chu du suốt 12 năm, học hỏi tất cả các chính thể, họp bàn với tất cả các nhóm, tìm hiểu tất cả các học thuyết. Một vài người cho rằng ông đã đến Judée và đã nghiên cứu học thuyết đượm tính chất xã hội của các triết gia ở đây. Có người cho rằng ông đã đến tận bờ sông Hằng và học hỏi tư tưởng các triết gia Ấn độ.
Ông trở về Athènes năm 387 tTL, lúc này ông đã 40 tuổi, một người già dặn sau nhiều năm học hỏi ở nhiều nước. Ông vẫn còn giữ sự hăng hái của tuổi trẻ nhưng ông đã nhận thức được rằng tất cả những tư tưởng quá khích chỉ là những chân lý nửa vời. Ông vừa là một triết gia, vừa là một thi sĩ, lối văn của ông vừa khúc chiết như một bài luận triết học, vừa đẹp đẽ như một bài thơ: đó là lối văn đàm thoại. Chưa bao giờ triết học trải qua một thời gian sáng lạn như vậy. Văn thể của ông sáng chói ngay cả trong những bản dịch. Shelley nhận xét rằng văn thể của Platon kết hợp luận lý sắc bén và hồn thơ lai láng, vừa dịu dàng trong âm điệu vừa hùng hồn trong lập luận. Nên biết rằng trước khi trở thành một triết gia Platon là một nhà soạn kịch.
Sự kết hợp của văn chương và triết lý, của khoa học và nghệ thuật trong các tác phẩm của Platon đôi khi làm chúng ta khó hiểu: chúng ta không biết rằng những nhân vật của Platon diễn tả tư tưởng của mình trong trường hợp nào, châm biếm, pha trò hay nói đứng đắn. Khuynh hướng pha trò châm biếm của Platon đôi khi làm chúng ta bỡ ngỡ. Những cuộc đối thoại do Platon viết ra là để cho đại chúng: nhờ trình bày những luận điệu bênh vực và đả kích, nhờ lập đi lập lại những ý tưởng nòng cốt, các tác phẩm của Platon rất thích hợp với những người muốn học triết lý cho qua thì giờ. Do đó những lối ngụ ngôn, những giọng văn hài hước thường rất nhiều. Ngoài ra lẽ cố nhiên còn có những tư tưởng liên quan đến những biến cố mà Platon cùng người đương thời thường bàn bạc đến, những tư tưởng này rất khó hiểu đối với một độc giả thế kỷ thứ hai mươi.
Chúng ta phải công nhận rằng Platon có những đặc tính mà ông thường chỉ trích. Ông không ưa những thi sĩ với trí tưởng tượng quá dồi dào. Ông không ưa những giáo sĩ, nhưng chính ông là một giáo sĩ, một giảng sư. Giống như Shakespeare, ông cho rằng mọi sự so sánh đều nhầm lẫn, nhưng ông lại luôn luôn dùng phương pháp so sánh. Ông chỉ trích các triết gia đương thời là những kẻ miệng lưỡi nhưng chính ông cũng dùng phương pháp này. f*guet đã nhại lối văn của Platon như sau: - Toàn thể lớn hơn một phần, phải chăng ? - Chắc chắn như vậy. - Và một phần nhỏ hơn toàn thể phải chăng ? - Đúng như thế. - ... Do đó rõ ràng là triết gia phải lãnh đạo quần chúng. - Ông nói cái gì ? - Thật là rõ ràng, chúng ta hãy lý luận trở lại.
Mặc dù tất cả những lời chỉ trích, những cuốn đối thoại của Platon là một trong những tác phẩm hay nhất của thế giới. Tác phẩm Cộng hoà là một công trình rộng lớn dưới hình thức một cuốn sách nhỏ trong đó tập trung những tư tưởng của Platon về siêu hình, thần học, đạo đức học, tâm lý học, sư phạm, chính trị và thẩm mỹ. Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những vấn đề mà ngày nay chúng ta đang băn khoăn suy nghĩ: thuyết Cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ bình quyền, thuyết hạn chế sinh sản và phương pháp dạy trẻ. Những vấn đề của Nietzsche về đạo đức và quý tộc, những vấn đề cũng Rousseau về trạng thái thiên nhiên và tự do giáo dục, những vấn đề của Bergson về đà sống (élan vital) và những vấn đề của Freud về phân tâm học. Emerson nói rằng : "Platon là triết lý, và triết lý là Platon". Đối với ông, thì quyển Cộng hoà của Platon cũng như kinh Coran và người ta có thể đốt tất cả các thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm trong cuốn sách này.
Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Cộng hoà !
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 6:54:36 GMT 9
4. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC
Cuộc tranh luận xảy ra trong nhà của Cephalus, một người giàu có thuộc giai cấp quý tộc. Trong cuộc tranh luận còn có Glaucon và Adeimantus, anh của Platon, Thrasymachus, một triết gia đương thời. Socrate (mà Platon dùng như một nhân vật để diễn tả những tư tưởng của chính mình) hỏi Cephalus: - Lợi ích quan trọng nhất mà tiền của đem lại cho ta, theo ý ông là gì ? Cephalus trả lời: tiền của cho phép ông ta có thể độ lượng, thật thà và công bằng. Socrate hỏi: công bằng nghĩa là gì ? Và mở ra một cuộc tranh luận dài. Không gì khó hơn một định nghĩa, vì nó đòi hỏi nhiều khôn khéo và sáng suốt trong tư tưởng. Socrate đả phá tất cả những định nghĩa do cử toạ đưa ra cho đến lúc Thrasymachus mất bình tĩnh và la lên: - Socrate, ông có điên không ? Tại sao các ông lại dẫm chân nhau như vậy ? nếu ông muốn biết công bằng là gì, ông phải trả lời chứ không được hỏi, ông không nên tự hào vì đả phá được kẻ khác... Có rất nhiều người có thể đặt câu hỏi nhưng không thể trả lời. Socrate không nao núng. Ông vẫn hỏi chứ không trả lời, và sau cùng Thrasymachus đưa ra một định nghĩa: "Hãy nghe đây: tôi cho rằng sức mạnh là lẽ phải, và công bằng là quyền lợi của kẻ mạnh ... Những chính thể khác nhau làm nên luật, dù đó là chính thể dân chủ, quý tộc hay độc tài, tất cả đều nhắm đến quyền lợi của mình; và những điều luật ấy, làm ra để phụng sự quyền lợi của chúng, được đặt lên đầu nhân dân và gọi là công bằng, những kẻ nào cưỡng lại sẽ bị phạt và bị xem là không công bằng ...
Tôi nói về sự bất công một cách tổng quát, và ý nghĩ của tôi rất rõ ràng khi nghiên cứu chính thể độc tài. Trong chính thể này, người ta dùng sức mạnh và sự gian trá để xâm chiếm tài sản kẻ khác. Khi một người đã lấy tất cả tài sản của dân chúng và bắt dân chúng làm nô lệ người ta xem nó không phải là một kẻ thượng lưu. Người ta chỉ trích sự bất công khi người ta là nạn nhân chứ không phải vì bị lương tâm cắn rứt mỗi khi có hành vi bất công."
Đó là học thuyết mà ngày nay được gán ít nhiều cho Nietzsche. "Tôi thường cười những kẻ yếu tưởng rằng mình là tốt, chỉ vì chúng nó chân tay què quặt". Stirner diễn đạt tư tưởng một cách gọn gàng hơn: "một nắm quyền hành tốt hơn một bao lẽ phải". Tư tưởng trên cũng được Platon diễn tả trong Gorgias. Calliclès chỉ trích rằng đạo đức là một phát minh của kẻ yếu để vô hiệu hóa quyền lực của kẻ mạnh.
"Chúng nó khen và chê tuỳ theo quyền lợi của chúng: chúng nói rằng gian manh là bất công và nhục nhã, chúng nó cho rằng gian xảo là ý muốn có nhiều hơn người hàng xóm, vì tự biết trình độ thấp kém của mình, chúng chỉ mong được bình đẳng... Nhưng nếu có một người với đầy đủ quyền lực, người ấy sẽ vượt lên trên những lý luận này, sẽ chà đạp tất cả những công thức, những luật lệ ...
"Những kẻ sống thực sự cần phải cho ý chí của mình phát triển đến tột độ; và khi đã phát triển ý chí đến tột độ, họ phải có đủ can đảm và thông minh để phụng sự ý chí, để thoả mãn tất cả những điều ham muốn. Đó là lẽ công bằng tự nhiên, sự quý phái tự nhiên. Nhưng đa số không thể làm như vậy, do đó họ chỉ trích người khác. Chính vì họ nhục nhã trong sự bất lực, chính vì họ muốn che dấu sự nhục nhã ấy, họ tuyên bố rằng lòng tham vô độ là thấp kém... Họ muốn kìm hãm những kẻ quý phái hơn và cổ võ sự công bằng chỉ vì họ là những kẻ nhút nhát".
Sự công bằng ấy là một đạo đức không phải đối với người xuất chúng mà đối với người hạ cấp; đó là một thứ đạo đức nô lệ không phải là đạo đức xuất chúng, những đức tính thực sự là của người ta là lòng can đảm và trí thông minh.
Có lẽ rằng những tư tưởng phi đạo đức kể trên phản ảnh sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc trong chính sách ngoại giao của tiểu quốc Athènes, chính sách này đối xử rất tàn bạo với những dân tộc nhỏ bé. Trong một bài văn tế, Periclès nói: "Đế quốc của ngài căn cứ vào quyền lực của ngài chứ không phải là thiện chí của thần dân". Các sử gia kể lại công cuộc ép buộc Melos phải về phe Athènes để chống với Sparte như sau: "Ông cũng biết như chúng tôi rằng chỉ có vấn đề lẽ phải đối với những kẻ quyền lực ngang nhau: kẻ mạnh làm cái gì y có thể làm và kẻ yếu chịu đựng cái gì y bắt buộc phải chịu đựng". Chúng ta có ở đây những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý. Công bằng là gì ? - Chúng ta cần phải tìm lẽ phải hay cần phải tìm quyền lực ? -Chúng ta nên tốt hay nên mạnh ?
Platon giải quyết vấn đề này như thế nào ? Sự thật thì ông không giải quyết gì cả. Ông nhấn mạnh rằng lẽ công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần phải được nghiên cứu song song với cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái độ cá nhân. Nếu chúng ta có thể hình dung một quốc gia công bằng, chúng ta mới có đủ yếu tố để định nghĩa một cá nhân công bằng. Platon lấy ví dụ rằng muốn thử con mắt của một cá nhân cần phải cho họ đọc những chữ lớn rồi dần dần đến những chữ nhỏ. Cũng thế, định nghĩa công bằng trong mẫu mực lớn là quốc gia giản dị hơn định nghĩa công bằng trong mẫu mực nhỏ là cá nhân. Sự thật thì Platon muốn dùng lối lý luận này để nối liền hai phần nghiên cứu. Chẳng những ông muốn thảo luận về vấn đề đạo đức cá nhân mà ông còn muốn thảo luận cả về vấn đề xã hội và chính trị. Trong cuộc thảo luận này Platon sắp đưa ra tác phẩm Quốc gia lý tưởng (Utopia).
5. VẤN ĐỂ CHÍNH TRỊ
Công bằng sẽ là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị. Platon tưởng tượng như sau: Trước hết chúng ta thử hình dung nếp sống của một xã hội giản dị. Người ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, dày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần và chân không trong mùa hạ, mang giày và áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống bằng lúa mì, xay bột và nướng bánh, họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả lưng vào giường hoặc vào thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự làm lấy, mang những vòng hoa trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống trong sự hoà nhã êm ái không để cho nhân khẩu trong gia đình vượt quá phương tiện sinh nhai vì họ biết lo xa, sợ nghèo đói và chiến tranh... Lẽ cố nhiên họ có những món ăn ưa thích: trái ô liu, phó mát, hành, su và những thứ rau khác; họ tráng miệng bằng xoài, mận, đào, họ nướng những loại bánh và uống rượu có chừng mực. Với những món ăn như vậy họ có thể sống an nhàn cho đến tuổi già và để lại cho con cháu một đời sống cũng an nhàn.
Chúng ta hãy để ý đến sự kiểm soát sinh sản, sự ăn chay và sự sống theo thiên nhiên mà các huyền thoại Do thái dùng để tả thiên đường. Toàn thể đoạn văn làm chúng ta liên tưởng đến triết lý của Diogène khuyên ta nên trở về sống với thú vật bởi vì chúng nó sống yên ổn.
Chúng ta cũng còn liên tưởng đến các lý thuyết của Saint Simon, Fourrier, William Morris và Tolstoi. Nhưng Platon có phần hoài nghi hơn những tác giả ấy, ông không đi sâu vào vấn đề: tại sao một đời sống gần như thiên đàng không bao giờ đến với nhân loại ? Tại sao những tiểu quốc thuộc loại Utopia chưa bao giờ nằm trên bản đồ ?
Platon trả lời: Đó là tại lòng tham và sự xa hoa. Con người không chịu bằng lòng với một đời sống giản dị, họ luôn luôn muốn chiếm đoạt, muốn ao ước, muốn ganh đua, muốn ghen ghét. Họ sẽ bất mãn với những gì họ có và chạy theo những gì họ chưa có, họ chỉ muốn những cái gì thuộc về kẻ khác. Kết quả là sự xâm chiếm lãnh thổ kẻ khác, sự cạnh tranh giữa các nhóm để giành giựt tài nguyên và cuối cùng là chiến tranh. Nền kinh tế phát triển đem lại những giai cấp mới. "Tất cả những quốc gia đều gồm có hai quốc gia, quốc gia của những người nghèo và quốc gia của những người giàu, hai quốc gia xung đột nhau gay gắt. Nếu cho rằng đó chỉ là một quốc gia thì chúng ta lầm lỗi lớn". Một giai cấp thương gia trỗi dậy muốn dùng tiền của để chiếm địa vị và cổ võ sự tiêu thụ hàng hoá. "Chúng nó sẽ tiêu những số tiền lớn để các bà vợ trang sức". Những sự thay đổi trong việc phân phối lợi tức gây nên những sự thay đổi về mặt chính trị : khi lợi tức của bọn thương gia vượt quá lợi tức của bọn địa chủ, chính thể phú nông nhường chỗ cho chính thể phú thương. Lúc đó sự phối hợp các lực lượng xã hội và sự điều chỉnh chính sách quốc gia, nói tóm là nghệ thuật trị nước được thay thế bằng những thủ đoạn chính trị phát xuất từ những đảng phái và sự háo danh lợi.
Tất cả những chính thể quốc gia đều có khuynh hướng tự đào thải khi đi vào con đường quá khích. Chính thể quý tộc tự đào thải khi thu hẹp số người nắm giữ quyền hành, chính thể dân chủ tự đào thải vì lòng tham giành giựt danh lợi. Trong cả hai trường hợp thế nào cũng đi đến cách mạng. Khi cách mạng xảy đến, người ta có cảm tưởng rằng nguyên do là những biến cố nhỏ nhặt, sự thật thì cách mạng là hậu quả của vô số lỗi lầm chồng chất lại. "Khi một cơ thể đã suy yếu, những nguyên do rất tầm thường cũng có thể đem đến bệnh tật. Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số và cho tất cả mọi người những quyền hành và tự do bình đẳng".
Nhưng chính thể dân chủ tự huỷ vì quá dân chủ. họ muốn rằng tất cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia. Mới xem qua thì đó là một lý tưởng quá tốt đẹp, nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và ấn định đường lối thích hợp nhất. "Dân chúng không có kiến thức, họ chỉ lập lại những điều gì nhà cầm quyền nói với họ". Muốn ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ trích hoặc cổ võ trước công chúng. Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho con thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị gia làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì chầy, một chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài. Dân chúng rất ưa những lời nịnh hót, những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ tự gán cho mình cái danh nghĩa bảo vệ dân chúng rất có cơ hội cầm quyền tối cao.
Càng nghĩ đến vấn đề này, Platon càng kinh ngạc về sự điên rồ khi giao cho quần chúng trọng trách chọn người cầm giềng mối quốc gia, đó là chưa nói đến những thế lực kim tiền núp sau sân khấu chính trị dân chủ để điều khiển những chính quyền bù nhìn. Platon phàn nàn rằng đối với một việc nhỏ như việc đóng giày, người ta còn phải lựa chọn những người thợ chuyên môn, tại sao trong lãnh vực chính trị là một lãnh vực trọng đại, người ta có thể tin tưởng rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu đều biết cách trị nước an dân. Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta mời đến một y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và thực tập, chúng ta không mời những y sĩ đẹp trai nhất hoặc những y sĩ miệng lưỡi nhất. Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy, chúng ta không tìm đến những người khôn ngoan nhất, đức hạnh nhất ? Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất tài và bịp bợm ra khỏi chính phủ, chọn lựa những kẻ tài cao đức trọng, đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.
6. VẤN ĐỀ TÂM LÝ
Đằng sau vấn đề chính trị là vấn đề tính chất con người. Muốn hiểu chính trị, chúng ta cần phải hiểu tâm lý. " Con người thế nào, quốc gia thế ấy"; "Chính thể thay đổi cũng như tính người thay đổi... Quốc gia được cấu tạo bởi bản chất con người". Do đó, chúng ta không thể mơ tưởng những quốc gia hoàn hảo hơn khi chúng ta chưa có những con người hoàn hảo. Chúng ta là những người thật kỳ lạ, luôn luôn uống thuốc chữa bệnh làm cho bệnh trạng càng rắc rối và nặng hơn, luôn luôn tưởng rằng có thể được chữa lành bởi một vài thứ thuốc rẻ tiền do một vài người chỉ bày, nhưng không bao giờ khá hơn, trái lại chỉ nặng thêm mà thôi... Những kẻ ấy thật kỳ lạ khi họ muốn trở thành nhà lập pháp và tưởng tượng rằng với một vài cải cách họ có thể chấm dứt nạn tham nhũng của nhân loại. Họ không biết rằng tham nhũng cũng như con rắn thần thoại, chặt đầu này nó mọc đầu khác".
Chúng ta hãy xem xét con người, chất liệu cấu tạo triết lý chính trị. Hành động con người có ba nguyên do: tham, sân và trí. Lòng tham muốn, khao khát, dục, bản năng, tất cả đều thuộc một loại; sân si, giận dữ, can đảm, tất cả đều thuộc một loại; trí huệ, hiểu biết lý luận, tất cả đều thuộc một loại. Lòng tham nằm nơi thận, nó là một kho chứa năng lực phần lớn là thuộc tính dục. Sân si nằm ở trái tim, và bị chi phối bởi áp lực máu trong huyết quản. Trí huệ nằm trong đầu, và có thể trở thành kẻ hướng đạo cho linh hồn.
Những yếu tố ấy có trong tất cả mọi người, nhưng với mức độ khác nhau. Một số người chỉ là sự thể hiện của lòng tham, luôn luôn muốn chiếm đọat tiền của, muốn sống xa hoa và phô trương, muốn chạy theo những gì họ chưa có. Đó là những người cầm đầu trong giới làm ăn. Một số khác ưa gây gỗ và can đảm, họ thích gây gỗ chỉ để gây gỗ, họ muốn có quyền hơn là có của, họ sung sướng trên chiến trường hơn là ngoài đồng áng, những người này cấu tạo những lực lượng lục quân và hải quân trên thế giới. Cuối cùng, có những người ưa thích suy nghĩ và hiểu biết, họ không chạy theo của cải hoặc chiến thắng mà chạy theo sự hiểu biết. Họ tránh xa thị trường và chiến trường để suy tư trong cảnh tịch mịch. Họ là những người khôn ngoan đứng riêng rẽ và không được ai sử dụng.
Hành vi của con người có giá trị khi lòng tham sân si được hướng dẫn bởi trí tuệ. Trong một quốc gia lý tưởng, những lực lượng sản xuất chỉ lo sản xuất mà không cai trị, những lực lượng võ trang chỉ lo bảo vệ mà không cai trị, những lực lượng trí huệ phải được nuôi dưỡng và bảo vệ và phải cầm quyền cai trị. Nếu không được hướng dẫn bởi trí huệ, dân chúng chỉ là một đám ô hợp, dân chúng cần sự hướng dẫn của triết gia cũng như lòng tham cần sự hướng dẫn của trí huệ. "Sự sụp đổ sẽ xảy đến khi những con buôn nhờ giàu sang đã trở thành những người cai trị". Hoặc khi một tướng lãnh dùng lực lượng võ trang của mình để lập nên một chính thể quân nhân. Những người sản xuất rất thích hợp trong lãnh vực kinh tế, những chiến sĩ rất thích hợp trên chiến trường, nhưng cả hai đều tai hại trong lãnh vực chính trị, trong những bàn tay vụng về của họ, những thủ đoạn chính trị thay thế nghệ thuật trị nước an dân. Thuật trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều sự tận tâm và học hỏi. Chỉ những triết gia mới thích hợp trong việc trị nước. "Khi nào triết gia trở thành quốc vương và tất cả quốc vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì những tệ đoan của xã hội sẽ chấm dứt, đó là tư tưởng nòng cốt của Platon.
7. GIẢI PHÁP TÂM LÝ
Chúng ta phải làm những gì ? Chúng ta phải gởi về đồng quê tất cả những công dân trên 10 tuổi. Một khi đã kiểm soát được đám trẻ con chúng ta sẽ không để cho lũ trẻ con này bị ảnh hưởng xấu của cha mẹ chúng nó. Chúng ta không thể xây dựng một quốc gia lý tưởng mà không hoàn toàn dứt khoát với quá khứ. Có thể dùng một miền đất xa xôi nào đó để thực hiện một quốc gia lý tưởng. Đám trẻ con ấy sẽ được dạy dỗ đồng đều: những kẻ kỳ tài xuất chúng có thể tìm thấy ở tất cả mọi giới vậy cần phải cho tất cả trẻ con những cơ hội học hỏi đồng đều.
Trong 10 năm đầu, nền giáo dục sẽ đặc biệt chú trọng đến thể dục, mỗi trường học đều có một sân chơi và một sân vận động. Chương trình học gồm toàn những môn thể dục và thể thao. Trong 10 năm đó, lũ trẻ sẽ có một sức khoẻ dồi dào khiến cho việc khám bệnh và trị bệnh trở nên hoàn toàn vô ích. Sở dĩ người ta thường mắc bệnh là đã sống một cuộc đời quá nhàn rỗi, quá bê tha, thiếu vận động. Về mục đích của nền giáo dục trong giai đoạn này là làm cho bệnh tật không có cơ hội để phát triển. Chính những kẻ nhà giàu vì cuộc sống quá nhàn rỗi đã tự đem bệnh hoạn đến cho mình. Nếu một kẻ lao động nhuốm bệnh, họ sẽ tìm một loại thuốc nào công hiệu để chóng khỏi. Nếu có người khuyên nhủ họ phải trải qua một thời kỳ điều trị công phu như là lựa chọn các món ăn, tắm hơi, đấm bóp... Kẻ ấy sẽ trả lời rằng họ không có thì giờ và họ cũng không muốn mất công nuôi dưỡng bệnh trạng trong khi còn bao nhiêu việc khác cần phải làm, họ sẽ chế nhạo ông thầy thuốc đã khuyên họ những lời khuyên lố bịch ấy, họ sẽ ăn uống như thường ngày. Nếu họ lành bệnh thì sẽ tiếp tục nghề nghiệp, nếu bệnh không lành họ sẽ chết một cách giản dị. Chúng ta không thể khoanh tay ngồi nhìn một quốc gia gồm toàn những bệnh nhân sống không ra sống, chết không ra chết. Quốc gia lý tưởng cần phải được xây dựng trên sức khoẻ của dân chúng.
Tuy nhiên, những môn thể dục và thể thao có khuynh hướng phát triển con người chỉ về một chiều. Những kẻ can đảm có sức mạnh siêu quần thường không được nhã nhặn. Quốc gia lý tưởng không thể chỉ gồm những võ sĩ và lực sĩ. Vậy cần phải dạy cho dân chúng biết âm nhạc. Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý thức được sự điều hoà và nhịp điệu, do đó ý thức được công lý. Sự điều hoà không bao giờ đi đôi với bất công. Nhạc lý sẽ thâm nhập vào linh hồn con người khiến cho linh hồn trở nên đẹp đẽ hơn. Nhạc lý sẽ uốn nắn tính tình con người và do đó đem đến một giải pháp tốt đẹp cho các vấn đề xã hội và chính trị. Mỗi khi tiết tấu của âm nhạc thay đổi thì các nguyên lý căn bản của xã hội cũng thay đổi theo.
Âm nhạc chẳng những sửa đổi tánh tình trở nên tế nhị hơn mà còn giữ gìn hoặc bảo đảm sức khoẻ. Dân Corybantic có tục lệ chữa trị các phụ nữ mắc bệnh điên bằng âm nhạc. Một khi điệu nhạc trỗi lên các bệnh nhân sẽ nhảy nhót một cách cuồng loạn cho đến khi kiệt lực và nằm ngủ. Sau giấc ngủ đa số bệnh nhân đã bình phục. Những tư tưởng bị lãng quên trong vô thức được khơi động bởi những phương pháp kể trên. Những kẻ xuất chúng là những kẻ có những cội rễ thiên tài bắt nguồn từ cõi vô thức. Không một người nào trong trạng thái hữu thức có thể có những ý nghĩ xuất chúng. Những người xuất chúng và những người điên giống nhau ở điểm này.
Platon đã đề cập đến khoa phân tâm học. Ông nói rằng sở dĩ khoa tâm lý chính trị của nhân loại còn mơ hồ vì người ta chưa biết rõ và chưa nghiên cứu tường tận những sở thích và bản năng của con người. Nếu quan sát những giấc mơ, người ta có thể hiểu rõ hơn về những bản năng ấy. "Một vài loại thú vui được xem như bất hợp pháp, mọi người ai cũng thích những thú vui ấy nhưng đối với phần đông thì sở thích bị dồn ép bởi luật lệ và lý trí. Những sở thích luôn luôn có mặt trong tiềm thức trong khi khả năng của lý trí bị lu mờ. Trong những lúc ấy những sở thích trỗi dậy như những con vật và có thể gây ra tất cả những tội ác có thể tưởng tượng được. Đối với những người có sức khoẻ tinh thần họ luôn luôn đủ sức kềm hãm những khuynh hướng kể trên và không rơi vào vòng tội lỗi". Âm nhạc và nhịp độ khiến cho tâm hồn trở nên khoẻ mạnh. Tuy nhiên, quá nhiều âm nhạc cũng có hại như quá nhiều thể thao, thể dục. Những lực sĩ chỉ biết có thể dục không khác gì một kẻ rừng rú, những nhạc sĩ chỉ biết có nhạc thường trở nên quá yếu mềm. Vậy cần phải dung hoà cả hai khuynh hướng. Quá 16 tuổi mọi môn âm nhạc cần phải đình chỉ, trừ những môn đồng ca. Âm nhạc còn cần phải được dùng để giảng giải những môn khó khăn hơn như toán học, sử ký và khoa học. Cần phải phổ nhạc những bài học để cho dễ nhớ hơn. Những kẻ nào không có khiếu để học các môn kể trên được tự do lựa chọn những môn khác, không nên ép buộc trẻ con phải thấu hiểu bất cứ môn học nào. Người ta cần phải được tư do trong vấn đề học hỏi. Những môn học ép buộc không bao giờ thấm nhuần vào tâm trí của người học. Việc học cần phải được tổ chức như một trò chơi và như thế có thể cho phép chúng ta tìm hiểu khuynh hướng thiên nhiên của đứa trẻ.
Tâm trí cần phải được tự do trong việc phát triển và thể chất cần phải mạnh mẽ nhờ các môn thể thao và thể dục. Có như vậy quốc gia mới được vững mạnh trên hai căn bản tâm lý và sinh lý. Tuy nhiên cần phải có một căn bản đạo đức, tất cả những cá nhân trong một tập thể cần phải được thống nhất, họ phải biết vai trò của họ trong tập thể, tất cả mọi người đều có quyền hành và trách nhiệm đối với người khác. Chúng ta phải xử trí cách nào trong khi mọi người đều tham lam, ganh ghét, dâm dật và ưa gây gổ ? Phải dùng đến cảnh sát chăng ? Đó là một phương pháp dữ tợn và tốn kém. Có một phương pháp khác tốt đẹp hơn đó là sự chế tài của một đấng tối cao: chúng ta cần có một tôn giáo.
Platon tin tưởng rằng một nước không có tín ngưỡng vào một đấng tối cao không thể là một nước mạnh. Chỉ tin tưởng vào một nguyên lý sơ khai, một sức mạnh vũ trụ hoặc một sức sống mãnh liệt mà không tin tưởng vào một đấng tối cao thì cũng chưa đủ để tạo nên hy vọng, sự tận tâm và lòng hy sinh, chưa đủ để an ủi tinh thần của những kẻ thất vọng hoặc gây sự can đảm cho những kẻ chinh chiến. Chỉ có một đấng tối cao mới có thể làm những việc sau này, mới có thể bắt buộc những người ích kỷ phải dằn lòng để sống một cuộc đời tiết độ, kềm hãm sự đam mê. Cần phải cho dân chúng tin tưởng vào sự bất diệt của linh hồn: chính sự tin tưởng ấy làm cho người ta có can đảm để đương đầu với sự chết hoặc chịu đựng sự vĩnh viễn ra đi của những kẻ thân yêu.
Người ta sẽ chiến đấu với nhiều ưu thế hơn khi người ta chiến đấu với lòng tin. Vẫn biết rằng sự hiện hữu của một đấng tối cao không bao giờ có thể chứng minh được; vẫn biết rằng đấng tối cao chỉ có trong sự tưởng tượng do hy vọng và lòng thành kính của con người đặt ra, vẫn biết rằng linh hồn không khác gì những tiếng nhạc do một nhạc khí phát ra và sẽ tiêu tan cùng lúc với nhạc khí ấy... Nhưng chúng ta vẫn thấy rằng tín ngưỡng không đem lại điều gì có hại mà chỉ đem lại những điều lợi cho con em của chúng ta.
Công việc giảng giải những hiện tượng trong vũ trụ trước óc tò mò càng ngày càng lớn của đám thanh niên là một việc rất khó, nhất là khi chúng đến lứa tuổi 20 và bắt đầu tìm hiểu để thực nghiệm những điều đã học. Đó cũng là lúc chúng ta tổ chức những kỳ thi tổng quát vừa lý thuyết vừa thực hành. Cần phải cho những thí sinh các thử thách vật chất cũng như tinh thần. Tất cả những khả năng sẽ có dịp xuất hiện cùng lúc với những nhược điểm. Những thí sinh nào bị rớt sẽ nhận những công việc kinh tế của quốc gia, họ sẽ là những nhà buôn bán, thư ký, thợ, làm ruộng. Cuộc thi phải được tổ chức một cách vô tư, tất cả những người có khả năng, bất luận họ thuộc thành phần nào đều phải được chấm đậu.
Những người được chấm đậu qua kỳ thi đầu tiên này sẽ học thêm 10 năm nữa để rèn luyện tinh thần, thể chất và tính tình. Sau 10 năm đó họ sẽ thi một lần thứ hai khó hơn lần trước rất nhiều. Những kẻ nào rớt sẽ trở thành những người phụ tá, những sĩ quan tham mưu trong tổ chức chính phủ. Cần phải an ủi những kẻ bị thi rớt để họ chấp nhận số phận một cách vui vẻ. Làm thế nào để đạt mục đích ấy ? Chúng ta phải nhờ đến tôn giáo và tín ngưỡng. Chúng ta nói cho họ biết rằng số trời đã định như vậy và không thể thay đổi được. Chúng ta có thể nói với họ như sau: "Hỡi các đồng bào, tất cả chúng ta đều là anh em nhưng trời sinh chúng ta mỗi người một khác, có người có khả năng chỉ huy, những người ấy không khác gì vàng, họ phải có những vinh dự lớn nhất. Có những người khác được ví như bạc, họ có thể là những kẻ phụ tá đắc lực. Những người còn lại là những người nông phu hoặc thợ thuyền, họ có thể ví như sắt và đồng. Có nhiều khi cha mẹ vàng sinh con bạc hoặc cha mẹ bạc sinh con vàng. Vậy cần phải thay đổi ngôi thứ để thích hợp với khả năng của mọi người. Những kẻ làm quan to cũng không nên buồn phiền khi thấy con cái mình phải làm nông dân hoặc thợ thuyền. Trái lại cũng có những trường hợp con cái nông dân thợ thuyền trở nên quan lớn. Số trời đã định rằng nếu để những người thuộc hạng sắt và đồng lên cầm quyền thì quốc gia sẽ điêu tàn".
Có lẽ nhờ huyền thoại ấy mà chúng ta thu hoạch được sự phục tùng của dân chúng hầu thi hành chính sách quốc gia. Đối với những kẻ thi đậu kỳ thứ hai phải làm thế nào ? Họ sẽ được học môn triết lý. Lúc này họ đã được 30 tuổi vì không nên cho những người quá trẻ học triết lý quá sớm, họ sẽ quen thói suy luận cãi cọ, hồ nghi... giống như những con chó con hay cắn xé những miếng giẻ trong các trò chơi của chúng. Theo Platon thì triết lý có hai nghĩa: Đó là phương pháp suy luận một cách minh bạch và cai trị một cách khôn ngoan. Trước hết những kẻ trí thức trẻ tuổi phải học cách suy luận minh bạch, họ phải biết thế nào là một ý nghĩ.
Lý thuyết của Platon về ý nghĩ là một trong những lý thuyết rắc rối và tối tăm nhất của lịch sử triết lý. Platon cho rằng ý nghĩ có thể bao trùm tổng quát hoặc có thể là một định luật chi phối vạn vật hoặc có thể là một lý tưởng. Sau thế giới hiện tượng do các giác quan của con người phát hiện là thế giới của những ý nghĩ do sự suy luận phát hiện. Thế giới của những ý nghĩ có tính cách trường tồn hơn thế giới hiện tượng và do đó có thể xem là xác thực hơn. Ví dụ ý nghĩ về con người trường tồn hơn sự hiện hữu của ông A, ông B hay bà C. Ý nghĩ về vòng tròn tồn tại mãi mãi trong khi một vòng tròn kẻ trên giấy có thể biến mất. Một cái cây có thể còn đứng vững hoặc đã ngã xuống nhưng những định luật chi phối sự đứng vững hoặc ngã xuống của cái cây còn tồn tại mãi mãi. Thế giới của ý nghĩ do đó có thể coi là đã có trước thế giới hiện tượng và có thể tồn tại sau khi thế giới hiện tượng đã biến mất. Đứng trước một cây cầu giác quan chỉ cảm thấy một khối khổng lồ bằng sắt và xi-măng nhưng chính nhờ ý nghĩ mà người kỹ sư hình dung được các định luật chi phối sự thành hình của cây cầu, các định lý toán học, vật lý học theo đó tất cả cây cầu phải được xây cất. Nếu những định luật ấy không được tuân theo, cây cầu sẽ sụp đổ. Có thể nói rằng chính những định luật đóng vai trò của đấng tối cao để giữ cho cây cầu đứng vững. Các định luật do đó là một phần cần thiết trong việc học hỏi triết lý. Ở trước cửa đi vào Hàn lâm viện Platon cho vẽ những chữ sau đây: "Kẻ nào không thông suốt hình học thì xin chớ vào đây".
Không có thế giới của ý nghĩ mọi vật sẽ hỗn độn và vô nghĩa. Chính ý nghĩ cho phép con người sắp xếp vũ trụ theo thứ tự. Thế giới không có ý nghĩ là một thế giới không có thật, không khác gì những hình bóng cử động trên tường. Do đó mục đích chính của nền đại học là đi tìm những ý nghĩ để biết được hướng tiến lý tưởng, biết được sự tương quan giữa vật này và vật khác, biết vũ trụ diễn biến như thế nào. Chúng ta cần phải phối hợp và sắp đặt các kinh nghiệm của giác quan theo các tiêu chuẩn kể trên, chính điểm này là điểm khác biệt duy nhất giữa người ngu và người thông minh.
Sau 5 năm học hỏi về thế giới của ý nghĩ, về nguồn gốc và sự diễn tiến của vũ trụ, sau 5 năm học hỏi khác về cách áp dụng những nguyên lý kể trên trong việc xử thế và trị nước, sau 10 năm học hỏi để phát triển thể chất và tinh thần, những kẻ được may mắn chấm đậu đã sẵn sàng để cầm quyền chưa ? Chắc chắn họ đã trở nên những triết gia lãnh tụ đủ sức để cầm quyền và giải phóng xứ sở chưa ?
Platon cho rằng chưa đủ. Sự đào luyện đến đây vẫn còn khiếm khuyết. Sau giai đoạn đào luyện về lý thuyết cần phải bước qua giai đoạn đào luyện bằng thực hành. Cần phải cho những ông tiến sĩ ấy hoà mình vào đời sống, các lý thuyết sẽ không có giá trị nếu chúng không bị thử thách bởi cuộc sống hằng ngày. Những ông tiến sĩ này phải chung đụng với đời một cách hoàn toàn bình đẳng, họ phải cạnh tranh để mưu sống với những nhà buôn bán, những phần tử đầy thủ đoạn xảo quyệt, trong cuộc sống này họ sẽ được đào luyện bởi trường đời, họ sẽ đem mồ hôi để đổi lấy bát cơm. Cuộc sống này sẽ kéo dài thêm 15 năm. Một số các thí sinh sẽ bị đào thải, số còn lại sẽ trở nên ôn hoà và tự tin hơn trước, họ không còn tự đắc mù quáng vào những lý thuyết, họ sẽ có một sự hiểu biết quý báu do truyền thống, kinh nghiệm và sự đấu tranh đem lại. Những người ấy xứng đáng được cầm quyền trị nước.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 8, 2010 6:55:18 GMT 9
8. GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ
Dân chủ có nghĩa là cơ hội đồng đều cho toàn thể công dân nhất là trong lãnh vực giáo dục. Nó không phải chỉ là để cho mọi người có cơ hội tham gia chính quyền, điểm quan trọng là tất cả mọi người đều có cơ hội học hỏi để sau này có thể đảm nhận những phần việc trong chính quyền. Tuy nhiên chỉ những kẻ nào tỏ ra thông minh xuất chúng mới có đủ điều kiện. Những chức vụ cao sẽ được lựa chọn không phải bằng cách bầu cử cũng không phải bằng sự đấu tranh giữa các phe nhóm mà chính là bằng khả năng của từng người. Không một người nào được giữ chức vụ cao mà không được huấn luyện trước hoặc chưa làm tròn nhiệm vụ ở những chức vụ thấp.
Phải chăng đây là một chính thể quý tộc ? - Vấn đề danh từ không quan trọng lắm, nó chỉ quan trọng đối với người ngu và các chính trị gia. Chúng ta muốn được cai trị bởi những phần từ xuất sắc nhất, đó là tinh hoa của chính thể quý tộc. Tuy nhiên chúng ta thường quan niệm rằng chính thể quý tộc là phải cha truyền con nối. Về điểm này chúng ta hoàn toàn khác biệt với quan niệm của Platon. Thật vậy, Platon chủ trương một chính thể quý tộc dân chủ. Thay vì phải chọn lựa những ứng cử viên do các bè phái đưa ra, người dân có thể tự đề cử mình bằng cách học hỏi. Ở trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối, tất cả mọi tài năng đều có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua chúa hay là con thứ dân cũng đều bắt đầu ngang nhau. Nếu con vua chúa mà không có khả năng cũng vẫn bị đào thải. Nếu là con thứ dân mà có đủ khả năng cũng vẫn có thể tiến tới. Đây là nền dân chủ của học đường, một nền dân chủ trăm ngàn lần đẹp đẽ hơn nền dân chủ của thùng phiếu.
Và như vậy những người cầm quyền sẽ dành tất cả nỗ lực của mình để duy trì tự do cho xứ sở. Không có vấn đề phân quyền; lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp đều tập trung vào một nhóm người, ngay cả nguyên tắc pháp trị cũng không thể làm cho họ bó tay trước những tình thế đặc biệt. Quyền hành của họ là một thứ quyền hành vừa thông minh, vừa mềm dẻo, vừa không có giới hạn.
Làm sao có thể tìm ra những người có đủ sự thông minh và mềm dẻo ? Adeimantus ( một nhân vật trong tác phẩm của Platon ) quan niệm rằng triết gia cũng có thể lầm lạc và ích kỷ, những người này đôi khi trở thành kỳ dị và hoàn toàn vô dụng trong xã hội. Quan niệm này có thể áp dụng đối với một số người trong xã hội ngày nay. Platon đã nghĩ đến vấn đề này và chủ trương một lối giáo dục thực tế, đi đôi với đời sống, song hành với một nền học vấn uyên thâm. Hậu quả của phương pháp nầy là đào tạo những phần tử nhìn xa thấy rộng và ưa hoạt động. Platon quan niệm triết lý là một nền văn hoá hoạt động kết hợp được sự khôn ngoan sáng suốt và nhu cầu hoạt động của con người. Trong lãnh vực này Platon rất khác biệt với triết gia Kant.
Để đối phó với sự tham nhũng trong giai cấp lãnh đạo, Platon chủ trương một chế độ cộng sản triệt để: "Trong giai cấp này không ai được quyền có của riêng ngoài những vật dụng tối cần thiết cho đời sống. Họ không được có nhà riêng có cửa khoá, vật dụng và đồ ăn uống chỉ vừa đủ cho một chiến sĩ lâm trận. Họ lãnh một số phụ cấp vừa đủ ăn và sống đời sống tập thể giống như những quân nhân trong doanh trại. Họ không cần có vàng bạc vì giá trị bản thân họ quý hơn vàng bạc. Họ không cần phải động đến các thứ đó hoặc đeo chúng vào người. Trong những điều kiện ấy họ mới có thể duy trì được nước. Nếu trái lại họ ham mua nhà, đất hoặc tích trữ tiền bạc, họ sẽ trở nên những người chủ nhà hoặc chủ nông trại thay vì phải là những người giữ nước. Họ sẽ trở nên kẻ thù của những người khác. Sự căm thù và những âm mưu làm hại nhau là những mầm móng phá tan xã hội từ bên trong, hiệu quả hơn những kẻ thù từ bên ngoài".
Lối sống kể trên làm cho giai cấp lãnh đạo không nghĩ đến việc bè phái mà chỉ nghĩ đến ích lợi chung. Họ không thiếu thốn, không cần lo nghĩ về những vấn đề kinh tế nhưng đồng thời họ cũng không có cơ hội để tham nhũng và đeo đuổi những khát vọng cá nhân. Họ sẽ ăn chung với nhau, ngủ chung với nhau trong một đời sống giản dị. Quyền lực của họ sẽ không làm hại kẻ khác, phần thưởng độc nhất của họ là niềm tự hào đã giúp ích cho xã hội. Chắc chắn sẽ có những người bằng lòng sống một đời sống như vậy, họ sẽ đánh giá một đời sống tận tụy cho xứ sở cao hơn những món lợi kinh tế. Do đó sẽ không còn những phe phái cấu xé nhau vì địa vị.
Những người vợ ở nhà thì sao ? Các bà này có chịu hy sinh những xa hoa của đời sống không ? - Giai cấp lãnh đạo sẽ không có vợ, chế độ cộng sản bao gồm cả những người vợ. Chẳng những họ không tìm cái lợi cho bản thân mà còn không tìm cái lợi cho gia đình. Họ không bị các bà vợ thúc giục vơ vét của cải, họ tận tâm với xã hội chứ không phải với một người. Những đứa con sinh ra cũng không thể gọi là con của người nào. Tất cả hài nhi đều phải rời mẹ từ khi mới lọt lòng và được nuôi nấng chung, không ai được giành quyền sở hữu trên những hài nhi ấy. Tất cả những người mẹ đều chăm sóc cho toàn thể những người con. Tình huynh đệ giữa những đứa trẻ này sẽ nẩy nở vô cùng tốt đẹp. Tất cả những đứa con trai đều là anh em, tất cả những đứa con gái đều là chị em, tất cả những người đàn ông đều là cha, tất cả những người đàn bà đều là mẹ.
Tìm đâu ra những người đàn bà ấy ? - Một số sẽ tuyển dụng trong những giai cấp khác, một số sẽ từ giai cấp lãnh đạo lớn lên. Trong xã hội nầy sẽ không có vấn đề phân chia nam nữ nhất là trong lãnh vực giáo dục. Con gái cũng có đầy đủ cơ hội học hỏi như con trai và có thể đảm nhận những chức vụ vao nhất trong xã hội. Khi Glaucon ( một nhân vật trong tác phẩm của Platon ) nêu ra ý kiến rằng nếu để cho phái nữ tham gia chính trị thì nguyên tắc phân công sẽ bị xâm phạm, Platon trả lời rằng nguyên tắc phân công căn cứ trên khả năng không phải trên điều kiện sinh lý. Nếu một người đàn bà tỏ ra có khả năng trong lãnh vực chính trị, hãy để cho bà ta làm chính trị. Nếu một người đàn ông có khả năng rửa chén, hãy để cho ông ta rửa chén.
Sung công phụ nữ không phải là giao hợp bừa bãi. Ngay trong lãnh vực này cũng phải có kế hoạch và kiểm soát. Cần phải rút kinh nghiệm trong kỹ thuật nuôi súc vật: người ta đã thành công trong việc pha giống bò để có những con bò to lớn khoẻ mạnh, tại sao người ta không áp dụng những kỹ thuật tương tự trong việc đào tạo giống người. Cho đứa trẻ một nền giáo dục thích hợp chưa đủ, cần phải cho nó một giống tốt. Sự giáo dục phải bắt đầu trước khi đứa bé ra đời. Vì lẽ đó, không một người đàn ông hoặc đàn bà nào được phép gầy giống và sinh đẻ nếu họ không hoàn toàn khoẻ mạnh. Muốn làm giá thú trước hết phải có chứng chỉ sức khoẻ. Người đàn ông chỉ được phép gây giống nếu trên 30 tuổi và dưới 45 tuổi. Người đàn bà chỉ được phép sinh đẻ nếu trên 20 tuổi và dưới 40 tuổi. Những người đàn ông khoẻ mạnh trên 35 tuổi mà không chịu lập gia đình sẽ bị đánh thuế nặng. Những hài nhi ra đời một cách bất hợp pháp hoặc tàn tật ốm yếu sẽ bị thủ tiêu. Sự giao hợp được tự do ngoài những thời kỳ cho phép với điều kiện là phải phá thai. Hôn thú giữa những người bà con sẽ bị cấm vì con cái sinh ra không được khoẻ mạnh. "Những phần tử ưu tú nhất trong phái nam cũng như trong phái nữ sẽ được giao hợp càng nhiều càng tốt. Những phần tử yếu kém chỉ được giao hợp với nhau. Tuy nhiên chỉ những hài nhi do những phần tử ưu tú sinh ra mới được nuôi dưỡng. Đó là phương pháp duy nhất để có một giống nòi ưu tú !"
Một xã hội như vậy cần phải được bảo vệ chống với kẻ thù bên trong lẫn bên ngoài. Cần phải sẵn sàng để chiến thắng. Xã hội của chúng ta lẽ cố nhiên là hiếu hoà và giữ mức độ dân số phù hợp với những phương tiện sinh sống. Nhưng các nước láng giềng có thể thèm thuồng sự thịnh vượng nầy và đem quân qua cướp phá. Vì lẽ đó chúng ta sẽ có một giai cấp chiến sĩ sống một cuộc đời khắc kỷ giống như giai cấp lãnh đạo và cũng do dân chúng chu cấp. Đồng thời tất cả mọi biện pháp phải được thi hành để tránh chiến tranh. Nguyên do thứ nhất của chiến tranh là dân số quá đông, nguyên do thứ hai là sự buôn bán giữa các nước. Thật vậy, sự cạnh tranh trong lãnh vực buôn bán thật ra là một hình thức chiến tranh. Vì lẽ đó xã hội của chúng ta cần phải ở sâu trong đất liền để không có điều kiện phát triển ngoại thương. "Đại dương làm cho một quốc gia tràn ngập hàng hoá cùng với những kẻ làm tiền, những sự mua bán đổi chác nó làm cho con người quen với tánh tham lam và gian xảo. Nền ngoại thương đòi hỏi một hạm đội để bảo vệ, và hạm đội là mầm móng của chiến tranh. Trong tất cả các trường hợp, chiến tranh là trách nhiệm của một thiểu số trong khi đại đa số quần chúng là bạn. Hình thức chiến tranh tệ hại nhất là nội chiến, giữa người Hy lạp với người Hy lạp. Nếu tất cả các người Hy lạp biết đoàn kết thành một liên minh thì họ có thể tránh được sự đô hộ của ngoại bang.
Cơ cấu chính trị của chúng ta sẽ do một nhóm lãnh đạo, nhóm này được bảo vệ bởi các quân nhân và sau cùng là các nhóm người buôn bán, làm kỹ nghệ, làm ruộng để nâng đỡ hai nhóm trên. Chỉ có nhóm thứ ba nầy mới được có của cải riêng, vợ chồng riêng, con cái riêng. Tuy nhiên các ngành thương mãi và canh nông sẽ do nhóm lãnh đạo điều khiển để tránh những trường hợp quá giàu hoặc quá nghèo, những người nào có của cải gấp 4 lần trung bình phải nộp số thặng dư cho nhà nước, việc cho vay nặng lãi bị cấm và tiền lời bị hạn chế. Chế độ cộng sản triệt để áp dụng cho giai cấp lãnh đạo không thể áp dụng cho giai cấp kinh tế. Đặc điểm của giai cấp nầy là tánh ưa vơ vét và cạnh tranh, chỉ có một số ít có tâm hồn cao thượng hơn, còn phần đông chỉ lo chỉ lo chạy theo món lợi thay vì phải chạy theo chân lý và lẽ phải. Những kẻ chạy theo tài lợi không đủ tư cách để trị nước và chúng ta hy vọng rằng nếu giai cấp lãnh đạo sống giản dị và làm việc hữu hiệu thì giai cấp kinh tế sẽ vui lòng chịu nhận sự lãnh đạo của họ. Nói tóm lại một xã hội lý tưởng là một xã hội trong đó mỗi giai cấp sống theo bản tánh tự nhiên của mình và không giai cấp nào động chạm đến quyền lợi của giai cấp khác. Trái lại tất cả ba giai cấp đều phối hợp để hợp thành một xã hội điều hoà, một quốc gia công bình.
9. GIẢI PHÁP LUÂN LÝ
Chúng ta đã bàn về giải pháp chính trị. Bây giờ chúng ta sẵn sàng để trả lời câu hỏi đã đặt ra: - Công bằng là gì ?
Trên đời nầy chỉ có ba vật đáng giá, đó là công bằng, mỹ thuật và chân lý. Trong ba ý niệm ấy, không có một ý niệm nào có thể định nghĩa được. Bốn trăm năm sau Platon, một viên chức La mã, Judea, cũng đặt ra câu hỏi: Sự thật là gì ? Và ngày hôm nay các triết gia cũng không thể cho chúng ta biết mỹ thuật là gì ?
Đối với ý niệm công bằng Platon cho chúng ta một định nghĩa như sau: Công bằng là có hoặc làm cái gì thuộc về ta. Định nghĩa này có vẻ làm ta thất vọng. Sau ba cuộc tham luận chúng ta chờ mong một định nghĩa huyền diệu. Định nghĩa của Platon diễn tả một cách giản dị rằng công bằng là mỗi người nhận được cái gì mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với bản tánh của mình nhất. Một người công bằng là một người ở đúng vị trí của mình, làm theo đúng bản tánh của mình và trả lại cho xã hội những cái gì họ đã nhận của xã hội. Một xã hội gồm có những người công bằng là một xã hội điều hoà và hữu hiệu vì mỗi phần tử ở đúng vị trí của họ, làm theo đúng bản tính của họ giống như những nhạc khí trong một ban nhạc toàn hảo. Sự công bằng trong một xã hội là một yếu tố điều hoà sự di chuyển của các tinh tú trên bầu trời. Có công bằng xã hội mới có thể tồn tại. Nếu con người không giữ đúng vị trí của mình, nếu giai cấp kinh tế áp đảo giai cấp lãnh đạo, nếu giai cấp quân nhân đòi cầm quyền thì sự điều hoà đã bị tổn thương, xã hội sẽ bị phân hoá và tan rã. Công bằng chính là sự phối hợp tuyệt hảo.
Đối với cá nhân, công bằng cũng là một sự phối hợp của những bản năng, mỗi bản năng giữ đúng vị trí của mình và làm đúng phận sự của nó. Mỗi một cá nhân là một sự phối hợp của các ước muốn, các tình cảm và các ý nghĩ. Nếu các yếu tố ấy được điều hoà thì cá nhân sẽ được tồn tại và thành công. Nếu các yếu tố ấy không giữ đúng vị trí của mình, nếu để tình cảm hướng dẫn hành động con người sẽ mất thăng bằng. Công bằng là sự ổn cố của tâm hồn. Tâm hồn cần có công bằng cũng như thể xác cần có sức khoẻ. Tất cả sự xấu xa trên đời đều do sự thiếu điều hoà nghĩa là thiếu công bằng : giữa người và vũ trụ, giữa người và người, giữa những yếu tố trong tâm hồn của một người.
Theo Platon thì công bằng chẳng những là sức mạnh mà còn là sức mạnh điều hoà. Công bằng không phải là quyền lực của kẻ mạnh mà là sự điều hoà của toàn thể. Một người ra khỏi vị trí của mình có thể gặt hái một vài điều lợi, người cuối cùng họ sẽ bị chế tài một cách tự nhiên. Chiếc đũa của nhạc trưởng luôn luôn kéo những nhạc khí vào đúng âm điệu và tiết nhịp. Vị sĩ quan đảo Corse có thể muốn đặt châu Âu dưới một nền quân chủ chuyên chế nhưng cuối cùng ông bị đày ra một hòn đảo hoang vắng và khi đó ông mới nhận thấy rằng ông chỉ là công cụ của tạo hoá.
Những ý niệm trên không có gì mới mẻ hoặc lạ lùng và chúng ta có thể nghi ngờ những lý thuyết tự cho là mới mẻ trong lãnh vực triết học. Chân lý có thể mỗi ngày khoác một bộ áo khác nhưng dưới bộ áo ấy chân lý luôn luôn không thay đổi. Trong lãnh vực luân lý, chúng ta không nên chờ đợi một cái gì mới lạ: tất cả các ý niệm luân lý đều quay xung quanh sự điều hoà của tập thể. Luân lý bắt đầu với tập thể, với sự tương quan, với sự tổ chức. Đời sống trong xã hội đòi hỏi sự nhượng bộ của một ít quyền lợi cá nhân để góp phần vào trật tự chung. Một xã hội sẽ được tồn tại nhờ khả năng hợp tác của những phần tử trong xã hội ấy. Còn sự hợp tác nào đẹp đẽ hơn khi mỗi cá nhân có thể làm việc theo đúng bản tánh của mình, đó là mục tiêu mà tất cả các xã hội phải tìm đến. Đạo đức đối với Gia tô giáo là sự thương yêu kẻ yếu hèn, đối với Nietzsche là sự can đảm của kẻ mạnh, đối với Platon là sự điều hoà của tập thể. Rất có thể cả ba định nghĩa đều đúng và phải được phối hợp với nhau nhưng chúng ta có thể tự hỏi trong ba định nghĩa ấy, định nghĩa nào là căn bản ?
10. PHÊ BÌNH
Chúng ta có thể nói gì về quốc gia lý tưởng của Platon? Một quốc gia như vậy có thể được thực hiên không ? Nếu không thực hiện được hoàn toàn chúng ta có thể áp dụng một phần nào vào đời sống chính trị hiện nay không ? Có nơi nào đã áp dụng lý tưởng của Platon hoặc toàn thể hoặc một phần nào không ?
Câu hỏi chót trên đây có thể được trả lời một cách thuận lợi cho Platon: Trong suốt 1000 năm Âu châu bị đặt dưới quyền cai trị của một giai cấp không khác gì giai cấp cầm quyền lý tưởng mà Platon đã mô tả. Trong thời kỳ trung cổ người ta thường phân chia dân chúng thành 3 giai cấp : đó là giai cấp cần lao, giai cấp quân nhân và giai cấp giáo sĩ. Giai cấp sau cùng này, mặc dù chỉ là một thiểu số đã nắm trong tay tất cả quyền hành và đã cai trị một cách gần như tuyệt đối một phần nửa lãnh thổ Âu châu. Giai cấp giáo sĩ này được lên cầm quyền không phải do sự tấn phong của dân chúng mà chính là do công trình nghiên cứu học hỏi, nếp sống đạo đức và giản dị. Giai cấp giáo sĩ cũng không bị ràng buộc vì nếp sống gia đình và trong nhiều trường hợp họ được hưởng nhiều tự do trong vấn đề luyến ái mà Platon chủ trương nên dành cho giai cấp lãnh đạo. Nếp sống độc thân của giai cấp giáo sĩ là một yếu tố tâm lý rất thuận lợi: phần thì họ không bị cản trở bởi sự ích kỷ dành cho gia đình, phần thì dân chúng coi họ như những con người đặc biệt đứng trên sự kêu gọi xác thịt.
Các thủ đoạn chính trị của giáo hội Thiên chúa giáo là sự áp dụng những huyền thoại mà Platon đã đề ra: Ý niệm về thiên đàng, địa ngục có những liên hệ mật thiết với những ý kiến trình bày trong cuốn Cộng hoà. Với một mớ lý thuyết như trên, dân chúng Âu châu đã được cai trị mà không cần dùng đến vũ lực, họ sẵn sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không bao giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ máy chính quyền. Những giai cấp buôn bán và quân nhân, những nhóm lẻ tẻ ở địa phương, tất cả đều một lòng tùng phục La Mã. Giai cấp lãnh đạo thời ấy thật khôn khéo, họ đã xây dựng nên một tổ chức cai trị vững mạnh và lâu dài nhất thế giới.
Những giáo phái cai trị xứ Paraguay trước đây là những giai cấp lãnh đạo xứng đáng với lý tưởng của Platon. Đó là một giai cấp giáo phẩm thượng lưu vừa biết nhiều hiểu rộng, vừa có biệt tài ở giữa một đám đông dân chúng bán khai. Sau cách mạng tháng 10 năm 1917 những nhà lãnh đạo cộng sản ở Nga xô cũng sống cuộc đời mà Platon đã mô tả. Họ là một thiểu số cấu kết với nhau bằng một niềm tin mãnh liệt. Họ sợ sự khai trừ khỏi đảng hơn là sợ chết, hoàn toàn hiến thân cho đảng, chết vì đảng không khác gì các thánh tử đạo, họ sống một cuộc đời giản dị đơn sơ trong khi cầm quyền cai trị một nửa diện tích Âu châu.
Những ví dụ kể trên chứng tỏ rằng lý tưởng của Platon có thể thực hiện được và chính Platon cũng căn cứ lý thuyết của mình trên các nhận xét thực tế trong các cuộc du lịch của ông. Ông đã để ý đến giai cấp lãnh đạo thời ấy gồm một thiểu số giáo sĩ. Platon đã so sánh chính thể Ai cập với chính thể tại thành Athènes và cảm thấy Athènes còn nhiều khiếm khuyết. Tại nước Ý ông có dịp quan sát một nhóm lãnh đạo đúng theo chế độ cộng sản và ăn chay trường. Nhóm này cầm quyền khá lâu và khá vững. Ở Sparte ông cũng quan sát những điều kiện tương tự: Nhóm lãnh đạo ở đây sống một cuộc đời khắc khổ tập thể, họ rất chú trọng đền việc cải thiện nòi giống, chỉ những kẻ khoẻ mạnh can đảm thông minh mới được quyền lập gia đình và sinh con cái. Một tác giả đương thời tên là Euripides cũng đã chủ xướng một nếp sống cộng sản triệt để. Giải phóng nô lệ, sung công phụ nữ, bình định các lãnh thổ Hy lạp. Nói tóm lại, khi đề ra chương trình của mình Platon không coi đó là một chương trình hão huyền, xa vời thực tế.
Tuy nhiên, những kẻ chỉ trích Platon từ thời Aristote đến nay cũng đã đưa ra nhiều luận cứ đáng để ý, Aristote nói rằng những đề nghị của Platon đã xuất hiện nhiều lần trong lịch sử nhân loại. Nói rằng tất cả mọi người là anh em thật là một điều hay ho trên lý tưởng nhưng trên thực tế khi cho rằng tất cả mọi người là anh em thì mối thâm tình giữa những người anh em thật sự không còn ý nghĩa nữa. Đối với vấn đề cộng sản cũng vậy, nó sẽ làm cho tinh thần trách nhiệm bị lu mờ. Khi tất cả của cải đều thuộc quyền sở hữu của tất cả mọi người thì sẽ không còn ai lo giữ gìn của cải ấy. Sau cùng, chế độ cộng sản bắt buộc dân chúng sống cuộc đời tập thể nghĩa là giết chế sự độc đáo cá nhân và sự tự do của đời tư, chỉ những kẻ giác ngộ mới có thể sống đời sống tập thể mà không gây ra những xích mích nan giải. Đem áp dụng lối sống ấy cho đại đa số quần chúng là một điều sai lầm; không thể bắt dân chúng sống theo mức sống đạo đức quá cao so với mức trung bình, không thể bắt dân chúng hấp thụ một nền giáo dục chỉ thích hợp với một thiểu số xuất chúng. Trái lại chúng ta phải nhắm đến một lối sống trung bình thích hợp với đại đa số quần chúng và một chính thể mà đại đa số có thể chấp nhận.
Những lời chỉ trích của Aristote, người học trò thông minh nhất của Platon, được nhiều triết gia hưởng ứng. Platon khinh thường sức mạnh của tập tục đã được xây dựng lâu đời như phong tục độc thê, ông không tiên liệu tánh ghen tuông tự nhiên của người đàn ông, tình mẫu tử của người đàn bà. Khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ những điều kiện cho một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng qua cũng chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân, khi đả kích gia đình Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lý tưởng mà ông sắp xây cất.
Những lời chỉ trích kể trên không phải hoàn toàn xa lạ đối với Platon. Nếp sống cộng sản do ông chủ xướng không áp dụng đối với quảng đại quần chúng. Platon biết rằng chỉ một thiểu số giác ngộ mới đủ đức tính tinh thần để sống một cuộc đời lãnh đạo, chỉ những người lãnh đạo mới xem nhau như anh em, chỉ những người lãnh đạo mới từ bỏ quyền tư hữu. Đa số dân chúng còn lại được quyền sống theo các tập tục cổ xưa, họ được phép có của riêng, được phép sống xa hoa, được phép cạnh tranh, họ có thể sống với gia đình, chồng đâu vợ đó, mẹ đâu con đó v.v. Đối với giai cấp lãnh đạo họ phải có tinh thần danh dự và sự hãnh diện của giai cấp, chính những yếu tố này cho phép họ sống cuộc đời khắc khổ tập thể. Đối với tình mẫu tử, chúng ta phải công nhận rằng tình nầy không mãnh liệt khi đứa trẻ chưa sinh ra hoặc chưa lớn, người mẹ trung bình chấp nhận đứa hài nhi sơ sanh không phải bằng sự vui mừng mà bằng sự nhẫn nhục. Tình mẫu tử không phải có ngay lúc đó mà chỉ lớn dần cùng với đứa con với sự săn sóc của người mẹ, nó trở thành một mối tình lớn khi đứa con trở thành sự đúc kết của công lao người mẹ.
Nhiều luận điệu chỉ trích khác dựa trên yếu tố kinh tế. Người ta trách Platon quá chú trọng đến sự phân chia giai cấp. Sự thật thì nguyên do của sự phân chia là những mâu thuẫn kinh tế trong xã hội. Trong chính thể của Platon giai cấp lãnh đạo đã tự ý từ bỏ sự cạnh tranh để vơ vét của cải. Chúng ta có thể kết luận rằng giai cấp lãnh đạo của Platon là một giai cấp có quyền mà không có trách nhiệm chăng ? - Không phải như vậy, họ có quyền chính trị và quyền điều khiển nhưng họ không có quyền lực kinh tế. Giai cấp kinh tế có thể từ chối cấp dưỡng nếu họ bất bình với giai cấp lãnh đạo, cũng như ngày nay quốc hội kiểm soát hành pháp bằng cách biểu quyết ngân sách. Một số người khác thắc mắc làm sao giai cấp lãnh đạo có thể giữ vững được quyền hành nếu không kiểm soát được những lực lượng kinh tế ? Họ dựa vào lý thuyết của Hamilton và Marx cho rằng quyền lực chính trị chỉ là hình ảnh của kinh tế, quyền lực chính trị sẽ không còn gì một khi quyền lực kinh tế đã vào tay một nhóm khác như đã xảy ra tại Âu châu trong thế kỷ thứ 18.
Đó là một lý lẽ rất căn bản, tuy nhiên chúng ta thấy rằng quyền lực của giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đã có một thời rất oanh liệt không phải nhờ thế lực của kim tiền mà nhờ vào sự tín ngưỡng của dân chúng. Quyền lực của giáo hội ngày xưa một phần là do ở trạng thái nông nghiệp: Những nhà nông thường dễ mê tín vì nghề nghiệp của họ tuỳ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Khi các điều kiện kinh tế thay đổi, khi nền kinh tế kỹ nghệ bắt đầu thay thế cho nền kinh tế nông nghiệp, thì quyền lực của giáo hội bắt đầu sút giảm. Quyền lực chính trị phải luôn luôn được điều chỉnh để ăn khớp với tình trạng kinh tế. Giai cấp cầm quyền của Platon không chóng thì chầy sẽ bị phụ thuộc vào giai cấp sản xuất đã nuôi dưỡng nó. Dù giai cấp cầm quyền nắm trong tay tất cả quân lực cũng không thoát khỏi sự lệ thuộc ấy. Quan niệm chính yếu của Platon có lẽ là muốn chứng minh rằng dù cho các lực lượng kinh tế quyết định chính sách quốc gia, những kẻ thi hành chính sách này phải là những nhà chuyên môn, không thể để những người thương gia, kỹ nghệ gia cầm quyền chính trị vì họ chưa được huấn luyện trong lãnh vực này.
Người ta thường chê trách rằng Platon chưa ý thức được sự đổi thay thăng trầm của tất cả các chế độ kinh tế, văn hoá cũng như chính trị : Ông phân loại người thành những giai cấp không khác gì nhà côn trùng học phân loại các côn trùng. Ông còn tạo ra các huyền thoại để bắt buộc dân chúng tin tưởng vào sự phân loại ấy. Quôc gia của Platon là một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẻo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp nhưng không biết nuôi dưỡng các nghệ sĩ.
Platon chủ trương rằng những kẻ cầm quyền phải là những kẻ ưu tú nhất, ông còn thêm rằng những kẻ cầm quyền phải được huấn luyện chu đáo. Đó là hai ý kiến đã được đem ra bàn cãi và đã được áp dụng nhiều lần trong lịch sử; sau cùng cần phải nói thêm rằng quốc gia lý tưởng của Platon không nhất thiết phải là một quốc gia trên thực tế, nó chỉ ấn định đường hướng cho các quốc gia khác noi theo. Tuy nhiên đã có lần Platon muốn thực hiện một quốc gia lý tưởng : Đó là vào khoảng năm 384 tTL, Platon được một quốc vương mời làm cố vấn để thực hiện những cải cách sâu rộng. Platon nhận lời nhưng lẽ cố nhiên việc của ông không thành tựu vì quốc vương kia không muốn giảm bớt quyền hạn của mình. Tục truyền rằng Platon bị kết tội khi quân và bị đem bán làm nô lệ.
Những năm cuối cùng trong đời của Platon có thể gọi là những năm hạnh phúc. Môn đệ của ông nhiều người giữ địa vị cao trong xã hội. Ông được các môn đệ tìm đến vì ông luôn luôn giữ được tinh thần sáng suốt cởi mở thông cảm với tất cả mọi người. Năm 80 tuổi, Platon được một môn đệ mời đi dự đám cưới. Khi tiệc gần tàn Platon lui vào nhà trong để nằm nghỉ. Sáng sớm người ta đến thức ông dậy thì thấy rằng ông đã qua đời. Đám táng của ông được tổ chức rất trọng thể với rất nhiều người tham dự./.
Nguồn: Will Durant. 1971. Câu truyện triết học. Trí Hải và Bửu Đích dịch. Sài Gòn: Nha Tu thư và Sưu khảo, Viện Đại học Vạn Hạnh.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Sept 22, 2011 4:39:40 GMT 9
Chân học là một nền học vấn cung cấp cho học trò những kiến thức thiết thực để làm người và hành nghề phục vụ xã hội. Ngược lại, hư học là một nền học vấn sính chuộng hình thức và hư văn – những thứ chữ nghĩa có cái vỏ hào nhoáng, "hàn lâm", "bác học", nhưng thực chất rỗng tuếch, vô bổ, thậm chí làm rối loạn nhận thức của học trò. Trong cùng một nền học vấn, có thể có phần chân học, có phần hư học. Chẳng hạn, trong Nho giáo có chân nho và hủ nho. Trong giáo dục toán học cũng có "chân toán" và "hủ toán". Một trong những thí dụ tiêu biểu của chân toán là việc biến Cái Không trừu tượng của triết học cổ Ấn Độ thành Sunya, tức số 0 phổ dụng ngày nay. Phần 1: Sunya, Cái Không của người Ấn cổ Sunya, hay Sunyata, là một từ cổ Ấn Độ, có nghĩa là Zero, tức số 0. Trong dãy chữ số thập phân, 0 và 1 đứng cạnh nhau, nhưng từ 1 đến 0 lại là cả một hành trình vĩ đại của tư duy. Thật vậy, sau số 1 phải đợi một thời gian dài đằng đẵng hơn 15 thiên niên kỷ số 0 mới có thể ra đời tại Ấn Độ! "Cơn đau đẻ vật vã" này là kết quả của sự "hôn phối" giữa bà mẹ toán học với ông cha triết học – những tư tưởng thâm thuý sâu xa, trừu tượng và cao siêu của Cái Không (The Nothingness) mà trong quá khứ dường như chỉ xứ Ấn Độ mới có. Cái Không ấy đã được Denis Guedj, giáo sư lịch sử khoa học tại Đại học Paris, diễn đạt tóm tắt trong cuốn "Số – Ngôn ngữ phổ quát"[1] bằng ngôn ngữ hiện đại như sau: "Số 0 là cái chẳng có gì nhưng lại làm nên mọi thứ". Nhưng tưởng cần phải hỏi tại sao một Sunya vốn cao siêu trừu tượng như thế mà ngày nay lại trở nên đơn giản, thông dụng và quen thuộc với mọi người như thế ? Công lao phổ cập cái cao siêu trừu tượng này thuộc về ai, nếu không thuộc về các nhà giáo dục thông thái hàng ngàn năm qua đã chú tâm truyền bá ý nghĩa cụ thể và ứng dụng của nó, thay vì thổi phồng ý nghĩa triết học cao siêu để làm khổ học trò? Vì thế, lịch sử của Sunya rất đáng được chú ý nghiên cứu học hỏi, để từ đó rút ra những bài học bổ ích nhằm suy tôn tinh thần hiện thực và cụ thể trong giảng dạy toán học ở trường phổ thông. 1* Hành trình của Sunya: Ba con số tạo nên nền tảng của hệ thống số là số 0, số 1, và số vô cùng (∞). Việc tìm hiểu sự hình thành một hệ thống số phải bắt đầu từ 1, vì 1 là khởi thuỷ của mọi con số. Dấu hiệu cổ xưa nhất về các con số trong những nền văn minh đầu tiên của loài người mà hiện nay khoa khảo cổ học đã nắm được trong tay là những vạch đếm được khắc trên sừng hươu thuộc kỷ Paleolithic, thuộc niên đại khoảng 15000 năm trước C.N. Di tích này có 2 ý nghĩa: Một, nó cho biết tuổi của toán học; Hai, nó khẳng định toán học ra đời từ nhu cầu đếm. Việc đếm hiển nhiên phải bắt đầu từ 1. Vì thế, 1 từng được Pythagoras coi là biểu tượng của Thượng Đế – cái bắt đầu của mọi sự. Về mặt triết học, 1 có nghĩa là tồn tại, hiện hữu. 1 còn có ý nghĩa là đơn vị, nhiều đơn vị gộp lại thành số nhiều. Nếu số nhiều này là hữu hạn thì nó được gọi là arithmos. Việc nghiên cứu arithmos được gọi là arithmetics, tức số học. Điều đáng kinh ngạc là trải qua một thời gian dài dằng dặc mười mấy ngàn năm kể từ xã hội nguyên thuỷ thuộc kỷ Paleolithic đến các thời kỳ văn hoá cổ đại rực rỡ nhất như văn hoá Hy-La, văn hoá Hebrew (Do-thái), văn hoá cổ Trung Hoa, mặc dù số học đã phát triển tới trình độ rất cao, rất phức tạp nhưng vẫn chưa thể nào sản sinh ra số 0! Thật vậy, trong các chữ số của người Trung Hoa gồm nhất (1), nhị (2), tam (3), tứ (4), ngũ (5), lục (6), thất (7), bát (8), cửu (9), thập (10), bách (100), thiên (1000), hoặc của người La Mã gồm I (1), V (5), X (10), L (50), C (100), D (500), M (1000 hoặc 1000000), hoặc của người Do Thái gồm aleph (1), beth (2), gimel (3),... hoặc của người Hy Lạp gồm alpha (α = 1), beta (β = 2), gamma (γ = 3),... tất cả đều vắng bóng số 0! Xem thế đủ biết việc sáng tạo ra số 0 khó khăn đến nhường nào, và không có gì để ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu lịch sử khoa học đều nhất trí đánh giá rằng việc phát minh ra số 0 là một trong những cột mốc vĩ đại nhất trong lịch sử nhận thức. Thật vậy, để sáng tạo ra số 0, toán học chưa đủ, mà cần đến một tư tưởng hoàn toàn mới lạ. Tư tưởng ấy đã được nhen nhóm và chín mùi tại Ấn Độ cổ – cái nôi của Phật giáo. Cần biết rằng suốt trong giai đoạn các nền văn hoá lớn quanh Địa Trung Hải như Hy Lạp, La Mã, Do Thái, và nền văn hoá cổ Trung Hoa thời Tần, Hán, Tấn, lần lượt thay nhau đạt tới độ cực thịnh thì Phật giáo đã trưởng thành từ vài trăm tới ngót một ngàn tuổi – một thời gian đủ để các tư tưởng tinh vi của nó thấm đượm vào đầu óc các bậc hiền triết, tu sĩ, học giả, nghệ sĩ, những người đã đóng góp lớn lao vào việc tạo dựng nên nền văn hoá trác việt của Ấn Độ cổ đại. Một trong những tư tưởng trác việt đó là Cái Không, một khái niệm kỳ lạ đồng nhất cái không có gì với toàn thể vũ trụ mà trên thế giới từ cổ chí kim duy nhất chỉ có Phật giáo mới nói đến. Ngay từ những năm khoảng từ 300 đến 200 trước C.N. người Ấn Độ đã có một hệ thống á thập phân (gần thập phân) gồm chín ký hiệu cho các số từ 1 đến 9, và các danh từ dành cho các "bội của mười". Cụ thể "mười" được gọi là "dasan", "một trăm" được gọi là "sata", v.v... Chẳng hạn để thể hiện số 135 như ngày nay ta viết, người Ấn Độ cổ viết là "1 sata, 3 dasan, 5", hoặc để thể hiện 105, họ viết "1 sata,5", v.v... Phải đợi mãi đến khoảng năm 600 sau C.N., người Hindu mới tìm ra cách xoá bỏ các danh từ trong khi viết số nhờ vào việc phát minh ra ký hiệu của số 0. Với ký hiệu này, "1 sata, 5" sẽ được viết là 105 như ngày nay. Vào khoảng những năm 700, người Ả-rập đã học số học của người Hindu. Vào khoảng những năm 800, một nhà toán học Ba Tư đã trình bầy số học với hệ thập phân của người Ấn Độ trong một cuốn sách bằng tiếng Ả-rập. Khoảng 300 năm sau cuốn sách này được dịch ra tiếng La-tinh. Từ đó hệ thống số Ấn-Ả-rập xâm nhập vào Châu Âu, rồi từ Châu Âu được truyền bá ra khắp thế giới như ngày nay. Thực ra người Babylon cổ đại là người đầu tiên tìm ra số 0. Người Maya ở Châu Mỹ cũng đã tìm thấy số 0 vào thế kỷ 1, tức là trước người Ấn Độ khoảng 500 năm. Nhưng số 0 của người Babylon và người Maya không có đầy đủ ý nghĩa và chức năng như số 0 của người Ấn Độ mà ngày nay ta dùng. Phải đợi đến số 0 của người Ấn Độ thì hệ thống số mới thực sự đạt tới một bước ngoặt lịch sử trong khoa học và trong nhận thức nói chung bởi công dụng vô cùng tiện lợi và ý nghĩa triết học sâu xa của nó. 2* Ý nghĩa triết học của Sunya: Theo Guedj, số 0 khác hẳn với các số khác về mặt khái niệm ở chỗ nó không gắn liền với đồ vật hoặc đối tượng cụ thể nào cả. Việc đưa số 0 vào trong hệ thống số là sự trừu xuất các số ra khỏi đối tượng cụ thể. Thực ra số 0 ra đời ở Ấn Độ sớm hơn một chút: nó đã xuất hiện trên các bản thảo ở thế kỷ 5 sau C.N. Ký hiệu đầu tiên của người Ấn Độ đối với số 0 là một vòng tròn nhỏ gọi là Sunya, theo tiếng Sanskrit (tiếng Ấn cổ) nghĩa là "cái trống rỗng" hoặc "cái trống không" (emptyness). Dịch ra tiếng Ả Rập là sifr, ra tiếng La-tinh là zephirum rồi thành zephiro, và cuối cùng thành zero như ngày nay. Guedj viết tiếp: "Với sự sáng tạo ra số 0, khái niệm không có gì trở thành khái niệm tồn tại. Đây là sự gặp gỡ giữa hai hình thức của cái không, đó là sự trống rỗng về mặt không gian và sự phi tồn tại về mặt triết học, và điều này đã tạo ra một biến đổi căn bản về trạng thái ý nghĩa các con số. Khái niệm chẳng có gì đã biến thành khái niệm có cái không... Sự chuyển tiếp từ trạng thái không có đến trạng thái có zero, từ một số zero như một vị trí bị bỏ trống đến một số zero như một số lượng có thật, điều này đã tạo ra một bước chuyển biến căn bản trong lịch sử nhận thức". Đó là "lần đầu tiên, khái niệm trừu tượng của Cái Không đã được trình bầy bằng một ký hiệu cụ thể sờ thấy", như Simon Singh đã mô tả trong cuốn "Định lý cuối cùng của Fermat". Tính chất "cụ thể sờ thấy" ấy cũng được Georges Ifrah trình bầy rõ trong cuốn "Từ 1 đến 0: Lịch sử phổ quát của số" như sau: "Số 0 của người Ấn Độ dùng để diễn tả sự trống không hoặc sự không hiện diện, nhưng đồng thời diễn tả không gian, vòm trời, bầu trời các thiên thể, bầu khí quyển, cũng như để diễn tả cái chẳng có gì, một số lượng không thể đếm được, một phần tử không thể diễn tả cụ thể được". Như vậy việc sáng tạo ra số 0 thực chất là lấy hình để diễn tả cái siêu hình (lấy vòng tròn Sunya diễn tả cái không có gì, cái trống rỗng). Nói cách khác, cái siêu hình đã được cụ thể hoá bởi hình (cái không có gì được cụ thể hoá bằng vòm trời, vũ trụ), ngược lại hình chỉ là biểu lộ của cái không có gì mà thôi. Đây chính là tư tưởng "sắc sắc không không" của Phật giáo, trong đó Cái Không vừa là cái trống rỗng vừa là toàn bộ vũ trụ. Tư tưởng này rất khó hiểu đối với ngay cả người lớn, nếu không nghiên cứu học hỏi các lý thuyết Phật giáo một cách nghiêm túc, chứ đừng nói đến trẻ em. 3* Bài học về giáo dục từ Sunya: Sẽ không có nền văn minh hiện đại, không có computer, … nếu không có Sunya. Bài học lớn nhất từ Sunya là bài học về giáo dục: Những nhà giáo dục chân chính là những người biết biến cái phức tạp thành đơn giản, biến cái cao siêu trừu tượng thành cái phổ dụng, mang lại lợi ích thiết thực cho mọi người. Đó chính là nền chân học, hoàn toàn trái ngược với nền giáo dục hủ nho hoặc nền giáo dục sính chuộng hư văn mà "Chủ nghĩa Frege mới" (neo-Fregeanism) là một thí dụ điển hình. Chủ nghĩa này là gì? Phần 2: "Chủ nghĩa Frege mới" Nếu lịch sử về Sunya là thí dụ điển hình của một nền chân học mang lại kiến thức bổ ích cho con người thì ngược lại, "chủ nghĩa Frege mới" (neo-Fregeanism) là thí dụ điển hình của một nền hư học chuộng hình thức, sính chữ nghĩa sáo rỗng, xa rời cuộc sống, không mang lại kiến thức bổ ích và làm rối trí học trò. Thông thường cái gì đã bị chứng minh là SAI thì sẽ mất hết uy tín. Nhưng lịch sử giáo dục thế kỷ 20 chứng kiến một "ngoại lệ kỳ quái": tư tưởng hình thức của Gottlob Frege đã bị chứng minh là SAI, vậy mà nó vẫn được một số nhà toán học và giáo dục ra sức bắt chước, tạo nên cái gọi là Chủ nghĩa Frege mới. Đỉnh cao của chủ nghĩa này là trào lưu "Toán học mới" (THM) ở Tây phương những năm 1960-1970 mà "di căn" của nó đến nay vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. 1* Từ Frege đến THM: Đầu thế kỷ 20, giống như nhiều nhà toán học "mơ mộng" khác, Frege khao khát tìm ra một thứ Số học "sạch sẽ", "không vương chút bụi trần", ngõ hầu vươn tới một hệ thống Số học chính xác tuyệt đối. Ước mơ ấy giúp ông viết nên tác phẩm đồ sộ "Cơ sở Số học" với nền tảng là những định nghĩa về số: Số 2 là cái đặc trưng cho tất cả các "cặp đôi" (pair) – tập hợp chứa 2 phần tử; số 3 là cái đặc trưng cho tất cả các "bộ ba" (triple) – tập hợp chứa 3 phần tử; v.v. Ngay trong định nghĩa này, Frege đã rơi vào một cái vòng luẩn quẩn: ông muốn "giải thoát" số ra khỏi ý nghĩa số lượng, nhưng định nghĩa của ông vẫn dựa vào số lượng phần tử trong tập hợp – Frege muốn bay lên trời nhưng chân vẫn bị trói chặt trên mặt đất! Bất chấp sai lầm "ngây thơ" đó, "vẻ đẹp bác học" của hệ thống ký hiệu và suy diễn logic hình thức của Frege vẫn làm cho thiên hạ bị choáng ngợp. Họ coi phương pháp của Frege như mẫu mực của toán học hiện đại. Ngay cả Bertrand Russell – người chỉ ra chỗ sai trong nền tảng lý thuyết của Frege[2] – vẫn tin rằng con đường Frege đang đi là đúng, do đó chỉ cần điều chỉnh một chút là sẽ tới "thiên đường toán học"! Phải chờ mãi đến năm 1931, khi Kurt Godel công bố "Định lý bất toàn" (Theorem of Incompleteness) thì những người khôn ngoan nhất như John von Newman mới đau xót nhận ra rằng không bao giờ có cái "thiên đường" ấy. Nhưng dường như đa số vẫn muốn "tẩy chay" Định lý Godel, hoặc không hiểu hết ý nghĩa của định lý đó, do đó tư tưởng hình thức của Frege vẫn tiếp tục sống, mặc dù chính Frege đã từ bỏ nó. Bằng chứng là đã ra đời nhóm Bourbaki với những công trình vĩ đại nhằm "xét lại" (viết lại) toàn bộ toán học trên cái nền của lý thuyết tập hợp, tức là làm sống lại tư tưởng hình thức mà David Hilbert, Gottlob Frege, Bertrand Russell, … đã xới lên từ đầu thế kỷ 20. Trớ trêu thay, Bourbaki ra đời ở Pháp – quê hương của Henri Poincaré, nhà toán học vĩ đại từng quyết liệt chống đối chủ nghĩa logic hình thức! Nếu Poincaré sống thêm vài chục năm nữa, chắc hẳn ông sẽ ủng hộ Định lý Godel để chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa hình thức ở Pháp, không để cho THM cùng những thứ hư văn của nó "đổ bộ" vào trường phổ thông rồi gây nên những thảm hoạ giáo dục như ta đã thấy. 2* Thảm hoạ của THM: Một "cựu nạn nhân" của THM là nhà vật lý nổi tiếng Phạm Xuân Yêm, giám đốc nghiên cứu tại CNRS (Trung tâm quốc gia về nghiên cứu khoa học của Pháp), giáo sư Đại học Pierre và Marie Curie tại Paris. Trong một thư gửi cho tôi, GS Yêm viết: "Vụ Bourbaki ở Pháp những năm 1960 tôi là nạn nhân chứng kiến. Khi ấy, 1958, tôi học năm cuối cử nhân toán với Gustave Choquet, Claude Chevalley, Henri Cartan, toàn những đỉnh cao của Pháp. Nhưng các vị ấy mang vào lớp cử nhân này lần đầu như một thử nghiệm trường phái Bourbaki, cả giờ ông Choquet chỉ nói và không viết một dòng trên bảng! Chính vì thế mà tôi bỏ toán ra làm vật lý lý thuyết. Đã thế về sau họ còn mang théorie des ensembles (lý thuyết tập hợp) vào trung học làm khủng hoảng môn toán trung học một thời gian, may mà họ sửa chữa lại sau này". Theo tài liệu do GS Yêm cung cấp, từ 1967 đến 1972, dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban cải cách giáo dục toán học, đứng đầu là Lichnerowicz, cái gọi là "toán hiện đại" đã được đưa vào trường phổ thông. Khẩu hiệu của THM là "Đả đảo Euclide!" (À bas Euclide!)[3], có nghĩa là vứt bỏ hết mọi cái cũ truyền thống để thay thế bằng "toán hiện đại": dạy toán học hình thức dựa trên lý thuyết tiên đề (các cấu trúc đại số, các không gian vector, lý thuyết tập hợp…). Từ năm 1971 đến 1977, ngôn ngữ tập hợp và cấu trúc đại số được dạy ngay từ trung học và giới thiệu ngay từ tiểu học. Kết quả là "việc nhấn mạnh đến các môn học khó hiểu như Lý thuyết tập hợp tỏ ra phản tác dụng … Chương trình quá chú trọng tới toán học ở trình độ cao này dẫn tới sự trả giá là mất kiến thức cơ bản", đó là nhận định của Bách khoa toàn thư Americana[4]. Nhưng tại sao một cơ quan quan trọng như Uỷ ban Lichnerowicz, với rất nhiều giáo sư, tiến sĩ, lại dấn thân vào một cuộc "phiêu lưu" vô ích đến như vậy? Câu trả lời thiết tưởng đã quá rõ: Vào giữa thế kỷ 20, ảnh hưởng của chủ nghĩa hình thức vẫn còn quá lớn. Lúc ấy cái bóng của Bourbaki che lấp cái bóng của Godel. Nếu thấm nhuần Định lý Godel, có thể Uỷ ban Lichnerowicz sẽ không phiêu lưu, vì họ sẽ ý thức được rằng nhận thức có giới hạn. Nhưng vào thời điểm đó, số người biết Godel, hiểu Godel và đánh giá đúng tầm vóc của Định lý Godel dường như còn quá ít, chưa đủ tạo nên một lực hãm đủ mạnh đối với khát vọng vô chừng vô độ của chủ nghĩa hình thức. Hơn thế nữa, Uỷ ban cải cách giáo dục phổ thông của Lichnerowicz lại chẳng hiểu gì về mục tiêu của giáo dục phổ thông. 3* Mục tiêu giáo dục phổ thông: Giáo dục phổ thông, bản thân tên gọi của nó, đã cho thấy kiến thức ở trường phổ thông phải là kiến thức dành cho mọi người. Vậy câu hỏi đặt ra là cái gì cần thiết cho mọi người? Cái gì chỉ cần cho một số ít người? Hơn ai hết, các nhà giáo dục cần phải trả lời rõ ràng và dứt khoát những câu hỏi đó trước khi đặt bút viết sách giáo khoa! Câu chuyện sau đây có thể có ích trong việc tìm câu trả lời: Một tạp chí điện ảnh ở Mỹ phỏng vấn Cameron Diaz, nữ diễn viên xinh đẹp trong cuốn phim nổi tiếng The Mask. Cuối buổi phỏng vấn, phóng viên đặt câu hỏi: - Cô còn muốn nói gì với độc giả nữa không? - Tôi muốn biết "thực ra công thức E = mc2 có ý nghĩa gì?", Diaz trả lời. Thế là cả hai cùng phá lên cười. Cuộc phỏng vấn kết thúc[5]. Nghe chuyện này, có người cho rằng Einstein quá vĩ đại, vì một người như Diaz cũng phải bận tâm tới công thức của ông. Nhưng nếu để ý Diaz hỏi mà không cần nghe trả lời thì có thể nghĩ Diaz chỉ mượn công thức của Einstein để gợi ý với chúng ta một điều gì đó. Mỗi người có thể hiểu ý của cô theo cách riêng. Riêng tôi, tôi nghĩ cô muốn nói với giới "celebrities" (người nổi tiếng) rằng Cái Đẹp chân chính không cần phải trang điểm bằng những thứ loè loẹt phù phiếm (E = mc2 là một thứ phù phiếm đối với giới nghệ sĩ điện ảnh). Chủ nghĩa Frege mới – thói chuộng logic và tập hợp ở trường phổ thông – cũng chỉ là một thứ trang điểm loè loẹt mà thôi. 4* Thay lời kết: Ngay từ đầu thế kỷ 20, Henri Poincaré đã tuyên chiến với Chủ nghĩa hình thức. Ông nói: "Nhà toán học thuần tuý dường như lãng quên sự tồn tại của thế giới bên ngoài, giống như một hoạ sĩ biết cách kết hợp hài hoà màu sắc và hình dạng nhưng lại bị tước đi vật mẫu – điều đã làm cho sức sáng tạo của anh ta bị khô héo đi một cách nhanh chóng". Albert Einstein cũng ghét loại toán học đó đến mức phải tuyên bố: "Tôi không tin vào toán học". Tại sao những người thông minh lại ghét thứ toán học ấy đến thế? Đơn giản vì nó sáo rỗng, không đếm xỉa đến thực tiễn! Tư tưởng toán học đề cao logic đến mức không đếm xỉa đến thực tiễn đã manh nha từ lâu. Đặc biệt, sự ra đời của Hình học phi-Euclid đã khuyến khích ý nghĩ cho rằng bằng con đường suy diễn logic thuần tuý, toán học có thể khám phá ra những chân lý tuyệt đối[6]. Tư tưởng này lên tới tột đỉnh vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 để từ đó hình thành nên một chủ nghĩa, một đường lối, một chương trình vĩ đại nghiên cứu toán học: đó là chủ nghĩa hình thức, mà linh hồn của nó nằm trong tuyên ngôn của Bertrand Russell: "Toán học là một khoa học mà trong đó người ta không bao giờ biết là người ta đang nói về cái gì, miễn là cái điều người ta nói là đúng"[7]. Chẳng hạn, 2 + 3 = 5 là đúng, không cần biết 2, 3, 5 đang nói về cái gì. Khi đó phép cộng không phải là "thêm vào", mà là một "ánh xạ"… Đó chính là những gì nền giáo dục đang nhồi vào đầu trẻ em, xuất phát từ tư tưởng "xa rời thực tế mới là điểm mạnh của toán học"[8], như một giáo sư có ảnh hưởng lớn trong ngành giáo dục hiện nay từng tuyên bố. Có nghĩa là với những nhà giáo dục này, có một thứ toán học "thiêng liêng" đứng trên và đứng ngoài xã hội, bởi vì xã hội không thể không biết những con số của mình đang nói về cái gì, về USD hay VND, về m hay inch, về nhiệt độ C hay nhiệt độ K, về newton hay coulomb, v.v. Được biết, có lần một tên lửa vũ trụ của NASA đã nổ tung trên quỹ đạo chỉ vì một lỗi rất "tầm thường": các chương trình điều khiển do các bộ phận khác nhau viết ra đã không sử dụng một hệ đơn vị đo lường thống nhất[9]! Không biết các nhân viên của NASA có cho rằng "xa rời thực tế mới là điểm mạnh của toán học" hay không? Nhưng chắc chắn quan điểm đó sẽ làm hỏng nền giáo dục toán học ở trường phổ thông! Ngày 17/09/2011 [1] Numbers - The Universal Language, Denis Guedj, Thames and Hudson Ltd, London 1998. [2] Xem "Lời sám hối của một nhà toán học hình thức" của Phạm Việt Hưng trên Khoa học & Tổ quốc Tháng 05/2009, hoặc trên trang mạng vietsciences.free.fr/ và viethungpham.wordpress.com/[3] Khẩu hiệu này xuất phát từ cửa miệng của Jean Dieudonné, một trong những thành viên sáng lập của nhóm Bourbaki. Mặc dù không tham gia vào giáo dục phổ thông, nhưng sau này Dieudonné thừa nhận việc Bourbaki-hoá trường phổ thông là một sai lầm tệ hại. [4] Encyclopedia Americana, 1999, mục từ "New Mathematics". [5] Xem "A Biography of the World’s Most Famous Equation E = mc2", David Bodanis, MacMillan, London, 2000. [6] Hình học phi-Euclid ra đời từ giữa thế kỷ 19, nhưng mãi đến năm 1916 mới tìm thấy bằng chứng thực tiễn là không gian vật lý trong Thuyết tương đối tổng quát của Einstein. [7] Xem "Pour la Science", số chuyên đề về Henri Poincaré, trang 21. [8] Xem bài "Môn Toán ở trường phổ thông" của Lê Hải Châu, tạp chí Tia Sáng Tháng 04/2002. [9] Thông tin do một chuyên gia lập trình thuộc Công ty ResMed ở Sydney, Australia, cung cấp.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Sept 22, 2011 7:07:24 GMT 9
BẤT ĐỊNH vs XÁC ĐỊNH?Phạm Việt Hưng — QUE SAIS-JE? (Montaigne) Khoa học là gì, nếu không phải những quy luật xác định mô tả thế giới, nhờ đó ta có thể tiên đoán tương lai hoặc quá khứ? Nhưng thế giới là xác định hay bất định? Nếu thế giới là bất định thì khoa học có còn là khoa học nữa hay không? Hay ta phải thay đổi quan niệm về chính cái gọi là khoa học? Những câu hỏi này đưa ta tới triết học nhiều hơn là khoa học, buộc ta phải trầm tư suy ngẫm. Trạng thái này làm tôi liên tưởng tới bức tượng bất hủ Penseur của Rodin. Mỗi chúng ta là một penseur, nếu chúng ta muốn trả lời những câu hỏi loanh quanh nói trên … Khi tiếp xúc với thơ văn, tôi thường hay bị ám ảnh bởi những ý thơ, ý văn mông lung bất định. Chẳng hạn, mấy vần thơ sau đây của nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn (trong tập Ru Em): Cứ như một ngọn gió lành Thổi vào anh, thổi vào anh, ngỡ ngàng Làm rơi những chiếc lá vàng Rơi chùm nắng đoái xiên ngang trời chiều Gió không nâng nổi cánh diều Cho con sông với cầu Kiều bâng khuâng … Cái bất định ấy thường gợi mở và đưa ta đến một thế giới giầu suy tư triết lý, hướng nội và nhân bản. Đó là cái thú của nghệ thuật, văn chương mà nhiều lĩnh vực khác của nhận thức không chắc gì có được. Như trong khoa học chẳng hạn, bạn chỉ có một luật chơi: Xác định! “Không đúng! Vật lý đã khám phá ra nguyên lý bất định đó thôi”, một người lên tiếng phản đối. Vâng, hành tung của các hạt lượng tử thì bất định, nhưng lý thuyết khoa học nói về cái bất định đó vẫn phải được phát biểu một cách xác định, sao cho mọi người hiểu một cách chính xác, thống nhất như nhau. Chẳng phải nguyên lý bất định lượng tử được trình bầy bởi một công thức toán học xác định đó sao? Thế đấy, khu vườn kỳ lạ của thơ văn mà ở đó các nhà thơ, nhà văn tha hồ phóng túng bay bổng thì lại là khu cấm địa của khoa học. 1-Luật chơi của khoa học là cái xác định: Trước khi cơ học lượng tử ra đời, tất cả những gì dính dáng đến khoa học đều là xác định: khoa học là tập hợp những nhận thức của loài người về thế giới Tự Nhiên và sự nhận thức đó phải được thể hiện dưới dạng những định luật chính xác, rõ ràng. Mức độ chính xác, rõ ràng của một lĩnh vực nói lên chất lượng khoa học cao hay thấp của lĩnh vực đó. Toán học được coi là có chất lượng khoa học cao nhất, lý lẽ của nó được coi là chính xác nhất, rõ ràng nhất. Còn gì rõ ràng và chính xác bằng 2 + 3 = 5? Do đó, mức độ áp dụng toán học trong mỗi lĩnh vực khoa học cụ thể cũng được nhiều người coi là thước đo chất lượng khoa học của lĩnh vực đó. Chẳng hạn, chất lượng khoa học của vật lý được coi là chỉ đứng sau toán mà thôi, và không biết tự bao giờ đã hình thành một thứ tự chất lượng khoa học như sau: toán học, vật lý học, hoá học, sinh học, kinh tế học, v.v… Tất nhiên bạn có thể không tán thành cách sắp xếp thứ tự đó nếu bạn không tán thành lấy toán học làm thước đo chất lượng khoa học. Mặt khác, tuỳ theo sự phát triển của mỗi lĩnh vực trong từng thời kỳ, thứ tự sắp xếp trên có thể thay đổi. Chẳng hạn, chất lượng khoa học của kinh tế học có thể sẽ vượt hoá học và sinh học, vì kinh tế học hiện đại ngày càng phải sử dụng đến nhiều công cụ toán học rất phức tạp. Nhưng trong mọi trường hợp, các nhà toán học luôn luôn cảm thấy được an ủi bởi sự suy tôn của người đời rằng “toán học là ông hoàng của các khoa học”! Một số người sùng bái thước đo toán học đến mức tuyên bố rằng sinh học trước Mendel không phải là một khoa học, bởi vì toán học chỉ có mặt trong sinh học kể từ các nghiên cứu di truyền của Gregory Mendel. Karl Marx cũng nhấn mạnh đến vai trò của toán học trong các khoa học. Bộ Tư Bản của ông được coi là một cột mốc để đánh dấu thời điểm kinh tế học thực sự trở thành một khoa học, bởi vì đó là lần đầu tiên các quy luật kinh tế được mô tả một cách định lượng. Tuy nhiên, phải đợi mãi đến năm 1969 mới có giải thưởng Nobel đầu tiên về kinh tế học. Phải chăng vì đến lúc đó kinh tế học mới thực sự sử dụng nhiều phân tích toán học? Một số người không công nhận Kinh Dịch là một khoa học thực sự, vì các nguyên lý của nó không được định lượng bằng các công thức chính xác của toán học. Một số nhà toán học đã cố gắng toán học hoá Kinh Dịch, nhưng hình như công trình của họ không nhận được sự chú ý của đông đảo các nhà khoa học. Phải chăng vì những trình bầy toán học đó chưa đủ thuyết phục? Một số người khác nói rằng ý đồ toán học hoá Kinh Dịch là không tưởng, vì bản thân ý đồ đó thể hiện sự thiếu hiểu biết đối với bản chất các tư tưởng Đông Phương. Gần gũi hơn, tư tưởng về cái xác định có thể tìm thấy nhan nhản ngay trong môn toán của học sinh phổ thông. Các em thường xuyên phải tìm “Tập Xác Định” của các hàm số mà các em phải đối mặt. Toán học của các em không chấp nhận phép chia cho số 0, vì kết quả hoặc vô nghĩa, hoặc bất định. Toán học rất “sợ” cái Bất Định! Trong thiên văn học cũng vậy, người ta không thể chấp nhận những tiên đoán “nước đôi”. Thí dụ, đến một ngày giờ nhất định nào đó, một thiên thể nhất định nào đó sẽ phải xuất hiện tại một vị trí nhất định nào đó trên bầu trời. Các lý thuyết thiên văn phải làm sao tiên đoán được chính xác vị trí đó, thay vì tiên đoán hoặc nó ở đây, hoặc nó ở kia. Trên thực tế, thiên văn học thế kỷ 19 đã đạt được nhiều kỳ tích. Thành tựu nổi tiếng nhất phải nhắc đến là công trình của Urbain Leverrier tiên đoán sự tồn tại và vị trí của Hải vương tinh – Neptune – một hành tinh trong Hệ Mặt Trời mà trước đó chưa từng được biết. Thực nghiệm thiên văn đã xác nhận tiên đoán của Leverrier là hoàn toàn chính xác. Thắng lợi của thiên văn học đã làm cho nhân loại vừa khâm phục vừa tin tưởng tuyệt đối vào khoa học. Trên đà thắng lợi, Pierre Simon Laplace đã đưa ra một lý thuyết nói rằng nếu biết trước trật tự của Vũ trụ tại một thời điểm nhất định, khoa học có thể tiên đoán được một cách chính xác trật tự của Vũ Trụ tại bất kỳ một thời điểm nào khác. Lý thuyết này được gọi là “Chủ nghĩa tất định Laplace” (Laplace’s Determinism). Mọi tính toán của lý thuyết này đều dựa trên các định luật của Cơ học Newton – một khoa học về chuyển động và tương tác giữa các vật thể trong không gian dưới dạng những công thức toán học chính xác. Tất nhiên những dự đoán của Laplace phải dựa trên một giả thiết cơ bản cho rằng những định luật ràng buộc Vũ Trụ hôm nay sẽ mãi mãi đúng. Nói cách khác, các định luật của Vũ trụ là bất biến – Vũ trụ bị ràng buộc bởi những định luật xác định. Vì thế, chủ nghĩa tất định Laplace là sự phát triển tư tưởng xác định trong khoa học tới đỉnh cao chưa từng có. Tuy nhiên, đỉnh cao nhất của tư tưởng này là Albert Einstein. 2-Chúa không chơi trò súc sắc: Năm 1921, trong dịp đầu tiên đến thăm nước Mỹ, khi nghe thấy tiếng đồn rằng người ta đã khám phá ra ether, Einstein lập tức phản ứng bằng một câu nói bất hủ: “Chúa rất khôn ngoan tinh tế, nhưng Ngài không ranh mãnh” (Rafinert ist der Herr Gott, aber boshsaft ist er nich). Phản ứng của Einstein là tất yếu, vì nếu quả thật có ether thì Thuyết Tương Đối Hẹp của ông sẽ bị sụp đổ. Tại sao vậy? Trong thế kỷ 19, các nhà khoa học cho rằng tồn tại một loại vật chất đặc biệt lấp kín không gian Vũ Trụ, được gọi là ether, để làm môi trường trung gian cho ánh sáng truyền qua (giống như dòng điện cũng phải có một môi trường để đi qua). Nếu quả thật như thế thì ánh sáng truyền theo hướng thuận chiều quay của Trái Đất và theo hướng ngược lại phải có tốc độ khác nhau (theo nguyên lý cộng tốc độ của Cơ học Newton). Nhưng thí nghiệm đo tốc độ ánh sáng của Michelson cuối thế kỷ 19 lại cho một kết quả hoàn toàn khác: tốc độ ánh sáng không thay đổi đối với mọi hệ quy chiếu. Sự thật này trước hết bác bỏ giả thuyết ether. Với trực giác thiên tài, thay vì nghi ngờ kết quả thí nghiệm của Michelson, Einstein lại tin chắc rằng vận tốc không đổi của ánh sáng là một đặc trưng kỳ lạ của Tự Nhiên mà trước đó nhân loại chưa nhận thức được, và do đó phải xét lại toàn bộ vật lý Newton từ những khái niệm nền tảng về không gian và thời gian. Đó chính là xuất phát điểm để ông xây dựng nên Thuyết Tương Đối Hẹp năm 1905, trong đó nguyên lý ánh sáng có vận tốc không đổi được coi như một tiên đề nền tảng. Lý thuyết này đã tạo nên một cuộc cách mạng vể nhận thức chưa từng có, đến nỗi Max Planck đã phải thốt lên ngay từ hồi bấy giờ rằng “Nếu lý thuyết của Einstein đúng, mà tôi nghĩ rằng nó đúng, thì ông sẽ là một Copernicus của thế kỷ 20” (Copernicus là một bác sĩ, thầy tu người BaLan đã nêu lên Thuyết Nhật Tâm, khẳng định Mặt Trời là trung tâm của Thái Dương Hệ, thay vì coi Trái Đất là trung tâm như quan niệm của Thuyết Địa Tâm đã ngự trị từ hàng ngàn năm trước đó). Nếu quả thật có ether thì suy ra thí nghiệm của Michelson không đúng, và lập tức lý thuyết của Einstein cũng sụp đổ theo. Nhưng Einstein tự tin đén mức khẳng định rằng đó chỉ là tưởng tượng. Chẳng bao lâu sau, ông lại đưa ra một tuyên ngôn tương tự, nhưng lần này còn bất hủ hơn: “Chúa không chơi trò súc sắc” (God does not play dice!), để chống lại Cơ Học Lượng tử với Nguyên Lý Bất Định của Werner Heisenberg. Vâng, nếu con súc sắc là biểu tượng của cuộc đỏ đen, may rủi, bất định, thì Chúa của Einstein không chơi trò đỏ đen! Chúa của ông là Đấng sáng Tạo của Vũ trụ – người ban hành những định luật xác định buộc tất thẩy những gì hiện hữu trong Vũ Trụ đều phải tuân theo. Nhiều lúc ông gọi Chúa của mình là Ông Cụ (The Old One), và khát vọng cháy bỏng trong tâm can ông là “hiểu được ý nghĩ của Ông Cụ” như ông thường nói trên cửa miệng, tức là khám phá ra những định luật xác định thống trị một phần hoặc toàn bộ Vũ Trụ. Thiên tài có một không hai của ông đã giúp ông thoả mãn một phần khát vọng đó: hàng loạt khám phá vĩ đại đã đưa ông lên vị trí một trong những bộ óc thông minh nhất của nhân loại, nhân vật số 1 của thế kỷ 20. Ông là con người của huyền thoại. Tất cả những khám phá của ông đều thể hiện rõ tính xác định của các định luật tự nhiên, kể cả Thuyết Thương Đối Hẹp lẫn Thuyết Tương Đối Tổng Quát. Đôi khi có người hiểu tính tương đối như một cái gì đó “thiếu chính xác” của Tự nhiên. Đó là một nhầm lẫn lớn, vì thuyết tương đối là một lý thuyết xác định cho phép tiên đoán một cách chính xác các hiện tượng thiên văn, vũ trụ. Sự chính xác trong các tiên đoán đạt tới mức kinh ngạc, điển hình là tiên đoán vị trí của các ngôi sao ở gần Mặt trời trên bản đồ thiên văn trong các kỳ nhật thực, để từ đó xác định được chính xác độ lệch của tia sáng khi nó đi ngang qua gần Mặt Trời. Trong khoa học, nếu coi tư tưởng xác định là cổ điển, tư tưởng bất định là hiện đại, thì Einstein là con người cổ điển bậc nhất, bảo thủ bậc nhất, mặc dù ông luôn luôn là biểu tượng vĩ đại nhất của tư tưởng cách mạng trong khoa học. Trong suốt cuộc đời, kể cả trước lúc ra đi, không bao giờ ông công nhận nguyên lý bất định của Cơ Học Lượng tử. Einstein là người ngoan cố và tự ái quá chăng? Không, trong đời đã có lúc ông phạm sai lầm trong học thuật nhưng khi nhận thấy mình sai, ông đã khảng khái công bố trên báo chí rằng ông đã sai (trường hợp tranh luận với Alexander Friedman về vũ trụ giãn nở). Nhưng với Nguyên Lý Bất Định, không bao giờ ông cho rằng mình sai. Theo ông, nguyên lý này chỉ thể hiện sự bất lực của khoa học trong việc khám phá ra những quy luật xác định trong thế giới lượng tử mà thôi. Nguyên Lý Bất Định đại ý nói rằng bạn không thể nào tiên đoán được vị trí chính xác của một hạt lượng tử tại một thời điểm cho trước giống như nhà thiên văn tiên đoán được vị trí chính xác của một ngôi sao tại một thời điểm cho trước. Einstein không đồng ý với kết luận đó. Theo ông, nếu vật lý không tiên đoán được chính xác kết quả, thì không phải vì bản chất bất định của thế giới lượng tử, mà chẳng qua vì vật lý chưa làm tròn bổn phận của mình. Ông đã cố gắng “bịa ra” rất nhiều thí nghiệm tưởng tượng để chứng minh Nguyên Lý Bất Định sai. Nhưng không may cho ông, Niels Bohr, người bảo vệ khổng lồ của Nguyên Lý bất Định, đã “ăn miếng trả miếng” đâu ra đấy mỗi khi Einstein tung các thí nghiệm tưởng tượng của mình ra. Trong nhiều cuộc “tranh hùng” giữa hai thiên tài này, nói chung Einstein thua, nhưng ông chỉ coi đó là cái thua tạm thời. Ông vẫn quyết chí phục thù. Rất tiếc ông đã phải ra đi trong lúc chưa khuất phục được trường phái bất định. Nhưng lịch sử cho thấy đến nay cũng chưa ai dám tuyên bố rứt khoát rằng Einstein đã sai, mặc dù Cơ Học Lượng Tử đã liên tiếp đạt được những chiến công vang dội, thu phục được hầu hết trái tim và khối óc của các nhà vật lý. Phải chăng vì uy tín của Einstein khổng lồ đến mức mọi người đều e ngại khi phải va chạm với một “ông thánh khoa học”? Thực ra không hẳn như vậy. Bằng chứng là vẫn có những trường phái vật lý hiện nay tin rằng Einstein đúng, Nguyên Lý Bất Định sai. Thật vậy, chẳng hạn nhóm nghiên cứu của Gerhard Rempe tại Đại học Konstanz ở Đức, vẫn đang tiếp tục những thí nghiệm nhằm chứng minh Einstein đúng, trong đó chỉ ra rằng cái gọi là bất định thực ra chỉ là biểu hiện của một quy luật khác ít được nhắc đến: Quy luật “rối lượng tử” (quantum entanglement)[1]. Tuy nhiên, vật lý hiện đại đã chọn một giải pháp “dĩ hoà vi quý”: Thay vì tiếp tục để cho hai trường phái xác định và bất định “đối đầu”, người ta đang tìm mọi cách để hoà hợp hai tư tưởng đó lại với nhau: Kết hợp Thuyết Tương Đối Tổng Quát của Einstein (lý thuyết cao nhất của tư tưởng xác định) với Cơ Học Lượng tử của Heisenberg (lý thuyết cao nhất của tư tưởng bất định) thành một lý thuyết chung, gọi là Lý Thuyết về Mọi Thứ (Theory of Everything). Đó là sự kết hợp giữa hai cực đối lập. Nếu hai cực này chỉ là hai cực “trái ngược” nhau mà thôi, thì tuyên ngôn bất hủ của Niels Bohr có thể sẽ là một gợi ý dẫn đường: “Trái ngược không phải là mâu thuẫn, mà chúng bổ xung cho nhau”. Nhưng nếu hai cực này là hai cực mâu thuẫn với nhau, thì e rằng sự kết hợp là bất khả (impossible). Đông học nói: Âm Dương đối lập nhưng hoà hợp trong Thái Cực. Phải chăng sự kết hợp lý thuyết của Einstein với lý thuyết của Heisenberg chính là tham vọng biết được Thái Cực, tức là tham vọng biết hết Trời-Đất. Tham vọng này e rằng có thái quá không? Trong khi tôi còn bán tín bán nghi thì đùng một cái, một khám phá lớn gần đây được công bố rầm rộ trên báo chí, sách vở, internet, trong đó tác giả đưa ra một tuyên bố trái ngược với tuyên ngôn của Einstein: “Chúa không chỉ chơi trò đỏ đen trong Cơ Học Lượng Tử, mà ngay cả trong nền tảng của toán học!”. Đó là một đòn choáng váng đối với chủ nghĩa xác định trong khoa học. Tác giả của tuyên bố đó là Gregory Chaitin, nhà toán học nổi tiếng của Tổ hợp IBM. 3-Số Omega và hiện thực ngẫu nhiên: Tháng 07-2003, một Hội nghị quốc tế về khoa học computer đã diễn ra tại Dijon, Pháp. Trong hội nghị này, một nhà khoa học Úc gốc Việt, giáo sư Kiều Tiến Dũng tại Đại học Swinburne, Melbourne, Australia, đã trình bầy một báo cáo về một khám phá mới của ông liên quan đến một con số kỳ lạ, được gọi là số Omega, ký hiệu: W. Mở đầu báo cáo, giáo sư Kiều viết: “Một trong những công trình nghiên cứu gây ngạc nhiên lớn nhất trong khoa học tính toán gần đây là sự khám phá ra số W, thông qua một nhánh của Lý thuyết thông tin thuật toán”. Thật vậy, sự khám phá ra W đã gây nên một cú sốc lớn trong giới khoa học, bởi lẽ nó cho thấy toán học không phải là một hệ thống xác định như người ta vẫn tưởng, mà hoá ra cũng chứa đựng tính ngẫu nhiên giống như trong Cơ Học Lượng Tử. Vậy W là gì? Đó là một con số do Gregory Chaitin tìm ra cách đây không lâu, dựa trên việc phát triển Định Lý Bất Toàn (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel và Sự Cố Dừng (The Halting Problem) của Alan Turing. Định lý Godel khẳng định rằng mọi hệ logic khép kín đều không đầy đủ (bất toàn), và rằng trong toán học tồn tại những định lý đúng nhưng không thể chứng minh (unprovable). Một biểu hiện cụ thể của Định Lý Bất Toàn là Sự Cố Dừng: Không thể đoán trước được một chương trình computer liệu có thể bị dừng hoặc chạy vòng quanh mãi mãi hay không. Từ bài toán của Turing, Chaitin đặt vấn đề: Hãy tính xác suất để một chương trình computer được chọn ngẫu nhiên trong số những chương trình có thể có sẽ bị dừng là bao nhiêu? Chaitin gọi xác suất đó là Omega. Rõ ràng W tồn tại, bởi vì trong thực tế, một chương trình có khả năng sẽ bị dừng, hoặc không. Khả năng đó chính là W. Theo định nghĩa xác suất, W là một số thực biến thiên trong khoảng giữa 0 và 1: 0 < W < 1. Tuy nhiên chúng ta sẽ không bao giờ biết W bằng bao nhiêu, vì theo Sự Cố Treo Máy của Turing, không thể đoán trước được một chương trình có bị dừng hay không. Tóm lại, W là một con số có thật, nó hiện hữu, nhưng không thể tính được, hoặc không thể biết được. Không tồn tại bất kỳ một thuật toán nào cho phép xác định được các chữ số của W. Nếu viết trong hệ nhị phân, W sẽ là một dãy vô hạn các chữ số 0 và 1. Nếu cho số 0 tương ứng với một đồng xu sấp, số 1 tương ứng với đồng xu ngửa, thì W sẽ là một dãy gieo đồng xu vô hạn lần, nhưng bạn không có cách nào để đoán trước được kết quả “sấp/ngửa” của những lần gieo đồng xu đó. Đây là một hiện tượng chưa từng xẩy ra trong toán học. Chú ý rằng một số vô tỷ như số p chẳng hạn, tuy là một số thập phân vô hạn không tuần hoàn, các chữ số xuất hiện không theo một quy luật nào cả, nhưng vẫn là một số xác định, bởi vì chúng ta có thể xác định được (tính được) bất kỳ chữ số nào của nó, miễn là thời gian và sức lực cho phép. Nhưng W là một con số hoàn toàn khác: nó là một con số bất định, các chữ số của nó xuất hiện một cách ngẫu nhiên, do đó không thể xác định được, bất chấp thời gian và sức lực của con người và computer. Từ đó Chaitin rút ra 2 kết luận rất quan trọng: Một, trong toán học tồn tại những con số không thể tính được (uncomputable), hoặc không thể biết được (unknowable). Kết luận này tương đương với kết luận của Godel: trong toán học tồn tại những mệnh đề không thể quyết định được (undecidable), nghĩa là không thể chứng minh nhưng cũng không thể bác bỏ. Hai, vì những con số mang bản chất ngẫu nhiên không tính được là số thực, mà số thực là nền tảng của số học, tức là nền tảng của toán học, do đó tính ngẫu nhiên (randomness) nằm trong nền tảng của toán học. Suy rộng hơn nữa, vì toán học là nền tảng của khoa học, do đó tính ngẫu nhiên nằm trong nền tảng của toàn bộ khoa học. Kết luận này đã gây nên một cú sốc lớn trong khoa học. Tạp chí New Scientist cảnh báo: “Ông ấy (Greg Chaitin) đã làm tiêu tan toán học bằng một con số duy nhất. Và đó mới chỉ là màn mở đầu thôi … Đây là một tin không tốt lành đối với những nhà vật lý đang muốn tìm ra một sự mô tả đầy đủ và chính xác về Vũ Trụ. Toán là ngôn ngữ của vật lý, do đó khám phá của Chaitin ngụ ý rằng không thể nào có một Lý Thuyết về Mọi Thứ (Theory of Everything) được”. Nếu Chaitin đúng thì có nghĩa là không thể tồn tại một lý thuyết mang tính xác định của toàn Vũ Trụ được, bởi vì Vũ Trụ mang tính ngẫu nhiên hơn là xác định. Thật vậy, theo Chaitin, những định lý và định luật mà khoa học có thể khám phá được thực ra quá lắm cũng chỉ giống như những hòn đảo hoặc quần đảo ngoài biển khơi, trong khi cái ngẫu nhiên bất định chính là đại dương biển cả mênh mông. Ở đây, bất ngờ ta gặp lại tư tưởng của Laplace: “Cái ta biết thì ít ỏi vô cùng, cái ta không biết thì mênh mông bể sở!” (Ce que nous savons est peu de choses, ce que nous ignorons est immense!). Kể cũng lạ lắm thay, Laplace chính là tác giả của Học Thuyết Tất Định Vũ Trụ, một học thuyết tuyên bố sẽ biết được mọi trạng thái của Vũ trụ tại mọi thời điểm, nhưng chính Laplace lại nói ra những lời “biết mình biết người” như vậy. Thế mới biết cái đầu triết học vẫn cứ sâu sắc hơn cái đầu khoa học. Trên một góc độ khác, kết luận của Chaitin hoàn toàn phù hợp với kết luận của lý thuyết về Entropi – mức độ hỗn độn của vật chất trong Vũ Trụ càng ngày càng tăng lên, trật tự càng ngày càng giảm đi (định luật Entropi). Vì thế chẳng cần đến Nguyên Lý Bất Định của Cơ Học Lượng Tử cũng có thể thấy rằng nhiều hiện tượng vũ trụ sẽ không thể nào tiên đoán chính xác được. Tư tưởng về cái bất định đang càng ngày càng lớn lên, thế giới xác định đang càng ngày càng thu hẹp lại. Đó chính là nhận thức hiện đại của khoa học. Vì thế đến nay tư tưởng của Einstein đã được coi là cổ điển, và ông là hiệp sĩ cuối cùng trong hàng ngũ những hiệp sĩ khoa học cổ điển. 4-Kết: Có thể cái xác định chỉ là những chân lý cục bộ, trong khi cái bất định là chân lý toàn phần. Vì thể chúng ta chỉ có thể nhận thức được cái cục bộ, thay vì có thể nhận thức chính xác cái toàn phần. Tham vọng biết chính xác cái toàn phần là bất khả. Khi nói đến cái bất khả, một số người dẫy nẩy lên coi đó là điều tối kỵ, không nên nhắc đến trong khoa học, bởi vì nó chống lại khoa học. Đó là một nhận thức ngây thơ về khoa học. Ngược lại, chính vì biết rằng có những giới hạn bất khả không thể vượt qua, rằng không bao giờ có thể biết hết mọi sự, rằng mỗi lần khám phá chỉ là một sự vén mở bí mật của một góc nào đó của thế giới mà thôi, đúng như Newton từng nói, “mỗi lần có một khám phá tôi cảm thấy như một cậu bé nhặt được một viên sỏi rất đẹp trên bãi biển”, do đó sự khám phá sẽ kéo dài vô tận, không bao giờ cạn kiệt, niềm vui sáng tạo sẽ không bao giờ chết. Đó chính là hạnh phúc của cuộc sống. Trên một phương diện khác, nếu khoa học không giúp con người khám phá ra mọi sự thật, thì cần phải có sự bổ sung nhận thức bằng nhiều phương tiện khác nhau. Mỗi phương tiện sẽ có một ưu thế riêng. Có lẽ vì thơ văn dùng trực giác để khám phá sự thật nên đã tìm ra kết luận bất khả sớm hơn khoa học rất nhiều. Bằng chứng là truyện “Thầy bói xem voi” đã lưu truyền từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim mà ai cũng biết. Trong tiếng Anh, truyện được viết bằng thơ, nhan đề là “The Blind Men and the Elephant” (Những anh mù và con voi). Truyện kể sáu anh mù sờ voi, mỗi anh đưa ra một “lý thuyết” mô tả con voi, rồi kết như sau: And so these men of Indostan Disputed loud and long Each in his opinion Exceeding stiff and strong, Though each was partly in the right And all were in the wrong! Xin tạm dịch: Thế là sáu anh mù Ở xứ In – dos – tan Tranh cãi nhau ỏm tỏi Lý của ai cũng giỏi Anh nào cũng hung hăng Nhưng chỉ đúng một phần Nên đều sai tất cả! PHỤ LỤC: CÁI CHẾT CỦA NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH Phạm Việt Hưng (Bài đã đăng trên Tiền Phong Chủ Nhật 11-04-1999, Lao Động 28-04-1999 Và trong tuyển tập “Những câu chuyện khoa học hiện đại”, NXB Trẻ 2003) Version 1 (Tiền Phong CN): Đó là đầu đề bài báo của Mark Buchanan đăng trên tạp chí New Scientist, một trong những tuần san khoa học uy tín bậc nhất của Anh, số ra ngày 06-03-1999, đang gây xôn xao dư luận khoa học toàn thế giới. Bài báo công bố thí nghiệm của một nhóm các nhà khoa học Đức cho thấy Nguyên Lý Bất Định của Werner Heisenberg, một trong hai nền tảng của vật lý hiện đại, có nguy cơ sụp đổ. Sau khi nhắc lại cuộc tranh luận lịch sử giữa Albert Einstein và Niels Bohr về nguyên lý này (Einstein chống đối quyết liệt, Bohr bảo vệ quyết liệt), bài báo cho biết: Bohr và Einstein hồi ấy đã phải đưa ra những thí nghiệm tưởng tượng để chứng minh lý thuyết của họ, vì công nghệ hồi đó chưa cho phép làm một thí nghiệm thật. Nhưng tình hình ngày nay đã thay đổi. Với kỹ thuật laser, Gerhard Rempe và các cộng sự của ông tại Đại Học Konstanz ở Đức đã thực hiện một trong các thí nghiệm nổi tiếng mà những “người khổng lồ” của lý thuyết lượng tử đã tranh cãi – đó là thí nghiệm quen thuộc thường được gợi là “thí nghiệm hai khe” (two-slit experiment). Phương pháp thí nghiệm mới được đề xuất vào năm 1991 bởi MarLan Scully, Berthold-Georg Englert và Herbert Walther tại Học viện quang lượng tử Max Planck ở Garching, Đức, với việc chọn hạt lượng tử là nguyên tử, vì nó dễ để lại dấu vết hơn. Nhiều năm trước đây người ta cũng đã từng làm thí nghiệm này nhưng với những điều kiện thô sơ hơn, do đó không phát hiện thấy giao thoa, điều này làm cho người ta tin rằng Nguyên Lý Bất Định hoàn toàn đúng. Nhưng khi Rempe và các cộng sự của ông báo cáo kết quả thí nghiệm của họ vào tháng 9 năm ngoái (1998), các nhà vật lý đã thực sự lo lắng. Bài báo viết: “Kết quả của họ chứng tỏ rằng lập luận của Bohr dựa trên một sự nhầm lẫn”. Bài báo cho biết là trong bao nhiêu năm qua các nhà vật lý đã không hề hay biết rằng có một lý thuyết quan trọng nhất, đó là Thuyết rối lượng tử (quantum entanglement). Hiện tượng không thấy dấu vết giao thoa thực ra là quy luật rối lượng tử – một đặc trưng của thế giới lượng tử – chứ không phải là yếu tố bất định. Về mặt lý thuyết, bài báo nhắc tới quan điểm của nhà vật lý Yu Shi tại Đại Học Cambridge phê phán Bohr chỉ dựa trên những quan hệ đơn giản mà Planck và De Broglie đã mô tả. Shi đã phân tích lại các thí nghiệm tưởng tượng, sử dụng các phương trình chính xác của thuyết lượng tử mô tả đầy đủ nhất khả năng của một hạt lượng tử. Và ông nhận thấy rằng bất chấp mọi điều Bohr nói, Nguyên Lý Bất Định chẳng liên quan gì đến sự huỷ giao thoa sóng. Shi nói: “Mọi người nghĩ rằng Bohr đúng, Einstein sai, nhưng điều này còn xa sự thật lắm … Hãy quên mọi quan niệm mập mờ về bất định đi và hãy nghĩ tới khái niệm chính xác hơn, đó là quy luật rối lượng tử”. Và Mark Buchanan kêu lên: “Hãy vẫy chào tạm biệt Nguyên Lý Bất Định, bạn không còn cần đến nó nữa, và hãy chào đón Hello Thuyết rối lượng tử”. Cuối cùng Buchanan dùng đúng ý tưởng của Bohr rằng “trái ngược không phải là mâu thuẫn” để kết bài báo, hàm ý đã đến lúc phải nhận thấy một tư tưởng trái ngược với Bohr mới là chân lý! Nếu thí nghiệm của Rempe là đúng thì đây là một cuộc “cách mạng lại” khoa học vật lý nói riêng và vũ trụ quan nói chung. Đây là điều không thể tưởng tượng được, vì hơn 70 năm qua Nguyên Lý Bất Định của Heisenberg đã đi vào lịch sử như một chân lý tổng quát của Tự Nhiên, ngang tầm với Thuyết Tương Đối Tổng Quát của Einstein. Nhiều nhà khoa học đang tìm cách khắc phục yếu tố bất định bằng con đường kết hợp nó với Thuyết Tương Đối Tổng Quát, mặc dù Stephen Hawking đã cảnh báo đó là hai cực đối lập không tương thích với nhau. Tất cả những nghiên cứu theo phương hướng này, kể cả những công trình vừa mới công bố vào cuối năm 1998 đầu 1999, đều coi Nguyên Lý Bất Định như một cực của chân lý. Chỉ có trường phái rối lượng tử mới phủ định Nguyên Lý Bất Định. Phải chăng trường phái này được thúc đẩy bởi niềm tin mạnh mẽ của chính Einstein, và vô tình họ đã chứng minh rằng Einstein mới thực sự là một thiên tài? Mọi kết luận vội vã lúc này có thể là quá sớm và thiếu nghiêm túc. Hãy chờ xem, và có lẽ tốt hơn, hãy cùng nghiên cứu xem. Tuy nhiên dù sự thật có thế nào đi chăng nữa thì dường như những thách thức thú vị đang lấp ló trước ngưỡng cửa thế kỷ 21. Version 2 (Lao Động): Nguyên Lý Bất Định (Uncertainty Principle) do Werner Heisenberg, nhà vật lý lỗi lạc người Đức, xây dựng từ năm 1927. Vào thời đó, người ta đã biết hạt cơ bản có hai đặc tính: Sóng và hạt. Nhưng Nguyên Lý Bất Định khẳng định rằng không thể đồng thời xác định hai đặc tính đó cùng một lúc, nghĩa là xác định được đặc tính này thì không xác định được đặc tính kia. Nguyên lý này cũng khẳng định không thể đồng thời xác định vị trí và thời điểm xuất hiện của hạt cơ bản, nghĩa là không thể tiên đoán chính xác vị trí xuất hiện của hạt cơ bản tại một thời điểm cho trước. Bất chấp sự chống đối quyết liệt của Einstein, Nguyên Lý Bất Định đã giải thích thành công rất nhiều hiện tượng phức tạp của thế giới vi mô và trở thành nền tảng của Cơ Học Lượng Tử. Nhờ đó Heisenberg đã đoạt Giải Nobel vật lý năm 1932. Nhưng Nguyên Lý Bất Định càng quan trọng bao nhiêu thì bài báo của Buchanan càng làm choáng váng giới vật lý bấy nhiêu khi nó công bố kết quả thí nghiệm của Gerhard Rempe tại Đại Học Konstanz ở Đức vào tháng 9 năm ngoái. Đó là “thí nghiệm hai khe” (two-slit experiment) quen thuộc với các nhà vật lý: Rọi một tia lượng tử vào một vách chắn có hai khe để nhận kết quả giao thoa trên màn ảnh. Các thí nghiệm trước đây không phát hiện thấy giao thoa, nhưng trong thí nghiệm của Rempe với hạt lượng tử được chọn là nguyên tử, được làm đông lạnh tới độ 0 tuyệt đối bằng laser, kết quả cho thấy giao thoa xuất hiện. Rempe giải thích rằng việc mất dấu vết giao thoa trước đây đã đánh lừa các nhà khoa học, làm họ tưởng rằng nguyên nhân là do yếu tố bất định, nhưng thực ra đó là “quy luật rối lượng tử” (quantum entanglement rules). Vậy là Nguyên Lý Bất Định có nguy cơ sụp đổ? Bao nhiêu công trình về vật lý nguyên tử trong hàng chục năm qua dựa trên Nguyên Lý Bất Định cũng sụp đổ theo? Mọi lý thuyết hiện đại liên quan đến Nguyên Lý Bất Định cũng trở nên vô nghĩa? Không thể tin như thế được! Nhưng G.Rempe và trường phái của ông thì tin chắc rằng họ đúng! Họ đã nghiên cứu công phu, nghiêm túc và đã đưa ra kết quả rõ ràng. Nếu họ đúng, tức là Einstein đúng, thì đây sẽ là biến cố khoa học quan trọng nhất kết thúc thế kỷ 20, mở đầu thế kỷ 21! Sydney ngày 19-03-1999 PVHg [1] Xem bài “Cái chết của nguyên lý bất định” trong “Những câu chuyện khoa học hiện đại” của Phạm Việt Hưng, NXB Trẻ, 2003. Cũng có thể xem trên các báo Tiền Phong Chủ Nhật 11-04-1999, Lao Động 28-04-1999, đã được chép lại trong Phụ Lục ở cuối bài viết này.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Sept 22, 2011 7:41:02 GMT 9
Những nghịch lý nói lên tính bất toàn trong đời sống loài người Phạm Việt Hưng Ảnh bên: Tranh “Adam & Eve in the worthy paradise“, tranh của Peter Paul Rubens, 1615 Kể ra thì vô số nghịch lý trên đời … Cuối cùng con người tưởng mình có khoa học, hiểu biết và khôn ngoan sau khi ăn “trái cấm”[1], nhưng con người càng tự phụ giỏi giang lại càng thấy rắm rối và ngu dốt, càng hiểu biết thêm mới càng thấy con người khác nào “anh mù sờ voi”. Chỉ có Bà Mẹ Tự Nhiên mới tạo ra tất cả! Con người muốn làm chủ vũ trụ, chinh phục thiên nhiên lại bị thiên nhiên dậy cho những bài học đau đớn nhất. Con người không theo ý Bà Mẹ, bị Bà Mẹ trừng phạt. Chừng nào con người còn tự phụ cho mình là hiểu biết, tưởng rằng khoa học hiện đại có thể giúp con người tránh được mọi thảm hoạ thì chừng đó con người càng trở nên ngu dốt, u minh … (HồngNhung, sinh viên đại học). Lời dẫn: Bài viết này là một comment của độc giả Trần Hồng Nhung đối với loạt bài “Định Lý Bất Toàn” trên Vietsciences và PhamVietHung’s Home. Vì nội dung vượt quá khuôn khổ của một comment nên tôi xin công bố trên Trang Nhà của tôi như một bài viết hoàn chỉnh. Xin trân trọng cảm ơn tác giả Trần Hồng Nhung (PVHg) Thuở hồng hoang khi con người mới có trên mặt đất thì cây cối và muông thú nhiều vô kể, muốn ăn trái cây hay giống vật gì cũng có. Cánh rừng, đồng cỏ, sông suối là cái nôi nuôi sống loài người. Khi ấy đàn ông không phải vất vả nhiều để kiếm ăn, trong khi đàn bà có nhiệm vụ sinh con đẻ cái, rồi lại phải vất vả nuôi nấng, chăm sóc con cái lớn lên, vì thế đàn bà đóng vai trò chính trong cuộc sống của con người. Đó là thời kỳ Mẫu hệ, giai đoạn đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Sau này con người ngày càng sinh sôi này nở nhiều hơn, nhưng chưa biết trồng trọt chăn nuôi, sản vật trong rừng hiếm hoi dần. Đàn ông phải vào rừng săn bắn hái lượm để giúp vợ nuôi nấng gia đình. Thêm nữa, việc tranh giành lãnh thổ lại cần đến sức khoẻ đàn ông nhiều hơn. Khi ấy đàn ông trở thành lao động chính trong nhà và con người chuyển sang thời kỳ Phụ hệ. Dần dần con người phát triển lên. Trong mọi lĩnh vực đời sống đàn ông đều tỏ ra vượt trội so với đàn bà. Họ khôn ngoan, khoẻ mạnh, giỏi giang hơn đàn bà. Đó là lúc đàn ông bắt đầu thống trị thế giới, mặc dù cũng có người nói rằng thực ra đàn bà vẫn thống trị thế giới, bởi đàn ông chỉ mạnh mẽ bề ngoài thôi, bên trong yếu ớt lắm. Một bóng hồng nhan là đủ đánh gục họ rồi! Lịch sử đã chứng kiến bao nhiêu đấng mày râu oai hùng bị sụp đổ quyền lực và danh vọng chỉ vì đàn bà đấy thôi! Phải chăng đó chính là nghịch lý thứ nhất về tính bất toàn trong đời sống loài người? Thời kỳ đầu tiên con người chỉ chạy và đi bộ, như thế thì mất sức khoẻ nhiều quá, còn người liền chế tạo ra xe ngựa, xe kéo, rồi xe đạp, xe máy, dần đến ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ và máy bay để có những phương tiện giao thông tiện lợi con người phải đầu tư bao nhiêu chất xám của những nhà khoa học hàng đầu trên thế giới…Nhưng cuối cùng thì con người nhận ra rằng đi xe máy nhiều như ở VN thì sẽ làm cho giao thông trở nên hỗn loạn, mỗi lần ách tắc giao thông con người dễ trở nên cáu bẳn và sinh ra đánh nhau có khi dẫn đến giết nhau chỉ vì phải chờ đợi tắc đường, va chạm vào nhau thấy khó chịu, hay là ngửi mùi khói bụi xăng xe ghê quá mà con người đâm ra lại giống như thú dữ lao vào nhau nhiều hơn, thế là tai nạn giao thông tràn lan khắp nơi, người chết vì giao thông mỗi ngày nhiều gấp mấy lần chết vì chiến tranh xưa kia! Đó chính là nghịch lý bất toàn trong giao thông. Vậy đi xe máy ko ổn thì mua xe ô tô, nhưng ô tô lại ko có chỗ đỗ xe, đường thì hẹp mà lắm ô tô quá, sinh ra tắc đường! Rồi lại có lắm kẻ lái xe coi thường tính mạng con người sinh ra nhiều vụ chạy xe ẩu làm cho tai nạn giao thông ngày càng nhiều…Vậy ta đi tầu hoả đc chăng, đi tàu hoả ở VN thì hơi bẩn, lại lo lắng nhiều kẻ dưới đất ném đá lên tầu nhỡ trúng mình thì sao, nguyên nhân là do ý thức người con dân VN kém quá! Lại thêm đường cắt ngang ở VN thường ko có thanh chắn nên thường xuyên tầu hoả đâm vào ô tô, thế thì đành đi máy bay vậy. Nhưng máy bay thì tốn tiền quá, mà dân ta lại nghèo thôi đi bộ vẫn là tốt nhất. Đi bộ hay đi xe đạp vừa khoẻ người lại vừa thể thao, làm cho tuổi thọ con người đc sống lâu hơn! Suy ra áp dụng khoa học kỹ thuật vào giao thông đâu phải chỉ mang cho con người sự tiện lợi mà mang theo nhiều vấn nạn kèm theo. Đó là nghịch thứ hai về tính bất toàn. Ngày xưa con người ban đầu đều ở nông thôn cả. Ở quê “bánh đa bánh đúc” bình dị ngọt ngào biết bao! Sau này đời sống phát triển sinh ra các đô thị tràn ngập văn minh, người nhà quê đổ ra thành thị để làm ăn sinh sống. Người ta cho rằng: “Giầu nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội”, cứ nhất định phải ra sống ở thành phố, chui rúc vào những ngôi nhà xây kiểu hình ống cao vút mà diện tích nhỏ hẹp, mật độ dân số đông đúc quá, thiếu không khí để thở, để sống, làm mất đi vẻ êm đềm thơ mộng của thành phố, biến thành phố thành một “xứ nhà quê kiểu mới”. Nào ô nhiễm môi trường, nào không khí dày đặc khói bụi, cộng với mật độ dân cư đông đúc, sống chen chúc nhau, sinh ra bao nhiêu tệ nạn xã hội: trộm cắp, đĩ điếm, ma tuý, cờ bạc, đói rách, nhếch nhác bẩn thỉu… Con người không hiểu được rằng chính những cụ già ở thôn quê, nhất là các cụ sống ở miền núi hay vùng biển thanh vắng, khí hậu tinh khiết, trong lành mới có tuổi thọ cao nhất đất nước. Đó là nghịch lý thứ ba về tính bất toàn. Con người phá rừng đi để làm những công trình thuỷ điện, nhưng nhiều khi nước ko có đủ mà sản xuất ra điện, con người chặt cây đi để lấy gỗ sản xuất chế biến thành bao nhiêu bàn ghế, giường tủ đẹp mắt, thậm chí họ làm những cột nhà vĩ đại…Ở Malaysia họ phá rừng để trồng cây cọ lấy dầu, trồng cây cao su lấy mủ, hay trồng cà phê lấy hạt vì họ nghiên cứu thấy rằng ăn dầu cọ dầu đậu nành hay dầu cải thì tốt hơn là ăn mỡ động vật. Các nhà khoa học cho rằng dầu ăn tốt cho bệnh tim mạch, áp huyết, giảm mỡ trong máu, từ mủ cây cao su thì chế biến ra săm lốp ô tô, máy bay, rồi nhiều thứ khác như đệm mút cao su, càfe để uống cho sảng khoái mang lại hiệu quả hơn trong công việc cuộc sống…Tuy nhiên ko biết rằng có bao nhiêu người đc giảm những thứ bệnh trên, có bao nhiêu con người đc hưởng lợi vì đi ô tô máy bay, vì sự sảng khoái của cafe… chỉ biết rừng bị chặt phá thì sinh ra lụt lội làm bao nhiêu người chết và mất nhà cửa, sinh ra những cơn bão mà ko có rừng chắn đầu nguồn thành ra bão lớn khủng khiếp giật đổ nhà đổ cửa, đó chính là thảm hoạ thiên tai do chính con người gây nên. Đó chính là nghịch lý thứ tư của nguyên lý bất toàn. Con người tìm ra thuốc nổ, tưởng rằng đó chính là tìm ra sự văn minh nhân loại, nhưng than ôi! Ngày nay con người từ thứ thuốc nổ ấy chế ra bao nhiêu súng đạn để bắn giết lẫn nhau. Những nước giầu chế ra súng đạn để bán cho những nước nghèo, rồi có khi từ mấy nước giầu lại khích cho mấy nước nghèo gây chiến với nhau để bán đc nhiều vũ khí, cuối cùng khoa học để mang lại sự chết chóc của con người. Đó chính là nghịch lý thứ năm của nguyên lý bất toàn. Cũng từ khoa học mà con người biết đến thứ hạt nhân nguyên tử, ban đầu chỉ áp dụng để chữa bệnh như bà Marie Curie, nhưng con người tham vọng lớn hơn, chế ra những quả bom nguyên tử. Và những quả bom đầu tiên đã dội xuống Nhật Bản làm chết biết bao nhiêu con người vô tội, và kéo theo sau là bao nhiêu di chứng của bệnh ung thư… Bây giờ con người tìm ra điện hạt nhân, có vẻ như vừa tốt, vừa sạch, nhưng Nhật Bản là nước giầu có, khoa học hiện đại bậc nhật thế giới, vậy mà chỉ sau trận động đất kèm theo sóng thần đã phải khốn đốn không khống chế nổi sự rò rỉ của phóng xạ, đành bỏ nhà máy điện hạt nhân đi cho rồi! Có lẽ con người nên quay lại dùng thứ nến hay đèn dầu như ngày xưa thì có lẽ tốt hơn, sống phụ thuộc vào điện quá nhiều mang lại hậu qủa thê thảm quá! Khoa học phát triển con người tìm ra thuốc kháng sinh để cứu chữa được bao nhiêu loại bệnh, nhưng uống thuốc kháng sinh lại có tác dụng phụ, hiện nay là nhờn thuốc. Vậy thôi con người nên quay về với cội nguồn uống thuốc Bắc, thuốc Nam như ông cha ta ngày xưa có lẽ sẽ tốt hơn cho môi trường và sức khoẻ. Đó chính là nghịch lý thứ sáu. Kể ra thì vô số nghịch lý trên đời … Cuối cùng con người tưởng mình có khoa học, hiểu biết và khôn ngoan sau khi ăn trái cấm nhưng con người càng tự phụ giỏi giang lại càng thấy rắm rối và ngu dốt, càng hiểu biết thêm mới càng thấy con người khác nào “anh mù sờ voi”. Chỉ có Bà Mẹ Tự Nhiên mới tạo ra tất cả! Con người muốn làm chủ vũ trụ, chinh phục thiên nhiên lại bị thiên nhiên dậy cho những bài học đau đớn nhất. Con người không theo ý Bà Mẹ, bị Bà Mẹ trừng phạt. Chừng nào con người còn tự phụ cho mình là hiểu biết, tưởng rằng khoa học hiện đại có thể giúp con người tránh được mọi thảm hoạ thì chừng đó con người càng trở nên ngu dốt, u minh … [1] Theo Kinh Thánh, “trái cấm” mà Adam và Eva ăn vụng lại là “trái hiểu biết” – ăn vào bỗng nhiên “mở mắt ra”, “thông tỏ mọi sự”, phân biệt được Thiện/Ác, và biết xấu hổ vì thấy mình trần truồng, vội lấy lá nho che đậy.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 3, 2021 18:11:54 GMT 9
|
|