|
Post by NhiHa on Jun 1, 2009 14:01:34 GMT 9
Thiết kế đô thị Thiết kế đô thị (urban design) là việc cụ thể hóa nội dung quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị về mặt tổ chức không gian chức năng bên ngoài công trình, bố cục không gian, tạo cảnh và trang trí trong không gian đô thị; hình thành và cải thiện môi trường; hoàn thiện thiết bị bên ngoài. Như vậy, bản chất của thiết kế đô thị là thiết kế kiến trúc của không gian đô thị. ( Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về sắp xếp không gian, thiết kế các công trình kiến trúc. Một định nghĩa rộng hơn có thể bao gồm việc thiết kế môi trường xây dựng tổng thể, từ vĩ mô như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị và kiến trúc cảnh quan đến vi mô như thiết kế sản phẩm. ) Nội dung Sắp xếp hợp lý các chức năng sử dụng trong không gian đô thị[cần dẫn nguồn]. Tạo hình thể/hình khối không gian, dáng dấp của công trình bao quanh không gian[cần dẫn nguồn]. Hai vấn đề này có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau. Nếu hình khối lõm (theo phương ngang, đứng) thì hình thể không gian bị lồi và ngược lại. Đường nét tạo hình khối cũng chính là đường nét tạo hình thể không gian. Trang trí không gian, bố cục chất liệu, đường nét, màu sắc... trong không gian[cần dẫn nguồn]. Bao gồm trang trí bề mặt công trình bao quanh không gian như mặt phố, bề mặt công trình bao quanh quảng trường; bề mặt nền. Sản phẩm Thiết kế đô thị có 3 dạng sản phẩm[cần dẫn nguồn]: các bản vẽ thiết kế; các quy định, hướng dẫn; các thể chế thực hiện. Các sản phẩm này không thể tách rời trong quá trình thực hiện. Bản vẽ thiết kế đa dạng theo tính chất của các khu vực chức năng trong đô thị, trong các cấp độ từ tổng thể đến chi tiết; từ các đề xuất về cảnh quan tổng thể, phân vùng cảnh quan và không gian lớn đến các giải pháp về tuyến, trục cảnh quan, tổ hợp các không gian nhỏ hơn và các đề xuất liên quan đến các công trình kiến trúc như màu sắc, vật liệu, tầng cao... Hàm lượng về nội dung thiết kế đô thị, việc quan tâm đến các khía cạnh xã hội, tiện nghi trong không gian trong mỗi một loại hình đồ án là không giống nhau. Các quy định, hướng dẫn trong thiết kế đô thị khác nhau về mức độ chặt chẽ, thể chế hóa theo tính chất của từng khu vực, từng đối tượng quản lý. Về thể chế, thiết kế đô thị đưa ra quy định có những điều khoản bắt buộc và những điều khoản khuyến khích thực hiện. Các thể chế đi kèm là những biện pháp cụ thể để đảm bảo cho những điều khoản bắt buộc hoặc khuyến khích đó được thực hịên. Các thể chế nghiêm khắc như phá dỡ công trình nếu vi phạm giấy phép xây dựng là điều khoản bắt buộc phải tuân theo. Các chính sách về thuế, về lệ phí xây dựng …áp dụng cho các điều khoản khuyến khích. Ví dụ như việc xây dựng nhà cao tầng ở các khu vực không khuyến khích sẽ phải chịu chi phí thuế xây dựng lớn hơn ở các khu vực khuyến khích. Người xây nhà sử dụng màu đậm có thể bị đánh thuế cao hơn so với người sử dụng màu nhạt, sáng là mầu khuyến khích sử dụng. Phong cách kiến trúc cũng có thể áp dụng tương tự[cần dẫn nguồn]. Phân biệt với quy hoạch cảnh quan Cần phân biệt thiết kế đô thị với quy hoạch cảnh quan. Quy hoạch cảnh quan là việc tạo ra không gian chính đô thị, tức là chỉ thể hiện ở chỉ giới xây dựng và tầng cao trung bình xung quanh của các ô đất; bố cục các mảng thiên nhiên cây xanh, mặt nước, đồi gò trong không gian ấy. Quy hoạch cảnh quan và thiết kế cảnh quan là hai lĩnh vực chủ yếu của kiến trúc cảnh quan. Tham khảo Luật xây dựng Việt Nam 2003 Về quy hoạch, thiết kế đô thị và kiến trúc cảnh quan, Tạp chí xây dựng số 1/2006. Thiết kế đô thị - đang cần những bước đi đột phá, TS Phạm Hùng Cường, Trường Đại học Xây dựng. Quy hoạch đô thịBách khoa toàn thư mở Wikipedia Quy hoạch vùng ven đô có mật độ dân cư thấp ở Cincinnati, Hoa Kỳ. Phương án dự thi quy hoạch chi tiết và cảnh quan dọc Lạch Tray, Hải Phòng, Việt Nam. Quy hoạch xây dựng đô thị là bộ môn khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hóa, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, và hướng tới sự phát triển bền vững. Các không gian đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội đô thị cần được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội- môi trường. Những hoạt động cụ thể liên quan đến ngành quy hoạch đô thị là: Đầu tư và phát triển bất động sản: Ở đây việc đầu tư và phát triển bất động sản phải tuân theo quy luật phát triển chung của xã hội-kinh tế riêng từng khu vực cụ thể. Văn hóa, lối sống cộng đồng Chính sách quản lý và phát triển bất động sản và nhà ở Chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho mỗi vùng, mỗi khu vực Đầu tư hạ tầng kỹ thuật Phát triển và bảo tồn các di sản kiến trúc và thiên nhiên Phát triển bền vững của nhân loại. Quy hoạch xây dựng đô thị ở Việt Nam được chia thành hai bộ môn nhỏ hơn: Quy hoạch chung xây dựng đô thị Quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị Một số bộ môn khác có liên quan gồm có: Quy hoạch xây dựng vùng Quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn Môn thiết kế đô thị là một phần của quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị Cơ sở của quy hoạch đô thị là hệ thống các tiêu chuẩn và các nguyên tắc tổ chức xây dựng đô thị. Dựa vào hệ thống các nguyên tắc này, theo điều kiện thực tế và chính sách, mục tiêu phát triển ngắn hạn và dài hạn; nhóm bốn đối tượng tác động chính đến kết quả đồ án quy hoạch là: các nhà quy hoạch, các nhà quản lý, các nhà đầu tư và những người trực tiếp chịu ảnh hưởng của quy hoạch đề xuất ra các giải pháp, mục đích, thời gian và nguồn lực cụ thể để thực hiện. Hiện nay ở Việt Nam quy hoạch chưa được tổ chức thực hiện đúng nguyên tắc do năng lực chuyên môn hạn chế và sự can thiệp tùy tiện của nhiều tổ chức cơ quan cũng như các yếu tố khác. Khung luật pháp cho quy hoạch hiện nay còn thiếu hụt trong khi quản lý lập và thực thi quy hoạch lại khá lỏng lẻo. Kiến trúc cảnh quanKiến trúc cảnh quan là nghệ thuật, lập kế hoạch phát triển, thiết kế, quản lý, bảo tồn và phục chế lại cảnh quan của khu vực và địa điểm xây dựng của con người. Phạm vi hoạt động của kiến trúc cảnh quan liên quan đến thiết kế kiến trúc, thiết kế tổng mặt bằng, phát triển bất động sản, bảo tồn và phục chế môi trường, thiết kế đô thị, quy hoạch đô thị, thiết kế các công viên và các khu vực nghỉ ngơi giải trí và bảo tồn di sản. Người hoạt động trong lĩnh vực kiến trúc cảnh quan được gọi là kiến trúc sư cảnh quan.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 18, 2010 5:23:21 GMT 9
Saigon cuối thế kỷ 19 Nguyễn Đức Hiệp Lịch sử các nước Gần đây năm 2004, tin tức báo chí Việt Nam (1) cho biết khi một số ngói bị hư tháo xuống ở Nhà thờ Đức bà, thành phố Hồ Chí Minh, thì thấy có chữ đề xuất xứ “Wang-Tai Saigon” trên mặt các ngói. Kí hiệu Wang-Tai là gì? . Để hiểu được điều này, ta hãy đi về quá khứ để tìm hiểu một phần của lịch sử Saigon. Qua các tài liệu ở cuối thế kỷ 19 mà ta có thể tìm thấy ở Thư viện quốc gia Pháp (Bibliothèque nationale) thì ta biết được Wang-Tai là một nhân vật người Hoa kiều sống ở Saigon trong những năm đầu Pháp lấy các tỉnh miền Nam sau khi Pháp đánh thành Saigon vào năm 1859. Wang-Tai (Vương Đại) nổi tiếng trong các tác phẩm viết về Saigon trong các thập niên 1880, 1890 của các tác giả người Pháp qua ngôi nhà lớn và đẹp nhất Saigon ngay tại bờ sông ở cảng Saigon (nay là bến Bạch Đằng). Maison Wang-Tai đồ sộ xây bằng gạch lớn hơn cả dinh thống đốc lúc bấy giờ chỉ là một nhà cây mua ở Singapore chở sang rồi ráp lại ở Saigon. Từ nhà của ông Vương Đại về hướng cảng thương mại Saigon, dọc theo rạch Bến Nghé (arroyo chinois) là các xưởng làm gạch và ngói của ông Vương Đại. Trong các ngói đỏ hơn trăm năm trên nóc nhà thờ đức bà ở Saigon là một số ngói làm từ các xưởng gạch này của ông, số còn lại là nhập từ Pháp. Vậy ông Vương Đại là ai?. Chi tiết về cuộc đời của ông Vương Đại không để lại trong sử sách hay tư liệu nào của người Việt, chỉ có một số sự kiện rải rác trong các văn kiện, sách tiếng Pháp. Điều này cũng dễ hiểu vì ông Vương Đại là người Hoa sống trong thời kỳ từ năm 1827 đến cuối thế kỷ 19 ở miền Nam, một thời kỳ có nhiều thay đổi lớn khi Pháp đánh chiếm 6 tỉnh Nam kỳ. Trí thức, sĩ phu, triều đình người Việt lúc ấy không để ý đến những vấn đề doanh nghiệp, kinh tế, thương mại... và vả lại rất ít người biết chữ Hán-Nôm, còn chữ quốc ngữ thì chưa được phổ biến trong quần chúng nên không ai viết và biết về con người ông Vương Đại. Ông Vương Đại là thương gia người Hoa, bang trưởng bang Quảng Đông, rất giàu có và có thế lực. Qua sự vận động của ông, năm 1880 toàn quyền Pháp đã đề nghị với giám đốc trường Chasseloup-Laubat (Lê Quí Đôn ngày nay) mở khóa dạy tiếng Quảng ở trường này. Năm 1880, ông muốn bán nhà ông ở ngay bến Saigon cho chính quyền với giá 45000 piastres (đồng) tương đương với 225000 francs. Sau khi xem xét kinh phí mà chính quyền lúc đó đang mướn và tiền quản lý bảo trì căn nhà đó, cùng với số tiền còn đang nợ chưa trả, Hội đồng quản hạt đã đồng ý bỏ ra 254000 francs để mua lại căn nhà này của ông Vương Đại (23). Các xưởng làm gạch của ông Vương Đại sản xuất gạch tốt được dùng ở Saigon và ở nhiều nơi trong Nam kỳ. Trong cuộc triễn lãm công nghiệp và nông nghiệp năm 1880, các sản phẩm gạch của ông được huy chương bạc (27). Ông có tham dự triển lãm quốc tế năm 1878 ở Paris với các sản phẩm đồ gốm sản xuất ở Chợ Lớn (28). Ngoài cơ sở làm gạch, đồ gốm, ông Vương Đại còn có những đất ruộng lúa lớn ở Phước Lộc mới khai hoang để trồng lúa gạo (24). Theo tư liệu ngân sách do chính phủ Pháp ở Saigon in năm 1876 (26) thì ông có 3 nhà cho chính quyền Pháp mướn: 1 nhà 3 tầng ngay cảng thương mại (quai de commerce) Saigon (tiền mướn: 6866 franc/1 năm), 1 nhà ở rue de Canton (Triệu Quang Phục) Chợ Lớn làm văn phòng điện tín (1694 francs), 1 nhà ở Bình Tây, Chợ Lớn làm trạm cảnh sát (2471.75 francs). Theo tờ tuần báo Les tablettes coloniales xuất bản tại Paris ngày 19/12/1888, có đăng một mẩu tin nhỏ về ngày lễ sinh nhật của ông Vương Đại như sau (25): “Một ngày lễ rất thành công và ấn tượng rất lý thú vừa xảy ra ở Saigon, để mừng sinh nhật thứ 61 ngày sinh và kỷ niệm 30 năm ngày ông thương gia người Hoa tên là Vương Đại đến Saigon. Những người con trai ông Vương Đại và gia đình của họ, những đồng hương và bạn bè của ông trong dịp lễ này đã mời “quí bà, quí ông người Pháp và người Âu ở Saigon, Chợ Lớn và các tỉnh”. Cộng đồng người Âu đã đáp lại lời mời ân cần này. Đèn đuốc, pháo bông, trình diễn kịch, hát tuồng, không thiếu cái gì trong ngày lễ vui này. Ông Vương Đại là một trong những chức sắc người Hoa được kính trọng nhất ở Saigon; ông không những đã có những dịch vụ cống hiến lớn lao cho đồng bào ông mà còn cho chính quyền Pháp. Vì thế đương nhiên đúng khi người ta đáp lại tương ứng qua sự tham dự hoạt động hòa bình này mà ông là đối tượng” Qua mẩu tin này thì ta biết là ông Vương Đại sinh vào tháng 12 năm 1827 ở Trung quốc, ông đến Saigon-Chợ Lớn lập nghiệp vào năm 1858, một năm trước khi Pháp đánh thành Saigon. Theo tư liệu, bút ký của các tác giả cuối thế kỷ 19, trên khu phố chính Saigon như đường Catinat (Đồng Khởi), người Hoa đã có nhiều cơ sở doanh thương hơn người Việt. Chung quanh nhà biệt thự của ông Vương Đại, một người Hoa giàu có ở Saigon trước khi Pháp đến, có các cửa tiệm vải, may đồ, hàng thủ công, tiệm sửa giày, sửa đồng hồ, hàng nước ngoài mà ngay cả người Pháp cũng đến mua, chưa kể ban đêm các nhà trên đường sau biệt thự ông Vương Đại là các sòng bạc. Ngoài ông Vương Đại, có các người Hoa giàu khác là Apan, Atho, Ban-Hap, etc. (3). Cửa hàng của người Hoa ở đường Catinat, đường Rigault de Genouilly dọc kênh chợ Vải, đường nối đến đường rue d’Adran đều mở đến 9 giờ tối. Đường rue d'Adrian (đường Hồ Tùng Mậu ngày nay) là khu buôn bán tấp nập có nhiều cửa hàng người Hoa, Ấn nằm kế khu vực Chợ Saigon cũ. Chợ này là chợ dọc kênh Charner (kênh chợ Vải), nay gọi là chợ Cũ. Saigon - Khách sạn Cosmopolitan, nhà ông Wangtai (Vương Đại) 1872 - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (13) (16). Toàn cảnh Saigon – 1881 (bản vẽ rất chi li chính xác của Đại úy hải quân Favre). Sông Saigon, rạch Bến nghé. Để ý nhà ông Vương Đại ở ngay góc sông Saigon và rạch Bến Nghé (arroyo chinois) 2 tầng (không kể tầng trệt) giống như hình trong sách của bác sĩ Albert Morice (13) (16), kế đó là 3 gian nhà của chợ Vải (chợ cũ). Phía trên cuối đường Catinat là nhà thờ đức bà, Bên cạnh đó ở góc đường route Nationale (Hai Bà Trưng) là dinh thống đốc cũ. Thành Saigon về phía phải vẫn còn 4 tường bao bọc khu đất bên trong. Ông Anatole Petiton, đến thăm Saigon, đã viết về đời sống, sinh hoạt thành phố trong sách “La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage” xuất bản năm 1883 như sau: “Khi đi tàu đến cảng Saigon, du khách có thể thấy hai nhà nổi bật là nhà Rồng (Messageries Maritimes) và nhà của ông Vương Đại, xây hầu như ở giữa góc điểm của rạch bến nghé và sông Saigon (3) Tất cả Saigon đều biết ông Vương Đại. Nhà của ông rất lớn với cột cửa vòng cong (portique) và mái hiên có thể nói nhà ông được coi như là trung tâm Saigon. Nhà có ba tầng với sân mái hiên. Đây cũng là tòa đô chánh thành phố Saigon và là nơi ở của ông thị trưởng. Ông thị trưởng quả là người công chức được chu cấp chỗ ở tốt nhất.” Saigon 1872– Bên kia sông Saigon là nhà Rồng (Messageries Maritimes) – nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (13) (16) Cũng theo mô tả của ông Petiton thì kênh Chợ Vải dài khoảng vài trăm thước (gọi là kênh Rigault de Genouilly, sau đổi thành kênh Charner), bắt đầu từ sông đi vào thì ở phía bên phải là các nhà của người Âu và một vài nhà người Hoa và Ấn (người Pháp gọi người Ấn là malabar), bên trái là các nhà người Hoa, chợ và những cửa hàng khác của người Hoa. Kênh chấm dứt ở khoảng nhà thờ. Ở phía trên phần kéo dài của kênh, hai bên có chỗ chơi trò chơi Bowling (một thứ trò chơi của người Anh) rất hợp với giải trí lúc chiều tối. Nhà thờ hiện nay chỉ là nhà thờ tạm thời, người ta đang xây một thánh đường lớn gần dinh thống đốc mới xây. Trong nhà thờ, ở gần điện thờ là các ghế ngồi dành cho người Âu, ngoài ra là các bục bằng gỗ (chú thích dịch giả: nhà thờ này do đô đốc Bonard cho xây dọc kênh chợ Vải năm 1863 sau khi vừa chiếm xong hoàn toàn Saigon-Gia Định, nhà thờ được xây bằng gỗ hoàn thành năm 1865). Người Ấn có ba đền thờ ở Saigon: 2 đền thờ Hồi giáo và 1 đền thờ Ấn giáo (Hindou). Người Mã Lai, ít phát tán phân phối rộng nhiều ở Saigon như các dân khác, họ đa số làm nghề coi sóc ngựa. Ở Singapore thông thường thì những người chăm sóc ngựa và lái xe ngựa tư nhân hay công cộng là người Mã Lai. Ở Saigon, họ thường lái xe ngựa cho các chủ đã mướn họ. (Chú thích: Người mà Pháp gọi là Mã Lai ở Saigon chính là người Chăm vì về phương diện ngôn ngữ và chủng tộc thì người Chăm là thuộc hệ ngôn ngữ Malay và chủng Austronesian.) Cảnh chợ Saigon 1872, để ý có 2 người Ấn (malabar) và một người Hoa trong chợ - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (13) (16). Còn các xe ngựa công cộng, thì những xe này được lái bởi những người Ấn từ vùng bờ biển Malabar, từ Pondichéry (một nhượng địa của Pháp ở Ấn độ) hay từ Singapore. Vì người ta thường thấy họ lái xe ngựa công cộng ở Saigon nên họ gọi loại xe ngựa này là xe Malabar. Những người malabar chăm sóc ngựa rất tốt và tài tình, họ có phương pháp độc đáo rất hay để dỗ ngựa. Họ thường dùng bàn tay vỗ nhẹ vào ngựa, làm như cho ngựa tin rằng họ rất ganh tị là ngựa có bộ da mà họ muốn. Người malabar cũng làm nghề chăn nuôi những đàn bò, để lấy và bán sữa (có người xấu miệng nói là sữa bò thật sự nước cốt dừa trộn với nước). Ở Saigon ngay cả những thập niên đầu thế kỷ 20, còn nhiều con bò ăn cỏ ở một số lề đường công viên gần trung tâm thành phố do người Ấn nuôi. Người malabar còn có một nghề đặc biệt nữa là đổi tiền. Một đồng (piastre) theo giá chính phủ đổi là 5 franc 55, nhưng họ đổi được giá cao hơn là 5 fr 65 và đôi khi đổi lên đến khoảng 6 francs. Họ làm thương mại này với người Hoa ở Chợ Lớn, vì người Hoa thường cần một số lượng tiền đồng (piastre) lớn để có thể mua gạo nhiều từ các tỉnh. Người malabar còn một nghề thứ tư ở Saigon. đó là nghề gác dan và họ cũng được tuyển dụng làm cảnh sát. Cộng đồng người malabar là cộng đồng công nhân làm lụng và rất cần kiệm: tiền họ kiếm được thường được cất giấu và không xuất ra nữa. Thể lực của họ rất cao, khỏe và thon. Họ thường đeo đồ trang trí ở cổ tay, trên cổ, cổ chân, tất cả đều bằng vàng thật; đối với họ đồ trang trí giả bị cấm dùng. Thương gia người Hoa 1872 - nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (13) (16). Theo tài liệu chính thức (19) thì thành Saigon xây năm 1791 theo kiến trúc của Olivier de Puymaniel. Vào năm 1860 dân số khoảng 200000. Chợ Lớn từ 12 đến 15000 ngàn dân. Khi chiếm thành Saigon năm 1859, trước khi trở ra Đà Nẵng và để lại một số quân trấn giữ ở Saigon, đề đốc Rigault de Genouilly đã cho đặt chất nổ phá hủy thành Saigon (do Minh Mạng xây lại sau khi phá hủy thành Phiên An sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi). Cũng theo tài liệu chính thức thì tiếng nổ kinh hoàng, lòng đất rung rinh các tảng đá to lớn của thành văng trên không (19). Kho lúa lương thực cháy cả tuần và âm ỉ cháy sau đó. Sau khi chiếm được Saigon, thành phố chung quanh thành Saigon hầu như bị hoàn toàn cháy hủy một phần do chiến tranh và một phần do dân chúng bỏ đi đã tự tiêu thổ đốt cháy tất cả, chỉ có khu Chợ Lớn là không bị thiệt hại gì (20). Vì thế Pháp đã hoàn toàn thiết kế lại thành phố theo kiểu Tây phương. Dân số ngay tại Saigon lúc đó (1859) chỉ còn 5 đến 6000 người, nhưng chỉ 15 năm sau (1874), không kể Chợ Lớn và vùng phụ cận, tăng lên 13448 người gồm 965 người Âu, trong đó 913 ngươời Pháp, 6246 người Hoa, 5595 người Việt, 205 người Ấn độ quốc tịch Pháp, 4 người Hoa quốc tịch Pháp, 1 người Phi châu quốc tịch Pháp, 161 Ấn độ, 135 Mã Lai, 17 Tagals (Phi) và chỉ 6 người Cao Miên, 2 Nhật (20) (31). Năm 1896, dân số là 44764, tăng lên hơn 3 lần (trong đó có 3258 người Âu, 13801 người Hoa, 26411 người Việt và số còn lại 1294 là người Cao Miên, Mã Lai, Ấn độ (Hindou) v.v…). Người mà Pháp gọi là Mã Lai chính là người Chăm vì về phương diện ngôn ngữ và chủng tộc thì người Chăm là thuộc hệ ngôn ngữ Malay và chủng Austronesian. Saigon trở thành thành phố đa chủng tộc, đa văn hóa. Sau khi đã hoàn toàn chiếm Saigon-Gia Định, ở phía Đông Nam thành Saigon đã bị hủy, Pháp xây 1 nhà thương, 1 nhà thờ, nhà in và kế cạnh đó là dinh rất lớn mà đề đốc Bonard xây từ nhà gỗ đã được mua từ Singapore. Trong nhiều năm ngôi nhà này là nơi thống đốc ở. Ở khu giữa nơi này và sông, lần lượt các tòa nhà được xây lên, trường thông ngôn, bệnh viện mới, cô nhi viện Sainte-Enfance. Như đã đề cập trên, thành Saigon và các nhà gần sông, rạch Thị Nghè, rạch Bến Nghé bị hủy trong chiến tranh và cũng do chính người dân thiêu hủy lúc bỏ đi khi quân Pháp đánh chiếm Saigon. Nơi này trước đây có khoảng 50000 dân. Sau 1859 chỉ còn khu vực Chợ Quán, giữa thành Saigon và Chợ Lớn, là vẫn còn hiện diện có cư dân tập trung, nơi đây là xóm của những người theo đạo trước đây, họ đã không bỏ đi tiêu thổ khi quân Pháp đến Saigon. Không lâu những làng cũng được được tái lập từ những người di tản chiến tranh trở lại định cư ở giữa vùng Chợ quán và vùng cao về phía giữa Kì Hòa, cánh đồng mộ và thành Saigon cũ (5 làng) và ở rạch Thị Nghè 4 làng. Năm 1862, có 11 khu dân cư trở lại với khoảng 8000 dân. Ngoài người Việt, năm 1864 có 6000 người Hoa, hầu hêt là nghề buôn bán sống trong khu vực từ gần bờ sông, kinh rạch đến khu Tong-Keou (Thuận Kiều) về hướng Củ Chi và khoảng 200 người Ấn sống nghề nuôi gia súc và lái xe ngựa. Pháp dùng tiền tệ mới là franc, một franc tương đương với 1 quan (1 quan bằng 10 tiền và 1 tiền bằng 60 đồng) (12). Lúc này để thiết lập cơ sở thương mại và giao thông, các bờ sông được nâng cao; công binh đã san bằng các điểm cao (2 hay 3 mét) trên vùng cao giữa thành Saigon và cánh đồng mả. Các điểm cao này bị san bằng và đất được dùng để lấp các vùng thấp. Khi độ dốc trở nên đều hơn thì các đường bắt đầu được thiết kế, cắt thẳng góc nhau. Những con lộ lớn này được lát đá và trồng các cây lớn dọc hai bên, các nhà dọc đường rất ít và xây lên rất chậm; bởi vì người Pháp đến định cư còn rất ít và vật liệu rất thiếu nên chỉ xây các nhà cây. Các công chức sống trong nhà giống người Việt và ngay cả thống đốc chỉ có dinh bằng gỗ, được mua từ Singapore, tháo gỡ ra trước khi chở đến Saigon để ráp lại. Dinh gỗ này ở vị trí góc đường rue Taberd (sau đổi là rue Lucien-Mossard tức Nguyễn Du ngày nay) và rue Imperiale (sau đổi là route Nationale, rue Paul Blanchy tức Hai Bà Trưng ngày nay) trong khuôn viên của trường Frères des Écoles Chrétiennes (Taberd). Năm 1873 dinh toàn quyền mới, to lớn khang trang hơn, được hoàn thành ở vị trí là dinh Thống Nhất ngày nay (dinh này, sau gọi là Palais Norodom. bị phá hủy sau cuộc đảo chánh 1961 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và được xây lại mới gọi là dinh Độc lập tức là dinh Thống Nhất ngày nay). Cây cối được trồng hai bên đường mới xây, lúc đầu là các cây xoài vừa có bóng mát và trái cây (nhưng về sau các cây này bị chặt bỏ để trồng các loại cây khác như sao, cao su vì vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 xe đi lại dễ gây tai nạn cho các trẻ con thu lượm hái trái cây. Đường Jauréguiberry, nay là Ngô Thời Nhiệm, trong thập niên 1940-1950 vẫn còn các cây cao su (6)) Năm 1865, các tòa nhà dọc sông Saigon được xây dựng cho hãng tàu biển (Messageries maritimes) mà tòa nhà lớn, trụ sở của công ty, là nhà Rồng ngày nay. Các kinh đầy bùn, các hố rãnh cây cối mọc hoang dại, các đổ nát sau cuộc chiến vẫn còn thấy, làm Saigon vào năm 1864 giống một nơi cắm trại hơn là một thành phố. Trong đêm 2, 3 tháng 9 cùng năm (1864) có con cọp vào vườn Esperance nơi pháo binh ở (1). Năm 1864 cũng là năm thành lập nhà thương Chợ Quán gần rạch Bến Nghé. Trước đó giám mục d’Isauropolis, ông Lefebvre tự thành lập bệnh xá nhỏ năm 1861 ngay tại nhà ông, ông tự săn sóc cho những người không phân biệt nghèo khó. Khi chuyển đến bệnh viện mới ở Chợ Quán tháng 9 1864, bệnh viện có thể điều trị cho 180 bệnh nhân, và có một bác sĩ và 3 bà xơ (soeurs) chăm sóc bệnh nhân (12). Ông thống đốc de la Grandière cũng cho lập một vườn bách thảo, dưới sự quản lý của thú y sĩ, M. Germain trong đoàn quân viễn chinh. Ngày 28/3/1865 ông M. Pierre, nhà thực vật học được cử làm giám đốc với 12 mẫu tây vườn cạnh rạch Thị Nghè (5). Thành phố Chợ Lớn phát triển nhanh nhất. Dọc rạch Bến Nghé, kinh Tàu Hủ và trong thành phố Chợ Lớn năm 1864 đã mọc lên nhanh chóng các nhà trên các đường chính, chúng được xây ngăn nắp, thẳng hàng theo kế hoạch. Và một vài người Hoa với một tinh thần doanh nghiệp đắc lực gan dạ, một đặc tính dân tộc của họ, đã bắt đầu xây các nhà lầu. Đề đốc De La Grandière đã nhận thấy điều này, và ông đã mời một thương gia người Hoa giàu có, tên là Ban-hap, người đầu tiên xây ngôi nhà lầu đẹp, đến để thưởng một đồng hồ quả lắc. Ban-hap mặc dầu là triệu phú nhưng rất thích món quà này. Ông ta đã dành riêng trong nhà ông một phòng đẹp nhất để chứa đồng hồ quả lắc của đề đốc De La Grandière tặng. Và ông đã bỏ ra nguyên ngày trong bộ đồ lễ, đi sau 4 người thợ khiêng trên một kiệu vàng chiếc đồng hồ quả lắc, quà của thống đốc, cùng với bằng khen. Ông đã để cho các chức sắc chiêm ngưỡng trước khi đặt vào trong phòng danh dự mà ông đã sữa soạn sẵn (12). Ban-hap cũng là hội viên sáng lập Hội trung ương cứu trợ tàu bị đắm (Société centrale de sauvetage des naufragés) thành lập năm 1865 ở Pháp với hội viên trên khắp thế giới. Ông cũng là chủ một xưởng làm thuốc phiện ở Saigon. Theo thống kê năm 1869 (12) của 6 tỉnh Nam kỳ (Saigon, Mỹ Tho, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên) cho thấy toàn Saigon có dân số là 104522, Chợ Lớn 35900. Ở hậu bán thế kỷ 19, chung quanh Saigon vẫn là các cánh đồng vô tân, gần Thủ Đức và trên đường đi Biên Hòa là các rừng trong đó có heo rừng, nai, chim công và cả cọp nữa. Theo bác sĩ Albert Morice (1848-1877) (16), người sống ở Nam kỳ và viết về vùng đất này vào các năm 1872-1874, thì vùng phụ cận chung quanh trung tâm thành phố Saigon và Chợ Lớn và giữa đường Saigon-Chợ Lớn là các cánh đồng rộng lớn đến tận chân trời, trong đó có những suối, đầm lầy, ruộng lúa, ruộng trồng đậu phọng. “.. Trong rạch, suối có nhiều cá mà dân bản xứ bắt ăn. Trong các đầm lầy có nhiều loài ếch, mà trong đó có một loại gọi là ếch bò (grenouille boeuf, Kaloula pulchra mà ta gọi là ễnh ương) kêu những tiếng lạ và chói tai làm những người Âu lúc đầu ngạc nhiên nhưng sau đó cũng quen tai. Ở phía đông Saigon, trên đường đi Biên Hòa, có vài đồi nhỏ trên đồng bằng và nhiều mảnh rừng xuất hiện. Thay vì đất bùn đỏ như ở thủ đô Saigon và đất đen xanh vùng quê Saigon, ở đây người ta đi trên các lộ mòn trải cát trắng trong các rừng ở Pointat (?) và TuDuc (Thủ Đức). Những rừng này là nơi đến từ thành phố của nhiều chuyến đi săn; vào ngày chủ nhật, một số dân đến giữa các khu rừng này để bắn chim sẻ và chim cu gáy (tourterelle). Đôi khi người ta cũng bắn được các con công. Heo rừng và nai thì rất thường gặp và đôi khi gặp cả "Ông Cọp", chúng đến từ Bà Rịa và Biên Hòa để đi kiếm ăn. May thay cho chúng ta ngày nay (tức thời 1872-1874) là thời gặp “ông cọp” đã vừa đi qua, thời mà đôi khi chúng bắt ăn một vài người canh đơn độc. Tiếng nổ từ súng của chúng ta đã từ từ làm chúng tránh xa; và khu rừng nhiệt đới thiên nhiên gần đó có nai, bò rừng và công, chắc đủ để thỏa mãn dạ dày và cung cấp cho chúng các món ăn ngon.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 18, 2010 5:26:32 GMT 9
“ Để có thể quản lý vùng đất vừa chiếm ở Saigon, trong giai đoạn đầu Pháp đã lập trường thông ngôn, Collège Indigène de Saigon. Trường được xây nơi mà xưa kia là rạp hát bội của tả quân Lê Văn Duyệt. Khi khánh thành năm 1877 (sau 3 năm xây) thì trường mới đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat, và từ 1928 trở thành Lycée học hết bậc trung học (tú tài) (6). Hình 1 - Bản đồ Saigon cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 – Phía trái là đường xe lửa đi Chợ Lớn và Mỹ Tho. Đường xe lửa đến tận bến sông Saigon, ở góc đường Charner (Nguyễn Huệ). Tân Định lúc này vẫn là làng và cạnh vườn Tao Đàn là làng Xuân Hòa. Kế Tân Định là làng Phú Hòa và làng Nam Chơn (hiện nay còn dấu tích làng Nam Chơn là đình Nam Chơn ở đường Trần Quang Khải). Đường Trần Hưng Đạo đi Chợ Lớn chưa có, vùng này là làng Tân Hòa. Đi Chợ Lớn cũng có đường dưới (route basse) dọc rạch Bến Nghé-kênh Tàu Hủ (arroyo chinois), xe lửa (tram) cũng chạy trên con đường này từ trạm ở quảng trường Mê Linh dọc Quai de Commerce và Quai de Primauguet (Bến Bạch Đằng) đến Chợ Lớn. Quai de Primauguet sau đổi thành Quai de Francis Garnier. Tòa thị sảnh chưa xây, thành Saigon không còn, đường dọc theo thành (Boulevard de la citadelle) nay là đường Tôn Đức Thắng (phía dưới) và đường Đinh Tiên Hoàng (phía trên). Giữa hai đường Boulevard de la Citadelle, tức đường trên và đường dưới cùng tên, là trại lính bộ binh (caserne d’ infanterie, nay là sân Hoa Lư), trước đó không lâu nơi trại lính này là trung tâm thành Saigon (thành Phụng). Thành Saigon không còn. Trên bản đồ có ghi đường Thuận Kiều chạy ngang Jardin de Ville tức vườn Tao Đàn (trước 1975 là đường Lê Văn Duyệt, nay là đường Cách Mạng tháng Tám) và đường Mọi (rue des Moïs, sau đổi là rue Richaud và nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) Chức thống đốc Nam kỳ (gouverneur de Cochinchine) bắt đầu từ năm 1878 được trao cho dân sự, không còn là thuộc quân sự bổ nhiệm nữa (lieutenant-gouverneur). Thay đổi này là do sự lớn mạnh dần của nhóm công hòa theo Leon Gambetta ở Pháp sau khi nhóm bảo hoàng yếu đi và hoàng đế Napoleon III thoái vị. Ông thống đốc dân sự đầu tiên là Charles Le Myre de Vilers (17/02/1833 – 09/03/ 1918). Nhiệm kỳ ông từ 1879 đến 1883, ngắn nhưng ông đã thiết lập kế hoạch đô thị và để lại nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng ở Saigon. Dưới thời ông de Vilers, ông Blancsubé, thị trưởng Saigon là người đầu tiên được bầu là đại biểu Nam kỳ (5). Ông có ảnh hưởng lớn về sự phát triển đô thị Saigon. Khi Vilers đến năm 1879, ông được bổ nhiệm với chỉ thị rất rõ: gia tăng xây các tòa nhà công cộng, mang lại không gian sức sống và phát triển hoạt động kinh tế. Trong vòng 4 năm nhận trách nhiệm, nhịp độ xây cất mới gia tăng nhanh chóng. Sự đầu cơ địa ốc và các thương lượng thương mại của các thương gia đã làm giá đất bán đấu giá tăng cao độ. Kế hoạch đô thị trung tâm thành phố hình thành. Ông lập ra một ủy ban nghiên cứu về giao thông đường biển, bộ đặt dưới sự hướng dẫn của bác sĩ quân y hải quân Lapeyrère trong đó có đề án và kế hoạch làm đường xe lữa Saigon-Pnom Penh. Ông tách ra quyền hạn rõ ràng giữa dân sự và quân sự, làm rõ và cải tổ luật hình sự, thiết lập hội đồng thành phố và các hội đồng quận. Ông cũng là người sáng lập ra tập san “Excursions et reconnaissances’ đăng các bài nghiên cứu về văn hóa, lịch sử của các dân tộc ở Nam kỳ. Nhưng nhiều chương trình, kế hoạch duy ý chí của ông gặp phải sự chống đối. Hội đồng quản hạt (Conseil Colonial) chống lại phương pháp không thương lượng hỏi ý kiến của ông. Le Myre de Vilers chống lại ý định của Pháp xâm chiếm Bắc kỳ (Tonkin) để làm địa bàn mở rộng buôn bán thương mại thông thương với thị trường nam Trung quốc qua ngã Vân Nam và Quảng Châu. Vì thế ông bị bãi nhiệm vào tháng 5/1882. Ông trở về Pháp năm 1883 mang theo nhiều hình ảnh quí giá về những công trình của ông (13). Các hình ảnh này nằm trong kho lưu trữ Quai d’Orsay hơn 120 năm cho đến khi tổng lãnh sự Pháp ở Saigon công bố năm 2002. Kênh chợ Vải, nhà chợ bán hàng ở tầng dưới, tầng trên để ở. Các dãy nhà bán hàng ở chợ Saigon (dọc kênh chợ Vải) Ông Petiton mô tả một phần chợ Vải như sau (3): “Chợ Saigon gồm hai dãy nhà lợp bằng ngói hay tranh. Không có gì sáng sủa cho lắm, bên trong mổi gian ở chính giữa là đường đi, mổi bên là các cửa tiệm nhỏ, các hàng bán lộ thiên; bên ngoài là các hàng bán cá, các nhà buôn bán trái cây, rau. Chợ có đầy các đứa trẻ mang giỏ, luôn luôn theo sát bạn để đựng cho bạn các hàng bạn đã mua. Đôi khi bạn thấy có một bàn trên đó có một người Ấn (Malabar) hay một người Hoa ngồi co ro, đó là những người đổi tiền. Đi quanh chợ bên trái và bên phải là các người Ấn được chủ chợ thuê đến mổi gian hàng người bán thâu nhận tiền một hào (dime) và đưa lại họ tờ biên nhận trả tiền. Những quân nhân Pháp cũng đến đây để mua thực phẩm bổ sung cho phần ăn thường tình của họ; bạn sẽ thấy họ đi ra khỏi chợ cặp đôi với một giỏ treo trên cây tre trên vai họ; nếu bước đi của người Việt và người Hoa sống động và nhanh chóng, thì bước đi của lính của chúng ta chậm rãi khi họ khiêng đồ nặng, trên môi gắn một điếu thuốc xì gà dài và dở hiệu Vevey (Thụy sĩ). Đoàn lính mua đồ đi ra, theo sau là một trung sĩ hay thượng sĩ, thanh lịch y hệt. Những con chó, như chó Việt Nam, được thả rông tự do kiếm ăn ở chợ, đa số chúng tụ tập ở các hàng thịt người Hoa, dao cầm trong tay, thái những miếng thịt heo nhỏ, ít khi làm cho người Âu muốn ăn. Lúc 9 giờ tối, những khách hàng rất ít còn lại cũng vội vã ra về, trời trở nên nóng thêm” Ông Petiton nói đến ở dọc bến Saigon là nơi duy nhất có một vài quán café. Các quán café này của thời đó ta có thể thấy như sau trong một hình ảnh của bộ sưu tập của ông thống đốc le Myre de Vilers năm 1882. Ông Marcel Monnier (1853-1918) trong quyển “Le tour d’Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin” viết là lúc ông từ bến tàu về khách sạn, ban đêm hai bên đường Catinat (Đồng Khởi) có các cột đèn đốt sang bằng dầu hỏa gây cho ông có cảm tưởng là đèn Saigon đã thay đổi từ ga (gas) sang điện (15). Ta có thể thấy phong cảnh sinh hoạt của Saigon ở vùng ngoài, theo như ông Petiton kể. Nhà ông Petiton ở lúc ông thăm Saigon nằm ở kế trung tâm thành phố thời bấy giờ, từ đường nơi có nhà giam đi về hướng Chợ Lớn nằm cách rạch Bến nghé thông với kênh Tàu Hủ khoảng 4 hay 500 m (đường Lý Tự Trọng hay đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay). Theo ông tả thì nhà ông ở (le cai-nha) gần đường lộ, chung quanh là vài cây dừa và các cây cau. Đối diện nhà về phía trái là một công sở. Khoảng 6 giờ sáng là Saigon bắt đầu cuộc sống thành thị. Ra khỏi nhà, ông thấy hai người Hoa gánh nước trong đó có một người ở trần và một người Việt gánh nước sau hai người này. Sau đó ông thấy trên đường có rất nhiều đàn ông, đàn bà, phụ nữ, trẻ con, người đi bán mang giỏ hàng, người Hoa có đuôi tóc sam, người Tagal (lai Tây Ban Nha và Phi Luật Tân). Có một người mà người ta gọi là Bồ Đào Nha Singapore hay Quảng Đông (lai Bồ và Hoa): ông này là người phiên dịch của sở giám sát (inspection de Saigon) cho bang Quảng Đông. Người Hoa có 5 bang ở Saigon-Chợ Lớn. Một xe bò do trâu kéo đi chậm rã, nhịp nhàng. Quay về phía nhà ông ở, ông thấy vài con trâu ngay trong vườn !. Qua diễn tả của ông Petiton, ta thấy Saigon ngay vùng mà ngày nay được coi như thuộc trung tâm Saigon, lúc bấy giờ còn rất quê với vườn dừa, cau và có cả các con trâu chung quanh. Đời sống Saigon như thế nào?. Ta hãy đọc những gì ông Petiton viết như sau: “.. Đúng 10 giờ sáng là lúc nhân viên từ công sở đi ăn trưa và sau đó về nhà nghỉ trưa cho đến 2 giờ chiều. Một số đọc báo, sách còn lại đa số là ngủ trưa. Thành phố từ 12 giờ trưa đến 2 giờ, rất vắng người vì trời nắng. Lúc 2 giờ mọi người trở lại làm việc. Vào lúc 5 giờ chiều khi tiếng trống kẻng nổi lên, mọi người đủ loại giới, trí thức, thông ngôn Việt, hay Hoa vui vẻ hối hả ra khỏi nơi làm. Những thông ngôn hay trò học thông ngôn rất h nh diện với vẻ quan trọng. Họ lãnh 100 franc mỗi tháng, đó là một số tiền lớn cho những người công chức Việt Nam. Lúc 5 giờ rưỡi là lúc các người cảnh sát (matas) ra về. Lúc này có nhiều xe ngựa riêng của các chủ xe đi dạo đến vùng Chợ Lớn và cầu Ông Lãnh. Khoảng 5 giờ rưỡi hay 6 giờ chiều là lúc giải trí đi dạo bằng ngựa hay xe ngựa. Đường đi dạo bằng xe ngựa thông thường nhất là đường đi Chợ Lớn cách Saigon 5km. Ở giữa đường Saigon-Chợ Lớn là khu đầm ao hồ (mares) nơi đó có trại lính kỵ binh đóng ở Saigon. Sáu giờ chiều, những công nhân người Việt và Hoa chấm dứt giờ làm việc trong ngày, và từng nhóm lớn đi về phía ngoại ô đông dân, trải dài ở Cầu Ông Lãnh và Gò Vấp. Tôi thấy lúc này cần phải hoạt động và đi bộ một chút; trên con đường tỏa ra từ thành phố, tôi gặp một hàng người Việt đi bộ, người này đi sau người kia; trời tối sụp xuống nhanh chóng. Tôi nghe vài tiếng súng bắn báo hiệu cho biết là các tàu chiến trong vũng mà tàu đang đậu bắt đầu kéo cờ xuống. Đêm đã xuống, 7 giờ; cần ngồi trước bữa ăn tối mà bất kỳ ai nấu cho ta cũng giống như bữa ăn tối trên tàu khi ta đang say sóng. Bảy giờ rưỡi, kèn hiệu đi nghỉ được gióng lên: tất cả mọi người lính tốt đều đi ngủ. 8 giờ, tiếng súng đại bác nói lên điều gì tôi cũng không biết; có thể là giờ cảng sông Saigon đóng cửa. Sau tiếng cà nông, nếu ta ra đường lúc này, là bắt đầu một cuộc đi chơi lý thú. Saigon ban đêm không giống chút nào với Saigon ban ngày. Người Hoa với các loại lồng đèn đủ màu, các tiệm may, tiệm sửa giày v.v... các nhà chơi bài, các người bán hàng rong lưu động làm cho thành phố có một dấu ấn đặc biệt đập vào mắt người ngoài. .. “ Ở thời điểm chưa có máy bay dùng làm phương tiện chính để liên lạc như sau này, thì Saigon liên hệ với thế giới bên ngoài qua tàu thủy chạy bằng hơi nước. Tại Saigon cuộc sống một ngày hôm nay giống như ngày hôm trước và ngày mai, trừ thời điểm lúc tàu thủy sắp cặp bến. Những ngày chờ tàu từ Pháp đến khi tàu bắt đầu vào cảng Saigon từ Vũng Tàu là những ngày lý thú nhất cho tất cả mọi người. Tàu vào Saigon từ Vũng Tàu lâu, vì con sông mà tàu đi vào rất uốn lượn nhiều ngã nên vì thế phải cần một tàu nhỏ chạy bằng hơi nước được gởi ra Vũng Tàu để hướng dẫn tàu vào. Khi tàu đến, trên đỉnh cờ một viên đạn tròn đen được kéo lên, và được hậu thuẩn bởi một phát súng cà nông từ tàu Duperré. Lúc tàu thả neo trong cảng thương mại đối diện với nhà rồng (messageries), cũng là lúc mà một phát đạn cà nông nữa báo hiệu. Tàu nghỉ ở Saigon 24 tiếng trước khi đi Hong Kong. Một vài tiếng sau khi đậu bến, người ta tìm những lá thơ mình muốn trong hộp thơ mình, đây là lúc mọi người đều nôn nức. Vài giờ hay vài ngày sau khi tàu từ Pháp đến, tùy theo thời điểm trong năm, một tàu từ Nhật và từ Trung quốc cũng đến Saigon, và nghỉ tại đây 24 tiếng trước khi đi Âu châu mang theo các lá thư qua đó. Những thương gia lúc này rất bận, họ chỉ có 24 tiếng để viết thư, để quyết định và giải quyết các vấn đề quan trọng. Khi các tàu đã đi thì Saigon trở lại yên tĩnh như mọi ngày (3). …” Thống kê (14) của bác sỉ Honoré Aurillac, năm 1870 dân số Saigon như sau Viet Nam+Khmer+Mọi (indigenes) 220000 Hoa 18000 Ấn 700 Âu 600 Sau khi mô tả phong cảnh thơ mộng yên lặng thanh bình trong bệnh viện Saigon giữa vườn cây, ông Monnier đã tả cảnh buổi họp của Hội đồng quản hạt Nam kỳ (conseil colonial) như sau lúc ông đến tham quan và chứng kiến một buổi họp (15). Hội đồng quản hạt được thành lập năm 1880, gồm 6 người Pháp bầu bởi những người có quốc tịch Pháp sống ở Saigon, 6 người Việt được bầu trong mỗi khu bầu cử bởi một hội đồng các đại biểu chọn từ mỗi làng bởi các chức sắc trong làng, 2 người từ phòng thương mại được các hội viên phòng thương mại đề ra và 2 người được thống đốc đề cử (5) (31). Nhiệm kỳ là 4 năm, cứ 2 năm bầu lại phân nữa. Quyền hạn của hội đồng quản hạt tương đương như của các hội đồng dân cử ở các thuộc địa Anh (như Australia, Singapore…).cùng thời. Ngân sách toàn Nam kỳ là do hội đồng quản hạt quyết định, hội đồng liên hệ trực tiếp với bộ trưởng thuộc địa ở Pháp và có quyền lập ra các ủy ban điều tra. “.. Tôi dành ở phần cuối nói về một nét địa phương không kém lớn lao, nơi không có thơ mộng văn chương, nhưng là nơi hội họp và bàn luận của một quốc hội “chân nhỏ”, không kém hùng biện, hào hứng trôi chảy. Cơ quan dân cử đầu tiên trong xứ này, đó là Hội đồng quản hạt. Không phải chỉ là phong cách và hình thức trang trí bên trong, chúng không có gì là đặc biệt đáng quan tâm. Ngoài những quạt treo trên trần (pankas) (chú thích của người dịch: chữ panka có nguồn gốc từ chữ Ấn độ “punkha” chỉ các quạt treo trên tường được các người hầu kéo qua các dây thừng trong phòng khách ở các nhà người Ấn, “punkha” được người Anh phổ biến đến các xứ khác trong vùng) và cân bằng nhẹ nhàng như có một bàn tay vô hình. Các bàn ghế, đồ đạt hầu như cũng giống như đa số các nơi khác danh cho các đại biểu. Phòng hình bầu dục, tất cả đều trắng, không có nét trang trí và nếp đường chỉ nào, hai bên mở ra hai ban công hành lang để công chúng quan sát. Chắc chắn là có những quốc hội khác không có chổ nào được bằng như ở đây. Tôi đã dự một buổi họp và đã không tiếc thời gian mất cho buổi chiều như vậy. Cuộc thảo luận hôm đó, nói thật ra thì chỉ gây một chú ý bình thường không có gì đặc sắc hào hứng. Hôm đó chỉ bàn những chuyện nhỏ mọn: các kiến nghị, đòi hỏi các trợ cấp, nâng đỡ - rất nhiều đòi hỏi - lúc có câu hỏi không rõ về các thuế mới, về sự tăng thuế xuất khẩu lúa gạo thì cuộc thảo luận trở thành sống động. Nhưng cũng không lâu thì người ta trở lại các bản kiến nghị. Chung quanh bàn có hình móng ngựa, các đại biểu (conseiller) Pháp y phục trắng xen giữa các đồng nghiệp người Việt đội khăn đen, tất cả tách biệt trên thảm xanh lá cây như các mảnh quân trong trò chơi domino; những đại biểu bản xứ, rất nghiêm trang, đứng đắn, lắng nghe nhưng không hiểu, tuy vậy quyết không để nghe mất một câu nào. Duy nhất là lúc bỏ phiếu, thì người thông ngôn nói cho họ biết về tình hình diễn biến hiện tại và dịch những kết luận của báo cáo viên. Với vấn đề cá biệt, đã quá đi vào chuyên sâu, để có thể đi đến nói lại kết luận, người thông ngôn luôn tìm được phương cách để truyền đạt giống như người phát ngôn trong vở kịch “Bourgeois gentilhome” (“Trưởng giả học làm sang” của Molière), họ dùng chỉ trong ba hoặc bốn chữ tượng thanh, gần giống như các từ như Belmen và Marababa Selhem (chú thích của dịch giả: những từ này dùng trong vở kịch trong đó Covielle - đầy tớ của Cléonte- giả nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với nhà trưởng giả Jourdain dùng một chữ cô đọng nhưng có nghĩa rất nhiều, dài tương đương với vài câu trong tiếng Pháp. Covielle dùng những từ hoàn toàn bịa đặt như trên để gạt ông Jourdain gả con gái cho Cléonte). Điều này làm tôi nghiêng về ý kiến là tiếng Việt Nam có những đặc tính giống như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mà ta không thể bỏ qua được, nói lên được rất nhiều mà chỉ dùng một vài chữ thôi. Dưới đó, các ông đại biểu người địa phương (indigenes, tức Việt Nam) đội khăn nghe xong thì bàn luận rất nghiêm trọng, và sau đó đi qua vấn đề khác kế tiếp. Nhưng cá tính của hội đồng này, một lý do cốt yếu làm cho chúng ta có cảm tình, rất đơn giản, là không có sự hỗ thẹn giả giối, không quá thận trọng nể vì, nó thể hiện cả sự yếu đuối của con người và sự nghiêm khắc chặt chẽ trong tranh luận. Nó ngược lại với những gì xảy ra ở các quốc hội hay hội đồng (parlement) khác, mà trong đó không khí tranh nhau rất khó thở ngột ngạt căng thẳng, rất thông thường át đi tiếng nói của những nhà đại biểu hùng biện. Ở đây tất cả mọi người đều nói được… và rất nhiều món giải khát. Không phải chỉ là ly nước đường truyền thống, dành riêng và được uống ừng ực một cách kiêu ngạo của ông chủ tọa, mà nhiều ly nước cho tất cả mọi người. Những đại biểu của hội đồng quản hạt, chính họ cũng có quyền bất diệt là không bị chết khát. Trước mỗi đại biểu là một ly nước sinh lực (tonique) lựa chọn theo ý mình, được pha với nước soda và nước đá. Thỉnh thoảng một chú bé làm dich vụ, đi vòng quanh, chêm vào các ly đã cạn và trình ra trước các người đại biểu muốn hút thuốc đủ loại các thuốc lá, xì gà. Nếu những người kiểm duyệt tính tình nghiêm trang chán ngắt ủ rê muốn phản đối về những canh tân như vậy, tôi sẽ mời họ trước khi ra luật đến dưới bầu trời nắng da diết của xứ này trong vòng vài tiếng; sự đắn đo hão huyền của họ sẽ tan biến như tuyết dưới ánh nắng mặt trời. Đối với tôi, tôi cho rằng điều này không có vần đề gì với tôi. Hơn nữa, tôi có một ước nguyện, là đòi hỏi hội đồng nên nới rộng biện pháp hay như vậy cho đến cả những khán giả bình thường đến xem hơn là họ chỉ được thấy những ly nước uống giải khát, và hít mùi thuốc lá thơm mà thôi. …“ Sau Le Myre de Vilers, thời thống đốc Paul Blanchy, cơ sở hạ tầng được tiếp tục xây dựng, đường xe lửa Saigon-Mỹ Tho được hoàn tất và khánh thành năm 1885 do kỷ sư Thévenet thực hiện. Và năm 1891 bưu điện thành phố được hoàn thành. Saigon, tháng 9 năm 1885, cũng tiếp nhận hàng ngàn người dân tị nạn. Họ là những người Việt theo đạo Thiên chúa chạy từ Qui Nhơn vào trên một tàu Đức chở đến sau khi thoát khỏi những chiến dịch cấm đạo diễn ra ở miền Trung do triều đình nhà Nguyễn khởi động, “trước khi đánh Pháp từ ngoài, trước hết phải diệt các ‘người Pháp bên trong’”, như những viên quan triều đình đã nói (21). Họ được các xứ đạo ở Saigon tiếp nhận bảo trợ định cư lại ở vùng đất mới. Đến cuối thế kỷ 19, Saigon đã là một thành phố đủ mọi sắc tộc Âu, Á sống không khác các thành phố cùng thời lúc đó là Singapore và Hong Kong (5). Năm 1888, một đoàn xiếc Australia “Woodyear’s Electric Circus” ghé Saigon trình diễn trong hành trình đi lưu diễn ở nhiều thành phố Á châu và Thái Bình Dương. Trở thành một đô thị trung tâm thì phải có một tờ báo. Tờ báo Le Courrier de Saigon, xuất bản một tuần 2 lần, ra mắt số đầu tiên ngày 3/4/1888 (lúc ông cựu thị trưởng Saigon, Blansubé mất). Đây là tờ báo tư nhân đăng những tin liên quan đến thành phố và các nơi khác, từ các mẫu tin nhỏ nhất như đua ngựa, chương trình trình diễn trong nhà hát thành phố (không phải nhà hát hiện nay), tai nạn, trộm cắp…đến những tin về kinh tế, chính trị ở Đông Dương và quốc tế qua thông tin của hãng Reuter. Trong cuộc bầu cử đại biểu Nam kỳ vào quốc hội Pháp ngày 13/5/1888, tờ Le Courrier Saigon đã ủng hộ ông Carabelli tranh cử với ông Ternisien. Tờ báo tấn công dữ dội ông Ternisien (luật sư ứng cử viên cộng hòa, chống lại hàng rào quan thuế nhập khẩu)) cho là ông Ternisien đã có những hành động bất lợi cho Pháp khi ông ở Cam Bốt thương lượng với vua Cam Bốt về những hợp đồng thương mại và thiết lập đường xe lửa mà lúc trước cựu thống đốc Le Myre de Vilers đã có dự định thiết lập. Những chi tiết cá nhân, thơ từ và quá khứ hoạt động của ông Ternisien đã bị tờ báo mang ra công kích. Nhưng ông Ternisien đã được nhiều người cử tri ủng hộ (nhất là người Ấn độ). Ông phó thống đốc, Navelle, đã gởi cho ông thị trưởng Carabelli 4 ngày trước ngày bầu cử là phải cập nhật ghi lại danh sách các cử tri Ấn Độ. Nhưng ông Carabelli từ chối vì cho là không đúng luật và ông không có thẩm quyền làm như vậy. Chỉ khi ông Navelle khẩn cấp gởi thư ra lệnh dùng điều khoản 38 trong sắc lệnh ngày 8/1/1877 để bắt ông Carabelli phải thi hành. Lúc đó ông Carabelli mới chịu (29). Kết quả bầu cử là ông Ternisien thắng, trước ông Carabelli và ông Laurans (chủ nhiệm tờ Indochinois). Ở vòng hai ông được bầu vào quốc hội với số phiếu 710 (1,216 đi bầu trong số 2,144 cử tri ghi danh), hơn ông Carabelli với 494 phiếu. Nhưng ông Ternisien chỉ làm được 6 tháng thì qua sự khiếu nại của ông Carabelli về sự không rõ ràng của danh sách cử tri, quốc hội Pháp đã hủy kết quả và hoãn bầu lại đại biểu Nam kỳ cho đến tháng 4 năm 1889 để thiết lập lại danh sách cử tri trong đó những người Ấn từ thuộc địa Pháp ở Ấn độ khi ở Saigon chỉ được bầu ở xứ họ chứ không được bầu ở Saigon (30). Tuy vậy trong kỳ bầu cử tháng 4 năm 1889, thì cả hai ông Ternisien và ông Carabelli cũng không thắng mà người thắng vào quốc hội là ông Le Myre de Vilers, sau khi ông này nhảy vào tham gia vào cuộc tranh cử đầy kịch tính này. Ông Ternisien, sau thất bại bầu cử, trở lại làm nghề luật sư ở Vĩnh Long. Tháng 4/1888, thị trưởng thành phố ông Carabelli trưng bày ở tòa thị sảnh các dự án mang điện thắp sáng thành phố. Thành phố Saigon sửa soạn bước vào thế kỷ 20. Lời kết Saigon là một thành phố của nhiều lưu dân đến để tạo ra một sắc thái riêng. Ngay từ lúc đầu, thành phố là một thành phố đa chủng tộc, đa văn hóa. Người bản xứ Mạ, Stieng, người Khmer, người Chăm, người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Triều Châu, người Việt từ các tỉnh miền Trung, và sau này người Pháp, Ấn độ (Malabar), Phi (Tagal) đến, tất cả đã để lại những sắc thái, văn hóa, kiến trúc, ngôn ngữ, giai thoại… để tạo thành người Saigon với đặc tính thực dụng, hòa hợp, trọng lẽ phải, tôn trọng sự khác biệt và mang tính chất “trọng nghĩa khinh tài” của vùng đất Nam bộ. Saigon từ cuối thế kỷ 19 đã là thành phố toàn cầu (global city) không phải đợi đến thế kỷ 21 của thời đại toàn cầu hóa của thời đại hiện nay. Tham khảo (1) Trần Nhật Vy, “Bí mật” nhà thờ Đức Bà, Tuổi Trẻ, 30/12/2004, tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/61715/Bi-mat-nha-tho-Duc-Ba.html ; vietbao.vn/Phong-su/Bi-mat-nha-tho-Duc-Ba/40061715/263/(2) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Editeur Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906. (3) Anatole Petiton, La Cochinchine française: la vie à Saïgon, notes de voyage, Éditeur : Impr. de L. Danel (Lille), 1883. (4) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885. (5) Les colonies françaises: notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique,Quantin (Paris), 1889-1890. (6) Trần Ngọc Quang, Saigon và những tên đường xưa, namkyluctinh.org/a-lichsu/tngocquang-saigontenduongxua.pdf. (7) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ (8) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Saigon: notes de voyage d’ un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191. (9) John Crawfurd, Journal of an embassy from the governor of India to the courts of Siam and Cochinchina; exhibiting a view of the actual state of those kingdom by John Crawfurd. London. Henri Colburn and Richard Bentley, New Burlingtong Street. 1830. (10) John White, A Voyage To Cochin China; by John White, Lieutenant in The United State Navy, London, 1824. Online: www.archive.org/stream/voyagetocochinch00whitrich#page/n15/mode/2up(11) Nguyễn Công Tánh, Thay đổi tên đường của Thành Phố Sài Gòn từ năm 1928 đến năm 1993, motgocpho.com/forums/showthread.php?1895-L%E1%BB%8Bch-S%E1%BB%AD-Saigon (12) Paulin Francosi Alexandre Vial, Les premieres années de la Cochinchine, colonie francaise, BiblioBazaar, LLC, 2009. (13) Hình ảnh, tư liệu, belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm(14) Honoré Aurillac, Cochinchine. Annamites, Moïs, Cambodgiens, Challamel aîné (Paris), 1870 (15) Marcel Monnier, Le Tour d'Asie: Cochinchine, Annam, Tonkin, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899. (16) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876. (17) John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom, T. Cadell and W. Davies in the Strand, London, 1806. online : purl.pt/126(18) Jules Blancsubé, Notes sur les réformes les plus urgentes à apporter dans l'organisation des pouvoirs publics en Cochinchine (Signé : Jules Blancsube [31 Décembre 1878]), Impr. de Ve Remondet-Aubin (Aix), 1879. (19) P. Cultru, Histoire de la Cochinchine française, des origines à 1883. A. Challamel (Paris), 1910. (20) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900. (21) Réveillère, Paul-Émile-Marie (dit Paul Branda), Ça et là. Cochinchine et Cambodge. L'âme khmère. Ang-Kor. Troisième edition, Fischbacher (Paris), 1887. (22) P. Midan, La Pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l'histoire de Saïgon-Cholon , Impr. de l'Union Nguyên-van-Cua (Saïgon), 1934. (23) X. Gaultier de Claubry, Un Casse-cou, ou le Budget de la Cochinchine en 1882 , Impr. de J. Le Clere (Paris), 1882. (24) Hte-. Frédéric-Thomas Caraman, Sept cents millions de revenus en Cochinchine, mémoire-rapport à M. le Président de la République et à l'Assemblée nationale, suivi d'une note sur l'Algérie, A. Le Chevalier (Paris), 1871. (25) Les Tablettes coloniales. Organe des possessions françaises d'outre-mer, No. 45, 19/12/1888, gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5512296p.image.r=Wang-Tai.f1.langEN(26) Budget local: exercice / Gouvernement général de l'Indochine, Cochinchine, Impr. du Gouvernement (Saigon), 1876. gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5448883k.image.r=Wang-Tai.f97.langEN.hl(27) Excursions et reconnaissances, No. 4, Imprimerie du gouvernement, Saïgon, 1880. gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5747850m.image.hl.r=Wang-Tai.f5.langEN.pagination(28) Catalogue officiel. Tome 5 / Exposition universelle internationale de 1878 à Paris ; publié par le commissariat général, Imprimerie nationale (Paris), 1878 gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k90427z.hl.r=Wang-Tai.f175.langEN(29) Le Courrier de Saigon, 11/5/1888 no. 12, trang 2, gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5527269m.image.r=Landes+naufrage+Cholon.f2.langEN(30) Assemblee National de France, Base de données des députés français depuis 1789, www.assemblee-nationale.fr/sycomore/fiche.asp?num_dept=6987(31) Paul Bonnetain, Le Monde pittoresque et monumental. L'Extrême-Orient, Quantin (Paris), 1887 (trang 130).
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 18, 2010 5:36:45 GMT 9
Angkor xưa và nay Nguyễn Đức Hiệp Óc eo, Kiên Giang, Rạch Giá, núi Ba Thê, Long Xuyên, những địa danh mà tôi nhớ mãi sau khi mới bước vào trung học năm 1967 và lần đầu tiên làm bài tập lịch sử. Thầy tôi bảo chúng tôi phải đến viện bảo tàng Saigon trong thảo cầm viên để tìm hiểu về văn hóa và văn minh Phù Nam mà di vật khảo cổ đã được tìm thấy ở Óc Eo. Ở viện bảo tàng, tôi tìm tòi học hỏi sau đó viết và nộp bản báo cáo về các di vật của nền văn minh này. Trong đó có những đồng tiền cổ trên mặt khắc hình hoàng đế Antonious Pious của La Mã, chứng tỏ nền văn minh Óc Eo có liên hệ thương mãi hàng hải xa xôi với các nền văn minh Cận Đông và phương Tây. Đây là sự tiếp cận đầu tiên với một nền vãn hóa mới lạ và khác biệt với vãn hóa của môi trường mà tôi sinh trưởng. Phù Nam, Chân Lạp, Angkor là những xã hội bị ảnh hưởng Ấn độ sớm ở Đông Nam Á. Di sản văn hóa Angkor đã truyền lại ở đất nước Cambodia và ảnh hưởng đến các nước lân cận, Thái Lan và Lào. Sau này qua nhiều nãm sau, tôi được đọc một số tác phẩm của nhà văn Lê Hương về lịch sử và văn hóa Khmer và ảnh hưởng vào đặc thù văn hóa Nam bộ, làm gợi thêm trí tò mò học hỏi của tôi. Khăn quàng, canh chua là những thí dụ đặc thù mà người dân Nam bộ mang vào từ văn hóa đời sống người Khmer khi tiếp cận và sinh sống chung với họ. Dấu ấn ảnh hưởng Khmer còn lưu lại khắp đồng bằng sông Cửu Long. Ngay cả ở Sài Gòn, Biên Hòa vẫn còn dấu tích xưa. Hiện nay ở Châu Đốc, Long Xuyên, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh vẫn còn cộng đồng người Khmer cư ngụ ở các sóc, làng riêng biệt hay sống chung với người Việt. Ngôn ngữ Khmer Ngôn ngữ Khmer là ngôn ngữ cổ lâu đời nhất trên lục địa Đông Nam Á, thuộc hệ Môn-Khmer. Tiếng Việt ngày nay có nhiều vết tích Môn-Khmer cho thấy cơ bản là dựa trên tầng cổ xưa này. Các nhà ngôn ngữ học trước kia cũng đã từng xếp tiếng Việt là thuộc hệ ngôn ngữ Môn-Khmer. Ngôn ngữ Môn-Khmer trãi rộng từ Miến Điện qua Thái Lan đến Cambodia, cao nguyên Việt Nam. Nền văn minh Môn Dvaravati đã để lại nhiều dấu ấn từ Miến Điện đến Thái Lan. Ở một số nơi trên Ấn-Độ còn có các sắc dân thiểu số nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Môn-Khmer. Các cư dân cổ nhất là những bộ lạc còn sót lại trên đảo Nicobar và Aldaman ở Ấn Độ dương cũng cùng thuộc hệ ngôn ngữ. Có thể nói Môn-Khmer là ngôn ngữ của dân cổ nhất Đông Nam Á. Một vài thí dụ về gốc liên hệ các từ cơ bản nhất trong tiếng Việt và các từ của các ngôn ngữ thuộc hệ Môn-Khmer như: ăn, con, đất, mà, muỗi, mắt, ngà, ruột, rương, sá (đường sá), sông, tắm. Bẳng qua một thời gian lâu, đến nãm 1982, tôi bắt đầu tìm hiểu về triết lý Phật giáo nhân dịp viếng thăm Thái Lan, ở trong chùa trong một làng gần thành phố Singburi. Chúng tôi ở nhà một người bạn Thái trong vài ngày, anh bạn Thái vẫn còn trẻ của chúng tôi là một thầy tu. Sự tiếp đón ân cần của gia đình anh bạn làm tôi rất cảm động. Đời sống của họ ở thôn quê cũng không khác chi đời sống ở các làng mạc Việt Nam. Thái Lan cũng như Cambodia đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo tăng già nguyên thủy (Theravada). Văn hóa Thái Lan từ kiến trúc, thần thoại, chữ viết .. là do sự tiếp nhận từ di sản của người Môn và Khmer đã từng cư ngụ ở vùng này lâu đời trước khi người Thái di dân xuống từ Vân Nam sau khi Mông Cổ đi chinh phục các tỉnh phía nam Trung quốc. Từ thành phố Singburi, tôi đến Ayuthaya, một kinh đô cổ của Thái Lan nay đã bị đổ nát, với một người bạn phật tử Úc vừa mới qui y đi cùng với gia đình người bạn Thái. Ở Ayuthaya, tôi nhận thấy người Thái từ khi đi từ Vân Nam xuống sau sự chinh phục của Mông Cổ đã hấp thụ văn hóa Môn-Khmer, từ kiến trúc, tôn giáo, chữ viết, một cách nhanh chóng và phát triển rực rỡ với đặc thù riêng biệt. Điều gì đã làm một dân tộc đi chinh phục hấp thụ văn hóa cu/a dân tộc khác bị bại trận đã biến mất ?. Một câu hỏi khó trả lời nếu không tìm hiểu sâu sa nền văn minh Khmer. Tôi một mình tự tìm đường và phương tiện đến Phimai, nơi có di tích của một đền Khmer nổi tiếng, có kiến trúc cùng thời như ở Angkor. Đền đã đổ nát nằm giữa thành phố, gần chợ. Vào đền đi dạo giữa cảnh đổ nát của nền văn minh xưa cổ, tôi rất bồi hồi. Hôm đó tôi là du khách duy nhất, ngồi nói chuyện với anh bảo quản đền, anh còn rất trẻ làm cho Bộ Văn hóa Nghệ Thuật Hoàng gia Thái. Trong khoảng thời gian này và kéo dài mãi đến lúc cuối thập niên 1980, Angkor bị biệt lập chìm trong hoang vu do chiến tranh và hoàn cảnh chính trị thế giới lúc đó không cho phép kiến trúc và nền văn minh này được tiếp cận với thế giới bên ngoài. Vì không đến được Angkor, nên khi tạm đến một nơi có kiến trúc tương tự của một Angkor thu nhỏ cũng là một niềm an ủi cho tôi rồi. Bước sang thế kỷ 21, Cambodia đã thay đổi rất nhiều so với những năm đen tối khi Khmer Rouge vẫn còn là một cản trở cho bước tiến của dân tộc và đất nước Cambodia. Angkor đã trở thành nơi du lịch văn hóa thu hút du khách nước ngoài nhiều nhất ở đất nước này. Phi trường Siem Reap được Pháp giúp đỡ và tân trang trở thành một phi cảng quốc tế hiện đại, cửa ngỏ tới quần thể Angkor cách Siem Reap vài cây số. Từ Thành phố SaiGon (HCM), mỗi ngày dều có chuyến bay và xe đi Phnom Penh hoặc Siem Reap. Ngoài ra theo đường tàu thủy, du khách có thể đi từ Cần Thơ hay Châu Đốc đến Phnom Penh rồi sau đó đi Siem Reap. Các dịch vụ du lịch ở nhiều nơi trong thành phố đều có chương trình đi qua Cambodia. Tôi đăng ký chuyến xe đi Phnom Penh ở Sinh Cafe trong khu vực đường Phạm Ngũ Lão. Sáng sớm 7 giờ xe khởi hành, trên xe có vài người Khmer làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh trở về Cambodia và rất nhiều du khách “Tây ba lô” đi trên chuyến xe. Đến Mộc Bài, cửa khẩu biên giới, mọi người đều xuống xe đến hải quan làm thủ tục xuất cảnh, sau đó đi bộ qua một khoảng ngắn qua biên giới đến cổng lớn nơi có hải quan Cambodia để làm thủ tục nhập cảnh. Thị thực (visa) có thể được lấy liền tại chỗ cho các du khách. Trước khi về Việt Nam du khách có hộ chiếu nước ngoài nên xin thị thực nhiều lần (multiple entry visa) vì khi qua Cambodia là thị thực nhập hết hiệu lực khi rời Việt Nạm Tôi chỉ có thị thực vào Việt Nam một lần nên được dịch vụ ở Sinh Cafe chỉ bảo là phải đến Saigon Tourist nằm ở trung tâm Saigon trên đường Lê Thánh Tông. Tại đây có dịch vụ xin thành phố cấp thị thực ngay tại phi trường Tân Sơn Nhất khi trở về. Dịch vụ của Saigon Tourist là 25$ đô Mỹ để điền đơn, xin chính quyền thành phố cho giấy quyết định được thị thực nhập cảnh vào Việt Nam tại phi trường khi trở về và 30$ đô la cho chi phí thị thực. Nên nhớ thị thực này chỉ có hiệu lực 30 ngày ở Việt Nam chứ không phải 3 tháng như khi được cấp ở nước sở tại. Sau khi qua cửa khẩu xuất cảnh phía bên Việt Nam, khách phải đi bộ một đoạn đường qua cửa khẩu để đến cổng biên giới phía Cambodia. Với số hành lý nhẹ mang theo, chúng tôi không vất vả bao nhiêu, nhưng cũng dùng một anh khuân đồ giúp. Một dịch vụ ăn khách mà rất nhiều người phải nhờ vào. Vào Cambodia, xe khách phía Cambodia của công ty Capitol Tours (có liên hệ trước với dịch vụ ở Sinh Cafe) đã chờ để tiếp tục đi Phnom Penh. Đường đi từ Mộc Bài đến Phnom Penh, khác với đường từ Saigon, rất xấu, ghồ ghề và vì thế ngồi trên xe phải chịu “sóc” trên cả đoạn đường này. Dọc đường đi qua nhiều làng mạc, tôi đều thấy mỗi nơi đều có trụ sở với biểu ngữ và cờ của 3 đảng chính trên chính trường Cambodia: Đảng Nhân dân của Hun Sen, Funcipec của ông hoàng Ranarridh và đảng Sam Rainsy của chính ông Sam Rainsy. Thế mới biết mực độ cạnh tranh chính trị ở Cambodia để giành lá phiếu của người dân rất là gay gắt và cam go. Ở một trạm nghỉ trong một quán dọc đường, ngồi uống nước với khung cảnh không khác chi trên nhiều nẻo đường ở Việt Nam, ngoại trừ hình ảnh các cây thốt nốt và người dân Khmer. Tôi đặc biệt chú ý đến một cô bé bán rong đi lại bán hàng cho chúng tôi. Khi nhìn thấy hàng bày bán, tôi mới giật mình vì hàng là các con nhện và bò cạp chiên để ăn. Dĩ nhiên vì không quen tôi không dám thử. Khoảng 3 giờ chiều thì đến ngoại ô Phnom Penh, qua khỏi cầu Monivong là vào trung tâm thành phố Phnom Penh, xe đậu ở nhà khách của công ty xe khách Capitol Tours. Nhắc lại ngày xưa năm 1940 ông Vương Hồng Sển trong bút ký của ông (2) nói về chuyến đi thăm quan Angkor bằng xe du lịch từ Saigon, xe phải chạy liên tục gần 1 ngày mới đến Siemrep. Chuyến đi chưa đầy nửa ngày của tôi như vậy là tốt lắm rồi. Chúng tôi đăng ký nghỉ tại nhà khách Nice Guesthouse, bên cạnh nhà khách Capitol Tours, trên đường 107, gần toà đại sứ Đức trên đại lộ chính Monivong. Khu vực này là tụ điểm du lịch giống như khu Phạm Ngũ Lão ở Saigon. Phnom Penh Phnom Penh sầm uất, cũng giống Saigon là xe gắn máy rất nhiều. Ngay tối hôm đó (17/1/2004), tôi và người bạn đi xích lô đến bờ sông Tonle Sap ngay trung tâm thành phố. Lúc thương lượng gíá xe với anh xích lô mới biết anh là người Việt. Ở Phnom Penh còn có rất nhiều người Việt sinh sống. Dọc bờ sông Tonle Sap, trên con đường gọi là Sisowat Quay, quang cảnh rất thơ mộng. Bây giờ là tháng giêng nên lượng nước sông Tonle Sap ít đi nhiều, mực nước xuống thấp và hướng nước chảy là từ biển hồ Tonle Sap chảy về sông Cửu Long xuống biển đông ở miền nam Việt Nam. Lúc nước lớn, hướng nước từ sông Cửu Long, Bassac chảy ngược về biển hồ. Thành phố Phnom Penh nằm ở giao điểm của 3 con sông Tonle Sap, sông Bassac và sông Cửu Long. Tương truyền thành phố được thành lập do một bà tên Penh xây một chùa trên một đồi nhỏ (phnom) thờ 4 tượng phật vàng vì bà đã tìm thấy lúc mùa nước dâng ngập từ sông trôi vào một cây gỗ bên trong có chứa 4 tượng trên, Hiện nay chùa Wat Phnom vần còn, và là địa điểm nhiều du khách và dân đến thăm viếng và cúng bái để được may mắn và làm ăn phát đạt. Trong Wat Phnom có tượng thần tài Preah Chau mà nhiều người Việt và Hoa rất chuộng để thờ cúng. Chiều tối dân thành phố ra phố Sisowat Quay dọc bờ sông đi dạo và thưởng thức rất nhiều. Trên đại lộ Sisowat Quay, dọc sông là các cung điện, viện bảo tàng, các khách sạn, cửa hàng và nhà hàng rất lịch sự và sang trọng. Toà nhà Câu Lạc bộ Ký giả nước ngoài (Foreign Correspondents Club) nổi tiếng, mô tả trong phim “Cánh đồng chết” (The killing field), cũng nằm trên con đường này. Cảnh trí giống như đường Đồng Khởi và Nguyễn Huệ ở Saigon, nhưng rộng lớn và thanh lịch hơn. Gió mát với cảnh trí thanh bình không như những ngày biến động đen tối đã qua trong quá khứ. Trong các quán ăn, nhà hàng có rất nhiều du khách từ nhiều nước, chủ yếu là từ các nước phương Tây. Buổi ăn tối của chúng tôi hôm ấy rất thưởng lãm, ông chủ là người Khmer sống ở Marseilles (Pháp) từ nhiều năm, nay trở về làm ăn sinh sống ở quê hương mình. Ông nói từ vài năm qua Cambodia đã thay đổi rất nhiều và tương lai rất sáng sủa. Với vị trí tốt của nhà hàng của ông nằm trên dãy phố sang trọng dọc bờ sông, và số lượng du khách đến Cambodia càng nhiều, tôi không thể nào không đồng ý với ông. Gần đến khuya, chúng tôi đón xe xích lô trở về khách sạn, anh xích lô người Việt đợi chúng tôi tại địa điểm nhà hàng mà trước đó anh đã thả chúng tôi xuống. Ban đêm, gió mát từ sông, trong phong cảnh phố xá vắng lặng đi qua các đường dưới hàng cây, với ánh đèn neon yếu ớt từ các nhà dân và các toà nhà của các cơ quan hắt xuống đường đã vắng xe, tôi có cảm tưởng mình trở lại quá khứ thời thơ ấu xa xưa những năm của thập niên ở Saigon trước chiến tranh lúc thành phố còn ít người, ít xe cộ, và không xô bồ như thời buổi hiện nay. Siem Reap Sau khi ở lại Phnom Penh một đêm, sáng hôm sau tôi đăng ký vé đi Siem Reap bằng đường thủy. Từ Phnom Penh đi Siem Rep có ba phương tiện chính: đường bộ bằng xe khách, tàu thủy và phi cơ. Có thể đi Siem Rep bằng xe lửa nhưng phương tiện này không bảo đảm đúng giờ và an toàn. Đi bằng tàu thủy nhanh và thoải mái hơn đi đường bộ bằng xe khách. Không may là sáng hôm đó, vé đi tàu đã bán hết và không còn chỗ nào, buộc lòng tôi phải đi xe tour đăng ký từ các nhà khách để đi Siem Reap. Tỉnh Siem Reap hiện được đảng Funcipec nắm quyền. Đây là tỉnh giàu nhất Cambodia với nền kinh tế chính là dựa vào là du lịch : trọng điểm là quần thể di sản thế giới Angkor. Siem Reap có phi trường rất hiện đại và có các đường bay quốc tế đến thẳng trực tiếp từ nhiều năm trước đây. Vì thế đã có lần chính phủ trung ương ở Phnom Penh do đảng Nhân Dân nắm quyền muốn các đường bay chở du khách phải đến Phnom Penh truớc rồi mới được đến Siem Reap để kiếm thêm lợi nhuận du lịch. Nhưng điều này đã không thực hiện được. Đối với người dân Khmer thì Angkor là tượng trưng cho nền văn minh rực rỡ của họ, cái tinh tuý nhất của dân tộc họ. Họ rất tự hào là dân tộc họ đã tạo lập ra Angkor. Năm 2003, có tin trên báo (không đúng vì dưa theo tin đồn) là một ca sĩ Thái rất được chuộng ở Cambodia ra điều kiện để cô đến viếng Cambodia là Cambodia phải trả Angkor lại cho Thái Lan. Tin này đã gây ra một cuộc nổi loạn và biểu tình lớn kéo dài nhiều ngày chống Thái Lan ở Phnom Penh.Toà đại sứ Thái bị bao vây và đập phá. Kiều dân Thái đã phải di tản trở về Thái để tránh bạo động. Ngoại giao giữa hai nước xuống rất thấp và rất căng thẳng. Chính phủ Thái Lan đã yêu cầu chính phủ Cambodia phải xin lổi về biến cố bài Thái này. Đường đi Siem Reap cũng gồ ghề và gây cấn như đường từ Mộc Bài đến Phnom Penh. Trên chuyến xe này, tôi được ngồi cạnh 2 du khách Pháp, một trẻ một già, cũng đi thăm quan Angkor. Ông Pháp già không nói được tiếng Anh. Tôi dùng tiếng Pháp ngày xưa đã học để nói chuyện. Người Pháp vẫn coi Cambodia là nước mà họ có nhiều ảnh hưởng, có những quyền lợi và liên hệ lịch sử đặc biệt. Người Khmer cũng vậy, chịu ảnh hưởng và ưa chuộng văn hóa Pháp. Nói chung nhiều người Khmer nói được tiếng Pháp rành rõi hơn người Việt. Ông Pháp già có kể tôi rầng ông André Malraux, văn sĩ Pháp và sau này là tổng trưởng văn hóa trong chính phủ De Gaulle lúc còn trẻ đã có qua Angkor và đã bị bắt vì lấy đi một số hiện vật ở Angkor. Chiều thì xe mới đến Siem Reap, xe đậu tại “nhà khách Ta Som”, mọi người xuống xe và được chủ nhà khách mời ở lại nhà khách. Nơi đây giá rất phải chăng (khoảng 10 đô Mỹ một đêm với phòng lớn không có máy lạnh cho 2 người), một số khách Tây ba lô ở lại nhà khách, còn lại đa số đã biết chỗ khác nên tự động đi dùng phương tiện riêng. Chúng tôi muốn có phòng có nước nóng và máy điều hòa không khí, nhưng đã hết chỗ. Ông “chủ nhà khách Ta Som” điện thoại đến một nơi khác còn có chỗ cùng giá với chỗ của ông và nhờ nhân viên của ông đưa chúng tôi đến nhà khách gần đó. Chúng tôi ở một nhà khách gần chợ. Người bạn đi cùng rất lanh lợi và nhiều hiểu biết của tôi nói là ông chủ nhà khách Ta Som và nhà khách chúng tôi ở có quan hệ và chia hoa hồng khi giới thiệu khách cho nhau. Sau khi tắm rửa, tôi đi dạo quanh gần nhà khách. Thành phố Siem Reap rất nhỏ, nhưng hiện nay đang nở rộ mọc ra các khách sạn lớn, nhỏ đủ loại, các nhà khách (guest houses), các nhà hàng và các tụ điểm Internet cafe rất hiện đại. Du khách đến rất nhiều nhất là các du khách trẻ Tây ba lô (backpackers). Chiều hôm đó tôi đăng ký đi thăm quan vài ngày đến quần thể Angkor. Sau khi tắm rửa, nghỉ ngơi, chúng tôi có dịp đi dạo phố, vòng chợ ở Siem Reap, ăn uống những món ăn Khmer ở các nhà hàng dọc đường trong khu vực gần các nhà trọ mà du khách Tây ba lô thường trú ngụ. Ở Siem Reap có những địa điểm vật lý trị liệu mà nhân viên là những người khuyến tật (mù), các địa điểm này hầu như là nơi duy nhất giúp đỡ họ có công ăn việc làm. Giá rất phải chăng và rất nhiều du khách đến để thư giãn như chúng tôi sau khi ăn tối. Sáng hôm sau, chúng tôi đi đến trụ sở dịch vụ Tour Angkor để đi thăm quan quần thể Angkor. Quần thể Angkor rất lớn rộng khoảng 420 km2, trong đó có nhiều đền, cung điện. Vì thế cần phải thuê bao xe cho nguyên ngày để thăm quan. Một số khá đông du khách Tây ba lô mướn xe gắn máy hay dùng dịch vụ “xe ôm” để đi thăm quan. Xe chúng tôi giống như xe lam ở Saigon chở chúng tôi và anh hướng dẫn viên vừa mới ra trường hướng đẫn du lịch. Anh còn trẻ, nói năng nhỏ nhẹ và lịch sử. Theo anh thì muốn được làm hướng dẫn viên Angkor phải học một khóa học do chính phủ tổ chức và được bằng hành nghề, khóa học gồm lịch sử, văn hóa, nghệ thuật Khmer quan tâm nhất là thời kỳ Angkor và phải biết một trong những ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn. Angkor là di sản thế giới nên việc trùng tu quần thể Angkor được nhà nước Cambodia, Liên Hiệp quốc và nhiều nước rất quan tâm. Số lượng du khách vào Angkor vì thế phải được quản lý. Trước khi vào Angkor du khách phải đăng ký ở cửa vào, với thẻ và hình ảnh trên thẻ được chụp tai phòng đợi ở cửa vào quần thể. Lệ phí vào là 20$ US mỗi ngày. Lệ phí thâu vào một phần được dùng để trùng tu đền và cơ sở hạ tầng trong quần thể. Chúng tôi lấy thẻ vào cho 3 ngày, chỉ trả 40$ US. Nếu muốn xem hết các kiến trúc đền, điện trong quần thể Angkor, 3 ngày là tối thiểu để có thể thực hiện được ước vọng đó. Nhiều chính phủ và tổ chức của nhiều nước trên thế giới đã và đang tài trợ giúp đỡ trùng tu nhiều đền trong quần thể Angkor như Nhật, Pháp, Đức, Mỹ, Ấn độ, Trung quốc. Angkor WatChúng tôi trước tiên đến thăm đền nổi tiếng và lớn nhất trong quần thể Angkor: Angkor Wat. Angkor là từ đọc trại từ chữ nokor nghĩa là thành phố (bắt nguồn từ chữ Sanskrit nagara).Tôi rất xúc động khi nhìn thấy đến từ đàng xa trên đường xe đến cửa đền hình ảnh quen thuộc từ xa với các cây thốt nốt thường thấy trong sách. Angkor huyền bí và mầu nhiệm mà bao lâu nay tôi đã mường tượng và ước ao có dịp được thăm viếng và chiêm ngưỡng nay đã trong tầm tay và chỉ trong vài phút nữa sẽ được toại nguyện. Cách đây không lâu khoảng gần 150 năm, vào năm 1858, nhà thực vật học và thám hiểm Pháp Henri Mouhot đã khám phá ra Angkor hoang vắng chìm đắm trong rừng rậm từ bao thế kỷ. Đền bị các cây cổ thụ mọc phủ kín, rể cây khổng lồ chen vào các khe hở kiến trúc đá qua thời gian nhiều thế kỷ phá đổ và gây nên sự tàn phá đền. Trước cảnh hoang tàn âm u của các kiến trúc từ một nền văn minh chưa ai biết chìm sâu trong rừng rậm từ bao thế kỷ, Mouhot đã xúc động tràn ngập, ông viết một bài mô tả trong nhật ký, sau này in lại trong sách của ông “Voyages dans les royaumes du Siam du Cambodge et du Laos”. Sách này được xuất bản sau khi ông mất vì bệnh sốt rét năm 1861 trên sông Mekong gần Luang Prabang. Nă m 1861 cũng là năm Pháp đánh chiếm Saigon và các tỉnh miền nam. Trớ trêu thay như số phận trước đây của Angkor, mộ ông bị bỏ hoang biến mất trong rừng rậm và chỉ mới đây tình cờ tìm lại được vào năm 1990. Sau khi Mouhot mất, nhật ký của ông được các người hầu thân cận mang về Bangkok và từ đó được trao lại cho vợ ông. Tạp chí “Le Tour du Monde”, năm 1863, đã trích từ sách nhật ký một chương giới thiệu và mô tả khám phá Angkor của ông đã kích thích trí tưởng tượng, óc tò mò, sự khao khát khám phá, tìm hiểu học hỏi ở nhiều nơi trên thế giới. Nhà thám hiểm Louis Delaporte sau đó đã đến Angkor nghiên cứu, vẽ hoạ đồ các kiến trúc và mang về Paris một số hiện vật (nay trưng bày ở viện bảo tàng Guimet) Nhưng Mouhot không phải là người ngoại quốc đầu tiên tìm ra lại được Angkor. Trước ông rất lâu gần 3 thế kỷ là các giáo sĩ người Bồ Đào Nha (8). Một trong những người đầu tiên đó là Antonio da Magdalena, đến Angkor năm 1586. Năm 1589, ông đã đưa lại cho Diogo do Couto, sử gia chính thức của công ty Đông Ấn Bồ Đào Nha ghi lại tường trình của ông về chuyến thăm Angkor trước khi ông bị đắm tàu chết ở Natal năm 1589. Couto đã viết lại như sau về chuyến đi của Magdalena “.. Cách nửa dặm từ thành phố này là một đền gọi là Angar. Đây là một công trình ngoại hạng đến nổi không có thể diễn tả được bằng ngòi viết, nhất là đây là một kiến trúc không giống bất cứ kiến trúc nào khác trên thế giới. Angar có các tháp, kiến trúc trang trí và tất cả những cái tinh tuý mà thiên tài con người đã nghỉ ra được. Đền được bao bọc bởi hào nước, đi vào đền bằng một cầu, được bảo vệ bởi hai tượng cọp bằng đá rất lớn và dữ dằn làm cho du khách phải sợ hãi..". Những giáo sĩ Bồ Đào Nha khác cũng ngạc nhiên rung động trước sự vĩ đại mà họ đã chứng kiến. Marcello de Ribadeneyra đã viết như sau lần đầu tiên về Angkor bằng ngôn ngữ Tây phương xuất bản năm 1601: “..Chúng ta cho rằng những người lập ra vương quốc Siam đến từ thành phố lớn nằm giữa một sa mạc trên vương quốc Cambodia. Tai đó có một thành phố cổ xưa đã bị đổ nát mà một số người cho rằng đã được xây bởi Alexander Đại đế hay bởi người La Mã, thật kinh ngạc là không có ai sống ở đó hiện nay, chỉ có thú dữ trú ngự, và người địa phương nói rằng nó đã được xây bởi người ngoại quốc." Nhưng trước cả các giáo sĩ Bồ Đào Nha là sứ giả Trung quốc Châu Đạt Quan đã có mặt ở Angkor vào thế kỷ 13, lúc Angkor chưa bị bỏ hoang. Ông đã chứng kiến sinh hoạt của một xã hội, phong tục tập quán, vua chúa, đền đài. Tư liệu duy nhất vô cùng quí giá về vương quốc Angkor. Ngày nay Angkor Wat không còn là bí hiểm và khó khăn đi đến nữa, các khoảng đất rộng trước cửa cầu đá đi vào cổng phía tây của đền Angkor Wat bây giờ là bãi đậu xe và có rất nhiều hàng quán phục vụ khách du lịch đến từ khắp mọi nơi. Từ cửa tây Angkor Wat thẳng ra về hướng tây khoảng vài cây số là phi trường Siem Reap, nằm phía dưới hồ nhân tạo rất lớn gọi là “Baray Tây” (Western Baray) của quần thể Angkor. Tuy vậy khi đã đến Angkor Wat, du khách cũng sẽ có các ấn tượng không kém ngạc nhiên như những người đi trước đầu tiên khám phá ra Angkor, đi vào một thế giới khác ngoài sức tưởng tượng của họ. Đường vào đền Angkor Wat là đoạn cầu đá dài băng qua một hào nước bao quanh 4 phía chung quanh Angkor Wat. Đền Angkor Wat hình chữ nhật, chiều dài 1,500m, chiều ngang 1,300m, kể cả hào nước xung quanh rộng 190m. Đây là đền lớn nhất trong quần thể Angkor. Theo các nhà học giả Finot, Coedes, Bosh thì đền được xây dưới thời vua Suryavarman II để làm mộ thờ của vua. Vì thế hướng của đền là về phía tây và đền với các điêu khắc theo truyền thuyết thần Visnu chứ không đặt trọng tâm vào thần Shiva như ở các kiến trúc khác hay cung điện vua. Angkor Wat thể hiện núi Meru, trung tâm vũ trụ : Angkor được xây dựng trên ba tầng đại diện cho đất, nước và gió mà núi Meru dựa vào và nước ở hào chung quanh đền thể hiện cho đại dương trong vũ trụ. Trong ba tầng của Angkor Wat thì tầng cao nhất là trung tâm đền với tháp cao nhất có 7 vòng tượng trưng cho 7 vòng núi thiêng Meru. Có thể biết thêm là đền Angkor Wat chắc chắn là một mộ thờ qua tư liệu của sứ giả Trung Quốc Châu Đạt Quan của nhà Nguyên Mông Cổ có mặt ở Angkor vào thế kỷ 13 có nói đến "mộ của Lu Pan" ở phía nam của thủ đô Angkor Thom với chu vi đến 10 "li" Một kỳ quan kiến trúc như Angkor Wat chắc phải được xây bởi một nhà vua có tầm vóc trong lịch sử Khmer. Suryvarman II (1113-1150 AD) là vị vua hùng mạnh có công mở rộng vương quốc Khmer mang lại vinh quang cho dân tộc này. Ông là một trong hai đại đế trong triều đại Angkor. Vị vua thứ hai là Jayavarman VII, người đã xây dựng Bayon ở Angkor Thom. Ngoài Angkor Wat, Suryvarman II còn xây các đền Thommanon, Chao Say Tevoda, Banteay Samre ở Angkor, Beng Mealea (cách Angkor 60km về hướng đông), Phimai (ở Thái Lan hiện nay). Suryvarman nhiều lần mang quân đánh Đại Việt, chiếm đóng Champa, vương quốc Môn Haripunjaya (Lamphun). Dưới triều ông, đế quốc Khmer trải rộng từ biên giới Lào hiện nay ở phía Bắc, đến vương quốc Grahi ở bán đảo Mã Lai, từ Vijaya (Bình Định), nam Việt Nam đến tận vương quốc Pagan (Miến Điện). Sau khi thống nhất đất nước bị chia đôi bởi hai vua tranh giành đất nước, Suryvarman II đánh Champa và cưỡng bách cùng Champa đánh Đại Việt năm 1128, nhưng bị Lý Công Bình đẩy lui ở Nghệ An (9). Sau đó không lâu, Suryvarman II mang thủy quân quấy nhiểu bờ biển Thanh Hóa. Năm 1145, vì Champa không còn chịu theo đánh Đại Việt nữa, Suryvarman II xâm lăng Champa, chiếm Vijaya, biến Champa thành một thuộc địa của Angkor cho đến khi vua Champa Jaya Harivarman I giải phóng đất nước Champa vào năm 1149 Sử Việt Nam có ghi các sự kiện vua Suryvarman II mang quân đánh Đại Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (11), thì sau khi vua Lý Nhân Tông băng hà, vua Lý Thần Tông còn nhỏ lên ngôi (1128) “Ngày Giáp Dần, hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh... Ngày Quý Hợi, Lý Công Bình đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu bắt được chủ tướng và quân lính”. Dọc hai bên cầu đá đi vào đền xưa kia là các tượng thần và tượng ác quỷ ở mỗi bên ôm thân rắn naga kéo giành giật nhau tạo ra vũ trụ. Trước đây có tất cả 54 tượng thần và 54 tượng ác quỷ ôm thân rắn ở mỗi bên đường, nay chỉ còn lại một vài tượng mà thôi. Theo Mannikka (5) thì con số 108 của tổng số các tượng là số thiêng liêng của tôn giáo và văn hoá Ấn độ (108 cũng là số lần hiện thân của thần Vishnu, Shiva). Qua cổng chính ở tường ngoài của đền, du khách bắt đầu vào khuôn viên tầng nhất Angkor Wat. Đây là hành lang với kiến trúc chữ thập nằm chính giữa.Tại đây chúng tôi thấy có nhiều tượng Phật vẫn còn được thờ cúng. Rẽ vào phía trái về hướng bắc đến cửa ra hành lang là nơi mà theo truyền thống người ta đứng dựa vào tường, vỗ ngực để nghe âm vang và nếu có ước nguyện gì sẽ được toại nguyện. Tôi đứng dựa vào cổng tường, ngước mắt nhìn lên trần và vỗ ngực, quả thật có âm vang dội lại. Nhưng ước nguyện có được toại nguyện như mong muốn không thì tôi vẫn chưa được biết. Gần đấy có một kiến trúc gọi là “thư viện”. Toà nhà “thư viện” nằm trong sân ở tầng một ngoài hành lang gần tường ngoài của Angkor Wat hiện nay đang được chính phủ Nhật giúp trùng tu Để đến tầng thứ ba của đền Angkor Wat, chúng tôi phải bước đi lên những bực đá rất dốc, rất dễ té và nguy hiểm nếu không cẩn thận. Sự khó khăn này là ngụ ý của người xây đền thể hiện cho người ta biết rằng để đi lên được “vương quốc của các thần”, nơi cư ngụ của họ, không phải là dễ, thử thách ý chí của con người. Tầng thứ ba gồm hai hành lang chữ thập cắt nhau thẳng góc ở giữa. Ở điểm giao tiếp của hai hành lang là trung tâm đền Angkor Wat. Xưa kia trung tâm đền có tượng thờ bằng vàng thần Vishnu, nhưng tượng đã bị mất. Ngày nay trung tâm đền có các tượng thờ Phật. Tháp ở trung tâm đền là tháp cao nhất Angkor Wat, chung quanh tháp là bốn hành lang hình vuông. Ở mỗi góc hành lang là một tháp. Tháp trung tâm và bốn tháp chung quanh tạo thành toà chân trời nổi tiếng của Angkor Wat khi ta nhìn từ đàng xa hay lúc gần đến khuôn viên đền. Để có thể cảm nhận được Angkor Wat có sức mạnh huyền bí quyến rủ bao nhiêu người đến thăm đền thế nào thì du khách nên đợi đến hoàng hôn. Angkor Wat dưới ánh hoàng hôn, đền với các tháp và đá trở thành vàng đỏ rực ẩn hiện dước bóng cây thốt nốt. Đôi khi lúc hoàng hôn xuống, du khách thấy cảnh hàng ngàn bay quanh đền và trên bầu trời Angkor rất ngoạn mục. Sau khi viếng thăm Angkor Wat, không một du khách nào mà không có ấn tượng và bị ảnh hưởng vào trí tưởng tượng của mình trước kỳ công huyền bí của một nền văn minh đã biến mất. Gần một thế kỷ trước đây, một du khách người Mỹ đã yêu cầu khi bà mất, thì hài cốt bà được rãi ở cầu đá dẫn vào đền Angkor Wat, năm 1936 ước nguyện của bà đã được toại nguyên (3). Ta cũng có thể hiểu được tai sao gần đây tài tử Angelica Jolies sau khi đến Angkor đóng phim “Tomb Raiders” đã bị thu hút và trở thành một công dân danh dự và là sứ giả cho đất nước Cambodia, cô có một con nuôi là một em bé Khmer. Sau vài tiếng đồng hồ thăm Angkor Wat, chúng tôi rất mệt, đi trở ra và dùng bửa ăn trưa trong một quán ăn trước đường đi vào Angkor, ở đây có rất nhiều quán ăn. Tất cả được qui hoạch nằm trong một khu vực cách xa đường vào đền. Dĩ nhiên cũng là nơi tụ tập của nhiều người bán dạo đi theo du khách để bán đồ vật kỷ niệm, postcard, nước uống .. Angkor Thom Sau Angkor Wat, chúng tôi đi thăm Angkor Thom kế cạnh Angkor Wat. Đường vào qua cửa Nam của Angkor Thom rất ấn tượng: hai bên là các tượng các thần ôm thân con rắn 7 đầu dài khoảng vài trăm thước dọc hai bền cửa vào thành phố xưa Angkor Thom. Trung tâm của thành phố Angkor Thom là đền Bayon, với bốn cửa theo bốn hướng. Kế Bayon về phía tây bắc là cung điện vua Phimeanakas, từ đó cũng có một trục chạy về phía đông ra một cửa nữa gọi là cửa “chiến thắng”. Angkor Thom vì thế có hai trung tâm thể hiện hai thời kỳ lịch sử xây dựng khác nhau hình thành Angkor Thom. Khi Mouhot đến đây thì từ tường thành của Angkor Thom vào trong là rừng rú dầy đặt, cây cao, dây leo khắp nơi không thể nào biết là có thành phố, đền, điện cổ trong đó. Hỏi vài cư dân trong làng gần đó thì chỉ biết là trong đó có điện đổ nát với nhiều đá đổ ngỗn ngang giữa rừng và trẻ con thường hay chơi trò chơi ẩn núp trong nhóm đá tượng bị rừng che phủ. Rất khó khăn để đi đến nơi, Mouhot đã ngỡ ngàng trước các tháp mà trên đó ở bốn hướng là tượng mặt người mỉm cười huyền bí giữa cảnh đổ nát trong rừng thẳm, mà bây giờ là vị trí của điện gọi là Bayon, với các điêu khắc trên một số nền bệ đá chung quanh các tháp mô tả các huyền thoại, cảnh chiến trận, cảnh đời sống xã hội, văn hóa của một nền văn minh đã biến mất mà không ai biết. Phải mất một thời gian nghiên cứu lâu năm sau này qua các các bia ký còn sót lại mới biết được tượng mặt người huyền bí trên các tháp của Bayon là bodhisattva Avalokitesvara Samanthamukha biểu tượng cho vua Jayavarman VII. Angkor Thom được Jayavarvan VII xây dựng sau Angkor Wat gần 100 năm. Đặc biệt ở Bayon so với các nơi khác là sự hiện diện trội hẳn của ảnh hưởng Phật giáo Mahayana mặc dầu có sự chồng chéo với ảnh hưởng Ấn giáo so với các đền điện khác ở Angkor. Cũng không lạ gì vì người tạo Bayon và xây dựng nhiều nhất ở Angkor Thom là vua Jayavarman VII, vị vua theo phật giáo Mahayana. Dưới triều vua Jayavarman VII, Angkor đã lên đến tuyệt đỉnh thể hiện trên kiến trúc, nghệ thuật và quyền lực. Sau Jayavarman VII, Angkor bắt đầu suy sụp và cuối cùng điêu tàn, và hoàn toàn bỏ trống sau khi bị quân Xiêm tàn phá. Từ xưa đến nay Angkor Thom có ấn tượng vào du khách đến thăm không kém sức mạnh huyền bí của Angkor Wat. Giữa quang cảnh đổ nát, đi quanh những tảng đá lớn nằm ngỗn ngang ở Bayon, nhìn lên khắp nơi mọi hướng lúc nào ta cũng thấy tượng đầu người mỉm cười hiểm bí trên các tháp nhìn ta đi thăm quan như muốn cho ta biết là tất cả đều vô thường trên thế giới này, ngay cả Bayon trước mắt du khách. Có tổng cộng 256 gương mặt đá trên 54 tháp nhìn khắp hướng ở Bayon. Cấu trúc đền Bayon gồm ba tầng, Cả ba tầng đều bị hư hại, đổ nát, gạch đá nằm ngổn ngang. Năm 1924, Henri Parmentier (nhà khảo cổ Pháp, người thành lập ra viện bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng) đã tìm được ở Bayon một tượng bồ tát Lokesvara. Sau này trong lòng trung tâm Bayon, một tượng Phật lớn cũng được tìm ra. Điều này chứng tỏ Bayon là đền thờ Phật giáo chứ không phải Ấn giáo như người ta nghỉ lúc ban đầu. Trên một số các bệ đá làm nền chung quanh tháp Bayon ở tầng một là các điêu khắc tuyệt tác. Những bức tranh phù diêu tạc trên đá mô tả rất sống động cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, trận thuỷ chiến giữa quân Khmer, Chàm, Xiêm, các người Hoa buôn bán, sinh hoạt ở chợ. Ta hảy tưởng tượng hình ảnh sống động mà sứ giả Trung Hoa Châu Đạt Quan (Zhou Daguan) của nhà Nguyên Mông cổ có mặt tại Angkor trong năm (1296-1297). Năm 1296, Châu Đạt Quan diễn tả cảnh tuần hành của vua Indravarman cầm gươm thiêng, preah khan, như sau: “Khi nhà vua ra khỏi điện, binh lính đi dẫn đầu; kế đó là cờ, biểu ngữ và âm nhạc. Cung nữ, từ ba đến năm trăm, mặc y phục trang trí hoa, hoa cài trên tóc, cầm đèn cây trên tay, và tạo thành một đội. Ngay cả lúc ban ngày, đèn cầy vẫn được thắp đốt. Kế đó là những tỳ nữ, mang giáo và khiêng, nhóm hộ hệ vua, xe kéo bởi dê và ngựa, làm bằng vàng đi kế tiếp. Các quan lại và hoàng tử ngồi trên lưng voi, và đằng trước họ, người ta có thể thấy từ xa, hằng hà sa số gọng dù màu đỏ. Sau họ là vợ và các nàng hầu của vua trong cáng, xe keo, trên lưng ngựa và lưng voi. Họ có hơn một trăm lọng trang trí bằng vàng. Sau họ là nhà vua, đứng trên lưng voi, cầm gươm thiêng. Ngà voi được bao bọc bằng vàng.. Ông mô tả một thành phố phù hợp chính xác với thành phố của nhà vua Jayavarman VII, Angkor Thom ngày nay, với các tường và hào bao bọc chung quanh, năm cửa với cầu bắc ngang phía trước được trang trí bởi các tượng thần, tháp vàng (Bayon) ở chính giữa thành phố, tháp đồng (Baphuon) một dặm về phía bắc, cung điện hoàng gia một dặm nửa xa hơn về cùng hướng bắc. Ở ngoài thành phố Angkor Thom, Châu Đạt Quan có nói là về phía nam, có tháp Lu Phan (Phnom Bakheng) và mộ của Lu Pan (Angkor Wat).
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 18, 2010 5:40:00 GMT 9
Baphuong, Cung điện hoàng gia, sân voi và tượng “vui cùi”Cạnh Angkor Thom Bayon là đền Baphuong nổi tiếng. Tiếc thay lúc này đền đang được rào đóng vì đền đang được trùng tu. Xưa kia đền Baphuon, xây trên một ngọn đồi, rất lớn hùng vĩ chỉ sau Angkor Wat trong quần thể Angkor. Tại đây trong lúc đi ngang qua đền để đến khu cung điện đã đổ nát của các vua Angkor, chúng tôi gặp một du khách Pháp đang phát họa đền và chi tiết các cột trụ. Hỏi qua mới biết ông hiện đang làm việc ở Saigon đến viếng Angkor vài ngày trong những ngày nghỉ. Ngoài quyển sách hướng dẫn Lonely Planet về Cambodia, ông còn có mang theo các quyển sách hướng dẫn khác chuyên môn về nghệ thuật ở Angkor để tham khảo. Ông cho biết trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp (Ecole Francaise d’Extreme Orient) dưới sự lãnh đạo của kiến trúc sư Pascale Rogère đang giúp chính phủ Cambodia trùng tu đền Baphuong. Trong 9 năm liền, kiến trúc sư Pascal Rogère của trường Viễn Đông Bác Cổ đã làm việc, lui tới trong khu vực Baphuon, ông hầu như biết từng phiến đá (4). Có khoảng 300,000 tảng đá nằm ngỗn ngang quanh đền và trong rừng chung quanh khu vực đền đã và hiện đang được phân loại, đánh số để tái phục và kiến tạo lại cấu trúc đền Baphuon Trường Viễn Đông Bác Cổ được thành lập vào năm 1908, mục đích ban đầu là bảo vệ di tích Angkor khỏi bị mất mác, huỷ hoại do thiên nhiên và con người lấy trộm hay phá hư di tích. Nhưng con người mới chính là nguy cơ to lớn cho di tích Angkor và các đền khác ở Cambodia. Trong các năm chiến tranh loạn lạc ở các thập niên 1960 đến 1980, rất nhiều hiện vật như tượng đã bị lấy đi, đầu tượng bị đục mất... Ngay cả nguyên cả một bức tường có các điêu khắc tuyệt tác ở đền banteay Chmar xa vắng gần biên giới Thái Lan đã bị lấy đi mất. Những hiện vật này đa số sau đó xuất hiện trên thị trường buôn bán đồ cổ ở nhiều nơi. Bangkok là một trung tâm buôn bán đồ cổ Khmer. Cung điện hoàng gia Phimeanakas Cung điện hoàng gia Phimeanakas, nay hầu như chỉ là bãi đất trống nằm giữa một số tường thành còn sót lại. Trong khu hoàng gia còn hai hồ nước lớn gọi là Srah Srei và Srah Bros nơi xưa kia vua, cung nữ trầm mình tắm. Châu Đạt Quan đã viết Độ đã viết về cung điện hoàng gia như sau (9): “Ở đây có một tháp vàng (Phimeanakas), trên lầu cao nhất của tháp là nơi nhà vua ngủ. Mọi người dân ở đây cho là trên tháp đó có hồn của một con rắn chín đầu. Rắn này là chủ của tất cả đất đai trên xứ sở. Hồn rắn xuất hiện nữa đêm dưới dạng một người đàn bà. Chính với hồn rắn này mà nhà vua ngủ và kết hợp chung”. Tại cung điện hoàng gia, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một phiến đá tạc bằng chữ Sanskrit kể về sự nghiệp của vua Jayavarman VII như sau. Lúc thiếu thời, khi Jayavarman VII mang quân đi đánh Chiêm Thành (Champa), thì cha mất. Vua Yasovarman II lên ngôi, nhưng bị Tribhuvanaditya tiếm ngôi. Ông trở về đợi lúc có thời cơ để phục hồi ngôi vua. Khi Champa mang binh đánh phá Angkor và tiêu diệt Tribhuvanaditya, ông tự xưng là vua và khởi nghĩa chống lại Champa. Cuộc chiến với Champa rất là gay go qua nhiều trận đánh và cuối cùng toàn thắng giải phóng đất nước. Sau đó, Jayavarman VII trả thù mang quân đánh Champa, Champa bại trận và trở thành một tỉnh của Khmer. Đây là khúc quanh lớn trong lịch sử của cả Champa và Cambodia. Ở Bayon và Banteay Chmar có các điêu khắc về cảnh thủy chiến với Champa rất sống động. Banteay Chmar khoảng 150 km về phía tây bắc Angkor gần biên giới Thái Lan hiện nay, được Jayavarman VII xây dựng tưởng niệm con ông và bốn tướng lảnh hy sinh đánh Champa. Banteay Chmar có kiến trúc tương tự như Bayon với tháp bốn mặt, nằm trên con đường lộ xưa nối liến Angkor với Phimai và cao nguyên Khorat (nay thuộc Thái Lan). Đi bộ ra khỏi khu cung điện hoàng gia, qua ngôi đền nhỏ thuộc niên đại gần đây với bức tượng Phật mạ vàng cao lớn, chúng tôi đến khu “sân voi” (Elephant terrace) nơi xưa kia vua cùng quan thần xem cưỡi và đấu voi. Xưa kia ở đây là dinh thự của vua làm bằng gỗ, vì thế qua nhiều thế kỷ và thăng trầm của lịch sử đã không còn. Vào cuối thập niên 1960, nhà khảo cổ Pháp Bernard Philippe Groslier trong lúc trùng tu sân voi, đã tìm thấy chân của một cột gỗ to lớn, đây là vật duy nhất còn lại của các kiến trúc gỗ đã biến mất. Gần đây, nhà khảo cổ Roland Fletcher thuộc đại học Sydney trong chương trình nghiên cứu về nguyên do sự sụp đổ bỏ hoang của Angkor, đã khảo sát các chất liệu do dân cư Angkor xưa sinh hoạt để lại dọc và dưới kênh đào quanh Angkor, đã nhờ cơ quan khoa học nguyên tử Úc (Australian Nuclear Science and Technology Organisation) thẩm định thời gian qua phóng xạ của bệ cột gỗ do Groslier tìm được cho thấy tuổi của cột là khoảng năm 905 đến 984 AD (10). Điều này cho thấy khu cung điện hoàng gia và sân voi đã được xây dựng ít nhất là từ thế kỷ thứ 10. Trên khu này còn sót lại một tượng “vua cùi”, tương truyền là vua Jayavarman VII. Trên các tường, bệ chung quanh sân là những điêu khắc đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật Khmer Angkor: voi diễn hành, cưỡi voi chơi polo... Ở các góc tường bệ là các tượng điêu khắc hình chim thần garuda dùng tay nâng đỡ sân. Sau nhiều giờ thăm viếng đến xế chiều và sắp sửa hoàng hôn, anh hướng dẫn viên khuyên chúng tôi sửa soạn lên xe để đến đền trên đồi Bakheng xem cảnh mặt trời lặn lúc hoàng hôn trên quần thể Angkor. Phnom BakhengHoàng hôn Phnom Bakheng Phnom Bakheng là một ngọn đồi nằm giữa Angkor Wat và Angkor Thom. Đây là trung tâm của vương quốc Khmer đầu tiên ở Angkor, gọi là Yasodharapura. Phnom Bakheng là ngọn núi thiêng của Angkor, như núi Meru thiêng liêng trong thần thoại Ấn độ giáo. Trên đỉnh Phnom Bakheng là một đền thờ đã đổ nát. Nơi đây trên mặt đất đá, các nghệ nhân Khmer xưa đã khắc xuống nền đá một bàn chân khổng lồ. Tương truyền rằng bàn chân này là của đức Phật. Đặc biệt ở đây, mỗi ngày khoảng gần 6 giờ chiều, các du khách đến tụ tập rất đông ở chân đồi Phnom Bakheng để lên đỉnh xem mặt trời lặn trên quần thể Angkor. Đa số đều muốn đi bộ, theo một ít các bậc thềm và các lối đi gập ghềnh đầy đá, rễ cây... Có nhiều đoạn phải cẩn thận vì rất nguy hiểm nếu sơ ý. Ai yếu hay sợ cực nhọc có thể dùng dịch vụ cỡi voi lên đồi. Tại đây tôi thấy rất nhiều du khách Nhật, Nam Hàn. Những người yếu hay lớn tuổi thường dùng voi để lên đồi. Trên đỉnh đồi lúc này du khách rất đông, tất cả đều nhìn về hướng tây nơi mặt trời sắp sửa lặn trên mặt nước biển hồ Tonlé Sap ở chân trời. Về phía tây nam là đền Angkor Wat đang tắm dưới ánh hoàng hôn vàng đỏ của mặt trời sắp lặn. Khi Mouhot khám phá ra Angkor, ông có lên đỉnh Phnom Bakheng nhìn xuống quần thể Angkor và đã mô tả như sau : “Tất cả vùng này giờ đây vắng lặng và cô quạnh, mà trước kia chắc chắn phải là sống động nhộn nhịp và vui vẻ; nay chỉ còn lại tiếng hú của các loài dã thú và các tiếng chim kêu giữa sự im lặng cô đơn mà thôi”. Mouhot chắc chắn sẽ không tưởng tượng nổi là lúc này tôi đang đứng ở chỗ mà trước đây ông đã đến giữa đám đông hàng trăm du khách từ khắp năm châu đang quay phim, chụp hình và nói chuyện náo nhiệt. Một sự kiện lý thú về Phnom Bakheng là nó có tác dụng như một cái trống, phản hồi và cộng hưởng âm thanh. Ly’do là ở dưới tháp cao chính của đền có một vùng trũng tạo nên âm thanh vang dội cộng hưởng. Ngoài ra ở đấy cũng có một mộ vuông nằm sâu trong lòng đất, mộ này có duyên cơ từ câu truyện thần thoại “Mười hai cô gái Angkor”. Câu chuyện kể về một người tiều phu nghèo có 12 người con gái, một trường hợp được coi là kém may mắn. Vì ông không thể nuôi nổi gia đình, ông đã mang con vô rừng bỏ, nhưng không thành công lúc đầu. Lần thứ hai thì ông thành công, nhưng thay vì chết, 12 cô gái được bà hoàng hậu Santhomea của thế giới chằng tinh cứu. Bà Santhomea mang các cô gái về nuôi chúng như con mình. Sau này vì quá cô đơn, các cô đã bỏ trốn. Chúng đến vương quốc Angkor, tại đấy vị vua trị vì đã thương các cô và mang về làm vợ. Các cô đã sống trong hạnh phúc cho đến một ngày khi bà hoàng Santhomea tìm được tông tích của các cô. Để trả thù, bà đã mê hoặc vua và làm cho vua đuổi nhốt các cô gái vào một hố sâu trong lòng đất, sau khi đã khoét mắt các cô. Đây là lần thứ ba các cô đã bị bỏ rơi cho chết. Một trong các chị em đã dấu được một con mắt và vẫn còn có thể thấy được. Người con gái một mắt giúp tìm thức ăn cho các chị em sinh sống. Một trong các cô có mang một đứa con trai. Người con trai này lớn lên trả thù cho mẹ và các dì của mình. Anh ta đã giết được bà chằng tinh Santhomea và các chị em được trở về với nhà vua sống hạnh phúc. Chúng tôi và anh hướng dẫn viên đi bộ xuống đồi, anh tài xế đã đợi sẵn giữa sự náo nhiệt của lượt người và xe cộ đón du khách trở về Siem Reap. Đến Siem Reap cũng là lúc thành phố bắt đầu lên đèn.Tối hôm đó, chúng tôi đi dạo phố, ăn tối ở một nhà hàng trước cửa một nhà khách. Đây cũng là dịp để rửa và mua thêm phim mới cho ngày mai. Các quán ăn như vậy có rất nhiều dọc đường chính nơi có nhiều nhà khách với đa số là Tây ba lô ở trọ. Bữa ăn tối với các món ăn Khmer rất ngon. Tại một tiệm rửa hình, chủ là gia đình người Hoa, ông chủ rất nồng hậu đón khách, vui vẻ và ngạc nhiên khi biết chúng tôi là du khách từ Việt Nam. Người Hoa và Việt đã trở lại buôn bán sinh hoạt bình thường ở tỉnh Siem Reap và vùng Battambang. Cách đây không lâu, khi Khmer Rouge vẫn còn hoạt động trong vùng quanh Siem Reap và Angkor, an ninh rất bất ổn và là mối hiểm họa cho cộng đồng người Việt, Hoa. Ta PhromNgày hôm sau chúng tôi tiếp tục nhờ anh hướng dẫn viên đẫn đi thăm các đền Thommanon, Chao Say Tevoda, Ta Phrom, Neak Pean,.. Đền Thommanon nằm gần cửa “Chiến Thắng” của Angkor Thom. Trong thập niên 1960, đền đã được trường Viễn đông Bác cổ trùng tu bằng phương pháp phục hồi dùng vật liệu giống như vật liệu ban đầu (anastylosis). Trung tâm đền nằm giữa hai cổng tháp, một ở đông và một ở tây. Kiến trúc đền Thommanon thuộc loại cổ điển Angkor Wat, tương tự như kiến trúc đền Phimai ở Thái Lan mà trước kia trong năm 1984 tôi đã có dịp viếng thăm. Sau 20 năm rồi, tôi thực sự hôm nay mới có dịp đứng chiêm ngưỡng và nhớ lại những xúc động, cảm giác bồi hồi ngày xưa khi đứng trước ngôi đền cổ, đổ nát của nền văn minh rực rỡ đã đi qua trong quá khứ. Cảm giác của tôi hôm nay cũng không kém thuở trước. Tôi đi quanh đền và vào trong chánh điện, chụp một vài tấm hình kỷ niệm và để sau này sẽ so sánh với đền Phimai khi trở về. Trên tường đền, có điêu khắc rất đẹp những cảnh trong thần thoại Ramayana, như Vishnu cười chim thần Garuda. Đối diện với đền Thommanon, bên kia đường, là đền Chao Say Tevoda có kiến trúc tương tự, nhưng bị đổ nát vì chưa được trùng tu bao giờ. Đền không lớn, nhỏ hơn đền Thommanon một chút, trước cửa vào đền có bảng thông tin cho biết là Chao Say Tevoda hiện đang được chính phủ Trung Quốc giúp tùng tru lại. Vì đền đang trùng tu nên du khách chưa được phép vào. Đền Thommanon và Chao Say Tevoda được vua Suryavarman II xây dựng cùng thời với Angkor Wat. Thommanon thờ thần Vishnu nhưng đền Chao Say Tevoda thờ thần Shiva. Thường ở trung tâm các tháp có kiến trúc đá tượng trưng vật dương linga biểu hiện của thần Shiva và vật âm Yoni, đặc điểm của văn hóa và tôn giáo Ấn độ. Tôi có giải thích ý nghĩa của linga và yoni cho bạn đồng hành của tôi. Sau khi hiểu được vật thể tượng trưng của linh phù linga và yoni, bạn tôi đều cười mỗi lần khi gặp các vật trên được thờ ở chính giữa các điện tháp. Vì không còn nhiều thời gian và muốn đi đến đền nổi tiếng Ta Prohm, nơi trường Viễn Đông Bác Cổ đã cố ý giữ lại tình trạng ban đầu của đền lúc được khám phá từ trong rừng rậm để giữ lại cho hậu thế cảm quan khi đến thăm đền, nên chúng tôi vội vã lên xe. Tôi rời đền Thommanon trong tiếc nuối. Ta Phrom, nơi phim “Tomb Raiders” được quay đã đưa cô tài tử Angelica Jolies trở thành nổi tiếng chính là đền do vua Jayavarman VII xây. Ta Phrom là đền lãng mạng nhất ở Angkor, được vua Jayavarman VII xây năm 1186 để tưởng niệm mẹ của nhà vua, Jayarajachudanami, dưới dạng tượng quan âm bồ tát Bát Nhã Ba la mật (Prajnaparamita, tượng trưng cho sự sáng suốt uyên thâm) và tượng thầy của vua, Jayamangalartha. Cả hai tượng được dặt trong đền. Các cây cổ thụ mọc ngay trên đền, với rễ cây to lớn bao phủ các tháp và kiến trúc đền. Đó là hai loại cây, Ficus religiosa và cây bông gạo (kapok). Đền có không khí bị bỏ hoang trong rừng, các tảng đá lớn đổ nằm lổn ngổn khắp mọi nơi từ các tháp, kiến trúc bị sụp đổ, do các cây rừng tàn phá từ bao thế kỷ. Viếng đền Ta Phrom mới cảm nhận được cảm tưởng của những người tìm lại được Angkor lúc ban đầu khi họ chứng kiến được Angkor trong trạng thái bỏ hoang trong rừng rú. Chính vì đặc điểm này mà rất nhiều du khách đến thăm đền. Trong hầu hết lộ trình của các chuyến thăm quan du lịch quần thể Angkor, cũng như Angkor Wat, Ta Phrom là một địa điểm phải được ghé thăm. Neak PeanNeak Pean là một đền nhỏ, trước kia là nằm giữa một hồ nhân tạo lớn gọi là Jayatataka, đây là hồ nước nhân tạo xưa, lấy từ sông Siem Reap, mà người xưa ở Angkor dùng để canh tác, nay đã hoàn toàn khô, không còn nữa. Ở giữa hồ hình vuông là một đảo tròn nhỏ, có một tháp chung quanh là tượng rắn thần naga. Châu Đạt Quan có viết rằng hồ nước có nhiều hoa sen và tháp có nóc bằng vàng. Nay thì tháp được trang trí bằng những điêu khắc hình ảnh đức Phật và bồ tát Bodhisattva Avalokiteshvara (tượng trưng cho từ bi). Một tượng con ngựa tượng trưng cho bồ tát, đó là ngựa Balala. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì đức bồ tát đã hóa thân thành con ngựa Balala để cứu một nhóm thương nhân bị đắm tàu. Một đặc điểm của Neak Pean là có bốn buồng nhỏ chung quanh đảo. Mỗi buồng có một vòi phun nước, một buồng giống hình con voi, một giống sư tử, một giống con ngựa và một giống hình người. Từ những vòi này là nước trong veo chảy ra mà theo Châu Đạt Quan là được những người hành hương dùng để rửa hết tội lỗi. Neak Pean là kiến trúc biểu tượng hồ thần tiên Anavatapta mà theo truyền thuyết Ấn Độ là ở trên núi Hi Mã Lạp Sơn có các nước phun ra từ các đầu thú vật (9). Preah KhanGiống như Ta Phrom, đền Preah Khan vẫn còn như trong trạng thái hoang dã với các cây cổ thụ mọc trên kiến trúc đền. Tổ chức Quỷ Bia tượng Thế giới (World Monuments Fund) trước đây khi trùng tu và bảo quàng đền đã quyết định giữ các cây cổ thụ lại và bảo tồn đền như một phần đổ nát ở trạng thái thiên nhiên. Chung quanh đền là rừng, nên đền có một không khí rất cổ kính, tôn nghiêm và hoang dã. Một nơi thơ mộng, rất lý tưởng để suy tư, trầm ngâm trong yên lặng. Tuy vậy cũng như ở Ta Phrom, du khách đến đây rất nhiều vì thế mất đi nhiều không khí tôn nghiêm cổ kính. Preah Khan, Ta Som và Neak Preah là một nhóm đền gần Jayatataka. Cũng như Bayon ở Angkor Thom, cả ba đền là kiến trúc Phật giáo được vua Jayavarman VII xây dựng. Preak Khan và Ta Som là đền được xây để tưởng niệm cha của vua Jayavarman VII. Như đã nói ở trên, Preah Khan có nghĩa là “gươm thiêng”, mà trong huyền thoại là của vua Jayavarman II trị vì vào khoảng cuối thế kỷ thứ 9. Preah Khan xây vào năm 1191 có chứa tượng vua cha Dhara Nindravarman II dưới dạng bodhisatva Lokesvara tên là Jayavarmesvara (9). Cũng như Bayon, đền được xây là đền Phật giáo nhưng sau khi vua Jayavarman VII mất, các vị vua kế vị đã biến đền thành đền thờ Ấn giáo. Các bàn thờ được xây thêm thờ các thần Ấn giáo như Shiva, Vishnu. Một số các điêu khắc đức Phật bị đục bỏ, một số khác thì râu được thêm vào để trở thành các hiền nhân rishi Ấn độ. Preah Khan rất lớn khoảng 57 hectares, được bao bọc bởi bốn lớp tường thành và một hào nước bên ngoài. Preah Khan không phải chỉ là một đền thờ mà thật ra là một thành phố nhỏ. Những ký tự tìm được ở Preah Khan có nói đến một cộng đồng hơn 90 ngàn dân sống trong vòng đai đền. chỗ ở của các thầy tu, học trò và các người chăm sóc đền chắc là ở khoảng giữa bức tường bên ngoài và bức tường thành thứ hai. Từ chỗ đậu xe ở cổng hướng đông, chúng tôi đi bộ vào đền Preah Khan. Đường đi vào Preah Khan, hai bên là hàng dài các tượng đèn đá, sau đó là qua một cầu giống như ở Angkor Thom với hai bên là các thần và quỷ ôm con rắn chín đầu. Điều này cho thấy Preah Khan trước đây là chỗ ở của hoàng gia, có thể nơi đây Jayavarman VII làm cung điện trong khi Angkor Thom đang được xây dựng. Qua cầu đá là đến cửa thành vòng ngoài, cửa thành được bảo vệ bởi các tượng chim thần Garuda to lớn. Trên cửa là tháp (gopura) rất hùng vĩ. Đi qua hai bức tường thành nữa là đến hệ thống kiến trúc đền với các điện, hành lang, phòng, đền thờ. Trong điện được gọi là “Điện người múa”, vì trên mi cửa vào là các điêu khắc vũ nữ apsara rất đẹp, thỉnh thoảng có tổ chức những điệu múa truyền thống Khmer. Giữa trung tâm Preah Khan có một tháp hình chuông (stupa) cho thấy đền Preah Khan ban đầu được xây là đền phật giáo. Ở Preah Khan có một bệ đá khắc chữ, liệt kê các công trình kiến trúc được vua Jayavarman VII xây dựng (9), trong đó có 23 tượng đá gọi là Jayabudha mahanatha được biết là có đặt ở các thành phố trong đó có Lopburi, Suphan, Ratburi, Phetchaburi, Muang Sing (hiện nay nằm trên lảnh thổ Thái Lan). Tên tượng cho phép ta đoán là các tượng này tượng trưng cho nhà vua. Bia đá khắc ở Preah Khan cũng có nói đến 121 nhà nghỉ mà nhà vua xây dọc đường trên vương quốc. Các nhà nghỉ chân này vẫn còn tồn tại một thế kỷ sau vì Châu Đạt Quan đã viết về chúng trong chuyến lưu hành ở Angkor của ông như sau “Trên những đường lộ chính, có các nhà nghỉ tương tự như các nhà nghỉ đưa thư tín của chúng ta”. Ngoài ra nhà vua còn cho xây 102 bệnh viện khắp trên vương quốc mà hiện nay vị trí của 32 bệnh viện này đã được xác định. Sau khi thăm quan Preah Khan là đã xế chiều, mặc dầu tinh thần còn nhiều phấn khởi, chúng tôi rất mệt mỏi vì đi bộ rất nhiều từ ngày hôm qua đến ngày hôm nay, và đầu óc choáng ngộp với bao dữ kiện và thông tin. Chúng tôi nói với anh hướng dẫn viên về Siem Reap sớm để nghỉ ngơi. Nói chung trong hai ngày chúng tôi đã thăm quan những đền quan trọng và lý thú nhất trong quần thể Angkor. Sau khi nghỉ ngơi ở khách sạn, chúng tôi đi dạo quanh và vào chợ mua trái cây về phòng ăn, sau đó đến cà phê Internet gọi điện thoại về Saigon. Phải nói giá cước gọi đi Việt nam rất mắc so với các nước khác, mặc dầu hai nước rất gần nhau. Ở khách sạn chúng tôi ở, các nhân viên đều lịch thiệp và lanh lợi. Họ hỏi chúng tôi muốn đi đâu, họ sẽ gíup đỡ. Khi tôi nói là có ý định muốn đi mua phim ảnh cho máy chụp ảnh và quay phim, họ dùng xe Honda chở chúng tôi đến tiệm gần khách sạn. Tối hôm đó, chúng tôi do dự trong sự chọn lựa đi thăm quan ngày mai: biển hồ Tonle Sap hay tiếp tục đi thăm quần thể Angkor ở vòng ngoài. Angkor vẫn là quyến rủ không thể cưỡng lại. Chúng tôi nhờ khách sạn mướn xe đi thăm Banteay Sreii và các đền chưa thăm. Lúc đó chúng tôi mới biết là chính ông chủ nhà khách Tasom, người đã đưa chúng tôi đến khách sạn, sẽ là người lái xe chở chúng tôi đi thăm quan. Chuyến đi này chúng tôi không có hướng dẫn viên du lịch, và thật ra cũng không cần nữa vì các chi tiết lịch sử, kiến trúc đền đều có thể biết qua các sách hướng dẫn du lịch như Lonely Planet. Banteay SreiChủ “nhà khách Ta Som” là người Khmer rất hiền lành và hoạt bát. Ông tên là Mang Meng, ông dùng xe nhà đích thân chở chúng tôi đi thăm quan. Ông có kể là ngày xưa ông dã từng trong quân đội chính phủ Hun Sen chống lại với Khmer Rouge trong thời chiến tranh. Nay ông đã giãi ngũ và làm ăn sinh sống. Trên đường đi Banteay Srei, ông chở chúng tôi ngang khu phố dọc bờ sông SiemReap nơi có nhiều dinh thự và nhà lớn. Ông nói nơi đây là chỗ cư ngụ của tỉnh trưởng Siem Reap và các quan chức quan trọng. Họ rất giàu có và sang trọng, dĩ nhiên là nhờ có sự tham nhũng và thoái hóa mà đa số dân chúng đều biết. Ra khỏi thành phố Siem Reap, đường đi đến Banteay Srei rất tốt, được cải tiến rất nhiều so với mấy năm trước đây. Hai bên đường là các hàng cây được trồng và tân trang lại. Theo ông chủ xe thì chính quyền tỉnh Siem Reap đã mua lại rất nhiều đất của dân để nới rộng đường. Có nhiều người trong chính quyền tỉnh đã dành và tiếm dụng đất chung quanh vùng vì hiện nay ở Siem Reap và nhiều nơi khác trên Cambodia giấy tờ chủ quyền không có hay không rõ ràng. Chúng tôi đi qua nhiều thôn xóm Khmer và thấy được cảnh sinh hoạt của người dân. Đa số họ sống rất nghèo k Đền Banteay Srei là tuyệt tác của nghệ thuật tôn giáo Balamon Ấn độ. Đền gồm ba lớp, qua cầu đá đi vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua hào nước (nay không còn) là cổng vào vòng giữa và cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và hai toà kiến trúc gọi là “thư viện”. Trước ảnh (mandapa) nối với trung tâm đền là các tượng người bảo vệ đền. Các tượng này thật ra chỉ là tượng sao bản, tượng cổ nguyên thủy hiện nay được giữ bảo quản ở Viện bảo tàng quốc gia ở Phnom Penh. Trên mi cửa (lintel) ở cửa hành lang điện sảnh là những điêu khắc tỉ mỉ chi li tuyệt tác. Trên sân nhỏ giữa đền ở vòng trong có ba đền thờ: kiến trúc đền thờ phía bắc thờ thần Vishnu, đền trung tâm và đền phía nam thờ thần Shiv Chính tại Banteay Srei vào năm 1923, nhà văn Pháp trẻ 22 tuổi André Malraux cùng vợ tên là Clara và người bạn thời thơ ấu đã đục lấy đi các tượng tổng cộng hơn 600 ký, chở đi trên ba xe bò, và sau đó dùng tàu thủy đến Phnom Penh để bán cho người mua mà họ đã thương lượng trước đó. Nhưng may thay, tại đấy, cả ba bị bắt và bị kết án ba năm tù. Bản án tuy vậy không được thực thi nhưng vụ án này đã được phổ biến rộng rãi trên báo chí và từ đó thúc dục nhà cầm quyền thực thi vai trò quan trọng của sự bảo tồn và bảo vệ những kiến trúc quí giá ở Angkor. Phương pháp phục hồi (analystolosis) bắt đầu được dùng đầu tiên bởi nhà khảo cổ Marchal ở đền Banteay Srei để phục hồi những chỗ bị hư hại. Nhà văn Vương Hồng Sển khi viếng Banteay Srei vào năm 1940, thấy đền hầu như nguyên vẹn sau khi được phục hồi, lúc đó còn ở giữa rừng hoang (nay trước đền là con lộ lớn nhiều xe đi lại và các hàng quán, quày hàng bán đồ cho khách đến thăm). Trên đường trở về Siem Reap, chúng tôi nhờ ông Mang Meng ghé qua vài ngôi đền khác trong quần thể Angkor mà các ngày trước chúng tôi chưa có dịp viếng thăm được. Cụ thể là các đền Mebon Đông, Ta Som và Ta Keo. Mebon Đông (East Mebon)Mebon Đông xưa kia nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa một hồ đập nước lớn hình chữ nhật, gọi là “Đông Baray”. Châu Đạt Quan gọi hồ này là Đông Hồ. Đền Mebon Đông có tất cả các đặt tính của một đền núi, tượng trưng cho núi thiêng Meru. Muốn đến được đền phải đi bằng thuyền, lên nhiều bậc thang đá đến sân đền. Hồ đã biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Trên sân đền là năm tháp gồm bốn tháp ở bốn góc chung quanh một tháp lớn ở giữa. Đền được vua Rajendravarman (944-968) xây dựng. Các ký tự tìm được gần đền và trên tượng đá tại đền (được xác định là năm 952) mô tả vị trí các điện thờ linh phù (linga) Sri Rajendresvara, các thần, nhất là Shiva và Parvati, giống như cha và mẹ của vua Rajendravarman. Đền Mebon Đông thuộc vào nhóm đền thờ cha mẹ của vua (3). Xuống xe gần đền, chúng tôi nhận thấy đây là địa điểm khá xa trong quần thể Angkor nên hầu như không có du khách (trừ hai du khách khác từ Victoria, Úc mà chúng tôi vui vẻ nói chuyện, trao đổi cảm tưởng) và trước cửa đền không có cảnh buôn bán hay hàng quán gì hết. Chúng tôi đi lên đền qua nhiều bậc thang đá, qua tượng hai sư tử đá là đến sân đền. Từ sân đền trên cao nhìn xuống ta có thể thấy một số đền khác ở phía xa và khoảng đất bằng phẳng chung quanh đền của hồ cạn “Đông Baray”. Ở bốn góc sân đền là bốn tượng voi đá lớn và rất đẹp. Vắng bóng du khách, chỉ còn lại có hai chúng tôi đi quanh đền trong cảnh vắng lặng của buổi trưa nắng và vì cảm cảnh chúng tôi đã chụp rất nhiều hình kỷ niệm. Trưa nắng vùng nhiệt đới thường rất gay gắt và làm mọi người uể oải muốn tìm một nơi nào hay về nhà nghỉ mệt hoặc cùng lắm tìm góc cây nào đó dừng chân, nhưng quả thật cảnh hoang vắng trong một đền rộng lớn và yên lặng nhìn được bốn phía từ sân trên đỉnh đền như có gì huyền bí trang nghiêm làm chúng tôi như bị thôi miên, đi khắp nơi trong đền. Nhìn ngắm trong lúc tưởng tượng đến cách đây năm sáu thế kỷ nơi đây là chỗ người xưa ở quanh vùng đến thờ cúng náo nhiệt, nay chỉ là nơi hoang tàn để lại di tích tuyệt tác của một nền văn minh rực rỡ đã mất. Đền Mebon Đông không phải là tuyệt tác của nghệ thuật Khmer so với các đền khác trong quần thể Angkor như Angkor Wat, Banteay Srei hay Angkor Thom nhưng là một đền uy nghi vì tầm vóc cao lớn giữa đất bằng chung quanh và có nghệ thuật trang trí qua các linh phù điêu khắc rất linh hoạt và sống động. Xưa kia đền ở giữa hồ, từ xa có thể thấy như ngọn núi thiêng trấn ngự bao trùm chung quanh vùng, đóng vai trò quan trọng là trung tâm tôn giáo và tâm linh của người xưa.. Ta SomTa Som là một đền nhỏ, gần Neak Pean và Preah Khan, về phía đông của hồ Jayatataka, được bảo vệ bởi một hào nước nay đã cạn. Vòng trong của đền chỉ có kích thước 30mx20m. Vì thế rất ít người và du khích để ý đến nên rất vắng vẽ khi chúng tôi đến thăm. Đền có hơi đổ nát, chưa được phục hồi. Giống như ở Bayon, trên tháp (gopura) ở cửa đông và tây là các tượng lớn điêu khắc hình mặt người ở bốn hướng. Trong các hành lang ở đền là các điêu khắc vũ nữ apsara và các thần. Ta Som là đền Phật giáo được xây bởi vua Jayavarman VII vào thế kỷ 12, như ở Preah Khan, đền xây để tưởng niệm vua cha. Cùng với các đền thờ phật giáo khác của Jayavarman VII, sau khi ông mất, các vị vua kế tiếp đã biến chúng thành các đền Ấn giáo. Vì thế các điêu khắc về đức Phật bị đục mất hoặc biến dạng. Giữa đền Ta Som hiện nay là thờ linga tượng trưng cho thần Shiva thay vì tượng Phật như lúc ban đầu. Rời Ta Som lúc đã xế trưa, chúng tôi trở về Sieam Reap để sửa soạn về Saigon chiều nay. Trong quần thể Angkor còn rất nhiều đền chưa viếng thăm được, cụ thể là các đền Banteay Kdei, Prasat Kravan, Banteay Samre, Bakong, Roluos, PreRup và các đền ngoài Angkor như Beng Mealea, Banteay Chmar. Tôi tự hứa phải để đến có một dịp khác trở lại thăm và nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. Angkor và bài học lịch sửVì hôm nay là ngày cuối ở Angkor trước khi trở về Việt Nam vào lúc buổi chiều, chúng tôi quyết định nghỉ ngơi và thong thả đi dạo quanh thành phố Siem Reap sau ba ngày mệt mỏi viếng thăm Angkor. Anh Mang Men chở chúng tôi đi đến văn phòng Vietnam Airlines để đăng ký vé về Saigon chiều nay. Mỗi ngày đều có chuyến bay từ Siam Reap đi Saigon, Bangkok, Hanoi. Ngoài Vietnam Airlines, còn có các hảng hàng không khác của Thái Lan như Thai Airways, Bangkok Airways và Siem Reap Airways. Vietnam Airlines cạnh tranh rất hiệu quả với giá phải chăng và lúc nào cũng đông khách. Phi trường quốc tế Siam Reap rất hiện đại với nhiều du khách từ khắp nơi trên thế giới đến đi thăm kỳ quan Angkor, ở đây trên tường có các câu trích từ tư liệu của các nhà học giả, sử gia nổi tiếng nói về Angkor: Pelliot, Châu Đạt Quan. Buổi chiều hôm đó, trong lúc đợi phi cơ trở về Saigon, lúc nào trong đầu tôi cũng có một câu hỏi: lý do gì đã gây ra sự sụp đổ và bỏ hoang của Angkor. Lúc ở cực điểm, Angkor có dân số lên đến cả triệu người, xã hội trù phú, văn hóa rực rỡ. Vậy thì phải do một biến cố to lớn gì đó. Đa số các sử gia cho rằng sau khi đã bỏ vào rất nhiều nhân lực, tổn phí xây dựng đền dưới thời vị vua cuối cùng Jayavarman VII, xã hội Khmer đã hoàn toàn suy sụp sau khi kinh đô Angkor bị quân Xiêm tàn phá. Angkor bị bỏ hoang từ đó. Gần đây, một nhóm nhà nghiên cứu của đại học Sydney và trường Viễn đông Bác cổ dùng kỹ thuật ảnh vệ tinh, nghiên cứu địa lý, địa thế kinh rạch và tư liệu xưa cho rằng lý do chính gây ra sự sụp đổ của Angkor là do sự mất thăng bằng về môi trường trong sự sử dụng tài nguyên nước gây ra nạn đói kém và xã hội tan rã. Roland Fletcher (12) cho thấy Angkor là một thành phố trãi rộng từ bờ hồ Tonle Sap cho đến chân núi Phnom Kulen với diện tích khoảng 1000km2, tương đương với thành phố Sydney hiện nay. Angkor vì thế được coi như là thành phố trước cách mạng kỹ nghệ lớn nhất. Thành phố tuỳ thuộc vào hệ thống kênh đào nối liền với các hồ chứa nước, sông và biển hồ Tonle Sap trong mùa nước và mùa khô. Hệ thống cơ sở hạ tầng này cho phép thành phố phát triển với dân số lên đến 750 ngàn dân. Khi dân số lên quá mức, rừng được biến thành đồng lúa, và cây gỗ được khai thác ở vùng quanh núi Kulen (nguồn sông Siem Reap) dẫn tới phù sa tích tụ xuống Angkor gây trở ngại cho hệ thống kênh đào. Đây cũng là một thí dụ về sự sụp đổ của một xã hội đã phát triển thiếu quản lý, lạm dụng môi trường mà sử đã cho thấy nhiếu trường hợp như vậy. Nhà khoa học Jared Diamond (7) trong quyển sách xuất bản gần đây cho thấy một thí dụ là dân đảo Easter đã tự hủy diệt khi tài nguyên rừng bị lạm dụng khai thác quá mức dẫn đến sự biến mất rừng trên đảo và không còn vật liệu để làm thuyền đánh cá sinh sống. Có rất nhiều hình ảnh tại trang: www.trisanna.com/cambodia.html Tham khảo (1) Michael Freeman, Claude Jacques, Ancient Angkor, Thames & Hudson Ltd, London, 1999. (2) Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời hư, Nhà xuất bản trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003 (3) Maurice Glaise, A guide to the Angkor monuments, translated from French, <http://www.theangkorguide.com/> (4) Jacque Lange, Angkor, La resurrection du temple montagne, Paris Match no. 2851, 8-19 Jan 2004. (5) Eleanor Mannikka, Angkor Wat, Time, space and kingship, Allen & Unwin, 1997 (6) Michael (1) Michael Freeman, Roger Warner, Angkor, The hidden glories, David Larken book, 1990 (7) Jared Diamond, Collapse: How societies choose to fail or succeed, Penguin books, 2005 (8) Charles Higham, The civilization of Angkor, University of California Press, 2002 (9) George Coedes, The Indianized states of Southeast Asia, East West Center Press, University of Hawaii, 1968 (10) Ugo Zoppi et al, The contribution of C14 AMS dating to the greater Angkor archeological project, Poster presented at the AMS-9 conference in Nagoya, September 9-13, 2002. (11) Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 1993. (12) Roland Fletcher, Damian Evans, Ian Tapley, AIRSAR’s contribution to unđerstaning the Angkor World Heritage Site, Cambodia – Objectives and preliminary findings from an examination of PACRIM2 datasets, Proceeedings of 2002 AIRSAR Earth Science and Application Workshop, NASA Jet Propulsion Laboratory,Cal.,http://airsar.jpl.nasa.gov/documents/workshop2002/papers/P1.pdf
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 7:47:33 GMT 9
Chuyện dài đô thị và nông thôn Tương Lai Liệu có người dân thành phố nào không có một gốc gác nông thôn? Người Hà Nội cũng vậy thôi. Chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, đã có nhiều công trình nghiên cứu Hà Nội miêu tả và phân tích kỹ về những dấu ấn của làng quê trên gương mặt phố phường Hà Nội, tưởng chẳng phải nói thêm. Chỉ xin được gợi lên hình ảnh phố phường Hà Nội trong các tác phẩm của danh họa Bùi Xuân Phái, một niềm kiêu hãnh của người Hà Nội. “Phố Phái”, một danh xưng đã đi vào lịch sử được người Hà Nội trân trọng giữ gìn như báu vật của thủ đô. Vâng, của thủ đô, của riêng Hà Nội không trộn lẫn vào đâu được, mặc dầu những tác phẩm nghệ thuật độc đáo là tài sản vô giá của một quốc gia. Ngẫm cho kỹ, qua đôi mắt thiên tài và đường nét, sắc mầu của “Phố Phái”, cảm quan thẩm mỹ đậm đặc vẫn thức dậy trong người nhìn ngắm niềm xao xuyến giữa “phố” và “làng”. Một thủ đô xinh xắn và tao nhã, “sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội, những phố dài xao xác heo may, người ra đi đầu không ngoảnh lại, sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”1. “Những phố dài xao xác heo may” ấy không là những “bin đinh” cao to và hãnh tiến, những “villa” diêm dúa khoe mẽ cái thị hiêu giàu tiền mà nghèo tri thức, đói thẩm mỹ. Với “Phố Phái” chỉ có mái nâu cũ kỹ chẳng khác mấy với những mái ngói làng quê, được thăng hoa bên những gam màu quen thuộc trong cảm thức dân dã. Nét dáng “làng” và nét dáng “phố” quyện vào nhau, thức dậy những ý niệm sâu lắng về đất nước: nghèo, nhưng dám là mình, từ một nền văn minh lúa nước của miền nhiệt đới gió mùa mà chủ động và sáng tạo trong cách đi vào công nghiệp hóa , đô thị hóa, hiện đại hóa. Rồi đây khi Hà Nội mở rộng gấp nhiều lần, liệu dấu ấn ấy có mờ phai đi trong nhịp độ tăng tốc của đô thị hóa, công nghiệp hóa nhân danh hiện đại hóa, hay lại sẽ đậm nét hơn lên với cả hai chiều kích tốt và xấu? Chắc sẽ có nhiều kịch bản xảy ra, tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Chuyện này rồi đây những nhà quy hoạch, nhà quản lý với trái tim đập theo nhịp đập của ý nguyện nhân dân cả nước và nhân dân thủ đô, được dẫn dắt bởi một tầm tư duy tương xứng với trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, và trước những đôi mắt sắc sảo, đầy kinh nghiệm của thế giới hiện đại, sẽ dày công suy nghĩ để không nảy nòi ra những kịch bản xấu về thủ đô ngàn năm văn vật. Cái thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” mà đôi mắt xanh của Lý Thái Tổ đã nhìn thấu và đưa ra quyết định dời đô từ Hoa Lư về đây “tiện hướng nhìn sông tựa núi. Địa thế rộng mà bằng phẳng” đúng là “nơi thắng địa”2 bậc nhất, để nghìn năm Thăng Long sừng sững tồn tại, ghi đậm dấu ấn của tầm nhìn vĩ nhân. Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội qua những biến thiên của lịch sử, từng chiêm nghiệm bao cuộc bể dâu “tạo hóa gây chi cuộc hý trường” từng ghi lại những “dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo”3 hiên ngang thách thức và đánh bại mọi toan tính, mọi thủ đoạn của những thế lực ngoại xâm đến từ mọi hướng. Trong thế trận “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, ông cha ta đã nhiều lần dám bỏ ngỏ thủ đô cho giặc tràn vào, quay trở về làng, cái nôi của sức mạnh dân tộc, làng còn thì nước sẽ không mất. Từ làng mà tập họp lực lượng, chọn thế đánh, dồn sức quật ngã kẻ thù, giải phóng thủ đô, lấy lại nước. Những Thoát Hoan, Vương Thông, Tôn Sĩ Nghị…hùng hổ vào chiếm Thăng Long để rồi cụp đuôi chạy về nước trong cái thế “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”. Giữa thế kỷ XX, đạo quân viên chinh xâm lược Pháp, sau Điện Biên Phủ, tiêm tất hơn khi làm lễ cuốn cờ có kèn “bú dích” thổi lên cũng không che được vẻ bẽ bàng của đám tàn quân thất trận, kéo theo luôn sự sụp đổ cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ. Dẫn đầu đoàn quân thắng trận về tiếp quản thủ đô là người nông dân mặc áo lính, anh hùng Nguyễn Quốc Trị. Và trong “trùng trùng say trong câu hát, lớp lớp đoàn quân tiến về” 4 có những chàng trai Hà Nội “bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”5 nhưng nếu nhìn cho kỹ, thì họ chỉ điểm xuyết trong đội ngũ trùng trùng những người nông dân rời làng quê ra đi chiến đấu, sau khi “đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”6 chỉ một bộ phận nhỏ trong họ ở lại thành phố, số đông rồi sẽ về lại làng quê “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó” 7. Bởi lẽ, những người nông dân mặc áo lính ấy “việc cuốc , việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm”8, vì nước lâm nguy mà phải cầm súng. Bao đời, người nông dân vẫn phải gánh trên vai mình gánh nặng nhất của việc dựng nước và giữ nước. Từ chính sách “ngụ binh ư nông” đời Trần cho đến các cuộc chiến tranh chống các thế lực xâm lược đến từ mọi hướng trong thời đại Hồ Chí Minh, nông dân vẫn là quân chủ lực. Chuyện ấy ai cũng có thể thấy và nói được. Rồi ngay trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chỉ tính trong vòng hơn hai thập kỷ sau 1975, hai lần nông thôn và nông dân đã cứu nguy cho nền kinh tế đất nước khỏi sụp đổ. Một là, vào cuối năm 1980 với sự sụp đổ của Liên Xô và khối XNXN Đông Âu, và hai là, cuối 1990 với khủng hỏang ở các nước Đông Nam Á. Cả hai lần, sản xuất công nghiệp, có lần cả dịch vụ đều sa sút, có lúc tăng trưởng âm, chỉ nhờ nông dân kiên cường và nhẫn nại trên mặt trận sản xuất, nông nghiệp phát triển, mới cứu được cho cả nền kinh tế đã đứng bên bờ vực. Là tác giả của Đổi Mới với “khoán chui” dẫn đến chỉ thị 100 của Ban Bí thư và 8 năm sau có nghị quyết của Bộ Chính trị về “khoán hộ’, trả lại quyền tự chủ cho hộ kinh tế gia đình nông dân, đem lại động lực cho sản xuất, từ nông nghiệp và nông thôn mà đưa đến những khởi sắc cho đô thị và công nghiệp. Thế là “cái truyền thống-nông thôn, nông nghiệp, nông dân” đã cứu cho “cái hiện đại - đô thị, công nghiệp” những “ bàn thua trông thấy”( nói theo ngôn ngữ của “EURO bóng đá”), nhưng rồi sau đó, những thành quả của Đổi Mới thì dường như nông thôn chỉ được tí chút còn đô thị hưởng trọn! Chỉ xin gợi lên một chút xíu về chuyện bất công đó : người thành phố được nhà nước kéo điện vào tận giường ngủ, bật sáng ngôi nhà với bao tiện nghi cần đến điện : tivi, tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ, máy hút bụi, máy lọc không khí…, họ chỉ phải trả tiền điện tính từ công tơ điện lắp trong nhà. Nông dân và nông thôn thì với một hai bóng điện phập phù, song họ phải trả tiền kéo điện từ trạm biến áp về xã, về làng, về xóm, về nhà. Hãy chỉ làm một con tính về số tiền phải rút ra từ chiếc hầu bao lép kẹp của người “nhà quê” trả cho việc kéo điện đó, để thấy sự bất công bày ra thật trần trụi. Còn to chuyện ra nữa, sẽ thấy sự trần trụi đó in đậm dấu ấn rất lộ liễu trong việc “quy hoạch” về chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Chỉ cần mở lại bộ Luật Hồng Đức đời Lê hay bộ Luật Gia Long đời Nguyễn, cũng thấy ra được những quy định thật nghiêm cẩn và chặt chẽ trong việc chuyển quyền sở hữu ruộng đất và sự tùy tiện trong việc nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đoạt hoặc vi phạm quyền sử dụng đất của người nông dân hiện nay. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, rồi Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 được bổ sung năm 2001, rồi “Luật đất đai” năm 2003 cũng đều hết sức chặt chẽ (tuy nhiên cũng còn nhiều điều cần phải hoàn thiện) trong việc quy định sử dụng quyền sở hữu toàn dân đó. Thế nhưng, trong quá trình thực hiện, một chữ ký của ông chủ tịch tỉnh, thậm chí chủ tịch huyện và có khi chủ tịch xã, cũng có thể dễ dàng “thu hồi” đất của nông dân đang sử dụng cho “mục đích công nghiệp hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa” với “đên bù, giải tỏa”! Thế là, mảnh đất mà về danh nghĩa, là “sở hữu toàn dân” này, cho dù đã bao đời cha ông họ tưới đẫm mồ hôi và có khi cả máu trên đó, rồi nay lại tiếp tục cày sâu cuốc bẫm trên mảnh đất ông cha để lại, trong phút chốc, do “quy hoạch chuyển mục đích sử dụng”, họ ngỡ ngàng đau đớn phải rời bỏ. Quá ư dễ dàng trong việc tước quyển sử dụng đất của nông dân, cũng có nghĩa là người nông dân không được bảo vệ quyền được ghi trong Hiến pháp và Luật Đất đai, nhưng cũng chính mảnh đất đó khi đã “chuyển mục đích sử dụng”, được giao cho nhà đầu tư, thì lập tức được bảo vệ thật chu đáo với tường xây bao quanh, có vệ sĩ, thậm chí cả chó “bẹcgiê” giữ gìn chu đáo và cẩn mật. Trong chuyện công nghiệp hóa và đô thị hóa này thì hóa ra người nông dân lại là người ít được bảo vệ nhất, nói là vật lót đường thì cũng phũ phàng quá, nhưng rõ ràng họ chỉ được “nhìn ngắm” những công trình “ngoạn mục” về đô thị hóa và công nghiệp hóa đó, khi mà, như lời cảnh báo của ông Sáu Dân trong một bài viết không lâu trước khi ông nằm xuống, họ “bị đặt ra ngoài rìa”. Nói cho đúng, họ cũng “được” vào đô thị đấy chứ, vào để kiếm việc làm. Họ cũng góp vào công nghiệp hóa đấy chứ khi họ góp phần vẫy gọi các nhà đầu tư bằng “lợi thế nhân công rẻ”, một lợi thế đau lòng! Ruộng thiếu, lao động thừa, làm nông nghiệp không có lãi, nông dân phải rời bỏ nông thôn ra đô thị chịu thân phận “phó thường dân” để kiếm sống. Tuy vậy, do không tin lắm vào công việc bấp bênh ở đô thị công nghiệp hóa, họ vẫn không nhượng quyền sử dụng mà vẫn giữ đất làm một cứu cánh, nhỡ lúc sa cơ ở đô thị công nghiệp thì quay về làng còn có đất làm vật “bảo hiểm”! Cứ quan sát kỹ các “chợ” lao động ở Hà Nội “ngàn năm văn vật”, nơi những trai làng đứng chầu hẫu đợi người thuê để được bán sức lao động, sẽ hiểu được phần nào thân phận người nông dân ở thành phố. Ấy thế mà, nhớ lại hai cuộc kháng chiến, người nhà quê sẵn sàng nhường gian giữa hoặc chiếc giường độc nhất trong căn nhà lá của họ cho người “sơ tán”, tức là những vị khách đô thị không mời mà đến. Những người Hà Nội độ tuổi trung niên chắc đều nếm trải kỷ niệm đó. Và, có thể nói, đây là một kỷ niệm rất đẹp của mối quan hệ nông thôn – đô thị . Chỉ có điều, kỷ niệm rất đẹp ấy chỉ được diễn ra ở làng quê trước đây, khi bom đạn đe dọa các thành phố, chứ lại không phải ở phố phường khi triển khai công nghiệp hóa và hiện đại hóa! Nếu có chăng, nó chỉ có thể lưu giữ trong cảm quan thẩm mỹ của nhà danh họa Thủ Đô trong những “Phố Phái” gợi nhớ nỗi xao xuyến giữa “phố’ và “làng”! Còn nỗi xót xa trong hiện thực, thì theo một báo cáo tại cuộc Hội thảo nọ, nông thôn đang trở thành bãi rác của đô thị. Những “con sông quê hương” nước gương trong soi tóc những hàng tre”9 đang chuyển sang mầu nâu đen và bốc mùi vì chất thải công nghiệp, chất thải đô thị xối xả trút thẳng vào. Hằng năm, lưu vực Sông Cầu phải tiếp nhận thêm ít nhất 180.000 tấn phân hóa học và 1.500 tấn thuốc trừ sâu ! Có 800 cơ sở sản xuất công nghiệp, 200 làng nghề và 1200 cơ sở y tế trong khu vực có mật độ dân số cao hơn hai lần mật độ dân số cả nước. Nước thải của nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ giữa thành phố Thái Nguyên xả thẳng vào các nhánh nhỏ đổ ra sông Cầu mang theo các chất ô nhiễm vô cơ, xơ sợi khó lắng và độ kiềm cao. Khu công nghiệp gang thép này cho tuôn chảy vào sông Cầu một lưu lượng khoảng 1,3 triệu m3/năm với những chất độc hại như dầu mỡ, phenol và cyanure. Lưu vực sông Nhuệ-sông Đáy với mật độ dân số 874 người/km2, gấp đôi lưu vực sông Cầu, bị nước thải đô thị xối thẳng trực tiếp làm đen ngòm nước sông. Mỗi ngày sông Nhuệ và sông Đáy tiếp nhận khoảng 800.000m3 nước thải sinh hoạt. Riêng sông Nhuệ tiếp nhận từ sông Kim Ngưu, Tô Lịch, sông Lù, sông Sét từ Hà Nội thải ra 400.000m3 chưa được xử lý qua đập Thanh Liệt. Con sông Đáy thơ mộng với nước trong vắt, chảy qua những vùng đầy ắp những danh lam thắng cảnh, chùa chiền, miếu mạo, đền thờ, di tích lịch sử cùng với những con sông Châu Giang, sông Tích, sông Hoàng Long, sông Đào từng tắm mát tâm hồn bao thế hệ cư dân Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Hòa Bình, Ninh Bình thì nay đang chuyển màu, khô kiệt và hôi thối. Không khéo đến “ngựa đá” trong “lưỡng hồi lao thạch mã” từ bài thơ của ông vua anh hùng thời Trần lao ra, cũng đến chết chìm trong dòng sông ô nhiễm thời hiện đại đang lượn sát vùng đất thiêng Tức Mạc, nơi phát tích của khí phách Đông A. Hai câu hỏi được đặt ra cũng trong cuộc Hội thảo nói trên : Có nhất thiết buộc phải đánh đổi một nông thôn xanh tươi và hài hòa với thiên nhiên, nơi ấp ủ nền văn hóa truyền thống dân tộc, nơi nuôi dưỡng sự trong lành, ấm áp của tuổi thơ bao thế hệ Việt Nam, để đổi lấy những ngôi nhà bê tông vô hồn đang kệch cỡm mọc lên, phô ra cái thị hiếu hạ cấp, đổi lấy một lối sống lai căng ngấu nghiến những cặn bã của văn minh đô thị chưa kịp tiêu hóa, những hàng rởm, hàng giả độc hại, đổi lấy những dòng sông đen ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước tưoi mát bao đời tắm tưới, thanh lọc tâm hồn Việt Nam, nuôi dưỡng và bồi đắp bản sắc văn hóa dân tộc? Câu thứ hai : Chẳng nhẽ lại vô ơn đến thế với người nông dân sao ? Để đi tìm câu trả lời, người đặt câu hỏi ấy đã đưa ra một tổng kết khái quát về “Mười cái nhất” của người nông dân : Cống hiến nhiều nhất. Hy sinh lớn nhất. Hưởng thụ ít nhất. Được giúp kém nhất. Bị đè nén thảm nhất. Bị tước đoạt nặng nhất. Cam chịu lâu dài nhất. Tha thứ cao cả nhất. Thích nghi tài giỏi nhất. Năng động khôn ngoan nhất. Câu chuyện đô thị và nông thôn còn dài dài, xin hãy tạm dừng ở đây, có dịp xin bàn tiếp. Chú thích : 1 và 6 Thơ Nguyễn Đình Thi 2.Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ. 3.Thơ Bà huyện Thanh Quan 4. Lời trong Nhạc Văn Cao. 5 Thơ Chính Hữu. 7 và 8. Văn tề Ngĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. 9 Thơ Tế Hanh Đã đăng trên Nguyệt San Hà Nội Mới “Hà Nội ngàn năm”
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 5:19:31 GMT 9
Khoa học trong quy hoạch Thủ đô Điều khiển Hội thảo “Góp ý kiến quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050” trong buổi sáng ngày 22/4/2010 là Giáo sư Tiến sĩ Hồ Uy Liêm, quyền Chủ tịch VUSTA VN và Giáo sư Tiến sĩ Trần Ngọc Hùng, Chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN. Dự Hội thảo có nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Kiểm, hai vị nguyên Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, Tiến sĩ KH Nguyễn Mại và GS Tiến sĩ Phạm Sĩ Liêm, Giáo sư Tiến sĩ, Nhà giáo ND Nguyễn Thế Bá, Chủ tịch danh dự Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị VN, ngoài ra còn có nhiều gương mặt rắn rỏi nhưng đầy suy tư khác.
Tất cả phải chuẩn bị bài và lần lượt bị gọi đọc bài tham luận.
Mọi người gần như có nhận xét giống nhau là Đồ án Quy hoạch làm khá công phu, nhắc đến nhiều khái niệm, nhưng khái niệm nào cũng mới chỉ hời hợt mà chưa thể hiện tính nhất quán của một ý tưởng chủ đạo. Mọi người hỏi nhau rằng từ năm 1961 đến nay đã 7 lần làm quy hoạch chung, 7 lần đều được cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Nhà nước phê duyệt, liệu lần này có sẽ được phê duyệt chóng vánh rồi lại bỏ xó hay không? Tại sao Đồ án lần này không đếm xỉa một chút gì đến ưu điểm hoặc khuyết điểm của những Đồ án đã qua? Đồ án lần này có một Đô thị lõi và 5 Đô thị vệ tinh, nhưng ở Trung tâm đô thị lõi là Hồ Hoàn Kiếm cũng xây Trung tâm thương mại cao 8 tầng, Đô thị vệ tinh Sóc Sơn là vùng đồi núi có Học viện Phật giáo và nhiều công trình tâm linh trên núi cao cũng có những tòa nhà cao 8, 10 tầng. Lại nữa, tỷ lệ “Đất xanh” của Hà Nội mới sẽ là 70% diện tích cả thành phố, nhưng người ta sẽ làm gì trên những nơi có tên là “Vành đai xanh”, “Hành lang xanh” và “Đô thị xanh” đó ? Đặc biệt ý kiến đa số tập trung phê phán vị trí Trung tâm hành chính Quốc gia và Trục đường Thăng Long dài 30 Km từ đường Hoàng Quốc Việt tới chân núi Ba Vì như tôi đã thông báo trên BVN ngày 21-4-2010. . Giữa chừng hội thảo, Tiến Sĩ Hồ Uy Liêm giơ bản thuyết minh có 5 chữ ký đứng lên nói: “Chúng ta được Nhà nước cấp cho 300 triệu đồng để tổ chức nghiên cứu đóng góp ý kiến về Quy hoạch Thủ đô trước khi trình lên Quốc hội, nhưng tôi băn khoăn chúng ta sẽ góp ý kiến với ai đây? Liên danh tư vấn Quốc tế PPJ là đơn vị trúng thầu ký hợp đồng giá trị gần 7 triệu USD, nhưng người trực tiếp làm Quy hoạch lại là Viện Quy hoạch Kiến trúc Bộ Xây dựng và Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội. Hôm nay hồ sơ gửi đến đây cho chúng ta có cả các chữ ký của ba đơn vị nước ngoài và hai cơ quan Việt Nam. Họ cùng ký trên một hàng ngang như nhau tức là họ cùng đồng trách nhiệm, cũng tức là sẽ KHÔNG CÓ AI CHỊU TRẤCH NHIỆM CẢ”.
Lúc ấy có tiếng nói của ai đó chen vào: “Như thế là sai pháp luật, PPJ ký hợp đồng làm thuê cho Chính phủ ta, PPJ nhận tiền, PPJ thuê ai vẽ ta không quan tâm. Nếu bây giờ ta không đồng ý ta bắt PPJ phải sửa, thế thôi”. . Lại có tiếng nói khác chen vào: “Nhưng Bộ Xây dựng là chủ đầu tư, hai đơn vị VN nói trên làm việc theo chỉ đạo của Bộ Xây dựng và cũng để giám sát PPJ”.
Tiếng nói đầu tiên lại cất lên: “Thế hóa ra Quy hoạch này là của Bộ Xây dựng, của một nhóm người VN làm việc theo chỉ đạo của anh em nhà ông Nguyễn Hồng Quân và Nguyễn Đình Toàn, không phải của Liên danh tư vấn Quốc tế sao? Vậy họ ký hợp đồng, nhận tiền để đi chơi à?”.
GS Nguyễn Thế Bá cười nói “Họ chơi và họ mặc kệ ta làm gì tùy thích”.
Quyền Chủ tịch VUSTA Hồ Uy Liêm vội trấn an: “Dù sản phẩm Quy hoạch này do ai làm thì đây cũng là công việc hệ trọng của đất nước ta, chúng ta vẫn phải đóng góp ý kiến. Tôi sẽ sớm kiến nghị mời một vị có trọng trách nghe trực tiếp ý kiến của chúng ta, không thông qua trung gian nào hết, có thể sẽ mời ông Trương Tấn Sang. Xin các anh chị chuẩn bị tinh thần, tôi sẽ triệu tập sớm”.
GS Trần Ngọc Hùng đứng dậy, giơ bộ thuyết minh của PPJ ra: “Tôi chỉ nhận được bộ thuyết minh tóm tắt này, chắc mọi người cũng chỉ đọc bộ này thôi, đúng không? Nghe nói thuyết minh chính của họ dài những 400 trang, họ viết gì trong đó? Chúng ta không được đọc thì ai sẽ được đọc? Tại sao chúng ta phải xin được phản biện? Tại sao chúng ta phải xin được đọc tài liệu này, tài liệu kia?”
GS Nguyễn Thế Bá cười rất hồn hậu: “Tôi là Kiến trúc sư, được đào tạo bài bản hẳn hoi. Hơn 40 năm qua tôi cũng đào tạo ra rất nhiều Kiến trúc sư, trình độ của họ không xoàng đâu. Nếu bây giờ Nhà nước trả cho chúng ta 10% số tiền trả cho PPJ , các anh chị và tôi sẽ chỉ dẫn cho các em đó làm ra sản phẩm tốt hơn bộ hồ sơ này”. . Tiến sĩ Trần Ngọc Hùng quay sang phía tôi “Nãy giờ toàn giọng nam căng thẳng quá rồi, Chị Vân phát biểu cho vui vẻ một chút đi”.
Tôi đưa bài phản biện của tôi nhưng không đọc và nói : Bài phản biện của tôi rất ngắn, Tôi tập trung nói về khái niệm Phong thủy và Triết học Đông Tây. Sáng sớm hôm nay Vietnamnet và mạng Ashui.com đã đăng nhưng đều cắt đi phần “Đi tìm góc sống của người Hà Nội”. Tôi thì muốn mọi người quan tâm chuyện đó, vì Hà Nội có Hồn, Tôi càng muốn giữ Hồn Thăng Long thấm đậm ở Tây Hồ Tây. Chiều qua tôi đã trao đổi với TS Trần Văn Khoát rồi, anh ấy vẫn giữ ý kiến đã hứa là chúng ta hãy đòi Tây Hồ Tây về tay chúng ta, Keystone VN sẽ thanh toán sòng phẳng mọi chi phí Hàn quốc đã bỏ ra, dù 1376 tỷ đồng hay hơn.
Trần Thanh Vân lược thuật.. KHOA HỌC TRONG QUY HOẠCH THỦ ĐÔ Trần Thanh Vân . A – Phong thủy Cách đây không lâu, vào ngày 15/12/2009, lần đầu tiên tại Hà Nội, Hội thảo “Tính khoa học của Phong thủy trong Kiến trúc và Xây dựng” do Trung tâm Lý học Đông phương thuộc Trung ương Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á tổ chức đã diễn ra sôi động và đã thu được kết quả rất đáng ghi nhận. Lần đầu tiên trước đông đảo người nghe, các chuyên gia đã phân tích mối quan hệ tương tác giữa con người với thiên nhiên và nêu rõ để có một cuộc sống gia đình hạnh phúc êm ấm, thì gia chủ phải biết chọn hướng nhà, mở ngõ, trổ cửa, phải biết đón ngọn gió lành, hứng dòng nước trong… Cũng như xây dựng một đô thị, một vùng dân cư, các nhà quy hoạch phải biết xác định các địa điểm công năng hợp với thiên nhiên, khí hậu, địa hình địa chất và thủy văn, để đảm bảo cho đô thị phát triển bền vững và trường tồn. Hội thảo đã được chuẩn bị công phu, tuy chưa bàn hết mọi điều cần thiết nhất, nhưng đã giúp ta hiểu về cấu trúc Phong thủy TỰA NÚI NHÌN SÔNG & RỒNG CUỘN HỔ CHẦU có một cơ sở khoa học mà Đức Lý Thái Tổ đã viết ra trong bản THIÊN ĐÔ CHIẾU 1000 năm trước. . Sau 1000 năm, Thủ đô ta đã có rất nhiều thay đổi, ảnh hưởng không nhỏ tới cấu trúc Phong thủy, trong đó thay đổi lớn nhất là là dân số đã phát triển lên gấp trên 10 lần năm 1010. Đất chật người đông là một vấn nạn rất lớn khiến chúng ta phải chật vật xoay xở khéo ăn thì no, khéo nằm co thì ấm. Thay đổi tiếp theo là hệ thống đê điều dài 1600Km đã ngăn sông Hồng đưa phù sa bồi đắp làm mầu mỡ đồng bằng Bắc Bộ sau mỗi mùa nước lên, khiến cho Vựa lúa Sông Hồng ngày nay trở nên nghèo kiệt, sụt lún, còn đáy con sông thì mỗi năm một dâng cao, nên mùa mưa thì nước lũ như sắp tràn mặt đê và luôn luôn đe dọa vỡ đê, còn mùa khô thì dòng sông bị cạn kiệt, trơ đáy, nạn hạn hán đe dọa mùa màng và đời sống dân cư hàng ngày. PHONG LÀ GIÓ, THỦY LÀ NƯỚC, dòng nước trong và ngọn gió lành là hai yếu tố thiên nhiên quan trọng mà con người muốn sống tốt, muốn phát triển tốt thì phải biết tôn trọng và gìn giữ. Đó là chưa nói đến vấn nạn lớn nhất mà cả nhân loại đang bị uy hiếp là BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU sẽ đưa đến những tai họa đột ngột ngoài sự dự báo thông thường của con người như động đất, núi lửa, xói lở, sóng thần, lũ quét, mưa bụi mang khí độc hại dẫn tới hủy diệt… Thủ đô hôm nay đã mở rộng tới 3344 Km2 là một thuận lợi rất lớn và cũng đặt ra nhiều thử thách mà các nhà Quy hoạch phải biết vận dụng sự hiểu biết rất tổng hợp để hoạch định bức tranh đô thị trong tương lai. B- Triết học. Năm 2000, Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương (1927-2003) đã hoàn thành công trình nghiên cứu đồ sộ dùng khoa học hiện đại Phương Tây là Toán học và Vật lý lý thuyết, để lý giải Triết học cổ Đông phương, trong đó ông đặc biệt coi trọng Cơ sở Kinh dịch cổ và Lý thuyết Tập mờ của Nhà toán học người Mỹ L.A.Zadeh mới xuất hiện năm 1965. Giáo sư Hoàng Phương cũng là một tín đồ trung thành với lý thuyết tương đối của Albert Einstein. Theo ông 2+2=5 là do có con số 1 vô hình đang tồn tại ở đâu đó, người thường chúng ta khi chưa hiểu thì gọi đó là yếu tố tâm linh hay mê tín gì đó. Thực ra con số 1 hay 2 đó vẫn đang tồn tại, nó sẽ trở thành cấp số cộng hay cấp số nhân, hoặc nó vĩnh viễn mất đi là do cách ứng xử và trí thông minh của mỗi chúng ta. Một trong những đóng góp lớn của Giáo sư Hoàng Phương là ông đã dùng lý thuyết Y học Đông phương để “giải phẫu” một cơ thể người, ông khẳng định con người là một Vũ trụ thu nhỏ, trên cơ sở đó, ông lý giải một quốc gia, hay một đô thị, cũng đều là một cơ thể người, cơ thể đó cần có một cái đầu chứa bộ não thông minh, một bộ khung xương vững vàng, các khớp xương linh hoạt, một hệ tuần hoàn lưu thông máu đến nuôi mọi bộ phận trên cơ thể và một hệ thần kinh trung ương nhạy bén để điều khiển mọi phản xạ của cơ thể. C- Thăng Long Kinh đô ngàn năm - Trong suốt 700 năm của ba Triều đại Lý, Trần, Lê, dân số rất ít nên Thăng Long gần như không thay đổi. Hoàng thành nhỏ hẹp ở phía Nam Hồ Tây, quân lính bảo vệ Kinh thành đồn trú ở phường Nhật Chiêu phía Bắc Hồ Tây, án ngữ toàn bộ sông Hồng và ngã sông Đuống. Nằm giữa hai bộ phận trên là “Não thủy” Hồ Tây. Nơi đó cách đỉnh Ba Vì 26Km theo đường chim bay. Nếu đỉnh Ba Vì là nơi “tỏa khi”, thì vùng này là nợi “Thụ khí”. Hồ Tây là nơi tạo nên niềm kiêu hãnh của Văn hóa Thăng Long, nơi có huyệt đạo quốc gia, nơi lui tới của anh hùng hào kiệt, nơi tập trung các phường hội thủ công buôn bán. Đặc biệt góc Tây Nam là Bến Hồng Tân (Chợ Bưởi ngày nay) là Ngã ba Tam hợp, nơi sông Tô Lịch gặp sông Thiên Phù nối với Hồ Tây qua phường Hồ Khẩu và có thuyền buôn trong nước ngoài nước ra vào tấp nập. Các làng quanh Hồ Tây xưa đều được gọi là “phường” và sông Thiên Phù (Trời giúp) làng Bái Ân và Đình, Chùa Bái Ân (nơi Vua tôi xưa đến làm lễ tạ ơn Trời Đất) - Từ đầu thế kỷ XIX: Kinh đô chuyển vào Huế, thành phố Hà Nội đô thị hành chính phục vụ Chính quyền bảo hộ xuất hiện. Sông Tô Lịch bị lấp, Ngã ba Tam hợp bị xóa, Trung tâm thương mại chuyển sang phía Đông Nam thành phố, Hồ Lục Thủy, nơi thủy binh tập trận thời Lê Trịnh trở thành Hồ Hoàn Kiếm, còn Hồ Tây và các phường hội quanh Hồ trở thành làng xã của huyện ngoại thành Từ Liêm. Quy hoạch cũ của người Pháp có lúc vẽ Hồ Tây là một “Đại công viên”, nhưng có lẽ vì thiếu ngân sách, ý tưởng đó mới chỉ dừng lại trên bản vẽ. Từ khi Hà Nội là Thủ đô của Nước VN dân chủ Cộng hòa năm 1945 cho đến nay, thành phố Hà Nội xinh đẹp nhỏ nhắn khi xưa bị phá nát từng ngày. Hà Nội – Thành phố Trong Sông ngày càng chật chội, tù túng, người Hà Nội sống khép mình, không dám nghĩ, không dám làm và không sao thoát ra khỏi tâm lý tự ty, mặc cảm, - Từ ngày Quốc hội thông qua nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, các nhà quy hoạch, các nhà chiến lược bị ngợp trước cánh cửa đã mở rộng và không ý thức được bước đi của mình phải từ đâu đến đâu? D - Thấy gì qua 4 lần báo cáo của PPJ? Qua bốn lần báo cáo, bản vẽ ngày càng nhiều, thuyết minh ngày càng dài, Video Clip hiện lên một đô thị lõi và 5 đô thị vệ tinh lộng lẫy rực rỡ ánh đèn, ở đâu cũng thấy nhà cao tầng, ở đâu cũng có đường giao thông trên cao bay lượn như những con Rồng khổng lồ. Xem xong, đọc xong những sản phẩm đó, người có ý thức không thể không đặt ra câu hỏi: 1- Hoàng thành Hà Nội ở đâu? Hoàng thành là nơi Vua ở, là bộ mặt của đất nước, là nơi phát ra “Lệnh Trời”. Ngày nay không có Vua nhưng vẫn có những người cầm đầu đất nước. Ta gọi đó là trung tâm chính trị hay trung tâm hành chính quốc gia đều được. Nhưng phải là nơi thể hiện bộ mặt của Thủ đô, nơi linh thiêng, ổn định, trường tồn. Để đảm bảo vị thế của dân tộc với bên ngoài, lòng tin của nhân dân và biểu tượng trường tồn của đất nước, Thủ đô của quốc gia nào cũng cần phải có Hoàng thành xứng đáng. Năm 1945 đến nay Hoàng thành ở tạm tòa nhà Phủ toàn quyền Đông Dương và các nhà phụ kế bên, chưa kể 9 năm kháng chiến chống Pháp phải trốn vào rừng sâu ở huyện Sơn Dương trên chiến khu Việt Bắc. Đã đến lúc dứt khoát ta phải có một Hoàng thành hoàn chỉnh, thể hiện rõ tư thế, bộ mặt của nước ta. Không thể tiếp tục tình trạng trước kia ở trong phố cũ là tạm, nay đưa một phần ra Mỹ Đình cũng tạm, để tương lai rất xa sau này sẽ chui vào chân núi Ba Vì ư? Đỉnh Ba Vì là nơi tỏa khí thì chân Ba Vì không thể là nơi thụ khí. Đó là “góc chết” của vòng tròn vận khí, đặt TTHC Quốc gia ở chân núi Ba Vì là ta xây một ẨN LONG, không còn một THĂNG LONG nữa Chọn đất xây dựng Hoàng thành cần xem xét một trong 2 khả năng: . **- Chọn nơi thụ khí linh thiêng nhất là Tây Hồ Tây. Hồ Tây hiện nay chỉ còn Tây Hồ Tây thuộc phường Xuân La, nhưng Hà Nội đã duyệt chỗ đó cho khu đô thị mới 210 ha gồm trung tâm thương mại, tài chính, khách sạn, biệt thư do Hàn quốc đầu tư. Đó là nơi duy nhất còn lại của “Não thủy”, đây là nơi cho trí tuệ, tài năng, sáng tạo và thờ cúng nghỉ ngơi di dưỡng tinh thần của dân cả nước. Bởi vậy dù ai là chủ đầu tư cũng không bao giờ được biến nơi đây thành nơi buôn bán lừa lọc để kiếm lợi. Hơn nữa, về quy hoạch không nên là bàn cờ ô vuông như đã duyệt. Đất nước sẽ thịnh hay suy chính là việc nhìn nhận cho đúng vùng đất này. **- Chọn nơi ổn định địa tầng không bị sụt lún, đảm bảo trường tồn vĩnh cửu là vùng huyện Quốc Oai, bên bờ sông Đáy. Muốn vùng này có khả năng “Thụ khí” tốt thì dứt khoát phải cải tạo đập Phùng và khơi lại sông Đáy để đưa được nước sông Hồng vào sông Đáy và làm mát vùng đất này. 2 -Trục Thăng Long đi từ đâu đến đâu? Theo sơ đồ PPJ đưa ra thì Trục Thăng Long đi qua Phủ Tây Hồ, tức là trên đường 21 độ Vĩ Bắc, 3’ cộng trừ 30’’. Nhưng báo cáo lần 4 nói nhiều tới Trục Thăng Long kéo dài đường Hoàng Quốc Việt tới chân núi Ba Vì. Trục này sẽ có giao thông bộ, giao thông ngầm, giao thông trên cao và rất nhiều nội dung phong phú khác. Dư luận đang xôn xao muốn biết đề xuất này xuất phát từ nhu cầu nào? Lưu lượng giao thông sẽ là bao nhiêu? Trục Thăng Long nối Ba Vì với Trung tâm thành phố, vậy “Trung tâm” sẽ là DỐC CHỢ BƯỞI hay còn đi tiếp đến LÀNG YÊN THÁI? Phải chăng ý đề xuất còn quá sơ sài và khiên cưỡng nhưng lại dự định bắt đầu khởi công từ năm 2011, sẽ biến con đường rất tốn kém này thành “con đường chết” vì sẽ không ai có nhu cầu đi 30Km từ Ba Vì đến mua một bó hoa ở Chợ Bưởi và nhìn sông Tô Lịch bị chặt cụt ở đầu đường Hoàng Quốc Việt một lát rồi quay về. Nếu tác giả muốn có một đề xuất hoàn chỉnh nối sông Tô Lịch, sông Nhuệ với Hồ Tây, tái tạo một ngã ba Tam hợp đô hội sầm uất như khi xưa thì phải có một phương án nghiên cứu tổng hợp và khái toán sơ bộ để liệu cơm gắp mắm. Bỗng dưng bàn đến việc năm 2011 khởi công trục Thăng Long để nối văn hóa Thăng Long với văn hóa xứ Đoài, nghe ra hơi hấp tấp và khập khiễng. Dư luận cũng cho rằng nếu tác giả đồ án muốn coi đây là một “Trục tâm linh” thì cần xem xét lại, vì “Trục tâm linh” là trục không gian được nối bằng đường đi xoáy trôn ốc và phải dịch lên hướng Bắc 1Km nữa, vì đó mới là Đại Minh Đường. Khi nói đến tâm linh, người ta kiêng một đường thẳng tắp đi đến một địa điểm giống như một mũi tên xuyên thẳng vào tim, cần phải tạo nên đường chéo, đường xoáy trôn ốc hoặc dùng biện pháp “yếm cảnh” (trốn) và “chướng cảnh” (che chắn) Không nên học theo Paris hay Bắc Kinh, họ có lý của họ, không tiện nói tại đây 3- Bảo tồn đô thị lõi Đô thị lõi của Hà Nội nên hiểu gồm 2 khu vực: Khu vực bên trong vành đai 1 là khu Hà Nội cũ của người Pháp để lại và khu vực mở rộng ra tới đường vành đai 3 là khu mới hình thành ba chục năm qua. Khu vực bên trong vành đại 1 sẽ “Bảo tồn” ra sao nếu Hà Nội vẫn tiếp tục cho xóa kiến trúc thấp tầng để xây dựng Trung tâm thương mại và khách sạn cao tầng? để thu hút ngày càng nhiều người đến chen chúc kinh doanh buôn bán? Để diện mạo Hà Nội không ngừng thay đổi, càng thêm tắc nghẽn giao thông, càng thêm ngột ngạt?. Hơn nữa, để hiểu đúng nghĩa “bảo tồn” thì không chỉ cần bảo tồn công trình kiến trúc mà rất cần bảo tồn giá trị văn hóa, bảo tồn “thần thái” của Hà Nội thanh lịch. . Vừa qua, nhân dịp đầu xuân, giới Kiến trúc sư đã tổ chức các chuyến thăm viếng nhiều gia đình Hà Nội đang sống trong các làng xóm và các góc rừng ở các vùng ngoại ô, trong chuyên mục “Đi tìm góc sống của người Hà Nội”. Mọi người thích thú bỏ phiếu chọn nhà ở của gia đình nghệ sĩ Phó Đức Vạn – Trịnh Thi An (anh ruột nhạc sĩ Phó Đức Phương) ở một sườn đồi thuộc Thị trấn Xuân Mai làm thí dụ điển hình. Với số tiền không quá lớn, TS KTS Phó Đức Tùng, người con lớn của gia đình, đã tạo ra cho gia đình một góc sống rất có văn hóa và rất đáng sống, vì ở đó không chỉ có phòng ăn, phòng khách, phòng ngủ, phòng nghỉ ngơi, mà còn có phòng vẽ tranh, phòng triển lãm, phòng hòa nhạc…mỗi ngày nghỉ cuối tuần có khách viếng thăm, nữ nghệ sĩ Piano kiêm họa sĩ Trịnh Thi An bận rộn bếp núc để chuẩn bị bữa ăn ngon. Đến đây, khách sẽ tìm thấy không khí vui vẻ, lịch thiệp của người Hà Nội, ở đây không có tiếng ồn ào, tiếng văng tục chửi bậy như trên đường phố Hà Nội hôm nay. Nếu quanh đây chỉ cần có một nhóm 5, 10 gia đình, thì góc sống này đỡ buồn tẻ hơn nhiều. Người Hà Nội đang dần dần đi ra khỏi Hà Nội, để người không Hà Nội nhưng có nhiều tiền đến làm ăn tính toán kiếm nhiều tiền hơn trong lõi đô thị? Nhưng, nếu Thủ đô chúng ta chỗ nào cũng rực rỡ như trong Video Clip thì người Hà Nội mất hẳn đất sống rồi!!! T-T-V
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 6:30:37 GMT 9
NHÂN ĐỌC BÀI VIẾT VỀ KTS NGÔ VIẾT NAM SƠN KTS. Trần Thanh Vân Tuần Việt Nam vừa ra bài giới thiệu và tôn vinh ý kiến của Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn về nền kiến trúc Việt Nam. Cũng như cha anh, Kiến trúc sư thành danh Ngô Viết Thụ, Ngô Viết Nam Sơn đã thành công trong sự nghiệp, đã được thế giới biết đến và phát biểu với độc giả Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần và độc giả Tuần Việt Nam những ý kiến thật chí lý chí tình. Là một Kiến trúc sư, là đồng nghiệp lớn tuổi của anh, tôi ủng hộ những ý kiến đó và tôi muốn những ý kiến đúng được chui vào đầu những người có quyền lực, để ngày mai, ngày kia, nó được trở thành kế hoạch cụ thể, chỉ đạo đúng đắn công việc xây dựng phát triển Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều thành phố khác trên khắp nước ta. Ngô Viết Nam Sơn nói rất đúng?. Tôi không muốn nhắc lại toàn bộ ý kiến của KTS Ngô Viết Nam Sơn, tôi chỉ muốn nhắc lại đôi điều giới kiến trúc đã nhiều lần kiến nghị nhưng không được chấp nhận, nay có thêm ý kiến của một “chuyên gia nước ngoài gốc Việt” thì hy vọng ý kiến đó sẽ nặng cân hơn. Đó là vấn đề bảo tồn văn hóa phố cổ của thành phố Hà Nội và khu phố Sài Gòn cũ. Trong phát biểu của mình, KTS Ngô Viết Nam Sơn nhắc tới khu phố cũ Xintiandi ở thành phố Thượng Hải. Đó là nơi tôi cũng rất biết, trong những lần trở lại thăm Thượng Hải sau này tôi cũng đến Xintiandi, chùa Dự Viên, Chùa Phật Ngọc và tôi rất đồng tình với anh. Điều quan trọng là anh đã được mời đến nghiên cứu tôn tạo khu đó và người Thượng Hải đã nghe theo anh. Cũng nhờ vậy mà Thượng Hải hôm nay, trong một thành phố hiện đại, năng động vào bậc nhất thế giới với hệ thống giao thông hiện đại có 5, 6 tầng này, lại đang tồn tại một khu phố cổ có chỉ số GDP rất cao. Như vậy là thực hiện được mục tiêu “Bảo tồn giá trị văn hóa mà vẫn sinh lời?”. Khu phố cổ Hà Nội xưa và khu phố Pháp Hà Nội cũ đã được nghiên cứu và đề xuất nhiều năm bởi rất nhiều chuyên gia danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng do nhận thức quá hạn hẹp của các cấp chính quyền và các nhà quản lý, nên hôm nay đã đến thời điểm tổ chức Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long mà những giá trị quý báu của 1000 năm Thăng Long vẫn đắp chiếu nằm im, chờ ngày được tôn vinh. Một điểm nữa tôi rất đồng tình với KTS Ngô Viết Nam Sơn, là nền kiến úc của ta đang bị thương mại hóa, cộng thêm với chính sách nửa vời, tàn dư của bệnh bảo thủ thời bao cấp, nên các nhà đầu tư vẫn bằng mọi giá lao vào chiếm các khu đất vàng ở nội đô để hưởng hệ thống hạ tầng kỹ thuật có sẵn mà không phải trả tiền, để góp thêm một tay phá nát hệ thống hạ tầng vốn đã ọp ẹp, quá tải và đang rất cần được giải cứu. Đây không chỉ thể hiện trình độ quản lý non kém, mà có lẽ còn do lợi ích nhóm đã vượt lên trên lợi ích của quốc gia, của xã hội, cho nên mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ra lệnh cấm đập biệt thự cũ để xây công trình cao tầng trong khu phố cổ, Hà Nội vẫn kiến nghị cho tiếp tục xây hơn 200 dự án cao tầng đã có quá trình từ trước năm 2010. trong số đó chắc chắn có Trung tâm Thương mại cao 17 tầng trên nền chợ Âm Phủ, sau khi bị phản đối đã được đền ô đất rộng hơn, đẹp hơn ở ngay bên cạnh để xây công trình to hơn, cao hơn. Chắc chắn cũng có Khách sạn Novotel on the Park đã bị phản đối nhưng Nhà đầu tư lại được đền bù hơn 7600m2 đất Nhà máy Rượu ở phố Nguyễn Công Trứ và những nhà đầu tư đã quyết định bỏ ý định xây khách sạn 5 tầng như cũ mà đổi thành Trung tâm Thương mại và chung cư cao tầng để có nhiều lãi hơn?. Ngoài ra chắc hẳn trong hơn 200 dự án này cũng có Trung tâm thương mại trên phố Lý Thái Tổ của ngành Điện mà ông Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã cương quyết bảo vệ với lập luận rằng Hà Nội chủ trương biến Quận Hoàn Kiếm thành trtung tâm thương mại lớn? Chủ trương gì mà kỳ vậy? Quy hoạch chung thì “Bảo tồn Văn hóa Khu phố cổ và thành phố lõi” còn người đứng đầu thành phố thì lần lượt o bế những “dự án con cưng” mặc cho dân số gia tăng, trẻ em không có trường học và mặc cho các công trình này mọc lên sẽ thu hút thêm dân số tăng cơ học và thêm tắc ách giao thông. Nhân đây tôi cũng muốn nhắc tới một chỉ số rất cơ bản mà một kiến trúc sư không được bỏ qua là Khoảng cách giữa hai công trình cao tầng ít nhất không được nhỏ hơn một lần rưỡi chiều cao của công trình đó ( gọi là 1,5 H ). Nhìn tổng quát có thể thấy, tất cả các công trình xen cấy ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh hiện nay đều không đạt chỉ số nêu trên. Do vậy mà ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội luôn luôn có hiện tượng đào móng xây công trình mới thì sập công trình có sẵn ở ngay bên cạnh. Ý kiến của KTS Ngô Viết Nam Sơn sẽ đóng góp được gì? KTS Ngô Viết Nam Sơn vừa phát biểu một bài rất hay khi với tư cách là một vị khách mời. Nhưng Kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn sẽ không đóng góp được gì, nếu những người có quyền lực trong ngành kiến trúc và quy hoạch vẫn sùng Ngoại, bài Nội về hình thức, mà thực chất là “Sùng lợi ích trước mắt của chính họ” thì dù có tài và dù đã hết sức cố gắng cống hiến sức mình, thì với tư cách không còn là khách, ý kiến của ông sẽ không được chính quyền quan tâm nữa. Hà Nội và Sài Gòn của chúng ta đã từng có quá nhiều chuyên gia nhiệt huyết tận tâm đóng góp, từ những Kiến trúc sư tài năng người Pháp đầu thế kỷ thứ 20 như Arthur Kruze và Ernest Hébrard, hai người đầu tiên đã đóng góp công sức sáng tạo ra nền Kiến trúc Châu Âu ở vùng nhiệt đới nóng ẩm. Cùng với hai vị này có các vị đã khởi xướng Phong cách Kiến trúc Đông Dương như Gaston Roger, Louis Gaerges Pineau; Jacques Lagisque… không những họ đã có công tạo ra bộ mặt tuyệt mỹ của Hà Nội và Sài Gòn xưa, mà họ còn đào tạo ra lớp kiến trúc sư tài năng đầu tiên của đất nước ta, trong đó có Kiến trúc Ngô Viết Thụ, cụ thân sinh của KTS Ngô Viết Nam Sơn. Ngay ở Thủ đô Hà Nội, sau sáu bảy lần làm đi làm lại quy hoạch chung, lần nào cũng có chuyên gia danh tiếng đến từ nước ngoài, xưa nhất có chuyên gia Liên Xô, gần đây nhất có chuyên gia Nhật Bản do Jica gửi đến, nhưng tất cả đều đã bị xếp xó, lần tuyển chọn Liên danh Tư vấn Quốc tế quan trọng nhất này xuất hiện ba đơn vị tư vấn hoàn toàn mới là PPJ: gồm POSCO E&C là công ty con của Tập đoàn Thép Hàn quốc POSCO giầu có, Công ty Mỹ Perkins Eastman Architect và Công ty Hàn quốc Jina Architect, họ được giới thiệu là có tài năng và kinh nghiệm hàng đầu thế giới. Vậy mà hơn một năm rồi, thành phố Thủ đô- ngôi nhà của Tổ quốc ta- quay mặt ra hướng nào? Cổng ngõ ở đâu? Gian thờ đặt ở đâu? Người đại diện cho đất nước là ông Thủ tướng sẽ được ngồi ở đâu?... liên danh tư vấn này chưa xác định được. Mới hồi tháng 5/2010 vừa đây, trong Triển lãm QH chung Hà Nội ở Vân Hồ, người ta rầm rộ giới thiệu Trục Thăng Long tức Trục Tâm Linh là đường Hoàng Quốc Việt kéo dài tới Hồ Đồng Mô, thì hôm nay Trục Thăng Long lại đã chạy sang đường Láng Hòa Lạc rồi. Sự tùy tiện sử dụng ngôn từ “Thăng Long” và “Tâm Linh” đó khiến cho dư luận rất đau lòng. Thủ đô Hà Nội không thiếu Kiến trúc sư và Chuyên gia Quy hoạch giỏi, họ cũng được đào tạo bài bản, họ đã hiểu rất sâu, nắm rất chắc về giá trị Văn hóa Và Lịch sử Thăng Long, cộng tác với họ cũng có một Kiến trúc sư Việt kiều danh tiếng là KTS Hồ Thiệu Trị, người được coi là một chuyên gia hàng đầu về Kiến trúc Pháp ở Thủ đô và đã về nước đóng góp cho nền Kiến trúc nước nhà và Hà Nội trong gần 20 năm nay. Nhưng lâu rồi, KTS Hồ Thiệu Trị hết được coi là khách rồi, tiếng nói của ông không còn hấp dẫn các chính khách nữa. Trong Triển lãm tại Vân Hồ vừa qua, có một quan chức danh tiếng đã ra sức quảng bá cho một Đại lộ Champs Elysées của Paris tại Trục Tâm linh có tên Thăng Long mà không cần đếm xỉa đến ý kiến của KTS Hồ Thiệu Trị và các chuyên gia am hiểu khác. Hãy chung sức lại vì một Việt Nam bền vững trường tồn. Thủ đô Hà Nội đang ở giai đoạn hoàn thiện nghiên cứu Quy hoạch chung, dù chất lượng làm việc của Liên danh tư vấn PPJ xuất sắc hoặc kém cỏi ra sao, thì bước nghiên cứu này phải được kết thúc sớm để chuyển sang bước tiếp theo. Theo thiển nghĩ của tôi, có hai vấn đề lớn mà trong tất cả các lần báo cáo vừa qua, Liên danh tư vấn PPJ và những người cộng sự chưa vươn tới được. Một là: Với một chỉ giới hành chính rộng trên ba ngàn ba trăm hecta, Kinh đô Thăng Long 1000 năm sẽ phát triển trong 1000 năm tới ổn định, trường tồn ra sao?. TRUNG TÂM ĐẦU NÃO QUỐC GIA SẼ Ở ĐÂU và giá trị của Sông Hồng, của Hồ Tây, của Tản Viên Sơn trong Thủ đô phát triển này ? Hai là : Theo các tư liệu địa chất thủy văn thì vùng đất Kinh đô Thăng Long và thành phố Hà Nội cũ đang có những biến động bất lợi do con người vì thiếu hiểu biết và thiếu tôn trọng giá trị Văn hóa - Lịch sử đã gây ra. Nay tiến hành Quy hoạch mở rộng, ta đề ra phương châm bảo tồn đô thị lõi thì ta phải làm gì? Sau 1000 năm Hoàng thành Thăng Long đã chìm sâu xuống 5m, không để cho nó tiếp tục chìm thì các giải pháp về Quy hoạch xây dựng và quản lý dân cư chính sách kinh tế phải đồng loạt thực hiện. So với cốt nền của Thành phố Thượng Hải mà KTS Ngô Viết Nam Sơn đã nghiên cứu, thì nơi đây ổn định hơn nhiều. Tôi nghĩ, đã đến lúc không nên chia rẽ tản mạn nữa, mà những bộ não thông minh và nặng tình yêu đất nước nên cụm lại để đưa ra những phương án, những ý kiến hay thuyết phục các cấp chính quyền. T.T.V
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 6:32:37 GMT 9
Trung tâm Hành chính quốc gia tại Hà Nội Nhân Thủ tướng Chính phủ vừa tuyên bố sẽ quyết định đặt Trung tâm Hành chính quốc gia tại khu vực Mỹ Đình, Bauxite Việt Nam có cuộc phỏng vấn nhanh với KTS Trần Thanh Vân về chủ trương mới này.Hỏi: Chào KTS Trần Thanh Vân, nhiều năm nay chị rất quan tâm đến quy hoạch Thủ đô, mấy ngày trước chị có viết một bài bàn về câu phát biểu của ông Bộ trưởng Bộ Xây dựng “Quy hoạch là ý chí của quyền lực” đăng trên Vietnamnet, có thật chị cũng có suy nghĩ như ông Bộ trưởng nói không? Trả lời: Một câu nói khi được mổ xẻ, cần phải xem xét hoàn cảnh nói ra câu đó và mục đích của người nói ra câu đó nhằm đạt được gì. Năm ngoái, khi lựa chọn Nhà thầu tư vấn quốc tế để ký hợp đồng lập quy hoạch chung thành phố Hà Nội mở rộng, đã có quá trình tuyển chọn khá phức tạp và có nhiều ý kiến bất đồng. Từ ban đầu có đến 12 nhóm Liên danh Tư vấn quốc tế xin tham gia lập quy hoạch Thủ đô, sau khi loại dần chỉ còn 3 nhóm, nhiều người muốn chọn Liên danh Nhật – Hà Lan, nhưng ông Bộ trưởng Bộ Xây dựng và một số người khác muốn chọn Liên danh Mỹ – Hàn quốc. Tất nhiên, việc đó không quan trọng lắm, vì thuê ai làm thì mình là chủ, mình vẫn phải có chính kiến, bởi vậy hôm đó ông Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã thắng và ông nói ra câu đó để thể hiện cái “uy quyền lực” của ông ta. Tôi không để bụng chuyện đó và tôi muốn khai thác khía cạnh đúng của câu nói nên tôi giải thích rồi, rằng “Ý chí của quyền lực” phải đi kèm với trí tuệ hơn người và phải có bản lĩnh, sự vững vàng cùng lòng kiên định, chứ không thể có quyền thì muốn nói gì hay làm gì cũng được. Hỏi: Vậy ra ý kiến bất đồng xảy ra từ lúc chọn Tư vấn quốc tế hay sao? Theo chị thì Liên danh Nhật – Hà Lan mạnh ở điểm nào? Và ngược lại chị không tán thành Liên danh tư vấn PPJ (Mỹ – Hàn quốc) ở điểm nào? Trả lời: Tôi rất phục người Nhật, họ đang làm quy hoạch thành phố Tokyo mở rộng ra phía Tây lớn gấp hơn 2 lần Tokyo hiện tại, gọi là thành phố rừng (xem Forest City) nên họ có thể giúp ta nhiều kinh nghiệm, từ nhiều năm trước, họ cũng đã thành lập tổ chức HAIDEP giúp Hà Nội nghiên cứu quy hoạch cải tạo và quy hoạch vùng, thông qua quỹ tài trợ của quỹ phát triển JICA (Japan International Cooperation Agency) và họ đã có mối quan hệ về nhiều mặt với Bộ Xây dựng và đã ký với Viện Kiến trúc Quy hoạch Đô thị Nông thôn một Dự án đào tạo nâng cao trình độ quy hoạch, cho nên so với người nước ngoài thì họ không chỉ có kinh nghiệm mà còn tương đối hiểu Việt Nam. Còn Hà Lan là nước ở thấp hơn mặt biển, Hà Lan rất có kinh nghiệm về thủy lợi và đắp đê chống lụt. Ngược lại Hàn quốc thì năng lực không có gì xuất sắc, Posco E&C là chủ lực trong Liên danh PPJ, đó là một công ty con của Công ty mẹ thép Posco, họ mạnh và giàu là nhờ thép, ở Việt Nam chỗ nào có dự án của Posco là phải cảnh giác vì họ chỉ nghĩ đến lợi cho họ và hại cho ta, ví dụ như Thép Vân Phong, Đường hầm bộ xuyên qua Hồ Tây, Đại dự án bất động sản đô thị Sông Hồng, Dự án Tây Hồ Tây 210Ha 100% vốn Hàn quốc, thi công con đường Láng – Hòa Lạc họ đang thầu cũng là dự án bất ổn. Hỏi: Trưa ngày 11/12/2009 vừa có tin Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định Trung tâm hành chính quốc gia sẽ ở Mỹ Đình thì chị tính sao? Trả lời: Tất nhiên ý kiến Thủ tướng là hệ trọng, nhưng tôi hy vọng câu phát biểu vừa rồi chưa phải chính thức, từ nay đến cuối năm 2010 Thủ tướng sẽ cân nhắc và ra quyết định cuối cùng thỏa đáng hơn. Tôi cho rằng đã là Thủ đô thì chỉ có một cơ quan đầu não, làm gì có chuyện “Trước mắt hãy nghiên cứu ở Mỹ Đình”. Vả lại, Quốc hội chắc sẽ có thảo luận và nếu thấy có vấn đề thì sẽ phủ định quyết định của Thủ tướng, bời vì đó là cơ quan có quyền lực trên cả quyền lực của Thủ tướng. Tại sao ta cứ sống tạm bợ kiểu thời chiến mãi như vậy được! Hỏi: Theo ý kiến chị thì đặt TTHCQG ở Mỹ Đình có gì là bất ổn? Trả lời: Đầu tiên: Mỹ Đình không “Tựa núi nhìn sông và Rồng cuộn Hổ chầu” như nội dung bản báo cáo do Thủ tướng đọc trước Quốc hội. Tại sao năm ngoái Thủ tướng đã đọc đoạn đó trước Quốc hội? Tại sao trong một tuần hoãn thông qua nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, người ta chạy nháo nhác tìm tư liệu để củng cố lập luận, tôi là người cung cấp bản Thiên đô chiếu và nhiều tài liệu khác cho những người giúp việc Thủ tướng? Tôi có ý thức rất nghiêm túc rằng những lúc khó khăn đó là lúc tôi phải hỗ trợ đồng nghiệp của tôi không vì mục đích riêng tư nào hết. Nhưng chính vì thế tôi cần tiếp tục góp ý kiến để sự hỗ trợ của tôi thực sự có ích. Hơn nữa Phong thủy là vấn đề rất khó, các thầy phong thủy nghiên cứu sâu về những thủ thuật vi mô để giúp mỗi cá nhân giải quyết tốt chuyện hướng nhà, hướng bếp, trổ cổng ngõ, xây bể nước… để gia đình họ sống êm ấm, mọi người đều khỏe mạnh, hạnh phúc và làm ăn tấn tới thì rất nhiều, nhưng phong thủy tầm vĩ mô thì càng quan trọng hơn, mọi người chưa hiểu thì tôi cố gắng giúp cho mọi người hiểu. Nếu may mắn đến thì cả dân tộc gặp may mắn, nếu gặp họa thì cả nước chịu họa chứ có riêng ai? Tôi không nghĩ là Thủ tướng hoặc bất cứ ai lại tách mình ra khỏi dân tộc cả. Hai là: Năm ngoái, tôi đã viết bài “Cơn Hồng thủy và lời cảnh báo cuối cùng” sau trận lụt lịch sử hồi đầu tháng 11, Mỹ Đình chìm trong biển nước, đường Phạm Hùng, Sân vận động quốc gia, Trung tâm Hội nghị quốc gia… có chỗ sâu đến gần 2m nước và tôi đã có một bài tính sơ bộ rằng muốn tránh ngập vào những trận mưa tương tự thì ở Mỹ Đình phải có hệ thống hồ và kênh đào tổng diện tích 1.000 ha để có thể chứa 15 triệu m3 nước mưa. Tôi không rõ Liên danh tư vấn PPJ vừa qua đưa ra giải pháp gì để thoát nước mưa, nhưng mưa thì phải có chỗ hứng nước. Mỹ Đình là chỗ trũng hứng nước ở Tây Nam thành phố, người Hà Nội từ xưa đã biết đó là chỗ đọng nước nên không có giải pháp nào tốt hơn là đào hồ. Thế mà xem ra hồ thì ít, lại đặt TTHCQG ở đó để cùng bị ngập nước hay sao? Thứ ba: Mỹ Đình không phải là Đại La, bỏ Đại La với nhiều huyệt đạo linh thiêng để ra Mỹ Đình hoặc Hòa Lạc hay bất cứ đâu là phạm luật phong thủy. Từ lúc người Pháp đánh chiếm Hà Nội và lầp sông Tô Lịch, xóa trung tâm buôn bán ở Kẻ Bưởi và các phường Yên Thái, Hồ Khẩu, Võng Thị, Bái Ân, Xuân La, Xuân Đỉnh… thì người ta quên hẳn đây vốn là vùng Trung tâm rất phồn vinh của Thăng Long thời Lý? Hỏi: Vậy theo chị, TTHCQG vẫn phải ở Tây Hồ Tây mới là thích hợp nhất? Trả lời: Đúng vậy. Khi xưa người ta quên Tây Hồ Tây nhưng người ta không phá, dân ở vùng đó vẫn duy trì tục lệ từ ngàn năm. Còn nếu bây giờ cho người Hàn quốc đến xây trung tâm thương mại, ngân hàng, khách sạn, biệt thự của họ để phá nát nơi này lại là chuyện khác. Tôi không hiểu tại sao người Hàn quốc thì biết rất rõ đó là vùng đất quý, họ tìm moị cách để chiếm lấy, còn các quan chức Việt Nam lại coi thường và sẵn sàng nhường cho họ? Ở đây có đình Bái Ân là nơi tạ ơn Trời Đất cho quốc thái dân an và hiền tài giúp nước, có đền Sóc trừ họa Cáo chín đuôi… Theo tôi hiểu thì nơi này quan trọng hơn cả đàn Xã Tắc là nơi khi xưa vẫn lập lễ cầu xin được mùa. Đàn Xã Tắc là nơi thờ Thần Đất và Thần Nông của nền văn minh lúa nước, còn nơi đây là để hướng về Tản Viên Sơn Thánh làm lễ Tạ ơn Trời Đất mãi mãi. Hỏi: Đã nhiều lần được nghe chị nói về những câu chuyện tâm linh này, xin hỏi chị có thật tin không? Trả lời: Tôi rất tin. Niềm tin đến với tôi không dễ chút nào, nhưng khi tôi đã tin thì không ai lay chuyển được niềm tin đó nữa. Tất nhiên niềm tin đến với mỗi người có quá trình khác nhau và không thể áp đặt. Tôi nghĩ, hiện nay đã có nhiều người tin, nhưng vì chưa hiểu nên họ vẫn nói sai và làm sai. Tôi tự thấy có trách nhiệm giúp mọi người hiểu ra. Cái lẽ của tạo hóa huyền diệu lắm. Hiểu sai dẫn đến hành động sai không có tội. Nhưng khi đã biết sai mà vẫn cố tình hành động sai mới là tội lớn. Vì nể nang hay vì bất cứ lý do nào mà vẫn cố tình dâng Tây Hồ Tây cho người Hàn quốc là mang tội lớn. Còn bây giờ muốn đòi lại không khó chút nào. Họ mới đền bù giải phóng mặt bằng một ít thôi. Vả lại, tôi đã giới thiệu rồi, Keystone Vietnam sẽ đền bù tiền giải phóng mặt bằng cho Hàn quốc và xin đầu tư ngay hệ thống kênh đào như một Venice ở nước Ý tại đây Hỏi: Nếu chẳng may chị nói thế, nhưng nói nữa người ta vẫn bỏ ngoài tai, vẫn dâng mảnh đất thiêng này cho người Hàn quốc thì chị tính sao? Trả lời: Mọi chuyện xấu nhất đều có thể xảy ra. Tôi đang thông báo đầy đủ cho mọi người cùng biết. Nói một lần người ta chưa nghe ra thì phải nói nhiều lần. Tôi tin là đại đa số mọi người sẽ nghe theo tôi, có người sẽ còn giúp tôi nhắc nhở và giải thích lại cho dễ hiểu và dễ chấp nhận hơn. Hỏi: Nếu người ta vẫn cứ không nghe và cứ khăng khăng làm theo ý mình, bất chấp tất cả? Hỏi thế vì chúng tôi đã có kinh nghiệm thực tiễn về những việc như thế này rồi, không phải cứ là chân lý thì nhất định sẽ lay chuyển được mọi cái đầu, sự đời nó lại thế đấy. Trả lời: Cũng là lẽ thường tình. Có điều người khôn không ai hành động như vậy, vì nếu biết sai mà vẫn làm thì sẽ phải trả giá rất đắt. Đất nước mà phải trả giá thì tai hại rất lớn, nhưng sẽ có thế hệ tiếp theo hàn gắn, còn nếu cá nhân mà trả giá thì sẽ là nghiệp chướng, không chỉ bản thân họ sẽ gánh chịu mà còn lụn bại nhiều đời con cháu họ. Chuyện linh thiêng này không đùa được đâu. Ngay bản thân tôi cũng vậy, nếu một việc tốt mà tôi cứ xưng xưng nói thành xấu thì chính tôi sẽ phải trả giá. Xin cám ơn KTS Trần Thanh Vân. Nguồn: bauxitevn.info/x/92.pp
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 19, 2010 6:35:35 GMT 9
SƠ QUY HOẠCH HN Phố Tràng Tiền tháng 10 năm 2010. Ảnh Nguyễn Xuân Diện Phản biện hồ sơ trình duyệt, đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội
TS. KTS Phó Đức TùngNhìn chung, so với những bản thuyết minh giữa kỳ, bộ hồ sơ này đã được diễn đạt rõ ràng, hành văn mạch lạc, ngắn gọn, không có nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp. Tuy nhiên, nội dung đồ án không phải vì thế mà được cải thiện một cách đáng kể. Không những thế, bản chất của một đồ án duy ý chí càng được bộc lộ rõ ràng. Sau đây là những phản biện chi tiết từng chương của hồ sơ trình duyệt. I - Chương 1 – Phần mở đầu: 1.4. Phạm vi, ranh giới quy hoạch: Đã đành là ranh giới hành chính của Hà Nội đã được quyết định, tuy nhiên dưới góc độ quy hoạch chung cho một thủ đô lớn, với vị thế không những trong nước mà còn khu vực thì thiết tưởng cũng nên phân tích kỹ lưỡng về ý nghĩa và vai trò của ranh giới này. Có khi nào mối liên quan hữu cơ nội tại giữa Hà Nội với Bắc Ninh, Hưng Yên còn chặt chẽ hơn giữa Hà Nội và Ba Vì, Miếu Môn, Xuân Mai hay không? 1.7. Mục tiêu, nhiệm vụ: Ngay từ đầu, trước khi phân tích mọi điều kiện hiện trạng và định hướng mô hình tương lai, đồ án đã áp đặt một loạt chỉ tiêu chi tiết về mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, hạ tầng, chính xác tới từng giai đoạn 10 năm. Đây là phương pháp tiếp cận hoàn toàn duy ý chí và kế hoạch hóa. II - Chương 2- Hiện trạng So với các báo cáo trước, phần này ngắn gọn, rõ ràng hơn. Nhưng dù sao vẫn chỉ thuần tuý là mô tả hiện trạng, gần như không có đánh giá, kết luận. Đặc biệt là tất cả các điều kiện hiện trạng, ngoại trừ hiện trạng phân vùng sử dụng đất, đều không được bản đồ hóa. Không có mối liên hệ rõ ràng nào bằng bản đồ giữa phần phân tích hiện trạng và giải pháp quy hoạch. Như vậy thì làm sao có thể đánh giá được là phương án quy hoạch đã quan tâm tới những điều kiện hiện trạng này hay chưa. III - Chương 3 – Kinh nghiệm quốc tế: Một khi việc phân tích hiện trạng đã không hiệu quả thì các bài học kinh nghiệm quốc tế cũng ít giá trị. 17 bài học quốc tế rút ra đều là hợp lý, nhưng vì quá chung chung và hiển nhiên, chúng giống như những mục lục cần quan tâm trong một hồ sơ đồ án quy hoạch chung hơn là những kinh nghiệm thực sự. IV - Chương 4 – Liên Kết vùng: 4.1. Bối cảnh vùng Tương tự như phần hiện trạng, phần này không có một kiến giải gì cụ thể, thuyết phục khả dĩ áp dụng cho giải pháp quy hoạch. Thay vì hình dung ra vai trò tương lai của Hà Nội trong vùng, Hà nội sẽ đảm đương công đoạn nào, quan hệ thế nào với các thủ đô khác, thế mạnh thế yếu ở đâu thì đồ án chỉ nói việc mở rộng địa giới hành chính đã tạo nên lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các vùng đô thị lớn như Nam Trung Hoa, Gia Các Ta, Băng Cốc, thật là hết sức hoang đường. 4.2. Vùng thủ đô: Định hướng về liên kết và chia sẻ chức năng trong vùng ở phần này đã được nêu rõ hơn phần trên. Và khác với phần trên, do toàn bộ vùng thủ đô vẫn nằm trong một hệ thống quốc gia nên những định hướng này có khả năng được thực hiện. Tuy nhiên lập luận chủ yếu của phần này mới dựa trên việc nơi nào có đất thì làm công nghiệp, có tài nguyên thiên nhiên thì làm du lịch, chưa thực sự là một chiến lược phát triển vùng có sức thuyết phục. V - Dự báo phát triển Chương này đa số là những chỉ tiêu mang tính kế hoạch được rút ra từ định hướng phát triển kinh tế xã hội chứ chưa thực sự là một dự báo phát triển. Những dự báo số lượng và phân bố dân cư ở đây, chẳng hạn giữa khu đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh không phải là cơ sở để đưa ra giải pháp quy hoạch, mà là hệ quả quy hoạch. VI - Chương 6: Định hướng phát triển không gian Mô hình định hướng phát triển không gian với một lõi trung tâm, 5 đô thị vệ tinh đã được triển khai chi tiết, thành một hệ thống có logic, với những phân công cụ thể về công năng, hình thức cho từng phần. Nhưng tại sao lại là mô hình này thì lý do lại chỉ đơn giản là kế thừa mô hình đã được phê duyệt. Trong khi đó, bản thân mô hình đã được duyệt trước đây là một mô hình mang tính kinh tế kế hoạch, chưa thực sự dựa trên những phân tích và dự báo sâu sắc và việc thực hiện mô hình này trong hơn 10 năm qua tỏ ra có rất nhiều vấn đề. Có phải những vấn đề trước đây là bản chất chưa hợp lý của mô hình, hay chỉ là sai sót nhất thời trong việc thực thi, điều này chưa được đồ án phân tích rõ. Một mô hình bản thân không đúng sai nên không thể phản biện, nhưng khi vào một điều kiện cụ thể về quản lý, tài lực vật lực, di sản v.v. thì có thể phù hợp hay không. Đồ án mô tả mô hình rất kỹ, nhưng lý do tại sao mô hình này lại phù hợp và khả thi đối với Hà Nội chưa được làm cho sáng rõ. Nói chung những mong muốn của mô hình này như giải toả sức ép vào lõi trung tâm, hạn chế phát triển đô thị tràn lan, giữ lại vành đai xanh, hành lang xanh v.v. đều là hợp lý và cần thiết, nhưng không phải vì thế mà chỉ có một giải pháp là mô hình như đề xuất. Giữ lại được hành lang xanh là một nỗ lực quan trọng trong điều kiện thực tế hiện nay, nhưng không phải vì thế mà Hà Nội có thể vươn lên tầm cao mới. Vấn đề là chiến lược phát triển cụ thể của hành lang xanh này như thế nào để có thể đạt chất lượng mới thì chưa rõ. Chỉ có khái niệm “Giải pháp kiểm soát trong khu vực vành đai xanh” là còn tương đối rõ ràng. Chuỗi đô thị vệ tinh phía tây có thể là giải pháp để giữ lại hành lang xanh, nhưng bản thân sức sống nội tại của các đô thị này lại chưa có sức thuyết phục. Việc áp đặt một số công năng như giáo dục đào tạo, công nghiệp, dịch vụ cho các đô thị này tuy có thể đảm bảo một nội dung kinh tế xã hội tối thiểu cho chúng, nhưng không chứng minh được là phân bố này là tối ưu đối với tổng thể thủ đô cũng như tổng thể vùng, bởi vì chúng không dựa trên những tiềm năng nội tại của các vùng này. Không có lý do khách quan nào cho thấy những vùng Hoà Lạc, Xuân Mai, Miếu Môn, Sơn Tây lại có tiềm lực phát triển hơn là Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh cả. Đối với dự án hai bên bờ sông Hồng, vấn đề lớn nhất của dự án này trước đây là thiếu một concept tổng thể đối với toàn thành phố, thứ hai là vấn đề bản sắc. Nay hai vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu lại thỏa đáng, chỉ mới là chỉnh sửa một số chỗ như khu vực Tứ Liên, Bát Tràng, Thượng Cát là chưa đủ. Mặt khác, bản chất của dự án này là làm một loạt khu đô thị cao tầng để kinh doanh, lại tốn tương đối ít chi phí giải toả. Nay lại xác định ưu tiên quỹ đất này cho phát triển công cộng và tái định cư tại chỗ chứ không tăng mật độ thì hiển nhiên bài toán kinh tế thay đổi hẳn. Nói cách khác đã là hủy bỏ đồ án này và xem xét cấp đất khác, nhưng đất khác này ở đâu và làm gì với hai bên bờ sông Hồng thì như vậy vẫn là bỏ ngỏ. VII - Chương 7- Quy hoạch sử dụng đất: Chương này thực ra là hệ quả của việc định hướng phát triển không gian. Có hai nghi vấn chính: - Thứ nhất là diện tích đất xây dựng đô thị, tổng thể cũng như tại các đô thị cụ thể, được xác định một cách duy ý chí và không dựa trên phân tích hiện trạng rõ ràng. Chỉ tiêu đất đô thị trên đầu người tăng hơn gấp đôi hiện trạng, không vì lý do gì ngoài việc ranh giới hành chính rộng hơn là không thỏa đáng. Con số 30% đất đô thị là không đáng tin, vì theo như bản đồ định hướng phát triển không gian, còn rất nhiều diện tích đất làng xóm trong hành lang xanh đang và sẽ có mật độ đô thị thì chưa thấy thể hiện là đô thị. Nhưng ngay cả khi chấp nhận con số 30% này thì câu hỏi đặt ra vẫn là nếu trong 40 năm tới, Hà Nội lấp đầy 30% diện tích tự nhiên thì trong 400 năm sau, diện tích đô thị sẽ là bao nhiêu. Dù sao thì việc phân tán đầu tư ra một diện tích rộng như vậy trong điều kiện kinh tế còn yếu như nước ta trước mắt cũng là không hiệu quả. - Thứ hai là diện tích Nông nghiệp. Quan điểm chung là bảo tồn đất nông nghiệp là đúng, nhưng việc lựa chọn vùng bảo tồn chỉ dựa vào năng suất lúa là không hợp lý. Trong tương lai, vai trò nông nghiệp của Hà nội là gì, có nhất thiết là trồng lúa hay không. Nếu không phải trồng lúa thì năng suất lúa không phải là tiêu chí chủ đạo. Nhận định chung: Đồ án đề ra 3 mục tiêu: Xanh, Văn hiến – Văn Minh, Hiện đại, với mong muốn nâng Hà Nội lên một tầng cao mới. Tuy nhiên trong toàn bộ đồ án, giải pháp để thực hiện 3 mục tiêu này chưa được thuyết phục: 1- Xanh: Nếu nói về xanh thì hiện nay Hà Nội đang còn xanh hơn như vậy. Có thể nói đồ án đã cố gắng giữ lại một số vùng xanh hiện tại, để tình hình không xấu đi nhiều, chứ chưa tạo ra được chất lượng mới, ngoại trừ một khu vực vành đai xanh sông Nhuệ, trong trường hợp những đề xuất giải tỏa ở đây có thể trở thành hiện thực. Nói chung giữa các vùng hiện nay tuy có sự phân chia ranh giới rõ ràng nhưng chưa thực sự ăn nhập một cách hữu cơ trong một cơ thể đô thị mới, để có thể nói là cải thiện cơ bản chất lượng môi trường sống đô thị. 2- Văn Hiến, Văn Minh: Đồ án có thể đã chú trọng tới việc bảo tồn một số khu di tích, di sản, nhưng nói là sáng tạo ra những giá trị đặc trưng mới thì chưa thể công nhận. Còn việc là trung tâm chính trị, văn hóa, là nơi hội tụ và đào tạo nhân tài cho đất nước thì hiện nay đang là như vậy, giải pháp cũng không có gì đặc sắc khả dĩ thay đổi về chất quan hệ này. 3- Hiện đại: Tuy đồ án đã đề xuất một số chi tiết cải tạo hệ thống hạ tầng nhưng về tổng thể chưa có gì thực sự là hiện đại. Nền tảng của hiện đại này là một nền kinh tế tri thức, không đơn giản là dành ra một vùng đất trống ở Hòa Lạc mà có thể đạt được. Hệ thống giao thông không thể nhờ nâng cấp một số tuyến và làm thêm trục Hồ Tây – Ba Vì mà thực sự trở nên hiện đại. Đánh giá chung, đây có thể coi là một đồ án chỉnh trang, nâng cấp đô thị và chỉnh sửa quy hoạch cũ. Trong phạm vi này, đồ án có những đóng góp tích cực nhất định, đặc biệt là trong nỗ lực giảm thiểu việc phát triển đô thị tràn lan, bảo tồn những vùng đất xanh, vùng di tích cũng như xét lại dự án ven sông Hồng và cải tạo hệ thống hạ tầng, hợp lý hóa một số không gian đô thị. Tuy nhiên, nếu để nói là đạt đựơc 3 tiêu chí mà đồ án đề ra, tạo cơ sở cho việc phát triển Hà Nội bền vững trong những thế kỷ tới thì đồ án này chưa đủ tầm cỡ. Có lẽ đây là một trong những ví dụ điển hình cuối cùng về một đồ án quy hoạch hoàn toàn theo phương pháp kinh tế kế hoạch trên thế giới. Hà Nội, ngày 30.10.2010. TS.KTS Phó Đức Tùng. * Bài do TS. KTS. Phó Đức Tùng gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện-Blog. Xin chân thành cảm ơn tác giả * Ý kiến của KTS Trần Thanh Vân về hồ sơ trình duyệt, đồ án quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội: Bản thuyết minh dài hơn 400 trang, rỗng tuyếch, ý tứ sơ sài như bản tóm tắt chỉ có mấy trang lớt phớt mà Phó Đức Tùng nhận được. Đây không phải là Quy hoạch chung, đây chỉ là một số ý tưởng chung chung không nói lên vấn đề gì cả. Năm chương đầu chỉ là lời phi lộ. Chương 6 nói đền ĐÔ THỊ LÕI VÀ 5 ĐÔ THỊ VỆ TINH nhưng không nói được tại sao lại phân bổ như thế. Chương 7 lại nhắc lại chương 6, hời hợt và không có lý lẽ. *Nguyễn Xuân Diện: Tác giả bài viết là Phó Đức Tùng được đào tạo TS tại Đức. Anh là một kiến trúc sư tài hoa, giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay anh đang ở ẩn tại thị trấn Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Tây. Không điện thoại di động, không biết sử dụng xe máy và lái ô tô. Than ôi! Kẻ sĩ trí thức tinh hoa Thăng Long, thời nay vẫn còn phải đi ở ẩn!
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 25, 2010 14:16:06 GMT 9
THÀNH MỸ THOSử liệu và dấu tíchĐịnh Tường trước đặt lỵ sở tại Tân Lý Tây nay là Châu Thành –Tiền Gang, ở đây dựng một đồn nhỏ, đến năm 1792 Nguyễn vương dời lỵ sở về làng Mỹ Chánh, đặt ở gần chợ Mỹ Tho (nay là Chợ Cũ). Thành Trấn Định được xây sau khi xây thành Gia Định, quy mô chỉ nhỏ hơn Gia Định thành chút ít. Thành Trấn Định đặt gần với chợ Mỹ Tho. Đến đời Minh Mạng năm 1826 thì cho dời lỵ sở về làng Điều Hòa và Bình Tạo. Thành cũ từ đó trở nên hoang phế, còn thành mới thì có chu vi nhỏ hơn thành Trấn Định. Thành Mỹ Tho theo những tài liệu ghi lại thì nó được xây theo kiểu Âu châu, Vaubanl, một kiểu thành thường thấy dưới thời Nguyễn. Thành được đắp bằng đất, chu vi 320 trượng, cao 9 thước, 5 tấc mở bốn cửa, hào rộng 8 trượng sâu sáu thước 5 tấc ở địa phận hai thôn Điều Hòa và Bình Biên huyện Kiến Hưng. Thành mới này chỉ cách thành cũ Trấn Định khoảng một dặm về phía đông. Thành Mỹ Tho cũng như các thành khác ở các tỉnh thời Nguyễn, đắp đất, có quy mô nhỏ với tư cách là một lỵ sở nơi đặt cơ quan quản lý hành chính của tỉnh là chính yếu. Những người Pháp tam gia trong trận chiến năm 1861 ở Mỹ Tho có mô tả về thành Mỹ Tho, tương đối thống nhất với các tài liệu của triều Nguyễn, “thành Mỹ Tho xây cất theo lối Âu Châu, thành vuông vức có ụ làm pháo đài. Hào chung quanh rộng có nước, tường thành cao và rất dày vài nơi chung quanh thành là đầm lầy vì vậy sức phòng thủ do công trình nhân tạo còn có thiên nhiên hỗ trợ nữa,…thành kiểm soát hết sông Tiền Giang và các đường thủy đổ vào sông này. Do đó thành có vị trí chiến lược quan trọng”[1]. Như vậy người Pháp không những cho biết về diện mạo của thành mà còn đánh giá vị trí quan trọng của thành. Thành Mỹ Tho được xây dựng được theo quy cách của một công trình quân sự có hào nước hộ thành có ụ làm pháo đài và đặt súng thần công để trấn giữ. Ngoài những công trình nhân tạo để hộ thành ở đây còn có những công trình tự nhiên cũng góp phần đáng kể vào việc bảo vệ thành. Đó là con kênh Bưu Điện , Thương Mại và cả sông Tiền nữa. Bởi nên thế của thành rất hiểm trở có thể tiến thoái trong trận chiến được nhờ vào những con sông xung quanh. Công thì những con kênh này là con đường thuận tiện còn thủ thì chúng trở thành những hào tự nhiên, một vật cản khó vượt qua và cũng có thể rút lui an toàn theo những sông này. Ngày nay thành không còn nhưng vị trí của thành có thể xác định được. Thành nằm lọt vào trong thành phố Mỹ Tho, có thể xác định giới hạn trong các con đường: khoảng từ đường Lê Lợi, đường 30 tháng 4, đường Nam Kì Khởi Nghĩa và đường Ngô Quyền thành phố Mỹ Tho. Tình trạng của thành cũng giống như thành Gia Định không còn dấu tích gì cả. Cấu trúc thành Mỹ Tho Thành được xây ở vị trí gần với sông Mỹ Tho ở phía đông nhưng phía nam lại gần với sông Tiền Giang, đây là một vị trí chiến lược nên thành có một vai trò hết sức quan trọng trong vùng. Những tư liệu còn lại cho phép biết được về cấu trúc của thành. Thành hình vuông chu vi là 320 trượng. Chiều cao của tường thành khoảng 9 thước 5 tấc. Xung quanh thành được mở bốn cửa, trên mỗi cổng thành được dựng vọng đài nhỏ lợp ngói. Dưới chân thành là hào, nối với thành là cầu gỗ. Bên trong thành lại bố trí vọng canh. Theo những gì ghi chép của người Pháp về cách xây thành của người An Nam thì có thể thấy thành Mỹ Tho ngoài những đặc điểm như thành cấu trúc hình Vaubanl, mở bốn cửa thì nó còn cấu tạo như sau. Tường thành làm bằng đất, đất có thể che chở cho pháo thủ vừa lẫn che cho súng. Để tường thành được cứng chắc thì đất đắp thành phải được đào từ mùa mưa, sau sáu tháng sẽ cứng chắc. Khi đắp thành để đảm bảo độ chắc của thành lẫn độ cao của tường thì bên trong tường thành người ta làm hệ thống sườn bằng gỗ ghép chéo nhau. Vì đất cứng, tường có cốt gỗ đỡ nên thành không cần có trụ đỡ, không cần sắt, thép, không trồng cỏ mà thành vẫn chắc. Một điều quan trọng là vẫn đảm bảo được mặt ngoài của tường thành vẫn thẳng tắp, đây là yếu tố quan trọng của thành để đảm bảo địch không thể leo thành được hoặc khi ném lựu đạn khó vượt qua được. Mặt ngoài tường thành còn trang bị thêm tre gai để làm rào. Lớp tre này rất dày, chúng như lông nhím làm địch không thể áp sát mặt thành được. Tre chỉ cắm hờ trên đất nên không thể dựa vào thân tre để mà leo lên thành được. Hơn nữa trên mặt thành còn được trang bị một hàng rào bắt chéo nhau bằng gỗ, những thanh gỗ này được cắm vào thành cho vững chắc. Một cấu trúc quan trọng để bảo vệ thành nữa là hào hộ thành. Hào được đào gần chân thành, bên trong có nước. Hào ở thành Mỹ Tho có rất nhiều nước và sình lầy, dưới hào lại có hầm chông là chướng ngại khó lòng vượt qua được. Hào ở thành rộng 8 trượng, sâu 6 thước, 5 tấc[2]. Đối với bệ bắn thì thành “không có bệ bắn lớn bên trong để giúp mở rộng thêm góc bắn, nhất là tại ụ bắn. Tường thành có đục lỗ châu mai nhưng mặt nở rộng lại ngược với lỗ châu mai của thành quách Âu châu. Các sĩ quan pháo binh đều nhận thấy điều này, một số kĩ sư cho rằng các lỗ châu mai như thế rất hợp lý”[3] Trên con đường chính đi từ Gia Định đến thành Mỹ Tho bằng đường thủy là kênh Bưu Điện, con sông này được bảo vệ ngoài những chướng ngại trên sông còn có những đồn trấn hai bên sông. Trên hai bờ sông bố trí 6 đồn tất cả, những đồn này bố trí cách khoảng tùy ý không đều nhau tùy vào vị trí chiến lược ở mỗi nơi mà có hai đồn gần nhau cũng có nơi đồn xa nhau hay cùng một bên hoặc bố trí hai bên bờ sông. Những đồn này được xây cất trên bùn, chung quanh được đào hào, trong hào có rất nhiều bùn, nước sâu đến hai thước. Mỗi đồn được đục 12 lỗ châu mai. Bên cạnh đó chung quanh đồn còn có bàn chông, cọc nhọn, địch muốn công đồn trực tiếp rất khó khăn chỉ có thể bắn từ xa tới. Những đồn khác đều có cấu tạo như vậy, nó có cấu tạo như thành nhưng ở quy mô nhỏ để bảo vệ con đường xung yếu đến Mỹ Tho. Vị trí, chức năng của thành trong khu vực. Vị trí của thành Mỹ Tho Thành Mỹ Tho được xây dựng từ năm 1826 dưới đời Minh Mạng, thành có một ví trí quan trọng đối với khu vực vì những lý do sau. Mỹ Tho vào thế kỉ XVIII là một Đại phố, một thương cảng mua bán lớn ở miền nam, một đô thị phồn hoa đô hội. Đó là một trung tâm kinh tế lớn, Mỹ Tho cũng từng là vựa lúa lớn của cả vùng Nam kỳ, thậm chí còn là nơi đặt công khố chung của các dinh gọi là “ tứ dinh công khố”. Sở dĩ như vậy là vì Mỹ Tho là một vựa lúa một trung tâm kinh tế phát triển nên có thể đảm bảo được lương thực, tiền bạc, vật chất cho cả vùng được ổn định. Với vị trí chiến lược của Mỹ Tho như vậy thì vai trò của Mỹ Tho là vô cùng quan trọng. Có thể nói Mỹ Tho là nơi đảm bảo lương thực cho việc quân của đất Nam bộ. Đó là nhiệm vụ trước tiên mà thành Mỹ Tho phải đảm nhiệm công việc này. Ngay từ thời các chúa Nguyễn đã thấy vị trí chiến lược này nên Nguyễn Ánh đã cho xây một thành Trấn Định chỉ nhỏ hơn thành Gia Định thôi để đảm bảo được nguồn lương. Trong lịch sử thời Nguyễn thì bang giao giữa Đại Nam và Cao Miên có nhiều vấn đề nhất là Cao Miên bị Xiêm lợi dụng mà xâm lấn cương giới của ta. Trong quá trình mở cõi chúa Nguyễn luôn chú trọng biên giới phía tây này, cho lập ở vùng tiếp giáp với Cao Miên các bảo ở thượng nguồn sông Tiền để canh giữ. Sử còn ghi Nguyễn Cư Trinh đã xin lập hai đồn ở Tân Châu và Hùng Ngự để phòng khi Miên xâm phạm bằng đường sông Tiền. Các bảo Trấn Nguyên, Thông Bình, Tuyên Uy, Hùng Ngự ở thượng lưu là địa đầu quan yếu. Hơn nữa ở địa đầu tỉnh Định Tương là nơi tiếp giáp sông Vũng Gù, từ đây đến đạo Tuyên Uy, giáp với Cao Miên khoảng 40.450 tầm, ngược lại từ địa đầu này đi xuống 36.245 tầm thì đến của biển Lôi Lạp[4]. Như vậy từ Mỹ Tho có thể nhanh chóng đi lên Tuyên Uy nhưng cũng có thể nhanh chóng xuống của biển mỗi khi có biến. Bởi nên việc xây thành trấn giữ ở Mỹ Tho là một lẽ để có thể canh giữ được cương thổ phía tây nhất là con đường thủy, sông Tiền nối liền Cao Miên đi qua Nam Kỳ và đi ra biển rất thuận tiện và là con đường chiến lược trong quân sự. Hơn nữa thành Mỹ Tho được đặt gần sông Tiền lại gần về Hạ lưu của sông. Ở cửa biển của sông này đều có đặt pháo đài để canh giữ mặt biển. Các pháo đài Ba Lai, Tiểu, Đại đều là then khóa mặt biển. Thành Mỹ Tho ở cách không xa nên có thể chi phối dễ dàng các pháo đài ở miền biển này. Đầu và cuối của sông Tiền đều có bảo trấn giữ, thành Mỹ Tho ở vị trí gần giữa của con đường này, rõ thành ở vị trí đắc địa, trung tâm, nơi co thể chi phối, viện trợ thượng nguồn và hạ nguồn sông Tiền. Nếu lấy Gia Định làm trung tâm của miền nam thì từ Gia Định cũng có thể nhanh chóng đi đến Mỹ Tho bằng con kênh nối từ Vàm Cỏ và Sồng Tiền. Đồng thời từ Mỹ Tho cũng có thể đi xuống Chợ Gạo, Gò Công được và cũng có thể ngược dòng lên miệt Cai Lậy, Cái Bè và cũng có thể đi được sang các tỉnh miền tây bằng đường thủy thuận tiện. Thành Mỹ Tho ở ví trí này đã kiểm soát hết sông Tiền và các con sông khác, người Pháp cũng nhận định Mỹ Tho là “điểm phòng thủ cuối cùng của An Nam về phía Cao Miên”[5]. Thành Mỹ Tho ở vị trí trung tâm có thể di chuyển đến nhiều vị trí xung yếu đông tây, nam, bắc được dễ dàng nhất và nhanh chóng. Thành Mỹ Tho có vị trí chiến lược nữa là vì nó nằm ở vị trí có lợi trong quân sự. Thành đặt tại thôn Điều Hòa và Bình Biên nay thuộc thành phố Mỹ Tho. Từ Gia Định có thể theo con đường sông Vàm Cỏ đến rạch Vũng Gù vào sông Bảo Định là có thể đến thành Mỹ Tho đây là con đường cực kỳ quan trọng. Nó đi quan nhiều vùng đất trù phú của Sài Gòn lẫn Mỹ Tho. Vì vậy mà trên sông này được bố trí nhiều đập cản và các đồn thủ trấn hai bên bờ sông để bảo vệ tuyến đường này. Hơn nữa ở hậu tuyến của thành có con kênh Thương Mại cách đó khoảng 80 dặm, đây là con kênh thuộc hậu tuyến của thành cũng có vai trò khá trọng yếu. Thành Mỹ Tho lại nằm sát với sông lớn Tiền Giang, từ thành có thể ngược dòng lên Cao Miên các tỉnh khác, hoặc xuôi dòng ra biển được. Thành Mỹ Tho chỉ cách đường cái quan không xa, khoảng 2000 thước[6] nên bằng đường bộ cũng có thể liên hệ nhanh chóng với các nơi khác như Gia Định, xa hơn là Kinh đô. Rõ thành ở vị trí thật hiểm trở trước sau đều có con đường để đi, chúng cho phép tiến lui dễ dàng khi có chiến sự. Tóm lại thành Mỹ Tho đặt ở vị trí vừa có vai trò quan trọng trong kinh tế lẫn có vai trò chiến lược trong quân sự. Chức năng của thành Từ cấu trúc của thành như thành cao, hào sâu bố trí nhiều bàn chông, lỗ châu mai, đặt pháo trên thành để thủ, bốn góc thành đều có pháo đài (đời Gia Long đã cho đặt đại bác trên thành, bắn thử sang đối ngạn xa 10 dặm cây rừng đều gãy nát). Bên ngoài thì bố trí 6 đồn trấn ven sông, nó có tính chất kiên cố, lâu dài và cả những đập chắn ngang sông. Bên trong thành thì dự trữ kho lương và tiền bạc mà khi người Pháp vào thì gạo đã cháy hết và tiền thì đã bị đứt dây. Thành lại ở một vị trí xung yếu đối với biên giới Cao Miên và mặt biển lẫn Gia Định và các nơi xung quanh. Từ đó mà có thể nhận thấy thành Mỹ Tho được xây với chức năng quân sự, vừa là nơi trữ lương, vừa là nơi chi viện cho chỗ khác. Tuy nhiên thành cũng là một trung tâm hành chính, lỵ sở của tỉnh. Thành Mỹ Tho vừa giữ chức năng hành chính và cả chức năng quân sự. Thành Mỹ Tho được xây dựng ở một trung tâm kinh tế quan trọng của Nam bộ, nó lại có một vị trí quan trọng về mặt quân sự đối với vùng biên giới phía tây và mặt biển, đồng thời nó có vai trò như là một kho lương chung của cả vùng. Vì thế mà có thê xem thành Mỹ Tho có chức năng quân sự, dù có chức năng quân sự nhưng cũng không phải không có chức năng hành chính. Thành là lỵ sở của tỉnh nơi tập trung những cơ quan hành chính của Định Tường. TỪ THÀNH MỸ THO SUY NGHĨ VỀ CUỘC TẤN CÔNG NĂM 1861 Hệ thống phòng thủ của thành Để đến được thành Mỹ Tho thì có ba con đường chính, ngoại trừ con đường quan lộ nối liền Gia Định thành và các tỉnh. Ba con đường đến thành Mỹ Tho đều là đường thủy cả. - Một: đường thuận lợi và rộng nhất là đường theo cửa Tiểu, cửa Đại ngược dòng lên đến Mỹ Tho. Tuy nhiên con đường này nếu từ Gia Định đến thì là con đường vòng, tốn nhiều thời gian. - Hai: đường theo sông Vàm cỏ đến sôngVũng Gù, nơi đầu là địa giới Định Tường. Con sông này nối liền Tân An và Mỹ Tho rồi đổ ra sông Vàm cỏ , theo sông Vàm Cỏ thì có thể tới Gia Định. Con sông này thời Nguyễn gọi là Bảo Định hà, nối liền sông Vàm Cỏ và sông Tiền. Từ Gia Định có thể theo sông này mà thẳng tới thành Mỹ Tho. - Ba: cũng vào sông Vũng Gù tới một ngã ba, nơi hợp lưu sông Vũng Gù và kênh Thương Mại. Kênh Thương Mại theo nhật kí của lính Pháp tham chiến ở đây ghi lại thì kênh này dẫn đến ngay cửa thành Mỹ Tho, rất tiện lợi. Tiện nhưng sông này có đặc điểm là rất cỏ, lát, sông lại cạn, bùn lầy rất nhiều tàu lớn không thể đi qua đây. Kênh này như là hệ thống phòng thủ tự nhiên của thành Mỹ Tho vậy. Hệ thống phòng thủ của thành gồm hai bộ phận là hệ thống phòng thủ nhân tạo và hệ thống phòng thủ tự nhiên. Hệ tống phòng thủ nhân tạo Thành Mỹ Tho được thiết lập hệ thống phòng thủ từ xa, trên con sông đi từ Vàm Cỏ đến Mỹ Tho là nơi xung yếu. Trên đoạn sông này được bố trí chín đồn đất, được bố trí hai bên bờ sông, cùng đi đôi với đồn thủ là những đập chắn. Đầu tiên là hai đập chắn kế tiếp nhau, qua một ngã ba thì tới một đập chắn nữa, ở khoảng giữa của hai đập chắn ba và bốn có bố trí một đồn thủ ở bên trái. Xen kẽ các đập chắn trong lòng sông là các vật cản như sọt đá hay là cọc nhọ được cắm xuống bùn, và cả nhưng chiếc thuyền được chất đầy đất rồi nhấn chìm giữa dòng. Ngay dưới dập chắn thứ tư bên phải được đặt một đồn nữa, đồn thứ hai. Những đồn này được đấp bằng đất nơi bùn lầy, có hào xung quanh lại cắm chông nên rất khó công những đồn này. Dưới đồn số hai là đồn thứ ba cũng ở bên phả sông. Đồn thứ ba này nằm ở nhả ba sông nên có vị trí rất thuận tiện, kiểm soát được đường giao thông. Dưới ngã ba sông gặp một đập nữa là đập thứ 5, liên tục à các đập thứ 6, 7, 8 và đập thứ chín. Nó được bố trí trên một khúc sông tương đối thẳng. Nơi đập thứ 8 và chín thì có thêm chướng ngại những thân cau được chặt thành khúc thả ngổn ngang lấp cả đoạn sông vì thế thuyền bè muồn vượt qua bắt buộc phải dọn sạch những cản vật này đi. Đồn thứ 4 được đặt ở một khúc quanh và dưới một ngã ba sông bên trái nên khi tấn công sẽ rất bất ngờ mà địch cũng khó mà tìm được. Đồn thứ 5 cũng vậy nằm ở khúc quanh của sông bên dưới ngã ba, bên trái. Những đồn này có tính chất chiến lược khi tấn công vì nó bố trí để đánh bất ngờ và kiểm soát nơi quan trọng, giặc muốn đánh vào đồn phải tốn công tìm vị trí của nó. Đồn thứ sáu xây gần thành Mỹ Tho đây là đồn thủ cuối cùng án ngữ trước thành. Nơi đây khi Pháp nổ súng thì ta đã bắn trả ba phát đại bác làm chết một chỉ huy của địch. Rồi đồn cũng thất thủ vì không chịu nổi sức công phá của đạn. Nơi gần thành lại có một làng đóng quân, ở đây chứa rất nhiều vũ khí. Nhưng khi Pháp phát hiện thì lính ta lịa rút lui không cố thủ. Hầu hết những đồn thủ này đều được khoét lỗ châu mai và đặt súng để chiến đấu. Các đồn số 1 và 2 khi Pháp tấn công tới thì bị bắn trả từ hai bên đồn rất dữ dội. Nhưng cũng có đồn dù bố trí phòng thủ nhưng vẫn để cho Pháp chiếm mà không tốn sức. Thành Mỹ Tho cũng ở vị trí của một khúc quanh sông, khi hết đoạn cong này thành hiện ra bất ngờ nhưng tiếc thay thành không có sự chống cự nào.Mặc dù trong thành có bố trí đại bác, lương thực đầy đủ tiền bạc vẫn không thiếu, trước khi rút quan giữa thành đã cho đốt hết gạo và tiền đi. Thành Mỹ Tho mất dễ dàng dù sức chống cự ngay từ đầu là có thể nhưng có lẽ đến hồi cuối thành không chịu nổi sự bao vay của quân Pháp từ hai phía trước và sau nơi đóng quân của giặc chỉ cách thành vài trăm mét. Vì thế mà lính trong thành đã rút từ lâu. Hệ thống phòng thủ tự nhiên Đó là hệ thống phòng thủ của các con sông mà chủ yếu là hai con kênh Bưu Điện và Thương Mại. Kênh Thương Mại ban đầu Pháp định đem quân đi đường này nhưng trong suốt các ngày 27, 28, 29 và 30 tháng 3 tàu không thể đi được vì vướn phải cỏ trên sông rất nhiều và bùn lầy làm thuyền không cách nào tiến tới đành hải quay về con kênh Bưu Điện. Kênh Bưu Điện thì bùn lầy cũng rất nhiều nhất là đoạn gần thành. Những tháng sau tết thì những dòng sông ở miền tây cạn nước nhất là những sông nhỏ nên rất khó để di bằng đường thủy. Đoạn này nó đổ vào ngay trước mặt thành và lại cạn dần. Tàu muốn đi phải khắc phục bùn lầy này. Pháp muốn tấn công nhanh chỉ có con đường này là nhanh nhất. Trên sông lại có vật cản nên lính Pháp vừa tiến quân vừa phải phá chướng ngại đồng thời là vét bùn. Vì không hợp thủy thổ nơi này lại làm việc trong điều kiện bùn đất nập ngang người, trên thì trời nắng nên lính Pháp đã mắc bệnh dịch tả, không bị dich tả thì bị sốt rét, kiết lỵ. Vì vậy mà quân số Pháp giảm do mắc bệnh, số còn sống sót thì cũng rất cực nhọc. Một số quân Pháp đã than phiền vì tình trạng này đã chịu đựng hết nổi. Trong quân sự đây là tình thế có lợi cho đối phương nhưng tiếc thay ta không dựa vào đây để mà đánh bật Pháp ngay từ đầu dù cơ hội đã có. Đó là điều khó hiểu trong cuộc chiến, từ đây mà dẫn đến mất nước khi điều kiện đánh là có thể. Những con sông xung quanh thành Mỹ Tho không những là con đường giao thông mà còn là những con đường quân sự chiến lược. Những con sông này chính là những chướng ngại tự nhiên mà rất hữu hiệu trong cuộc chiến, nó làm ngăn cản bước tiến của địch đồng thời có thể làm mất sức lực, giảm quân số của giặc. Tương quan lực lượng và vũ khí nhà Nguyễn và quân Pháp Quân số Quân số của Pháp tham gia cuộc chiến đánh Mỹ Tho là khoảng 900 quân[7]. Đây là con số tổng kết sau khi chiếm thành, sau nhiều đợt viện trợ thì con số lính tham gia như thế. Trong đó có cả lính Tây Ban Nha tham gia nhưng số lượng ít. Riêng quân Nguyễn ở thành Mỹ Tho thì không rõ là bao nhiêu, không thấy tài liệu nào nói tời nhưng trong diễn biến trận đánh thì thấy quân được bố trí ở 6 đồn và một làng lính ở gần thành và cả lính trong thành nữa thì có thể phỏng đoán ước chừng số quân ở Mỹ Tho có thể tương đương với quân số Pháp đến hơn. Tương quan về vũ khí Quân Pháp: trước tiên có thể nói Pháp quân đã trang bị vũ khí hùng hậu tân tiến nhất hiện thời. Những loại vũ khí này có sức công phá cao, hiệu quả tốt nhất trong các chiến lược. Trong trận đánh Mỹ Tho Pháp đã sử dụng chiến hạm lớn bằng sắt, sau đó được viện trợ thêm trong quá trình đánh thành Mỹ Tho. Pháp đánh Mỹ Tho bằng hai đường (theo kế hoạch ban đầu) là đường kênh Bưu Điện và kênh Thương Mại. Những chiến hạm trong trận đánh này được cấu tạo chắc chắn để có thể vượt nhưng chướng ngại vật trên sông, hơn nữa nó còn được sự yểm trờ của lính bộ binh trên bờ. Vũ khí trang bị cho các chiến hạm là các súng lớn, có sức công phá, tầm bắn xa. Đó là loại “súng nòng có khía đem đặt trên tàu sẽ có vai trò như đại pháo”[8]. Sự cải tiến nòng súng có khía sẽ giúp đem lại uy lục cho súng. Ngoài ra Pháp quân còn sử dụng loại “súng cối miền núi”, còn có loại cỗ đại pháo “nòng 4” và “nòng 30)(không rõ là súng gì), hỏa tiễn. Có thể nói đây là những loại súng hiện đại những loại súng này sẽ hỗ trợ đắc lực cho cuộc tấn công. Có lẽ những loại súng này không còn hình thức nạp đạn như kiểu cũ nữa mà đã cải tiến nạp đạn ở hậu nên nhanh chóng tấn công được. Còn riêng binh lính thì được trang bị loại súng trường để chiến đấu. Quân triều Nguyễn Ngược hẳn với quân Pháp vũ khí được trang bị cho Mỹ Tho rất lạc hậu. Tàu chiến là nhưng loại tàu nhỏ đóng bằng gỗ tốt như giá tị, so với tàu Pháp bằng sắt. Những tàu chiến của ta vẫn sử dụng sức cơ bắp để di chuyển, chèo là chính. Pháo lớn của ta là các loại súng thần công, sử dụng đạn đá, sức công phá kém, tầm bắn ngắn. Súng vẫn còn nạp đạn ở trước nòng, mất thời gian, đây là loại súng đã rất lỗi thời. Ngoài những loại hỏa khí thô sơ trên quân ở Mỹ Tho còn sử dụng một lượng lớn các loại vũ khí truyền thống. Đó là các loại vũ khí như: giáo, lao, thương, kiếm được trang bị ở mỗi nơi trong thành và cả nhừng đồn thủ ven sông nữa. Các loại bẫy như bàn chông, cọc nhọn được sử dụng rất nhiều để cản bước tiến của địch. Không chỉ dùng loại bẫy mà ta còn dùng các loại chướng ngại vật. Đó là các loại như đá được bỏ vào sọt rồi nhấn chìm dưới sông, cọc nhon, cừ và thân cau được dùng để cắm xuống bùn hoặc thả nổi đầy trên mặt nước để cản tàu giặc. Hoặc dùng cả một chiếc thuyền rồi cho đất vào đem nhấn chìm dưới sông và cả những chiếc bè được chất đầy bùi nhùi và lưu huỳnh để làm chất cháy nổ trên sông. Quân lính ở Mỹ Tho còn đắp những đập cản trên sông, muốn tới thành Mỹ Tho lính Pháp phải vượt qua chín đập như vậy. Đây là một cách thức phòng thủ làm từ những vật dụng thô sơ, tốn nhiều sức lực mà hiệu quả không cao nhất là khi Pháp đã dùng tàu sắt, súng lớn để tấn công thì những chướng ngại này không là gì cả. Sự tương quan về vũ khí giữa quân ở Mỹ Tho và quân Pháp đã rõ, đó là một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Một bên là Pháp sử dụng trong cuộc chiến nhiều phương tiện hiện đại chiến hạm, súng lớn (18 cỗ súng), còn một bên là sử dụng những phương tiện thô sơ, thủ công. Đây là một bất lợi cho quân Nguyễn ở Mỹ Tho khi đối đầu với đội quân mạnh về phương tiện. Vì có lợi thế này mà quân Pháp đã nhanh chóng phá những rào cản của ta mà chiếm thành Mỹ Tho trong một thời gian ngắn. 3.3. Nhận xét Qua sự so sánh tương quan lục lượng giữa quân nhà Nguyễn và quân Pháp trọng trận đánh năm 1861 thì thấy quân Pháp có lợi thế hơn rất nhiều về vũ khí. Vì chúng rất hiện đại còn ta thì với những vụ khi truyền thống để “giáp lá cà” và vài vài khẩu đại bác cũ kĩ. Sức lự như vậy thì không thể nào đương đầu nổi với Pháp quân được. Qua sự tấn công của pháp và sự bố trí phòng thủ của quân ở Mỹ Tho thì có thể thấy ta ở thế thủ là chính. Khi quân Pháp đến thì mới co sự chống cự nhỏ lẻ ở các đồn nhưng rồi cũng nhanh chống thất thủ. Quân ta cũng dàn trận để đánh nhưng rồi cũng sau vài phát súng rồi cũng rút lui an toàn. Sự bố trí các đồn thủ hai bên bờ sông và các đập chắn, các chướng ngại như thuyền đất, sọt đá, cọc nhọn,… chính là sự biểu hiện của “thủ” trong chiến thuật quân sự. Một điều cần chú ý nữa là ở trong thành có sự bố trí các pháo đài ở bốn góc, thành có vọng canh, có lỗ châu mai để bắn trả, tường thành lại làm rào chắn bằng che gai, trên mặt thành lại có rào nữa, dưới chân thành lại có hào sâu. Nếu một thành mang tính chất hành chính thì khôing thể làm như vậy và không để “thủ” trong trận chiến thì không bố trí như thế. Thành lại có trữ lương thực và tiền bạc. Những biểu hiện này rõ ràng cho thấy chiến thuật thủ của thành, đó là những chuẩn bị sẵn sàng cho sự cầm cự với địch. Vì yếu tố thủ của thành mà nó quyết định sự thắng bại của cuộc chiến. Vì thủ mà ngay từ những đồn đầu tiên ta đã không tập trung để mà tấn công trái lại chỉ bố trí bắn trả ở hai đồn rồi Pháp nhanh chóng hạ đồn. Vì thủ mà khi Pháp quân gặp phải dịch bệnh ở những ngày đầu làm chúng tổn hại nặng nề mà ta không có kế hoạch phản công nên đành bỏ lở cơ hội này. Vì thủ mà ở khoảng vị trí đồn thứ 4, nơi tập trung hêt vật lực của ta để dàn trận đánh trả nhưng khi chạm trán với trận địa của Pháp thì quân ta phải rút lui nhanh chóng. Vì thủ mà tại một làng đóng quân của ta, địch đã lọt vào mà ta lại rút lui để cho chúng chiếm làng. Đây là một chiến lược sai lầm nhất là khi có cơ hội để công rất nhiều mà ta đã bỏ lỡ. Khi giặc đã đến thành Mỹ Tho, trước sức ép của hai mặt quân, quân ta trong thành tự nhiên đã rút khỏi thành từ ba giời trước khi nổ súng. Vì thế mà Pháp chiếm thành êm đẹp, không tốn sức mấy. Trên là những yếu tố của chiến thuật “thủ” của thành Mỹ Tho mà đi đến những thất bị quan trọng, cả miền đông nam bộ lọt vào tay Pháp. Qua cuộc chiến có thể nhận định ta có thể phản công để giành thắng lợi ngay từ đầu. Ở đây có lẽ do chiến thuật sai lầm nên dẫn đến thất bại trong trận này. Ngay cả trong trận đánh Gia Định rõ ràng là quân lực của ta mạnh hơn nhưng do chiến lược thủ đồn Kỳ Hòa, ở vào thế bị động nên phải thất thủ. Mỹ Tho cũng vậy nhiều cơ hội đến với quân ta nhưng chiến thuật sai nên không giữ được thành. Dù quân Pháp so sánh về phương tiện thì thuận lợi hơn rất nhiều. Những chướng ngại trên sông, những đồn trên bờ những bùn lầy, dịch bệnh, không am hiểu địa hình của Pháp, số lượng quân lại ít là một điều có lợi cho đối phương trong quân sự nhưng ta đã sử dụng chiến thuật thủ nên những yếu tố đó đã không làm nên việc lớn cho nước. Chiến thuật này có lẽ không phải xuất phát ở vị chỉ huy nơi đây mà xuất phát từ triều đình trung ương cứ dùng dằn giữa công và thủ nên đã lỡ cơ hội vậy. Từ đó có thể thấy sự thất bại của Mỹ Tho nói riêng và Việt Nam nói chung trước sự tấn công của Pháp, sự mất nước là không tất yếu. Trong khi đó lực lượng ta đủ sức để đánh số lượng lính Pháp dù chúng có sự trang bị tốt.Sự thất bại lịch sử này là do chiến thuật trong cuộc chiến nên dẫn tới thất bại này đến thất bại khác không đáng có. Thất bại ở thành Mỹ Tho là một ví dụ điển hình, ta không phải không đủ sức đương đầu mà do sai lầm. Thành Mỹ Tho được xây dựng ở một trung tâm kinh tế quan trọng của Nam bộ, nó lại có một vị trí quan trọng về mặt quân sự đối với vùng biên giới phía tây và mặt biển, đồng thời nó có vai trò như là một kho lương chung của cả vùng. Vì thế mà có thê xem thành Mỹ Tho có chức năng quân sự, dù có chức năng quân sự nhưng cũng không phải không có chức năng hành chính. Thành là lỵ sở của tỉnh nơi tập trung những cơ quan hành chính của Định Tường. Đó là về chức năng của thành Mỹ Tho. Về nhữn đặc trưng cấu trúc của thành cho thấy thành có chức năng để thủ khi bị tấn công. Vì thế nói nghệ thuật quân sự của ta không có “thủ” là đều cần xem xét lại. Trong cuộc chiến năm 1861 cho thấy rõ chiến thuật phòng thủ của thành Mỹ Tho. Từ đây mà dẫ đến việc thành Mỹ Tho thất thủ, nó có hệ lụy đến cả đất nước đắm chìm trong vòng nô lệ của Pháp. Vì không phải ta không đủ sức kháng cự hay vì quân khi của ta kém mà vì sai về chiến lược.Vì thế cần nghiên cứu nhiều hơn về nguyên nhân mất nước thời Nguyễn, không phải mãi đỗ lỗi cho quân khí ta lạc hậu dù nó chỉ là một yếu tố. Thời Nguyễn đã xây ở mỗi tỉnh một thành đóng vai trò trước tiên là lỵ sở của tỉnh. Loại hình di tích này đang xuống cấp rất trầm trọng vì vậy cần phải chú tầm nghiên cứu mảng di tích này về chức năng, vai trò của nó. Có như vậy mới làm sáng tỏ được nhiểu vấn đề lịch sử thời Nguyễn. Ngày nay, dấu tích của thành Trấn Định lẫn thành Mỹ Tho đều không còn, chúng đã ghi lại dấu ấn một thời rực rỡ của đất Mỹ Tho ở Nam bộ. Những thành như thế ở Nam bộ không còn, tiếc thay không thể khảo cứu gì thêm về loại hình di tích này. Bài viết có gì sơ xuất xin bỏ qua cho và rất mong nhận được sự chỉ dạy của những bậc hiểu biết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, NXB, GD, 1998. 2. Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, NXB Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Đông Tây, 2005 3. Đại Nam toàn đồ, tư liệu Khoa Lịch sử - Đại học KHXH VNV. 4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, NXB Thuận hóa, 1995. 5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục T1, NXB GD, 2001 6. Léopold Pallu, Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, NXB Phương Đông, 2008. 7. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - tỉnh Định Tường, NXB Thuận Hóa,
|
|