Post by Huu Le on Jun 8, 2009 15:47:35 GMT 9
Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi
Hoàng Hải Thủy
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Mấy câu trong bài Thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Mai Châu trong Thơ là tên một vùng đất của quê hương ta thuộc địa phận tỉnh Hoà Bình gần biên giới Ai Lao. Rất nhiều người Việt nghe nói đến Mai Châu — trong số có tôi — nhưng chỉ nghe nói thôi, rất ít người Việt đặt chân đến Mai Châu, cũng rất ít người Việt biết Mai Châu ở đâu. Người Việt biết Mai Châu không phải vì đọc lịch sử, địa dư Việt Nam mà vì đọc bài Thơ Tây Tiến của Thi sĩ Quang Dũng.
Khoảng năm 2000, một phụ nữ Việt ở Sài Gòn ra thăm đất Bắc, vì cảm khái câu Thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” của Quang Dũng nên người phụ nữ Sài Gòn này đến tận Mai Châu. Mời quí vị đọc bài:
Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi. Nguyễn Thị Hàm Anh. Trích:
* Ngày nào tôi cũng đi dạo khắp phố phường Hà Nội. Thăm chùa Trấn Quốc, đền Quan Thánh, Văn Miếu, phủ Tây Hồ… Đứng trên cầu Thê Húc ngóng hoài chẳng thấy rùa thiêng đòi kiếm vua Lê đâu. Rùa đã ngậm kiếm lặn sâu vào sử xưa, chỉ những ngày nóng bức lắm, may ra mai rùa có nổi lên mặt hồ đôi lần…, hồ Thiền Quang đang rút hết nước để nạo vét, trơ ra lòng đất lam nham…
Tôi không đi Yên Tử hay Hương Sơn, một phần vì thời gian hạn hẹp không thể đến được đủ hết danh lam, thắng cảnh Xứ Bắc, phần vì Tháng Hai đang mùa lễ hội đông đúc. Nghe nói đường lên Chùa Hương, hàng quán lều bạt căng suốt từ chân núi lên đỉnh núi, cũng như núi Bà Đen ở Tây Ninh, toàn hàng giải khát và bán quà lưu niệm san sát không một chỗ hở, ngọn cây xanh chỉ còn lô xô hiện ra đằng sau những hàng quán ấy. Mặc dù rất muốn được nhìn thấy “Này Suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng. Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh”, nhưng thôi hẹn dịp khác, tôi chỉ muốn tìm đến thiên nhiên vắng vẻ, những nơi không có hàng quán và du khách tràn ngập. Và còn lý do nữa, tôi muốn dành thời gian ít ỏi của mình cho một địa điểm đặc biệt. Nhìn hết danh sách được kê ra trong mục du lịch: Vịnh Hạ Long, Tam Cốc Bích Động, Hồ Ba Bể, Rừng Cúc Phương… riêng Động Phong Nha đã được thừa nhận thắng cảnh thế giới. Không, tôi chọn một nơi có thể chẳng được giới du lịch xếp hạng bằng những tên kể trên nhưng tôi biết chắc chắn tôi sẽ phải đến thăm khi có dịp ra Bắc, một địa danh tôi không cách nào rứt ra được vì nó nằm trong câu thơ quá đỗi lôi cuốn của Quang Dũng: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”*
Ngưng trích.
Trên đây là đoạn mở đầu bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hàm Anh về chuyến đến Mai Châu của cô. Mai Châu trong Thơ Tây Tiến Quang Dũng. Cô Hàm Anh hiện sống ở Sài Gòn, cô là con ông Thượng Sĩ Nguyễn Đức Long, nhà phê bình văn học nổi tiếng trên văn đàn Bắc Việt trước 1954. Ông bà Thượng Sĩ từ Hà Nội di cư vào Sài Gòn năm 1954. Nữ tác giả Hàm Anh là người gốc Bắc sinh trưởng ở Sài Gòn. Cô cảm khái vì câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” của Thi sĩ Quang Dũng nên khi có dịp ra chơi đất Bắc, cô đến Mai Châu.
Bài thơ Tây Tiến có nhiều người biết, tôi không cần giới thiệu nhiều. Xin viết ngay vào chuyện: Tôi — CTHàĐông — cũng rất cảm khái vì câu Thơ Mai Châu mùa Em thơm nếp xôi. Không chỉ một câu Thơ đó, tôi cảm khái vì toàn bài Tây Tiến. Nhưng tôi không được tới Mai Châu — Mai Châu ở Hoà Bình — Mai Châu trong tôi là Mai Châu Thơ Quang Dũng. Tôi tưởng tượng tôi đến Mai Châu theo những lời tả cảnh Mai Châu của Người viết Nguyễn Thị Hàm Anh.
Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi. Nguyễn Thị Hàm Anh. Trích:
Chiếc xe jeep đón một mình tôi dù khởi hành khá sớm, vẫn phải luồn lách qua các ngả đường nội thành đến Hà Đông mới bớt kẹt xe, dòng sông Nhuệ chảy rất thùy mị trong thị xã. Qua Chúc Sơn, Xuân Mai của huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đông Phương Yên họp bên vệ đường đang buổi chợ với đầy đủ thúng mủng, rau cỏ la liệt dưới đất bày ra đúng cảnh chợ xa.
Vào địa phận Hòa Bình, đến Lương Sơn, phong cảnh bắt đầu núi non. Xe chạy qua đèo thấp, một bên vách đồi, bên kia là đồng ruộng, nhà cửa yên ả trong khung cảnh hiền hòa như cảnh “nước thanh bình ba trăm năm cũ.” Ruộng mía bạt ngàn xen lẫn với ruộng lúa. Nhìn đâu cũng thấy mía. Đôi khi giữa cánh đồng trồng lúa sâm sấp nước hoặc ruộng vừa bừa xong, còn phơi mình từng tảng đất cày lật, bỗng nổi lên ngay chính giữa một vạt mía nhỏ, vuông vắn khô ráo với những thân mía vươn cao lạ lẫm giữa đám mạ non mọc thấp như cỏ chung quanh. Các ngọn đồi trọc xanh mướt sắn, các cây ăn quả như nhãn, muỗm… và vẫn mía tràn lan khắp nơi.
Xe chạy qua Kim Bôi, Cao Phong. Không còn đồi trọc trồng cây trái nữa, những ngọn đồi cao dần, cỏ khô ai đốt chân đồi tỏa khói lam mong manh vào không trung. Núi xuất hiện rờn rờn trước mặt, khí núi bốc lên ngùn ngụt che mờ chân mây. Đèo Thông Khe, Dốc Mẫu phất phơ mấy hàng lau sậy, hoa lau ngả nghiêng trong gió nhẹ trên triền cao, đèo và thung lũng tuyệt đẹp như tranh vẽ. Xe nghỉ ở Mãn Đức, hai con đường hun hút rẽ qua Nho Quan, Sơn La. Tôi ngồi sâu trong hàng hiên một quán ven đường, chắc quán ít khi có khách ghé nên hỏi cà phê không có, sữa chủ quán cũng lắc đầu, trà thì chưa có nước sôi, chỉ mấy chai nước ngọt sắp hàng trên mặt bàn gỗ cũ kỹ là có vẻ sẵn sàng. Cơn lạnh từ núi tỏa về dạt dào, dãy nhà hai bên đường thu mình nhỏ bé, in dáng trên những ngọn đá đen khổng lồ đằng sau. Ngã ba ở phố núi một ngày cuối Đông, chưa Xuân, bao giờ cũng đậm vẻ mang mang, heo hút của những nẻo đường vô định, phân vân.
Đường lên Tòng Đậu rất khó đi, trên ba mươi kí-lô-mét đường đào xới ngổn ngang làm chiếc jeep lắc lư, dằn xóc, cứ nảy lên làm tôi bị cụng đầu lên trần xe, mặt dập vào thành xe. Vài cây khô trơ trụi khó nhọc hứng đầy bụi đỏ tung mù. Đồi chập chùng đang bị bạt làm đường, trơ những vách đồi lam nham đá đen, đất đủ màu từ xám, nâu chuyển sang đỏ thẫm, có nơi đất sét đỏ thắm như dòng máu tươi từ đồi xanh chảy ra, từ núi xanh vỡ òa…
Đường đèo hoang vắng, chỉ có chiếc xe tôi chạy đơn độc trên đường, thỉnh thoảng mới gặp một nhóm công nhân với chiếc cần cẩu và xe vận tải đang cần cù tải đá. Hơn bốn km đèo cao bốn bề mây phủ, xe nhích từng chút một, đèo rất hẹp nên nhiều lúc xe chạy cheo leo sát mép vực. Tới đỉnh đèo, xe tạm ngưng vì một chiếc máy xúc chắn ngang đường. Tôi xuống xe nhìn quanh trắng xóa, chẳng thấy gì ngoài vài ngọn cây trơ trụi nhô lên trong mịt mờ. Bỗng có tiếng lách cách, rồi từ trong màn sương hồng hoang, một đàn bò lững thững đi ra, người đàn ông chăn bò đen nhẻm mang vẻ mặt khắc khổ, im lìm đi sau với cây roi hờ hững trong tay. Cảnh tượng hiện ra chỉ trong thoáng chốc, rồi cả đàn bò và người lặng lẽ trôi vào, biến mất trong mây mù.
Qua khỏi con đèo, bắt đầu hiện ra các dãy ruộng bậc thang xinh xắn. Cầu Vàng dẫn vào huyện Mai Châu cây cối xanh tươi tuy vẫn xen vào những cây phượng và bàng trụi lá ven đường. Đường Số 6 xuyên qua phố huyện với những tấm bảng chỉ dẫn: bản Văn, bản Pom Coọng, bản Nhót…
Xe rẽ vào bản Lác gồm người những họ Hà, Công, Lò, Vi, Lộc… cư ngụ. Bản tức là xóm. Người Thái đã định cư ở đây từ lâu với lương thực chính là lúa nước, nên mỗi bản gồm vài chục nóc nhà sàn chắc chắn, được dựng quây quần thành nhiều dãy thẳng hàng với những lối đi ngay ngắn. Mái lợp đến năm sáu lớp lá gianh nên rất dầy và bền. Mỗi ngôi nhà có ba gian. Một gian tiếp khách, một gian dành nghỉ ngơi và bếp. Dưới đất không phải để nuôi gia súc mà là chỗ hàng xóm ngồi chơi trò chuyện. Từ đó, có thể ngắm được mặt tiền nhà dán đầy vây cá và đuôi cá. Xưa kia, sau khi làm xong cá bắt được từ sông suối, bộ vây và đuôi cá được dán lên vách, lên cột hay xà nhà để chứng tỏ sự tháo vát của đàn ông trong gia đình. Ngày nay, tuy không còn săn bắt nữa, nhưng phong tục này vẫn được duy trì như một lối trang trí đặc biệt. Những bản Thái này không còn vẻ hoang sơ như các bản của người H’ Mong, người Dao… trên Chapa. Họ gần như trực thuộc vào các công ty du lịch, vì mỗi căn nhà có đánh số thứ tự đều là một nhà nghỉ dành cho khách du lịch. Do đó, khách khứa tha hồ lên xuống cầu thang tấp nập không cần rửa chân theo tục cổ, và chủ nhà mời tôi ngồi lên một chiếc đệm thêu nhỏ mà ngày xưa chỉ các thầy mo mới được ngự. Trên sàn lát tre khá rộng phủ kín chiếu hoa. Mỗi góc nhà đều chất cao chăn, nệm, gối, màn… bên cạnh TV, tủ kính bày hoa giả và búp bê…
Tôi nhìn quanh chẳng thấy cô Thái nào trong chiếc áo chẽn trắng duyên dáng với hàng khuy dài như từng thấy trong sách, tất cả đều dùng y phục người Kinh, ngoại trừ vài phụ nữ lớn tuổi mặc váy đen xốc xếch nhưng toàn đi cùng với áo pull. Chợ phiên Bắc Hà tràn đầy màu sắc rực rỡ của khăn, váy và áo thổ cẩm nhưng thổ cẩm ở đây chỉ bày bán cho khách du lịch cùng với gùi, dao quắm, cung nỏ, chuông gió tre…
Tôi ngồi uống trà nhìn ra cánh đồng mướt mạ mùa Xuân. Những cây nhãn trổ lộc non rợp mát quanh nhà. Quỳnh không nở hoa nhưng những chùm dạ hương dưới cửa sổ khiến đêm thơm nức mơ màng, con mương trong veo cạnh nhà dẫn nước từ trên suối xuống, không có đá sỏi, lòng mương không gập ghềnh mà chẳng hiểu sao cứ kêu róc rách không ngưng, những con mương này theo dòng sẽ đổ ra sông Mã. Trong đêm thâu, tiếng nước chảy và hoa ngát không gian như gọi nên những âm thanh và mùi hương ngào ngạt của núi ngàn hùng vĩ tràn về.
Buổi trưa không ngủ, tôi băng lối mòn đất đỏ qua những cánh đồng dẫn ra đường cái, đường số 6 là con đường độc đạo chạy thẳng một mạch vào thăm thẳm. Tôi đi trên vỉa hè đến hết ranh giới phố huyện rồi quay lại. Tất cả những phố huyện miền cao đều mang vẻ buồn hiu, không có gì giải trí nơi đây cả, chẳng hề có lối ngang ngõ dọc nào nên đi dăm phút quay về chốn cũ. Chợ Mai Châu lèo tèo đã tan buổi họp, tuy có nhà lồng nhưng mấy người phụ nữ vẫn bày hàng bán trên lề đường, nhiều nhất là măng đắng.
Hang Mỏ Luông rất sâu, có dòng nước cho thuyền đi sâu xuyên rất xa luồn ra sông cái nhưng hiện đã đóng cửa. Tôi leo lên hang Chiều chơi. Đường lên hang dễ đi vì đã được những người thợ Kim Bôi đặt bậc đá. Tôi không đếm nhưng người chủ quán nước nơi chân núi cho biết khoảng trên hai ngàn bậc. Chỉ đi lên được một hơi khoảng nửa đường rồi từ đó về sau, cứ vài chục bậc thang tôi lại phải dừng để nghỉ. Ngồi ở cửa hang nhìn xuống, núi bao bọc chung quanh thung lũng Mai Châu thật đẹp, bình an với các khu nhà nhỏ nhắn và ruộng lúa xanh biếc, rặng tre già trải suốt một quãng dài nơi chân núi. Từ sườn dãy núi xanh um bên cạnh văng vẳng vọng tới tiếng mõ bò lóc cóc, rồi nơi những lùm cây thấp thật xa, hình dáng mấy con bò thấp thoáng làm tôi nhớ đến đàn bò gặp trên đỉnh đèo Thung Nhuối, chợt hiện ra, chợt mất đi như một ảo ảnh không bắt kịp. Tôi nghĩ mình sẽ rất nao nức muốn gặp, muốn nhìn ngắm các bản làng người Thái, nhưng hình ảnh đọng lại khi rời khỏi Mai Châu, khua trong tôi nỗi gì bứt rứt không yên, lại chính là đàn bò trong sương với rời rạc tiếng mõ bò xa xăm, bí ẩn. Như giấu kín trong đó, mới thật sự là nguồn gốc và đời sống kỳ bí của những dân tộc sống hoang vu giữa núi thẳm rừng sâu.
Gia đình chủ nhà tiếp khách rất niềm nở, chân thật. Một số nhà đã dùng bếp ga, bếp dầu, nhưng căn nhà tôi trọ vẫn dùng kiểu bếp cổ truyền. Tôi ngồi bó gối, đẩy những thanh củi rất dài vào bếp, nồi cơm sôi phập phù tỏa khói nghi ngút. Ngoài kia chiều đã rải loang bóng tối, tôi cời đống than đỏ, hơ tay khói sương vào ngọn lửa ấm áp. Bếp lửa trầm ngâm ở một nơi xa lạ bao giờ cũng là chốn nghỉ ngơi cho những mệt mỏi đường dài. Phải chi cuộc sống mãi được là những khoảnh khắc yên bình này.
Theo phong tục, để tỏ lòng hiếu khách, mâm cơm được bưng ra trên chiếc bàn gỗ thấp với rất nhiều món ăn trong những tô và đĩa vun đầy. Thọ và tôi dùng hoài không vơi một góc, khúc cá chắm rán vàng to thật to, thịt ướp riềng và mè nướng xiên, canh rau cải nấu xương… Chủ nhà chiều tôi, lôi cái chõ được làm bằng nguyên khúc gỗ mít từ mấy đời ra đồ xôi lạc, để tôi nếm cho biết thế nào là “Mai Châu thơm nếp xôi”. Nếp được gặt từ lúa nương, tháng tư mưa thuận gió hòa, dùng que chọc xoi từng lỗ trên đồi xa để gieo xuống đó từng hạt thóc. Nếp nương nhỏ, ăn chắc hạt và bùi chứ không nở to và dẻo như nếp ruộng. Con gái chủ nhà thoăn thoắt nấu nướng, dọn dẹp. Người Thái cao ráo, sáng sủa. Các cô gái đa số hồng hào, tươi tắn chứ không thấp bé với nước da tái xám, oằn mình địu con trên lưng, bám theo sau vó ngựa lọc cọc, đưa ông chồng say sưa vượt bao đồi núi xa xôi của Taphing, trên con đường nhẫn nại từ phiên chợ về nhà.
Buổi sớm, tôi đi bộ trên đường làng đến tận giữa cánh đồng ngắm trời thênh thang, ruộng lúa trải rộng xa tít mù tắp. Nơi chân trời, những dãy núi giăng màn bao bọc, chở che chung quanh. Trời lạnh dìu dịu nên đợi hoài tới sáng rựng mà vẫn không có nắng, không thấy mặt trời đỏ ối từ núi phương Đông nhô lên. Sợ đi muộn bị tắc đường vì nổ mìn phá núi nên tôi trở về Hà Nội sớm. Lại qua những dốc Cun, Bãi Chạo…, qua ngầm Suối Khe mùa cạn, nước chảy nhỏ nhắn, len lỏi giữa những tảng đá nhẵn thín, những đống cuội nhỏ trắng tinh. Cây cối nhiều nơi rậm rạp che khuất suối nguồn, chỉ thấy từng thước củi xếp cao bên dòng, một con bướm vàng mải bay la đà trước đầu xe. Rồi ngầm Đồng Tranh, ngầm Rồng Ngắn, Rồng Dài… Lũng khe suối nước như một bài thơ tuyệt tác. Xe theo đường 12B rời khỏi Hòa Bình. Mai Châu đã ở sau tôi xa thật xa, chẳng biết khi nào có dịp quay lại. Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói …
Ngưng trích bài viết của Nguyễn Thị Hàm Anh.
CTHàĐông: Bài viết thật hay. Dù tôi có đích thân đến Mai Châu, tôi không thể viết về Mai Châu như cô Hàm Anh. Cô xứng đáng là cô con của Nhà Phê Bình Thượng Sĩ.
Tôi thấy Quang Dũng là Thi Sĩ Số Một của Thế Hệ Thanh Niên Thành Phố Bắc Kỳ đi Kháng Chiến Chống Pháp từ 1945 đến 1954. Tôi thấy ba bài Thơ Kháng Chiến của Quang Dũng: Tây Tiến, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ bài nào cũng Hay Nhất.
Tây Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
– Phù Lưu Chanh, 1948.
Làm Thơ về Kháng Chiến, Hoàng Cầm có 2 bài Đêm Liên Hoan, Bên Kia Sông Đuống. Bài Đêm Liên Hoan đã bị người đời quên từ lâu, bài Bên Kia Sông Đuống chỉ có những người biết Sông Đuống mới thấy cảm động, Hữu Loan có bài Đồi Tím Hoa Sim, hay, cảm động nhưng Hữu Loan chỉ có một bài, Quang Dũng có những bài Đôi Mắt Người Sơn Tây, Quán Bên Đường, Đôi Bờ, và bài Tây Tiến. Tôi thấy bài nào cũng Hay, Tuyệt. Lẽ ra Thi Sĩ Quang Dũng phải được vinh danh là người có công với Thơ Việt, tặng phẩm Cám Ơn phải trao tăng Quang Dũng, bọn Bắc Cộng vinh danh những Của Nợ Làm Bẩn Chữ Việt Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm là bậy.
Mời quí vị đọc tiểu sử Mai Châu, Mộc Châu, tài liệu trích trong:
KIẾN VĂN TIỂU LỤC. Tác giả Lê Quí Đôn, Bộ Giáo Dục Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà dịch và ấn hành tại Sài Gòn năm 1963. Trang 89, 93, 94. Trích:
Cuối đời Vĩnh Hựu — 1735-1739 — Vua Lê Ý Tông, tên Nghịch Mật trốn vào Động Lạc Thổ, khởi Ngụy, các châu Mai, châu Mộc ở Hưng Hóa đều loạn. Giữa đời Cảnh Hưng, tên Nghịch Chất trốn vào Động Mãnh Tiên, tục gọi là Mường Thanh, Phủ Yên Tây ở Gia Hưng, nhân dân bị cướp bóc rất khổ trong hơn 20 năm. Đến năm Mậu Tý, Kỷ Sửu — 1769 — đại quân ta tiến đánh, cả xứ được bình định, mới đổi Động Tuân Giáo ra là Châu Biện, chia Châu Mộc ra và đặt thêm 2 Châu là Đà Bắc và Mã Nam. Các tù trưởng và dân những miền đó tuân theo chế độ của ra rất cẩn thận, quốc thế trở nên cường thịnh hơn trước.
Dân tục giải sông Thao rất thuần hậu, hiểu rõ lễ phép, văn học, sống như những sắc dân bên Trung Quốc, dân tục giải Đà Giang giống như Mán, Lèo, trai hay dối trá, gái hay bợm lẳng, anh em nhà Lang, nhà Đạo hay cướp, giết lẫn nhau, vợ chồng theo nhau tạm bợ, không cần cưới xin, con gái chưa chồng để tóc buông tỏa xuống, hay kết đuôi sam, lấy chồng rồi thì búi tóc ngược lên đỉnh đầu. Họ không biết năm tháng, không biết họ bao nhiêu tuổi, chết thì hoả táng. Chữ của họ giống chữ nước Lèo.
Châu Mộc: 8 ngày đường, Phụ đạo là Xa Văn Phấn. Tiên tổ ông ta là quan Đại Tư Mã Xa Khả Tham, hồi quốc sơ có công nên được đời đời nối tước. Văn Phấn chết rồi, các chi tranh nhau. Năm Bính Thân, quan Lưu Thủ là Lý Trần Thảo đến làm Hiệp Đốc, chia Châu Mộc ra làm 3 châu. Ba châu này ruộng nhiều, đất tốt, sản nhiều gai đay, ở đây ma quỉ rất thiêng nên có câu “Ma châu Mộc.”
Châu Mai, phụ đạo là Hà Công Ứng, nay con là à Công Bình nối chức. Ba động trong châu ruộng đất rất tốt, nhân dân đông đúc, ruộng cấy mùa, cấy chiêm đưoợc cả, thổ sản nhiều dâu, đay, có tục nuôi “con thuốc độc”, khách qua đường có nhiều người mắc nên có câu “Độc châu Mai.”
Ngưng trích Kiến Văn Tiểu Lục.
“Ma châu Mộc, Độc châu Mai”: Giống như câu “Cọp Khánh Hoà, Ma Bình Thuận.” Ngày xưa rừng Khánh Hòa có nhiều cọp, đất Bình Thuận có nhiều ma. Châu Mộc ngày xưa có nhiều ma, châu Mai có loài sâu độc có thể làm chết người. Kiến Văn Tiểu Lục ghi: Người trong châu Mai lén nuôi loại sâu này bằng thịt gà nên sâu có tên là Ma Gà. Kẻ nuôi sâu lấy phân sâu cho vào nước lừa người uống, ai uống phải là chết. Kẻ nào có Ma Gà thường bị dân chúng sợ, ghét, nếu biết là giết nên phải giữ hết sức bí mật.
“Nghịch Mật” là tên gọi Lê Duy Mật, con vua Lê Dụ Tông, chú vua Lê Hiển Tông, vì tranh ngôi Vua, dùng châu Mai làm nơi khởi binh làm loạn.
“Nghịch Chất” là Hoàng Công Chất, chiếm châu Mộc, khởi loạn năm 1744, mất năm 1760.
Theo Kiến Văn Tiểu Lục đến những năm 1740, 1745 hai châu miền núi biên giới Việt Nam-Ai Lao được gọi là châu Mai, châu Mộc mới chính thức thuộc vào lãnh thổ Việt Nam, dân ở đó mới tuân phục chính quyền Việt Nam. Thổ dân châu Mai, châu Mộc là người Thái, họ có lịch sử, phong tục, tập quán riêng, và họ có chữ viết, chỉ không thấy nói họ có sách viết để lại. Sau 300 năm sống chung với dân Việt, đến nay, những năm 2000, dân tộc Thái châu Mai, châu Mộc đã gần như trở thành dân Việt.
Chiến tranh Việt Pháp vừa nổ ra trên toàn quốc đầu năm 1947, những người trong Bộ Tư Lệnh Quân Viêt Mnh đã thấy sự quan trọng chiến lược của dãy Trường Sơn và biên giới Ai Lao, họ tổ chức ngay một đơn vị gọi là Trung Đoàn Tây Tiến và đưa Trung Đoàn này sang Ai Lao trấn chiếm những vị trí chiến lựơc, trấn chiếm và đóng quân luôn tại những nơi đó. Người Chiến Binh Thi Sĩ Quang Dũng ở trong Trung Đoàn ấy. Vì kém tổ chức, thiếu thuốc, thiếu lương, thiếu quân trang, quân phục, đường đi chân qua núi quá vất vả, cuộc Tây Tiến thất bại, quân đi chưa được nửa đường, chưa đụng địch một trận, chưa bắn một phát súng, đã bị chết gần hết vì bệnh, vì kiệt lực. Số người sống sót được cho trở về nước. Trong số lính về ấy có Quang Dũng. Không biết có bao nhiêu người chết, Chiến Dịch Tây Tiến những năm 1947, 1948 chỉ còn lại bài Thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Những năm 1951, 1952 tôi thấy chiến tranh xẩy ra dữ dội ở rừng núi Ai Lao, những trận đánh lớn ở những chiến trường Seno, Xieng Khoang, Tchepone, Pakse, Sam Nua, những năm 1970 ta lại hy sinh một số binh sĩ trong Chiến Dịch Hạ Lào, máu người Việt đổ nhiều ở những vùng núi rừng thơ mộng Mai Châu, Mộc Châu.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Bệnh Sốt Rét, tóc rụng hết, da xanh như lá cây, chết thây vùi bên đường, trước khi chết người chiến binh mỏi mệt cả thể xác và tinh thần gục xuống chờ chết trong rừng thẳm:
Anh bạn dãi dầu không bước nưã.
Gục trên súng mũ bỏ quên đời.
Nghe nói bọn lãnh đạo văn nghệ Việt Cộng rất kỵ bài Thơ Tây Tiến vì chúng thấy những lời Thơ có tác dụng phản chiến rất nặng, cũng nghe nói Tố Hữu đọc Tây Tiến, phê bình:
“Nó tả Tây Tiến như ri, còn ai dám Tây Tiến nữa.”
Năm 2009 một đêm buồn ở xứ người, tôi đọc lại bài Thơ Không Đề của Quang Dũng:
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa.
Những cây ổi thơm ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu.
Tóc anh đã thành mây trắng
Mắt em dòng thời gian qua.. ..
Tôi cảm động khi biết Thi sĩ làm bài Thơ này — tôi đặt tên bài Thơ là Mùa Xanh Xưa — khi Thi sĩ 40 tuổi, ông gặp lại người thiếu nữ ông yêu 20 năm xưa, cuộc tình không thành vợ chồng, xa nhau 20 năm, khi gặp lại nhau, tóc Thi sĩ bạc trắng, Nàng là thiếu phụ:
Bỏ em anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly
Trái tim tôi rung động, tôi thương quá là thương, tôi xúc động cứ như tôi là người làm thơ, như tôi gặp lại người tôi yêu năm tôi 20 tuổi.
Tóc mai sợi vắn, sợi dài,
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.
Tôi sẽ viết bài thứ hai về Quang Dũng và bài Thơ Mùa Xanh Xưa của Quang Dũng.
Hoàng Hải Thủy
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Mấy câu trong bài Thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Mai Châu trong Thơ là tên một vùng đất của quê hương ta thuộc địa phận tỉnh Hoà Bình gần biên giới Ai Lao. Rất nhiều người Việt nghe nói đến Mai Châu — trong số có tôi — nhưng chỉ nghe nói thôi, rất ít người Việt đặt chân đến Mai Châu, cũng rất ít người Việt biết Mai Châu ở đâu. Người Việt biết Mai Châu không phải vì đọc lịch sử, địa dư Việt Nam mà vì đọc bài Thơ Tây Tiến của Thi sĩ Quang Dũng.
Khoảng năm 2000, một phụ nữ Việt ở Sài Gòn ra thăm đất Bắc, vì cảm khái câu Thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” của Quang Dũng nên người phụ nữ Sài Gòn này đến tận Mai Châu. Mời quí vị đọc bài:
Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi. Nguyễn Thị Hàm Anh. Trích:
* Ngày nào tôi cũng đi dạo khắp phố phường Hà Nội. Thăm chùa Trấn Quốc, đền Quan Thánh, Văn Miếu, phủ Tây Hồ… Đứng trên cầu Thê Húc ngóng hoài chẳng thấy rùa thiêng đòi kiếm vua Lê đâu. Rùa đã ngậm kiếm lặn sâu vào sử xưa, chỉ những ngày nóng bức lắm, may ra mai rùa có nổi lên mặt hồ đôi lần…, hồ Thiền Quang đang rút hết nước để nạo vét, trơ ra lòng đất lam nham…
Tôi không đi Yên Tử hay Hương Sơn, một phần vì thời gian hạn hẹp không thể đến được đủ hết danh lam, thắng cảnh Xứ Bắc, phần vì Tháng Hai đang mùa lễ hội đông đúc. Nghe nói đường lên Chùa Hương, hàng quán lều bạt căng suốt từ chân núi lên đỉnh núi, cũng như núi Bà Đen ở Tây Ninh, toàn hàng giải khát và bán quà lưu niệm san sát không một chỗ hở, ngọn cây xanh chỉ còn lô xô hiện ra đằng sau những hàng quán ấy. Mặc dù rất muốn được nhìn thấy “Này Suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng. Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh”, nhưng thôi hẹn dịp khác, tôi chỉ muốn tìm đến thiên nhiên vắng vẻ, những nơi không có hàng quán và du khách tràn ngập. Và còn lý do nữa, tôi muốn dành thời gian ít ỏi của mình cho một địa điểm đặc biệt. Nhìn hết danh sách được kê ra trong mục du lịch: Vịnh Hạ Long, Tam Cốc Bích Động, Hồ Ba Bể, Rừng Cúc Phương… riêng Động Phong Nha đã được thừa nhận thắng cảnh thế giới. Không, tôi chọn một nơi có thể chẳng được giới du lịch xếp hạng bằng những tên kể trên nhưng tôi biết chắc chắn tôi sẽ phải đến thăm khi có dịp ra Bắc, một địa danh tôi không cách nào rứt ra được vì nó nằm trong câu thơ quá đỗi lôi cuốn của Quang Dũng: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”*
Ngưng trích.
Trên đây là đoạn mở đầu bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hàm Anh về chuyến đến Mai Châu của cô. Mai Châu trong Thơ Tây Tiến Quang Dũng. Cô Hàm Anh hiện sống ở Sài Gòn, cô là con ông Thượng Sĩ Nguyễn Đức Long, nhà phê bình văn học nổi tiếng trên văn đàn Bắc Việt trước 1954. Ông bà Thượng Sĩ từ Hà Nội di cư vào Sài Gòn năm 1954. Nữ tác giả Hàm Anh là người gốc Bắc sinh trưởng ở Sài Gòn. Cô cảm khái vì câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” của Thi sĩ Quang Dũng nên khi có dịp ra chơi đất Bắc, cô đến Mai Châu.
Bài thơ Tây Tiến có nhiều người biết, tôi không cần giới thiệu nhiều. Xin viết ngay vào chuyện: Tôi — CTHàĐông — cũng rất cảm khái vì câu Thơ Mai Châu mùa Em thơm nếp xôi. Không chỉ một câu Thơ đó, tôi cảm khái vì toàn bài Tây Tiến. Nhưng tôi không được tới Mai Châu — Mai Châu ở Hoà Bình — Mai Châu trong tôi là Mai Châu Thơ Quang Dũng. Tôi tưởng tượng tôi đến Mai Châu theo những lời tả cảnh Mai Châu của Người viết Nguyễn Thị Hàm Anh.
Mai Châu Mùa Em Thơm Nếp Xôi. Nguyễn Thị Hàm Anh. Trích:
Chiếc xe jeep đón một mình tôi dù khởi hành khá sớm, vẫn phải luồn lách qua các ngả đường nội thành đến Hà Đông mới bớt kẹt xe, dòng sông Nhuệ chảy rất thùy mị trong thị xã. Qua Chúc Sơn, Xuân Mai của huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây. Đông Phương Yên họp bên vệ đường đang buổi chợ với đầy đủ thúng mủng, rau cỏ la liệt dưới đất bày ra đúng cảnh chợ xa.
Vào địa phận Hòa Bình, đến Lương Sơn, phong cảnh bắt đầu núi non. Xe chạy qua đèo thấp, một bên vách đồi, bên kia là đồng ruộng, nhà cửa yên ả trong khung cảnh hiền hòa như cảnh “nước thanh bình ba trăm năm cũ.” Ruộng mía bạt ngàn xen lẫn với ruộng lúa. Nhìn đâu cũng thấy mía. Đôi khi giữa cánh đồng trồng lúa sâm sấp nước hoặc ruộng vừa bừa xong, còn phơi mình từng tảng đất cày lật, bỗng nổi lên ngay chính giữa một vạt mía nhỏ, vuông vắn khô ráo với những thân mía vươn cao lạ lẫm giữa đám mạ non mọc thấp như cỏ chung quanh. Các ngọn đồi trọc xanh mướt sắn, các cây ăn quả như nhãn, muỗm… và vẫn mía tràn lan khắp nơi.
Xe chạy qua Kim Bôi, Cao Phong. Không còn đồi trọc trồng cây trái nữa, những ngọn đồi cao dần, cỏ khô ai đốt chân đồi tỏa khói lam mong manh vào không trung. Núi xuất hiện rờn rờn trước mặt, khí núi bốc lên ngùn ngụt che mờ chân mây. Đèo Thông Khe, Dốc Mẫu phất phơ mấy hàng lau sậy, hoa lau ngả nghiêng trong gió nhẹ trên triền cao, đèo và thung lũng tuyệt đẹp như tranh vẽ. Xe nghỉ ở Mãn Đức, hai con đường hun hút rẽ qua Nho Quan, Sơn La. Tôi ngồi sâu trong hàng hiên một quán ven đường, chắc quán ít khi có khách ghé nên hỏi cà phê không có, sữa chủ quán cũng lắc đầu, trà thì chưa có nước sôi, chỉ mấy chai nước ngọt sắp hàng trên mặt bàn gỗ cũ kỹ là có vẻ sẵn sàng. Cơn lạnh từ núi tỏa về dạt dào, dãy nhà hai bên đường thu mình nhỏ bé, in dáng trên những ngọn đá đen khổng lồ đằng sau. Ngã ba ở phố núi một ngày cuối Đông, chưa Xuân, bao giờ cũng đậm vẻ mang mang, heo hút của những nẻo đường vô định, phân vân.
Đường lên Tòng Đậu rất khó đi, trên ba mươi kí-lô-mét đường đào xới ngổn ngang làm chiếc jeep lắc lư, dằn xóc, cứ nảy lên làm tôi bị cụng đầu lên trần xe, mặt dập vào thành xe. Vài cây khô trơ trụi khó nhọc hứng đầy bụi đỏ tung mù. Đồi chập chùng đang bị bạt làm đường, trơ những vách đồi lam nham đá đen, đất đủ màu từ xám, nâu chuyển sang đỏ thẫm, có nơi đất sét đỏ thắm như dòng máu tươi từ đồi xanh chảy ra, từ núi xanh vỡ òa…
Đường đèo hoang vắng, chỉ có chiếc xe tôi chạy đơn độc trên đường, thỉnh thoảng mới gặp một nhóm công nhân với chiếc cần cẩu và xe vận tải đang cần cù tải đá. Hơn bốn km đèo cao bốn bề mây phủ, xe nhích từng chút một, đèo rất hẹp nên nhiều lúc xe chạy cheo leo sát mép vực. Tới đỉnh đèo, xe tạm ngưng vì một chiếc máy xúc chắn ngang đường. Tôi xuống xe nhìn quanh trắng xóa, chẳng thấy gì ngoài vài ngọn cây trơ trụi nhô lên trong mịt mờ. Bỗng có tiếng lách cách, rồi từ trong màn sương hồng hoang, một đàn bò lững thững đi ra, người đàn ông chăn bò đen nhẻm mang vẻ mặt khắc khổ, im lìm đi sau với cây roi hờ hững trong tay. Cảnh tượng hiện ra chỉ trong thoáng chốc, rồi cả đàn bò và người lặng lẽ trôi vào, biến mất trong mây mù.
Qua khỏi con đèo, bắt đầu hiện ra các dãy ruộng bậc thang xinh xắn. Cầu Vàng dẫn vào huyện Mai Châu cây cối xanh tươi tuy vẫn xen vào những cây phượng và bàng trụi lá ven đường. Đường Số 6 xuyên qua phố huyện với những tấm bảng chỉ dẫn: bản Văn, bản Pom Coọng, bản Nhót…
Xe rẽ vào bản Lác gồm người những họ Hà, Công, Lò, Vi, Lộc… cư ngụ. Bản tức là xóm. Người Thái đã định cư ở đây từ lâu với lương thực chính là lúa nước, nên mỗi bản gồm vài chục nóc nhà sàn chắc chắn, được dựng quây quần thành nhiều dãy thẳng hàng với những lối đi ngay ngắn. Mái lợp đến năm sáu lớp lá gianh nên rất dầy và bền. Mỗi ngôi nhà có ba gian. Một gian tiếp khách, một gian dành nghỉ ngơi và bếp. Dưới đất không phải để nuôi gia súc mà là chỗ hàng xóm ngồi chơi trò chuyện. Từ đó, có thể ngắm được mặt tiền nhà dán đầy vây cá và đuôi cá. Xưa kia, sau khi làm xong cá bắt được từ sông suối, bộ vây và đuôi cá được dán lên vách, lên cột hay xà nhà để chứng tỏ sự tháo vát của đàn ông trong gia đình. Ngày nay, tuy không còn săn bắt nữa, nhưng phong tục này vẫn được duy trì như một lối trang trí đặc biệt. Những bản Thái này không còn vẻ hoang sơ như các bản của người H’ Mong, người Dao… trên Chapa. Họ gần như trực thuộc vào các công ty du lịch, vì mỗi căn nhà có đánh số thứ tự đều là một nhà nghỉ dành cho khách du lịch. Do đó, khách khứa tha hồ lên xuống cầu thang tấp nập không cần rửa chân theo tục cổ, và chủ nhà mời tôi ngồi lên một chiếc đệm thêu nhỏ mà ngày xưa chỉ các thầy mo mới được ngự. Trên sàn lát tre khá rộng phủ kín chiếu hoa. Mỗi góc nhà đều chất cao chăn, nệm, gối, màn… bên cạnh TV, tủ kính bày hoa giả và búp bê…
Tôi nhìn quanh chẳng thấy cô Thái nào trong chiếc áo chẽn trắng duyên dáng với hàng khuy dài như từng thấy trong sách, tất cả đều dùng y phục người Kinh, ngoại trừ vài phụ nữ lớn tuổi mặc váy đen xốc xếch nhưng toàn đi cùng với áo pull. Chợ phiên Bắc Hà tràn đầy màu sắc rực rỡ của khăn, váy và áo thổ cẩm nhưng thổ cẩm ở đây chỉ bày bán cho khách du lịch cùng với gùi, dao quắm, cung nỏ, chuông gió tre…
Tôi ngồi uống trà nhìn ra cánh đồng mướt mạ mùa Xuân. Những cây nhãn trổ lộc non rợp mát quanh nhà. Quỳnh không nở hoa nhưng những chùm dạ hương dưới cửa sổ khiến đêm thơm nức mơ màng, con mương trong veo cạnh nhà dẫn nước từ trên suối xuống, không có đá sỏi, lòng mương không gập ghềnh mà chẳng hiểu sao cứ kêu róc rách không ngưng, những con mương này theo dòng sẽ đổ ra sông Mã. Trong đêm thâu, tiếng nước chảy và hoa ngát không gian như gọi nên những âm thanh và mùi hương ngào ngạt của núi ngàn hùng vĩ tràn về.
Buổi trưa không ngủ, tôi băng lối mòn đất đỏ qua những cánh đồng dẫn ra đường cái, đường số 6 là con đường độc đạo chạy thẳng một mạch vào thăm thẳm. Tôi đi trên vỉa hè đến hết ranh giới phố huyện rồi quay lại. Tất cả những phố huyện miền cao đều mang vẻ buồn hiu, không có gì giải trí nơi đây cả, chẳng hề có lối ngang ngõ dọc nào nên đi dăm phút quay về chốn cũ. Chợ Mai Châu lèo tèo đã tan buổi họp, tuy có nhà lồng nhưng mấy người phụ nữ vẫn bày hàng bán trên lề đường, nhiều nhất là măng đắng.
Hang Mỏ Luông rất sâu, có dòng nước cho thuyền đi sâu xuyên rất xa luồn ra sông cái nhưng hiện đã đóng cửa. Tôi leo lên hang Chiều chơi. Đường lên hang dễ đi vì đã được những người thợ Kim Bôi đặt bậc đá. Tôi không đếm nhưng người chủ quán nước nơi chân núi cho biết khoảng trên hai ngàn bậc. Chỉ đi lên được một hơi khoảng nửa đường rồi từ đó về sau, cứ vài chục bậc thang tôi lại phải dừng để nghỉ. Ngồi ở cửa hang nhìn xuống, núi bao bọc chung quanh thung lũng Mai Châu thật đẹp, bình an với các khu nhà nhỏ nhắn và ruộng lúa xanh biếc, rặng tre già trải suốt một quãng dài nơi chân núi. Từ sườn dãy núi xanh um bên cạnh văng vẳng vọng tới tiếng mõ bò lóc cóc, rồi nơi những lùm cây thấp thật xa, hình dáng mấy con bò thấp thoáng làm tôi nhớ đến đàn bò gặp trên đỉnh đèo Thung Nhuối, chợt hiện ra, chợt mất đi như một ảo ảnh không bắt kịp. Tôi nghĩ mình sẽ rất nao nức muốn gặp, muốn nhìn ngắm các bản làng người Thái, nhưng hình ảnh đọng lại khi rời khỏi Mai Châu, khua trong tôi nỗi gì bứt rứt không yên, lại chính là đàn bò trong sương với rời rạc tiếng mõ bò xa xăm, bí ẩn. Như giấu kín trong đó, mới thật sự là nguồn gốc và đời sống kỳ bí của những dân tộc sống hoang vu giữa núi thẳm rừng sâu.
Gia đình chủ nhà tiếp khách rất niềm nở, chân thật. Một số nhà đã dùng bếp ga, bếp dầu, nhưng căn nhà tôi trọ vẫn dùng kiểu bếp cổ truyền. Tôi ngồi bó gối, đẩy những thanh củi rất dài vào bếp, nồi cơm sôi phập phù tỏa khói nghi ngút. Ngoài kia chiều đã rải loang bóng tối, tôi cời đống than đỏ, hơ tay khói sương vào ngọn lửa ấm áp. Bếp lửa trầm ngâm ở một nơi xa lạ bao giờ cũng là chốn nghỉ ngơi cho những mệt mỏi đường dài. Phải chi cuộc sống mãi được là những khoảnh khắc yên bình này.
Theo phong tục, để tỏ lòng hiếu khách, mâm cơm được bưng ra trên chiếc bàn gỗ thấp với rất nhiều món ăn trong những tô và đĩa vun đầy. Thọ và tôi dùng hoài không vơi một góc, khúc cá chắm rán vàng to thật to, thịt ướp riềng và mè nướng xiên, canh rau cải nấu xương… Chủ nhà chiều tôi, lôi cái chõ được làm bằng nguyên khúc gỗ mít từ mấy đời ra đồ xôi lạc, để tôi nếm cho biết thế nào là “Mai Châu thơm nếp xôi”. Nếp được gặt từ lúa nương, tháng tư mưa thuận gió hòa, dùng que chọc xoi từng lỗ trên đồi xa để gieo xuống đó từng hạt thóc. Nếp nương nhỏ, ăn chắc hạt và bùi chứ không nở to và dẻo như nếp ruộng. Con gái chủ nhà thoăn thoắt nấu nướng, dọn dẹp. Người Thái cao ráo, sáng sủa. Các cô gái đa số hồng hào, tươi tắn chứ không thấp bé với nước da tái xám, oằn mình địu con trên lưng, bám theo sau vó ngựa lọc cọc, đưa ông chồng say sưa vượt bao đồi núi xa xôi của Taphing, trên con đường nhẫn nại từ phiên chợ về nhà.
Buổi sớm, tôi đi bộ trên đường làng đến tận giữa cánh đồng ngắm trời thênh thang, ruộng lúa trải rộng xa tít mù tắp. Nơi chân trời, những dãy núi giăng màn bao bọc, chở che chung quanh. Trời lạnh dìu dịu nên đợi hoài tới sáng rựng mà vẫn không có nắng, không thấy mặt trời đỏ ối từ núi phương Đông nhô lên. Sợ đi muộn bị tắc đường vì nổ mìn phá núi nên tôi trở về Hà Nội sớm. Lại qua những dốc Cun, Bãi Chạo…, qua ngầm Suối Khe mùa cạn, nước chảy nhỏ nhắn, len lỏi giữa những tảng đá nhẵn thín, những đống cuội nhỏ trắng tinh. Cây cối nhiều nơi rậm rạp che khuất suối nguồn, chỉ thấy từng thước củi xếp cao bên dòng, một con bướm vàng mải bay la đà trước đầu xe. Rồi ngầm Đồng Tranh, ngầm Rồng Ngắn, Rồng Dài… Lũng khe suối nước như một bài thơ tuyệt tác. Xe theo đường 12B rời khỏi Hòa Bình. Mai Châu đã ở sau tôi xa thật xa, chẳng biết khi nào có dịp quay lại. Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói …
Ngưng trích bài viết của Nguyễn Thị Hàm Anh.
CTHàĐông: Bài viết thật hay. Dù tôi có đích thân đến Mai Châu, tôi không thể viết về Mai Châu như cô Hàm Anh. Cô xứng đáng là cô con của Nhà Phê Bình Thượng Sĩ.
Tôi thấy Quang Dũng là Thi Sĩ Số Một của Thế Hệ Thanh Niên Thành Phố Bắc Kỳ đi Kháng Chiến Chống Pháp từ 1945 đến 1954. Tôi thấy ba bài Thơ Kháng Chiến của Quang Dũng: Tây Tiến, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đôi Bờ bài nào cũng Hay Nhất.
Tây Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
– Phù Lưu Chanh, 1948.
Làm Thơ về Kháng Chiến, Hoàng Cầm có 2 bài Đêm Liên Hoan, Bên Kia Sông Đuống. Bài Đêm Liên Hoan đã bị người đời quên từ lâu, bài Bên Kia Sông Đuống chỉ có những người biết Sông Đuống mới thấy cảm động, Hữu Loan có bài Đồi Tím Hoa Sim, hay, cảm động nhưng Hữu Loan chỉ có một bài, Quang Dũng có những bài Đôi Mắt Người Sơn Tây, Quán Bên Đường, Đôi Bờ, và bài Tây Tiến. Tôi thấy bài nào cũng Hay, Tuyệt. Lẽ ra Thi Sĩ Quang Dũng phải được vinh danh là người có công với Thơ Việt, tặng phẩm Cám Ơn phải trao tăng Quang Dũng, bọn Bắc Cộng vinh danh những Của Nợ Làm Bẩn Chữ Việt Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm là bậy.
Mời quí vị đọc tiểu sử Mai Châu, Mộc Châu, tài liệu trích trong:
KIẾN VĂN TIỂU LỤC. Tác giả Lê Quí Đôn, Bộ Giáo Dục Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà dịch và ấn hành tại Sài Gòn năm 1963. Trang 89, 93, 94. Trích:
Cuối đời Vĩnh Hựu — 1735-1739 — Vua Lê Ý Tông, tên Nghịch Mật trốn vào Động Lạc Thổ, khởi Ngụy, các châu Mai, châu Mộc ở Hưng Hóa đều loạn. Giữa đời Cảnh Hưng, tên Nghịch Chất trốn vào Động Mãnh Tiên, tục gọi là Mường Thanh, Phủ Yên Tây ở Gia Hưng, nhân dân bị cướp bóc rất khổ trong hơn 20 năm. Đến năm Mậu Tý, Kỷ Sửu — 1769 — đại quân ta tiến đánh, cả xứ được bình định, mới đổi Động Tuân Giáo ra là Châu Biện, chia Châu Mộc ra và đặt thêm 2 Châu là Đà Bắc và Mã Nam. Các tù trưởng và dân những miền đó tuân theo chế độ của ra rất cẩn thận, quốc thế trở nên cường thịnh hơn trước.
Dân tục giải sông Thao rất thuần hậu, hiểu rõ lễ phép, văn học, sống như những sắc dân bên Trung Quốc, dân tục giải Đà Giang giống như Mán, Lèo, trai hay dối trá, gái hay bợm lẳng, anh em nhà Lang, nhà Đạo hay cướp, giết lẫn nhau, vợ chồng theo nhau tạm bợ, không cần cưới xin, con gái chưa chồng để tóc buông tỏa xuống, hay kết đuôi sam, lấy chồng rồi thì búi tóc ngược lên đỉnh đầu. Họ không biết năm tháng, không biết họ bao nhiêu tuổi, chết thì hoả táng. Chữ của họ giống chữ nước Lèo.
Châu Mộc: 8 ngày đường, Phụ đạo là Xa Văn Phấn. Tiên tổ ông ta là quan Đại Tư Mã Xa Khả Tham, hồi quốc sơ có công nên được đời đời nối tước. Văn Phấn chết rồi, các chi tranh nhau. Năm Bính Thân, quan Lưu Thủ là Lý Trần Thảo đến làm Hiệp Đốc, chia Châu Mộc ra làm 3 châu. Ba châu này ruộng nhiều, đất tốt, sản nhiều gai đay, ở đây ma quỉ rất thiêng nên có câu “Ma châu Mộc.”
Châu Mai, phụ đạo là Hà Công Ứng, nay con là à Công Bình nối chức. Ba động trong châu ruộng đất rất tốt, nhân dân đông đúc, ruộng cấy mùa, cấy chiêm đưoợc cả, thổ sản nhiều dâu, đay, có tục nuôi “con thuốc độc”, khách qua đường có nhiều người mắc nên có câu “Độc châu Mai.”
Ngưng trích Kiến Văn Tiểu Lục.
“Ma châu Mộc, Độc châu Mai”: Giống như câu “Cọp Khánh Hoà, Ma Bình Thuận.” Ngày xưa rừng Khánh Hòa có nhiều cọp, đất Bình Thuận có nhiều ma. Châu Mộc ngày xưa có nhiều ma, châu Mai có loài sâu độc có thể làm chết người. Kiến Văn Tiểu Lục ghi: Người trong châu Mai lén nuôi loại sâu này bằng thịt gà nên sâu có tên là Ma Gà. Kẻ nuôi sâu lấy phân sâu cho vào nước lừa người uống, ai uống phải là chết. Kẻ nào có Ma Gà thường bị dân chúng sợ, ghét, nếu biết là giết nên phải giữ hết sức bí mật.
“Nghịch Mật” là tên gọi Lê Duy Mật, con vua Lê Dụ Tông, chú vua Lê Hiển Tông, vì tranh ngôi Vua, dùng châu Mai làm nơi khởi binh làm loạn.
“Nghịch Chất” là Hoàng Công Chất, chiếm châu Mộc, khởi loạn năm 1744, mất năm 1760.
Theo Kiến Văn Tiểu Lục đến những năm 1740, 1745 hai châu miền núi biên giới Việt Nam-Ai Lao được gọi là châu Mai, châu Mộc mới chính thức thuộc vào lãnh thổ Việt Nam, dân ở đó mới tuân phục chính quyền Việt Nam. Thổ dân châu Mai, châu Mộc là người Thái, họ có lịch sử, phong tục, tập quán riêng, và họ có chữ viết, chỉ không thấy nói họ có sách viết để lại. Sau 300 năm sống chung với dân Việt, đến nay, những năm 2000, dân tộc Thái châu Mai, châu Mộc đã gần như trở thành dân Việt.
Chiến tranh Việt Pháp vừa nổ ra trên toàn quốc đầu năm 1947, những người trong Bộ Tư Lệnh Quân Viêt Mnh đã thấy sự quan trọng chiến lược của dãy Trường Sơn và biên giới Ai Lao, họ tổ chức ngay một đơn vị gọi là Trung Đoàn Tây Tiến và đưa Trung Đoàn này sang Ai Lao trấn chiếm những vị trí chiến lựơc, trấn chiếm và đóng quân luôn tại những nơi đó. Người Chiến Binh Thi Sĩ Quang Dũng ở trong Trung Đoàn ấy. Vì kém tổ chức, thiếu thuốc, thiếu lương, thiếu quân trang, quân phục, đường đi chân qua núi quá vất vả, cuộc Tây Tiến thất bại, quân đi chưa được nửa đường, chưa đụng địch một trận, chưa bắn một phát súng, đã bị chết gần hết vì bệnh, vì kiệt lực. Số người sống sót được cho trở về nước. Trong số lính về ấy có Quang Dũng. Không biết có bao nhiêu người chết, Chiến Dịch Tây Tiến những năm 1947, 1948 chỉ còn lại bài Thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
Những năm 1951, 1952 tôi thấy chiến tranh xẩy ra dữ dội ở rừng núi Ai Lao, những trận đánh lớn ở những chiến trường Seno, Xieng Khoang, Tchepone, Pakse, Sam Nua, những năm 1970 ta lại hy sinh một số binh sĩ trong Chiến Dịch Hạ Lào, máu người Việt đổ nhiều ở những vùng núi rừng thơ mộng Mai Châu, Mộc Châu.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Bệnh Sốt Rét, tóc rụng hết, da xanh như lá cây, chết thây vùi bên đường, trước khi chết người chiến binh mỏi mệt cả thể xác và tinh thần gục xuống chờ chết trong rừng thẳm:
Anh bạn dãi dầu không bước nưã.
Gục trên súng mũ bỏ quên đời.
Nghe nói bọn lãnh đạo văn nghệ Việt Cộng rất kỵ bài Thơ Tây Tiến vì chúng thấy những lời Thơ có tác dụng phản chiến rất nặng, cũng nghe nói Tố Hữu đọc Tây Tiến, phê bình:
“Nó tả Tây Tiến như ri, còn ai dám Tây Tiến nữa.”
Năm 2009 một đêm buồn ở xứ người, tôi đọc lại bài Thơ Không Đề của Quang Dũng:
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa.
Những cây ổi thơm ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu.
Tóc anh đã thành mây trắng
Mắt em dòng thời gian qua.. ..
Tôi cảm động khi biết Thi sĩ làm bài Thơ này — tôi đặt tên bài Thơ là Mùa Xanh Xưa — khi Thi sĩ 40 tuổi, ông gặp lại người thiếu nữ ông yêu 20 năm xưa, cuộc tình không thành vợ chồng, xa nhau 20 năm, khi gặp lại nhau, tóc Thi sĩ bạc trắng, Nàng là thiếu phụ:
Bỏ em anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly
Trái tim tôi rung động, tôi thương quá là thương, tôi xúc động cứ như tôi là người làm thơ, như tôi gặp lại người tôi yêu năm tôi 20 tuổi.
Tóc mai sợi vắn, sợi dài,
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.
Tôi sẽ viết bài thứ hai về Quang Dũng và bài Thơ Mùa Xanh Xưa của Quang Dũng.