|
Post by Huu Le on Aug 6, 2007 1:55:15 GMT 9
Du lịch Hàn Quốc
Ðỗ Thông Minh
Hàn Quốc: Một ðất nýớc ðang výõn mạnh
“Korea” là một bán ðảo ở cực ðông Châu Á. Khái lýợc lịch sử nhý sau:
- 108-313, bị nhà Hán (漢) Trung Quốc cai tri. - 313-668: Thời Tam Quốc (三国), gồm 3 nýớc nhỏ. - 668-918: nýớc Tân La (新羅, Shilla) thống nhất bờ cõi, dýới sự bảo hộ của nhà Ðýờng (唐). - 918-1269: họ Výõng (王, Wang) lên làm vua, ðổi tên nýớc là Cao Lệ (高麗, Coryu, thýờng ðọc là Cao Ly). - 1259-1393: bị Mông Cổ (蒙古) cai tri. - 1939-1910: họ Lý (李, I/Lee) lên làm vua, ðổi thành Triều Tiên (朝鮮, Chosýn), ðời nhà Minh bên Trung Quốc. Trong suốt lịch sử Triều Tiên, cũng từng bị mất ðất với Trung Quốc. - 1915-1945: Nhật thuộc. - 1950-1953: Hai phe Quốc-Cộng ðánh nhau khốc liệt, sau chia ðôi thành Nam-Bắc Triều Tiên tại vĩ tuyến 38, gọi là Hàn Quốc (韓国) và Công Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (朝鮮民主主義人民共和国). Thực ra Nam Triều Tiên tên ðầy ðủ là Ðại Hàn Dân Quốc (大韓民国 = Te Han Min Guk = The Republic of Korea), nhýng “Hàn” ở ðây chỉ là tên nýớc chứ không phải “寒, lạnh”, mặc dù ở tận phýõng bắc này thì chắc chắn là lạnh lắm, mùa ðông có khi -30 ðộ C, ngay con sông lớn giữa nýớc nhý Hangang (漢江, Hán Giang) chảy từ phía ðông sang tây rồi hýớng lên phýõng bắc ra biển, chia ðôi thủ ðô Seoul cũng ðóng bãng vì ôn ðộ -15 ðộ C.
Hàn Quốc: Một ðất nýớc ðang výõn mạnh Nguồn: ÐTM -------------------------------------------------------------------------------- Nãm 1910-1945, Triều Tiên bị Nhật chiếm ðóng, cai trị và âm mýu ðồng hóa, nhiều ngýời Triều Tiên bị bắt ðýa về Nhật lao ðộng, khai thác Hokkaido… nên nay ngýời ngoại quốc ở Nhật ðộng Nhất là Triều Tiên với khoảng 500.000 ngýời, kế ðến là ngýời Hoa khoảng 400.000 ngýời, Việt Nam khoảng hõn 20.000 ngýời. Nhýng rồi Nhật bị thua Thế Chiến Thứ 2 nên phải trả lại ðộc lập cho Triều Tiên. Nhật Bản và Triều Tiên là hai dân tộc gần gũi và có nhiều tính cách giống nhau. Do bị Nhật cai trị tàn ác nên trong lòng ngýời Triều Tiên có ít nhiều cãm thù và hõi cực ðoan trong ýớc muốn výõn lên výợt cả Nhật và ðã thành công về mặt thể thao, ðang ráo riết ðuổi theo về mặt kỹ nghệ ðiện tử, xe hõi, ðóng tàu… Còn ngýời Nhật thì ỷ hùng mạnh ðôi khi có y coi nhẹ dân tộc bạn.
Phi trýờng mới Incheon (Nhân Xuyên) Nguồn: ÐTM -------------------------------------------------------------------------------- Từ nýớc láng giềng Nhật Bản, máy bay từ Tokyo mất 2 giờ 30 phút bay hay Osaka mất 1 giờ 50 phút bay tới thủ ðô Seoul (nghĩa là thủ ðô), tên cũ là Hán Dýõng (漢陽) và ngýời Hoa gọi là Hán Thành (漢城) ðều ðáp xuống phi trýờng mới Incheon (仁川, Nhân Xuyên, hình bên) nằm trên một hòn ðảo ở phía tây phi trýờng cũ Kimpo và Seoul, cách Seoul khoảng 1 giờ xe hõi. Thủ ðô Seoul với 27 quận, nay có dân số rất ðông ðúc tới 10 triệu ngýời, chiếm gần 1/4 dân số của cà Hàn Quốc.
Hàn Quốc ðang là quốc gia có số tiền ðầu tý vào Việt Nam ðứng hàng thứ 4. Sau cuộc khủng hoảng tái chính nãm 1997, hiện kinh tế ðang phát triển tốt. Nhiều công trình hạ tầng, chung cý, cao ốc ðặc biệt ðang ðýợc xây dựng khắp nõi. Họ lái xe bên phải và dùng ðõn vi thập phân nhý Pháp và Việt Nam. Tại mạn nam thủ ðô, có ðýờng Teheran rất rộng với mỗi bên có tới 7 làn xe, còn 4-5 làn xe nhý ðýờng Olympic cũng khá nhiều… Vào giờ cao ðiểm các ðýờng trong thành phố và xa lộ vào ra ðều kẹt cứng. Lạ một ðiều là khi kẹt xe, ngay giữa các làn xe trên xa lộ thýờng có những ngýời mang cả xe ðẩy nhỏ bán thực phẩm và nýớc uống cho khách ðang ði xe hõi. Là ngýời sống ở Nhật ðã 38 nãm, khi ði giữa thủ ðô Seoul, nếu không ðể ý ðến những bảng hiệu bằng tiếng Hàn thì ðôi khi chúng tôi có cảm giác nhý ði giữa Tokyo, Yokohama hay Osaka…
Triều Tiên cũng chịu ảnh hýởng nặng nề vãn hóa Trung Hoa, ðặc biệt là Nho Giáo của Chu Hy, hõi nặng phân chia “giai cấp”, giữa thầy-trò, vợ-chồng, cha-con… Nhý ngýời vợ ði ðâu thýờng phải có chồng hay con ði cùng. Tinh thần Nho Giao và ảnh hýởng Trung Quốc có thể thấy qua lá cờ của Hàn Quốc, qua cách ãn uống dựa trên ngũ hành… Nhýng nói chung, có thể coi Triều Tiên là phối hợp của Trung Quốc và Nhật Bản (do việc Nhật thống trị 35 nãm), tuy nhiên ngýời Triều Tiên thì lại coi mình tiếp thu vãn hoá Trung Hoa và truyền qua Nhật.
Nói chung có lẽ các công trình kiến trúc thành quách, ðền chùa cổ ở ðây týõng ðýõng với Việt Nam, nhỏ hõn Nhật một chút, và tất nhiên nhỏ hõn nhiều so với Trung Quốc. Trýớc ðây ngýời Hàn cũng dùng chữ Hán rồi từ ðó mới truyền qua Nhật khoảng thế kỷ thứ 5 (sau Việt Nam khoảng 6 thế kỷ), nhýng nay họ chỉ giữ lại âm Hán-Hàn (týõng tự âm Hán-Việt). Tiếng Hàn có 7 nguyên âm và 17 phụ âm, tổng cộng là 24 ký tự týợng thanh nhý ký tự La Tinh nhýng viết chồng lên nhau thành hình vuông. Ðó là ký tự “Hangul” (nghĩa là chữ vĩ ðại) hay còn ðýợc gọi bằng mỹ từ là “Thiên Tự” (天字) (tức chữ trời cho) do họ sáng chế ra, chính thức dùng từ nãm 1446. Thí dụ câu: Ngày nghỉ bạn làm gì? - Huil ýn ottokke chineseyo?
Trên sách báo cũng nhý ðýờng phố, ðều dùng loại vãn tự này. Các bảng hiệu thýờng ði kèm với ký tự La Tinh cho dễ ðọc, chỉ khi nào cần ghi chú chi tiết nhý tên ngýời, tên ga, ðịa danh hoặc ðặc biệt mới dùng chữ Hán. Nên trong bậc trung học, ðến lớp 12, họ chỉ học ðộ 1.300 chữ Hán. Thýờng dùng viết họ tên nhý Lý Thừa Vãn (李承晩, I/(Lee là viết theo Âu-Mỹ) Sýng Man, có tin ðồn là con cháu họ Lý từ Việt Nam, chữ Hán là một, nhýng ðã ðýợc xác nhận là không phải), còn hỏi chữ Hán những từ họ ðang dùng thì nhiều ngýời lúng túng không biết.
Ngýời Hàn cũng ãn cõm, gạo giống gạo Trung Quốc, Việt Nam, hạt dài và khô không nhý gạo Nhật hạt tròn và dẻo. Họ dùng ðũa, nhýng hầu hết là ðũa kim thuộc và thiết diện chiếc ðũa không tròn, không vuông mà là một hình chữ nhật dẹt bào tròn 4 góc, mới ðầu không quen thấy nặng và rất khó gắp, thấy ðũa lạ nên du khách cũng hay mua làm kỷ niệm. Ngýời Việt, ngýời Nhật, ngýời Hoa… ãn cõm býng bát, nhýng ngýời Hàn thì không, nên khi ãn, ngoài ðũa thýờng có cả thìa sắt. Trong bữa cõm thýờng có kim chi rau cải và củ cải, cá nhỏ nhý cá cõm phõi khô hay rang, canh thýờng là canh rong biển hay týõng nhý ngýời Nhật. Ðặc biệt họ ãn khá cay, trái ngýợc với ngýời Nhật hầu nhý không hề có ớt týõi trên bàn ãn. Có nhiều bữa ãn xong chúng tôi ðýợc phát tãm màu xanh lá cây nhạt với một ðầu nhọn, ðó là những cây tãm không bằng gỗ, không bằng tre, mà bằng nhựa. Nhýng không phải nhựa thýờng mà ðặc biệt là loại nhựa tự hủy, có nghĩa là sau khi dùng bỏ xuống ðất hay thùng rác thì cây tãm này sẽ từ từ tự hủy hoại, không làm ô nhiễm môi sinh. Triều Tiên nổi tiếng món kim chi, thịt bò nýớng và ðặc biệt là “sâm kê thang” (参鶏湯), gà hầm gạo nếp với sâm, táo Tầu, hột tùng (nhỏ, trắng, hõi dài) nhấp với rýợu sâm thì kể nhý ðang thấm vãn hóa ẩm thực của Triều Tiên vậy…
Có ðộ 10 tiệm ãn Việt Nam tại Seoul, nhýng hầu hết là bán phở (Trong khu Garden Grove của ngýời Hàn gần Little Saigon, nam Cali, Hoa Kỳ cũng có tiệm phở), kèm thêm một số món nhý chả giò, gỏi cuốn, bún chả giò, cà phê sữa… mang tên Phở Bay, Hoa Sen, Hòa, Hoà Bình, Sài Gòn. Riêng các tiệm Phở 75 là hệ thống nối dài từ Phở 75 tại Wa DC, Hoa Kỳ của Ký Giả Lê Thiệp, có 7 tiệm và bên ðây có thêm 6 tiệm. Một số tiệm do ngýời Hàn làm chủ, thuê ðầu bếp Việt Nam. Có ðiều không thể ngờ là giá phở ở ðây thuộc hàng “ðắt nhất nhì thế giới”? Vì giá 1 tô khoảng 7.000-8.500 Won (9-10 ðô-la Mỹ), ðôi khi có cả nýớc trà, cà phê sữa Việt Nam giá 3.500 Won (4 ðô-la). Bên Nhật giá 1 tô phở khoảng 700-800 Yen (6-6,5 ðô-la) ðã là ðắt rồi, ở Úc cũng giá 1 tô khoảng 10 Úc Kim (8,5 ðô-la), kỷ lục là ở Pháp giá 1 tô 8-10 Euro (10-12 ðô-la). Ở Hoa Kỳ, nõi nổi tiếng có nhiều hệ thống tiệm phở ngon, bên miền Tây giá khoảng 4-5 ðô-la, còn bên miền Ðông thì khoảng 5-6 ðô-la. Ở quê hýõng của phở tức Việt Nam, nay giá khoảng 15.000-20.000 ðồng (1-1,3 ðô-la)…
Ngýời Hàn vẫn duy trì tốt nhiều phong tục cũ, nhý trong dịp Tết, con cháu tề tựu về lạy ông bà, cha mẹ. Họ có thói quen tụ họp cả gia ðình ãn sáng chung khoảng lúc 7 giờ sáng, dù là không có việc cũng dậy cùng ãn, sau ðó có thể ði ngủ lại. Họ cũng có thói quen tắm gội vào buổi sáng, và tin rằng ðiều ấy ðem lại sự may mắn. Ðất ðai nhiều ðồi núi nên nõi cý ngụ khá chật, ðịa ốc ðắt ðỏ, sinh viên thuê một phòng trọ sõ sài, nhỏ xíu, chỉ ðộ 6 mét vuông cũng khoảng 250 ðô-la/1 tháng, với bếp và nhà tắm chung. Ở Hàn Quốc cũng có nhà tắm công cộng, giá một lần tắm khoảng 7 ðô-la, bên Nhật chỉ ðộ 5 ðô-la. Giá sinh hoạt ðắt ðỏ, ðặc biệt là rau khá ðắt nhý ở bên Nhật, nên ở ðây thýờng nói ðùa là “nhà nghèo ãn thịt, nhà giàu ãn rau”. Cà phê Starburge ở ðây, một ly tính ra khoảng 450 Yen, trong khi bên Nhật là 380 Yen. Nhý vậy Hàn Quốc và nhiều nýớc ở Âu Châu nhý Pháp, Ðức… ðã qua mặt Nhật về giá sinh hoạt.
Nghe nói phụ nữ Hàn khi lấy chồng thýờng kén chọn ngýời có ðịa vị và dồi dào về tài chính, ðám cýới mời rộng rãi, tốn khoảng 30.000-40.000 ðô-la, nên nhiều ðàn ông không lo nổi, nhất là những ngýời lỡ thời thích bay ði Việt Nam… kiếm vợ.
Xứ củ sâm, nên ðâu ðâu cũng thấy cửa tiệm bán sâm, thu hút khát ðông khách ngoại quốc. Trong chuyến ði này, chúng tôi ðýợc thýởng thức món gà hầm sâm và rýợu sâm… Có 2 loại chính, thông thýờng là bạch sâm và cao cấp là hồng sâm, thýờng phõi khô, ngâm rýợu hay triết xuất dýới dạng bột làm trà sâm. Giá 1 hộp sâm khô ðộ chừng 300-400 gam, từ 10.000–50.000 Yen (80–400 ðô-la), hộp trà sâm tùy lýợng và loại với giá khoảng 1.000-3.000 Yen (8-24 ðô-la). Hình trên là các du khách Việt ðang mua sâm tại tiệm Sheongka (青河, Thanh Hà) gần phi trýờng, vừa bán tạp hóa vừa là nhà ãn.
Cố Cung tức Gyeongbokgung Nguồn: ÐTM -------------------------------------------------------------------------------- Týợng Phật Di Lạc ðội mão miện (nhý cái khay lớn) tại chùa Jogyesa (曹渓寺, Tào Khê Tự) là bản doanh của Thiền Tông Triều Tiên, ngay trýớc khách san Coex Inter-Continetal, bên mạn ðông-nam sông Hán Giang, ðýõc coi là khu mới và nhà giàu. Dù vậy, khu cũ ở mạn bắc sông Hán Giang mới chính là trung tâm thủ ðô, nõi có Dinh Tổng Thống là Thanh Ngõa Ðài (青瓦臺/台, Cheong Wa Dae, Blue House, ðài ngói xanh), với mặt lýng dựa vào ðồi núi, Tòa Ðô Sảnh...
Ngày xýa ngýời Triều Tiên có tục chôn ngýời chết trên ðồi và ðắp mộ cao. Ngýời Triều Tiên làm nhiều ðồ gốm, ðặc biệt là các hũ, chum, vại… và hay khắc hình nhân bằng nguyên một cây gỗ lớn nhý những ngýời da ðỏ.
Chúng tôi ðýợc ðýa ði thãm công viên Nami(Nara) (南怡, Nam Di), là một ðảo (tam giác châu) nhỏ hình nhý trãng khuyết nằm trên sông Hán Giang, phía ðông Seoul khoảng 2 giờ 30 phút xe hõi hay 1 giờ 30 phút xe ðiện. Nõi ðýợc lấy làm bối cảnh quay cuốn phim nổi tiếng “Bản Tình Ca Mùa Ðông”. “Kioul Young Ka” = Bản Tình Ca Mùa Ðông = 冬季恋歌 = 冬のソナタ, với anh Bae Young Jun trong vai Junsang và cô Choi Ji Woo trong vai Yoo Jin thu hình trong nãm 2000-2001. Mặc dù là mùa hè, không có tuyết, cảnh sắc thay ðổi nhiều, nhýng hẳn là nhiều ngýời tới ðây cũng mong có ðýợc những giờ phút thýõng yêu lãng mạn, mặn mà nhý cặp tài tử trong phim
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 6, 2007 1:55:44 GMT 9
Paris By Night 89 trình diễn tại hội trýờng Olympic Fencing Plaza hình tròn, tại Hán Thành, cùng lúc có 2 sân khấu, với khoảng 100 nghệ sĩ, vũ công, ngýời mẫu và chuyên gia Việt, Hàn, trình diễn nhiều mục ðặc sắc và với 3.500 ngýời tham dự. Khi buổi trình diễn vừa chấm dứt, mọi ngýời ðã ùa lên chụp hình, tặng hoa, bắt tay các nghệ sĩ.
Dịp này chýõng trình cũng giới thiệu 2 ngýời Hàn Quốc, một là ông Jongjong nguyên Thuyền Trýởng, ngýời ðã bất chấp lệnh cấm của chủ tàu vớt ngýời tỵ nạn Việt Nam, ðể rồi sau ðó bị cho nghỉ việc, ông xuất hiện trong bộ áo dài quốc phục Việt Nam bên cạnh một ngýời tỵ nạn mà ông ðã cứu với và gặp lại ông sau 17 nãm miệt mài tìm kiếm trong quốc phục Triều Tiên. Một ngýời nữa là ông Lý Hy Uyên (李熙淵, I Hi Yõng), hiện là Hội Chủ Hội Dòng Họ Lý Hoa Sõn và Chủ Tịch Hội Thân Hữu Hàn-Việt. Dòng họ Lý ở ðây là con cháu của Lý Thái Tổ (李太祖), theo các ông Lý Tinh Thiện (李精善) và Lý Long Týờng (李隆祥) ði tuyền tỵ nạn tới Triều Tiên từ thế kỷ 12, 13.
Chuyến ði Hàn Quốc lần này có một ngýời Nhật duy nhất là anh Inoue mà chúng tôi ðã hýớng dẫn qua Hoa Kỳ 2 lần gặp các nghệ sĩ Việt Nam. Lần này anh cũng qua Hàn Quốc ðể xem Paris By Night và gặp Nhý Quỳnh… Hình Ðỗ Thông Minh, Nhý Quỳnh và Nguyễn Ngọc Ngạn tại khách sạn Lotte, nõi phái ðoàn nghệ sĩ trú ngụ. Chúng tôi ðã tặng mỗi ngýời một bộ sách hồi ký Hành Trình Ngýời Ði Cứu Nýớc của Phạm Hoàng Tùng và ðýợc Nhý Quỳnh tặng lại những CD, DVD mới nhất lá Áo Hoa, Khi Con Tim Biết Yêu, hát chung với Kỳ Anh.
Hàn Quốc còn rất nhiều ðiều ðể học hỏi, tham quan, nhý tháp “Namsan” (南山) cao 236 mét là biểu týợng của Seoul, phim trýờng ðóng bộ phim lịch sử “Daejanggeum” (大長今, Ðại Trýờng Kim = Jewel In The Palace), khu chợ “Namdaemun” (南大門, Nam Ðại Môn) với khoảng 10.000 cửa hiệu bán hàng với gia týõng ðối rẻ, làng ðồ gốm Icheon (利川, Lợi Xuyên) nhý Bát Tràng hay Sông Bé ở Việt Nam, “Panmunjom” (板門店, Bàn Môn Ðiếm) ở khu Phi Quân Sự (Demilitarized Zone) và Ðýờng Hầm Thứ 3 dài 1.635 mét cách lằn giới hạn phía nam có 435 mét mà Bắc Triều Tiên ðào ðịnh dùng xâm nhập Nam Triều Tiên (cách Seoul có 52 km), bị khám phá nãm 1978…
Với thời gian ngắn ngủi, chúng tôi chýa ði ðýợc nhiều, nên hẹn có dịp sẽ tái ngộ Hàn Quốc và kể thêm với quý ðộc giả sau.
Ngýời Việt ở Hàn quốc
Trýớc thập niên 90, rất ít ngýời Việt ở Hàn Quốc. Nãm 2007, có khoảng 60.000 ngýời Việt ðang sinh sống và làm việc tại Hàn Quốc, gồm khoảng hõn 40.000 ngýời ði lao ðộng và non 20.000 phụ nữ lập gia ðình với ngýời Hàn... Vì tình trạng phụ nữ Hàn bỏ làng quê lên tỉnh, nên miền quê thiếu phụ nữ, có làng hầu hết các bà là nàng dâu Việt Nam, bên Nhật ðôi khi cũng có tình trạng týõng tự, có làng hầu hết là các nàng dâu ngýời Phi Luật Tân và nay thêm dâu Việt...
Còn những ngýời Việt ðầu tiên tới Triều Tiên, ðýợc coi là “Tổ Tỵ Nạn”, thì có Lý Tinh Thiện (李精善, là con nuôi Lý Nhân Tông (李仁宗, 1066-1127), tên Lý Dýõng Côn?) làm Thuỷ Sý Ðô Ðốc dẫn khoảng 700 ngýời dòng họ Lý và tùy tùng vào nãm 1150 và Lý Long Týờng (李隆祥, 1274-) là con thứ 7 của Lý Anh Tông (李英宗, 1138-1175) vào nãm 1226. Trần Thủ Ðộ (陳守度, 1194-1264) con rể của vua Lý Cao Tông cýớp ngôi, bách hại dòng họ Lý, giết khoảng 300 ngýời. Ông Lý Long Týờng ðã ðýa cả ngàn ngýời dòng họ Lý và tùy tùng ði, sau 1 tháng thì bị bão phải ghé vào Ðài Loan. Ngýời con là Lý Ðãng Hiền bị bệnh, phải ở lại ðảo với khoảng 200 ngýời tùy tùng. Ông Lý Long Týờng ði tiếp lên Thýợng Hải, nhýng khi ðó nhà Tống ðã công nhận nhà Trần nên theo lời của một ngýời Triều Tiên, ðoàn thuyền lại ði tiếp lên phýõng bắc, bị bão dạt tới cảng Ongjin (Khang Linh), tỉnh Hwanghae (黄海, Hoàng Hải) ở phía tây Bắc Hàn.
Sau này ông Lý Long Týờng làm Týớng giúp Triều Tiên ðẩy lui quân Mông Cổ 2 lần nãm 1232 và 1253, nhý vậy ngýời Việt ðã 3 lần thắng quân Mông Cổ (nhà Nguyên) ngay trên ðất nýớc mình ðời nhà Trần (陳), lại thêm 2 lần thắng trên ðất bạn. Trong trận thứ 2, khi ðó ông Lý Long Týờng ðã cao tuổi vẫn cýỡi ngựa trắng ra trận nên ðýợc gọi là Bạch Mã Týớng Quân (白馬将軍) và phong làm Hoa Sõn Týớng Quân (花山将軍) và ðúc týợng dựng bia ở Hoa Sõn và týợng bên ðại lộ trên ðýờng từ phi trýờng Kimpo (金浦, Kim Phổ/Phố) về thủ ðô Seoul (漢城, Hán Thành). Xin trích ðoạn tài liệu liên hệ:
“Nãm 1232, vua Mông Cổ là A Hoạt Ðài (Ogadai) tức Nguyên Thái Tông (trị vì Mông Cổng 1229-1241), sai quân ðánh qua Cao Lỵ Quân Mông Cổ ði bằng hai ðýờng: ðýờng bộ và ðýờng thủy. Trên ðýờng bộ, quân Mông Cổ tách làm 2, một cánh ðánh thẳng vào kinh ðô Cao Ly lúc ðó là Khai Kinh, ở trung tâm nýớc Cao Ly, và một cánh quân ðánh các tỉnh miền tây Cao Ly. Về ðýờng thuỷ, quân Mông Cổ výợt giữa Trung Hoa và Cao Ly, tiến ðánh tỉnh Hoàng Hải nhýng sau ðó bị ðẩy lui. Một trong những týớng lãnh góp công ðẩy lui quân Mông Cổ ở tỉnh Hoàng Hải là Lý Long Týờng.
Nãm 1253, vua Mông Kha (Mangu) của Mông Cổ tức Nguyên Hiến Tông (trị vì Mông Cổ 1251-1259) gởi quân ðánh Cao Ly lần nữa. Quân Mông Cổ tràn ðến tấn công Hoàng Hải cả ðýờng thủy lẫn ðýờng bộ. Lý Long Týờng ðã cầm cự vững vàng vùng ðất nầy. Sau khi quân Mông Cổ rút lui, vua Cao Ly cho xây tại Bồn Tân một công trình kỷ niệm chiến công của Lý Long Týờng là "Thụ Hàng Môn" (Bắc Hàn). Tại ðây, vào nãm 1711, ngýời Cao Ly ðã dựng bia ghi công trạng của Lý Long Týờng”.
Kể từ vua Lý Thái Tổ (李太祖, tên húy là Lý Công Uẩn 李公蘊, 974–1028) tới nay dòng họ Lý truyền ðã 36 ðời, hiện có khoảng 1.500 gia ðình họ Lý tại Bắc Triều Tiên và 600 gia ðình tại Nam Triều Tiên… Những nãm sau này, hàng nãm con cháu dòng họ Lý ở Triều Tiên ðều tổ chức chuyến ði về làng Ðình Bảng, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam thãm tổ tiên, ðặc biệt là nõi thờ Lý Thái Tổ là vị vua ðầu tiên (thời gian trị vì: 1010–1028) của triều ðại nhà Lý. Týợng Ðài Lý Thái Tổ bằng ðồng ðúc tại tỉnh Nam Ðịnh, ðýợc dòng họ Lý Hoa Sõn ðóng góp dựng lên tại công viên Gandhi, bên trái Hồ Gýõm, cạnh Ủy Ban NDTP Hà Nội. Dòng họ Lý cũng ðã ðầu tý xây khách sạn “King Li” (khách sạn “Vua Lý”) loại 4 sao, gần chợ Hôm, Hà Nội.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:01:34 GMT 9
KOREA
Kim chánh Nhật biên soạn.
Nhờ World Cup 2002 và sự cố gắng của đội banh Nam Hàn (hay Nam Triều Tiên) thế giới mới có dịp ngó đến vùng xứ sở mà người Việt chúng ta gọi là Hàn băng giá lạnh. Còn danh từ Triều Tiên mà hiện nay Hà Nội gọi Korea là phát từ lời vua nhà Minh khi thấy sứ giả bốn phương đến triều cống, thì sứ giả này đến sớm nhất và luôn như vậy, nên vua Minh gọi là "Nước chư hầu đến triều cống sớm nhất". Còn nước Việt thì đi sứ đến muộn nhất. Có lẽ vì Kinh đô nhà Minh khá gần với kinh đô Hàn Quốc hơn Thăng Long của chúng ta. Và mỹ hiệu được vua ban gắn liền đến ngày nay "Triều Tiên". Chúng ta gọi là Đại Hàn hay Triều Tiên cũng không trúng lắm, nhưng dân hàn quốc thì họ thích gọi bằng một cụm từ khá dài nếu dịch ra, còn ngắn như sau "Choson", nghĩa là "morning freshness" hay là dài hơn nữa "The Land of the morning Calm", nếu tạm dịch cho vui cửa nhà: "Vùng đất mờ sương khói". Quả vậy xứ này chớm Đông thì được hơi lạnh từ Băng Cực thổi về (Siberian Air), đến đầu xuân thì được làn gió mát từ phương Nam của Thái Bình Dương thổi đến.
Và cũng là một xứ duy nhất có rất nhiều chim hạc, hơn cả nước Nhật. Ta thường thấy tranh thủy mạc của người Hoa vẽ loài hạc này, có loài hạc đầu đen chân đen và loài hạc đầu đỏ chân đỏ, chớm Đông là hạc về múa và nhảy nguyên bầy, nơi xa là tuyết bắt đầu bay phất phới như hoa trắng trên bầu trời xanh thẳm vậy.
Tuy có giống Hạc đến xứ này nhưng xứ này lại bị ngoại nhân đến kiểm sóat hay canh chừng từ thuở lập quốc đến nay. Từ người Hoa, người Mông Cổ, người Nga, người Nhật, nay người Mỹ đến canh chừng xứ này sợ phương Bắc tấn công bất ngờ.
Ngôn ngữ tiếng nói của người Korea khác người Hoa hay người Nhật, nó thuộc nhóm gọi là "Ural-Altaic" mà trong đó có luôn nhóm Thổ nhĩ Kỳ và Mông cổ. Chữ viết thì mượn từ chữ Hán như đất Việt ta vậy, nay thì họ đổi tiết tấu và hình dạng như chúng ta có lần thay đổi sang chữ Nôm. Chữ Nôm rất khó học vì dùng đến hai lần chữ Hán ráp vào, còn chữ hàn quốc ngày nay giản dị hơn nhiều. Triều vua kéo dài lâu nhất là thế kỷ thứ 7 đến 1945 là triều đại Silla.
Đại Hàn hay Triều Tiên là một đảo quốc nhỏ, gắn chung với nước Trung Hoa quá vĩ đại về bề thế. Tầm cở ngang diện tích với Tân tây Lan hay Anh Quốc (United Kingdom) hay rõ hơn là bằng tiểu bang New York vậy mà thôi (85 ngàn dậm vuông kể luôn 3000 hòn đảo lớn nhỏ vây quanh). Nước này bị nạn Nam Bắc phân tranh. Nam hàn với 70 triệu dân năm 1997, còn Bắc Hàn thì trên dưới 30 triệu dân mà thôi (đó là kể luôn những người sống tại Mãn Châu trên 600 ngàn người, và 1 trăm ngàn tại Nhật. Núi thì không cao lắm tại biên giới Hoa- Hàn (núi Paektu cao khoảng 9000 ft, thành thử đại quân người ngựa của Mông Cổ tiến đánh không ai cự nổi).
Thủ đô của Nam Hàn là Seoul có dòng sông hiền hòa chảy ngang mang tên là: sông Han – River Han.
Người Hàn quốc cho rằng mình là giống phát sanh bởi người Cha đến từ Trời cao hòa hợp với người Mẹ thuộc họ Hùng (là giống gấu hay khốc áo da gấu). Nhưng thật sự nhóm người Hàn là một chuỗi di cư của loài người kéo dài từ Phi Châu, sang Ấn rồi sang Hoa Lục rồi đi nữa nhánh rẽ lên lập giống dân da trắng, nhòm rẽ dưới thì lập nhóm dân Eskimo, rồi Nam MỹLúc đó có ba triều đại vua hùng cứ quanh Mãn Châu và Bắc Hàn đó là khoảng thế kỷ thứ 4 trước tây Lịch (triều đại Choson, Taedong và Liao. Nhưng triều đại Choson mạnh nhất mà chúng ta đã nhắc từ phần đầu bài viết này.)
Tuy là môt quốc gia bị ngoại bang dày xéo từ xưa đến nay, dân tộc xứ này rất có lòng tin. Họ theo đạo Công Giáo, Tin Lành rất đông hơn nước Việt chúng ta nếu kễ theo phần trăm. Xứ này là một xứ Á Đông mà có đầy đủ bộ kinh tạng của đạo Phật hơn mọi xứ khác trừ Ấn độ hay Tích Lan mà thôi. Họ có Bộ Đại Tạng Phật Kinh và còn lưu trữ đến 7000 bản khắc bằng gỗ. Trong khi đó nước Việt thì bị Chúa Trịnh Nguyễn phân chia và lo hưởng thụ cho dòng họ mình mà không lo cho dân chúng gì hết.
Và điều ngạc nhiên là Đạo Khổng (nếu tạm gọi là đạo) đã biến mất trên nước trung Hoa từ lâu, nhưng tại xứ này vẫn có trường dạy Đạo Khổng, và môn sinh tốt nghiệp được làm lễ rất quy củ phép tắt không thua gì thơì Khổng Tử còn tại thế . Áo mão, cân đai và cuối mình làm lễ của những môn sinh tốt nghiệp trường này, du khách không khỏi cảm động và bùi ngùi. Đó gọi là Trường Khổng Giáo tại Sungkyunkwan (mà ta có thể gọi là the National Confucian Academy of the Choson). Không một đạo nào dạy cho con người có một tư cách oai nghi hơn mọi đạo khác bằng đạo Khổng. Đó là Nhân Đạo và Quân Tử đạo vậy mà Miền Nam nước Việt chúng ta có một vị mang tên là Nguyễn đình Chiểu, tư cách ông rất sáng ngời, và người Pháp muốn chiêu dụ ông, ông tuy mù nhưng cương quyết từ chối. Nay Hà Nội vẫn còn kính nể nhà Nho Nguyễn đình Chiễu này rất nhiều. Viết tới bài này chúng tôi sực nhớ đến lời nói của Khổng Tử như sau khi Ngài được hỏi về người Tốt:
Thầy Tử Lộ có lần đến hỏi Thầy “Thế nào là người Tốt thưa Thầy?" – Khổng Tử mĩm cười "Đâu con nói trước xem?" – Thầy Tử Lộ nói "người Tốt có phải là người mà trong làng đều thương mến hết phải không?” - Khổng Tử lắc đầu. – Tử Lộ nói tiếp “như vậy người Tốt có phải là người mà dân làng đều ghét hết phải không? “- Khổng Tử mĩm cười lắc đầu “Không phải vậy đâu con” – Tử Lộ cuối đầu nói “như vậy nghĩa là sao?" – Lúc này Khổng Tử mới nói "người Tốt nghĩa là người được những người tốt trong làng thương và những người xấu trong làng ghét". Câu này chúng ta thấy rõ là kẻ giả hình hay không giả hình như lời Chúa Giê Su nói vậy trong kinh Thánh ngàn năm trước đó.
Triều đại Koguryo (37 BC đến 668 AD) thống nhất san hà, đánh bại người Hoa. Lập triều đình tại vùng cực Bắc Mãn Châu ngày nay. Nhưng chúng ta có thể kể thời kỳ này có 3 bộ tộc mạnh nhất của Korea là: Mahan, Chinhan, Pyohan (chúng ta thấy tiếp vĩ ngữ là Han nghĩa là họ vẫn còn ít nhiều phong tục người Hoa Hạ. Triều đại Silla 660 AD hợp với người Hoa để đánh tộc Paekche. Nhưng nhận thấy dã tâm của người Tần, triều đại Silla ráng xuống miền Nam mà thống nhất Korea rồi đánh trở lại người Tần, người Tần lui binh vì lúc này tại Trung thổ Hoa có nhiều biến chuyển lớn. Nên triều đại Silla được xem là thời kỳ cực thịnh nhất của Korea. Triều đại Silla ở ngai vàng lâu nhất từ đó đến giờ, từ năm 676 AD đến 1945 nghĩa là gần hơn 1300 năm.Nhờ sự kéo dài ngôi báu như vậy nên nền văn minh nghệ thuật của Korea mới có cơ hội nẩy nở vẹn toàn nhất nếu so với các nước lân bang xa gần như Nhật, Việt, Lào, Thái Tôn giáo lúc đó hầu như độc tôn là đạo Phật. Người ta mời nhiều vị sư Ấn từ Thiên Trúc đến giảng kinh nghĩa và cử tông đồ đến Thiên Trúc mà học đạo rồi đi đến nước Trung quốc và Nhật Bản mà hoằng pháp. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 7 người Đại Hàn hầu như là Thầy dạy cho nước Nhật dưới chân của mình. Thế kỷ thứ 6 thì hầu như Nhật bắt chước toàn bộ nghệ thuật văn hóa của Korea. Những du học sinh từ Nhật mà sang Đại Hàn học thành tài rồi về lại Nhật dạy học đều được Nhật Hoàng trọng vọng hết mình. Ngôi chùa xưa nhất tại Nhật ngày nay đều là dấu vết của bàn tay người thợ Đại Hàn sang xây dựng. Hiện nay Thiền Tông Phật Zen Buddhism của Nhật là nhập từ Trung Hoa sang từ con đường Korea hết, rồi Nhật có Trà đạo nổi danh cũng bắt chước hết 8/10 của bộ tộc Paekche từ Korea. Quyển sách cực quý về Trà đạo của Nhật ngày nay mà Nhật Hoàng còn lưu giữ thật sự là bản copy từ bên Korea mà ra, tiếc rằng khi quân Nhật Thiên Hoàng sang xâm lấn Korea, họ tìm tất cả những ấn bản nào mà Nhật có họ đều đốt sạch, nghĩa là phi tang dấu vết Thầy xưa nghĩa cũ hoàn toàn. Trong thời kỳ Mông Cổ cai trị Korea, thì người Korea học được của người Mông về Thiên văn học, Y Khoa, và cách trồng bông vãi rồi dệt lụa. Nay Nhật học cách trồng bông vãi và nuôi tằm cũng từ nước đàn anh Korea mà ra.
Năm 1592 đế 1597 thì Nhật và hàn quốc có đại chiến với nhau., Dưới quyền điều khiển tài ba và là một kiến trúc sư nổi danh, Đề Đốc Yi Sun-shin vẽ nhiều kiểu chiến thuyền mà họ gọi là Qui Thuyền (chiến thuyền có hình con Rùa Thần) nơi nầy đầu bọc sắt thép nên đụng chìm gần hết 250 tàu chiến của Nhật. Lúc này Nhật động binh đến trên 100 ngàn người, nhiều trận đánh với Đề Đốc Yi Sun-shin thì hầu như Nhật bị thua, kết quả bất ngờ là Đề Đốc trong một lúc chỉ huy đánh với Nhật tại trận thủy chiến eo biển Chin-do thì Ngài bị trúng đạn chết. Đó là vào năm 1598. Lúc này nước Hàn Quốc bị đại họa khắp nơi, miền Bắc thì giống Mãn Châu (một phần giặc Kim) đến đánh miền Bắc, còn miền Nam thì bị Nhật mà họ gọi là giặc lùn.
Sau đó đến the kỷ thứ 18 thì ảnh hưởng của tây phương truyền đến Đại Hàn qua ngã Trung Hoa. Năm 1784 một du học sinh Korea sang Bắc Kinh học, tên là Yi Sunghun được rửa tội trở thành một người Công Giáo đầu tiên của Đại Hàn. Yi Shunhun về nước mở trường dạy học và truyền bá đạo Công Giáo. Năm 1791 khi mẹ mất thì ông không để tang phục hiếu 3 năm nên bị chánh quyền bắt xử trãm. Nghĩa là Yi Shunhun là một người Công Giáo tuẫn đạo đầu tiên tại Korea này. Rồi chiến dịch bắt đạo do nhà vua khởi xướng bùng nỗ từ năm đó đến năm 1839. Trên 130 người Công Giáo bị giết và trên 2 ngàn người bị cầm tù khốn khổ. Vì vua thiển cận cứ lo tìm đạo ngoại mà bắt bớ, nên những văn minh ngoại quốc vua này bỏ ngoài tai. Thế là mất dịp canh tân cho đất nước thành phú cường như Nhật, hành động mù quáng này không khác cho triều đại nhà Nguyễn bên trời Nam.
Năm 1860 triều đình Đại Hàn rất bối rối trước tin kinh khủng là Anh quốc và Pháp tiến vào cung điện Bắc Kinh mà bắt Từ Hi. Từ trước đến giờ triều đình Korea vẫn xem Trung Hòa là nước Thần quốc bất khả xâm phạm. Nay đùng một cái Trung Hoa tan ra bọt nước. Rồi sự trỗi dậy thật mạnh của người Nga. Lúc nầy đại họa liên tiếp giáng xuống triều đình Yi Huang. Năm 1871 Tàu chiến của Hoakỳ chiếm đảo Kanghwa, rồi năm 1875 người Nhật mạnh nữa đánh Đại Hàn luôn, trong khi đó vua này cứ ngày đêm nghĩ đến làm sao nước mình trở lại thời vàng son của đạo Khổng. Y hệt như triều đại nhà Nguyễn vậy. Rồi Nhật tiến đến Korea làm chủ nước này lập vua bù nhìn Tonghak / Kojong. Khi triều đình Meiji (Minh Trị) đánh bại được Trung Hoa thì Korea chỉ còn con đường ngó đến Nga cầu cứu mà thôi. Mọi chuyện canh tân Korea đang sùng bái nước Nga hết mình. Đùng một cái, năm 1904 Nhật Hoàng đánh bại Hạm đội mạnh nhất vùng Thái bình Dương bấy giờ của Nga chỉ huy. Vào đúng cuối năm 1904 đầu năm 1905 thì Nhật hoàn toàn cai trị Korea từ A đến Z. Nhiều hiệp ước bị Nhật bắt Korea ký và triều đình Kojong đành phải chịu khuất phục hoàn toàn, dĩ nhiên có nhiều cuộc nỗi loạn hay cách mạng đánh Nhật đều tan rã từ phút ban đầu. Lý do lính hay quân đội, cảnh sát Korea đều được Nhật cấp lương bổng. Nhiều phụ nữ đẹp của Hàn quốc được tuyển dụng cho quân đội Thiên Hoàng giải khuây vui chơi.
Cho đến Đệ Nhị Thế Chiến và ngày gần tàn của đế quốc Nhật, Nguyên sối Mac Arthur đặt chân lên Korea và Nhật bắt đầu lui quân về cố quốc thì Korea chia làm hai khuynh hướng. Khuynh hướng nhờ Nga và khuynh hướng nhờ Mỹ đến đánh Nhật thống trị xứ mình. Mà kết quả là Bắc trở thành chư hầu của Trung Cộng. Tay đầu tiên mang máu Cộng Sản là Pak Hanyong lập đảng Cộng Sản Korean Communist Party. Tháng 12 năm 1945, Kim II –sung được lọt vào mắt xanh của Mao trạch Đông, nên nhóm Trung Cộng đảo chánh cung đình, lật Pak Hanyong thân Nga hơn. Thâm ý của Mao trạch Đông là cần có nhiều chư hầu Cộng Sản hiếu chiến còn mình làm bộ mặt ông chủ nhân đức hiền hòa, như thế Hoakỳ hay Tây Phương sẽ kính nể mình hơn. Y như một ông chủ đồn điền với gương mặt nhân hậu và một bầy chó hung dữ quanh mình, sẵn sàng cắn xé những kẻ nào xâm phạm đất đai và cây trái của mình và như thế mọi người đều kính nễ mình vô cùngÝ tưỡng nay được Trung Hoa áp dụng triệt để tại Bắc Hàn, Việt Nam và Tây Tạng và kết quả Tây Phương và Hoakỳ đều đến bái kiến triều đình Bắc Kinh Beijing vậy.
Chiến tranh Nam-Bắc Hàn không thể nào tránh khỏi. Và ngày nay như chúng ta biết là Bắc Hàn không thể nào thóat khỏi bàn tay Trung Cộng được. Vĩ tuyến 38 được Trung Cộng và Hoakỳ ký kết phân chia hai nước Hàn Quốc ra làm hai. Đó là vào ngày 27 tháng 7 năm 1953. Năm 1994 thì Kim II – sung chết và truyền ngôi vĩnh cửu cho con trai bệnh hoạn gan của mình là Kim – Jong il. Tại Nam Hàn thì Tổng thống Rhee Syngman (mà ta dịch là Lý thừa Vãn. Vị này có đến thăm Miền nam Việt Nam được Tổng thống Ngô đình Diệm tiếp đón thật nồng hậu). Năm 1960 thì Rhee thua phiếu đảng Tư Do Liberal Party, Ông đành lưu vong với tuổi 85 tại Hawaii.
Nắm 1961 một tướng lãnh liêm khiết Park Chung Hee lên nắm quyền, đem đất nước đấy xáo trộn có lợi cho Bắc hàn Tổng thống Phác chúng Hy thiết lập Quân lực và đam Nam hàn thành một nước phú cường về kinh tế mà ngày nay chúng ta đuọc biết. Từ một nước sống nhờ lòng thương hại viện trợ của Hoakỳ mà ngày nay thành một cường quốc kinh tế Á Châu cũng nhờ công lao của Park chung Hee này. Năm 1979 Phác chúng Hy bị thuộc cấp cận vệ Kim Jae Kyu bắn chết khi đang ăn cơm. Tên này Kim Jae Kyu cùng 6 người bị xử bắn sau đó không lâu. Tướng Chung Doo Hwan điều tra vụ này và là bạn thân của Park lên nắm quyền. Nhưng bị bàn tay phá của Hoakỳ, năm 1987 Chung Doo Hwan trao quyền cho Roh Tae Woo. Năm 1993 thì cha h phũ dân sự hoàn toàn được thành lập, Tổng thống Kim Young- sam lên nắm quyền, nhưng vị này thì có tư tưởng bồ câu với Bắc hàn hơn những vị tiền nhiệm trước, điều này phù hợp với Hoa thình Đốn, nghĩa là lo mần ăn và đất nước ta bảo vệ, nếu không nghe lời thì ta rút quân và Cộng quân Bắc Hàn đứng ngay cửa lập tức. Bị tố cáo tham nhũng đến $650 triệu USD từ các Đại Tổ Hợp Xe Hơi như Hyundai, Samsungnên Kim Young-sam từ chức và hiện nay ngôi vị Tổng thống Nam hàn là Kim Dae-jung (1997). Vị này còn bồ câu hơn nhiều vị trước, hàng ngày suy nghĩ làm sao bắt tay cho được Kim jong-iL Bắc Hàn. Y như miền Nam nước Việt sắp sửa đi bán muối thì rất nhiều đoàn thể ngăn cản hay la làng là chánh phủ Thiệu Kỳ hiếu chiến, gây tang tóc và làm ông Vua Miền Nam phải suy nghĩ là bề nào Miền Nam cũng mất không năm này thì năm sau và tiền của ráng lo vơ vét càng nhiều càng tốt. Kết quả nay mai Nam hàn sẽ không cách chi mà thốt khỏi bàn tay Bắc Hàn hết.
Khi vừa viết xong bài này thì chúng ta được tin Bắc hàn đem vài chiếc tàu hải quân và bắn hạ Tàu hải quân Nam Hàn. Tàu chiến Nam hàn vì do Hoakỳ trang bị nên không cách chi vượt trội hơn tàu chiến của Bắc hàn hết, chúng ta đã thừa biết trận hãi chiến của Thủy quân Miền Nam Cộng Hòa và thủy quân của Trung Cộng từ hơn 27 nam trước Mà Nam hàn muốn trang bị hải quân mình tối tân như mua vũ khí của Đức hay Pháp thì Hoakỳ không chấp thuận nên kết quả đánh là thua 100 %.
Nam hàn nổi danh với tập đoàn kinh doanh có tầm cỡ quốc tế gọi là "Chaebol" làm kinh ngạc nhiều nước cướng quốc kinh tế trện thế giới.
Người Nhật hiện nay không sợ nền khoa học kỹ thuật của Hoakỳ mà họ rất sợ sự lớn mạnh của Nam hàn. Nay Nam Hàn có cơ xưởng đóng Tàu lớn nhất nhì thế giới và nền Công Nghệ Thông Tin của Nam Hàn hiện nay đứng hàng thứ 4 trên thế giới sau Hoakỳ, Nhật, Trung Hoa. Hiện nay Nam hàn có đến 30 Chaebol như vậy. Nền kỹ nghệ phim ảnh của Nam hàn hiện nay được giới trẻ Thành phố Hồ chí Minh và HàNội tiếp đón đậm đàø. Hàng ngày phim Hàn được Việt Nam trích dịch và cho trình chiếu trên các kênh TIVI nước Việt, thay thế phim ảnh bệnh hoạn của Đài Loan mà dựa theo phim của Quỳnh Dao làm căn bản. Quỳnh Dao đang đầu độc tư tưởng bệnh hoạn cho giới trẻ Đài Loan nên ngày nay nền kinh tế của đài Loan bị Nam hàn chận đứng.
Bằng cớ đội banh bóng tròn của nam Hàn lăn trên sân cỏ, bức phá nhiều đội banh có nhiều kinh nghiệm trên thế giới, bỏ xa hoàn toàn đội banh của Đài Loan và Trung Cộng.
Về chữ viết, nếu Việt Nam chúng ta không nhờ các vị giảng đạo thừa sai Công Giáo Bồ đào Nha, Tây ban Nha và Pháp dùng Latin chuyển thành chữ Việt ngày nay, thì chữ Nôm của chúng ta khó bì kịp chữ "Hangul" và chữ "Hanja" của Korea ngày nay.
Truớc thế kỷ 15 thì ngôn tự của Korea hoàn toàn từ chữ Hán mà ra, viết đọc phát âm in hệt như vậy, lúc đó họ gọi là chữ "Hanja". Như chữ Hán nói vế núi non (mountain) là "shan" (đọc là san, như san hà vậy) còn Korea đọc là "san" nặng hơn. Hướng Nam (South) Hán đọc là "nan" thì Korea đọc là "nam" (y như Việtnam ta vậy).
Đến thế kỷ 15 thì người Korea chế ra chữ riêng gọi là "hangul ". Năm 1970 Tổng thống Park Chung Hee ra lệnh dẹp "hanja" mà tăng cường lên "hangul" (Nên nhớ chữ "hangul" là do Korea sáng chế ra mà người Trung Hoa không đọc được). Lúc Nhật chiếm đóng Đại Hàn, họ ra lệnh xử dụng chữ "hanja" vì chữ này người Nhật đọc được dễ dàng vì dựa theo chữ Hán hết 98%. Sau năm 1975 thì chữ Hangul được dùng trở lại tại Trung học và chữ Hanja được đóng ngoặc đơn để người nào đợc được chữ hanja thì dễ hiễu hơn hangul Tự điển của Korea gồm đến 4888 từ phát ra trong khi đó 1800 từ phát ra bởi hanja.
Hiện nay sau khi Trung Cộng thống nhất san hà thì họ tung ra đến thêm 2238 từ nữa mà ngày nay tại Hongkong và Đài Loan đang bắt buộc phải dùng. Chúng ta nên nhớ trước 1975 người Việt Miền Nam dùng nhiều tiếng dễ nghe hơn ngày nay. Như ngày nay tại Tp HCM người ta dùng từ "khẩn trương" một cách dễ dàng, hay là cụm từ "đối tác" nghĩa là người Việt 1975 nói danh từ 1975 và đến nay 2002 thì người Việt 1975 khó lòng trôi chảy nhiều từ mới lạ được như Trung Hoa thống nhất giang sơn và Đài Loan phải hiểu mà thôi.
Hiện nay tất cả báo chí hay ngay cả thực đơn của South Korea đều cấm dùng chữ Hán 100%, còn Bắc Hàn thì bắt buộc phải dùng chữ hán thêm chữ bắc Kinh khoảng 2200 từ mới lạ nữa. Quý bạn có xem phim Hà Nội cho chiếu tại Saigon cách đây không lâu như “Đến hẹn lại lên” Bạn năm 1975 nghĩ ra làm sao? Việt kiều năm 1975 nghe thì tủm tĩm cười, còn dân Tp HCM năm 1985 thì tỉnh bơ "Hừ! Đến hẹn lại lên" hình như hay hơn phim "Đến hẹn lại xìu". Có cần "Viagra" không nè?
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:03:27 GMT 9
BẢY NƯỚC "STAN" THUỘC MIỀN TRUNG-Á Afghanistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Pakistan, Tajikistan, Turkmenistan va Uzbekistan
Nguyễn Thanh Bình
Chữ cuối của các nước này là "STAN", có nghĩa là nơi, vùng đất, hay quê hương, như nước của người Afghan thì gọi là Afghanistan, của người Tajiks gọi là Tajikistan.
Nền văn hóa của 7 xứ này rất khác biệt. Chỉ có Kazakhstan là một trong 5 nước vừa độc lập cách đây 10 năm từ khi chế độ Cộng Sản Liên-Sô bị sụp đổ, là có tương lai sẽ thịnh vượng vì có nhiều mỏ dầu lửa. Afghanistan và Pakistan là 2 quốc gia không phải là thuộc địa của Liên-Sô.Trong 7 nước này, Pakistan là một nước đông dân số nhất, có một lực lượng quân sự hùng hậu nhất và đã chế được bom nguyên tử cùng lúc với Ấn Độ. Hơn nữa, Pakistan cũng là một nước có nhiều vụ tranh chấp về tình hình chính trị nội bộ đáng lo ngại nhất. Tajikistan va Kyrgyzstan là hai quốc gia nghèo nhất, tùy thuộc vào tài trợ của quốc tế. Afghanistan là một quốc gia cần phải xây dựng lại sau 23-năm chiến tranh. Hàng triệu quả mìn còn đang nằm rải rác khắp xứ này chưa được phá hủy. Bảy "Stans" này có đặc điểm chung là sa mạc mênh mông và núi non hiểm trở như các rặng núi Hindu Kush, Pamirs, Safed Koh. Cao nguyên và núi non gắn liền với đời sống hàng ngày của các dân tộc này. Về mùa hè, tuyết tan rã chảy xuống các sông ngòi giúp cho dân ở đây trong vấn đề canh tác nông nghiệp. Vùng rặng núi Indus ở Pakistan có một hệ thống dẫn thủy nhập điện lớn nhất thế giới. Trong lịch sử, chúng ta đã nghe nói dến những vị tướng nổi tiếng như Alexander, Attila, Mahmud, Genghis Khan (Thành-Cát Tư-Hãn), Tamerlane, Babur đã từng đặt chân đến vùng này.
Khoảng thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, nhà chinh phục độc tài nổi tiếng Asoka sau trở nên một Phật tử rất hiền từ, tại vùng này phật giáo rất thịnh hành kéo dài được mấy trăm năm. Vào lúc này, các nhà điêu khắc đã tạc các tượng Phật trong núi đá ở Bamian, mà tháng 2 năm 2001 nhóm Taliban đã cho phá nổ. Đạo Islam thay thế đạo Phật sau đó, do dân Arabs di cư đến xứ Iran (Ba Tư) trước, sau đó đến lập nghiệp tại 7 nước này từ đầu thể kỷ thứ 7.
1. Afghanistan.
Dân số khoảng 26.8 triệu, thủ đô là Kabul với diện tích rộng 250,001 dặm vuông. Dân nói tiếng Persian (Dari) chiếm khoảng 50% dân số, 35% nói tiếng Pashtu, 11% tiếng Turkic, 4% các tiếng khác. Có nhiều giống dân, dân Pashtun chiếm 38%, Tajik 25%, Hazara 19%, các giống dân khác 18%. Về tôn giáo, Sunni Muslim chiếm 84%, Shiite Muslim 15%, các tôn giáo khác 1%. Khoảng 32% dân số có thể biết viết và đọc, trung bình tuổi thọ là 46.2 năm, thấp nhất trong bảy nước này. Tỷ lệ tử vong trẻ em sơ sanh là 147 phần 1,000, cao nhất trong 7 nước "Stans". Giòng họ vua Mohammad Zahir Shah đã cai trị xứ này mấy trăm năm qua, cho đến năm 1963, vị vua này muốn canh tân xứ sở để theo kịp các nước tây phương nên năm 1964, ông ta mời 452 vị bộ lạc trưởng, lãnh đạo tôn giáo và các nhà thông thái đến để thành lập một chính phủ Quân chủ lập hiến. Năm sau đó, một chính phủ lập hiến được thành hình tại thủ đô Kabul. Tuy nhiên, các vị bộ trưởng trong chính phủ bắt đầu chỉ trích chính phủ về hình thức cai trị theo chế độ quân chủ. Chính phủ khuyến khích đàn bà bỏ khăn che mặt và khăn trùm trên người (gọi là chadri), hiến pháp bảo đảm quyền bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà. Phái nữ được ghi danh theo học trường đại học tại Kabul với tài trợ của chính phủ Hoa Kỳ đồng thời cũng được ứng cử và bầu cử vào chính phủ.
Tiền viện trợ của cả Liên-Sô và Hoa kỳ được dùng để xây lại đường sá, các đập dẫn nước ở vùng thung lũng sông Helmand. Các giáo sư ngoại quốc đến từ Hoa-Kỳ, Liên-Sô, Pháp, Đức, các cơ quan thiện nguyện, phụng sự hòa bình cũng đến giúp dỡ về giáo dục, y khoa, khoa học, y tế, kế toán, v.v... để tái thiết xứ này.
Tuy nhiên, ở các vùng quê xa xôi hẻo lánh, chỉ 10% số người có thể biết đọc và viết, đường sá vẫn gặp nhiều trở ngại, điện thoại hay TV cũng chưa được biết tới, chỉ ở thủ đô Kabul hay một vài thành phố lớn.
Ở thủ đô Kabul, nội bộ trong chính phủ bắt đầu chia rẻ, chỉ trích nhau, không thống nhất để làm ra những luật lệ để thi hành. Đảng Cộng sản bắt đầu kêu gọi xuống đường biểu tình, dình công và đòi hỏi phải thay đổi chính phủ. Đảng bảo thủ bắt đầu không còn tin tưởng chính phủ đang cầm quyền.
Năm 1973, Daoud, một người em họ vua thuộc nhóm quá khích đảo chánh và truất phế vua Zahir Shah. Vị vua này phải bỏ xứ đến tị nạn tại Rome, Italy. Tự do, Daoud dẹp bỏ chế độ quân chủ đã có hơn mười năm qua cho đến năm 1978, đảng Cộng Sản lật đổ chính phủ của ông Daoud, được sự yểm trợ của chính phủ Mạc Tư Khoa. Ông Daoud đã bị nhóm này sát hại sau đó chính phủ độc tài Taliban lên nắm chính quyền. Chiến tranh đẫm máu kéo dài trong suốt 23 năm với 1.5 triệu người chết, trên 4 triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu dất. Đất đai không trồng trọt được vì mìn vẫn còn chôn rãi rác khắp nơi, thủ đô Kabul bị hư hại hầu hết, trường đại học nay chỉ còn lại đống gạch vụn, đường sá, cầu cống bị phá hủy.
Sau vụ khủng bố tại Mỹ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 vừa qua, chính phủ Mỹ đã tìm ra nhóm bảo trợ khủng bố của nhà triệu phú Saudi Arabia Osama bin Ladin được sự bảo chế của chính phủ Taliban. Vì vậy, quân đội Mỹ đã được ra lệnh đỗ bom, tấn công nhóm Osama bin Ladin và lật đổ chính phủ Taliban vào đầu năm 2002. Sau khi chính phủ Taliban bị lật đỗ, đàn bà được cho phép đi làm, đi học và được đi ra ngoài đường mà không cần phải đàn ông dẫn. Hiện nay, một chính phủ lâm thời được lập ra dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Trong tương lai sẽ có một chính phủ dân cử lập ra với nhiều thành phần đại diện của các nhóm và đảng phái. Ông Zahir Shah, vị vua cuối cùng bị lưu vong sau 29 năm nay cũng đã được hồi hương mời giữ chức vụ Cố Vấn tối cao cho Chính Phủ. Đây cũng là một tia sáng hy vọng cho dân tộc Afghanistan.
2. Kazakhstan.
Dân số khoảng 14.8-triệu người, thủ đô là Astana (trước năm 1997, thủ dô là Almaty). Diện tích nước này khá rộng khoảng 1,049,155 dặm vuông, gấp 4 lần nước Afghanistan. Nước này vẫn giữ liên hệ mật thiết với Nga Sô vì có chung biên giới dài 4,250 dặm.
Dân Kazakhstan có 60% nói tieng Russian, 40% nói tiếng Kazakh. Dân Kazakh chiếm 53% dân số, Russian 30%, Ukrainian 4%, các dân khác khoảng 13%. Đạo Muslim chiếm 47%, đạo Russian Orthodox 44%, Protestant 2%, con lai 7%. Tuổi thọ trung bình 63.3 năm, tỉ lệ tử vong trẻ em so sánh là 59 phần 1,000
Từ khi nước này đươc độc lập, các nước ngoại quốc đã bỏ ra $12 tỉ đô-la để kinh doanh, rieng năm 2000, dầu lửa bán được $5 tỉ đô-la. Đây là quốc gia có đất đai lớn nhất với diện tích lớn gấp 4 lần tiểu bang Texas và cũng là xứ giàu nhất trong 5 quốc gia được độc lập từ Liên-Sô. Số dầu lửa dự trữ trong vùng gần biển Caspian ước tính đến 17.6 tỉ thùng (barrels) so sánh vói Hoa kỳ có lượng dầu dự trữ là 22 tỉ thùng. Ngay cả Trung Cộng cũng gởi các công ty đến xứ này để kinh doanh. Các ống dẫn dầu khổng lồ được chuyển sang các nước Âu châu phải băng qua Nga Sô. Lượng khí đốt thiên nhiên (natural gas) cũng rất dồi dào nhưng cần phải có hệ thống để chuyển đi cung cấp các nước ngoài.
Tuy nhiên, mức sống người dân ở đây vẫn còn thấp, hầu hết tiền bán từ dầu hỏa phải chi phí cho các chương trình xây cất tại thủ đô Astana do Tổng Thống Nursultan Nazarbayev đưa ra. Số người thất nghi?p ở các thành phố lớn là 14%, các nơi khác lên dến 50%.
Tình trạng hối lộ ở đây là thường tình, hàng triệu đô-la thâu được do các công ty dầu hỏa Hoa Kỳ năm 1997 trả để được khai thác dầu đã gởi sang ngân hàng Thụy Sĩ bất hợp pháp. Ở đây, không được ai có quyền truy tố Tổng Thống, vì luật pháp bảo vệ Tổng Thống. Nếu có cơ quan báo chí nào viết bài tố cáo Tổng Thống là cơ sở sẽ bi tịch thu và đóng cửa.
Ông Nazarbayev trước đây là một cựu đảng viên cao cấp cuối cùng của Cộng Sản Liên-Sô tại xứ này và cũng là vị Tổng Thống đầu tiên từ khi được độc lập. Năm 1999, ông tái đắc cử một cách dễ dàng vị ứng cử viên đối lập bị cơ quan Tư Pháp của ông không cho phép tranh cử. Ông ta nắm quyền cả cơ quan Lập Pháp và Tư pháp theo kiểu Cộng Sản Lien-So. Tuy nhien, nguoi dan tuong doi it bi dan ap bang cac quoc gia lang gieng nhu Uzbekistan và Turkmenistan.
Trước thế kỷ thứ 17, các bộ lạc Turkic gồm các dân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn
Sống rải rác trong vùng này. Đầu thế kỷ 17 trở đi, người Russian bắt đầu di dân đến
Đ?n thập niên 1930s và 1940s, hàng chục ngàn người di dân đến vùng này vì sợ nhà độc tài Joseph Stalin sát hại trong đó có người Russian, German, Korean từ vùng Viễn Đông Lien-Sô đến.
Cũng giống như các nước Stans khác, trong giai đoạn này, các nhà lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô lúc nào cũng tìm cách tiêu diệt văn hóa cổ truyền địa phương. Họ cho đốt hết sách vở, giết hại các nhà lãnh tụ yêu nước hoặc gởi đi vùng kinh tế mới. Ngày nay, dân chúng nói rành tiếng Russian hơn là tiếng Turkic địa phương, nền kinh tế đư?c phát triển nhờ các mỏ dầu hỏa và khí đốt thiên nhiên, dân Kazakhs hy vọng một ngày gần đây đất nước họ sẽ có được một chính phủ dân chủ thật sự.
3. Kyrgyzstan.
Dân số khoảng 4.8-triệu người, thủ đô là Bishkek với diện tích rộng khoảng 76,641 dặm vuông. Ngôn ngữ chính là Kyrgyz và Russian. Dân gốc Kyrgyz chiếm 65% dân số, Russian chiếm 13%, các giống dân khác chiếm 8%. Khoảng 75% theo đạo Muslim, 20% theo đạo Russian Orthodox, các tôn giáo khác 5%. Tuổi thọ trung bình là 63.5 năm, tỉ lệ tử vong trẻ em so sánh là 77 phần 1,000.
Trong những năm dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản Liên-Sô, người dân xứ này bị cai trị rất gắt gao, không được đi học theo truyền thống của họ mà chỉ học theo chủ nghĩa Cộng Sản. Tuy nhiên, người dân xứ này vẫn luôn luôn chống đối, quyết giu những phong tục tập quán xưa, vì vậy bạo quyền Liên-Sô không đàn áp họ dễ dàng. Ở đây, có hai rặng núi Pamir và Tian Shan là nơi họ dùng làm căn cứ để chống lại chính sách cai trị của Liên-Sô, bảo vệ các tập quán xưa của họ.
Bị Liên-Sô chiếm vào năm 1876, đến năm 1936, Kyrgyzstan trở thành một tỉnh của Liên-Sô lấy thủ đô mới là Frunze. Đến năm 1991, dân Kyrgyz dời lại thủ đô cũ là Bishkek (có nghĩa là 5 hiệp sĩ). Câu chuyện huyền thoại cho rằng lúc xưa có 5 chàng hiệp sĩ đánh nhau để chiếm vùng này. Có khoảng 600,00 người Russian lập nghiệp ở đây, có trên 300,000 người đã trở lại Nga Sô vì công ăn việc làm ở đây rất khó khăn.Vào năm 1996, chính quyền Nga Sô muốn phát triển kinh tế tại vùng này nên chọn tiếng Russian là một ngôn ngữ chính thứ hai ngoài tiếng Kyrgyz.
Núi non hiểm trở là một trở ngại cho chính quyền địa phương, các nhóm du kích quá khích này đóng quân trong núi thường hay đụng độ với quân chính phủ địa phương. Tổng Thống Akayev bắt chước cách cai trị của chế độ Cộng Sản Liên-Sô, kiểm duyệt báo chí gắt gao, tìm cách loại bỏ các đảng chính trị đối lập, bỏ tù các phe chống đối muốn ra tranh cử. Năm 2000, ông ta trúng cử lại vì bầu cử gian lận, trao đổi cac thùng phiếu và hăm dọa các người dân đi bầu. Tuy nhiên, các nhà báo độc lập và các đảng đối lập vẫn còn sinh hoạt.
Chính phủ Akayev cố gắng nâng cao phát triển thị trường bằng cách thay đổi cách sản xuất hệ thống cũ của Liên-Sô và cho phép các tù nhân có thể mở các công ty kinh doanh. Tuy nhiên, số người có khả năng để kinh doanh rất nhỏ và chính phủ cần tiền để trang trải các chi phí quốc gia, tỉ lệ nhân công thất nghiệp khá cao, đồng tiền bị mất giá và vật giá tăng nhanh.
4. Pakistan:
Pakistan có một dân số khá đông, khoảng 144.6 triệu người, thủ đô là Islammabad với diện tích rộng 307,374 dặm vuông. Về ngôn ngữ, người dân nói tiếng Punjabi chiếm 58%, tiếng Sindhi 12%, tiếng Pashtu 8%, tiếng Urdu 8%, còn lại các tiếng khác chiếm 14%. Pakistan gồm các giống dân như Punjabi, Sindhi, Pashtun, Baluchi, Muhajir, người theo đạo Sunni Muslim chiếm 77%, đạo Shiite Muslim 20%, con lai 3%. Người Pakistan có tuổi thọ trung bình 61.5 tuổi. Tỉ lệ trẻ em tử vong so sánh là 81 phần 1,000. Dân số Pakistan chiếm khoảng 2 phần 3 tổng số dân của 7 nước Stan cộng lại và cũng là nước có dân theo đạo Muslim đứng thứ nhì trên thế giới sau nước Indonesia. Nền kinh tế cũng như giáo dục đang trên đà xuống dốc. Sau 54 năm từ ngày nước Pakistan được độc lập, có 4 lần bị quân đội đứng lên lật đổ chính quyền dân cử. Lần chót xảy ra vào tháng 10 năm 1999 Thủ Tướng dân cử Nawaz Sharif bị Tướng Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pervez Musharraf đảo chánh không đổ máu, và từ tháng 10 năm 2001 ông làm Tổng Thống của Pakistan cho đến nay. Trong những năm chiến tranh, súng đạn được nhập từ đổ vào xứ này đặc biệt là loại súng nói tiếng Kalashnikov. Các đảng phái chính trị, cảnh sát và dân chúng thường thanh toán lẫn nhau, gây nhiều xáo trộn tại thành phố Karachi với dân số 12 triệu người. Hai vị Thủ Tướng dân cư trước là bà Benazir Bhutto (con gái của Tổng Thống Bhutto) và Nawaz Sharif đều bị bệ hạ vì chính phủ của hai người này tham nhũng, bè phái và hối lộ.
Năm 1947, Pakistan là quê hương của người Muslim trong khối thuộc địa Anh. Pak theo tiếng Urdu, có nghĩa là tinh khiết, Pakistan là một xứ tinh khiết. Vùng Punjab chiếm khoảng 59% dân số là nơi lâu nay có nhiều ảnh hưởng về chính trị, người dân vùng này muốn trở thành một vùng tự trị của người Punjab. Pakistan có một lực lượng quân đội 620,000 người, đông nhất trong 7 nước Stan. Năm 1998, họ đã thử bom nguyên tử thành công thử thách với Ấn Độ sau khi Ấn Độ thử bom nguyên tử trước đó. Ngân sách quốc phòng chiếm 30% ngân sách quốc gia, về học vấn, chỉ 10% dân chúng được đi học, mặc dù 50% dân số 145 triệu ở lứa tuổi dưới 15. Các vùng quê, trẻ em không có điều kiện đi học. Hầu hết, các em bé trai được hàng ngàn gia đình gởi đi học tại các trường học gọi là madrasahs là nơi họ giáo dục cho trẻ em về đạo Muslim theo khuynh hướng cực đoan. Những trường học madrasahs này cũng dạy cho trẻ em thù ghét nước Mỹ, cho rằng những cuộc tấn công của Mỹ chống lại các nhóm Taliban và Osama bin Laden là một trong các chủ trương của người Mỹ chống người theo đạo Muslim. Nước Mỹ cũng đã một thời là nước bán đồng minh của Pakistan, và gần đây, hai quốc gia cũng đã hợp tác để chống lại các nhóm khủng bố sau vụ tấn công vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ. Họ đã cho phép quân đội Mỹ dùng lạnh thổ của họ làm căn cứ để tấn công chính phủ Taliban. Cũng nên biết là, trước vụ khủng bố này, Pakistan và Afghanistan là hai nước đồng minh, chính phủ Taliban của Afghanistan được sự ủng hộ của chính phủ Pakistan.
5. Tajikistan:
Dân số nước Tajikistan khoảng 6.6 triệu dân, thủ đô là Dushanbe với diện tích rộng 55,251 dặm vuông. Dân Tajikistan nói hai thứ tiếng Tajik và Russian. Dân gốc Tajik chiếm 65% dân số, dân Uzbek chiếm 25%, Russian 3%, con lai 7%. Người theo đạo Sunni Muslim chiếm 80%, đạo Shiite 5% và các đạo khác 7%. Tuổi thọ dân Tajikistan trung bình 64.2 năm, tỉ lệ tử vong trẻ em so sánh là 116 phần 1,000. Dân Tajikistan là một trong những nước nghèo nhất thế giới. 80% dân số có lợi tức dưới $17 đô la một tháng. Đặc biệt nền văn hóa và lịch sử của Tajikistan chịu ảnh hưởng của nước Iran.
Sau khi nước này được độc lập từ Liên-Sô năm 1991, cuộc nội chiến xảy ra làm gần 50,000 bị chết. Hầu hết những người nhân công có kinh nghiệm đều bỏ chạy sang các nước láng giềng, vì vậy người ta gọi nước Tijikistan là một nước khủng hoảng, dời sống dân Tajikistan sẽ còn tệ hại hơn nếu không có viện trợ. Một trong những thử thách của họ là đất đai. Núi non hiểm trở chiếm 93% lãnh thổ rộng gần bằng tiểu bang Arkansas. Khoảng 6% đất đai được trồng cây bông cotton là nghề trồng trọt chính của họ.
Tại thủ đô Dushanbe thường hay có những vụ bom nổ khủng bố hay bắn nhau giữa các đảng phái chính trị tranh chấp hay trả thù lẫn nhau cho đến năm 1997 mới có hiệp ước ngừng bắn. Những phe tranh chấp nhau là các nhóm du kích Cộng Sản, nhóm dân Tajik, nhóm Islamic và những người xung hùng xưng bá địa phương. Năm 1994, vị Tổng Thống được bầu lên là ông Imomali Rakhmonov, mà bè phái dưới quyền ông ta là những tay buôn lậu chuyên bạch phiến từ Afghanistan đến. Afghanistan là nước đứng đầu thế giới sản xuất về bạch phiến.
Kỹ nghệ lớn nhất ở đây là ngành sản xuất Aluminum (nhôm) do Liên-Sô xây cất nhưng vẫn còn thiếu nợ hơn 120 triệu Mỹ Kim. Nhờ có những thác nước nên các đập thủy điện cung cấp đủ điện lực cho cả nước. Với hoàn cảnh trên, tương lai dân xứ này không mấy sáng sủa, nghèo vẫn là nghèo.
6. Turkmenistan:
Dân số nước Turkmenistan khoảng 4.6-triệu người, thủ đô là Asgabat với diện tích rộng 188,456 dặm vuông. Dân chúng nói tiếng Turmen chiếm 72%, tiếng Russian 12%, tiếng Uzbek 9%, các thứ tiếng khác 7%. Dân gốc Turkmen chiếm 77% dân số, gốc Uzbek chiếm 9%, gốc Russian chiếm 7%, gốc Kazakh chiếm 2%, các giống dân khác chiếm 5%. Người theo đạo Muslim chiếm 89%, đạo Eastern Orthodox 9%, các tôn giáo khác 2%. Tuổi thọ trung bình là 61 năm, tỷ lệ tử vong trẻ em so sánh là 73 phần 1,000. Nước Turkmenistan là một vùng có chứa dầu lửa và khí đốt thiên nhiên bao la. Từ ngày được độc lập cách đây 10 năm, người dân xứ này không tránh khỏi vấn đề kinh tế bị khủng hoảng trầm trọng và bị cai trị bởi một chính quyền độc tài theo kiểu Cộng Sản Sô Việt.
Vị Tổng Thống suốt đời Saparmurat Niyazov là vị lãnh tụ của đảng Cộng Sản trước khi chế độ Cộng Sản Liên-Sô bị sụp đổ. Hiện nay đảng này đổi tên là đảng Dân Chủ nhưng chỉ có một đảng duy nhất. Những người đối lập thường hay bị bắt bỏ và tù tội. Các cơ quan báo chí bi kiểm duyệt rất chặt chẽ. Chỉ có hệ thống Internet duy nhất của chính phủ lấy tên là Turmen Telecom thường xuyên bị kiểm soát các tin tức trên mạng lưới.
Trong cuộc bầu cử Tổng Thống vào năm 1992 ông Niyazov là vị ứng cử viên độc nhất trúng cử, là cuộc bầu cử đầu tiên từ khi nước này được độc lập. Cơ quan Lập Pháp cho phép Tổng Thống Niyazov được làm Tổng Thống vĩnh viễn. Tổng Thống Niyazov muốn được người dân kêu ông ta là Turkmenbashi nghĩa là vị Lãnh Tụ của dân Turkmen. Hình ông ta dược in trên từ giấy bạc cho đến trên các chai rượu Volka sản xuất nội địa. Phi trường chính đuợc lấy tên của ông ta, ngay cả một thành phố nằm trên vùng biển Caspian cũng mang tên ông.
Turkmenbashi hay là "vị Lãnh Tụ của dân Turkmen" muốn chính phủ ở một vị trí trung lập vì nước Turkmenistan hy vọng sẽ bán cho các nước láng giềng khí đốt thiên nhiên và dầu lửa. Xứ này đứng hàng thứ năm trên thế giới về lượng dự trữ khí đốt thiên nhiên. Iran mua khí đốt thiên nhiên từ năm 1998, còn lại được bán qua Ukraine và các nước thuộc địa cũ của Liên-Sô. Hàng năm số lượng nhiên liệu bán được khoảng $600 triệu đô la, nhưng vẫn bị thiếu hụt con số mà Tổng Thống Niyazov đã hứa với dân chúng là sẽ biến nước này thành một nước " Kuwait của vùng Trung Á" mà người dân sẽ được ăn bánh mì không tốn tiền và mỗi gia đình sẽ có một chiếc xe hơi Mercedes.
Mặc dầu ngân sách chính phủ thiếu hụt, Tổng Thống Niyazov đã cho xây cất một dinh Tổng Thống làm toàn bằng đá hoa cương tại thủ đô Ashgabat. Ở vùng ngoại ô ông cho xây cất 30 khách sạn đồ sộ nhưng ít khi nào sử dụng để đón tiếp ai. Vì vậy, hiện nay chính phủ thiếu nợ gần $ 2.3 tỉ đô la.
Trung bình người dân kiếm được khoảng $30 đô la một tháng. Có những gia đình may mắn lắm mới sắm được chiếc xe cũ kỹ hiệu Volga của Russian. Gần nửa dân số xứ này làm nghề nông, như nghề trồng cây cotton hiện nay vẫn canh tác bằng tay chân.
7. Uzbekistan.
Dân số nước Uzbekistan khoảng 25.2-triệu người, thủ đô là Tashkent với diện tích rộng 172,742 dặm vuông. Chỉ có thành phố này trong 7 nước Stans có hệ thống xe điện ngầm. Người dân nói tiếng Uzbek chiếm 74%, tiếng Russian chiếm 14%, tiếng Tajik 4%, các tiếng khác chiếm 8%. Dân gốc Uzbek chiếm 80% dân số, dân gốc Russian chiếm 6%, dân gốc Tajik chiếm 5%, dân gốc Kazakh chiếm 3%, các giống dân khác chiếm 6%. Người theo đạo Muslim chiếm 88%, đạo Eastern Orthodox chiếm 9%, các tôn giáo khác chiếm 3%. Tỷ lệ mù chữ tại xứ này lên đến 99%, là nước có độ mù chữ cao nhất trong 7 nước Stans. Tuổi thọ trung bình là 63.8 năm, tỷ lệ tử vong trẻ em so sánh là 72 phần 1,000.
Người theo đạo Muslim ở đây thường bị chính phủ để ý đến vì có những nhóm bạo động theo đạo Muslim thường hay thực hiện các vụ khủng bố tại thủ đô Tashkent. Vào năm 1999, một cuộc mưu sát hụt Tổng Thống Islam Kaimov và các cuộc tấn công tàn phá nông trại phì nhiêu thuộc thung lũng Fargana. Lực lượng này có cả hàng ngàn du kích tự xưng là Islamic Party of Turkistan. Đây là lý do mà chính phủ Uzbek có một chính sách cai trị rất gắt gao.
Như những nước láng giềng gốc Kazakh, Uzbeks thuộc giống dân Turkic, thuộc co chau Genghis Khan (Thành Cát Tư Hãn), họ tự hào là từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, các thành phố Samarqand, Bukhara và Khiva nổi tiếng về các bộ môn thơ văn, toán học vả thiên văn học. Vị "Anh Hùng áo vải" vùng đất Samarqand được xem là vị anh hùng dân tộc đã chinh phục và trị vì một lãnh thổ trải dài từ Persian đến Ấn Độ.
Canh nông là ngành quan trọng nhất của xứ này, nghề trồng cây cotton đứng hàng đầu trong những năm còn chế độ Cộng Sản Liên-Sô. Chính phủ chỉ định cho dân những loại cây phải được trồng trọt và canh tác, sau đó chính phủ mua lại với một giá rẻ. Gần một nửa dân số 25 triệu người là trẻ em dưới 18 nhưng hầu hết các trẻ em có một trình độ học vấn tối thiểu nhờ hệ thống cưỡng bách giáo dục của chế độ Liên-Sô cũ. Tuy nhiên, công ăn việc làm rất khó tìm nên dễ tạo nên các nhóm bạo động Muslim. Mot vien chuc chính phủ Hoa Kỳ nói rằng: "Những người thất nghiệp này thường qua Pakistan để học về tôn giáo Muslim (nơi đó có nhiều người lãnh đạo Taliban dạy dỗ) và họ học về sách Koran để biết thêm về cách sử dụng loại súng Kalashnikovs (loại súng mà hiện nay rất thông dụng tại vùng này)".
Nguyễn Thanh Bình Jume 10, 2002
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:08:11 GMT 9
BẠN BIẾT GÌ XỨ MIẾN ĐIỆN?
Người thứ Chín biên soạn
Xứ này nhìn những hình ảnh trong sách hình chúng ta tưởng rằng đây là xứ Cambodge láng giềng của Việt Nam. Cũng hình ảnh giòng sông, cây dừa và chiếc xe bò đi chậm rãi ở nông thôn. Nông dân quấn xà rông ở trần, miệng ngậm điếu thuốc rê.
Còn những người dân sơn cước thì tay chân xâm mình khắp nơi.
Thành thử những nhà nhân chủng học thế giới xếp hạng dân Việt là chung với giống tộc Malay hay Indonesia và Người Hoa cũng không lấy gì sai quấy. Nên nhớ đến đời vua Trần (đời chót) thì dân Việt mới bỏ tập tục xâm mình xanh nghẹt lưng, vai, đùi.
Tại sao chúng ta lại nói đến xứ này?
Sau khi chính phủ quân phiệt Miến thả Bà Chánh trị gia nổi tiếng thế giới là bà Daw Aung San Suu Kyl sau nhiều năm giam lỏng bà trong nhàThì ngôi sao xứ Miến được thế giới chú ý rất nhiều.
Xứ Miến Điện đổi tên và đổi tên thành phố một vài lần. Ngày xưa Miến có hoàng triều được xây dựng tại Bagan, Inwa và Mandalay. Ngon núi cao nhất là Hkakabo Razi (cao gần 6 km = 19300 feet). Hướng Bắc nối với Trung Hoa, hướng Đông là Laos và Thailand. Lãnh thổ rộng gần 700 ngàn cây số vuông. Xứ Miến có sông dài nhất là là sông Thanlwin, chảy từ Hymalayas và trút vào vịnh Mottama. Nhìn nơi xa một đồng lúa xanh thẵm và có nước lấp xấp, có tre và vài cánh diều bay cao của trẻ em mục đồng thì chúng ta thấy rất gần với miền nam Nước Việt nhất, hơn là bên Laos và bên Kampuchea. Rừng rậm có voi và nhiều loại chim to bự nhiều màu sặc sở.
Nhiều nhà khảo cổ họ cho rằng đất đai xứ Myanmar có người cư ngụ vào thời tiền sử khoảng 11 ngàn năm trở lại. Theo sử ký của nhà Tần (Tang Dynasty) thì có một giống dân gọi là Pyu, họ nói ngôn ngữ trộn lẫn tiếng Tây Tạng và Miến bây giờ, lập triều đình gần khu vực Ayeyarwady khoảng thế kỷ thứ 1 và đến thế kỷ thứ 8 thì tàn lụi mất. Giống tộc này xây rất nhiều chùa to lớn nay đã hoang tàn đổ nát theo thời gian. này Trong khi đó hướng Nam thì có một giống tộc người Úc-Á (Austro- Asian) mà người ta gọi là tộc Mon. Nhóm tộc này phát triển về hướng Đông Nam vànguoì ta thấy có vài dấu vết liên hệ đến một số sắc tộc Miền Nam nưóc Việt (mà người ta có thể gọi là Mon-Khmer). Đến thế kỷ thứ 9, thì nhóm người ta có thể gọi là Mabar (hay Burmans) một nhánh tộc từ sắc dân Pyu mạnh lên, tộc này lập thành phố Bagan tên là Halingyi thì thời gian ngắn sau đó có một nhóm tộc người xuất phát từ Nanchao (bây giờ là Yunan hay Vân Nam cũng thế) đến tấn công và chiếm lãnh giang sơn cùng thành phố này. Như vậy từ đây giống Bamar trộn lẫn với giống Yunan mà thành lập ra nhóm Myanmar bây giờ.
Nhưng thực tế thì hơi khác nhiều. Khoảng năm 849 A.D Kinh đô đầu tiên là Bagan. Năm 1044 Vua Anawrahta đánh bại nhóm tộc Mon năm 1057 và thống nhất san hà thành một nước duy nhất dưới sự kiểm soát từ kinh đô Bagan. Kéo dài đến thế kỷ 13 thì đạo quân Mông cổ Mongol đến đánh tan xứ này, rồi xứ này rối loạn từ đó. Xứ này chia ra làm hai khu vực: khu vực Mon và khu vực Shan (bạn nên nhớ lại vua Á phien nổi danh thế giới là Khungsha, bị Hoa Kỳ treo giá mạng sống, nay ông quy hàng với chánh phủ Tháilan và dâng tặng rất nhiều tiền lên đến vài tỉ để Bangkok Tháilan cho ông sống yên lành. Ông này thuộc nhóm tộc Shan từng tử chiến hàng trăm năm với tộc Mon ngày nay). Tộc Shan bị bại đành phải chạy lên núi rừng âm u giáp với Vân Nam Trung Hoa lập quốc tại thủ đô Inwar (như nước Việt ngày xưa có tộc mang họ Nùng trí Cao chiếm lãnh biên giới Việt Hoa một thời gian khá dài mà triều đình vua Việt tại Thăng Long không làm gì được). Năm 1531 dưới quyền vua Tabinshweti lập triều đình mang tên Toungoo. Vua này thống nhất đánh bại tộc Shan từ miền Bắc và tọc Mon miền Nam. Với sự trợ giúp của nước ngoại quốc là Bồ đào Nha (Portuguese) (thật sự là do nhóm con buôn Bồ đào Nha có súng đạn và pháo binh mạnh y như nước Việt chúng ta cũng bị nhóm Bồ đào Nha, Pháp đến tranh giành ảnh hưởng thời Trịnh Nguyễn vậy.) Vua này bắt đầu xâm lăng xứ Tháilan (trước đó gọi là Siamese). Năm 1635 thì tiêu diệt được tộc Shan và vua này liền dời đô lên Inwar của Shan mà cai trị. Năm 1752 thì tộc Mon mạnh lên đánh hạ được thành Inwar, cáo chung triều đình Burmese đời thứ hai này. Nhưng cũng trong năm đó có một tù trưởng tên Aung Zeya khởi nghĩa chống lại tộc Mon và lập triều đình tên là Konbaung. (Đến đây bạn thấy nghe tên quen quen là Aung Zeya vì ngày nay bà nữ tướng lừng danh thiên hạ, bị chánh phủ quân phiệt cấm cung Bà gần chục năm trời và Bà tên là "Aw Aung San Suu Kyi".) Như vậy chúng tôi đi khá xa vòng vo tam quốc thì bạn thấy một phần nào lịch sử khá phức tạp của nước Miến Điện này rồi phải không?
Năm 1824 lúc này Anh quốc đang cai trị xứ Ấn, sau đó quân đội Anh vào chiếm xứ Miến Điện, nhiều trận đánh xảy ra. Sau cùng năm 1885 Anh quốc hoàn toàn làm chủ tình hình, dẹp ngai vàng triều đại Konbaung. Vua Thibaw và hoàng hậu Supayalat bị đày sang một vùng núi non hoang vắng bên Ấn. Quân đội Anh đặt tên là "Burma", xem nước này như một phiên quốc trực thuộc Ấn. Nhiều cuộc cách mạng nổi lên, nhưng đều bị dẹp tan dễ dàng. Năm 1930, một nhà sư tốt nghiệp Bác sĩ tên là "Saya San" khởi nghĩa, Anh quốc vất vả đến 2 năm mới dẹp tan. Năm 1935 một Hội được thành lập mang tên "Dobama Asiayone" (nghĩa là Dân tộc Miến Hiệp Hội) những hội viên hội này gọi nhau bằng danh từ "thakin" (bạn hữu) (y như Cộng Sản gọi là Đồng Chí vậy.)
Năm 1940, một thanh niên nhiều nhiệt huyết bí mật sang Nhật mà học hỏi (y như chúng ta có Đông Kinh Nghĩa Thục vậy). Anh tên "Aung San". Trở về xứ bí mật thành lập một đoàn quân giải phóng Miến mang tên là "Burma Independence Army" (gọi tắt là BIA). Năm 1941 thì quân Nhật bí mật đến giúp đoàn quân này. Aung San được đề cử lên làm Tổng Tham Mưu Trưởng đoàn quân BIA. Trong năm đó Nhật đánh tan đạo quân Anh chiếm đóng tại xứ Miến. Năm 1943 quân Nhật cho xứ Miến được độc lập trên giấy tờ. (Bạn còn nhớ phim nổi danh thế giới là Cầu Sông Kwai hay không? The Bridge of River Kwai). Với sự cai trị tàn ác của Nhật, nên nhóm lãnh tụ đoàn quân BIA này liền trở cờ, bí mật hợp tác với quân Anh đang còn mạnh tại Ấn.
Nhật thua và năm 1945 thì đoàn quân BIA này ca khúc khải hoàn. Thủ lãnh Aung San ráng điều đình với Đế quốc Anh để cho xứ này được độc lập.
Chuyện gần xong thì thủ lãnh Aung Sang bị nhóm đối lập ám sát chết năm 1948. Y như miền Nam Việt Nam vậy, thủ lãnh đoàn quân Hòa Hão là Huỳnh phú Sổ bị Việt Minh hay nôm na là Cộng Sản Hà Nội cho người ám sát chết.
Mayanmar, vào ngày 4 tháng Giêng năm 1948 được độc lập. Nhưng nội bộ tranh dành ghế mà xảy ra nhiều vụ ám sát. Tổng tuyển cử đầu tiên vào năm 1951 thí đảng AFPFL thắng (AFPFL = The Anti-Facist People’s Freedom League). Đảng này cũng thuộc một cánh ngoại vị của Aung San. Nhưng đảng trưởng chết thì Đảng này bị tách ra làm hai. Và từ đó nội chiến xảy ra trên toàn lãnh thổ Miến. Vùng núi rừng thì thuộc đãng này, còn đồng bằng thì thuộc đảng kia. Dĩ nhiên có bàn tay bí mật trợ giúp của Trung Cộng là cái chắc. Năm 1962, tướng Ne Win làm cú đảo chánh, lật đổ chánh phủ, tướng này bắt giam Thủ tướng U Nu cùng Nội Các mà giam hết vào tù.
Tướng Ne Win lập ra Hội đồng Chấp Chánh, và Quốc Hữu Hóa toàn thể những nhà máy lớn. Nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ quân đội độc tài xảy ra triền miên từ thành thị đến thôn quê. Kéo dài từ 1980 đến 1988 làm tình hình kinh tế xứ Miến này xuống bờ vực thẳm. Tướng Saw Maung lật đổ chính phủ quân đội của tướng Ne Win, tên này còn tàn ác hơn tên trước gấp chục lần hơn. Nhiều trăm nhà tù mọc lên khắp nơi. Và quân đội là Cha mẹ của dân tộc Miến. Tên này ra lệnh bắn bỏ những người biểu tình đòi chiến tranh. Nhiều học sinh bị bắn chết trước sân trường khi tập họp đòi tự do, nhiều tu sĩ áo cà sa vàng bị bắn chết luôn. Tên này cùng các tướng lãnh lập ra Nội các và ban hành nhiều lệnh Thiết quân Luật. Từ nay dân Miến được xử theo luật rừng của nhóm võ biền vô học này. Năm 1990 có một đảng mang tên NLD (National League for Democracy) do bà Aung San Suu Kyi thắng cữ vẻ vang trong trận bầu cử chọn Tổng thống. Toàn dân Miến đều bỏ phiếu hết cho Bà này. Ghế Tổng thống vào tay Bà Aung San Suu Kyithì tên võ biền vô học Tướng Saw Maung và bộ hạ cho xe tăng và quân đội đến bắt giam bà. Họ lập ra một Tòa Án mang danh là "Xử tội kẻ phản quốc" (Lý do chồng Bà là một người Anh). Dân chúng biểu tình kinh khủng và Liên hiệp Quốc nhảy vào can thiệp. Nhóm võ biền vô học này đành nhượng bộ, bỏ án tử hình mà chuyển thành án giam lỏng bà Aung San Suu Kyi tại nhà riêng của Bà.
Hiện nay xứ Mayanmar vẫn còn hành xử luật rừng thiết quân luật của nhóm võ biền vô học này từ năm 1988. Luật pháp, Hành Pháp đều nằm trong tay những tên này. Hiện nay thủ lãnh nắm quyền vận mệnh đất nước là tướng Than Swe. Tên này trước xuất thân là một lính dõng gác đồn cho Nhật tại biên giới Miến- Ấn. Lên làm Quốc Trưởng Miến Điện và đồng thời kiêm nhiệm luôn chức vụ Thủ tướng và Chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Quân đội Miến tên là "Tatmadaw" hiện nay đông và mạnh sau Việt Nam. Chia xứ Miến ra làm 12 Quân Khu. Dưới tay có đến 23 Ban An Ninh Quân Đội ngày đêm canh chừng dân Miến. Quyền hạn Ban này rất rộng hơn quyền hạn ban Mật Vụ thời Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam VN, tương tự như Bộ Công An của CSBV tại Hà Nội vậy.
Trên giấy tờ thì xứ Miến được chia ra làm 7 Phân Khu và 7 Bang.
Xứ Mayanmar là xứ rất nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn Ấn Độ gấp chục lần. Có nhiều mỏ đồng, chì, kẽm, thiếc, đặc biệt là tungsten (loại làm tiêm bóng đèn điện). Có rất nhiều mỏ dầu ngoài khơi lẫn nội địa. Riêng Thượng đế ban cho Miến một bảo vật mà không cứ nào có: đó là Cẩm Thạch (Jade). Cẩm thạch Miến tốt hơn nhiều cẩm thạch giả mạo của Trung Hoa và Tháilan. Miến có nhiều loại gỗ tốt nhất thế giới. Loại gỗ gọi là "pyinkado" (tục gọi là Burmese ironwood). Cưa rất khó và chôn dưới đất thì trọn đời không bị mối mọt, trong khi đó sắt chôn dưới đất thì vài chục năm thì bị rỉ sét hư hỏng hoàn toàn. (Tuong tụ như gỗ Cẩm Lai của VN vậy). Riêng Miến có loại Tre xanh mà thân tre đến 3 người ôm mới giáp vòng hết.
Chủng tộc khác biệt về ngôn ngữ và tánh tình. Chủng tộc: Shan lớn nhất trong chủng tộc Miến. Nhiều chủng tộc nhỏ như: Padaung, Intha, Danu, Paulung. Ngôn ngữ là T’ai (phát âm gần gióng như xứ Laos và Tháilan vậy) (Bạn còn nhớ trên Ban Mê Thuột có một bộ tộc người Thượng mà chúng tôi quên tên rồi. Bộ tộc này khi nói chuyện với nhau có lần một sĩ quan Indonesia trong Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên lúc còn Miền Nam Cộng Hòa. Vị sĩ quan này khi gặp bộ tộc này thì nói tiếng Indonesia thì hai bên hiểu nhau hoàn toàn. Thành thử người Pháp gọi Việt Nam là: Indochinese là có phần nào đúng sự thật vậy).
Kế đó là bộ tộc Kayin, có nhiều phụ nhánh. Đa số bộ tộc này theo đạo Công Giáo.
Sau cùng là bộ tộc Mon. Tiếng nói thì những bộ tộc vùng Vân Nam và cực bắc thượng du Bắc Việt hiểu được gần hết.
Bộ tộc này có thời kỳ oanh liệt như nói phần trên.
Nếu bạn có dịp đi du lịch thì bạn sẽ thấy một bộ tộc kỳ lạ tên là Padaung. Đàn bà được tròng cái niếng từ lúc còn bé gái. Mỗi năm tăng một vòng. Và như vậy khi được 30 tuổi thì cần cổ phụ nữ này dài kinh khủng. Nếu tháo vòng ra hết thì xương cần cổ sẽ gãy đôi vì quá dài chịu không nổi sức nặng của cái đầu.
Người Miến còn giữ được một phong tục rất tốt là vô cùng kính trọng người lớn tuổi. Những người già và những vị sư thường được dân chúng rất kính trọng. Chào kính rất lễ phép. Người Miến rất kỵ ôm nhau, bắt tay là một chuyện bắt buộc mà thôi. Nhưng họ rất có lòng thương người hơn người Ấn hay người Thái.
Gia đình thường ở chung với nhau thuận hòa. Ông Nội, Cha và Con ở chung là chuyện thường. Trai gái ngũ khác phòng với nhau.
Có nghĩa là phong tục tốt của người Á Đông còn giữ rất kỷ nơi dân tộc Miến này. Người chồng được xem là chủ chốt trong gia đình. Nhưng kỳ lạ là người dàn bà cũng rất được tôn trọng. Nếu người vợ mà biết chồng xấu và muốn ly dị, thì người vợ đội một lá đơn đến nhà một người trưởng lão trong làng. Người này thường được xem như vị tộc trưởng. Nếu các vị bô lão xét thấy đơn yêu cầu này có lý, thì các vị trưởng lão đồng ý cho người vợ ly dị. Tiền của cải thì người vợ được nhiều hơn người chồng. Vì trước khi về nhà chồng, người vợ thường được của hồi môn của cha mẹ cho rất nhiều. Như vậy có nhiều ông chồng thuộc diện "Cà Chớn" thì khi bị ly dị là trắng tay ngay. Rồi từ đấy cuộc đời đầy phong ba bão táp tới liền. Không ai dám lấy hết.
Ngày nay Nam Nữ bình quyền. Phụ nữ thường gặp làm nghề Bác sĩ, luật sư và các đại học có rất nhiều phụ nữ ghi danh đi học.
Nói tóm lại tuy dưới quyền của các tướng lãnh, nhưng xã hội Miến vẫn còn tốt so hơn nhiều xã hội Tây Phương. Dân vẫn được nhiều tự do, trẻ em được học hành đến nơi đến chốn. Dân không bao giờ sợ đói.
Nếu so với chứng bệnh Thời đại là Aids / Sida hay HIV thì xứ Miến này chưa có nhiều như xứ Việt Nam chúng ta. Vì dân chúng rất ngại giao thiệp với người ngoại quốc da trắng.
Nếu chọn xã hội tại một thành phố Miến so với xã hội của New York thì chúng tôi chọn xã hội Miến hơn. Tại thành phố New York, về đêm rất ít ai dám ra ngoài đường lang thang một mình. Tội ác xảy ra rất nhiều như cơm bữa tại thành phố New York hay Manhattan cũng thế.
Ngôn ngữ của Miến là ngôn ngữ thuộc dạng "Sino-Tibetan". Chữ viết Miến ngày nay nhập từ giống dân Mon mà có thời đại huy hoàng lan đến Cmabodge và Nam Việt là Mon-Khmer. Chữ viết tượng dạng Pali bên Ấn độ có thể đọc và hiểu dễ dang với các nhà sư thuộc phai Áo Vàng Tiểu thừa Theravada.
Miến điện có nhà văn Nữ mang tên "Ma Ma Lay" (1917-1982). Bà viết rất nhiều truyện có chân thực gía trị hơn hẳn nhà văn Nữ của Đài Loan là Quỳnh Dao. Sách bà viết nhiều thể loại và có sự xây dựng hơn nhà văn Quỳnh Dao đầy bệnh tật trong mỗi quyển truyện. Năm 1980 bà được Tokyo chọn là nhà văn Nữ hay nhất Á Đông với quyển sách mang tên “Thwei” (Blood) được dịch ra nhiều thứ tiếng kể tiếng Nhật.
Miến nổi tiếng với nghệ thuật múa rối nhập từ Jakarta (Indonesia) sang. Người con gái Miến khi dự lễ thường ăn mặc nhìn xa như một áo dài Việt Nam ngắn vậy và quận một xiêm xàrong rất khéo. Áo dài ngắn lưng này vẫn có tà áo tay "raglang" cắt và may rất khéo như áo dài Việt Nam có hai cái đuôi bay phấp phới vậy.
Âm nhạc cổ truyền thì nhiều chuông trống và đờn nhiều dây như đờn tỳbà vậy.
Những con nít Miến rất thích chơi với nhau từ ba người đến bốn người, xử dụng thuần nhuyễn đôi bàn tay như con nít Việt Nam chơi đánh tù tì vậy. Và môn chơi mà con nít thích nhất là dùng bàn tay mà giả dạng loài chim, như gà bay nhảy làm sao, chim công múa hay chim câu bay làm sao tất cả phãi làm bằng hai bàn tay càng giống loài chim thì càng tốt. Dân tộc Miến giống như dân tộc Miền Nam VN là thích đá gà. Họ chọi gà ăn thua rất lớn. Chân gà chọi thường có mang dao nhọn.
Ngày lễ thì có lễ nước lên là tạt nước y như bên Tháilan hay Cambodge vậy.
Vào tháng 9 thì có lễ rất vui là Lễ Lồng Đèn y như bên Hội An tại miền Trung Việt Nam vậy. Nhà nhà đua nhau chưng đèn đủ màu sắc như Tết Trung Thu vậy.
Đa số dân Miến Điện ăn bốc bằng bàn tay. Tay trái bưng dĩa cơm và thức ăn, tay mặt thì bốc thức ăn vào miệng rất khéo léo còn không quen thì đỗ tràn ra đất hết. Dùng nhiều chất cay như bột càry và dùng nước mắm chắm thức ăn như xứ Đông Nam Á vậy.
Vì bị kềm hãm bởi quân phiệt cai trị, nên xứ Miến hàng chục năm trước vẫn y như vậy. Xe đò thì cũ kỷ và nhiều người đeo đánh đu ngang hông xe. Vì ít xe nnên ít xảy ra tai nạn. Trên sông thì người ta tận dụng đò ngang hay đò dọc loại ghe như tắc ráng dài lườn, chở đến 15 người và chạy bay bay trên mặt nước.
Giống dân thuộc sơn cước thì vẫn như giống dân người Thượng của chúng ta. Ở nhà sàn và bếp lò nấu trong nhà sát bên chiếc chiếu ngủ. Người Akha thì ngôn ngữ giống như người Khả lá Vàng của miền Trung Châu nước Việt gần đèo Mụ Già miền Trung vậy (quý bạn nên đọc sách Nguồn gốc dân tộc Việt của Bình nguyên Lộc có rất nhiều phần trúng trong người Akha của Miến Điện này.)
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:09:17 GMT 9
ĐỨC DALAI LAMA ĐANG ĐỐI DIỆN TRƯỚC MỘT THỰC TẾ MỚI
By lewis M.Simons Photographs by steve Mc Curry Phong Thu chuyển ngữ
L.T.S: Đức Dalai Lama, nhà lãnh đạo tinh thần của đất nước Tây Tạng, Ngài mang một sứ mệnh cao cả là suốt một đời lưu vong đã không ngừng tranh đấu cho một đất nước Tây Tạng được độc lập, tự do, dân chủ và thoát khỏi vòng kiềm toả của Trung Cộng. Ngài có ảnh hưởng rất sâu đậm trong tâm linh người dân Tây Tạng về đức độ, lòng dũng cảm, bền chí, sự thông minh mẫn cảm và tình yêu quê hương nồng nàn. Ngài là người được nhân dân Tây Tạng và thế giới tôn kính và xem như một vị thánh. Việt Nam chưa có một Gandi như Aán Độ và không có một Dalai Lama như người Tây Tạng để cho nhân dân Việt Nam. Do đó, tất cả những ai muốn trở thành lãnh tụ của quần chúng thì hãy nhìn tấm gương sáng chói của Gandi và Dalai Lama để soi lại tư tưởng, đạo đức, thu phục nhân tâm để tìm một phương pháp tối ưu cho hoàn cảnh đấu tranh cho một đất nước VN tự do, dân chủ, phú cường.
Đã hơn nữa thế kỷ bền bỉ đấu tranh cho đất nước Tây Tạng thoát khỏi sự thống trị của Trung Cộng, hơn ai hết, Đức Dalai Lama hiểu rằng đó là đều vô vọng không bao giờ xảy ra. Ngài nhận ra điều nầy một cách chắc chắn, rõ ràng. Ngài chỉ còn nuôi dưỡng ôm ấp một niềm hy vọng duy nhất là khi Giang Trạch Dân, người lãnh đạo Trung Cộng qua đời, những người kế tiếp ông Giang Trạch Dân sẽ quan tâm đến việc trả lại quyền tự trị cho người Tây Tạng.
Đến viếng thăm Taiwan, bạn sẽ nhận ra rằng hầu như tất cả nền văn hoá, con người Trung Quốc dù là cộng sản hay tư bản đều xem Tây Tạng là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. "Tất cả những người Trung Quốc, ngay cả những người tôi gặp họ tại Taiwan và cả những người đã và đang được giáo dục tại Hoa Kỳ vẫn nghĩ rằng Tây Tạng là một phần của lãnh thổ Trung Quốc". Ngài đã tâm sự với tôi trong một ngôi biệt thự xây bằng gạch sang trọng, đó là nơi Ngài đang ở và cũng là văn phòng Ngài làm việc ở tại Dharmsala, một thành phố du lịch, buôn bán sầm uất và nổi tiếng dưới chân núi Hi Mã Lạp Sơn của Ấn Độ.
Hiện nay, Đức Dalai Lama chỉ còn một niềm hy vọng duy nhất là mong cho thế hệ kế tiếp của Trung Cộng sẽ chấp nhận nhượng lại một số quyền tự trị cho người đất Tây Tạng mà họ đã ký kết vào năm 1965. Ngài tin tưởng sự mở rộng nền kinh tế thị trường của Trung Cộng sẽ giúp cho Trung Cộng biết tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng cũng giống như người Trung Quốc. Ngài nói: "Trung Cộng mở rộng kinh tế thị trường và sẽ phải đi theo trào lưu phát triển của thế giới dù họ có muốn hay không".
Trong lúc đó, có nhiều người phản đối những ý kiến của Ngài và cho rằng đó một tư tưởng không đúng với thực tế. Chỉ có duy nhất một bàn tay của Ngài làm thế nào có thể xoay chuyển được tình hình chính trị đen tối tại Tây Tạng như hiện nay. Mặc khác, đối với người Trung Cộng, không có ai giúp đỡ, hay ủng hộ một nhóm nhỏ đấu tranh chống lại chính quyền Trung Cộng để giành lại quyền tự trị cho nhân dân Tây Tạng. Cũng như Hoa Kỳ, hầu hết các nước trên thế giới họ đều chọn con đường là tránh xen vào nội bộ của những nước khác trong khi Đức Dalai Lama yêu cầu nhà cầm quyền Trung Cộng tôn trọng nhân quyền ở Tây Tạng, bao gồm quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo cho các nhà sư và tăng ni Phật Tử.
Ngài chỉ mong muốn cho tình hình của người dân Tây Tạng được cải thiện tốt hơn, Đức Dalai Lama đã từng đến viếng thăm tu viện Tashi Lhumpo ở phía Nam nước Ấn Độ, là nơi Ngài lưu lại một thời gian khá lâu. Đức Dalai Lama là người đã được chọn trao giải thưởng Nobel Hoà Bình, Ngài là một nhà diễn thuyết trước công chúng, là nhà văn, và là nhà lãnh đạo tinh thần, nhà của Ngài có thể là thành phố New York hoặc ở Paris, ở Geneva hay có thể là Tokyo... Một số người Tây Tạng trẻ tuổi bị tội đi đày đã bày tỏ thái độ rằng những người thuộc thế hệ trước đã làm mất đi bầu nhiệt huyết nóng bỏng trong việc đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước Tây Tạng và đã lún sâu vào vũng bùn nhầy nhụa của sự lạm dụng quyền thế, hối lộ, tham nhũng...Trước khi gặp Đức Dalai Lama, tôi có hỏi người thư ký riêng của Ngài là ông Tenzin Geyche Tethong về những lời chỉ trích nầy. “Vâng, chúng tôi có nghe những điều đó”, Tethong nói. “Nhưng nơi đó không bao giờ có chuyện hối lộ. Tôi cảm thấy chúng tôi thành công trong việc tránh những chuyện tham nhũng.
Tôi cũng hỏi Tethong về việc nhà cầm quyền Trung Cộng đã tố cáo những nhà sư Tây Tạng đã có quan hệ tình dục với các bé trai và họ đã phạm giới cấm của Đức Dalai Lama. "Cũng có vài trường hợp xảy ra nhưng không phải là vấn đề phổ biến”, Tethong nhấn mạnh. Tethong có đặt nhiều câu hỏi về những đứa trẻ độ tám tuổi trong những tu viện do người Trung Quốc quản lý nhưng không có ai trả lời. “Chúng tôi thực sự bắt đầu tìm một số tiền học bỗng giúp cho các em thiếu nhi", ông tiếp "Tôi nghĩ rằng ở lứa tuổi như vậy, các em không thể nào có những tư tưởng như người lớn".
Một lát sau, Đức Dalai Lama bước vào trong và ngồi xuống. Chúng tôi cũng thay đổi những chiếc khăn quàng màu trắng đúng với nghi lễ đón tiếp của người Tây Tạng, và mang những chiếc ghế ngồi xếp vào mỗi góc để có thể ngồi đối diện nhau. Tethong và cháu của Đức Dalai Lama là ông Tenzin N. Taklha, thay phiên nhau thông dịch giúp Ngài mỗi khi Ngài lúng túng về cách sử dụng từ hoặc diễn đạt tư tưởng mà Ngài không diễn tả được.
Đây là lần thứ tư trong 30 năm tôi phỏng vấn Ngài và chủ đề của tôi thường xoay quanh “đại dương mênh mông" và những vấn đề rất rộng lớn, tôi luôn tìm thấy nơi Ngài sự bình thản, không lo lắng. Lần nầy, đề tài chính của chúng tôi đã thay đổi: Chúng tôi nói về đất nước Tây Tạng, Trung Cộng, ý kiến của người dân Tây Tạng và bản thân của Đức Dalai Lama. Tôi nói với Ngài về những công trình xây dựng mới mà tôi đã nhìn thấy ở Tây Tạng và hỏi Ngài nghĩ gì về việc người ta đang cố gắng xây dựng lại những ngôi chùa tháp và những ngôi chùa xây dựng theo kiến trúc hình cầu. Tôi nghĩ rằng Ngài biết vấn đề đó. Nhưng tôi h?t sức ngạc nhiên khi nghe Ngài trả lời là Ngài không biết.
"Tôi hy vọng là những người Tây Tạng giàu có sẽ dùng tiền bạc của họ để xây dựng trường học, bệnh xá và tạo cho cuộc sống của người Phật Tử được tốt đẹp hơn”, Ngài nói. "Tôi tin tưởng rằng họ là những người đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn, giữ gìn nền văn hoá Tây Tạng. Nhưng khi tôi nghĩ về nền văn hoá nhân dân Tây Tạng là tôi muốn nhấn mạnh đến giá trị bên trong của nó, như là giá trị tinh thần, lòng thành thật, sự công bằng bình đẳng và sự bình an. Đó mới chính là giá trị đích thực của nền văn hoá của chúng tôi.
Những giá trị tinh thần đó, Đức Dalai Lama đã và đang hun đúc kể từ khi Ngài đào thoát sang Ấn Độ từ năm 1959. Lúc đó Ngài chỉ mới 24 tuổi, là người thứ 14 trong số những Lamas tính từ cuối thế kỷ thứ 14. Mặc dù lúc đó, Ngài có đi công du nhiều nơi ở Trung Quốc, Aán Độ, nhưng Ngài luôn luôn sống trong khuôn khổ của tôn giáo, Ngài không hiểu rõ đời sống của thế giới bên ngoài rất phức tạp, khó khăn. Ngài được người Tây Tạng sùng bái và tôn kính từ xa. Nhân dân Tây Tạng đã xem Ngài như vị Thánh đã được Bodhisattva Avalokiteshvara, một Tổ Phụ của người Tây Tạng cho giáng thế. Xa hơn thế nữa, là cả thế giới ngưỡng mộ Ngài và thêu dệt nhiều huyền thoại xung quanh Ngài.
Đức Dalai Lama có một lực lượng lớn những nhà sư đi theo ủng hộ Ngài và được Ngài chỉ đạo. Ngài nói rằng Ngài không đồng ý với những ai cho là chỉ có một số nhỏ nhà sư đang phá hoại và làm cản trở sự lớn mạnh của tôn giáo. "Tôi luôn luôn quan niệm rằng chất lượng quan trọng hơn số lượng. Những con số không phải là vấn đề quan trọng”. Đức Dalai Lama thật sự hiểu rằng trong suốt thời gian Ngài ở Tây Tạng đã có rất nhiều người muốn đi tu để kiếm ăn.
Mặc dù đã 66 tuổi, trông Ngài vẫn còn khoẻ mạnh và tráng kiện, thời gian cũng đang đến để tìm một người kế nghiệp cho Ngài. Theo truyền thống cổ truyền của người Tây Tạng, sau khi Đức Dalai Lama qua đời, Ngài cho tái sinh một đứa trẻ khác để kế vị vai trò Lamas. Trong những thời gian trước, khi tìm kiếm được người thay thế vị trị của Lamas, và trước khi đứa trẻ thực sự được chọn, những nhân viên trong Hội Đồng Quản Trị phải luôn luôn tăng cường, cũng cố sức mạnh, tiếng tăm cho vị Tân Đại Đức.
Đã nhiều thế kỷ trôi qua, Trung Cộng càng ngày càng gia tăng ảnh hưởng và áp lực áp đặt trên đất nước Tây Tạng. Điều nầy đã quá rõ ràng và sẽ còn kéo dài trong những thời gian tới. Ngay sau khi bắt giam, tù đày những người trong chính quyền Tây Tạng, Trung Cộng đã chọn lựa người đại diện của họ để điều khiển Tây Tạng. Chính sự can thiệp thô bạo của nhà cầm quyền Trung Cộng, đã tạo ra một tình trạng bất ổn chưa bao giờ xảy ra trên đất nước Tây Tạng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:11:49 GMT 9
Do Thái : CHIẾN TRANH VỀ ĐẤT ĐAI
Tú Gàn
Những người hay quên lịch sử, nhìn cuộc tấn công của Do Thái vào lãnh thổ dành cho Palestines trong những tháng gần đây, nhất là thái độ ngang bướng của Do Thái đối với dư luận quốc tế cũng như Liên Hiệp Quốc... đã cảm thấy thương hại cho dân Palestines và bực tức người Do Thái. Nhưng nếu chịu khó nhìn lại lịch sử một chút, chúng ta sẽ hiểu được tại sao Do Thái đã làm như vậy và dám làm như vậy. Nếu so sánh cuộc tấn công của Do Thái lần này với các cuộc tấn công trước đây, nhất là cuộc tấn công vào năm 1967, chúng ta sẽ thấy cuộc tấn công này chỉ là "mấy món món ăn chơi" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì cả. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến giữa người Do Thái và người Palestines cũng có thể giúp người Việt hải ngoại hiểu nhiều hơn về số phận của mình. Đây là những bài học lịch sử quý báu.
1.- Sự phân chia của Anh
Người Việt cũng đã phải trải qua nhiều cuộc tranh chấp gay cấn về lãnh thổ với lân bang trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và mở nước. Nếu ở phía Bắc, người Việt đã phải đối đầu bằng nhiều cách khác nhau với Trung Hoa, khi cương khi nhu, để bảo vệ phần đất đã chiếm được từ lúc ban đầu, thì ở phía Nam, người Việt đã tìm cách thanh toán toàn bộ lãnh thổ của Chiêm Thành rồi đến một phần lãnh thổ của dân tộc Khmer. Ngày nay, người Việt đã có một lãnh thổ ổn định từ Đồng Văn đến Cà Mau. Người Do Thái không được may mắn như thế. Tuy họ đã có một lịch sử trên 6000 năm văn hiến, tức ngang với người Tàu, nhưng lãnh thổ của họ lại khi có khi không. Phần đất Canaan trên bờ phía đông Địa Trung Hải, nơi mà họ muốn chọn làm quê hương, đã bị mất đi và chiếm lại hàng chục lần qua tiến trình lịch sử, và cho đến nay, việc xác định và bảo vệ phần lãnh thổ này vẫn chưa dứt khoát.
Như chúng tôi đã trình bày trong số báo ra ngày 12.4.2002, vào năm 638, khi người Hồi Giáo chiếm trọn vùng Canaan và ra lệnh cho người Do Thái "Hoặc theo Hồi Giáo và nộp cống hay là chết", người Do Thái đành phải ra đi để bảo vệ tôn giáo và truyền thống của mình, phần đất Canaan trở thành lãnh thổ của người A-rập Hồi Giáo. Người Do Thái lang thang trên khắp thế giới, bị kỳ thị, bị ghét bỏ, bị đày đọa, bị thanh toán đẩm máu... nhưng lúc nào họ cũng cố gắng vươn lên và quyết tâm trở về lại đất hứa của mình. Phải đến 1284 năm sau, họ mới bắt đầu thực hiện được ý nguyện đó.
Sau thế chiến thứ nhất (1914 - 1918), nước Anh đánh bại đế quốc Ottomans, đuổi Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi vùng A-rập và quản lý vùng này. Qua nhiều cuộc vận động ráo riết của người Do Thái lang thang, ngày 2.11.1917 Ngoại Trưởng Anh là Arthur James Balfour tuyên bố sẽ cho lập một nước Do Thái tại đất Palestine. Việc tạo lập lại nước Do Thái mới được khỏi đầu. Năm 1922, chính phủ Anh đã chia vùng đất mà người A-rập và người Do Thái đang cư ngụ ở hai bên bờ sông Jordan trên bờ phía đông Địa Trung Hải, ra làm 2 vùng: Vùng phía tây sông Jordan kéo ngang qua tới Địa Trung Hải được giao cho người Do Thái. Vùng phía đông sông Jordan, nước Anh cho thành lập một quốc gia A-rập mới lấy tên là Transjordan. Đó là phần đất dành cho người Palestines, được gọi là nước Palestine-A-rập. Sau đó, người Anh đưa Abhulah lên làm lãnh tụ người A-rập, cai quản vùng này.
Người A-rập không chấp nhận sự phân chia của Anh. Họ nhất định đòi lại hai phần đất mà họ coi là rất quan trọng của họ, nhưng đã được Anh chia cho người Do Thái: Phần thứ nhất là vùng có thành phố Jerusalem, nằm giữa Judea và Samaria, vì coi đây là đất thánh của họ. Thật ra, Jerusalem ngày xưa là đất thánh của người Do Thái, nhưng bị người Palestines chiếm. Phần đất thứ hai là dãi Gaza ở phía tây nam, trên bờ Địa Trung Hải. Người Palestines coi đây là phần đất của tổ phụ họ. Khối A-rập còn đi xa hơn, họ nhất định mở “Jihad”, tức thánh chiến, để đuổi người Do Thái ra khỏi vùng Canaan. Họ không thể chấp nhận một nước khác tôn giáo nằm xen vào giữa khối Hồi Giáo A-rập được.
2.- Sự phân chia lại của Liên Hiệp Quốc
Không giải quyết được sự tranh chấp giữa A-rập và Do Thái, Anh đưa nội vụ ra Đại Hội Đồng Liên Quốc xin giải quyết. Ngày 29.11.1947, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã họp và biểu quyết nghị quyết số 181, phân chia lại lãnh thổ của người Do Thái và người Palestines, với 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu vắng mặt. Theo sự phân chia mới này thì Do Thái bị thiệt nặng: Liên Hiệp Quốc lấy một số vùng đất trên phần đất người Anh đã chia cho người Do Thái mà người Palestines đang đòi hỏi, giao lại cho người A-rập để thành lập một quốc gia mới được gọi là "THE ARAP STATE", tức quốc gia A-rập, sau này đổi thành Palestine. Đó là các vùng sau đây: Thứ nhất là vùng đất Judea và Samaria nằm ở trung nguyên, sát với phía tây sông Jordan, nên thường được gọi là WestBank. Vùng này rộng đến 5640 cây số vuông. Thứ hai là dãi đất nằm trên chóp phía bắc của WestBank, trên thành phố Jenin. Thứ ba là dãi Gaza nằm phía tây nam, sát Địa Trung Hải, giáp với bán đảo Sinai của Ai Cập. Phần còn lại dành cho người Do Thái, được gọi là "THE JEWISH STATE".
Với cách phân chia như trên, các phần của Do Thái và các của Palestine nằm lẫn lộn nhau, giống như những ốc đảo ở trên biển. Tính lại, lãnh thổ dành cho người Do Thái chỉ bằng 22% toàn bộ vùng đất phía tây sông Jordan mà thôi. Với cách phân chia này, khi muốn đi từ bắc xuống nam, Do Thái phải đi băng qua cái mũi của dãi Gaza ở phía bắc nối liền với vùng Judea dành cho người A-rập. Riêng thành phố Jerusalem, Liên Hiệp Quốc đặt dưới một quy chế đặc biệt (special regime) và sẽ do Liên Hiệp Quốc quản trị.
Mặc dầu đã phân chia lại như thế, 13 quốc gia sau đây không đồng ý ký tên vào nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, đó là Afghanistan, Cuba, Ai Cập, Hy Lạp, Ấn Độ, Iran, Iraq, Lebanon, Pakistan, Saudi Arabia, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Yemen. Không đồng ý thì đánh nhau. Jordan đem quân chiếm WestBank và sát nhập vào Jordan, trong đó có Jerusalem. Syria đưa quân chiến đồi Golan phía trên WesBank. Ai Cập đem quân chiếm dãi Gaza... Lãnh thổ dành cho người Do Thái lại được thu hẹp lại hơn. Nhưng không nước A-rập nào cho người Palestines được tự trị.
3.- Lấy vũ lực đối đầu với vũ lực
Có tất cả 5 nước bao quanh lãnh thổ của Do Thái, đó là Libanon ở phía bắc, Syria và Jordan ở phía đông, Saudi Arabia ở phía nam, và Ai Cập ở phía tây nam. Phía tây là Địa Trung Hải. Trong 5 quốc gia này, chỉ 3 quốc gia là cương quyết ăn thua đủa với Do Thái, đó là Ai Cập, Jordan và Syria. Saudi Arabia, nằm phía cực nam của Do Thái, vì thân với Anh và đang nhận viện trợ của Anh và Mỹ, nên đứng ngoài cuộc chiến. Lebanon ở phía cực bắc, có một nữa dân số theo Thiên Chúa Giáo, cũng không muốn gây sự với Do Thái.
Ai Cập là hung hăng nhất, sau đó đến Jordan và Syria. Tuy diễu võ dương oai như thế, nhưng qua các cuộc giao tranh năm 1949 và 1956, khối A-rập đều thua. Ngày 23.6.1956, Tướng Gamal Abdel Nasser chính thức lên làm Tổng Thống Ai Cập. Ông quyết tâm đánh bại Do Thái. Ông ra lệnh phong tỏa hải cảng Aliat làm việc giao thông qua kinh đào Suez bị bế tắc. Ngày 31.10.1956, Anh, Pháp và Do Thái phải mở cuộc hành quân để giải tỏa. Sau đó, quân đội Liên Hiệp Quốc đã được gởi đến đóng ở vùng ranh giới giữa bán đảo Sinai của Ai Cập và dãi Gaza, nên khu này tạm yên. Còn vùng phía đông bắc giáp giới với Jodan và Syria, chiến tranh xẩy ra hằng ngày. Do Thái lúc nào cũng trả đủa ác liệt và mở rộng vòng vây để bảo đảm an ninh. Tính lại, Do Thái đã mở thêm được khoảng 50% phần lãnh thổ đã được Liên Hiệp Quốc chia cho. Tướng Nasser của Ai Cập giận lắm, cương quyết phải đánh bại Do Thái.
Năm 1964, Tướng Nasser cho thành lập Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) và đưa Caoukeiri (còn đọc là Shugayri) làm lãnh tụ (đến 1968 Yesser Arafat thay thế) với mục tiêu dùng đoàn quân này để quấy rối Do Thái. Chỉ trong 2 năm, Phong trào này đã tuyển mộ được 16.000 dân quân. Ngoài đội quân phá hoại này, khối A-rập còn có tổ chức cảm tử quân Fatah, lúc nào cũng sẵn sàng ôm bom nhảy vào những nơi có người Do Thái.
Về mặt quốc tế, Tướng Nasser đã vận động khối cộng sản là Nga, Trung Quốc và Tiệp Khắc viện trợ võ khí và tiền bạc để giúp khối A-rập đánh bại Do Thái. Ai Cập đã nhận hàng trăm máy bay, xe tăng, đại bác, hỏa tiễn, vũ khí đủ loại và tiền bạc của Nga và Tiệp Khắc. Nga gởi huấn luyện viên đến huấn luyện quân sự cho quân Ai Cập. Tám quốc gia tuyên bố sẵn sàng đứng sau lưng Ai Cập là Algéria, Maroc, Kuweit, Yemen, Irak, Soudan, Jordan và Syria. Khi nào cần, họ sẽ đưa quân đến tham chiến ngay.
Khi khối A-rập tăng cường quân đội và võ khí để chuẩn bị mở cuộc tấn công thì Do Thái cũng chỉnh đốn lực lượng để chống cự lại. Thanh niên Do Thái phải thi hành quân dịch hai năm rưỡi, còn phụ nữ không chồng thì hai năm. Mỗi tháng, lực lượng trừ bị phải thay nhau học tập về quân sự một ngày, và mỗi năm đi thụ huấn thêm 40 ngày. Họ huấn luyện rát gắt gao, gắt gấp ba lần quân đội Mỹ. Những thiếu niên từ 14 đến 18 tuổi được hàng ngũ hóa và huấn luận để trở thành lực lượng bảo vệ. Do Thái tính rằng nếu chiến sự xẩy ra, chỉ từ 24 đến 72 giờ, họ có thể động viên khoảng 250.000 quân. Tại khắp các vùng biên giới và trong sa mạc Neguev, nơi nào các Kibboutz (giống ấp chiến lược của Việt Nam) cũng được thành lập, có thể tự vệ cho đến khi viện binh đến.
Về vũ khí, nhờ tiền của những người Do Thái ở ngoại quốc gởi về và viện trợ Mỹ, Do Thái đã mua của Pháp và Mỹ những vũ khí tối tân nhất, trong đó có cả máy bay Mirage, xe tăng, hỏa tiễn và trọng pháo. Những vũ khí này tối tân hơn vũ khí của Nga viện trợ cho Ai Cập nhiều. Do Thái cũng xây dựng những nhà máy sản xuất các loại đạn để tự túc, khỏi phải lệ thuộc quá nhiều vào các cường quốc.
Tính lại, lúc đó dân số khối A-rập có khoảng 70 triệu, trong đó ba nước bao quanh Do Thái là Ai Cập có 270.000 quân, Syria 60.000 và Jordan 60.000, chưa kể viện binh của các quốc gia khác hứa sẽ gởi đến khi có chiến sự. Trong khi đó, Do Thái chỉ có 2 triệu rưỡi dân và 250.000 quân. Với tương quan lực lượng như thế, Ai Cập tin rằng thế nào cũng chiến thắng.
4.- Một sự thảm bại chua chát
Đầu tháng 5 năm 1967, Ai Cập yêu cầu quân Liên Hiệp Quốc rút khỏi vùng biên giới giữa dãi Gaza và bán đảo Sinai. Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là ông U Thant đã hứa nếu có lời yêu cầu của Ai Cập hay Do Thái, ông sẽ cho rút quân, nên các quân Liên Hiệp Quốc được lệnh rời khỏi vùng này. Cả ông U Thant lẫn Do Thái đều hiểu rằng Tướng Nasser đang chuẩn bị khai chiến. Nhưng Do Thái ra tay trước.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 5.6.1967, Do Thái bất thần mở cuộc tấn công vào bán đảo Sinai của Ai Cập ở phía tây nam và các vùng đóng quân của Jordan và Syria ở phía đông và đông bắc. Ở phía nam, chỉ trong 80 phút đầu, phi cơ do thái đã phá tan hết các phi cơ chiến đấu và chuyên chở của Ai Cập trên bán đảo Sinai. Các súng phòng không và hệ thống hỏa tiển phòng vệ không còn hoạt động được. Các phi trường của Ai Cập trở thành những nghĩa địa của phi cơ. Chỉ vài giờ sau, không quân Ai Cập hoàn toàn tan rã. Các chiến xa Do Thái bắt đầu tiến vào vùng Sinai của Ai Cập theo ba hướng khác nhau, băng qua sa mạc, tiến tới đến kinh đào Suez và Hồng Hải. Binh sĩ Ai Cập không kịp phản ứng, đã cởi quần áo bỏ chạy. Có khoảng 10.000 quân Ai Cập đã bị quân Do Thái giết, 5000 quân bị bắt làm tù binh. Vô số xe tăng, súng đại bác 160 ly, các võ khí đủ loại, đạn dược, quân trang quân dụng và lương thực bị tịch thu.
Tại mặt trận phía bắc, quân Do Thái phải chiến đấu vất vã mới chiếm được thành phố Jerusalem, đuổi quân Jordan ra khỏi vùng Judea và Samaria. Một toán quân khác tiến chiếm Naplouse, Jenin và qua ngày 8.7.1967 đã tiến tới tận bờ sông Jordan. Vua Hussein ra lệnh bỏ khí giới sau khi trên 6000 quân bị tử thương và khoảng 640 quân bị bắt. Ông nói với quốc dân rằng chưa bao giờ Jordan bị tai họa lớn như vậy. Tất cả quân Palestine do Ai Cập huấn luyện và trang bị bỏ chạy qua Jordan ẩn nấp.
Việc đánh quân Syria để chiến đồi Golan (Golan Heights) ở phía cực bắc cũng rất vất vã, vì quân Syria khá thiện chiến và tại đây họ đã xây dựng các công sự chiến đấu rất vững vàng. Nhưng cuối cùng Do Thái cũng đánh bật được quân Syria về phía bên kia sông Jordan. Syria thiệt mất 200 quân và trên 5.000 người bị thương.
Ngày 10.6.1967, lệnh đình chiến do Liên Hiệp Quốc ban ra đã cứu được người A-rập. Do Thái ngưng tiến quân thêm nữa. Nhìn lại, quân Do Thái chỉ bị chết chưa đến một ngàn người và khoảng 1500 người bị thương. Nhưng Do Thái đã lấy lại được cả vùng đất mà ngày xưa Anh đã phân chia cho Do Thái, trong đó có thành phố Jerusalem, vùng đất phía tây sông Jordan (WestBank), và một vùng khoảng từ 20 đến 30 cây số của Syria. Ngoài ra, Do Thái còn chiếm thêm bán đảo Sinai của Ai Cập rộng 61.000 cây số vuông và làm chủ vùng kinh đào Suez.
Nhưng có lẽ thắng lợi lớn lao hơn cả mà Do Thái đã đem lại cho khối Tây Phương, đó là tách được Liên Sô ra khỏi khối A-rập. Sau khi thất trận, các quốc gia A-rập không còn tin ở Liên Sô nữa, vì Liên Sô đã không cứu được họ. Thắng lợi lớn thứ hai của Do Thái là đã gây phân hóa trong nội bộ của khối A-rập. Quần chúng không còn tin tưởng ở nhà cầm quyền. Các nước A-rập không còn tin nhau. Trong hội nghị Khartoum, thủ đô của Sudan, vào tháng tám, các quốc gia A-rập đã chia ra làm hai phe: Phe cách mạng và phe bảo thủ. Phe cách mạng chống các nước Tây phương gồm có Ai Cập, Algeria, Syria, Sudan, Irak và Yemen. Phe bảo thủ lo sợ ảnh hưởng của Liên Sô hơn là Do Thái, gồm các quốc gia Saudi Arabia, Jordan, Maroc, Tunisia, Lybia, Libanon và Kuwait. Hai phe tranh cãi rất gay cấn và cuối cùng họ không tìm ra được biện pháp nào để đối phó với Do Thái.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:12:31 GMT 9
Do Thái : CHIẾN TRANH VỀ ĐẤT ĐAI
Riêng ba nước thất trận bị thiệt thòi về kinh tế khá nặng. Kinh Suez bị đóng, Ai Cập mất mỗi tuần 1 triệu rưởi Mỹ kim. Vùng Jerusalem bị chiếm, Jordan không còn thu được tiền của du khách, mất khoảng 34 triệu Mỹ kim một năm. Người Palestines ở WestBank tản cư qua Jordan làm cho cuộc sống ở Jordan trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, nhóm dân quân Palestine khoảng 20.000 người còn làm loạn, đánh với cả quân Jordan, khiến chính phủ Jordan phải mở cuộc hành quân để tống cổ nhóm này ra khỏi Jordan.
Sở dĩ Do Thái đã đạt được thắng lợi to lớn trong cuộc chiến tranh 6 ngày, vì các yếu tố sau đây: Trước hết, Do Thái có những nhà chính trị và quân sự rất giỏi, biết hình thành những chiến lược và chiến thuật thích hợp để đối phó, biết tổ chức quân đội, biết tùy cơ ứng biết mau lẹ... Hai Tướng Moshé Dayan và Yitzhak Rabin của Do Thái được liệt vào loại danh tướng của thế giới. Thứ hai là Do Thái mua được những võ khí tối tân hơn võ khí của Nga cung cấp cho người A-rập nên có thể làm chủ chiến trường một cách nhanh chóng. Thứ ba là quân đội Do Thái được huấn luyện rất thành thục, có trình độ, có sáng kiến và có tinh thần chiến đấu cao. Thứ tư là hệ thống tình báo rất giỏi. Họ biết được một cách chính xác việc dàn quân của địch, từ nơi tập trung quân và chiến xa, đến nơi đặt trọng pháo và súng phòng không, các hầm máy bay giả và hầm máy bay thật... nên đánh đâu trúng đó. Thứ năm là sự yểm trợ tích cực của người Do Thái ở hải ngoại. Thứ sáu là sự yểm trợ ngầm của khối Tây phương. Do Thái trở thành một tiền đồn của Hoa Kỳ ở Trung Đông và đã gây được niềm tin nơi các chính phủ Tây phương.
Không thắng được Do Thái, khối A-rập phát động chiến tranh khủng bố để chống lại Do Thái. Đó là một cuộc chiến đã gây khá nhiều tổn thất cho cả hai bên và không đưa tới kết quả nào. Lực lượng của Palestine ngày càng yếu đi, vì khối A-rập không còn tin tưởng ở khả năng chiến đấu của họ. Mỗi lần bị tấn công hay khủng bố, Do Thái thường trả đủa rất mạnh. Do Thái tin rằng chỉ có biện pháp đó mới có thể giúp họ bảo đảm được an ninh.
5.- Oslo 1 và Oslo 2
Anh và Liên Hiệp Quốc không giải quyết được vấn đề Do Thái và Palestine. Chiến tranh chẳng những không loại trừ được Do Thái mà còn làm cho lãnh thổ Do Thái ngày càng rộng ra thêm. Gần như trên vùng phía Tây sông Jordan không còn chỗ nào được coi là vùng đất có chủ quyền của người Palestine. Cuối cùng, người ta thấy rằng chỉ có một phương cách duy nhất là hai bên lâm chiến tự dàn xếp với nhau, mỗi bên nhượng bộ một ít, cuộc tranh chấp mới có thể chấm dứt được.
Do sự trung gian của tổ chức FAFO ở Na Uy, một cuộc họp bí mật đã được tổ chức tại thành phố Oslo của Na Uy vào năm 1993 để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh. Sau các cuộc thương thuyết gay cấn, cả hai bên đã đi đến những thỏa thuận sau đây: Do Thái công nhận có sự hiện diện của một dân tộc Palestine tự trị trong một số vùng ở WestBank (gồm Judea và Samaria) và dãi Gaza. Palestine công nhận "quyền của một quốc gia Israel tồn tại trong hòa bình và an ninh." Bản đồ phân vùng được vẽ rất kỷ càng. Hòa ước này đã được ký kết ngày 13.9.1993 tại Washington, thường được gọi là Hòa Ước Oslo 1. Nhìn lại, chúng ta thấy sau các cuộc chiến và các cuộc thương thuyết, vùng đất được đặt dưới quyền kiểm soát của Do Thái trở thành rộng gấp đôi phần đất đã được Liên Hiệp Quốc quy định năm 1947.
Tuy nhiên, việc thi hành Hòa ước Oslo 1 gặp nhiều khó khăn, vì một số tổ chức Palestine và A-rập không chấp nhập hòa ước do lãnh tụ Yesser Arafat đã ký kết. Có tổ chức vẫn chủ trương phải tiếp tục chiến đấu để loại người Do Thái ra khỏi vùng Trung Đông. Vì thế, các cuộc khủng bố vẫn tiếp tục xẩy ra, nó nằm ngoài quyền kiểm soát của ông Yesser Arafat. Do Thái lấy lý do an ninh không được bảo vệ, nên không chịu rút ra khỏi các vùng đã hứa dành cho Palestine.
Năm 1995, do sự dàn xết của Washington và Ai Cập, một cuộc họp thứ hai giữa đôi bên đã bàn lại các vấn đề sau đây: Vấn đề an ninh trong vùng WestBank, việc chuyển các phần đất đã hứa cho Palestine, việc chuyển các quyền dân sự lại cho các nhà lãnh đạo Palestine, vấn đề phóng thích các tù binh, vấn đề tổ chức bầu cử cho người Palestine và vấn đề giao thương giữa Do Thái và Palestine. Hai bên đã đi đến một hòa ước thứ hai và hòa ước này đã được ký kết ngày 24.9.1995 tại Washington trước sự chứng kiến của Tổng Thống Clinton. Hòa ước này thường được gọi là Hòa ước Oslo 2.
Nhìn bản đồ phân vùng đính theo Hòa ước Oslo 2, người ta có cảm thưởng như đây là một bản đồ đình chiến da beo. Vì lý do an ninh của Do Thái, quân đội Do Thái còn được quyền kiểm soát nhiều vùng dành cho Palestine ở WeskBank cho đến khi ông Yesser Arafat có thể bảo đảm được an ninh. Ngoài ra, vấn đề Jerusalem vẫn chưa giải khuyết dứt khoát được, vì hai bên đều không muốn nhượng bộ một vùng vừa được coi là đất thánh của riêng họ, vừa là nguồn lợi lớn do du khách đem lại.
6.- Vẫn chưa đi tới đâu
Hai hòa ước Oslo 1 và Oslo 2 đã đem lại những phản ứng khác nhau ngay giữa những người Israel, những người Palestines và những nước A-rập khác nhau.
Về phía ngưới Do Thái, nhiều nhà chính trị và quân sự của Israel không tin hai hòa ước đó có thể chấm dứt được bạo động vì không thể thiết lập những hàng rào răn giới tách khu của người Do Thái ra khỏi khu người Palestine. Trong hiện tượng phân chia theo lối "da beo" này, bất cứ lúc nào sự đụng chạm cũng có thể xẩy ra.
Về phía người Palestine, có nhiều người cũng muốn hai hòa ước đó được thi hành nghiêm chỉnh để cuộc sống của họ được ổn định, nhưng cũng có nhiều người cho rằng ông Yesser Arafat đã nhượng bộ quá nhiều, nên không thể chấp nhận được. Họ tiếp tục tổ chức khủng bố để đòi lại các phần đất mà họ tin rằng họ đã bị mất. Các tổ chức này hoạt động dưới sự xúi biểu và yểm trợ của Iran, Irak, Sudan, Syria... nên nằm ngoài tầm tay của ông Yesser Arafat.
Qua kinh nghiệm chiến đấu, phe diều hâu ở Israel cho rằng với những kẻ chủ trương khủng bố, càng đấu dịu họ càng làm tới. Biện pháp tốt nhất vẫn là phải tiếp tục tiến hành chiến dịch "lùng và diệt" khủng bố mới có thể bảo vệ an ninh cho người Do Thái. Vì thế, chính quyền Israel hiện tại đang mở những cuộc trả đủa rất mạnh, bất chấp dư luận quốc tế. Sở dĩ Israel dám làm như vậy vì các lý do sau đây:
Lý do thứ nhất là sự chia rẽ trong khối A-rập hiện nay rất trầm trọng, nên không sợ phản ứng của khối này. Các phản ứng riêng rẽ không đáng kể.
Lý do thứ hai là Do Thái thừa biết các cường quốc Tây phương chỉ phản ứng mạnh khi quyền lợi của họ có thể bị xâm phạm. Do Thái gõ đầu quân khủng bố Palestine chẳng những không phương hại gì đến quyền lợi của các cường quốc mà còn giúp các cường quốc khống chế các thành phần luôn muốn nổi loạn để chống lại các quốc gia Tây phương. Do đó, các quốc gia Tây phương chỉ lên tiếng lấy lệ và lấy lòng khối A-rập mà thôi. Họ chẳng can thiệp vào đâu.
Lý do thứ ba là Do Thái thừa biết Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân quyền chẳng làm được gì họ. Về lý, họ đặt câu hỏi: Tại sao NATO có quyền đem quân vào Nam Tư trừng phạt chế độ diệt chủng Milosevik và Hoa Kỳ có quyền chiếm Afghanistan để lùng những kẻ khủng bố... trong khi đó người Do Thái lại không có quyền mở cuộc lành quân "lùng và diệt" những kẻ gây tang thương cho quốc gia và đồng bào của họ?
Giả thiết có một số nước nào đó đưa vấn đề Do Thái phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại ra Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và yêu cầu Hội Đồng áp dụng lệnh cấm vận đối với Do Thái, Hoa Kỳ sẽ phủ quyết là xong.
Các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ bị đưa ra trước Tòa Án Hình Sự Quốc Tế ư? Còn lâu chuyện đó mới có thể xẩy ra. Kinh nghiệm cho thấy Tòa Án Hình Sự Quốc Tế chỉ có thể xử những kẻ bại trận hay những kẻ chống lại quyền lợi của các cường quốc mà thôi. Những kẻ đang có quyền bính và sức mạnh trong tay, Tòa Án Hình Sự Quốc Tế làm gì được? Bọn Khmer Đỏ gây tội ác chống nhân loại một cách rùng rợn và ghê tởm như thế, nhưng chính quyền Cam-bốt từ chối không chịu giao nạp các bị cáo và cũng không chịu cho các thẩm phán quốc tế tham gia xét xử, Liên Hiệp Quốc làm được gì đâu? Cam-bốt là một nước nhỏ bé nhất và yếu nhất, đang cần viện trợ, mà còn dám chơi ngang như vậy, huống chi Do Thái?
Quy Chế Tòa Án Hình Sự Quốc Tế mới, chỉ mới có đủ túc số 60 quốc gia phê chuẩn vào ngày 11.4.2002 để có hiệu lực thi hành vào ngày 1.7.2002. Nhưng luật lệ về tố tụng chưa được soạn xong và chưa được phê chuẩn, nên còn lâu tòa này mới hoạt động được. Vã lại, quy chế này là một hiệp ước quốc tế nên chỉ quốc gia nào ký kết và phê chuẩn mới bị ràng buộc. Các quốc gia không ký kết và phê chuẩn sẽ không bị ràng buộc. Do đó, các quốc gia “có vấn đề” như Do Thái, Algegia, Trung Quốc, Bắc Hàn, Miến Điện, Việt Nam, Cam-bốt, Indonesia, Iran, Irak... ngu gì mà ký kết và phê chuẩn lúc này? Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trên thế giới có đến 188 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc, nhưng mới chỉ có 60 quốc gia phê chuẩn, còn 128 quốc gia đang đứng ngoài.
Trong văn tế các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, cụ Phan Bội Châu có viết:
Ma cường quyền đắc thế sinh hung uy,
Thần công lý bó tay nghe tử tội.
Nhìn cách tranh đấu của người Palestines, chúng ta không tin họ có thể thắng được, vì đó là một tổ chức chiến đấu ô hợp. Họ không có sự lãnh đạo thống nhất, không chiến lược, không chiến thuật, không có trình độ, không biết thời thế... cứ dùng lòng cuồng tín tôn giáo để húc, nên càng tranh đấu càng thua. Người Việt chống cộng ở hải ngoại cũng phải chú ý đến bài học này.
Tú Gàn
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 18, 2009 18:45:29 GMT 9
Lãnh tụ Bắc Hàn còn cay cú với Mỹ vì chưa quên được cuộc chiến Triều Tiên 1950-1953 Phan Đức Minh
I- Vài nét tổng quát :
Bán đảo Triều Tiên ở vào vị trí thuộc Đông Nam Á Châu, với chiều dài khoảng 450 miles, nằm giưã Biển Nhật Bản (Sea of Japan) và Hoàng Hải (Biển vàng - Yellow Sea). Vùng biên giới quan trọng cuả Triều Tiên về phiá Bắc tiếp giáp với phần đất Mãn Châu (Manchuria region) cuả Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc (People's Republic of China), ta thường gọi là Trung Cộng. Những hòn đảo cuả Nhật Bản cách khoảng gần nhất đối với Triều Tiên chỉ độ 50 miles đường thẳng chim bay.
Sau khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt, quốc gia Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới, được các quốc gia Đồng Minh thắng trận, chia thành 2: Bắc Triều Tiên với danh xưng là Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (People's Democratic Republic of Korea) ta thường kêu là Bắc Hàn, được phe Cộng Sản, do Liên Sô lãnh đạo, dựng lên một chính quyền cộng sản, nằm trong khối cộng sản quốc tế. Còn Nam Triều Tiên, ta quen gọi là Nam Hàn, có danh xưng là Cộng Hoà Triều Tiên (Republic of Korea), do phe đồng Minh Tây Phương, đúng ra là Hoa Ky, giúp đỡ mọi mặt và dựng nên một chính quyền thân Tây Phương, tương đối có Tự Do, Dân Chủ, đời sống kinh tế phát triển hơn hẳn miền Bắc. Lãnh thổ đất đai cuả Nam Hàn ít hơn một chút so với Bắc Hàn. Nếu cộng chung lãnh thổ cuả 2 miền Nam-Bắc, gồm luôn cả Khu vực phi quân sự (Demilitarized zone) là vùng an toàn, nằm xen vào giữa Bắc với Nam, thì tất cả lãnh thổ cuả Triều Tiên tương đương với lãnh thổ cuả Tiểu Bang Utah tại Hoa Kỳ.
Về dân số, Nam Hàn đông hơn gấp đôi. Vào năm 1980, Nam Hàn có khoảng 32 triệu người, trong khi Bắc Hàn chỉ có 16 triệu. Dân số Thủ Đô Bắc Hàn Pyongyang chỉ có 900 ngàn dân. Còn về phần Nam Hàn, đời sống mọi mặt tương đối phát triển mau chóng, tốt đẹp hơn cho nên nhiều thành phố lớn đã được tạo thành với dân số ước độ :
* Thủ đô Seoul : 6 triệu. * Pusan : 2 triệu * Taegu : 1.2 triệu. * Inchon : 800 ngàn. * Kwangju: 520 ngàn.
II- Đôi điều về Lịch Sử :
Năm 1592 và 1597, Nhật bản tung quân đánh chiếm Triều Tiên, dọn đường để chinh phục luôn quốc gia khổng lồ : Trung Hoa (ta kêu bé nhưng bé hạt tiêu là thế, nhỏ con mà ghê gớm, đáng nể thật). Hai cuộc xâm lăng này đều bị liên quân Triều Tiên và Trung Hoa đẩy lui, nhưng đã để lại một nước Triều Tiên tan hoang, tê liệt. Vào đầu thế kỷ 17, Triều Tiên áp dụng chính sách Bế quan toả cảng - The closed- door Policy), không giao dịch với bất cứ quốc gia nào khác, ngoại trừ Trung Hoa, được coi là nơi nương tựa cuả Triều Tiên lúc đó. Vì vậy Triều Tiên vào thời kỳ này, mọi công việc nội bộ hầu như đều do Trung Hoa điều khiển và kiểm soát.
Năm 1876, Nhật Bản dùng sức mạnh, bắt Triều Tiên phải mở rộng các Hải Cảng để cho tầu buôn cuả Nhật lui tới buôn bán. Vốn ngán anh Nhật Bản từ lâu nên Triều Tiên bèn vội vàng tìm cách ký kết các Hiệp Ước thương mãi với Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác. Vì quyền lợi cuả mình tại Triều Tiên, anh Nhật Bản nhỏ con lại dùng sức mạnh bắt anh Trung Hoa khổng lồ phải công nhận nền Độc lập cuả Triều Tiên vào năm 1895 (China was forced by Japan to acknowledge Korea's independence in 1896). Sau khi đánh bật sự xâm lăng kinh tế cuả Đế Quốc Nga vào Triều Tiên, Nhật bản đặt nền Bảo Hộ đối với Triều Tiên rồi sau, vào năm 1910, sát nhập luôn Triều Tiên, coi Triều Tiên như một vùng lãnh thổ cuả quốc gia Nhật Bản. Tinh thần giành Độc Lập cuả dân tộc Triều Tiên đã bị Nhật Bản đàn áp thẳng tay. Sau Thế Chiến II, Nhật Bản bị đánh bại, đầu hàng vô điều kiện trước lực lượng Đồng Minh chống Phát Xít. Quân Đội Liên Sô tiến vào chiếm cứ lãnh thổ miền Bắc Triều Tiên, trong khi quân đội Mỹ tiến chiếm miền Nam. Vĩ tuyến 38 được chọn làm đường phân chia ranh giới 2 miền Nam - Bắc. Lực lựợng Đồng Minh chiếm đóng 2 miền không thể thoả thuận với nhau trong việc thiết lập một chính quyền chung cho toàn thể quốc gia Triều Tiên. Khi Liên Hiệp Quốc đứng ra giàn xếp, giám sát cho một cuộc Tổng Tuyển Cử chung cho cả 2 miền Nam-Bắc thì Liên Sô (thiên hạ hay gọi là Nga Sô vì Nga lớn mạnh hơn nên lãnh đạo Liên Bang Sô Viết) từ chối, không chấp nhận tuyển cử tại vùng chiếm đóng cuả mình (When the United Nations tried to arrange for supervised elections in 1948, Russia refused to permit elections in its zone). Miền Nam, với sự giúp đỡ cuả Liên Hiệp Quốc, đã thực hiện bầu cử, đi theo chiều hướng tiến đến nền Dân Chủ theo ảnh hưởng Tây Phương. Còn ở miền Bắc, Kim II Sung (ta kêu là Kim Nhật Thành) lãnh tụ Đảng cộng sản tại đây thiết lập nên một chính quyền cộng sản, rập theo kiểu mẫu cuả Liên Sô, mệnh danh là chính quyền "Vô sản chuyên chính - Proletarian Dictatorship".
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2010 8:08:23 GMT 9
Vài loại lịch cổPhạm Văn Tuấn 01/01/2009 Hàng năm vào đầu tháng 12, người ta thấy bày la liệt trên hè phố và trong các hiệu sách nhiều thứ lịch với các khuôn khổ khác nhau, với cách trình bày mới lạ... Mỗi năm, lịch lại được các nhà sản xuất trang trí khác hẳn và các nhà làm lịch luôn luôn tìm kiếm mọi cách thay đổi cả về nội dung của quyển lịch. Về hình thức, có các loại lịch tranh ảnh, lịch bóc, lịch để bàn, lịch bỏ túi... còn đối với loại lịch sách, phần nội dung phải được viết khác hẳn với các cuốn đã xuất bản trước kia. Ngày nay, ngoài công dụng cho chúng ta biết về ngày tháng, cuốn lịch còn cung cấp các ngày lành tháng tốt, các ngày húy kỵ, lễ trọng, các ngày giữ chay, các ngày lịch sử quốc gia và quốc tế... Vào các thời trước, một tập lịch bóc được coi là đủ dùng đối với một gia đình thì ngày nay, người ta còn dùng lịch làm thứ trang trí trong nhà vì cuốn lịch đã trở thành một tập tranh cỡ lớn, chứa đựng nhiều hình ảnh đặc biệt, các danh lam thắng cảnh, các giai nhân với nhiều vẻ duyên dáng, quyến rũ khác nhau hay các tác phẩm hội họa danh tiếng... Do sự phức tạp của cuộc sống hiện tại, nhà làm lịch đã cho xuất bản nhiều thứ lịch sách sử dụng cho từng giới: lịch thiên văn, lịch khoa học, lịch phụ nữ, lịch nhi đồng... Đối với loại lịch sách, đây là một cuốn sách quý có tính cách giáo khoa. Trong cuốn lịch sách, ngoài ngày tháng và các lời quảng cáo rao hàng, còn có các điều chỉ dẫn cần thiết cho nghề nghiệp, tiếp theo là phần nhật ký. Đối với phụ nữ, lịch sách chỉ dẫn các môn gia chánh, may vá, vài loại thuốc thường dùng khi nguy cấp, các câu chuyện tế nhị... Lịch nhi đồng chú trọng tới các mẩu chuyện ngắn, đề cập tới văn chương, khoa học, lịch sử, địa dư... và cả các trò chơi như ô chữ, cách chơi tem, cách tập vẽ, các trò thủ công và các bài hát phổ thông... Lịch đã trở thành một thứ quá quen thuộc với cuộc sống của con người nhưng nó đã ra đời hơn 60 thế kỷ về trước và luôn luôn được cải tiến cho thích hợp với bốn mùa. Nhờ có lịch, con người mới có thể tính toán và ghi lại thời gian. 1/ Căn nguyên của Lịch. Mỗi ngày, mặt trời mọc rồi lặn, tạo nên khoảng thời gian liên tiếp nhau. Chính vì sự sống của loài người liên quan tới mặt trời nên chuyển động của mặt trời đã ảnh hưởng tới con người. Người thời cổ đã ghi lại các lần xuất hiện của mặt trời bằng cách khắc vào các cột gỗ hay đánh dấu trên vách đá trong các hang động. Ngoài mặt trới chiếu sáng ban ngày, còn có mặt trăng soi sáng ban đêm. Người thời cổ thấy rằng cứ sau 30 ngày lại có một lần trăng tròn và các khoảng thời gian hai lần trăng tròn liên tiếp nhau không hề thay đổi. Đối với người cổ xưa, việc ghi lại các hoạt động của họ đối với các lần trăng tròn trở nên dễ dàng hơn là đối với mặt trời. Vì vậy các nhà thông thái sống trong các bộ lạc cổ đã làm ra thứ lịch căn cứ vào các tuần trăng. Rồi dần dần con người thâu thập được các kiến thức và các nhà thông thái trong bộ lạc trở nên những người lãnh đạo về tôn giáo, họ là những tu sĩ đầy quyền lực và được mọi người kính trọng vì học vấn, vì pháp thuật… Các tu sĩ này nghiên cứu các vì sao trên trời để rồi tiên đoán những thay đổi bốn mùa một cách khá chính xác. Cũng vì thế chúng ta có thể nói rằng lịch và môn Thiên Văn Học đã tới với cuộc sống của con người cùng một lúc. Vậy lịch là thứ bảng để tính thời gian cũng như để đánh dấu thời gian. Đó là một hệ thống ghi lại thời gian bằng cách chia thời gian ra làm ngày, tuần, tháng, mùa, năm… Sau này, người ta còn tìm cách thêm vào lịch các chi tiết cần thiết như những ngày lễ, những ngày hội hè, các tin tức thiên văn như tuần trăng, giờ mặt trời mọc và lặn, các ngày có nhật thực và nguyệt thực, các dữ kiện về thủy triều… Danh từ "Lịch" theo tiếng Pháp được gọi là "calendrier", bắt nguồn từ chữ Calendes và chữ này dùng để chỉ định ngày đầu tiên trong tháng của người La Mã. Vào thời xa xưa tại thành phố Rome, vị giáo trưởng (Pontife) tụ tập dân chúng vào các ngày đầu tháng để phổ biến các ngày lễ trong tháng. Một danh từ khác để chỉ lịch là Almanach. Tên gọi này xuất phát từ vùng Cận Đông, chữ Al là một giới từ trong khi tiếng cổ Do Thái (Hébreux) "manah" có nghĩa là "đếm". Người ta còn nghĩ tới chữ "man" và gốc chữ này chỉ mặt trăng vì lịch cổ xưa đều tính toán liên quan tới mặt trăng. Stonehenge, một di tích tại nước Anh Thứ lịch cổ xưa nhất là Stonehenge, một di tích tại nước Anh. Người thời cổ của vùng đất này đã xếp đặt hai tảng đá sao cho đúng vào ngày hạ chí, bóng mát của tảng đá thứ nhất in chùm lên tảng đá thứ hai. Chắc hẳn giống người này phải là một dân tộc tôn thờ Mặt Trời và phải có một kiến thức về thiên văn học. Căn cứ vào các di tích còn lại tại châu Á, các nhà khảo cổ cho rằng người Trung Hoa đã biết ghi ngày vào năm 2397 trước Tây Lịch, trong khi tại nước Ấn Độ, người dân đã biết tính toán về thời gian vào năm 3102 trước Tây Lịch. Tại nước Ai Cập, Đại Kim Tự Tháp Chéops được xây dựng tại Giza vào năm 1900 trước Tây Lịch, với cách xếp đặt để vào các ngày xuân phân và thu phân, mặt trời chỉ chiếu vào hai mặt phía đông và phía tây. Bên châu Mỹ và ở 4,000 thước cao trên rặng núi Andes của xứ Bolivie, tại Tiahuanaco còn tồn tại một chiếc cổng bằng đá trước kia thuộc một ngôi đền Inca thờ Mặt Trời. Theo các nhà khảo cổ, các dấu hiệu khắc trên đá của chiếc cổng này là một cuốn lịch, không những ghi lại các ngày tháng và các tuần trăng mà còn ghi chú cả về các phân điểm và chí điểm. Tại Mễ Tây Cơ, các giáo sĩ người Maya đã quan tâm đến thời gian từ năm 3375 trước Tây Lịch và đã để lại tại Chichén Itzá các di tích về lịch liên quan tới mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Vào khoảng năm 350 trước Tây Lịch, người Maya đã dùng một thứ lịch chính xác hơn cả lịch Julien. Các nhà thiên văn của xứ này đã cho một năm có 360 ngày và 5 ngày kém may mắn. Một năm được chia ra làm 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày. Ngoài ra họ còn dùng cả năm nhuận để sửa chữa những sai biệt. Tại các cao nguyên phía nam của xứ Mễ Tây Cơ, dân tộc Aztèques đã dùng những nguyên tắc chính trong lịch của người Maya nhưng họ lại có hai thứ lịch: lịch tôn giáo gồm 260 ngày căn cứ vào các điều thần bí và lịch mặt trời có 360 ngày liên quan tới việc quan sát thiên văn. 2/ Lịch của hai miền Chaldée và Cổ Do Thái. Dân tộc đầu tiên đã nghiên cứu các vì sao, mở đầu cho môn Thiên Văn Học là những người Sumérien và Assyrien. Hơn 6,000 năm về trước, trong thung lũng của hai con sông Tigres và Euphrates, các tu sĩ kiêm nhà thiên văn người Babylonien đã nhận thấy rằng mặt trăng tròn sau 30 ngày liên tiếp. Họ đã gọi quãng thời gian này là tháng và như vậy, một năm của họ có 12 tháng tức là 360 ngày. Nhưng vì mặt trời đi một vòng trên Hoàng Đạo trong 365 ngày ¼ nên lịch của người Babylonien đã thiếu mất 5 ngày ¼ tức là sau 6 năm, họ thiếu hơn 30 ngày. Để sửa chữa khuyết điểm này, họ chấp nhận một tháng phụ mỗi 6 năm. Về sau này, các nhà thiên văn Babylonien thấy rằng cách xếp đặt này chưa được ổn thỏa nên quyết định rằng mỗi tháng có 29 ngày ½ và như vậy thích hợp với chuyển động của mặt trăng hơn. Nhưng khoảng thời gian kể trên là lẻ, khó cho việc tính lịch vì vậy, các nhà thiên văn lại đồng ý chấp nhận các tháng có lần lượt 29 và 30 ngày. Như thế tổng số các ngày trong 12 tháng mới được 354 ngày và còn thiếu 11 ngày ¼. Trong khoảng 3 năm, tất nhiên có sự sai lệch một tháng đối với 4 mùa xuất hiện. Muốn sửa chữa điều này, nhà vua đã ban sắc lệnh chấp nhận một tháng nhuận thêm vào mỗi 3 năm. Tháng phụ này được tính căn cứ vào một ngôi sao mọc cùng một lúc với mặt trời (le lever héliaque). Đối với người Chaldéen, họ dùng ngôi sao Régulus. Khi mặt trời nằm trong chùm sao Hải Sư (Lion), ngôi sao Régulus bị chìm hẳn trong ánh sáng chan hòa của Thần Thái Dương và không ai trông thấy nó cả. Tới khi mặt trời chuyển sang chùm sao Xử Nữ (Vierge) thì người ta thấy vào lúc rạng đông tại chân trời chỗ mọc trời mọc, ngôi sao Régulus xuất hiện. Mỗi tháng của người Chaldéen được liên kết với hai hay ba ngôi sao xuất hiện cùng một lúc với mặt trời và khi các ngôi sao này lại rơi sang tháng khác bên cạnh thì là lúc phải sửa đổi lại lịch. Dưới ảnh hưởng của nền văn minh của xứ Babylone, người Cổ Do Thái (Hébreux) đã học hỏi được các nguyên tắc về lịch và về thiên văn học. Người Cổ Do Thái còn bắt chước các tên gọi từng tháng của người Chaldéen. Các tháng của người Chaldéen: Nisannu (tháng 4), Airu (tháng 5), Sivanu, Duzu, Abu, Ululu, Tasritu, Arah-samna, Kislou, Tebitu, Sebatu, Addaru (tháng 3). Các tháng của người Cổ Do Thái: Nisan (tháng 4), Iyar (tháng 5), Sivan, Tamouz, Ab, Elul, Tisri, Marchesvan, Kislev, Tebet, Sebat, Ader (tháng 3). Tại xứ Chaldée cũng như tại thành phố Palestine, do kinh nghiệm mà người ta nhận biết khi nào là ngày đầu tháng. Ngày đầu tháng này được tính căn cứ vào trăng thượng huyền (le croissant de la lune). Vào buổi hoàng hôn của ngày thứ 29, người ta quan sát bầu trời phía tây, nếu vào lúc mặt trời lặn mà nhìn thấy được trăng thượng huyền thì tháng mới được kể là bắt đầu. Nếu không quan sát được trăng thượng huyền, người ta sẽ làm lại công việc quan sát này vào ngày hôm sau. Nếu ngày 30 qua rồi mà trăng thượng huyền vẫn chưa xuất hiện, vị tu sĩ trưởng (grand prêtre) tất nhiên sẽ dùng tù và loan báo ngày đầu tháng. Đối với người Cổ Do Thái, năm bắt đầu vào mùa Thu, ngày mồng 1 tháng Tisri rồi sau này Moise ấn định lại vào mùa Xuân, tháng Nisan hay tháng có hoa. Để làm cho các tháng thích hợp với bốn mùa, người Chaldéen cũng như người Cổ Do Thái dùng tới tháng thứ 13, năm có tháng này được gọi là năm nhuận (année ambolismique) do danh từ Hy Lạp embolismos là thêm vào. Cứ vào tháng Nisan (tháng 4), người ta bắt đầu gặt được lúa mạch (orges) tại Palestine, vì thế nếu tới ngày 16 Nisan mà lúa mạch còn quá non, thì vị tu sĩ trưởng sẽ thêm một tháng Adar (tháng 3) nữa và tháng mới này được gọi là Véadar (tháng 3 thứ nhì). Người Chaldéen kể ban ngày vào lúc mặt trời mọc và chia ban ngày ra làm 12 phần bằng nhau bằng cách dùng cột chỉ giờ (gnomon) và một thứ nhật quỹ (polos). Về ban đêm họ căn cứ vào các vì sao mà biết được giờ giấc. Nhờ các đồng hồ nước (clepsydre), người Chaldéen đã chia ngày ra làm 12 kaspu (1 kaspu = 2 giờ). Người Cổ Do Thái cũng dùng cột chỉ giờ để tính thời gian. Ngày của họ bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Họ chia ban ngày và ban đêm ra làm 4 phần và sự phân chia này lúc đầu còn sai lệch nhưng dần dần trở nên chính xác hơn. Người Cổ Do Thái là những người đầu tiên dùng tuần lễ và ngày chuẩn được gọi là Sabbat. Ngày nghỉ ngơi này bắt đầu từ chiều thứ Sáu đối với lịch mà chúng ta dùng ngày nay, rồi các ngày kế tiếp được kể là thứ nhất, thứ hai… và ngày thứ sáu của họ được gọi là parascène, có nghĩa là chuẩn bị cho ngày Sabbat. Theo tập tục cổ, người Cổ Do Thái cố tránh để không có hai ngày lễ hay hai ngày nghỉ liên tiếp vì thế có năm dư ra 1 ngày, khiến cho năm sau thiếu 1 ngày. Như vậy có 6 loại năm xuất hiện: ngoài các năm thông thường 12 tháng gồm 3 thứ: đều (có 354 ngày), dư (abondante)(có 355 ngày), và thiếu (défective)(có 353 ngày), còn có các năm nhuận 13 tháng gồm có 3 loại 384, 385 và 383 ngày. Thứ lịch phức tạp này của người Cổ Do Thái được xử dụng mãi tới khi họ biết đến Chu Kỳ Méton (cycle de Méton) gồm 19 năm. Tới khi này người Do Thái (Juifs) mới ấn định rõ ràng các tháng nhuận sẽ xẩy ra vào các năm thứ 3, 6, 8, 11, 14 và 19 của chu kỳ. 3/ Lịch Ai Cập. 10,000 năm về trước, người Ai Cập sống tại hai bên bờ sông Nil đã tính đầu năm vào ngày nước sông Nil bắt đầu dâng cao. Vào thời cổ xưa, năm được chia ra làm 3 mùa: trong 4 tháng, nước ngập, mang phù sa bồi đắp cánh đồng làm cho ruộng vườn thêm màu mỡ, 4 tháng sau là thời kỳ trồng trọt rồi tiếp theo là 4 tháng gặt hái và hội hè. Thứ lịch đơn giản này tuy được người dân quê Ai Cập xử dụng nhưng không được các nhà thiên văn chấp nhận. Theo Tiến Sĩ George Sarton, một sử gia lừng danh, thì vào khoảng các năm 4229 – 4226 trước Tây Lịch, các nhà thiên văn người Ai Cập đã từ bỏ thứ lịch căn cứ vào mặt trăng mà dùng lịch mặt trời. Các nhà thiên văn thấy rằng hàng năm, nước sông Nil bắt đầu dâng cao cùng một lúc với sự xuất hiện của một ngôi sao rất sáng trên nền trời: sao Sirius. Hiện tượng này xảy ra vào khoảng ngày 19 tháng 7 Dương Lịch của chúng ta. Vì thế ngày ngôi sao Sirius bắt đầu mọc và ngày nước sông Nil bắt đầu dâng cao đã được dùng làm thời điểm gốc cho thứ lịch của người Ai Cập. Bằng cách ghi chép và tính trước ngôi sao Sirius sẽ xuất hiện, các nhà thiên văn có thể tiên đoán một cách khá chính xác ngày nước sông Nil tràn ngập cánh đồng và như vậy, các nông dân được thông báo trước hiện tượng thiên nhiên này. Lịch Ai Cập (cuối thế kỷ 13) Lịch của người Ai Cập vào thời cổ xưa gồm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày. Tên gọi của các tháng như sau: Mùa ngập nước: Thoth, Paophi, Athyr, Choeac. Mùa trồng trọt: Tybi, Méchir, Phaménoth, Pharmouti. Mùa gặt hái: Pachon, Payni, Epiphi, Mésori. Về sau các nhà thiên văn đã nhận thấy rằng quãng thời gian 360 ngày này vẫn còn ngắn, chưa thích hợp với các mùa, vì vậy họ đã thêm vào tháng cuối cùng 5 ngày phụ (jour épagomène). Nhưng rồi các nhà thiên văn lại nhận thấy rằng ngôi sao Sirius xuất hiện, trước kia vào ngày mồng 1 tháng Thoth, sau 4 năm lại rơi vào ngày mồng 2 rồi 4 năm sau nữa, vào ngày mồng 3. Nhờ nhận xét này, người Ai Cập đã cho rằng một năm đúng ra gồm 365 ngày ¼ và như vậy, sau 120 năm, sự sai biệt là 1 tháng và sau 730 năm, sai biệt lên tới 6 tháng khiến cho các ngày mùa đều rơi vào các tháng trái ngược với thông lệ. Sau 1460 năm, ngày ngôi sao Sirius bắt đầu mọc mới lại rơi đúng vào mồng 1 tháng Thoth. Người Ai Cập đã ăn mừng ngày lịch trở lại này và khoảng thời gian 1460 năm được gọi là Chu Kỳ Sirius (cycle sothiaque, do chữ Ai Cập gọi ngôi sao Sirius là Sothis). Tuy biết rằng lịch bị sai lệch, các nhà thiên văn Ai Cập đã không tìm cách sửa chữa, có thể vì dị đoan, vì quen dùng và dân chúng vẫn nghỉ các ngày lễ tết mà không quan tâm gì tới bốn mùa khiến cho thứ lịch "mơ hồ" này (calendrier vague) đã được dùng trong hơn 4,000 năm. Tới năm 238 trước Tây Lịch, Vua Ptolémée III Evergète mới tìm cách chấm dứt tình trạng hỗn độn này. Nhà vua ban ra một đạo luật chấp nhận một ngày phụ thứ sáu sau mỗi 4 năm khiến cho mỗi năm đúng là 365 ngày ¼ nhưng dân chúng Ai Cập thời đó đã từ chối dùng cái ngày "đáng nghi ngờ này". Vào năm 19 trước Tây Lịch, Vua Auguste cũng bắt dân Ai Cập dùng lịch Julien và nhà vua cũng gặp phải sự phản đối của dân chúng. 4/ Lịch Hy Lạp. Giống như người Ai Cập, người Hy Lạp vào thuở ban đầu đã dùng lịch mặt trời. Một tháng của họ gồm có 30 ngày. Về sau họ đã sửa lại lịch để có các tháng đầy (mois pleins) với 30 ngày và các tháng vơi (mois caves) với 29 ngày xếp đặt xen kẽ nhau. Tuy nhiên thứ lịch này vẫn chưa thích hợp với bốn mùa nên các hoạt động nơi đồng áng thường được căn cứ vào sự mọc và lặn của các ngôi sao mọc cùng một lúc với mặt trời. Người dân quê Hy Lạp cũng như người dân chài lưới quá quen thuộc với cách quan sát bầu trời, nên họ có thể tiên đoán thời tiết một cách khá chính xác. Ngoài ra tính thực nghiệm này còn được nhiều nhà thiên văn danh tiếng lưu tâm và nghiên cứu như Méton, Eudoxe, Callippe, Hipparque, Ptolémée… Người Hy Lạp coi ngày bắt đầu vào lúc hoàng hôn. Vào thời Homère (thế kỷ thứ 9 và thứ 8 trước Tây Lịch), ban ngày cũng như ban đêm chỉ được phân chia một cách kém rõ ràng. Tới khi nhật quỹ (cadran solaire, một loại đồng hồ mặt trời) là thứ được dùng rất lâu tại Babylone, du nhập vào Hy Lạp thì người dân tại nơi đây mới biết tới một dụng cụ đo thời gian. Người ta còn cho rằng chính Anaximandre đã dạy cho đồng bào của ông biết cách dùng nhật quỹ. Tới thế kỷ thứ 2 trước Tây Lịch, đồng hồ nước (clepsydre) mới thấy xuất hiện tại Hy Lạp, nhưng số giờ của ban ngày và của ban đêm không bằng nhau và thay đổi theo từng mùa. Người Hy Lạp rất quan tâm về tháng. Họ chia tháng ra làm 3 đợt, mỗi đợt 10 ngày (décades). Trong các tháng vơi, đợt thứ ba chỉ có 9 ngày. Ngày đầu tiên trong tháng được gọi là néoménia có nghĩa là trăng mới (nouvelle lune) do chữ mênè là mặt trăng. Trong 2 đợt 10 ngày đầu, người ta gọi các ngày theo thứ tự trong đợt, rồi vào đợt cuối cùng, mặt trăng biến dần nên các ngày được gọi là ngày thứ 9 trước khi mặt trăng biến mất, ngày thứ 8… cứ như thế cho tới ngày cuối cùng của tháng được gọi là ngày thứ 30 (triacade). Do các tháng lần lượt có 30 và 29 ngày, nên tổng số ngày trong một năm chỉ được 354 ngày vì thế, ngay cả vào thời đại Solon, cứ 2 năm người ta phải thêm vào 1 tháng thứ 13. Tới thời đại Hérodote, cứ 3 năm lịch lại có thêm 1 tháng rồi dần dần trong một chu kỳ 8 năm (octaétéride), có 3 tháng nhuận 30 ngày bổ xung vào các năm thứ 3, thứ 5 và thứ 8. Như vậy trong một chu kỳ 8 năm gồm 99 tháng lần lượt là đầy và vơi, kể cả 3 tháng nhuận đầy, tổng số ngày là 2922 và như thế, trung bình một năm là 365 ngày ¼. Người Hy Lạp đã biết tới chu kỳ 8 năm này vào thời trước năm 775 trước Tây Lịch. Vì một tháng trung bình là 29 ngày 12 giờ 44 phút 2.8 giây nên lịch của người Hy Lạp khi đó vẫn còn ngắn so với tuần trăng, điều này khiến cho mặt trăng xuất hiện chậm hơn so với ngày tháng ấn định. Vì lý do này nên sau 80 năm, sự sai biệt lên tới 2 tuần lễ và người ta đã thấy trăng tròn khi lịch lại chỉ là trăng mới. Trở ngại này khiến cho các ngày tết lễ không còn ăn nhịp với các tuần trăng nữa. Người ta phải tìm cách sửa chữa. Chu kỳ Méton (năm 433 TCN) Vào thời bấy giờ tại kinh thành Athènes, nhà thiên văn Méton đã nhận xét rằng: (a) 19 năm mặt trời (365 ngày) có 6,935 ngày, (b) 19 năm mặt trăng (354 ngày) có 6,726 ngày, (c) sự sai biệt giữa hai thời kỳ kể trên là 209 ngày, tương đương với 6 tuần trăng đầy 30 ngày và 1 tuần trăng vơi (7è lunaison cave) 29 ngày. Do các nhận xét này, Méton kết luận rằng sau 235 tuần trăng (19 x 12 = 228 + 7 = 235), mặt trời và mặt trăng sẽ trở lại các vị trí tương đối với nhau như cũ. Theo Diodore, Méton đã phổ biến sự khám phá này vào năm 433 trước Tây Lịch, nhân dịp có tổ chức Thế Vận Hội. Điều khám phá của Méton đã được các lực sĩ thành Athènes thán phục, họ đã dùng chữ vàng ghi khắc Chu Kỳ Méton lên trên các cổng nơi đền thờ thần Minerve, vì thế số thứ tự của một năm nằm trong Chu Kỳ Méton được gọi là "số vàng" (nombre d’or). Thí dụ: năm 01 của Tây Lịch Kỷ Nguyên có số vàng là 2. Chu Kỳ Méton có thể được tóm tắt như sau: 5 năm 355 ngày (1,775 ngày) + 7 năm 354 ngày (2,478 ngày) + 6 năm 384 ngày (2,304 ngày) + 1 năm 383 ngày = tổng cộng 6,940 ngày. Theo nhà thiên văn Bigourdan, Chu Kỳ Méton gồm 6,940 ngày, phân chia cho 235 tháng với 125 tháng đầy và 110 tháng vơi, như vậy 1 năm gồm 365 ngày 5/19 và 1 tháng gồm có 29 ngày 25/47, cả hai khoảng thời gian này còn dài so với thực tế. Vào khoảng năm 335 trước Tây Lịch, tại thành Athènes có nhà thiên văn Callippe thường liên lạc chặt chẽ với Aristote để tìm cách khai triển hệ thống vũ trụ của Eudoxe. Khi đã về già, Callippe mới đề nghị một phương pháp sửa chữa Chu Kỳ Méton bằng cách mang 4 chu kỳ đó lại thành một chu kỳ 76 năm. Với mỗi khoảng thời gian này, Callippe đề nghị bỏ bớt đi 1 ngày, khiến cho 1 năm gồm 365 ngày ¼ và trong một tháng có 29 ngày 499/940, một trị số khá chính xác. Tới năm 130 trước Tây Lịch, Hipparque, nhà thiên văn danh tiếng nhất của thời Cổ Hy Lạp, là người đầu tiên nhận thấy rằng 1 năm ngắn hơn 365 ngày ¼. Hipparque đề nghị cứ 4 Chu Kỳ Callippe hay 304 năm, phải bớt đi 1 ngày. Như vậy một năm trung bình của Hipparque là 365 ngày 5 giờ 55 phút (trị số chính thức là 365 ngày 5 giờ 49 phút) và một tháng gồm 29 ngày 12 giờ 44 phút 2 giây, sai biệt 0.8 giây so với trị số chính xác ngày nay. Mặc dù sự chính xác do nền thiên văn Hy Lạp mang lại cho phép tính lịch, các điều khám phá của Méton, Callippe, Hipparque đều không được dân chúng quan tâm. Người dân Hy Lạp chỉ quen dùng chu kỳ 8 năm và vì vậy, những sửa chữa không được áp dụng vào lịch của dân Hy Lạp. 5/ Lịch Hồi Giáo (Calendrier musulman). Lịch Hồi Giáo hoàn toàn căn cứ vào mặt trăng. Các tháng được tính tuần tự là 30 và 29 ngày và như vậy, 1 năm có 354 ngày, tức là sai biệt với năm mặt trời 11 ngày ¼. Mặc dù khiếm khuyết như vậy, người Ả Rập vẫn không quan tâm tới lịch và các tháng của họ được gọi tên như sau: 1/ Moharram (30 ngày), 2/ Safar (29 ngày), 3/ Rabi I (30 ngày), 4/ Rabi II (29 ngày), 5/ Djoumada I, 6/ Djoumada II, 7/ Radjab, 8/ Sa’aban, 9/ Ramadan, 10/ Sawal, 11/ Dzou’l, 12/ Dzou’l Hidja. Vì tuần trăng thực ra dài hơn 44 phút so với thời gian 1 tháng trung bình của người Ả Rập, nên sau 30 "năm Hồi Giáo", sự sai biệt lên tới 11 ngày. Người Ả Rập đã tìm cách thêm 11 ngày này vào 11 năm nằm trong vòng 30 năm và vì vậy, vào các năm thứ 2, 5, 7, 10, 13, 16, 18, 21, 24, 26 và 29, tháng cuối cùng có thêm 1 ngày khiến cho tổng số ngày là 355. Tại mỗi tỉnh trong các xứ Ả Rập, có 2 người "đáng tin cậy" lãnh nhiệm vụ quan sát bầu trời. Khi hai người này nhìn thấy trăng thượng huyền đầu tiên thì tháng đó được kể là bắt đầu. Cũng vì phương pháp vụng về này mà không tránh sao khỏi nhầm lẫn và gian lận. Người Ả Rập kể "ngày" từ lúc mặt trời lặn, sớm hơn lúc 18 giờ của chúng ta ngày nay. Họ cũng dùng tuần lễ và ngày Chủ Nhật được kể là ngày đầu tiên trong tuần. Vào ngày thứ Sáu, họ thường hội họp với nhau và cầu nguyện. Vì năm Hồi Giáo ngắn hơn năm mặt trời 11 ngày ¼ nên 33 năm mặt trời trung bình được người Ả Rập tính là 34. Cũng vì lý do này mà Ngân Khố Ả Rập phải trả lương cho công chức nhiều hơn so với các quốc gia khác và do đó, chính quyền Ả Rập dần dần chuyển sang dùng lịch Julien./.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 11, 2010 14:41:19 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:29:41 GMT 9
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV - Tenzin Gyatso Làng Đậu * Đạt lai Lạt ma - Claudia Dreifus * Đạt Lai Lạt Ma, con trai tôi * Đạt Lai Lạt Ma, thúc phụ của tôi Các bạn thân mến, Vào ngày 17 tháng 10 năm 2007, tổng thống Hoa kì George W Bush, thay mặt quốc hội đã trao tặng cho đức Đạt-lai Lạt-ma giải thuởng cao qúy nhất của Hoa kì là "Congressional Gold Medal Award" . Nhân dịp này, Ngài đã cho phép một Phái đoàn Phật tử Kim Cương thừa Việt Nam được diện kiến. Nhân cơ hội này LĐ xin được bổ xung và điều chỉnh một số thông tin mới về Ngài. Sắp tới, quyển sách được Ngài kí tặng và xuất bản lần đầu tại Việt Nam sẽ được phát hành với tựa đề "Tứ Điệu Đế". Đức Đạt-lai Lạt-ma (Tây Tạng: taala'i blama, Pháp: Dalaï Lama, Anh: Dalai Lama) thứ 14 được rất nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ không phải chỉ vì Ngài một nhà lãnh đạo của một tôn giáo hay một chính thể mà là vì Ngài là một tấm gương kiên trì đấu tranh bất bạo động cho quyền độc lập Tây Tạng và là một người thi hành không mệt mỏi trong suốt nhiều thập niên để mưu cầu hạnh phúc cho mọi tha nhân không phân biệt tôn giáo sắc tộc và truyền bá tư tưởng từ bi vị tha. Ngài nhận giải Nobel Hoà Bình năm 1989. Trong khuôn khổ một bài báo, tác giả bài viết không có tham vọng trình bày đầy đủ chi tiết về nhân vật tôn giáo lớn này, chỉ mong đem lại cho người đọc một vài nét rất sơ lược về hình ảnh của một vĩ nhân đương tại. Lưu ý: Các bài viết có liên quan đến Phật giáo do tác giả Làng Đậu khởi đăng trên Internet cho phép người đọc được tự do in lại hay phổ biến nguyên văn mà không có sự cắt xén để tránh gây ngộ nhận hiểu sai khi câu văn đã bị đưa khỏi ngữ cảnh. Chân thành cảm tạ. Phật Giáo Tây Tạng và Truyền Thừa Đạt-Lai Lạt-ma: Khi nhắc đến Tây Tạng thường sẽ gợi nhớ cho người đọc về hình ảnh của một đất nước đầy màu sắc thần bí huyền hoặc. Một trong những nguyên do của sự kiện này là vì vị trí địa lý và truyền thống tôn giáo đặc sắc của xứ Tây Tạng. Đây là vùng đất có độ cao trung bình trên 4200m thuộc về dãy núi Hymalaya lạnh lẽo ở giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Với vị trị địa lý hiểm trở, mãi đến thế kỉ 18 xứ Tây Tạng vẫn còn tương đối cô lập so với thế giới bên ngoài và do đó người dân bản địa có thể giữ được truyền thống văn hóa đặc thù riêng của vùng đất này. Do có chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa Ấn-Trung nên các phong tục tập quán sống của người Tây Tạng xưa rất đặc biệt vừa pha trộn sắc thái đa thần của Bà-la-môn giáo, Phật giáo từ Ấn Độ và nhiều tập quán du nhập từ Trung hoa. Phần khác quan trọng hơn, đây là nơi mà hơn 99% người dân đều theo Phật giáo Đại Thừa, đặc biệt là Mật tông hay còn gọi là Kim Cương thừa. Về triết lý thì giáo lý Trung Quán truyền lại từ bồ tát Long thọ và các đệ tử của Ngài được xem như là cốt lõi giáo lý Phật giáo ở đây, nhưng với một quan điểm thực hành đặc thù. Người theo bộ phái Kim Cương Thừa chú trọng hai khía cạnh tu học chính đó là Phương Tiện và Trí Huệ. Phương tiện tu học Mật tông là một trong những nét độc đáo mà không bộ phái Phật giáo khác nào có được. Bên trong Mật thừa còn có nhiều bộ phái nhỏ; tựu trung giáo lý có khoảng 4 lớp nguyên lý cơ bản. Lớp nguyên lý tu học cao nhất được gọi là "Mật tông Du-già Tối Thượng " (Anuttarayogatantra). Nguyên lý này bao gồm cả các thực hành thiền định sử dụng nhiều yếu tố tâm lý, như là việc hình tượng hóa các kinh (mạch) năng lực của thân thể, các năng lực luân chuyển trong các kinh mạch, 'các gìọt vi tế' vân vân. Những yếu tố tâm lý này có tác động khai mở các năng lực tiềm tàng bên trong thân tâm nhằm giúp hành giả tu học được nhanh hơn và tùy trường hợp còn có thể đạt tới một số năng lực siêu nhiên khác (như là năng lực tự soi rọi được các tiền kiếp). Một số phương tiện khá nổi tiếng của Mật tông đã được nhiều người biết đến là: Mật chú (các thần chú), Thủ Ấn (hay bắt ấn trên tay), và một kĩ thuật đặc sắc đầy tính nghệ thuật là Mạn-đà-la. Để bảo đảm được sự tu học thành công và tránh các hậu quả do việc tu tập sai lầm, phần nhiều các phương tiện tu học học này và nhiều kinh văn đặc thù chỉ được truyền dạy trực tiếp từ một đại sư. Tên gọi Mật tông có lẽ cũng là do từ đây mà ra. Điều này có thể là nguyên do chính tạo nên tính "huyền bí" ở Tây Tạng. Khi đề cập đến việc thực hành Mật tông, đức Đạt-lai Lạt-ma 14, người được xem có vị trí tối cao trong Cách Lỗ Phái, giáo phái lớn nhất thuộc Mật tông, đã nhấn mạnh hai đặc tính cơ bản nhất của Đại thừa (từ tác phẩm "Tứ Diệu Đế" xuất bản năm 1997 -- chương Đạo Đế - phần Lộ Trình Kim Cương thừa ): "...trong tất các các loại thiền định thì chìa khóa luôn luôn là đạt được bồ đề tâm và trực giác tính không a. Thiếu hai nhân tố này, không có cái nào trong những điều vừa kể có thể xem xét là các thực hành Phật giáo. Vùng tô màu vàng là lãnh thổ của nước Tây Tạng trước đây Vị Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 Bây giờ, ta hãy chuyển sang tìm hiểu sơ lược về truyền thống lựa chọn các vị Đạt-lai Lạt-ma. Ở Tây Tạng các vị Đạt-lai Lạt-ma được tin là đức Quán Thế Âm Bồ Tát tái sinh để độ chúng sinh. Theo từ điển bách khoa mở bằng Anh ngữ (en.wikipedia.org) thì dòng tái sinh này được truy cứu là có từ 1931. Các vị Đạt-lai Lạt-ma đều thuộc về trường phái Phật giáo Gelug (Cách Lỗ Phái) Kể từ khi có danh hiệu Ban-thiền Lạt-ma, thì vị này giữ nhiệm vụ phát hiện hóa thân của đức Đạt-lai Lạt-ma tái sinh, và ngược lại, đức Đạt-lai Lạt-ma sẽ là người quyết định lựa chọn ai là vị Ban-thiền Lạt-ma (tái sinh) kế tục. Sẽ là một thiếu sót nếu không giới thiệu sơ lược về trường phái của các vị Đạt-lai Lạt-ma. Gelug hay còn gọi là Cách-lỗ phái được sáng lập từ ngài Tsongkhapa (Tông-khách-ba 1357-1419) một đại sư người Tây Tạng đã nhấn mạnh nguyên lý Đại thừa về từ bi vô lượng. Ngài đã kết hợp sự giác ngộ trực tiếp về tính không của hai vị Bồ tát Long Thọ (thế kỉ thứ 2) và Nguyệt Xứng (thế kỉ thứ 7) để giảng dạy về giáo lí Trung Quán (Madhyamaka). Cách-lỗ phái phát triển phương cách để giác ngộ tính không thông qua thiền định và các phương tiện tu học quan trọng nhất là kết hợp thiền định với các thực hành Mật tông như đã đề cập. Chữ gelug có nghĩa là "tông phái của các hiền nhân" trong khi đó chữ "Cách-lỗ" là cách đọc phiên âm của chữ "Gelug". Chữ Đạt-lai có gốc từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là biển lớn, chữ Lạt-ma là chữ Tây Tạng dùng để chỉ các đạo sư. Chữ "Đạt-lai Lạt-ma" được hiểu như là một người có trí trí huệ sâu xa như biển. Danh hiệu này nguyên được Hoàng Tử Mông Cổ phong cho ngài Sonam Gyatso trong năm 1578 b , tức là vị Đạt-lai Lạt-ma thứ 3 tái sinh từ hai vị thứ nhất và thứ nhì. Kể từ đời Đạt-lai Lạt-ma thứ 5, lúc đó tên là Losang Gyatso, đã ban danh hiệu Ban-thiền Lạt-ma cho ngài Lobsang Choekyi Gyaltsen. Kể từ đó, danh hiệu này được các dành cho các hóa thân tái sinh của vị Ban-thiền Lạt-ma trước đó. Chữ Ban-thiền (Panchen) là chữ ghép bởi hai từ "Pandita" và "Chenpo". Padita là chữ Phạn có nghĩa là "học giả" trong khi chữ "Chenpo" trong Tạng ngữ có nghĩa là "vĩ đại" Bối Cảnh Lịch Sử và Thời Gian Ở Tây Tạng: Chữ ký Dalaï Lama Năm 1895 đức Đạt-Lai Lạt-ma thứ 13 nắm quyền thế tục , trong bối cảnh của hai cuộc thế chiến, năm 1913 Tây Tạng tuyên bố độc lập. Người Tây Tạng đã thành công trong việc đánh đuổi quân Trung quốc trong năm 1918. Nước Tây Tạng này đứng trước một mối nguy rất lớn từ hai phía: Anh-Ấn và Trung Hoa. Ngài Đạt-Lai Lạt-ma thứ 13 đã tìm cách giữ được trạng thái độc lập của Tây Tạng giữa hai thế lực này trong suốt 12 năm kể từ 1918 (nhờ vào một hiệp ước mong manh kí với các lân bang) và Tây Tạng đã đạt được công nhận của quốc tế. Vào năm 1935 vị Đạt-Lai Lạt-ma thứ 13 qua đời khi mà hoàn cảnh đất nước đứng trước các hiểm họa lớn, và ngài đã để lại một lời tiên tri về vận mệnh của nước Tây Tạng: Điều có thể xảy ra ngay tại trung tâm của Tây Tạng, tôn giáo và nội các có thể bị tấn công từ bên ngoài và bên trong. Ngoại trừ chúng ta có thể bảo vệ quê hương của chúng ta, các vị Đạt-lai và Ban-thiền Lạc-ma, Cha và Con ... sẽ phải rời bỏ không kèn trống. Các Chùa chiền các sư, ni, đất đai tài sản của họ sẽ bị hủy hoại ... những viên chức của quốc gia sẽ thấy rằng đất nước họ bị xâm chiếm và tài sản của họ bị tịch thu, và họ hoặc tự mình phục vụ cho kẻ thù hay lang thang trong quê nhà như những kẻ ăn mày. Mọi chúng sinh sẽ bị chìm ngập trong đau khổ và sợ hãi bao trùm. Nhiệm vụ lớn khi Đạt-Lai Lạt-ma thứ 13 qua đời cho chính quyền Tây Tạng là đi tìm hóa thân mới của ngài tức là đức Đạt-lai Lạt-ma 14. Năm 1935, phái đoàn đã đến hồ Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal cách thủ đô Lhasa của TâyTạng 90 dặm về phía Đông Nam. Đây là hồ linh thiên đối với người Tây Tạng, nhiều sự kiện tương lai có thể đọc thấy ở đây. Ngài nhiếp chính đã tìm được 3 chữ cái Tây tạng là Ah, Ka, và Ma theo đó là ảnh của một ngôi chùa với nóc ngọc xanh biếc và vàng và một ngôi nhà lát đá màu lam. Đến năm 1937 đoàn Lạt-ma cao cấp và các chức sắc dưới sự lãnh đạo của Lạt-ma Kewtsang Rinpoche trụ trì chùa Sera mang theo những sự kiện kì bí thấy được từ hồ nước đến Amdo và đã thấy được một nơi trùng hợp với các hình ảnh kì bí đó. Ngài Kewsang Rinpoche đã giả dạng làm những người hầu, ông đeo một một tràng hạt của đức Đạt-lai Lạt-ma 13 và chánh văn phòng Lobsang Tsewang giả làm người thị giả. Khi tới nơi, một đứa bé hai tuổi trong ngôi nhà nhận ra được xâu chuỗi và yêu cầu trả lại cho bé. Ngài Kewsang Rinpoche đồng ý nhưng với điều kiện là đứa bé đó phải đoán được ông là ai. Đứa bé đã trả lời "Sera aga", trong nghĩa của tiếng địa phương là "một Lạt-ma từ Sera". Sau đó Rinpoche hỏi tên người chủ, đứa bé trả lời đúng tên ông ta; và còn biết cả tên của người hầu thật sự của ông này. Sau đó, đứa bé cũng đã vượt qua hàng loạt thử nghiệm trong đó bao gồm cả việc lựa chọn đúng các món đồ dùng cá nhân để lại của đức Đạt-lai Lạt-ma 13. Đứa bé đó chính là ngài Đạt-lai Lạt-ma 14. Với các thử nghiệm đã đủ để tin đó chính là hóa thân của đức Đạt-lai Lạt-ma 13 tức là một kiếp tái sinh mới của đức Quán Thế Âm. Ngoài ra, các sự kiện lấy từ hồ Lhamo Lhatso cũng được giải đáp: chữ Ah có thể viết tắt cho Amdo, tên tỉnh lỵ; Ka là từ chữ Kumbum, tên của các ngôi chùa lớn nhất ở gần đó; và Ka và ma là tên của chùa Karma Rolpai Dorje ở trên núi gần ngôi làng. Đức Đạt-lai Lạt-ma 14 ra đời ngày 6 tháng 7 năm 1935 tại ngôi làng nhỏ Taktser, phía Đông Tây Tạng gần biên giới Trung Hoa, trong một gia đình nông dân bình thường với tên khi chào đời là Lhamo Dhondup. Mẹ ngài lập gia thất từ lúc 16 tuổi và sinh nhiều con nhưng chỉ nuôi được 5 trai và 2 gái. Ngài được tìm thấy khi mới hai tuổi. Ngài được đặt tên lại sau đó là Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso -- được nhiều mệnh danh như Thánh Nhân, Hào Quang Êm Diệu, Từ bi, Hộ Pháp của Đức Tin, Biển của Trí Huệ hay đơn giản gần đây là Kundun. Ngài lên ngôi ngày 22 tháng 2 năm 1940 lúc năm tuổi. Tại Lhasa, ngài được dạy nhiều môn trong đó có Phạn ngữ, Y học và chủ yếu là Phật học. Tuy nhiên, trong một tác phẩm, ngài đã tự thuật rằng thuở thiếu thời là một đứa trẻ rất tò mò táy máy, yêu khoa học: Việc thấy được tầm quan trọng to lớn của khoa học và việc công nhận tư thế thống trị không tránh được trong thế giới hiện đại đã làm thay đổi thái độ của tôi một cách cơ bản từ việc tò mò sang một kiểu hành động gấp rút. ...Tôi muốn tìm hiểu khoa học vì nó cấp cho tôi những lĩnh vực mới để khám phá trong cuộc truy tìm cá nhân để tìm hiểu bản chất của thực tại. Theo lời tự thuật, thì Ngài đã là một trong số ít người Tây Tạng rất trẻ biết tự mày mò tháo gỡ để lắp sửa các loại đồng hồ và nhiều máy cơ khí khác khi còn sống ở Tây Tạng. Có lẽ, tinh thần yêu khoa học này cũng đã ảnh hưởng đến nhiều hoạt động cho phép các nhà khoa học, vật lý học, và thần kinh học; tham gia các hội thảo nghiên cứu với các thiền sư đã chứng ngộ cao thâm về những lĩnh vực có liên quan đến triết học Phật giáo, vũ trụ quan và thần kinh học sau này. Năm 25 tuổi (1959) ngài đã hoàn tất được trình độ Geshe Lharampa tức là học vị tiến sĩ Phật học. Vào tháng 11 năm 1950 ngài được cho phép tiếp tục vị trí chính trị của mình như là người đứng đầu chính phủ ở Tây Tạng sau khi quân đội Trung Quốc lấn chiếm. Đến năm 1954, ngài đến Bắc Kinh để tìm cách đàm phán hòa bình với các nhà lãnh đạo Cộng Sản trong đó bao gồm cả chủ tịch Trung Quốc bấy giờ là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đến năm 1956, nhân dịp kỉ niêm 2500 Phật đản, ngài đã có Nhiều cuộc họp với thủ tướng Ấn độ là Nehru và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai để bàn về các điều kiện làm hư hại Tây Tạng. Các nỗ lực chống đối của dân Tây Tạng đối với sự chiếm đóng của quân đội Trung Quốc ngày càng tăng. Tháng 10 năm 1959 tại Lhasa đã xảy ra cuộc biểu tình bất bạo động lớn nhất trong lịch sử Tây Tạng để đòi quyền độc lập. Kết quả là quân đội Trung quốc đã đàn áp dã man cuộc biểu tình này.Tổng cộng từ lúc Trung Quốc chiếm đóng, đã có đến hàng chục ngàn chùa chiền bị tiêu huỷ và rất nhiều di sản quý liên quan tới Phật giáo ở đây bị cướp phá nghiêm trọng và hơn 87,000 Phật tử Tây Tạng bị giết. Những hành động tiếp theo của quân đội Trung Quốc có chỉ đấu cho thấy họ muốn giết đức Đạt-lai Lạt-ma. Do đó, vào ngày 17 tháng 3 1958, Ngài đã quyết định đào thoát sang Ấn độ và cùng với hơn 80 ngàn người Tây Tạng tỵ nạn hình thành một cộng đồng Tây Tạng tại Dharamsala Hành Trạng Từ một vị lãnh đạo thế quyền và là một vị lãnh đạo tinh thần cao nhất của một giáo phái ngài trở thành kẻ lưu vong. Mất nước, nhưng không mất tinh thần và Ngài thực sự hoạt động tích cực, kể từ năm 1960 ngài đã mở đầu nhiều cuộc gặp gỡ, vận động, giảng dạy ở khắp nơi với một tinh thần hoàn toàn vị tha: .., cuộc khủng hoảng tại trung tâm Tây Tạng buộc tôi đào thoát khỏi quê nhà sang Ấn Độ, để dấn thân trở thành tị nạn không có tư cách công dân. Điều này vẫn còn là tình trạng hợp lệ của tôi. Nhưng mất quyền công dân tại quê hương, tôi tìm thấy nó trong một ý nghĩa rộng lớn hơn; tôi có thể thực sự nói rằng tôi là một công dân của hoàn vũ. Hoạt động của Ngài có thể chia làm bốn lĩnh vực chính là: Phát triển cộng đồng và đấu tranh cho quyền độc lập của người Tây Tạng và các hoạt động thế quyền; truyền bá Phật giáo, các phương pháp thực hành Phật giáo và giáo dục về nền nếp sống; và cuối cùng là tham gia hoạt động khoa học. Trong lãnh vực thứ nhất. Với tư cách lãnh đạo quốc gia Tây Tạng, Ngài đã kiên quyết đấu tranh bất bạo động không mệt mỏi để yêu sách nhà cầm quyền Trung Hoa trả lại quyền tự trị cho người Tây Tạng đồng thời ngưng các hoạt động phá hủy môi trường sống và âm mưu đồng hóa người Tây Tạng. Đối với cộng đồng lưu vong, ngay từ những ngày đầu, ý thức được tầm quan trọng về giáo dục ngài đã cho tiến hành xây dựng trường học các cấp bao gồm cả các đại học. Riêng về chính quyền, Ngài đã cho thành lập nội các bao gồm các bộ như Thông tin, Giáo dục, Gia đình, Nội an, Tôn giáo, và Kinh tế. Đồng thời bản hiến pháp dân chủ cũng đã được thông qua. Đến năm 1967 lần đầu tiên Ngài xuất ngoại sang Nhật và Thái Tháng 9 năm 1973 ngài khởi đầu cho nhiều cuộc thăm viếng và vận động ở các nước Tây Phương bao gồm Ý, Thụy Điển, Hòa Lan, Bỉ, Ireland, Na Uy, Thụy sĩ, Đan Mạch, Anh, Tây Đức và Áo. Năm 1987, tai Washington Hoa Kì, Ngài đã đề xuất chương trình hoà bình 5 điểm cho vùng đất Tây Tạng bao gồm: 1. Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình. 2. Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng 3. Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng 4. Phục hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử và 5. Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa. Năm 1988 Ngài đưa ra đề xuất Strasbourg gửi tới nghị viện châu Âu nhằm tranh thủ sự chú ý ủng hộ cho 5 điểm trên về một Tây Tạng tự trị. Năm 1992 Khởi động thêm những bước quan trọng cho một chính quyền dân chủ bao gồm trực tiếp đầu phiếu cho Hội đồng bộ trưởng bởi Nghị viện và thành lập ngành tư pháp. Năm 2001 Cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên trong lịch sử của Tây Tạng để chọn thủ tướng (senior minister) Trong hai lãnh vực truyền bá Phật Pháp và giáo dục: Ngài là người hoạt động rất mạnh trong lãnh vực truyền bá Phật giáo đặc biệt là giáo lý Đại thừa và Trung Quán tông. Đúng với mệnh danh hiện thân của lòng từ bi, trong hầu hết các buổi thuyết giảng, tinh thần từ ái, bao dung luôn luôn được ngài nhấn mạnh nhiều lần. Ngài đã đến hơn 62 quốc gia, có mặt ở tất cả các lục địa, gặp gỡ nhiều chính khách cũng như các nhà lãnh đạo tôn giáo, xã hội và kể cả các khoa học gia để nói về chuyện này. Nếu nhìn vào lịch làm việc của ngài thì hết hơn 70% thời lượng là dành cho thuyết Pháp và giảng dạy Phật học và thiền định. Bên cạnh các đề tài về Phật học người đọc còn có thể tìm tìm thấy nhiều chục mặt sách, có đứng tên Ngài, chỉ dạy về cách sống vuơn tới hạnh phúc. Trong số hàng trăm mặt sách mà Ngài làm tác giả hay đồng tác giả (mà phần nhiều trong chúng là do các đệ tử hay các tác giả khác ghi lại qua phỏng vấn hay đàm thoại với Ngài). Riêng Ngài có giữ bản quyền của hơn 72 tựa sách, có nhiều quyển trở thành sách bán chạy nhất (the best selling book). Ngoài ra, người ta còn tìm thấy số lượng không nhỏ các dạng sách bằng âm thanh và hình ảnh. Rất nhiều trong các sách dạng này là trực tiếp thu lại từ các buổi thuyết giảng của Ngài. Điều này cho thấy năng khiếu sư phạm của đức Đạt-lai Lạt-ma. Nếu người ta có dịp tham gia một khoá tu học ngắn hạn trực tiếp từ Ngài sẽ nhận thấy phong cách đặc trưng hồn nhiên, hóm hỉnh, thoải mái được lồng vào trong khuôn khổ hiểu biết sâu sắc về cả Phật học lẫn tinh thần lạc quan. Việc giáo dục đạo đức và truyền bá Phật giáo chắc chắn là một trong các nhiệm vụ chính yếu mà Ngài đề ra. Đối với Khoa học: Nhiều người có thể sẽ rất ngạc nhiên khi mà một lãnh tụ tôn giáo lại có thể tham gia hỗ trợ các nghiên cứu khoa học. Thât vậy, nhận thấy tầm quan trọng cũng như sự tương tự giữa Phật học và khoa học, đức Đạt-lai Lạt-ma là nhà hoạt động tôn giáo đầu tiên trên thế giới đã không ngần ngại có các hoạt động hỗ trợ trực tiếp các nghiên cứu khoa học đặt biệt là trong lãnh vực thần kinh học và thiên văn hoc: Với ảnh hưởng ngày càng lớn của khoa học lên đời sống của chúng ta, tôn giáo và tinh thần càng có một vai trò vĩ đại hơn nhắc nhở ta về bản chất con người. Không có mâu thuẫn giữa hai phương diện này. Mỗi phương diện cho ta các hiểu biết thấu suốt vào phương diện còn lại. Cả khoa học lẫn các giảng huấn của Phật đều dạy bảo ta về sự thống nhất của vạn vật. Chỉ cần dùng Google, người đọc có thể để dàng kiểm nhận lại các hoạt động của ngài trong lĩnh vực này. c Đã có lần Ngài phát biểu rằng nếu không phải là một nhà sư thì Ngài sẽ thích trở thành một kĩ sư. Trong quá trình hoạt động, ngài đã có nhiều liên hệ mật thiết với các nhà khoa học các nhà vật lý tiếng tăm và các nhà thần kinh học. Ngài tin rằng khoa học và Phật học chia sẽ nhau cùng một đối tượng đó là phục vụ nhân sinh và tạo ra sự hiểu biết tường tận hơn về thế giới. Nhiều tác phẩm và diễn thuyết của Ngài có nội dung liên hệ tới khoa học và Phật học hay sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học để làm vật liệu cho các giảng huấn về Phật học. Được biết ngài cũng có nhiều đệ tử đã xuất gia xuất thân từ các nhà khoa học. Trong năm 1987 trong bài giảng về "Gánh Nặng của Chủ Nghĩa Ngờ Vực" nhà thiên văn nổi tiếng Carl Sagan đã phát biểu: Trong khoa học thường có lúc các nhà khoa học bảo rằng, 'Anh biết là anh tranh luận rất tài; ý kiến của tôi là một sai lầm,' và sau đó họ liền thay đổi lập trường và anh chẳng bao giờ nghe lại được cái ý kiến đó nữa. Họ thực sự làm vậy. Nó không thường xảy ra như nên có, bởi vì các nhà khoa học là con người và sự thay đổi đôi khi rất đau đớn. Nhưng điều đó xảy ra hàng ngày. Tôi không thể nhớ nổi lần cuối cùng những điều tương tự xảy ra hay không trong chính trường và tôn giáo Tuy nhiên, điều này có lẽ không còn đúng ít nhất là đối với tôn giáo Phật giáo. Không chỉ hỗ trợ hợp tác đơn thuần với khoa học, mà Ngài còn chứng tỏ một tinh thần khách quan tôn trọng các kết quả nghiên cứu khoa học đúng đắn. Trong quyển "Vũ Trụ Trong Một Đơn Nguyên Tử" mà tác giả chính là đức Đạt-lai Lạt-ma có viết: Nếu phân tích khoa học đã biểu thị được một cách thuyết phục rằng những luận điểm nào đó trong Phật giáo là sai, thì chúng ta phải chấp nhận khám phá đó của khoa học và từ bỏ các luận điểm (Phật giáo) đó Từ những năm đầu của thập niên 1980, Ngài đã có nhiều nỗ lực để đàm thoại và trao đổi quan điểm giữa khoa học và Phật học. Ngay chính tại Dharamsala, nơi Ngài sống và làm việc, các nhà khoa học thường được mời đến để tham dự các buổi thảo luận và diễn thuyết về những vấn đề tương quan. Ngài cũng đã dành nhiều thì giờ viễn du đến các đại học lớn ở khắp nơi để tham khảo, tham quan, thảo luận và diễn thuyết về các đề tài Phật học liên quan đến khoa học đồng thời kêu gọi giới nghiên cứu ở các đại học tham gia nghiên cứu sâu hơn về các đề tài liên quan nhất là về thần kinh học.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:31:08 GMT 9
Sống và Cách hành sự: Theo giáo sư Eric Sharp thuộc đại học Sydney, Úc thì đức Đạt-lai Lạt-ma là một trong ba vĩ nhân người châu Á của thế kỉ 20 (hai người kia là Rabindranath Tagore (1861-1941), Mahātma Gandhi (1869-1948)). Và trong số tháng tư năm 2005, tạp chí TIME đã xếp ngài vào trong danh mục của 100 người có tầm vóc ảnh hưởng nhất. Mặc dù rất nổi tiếng và được nhiều triệu người yêu mến, Ngài vẫn tự miêu tả mình như là "một nhà sư bình thường". Tính bình dị khiêm tốn của Ngài không chỉ thể hiện qua hành động lúc giảng dạy, lúc tiếp xúc với các nhân vật cao cấp, hay lúc viết mà ngay cả trong phong cách. Khi còn ở Lhasa, mỗi khi có khó khăn hệ trọng, Ngài đã không ngần ngại trao đổi ý kiến với ngay chính những người làm phục dịch cho Hoàng cung, điều này khó có thể tìm được ở bất bất kì một nguyên thủ quốc gia nào khác. Đối với ngài, không có sự phân biệt giàu nghèo sang hèn hay điạ vị thấp cao, Ngài có thể bắt chuyện ngay lập tức với một người lạ mà không cần phải qua các thủ tục xã giao khách sáo. Ngài làm được các việc đó là vì lòng từ bi vô lượng mà ngài thường quán chiếu hay giảng dạy: Lòng từ bi chân thật không nên thiên vị. Nếu chỉ cảm thấy gần gũi với các bạn mình, và không cảm thấy với những kẻ thù của mình; hay khi đối với vô số người mà cá nhân ta không hề quen biết thì ta lại hướng tới những ai không khác biệt với ta thì lòng từ bì này chỉ là một phần và có tính thiên vị. ..., lòng từ bi chân thật dựa trên sự nhận biết rằng người khác có quyền để hạnh phúc như chính bạn, và do đó, ngay cả kẻ thù cũng là một con người có cùng một mong ước và có quyền để được hạnh phúc như bạn. Một ý thức quan tâm được phát triển trên sơ sở này ta gọi là từ bi; nó rộng mở đến mọi người, bất kể ứng xử của người đó hướng về bạn là thù địch hay thân thiện. Lòng từ bi này không chỉ có đối với con người mà Ngài còn mở rộng cho mọi sinh giới hữu tình và cho các thế hệ mai sau: Hòa bình và sinh tồn của cuộc sống trên trái đất như chúng ta biết bị đe dọa bởi các hành vi thiếu sự tự giác vào các giá trị nhân đạo của con người. Sự hủy hoại môi trường và tài nguyên thiên nhiên đến từ sự thiếu hiểu biết, tham lam, và thiếu tôn trọng các vật thể sống khác trên trái đất. Khi sống còn hôm nay, ta phải xét tới các thế hệ tương lai: một môi trường trong sạch là một quyền như các nhân quyền khác. Do đó, một phần trách nhiệm của chúng ta đối với những người khác là bảo đảm rằng thế giới ma ta đang trải qua là lành mạnh, nếu không thể lành mạnh hơn cái (thế giới) mà chúng ta tìm được ở đó. Các Giải Thưởng 17 tháng 10 năm 2007, tổng thống Hoa kì George W Bush, thay mặt quốc hội đã trao tặng cho đức Đạt-lai Lạt-ma giải thuởng cao quý nhất của Hoa kì là "Congressional Gold Medal Award" Giải Nobel Hoà Bình vào năm 1989 Có lẽ Ngài là một trong những nhân vật được nhiều tặng thưởng nhất thế giới. Hơn 80 giải thưởng hay bằng tưởng lệ, bằng cấp danh dự từ các viện đại học cho đến cấp quốc gia quốc tế từ khoảng hơn 30 nước đã trao tặng cho ngài. Trong đó, bao gồm cả giải Nobel Hoà Bình vào năm 1989. Để nói về cống hiến của Ngài, chắc không gì tốt hơn là dần lại lời tử Ủy Ban trao giải: Ủy Ban muốn nhấn mạnh một sự thật là ngài Đạt-lai Lạt-ma trong trong công cuộc đấu tranh để giải phóng Tây Tạng không mệt mỏi đã chống lại việc sử dụng bạo lực. Thay vào đó ngài kêu gọi các giải pháp hòa bình dựa trên cơ sở khoan dung và tôn trọng lẫn nhau để từ đó bảo vệ lịch sử và tài sản con người. Đức Đạt-lai Lạt-ma đã phát triển triết lý của Ngài về hòa bình từ sự kính trọng vĩ đại đối với tất cả chúng sinh và trên nguyên tắc tinh thần trách nhiệm phổ dụng bao gồm toàn thể nhân loại cũng như thiên nhiên. Ý kiến của Ủy Ban cho rằng đức Đạt-lai Lạt-ma đến với tính cách xây dựng và với những đề xuất nhìn về phía trước cho giải pháp về các xung đột quốc tế, các khó khăn về nhân quyền, và các vấn đề về môi trường toàn cầu. Mới đây, Ngài cũng đã nhận được giải thưởng cao quý nhất Hoa kì "Congressional Gold Medal Award" thì bà Nancy Pelosi chủ tịch Hạ viện Hoa kì cũng đã lập lại những điều mà nhiều chính phủ, nhân vật cao cấp đã nhắc lại tinh thần Phật giáo của Ngài:: "Ngài đã dùng cương vị của mình để đề cao trí huệ, từ bi, và bất bạo động như là một giải pháp -- không chỉ ở Tây Tạng - mà cho cả các xung đột khác của thế giới" Tác Phẩm Chính: Tính đến nay đã có trên 72 tác phẩm các loại, do chính ngài tự tay viết hoặc do đệ tử ghi chép lại từ những bài giảng. Đáng chú ý trong số tác phẩm này là: 1. Mở Huệ Nhãn (The opening of the Wisdom eye, xuất bản năm 1972); 2. Phật giáo Tây Tạng (The Buddhism of Tibet, xb năm 1975); 3. Biển của Trí Huệ (Ocean of Wisdom, xb tháng 2 năm 1990); 4. Dalai Lama: Chính sách của Lòng Từ (The Dalai Lama: A Policy of Kindness, xb năm 1990); 5. Tự do nơi lưu đầy (Free in Exile, xb năm 1991); 6. Ý nghĩa của cuộc sống (The meaning of Life, xb năm 1992); 7. Tia sáng trong bóng đêm (Flash of Lightning in the Dark of Night, xb năm 1994); 8. Cuộc đối thoại về trách nhiệm chung và giáo dục (Dialogues on Universal Responsibility and Education, xb năm 1995); 9. Sức mạnh của lòng từ bi (The power of compassion, xb năm 1995); 10. Con đường giác ngộ (The Path of Enlightenment, xb năm 1995); 11. Bạo lực và Lòng từ bi-Sức mạnh của Phật giáo (Violence and Compassion/ Power of Buddhism, xb năm 1995); 12. Chữa lành cơn thịnh nộ: Sức mạnh của sự kiên nhẫn từ cách nhìn của Phật tử (Healing Anger: The Power of Patience from a Buddhist Perspective, xb tháng 3 năm 1997); 13. Tứ Diệu Đế (The Four Noble Truths, xb năm 1998); 14. Nghệ thuật hạnh phúc (The art of Happiness, xb năm 1998); 15. Thời luân Đát-đặc-la (KALACHAKRA TANTRA, Xb 1999); 16. Ý Nghĩa cuộc cuộc sống (THE MEANING OF LIFE, Xb 1999); 17. Khoa học Tâm Linh, Cuộc đối thoại Đông-Tây (MIND SCIENCE, An East-West Dialogue, xb 1999); 18. Ngủ, mơ và chết, một cuộc khám phá của Tâm thức (SLEEPING, DREAMING, AND DYING, An Exploration of Consciousness, Xb 1999); 19. Thế giới Phật giáo Tây Tạng, khái quát về triết lý và thực hành (THE WORLD OF TIBETAN BUDDHISM, An Overview of Its Philosophy and Practice, Xb 1999); 20. Đạo Đức Thiên Niên Ki Mới (Ethics for the new millennium, xb tháng 8 năm 1999); 21. Nghệ Thuật của Hạnh Phúc: Sổ tay cho cuộc sống (The Art of Happiness: A Handbook for Living, xb tháng 9 năm 1999); 22. Trí Huệ Luận (The Dalai Lama's Book of Wisdom, xb tháng 4 năm 2000); 23. Biến đổi Tâm (Transforming the Mind, xb tháng 5 năm 2000); 24. Các Giai Đoạn của Thiền Định (Stages of Meditation, xb tháng 3 năm 2001); 25. Con Đường dẫn tới cuộc sống đầy ý nghiã (How to Practice : The Way to a Meaningful Life, xb tháng 5 năm 2001) 26. Tâm hồn rộng mở: Thực Hành Từ bi trong cuộc sống hàng ngày (An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life, xb tháng 9 năm 2001); 27. Luận về Từ Bi và Bác Ái (The Dalai Lama's Book of Love and Compassion, xb tháng 10 năm 2001); 28. Những lời Khuyên của Thích-Ca-Mâu-Ni (Advice from Buddha Shakyamuni, xb tháng 7 năm 2002); 29. Cốt Tủy của Hạnh Phúc: Sách Hướng Dẫn cho Cách Sống (The Essence of Happiness: A Guidebook for Living xb tháng 7 năm 2002); 30. Đường Dẫn tới sư Yên Tĩnh: Trí huệ hàng ngày (The Path to Tranquility: Daily Wisdom , xb tháng 8 năm 2002); 31. Tỉnh Thức Luận (The Dalai Lama's Book of Awakening, xb tháng 2 năm 2003); 32. Nghệ Thuật của Hạnh Phúc trong Công Việc (The Art of Happiness at Work, xb tháng 8 năm 2005); 33. Vũ Trụ Trong Một Nguyên Tử : Sự Hội Tụ của Khoa Học và Tâm Linh (The Universe in a Single Atom: The Convergence of Science and Spirituality, xb tháng 9 năm 2005); 34. Để Thấy được Thực Sự Chính Mình (How to See Yourself As You Really Are, xb tháng 12 năm 2006); Tương Lai: Có người thắc mắc về vấn đề tái sinh của chính ngài Đạt-lai Lạt-ma. Để có được một cái nhìn khách quan cần theo dõi lại lịch sử. Năm 1968, ngài Ban-thiền Lạc-ma thứ 10 bị Trung Quốc bắt và sau đó chết thình lình không rõ nguyên do tại Shigate Trung Quốc. Sau đó, theo truyền thống đức Đạt-lai Lạt-ma đã chứng nhận Gedhun Choekyi Nyima là Ban-thiền thứ 11 vào tháng 5 năm 1995 như là vị Ban-thiền tái sinh, nhưng sau đó, ngài Ban-thiền mới đã bị Trung Quốc bắt đi và thông báo rằng để bảo đảm "an toàn cá nhân" người này và không tiết lộ tung tích cho đến nay. Chính quyền Trung Quốc cũng tự ý xác nhận một người khác lên làm Ban-thiền Lạt-ma. Điều này cho thấy ý định của chính phủ Trung Quốc là sẽ dùng Ban-thiền Lạt-ma riêng của mình để tìm cách lựa chọn một Đạt-lai Lạt-ma 15 trong tương lai. Ngài Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 đã lập lại tuyên bố rằng sẽ không bao giờ tái sinh nội trong lãnh thổ chịu sự kiểm soát của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa mà đôi lần Ngài gợi ý là có thể sẽ trở thành Đạt-lai Lạt-ma cuối cùng bằng cách không tái sinh nữa. Mặc dù vậy, Ngài cũng có nói rằng mục tiêu của những lần tái sinh là để tiếp tục công việc chưa hoàn thành và nếu như là hoàn cảnh của Tây Tạng vẫn không thay đổi, thì có lẽ rằng Ngài sẽ tái sinh để hoàn tất công việc đó. Trong tháng 7 năm 2007, chính quyền Trung Quốc một lần nữa muốn khẳng định quyền lực của mình trong việc định đoạt một nhà lãnh đạo Phật giáo trong tương lai đã kí sắc lệnh rằng "tất cả các Đạt-lai Lạt-ma tái sinh phải được chính phủ Trung Hoa chuẩn y" !!!! Tuy nhiên, khi được hỏi về cơ chế truyền thừa Đạt-lai Lạt-ma thì Ngài đã nhiều lần trực tiếp nhắc lại rằng: Cơ chế Đạt-lai Lạt-ma hoàn toàn do chính phủ Tây Tạng quyết định và Ngài cũng cho biết thêm là cơ chế này thực sự hữu hiệu cho đất nước Tây Tạng trong lịch sử. Kết Luận: Có lẽ lời kết luận tốt nhất là hãy để cho độc giả tự tìm đến với các diễn thuyết các bài giảng mà Ngài đã cống hiến cho nhân loại. d Những ca ngợi hay phê phán sẽ bằng thừa nếu như các lời lẽ đó không dựa trên một cơ sở chứng nghiệm thực tế. Sau đây là những tâm nguyện của ngài đăng trên trang WEB của văn phòng đức Đạt-lai Lạt-ma: Thứ nhất, trên mức độ con người, đề cao các giá trị nhân bản như từ bi, hỉ xã, dung thứ, khoan hoà và tự chế. Mọi người đều như nhau. Tất cả chúng ta đều mong cầu hạnh phúc và không muốn đau khổ. Ngay cả những ai không tin tôn giáo cũng chấp nhận tầm quan trọng của các giá trị nhân bản trong việc làm cho cuộc sống họ hạnh phúc hơn. Ngài cho những giá trị này như là đạo đức trường tồn. Ngài còn nguyện để thảo luận về tầm quan trọng của các giá trị này và sẽ chia sẽ với mọi người mà ngài gặp gỡ. Thứ hai, trên mức độ của một người hành đạo, Ngài đề cao sự hài hoà tôn giáo và hiểu biết lẫn nhau giữa các truyền thống tôn giáo chính. Mặc cho các khác biệt về triết lý, tất cả các tôn giáo chính trên thế giới có cùng một năng lực để tạo ra những con người tốt đẹp. Do đó, việc tất cả tôn giáo tôn trọng và công nhận giá trị của truyền thống của tôn giáo khác là điều quan yếu. Một sự thật là, mỗi tôn giáo được quan tâm liên quan đến từng cá nhân . Mặc dù vậy, đối với tổng thể cộng đồng, nhiều chân lý, nhiều tôn giáo là cần thiết. Thứ ba, Ngài là một người Tây Tạng và mang danh hiệu "Đạt-lai Lạt-ma". Người Tây Tạng đặt lòng tin vào Ngài. Do đó, sở nguyện thứ ba hướng về vấn đề Tây Tạng. Ngài có một trọng trách để hành động như là người phát ngôn cho tự do của người Tây Tạng trong khó khăn giành lấy công bằng của họ. Nguyện ước thứ ba này sẽ không còn tồn tại một khi giải pháp lợi ích lẫn nhau đạt được giữa người Tây Tạng và Trung Hoa. Mặc dù vậy, Ngài sẽ thi hành hai nguyện ước đầu cho đến hơi thở cuối cùng Tác giả bài viết này xin trân trọng kính gửi đến đức Đạt-lai Lạt-ma lòng cảm tạ về các công lao mà Ngài đã đóng góp cho nền giáo dục đạo đức của nhân loại đặc biệt là công đức khuếch trương Phật giáo ở các nước tiên tiến và ngay cả mở rộng Phật học vào trong giới nghiên cứu khoa học. Chú thích (a) Ở đây Bồ Đề Tâm được hiểu như là tâm thức của những người có Quy Y Phật-Pháp-Tăng và tự nguyện hành trì theo Bồ tát đạo với lòng từ bi vô lượng. Tính không một cách rất sơ lược đó chính là bản chất đúng của vật chất và tâm thức; tính không được phát triển và nhấn mạnh nhiều trong Đại Thừa và người khai mở lớn nhất các luận giảng về tính không là ngài Long Thọ. (b) Tác giả bài viết dựa theo tài liệu chính thức bằng Anh ngữ của chính phủ Tây Tạng Lưu vong www.tibet.com/PL/nov29c.html. Ở đây có sự khác biệt với bài viết về "Đạt-lại Lạt-ma" trong từ điển Bách Khoa mở bằng tiếng Việt vi.wikipedia.org. Xin độc giả tự tìm hiểu thêm (c) Hãy dùng từ khoá Dalai Lama science. (d) Trang lamrim.com/index2.html và www.dalailamafoundation.org/members/en/xivVideo.jsp có đăng lại nhiều bài giảng thu trực tiếp (và dịch Anh ngữ) từ đức Dalai Lama Kèm theo bài viết có đoạn phim ngắn khi đức Đạt-lai Lạt-ma đến Ấn Độ : Tài Liệu Tham Khảo: * "The Four Noble Truths" --His Holiness The Dalai Lama 1997. HarperCollins Publishers Ltd (19 Jan 1998). ISBN 0722535503 * "The Buddhist Handbook" -- John Snelling 1991. Barn&Noble. ISBN 0760710287 * "The Dalai Lamas" -- Jitendra Pant (text). Roli and Janssen BV 2002. ISBN 8174361901 * The Goverment of Tibet in Exile (http://www.tibet.com/DL/discovery.html) -- The artice: His Holiness The Dalai Lama including many subtitle articles * "The Universe in a Single Atom: The Convergence of Science and Spirituality". Broadway (September 13, 2005). ISBN 076792066X * The Office of His Holiness the Dalai Lama (http://dalailama.com/) --the articles: From Birth to Exile, Chronology of Events, Awards and Honors, schedule * en.wikipedia.org -- the articles: Gelug, Tsongkhapa * vi.wikipedia.org -- the articles: Đạt-lại Lạt-ma, Cách Lỗ, Lịch sử Tây Tạng, Đăng-châu Gia-mục-thố Đăng ngày 5/7/2007
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:32:34 GMT 9
Đạt lai Lạt ma - Claudia Dreifus Trần Quốc Việt Nơi ta ít ngờ gặp được đức Tenzin Gyatso nhất, tức đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14 của Tây Tạng, nhà lãnh đạo tôn giáo và thế tục của nhân dân Tây Tạng, người đoạt giải Nobel hoà bình năm 1989, nguời cổ động chính của thế giới cho sự thay đổi chính trị bất bạo động, là tại một khu nghỉ mát chơi gôn sang trọng tên Sheraton El Conquistador ở thành phố Tucson, tiểu bang Arizona. Tuy nhiên vào một sáng mùa thu gần đây ông có mặt ở nơi này, vẫn mặc áo cà sa màu nâu đỏ sẫm truyền thống, quanh ông là các nhà sư phật giáo cùng các người bảo vệ không phải phật tử. Các du khách kinh ngạc khi thấy ông bước vội qua quầy rượu. Đức Đạt lai Lạt ma đã đến nơi xa xăm không ngờ này để đọc và giảng đạo luận Nhập Bồ Tát Hạnh[1] của tác giả Tịch Thiên, một vị bồ tát thế kỷ thứ tám. Trong năm ngày trời, 1,500 người theo dự khoá tu học phật pháp đã liều bị đau lưng, tê tay để ngồi hàng giờ ghi suống lời giảng về tánh nhẫn. Đối với họ, những người tham gia trong phong trào phật giáo ngày càng phát triển ở thế giới Phương Tây, đây là cơ hội hiếm có để tu học với bậc đứng đầu tôn giáo, tựa như theo học những lớp dạy về Thánh Kinh với đức Giáo Hoàng. Hơn nữa, trong số những người khao khát theo học này có nhiều người thế tục hơn, họ là những người tranh đấu kỳ cựu của thập niên 1960 nên xem đức Đạt lai Lạt ma là mục sư Martin Luther King, thánh Ghandhi của phong trào chính trị này. Đây còn là một sinh hoạt đức Đạt lai Lạt ma rõ ràng thích thú, một khoảng thời gian tạm ngưng cần thiết khỏi công việc thường lệ với cương vị người đứng đầu chính phủ Tây Tạng lưu vong ở Ấn Độ. Ông thường nói về mình, “Tôi là một nhà sư Phật giáo bình thường–không hơn không kém.” Qua những lần giảng đạo pháp, ông luôn biểu lộ sự khiêm nhường ấy. Song đời ông hoàn toàn không bình thường. Ông sinh năm 1935 trong một gia đình nông dân ở miền đông bắc Tây Tạng. Năm lên hai tuổi, sau khi đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 13 qua đời, ông được xác nhận là đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14 tái sanh của Đức Phật Từ Bi. Sự xác nhận ấy tạo ra tên mới cho ông: Lhamo Dhondup giờ đổi thành Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso (Thánh Đức, Hào Quang Êm Diệu, Hộ Pháp Hùng Biện, Từ bi, Thông thái của Đức Tin, Biển của Trí Tuệ). Được đưa lên Lạp Tát học, ông lớn lên trong một hoàng cung 1,000 phòng. Ông được các nhà sư cận kề, thương yêu và dạy ông các môn học như triết học, y học và siêu hình học. Họ đã cho ông tuổi thơ đầy thần tiên. Những tháng ngày thần tiên ấy chấm dứt khi ông được yêu cầu gánh vác trách nhiệm người đứng đầu nhà nước khi ông 15 tuổi. Sự kiện này lại diễn ra vào chính thời điểm Quân đội Giải phóng Nhân dân đang xâm lăng Tây Tạng. Trong chín năm trời kế tiếp, nhà lãnh đạo trẻ đã cố gắng thương lượng với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, tức những kẻ rắp tâm muốn sát nhập Tây Tạng vào Trung Quốc. Rồi đến năm 1959, sau khi Trung Quốc “dẹp tan” cuộc nổi dậy của người dân thường Tây Tạng nhằm chống lại ách cai trị của Trung Quốc, đức Đạt lai Lạt ma đào thoát sang Ấn Độ; từ đấy khoảng độ 100,000 người Tây Tạng đã vuợt qua dãy Himalaya để theo ông. Ở Ấn Độ ông được phép lập ra chính phủ lưu vong trong một làng nhỏ tên Dharamsala cách New Delhi một ngày đường lái xe. “Đức ngài đã xây dựng nên một cộng đồng Tây Tạng tồn tại được ở Ấn Độ, qua đó bảo tồn được văn hoá Tây Tạng,” người bạn thân thiết của ông, Robert Thurman, giáo sư chuyên ngành về Ấn Độ – Tây Tạng ở đại học Columbia, nhận xét. “Ông đã đoàn kết nhân dân Tây Tạng lại trong hoàn cảnh lưu vong và truyền cho họ niềm hy vọng trong suốt cuộc trấn áp rất khốc liệt, thậm chí gần như diệt chủng trên quê hương họ. Ông cũng là nhà lãnh đạo Tây Tạng đầu tiên trở thành nhà lãnh đạo thế giới, ngay cả khi ông không có cơ sở chính trị– mà chỉ dựa trên sức mạnh đạo lý của mình.” Ở Tucson, một ngày sau khi khoá tu học kết thúc, đức Đạt lai Lạt ma tiếp người phỏng vấn này tại phòng của ông. Đúng như ta nghĩ trước khi gặp một người mà từ thuở lên 2 đã được xem là thánh, ông chào đón người lạ với vẻ trang trọng dễ chịu, mà chẳng mấy chốc tan biến đi khi ông đắm chìm trong các ý nghĩ và trong cuộc trò chuyện. Một tiếng rưỡi thành ba tiếng; vẻ trang trọng hoá thành tiếng cười. Ta có cảm giác là ông hơi chán trước cảnh sùng kính thái quá ông gặp phải hàng ngày. Ấn tượng nổi bật nhất về đức Đạt lai Lạt ma là niềm vui chan chứa ở ông qua nụ cười nở rộng, qua cảnh ông thích thú trước những sự mâu thuẫn và khiếm khuyết của bản thân. Nhà báo William Shirer có lần nói đến những cuộc phỏng vấn Gandhi dành cho ông trong thập niên 1930 như sau: “Ta cảm thấy ta tưởng chừng như là người duy nhất ở trong phòng, tưởng như ông dành trọn vẹn thời gian trên đời này của ông cho ta.” Lời nhận xét này cũng đúng với đức Tenzin Gyatso. Hỏi: Thưa đức ngài, ông có vẻ là người rất hạnh phúc. Trong đời mình có những lúc nào đó khi lòng tin của ông vào cái thiện của con người bị thử thách? Đạt lai Lạt ma: Không. Hỏi: Từ trước đến nay ông không bao giờ cảm thấy mình gần trở nên hoài nghi? Đạt lai Lạt ma: Không. Tất nhiên, khi tôi nói rằng bản tính con người là hiền dịu, không hẳn 100 phần trăm như vậy. Phàm con người ai cũng có bản tính đó, nhưng có nhiều người hành động ngược với bản tính của họ, tức là sai. Chắc chắn tôi có nhiều lúc buồn. Những lần Trung Quốc đàn áp tại Lạp Tát năm 1987, 1988, những lúc ấy lại buồn. Có quá nhiều người bị giết. Đôi lúc tôi buồn khi tôi nghe những câu chuyện cá nhân của những người tỵ nạn Tây Tạng bị tra tấn hay đánh đập. Trong lòng chợt cảm thấy khó chịu, cảm thấy giận. Nhưng cảm giác ấy chẳng bao giờ kéo dài lâu. Tôi luôn luôn cố gắng suy nghĩ ở mức độ sâu sắc hơn, cố tìm cách an ủi. Hỏi: Tôi hiểu rằng ông đã giận lắm trong cuộc chiến tranh vùng vịnh năm 1990, ông chưa bao giờ từng giận đến như thế. Đạt lai Lạt ma: Giận ư? Không. Nhưng có một điều,là khi người ta bắt đầu đổ lỗi Saddam Hussein, tôi thấy cảm thông với ông ấy. Hỏi: Với Saddam Hussein? Đạt lai Lạt ma: Vâng. Vì người ta trút hết lỗi lầm lên ông, như thế không công bằng. Ông ấy có thể xấu, nhưng nếu không có quân đội dưới quyền, ông ta không thể nào hành động hiếu chiến như thế được. Còn quân đội của ông, nếu không có vũ khí thì cũng chẳng làm được điều gì. Mà vũ khí lại không sản xuất tại chính Iraq. Ai cung cấp vũ khí cho họ? Chính các nước Phương Tây! Rồi đến ngày xảy ra chuyện, họ lại đổ hết lỗi tại ông, mà không thừa nhận họ cũng có phần lỗi. Như thế là sai. Cuộc khủng hoảng vùng vịnh cũng chứng minh rõ ràng những hậu quả nghiêm trọng của việc buôn bán vũ khí. Chiến tranh, nếu không có quân đội, cao lắm chỉ giết vài người, còn có thể chấp nhận được. Nhưng chiến dịch quân sự gây ra đau khổ cho rất nhiều người, thì thật đáng buồn. Hỏi: Ông đã nói giết người đôi lúc có thể chấp nhận được? Đạt lai Lạt ma: Tương đối thôi. Trong xã hội con người, người ta bị giết vì nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, khi ta có quân đội lâu đời, và các nước có các quân đội như vậy đánh nhau, tổn thất thật là ghê gớm. Chẳng phải một hay hai người chết, mà cả hàng ngàn người. Còn với vũ khí hạt nhân thì đến hàng triệu người chết, quả thật cả hàng triệu người. Vì lý do đó, việc buôn bán vũ khí thật là vô trách nhiệm. Vô trách nhiệm! Phi quân sự hoá toàn cầu là cực kỳ quan trọng và cần thiết. Hỏi: Tại Tây Tạng, từ cuối những năm 1950 đến đầu những năm 1970, ông có người anh tham gia lãnh đạo phong trào kháng chiến chống Trung Quốc. Thực ra, các kháng chiến quân này được CIA ủng hộ. Ông cảm thấy sao về điều này? Đạt lai Lạt ma: Tôi luôn luôn chống lại bạo lực. Nhưng các kháng chiến quân Tây Tạng thời ấy là những người rất tận tâm. Họ sẵn sàng hy sinh đời mình cho quốc gia Tây Tạng. Và họ đã tìm được cách để nhận sự giúp đỡ từ CIA. Bấy giờ, động cơ giúp đỡ của CIA thuần tuý là chính trị. Họ giúp đỡ không phải vì cảm thông thật sự, không phải vì sự ủng hộ cho sự nghiệp chân chính. Sự giúp đỡ ấy không được lành mạnh cho lắm. Ngày nay, sự giúp đỡ và ủng hộ chúng tôi nhận được từ Hoa Kỳ thật sự xuất phát từ sự cảm thông và lòng trắc ẩn con người. Cho dù họ mong muốn có quan hệ tốt với Trung Quốc, quốc hội Hoa Kỳ ít nhất vẫn ủng hộ nhân quyền Tây Tạng. Vì thế đây là điều thật sự rất đáng quý và thật lòng. Hỏi: Để thay đổi chủ đề, giống như một vài nhà lãnh đạo tôn giáo đã phát biểu, ông có nói về nguy cơ bùng nổ dân số toàn cầu. Đạt lai Lạt ma: À, vấn đề dân số là một thực tế đáng ngại. Tại Ấn Độ, do truyền thống tôn giáo nên nhiều người miễn cưỡng chấp nhận ngừa thai. Do vậy, theo quan điểm Phật giáo, tôi nghĩ về vấn đề này ta có thể mềm dẻo. Tôi nghĩ nói thẳng ra có lẽ tốt hơn, rồi sau cùng tạo ra không gian cởi mở hơn cho các nhà lãnh đạo các truyền thống tôn giáo khác thảo luận vấn đề. Hỏi: Vậy, ông cảm thấy thế nào về việc đức Giáo Hoàng John Paul II tiếp tục phản đối ngừa thai? Đạt lai Lạt ma: Đấy là nguyên tắc tôn giáo của ông. Ông đang hành xử dựa trên nguyên tắc nào đấy, đặc biệt khi ông nói về nhu cầu tôn trọng quyền của các bào thai. Quả thật, tôi cảm thấy rất xúc động là đức Giáo Hoàng có lập trường rõ ràng về vấn đề đó. Hỏi: Ông cũng có thể hiểu nhu cầu của phụ nữ, người có thể không thể nuôi con? Đạt lai Lạt ma: Cách đây vài năm tôi qua Lithuania, tôi đến thăm một nhà trẻ, ở đấy người ta bảo tôi, “Tất cả những cháu bé này đều vô thừa nhận.” Như thế tôi nghĩ rằng tốt hơn là hoàn cảnh nên được ngăn chặn ngay từ ban đầu, tức ngừa thai. Tất nhiên, theo quan điểm Phật giáo, phá thai, nói chung, là hành động giết người và tiêu cực. Nhưng nó phụ thuộc vào hoàn cảnh. Nếu cháu bé chưa ra đời bị thiểu năng về trí tuệ hay khi ra đời sẽ gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho cha mẹ cháu, thì đây là những trường hợp có thể ngoại lệ. Tôi nghĩ phá thai nên được tán thành hay không đưọc tán thành tuỳ theo từng hoàn cảnh. Hỏi: Tôi hiểu ông đã trải qua một sự thay đổi lớn trong nhận thức của ông về vai trò của phụ nữ trên thế giới. Đạt lai Lạt ma: Không hẳn là thay đổi. Tôi đã đạt đến ý thức về sự nhạy cảm trong các vấn đề của phụ nữ; ngay hồi những thập niên 1960 và 1970, tôi không có kiến thức nhiều về vấn đề này. Quan diểm cơ bản của Phật giáo về bình đẳng nam nữ đã có từ lâu đời rồi. Ở các bậc Phật giáo mật tông cao nhất (tantric levels), ở bậc tối thượng mật tông (esoteric level), ta phải tôn trọng phụ nữ: tất cả phụ nữ. Trong xã hội Tây Tạng, từ trưóc đến nay vẫn có những sự kỳ thị vô cảm. Tuy nhiên vẫn có những phụ nữ xuất chúng, tức những đại lạt ma, những người được tôn kính trên khắp Tây Tạng. Hỏi: Trong số báo gần đây của tạp chí phật giáo Tricycle, diễn viên Spalding Gray hỏi ông về các giấc mơ của ông, ông có nhắc rằng đôi lúc ông mơ thấy những phụ nữ đánh nhau. Đạt lai Lạt ma: Phụ nữ đánh nhau? Không phải, không phải… Điều tôi muốn nói là rằng, trong các giấc mơ của tôi, thỉnh thoảng nhiều phụ nữ đến gần tôi và tôi ngay lập tức nhận thức, “Mình là bhikshu, mình là nhà sư.” Nói vậy chắc chị hiểu, đây là từa tựa như tình dục… Hỏi: Trong các giấc mơ của ông, ông nhận thức điều này và ông “chống lại” cảm giác ấy? Đạt lai Lạt ma: Vâng. Tương tự như vậy, tôi nhiều lúc mơ thấy có người đánh tôi và tôi muốn phản ứng lại. Rồi ngay lập tức tôi nhớ, “Mình là nhà sư mình không nên giết người.” Hỏi: Ông có từng trải nghiệm sự giận dữ? Ngay cả Chúa Jesus cũng từng có những lúc giận dữ. Đạt lai Lạt ma: Hãy đừng so sánh tôi với Chúa Jesus. Ông là bậc thầy vĩ đại, bậc thầy vĩ đại… Còn về câu hỏi của chị, lúc tôi còn trẻ hơn, tôi thật sự có cáu giận. Nhưng trong 30 năm qua thì không. Một điều là, sự căm ghét, oán hận, gần như không còn nữa. Hỏi: Vậy những khuyết điểm và nhược điểm của ông là gì? Đạt lai Lạt ma: Lười biếng. Hỏi: Người ta nói ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng. Vậy làm sao ông có thể lười biếng được? Đạt lai Lạt ma: Không phải lười biếng chuyện ấy. Chẳng hạn, do hay đến các nước Tây Phương, tôi dần dần bắt đầu rất thích trau giồi thêm tiếng Anh của mình. Nhưng khi tôi thật sự cố gắng học, thì sau một vài ngày, tự nhiên tôi thấy không còn hứng thú nữa. (Cười.) Đấy mới là lười biếng. Còn các nhược điểm khác, tôi nghĩ, là giận và quyến luyến. Tôi quyến luyến với chiếc đồng hồ đeo tay và với chuỗi hạt tụng kinh của mình. Rồi, tất nhiên, đôi lúc với những phụ nữ đẹp… Nhưng nhiều nhà sư cũng có những trải nghiệm tương tự. Một phần là do tò mò: nếu ta dùng cái này, không biết cảm giác sẽ như thế nào? (Chỉ vào háng của ông.) Và, dĩ nhiên, ta có cảm giác rằng cái gì mà tình dục ắt hẳn là cái gì đấy rất hạnh phúc, một sự trải nghiệm kỳ diệu. Khi cảm giác này nảy nở, tôi luôn luôn nhìn đến khía cạnh tiêu cực của nó. Đức Bồ Tát Long Thọ, một trong những vị thầy Ấn Độ, đã có lời dạy như sau: “Nếu ta ngứa, gãi được chỗ ngứa thì thấy thích. Nhưng tốt hơn là đừng có ngứa gì hết.” Tình dục cũng giống như thế. Nếu ta có thể sống mà không có cảm giác ấy, thì có nhiều bình an hơn. (Mỉm cười.) Và nếu không có chuyện giao hợp, ta chẳng phải lo ngại phá thai, bao cao su, đại loại những thứ như thế. Hỏi: Thưa ông, tiếng cười của ông nổi danh toàn thế giới – Điều gì khiến ông cười? Đạt lai Lạt ma: Do trong gia đình có điểm chung… thường hay thích cười. Một người anh của tôi, Gyalo Thondup, chẳng mấy khi cười. Còn người anh khác, Lobsang Samten, lại rất thích kể chuyện cười tục. Đến người anh thứ ba, Taktser Rinpoche, cũng hay cười. Nói chung tất cả người Tây Tạng rất hiền hoà vui vẻ. Thuở nhỏ, tôi có người trợ lý về tôn giáo, người này luôn luôn nói với tôi, “Nếu thầy có thể cười thật thoải mái thì rất có lợi cho sức khỏe của thầy.” Hỏi: Ông thường làm gì để giải trí, để thư giãn? Đạt lai Lạt ma: Mỗi buổi sáng trước khi thức dậy tôi thích để cho các ý tưởng nhập vào mình. Tôi thiền vài tiếng đồng hồ cho người được mạnh khoẻ và tươi tỉnh trở lại. Sau đó, công việc xử thế hàng ngày của tôi thường xuất phát từ mục đích giúp đỡ, hay tạo ra bầu không khí tích cực cho những người khác. Ngoài ra tôi làm vườn… làm vườn là một trong những thú tiêu khiển của tôi. Tôi cũng đọc bộ bách khoa có hình. (Cười.) Tôi là người của hoà bình, nhưng tôi thích xem những sách có hình về chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tôi có vài cuốn sách như thế, tôi nghĩ do hai tờ Time và Life hợp tác ấn hành. Tôi vừa đặt mua một bộ mới. Ba mươi cuốn. Hỏi: Thật sao? Tại sao Tái Sanh của Từ Bi lại thích thú như thế về một trong những sự kiện khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại? Đạt lai Lạt ma: Có lẽ vì những câu chuyện chiến tranh ấy rất tiêu cực và ghê rợn, chúng củng cố niềm tin của tôi vào bất bạo động. (Mỉm cười.) Tuy nhiên tôi thấy những máy móc bạo lực ấy lại rất hấp dẫn. Nào xe tăng, nào máy bay, đặc biệt các hàng không mẫu hạm. Rồi đến các tàu lặn của Đức (U-Boat), các tàu ngầm… Hỏi: Có lần tôi đọc trong sách rằng khi còn bé ở Lạp Tát, ông đã thích các đồ chơi chiến tranh. Đạt lai Lạt ma: Vâng, thích lắm. Tôi cũng đã có khẩu súng hơi ở Lạp Tát. Còn tôi hiện đang có một khẩu ở Ấn Độ. Tôi thường cho các con chim nhỏ ăn, nhưng khi chim bay tụ lại, các con diều hâu thấy chúng liền bay đến bắt — trông rất đau lòng. Vì thế để bảo vệ bầy chim nhỏ này, tôi giữ súng hơi. Hỏi: Vậy đây là súng phật giáo? Đạt lai Lạt ma: (Cười) Súng từ bi! Hỏi: Cho phép tôi hỏi ông một câu hỏi khó về điều ông vừa nhắc đến. Ông là người không thể nào thiếu được đối với phong trào của ông. Ông có từng bao giờ sợ rằng ông sẽ chịu cùng số phận như Mahatma Gandhi và Martin Luther King Jr.? Đạt lai Lạt ma: Đôi lúc tôi cũng chợt nghĩ đến điều này. Riêng chuyện “không thể nào thiếu được”, người ta vẫn tiếp tục phong trào nếu không có tôi. Hỏi: Các học giả Châu Á khẳng định rằng quốc gia Tây Tạng sẽ không thể nào tồn tại nổi sau năm 1959 nếu ông không phải là nhà lãnh đạo chính trị tài giỏi đến như thế. Nếu điều đó đúng, ông có lo ngại rằng Trung Quốc có thể kết liễu phong trào độc lập Tây Tạng bằng cách giết ông? Đạt lai Lạt ma: Một số người Trung Quốc cũng nói thực với người Tây Tạng rằng: “Các anh chỉ có một người. Nếu chúng tôi xử lý chuyện này, vấn đề coi như được giải quyết xong.” Hỏi: Ông có chuẩn bị sẵn cho khả năng đó không? Đạt lai Lạt ma: Không hẳn lắm, mặc dù nói chung, là phật tử, nhập thiền hằng ngày của tôi cũng chuẩn bị sẵn cho cái chết. Chết vì lão bệnh tự nhiên, tôi hoàn toàn sẵn sàng. Còn chết bất ngờ, đấy thực sự là bi kịch — nếu xét theo quan điểm của những người thực hành tôn giáo. Hỏi: Vào tháng Chín, những người Palestine đã chấp nhận thoả hiệp để đạt đến sự tự trị trong khu vực. Nếu người Trung Quốc đưa ra mặc cả như thế, ông có chấp nhận hay không? Đạt lai Lạt ma: Thật sự, trong 14 năm qua, lập trường cơ bản của tôi rất tương tự. Có một sự khác biệt: trong trường hợp Palestine, hầu như tất cả các chính quyền đều xem vùng đất ấy bị chiếm đóng nên biểu lộ sự quan ngại. Trong trường hợp Tây Tạng, chỉ có quốc hội Mỹ và vài chuyên gia pháp lý xem Tây Tạng là nước có quyền tự quyết nhưng bị chiếm đóng. Hỏi: Cảm giác của ông thế nào khi ông theo dõi việc ký kết hiệp định hoà bình Trung Đông gần đây? Đạt lai Lạt ma: Đấy là thành tựu lớn. Vấn đề này chỉ hơn vấn đề Tây Tạng một năm. Vấn đề của chúng tôi bắt đầu vào năm 1949, vấn đề của họ bắt đầu vào năm 1948. Trong những năm đó, biết bao nhiêu hận thù dựng lên. Hãy tưởng tượng: từ thuở nhỏ, người Palestine đã được dạy căm thù. Điều đó được xem như có lợi cho quyền lợi dân tộc. Thực ra, điều đó rất tiêu cực; phát sinh ra biết bao bạo lực. Giờ đây, hai bên đạt đến hiệp định trong tinh thần hoà giải, trong tinh thần bất bạo động. Điều này quả là kỳ diệu. Hỏi: Có bất kỳ các dấu hiệu nào Trung Quốc biết đâu có thể chấp nhận thoả hiệp? Đạt lai Lạt ma: (Nói nhanh) Không. Hỏi: Ông có lần viết Trung Quốc muốn cai trị thế giới. Ông vẫn còn nghĩ như thế? Đạt lai Lạt ma: Ý của tôi không phải như vậy. Lời nhận xét ấy có quan hệ nhiều đến ý định về thế giới quan Marxist, hơn là về chủ nghĩa bành trướng lịch sử dân tộc Trung Quốc. Hỏi: Ông nghĩ điều đó vẫn còn đúng? Đạt lai Lạt ma: Tôi nghĩ, điều ấy đã được thay đổi. Tinh thần ấy… có lẽ vào thập niên 1960 cùng với cuộc Cách mạng Văn hoá, nó hiện diện vào lúc đó. Về bên phía Xô Viết, vào khoảng năm 1956, Khrushchev nhận thức rằng mục tiêu ấy không thực tế. Vào cuối cuộc Cách mạng Văn hoá, vào thập niên 1970, người Trung Quốc nhận thức rằng mục tiêu ấy là không tưởng. Hiện giờ tôi nghĩ vấn đề là chủ nghĩa Sô vanh dân tộc Trung Quốc. Đối với họ, tất cả các dân tộc khác đều man di mọi rợ. Hỏi: Bao gồm cả ông? Đạt lai Lạt ma: À, Chắc chắn rồi! Tất nhiên rồi! Họ là nước kiêu ngạo. Sau khi chủ nghĩa Marx không còn nữa, chiến lược của họ là vươn đến mức độ phát triển kinh tế của các nước Tây Phương. Họ xem mình là người bênh vực cho thế giới thứ ba, đặc biệt sau khi Liên Xô sụp đổ. Giờ họ coi Nga là một phần của Tây Phương. Vì vậy những gì ta có là quốc gia đông dân nhất thế giới, chế độ toàn trị thuộc loại tệ hại nhất, cai trị bằng khủng bố – kèm với vũ khí hạt nhân và với ý thức hệ cho rằng sức mạnh là nguồn quyền lực tối hậu. Trưóc đây kinh tế của họ yếu kém, nhung hiện giờ đang cải thiện — nhưng những điều khác vẫn không thay đổi. Tạp chí Time đã gọi họ “siêu cường của thế kỷ tới.” Hỏi: Điều đó có làm ông sợ? Đạt lai Lạt ma: Dù sao chúng tôi cũng đã mất nước rồi. Nhưng tôi lo ngại cho thế giới! Cộng đồng thế giới có trách nhiệm đạo đức để cố gắng giúp dân chủ ở Trung Quốc. Vấn đề bây giờ, là làm sao tạo ra dân chủ? Các trí thức và sinh viên Trung Quốc, họ vốn là lực lượng chính trị mạnh, và rất quan trọng. Cộng đồng thế giới phải dành mọi khích lệ cho lực lượng này. Chúng ta không nên buông thả theo bất kỳ hành động nào làm nản lòng họ. Hỏi: Ông có nghĩ rằng vào thời điểm của cuộc phản kháng ở Quảng trường Thiên An Môn, phong trào dân chủ sẽ thành công? Đạt lai Lạt ma: Vâng. Thật sự, biến cố ngày 4 tháng Sáu khiến tôi sửng sốt. Tôi không ngờ họ bắn vào chính dân của họ. Hỏi: Nhưng nếu những người cộng sản Trung Quốc đã tàn bạo với những người Tây Tạng như ông tố cáo, thì tại sao họ lại không tàn bạo với những người biểu tình ủng hộ dân chủ? Đạt lai Lạt ma: Vì đó chính là dân của họ! Sao họ có thể đành bắn vào dân họ? Trong Cách mạng Văn hoá thì điều này còn dễ hiểu. Quảng trường Thiên An Môn đã chứng minh rằng một chế độ không do dự khi bắn vào nhân dân của họ, một chế độ như thế… Từ đấy ta không nên còn hoài nghi về thái độ của họ đối với những người nước khác. Hỏi: Từ sự đánh giá không-lạc-quan lắm này, ông thấy tình huống nào có thể diễn ra cho Trung Quốc và Tây Tạng? Đạt lai Lạt ma: Cơ bản là chế độ cộng sản Trung Quốc: chế độ nhất định thay đổi, chỉ là vấn đề thời gian thôi. Trên khắp thế giới ngày nay, có sự phát triển về tự do và dân chủ. Hơn nữa phong trào dân chủ, bên trong và bên ngoài Trung Quốc, vẫn hoạt động rất tích cực. Một khi người Trung Quốc muốn lắng nghe các vấn đề của những người khác, thì những người Tây Tạng sẽ không chống lại quốc gia Trung Quốc. Đường hướng của chúng tôi là theo tinh thần hoà giải. Chắc chắn chúng ta có thể có sự đồng thuận. Trong khi đó, cộng đồng quốc tế phải ủng hộ Tây Tạng và tạo áp lực đối với Trung Quốc. Nếu không có điều này, đường hướng của chúng tôi, theo 14 năm kinh nghiệm vừa qua, không có hy vọng phản hồi. Hỏi: Để kết thúc, tôi có đọc đâu đó ông tiên đoán rằng, khác với thế kỷ 20, thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của hoà bình và công bằng. Tại sao? Đạt lai Lạt ma: Vì tôi tin trong thế kỷ 20, con người đã học được từ rất nhiều, rất nhiều kinh nghiệm. Một phần tích cực, đa phần tiêu cực. Bao nhiêu đau thương, bao nhiêu đổ nát! Quá nhiều người bị giết trong hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ này. Nhưng bản chất con người là bản chất cao quý ở chỗ khi ta đối diện với một hoàn cảnh rất nghiêm trọng, tâm hồn con người liền tỉnh thức để tìm hướng đi khác. Đấy là khả năng của con người. Nguồn: “The Dalai Lama”, New York Times 28/11/1993. Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt Bản tiếng Việt © 2010 talawas www.nytimes.com/1993/11/28/magazine/the-dalai-lama.html
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:34:10 GMT 9
ĐẠT LAI LẠT MA, CON TRAI TÔIDịch giả: Tuệ Uyển (Trích Đoạn ) Baby Lhamo Dhondup trong tay mẹ Lhamo Dhondup khác với những đứa con khác của tôi ngay từ lúc đầu. Nó là một đứa bé sầu bi và hay ở một mình trong nhà. Nó luôn luôn khăn gói áo quần và chuẩn bị hành trang. Khi tôi hỏi nó làm gì đấy, nó sẽ trả lời rằng nó đang chuẩn bị để đi Lhasa và sẽ mang theo mọi người chúng tôi với nó. Khi nó đi thăm viếng bạn bè hay những người bà con của nó, nó không bao giờ uống trà ở bất cứ cái tách nào ngoài cái của tôi. Nó chẳng bao giờ để ai đụng đến chăn mền của nó ngoài tôi, và cũng chẳng đặt chúng ở đâu mà chỉ ở ngay bên cạnh chăn mền của tôi. Nếu nó đi ngang một người hay sinh sự gây gỗ, nó sẽ lấy một cây que và cố gắng để đánh người đó. Nếu có bao giờ một trong những người khách đốt một điếu thuốc, nó sẽ bùng lên thành một cơn giận dữ. Những người bạn của chúng tôi nói với chúng tôi rằng vì một vài lý do nào đấy họ sợ nó, và kéo dài hàng năm như thế. Những điều này xảy ra khi nó hơn một tuổi và còn nói năng một cách khó khăn. Một ngày nọ, nó nói với chúng tôi rằng nó đã đến từ thiên đàng. Tôi đã có một linh tính kỳ lạ trước , một tháng trước khi sinh nó tôi đã có một cơn mơ mà trong cơn mơ ấy hai con sư tử tuyết màu xanh lá cây và một con rồng xanh dương sáng chói xuất hiện, bay lượn trên không trung. Chúng mĩm cười với tôi và chào đón tôi trong phong cách truyền thống của Tây Tạng; hai tay chắp lại trên trán. Sau này, tôi được kể cho nghe rằng con rồng là Đức Đạt Lai Lạt Ma, và hai con sư tử tuyết là biểu vật Nechung ( biểu tượng quốc gia của Tây Tạng), chỉ đường cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tái sinh. Sau cơn mơ tôi biết rằng con trai của tôi sẽ là một vị Lạt ma cao cấp nào đấy, nhưng chẳng bao giờ trong cơn mơ vĩ đại ấy mà tôi cho rằng đấy biểu tượng cho một Đức Đạt Lại Lạt Ma sau này tái sinh là một đứa con trai của tôi. Khi Lhamo Dhondup là một cậu bé hơn hai tuổi, phái đoàn tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn đến thăm quê hương Taktser của chúng tôi. Phái đoàn bao gồm cả Lobsang Tsewang, một vị tsedun (một nhân viên chính phủ), Khetsang Rinpoche ở tu viện Sera (người sau này bị lính Trung Cộng tra tấn và giết chết), và những người khác. Lần đầu tiên họ đến thăm chúng tôi là vào tháng mười một hay mười hai, và lúc ấy tuyết rơi dữ dội. Tuyết phủ khoảng bốn bộ trên mặt đất, và chúng tôi đang trong chương trình dọn tuyết khi họ đến. Chúng tôi không nhận ra bất cứ ai trong họ rằng họ đã đến từ thủ đô Lhasa, mà họ cũng không nói với chúng tôi mục tiêu của việc viếng thăm. Họ có thể nói tiếng địa phương Tsongkha một cách trôi chảy, vì họ ở Tsongkha đã ba năm để tìm Đạt Lai Lạt Ma. Họ đã được nói rằng họ sẽ tìm ra Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi sáng sớm ở một nơi toàn trắng. Phái đoàn dừng lại ở trước nhà chúng tôi và nói rằng họ trên đường đến Sanho nhưng đã lạc đường. Họ xin tôi cho họ vài phòng cho buổi tối. Tôi đã mời họ dùng trà, một ít bánh mì do tôi làm, và thịt khô. Sáng sớm hôm sau, họ đề nghị trả tiền cho việc trú ngụ, ăn uống và cho mấy con ngựa ăn. Họ chào giả biệt rất nồng ấm. Sau khi đi khỏi, chúng tôi biết rằng đây là phái đoàn đi tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng nó chẳng bao giờ ấn tượng trong đầu tôi rằng đây là mục tiêu của việc họ viếng thăm nhà chúng tôi. Ba tuần sau, phái đoàn trở lại nhà chúng tôi. Lần này, họ nói rằng họ đang đi đến Tsongkha, và xin chúng tôi chỉ đường cho họ. Chồng tôi nói cho họ biết đường đi và họ lại rời khỏi. Sau hai tuần họ trở lại lần thứ ba. Lần này Khetsang Rinpoche mang theo hai cây quyền trượng khi ông vào hiên nhà chúng tôi, nơi Lhamo Dhondup đang nô đùa. Rinpoche đặt hai cây quyền trượng trong một góc. Con trai chúng tôi đến chỗ ấy, nằm một bên, và cầm lấy cây kia. Nó điểm nhẹ trên lưng Rinpoche với cây quyền trượng, nói rằng cây quyền trượng này là của nó và tại sao Khetsang Rinpoche lại lấy nó. Những thành viên của phái đoàn trao đổi với nhau những cái nhìn ý nghĩa, nhưng tôi không hiểu một tiếng nào của ngôn ngữ Lhasa mà họ nói chuyện. Sau này tôi ở trong nhà bếp, uống trà trên “kang” (sập gỗ trong phòng), lúc Khetsang Rinpoche cùng uống trà với tôi. Thật dễ dàng để trao đổi với nhau vì ông có thể nói chuyện bằng tiếng Tsongkha và tiếng Hoa một cách trôi chảy. Khi chúng tôi ngồi ở đấy, Lhamo Dhondup luồn tay của nó bên dưới lớp áo da thú dày cộm của Rinpoche và dường như kéo mạnh hai cái áo choàng mà ông đang mặc. Tôi rầy la con trai tôi, nói với nó hãy chấm dứt kéo áo vị khách. Nó rút ra một tràng hạt từ bên dưới áo choàng của Rinpoche và nhấn mạnh rằng đấy là của nó. Khetsang Rinpoche nói một cách nhẹ nhàng với nó rằng, ông sẽ cho nó một tràng hạt mới, rằng xâu mà ông đang đeo thì quá cũ. Nhưng Lhamo Dhondup đã đang đeo vào tràng hạt rồi. Sau này tôi biết rằng đây là tràng hạt mà Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba đã tặng cho Khetsang Rinpoche. Chiều tối hôm ấy chúng tôi được mời đến phái đoàn. Họ đang ngồi trên “kang” trong phòng họ. Trước họ là một bát kẹo, hai tràng hạt, và hai trống damaru (trống cầm tay trong cúng lễ). Họ tặng con trai tôi bát kẹo, trong ấy nó chọn ra một viên và trao nó cho tôi. Rồi thì nó ngồi xuống với họ. Từ lúc rất trẻ, Lhamo Dhondup luôn ngồi mắt đối mắt với mọi người, chẳng bao giờ ở tại dưới chân người nào, và mọi người nói với tôi rằng tôi đang làm hư nó. Rồi thì nó chọn một xâu chuỗi từ trên bàn và một trống damaru, cả hai thứ, hóa ra là vật tùy thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Những người khách tặng chồng tôi và tôi một tách trà và một khăn choàng lễ theo phong tục Tây Tạng. Họ khuyến nghị rằng tôi hãy nhận một số tiền như sự cảm ơn của họ cho lòng mến khách của chúng tôi. Khi tôi từ chối, họ nói tôi nên giữ nó như một dấu hiệu của điềm lành. Họ nói rằng họ đang tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn, người chắc chắn tái sinh đâu đấy ở Tsongkha. Họ nói có mười sáu ứng viên. Trong thực tế, họ đã quyết định người ấy là con trai của chúng tôi. Lhamo Dhondup dành ba tiếng đồng hồ với họ tối hôm ấy. Sau này họ nói với tôi rằng họ đã nói với con trai tôi bằng phương ngữ Lhasa và nó đã trả lời không khó khăn gì, mặc dù nó chưa hề nghe phương ngữ ấy trước đây bao giờ. Sau này Khetsang Rinpoche mời tôi đến bên cạnh và tuyên bố tôi như Bà Mẹ, và nói rằng tôi có thể phải rời nhà tôi để đi đến Lhasa. Tôi trả lời rằng tôi không muốn đi, rằng tôi không thể rời nhà tôi mà không có ai chăm sóc nó, ông nói rằng tôi không phải lo lắng về nhà cửa của tôi, rằng nếu tôi rời nhà, tôi sẽ sống một cách rất thoải mái và không có bất cứ khó khăn gì. Ông ta sắp đi đến Tsongkha để gặp chính quyền địa phương, Ma Pufang, để nói với ông ta rằng Đức Đạt Lại Lạt Ma đã tái sinh tại Tsongkha và rằng họ đang sắp xếp chương trình để thỉnh Ngài về Lhasa. _ __ Dalai Lama, My Son (excerpts) Diki Tsering Tuệ Uyển chuyển ngữ 20-08-2009
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:35:37 GMT 9
Đạt Lai Lạt Ma, thúc phụ của tôi Khedroop Thondup - Tuệ Uyển dịch Khedroob Thondup hiện diện như một hình ảnh thân quen trong một gia đình đã sinh ra một trong những lĩnh tụ tâm linh được công nhận là nổi tiếng và được tôn kính nhất thế giới. Cha của Khedroob Thondup là Gyalo Thondup và cũng là anh ruột của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Gyalo Thondup Làm thế nào ông (Khedroob Thondup) nghĩ đến việc sưu tầm những ký ức của bà nội ông trong quyển sách, Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Tôi? Em gái tôi, sau khi tốt nghiệp ở Anh Quốc, đã trở lại Ấn Độ, và cha mẹ chúng tôi nói rằng chúng tôi nên phục vụ chính phủ Tây Tạng bằng cách này hay cách khác, vì thể cô ta nhận một chức vụ tại Thư Viện Hoạt Động và Lưu Trữ của Tây Tạng (the Library of Tibetan Works and Archives)tại Dharamsala. Cô ấy là chủ bút Tạp Chí Tây Tạng (the Tibet Journal) quý vị thấy, đấy là một bổn phận trí tuệ. Do thế, khi cô ta ở đấy, Bà nôi chúng tôi cũng ở đấy, và Bà tôi thường gọi cô làm những bửa ăn, và Bà cũng trông cô, như Bà thường trông những đứa con và cháu của Bà. Vì vậy, một ngày nọ, em gái tôi nẩy ra ý kiến tuyệt vời này về việc thu thập những câu chuyện về cuộc đời của Bà chúng tôi, vì cô ấy cảm thấy rằng đây là một người đàn bà rất quan trọng, một người phụ nữ với 16 đứa con, và còn trưởng thành bảy người. Nhưng căn bản bởi vì Bà là mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và khi cô ta đến và tỏ bày ý kiến ấy, Bà Nội chúng tôi rất ngạc nhiên một cách dễ thương. Cụ bà Diki Tsering và Đức Đạt Lai Lạt Ma Bà nội chúng tôi nói rằng, “Bà thích làm việc này, nhưng không ai sẽ hỏi bà về những năm tháng lúc ban đầu của bàvà những gì đã xảy ra, cháu thấy đấy. Bà thật sự chẳng bao giờ có một cơ hội để nói về những điều này trong những chi tiết thật tuyệt.” Và Bà rất say mê. Thế là em gái tôi, trong khoảng thời gian từ năm 79 đến 81, qua những buổi ăn gia đình với nhau, đã hỏi bà về hàng khối câu chuyện và ghi lại tất cả những điều này. Rồi thì Bà nội chúng tôi qua đời năm 1981. Thế rồi năm 1982, em gái tôi bị một tai nạn thảm khốc ở Bắc Mỹ, khi cô ấy tham dự một ngày lễ. Cô chết năm ấy. Và lúc ấy mẹ tôi thật sự tan nát cõi lòng, vì đây là đứa con gái duy nhất của bà, và bà cảm thấy rằng bà nên cố gắng để quyển sách này được xuất bản. Mẹ tôi cố gắng, nhưng rồi bà không chống nổi và không qua khỏi với chứng ung thư trong năm 1986. Do thế, năm 1997, tôi đọc qua những ghi chép của em gái tôi, tôi đã tự học hỏi rất nhiều. Có quá nhiều chi tiết mà tôi đả không biết. Thế là tôi đã ngồi xuống và chuẩn bị cho xuất bản quyển sách này. Quyển sách này đã mất 20 năm để thấy ánh sáng – gần 20 năm. Tôi làm việc này bởi vì nó là di sản của em gái tôi. Cô ấy tập họp tất cả những câu chuyện. Và cũng bởi vì ngày nay ở Mỹ, rất nhiều người quan tâm đến Đức Đạt Lai Lạt Ma, cả về lĩnh tụ tâm linh lẫn thế tục. Tôi nhớ trong năm 1979, khi tôi đi với Ngài trong chuyến du hành đầu tiên, rất ít người biết Ngài. Mọi người nghĩ rằng có lẽ Ngài là một công hầu hay gì đấy, quý vị thấy đấy, Ngài trang phục y áo màu đỏ hoàn toàn lạ lùng. Nhưng rồi thì năm 1989, Ngài nhận giải Hòa Bình Nobel, và trong năm 2000 nhiều người Mỹ biết Ngài là gì, Ngài đại diện cho những điều gì. Ngài lôi cuốn nhiều người Mỹ. Do vậy tôi nghĩ rằng quyển sách này có thể cho thấy cái nhìn sâu sắc của thân mẫu Đức Đạt Lai Lạt Ma, sự dạy dỗ của Ngài, quý vị thấy đấy, về đời sống của Bà nội tôi. Đây là quyển sách thật sự về câu chuyện của một phụ nữ. Đây là câu chuyện của một người đàn bà rất mạnh mẽ, một người phụ nữ nông dân. Bà cảm thấy rằng truyền thống tập tục rất quan trọng đến cuộc sống của Bà, truyền thống đã truyền đến Bà từ cha mẹ và ông bà của Bà. Và Bà đã truyền xuống chúng tôi, đàn cháu, và tôi, ngày nay, truyền trao lại cho những đứa con gái, con trai của chúng tôi. Đây là một câu chuyện về việc làm thế nào Bà đã trải qua từ một phụ nữ nông dân, với những truyền thống mà Bà mang trong tâm hồn, và làm thế nào người con thứ năm của Bà được công nhận như một Đạt Lai Lạt Ma, và làm thế nào Bà đối diện với chính phủ Tây Tạng, và đối đầu với những vấn đề trước những người Trung Cộng mà Tây Tạng đã trải qua một thời điểm vô cùng kinh khủng. Và làm thế nào Bà đối đầu với tất cả những điều ấy, làm thế nào Bà đối trước gia đình mình, cũng như với việc công nhận của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và sau này, sự vượt thoát cùa Bà đến Ấn Độ, cùng đời sống của Bà ở quê hương tị nạn. Phần ấy không bị nhòa lấp nhiều bởi vì em gái tôi đã không ẩn dấu nó. Và tôi quyết định để nguyên những gì em tôi đã ghi lại. Do thế, một cách căn bản, đấy là câu chuyện của Bà nội tôi về thời thơ ấu, đời sống của Bà ở Lhasa, và khi Bà sang Ấn Độ. ‘Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Tôi’ rất hấp dẫn và rất dễ đọc. Ông đề cập rằng đấy là một quyển sách quan trọng. Tại sao ông nghĩ rằng đấy là một quyển sách quan trọng cho những người Mỹ, hay bất cứ người nào đọc nó? Ồ, một cách căn bản, tôi nghĩ hai điều. Một nếu ai đấy muốn tiếp nhận một cái nhìn sâu sắc về việc làm thế nào mà Bà mẹ đã ảnh hưởng đến đứa con của mình, một vị Đạt Lai Lạt Ma, qua những tính chất của Bà. Hơn nữa, Bà mẹ Ngài đã có một tác động lớn lao đối với Ngài, trên sự suy nghĩ của Ngài, trên nhận thức của Ngài, và những thứ ấy đã đem đến như Ngài đã hiện diện hôm nay thế nào. Hai, là bởi vì như tôi đã nói với quý vị lúc nãy, đây là một câu chuyện về một người đàn bà, nó cho thấy Bà mạnh mẽ như thế nào, Bà độc lập như thế nào, và nó liên hệ thế nào đến ngày nay cho phụ nữ hiện tại. Quý vị thấy không? Phụ nữ ngày nay không chỉ có nghề nghiệp, nhưng cũng có con cái, một gia đình, và làm thế nào tất cả những điều này bổ sung cho nhau trong một đời sống. Tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề rất quan trọng. Đấy là tại sao mặc dù tôi nghĩ quyển sách rất giản dị, nó cho thấy Bà nội tôi đã trải qua những điều gì, toàn bộ những diễn tiến từ một người phụ nữ nông dẫn đến Lhasa, và rồi thì cũng là đón nhận một bước dài của sự đổi thay lớn lao trong đời của Bà. Trong chương, “Đại Dương củaTuệ Trí,” ông diễn tả làm thế nào con trai của Bà đi đến sự công nhận như một vị Đạt Lai Lạt Ma. Ông có thể trao đổi một ít về điều này không? Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba viên tịch, chính quyền Tây Tạng mở những đoàn truy tầm để đi tìm Ngài khắp Tây Tạng. Những dấu hiệu cho thấy rằng Ngài sẽ thọ sinh ở phía Đông Tây Tạng. Do vậy, phái đoàn tìm kiếm đã đi ngang ngôi làng của chúng tôi, họ đã gõ cửa ngôi nhà của Bà nôi tôi, và để xin trú ngụ về đêm, họ muốn ở đấy qua đêm bởi vì họ là những người du hành. Vì thế, Bà nôi tôi là một người rất nồng nhiệt và từ bi đã nói, ‘Vâng, chắc chắn là được.’ Và thế là Bà đã mời phái đoàn vào nhà, mặc dù Bà chẳng hề biết họ là ai. Bà là một phụ nữ nông dân, một người căn bản chỉ quan tâm đến những việc hằng ngày của Bà, nghĩ về trang trại và tất cả là thế. Đứng đầu phái đoàn tìm kiếm là Khetsang Rinpoche, nhưng ông ăn mặc trong cách cải trang, trang phục của ông là của những người hầu cận, và người hầu cận lại trong áo quần của ông. Quý vị thấy đấy? Cậu bé Lhamo Dhondup ở Amdo Vì thế Bà đã mời người hầu cận, ăn mặc trong áo quần trưỡng đoàn tìm kiếm lên nhà trên, và gọi Khetsang Rinpoche, trang phục áo quần hầu cận, đến nhà bếp, nơi Bà đang làm việc và chuẩn bị trà cho tất cả mọi người. Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc ấy là một cậu bé, và Ngài đi đến gần bên Khetsang Rinpoche, nhìn ông ấy, và đưa tay vào bên trong áo của Rinpoche và kéo áo choàng của ông . Và rõ ràng áo choàng ấy là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba đã tặng ông, vì thế ông chưng hửng vô vàn, nhưng ông không biểu hiện bất cứ điều gì. Khetsang Rinpoche đã rời nhà Bà ngày hôm sau. Phái đoàn đã trở lại, và sau đấy họ bắt đầu làm một số thử thách. Tất cả những điều này xảy ra trong khi Bà nội tôi không biết những người này là ai, họ đang làm gì, rõ ràng bà không có ý tưởng gì, rằng đây là phái đoàn đi tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Sự việc đã bắt đầu như thế ấy. Sau này khi Khetsang Rinpoche nói với Bà ‘đây là những người gì’, Bà đã hoàn toàn kinh ngạc. Chẳng bao giờ trong giấc mộng vĩ đại của Bà, Bà đã rằng một trong những đứa con của Bà sẽ trở thành Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Trong mỗi gia đình Tây Tạng, nếu một hóa thân của một Lạt ma được công nhận là một niềm vinh hạnh to lớn. Và Bà đã có một niềm vinh dự có đứa con thứ hai, được công nhận như Takster Rinpoche của Tu viện Kumbum vào lúc ấy. Bà đã có niềm vinh hạnh ấy. Do vậy, mặc dù Bà có hơi bối rối, nhưng Bà nhận ra rằng Bà đang kiềm chế chính mình, vì thế Bà quyết định, ‘tôi sẽ vượt qua mọi thứ một cách dễ dàng.’ Bà phải di chuyển về thủ đô, và Bà đã diễn tả người ta đã phục vụ Bà như một hoàng thái hậu. Và Bà đã không thích điều này lắm. Bà nội tôi luôn luôn nghĩ rằng gốc rễ rất quan trọng với Bà, truyền thống tập quán của Bà. Thí dụ, áo quần của Bà mặc vẫn còn như ở làng. Bà chẳng bao giờ thay đổi kiểu cách trang sức. Và Bà luôn luôn trang phục như đã từng ở nơi làng quê ấy. Thế là khi người ta hỏi Bà, ‘Ô, bây giờ, Bà đã là mẹ của một vị Đạt Lai Lạt Ma, Bà nên thay đổi. Bà nên son phấn trên mặt, Bà nên ăn mặc áo quần thế này, Bà nên trang điểm tóc tai khác hơn.’ Bà nói rằng, ‘tôi muốn tôi vẫn là tôi, mặc dù tôi là mẹ của Đạt Lai Lạt Ma.’ Và Bà đã làm nên một tác động to lớn để chỉ Đức Đạt Lai Lạt Ma những gì quan trọng cho Ngài để ăn, Bà đã chuẩn bị tất cả những thức ăn quê hương và bánh mì cho Ngài ở Lhasa, nơi Bà đến để gặp Ngài rất thường xuyên. Bà luôn luôn nói về Bà nghĩ thế nào rằng mặc dù bà đã trở thành mẹ của Đạt Lai Lạt Ma, rằng Bà sẽ trở lại đời sống và tôn giáo của Bà. Bời vì Bà vô cùng an lạc ở đấy, và Bà không thật sự nghĩ rằng, ‘Ô, bây giờ, tôi đã trở thành mẹ của Đấng Thánh Thiện (his holiness), tôi nên thay đổi toàn bộ lối sống của tôi.’ Không. Bà là một người đàn bà rất đơn giản, tư tưởng nghiêm nhặt, rất thực tiễn và mạnh mẻ. Quyển sách kết thúc trên một điểm buồn sau khi em gái ông mất, và Bà nội ông bày tỏ niềm đau buồn của Bà về việc ấy. Điều ấy hiện diện trong quyển sách thế nào? Sau khi em gái tôi mất, phần ấy của câu chuyện tôi viết nên bởi vì nó lấp đấy một khoảng trống. Tôi không muốn viết nhiều, tôi muốn kết thúc câu chuyện như nó là. Tôi không muốn biến nó thành điều tôi cảm nhận. Ngôn ngữ mà em gái tôi viết sẽ rất khác với lời lẻ của tôi. Do thế tôi để nó như nó là. Nhưng tôi cho nó một sự hạ cánh mềm mại vừa đúng. Điều ấy phản ánh những gì Bà nội ông cảm nhận? Vâng, chắc chắn là như thế. Nó phản ánh rất nhiều những gì Bà tôi cảm nhận. Và tôi chỉ có thể kể với quý vị một giai thoại cá nhân. Đối với khoảng cuối cuộc đời Bà, bất cứ khi nào tôi đến để gặp, Bà sẽ hỏi tôi, ‘Ba cháu đâu? Má cháu đâu? Bà muốn gặp họ.’ Và Bà luôn luôn cảm thấy rằng sự quy tụ của gia đình rất quan trọng. Bà thích có tất cả con cái và cháu chắt của Bà ở chung quanh Bà. Một thí dụ khác, ngày Bà mất, Bà thức dậy vào buổi sáng, đấy là buổi sáng sớm, và Bà gọi con trai Bà, Lopsang Samten, ‘Hãy đưa mẹ vào phòng vệ sinh.’ Và rồi thì khi Bà ra khỏi, Bà nói, ‘Hãy dựng mẹ dậy vì thế mẹ có thể ngồi lên. Mẹ cảm thấy rất yếu và có thể chết,’ Và Bà nói, ‘Mẹ rất buồn vì hầu hết con cái không ở gần bên mẹ.’ Nhưng rồi thì Lobsang Samten, con trai Bà nói với Bà rằng, ‘Umala – có nghĩa là mẹ -- ‘ hãy giữ an bình trong tâm mẹ bởi vì mẹ nên nhớ rằng mẹ đã sinh ra Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn, và như một Bà mẹ, mẹ đã thật sự là một Bà mẹ tốt đến tất cả con cái của mẹ cũng như cháu chắt của mẹ.’ Và trong cách ấy, Bà đã qua đời một cách bình an. Ông đã ở bên cạnh khi Bà ông mất. Tôi đã đến một ngày sau, và sau đấy thúc phụ tôi đã nói với tôi điều này. Tôi không để điều này vào trong sách bởi vì tôi cảm thấy rằng tôi sẽ chờ khi quyển sách của tôi ra mắt. Đấy chỉ là tôi muốn giữ điều ấy nguyên bản như có thể. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nghĩ gì về quyển sách? Ô, tôi nghĩ rằng đây là quyển sách về cuộc đời của mẹ Ngài, người mà Ngài rất yêu thương. Ngài cảm thấy rất tuyệt về nó. Hơn thế nữa tất cả mọi người đã đọc qua quyển sách này và đã thấy quyển sách này cảm thấy rằng đấy là câu chuyện rất cảm động. Đấy là một câu chuyện cảm động. Nó đơn giản, nhưng nó quá đơn giản. Tôi có thể nói rằng bởi vì những người ở phương Tây nghĩ thế, ‘Ô, điều này được viết bởi một đàn bà nông dân.’ Nhưng mặc dù Bà nội tôi là một nông dân cả cuộc đời Bà, nhưng Bà thật sự là một người phụ nữ rất mạnh mẽ, và Bà thật sự tiếp tục những truyền thống tập tục, chúng là xương sống của cuộc đời Bà. Vì thế tôi thật sự cảm thấy rằng tôi nên chia sẻ điều này với độc giả rộng rãi hơn. Tôi muốn nhiều người hơn có thể biết mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma như thế nào và đã ảnh hưởng thế nào đến Ngài khi Ngài còn trẻ, và sau này toàn bộ cuộc đời Ngài. Và làm thế nào, mặc dù Bà có rất nhiều con cái, Bà có thể dành thời gian đến mỗi đứa con của Bà, và thăm viếng họ, một số ở Hoa Kỳ, một số ở Thụy Sĩ, và Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Dharamsala, và cha tôi, chúng tôi những đứa cháu ở Darjeeling, nơi tôi đang sống hiện tại. Và làm thế nào Bà có thể chia thời gian cho tất cả những điều ấy, và vẫn làm thấm nhuần trong chúng tôi một ý nghĩa công bình. Tôi nhớ Bà là một người rất công bằng. Và đối với những đứa cháu của Bà, Bà sẽ nói về truyền thống và bà sẽ nói về tín ngưỡng. Và trải qua thời gian lễ hội của tôn giáo chúng tôi cũng như những lễ hội truyền thống, Bà sẽ dạy dỗ chúng tôi quán sát chúng như thế nào và ý nghĩa chúng là gì. Điều này rất quan trọng – chúng có một tác động rất lớn đối với chúng tôi. Nhưng ở thời ấy, khi tôi trẻ hơn nhiều, những ngày ấy, và tôi đã chẳng suy nghĩ nhiều về nó. Tuy thế, khi tôi đọc qua những gì em gái tôi ghi lại, nó giống như một sự phát hiện. Tôi có thể xem điều ấy là chắc chắn Vâng, bây giờ khi tôi nhìn lại và tôi có thể suy nghĩ lại và nghĩ về tất cả những tinh tiết mà tôi đã từng liên hệ đến Bà, ý nghĩa của những gì Bà nói, tôi có thể nhớ rất nhiều thứ. Vì thế tôi muốn chia sẻ điều này với mọi người, và những người ở phương Tây rất quan tâm cũng như thích thú. Tại sao ông nghĩ rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma và Tây Tạng, trong phổ quát, đã có một cách lôi cuốn và hấp dẫn ở phía bên kia vị trí ấy? Ô, tôi nghĩ rằng người Hoa Kỳ luôn luôn muốn ủng hộ một mục tiêu đúng đắn và đạo đức. Và tình trạng với Trung Cộng, chúng tôi là những ngưò thua thiệt, và người Hoa Kỳ luôn luôn muốn ủng hộ những người thua thiệt. Chẳng hạn, tôi sẽ cho quý vị một ví dụ rất đơn giản. Chúng tôi có một cuộc vận động ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ, gọi là Cuộc Vận Động Quốc Tế vì Tây Tạng. Và chúng tôi đã có điều ấy khoảng mười năm. Chúng tôi không có tiền bạc gì để vận động, nhưng chúng tôi đã tạo nên một trong những nhóm ủng hộ lớn nhất trong những nghị sĩ và dân biểu bởi vì câu chuyện của chúng tôi, mục tiêu của chúng tôi, là một mục tiêu chân thật và đúng đắn. Và bởi vì chúng tôi rất may mắn có một lĩnh tụ rất được yêu mến như Ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma, người là lĩnh tụ cả tâm linh lẫn thế tục của Tây Tạng. Và bởi vì những giáo huấn của Ngài lôi cuốn và hấp dẫn nhiều người. Đây là một trong những điều quan trọng nhất qua toàn bộ những cuộc thăm viếng của Ngài đến Hoa Kỳ, nơi mà Ngài luôn luôn được mời đến bởi những trường Đại học khác nhau và những nhóm ủng hộ khác nhau, và những nhóm tôn giáo khác nhau đến đây để để phát biểu, không chỉ trên vấn đề Tây Tạng, nhưng cũng là trong năng lực của Ngài như một lĩnh tụ tâm linh. Ngài không nói rằng, ‘Phật giáo Tây Tạng là tôn giáo duy nhất trên thế giới.’ Ngài tin tưởng sự kiên nhẫn bao dung của tất cả các tôn giáo. Và mọi người quan tâm và thích thú để nghe những gì Ngài thuyết giảng, và Ngài chợt nẩy ra ý kiến – như Ngài luôn luôn nói – như một tu sĩ Phật giáo giản dị. Đúng thế không? Vì thế tôi nghĩ điều này rất quan trọng bởi vì nó tuyệt diệu cho bất cứ người nào. Dalai Lama, My Uncle Khedroop Thondup Tuệ Uyển chuyển ngữ 26-08-2009 www.gracecathedral.org/enrichment/interviews/int_20000525.shtml www.thuvienhoasen.org/datlailatma-contraitoi.htm
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 6:55:16 GMT 9
Cái chết được báo trước của những dòng sông Vietsciences- Nguyễn Thanh Lâm Nước là sự sống. Khi rô bốt Phoenix tìm thấy trên sao Hỏa một hạt nước đóng băng và cho bốc hơi trong lò nung thí nghiệm của tàu không gian, nhân loại hân hoan đón mừng hy vọng mới : Hy vọng sẽ có thêm một thế giới của sự sống. Trong khi đó, hai trăm đại biểu tham dự Tuần lễ Nước thế giới vừa diễn ra giữa tháng 8.2008 ở Stockholm đã khẩn thiết cảnh báo về hiểm họa thiếu nước sạch, thừa nghèo đói bệnh tật và xung đột chiến tranh trong tương lai. Rất tiếc là dự báo này không hề có chút gì lãng mạn như những "dòng sông đã qua đời" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Không phải ngẫu nhiên mà Liên Hiệp Quốc đặt tên năm 2008 là Năm của Nước. Nước sạch là thiên đàng. Nước bẩn là địa ngục. Có lẽ trận đại hồng thủy thời con thuyền sinh thái Noée trong Kinh thánh đã gạn đục khơi trong bằng sự nổi giận của nước. Cơn giận đã xuyên qua trùng trùng cái chết để tái lập lại sự sống sạch sẽ hơn. Điều đó liệu có lặp lại trong thiên niên kỷ này chăng ? trong thế kỷ này chăng? và loài người đang phải làm gì trước khi "nước đến chân mới nhảy " ? Nước - Báu vật của Tự nhiên Trước khi bước vào không gian căng thẳng của đề tài chính,có lẽ sẽ không thừa nếu chúng ta dành ít phút để chiêm ngưỡng một giọt nước, một báu vật của vũ trụ, một vật chất kỳ diệu gìn giữ, nuôi sống và tạo nên tất cả. Nói như Thales von Milet (625 - 547 trước Công nguyên) : Nguyên lý của mọi vật là nước; từ nước mà ra tất cả và tất cả lại quay về với nước. Nước thật kỳ diệu : Đó là vật chất cơ bản, duy nhất tồn tại dưới cả 3 dạng khí,rắn và lỏng,và chuyển hóa cho nhau. Chuyển hóa với trời đất và con người dưới tác động của nhiệt độ và những tác động phức hợp của động cơ vĩ đại là mặt trời. Nước không mùi vị, trong suốt, để ánh sáng xuyên qua dễ dàng và tạo gấp khúc xạ. Xung động bề mặt 72mN/m ở 20 độ C, lớn nhất trong các loại chất lỏng (trừ ngọai lệ là kim loại lỏng thủy ngân) nên có thể nhỏ giọt nhẹ nhàng lãng mạn và thư thái vô ưu. Góc kết của phần tử Oxy va Hydro luôn là 104,45 độ. Empedokles, rồi Aristoteles đã đặt Nước, Lửa, Khí và Đất làm nền tảng của Thuyết Tứ Trụ, tương tự như Lão Tử với Thuyết Ngũ Hành cũng gồm Thuỷ, Thổ, Kim, Mộc. Chữ hành ở đây nói lên sự chuyển hóa đa dạng của vật chất trong vũ trụ. Nước biển bốc hơi do năng lượng mặt trời phủ xuống. Mây tích tụ hơi nước,gặp vùng lạnh thành mưa . Lại có vùng quá lạnh hóa thành núi băng vĩnh cửu. Nước mưa ngấm vào lòng đất, tụ thành những mạch nước ngầm. Nước mưa chảy vào vùng trũng và những dòng sông. Và sông đưa nước trở lại biển cả. Cái quá trình tuần hoàn tuyệt vời ấy cũng là quá trình trao đổi chất về mặt sinh thái và sự sống của muôn loài. Con người có thể chịu đói được nhiều ngày, nhưng không thể chịu khát quá ba ngày. Con lạc đã băng qua được sa mạc nhờ cái bao tử chứa khoảng 200 lit và sức tải nước uống của nó. Bản thân cơ thể còn người cũng là nước, chiếm hơn 60% trọng lượng. Các động vật cũng chứa nước trong máu, thịt của mình ít nhất 45.% và riêng con Qualle là 99%. Thật là lạ lùng. Một câu hỏi lớn : Nước từ đâu ra ? Chưa ai giải thích được hiện tượng trái đất có đến 71% bề mặt được phủ đầy nước, trong khi ngay cả ruột của hằng hà sa số các hành tinh khác hầu như không có dấu hiệu của nước. Nước đã trào lên theo dòng thạch nham của núi lửa từ thuở hồng hoang ? và khi một thiên thạch va vào trái đất cách đây 65 triệu năm? Ấy là một giả thuyết,nhưng sao lại nhiều nước biển đến như vậy ? Nguyên tố Oxy va Hydro đầy rẫy trong vũ trụ nhưng lại thường kết trong silicat như cát và trong các oxyd kim loại. Điển hình là trên Sao Hỏa, màu đỏ của nó chính là bề mặt phủ đầy oxyd sắt tam. Đuôi một số Sao Chổi khổng lồ lại là đuôi tuyết bẩn. Vòng bọc Sao Thổ (Saturn) chứa một lượng nước đá gấp ba mươi lần nước địa cầu, nhưng Sao Thổ thì xa quá (cách trái đất khoảng 1,8 tỉ kilomet/một triệu lần đi từ Hà Nội đến Sài Gòn,mà lại là nơi có vận tốc gió thổi hơn 1.000 km/giờ). Một khi trái đất nầy tiêu tùng cũng khó di tản đến ẩn náu ở nơi đó được. Nước- Tài nguyên, sự sống và hiểm họa Trở lại với đề tài chính, rõ ràng là nhân loại đang phải đối đầu với tình trạng trái đất nóng dần lên. Những tảng băng khổng lồ ở Bắc và Nam Cực, ở Hy Mã Lạp Sơn tan ra làm nước biển dâng lên và gây ra lũ lụt. Tầng Ozon bị phá vỡ. Hiệu ứng nhà kính. Môi trường bị tàn phá... Mặt khác, sự biến đổi khí hậu đã đẩy mạnh quá trình sa mạc hoá (chỉ riêng miên Bắc Nigeria đã mất trắng 2.000 km2 mỗi năm !) và dự báo đến năm 2050, vùng hạn hán đe dọa thường xuyên ở Châu Phi sẽ tăng gấp năm lần diện tích bị hoang hoá hiện nay, do thiếu nước. Thật ra, nước không thiếu, nhưng sự phân bố không đều và nguồn nước sinh hoạt và có thể uống được chỉ chiếm 3% . Tổng lượng nước nằm khoảng 1.386 triệu km khối. 96,5% lượng nước này là nước biển (1.338 triệu km khối), chỉ có 48 triệu km3 (3,5%) là nước ngọt, và một nửa lượng nước ngọt hiếm hoi này lại nằm ở những núi băng, ở Băng đảo và ở hai cực của địa cầu (24,4 triệu km khối). Và như thế, phần còn lại càng thêm ngặt nghèo : mọi sông hồ trên trái đất chỉ chứa khoảng 190.000 km khối nước, bầu khí quyển chứa 13.000 km khối, nước trong màng phủ mặt hành tinh dày như vỏ trứng nếu thu nhỏ trái đất thành quả trứng gà (16.500 km khối) và trong muôn loài (1.100 km khối), nói theo thống kê cho đầy đủ. Lượng nước uống được chỉ chiếm 1%. Và lọc nước biển thì vô cùng tốn kém tiền đầu tư ,năng lượng và giá thành rất đắt đỏ. Nước, được mệnh danh là vàng xanh dương, vàng trắng của thế kỷ 21, quan trọng hơn cả dầu mỏ trong vai trò "chất bôi trơn" then chốt của kinh tế toàn cầu. Còn hơn cả dầu mỏ ở chỗ : không có thứ thay thế cho nước. Chính vì thế, Dominic Waughray, một chuyên gia cố vấn của Diễn đàn Kinh tế thế giới đã nói: Trong kinh doanh, nước không phải là thứ có thể sử dụng một cách tùy tiện,vì không có nước thì nền kinh tế toàn cầu này cũng lung lay. Mức tiêu thụ nước toàn thế giới đã tăng gấp đôi mỗi 20 năm,và Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs gọi đó là "tỷ lệ tăng trưởng không thể chịu đựng nổi". So với năm 1940,tổng dân số trên hành tinh đã tăng gấp 3 sau khoảng 70 năm,và tổng lượng nước sử dụng (mà ít được quan tâm tái tạo) đã tăng gấp 5 lần. Để làm ra 1 triệu kW điện ,người ta cần 1 tỉ m3 nước . Với điện nguyên tử , 1 ,6 tỉ m3 cho cùng công suất ấy. Để có một tấn thép, các nhà máy luyện kim sử dụng 20 m3 nước. Một tấn tơ nhân tạo cần 4.000 m3 nước . Một ký gạo cũng cần 2 .-5.000 lít nước. Chiếc áo bạn đang mặc là 2.700 lít nước của những cánh đồng bông vải. Một ký thịt bò phi lê cũng đến từ 16.000 lít nước. Ông Tony Allan, người đoạt giải nghiên cứu về nước tại Hội nghị Stockholm ngày 27/8/2008 đã tính ra cả lượng "nước ảo " gồm mọi khâu gieo trồng ,tưới tiêu, vận chuyển, rang xay chế biến của một tách cà phê là 140 lít nước. 69 % lượng nước ngọt đã phục vụ nông nghiệp một cách vô tội vạ, thậm chí ngoài tầm kiểm soát (ở các nước nghèo, con số này có thể lên đến 90 %). Một phần ba lượng nước đã sử dụng do bị nhuốm bẩn, không còn đạt chất lượng trước đó của đầu vào. Phân bón hoá học và thuốc trừ sâu đã theo nước vào hạt gạo, lúa mì, rau quả và dòng nước ngầm. Cách khai thác ào ào theo phong trào và nhu cầu hỗn loạn đã làm mực nước ngầm giảm cả thước, có nơi cả chục thước mỗi năm. Sự cạn kiệt nầy dẫn đến hậu quả kinh tế xã hội và cả xung đột có thể châm ngòi chiến tranh, vì nước ngọt chẳng hề dừng ở biên giới mọi quốc gia, như Israel và Syria đã giao tranh trong những năm 1962 -64 Sự tỉnh táo của chính trị có thể lái xung đột thành hợp tác chiến thuật hay chiến lược, như Ấn độ và Pakistan vẫn cùng chăm lo những dòng sông và nguồn nước ở Kashmir, và nhất là dòng sông Indus huyết mạch . Hiện nay, khoảng 1,1 tỉ người thiếu nước sinh hoạt . Cảnh phụ nữ đội các bình nước đi bộ hàng cây số lấy nước không chị xảy ra ở châu Phi. 2 ,6 tỉ người chưa có toa lét hợp vệ sinh. Năm triệu người mỗi năm, phần lớn là trẻ em, vì thế phải chết vì bệnh tật đến từ nguồn nước ô nhiễm, chưa mầm dịch bệnh tiêu chảy, sốt rét và sốt xuất huyết .... Mọi dòng sông quan trọng đều đã bị nhiễm bẩn ngày càng nhiều. Dòng sông Hằng linh thiêng của Ấn độ sẽ chết, và cùng chết theo là truyền thống ngàn năm tẩy rửa linh hồn tại dòng sông Mẹ Ganga này vào mỗi đầu năm mới của người Ấn độ giáo (Ardh Kumbh Mela ). Sông Nil thơ mộng và vĩ đại, sông Euphrat và Tigris huyền thoại, ông Jordan kỳ diệu ... không còn như xưa nữa. Cả sông Mẹ Mekong cũng sẽ đối mặt với hàng chục đập thuỷ điện cực lớn và ô nhiễm ở thượng nguồn. Dòng sông Yatush chảy qua vùng núi Altai (Trung Quốc và Mộng Cổ ) trôi vào Nga dưới tên gọi Amur đã bị bẩn từ thượng nguồn. 90 % các con sông gần các khu vực đô thị ở Trung Quốc đã bị ô nhiễm nặng, và rồi đây ,vào năm 2050 ,khi có khoảng 4 ,4 tỉ người (hơn một nửa tổng dân số 8 tỉ người trên hành tinh ) sống ở đô thị, đặc biệt là tại 25 thành phố siêu lớn với số dân vượt 10 triệu người, sẽ đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nước uống và nước sinh hoạt . Ngay cả London hiện nay, mức thất thoát nước thủy cục đã chiếm khoảng 30 % giống như ở Sài gòn, Hà nội ... vi hệ thống phân phối nước từ thời nữ hoàng Victoria không được duy tu đúng mức . Thêm vào đó, 45 .000 đập thuỷ điện cỡ lớn cũng đang là vấn đề , vì sự chỉnh trị các dòng sông đã đem đến các hậu quả nghiêm trọng, nhất là ở hạ nguồn . Hiện nay, nguồn thuỷ điện toàn cầu chiếm khoảng 18 % (ở nước ta : gần 40 %) tổng số điện năng . Giữa lòng châu Á, hồ Aral vĩ đại đã từng là nguồn chứa nước ngọt lớn thứ 4 của trái đất, đã mất 50 % diện tích mặt nước và 75 % lượng nước so với thời điểm 1960. Liên hiệp quốc xem đây là thảm họa môi trường lớn nhất thế kỷ 20 do con người gây ra, sau khi hai dòng nước lớn nhất đổ vào hồ Aral là Amudarja và Syrdarja đã bị bẻ dòng để làm thủy lợi (và kết quả là thủy hại trăm bề và 40 % lượng nước thủy lợi nói chung, thường không được sử dụng đúng mục tiêu như dự kiến ). 20 loài của tổng số 24 loài cá chính của Aral tuyệt chủng . Trung Quốc cũng có kế hoạch nắn lại sông Hoàng Hà (dài 5 .000km ) và sông Dương Tử nhưng họ phải cân nhắc về chi phí quá lớn cũng như những ảnh hưởng môi trường sinh thái. Hướng về tương lai, nhưng nhìn lại quá khứ để rút kinh nghiệm là điều rất nên làm, đặc biệt với Nước. Nạn phá rừng cũng là một nguyên nhân làm đất không giữ và trữ được nước vì thiếu cây, cỏ, lau lách ... rồi lại bị xâm thực bởi chính nước và gió (mỗi năm có thể mất khoảng 1,5 triệu héc ta đất trồng trọt ). Đề xuất "more crop per drop " (tạm dịch là "gặt hái nhiều hơn từ mỗi giọt nước ") là một hướng phát triển của mọi ngành kinh tế, nhất là trong nông nghiệp và công nghiệp . Hệ quả sử dụng nước và đất cho cây phục vụ nhiên liệu sinh học ,cũng như kỹ thuật cấy gen, phải được cân nhắc cẩn trọng . Tất cả như đang xoay quanh cái quyền mà Solon, và Platon, và cả Marcus Tullius Cicero của Đế chế La Mã đã nêu ra, và đã được triển khai từ cuối thế kỷ 19 mới đây: Quyền của mọi người dân ở bất cứ nơi đâu đều được nhà nước tạo cơ hội tiếp cận với nước sinh hoạt hợp vệ sinh . + Đề tài nước căng thẳng quá phải không các bạn ? Một lúc khác tôi sẽ nói đến 27.000 dòng sông lớn nhỏ của Việt Nam quê hương ta. Và để thay lời tạm kết, xin chép tặng ở đây một câu thơ của thi sĩ trung niên Bùi Giáng, ca ngợi báu vật trời cho ấy, một báu vật xứng đáng nằm ở trung tâm mọi quy hoạch và suy nghĩ của con người : sẽ huy hoàng như một giọt sương mai . Tháng 9 .2008
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2011 3:44:17 GMT 9
Kagoshima: Địa linh nhân kiệtVietsciences- Trương Văn Tân Kagoshima - Satsuma Sau hơn một giờ bay từ Tokyo chiếc máy bay của hãng hàng không All Nippon Airways bay lượn trên thành phố Kagoshima rồi nhẹ nhàng đáp xuống sân bay. Cứ ngỡ mùa Đông của vùng cực Nam ấm áp, đâu ngờ một trận bão tuyết hiếm hoi đổ xuống thành phố lịch sử này một lớp tuyết dày 50 cm đúng vào ngày đầu năm. Bước ra khỏi phi trường, những cơn gió lạnh buốt thổi hắt vào mặt, len lỏi vào cái áo ấm mỏng mà tôi mang từ Úc. Tôi đến Kagoshima lần thứ hai. Gần 35 năm trước, tôi là một lãng tử chu du đây đó, đã từng đặt chân đến chốn này qua đêm đón tàu đi chơi Okinawa. Tôi trở lại đây cảnh cũ vẫn còn đó. Dân số Nhật không tăng và cũng vì lý do bảo vệ môi trường nên không có nhu cầu lấy đất rừng, đất ruộng để "giải phóng mặt bằng" làm nhà cao tầng hay khu du lịch sang trọng. Ngọn núi lửa Sakurajima đối diện thành phố Kagoshima vẫn bình thản phun khói (Hình 1). Hàng trăm năm nay ngọn núi vẫn tuôn ra những luồng khói trắng hiền hòa từ một nơi sâu thắm trong lòng đất. Người dân Kagoshima xem Sakurajima như một ông bạn nhưng cũng dè chừng những lúc ông nổi giận. Thỉnh thoảng ông khó ở trong người phun khói mù mịt nhiều hơn bình thường thì ngày đó dân chúng lo âu và trở thành một bản tin quan trọng cả nước. Nông gia xây nhà sinh sống và canh tác dưới chân núi. Những vùng lân cận nhờ tro bụi của ông nên thổ nhưỡng vô cùng phì nhiêu. Vài mươi năm trước, củ cải trắng Sakurajima nổi tiếng nước Nhật vì ngon và to hơn trái dưa hấu cũng nhờ vào tro bụi núi lửa (Hình 2). Ai đến Kagoshima cũng đóng thùng vài củ gởi tặng người thân, bè bạn. Củ cải trắng gần như là một thành phần trong hầu hết các món ăn Nhật Bản ở những dạng khác nhau. Khi thì ăn với cá sống (sashimi) [1], khi cho vào súp, khi thì làm đồ chua hay nấu với rong biển và cá ngừ. Nhưng một người dân địa phương cho tôi biết, công nghiệp trồng củ cải trắng đã tan biến theo thời gian. Củ cải to trở nên hiếm hoi và thu hoạch không còn nhiều như trước. Tro bụi đã biến chất trong mười năm qua và những ân huệ nhận được từ Sakurajima cũng giảm đi rất nhiều. Hình 1: Ngọn Sakurajima, bụi khói quyện vào mây trong một buổi chiều mưa (ảnh TVT). Hình 2: Củ cải trắng Sakurajima và trái khóm (ảnh TVT). Tỉnh Kagoshima trước thời Minh Trị Duy Tân (1868) có tên là Satsuma-han (han: tiếng Hán Việt là phiên, chỉ một khu vực). Là một tỉnh cực Nam và cửa ngõ đi vào Nhật, Satsuma trở thành một khu vực chiến lược về quân sự lẫn giao thương quan trọng bậc nhất qua nhiều thời đại, trước đó là với các vương triều Trung Hoa và sau này là các lực lượng viễn chinh phương Tây. Dòng họ nhà Shimazu có một thế lực chính trị kéo dài 700 năm (thế kỷ 12 đến 19) tại Satsuma và trở thành phiên chủ (lãnh chúa) của một lãnh thổ rộng gần 10.000 km2 trong thời gian 400 năm cho đến thời điểm Minh Trị Duy Tân. Đầu thế kỷ 17, Shimazu sáp nhập vương quốc Lưu Cầu (Ryukyu) với hòn đảo chính là Okinawa vào lãnh thổ của mình. Lưu Cầu là một chuỗi đảo kéo dài từ phía Nam Kagoshima đến tận Đài Loan. Từ xưa, Lưu Cầu là một vương quốc độc lập hằng năm triều cống các vương triều Trung Quốc. Sự suy thoái trong các hoạt động hàng hải của hai triều đình Minh Thanh dẫn đến sự bành trướng của lực lượng hải quân Satsuma và dần dần tiếp thu Lưu Cầu. Dù phục tùng chính quyền trung ương Mạc Phủ ở Edo (Tokyo ngày nay), dòng họ Shimazu có quân đội và luật lệ riêng. Các võ sĩ (samurai) của Satsuma nổi tiếng là can đảm, đội hải quân của Shimazu nổi tiếng là thiện chiến. Qua nhiều đời, họ Shimazu đã gầy dựng một thế lực hải quân hùng hậu và sẵn sàng canh tân để đối đầu với các thế lực phương Tây. Việc sáp nhập vương quốc Lưu Cầu không những bành trướng lãnh thổ và lãnh hải đến tận vùng biển Đài Loan mà còn cho Satsuma-han cơ hội giao thương với đại lục Trung Hoa, càng ngày càng làm giàu kho thóc của Satsuma và ngân khố của Shimazu. Vào thế kỷ thứ 19, khi những chiếc tàu đen (black ship) của phương Tây bắt đầu quấy rối Okinawa và thấp thoáng ngoài khơi Satsuma, phiên chủ đương thời là Shimazu Nariakira nhận thấy sức mạnh của khoa học kỹ thuật phưong Tây, gấp rút canh tân. Ông mở một công xưởng đối diện với Sakurajima bên kia eo biển gọi là "Tập Thành Quán" (Shuseikan) để luyện thép chế tạo súng ống, súng thần công (Hình 3). Ông huy động việc chế tạo tàu chạy bằng hơi nước, gắn súng thần công biến thành chiến hạm. Ông còn mời các nhà Lan học (tiền thân các nhà khoa học Nhật Bản) [2] chuyên về cơ khí, vật lý, hóa học sáng chế các dụng cụ truyền thông như đìện thoại, điện báo, chế tạo thủy tinh, nghệ thuật ấn loát, các loại tơ sợi may mặc và thuốc súng. Tầm nhìn thực dụng của Shimazu Nariakira đã mở ra một thời đại khoa học kỹ thuật "made in Japan" và kéo dài đến ngày hôm nay. Dưới trướng của dòng họ Shimazu là các nhà tham mưu trung thành và samurai (võ sĩ) dũng cảm trong đó có Saigo Takamori (Tây Hương Long Thạnh) (1828 – 1877). Saigo sinh quán tại Satsuma là một nhà quân sự tài ba đảm lược xuất thân từ dòng dõi samurai và cũng là một nhân vật chủ chốt làm thành công cuộc vận động Minh Trị Duy Tân [3]. Người dân Kagoshima ngày nay vẫn yêu mến và kính trọng ông. Đi đến đâu cũng thấy hình ảnh của ông, từ những cây cờ treo dọc theo phố phác họa ông với cặp mắt to, đôi mày rậm, vầng trán cao, mặc áo kimono đi đôi guốc geta, cho đến các sản phẩm thủ công khắc trên kim loại hay gỗ trong các gian hàng bán quà lưu niệm. Hình 3: Súng thần công do "Tập Thành Quán" đúc chế, đã được dùng bắn chìm tàu Anh. Dài 5 m, nặng 5 tấn có thể bắn viên đạn nặng 30 kg đi xa 3 km (ảnh TVT). Sau khi viếng thăm nhà bảo tàng "Tập Thành Quán", từ thành phố Kagoshima chúng tôi lái xe hướng về mũi cực Nam và tạm trú tại một "ôn tuyền lữ quán" (nhà khách với suối nước nóng) có tên rất đẹp "Tú Thủy Viên" (Shusui-en). Ôn tuyền lữ quán không phải là khách sạn cho công việc mà là một nơi hoàn toàn cho việc thư giãn sau những ngày tháng làm việc cực nhọc. Đối với người Nhật, chỉ có suối nước nóng, sashimi và rượu sake mới giải tỏa được những căng thẳng thường ngày. Ôn tuyền lữ quán cung cấp những dịch vụ này. Toàn thể khu vực đất mũi là vùng hoạt động của núi lửa nên không bao giờ có sự yên tĩnh trong lòng đất. Những quần thể suối nước nóng xuất hiện rải rác trên một vùng rộng lớn. Những luồng nước nóng phì phà xì hơi bên vệ đường như ống khói của đầu máy xe lửa. Xa xa bên triền núi những cụm hơi nước bay bay lan tỏa như khói lam chiều hòa lẫn vào những vầng mây trắng phản chiếu trong ánh nắng mặt trời tạo ra những cầu vòng lớn nhỏ nhiều màu sắc. Người Nhật sống với sự nguy hiểm rủi ro của thiên nhiên nhưng họ tìm ra nguồn vui bất tận trong cái nguy hiểm phải đối diện hằng ngày. Họ tuyệt đối bảo vệ nguồn nước ngầm vô giá này. Có một lúc chính quyền địa phương dự định xây một con đập nhỏ trên dòng sông gần những quần thể suối nước nóng. Nhưng họ gặp phải sự phản đối quyết liệt của dân chúng trong vùng vì người dân cho rằng con đập có thể gây xáo trộn luồng nước ngầm, chưa kể đến những sự cố dẫn đến khả năng làm ô nhiễm nguồn nước. "Tú Thủy Viên" Những ôn tuyền lữ quán của vùng sâu vùng xa như "Tú Thủy Viên" thường là cơ sở thương mại lâu đời được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó không phải chỉ là nơi qua đêm của khách nhàn du mà còn là một nơi phô trương sắc thái đặc biệt của nhà khách qua lối phục vụ, cách chế biến thức ăn, các bức họa treo tường hay đồ vật trang trí, phản ánh tinh thần nghệ thuật của người chủ. Rất ít người nước ngoài có thể hiểu phong cách thư giãn tại ôn tuyền lữ quán và thưởng thức được phong vị thức ăn Nhật nếu không có kinh nghiệm cư trú dài lâu trên đất nước Phù Tang này. Ra vào những lữ quán truyền thống tôi phát hiện một điều đơn giản là thức ăn Nhật Bản không phải chỉ có sashimi hay sushi chấm với nước tương [1]. Thực đơn của buổi ăn tối là một chục thứ linh tinh mang khẩu vị địa phương, mỗi thứ một chút, vừa là đồ ăn vừa là đồ nhắm ngon miệng nhưng không cầu kỳ như thức ăn Trung Quốc (Hình 4). Khoai lang và thịt ba rọi kho nước tương là hai món đặc sản bình dân của Kagoshima. Người Nhật gọi khoai lang là khoai Satsuma vì chỉ trồng được ở Kagoshima. Rõ ràng hai món này đi từ các nước phía Nam và là chứng tích lịch sử của những cuộc giao lưu với Okinawa và Trung Quốc. Trong buổi ăn tối cô phục vụ cứ mời tôi ăn cái món thịt ba rọi hơi có vị ngọt, "Ông thử ăn món này xem. Ngon lắm. Đặc sản Kagoshima làm từ heo da đen đấy", tôi không hiểu heo da đen ngon hơn heo da trắng như thế nào, chỉ mỉm cười trả lời, "Món này tôi ăn từ lúc còn nhỏ. Mẹ tôi không những kho với nước tương mà còn kho với nước mắm nữa kia". Cô hơi ngạc nhiên xoe tròn đôi mắt, "Ồ... ông là người nước nào nhỉ? Trung Quốc, Đài Loan hay Philippine?" " Không. Việt Nam". Hình 4: Thức ăn tối tại lữ quán (ảnh TVT). Về vấn đề nghệ thuật của một ôn tuyền lữ quán, có một lần tôi qua đêm tại thị xã Atami cách Tokyo 200 km; ông chủ có lẽ là người biết thưởng thức nghệ thuật nên không tiếc tiền mua một bức tranh sơn mài từ Việt Nam to khoảng 3 x 1,5 m phác họa phong cảnh đồng quê bắc bộ với lũy tre làng bao bọc, con trâu đi cày, người bán nước đầu làng, được thực hiện vô cùng công phu. Tôi rất cảm xúc và ngạc nhiên khi nhìn thấy bức tranh sơn mài Việt ở thị xã nhỏ bé này nhưng cũng thầm phục cái điệu nghệ của ông chủ nhà khách. "Tú Thủy Viên" ở đây lại thể hiện một phong cách khác. Ấn tượng đầu tiên khi bước chân vào đây là "thư pháp". Những bức thư pháp quý giá được treo trên tường kéo dài từ sảnh lễ tân, qua các hành lang đến từng phòng trong nhà khách. Tôi hỏi chuyện với ngưòi quản lý nhà khách có phải những bức thư pháp là bản thật hay chỉ là bản sao. Tôi được trả lời rằng, "Vâng, tất cả đều là bản thật. Ông chủ chúng tôi là người sưu tập các bức thư pháp. Ông muốn quý khách cùng thưởng lảm bút tích của người xưa". Tại sảnh lễ tân, các bức thư pháp được để trong lồng kính một cách trân trọng. Tôi tò mò nhìn thật kỹ mới biết là bút tích của các nhân vật anh hùng xuất thân từ Kagoshima và nổi tiếng quốc tế trong lịch sử cận đại Nhật Bản. Trước hết là Saigo Takamori và nhân vật thứ hai là Togo Heihachiro (Đông Hương Bình Bát Lang) (1847 -1934), đề đốc hải quân chỉ huy trận hải chiến Nhật – Nga (1905) và đánh tan hạm đội Baltic của Nga tại eo Đối Mã. Cuộc hải chiến gây tiếng vang trên toàn thế giới và ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà cách mạng Việt Nam đương thời trong đó có Phan Bội Châu và kết quả là phong trào Đông Du. Bức thư pháp của Saigo Takamori thu hút tôi nhiều nhất. Sinh thời, Saigo cao to có bộ dạng của một tay "võ biền" nhưng nét bút của ông như rồng bay phượng múa hiện rõ tâm hồn phong lưu của một kẻ tài hoa (Hình 5). Trong lúc bôn ba đây đó lo việc nước và chuẩn bị cho cuộc Minh Trị Duy Tân, Saigo nhớ nhà ngẫu hứng làm một bài Đường thi thất ngôn tứ tuyệt viết nên bức thư pháp này: Ngã gia tùng lại tẩy trần duyên Mãn nhĩ thanh phong thân dục tiên Mậu tác kinh hoa danh lợi khách Tư thanh bất thính kỷ tam niên 我家松籟洗塵縁 満耳清風身欲僊 謬作京華名利客 斯声不聴己三年 Lược dịch: Nhà tôi có tiếng reo của cây tùng làm sạch bụi trần. Những làn gió mát thổi đầy tai, thân này muốn biến thành tiên. Lỡ làm khách tìm danh lợi ở chốn kinh thành phồn hoa. Tiếng reo đó, đã ba năm rồi ta không còn nghe gì nữa . Với nét chữ rắn rỏi của một vị tướng, trước trận hải chiến lịch sử Đề đốc Togo hạ bút viết: "Hưng phế tại thử nhất chiến" (Việc hưng phế nằm ở một trận đánh này) (Hình 6). Quả thật, Nhật không có cái gì để mất nhưng có biết bao điều lợi khi chiến thắng hạm đội Nga Hoàng. Chiến thắng đã đẩy Nhật, một nước châu Á đầu tiên đánh bại một quân đội phương Tây, lên hàng cường quốc làm nức lòng các nước châu Á xung quanh. Người Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên nhìn Nhật Bản bằng sự ngưỡng mộ. Hình 5: Bút pháp của Saigo Takamori (ảnh TVT). Hình 6: Bút pháp của Togo Heihachiro (ảnh TVT). Kaimon-dake và Kamikaze Buổi sáng hôm sau tôi lững thững đi dọc theo hành lang nhà khách thì cô phục vụ trong bộ áo kimono từ đằng xa gập đầu chào tôi buổi sáng. Cô ấy đứng tại chỗ chờ tôi bước đến gần rồi vồn vả chỉ ra ngoài bảo, "Ông có thấy gì không? Núi Kaimon-dake đấy …", "Hả … à… à … Kaimon-dake", tôi ngập ngừng lập lại không biết núi gì mà quan trọng đến thế. Kaimon-dake theo tiếng Hán là Khai Văn Nhạc, một ngọn núi lửa còn trong thời kỳ hoạt động (Hình 7). "Nhạc" của tiếng Hán có nghĩa là ngọn núi cao mặc dù núi Kaimon không hơn 1.000 mét. Ngọn núi nổi lên giữa một cánh đồng bằng phẳng, đứng uy nghi một mình ở ngay mũi đất cực Nam của Kagoshima cũng là cực Nam của đảo Kyushu và toàn thể quần đảo Nhật Bản (không kể Okinawa). Đối với những người lính viễn chinh trở về trên các chiến thuyền của Satsuma-han hay trên các chiến hạm hải quân của "Dai Nippon Teikoku" (Đại Nhật Bản Đế Quốc) trong Thế chiến thứ 2, nó là một hình tượng của quê hương và tổ quốc. Họ vui mừng và cảm xúc đến khóc òa khi thấy Kaimon mờ mờ xuất hiện từ xa tiếp giáp với đường chân trời như một người mẹ mòn mỏi giang tay đứng chờ. Họ biết từ đây sẽ là một bầu trời bình yên và trước mắt là mái nhà ấm áp với những vòng tay của thân bằng quyến thuộc. Hình 7: Ngọn Kaimon-dake (ảnh TVT). Cách Kaimon-dake không xa là một căn cứ xuất quân của các chuyến bay cảm tử Kamikaze (Thần Phong) trong những ngày cuối cùng của Thế chiến thứ 2 khi hạm đội Mỹ bắt đầu công phá Okinawa (Hình 8). Tên chính thức của đoàn phi công cảm tử là "Đặc biệt công kích đội", gọi tắt là "Đặc công đội" (Tokkotai). Bây giờ sân bay đã biến thành công viên với một tòa nhà bảo tồn di ảnh và di bút của các phi công cảm tử. Nhà bảo tồn trưng bày hơn 1.000 bức ảnh bán thân cá nhân và bức thư cuối cùng của những phi công cảm tử đã hy sinh trong chiến dịch. Người trẻ nhất vừa hơn 17, người già nhất không quá 30. Những bức thư chỉ gởi cho người Mẹ, không có sự hiện diện người cha, người vợ hay người yêu trong những dòng di bút cuối cùng này. Trước giây phút lâm chung, tôi có cảm giác những người trẻ can đảm này rất hoang mang, không thể bày tỏ hết những điều mình muốn nói. Dài thì một trang giấy viết bằng bút lông, ngắn thì hai hàng. "Kính thưa Mẹ", "Mẹ kính yêu", "Viết cho Mẹ".... "Vài ngày nữa con sẽ bay về phía Nam hoàn thành nghĩa vụ "quyết tử". Em Chieko có đi học đều đặn và con chó nhà có ngoan không Mẹ? Cho con gởi lời thăm gia đình chú Ando hàng xóm. Xin Mẹ kính yêu và mọi người ở lại bình yên. Vĩnh biệt Mẹ. Đứa con bất hiếu: Taro" hay hùng dũng hơn với câu "Thân này xá chi, tàu địch phải chìm". Tôi không tìm thấy dòng chữ "Thiên Hoàng bệ hạ vạn tuế" (Tenno heika banzai) trong những di bút này, dù đây là câu nói đầu môi của những người lính Thiên Hoàng. Hình 8: Chiến đấu cơ Kamikaze (ảnh TVT). Con đường bay độc đạo của các chiến đấu cơ Kamikaze hướng về phía núi Kaimon. Khi xuất chinh, Kaimon lúc nào cũng sừng sững xuất hiện trước mắt người phi công, họ phải bay qua đỉnh núi rồi từ đó tiếp tục bay về phía Nam truy lùng các chiến hạm Mỹ với lượng xăng vừa đủ cho một chuyến đi không trở lại. Đầu họ chít khăn trắng đề hai chữ "Quyết tử" (quyết chết) hay "Tất tử" (phải chết), họ choàng chiếc khăn len quanh cổ hay đeo trước ngực con thú nhồi bông, những món quà vô vàn thân thương của người mẹ, người chị, người yêu, người vợ hay đứa em gái ở quê nhà gởi tặng. Vượt qua đỉnh Kaimon những người phi công cảm tử lúc nào cũng lưu luyến ngoái đầu nhìn lại Kaimon, như đang bịn rịn chia tay với người mẹ, với quê hương, nhìn cho đến khi Kaimon khuất bóng trong những cụm mây dày đặc... Chiến dịch quyết tử của Tokkotai là đòn phép cuối cùng của Thủ Tướng quân phiệt Nhật, Tojo Hideki. Chiến dịch đã hy sinh hơn 1.000 người thanh niên ưu tú, một số chết vì tai nạn, khi thì đâm vào núi Kaimon, khi thì đâm xuống biển vì những phi công chỉ được huấn luyện gấp rút sơ sài, nhưng cũng gây tổn thất nặng cho hạm đội Mỹ trên đường tiến đến Okinawa. Không hơn mười người may mắn quay trở lại vì máy bay trục trặc và sau này trở thành chứng nhân lịch sử. Tĩnh Quốc Thần Xã Thần xã (jinja: shrine) hay Thần cung (jingu) là đền thờ phượng của Thần đạo (Shinto). Thần đạo như tên gọi là đạo thờ thần. Thần Nhật Bản có rất nhiều và vị thần cao nhất là Thái Dương Thần Nữ. Biểu tượng của thần xã là cổng Torii. Thần xã càng giàu cổng đền càng cao. Hằng năm, mỗi lần Tết đến (Tết Nhật là Tết dương lịch) việc đi tham bái ở thần xã trở nên một thông lệ của người Nhật. Thu hoạch của các thần xã, thần cung bao gồm việc cúng dường, bán bùa bán quẻ trong những ngày Tết trung bình đạt đến vài trăm ngàn đô la, những nơi nổi tiếng như Minh Trị Thần Cung (Meiji Jingu) ở Tokyo có thể vượt triệu đô la. Xem ra, các thần xã làm việc vài ngày Tết cực nhọc nhưng sống được cả năm. Cách tham bái cũng rất tiện lợi và thực dụng, nơi khấn vái không có tượng thần như ở chùa chiền, người ta chỉ đặt trước ngôi đền một thùng công đức thật to. Thiện nam tín nữ ném tiền vào thùng rồi nhìn vào khoảng không hay thùng công đức, chấp tay lâm râm khấn vái, sau đó vỗ tay vài lần là xong việc tham bái. Ai muốn khấn thì phải ném tiền, không tiền thì dường như lời khấn không linh! Có ai đó khấn "chui", nghĩa là khấn không trả tiền không? Tuyệt nhiên, không ai làm điều này kể cả trẻ con. Nghĩ lại, cứ mỗi độ Xuân về là người Nhật trở nên mê tín nhưng cũng rất sòng phẳng với thần linh. Từ Kagoshima trở lại Tokyo tôi đến viếng đền Yasukuni Jinja (Tĩnh Quốc Thần Xã). Yasukuni không phải là một thần xã bình thường. Ở đây người ta thờ thần cổ điển lẫn "thần" hiện đại. "Thần" hiện đại là những người lính tử trận trong đó có cả Thủ tướng quân phiệt Tojo Hideki và các bộ trưởng trong nội các chiến tranh bị phe Đồng Minh tuyên án treo cổ tử hình. Những ông "thần" mới khiến cho Yasukuni trở thành một sinh hoạt chính trị úp úp mở mở, gây không ít những phiền nhiễu ngoại giao. Cổng Torii của Yasukuni cũng khác thường, cao to hàng chục mét làm bằng kim loại có một dáng dấp uy hiếp hơn là một cấu trúc uy nghi (Hình 9). Những người đến đây tham bái cũng không phải là kẻ "phàm phu". Họ ăn mặc giống nhau, bộ quần áo vest đen, đôi giày đen bóng loáng, thắt cà vạt sậm màu, đầu chải tươm tất. Đứng trước thùng công đức trước khi làm lễ họ đứng thẳng người, cẩn thận cài nút chiếc áo vest, cứ một dải năm sáu người đồng loạt ném tiền, chấp tay cuối đầu một cách thành khẩn, thống thiết. Họ ra về mang theo vẻ mặt đăm chiêu với cái nhìn nghiêm nghị hơi một chút nhíu mày, tôi cố tránh ánh mắt của họ nhưng vẫn thấy rợn người. Nghe đâu, thỉnh thoảng có những người thuộc phe cực hữu vào đây giơ cao hai tay la to "Tenno heika banzai" (Thiên Hoàng bệ hạ vạn tuế) như những người lính Thiên Hoàng xưa kia trước giờ lâm trận. Gần đó là một nhà bảo tồn các tư liệu chiến tranh và những trận thắng của quân đội Thiên Hoàng từ Minh Trị Duy Tân đến Thế Chiến thứ 2. Yasukuni cũng không quên chừa một chỗ rộng rãi để trưng bày chiếc chiến đấu cơ Kamikaze được tân trang đẹp mắt. Ở đây họ không e dè như nhà bảo tồn ở Kagoshima, công khai tuyên dương "chủ nghĩa anh hùng" của đoàn cảm tử Tokkotai. Trong khuôn viên của "Tĩnh Quốc Thần Xã", chủ nghĩa quân phiệt Nhật vẫn ngấm ngầm chờ cơ hội bốc lửa … Hình 9: Cổng Torii của Yasukuni Jinja (ảnh TVT). *** Nước Nhật đang trong tình trạng thoái trào kinh tế và bế tắc chính trị. Hai nước láng giềng, Trung Quốc và Hàn Quốc, nơi mà họ đã từng xâm lược bây giờ là những quốc gia đang vươn lên với nền kinh tế hùng mạnh và đang cạnh tranh gay gắt. Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới. Doanh thu của một hãng Samsung (Hàn Quốc) trong tài khóa 2009 – 2010 vượt qua doanh thu của 9 hãng điện tử Nhật ( Sony, NEC, Panasonic, Sanyo …..) cộng lại. Đâu rồi những Saigo và Shimazu hiện đại? Đâu rồi tinh thần cách mạng và lòng tự hào dân tộc của Minh Trị Duy Tân? Phải chăng một nước đã từng tự xưng là "Đại Nhật Bản Đế Quốc" đã đi qua thời kỳ hoàng kim của mình, giờ đây quá già để thích nghi với thời đại? Tôi tình cờ mở tờ nhật báo Asahi Shimbun đầu năm đọc một tin ngắn về hiện trạng xe lửa cao tốc của Nhật. Cục đường sắt Nhật Bản đã quyết định khởi công xây đường ray mới cho xe lửa cao tốc "phù lực từ tính" đầu tiên trên thế giới và đưa vào phục vụ năm 2027 trên tuyến đường Tokyo - Nagoya (342 km). Tốc độ của đoàn tàu là 500 km/h và mất 40 phút để chạy tuyến Tokyo - Nagoya. Tôi lại chợt nhớ ra ba nhà vật lý học Nhật đoạt giải Nobel Vật lý 2008 và vài tháng trước thêm hai nhà Hóa học Nhật đoạt giải Nobel Hóa học 2010. Trong vòng 2 năm, Nhật Bản có thêm năm nhà khoa học với giải Nobel. Dù có những dao động về kinh tế và chính trị, tòa lâu đài khoa học kỹ thuật Nhật Bản vẫn vươn cao và kiên cố. Từ ngày canh tân của phiên chủ Shimazu Nariakira trên mảnh đất Kagoshima nhỏ bé, gần 200 năm qua phát triển của khoa học kỹ thuật Nhật Bản dù có thăng trầm theo thời gian nhưng vẫn tạo ra những đột phá dẫn đầu trong nhiều lĩnh vực. Quản Trọng của thời Xuân Thu Chiến Quốc có câu "Kế một năm không gì hơn việc trồng lúa. Kế mười năm không gì hơn việc trồng cây. Kế trăm năm không gì hơn việc trồng người". Nước Nhật trồng "người khoa học" đã có hơn 200 năm. Trương Văn Tân Những ngày giáp Tết Tân Mão (February 2011) (Đã đăng trên diendan.org) Ghi chú 1. Sashimi là các loại cá biển và hải sản (mực, nhím biển (urchin), trứng cá...) ăn sống. Sushi là cá sống hay hải sản sống để lên một nắm cơm vắt, trong cơm trộn một chút dấm. Sashimi hay sushi khi ăn chấm vào nước tương có bột cay gọi là wasabi. 2. "Lan học" là cái học của người Hà Lan. Người Hà Lan đến Nagasaki (phía tây bắc đảo Kyushu) vào cuối thế kỷ 18 để giao thương với Nhật Bản. Họ mang theo bác sĩ để chăm sóc sức khoẻ nhân viên. Những bác sĩ này uyên bác về y học lẫn khoa học. Sĩ phu Nhật Bản khắp nơi trên nước Nhật ùa về Nagasaki tìm các vị bác sĩ này để học khoa học và y học phương Tây và đẩy lùi "Tứ thư ngũ kinh" vào quá khứ. Đây là các nhà Lan học Nhật Bản đầu tiên. Những nhà Lan học trở về quê mở trường đào tạo nhân tài cho việc phát triển khoa học kỹ thuật. Đồng thời, phong trào dịch thuật các sách y học và khoa học phương Tây bùng lên từ cuối thế kỷ 18 và kéo dài cho đến ngày nay. 3. Saigo Takamori và Minh Trị Duy Tân: Saigo Takamori (1828 - 1877) sinh quán tại Satsuma, tự là Nanshu (Nam Châu), xuất thân từ giai cấp võ sĩ (samurai) là một trong những nhân vật đứng đầu trong cuộc vận động Minh Trị Duy Tân (1868). Thiên Hoàng và Tướng Quân (Shogun) là phiên bản "vua Lê chúa Trịnh" của Nhật Bản. Tướng Quân cầm quyền và Thiên Hoàng chỉ là bù nhìn. Minh Trị Duy Tân là một cuộc đảo chính buộc Tướng Quân Tokugawa cầm đầu chính quyền Mạc Phủ ở Edo (Tokyo) trao trả thực quyền cho Thiên Hoàng để thực hiện những cải cách xã hội và chính trị nhằm đưa Nhật Bản lên hàng cường quốc trong thời đại mới. Saigo Takamori đại diện cho Satsuma-han liên minh với các samurai của Choshu-han (tỉnh Yamaguchi ngày nay) và Tosa-han (tỉnh Kochi ngày nay) thành lập phe bảo hoàng truất quyền Tokugawa. Saigo quyết liệt đòi hỏi Tokugawa và các thành viên trong gia tộc phải từ bỏ các đặc quyền và sở hữu đất đai. Chiến tranh xảy ra giữa phe bảo hoàng và Tokugawa và cuối cùng Tokugawa đầu hàng. Sau này, vì ông bất mãn chính phủ trung ương do chính ông lập ra, ông trở lại quê hương Satsuma, lập một trường tư thục quân sự. Số người theo ông lên đến 20.000. Chính phủ trung ương nhìn ông và những người theo ông như là mầm phản loạn bèn đem tàu chiến đến Satsuma giải giới. Ông bị thương trong một trận giao tranh với quân đội chính phủ và tự sát theo phong cách võ sĩ đạo khi ông 49 tuổi. Người Nhật xem ông là một anh hùng dân tộc và cũng là một "samurai cuối cùng"của thời đại mang tất cả đặc tính uy dũng của tinh thần võ sĩ đạo. Tượng đài của ông được dựng trong công viên Ueno (Tokyo).
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2011 5:45:56 GMT 9
Ngành đường sắt và Việt NamVietsciences- Đặng Đình CungĐóng góp, xây dựng 500 nghị sĩ do 90 triệu dân đề cử bao giờ cũng sáng suốt hơn một vạn tiến sĩ chuyên gia kỹ thuật và việc phủ quyết dự án đường sắt siêu tốc Bắc Nam năm ngoái có thể coi là quyết định sáng suốt nhất của Quốc hội khóa XII1. Vì thế mà, ngay khi nhậm chức Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải Đinh La Thăng đã tuyên bố "Chưa đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc"2. Ở các nước dân chủ, công bộc của dân đều tuân theo đại biểu dân như vậy. Nhưng bãi bỏ dự án tầu siêu tốc không có nghĩa là bỏ rơi tất cả ngành đường sắt.
Trong bài này chúng tôi xin trình bầy những vấn đề kỹ thuật mà ngành đường sắt Việt Nam phải giải quyết để đạt khả năng vận tải đa phương tiện (intermodal freight transport) và khả năng liên thông với các nước láng giềng (interoperability).Phần I – Vận tải đa phương tiện I–1. Sự cần thiết của tất cả những phương tiện GT–VT Ngành đường sắt có ba đặc điểm kỹ thuật : (a) bánh xe bằng thép quay trên một nền cũng bằng thép, (b) toa xe chạy trên một đường hướng dẫn và (c) nhiều toa xe chạy nối liền với nhau. Nhờ ba đặc điểm đó, so với các phương tiện giao thông–vận tải (GT–VT) khác thì sức cản di chuyển thấp, tiết kiệm năng lượng vận chuyển, xe chạy an toàn ở bên hông và tiềm năng công suất vận chuyển cao. Quy ra một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét thì đường biển và đường sông là những phương tiện GT–VT rẻ nhất, tiêu thụ năng lượng ít nhất và ô nhiễm môi trường ít nhất. Sau đó là đường sắt, tiếp theo sau rất xa là đường ô–tô và cuối cùng là đường hàng không. Ở một nước đông dân có nền kinh tế đáng kể (mặc dù vẫn còn nghèo) như nước ta thì giá thành một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét cũng theo thứ tự gia tăng đó. Ở những nước chậm tiến có chính thể chuyên chế người ta thường đặt ưu tiên vào việc xây những xa lộ hoành tráng nhưng vô dụng để cho dân bị ấn tượng và suy tôn nhà độc tài tại chức và/hay để thỏa mãn tiện nghi riêng của giai cấp thống trị3. Ở những nước Âu Châu, vận tải bằng ô–tô thống lĩnh thị trường GT–VT. Người ta đã khai triển phương tiện này vì lúc đầu cần phải hỗ trợ ngành công nghiệp ô–tô. Sau đó phải xây xa lộ cho ô–tô chạy. Rồi lại phải hỗ trợ thêm ngành công nghiệp ô–tô để có xe chạy trên xa lộ. Sau khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, những nước đó khám phá ra sai lầm của họ và đang chuyển sang dùng thêm những phương tiện GT–VT khác. Nhưng một hệ thống GT–VT của một nước cần đến cả chục năm, thậm chí cả nửa thế kỷ, mới xây dựng xong. Nếu sai lầm hay kết cấu kinh tế thế giới thay đổi thì cũng cần cùng thời gian đó để thay đổi4. Vì những lý do kinh tế và tôn trọng môi trường nêu ở trên, khi một chính phủ quy hoạch mạng GT–VT hay khi một xí nghiệp quy hoạch hệ thống hậu cần thì phải theo thứ tự ưu tiên đường biển, đường sông, đường sắt, đường ô–tô rồi đường hàng không. Chúng tôi nói về thứ tự ưu tiên chứ không nói rằng phải bỏ không khai triển các ngành ô–tô và hàng không. Hai phương tiện GT–VT này cũng có công dụng của chúng ở một phạm vi nào đó mà những phương tiện khác không thể thay thế được. Xe vận tải có khả năng đến tận điểm trao hàng và đến tận điểm nhận hàng dù là ở những nơi hẻo lánh. Tầu bay cần thiết khi phải chở gấp một kiện hàng đi xa. Về chuyên chở hành khách thì ô–tô có thể là một xe bốn chỗ cũng như một xe ca bốn chục chỗ và một tầu bay thích ứng nếu cần phải đi xa hơn 500 km. Vận tải đa phương tiện và liên thông là hai điều kiện cốt yếu trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay. Vì lý do đó mà UNESCAP (United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Kinh tế Xã hội Châu Á – Thái Bình Dương) khởi xướng dự án TAR (Trans Asian Railway, Đường sắt Xuyên Á) và dự án TAH (Trans Asian Highway, Đường Cái Xuyên Á). Hai dự án này đã được 24 quốc gia thông qua, trong đó có Việt Nam. Một kiện hàng gửi từ một nhà máy may mặc ở Phnom Penh đến một cửa tiệm ở Houston (Texas, Hoa Kỳ) sẽ được chở bằng ô–tô đến ga xe hỏa Phnom Penh, chở bằng đường sắt tới hải cảng Kompong Som, bằng đường biển đến San Francisco, bằng đường sắt đến Houston rồi bằng xe vận tải đến cửa tiệm quần áo ở trung tâm thành phố Houston. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia thì kiện hàng sẽ được chở từ ga Phnom Penh đến cảng Vũng Tầu thay vì cảng Kompong Som, tiết kiệm ít nhất một ngày tầu vòng qua mũi Cà Mau. Một hãng Pháp cần gửi một công–tê–ne thiết bị công nghiệp từ Villeurbanne, ngoại ô TP Lyon (Pháp), đến một nhà máy ở khu công nghiệp Sóng Thần II, tỉnh Bình Dương. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia và Thái Lan thì hành trình của công–tê–ne sẽ diễn biến như sau : (a) xe vận tải từ Villeurbanne đến một bến trên sông Rhône, (b) xà–lan tới Marseille, (c) tầu biển từ Marseille đến TP Hồ Chí Minh, (d) xe vận tải từ TP Hồ Chí Minh đến Sóng Thần II. Nếu mạng đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia thì công–tê–ne sẽ được nhấc lên bờ ở ở Singapore, được chở bằng xe hỏa từ Singapore đến TP Hồ Chí Minh hay ga Bình Dương và bằng xe vận tải từ nhà ga đến nhà máy ở Sóng Thần II, tiết kiệm được hai ngày đường. Chở bằng đường sắt thì mau hơn là chở bằng đường biển. Để tiết kiệm thời gian vận tải ở Đông Á, UNESCAP đề nghị chở hàng hóa bằng đường sắt từ Singapore đến Vladivostok xuyên qua Malaysia, Thái Lan, Lào và Trung Quốc. Tuyến đường này sẽ giải tỏa những địa phương ở phía Tây các tỉnh ven biển của Trung Quốc. Nhưng tuyến đường này phải vựơt nhiều núi cao hiểm trở và công suất quá nhỏ so với tiềm năng phát triển kinh tế Trung Quốc. Chúng tôi xin đề nghị khẩn cấp xây đoạn đường Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh để mạng đường sắt do UNESCAP đề nghị có thêm một tuyến đường sắt Xuyên Á thứ hai (xem chi tiết ở phần II)5. I–2. Những vấn đề kỹ thuật Như trình bầy ở trên, từ Villeurbanne đến khu công nghiệp Sóng Thần II một công–tê–ne sẽ thay đổi phương tiện vận tải ít nhất ba lần và cần đến ít nhất ba phương tiệnGT–VT : xe vận tải, xuồng và tầu biển. Việc chọn lựa một phương tiện tùy ở tổng chi phí của chuyến đi, khả năng chịu tải của phương tiện và khả năng thuyên chuyển từ phương tiện này sang phương tiện khác. Vấn đề chịu tải chỉ là một vấn đề kỹ thuật xây dựng còn vấn đề thuyên chuyển từ phương tiện GT–VT này sang phương tiện khác chưa cớ giải đáp kỹ thuật thỏa đáng : (a) vỏ kiện hàng phải như thế nào để thuyên chuyển mà ít phải thay đổi vỏ chứa, (b) chọn tiêu chuẩn quốc tế (nếu có) nào để liên thông từ mạng vận tải này sang mạng khác, (c) dùng phương tiện vận chuyển nào để chuyển hàng từ vỏ này sang vỏ khác, từ phương tiện vận tải này sang phương tiện khác. Chúng tôi sẽ đề cập đến khả năng liên thông mạng đường sắt ở phần sau. Về vỏ kiện hàng và vận chuyển thì tùy ở loại sản phẩm và khả năng vận chuyển địa phương. Với những hàng rời như là ngũ cốc, quặng,... thì phương tiện vận tải có thể là vỏ chứa và phương tiện vận chuyển là băng công–voay–ơ, vít Archimede, ống và máy bơm,... Với những hàng lỏng như là dầu, nước,... thì vỏ chức cũng có thể là phương tiện vận tải nhưng cũng có thể là những bể chứa, thùng chứa, chai lọ, hộp kín,... Suy ra, những vỏ chứa và những phương tiện vận chuyển rất là đa dạng. Từ thập niên 1960, người ta bắt đầu chở hàng bằng công–tê–ne. Hầu như tất cả mọi loại hàng đều có thể chở được bằng công–tê–ne kể cả những hàng rời, hàng lỏng nếu đã được đóng gói trong những vỏ thích ứng. Nếu công–tê–ne được niêm phong kỹ thì phương pháp này giảm khả năng hàng bị hư hỏng, đánh cắp hay tráo đổi. Nhờ đó hàng chỉ cần được kiểm tra ở điểm đi và điểm đến dù đã được chở ở những cự ly dài, nhờ nhiều phương tiện vận tải khác nhau và qua nhiều nơi khác nhau. Điều này giảm chi phí và thời gian làm thủ tục chuyên chở, đặc biệt là các thủ tục hải quan. Để thuyên chuyển từ một phương tiện vận tải A sang một phương tiện B thì chỉ cần khuân công–tê–ne từ phương tiện A sang phương tiện B nếu phương tiện đó có sức chịu tải bằng hay mạnh hơn là phương tiện A. Ngoài ra, một công–tê–ne đặt trên một phương tiện vận tải phải có tổng tiết diện tương ứng với tiết diện các công trình cầu và hầm của mạng GT–VT. ISO (International Organization for Standardization, Tổ chức Quốc tế Tiêu chuẩn hóa) đã tiêu chuẩn hóa những công–tê–ne6 để ngành đường sắt có cơ sở thiết kế các hạ tầng và tính toán những tuyến đường. Những công–tê–ne thông dụng là những công–tê–ne 20 feet, 40 feet và high cube. Chúng có cùng một chiều rộng ở ngoài, 2,44 m (8 ft), cũng như ở trong 2,33 m. Chiều cao những công–tê–ne 20 feet và 40 feet là 2,59 m (8,5 ft) ở ngoài và 2,30 m ở trong. Chiều cao những công–tê–ne high cube là 2,74 m (9 ft) hay 2,90 m (9,5 ft). Chúng đều có thể được chở trên xe vận tải, toa tầu hỏa, tầu sông và tầu biển. Vì thế chúng rất thích ứng với phương pháp vận tải đa phương tiện. Người ta thường quy ra lượng công–tê–ne 20 feet để tính công suất hay năng suất của một cơ sở lưu kho, một phương tiện vận tải hay một phương tiện thuyên chuyểnvà để tính lượng hàng đã được vận chuyển hay thuyên chuyển. Đơn vị đó gọi tắt là TEU (Twenty Feet Equivalent Unit, Đơn vị Tương đương Hai mươi Feet). Một công–tê–ne 40 feet tương đương với hai công–tê–ne 20 feet. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 70 triệu công–tê–ne đủ loại, tương đương với 12 triệu EVP. Những công–tê–ne này chở qua đường biển 90 phần trăm những hàng không phải là hàng rời. Nước ta, đất hẹp, những xe vận tải chỉ có thể chở được những công–tê–ne 20 feet. Để bảo đảm khả năng vận tải đa phương tiện trên tầu biển, tầu sông, tầu hỏa cũng như trên xe vận tải, chúng tôi xin đề nghị dùng loại công–tê–ne này làm tiêu chuẩn cơ bản cho tất cả hệ thống hậu cần Việt Nam. Chúng tôi cũng xin đề nghị : (a) thiết kế lại hệ thống GT–VT trên bộ dựa trên đường sắt thay vì đường ô–tô như trong kế hoạch hiện nay của chính phủ, (b) và dành xe vận tải để chở hàng tối đa ở 50 km xung quanh một cảng biển, cảng sông, ga xe hỏa và khu công nghiệp và để chở hàng đến những vùng thưa dân hay kinh tế chưa phồn thịnh. Phần II – Khả năng liên thông Vì là một thành phần của hệ thống hậu cần thế giới, xe chạy trên một mạng đường sắt phải có khả năng dễ dàng chạy trên những mạng đường sắt khác. Khả năng đó gọi là sự liên thông. Như thấy trên bản đồ của UNESCAP (hình 1), mạng đường sắt của nước ta không liên thông với các nước láng giềng Lào và Kampuchia. Với Trung Quốc chúng ta có hai tuyến đường sắt qua cửa khẩu Lào Cai và Lạng Sơn. Nhưng hai nước dùng hai khoảng cách đường rầy khác nhau. Nói tóm lại mạng đường sắt chúng ta bị tách rời khỏi mạng đường sắt Thế giới. Trong một bài đã đăng, chúng tôi có đề nghị một số tuyến đường sắt nhằm giải đáp tình trạng này7. Để có thể liên thông thì các mạng đường sắt phải theo những tiêu chuẩn kỹ thuật chung về : (a) khoảng cách đường rầy, (b) cỡ tiết diện xe, (c) sức chịu tải ở trục xe, (d) chiều dài của đoàn tầu, (e) hệ thống tín hiệu và (f) điện hóa. Hình 1 – Dự án đường sắt Xuyên Á (Nguồn : UNESCAP)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2011 5:46:45 GMT 9
II–1. Khoảng cách đường rầy Khoảng cách đường rầy ở Trung Quốc theo tiêu chuẩn quốc tế, nghĩa là 1.435 mm (standard gauge). Nhưng ở tất cả các quốc gia thuộc khối MRS (Mekong River Subregion, Tiểu vùng Sông Mekong) cũng như trên tuyến đường sắt Hà Nội – Côn Minh thì khoảng cách là 1.000 mm (metre gauge). Nhiều người tưởng rằng một tuyến đường sắt phải có khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế 1.435 mm thì đoàn tầu mới có thể chạy nhanh, chở nặng và an toàn. Sự thật không hoàn toàn đúng như vậy : sai biệt về khả năng kỹ thuật của hai loại khoảng cách 1.435 mm và khoảng cách 1.000 mm không đáng kể. Người ta chọn khoảng cách 1.000 mm để giảm vốn đầu tư xây dựng nền đường8 và người ta chọn khoảng cách 1.435 mm để có thể liên thông dễ dàng với mạng đường sắt quốc tế9 và tại vì những đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn quốc tế rẻ hơn đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn khác10. Vì thế mà : (a) Thái Lan sẽ duy trì khoảng cách 1.000 mm cho những tuyến sẵn có và dự định xây mới những tuyến về hướng các nước láng giềng Myanmar, Lào (Vientiane và Pakse) và Kampuchia theo khoảng cách đó, (b) Kampuchia sẽ duy trì khoảng cách 1.000 mm, (c) đường sắt Lào tương lai Vientiane, Luang Prabang – Tường Vân (một huyện giữa Đại Lý và Côn Minh, tỉnh Vân Nam) sẽ có khoảng cách 1.435 mm để có thể liên thông với mạng Trung Quốc, (d) ở Việt Nam chỉ có tuyến Quan Triếu – Kép – Hạ Long là có khoảng cách 1.435 mm và tuyến Đồng Đăng – Kép – Hà Nội tạm thời là đường kép (dual gauge) với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm. Mạng đường sắt Việt Nam bị kẹt giữa hai khối quốc gia có hai khoảng cách đường rầy khác nhau, chúng tôi xin đề nghị chính sách sau đây : (a) canh tân và xây mới tất cả những tuyến chở hành khách theo khoảng cách 1.000 mm (nếu cần thì nắn lại tuyến đường sẵn có để gia tăng an toàn và vận tốc), (b) xây mới tất cả những tuyến chở hàng theo khoảng cách 1.435 mm11, (c) khi có nhu cầu của phát triển kinh tế địa phương thì canh tân và xây mới tất cả các tuyến thành đường đôi (double track), mỗi đường dành cho một hướng12, (d) xây mới tuyến Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh – Vũng Tầu (cảng Thị Vải) đường kép với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm13, (e) canh tân tuyến Hà Nội – Lào Cai thành đường kép với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm14, (f) xây mới những tuyến liên thông với Lào, Vũng Áng – Vinh – Vientiane và Đà Nẵng – Pakse, theo khoảng cách 1.435 mm. II–2. Điện hóa Một tầu chạy bằng động cơ Diesel có thể chạy trên một tuyến đã được điện hóa. Nhưng một tầu chạy bằng động cơ điện chỉ có thể chạy trên những tuyến đã được điện hóa thích hợp với động cơ và lối câu điện của tầu. Những động cơ điện thích hợp với việc kéo một đoàn tầu là động cơ một chiều. Nhưng, với những tiến bộ của điện tử cường độ cao, xu hướng là dùng điện xoay chiều một pha có tần số công nghiệp 50 hay 60 Hz và người ta đã xác định điện áp tối ưu kinh tế là 25.000 V. Loại điện này đã trở thành một tiêu chuẩn quốc tế bất thành văn của ngành đường sắt. So với một đoàn tầu Diesel thì một đoàn tầu điện sử dụng năng lượng hữu hiệu hơn, chi phí vận hành ít hơn, chi phí bảo hành cũng ít hơn. Trên phương diện kỹ thuật thì những động cơ điện có công suất lớn và có thể biến đổi mau nên thích hợp với những đoàn tầu nặng chạy trên những tuyến có độ dốc cao. Điện có thể được sản xuất từ nhiều nguồn năng lượng cơ bản khác nhau, không ô nhiễm ở nơi tiêu thụ, thích hợp với chuyên chở hành khách ở đô thị và những đường hầm dài. Nhưng đầu tư cho những thiết bị sản xuất điện, biến thế và kéo dây cáp cung cấp điện cho đoàn tầu cần đến nhiều vốn. Điện hóa một tuyến đường chỉ có lợi khi chu kỳ tầu đi lại trên tuyến đó đủ cao để chứng minh vốn đầu tư15. Trong tình trạng thiếu điện hiện nay, chúng tôi xin đề nghị (a) chờ ngày có đủ tài chính để điện hóa những tuyến đường có chu kỳ đi lại cao và tạm thời dùng động cơ Diesel để kéo tầu chở hàng và tầu chở khách liên tỉnh, (b) nếu điện hóa một tuyến đường sắt thì dùng điện 25.000 V, 50 Hz, một pha. Lẽ cốt nhiên những tầu chở khách ở đô thị sẽ chạy bằng điện. II–3. Những vấn đề kỹ thuật khác UNESCAP nhận xét các đường hầm hiện nay của ta đủ rộng để thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B và chúng ta không có vấn đề liên thông vì tiết diện xe với các nước láng giềng16. Tiêu chuẩn UIC–B là tiêu chuẩn tiết diện xe của những đoàn tầu siêu tốc Âu Châu và những đoàn tầu chở công–tê–ne tiêu chuẩn ISO17. Sức chịu tải ở trục xe của một đường sắt tùy ở vận tốc đòan tầu, diện tích những tà–vẹt, bộ gắn tà–vẹt với thanh rầy, kết cấu của ba–lát,... sức chịu tải của những cây cầu và khối lượng mỗi mét của thanh rầy. Để tiện việc quản lý cung cấp và lưu trữ những thanh rầy, ở Âu Châu người ta mua và đặt những thanh rầy 60 kg/m. Lúc thanh rầy còn mới, người ta đặt ở các tuyến đường của mạng đường sắt cần đến sức chịu tải ở trục xe cao nhất. Sau đó, nhân chương trình bảo quản thường xuyên, người ta thay thế những thanh rầy đã bị yếu ở những tuyến cần sức chịu tải cao nhất để lắp chúng ở những tuyến cần sức chịu tải yếu hơn. Những thanh rầy này đủ để chịu tải những đoàn tầu chở những công–tê–ne ISO 20 feet với vận tốc 120 km/giờ. Chiều dài tối đa của một đoàn tầu tùy ở chiều dài của bến tầu dùng để chất hàng, sức kéo của đầu tầu, sức mạnh của phanh và sức bền của móc kéo toa tầu. Ở những vận tốc trên 100–120 km/giờ người ta chuyển tín hiệu vào buồng lái để bảo đảm người lái tầu có thì giờ nhận định và phản ứng kịp thời. Nhưng mỗi nước, mỗi mạng đường sắt có một mã truyền tin khác nhau. Một tầu muốn liên thông phải có một hệ mềm dịch những tín hiệu sang tiêu chuẩn hệ thông truyền tin của mình. Việc này không khó mấy nhưng sinh ra chi phí bội đáng lý có thể miễn được. Chúng tôi xin đề nghị : (a) những tuyến đường tương lai tiếp tục thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B cho những đoàn tầu chạy bằng động cơ Diesel, (b) khi nào có điều kiện điện hóa thì chúng ta sẽ liệu đổi tuyến, nâng cao các cầu và/hay đào cao thêm những đường hầm18, (c) dùng những thanh rầy loại 60 kg/m khi canh tân và xây mới những tuyến đường sắt ở nước ta, (d) thiết kế hệ thống đường sắt, ga tuyển lựa (classification yard hay là marshalling yard) cũng như các khí cụ lưu động để có thể sắp xếp những đoàn tầu dài chừng 700–750 mét, (e) trang bị đoàn khí cụ lưu động bằng những toa tầu có thể chịu tải 60 tấn nghĩa là có thể chở dễ dàng hai công–tê–ne TEU19, (f) lắp đặt trên tất cả các tuyến đường và tất cả các đầu tầu một hệ thống chuyển tín hiệu vào buồng lái với một mã truyền tin duy nhất. *** So với một mạng đường ô–tô cùng công suất, tính theo tấn–kilômét, thì mạng đường sắt ở những vận tốc không quá 100–120 km/giờ cần đến vốn đầu tư từ ba đến năm lần ít hơn và chi phí vận hành sẽ kém hơn ít nhất hai lần20. So với một mạng đường ô–tô cùng cự ly, tính theo kilômét, thì mạng đường sắt có công suất cao hơn đến mức không thể so sánh được. So với một tuyến đường sắt siêu tốc (vận tốc từ 250 km/giờ trở lên) thì một tuyến đường sắt cao tốc (vận tốc 100–120 km/giờ) cùng cự ly rẻ hơn nhiều về vốn ban đầu cũng như về chi phí vận hành và một tuyến đường sắt giao thông đô thị cùng cự ly không những rẻ hơn mà lại có công suất, tính theo hành khách–kilômét, cao hơn rất nhiều. Về tiềm năng cách mạng công nghệ thì công nghệ đường sắt siêu tốc đã đạt hạn chế của nó. Những thiết bị cung cấp điện cho tầu, truyền tin và an toàn đã đạt mức gần hoàn hảo rồi21. Nếu muốn xây một tuyến đường sắt siêu tốc thì chúng ta chỉ có thể mua của nước ngoài theo dạng EPC (Engineering Procurement Construction, gọi nôm na là chìa khóa trao tay) hay giỏi lắm là mua thiết kế của họ và tự xây. Trên phương diện tiến bộ công nghệ chúng ta sẽ không hưởng được gì. Ngược lại, công nghệ vận tải bằng đường sắt và công nghệ đường sắt đô thị vẫn còn nhiều tiềm năng tiến bộ. Chúng ta vẫn còn kịp tham gia đóng góp vào những tiến bộ đó để trở nên một quốc gia công nghệ tiên tiến. Vì những lợi ích kinh tế và những tiềm năng tiến bộ công nghệ đó cho đất nước mà chúng tôi ngỡ ngàng không thấy thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đả động gì đến ngành đường sắt trong bài "3 khâu đột phá chiến lược của Chính phủ" của ông22. Đặng Đình Cung 1. "Quốc hội không thông qua dự án đường sắt cao tốc Hà Nội – TP Hồ Chí Minh" www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=0&article=1772542. "Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng: Chưa đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc" www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2011/8/264477/3. Ở nước ta, vì nhu cầu GT–VT chưa được thỏa mãn rất lớn, một đường ô tô hay một cây cầu vừa mới khánh thành xong là đã quá tải. Một nước Phi Châu nọ không có một đường trải đá nào nhưng có một xa lộ, rộng và đẹp như đại lộ Nguyễn Văn Trỗi ở TP Hồ Chí Minh, dài một chục cây số bắt đầu từ phi trường quốc tế và kết thúc ở ven ruộng ngoài thủ đô. Hai bên đường chỉ có dinh tổng thống và những biệt thự xây từ hồi Pháp thuộc và đã xuống cấp. Ở Pháp, một ông vua ngoại quốc nọ tài trợ (với tiền túi cá nhân hay tiền ngân sách Nhà Nước, chúng tôi không biết và không muốn biết) xây một đường ngoặc từ một xa lộ công cộng đến lâu đài của ông. 4. Phải có thời gian lâu như vậy là do những định luật kinh tế vi mô (microeconomy) mà bạn đọc có thể tham khảo trong các sách giáo khoa (tỷ dụ Robert Pindyck, Daniel Rubinfeld: "Microeconomics", Prentice Hall, 2008). 5. Theo ước tính của chúng tôi thì tuyến đường sắt Singapore – Malaysia – Thái Lan – Lào (hay Myanmar) đến miền Đông Trung Quốc sẽ tốn nhiều vốn để nâng cấp hơn là vốn để liên thông mạng đường sắt Việt Nam với Thái Lan qua Kampuchia và chi phí vận tải qua tuyến đó sẽ cao hơn là qua tuyến Singapore – Malaysia – Thái Lan – Việt Nam. Đây chỉ là quan điểm cá nhân cần được xác định với những thông số cụ thể. 6. Tiểu ban chuyên môn của ISO chuyên về những công–tê–ne là TC–104 và những tiêu chuẩn chính mang mã số ISO 668 (1995) et ISO 1496–1 (1990). 7. "Việtnam : Căn cứ hậu cần của Đông Nam Á ? Phần 2 Đề nghị một mô hình hậu cần Việt Nam" www.diendan.org/viet nam/haucan-vn-2/ 8. Khoảng cách đường rầy hẹp cho phép tuyến đường có thể quay vòng với một bán kính nhỏ. Với khoảng cách 1.000 mm thì bán kính đường vòng có thể là 45 mét nếu tầu chạy rất chậm. Với khoảng cách quôc tế 1.435 mm thì bán kính phải lên tới ít nhất 60 m, thường thì cũng phải 100 m nếu tầu chạy rất chậm. Các tấu siêu tốc thì cần đến bán kính 7.000 m nếu muốn chạy 350 km/giờ. Ở những vùng núi non hiểm trở, so với những tuyến có bán kính đường vòng lớn thì những tuyến có bán kính nhỏ sẽ theo uẩn khúc sườn núi dễ hơn làm cho phải xây ít cầu và đào ít hầm hơn. Ngoài ra, với khoảng cách hẹp thì nền đường cũng hẹp hơn. 9. Chuyển xe hay chuyển tầu là một việc tốn của, tốn công và tốn thì giờ. Nếu các nước đều có cùng một khoảng cách đường rầy thì tầu sẽ có thể chạy trên tất cả mạng đường sắt của tất cả các nước đó mà không cần phải chuyển hàng từ xe này sang xe khác. 10. Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế mới nhất thì sẽ hưởng thụ công nghệ hiện đại nhất, cho phép tham khảo nhiều nhà thầu và bên đấu thầu đã có nhiều kinh nghiệm nên có thể đề nghị những sản phẩm hay dịch vụ có chất lượng cao với giá tối thiểu. 11. Ở bên Nhật có 24.000 km đường sắt. Ngoại trừ 4.000 km đường siêu tốc Shinkansen (Tân Cán Tuyến) với khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế 1.435 mm, những tuyến đường khác đều có khoảng cách 1.067 mm, nghĩa là chỉ hơn có 67 mm khoảng cách hiện nay ở các nước MRS. Thế mà ngành đường sắt Nhật Bản vẫn nổi tiếng là có công suất, vận tốc trung bình và độ an toàn cao. 12. Nói chung thì việc chuyên môn hóa những đường, về khoảng cách đường rầy cũng như về hướng đi, sẽ bảo đảm an toàn và tính đều đặn của lịch trình các chuyến tầu. 13. Để tầu Kampuchia và tầu Việt Nam đều có thể chạy trên tuyến đó. 14. Tuyến Hà Khẩu (đối diện với Lào Cai) – Côn minh sẽ là tuyến duy nhất của Trung Quốc còn giữ khoảng cách 1.000 mm. Nhưng cũng có tin Trung Quốc đang nghiên cứu nâng cấp tuyến Hà Khẩu – Côn minh lên khoảng cách 1.435 mm. 15. Người ta ước chừng phải ít nhất mười chuyến mỗi ngày thì mới bõ điện hóa. Tuy nhiên, con số đó cần được xác định rõ hơn cho mỗi dự án cụ thể. 16. "Trans Asian Railway Route Requirements: Development of the Trans Asian Railway in the Indo China and Asean Subregion – Volume 3 – The Trans Asian Railway in Cambodia, Southern China, the Lao People's Democratic Republic, Myanmar, Thailand (North and East) and Viet nam" www.unescap.org/ttdw/Publications/TIS_pubs/pub_1679v3/Vol3full.pdf17. Tiết diện xe của tiêu chuẩn UIC–B là rộng 3,15 m và cao 4,32 m. 18. Một tuyến điện hóa có dây cáp điện treo ở trên đường rầy. Chiều cao của tiết diện công trình phải cộng thêm cỡ của đường dây cáp đó. 19. Theo tiêu chuẩn ISO thì trọng lượng tối đa một công–tê–ne 20 feet là 24 tấn và trọng lượng tối đa một công–tê–ne 40 feet là 30 tấn. 20. Những số liệu này cần được xác định cho mỗi dự án cụ thể. 21. Vận tốc một tầu hỏa có thể vô tận. Nhưng, lực ma sát tăng theo lũy thừa ba của vận tốc, vận tốc thương mại sẽ không bao giờ vượt 500 km/giờ. Nói rằng sẽ xây một tuyến đường với vận tốc 650 km/giờ là huênh hoang. 22. "3 khâu đột phá chiến lược của Chính phủ" www.thanhnien.com.vn/Pages/20110731/Thu tuong neu nhiem vu cua Chinh phu nhiem ky moi.aspx
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 15, 2011 4:43:45 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 15, 2011 4:47:01 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2011 6:48:56 GMT 9
Đừng lội ngược dòng Miến Điện là một quốc gia Đông Nam Á với diện tích 650.000 km2, dân số khoảng 55 triệu, nằm ở một vị trí chiến lược mà các nước lớn trong vùng trong vùng muốn tạo ảnh hưởng như Trung Cộng, Ấn Độ. Thời gian gần đây cả thế giới hướng về Miến Điện vì ở quốc gia này đang có sự chuyển hướng ngoạn mục và bất ngờ. Tháng 9/2007 Tập đoàn Quận phiệt Miến Điện thẳng tay đàn áp cuộc cách mạng Dân chủ do các nhà sư lãnh đạo. Hàng trăm người bị giết hàng ngàn người bị bắt, hàng chục ngàn người phải bỏ nước ra đi sống cuộc đời tị nạn. Tập đoàn quân phiệt Miến Điện do tướng Than Shwe cầm đầu những tưởng họ đã thành công khi dập tắt được ý chí và nguyện vọng của người dân bằng vũ lực và quyền lực của họ không còn ai thách thức được nữa. Các nước độc tài trong khu vực như Trung Cộng, Lào, Campuchia và nhất là Việt Cộng rất hả hê và tự tin. Họ tin rằng súng đạn, dùi cui và nhà tù cộng với những thủ đoạn trả thù tàn độc sẽ chiến thắng. Sự thành công của tập đoàn quân phiệt Miến Điện trong vụ đàn áp tiếng nói Dân chủ làm cho Tập đoàn cộng sản Việt Nam hưng phấn và lạc quan rằng: Quyền lực của họ là bất khả xâm phạm, cộng đồng quốc tế chẳng làm gì được. Số tài sản khổng lồ mà họ gia đình họ cướp được của đất nước lên đến hàng ngàn tỷ đô la sẽ mãi mãi thuộc về họ và con cháu họ. Cho nên họ tự tin để dọn đường, đặt nền móng cho một thế hệ cầm quyền tiếp nối như chúng ta đã thấy trong thời gian vừa qua với việc những lãnh đạo chóp bu của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang từng bước đưa những người con của họ vào ngồi ở những chiếc ghế lãnh đạo tại Trung ương và địa phương, để sẵn sàng cho một quá trình truyền thừa kiểu cha truyền con nối của các tập đoàn phong kiến ngày xưa như việc: Nông Quốc Tuấn vào Trung Ương Đảng, Phạm Bình Minh lên nắm ghế Bộ trưởng ngoại giao, Lê Kiên Trung nắm ghế Phó Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh II (Bộ công an), con trai của Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị vào Ủy viên dự khuyết Trung Ương, con gái là Nguyễn Thanh Phượng cầm đầu một tập đoàn kinh tế lớn, con của Nguyễn Văn Chi là Nguyễn Xuân Anh ngồi vào ghế Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng để trong tương lai mười năm nữa sẽ thay thế cho Nguyễn Bá Thanh nắm quyền lãnh đạo Đà Nẵng (Một thành phố năng động và giàu có bậc nhất VN ) Trong khi Tập đoàn CSVN đang mãi mê với quyền lực, vàng và Dollar thì ở Bắc Phi – Trung Đông cách mạng Hoa Lài đang tiếp diễn. Sau khi đã hạ bệ Ben Ali ở Tuynisia, Mubarak ở Ai Cập, và Gaddafi ở Libya. Cuộc cách mạng đang ở giai đoạn cao trào chắc chắn sẽ cuốn trôi quyền lực và tiền bạc của Bashar al Asasad và cả Ali Abdulla Saleh trong một tương lai gần. Nhận thức được lòng dân và xu thế tất yếu của thời đại, tập đoàn quân phiệt Miến Điện đã thức thời và thực dụng. Họ đã làm cho cả Thế giới phải ngạc nhiên khi tiến hành nhanh chóng một cuộc hòa giải với Dân tộc Miến và lãnh tụ đối lập Aushang Shuky – nhà lãnh đạo của Liên đoàn quốc gia vì Dân chủ. Trong một thời gian rất ngắn, tập đoàn quân nhân Miến đã có những quyết định lịch sữ: Họ đình chỉ việc xây dựng đập thủy điện Myitsone do Trung Cộng tài trợ . Đập thủy điện này đã bị nhân dân Miến, những nhà Dân chủ và cộng đồng quốc tế lên án vì nó sẽ ảnh hưởng tai hại đến môi trường. Tuy rằng trước mắt nó có thể tạo ra một động lực cho sự phát triển kinh tế của xứ sở nghèo đói này và là một nguồn thu quan trọng của giới lãnh đạo. Bất chấp sự phản đối từ phía Trung Cộng, tập đoàn quân sự Miến đã kiên quyết hủy bỏ kế hoạch xây con đập này để đáp ứng lại lòng dân và sự cảnh báo của cộng đồng quốc tế Trong khi đó, tập đoàn CSVN vẫn tiếp tục cho khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bất chấp sự phản đối của người dân và sự cảnh báo của các chuyên gia môi trường, của những nhà trí thức và lão thành cách mạng. Thảm họa bùn đỏ xảy ra tại Hungary cũng không làm cho Tập đoàn CSVN thức tỉnh. Sự đe dọa về an ninh chiến lược đối với quốc gia họ cũng không màng tới. Họ coi quan hệ đối tác chiến lược với Trung Cộng là vấn đề sinh tử của đảng CSVN, “16 chữ vàng và 4 tốt “là nền tảng của chế độ. Kinh tế VN đang bị Trung Cộng thao túng. Có thể nói so sánh tương quan Trung Cộng – Miến và tương quan TC – VC thì đất nước của chúng ta lâm nguy hơn rất nhiều vì chúng ta đang bị lệ thuộc vào TC về kinh tế – an ninh và văn hóa. Và ngày 11/10 vừa qua, tập đoàn quân nhân Miến đã có thêm một hành động mà giới quan sát quốc tế ghi nhận là một bước đột phá khi họ trả tự do cho gần 200 tù chính trị và một điều cực kỳ quan trọng là chính quyền quân nhân đã chính thức gọi họ là “tù nhân lương tâm”. Xin nghe nhận định của Giáo sư Renaud Egreteau của Trung tâm Nghiên cứu châu Á thuộc trường đại học Hồng Kông, chuyên gia về Miến Điện nhận xét, “Phải nhìn nhận rằng đợt ân xá lần này là một dấu hiệu tốt. Ngay trong ngôn từ cũng thế, vì các lãnh đạo chính trị đã sử dụng đến từ “tù nhân lương tâm”. Như vậy họ đã nhìn nhận là có các tù nhân chính trị, trong khi trước đây vẫn phủ nhận” Và theo La Croix: Đây là một cử chỉ mạnh mẽ và đầy ý nghĩa, cộng thêm các quyết định mạnh dạn trong những tháng gần đây, trong một quốc gia lâu nay vẫn nổi tiếng là bảo thủ và quân phiệt. Sau khi tướng Than Shwe cầm quyền từ năm 1962 về hưu, cựu tướng lãnh Thein Sein lên làm tổng thống từ tháng Ba, đã cố chứng tỏ các nỗ lực cải cách sâu sắc. Ông đã nối lại đối thoại với nhà đối lập Aung San Suu Kyi, người đã bị ngồi tù và quản thúc suốt 15 năm. Cuối tháng Chín, ông Thein Sein tuyên bố ngưng dự án xây đập thủy điện do Trung Quốc tài trợ để “tôn trọng ý nguyện của dân chúng”. Bên cạnh đó, ông còn cho thành lập Ủy ban quốc gia về nhân quyền. Giáo sư Egreteau nhận định, thật ngạc nhiên khi một loạt quyết định như thế diễn ra nhanh chóng. Các hành động cởi mở trên đã gây kinh ngạc cho tất cả mọi người, từ các nhà ngoại giao, những nhà đối lập trong nước cho đến các nhà ly khai đang lưu vong. .. Theo La Croix, thì áp lực quốc tế chắc chắn đã đóng vai trò quan trọng trong những chuyển biến trên đây. Nhưng nhất là đã có những tiến triển trong quân đội, tạo nên những khởi đầu cho một tiến trình dân chủ. Một thế hệ tướng lãnh và sĩ quan mới lên nắm quyền, đã thấy được rằng tương lai của đất nước sẽ đổi khác nếu hòa hợp được với các quốc gia trên thế giới. Trước hết là với các nước láng giềng châu Á, rồi đến Hoa Kỳ và châu Âu.(hết trích) Trong khi đó CSVN vẫn tiếp tục đàn áp và giam cầm những nhà dân chủ,mới đây nhất nhà cầm quyền Việt Nam lại bắt giam 16 sinh viên, thanh niên yêu nước Công giáo và những bloge lên tiếng bảo vệ tổ quốc và chống độc tài. Nhà tù của chế độ CSVN hôm nay nghiệt ngã không khác gì nhà tù của chế độ Xô viết thời Stalin.Họ ngược đãi những người tù lương tâm như blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, ông Nguyễn hữu Cầu,s inh viên hoạt động trong Công đoàn độc lập Đỗ thị Minh Hạnh, họ còn ngược đãi cả những người bị bệnh hiểm nghèo như ông Trương văn Sương, Nguyễn văn Trại để họ phải chết trong nhà tù. Những việc làm của CSVN không những thiển cận, tàn ác mà nó còn làm xấu đi hình ảnh của đất nước trước con mắt của cộng đồng nhân loại văn minh Những nhà lãnh đạo của CSVN hãy can đảm nhìn nhận một sự thật đang diễn ra tại Bắc Phi – Trung Đông và đang diễn ra một cách mạnh mẽ tại Miến Điện. Đừng có ngoan cố lội ngược dòng với hy vọng hảo huyền rằng sẽ bảo vệ được chế độ, quyền lực và tài sản khổng lồ cho con cháu. Cái gì của dân thì trả lại cho dân. Trong phước có họa – trong họa có phước: Đây là thực chứng của lịch sử, là cảm nghiệm của những bậc thức giả trong mọi thời đại. Quí vị hãy tỉnh thức để nhận định là quí vị để lại phúc hay họa cho con cháu… mong quí vị hãy nhìn số phận những người con của các nhà độc tài như Gaddafi, Mubarak và Saddam Hussein ra sao? . Quí vị đừng đẩy các con mình vào hố thẳm. Hãy khởi đầu sự thay đổi bằng những việc làm có ý nghĩa: Hãy trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù nhân lương tâm VN, hãy ngưng ngay việc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên và chân thành đối thoại với những nhà dân chủ yêu nước. tac gia: Huỳnh Ngọc Tuấn . Miến Điện, đất nước quá nhiều mâu thuẫn? Phần I - Hồ Inle, vùng trú ngụ của người sắc tộc Intha. chimvie3.free.fr/88/khatri/khatrin_MienDienNhieuMauThuan_P1_088.htmKhả Tri Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - khai mạc vào ngày 11-11-2022 vừa qua ở Phnom Penh - đã không mời Miến Điện/Myanmar tham dự, nên chiếc ghế dành riêng cho vị nguyên thủ đất nước này, vẫn tiếp tục bị bỏ trống. Đây là biện pháp phản ứng mang tính ngoại giao của ASEAN, sau cuộc binh biến tháng 2-2021, quân đội quốc gia này đảo chính, lật đổ chính phủ hợp hiến do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo. Hình 1: Vùng Bagan/Miến Điện, xứ sở của ngàn đền chùa Là quốc gia rộng lớn nhất thuộc khu vực Đông Nam Á, Miến Điện có đường biên giới chung với Ấn Độ, Bangladesh, Lào, Thái Lan và Trung quốc. Diện tích lãnh thổ đất nước này chừng 678 ngàn cây số vuông, nhưng mức độ dân số tương đối thấp chỉ 55 triệu. Như vậy so với Việt Nam, Miến Điện tuy rộng hơn gấp đôi, nhưng thua xa về mặt dân số. Mật độ dân số trung bình tại Myanmar là 85 người/cây số vuông, trong khi con số tương đương tại Việt Nam là 320 người/cây số vuông. Thương mại và đầu tư từ Việt Nam vào Miến Điện đã gia tăng khá nhanh trong vòng 10 năm qua. Trước khi quân đội đảo chính, trao đổi thương mại từ 536 triệu USD năm 2016, đã vọt lên 943 triệu USD năm 2019. Với tổng số vốn đầu tư khoảng 2,2 tỉ USD năm 2020, Việt Nam là nhà đầu tư lớn thứ 7 vào Miến Điện. Thế nhưng theo tin đài Á Châu Tự Do ngày 19-07-2021, "Việt Nam, cũng như những nhà đầu tư khác trong ASEAN, đang bị bế tắc từ sau cuộc đảo chính của tập đoàn quân sự Miến Điện." Trong số những chủ đầu tư "khủng" từ Việt Nam, Hoàng Anh Gia Lai (được người ta biết đến qua ông bầu Đức) và Tổng Công ty viễn thông Viettel, thuộc bộ Quốc Phòng Việt Nam, là 2 cái tên nổi trội. Đặc biệt Viettel từng bị nhiều nhóm hoạt động bảo vệ nhân quyền Miến Điện lên án gián tiếp giúp đỡ chính quyền quân phiệt gây tội ác. Tuy nhiên chúng tôi sẽ trở lại đề tài này trong tương lai. Miến Điện là xứ sở đa dạng, thậm chí rất phức tạp về mặt sắc tộc. Chúng ta thử so sánh với Việt Nam để hiểu rõ hơn. Trong khi văn kiện chính thức Việt Nam xác nhận có 54 dân tộc đang sinh sống trên vùng lãnh thổ, với người Kinh hay Việt chiếm gần 87% tổng dân số, 53 nhóm người dân tộc khác chỉ chiếm tổng cộng 13% tổng dân số. Nhưng tại Miến Điện, người sắc tộc "Miến" chỉ chiếm chưa đến 70% tổng dân số, 134 nhóm sắc tộc thiểu số còn lại, chiếm đến hơn 1/3 tổng dân số. Các nhóm này lại "bị" sắp xếp vào 8 nhóm sắc tộc chính yếu, nhưng không dựa vào tiêu chuẩn về ngôn ngữ, văn hóa v.v. mà chỉ dựa vào yếu tố địa lý, nơi sinh sống. Con số 135 vì thế chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, vì nhiều nhóm dân tộc thiểu số của Miến Điện từ lâu đã cảm thấy bị gạt ra bên lề, bị phân biệt đối xử, khi Miến Điện đứng trước những quyết định quan trọng về chính sách dân tộc. Thí dụ rõ rệt nhất là chính sách đối xử với người sắc tộc Rohingya. Chừng 1 triệu người Rohingya từng sống tại Miến Điện (con số dự đoán đầu năm 2017), đa số theo Hồi giáo, trong một đất nước mà đại đa số người dân là tín đồ Phật giáo. Họ bị tước quyền công dân căn bản, bị đẩy vào tình trạng tạm cư như người đang tị nạn, trên vùng đất mà họ đã sống từ nhiều thế hệ qua. Chính sách đàn áp đã bùng lên tột đỉnh với biến cố quân sự vào tháng 8-2017, khi quân đội chính quy Miến Điện bắt đầu cuộc hành quân quy mô vào bang Rakhine, nơi sinh sống của nhóm người thuộc sắc tộc Rohingya, lấy cớ phải đáp trả lại nhiều vụ tấn công của các nhóm du kích hoạt động lẻ tẻ tại đây. Hậu quả là lại có thêm làn sóng người mới, bỏ quê bỏ làng trốn chạy sang Bangladesh trong năm 2017, nâng tổng số người tị nạn tại trại Kutupalong lên đến hơn 600.000. Nhưng chúng tôi xin được phép trở lại đề tài này trong bài viết sắp tới, để bây giờ quay về chuyện người dân tộc Intha. Hình 2: Lối chèo thuyền độc đáo của người Intha, chỉ đứng trên một chân. Chừng 70 ngàn người thuộc sắc tộc Intha (hay còn được gọi là Insa, Naung Ma) đang sinh sống quanh hay ngay tại hồ Inle, hồ nước ngọt lớn thứ 2 Miến Điện, với diện tích chừng 116 cây số vuông, thuộc bang Shan. Ngoài sắc tộc Intha, còn ít nhất 32 nhóm sắc tộc khác cũng đang định cư tại đây. Đa số các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học xếp người Intha vào nhóm Ngữ tộc Tạng-Miến. Theo Từ Điển Bách Khoa Britannica, Ngữ tộc Tạng-Miến hiện là tiếng nói của chừng 57 triệu người sống khắp Á châu, bao gồm 29 triệu ở Miến Điện, Trung quốc trên 17 triệu, Việt Nam chừng 40 ngàn, và vài triệu người ở rải rác tại Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Thái Lan, Lào v.v. Người Intha hoàn toàn sống bám vào hồ, chết cũng về hồ, nên cuộc đời của họ cũng như bèo bọt. Cả một vùng mênh mông chỉ thấy nhà chòi, vườn tược, thuyền bè nổi trôi theo nước. Đặc biệt lối chèo thuyền, 1 chân đứng 1 chân khoắn của dân chài đánh cá (chỉ nam giới, phụ nữ ngồi chèo bình thường) là "đặc sản" thu hút khách du lịch. Người chèo đứng trên 1 chân, như thế võ "Kim Kê Độc Lập", chân kia quấn lấy mái chèo, khuấy 1 vòng thì thì thuyền trôi tới 1 bước. Đứng cao, người chèo có thể nhìn rõ rong rêu để tránh, hay thấy bong bóng do cá phun ra mà quăng lưới, thả câu. Xin kính mời quý bạn đọc xem youtube video sau đây, để tận mắt chứng kiến cuộc sống hằng ngày, lối chèo thuyền có một không hai nói trên của người dân Intha.
|
|