|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 18:23:47 GMT 9
Tham-luận về chủ-đề Văn-Hoá: Doc Sach XuaTỪ NỖI ÁM-ẢNH TỔ-TÔNG ĐẾN PHONG-TRÀO DÂN-CHỦ KHÔI-PHỤC VĂN-HOÁ DÂN-TỘC Nguyên-Thái NguyễnVăn-Thắng, Who’s Who of American Inventors Viện-Trưởng Sáng-lập Viện KIANO Văn-Hoá Việt Với chủ-đề “Từ nỗi ám-ảnh Tổ-Tông đến Phong-trào Dân-Chủ khôi-phục Văn-Hoá Dân-Tộc”, chúng tôi xin được phát-biểu qua 2 phần: _ Phần đầu, chúng tôi xin được công-bố một thành-quả nhỏ nhằm "Xác-quyết về một khiá-cạnh Văn-Hoá Việt”. Đem Truyền-Thống Văn-Hóa Găy-Thần và Sách-Ưóc giải-phóng Dân-Tộc khỏi những xâm-thực cuả các Ý-thức-hệ ngoại-lai. _ Phần kế tiếp, chúng tôi xin nói đến những vướng mắc làm cho Cộng-Sản Việt-Nam đã không thể thành-công qua 10 năm đổi mới, và những gì đã cản-trở các đoàn thể chính-trị trong, ngoài nước trên bước đường giải-trừ quốc nạn hiện nay. Đồng Bánh-Chưng là phẩm-vật không thể thiếu trong dịp Tết cuả dân Việt. Trước năm 1988, khi còn ở Việt-Nam, cứ mỗi lần Tết đến, chúng tôi lãnh nhiệm-vụ nấu và vớt Bánh-Chưng nên hình ảnh Đồng Bánh-Chưng đã in đậm nét trong trí óc tôi. Nơi xứ lạ Hoa-Kỳ, ngày Tết Việt-Nam với tuyết rơi giá lạnh; đành rằng cũng có Bánh-Chưng đãy, nhưng không-khí Tết thì vắng hẳn. Muốn chìm vào hương vị Tết một tí, chỉ có cách đọc sách báo nói về Phong-tục Tết Việt-Nam; buồn một nỗi, có những báo Xuân nói về ngày Tết lại quên cả 2 chữ Bánh-Chưng; nói gì đến Bánh-Chưng 4 lạt! Câu chuyện Bánh-Chưng Bánh-Dầy đã làm tôi chú ý thật nhiều. Cũng một câu chuyện mà có sách thì để tưạ là Bánh-Dày Bánh-Chưng, có sách lại để là Người Con Hiếu Thảo; hình vẽ Đồng Bánh-Chưng thì thường chỉ vẽ 2 lạt ngang dọc cho tiện. Riêng tôi, tôi nhớ đến những Đồng Bánh-Chưng lớn do cụ thân-sinh ra tôi gói, Bánh lớn và vuông vức, mỗi bề đẫy một gang-tay người lớn. Bánh lớn như vậy, phải buộc bằng 4 dây lạt; đó chính là hình ma-phương 9 ô (3x3=9). Ma phương 9 ô này đều được dân các nước Ả-Rập, Do-Thái, Âu, Mỹ, Phi, Á, Ấn coi trọng bởi vì nó chứa đựng các chữ biểu-tượng đấng Thượng-Đế của Tôn-Giáo họ, nó chính là Thập-Tự-Nhai hay Chữ-Vạn mà người ta quen gọi là những Linh-phù. Hình 9 ô của Đồng Bánh-Chưng Việt-Nam chứng-tỏ Nòi Việt cũng tôn-trọng hình ma-phương 9 ô này; đó chính là mẫu-số-chung cuả Văn-Minh Nhân-loại. Đọc cuốn sách nói về nước Nhật có tựa đề “The whole Japan book”, trang 106, mục “Games” nói về Trò-chơi ở trong nhà, tác-giả nêu ra 3 loại trò-chơi thì cả 3 đều xuất-phát từ Trung-Hoa. Trước kia, đã có lần tôi được nghe vaì vị lớn tuổi nói với nhau là Việt-Nam ta có Cờ Vây; thật ra, theo sách "Games Ancient and Oriental and how to play them" cuả Edward Falkener thì đây là loại "The game of enclosing", tên Trung-Hoa là WEI-KI, khi truyền sang Nhật có tên là Cờ GO; thế mà từ đã lâu, tại Tokyo có viện Academy of Go. Tự ái dân-tộc nổi lên, Tôi muốn làm một trò-chơi cho người Việt ta. Tôi được gợi hứng bằng câu chuyện Vua Hùng truyền ngôi cho người con thứ là Lang Liêu. Qua câu chuyện, tôi khẳng-định rằng Đồng Bánh-Chưng đó phải lớn; lớn mà gói “bộ” được (không dùng khuôn) thì mặt vuông cuả Bánh phải có cạnh bằng chừng 1 gang-tay, và phải buộc bằng 4 dây lạt. Thế là tôi dựa vaò hình vuông với 9 ô-vuông nhỏ này để chế-tạo trò-chơi. Chập hình ảnh cân-xứng cuả khuôn mặt con-người trên hình 9 ô-vuông và bắt đầu định-vị các biểu-tượng-tròn cuà 2 mắt, 1 mũi, 1 miệng trên đó, tôi có một quân vuông đầu tiên với trục đói-xứng-dọc. Nhận thấy quân trò-chơi mà vuông thì không đẹp và lại khó cầm; tôi gấp đôi hình vuông này theo chiều dọc là được một quân hình chữ-nhật với 18 ô-vuông, gồm 6 tầng, mỗi tầng 3 ô. Theo nguyên-tắc: Tầng nào có 1 khoanh-tròn thì khoanh-tròn này nằm ở ô giữa; tầng naò có 2 khoanh-tròn thì chia ra nằm ở 2 ô hai bên, đói-xứng nhau qua trục đói-xứng dọc. Cứ xếp-đặt như vậy trên những hình 18 ô vuông, tôi được 36 quân hoàn-toàn khác nhau. Kiểm-điểm các hình phối-trí trên nửa vuông cuả một quân, tôi thấy tựu-trung chúng chỉ có 8 hình chính. Tôi giật-mình, phải chăng đây là "8 Quái"? Suy nghĩ về cách chơi, chẳng lẽ lại bắt-chước các trò-chơi cũ: giống nhau kết với nhau? Tôi quyết-định cách-chơi là: Khác nhau kết-hợp với nhau! Cũng vì vậy tôi nhớ ngay đến một câu tục-ngữ “Ông đưa cuả kia, Bà chià cuả nọ" cùng với baì học triết-lý tối cổ cuả Cha Ông: "Có đi có lại mới toại lòng nhau" mà đặt tên trò-chơi là KIANO (viết hoa và ghép 2 chữ kia nọ với nhau!). Khi chơi cấp 3, là kết-hợp 3 tầng tương-ứng giữa 2 quân, ta lại tổng-hợp được 9 khoanh-tròn; là thể-hiện câu "Cửu cửu Càn Khôn dĩ định” cuả Đức Trạng-Trình Nguyễn Bỉnh-Khiêm nữa. Thế là tôi không ngần-ngại gì, thành-lập ngay "Viện KIANO Văn-Hoá Việt". Với sự phát-kiến này, tôi đi đến kết-luận: Đồng Bánh-Chưng qúi ngay ở hình 9 ô do 4 lạt buộc bên ngoài. Khi dân ta cúng bằng Bánh-Chưng cũng chính là dân ta coi trọng (thờ) Đồng Bánh-Chưng vậy (cũng là thờ 8 quái, nhưng 8 quái cuả VIỆT DICH). Từ đó chúng tôi đã tuyên-cáo: Đồng Bánh-Chưng buộc bằng 4 lạt chính là hình chứa đựng 8 QUÁI, kết-cấu bằng những "nút" theo kiểu "kết thằng" như trong Hà-Đồ Lạc-Thư, đó cũng là khởi điểm Văn-Minh Triết-Dịch Nông-nghiệp cuả Nòi Việt. Đó là SÁCH ƯỚC! Về Gậy-Thần.- Thích thú từ câu chuyện Đồng Bánh-Chưng và Bánh-Dày, tôi đọc những bài viết về Đức Thánh-Gióng của một số tác-giả, thường thì họ tránh nói đến "ngựa phun lửa cháy làng" vì họ không biết khi cháy làng dân ta cũng chết lây thì làm sao, họ viết "ngựa phun lửa cháy rừng" cho yên chuyện. Họ đâu biết rằng khi nói Thánh "nhổ tre" có nghiã là khi Ngài đánh đuổi, giặc Ân phương Bắc chạy vào làng xóm và ẩn-núp trong dân (chưa nói đến do âm-mưu đồng-hoá và chủ-trương thu-nhặt và thiêu-hủy sách vở cuã người Việt, giặc đã đột nhập và ở trong nhà dân làng từ trước), lúc Ngựa cuả Thánh phun lửa cháy làng thì hẳn là giặc chết mà dân ta cũng chết lây. Ngay lúc đó Thánh nhổ tre và chú-nguyện, an 8 quái Việt Dịch vào, để cây tre trở thành GẬY THẦN; Ngài quét nhẹ đầu SINH ở phiá ngọn tre vaò người dân để cứu SỐNG họ (kiếm hay roi sắt không hề gẫy nhưng không còn đắc dụng nữa, Ngài quăng đi mà thôi). Dân làng sống lại, họ thấy một người cao lớn dùng cây tre (có những gióng) cứu họ, họ tuyên-xưng là THÁNH GIÓNG; và rồi 2 chữ thân thương này trở thành tên vị cứu-tinh, tên làng cuả Thánh trở thành Làng Gióng từ đó. Ấy vậy mà cũng có tác-giả thiếu hiểu biết, họ không nói đến chuyện Thánh Gióng nhổ tre, lại còn đặt tên truyện một cách ngớ-ngẩn là "Thiên Tướng Ngựa Sắt" nữa. Sau khi dẹp yên giặc và cứu sống dân xong, Đức Thánh Gióng quăng tre lại và phi ngựa lên núi Sóc-Sơn mà Hóa. Có như thế mới diễn-tả được đúng và đầy-đủ ĐỨC ĐÔ CUẢ THÁNH NÒI VIỆT: Cứu đời một độ rồi mới đi vào tịch tĩnh, đó là Đạo Tiên vậy. Theo sách "Nam Hải Dị Nhân” cuả Phan Kế Bính, Găy-Thần được mô-tả: “Găy-Thần 9 đốt, hai đầu SINH TỬ; đốt giữa để chuyển-hoá” Lại cũng may-mắn, tôi đọc được trong cuốn thơ “Đạo Trường Ngâm” cuả Lý Đông A : “Gậy-Thần đốt trúc có hai đầu”. Và "Để lại tàng cơ làm pháp-vật". Với hai chỉ dấu trên đây và 8 hình-kỳ-diệu mà Đồng Bánh-Chưng gói-ghém, chúng tôi đã khôi-phục lại được hình ảnh Cây Găy-Thần, đã bị thất-truyền từ mấy ngàn năm. SÁCH-ƯỚC và GẬY-THẦN là 2 BAÚ-VẬT CUẢ NÒI VIỆT, như mọi người đã được nghe noi nhiều lần. Tổ-Tiên ta đã vận-dụng Sách-ước và Găy-Thần trong tâm-nguyện "Cùu Quốc Tồn-Chủng" để chúng ta còn CÓ đến ngày nay. Tìm lại Găy-Thần và Sách-Ước là niềm thao-thức cuả Dân-Tộc, đó cũng chính là "NỖI ÁM-ẢNH TỔ-TÔNG": Đòi lại ĐẤT-TỔ, đòi lại VĂN-TỔ ! Bây giờ đến phần thứ hai, chúng tôi xin nói về: Những vướng mắc đã làm cho C.S.V.N.vẫn thất-bại sau 10 năm gọi là "đổi mới": Như từ xa xưa, ít nhất là sau khi 1 triệu người miền Bắc di-cư vào miền Nam năm 1954, ai ai cũng đều nghe noí “Cộng-Sản tam vô”. Tam vô đó là: Vô Gia-Đình, vô Tổ-Quốc, vô Tôn-Giaó; laị thêm vaò khẩu-hiệu "Quốc-Tế Vô-Sản" nữa. Ngay trong thời-kỳ còn mạo-nhận là "kháng chiến", người Cộng-Sản cũng đã hô-hào "Tiêu thổ kháng-chiến" nhằm hủy-hoại những truyền-thống Văn-Hoá cuả Cha Ông, chẳng khác nào chủ-trương Hán-hoá cuả vua quan nước Tàu ngày xưa. Càng về sau, chúng ta càng thấy rõ CSVN muốn biến xã-hội Việt-Nam thành xã-hội loài vật. May thay, tiềm thức Dân-Tộc vẫn sống còn, cho dù CS trăm mưu ngàn kế muốn lôi kéo Dân-Tộc theo hướng đó, vẫn có những luồng sóng đáy thản hoặc bùng lên để làm cho CS thất-bại. Hồn-Sử-Việt đã không cho Việt-Cộng rảnh tay để thực-hiện kế-hoạch đem Dân-Tộc làm nô-lệ tuyệt-đói cho CS Quốc-Tế. Những sóng-đáy-tầng đó dâng lên từ ngay chính những cuộc đãu-tố trong đợt Cải-Cách ruộng đất, ở khởi-nghĩa Quỳnh-Lưu, ở Nhân Văn Giai-phẩm, ở những phong-trào mà VC gọi là Những Vụ Án Xét Lại và V. V . . . Chính vì những tác-động cuả Hồn-Sử đó mà một mặt CS Quốc-Tế không dám sấn-sổ nhảy vào, và mặt khác, CSVN chưa thi-hành được hết những thủ-đoạn gian-manh cuả họ đói với cả Dân-Tộc. Chúng tôi dùng chữ “cả Dân-Tộc” ở đây có nghiã là những người dân Việt hiền-lành, chất-phác đã thấm-nhuần qua nhiều đời những Truyền-thống Văn-Hoá, những giá-trị tâm-linh mà 18 triều Hùng-Vương đã truyền lại, những sức gốc cuả Cây Văn-Hiến; nơi đã dung-hoá nổi 3 luồng tư-tưởng Phật Lão Khổng từ các thời Đinh Lê Lý Trần Lê Nguyễn trước đây. Cộng-Sản, Thực-dân và Ngoại-bang cũng đã và sẽ đều thất-bại trên đất nước Việt-Nam hình chữ S. Đó chính là hình Thái-Cực (bao-hàm nghiã ỏ trung-tâmõ) hay là Hình Lực Chuyển Động cuả Thiên-Thể, Thiên-Hà trong vũ-trụ. Những gì trái với Thiên-Điạ-Nhân, trái với đức Hiếu-sinh cuả Trời Đất, làm hại đến Con-Người Cửu Khiếu “Cửu Cửu Càn Khôn dĩ định” thì sớm muộn gì cũng phải bị tiêu-diệt. Chính-nghiã Dân-Tộc ở đâu? Những Hịch Cần-Vương, những Biểu chém nịnh-thần, những lời cuả Hưng-Đạo-Vương, Lý Thường Kiệt, Nguyễn-Trãi, những lời đanh thép cuả Con Dân Việt trước quốc-biến... Những gương Nguyễn-Thaí-Học, Trương-Tử-Anh, Phan-Bội-Châu, Huỳnh Phú-Sổ ... và gần đây hơn, những Hà-Ngọc-Lương, Nguyễn-Khoa-Nam, Lê-Nguyên-Vỹ v.v... đã là những chất-liệu tưới-tẩm cho Cây Văn-Hiến Việt, nếu chưa phát-triển được lên cao thì cũng làm chắc gốc bền rễ chờ một ngày nảy cành xanh ngọn mà đơm hoa kết quả. Đơn cử, vào những năm 44, 45, những người yêu nước chống cả Cộng-Sản và Thực-Dân bị chúng triệt hạ như thế nào. Những người khác ở thế yếu, không đương cự nổi khi Thực và Cộng kết bè, đành phải chạy sang Tàu. Ở làng xóm, có những tên cầm đàu Ban Tư-Pháp Khu dẫn đám du-kích cầm theo những que sắt đến xuyên vào các cót thóc trong nhà người ta mà tìm kiếm. Tâng công vơí CS đến thế mà rồi 1954 cũng phải bỏ CS, trốn theo người Di-Cư (ông ta có người anh theo Đệ-Tứ cũng đã bị Đệ-Tam CS giết hại rồi). Có những người, dù đã bị CS ra lệnh bắt, đám du-kích áp-tải vẫn thay nhau cõng qua những vũng lội; bởi vì, dù có làm việc dưới sự giám-sát cuả người Pháp, họ vẫn cư-xử vơí đói-phương bị lầm đường lạc lối, nhưng cũng là dân Việt, như thế nào. Người Việt chúng ta là người luôn có thâm tình cố kết với làng xóm quê-hương. Ấy vậy mà năm 1954 đã có hơn triệu người phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Thế thì thử hỏi chính nghiã ở đâu? Cuộc chiến Quốc Cộng keó dài, hết Mău-Thân 68 đến Muà Hè Đỏ Lửa 72, Việt-Cộng và bè lũ đến đâu là ngườI dân ghê tởm đến đó. Thế mà Miền Nam phải thi hành Hiệp-Định Paris mơí là lạ! Để đến 1975, Miền Bắc Cộng-Sản tiến quân chiếm Miền Nam như vaò chỗ không người. Tại đây, CSVN lại muốn áp-dụng cảnh đãu-tố ở Miền Bắc khi trước đói vơí dân Miền Nam. Lúc đó, một phen những người Miền Nam học cách ứng-phó theo người Bắc Di-Cư. Thế rồi CS bắt hàng triệu Quân Cán Chính miền Nam đi tù, mà họ gọi là "Học Tập Cải Tạo". Tôi từng noí vơí những người bà con từ miền Bắc vào: "Bắn giết thì đổ máu, bắt đi để đầy-đoạ cho đổ mồ-hôi sôi nước mắt, cho chết dần chết mòn, mồ-hôi qui ra máu thì cũng vậy mà thôi!". Thực-tế CS còn chủ-trương giết ngươì trong trại "cải-tạo" nữa. Cũng vì bị chiếm đoạt mọi thứ một cách tức tủi như vậy, có một thành phần dân trong miền Nam (những người ở ngoài chính quyền cũ), do bị tuyên-truyền , bực-bội với chế-độ cũ, huà theo CS mà giở trò 30 đi bịp-bợm. Tuy vậy , vẫn còn những người tỉnh-táo, có thể họ cũng chẳng ưa gì chế-độ cũ nặng về ngoại-lai vong-bản, họ có được những kinh-nghiệm Đảng-phaí Dân-Tộc cuả Cha, cuả Ông. Nhũng người này còn triệt-để tin-tưởng vào tương-lai Dân-Tộc nên dù trong hoàn-cảnh nào, họ vẫn cố-gắng giữ-gìn nhân-cách; từ đó, họ tìm mọi cách không để cho xã-hội băng-hoại, điều mà CSVN luôn chủ-trương. Những người vô-danh đó, họ phản bác lại những tuyên-truyền cuả Cộng-Sản, cho dù có phải mất lòng ngay cả bạn bè mình. Họ vẫn ngang nhiên mắng những người bạn có tư-tưởng chủ bại, để rồi sau đó có phải “Dập đàu tạ tội” cũng đành. Họ giải-thích rằng “Việt-Cộng chỉ ăn tàn phá hại, có phải băng bó cho ai, có phải xây lại nhà cưả cho ai đâu” và "CS chiếm các nước khác bằng tiền pháo hậu xung, chúng chiếm Miền Nam, chiếm Sài-Gòn đâu có như vậy!” để đối lại tư-tưởng chủ bại “Thế là CS muôn năm rồi, các sách vở cũ mới, tiếng Anh, tiếng Pháp đều viết như thế!”. Khi VC dồn dân đi “Kinh tế mới” (để chúng dễ cướp cuả, y như chúng từng hô-hào "Tiêu thổ kháng chiến" trước kia) thì bọn vô-lại lại phụ-họa thêm "Chồng các bà đi học-tập mút muà, thôi đem tiền làm ăn vơí tôi đi, vượt biển với tôi đi . v . v .”, làm băng-hoại xã-hội, y như CS muốn. May thay, vẫn còn những kẻ, trước mặt là một cọc vàng, bên cạnh lại là người đẹp khẩn-khoản yêu-cầu "Ông có kỹ-thuật, tiền đây, mở công-ty làm kinh-tế 3 thành phần đi, kẻo chúng tôi bị đi kinh-tế-mới!”. Người đói-diện trả lời ngay “Đừng nge những kẻ thối mồm nói là chồng các bà đi học-tập mút muà mà huà theo nó; còn về việc làm ăn, tôi có chủ tâm lừa các bà tôi mới tổ-chức công-ty này công-ty nọ. Thời buổi này không làm gì được đâu; cố gắng dành-dụm, bán mớ rau mớ cỏ nuôi con chờ chồng thôi!”. Có phải đó là những “Anh-minh đuốc-tuệ đâu là xác thân” không? Có phải đó là Hồn Dân-Tộc không? Lúc này, cũng có những bậc tu hành, không vướng mắc vòng "học tập", đem đạo lý khuyên răn ngươì đời. Cũng do Hồn Dân-Tộc thôi-thúc mà người ta không chủ bại, không buông xuôi, để mà nhận xét được rằng “Năm 1975 là đỉnh cao giả-tưởng cuả chế-độ Cộng-Sản (Quốc-Tế) tại Việt-Nam. Sau khi Miền Nam Việt-Nam được bỏ ngỏ, tuyệt đại đa số các Trung-Ương Uỷ-Viên (mà trước kia không được đi đâu, không được thấy gì) cuả các nước "Cộng-Sản Tiên-tiến (kể cả Liên-Xô) đều được “cho phép” đến Sài-Gòn; họ đều té ngửa vì nay mơí nhìn thấy và biết sự thật. Sự thật được phơi bầy, để có thể tạm so-sánh giữa 2 xã-hội, xã-hội "bị thống-trị và kềm kẹp" ở Miền Nam Việt-Nam và "Xã-Hội Dân-Chủ Nhân-Dân" ở các nước Cộng-Sản Đông-Âu. Thêm vào những đợt vượt biển bằng ghe nhỏ, những đợt vượt biên bằng chân đất và những thảm-trạng chết chóc cuả người dân Việt cả Nam lẫn Bắc trên đường vượt-thoát đó đã làm CS Quốc-Tế tan rã" Đấy mới chính là sự hy-sinh, đóng-góp xương máu cuả Dân-Tộc Việt-Nam cho chính-nghiã Tự-Do mà bấy lâu nay những kẻ có phương-tiện khoa môi muá mỏ đã không biết rõ (vì họ còn thiếu tinh-thần Dân-Tộc), họ chỉ một mực theo đuôi, cho rằng “CS Quốc-Tế sụp-đổ ngay tại cái nôi cuả nó vì . . . “, họ đâu biết rằng do xương máu , đau-khổ cuả Dân-Tộc Việt-Nam! Tóm laị, chính là những xương máu và mồ-hôi nước-mắt cuả Dân Việt đã làm sống lại Hồn Sử Việt, để CSVN không thể thành-công gì được nếu họ vẫn còn bám víu vào một chút Ý-Thức-Hệ Cộng-Sản không-tưởng. Những lý-do khiến các Lực-Lượng Quốc-Gia "Dân-Tộc", trong cũng như ngoài, chưa thành công: Ta phải kể ngay đến những kẻ vinh-thân phì-gia và chủ bại chạy trốn trong giai-đoạn 1975, rồi nhũng kẻ chỉ muốn thụ-hưởng, trước đây và sau này, họ đã từng phá-hoại tinh-thần Dân-Tộc. Một số những kẻ, khi đến được bến bờ Tự-Do (qua chặng đường đói khát, cướp bóc . . . , chết chóc) coi như mình”đã chết rồi”, họ bất cần đời. Những người như vậy, ở trong thì phản-bội người Quốc-Gia trong, ra ngoài thì cũng với quan-niệm "Thế là CS muôn năm rồi, còn mong gì gặp lại chồng vợ hay bạn bè nữa!", họ buông thả theo vật-tính (mà xã-hội Tây-phương dễ nẩy nở nhiều hơn) làm tan rã nền tảng gia-đình vốn đậm tính Văn-Hoá Việt-Nam. Ảnh-hưởng xấu từ những con người như thế, dần dà đa phần cộng-đồng hải-ngoại ham-chuộng Văn-nghệ thôi chớ không cần mấy đến Văn-Hoá và Tôn-Giáo. Cũng vơí Tinh-thần “Văn-nghệ” đó, người ta không cẩn-trọng trong nhiều sinh-hoạt lẽ ra cần cẩn-trọng; họ hời-hợt trong suy-tưởng, bơỉ vì "Không xong thì cũng có chết thằng Tây nào đâu!”(Boi vi le ra ho da chet roi kia ma). Trong các sinh-hoạt Văn-Hoá cũng như chính-trị, nếu có bầu-cử, người ta chỉ bầu theo lối “giơ tay” (huà theo), rõ ràng là sống ở xứ tự-do nhưng làm gì có tự-do. Tất cả những sinh-hoạt như thế được lập đi lập lại, từ buổi hội nhỏ đến buổi hội lớn, thì làm thế nào có tổ-chức có thực-lực và có người có thực-tài lãnh-đạo được. Bệnh lạm-phát lãnh-tụ là ở đó! keó theo những thờ-ơ và thất-bại. Do những sinh-hoạt kiểu đó, đa phần tùy hứng mà mọc ra đoàn này thể nọ; những người "lãnh-đạo”đó, họ không biết đâu là sức-gốc, cái gì là Văn-Hoá, thế nào là Dân-Tộc. Trong xã-hội tiêu-thụ, giá aó túi cơm, họ bị dục-vọng chi-phối, cái gì đói với họ cũng đều là vay mượn cả, và họ lại tiếp-tục vay mượn. Cái dịch tệ-hại này làm cho sức-mạnh, gốc ở quần-chúng, ngày một kém đi. Riết rồi có người, khi trước còn có nhận-xét riêng thì sau này cũng buông xuôi; thậm chí có bọn vỗ ngực là "làm Văn-Hoá" mà cố-vấn cho các em sinh-viên đại-học diễn-tập những hoạt-cảnh làm cho những người hiểu biết truyền-thống Dân-Tộc phải xấu-hổ (bỏ dẫn-chứng). Tóm lại, bao lâu người Quốc-Gia trong cũng như ngoài (nhất là bên ngoài, chỉ những người đã định-cư khá lâu mới tạm có phương-tiện mà "hoạt-động”; nhưng tiếc thay, họ đã rời nước lâu rồi, phần đông họ thích “Văn-Nghệ quàng vai bá cổ” hơn Văn-Hoá) còn có quan-niệm “Ở đâu mà nói đến ỏTư-cáchõ, lần sau chẳng có ma nào nó tới nữa!" (Lời một cụ bà lão-thành Cách-mạng) thì dù có thắng cũng sẽ thất-bại, bơỉ vì lúc đó Xác Việt còn nhưng Hồn Việt thì vắng rồi (như nỗi lo cuả một vị T.G.M. khả kính). Kinh nghiệm khắp nơi cho thấy: Thắng bằng Văn-Hoá mới là Vạn-Thắng, thắng bằng mượn sức người rồi ra cũng sẽ đi đến thất-bại. Để kết thúc bài tham-luận này, một đề-nghị cấp-thiết là chúng ta phải có kế-hoạch ĐÒI LẠI VĂN, ĐÒI LẠI ĐẤT và VUN-BỒI SỨC-GỐC. Đó mới là Thắng-Nghiã lâu dài, ngoài ra chỉ là thành-công nhất thời mà thôi. Khi gốc Văn-Hoá không vững, những thành-công chính-trị, nếu tạm có, cũng chỉ như hoa chóng tàn vậy. Trong nước, những mảnh rách cuả ý-thức-hệ Cộng-Sản còn sót lại chắc-chắn vẫn có khả-năng ngăn-chặn các cựu đảng-viên CS về Nguồn; tất-yếu họ sẽ bại-vong. Còn như chúng ta (trong, ngoài) thì thế nào? Xin có thơ rằng: Lắng tâm soi cho kỹ, phải đâu xa! Rời cỗi gốc, nên lời thề chửa vẹn! Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng Virginia 22202, ngày 23-4-1996
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 26, 2009 17:49:19 GMT 9
Tết Miệt Vườn Dạ Ngân
Không khí bắt đầu từ những gốc mai ấy đấy. Khoảng giữa tháng Chạp là người ta dứt lá cho mai và sau đó, cành nhánh trơ trụi của nó có cái gì trọng đại sắp bắt đầu. Một gốc mai ở giữa sân, đó là nhu cầu, thói quen và cũng là biểu hiện của văn hoá và may mắn. Ngày thường, mai chỉ là loại cây xanh uốn nắn được, nhưng ngày tết, ánh vàng và sức nở tưng bừng của nó mới thật bất ngờ. Những nhà có cụ ông nhìn vào rất dễ biết, vì gốc mai của họ được chăm sóc công phu, trông chúng y như một ông chủ điệu nghệ: tỉa gọt đấy nhưng vẫn xù xì một cách phong sương và khí phách.
Nước trong sông rạch đầy dần sau mỗi con triều. Đã qua mùa lụt, phù sa đã nằm sâu ở vị trí mà thiên nhiên đền bù cho con người, nước trong vắt leo lẻo gọi là mùa nước bạc. Thế rồi, cùng với thứ gió se se ngọn dừa, với màu nắng tươi như mật loãng, với tiếng trống lân sập sận chuẩn bị, Tết đã áp sát một bên.
Thật ra, Tết đã đến rục rịch đến từ sau mùa gặt, khi lúa hạt đã vào bồ nhường sân cho những chiếu bánh phồng san sát. Tuần bánh nhộn lên trước lúc đưa ông táo về trời và kéo dài cho tới ngày giáp cuối. Nếp hạt hoặc khoai mỳ (sắn) sẵn trong nhà, xôi chín lên trong nước cốt dừa rồi đưa vào cối, những chiếc cối của thời gạo giã được giữ lại chuyên cho bánh phồng. Cả xóm thức liên miên cùng với nhịp chày và tiếng giỡn hớt thả cửa của cánh chị em đi cán bánh vần vông. Đấy là dịp duy nhất họ quây quần bên nhau náo nức với cái gì đó rất chung nhưng hoàn toàn không giống với việc cấy gặt ngoài đồng. Cánh đàn ông cũng bị dựng dậy thay phiên cầm chày, trong lúc chờ đến lượt, họ lặng lẽ hút thuốc, thỉnh thoảng độp vào câu chuyện ngồi lê của cánh đàn bà bằng những câu đùa độc địa khiến con nít cũng bị lôi cuốn ra khỏi mùng. Thế là chúng biến thành cánh chạy bánh đắc lực từ người cán tới người phơi bánh. Không có loại việc nào lôi kéo được tất cả mọi người như việc làm bánh phồng.
Đã nhìn thấy vết thâm quầng đáng yêu trên mi mắt các bà các cô. Nhưng nào họ đã thôi trò thi đua bánh mứt. Nếu các đức ông coi việc chăm sóc cửa nhà, mai kiểng, lân pháo là nghĩa vụ đối với Tết thì cánh đàn bà ra sức làm sống lại nghề bánh khéo đã từng mai một bởi chiến tranh. Bánh kẹp cuốn ống ngậy hương vị nước cốt dừa nầy, bánh gatô cải biên đúc bằng khuôn mỏng hình trái tim nầy, bánh thuần nướng trong nồi cát này, bánh bưa kem đường nàỵ.. để đề tài bánh trái sẽ đậm đà hương vị thăm hỏi nhau của cánh chị em trong ba ngày Tết, để tếng khéo đồn xa", để được "tết thì tết cả xóm".
Còn có một loại bánh dân tộc không thể thiếu với người miệt vườn. ấy là bánh tét cải tiến từ bánh chưng thời Nguyễn Huệ thần tốc trên lưng ngựa. Đòn bánh tét là lễ với tổ tiên, là chữ hiếu với cha mẹ, là nghĩa thày trò, là miếng điểm tâm sáng ngày mồng một, là quà quê cho con cháu ở xạ Gói bánh tét không dễ vì không phải ai cũng đặt đúng cái nhân đậu mỡ ở giữa và phải niềng sao cho hai đầu cân nhau và các nuộc lạt bóng lên tăm tắp. Qua đòn bánh, người phụ nữ nhà đó được xem xét, không chỉ việc khéo vụng mà còn xem có nền nã, chặt chẽ hay không bao giờ ra bánh, người ta cũng treo thành sào cạnh bồ lúa trông thật ấm áp. Có nhà còn gói thật nhiều bánh, ngâm chúng trong nước sạch để ra giêng ăn dần.
Vẫn còn thiếu nghiêm trọng nếu như Tết ở miệt vườn chưa có mét dừa, thứ vật liệu cây nhà lá trời mênh mông. Dừa được chọn kỹ như thể chọn dâu: dừa cứng, mứt có mùi dầu, khô và vô duyên, dừa ướt, mứt ỉu, ăn thấy chán. Những nhà có thẩm mỹ tinh tế thường chỉ pha vào mứt hai màu, hồng phấn và trắng tinh, trông chúng gợi cảm như thiếu nữ. Chưa đủ, chỉ mỗi thứ mứt dừa thì hộp mứt tết sẽ nghèo nàn lắm, vì vật họ còn thi nhau làm mứt bí, mứt me, mứt cà, mứt gừng, mứt khế, và cả những thư tưởng không thể nào thành mứt được như trái khổ qua (mướp đắng) chẳng hạn. Cầm chúng lên, dù thực khách là gã đàn ông kiêu ngạo, bất cần hay chai sạn cũng phải mềm lòng trước sự kỳ diệu của đôi tay, khối óc và tâm hồn người đàn bà.
Thời gian đã chạy bứt lên khiến con người lao muốn đứt hơi theo nó. Người ra chợ, quả cây ngũ sắc đầt ắp ghe thuyền, tiếng máy đuôi tôm dào dạt bờ sông. Người ở nhà gấp rút đưa tất cả những thứ cần giặt giũ ra sông, tiếng đập chiếu trên mặt nước âm âm nghe thật thúc hồi. Có tiếng réo nhau vào hội, cứ mươi nhà thì hùn nhau vật một con heo sẵn trong chuồng của nhà ai đó, ai không tiền mặt cứ việc đưa thịt về ăn tết đã, ra năm tìm cách tính sau. Trẻ con bưng bê gì mà xuôi ngược hấp hởi vậy? Thì ra, nhân ngày áp chót, người ta tranh thủ đưa biếu nhau những thứ quả chỉ có ở vườn mình để sau ngày ba mươi thì không ai động đến cây và trái nữa, chính là để chúng được yên lành hưởng chọn lộc xuân như con người .
Bữa cơm chiều ba mươi thật hệ trọng với từng nhà như khắp mọi nơi trong đất nước. Chỉ khác là tổ tiên luôn được ở trong vườn nhà, vì vậy, trước khi rước ông bà vào mâm cỗ thì nấm mộ phải sạch cỏ, phải khang trang. Bận rộn đến mấy, nghĩa cử này thường không được chậm trễ và, khi nén nhang cong trên bàn thờ, con cháu mừng hơn được vàng vì thế là ông bà đang về đấy, đang phù hộ cho con cháu đấy, nhất định năm mới sẽ may nhiều dữ ít. Như con người vừa được an ủi.
Công việc của cánh đàn bà nào đã xong. Trong ánh lửa bập bùng từ nồi bánh tét bên góc sân, còn phải quét sân trước sân sau để ra ngoài mồng thì đố dám động chổi. Còn phải tắm táp cho lũ nhỏ để chúng được ngủ trong mùi vải mới. Trong ý tưởng trẻ thơ, tối giao thừa được mặc quần áo mới thì năm sau sẽ mau lớn.
Cuối cùng việc nhà cũng phải chấm hết. Trong mệt mỏi ngọt ngào, các bà các cô mang đèn dầu xuống bờ sông, giấu chúng vào bụi cây để hé ra ánh sáng mập mờ, ấy là bữa tắm chậm rãi nhất, long trọng nhất của họ trong vòng mấy trăm ngàỵ Họ ngụp sâu trong nước mát, nhẩn nha giữa qúa khứ và tương lai, bởi tâm tư họ đang bước đến giao thừa. Họ bước lên, quần áo tóc tai cẩn trọng trong căn nhà bỗng như mới bừng lên, trên chiếc gối còn thơm mùi xà bông mùi nắng, bên cơ thể thơm tho của lũ trẻ, họ thả lưng thư giãn một cách trang nghiêm. Có biết bao điều ập đến, biết bao nỗi buồn được tiễn đưa và cũng biết bao mơ ước được gọi dậy, ấy là lúc họ tẩy trần đầu óc và tâm hồn vốn bình dị của họ.
Rồi bước chân tời gian như vừa khởi động và đang tràn sầm sập qua xóm vắng. Người già dậy trước bật hết đèn lên, chốc sau đã nghe mùi bánh phòng toả ra từ bếp lửạ Giao thừa bao giờ cũng phải có phồng trên bàn thờ. Không khí bắt đầu ngầy ngà khắp xóm trẻ con bật dậy sà ngay vào trò chơi pháo chuột, như chùng chưa hề chợp mắt, còn các cụ bà thì lần ra sân bái lạy đủ bốn phương tám hướng. Đêm đen sóng sánh, cây trong vườn trầm mặc và con sông như bát ngát rạ Có cái gì đang dừnglại trong mỗi con người, bịn rịn ngậm ngùi, rưng rưng. Buổi giao thừa ở quê thường không có mấy truyền hình, người nhà ai nấy tụm vào quanh ông bà mình nghe chuyện xửa chuyện xưa chờ cho nhang tàn để đưa lộc từ trên ban thờ xuống bắt đầu nhấm nháp. Bấy giờ người ta mới thấm mệt như có cái gì đó ghê gớm xuyên qua, xâu chuỗi người ta lại và cũng đặt người ta vào vòng quay chóng mặt nhưng vô cùng thú vị.
Sáng mồng một nhà nào cũng dậy muộn, trừ một vài người lớn phải cũng kiến cho ông bà. Trẻ con lăng xăng với bộ quần áo đẹp nhất, nhẩm trong đầu những câu chúc thọ người lớn sao cho được khen và được cả tiền lì xì. Xống áo thanh niên bắt đầu chộn rộn đường quê, cũng chừng ấy mẫu mã thời trang thị thành, chỉ khác là màu nổi hơn để chứng tỏ với chung quanh sự hiện diện của mình. Người đứng tuổi ra đường vào buổi xế, bấy giờ rượu mới là thứ được việc để người ta nhìn nhau thoải mái sau bao nhiêu va chạm ngày thường, để những câu chúc nhau cháy đượm.
Mồng hai Tết mới thực sự là ngày của hỉ xả. Thường người ta góp nhau sắm lân sắm trống từ rất sớm, mỗi xã một đội. Người thủ vai lân phải khoẻ, phải có bước nhảy mang tinh thần thượng võ, còn ông địa thường là cậu bé con sôi nổi, cũng có khi là một bà goá có tính chọc trời khuấy nước. Cả xóm được một ngày vui, một ngày cười, cả lân, cả địa thường được thưởng rượu để bước chân tròng trành hơn.
Ngày mồng ba đánh thức mọi người dậy sớm như nhau. Sau khi cúng tất niên bằng chú gà giò, người ta săm soi bộ chân nó để xem thời vận và treo nó ở hàng hiên để khoe với hàng xóm. Cũng là ngày bọn trẻ đổ ra đường khệ nệ mang lời chúc của gia đình và bánh trái đến mừng tuổi thầy cộ Phong tục cổ truyền ấy đã làm cho ngày cuối cùng của dịp tết bừng lên một lần nữa, thiêng liêng rộn rịp không kém gì ngày ba mươi vừa qua.
Hết Tết, xóm ấp rã rượi một cách ngọt ngào như cô dâu sau tuần trăng mật. Đó là sự kỳ diệu mà tổ tiên và thiên nhiên cùng bạn tặng để mỗi năm một lần con người trở lại với giá trị hằng của mìn: thanh sạch, vị tha, giao hoà và mơ ước.
Dạ Ngân
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 18:02:07 GMT 9
NGÔI CHÙA XƯA
Kỹ sư Sagant Phan
Được tin người nhà từ Saigon gởi qua, ông Từ giữ chùa Giác Lâm đã qua đời tháng qua. Lòng tôi không khỏi bùi ngùi nhớ thương. Thật sự ông cũng không phải là một ông Từ, mà ông chỉ là người làm công quả cho chùa từ lâu lắm rồi, ông có tật một chân, ít nói hàng ngày lặng lẻ gánh nước giếng nơi xa mà đi tưới từng gốc cây kiểng trong chùa Giác Lâm.
Ngày xưa, lúc chú tôi còn nhỏ nghe nói ông Từ này là tay chống Pháp rồi bị lính Tây bắn què chân, có lời đồn ông thuộc nhóm Nghĩa Hòa Đoàn, di cư từ bên Tàu sang . Nhiều chuyện nói lắm, nhưng không ai dám hỏi vã lại có gì mà biết rõ đâu mà hỏi.
Nhiều Phương Trượng chủ Chùa thay đổi liên miên, nhưng không ai thay đổi được chú Tư, vì có ai gánh nỗi một ngày trên ba chục đôi nước không? Còn gánh nước cho Chùa nấu cơm, giặt giụa nữa chứ?
Chùa Giác Lâm là một ngôi danh cổ tự, nhiều ngôi chùa xưa nhưng không thuộc danh tự, nhiều ngôi chùa mới, nổi tiếng nhưng không thuộc cổ tự. Còn Giác Lâm Tự thì đủ đôi, vừa danh tự vừa cổ tự.
Có nhiều ngôi chùa cổ có ghi lại trên giấy tờ, sách vở, nhưng biết bao vật đổi sao dời, vì chiến tranh vì nới rộng thành đô nên lần lần không còn dấu vết. Ai còn biết ngôi chùa xưa mà có thời kỳ một người ăn mày cõng vua Gia Long lúc bị Tây Sơn đuổi ngay tại lòng thủ đô Saigon? cách không xa trường Sư Phạm mà ngày xưa tôi từng học? Chùa này nằm trong thành Ô Mai có phải không?
Chùa Từ Ân, Khải Tường, Mai Khâu (chùa Cây Mai), Kim Tiên, Chùa Gia Điền, chùa Phước Hưng, chùa Phước Hải... nay đâu rồi?
Có chù rất đẹp như: Phưng Sơn Tự, Hội Sơn Tự, Huê Nghiêm Tự, Chùa Phước Tường vẫn còn, nhưng vì mới nên không thể gọi chùa xưa được. Chùa xưa là phải trên trăm năm, phải xây trước năm 1900. Còn sau năm 1900 thì chưa gọi là cổ tự.
Trong quyển ký tự, gọi là Chí. Chí nghĩa là là kể chuyện, ghi chép như Tam quốc Chí chẳng hạn, quyển Gia Đình Thành Thông Chí của Trịnh hoài Đức. Trịnh hoài Đức cũng là người Hoa, gốc từ bên Tàu mà sang đây. Trịnh hoài Đức cho biết Giác Lâm Tự do cư sĩ Lý thụy Long cũng người Hoa mà ta gọi là người Minh Hương. Lý thụy Long quyên tiền trong một buổi... mà nay ta gọi là hát xiệc, hay nói đúng hơn là nơi tổ chức võ đài thi đấu võ. Lúc đó tại Chợ Lớn có nhiều bang Hội, nhiều Bang Hội có đội võ và đội múa Lân, họ có võ đường, như lò võ lò Phước Kiến, lò võ lò Quảng Đông v.v... Lý thụy Long là một nhân sĩ, ông khá giàu nhờ gia đình cho vay hay đúng hơn là bảo tiêu các chành đi đường thủy, đường bộ... Lý thụy Long nhân ngày tết, cho tổ chức buổi thi đấu võ đài quyền lâm cước hải. Tiền thu góp được Ông dành để cất chùa. Thế là có ngôi chùa Giác Lâm ra đời.
Mấy người cố cựu ngày xưa có nói hậu liêu của Chùa còn giữ nhiều bảo khí như thanh long đao, mãnh đao, thương, kiếm vv.vv... Rồi có giặc 18 Thôn Vườn Trầu tại Hóc Môn, người ta mượn để thụy uy với lính Mã tà Tây, rồi bị rượt chạy bỏ lại đao thương... dĩ nhiên lính Pháp đem về mà làm củi đốt cho vui. Chùa mất đi bộ đao thương cung kiếm, chỉ còn vài cây lõng chõng nên phương trượng vụt hết xuống ao sau chùa cho đở tủi thân! Chùa được khai cuộc đất vào mùa Xuân và cũng thành hình vào mùa Xuân hai năm sau. Năm Giáp Tý (1774) mùa Xuân chùa được khánh thành, nhóm cư sĩ giàu lòng từ tâm trong đó có cư sĩ Lý thụy Long xin Chùa Từ Ân cử một sư trụ trì cho chùa.Thầy Viên Quang đực cử nhậm đến. Nơi tọa lạc Chùa Giác Lâm xưa kia thuộc địa bàn xã Phú Mỹ Thọ, huyện Bình Dương, thuộc trấn Phiên An, Tân Bình. Hiện nay chùa đổi địa bàn, nay gọi là đường Lạc long Quân, thuộc phường 10 quận Tân Bình. Trải qua 9 đời Phương trượng, chùa được xem là Tổ đình của dòng Lâm tế miền Nam.
Các vị Thiền sư trụ trì Chùa đều là những bậc chân tu đáng kính, chẳng những uyên thâm kinh Phật mà còn giỏi về chữ nghĩa, Y Học, Thiên văn, Địa Lý cùng nhiều nghề nghệ thuật.
Thiền sư Tổ chùa Giác Lâm là Sư phụ Viên Quang được Trịnh Hoài Đức làm nhiều bài thơ ca ngợi công nghiệp và tài năng. Khi Phương rượng Viên Quang vào đây, thì quanh chùa có nhiều trận bệnh dịch, nhưng chùa huy động người đến tiếp tay nào người nấu thuốc, người nấu cháo, người phục dược và chính Phương Trượng đích thân đến thăm mạch và bốc thuốc cho từng bệnh nhân lần lần hết bệnh dịch tể... và dân chúng quanh vùng cảm ngợi công đức của Phương Trượng. Họ có tạc tượng Thầy nơi góc sân chùa, nhưng nay pho tượng đồng không thấy đâu nữa.
Sau đó nhiều người mần ăn đi xa lần lần giàu có, và nhớ về quê mẹ nên hằng năm họ gởi tiền từ miệt Hậu Giang hay miệt Lục Tỉnh lên Giác Lâm Tự mà cúng dường. Chùa lớn lần. Thành nơi sầm uất, trở thành Trung Tâm Phât Giáo lớn nhất thời Lục Tỉnh thời bấy giờ.
Sau đó còn thiền sư Hồng Hưng – Thanh Đạo sửa chữa từng cột chùa, từng mái ngói... Chùa xây thêm hậu liêu và mở rộng phần trước để dạy giáo lý cho những người cư sĩ mới quy y Tam Bảo.
Trong quá khứ Giác Lâm Tự có hai lần sửa chữa to lớn. Vào năm 1979 cho đến 1804 là đợt một, còn đợt hai là từ năm 1906 đến 1909.
Cho đến năm 1999 thì nhiều người Hoa quanh đó và những gia đình cố cựu xưa lạc quyên được một số tiền khá lớn mà trùng tu lại lần thứ Ba.
Chùa có tồng cộng 98 cây cột. Đây là loại cây mà người ta chở từ miền Trung, chở từ trên Nam Vang xuống mà cúng dường. Loại gỗ mà người ta nói mối đục không nỗi, không mọt. Với 98 cột chùa, chia thành ba lớp nhà bằng nhau. Ngày xưa vì cách xa thành phố phù hoa đô hội, nên người ta có nói khuya về có nghe cọp gầm vang vội một góc đồi. Quanh là nhiếu cây lớn nhỏ như khu rừng vậy. Khuya về trăng sáng chiếu dọi toàn cảnh chùa không một nét bút nào vẻ đẹp hơn cảnh này được.
Trước đại điện trên hai cột chùa lớn. Có hai câu đối như sau:
“Tự cổ tăng nhàn thường dẩn yên hà vi bạn lữ
Sơn thâm thế cách chỉ bằng thảo mộc ký xuân thu"
Tạm dịch:
"Chùa cổ, sư nhàn cùng khói hương kết duyên bầu bạn
Non xa đời khuất, chỉ cỏ hoa lưu dấu ngàn sau lại"
Tương truyền Phương trượng Viên Quang giỏi võ Thiếu Lâm, có lần sư được người trong làng nhờ sư đến trị bệnh cho một người bị bệnh điên mà ngày xưa người ta gọi là tà ma nhập. Cà làng không trói nỗi người này. Người này trước đó làm nghề nấu than lậu, tay chân lực lưỡng nhưng ngày kia nổi cơn điên anh ta đốt nhà chòi của anh rồi anh muốn đốt thêm nhà lối xóm cho đủ bộ. Với cây búa cầm trong tay, đố ai dám vào mà trói anh ta lại? Lính làng đứng xớ rớ ngoài sân, sợ anh ta thấy được thì nguy.
Hết kế người ta nhớ dến Thầy Chùa Giác Lâm, người ta nghĩ ông là bậc chân tu nên có thể tà ma sợ vía nên buông tha anh bán than nổi điên này chăng? Họ định nhờ Thầy nhiều lần, nhưng có người cản làm sao Thầy cự nổi với thằng Điên đang thủ cây búa.
Nhưng sau cùng Thầy cũng đến. Thầy đến cửa sân, nhưng hai tay vẫn gõ mõ đều đều. Anh chàng bệnh điên hình như thấy lạ, nên buông lơi cây búa mà đứng ngó. Thầy từ từ vừa đọc kinh vừa gõ mõ, rồi thầy nhập nội lúc nào không hay. Thầy chụp cổ thằng điên và quăng xuống ao sau nhà. Dĩ nhiên lúc thằng điên đang lội ngộp thở thì dân làng nhào xuống trói lôi lên. Dễ ợt, nhưng ai dám đến sát mặt mà vật cổ thằng điên với cây búa thủ của nó? Thầy cho nó theo thầy lên chùa... Rồi ngày ngày bắt nó bửa củi, đêm về thì cho nghe kinh kệ. Quần quật từ sáng gà chưa gáy rộ, đến tối mịt trăng tỏ sao mờ mới được chén cháo. Mệt quá, nên từ từ bệnh điên tan mất lúc nào không ai biết cũng không ai hay. Thế là Thầy nổi danh có tài trị bệnh ma quỷ.
Có một ông phú hộ làng Phú Nhuận, ông ăn ở rất sát rạt với người làm, tánh tình keo kiệt nên người làm tuy đông, mà thân thích không có một ai. Ai ai ông cũng cho là đồ ăn bám. Nhưng một ngày nào đó, hình như ông nằm chiêm bao thấy chuyện âm phủ, nên hối lòng. Ông nhờ người nhà cho mời Thầy đến đọc kinh cho an vui gia đạo. Thầy đến, ông vẫn còn tánh hà tiện, chỉ mời Thầy trái chuối chín hái trong vườn và ly trà nóng. Thế thôi. Nhưng sau một thời kinh Địa Tạng và Quán Thể thì Phương trượng Viên Quang đã mở được cõi lòng của Phú ông hẹp lượng. Phú ông khóc và thưa thiệt với Thầy là toàn bộ gia sản mà Phú ông giàu có là do ác nghiệt của Phú ông mà ra. Phú Ông giết mẹ già, rồi chôn thây dưới đìa cá, rồi phủ đất lên. Xây một ngôi chùa nhỏ cho oan hồn tan. Nhưng Phú Ông không bao giờ dám đến nơi nầy, từ hơn ba chục năm nay. Lời kinh Địa Tạng và chú Chuẩn Đề của Phương trượng Viên Quang đã làm Phú Ông thú nhận tội lỗi. Phú Ông khóc nức nở và xin quy y chuộc lỗi. Tội chuộc đời này nhưng đời sau ai trả đây?
Rồi ngày kia dân làng thấy một vị sư đầu cạo trọc, ngồi xếp bằng trước ngôi chùa nhỏ trên đìa cạn nước. Đọc kinh xám hối ngày đêm mưa gió cũng đọc. Trong lời kinh tiếng kệ người ta nghe thấy sư này khóc thảm thiết. Vị sư đó chính là Phú Ông. Đất đai ruộng vườn Sư mới này bán cho hết dân nghèo chỉ chừa lại ngôi chùa nhỏ trên sân đìa mà thôi.
Đó là những lời nói xa xưa từ hơn trăm nay rồi. Ngày nay vùng Phú Nhuận không ai còn nhớ ngôi chùa nhỏ của Phú Ông, ngôi chùa đó mà dưới đất là người mẹ già bị con giết chết. Phú Ông hay là Phú Nhuận?
Còn chú Tư giữ chùa Giác Lâm ngày xưa, lúc tôi còn nhỏ. Người ta nói chú giỏi võ, những có ai thử đâu? Nhưng có thằng bạn tôi thì đội ơn chú vô cùng. Nó ham lội, mà không biết lội. Không biết lội lại càng ham bơi ra xa. Còn tôi biết lội thì chỉ lội nước tới chân là đủ rồi. Nó lội xuống ao rất rộng mà người ta có thể gọi là Hồ cũng được. Ngày xưa còn thời Trịnh hoài Đức, chắc chắn chỗ này là nơi ghe xuồng có thể chèo được rồi.
Thường thường người miền Nam xây nhà cửa, trước là nhà nền cao, sau nhà là ao cá. Không có gì lạ hết, người ta đào ao, lấy đất đấp nền nhà rồi cho nước sông vào. Thế là nhà vừa cao vừa có ao mà nuôi cá thả vịt, lấy nước tưới vườn tượt... Một công đôi chuyện. Còn chùa Giác Lâm thì ao thật sự là một cái Hồ rất rộng, mà người ta gọi là Bàu, như quận 10 có Bàu Sen rất lớn. Nay vẫn còn.
Thằng bạn tôi nó lội xa với cây chuối, rồi tuột tay chìm mất. Tôi biết lội nhưng lội theo kiểu chó làm sao cứu được người. Cà đám con nít la làng. Nghe một cái ùm... thì thấy chú Tư dưới nước kéo cổ thằng bạn tôi lên. Xốc nước rồi xoa ngực thế là nó tỉnh dậy. Cả làng xóm biết vụ này. Rồi thằng bạn tôi về nhà, nó bị đòn, còn tôi cũng bị đòn luôn. Nghĩa là cha mẹ nghe được vụ thằng nhỏ chết chìm thì hoảng sợ. Muốn hết hoảng sợ thì tốt nhất là cho mấy thằng nhỏ vài trận đòn. Thế là nhất cử lưỡng tiện. Cả đám con nít đều bị đòn hết ráo vì tội chút xíu nữa thì chết chìm làm sao.
Ngày kia thằng bạn tôi vào Biệt Động quân. Nó được đổi về miệt Chạu Đốc, còn tôi thì lên tận cao nguyên núi rừng. Rồi ngày kia, không hiểu lúc nào, tôi ghé ngang chùa thăm Chú Tư. Nay chú đã già, mắt mờ, đầu cạo trọc tóc không mọc từ lâu. Tôi nói: “Chú còn nhớ thằng Đẹt không? Nó ngày xưa được chú cứu nó khỏi chết chìm đó?” Chú gật đầu. Tôi nói tiếp: “Nó không còn nữa rồi. Trận đánh Thất Sơn nó bị trúng đạn chết rồi.”
Chú không nói nhưng tôi thấy đôi mắt chú có giọt lệ từ từ lăn ra. Chú khóc, và tôi cũng khóc.
Ngay chót của Miền Nam năm 75, tôi có ghé thăm chú một lần chót. Chú nói: “Chú biết con có số xuất ngoại, con không ở được đây đâu. Nhưng nhớ gởi thơ về cho Chùa nghen con."
Rồi hơn hai chục năm. Tôi chưa lần nào gởi thơ về thăm chùa Giác Lâm. Nhưng ngày nay, vừa được tin Chú Tư giữ chùa Giác Lâm chết rồi. Nước mắt tôi rơi! Tại sao Chú Tư biết tôi có số xuất ngoại? Đời binh nghiệp ngó núi ngó đồi nơi cao nguyên hoang vu hẻo lánh. Làm sao về được Thành đô, làm sao mà xuất ngoại được?
Năm nay nhìn hoa mai mua từ chợ Việtnam, nở vàng... nhưng tôi nhớ có lần, nơi góc núi lưng đèo, trên tiền đồn heo hút, dưới chân núi là một rừng mai vàng nở rực. Tôi nhớ về người mẹ của tôi, tôi ứa nước mắt:
“Tết năm nay, con được mùa mai vàng nở
Tết năm nay con không về được đâu mẹ...”
Giọt lệ này nhớ về ngôi chùa xưa, Giác Lâm Thiền Tự tại ngoại ô thành đô Saigon, nơi có Phương trượng Viên Quan, người điên chặt củi cho chùa, và thằng bạn bỏ mình nơi núi xa, tận cùng nước Việt, cùng chú Tư và Bà Mẹ. Tếát này con không về đâu mẹ ơi!
KS Sagant Phan
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 18:06:06 GMT 9
HỒ GƯƠM THÁP BÚT
Kỹ sư Sagant Phan
Hình ảnh tiêu biểu cho Hà Nội không gì bằng Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm. Nhưng sát bờ có đền Ngọc Sơn và Tháp Bút. Hình ảnh ngày xưa những bức tranh cổ cho ta thấy Đền Ngọc Sơn rất tiêu điều thê lương. Còn ngày nay màu sắc xanh đỏ vàng chen lẫn, nhìn rất xúc động. Biết bao nhiêu vị Bắc Kỳ bỏ xứ ra đi về Miền Nam rồi ngày nay qua tận phương trời xa lạ. Họ cũng nhớ rất nhiều về đất Bắc, rồi ngậm ngùi Hồ Gươm.
Thi sĩ hay nhà văn Thanh Nam có một câu thơ làm tôi vô cùng xúc động:
“Nơi đây hơi nước mờ khung kính
Chợt nhớ mưa phùn đất Bắc Xưa..."
Vâng, nơi xứ Mỹ này, mỗi năm mùa Đông về, trời rất lạnh, cửa kính đóng lại, ngoài lạnh trong ấm, từng giọt nước phủ đầy khung cửa kính... thì nhà thơ gốc Bắc nhớ về quê hương lần nữa.
Chúng tôi có hỏi cội nguồn Đền Ngọc Sơn và Tháp Bút thì rất ít người nói thông. Thật sự Đền Ngọc Sơn và Tháp Bút mới có đây vào đời Tự Đức mà thôi. Do ý kiến của Thần Siêu, mà gọi là Nguyễn văn Siêu. Đền Ngọc Sơn trước đó là cung vui hưởng của chúa Trịnh mà người ta gọi là cung Khánh Thụy bị đốt cháy thời loạn lạc lúc Nguyễn Huệ đánh nhà Thanh bên Tàu.
Tháp Bút do ông dựng nên ghi lại câu Hán văn:
"Tả thanh thiên – Hữu Kình thiên bút"
Vào tháng Giêng Âm lịch là tháng mất của Cao bá Quát, đến nay là 193 năm. Còn Nguyễn Siêu là 203 năm. Siêu lớn tuổi hơn Quát nhưng kết bạn vong niên. Vong nghĩa là bất chấp như vong mạng vậy, vong niên nghĩa là bất chấp tuổi tác mà kết bạn hiền với nhau.
Nguyễn Siêu người ta gọi là Nguyễn văn Siêu, nhưng có một tên ít người biết đến là Nguyễn văn Định khi dạy học lấy tên hiệu là Phương Đình... Khi ông mất bạn bè đặt tên cho là Thụy Đạo, sau đó ông được vua Tự Đức viết sắc phong cho là “Phúc đẳng Thần" Thần hoàng làng Dũng Thọ - khu vực phố Nguyễn Siêu ngày nay tại Hà Nội.
Nguyễn Siêu thọ 73 tuổi, năm 50 tuổi ông treo ấn từ quan về làng Dũng Thọ mà dạy học. Ông lập trường Tư Thục dạy các cử nhân thi Đình hay thi Hội. Lúc ông mất thi hài được đưa về làng Lũ (làng Kim Lũ) an táng trên đất nhà. Còn Thánh Quát thì hưởng được 46 tuổi vì bị chết chém chống lại triều Nguyễn.
Nguyễn Siêu học lực rất giỏi nhưng vần chỉ Phó Bảng vì chữ viết quá xấu, còn Cao bá Quát chỉ đỗ Cử nhân. Nhưng hai ông được vua Thiệu Trị cho vời vào Huế mà dạy học cho Hoàng tử Hồng Bảo, Hồng Nhậm... Nhưng số mạng của Quát quá hùng cường hay nói thẳng là cứng đầu. Quát vừa thầy vua, dạy vua khí tiết nghĩa là vua Tự Đức là học trò của mình mà sau này lại muốn phản học trò.
Chuyện kết bạn:
Nguyễn Siêu đỗ cử nhân lần thứ hai năm 30 tuổi, nhưng đến năm 39 mới được chọn thi Đình. Lúc ra Hà Nội, con thứ Minh Mạng nổi danh gọi là Tùng thiện Vương có căn dặn Bùi Quỹ (bạn học của Thầy Phạm quý Thích và bạn đàn anh của Nguyễn Siêu) như sau: "Kỳ này Ông ra Bắc hà nhớ chọn đám Siêu, Quát về Huế để có thêm nhân tài cùng xướng họa với chúng ta."
Có nghĩa là danh của Siêu Quát vang vào thủ đô Việt Nam thời bấy giờ.
Lúc đó Nguyễn Siêu đã mở trường tư thục thứ nhì tại Hà Nội sau trường học của Chu văn An tại đất Thăng Long ngày xưa.
Trường này mang tên là trường Phương Đình, Siêu có rất nhiều bạn bè thơ phú và học trò rất đông. Còn Cao bá Quát thì người bên làng Thổ Lỗi, Gia Lâm nghe danh tiếng Siêu kết nhiều bạn hữu mà người nào cũng thơ phú nghiêng đất lệch trời cả.
Cao bá Quát đứng ngoài song cửa lắng nghe Nguyễn Siêu đang giảng bài cho học trò... người nhà thấy thế mời vào nhà chơi, thì Quát cười: "Ta đến xem Thầy Siêu dạy học để có thể đến xin học hay xin kết bạn thế thôi.”
Nguyễn Siêu nghe vậy, cho học trò nghỉ trưa rồi mới Quát vào phòng đàm đạo. Nguyễn Siêu đợi Quát uống xong ly trà thì cất tiếng ngâm bài thơ đối:
"Tiên sinh tọa trịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két"
(nghĩa là Người ngồi trên chõng, cót rồi két, két rồi cót, cót cót két két)
Cao bá Quát mĩm cười đáp luôn:
“Tiểu tử đáo đình chung, thẩn nhi thơ, thơ nhi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ"
(nghĩa là Thằng nhỏ tôi vào nhà chung, thẩn lại thơ, thơ lại thẩn, thẩn thẩn thơ thơ)
Nguyễn Siêu đẹp dạ bèn sửa tư thế rồi hỏi tuổi cao bá Quát... Hai người kết bạn vong niên, mặc dầu Nguyễn Siêu lớn hơn Quát đến 10 tuổi và uy tín rất cao tại Bắc Hà.
Tại sao lại có danh hiệu Thần Siêu Thánh Quát?
Danh tự đẹp này là do vua Tự Đức lúc chưa lên ngôi đặt cho hai người. Hai người sau đó được triều đình Huế chọn vào cung đình mà dạy vua, đó là lời gởi gấm riêng của Tùng thiện Vương. Nên hai người được chấm với sự nhẹ tay của triều đình.
Thời kỳ Tự Đức sắp được định ngôi, thừng ra Hồ Tỉnh Tâm ngắm cảnh, non nước hữu tình. Lần ấy Ngài đi dạo cùng với hai thầy Siêu và Quát. Vua tương lai Tự Đức tức cảnh sinh tình mà ra hai câu đối:
"Hải bớt phong ba Chu vĩnh trụ
Ngư truy lạc thủy Hán quân Thần"
(nghĩa là Biển ít sóng gió thì nhà Chu sẽ được trụ bền vững, Cá vui với nước, vua tôi nhà Hán vẫn con mãi.)
Tự Đức xem như câu đối của mình là ngon lành nên làm bộ hỏi hai Thầy xem có được không? Thì Siêu cuối đầu cho rằng: “Vế chưa được chỉnh”, rồi Cao bá Quát tiếp lời luôn: “Câu cú chẳng chọi”.
Tự Đức ngẩn người: “Chỉnh với chọi ra sao?”
Cao bá Quát tiếp lời: "Hải như kiến Thánh, tỉnh Chu ba" (nghĩa là Biển mà đúng Thánh ý, sóng gió cũng tỉnh với nhà Chu)
Nguyễn Siêu tiếp theo: "So nhược hữu Thần, an Hán đỉnh (Núi đã có Thần, thì yên được đỉnh nhà Hán)
Tự Đức cười liền nói luôn: “Như vậy Thầy Siêu chính là Thần của ta, còn Thầy Quát chính là Thánh của ta vậy".
Nên lời truyền Tự Đức ngày kia được vào sử xanh Thần Siêu, Thánh Quát là vậy...
Nhưng sau đó thì Quát và Siêu được cho về lại Thăng Long Hà Thành. Nguyễn Siêu trở lại nghề dạy học riêng của mình, còn cao bá Quát được đổi lên Sơn Tây Thượng Du Bắc phần. Cao bá Quát đâm ra phẫn chí nói như sau:
"Học trò đôi dăm đứa
Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi”
Rồi sau đó Cao bá Quát bị vu là làm quân sư cho nhóm phản loạn, rồi bị đem di chém...
Khi Cao bá Quát bị chém chết, Nguyễn Siêu khóc cho bạn vong niên của mình nhân lễ 100 ngày Quát bị chém, mặc dầu quân đội triều đình Huế vẫn rình rập khắp nơi. Nguyễn Siêu khóc đối với bạn:
"Ai tai, quán cổ tài danh, nay đệ cánh nan huynh, bán thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử"
“Dĩ Hỹ, đáo đầu sự thế, thử nhân như thử ngộ, hỗn trần lưu xú diệc lưu phương”
(nghĩa là: Thương thay, tài danh xưa nay mớ thấy có, cả anh lẫn em nửa đời trót sinh ra rồi cùng phải chết) (ngụ ý là Cao bá Đạt là anh em sanh đôi cũng bị án chết theo)
Cầm lòng không được ông khóc thêm câu thơ:
“Văn chương hữu mệnh sương chung thủy
“Thanh khí đồng bi tự cổ kim”
(nghĩa là Văn chương có mệnh, thì tất có lòng chung thủy. Cùng đồng thanh khí thì nên cộng hưởng, tự cổ chí kim là như thế)
Nguyễn Siêu sống thêm 20 năm nữa thì mất.
Nguyễn Siêu cùng bạn bè ráng chấn hưng lại văn hóa mà Nguyễn Siêu cho là lỗi thời. Lúc đó cung chúa Trịnh tiêu điều, Ông cùng bạn tu sửa và lập nên đền Ngọc Sơn ngày nay, trước cổng đến ông cho xây một cột cao như cây bút vậy. Người đời cho là Bút Tháp. Nguyển Siêu cho là biểu tượng trí thức Việt Nam trước thời cuộc và Hồ Gươm ngàn năm lưu thủy.
Ông ghi câu đối như sau: “Tả thanh thiên – Hữu Kình Thiên bút".
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 18:10:33 GMT 9
Việt Dịch qua Mai Hoa Dịch Số:
TÒA NHÀ "CHỌC TRỜI" và "NGŨ GIÁC ĐÀI" BỊ QUÂN KHỦNG BỐ LÀM SỤP ĐỔ VÀO NGÀY 11 THÁNG 9 NĂM 2001
Việt Dịch Lý Sĩ Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng
* Nguyên tắc căn bản của “Mai Hoa Dịch Số” với Năm, Tháng, Ngày, Giờ tiên thiên là: Việc gì xẩy ra vào một thời điểm nào đó đều có cùng tính chất căn bản của những biến động thiên nhiên vào thời điểm đó. Nói cách khác, câu hỏi về Thành, Trụ, Hoại, Diệt của một cơ cấu vật chất hay tinh thần nào đó đều đã sẵn có câu trả lời trong giao thoa thời gian và không gian. Những gì cùng cung số giao động đều xẩy ra cùng lúc mà người ta gọi là "cộng hưởng" hay "đồng thanh tương ứng".
Thứ Ba 11 – 9 – 2001 là một ngày bi thảm cho dân chúng Hợp Chủng Quốc Hoa-Kỳ với hơn 6000 người chết và biết bao người bị thương, gồm nhiều sắc tộc khác nhau. Riêng gốc Việt, ít nhất có một người thiệt mạng tại Ngũ Giác Đài, khu vực Thủ-đô Hoa-Thịnh-Đốn, đó là anh Nguyễn Ngọc Khang. Ngày Thứ Sáu 14 – 9 là ngày toàn quốc cầu nguyện. Cùng giờ với cuộc lễ của các nhân vật hàng đầu Hoa-Kỳ tại nhà thờ lớn nhất ở Washington DC; tại Chùa Giác-Hoàng, chư Tăng cũng cầu nguyện cho các nạn nhân và tôi đã thỉnh Đại Hồng Chung suốt một tiếng đồng hồ. Từ ngày đó tới nay, chúng tôi tham dự hầu hết các lễ cầu nguyện cho Hương Linh Từ Nguyên Nguyễn Ngọc Khang kể cả "tuần 49" vừa qua.
Nỗi đau mất người, hại của tại nơi tạm dung chưa khuây thì lại nghe đến hơn 300 người lớn và trẻ em bị chết trong những trận lụt tại quê nhà; đã đau buồn lại đau buồn thêm. Nay thì đồng bào huynh đệ (Tứ hải giai huynh đệ) tại Mỹ lại lo sợ, hốt hoảng về “Bệnh Than” (khủng bố bằng cách gây bệnh). Tiếp theo nhiều tin đồn, kèm cả những biện pháp phòng ngừa khác nhau, làm cho mọi người đều nơm nớp ngại ngùng mỗi khi ra khỏi nhà. . . Rõ ràng Hoa-Kỳ đang gặp vận BĨ (1) (5). Nhân danh Viện-Trưởng Sáng-Lập Viện KIANO Văn-Hóa Việt, chúng tôi xin cầu chúc nhà cầm quyền và nhân dân Hoa-Kỳ "Hết cơn BĨ cực đến hồi THÁI lai". Sau dây là hình Linh-Phù THÁI tương ứng với Con-Người-Tiên-Thiên, thông quan với vũ trụ trời đất bằng 9 lỗ (cửu khiếu):
Thấm nhuần đức Hiếu Sinh của Trời Đất, nhà Dịch Lý, nhất là Việt Dịch Lý Sĩ, chúng ta lên án những hành động khủng bố, phá hoại đưa đến chết Người và hại của. Hơn ai hết, Dịch-Hoc-Sĩ quan sát và học hỏi ngay trong thiên nhiên. Khi nào họ "cùng vũ-trụ hòa" được (vì Người dứng giữa Trời Đất và bao gồm Trời Đất / "Nhân thân tiểu Thiên Địa"), họ sẽ hiểu sự vận hành guồng máy cơ động của thiên nhiên. Đến lúc đó, vị này biết được “bước đi huyền nhiệm” của Con-Tạo để nhằm gỡ bỏ những mầm mống xung đột giữa Con Người Nhân Bản với nhau. Điều này đã được công bố qua “Thông-điệp của những người đàn anh”trong Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới năm 1993 tại Chicago Hoa-Kỳ và qua các Tiên Tri của những thánh nhân như Nostradamus ở phương Tây, Trạng Trình tại Việt Nam, cùng những "ông Đạo" khác nữa.
Riêng tại Việt Nam, ngay khi còn sinh thời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (NBK) đã có công hướng dẫn các thế lực đối đầu thoát khỏi vòng chém giết đau thương. Những Sấm Ký của Ngài thường nói đến nguồn gốc căn bản của Văn-Hóa Việt Nam; Chẳng hạn như câu: “Cửu, Cửu, Càn Khôn dĩ định” là nói đến “Bảng Tám Quái “ của Việt Dịch; Núi 99 ngọn, nơi “Địa linh nhân kiệt”.v.v. Đồng thời, 9 còn là con số căn bản của chu-kỳ những nút đột biến trong Lịch Sử và Văn-Hóa Việt Nam.
Ta tạm dùng một mốc thời gian là năm Ất Dậu 1885, khi mà mảnh đất sau cùng là thành Phú-Xuân còn thuộc Nam Triều cũng bị Thực Dân Pháp chiếm nốt, ta thấy rõ được những nút đột biến với chu kỳ 9 và 18; một trong những nút đột biến nằm vào năm 1975. Từ năm này, con dân Việt, tránh chế độ Cộng Sản, chạy tán loạn đi khắp thế giới. Đến 18 năm sau, Đại Hội Tôn Giáo Thế Giới họp tại Chicago Hoa-Kỳ đã công bố bản “Thông Điệp của những người đàn anh" do bộ-lạc Kogi, trên đỉnh Chira, nước Columbia thuộc Nam Mỹ gửi tới. Cũng năm 1993 này, Trò Chơi KIANO 36 quân, mang đậm nét đặc thù của Văn-Hóa Việt Nam, ra đời; kêu gọi thực thi nếp sống "Kết-hợp hài-hòa thay vì đối-đầu và loại-trừ" trên thế-giới (Đối-đầu, giết-chóc, loại-trừ thuộc vật tính và do ảnh hưởng xấu của “văn-hóa?” Domino, Cờ Tướng, Cờ Vua, Bài Tây v.v. mang lại suốt mấy nghìn năm qua). Bộ KIANO 36 quân cũng chính là Việt Dịch - Việt Đạo (2). Hiện nay, thế-giới và Việt Nam đang trong thời “Rắn-mới 2 đầu khó chịu thay”(NBK) và "Hồng-Bàng còn để mối Tân Canh”(Lý Đông A / Đạo Trường Ngâm). Năm 2002 (đầu năm này vẫn còn là năm Tân Tỵ) cũng nằm trên nút đột biến "Cửu cửu Càn Khôn dĩ định"(NBK) trên đường Vận Mệnh Việt Nam.
Nguyên tắc tự nhiên là "Cái gì trái với thiên nhiên, cái đó sẽ bị hủy hoại”. Nói đến thiên nhiên là nói đến Đức Hiếu Sinh; những kẻ hại nhân sát vật sẽ bị đền tội. Nói cách khác: Trời sinh, Đất dưỡng Người và Vật; thế lực nào đi ngược lại điều đó, chẳng chóng thì chầy cũng sẽ bị triệt tiêu đi. Những kẻ khủng bố với mưu đồ sát nhân hại vật, chính trong họ đã sẵn có mầm tự hoại.
Nay chúng ta xét đến ngày giờ xẩy ra sự sụp đổ 2 tòa nhà chọc trời, có tên là World Trade Center ở thành phố New York, để có thêm một kinh nghiệm Dịch Học: Dịch là luôn biến chuyển, đổi thay(3). Sáng ngày Thứ Ba (Sombre Mardi) 11 tháng 9 năm 2001 đó, từ 7 giờ, chúng tôi mở TV để nghe dự báo thời tiết như thường lệ. Sau khi nghe xong, định tắt TV để đi làm việc khác, tôi lại thôi vì lười (TV này là loại cũ, nếu muốn tắt thì phải đến tận nơi chớ không phải loại có thể điều khiển từ xa bằng remote control được). Thế là tình cờ tôi "bị" xem đài NBC News 4 dài dài. Cũng vì vậy mà tôi được thấy thảm cảnh ngay từ đầu, lúc TV chiếu cao ốc số 1 bị cháy. Tiếp đến lúc 9 giờ 05, tôi thấy rõ hình một chiếc máy bay đâm bổ vào tòa cao ốc thứ hai. Tôi liền điện thoại cho một số bạn bè trong vùng VA, MD, DC để cùng đau sót theo dõi diễn biến tệ hại xẩy ra cho đồng loại. Tiếp đến là khói lửa ở một góc Ngũ Giác Đài, tôi lại gọi cho một người bạn, anh này chưa thấy vì đang xem ở đài số 9 chớ không phải số 4 như mình.
Méo mó nghề nghiệp, tôi chợt muốn chiêm nghiệm "Mai Hoa Dịch Số" theo Việt Dịch, quen như hồi còn sinh hoạt trong Việt Nam Dịch Lý Hội 40 năm về trước. Trong khi ngồi dán mắt vào TV, như hầu hết mọi người lúc bây giờ, tôi không kịp và nhất là không thấy cần đi xem lại ngày Âm Lịch (trong lịch bỏ túi và lịch tháng trên tường). Bất giác (4), tôi đinh ninh là ngày 23 tháng 7 năm Tân Tỵ, còn Giờ thì phải là trước 9 giờ sáng (8 giờ 45). Thế là tôi trang được dịch tượng phù hợp với các số 36/41 (lại số 36 quân KIANO và Kẻ Chợ 36 phố phường quen thuộc!); tên quẻ là Lôi Thiên Đại Tráng, động tầng 5 biến thành Trạch Thiên Quải:
Nhìn Dịch Tượng này, ít nhất chúng ta cũng thấy: "Cái gì cao quá (lại đầu to, chân nhỏ), bị sấm sét đánh vào phần trên, ắt phải sụp đổ".
Tôi mờ mắt vì nhỏ lệ, nhìn thấy sự đau khổ của đồng loại và tiếc cho công trình to lớn đó; nhất là khi TV chiếu cảnh những người tiếc nuối, đi tìm mua hình ảnh thành phố New York với 2 tòa nhà 110 tầng cao chót vót, rồi cảnh những người bị thương đang cố chạy ra khỏi khu vực nóng cháy bụi khói mịt mù (5), như tro trong lò thiêu bị tung lên. Rất tiếc, ngồi trước TV nọ chỉ có một mình, tôi không thể chia xẻ ngay được nỗi thương tâm trước cảnh chết chóc và đổ vỡ kia. Nhớ lại, đã có lần tôi đi cùng người bạn, chủ tiệm Gift Shop VAN, từ Rockville lên mua hàng tại New York, từng đi qua 2 tòa nhà nói trên nhưng chưa hề lên tòa nhà đó bao giờ (hôm đó, trên đường gần đến New York, xe cũng bị bể lốp).
Sau đây là phần trích từ 2 quẻ Đại Tráng (quẻ số 34) và Quải (quẻ số 43, hai quẻ có số thứ tự ngược nhau) trong sách Kinh Dịch, Đạo của người Quân Tử, của Nguyễn Hiến Lê do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 1991. Tiện đây, cũng xin mời Quí vị xem thêm 2 quẻ "Ta Chuang / The Power of the Great" trang 555 và quẻ "Kuai / Break-through (Resoluteness)", trang 602, sách "The I Ching or Book of Changes" của Wilhelm/ Baynes, Bollingen series XIX, Princeton University Press 1971, để cùng chiêm nghiệm:
(Xin xem 4 phụ trang nói về 2 quẻ và tầng 5 động)
Sau biên cố đau thương đã hai tháng, dường như chưa có Nhà Dịch Học nào luận bàn về sự kiện này. Trong chiều hướng nghiên cứu Dịch Học, chúng tôi xin mạo muội gọi là đánh trống qua cửa nhà sấm, nêu Dịch Tượng này lên để quí vị thức giả tự mình rộng đường phán xét. Hy vọng quí vị có thể góp ý giải trừ nạn khủng bố (để tiến đến THÁI) đang gây chết chóc và điêu linh ( BĨ ) cho Nhân Loại; y như câu nói ở trang 98 Weekly Magazine People Vol. 56 No 13: “Thật rất tối. Tối như đêm. Giống như đêm đen bao trùm đất nư?c chúng ta." (6)
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng Viện KIANO Văn-Hóa Việt Washington, D.C. ngày 01 – 11 – 2001
Chú thích:
(1) "Những cuộc tấn công do bọn khủng bố, tung ra vào một buổi sáng tháng 9 giòn tan, làm nước Mỹ bị đứng khựng lại—và phải gánh chịu một sự thiệt hại nhân mạng không thể tưởng tượng được.”(Erupting on a crisp September morning, terrorist attacts bring America to a standstill and take an unthinkable human toll)/ People Weekly Magazine Vol. 56 No 13/ Nov. 24, 2001 trang 11.
Hexagram No 12: P’i/ Standstill [Stagmation], page 446/ The I CHING or Book of Changes of Wilhelm/ Baynes.
Hexagram No 11: T’ai/ Peace, page 440, the I CHING or Book of Changes.
(2) Bài góp ý về "Tận Thế" của cùng Tác-gỉa (1998). Linh-phù WORLD PEACE CRYSTAL GRID/ Tài liệu của The International Center for Reiki Training.
(3) Như lời một người-cứu-nạn nói:” Thế giới chúng ta đối diện ngày mai không phải là cùng một thế giới như chúng ta thấy sáng nay."(From the Brooklyn shore, locals stare at the new skyline. Says an emergency worker:"The world we face tomorrow is not the same world we woke up with today.")/ trang 134, People weekly 9 - 24, 2001.
(4) Trạng thái vô-thức, tương tự như Jean Cocteau mô tả trong bài Le Foyer des Artistes mà Brewster Ghiselin dịch ra Anh-ngữ với đề tựa là "The Process of Inspiration" đăng trong sách “the creative process” xb 1952, trang 81 “..., we can believe that this work comes to us from beyond and is offered us by the gods.”
(5) “Anh không thể nói đâu là nhà- cao-tầng và đâu là bụi," một người sống sót, trong vụ tấn công Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, nói vậy ("You couldn’t tell what was building and what was dust," says a survivor of the World Trade Center attack/ People weekly Sep. 24, 2001, page 4).
(6) "It was very dark. Like night. It’s like night for our country."/ People weekly Nov. 24, 2001, trang 98.
Tài-liệu thamkhảo chính:
- Trước biến-cố:
Diplomat, monthly newspaper Sept. 2001; published on August.
Life, our century in pictures / edited by Richard B. Stolley.
- Sau biến-cố:
People, weekly special No Sept. 11, 2001, đề ngày Sept. 24, 2001.
Đại Chúng, bán nguyệt san só 83, đề ngày 01-10 -2001 (Hoa-Kỳ trong trái tim tôi/ Phong Thu).
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:00:32 GMT 9
Có một Hà thành khuất lấp phía xa mờ Mỗi thời kỳ Hà Nội lại có một món ngon hoặc một nét nào đó như một con người, một cửa hàng... nó tạo ra một điều gì đó riêng biệt, làm thành nỗi nhớ, thành kỷ niệm cho nhiều người và thế là nó viết nên một dấu chấm hay một nét ngang, nét xổ của trang lịch sử Hà Thành, mà ta gọi đó là ngoại sử. Ngoại sử ấy là tâm hồn, nếp sống, phong cách cứ đầy lên theo thời gian. Không thể thành ra Hà Nội nếu không có những điều nhỏ nhặt đó. Ô Quan Chưởng Khoảng những năm 1953 và kéo dài thêm mấy năm sau đó, đầu phố Hàng Bài, trông sang chỗ ngày nay là Trung tâm thương mại Tràng Tiền, có một quán bán một món ăn khá đặc biệt. Một ngôi nhà lớn, được ngăn ra một gian nhỏ có chiều sâu, tường lát gỗ đánh vec ni nâu khá yên tĩnh, lúc nào cũng văng vẳng bản nhạc cổ điển như một thứ nhạc nền, nó như hồn của im lặng cho hồn người vào đây thanh thản đôi chút. Lúc là bài Danuýp xanh, lúc là bài Phiên chợ Ba Tư, lúc khác lại là bản giao hưởng... nhưng các nhạc cụ hình như đều nghe nhau, nhường nhau, chỉ vừa đủ gây cảm xúc trầm lắng, mặc kệ ngoài kia luôn inh ỏi những âm thanh phố phường... Khách ngồi một góc, gọi một món hiền lành, một đĩa kem caramen màu vàng nhè nhẹ loáng ướt phía trên là chất đường đã chín thành màu nâu. Đĩa caramen chỉ là cái cớ để ngồi, khách phiêu du trong âm nhạc và trong khói thuốc, trong tâm sự thầm kín chỉ mình biết với mình... Khách có vẻ trí thức, quần áo chỉnh tề, nói nhỏ nhẹ, có khi hàng giờ đồng hồ ngồi lim dim đôi mắt mà chẳng nói năng, có lẽ tiếng nhạc du dương kia đã nói hộ bao lời, nên chỉ cần vào đây cho tiêu đi chút thì giờ không biết làm gì, cho vợi nỗi nhớ nhung xa vắng, mà món ngon đặt trước mặt kia cũng không phải là thứ cần cho đỡ đói hay đỡ khát. Khách đã vậy, chủ cũng như lây bệnh của khách, đi ra đi vào lướt nhanh như chiếc bóng, không giục giã khách, không cần đông khách mà hình như mở cửa hàng để được tiếp xúc với nhiều người chứ không cần lời lãi... Đó là quán Milk bar, không bao giờ rộn rã như Thủy Tạ hay đông đúc như Nhà hàng Bôđêga bên Tràng Tiền. Thời điểm đó món caramen mới xuất hiện, nó ngon, nó lành, nó mát, mà sau đó dần dần caramen trở thành món quen thuộc, nhiều gia đình có thể làm lấy, có người đi mua hàng chục hộp về ăn cả ngày. Có lẽ cũng vì thế mà quán Milk bar kia đóng cửa lúc nào, chủ hàng là ai, đã phiêu bạt đến nơi nào, kể cả những người khách chỉnh tề nghiêm trang từng ngồi tựa lưng vào bức tường lát gỗ, vừa nghe nhạc êm đềm vừa lãng đãng nghĩ suy... ai còn ai mất, ai đang Hà Nội hay đã phương trời nào... Nhưng cái quán nho nhỏ, êm đềm, lúc nào cũng chỉ thưa thớt vài ba người khách trầm tư trong nét nhạc xa vắng đã là hình ảnh một thời chưa xa lắm với Hà Nội. Patê là món ăn quen thuộc, dùng để ăn với bánh mì. Nhưng hiện nay món patê nóng, gọi là patêsô thì đã vắng bóng ở Hà Nội. Khoảng trước sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, ở ngã tư Hàng Dầu, Hàng Sũ, một cửa hàng cà phê nhỏ, mặt nhìn chéo ra đường, có tên cà phê Tùng Linh. Cà phê ở đây chỉ thường thường bậc trung, phải kính nể những hàng cà phê đã nức tiếng như cà phê Giảng ở 88 phố Cầu Gỗ, cà phê Nhân ở 100 phố Cầu Gỗ, hoặc cà phê Bằng ở phố Lý Quốc Sư hay cà phê Hợp ở 38 phố Trần Xuân Soạn, mà sau đó, không hiểu vì sao, cà phê Bằng và cà phê Hợp tự đóng cửa và mất hút vào vô định, không ai còn thấy dư âm nào nữa. Còn cà phê Nhân và cà phê Giảng thì vào quốc doanh. Ông Nhân mất đi, có các con nối nghiệp. Còn ông Giảng trở thành nhân viên kỹ thuật chuyên pha cà phê ở quán Gió trong công viên Thống Nhất, đến khi về già, ốm đau không đi làm được nữa. Cà phê Tùng Linh không có gì đặc sắc, nhưng có một món bánh ngon, đặc biệt, nổi tiếng một thời, tạo ra hương vị Hà Nội khó quên một giai đoạn. Đó là món patêsô. Mỗi chiếc bánh nho nhỏ, to bằng nắm tay trẻ, ngoài là bột mì rán giòn, trong là nhân thịt xay nhỏ có trộn hành hoa, hạt tiêu và những thứ gì đó mà bí mật nhà nghề, ta không biết, nó không phải là patê ăn với bánh mì, mà là một thứ bánh ăn nóng, có vị ngọt, thơm, đậm, béo, bùi... Khách vào gọi cà phê và bánh, nhà hàng mới rán, nên bánh bao giờ cũng nóng dù là ăn sáng hay chiều hoặc đêm hơi ngả về khuya. Chủ cà phê Tùng Linh là ông Nguyệt Diệu, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, đã có khá nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng, nghe đâu có họ hàng với nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, người đã chụp được nhiều ảnh quí với các nghệ sĩ trong chống Pháp, từ Thế Lữ đến Nguyễn Tuân, Xuân Diệu... Hàng cà phê Tùng Linh với món bánh patêsô hầu như luôn có một số khách hàng quen thuộc. Ở đây không có âm nhạc, ánh sáng cũng không chói chang gay gắt. Nó như một nơi để đôi ba người ngồi tâm sự cùng nhau trong chốc lát, cùng nhau ăn miếng bánh ngon và uống ngụm cà phê thơm thơm cho đậm đà câu chuyện chứ không phải vì đói hay khát mà phải tìm hàng ăn uống. Những mái đầu chụm vào nhau kia, họ nói gì với nhau, chắc có khi là tin tức ngoài kháng chiến, có khi là trao đổi một ý tưởng để đêm nay về sáng tác chăng? Có mái tóc bồng bềnh, có đôi mắt sâu thẳm, có cánh tay gầy và dài, có lời ngập ngừng... mà xế cửa kia, cây đa đền Bà Kiệu cứ toả bóng vào Hà Nội như giữ gìn cho bí mật thêm. Bẵng đi một thời gian, quán cà phê Tùng Linh cùng món patêsô đặc biệt bị cuốn xô về đâu chẳng biết. Các cửa hàng cà phê đều vào mậu dịch quốc doanh, rồi chiến tranh và Hà Nội lao mình đi trong thời gian đầy hối hả... Chớp mắt đã mấy chục năm. Ông Trần Văn Lưu đã thiên cổ cùng những người ông ghi họ vào trang ảnh. Còn nghệ sĩ Nguyệt Diệu đã đem món quà ngon Hà Nội ấy đi về đâu nhỉ? Cách ăn quà, uống cà phê của thời kỳ sau này đã thay đổi khá nhiều, quán cà phê phải có nhạc Rốc, phải chấp chới ánh đèn, phải bàn chuyện làm ăn, phải ồn ã như xem bóng đá... Cho nên loại hàng cà phê Tùng Linh chỉ còn là dư bóng. Cho nên một Hà Nội khuất lấp phía xa mờ, nó thành một nét ngoại sử của một thời điểm chưa xa lắm, mà thế hệ mới lớn lên có thể không hình dung ra hết. Còn có bao nhiêu chuyện đáng được ghi ra như hàng bánh giò phố Phùng Hưng gọi là bánh giò Đờ măng. Hàng cà phê gánh ở đầu ngã ba Hàng Bông và Phùng Hưng, trông sang nhà trồng răng Minh Sinh có cô con gái giỏi võ, quật ngã liền mấy tên côn đồ. Đó là gánh cà phê ông Nuôi... Lại còn mấy bác Hoa kiều người to béo như ông phỗng Di Lặc, chuyên cởi trần đứng bên cạnh cái thớt gỗ dầy đến 40 phân, chắc cắt ngang cả một thân cây gỗ, chém chặt phăng con lợn quay, con ngỗng quay, rồi buộc thành chiếc toòng tèng như phù thủy, bắt quyết và đọc thần chú. Cửa hàng Tân Phúc Điền ở phố Hàng Buồm đã phai mờ không dấu vết, nhưng những miếng thịt quay ấy hình như còn phảng phất nét trần tục của một Hà Nội làm ăn... Hình ảnh ông Tàu phở xưa ở Hà Nội Ta đi trong Hà Nội hôm nay, dưới bóng cây và trong ánh đèn, giữa phố phường nhộn nhịp và bao nhiêu ngon ngọt, chợt nghĩ về những điều đã tan chìm vào chiều sâu Hà Nội, mới thấy có một Hà Nội không chỉ rộng dài mà còn sâu thẳm, sâu thẳm hơn những gì ta tưởng tượng... Bao nhiêu người đã từng chung bóng với ta nhiều thời gian, bây giờ đang ở góc trời nào trong mây bay gió cuốn hay đang ở một góc ngoại ô mà ta không biết. Các nhà viết sử chính thống thì không bao giờ có thể ghi được cuộc đời bình dị và muôn màu sắc như một món ngon hay một con người giữa đường như thế. Xin ghi lại đây vài nét nhỏ nhoi mà cuộc đời cần có nó để tạo nên cuộc đời, để lắng hồn, để yêu mến Hà Nội ta gửi trọn tâm hồn! NHÀ VĂN BĂNG SƠN
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:34:16 GMT 9
Làng cổ Trích Sài Trích Sài là một trong sáu làng cổ thuộc vùng Kẻ Bưởi, vùng đất gắn với sự hình thành và phát triển của Thăng Long, Hà Nội. Làng cổ Trích Sài bên hồ Tây, là một trong 6 làng cổ thuộc vùng Kẻ Bưởi, một vùng đất gắn với sự hình thành và phát triển của Thăng Long - Hà Nội. Xưa làng cổ Trích Sài thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Sử cũ ghi lại, thời nhà Lý, các phường của vùng Bưởi thuộc ngoại thành Thăng Long nằm trong phủ Ứng Thiên. Năm Gia Long thứ 4 (1905), các phường An Thái, Hồ Khẩu, Võng Thị, Trích Sài thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức. Năm Minh Mệnh 12 (1831) các phủ, tổng, huyện này thuộc tỉnh Hà Nội. Trải qua nhiều thayđổi, Trích Sài ngày nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Cùng với các làng khác của Kẻ Bưởi, Trích Sài nằm trên vùng bãi bồi ven sông Thiên Phù và sông Tô Lịch. Sông Thiên Phù được phù sa bồi lấp dần từ thời Lý, sang thời Lê dòng Thiên Phù chỉ còn lại dấu vết là những khoảnh ao. Những vị cao niên kể lại, Trích Sài xa xưa còn gọi là làng đốn củi, liên quan đến sự tích hồ Dâm Đàm (hồ Tây ngày nay). Thuở đó, hồ Dâm Đàm có rừng rậm xung quanh, nhiều loại gỗ quý hiếm, trong đó có loài cáo chín đuôi trú ngụ nên dân Trích Sài hằng ngày tới kiếm củi bán và săn bắn. Dân làng còn làm nghề đánh cá, cào ốc, bắt trai hến trong hồ vì nơi này các loài thủy sinh cư trú rất phong phú. Cùng với các làng An Thái, Bái Ân, Hồ Khẩu; Trích Sài nổi tiếng với nghề dệt lĩnh truyền thống. Lĩnh hoa vùng Bưởi nổi tiếng khắp nơi, không chỉ phục vụ người dân Kinh thành Thăng Long mà còn bán ra nước ngoài. Theo truyền thuyết, thời Vua Lê Thánh Tông (1470-1497) Nhà Vua cho một cung nữ gốc Chàm là Phan Thị Ngọc Đô cùng 24 thị tì ra ở thôn Trích Sài lập trang Thiên Niên. Bà Ngọc Đô đem kỹ thuật dệt lĩnh cổ truyền của người Chàm truyền lại cho dân làng, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm. Lĩnh hoa vùng Bưởi nổi tiếng khắp nơi, không chỉ phục vụ người dân Kinh thành Thăng Long mà còn bán ra nước ngoài. Vì thế người ta mới đúc kết: "The La, lĩnh Bưởi, chồi Phùng/Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ bên". Ngày nay, nghề dệt lĩnh không còn nhưng người dân vẫn ghi nhớ một nghề thủ công một thời danh tiếng của vùng đất bên bờ hồ Tây. Trích Sài hiện bảo lưu nhiều di tích gắn với một phường của Kinh thành Thăng Long xưa. Làng Trích Sài còn có nhiều di tích lịch sử như: chùa Thiên Niên, đình làng Trích Sài, miếu thờ bà Phan Thị Ngọc Đô... Một trong những di tích còn lại là Đền Phúc Lộc Thọ ở cạnh đình làng, thờ ba vị Công chúa là Vạn Phúc, Vạn Lộc (hai người con Vua Lý Nam Đế) và người có pháp thuật cao là Vạn Thọ phu nhân, đã giúp dân trong vùng trừ diệt loài Cáo chín đuôi chuyên hại người. Vì thế, đền còn có tên là đền Ba bà chúa, am Gia Hội. Một di tích khác còn đến ngày nay là chùa Thiên Niên. Đây là ngôi chùa của trang Thiên Niên, vốn là “thái địa”, tức một nửa số ruộng đất của làng Trích Sài được Vua Lê Thánh Tông trích ra để cấp cho các Cung phi hưởng hoa lợi, dần dần thành một trang, mang tên “Thiên Niên” (ý nói là nơi các Cung phi được hưởng lộc lâu dài). Các Cung phi đã lập ra ngôi chùa này đến đầu thời Minh Mạng (1820-1841), trang Thiên Niên lại được nhập vào phường Trích Sài, nhưng tên chùa này vẫn không thay đổi. Đình làng Trích Sài cùng với đình làng Võng Thị thờ ông Mục Thận làm Thành hoàng làng. Thần Mục Thận có công cứu Vua Lý Nhân Tông thoát khỏi âm mưu hãm hại của Thái sư Lê Văn Thịnh trong một lần Nhà Vua đi du ngoạn hồ Tây. Cứ đến ngày 6-9 Âm lịch hàng năm, nhân dân lại tổ chức giỗ ông Mục Thận. Am Gia Hội hay còn gọi am Trích Sài thờ ba Công chúa Phúc – Lộc – Thọ gắn với việc trừ loài hồ tinh. Tục truyền, hai Công chúa con Vua Lý Nam Đế một lần đến núi Long Đỗ ven hồ Tây thuộc địa phận làng Trích Sài thấy có loài cáo chín đuôi chuyên làm hại dân trong vùng. Hai nàng lập đàn trừ cáo nhưng không được liền đón Vạn Thọ phu nhân là pháp thuật cao đến lập đàn. Bà cùng hai Công chúa vừa cúng xong thì rừng cây mất nhiều, cáo chín đuôi chạy hết song bà Vạn Thọ phu nhân theo giông bão mà hóa. Vua Lý Nam Đế cho lập đền thờ bà, gọi là Kim mẫu hóa thân. Khi hai Công chúa con vua là Vạn Phúc và Vạn Lộc hóa, đền lại phụ thờ cả hai bà. Làng cổ Trích Sài không chỉ là mảnh đất có bề dày văn hóa lịch sử, nhân dân nơi này còn có truyền thống yêu nước, kiên cường đấu tranh qua hai cuộc kháng chiến. Người làng Trích Sài tự hào có ông Phùng Xuất Nghĩa, vị thủ lĩnh của hàng ngàn quân trong phong trào chống Pháp. Hay cụ Nguyễn Hoàng Tôn, tham gia hoạt động cách mạng ngay từ đầu những năm 30, bị kết án tử hình khi bị giặc Pháp bắt. Hiện nay, tên cụ vẫn được ghi danh ở Nhà tù Hỏa Lò và được đặt tên cho một con đường ở quận Tây Hồ. Làng Trích Sài vẫn còn những ngôi nhà cổ rất đẹp. Giữa một không gian toàn nhà bê tông, nhà cổ ông Nguyễn An Thuế không những không lạc lõng mà giống như một điểm nhấn khiến ai đi qua cũng phải nhìn vào. Không gian bài trí hài hòa, có sân, cây cối, hòn non bộ, nhà ngang, gian dệt cửi thủơ xưa và nổi bật trong nhà chính là nơi thờ cúng gia tiên. Làng Trích Sài ngày nay đã đổi thay nhiều, nhưng các giá trị văn hóa lịch sử truyền thống vẫn được nhân dân gìn giữ, bảo tồn tạo nên nét riêng của mảnh đất ven Kinh thành Thăng Long xưa. Nguyễn Thanh
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:37:08 GMT 9
Từ cây bồ đề đến bia Văn Miếu Qua Tam quan của Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội), tôi chú ý đến màu xanh mướt của hai cây Bồ đề cổ thụ. Không biết cây Bồ đề có tự bao giờ, chắc cũng đã hơn trăm tuổi rồi. Nhưng tại sao chốn cửa Khổng sân Trình lại có cây bồ đề? Và nữa, tại sao nhiều bia Tiến sỹ lại được trang trí hình cánh sen? Nhân việc lập hồ sơ bia Tiến sỹ Văn Miếu là Di sản tư liệu thế giới, tôi xin góp thêm một góc nhìn về di sản độc đáo này. Nói đến cây Bồ đề là nói đến Ấn Độ giáo, Phật giáo, Kỳ na giáo, nhưng nhiều hơn cả, vẫn phải nói đến Phật giáo. Tương truyền đức Phật đã nhập định dưới tán cổ thụ này mà đắc đạo. Cũng nhân đấy mà cây này có tên là Bồ đề (cây giác ngộ). Cây Bồ đề trong Văn Miếu Một điều cần khẳng định ngay rằng, cây Bồ đề không liên quan đến Khổng giáo. Trong “đồ án” cây cỏ liên quan đến Khổng giáo, bốn loài cây tượng trưng cho đức tính của người quân tử là: Mai - Trúc - Cúc - Lan hoặc Tùng - Cúc - Trúc - Mai. Trong các đồ án trên bia Tiến sỹ ở Văn Miếu, người xưa cũng đã chạm khắc nhiều cảnh tượng chim đậu trên cành Mai, cành Tùng, những khóm hoa lan tha thướt. Nghiên cứu về hệ thống giáo dục khoa cử thời phong kiến, các nhà nghiên cứu thấy rõ hiện tượng tam giáo đồng nguyên (Nho - Phật - Lão) trong hệ thống khoa cử từ thời Lý đến đời Trần. Truyền thống khoa cử này hẳn đã ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu tri thức của tầng lớp học thức thời trước. Sang đến thời Lê, Nho giáo được đề cao, các kiến thức về Phật giáo và Lão giáo bị loại bỏ khỏi hệ thống khoa cử. Vậy nhưng, những dấu ấn Phật giáo vẫn sâu đậm mà cây Bồ đề là một minh chứng. Ngoài cây Bồ đề trong Văn Miếu như vừa nói, trên hệ thống đồ án trang trí trên 82 bia đề danh tiến sỹ ở Văn Miếu vẫn rất sâu đậm dấu ấn của Phật giáo. Trên 82 văn bia thì có 12 bia mà diềm chân bia phía dưới là những cánh sen được gợi ý từ các bệ sen. Chẳng riêng gì Văn Miếu ở Hà Nội, trên cả 34 tấm bia ở Văn Miếu (Huế) đều có hình cánh sen theo kiểu trang trí thường thấy ở các tòa sen. Thứ nữa là tuyệt đại đa số các tấm bia đều trang trí hoa văn hoa Bảo tiên (cũng gọi là Bảo tướng hoa). Đây là đồ án hoa tượng trưng tổng hòa những tướng đẹp của hoa Sen - Cúc - Mẫu đơn. Có thể nói hoa Bảo tiên là hoa của Tam giáo: hoa cúc của Lão giáo, sen của Phật giáo, mẫu đơn của Khổng giáo. Tinh thần Phật giáo còn thể hiện đậm nét trên đồ án hoa Kim ngân (còn gọi là hoa Nhẫn đông). Cùng với hoa sen - “nhất phẩm thanh khiết”, hoa Nhẫn đông là giống hoa tượng trưng cho sự chịu đựng phi thường của bậc hành giả. Đặc biệt, chiếc bia khoa thi Nhâm Tuất (1442) rất nổi tiếng với câu nói của Thân Nhân Trung: “Hiền tài nguyên khí quốc gia”. Chính ở bia này, trung tâm của trán bia là ngọc báu Mani, một biểu tượng của Phật giáo. Việc xuất hiện cây Bồ đề ở Văn Miếu - Quốc tử Giám không phải sự tình cờ, âu cũng là cách ứng xử văn hóa của người Việt. Người viết rất thèm nhìn một khóm trúc ngà cạnh cây Bồ đề ở chốn thiêng liêng này. Trần Hậu Yên Thế
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:41:18 GMT 9
82 Bia tiến sĩ – Bức tranh sinh động về nền giáo dục khoa cử Việt Nam thời phong kiến Ngày nay, khi đến thăm Khu Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, du khách được chiêm ngưỡng khu vườn bia nơi lưu giữ 82 tấm bia Tiến sĩ khắc họ tên, quê quán của 1.307 vị Tiến sĩ đỗ đạt trong các khoa thi được tổ chức từ 1442 đến 1779 dưới thời Lê - Mạc. 81 khoa thi dưới Triều Lê và 1 khoa thi dưới Triều Mạc tại đây tạo thành một bảo tàng lộ thiên độc đáo khắc họa lại bức tranh sinh động về nền giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Việc dạy và học Nho học ở nước ta bắt đầu từ Triều Lý, hoàn thiện và phát triển qua các Triều đại Trần – Hồ, đặc biệt phát triển dưới Triều Lê; kết quả đã đào tạo ra hàng nghìn nhân tài. Lịch sử đã cho thấy dù ở thời nào thì việc phát triển nền giáo dục, đào tạo nhân tài cũng đều được các bậc Đế vương coi trọng. Sự kiện năm 1484, Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu cho dựng bia Tiến sĩ tại Văn Miếu là một bằng chứng hùng hồn cho tinh thần đó. Câu nói: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn” khắc trên tấm bia của khoa thi năm 1442 luôn được coi là kim chỉ nam cho tinh thần giáo dục của dân tộc. Tinh thần đó không chỉ dừng lại trong phạm vi xã hội thời Lê mà còn mang ý nghĩa phổ biến đối với mọi quốc gia và mọi thời kỳ lịch sử. Không chỉ thể hiện đường lối trọng dụng nhân tài, nội dung những bài ký trên bia còn là những bài học răn dạy, nhắc nhở trách nhiệm của các nhà tri thức đối với đất nước: “kẻ sĩ được khắc tên vào tấm đá này, thật may mắn biết bao! nên phải đem lòng trung nghĩa tự hẹn với mình, làm sao danh và thực hợp nhau ” (văn bia khoa thi 1487); và kẻ sĩ trên cơ sở đó “hãy làm mây lành sao tỏ nêu điểm tốt cho đời, làm ngọc sáng, vàng ròng để làm kho báu cho nước” (văn bia khoa thi 1514); hoặc “thảng hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới sĩ hoạn kính trọng, người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói: kẻ kia là hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục” (văn bia khoa thi 1577). Một nền giáo dục được thực thi với chủ trương và tôn chỉ hành động như vậy quả là một nền giáo dục tiến bộ, nghiêm túc và lý tưởng. Những lời lẽ hùng hồn trên văn bia đã khắc họa lại tinh thần đó thật rõ nét. Ngoài ra, 82 tấm bia Tiến sĩ mỗi còn mang trên lượng thí sinh, tên và quê quán người đỗ, tên các quan coi thi, chấm thi, ngày vào thi Đình, ngày yết bảng xướng danh... Căn cứ vào các thông tin đó, chúng ta có thể đánh giá về tình hình phát triển giáo dục thời Lê – Mạc. Những số liệu về số lượng các thí sinh tham dự các khoa thi Hội trung bình một năm là từ 2.000 đến 3.000 người cho ta thấy một bầu không khí khoa cử thật nhộn nhịp và phát triển theo chiều hướng gia tăng. Nếu như trong khoa thi năm 1442 chỉ có 450 người dự thi thì khoa thi ngay năm sau đó (1448) đã có tới 750 thí sinh tham dự; đến khoa thi năm 1475 đạt con số về số lượng thí sinh là 3.000 người và kỉ lục cao nhất là khoa thi năm 1640 với 6.000 thí sinh tham dự. Số lượng các thí sinh ngày càng tăng cao đồng nghĩa với sự phát triển ngày càng rộng khắp của nền giáo dục đất nước. Tuy nhiên, không vì số lượng các thí sinh dự thi đông mà yêu cầu về chất lượng của thí sinh bị xem nhẹ. Cũng qua những số liệu ghi trên bia ta thấy, số lượng Tiến sĩ lấy đỗ trong một khoa nhiều nhất là 62 người (khoa thi 1478), và ít nhất có những khoa cả nước chỉ lấy đỗ có 3 người (khoa thi năm 1592, 1667). Những con số này chính là những minh chứng sinh động cho truyền thống hiếu học của dân tộc đã có từ ngàn đời nay. Trên những tấm bia Tiến sĩ, truyền thống này còn được khắc họa bằng những mảng màu tươi sáng khác. Đó là sự xuất hiện của những làng khoa bảng, dòng họ Tiến sĩ hiển thị dưới danh sách của các Tiến sĩ đỗ đạt. Đơn cử làng Mộ Trạch tỉnh Hải Dương có tới 25/36 vị Tiến sĩ đỗ đạt có tên trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu. Các dòng họ nổi tiếng như dòng họ Ngô, họ Hà, họ Vũ... cũng có rất nhiều người đỗ Tiến sĩ, có tên trên bia. Nhiều trường hợp cả cha con, anh em cùng được khắc tên lên bia (anh em Hà Sỹ Vọng, Hà Nhân Đại, cha con Ngô Thì Sỹ, Ngô Thì Nhậm...). Trong số 1.307 nhà khoa bảng được lưu danh trên bia Tiến sĩ, nhiều người sau này đã trở thành những nhà hoạt động chính trị xã hội, nhà văn hóa, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học nổi tiếng có nhiều tác phẩm có giá trị để lại cho hậu thế như: Nhà sử học Ngô Sỹ Liên, Nhà toán học Lương Thế Vinh, Nhà bác học Lê Quí Đôn hay Nhà chính trị ngoại giao Ngô Thì Nhậm... Như vậy, một nền giáo dục phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, một chế độ thi cử nghiêm túc gặt hái nhiều trái ngọt đã được 82 tấm bia Tiến sĩ vẽ lại sinh động. Trong bức tranh đó cũng ghi nhận công lao to lớn của vị Hoàng đế thiên tài Lê Thánh Tông (vị Vua ra chiếu dựng bia) đối với nền văn hóa, giáo dục của đất nước. Đến tham quan vườn bia Văn Miếu trong những ngày này, khi 82 tấm bia Tiến sĩ vừa được công nhận là Di sản ký ức thế giới, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tôn trọng nhân tài của cha ông. Đường Ngọc Hà
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:51:20 GMT 9
Chùa gốm sứ độc nhất Hà thành Không phải được xây dựng từ gỗ, gạch ngói thông thường, ở Hà Nội có một ngôi chùa được làm từ gốm sứ độc nhất vô nhị, ít người biết đến là chùa Hưng Ký (phố Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Ngôi chùa được xem là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo này được xây dựng từ cuối vương triều Nguyễn. Có lẽ ít người biết đến ngôi chùa này vì mặt tiền của nó bị bao vây bởi hàng quán nhếch nhác… Nhưng qua cổng tam quan, du khách thực sự choáng ngợp khi biết trên khuôn viên 3.000 m2, các hạng mục kiến trúc của chùa từ tam quan, tam bảo đến phật điện, nhà tổ đều được trang hoàng bởi những bức cuốn bằng gốm sứ, tạc khắc hoa văn tinh xảo qua gần 80 năm vẫn còn bóng màu men gạch. Cổng tam quan hút người xem bởi thế đứng đồ sộ, được xây theo kiểu gác chuông hai tầng mái. Bốn cột đồng trụ đỉnh có chạm chim phượng, lồng đèn và đắp tứ linh. Cổng chính gồm tứ trụ nối với tam quan tạo nên thế nguy nga, vững chãi. Hai mặt ngoài cổng phụ có đắp phù điêu hình voi ngựa, tám góc mái chạm hình rồng chầu nguyệt. Các mặt trụ đều có câu đối chữ Hán, chữ Nôm bằng sứ tráng men màu trông hệt như một bức tranh thủy mặc. Tòa tam bảo kiến trúc theo kiểu tường xây, chia làm 7 gian gồm 12 cột chính, mỗi cột cao 7 m, vuông 30 cm. Mái chùa được lợp ngói ống, đầu gắn chữ "Thọ". Trên nóc mái có bày chính giữa một chiếc nậm đựng nước cam lồ, thứ nước mà nhà Phật dùng để cứu độ chúng sinh... Một di sản quý giá nữa mang tính thẩm mỹ cao ở chùa Hưng Ký đó là 3 pho tượng gỗ đồ sộ: Đức Phật A Di Đà cao 3,86 m làm bằng gỗ phủ sơn, tượng Phật Di Lặc cũng bằng gỗ sơn son và tượng Phật Thích Ca đản sinh. Ngoài ra, hai gian đầu hồi tam bảo còn có hai tòa Thập điện Diêm vương được cấu trúc theo kiểu động, miêu tả chân thực cảnh sống nơi trần gian và ngục tối. Không quá lời khi nói rằng, chùa Hưng Ký là một kiệt tác của Phật giáo thời cận hiện đại. Tiếc thay, kiệt tác ấy lại đang bị lấn át, phá hoại bởi hàng quán nhếch nhác. Hy vọng trong thời gian tới, Nhà nước và các cấp chính quyền sẽ chú trọng bảo tồn và giữ gìn di tích quý giá này, để mãi ngàn đời, chùa Hưng Ký xứng đáng với điều ngợi ca mà cư sĩ Lã Nam Mai khi vãn cảnh nơi đây đã nói: “Bên Long Thành dựng ngôi chùa/Nào tiên nào Phật điểm tô muôn vàn/Việc thần đạo kể làm sao xiết/ Phía Hà thành tỏ nét tài hoa/Danh lam đọ Bắc kỳ ta/ Thực là bậc nhất thuyền gia lâu đài...”. Một số hình ảnh về chùa Hưng Ký: Tam quan chùa Hưng Ký Toàn cảnh chùa Hưng Ký nhìn từ gác Tòa tam bảo với hệ thống các lớp gốm sứ nhiều màu sắc bao bọc Bức cuốn trang trí hoa văn trên xà của tam bảo Đốc tường của chùa được bố trí tượng nghê “gốm” và hoa văn Mái chùa được lợp ngói ống, có gắn chữ thọ Cận cảnh hoa văn ở nhà bia về cảnh rước quan trạng ngày xưa Tượng Phật bà Quan Âm, một trong những tượng độc đáo của chùa Bức phù điêu hình rùa Theo Đất Việt
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:52:36 GMT 9
Di tích kiến trúc nghệ thuật đền Rậm "Vào thế kỷ XVIII, khi nền kinh tế tập thể công xã bị nạn kiêm tính ruộng đất phá hoại, thì ruộng công ở miền Trung vẫn còn giữ một vị thế quan trọng, tạo điều kiện cho nghệ thuật tạo hình có tính dân dã tiếp tục phát triển, từ đó đã để lại cho chúng ta nhiều công trình quan trọng như đình Hoành Sơn, Trung Cần... Sau đó nối tiếp vào thế kỷ XIX với một điển hình là đền Rậm. Điều đáng lưu ý là trong đề tài này đã xuất hiện một quan niệm mới về "luật" tạo hình. Trước thế kỷ này, hạn hữu mới có hiện tượng vật nọ che khuất vật kia nhất là về đề tài người. Thì tới đền Rậm quy luật phối cảnh tự nhiên đã được ít nhiều quan tâm để gần gũi với ngoại cảnh... Tính chất của mạng chạm như một kế thừa trực tiếp từ nghệ thuật dân dã đỉnh cao ở cuối XVII" - Nhà nghiên cứu di sản văn hoá PGS.TS Trần Lâm Biền đánh giá về kiến trúc nghệ thuật đền Rậm trong tác phẩm: "Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt". Với những giá trị đó, Di tích đền Rậm đã được xếp hạng Di tích Lịch sử kiến trúc - nghệ thuật Quốc gia theo Quyết định số 75/2008/QĐ- BVHTTDL ngày 22-8-2008 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Đền Rậm thuộc xã Hưng Nhân, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, đền được xây dựng vào năm 1831, hoàn thành vào năm 1832, sửa chữa lần gần đây nhất vào năm 1922. Ngôi đền là nơi hợp tự thờ các nhân vật lịch sử có công với đất nước, nhân dân như Lê Lôi (Lê Lư), Nguyễn Quang Hợp hay các thiên thần như Cao Sơn Cao Các... Trải qua quá trình lịch sử phát triển của địa phương, ngôi đền đã chứng kiến những sự kiện lịch sử trọng đại diễn ra tại đây. Các bậc sỹ phu thời chống Pháp, những thanh niên ưu tú trước khi xuất dương hoạt động cách mạng như Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong đã từng bí mật hẹn gặp nhau tại Đền. Trong những năm 1930-1931 và Cách mạng tháng Tám 1945, đền Rậm là nơi tập hợp lực lượng để nghe diễn thuyết về cách mạng, đấu tranh cướp chính quyền. Những năm kháng chiến chống Mỹ đền Rậm là nơi để vũ khí, nơi trung chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường thuỷ trên sông Lam. Đền Rậm nằm trong một quần thể kiến trúc di tích có cả đền lẫn chùa, bao gồm đền Rậm trong và đền Rậm ngoài với nhiều nhà ngang dãy dọc, khuôn viên Di tích có tổng diện tích 10.401m2 trên một gò đất cao, bốn phía được bao quanh bởi những hàng cây cổ thụ. Với độ cao như vậy cùng hệ thống cây xanh toả mát um tùm thấp thoáng bên mái đền cong vút đã tạo cho không gian kiến trúc ở đây vừa thâm nghiêm lại vừa cổ kính. Đền Rậm trong bao gồm các công trình cổng đền, nhà thánh, chùa (Long Đồng Tự), nhà trình, hữu vu, hạ điện, trung điện, thượng điện. Đền Rậm ngoài bao gồm các công trình cổng đền, tắc môn, hạ - trung - thượng điện và lăng mộ Nguyễn Quang Hợp. Cổng đền Rậm trong và ngoài được tạo bởi 2 cột nanh, mỗi cột có chiều cao 5m, rộng 0,60m kết cấu kiến trúc cột nanh gồm nhiều bộ phận cấu thành như chân bệ, thân trụ, đấu vuông thót đáy, hình nghê... nối liền nhau theo chiều thẳng đứng. Với cách kết cấu kiến trúc cột nanh gồm nhiều bộ phận cấu thành như trên đã tạo cho cột nanh không đơn điệu, đồng thời tăng thêm vẻ uy nghiêm và giá trị thẩm mỹ phía trước cho di tích. Một mảng chạm khắc tại đền Rậm Qua khỏi cổng Đền đi vào di tích thì nhà Thánh nằm phía bên trái sân trước đền Rậm trong, nguyên xưa nhà thánh ở thôn Hồng Lạc gần bờ Sông Lam, năm 1967 nhân dân đã chuyển về đây để tránh sự huỷ diệt của bom Mỹ. Phía bên phải là chùa Long Đồng, cũng giống như nhà Thánh, Chùa được chuyển về từ hôn Hồng Lạc về năm 1968 được dựng dọc theo lối vào Đền. Ngôi chùa có diện tích 9,50m x 6,3m, gồm 3 gian 2 chái. Tiếp đến là nhà trình, nằm án ngự giữa trục thần linh, ở đây nhà trình có tác dụng như tắc môn để tránh mọi người đi thẳng vào Đền. Qua khỏi các công trình trình trên chúng ta bước vào khu chính điện - Khu chính điện của đền Rậm trong và đền Rậm ngoài được bố trí mặt bằng theo kiểu chữ tam (còn gọi là tam tòa): Hạ điện, Trung điện, Thượng điện. Tất cả những công trình kiến trúc nêu trên là kết quả của quá trình xây dựng và trùng tu tôn tạo. Có thể nói mặt bằng kiến trúc đền Rậm trong và đền Rậm ngoài là một trong những mẫu mực điển hình phong cách kiến trúc dân gian cổ truyền. Kết cấu kiến trúc của các toà đền thể hiện tính khoa học, tạo nên những bộ vì kèo, bộ khung chắc khoẻ chịu được lực phù hợp với khí hậu vùng miền Trung. Các chi tiết kiến trúc trên được liên kết vớinhau trên cơ sở kỹ thuật mộc truyền thống theo không gian ba chiều. Chính vì vậy, đã tạo cho các toà đền có một dáng vẻ đồ sộ nhưng vẫn giữ được nét thanh thoát mà chắc chắn. Các toà đền đặc biệt là đền Rậm trong đều được chạm trổ công phu, nhiều mảng chạm thể hiện trên cùng một thân gỗ có độ kênh tương đối lớn, với nhiều chi tiết được kết hợp giữa bong kênh và lộng nét chạm tỉ mỉ đến từng chi tiết. Ở các vì kèo, các đường xà, cốn, đầu dư, đầu bẩy... đều được chạm trổ thể hiện nhiều đề tài phong phú như: cá vượt vũ môn, cá chép hoá rồng, lượng long triều phúc, mai hoá long ly... tất cả các mảng chạm đều là những bức tranh nghệ thuật tuyệt vời, những điển tích sinh động đã được các nghệ nhân chạm khắc trên gỗ với những đường nét lưu loát, tinh xảo đến mức cao nhất để tạo nên những bức tranh sinh động tránh được sự thô kệch nặng nề. Nhìn chung có thể nói, chạm khắc ở đền Rậm, đặc biệt là đền Rậm trong là một sự thao diễn kỹ thuật nghề mộc một cách tinh tế của nghệ nhân có nghề nghiệp rất cao. Đền Rậm là di tích còn nối được nghệ thuật đình làng tưởng như đã "chấm dứt" cuối thể kỷ XVII ở Bắc Bộ. Vì vậy nghiên cứu đền Rậm giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa nghệ thuật đậm chất dân dã sang nghệ thuật mang yếu tố cung đình sau này. Ngoài ra tại di tích còn lưu giữ những bức đại tự , câu đố đó là những hiện vật đã minh chứng bề dày lịch sử của di tích. Mặc dù cảnh quan và tổng thể kiến trúc của di tích xưa tuy đã có sự thay đổi, mất mát hư hỏng nhưng sự còn lại của đền Rậm trong và đền Rậm ngoài vẫn chứa đựng những giá trị lịch sử văn hoá- kiến trúc nghệ thuật lớn lao. Trong lúc này xếp hạng di tích Quốc gia ngày càng có những tiêu chí chặt chẽ hơn, khắt khe hơn; việc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật đền Rậm là di tích Quốc gia là một vinh dự lớn đối với Đảng bộ và nhân dân huyện Hưng Nguyên nói riêng và tỉnh Nghệ An nói chung, đồng thời cũng thêm một trách nhiệm lớn lao cho chính quyền địa phương các cấp trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích theo Luật Di sản văn hoá. Để cùng với các di tích khác đã được xếp hạng trên địa bàn huyện phục vụ tốt hơn nữa ho công tác nghiên cứu khoa học, giáo dục truyền thống văn hoá du lịch, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Nguyễn Trọng Cường
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:55:05 GMT 9
Đình So Đình So thuộc làng So, xã Cộng Hoà, huyện Quốc Oai, Hà Nội, thờ ba vị Đại vương họ Cao có công theo Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân. Được xây dựng vào năm 1673 dưới đời Vua Lê Gia Tông, đình So được coi là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Đoài. Bản thần tích đình So kể rằng: Vào năm Nhâm Thìn (932) ở làng Vạn Tư, huyện Gia Định, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc có vợ chồng ông Cao Hiển và bà Lã Thị Ả sống bằng nghề chài lưới trên sông. Ông bà tu nhân tích đức, chuyên làm việc thiện cứu người, vậy mà ngoài tuổi ngũ tuần, vẫn chưa có con nối dõi. Một hôm, ông bà sắm hương hoa đến ngôi miếu thiêng trên đất Long Sơn thuộc địa đầu trang Sơn Lộ cầu tự. Cảm tấm lòng thành kính, Thủy thần đã cho đầu thai vào nhà họ Cao một bọc nở ra ba người con trai khôi ngô tuấn tú. Hôm đó vào ngày mồng 8 tháng Hai năm Quý Tỵ (933). Cha mẹ rất yêu quý đặt tên cả ba người là Hiện. Lớn lên cả ba anh em đều tinh thông văn võ. Lúc bấy giờ có loạn 12 sứ quân, cha mẹ đều đã qua đời, ba anh em liền ra giúp Đinh Bộ Lĩnh, một người làm Chỉ huy sứ, một làm Đô úy, và một làm Hiệu úy, tất cả đều làm tướng cầm quân đi đánh dẹp. Vượt sông Thanh Quyết, các ông đánh thành Thường Vệ, vây thành Bảo Đà, đánh thành Quèn (xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai) rồi đóng đồn doanh ở Sơn Lộ Trang. Một hôm bỗng được tin Đinh Bộ Lĩnh bị vây hãm ở Bối Khê, tình thế vô cùng nguy cấp, lập tức ba ông mang quân đi giải vây. Dân trang Sơn Lộ mang bún bánh ủng hộ, lại chọn 300 tráng đinh đi theo các ông làm thần tử. Vào trận, ba anh em tả xung hữu đột chém được Chánh tướng Đỗ Thanh Long và hàng vạn sĩ tốt, giải thoát cho Đinh Bộ Lĩnh. Thắng trận, các ông trở về trang Sơn Lộ, mổ trâu tế cáo trời đất, cùng các bô lão mở tiệc khao thưởng quân sĩ. Nhưng các ông ở trang Sơn Lộ không lâu. Bỗng một hôm có dải lụa đỏ sà xuống doanh trại rồi bay đi, ít phút sau, ba ông cùng hóa, đó là ngày mồng 10 tháng Chạp năm Mậu Thìn (968). Được tin, Vua Đinh vô cùng thương xót, lệnh cho dân Sơn Lộ xây đền thờ phụng và phong cả ba vị là Nguyên soái Đại vương. Đình được dựng bên một hồ nước rộng khoảng 3ha tạo ra một cảnh quan hài hoà, bộ mái xoè rộng và uốn lượn về phía đầu đao làm ngôi đình giống như một bông hoa sen lớn soi bóng xuống mặt hồ. Trước đình có tam môn và sân rộng 2.500m2. Tam quan có kiến trúc 2 tầng, 3 gian, 4 mái, hai bên còn có cổng ra vào, ngày thường không mở, cửa đóng then cài. Khách đến tham quan thường vào đình từ con đường bên phía UBND xã Cộng Hòa hay con đường nằm phía bên phải đình, bắt đầu xuống xe đi bộ từ nơi có những bậc thang “Hạ Mã”, nơi các cụ già ở làng vẫn kể là “nơi xuống ngựa” xưa kia. Các họa tiết trang trí và chạm khắc trên nóc tam quan vô cùng đẹp và tinh xảo, đặc biệt là hình ảnh lưỡng long triều nguyệt ở trên cao và bốn con linh thú nằm ngoan lành dưới chân những cột gỗ. Lưỡng long triều nguyệt Đình làng có 7 gian, 2 chái, 4 mái rộng lợp ngói, đầu đao bốn góc uốn quanh, mái đao cong vút như mũi hài, kiêu hãnh và lộng lẫy. Bên trong đình các cột gỗ lim lớn nhỏ xếp thành 6 hàng ngang, 10 hàng cột, có 32 cột lim lớn một vòng tay người ôm không xuể và 32 cột lim nhỏ bao quanh, sau điện thờ là “cung” chỉ mở cửa khi có hội. Đình làng So một năm có ba lễ lớn. Hội làng diễn ra trong ba ngày bắt đầu từ ngày 8-2 Âm lịch. Lễ khao quân tổ chức vào ngày 10-7 Âm lịch, còn ngày Thánh hóa được làm vào ngày 10-12 Âm lịch hằng năm. Mặt sàn bằng gỗ lim, hiên có bờ tường thấp. Bao quanh đình là các cánh cửa bức bàn, có chấn song con tiện, kết hợp hài hòa giữa gạch và gỗ. Vào những ngày hội hè đình đám, các cánh cửa ở mặt trước và hai bên hông sẽ được mở chéo ra, bên trong đình trải chiếu hoa trên nền, các cụ lại cùng nhau nâng chén rượu, chén trà, chuyện trò về lịch sử đáng tự hào của ngôi đình làng danh tiếng. Cây đại thụ trơ gan cùng tuế nguyệt Bộ khung đình có kết cấu bằng các vì gỗ theo kiểu chồng rường giá chiêng, các chi tiết như đầu kè, đầu dư, ván nong, các vì kèo, vì vỏ cua đều được chạm trổ hoa văn rồng, mây, ly, nghê, hoa lá vô cùng tinh xảo và sống động. Bậc cấp cửa chính của đình có hai con rồng đá được tạc rất nghệ thuật và tinh xảo phục hai bên. Trong đình còn giữ được nhiều hoành phi, câu đối, nội dung ca ngợi công đức của Thần như "Vạn cổ anh linh", "Long đức thiên tiên"; trong số này có một đôi câu đối của Tiến sĩ Nghiêm Xuân Quảng (đỗ khoa thi năm 1895) người làng Tây Mỗ, huyện Từ Liêm soạn. Tại hội Thánh đản mồng 8 tháng 2 Âm lịch, Kẻ So có tổ chức thi lợn. Lợn của giáp nào nuôi to nhất có dáng đẹp thì được giải. Ngày mồng 10 tháng 7, Kẻ So mổ trâu bò tế Thần ở miếu Thượng trên núi Rồng. Vào ngày Thánh hóa mồng 10 tháng Chạp, có lệ cúng cỗ chay. Mỗi giáp sửa một mâm cỗ chay toàn là bánh dày nhân mật. Bánh dày hình bầu dục dài 30cm, đường kính 7cm, ở giữa có nhân đậu đãi ngào mật. Bánh dày Kẻ So để được lâu, nhân mật không bị chảy đến nay người làng vẫn giữ được bí quyết chế biến. Do bảo lưu được nhiều giá trị lịch sử và văn hóa, năm 1980 đình So đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng bảo tồn. Nguyễn Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 17:57:50 GMT 9
Chùa Lý Triều Quốc Sư Chùa Lý Triều Quốc Sư tọa lạc ở số 50 phố Lý Quốc Sư, quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội. Theo nhiều tư liệu, Chùa trước kia gọi là Đền, thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, Kinh thành Thăng Long. Chùa được lập vào năm 1131 theo lệnh của Vua Lý Thần Tông và mang tên Lý Triều Quốc Sư là tên của Thiền sư Minh Không (1066 - 1141). Tấm bia "Trùng tu Thiên Thị từ ký" do Tiến sĩ Lê Đình Diên soạn năm Tự Đức thứ 8 (1955) đặt ở đây đã ghi lại lịch sử của ngôi đền cũ. Đền Chợ Tiên ở huyện Thọ Xương là nơi thờ Quốc sư Minh Không, người đã có công chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông.Phía bên phải đền ngày xưa có tháp Bảo Thiên, tương truyền do Quốc sư dựng lên. Tác giả văn bia cho biết thêm "Quan huyện họ Phan đến trị dân đã 6 năm. Dân xin quan giúp đỡ về việc sửa đền. Quan hết lòng khuyến khích, lại làm xoay đền về hướng Đông như trước để nhân cơ sở cũ mở rộng thêm ra: Đền trong có 5 gian dọc, đền ngoài có 5 gian ngang, giải vũ hai bên tả hữu đều 3 gian, đằng trước mở cửa tam quan. Lấy hòn đá đục hình giao long uốn khúc ở trên đỉnh tháp cũ đặt trước nóc tam quan, đó là bảo tồn di tích cũ. Vì lâu năm, màu vàng sắc biếc của tượng thần bị phai mờ, nay đem thếp vàng cho đẹp hơn trước". Căn cứ vào tấm bia dựng trong đền thì năm Nhâm Thân (1932) có vị thiền sư là Nguyễn Văn Định, hiệu là Quang Huy, trụ trì ở chùa đã bài trí thờ thêm tượng Phật nên đền thờ gọi là chùa từ đó. Cùng với những biến động của lịch sử và theo dòng chảy của thời gian, ngôi đền không còn giữ được dáng vẻ của buổi khởi nguyên và đã được nhiều thế hệ tiền bối bảo quản, giữ gìn. Hiện còn thấy dấu vết của hai lần sửa chữa lớn, đó là vào mùa Xuân năm Giáp Dần, Niên hiệu Dương Đức thứ 3 (1674) thời hậu Lê mà các di vật tiêu biểu còn để lại là hệ thống tượng chân dung tượng tạc bằng đá rất đẹp gồm tượng Phụ Mẫu Quốc Sư Minh Không, tượng Thiền Sư Từ Đạo Hạnh và Thiền Sư Giác Hải. Đây là những tác phẩm điêu khắc quý giá không chỉ ở trong chùa mà còn tiêubiểu cho loại tượng này trong kho tàng nghệ thuật điêu khắc Việt Nam. Một di vật còn lại cũng có niên đại thời hậu Lê là cột trụ đá trước sân, trên đỉnh nóc an trí tượng Bồ Tát Quán Thế Âm cùng Thiện Tài, Long Nữ. Thời gian gần đây, khi đào đến độ sâu 1m ở chân móng tòa chính điện, đã phát hiện được khá nhiều những viên gạch vồ lớn, màu đen giống với loại gạch vồ thời Lê ở một số di tích khác có niên đại thế kỷ XVII. Lần trùng tu lớn thứ 2 của đền Tiên Thị vào năm 1855. Ở lần này đền được xoay lại hướng Đông như cũ và mở rộng quy mô kiến trúc với3 gian tiền tế, 5 gian hậu cung, 2 dãy giải vũ mỗi dãy 3 gian, xây thêm tam quan phía trước và sơn thếp lại tượng thờ trong đền, tạc lại tượng Quốc sư Nguyễn Minh Không. Trong lần trùng tu này, để ghi nhớ công lao của gia đình quan huyện Thọ Xương họ Phan - gia đình đã có nhiều công sức trong việc sửa chữa đền, nhân dân đã tạc tượng họ và thờ trong đền. Đây là những pho tượng Hậu mà theo một số nhà nghiên cứu mỹ thuật cho rằng là tượng 4 Công chúa và 3 quan đại thần nhà Lý; Khi dời các pho tượng ra khỏi vị trí để tu sửa chùa đã tìm thấy những dòng chữ ghi rõ họ tên, quê quán và năm tạc tượng ở sau lưng các pho tượng. Tất cả cứ liệu đó đều đúng với nội dung ghi trong tấm bia đá năm 1855 và bia đồng năm 1954 hiện còn lưu giữ tại chùa. Trải qua 125 năm tồn tại (tính từ năm 1855 cho đến nay) các hạng mục công trình đều đã bị mối mọt, hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng cần được thay thế. Lần trùng tu lớn vào năm 1954 vì giặc Pháp đã phá hủy Chùa vào những ngày cuối năm 1946, đầu 1947. Diện mạo, quy mô kiến trúc hiện nay của chùa là kết quả lần trùng tu năm 2000. Tuy qua nhiều năm tháng đầy biến động của Thăng Long - Hà Nội, chùa Lý triều Quốc sư vẫn bảo tồn được di vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật. Chùa còn giữ được nhiều nguồn tư liệu và hiện vật phong phú về lịch sử thời Lý - Trần. Là ngôi chùa danh tiếng ở thủ đô xưa nay, hàng năm, chùa đón hàng vạn Phật tử, du khách đến lễ bái. Vừa qua, hướng tới 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, quận Hoàn Kiếm đã khởi công trùng tu Phương Đình - Gác Chuông Chùa Lý Triều Quốc sư. Dự kiến, tháng 10-2010, việc trùng tu sẽ hoàn tất để chào mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Nguyễn Lan
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 18:01:58 GMT 9
Đàn Nam Giao thời nhà Hồ ở Thanh Hóa Cũng như một số quốc gia Châu Á khác, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, Đàn Nam Giao là một trong số những đàn tế quan trọng nhất. Chức năng chính của Đàn Nam Giao là nơi tế trời đất, cầu mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, Vương triều trường tồn, thịnh trị. Ngoài chức năng chính trên, đàn còn là nơi tế linh vị của các Hoàng đế đương triều, các vì sao và nhiều vị thần khác. Tế Nam Giao còn là lễ tạ ơn trời đất về sự hiện diện của vương triều, được coi là nghi lễ mang tính Cung đình, “là lễ của vương giả”. Vì vậy, Đàn Nam Giao trở thành một công trình kiến trúc Cung đình không thể thiếu, ít nhất là từ thế kỷ XII trở đi. Nền đàn 1 Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu về các Đàn Nam Giao ở Việt Nam chưa được chú ý, tư liệu ghi chép trong sử sách không nhiều và cũng chưa có một chuyên khảo nào về lĩnh vực này. Hiện chỉ có một số nghiên cứu bước đầu về Đàn Nam Giao nhà Nguyễn ở Kinh đô Huế của tác giả Phan Thuận An. Mặt khác do loại hình di tích này đặc biệt, không phổ biến, lại bị phá huỷ nhiều nên sự hiểu biết về chúng còn rất hạn chế. Đối với mỗi một Vương triều, chỉ có duy nhất một Đàn Nam Giao gần nơi Vua ở, thông thường nơi đó là Kinh đô của một quốc gia. Trong trường hợp đất nước có những biến cố chính trị, vua phải dời đô đến nơi khác thì Đàn Nam Giao sẽ được dựng mới. 1. Vị trí địa lí, cảnh quan Đàn Nam Giao được Hồ Hán Thương cho xây dựng năm 1402 ở phía Tây Nam núi Đốn Sơn (dân địa phương gọi là núi Đún), nằm thẳng trên đường thần đạo từ cổng Nam thành Nhà Hồ nhìn ra.. Núi Đốn Sơn có tuổi địa chất vào thời kỳ Trias hạ khoảng 225 triệu năm cách ngày nay thuộc địa phận xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, cách Thành Nhà Hồ khoảng 2,5km về phía Đông Nam. Núi có hai đỉnh cao 71m và 49m so với mực nước biển. Sườn núi phía Đông có Đàn Nam Giao và giếng Cổ Ngự Duyên (còn gọi là Ngự Dục, dân gian gọi là giếng Vua). Núi Đốn Sơn cũng là nơi diễn ra lễ Minh Thệ của nhà Hồ vào năm 1399, với sự kiện Trần Khát Chân và tôn thất, quý tộc nhà Trần mưu giết Hồ Quý Ly, hiện còn đền thờ Trần Khát Chân ở phía Đông Bắc của núi này. Núi Đốn Sơn được xem là “Tiền án” theo thuyết phong thủy đối với Thành Nhà Hồ. Toạ độ địa lý của khu vực này là: 200 3’ 50” vĩ độ Bắc và 1050 37’ 40” kinh độ Đông. Do địa thế sát chân núi, thoải dần về phía Nam nên ở khu vực Đàn Nam Giao quanh năm khô ráo. Đàn Nam Giao có diện tích 43.000m2. Mặt bằng hiện tại còn lộ rõ 5 nền đất với 5 bậc cấp (theo thứ tự từ trên xuống). Nền 1 (bậc cấp thứ nhất) hình chữ nhật, nằm ở vị trí cao nhất của đàn tựa lưng vào dải đá gốc ở chân núi Đún, cao hơn so với code 0 là 1,07m. Nền thứ 2 thấp hơn so với nền 1 là 1,87m; nền thứ ba thấp hơn nền thứ 2 là 2,90m; nền thứ 4 thấp hơn nền thứ 3 là 1,90m; nền thứ 5 thấp hơn nền thứ 4 là 1,13m. Như vậy, từ nền đàn cao nhất xuống nền đàn thấp nhất chênh lệch nhau là 7,80m. Các nền đàn đều hướng về mặt Đông Bắc dựa vào núi, mặt Tây Nam quay ra hướng sông Mã. 2. Quá trình điều tra và nghiên cứu Khu Di tích Đàn Nam Giao đã được cán bộ Bảo tàng Thanh Hoá và Phòng Văn hoá huyện Vĩnh Lộc phát hiện, đưa vào thống kê di tích từ những năm 1980. Năm 1990 cụm di tích lịch sử văn hóa gồm: Đền thờ Trần Khát Chân, Chùa Giáng (Tường Vân), Chùa Giò (Nhân Lộ) và Đàn tế Nam Giao thuộc xã Vĩnh Thành đã được Sở Văn hóa - Thông tin Thanh Hoá công nhận là di tích cấp tỉnh. Cuối năm 2007 Di tích Đàn Nam Giao đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích khảo cổ cấp Quốc gia. Tính đến nay, Đàn Nam Giao đã diễn ra 4 đợt khai quật và thám sát, với diện tích đã khai quật hơn 18.000m2. Hiện nay cuộc khai quật lần thứ 4 vẫn đang tiến hành. Đợt khai quật lần thứ nhất tiến hành năm 2004 tuy mới chỉ làm xuất lộ được một số các dấu tích kiến trúc của Đàn Nam Giao nhưng kết quả của đợt khai quật đã cho biết sự có mặt của Đàn Nam Giao nhà Hồ và mở ra hướng nghiên cứu tiếp tục cho các cuộc khai quật tiếp theo. Đợt khai quật lần thứ hai được tiến hành vào năm 2007 tiếp tục khẳng định vị trí của Đàn Nam Giao chính, cho phép xác định được phần nào quy mô của Đàn Nam Giao, góp phần quan trọng trong việc lập hồ sơ khoa học công nhận di tích cấp Quốc gia, đồng thời phát hiện một số bố cục kiến trúc mới của đàn cùng những di vật đặc trưng của thời Hồ. Đợt khai quật lần thứ ba tiếp tục làm xuất lộ rõ hơn nền móng kiến trúc ba vòng tường đàn, đường thần đạo, sân lát gạch cũng như thu thập được nhiều di vật, hiện vật có giá trị nghiên cứu. Đợt khai quật lần thứ 4 (đang diễn ra) tiếp tục khẳng định, ở nền đàn 2 ngoài đường thần đạo được lát đá đã phát hiện từ các cuộc khai quật trước, còn lại là khu vực sân lát gạch vuông nằm gọn trong vòng đàn 1; ở nền đàn 3 đã xác định được hướng và quy mô của đường thần đạo, sân lát gạch ở nền đàn 3, phạm vi của con đường lát đá phiến, kè đá ở chân nền đàn 2 và 3, tường đá vòng đàn 1 và vòng đàn 2; ở nền đàn 4 đã xác định chắc chắn vị trí, quy mô của giếng Vua, kè đá phía Đông Nam của nền đàn 4. Qua 4 đợt khai quật và kết quả bước đầu của cuộc khai quật lần thứ tư, hầu hết nền móng kiến trúc và cấu trúc chính của Đàn Nam Giao đã phát lộ. 3. Cấu trúc Đàn Nam Giao 3.1. Nền đàn 1 Nền đàn 1 quay theo hướng Nam, chếch Tây 500. Mặt Đông Bắc dựa vào núi, ba mặt còn lại trống, mặt Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc tiếp giáp với nền đàn 2 và được nền đàn 2 bao xung quanh. Hiện tại nền đàn 1 vẫn chưa được khai quật nên chưa xác định rõ cấu trúc và các lớp đất đá bên trong. Hình dáng bên ngoài của nền là hình chữ nhật, cao 1,07m so với code 0, diện tích 295,2m2 (Bắc Nam 12,3m x Đông Tây 24m) nằm ở trung tâm đàn, sát với chân núi, là nền đàn cao nhất. 3.2. Nền đàn 2 Nền đàn 2 mặt phía Đông Bắc tiếp giáp với nền đàn 1. Mặt Đông Nam và Tây Bắc tiếp giáp với nền thứ cấp thuộc vòng đàn 3, mặt Tây Nam dốc theo kiểu taluy, dốc 300, được kè đá ở dưới chân. Nền đàn 2 quan trọng nhất bởi tất cả các kiến trúc chính liên quan đến tế giao đều tập trung ở đây. 3.3. Nền đàn 3 Nền đàn 3, mặt phía Đông Bắc tiếp giáp với kè đá nền đàn 2, mặt phía Tây Bắc và Đông Nam vẫn là vùng thấp trũng. Mặt Tây Nam tiếp giáp với nền đàn 4. Chiều Đông Tây 140,6m, chiều Bắc Nam 31,9m, trong đó lòng đàn phía Đông Tây 109,26m. Nền đàn 3 3. 4. Nền đàn 4 và 5 Đây là khu vực dân sinh, công tác giải phóng mặt bằng chưa xong nên chưa khai quật rõ toàn bộ mà mới chỉ được nghiên cứu, tìm hiểu được một phần. Tuy nhiên, qua thám sát chỉ bằng mắt thường cũng thấy rất rõ các hàng đá bó vỉa của cấp nền này, giúp cho ta hình dung được quy mô của đàn. 3.5. Di tích kiến trúc trên các vòng đàn 3.5.1. Móng tường của 3 vòng đàn - Vòng đàn 1 (trong cùng): nằm ở nền đàn 2, hình đa giác, cạnh giáp với chân núi được làm vát chéo góc dài 27m. Tường dọc hướng Tây Bắc của vòng đàn 1 dài 40,3m. Vòng đàn này có 4 cống thoát nước. Chiều rộng của vòng đàn 1 có chiều Tây Bắc- Đông Nam là 61,2m. - Vòng đàn 2 (nằm giữa): hình chữ nhật, lòng đàn - chiều Tây Bắc - Đông Nam là 70,80m. Chiều dài của tường dọc chạy theo hướng Bắc - Nam là 61,30m. Ở vòng đàn này có 2 cửa ngách ra vào 2 bên và 4 cống thoát nước. Ở mặt tường trong của tường đá ngăn cách giữa vòng đàn 2 và vòng đàn 3 có 2 mảng tường bị đổ xếp gối lên nhau còn khá nguyên vẹn, gồm vật liệu đá và gạch bìa hình chữ nhật, ngói, gạch bìa được xây trên cùng của tường. Thứ tự của các vật liệu này được xếp như sau (tính từ móng tường trở lên): Các viên đá xây tường - 4 hàng gạch bìa xếp gối nhau - ngói âm Dương. Căn cứ vào độ dày của vật liệu kiến trúc và mạch xây, các nhà khảo cổ đã ước tính tường đá của vòng đàn 2 cao khoảng từ 2,26m đến 2,39m. - Vòng đàn 3 (ngoài cùng): Vòng đàn 3 hình tứ giác, bắt góc cong ở phía Tây Bắc và Đông Bắc, chiều Tây Bắc - Đông Nam có chiều rộng là 116m. Cả hai phía Tây Bắc và Đông Nam đã tìm được giới hạn của tường vòng đàn 3. Đoạn tường chạy theo hướng Đông Bắc một phần lợi dụng vào đá núi tự nhiên. 3.5.2. Dấu tích đường đi: + Dấu tích đường thần đạo Là đường đi trung tâm dành riêng cho Vua (thiên tử) khi tiến hành tổ chức nghi lễ tế giao. Dấu tích đường thần đạo Qua 4 đợt khai quật con đường đã dần xuất lộ. Đường gồm một lối đi chính (ở giữa) và hai lối đi phụ 2 bên. Đường rộng 4,8m, trong đó lối đi chính rộng 2m, hai lối đi hai bên mỗi bên rộng 1,40m. Lối đi chính cao hơn hai lối đi phụ 2 bên từ 5 - 7cm; mặt đường được lát bởi đá phiến hoặc đá lớp. Rìa ngoài mép đường được kè đá phiến sét hoặc đá vôi chắc chắn. Qua khai quật còn tìm thấy vết tích của con đường ở nền đàn 2 và nền đàn 3, tuy nhiên dấu vết còn lại cho thấy con đường thần đạo chạy suốt từ nền trung tâm qua nền đàn 2, xuống nền đàn 3 và còn tiếp tục xuống nền đàn 4 và 5. Việc tìm thấy con đường thần đạo góp phần quan trọng để xác định trục trung tâm của Đàn Nam Giao và các kiến trúc hai bên trục đường trung tâm. + Đường giữa vòng đàn 1 và vòng đàn 2 Qua các cuộc khai quật đã làm xuất lộ dấu tích đường đi giữa hai vòng đàn. Từ nền thứ cấp, qua cửa ngách hai bên dẫn vào đường này; đường được chia ra thành hai hướng: hướng Bắc Nam và hướng Đông Tây. Đường theo hướng Bắc Nam có chiều rộng 2.40m, hướng Bắc dẫn vào dải đá núi (khu vực có các phiến đá núi tự nhiên trông như hòn non bộ); hướng Nam tiếp tục dẫn vào đường thần đạo. Đường theo hướng Đông Tây có chiều rộng 4.30m, hướng đi vào đường thần đạo. Hiện tại, đường đi giữa hai vòng đàn có nhiều gạch, ngói, đá đổ đè lên trên. Đây là ngói lợp tường và đá xây tường đổ ra. Việc nghiên cứu để tìm rõ về cấu trúc (có gạch lát hay có lợp mái đường hay không) đến nay vẫn đang là một câu hỏi của các nhà nghiên cứu. + Đường dưới chân nền đàn 2 Qua khai quật đã phát hiện đường này dưới chân của kè đá ngăn giữa nền đàn 2 và nền đàn 3, đường này được lát bằng đá phiến, đá lớp, đá vôi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Muốn vào con đường này phải qua 2 cửa ở phía Đông Nam và phía Tây Bắc, dấu vết còn lại là 4 cối cửa, độ dài khoảng cách của 2 cửa là: 73,40m, đường rộng 1,60m. Trên con đường này có những cống thoát nước kè bằng gạch bìa, gạch lát hoa chanh, đá phiến; đáy cống lát gạch bìa hoặc đá phiến; cửa cống rộng 0,38m, sâu 0,13 - 0,15m. 3.5.3. Dấu tích nền sân lát gạch Qua các đợt khai quật đã phát hiện dấu tích nhiều mảng gạch lát sân ở vòng đàn 1. Sân lát bằng 2 loại gạch: gạch vuông mỗi cạnh dài 0,48 - 0,50m; gạch bìa hình chữ nhật thường được lát sát với hàng kè đứng của tường đá. Như vậy, đã có những bằng chứng đầu tiên để nghĩ rằng toàn bộ sân của nền đàn 2, 3 có thể được lát gạch. 3.5.4. Hệ thống cống thoát nước Hệ thống cống thoát nước nằm ở dưới tường đá các vòng đàn. Cống lớn nhất nằm ở góc phía Đông Nam của nền đàn 3, có chức năng thoát nước của con đường đi dưới chân của nền đàn 3 và nước từ các nền đàn bên trên thoát xuống qua các hệ thống cống chân nền. Cống được làm ở góc phía Đông Nam của đàn và được làm chui ngầm qua tường dọc của vòng đàn 3. Cửa cống phía trong nằm ở hướng Tây Bắc, cửa cống phía ngoài nằm ở phía Đông Nam, đáy cống được lát bằng đá phiến, đá lớp. Đây là một cống lớn, dẫn nước chảy qua tường, còn khá nguyên vẹn. 3.5.5. Dấu tích Giếng Vua Ở góc phía Đông Nam của nền 4, khu vực giếng Vua (theo cách gọi của nhân dân ở đây) đã được khai quật. Tại đây đã phát hiện ra một giếng hình vuông xây bằng đá. Theo sách Vĩnh Lộc huyện chí của Lưu Công Đạo thì giếng đá có tên là Ngự Dục hoặc Ngự Duyên. Hiện tại khu vực giếng đang được tiếp tục khai quật. Giếng nằm cách kè đá của chân nền đàn 3 là 7m về phía Tây Nam. Giếng được xây gồm nhiều lớp thành bằng đá hình vuông đồng tâm, trên to dưới nhỏ dần. Thành và miệng giếng bên trên đã bị mất. Thành giếng còn lại ở trên cùng mỗi chiều rộng 14m. 4. Di vật: Qua các đợt khai quật, hàng ngàn di vật đã xuất lộ gồm: - Gốm men: Hầu hết là gốm men thế kỷ XIV - XV gồm: Gốm men ngọc Việt Nam và Trung Quốc, gốm lam mờ, gốm men trắng ngà rạn, gốm men nâu, gốm hoa nâu, gốm trong men trắng ngoài men nâu. Đồ gốm men thế kỷ XVI, thế kỷ XVII có tỷ lệ rất ít, đều là gốm men trắng vẽ lam. Loại hình gốm men thế kỷ XIV có: Bát, đĩa, cốc, bình vôi... - Vật liệu kiến trúc và trang trí kiến trúc: Hầu hết là thế kỷ XIV - XV, gồm: ngói mũi sen đơn, kép, gạch bìa (nhiều viên có kích thước lớn 43-48,5cm x 24-26cm x 6-7,5cm), ngói sen cỡ lớn (42cm x 30cm x3,7cm, mũi cao 8cm), ngói mũi vát (40cm x 21cm x 1,8cm), ngói bò dài 46cm x 31cm, ngói âm, dương, mảnh lá đề, mảnh ốp kiến trúc, mảnh trang trí kiến trúc in hình rồng... - Đồ kim loại: + Đinh sắt: Có rất nhiều đinh sắt với nhiều kiểu dáng, dài ngắn khác nhau. Số lượng rất lớn của đinh sắt đã cho hay, có khá nhiều ngói lợp trên mái, cũng như số lượng rui mè được sử dụng đinh sắt. + Mũi tên: Sự có mặt của khá nhiều mũi tên, kim loại chứng minh rằng: Những mũi tên này có thể được dùng trong nghi lễ và được lưu trữ trong kho đặt tại khu vực này hoặc có thể đã có xung đột quân sự xảy ra ở khu vực Đàn Nam Giao sau khi đàn này bị huỷ bỏ. + Tiền đồng: Ngoại trừ đồng tiền Ngũ Thù thời Đường có niên đại sớm nhất, còn lại các đồng tiền Nguyên Phong thông bảo, Thánh Nguyên thông bảo đều phù hợp với niên đại của Đàn Nam Giao. Chiếm số lượng lớn tiền đồng phát hiện được ở Đàn Nam Giao là tiền thời Nguyễn, trong đó đáng kể nhất là tiền Minh Mệnh thông bảo. Có chỗ những đồng tiền này được xâu thành 1 xâu gồm vài chục đồng. Rất có thể những loại tiền có niên đại muộn phát hiện ở đây là đồ tùy táng hoặc chôn dấu của giai đoạn sau. 5. Giá trị của nghiên cứu Đàn Nam Giao Tây Đô Niên đại tuyệt đối của Lễ tế Giao nhà Hồ đã được cổ sử nước ta ghi chép chính xác năm cử hành. Đại Việt sử kí toàn thư đã cho biết năm 1402 đã cử hành Lễ tế Giao đầu tiên và cũng là duy nhất: “Tháng 8 [1402] Hán Thương đắp Đàn Giao ở Đốn Sơn để lễ tế Giao, đại xá thiên hạ. Hôm tế, Hán Thương ngồi kiệu Vân Long, từ cửa Nam đi ra, các Cung tần, mệnh phụ, quan văn, quan võ trong Triều theo thứ tự đi sau. Mũ áo của đàn bà kém chồng một bậc, nếu bản thân là tôn quý thì không kém. Nhưng vì khi dâng chén rượu (Hán Thương) run tay, rượu bị đổ xuống đất nên phải dừng lại” [Ngô Sĩ Liên 1985: 194]. Đàn Nam Giao luôn luôn được dựng ở phía Nam Kinh thành và có cự ly không xa để thuận lợi cho việc tế lễ của Vương triều. Đàn Nam Giao được xây dựng dưới Triều Hồ, năm 1402, tuy niên đại không cổ bằng Đàn Nam Giao Thăng Long nhưng cũng thuộc vào loại đàn Nam Giao cổ nhất ở nước ta. Mặt khác, với mặt bằng hiện biết cũng cho thấy đây là một đàn tế hết sức độc đáo được xây dựng ở vị trí khác biệt so với tất cả các Đàn Nam Giao khác đã biết và có cấu trúc phức tạp nhất. Sức hấp dẫn của Đàn Nam Giao thời nhà Hồ vừa ở tính chất cổ kính, vừa ở quy mô hoành tráng, dấu tích rõ ràng, được dựng dựa vào núi, trong khi các Đàn Nam Giao của các triều đại phong kiến Việt Nam và các quốc gia khác được dựng ở vùng đồng bằng. Điều đặc biệt của Đàn Nam Giao nhà Hồ là chỉ cử hành lễ tế Giao một lần duy nhất đã bị huỷ bỏ cho nên vẫn giữ được tính nguyên gốc của lần khởi dựng. Đàn Nam Giao nhà Hồ được khai quật và phát lộ đã góp thêm một di tích kiến trúc thuộc vào loại quan trọng nhất, bổ sung vào quần thể kiến trúc Kinh đô Tây Đô, làm tăng thêm giá trị của Thành Nhà Hồ. Cuộc khai quật lần thứ 4 mới nhất đã làm phát lộ cơ bản cấu trúc Trung tâm đàn tế với một hình thức kiến trúc đặc biệt, hoàn toàn khác với các đàn tế đã được biết đến. Tại nền Trung tâm đàn tế có kết cấu Vuông - Tròn, có cổng đi ngược lên phía núi. Với các nền đàn tế phụ đã khẳng định đây là đàn tế được hợp tế nhiều loại thần khác nhau. Đây là một di tích kiến trúc quý hiếm, không chỉ đối với lịch sử triều Hồ mà còn là một mắt xích quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử đàn tế và nghi lễ tế Giao thờ trời đất ở Việt Nam và trên thế giới. 6. Hướng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di tích Kết quả từ các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy mặt bằng cấu trúc, đặc biệt là các nền kiến trúc, vòng tường bao quanh kiến trúc trung tâm, giếng đá hình vuông đã cho phép xác định chính xác đây chính là nền móng của Đàn Nam Giao của nhà Hồ. Di tích này hoàn toàn phù hợp với những ghi chép trong Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Nam nhất thống chí và văn tự cổ nước ta. So với các Đàn Nam Giao khác, Đàn Nam Giao Tây Đô có giá trị lịch sử - văn hoá nổi bật ở chỗ: Đây là Đàn Nam Giao cổ còn giữ được cấu trúc nền móng tương đối nguyên vẹn, là Đàn Nam Giao có quy mô hoành tráng, là di tích hòa quện kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên. Qua các thành phần kiến trúc còn lại, chúng ta hoàn toàn có thể phục dựng được diện mạo của Đàn Nam Giao thời Hồ. Vì vậy, thời gian tới di tích cần tiếp tục được đầu tư nghiên cứu, quản lý và phát huy giá trị. Trước hết, theo dự án đã được phê duyệt, trong năm 2010 và 2011, phải khẩn trương khai quật toàn bộ các cấp nền còn lại để làm rõ mặt bằng cấu trúc di tích. Song song với công tác nghiên cứu tại hiện trường, cần tiến hành nghiên cứu đối sánh với hệ thống các di tích đàn tế trong nước và trên thế giới. Đồng thời, mở các cuộc hội thảo khoa học để thảo luận nhằm hiểu rõ hơn cả về giá trị cũng như ý nghĩa của di tích quý giá này. Trên cơ sở nghiên cứu khảo cổ học kết hợp nghiên cứu liên ngành cần tiến hành xây dựng bản vẽ đồ hoạ 3D nhằm tiến tới lập dự án đầu tư phục dựng di tích này góp phần quan trọng vào việc phát huy giá trị Di tích Đàn Nam Giao nói riêng và Khu Di tích Thành Nhà Hồ nói chung. Để có thể thực hiện thành công các kế hoạch trên, trước mắt công tác giải phóng mặt bằng đối với các hộ dân ở nền 3 và nền 4 để đảm bảo tính toàn vẹn của di tích, trả lại cảnh quan cho khu di tích cần được ưu tiên thực hiện để công tác khai quật khảo cổ thực hiện đúng tiến độ. Đồng thời tạo tiền đề cho việc lập quy hoạch bảo tồn tôn tạo trong thời gian tới. Cần sớm có dự án thiết kế để bảo vệ và tôn tạo giếng Vua một cách cấp bách, vì do độ dốc cao, nên sau mỗi lần mưa tình trạng xói lở và bồi lấp giếng lại diễn ra. Hiện nay, công tác khai quật khảo cổ học tại Đàn Nam Giao Tây Đô đang tiếp diễn, để bảo quản tốt các di tích kiến trúc phát lộ, phục vụ nghiên cứu và khảo sát của ICOMOS trong quá trình kiểm tra Di sản Thành Nhà Hồ thì phương án xây dựng nhà bao che, làm bảo tàng ngoài trời là việc rất cần thiết. Với kết quả qua 4 lần khai quật, những gì thu được đã cho phép ta khẳng định những giá trị độc đáo và quý hiếm của Đàn Tế Giao thời nhà Hồ. Đồng thời với những gì còn lại đủ thông tin cho phép ta có thể phục dựng lại di tích quý hiếm này, vừa góp phần bảo tồn di sản của cha ông, vừa phục vụ cho nhu cầu tham quan của du khách nhằm phát huy giá trị của Đàn Nam Giao nói riêng, Thành Nhà Hồ nói chung. NGÔ HOÀI CHUNG
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 18:04:44 GMT 9
Chùa Thầy Chùa Thầy còn có nhiều tên gọi: chùa Sài, chùa Cả, Thiên Phúc tự...Chùa được khởi dựng vào thời Vua Lý Nhân Tông (1072-1127), gắn liền với tên tuổi Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Cụm kiến trúc chính của chùa Thầy toạ lạc trên khoảng đất bằng phẳng dưới chân Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội). Trước cửa chùa có hồ Long Trì, Thuỷ Đình hình vuông nổi trên hồ, có nền móng được xây bằng đá ong vững chắc, mặt nền nhà lát gạch bát tràng. Kiến trúc chồng diêm tám mái, kiểu “tàu đao - lá mái”, bốn cột cái cao vọt lên để đỡ hoành mái, vì kèo kiểu “chồng rường - bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi hài. Kiến trúc Thuỷ Đình có niên đại khá lâu đời, từ thời nhà Mạc, đã được tu sửa vào thời Nguyễn. Xưa kia Thuỷ Đình để trống 4 mặt, với chức năng nguyên thuỷ là một Tam Quan. Đây là một Tam Quan độc đáo, bởi không dùng làm cổng vào chùa và chỉ mang tính tượng trưng, đặt giữa hồ nước. Sau này, người ta đã xây ba mặt tường của Thuỷ Đình để chuyển đổi chức năng làm nơi biểu diễn rối nước trong mỗi kỳ lễ hội. Nhật Tiên kiều và Nguyệt Tiên kiều nằm ở hai bên phía trước của toà Tiền Đường. Chiếc cầu tại chùa Thầy được xây dựng vào năm 1602, do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan tiến cúng. Móng cầu xây bằng đá ong, vói 3 vòm cuốn. Sàn cầu lát gạch Bát Tràng màu đỏ. Vì kèo kiểu “kèo cầu bốn hàng chân”, khoảng cách giữa hai cột cái 2,7m, cũng chính là chiều rộng của lòng cầu. Đền Tam Phủ án ngữ phía Đông Nhật Tiên kiều, xây dựng trên gò đất nổi giữa hồ, là một căn nhà 3 gian, dài 7m, rộng 5m, tường bao xung quanh được xây bằng đá ong màu nâu thẫm. Tiền Đường gồm ba gian, hai chái, dài 20m, rộng 5m, cao 5,2m. Tiền Đường được chịu lực bởi 8 cột cái và 16 cột quân. Hai đầu kìm của toà Tiền Đường gắn đôi lân trong tư thế xô vào nhau, miệng lân nhả ra các dải uốn lượn, thân lân gắn các mảnh sứ. Hai dãy hành lang chạy dọc hai bên Chánh Điện, dài 30m, rộng 2,8m. Mỗi hành lang được chia làm 13 gian thờ thập bát La Hán. Đầu hồi phía sau của hành lang nối liền với gác chuông, gác trống. Chánh Điện (Điện Phật) là toà nhà thứ hai trong cụm kiến trúc trọng tâm của chùa Thầy, nằm phía sau Tiền Đường, với kết cấu ba gian hai chái, dài 20m, rộng 9,5m, cao 5,5m (tính từ nền nhà tới thượng lương). Khung chịu lực của toà Điện Phật gồm 8 cột cái và 16 cột quân, khoảng cách giữa 2 cột cái 4,65m; giữa hai cột quân rộng 2,6m. Nền Chánh Điện cao hơn mặt sân 1,5m, cao hơn Tiền Đường 0,5m. Lối lên Điện Phật phải đi sang hai bên, chia làm 3 bậc cấp theo khẩu độ chênh nhau 0,5m. Mái giống với mái Tiền Đường, theo kiểu “tàu đao-mái lá”, lợp bằng ngói mũi hài, phía dưới có diềm lá sòi cách điệu trang trí cánh sen vuông. Hoành trên mái Chánh Điện rải theo lối “thượng tứ - hạ tứ”, đã nâng độ cao của mái lên rất nhiều. Chánh Điện cũng dùng 4 kẻ xó hỗ trợ đao, nhưng dài và lớn hơn ở Tiền Đường. Những chiếc bẩy giả nơi đây cũng chưa từng thấy xuất hiện trong bất kỳ kiến trúc cổ nào ở Việt Nam. Trong kiến trúc truyền thống, sử dụng kẻ làm thành phần nối liền giữa cột cái và cột con, qua cột quân chạy thẳng ra ngoài để đỡ mái hiên. Với Chánh Điện chùa Thầy, mặt sau của vì kèo ba gian giữa, kẻ được làm chệch ra phía ngoài cột 0,8m tạo thành bẩy giả, đã làm mở rộng lối đi từ Điện Phật lên Điện Thánh. Lối sử dụng con sơn chống kẻ tại đây cũng thường gặp trong những ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XVII. Mặt trước ba gian chính của Chánh Điện bỏ trống tạo thành cửa đi vào, hai bên được ghép ván tạo thành cửa bức bàn. Hai hồi và tường phía sau bưng kín, có các ô cửa hình chấn song, cùng những ô hộc chạm thủng để lấy ánh sáng. Khám thờ ở hai đầu hồi cũng kết cấu độc đáo. Người thợ 35 đã nối cột cái ra cột quân, ở phía dưới bằng những xà nhỏ để tạo ra hai khám thờ Đức Ông và Thánh Tăng. Theo các nhà nghiên cứu, bộ mái của Chánh Điện chùa Thầy có niên đại thời Nguyễn, còn bộ khung có niên đại thế kỷ XVII. Điện Thánh được xây dựng trên nền cũ của ngôi chùa thời Lý, tuy nhiên đã được trùng tu rất lớn vào thế kỷ XVII, tới thời Nguyễn tiếp tục được sửa chữa. Điện Thánh gồm ba gian hai chái, dài 14,7m, rộng 11,7m, chiều cao từ nền tới thượng lương 6m. Toàn bộ khung chịu lực gồm 4 cột cái (đường kính 0,5m) và 16 cột quân (đường kính 0,45m), tất cả các cột đều được kê trên các tảng đá hình vuông có kích thước 0,9x0,9m. Trong số 4 cột cái có hai chiếc cột vô cùng quý giá, là di sản của ngôi chùa thời Trần còn sót lại, đã 800 năm tuổi. Hai chiếc cột này, một chiếc bằng gỗ pơ mu (Ngọc Am) và một chiếc bằng gỗ chò chỉ, được các nhà khảo cổ học đánh giá là hai chiếc cột gỗ cổ nhất Việt Nam. Vì kèo của hai gian giữa có khẩu độ rộng bất thường so với các kiến trúc khác của ngôi chùa Việt. Khoảng cách giữa cột cái là 6m, giữa cột cái và cột quân 2,9m. Điện Thánh cũng không sử dụng tường chịu lực, bốn mặt được bưng bằng hệ thống cửa gỗ và ván liệt bản. Các cửa bức bàn phía trước có thể tháo ra lắp vào dễ dàng. Rất nhiều nhà nghiên cứu khảo cổ học đã đánh giá Điện Thánh ở chùa Thầy là toà hậu cung sớm nhất nước ta. Chùa Thầy còn bảo lưu được 36 pho tượng cổ, niên đại từ thời Lý đến thời Nguyễn, xếp thứ 3 về số lượng tượng cổ (sau chùa Mía có 252 pho và chùa Cói có 37 pho). Toà Điện Phật bài trí 6 lớp tượng. Tam Thế Phật ngự trên tầng cao nhất của toà Điện Phật, cả ba pho đều trong tư thế thiền định, chân xếp chữ X, cùng kích thước (cao 0,82m). Pho ở giữa với mái tóc kết xoắn ốc, khoác cà sa chùng rộng, nếp áo phủ cân xứng qua hai bờ vai. Pho bên trái, cổ đeo chuỗi anh lạc, tay trái đặt lên gối trái, nếp áo cà sa luồn thưa hơn, vắt từ vai trái qua vai phải. Pho bên phải, tay trái đặt trước lòng với ngón cái cong lên, tay phải đặt ngửa trên đùi phải. Lớp thứ 2 là Tuyết Sơn, tiếp theo đến Di Lặc (thế kỷ XVIII). Quan Âm thiên thủ thiên nhãn niên đại thế kỷ XVIII ngự ở hàng thứ 4, cao 0,8m, trong tư thế kiết già trên đài sen, đôi tay chính chắp trước ngực, 8 đôi tay còn lại xoè sang hai bên, cầm bát bửu (tháp, kéo, ngọc, chuông...). A Di Đà ngự ở hàng thứ 5, Toà Cửu Long bố trí ở lớp thứ 6, tạo tác vào thế kỷ XIV. Xung quanh nhang án và toà cửu Long đặt bộ Kim Cang. Hai bên điện Phật bài trí 2 dãy Thập Điện Diêm Vương quay mặt vào nhau, nay chỉ còn 6 pho. Cùng dãy có thêm tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, không có tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế. Điện Phật còn có các tượng: Thánh Tăng; Diệu Nhiên; Đại Sỹ; Đức Ông (2 pho); hộ pháp (2 pho); Tứ Trấn (4 pho); tượng ngựa (2 pho). Đặc biệt nơi đây có tượng Khuyến Thiện thế kỷ XIV, cưỡi sư tử, tay nâng ngọn tháp, chất liệu đất sét giấy bồi. Toà Điện Thánh bài trí nhiều pho tượng cổ quý giá: bộ Di Đà Tam Tôn; tượng A Di Đà nhỏ (thế kỷ XVII); tượng Từ Đạo Hạnh; tượng Lý Thần Tông; tượng Phỗng... Hai dãy hành lang bên ngoài Điện Phật bày 18 vị La Hán.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 18:06:37 GMT 9
Chùa Thầy có hệ thống bệ (cơ đài) phong phú, thuộc nhiều thời đại (Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn), với nhiều chất liệu (đá, gỗ). Đáng quan tâm nhất, phải kể đến các bệ: bệ đá sư tử đội toà sen thời Lý; bệ đá hoa sen hình hộp thời Trần; bệ tượng Vua Lý Thần Tông (gỗ, thế kỷ XV); bệ gỗ Tam Thế (gỗ, thế kỷ XVI); bệ Di Đà Tam Tôn (gỗ, thế kỷ XVII); bệ Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn (gỗ, thế kỷ 18); bệ tượng Di Lặc và bệ Thích Ca Sơ Sinh (thế kỷ XIX)... Ngoài hệ thống tượng và bệ, chùa Thầy còn rất nhiều di vật quý báu: nhang án, khám, đồ tế khí; hạc; phượng; chân đèn; lư hương; sập thờ; khánh; chuông; nhiều bia đá; sắc phong...Chùa Thầy còn bảo lưu được bảy nhang án cổ, đặt trong toà Điện Thánh và toà Điện Phật. Bên phải khám thờ, có giá gỗ dắt bộ kiếm thờ gồm 8 chiếc thế kỷ XVII, trong đó có một chiếc chạm rồng và hổ phù, một chiếc chặm hoa văn quy bối và kỳ hà. Hai bên của tượng Vua Lý Thần Tông có bộ di vật thế kỷ XVII, bên trái có tiêu, sáo, hòm sách; bên phải có 4 thanh đao, 1 thanh kiếm, 2 chiếc gậy, 1 chuỳ, 1 phủ việt. Cạnh sập thờ, sau tượng Vua Lý Thần Tông có một hòn đá thờ từ thế kỷ XVII. Gian phía bên phải toà Điện Thánh có đôi hạc được chế tác vào thế kỷ XVIII. Gian bên trái toà Điện Thánh có 3 con phượng bằng gỗ ở tư thế đứng, thế kỷ XVIII. Góc bên trái phía trong cùng của toà Điện Thánh, ngay sau 3 con phượng có một chiếc sập bằng gỗ, được tạo tác từ thế kỷ XVII. Xưa kia chùa có quả chuông đồng lớn, đúc vào năm Long Phù Nguyên Hoà thứ 9 (1109), nhưng đáng tiếc ngày nay không còn. Chuông bảo lưu hiện nay, được đúc lại vào năm Giáp Thân 1794. Chuông cao 1,75m; đường kính đỉnh 0,44m; đường kính miệng 0,93m. Cả bốn ô của chuông đều chia làm 2 phần, phần rộng khắc bài minh, phần nhỏ ghi tên những người công đức việc đúc chuông. Chuông có 4 núm gõ. Quai chuông hình rồng cuốn thời Lê, cao 0,55m. Chùa Thầy có 7 tấm bia đá, được chạm khắc vào các năm 1653; 1666; 1673; 1683; 1672; 1717. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ 26 đạo sắc phong của các triều đình phong kiến, niên đại trải dài từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Một trong những di vật quý giá nhất của chùa Thầy, được các nhà khảo cổ học quan tâm nghiên cứu, là lưng ngai thời Trần. Rất nhiều tác phẩm của các nhà nghiên cứu khảo cổ đều cho rằng: lưng ngai bằng gỗ ở chùa Thầy là một trong số hiếm hoi những di vật gỗ thời trần vượt qua được sự huỷ hoại của thời gian đến ngày nay, và đây cũng là cỗ lưng ngai cổ nhất Việt Nam. Hiếm thấy ngôi chùa nào đã ngót ngàn năm tuổi, vẫn giữ vị trí toạ lạc không thay đổi như Thiên Phúc tự. Dĩ nhiên không thể còn nguyên vẹn kiến trúc thời Lý do Thiền sư Từ Đạo Hạnh xây dựng, dấu tích còn lại đến bây giờ là kết quả của những đợt trùng tu lớn (vào thế kỷ XVII, thế kỷXVIII, thời Nguyễn). Dường như tại đây, những người thợ mỗi lần tham gia trùng tu đã có ý thức bảo lưu những kết cấu kiến trúc theo kiểu cũ, nhưng mở rộng và nâng cao để chứa đựng được khối di vật luôn được bổ sung trong đó. Số lượng di vật chùa Thầy vô cùng đồ sộ, niên đại trải dài từ thời kỳ khởi dựng cho tới ngày nay. Sẽ không ngoa nếu ví chùa Thầy như một bảo tàng sưu tập hiện vật của nhiều thời đại. Chu Minh Khôi
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 18:08:33 GMT 9
Đình Chèm Đình Chèm là đình của làng Chèm (Thủy Phương), xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đình Chèm là một trong những ngôi đình được coi là cổ nhất Việt Nam. Từ ngàn năm nay, đình Chèm là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng: làng Hoàng, làng Mạc và làng Chèm của xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đình thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm). Chèm là từ Việt cổ, gốc là T'lem, cũng là tên của huyện Từ Liêm được lập năm 621. Làng Chèm là quê của Lý Ông Trọng, tên thật là Lý Thân, nhân vật có dáng vóc khổng lồ, sức khỏe phi thường, nổi tiếng nước Nam thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Lý Thân (Đức Thánh Chèm) sinh vào thời Hùng Duệ Vương, mất vào thời Thục An Dương Vương. Thuở nhỏ ông là một cậu bé cực kỳ khôi ngô, có tầm vóc cao lớn lạ thường. Lớn lên, Lý Thân văn giỏi, võ tài, tính tình hiếu nghĩa, cương trực. Thời bấy giờ có giặc Ai Lao, Chiêm Thành và phía Bắc thường hay quấy nhiễu biên thùy. Nhà Vua xuống chiếu cầu người tài đức ra dẹp giặc cứu nước. Phủ Quốc Oai bèn tiến cử Lý Thân. Ông lĩnh ý đi dẹp tan giặc, lập được nhiều công lớn. Cuối đời Vua Duệ Vương, đất nước Văn Lang bị quân Tần xâm lược, ông hợp với Thục Phán cùng quân dân Lạc Việt chống giặc hàng chục năm trời. Cuối cùng giặc phải quay đầu bỏ chạy, Thục Phán lên làm Vua lấy hiệu là An Dương Vương. Lúc bấy giờ khi nhà Tần bị giặc Hung Nô quấy phá. Tần Thủy Hoàng đắp Vạn Lý Trường Thành mà không ngăn chống nổi bèn sai sứ sang cầu An Dương Vương cho tướng tài sang giúp. Triều đình nhà Thục bèn cử Lý Thân sang giúp nhà Tần để tạo mối bang giao giữa hai nước. Tần Thủy Hoàng thử tài thấy văn đạt “Hiếu Liêm” (Tiến sĩ), võ đạt Hiệu úy” (Tổng chỉ huy) bèn phong ông làm Tư lệnh Hiệu úy và nhờ ông đi dẹp giặc Hung Nô, cho xuất 10 vạn quân trấn ải Hàm Dương. Thắng trận trở về, Vua Tần phong ông chức Phụ Tín Hầu và gả Công chúa cho. Vua Tần cũng ngỏ ý muốn giữ ông ở lại nước Tần nhưng ông đã từ bỏ vinh hoa phú quý, đem theo vợ con trở về quê hương. Về nước, ông được Vua Thục An Dương Vương phong tước Đại Vương. Khi Lý Thân mất, dân làng lập đền thờ ông, sau sửa thành đình. Theo lời kể của dân làng thì đình có niên đại cách đây hơn 2000 năm. Song hiện trong đình chỉ lưu giữ được nhiều hình chạm khắc gỗ phong cách thế kỷ 18, có hai pho tượng vợ chồng Lý Thân bằng gỗ sơn son thếp vàng tạc năm 1888. Đình Chèm là một công trình kiến trúc có quy mô bề thế và liên hoàn, bố cục nội công ngoại quốc, mĩ thuật điêu khắc lộng lẫy tinh vi. Bên trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi; bên ngoài có tam quan, 4 cột đồng trụ cổ kính. Đi từ ngoài đình Chèm vào là tam quan bố trí đầy đủ tứ linh quay ra bốn hướng. Bên trong xây ba gian, bốn mái và năm cửa ra vào. Khu nhà bia, sân đình, tả mạc, hữu mạc, phương đình tám mái và tòa đại bái, hậu cung tạo thành hình chữ “công”. Nhìn chung, các nét khắc hình rồng cuốn nước, rồng mây, cá hóa rồng, hoa lá, sóng nước... mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 18). Hậu cung có án thờ, sập thờ, long ngai, bài vị, khám thờ. Tượng Ông Trọng, tượng bà vợ, tượng sáu người con của ông bà được tạo tác vào năm 1888. Là một kiến trúc cổ kính, đình Chèm đã qua nhiều lần tu sửa và xây thêm như hậu cung làm năm Đức Long thứ 3 (1621), tam quan sửa lại năm Cảnh Hưng thứ 34 (1773) và các lần khác vào các năm 1792, 1797, 1885, 1903 và 1913. Một sự kiện đặc biệt trong việc sửa chữa đình này được ghi lại trong tấm bia đình Thụy Phương, đó là nâng toàn bộ ngôi đình lên như kiệu khiêng người, nên gọi là “kiệu đình Chèm” vào năm 1903. Do việc lùi con đê vào phía trong nên đình Chèm nằm ở ngoài đê. Nước lũ lên cao, nếu ngập đình sẽ hư hỏng nặng, mà dỡ đình ra, tôn lên rồi xây lắp lại thì quá tốn kém. Thợ cả Vương Văn Địch, người làng Văn Trì (xã Minh Khai, huyện Từ Liêm) đứng đầu một hiệp thợ đã đưa ra sáng kiến: dùng gỗ làm đà, treo quang bỏ gạch, để kích dần dần toàn bộ ngôi đình lên cao 2,4 mét theo phương pháp đòn bẩy và đã thành công. Đình Chèm còn giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, cách đắp tượng dưới thời Nguyễn. Ba sắc do các vua Triều Nguyễn phong thần cho Lý Ông Trọng, bốn bia đá (một tấm thời Lê Cảnh Hưng và ba tấm thời Nguyễn), hai chuông đồng đúc dưới thời Nguyễn, 15 câu đối, 8 bức hoành phi, 10 pho tượng thờ. Ngoài ra, trong đình còn có nhiều đồ thờ tự có giá trị nghệ thuật cao. Hàng năm, hội Chèm diễn ra từ 14 đến 16 tháng 5 Âm lịch, trong đó ngày 15 là ngày hội chính với sự tham gia của ba làng kết nghĩa: Chèm (anh cả), Hoàng Xá (anh hai) và Mạc Xá (anh ba). Tục kết nghĩa này có gốc từ việc Nguyễn Văn Chất (Thành Hoàng làng Hoàng Xá) từng đi sứ cùng Lý Thân và làm Quản mã cho Đoàn sứ bộ; còn làng Mạc Xá thờ vọng Lý Thân. Đáng xem nhất là lễ rước nước sáng ngày 15, có ba con thuyền rồng của ba làng bơi ra giữa sông Hồng múc nước sông đổ vào chĩnh rồi biểu diễn quay thuyền ba vòng trước khi bơi vào bờ. Sau đó là đám rước nước vào đình. Đám rước cũng có nhiều nghi thức cổ truyền đáng để các nhà văn hoá học và dân tộc học quan tâm nghiên cứu. Và cuối cùng tại hội này còn có cuộc thi thả chim bồ câu, các đàn chim bồ câu được thả cho bay lên trời, thường là cao tới vài ngàn mét và nếu đạt được những quy định thì sẽ được giải. Đình Chèm là một di sản văn hoá quý hiếm của Hà Nội nói riêng và của cả nước nói chung, với Thủ đô, ngôi đình còn được gọi là viên ngọc quý. Đình Chèm đã được Nhà nước công nhận là Di tích cấp Quốc gia năm 1990. Trần Hoàng
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:06:48 GMT 9
Những phát hiện mới nhất về Tứ Bất Tử Việt Nam Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện Trong tín ngưỡng thờ bách thần của người Việt, “hoặc có vị là tinh túy của núi sông, hoặc có vị là nhân vật linh thiêng, khí thế lừng lẫy về trước, anh linh còn mãi về sau”(Lời tựa sách Việt điện u linh), nhưng có 4 vị thần được dân gian tôn vinh là Tứ bất tử. Đó là bốn vị linh thiêng trường sinh bất tử trong thần điện Việt Nam. Mọi người vẫn cho rằng đó là Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Tháng Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thực ra, trong lịch sử đã đã diễn ra không phải hoàn toàn như vậy, và trong chúng ta không phải ai cũng biết Tứ bất tử là những ai và có từ bao giờ. Những ghi chép trong thư tịch cổ Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử mà chúng tôi được biết là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, (VHv.1772/3 q.6) do Nhà in Phúc Khê, in năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự Đức. Bản Dư địa chí mà chúng ta hiện có là một công trình nghiên cứu tập thể. Ngoài lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn, Dư địa chí còn có những phần do người các thời sau (cụ thể là người các thế kỷ 16, 17, 18) đã thêm vào và sửa chữa nhiều lần. Trong số họ, có Thư Hiên Nguyễn Tông Quai (1693-1767). Thư Hiên Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí (VHv.1772/3 tờ 13a) của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau: “... Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy” (Nguyễn Thư Hiên viết: ... Thanh nhân xưng Tản Viên Đại Vương chi tự hải vãng sơn; Phù Đổng Thiên Vương chi kỵ mã đằng không; Chử gia Đồng tử chi trượng lạp thăng thiên; Ninh sơn (kim Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh chi ấn thạch đầu thai. Vị An NamTứ bất tử vân). Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1911) người làng Đường Lâm là nhà học giả nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910 có viết: “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. (Án: Ngã Tứ bất tử chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn hiến khả trung. Kim tục chi). Trên đây là những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua những tài liệu đó: Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản in trong tập Vang bóng một thời, có viết: “... Bốn vị Tứ bất tử nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng thiên vương”. Hà Kỉnh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh viết: “Ở Việt Nam ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”. Vũ Ngọc Khánh và Ngô Đức Thịnh, trong chuyên khảo Tứ bất tử chỉ thấy trình bày về bốn vị thánh bất tử gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Như vậy các vị Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ và Thánh Gióng luôn luôn cố định và nhất quán trong các tài liệu, các thời đại. Khi Liễu Hạnh chưa giáng sinh thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không được xếp vào hàng Tứ bất tử. Thư tịch cổ cũng cho biết rằng, việc người Việt thờ phụng Tứ Bất Tử được người Trung Hoa biết đến và ghi nhận. Điều đó chứng tỏ việc phụng thờ Tứ Bất tử là một nét tâm linh rất độc đáo và riêng khác của người Việt. Lý giải về Tứ bất tử Trước hết, nói về con số bốn (tứ). Trong tư duy của người Việt, con số này mang tính ước lệ và có ý nghĩa lớn. Tứ (bốn) là một hằng số được dùng để khái quát về một phạm trù nào đó. Ví dụ: Tứ trấn, An Nam tứ đại tài, Tràng An tứ hổ, Sơn Tây tứ quý, Mỗ-La-Canh-Cót tứ danh hương v.v.. Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của một tập hợp là chọn lấy những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại. Từ bất tử cũng là một tập hợp như vậy. Cũng chính vì thế mà có đến 6 vị thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không. Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh: tên gọi của vị Thần núi Tản, vị thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt. Tản Viên Sơn tức là núi Ba Vì, “núi tổ của nước ta” (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). Núi có ba ngọn cao chót vót. Ba anh em Thánh Tản (còn gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần) chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi. Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là TÍN NGƯỠNG THẦN NÚI (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, chúng tôi khẳng định rằng, nói Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi. Như vậy, đương nhiên cả ba vị thần đó đều thuộc Tứ bất tử. Cũng từ cốt lõi của tín ngưỡng thần núi của người Việt, cho nên có hiện tượng công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả) không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một só làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. Văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà chúng tôi khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên đây. Chử Đạo Tổ: Nếu như ở huyền thoại Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh, người ta có thể tìm thấy những lớp ý nghĩa cổ xưa nhất của tín ngưỡng chất phác, nguyên thủy bằng cách bóc tách những lớp trầm tích tiềm ẩn trong văn bản thần tích thì với huyền thoại Chử Đồng Tử, công việc trở nên rất khó khăn. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Dân gian tôn vinh Chử Đồng Tử là Chử Đạo Tổ là vì thế. Khảo sát hệ thống thờ tự ở đền chính thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, chúng tôi thấy, từ rất xa xưa, ở đó đã có ba pho tượng đồng và ba pho tượng đất mà cứ vị ngồi ở giữa là Chử Đạo Tổ, hai vị ở hai bên là Tiên Dung và Nội Trạch Tây Cung. Ở đình Tự Nhiên (huyện Thường Tín, Hà Tây), đối diện với Đa Hòa qua sông Hồng, khi mở hội cũng rước ba cỗ long kiệu ba vị kể trên. Mặc dù vậy, nếu xuất phát từ cốt lõi tín ngưỡng Chử Đạo Tổ thì trong số ba vị này, chỉ có Chử Đồng Tử, là thuộc về Tứ bất tử, của tâm thức dân gian Việt Nam. Thánh Gióng là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử. Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Liễu Hạnh và quá trình hội nhập vào Tứ bất tử: Trước kia, khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử có lẽ là từ những “tiêu chí” sau đây: - Cả hai vị đều “giáng sinh” trong một triều đại sớm của lịch sử Việt Nam. - Từ hai vị này đều làm nảy nở những câu chuyện đậm màu sắc Đạo giáo - một tín ngưỡng sớm đến với Việt Nam và có nhiều khả năng hội nhập với tín ngưỡng bản địa. - Hai vị này đều hóa thân sau khi mất, và đầu thai thành nhiều kiếp. Khi Liễu Hạnh “giáng sinh” vào khoảng thế kỷ XVI cũng chính là lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã hội loạn lạc, chiến tranh giết tróc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Phật giáo và Đạo giáo có cơ phát triển trong dân gian. Về Phật giáo, quan niệm Tịnh Độ tông với lối sống từ bi hỷ xả, với phương thức thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, với tính chất dung hòa và phổ cập đã trở nên thắng thế và phổ biến trong suốt các thế kỷ XVI và XVII. Còn Đạo giáo, với những bùa chú, phép thuật, với những lối hành đạo phức tạp bởi những biểu tượng đã nhiều lúc trở thành cứu cánh để người ta tìm về làm chỗ dựa và nuôi dưỡng niềm tin về sự giải thoát. Nội Đạo tràng ra đời vào lúc này và sớm trở nên thịnh hành, được vua Lê thừa nhận. Tín ngưỡng tam phủ, mà trung tâm là thờ Mẫu hình thành và phát triển khá nhanh. Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam. Nếu so với Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập nhật và phù hợp với thực tại. Ra đời trong thời kỳ đó, và với vai trò như vậy, việc tín ngưỡng Liễu Hạnh trở thành trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ và hội nhập với Tứ bất tử, trở thành biểu tượng của sự trường tồn là một điều dễ hiểu. Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một trong những trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân gian. Tóm lại, trong tâm thức dân gian Việt Nam từng có Tứ bất tử. Các vị từng được coi là có chân trong Tứ bất tử gồm: - Tản Viên Sơn thánh (3 anh em) - Chử Đạo Tổ - Thánh Gióng - Thánh Láng Từ Đạo Hạnh - Nguyễn Minh Không - Thánh Mẫu Liễu Hạnh Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất yếu. Tuy nhiên, những cắt nghĩa trên đây chỉ là những nét phổ quát nhất, trên mặt bằng tín ngưỡng của dân gian trong phạm vi rộng lớn, mang đặc điểm chung nhất. Ở một số nơi, một số vùng, quan niệm tín ngưỡng vẫn có những nét riêng, và tất nhiên, không phổ biến và chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, hẹp. Việc phụng thờ Tứ Bất tử là một tín ngưỡng thuần túy Việt Nam, kết tinh từ những truyền thuyết đẹp đẽ và là một bộ phận không thể tách rời trong di sản tôn giáo và tinh thần của đất nước. Và chính người Trung Quốc, từ bao đời nay cũng đã biết đến và ghi nhận tín ngưỡng Tứ Bất tử của Việt Nam.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:13:14 GMT 9
100 năm trước: Thương nòi giống, Thần tiên giáng bút Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc.Trong các nghi lễ của người Việt thời trước, có một không gian nghi lễ khá đặc biệt rất đáng để ý là thiện đàn. Ở đấy diễn ra một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo là giáng bút - một hiện tượng văn hoá tâm linh có thực trong xã hội Việt Nam, tức là cầu Thánh - Thần - Tiên - Phật cho mình những bài thơ, thông qua một người có năng lực đặc biệt. Song vì nhiều lý do mà giới nghiên cứu đã coi đó là một vùng cấm và không dành cho nó một sự quan tâm thích đáng, ngoại trừ hai học giả là Nguyễn Văn Huyên (Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam, 1944) và Đào Duy Anh (Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, 1989). Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn thơ văn giáng bút, với hàng vạn bài thơ, bài văn. Tài liệu có niên đại sớm nhất là năm 1825 được in tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay là di tích Việt Đông hội quán, số nhà 22 Hàng Buồm, Hà Nội. Về niên đại xuất hiện nhiều bản giáng bút nhất là các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm. Bối cảnh chính trị văn hoá xã hội Việt Nam thời Nguyễn Học giả Việt Nam đầu tiên quan tâm đến giáng bút có lẽ là Lê Quý Đôn. Trong khi đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) ông đã quan tâm tìm hiểu, sưu tầm được sách âm chất văn chú. Năm 1839 Âm chất văn chú được khắc in theo bản cũ do Lê Quý Đôn mang về từ Trung Quốc. Sách dày chừng 350 trang in. Nhưng bản Âm chất văn chú in năm 1839 không phải là bản in giáng bút sớm nhất mà ta thấy được trong kho sách Hán Nôm. Ngay từ năm 1825, tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (Hà Nội) đã tổ chức khắc in bộ sách Quan Phu tử kinh huấn hợp khắc (AC. 408), 150 trang in. Sách này chép lời giáng bút của Quan Thánh đế quân (Quan Phu tử, Quan Vân Trường). Suốt nửa cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều Thiện đàn được mở ra ở hầu khắp các tỉnh ở Bắc bộ: Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên,... Nội dung và hình thức thơ ca giáng bút càng về sau càng khác lúc ban đầu. Thời gian đầu là giáng bút của các vị thần của Đạo giáo Trung Quốc như Văn Xương Đế quân, Quan Thánh Đế quân...Các bài thơ văn giáng bút này được in trong một quyển sách và chúng không phải là văn bản có được sau một cuộc giáng bút cầu văn tại Việt Nam. Hay nói khác đi, nó chỉ như một cuốn danh ngôn mà những người tu đạo tâm niệm. Nội dung, do vậy mang tính chung chung. Văn giáng bút ở đây đều bằng chữ Hán, được diễn đạt bằng thơ luật. Về sau, do yêu cầu mới của đời sống xã hội, thơ giáng bút đã thay đổi. Các vị thần linh giáng bút không chỉ là có nguồn gốc Trung Quốc nữa, mà còn có các tiên nho liệt thánh Việt Nam, như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trưng Vương, Liễu Hạnh vv...Thơ do yêu cầu phải đến với quảng đại quần chúng nên đã có nhiều thơ lục bát, song thất lục bát. Văn giáng bút cũng phần nhiều không dùng chữ Hán mà dùng chữ Nôm. Các bản sách văn giáng bút cũng được sưu tập ngay từ đàn giáng bút và đưa đi khắc in ngay. Có tình hình ấy là do bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Ví dụ như khi các sĩ phu Hà thành lập ra hội Hướng Thiện, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan làm Hội trưởng thì mục tiêu đặt ra là: Hướng mọi người làm việc thiện, xây dựng một lối sống tốt đẹp, theo chuẩn mực của truyền thống. Về sau, hội Hướng Thiện mở mang thêm các hoạt động văn hoá như: tu sửa tôn tạo di tích đền Ngọc Sơn... Thực trạng kinh tế, xã hội Việt Nam từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp tuy đang trong giai đoạn xây dựng kiến thiết nhưng đã dần được củng cố. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và phát triển có đường hướng. Triều đình Tự Đức sau nhiều “khự nự” đã hoàn toàn bất lực trước sự lấn lướt của Thực dân Pháp và sự “đe dọa” của văn minh phương Tây. Trong triều đình ấy, nội bộ cũng đã có sự phân hóa, chia ra làm hai phái rõ rệt: Chủ chiến và chủ hòa. Vua Tự Đức thì ở phái chủ hòa. Một quan chức trong triều là Dương Khuê dâng sớ đề nghị đánh Pháp. Vua đã phê vào sớ: “ Bất thức thời vụ”, và đày ông đi sơn phòng, trông nom việc khai khẩn ở miền sơn cước. Chỉ sau khi Tự Đức băng, thì phái chủ chiến trong đám quần thần mới dần trở nên chiếm ưu thế, bởi được vua Hàm Nghi và một trọng thần quyền thế là Trương Đăng Quế làm hậu thuẫn. Năm 1885 phong trào Cần Vương được phát động chính thức và phát triển sâu rộng khắp Trung kỳ, Bắc kỳ. Phong trào Cần Vương đi vào suy thoái bằng sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn do nhà sĩ phu khoa bảng Phan Đình Phùng làm thủ lĩnh. Từ sau năm 1897 khởi nghĩa Hương Sơn thất bại, nhiều nơi trong đất nước đã từng có những cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy lẻ tẻ. Đòi hỏi của lịch sử về cứu nước, giành lại giang sơn tổ quốc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Thơ văn yêu nước thời kỳ này nhằm đến một quần chúng nhân dân đông đảo. Và để phù hợp với việc kêu gọi lòng yêu nước và tự hào dân tộc, các hình thức diễn đạt quen thuộc với đông đảo bình dân được lựa chọn. Thơ lục bát và song thất lục bát được ưa dùng. Những lối nói ẩn dụ về nòi giống, tổ quốc, giang sơn ...giàu sức biểu cảm được dùng phổ biến trong các lời văn giáng bút. Các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong dân gian có lồng ghép thêm những nội dung mới, nhằm thức tỉnh long yêu nước. Trong các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian, thì kê đàn giáng bút là một hoạt động tín ngưỡng đặc biệt. Ở đó con người giao tiếp với thế giới của Thánh - Thần - Tiên - Phật qua một người có biệt năng. Người này sẽ chuyển các thông điệp bằng văn thơ có nội dung khuyên bảo, răn dạy, kêu gọi của Thánh, Thần cho con người trên cõi trần gian. Hơn nữa giáng bút lại là một hoạt động tín ngưỡng ngưng kết nhiều thành tố đặc sắc của văn hoá dân gian như: thơ ca dân gian, múa dân gian, nghi thức tín ngưỡng...Tham gia vào giáng bút là tham gia vào tín ngưỡng, tham gia vào sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian nhằm tiếp xúc với một tiên giới trong tâm tưởng. Cũng chính vì hoạt động giáng bút là một hoạt động mang tính tổng hợp như vậy nên đã thoả mãn được nhiều giai tầng công chúng cho dù là các nhà khoa bảng, học hành đỗ đạt cao, nhà nho ở nông thôn, cho đến tầng lớp tiểu thương nơi phố thị, nông dân chốn quê mùa. Sức sống của giáng bút cũng ở đấy. Và sức sống của việc tuyên truyền yêu nước cũng ở đấy. Nó nương vào tôn giáo, tín ngưỡng, nương vào công xã nông thôn để hoạt động và thúc giục quần chúng. Thực dân Pháp thực sự hoang mang và bối rối khi phải xử trí với tình hình nở rộ của các Thiện đàn và các hoạt đông giáng bút ở khắp nơi. Không tìm được chứng cớ khả dĩ kết tội, đàn áp, thực dân Pháp đã mất ăn mất ngủ với các hoạt động nửa tôn giáo, nửa cách mạng đang lan tràn và phát huy tác dụng và thanh thế ở khắp nơi. Tại Văn Hiến đường, xã Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng, Hà Tây), năm 1930 tay sai đã về tịch thu các ván in và bộ sách Cổ kim truyền lục đã được in ấn và đang lưu hành ở đây. Gs Đào Duy Anh, trong bài Tìm hiểu phong trào Thiện đàn đối với cuộc vận động ái quốc - Kinh Đạo Nam dài 25 trang in trong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (Nxb Trẻ, 1989) có cho biết : "Ông Nguyễn Ngọc Tỉnh kể lại rằng trong thời gian giáng bút và ấn hành bản kinh này thì Lý trưởng và Phó lý xã Hạc Châu sợ liên luỵ nên đã báo cáo cho quan lại sở tạị. Chính quyền thực dân giao cho Bùi Bằng Đoàn bấy giờ làm Tri phủ Xuân Trường điều tra. Bùi Bằng Đoàn cho vợ có sai nha đi theo đến đàn để thử, viết một tờ sớ bỏ vào phong bì kín. Hàng ngày khách thập phương qua lại để lễ và xin kinh rất đông, nhiều người sang trọng, cho nên chẳng ai để ý đến đó là bà phủ Xuân Trường. Theo lệ thì người đến lễ đặt phong bì kín lên bàn thờ, Thánh phải giáng bút chỉ tên người ấy, có đúng thì người ta mới tin. Thánh bèn giáng bút cho ngay một câu thơ rằng: Côn dược thiên trùng thương hải ngoại; Bằng Đoàn vạn lý tử tiêu gian. Thế là chỉ rõ tên Bùi Bằng Đoàn ra bằng một câu thơ, mà các nhà Nho học giỏi đều nhận là rất hay, bình thường khó có người tức tịch làm ra được, huống chi người cầm kê đây là người sức học cũng tầm thường. Bùi Bằng Đoàn do đó tin là có tiên thánh giáng bút thực, báo cáo lên tỉnh rằng đó là việc tôn giáo thực chứ không phải là hoạt động chính trị như hương lý báo. Sau đó án sát Nam Định là Mai Toàn Xuân cũng cho vợ đến lễ để đặt phong bì kín và thử như thế. Bùi Bằng Đoàn là người Nho học có tiếng cho nên được giáng bút một câu thơ chữ. Mai Toàn Xuân xuất thân là bồi Tây nên ít học, chỉ được giáng bút một câu thơ Nôm, nhưng cũng vạch rõ cả ba chữ họ tên như vẽ ra: Đầu cành Mai mới điểm hoa; Non sông bốn bể đâu mà chẳng Xuân ? Sau đó tỉnh báo cáo lên Thống sứ rằng đây chỉ là một hoạt động tôn giáo, không nên ngăn cấm. Vì thế mà bản kinh in xong vào mùa Đông năm 1923 được phát hành ở Bắc kỳ, rồi sau đó được phát hành bằng quốc ngữ ở Nam kỳ. Các mùa hè năm 1924, 1925, 1926 ông Nguyễn Ngọc Tỉnh đều được Đồng Lạc Khuyến Thiện đàn ở Nam Định nời đến giảng kinh Đạo Nam cho tín đồ của đàn ấy nghe. Nhưng đến năm 1929, trong cuộc đàn áp dối với các đảng bí mật tiến hành ở khắp bắc kỳ, chính quyền mới soát nhà mà tịch thu tất cả bản kinh còn lại và các tấm ván in để huỷ đi và bắt đàn chủ là ông Nguyễn Đức Kinh và chủ bút là ông Nguyễn Ngọc Tỉnh làm án giám".(Sđd tr.200-224) Như vậy là, các Thiện đàn trong suốt quá trình hoạt động của mình luôn gặp phải sự dò xét của thực dân Pháp và quan lại phong kiến Nam triều. Có một thực tế là chính nhờ vào hình thức giáng bút, như một hoạt động mê tín dị đoan, các bài hát bài thơ yêu nước thương nòi và nặng lòng với văn hoá dân tộc đã được lưu truyền. Các thành viên của các phong trào yêu nước đấu tranh cách mạng cũng nhờ đó mà thoát khỏi sự rình rập và đàn áp của kẻ thù. Thiện đàn với cuộc vận động ái quốc Vận động ái quốc, trước hết các nhà yêu nước kêu gọi lòng thương yêu của những người cùng nòi giống, mà ở đây cụ thể là giống da vàng con Lạc cháu Hồng cùng chung một bọc. Các thiện đàn thường tổ chức các buổi giảng kinh, các bản kinh này thường là có được sau khi xin được của mộth vị thần thánh nào đó. Thời gian đầu các vị thánh giáng bút thường là các danh thần võ tướng các thần linh của thần điện Trung Quốc, song càng về sau các vị thần giáng đàn lại là các vị danh thần võ tướng các thần linh trong thần điện Việt Nam như Tản Viên Sơn Thánh, Liễu Hạnh Công chúa, Phùng Khắc Khoan, Tô Hiến Thành, Bà Triệu, Hai Bà Trưng, các Thánh Mẫu,... Những năm đầu thế kỷ này, trước tình hình bị giặc Pháp đàn áp nặng nề, một số cơ sở vận động yêu nước tại Hà Nội và các đô thị phải chuyển về vùng nông thôn phụ cận. Một trong những cơ sở có hoạt động mạnh là Văn Hiến đường ở làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (Hà Tây). Văn Hiến đường hoàn thành vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1909), là nơi thờ Thái uý Tô Hiến Thành và các vị tiên hiền của làng. Thực ra thì trước đó, vào năm 1907, Thiện đàn ở đây đã cho khắc in bộ sách Cổ kim truyền lục đề tuyên truyền vận động yêu nước. Bộ sách gồm 4 tập Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh với gần 400 bài thơ văn, bao gồm nhiều thể loại, viết bằng chữ Hán, do tập thể tác giả đều là người địa phương sáng tác. Văn Hiến đường hiện có đôi câu đối về việc giáng bút và khắc in kinh : Kinh điển bản tàng Tiên hiền giáng bút thuỳ kinh điển Cổ kim truyền lục Vãng thánh di thư diệu cổ kim (Kinh điển bản khắc Tiên hiền giáng bút truyền kinh điển Cổ kim truyền lục Thánh hiền di cảo sáng cổ kim) Tại Hạ Mỗ, không chỉ Văn Hiến đường là nơi có giáng bút mà giáng bút còn được tổ chức trong chùa Hải Giác nữa. Và Cổ kim truyền lục chính là tập thơ văn được tập hợp sau gần 4 tháng giáng bút. Về cách phát hành thì phát cho mọi nhà, biếu tặng các nơi với mục đích: Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ (sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn. Văn Hiến đường cũng còn là nơi bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Tháng 4 năm 1996, khi về Hạ Mỗ để lấy tài liệu tôi còn thống kê được 14 tên sách / bộ sách Hán Nôm tại Văn Hiến đường: như: Thiên ất chân kinh (in, Bảo Đại 8 ), Văn Xương đế quân cứu kiếp bảo sinh kinh (in, 1911), Ngọc Hoàng chân kinh (viết tay), Ngọc Hoàng phổ độ tôn kinh (2 bản in, Bảo Đại 8), Liệt thánh bảo cáo (in), Ngũ phúc kinh .Tập Ninh (in), Tâm pháp thiết yếu chân kinh (2 bản in, Bảo Đại Mậu Thìn), Bảo huấn hợp thiên (in, Tự Đức Bính Tý), Lã Tổ trung hiếu cáo (in, Thành Thái ất Tỵ), Dược sư kinh,... Thơ văn giáng bút đã được lưu truyền khá rộng rãi trong nhân dân vùng xứ Đoài. Hình thức lưu truyền quảng bá thơ văn yêu nước trong khuôn khổ của một hình thức của tôn giáo, và nhất lại là trong bối cảnh xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám đã gây ảnh hưởng lớn và có hiệu quả rõ rệt. Thiện đàn với công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc Đóng góp của các thiện đàn trong công cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc là một đóng góp quan trọng của các thiện đàn. Đóng góp này thể hiện trên hai khía cạnh: Xây dựng, giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống và Tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, in ấn các kinh sách. Xây dựng và giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống là một yêu cầu của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trước hết là sinh hoạt của thị dân ở đô thị. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ lên Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Sự phân hóa giai cấp diễn ra nhanh chóng trong toàn bộ xã hội. Luân lý cổ truyền cùng các giá trị đạo đức truyền thống rạn nứt trước sự xâm thực của văn minh phương Tây. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ, kéo theo quá trình “Âu hóa” rất mãnh liệt. Ở nông thôn bộ máy lý dịch đã trở nên tha hóa. Bức tranh nông thôn Việt Nam trong suốt thời gian hàng thế kỷ là một khoảng tối tăm với một đời sống khổ cực và những áp bức nặng nề của bộ máy cường hào, lý dịch. Trong tình hình xã hội như vậy việc gióng lên tiếng trống thức tỉnh cách mạng, kêu gọi chấn chỉnh nếp sống theo mẫu mực truyền thống là một công việc có ý nghĩa. Các thiện đàn đã mọc lên ở khắp mọi nơi và hoạt động khá sôi nổi trong cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc. Các buổi giảng thiện được thực hiện đúng theo lịch đã định sẵn, có đông đảo nhân dân tham dự. Việc tu bổ và tôn tạo các di tích được nhiều người hưởng ứng, và rất nhiều văn bia hiện đặt trong các di tích đã ghi lại việc sửa chữa, tôn tạo này. Đền Ngọc Sơn - trụ sở Hội Hướng Thiện, cơ sở in ấn tàng bản và công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc Trong số các thiện đàn đã biết thì đền Ngọc Sơn là một cơ sở tiêu biểu nhất. Đền Ngọc Sơn không những là một cơ sở được thành lập sớm nhất, có đóng góp toàn diện nhất, là một cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất, mà còn có vai trò như là một trung tâm có sức lan toả rất lớn, trong phạm vi khắp cả đông bằng châu thổ Bắc bộ, nếu không muốn nói là trong cả miền Bắc. Theo bài văn bia Ngọc Sơn đế quân từ ký do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1843 thì đền Ngọc Sơn do hội Hướng Thiện tạo dựng năm 1842. Ngoài mục đích thờ thần thánh, đây còn là nơi cho “sĩ phu kết bạn với nhau yêu cảnh này, vì mến tên hồ này việc tu dưỡng, du ngoạn, nghỉ ngơi đều có nơi có chốn”. Từ sự thống nhất trong hội Hướng Thiện, chủ trương chấn hưng văn hoá của Hội được các nhà khoa bảng có uy tín trong hội và khắp Hà thành tán dương và coi là mục đích cao nhất của hội. Việc đầu tiên mà các nhà Nho hướng đến là hướng dẫn cho mội người tu dưỡng chính bản thân mình, trước hết là ngay là sự chính tâm (ngay thẳng) và ngăn chặn những dục vọng xấu nảy sinh trong ngay chính lòng mình. Đền Ngọc Sơn đã được biến thành một giảng đàn là nơi mà đều đặn vào các ngày 2 và 16 âm lịch hàng tháng hội tổ chức giảng thiện. Cũng tại đây đã tiến hành các buổi giáng bút để xin những lời dạy của Thánh nhân qua một người trung gian. Các bản kinh in ở đền Ngọc Sơn đại bộ phận đều là các kinh giáng bút bằng chữ Hán, ghi lời giáng bút của các vị thần thánh có nguồn gốc từ Trung Quốc như Quan Thánh Đế Quân, Văn Xương Đế Quân. Tuy nhiên, nội dung lời văn của các bản kinh này lại rất phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội như: Tự giác ngăn ngừa các thói tham lam, độc ác, dâm loạn, gian dối..., khuyên hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng người trên, thương kẻ khốn cùng, chuyên cần học tập, chăm chỉ làm ăn...Mượn lời dạy của thần tiên nhưng các bản kinh được in tại đền Ngọc Sơn không hề đưa lại một tinh thần xuất thế, lảng tránh cuộc đời thực mà ngược lại lại rất tích cực. Và có lẽ cũng chính vì thế, các kinh văn giáng bút được in ra ở đây được lưu truyền rất rộng khắp trên nhiều địa phương cho tới tận Cách mạng Tháng Tám 1945. Một khía cạnh khác trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc của hội Hướng Thiện ở đền Ngọc Sơn là tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá. Tại khu vực xung quanh Hồ Gươm, hội Hướng Thiện đã tôn tạo Trấn Ba đình, trùng tu đền Ngọc Sơn, xây Tháp Bút và Đài Nghiên... Khu vực Hồ Gươm có được khuôn mặt như ngày nay là do những lần tu bổ tôn tạo này. Không những thế, với tình cảm yêu mến Thăng Long, các nhà nho trong hội Hướng Thiện còn sáng tác biết bao áng văn thơ đề vịnh trên những di tích danh thắng Hà Nội. Đền Ngọc Sơn là một cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất trong suốt khoảng 100 năm (1845 - 1945). Vậy trong khoảng 100 năm ấy tại đền Ngọc Sơn đã có bao nhiêu bộ sách ra đời và đi vào đời sống xã hội? Mới đây, Vương Thị Hường dựa vào hai cuốn sách Các đẳng kinh bản Ngọc Sơn thiện thư lược sao mục lục (A.1116), Cao Vương kinh chú giải (AC.438) cho chúng ta biết danh mục sách Hán Nôm in tại đền Ngọc Sơn gồm 246 tên sách (mỗi tên sách có thể là một bộ với nhiều cuốn) thuộc nhiều môn loại khác nhau như tôn giáo, văn học, sử học... (Xem tạp chí Hán Nôm số 1 -2000). Có một điều đáng chú ý là khi chúng tôi khảo sát các sách in kinh giáng bút thì thấy có hiện tượng một số nơi (các thiện đàn) đã mượn ván in kinh giáng bút của đền Ngọc Sơn về in và phát hành. Như vậy là trong suốt một trăm năm đền Ngọc Sơn đã là một cơ sở in ấn tàng bản lớn của cả vùng châu thổ Bắc bộ, nơi đặt trụ sở của hội Hướng Thiện với các hoạt động thiết thực trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Cũng chính vì lẽ đó mà cuối năm 1945, Hồ Chủ Tịch đã đến thăm hội Hướng Thiện, trò chuyện với các hội viên của hội và căn dặn: “Các cụ đã cao tuổi mà vẫn còn giảng Thiện cho bà con theo, thế là rất quý. Tôi xin phép gợi thêm vài ý. Tôi nghĩ điều Thiện lớn nhất là yêu nước. yêu dân chủ, điều ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Tôi đề nghị các cụ khi giảng Thiện nên chú ý khuyên đồng bào bảo vệ độc lập, tự do và tăng gia sản xuất, xây dựng dân chủ”(Theo Nhân dân, 22 - 8 - 1990). Nội dung thơ văn giáng bút Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đâù thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc. Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi: Đây là một chủ đề lớn của thơ văn giáng bút nói riêng và thơ văn yêu nước cách mạng nói chung. Trong thơ văn giáng bút, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Giáng bút lời của các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Liệt nữ “Tiết hạnh khả phong” ở làng Đông Ngạc... - Giáng bút lời của các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo Hạnh... - Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hoá của Việt Nam như: Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Bà tổ nghề thao ở Triều Khúc... Ngoài ra thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất nước. Chấn hưng văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Về nội dung này, thường được biểu hiện như sau: - Đề cao việc nâng cao dân trí - Bài bác hủ tục - Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh mẫu cho phụ nữ) - Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau - In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ Hình thức và Nghệ thuật thơ ca giáng bút: * Về mặt văn tự: Bà chúa Liễu Hạnh về Trời Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm - một sáng tạo của người Việt Nam, dùng ký tự Hán để ghi âm Việt nên không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình dân nhất là trong việc truyền miệng. Ta biết rằng, trong khi triều đình nhà Nguyễn tổ chức Nhà nước và các thiết chế văn hoá theo Nho giáo rập khuôn nhà Thanh Trung Quốc, thì trong dân gian, tư tưởng và văn chương bình dân lại dường như cũng có một sức sống riêng. Ví dụ rõ nhất là khắp các nơi trong nước hàng loạt các hiệu, đàn, trai, đường, lâu... đã ra đời làm nở rộ nghề in. Tại các nhà in này, mảng truyện Nôm đặc biệt phát triển so với trước đó. Thời kỳ này ngoài việc tái bản những cuốn cũ còn có thêm nhiều đầu sách mới nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần người dân. Riêng cuốn Phạm Công - Cúc Hoa, từ năm 1907 đến năm 1936, được in cả thảy 15 lần (trong phạm vi cả nước). Đặc biệt là Truyện Kiều được in cả thảy là 32 lần. Trong số 25 lần in có ghi rõ thời gian và nhà tàng bản thì có tới 16 lần được in tại Hà Nội. Về việc sử dụng chữ Nôm và chữ Hán trong một tài liệu giáng bút, chúng ta ghi nhận một số điều sau: Có cuốn toàn Nôm, có cuốn là Hán xen Nôm. Văn giáng bút chữ Hán thường là giáng bút của các vị thần linh Trung Quốc, hoặc các vị Nho học, hoặc hướng đến đối tượng là người có chữ nghĩa. Văn giáng bút chữ Nôm, ngược lại, thường là giáng bút của các vị thần linh Việt Nam, hoặc là các thánh mẫu, hoặc dành cho đối tượng là đông đảo tầng lớp bình dân. Một vấn đề khác, văn giáng bút chữ Nôm bao giờ cũng có độ dài dài hơn các bài giáng bút bằng chữ Hán. Còn về thể loại, văn giáng bút Nôm thường chọn các thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, hoặc các thể thơ có khả năng diễn đạt phong phú nhiều nội dung. Thơ văn giáng bút, để đạt được mục tiêu phát hành và tuyên truyền như trong lời nói đầu bộ Cổ kim truyền lục là: “Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ” (Sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn) thì nhất định phải dùng chữ Nôm. * Về mặt thể loại: Kinh Đạo Nam Thơ văn giáng bút nhằm đến nhiều đối tượng khác nhau, với mỗi loại đối tượng đã dùng các thể thơ khác nhau. Các tài liệu giáng bút thường ghi rất rõ về thời điểm giáng bút (giờ, ngày, tháng, năm) và thậm chí có tài liệu còn ghi rõ bài thơ văn giáng bút này là dành cho ai quê quán ở đâu. Ví dụ trong cuốn Bản thiện kinh (AB.355) có ghi tường tận như vậy. Phù hợp với từng đối tượng, từng nội dung tuyên truyền, về mặt hình thức, đã có các thể thơ sau được dùng: Phú, Thơ luật, Lục bát, Song thất lục bát, Phong dao, Hát Xẩm, Từ khúc,Hát nói (Ca trù), Gửi thư (Ca trù), Ngụ ngôn, Tiểu thuyết... * Về việc minh họa: Tài liệu giáng bút hiện có trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ yếu là sách in bản khắc gỗ (226 bản in / 254 bản sách) Trong đó có một số các văn bản thơ văn giáng bút hiện có tại thư viện Viện Hán Nôm có nhiều cuốn có các đồ họa. Thiết nghĩ, rồi đây những đồ họa này sẽ trở thành những tài liệu cho một công trình chuyên khảo về Đồ họa Đạo giáo nói riêng và Nghệ thuật Đạo giáo nói chung. Kết luận: Với 98 Thiện đàn hiện biết tại các địa phương trong hầu khắp các tỉnh miền Bắc là nơi có lưu truyền/sáng tác/in ấn/tàng bản kinh văn giáng bút cho thấy sự hoạt động sôi nổi của các Hội Hướng Thiện, Thiện đàn trong khoảng một trăm năm từ 1845 đến 1945. Các Thiện đàn và Hội Hướng Thiện, trong đó tiêu biểu nhất là Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã có những đóng góp lớn trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Tư liệu thơ văn giáng bút tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn 254 cuốn. Kinh giáng bút được in nhiều vào các khoảng thời gian các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các Thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc. Văn thơ giáng bút càng về sau càng sử dụng nhiều chữ Nôm và các thể thơ ca dân gian để thể hiện các lời dạy dỗ của các thần linh đất Việt. Điều này càng khẳng định chữ Nôm vẫn giữ vai trò nhất định trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, trong khuôn khổ các phong trào yêu nước. Trong hoạt động của mình các thiện đàn đã sử dụng thành công chữ Nôm trong việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hoá dân tộc. Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động. Box1 “Thuật bói tiên lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”(Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả - Phạm Đình Hổ). Box2 Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn sách, với hàng vạn bài văn thơ. Box3 Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động. Box4 Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 254 cuốn thơ văn Nôm giáng bút lời của Tiên - Phật –Thánh - Thần sưu tập từ 98 Thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn do các nhà Nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Đã đăng trên Vietimes
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:49:30 GMT 9
Phát hiện nơi giáng trần đầu tiên của Thánh Mẫu Liễu Hạnh Vietsciences- Nguyễn Xuân Diện Ngày 21.11.2009, UBND huyện Ý Yên (tỉnh Nam Định) và Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: Di tích lịch sử văn hóa phủ Quảng Cung - thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, Nam Định - một trong 3 nơi thờ phụng ghi dấu các lần giáng sinh của Thánh Mẫu Liễu Hạnh – vị thần lạ lùng nhất trong các nữ thần Việt Nam vừa hiện thực, vừa huyền ảo. Tại hội thảo, trên cơ sở các thư tịch cổ các nhà khoa học khẳng định di tích này chính là nơi ghi dấu cuộc giáng sinh đầu tiên của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Người phụ nữ trong bộ tứ uy linh lừng lẫyy Bức tượng đồng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đúc năm 1871 ở Phủ Quảng Cung. Ảnh N.X.Diện Bà ra đời sau muộn, nhưng cung điện phủ đệ của bà mọc như nấm khắp nơi. Nào là phủ Dày ghi dấu bà giáng sinh, là đền Bắc Lệ xứ Lạng ghi dấu với họ Phùng, nào là Phủ Tây Hồ ngao du ngày tháng cùng các đạo cô. Nào là đền Sòng Sơn, Phố Cát ở Thạch Thành xứ Thanh ghi chiến công lừng lẫy của bà. Nào chùa Hương một mình bà một biệt điện trang nghiêm... Riêng phủ Quảng Cung (còn gọi là Phủ Nấp, Phủ Quảng Nạp), một nơi mà theo thánh tích chính là nơi giáng sinh đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh thìì giới nghiên cứu và nhân dân hầu như chưa hề biết đến. Mặc dù câu đối ở Phủ Dày có nhắc đến Phủ Quảng Cung, thôn Vỉ Nhuế, huyện Ý Yên, Nam Định rằng: Tam thế luân hồi, vu Vỉ Nhuế, vu Vân Cát, vu Nga Sơn, vu Sòng – Lạng – Tây Hồ, ngũ bách dư niên quang thực lục. Lịch triều ba cổn, vi Đế nữ, vi Đại vương, vi chúng mẫu, vi Thánh – Thần – Tiên Phật, ức niên vạn cổ điện danh bang (Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, Sòng (Sơn) – Lạng (Sơn) – Tây Hồ, hơn năm trăm năm ngời sử sách. Các triều phong tặng, là Đế nữ, là Đại vương, là Thánh Mẫu, là Thánh – Thần – Tiên Phật, ngàn năm vạn thưở rạng non sông). Văn bản về sự giáng sinh của Thánh Mẫu Ban tổ chức hội thảo đã nhận được 15 bản báo cáo của các nhà khoa học. Đặc biệt, với sự phát hiện văn bản Cát Thiên tam thế thực lục (nghĩa là bản thực lục về ba lần hiển thế của Thánh Mẫu Liễu Hạnh vị thần được thờ ở phủ Vân Cát, Thiên Bản) được khắc in vào tháng 2 năm Quý Sửu (1913), niên hiệu Duy Tân ngay tại Phủ Quảng Nạp, thôn Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Cuốn sách Hán Nôm này gồm 97 trang được các nhà nghiên cứu Hán Nôm khẳng định: “về mặt văn bản học, không có gì phải nghi ngờ về niên đại của văn bản này”. Cuốn sách có sự tham gia viết tựa, tán, bạt, đề từ của các nhân vật đương thời (tức là thời gian khắc in cuốn sách) như: Đốc học Bắc Ninh Trần Xuân Thiều, Tiến sĩ Đốc học Hải Phòng Nguyễn Văn Tính, Phó bảng Đốc học trí sĩ Đặng Quỹ, Đông La Đỗ Huy Liệu, Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh, Tổng đốc Nam Định Đoàn Triển. Trong sách còn có các lời thơ, tựa, tán, phê là những lời giáng bút của Đức Thánh Trần, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và các vị Đệ nhất vị Tiên Hương Thánh Mẫu, Mai Hoa công chúa, Quế Hoa công chúa, Đào Hoa công chúa, Trần Đại vương và Lam Hồng tiên ông. Đặc biệt trong văn bản có phần Cát Thiên tam thế thực lục viết bằng chữ Hán kể lại lai lịch và lần giáng sinh thứ nhất của Liễu Hạnh tại thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên. Và sau đó là bản diễn Nôm ra thơ lục bát Cát Thiên tam thế thực lục quốc âm giúp cho những người không biết chữ cũng có thể học thuộc sự tích Thánh Mẫu. Từ việc tìm thấy văn bản in Cát Thiên tam thế thực lục, các học giả đề nghị tiếp tục tìm bản gỗ ván khắc tại Phủ Dày, phủ Tiên Hương và Phủ Nạp để bảo quản như một văn vật rất có giá trị về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, điều này không thể thực hiện được, vì Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã giáng bút chỉ cho phép in 99 bản (không cho in nối bản), sau đó ván khắc được chẻ ra ra đốt đi lấy tro than đưa về lót vào các bát hương ở khắp các nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh trong phủ. Hội thảo có các bài viết đáng chú ý như: Kho tư liệu Hán Nôm về Quảng Cung linh từ (Th.s Chu Xuân Giao), Quanh những tư liệu Hán Nôm về Phủ Nấp (Nguyễn Xuân Diện), Nhận diện địa chỉ giáng sinh lần thứ nhất ở Phủ Nấp (TS. Bùi Quang Thanh). Tham luận của TS Nguyễn Thị Yên xem xét bối cảnh lịch sử văn hóa vùng đất Ý Yên để cho rằng, có thể hình tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được bắt nguồn từ việc thờ Bà cô tổ họ Phạm ở đây; trong khi đó, TS Đỗ Lan Phương đi tìm mối liên hệ giữa Thánh Mẫu Liễu Hạnh và dòng Nội đạo ở Thanh Hóa. Về nghệ thuật xung quanh việc thờ phụng Mẫu Liễu có tham luận của Th.sĩ Trang Thanh Hiền phân tích những nét độc đáo của pho tượng đồng ở Phủ Nấp (tạo năm 1871) và nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền với bài Nghệ nhân hát văn nhìn từ phả hệ cung văn. .Mặc dù hội thảo vấn chưa đưa đến một nhận diện chân xác về Thánh Mẫu Liễu Hạnh và bà vẫn còn đầy bí ẩn với chúng ta, nhưng GS. Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam cho biết: “Hội thảo sẽ mở ra một thời kỳ mới trong việc nhận diện về Đạo Mẫu ở Việt Nam nói chung và về Thánh Mẫu Liễu Hạnh nói riêng. Nếu như trước đây, giới nghiên cứu cũng đành phải bó tay trong việc nắm bắt bản lai diện mục của Liễu Hạnh thì từ nay vấn đề này hẳn sẽ có được những kết quả rất khả quan”. Nằm trong chương trình hội thảo, 200 đại biểu và khách mời đã tham dự buổi hầu đồng tổ chức tại Phủ Quảng Cung. Nguyễn Xuân Diện
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:52:16 GMT 9
Có một tượng đài người phụ nữ Hà Nội trên đỉnh Đèo Ngang Vietsciences-Nguyễn Xuân Diện Trong văn học Việt Nam có một người phụ nữ Hà Nội đã để lại vóc dáng đài các đã mấy trăm năm. Người phụ nữ tài hoa ấy, đứng trước thiên nhiên đất nước đã nói tâm tình của một con người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ, nhưng dường như đã cố giấu đi cả tên tuổi của mình. Mặc dù tên của bà có ý nghĩa là mùi hương thơm nức, nhưng bà vẫn cố giấu đi, ngay cả tên gọi của mình. Người ta cũng không gọi bà bằng tên gọi của chồng bà như những phụ nữ khác. Người ta chỉ gọi bà bằng cái chức vụ của chồng bà mà thôi. Đó là Bà Huyện Thanh Quan. Tên thật của bà là Nguyễn Thị Hinh. Hinh chữ Hán có nghĩa là hương thơm ngào ngạt. Văn chương cổ Việt Nam không có nhiều nữ thi sĩ. Nhưng đặc biệt nhất là có tới hai nữ thi sĩ tên Hương. Một Hồ Xuân Hương ngang tàng, phóng túng. Một Nguyễn Thị Hinh (Hương) đài các, phong lưu. Hai nữ thi sĩ tên Hương ấy đã đi vào lịch sử văn chương Việt Nam với hai phong cách khác nhau. Và sức lan tỏa của những câu thơ của hai bà đã làm lay động bao thế hệ người đọc Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của một người phụ nữ ngang tàng, nhìn sự vật trong sự biến động và biến chuyển với góc nhìn đầy cá tính. Mỗi sự vật hiện lên trong thơ bà là đều ẩn chứa trong đó khát vọng mạnh mẽ về nữ quyền và về những khát vọng của tình yêu và cả tình dục nữa. Chân dung Hồ Xuân Hương được vẽ với “yếm đào trễ xuống dưới nương long”, với khuôn mặt tươi tắn, đầy khát vọng và cả chút nhục cảm nữa! Còn Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ tên “Hương” khác thì hoàn toàn khác. Bà mang khuôn mặt đầy đặn với nét môi cắn chỉ đoan trang, kiêu sa và kiểu cách của một phụ nữ đài các. Hiện chưa biết về năm sinh và năm mất của Bà huyện Thanh Quan. Ta chỉ biết bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây. Rằng bà là người hay thơ, giỏi Nôm. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau can án bị giáng chức làm việc ở bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con. Nhắc đến bà huyện Thanh Quan không ai là không nhớ đến chuyện xảy ra lúc chồng bà là Tri huyện Thanh Quan, nhân khi chồng đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ: Phó cho con Nguyễn Thị Đào Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai Chữ rằng “xuân bất tái lai” Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già! Câu chuyện bà huyện thay chồng phê đơn là một giai thoại văn học rất đẹp. Nó gợi cho ta hình ảnh một bà huyện tự tin và hóm hỉnh. Bà huyện cũng là một phụ nữ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ. Không biết cô Nguyễn Thị Đào đi lấy chồng, sinh con đẻ cái có đem nhau về chơi với Bà Huyện hay không? Nhưng câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc. Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua sáng là Minh Mạng vời vào cung và giao cho trọng trách này! Con đường thiên lý Bắc Nam ấy đã từng lưu dấu chân của nữ sĩ tài hoa mà cả trăm năm nay, khách bộ hành, xe kiệu đi qua Đèo Ngang còn thấy dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng hôn lữ thứ. Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đã lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời – non – nước Một mảnh tình riêng ta với ta. Bài thơ thật buồn. Hình ảnh Đèo Ngang được vẽ bằng mấy nét tiêu sơ, gợi nên cả cái hoang mang của lữ khách. Xa xôi trong đó là một tâm sự về nước non nhà với niềm đau, niềm nhớ niềm thương! Bà huyện đã dừng lại giữa đỉnh đèo giữa trời mây non nước bao la, và nỗi cô đơn xâm chiếm tâm hồn bậc tài nữ trong mấy chữ “ta với ta”. Bà đã đứng khựng lại giữa đỉnh đèo mấy trăm năm nay, bóng hình in vào nền trời Đèo Ngang lộng gió, gửi đến hậu thế muôn sau tâm sự của bà. Có lẽ mối duyên với ông huyện Thanh Quan để lại trong bà huyện những dư vị ngọt lành của tình phu phụ, “tương kính như tân” nên thơ của bà huyện là thứ thơ cao sang, đài các và đẹp một vẻ đẹp điển nhã của thi ca cổ. Bà Huyện Thanh Quan để lại 7 bài thơ. Bài thơ nào cũng đài các, sang trọng. Bài thơ nào cũng hoài cổ, luyến nhớ. Nhưng bà nhớ nhất là nhớ nhà, nhớ quê. Trông cảnh chiều thu bà nhớ ngẩn ngơ trong bâng khuâng hoài niệm. Mỗi bước bà đi là lại “lòng quê một bước nhường ngao ngán/ Mấy kẻ tình chung có thấu là!”. Bảy bài thơ của Bà Huyện là bảy bài thơ Nôm, đều là thơ thất ngôn bát cú mỗi bài tám câu, mỗi câu 7 chữ. Nghiêm ngắn, trang trọng. Mỗi bài là một bức tranh thủy mặc được vẽ lên như những bức tứ bình đẹp. Mỗi bức tranh ấy gói ghém tâm trạng của bà. Buồn mà không bi lụy. Có cả những tâm sự hoài cổ của một phụ nữ trước cảnh dâu bể với những hành cung miếu điện của những triều vua đã đi qua. Và hơn hết là cái nhìn đầy thương mến với những cảnh vật tiêu sơ, nơi đèo heo hút gió, những ngư ông và bác tiều phu, những mục đồng lùa trâu về những thôn xa vắng. Bà Huyện Thanh Quan tên là Hinh, với nghĩa là mùi hương ngào ngạt. Bà không mang tên chồng mà chỉ mang tên chức vụ của chồng. Chức vụ ấy trong đời làm quan của chồng bà cũng rất ngắn ngủi. Bà cũng chỉ để lại cho đời ngót chục bài thơ Đường luật Nôm vuông chằn chặn. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ đều mỗi bài 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm. Tình nước non non nước của người phụ nữ ấy như đã hòa cùng con cuốc cuốc, cái gia gia trong thơ bà cứ da diết, da diết vọng đến hôm nay và muôn sau. Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế. Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 24, 2010 3:30:47 GMT 9
BẠCH VÂN AM “Chùa cổ sư nhàn, thường lấy khói mây làm bầu bạn. Non sâu đời khuất, chỉ nhờ cây cõ nhận xuân thu.” (1) Dân chúng trong vùng không ai biết rõ Pháp danh cuả nhà Sư và quê quán ơ đâu? Chĩ có vài vị kỳ lão là còn nhớ được cách đây trên 30 năm, một nhà Sư trẽ từ phương xa đến, cất một cái am nhỏ trên triền núi, mây trắng bao phũ bền bồng nên gọi là Bạch Vân Am. Dân làng thấy nhà Sư có phong độ thanh tao cuã một bậc Thiền Sư, chữ nghĩa thánh hiền lại lưu loát mà kinh kệ của chốn Phật môn cũng rộng hiểu cao thâm nên đem lòng kính phục. Sư lại tánh tình khiêm nhã nên dần dả người trong vùng mang nhang đèn, hoa quã, gạo nếp dến cúng đường, lạy Phật nghe kinh và nghiểm nhiên thừa nhận nhà Sư như một bậc cao tăng đạo hạnh. Nhờ công quã của thiện nam tín nử trong vùng nên Bạch Vân Am dần dần được tu chỉnh khang trang, phong cảnh thật là thoát tục càng tăng thêm vẽ u nhả thanh đạm của chốn Không Môn. Thật là: “Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác, Trăng trong mây trắng hiện toàn thân.” (2) Vì Am Bạch Vân nằm trên sườn núi, lại không có suối nước thiên nhiên ở gần nên muốn có nước dùng thật là khó khăn, phải lặn lội xuống núi quanh co chừng vài trăm thước mới có suối chảy thông reo. Nhà Sư đả suy gẩm nhiều năm trời nên nẩy sanh tâm Bồ Đề, phát nguyện sẻ tự tay đào lấy một giếng nước ở phía sau am, khơi mạch nước đễ cúng dường Tam Bão và luôn tiện dân chúng quanh vùng hay khách thập phương đến viến Am cũng có nước dùng. Sư bắt đầu khởi công đào giếng đả gần 3 năm, trãi qua bao ngày tháng cực nhọc vất vã mà mạch nước vẫn chưa thấy tăm hơi. Hơn tháng rồi Sư lại vấp phải một tãng đá to lớn nằm chắn ngang, không biết làm thế nào để phá vở đi được (3). Trước sự khó khăn bất ngờ, người tu sỉ trẽ vẫn không nãn lòng, đêm đêm niệm Phật cầu xin thập phương Bồ Tát gia hộ cho để tìm được một phương cách thỏa đáng. Sau cùng nhà Sư chợt có ý nghỉ thích ứng là phải mở rộng lòng giếng để tìm cách bẩy hòn đá sang một bên. Một hôm, nhân mãi mê đào đất, Sư bỗng nhiên nhìn thấy trong ánh sáng lờ mờ bóng dáng của một thanh niên trẻ tuổi đang cuốc đất để đào giúp Sư một tay. Nhà Sư giật mình kinh ngạc vì ngoài Sư ra thì còn có ai xuống giếng để đào giúp nửa? Bóng trắng của người thanh niên mờ ão, chợt biến chợt hiện, chắc hẳn không phải là người thường nhưng đối với Sư thì lại dường như rất quen thuộc và vô tình đưa nhà Sư trở về một khoảng đời niên thiếu lúc còn trai trẻ. Bồi hồi cảm động như chợt nhớ ra đều gì, Sư cố nhìn bóng dáng mờ ảo của thanh niên rồi buột miệng thốt: Tiểu đệ là em đấy à? Người thanh niên chợt quay đầu lại, gương mặt lạnh băng trắng bệt như người mất máu, mờ ảo nhìn nhà Sư mĩm cười đầy vẽ thê lương. Sư sửng sốt nhìn trân trối gương mặt quen thuộc của người em kết nghĩa ngày xưa mà đả một thời Sư thương mến như là em ruột của mình. Phải đả lâu rồi, cách đây trên 10 năm Sư còn là một trang dũng sỉ nghỉa quân, đầy máu nóng nên không ngần ngại gì lăn xả vào cuộc chiến chống ngoại xâm đang lăm le xâm chiếm quê hương. Vốn dòng giỏi thi hương lại có hào khí hơn người nên chàng thanh niên tuổi trẻ đả dẹp bút nghiên để mang áo chiến bào, đầu quân dưới trướng của vị anh hùng dân tộc Phan Van Đạt, cùng chống giặc trong vùng Gia Định. Tuy nhiên, cuộc chiến quá chênh lệch vì thực dân có đầy đủ súng ống tối tân trong khi nghỉa quân chỉ được trang bị với những vũ khí cổ điển lổi thời. Dù lòng yêu nước có tràn ngập trong tim, dù phải chấp nhận một cuộc chiến gần như tuyệt vọng nhiều hiểm nguy và quả cảm hi sinh tính mệnh cho quê hương đất nước, nghỉa quân vẩn hkông thể nào lật ngược được thế cờ để giải phóng cho quê cha đất mẹ. Chẵng qua là Ngiệp Quả của đất nước, vận mạng quê hương đả đến hồi đen tối nên phải chịu cái ách đô hộ của ngoại nhân vậy. Trong cuộc chiến bấp bênh đầy khói lửa chết chóc nầy, chàng tráng sỉ may mắn tìm được một nguồn an ủi là có một người em kết nghĩa, Vủ Sinh người tỉnh Long Hồ, vốn dòng hào kiệt, cùng một chí hướng chống ngoại xâm nên thật là tương đắc. Cả hai thề nguyện sống chết có nhau cho đến khi nào đất nước được hoàn toàn vắng bóng quân thù. Cuộc chiến kéo dài, tình thế lại càng ngày càng đen tối, quân ta lần lượt mất ba tỉnh miền Đông. Cho đến một hôm, trong một trận đánh lớn nhắm tấn công thành Mỷ Tho dưới sự chỉ huy liên hợp của các vị tướng Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương và Âu Dương Lâu, (4) nghĩa quân chẳng may bị thua to, Vũ Sinh mang thương tích nặng nề, máu thấm đỏ cả chiến bào. Chàng đành dìu người em kết nghỉa chạy thoát khỏi sự truy kích của địch quân. Đến một bìa rừng thì Vủ Sinh dường như biết mình không thề sống được nủa nên thều thào bảo chàng: Đại ca, hảy để em lại đi. Em không theo anh được nửa rồi! Nguờn tráng sỉ dũng cãm vuốt nhanh giọt lệ đang chãy dài trên má, nắm lấy tay người nghỉa đệ như muốn dồn hết sinh lực cho kẽ hấp hối. Chàng cúi mặt xuống gần để cố nghe lời trăn trối, đứt quãng mỏng manh như hơi thở: Đại ca, em để anh lại một mình rồi! Từ nay nếu có việc gì quan trọng, dù nơi âm cãnh, em cũng sẻ tìm đến anh. Chàng nghĩa quân cố cầm giột lệ trước cảnh tử biệt sinh ly, từ từ vuốt mắt cho người em đồng đội một lần chót. Rồi thã tầm mắt nhìn xem địa thế chung quanh, chàng quả cảm rut thanh bảo đao đeo bên mình ra và bắt đầu đào một huyệt mộ dưới tàn cây cổ thụ to lớn cành lá rườm rà che mưa nắng cho cả một vùng rộng lớn. Vài giờ sau cái huyệt đả khá sâu, chàng trìu mến mang xác người em kết nghỉa đặt vào lòng huyệt và lấp đất lại, cẩn thận làm dấu vết để sau nầy có thể tìm lại được. Rồi chàng thì thầm: Tiểu đệ, em hãy nằm yên nghỉ nơi nầy, trên mảnh đất của quê hương. Sau nầy, nhất định nếu còn sống, anh sẻ tìm đến thăm em. Tiếng lá rừng rì rào dường như đưa tiển linh hồn người chiến sỉ vô danh. Từ ngày chôn em xong, người tráng sỉ thấy tình thế không còn cứu vản được nữa, nên đả bỏ ra đi. Vô tình chàng trôi giạt đến cái làng trên vùng núi hẻo lánh nầy, xuống tóc và trở thành một nhà Sư trẻ. Sư tự tay lập ra một thão am nơi triền núi vắng vẽ, lấy gổ mít rừng để tạc tượng chư Phật và cam chịu cảnh sống đạm bạc với rau cỏ khoai sắn qua ngày. Người tu sỉ trẻ không tên đả chọn câu kinh tiếng mõ để xoa dịu nổi oan trái của đời mình, không may sanh chẳng nhằm thời, gặp lúc vận nước đang đến hồi đen tối mịt mờ. Dòng tư tường của nhà Sư chột bị gián đoạn vì tiếng nói như mơ hồ xa vắng của người nghĩa đệ chột vẳng đến: Đại ca, em về giúp anh để hoàn thành nguyện ước. Em sẻ đẩy bật viên đá nầy sang một bên và chúng ta chỉ cần đào sâu them vài thước nửa là đến mạch nước trong. Nhà Sư quá thuong cảm, nhìn cái bóng trắng mờ ảo của người em kết nghỉa ngày xưa, bồi hồi cảm xúc bảo: Nghỉa đệ, em là một trang dũng sĩ, nghỉa khí ngất trời, chẳng may vì vận nước mà phải bỏ mình nơi chiến trận. Lẻ ra đả được siêu thoát về cỏi Nhân Thiên, hưởng phước thanh nhàn của bậc Phúc Thần, sao lại còn lưu luyến cảnh phàm trần đen bạc, vất vưởng hồn ma, chịu phần lạnh lẽo nơi miền âm cảnh, bảo sao đại ca nầy không khỏi lòng dạ xót xa? Bóng người thanh niên trẻ mĩm cười chua xót: Đại ca, hai ta tuy là huynh đệ kết nghĩa nhưng tình như cốt nhục, em không nở bỏ anh mà đi thác sanh nơi kiếp khác đâu. Em ẩn nhẩn nơi cỏi âm dể theo phò hộ anh cho trọn nghỉa anh em. Ngừng lại một phút, bóng trắng chập chờn lại tiếp: Ngày xưa lúc hấp hối, tiểu đệ cũng đả nói với đại ca là sau nầy nếu có việc gì quan trọng em sẻ luôn luôn ở bên cạnh anh mà! Vài tháng sau, quả nhiên nhà Sư dào được tới một mạch nước rất trong ở dưới sâu hơn 20 thước. Tâm nguyện đả hoàn thành, Sư thẩn thờ nhìn cái bóng ma của người nghỉa đệ, lúc nào cũng quanh quẩn giúp Sư một tay, rồi dịu dàng bảo: Tiểu đệ, tâm nguyện của anh, nay nhờ em đả được hòan tất một cách tốt đẹp. Từ nay, đại ca không còn muốn em nấn ná nơi chốn âm cảnh đề được gần gủi anh nữa. Thương yêu cũng là trói buộc. Tiểu đệ, em phải học lấy chữ “Xã” của nhà Phật (5) không nắm giử nữa mà phải xả bỏ thì thần thức mới được thanh thản để trở về cỏi hư vô vắng lặng. Vã lại rồi đây, đại ca cũng phải rời bõ tấm thân tứ đại giả tướng nầy, đúng theo lẽ Vô Thường của nhà Phật. Nếu anh em ta còn có duyên phần thì vẫn có thể gặp nhau lại trong một kiếp khác mà! Rồi nhìn chầm chập vào bóng ma, Sư trầm giọng: Tiều đệ, em phải Xả mới được, không thể theo anh mải được đâu? Đó là ước vọng của anh. Cầu xin Đức Phật Đại Từ Đại Bi gia hộ cho em về cõi Tây Phương Tịnh Độ của Ngài. Còn một đều nữa là anh sẽ mang xương cốt của em về an táng nơi phía sau Am, như vậy tiểu đệ, em vẩn ở gần đại ca chứ? Trên gương mặt mờ ảo cũa bóng ma, lạnh lùng như sương khói, chợt nở lên một nụ cười mản nguyện, nhìn người anh kết nghỉa một lần chót rồi vụt biến mất, vĩnh viễn trỡ về nơi cỏi trăng sao, Từ ngày đào xong giếng nước đến nay củng đả 20 mùa hoa phượng đỏ nở trên triền núi và có lẻ vì là giếng núi cao, mạch tốt nên nước giếng của Bạch Vân Am nỗi tiếng khắp vùng. Nước ngọt mát trong lành, thanh khiết lạ kỳ. Các tay sành điệu ghiền trà thơm đều cố leo núi lên Am để xin cho được nước giếng nầy đem về, đặc biệt chỉ dành để pha trà. Một đôi khi vài khách nhàn du đến viếng Am, cao hứng đi xa chừng trăm thướcvề phía sau, nơi có những nhóm xích tùng hay thanh tùng rợp bóng, không khí trong lành, khói mây bàng bạc. Giữa cảnh gió núi hương rừng, chim hót thông reo, du khách chợt nhìn thấy một ngôi mộ đất nằm an lành tĩnh lặng dưới bóng một cội thông già, trên mộ có một phiến đá phẳng khắc chử lờ mờ: “Nghỉa Đệ Vũ Sinh chi mộ.” Hà Ngọc Bích. Chú Thích: (1) : Câu đối cũa chùa Giác Viên: “Tự cổ tăng nhàn thường dẩn yên hà vi bạn lử Sơn thâm thế cách chỉ bằng thảo mộc ký xuân thu.” Giản Chi dịch ra (1) (2) : Thuyền lảo thiền Sư, T.T. Thích Mật Thể dịch. (3) : Lấy ý từ một truyền thuyết của chùa Thiên Ấn. “Ông thầy đào giếng trên non, Đến khi có nước không còn thầy ơi ! “ (....khi đào xong có nước thì không thấy nhà sư trẻ kia đâu nữa.) những ngôi chùa danh tiếng, Nguyễn Quãng Tuân. (4) : Theo tài liệu của Việt Sử Đại Cương, Phạm Ngọc Huyền. (5) : Lấy ý “Tách Bóng” của Phạm Trọng Luật, Báo Quốc Gia số 87, Canada. “Xã ! Thương yêu cũng trói buộc như thù hận. Tín nử phải Xả mới được
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 24, 2010 3:34:42 GMT 9
CÁC GIẢI VĂN CHƯƠNG Ở MIỀN NAM VIỆT NAM TRƯỚC 1945
Tác giả : KIM LAM Trong các thập niên của đầu thế kỷ 20, một số các tư nhân và các Hội học ở miền Nam Việt-nam đã có sáng kiến tổ chức các giải thưởng sau : 1. GIẢI NGÔ TÂM THÔNG Năm 1924, ông Ngô Tâm Thông, một điền chủ ở làng Tân-giai, tổng Bình-an, tỉnh Vĩnh-long, đề xướng cuộc thi thơ văn quốc âm qua sự tổ chức của quan đốc phủ sứ tỉnh Bà-rịa Lê Quang Liêm, tức Bảy. Hội đồng giám khảo gồm các quan lại của Nam-kỳ. Qua giải thưởng này, ông Ngô Tam Thông muốn khích lệ các nhà thơ văn trong cả 3 kỳ. Điều lệ, giải thưởng bằng tiền, hạn nộp của giải này được công bố trên tạp chí Nam Phong, số 87, tháng IX 1924 như sau : Hạng 1 : 300 đồng- Hạng nhì : 200 đồng- Hạng ba : 100 đồng Hình thức dự thi là một bộ tiểu thuyết bằng văn xuôi hoặc bằng văn vần theo 3 thể : a- Tiểu thuyết về sự tích nước nhà b- Tiểu thuyết về truyện phiêu lưu c- Tiểu thuyết về thế tục. Nếu làm bằng văn xuôi, quyển viết phải có ít nhất 300 trang giấy học trò. Nếu bằng văn vần, quyển viết phải có ít nhất 200 trang. Hạn nộp bài là 01-6-1925. Ngày chấm xong sẽ là 10-11-1925 và tháng 12-1925 giải thưởng sẽ được phát. Cuộc thi này có lẽ không có người dự vì sau đó không một báo chí nào nhắc đến nó, ngay cả tờ Nam Phong, nhưng nó đánh dấu sự suy tàn của nền Hán học và bước đầu trong việc chú trọng đến việc phát triển nền văn học chữ quốc ngữ. 2. GIẢI PHỤ-NỮ TÂN-VĂN Tuần báo « Phụ-Nữ Tân-Văn » xuất bản ở Nam-kỳ tổ chức cuộc thi với đề tài dưới hình thức một câu hỏi « Nàng Thúy Kiều nên khen hay nên chê ? ». Bài dự thi không dài quá 20 trang giấy lớn. Giám khảo sẽ là độc giả của tờ tuần báo. Những bài trả lời sẽ lần lượt đăng báo. Nếu bài nào được phần nhiều độc giả chấm thì sẽ chiếm giải thưởng. - Giải nhất : một cái máy hát lớn hiệu Pathé, và một năm báo Phụ Nữ Tân Văn. - Giải nhì : một cái áo mưa Ăng-lê hiệu The Dragon, và một năm báo Phụ Nữ Tân Văn. Có 18 bài được tuyển lên báo. Tuy nhiên theo Phụ Nữ Tân Văn số 19 (05/9/1929), kết quả cuộc thi không được mỹ mãn vì số người chấm thi ít hơn số người dự thi. Trong các bài dự thi, không có bài nào có số thăm thật cao. Do đó giải không được phát. 3. GIẢI KHUYẾN HỌC NAM KỲ Hội Khuyến học Nam kỳ (Société d’Enseignement mutuel de la Cochinchine) được thành lập năm 1907. Hoạt động của Hội không gây được nhiều tiếng vang trong giới trí thức. Nhưng từ năm 1941, dưới sự điều khiển của Hội trưởng Đoàn Quang Tấn, ban Trị sự của Hội quy tụ những nhân vật nổi tiếng như Cung Giũ Nguyên (viết tiểu thuyết Việt và Pháp), họa sĩ kiêm văn sĩ Nguyễn Phi Hoanh, nhà văn Chim Hải Yến, học giả Nguyễn Xuân Quang, nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ v.v. Họ tích cực hoạt động về văn học khiến Hội có uy tín từ Nam, rồi lần ra Trung và ra Bắc. Do đó giải Văn chương của Hội được giới trí thức thời đó trên toàn quốc chú ý đến. Giải Văn chương năm 1941 của Hội dành cho một tác phẩm xuất bản từ 01-01-1941. Tác giả quyển sách được trúng giải sẽ không phải là một nhà văn thuộc nhóm « Tự Lực Văn Đoàn » (vì họ đã nổi tiếng rồi) mà cũng không phải là một nhà văn đã được giải văn chương nào rồi. Cuốn tiểu thuyết « Chồng con » của Trần Tiêu đoạt giải thưởng Văn chương của hội Khuyến-học Nam kỳ năm 1941 với số tiền là 250 đồng. Năm 1942, Hội đồng Giám khảo tặng giải cho 3 tác phẩm : - « Tôn Thọ Tường » của Khuông Việt Lý Vĩnh Khôn - « Triết học Bergson » của Lê Chí Thiệp - « Sông Bạch Đằng », nhạc của Lưu Hữu Phước, lời của Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên. Năm 1943, giải được trao cho Hoàng Xuân Hãn (ở Bắc) với cuốn « Danh từ khoa-học » và Lê Văn Ngôn (ở Nam) với cuốn « Bịnh ho lao ». Đây là hai cuốn biên khảo rất công phu. Năm 1944, giải thưởng được trao cho Phan Văn Hùm với cuốn « Vương Dương Minh » Từ năm 1945, không khí chính trị bùng nổ và sau đó hội Khuyến-học, tuy có hoạt động trở lại nhưng không còn đầy đủ phương tiện để hoạt động như trước nữa. 4. GIẢI ĐỒ CHIỂU Năm 1943, nhân dịp lễ truy điệu nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình Chiểu, dược sư Trần Kim Quan đặt ra giải văn chương hàng năm với tên là « Giải Đồ Chiểu ». Tiền giải thưởng là 500 đồng. Hội Khuyến-học Nam-kỳ được giao quyền khảo sát và ra đầu đề. Đề thi : « Khảo cứu và luận về Đồ Chiểu với Lục Vân Tiên » Hạn nộp bản thảo : trước ngày 01-02-1944 (sau ngày ra thông báo (22-7-1943) là 6 tháng 9 ngày) Hạn trang : ít nhất 100 trang, nhiều nhất 300 trang Giải chỉ dành riêng cho người Việt sinh trưởng ở Nam-kỳ và sẽ được phát vào ngày giỗ Đồ Chiểu. Ban Giám khảo chỉ nhận được 2 tác phẩm dự thi của 2 nhà giáo là ông Lục Y Lang (ở Gia-định) và ông Từ Quang (tức Lư Khê ở Sài-gòn). Vì số người tham dự quá ít, ban Giám khảo quyết định không phát giải thưởng và họ (với sự có mặt của ông Trần Kim Quan) thảo luận là truất phân nửa tiền giải thưởng để tặng khuyến khích hai người dự thi : ông Lục Y Lang được 150 đồng, ông Từ Quang được 100 đồng. Năm 1944, đề thi giải Đồ Chiểu là cuốn tiểu thuyết có ý nghĩa vịnh theo hai câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu trong « Lục Vân Tiên » là : « Trai thời trung hiếu làm đầu« Gái thời tiết hạnh là câu trau mình » Kỳ này cũng chỉ có hai người dự giải. Không có ai đoạt giải mà cũng chẳng có ai được giải khuyến khích. Năm 1945, đề thi là « Một gương nghĩa sĩ ». Không có một ai dự thí mặc dù tiền giải lên đến 1.250 đồng, giải lớn nhất thời tiền chiến, có lẽ là do tình hình xã hội với cuộc giải phóng đất nước (1945). 5. GIẢI « THỦ KHOA NGHĨA » CỦA HỘI KHUYẾN-HỌC CẦN-THƠ Mới đầu Hội chỉ là một hội học. Từ khi bác sĩ Lê Văn Ngôn làm hội trưởng, số hội viên từ 20 tăng đến 123. Hội quy tụ được một số tài năng như Tố Phang, Trực Thần, Tây Đô Cát Sĩ, Lê Đằng Côn, họa sĩ Nguyễn Văn Mười v.v. Năm 1943, Hội cho ra tập Kỷ yếu với tên gọi « Xuân Tây đô », nhân dịp Tết Giáp Thân. Cũng cùng năm này, Hội đặt ra giải thưởng « Thủ Khoa Nghĩa ». Giải sẽ phát vào năm 1944. Mục đích của Giải là khuyến khích các tài năng mới và góp phần vào việc phát triển nền văn nghệ miền Nam trong thời kỳ còn phôi thai. Hội chỉ chấm các tác phẩm nào chưa in của các nhà văn miền Nam. Kết quả Hội nhận được 1 tập vận văn, 2 quyển tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 1 quyển ký sự, 3 quyển nghị luận và 2 quyển khảo cứu. Hai cuốn tiểu thuyết được giải là : - « Đồng quê » (giải nhất) của Phi Vân. Tác phẩm được in lại bốn lần và được dịch ra Hoa văn với tựa đề « Nguyên dã ». - « Truyện năm người thanh niên » (giải nhì) của Nguyễn Ngọc Tân. Sau này tác giả có sửa chữa lại tác phẩm, lấy bút hiệu là Phạm Thái và giao lại cho nhà Tự Quyết xuất bản năm 1955. Giải « Thủ Khoa Nghĩa » chỉ ra được một lần. Vì tình hình thời cuộc nên Hội tạm ngưng việc tổ chức giải. 6. GIẢI NAM XUYÊN Năm 1944, ông Lê Tràng Kiều, chủ nhà xuất bản Nam Xuyên ở Sài-gòn, tổ chức giải văn chương hàng năm dưới sự bảo trợ về tài chính của nhà kinh doanh Võ Tuấn Khanh. Mục đích của giải Nam Xuyên là khuyến khích các nhà văn toàn quốc và giúp các nhà văn trúng giải xuất bản tác phẩm của họ (tác giả giữ bản quyền). Kết quả của giải được công bố vào tháng 8 năm 1944 như sau : 1. Giải nhất (500 đồng) : « Mùa hoa mới » của Minh Dân, một giáo học ở Vụ-bản, Nam-định. 2. Giải nhì (350 đồng) : « Cây đàn Chiêu Quân » của Th. Q. Hoàng Đức Tấn ở Hà-nội. 3. Giải ba (200 đồng) : chia làm hai cho * « Cơn ác mộng » của Nguyễn Văn Xuân ở Sài-gòn * « Thạch sương bồ » của Nam Phố ở Sài-gòn 4. Giải tư (50 đồng), có bốn giải cho : * « Tuổi trẻ » của Pucho Nguyễn Hữu Phước ở Thủ-dầu-Một * « Bịnh học » của Dương Tử Giang ở Hà-tiên * « Gánh giang san » của Mễ Nhân ở Hà-nội * « Bộ bài nhân sự » của Vũ Duy Hanh ở Sài-gòn Cũng như các giải khác, giải Nam Xuyên chỉ phát được một lần. Tình hình chiến tranh làm cho việc tổ chức giải phải ngưng lại. Các giải văn chương trên, mặc dù không sống lâu, cho phép ta rút ra một số nhận xét sau : - Làm sống lại các nhân vật lịch sử của miền Nam qua giải Đồ Chiểu và giải Thủ Khoa Nghĩa và từ đó nung nấu tinh thần ái quốc của dân chúng. - Khuyến khích các tài năng mới ở miền Nam nói riêng và cả nước nói chung tham gia vào việc xây dựng và phát triển nền văn học chữ quốc ngữ. - Làm nổi bật nét độc đáo của văn nghệ miền Nam trong thời kỳ phôi thai. - Đề cao tâm huyết của các văn gia, học giả, thi sĩ, giáo giới v.v. đối với nền quốc học. - Cập nhật hóa các giá trị truyền thống đồng thời tiếp thu có chọn lọc các kiến thức và các giá trị mới được du nhập từ các nền văn hóa và văn minh khác. Các tài liệu tham khảo : 1. Nguyễn Ngu Í, « Các giải văn chương trên đất Việt thời tiền chiến », revue Bách Khoa No.137 (15/9/1962), 139 (15/10/1962) và 140 (01/11/1962) 2- Nguyễn Ngu Í, « Các giải văn chương ở miền Nam nước Việt », revue Bách Khoa No. 152 (01/5/1963) Vài nét về KIM LAM
Kim Lam tên thật là Phạm Thị Kim Dung, một nữ biên khảo gia thuộc thế hệ thứ 2 mà chúng tôi tình cờ gặp trong buổi sinh hoạt văn hoá nghệ thuật chiều ngày Chủ Nhật 8 tháng 6 năm 2003. Hoạ sĩ Nguyễn Đức Tăng và đạo diễn Trần Song Thu thuộc thế hệ thứ 1 hợp tác với thế hệ thứ 2 do Đan Thúy Vy đại diện một số văn thi ca nhạc sĩ trẻ thuộc nhóm văn nghệ tập san Ngày Mới tại Paris, tổ chức buổi sinh hoạt nói trên..
Kim Lam được phu quân tháp tùng. Đó là một nhà trí thức tây phương mang cái tên thật lãng mạn "Yves LAMOUREUX" mà tiếng Việt dịch nôm na là "kẻ tình si". Với sự say mê nền văn hóa cổ truyền Việt-nam, nam tử này dự tính đến xứ sở ấy để thực hiện các giấc mơ của mình. Hai tháng trước khi phi cơ cất cánh, chàng đã không hẹn mà gặp Phạm Thị Kim Dung ở viện bảo tàng Orsay (musée d'Orsay) trước một bức danh họa của Renoir. Từ đó mối tình Pháp-Việt được nuôi dưỡng càng ngày càng mãnh liệt trong vòng tay của văn học và nghệ thuật. Kim Dung vô cùng kinh ngạc khi thấy người yêu mình ngưỡng mộ với tất cả tâm hồn và trái tim hai danh nhân Việt Nam : Nguyễn Trãi, vị tướng tài ba và cũng là nhà thơ lỗi lạc ; Nguyễn Du, đại thi hào qua danh tác "Kim Vân Kiều". Thế rồi Kim Dung và Yves xây dựng gia đình với nhau. Dòng sông Cửu Long và dòng sông Loire đã hòa hợp và quyện lấy nhau, đưa hai người đến bến bờ hạnh phúc. Đó cũng là ý nghĩa bút hiệu KIM LAM lấy từ một phần tên của cả hai vợ chồng.Ngày xưa Kim Lam xuất thân từ trường "Áo tím" Gia Long. Trường đã đào tạo cho bao thế hệ nữ sinh nền văn hóa truyền thống hòa nhịp với văn chương thế giới phong phú bởi các luồng tư tuởng khác nhau. Thêm vào đó Kim Lam say mê văn học Pháp qua Stendhal, Flaubert và Proust. Sau khi hoàn thành bậc đại học, Kim Lam trở thành giáo sư giảng dạy tiếng Pháp ở Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Viện Trao đổi Văn-hóa với Pháp tại Việt Nam. Năm 1991, Kim Lam sang Pháp để thực hiện các kế hoạch nghiên cứu của minh vì ở Pháp có nguồn tài liệu phong phú và vô tận. Năm 2002 Kim Lam đã trình bày thành công ở Viện Quốc-gia Ngôn-ngữ và Văn-minh Đông-phương tại Paris luận án Tiến sĩ với tựa đề : « Les mutations de la République du Vietnam : l’apport de la revue Bách-Khoa (Sài-gòn, 1957-1975) » nhằm giới thiệu các hoạt động văn-hóa và trí thức của miền Nam Việt-nam trước tháng 4 năm 1975 qua việc phân tích tạp chí Bách-Khoa xuất bản ở Sài-gòn. Đồng thời tác giả làm nổi bật các lo âu cùng mâu thuẫn của miền Nam trên con đường canh tân xứ sở và trong cuộc xây dựng nền văn hóa dân tộc. Chính tinh thần tự do sáng tạo đã giúp cho miền Nam duy trì được bản sắc đân tộc của mình và đánh dấu một giai đoạn trong lịch sử tiến hóa của nước Việt-nam.
Hiện nay Kim Lam vẫn tiếp tục các kế hoạch nói trên, với một công trình nghiên cứu rất ích lợi cho các nhà biên khảo sau này về các hoạt động văn hóa và trí thức của miền Nam trước 1975. Công việc này vừa mới hoàn thành xong và đang chờ xuất bản. Tác phẩm nghiên cứu dày hơn 220 trang trong đó tác giả giới thiệu tạp chí Bách-Khoa, đường lối hoạt động cùng sự đóng góp của tạp chí này vào việc xây dựng con người Việt-nam mới ở thế kỷ 20 bước qua thế kỷ 21, con người tiến bộ nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc (phần giới thiệu viết bằng Pháp ngữ dài bốn trang). Tác phẩm có kèm theo đầy đủ tài liệu tham khảo : Các bài báo mà tạp chí đã đăng tải trong suốt 18 năm 4 tháng ở Sài-gòn (viết bằng Việt ngữ), danh mục các tác giả bài báo và các cộng tác viên của tạp chí, cùng ngày tháng của các số báo để tiện cho mọi nghiên cứu sau này.
Ngoài ra, Kim Lam còn hoàn thành bốn bài biên khảo viết bằng Pháp ngữ chưa kịp cho phổ biến, mang tựa đề « Le conte, lieu de rencontre de l’Orient et l’Occident », « La poétique des vers de 6-8 pieds face à la traduction en français à partir d’un extrait de Kim Vân Kiều », « Les femmes sud-vietnamiennes et leur représentation dans la littérature de 1955 à 1975 » et « Bách Khoa et la culture nationale de l'an 2000 (Người giới thiệu :
Bình Huyên)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 24, 2010 3:40:47 GMT 9
Thờ cúng tổ tiên với công cuộc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam
Võ Thu Tịnh Gia Long đề nghị hòa hợp tục thờ cúng tổ tiên với đạo Thiên Chúa Cuộc rao giảng đạo Thiên Chúa theo di huấn của Đức Chúa Jésus đã thực hiện từ hàng nghìn năm tại phưong Tây, nhưng ở phương Đông, phải đến thế kỷ XVII, các giáo sĩ dòng Tên (Jésuite) mới đến Trung quốc truyền giảng Thiên Chúa giáo cho các dân ngoại đạo. Các giáo sĩ nầy học nói tiếng Hoa, mặc y phục Hoa, lấy tên họ Hoa, nên được dân bản xứ tín nhiệm, Hoàng đế Hoa cho vời một số giáo sĩ ấy đến triều để giúp việc. Vì tôn trọng phong tục và cảm tính tế nhị của những người Hoa mới theo đạo, các giáo sĩ dòng Tên cho phép họ thờ cúng tổ tiên. Việc này đã gây nên sự tranh luận sôi nỗi về vấn đề lễ tục trong Hội thánh Vatican. Vì cho việc thờ cúng tổ tiên có tính cách dị giáo nên, năm 1742, Giáo hoàng Benoit IV ra lệnh cấm các giáo dân Hoa không được thờ cúng tổ tiên. Nhưng tập quán thờ cúng tổ tiên vẫn là một nền tảng giáo dục, luân lý, chính trị quốc gia, nên chính quyền Hoa phản ứng quyết liệt, Thiên Chúa giáo bị cấm đoán, giáo sĩ, tín đồ bị khủng bố, tù đày, trục xuất hay chém giết. Cũng vào thế kỷ XVII, tại Việt Nam, năm 1615, giáo sĩ đầu tiên đến truyền đạo ở đàng Trong (miền Nam) là Cha Buzomi (ý) thuộc dòng Tên (Jésuite). Giai đoạn đầu, tính đến năm 1642, tín đồ có được 20.000 người. Nhưng về sau, cũng xảy ra những trở ngại khó khăn như ở Trung Hoa, Thiên Chúa giáo bị cấm, tín đồ bị tù đày, giáo sĩ Tây phương bị trục xuất. Năm 1789, sau vụ hoàng tử Cảnh bắt đầu tin Chúa không chịu ra lạy trước bàn thờ tổ tiên, vua Gia Long, trong một cuộc đàm luận, có phân trần với đức cha Bá-đa-lộc đại ý như sau: ûNên ước mong rằng tập quán thờ cúng tổ tiên có thể hòa hợp với đạo Thiên Chúa, vì theo tôi nhận thấy, ngoài việc ấy ra, thì chẳng có chi ngăn cản vương quốc tôi biến thành một nước Thiên Chúa giáo. Chính tôi đã cấm đoán những tập tục đồng bóng, coi tử vi. Tôi coi sự thờ thần thánh là sai lầm, mê tín, dị đoan, vì nếu tôi có dung túng các nhà sư, thì chỉ là để cho dân tôi khỏi oán hờn. Tục độc thê cũng không phải là một nguyên tắc mà chúng tôi phải khó khăn chấp nhận. Nhưng tôi tha thiết với thờ cúng tổ tiên, vì như tôi đã nói với ông, tôi không thấy tục ấy có gì lố lăng đáng chê cười. Tập quán thờ cúng tổ tiên là căn bản nền giáo dục của chúng tôi. Tập quán ấy khiến cho những trẻ nít, ngay từ lúc còn thơ, phải kính trọng cha mẹ, và dành cho cha mẹ cái oai quyền cần thiết để ngăn chận bao hỗn loạn trong gia đình... Tôi sẵn sàng thay đổi những nghi lễ mà ông cho là dị đoan, nhưng nếu tôi bỏ hết những nghi lễ khác, tôi sẽ làm cho dân tôi tăng thêm lòng nghi ngờ về cách suy tư, và có thể tưởng rằng tôi đã thay đạo, chúng sẽ không còn tha thiết với tôi nữa. Tôi yêu cầu ông lưu ý đến điểm ấy, và cho phép giáo dân tiến gần hơn tí nữa vỡi những dân khác của tôi. Hành xử ấy, rất đáng mong mỏi cho những kẻ thường dân, lại rất cần thiết cho những người giữ địa vị cao quý trong quốc giaõ. (1) Như vậy, có thể nói Gia Long là người đầu tiên đã khởi xướng chủ trương hội nhập văn hóa Việt Nam với Thiên Chúa giáo, hầu mở đường cho việc rao giảng Lời Chúa và xây dựng Hội thánh tại Việt Nam được thuận lợi hơn. Chính Giám mục Ba- đa-lộc, cũng xác nhận rằng :õđại đa số đàn bà (ám chỉ chế độ đa thê) và nhất là việc thờ cúng tổ tiên, mà Triều đình ở La Mã đã cấm đoán quá mức, sẽ luôn luôn là những trở ngại rất khó vượt quaõ. Tiếc rằng giới Thiên Chúa Vatican giáo lúc ấy không ai chú trọng đến ý kiến của Giám mục và lời thỉnh cầu của vua Gia Long. Sau khi vua Gia Long qua đời, các vua kế tiếp Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức để bảo vệ đạo đức luân lý Nho giáo, nền tảng của quốc gia, nên ra lệnh cấm đạo Thiên Chúa. Cấm không được thì tù đày, mà cuối cùng không được nữa thì giết. Nước Pháp can thiệp, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ và cuối cùng đến năm 1884, Việt Nam bị thua và bị rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Thiên Chúa giáo công khai du nhập vào Việt Nam. Mãi đến năm 1939 (tức là 150 năm sau lời đề nghị của Gia Long), giáo hoàng Pie XII thấy sự cấm đoán ấy sai, nên mới ra lệnh cho giáo dân châu Á được phép thờ cúng tổ tiên Thờ cúng tổ tiên là một nan đề làm khổ tâm các Nho gia Tập quán thờ cúng ở Việt Nam vốn đã có từ cổ thời. Đến khi Nho giáo du nhập vào nưức ta, thì tập quán ấy mới theo học thuyết của Khổng tử mà biến thành một lễ tục nghiêm túc hơn. Thật ra, Khổng-tử vốn chủ trương chống lại sự thờ cúng các thần linh: ỏKẻ mất tội với Trời, dầu cầu đảo với vị thần nào cũng không khỏiõ. Đối với quỷ thần, thì kính nhưng nên xa lánh : ỏKính nhi viễn chiõ (Luận Ngữ, III Bát Dật, t. 13). Khi mang bệnh nặng, Tử Lộ đề nghị làm lễ cầu cúng thần linh, Khổng-tử nhất định từ chối (LN, VII Thuật Nhi, t.34). Nhưng trái lại Khổng-tử dạy ta phải thờ cúng tổ tiên, và khi hành lễ phải hết lòng cung kính xem như ông bà, tổ tiên có mặt tại đó : ỏTế như tạiõ (LN, III Bát Dật, t.12). Như thế, là vì Khổng tử đã dựa vào phép ỏkinh quyềnõ, (kinh là hành sự khi thường, quyền là hành sự khi biến), mà cân nhắc xét bên nào nặng, bên nào nhẹ, để hành sự cho đúng. Ở đây, bên nhẹ là việc cúng tế thần linh, bên nặng là dùng thờ cúng tổ tiên xa xưa để dân gian cảm động mà giữ trọn đạo hiếu. Một khi giữ trọn được chữ hiếu với cha mẹ, thì dân chúng sẽ cảm động mà phát khởi đức nhân. Trái lại, nếu câu nệ theo bên nhẹ mà bỏ bên nặng, chấp nhất một việc nhỏ mà làm hỏng cả đạo lý lớn, là điều mà Mạnh tử cho là đáng ghét (Mạnh-tử, Tận Tâm I, t. 26). Dầu sao, theo Hồ Thích, trước sự mâu thuẫn giữa học thuyết và thực hành như thế các ỏNho gia không khỏi cảm thấy khổ tâmõ (Hồ Thích, Trung quốc Triết học sử, Huỳnh Minh Đức dịch, Đại Nam, Saigon 1970, tái bản Cali, HK, tr.275) Nhưng xét kỹ, Khổng tử đã dùng lễ tục thờ cúng tổ tiên làm một phưưng tiện dẫn dắt dân gian đến đức Hiếu rồi đến đức Nhân, là lý tưởng tuyệt đỉnh của Nho giáo. Có thể cho rằng, theo Nho giáo, thờ cúng tổ tiên chỉ là một lễ tưởng niệm vinh danh tổ tiên mà thơi, vì Khổng-tử đã dùng hai chữ ỏnhư tạiõ (LN, III Bát Dật, t.12) ngụ ý là không có vong linh tổ tiên thật sự về dự buổi lễ nhưng con cháu phải coi như là tổ tiên có mặt tại đó, nên phải hành lễ cung kính đúng phép. Tây phương cũng có những lễ tưởng niệm như thế. Họ tạc tượng, dựng bia ghi tên các liệt sĩ, anh hùng, vĩ nhân, rồi đến ngày kỷ niệm kéo đến dâng hoa, đốt lửa thiêng, đọc diễn văn, cung kính hành lễ. Nhưng họ không bao giờ cho rằng vong linh các vị ấy đã hiện về có mặt tại các nơi ấy. Thờ cúng tổ tiên với với sự bảo tồn tinh thần dân tộc Thờ cúng tổ tiên, theo các nhà nhân chủng học, là một hình thùc nối liền thể hệ người sống với những lớp người chết, một tập tục đã cũ từ xa xưa trong nhiều nước trên thế giới, từ các dân tộc bán khai ở châu Phi, châu Mỹ, cho đến các nước văn minh như cổ Hy Lạp, La Mã, Nhật bổn, Ấn độ, v.v. Ernest Renan (1823-1892), một triết gia, kiêm sử gia Pháp nổi tiếng, trong một bài thuyết giảng ngày 11-03-1882 tại đại học Sorbonne, Paris, đại khái đã xác nhận rằng thờ cúng tổ tiên là một tập quán chính đáng hơn cả, vì theo ông, tổ tiên đã sinh dưỡng, gày dựng ra chúng ta, với một dĩ vãng hào hùng, với những vĩ nhân và bao nhiêu vinh quang, chiến thắng... ....đã hình thành cả một vốn liếng xã hội, nền tảng cho một ý thức quốc gia. Cùng chung một quá khứ vẻ vang, cùng chung một ý chí trong hiện tại, cùng mong muốn hoạt động ngày một hơn nữa trong tương lai ... đó là những điều kiện chính yếu để cấu thành một dân tộc. Chúng ta yêu dân tộc ta tương xứng với những hy sinh tự nguyện, với những đau khổ điêu linh đã qua. Chúng ta thương ngôi nhà ta đã dựng lên và sẽ để lại cho con cháu. ỏChúng tai là thành quả của tiền nhân, chúng tai sẽ trở thành những con người như tiền nhânõ đó hẳn là một điệp khúc căn bản thường gặp lại trong các quốc ca của hầu hết các dân tộc trên thế giớiõ. (Quõest-ce quõune nation ? Ernest Renan, Ed. Presse Pocket, Paris 1992, trang 54) Việt Nam ta, suốt ngàn năm Bắc thuộc với chủ trương đồng hóa dân ta, hàng trăm năm bị Pháp đô hộ với chủ trương Âu hóa trí thức ta, nửa thế kỷ dưới chế độ độc tài đảng trị Cộng sản với chủ trương tam vô hóa quốc gia ta (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo), mà chúng ta còn giữ được tinh thầợn quốc gia, lòng tự hào dân tộc, tình tự con người Việt Nam, là nhờ tập quán thờ cúng ông bà, thờ thủy tổ Hùng Vương, thờ cúng các vị anh hùng kháng chiến, các vị xây dựng xóm làng, bảo vệ đất nước, để nhắc nhở nguồn gốc dân Việt, nuôi dưỡng lòng yêu nước của dân gian ta. Nhưng về sau, những tập tục mê tín dị đoan đã xâm nhập vào các buổi lễ thờ cúng. Một mặt vì sự thiếu hiểu biết của dân gian, mặt khác, quan trọng hơn, vì các buổi lễ cúng tế có tính cách nuôi dưỡng tinh thần quật khởi của dân Việt, mỗi vị thần có một sự tích, khi cúng tế, có lệ diễn lại sự tích giúp dân cứu nước, chống ngoại xâm, cho nên ông cha chúng ta phải lấy hình thức tôn giáo, lễ tục mà phủ ra ngoài để che mắt bọn thống trị ngoại bang. Chẳng hạn như ở các làng trong tổng Phù Đổng chẳng hạn, mỗi năm đến ngày cúng thần Phù Đổng Thiên Vương (tức là Thánh Gióng), hàng trăm dân làng tụ họp trước đền, phân thành hai nhóm, tượng trưng cho quân ta và quân nhà Ân (Tàu), diễn lại cuộc chiến đấu của thần ngày xưa, cuối cùng quân Ân bị đại bại, tướng soái của giặc Ân phải dâng nạp lễ vật cho quân ta, vv... Sự sùng bái ấy, bề ngoài có tính cách tín ngưỡng, hay mê tín, bên trong là những dịp cho nhân dân ta ôn lại quá khứ huy hoàng của ông cha, những dịp nhắc cho mọi người đừng quên bổn phận tranh đấu bảo tồn nòi giống, văn hóa và đất nước, là di sản của tổ tiên từ xa xưa. Ngày nay, theo lời vua Gia Long đã nói trên đây, ỏ Mong hòa hợp tập quán thờ cúng tổ tiên, cắt bỏ những gì mê tín dị đoanõ, và theo tinh thần ỏ như tạiõ của Nho giáo, chúng ta tổ chức thờ cúng tổ tiên thành một ỏlễ tưởng niệmõ, gạt bỏ những gì mê tín dị đoan, con cháu, thân hữu nhóm họp tưởng nhớ đến công đức của tổ tiên ông bà, cha mẹ, (nếu chúng ta là tín đồ Thiên Chúa giáo thì đặt buổi lễ trong Tình thương và Ân điển của Chúa), mở màn cho một cuộc sống hội nhập văn hóa dân tộc Việt Nam với Thiên Chúa giáo. Tiếc rằng ngày xưa ngay lúc đầu, Giáo Hoàng Vatican chấp thuận lời đề nghị của vua Gia Long và của Giám mục Ba-đa-lộc, thì có lẽ sẽ không có việc cấm đạo, không có cớ để Pháp gây ra một cuộc ỏthánh chiếnõ đến xâm chiếm nước taà Võ Thu Tịnh (1)- ị Il serait bien ả souhaiter que cette usage pƯt se concilier avec le christianisme ; car selon ma maniăre de voir, il nõy a pas dõautres obstacles vắritables qui puissent empằcher tout mon royaume dõằtre chrắtien. Dắjả, jõai dắfendu la magie et lõastrologie judiciaire; je regarde le culte des idoles comme faux et superstitieux, et, si je supporte les bonzes cõest pour ne pas aigrir mon peuple. La monogamie nõest pas non plus un principe dont nous avons peine ả nous convaincre. Mais je tiens au culte des parents, et de la maniăre dont je vous ai exposắ, il ne me paraỵt point ridicule ; il est la base de notre ắducation. Il inspire aux enfants, dăs lõạge le plus tendre, le respect filial, et donne aux păres et măres cette autoritắ sans laquelle ils ne pourraient empằcher bien des dắsordres ả lõintắrieur des familles. Cet honneur rendu aux parents devient public, sõắtend, sõenracine ; je dắsire cependant, comme vous, quỏil soit fondắ sur la vắritắ , et quỏon ắloigne de toute erreur à Je consens encore ả changer les diffắrentes cắrắmonies que vous jugerez superstitieuses ; mais si je venais ả les supprimer toutes, jõaugmenterais les soupậons quỏont dắjả mes sujets sur ma maniăre de penser ; et peut ằtre que, sõils croyait que jõai changắ de religion, ils me serait beaucoup moins attachắs. Je vous prie de bien vouloir faire attention, et de permettre aux chrắtiens de se rapprocher un peu plus du reste de mes sujets. Cette conduite, si dắsirable dans les particuliers, devient comme nắcessaire dans les personnes qui occupent quelque place considắrable dans lõEtat Ể. (Extrait de la Lettre de Mgr Pigneau de Bắhaine, 17 aỏt 1790, A.S.M.E., vol. 801, pp. 283 ss.)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 30, 2010 17:05:45 GMT 9
Ngôn Ngữ, Cái Mới và Sáng Tạo ______________________________________ Nguyễn Bảo Hưng
Trong một bài viết có đăng trên diễn đàn này (1), chúng tôi có nêu vấn đề khả năng diễn đạt của tiếng Việt với chủ ý chứng minh rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ đầy đủ khả năng đáp ứng cho mọi nỗ lực tìm tòi sáng tạo. Chúng ta cũng biết một nhà văn muốn đi tìm cái mới thường ngập ngừng đắn đo mỗi khi cầm bút viết. Ngập ngừng đắn đo bởi vì ông ta đang tìm cách xua đi âm vang của những sáo ngữ thời thượng, những nhịp điệu ru êm, những lập luận công thức đang vo ve khuyến dụ ông, tìm cách lôi kéo ông lại sa vào vũng lầy của những cảm xúc tiền chế, những suy tư đã xếp nếp. Có xua đuổi những vo ve ấy, ông mới lắng nghe được những vang vọng, những thì thầm nho nhỏ đang muốn cố nhoi lên tự thăm thẳm đáy lòng. Những thì thầm, những vang vọng ấy chính là tín hiệu của những cảm xúc mới lạ, những cảm nghĩ mới mẻ nảy sinh từ một trạng huống đặc biệt hoặc do phát hiện được một khác lạ ở những cái mà ta cứ tưởng rằng chẳng còn gì để nói thêm được nữa. Từ những cảm nghĩ, những cảm xúc vừa hiện lên, hãy còn phảng phất mơ hồ ấy, ông mới đi tìm chữ nghĩa để tìm cách nắm giữ chúng, bắt chúng phải hóa thân thành lời. Với một người viết yêu chữ nghĩa, trọng chữ nghĩa, tìm đến sáng tạo với tấm lòng như vậy, ông ta có thể an tâm tìm thấy ở tiếng Việt một người bạn đồng hành tâm đầu ý hợp. Trong bài viết nêu trên chúng tôi đã tìm cách phân tích để chứng minh rằng dưới hình thức một câu chuyện kể dân gian mộc mạc bằng văn vần, Chân Quê thực ra là một bài thơ mang ý nghĩa sáng tạo. Và nếu Nguyễn Bính, chỉ với hai chữ " Chân quê " chọn làm tựa cho bài thơ, đã nói lên được cái nhìn sáng tạo của mình bằng thứ ngôn ngữ hầu như đại chúng chính vì ông đã nắm được bí quyết sử dụng điều mà người ta vẫn gọi là thiên tài của ngôn ngữ (le génie de la langue), tức là khả năng diên tả đặc thù của mỗi ngôn ngữ một. Cái làm nên thiên tài của ngôn ngữ Việt hay, nói khác đi, cái đem lại cho tiếng Việt một khả năng diễn tả ưu việt đặc thù, theo tôi, trước hết là do tiếng Việt là thứ tiếng đơn âm nhưng lại có cấu trúc câu được tạo nên bởi các từ ghép do một, hai hoặc ba từ khác nhau ghép lại thành. Thứ đến, tiếng Việt là sự hội nhập của nhiều tiếng gốc khác nhau : tiếng Hán, tiếng Pháp (với gốc la tinh) và tiếng Việt chính gốc. Nhờ vào đặc tính này của tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm lại gồm các từ vựng được cấu tạo bởi các từ ghép, nên ta có thể, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nhân vật, tùy theo tâm trạng, tùy theo cảm nghĩ..., tạo ra những từ mới bằng cách hoặc hoán đổi vị trí của chữ trong một từ, hoặc thay thế một chữ nào đó bằng một chữ khác trong một từ để làm cho ý tưởng được sáng tỏ hơn hoặc để làm nổi bật cái sắc thái, cái âm hưởng, cái ý vị của điều ta muốn diễn tả. Để dẫn chứng tôi xin tạm liệt kê sau đây danh sách các từ vựng được tạo thành với từ tưởng chọn làm gốc tôi sưu tầm được : tư tưởng, ý tưởng, suy tưởng, lý tưởng, tưởng tượng, tưởng nhớ, tưởng niệm, tin tưởng, hồi tưởng, hoài tưởng, mơ tưởng, tơ tưởng, vọng tưởng, đồng tưởng, giả tưởng, ảo tưởng, không tưởng, hư tưởng, hoang tưởng, bệnh tưởng, cuồng tưởng, huyễn tưởng... Bây giờ tôi xin nhờ các vị soạn từ điển hay các nhà lý luận phê bình văn học định nghĩa dùm tôi các từ trên và, nếu có thể được, cho một câu thí dụ kèm theo để giúp tôi nắm được cách sử dụng thích đáng các từ đó. Giả dụ công tác này thực hiện, giờ tôi lại có ý nhờ các nhà ngôn ngữ học tìm kiếm dùm tôi một vài ngôn ngữ trên thế giới cũng có được những từ vựng tương đương để diễn tả đầy đủ các sắc thái, âm hưởng đa dạng như trường hợp các từ Việt nêu trên. Bởi thế tôi tin rằng, nếu chịu khó tìm hiểu tới nơi tới chốn và chịu khó chọn từ, chọn nghĩa một cách ý thức, bất cứ người viết nào cũng có thể đem lại cho văn bản một ý vị khả dĩ làm vừa lòng được khách đọc khó tính muốn đi tìm sự thích thú trong đọc sách. Bù lại, nếu ta chấp nhận kiên trì trong chọn lựa từ ngữ để diễn tả chính xác, thích đáng điều ta muốn nói lên, ta sẽ có cơ hội để phát hiện rằng tiếng Việt quả là một ngôn ngữ dồi dào sức sống, với tiềm năng tự tạo và tái tạo thần thông biến hóa không thua gì ông Tề thiên đại thánh dám đánh cả Trời luôn. Nhưng dù có là công cụ sắc bén đến mấy, ngôn ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền đạt mà thôi. Với nó và nhờ nó, một nhà văn hay nhà thơ tài hoa có thể diễn đạt chính xác, cụ thể tư duy của mình hay truyền đạt trọn vẹn những rung cảm với âm hưởng sắc thái tinh tế nhất. Nhưng công cụ bao giờ cũng chỉ là công cụ, bản thân ngôn ngữ không hề chất chứa mầm mống sáng tạo nên không phải là nguồn gốc sáng tạo. Bởi vậy một nhà văn, nhà thơ nếu chỉ biết tìm tòi vận dụng khả năng diễn đạt của ngôn ngữ nhằm mục đích thể nghiệm một bút pháp mới, một hình thức diễn đạt mới nhưng rút cục vẫn chỉ lập lại có ngần ấy chủ đề nội dung quen thuộc, thì nỗ lực cách tân của ông ta cũng chỉ là một sự cách tân trong sáng tác mà thôi. Mà sáng tác không hẳn đồng nghĩa vói sáng tạo. Sáng tạo, theo tôi, chủ yếu nằm trong cái nhìn khai phá nghĩa là cần hướng sự tìm kiếm vào việc phát hiện những sự kiện, chi tiết còn ẩn dấu một một ý nghĩa mới ở những cái mà mọi người tưởng như đều đã " biết rồi, khổ lắm, nói mãi ". Để làm sáng tỏ sự khác biệt giữa sáng tác là dùng thủ thuật, bút pháp để nói mới mẻ, nói khác đi, nói cao siêu bí hiểm, nói tối tăm hũ nút, nói không giống ai để rồi cũng chỉ nói lên những điều mà mọi người có nghe nói hoặc cũng có thê nói lên được, với sáng tạo là đưa ra được cái nhìn mới mẻ khả dĩ đem lại một ý nghĩa mới làm biến đổi nội dung ở những cái ta vẫn cho là quen thuộc, tôi đề nghị một trường hợp khảo sát cụ thể : vai trò của Caligula trong vở " CALIGULA " ( Gallimard - coll. Folio-Théâtre -1944) của A . Camus. Là một hoàng đế ở đầu công nguyên (12-41) và tuy chết trẻ, mới 29 tuổi, nhưng Caligula lại khét tiếng là bạo chúa do các tội ác ngông cuồng quỷ quyệt của y : loạn luân với em ruột, đòi triều đình kiếm cho được mặt trăng về làm đồ chơi, bắt cận thần phải hiến vợ và làm tình ngay trước mắt họ, tùy tiện ra lệnh giết người không theo một lô gích nào. Tuy nhiên khi mới đăng quang, Caligula đã có một vài cử chỉ quảng đại báo hiệu có thể trở thành một đấng minh quân. Chỉ sau cái chết đột ngột của Drusilla, em gái và cũng là người tình yêu quí nhất, Caligula mới đổi tâm tính và trở thành bạo chúa. Đối với cuộc đời của một nhân vật như Caligula chi tiết này tưởng không có gì đáng kể ; nhưng nó lại đập vào mắt Camus khiến ông quyết định chọn Caligula làm chủ đề cho vở kịch của ông. Nếu chỉ xét về mặt nghệ thuật sân khấu, vở Caligula tưởng như không có gì mới lạ so với những vở kịch hay tác phẩm hư cấu khác cũng nói về nhân vật này. Trong vở kịch ta cũng thấy một Caligula lộ diện nguyên hình là một bạo chúa với những tội ác tầy trời theo lịch sử ghi chép. Điều được coi mới mẻ hay đúng ra được gọi là sáng tạo ở Camus, chính là vì ông đã biết dùng ánh sáng nhận thức của thời đại mình đem rọi chiếu vào lịch sử làm thay đổi chân tướng Caligula, biến một nhân vật vốn được biết như một bạo chúa bỉ ổi thành một nạn nhân biểu tượng của sự phi lý ở đời. Và nhờ óc sáng tạo này ông đã lôi ra được ánh sáng cái ý thức về phi lý vốn là mối ưu tư hàng đầu của thế hệ ông. Đây là một chủ đề sâu sắc mà nội dung thông điệp không dễ gì phổ bién được sâu rộng. Bởi vậy Camus mới chọn kịch như là thể loại giúp ông tiết kiệm được ngôn từ mà lại có khả năng truyền đạt tối đa.
Vở kịch mở màn với cảnh triều đình nhớn nhác đi tìm Caligula biệt tăm đã ba ngày. Khi tái xuất hiện, Caligula chỉ còn là một thân hình tiều tụy, mặt mày lem luốc, miệng lảm nhảm như một anh khùng. Phải chờ tới khi gặp lại tâm phúc là Helicon, Caligula mới thốt ra một câu giúp ta hiểu được sự thay đổi đột ngột của y : " Mọi người đều phải chết và không có hạnh phúc. " (" Les hommes meurent et ne sont pas heureux " (CALIGULA, acte I, sc.4, p. 49). Bằng câu này Caligula muốn thố lộ rằng y đang phải sống một thảm kịch lớn, không phải do cái chết của Drusilla mà vì cái chết đó khiến y phát hiện ra một sư thật khủng khiếp : đời người là hữu hạn và hạnh phúc chỉ là ảo ảnh. Với Hélicon, sống chết là chuyện ở đời và điều này không khiến " thiên hạ phải bỏ bữa ăn trưa " (" Ce n'est pas cela qui les empêche de déjeuner " Sdd, tr. 49). Nhưng với Caligula đây lại là biểu hiện của định mệnh phi lý dành cho kiếp người. Điều này làm hắn bất bình nổi loạn vì thấy không thể chấp nhận sống giả dối, sống cam phận với một hạnh phúc ảo ảnh như vậy. Sẵn có quyền bính trong tay, hắn quyết định thực hiện điều được coi như bất khả thi trước con mắt người đời : thay đổi thân phận phi lý con người. Ý muốn bắt nhốt mặt trăng làm đồ chơi chính là hành vi biểu tượng cho quyết tâm thực hiện sự bất khả thi đó. Nhưng trước mắt, Caligula tự cho mình nhiệm vụ thức tỉnh mọi người, bắt họ phải mở mắt nhìn ra thân phận phi lý của mình. Để thực hiện sứ mạng, Caligula ra quyết định tất cả phú hộ bất kỳ lớn nhỏ đều phải lập chúc thư tước bỏ quyền thừa hưởng gia tài của con cái để nạp cho nhà nước. Sau đó y ra lệnh cho quản thủ công khố thiết lập một danh sách không theo một qui tắc thứ tự nào để tùy tiện lôi những người có tên trong danh sách ra chặt đầu mỗi khi nhà nước cần tới tài sản của họ. Caligula gọi đó là một " phương pháp sư phạm nhằm biến cái bất khả hữu thành khả hữu. (" C'est de la pédagogie... Il s'agit de rendre possible ce qui ne l'est pas. " Sdd, tr. 58). Phương pháp sư phạm của giáo sư Caligula (" Il leur manque un professeur qui sache ce dont il parle " Sdd. tr. 49) là đẩy lý luận phi lý tới tận cùng giới hạn để biện minh cho các quyết định phi lý của mình : nếu phi lý là luật chơi ở đời, tại sao có những điều lại được coi là phi lý ? Bắng cách lý luận này Caligula muốn dồn mọi người tới chỗ phải bất bình nổi loạn trước các quyết định độc đoán phi lý của y và, qua đó, bất bình nổi loạn trước sự chết như là thân phận phi lý con người. Nhưng bài học siêu hình sâu sắc ấy lại vượt quá tầm hiểu biết của đám cận thần, nên họ mới coi Caligula là một hiểm họa và quyết định phải trừ khử y.
Ý nghĩa nhân bản mà Camus muốn gán cho Caligula đằng sau khuôn mặt bạo chúa sadique theo lịch sử, còn được soi tỏ hơn nhờ vào hai nhân vật trong vở kịch là Scipion và Cherea. Scipion là một thiếu niên mười bảy tuổi tâm hồn thi sĩ, cha ruột bị chính Caligula sát hại. Lúc đầu Scipion rất căm thù Caligula và nuôi ý định giết Caligula để trả thù cha. (II, 12 - Sdd. tr.95-98). Nhưng sau một cuộc trao đổi với Caligula, Scipion hiểu rõ hơn con người thật Caligula, thông cảm được với khát vọng u uẩn của y nên từ bỏ ý định trả thù. (II,14 -Sdd. tr.99- 106). Là cận thần, Cherea cũng hiểu được Caligula như Scipion. Nhưng chính vì thế hắn càng thấy lý do phải trừ khử Caligula. Bởi vì, theo hắn, " có toi mạng cũng chẳng nhằm nhò gì... Nhưng làm tiêu tan lẽ sống, làm mất đi lý do tồn tại, đó mới là điều không thể chịu dựng được. Ta không thể sống vô cớ. " (" Perdre la vie est peu de chose... Mais voir dissiper le sens de cette vie, disparaỵtre notre raison d'exister, voilà ce qui est insupportable. On ne peut vivre sans raison. " Sdd. tr. 73). Ta có thể nói Cherea là biểu tượng cho điều mà chủ nghĩa hiện sinh gọi là sự sự ngụy tín (la mauvaise foi) tức là thái đọ sống giả dối, sống cầu an, sống ẩn núp dưới một lẽ sống giả tạo để có thể kéo dài sự tồn tại. Cũng vì muốn được sống cam phận như vậy nên, dù được Caligula ân sá sau khi âm mưu bị bại lộ, Cherea vẫn tham dự vào cuộc sát hại Caligula. Duy có điều khác biệt với đám cận thần già nua là Cherea đã ra tay hành động mặt đối mặt chứ không chịu làm kẻ đâm sau lưng chiến sĩ như đám cận thần đồng lõa. Vở kịch kết thúc với cảnh Caligula trước khi thở hắt ra còn cười sằng sặc và rống lên : " Ta vẫn sống đây " (" Je suis encore vivant ! " Sdd. tr.172). Bằng câu trăn trối này Caligula muốn nhắn nhủ đám cận thần rằng, cho dù có hủy hại được thân xác y, nhưng từ nay họ sẽ phải sống mãi với ám ảnh về thân phận phi lý mà Caligula đã gieo rắc trong đầu họ.
Kịch bản CALIGULA trong bộ Folio-Théâtre của nhà xuất bản Gallimard, Paris dày 209 trang. Nếu tính số trang dành cho phần từ khi từ khi mở màn (tr.37) tới lúc hạ màn (tr.172) thì toàn bộ vở kịch chỉ chiếm có 135 trang. Nếu ta lại tính thêm rằng trên những trang này một số trang chỉ có độc một chữ mang tên nhân vật, và một số trang khác được vài dòng với mẩu đối thoại đôi ba chữ thì tổng số chữ dành cho vở kịch giỏi lắm chỉ lấp đầy ngót trăm trang sách khổ bỏ túi là cùng. Vậy mà với ngần ấy chữ nghĩa và chỉ dựa vào một thể loại cổ điển vời những lời lẽ thuộc về ngôn ngữ đời sống hàng ngày, Camus vẫn giúp cho độc giả không phải chuyên môn nhận thức được một vài khái niệm then chốt của chủ nghĩa hiện sinh. Điều này cho phép tôi nghĩ rằng, trong sáng tạo, một khi ta có được cái nhìn khai phá và nắm vững chất liệu ta vẫn nói lên được cái mới ; chứ không nhất thiết phải ưu tiên tìm kiếm ( ?) một thủ thuật, một bút pháp mới lạ ta mới tiến hành được cuộc cách mạng cách tân văn học.
Không coi nhẹ vai trò quan trọng của kỹ năng biểu thị nhưng tôi cho rằng mọi công trình sáng tạo đều cần có chất liệu tốt. Mà chất liệu quí báu nhất, trong văn học nghệ thuật, vẫn là vốn sống. Vốn sống càng dồi dào, chất liệu càng đa dạng phong phú. Những hoàn cảnh đặc biệt, những tình huống bất đắc dĩ mới là nguồn cung cấp chất liệu hiếm hoi. Chúng là điều kiện làm nảy sinh những cảm xúc mới, những ấn tượng mới, những suy tư mới. Và chỉ những cảm xúc, ấn tượng suy tư được nảy sinh từ những trạng huống ngoại lệ ấy mới giúp ta tạo dựng nên được những tác phẩm có xương có thịt. Những năm tháng dài sống trên quê hương phải trải qua biết bao thảm họa chiến tranh, nghèo đói, chậm tiến biết đâu, nhìn lại, ta đã chẳng tích lũy được một vốn sống quí báu. Tới khi được đặt chân lên những nước văn minh tiền tiến nhìn thấy người ta giàu sang của cải ê hề, sinh hoạt tự do thả dàn, không bằng lòng điều gì tha hồ quạc miệng chửi tưới hột sen, ta ngỡ ngàng tự hỏi phải chăng thiên đường hạ giới nơi đây. Nhưng sau những choáng ngợp ban đầu, ta lại phát hiện ra rằng cuộc sống những chốn này cũng có cái gì không được ổn lắm. Gia đình nhà nào cũng hai ba chiếc xe, TV, dàn xen mỗi phòng đều có. Vậy mà ra đường ai nấy cũng hớt ha hớt hải có đường còn tất bật hơn cả dân nghèo phải lo chạy gạo ở quê nhà. Mà cũng ít gặp được ai ra chiều hả hê cả. Mặt mũi người nào cũng lầm lì khó đăm đăm như mắc bịnh táo bón kinh niên. Đụng nhau mà như không ngó thấy nhau, chẳng thèm chào hỏi thì chớ lại chỉ chực kiếm chuyện sinh sự để xả sú bắp, có khi còn định rút súng để xơi tái nhau luôn. Được ra hải ngoại, do đó, có thể còn là cơ hội giúp ta có thêm điều kiện so sánh, đối chiếu, đưa ra cái nhìn mới mẻ để dặt lại vấn đề một số giá trị được coi là tiêu biểu cho ý nghĩa đời sống văn minh kỹ thuật vật chất. Tôi cho răng chỉ bằng con đường khai thác vốn sống và vị thế đặc biệt riêng tư ấy mới thực sự dẫn ta tới con đường sáng tạo. Còn như chỉ đặt nặng vấn đề thẩm mỹ hình thức tôi e rằng khó mà đem lại sinh khí cho một nền văn học có chiều hướng đang xuống cấp và ngày càng bị đe dọa bởi sự tràn ngập của những sản phẩm thuộc loại văn hóa tiêu dùng (2). Và cũng chi bằng con đường sáng tạo ta mới mong thoát khỏi nền văn chương tầm gửi sống nhờ vay mượn văn học nước ngoài và, nhờ đó làm nên những tác phẩm lớn (3) có tầm vóc quốc tế. Hay, ít ra cũng một vài tác phẩm giá trị vượt thắng được thử thách thời gian như " Nỗi buồn chiến tranh " của Bảo Ninh (4). Một nỗi buồn nhân bản ray rứt mà, ngày nay, càng đọc lại ta càng thấm thía ý nghĩa chua cay. Nhìn ra nước ngoài, nhà văn mang Pháp tịch gốc Trung Hoa Cao Hành Kiện được trao giải văn học Nobel là nhờ cuốn "Linh Sơn", (bản dịch tiếng Pháp " La montagne de l'âme ", Editions de l'Aube-2000). Ta có thể coi "Linh Sơn" như là tập ký sự của Cao Hành Kiện trong suốt cuộc hành trình xuyên Hoa lục để tìm đường lẩn trốn ra nước ngoài. Trong cuộc hành trình ấy ông đã nhiều lần len lỏi tới nhiều vùng thâm sơn cùng cốc và được tiếp xúc với những thổ dân bộ tộc vẫn bảo tồn được phong tục tập quấn cổ truyền mặc dù bị chính quyền Bắc Kinh xếp vào loại hủ hóa và tìm mọi cách xóa bỏ. Bằng một văn phong và một một kỹ thuật diễn đạt thuộc về riêng ông chưa hề thấy được đem giảng dạy trên các đại học, " Linh Sơn " còn là một tài liệu nhân chủng học phong phú, một thiên phóng sự linh động về con người, về cuộc sống. Về những con người trong cuộc sống : những khuôn mặt tầm thường mờ nhạt trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ cũng tầm thường mờ nhạt, nhưng lại phảng phất một mùi hương thấm đậm tâm hồn các sắc tộc cổ đại Trung Hoa vẫn được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác bất chấp mọi thăng trầm thế cuộc. Có lẽ nhờ vậy mà tác phẩm " Linh Sơn " đã lọt vào mắt xanh của ban giám khảo Hàn Lâm Viện Stockholm chăng ?
Nguyễn Bảo Hưng (1) " Có nên đặt vấn đề về khả năng diễn đạt của tiếng Việt ",N.B. Hưng - (2) Bốn chữ văn hóa tiêu dùng là tựa cuốn sách của Nhà Xuất Bản Thông Tin Văn Hóa Hà Nội 1998, do một nhóm nhà nghiên cứu biên soạn. Tôi đã mượn bốn chữ " văn hoá tiêu dùng " này không hẳn theo ý nghĩa nội dung và mục đích của nhóm chủ trương, mà chỉ muốn nói đến những bài viết được quan niệm thực hiện như sản phẩm hàng hóa, chủ yếu chạy theo thị hiếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của thị trường. (3) Chu Văn Sơn : "Tác phẩm lớn, tại sao chưa ? " Talawas, mục " Văn Học Việt Nam ", 16-11-2006. (4) Bảo Ninh : " Nỗi buồn chiến tranh ", Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn - 1991.
|
|