|
Post by Can Tho on Feb 25, 2009 9:51:04 GMT 9
Địa danh ở Bến Tre Bến Tre là một trong 12 tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 3 cù lao lớn (An Hóa, Bảo, Minh) do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Cửa Đại, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ. 1. Địa lý tự nhiên và nhân văn Bến Tre là một trong 12 tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 3 cù lao lớn (An Hóa, Bảo, Minh) do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Cửa Đại, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẽ quạt mà đầu ngọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn như những nan quạt xoè rộng ra phía biển Đông với tính bằng phẳng khá cao- một đặc trưng tiêu biểu của vùng bình nguyên bát ngát ở phương nam Tổ quốc. Diện tích tự nhiên của tỉnh xấp xỉ 2.285km2, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển với chiều dài 65km. Là một tỉnh châu thổ nằm sát biển, Bến Tre có địa hình bằng phẳng, rải rác có những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn, không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và những dải rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông. Tỉnh có một hệ thống đường thuỷ gồm những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông, lên tận biên giới Campuchia và một hệ thống kinh rạch chằng chịt đan xen như những huyết mạch suốt khắp ba dải cù lao. Địa hình Bến Tre tương đối bằng phẳng, có xu thế thấp dần từ tây sang đông, nghiêng dần ra biển, có nhiều giồng cát hình vòng cung quay lưng ra biển. Vùng đất cao chạy dài từ huyện Chợ Lách đến huyện Châu Thành, nằm về phía bắc và tây bắc của thị xã Bến Tre. Đây là khu vực cồn sông cổ bị lũ thường năm đem phù sa mịn lấp lên. Phần đất thấp, loại thứ nhất gồm các lòng máng của những dòng sông cổ và mới, đã bị lấp toàn phần hoặc từng phần trầm tích lũ hiện nay. Loại thứ hai là vùng mặn cổ, nay đã được lấp đầy từng phần, bị ảnh hưởng triều rất mạnh. Vùng đất trũng thấp luôn luôn ngập dưới mức triều trung bình, gồm các đầm mặn và bãi thuỷ triều{3, 591}. Tỉnh Bến Tre gồm 1 thị xã trung tâm tỉnh lỵ và 7 huyện với 148 xã, 8 phường và 7 thị trấn. Bến Tre (năm 1999) có 1.296.914 dân, chủ yếu là người Kinh và một ít người Hoa và Khơme. Vùng đất Bến Tre được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII, đa số cư dân đến đây khai phá có nguồn gốc từ miền Thuận Quảng{18; 276, 284}. 2. Các số liệu thống kê Theo thống kê của chúng tôi từ các nguồn tài liệu Gia Định thành thông chí (1820), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Vĩnh Long (1836), Đại Nam nhất thống chí (1865), Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ (1875), Mục lục tên thôn tổng ở Nam Kỳ (1892), Lịch An Nam thông dụng (1896), Monographie de la province de Bến Tre (1903), Thời sự cẩm nang (1917), Bản đồ các quận của tỉnh Kiến Hoà (1966), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (1971), Địa chí Bến Tre (2001), Bảng Danh muc và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam (2004) thì tỉnh Bến Tre hiện có khoảng 3.162 địa danh. Trong đó được phân bố như sau: + Địa danh Hán - Việt: 1.616 địa danh (51,12%) + Địa danh thuần Việt: 1.540 địa danh (48,70%) + Địa danh gốc Pháp : 4 địa danh (0,12%) + Địa danh gốc Khơme: 2 địa danh (0,06%) 3. Vài đặc điểm chính của địa danh ở Bến Tre 3.1. Về đối tượng của địa danh Bến Tre là một tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, địa hình tương đối bằng phẳng, lại có nhiều sông ngòi, kinh rạch nên ngoài các địa danh hành chính, số thuỷ danh chiếm ưu thế rõ rệt. Cụ thể tên các đối tượng chỉ địa danh ở Bến Tre bao gồm: + Địa danh hành chính: làng, ấp, xã, khóm, ô, phường, thị xã, tổng, quận, huyện, tỉnh, hạt, phủ, dinh , trấn, châu + Địa danh chỉ công trình xây dựng: chợ, kinh, cầu, cống, mương, đập, bến phà, bến đò, công viên, thủ, vuông, sân chim + Địa danh chỉ vùng: xóm, khu, vùng, xứ + Địa danh chỉ địa hình: sông, rạch, đầm, hồ, vàm, con lươn, khém, khe, tắt, cửa, ngọn, đìa, ngả, cù lao, cồn, bãi, giồng, xép, gò, xẽo, lũng 3.2. Ngôn ngữ cấu tạo địa danh 3.2.1. Địa danh Hán- Việt Địa danh Hán- Việt ở Bến Tre, chủ yếu là địa danh hành chính thường dùng các mỹ từ mang ý nghĩa tốt đẹp, chiếm số lượng khá lớn. Một số từ thường gặp như: Tân là mới (làng Tân Đức, xã Tân Mỹ, tổng Tân Minh), Bình với nghĩa bình yên, yên ổn (làng Bình An, xã Bình Thắng, huyện Bình Đại), An là êm đềm (làng An Hoà Tây, xã An Thạnh, tổng An Bảo), Long với nghĩa đầy đặn, phồn thịnh (làng Long An, xã Long Hoà, dinh Long Hồ), Phú là giàu (làng Phú Lễ, xã Phú Nhuận, tổng Phú Long), Mỹ là đẹp đẽ (làng Mỹ Sơn, xã Mỹ Hưng), Phước là mai mắn (làng Phước Hậu, xã Phước Hiệp), Vĩnh là lâu dài (làng Vĩnh An, xã Vĩnh Bình)… Một số yếu tố Hán- Việt đặt ở cuối địa danh có mục đích phân biệt phương hướng: Thượng- Trung- Hạ, Đông – Tây- Nam- Bắc, số đếm (ấp Tiên Tây Thượng, làng An Ngãi Trung, ấp Đông An Hạ, làng An Hoà Đông, làng Lương Thạnh Tây, ấp Bình Hiệp Nam, ấp Lân Bắc, làng Bình Phục Nhất). Nhưng có những trường hợp đặt tên không theo từng cặp địa danh đối xứng mà có thể ở dạng “thiếu”(ấp Tiên Đông, ấp Tiên Đông Thượng; ấp Bình An, ấp Bình An B; ấp Bình Đông, ấp Bình Đông Hạ, ấp Bình Đông Thượng; ấp Vĩnh Đức Đông, ấp Vĩnh Đức Trung). Địa danh hành chính đặt theo “tứ quý” (ấp Sơn Long , ấp Sơn Lân, ấp Sơn Qui, ấp Sơn Phụng). Hoặc kết hợp với yếu tố thuần Việt: Sau- Trước, số đếm (ấp Thủ Sau, ấp Thủ Trước, ấp An Thạnh 1, ấp An Định 2). Có hiện tượng một số địa danh thuần Việt lại được dịch nghĩa ra trong các văn bản Hán như trong Gia Định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí: cù lao Đất- Thổ Châu, cù lao Nai- Lộc Châu, cồn Ngao, bãi Ngao- Ngao Chử, cù lao Bãi Ngao- Ngao Châu, cù lao Dài- Trường Châu, sông Mỏ Cày- Đầu Lê Giang, sông Cái Mít- Ba La Giang, sông Ba Tri Cá- Châu Thới Giang…Nhưng các địa danh thuần Việt lại có sức sống trong đời sống thực tế, còn các địa danh Hán- Việt chỉ tồn tại trong các văn bản nhà nước. Những địa danh kèm theo chữ “làng mới lập” trong Gia Định thành thông chí thường là những địa danh mới lập vào thời Gia Long (làng An Thuỷ, làng An Toàn, làng Bình Long). Năm 1836, chữ “bảo” trong cù lao Bảo được đặt tên cho huyện Bảo An và các tổng kèm theo: Bảo An, Bảo Đức, Bảo Hoà, Bảo Hựu, Bảo Khánh, Bảo Lộc, Bảo Ngãi, Bảo Phước, Bảo Thành, Bảo Thuận, Bảo Trị. Tương tự, trên cù lao Minh là địa bàn của huyện Tân Minh với các tổng: Minh Đạo, Minh Đạt, Minh Hóa, Minh Huệ, Minh Lý, Minh Phú, Minh Qưới, Minh Thiện, Minh Thuận, Minh Trị. Riêng cù lao An Hóa lúc ấy thuộc huyện Kiến Hoà, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang), gồm các tổng: Hoà Hảo, Hoà Hằng, Hoà Thinh. Đây là cách đặt địa danh hành chính phổ biến ở Nam Bộ. 3.2.2. Địa danh thuần Việt Địa danh thuần Việt ở Bến Tre thường là các địa danh chỉ địa hình, địa danh chỉ vùng, địa danh chỉ công trình xây dựng và một số ít địa danh hành chính. a) Địa danh chỉ địa hình Ngoài các địa danh mang tên người, chỉ đặc điểm địa hình, gắn với công trình xây dựng, còn lại đa số là các địa danh mang tên động vật và thực vật, sản vật của địa phương. Địa danh mang tên người: có 57 địa danh mang yếu tố “Ông”, 53 địa danh mang yếu tố “Bà”, 6 địa danh mang yếu tố Thị”. Tất cả yếu tố “Ông” và “Bà” và “Thị” đều đứng trước, không có địa danh nào có yếu tố “Ông” và “Bà” và “Thị” đứng sau. Các tên người này có công khai phá vùng đất hoặc là chủ sở hữu (cồn Bà Huyện, bàu Ông Ngâu, giồng Thầy Thanh, rạch Thị Nhiêu). Địa danh chỉ đặc điểm địa hình: gồm các địa hình gắn với vùng “sông nước”(cồn Cát, cồn Trẹt, cửa Đại, cù lao Dài, giồng Lớn, giồng Mỏ Neo, gò Trụi, đìa Gò, đìa Tròn). Địa danh gắn với công trình xây dựng: thường là bến, cầu, kinh, mương, đình, miễu, chùa, đồn (rạch Bến Đá, rạch Cầu Sắt, rạch Kinh, rạch Mương Khai, rạch Đình, rạch Miễu, rạch Chùa, rạch Đồn). Địa danh mang tên động vật: có mặt từ chim cho đến bò sát, thú ăn thịt, gia súc, nhưng nhiều nhất vẫn là động vật sống dưới nước (bàu Dơi, cồn Chim, rach Cái Sấu, giồng Hổ, cù lao Dê, rạch Heo, rạch Đầu Trâu, rach Kiến, bãi Điệp, bãi Ngao, vàm Cá Mập, cầu Cá Lóc, cầu Ốc, tiệm Tôm). Địa danh mang tên thực vật: khá phong phú với các loại cây trồng và cây mọc hoang (giồng Thơm, giồng Chuối, giồng Cà, rạch Bần Qui, giồng Quéo, giồng Sậy). Địa danh mang tên sản vật địa phương: các sản vật trước đây thường có nhiều ở địa phương (rạch Cau, rạch Giồng Dâu, rạch Mật, rạch Ruộng Muối, sông Bến Tre). b) Địa danh chỉ vùng Thống kê được 114 địa danh, trong đó có đến 35 địa danh có yếu tố chỉ đối tượng “giồng”(xóm Giồng Bà Nhiên, xóm Giồng Ông Ngoan, xóm Giồng Cũ, xóm Giồng Tràm, xóm Giồng Sao). Điều này phản ánh khá rõ nét đặc trưng của địa hình một tỉnh ven biển như Bến Tre. c) Địa danh chỉ công trình xây dựng Có 294 địa danh chỉ công trình xây dựng (160 địa danh chợ, 52 địa danh kinh, 57 địa danh cầu; 25 địa danh còn lại là bến, thủ, cống, mương, đập, công viên). Trong các địa danh chợ còn bảo lưu nhiều địa danh với các yếu tố “bến”, “cái”, “giồng” (chợ Bến Vựa, chợ Cái Gà, chợ Giồng Trôm). Địa danh chỉ kinh lại gắn với nhiều với các chức vụ + tên ngườiï (kinh Ông Huyện, kinh Đốc Phủ Xũng, kinh Hương Điền, kinh Ông Cai, kinh Tổng Năng, kinh Xã Giác, kinh Cả Cơ, kinh Chánh San). Về giới tính, chỉ có 4 địa danh gắn với nữ giới (kinh Bà Huyện, kinh Cô Ba, kinh Thị Nhàn, kinh Phụ Nữ) so với 15 địa danh gắn với nam giới. Địa danh chỉ cầu: có 10 địa danh mang yếu tố “cái” (cầu Cái Cá, cầu Cái Cấm, cầu Cái Chát Lớn, cầu Cái Mon Nhỏ), 4 địa danh gắn với nữ giới (cầu Bà Ba Ngỡi, cầu Bà Hiền, Cầu Bà Lựu, cầu Bà Mụ), 3 địa danh gắn với nam giới (cầu Kinh Ông Cha, cầu Ông Ngò, cầu Ông Đình), số còn lại chỉ đặc điểm cấu tạo, sản vật địa phương (cầu Mống, cầu Ván, cầu Tre Bông, cầu Cá Lóc, cầu Ốc, cầu Cái Cối). d) Địa danh bằng số Trong số 3.162 địa danh ở Bến Tre có 230 địa danh bằng số (khóm 1, ấp 2) và 20 địa danh bằng chữ và số (ấp Hoà 2, ấp An Bình 1, ấp 6B, chợ K20) chủ yếu là các địa danh hành chính, chiếm 7,90%, đây là tỷ lệ khá cao và cũng là đặc điểm chung của các địa danh hành chính ở Nam Bộ. Trong đó, các địa danh chỉ ô, khóm (ở thị xã, thị trấn) có 31 địa danh; các địa danh ấp (ở xã) có 199 địa danh. Các địa danh này chỉ xuất hiện khi Pháp thiết lập nền hành chính ở nước ta. 4. Một số thành tố chung của các địa danh ở Bến Tre Tân : có 174 địa danh có yếu tố “Tân” đứng ở đầu địa danh với nghĩa là “mới”, chủ yếu ở các địa danh hành chính. Hiện tượng này phản ánh Bến Tre là vùng đất mới khai phá và tác giả của các địa danh này thuộc giới quan lại, chịu ảnh hưởng nhiều của Hán học. Cái: “cái” là danh từ, có nghĩa là “nhánh sông hay con rạch”. Theo thống kê của Lê Trung Hoa {8,27} ở Nam Bộ có ít nhất 160 địa danh mang thành tố chung “cái”, trong đó có 150 địa danh là tên sông rạch; còn theo số liệu của chúng tôi, chỉ riêng ở Bến Tre đã có đến 96 địa danh có yếu tố “cái” ở đầu. Trong đó được phân bố như sau : rạch (70 địa danh), chợ (10 địa danh), cầu (10 địa danh), cù lao (2 địa danh), kinh (2 địa danh), xóm (2 địa danh). Địa danh có thành tố “cái” chiếm số lượng rất cao (70 / 96 địa danh) ở Bến Tre, một địa bàn có địa hình “âm” (sông nước) để chỉ “sông, rạch” càng chứng minh rõ thêm nhận xét của tác giả trên. Cả : từ gọi tắt của từ tổ hương cả, là “chức hương trưởng lớn nhất trong làng. Thường chọn người tuổi tác, công nghiệp” (Đại Nam quốc âm tự vị). Có 16 địa danh có thành tố “cả” ở Bến Tre. Trong đó có những địa danh mang nét nghĩa trên (rạch Cả Nhỏ, xóm Cả Thân, kinh Cả Cơ). Số địa danh còn lại chưa rõ nghĩa (Cả Muồng, Cả Bần, Cả Nứt, ấp Cái Ngang, Cả Cát ,Cả Cại, Cả Đuối...). Nhưng căn cứ vào kiểu cấu tạo địa danh, chúng tôi cho rằng “cả” ở đây chính là biến âm của từ “cái”. Trong bài Ý nghĩa gọi tên đất bằng chữ cái, cả, ngã ở đồng bằng Nam Bộ, Hoàng Xuân Phương viết:”Phần lớn chữ CÁI được phát âm thành CẢ. Cái Sao cũng là Cả Sao, Cái Côn thành Cả Côn, Cái Cao thành Cả Cao v.v…” {4, 23- 24}. Hơn nữa, khi đối chiếu cặp địa danh Cả Chát Lớn- Cả Chát Nhỏ ở phụ lục thống kê và phân loại địa danh ở Bến Tre theo các đặc điểm cấu thành (mục các địa danh gắn với thành tố “cả”) trong bài Những đặc điểm cấu thành các địa danh ở Bến Tre{15, 72} với cặp địa danh rạch Cái Chát Lớn- rạch Cái Chát Nhỏ trong bản đồ Bản đồ các quận của tỉnh Kiến Hoà (1966) {1} chúng tôi thấy có sự tương đồng. Giồng: âm trại của vồng. Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng, thường có nhiều cát, ít nước, thích hợp với việc trồng khoai đậu và các loại cây ăn quả. Tỉnh có gần 20 dải giồng cát chạy song song từ trong ra ngoài, với chiều cao từ 3- 5m. Bến Tre có 163 địa danh có thành tố “giồng”: giồng (66 địa danh), rạch (13 địa danh), xóm (35 địa danh), chợ (15 địa danh), kinh (2 địa danh), cầu (3 địa danh), địa danh hành chính (29 địa danh). Một địa danh đã trở thành đơn vị hành chính cấp huyện (huyện Giồng Trôm). Các địa danh này chủ yếu phân bố ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Đây là tỉnh có số địa danh mang thành tố giồng cao nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện dạng địa mạo rất đặc trưng của vùng cửa sông Cửu Long ngày nay. Bến: bến sông. Có 45 địa danh mang thành tố “bến”: địa danh hành chính (11 địa danh), chợ (9 địa danh), công viên (1 địa danh), xóm (5 địa danh), rạch (19 địa danh). Một địa danh đã trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh Bến Tre). Kiểu cấu tạo địa danh dạng này khá phổ biến ở Nam Bộ. Ở Bến Tre có các kiểu kết hợp: bến + thực vật (Bến Tre, Bến Vông, Bến Giá), bến + đặc điểm địa hình (rạch Bến Đá, rạch Bến Cháy, xóm Bến Cát), bến + công trình xây dựng (rạch Bến Chùa, rạch Bến Đình, rạch Bến Kinh, rạch Bến Xe), bến + tên người (rạch Bến Thông), bến + chức vụ (xóm Bến Huyện). Đặc biệt kiểu cấu tạo bến + tên động vật như Bến Nghé, Bến Ngựa, Bến Trâu (TP. Hồ Chí Minh), Bến Tượng (Bình Dương), ở địa bàn tỉnh Bến Tre chúng tôi chỉ tìm thấy duy nhất một địa danh là bến Trâu. Điều đó cho thấy kiểu kết cấu địa danh này ở Nam Bộ tương đối hiếm. 5. Nhận xét - Địa danh Hán- Việt (51,12%) và địa danh thuần Việt (48,70%) ở Bến Tre chiếm tỷ lệ tương đương. Các địa danh thuần Việt có mức độ thông tin về các đặc điểm của địa phương khá cao (địa hình, động vật, thực vật, sản vật địa phương). - Rất ít địa danh gốc Pháp và gốc Khơme do ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp và không phải là địa bàn sinh tụ của người Khơme như các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang. - Số địa danh không phải song tiết chiếm tỷ lệ cao với 550 địa danh (17,39%): 372 địa danh một âm tiết, 175 địa danh ba âm tiết, 3 địa danh bốn âm tiết. Về đối tượng của địa danh: 326 địa danh chỉ địa hình, 140 địa danh hành chính, 45 địa danh vùng, 39 địa danh chỉ công trình xây dựng. Tài liệu trích dẫn: 1. Bản đồ các quận của tỉnh Kiến Hoà, Nha Địa dư Quốc gia Việt Nam, Sài Gòn, 1966. 2. Bảng Danh muc và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam, Công báo, số 49- 50, ngày 28-7-2004. 3. (Bùi Đức Tuyến chủ biên), Việt Nam toàn cảnh, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998. 4. Hoàng Xuân Phương, Ý nghĩa gọi tên đất bằng chữ cái, cả, ngã ở đồng bằng Nam Bộ, Tạp chí Thất Sơn, tháng 11, 1994. 5. Lịch An Nam thông dụng trong Nam Kỳ, Toà Thông ngôn quan thống đốc, Nhà in Quản hạt, Sài Gòn, 1896. 6. Lê Trung Hoa, Nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ qua địa danh hành chính, tham luận hội thảo quốc tế lần thứ 2 về Việt Nam học, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14-16/7/2004. 7. Lê Trung Hoa, Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh thành phố Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003. 8. Lê Trung Hoa, Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc thành tố chung “cái” trong địa danh Nam Bộ trong “Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. 9. Lê Trung Hoa, Tính đặc thù của địa danh Nam Bộ, báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 644, ngày 29-6-1990. 10. Monographie de la province de Bến Tre, Imprimerie L. Ménard, Saigon, 1903. 11. Mục lục tên thôn tổng ở Nam Kỳ, Hồ Sĩ Hiệp dịch, bản viết tay, 1892. 12. Nguyễn Duy Oanh, Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1971. 13. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Vĩnh Long, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994. 14. Nguyễn Đình Tư, Nghiên cứu lịch sử các địa danh hành chính Nam Bộ, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (337), tháng 6, 2004. 15. Nguyễn Phương Thảo, Những đặc điểm cấu thành các địa danh ở Bến Tre, Tạp chí Dân tộc học, số 2, 1985. 16. Nguyễn Tấn Anh, Trịnh Bình, Phạm Văn Đức, Đặng Gia, Tìm hiểu về tên sông rạch ở Nam Bộ, Đề tài nghiên cứu khoa học, Khoa Ngữ văn và báo chí, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, TP.Hồ Chí Minh, 2001. 17. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập trung (Định Tường, Vĩnh Long), Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1973. 18. (Thạch Phương- Đoàn Tứ chủ biên), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. 19. Thời sự cẩm nang, Imprimerie Albert Portail, Sài Gòn, 1917. 20. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1972. 21. Trương Vĩnh Ký, Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ, Nguyễn Đình Đầu dịch và chú thích, Nxb Trẻ, 1997. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:40:10 GMT 9
Di tích lịch sử Côn Đảo - Nguyễn Ðình Thống CÁCH NHÌN MỚI VỀ NHỮNG BẢN ĐỀ ÁN CŨ [1] Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bộ Văn hóa đã cử cán bộ ra nghiên cứu lập Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 v/v khoanh vùng bảo vệ khu di tích lịch sử Côn Đảo của Bộ trưởng Bộ Văn hoá là văn bản pháp lý đầu tiên, thể hiện tư duy khoa học và thái độ nghiêm túc nhất về việc bảo tồn, tôn tạo Di tích lịch sử Côn Đảo. Tiếc thay, những bản Đề án tiếp theo không kế tục được tư duy khoa học, tùy tiện cắt xén và phá huỷ nhiều hạng mục di tích đã được khoanh vùng bảo vệ tại Quyết định quan trọng này. Đến nay, những thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học và kinh tế xã hội của đất nước cho phép chúng ta có một cái nhìn mới về những bản đề án bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Chuyên khảo này đề cập đến những bản đề án lớn được hình thành từ năm 1984 cho đến nay. 1. Sự xuống cấp của di tích và của những bản đề án bảo tồn Ngày 4-5-1994, Sở Văn hoá thông tin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức Hội nghị đóng góp ý kiến vào Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử Côn Đảo do Vụ Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Văn hoá - Thông tin biên soạn tháng 10-1993 (từ đây viết tắt là "Đề án bảo tồn"). Năm 1995, Sở văn hoá - thông tin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục xây dựng Đề án “Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo” (viết tắt là "Đề án khoanh vùng"). Đó là một bước tiến so với “Đề án bảo tồn” của Bộ Văn hoá. Tuy nhiên trong Hội nghị do Sở văn hoá thông tin tổ chức vào đầu tháng 10-1995, vẫn còn nhiều ý kiến cảnh báo về sự xuống cấp của di tích, về cơ sở khoa học của Đề án, về Nghĩa trang Hàng Keo bị bỏ rơi, về sự thiếu hiểu biết trầm trọng đối với Di tích lịch sử đặc biệt quan trọng này. Cho đến nay khu di tích Côn Đảo vẫn đang ở tình trạng ngày càng xuống cấp. Đó là lời xác nhận trong Đề án bảo tồn và không ai nghi ngờ. Sau những chuyến đi khảo sát tại Côn Đảo, chúng tôi hiểu rằng điều đó là không tránh khỏi. Mùa gió chướng, những đợt sóng cao nhiều thước dội ầm ầm vào vách núi, tung lên trời vô vàn bọt biển. Những thảm bọt biển dày đặc trong mùa gió chướng làm hoá đá từng mảng sườn đồi, đang huỷ hoại từng ngày, khốc liệt đối với tất cả các kiến trúc trên đảo. Ấy là sự xuống cấp tự nhiên của trời đất. Một ngôi nhà đang ở sẽ hạn chế được sự xuống cấp tự nhiên bởi sự đầu tư, thường xuyên của gia chủ. Khi còn là nhà tù, bao giờ cũng có một kíp thợ mộc, thợ hồ thường trực để sửa chữa nhỏ tại các trại giam. Khi cần sửa chữa lớn, xây dựng mới, sẽ có các hãng thầu lớn đảm nhiệm. Thời chưa giải phóng, hàng năm Mỹ viện trợ 442.000 đôla để tu bổ các trại giam, bình quân hơn 80 ngàn đôla cho mỗi nhà tù lớn. Bây giờ, không còn bộ máy quản lý hệ thống nhà tù đồ sộ với trên 1000 tên, không còn lực lượng lao động khổ sai thường trực gần 10.000 tù nhân. Ban quản lý di tích chỉ có hơn 30 người, kể cả cán bộ nghiệp vụ, nhân viên hành chính, quét lá, nhổ cỏ… hỏng đâu phải trình lên Sở, Sở trình lên Bộ, ra kiểm tra, về lập luận chứng, xin ngân sách, chuyển từ Bộ đến Ban quản lý công trình… khi vật liệu đến nơi thì di tích đã hư hỏng thêm nhiều, kinh phí thiếu hụt, chắp vá, thiếu đồng bộ và tiếp tục xuống cấp. Ấy là sự xuống cấp do thay đổi mục đích sử dụng, do cơ chế quản lý chưa thích hợp. Có một nguy cơ tiềm ẩn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở Côn Đảo. Năm 1988, một Cầu Tàu mới đã hình thành trước cửa Khách sạn Phi Yến, cách Cầu Tàu lịch sử không xa. Xưa kia là một bãi đá đang kè dở dang, ngổn ngang hàng vạn tảng đá, những tảng đá làm nên linh hồn của Cầu Tàu lịch sử. Nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh đã ba lần ra Côn Đảo, mê mẩn nâng ống kính trước những tảng đá. Bây giờ, bãi đá ngổn ngang chỉ còn trong bộ ảnh đen trắng của cụ. Khi trăn trở trên giường bệnh, mỗi lần giở lại tập album, cụ lại thẫn thờ thốt lên: "Ôi ! Những tảng đá....". Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng hàng tấn kia đã đè nát biết bao thân tù khi họ xeo từ Núi Chúa về đây. Bọn gác ngục Pháp có lối giết tù bằng lao động khổ sai. Xeo đá, tảng lớn: 12 người. Xeo không nổi, chúng đánh một trận rồi bớt người, bắt xeo. Không xeo nổi lại đòn, lại bớt người, xeo tiếp. Không xeo được sẽ chết vì đòn, xeo được thì chết vì kiệt sức. Còn âm vang đâu đây trong từng phiến đá cầu ca trường hận của tù nhân: “Côn Lôn ơi, viên đá - mạng người”. Những tảng đá ấy ít nhất cũng đã một lần được ghi vào văn bản mang tính Pháp lệnh bảo tồn. Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá về khoanh vùng bảo vệ khu di tích lịch sử Côn Đảo ghi: Cấm không được lấy đá kè ở bờ biển làm vào việc khác. Giờ đây, Cầu Tàu mới khang trang được thay thế vào nơi ấy, cờ, hoa và người chen nhau mỗi chuyến tàu ra, hân hoan và lưu luyến. Chỉ thiếu vắng những tảng đá lịch sử từng chứng kiến biết bao thăng trầm, lặng lẽ và kiên nhẫn trong gần một thế kỷ qua để chờ đón những ai đến đây tìm về quá khứ. Ấy là sự xuống cấp vì vi phạm Pháp lệnh bảo tồn, bảo tàng. Không chỉ có bãi đá trước cửa Khách sạn Phi Yến, toàn bộ kè đá ven biển từ cầu tàu lịch sử về phía mũi Lò Vôi mới đây đã bị vùi lấp sạch dấu vết bởi chương trình kè chắn sóng, mở rộng con đường chạy qua mặt tiền thị trấn Côn Đảo. Mỗi giải pháp "làm đẹp cho mặt tiền" Côn Đảo là một lần những dấu ấn lịch sử bị xoá mờ. Đó là sự xuống cấp do "tư duy mặt tiền" lấn át tư duy lịch sử. Ở nước Mỹ có một khu di tích lịch sử lớn được xem như “Chưa đến đấy, chưa biết nước Mỹ”. Hiện vật duy nhất lưu lại là một tảng đá mà người da trắng lần đầu tiên đặt chân lên lục địa này. Ở Côn Đảo có hàng triệu tảng đá để làm nên những bảo tàng như vậy. Tiếc rằng những tảng đá ấy đã bị chôn vùi dưới mặt tiền của thị trấn Côn Đảo mới, mà lẽ ra, nó xứng đáng là một bảo tàng sống vô cùng sinh động, nếu không có sự can thiệp thô bạo của các nhà hoạch định chiến lược phát triển theo lối "tư duy mặt tiền". Có một sự xuống cấp nằm trong nằm trong những bản luận chứng bảo tồn. Đề án bảo tồn mỗi di tích trước hết phải là một công trình khoa học, xuất phát từ những luận điểm khoa học để đưa ra một giải pháp thích hợp, tối ưu và khả thi. Mỗi di tích trước hết phải được xác định bằng hồ sơ khoa học. Đã 19 năm sau ngày giải phóng[2], đã có trên 10 tỷ đồng đổ vào khu di tích để trùng tu tôn tạo nhiều hạng mục nhưng từng di tích và tổng thể di tích vẫn chưa có hồ sơ khoa học. Hầm phân bò được Đề án xếp vào loại di tích đặc biệt, đặc trưng cho kiểu tra tấn man rợ, ngâm người xuống hố phân cho đến khi chết hoặc chịu khuất phục. Song không ai giải đáp được rằng chuyện ấy xảy ra khi nào? có bao nhiêu người bị hành hạ kiểu ấy? tên tuổi và địa chỉ vài người? chứng cứ xác nhận cho di tích này? Trả lời cho các câu hỏi trên là Nghe nói như thế, có thể như thế. Với cảm nhận riêng của từng người thì có thể kẻ địch tàn ác hơn như vậy, nhưng một di tích lịch sử lại không tồn tại lại bằng những luận điểm có thể, điều đó có thể không có sức thuyết phục, ấn tượng mơ hồ có thể gieo vào nhiều người khi đứng trước di tích lịch sử đặc biệt này. Nghĩa trang Hàng Dương cũng được xếp vào di tích đặc biệt, nơi chôn cất hai vạn nấm mồ tù nhân. Điều đó có thể là một trong sai lầm vào loại lớn của Đề án. Nghĩa trang Hàng Dương được chỉ hình thành từ năm 1941 với số liệu ước tính gần sát thực tế là khoảng gần 5.000 ngôi mộ. Trước đó là Nghĩa trang Hàng Keo nằm ở một vị trí khác, đã hoàn toàn bị bỏ rơi ngoài Đề án. Mộ tập thể 75 chiến sĩ bị xử bắn tại cỏ ống cũng có thể một sai lầm tương tự. Ngôi mộ này đã đi vào quy hoạch nghĩa trang với tấm bia tưởng niệm cao 6m, ốp đá quý, trên khắc đậm con số 75. Điều lạ lùng là không ai biết ngày bắn, không ai biết tên một người nào bị bắn, không ai dám chắc có một mẩu xương nào dưới ngôi mộ ấy, không một hồ sơ chứng cứ nào mà di tích vẫn tồn tại theo luận điểm Nghe nói thế, có thể có chuyện này. Ấy là sự xuống cấp của tư duy khoa học trong vực bảo tồn. 2. Đề án bảo tồn chủ trương dỡ bỏ các trại giam? Đề án bảo tồn nêu ra luận điểm bảo tồn có trọng điểm với giải pháp tháo dỡ Trại I, Trại IV để tận dụng nguyên vật liệu để tu bổ các di tích khác. Đề án thận trọng ghi thêm từ “có thể” nhưng trên thực tế, Trại IV đã được tháo dỡ xong phần mái từ vài năm trước. Việc tháo dỡ không mang lại hiệu quả kinh tế vì số vật liệu nói trên để nguyên trạng thì còn che mưa che nắng được, tháo dỡ xuống trở thành phế liệu. Về Pháp lệnh bảo tồn, đó là một sự vi phạm. Trại I và Trại IV nằm trong hệ thống các trại giam chính đã được khoanh vùng bảo vệ[3], trong khi bản Đề án bảo tồn vừa mới được soạn thảo, đang xin ý kiến. Việc tháo dỡ phần mái Trại IV đang đẩy nhanh tốc độ huỷ hoại trại giam này. Về mặt lịch sử, di tích Trại I và Trại IV gắn liền với di tích Chuồng Cọp Pháp. Trại I thời Pháp gọi là Banh III, Trại IV là Banh phụ của Banh III, Chuồng Cọp là khu biệt lập (khu kỷ luật) chung của hai trại. Chế độ Chuồng Cọp đã trở thành điển hình cho lối đày ải man rợ tại nhà tù này, làm chấn động lương tri lương tri loài người. Là khu biệt lập chung của 2 trại, lịch sử Chuồng Cọp gắn bó chặt chẽ với hai trại giam này (Trại I và Trại IV). Bảo tồn Chuồng Cọp mà tháo dỡ Trại I và Trại IV chẳng khác gì đem trưng bày các loại còng xiềng, đồ tra tấn bên ngoài một nhà tù vậy. 3. Đề án chủ trương biến nhà tù thành … nhà tù? Bản Đề án bảo tồn đưa ra một giải pháp cho Trại V và Trại VII, có thể sử dụng làm nơi giam giữ các phạm nhân cần cải tạo, với sự thoả thuận của Bộ nội vụ, Bộ Văn hoá – thông tin và UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chưa có ý kiến về điểm này nhưng Phó chủ tịch UBND huyện Côn Đảo Hứa Phước Ninh cho biết, Côn Đảo không cần thiết có trại giam như vậy. Trong hơn một thế kỷ qua, những thế hệ cách mạng Việt Nam đã biến nhà tù thành một mặt trận đấu tranh, một chiến trường giữa sào huyệt kẻ thù. Năm thập kỷ cuối cùng, những người cộng sản Việt Nam đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, đào tạo và rèn luyện cán bộ. Hai thập kỷ hồi sinh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu cùng với huyện Côn Đảo chuyển hoá những giá trị truyền thống thành sức mạnh vật chất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Thật trái ngược khi Vụ Bảo tồn - Bảo tàng đề xuất giải pháp biến di tích lịch sử - tài sản vô giá – trở lại thành một nhà tù? Đề án bảo tồn phát hiện được một điều rằng từ thời Pháp qua thời Mỹ, Côn Đảo là nơi lý tưởng để giam tù, và ngày nay, Trại VII vẫn là một trại giam lý tưởng cho các tội phạm trọng án. Nhưng khi Đề án biến Trại VII trở thành trại giam của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì những người làm công tác bảo tồn sẽ giới thiệu như thế nào về di tích lịch sử này? Trại VII là một trại giam đặc biệt cần được bảo tồn nguyên trạng. Trại VII là trại giam điển hình kiểu Mỹ, do chuyên gia Mỹ thiết kế, thầu Mỹ xây dựng, bằng đôla Mỹ viện trợ. Đó là trại giam khắc nghiệt nhất trong giai đoạn cuối của nhà ngục này, với lối hành hạ kiểu Mỹ, được gọi là Chuồng Cọp Mỹ. Trại VII có quy mô lớn nhất (25.708m2), nhiều khu nhất (8 khu), nhiều phòng nhất (384 phòng), giam đông nhất (có lúc trên 2.000 người), giam những loại tù nguy hiểm nhất được thanh lọc từ các trại. 384 gian Chuồng Cọp Mỹ có đủ còng xiềng chế tạo bằng thép F8 của Mỹ. Mỗi trại giam có một nét đặc trưng riêng biệt. Một câu thơ khắc trên vách trại giam, một kẽ nứt chứa vài hạt muối, cây kim, sợi chỉ, một góc sàn khám đẫm vệt máu tù nhân… đều là những thông điệp để giải mã những thông tin từ quá khứ, để mỗi thế hệ sau đến đây tự cảm nhận những bài học lịch sử cho riêng mình. Những dấu ấn đó hợp thành linh hồn của Di tích lịch sử Côn Đảo. 4 Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo – một bước tiến, nhưng vẫn còn nhiều điều đáng bàn Năm 1995, Bảo tàng tổng hợp Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc Sở văn hoá – thông tin tỉnh tổ chức lập hồ sơ khoa học cho khu di tích lịch sử nhà tù cách mạng bao gồm: Bản vẽ tổng mặt bằng, hiện trạng kỹ thuật và hạng mục của di tích; Bản vẽ khoanh vùng bảo vệ di tích; Hồ sơ ảnh khảo tả di tích; Lý lịch di tích; Phương án bảo tồn và phát huy tác dụng di tích. Bản vẽ khoanh vùng bảo vệ di tích đưa ra 3 khu vực bảo vệ. Khu vực I được thể hiện bằng màu đỏ là khu bất khả xâm phạm, bao gồm Cầu Tàu lịch sử, Nhà Công Quán, Nhà chúa đảo, Trại II, Trại III, Trại IV, Chuồng Cọp Pháp, một phần của Trại I, Khu B của Trại VI, toàn bộ 8 khu của Trại VII, Lò Vôi, Khu A và B của Chuồng Bò, Hầm chứa phân bò, Cầu Ma Thiên Lãnh, Phòng điều tra. Khu vực II là khu được phép điều chỉnh xây dựng, bao gồm toàn bộ Trại V, Trại VIII, Khu A Trại VI, nghĩa trang Hàng Dương, cùng toàn bộ vùng phụ cận của khu vực I. Khu vực III là khu vực bảo vệ cảnh quan, môi trường, bao gồm toàn bộ thị trấn Côn Đảo, khu vực cảnh quan bao quanh các trại giam, đoạn bờ biển kè đá khối và bờ biển khu vực nghĩa trang Hàng Keo. Về mặt nhận thức, Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích đã vượt xa Đề án của Vụ Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Văn hoá - Thông tin biểu hiện cụ thể là: - Loại trừ khả năng sử dụng một số di tích làm trại giam các thường án hiện nay. - Khẳng định giá trị lịch sử của Trại I, Trại IV, Trại VII bằng cách đưa vào vùng bảo vệ nguyên trạng - Khoanh vùng bảo vệ cảnh quan toàn bộ thị trấn Côn Đảo và ngoại vi hệ thống trại giam, nghĩa trang Hàng Dương, bờ biển và nghĩa trang Hàng Keo. Đó là nét mới rất đáng trân trọng. Về những điều cần bàn thêm, trước hết là tính tổng thể của Đề án. Bản vẽ khoanh vùng đã loại 3 trại giam (Trại V, Trại VIII, Khu A Trại VI) ra khỏi khu di tích lịch sử nhà tù Côn Đảo. Những người trực tiếp thực hiện bản Đề án cho rằng những di tích này không tiêu biểu, hơn nữa, giữ tất cả thì không có kinh phí để bảo quản. Chính vì thế mà hai mươi năm qua, những người bảo vệ khu di tích này phải gánh chịu biết bao nhiêu lời phiền trách về sự xuống cấp của di tích. Bảo tồn có trọng điểm không có nghĩa là loại một số trại giam ra khỏi hệ thống khu di tích. Hoạch định một Đề án bảo tồn một di tích lịch sử mang tầm vóc quốc gia phải tính đến chiều hướng phát triển của đất nước trong vài thập kỷ, tính đến tiềm năng đang được đánh thức trên quần đảo này và tiềm lực của đất nước trong thiên niên kỷ mới. Không nơi nào trên nước ta có một di tích còn nguyên vẹn tính tổng thể, vừa có mật độ tập trung cao, vừa trải rộng trên địa hình không gian như Côn Đảo. Mỗi vách tường trại giam, hay một gốc cây, khe đá; mỗi cánh rừng, mỏm núi, tảng đá, nấm mồ đều gợi lên mỗi giai đoạn lịch sử đau thương mà vô cùng anh, dũng của dân tộc ta, khắc sâu ý chí đấu tranh vì độc lập, tự do của nhiều thế hệ cách mạng. Vận dụng quan điểm Bảo tồn có trọng điểm phải nhận thức rằng: Di tích lịch sử Côn Đảo là trọng điểm bảo tồn của quốc gia, Báu vật của dân tộc - Hồn thiêng sông núi. Đây cũng là ý tưởng của cố Tổng bí thư Lê Duẩn, phát biểu vào năm đầu của quần đảo hồi sinh: “Côn Đảo là một hòn Đảo anh hùng. Côn Đảo là một di tích lịch sử vĩ đại. Côn Đảo là một trường học lớn đối với thề hệ mai sau”. "Nghĩa địa Tây" là một điểm di tích mà hầu như ít Đề án đề cập tới. Đây là nghĩa trang giám thị, nằm bên trái con đường từ thị trấn đi lên Hàng Dương. Giám thị Pháp - Việt và vợ con họ qua đời đều được an táng ở đây. Trong số đó, có nhiều giám thị ác ôn bị tù nhân trừng trị. Ngoài phương diện chứng tích của chủ nghĩa thực dân trên hòn đảo tù, về mặt đạo lý, chúng ta cũng nên đưa vào hạng mục di tích bảo tồn, tôn tạo. Những thế hệ sau này của nước Pháp văn minh sẽ có dịp hiểu hơn về đạo lý và nhân cách của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Bảo tồn cảnh quan là một yếu tố không thể tách rời việc bảo tồn di tích. Cảnh quan gần gũi với khu di tích là thị trấn Côn Đảo. Đó là một thị trấn có cấu trúc đặc biệt: Thị trấn tù trên một hòn đảo tù. Ngoài nhà tù và các cơ sở phục vụ bộ máy trị tù, thị trấn Côn Đảo không có một cơ sở kinh tế, văn hoá – xã hội nào khác. Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, người phác thảo bản quy hoạch tổng thể đầu tiên cho Côn Đảo đã đề nghị bảo tồn kiểu dáng kiến trúc này của thị trấn này, từ dãy phố công sở đến dãy biệt thự ven biển và những hàng cây, con đường, hàng rào, kè đá với ý niệm Côn Đảo là một hòn đảo di tích. Mới đây, Tổ chức UNESCO đã chọn ngày 23-8 hàng năm làm ngày tưởng niệm quốc tế về buôn bán nô lệ và thủ tiêu chế độ nô lệ. Chắc chắn rằng, một ngày không xa, nhân loại tiến bộ sẽ có một ngày tưởng niệm quốc tế về thủ tiêu chế độ thực dân. Khi ấy, Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ và khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo sẽ là những địa chỉ đỏ cho nhân loại tiến bộ. Hệ thống nhà tù, dãy "phố tù", "thị trấn tù" sẽ hợp thành kiến trúc độc đáo có một không hai cho những ai muốn hiểu đích thực về chủ nghĩa thực dân. Cùng với việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo, việc bảo tồn Thị trấn tù - Phố tù sẽ đem lại một sản phẩm độc đáo cho khách quốc tế như một kiến trúc cổ hiếm hoi từ cuối thế kỷ trước còn lại gần như nguyên vẹn. Các nhà bảo tồn thuần túy thường chỉ đưa vào đề án những cảnh quan cận kề di tích. Với những đề án bảo tồn và phát triển thì tính tổng thể phải được đặt lên hàng đầu. Nhận thức đúng đắn về công tác Bảo tồn di tích chính là bảo tồn động lực phát triển cho Côn Đảo. Khi đặt Côn Đảo đúng vị trí một di tích lịch sử cách mạng lớn, một tiền đồn canh giữ vùng biển giàu tiềm năng thì có nhiều giải pháp về kinh phí cho Côn Đảo, nguồn từ Ngân sách Nhà nước và ngân sách địa phương, nguồn trích từ thuế tài nguyên trên vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, nguồn từ vận động các địa phương, các cơ sở kinh tế, các tầng lớp nhân dân, các tổ chức quốc tế. Nếu sự đóng góp trong thập kỷ này còn hạn chế thì nên giành cơ hội đóng góp trong thập kỷ tiếp theo, khi nền kinh tế đất nước vào giai đoạn cất cánh. Giống như đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho các giá trị văn hoá truyền thống là sự đầu tư có tầm chiến lược cho sự tồn vong và phát triển của một dân tộc. Mọi nỗ lực của ngày hôm nay, nếu thiếu một tư duy đúng đắn sẽ dẫn đến phá vỡ tổng thể khu di tích, huỷ hoại một phần di tích vô giá. Điều đó sẽ trở thành tội lỗi đối với các thế hệ tiền bối đã xả thân cho nền độc lập nước nhà. 5. Đề án tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương và những vi phạm về nguyên tắc Trong lúc các Đề án bảo tồn, tôn tạo và Đề án khoanh vùng bảo vệ di tích còn đang tranh luận thì Đề án tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương đã vi phạm hàng loạt nguyên tắc bảo tồn di tích. Ngày 15-1-1992, Hội đồng Bộ trưởng đã phê chuẩn luận chứng kinh tế kỹ thuật công trình Nghĩa trang Hàng Dương, giao cho Bộ LĐTBXH cùng UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu làm chủ quản, Chủ tịch UBND huyện Côn Đảo làm chủ đầu tư. Văn bản số 1650/KTDN ngày 11-9-1989 Thông báo kết luận của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt trong buổi làm việc với Bộ Văn hóa và Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo tại Thành phố Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Các di tích ở Côn Đảo là khu khép kín từ nhà chúa đảo các trại giam đến Nghĩa trang Hàng Dương là các bộ phận trong tổng thể di tích. Việc phân công tu bổ giữa Bộ Văn hóa và Bộ LĐ-TB-XH không có nghĩa là tách rời các di tích". Điều đó khẳng định sự nhất quán trong tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bộ LĐTBXH đã không quán triệt được tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng, không tiếp thu ý kiến của các ngành hữu quan, tách rời công trình tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương ra khỏi quần thể di tích, tôn tạo theo khuynh hướng xây dựng một Nghĩa trang liệt sĩ, vi phạm các nguyên tắc quản lý Nhà nước về Văn hóa. Trong giai đoạn II, Bộ LĐTBXH đã phạm thêm một sai lầm khi quy tập mộ ở các nghĩa trang Hàng Keo, Hòn Cau về Hàng Dương. Về mặt lịch sử, Hàng Dương là nghĩa địa tù. Tù nào chết cũng ra nghĩa địa, không phân chia đẳng cấp, quốc tịch, tôn giáo, án tiết, thái độ chính trị. Mọi khuynh hướng nhằm cải biến Hàng Dương thành nghĩa trang liệt sĩ đều không có cơ sở khoa học, không phù hợp với thực trạng di tích và tập quán của dân tộc ta. Cùng với việc quy tập 148 hài cốt về Hàng Dương, Bộ LĐTBXH còn tổ chức di dời 21 mộ được gọi không phải tù chính trị ra khỏi Hàng Dương. Ở nhà tù này, chính trị cũng có nhiều loại: chính trị cộng sản, chính trị quốc gia, quân phạm chính trị, giáo phái chính trị, không rõ Bộ LĐTBXH quan niệm như thế nào về những hài cốt được gọi là tù chính trị và không được coi là tù chính trị? Việc quy tập và di dời hài cốt tù chính trị là trái với văn bản phê duyệt luận chứng của Nhà nước (số 13-CT), trong đó Hòn Cau, Cỏ Ống được ghi nhận như một hạng mục công trình, tương đương hạng mục các khu mộ A-B-C trong Nghĩa trang Hàng Dương. Cho đến khi đó, Nghĩa trang Hàng Keo vẫn chưa lập hồ sơ, khoa học, chưa có đề án bảo tồn thì Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội đã tổ chức qui tập hài cốt tù chính trị từ hàng keo về Hàng Dương, phá vỡ hiện trạng di tích. Về mặt pháp lý, di tích Nghĩa trang Hàng Keo đã được phát hiện và phải được bảo vệ theo Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được Nhà nước ta ban hành. Điều 16, Pháp lệnh quy định: "Những đối tượng có dấu hiệu (là di tích lịch sử) như quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh này đang trong thời gian nghiên cứu để công nhận đều được bảo vệ theo Pháp lệnh này." Bên cạnh hàng loạt những vi phạm về Pháp lệnh Bảo tồn - Bảo tàng, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội còn xúc phạm thô bạo cảnh quan Nghĩa trang Hàng Dương bằng một cái cổng đen vô cảm giống như hình một chiếc quan tài dựng đứng và ba tháp chuông như ba lô cốt canh giữ hài cốt, một nhà quản trang khổng lồ không giống đình, không giống chùa và tệ hại hơn là việc đóng cọc bê tông trước mỗi ngôi mộ, án ngữ cả những tấm bia mộ mà trước đây, những người bạn tù đã bất chấp cả hình phạt khắc nghiệt tạc nên. Những nỗ lực cuối cùng để giải ngân hàng chục tỉ đồng còn lại đang tạo ra một loạt sản phẩm khập khễnh, phá vỡ cảnh quan hơn là xúc cảm tưởng niệm, thành kính và sâu lắng. 6. Sự tuỳ tiện và tha hoá của quan chức đương thời là hiểm hoạ thường trực cho di tích Chuyện qui tập "hài cốt liệt sĩ" từ Nghĩa trang Hàng Keo về Nghĩa trang Hàng Dương, ngoài sự thiếu hiểu biết về lịch sử và tùy tiện vi phạm Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, còn một lý do sâu xa. Cho đến khi vụ Trịnh Vĩnh Bình (Bình "Hà Lan") được khởi tố, người ta mới biết rằng 7 hécta thuộc khuôn viên di tích Nghĩa trang Hàng Keo đã được ngầm hoạch định thành một khu du lịch để "bán" cho Bình "Hà Lan" cùng với hơn 200 héc ta ở Cỏ Ống. Hàng Keo sẽ không mọc lên một khu biệt thự du lịch như "dự án ma". Không ai xây dựng khu nghỉ dưỡng trên hài cốt của các bậc tiền bối. Hàng Keo phải dành cho một công viên tưởng niệm lớn với ngôi đền thờ Hồn Thiêng Côn Đảo. Có một di tích khác cùng chung số phận trong vụ án cũng đã được cứu vãn một cách khó khăn hơn. Đó là Công Quán. Di tích Công Quán được ghi trong quyết định 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá. Đây là ngôi Nhà khách (Maisson de passager) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, nơi dừng chân cho lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo. Nhà soạn nhạc tài danh của nước Pháp Camille Saint Saens đã lưu lại đây từ 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây, ông đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda. Đấy là dấu ấn đẹp đẽ duy nhất của nước Pháp văn minh trên hòn đảo tù. Những dấu ấn còn lại là của nước Pháp thực dân. Từ nhiều năm trước, Công Quán đã được bảo tồn như một di tích lịch sử. Trên bức tường hướng ra đại dương đã được gắn một tấm biển đồng, vuông chừng 4 tấc, khắc hàng chữ lưu niệm: " Dans cette maisson vécut le grand compositeur Camille Saint Saens du 20 Mars au 19 Avril 1895, il y acheva l'Opera Brunehilda". Đã có dự án tôn tạo lại ngôi nhà này, sưu tầm bản nhạc nổi tiếng "L'Opera Brunehilda" cùng hình ảnh của nhạc sĩ về trưng bày. Thế rồi đến một ngày, tấm biển đồng bị bán cùng lô ve chai vì miếng cơm manh áo. Rồi đến một ngày, ngôi nhà di tích biến thành hạng mục kinh tế, và tiếc thay, đã trở thành vật chứng trong một vụ án kinh tế[4], trôi nổi nhiều năm, khiến chủ nhân đích thực là những người quản lý di tích không có điều kiện tôn tạo, để sự xuống cấp ngày càng thê thảm. Vụ án xử rồi, ngôi nhà hoàn lại cho chủ cũ nhưng số phận của Công Quán vẫn còn trôi nổi. Mặc dù quy hoạch tổng thể huyện Côn Đảo đã được phê duyệt, di tích Công Quán đã được khoanh vùng bảo vệ, ngày 5-9-2002, Ủy ban nhân dân huyện Côn Đảo có văn bản đề nghị Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị với Bộ Văn hóa - Thông tin cho giải toả căn nhà này "do toạ lạc tại vị trí trung tâm của nút giao thông Lê Duẩn - Tôn Đức Thắng, ngôi nhà này gây cản trở nghiêm trọng tầm nhìn khi xe cộ lưu thông trên hai con đường này, đồng thời, do án ngữ trong trung tâm khu công viên giữa đường Tôn Đức Thắng (đường kè ven biển) với hiện trạng hư hỏng như hiện nay đã gây ảnh hưởng rất xấu đến mỹ quan tuyến đường này... (Công văn số 393/UB.VP ngày 5-9-2002 của UBND huyện Côn Đảo)". Thật khó tin được khi người ta có thể lấy tầm nhìn giao thông thay cho tầm nhìn văn hóa. Những người làm công tác Văn hóa, Lịch sử và Bảo tồn - Bảo tàng lại phải lên tiếng cảnh báo một lần nữa, kiên quyết bảo vệ bằng được di tích lịch sử này, trong khi đã có bút phê của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh. Trước đó không lâu, ngày 26-6-2002, ANDRÉ MENRAS, một người bạn Pháp từng đấu tranh chống chế độ Mỹ - ngụy, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta, bị chính quyền Sài Gòn kết án 4 năm tù tại khám Chí Hòa trong chuyến tìm đường ra thăm lại Côn Đảo cùng một người bạn tù Côn Đảo là Cao Nguyên Lợi đã dừng chân tại Vũng Tàu. Nghe câu chuyện về Camille Saint Saens viết bản L'Opera Brulhilda tại Côn Đảo, ANDRÉ MENRAS đã vô cùng xúc động nói rằng: "Tại Béziers - thành phố của tôi ở miền Nam nước Pháp có con đường mang tên Camille Saint Saens. Nhưng người Pháp hôm nay - kể cả tôi - để hiểu biết ý tưởng tuyệt vời của nhà soạn nhạc tài danh đó phải đặt chân đến Côn Đảo. Phải đến Côn Đảo mới có thể hiểu và thấm thía về tác phẩm tài danh đó. Vượt thời gian (từ 1895), Camille Saint Saens đã cảm nhận và tiên đoán trong bản L'Opera Brulhilda thảm họa của sự quên lãng của bất cứ ai đối với cái đẹp của một dân tộc". Cảm xúc của ANDRÉ MENRAS rất đáng để cho chúng ta suy ngẫm thêm về tầm nhìn văn hóa đối với di tích lịch sử Công Quán cũng như toàn bộ khu di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo. Trước đó, Di tích Sở Lưới xấu số hơn đã không được cứu vãn. Một chữ ký của huyện, một chữ ký của tỉnh, một chữ ký của Bộ là một di tích ra đi. Sự thiếu hiểu biết và tuỳ tiện vi phạm Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của những người lãnh đạo - quản lý có sức tàn phá di tích ghê gớm hơn cả bão giông, mối mọt. 7. Ý tưởng mới và những đề án cũ Đầu năm 2004, một tia hy vọng mới đem lại sinh khí cho khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Sau khi Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Kế hoạch - Đầu tư xây dựng Đề án phát triển kinh tế xã hội huyện Côn Đảo (đầu năm 2003), tháng 2-2004, ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ và nhóm cố vấn do ông mời chính thức tham gia vào Đề án. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, trong cương vị Phó thủ tướng, ông đã đặc biệt quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, triệu tập và chủ trì hàng loạt hội nghị bàn về việc xây dựng Đề án phát triển kinh tế xã hội Côn Đảo gắn với việc bảo tồn tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo. Ông đốc thúc các bộ, ngành, kêu gọi các nhà khoa học, các địa phương góp phần cùng với Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo để bảo tồn, tôn tạo khu di tích và phát triển kinh tế xã hội. Nhiệt huyết và uy quyền của ông đã kéo theo một sự chuyển động đáng kể, từ địa phương đến các bộ, ngành. Hàng loạt Đề án, quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát triển kinh tế xã hội Côn Đảo đã ra đời. Tuy nhiên, mặt trái của sự chuyển động ấy được biểu hiện ra như một sự thụ động trong nhận thức và sự tùy tiện trong bước đi, khiến cho những lệch lạc trong lĩnh vực bảo tồn di tích và tôn tạo Nghĩa trang Hàng Dương như đã dẫn trên đây là không tránh khỏi. Quyền uy của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thời đó đã thúc đẩy mối quan tâm của nhiều người tham gia vào các dự án. Trong số đó, có cả những học giả mang theo "tư duy xuống cấp", "tư duy ăn uống", "tư duy cơ sở hạ tầng", "tầm nhìn giao thông"... với những sản phẩm khập khiễng như hiện trạng. Những người có tâm huyết và trí tuệ đứng ra bên lề các dự án. Có một điều, cho đến bây giờ, ông Võ Văn Kiệt vẫn chưa biết rằng, những ý tưởng của ông và nhóm cố vấn đưa ra hôm nay đã được Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn phác hoạ từ hơn 20 năm trước, khi anh đi cùng chúng tôi khảo sát lần đầu tiên, cho qui hoạch Côn Đảo. Ý tưởng của Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn không được chấp nhận. Anh gác bút, lui về căn gác nhỏ, chia sẻ cùng bạn bè tâm giao. Lần này, ông Võ Văn Kiệt đến với Dự án phát triển Côn Đảo bền vững không phải bằng quyền lực mà bằng sự trăn trở đầy tâm huyết với ước vọng lớn là tập hợp những tâm huyết và trí tuệ để quy hoạch lại Côn Đảo đúng tầm, tạo ra bước đột phá để phát triển Côn Đảo với những tiềm năng có được từ tiềm lực mới của đất nước. Dự án phát triển Côn Đảo bền vững đặt mối quan tâm hàng đầu trong việc tổ chức bảo tồn và tôn vinh truyền thống xứng đáng một di tích - báu vật của cách mạng Việt Nam với các tiêu chí: xứng tầm, súc tích, nghệ thuật và trí tuệ. Điều đó hoàn toàn khác hẳn với tư duy của các Đề án trước đây, thường xuất phát từ luận chứng: tiền đâu để bảo tồn? đất đâu để phát triển?... Điều đó đòi hỏi phải nhìn nhận lại toàn bộ những Đề án trước đây, toàn bộ những gì đã làm và đang làm dở dang để đánh giá lại tổng thể, quy hoạch lại tổng thể, để phát triển Côn Đảo bền vững trên nền tảng tư duy mới, với động lực tổng hợp từ tâm huyết, trí tuệ và tiềm lực mới của đất nước. Điều đó thật không dễ dàng gì. Không phải vì đất nước ta thiếu tâm huyết và trí tuệ mà bởi sự "xuống cấp" trong nhiều năm qua khiến cho tâm huyết và trí tuệ chỉ là ước vọng của người có lương tri, trong khi ngự trị trong xã hội phổ biến là quyền lực, thói xu thời, tuỳ tiện và những "tư duy xuống cấp". Dự án phát triển Côn Đảo bền vững bao gồm hàng loạt những giải pháp về bảo tồn, tôn tạo, phát triển kinh tế xã hội, tổ chức điều hành, cơ chế đặc biệt cho Côn Đảo. Điều đó cần phải có sự qui tụ lớn hơn của tâm huyết và trí tuệ, và cần có sự đồng thuận cao, ở mọi cấp, mọi ngành, mọi người. Ý tưởng mới thường gặp trở lực lớn từ tư duy cũ. Song tính khả thi của Dự án là xuất phát điểm đúng, kèm theo động lực mạnh - động lực có được từ sự hội tụ của Tâm huyết - Trí tuệ - Tiềm lực mới của đất nước. Trong chuyến đi thăm và làm việc với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mới đây, Phó thủ tướng Vũ Khoan đã trả lời phỏng vấn Báo Bà Rịa - Vũng Tàu (ngày 24-8-2004) "Việc cần làm trước mắt của Côn Đảo là không làm gì cả. Những bài học rút ra từ những điểm du lịch trong cả nước cho thấy chúng ta cần phải quy hoạch cho thật cụ thể đã. Điều phải làm trước hết là giữ được nguyên môi trường, di tích lịch sử, di tích cách mạng cho Côn Đảo"[5]. Về điều này, ông Vũ Khoan nói rất đúng. Việc cần làm trước mắt là dừng lại tất cả, nhìn nhận lại tất cả. Sự chậm trễ khiến chúng ta đau lòng, nhưng sẽ đau lòng hơn khi chúng ta không hiểu hết giá trị và tầm vóc của Côn Đảo, tầm vóc và giá trị mà chúng ta đang nhìn nhận bằng Tâm huyết - Trí tuệ - Tiềm lực mới của ngày hôm nay. Một Dự án phát triển Côn Đảo bền vững phải đặt trên cơ sở bảo tồn hữu hiệu tổng thể khu di tích và tôn vinh xứng đáng như một báu vật của đất nước./. -------------------------------------------------------------------------------- [1] Tiến sĩ khoa học lịch sử, Trưởng Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, 26 Trương Công Định, Tp Vũng Tàu, ĐT: 064.850263 - 0918.385875 [2] Tính đến thời điểm bản đề án ra đời năm 1994. [3] Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá [4] Vụ án Trịnh Vĩnh Bình (Bình Hà Lan) [5] Báo Bà Rịa - Vũng Tàu số ra ngày 24-8-2004 Nguyễn Ðình Thống
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:41:03 GMT 9
Côn đảo từ góc nhìn lịch sử Nguyễn Ðình Thống Sau 55 phút bay từ Vũng Tàu hoặc Thành phố Hồ Chí Minh, bạn sẽ đặt chân lên sân bay Cỏ Ống. Xe đã chờ sẵn để đưa bạn về trung tâm thị trấn. Những cảm giác bồng bềnh của trời mây sẽ tan biến khi bạn hòa nhập vào khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ngay trên con đường quanh co bên sườn núi, soi bóng dưới vịnh Cỏ Ống biếc xanh.
Măc dầu vậy, phần lớn du khách vẫn thích đến Côn Đảo bằng tàu thủy. Tàu nhổ neo lúc chiều tà, hoàng hôn đổ bóng trên giàn cọc đáy lặng lẽ bên hàng dừa Bãi Trước (Vũng Tàu). Bình Minh vừa hé lên, tàu cặp bến Côn Đảo.
Cách Vũng Tàu 97 hải lí, Côn Đảo gồm 16 hòn đảo, sừng sững trấn giữ vùng biển Đông Nam của Tổ quốc với những thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp cùng tiềm năng giàu có của biển, của rừng. Nằm trên tọa độ 8o47'57'' vĩ độ Bắc, 106o36' kinh độ Đông, tổng diện tích là 76,71 km2, quần đảo mang tên hòn đảo lớn nhất: đảo Côn Lôn với tên thường gọi là Côn Đảo.
Côn Đảo từng nổi tiếng là "địa ngục trần gian" ở xứ Đông Dương, song những ai đã một lần đặt chân đến đều không sao quên được vẻ đẹp say mê lòng người, những cảnh sắc kỳ thú của biển trời, đồi núi, rừng cây, bờ bãi mà thiên nhiên ban tặng. Một rặng vông đỏ rực soi bóng trên bãi Đầm Trầu, một bầy Vích con bò lổm ngổm trên bãi cát trước thung lũng Hòn Cau, một đợt sóng trào sôi ập vào cửa Đầm Tre giữa mùa gió chướng đều có thể đưa con người đắm chìm vào thiên nhiên với những cảm giác hùng vĩ, mênh mang và sâu lắng. Mười sáu hòn đảo quây quần bên nhau giống như một hạm đội tiền tiêu canh giữ vùng biển, vùng trời Tổ quốc.
*
Nhà tù Côn Đảo được thiết lập theo Nghị định ngày 1-2-1862 của Đô đốc Bonard để giam những người yêu nước, chống Pháp. Trung úy Félix Roussel được chỉ định làm Chỉ huy trưởng quần đảo kiêm Quản đốc đầu tiên của Nhà tù Côn Đảo.
Trong hơn nửa thế kỷ đầu, nhà tù Côn Đảo chỉ có một trại giam (Bagne NoI). Banh II được khởi công năm 1917, đưa vào sử dụng năm 1928. Banh III tiếp tục được xây dựng và được sử dụng năm 1939. Banh phụ của Banh III cùng 2 dãy Chuồng Cọp được sử dụng từ năm 1944.
Trong 20 năm sau cùng của nhà tù này, Mỹ nguỵ đã tăng qui mô từ 4 trại lên 8 trại. Trại V được xây dựng năm 1962. Trại VI, Trại VII và Trại VIII được xây dựng gần như cùng một lúc, vào năm 1968, hoàn thành cơ bản vào cuối năm 1970. Ba trại giam này được ngân sách MACCORD (chương trình viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ) chi tiền, chuyên gia xây cất nhà tù của Mỹ thiết kế và Hãng thầu Mỹ RMK- BRJ xây cất. Trại IX cũng đã được đổ móng, đúc cột rồi bỏ dở khi hãng RMK-BRJ rút khỏi Việt Nam (1972).
Trong 50 năm đầu, con số tù nhân ở nhà tù Côn Đảo biến động ở mức trên dưới 1000 người. Trong 15 năm tiếp theo, số lượng tù nhân ở đây dao động mức trên dưới 2000. Thời Pháp thuộc, nhân số nhà tù tăng lên cao nhất vào thời điểm sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ (23-11-1940). Báo cáo ngày 15-1-1943 của nhà tù cho biết nhân số hiện hữu là 4403 người. Hàng ngàn người tù đã chết trong những năm khủng bố ác liệt này.
Tháng 9-1945, hơn 2000 tù chính trị còn sống sót sau những năm khủng bố trắng đã nổi dậy giành quyền làm chủ Côn Đảo và trở về đất liền tham gia kháng chiến. Gần 1000 tù thường phạm còn lại được sinh sống tự do, bình đẳng với số công chức và gác ngục. Ngày 18-4-1946 thực dân Pháp tái chiếm Côn Đảo, lập lại nhà tù. Số lượng tù nhân kháng chiến bị giam giữ ở đây trung bình là 2000 người. Thời Mỹ - Ngụy, số lượng tù nhân Côn Đảo tăng dần từ 4000 đến mức 8.000 vào những năm 1967-1969 và gần 10.000 trong những năm 1970-1972.
*
Đến Côn Đảo bằng đường thủy, di tích lịch sử đầu tiên mà du khách đặt chân lên là Cầu tàu Côn Đảo. Cầu Tàu được khởi công từ năm 1873, mở rộng và sửa chữa nhiều lần, cho đến ngót một thế kỷ sau mới có dạng như ngày nay. Có người gọi Cầu Tàu bằng danh số 871; 914; 915 để tưởng nhớ số người đã chết trong lúc xây dựng Cầu Tàu. Những con số đó mang tính ước lệ và chắc chắn là chưa đủ.
Đứng trước cầu tàu, dấu ấn sâu lắng nhất đọng lại là những phiến đá. Hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu tảng đá ngổn ngang, sắp lớp theo kè ngang, kè dọc. Cụ Võ An Ninh, nhà nhiếp ảnh lão thành đã ba lần ra đảo, mê mẩn nâng ống kính trước những tảng đá. Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng nhiều tấn kia đã làm kiệt quệ và đè nát bao nhiêu thân tù khi họ xeo chúng từ Núi Chúa về đây. Bọn gác ngục người Pháp có lối giết tù bằng lao động khổ sai. Xeo đá, tảng lớn: 12 người. Xeo không nổi, chúng đánh một trận rồi bớt ra 2 người, bắt xeo. Không nổi lại đòn, lại bớt người, xeo tiếp. Không xeo được sẽ chết vì đòn roi, xeo được thì chết vì kiệt sức.
Bây giờ, những phiến đá mang đầy kỷ niệm đau thương ấy bình yên soi mình trước tấm gương xanh trải rộng trong vịnh Côn Lôn, trầm lặng và kiên nhẫn. Nhiều du khách đã ngồi rất lâu trên những tảng đá ấy, đắm chìm suy tư vào quá khứ trước biển cả gợn sóng biếc xanh, đổi muôn sắc màu huyền ảo theo góc soi của trời chiều ngả dần trên Núi Chúa.
Vào một chiều cách đây 30 năm, ngày 27-2-1965, 57 tù chính trị trong một kíp làm khổ sai, đã đánh chiếm chiếc tàu Thương Cảng Sài Gòn số hiệu TCS.131, bắt toàn bộ nhân viên rồi đoạt canô nhỏ trở về vùng giải phóng ngay trong đêm ấy. Những gộp đá tại Cầu Tàu đã giúp họ giấu hàng chục thanh sắt nhọn để rồi chuyển lên xà lan trước giờ khởi sự.
Cầu Tàu từng chứng kiến niềm hân hoan của hơn 2000 tù chính trị giải phóng vào tháng 9-1945, khi chiếc canô do người thợ máy Tôn Đức Thắng cầm lái dẫn đoàn tàu thuyền của Ủy ban hành chính Nam bộ ra rước chính trị phạm Côn Đảo. Ba mươi năm sau, Cầu Tàu lại rợp bóng cờ bay, đón hơn 4000 tù chính trị giải phóng, lần lượt trở về đất liền vào tháng 5-1975. Đã có hàng chục vạn lượt tù nhân đặt chân lên Cầu Tàu trong những chuyến lưu đày. Hàng vạn người vĩnh viễn không trở về...
Nước Mỹ có một khu bảo tàng lớn, được xem như nếu chưa đến đó, chưa biết nước Mỹ. Hiện vật duy nhất còn lại là một viên đá mà người da trắng đầu tiên đã đặt chân lên lục địa này từ vài thế kỷ trước. Cầu Tàu lịch sử có hàng triệu tảng đá có thể làm nên những bảo tàng như vậy.
*
Cạnh lối bước ra Cầu Tàu là một ngôi nhà kiến trúc kiểu Tây Phương rợp mát dưới tán bàng đại thụ. Trên bức tường hướng ra đại dương có gắn một tấm biển đồng, vuông chừng 4 tấc, khắc hàng chữ: " Dans cette maisson vécut le grand compositeur Camille Saint Saens du 20 Mars au 19 Avril 1895, il y acheva l'opera Brunehilda".
Đây là ngôi nhà khách (Maisson de passager) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, sau gọi là Công Quán, nơi dừng chân cho lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo. Nhạc sĩ kì tài của nước Pháp Camille Saint Saens đã lưu lại đây tròn một tháng, từ 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây, ông đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda. Nỗi đau quằn quại của những người tù khổ sai hòa trộn giữa nắng trời, sắc biển kỳ thú của Côn Lôn đã tạo cho ông những cảm xúc mãnh liệt và đi vào giai điệu tuyệt tác trong chương cuối bản nhạc kịch Brunehilda mà nhạc sĩ Guirand, người bạn quá cố của ông ủy thác.
*
Giờ đây, đến Côn Đảo, người ta vẫn còn choáng ngợp bởi một hệ thống trại giam được xây dựng qui mô với tám trại giam chính, mỗi trại rộng từ 10.000 đến 25.000 m2 cùng hàng chục trại phụ với 20 hầm đá, 14 xà lim, 31 gian biệt lập Chuồng Bò, 120 Chuồng Cọp Pháp, 384 Chuồng Cọp Mỹ, chưa kể đến hàng chục khu biệt lập nhất thời để duy trì an ninh đối với những người tù trong tay không một tấc vũ khí.
Còn đây hệ thống trại giam, những di tích Cầu Tàu, cầu Ma Thiên Lãnh, Sở Tiêu, Cỏ Ống, Bến Đầm, Hòn Cau, Bảy Cạnh - những công trình xây dựng bằng mồ hôi, xương máu của tù nhân. Hàng chục cây số đường dọc ngang trên đảo, hàng ngàn mét tường đá dày bao quanh các trại giam, hàng triệu tảng đá ngổn ngang dọc cầu tàu như còn âm vang câu ca trường hận của tù nhân: "Côn Lôn ơi, viên đá mạng người..."
Còn đây Nghĩa trang Hàng Keo, Nghĩa trang Hàng Dương, Nghĩa trang Hòn Cau, Nghĩa trang Cỏ Ống với gần 2 vạn nấm mồ có tên và không tên. Nghĩa trang Hàng Dương và Nghĩa trang Hàng Keo đang được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt, được mệnh danh là "Bàn thờ Tổ quốc”, nơi yên nghỉ của hàng vạn người con ưu tú của dân tộctrong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội giữa lao tù, xiềng xích. Nơi ấy chứa đựng nỗi đau chung của dân tộc Việt Nam, của các dân tộc bị áp bức.
Nghĩa trang Hàng Keo và Nghĩa trang Hàng Dương còn mang tính chất một nghĩa trang quốc tế. Nhiều người yêu nước của các dân tộc Lào, Campuchia, Thái Lan, Quảng Châu Loan (Tô giới Pháp ở Trung Quốc) đã bị đày ải và hy sinh tại đây. 89 tội phạm chiến tranh Nhật Bản đã bị thực dân Pháp đày ải trong những năm 1947-1950, có ít nhất là 2 người đã gửi xác lại.
Nghĩa trang Hàng Keo, Hàng Dương với 2 vạn nấm mồ là bằng chứng không phai mờ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Gần hai vạn nấm mồ không tên và hàng triệu mẩu xương không địa chỉ như một lời tố cáo hùng hồn những kẻ đang lớn tiếng đòi nhân quyền cho vài trăm hài cốt của những tên xâm lược.
*
Côn Đảo không chỉ có nhà tù, hầm đá, xà lim, Chuồng Bò, Chuồng Cọp, nghĩa trang, hài cốt... Côn Đảo còn có những bãi tắm tuyệt đẹp, bãi cát mịn, nước trong vắt, với muôn màu huyền ảo tựa như có một họa sĩ thiên tài đã hòa sắc màu của trời, của biển với màu xanh của cánh rừng nguyên sinh, nay là rừng quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên với hàng trăm loài cây đại diện cho rừng Việt Nam ở các miền, với tầng sinh thái và thảm thực vật đặc trưng như một bảo tàng về rừng của đất nước. Đấy là nơi lý tưởng dành cho du lịch sinh thái và nghiên cứu khoa học, là môi trường lý tưởng tôn tạo cảnh quan cho khu di tích lịch sử có một không hai này.
Cảnh quan gần gũi nhất với di tích là thị trấn Côn Đảo. Đó là một thị trấn có cấu trúc đặc biệt: thị trấn tù của một hòn đảo tù. Ngoài nhà tù và các cơ sở phục vụ bộ máy trị tù, thị trấn Côn Đảo không có một cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội nào khác. Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, người phác thảo bản quy hoạch tổng thể đầu tiên cho Côn Đảo đã đề nghị bảo tồn kiểu dáng kiến trúc của thị trấn này, từ dãy phố công sở đến những hàng cây, con đường, tường rào, kè đá... Anh đã thiết kế bản quy hoạch với một ý niệm tâm đắc: Côn Đảo là một hòn đảo di tích.
Không thật rộng, không thật cao, từ ngoài vịnh nhìn vào, dãy biệt thự như một đường viền duyên dáng của thị trấn Côn Đảo, được bao bọc ba bề bởi Núi Chúa và mũi Lò Vôi, mũi Cá Mập. Vị trí, kích thước, đường nét và màu sắc của chúng thật hài hòa trong khung cảnh thiên nhiên. Mái ngói đỏ tươi cùng những bức tường vôi trắng như thể tô điểm cho sắc trời, sắc biển, càng rực rỡ cùng hàng cây phượng vĩ khi Hè về. Bông bằng lăng tím biếc, bông điệp đỏ, điệp vàng làm duyên khi Xuân đến, Thu sang. Mùa đông, con đường ấy lắng đọng trong âm sắc xao xác của những cành bàng gày guộc, lẫn trong tiếng sóng vỗ ầm ào.
Xa xưa, những người tù làm khổ sai trên con đường này đã tìm mọi cách lén đem về trại những đọt bàng non hoặc trái bàng xanh để làm thuốc chữa bệnh kiết lị và tăng thêm nguồn sinh tố cho những bạn tù đang kiệt quệ. Lá bàng khô cũng là món quà quý chia nhau dùng vào việc vệ sinh, và lãng mạn hơn, để chép thơ tặng nhau. Gốc cây, khe đá là những hộp thư để chuyển cho nhau tin tức, vật dụng hiếm hoi có được. Cụ Tôn Đức Thắng trong những năm làm thợ máy tại Sở Lưới đã gửi qua hộp thư ấy từng lọ mắm tép nho nhỏ, từng lon cá vụn kho mặn cho các đồng chí bị cấm cố. Mỗi thước đường, mỗi gốc cây, gộp đá trên hòn đảo này đều chứa đựng những điều bí ẩn và kỳ thú.
*
Trước ngày giải phóng, toàn bộ những công trình trên đảo đều được xây dựng bằng lao động khổ sai của tù nhân: cầu tàu, trại giam, nhà cửa và những con đường... Từ thị trấn Côn Đảo, có 2 tuyến giao thông về 2 phía: Bến Đầm và Cỏ Ống. Tuyến đường từ thị trấn ra Bến Đầm được khai phá từ những năm đầu thế kỷ. Năm 1952, chúa đảo Jarty lập đề án mở rộng con đường này để sử dụng hữu hiệu vịnh Bến Đầm.
Đề án mở đường của Jarty đã tạo tiền đề cho cuộc vượt ngục có một không hai, diễn ra trong mùa gió chướng năm ấy. Gần 200 tù binh làm đường ở Bến Đầm đã trở thành lực lượng xung kích để thực hiện phương án võ trang giải thoát của Đảo ủy. Những người lính xuất thân từ thợ mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả đã thiết kế một căn hầm bí mật theo kiểu hầm lò ngay dưới nền trại giam. Họ khoét đất bằng muôi múc cơm, đựng đất trong ống quần, vạt áo mà chuyển ra ngoài, rút gỗ từ sạp nằm để chèn, chống, kiên trì tạo dựng 2 căn hầm bí mật, vừa dài, vừa rộng, đủ để đóng 5 con thuyền vượt biển.
11 giờ trưa 12-12-1952, cuộc bạo động đã nổ ra, 28 tổ xung kích tay không đã trói gọn 28 tên lính Âu Phi, thu toàn bộ vũ khí. 5 chiếc thuyền khung gỗ, ốp mây đan, quét sơn và hắc - ín đã được hạ thủy tại Bến Đầm. Chuyến đi ấy biển trời không thuận, 117 người bị tàu Pháp đuổi theo bắt lại, 81 người khác đã không trở về.
Tám năm trước đây, cụ Nguyễn Văn Họa, người tổ trưởng tổ đào hầm dạo ấy đã cùng đoàn tù chính trị Côn Đảo tỉnh Quảng Ninh trở lại đây xác định dấu vết căn hầm và dựng tấm bia tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc võ trang giải thoát. Có thể là một ngày không xa, lớp con cháu cụ, những người thợ mỏ hôm nay sẽ tìm về nguồn cội và khôi phục di tích này để ghi tạc một chiến công đã trở thành biểu tượng cho ý chí tự giải phóng của các bậc tiền bối.
*
Như để cân bằng tiềm năng ở 2 đầu hòn đảo, thiên nhiên đã tạo dựng một thung lũng bằng phẳng phía Đông-Bắc thị trấn, vừa đủ để xây dựng một sân bay: sân bay Cỏ Ống. Cỏ Ống là tên gọi của một ngôi làng cổ, nơi sinh sôi của một loài cỏ ống mà người ta thường dùng đan đệm, nón, giỏ xách. Cho đến bây giờ, ngoài phạm vi của sân bay, cảnh sắc ở thung lũng này còn nguyên sơ như tên gọi. Bởi thế, Cỏ Ống có sức hấp dẫn đặc biệt.
Chỉ bước qua đầu đường băng phía Tây vài chục thước thôi, du khách đã phải sững sờ trước vẻ đẹp hiếm có của bãi Đầm Trầu. Một bãi cát mịn trải dài như dải lụa vàng thắt ngang tấm thảm xanh, nửa vắt lên cánh rừng, nửa buông xõa trên mặt biển. Một vách đá dựng đứng tôn thêm dáng núi uy nghiêm; một triền đá thoai thoải trải dài đến tận mép nước như thân thiện, chào mời; một rặng vông nở hoa đỏ rực giữa sắc xanh của trời, của biển và những tảng đá cô độc hay sóng đôi lô nhô quanh đây đều khiến những ai vô tình nhất cũng trở nên bâng khuâng, xao xuyến. Ấn tượng hùng vĩ của thế núi, cảm giác thẳm sâu của biển cả và sắc xanh bất tận là nguồn cảm hứng khơi dậy những khát vọng cao cả, nhân ái, thánh thiện, vĩnh hằng.
Không chỉ riêng có Bãi Đầm Trầu, mà đến bất cứ nơi nào, Bãi Rong, bãi Ông Đụng, bãi Ông Câu, Đầm Tre, Hòn Cau, Hòn Tài, Hòn Trác... phong cảnh thiên nhiên vẫn hiện ra với dáng vẻ thật riêng như ta chưa từng gặp bao giờ.
*
Từ sau ngày hoàn toàn giải phóng 1975, Côn Đảo là một đơn vị hành chính cấp tỉnh, sau trở thành một huyện thuộc tỉnh Hậu Giang; tháng 5-1979 là một quận của đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo; từ tháng 10-1991 đến nay là một huyện của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Qua nhiều lần đổi thay, Côn Đảo bao giờ cũng là một đơn vị hành chính hết sức đặc biệt: Tỉnh không có quận, huyện; huyện không có xã, phường.
Trong nhiều năm qua, dân số Côn Đảo biến động ở mức 2.000-3.000 người, tương đương với số dân ở một xã hẻo lánh ở miền núi. Lịch sử đã để lại trên hòn đảo này một nhà tù với chiều dài hơn một thế kỷ. Trong hơn một trăm năm ấy, ngoài hệ thống nhà tù và bộ máy trị tù, Côn Đảo không có một cơ cấu dân cư, không có một cơ sở kinh tế-xã hội nào khác. Thêm vào đó là sự cách trở với đất liền, khiến cho việc phát triển kinh tế-xã hội ở Côn Đảo gặp nhiều khó khăn, trở ngại gấp nhiều lần.
Những năm gần đây, cuộc sống và sinh hoạt ở Côn Đảo đang khởi sắc. Các dự án tu sửa đường xá, sân bay, xây dựng bến cảng và các khu biệt thự đang được thực thi. Côn Đảo đã có một đội tàu quốc doanh gần 30 chiếc, với tổng công suất hơn 10.000 CV, vừa đánh bắt, vừa bảo vệ vùng biển giàu tài nguyên, bảo vệ hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Bưu điện Côn Đảo đã hòa mạng quốc gia và quốc tế, giúp cho người dân Côn Đảo và du khách có thể liên lạc với bất cứ một địa chỉ nàu đã được phủ sóng trên hành tinh này.
Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày hoàn toàn giải phóng, Côn Đảo được bảo tồn như một di tích lịch sử lớn của đất nước. Hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước đã đến đây để suy ngẫm về sứ mệnh "khai hoá văn minh" của người Pháp và "bảo vệ tự do" của người Mỹ, để hiểu được cái giá mà các thế hệ tiền bối đã phải trả cho độc lập, tự do của Tổ quốcì. Mỗi di vật trên hòn đảo chứa đầy di tích này luôn nhắc nhở con người biết trân trọng quá khứ.
(Số 09, Tháng 2-2006) Nguyễn Ðình Thống
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:41:51 GMT 9
Không được quên quá khứ Nguyễn Ðình Thống Bà Rịa Vũng Tàu có nhiều Di tích lịch sử, Văn hóa và Danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng. Đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là bảo tồn chính những tiềm năng quyết định sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương. Điều đó đòi hỏi việc bảo tồn, tôn tạo phải tuân theo những nguyên tắc nghiệp vụ.
Dường như cùng với những yếu kém trong quản lý kinh tế, chúng ta chưa thoát khỏi yếu kém trong công tác tư tưởng và văn hóa, bảo tồn và bảo tàng. Dường như, cùng với những thành tựu kinh tế - xã hội đạt được, đội ngũ cán bộ cũng hư hỏng nhiều hơn. Chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái, lối sống thực dụng, tệ quan liêu tham nhũng đang len lỏi vào ngay trong những cơ quan quản lý văn hóa, vào các quy trình nghiên cứu, đề án khoa học như những nguy cơ, thách thức.
Các nguy cơ tụt hậu, chệch hướng, tệ quan liêu, tham nhũng chính là mảnh đất thuận lợi cho kẻ thù , làm suy giảm hiệu lực của Nhà nước và Luật pháp, làm cho dân không tin Đảng, Đảng mất chỗ dựa trong dân. Nguy cơ ấy là tự đánh mất bản sắc, tự tước bỏ vũ khí tư tưởng và văn hóa. Đó là nguy cơ mất gốc, nguy cơ mất nước. Bước vào thời kỳ mở cửa, hợp tác, phát triển kinh tế thị trường, càng phải nâng cao tầm vóc công tác tư tưởng và văn hóa, bảo tồn và phát huy tác dụng các di tích lịch sử, di sản văn hóa dân tộc, cảnh giác với âm mưu phá hoạt của kẻ thù, với sự tha hóa của chính mình.
Côn Đảo là một di tích lịch sử cách mạng lớn, được Đảng và Nhà nước ,các ngành các cấp và địa phương quan tâm đầu tư, tôn tạo, nhưng vẫn còn nhiều bất cập đến khó tin. Sau gần 30 năm giải phóng, một di tích lịch sử tầm vóc quốc gia này vẫn chưa có hồ sơ khoa học. Sự xuống cấp đang hàng ngày diễn ra với nhiều nguy cơ, thách thức. Có những di tích đã được khoanh vùng bảo vệ ở khu vực trọng điểm vẫn đang có nguy cơ bị phá bỏ đi.
Có một nguy cơ xuống cấp nằm ngay trong quá trình trùng tu, tôn tạo. Một cán bộ có trách nhiệm của Bảo tàng tỉnh cho biết, nhiều loại gỗ đưa ra thay thế không đúng qui cách, thậm chí còn thua chất lượng của những dầm xà Trại II, Trại III phải thay ra. Những năm cuối của thế kỷ thứ XX, Phòng 7 Trại II, một trong những trọng điểm đầu tư tôn tạo đã bị sập mái vì chất lượng của các loại vật liệu vừa thay thế.
Có một nguy cơ khác tiềm ẩn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội ở Côn Đảo. Có một sự xuống cấp vì vi phạm Pháp lệnh bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong những năm 1990 của thế kỷ XX, một cầu tàu mới đã được xây dựng cách Cầu Tàu lịch sử không xa. Xưa kia, nơi ấy là một bãi đá ngổn ngang, hàng vạn tảng đá, những tảng đá đã làm nên linh hồn của Cầu Tàu lịch sử. Mới đây, công trình kè đá ven biển và mở con đường mới bao quanh thị trấn đã vùi lấp nốt những khối đá còn lại trên đoạn kè từ Cầu Tàu lịch sử về phía nghĩa trang Hàng Keo.
Cụ Võ An Ninh, nhà nhiếp ảnh lão thành đã ba lần ra đảo, mê mẩn nâng ống kính trước những tảng đá. Bây giờ, bãi đá chỉ còn trong bộ ảnh đen trắng của cụ. Giờ đây, cụ Võ An Ninh đang trăn trở trên giường bệnh, mỗi lần giở lại tập album, cụ lại thẫn thờ thốt lên: "Ôi ! Những tảng đá..."
Những tảng đá lớn hàng thước khối, nặng hàng tấn kia đã đè nát biết bao thân tù khi họ xeo từ Núi Chúa về đây. Không xeo được thì chết vì đòn roi, xeo được thì chết vì kiệt sức. Còn âm vang đâu đây trong từng phiến đá câu ca trường hận của tù nhân: "Côn Lôn ơi, viên đá-mạng người". Những tảng đá ấy ít nhất đã một lần được ghi vào trong văn bản mang tính pháp lệnh bảo tồn. Quyết định số 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá (nay là Bộ Văn hóa - Thông tin) quy định việc khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử Côn Đảo, "cấm không được lấy đá kè ở bờ biển dùng vào việc khác".
Đã bao năm qua, những phiến đá mang đầy kỷ niệm đau thương ấy bình yên soi mình trước tấm gương xanh trải rộng trong vịnh Côn Lôn, trầm lặng và kiên nhẫn chờ đợi du khách tới đây, đắm chìm suy tư vào quá khứ trước biển cả gợn sóng biếc xanh, đổi muôn sắc màu huyền ảo.
Nước Mỹ có một khu bảo tàng lớn, được xem như nếu chưa đến đó, chưa biết nước Mỹ. Hiện vật duy nhất còn lại là một viên đá mà người da trắng đầu tiên đã đặt chân lên lục địa này từ vài thế kỷ trước. Cầu Tàu lịch sử có hàng triệu tảng đá có thể làm nên những bảo tàng như vậy.
Giờ đây, cầu tàu mới, con đường mới, kè bê tông mới khang trang đã thay thế vào nơi ấy, cờ, hoa và người chen nhau cùng những đoàn khách ra thăm, hân hoan và lưu luyến. Chỉ thiếu vắng những tảng đá lịch sử, từng chứng kiến bao thăng trầm, lặng lẽ và kiên nhẫn nằm lại đây trong hơn một thế kỷ qua, chờ đón những ai tìm về quá khứ.
Có một hạng mục cũng được ghi trong quyết định 66/VH/CP ngày 11-6-1984 của Bộ Văn hoá nay vẫn còn trôi nổi, chưa biết số phận được định đoạt ra sao, đó là Công Quán. Đây là ngôi Nhà khách (Maisson de passager) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, nơi dừng chân cho lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo. Nhạc sĩ kì tài của nước Pháp Camille Saint Saens đã lưu lại đây tròn một tháng, từ 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây, ông đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda. Đấy là dấu ấn đẹp đẽ duy nhất của nước Pháp văn minh trên hòn đảo tù. Những dấu ấn còn lại là của nước Pháp thực dân. Từ nhiều năm trước, Công Quán đã được bảo tồn như một di tích lịch sử. Trên bức tường hướng ra đại dương đã được gắn một tấm biển đồng, vuông chừng 4 tấc, khắc hàng chữ lưu niệm: " Dans cette maisson vécut le grand compositeur Camille Saint Saens du 20 Mars au 19 Avril 1895, il y acheva l'Opera Brunehilda".
Đã có những dự án tôn tạo lại ngôi nhà này, sưu tầm bản nhạc nổi tiếng "L'Opera Brunehilda" cùng hình ảnh của ông về trưng bày tại đấy. Thế rồi đến một ngày, tấm biển đồng đã theo lô ve chai vì miếng cơm manh áo. Rồi đến một ngày, ngôi nhà di tích biến thành hạng mục kinh tế, và tiếc thay, đã trở thành hiện vật một vụ án kinh tế, trôi nổi đến bây giờ, khiến chủ nhân đích thực của nó là những người quản lý di tích không có điều kiện tôn tạo, để sự xuống cấp ngày càng thê thảm. Cách đây vài tháng, đã có ý kiến xin dỡ di tích này mà công luận đã lên tiếng phê phán.
Mới đây, ngày 26-6-2002, ANDRÉ MENRAS, một người bạn Pháp từng đấu tranh chống chế độ Mỹ - ngụy , ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta, bị chính quyền Sài Gòn kết án 4 năm tù tại khám Chí Hòa trong chuyến tìm đường ra thăm lại Côn Đảo đã dừng chân tại Vũng Tàu. Nghe câu chuyện về Camille Saint Saens viết bản L'Opera Brulhilda tại Côn Đảo, ANDRÉ MENRAS phải đau lòng và vui sướng nói rằng: "Tại Béziers thành phố của tôi ở miền Nam nước Pháp có con đường mang tên Camille Saint Saens. Nhưng người Pháp hôm nay - kể cả tôi - để hiểu để biết ý tưởng tuyệt vời của nhà soạn nhạc tài danh đó phải đặt chân đến Côn Đảo. Phải đến Côn Đảo mới có thể hiểu và thấm thía về tác phẩm tài danh đó. Vượt thời gian (từ 1895), Camille Saint Saens đã cảm nhận và tiên đoán trong bản L'Opera Brulhilda thảm họa của sự quên lãng của bất cứ ai đối với cái đẹp của một dân tộc". ANDRÉ MENRAS đã hứa sẽ làm mọi việc để góp phần tôn tạo di tích này.
Trước khi chia tay, MENRAS vẫn còn sôi nổi nhắc lại điều tâm đắc của anh: "Sẽ là thảm họa cho những ai lãng quên cái đẹp của một dân tộc, lãng quên quá khứ hào hùng của một dân tộc".
Có một sự xuống cấp nằm trong những bản luận chứng bảo tồn. Khi đào móng xây tường rào bao quanh nghĩa trang Hàng Dương, nhiều ngôi mộ tù đã bị xới lên. Ông Chủ tịch huyện Côn Đảo và nhiều cán bộ lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã làm lễ cải táng, đưa số hài cốt ấy vào nơi qui hoạch. Người ta dự đoán rằng sẽ còn những ngôi mộ nằm ngoài tường rào của nghĩa trang, song vấn đề đặt ra là tiếp tục tìm kiếm, quy tập hay khảo sát, nghiên cứu, phát hiện và định lại đường ranh để bảo tồn đúng hiện trạng di tích? Câu hỏi này đến nay chưa có lời giải đáp.
Điều đáng tiếc là chính luận chứng bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử đặc biệt Nghĩa trang Hàng Dương lại xâm phạm, phá vỡ hiện trạng của di tích. Trước khi hoàn thành luận chứng, các kiến trúc sư đã đi khảo sát và được nghe những nguy cơ sai lầm do việc thiếu hiểu biết về hiện trạng của nghĩa trang, về đặc điểm lịch sử các ngôi mộ và ghi nhận tất cả, nhưng sự xâm phạm các phần mộ, huỷ hoại một phần di tích lịch sử đặc biệt này vẫn diễn ra. Đó là sự xuống cấp của một qui trình nghiên cứu khoa học.
Sự xuống cấp thuộc loại nguyên nhân này còn nằm ngay trong Đề án bảo tồn khu di tích lịch sử Côn Đảo. Đã gần 30 năm sau ngày giải phóng, đã có gần trăm tỷ đồng đổ vào khu di tích để trùng tu tôn tạo nhiều hạng mục công trình nhưng đến nay Đề án bảo tồn tổng thể khu di tích mới khởi thảo trong khi từng di tích và tổng thể di tích vẫn chưa hoàn thành Hồ sơ khoa học. Những kết luận mơ hồ, sai lệch đọng lại ngay trong Đề án khi đề cập đến mỗi di tích.
Hầm phân bò được Đề án xếp vào loại di tích đặc biệt, đặc trưng cho lối tra tấn man rợ, ngâm người xuống hố phân cho đến khi chết hoặc chịu khuất phục. Song không ai giải đáp được rằng chuyện ấy xảy ra khi nào? Có bao nhiêu người bị hành hạ theo kiểu ấy? Tên tuổi và địa chỉ vài ngườI ? Chứng cứ để xác nhận cho di tích này?
Câu trả lời cho các câu hỏi trên là nghe nói thế, có thể như thế. Với cảm nhận riêng của từng người thì có thể kẻ địch tàn ác hơn như vậy, nhưng một di tích lịch sử lại không tồn tại bằng những luận điểm có thể, điều đó có thể không có sức thuyết phục, ấn tượng mơ hồ có thể gieo vào nhiều người khi đứng trước di tích lịch sử đặc biệt này.
Nghĩa trang Hàng Dương cũng được xếp vào loại di tích đặc biệt, nơi chôn cất 2 vạn nấm mộ tù nhân. Điều này có thể là một trong những sai lầm vào loại lớn của Đề án. Nghĩa trang Hàng Dương chỉ được hình thành từ năm 1941 với số liệu ước tính gần sát thực tế là khoảng 5.000 ngôi mộ. Trước đó là Nghĩa trang Hàng Keo nằm ở một vị trí khác, đã hoàn toàn bị bỏ rơi ngoài Đề án.
Một tập thể 75 chiến sĩ bị xử bắn tại Cỏ Ống cũng có thể là một sai lầm tương tự. Điều lạ lùng là không ai biết ngày bắn, không ai biết lấy một tên người bị bắn, không ai dám chắc có một mẩu xương nào dưới ngôi mộ ấy, không có một hồ sơ chứng cứ nào mà di tích vẫn tồn tại với luận điểm nghe nói thế, có thể có chuyện này. Đấy là sự xuống cấp của tư duy khoa học trong lĩnh vực bảo tồn.
Việc tôn tạo Nghĩa trang trong một thời gian dài đã bỏ qua các nguyên tắc bảo tồn di tích, vi phạm Pháp lệnh bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh nhưng Ngành Văn hóa Thông tin từ Trung ương đến cơ sở đều im lặng, cho đến khi dư luận lên tiếng. Hàng loạt hoạt động qui tập và di dời hài cốt, khai quật và kiểm tra di tích, xây và đập phá tượng đài trong khu vực di tích, phá hủy hiện trạng các di tích đã xếp hạng và di tích đang lập hồ sơ... đều do Chủ đầu tư cùng Ban quản lý công trình thực hiện, không hề xin phép hoặc trao đổi với cơ quan quản lý Nhà nước về Văn hóa. Có thể nói không quá đáng, trong một chừng mực, ở di tích này, Ngành Văn hoá Thông tin đã đánh mất vai trò quản lý.
Trong những năm gần đây, Ngành Văn hóa Thông tin đã có những chuyển biến tích cực. Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp kinh phí và chỉ đạo Sở Văn hóa thông tin tỉnh lập Hồ sơ di tích, lập Đề án khoanh vùng bảo vệ Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo. Bản Đề án Quy định khu vực bảo vệ Di tích lịch sử Côn Đảo của Sở Văn hóa Thông tin tỉnh, lập ngày 12-5-1997 (theo phương án II) đã đánh giá được những nội dung cơ bản của các di tích và đưa ra được Quy định các khu vực cần bảo vệ.
Tuy nhiên, theo phương án này, còn nhiều di tích bị lãng quên cần bổ sung vào Khu vực I như: Sở Lưới, Kè Đá ven biển, Sở Recherche (Truy tầm tù trốn), Nghĩa địa Tây, toàn bộ Nghĩa trang Hàng Keo, định lại ranh giới Nghĩa trang Hàng Dương cho đúng với hiện trạng. Hiện nay, vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về việc bảo tồn khu di tích này, bảo tồn toàn bộ hay chỉ bảo tồn những giá trị tiêu biểu. Lý do chủ yếu để bảo vệ cho quan điểm bảo tồn những giá trị tiêu biểu là... lớn quá, tiền đâu để bảo tồn... rộng quá, đất đâu để phát triển... ra Côn Đảo chỉ thấy có nhà tù. V.v và v.v...
Trong cuộc Hội thảo ngày 20-5-1997 tại Vũng Tàu, một số cán bộ Ngành Bảo tồn Bảo tàng đã đưa ra quan điểm "bảo tồn có trọng điểm" để thay thế việc đầu tư tôn tạo một số di tích đã được xếp hạng bằng các loại sơ đồ, sa bàn, phim ảnh... Song nếu ý tưởng trên được thực hiện, chắc chắn sẽ gây ra sự đảo lộn về đội ngũ cán bộ trong ngành, trước hết, phải thay thế các cán bộ có nghiệp vụ Bảo tàng bằng những nghệ sỹ quay phim, chụp hình.
Khu di tích Lịch sử Nhà tù Côn Đảo với ý nghĩa tố cáo sâu sắc những tội ác tột cùng của chủ nghĩa thực dân đế quốc và nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Đảng ta, của dân tộc ta cần phải được bảo tồn trọng điểm. Đó là những giá trị văn hóa vô giá không gì thay thế được. Nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và nhân loại tiến bộ cũng sẽ đến đây để tìm hiểu hệ thống nhà tù của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà không nơi nào có được, để tự tìm những câu giải đáp từ di tích này, đâu là chính nghĩa, nhân quyền, vì sao Việt Nam chiến thắng, Pháp Mỹ thua.
Các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau cũng sẽ đến đây để tìm hiểu về cội nguồn, để hiểu về cái giá của độc lập tự do mà các thế hệ tiền bối đã đổi bằng xương máu, để biết nâng niu trân trọng hạnh phúc được sống trong độc lập tự do. Họ đến Côn Đảo, và Di tích nói với họ điều đó, không gì thay thế được.
Kinh tế càng phát triển thì dân trí và nhu cầu văn hóa ngày càng cao, đất nước càng mở cửa thì càng phải giữ vững định hướng XHCN, trong đó phải đặc biệt chú trọng giáo dục truyền thống cách mạng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đó cũng là một trong sáu định hướng lớn về công tác tư tưởng mà Bộ chính trị Trung ương Đảng đề ra trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc Đổi mới, Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Côn Đảo không chỉ là một khu di tích đơn thuần mà còn là một trung tâm văn hóa, khoa học, một trung tâm dịch vụ trong chương trình khai thác những di sản tinh thần và vật chất, đem lại hiệu quả không chỉ về tinh thần mà cả vật chất, ngày càng nhiều hơn trong tương lai.
Bộ Văn hóa thông tin cần đầu tư hơn nữa cho Côn Đảo. Khu di tích lịch sử Côn Đảo là công trình tầm vóc quồc gia, song sự đầu tư về cán bộ, kinh phí, nghiệp vụ của Bộ là chưa thỏa đáng. Việc phân cấp quản lý cũng cần phân định sớm, để thấy rõ trách nhiệm của Bộ, của tỉnh và của huyện. Công tác Bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác các di tích lịch sử là một vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng và văn hóa. Có nhiều vấn đề, những người làm công tác tư tưởng và văn hóa còn phải chờ đợi. Đội ngũ cán bộ, phương tiện làm việc, kinh phí nghiệp vụ, chế độ đãi ngộ... còn nhiều điều bất cập. Trong khi đó, những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đang từng ngày tác động làm xói mòn cả con người lẫn di tích. Hơn ai hết, những cán bộ Ngành Bảo tồn Bảo tàng phải là những chiến sỹ tiên phong trên mặt trận này./.
(số 1, tháng 2-2003 )NC-LS Nguyễn Ðình Thống
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:44:26 GMT 9
Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử - phần một Nguyễn Ðức Hiệp Sài gòn có một vị trí đặc biệt, là ranh giới và là cửa ngõ của miền Tây Nam bộ và miền Đông Nam bộ. Miền Tây Nam bộ nhiều người đã viết về con người, sự phong phú, phát triển của miền sông nước này. Đông Nam Bộ xưa là vùng giao thoa của văn minh Khmer, Champa nay là của Khmer, Chăm và Việt. Bài này tôi muốn viết về địa lý và phát họa vài nét về con người và lịch sử vùng đất Đông Nam bộ, đặc biệt là cột xương sống giao thông Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận hiện nay và xưa kia của hai nền văn minh Khmer và Champa và trước đó của văn hoá Sa Huỳnh và Óc Eo. Về địa lý thì Saigon là trung tâm của lưu vực từ sông Đồng Nai tới sông Vàm Cỏ, vì thế là một phần và là trọng điểm của miền Đông Nam Bộ. Đông Nam bộ có lịch sử lâu đời là vùng giao tiếp của 2 nền văn minh lớn Champa và Khmer thuở xưa và cũng là vùng có nhiều dân tộc ít người có liên hệ mật thiết về ngôn ngữ, văn hóa với thế giới Chăm và Mon-Khmer mà tiếng Việt là một nhánh. Đây cũng là vùng cư ngụ của dân tộc Stieng, Mạ, Chu Ru (Châu Ro), Mnong. Vì là vùng giao tiếp, các dân tộc ở đây nói tiếng thuộc hai hệ ngôn ngữ chính Mon-Khmer (Khmer, Stieng, Mnong), và Nam đảo Austronesian (Chăm, Chu Ru, Mạ, Jarai, Rade, Ede). Trước khi người Việt, Khmer và Chăm đến thì cả vùng Saigon, Đông Nam Bộ là cư dân Stieng, Chu Ru và Mạ cư ngụ, chủ yếu dọc các sông Đồng Nai, Saigon từ thượng nguồn tới gần cửa biển Cần Giờ. Vùng Tây Ninh, Sông Bé (Bình Dương), Biên Hoà-Xuân Lộc (Đồng Nai), Phan Thiết (Bình Thuận) là trục lộ mà xưa kia người Khmer và Chăm giao tiếp qua lại, các cuộc chuyển quân đánh nhau là qua vùng này. Vì thế không lạ gì mà ta vẫn còn thấy dấu tích và ảnh hưởng của nghệ thuật, văn hóa của hai nền văn minh này trong khu vực. Người Khmer và người Chăm còn sống rãi rác trong vùng. Ở Tây Ninh có hai kiến trúc tháp (prasat) Khmer còn nguyên là tháp Bình Thạnh, tháp Chót Mạt và các di tích ở Bến Cầu, Trãng bàng, Gò Dầu. Thủ Dầu Một, thủ phủ của tỉnh Bình Dương (Sông Bé), là từ tiếng Khmer (Tuol Tam Mot, nghĩa là vùng đất đồi). Từ tiếng Chăm, ta có các địa danh như mủi Cà Ná (kana), núi Chứa Chan (Chok Chon, nghĩa là núi non) ở Bình Thuận hay các địa danh từ tiếng Stieng như Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Trăng Lơ, Bù Gia Mập, Bù Na, Bù Xa, Bù Blim, Bù Prang ở Bình Dương, Bình Phước và Bù Go ở Nam Cát Tiên, Đồng Nai (Bù tiếng Stieng có nghĩa là làng). Đông Nam bộ cũng là nơi con người đã có mặt lâu đời từ 2000-3000 năm trước đây. Các di chỉ khảo cổ tìm thấy các hiện vật gốm, đồ đá (đẻo và mài) như rìu đá, dao, cuốc đá, đồ đục bằng đá và cùng với vùng Tây Nguyên, là quê hương của những bộ đàn đá độc đáo Bình Đa (Đồng Nai), Mỹ Lộc (Bình Dương) trong lịch sử âm nhạc con người, chứng tỏ đàn đá không những có từ Tây Nguyên mà còn ở các làng của các cư dân sống dọc sông Đồng Nai ở Đông Nam Bộ. Đồ đồng như gươm, rìu cũng được tìm thấy ở Long Giao, Xuân Lộc, trống đồng Heger 1 ở Bình Phú (Bình Dương) và Vũng Tàu. Mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh và các dụng cụ đá thô sơ ở Dầu Giây (Đồng Nai). Đặc biệt là mộ cổ cự thạch (dolmen) gồm các đá lớn ở Hàng Gòn, Xuân Tân (Đồng Nai) của cư dân thời đại đá cách đây hơn 2500 năm. Hơn 50 di chỉ thời đá mới đã được tìm ở vùng sông Đồng Nai và lân cận, đây là bằng chứng cho thấy Văn hóa Đồng Nai thời đá mới đã phát triển sâu rộng trên địa bàn Đông Nam bộ. Địa danh Đồng Nai xưa kia trước nhất cũng đã từng để chỉ cả vùng Đông nam bộ hay vùng Nam bộ sau này. Đây là những nơi sung túc, gạo lúa nhiều, nước trong lành (“Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”) (6) Hết gạo thì có Đồng Nai Hết củi thì có Tân Sài chở vô hay Đồng Nai gạo trắng như cò Trốn cha, trốn mẹ xuống đò theo anh và trong câu nói dân gian thuở xưa “Nhất Đồng Nai, nhì hai huyện” (hai huyện đây là Phong Lộc và Lệ Thuỷ ở Quảng Bình có tiếng giàu lúa gạo). Một vùng đất mới mở ra cho người Việt nhưng có bề dầy lịch sử và văn hóa lâu đời của những nền văn minh xưa. Đất vùng Đông Nam Bộ là đất bồi của phù sa cổ so với đất phù sa mới của Tây Nam Bộ nên con người cũng định cư ở đây từ lâu đời hơn. Các di chỉ tiền sử thời đá củ và mới đều được phát hiện ở vùng Đông Nam Bộ. Tôi viết qua kinh nghiệm trong chuyến đi gần đây và có thể coi như một phóng sự hay bút ký về sự kiện xảy ra hiện nay và chúng cũng có thể được coi như là sự nối tiếp gắn liền với lịch sử đã qua. Để có thể hiểu được một phần vùng đất nơi nền văn minh bản sứ và nhiều nền văn minh lân cận gặp gỡ, chúng ta hãy trở lại trên trục lộ giao thông nối các nền văn minh Khmer và Champa, Óc Eo và Sa Huỳnh. Trước hết ta hảy phát họa sơ lược về lịch sử vùng Đông Nam Bộ. Vài nét về lịch sử Đông Nam Bộ Từ phía cửa biển và đồng bằng đất phù sa cũ và mới của các sông Saigon, Đồng Nai lên miền cao vùng thượng lưu phía bắc, nơi có nhiều thung lũng, núi đồi của dãy núi lữa đã tắt từ lâu, nhiều đất đỏ, khí hậu thuận lợi với nhiều rừng, suối và động vật là môi trường thuận lợi cho cư dân đinh cư từ thời tiền sữ đến nay. (a) Tiền sử Rất nhiều di chỉ khảo cổ thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Bộ, đặc biệt là vùng lưu vực sông Đồng Nai. Mộ cổ cự thạch (hay trác thạch, đá xưa) Hàng Gòn là di chỉ nổi tiếng nhất ở gần Xuân Lộc (Đồng Nai) phát hiện năm 1927. Mộ cổ cự thạch do kỷ sư Jean Bouchot phát hiện khi ông thực hiện công trình mở đường từ Long Khánh Xuân Lộc đi Bà Rịa trong địa phận của một đồn điền cao su. Hai năm sau, khám phá này đã được công bố chi tiết trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ (1929). Khám phá này đã gây ra nhiều sự chú ý và bàn cãi giữa các nhà khảo cổ học về nguồn gốc, niên đại, chủ nhân và sự liên hệ với các di tích cự thạch khác ở các nơi khác trên thế giới. Vào năm 1984, mộ cổ cự thạch Hàng Gòn được chính thức xếp vào di tích quốc gia. Đây là mộ đá tảng lớn (dolmen) hình hộp chữ nhật dài 4.2 m ngang 2.7 m cao 1.6m được ghép bằng 6 tấm đá hoa cương nguyên khối. Tấm nắp đậy dầy khoảng 30cm và nặng hơn 10 tấn. Theo các nhà địa chất học thì đá hoa cương chỉ có ở phía bắc vùng Đà Lạt hay Phan Rang. Di chuyển, nâng và rắp ghép các tảng đá khổng lồ như vậy là một kỳ công của cư dân tiền sử. Vùng Dầu Giây-Xuân Lộc còn có nhiều di chỉ đồ đá cũ do Saurin phát hiện, có tuổi cách đây hơn 10000 năm. Cũng trong khu vực này cũng khám phá các khuôn đồng với niên đại được xác định là khoảng 2000±250 năm trước Công nguyên. Hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng chủ nhân mộ cổ cự thạch và nhiều di chỉ đồ đá ở Đồng Nai là cư dân thuộc dòng Austronesian Nam Đảo, tổ tiên của người Stieng, Mạ, Châu Ro.. ngày nay đã đến và trú đóng đầu tiên ở vùng Đông Nam Bộ. Di chỉ đồ đá nổi tiếng nhất ở Đồng Nai là di chỉ Cù Lao Rùa, cách Biên Hoà 5.5km, được khám phá từ năm 1888 do Caitaihac khai quật tìm thấy nhiều rìu đá, cuốc, mai đá. Di chỉ này đã được khai quật nhiều lần trong nhiều năm tiếp theo bởi nhiều nhà khảo cổ học và tìm được hàng mấy trăm rìu đá có vai được mài bóng, nhiều đồ gốm nung. Ở Cù Lao Phố, Bình Đa gần đấy, cũng tìm được vài rìu đá mài nhưng không bằng như ở Cù Lao Rùa. Di chỉ đồ đá Phước Tân nằm ở phía đông trên đường Biên Hòa-Vũng Tàu ở cây số 42, được khám phá khi khởi xây một trại hủi và được Fontaine mô tả (9). Di chỉ này rất phong phú hơn cả di chỉ Cù Lao Rùa, có nhiều hiện vật đá như rìu, cuốc, đục có vai và một số gốm thô. Trong những năm 1886-1890, Holbe đã thu thập ở Biên Hoà nhiều hiện vật tiền sử cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng Đồng Nai, trong đó có 10 ri1u đồng. Trong tổng số 1200 hiện vật thì 91% là từ Biên Hòa. Bộ sưu tập được triễn lãm ở hội chợ quốc tế 1889. Di chỉ Bến Đò (huyện Thủ Đức) cách cầu xa lộ 3km, rất phong phú gồm có 214 công cụ đá với nhiều rìu đá có vai và hàng ngàn mảnh gốm. Cuối năm 1975, các nhà khảo cổ Việt Nam đã phát hiện ra di chỉ Cầu Sắc (huyện Xuân Lộc) có 772 công cụ đá mới (gồm rìu có vai, rìu tứ giác..), gốm. Qua các hiện vật, đời sống dân cư ở đây chủ yếu là săn bắn trong rừng rậm. Di chỉ Suối Chồn gần di chỉ Cầu Sắc được phát hiện vào năm 1978, thuộc thời đại đồng thau, gồm nhiều đồ đồng như rìu, lưỡi hái.. và một số hiện vật đá (rìu). Di chỉ Dốc Chùa (Bình Dương), khám phá 1976, đánh dấu giai đoạn cao của thời đồng thau, có rất nhiều rìu đá, gốm, hiện vật đồng, khuôn đồng, tượng thú, hạt chuổi mã nảo, thuỷ tinh v.v.. Năm 1980, ở Vũng Tàu, trong một lòng ao, đã phát hiện một trống đồng Đông Sơn có sao 12 cánh ở giữa mặt trống. Và cuối cùng năm 1984, nhân dân lúc đi làm rẫy đã phát hiện một “kho” vũ khí đồng (qua đồng), rìu đồng ở Long Giao (huyện Xuân Lộc) có liên hệ với văn hóa Đông Sơn. Trên 2 mặt qua đồng có trang trí hoa văn đẹp, cân xứng giống hệt nhau. Đây là điểm cao của văn hóa đồng ở Đồng Nai. Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Hòa đã phát hiện di chỉ có các hiện vật chuổi thuỷ tinh, hoa tai đồng, các mộ chum mai táng, đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh. Chứng tỏ văn hóa Sa Huỳnh đã phát triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng Nai. Ở Saigon khi đào móng xây nhà thờ lớn (Đức Bà) đã phát hiện di cốt người trong các chum/vò gốm. Bộ sưu tập này đã mất. Đây là phát hiện sớm nhất các mộ chum, trước cả sự phát hiện mộ chum ở Sa Huỳnh ở miền trung mà sau này được gọi là văn hóa Sa Huỳnh (9). Chúng ta hiện nay có thể xác định là chủ nhân của các di chỉ tiền sử nói trên là tổ tiên của người Stieng, Mạ hiện nay. Người Mạ có khoãng 20000 người ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Lâm Đồng, Daklac trong đó ở huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng) là nơi tập trung nhiều nhất. Tiếng nói của họ thuộc Mon-Khmer (tuy vậy một số nhà nghiên cứu cho là thuộc Austronesian) và đã có thời kỳ lập một tiểu quốc ít phụ thuộc Champa hay Angkor. Người Mạ hiền hòa, thường là cái kho để người Khmer và Stieng đến bắt cóc đem đi các nơi bán làm nô lệ. Họ làm lúa rẫy, thạo dệt vãi có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Người Stieng đông hơn, chủ yếu ở Tây Ninh, Bình Dương (Sông Bé) và Đồng Nai, nói tiếng rất gần với tiếng Khmer. Trang phục khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Họ để tóc dài, búi sau gáy, xâu lỗ tai, đeo hoa tai bằng gỗ hoặc ngà và xâm mặt, xâm mình với nét hoa văn hình học đơn giản, cũng có tục cà răng nhưng nay không còn, uống nhiều rượu, ăn trầu. Tính tình ngay thật, rất tôn trọng lời hứa (9). Các sọ cổ tìm được ở Cần Giờ (Gò Cá Trăng), ở hạ lưu sông Cửu Long như An Sơn, Gò Tháp, Óc Eo cho thấy rất gần gủi loai hình sọ người Thượng (Stieng, Mạ) hiện nay, chứng tỏ địa bàn của họ xưa kia tản rộng từ Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long. (b) Sơ sử Thời kỳ Óc Eo (đầu công nguyên đến thế kỷ 6) Sau thời đại đá, đồng, sự liên hệ hàng hải với Đông Nam Á và Ấn độ đã đưa đ ến sự xuất hiện ở đồng bằng sông Cửu Long về phía vịnh Thái Lan vương quốc Phù Nam ấn độ hóa với nền văn minh Óc Eo. Phù Nam là một vương quốc hùng mạnh vào đầu công nguyên cho đến thứ kỷ thứ 6, có ảnh hưởng khắp địa bàn đồng bằng sông Cửu Long, Chân Lạp (Kambuja), Gia Định, Đồng Nai đến tận Võ Cảnh (Nha Trang). Phù Nam chủ yếu dựa vào hàng hải, có cử sứ bộ nhiều lần đi Trung quốc, qua đó ta biết được một phần lịch sử vương quốc này. Các di chỉ Óc Eo đã được tìm thấy ở Cần Giờ, Bàu Thành, Bến Cam, Vũng Tàu. Ở Cần Giờ, vùng nước sình lầy nước lợ, trên các bải đắp (giồng), đã tìm thấy nhiều di tích, hiện vật thuộc văn hóa Óc Eo, như gốm mịn Óc Eo ở Giồng Am, Giồng So Đũa, bình gốm thô thon dài như chai ở Giồng Am, Giồng Cá Trăng, những vết tích kiến trúc ở Giồng Am và Giồng Cây Trôm Lớn. Di chỉ Bàu Thành do P. Paris khai quật tìm thấy nhiều gốm, con lăng pesani, con lăng bằng đá. Gốm Bàu Thành được mallaret xác nhận là đặc trưng của gốm Óc Eo (9). Ở Vũng Tàu, năm 1925 trong khuôn viên một nhà nghĩ mát đã khám phá được nhiều hiện vật vàng trang trí giống hiện vật Óc Eo (hình hoa hồng nhiều cánh, hoa tai, nhẫn..), bộ sưu tập này đã mất trong thời chiến tranh 1945. Những di tích tiền sử và sơ sử dày đặc ở vùng Đông Nam Bộ, trong lúc đó các di chỉ Óc Eo trãi rộng khắp miền Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long). Điều này cho thấy Đông Nam Bộ là nơi con người cư ngụ lâu đời nhất, từ đó mới tỏa rộng tới Nam bộ. Sau đó miền Tây hấp thụ văn hóa Óc Eo từ Phù Nam, nhưng Đông Nam bộ và miền núi vẫn giữ truyền thống cũ lâu đời. Thời kỳ tiền Angkor và Angkor (thế kỷ 7 đến 16) Vương quốc Phù Nam suy vong và sau cùng dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn do Chân Lạp thôn chiếm vào thế kỷ thứ 6. Chân Lạp lúc đầu phụ thuộc và tiếp thu văn hóa Phù Nam. Sau khi thừa hưởng di sản Phù Nam, Chân Lạp mở đầu thời kỳ tiền Angkor. Nhưng trong một thời gian không lâu, Chân Lạp bị triều đại Sailendra của vương quốc Sri Vijaya ở Sumatra đánh phá và thôn chiếm vào thế kỷ thứ 8. Đầu thế kỷ 9, Jayavarman II giải phóng Chân Lạp và sáng lập ra vương triều Angkor. Từ thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13 là sự hưng thịnh và vàng son của văn minh Angkor xây dựng các đền đài như Angkor Wat và Angkor Thom và bao gồm từ vùng Menam (Miến Điện) đến Champa. Nhiều di chỉ thời tiền Angkor và Angkor được tìm thấy ở khắp Đông Nam Bộ và Tây Nam với các tượng, gốm, hiện vật (9). Rạch Vương Cai gần Cù Lao Phố (Biên Hoà) kiến trúc gạch cổ đổ nát có tượng thần Uma đứng trên (chiến thắng) quỷ trâu. Long Bảo tự và chùa Bửu An gần Bến Gò (Đồng Nai) có thờ tượng thần Ganesh bằng đá và tượng đá nữ thần 4 tay phát thiện trước đây trên kiến trúc đá gạch đổ nát. Ngay trong vùng Saigon có các di tích tiền Angkor, Gò Cây Mai (tượng đá Visnu, 2 vàng lá khắc hình thần Indra và nhiều dụng cụ đá thời tiền sử), Rạch Lò Gốm (hai pho tượng đá Lokesvara tiền Angkor), và Angkor góc đường Lê Hồng Phong và Trần Hưng Đạo (tường đá và tượng bằng đồng hình người quỳ gối nâng chậu). Tháp Chót Mạt, 18km tây bắc thị xã Tây Ninh, thuộc thời tiền Angkor còn khá nguyên viện vào năm 1909 khi Parmentier đến khảo sát (5), nối liền một kiến trúc đã hoàn toàn bị sụp đổ. Hiện nay tháp vẫn còn trong tình trạng tương đối tốt, có những trụ vuông trang trí hoa lá trên gạch cửa hình móng ngựa với mi cửa trang trí đẹp. Quanh tường và hàng hiên có nhiều tượng kudu, và trên vách tường có khắc trạm 8 hộ pháp (dvarapala) giữ đền. Phong cách nghệ thuật tháp được M. Mauger cho là thuộc thế kỷ 8 (5). Trong đống phế tích của kiến trúc phụ, đã tìm thấy một tượng đá thần Vishnu đội mão mà P. Dumont cũng nhận định là gần gũi với nghệ thuật Khmer Chân Lạp vào hậu bán thế kỷ 8. Kiến trúc kiểu Angkor không tìm được ở hạ lưu sông Đồng Nai, chỉ có các gốm, tượng phong cách Baphuong tìm được ở góc đường Lê Hồng Phong-Trần Hưng Đạo. Một giải thích cho sự kiện này là do chiến tranh giữa Champa và Angkor, triều đại Angkor không làm chủ và ảnh hưởng đến vùng Đồng Nai. Chùa Bửu Sơn (Biên Hoà) có tượng đá Vishnu ngồi, sau có khắc chữ Chăm cổ, nói về hoàng tử Nauk Glaun Vijaya (con Sri Jaya Simhavarman) với niên đại 1421 AD (theo Coedes) và ở chùa Giác Quan (Gia Định) có tượng đá sư tử Chăm hiện nay lưu trữ ở viện bảo tàng Saigon. Điều này cho thấy ở Đồng Nai, ảnh hưởng Chăm vẫn còn mạnh và là vùng tranh chấp chứng kiến chiến tranh triền miên giữa Champa và Angkor. Champa có lúc đã chiếm Angkor vào thời kỳ Angkor. (c) Cận đại Năm 1623, sau khi gã công chúa Ngọc Vân, chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) viết thư cho con rễ vua Chân Lạp Preas Cheychesda mượn đất Prei Noker, Kras Krobey đặt trạm thu thuế. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho phép hai tướng nhà Minh từ Quảng Ddông (Dương Ngạn Địch) và Quảng Tây (Trần Thượng Xuyên) mang quân dân không chịu thần phục nhà Thanh vào vùng đất chưa khai phá (vẫn còn thuộc Cam Bốt) định cư. Từ cửa Cần Giờ, Soài Rạp, Trần Thượng Xuyên vào sông Đồng Nai đến cù lao Phố lập nghiệp. Nơi đây họ định cư, lập quán, làm ăn buôn bán rất sầm uất nên cù lao mang tên Cù Lao Phố (người Hoa gọi là Châu Đại Phố). Dương Ngạn Địch thì theo cửa Tiểu, cửa Đại vào định cư ở vùng nay gọi là Mỹ Tho. Năm 1698, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Hữu Cảnh được chúa sai xuống miền nam vùng Đồng Nai lập phủ Gia Định. Đây là thời điểm Saigon được coi là chính thức được thành lập. Khi người Việt đến vùng đất mới, họ nhập một số tín ngưỡng thờ thần bản sứ của người địa phương vào tín ngưỡng của họ để cầu sự an lạc từ thần đất củ chấp nhận cho dân mới đến. Thần Bà Chúa xứ có nguồn gốc là nữ thần xứ sở của người Chăm Po Inu Nagar đã được người Việt thờ. Tương tự thần ông Tà của người Khmer cũng được người Việt thờ cúng. Các miếu thờ ông Tà, thần đất, giống như nhà sàn cao nhỏ có vài ba viên đá tròn và bát hương thường gặp ở các làng xã ở Đông Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung. Viên đá lớn tượng trưng cho thần, các viên nhỏ là ma quỷ theo hầu thần. Đây là thần gốc Khmer thờ thần Neak Tà là thần của tạo vật như Neak Tà Tức (thần nước), neak Tà Phnom (thần núi), neak Tà Sre (thần ruộng), neak Tà Đan Pô (ông Tà cây đa).. Người Khmer rất sùng bái ông Tà, không ai dám nói lời xúc phạm, vô lễ; qua miếu phải dở nón, lột khăn đeo. Sau này làng người Việt có đình thờ thành hoàng thì tục thờ ông Địa (nhập từ người Hoa) phổ biến hơn, ông Tà xuống cấp trở thành thần giữ ruộng như trong “Ông Địa giữ nhà, Ông Tà giữ ruộng” (8) Giờ đây ta hảy đi lại con đường giao thông từ Biên Hòa đến Bình Thuận, coi như là cột xương sống của hệ giao thông ngày nay ở Đông Nam Bộ và của nền văn minh Khmer và Champa ở những thế kỷ xa xưa. Nguyễn Ðức Hiệp
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:46:42 GMT 9
Một thoáng Đông Nam bộ - Địa chí và lịch sử-phần hai và hết Nguyễn Ðức Hiệp Đồng Nai Từ Sai gon, qua cầu Đồng Nai, về phía trái hướng thành phố Biên Hòa ở giữa sông Đồng Nai là Cù Lao Phố lịch sử rộng lớn với nhiều cây xanh. Đây là nơi định cư đầu tiên trước cả Saigon-Chợ Lớn nhiều năm. Tại đây vẫn còn Miếu Quan Đế hay gọi là chùa Ông thờ Quan Văn Tr ường (Quan Công) của người Hoa, là ngôi miếu cổ nhất Nam bộ xây dựng vào năm 1684, được trùng tu nhiều lần trong đầu thế kỷ 19 bởi Trịnh Hội, Trịnh Khánh và Trịnh Hoài Đức (7). Về phía Nam nước Việt lúc đó, Cù lao Phố là trung tâm phát triển thương mại, kinh tế ở vùng Đồng Nai trong lúc Saigon, Bến Nghé, Chợ Lớn (gọi là Gia Định sau này) chỉ là rừng rậm. Câu ca dao nổi tiếng Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân cũng trãi, Đồng Nai cũng từng nói lên hết vị trí lịch sử của cù lao Phố. Cù Lao Phố hoàn toàn bị phá huỷ khi quân Tây Sơn vào năm 1773, đánh chiếm và triệt hạ người Hoa ở đó. Một số còn sống, chạy đến vùng bến Nghé và Chợ Lớn lập nên cơ ngơi mới, và vùng Saigon Chợ Lớn bắt đầu thành hình. Ngày nay, cù lao Phố nay là xã Hiệp Hòa, đối diện với thành phố Biên Hòa, vẫn còn thưa thớt dân cư. Cũng ở cầu Đồng Nai, về phía tay phải theo dòng nước chảy xuống Cát Lái, ở tả ngạn là Long Bình xưa kia là căn cứ quân sự và kho chứa đạn dược của quân đội Mỹ, nay là khu công nghiệp 2 lớn nhất ở Biên Hòa. Ở hữu ngạn là Long Thành Mỹ, thuộc quận 9 nơi có đất vườn tre, dừa của ông Tư De (Nguyễn Văn De) mà hàng đàn các loài chim cò và bồ nông từ các vùng chung quanh đến trú ngụ, lập tổ từ năm 1980. Không những ông trồng thêm các cây dừa cho chúng đến trú ngụ làm tổ mà ông còn săn sóc các con bị thương, bệnh tật, càng ngày có nhiều chim cò, bồ nông đến vườn ông làm chổ dung thân. Ông không chia cắt đất bán hưởng lợi khi giá đất tăng trong nhiều năm qua khi thành phố Hồ Chí Minh càng ngày càng phát triển ra khu ngoại vi. Sau khi qua cầu Đồng Nai, đi một đoạn ở phía trái là Bình Đa cách đây không lâu tìm thấy được 1 di tích khảo cổ với nhiều hiện vật gồm nhiều đồ gốm, đàn đá và xương động vật, chứng tỏ xưa kia người dân tộc có liên hệ với vùng Tây Nguyên sống ở đây (có thể là dân tộc Êde) và chung quanh đây là vùng rừng rậm có nhiều hoang thú như nai, heo, trâu bò rừng.. Không lạ gì mà có tên gọi Hố Nai ở phía trên gần Bình Đa. Vào năm 1922 thời thuộc Pháp, khi du lịch mới bắt đầu từ Saigon đi các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tạp chí "La Vie technique et Industrielle", tạp chí cho người Pháp ở Việt Nam và các nhà đầu tư đã viết như sau “.. Tốt hơn là chỉ rời Saigon khoảng 17giờ30 hay sau bữa cơm chiều. Đi đường thẳng, từ Bà Rịa đến Biên Hoà qua Long Thành, ít thắng cảnh nhưng ngắn hơn (125km, 3giờ30) đường đã đi buổi sáng. Đường này có nhiều điểm lý thú cho người mới đến: đi qua nhiều rừng lớn và các đồn điền cao su nhiều ấn tượng. Đường Biên Hoà-Bà Rịa, đây là vùng rất rất tốt để săn bắn, có rất nhiều nai, heo rừng, công, trĩ, gà rừng và đôi khi cọp và voi.” Điều này cho thấy cách đây không lâu, chung quanh Saigon vẫn còn rừng rậm và có nhiều thú. Đường cái quan từ Saigon đi Biên Hoà đầu thế kỷ 20 Từ Biên Hoà đi Xuân Lộc, khu này trước kia có nhiều đồn điền trồng cao su do người Pháp thiết lập trong những năm đầu thập niên 1930, và hiện nay vẫn còn các rừng cao su quốc doanh. Theo sách L'Indochine Moderne, (Percheron et Teston, 1931), buổi đầu của kỷ nghệ trồng cao su ở Đông Nam Bộ đã xảy ra như sau “Năm 1897, một dược sĩ tên Raoul, từ chuyến đi công vụ ở Java, đã tặng các hạt giống cao su cho Thảo cầm viên Saigon mà trước đó vào năm 1891 đã có một số hạt cao su để trồng thử nhưng không có kết quả. Các cây từ hạt giống được phân phối ở các vườn thí nghiệm của Sở canh nông (Services Agricoles) ở Ongiem và ở các vườn đất của các người Pháp thực dân. Cùng thời gian này (1898-1899), ông Belland thiết lập đầu tiên, một đồn điền cao su nhỏ, bằng phương tiện riêng của ông, ở ngoại vi Saigon. Phải mất khoảng 8 năm sau, canh tác trồng cao su mới có kết quả khả quan, mặc dầu có nhiều cố gắng nhiệt tình bỏ ra của các như ông Capus, giám đốc Sở Kinh tế (Services Economiques), ông Josseline, Seligman, bác sĩ Yersin, ông Canavaggio, ông O'Connel, ông Guèry, ông Cazeau, Girard và Haffner. Các đồn điền Suzannah (1907) et de Xatrach (1908) được thành lập. Vào thời điểm này và cho đến 1918, là lúc các vùng đất lớn quan trọng, đất tốt cho cao su, được các công ty lớn làm sở hữu và dùng các phương pháp có hệ thống và vốn đầu tư lớn để phát triển. Chỉ ở các vùng cao, thung lũng và nhiều rừng cây mát ở phía Bắc và Đông Saigon là các dự án mang lại kết quả. Ở đó có hai loại đất được gọi theo màu của chúng: đất nâu và đất đỏ, kết hợp tốt cho trồng cây cao su. Đất đỏ, nhờ sự giữ nước và giàu chất acid posphor và chất sắc, làm cho đất giàu mỡ hơn là đất nâu. Cây cao su phát triển rất tốt ở vùng đất này; chỉ có vấn đề là đồn điền xa và cây cối dầy đặc (như rừng tre), và sự vắng mặt của cơ xưởng tại chổ làm khó khăn khai thác cao su và cần có nhiều vốn. Vào năm 1911, có 4900 hecta dất trồng cao su một nguồn tài nguyên tốt cho đến khi chiến tranh thế chiến thứ nhất. Năm1920-1922 giá cao su thấp nên sự phát triển đồn điền chậm lại. Sự cân bằng được thiết lập lại vào năm 1923 và giá cao su tăng mạnh từ 1925 đến 1928... Vào năm này, sản xuất cao su đạt đến 10330 tấn với diện tích trồng 90225 hecta, mà 60% là trên đất đỏ. Cũng năm này, ở thuộc địa Hoà Lan sản xuất 108000 tấn.. Năm 1928, các đồn điền cao su ở Đông Dương dùng hơn 80,000 phu đồn điền bản sứ, được tuyển hơn phân nữa từ miền Bắc (Tonkin). Các xưởng cao su ở Pháp mỗi năm dùng 68000 tấn, nhưng chỉ khoảng 5483 tấn là từ Đông Dương... Một việc làm lớn thời thực dân là để sản xuất cao su ở Nam kỳ (Cochinchine), một phần lớn là nhờ năng lực và sự bền bỉ của người trồng (thực dân Pháp). Chính quyền cũng hoàn thành nhiệm vụ, không những bởi sự giúp đỡ hữu hiệu mà còn cống hiến vào sự nghiên cứu cây, mủ cao su v.v... Đó là một sự tự hào của người Pháp ở Nam kỳ đã gây dựng được những đồn điền cao su lớn, có thể so sánh với các đồn điền ở các đảo thuộc địa Hòa Lan hay ở bán đảo Mã Lai, bởi sự tổ chức tốt và những kết quả gặt hái được." (Theo “L'Indochine Moderne”, Percheron et Teston, 1931) Có điều sách nói như trên chưa đủ: thiếu hẳn sự mô tả về nổi khổ cực của công nhân Việt Nam bị bắt làm phu đồn điền cho thực dân Pháp. Sự bóc lột này là sự tủi nhục của chế độ thực dân và sau cùng đã đưa chế độ chúng cáo chung khi Việt nam dành được độc lập và sự thảm bại của Pháp trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Có hai giả thuyết về nguồn gốc của từ Đồng Nai. Giả thuyết đầu cho tên Đồng Nai là đọc trại từ tiếng Nông Nại mà người Hoa ở Cù Lao Phố phát âm từ Giản Phố Trại dùng để chỉ Kambuja (trong “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức dùng âm Kambuja dịch thành Giản Phố Trại). Giả Thuyết thứ hai của Bình Nguyên Lộc dựa vào ngôn ngữ học có nhiều cơ sở hơn. Theo ông thì Đồng Nai là từ âm Đồng của tên sông Đa Đung hay Da Dong (tiếng Mạ là Đạ Đồng) hiện nay là tên sông thượng nguồn của sông Đồng Nai phát nguồn từ cao nguyên Liang Bang (Lâm Viên) và vùng này có nhiều nai nên người Việt mới đến gọi là Đồng Nai. Thượng nguồn sông vẫn còn giữ tên Da Dung, tên gọi của người bản sứ. Cũng có thuyết cho rằng Đồng Nai là do cánh đồng có nhiều nai (lộc giã). Bình Nguyên Lộc lấy địa danh Đồng Nai nơi sinh quán của ông làm bút danh. Bình Nguyên Lộc, sinh trưởng ở đất Đồng Nai, thuở thiếu thời ông sống và giao tiếp với các dân tộc Mạ, Stieng, Ede, Gia Rai.. và để ý đến ngôn ngữ và lối sống của họ. Chính những kinh nghiệm này về sau ông mới viết quyển sách nghiên cứu nổi tiếng “nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”. Qua Hố Nai, Trảng Bôm, tới Dầu Giây đường đi có hai ngõ, về phía tay trái là đi Đà Lạt và nếu đi thẳng thì đi Long Khánh-Xuân Lộc và các tỉnh ven biển miền Trung. Xuân Lộc sau chiến tranh đã hoàn toàn đổ nát, Xuân Lộc ngày nay là chủ yếu là Long Khánh ngày xưa phát triển lớn ra từ những dân tản cư đến sau cuộc chiến. Vùng Dầu Giây-Xuân Lộc là nơi có nhiều di tích khảo cổ từ thờ đại đá cũ/mới đến văn hóa Sa Huỳnh. Ở Dầu Giây, đã tìm thấy các mộ chum của văn hóa Sa Huỳnh mà Saurin đã phân tích cho là có cách đây 2000 năm. Gần Xuân Lộc, ở hướng bắc qua ngã ba Tam Phong trên đường đi về hướng Bà Rịa-Vũng Tàu là mộ cổ cự thạch nổi tiếng Hàng Gòn nằm trong nông trường Hàng Gòn của công ty quốc doanh cao su Đồng Nai. Năm 1984, mộ cổ cự thạch Hàng Gòn được xếp vào di tích quốc gia Việt Nam. Gần Gia Ray (bắc Xuân Lộc) là núi Chứa Chan cao 837m có chùa Bửu Quang xây và dựa vào các hang động thiên nhiên. Vào dịp Tết, rất nhiều người về đây để hành hương. Theo Bình Nguyên Lộc thì cả vùng Đồng Nai xưa kia là xứ sở của người Mạ (nay chỉ còn lác đác) và Gia Ray là gốc từ tiếng Mạ (từ Ya gốc Mã Lai Austronesian nghĩa là sông, nước). Qua khỏi Xuân Lộc, trước là chiến trường lớn trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh vừa qua, là bắt đầu đi vào địa phận của tỉnh Bình Thuận. Ở đây vẫn còn nhiều người dân tộc Chăm sinh sống, có các làng Chăm rãi rác trong tỉnh. Ngày tôi đi Bình Thuận, tôi có may gặp đúng ngày một đền thờ Chăm hồi giáo rất lớn dọc quốc lộ được khánh thành với rất nhiều đồng bào Chăm tề tụ. Người Chăm hiện nay theo hai tôn giáo chính: Ấn độ giáo và Hồi giáo. Bình Thuận Đi quá Hàm Tân (La Gi), trên đường đến Phan Thiết, về phía trái quốc lộ có ngọn núi Tà Cú rất cao (khoảng 580m), nơi đây là khu du lịch có cáp treo lên núi và một tượng Phật nằm lớn nhất nước dài 49m xây từ năm 1962. Khi xưa chung quanh vùng và trên núi còn rừng cây, chỉ có những phật tử kiên trì hành hương mới lặn lội đi lên núi, đường dài và rất khó khăn, phải ngủ lại dọc đường nay thì có cáp treo nên không còn là trở ngại lớn. Thế mới biết xây được tượng phật trên núi là quả một kỳ công lớn. Khu vực quanh núi Tà Cú ở Đồng Nai còn có người Khmer, Tà Cú là 1 trong 4 núi thiêng (Tà Cú, Tà ban, Tà Lễ và Tà Đôn) theo dân nói là thờ thần Chăm nhưng tên núi cho thấy có nguồn gốc Khmer. Dân tộc Khmer thờ thần đá, núi, đất gọi là Tà (ông). Ở lưng chừng núi có ngôi chùa cổ Linh Sơn Trường Thọ, có tháp Hữu Đức được vua Tự Đức sắc phong. Theo chuyện lưu truyền của người Việt thì trên núi Tà Cú có 2 con rắn lớn, một đực một cái, rắn cái có ngậm hạt ngọc lớn. Ai lấy được ngọc này sẽ có nhiều may mắn nhất là thắng bài trong các canh bạc. Nhiều người đã cố gắng dụ hai con rắn ra khỏi hang bằng cách dùng gà nuôi làm mồi nhử chúng. Một ngày kia, chúng ra khỏi hang đến ăn mồi của một ông nông dân, khi rắn mái mở miệng, nhả ngọc ra để ăn mồi thì ông này lấy được ngọc. Lấy được ngọc, ông này bỏ đi. Khi rắn đực biết được ngọc đã mất, cả hai rắn tức giận đi tìm và tàn phá làng mạc và rừng cây trên núi. Nhiều người phải bỏ làng đi vùng khác. Nói đến Bình Thuận, Phan Thiết là phải nói tới thanh long. Cây thanh long được trồng ở khắp nơị Chủ yếu đất ở đây là dùng cho vườn cây trái thanh long, mổi gốc cây thanh long trồng dựa trên các cột trụ đá xi măng. Khí hậu vùng Phan Thiết Bình Thuận nóng khô, gần biển rất thích hợp cho cây thanh long, một loại cây thuộc họ xương rồng. Lúc ban đêm, các vườn cây thanh long đều mở đèn đêm để trái thanh long ra sớm và nhiều đợt, ánh đèn từ các vườn cây thanh long trong đêm tỏa sáng trong đêm rất đẹp. Thanh long ở đây được chở đi bán nhiều vùng trên đất nước và xuất khẩu qua Trung quốc, Đài Loan, Hong Kong. Hiện tượng trồng thanh long chỉ bắt đầu cách đây hơn 10 năm. Thanh Long là giống cây xuất phát từ Trung và Nam Mỹ, được người Pháp mang vào Việt Nam. Nhung chỉ sau này khoảng đầu thập niên 1990, thanh long mới được sản xuất thương mại ở Bình Thuận chủ yếu cho thị trường Đài Loan, Hong Kong và Singapore. Thành phố Phan Thiết thành lập chỉ cách đây hơn 100 năm, vào năm 1898. Hiện nay dân số khoảng 100,000. Đầu năm 2001, cách bờ biển Phan Thiết khoảng 40 hải lý, các ngư phủ một tàu đánh cá bị vướng lưới, lặn xuống để tháo gỡ thì khám phá ra một tàu xưa Trung quốc chở gốm thời Minh bị đắm. Theo sự thẩm định của các nhà nghiên cứu thì đây là tàu bi đắm vào năm 1608 của một thương gia Hoa kiều tên I Sin Ho được công ty Đông Ấn Hoà Lan (VOC) đưa tiền đặt mua gốm nhà Minh chở đến Johore, nam bán đảo Mã Lai để trao cho đại diện công ty Đông Ấn, ông A Van den Broecke, nhưng chẳng may đụng phải san hô và bị đắm. Van den Broeke đã viết báo cáo ngày 21/7/1608 về văn phòng của công ty Đông Ấn ở Banten (Java) là tàu đã bị đắm và mất hết hàng. Sự khám phá ra chiếc tàu cổ bị đắm mang nhiều gốm cổ quý đời Minh được chính quyền tỉnh Bình Thuận ra sức bảo vệ để khỏi mất mát, sau đó giao cho một nhà khảo cổ hải dương người Úc và công ty vớt tàu Mã Lai khai quật lên từ dưới biển vào năm 2002. Một số gốm đã được bán đấu giá qua công ty Christie ở Melbourne vào năm 2004 và số còn lại được giữ ở Viện bảo tàng tỉnh Bình Thuận và bảo tàng Việt Nam. Số tiền từ đấu giá được dùng sửa sang Viện bảo tàng tỉnh và xây bảo tàng mới chứa các hiện vật được khai quật Khu du lịch mủi Né chỉ mới thành hình chưa đến 10 năm nay. Tất cả bắt đầu khi hiện tượng nhật thực xảy ra vào ngày 24 tháng 10 1995, nhiều người trong và ngoài nước đổ đến Phan Thiết và Mủi Né xem nhật thực. Trong số những người nước ngoài đến xem, có một người Pháp, ông thấy phong cảnh và bải biển Mủi Né rất đẹp. Ông quyết định bỏ tiền đầu tư xây dựng một khu du lịch đầu tiên ở Mủi Né. Khu du lịch này gọi là Victoria Resort. Từ khi khu du lịch Victoria được mở ra, nhiều du khách đã đến Mủi Né và sau đó do sự ưa chuộng và thịnh hành của du khách đến phong cảnh Mủi Né càng ngày càng nhiều, nhất là khách nước ngoài, nhiều khách sạn và khu du lịch khác được xây lên cạnh Victoria Resort. Ngày nay khu du lịch Mủi Né rất sang trọng và đông khách từ mọi nơi đổ đến. Qua khỏi thị xã Phan Thiết trên đường đi Mủi Né, rẽ tay trái đi vào một đoạn ngắn là một di tích tháp Chàm gọi là Tháp Po Sa Nua (hay gọi là tháp Phú Hài), được xếp vào loại di tích lịch sử quốc gia. Tháp đã được trùng tu lại với các viên gạch còn rất mới. Tháp Po Sha Nua, thực sự gồm hai tháp chính và một tháp nhỏ đã hư hại nhiều cạnh tháp lớn nhất, được xây trên một đồi không cao lắm, nhưng từ trên đồi có thể thấy toàn thị xã Phan Thiết. Phía bên phải Po Sha Nua là một ngôi chùa Việt Nam hiện vẫn còn hoạt động. Tháp được xây vào thế kỷ 8, là một trong các tháp cổ nhất của vương quốc Champa và là tháp lớn cuối cùng ở phía nam của Champa. Lể hội Kate của người Cham vẫn còn được tổ chức hàng năm ở tháp Poshanu. Xưa kia cạnh tháp có đền thờ Champa nhung đã bị đổ nát và chôn vùi đã hơn 300 năm. Phú Hài là từ chữ Chăm pagai mà ra, khi nhà khảo cổ Parmentier của trường Viễn Đông bác cổ đến đây, ông nhận thấy ra ngay sự khác lạ của tháp Po Sa nua với các tháp Chăm khác là tháp không có các tháp nhỏ ở trên 4 góc của các tầng tháp và là tháp duy nhất có kiến trúc cột tròn ở cửa giả và các góc tháp. Qua sự giống nhau về kiến trúc với các tháp Khmer thời tiền Angkor, các nhà nghiên cứu cho là tháp có niên đại thế kỷ 8. Tháp Po Sa nua vì thế là tháp cổ nhất trên vương quốc Champa xưa. Mặc dầu không thuộc phong cách kiến trúc nào, tháp được xếp vào loại phong thái Mỹ Sơn E1 theo thời gian (4). Người Chăm nói là tháp thờ tiểu tiên nữ Poh Cah Anaih (Nàng Ca bé) hay Po Sa nu (Tiên Sa bé), con gái của nữ thần xứ sở Po nagar. Còn theo nhà nghiên cứu Cabaton thì khu tháp Phú Hài thờ Po Bia tikuh, tức nàng tiên chuột, cũng là con gái của thần thiên mẫu xứ sở Po Nagar. Tháp Poshanu về kiến trúc và phong thái chịu ảnh hưởng của tháp Khmer thời Chân Lạp, chứng tỏ nghệ thuật Chân Lạp có ảnh hưởng vì cụm tháp Poshanu nằm ở khu vực tiếp giáp Champa và Chân Lạp thuở xưa. Theo Ngô Đăng Doanh thì tháp Poshanua có nhiều điểm giống với những ngôi tháp Bình Thanh và Chót Mạt ở Tây Ninh (2). Ở tháp lớn nhất trong cụm tháp Poshanu thờ thần Shiva qua kiến trúc đá mukhalinga (linh phù linga trên bệ vuông yoni). Bên ngoài tháp phía gần tường rào hướng về lầu ông Hoàng cũng có bệ đá mukhalinga. Cạnh tháp phía bên trái lên cao một chút là Lầu Ông Hoàng, trong chiến tranh kháng chiến chống Pháp là cứ điểm phòng thủ của Pháp với tháp canh, công sự. Trong một trận tập kích căn cứ này đã bị tấn công và cả 1 đại đội Pháp bị tiêu diệt và bắt sống, tượng tưởng niệm ghi công trận này đã được dựng ở phía trước các công sự mà dấu tích vẫn còn để lạị. Tên lầu ông Hoàng là do một nhà nhỏ xây ở đây của một ông hoàng người Pháp, sau đó bị bỏ hoang (1). Vào khoảng đầu năm 1911, một ông công tước người Pháp tên de Montpensier thăm viếng vùng này trong lúc du ngoạn và săn bắn ở các đồi núi gần đó. Ông bị thu hút bởi cảnh quá đẹp, và quyết định mua đất ở đây để xây một toà nhà villa nghĩ mát. Villa của ông hoàng người Pháp này khởi công xây từ tháng 2 1991 và hoàn tất 1 năm sau đó. Villa cách tháp Poshanu khoảng 100m về phía nam, rộng khoảng 536m2 và gồm có 13 phòng. Nhà biệt thự này lúc xây có máy phát điện và hồ chứa nước cung cấp nước cho các phòng. Thời đó biệt thự lớn, đẹp và hiện đai nhất nên dân địa phương gọi là lầu ông Hoạng Tháng 7. 1917 de Montpensier bán biệt thự đó cho 1 người Pháp tên Prasetts. Ông này xây thêm một khách sạn ở mộ ngọn đồi bên cạnh và biến vùng này thành địa điểm du lich. Biệt thự và khách sạn đã bị huỷ diệt trong chiến tranh Việt Pháp. Trong tác phẩm (1908) "La ville au bois dormant" của ông Hoàng Duc de Montpensier, ông đến Saigon trên tàu du ngoạn “Le Polynesien” vào tháng 2 1908 để thực hiện hành trình thám hiểm đi xe từ Saigon đến Angkor. Khở đầu cuộc hành trình đã bắt đầu không tốt khi chiếc xe hơi “L’Annam” khi mang xuống từ trên tàu, dây cáp bị đứt và xe rơi xuống từ trên cao 10m. Xe được sửa chửa và may thay không bị hư hại nhiều vì sườn xe và máy vẫn tốt. Xe hiệu Díetrich làm tại Mỹ có tiếng là bền. Về cuộc thám hiểm của ông hoàng de Montpensier, nhiều người đều cho rằng đây là một sự phiêu lưu điên rồ. Tuy vậy cuộc hành trình cũng đến đích mặc dù rất vất vả. Đi cùng với ông Hoàng là các bạn ông de Guérin, de Gustave de Bernis và một người hướng dẫn kiêm thông dịch và nấu ăn, người này đã bỏ cuộc trong chuyến hành trình bỏ lại ông Hoàng và mấy bạn của ông khi chưa tới nửa đường... Chính tại khu vực lầu Ông Hoàng cũng là nơi mà dư luận cho rằng thi sĩ Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm đã ra đây tâm sự trong những đêm nhìn xuống thị xã, biển và ông đã mắc bệnh hiểm “phong” (cùi) là do mắc phải uế khí của nơi này. Trong bài thơ “Phan Thiết!, Phan Thiết” của thi sĩ đa cảm họ Hàn, ta vẫn còn có thể cảm nhận sâu sắc mổi tình đau của ông.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:48:05 GMT 9
Phan Thiết!, Phan Thiết ... Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang. Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết Ôi trời ôi! là Phan Thiết Phan Thiết Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ! Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng, Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết! Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư . (Xuân Như Ý) Lầu ông Hoàng nay chỉ là phế tích không còn gì nữa. Tôi đi giữa một buổi trưa mùa xuân rão bộ trong khu vực cạnh tháp chàm mà tưởng tượng cách đây hơn 70 năm, Hàn Mạc Tử cũng nhìn quanh đây cảnh trơ vắng hoang tàn, xa xa dưới kia là thị xã Phan Thiết và biển thì mới cảm được nổi cái tình cảm đau buồn đầy kỷ niệm của ông. Cũng chính từ tháp chàm nơi đây mà Hàn Mạc Tử có bài thơ “Thi sĩ Chàm” đăng trên tạp chí “Nắng Xuân” năm 1936 đề tặng bạn ông là Chế Bồng Hoan (Chế Lan Viên) Thi sĩ Chàm Ta mới thấy xuân vờn trong ánh sáng Muôn sắc hình múa giỡn dưới ao khuya Đôi tháp cao kiêu hãnh với hàng bia Với lau lách ngã mình trong cảnh vắng Sợ chừng như tiếng rụng của sao băng Mà vì đâu những tháp Hời kiêu ngạo Hàng muôn năm sống mãi với đêm sương Mà vì đâu nghe tiếng bật giữa im lìm Như mơ tiếc những thời hung bạo Phải ngươi chăng, bên suối uống mây trôi Phải ngươi chăng đồi cao đương hoảng hốt Bọc trăng vàng trong áo ngủ quên đi Để hoàng hôn loang loáng đốt oai nghi Bao dấu vết thời xưa giờ ủ dột Phải ngươi chăng thi sĩ của dân Chiêm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Người lắng nghe lắng nghe trong đáy giếng Tiếng vàng rơi chìm lỉm xuống hư vô Tiếng ngọc địch nhớ nhung còn uyển chuyển Bên cầu sương lưu đọng ánh trăng mơ Người thổn thức tiếc buồn bao cảnh sắc Vì luôn đêm sóng bận réo cung Hằng Người khóc đi khóc đi cho hả nỗi hờn căm. (Đau Thương) Năm 1987, tôi có gặp Chế Lan Viên và được biết tình bạn của Chế Lan Viên và Hàn Mạc Tử và sự chân trọng của anh đối với Hàn Mạc Tử. Hầu như trong các buổi tiếp xúc với Chế Lan Viên và các bạn bè anh mà tôi có tham dự (tôi đến thăm anh cùng với cụ Võ An Ninh), anh đều nhắc đến nhà thơ Hàn Mạc Tử. Anh Chế Lan Viên cho tôi biết nhiều năm anh đã bỏ công sức và nhất định phải làm cho xong được nhà lưu niệm cho thi sĩ Hàn Mạc Tử như là một chút gì kỷ vật lại cho bạn. Năm 1989, Chế Lan Viên ngã bệnh, tôi có vào thăm anh ở bệnh viện Chợ Rẫy, anh đã yếu và mấy tháng sau thì mất, tôi được biết là nhà lưu niệm thi sĩ Hàn Mạc Tử đã được thành lập ở Qui Nhơn. Anh cũng để lại tập thơ “Di cảo” xuất bản sau khi anh mất. Ở tháp Po Sa Nua và lầu ông Hoàng ngày hôm ấy, tôi đã nhớ đến anh Chế Lan Viên và thi sĩ tài ba nhưng bất hạnh Hàn Mạc Tử, người thi sĩ được yêu mến nhất trong làng thơ Việt Nam. Nguyên nhân khởi phát căn bệnh phong của Hàn Mặc Tử được truyền lại như sau: Từ Sài Gòn ra Phan Thiết thăm Mộng Cầm, ông được Mộng Cầm dẫn đi dạo chơi lầu ông Hoàng. Đến lúc chiều trở về, qua cánh đồng thì gặp cơn mưa. Hai người phải vào trú trong một căn chòi bên đường. Mưa lớn, trời tối đen, từ trong căn chòi, hai người nhìn thấy có những quả cầu lửa đưới đất vùn vụt bay lên, trong tiếng sấm sét rền vang. Hai người rất hoảng sợ, ôm nhau trong căn chòi. Sau khi hết giông tố, bước ra khỏi nơi trú mưa thì mới biết đang ở cạnh một ngôi mộ ai mới chôn. Trở về Sài Gòn ít hôm, Hàn Mặc Tử thấy ngứa ngáy khó chịu trong người. Một thời gian thì nổi lên những vết đỏ trên lưng, và bệnh phong từ đó phát tán. Nam Cát Tiên Để kết thúc và hiểu được cách đây nhiều thế kỷ trong thời kỳ cổ sử và cách đây vài thế kỷ phong cảnh và môi trường ở Đông Nam Bộ thế nào, ta vẫn còn một cơ hội là đến thăm khu bảo tồn sinh thái quan trọng nhất vùng Đông Nam Bộ: Rừng quốc gia Nam Cát Tiên. Tôi có được dịp đi cùng với nhóm bạn cựu sinh viên Colombo Úc viếng thăm xã Nam Cát Tiên và rừng quốc gia Nam Cát Tiên ở Lâm Đồng cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 160km. Một số các anh trong nhóm bạn có nhà và đất mới mua ở xã Nam Cát Tiên làm nơi nghĩ mát, nên đây là một dịp tốt để tham quan và tìm hiểu thêm về hệ sinh thái duy nhất còn được bảo tồn ở vùng đông nam bộ. Đầu năm 2006, Bộ Văn hóa và thông tin chính phủ Việt Nam đã đề nghị lên tổ chức UNESCO để công nhận rừng Nam Cát Tiên là một địa điểm của di sản thế giới. Ta có thể tưởng tượng là cách đây hơn 200 năm cả Vùng Đồng Nai Gia Định ngày xưa có môi trường như thế với rừng rậm, thú kể cả cọp, cá sấu, dân số rất thưa thớt ít người ở. Nay thì đâu đâu cũng chỉ là nhà cửa, thành phố, đất trồng trọt, con người tiếp tục lan rộng, động vật, thiên nhiên bị khai thác hủy hại môi trường sống. Nếu không bảo vệ rừng nguyên sinh cuối cùng ở Nam Cát Tiên, chúng ta sẽ mất đi di sản, tài nguyên vô cùng quí giá Để đến Nam Cá t Tiên, ta theo con đường từ Dầu Giây đi Đà Lạt (Lâm Đồng). Vượt qua cửa sông La Ngà đổ ra một hồ lớn gọi là hồ La Ngà và hồ Trị An cung cấp nước cho thuỷ điện ở tháp Trị An, là vào huyện Tân Phú. Cách đây hơn 5 năm, trên thượng nguồn sông La Ngà, ranh giới giữa hai huyện Tân Phú (Đồng Nai) và Tánh Linh (Bình Thuận), những con voi cuối cùng của miền Đông Nam bộ, vì bị xâm chiếm đất đã phải phá rẫy, làng ở Tánh Linh. Trong gần 1 năm, chính quyền với sự trợ giúp của tổ chức WWF mới chuyển được các con voi này lên Dak Lak. Thiên nhiên phải lùi bước trước sự phát triển lấn chiếm của con người, đây là một mất mát lớn. Qua sông La Ngà (phụ lưu sông Đồng Nai), trên đường từ Định Quán đến Đà Lạt, qua khỏi khu rừng cây do bà Trần Lệ Xuân trồng trước đây, đến ngã ba rẽ trái đi Tà Lại, rồi từ đó trên con đường nhựa mới xây đến xã Nam Cát Tiên. Trước đây rừng quốc gia Nam Cát Tiên là một phần chiến khu D trong thời kỳ chiến tranh. Từ năm 1983 vì sự xâm nhập và phát rẫy của dân nhập cư, Nam Cát Tiên đã được bảo vệ và trở thành rừng quốc gia (trong thời kỳ chiến tranh và sau giải phóng, thịt thú rừng bị săn bắn được mang đi bán, tiêu thụ ở các làng, thị xã, thành phố quanh vùng cho đến tận Saigon). Hiện nay vườn quốc gia Nam Cát Tiên là khu bảo tồn thiên nhiên vùng đồng bằng đất thấp (lowland) quan trọng nhất ở phía Nam Việt nam, hiện chỉ còn vài con tê giác Java hiếm tồn tại sót lại ở Đông Dương, chúng có nguy cơ tuyệt chủng. Trên thế giới hiện nay loài tê giác Java chỉ còn lại ở Nam Cát Tiên và vườn quốc gia Ujung Kulon (Java, Indonesia). Trong vườn quốc gia Nam Cát Tiên hiện nay có 77 loài thú, 326 loài chim, 82 loài cá nướng ngọt, 40 loài bò sát, 14 cá sấu và loài sống dưới nước và trên bờ và hàng trăm côn trùng. Những loài thú hiếm và quí trong Sách Đỏ Việt Nam ở Nam Cát Tiên gồm có 18 loài thú, 20 loài chim, 12 bò sát và 1 loài sống ở nước và bờ. Trên con đường nhựa nhỏ trước khi đến phà để qua khu rừng quốc gia Nam Cát Tiên là trạm quản lý rừng, ở đây mọi du khách phải vào đăng ký mua giấy phép vào rừng. Sông Đồng Nai ở đoạn này bắt đầu rộng lớn thuộc phần hạ lưu vào đồng bằng chảy xuống Biên Hoà qua Trị An. Trong rừng quốc gia Nam Cát Tiên có khu vực nhà nghĩ và chổ cho mướn xe đạp. Tôi đã mướn xe đạp chạy dọc theo ven rừng dọc sông Đồng Nai. Đến thác nước nhỏ Bến Cù với nhiều đá nổi, lúc này là mùa khô nên nước ít và đã rút, dừng xe đạp, tôi đi xuống giừa các ghềnh đá, chung quanh rất thanh tịnh, lòng cảm thấy thanh thản giữa sông nước, núi rừng. Tiếp tục đạp xe giữa buổi trưa rất ít người, trong một thoáng từ xa hiện ra một chú sóc con trên ven đường, khi tôi gần đến thì chú sóc vôi vã nhảy chạy biến vào rừng. Cây bằng lăng ở rừng Nam Cát Tiên Trên đường đạp xe, có bảng chỉ dẫn đi bộ vào đoạn rừng khoảng vài cây số, có 1 vài du khách nước ngoài và hướng dẫn viên sửa soạn đi vào, họ có mang máy ghi âm để thâu các tiếng chim rừng kêu, chắc đây là 1 đoàn đi khảo sát sinh thái các loài chim. Tôi đi bộ vào rừng theo họ, trong rừng tối, mát nhưng ẩm thấp, cây cối chằng chịt cao ngất. Đến một ngã rẽ, tôi nghe anh hướng dẫn viên chỉ tôi đi đến xem một cây bằng lăng to lớn với thân rộng khổng lồ đến hơn chục người ôm cũng được. Rừng Cát Tiên vẫn còn các cây bằng lăng, cây kơ nia - đặc trưng của núi rừng Tây nguyên, cây thiêng của người dân tộc. Theo Bình Nguyên Lộc, thì ở Đông Nam Bộ, ta gọi là cây bằng lăng trong khi từ Mỹ Tho đến Cà Mau gọi danh mộc ấy bằng từ Khmer là cây thau lau, chứng tỏ vùng Đồng Nai chưa thuộc Khmer mà là của người Mạ. Ở rừng quốc gia nam Cát Tiên, du khách có thể ở lại vài ngày trong nhà nghĩ, tối đến có thể mướn xe jeep đi vào rừng sâu ban đêm xem thú. Nếu vào sâu hơn nữa gần gần khu đất ngập nước (wetlands), nếu may mắn có thể thấy tê giác. Nằm ở phía bắc rừng Nam Cát Tiên là bầu Sấu, một hồ lớn có nhiều cá sấu. Rừng có nhiều giống chim quí và hiếm. Trong rừng Nam Cát Tiên còn có di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hoá Óc Eo, Thủy Chân Lạp. Vào tháng 10,11/1985, ở phía tây bắc Đa The (huyện Đa Huoai) đã phát hiện một khu di tích khảo cổ lớn gồm nhiều gò mang vết tích kiến trúc bằng gạch với nhiều phiến đá có chạm đường viền, có bệ tượng thờ linga, yoni, hình thần Shiva dập nổi trên tấm bạt linga, các cột đá tròn, chân tán đá vuông có hoa văn, một số tượng thần Uma thắng quỷ trâu, rìu đá mài, vòng đồng và gốm cổ. Di chỉ này có thể liên hệ đến văn hóa Óc Eo hoặc Khmer tiền Angkor và văn hóa Champa mang tín ngưỡng thờ thần Shiva (9). Tuy vậy qua vị trí của di chỉ gần địa bàn cư trú của người Chu Ru và Chăm, ta có thể cho rằng có nhiều khả năng đây là di chỉ văn hóa Champa. Người Chu Ru có ngôn ngữ rất gần tiếng Chăm và được coi là người Chăm miền núi. Họ là tàn tích của người Chăm chạy lên núi sau khi Đại Việt thắng Champa (10). Lời kết Mặc dầu tác giả chưa thăm viếng và mô tả địa danh và lịch sử các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương (Sông Bé), và Bà Rịa-Vũng Tàu, nhưng những nét phát họa trên một số vùng trên miền Đông Nam Bộ đủ cho thấy đây là vùng có bề dầy lịch sử và là nơi hột tụ của các nền văn minh, các dân tộc đến vùng đất có môi trường thiên nhiên sông núi phong phú, đa dạng, với nhiều tài nguyên thực vật, động vật. Hiện nay người Stieng, Mạ, Châu Ro,.. càng thu hẹp và văn hóa của họ có nguy cơ biến mất cũng như tài nguyên thiên nhiên nếu như chúng ta không có biện pháp bảo tồn văn hóa và môi trường, hai di sản quí giá, trong sự phát triển rất nhanh hiện nay về dân số và kinh tế. Tham khảo (1) Vương Liêm, Về vùng đất cổ miền Đông Nam Bộ, Nhà Xuất Bản Lao Động, 2005 (2) Ngô Đăng Doanh, Văn hóa cổ Chămpa, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 2002 (3) Nguyễn Đình Tư, Non nước Ninh Thuận, Nxb Thanh Niên, 2003 (4) Ngô Văn Doanh, Tháp Cổ Chămpa, huyền thoại và sự thật, Nxb Văn hóa thông tin, 1994 (5) Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Văn hoá Óc Eo, những khám phá mới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995 (6) Lê Trung Hoa, Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam bộ và tiếng Việt văn học, Nxb Khoa học xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 2005. (7) Trần Hồng Liên, Văn hoá người Hoa ở Nam bộ-tiến ngưỡng và tôn giáo, Nxb Khoa học Xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 2005. (8) Nguyễn Hữu Hiếu, Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam bộ, Nxb Trẻ, 2004. (9) Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Lê Trung Khả, Võ Sĩ Khải, Nguyễn Đình Đầu, Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1987. (10) Nguyền Văn Diệu, Vài nét về người Chu-Ru ở Lâm Đồng, tr. 23-31, Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1981. Ảnh : Cây bằng lăng ở rừng Nam Cát Tiên Nguyễn Ðức Hiệp
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:50:21 GMT 9
Di sản lịch sử vô giá và thiên nhiên Côn Đảo cần được tôn vinh xứng tầm Võ Văn Kiệt Đấy là một cuộc đấu tranh không cân sức giữa một bên là toàn bộ sức mạnh đàn áp khốc liệt của chế độ chiếm đóng, cai trị của nước ngoài, đã biến quần đảo Côn Lôn tươi đẹp thành “một địa ngục trần gian“, mong nghiền nát mọi sự chống đối, với một bên là ý chí sắt thép của những người tù tay không tấc sắt, bị cùm gông, tra tấn, đọa đày, chiến đấu chỉ bằng một thứ vũ khí duy nhất: “lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của truyền thống Việt Nam” được trao lại từ lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Cuộc đấu tranh không cân sức ấy kéo dài hơn một thế kỷ, và cuối cùng, những người Việt Nam yêu nước đã thắng!
Tất cả các phong trào yêu nước từ Cần vương, Văn thân, Đông kinh nghĩa thục và các phong trào yêu nước khác như những đợt sóng trào, dồn dập, tiếp nối. Không một phong trào nào không đóng góp cho Côn Đảo những chiến sỹ ưu tú nhất của mình.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), thị trấn ngục tù Côn Đảo thực sự trở thành một lò lửa cách mạng, một trường đào tạo cán bộ. Nhiều thế hệ những người cộng sản đã kinh qua, đã trưởng thành từ đây. Những xà lim án chém, cấm cố, những chuồng cọp đày đọa tù nhân, man rợ ngoài sức tưởng tượng của loài người. Nhưng cũng chính từ những xà lim cấm cố, chuồng cọp, chuồng bò, hầm xay lúa nghiệt ngã ấy, Côn Đảo đã đào tạo và cung cấp cho cách mạng Việt Nam những thế hệ lãnh tụ kiệt xuất từ Lê Hồng Phong, Tôn Đức Thắng đến Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng vv… những người cộng sản ưu tú đã dương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, dẫn dắt dân tộc Việt Nam tranh đấu, băng qua bão lửa cách mạng và chiến tranh, đưa đất nước ta đến ngày toàn thắng.
Côn Đảo là bản hùng ca bi tráng của cách mạng Việt Nam, là hòn đá thử vàng của khí tiết và nhân cách Việt Nam, là minh chứng hùng hồn của ý chí Việt Nam. Côn Đảo mãi mãi cất cao tiếng nói dõng dạc với nhân loại và lịch sử rằng: “Ý chí và lòng yêu nước Việt Nam là không gì có thể khuất phục”. Tiếng hát kiêu hãnh của liệt sỹ anh hùng Võ Thị Sáu trên địa ngục Côn Đảo trước họng súng pháp trường mãi mãi là biểu tượng lạc quan của niềm tin tất thắng ấy.
Ở nước ta, không quần thể di tích nào còn giữ được một cách nguyên vẹn tính trung thực lịch sử như vậy khi chúng ta giành thắng lợi hoàn toàn sau chiến thắng vang dội 1975. Nơi ấy, hơn hai vạn người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại Hàng Keo, Hàng Dương, đã tan thành cát bụi để giành lấy cuộc sống hôm nay, và gửi lại chúng ta niềm hy vọng cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp.
Việc gìn giữ, tôn tạo hệ thống di tích này cho các thế hệ mai sau như một bài học về ý chí bất khuất, tinh thần tự lực, tự cường vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng “một nước Việt Nam giàu, đẹp, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như tâm nguyện của các thế hệ tiền bối đã ngã xuống, đã hy sinh cho sự nghiệp thiêng liêng này.
Tôi tin rằng những giá trị như vậy không có nhiều trên thế giới này, ít nhất cũng không được gìn giữ một cách gần nguyên vẹn như ở Côn Đảo.
Thị trấn tù nhân Côn Đảo là một bằng chứng hiếm hoi trong tiến trình lịch sử loài người và cả trong lịch sử kiến trúc xây dựng thế giới mà người Việt Nam chúng ta đã và đang gìn giữ, không phải chỉ cho riêng ta, mà còn cho cả nhân loại, một nhân loại đang vật vã bước vào thiên niên kỷ mới, với những nhà tù mới, đang chà đạp lên nhân phẩm con người. Côn Đảo là “Một Biểu Tượng Hy sinh – Chiến đấu” của Việt Nam, một bằng chứng thể hiện nhiều giá trị cao đẹp của người Việt. Mãi mãi thị trấn Côn Đảo và quần thể di tích mà nó hiện đang tồn giữ, vẫn nóng bỏng tính thời sự. Với Việt Nam, Côn Đảo là Vĩnh Hằng.
Về vị trí địa lý, Côn Đảo gần như nằm ở trung tâm cách đều một chùm thủ đô các nước láng giềng trong cộng đồng ASEAN, những quốc gia vùng Đông – Nam Á mà tiến trình lịch sử trong vài trăm năm qua có cùng hoàn cảnh như nước ta. Bài học Côn Đảo chẳng phải là bài học điển hình cho các dân tộc nhỏ, yếu vùng lên dành lại chủ quyền cho nhân dân, cho đất nước mình sao? Nếu vậy, “trường học Côn Đảo” không chỉ là trường học của riêng ta, mà còn là trường học của thế giới, trước hết là của các quốc gia, của các dân tộc nhỏ yếu đang cần xiết chặt tay nhau cùng đi lên trong thế giới này.
Theo tôi, quy hoạch di tích phải được coi là trọng tâm trong mọi hoạt động xây dựng ở Côn Đảo, đơn giản vì nếu không tồn tại cụm di tích quý giá này, Côn Đảo cũng chỉ là một quần đảo bình thường như nhiều quần đảo đẹp khác của đất nước chúng ta.
Tiếc rằng trong ba mươi năm qua, dù đã có nhiều cố gắng trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị của di tích, chúng ta không phải không có những lầm lẫn đáng tiếc, cần sớm được rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá và bổ ích.
*
Với Côn Đảo, thị trấn và quần thể di tích chỉ mới là một mảng nội dung.
Cách đất liền, cách những thành phố đông dân không xa, quần đảo Côn Lôn với 16 hòn lớn nhỏ quần tụ trong một vùng biển đẹp có thể được coi như một danh thắng của đất nước. Hệ sinh thái đa dạng của biển, rừng Côn Đảo, tiêu biểu cho thiên nhiên nhiệt đới gió mùa có khí hậu đại dương, là một nguồn tài nguyên đặc biệt quý giá. Vườn quốc gia Côn Đảo trong hệ thống vườn quốc gia của cả nước đã được thành lập và hoạt động trong những năm qua, đang tồn giữ một hệ sinh thái giàu giá trị khoa học là một dẫn chứng.
Côn Đảo không chỉ là một vùng cảnh quan tuyệt đẹp mà còn cất giấu trong lòng đại dương những bí ẩn chưa được khám phá hết. Biển Côn Đảo là một không gian rộng lớn tiềm ẩn nhiều giá trị du lịch đặc sắc, mở ra một triển vọng chưa thể ước lượng trong ngành công nghiệp không khói của nước ta. Du lịch đang từng bước trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn hứa hẹn một tương lai rộng lớn, sáng sủa. Vậy thì việc sắp xếp, quy hoạch lại một cách hợp lý, dành không gian thuận lợi cho phát triển du lịch trong khi vẫn đảm bảo những giá trị nguyên bản của quần thể di tích và vườn quốc gia phải là một quy hoạch liên ngành để các bên cùng phối hợp phát triển. Điều hòa lợi ích giữa bảo tồn, khai thác những giá trị lịch sử, giá trị thiên nhiên với lợi ích phát triển kinh tế trong đó có kinh tế du lịch là một bài toán cần tìm cách giải quyết một cách cân đối.
Với sân bay Cỏ Ống và cảng Bến Đầm đã xây dựng xong - cùng với Phú Quốc - Côn Đảo hứa hẹn một tiền đồ khai thác du lịch biển đảo của vùng đất phương Nam nhiệt đới, ấm áp quanh năm này là một khả năng mà nhiều vùng trọng điểm du lịch nổi tiếng khác của nước ta không có được. Vấn đề cần thiết hiện nay là nên sớm tiến hành các chương trình khảo sát sâu sắc, toàn diện, đánh giá một cách khoa học, khách quan, để tìm kiếm “một đồ án quy hoạch đủ chất lượng”, nhằm điều hoà mâu thuẫn nếu có, giữa những lợi ích khác nhau để phát triển một cách hài hòa trong chiến lược khai thác tổng thể, lâu dài.
Theo tôi, phát triển với quy mô quá lớn như hiện nay ở khu trung tâm, trong một chừng mực nhất định, khó tránh khỏi ảnh hưởng đến quần thể di tích vốn khá mong manh vì, ngoài tác động khó tránh của thời tiết, những tác động nâng cấp nhằm làm mới di tích, hoặc tận dụng di tích vào mục đích dân sinh, đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống đời thường, đang làm di tích ngày một biến dạng. Những công trình mới mọc lên ở chứng tích Hàng Dương, cầu tàu du lịch, nhà nghỉ công đoàn… cùng những công trình khác theo phong cách mới mọc lên tại khu vực trung tâm trong những năm qua là một ví dụ. Những “thêm thắt” đó không những không mang lại cho Côn Đảo một diện mạo kiến trúc mới mẻ, tương xứng với tiềm năng, mà đã, và sẽ làm biến dạng diện mạo kiến trúc tiêu biểu, điển hình như nó đã từng có. Khu vực này cần hạn chế những công trình xây dựng mới ở mức vừa đủ và giữ khoảng cách cần thiết - hoặc có giải pháp cách ly - với khu di tích, để phục vụ cho nhiệm vụ quản lý di tích và bảo tàng. Dành diện tích thoả đáng cho hồ nước, rừng cây, tạo một không gian và không khí thích hợp cho nhu cầu hành hương và tưởng niệm của du khách.
Nên chăng, một lễ cầu siêu long trọng dành cho những người đã khuất sẽ được cử hành định kỳ hàng năm, tiếp nối từ truyền thống dân tộc như một mỹ tục mới mà chúng ta sẽ xây dựng. Ngày ấy, rất có thể được chọn làm “Ngày Côn Đảo” được tiến hành trong cả nước. “Ngày Côn Đảo” cũng là ngày hành hương dành cho thân nhân các gia đình liệt sỹ đã ngã xuống nơi đây, và cũng đánh dấu ngày mở đầu mùa du lịch Côn Đảo.
*
Côn Đảo đang cần xây dựng cho mình một diện mạo mới, tương xứng với giai đoạn phát triển dài lâu trong tương lai, muốn vậy, cần tìm kiếm những không gian phát triển mới. Hai khu vực Bến Đầm và Cỏ Ống (bao gồm cả khu vực Đầm Tre) đang mở ra triển vọng hứa hẹn những khu đô thị hiện đại có thể được quy hoạch, xây dựng lớn, sẽ góp phần giúp khu trung tâm giảm bớt áp lực và bảo tồn được những giá trị tiêu biểu mà lịch sử đã trao lại.
Với địa hình, địa mạo biến thiên linh hoạt, với hai vịnh biển kín gió, được bao quanh bởi đồi thấp và núi cao, Bến Đầm và Cỏ Ống (bao gồm cả Đầm Tre), như hai cửa ngõ tiếp cận Côn Đảo bằng đường biển và đường bay, hứa hẹn khả năng cho phép hình thành những khu đô thị du lịch hiện đại mà không ảnh hưởng đến quần thể di tích trong khu trung tâm. Nếu biết khai thác tốt thiên nhiên và xử lý tốt địa hình, những khu đô thị mới sẽ đáp ứng yêu cầu khắt khe của những khu du lịch cấp cao mà thế giới đang đòi hỏi.
Bến Đầm là vịnh lớn nhất Côn Đảo, đã có cầu cảng thích hợp cho việc neo đậu những du thuyền lớn trong giai đọan trước mắt và hoàn toàn có khả năng mở rộng trong tương lai. Vịnh đủ rộng cho những hoạt động thể thao trên bầu trời và trên mặt biển, phục vụ hoạt động du lịch, và là nơi trú đậu tàu thuyền trong mùa mưa bão.
Địa hình quanh vịnh gồm nhiều sườn núi dốc, cần tìm giải pháp thích hợp cho việc xây dựng những tổ hợp kiến trúc trên các sườn bao quanh, tạo một diện mạo kiến trúc đô thị độc đáo, đặc sắc.
Côn Đảo vốn không dồi dào về nước ngọt. Những ngành công nghiệp đòi hỏi nguồn nước sạch với khối lượng lớn như chế biến thủy hải sản, cơ khí sửa chữa tàu thuyền, phương tiện giao thông vận tải, và các loại máy phục vụ xây dựng vv… cần được cân đối với nguồn nước và nguồn nguyên liệu, nhất là những nguyên liệu phải chở từ đất liền hay có khả năng nhiễm bẩn môi trường.
Đất nông nghiệp ở Côn Đảo không nhiều. Sản xuất lương thực, thực phẩm để tự cung cấp rất khó đạt kết quả. Trên những diện tích cho phép, nên nghĩ đến những loại cây trồng có giá trị thương phẩm cao như cây ăn trái nhiệt đới tiêu biểu, đặc trưng, hoặc các giống hoa cao cấp, phục vụ ngành du lịch sẽ phát triển trong tương lai.
Rừng Côn Đảo có nhiều đặc sản độc đáo và dược liệu quý hiếm, biển Côn Đảo giàu sản vật hứa hẹn cung cấp dồi dào nguồn nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ vốn đã có truyền thống trên đảo từ thời của những người tù. Nếu biết tổ chức các làng nghề đặc sắc, không những chỉ phục vụ cho ngành du lịch mà có thể nghĩ tới một tương lai rộng lớn hơn, cung cấp cho đất liền hoặc xuất khẩu.
Cũng cần nghĩ đến những cơ sở vật chất cần thiết cho công việc nghiên cứu của các ngành khoa học sau này. Có lẽ cần sớm khởi động những chương trình tìm kiếm nguồn năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời… rất dồi dào trong khu vực khí hậu đại dương, đảm bảo một môi trường trong lành vốn là một yếu tố hấp dẫn du khách như Côn Đảo.
Cụm du lịch Bến Đầm hoàn toàn có thể thông thương với cụm Cỏ Ống – Đầm Tre bằng một con đường xuyên đảo chạy ở sườn phía Tây như trước đây đã dự kiến. Trục đường này chia sẻ một khối lượng vận tải, giao thông sẽ tập nập trong tương lai để tuyến đường hiện có như một hiện vật lịch sử phục vụ nhu cầu hành hương, tưởng niệm.
Khu Cỏ Ống – Đầm Tre nằm phía Bắc đảo, kề cận sân bay, địa hình linh hoạt, dự trữ đất xây dựng dồi dào, hứa hẹn một khu đô thị đẹp nếu biết khai thác tốt.
Đầm Tre là một vịnh nhỏ, kín gió, thông với biển bằng một cửa hẹp, như một không gian biệt lập, dành riêng, cho phép nghĩ đến một đặc khu du lịch cấp cao, hiện đại, trên các sườn đồi quanh vịnh với những công trình kiến trúc du lịch đặc sắc. Hệ rừng quanh vịnh trong tình trạng gần như nguyên sinh chưa bị xâm hại, tàn phá, cần đặc biệt thận trọng trong xây dựng, nên được khai thác như một giá trị tiêu biểu, điển hình.
Nếu xây dựng, quản lý và khai thác tốt, khu du lịch Đầm Tre có khả năng sẽ tạo nên một sức cuốn hút, mê hoặc đối với du khách.
Khu đô thị Cỏ Ống nằm phía Nam sân bay Cỏ Ống, địa hình rộng rãi cho phép phát triển với quy mô lớn, hứa hẹn khả năng sẽ là khu dân cư chính của Côn Đảo. Ở đây ngoài hệ thống công trình du lịch, có thể bố trí các công trình hành chính, văn hoá, thể thao và các công trình khác phục vụ toàn đảo.
Vậy thì tại sao chúng ta không tiến hành tổ chức “một cuộc thi quốc tế”? Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác trong thời gian qua đã cho chúng ta những bài học bổ ích. Việc tổ chức một cuộc thi như thế, ngoài những kết quả về chuyên môn thu được còn là một cơ hội quý giá cho chúng ta giới thiệu về Côn Đảo, về cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong hàng trăm năm qua, về con đường mà đất nước ta, nhân dân ta đã đi đến thắng lợi.
Ngoài hệ thống đường giao thông hiện có và tuyến đường dự kiến chạy phía Tây đảo như đã nói trên, nên chăng một trục đường hoặc một hệ đường thích hợp chạy trên những độ cao cho phép, kết hợp an ninh quốc phòng với quản lý rừng và du lịch.
Cần nghĩ đến ngay từ bây giờ trong quy hoạch tổng thể việc khai thác những hòn đảo khác trong quần đảo, giúp quy hoạch du lịch Côn Đảo có thêm nhiều nội dung phong phú, nhiều sản phẩm du lịch đặc sắc. Khả năng xây dựng một chiếc cầu treo vượt eo biển nối khu đô thị Cỏ Ống với hòn Bãi Cạnh từ mũi Chân Chim cũng không phải là một hiện thực quá xa vời trong mười lăm, hai muơi năm nữa khi chúng ta đã trở thành một đất nước phát triển sánh cùng các quốc gia khác trên thế giới. Ngoài giao thông đường bộ, những phương tiện vận chuyển đường thủy hiện đại đưa khách đến thăm hòn Cau, hòn Tre, hòn Trứng, hang Yến và các hòn khác trong quần đảo cần được nghĩ đến từ bây giờ. Với sân bay Cỏ Ống đã hoàn thành và sẽ được mở rộng, việc ngắm nhìn quần đảo từ trên không bằng tàu lượn, bằng khinh khí cầu phải chăng là những phương thức khai thác du lịch sinh động, làm cho Côn Đảo có thêm nhiều sức hút?
Với tất cả những giá trị được trình bày một cách khái quát trên đây, tại sao chúng ta không nghĩ đến, ngay từ bây giờ, khởi động việc xây dựng một hồ sơ đề xuất với Tổ chức Khoa học và Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO), nghiên cứu, xếp hạng “Thành phố Trăm năm ngục tù Côn Đảo” của nước ta vào “Danh mục Di sản lịch sử và thiên nhiên Thế giới”, một di sản đang cần được gìn giữ lâu dài cho Nhân loại, vì chính nó đã được xây dựng bằng máu xương của hàng vạn người con ưu tú của một dân tộc đã bền bỉ tranh đấu, hy sinh cho nhân phẩm và tự do. (Số 09, Tháng 2-2005)
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2005
Võ Văn Kiệt
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:56:57 GMT 9
Trào lưu di dân Nam tiến Theo các sách cổ Hán văn có ghi từ những kỷ nguyên trước công nguyên, ở phương Nam Trung Hoa ngày nay có một giống người có tục vẽ mình, phân chia thành nhiều bộ lạc mà sử gia La Hương Lâm (Trung Hoa) đã kê cứu: Ô Việt, Âu Việt, Mân Việt, Dương Việt, Sơn Việt, Nam Việt, Lạc Việt, Tây Âu Việt, Việt thường, Đan Việt, Đằng Việt, Điền Việt, Việt Tủy, Cứu Việt, Dạ lang, Quì Việt ... mà gọi chung là Bách Việt.
Hơn hai ngàn năm trước Việt tộc đã một thời bá chủ từ miền Nam sông Dương tử trở xuống mà sách sử gọi là nước Xích-quỷ, phía Bắc giáp Động đình hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp biển Nam Hải.
Nhưng với sự bành trướng của các bộ tộc phương Bắc, các bộ lạc Bách Việt hoặc bị tiêu diệt dần, hoặc phải tràn xuống phương Nam, rải rác theo bờ miền biển và lục địa như Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Lĩnh Nam, ở đó họ hỗn hợp với thổ dân bản xứ mà lập thành các bộ lạc lớn, thôn tính số bộ lạc linh tinh (Bách Việt), một ngày một thu lại, chỉ còn năm nhóm Việt tộc có hình thức quốc gia là Đông âu-Việt ở Ôn Châu, Mân Việt ở Phúc Châu, Nam Việt ở Quảng Châu, Tây âu-Việt và Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay.
Trong nhóm Bách Việt, một ngành thiên di xuống phương Nam, khiến cho dân tộc ấy trở nên một dân tộc có thể bảo tồn được tính chủng tộc nguyên thủy, chưa bị di dân Hán tộc đồng hóa dung hòa, do điều kiện thuận lợi của tình thế địa lý. Đó là nhóm Lạc Việt, tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam.
Cho nên trong khoảng bốn năm, từ năm 211 đến 214 trước công nguyên, nó có thể chống cự với quân nhà Tần. Mà từ khi Hán Vũ đế diệt nhà Triệu (111 trước công nguyên) trở về sau, Việt Nam tuy lệ thuộc vào Trung Hoa hơn 1000 năm, thấm nhuần văn hóa Hán tộc, nhưng không bị Hán tộc đồng hóa và thu hút, kết cục vào thế kỷ thứ X nó thoát ly Trung Quốc đứng độc lập.
Đấy là bước đầu Nam tiến của Việt tộc trong hệ thống Bách Việt, ở đây Lạc Việt đã tổ chức thành quốc gia phong kiến đơn sơ, các bộ lạc ở dưới quyền tù trưởng Lạc tướng, Lạc hầu.
Nhưng sau khi Hán tộc đã chiến thắng Việt tộc ở Giao Chỉ và mặc dù bao phen nổi dậy với tiếng gọi giống nòi của họ Trưng, họ Triệu, họ Mai, họ Phùng thì Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Hoa hơn một ngàn năm (ngẫm nghĩ thật buồn!). Mãi đến họ Ngô thế kỷ thứ mười mới thoát ly khỏi ách đô hộ của Hán tộc để trưởng thành là một quốc gia độc lập như ý muốn của dân tộc, tự do khai phóng theo tinh thần dân tộc. Nhưng để tồn tại với dân tộc tính, Lạc Việt không chịu đồng hóa vào Hán tộc thì phải mở đường Nam tiến xa hơn nữa, xuống phía Nam theo bán đảo Đông Dương, theo bờ biển và dãy núi Trường Sơn, như lời khuyên của Trạng Trình: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Đó là điều kiện sống còn của dân tộc muốn bảo tồn dân tộc tính, và đó cũng là vận mệnh lịch sử của Việt Nam từ thế kỷ thứ X cho đến nay trải qua mấy triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đổ bao xương máu để tranh thủ lấy một chút nghĩa sống trên mặt đất.
Sơ lược về nước Chiêm Thành
Trong khi Việt tộc bị đô hộ trên đất Giao Chỉ và Cửu Chân, sau khi họ Trưng thất bại, thì ở miền Trung nước ta ngày nay, Chiêm tộc quật khởi, xây dựng quốc gia hiệu là Lâm-ấp, thoát ly ảnh hưởng Hán tộc, theo văn hóa xã hội, chính trị pháp chế của Ấn-Độ. Cuộc vận động độc lập đó trải qua bốn thời kỳ từ 100 đến 192. Từ khi Chiêm độc lập, vì đất nước eo hẹp, một bên là núi, một bên là biển, thiếu đất đai phì nhiêu để cày cấy, cho nên luôn ngó lên các châu phương Bắc như Nhật Nam, Cửu Đức, Giao Châu và không ngớt đòi đem quân lên xâm chiếm. Sau đó, Chiêm chiếm lấy huyện Thọ Linh nay là Thừa Thiên.
Từ 347 đến đầu những năm 800, Chiêm tộc luôn tấn công lên các châu phía Bắc.
808, nhà Đường đem quân tấn công, Lâm-ấp lui về phương Nam, vào Quảng Nam, Quảng Ngãi bây giờ, và đổi quốc hiệu là Chiêm Thành từ đó.
Ta chiếm đất Chiêm Thành
Việt tộc lập quốc trong điều kiện khó khăn nguy hiểm bội phần so với Chiêm tộc. Phía Bắc phải đương đầu với Hán tộc, phía Tây phải tranh thủ với một đối phương chẳng kém hùng mạnh là Thái tộc mà đại biểu là Nam Chiếu, Đại Lịch từ Vân Nam tràn xuống, liên kết với dân Mán, Mường miền Sơn Động, từng chiếm cứ miền Bắc hàng mười năm.
Nhà Đinh: Ngay sau khi Đinh Tiên Hoàng mới thống nhất sơn hà, mà nước đã bị quấy. Nguyên là, Đinh Bộ Lĩnh mới dẹp 12 sứ quân mà trong số ấy có Ngô Nhật Khánh. Nhật Khánh là dòng dõi Ngô Quyền. Bấy giờ y còn trẻ. Vua Đinh lấy mẹ y làm hậu, đem em gái y gã cho con trai mình là Liễn và gã con gái mình cho Nhật Khánh. Tuy vậy, Nhật Khánh vẫn oán, bàn chạy vào Chiêm Thành. Cuối năm Kỷ Mão (979), Nhật Khánh đưa hơn nghìn thuyền Chiêm về đánh kinh đô Hoa Lư. Chẳng may, khi vào bể Đại-ác và Tiểu-khang (thuộc hải phận Ninh Bình Nam Định ngày nay) thuyền bị bão chìm. Quân Chiêm tan và Nhật Khánh cũng bị chết. Đây là cuộc nam phạt đầu tiên trong lịch sử độc lập của các vua ta. Chiêm Thành vì đó phải kinh sợ, nhún nhường.
Nhà Tiền Lê: Vua Lê Đại Hành sau khi phá được nhà Tống, định sang đánh Chiêm Thành, vì lúc vua lên ngôi có sai sứ sang Chiêm bị vua Chiêm bắt giam sứ, nên sang đánh báo thù. Quân vua Đại Hành sang chiếm giữ được kinh thành nước Chiêm và bắt được người, lấy được của rất nhiều, nhưng không hề nghĩ đến việc mở mang bờ cõi. Từ đó Chiêm Thành phải sang triều cống nước ta.
Nhà Lý: vận mạng của Việt tộc chỉ bắt đầu được củng cố vững vàng từ đây với võ công oanh liệt của Lý Thường Kiệt, phía Bắc tấn công lên đất Tống, phía Tây chinh phục họ Nùng của nước Đại Lịch, phía Nam uy phục được Chiêm Thành. Điều đó được thể hiện rõ từ thời vua Lý Thánh Tông, muốn giữ thế quân bình với thế lực phương Bắc, thì phải tổ chức đất nước thật vững chắc để cân bằng với phương Bắc. Ngược lên phương Bắc lấy lại bờ cõi xưa kia thì rất khó khăn, tuy vừa mới nhất thời thắng được Tống ở châu Khâm, châu Liêm, nhìn sang phương tây thì rừng núi hiểm trở, lại vướng thế lực của Đại Lịch (họ Nùng) cũng đang nhòm xuống phương nam, nhất là đồng bằng miền Bắc Việt Nam. Vậy chỉ còn một đường sinh tử là mở đường Nam tiến.
Vào những năm đầu của nhà Lý, trong khoảng 16 năm, Chiêm Thành không hề cống hiến gì ta nữa. Mùa hè 1043 còn sang quấy rối ven bể. Vì thế, 1044, vua Lý Thái Tông mới có cuộc thân chinh. Chuyến ấy ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 30 voi, 5000 người và chém giết đến 3 vạn người. Tháng bảy năm ấy, vua Lý kéo quân vào kinh đô, bắt rất nhiều cung nhân, nhạn nữ. Sau cuộc đại này, Chiêm Thành kính nể ta rất nhiều và theo lệ cống hiến đều đều. Và cũng như nhà Tiền Lê, Lý Thái Tông cũng không nghĩ đến việc mở mang bờ cõi.
Đến thời Lý Thánh Tông, cái ý chí Đại Việt được thể hiện rõ. Thánh Tông là một ông vua không những nhân mà còn dũng. Lý Thánh Tông là vua ta đầu tiên có óc muốn mở mang bờ cõi, muốn có danh ngang với một thiên tử. Vua đặt quốc hiệu là Đại Việt (1054), tôn các vua trước là Thái Tổ, Thái Tông, coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm Thành thần phục Tống. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm Thành, Lý Thường Kiệt làm đại tướng quân và đi tiên phong. Lý Thường Kiệt tiến thẳng vào đất Chiêm, thắng trận Nhật Lệ, rồi trận Tu Mao, cùng vua Lý Thánh Tông tiến vào kinh thành, nhưng vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đã trốn thóat. Nhưng sau đó cũng bắt được vua Chiêm. Chế Củ xin dâng ba châu để chuộc tội, là châu Địa Lý, châu Ma Linh và châu Bố Chính. Thánh Tông lấy ba châu và tha vua Chiêm về nước.
1075 vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt vào kinh lý, vẽ lại địa đồ hình thế, đổi tên châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh. 1103 Chiêm Thành khôi phục lại ba châu đã mất, Lý Thường Kiệt phải đem quân vào lấy lại, lúc này ông đã ngoài tám mươi. Sau đó Chiêm nhiều lần quấy nhiễu nhưng đều thất bại.
Nhà Trần: 1252, Chiêm Thành lại đem chiến thuyền vào cướp biên giới và sai sứ cầu xin lại đất đã dâng. Vua Trần Thái Tông thân chinh đi đánh, bắt được vương phi là Bố Gia La rồi trở về. Năm 1301, vua Trần Nhân Tông gã công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân để kết thân tình, Chế Mân dâng sính lễ là hai châu Ô, Lý. 1307, vua Trần Nhân Tông đổi tên thành Thuận Châu và Hóa Châu, chiêu dụ cư dân, chia ruộng đất cho cày cấy.
Nhưng không bao lâu thì Chế Mân chết, Huyền Trân bị cướp trở về. Sau đó vua Chiêm kế vị là Chế Chi bị Trần Anh Tông lừa bắt đem về rồi chết ở Gia Lâm, từ đó Chiêm Việt thù oán mãi.
Chiêm tộc quật khởi lần cuối
Nhà Trần từ vua Dụ Tông trở đi bắt đầu suy nhược, mà Chiêm có vua anh dũng là Chế Bồng Nga ra sức tập trận, luyện binh nhằm đánh Việt Nam trả thù rửa hận. Từ 1367, quân Chiêm nhiều lần đánh thắng quân nhà Trần.
1376, quân Chiêm sang đánh phá ở Hóa Châu, vua Duệ Tông thân chinh đi đánh, mặc dù đình thần hèn nhát cố can.
1377, vua Duệ Tông tử trận tại thành Đồ Bàn, tướng sĩ chết rất nhiều, quân ta thua to.
1378, Chiêm Thành đánh vào Thăng Long.
1380, quân Chiêm lại sang phá ở Thanh Hóa, Nghệ An, bị Lê Quý Ly đánh đuổi được. Nhưng sau đó, quân Chiêm vẫn nhiều lần sang quấy phá.
1384, Chế Bồng Nga bị tướng nhà Trần là Khát Chân phục kích giết ở Hưng Yên. Từ đó, Chiêm Thành mới nhụt bớt nhuệ khí, trong nước lục đục, hai con Chế Bồng Nga phải sang hàng nước Việt Nam, đều được phong hầu.
Nhà Hồ: bước sang thế kỷ XV, tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, vua Chiêm phải dâng đất Chiêm Động, Cổ Lũy (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi) để bãi binh. Triều đại nhà Hồ chỉ tồn tại vỏn vẹn chưa đầy 7 năm (1400-1407) nhưng lại là triều đại có lắm chuyện rất đáng lưu tâm.
Đến lúc này lịch sử chiếm lĩnh Chiêm Thành đã qua ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất, vua Lý Thánh Tông (1069) chiếm lĩnh châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính là đất Nhật Nam xưa thuộc Tàu, thời kỳ thứ hai, vua Trần Anh Tông (1306) thu nhận châu Ô, châu Lý cũng không phải là lãnh thổ Chiêm Thành xưa, thời kỳ thứ ba Hồ Hán Thương (1402) chiếm Chiêm Động và Cỗ Lũy là đất cũ Chiêm Thành.
Như vậy là từ thế kỷ X đến XV, theo dãy Hoành Sơn (Đèo Ngang) vào đến Bình Thuận, Việt Nam đã mở rộng lãnh thổ của mình xuống 3/5 lãnh thổ Chiêm Thành. Nhưng từ 1069 đến 1400 nước ta lấy 5 xứ của Chiêm Thành mà chưa thấy kinh lý như đất của mình, quốc thổ tuy mở rộng nhưng không nghĩ đến di dân khai khẩn, chỉ cho mấy đạo binh đến đóng đồn phòng ngự như thể bảo hộ, mỗi năm thu thuế và thúc dân bản xứ phải triều cống vua mình. Xem ra nước ta khi trước không phải vì mục đích di dân chiếm đẩt Chiêm Thành mà là vì cái chủ nghĩa đế bá muốn bắt các nước nhỏ bên cạnh mình thần phục, "tiểu sự đại" nhưng "đại" cũng có trách nhiệm với "tiểu".
Chính sách di dân của Việt Nam chỉ thật sự bắt đầu với họ Hồ. 1402, Hồ Hán Thương cho làm con đường thiên lý từ Thanh Hóa chạy đến Hóa Châu, lấy đất Chiêm Động, Cổ Lũy phân ra bốn châu đặt ra chức An Phủ Sứ Lộ Thăng Hoa để cai trị, dời dân có tiền, có sức mà thiếu ruộng cày vào đó. Những dân đó tuy vào lập nghiệp khẩn hoang nhưng cũng thúc vào quân ngũ, hễ khi có việc thì đi đánh giặc, khi không việc quân thì lui về làm ruộng.
Họ Hồ không chỉ mở đạo lộ mà còn mở thủy lộ trên lục địa để tiện đường vận chuyển giao thông. 1404, Hồ Hán Thương cho đào một con sông từ Tân Bình đến Thuận Hóa. Như thế đủ thấy tầm vĩ đại về sự khai khẩn quốc thổ của nhà Hồ.
Đất Thuận Hóa này về sau đã trở thành một địa điểm hậu cứ trọng yếu để Lê Thái Tổ sử dụng đánh nhà Minh, như lời Mộc Thạnh tuyên bố với Trương Phụ: "Hóa Châu núi cao sông rộng chưa dễ đã lấy được", Trương Phụ cũng nói: "Ta có làm người được cũng ở đất Hóa Châu, mà nếu làm ma cũng ở đất Hóa Châu, Hóa Châu mà không lấy được thì còn mặt mũi nào về gặp chúa thượng". Qua những lời nói ấy của các đại tướng nhà Minh, chúng ta có thể suy đoán mất Hóa Châu Chiêm Thành khó lòng mà giữ được nước, mà việc Nam tiến của dân tộc Việt cũng là cái kế bảo tồn dân tộc đối với đế quốc phương Bắc hùng cường.
Nhà Lê: lợi dụng nước ta vừa trải qua cuộc kháng chiến với nhà Minh, Chiêm Thành đem quân vào đánh phá. Nào ngờ Việt tộc lại sớm phục hưng với nhà Lê. Và nhà Lê từ thời Lê Thái Tông năm 1434, 1444, 1445, Chiêm Thành được lòng nhà Minh lại đánh cướp Hóa Châu nhưng bị quân ta đánh bại. Đến thời Lê Thánh Tông vào năm 1470 Chiêm Thành đem 100.000 quân đánh Thuận Hóa. Lần này, 1471, vua Lê Thánh Tông sắp đặt một trận đại quy mô để quyết tâm làm cho Chiêm Thành kiệt quệ. Thắng trận Đồ Bàn (hay còn gọi là Trà Bàn), kinh đô của Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm, vua Lê Thánh Tông lấy tất cả đất đai từ Thạch Bi Sơn (tỉnh Phú Yên) về phía Bắc lập thành Thừa Tuyên Quảng Nam, đặt phủ, huyện, ra lệnh khắc bia trên núi gọi là núi Đá Bia. Còn bao nhiêu đất đai của Chiêm Thành còn lại (1/5) vua chia thành ba nước nhỏ là Chiêm Thành, Hoa Anh và Nam Phan cho tướng Chàm làm chúa.
Đến lúc này ta có thể thấy: từ khi dành được độc lập chủ quyền, người mở đầu cho công cuộc Nam tiến của dân tộc là vua Lý Thánh Tông cùng với những chiến công oanh liệt của Lý Thường Kiệt, tạo tiền đề cho các triều đại sau. Tiếp theo là Trần Anh Tông mở rộng quốc thổ đến châu Ô, châu Lý. Đến nhà Hồ, với chính sách di dân, khai khẩn quốc thổ, mở rộng đạo lộ cũng như thủy lộ, rất đáng lưu tâm. Đến thời vua Lê Thánh Tông, đã làm cho Chiêm Thành suy yếu thật sự, không còn khả năng tấn công, quấy phá nước ta. Từ nhà Đinh đến nhà Lê công cuộc Nam tiến là vận mệnh lịch sử của dân tộc để bảo tồn dân tộc tính, để không bị đồng hóa bởi Hán tộc, dân tộc ta phải đổ biết bao xương máu để tranh một chút nghĩa sống trên mặt đất. Công cuộc Nam tiến đó sau này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mở rộng quốc thổ từ Nam Quang cho đến mũi Cà mau: Nam tiến với nhà Nguyễn.
Khách quan mà nói thì nhà Nguyễn, đặt biệt là các chúa Nguyễn, đã có nhiều công với dân tộc, mà công lao lớn nhất có thể là công đã mở rộng quốc thổ về phương Nam.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 2:58:45 GMT 9
Với bia khắc trên đỉnh núi Đá Bia hay Thạch Bi Sơn ở Tuy Hòa (Phú Yên), tưởng như cuộc xung đột Chiêm Việt chấm dứt từ đây mà con đường Nam tiến của dân tộc Việt cũng dừng. Nào ngờ xảy ra việc Trịnh Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam, vua Lê chỉ còn hư vị tượng trưng cho đơn vị dân tộc thống nhất bất phân, Chúa Nguyễn vào Nam, Chúa Trịnh đất Bắc. Nhưng chính có cuộc phân tranh ấy mà cuộc Nam tiến càng được thúc đẩy.
Năm Chính Trị thứ nhất triều Lê ánh Tông (1558), Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa, những người làng Tống Sơn cùng với quân lính Thanh Nghệ đem cả gia đình đi theo. Về sau mỗi khi ra đánh phương Bắc thì dân Nghệ Tĩnh lại theo vào khai khẩn đất ở phương Nam, sinh sống ở đất Chiêm Thành. Dần dần Thuận Quảng trở thành một cõi cường thịnh.
Trước khi mất, Nguyễn Hoàng năm 1613 có trối lại Hoàng tử Nguyễn Phúc Nguyên rằng: "Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Hoành Sơn và sông Linh Giang hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và Thạch Bi vững bền. Núi sẵn vành sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân chúng luyện binh để chống chọi với Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta".
(Đại Nam thực lục tiền biên)
Như thế Nguyễn Hoàng quyết chí mở đất ở miền Nam, dựng cơ sở để thống nhất sơn hà, đánh đổ họ Trịnh ở phía Bắc. Khi trước vua Lê Thánh Tông đã cắm biên giới phía Nam tại Tuy Hòa, đến Cù Mông mà thôi. Từ Tuy Hòa trở xuống còn là đất của Chiêm Thành. Năm 1578 Nguyễn Hoàng đã lấy đất Phú Yên. Nhưng năm 1653 vua Chiêm Thành Ba Tầm lại đem quân quấy nhiễu nên chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) sai Hùng Lộc vào dẹp, tiến quân qua Thạch Bi Sơn, lấy đất đến Phan Rang làm giới hạn, mở thêm hai phủ Thái Khang (Ninh Hòa) và Diên Ninh (Diên Khánh). Chúa cho Hùng Lộc trấn giữ, bắt Chiêm Thành giữ lệ cống. Đến năm 1692, vua Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn Phúc Chú sai tổng binh Nguyễn Hữu Kính đi đánh, bắt được Bà Tầm về Phú Xuân. Chúa đặt Chiêm Thành làm trấn Thuận Thành, đặt quan cai trị, rồi lại đổi thành Bình Thuận, cho thân thuộc Bà Tranh làm chức Khám lý, ba người con làm Đề đốc, lại bắt thay đổi y phục theo Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm. Đến 1696 chúa lại đặt phủ Bình Thuận, lấy nốt Phan Rang, Phan Rí của Chiêm đổi thành huyện Yên Phúc và Hòa Đa. Từ đấy nước Chiêm Thành mất hẳn, tuy vẫn còn vua Chiêm nhưng vô quyền.
Tuy lấy xong nước Chiêm Thành, nhưng công việc Nam tiến của Việt Nam chưa xong, vì xứ Trung không có đất phì nhiêu đủ cho một nước nông nghiệp thịnh vượng để đương đầu với chúa Trịnh ở phía Bắc. Cho nên đồng bằng lưu vực sông Cửu Long là mục tiêu cho chúa Nguyễn bấy giờ dựng nước.
Nam phương đây là đất Chân Lạp, một nước thịnh vượng, từ thời Lý đã cho sứ thần ra cống ở Thăng Long. Chân Lạp đất rộng người thưa, là mục tiêu mà chúa Nguyễn hướng đến. Vì thế, nên khoảng thế kỷ XVII, chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên 1613-1635) đã kết thân với vua Chân Lạp bằng cách gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II (1618-1626), và vua Chân Lạp đã phong bà là Hoàng Hậu. Từ năm 1623, sứ thần từ Huế đến Chân Lạp, đem theo lễ vật trọng hậu dâng lên vua Chân Lạp, để nhân danh chúa Nguyễn xin phép cho dân Việt Nam được làm ruộng và buôn bán trên đất mà ngày nay là Sài Gòn, và bấy giờ là miền cực nam của Chân Lạp. Bà Hoàng Hậu can thiệp với vua để sự thỉnh cầu ấy được nhà vua ưng thuận, và vua Chey-Chetta kết cục đã ưng thuận.
Đây là chính sách ngoại giao thân thiện. Chính sách này mở đầu cho việc di thực của dân tộc vào Chân Lạp thành công mỹ mãn.
Ngoài ra lại còn những cơ hội thuận lợi đưa đến, như nội bộ Chân Lạp trong giới lãnh đạo lục đục, lại thêm phía Tây bị quân Xiêm luôn luôn đe dọa muốn thôn tính, khiến cho phải cầu viện sự bảo trợ của Việt Nam, và đây là chính sách viện trợ quân sự.
Đã hai lần, Chân Lạp đã nhờ viện trợ quân sự của chúa Nguyễn để đẩy lùi các cuộc xâm lăng của quân Xiêm vào năm 1621 và 1623.
Năm 1642, một người con của Chey-Chetta II là Hoàng tử Chan đã giết vua Ang Non để lên ngôi vua, sau đó lấy một người vợ Mã Lai, cùng theo đạo Hồi của vợ.
Trong thời gian này, tại Chân Lạp có rất nhiều người Chiêm và Mã Lai đến sinh sống, từ Chiêm Thành chạy qua để trốn giặc giã. Vì vua Chân Lạp theo đạo Hồi, nên nhóm người này được ưu đãi. Điều này đã gây bất bình trong Hoàng tộc cũng như dân chúng. Theo lời khuyên của Hoàng Thái Hậu, quả phụ vua Chetta II, họ vận động xin chúa Nguyễn viện trợ. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) nhận lời can thiệp và cử Trấn thủ Trấn Biên Dinh (Phú Yên) thống lĩnh một đạo quân vào Nam để tái lập trật tự. Vua Chân Lạp bị bắt và sau khi được trả tự do đã nhường lại Biên Hòa cho chúa Nguyễn.
Đến năm 1674, vua Cao Miên là Nặc Ông Chân mất, Nặc Ông Non (hay Nặc Ông Nộn) lên nối ngôi. Nhưng Nặc Ông Đài, trong dòng trưởng, vì không được lên trị vì, bèn cầu cứu Xiêm La đánh Nặc Ông Non.
Chúa Hiền lại được Nặc Ông Non xin tiếp viện. Nặc Ông Đài thua trận chạy vào rừng bị chết. Em Nặc Ông Đài là Nặc Ông Thu ra đầu hàng quân ta.
Cũng như chính sách đã thực hiện với Chiêm Thành, chúa Nguyễn đã áp dụng ở Chân Lạp chia hai đất nước để hòa giải. Nặc Ông Thu được phong làm Chánh quốc vương đóng đô ở Long-úc, Nặc Ông Non được phong làm Phó quốc vương đóng đô ở Sài- Gòn.
Đến năm 1679, có quan tướng nhà Minh là Trấn thủ Quảng Tây Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến và Tổng binh châu Cao, châu Lôi và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) Trần Thượng Xuyên, phó tướng là Trần An Bình không chịu thần phục nhà Thanh, nên đem 50 thuyền, 3000 quân sang xin làm dân Việt. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp mới dung nạp họ, cho bọn Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên ở Biên Hòa, khai khẩn và thiết lập phố phường buôn bán, thuyền buôn của người Thanh, phương Tây, Nhật Bản, Java đi lại thông thương phồn thịnh. Do đó văn hóa Hán thấm nhuần vào đất Đông Phố này (tức Gia Định), thay thế và cạnh trạnh với văn hóa ấn, Chân Lạp. Người Hoa, người Khmer, người Chiêm hợp hóa cả vào dân Việt.
Đồng thời với tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch, lại có Mạc Cửu, di dân nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh, tránh sang ở Chân Lạp làm chức Oc nha ở đất Sài Mạt trên bờ vịnh Xiêm La, nơi giao thông tấp nập. Ông chiêu mộ dân phiêu bạt đến Phú Quốc, Cần Bột, Gia Khê, Luống Cày, Cà Mau lập thành bảy xã thuộc Hà Tiên. Năm 1708, Mạc Cửu xin thần phục, chúa Nguyễn phong cho chức Tổng Binh Hà Tiên. Đến khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tích (hay Mạc Thiên Tứ) trấn thủ Hà Tiên, đắp thành lũy chống giữ quân Xiêm, mở rộng thông thương buôn bán, khuếch trương Hán học, giáo háo nhân dân, làm cho Hà Tiên trở nên nổi tiếng ở góc trời Nam hẻo lánh trong vịnh Xiêm La.
Hà Tiên phồn thịnh, trở thành vật thèm muốn của cả Xiêm và Chân Lạp, một bên muốn cướp lấy, một bên muốn đòi lại. Nhưng họ Mạc lựa chọn sát nhập vào triều đình Việt Nam. Cho nên năm 1739, Chân Lạp định chiếm lại Hà Tiên, chúa Võ Vương sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh vua Chân Lạp, Nặc Nguyên bỏ chạy, xin nộp đất cầu hòa. Đất ấy là miền Nam Gia Định, Gò Công và Tân An bây giờ.
Năm 1756, Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên nói với Chúa Nguyễn xin giúp đỡ. Võ Vương sai Thiên Tích đưa Nặc Tôn về Chân Lạp làm vua. Nặc Tôn dâng đất phía bắc sông Bassac tức vĩnh Long, Sa Đéc, Tân Châu, Châu Đốc ngày nay. Nặc Tôn đền ơn Thiên Tích năm phủ, Thiên Tích đều dâng cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn cho sát nhập vào Hà Tiên, dưới quyền họ Mạc bấy giờ từ Cam Bốt cho đến Cà Mau.
Để kết lại, nếu loại ra giai đoạn Bắc thuộc, lãnh thổ Việt Nam có thể tóm tắt như sau:
1. Đời Hùng Vương: Văn Lang (?)
2. Đời An Dương Vương: Âu Lạc (?)
3. Đời Đinh và Tiền Lê: miền Bắc và miền Trung đến đèo Ngang
4. Đời Lý: mở rộng đến Cửa Việt (sông Hãn thuộc Quảng Trị) (1069)
5. Đời Trần: thêm đến đèo Hải Vân (1306)
6. Đời Hồ: đến Quảng Ngãi (1402)
7. Đời Lê: đến Khánh Hòa (1470)
8. Chúa Nguyễn: - hết miền Trung (Phan Thiết) 1697
9. Miền Nam: Lục Tỉnh (1765)
Đến đây, dân tộc Việt đã mở rộng lãnh thổ từ Nam Quang phương Bắc cho đến vịnh Xiêm La.
Nhưng chiếm được đất là một chuyện, còn giữ được đất và có dân lại là chuyện khác. Đấy là cả một chính sách thuộc về khả năng dân tộc. Jules Sion, trong "L'Asie des Mouson - Géographie Universelle" có nhận thấy:
" Mục đích của người Việt không phải đem quân cướp lấy tù binh về làm nô lệ.
Họ không cần bắt nô lệ, họ tự làm lấy. Đối với họ thắng trận không phải là để có người làm mà là để có đất cày.
... Trước khi Việt Nam sát nhập đất Nam kỳ về mình, người Việt đã lập ở đấy những tổ chức, làng mạc, những người di dân đã sống chung với người Miên.
... Những nguời di dân đủ các hạng: dân cày không có ruộng, tù tội, quân cướp bóc muốn chuộc tộị..Cũng có khi chính phủ thu nhập những người đó rồi đưa xuống những miền mới chiếm lãnh, hay lập đồn điền nơi biên thuỳ để phòng bị lân bang tới đánh".
Nhà cổ học Aurousseau, thuộc trường Viễn Đông Bác cổ (ẸF.ẸO), cũng kết luận bài khảo cứu công phu của ông về cuộc di dân vĩ đại của Việt tộc từ sông Dương Tử đến vịnh Xiêm La:
"Những yếu tố, những sức mạnh có thể tiêu diệt được một nước mới thành lập thì đều bị vô hiệu trước sức sống mãnh liệt của người Việt.
Việt tộc chiếm cứ các đồng bằng Bắc Việt ngay từ cuối thế kỷ III trước công nguyên. Xã hội Việt Nam phát triển thịnh vượng tại đây. Lần lần các làn sóng di dân tiếp tục lan xuống phía Nam, để tới một điểm xa nhất trên đường mở rộng quốc thổ mà người Bách Việt khởi từ thế kỷ IV trước công nguyên.
Người Việt tới Trung Việt ngay từ cuối thế kỷ sau, ở đây Chiêm tộc chận họ lại một thời gian khá lâu. Nhưng người Việt vẫn giữ dược các đà phát triển đó như một sức mạnh âm ỉ và sau một cuộc tiến triển, sau nhiều năm chinh chiến, họ đã thắng được Chiêm tộc vào năm 1471 để tiến mãi về phía nam, tới Quy Nhơn cuối thế kỷ XV, tới Sông Cầu 1611, tới Phan Rang 1653, tới Phan Thiết 1697, tới Sài Gòn 1698, tới Hà Tiên 1714. Cuối cùng trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt đã hoàn thành cuộc bành trướng của dân tộc và chiếm trọn đất Nam kỳ hiện thời".
Một đặc tính trọng yếu nhất trong cuộc Nam tiến ấy là Việt tộc trước sau vẫn giữ được dân tộc tính thuần nhất Việt Nam đến nỗi người Lào, người Chiêm, người Tàu Minh Hương, người Mên đều Việt hóa. Đại úy Gosselin trong sách "L'empire D'Annam" đứng trước thực trạng ấy cũng phải kinh ngạc: "Hết thảy các sử gia có nhiệt tâm tìm tòi sự thật đều phải công nhận rằng: khi đặt chân lên đất Việt Nam, người Pháp đã phải đụng chạm với một dân tộc thống nhất, thống nhất một cách không thể ngờ được, từ miền Cao nguyên thượng du Bắc Việt cho tới biên giới Cam Bốt, thống nhất về đủ mọi phương diện nhân chủng cũng như chính trị và xã hội ".
Cái dân tộc tính đặc sắc Việt Nam mà các học giả Pháp quan sát tại chỗ đã nhận thấy là thành quả của chính sách di dân khôn khéo có phương pháp đường lối mà Nguyễn Cư Trinh (1715-1767) đã trình bày lên chúa Nguyễn Phúc Khoát trong một bài sớ rằng:
"Từ xưa việc dùng binh chẳng qua là trừ kẻ cầm đầu mà mở mang đất nước. Nay Nặc Nguyên đã hối lỗi nạp đất xin đầu hàng, nếu tìm mãi chỗ giả dối của nó, thì nó chạy trốn. Thế mà từ Gia Định đến thành La Bích đường sá xa xôi không tiện đuổi đến cùng. Muốn mở mang đất đai nên trước hết hãy lấy hai phủ này để củng cố mặt sau cho hai doanh trại. Nếu bỏ gần cầu xa, e rằng địa hình cách trở, quân dân không tiếp xúc, lấy được tuy dễ mà giữ được thật khó. Năm xưa mở mang Gia Định tất phải trước hết mở đất Hưng Phúc rồi đến Đồng Nai, khiến cho quân dân đông đủ rồi sau đó mới mở đến Sài Gòn. Đó là kế tằm ăn dâu (Tàm thực). Nay đất cũ từ Hưng Phúc đến Sài Gòn chỉ hai ngày đường, dân còn chưa yên ổn, quân giữ cũng còn chưa đủ. Huống chi từ Sài Gòn đến Tầm Bôn xa sáu ngày đường, địa thế rộng rãi, dân số đến vạn người, đóng quân giữ thực sợ chưa đủ. Thần xem người Côn Man giỏi thuật bộ chiến, người Chân Lạp cũng phải e sợ. Nếu cho họ ở đất ấy để họ chống giữ, lấy người Man đánh người Man (dĩ Man công Man) cũng là đắc sách. Vậy xin cho Chân Lạp chuộc tội, lấy đất hai phủ ấy uỷ cho phiên thần xem xét hình thế, đặt thành đóng quân, chia cắt ruộng đất cho quân lính và nhân dân, vạch rõ biên giới, cho lộ vào châu Định Viễn để thu lấy toàn khu".
Phạm Trung Tùng (sưu tầm).
Sông cửu Long giới thiệu để các nhà sử học trao đổi thêm,những bài này không phản ảnh quan điểm của Nhóm chủ trương.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 3:46:39 GMT 9
Giới thiệu lịch sử Việt Nam Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ (300.000 -500.000 năm). Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.
Dân tộc Việt Nam đã được hình thành và bước đầu phát triển trên vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã phía Bắc của Việt Nam ngày nay. Con người từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng, từ đời này sang đời khác đã khai hoá đất để trồng trọt. Họ đã tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự dòng sông Hồng gây nhiều lũ lụt hàng năm. Quá trình lao động không ngừng để chế ngự nước - chống lũ, lụt, bão, hạn hán, xây dựng đê điều, đào kênh phục vụ cho việc trồng lúa - đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã.
Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn minh thống nhất và độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật cao, nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng 1000 năm trước Công nguyên trên Vương quốc Văn Lang, sau đó đổi tên là âu Lạc. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Ấu Lạc đã bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài mười thế kỷ đã không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nền văn hoá Việt Nam.
Vào thế kỷ thứ mười sau Công nguyên đất nước đã giành được độc lập vững chắc và xây dựng một nhà nước độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã trải qua nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều Lý (thế kỷ11 và 12), triều Trần (thế kỷ 13 và 14), triều Lê (thế kỷ 15, 16 và 17) với một nền hành chính tập quyền, một lực lượng quân đội mạnh, một nền kinh tế và văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt Nam phải liên tục đấu tranh chống lại các âm mưu xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế kỷ 11), Nguyên (thế kỷ 13), Minh (thế kỷ 15) đã giành những thắng lợi vang dội. Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân tộc đoàn kết hơn và đất nước bước vào một thời kỳ cường thịnh mới.
Nền văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo nhiều yếu tố văn hoá quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn ngữ riêng và một nền văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.
Đến thế kỷ 17 và 18, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục diễn ra đã dẫn đến phong trào Tây Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống nhất đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành nhiều cải cách xã hội và văn hoá. Nhưng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của ngoại bang, Nguyễn ánh đã giành được quyền thống trị và lập nên triều đình nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Vào giữa thế kỷ 19 (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và từ năm 1884 Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mọi nơi, nhưng cuối cùng đều thất bại.
Nguyễn ái Quốc, sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hoạt động ở nước ngoài để tìm con đường cứu nước. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945.
Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời, phải dựa hơi hoàn toàn vào Tàu để " giải phóng ", nhuộm đỏ thế giới nên phải đương đầu với các sự ngăn đe của Pháp và Mỹ, đả phải tiến hành cuộc chiến tranh "giải phóng dân tộc và nhuộm đỏ " kéo dài suốt 30 năm sau đó với hàng triệu xác chết của dân Việt. Trước hết, sự trở lại của Pháp, và ý đồ chiếm quyền của hồ chí minh đã gây ra cuộc chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam,với sự tiếp tay tận tình của cố vấn Tàu cs VN đã kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miền Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới bàn tay sắt của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội tiến hành cuộc cách mạng vô sản với sự tàn sát dân VN " cải cách ruộng đất" . Miền Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà được sự trao trả độc lập của chính quyền Pháp, rồi kết thân với khối thế giới tự do Mỹ đặt thủ đô ở Sài Gòn. Chính quyền VNCH ở SG dụng mọi sức mạnh để ngăn chặn cuộc xâm lăng của cs ,những người kháng chiến cũ bị cs gài lại miền nam, do vậy cs đưa ra chiêu bài phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính quyền VNCH đã không thể ngăn cản được sự xâm lăng của cs qua Lào và Campuchia , đặc biệt từ ngày cs vẽ ra cái gọi là "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam " được cs dựng lên ngày 20/12/1960.
Để duy trì Chế độ tự do ở VN Sài Gòn, Mỹ đã tăng cường viện trợ cho dân miền nam VN. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến để bảo vệ miền nam trước sự tấn công tàn bạo của cộng sản Bắc Việt , và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam nơi lảnh tụ cộng sản hồ chí minh và đãng cs theo sự khuyến khích của Trung Cộng và Nga Sô tấn công miền nam.Nhân dân bắc Việt Nam, theo lời hô hào của Hồ "thắng giặc , giải phóng toàn thế giới " hay khãu hiệu tuyên truyền "Không có gì quý hơn độc lập tự do" đả phải theo đuổi cuộc chiến tương tàn ở VN. Năm 1973, Mỹ theo chiến lược toàn cầu cùng với Trung Cộng , Mỹ đã ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, trên cái gọi là " tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới" , các lực lượng vũ trang "yêu chủ nghĩa cộng sản cho đến xác người Việt cuối cùng " , cộng sản VN đã thực hiện cuộc tổng xâm lấn đè bẹp Chính quyền tự do ở miền Nam , mà cs gọi là "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước " . Ngay ngày 30 tháng 4 năm 1975, cs đã xóa luôn cái tổ chức " giải phóng " và "chính phủ CM LT MN VN " mà trước đó họ đã cố công sơn phết để chiêu dụ , lường gạt tuyên truyền mọi người .
Ngày 25/4/1976, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miền Nam và Bắc.
Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề, do bản chất phá hoại cố hữu của cs . Từ năm 1975 đến 1986, dân Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam chống diệt chủng Khme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bị Nga Tàu cắt bớt viện trợ do không chịu đem chiến tranh " giải phóng " ra xa hơn , bị dân Mỹ hiểu rõ bản chất tàn bạo của cs nên cô lập , cấm vận cs của dân Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra, và nhất là dưới sự lãnh đạo sai lầm của đảng cs từ trước đến nay chỉ biết khủng bố , tuyên truyền, bạo lực , chưa chưa hề biết xây dựng là gì ... đã đặt Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm 80, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.
Trước khi quá muộn, cs không còn chọn lựa nào khác ,từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu sửa lỗi lầm, phải tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đường lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN, đi đôi với việc tăng cường cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài sang cơ chế thị trường, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà nước và hướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989 hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu lương thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bao vây, cô lập.
Tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi mới của Việt Nam với mục tiêu vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."
Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Ấu tan rã, các thị trường truyền thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối phó với vấn nạn bị dân VN tiêu diệt , cs đã đẻ ra các kẻ thù tưởng tượng " các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch" , Việt Nam đã từng bước khắc phục, trấn áp các nhu cầu tự do của dân VN một cách khó khăn , trở ngại . Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 164 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, tháng 6/1996 đã tự đánh giá và vẽ ra những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong 10 năm Đổi mới (1986-1996) và đề ra mục tiêu phát triển có tính cách tuyền truyền đến năm 2000 và 2020 là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặt ra mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp lệ thuộc càng nhiều hơn vào Trung Quốc vĩ đại hầu từng bước hòa nhập đất nước , biển cả của VN vào đất nước Trung Hoa to đẹp như ý nguyện của " bác hồ " .
- Bộ ngoại giao Việt Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 4:08:33 GMT 9
Cà Mau và hạt ngọc phù sa Lê Tương Ứng Cơn lũ hàng năm gợi nhớ miền cực Nam đất nước, thương tiếc hạt phù sa, tôi cũng muốn lần theo bước lưu dân tìm hiểu mũi Cà Mau.
Trước tiên, tôi bắt gặp nhiều thông tin đầy lạc quan và rất dễ mến của cố thi sĩ xã Đông Hồ, người gốc Hà Tiên.
Từ nhỏ, khi nhắc đến hai chữ Nam tiến, tôi cứ nghĩ đơn giản người Việt ta theo chiều dài đất nước, cứ tự nhiên lần đến Đồng Nai, rồi đến Tiền Giang, sang Hậu Giang để cuối cùng dừng bước tại Cà Mau. Nhà thơ nổi tiếng đất Hà Tiên chép rõ hơn:
“Dân tộc Việt nương theo địa thế đã theo chiều dọc từ Bắc xuống Nam. Rồi lại theo chiều ngang, từ miền Đông sang miền Tây, nghĩa là từ bờ biển Nam Hải tràn qua bờ biển vịnh Xiêm La. Đến Hậu Giang, thì gặp lại đám người từ bờ biển vịnh Xiêm La, từ miền Tây, tràn lại.
Hai đám lưu dân gặp nhau như vậy, đáng lẽ là xung đột với nhau dữ lắm. Nhưng mà một duyên cách lịch sử, đã khiến cho cuộc gặp gỡ đó thành một cuộc hòa hài. Hai dòng sát nhập với nhau, dung hòa cùng nhau, rồi hỗn hợp với nhau làm một. Hai đợt sóng người đó hỗn hợp nhau, lan tràn ra, chiếm cứ một vùng đồng bằng lưu vực miền Tây “sông sau” làm thành đám người Hậu Giang truyền thống còn đến ngày nay”.
Đông Hồ viết tiếp:
“Các bạn sẽ hỏi, đám người từ bờ biển vịnh Xiêm La miền Tây tràn qua miền Đông đó là những người dân nào?
Đó là những người Hán tộc di cư tị nạn chính trị Mãn Thanh từ Hoa Nam trực tiếp theo đường biển kéo sang, hồi hậu bán thế kỷ XVII. Đám người đó là những di thần nhà Minh, vì phản đối chế độ Mãn Thanh, lần lượt kéo nhau vượt biển, qua miền Nam Hải, họ kéo sang nhiều đợt lắm, tùy từng thời kỳ, và tùy từng nhóm phản kháng nhà Thanh bị thất bại rồi xuất bôn. (...)
“Ở đây, tôi chỉ nói đợt người vào bờ biển vịnh Xiêm La, đến Hà Tiên định cư mà lãnh tụ là một tay giang hồ hảo hán (...) Nhân vật đó chính là Mạc Cửu mà các bạn đã đọc thấy thường trong sách sử. Cũng không phải vụt chốc mà họ Mạc chiếm cứ được một địa bàn to lớn gần một phần ba lãnh thổ miền Nam này.
“Khai sơn phá thạch là công nghiệp của người cha, tên là Mạc Cửu. Rồi, dõi theo chính sách tàm thực, con là Mạc Thiên Tích thám đạm kinh doanh, tiếp tục việc khẩn hoang, lập ấp, cho thành một thổ địa canh nông trù mật, khai thị chiêu thương, cho thành một hải cảng thương mãi phồn vinh”.(1)
Để được rõ ràng hơn về mốc thời gian, tôi tìm đến nhà sưu khảo Nguyễn Đình Đầu(2), và rất đồng ý tin rằng “Người Việt Nam đã tới khẩn hoang lập ấp rải rác trong đồng bằng sông Mêkông (ĐBSMK) từ lâu như ở Mỹ Tho, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau...” và tôi chọn mấy cột mốc đáng nhớ:
- Năm 1708, Mạc Cửu xin cho đất Hà Tiên thuộc quyền Chúa Nguyễn.
- Năm 1732, Chúa Nguyễn cho dựng dinh Long Hồ (sau là Vĩnh Long) đến 100 năm sau, năm 1832 thì ĐBSMK trở thành Nam Kỳ lục tỉnh (Cà Mau còn thuộc tỉnh Hà Tiên).
- Năm 1836 triều đình Huế mới cho tiến hành việc đo ruộng đất và lập địa bạ cho Nam Kỳ.
- Năm 1867, Pháp chiếm Nam Kỳ, xóa lục tỉnh, chia Nam Kỳ thành 20 tỉnh, mà ĐBSMK nằm trên địa bàn 14 tỉnh như sau:
Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Châu Đốc, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Trà Vinh, Vĩnh Long, 5/6 Chợ Lớn.
Còn nhớ, khoảng 1939 học trường làng, chúng tôi đã phải thuộc vanh vách tên các tỉnh theo thứ tự bắt buộc là:
1 Gia 2 Châu 3 Hà 4 Rạch 5 Trà
6 Sa 7 Bến 8 Long 9 Tân 10 Sóc
11 Thủ 12 Tây 13 Biên 14 Mỹ 15 Bà
16 Chợ 17 Vĩnh 18 Gò 19 Cần 20 Bạc
Chỉ cần nhớ chữ đầu là nhớ luôn tên tỉnh. Biết luôn con số cố định để truy ra tỉnh nào. Thí dụ, chiếc tàu hay ghe nào mang số 8 (khắc ở mũi hay mui) thì thuộc tỉnh Long Xuyên, số 10 Sóc Trăng, số 20 Bạc Liêu.
Trong số 20 tỉnh trên ta chưa thấy có Cà Mau. Mãi đến năm 1956 tỉnh này mới được khai sanh với tên AN XUYÊN... Đúng là em Út.
Cà Mau thuộc vùng cư trú của cộng đồng “người Hậu Giang truyền thống” theo cách nói của Đông Hồ, mọi sinh hoạt xã hội của cả vùng đều chịu nhiều ảnh hưởng phong tục Trung Hoa. Sự dung hòa tốt đẹp giữa cộng đồng nay ta còn thấy được qua ít câu thơ câu hát. Hài hòa Hoa - Khmer có câu thơ:
Hia gọi ăn rằng “xực phạn”
Nàng kêu uống nước “phất tức lang”
May sau có phước sanh con cháu...
Hài hòa Việt Hoa thì:
Lên non hỏi thử ông Phật đồng
An Nam lấy xẩm ông tơ hồng có xe?
bởi lẽ họ thương nhau chí tình chí nghĩa:
Chờ em cho hết sức chờ
Chờ cho “ến xại” lên bờ “khui hui”
(Theo tiếng Tiều: ến xại là rau muống, khui hui là nở hoa).
Ở đây họ sống an cư lạc nghiệp từ lâu:
Đã say no lại tình nhân nhượng
Vì ở nơi cư thượng hữu khoan
Thảnh thơi cuốc thẳng bừa an
Có dân làm lụng có làng ăn chơi
(Theo Đông Hồ, sđd, trích 4 câu).
Cái vai trò “đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc” của sông Hậu được nhắc đến trên đây, chưa phải là hết. Sông Hậu còn nhận một vai trò khác trong địa chất học ĐBSMK. Các nhà địa chất học gọi sông Hậu là BASSAC, mượn Bassac làm ranh giới chia đồng bằng sông Mêkông làm hai khu vực địa chất khác nhau, tên khoa học là Ci-Bassac và Trans-Bassac(3):
1 - Ci-Bassac hay Đông Bassac là vùng châu thổ đúng nghĩa chạy từ sông Hậu ra tận biển Đông, nhiều đồng ruộng, dân cư trù mật (50 - 100 dân/km2 và 200 dân/km2 ở cù lao như Vĩnh Long).
2 - Trans-Bassac hay Tây Bassac là vùng miền Tây chạy từ sông Hậu ra vịnh Thái Lan, đang là mối quan tâm của chúng ta hiện nay. Du khách đến chơi đất mũi Cà Mau ắt thấy nơi đây có tượng đài mô tả mũi tàu lướt sóng. Tượng đài diễn tả lòng tự hào của nhân dân Cà Mau luôn luôn trẻ khỏe và vươn lên bất chấp khó khăn.
Cảnh lướt sóng cũng gợi ta nhớ đến những hạt ngọc phù sa là của báu nơi cực Nam tổ quốc... Có lẽ đồng mối ưu tư và niềm lạc quan đó, mới đây, trong tờ Bông Sen số 36, nhà sưu khảo Hồng Hạnh đã mở đầu bài “Cà Mau, với cái nhìn 300 năm trước” bằng câu hỏi thật lý thú: “Vậy liệu 300 năm trước khi Sài Gòn đã định hình phố xá, Cà Mau đã có trong bản đồ chưa? Liệu hồi đó mũi đất này ra sao?”.
Chúng tôi không phải nhà địa chất học, nhưng may mắn thu thập được chút ít tư liệu liên quan đến Cà Mau, xin chọn nêu ra đây, gọi là góp thêm chút tâm tình của người dân Nam Bộ.
Cách đây khoảng 100 triệu năm, Việt Nam không có biển bao quanh, cho nên Cà Mau không phải là mũi đất hay bán đảo. Từ Việt Nam đến Malaysia, đến Philippin là một vùng đất liền, không có vũng nước mặn nào. Nhưng rồi mười triệu năm sau, Philippin bị chìm xuống, khiến cho biển (Thái Bình Dương) tràn vào, tạo thành một biển cạn, nước mặn phủ liền đến đảo Bocnêô (nay), lan qua Inđônêxia, nối liền Ấn Độ Dương. Biển cạn này là một biển nội địa, ta gọi là biển Đông, mang tính chất đại dương. Từ đó mũi Cà Mau xuất hiện cùng với bờ biển hình chữ S dài 3.241 km như hiện nay. Bờ biển ta rất đặc biệt. Từ bờ ra, ta có một thềm cạn, gọi là thềm lục địa, không sâu quá 200 mét. Thật dễ đánh bắt cá và dò tìm các mỏ dầu. Bề mặt thềm lục địa rộng nhưng không đều. Ở Bắc Việt thềm rộng đến đảo Hải Nam. Ở vịnh Thái Lan và đồng bằng sông Mêkông thì thềm này lan rộng đến Côn Đảo, nối xuống Malaysia và Indonêxia. Chỉ có vùng Trung Bộ thì quá hẹp, như ở Nha Trang thềm sâu lần từ 400m đến 700m rồi 4.000m như đáy đại dương.(4)
Về mũi đất Cà Mau, tờ địa chất Vĩnh Long ghi nhận:
Những bản đồ do người Âu lập năm 1554 và 1570 chỉ rõ hình thể Đông Dương bấy giờ chấm dứt bằng mũi đất nhọn như hiện nay; tư liệu của các nhà hàng hải Ả Rập và các bản đồ khác của người Âu hồi thế kỷ XVIII chỉ rằng, rốt lại theo vị trí của bờ biển đối với hòn Khoai (Poulo Obi) và đảo Côn Nôn (Poulo Condore) đường ranh giới của bờ biển chỉ biến đổi chút ít trong vòng ba hay bốn thế kỷ sau cùng.
Hình dáng mũi Cà Mau tạm rõ. Ta hãy xét đến tình hình xói mòn, bào lở (những dữ liệu từ đây đến cuối bài đều trích từ tờ địa chất Vĩnh Long mang số 20) ta thấy mấy số liệu quan trọng:
- Bờ Nam của bán đảo Cà Mau, phía biển Nam Hải, giữa cửa sông Gành Hào và rạch Đường Kéo, đã lùi vào 4km trong mấy năm 1904 và 1949;
- Một con kinh để khai thác rừng, nằm thẳng góc với bờ biển, đào năm 1936 độ dài 470 mét sau một năm chỉ còn 370 mét;
- Phần đất khum ra biển đã bị bào mất và các chất bị bào đó được di chuyển sang phía Tây, sang mũi Cà Mau và vào vịnh Thái Lan.
- Và nếu ta lấy lại hai lần ấn hành của bản đồ, ta nhận thấy ngay giữa năm 1927 và 1960, một dãy đất duyên hải dài 100 km rộng đến 2,5 km đã biến mất suốt chiều dài bờ Nam và bờ Đông của Cà Mau.
Bây giờ ta xem tờ địa chất nói gì về việc bồi lấp.
- Từ những cuộc khai quật của M.L.Malleret, người ta kết luận rằng, trong đồng bằng Óc Eo từ cuối thế kỷ VII đến năm 1945, lớp phù sa lắng đọng trung bình 0,60m trên những vùng thế đất hơi nhô, và trung bình 2 mét trong những nơi bưng trũng; phỏng tính là 0,0005 và 0,0016 mét mỗi năm hay 0,05 và 0,16 mét mỗi thế kỷ.
- Hiện tại người ta đang chứng kiến sự bồi lấp của vịnh Rạch Giá và bờ Tây Nam của bán đảo Cà Mau. Sự bồi lấp vịnh Bãi Bùn ở mũi Cà Mau rất được biết đến: trong vòng 50 năm, 10.000 ha rừng ngập mặn đã bắt rễ trên biển.
- Ở Tây Nam sông Bassac, một dãy đất nối dài 60 km rộng 1,5 km đã sáp nhập vào bờ biển Bạc Liêu.
- Chính ở chót phía Tây của mũi Cà Mau, sự bồi lắng cho thấy tầm rộng lớn đặc biệt được biết đến từ đầu thế kỷ; hiện tượng bồi lắng ở đó dường như chịu ảnh hưởng của thủy triều cứ dồn đẩy vào vịnh Thái Lan tất cả những tạp chất cuốn trôi theo dòng chảy Đông Bắc - Tây Nam dọc bờ biển Nam Hải”.
- Phía Bắc Bãi Bùn những dãy đất tân bồi còn quan trọng hơn với chiều dài 30 km bờ biển.
- Phía Nam của vịnh Rạch Giá, sau rốt, người ta nhận thấy một vùng bờ lấn ra biển dài 15 km và rộng 4 km.
Để kết luận, ta hãy đọc kỹ câu sau đây:
“Ở phía Tây sông Cửa Lớn, cánh đồng U Minh to rộng úng nước quanh năm, chứa đầy những mỏ bùn than, cặn bã của giai đoạn rừng ngập mặn xưa. Thì từ vùng giáp giới của U Minh, dãy rừng ngập mặn hiện tại đã bắt đầu và kéo dài suốt bờ biển phía Tây của mũi Cà Mau.
Với 150.000 ha liền một mạch duy nhất, dãy rừng ngập mặn này là một trong những dãy quan trọng nhất của thế giới. Nó chuẩn bị cho việc lấn biển...”
Rõ ràng Cà Mau, điểm đầu sóng ngọn gió của đất nước, cũng có một cái gì thuộc đẳng cấp thế giới như ai. Hạ Long đó, Hội An đó, di tích Huế đó... Và đây thì rừng ngập mặn bao la. Rừng là thế mạnh, là điều kiện sống còn của Cà Mau, hơn thế nữa, của sự toàn vẹn cả ĐBSMK. Những hạt “ngọc phù sa” của Đất Mũi nhờ rừng mà có. Cho nên dù Cà Mau có đi lên từ con tôm hay gì gì đi nữa, chúng tôi vẫn tha thiết nhắn:
Ai về nhắn với Cà Mau
Giữ rừng xanh lá cho giàu nhớ thương...
----------------------------
(1) Đông Hồ - Mộng Tuyết. Hà Tiên Thập Cảnh,
Nxb VN Tp. Hồ Chí Minh, 2001.
(2) - Nguyễn Đình Đầu. - “ĐBSMK 300 năm qua”,
Xưa và Nay, 1997, số 46B.
(3) - La Feuille de Vinhlong - Sở Địa Dư Đalat (khoảng 1961 - 1964)
(4) - Lịch sử hình thành Biển Đông nước ta - Ngọc Lan - Hoàng Hải,
Đại học KH Tp.HCM, 1976).
Lê Tương Ứng -
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 30, 2009 7:36:08 GMT 9
Ngôi Chùa Xưa - hay Kiến Tường cổ tự - K/S Sagant Phan -
Ngôi Chùa Xưa hay là Nơi sanh cũa Vua Minh Mạng
Vì câu chuyện nầy khá dài, chúng tôi không thể nói ngắn vài câu là trọn ý nghĩa nơi sanh cũa Vua Minh Mạng, nên quý bạn đành đọc một phần câu truyện nầy... mà chúng tôi có đăng tại vài tờ báo hãi ngoại... Khá lâu rồi... Đi làm 3 kỳ là xong Sư cụ Thường Chiếu trở bệnh nặng mấy ngày nay.
Người bị sốt cách nhật từ vài tháng trước, nay chuyển thành sốt thường nhật. Nóng nóng lạnh lạnh (mà ngày nay gọi là sốt rét). Mặc dù Người giõi về cách bốc thuốc,nhưng với bệnh nầy thì rất khó rồi Uống thuốc Bắc thì rất đắc tiền, còn thuốc Nam thì " phước chủ may thầy ", toàn là nghe lời đồn toa nầy trị bệnh rất hay, toa kia không hay lắm.vv.. Uống nào là đọt lá ớt và là sầu đâu nhưng càng thêm mệt rũ người. Xóm người Miên bên kia sông giờ đây vắng vẽ đìu hiu. Người Miên họ bỏ sóc đi lên thành Lô Bích từ lâu rồi. Họ nói người " Duồn " không tố, họ đến quá đông, rồi họ cứ tự nhiên xem vùng đất nầy là nhà cũa họ mà không nghĩ gì đến những người Miên sống tại đây hàng chục năm trời có dư. Người " Duồn " họ lội xuống sông mà cứ tự nhiên chặt là dừa nước mà lợp nhà mà không xin ai hết. Họ nói " đất nầy thuộc chim trời cá nước mà? Đất cũa Trời Đất nào cũa ai đâu? ". Làm như vậy lần hồi người Miên họ ghét, và họ lần lựơt bõ xóm mà ra đi tay không. Nhà lá họ cất cao cẵng, và mặt tiền hay cữa cái thì họ đón ngoài sau từ đường sông đi lên nhà. Còn người Việt thì họ làm cữa cái họ đón từ con đường đất lộ nhõ mà vào trong nhà. Hai phương Trời cách biệt với nhau. Người Việt ăn cơm họ dùng đũa, còn người Miên thì tay họ bốc ăn cơm. Hạt gạo là phẩm vật quý cũa Trời Đất mà tại sao dùng đũa khều khều vậy? Khi người Miên cuối cùng rời xóm, thì lục cụ (sãi Miên) N’teak Klong cũng bần thần không ít. Ngôi chùa Miên " Traklacbưng " có mặt nơi đây trên 70 năm trời rồi, tự dưng đến ngày tàn - như Đế Thiên Đế Thích vậy, như vậy không làm lục cụ buồn rầu sao được? Ngài nhớ lại thời vàng son, nơi dòng sông lớn này, đến kỳ mừng con nứơc về, mà người Miên gọi là " Thnâycha Prong " nước dâng tràn ngập đến tận chân nhà sàn. Cá nhiều vô số, rồi kéo theo chim Trời bay đến làm tổ đầy cây me và cây sao dầu... như vậy thú rừng về nữa rồi. Người thợ săn cứ việc vác cung tên và lứoi bẫy... thế là thịt ăn không hết quanh năm. Cá quá nhiều ăn không hết thì phơi làm khô và làm mắm " bòhốc ", thịt rừng cũng vậy. Nơi xa là dòng sông to rộng, dùng đua ghe ngo mừng Thần Mưa rất dễ dàng. Có nơi thật xa người ta tham dự đua ghe Ngo bằng cách " ăn nhờ ở đậu nơi chùa Miên nầy. Họ đến hàng trăm người, chia làm 10 toán, mổi toán 10 người. Mổi toán là một chiếc ghe Ngo dài ngoằng, mủi cong vớt lên. Họ đậu ghe đầy khúc sông, có người không chịu ngũ trong chùa, họ nói " ngũ chùa không vui, không ca hát múa " lầmthôn " với mấy cô gái trẽ đẹp được - chùa bắt tụng kinh hoài - còn vui cái nước gì nữa? ". Trong sóc rộn rịp hẵn lên... Trái gái nườm nượp đến chùa, xin phước duyên và " coi bói luôn "... Mặc dầu chùa Miên không nhận thực phẫm để dành, nhưng họ dâng cúng cho chùa nào vãi vóc, cau khô... Cau khô thì đề dành nhai được, nhai với lá trầu xanh thì ngon lắm. Lại cò nhà dẩn đứa con trai vào chùa cho làm lể quy y... xì xụp lạy thành khẩn, đứa con trai được cạo đầu và tu vài tháng hay vài năm báo hiếu cho cha mẹ. Cha mẹ vui và sư lục cụ cũng mừng. Đua ghe thì họ mời lục cụ ngồi ghế danh dự. Khán đài dãn dị thôi. Dựng rạp bằng cây rừng và lớp nóc bằng lá dừa nứơc. Dãn dị nhưng oai nghiêm. Sư cụ làm lể khai quân... Rồi có tiếng trống nổi lên,... ghe Ngo hàng chục chiếc đang nằm hậm hực dưới bải sông. Như một bầy cá sấu đen lườn chờ chủ leo lên lưng là " Ùm " xuống nước lập tức. Sưlục cụ đánh Trống thì tất cả chuẩn bị trên bầy cá sấu đen hậm hực đó. Rồi có người đốt một cây pháo lớn. Pháo nổ là bầy cá sấu đen đó pohóng Ùm xuống sông, quẩy nước trắng cả một khúc trời giang sơn... Người trên bờ la hét khan cổ, bầy ghe Ngo ầm ầm quẩy sóng chạy hung dử ra khơi... Rồi phút cjhốc bầy ghwe nầy từ xa ầm ầm trở về > Người ta la làng nữa, đánh trống, dốt pháo... dân làng có gì khua được cho vang tiếng thì họ làm ngay. Nên khi hết cuộc đua thì nồi niêu soong chão " bầm vập " hết... Người thua kẻ thắng gì cũng nhậu tưng bừng... Sau đó sóc Miên trở về khung cảnh đìu hiu âm thầm như thường lệ. Chùa lên đèn và đánh mõ công phu như thường lệ.. đàn ông ra đồng ruộng với bò cày, đàn bà thì ôm con ru võng kẽo kẹt nơi xa... Bầy chim trời uể oãi bay dài nơi góc trời rồi đáp lên khu rừng nơi xa xóm. Dân Miên không bao giờ giết chim làm thịt. Họ nói chim là cũa Ông Trời bà Trời hay thần thánh dùng cởi đi chơi. Nhưng từ khi người Duồn về, từ một nhà, hai nhà đến chục nhà rồi trăm nhà... thì họ nói thịt chim ăn ngon lắm. Rồi họ thả vịt đến phá cả ruộng non cũa người Miên đang trổ lùa " đòng đòng ". Người Miên đến gặp lục cụ mà thưa kiện nhờ phân xử chuyện nầy. Lục cụ đành phãi xuống xóm người Việt mà gặp trưỡng xóm mới được. Dể chịu là ông trưỡng xóm biết lẽ phãi, ông mời lục cụ uống nước dừa rồi ông hứa sẽ nói với chủ vịt đừng cho đàn vịt đến phá lúa người Miên nữa. Lục cụ nhìn tướng người trưỡng xóm nầy.. Tướng người tầm thước, giọng nói hơi nặng, nhưng ánh mắt thì đôi lúc hiền đôi lúc cương quyết. Trưỡng Xóm nói họ là người từ đàng Trong mà vào lập nghiệp nơi nầy. Nơi đó là xứ nhiều đất đai khô cằn sỏi đá. Dân đông nhưng làm không đủ mà ăn. Mưa nơi đó rất ít và nạn châu chấu làm thất mùa hoài. Rồi hạn hán rồi lụt nữa... Còn nơi nầy là xứ Trời cho, thọt tay xuống nước là có cá... Lục cụ N’teak Klong mĩm cừơi vì câu nói cũa trưỡng Xóm người Việt " xứ Trời cho "... đâu phãi xứ Trời cho, xứ nầy của người Miên hàng trăm năm nay rồi. Mồ mã người Miên có cái tính được trên 200 năm có hơn... Nhưng bề gì trưỡng Xóm là người biết điều, Ông ấy nói là ông ấy giữ lời. Ông tên là Nguyễn Đạt, gốc Quãng Trị từ xa.
Nay thời vàng son đó trôi mất tiêu rồi. Người " Duồn " họ đào thệm kinh rạch nhõ vào khu vườn cũa họ, làm cho mực nước sông cái ngoài khơi cạn dần theo năm tháng. Mưa lại ít về nữa. Ít nước, thì ít cá - mà ít cá thì ít chim và thú rừng. Dòng sông cạn kiệt tài nguyên. Dân Miên họ bỏ đi là đúng, họ về lại thành La Vích mà người Duồn gọi là thành Nam Vang... Nơi đó họ gặp lại Vua cũa họ.
Sư lục cụ N’teak Klong lẩm nhẩm hồi kinh cầu an trong miệng. Lục cụ phãi quyết định dứt khoát trong ngày nay. Bỏ chùa hay cho chùa cho một người Việt nào đó. TRong đầu óc lục cụ tự nhiên nghĩ đến người Trưỡng Xóm Việt. Lục cụ đến gặp Nguyễn Đạt vào một buổi chiều...
Sư cụ Thường Chiếu trở bệnh nặng mấy ngày nay. Người bị sốt cách nhật từ vài tháng trước, nay chuyển thành sốt thường nhật... Từ khi nhận chùa Miên đến nay cũng thấm thoát hơn chục năm trời có lẽ... Vì chùa dựng toàn loại cây tầm thường, nên mối mọt làm xập lần hồi hết., mưa gió bảo bùng. Lúc trước, khi còn người Miên thì dân làng rất đông. Trai nhiều mà gái cũng nhiều nữa.. Nhưng từ khi người Miên bõ xứ mà đi lên Cao Miên thì người Việt cũng bị " nạn " luôn. Giặc giã khắp nơi, nào là binh lính triều đình Tây Sơn, rồi binh lính nhóm Đông Sơn, rồi thêm tướng quân Tàu Dương ngạn Địch và Trần thắng Tài hùng cứ mổi người một phương. Kình chống nhau, giết hại lẩn nhau. Mai dốt nhà xóm nầy, mốt phóng hỏa thiêu rụi xóm kia.Trai làng bị bắt lính gần hết. Làng người Việt làn lần thiếu dân đinh, ruộng không người cày là chuyện thường. Chùa lâm vào cảnh túng quẩn lần hồi... Khngô còn ai bố thí cúng dường chi nữa. Bữa đói bữa no là chuyện thường. Trong Chùa chỉ còn lại có 4 người kể luôn phương trượng Thường Chiếu. Môt chú tiểu trẽ, mà ngày xưa ấy, lâu lắm rồi, cha mẹ đứa trẽ nầy bị giặc bắt đi người cha, rồi người mẹ bị giặc hiếp chết khi đứa trẽ vừa tròn 1 tuổi, bò quanh trong nhà... không cha không mẹ, đứa bé đói khóc 2 ngày trời. Nếu không nhờ phương trượng Thường Chiếu chèo ghe đi ngang qua, nhân dịp đi bốc thuốc cho một gia đình xóm trên nhờ. Tiếng khóc khàn khàn cũa đứa bé lim dần trong không gian, nhưng văng vẳng làm kinh hoàng đến phương trượng. Người lật đật quày nguợc ghe nhõ về nhà sàn đứa bé. Mình mẩy đứa bé bị kiến đỏ bu đầy người, hên là kiến chừa đôi mắt đứa bé mà không đốt cắn. Phương Trượng lật đật cổi áo choàng bên ngoài mà lau chùi đứa bé. Rồi người bồng đứa bé xuống ghe, chèo đến nhà người bệnh mà xin sữa cho đứa bé... Rồi ngừoi cùng 2 dân làng đến chôn xác người mẹ mà xác gần thành ương rữa. Chôn dưới gốc cây me kế góc vườn.. Sau đó dân làng phóng hõa đốt ngôi nhà xấu số đó vì không ai dám ở hết. Ma Quỉ hiện về hàng đêm khóc đòi con mà.Thầy có đến đọc kinh Vãng Sanh độ hồn vài lần, nhưng cũng không xong. Dân làng đành phãi đốt nhà đó ra tro.
Nay đứa bé nầy được đặt pháp danh là " Ngộ Đạt "... gần 15 tuổi rồi. Được Thầy dạy chữ Nho tụng đọc kinh công phu. Tánh hiền, ít nói, ít cười, ngoan ngõan dể thương. Nhưng một hôm khi ‘ Ngộ Đạt " hỏi Thầy cha mẹ con đâu rồi? Thì nước mắt Thầy rơi xuống lúc nào không hay. Thầy không biết được đâu con à !...
Người thứ ba trong chùa là chú Tư Cui. Người tầm thứơc, thuộc loại cũi lục âm thầm, ít cười, tối ngày lui cui lo trồng rau cho chùa. Từng bắp cãi thật to lớn, được chú Tư Cui gồng gánh xuống chợ nơi xa mà đồi gạo đem về nuôi chùa. Trước đó chú Tư làm nghề hầm than. Nghề nầy cực nhiều hơn vui. Lựa từng khúc cây đước nơi tràm ven rừng, phơi khô thời gian rồi chất đầy vào lò hầm. Hầm ngày đệm liên tục, chú Tư Cui ngưỡi mùi khói bốc ra từ cữa lò bịt kín là chú biết than chín hay chưa. Ngày kia chú Tư bổng nổi điên, cầm bó lữa đốt nhà cũa mình cháy hừng hực, chú định đốt thêm vài căn nhà lối xóm mới vui dạ. Lối xóm người tay búa tay dao bao vây chú định xơi tái chú rồi, nhưng người ta cũng ngại đến gần vì chú tay cầm bó lữa tay kia cũng cầm búa chặt cũi rừng to lớn lăm lăm. Sư cụ Thường Chiếu được lối xóm báo tin dữ. Sư Cụ đến gần, vừa đến vừa đọc kinh vang trời. Chú Tư Cui chưa kịp hiểu ý nghĩa kinh kệ thì thị bị thầy nhập nội, rồi bị Thầy xô xuống sông gần đó. Dân làng nhào xuống sông trói gô chú Tư Cui định giãi cho quan xử tội. Sư cụ Thường Chiếu xin lãnh chú về chùa nuôi. Từ đó đến giờ trên chục năm rồi. Tóc chú Tư giờ đây điểm hoa râm theo năm tháng ngày.
Vừa rồi chú đến gặp Thầy: " Thưa Thầy ! tối hôm rồi Hổ đến rình mình, dấu chân có lớn bằng cái tô canh vậy đó ". Thấy Thường Chiếu cười nhẹ: " Con đừng lo xa, Hổ nó lòng hại mình thì minh cũng chịu thôi. Con xem chùa mình tòan ván mõng, Hổ nó xô nhẹ cũng xập rồi, nếu nó bắt mình khi mình đang ngũ say thì làm sao đây? Nếu mình có nghiệp bị Hổ vồ thì cũng đành chịu nghiệp mà thôi. Luân hồi không cưỡng được đâu con ". Thầy định nói thêm nhưng Thầy im lặng. Thầy sợ chú Tư nói tin Chùa có Hổ rình rập thì thập phương bá tánh nào ai dám lên thăm chùa? Vã lại nơi xa phố Chợ Thầy Ngạn (Đề Ngạn = Thầy Ngoồn = SàiGòn) người người tấp nập mà có lần cọp về bắt nguyên một con ngựa cũa quan nơi đó đem đi mất., huống chi nơi nầy gần rừng gần sông gần tràm đước? Người thứ tư là Dì năm chột. Dì có đứa con gái độc nhất, ngày kia lấy chồng. Vợ chồng mần ăn khá giã, nhưng lại quên mẹ già nuôi mình tháng ngày khôn lớn. Họ bõ bà mẹ chơ vơ trong nhà chòi nhỏ rồi họ lên phố Chợ mần ăn. Nghe nói họ rất giàu, nhưng biệt âm tín từ đó. Bà mẹ lượm cũi mà bán độ nhật quanh vùng. Bq dùng rựa mà chặt những cành cây to, để khô rồi chất lại đem đi bán. Ngày kia một mãnh cây vụn văng từ khúi cũi đâm vào mắt bà làm bà đui một bên. Nghề lượm cũi hết thời, vì đi sâu vào rừng thì không được vì giậc nổi lên tứ phương trời. Họ cấm rừng.. không cho ai lai vãng vào đây. cuối cùng bà gỏ cữa chùa xin chùa nhận nơi nầy làm quê hương. Từ đó Bà lo nấu ăn bếp núc cho Chùa. Thầh đặt tên cho bà là Diệu Nghiệp. Kinh giãng nhiều nhưng bà chỉ thuộc nằm lòng bài Tán Hương Niệm Phật và vài câu Thủ Lăng Nghiêm, thế thôi. Vào một đêm hạ ngươn tháng 8... chú tiểu Ngộ Đạt nghe dộng cửa chùa gấp rút, chú tiều mở cữa ra thì đụng ngay nhóm quan quân triều đình Tây Sơn đến khám chùa.Họ đứng chật sân chùa, sắc khí hừng hừng. Đèn đuốc sáng choang... Chú tiểu vội chạy vaò hậu liêu báo tin cho Thầy. "- Thưa Thầy quan quân đến khám chùa gấp lắm, họ cầm đèn đuốc và khí giới sáng ngời, họ nói họ muốn gặp chủ chùa ". Sư Thường Chiếu vội xả thiền, Ngài tìm đôi dép cỏ xỏ chân vào Ngòai sân độ trên 20 người, tay cầm đuốc cháy phừng phực, khí giới hung hãn. Quan võ đến chào Ngài và nói " Xin Thầy cho chúng tôi xét chùa, chùa có chứa người nào lạ vào đây hay không? ".- Phương Trượng Thường Chiếu vội đáp: " Mô Phật ! bần tăng và chùa nghèo hổm rày không có một người khác nào vãng lại đến đây hết. Xin Quan cứ tự tiện vào xét chùa không sao ". Viên võ quan và vài tùy tòng cầm đuốc chai cháy phừng phực khói lữa tiến vào Niệm Phật Đường, rồi từng người vào hậu liêu xét từng nơi... Họ đến nhà bếp, họ mở tung nắp lu đựng gạo... họ nói " chùa gì nghèo dữ vậy không biết, trong lu còn vài chén gạo làm sao nấu cơm cho tụi mình đây? ". Rồi quan quân đi vòng ra sau chùa. Sau chùa là một hồ nước lớn, ăn thông với sông cái..thế thôi. Sau cùng viên võ quan đến chào Thầy và răn đe:" Chùa không có gì hôm nay. Nhưng nếu Chùa chứa chấp người lạ mà không thông báo cho chúng tôi thì chùa sẽ bị tai họa khôn lừờng đó. Thầy nên nhớ kỷ dùm. Thôi được ngày mai hay ngày mốt chúng tôi đến lần nữa và cho người cũa tụi tôi ngũ tại đây đó, Thầy nên chuẩn bị từ đây. " Đám quan quân hùng hổ đến, rồi hùng hổ lui. Họ mang danh nghĩa là quan quân triều đình Tây Sơn, nhưng họ còn nguy hiểm hơn trăm lần... họ là nhóm lính Đông Sơn cũa thượng tướng Đổ thành Nhơn. Chủ bị giết thì đám lính Đông Sơn nầy chia tam xẽ tứ liền... nhóm theo chúa Nguyễn, nhóm theo Tây Sơn, nhóm theo Nghĩa Hòa Đoàn cũa tàn quân tướng Tàu Dương ngạn Địch... Quân lính càng đông thì dân càng khổ. Ban ngày theo nhóm màu cờ nầy, trưa theo nhóm màu cờ kia, chiều theo nhóm màu cờ nọ. Lâu lâu ngay ngã tư con nước sông hồ có vài đầu lâu được cắm sào nhe răng trắng thấy mà ớn oan hồn. Nhiều xác người trôi sông, Thầy Thường Chiếu cho ngừơi vớt lên, chính tay Thầy làm lể chôn cất sau bìa rừng, một vài bài kinh kệ đơn lẽ hòa âm cùng tiếng mõ chùa bay vào hư vô, bay vào rừng sâu núi thẵm... Đời người vô thường, nhưng cái chết thì hữu thường, đủ cách, đủ loại... Quan quân đi rồi. Chùa trở lại không gian im lìm như xưa. Tiếng dế lại kêu ri rỉ nơi góc cây, tiếng uềnh oang cũa ểnh ương kêu buồn tha thiết. Sư Thường Chiếu vào phòng, Thầy định cầm chân nhang mà kéo ngọn bấc nơi dĩa đèn đậu phụng xuống thấp cho bớt ánh sáng hầu tiết kiệm dầu thắp đèn hàng đêm. Thì một tiếng kêu của con chim ré bay ngang nóc chùa. Thầy lẩm bẩm: "Tại sao lại có chim báo khách vào giờ nầy nữa cà? "... Thầy vừa chợp mắt chưa bao lâu thì Thầy nghe chú tiểu Ngộ Đạt đến gỏ cữa nói nhỏ: " Thưa Thầy có khách lạ vào sân chùa, họ đi đến 5 người nhưng có một phụ nữ... hình như bà nầy đang bị bệnh đi đứng khó khăn..Thầy tính sao? " Sư Thường Chiếu ngồi dậy, cơn chóng mặt và sốt nóng vì rét rừng đang hành Thầy mảnh liệt. Thầy nói: " Con mở cữa sau Chùa cho họ vào,, nhưng con dẩn họ coi chừng vì té xuống sông thì nguy lắm, coi chừng cá sấu rình mồi hoài nơi cây gáo sau chùa đó nghen con ". Nhóm ngừoi lạ 5 người. Họ hình như mất tinh thần và đói nữa. Một người đàn ông trung niên, dáng thấp người. Gương mặt dài, đặc biệt hai gò má có hai nốt rồi to và có lông mọc từ hai nột ruồi đó. Sư Thường Chiếu nói thầm: " Đây là quý tướng khác thường, nhưng sát quân, người nầy chắc là chúa Nguyễn rồi " Người đàn ông trung niên đó nói với sư cụ: " Chúng tôi có một phụ nữ gần sanh, Thầy giúp dùm ". THường Chiếu gật đầu " Mô Phật ! cửa chùa rộng mỡ, nhưng trước đó có quan quân Tây Sơn vừa khám chùa, xin quý vị cẩn thận "... Nghe nói có quan quân Tây Sơn thì nhóm người lạ nếy hơi biến sắc. Sư Cụ Thường Chiếu thấy một phụ nữ đang dựa cữa hậu liêu sau chùa, người như sắp sữa bất tỉnh nhân sự. Thầy vội nói với chú Tư Cui đaư bà nầy vào phòng riêng cũa Thầy. Chú Tư Cui hơi bất bình,nhưng vâng lời..Thầy nói theo " Bà nầy sắp lâm bồn, chùa nghèo không có giường chiếu chi nhiều, nhưng cứu mạng là trước hết. Cứ đem bà nầy vào phòng Thầy... " Chú Tư Cui cùng với Bà Diệu Nghiệp đở sãn phụ gần đang hôn mê vì ra máu quá nhiều, lại đi bộ nữa... sãn phụ đuối sức và hôn mê luôn. Đứa bé ra đời, điều đặc biệt là đứa bé chỉ khóc có một tiếng rồi im không khóc. Đứa bé biết tánh mạng nhiều người tùy theo tiếng khóc cũa mình, quân địch khắp nơi.
Bé được sư Thường Chiếu nấu cho chút nước cháo hòa tan với đừơng thẽ trong đêm khuya đó. Sư Thường Chiếu chính tay Ngài đở đẽ cho sãn phụ đó. Thầy gọi Bà Diệu Nghiệp dặn nhỏ: " Con vào trong xóm ráng xin sữa cũa bà mẹ nào đang cho con bú, nhưng con khá cẩn thận. Nếu quan quân biết được thì Thầy chết không sao, nhưng còn kéo theo nhiều người nữa kể luôn đứa bé nầy "...
Đứa bé ra đời vào ngày hạ ngươn tháng tám âm lịch, năm Tân Hợi (1791). Được Thầy đặt cho Pháp danh: " Ngộ Phúc "... Thầy lắc đầu: " Chúa tướng ra đời trăm sự yên, vạn sự thịnh... nhưng ngôi chùa này sẽ không còn nữa vì đã từng đón chân mạng thiên tữ rồi. Chùa không đủ phước trường thọ với thời gian... vì luật Trời đất mà... " Rồi 13 năm sau, đó là năm 1804 Cao Hoàng Đế GIa Long nhớ ơn chùa cưu mang và độ cứu con mình ra đời trong thuỡ hàn vi - Con mình là Hoàng tử Đãm... vì can đãm khộng khóc đề cứu mạng quan quân mình... Đãm là can đãm vậy... - chùa nghèo và mình cũng nghèo luôn. Cao Hoàng Đế gởi tặng chùa một tượng Phật bằng gổ mít, cao gần bằng đứa bé 5 tuổi. Sơn son thếp vàng. Cao Hoàng ban chiếu đổi tên chùa ra là chùa Kiến Tường. Sư ông mất vài năm sau đó.
Đến năm 1859 Thượng tướng Nguyễn tri Phương được lệnh đem quân về miền Nam chống giữ giặc Pháp. Đồn được lập nơi ngã tư khúc sông. Vào đêm khuya (ngày 6 tháng 12 năm 1860) có một toán quan quân Pháp từ nơi xa kéo về gần đồn. Quan quân Nguyễn tri Phương đón đường phục kích đoàn quân nầy. Bị lọt vào ổ phục kích quan Ba Barbe bị trrúng đạn chết. Qua ngày sau quân Pháp kéo đông tới, lớp đi tàu chiến lớp cởi ngựa và lính dõng theo sau... Họ không thấy ai hết ngoài ngôi chùa nghèo Kiến Tường..họ phóng hõa ngôi chùa nầy ra tro không còn nữa... Đúng như Phương Trượng Thường Chiếu tiên đoán..chùa không còn nữa... nhưng tượng Phật thì còn. Ngày nay tượng Phật bằng gổ mít cũa Vua Gia Long đang ngồi yên lặng hàng trăm năm tại Viện Khảo Cổ gần Thảo Cầm Viên Saigon.Tượng Phật còn nhớ gì ngày xưa đứa bé ra đời trong ngôi chùa Miên nghèo nầy hay không? Đứa bé đó là Vua Minh Mạng sau nầy..Khi Vua Minh Mạng lên ngôi thì bốn phương Thái Bình, trăm họ âu ca an hòa... Chùa được trùng tu và phong sắc nhiều lần bởi vua Minh Mạng... nhưng chục năm sau thì... cát bụi trở về với cát bụi... chùa Miên... rồi chùa Việt... rồi chùa Kiến Tường... Nay không còn nữa... cát bụi trở vế cát bụi... lời sư Thường Chiếu nói trúng cho chục năm sau nầy
Năm 67-68-69 tại Saigon là những năm sôi động. Sinh viên biểu tình liên miên, phong traò nhạc phản chiến bùng nổ khắp nơi. Tại phòng trà, tại vũ trường, tại câu lạc bộ sinh viên, tại các quán cà phê lộ thiên... nhạc phản chiến hay nhạc ngao ngán chiến tranh được nghe, được uống vào tâm can từng lời. Nào Trịnh công Sơn, nào Trương Thìn, nào Miên đức Thắng... phong trào Du ca Sinh Viên... ngần ngần đốt cháy tâm can thanh niên thiếu nữ Saigon. Trên bục gổ quán cà phê Văn, rồi sau đó lan đến sân khấu lớp SPCN thuộc Khoa Học Đại Học Đường mà Khoa Trưỡng là Giáo sư Nguyễn chung Tú đồng ý ngầm... nhạc họ Trịnh như nước vở bờ... ca sỉ Khánh Ly một giọng ca xa lạ, đến từ ĐàLạt được chấp cánh bay lên không gian sâu thẳm. Cô ngự trị nơi đó mà không có đối thủ - nhạc phản chiến kỳ cùng. Nhức nhối hai bên, bên Quốc Gia và bên Cộng Sản... Bài hay nhất trọn đời nhạc họ Trịnh là " Gia Tài cũa Mẹ "... Hai phe nghe thật nhức nhối vạn phần, phe Quốc Gia và phe Cộng Sản... .. 1000 năm đô hộ giặc Tàu... 100 năm đô hộ giặc Tây... 20 năm nội chiến từng ngày... Gia Tài cũa mẹ... một bọn lai căng..Gia Tài cũa Mẹ một lũ bội tình... Dạy cho con tiếng nói thật thà... dạy cho con chớ quên màu da... con chớ quên màu da... nước Việt... Khánh Ly gào lên và xoáy động tấm lòng trai trẽ bốn phương trời. Ai mà không rúng động khi nghe lời nhạc tiên tri nầy... Giờ đây di dân nước Việt đến bốn phương Trời... Đông Tây Nam Bắc... họ còn nhớ màu da vàng cũa họ hay không? Từ quán cà phê Văn trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa... kế nơi đó là đường Lê quý Đôn... kế xa xa là trtường Pháp lớn là Chasseloup-Laubat, nay là Trường Lê quý Đôn... gần ngã tư đèn xanh đèn đỏ... cách gốc cây me mà thân cây sơn màu trắng độ chừng 25 mét, thụt vào sâu... một gò đất nồng hơi cao hơn mặt đường một tí. Vâng nơi đó là chùa Khải Tường. Nơi mà hoàng tử Đãm ra đời trong ngôi chùa nghèo nàn, mà phương trượng là sư Thường Chiếu. Con đường Lê quý Đôn nối dài mà xưa đó là một con sông rộng... trăm năm trước chùa Miên đang đua ghe Ngo khi mùa nước nổi. sư lục cụ cầm dùi trống đánh tiếng trống vang trời, sau đó là phào nổ thì đoàn ghe lứot sóng ra khơi tranh tài... Rồi có tiếng Cọp đêm khuya về hống vài tiếng kêu văng vẳng, làm muôn thú vội vàng nín thở lặng im... Không gian chìm lần... vật đổi sao dời... Nay chùa Khải Tường không còn nữa, chỉ còn một dấu tích là gò đất hơi cao hơn mặt đường lộ tráng nhựa, nơi xa là nơi ngã tư đèn xanh đèn đỏ, gần đó là đường Lê quý Đôn... Thế thôi...
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 16, 2009 2:54:20 GMT 9
Công trình lịch sử Ông già ngừng tay cuốc, ôn lại ký ức truyền lưu. Tôi đã bất ngờ gợi lại câu chuyện cha ông cụ đã đổ mồ hôi và xương máu để xây dựng cầu Long Biên. Cây cầu từng một thời là công trình kỳ vĩ nhất Hà Nội bắc qua sông Hồng. Cầu Long Biên đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu Ý tưởng vĩ đại "Nó là một kiệt tác của các kiến trúc sư, đốc công, chỉ huy trưởng người Pháp và những người thợ Việt. Chính các công nhân này đã xây dựng nên toàn bộ cầu" Toàn quyền Paul Doumer “Đó là ông nội tôi, người đã làm phu xây dựng cầu Long Biên hồi cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Thuở ấy cha tôi cũng chưa ra đời. Mãi sau này tôi mới được nghe chuyện từ chính ông nội tôi kể lại” - ông Nguyễn Văn Thụy, một nông dân trên 70 tuổi ở bãi giữa sông Hồng dưới chân cầu Long Biên, bồi hồi tâm sự lại chuyện xưa. Ông kể thuở mình còn nhỏ, ông cháu hay trải chiếu trên bãi sông ngắm cầu Long Biên vào những đêm trăng sáng. Những lúc ấy, ông nội thường kể chuyện cho ông nghe rằng hàng ngàn người phu Việt đã được trưng dụng để kéo gỗ, đào giếng móng, xây trụ cây cầu này. Đó là công việc mà ông nội ông cũng như rất nhiều người phu Việt khác chưa từng trải qua. Và nhiều người đã bỏ mình dưới lòng sông này. Tôi lang thang đôi bờ sông Hồng để tìm lại các câu chuyện xưa. Những người trực tiếp đổ mồ hôi làm cầu đều đã khuất bóng từ lâu. Đa số chỉ còn lại lớp hậu duệ đời thứ ba và thứ tư mà ít nhiều chỉ biết chuyện xưa qua ký ức từ tổ tiên. Họ kể lời cha ông rằng đó là công trình lớn nhất xứ Bắc kỳ lúc bấy giờ, không chỉ người Hà Nội mà cả dân các tỉnh đồng bằng cũng được trưng dụng để làm cầu. Khi cây cầu hiện hình và được lưu thông, nó đã đem lại tiện ích hơn cả sự suy nghĩ của những người đã làm nên nó. Sự thật lịch sử cũng được chính ông Paul Doumer - toàn quyền Đông Dương thời đó - khẳng định trong tác phẩm L’Indo- Chine Francaise (Souvenirs), rằng động cơ làm cầu Long Biên bắt nguồn từ thực tế thành phố bị chia cách bởi dòng sông quá rộng, việc qua lại của dân cư rất khó khăn, đắt đỏ, thậm chí nguy hiểm. Ngoài ra, trong thời đó tuyến đường sắt Lạng Sơn bắt đầu được xây dựng nhưng phải dừng lại ở bên kia thành phố, cách xa bờ sông. Ý tưởng của Paul Doumer là khi có cây cầu này, toàn bộ tuyến đường sắt sẽ quy tụ tại Hà Nội, một phần nối liền Hà Nội với biển, phần khác nối An Nam với Trung Quốc. Ông ta đã viết: “Không thể nào tưởng tượng nổi hai nửa của tuyến đường sắt lại bị chia cắt bởi con sông”. Năm 1897, công trình được đấu thầu. Các nhà thầu xây dựng chính của Pháp có mặt. Cuối cùng, dự án của nhà thầu Daydé & Pillé tại Creil (Oise) được chọn. Ngày 13-9-1898, viên đá đầu tiên đã được đặt xuống sông Hồng để khởi công cây cầu kỷ lục của VN này. Paul Doumer đã thốt lên: “Đây là một trong những cây cầu lớn nhất của thế giới và là một công việc lớn, độc đáo nhất có thể thực hiện được ở vùng Viễn Đông. Nó đáng để thu hút sự quan tâm của toàn thế giới...”. Chỉ riêng phần cầu chính nối hai bờ đã dài 1.680m, gồm 19 nhịp dầm thép, 20 trụ cầu và mố cầu được xây dựng trên nền đất cứng ở độ sâu 30m tính từ mực nước thấp nhất sông Hồng. Ngoài ra, cầu còn được nối dài bởi cầu cạn và đường dẫn nhà ga ở hai bên bờ. Tổng chi phí công trình tốn khoảng 6.200.000 franc. Dấu ấn Việt Trong sách của mình, ông Paul Doumer kể khi đặt viên đá khởi công nhiều quan chức Pháp lẫn Việt tham dự, trong đó có thống soái Bichot, đô đốc Beaumont. Nhưng nhiều người vẫn hoài nghi hiện thực. Nhìn vị trí các trụ cầu được đánh dấu bằng cờ, có người mỉa mai: “Định đặt chỉ một sợi dây cáp từ bờ này sang bờ kia để hướng dẫn tàu thuyền sao?”. Nhưng công việc xây cầu đã được khởi động. 111 năm sau, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc ngồi tâm sự với tôi trong một sáng thu Hà Nội. Không biết rõ tổ tiên mình có tham gia làm cầu này không, nhưng ông có nhiều kỷ niệm và biết nhiều chuyện người Việt làm cầu này. Thời Mỹ đánh bom Hà Nội, ông phải đi sơ tán mỗi tháng tám lần qua lại cầu. Sự gắn bó đó đã khiến ông tìm hiểu, biết được rất nhiều người Việt đã bỏ mạng để xây cầu. Và công việc nguy hiểm chết người nhiều nhất chính là đào móng trụ cầu. Cầu Long Biên đầu thế kỷ XX trên bưu ảnh - Ảnh tư liệu Chính ông Paul Doumer cũng kể công nhân Việt được đưa vào những lồng sắt thả xuống lòng sông để đào móng sâu dần xuống đất. Nó cứ dần xuống sâu và áp lực nước lên nó cũng tăng khủng khiếp. Từ đáy sông xuống sâu 25m, 30m, thậm chí 33m... Thợ làm việc liên tục bốn giờ bằng không khí nén trong lồng mới được thay ca khác. Viên toàn quyền Đông Dương đã thốt lên: “Người An Nam bé nhỏ kiên cường dưới độ sâu này không một lời kêu ca, phản đối”. Thực tế nhiều người đã chết khi lồng sắt gặp trục trặc trong lòng đất sâu dưới đáy sông. Nhưng người này chết, người khác lại phải thay vào. Vì vậy, từ thuở đó đã có bài vè truyền miệng rằng: Cầu sắt mà bắc qua sông. Người chết như rạ vẫn phải len mình vào... Ngay sau khi làm trụ cầu xong, người ta lắp ráp những dầm sắt được đưa đến từ nước Pháp. Paul Doumer kể ban đầu một số người Trung Quốc được tuyển dụng làm thợ đinh tán nối các thanh dầm sắt với nhau vì họ khỏe hơn người Việt. Nhưng rồi người Việt đã thay thế dần vì họ chăm chỉ, khéo léo hơn. Và các kỹ sư Pháp cũng thích dùng thợ Việt hơn. Tuy nhiên, dấu ấn Việt trên cầu Long Biên không chỉ là mồ hôi và tính mạng người thợ mà có cả trình độ, đầu óc lớn. Doanh nhân nổi tiếng Bạch Thái Bưởi từng làm quản lý một phần việc xây dựng cầu, rồi thầu gỗ tà vẹt cho đường ray xe lửa trên cầu. Ông tổ chức người Phú Thọ, Yên Bái, Thanh Hóa khai thác gỗ tốt về bán cho Pháp, trong khi thép từ Pháp, ximăng Hải Phòng, vôi Long Thọ của Huế ... Ngày 25-2-1902 cầu Long Biên được khánh thành (lúc đó đặt tên Doumer). Paul Doumer thốt lên: “Đó là một kiệt tác của các kiến trúc sư, đốc công, chỉ huy trưởng người Pháp và những người thợ Việt. Chính các công nhân này đã xây dựng nên toàn bộ cầu”. QUỐC VIỆT
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 18:56:21 GMT 9
Phạm Lưu Vũ Thăng Long lược phong thủy kí Gọi là long mạch được chia ra thân (can long), cành (chi long), nhánh (cước long), ngoặt (bàng long)... Lớn thì gọi là đại can long, đại chi long, nhỏ thì gọi là tiểu can long, tiểu chi long... Long mạch được tạo nên do sự vận hành của Âm Dương, Thiên Địa, Ngũ hành, Can Chi, Bát Quái... con người chỉ có thể vận dụng, không can thiệp vào được, cho dù có sử dụng hàng vạn tấn TNT hay thậm chí bom nguyên tử... Đó chính là một bộ nhớ vĩ đại, ghi chép những chu kì lặp lại của Không - Thời gian trong tổng thể cái gọi là quá khứ, vị lai... của vũ trụ. Sách Địa giải huyền thư nêu rằng nằm trên đại can long thì có thể hình thành kinh sư (nơi đóng đô), chi long có thể lập nên thành, phủ, đô thị (tỉnh), cước long có thể lập nên trấn, xứ (huyện, xã)... Có long mạch, lại phải có ít nhất một đại can long hình thế khúc chiết, vững vàng thì mới được coi là đất đế vương. Đó là một trong những yếu tố tiên quyết để có thể lập quốc, hình thành một quốc gia. Trung Quốc rộng lớn có ba đại can long, hình thành bởi ba con sông là Trường Giang, Hoàng Hà và Áp Lục Giang. Nước ta cũng có một số đại can long. Trong đó sông Hồng chính là một trong những ranh giới giữa hai đại can long nước Việt từ xưa tới nay vậy.
Khoa học về long mạch xem xét sự vận hành của khí tương quan với địa hình, phương vị, các chòm sao... nên xem Trời là tĩnh mà Đất thì động. Đó là một kiệt tác quan sát của người xưa. Chỉ riêng một môn này thôi, cũng đủ thấy trí tuệ phương Đông xưa vĩ đại đến nhường nào. Long mạch tạo nên sự vận hành của “khí”. Có chỗ bế (tắc), chỗ khai (mở), có nơi phát tán, có nơi ngưng tụ, có khi hung, khi cát... biến ảo tuỳ thời. Tất cả đều không thể xem thường. Đời Nguyên có Liêu Kim Tinh vốn là người nghèo rách, tầm thường. Nhờ học được sách phong thuỷ của Ngô Cảnh Loan đời Tống mà tìm được một nơi đắc địa, có thể phất lên nhanh chóng. Song chỗ đất ấy nếu ở quá hai mươi năm mà không tu tạo thì sẽ bị tuyệt tự. Liêu Công bèn dọn nhà đến đó ở. Quả nhiên vài năm sau trở thành một phú hộ giàu có nhất vùng, tiếng tăm vang dội thiên hạ. Bấy giờ, trong nước có họ Trương là một bậc quyền thế nghe tiếng liền đón Liêu về để nhờ xem đất. Trong vòng hơn chục năm, Liêu tìm cho họ Trương được bảy mươi tư chỗ đất có kết huyệt tốt. Vậy mà họ Trương vẫn chưa thỏa lòng tham. Đến khi thấy thời hạn hai mươi năm gần hết, Liêu ngỏ ý xin về để tu tạo mồ mả thì họ Trương cố giữ lại thêm mấy năm nữa. Kết quả khi Liêu trở về nhà thì con cháu đã bị nạn chết sạch, chỉ còn bà vợ già và đứa cháu ngoại. Liêu Công từ đó đau buồn, sinh bệnh rồi mấy năm sau cũng mất nốt. Chuyện từ xưa mà buồn đến tận bây giờ.
Cách đây xấp xỉ một nghìn năm, Lý Công Uẩn, ông vua khai sáng triều Lý đã nhìn thấy ở thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (Cao Biền) nằm trên đại can long sông Hồng là một nơi có long mạch lý tưởng: “Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời...” (“Chiếu dời đô” - Lý Công Uẩn). Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như tiếc nuối điều gì... Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi long, cước long... vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước.
Cũng cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện (ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống, khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão (già), tuy “cát” đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí “hung”. Thăng Long ngược lại với nơi Lý Công Uẩn lên ngôi là kinh đô Hoa Lư trước đó. Nơi ấy có long mạch gọi là thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài. Hai triều vua trước (Đinh, Tiền Lê), mặc dù triều nào cũng có võ công hiển hách. Nhưng không triều nào dài quá ba chục năm. Đó chính là một trong những lý do chủ yếu để Lý Thái Tổ, vị vua có tầm nhìn xa trông rộng phải tìm đến Thăng Long? Và long mạch của chốn này quả đã không phụ lòng vị vua ấy khi mà nhà Lý dời đô thì lập tức tồn tại hơn hai trăm năm. Không những thế, các triều đại sau (Trần, Hậu Lê...), vẫn đóng đô trên đất ấy cũng được hưởng phúc, kéo dài không kém. Tuy nhiên, khác với Hoa Lư, Thăng Long là nơi trống trải bốn mặt, giặc có thể xâm lấn bất cứ chỗ nào. Lịch sử từng chứng kiến Thăng Long bao lần bị tàn phá, vua quan phải bồng bế nhau chạy ra ngoài. Kể cả người Chiêm Thành, bao nhiêu đời bị coi là nhược tiểu, vậy mà cũng mấy phen đem quân ra cướp phá tận Kinh sư.
Long mạch để phúc trạch cho con người không phải là không có điều kiện, càng không phải thiên thu. Câu chuyện của Liêu Công trên đây là một ví dụ. Phải là người có đức mới ở được chốn đất thiêng. Đức càng kiên cố thì vận càng dài, đến khi nào đức cạn thì vận cũng tuyệt theo. Thăng Long chính là một nơi như thế. Hình như có một “giới hạn” đã định sẵn cho những “nhà” nào ngự trên long mạch ấy. Xin mạn phép có một cuộc đại thể đối với những triều đại từng định đô ở chốn này như sau:
Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Việc đầu tiên, đáng lẽ phải lập tông miếu, xã tắc... thì Ngài lại cho dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (trước là châu Cổ Pháp thuộc Bắc Giang) - quê Ngài. Các nhà chép sử đời sau sở dĩ đem điều đó ra trách Ngài vì hình như không hiểu được thâm ý của Ngài. Tại sao Ngài lại dựng đúng tám ngôi chùa? Có phải Ngài muốn chuẩn bị sẵn chốn về cho vong linh mình và con cháu sau này? Nghĩa là Ngài đã biết trước và hiểu rõ những bí mật về long mạch của đất Kinh Sư mới mà Ngài vừa chọn? Con số tám huyền bí ấy về sau như là cái giới hạn khó vượt qua đối với tất cả những chủ nhân của long mạch ấy. Nhà Lý do Ngài lập nên ngự trên đất Thăng Long hơn hai trăm năm (1010-1225). Tính từ Ngài (Lý Thái Tổ) đến Lý Huệ Tông, quả vừa đúng tám đời thì đức suy, cũng là lúc vận tuyệt, vạ từ trong nhà sinh ra, cơ nghiệp lọt hết vào tay người khác.
Nhà Trần giành cơ nghiệp từ tay nhà Lý, tồn tại được hơn một trăm bảy mươi năm (1226-1399). Làm chủ Thăng Long bao gồm mười hai vị vua. Nhưng nếu tính từ đời thứ nhất là Thái Tông (Trần Cảnh) đến đời cuối cùng là Thiếu Đế (Trần An), thì thực chất cũng vừa đúng tám đời. Bởi có tới bốn vị vua là Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông và Duệ Tông đều cùng đời thứ sáu (cùng là con Trần Minh Tông), hai vị: Phế Đế (con Duệ Tông) và Thuận Tông (con Nghệ Tông) là con chú con bác, đều cùng đời thứ bảy. Cuối cùng, Thiếu Đế (con Thuận Tông) là đời thứ tám. Để cho rõ, xin hình dung theo sơ đồ sau:
Đời thứ nhất: Trần Thái Tông Đời thứ hai: Trần Thánh Tông Đời thứ ba: Trần Nhân Tông Đời thứ tư: Trần Anh Tông Đời thứ năm: Trần Minh Tông Đời thứ sáu: Trần Hiến Tông - Trần Dụ Tông - Trần Nghệ Tông - Trần Duệ Tông Đời thứ bảy: Phế Đế - Trần Thuận Tông Đời thứ tám: Thiếu Đế
Nếu tính theo đời vua thì từ Trần Thái Tông đến Trần Nghệ Tông - đúng vị vua thứ tám thì hết phúc, bấy giờ đức đã nghiêng ngả lắm rồi. Mấy đời sau thực chất chỉ còn hư danh, bởi thời vận đã đến hồi kết thúc, cơ đồ xuống dốc không phanh. Rốt cuộc vạ cũng từ trong nhà sinh ra, con cháu bị giết, cơ nghiệp về tay kẻ ngoại thích là Hồ Quý Ly.
Hai vị vua thời Hậu Trần (Giản Định Đế và Trùng Quang Đế) chẳng qua chỉ là vớt vát, vả lại cũng đã lưu lạc ra khỏi kinh thành, không còn liên quan đến long mạch Thăng Long nữa rồi.
Hồ Quý Ly cướp được ngôi nhà Trần nhưng phúc ngắn, đức mỏng, chỉ giữ được trong khoảng tám năm (1400-1407), cuối cùng cả hai cha con lẫn triều thần đều bị quân Minh bắt.
Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều đại Hậu Lê (Lê Sơ). Triều Hậu Lê làm chủ nhân của Thăng Long chín mươi chín năm (1428-1527), bao gồm mười vị vua. Song tính theo đời thì chỉ có bảy đời. Đó là một triều đại hiển hách nhưng đầu voi đuôi chuột (các vua càng về sau càng ngắn ngủi, chết non, chính sự càng ngày càng nát). Trong đó có ba vị là Túc Tông, Uy Mục Đế, Tương Dực Đế cùng đời thứ sáu, hai vị cuối cùng là Chiêu Tông và Cung Hoàng cùng đời thứ bảy. Cả hai vị này (Chiêu Tông và Cung Hoàng) đều bị giết bởi Mạc Đăng Dung. Tại sao trước đó, Lý Công Uẩn (triều Lý), Trần Cảnh (triều Trần) và con cháu của hai vị ấy đều được ngự trên đất này tám đời, mà đến lượt Lê Lợi (triều Lê Sơ) thì con cháu chỉ được hưởng mệnh đế vương đến đời thứ bảy? Giật mình nhớ lại lời nguyền trước khi bị giết ở ải Cổ Lộng của Trần Cảo, vị vua do chính Lê Lợi lập nên, và có thuyết nói rằng cũng do chính Lê Lợi sai người giết. Có phải con cháu Lê Lợi đã phải trả nợ bớt một đời (đế vương) cho Trần Cảo?
Lại nghe một cuốn gia phả có đưa ra một giả thuyết khác. Rằng Lê Lợi và con cháu không phải đã trả nợ cho Trần Cảo, mà là trả cho Lê Lai, người đã liều mình cứu Chúa (là Lê Lợi). Lê Lai về sau bị giết tại chân thành Đông Quan (Thăng Long), đơn giản vì (Lê Lợi) không thể (và không muốn) thực hiện lời hứa chia đôi thiên hạ ngày trước (?). Gia phả ấy còn chép rằng khi giết Lê Lai, chính Lê Lợi đã tự làm giảm mất một đời (là đế vương) của con cháu mình. Nếu vậy thì đời còn thiếu kia của triều Lê Sơ trên long mạch Thăng Long, phải chăng đã được tính vào Lê Lai, kẻ bị giết oan vì (trót) có công lớn (là cứu Chúa) ấy? Tính vào chỗ nào? Lê Lợi có thể quên, các nhà chép sử (thời Lê) có thể quên. Nhưng nhân dân thì không quên điều ấy. Dân gian có câu: “Hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” nói về ngày giỗ của hai vị. Dù thế nào đi nữa, thì nếu không có Lê Lai, sẽ không có Lê Lợi. Cho nên Lê Lai phải được hưởng cúng trước, giỗ trước, tương đương với việc xem Lê Lai là... đời trước của Lê Lợi. Nghĩa là long mạch đã tính cho triều Lê Sơ phải bắt đầu từ Lê Lai (rồi mới đến Lê Lợi...). Thế là trước sau vẫn đủ... tám đời. Nếu quả như vậy thì cái long mạch kia xem ra vừa nghiêm khắc, lại vừa... công bằng. Từ đó cũng xin tạm đưa ra sơ đồ sau đối với triều Lê Sơ:
Đời thứ nhất: Trần Cảo (hoặc Lê Lai)? Đời thứ hai: Lê Thái Tổ Đời thứ ba: Lê Thái Tông Đời thứ tư: Lê Nhân Tông Đời thứ năm: Lê Thánh Tông Đời thứ sáu: Lê Hiến Tông Đời thứ bảy: Lê Túc Tông - Uy Mục Đế - Tương Dực Đế Đời thứ tám: Lê Chiêu Tông - Cung Hoàng Đế
Người viết sở dĩ không tính triều Lê Trung Hưng sau này vào đây bởi các vị vua triều Lê Trung Hưng ngự ở Thăng Long thực chất không phải con cháu của chính Lê Lợi, vả lại cũng đã xiêu giạt rất lâu mới trở lại kinh thành, mà thực ra có trở lại thì cũng chỉ làm hư vị (như sau đây sẽ nói) mà thôi.
Mạc Đăng Dung tàn sát con cháu Lê Lợi, cướp cơ nghiệp nhà Lê, lập ra nhà Mạc, chiếm giữ Thăng Long sáu mươi lăm năm (1527-1592), trải năm đời. Nhưng long mạch ghê gớm này không phải nơi mà đức của họ Mạc có thể giữ được lâu dài. Mạc Đăng Dung về xây kinh đô ở Cổ Trai (gọi là Dương Kinh thuộc Hải Dương), tiếng là để làm thanh viện cho Thăng Long, song thực chất là ngại chính cái long mạch ở đó. Mà chẳng riêng gì Mạc Đăng Dung. Đời sau cũng có khối anh hùng từng ngại cái long mạch đó, phải tìm nơi khác để lập đô. Bản thân con cháu Mạc Đăng Dung, trừ thời Mạc Đăng Doanh huy hoàng nhưng ngắn ngủi (trong khoảng mười năm), còn lại luôn luôn phải chạy giạt ra ngoài, thậm chí nhiều phen phải dựng hành cung ở ngoại thành, không dám vào ở trong nội cung. Triều Mạc rốt cuộc còn xa mới đạt tới cái giới hạn tám đời mà cách đó hơn năm trăm năm, Lý Thái Tổ trước khi dời đô đã xem xét long mạch mà tiên định trước.
Triều Lê Trung Hưng (Lê mạt) kế tiếp nhà Mạc, song thực ra chỉ có hư vị. Thăng Long nằm trong tay chủ nhân đích thực là các Chúa Trịnh. Nhà Chúa kể từ khi Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm nổi lên đã có lời “sấm”: “phi bá, phi đế, quyền khuynh thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ”. Lại đúng tám đời thì nhà Chúa phúc hết, vận tan...
Lịch sử đã đành không thiếu gì những sự trùng hợp lý thú. Song tác động ghê gớm của long mạch là một điều hoàn toàn có thật, từ xưa tới nay, không ai có thể xem thường. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa quá khứ - hiện tại và tương lai... điều mà chính khoa học đang cố chứng minh và ngày càng tiến gần tới... cổ xưa. Kiến thức về long mạch của người xưa quả đã từng đạt tới những đỉnh cao kì vĩ. Tiếc rằng vì nhiều lí do, kiến thức ấy ngày nay hầu như đã bị thất truyền. Tuy nhiên, những tri thức của tiền nhân dù phong phú, kì bí đến mấy, thì tất cả đều được xây dựng trên một nền tảng là đạo lý làm người. Chỉ hy vọng rằng cái nền tảng ấy đừng bao giờ đổ nát, thì sự thất truyền chẳng qua chỉ là vận hạn, tạm thời. Nếu được như thế thì sẽ đến lúc, những tri thức ấy sẽ trở lại, sẽ tồn tại cùng với muôn đời con cháu chúng ta sau này.
Viết tại Tân Uyên - Bình Dương 11/2005
Nguồn: Người Hà Nội, số 45, tháng 11.2005
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 19:01:17 GMT 9
Li Tana Một Việt Nam khác? Vương quốc họ Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18 Lê Quỳnh dịch Li Tana sinh năm 1953, tốt nghiệp cao học về lịch sử Việt Nam ở Đại học Bắc Kinh (1983), trình luận án tiến sĩ về lịch sử Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 tại Đại học Quốc gia Úc năm 1992. Hiện bà Li Tana công tác ở Trường Nghiên cứu Châu Á và Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Úc. Quyển sách của bà, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, đã được dịch sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1999. Bài dưới đây viết về vương quốc của họ Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18, được biết đến với tên gọi Đàng Trong, hay người Phương Tây gọi là Cochinchina. Chỉ trong vòng 200 năm, nó đã kiểm soát phần diện tích bằng ba phần năm lãnh thổ nước Việt Nam ngày nay. Những trải nghiệm của việc mở rộng biên giới về phía nam này có vẻ như đặt vấn đề về hình ảnh của một Việt Nam rất khác so với vùng lãnh thổ phía bắc khi đó, mở ra cánh cửa đến một thế giới khác, thế giới mà trong đó sự đa dạng được chấp nhận và tận dụng cho sự phát triển của chính Việt Nam.
Người dịch Vương quốc của họ Nguyễn thế kỷ 17 và 18, kiểm soát khu vực mà sau này Tây Phương biết đến với cái tên Cochinchina, có gốc rễ tại khu vực miền Trung của Việt Nam thời hiện đại. Biên niên sử nhà Nguyễn mô tả Nguyễn Hoàng, giữ chức trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, nơi khi đó đánh dấu đường biên giới phía nam của Đại Việt, là người sáng lập vương quốc phía nam. Chiến tranh nổ ra năm 1627 giữa nhà Nguyễn ở phương nam và chính quyền Le–Trịnh. vốn kiểm soát khu vực từ Nghệ An đến đồng bằng sông Hồng. Bằng việc tạo dựng một nhà nước mới, nhà Nguyễn đặt mình vào vị trí phản loạn đi kèm với nguy hiểm vì họ yếu hơn phe chúa Trịnh ở gần như mọi mặt. Miền Bắc có những định chế vững chắc từ lâu, lãnh thổ rộng gấp ba, bốn lần so với nhà Nguyễn, và sức mạnh quân sự của họ cũng lớn hơn. Ngoài ra, phe họ Trịnh được thành lập ở một khu vực mà dân cư là người Việt và nghĩ là họ cai trị người của dân tộc mình, trong khi chính quyền nhà Nguyễn cai trị vùng đất từng thuộc Champă, một vương quốc Ấn hoá có những truyền thống khác hẳn so với người Việt [1] . Tuy nhiên, chính quyền nhà Nguyễn đã không chỉ tồn tại, đánh bại bảy chiến dịch của họ Trịnh, mà còn lần hồi đẩy biên giới vào sâu phía nam, kiểm soát ba phần năm phần lãnh thổ tạo thành nước Việt Nam ngày nay chỉ trong khoảng thời gian 200 năm. Vì sao những thế lực hoạt động trong môi trường mới lại tồn tại và thành đạt, trong khi thế lực vẫn ở lại trong môi trường quen thuộc thì chùn bước?
Không gian để tung hoành và sự phát triển của các yếu tố xã hội mới có vẻ đã cung cấp một sự kích thích trọng yếu cho điều mà sau đó sẽ phát triển thành một xã hội và thực thể tách khỏi mô hình Nho giáo của triều Lê. Những khác biệt này có thể được thấy ở nhiều khía cạnh đời sống [2] . Nếu dân số tăng trưởng và chu kỳ thiên tai gia tăng [3] đã khiến cuộc sống ngày càng bất ổn và nghèo đi ở phương bắc của Lê / Trịnh, thì ở phương nam của họ Nguyễn, sự trù phú thiên nhiên lại thắng thế và dân số thì ít. Nếu các tai hoạ kinh tế, chính trị từ cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18 đã buộc người nông dân xứ bắc phải bỏ nhà, lang thang sang vùng đông nam hay tây bắc, thì các gia đình người Việt ở vương quốc nhà Nguyễn năng động lại sẵn lòng di dời để sống chung với những dân tộc khác ở vùng biên thay đổi, rộng mở.
Từ thế kỷ 17, đồng bằng sông Hồng không còn là trung tâm duy nhất của văn minh Việt: một trung tâm mới – Phú Xuân (Huế) – đã thách thức Thăng Long (Hà Nội), và một khu kinh tế xã hội quan trọng thứ hai – Thuận Quảng – hình thành cách xa khỏi đồng bằng sông Hồng. Đây không đơn thuần là một sự mở rộng về nam của xã hội và nền kinh tế cũ của người Việt, mà đúng hơn, một xã hội mới đã phát triển, với một nền tảng văn hoá khác và những hoàn cảnh kinh tế, chính trị khác. Là cư dân của một khu vực mà chính quyền thù địch Lê / Trịnh chưa bao giờ chính thức từ bỏ quyền kiểm soát, người ở phía nam Việt Nam mô tả lãnh thổ của họ là “Đàng Trong” và gọi khu đồng bằng sông Hồng phía bắc là “Đàng Ngoai”. Cách dùng từ như vậy thể hiện rõ rệt là họ xem phương nam như một thực thể riêng, và sự trỗi dậy của những khác biệt giữa hai khu vực tương đương với hai cách làm người Việt khác nhau [4] .
Sự hình thành Đàng Trong là một sự thay đổi sâu sắc và căn bản trong lịch sử Việt Nam, mà tầm quan trọng có thể so sánh với việc Việt Nam giành lại độc lập từ Trung Quốc thế kỷ 10. Thoạt nhìn, những sự kiện này có vẻ, giống như cách chúng thường được mô tả trong sách sử chính thức hồi thế kỷ 19, không hơn gì mấy một câu chuyện về sự sống còn và cuối cùng thành công của một gia đình đã thất thế ở Thăng Long. Thế nhưng, những thành công của nhà Nguyễn đã tạo nên một xã hội mới và một văn hoá mới. Các yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định: trong vài thập niên ngắn, dù là một khu vực mới mở, ít dân hơn, và vào giai đoạn này còn nhỏ hơn đồng bằng sông Hồng, nhưng Đàng Trong trở nên giàu có và mạnh hơn vùng đất phương bắc (mặc dù không đủ mạnh để lật đổ họ Trịnh). Cả điều kiện kinh tế của người dân và sự cởi mở có thể so sánh của xã hội tại Đàng Trong tương phản một cách có lợi so với cái gọi là “chính quyền trung ương” của vương quốc nhà Lê. Những lợi thế này lập thành nền tảng của quá trình nam tiến mà cuối cùng đưa họ đến đồng bằng sông Mekong [5] . Đàng Trong trở thành đầu tàu thay đổi mang tính lịch sử, và kéo trọng tâm quốc gia – dù là được nhìn theo nghĩa chính trị, kinh tế hay thậm chí văn hoá – về hướng nam từ thế kỷ 17 cho đến khi người Pháp áp đặt sự cai trị [6] .
Một miền Nam hữu Phật, phi Nho
Đối với người Việt trong thế kỷ 16 và đầu 17, phương nam, và cái ý niệm về nơi này, mang ý nghĩa không chỉ là một nơi để sống. Vùng đất phương nam hứa hẹn nhiều lựa chọn. Việc giữ vị trí là “phản loạn” hay “bất hợp pháp”cho nhà Nguyễn một cảm thức tự do được thử mọi thứ có khả năng thực hiện mà không phải tham khảo những quy chuẩn ràng buộc của luân lý Nho giáo. Ví dụ, một điều chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, nhà Nguyễn cho phép người Nhật và Trung Quốc làm quan, và cho người Tây phương có vị trí trong triều, ngay cả nếu chỉ làm thầy thuốc. Đồng thời, việc họ sống trong một phần của thế giới Đông Nam Á cho phép cư dân Việt mượn, pha trộn và hấp thu rộng rãi từ các nền văn hoá của người Chàm và các dân tộc khác trong khu vực.
Trong những hoàn cảnh như thế, chế độ nhà Nguyễn thấy có lợi khi họ nhấn mạnh tính cách địa phương của mình. Khi xưng vương năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát tự hào tuyên bố, “Nhà nước ta, phát tích Ô châu” [7] , dùng cái tên có màu sắc địa phương mạnh để chỉ nơi xuất thân của hoàng gia và nhiều quan cao cấp. Châu Ô nhấn mạnh một nhận thức về Đàng Trong như một đất nước riêng đã phát triển kể từ đầu thế kỷ 17. Sự nhận diện này thực tế bao hàm hai ý nghĩa: một đất nước ngang hàng với miền bắc và một chế độ mang chất địa phương với người địa phương, chứ không mang tính xa lạ. Cái cảm thức thứ hai này liên quan đến tính chính danh và sự tự tin của nhà Nguyễn.
So sánh với miền bắc, nơi chế độ thi cử kiểu Trung Hoa bảo đảm rằng Nho giáo không bao giờ để mất sức hút đối với giai tầng sĩ phu tinh hoa, tư tưởng Nho giáo lại chỉ đóng vai trò xã hội, chính trị nhỏ hơn nhiều ở Đàng Trong. Tôi mượn lời của Nola Cooke:
Nho giáo ở Đàng Trong trở thành chuyện lựa chọn và thực hành cá nhân, ở một mức độ không thấy có ở miền bắc kể từ thế kỷ 13. Trên thực tế, vị trí của nó trong không gian tư tưởng ở phương nam khiêm tốn đến nỗi không ai màng đến việc ghi chép lại sự kiện khi một ngôi đền nhỏ kiểu Văn Miếu đầu tiên được dựng lên ở đó. [8]
Nhưng nhà Nguyễn không loại bỏ các truyền thống Việt Nam khác; đặc biệt, họ lấy Phật giáo Đại thừa làm giải pháp cho nhu cầu tinh thần và ý thức hệ cho một tông tộc cai trị mới. Phật giáo một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và củng cố tính hợp pháp cho các nhà cai trị họ Nguyễn. Từ Nguyễn Hoàng trở về sau, các chúa Nguyễn thời kì đầu tất thảy đều là những tín đồ sùng mộ Phật giáo. Ít ai có được sự tha thiết như vị chúa thứ sáu, Nguyễn Phúc Chu (cai trị từ 1691 đến 1725), người tự nhận mình thuộc thế hệ thứ 30 của dòng thiền Lâm Tế [9] . Sự khẳng định này làm nhớ lại những vị vua triều Lý thế kỷ 11, những người trở thành thế hệ thứ nhất, thứ ba và thứ năm của dòng thiền Thảo Đường, và cũng gợi lại các vị vua Trần, Thái Tôn và Nhân Tôn, nổi tiếng với thiền phái Trúc Lâm. Nhưng người ta không thấy có điều gì tương tự tại miền bắc Việt Nam kể từ khi nhà Lê thành lập, mà nền tảng của nó gắn với các lý thuyết chính trị cổ điển Trung Quốc. Tại miền Bắc, vua là đỉnh cao của xã hội, là liên hệ trực tiếp với ông trời, và vì thế đứng cao hơn mọi người. Tại đây, nếu một vị vua lại chỉ là một trong nhiều thế hệ kế tiếp của bất kỳ tông phái tôn giáo nào cũng sẽ bị xem là giảm giá trị. Tuy nhiên, thoát khỏi những ràng buộc vương quyền như thế, các vua Nguyễn ở Đàng Trong thoải mái hành đạo như họ muốn. Phật giáo nở rộ với sự ủng hộ của nhà Nguyễn, đến mức năm 1749, nhà lữ hành Pháp, Pierre Poivre, tường thuật rằng chỉ riêng ở quanh Huế đã có khoảng 400 ngôi chùa, cùng nhiều chùa ở các nơi khác [10] .
Nhắc đến đạo Phật, sự khác biệt bản chất thật sự giữa hai thực thể ở phía bắc và phía nam thể hiện ở tầm mức triều đình, tức là việc nhà Nguyễn trước sau như một bảo vệ Phật giáo và thực tế đã đưa nó thành tôn giáo nhà nước của Đàng Trong. Phải thừa nhận rằng cả các vua Lê lẫn chúa Trịnh ở phía bắc cũng bảo trợ Phật giáo trong những thế kỷ này, trong một số trường hợp cũng rất nhiệt thành. Vào cao trào ảnh hưởng của giới nho sĩ trong thập niên 1660, và chỉ vài năm sau khi các học giả đã soạn một chỉ dụ luân lý gồm 47 điều chịu ảnh hưởng Hán hoá, công kích các hành vi mê tín và hạn chế việc xây lậu các chùa Phật [11] , thì chính họ Trịnh đã mời các nhà sư Trung Hoa vào để khôi phục Phật giáo tại địa phương năm 1667. Các hoàng thân nhà Trịnh thường xuyên thăm các địa điểm Phật giáo, đi lễ, trong khi một thành viên trong gia đình họ còn lập một chi phái mới. Tuy nhiên, dù có sự bảo trợ cấp cao này, không người nào ở miền Bắc lại tin rằng Phật giáo có thể thách thức các quan niệm chính trị và ý thức hệ chính thức kiểu Trung Hoa vốn là “nguyên tắc căn bản của nhà nước” [12] . Thật ra, Phật giáo được khuyến khích ở miền Bắc chỉ ở trong mức độ nó là phương tiện giải thoát cá nhân, không trở thành đe doạ cho trật tự chính trị [13] . Nếu làm khác đi, Phật giáo chắc chắn sẽ bị kiểm soát chặt chẽ như Thiên chúa giáo, tôn giáo có nguồn gốc ngoại quốc và dính líu Châu Âu mà đã gây nghi ngờ cho cả chính quyền ở phía bắc và phía nam thời kì đó.
Việc Phật giáo miền Nam mang tính tổng hợp (syncretic) giúp nó có sự thu hút rộng rãi hơn. Ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Huế, chùa Thiên Mụ, là một ví dụ ấn tượng chứng tỏ các dòng tôn giáo khác nhau đã kết hợp ra sao, và làm thế nào mà, từ Nguyễn Hoàng trở về sau, các nhà cai trị lại có thể đan kết những thành phần khác nhau này thành một mô hình tôn giáo bản địa hợp thuỷ thổ và giúp hỗ trợ cho quyền lực của họ. Chùa Thiên Mụ toạ lạc trên một ngọn đồi có phong thuỷ mạnh tới nỗi, theo truyền thuyết địa phương kể, nó đã buộc một viên quan Trung Quốc thế kỷ 9 (Cao Biền) phải tìm cách cắt yểm đi bằng việc đào hào phía sau chân núi. Địa điểm này cũng có một ngôi đền quan trọng thờ nữ thần Po Nagar. Theo truyền thuyết Việt Nam, năm 1600, một vị nữ thần hiện ra trong hình dáng một bà lão, mà sự mô tả về bà kết hợp những yếu tố của thần Po Nagar và nữ thần của Lão giáo. Bà nói bậc quốc chủ đã đến và sẽ khôi phục vượng khí linh thiêng bằng việc lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này. Chúng ta có thể không bao giờ biết liệu lời tiên tri này được loan ra trước hay sau khi Nguyễn Hoàng hoàn tất điềm linh ứng bằng việc cất dựng chùa vào năm 1601. Điều quan trọng ở đây là khi vị chúa Nguyễn đầu tiên cất dựng chùa Phật ở điểm linh thiêng này, ông đã làm một cử chỉ có tầm quan trọng chính trị. Nếu quả như nhận định của Nguyễn Thế Anh, đây là một sự xây dựng mang tính biểu tượng tại một nơi đã có sẵn ngôi đềm mà thần linh ở đấy chưa được nhà Lê chính thức sắc phong, thì hành động của Nguyễn Hoàng lại càng mang đậm nét ý nghĩa địa phương hơn [14] .
Còn về thần Po Nagar, nữ thần lớn của người Chăm này mau chóng được Việt hoá thành Thien-Y-A-Nâ, và khu vực xung quanh Huế sau đó có nhiều ngôi đền thờ bà. Vào đầu thế kỷ 20, Leopold Cadiere đếm thấy số lượng đền còn tồn tại nhiều đến mức Nguyễn Thế Anh đặt giả thiết là “trung tâm quyền lực của nhà Nguyễn đã luôn gắn trong một môi trường chịu ảnh hưởng sâu sắc của vị thần này” [15] . Chắc chắn tại khu vực này, việc thờ phụng bà diễn ra tự do và gần gũi với gốc gác Chăm. Còn có thêm nhiều vật thờ giữa những người dân bình thường, như thờ đá, thờ cá sấu, thờ cọp [16] . Poivre viết: “Núi, rừng, sông, ngòi, ký ức về tổ tiên, lòng kính trọng đối với người đã khuất, và đặc biệt thần là thánh, đều là đối tượng của việc thờ cúng. Mỗi người có một vị thần cho óc tưởng tượng của mình” [17] . Mặc dù tôn giáo dân gian ở miền Bắc cũng có đền thờ bách thần gồm các loài thú hay cây cỏ, nhưng chính quyền tại đó cố gắng thực thi các biện pháp “thanh luyện xã hội”. Ở Đàng Trong không xảy ra điều tương tự; tại đây, nhà Nguyễn tìm cách bảo trợ thay vì trừng phạt các vị thần địa phương, công nhận rằng các vị thần miền Nam cũng đa dạng như chính xã hội miền Nam.
Những điểm tương tự với các khu vực khác của Đông Nam Á cũng thể hiện qua khái niệm vương quyền. Như O.W. Wolters đã chỉ ra, tại Đông Nam Á, “địa vị của vua là độc nhất vô nhị chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo” [18] . Đây có lẽ là lý do nhà Nguyễn đã xưng là Chúa Tiên hay Thiên Vương vào năm 1744, sau khi đã từng dùng tên hiệu chúa Sãi. Đại Sán, một vị sư Trung Quốc đến thăm Nam bộ năm 1695 nhận xét rằng cung điện của Nguyễn Phúc Chu trang hoàng bằng cờ Phật, rèm trướng, cá gỗ, những quả chuông lộn ngược giống như một ngôi chùa [19] . Làm như vậy, nhà Nguyễn chứng tỏ với thần dân là họ kết hợp uy quyền hoàng gia và tôn giáo ở Đàng Trong, và thể hiện bản sắc văn hoá và quốc gia của họ trước người Việt trong lúc cũng thể hiện với dân địa phương là họ tiêu biểu cho quyền lực cao nhất tại khu vực này. Có lẽ đi theo dấu của các láng giềng phương nam, những hành vi của nhà Nguyễn giống những điều mà các nhà cai trị các vương quốc như Chămpa và Campuchia đã làm trong nhiều thế kỷ. Họ Nguyễn cũng phân biệt mình với họ Trịnh, vốn còn chấp nhận ý niệm Nho giáo rằng hoàng đế chỉ là con trời, chứ không phải là trời [20] .
Mô hình phi Nho giáo này có hiệu quả trong xã hội Đàng Trong đến mức nó cho phép người Việt tại đó sống theo một cách khác với người bắc. Vào cuối thế kỷ 18, đáng chú ý khi thấy một viên tướng Tây Sơn ở Nghệ An chế giễu đền xã tắc, một khái niệm Nho giáo quan trọng được kính ngưỡng ở miền Bắc (Xã là nền xã thờ Thần Đất. Tắc là nền tắc thờ Thần Nông). Viên tướng nói: “Cẩu hữu lợi ư xã tắc [Một con chó cũng còn hữu dụng hơn xã tắc]” [21] . Khái niệm thần này hầu như không được dân chúng ở Đàng Trong biết tới; theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường, các đền xã tắc không xuất hiện cho mãi đến đời vua Minh Mạng (1819-1841), khi triều Nguyễn, lúc này đã cai trị toàn Việt Nam, có nỗ lực thống nhất tư tưởng tôn giáo trên toàn quốc [22] . Tình tiết này minh hoạ sự khác biệt ngày càng tăng trong tín ngưỡng giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài sau hai thế kỷ phân cách. Nhiều giá trị cũ ở miền Bắc đã đánh mất ý nghĩa của chúng, trong khi một điều mà người bắc xem là dị giáo như một nữ thần Chăm lại trở nên có ý nghĩa cho người Đàng Trong. Phật giáo – trong nhiều thế kỷ bị giới sĩ phu cuối thời Trần và Lê phê phán – lại trở thành tôn giáo chính, ở cả mức độ chính sách lẫn tín ngưỡng quảng đại ở Đàng Trong.
Tính di động dễ dàng ở miền Nam cũng trực tiếp xung khắc với tính cách ưu tiên của tập thể, một giáo lý căn bản của Khổng giáo nhấn mạnh giá trị của nhóm xã hội – gia đình, làng – hơn là nhu cầu hoặc mong ước của những thành viên của nó. Khi cách ly, các cá nhân không có bao nhiêu giá trị hay định hướng, mà cá nhân chỉ đáng kể khi hoàn thành một loạt những quan hệ cố định bên trong cộng đồng. Nói cách khác, bất kì ai không có địa vị trong một nhóm xã hội như gia đình hay làng, thì không thực sự là một nhân vị và đừng hy vọng có tương lai tốt đẹp hơn trong một xã hội làng xã truyền thống. Những con người này dường như đã là một trong những dòng di cư Việt chính vào miền Nam. Như một nhà nghiên cứu, Huỳnh Lứa, mô tả, miền Nam là một nơi dành cho “những người đã không có quyền sống trên vùng đất cũ” [23] . Hickey cũng nhấn mạnh điểm này:
Với ngôi làng mới [của miền Nam] được thành lập bởi những người có địa vị thấp chứ không phải bậc vị vọng của xã hội cổ truyền, một số lượng tri thức riêng tư liên quan những phương thức cũ không tránh khỏi bị mất đi... Tuy vậy, cũng theo lý lẽ đó, những người khai hoang lại ít chịu ràng buộc bởi những gò bó của một địa vị xã hội và những quy định trong cách hành xử của xã hội cũ, vì thế họ được tự do sáng tạo, một đặc điểm thiết yếu cho việc thay đổi thành công (và tồn tại) khi họ tiếp tục tiến xuống phía nam. [24]
Những hoàn cảnh như vậy khiến con người cởi mở và tự phát hơn, để trở thành những người dám chịu rủi ro như Nguyễn Hoàng, người mà Keith Taylor đã tinh tế mô tả là “dám mạo hiểm mà không sợ bị quy là phản loạn, bởi vì ông đã tìm thấy một nơi mà chuyện gán ghép này không còn ý nghiã” [25] . Đó là một thế giới rộng hơn, và cho con người cảm thức lớn hơn về tự do.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 19:02:22 GMT 9
Những khía cạnh xã hội của quá trình địa phương hoá của người Việt
Tính chất tứ xứ lưu dân của Đàng Trong lại được thay đổi thêm bởi môi trường trong những ngày đầu. Đất rộng người thưa, lắm cá nhiều tôm thiên nhiên trù phú – đây là một tình trạng giống với các láng giềng của Đàng Trong ở Đông Nam Á hơn là khu vực Đàng Ngoài ở miền Bắc. Vì thế, cũng tự nhiên khi họ đón nhận những khía cạnh của cuộc sống vật chất của người khác tại đây.
Ví dụ, chúng ta biết cho đến cuối thế kỷ 18 đa số các ngôi nhà của thường dân tại Đàng Trong là loại nhà cất trên cọc giống như ở các nước Đông Nam Á khác, và một loại tàu của Mã Lai, ghe bàu, đã được sử dụng rộng rãi từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Loại ghe này gần như chắc chắn được người Việt làm theo mẫu của người Chăm, vì người Chăm buôn bán nhiều với người Mã Lai, và khu vực có loại thuyền này trải dài từ Hội An xuôi xuống phía nam đến Thuận Hải [26] , là vùng đất đã có người Chăm cư trú. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam thậm chí còn đặt giả thuyết là không chỉ kỹ thuật, mà đến cả từ ghe và bàu đều là mượn của Mã Lai. Họ chỉ ra sự giống nhau của từ ghe trong tiếng Việt và từ gai trong tiếng Mã Lai (một sợi dây thừng hay dây néo cột buồm), và cho rằng từ bàu là đọc trại đi của từ prahu của Mã Lai (một thuyền nhỏ) [27] . Sự tương tự đủ mạnh để John Barrow, năm 1793, nhận xét rằng các con thuyền lớn ở vùng Tourane giống các thuyền buồm Mã Lai cả về thân ghe lẫn chằng néo các cột buồm [28] .
Ảnh hưởng Chăm cũng được thấy trong kỹ thuật làm ruộng của người Việt. Cái cày mà người Việt dùng ở đồng bằng sông Hồng và sông Mã không mạnh ở phần đế và có một cái lưỡi nhỏ. Loại cày này phù hợp cho loại đất không rắn lắm, và ở nơi ít cỏ. Những điều này đáp ứng các đặc tính đất đai ở phía bắc – đã được cày cấy trong cả ngàn năm bởi một dân số đông đúc – và loại cày này chỉ tìm thấy ở phía bắc sông Gianh, nơi đánh dấu biên giới giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Ở Đàng Trong, người Việt gặp phải loại đất cứng, cỏ dầy, và khó trồng trọt. Để trở đất, người Việt đã mô phỏng cái cày của người Chăm, vốn chắc hơn, đặc biệt ở phần đế, nhưng người Việt cũng chế thêm một cái nang để điều chỉnh góc. Các bộ phận của cây cày lấy từ mô hình Chăm thì giữ tên gọi theo tiếng Chăm, trong khi các phần gắn với cái nang thì mang tên Việt (to nang hay tế nang). Loại cày mới này được người Việt mang theo khi họ chuyển đến đồng bằng sông Mekong [29] .
Tại miền trung Việt Nam, văn hoá Chăm cũng có ảnh hưởng rộng lớn đến độ ngày nay ta vẫn thấy những ảnh hưởng này trong nhiều phong tục: từ việc ăn gỏi đến cách thức đội khăn [30] , chôn cất người chết trong huyệt theo kiểu người Chăm mặc dù người Việt không nhất thiết đã hiểu rõ nguồn gốc của những tập tục này [31] . Đáng ngạc nhiên, ngay cả mắm nêm tiêu biểu cho cách nấu nướng Việt Nam, theo một số học giả Việt Nam, cũng có thể có nguồn gốc Chăm. Một nhà người cứu người Việt chuyên về tập tục miền Nam thậm chí chỉ ra sự tương tự giữa áo dài (được gọi là quần áo “truyền thống” của phụ nữ Việt Nam mà mọi phụ nữ Việt Nam đều mặc trong dịp đặc biệt), và chiếc váy của phụ nữ Chăm (tah trong tiếng Chăm); áo dài chỉ phân biệt ở chỗ có bổ sung thêm cổ áo. Kiểu áo này rất khác với áo tứ thân vốn là trang phục trang trọng của phụ nữ miền Bắc trước thế kỷ 20 [32] .
Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất khiến người Việt mới ở phương nam khác người Việt ở phương bắc là thái độ của họ với ngoại thương. Đàng Trong ra đời trong một “thời đại thương nghiệp” [33] . Nền tảng nông nghiệp yếu ớt tại Đàng Trong thế kỷ 17 gần như không thể trợ đỡ cho cuộc đối đầu với lực lượng có ưu thế hơn hẳn của họ Trịnh, và họ Nguyễn thời kì đầu đã phải từ bỏ hành vi của tất cả các nhà nước Việt Nam trước đó và cho phép thương mại khá tự do. Tuy điều nay tự thân nó đã là bất thường, nhưng những gì diễn ra ngay sau đó thì gần như chưa từng xảy ra bao giờ: nhà Nguyễn nhanh chóng trở thành những người nhiệt tình với ngoại thương, và với người nước ngoài. Khi có cơ hội, họ mau mắn nối kết Đàng Trong với các tuyến đường thương mại Nhật Bản và Trung Quốc. Việc một phần tư của toàn bộ các thuyền có hải trình Châu Á của Nhật Bản đã tới buôn bán với Đàng Trong, và việc 30% số thuyền của người Hoa từ các nước Đông Nam Á đến Nhật từ 1647 đến 1720 xuất phát từ Đàng Trong, chứng tỏ trong thế kỷ 17, khu vực này trở thành đối tác thương mại quan trọng của Nhật, và có vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại tại Châu Á [34] . Sự tồn tại độc lập của Đàng Trong, và quyền lực cũng như của cải của nhà Nguyễn, chủ yếu dựa vào việc ngoại thương này, một tình trạng độc nhất vô nhị trong toàn bộ lịch sử Việt Nam thời trước thuộc địa. Theo gương người Chăm, Đàng Trong thế kỷ 17 đã tìm thấy tài nguyên và khí lực để tiến hành một giai đoạn bành trướng về dân số, của cải và đất đai, mặc dù có cuộc chiến với miền Bắc kéo dài 50 năm. Riêng đặc điểm này của Đàng Trong đã phân biệt nó với Việt Nam trước đó, vốn có một nền kinh tế hàng hoá yếu ớt.
Người Việt ở phía nam cũng tiếp nhận các hành vi khác như cướp biển và sử dụng binh tượng [35] . Đặc biệt, việc buôn bán nô lệ, một hành vi không thể chấp nhận ở phía bắc, lại là một phần bình thường trong cuộc sống của người Việt ở môi trường mới, như Poivre nhận thấy vào năm 1750:
Tôi yêu cầu nhà vua cho tôi ít nhất là một số người Mọi hay nô lệ để làm thợ thủ công (vì người nô lệ trong vùng này chỉ là những người thô lỗ bị người Đàng Trong bắt từ núi về). Nhà vua trả lời là điiều này không có gì khó nhưng ông gợi ý là tôi chờ sang năm sau và ông hứa sẽ cung cấp đủ cho tôi số nô lệ vào khi ấy. Ông nói thêm rằng năm nay ông chỉ có thể dàn xếp để mua hai loại nô lệ: loại man dã vì mới bắt được, chưa được giáo dục đầy đủ nên chả làm được gì có ích; và loại đã quen với vùng này và được dạy dỗ một số kỹ thuật. Nhưng tôi mới vừa mua về xong thì chúng đã bỏ trốn vì chúng muốn quay về với vợ con. [36]
Rõ ràng chúa Nguyễn đã quen thuộc với chế độ nô lệ, và việc buôn bán người Thượng đã trở nên bình thường đến độ triều đình đã đánh thuế cùng tỉ lệ với việc buôn bán voi ở khu vực Thuận Hoá [37] . Trong việc này cũng như những khía cạnh khác của đời sống, nhà Nguyễn chắc thấy rằng việc áp dụng tập tục văn hoá bản địa vừa thuận tiện lại vừa có lợi. Có lẽ không quá xa sự thật khi nói sức mạnh của nhà Nguyễn thật sự nằm trong việc địa phương hoá của họ.
Họ Nguyễn cũng hoàn toàn khác với họ Trịnh trong chính sách đối với người Hoa. Đã sống trong bóng của Trung Quốc và trải qua các cuộc xâm lăng, các nhà cai trị người Việt ở miền bắc luôn rất cảnh giác trước người Hoa, nhưng nhà Nguyễn lại có một thái độ rất thoải mái với người Hoa và cho phép các cộng đồng buôn bán quan trọng của người Hoa thành hình ở Huế, Hội An, Quy Nhơn và sau này ở Sài Gòn. Đến cuối thế kỷ 18, dân số người Hoa ở phía nam Việt Nam có lẽ ở khoảng từ 30 đến 40 ngàn [38] . Vào cuối thế kỷ 17, nhà Nguyễn tước quyền kiểm soát Biên Hoà và Mỹ Tho khỏi Campuchia, phần lớn nhờ vào nỗ lực của khoảng 3000 người Minh hương từ Quảng Đông, những người được đưa đến định cư tại đây sau khi họ xin tỵ nạn tránh khỏi nhà Thanh vào năm 1679. Hà Tiên, một cảng quan trọng chiến lược khác trên biên giới Khmer – Việt, rơi vào tay nhà Nguyễn nhờ hoạt động của Mạc Cửu, một người Minh lánh nạn từ Quảng Đông, trong đầu thế kỷ 18. Cả ba vị trí này đã phát sinh những thị trấn sung túc và thu hút ngoại thương, làm suy yếu Campuchia, trước đó vốn là quyền lực thống trị tại khu vực. Ở những thị tứ này, người Hoa là thương nhân và thợ thủ công, và một số người được bổ nhiệm làm nhân viên thuế quan, một tình trạng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Năm 1698, nhà Nguyễn chấm dứt vị thế nửa tự trị của người Hoa ở đồng bằng sông Mekong bằng việc lập phủ Gia Định. Họ ghi danh sổ sách những cư dân người Hoa ở hai làng Minh hương, xem đây là thường trú nhân chứ không phải là thương gia tạm trú. Điều này đưa nhà Nguyễn trở thành chính quyền sớm nhất tại Đông Nam Á áp dụng một chính sách địa phương hoá [39] . Trong điều kiện thuận lợi đó, người Hoa đóng vai trò phức tạp trong giai đoạn Tây Sơn, khi cả Nguyễn Ánh lẫn anh em Tây Sơn nhờ đến người Hoa để có nhân lực và sức mạnh kinh tế.
Kết luận
Sự phát triển một bản sắc Việt Nam địa phương hoá tại Đàng Trong có vẻ là một phản ứng thành công trước môi trường mới. Không có nghĩa là tôi nói người Việt ở Đàng Trong không “còn là người Việt Nam nữa”. Mà đúng hơn, như Keith Taylor đề nghị, khu vực này cho phép việc tạo dựng một “phiên bản khác của việc làm người Việt, được phân biệt nhờ sự tự do tương đối tách khỏi quá khứ của Việt Nam” [40] , đặc biệt là tách khỏi quá khứ gần của mô hình Nho giáo đã được thực thi kể từ khi nhà Lê thành lập ở phía bắc. Giai đoạn hai thế kỷ của họ Nguyễn đã tạo nên nhiều tính cách của người phương nam, thí dụ như óc tò mò và cởi mở trước cái mới và tư tưởng mới, tính hồn nhiên và khoáng đạt hơn, và thái độ không dễ dàng chịu bị ràng buộc bởi lịch sử và truyền thống.
Mặc dù những thay đổi trong thời kì này rõ ràng đóng vai trò tích cực trong văn hoá Việt Nam, nhưng chúng cũng tạo ra những sự đứt đoạn trong mối liên kết cộng đồng mà những nho sĩ Việt Nam thế kỷ 19, những người phụ trách việc viết sử chính thức về những thế kỷ này, thấy không chấp nhận được. Một bản thảo lưu giữ trong Viện Hán Nôm tại Hà Nội nói rằng trong năm thứ hai Minh Mạng (1820), nhà vua lệnh cho Quốc sử Quán viết nên bộ sử của vương quốc, chỉ rõ rằng “văn phong, cách biểu lộ và các sự kiện phải được đo lường và cân nhắc trước khi được ghi vào sách” [41] . Nhiều thông tin đã bị loại bỏ trong quá trình đo lường và cân nhắc này. Trong suốt thế kỷ 19, các sử quan có khuynh hướng lờ đi hoặc giảm nhẹ những khía cạnh không chính thống hay phi Nho giáo của xã hội Đàng Trong, ví dụ như chế độ nô lệ và liên hệ với người Chăm, Nhật Bản, và Khmer – chắc chắn đây là một nỗ lực nhằm đạt tới những cân bằng và thoả hiệp mà người ta muốn có.
Nhà Nguyễn cũng không được đối xử khá hơn trong tay các nhà nghiên cứu Việt Nam thời hiện đại. Như David Marr đã chỉ ra, các nhà viết sử Việt Nam thế kỷ 20 đã thường “được yêu cầu phải cân bằng những yếu tố liên tục với những yếu tố thay đổi trong câu chuyện” [42] . Sự thống nhất quốc gia và tinh thần chống ngoại xâm là hai chủ đề được xem là trung tâm trong kinh nghiệm làm người Việt, mà nhà Nguyễn thì vi phạm cả hai nguyên tắc này. Thứ nhất, Đàng Trong đã huỷ hoại sự thống nhất quốc gia trong hai thế kỷ. Thứ hai, viết sử sau giai đoạn Tây Sơn (một phong trào đã tiêu diệt chế độ họ Nguyễn năm 1774), các sử gia tại Hà Nội ghi công vua Quang Trung Nguyễn Huệ là đã thống nhất đất nước khi đội quân này nổi dậy đánh bại họ Trịnh, và rồi đánh bại cuộc xâm lăng của Trung Quốc năm 1789. Còn Nguyễn Ánh, người sống sót cuối cùng của họ Nguyễn, sau đó đánh bại các anh hùng Tây Sơn vốn được ca ngợi, lại có sự giúp đỡ của người nước ngoài, trong đó có các linh mục và sĩ quan Pháp, vốn bị các sử gia tại Hà Nội xem là tiền thân của chủ nghĩa thực dân Phương Tây. Có lẽ vì điều này, các sử gia nhà nước tại Hà Nội không mấy chú ý tới Đàng Trong, với luận điểm là nó chỉ đại diện cho một biến thể địa phương của một lịch sử chung mà nhân vật chính là Lê / Trịnh [43] . Họ xem vương quốc “Đại Việt” phía bắc trong thế kỷ 17 và 18 là một thực thể duy nhất bao quát toàn bộ các vùng của Việt Nam và thể hiện “tính cách Việt Nam” chung. Trong nhiều thập niên, cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài Việt Nam đều chấp nhận cách mô tả này về “một quá khứ Việt Nam đơn nhất” [44] .
Bài viết này cho rằng có hai “Đại Việt„ tồn tại vào lúc đó, và rằng thực thể ở phương nam có một ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử Việt Nam bởi vì nó thể hiện “một ý thức đa chiều hơn về bản sắc Việt Nam” [45] . Thử nghiệm của nhà Nguyễn đã mở ra một cánh cửa phát triển khác cho Việt Nam. Nó cung cấp một không gian mới mà trong đó, các phong cách của lưu dân người Việt và các láng giềng có thể giao tiếp với nhau, và thể hiện rằng xã hội Việt Nam, ngay từ thế kỷ 17 và 18, đã có thể phát triển tương đối ở ngoài cái khung Nho giáo. Và nó đánh dấu một khoảnh khắc lịch sử hiếm hoi khi người Việt Nam có cơ hội diễn giải lại truyền thống của họ theo một cách tươi mới và sinh động. Cuối cùng cánh cửa này bị đóng lại khi mà trật tự trở thành một quan ngại xã hội to lớn của triều Nguyễn sau năm 1802, một triều đại được thành lập sau một thế hệ nội chiến. Từ Minh Mạng trở về sau, triều đình tìm cách vẽ nên một hình ảnh chính thống, ổn định và trang nghiêm hơn về Việt Nam trước thế giới bên ngoài. Lịch sử xã hội Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 đã được viết lại bởi các nho sĩ thế kỷ 19 với nhu cầu “sửa lại sai trái”, và “làm gương tốt” cho tương lai theo đúng truyền thống Nho giáo. Nhưng nếu cái xã hội thành hình ở Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 đã bị các sử quan thế kỷ 19 cố tình lờ đi, thì sự bỏ qua này lại để lại một không gian hấp dẫn cho các sử gia về sau khai phá. Tôi hy vọng bài viết này là một đóng góp nhỏ cho nỗ lực đó.
Nguồn: “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th Century”, tạp chí Journal of Southeast Asian Studies, tháng Ba 1998.
© 2005 talawas
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Để đọc về phát hiện những điều quan trọng nhất giúp thay đổi cách nhìn về Chămpa, xem Po Dharma, Le Panduranga 1802-1835. Ses rapports avec le Vietnam (Paris: EFEO, 1987), hai tập (Paris: Travaux du Centre d’histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise, 1988), đặc biệt là bài của Bernard Gay, “Vue nouvelle sur le composition ethnique du Campa”, trang 49-55, và bài của Po Dharma, “Etat des derniers recherches sur la date de l’absorption du Campa par le Vietnam”, trang 59-70. Cũng xem Pierre-Bernard Lafont, “Les grandes dates de l’histoire du Campa”, trong Le Campa et la Monde Malais (Paris: Centre dHistoiré et Civilisations de la Peninsule Indochinoise, 1991), trang 6-25. [2]Một sự thảo luận rọi sáng về hai xã hội có thể tìm thấy trong bài của Keith Taylor, Regional Conflicts among the Viet People between the 13th and 19th centuries, đọc tại hội thảo “La conduite des relations entre societes et etats: Guerre et paix en Asie du Sud-Est”, Paris, tháng Bảy 1996. [3]Theo thống kê của Sakurai, trong số 49 trận lụt ở đồng bằng sông Hồng từ 1422 đến 1786, thì 22 trận xảy ra trong vòng 100 năm gần nhất. Xem: Yumio Sakurai, “A Study on the Peasant Drain During Le Dynasty in Vietnam”, To-nan A ja kenkyu 1, 16 (1978): 137 [4]Danh từ Đàng Trong và Đàng Ngoài dường như bắt đầu có trong thập niên 1620, hoặc trước hoặc ngay sau khi chiến tranh nổ ra giữa Trịnh và Nguyễn. Từ điển của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651 có chứa đựng cả hai từ này. Xem cuốn Dictionarivm Annamiticvm, Lvsitanvm, et Latinvmope (Rome: Typis & Sumptibus eiusdem Sacr. Congreg, 1651), trang 201. [5]Để tham khảo một thảo luận về từ “nam tiến”, xem Keith Taylor, Regional Conflicts [6]Xem Li Tana, Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the 17th and 18th centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program Monograph, 1998) [7]Đại Nam thực lục tiền biên (Tokyo: Keio Institute of Linguistic Studies, Mita, Siba, Minato-ku, 1961), quyển 10, trang 136 [8]Nola Cooke, “Nineteenth-Century Vietnamese Confucianization in Historical Perspective: Evidence from the Palace Examinations (1463-1883)”, Journal of Southeast Asian Studies 25, 2 (tháng Chín 1994): 284 [9]Lời tự nhận này xuất hiện trong câu ghi của ông lên một bia tại Thiên Mụ tự. Ngũ kiên Thiên Mụ tự bi, kệ số 5683, Viện Hán Nôm, Hà Nội. [10]P. Poivre, “Journal de voyage du vaisseau de la compagnie le Machault a la Cochinchine depuis le 29 aout 1749, jour de notre arrivee, au 11 fevrier 1750”, được H. Cordier in lại trong Revue de l’Extreme Orient, III (1885), trang 381. Ngày nay Huế có hàng trăm chùa và được gọi là “thủ phủ của Phật giáo”. Xem Thanh Tùng, Thăm chùa Huế (Huế: Hội Văn Nghệ Thành Phố Huế, 1989), trang 3 [11]Tiền biên, quyển 19, trang 974; Lê triều chiếu lệnh thiên chính (Sài Gòn: Bình Minh, 1961), trang 311; K. W. Taylor., “The Literati Revival in 17th-century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies 18, 1 (1987), 1-23. [12]Philippe Langlet, La Tradition vietnamienne: un etat national au sein de la civilisation chinoise (Sài Gòn: BSEI, 1970), trang 70-71. [13]Insun Yu, Law and Society in 17th and 18th Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, Korea University, 1990), trang 29. Bản tiếng Việt được in với tựa Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18 (Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 1994) [14]Nola Cooke, “Vietnamese Confucianism”, trang 283-84; Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, trong cuốn Essays into Vietnamese Pasts, do Keith Taylor và John Whitmore biên tập (Ithaca: SEAP, Cornell University, 1995), trang 49. Cũng xem A. Bonhomme, “La pagode Thien-Mau: Historique”, trong Bulletin des Amis du Vieux Huế 2, 2 (1915): 175-77. [15]Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, trang 49 [16]Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm và Mạc Đường, Văn hoá và Cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Khoa học Xã hội, TP. HCM, 1990, trang 376-77 [17]“Description of Cochinchina, 1749-50”, trong Documents on the Economic History of Nguyen Vietnam, 1602-1774, do Anthony Reid và Li Tana biên tập (Singapore: Institute of Southeast Asia Studies / ECHOSEA, Australian University, 1993), trang 84 [18]O. W. Wolters, History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives ̣(Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1982), trang 19 [19]Da Shan, “Hai Wai Ji Shi”, trong Shi Qi Shi Ji Guang Nan zhi Xin Shi Liao, do Chen Chingho biên tập (Taipei: Zhong Hua Cong Shu Bian Sheng Wei Yuan Hui, 1960), trang 15 [20]Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt (California: Văn Nghệ, 1989), trang 220-23 [21]Lời bình phẩm về xã tắc của Cao Huy Diêu vào đầu thế kỷ 19, được ghi lại trong Việt điện u linh tập, do Lê Hữu Mục dịch. (Sài Gòn: Khai Trí, 1961), trang 218 [22]Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt (California: Văn Nghệ, 1989), trang 235 [23]Huỳnh Lứa, “Quá trình khai phá vùng Đồng Nai – Cửu Long và hình thành một số tính cách, nếp sống và tập quán của người nông dân Nam Bộ”, trong cuốn Mấy đặc điểm Đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hoá, Hà Nội, 1984, trang 121 [24]Hickey, The Vietnamese Village Through Time and War, The Vietnam Forum 10 (1987): 18 [25]Keith Taylor, “Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập. (Ithaca, Cornell University Press) [26]Thuận Hải là tên cũ của tỉnh Phan Rang. [27]Nguyễn Bội Liên, Trần Văn An, Nguyễn Văn Phi, Ghe bầu Hội An – Xứ Quảng, bài tham luận tại Hội thảo quốc tế về Phố cổ Hội An, 3-1990 [28]John Barrow, A Voyage to Cochinchina, in the years 1792 and 1793 (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975), trang 319 [29]Ngô Đức Thịnh và Nguyễn Việt, “Các loại hình cày hiện đại của các dân tộc ở Đông Nam A”', Khảo cổ học, số 4-1981, trang 55-56. [30]Cách thức này được ghi lại bởi Fei Xin trong cuốn Xing Jue Sheng Lan (Bắc Kinh: Zhong Hua Shu Ju, 1954), trang 3. [31]Các ngôi mộ quanh khu vực Huế rất khác với mộ ở các nơi khác ở Việt Nam, cả Bắc lẫn Nam. Tôi đa tạ GS. Đỗ Văn Ninh, người đã chỉ cho tôi biết những ngôi mộ này theo lối Chăm cổ. [32]Phan Thị Yến Tuyết, Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1993, trang 92, 290 [33]Anthony Reid, trong cuốn Southeast Asia in the Age of Commerce, 1450-1680, tập 1&2 (New Haven: Yale University Press, 1988, 1993) [34]Về chi tiết, xin xem Li Tana, Nguyen Cochinchina, chương 3 và 4 [35]Năm 1749, Poivre thấy 12 con cọp bị 40 con voi giết trong một ngày giải trí dành cho vua và quần thần. [36]Xem: Poivre, Journal, trang 439 [37]Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, viết năm 1776 (Sài Gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hoá, 1973), quyển 4, trang 5a, 5b [38]Nguồn chính thức của Việt Nam cho con số có 20.241 người Minh hương chỉ riêng tại Quảng Nam năm 1805. Châu bản, Quyển 1, Triều Gia Long, lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia số 1, Hà Nội. Crawfurd ước tính dân số người Hoa ở Sài Gòn năm 1822 ở khoảng từ hai đến ba ngàn. Xem John Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochinchina (Singapore: Oxford University Press, 1967), trang 214. Riêng tại Hội An, dân số người Hoa được ước tính khoảng từ bốn đến năm ngàn vào năm 1642. Xem “A Japanese Residents’ Account”, trong Southern Vietnam under the Nguyen, do Li Tana và Anthony Reid biên tập. [39]Wang Gungwu,“Sojourning: The Chinese Experience in Southeast Asia”, trong Sojourners and Settlers: Histories of Southeast and the Chinese, Anthony Reid biên tập (Sydney: Allen & Unwin, 1996), trang 7 [40]“Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập. (Ithaca, Cornell University Press, 1993) [41]Xem Hàn các tập lục, ngăn số A. 1463, Viện Hán Nôm [42]David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1971), trang 4 [43]Vì những lý do chính trị trong và sau cuộc chiến Việt Nam, Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 gần như không được chú ý trong cách sách giáo khoa lịch sử xuất bản tại Hà Nội. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở miền Nam như Tạ Chí Đại Trường và Phan Khoang đã có nhiều nỗ lực để đưa thông tin về Đàng Trong vào các sách Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771 đến 1802 và Việt sử xứ Đàng Trong, trong cuối thập niên 1960 và 1970. [44]Keith Taylor, Lời nói đầu trong quyển Essays into Vietnamese Past, do K. W. Taylor và John Whitmore biên tập (Ithaca: Cornell University Press, 1995), trang 5 [45]Alexander Woodside, Political Theory and Economic Growth in Late Traditional Vietnam, bài đọc tại hội nghị “The Last Stand of Autonomous States in Southeast Asia and Korea” (Bali, 1994), trang 15
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2009 2:24:28 GMT 9
Nha Trang ngày xưa Trần Đăng Hồng 18/10/2009 “Sông kia rày đã nên đồng Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai Đêm đêm tiếng ếch bên tai Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” (Thơ Tú Xương) Vạn vật đổi thay theo ngày tháng, nhưng lịch sử vẫn khắc ghi lại muôn đời. Địa danh Kauthara (tức Khánh Hoà bây giờ) đã được nhắc đến từ năm 90 trước tây lịch do các nhà hàng hải Ấn Độ giao thương với Trung Hoa qua hải trình từ Bengal, ghé Óc Eo (thủ đô nước Phù Nam, nay là Hà Tiên, Châu Đốc), Kauthara và Sông Hồng để mua tiêu và gia vị khác. Tại các hải cảng ở Kauthara, như Chutt (Chụt) và Kamran (Cam Ranh), thương gia Ấn mua trầm hương, ngà voi, sừng tê giác và đồi mồi để bán vào Trung Quốc. Thị trấn Ya-Tră, người Việt sau này (kể từ 1653) phát âm thành Nha Trang, được lịch sử Chăm nhắc đến vào năm 653 khi nữ hoàng Jagadharma mất, dân Chăm lập đền thờ bà trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông, chính là tiền thân tháp Po Nagar – Tháp Bà - ở Cầu Xóm Bóng Nha Trang ngày nay (1). Lịch sử Vào thế kỷ thứ 1 sau dương lịch, người bản xứ ở Nha Trang thuộc sắc tộc hải đảo Malayo-Polynesien, thuộc nước Phù Nam, theo văn hoá Ấn Độ, và đến khoảng thế kỷ thứ hai mới thuộc Chiêm Thành, tức Nam Chiêm (Panduranga) có lãnh thổ từ Khánh Hoà đến Bình Thuận. Kể từ thế kỷ thứ hai, dưới thời Lâm Ấp (Chiêm Thành), hải cảng Chutt và Kamran là nơi thuyền buôn từ Ấn Độ tấp nập đến buôn bán, và truyền bá văn minh, văn hoá, tổ chức xã hội, kỷ thuật hàng hải, thương mại, nông nghiệp của Ấn Độ. Đạo Bà La Môn và Phật Giáo (Tiểu Thừa) thịnh hành ở Nam Chiêm. Như vậy, Phật Giáo đã có ở Nha Trang từ thế kỷ thứ 2, và từ Nha Trang Khánh Hoà, văn hoá Ấn Độ được truyền sang Bắc Chiêm, vốn bị ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa (nhà Hán). Vào thế kỷ thứ bảy, nhiều thuyền buôn từ Trung Đông như Iraq, Oman, rồi Java và Mã Lai cặp bến Nha Trang và Cam Ranh để buôn bán và truyền đạo Hồi Giáo. Các nhà hàng hải Âu Châu như Hoà Lan, Bồ Đào Nha cặp bến Nha Trang buôn bán vào thế kỷ 15. Như vậy, dưới thời Chiêm Thành, Nha Trang vừa là trung tâm tôn giáo (Tháp Bà), vừa là hải cảng phồn thịnh tấp nập thuyền buôn ngoại quốc, và cũng là căn cứ quân sự của Chiêm Thành. Nha Trang có một vị trí chiến lược quan trọng. Năm 774, quân Nam Đảo (Indonesia) đổ bộ vào Nha Trang đốt Tháp Po Nagar và cướp đi nhiều báu vật. Từ hải cảng Nha Trang và Cam Ranh, vào những năm 803 và 808, Chiêm Thành mang thuyền chiến tấn công vào Châu Hoan và Châu Ái của Đại Việt, rồi đem thủy quân trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java, và Patani ở Malaysia, rồi chiếm đất Đồng Nai Thượng của Khmer; năm 808 lại tấn công Châu Hoan, Châu Ái; năm 817, tấn công Kambujas (Kampuchia). Năm 1600, các hải cảng Nha Trang và Cam Ranh được Chiêm Thành trang bị đại pháo tối tân mua của Châu Âu để phòng thủ chống với Việt Nam. Nha Trang thuộc về Việt Nam từ năm 1653. Chúa Nguyễn đưa di dân từ Quảng Nam Bình Định đến Khánh Hoà, và di dân Việt sống xen kẻ với người Chăm từng cụm như da beo. Xung đột Việt Chăm thường xảy ra ở vùng đất này, phần đông do tranh chấp ruộng đất, phần thua thiệt về người Chăm. Năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu phải thoả thuận 5 điều khoản để bảo vệ quyền lợi và đối xử công bằng với người Chăm. Vào thế kỷ 18, nhiều nhà truyền giáo Âu Châu tường trình còn thấy nhiều làng người Chăm ở gần Nha Trang. Ngày nay không còn thấy làng người Chăm nào nữa. Hiện nay, trong Vịnh Vân Phong, có một đảo nhỏ tên Hòn Điệp (hay Hòn Bịp), cách bờ trên 10 km, trên đó có một sắc dân sống cô lập trong vài chục căn nhà, không giao tiếp với thế giới bên ngoài, người Việt ở Vạn Ninh gọi họ là “Dân Đàng Hạ” hay “Người Hạ”. Dân đảo có nước da ngâm đen, tai tái, có đôi mắt trắng xác, ít nói; không khiêng gánh như người Việt mà đội trên đấu. Vào đầu thập niên 30, quan huyện Vạn Ninh gọi tất cả dân đảo này vào ghi danh lập sổ Bộ Đinh, nhưng khi hỏi tên họ, thì chỉ có tên mà không có họ. Cuối cùng, quan huyện bảo: “Thôi thì đàn ông lấy họ Đinh, còn đàn bà lấy họ Trần vậy”. Xét qua phong tục, tập quán và hinh dáng con người, có lẽ đây là những người Chăm còn tồn tại ở Khánh Hoà cho tới ngày nay. Vào thời Chúa Nguyễn và Tây Sơn, Nha Trang là một hậu cần cung cấp lương thảo với kho lương thực Phước Sơn và xưởng đóng tàu chiến tại chân núi Trại Thủy (còn gọi Khô Sơn) ở Phương Sài ngày nay. Bến sông Phương Sài ngày xưa gọi là “Trường Cá”. Thành Diên Khánh , vào thời Nguyễn được gọi “Nha Trang Thành” (theo Phương Đình Dư Địa Chí của Nguyễn Siêu đời Tự Đức), là nơi tranh chấp đẫm máu nhiều lần giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn. Diên Khánh lọt vào Tây Sơn năm 1776. Tháng 5 năm Quý Sửu (1793), chúa Nguyễn Phúc Ánh cùng với Nguyễn Văn Trương và Võ Tánh đem thủy quân vào cửa bể Nha Trang, đánh phủ Diên Khánh. Một trận đánh khốc liệt giữa quân Nguyễn Ánh và Tây Sơn tại Phương Sài tháng 5 năm 1793: “Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá. Hai bên kịch chiến. Người chết, thuyền chìm đầy cả khúc sông”. Nguyễn Ánh chiến thắng, tiến lên chiếm Diên Khánh (tháng 5, 1793), sau đó tiến chiếm phủ Bình Khang (Ninh Hoà), Phú Yên, rồi tiến đánh Qui Nhơn. Vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, Tây Sơn), sai Ngô Văn Sở đem 17,000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cùng tiến vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Vương, liệu thế chống không nổi, rút quân về hậu cứ Diên Khánh, rồi về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh. Tháng 11 năm 1793, chúa Nguyễn Ánh sai hoàng tử Cảnh, giám mục Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê đến Diên Khánh tăng cường phòng giữ. Tháng ba năm Giáp Dần (1794) vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh bèn đem đại binh đến đánh giải vây, Trần Quang Diệu rút quân về. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, nên về lại Gia Định, để Võ Tánh giữ thành Diên Khánh. Tháng giêng năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem thủy quân vào đánh Diên Khánh. Một trận chiến khốc liệt khác cũng xảy ra tại Trường Cá (Phương Sài). Khi thủy binh của Trần Quang Diệu vào Sông Cái thì bị quân Võ Tánh chận đánh tại Trường Cá, hai bên tổn thất nặng nề “xác chết và ván thuyền hư chận đứng cả nước sông”(3). Do bị thiệt hại nặng về nhân mạng, Võ Tánh rút quân chạy vào thành Diên Khánh cố thủ. Trần Quang Diệu vây chặt thành. Hay tin, tháng Hai năm 1795 Nguyễn Phúc Ánh liền đem thủy binh ra cứu nhưng không lên nổi Diên Khánh nên đành phải đóng quân chận nơi cửa sông Nha Trang và các nơi núi non hiểm yếu. Quang Diệu đánh mãi không được cuối cùng phải lui về Phú Xuân, và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định. Kể từ nay cho đến ngày thống nhất đất nước (1802), Diên Khánh trở thành tiền đồn của chúa Nguyễn, lần lượt do Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Võ Tánh cai quản, và sau này là nơi xuất phát tấn công Tây Sơn ở phía bắc. Khu đất phía ngoài Cửa Nam Thành Diên Khánh có tên Mả Xá, là nơi hàng ngàn chiến sĩ của hai bên được chôn vùi tập thể, một thời có tiếng là ma oan hiện về khuấy phá. Sông Cái Nha Trang Sông Cái Nha Trang phát xuất từ ba nguồn thuộc dãy Trường Sơn. Sông này tên Chăm là Ya-Tră (người Việt phát âm thành Nha Trang), hai bên bờ toàn lau sậy nên còn gọi “Sông Lau”. Ở thế kỷ 17, sông này chảy ra biển theo ba nhánh, một nhánh có tên là Ngư Trường từ Cầu Dứa chảy ra Cửa Bé Cù Huân, như ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí. Hai nhánh kia chảy ra Cửa Lớn Cù Huân (sau này thành Xương Huân). Sông Ngư Trường sau này đã bị bồi đấp và biến mất, chỉ còn vài đoạn nhỏ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí: "Tấn Cửa Bé Cù Huân ở cách huyện Vĩnh Xương 29 dặm về phía đông nam, cửa lạch rộng 190 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước. Ngoài cửa có hòn Lam Nguyên, hòn Tằm, hòn Ba La, hòn Lớn, hòn Môn, các đảo nầy bao quanh, tàu thuyền tụ tập. Gió bắc thì tàu đổ phía nam núi, gió tây thì đổ phía bắc núi, đều được an ổn. Gần đó có thôn Trường Tây". Vì vậy, trứớc 1940, dân vùng Diên Khánh gọi Nha Trang là “Cửa”, và “Cửa Bé” là địa danh Trường Đông, phía nam Cầu Đá. Sông Cái đến địa phận Nha Trang thì chia hai nhánh, nhánh cầu Hà Ra và nhánh cầu Xóm Bóng bên Tháp Bà. Ngày xưa nhánh sông bên Tháp Bà "nước giữa dòng bên trong bên đục" bên nước trong xanh uống ngọt, bên kia màu đục uống vô mặn chát nước muối. Tổ chức hành chánh Từ thời vua Minh Mạng (1820-1837), tỉnh Khánh Hoà có Ty Bố Chánh và Ty Án Sát, đặt dưới quyền của viên quan Tuần Vũ Thuận Khánh (kiêm nhiệm cai quản từ Khánh Hoà đến Bình Thuận). Tuỳ theo tình hình chính trị, chức vị đầu tỉnh khi mang tên Tổng Đốc, khi Tuần Vũ quan phòng, sau này thành Tỉnh Trưởng. Hậu bổ Khánh Hoà năm 1842 là ông Trần Thiện Chánh (mà ca nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Nhật Trường, là hậu duệ). Quân Pháp đặt chân đến Nha Trang lần đầu là năm 1862. Vị Án Sát Diên Khánh năm 1867-1870 ở Diên Khánh là Nguyễn Thông. Năm Ất Dậu 1885, chiếu theo hiệp ước Patenôtre, quân Pháp chính thức đến Nha Trang, với viên Công Sứ Pháp đầu tiên là Lenormand, bắt đầu áp đặt chánh sách cai trị Khánh Hoà. Viên Tuần Vũ Việt Nam của triều đình Huế ở Thành Diên Khánh vào khoảng năm 1886 là Ông Trương Gia Hội. Các ông Nguyễn Thông và Trương Gia Hội đều là những vị quan tài giỏi, liêm khiết, có tâm huyết, của triều đình Huế ở Thuận Khánh (Khánh Hoà Bình Thuận), có công phát triển nông nghiệp, lập dinh điền, và là người có công khám phá vùng Di Linh Lâm Đồng mười năm trước khi Bác sĩ Yersin khám phá vùng này và Đà Lạt. Dưới thời vua Đồng Khánh, các tỉnh Bình Định, Phú yên, Khánh Hoà và Bình Thuận được gọi là các tỉnh Tả Trực Kỳ, vào năm 1886 cai quản bốn tỉnh này bởi vị Khâm Sai là Phan Liêm, con thứ ba của Phan Thanh Giảng, và Phó Khâm Sai là Phạm Phú Lâm (con quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ trong phái bộ sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ). Theo hiệp ước Patenôtre (06/06/1884) thì triều đình Huế - chính phủ Nam Triều - trên danh nghĩa cai quản một lãnh thổ nhỏ hẹp từ Khánh Hoà đến Đèo Ngang, trong thực tế mọi chuyện ở địa phương đều do Pháp định đoạt. Vào năm 1890, Ông Phan Liêm được Pháp và triều đình Huế cho làm Tổng Đốc Thuận Khánh. Một trong những tổng đốc khét tiếng tàn ác ở vùng Bình Thuận Khánh Hoà cho tới Bình Định, khoảng năm 1887, là Trần Bá Lộc. Ông theo Pháp, giúp Pháp đắc lực trong việc dẹp tan và giết hại không biết bao nhiêu chiến sĩ Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định theo vua Hàm Nghi và chống Pháp. Chỉ trong một năm (từ tháng 6 năm1886 đến tháng 6 năm 1887) cùng với thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier, Trần Bá Lộc dẹp tan được Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định. Theo “Sài Gòn Năm Xưa” của Vương Hồng Sển thì cả năm trời quân Pháp không dẹp được quân Văn Thân ở hai tỉnh này (Bình Thuận và Khánh Hoà), khi bắt được địch quân thì người Pháp chỉ nhốt vào khám. Ngược lại, khi làm Tổng Đốc Thuận Khánh, chỉ trong vòng ba tháng thì Trần Bá Lộc dẹp tan Văn Thân: khi bắt được địch quân thì chặt đầu tức khắc, “chém người như chém chuối, chém không chừa một con đỏ”. Còn đối với địch binh không chịu qui hàng, thì ông “sai bắt cha mẹ vợ con người đó đóng gông cầm tù, ra hạn trong bao lâu đó nếu không qui hàng thì cha mẹ và vợ sẽ bêu đầu, trẻ con thì bỏ vào lòng cối giả gạo, sai lính dùng chày lớn quết như quết nem”. Vì vậy, Cầu Sông Cạn ở Diên Khánh là nơi bao chiến sĩ anh hùng bị xử trảm. Trong cuộc thám hiểm Đà Lạt năm 1893, Bác sĩ Yersin bị phục kích bắn bị thương ở rừng núi Phan Rang. Nhóm phục kích là tù chánh trị vượt ngục ở Phan Thiết do một người tên Thục cầm đầu. Một tuần sau, quân Pháp bắt được 40 trong số 56 người vượt ngục, trong số đó có viên chỉ huy Thục, giải về Diên Khánh xử trảm. Trong bức thư gởi mẹ ở Pháp, Bác sĩ Yersin ca ngợi kẻ tử tù này là “rất can đảm và trầm tỉnh khác thường” trước nhát gươm kết liểu cuộc đời. Trần Bá Lộc xú danh muôn thuở. Trong bài thơ “Viếng mộ Trần Bá Lộc” tại Cái Bè (Mỹ Tho) của nhà giáo Trần Văn Hương (nguyên Thủ Tướng, Tổng Thống VNCH) năm 1919 có hai câu: “Mặt bia rờ rỡ lời khen thế, Nét mực ràng ràng giọt máu dân...” Địa danh Cầu Sông Cạn cũng là nơi xử trảm nhà ái quốc cách mạng phong trào Duy tân Tiến sĩ Trần Quí Cáp (1870-1908) ngày 15 tháng 5 năm Mậu Thân (15/6/1908). Ông đang làm giáo thọ ở Ninh Hoà. Quan tỉnh Khánh Hoà lúc bấy giờ là Án sát Nguyễn Văn Mại và Bố chánh Phạm Ngọc Quát cùng với viên khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ là Lévecque đã ra lệnh xử chém ông. Theo những hồ sơ lưu trữ tại Centre des archives Outre Mer (CAOM) (Trung tâm Văn Khố hải ngoại) ở Aix-en-Provence (Pháp), một quan chức Pháp tại phủ Ninh Hòa đến tận nhà bắt Trần Quí Cáp ngày 16/4/1908, theo lệnh của khâm sứ Pháp Lévecque tại Huế và của triều đình VN. Sau hai tháng không xét xử, ông bị chém ngang lưng ngày 15/6/1908 tại Cầu Sông Cạn Nha Trang, vì người Pháp sợ Trần Quí Cáp sẽ lãnh đạo dân chúng Khánh Hòa nổi lên gây xáo trộn, sau khi những cuộc biểu tình chống sưu cao thuế nặng bùng nổ ở Quảng Nam, rồi lan dần xuống Quảng Ngãi, Bình Định. Về phía VN, người tham dự từ đầu đến cuối trong vụ án này, và cũng là kẻ đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy nhanh chóng bản án tử hình Trần Quí Cáp là quan bố chánh, phó đầu tỉnh Khánh Hòa, Phạm Ngọc Quát. Ông ta vốn nổi tiếng là một kẻ gian tham, và đã được công sứ Khánh Hòa mô tả là “Il est intelligent, très allant, on peut tirer beaucoup de lui quand il est compromis. Il m’a rendu service ici, ce n’est pas douteux, dans les dernières semaines de son séjour; mais, il a emporté beaucoup d’argent, ...” (thông minh, rất hăng hái, có thể khai thác được rất nhiều khi ông ta có liên lụy. Không có gì nghi ngờ về việc ông ta đã phục vụ cho tôi trong những tuần lễ cuối cùng của ông ta ở đây; nhưng ông ta ẵm theo nhiều tiền bạc) (6). Ngoài ra, một người khác nghi có dính líu trực tiếp trong vụ xử tử Trần Quí Cáp là Án Sát Khánh Hoà Nguyễn Văn Mại, mặc dầu sau này Ông ta chối tội. Tư cách của Án Sát Nguyễn Văn Mại được truyền trụng khi làm Bố Chánh ở Quảng Nam như sau “Thường ngày sau khi trống đánh ba hồi, quan ngồi chễm chệ giữa công đường, xã dân đến hầu mỗi người bưng một mâm lễ, đặt dưới đất ngoài sân cho quan ngó thấy rồi sắp hàng lạy. Đối với dân thì quan hầm hét: nào giang nọc đánh, nào hăm chặt đầu, gông cổ v.v... Đã thế nhưng điều đáng buồn là khi nghe có Tây nào đến thì ôi thôi! Áo không kịp gài, giày không kịp mang, chỉ biết đứng nghe, tên thông ngôn nói chi thì dạ nấy” (Theo Trần Huỳnh Sách, học trò của Trần Quí Cáp). Xúc động với cái chết của Trần Quí Cáp, cụ Huỳnh Thúc Kháng có bài thơ chữ Hán khóc bạn: “…Bồng đảo xuân phong huyền viễn mộng, Nha Trang thu khảo khấp anh hồn…” dịch “Bồng đảo gió thu đưa chờ giấc mộng, Nha Trang cây cỏ khóc hồn thiêng”. Cụ Phan Bội Châu trong "Văn tế Thai Xuyên Trần Quí Cáp” có viết: "Nhớ khi ông ra tới trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khẳng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách!". Còn cụ Phan Châu Trinh, từ trong nhà tù Côn đảo, cũng có bài thơ khóc Trần Quí Cáp: Anh biết cho chăng hởi Dã Hàng! Thình lình sóng dậy cửa Nha Trang Lời nguyền trời đất còn ghi tạc Giọt máu non sông đã chảy tràn Tinh vệ nghìn năm hờn khó dứt Đổ quyên muôn kiếp oán chưa tan” Viên Công Sứ (tức Tỉnh Trưởng) năm 1930 và 1933, lần lượt là Ông Bréda và Ông Destenay. Viên Tuần Vũ Việt Nam cùng thời là Ung Trinh (hay Trinh Ung). Vị Tỉnh Trưởng người Việt đầu tiên ở Nha Trang là ông Hoàng Phúc Hải. Tỉnh lỵ Khánh Hoà đặt trong nội thành Diên Khánh – nên được gọi Thành – cho đến 1945. Năm 1901, Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hoà, và từ đó đến 1945 tỉnh Khánh Hoà gồm hai phủ và bốn huyện, phủ Diên Khánh có hai huyện là Vỉnh Xương (Nha Trang) và Phước Điền, và phủ Ninh Hoà có hai huyện là Quảng Phước và Tân Định. Vào đầu thế kỷ 20, ngoài hai địa hạt hành chánh biệt lập là tỉnh Khánh Hoà và thị xã Nha Trang, còn có hai cơ quan hành chánh đặc biệt gọi là Đại Lý (Délégation), như Délégation de Ba Ngòi và Délégation de Suối Dầu do một viên chức người Việt điều khiển gọi là Bang Tá. Về mặt hành chánh, Nha Trang, trước năm 1945, gồm nhiều đơn vị gọi là Phường, đặt theo thứ tự là Phường Đệ Nhất, Phường Đệ Nhị (1er quatier, 2 er quatier). Vùng ngoại ô Nha Trang gồm có Phường Sài (thường gọi Phương Sài), Phường Củi, Trường Đông (Cửa Bé), Trường Tây (Cầu Đá). Nghị định ngày 30/6/1924 của viên Toàn Quyền Đông Dương thiết lập thị trấn Nha Trang với bốn làng là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh và Phương Sài. Nghị định ngày 15/3/1944, thị trấn Nha Trang được nâng thành thị xã với năm phường là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài và Phước Hải. Phước Hải trước 1944 gồm có Xóm Giá (chuyên làm giá) và Xóm Dương, nhà cửa thưa thớt, toàn là đồng cát, gò mả và cây ma dương. Năm 1945, tỉnh lỵ được dời từ Diên Khánh tới Nha Trang. Thời Việt Nam Cộng Hoà, tỉnh Khánh Hoà gồm các quận Vạn Ninh, Ninh Hoà, Vĩnh Xương, Diên Khánh và Cam Lâm, với tỉnh lỵ Nha Trang. Ngày 27 tháng 01 năm 1958, bãi bỏ qui chế thị xã, chia Nha Trang thành hai xã, là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây, đều thuộc quận Vĩnh Xương. Cửa Bé Theo Gabrielle Vassal (4), một phụ nữ Anh có chồng Pháp là bác sĩ thú y làm tại Viện Pasteur, đã sống ba năm ở Nha Trang từ năm 1904, thì Nha Trang là một làng đánh cá nghèo nàn với khoảng 3 ngàn dân, đa số sống nghề đánh cá, nhà tranh, một ít là nhà ngói, có một khách sạn nhỏ của người Tàu, con nít còn ở truồng chơi ngoài đường. Đa số dân chúng bị bịnh mắt bét, mắt hột. Theo Gabrielle Vassal, so với vùng phụ cận Sài Gòn thời đó, thì Nha Trang quá nghèo nàn. Cửa Bé là cảng tàu tây phương cập bến, ở đó người Pháp có xây một hải đăng hướng dẫn tàu bè. Cửa Bé cũng rất nghèo nàn, cứ mỗi 15 ngày có một chuyến tàu bằng hơi nước chạy đường Sài Gòn Hải Phòng ghé cập bến Cửa Bé. Đường từ Cửa Bé đến Nha Trang là đường mòn nhỏ hẹp đầy ổ gà, với bụi cát và bùn lầy, với chiếc xe cọc cạch với con ngựa nhỏ thó. Đoạn quốc lộ qua Nha Trang cũng tương tự như vậy. Cũng khoảng thời điểm này, Nha Trang có khoảng từ 20 đến 30 người Âu Châu, đa số là Pháp, gồm nhân viên hành chánh (đa số là thuế vụ) và quân sự Pháp, kỹ sư Lục Lộ (Công Chánh), Hoả Xa (bắt đầu xây dựng) và các nhà truyền giáo. Đứng đầu là vị Công Sứ (Résident Maire) Pháp. Về mặt kiến thiêt, Nha Trang lúc đó (1904) đã có Avenue de la Plage (Đại lộ Duy Tân) chạy dọc biển, dọc đó đã có Viện Pasteur (xây năm 1895), dinh Công Sứ (khu Tỉnh Trưởng), dinh Quan Năm (tức Bác sĩ Yersin, xây 1895) ở Xóm Cồn, vài nhà người Pháp, một khách sạn (có lẽ khách sạn La Frégate) dành cho người Âu Châu và Bưu Điện. Nhà của người Pháp xây bằng gạch tường quét vôi trắng, mái ngói nâu, nhà có 3 gian, mặt trước là hàng hiên, phía trước là một vườn hoa rộng. Mặt sau là một nhà cách biệt gồm nhà bếp, phòng dành cho gia nhân người Việt khoảng 4-5 người. Chợ Nha trang vừa được xây (chưa phải Chợ Đầm), nền xi măng, mái ngói, còn nhỏ hẹp, chợ nhóm ngày hai buổi, sáng và chiều, trái cây, rau cải, cá mắm bán la liệt chung quanh chợ. Vào mùa khô thì chợ đầy bụi bậm, vào mùa mưa thì ngập nước phải lội có khi tới đầu gối. Chợ Đầm Nha Trang được xây cất lại đầu thập niên 1930s, nền cao trên 1 m để tránh ngập lụt, dài và rộng thoáng hơn trước, dọc theo đường phố và bờ hổ có xây nhiều kiosks. Chợ này bị cháy hoàn toàn năm 1966, và được xây cất lại trên khu đất kế cạnh, vốn là một cái đầm được lấp. Đó là Chợ Đầm ngày nay. Con đường từ Lầu Quan Năm (Yersin) sát bờ sông, chạy dọc bờ tường Khu Công Sứ, có tên “Rue de l’Observatoire”, sau 1950 đổi thành đường “Thiên Văn” rồi “Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Cũng theo bút ký của Gabrielle Vassal, thì năm 1904, Nha Trang có 3 đầm nước, đứng ở Tháp Bà nhìn thấy rõ 3 đầm này. Hai đầm ở hai bên quốc lộ 1, nhỏ và cạn, sau này dần dần bị lấp, canh tác rau muống (địa danh Rọc Rau Muống), còn ít dấu vết đầm lầy khoảng 1950, và hoàn toàn không còn dấu vết vì xây dựng nhà cửa như hiện nay. Đầm lớn nhất là vị trí Chợ Đầm Nha Trang ngày nay, có một đoạn có bờ lát đá. Chung quanh Đầm là “Quai du Marché” – đường Bến Chợ. Trứơc 1950, Đầm rất sầm uất với ghe buôn bán tấp nập. Ở phía bắc Đầm có bến bán tre, lò o, nên có Xóm Lò O (ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bến Chợ). Sau 1966, Đầm này bị lấp để xây cất chợ Nha Trang ngày nay. Y tế Bệnh viện Nha Trang– nhà thương thí- được thiết lập khoảng 1890 do Bác sĩ Yersin đề xướng. Năm 1896, dịch hạch xuất hiện ở Nha Trang, nạn nhân chết đầu tiên lại là Bác sĩ Thú y Pesas, viên trợ lý của Bác sĩ Yersin tại Viện Pasteur Nha Trang phụ trách sản xuất huyết thanh tại Suối Dầu. Tháng 6 năm 1899, dịch hạch tái phát ở Xóm Cồn, rồi đến tháng 12 năm đó lan rộng đến hai làng khác ở Nha Trang. Để diệt trùng, nhà cửa đâu đâu cũng đều được xịt nước vôi trắng xoá. Sau đó, chính quyền phải cho đốt sạch nhà cửa (để tiêu diệt chuột), di tản dân chúng đến vùng khác và tiêm ngừa huyết thanh toàn thể dân chúng Nha Trang mới ngăn chận được dịch hạch. Cũng trong thời kỳ này, dân vùng quê Diên Khánh mắc bịnh và chết vì sốt rét rất nhiều. Công trình phát triển Nha Trang phải nói là nhờ Bác sĩ Yersin. Bác sĩ Yersin đến Việt Nam ngày 18 tháng 10 năm 1890, đặt chân đến Nha Trang ngày 29 tháng 7 năm 1891, và qua đời ngày 01 thảng 3 năm 1943, chôn trên một ngọn đồi nhỏ trong vườn cao su Suối Dầu. Viện Pasteur đựợc xây năm 1895 do Bác sĩ Alexandre Yersin chủ xướng. Với 5000 đồng bạc do toàn quyền Đông Dương Chevassieux trợ cấp, Yersin lập một phòng thí nghiệm đơn sơ tại bờ bể Nha Trang, và cất tại Suối Dầu một trại nuôi trâu bò, lừa ngựa, cùng thỏ chuột, dùng cho việc thí nghiệm. Năm 1896, ông được chánh phủ biệt phái một viên thú y nhà binh là Pesas đến săn sóc thú vật. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến thị sát Nha Trang và thăm viếng Viện Pasteur. Cũng năm này, Yersin chọn cái lô-cốt hai tầng bỏ hoang gần xóm Cồn tại cửa Sông Cái để xây nhà ông –Dinh Ông Năm. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, nơi đây vốn là một đồn biên phòng rất lâu đời. Dinh Ông Năm mỗi bề khoảng 7m50, có 3 tầng. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc, có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn. Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu. Năm 1897, Bác sĩ Yersin cho nhập nội giống cao su vào trồng thí nghiêm ở Suối Dầu, và sau đó với sự cộng tác của kỹ sư canh nông Vernet, hơn 100 ha cao su được trồng vào năm 1909. Năm 1915, Bác sĩ Yersin cho trồng thí nghiệm cây kí ninh ở Hòn Bà để cung cấp thuốc trị sốt rét trong thời đệ nhất thế chiến. Bác sĩ Yersin cũng mở hai trại nuôi bò, một ở đảo Hòn Tre và một ở Suối Dầu. Về sau, bỏ đảo Hòn Tre, và bò ở Hòn Tre trở thành bò rừng. Trường học Năm 1902, khi Ông Beau lên làm Toàn Quyền Đông Dương thay thế Toàn Quyền Paul Doumer, Ông bãi bỏ Nho Học thay vào bằng chữ Pháp, lập Y Tế Cục, lập nhà thương, bưu điện, sở công chánh. Vì vậy, Nha Trang có một trường tiểu học kiểu mẫu dạy chữ quốc ngữ khánh thành năm 1906, đó là Trường Nam Tiểu Học Nha Trang. Toàn tỉnh Khánh Hoà vào năm 1906 có 24 truờng tổng. Ông Nguyễn Văn Hai đến nhậm chưc Án Sát tháng 11 năm 1905, là người có công xây dựng các trường học ở Khánh Hoà. Về tình trạng văn học và giáo dục ở Khánh Hoà đầu thế kỷ 20, Án Sát Nguyễn Văn Hai viết nhận xét năm 1911 « Dân cư hai tỉnh Thuận Khánh phần đông làm nghề nông, không chuộng văn học, sở xưng cư trú trong tỉnh phần nhiều là Nghệ Tỉnh ngụ cư. Ngưới làm việc phần nhiều học trò người Quảng Nam, Quảng Ngãi. Còn người bản tỉnh, ngoài những người làm ruộng và chăn nuôi, toàn là những người ăn chơi. Lúc ấy, khuyến thị lập trường được 24 trường, mỗi trường tốn 2-3 ngàn đồng, trong trường, bàn ghế, vật dụng, màn trướng, khí mảnh đều đầy đủ. Ai nấy phấn khởi. Tại Bình Thuận, có Tú Tài Nguyễn Hiệp Chi hội họp các bạn lập liên thành thơ quán, uỷ người đến ta xin ta câu đối : Dư ngã tẩy trừ ô nảo cựu Vị quân diễn thuyết vũ đài tân Tại Bình Thuận lập thơ xã, tại Khánh Hoà lập học trường. Cho nên một độ nhân sỉ Nghệ An, Nam Nghĩa từ Bắc vào Nam rất đông. Phàm người cựu học mà kiêm thông quốc văn, đến đó được một nghề giáo sư không đến nổi thất nghiệp. Lúc đó trú kinh Khâm Sứ Khánh Hoà thăm, thấy các trường chỉnh tề rất khen, liên tư về Cơ Mật thông tư cho các tỉnh biết. Tại Khánh Hoà lập trường như vậy nhưng học trò vào học thí là một thời đại khác. Đáng cười. Nguyên nghĩ trẻ con được 8 tuổi đến số 30 trẻ thì thiết lập một trường Tổng. Lúc đó đi hiểu thị chỉ đến các nhà phú hào để kê số trẻ có thể đi học, mà con nhà nghèo không kê vào số ấy. Đến ngày mở trường thì phần nhiều con nhà nghèo đến học, con nhà khá thì ít. Trẻ con trước kia phần đông kê khai không vào học. Các giáo sư kê tên bẩm lên. Khi nghiêm sức lại thì một số con nhà giàu thuê con nhà nghèo mạo tên đến học thế. Giá thuê mỗi tháng 3 đồng hoặc 5 đồng. Ấy là cũng một câu chuyện buồn cười lúc đầu mới lập trường. Nhưng sau lại, nhà giàu thấy con nhà nghèo đi học chưa được năm ba tháng đã biết đọc sách, đọc bài, viết thơ, v.v., mới thấy học quốc ngữ có ích, khi đó mới cho con em đi học » (Tư liệu của Trần Văn Tư, Đăc San Võ Tánh/Nử Trung Học Nha Trang 31 Năm Nha Trang Viễn Xứ Nam Cali 2006, trang 270-271). Năm 1928, thầy Cung Giũ Nguyên đến dạy học ở đây với chức trợ giáo (instituteur stagiaire). Muốn được làm thầy giáo, phải có bằng Thành Chung và phải đậu thêm Bằng Khả Năng Sư Phạm (Brevet d’Aptitude peùdagogique). Bằng này cần thiết để vào ngạch, nếu trong hai năm không đỗ thì bị sa thải. Thầy giáo trong thời này mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, chân mang dày hạ bóng nhoáng. Ngay cả các thanh tra người Pháp cũng khăn đóng, áo dài Việt nam. College de Nha Trang, tiền thân của Trung Học Nha Trang, sau này là Võ Tánh, thiết lập năm 1947 với một lớp duy nhất 1ère année (tức Đệ Thất) khoảng 30 học sinh, mượn lớp học của Truờng Nam, dạy theo chuơng trình Pháp Việt. Thầy Trương Văn Như làm hiệu trưởng đầu tiên (từ 1947 đến 1951). Về sau, Thầy Như mở trường tư thục tức trường Kim Yến. Thầy Võ Thành Điểm làm giáo sư hội hoạ từ 1947. Từ 1949, chọn được khu đất rộng, với sự giúp đỡ đặc biệt của Ông Tỉnh Trưởng đương thời Trần Thúc Linh trích từ ngân sách tỉnh, trường được xây cất và niên khoá 1952-1953, trường dời về vị trí ngày nay và mang tên Võ Tánh, gồm 8 phòng học (4 ở tầng trệt, 4 trên lầu) và dạy chương trình Việt. Nha Trang có một nguyệt san đầu tiên, năm 1930, “Les Cahiers de la Jeunesse ” viết bằng tiếng Pháp do thầy Cung Giũ Nguyên và Ông Raoul Sereone (nhân viên Hải Học Viện Nha Trang) chủ trương. Sân tennis trước Trường Nam cũng đã có vào năm 1903, dành cho người Pháp. Hải Học Viện Nha Trang được thành lập tại Cầu Đá năm 1921. Giám đốc đầu tiên là Armand Krempf. Công tác xây cất với đầy đủ trang bị khoa học và khánh thành ngày 01/01/1930. Hải Học Viện Nha Trang đã nổi tiếng quốc tế vì những nghiên cứu hải dương học kể từ năm này. Tháng Hai năm 1933, vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu đến thăm viếng. Ngày 01/01/1952, Hải Học Viện được trao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, vị giám đốc người Việt đầu tiên là Ông Ngô Bá Thành. Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ và Giáo sư Nguyễn Hải có một thời làm việc ở đây. Thầy Nguyễn Hải cũng dạy Võ Tánh khoảng 1956. Dân số Nha Trang vào năm 1905 khoảng 3,000 dân, tăng lên 40,000 dân năm 1943, 172,000 năm 1979, 213,500 năm 1989, và 340,000 năm 1998. Dân số Nha Trang tăng nhanh sau 1945 do mất an ninh vùng thôn quê, 1954 do dân di cư từ Miền Bắc chạy trốn Cộng Sản sống tập trung nhiều ở Xóm Mới Phước Hải, sau 1975 do di dân từ miền Bắc. Diện tích thành phố chính của Nha Trang năm 1998 là 7,255 ha, nếu kể phụ cận là 238,000 ha. Theo bút tích của các nhà truyền giáo (5), Nha Trang vào đầu thập niên 1930s còn nhiều nơi hoang vắng, không người ở, đêm đêm cọp lai vảng dọc biển trên đường Avenue de la Plage khoảng gần Chụt. Khoảng đất từ Nhà Thờ Núi tới biển còn hoang vu, chưa có dân cư, toàn là cát trắng, mồ mả, và cây ma dương. Trong thành phố, dân sống thưa thớt, nghề chính là đánh cá, nghề nông, một số ít là công chức. Phố xá, chỉ tập trung trên một phố chính, vẫn là ngôi chợ cũ nhỏ (chưa có Chợ Đầm). Trên Avenue De La Plage chỉ có một số biệt thự người Pháp như đã có từ 1903.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2009 2:27:28 GMT 9
Tôn giáo Theo bia đá Võ Cạnh thì đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa từ Ấn Độ du nhập vào Nha Trang từ thế kỷ thứ hai, và từ nơi đây truyền bá đến Bắc Chiêm. Di tích Phật giáo nay không còn, nhưng di tích Bà La Môn Ấn Độ Giáo là di sản văn hoá Chăm tồn tại và được dân Việt bảo tồn. Theo lịch sử Chăm ghi năm 653 dân Chăm lập đền thờ vinh danh nữ hoàng Jagadharma đã đưa đất nước Chăm thanh bình thịnh trị. Đền thờ bẳng gỗ được xây trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông có tên Ya-Tră. Đó chính là tiền thân của Tháp Bà ngày nay. Vào thế kỷ thứ 7, Hồi giáo được các thuyền buôn Á Rập du nhập vào Nam Chiêm qua các cảng Nha Trang và Cam Ranh, nhưng không thịnh hành, mãi tới thế kỷ thứ 10 mới thành công nhờ các nhà truyền đạo Hồi giáo ở Java. Tuy nhiên, đạo này chỉ thịnh hành với người Chăm ở vùng Phan Rang trở vào mà thôi. Phật giáo Đại Thừa và lễ cúng Ông Bà được di dân Việt du nhập vào Khánh hoà kể từ năm 1653. Người Việt đến đâu đều thành lập làng xã, ở đó dân Việt xây cất Đình, Chùa, Miếu và Am. Đình là nơi thờ phượng các vị tiền hiền khai phá thành làng xã, hay các vị có công, các anh hùng, hay công thần do Triều đình chỉ định thờ cúng. Đình làng cũng là nơi chính quyền làng xã làm việc, nơi hội họp của dân chúng, nơi đình đám, lễ lạc, hội hè, hát bội, bài chèo v.v. được tổ chức. Đình xây với mái ngói âm dương, tường gạch, nền cao, ở vị trí trung tâm của làng xã, trên mảnh đất cao ráo nhất trong làng. Nha Trang có Đình Xương Huân, Phương Câu, Phương Sài, Đình Ông (thờ cá Ông). Chùa là nơi thờ Phật, có vị sư trụ trì, có cổng tam quan, thường xây cất ở nơi tôn nghiêm, trên đồi cao, có nhiều cây cổ thụ. Miếu để thờ các oan hồn, tử sĩ, mỗi năm chỉ làm lễ bái một lần. Am là nơi tu thiền của một vài cá nhân, thường là nơi vắng vẻ. Ở Ngọc Hội, có chùa Kim Sơn là cổ kính nhất, có lẽ xây dựng từ 1708. Năm Canh Thân (1740), Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) sắc cho đổi tên là Chùa Qui Tôn, lại ban cho biển ngạch. Ngoài ra, chùa An Dưỡng ở Thái Thông do Ngài Thiệt Phú xây dựng có lẽ cũng từ năm 1708. Một miếu nổi tiếng và cổ xưa nhất Nha Trang còn tới ngày nay là một miếu thờ thần linh xây dựng năm 1795 trên một ngọn đồi ở Sinh Trung. Ngay sau khi lên ngôi năm 1802 vua Gia Long truyền lệnh xây dựng lại quy mô miếu này - Miếu Tinh Trung - để thờ các anh hùng, công thần, tử sĩ có công với Nhà Nguyễn. Địa danh Sinh Trung bắt nguồn từ Tinh Trung. Năm 1852, vua Tự Đức cho trùng tu lại và đặt tên Trung Nghĩa Miếu. Đức Từ Cung Thái Hậu (Mẹ vua Bảo Đại) thường đến cúng lễ hàng năm. Năm 1950, ngài hiến dâng miếu này cho Phật Giáo, và kể từ nay trở thành Chùa Kỳ Viên. Dân Nha Trang còn gọi là Chùa Núi. Vị hoà thượng đầu tiên toạ trì là Hoà Thượng Thích Thiện Minh. Chùa Hải Đức được Thiền Sư Sư Viễn Giác xây năm 1883, trong thành phố Nha Trang. Đầu tiên chỉ là một ngôi chùa nhỏ, có tên Duyên Sanh Tự. Đến 1891, xây chùa lớn trang nghiêm hơn mang tên Hải Đức Tự. Năm 1943, Đại sư Bích Không dời chùa lên đồi Trại thủy, chùa hoàn tất năm 1945. Cũng trên đồi Trại thủy, còn hai chùa nữa là Chùa Long Sơn và Chùa Bửu Phong (hay Linh Sơn). Nổi tiếng là tượng Phật cao 9 m xây dựng năm 1963, cao 14 m kể cả bệ hoa sen. Leo 152 tam cấp. Các nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo người Pháp đến Nha Trang từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Năm 1653 cha Dòng Tên là Phêrô Marques và năm 1655 một cha Giám Tỉnh Dòng Tên khác là Phanxicô Rivas đến giảng đạo tại trấn Khánh Hoà. Năm 1664, Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Société des missions étrangères) gởi Cha Chevreul đến truyền đạo ở các tỉnh Miền Trung, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc truyền đạo. Năm 1672, Cha Lambert de la Motte trên đường đi họp Công đồng Ðàng Trong cùng với hai cha Miền Nam tiên khởi là cha Giuse Trang và Luca Bền đến Chợ Mới giảng đạo.Thiên chúa giáo phát triển mạnh ở Khánh Hoà kể từ năm 1793, khi giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) được chúa Nguyễn Ánh sai đến tăng cường phòng thủ thành Diên Khánh cùng với hoàng tử Cảnh, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê. Bá Đa Lộc bấy giờ là đại công thần của chúa Nguyễn Ánh. Nhờ vậy, các làng đạo Thiên chúa giáo thành hình đầu tiên ở Khánh Hoà là xóm đạo Hà Dừa (kế thành Diên Khánh), Bình Cang (giữa Thành và Nha Trang) và Ngọc Hội (Chợ Mới). Từ các địa phận này, Thiên Chúa Giáo được phát triển đến Nha Trang và các địa phương khác ở Khánh Hoà. Vào những năm 1858-1862, phong trào “Sát Tả” chống phá Thiên Chúa Giáo dưới thời Tự Đức, các làng này bị tổn thất khá nhiều nhân mạng, một số dân theo đạo bị đem xử trảm tại Cầu Sông Cạn. Tổng số con chiên của toàn tỉnh Khánh Hoà năm 1887 là 1210 người. Nhà thờ Núi , năm 1929, Nha Trang chưa có nhà thờ, có khoảng 300 con chiên, đa số làm nghề đánh cá, nông dân, một số ít là công chức. Tuy nằm trong thị xã, nhưng Nha Trang lại là họ nhánh thuộc giáo xứ Chợ Mới. Ngày Chúa Nhật, cha sở Chợ Mới lên Nha Trang làm lễ tại một ngôi nhà trên Avenue De La Plage, hiện nay là trụ sở Tòa Giám Mục. Nha Trang lúc bấy giờ trên phương diện kiến thiết cũng chưa có gì đáng kể ngoài khu chợ với vài dãy phố buôn bán và một số biệt thự của Pháp cất dọc theo bãi biển. Nha Trang vào năm này chưa có Chợ Ðầm và Nhà Thờ Núi. Ngay sau khi được cử làm họ đạo Nha Trang, linh mục Vallet (Louis-Agrève-Célestin, 1869-1945, tạ thế tại bịnh viện Nha trang) chọn một ngọn đồi ở tây nam Nha Trang tức Núi Một để xây cất nhà thờ. Bắt đầu khởi công vào tháng 2 năm 1929, mất gần 3 năm để làm đường lên núi và chuẩn bị xây cất, năm 1932 mới thật sự xây cất, mãi tới Phục Sinh 1933 mới hoàn tất, nhà thờ Núi được Ðức Giám Mục Grangeon (Ðức Cha Mẫu) làm phép. Hơn một năm sau, nhà thờ Núi có thêm hai chuông lớn và đồng hồ còn lại cho đến ngày nay. Về sau Núi Một bị xẻ làm đôi thành con đường Nguyễn Trãi. Giao thông Đối diện với Tháp Bà bên kia Quốc Lộ 1, trên một ngọn đồi tuyệt đẹp là nhà Tập Dòng Sư Huynh La San, Tu viện Phanxicô, Tiểu Chủng Viện Hoa Mai (thành lập năm 1954), nhà Nữ Tu Kín (khánh thành tháng 9 năm 1961). Cha Maurice Bertin thuộc dòng Phanxicô đến Nha Trang bắt đầu công việc xây dựng Tu Viên PhanXicô cùng với các cha Hugolin Lemestre, André Durand và Léonard Ramon, vào khoảng tháng 6 năm 1938 và gần hai năm sau, tháng 7 năm 1940, tu viện Phanxicô hoàn tất. Quốc lộ xuyên Việt bắc nam đi qua Nha Trang đã có từ thời Chiêm Thành, nhưng núi rừng ma thiêng nước độc, lắm đèo cao, nhiều sông rộng, đường bộ chỉ dùng khi chinh chiến. Giao thông chính vẫn là đường biển, từ các cảng Chutt, Cửa Bé và Cam Ranh thuyền bè tấp nập ra bắc vào nam. Sau khi thống nhất đất nước (1802), vua Gia Long cho trùng tu lại quốc lộ Bắc Nam (Route Mandarine – Đường Cái Quan hay Quan Lộ) từ năm 1803, và thành lập các bưu trạm liên lạc bằng ngựa. Đường bằng đất, có nơi rải đá, mùa hè thì bụi bậm, mùa mưa thì lầy lội. Đến thời Pháp (sau 1885), để đặt nền cai trị lâu dài và khai thác tài nguyên, chính quyền Pháp ưu tiên trong việc thành lập dinh trại binh lính địa phương (lính Khố Xanh, Khố Đỏ) ở các yếu điểm quân sự, đặc biệt bảo vệ khu Công Sứ Pháp, thành lập cơ sở Lục Lộ để làm đuờng mới, nới rộng và tráng nhựa. Sở Lục Lộ Nha Trang được thiết lập đầu thế kỷ 20, dưới thời ông Toàn quyền Beau (1902), do các kỹ sư Pháp quản lý, công nhân là Việt Nam. Năm 1936, một hoàng tử Lào, đậu kỹ sư Công Chánh ở Paris, về Nha Trang làm ở sở Lục Lộ, cưới một cô gái Nha Trang làm vợ. Vị hoàng tử này chính là Tiao Souphanouvong, có một thời (1946-1949) cùng vua anh cai trị nước Lào. Con đường chạy dọc biển từ Xóm Cồn tới Chutt mang tên “Avenue de la Plage”. Trên đường biển, từ những năm đầu 1900’s, cứ mỗi hai tuần là có một chuyến tàu chạy Sài Gòn – Hải Phòng cặp bến Cửa Bé. Cửa Bé bấy giờ vừa có một hải đăng để hướng dẫn tàu. Tàu phải đậu ngoài khơi, hành khách là các công chức Pháp, lính Pháp, các kỹ sư lục lộ, v.v. phải chuyển qua ghe nhỏ để vào cửa sông Cửa Bé, ở nơi này có sẳn người “bản địa” để cỏng từ ghe vào bờ, và khiêng hành lý lên những xe nhỏ. Con đường chạy từ Cửa Bé đến Nha Trang vào năm 1904 được mô tả là đầy ổ gà và bụi bậm vào mùa khô, sình lầy vào mùa mưa. Nha Trang có hai chiếc xe hơi đầu tiên vào năm 1901 là của Bác sĩ Yersin: đó là chiếc Serpollet năm mã lực, chiếc xe Clément, và một thuyền máy mua từ Pháp, trong khi công sứ tại Nha Trang chưa có xe. Hai năm sau (1903), ông bán chiếc Serpollet năm mã lực này cho ông công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tậu chiếc xe Serpollet sáu mã lực. Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc Serpollet sáu mã lực, để tậu chiếc Serpollet mười một mã lực. Năm 1910, ông định mua một chiếc máy bay, nhưng vì cả Việt Nam chưa có phi trường, nên bỏ ý định đó. Air France mở chuyến bay dân sự đầu tiên Sài Gòn-Paris năm 1932, phải mất cả tuần lễ mới tới nơi. Bác sĩ Yersin đáp chuyến bay đầu tiên này để về Pháp. Đường xe lửa xuyên Việt bắt đầu thiết kế xây dựng ở Việt Nam năm 1904, đoạn Phan Rang - Nha Trang hoàn tất năm 1912 với các ga Suối Dầu, Cây Cầy, Phú Vinh, Nha Trang, Ngọc Hội, v.v. Nhà nghỉ mát của vua Bảo Đại xây cất năm 1923 trên một ngọn đồi ở Cầu Đá. Grand Hotels trên Avenue de la Plage hoàn thành vào cuối thập niên 1920s. Có hai rạp hát cinê đầu tiên của Nha Trang vào cuối thập niên 1930s. Trên đường Độc Lập có rạp Abraham, năm 1953 ông Tôn Thất Đệ mua lại đổi tên thành rạp Tân Tân. Kế gần đó là rạp Tân Tiến, chủ là một người Ấn Độ. Rạp hát bội Thạnh Xương do ông Cò Xương thành lập khoảng 1940s để đáp ứng nhu cầu xem hát bội của dân Nha Trang ngày trước. Nha Trang nổi tiếng với phong cảnh đẹp tuyệt vời. Con dân gốc Nha Trang, trong nước cũng như ngoài nước, đều hãnh diện về quê hương của mình. Nha Trang còn nổi tiếng quốc tế. Tháng 6 năm 2003, Nha Trang được Câu Lạc Bộ các vịnh đẹp trên thế giới công nhận là một trong số 29 vịnh đẹp nhất thế giới. Tin vui này đến trể. Hơn một trăm năm trước (112 năm), vào một buổi sáng đẹp trời ngày 6 tháng 5 năm 1891, một thanh niên Pháp gốc Thuỵ sĩ, 28 tuổi, làm y sĩ trên một tàu hàng hải đã sững sờ trước phong cảnh hùng vĩ và thơ mộng của Vịnh Nha Trang. Dưới ánh nắng mặt trời nhiệt đới, màu xanh của những dãy núi chập chùng trên đất liền, với các hòn đảo nhấp nhô trên sóng biển xanh, với bãi cát trắng phau thấp thoáng xa xa. Chàng trai vội viết vào nhật ký "Rời Sài Gòn phải mất 28 tiếng đồng hồ mới đến Nha Trang tàu phải neo cách bờ một dậm, và chỉ đậu lại một giờ, vì thế không lên bờ được. Thật đáng tiếc vì vùng nầy có nhiều núi non và phong cảnh rất ngoạn mục”. Hai tháng rưởi sau, ngày 29/07/1891, khi chuyến tàu trở lại vùng này, chàng xin phép lên bờ với chiếc thuyền độc mộc. Phong cảnh quá hữu tình, với bờ biển, cửa sông, các đảo ngoài khơi màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới, với khí hậu ôn hoà, đã chinh phục chàng trai. Chàng quyết định bỏ làm y sĩ trên tàu, và chọn Nha Trang làm quê hương thứ ba. Chàng làm việc trên 50 năm tại thành phố biển này, và trước khi từ trần, ngày 01 tháng 3 năm 1943, đã trăn trối với người cọng sự thâm niên, Ông Bùi Quang Chiêu của Viện Pasteur Nha Trang “hãy giữ tôi ở lại với Nha Trang, đừng cho ai lấy tôi đi. Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu”. Đó là Bác sĩ Alexandre Yersin, người đầu tiên đã mô tả vẻ đẹp của Vịnh Nha Trang, và ông đã hiến dâng cả cuộc đời ở quê hương này, nhờ đó thành phố Nha Trang mới có được nổi tiếng ngày hôm nay. Cám ơn các anh Trần-Đăng Nhơn và Trần-Đăng Lộc bổ túc và cho ý kiến. Vì thiếu nhiều tài liệu chính xác, một số thời điểm và địa danh có thể sai lầm, mong các bậc uyên bác chỉ giáo. Tài liệu chính tham khảo 1. Nguyễn Văn Huy (2005). Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam. www.thongluan.org ngày 27/02/2005. 2. Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. 3. Quách Tấn (1969). Xứ Trầm Hương. Sài Gòn: NHB Lá Bối. 4. Gabrielle M. Vassal (1912). Mes trois ans d’Annam. Paris: Hachette. 5. Nguyên Hương. Lịch sử Giáo Phận Nha Trang. www.gpnt.net/giaophan/lichsugpthem.htm 6. Trần Gia Phụng (2000). Quảng Nam Trong Lịch Sử, Toronto: Non Nước.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 4:43:50 GMT 9
Đà Lạt
Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Huỳnh Đức Hòa hôm 13/4 cho biết, tỉnh có chủ trương mời người Pháp quy hoạch lại TP Đà Lạt.
Theo Tuổi trẻ (ngày 14/4) UBND tỉnh Lâm Đồng đã mời Viện Thiết kế quy hoạch đô thị Paris và một công ty thiết kế quy hoạch uy tín khác của Pháp để thực hiện việc quy hoạch trên.
Nếu thỏa thuận được, những chuyên gia đô thị Pháp sẽ có mặt ở Đà Lạt vào tháng 6 tới để khảo sát hiện trạng đô thị này.
Đà Lạt là đô thị đã được thiết kế quy hoạch bài bản từ năm 1923, với bản vẽ đầu tiên do kiến trúc sư Pháp Ernest Hébrad đảm trách. Hiện tại, “tính chất Pháp” vẫn được xem là đặc trưng riêng của đô thị Đà Lạt.
Năm 2009, UBND TP Đà Lạt cũng đã triển khai đề án điều chỉnh quy hoạch đô thị này với nội dung chính là điều chỉnh hệ thống vành đai, tăng diện tích khu nội ô Đà Lạt lên gấp hai lần hiện nay, từ 2.730 héc ta lên 5.104 héc ta.
Theo đó nội ô TP Đà Lạt sẽ được mở rộng đến hệ thống đường vành đai ngoài và được quy hoạch thêm 4 khu trung tâm nữa trên diện tích được mở rộng (2.374 héc ta) này.
Bao gồm: khu vực cửa ngõ phía đông thành phố mở đầu đường 723 (Đà Lạt – Nha Trang) gồm các điểm nhấn như Học viện lục quân, hồ Than Thở, khu du lịch Thái Phiên... gắn với kiến trúc hiện đại cao tầng, khu vực đông nam Đà Lạt với các dự án lớn như đại học kiến trúc và nhiều dự án dân cư được quy hoạch xây dựng nhà biệt thự, nhà biệt lập; khu vực phía nam thành phố lấy hồ Tuyền Lâm làm tâm điểm nối với quốc lộ 20 về TPHCM và quy hoạch xây dựng theo phong cách hài hòa với thiên nhiên; khu vực thứ tư nằm ở phía tây Đà Lạt, mở rộng Đà Lạt lên hướng núi Lang Bian với nhiều dự án lớn như khu du lịch tổng hợp DanKia – Đà Lạt, sân bay Cam Ly, khu du lịch Cam Ly – Măng Lin... và kết nối với đường Đông Trường Sơn.
V.A (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 6:47:00 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 6:49:46 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 6:51:52 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 6:54:33 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:20:40 GMT 9
Khảo cứu tài liệu Lý SơnVietsciences-Nguyễn Đăng Vũ và Nguyễn Xuân Diện* 17/01/2010 1. Quá trình phát hiện và công bố văn bản: Ngày 31 tháng 3 năm 2009, dòng họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thông tin tới TS Nguyễn Đăng Vũ – Phó Giám đóc Sở VH-TT & DL tỉnh Quảng Ngãi về việc gia tộc đang lưu giữ những văn bản chữ Nho mà chưa rõ nội dung, rất có thể là những tài liệu có liên quan đến việc đi Hoàng Sa của tổ tiên. Ngày 1 tháng 4, TS. Nguyễn Đăng Vũ đã ra đảo Lý Sơn và tiếp cận với văn bản. Ngay sau đó TS. Nguyễn Đăng Vũ đã cung cấp thông tin cho báo chí. Liên tiếp những ngày sau đó các báo chí đã đưa tin và được dư luận quan tâm đặc biệt. Nhận thấy đây là một văn bản quý giá, góp phần chứng minh và đấu tranh đòi lại quần đảo Hoàng Sa đang bị phía Trung Quốc chiếm đóng trái phép, được TS Nguyễn Đăng Vũ thuyết phục, gia tộc họ Đặng đã bàn bạc thống nhất hiến tặng văn bản này cho nhà nước. Sáng ngày 9 tháng 4 năm 2009, tại thôn Đồng Hộ, xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tộc họ Đặng đã tổ chức một ngày giỗ đặc biệt. Con cháu trong họ từ khắp nơi trở về tề tựu đông đủ tại nhà thờ tổ để chứng kiến việc dâng hiến báu vật của dòng họ mình cho Nhà nước. TS. Nguyễn Đăng Vũ đại diện cho Sở VH-TT và Du lịch Quảng Ngãi tiếp nhận văn bản. Ngày 10 tháng 4, báo Thanh Niên công bố toàn văn bản dịch văn bản Lý Sơn của TS. Nguyễn Xuân Diện (người có mặt tại đảo Lý Sơn, trong lễ bàn giao hiến tặng tờ lệnh) và Thạc sĩ Nguyễn Đức Toàn. Ngày 10 tháng 4, tại UBND tỉnh Quảng Ngãi, trước sự chứng kiến của đại diện gia tộc họ Đặng, lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi đã trao cho đại diện Ban Biên giới của Bộ Ngoại giao Việt Nam văn bản gốc của tờ lệnh. Hiện tại (tháng 12/2009) văn bản gốc tờ lệnh được lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Việt Nam. 2. Bản phiên âm và dịch nghĩa tài liệu Lý Sơn: Phiên âm: Ngãi tỉnh Bố - Án quan vi bằng cấp sự. Chiếu đắc nguyệt tiền tiếp Binh bộ tư tự, phụng sắc Bộ hành tư, tiên hành dự bát chinh thuyền tam tao, tu bổ kiên cố, sĩ tại kinh. Phái viên cập thủy quân biền binh tiền vãng hiệp đồng sử thám Hoàng Sa xứ đẳng. Nhân khâm thử kỳ cố bát tại tỉnh chi khinh khoái thuyền tam tao tịnh tùy thuyền vật kiện các hành tu bổ. Tái xuất khứ niên sở phái chi Võ Văn Hùng cập tăng giản diên hải dân phu am thục hải trình giả, sung thuyền công thủy thủ. Tiền hậu vụ yếu mỗi tao bát danh, cai nhị thập tứ danh, vụ ư tam nguyệt hạ tuần thừa thuận sử phóng đẳng. Nhân tư biện lý các dĩ thanh thỏa, phái viên hiện dĩ thừa lê thuyền sử đáo. Tư cứ Võ Văn Hùng lân trạch thiện thủy dân Đặng Văm Siểm đẳng khả kham đà công sự đẳng. Nhân hiệp hành bằng cấp nghi thừa thuyền nhất tao suất nội thuyền thủy thủ đẳng danh tòng phái viên biền binh tịnh Võ Văn Hùng đồng vãng Hoàng Sa xứ phụng hành công vụ. Giá hải trình quan yếu, tu nghi thực lực thừa hành, vụ đắc thập phần ổn thỏa, nhược sơ hốt tất can trọng tội. Sở hữu can danh, khai liệt vu hậu, tu chí bằng cấp giả. Hữu bằng cấp. Bình Sơn huyện, An Hải phường, đà công Đặng Văn Siểm, Hoa Diêm thôn Dương Văn Định cứ thử. Thủy thủ: Danh Đề, Phạm Vị Thanh - An Vĩnh phường Danh Sơ, Trần Văn Kham - An Vĩnh phường Danh Lê, Trần Văn Lê - Bàn An ấp. Do Kim thương đội, nhị danh. Vũ Văn Nội Danh Trâm, Ao Văn , Trâm – Lệ Thủy Đông nhị danh Danh Xuyên, Nguyễn Văn Mạnh - An Hải phường Danh Doanh, Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn Trương Văn Tài Minh Mệnh ngũ thập niên, Tứ nguyệt, Thập ngũ nhật. Dịch nghĩa: Quan Án sát và Bố chánh tỉnh (Quảng) Ngãi làm việc cấp bằng này. Chiếu theo tháng trước tiếp được công văn của bộ Binh, vâng sắc (triều đình) cho bộ ấy trước là phải thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3 thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở kinh. Các phái viên và lính thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ Hoàng Sa. Nhân kính theo đó mà xem xét và tuyển chọn trong tỉnh 3 thuyền tốt, cùng với đó là các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ Văn Hùng – đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền. Cốt yếu là phải chọn mỗi thuyền 8 tên, tổng cộng là 24 tên, cứ đến hạ tuần tháng Ba thì thuận theo thời tiết mà đi. Nay, nhân các việc đã xong xuôi, các phái viên đã đi lê thuyền đến; chọn thủy thủ giỏi mà Võ Văn Hùng đã tuyển chọn là bọn Đặng Văn Siểm có thể đảm nhận công việc lái thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên thuyền theo quân của phái viên và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành việc công. Đường biển ấy là nơi quan yếu, phải dốc sức mà thừa hành để cho công việc được mười phần trọn vẹn. Nếu bất cẩn, sẽ phạm trọng tội. Các người có trách nhiệm kê ở dưới đây. Vậy nên có bằng cấp này. Trở lên là bằng cấp. Đà công Đặng Văn Siểm người phường An Hải huyện Bình Sơn và Dương Văn Định, người thôn Hoa Diêm theo đây mà thi hành. Kê: Thủy thủ: Tên Đề - Phạm Vị Thanh, An Vĩnh phường; Tên Sơ - Trần Văn Kham, An Vĩnh phường; Tên Lê - Trần Văn Lê, Bàn An ấp; thuộc đội súng ống, 2 tên. Vũ Văn Nội, Tên Trâm - Ao Văn Trâm, Lệ Thủy Đông hai tên Tên Xuyên - Nguyễn Văn Mạnh, An Hải phường Tên Doanh - Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn Trương Văn Tài Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), tháng Tư, ngày 15. (Bản dịch của Nguyễn Xuân Diện và Nguyễn Đức Toàn) 3. Khảo cứu văn bản: 3.1. Kích thước tờ lệnh: 24 x 36 cm. Trên văn bản Lý Sơn có rất nhiều dấu ấn. Ngoài dấu ấn to của Quan Bố Chánh sứ Quảng Ngãi, còn có các dấu ấn nhỏ, dùng để đóng vào nơi ghi tên người và những chữ cần đặc biệt lưu ý đối với người tiếp nhận văn bản. Ở đây là dấu ấn mang các chữ: Quảng Ngãi Án sát, theo lối chữ triện. Dấu ấn này gọi là kiềm ấn, hình vuông, mỗi cạnh 2.5 x 2.5 cm, làm bằng ngà voi. Hai dấu ấn: Quảng Ngãi Bố chánh sứ ty chi ấn (đóng từ con ấn đồng, vuông, mỗi chiều 7,5 cm) và Quảng Ngãi Án sát cùng đi với nhau, cùng có mặt trên văn bản này. Vì sao vậy? Đó là vì ở các tỉnh, khi mà Tổng đốc, Tuần phủ đi vắng, hoặc tỉnh vẫn khuyết chân Tuần phủ, nếu có việc cơ mật quan Bố Chánh phải họp với Quan Án sát sứ. Chúng ta biết rằng, tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị cấp tỉnh) vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong Hải Nam tạp trứ của Thái Đình Lan - một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt vào bờ biển tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này - lúc bấy giờ tỉnh Quảng Ngãi chưa có quan Tuần phủ riêng, tiến sĩ Phan Thanh Giản là người kiêm chức Tuần phủ Nam - Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi, nhưng chỉ đóng dinh thự ở Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý toàn bộ công việc chính trị, hành chính, chính sự, quân sự...tại Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố chánh gọi là Ty Phiên) và Án sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên và Niết đều đặt tại tỉnh thành Quảng Ngãi. Bố chánh Quảng Ngãi 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn Uyển, 1835 là Tôn Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi 1834 là Nguyễn Đức Hội và 1835 là Đặng Kim Giám. Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì cả quan Bố chánh và Án sát cần phải hiệp y. Vì thế, trên văn bản cổ này có đóng dấu của cả quan Án sát và quan Bố chánh. Và cũng chính từ 2 con dấu đỏ đóng trên văn bản này chúng ta cũng có thể suy luận thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và nhiều người khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức quan trọng và cơ mật. Ngoài ra, trên văn bản Lý Sơn còn có đóng 1 con dấu nữa, mang hai chữ Quảng Ngãi. 3.2. Về các nhân danh và địa danh trong văn bản. Những gì còn lưu lại tại gia tộc họ Võ làng An Vĩnh huyện Lý Sơn, cho phép ta khẳng định: Ông Võ Văn Hùng là người thuộc gia tộc họ Võ (Văn) tại làng An Vĩnh, một dòng họ có nhiều người đi Hoàng Sa trong nhiều thế kỷ. Cai cơ thủ ngự quản đội Hoàng Sa Phú Nhuận hầu Võ Văn Phú là một ví dụ điển hình. Bên cạnh ông Võ Văn Hùng, trong văn bản cổ có ghi những người phải thi hành nhiệm vụ (khác): đó là Đặng Văn Siểm (làm đà công, tức lái thuyền), Dương Văn Định, và các thủy thủy cùng đi, gồm: Phạm Vị Thanh, Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham, Nguyễn Văn Mạnh, Trần Văn Lê, Nguyễn Văn Dinh, Võ Văn Công, Trương Văn Tài. Trong đó có 4 người ở đảo Lý Sơn, mà lúc đó là chỉ là xã Lý Sơn, với hai phường là An Vĩnh và An Hải, thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Hai người không ghi quê quán là Võ Văn Công và Trương Văn Tài, nhưng có lẽ họ cũng là người của Lý Sơn. Ông Võ Văn Công có thể là người dòng họ Võ (Văn) ở An Vĩnh. Ông Trương Văn Tài có thể thuộc dòng họ Trương ở An Hải – một trong lục tộc tiền hiền của làng này. Sở dĩ ta có thể suy đoán ra điều đó, vì những dân binh này đều do chính ông Võ Văn Hùng tuyển chọn. Nếu đúng như vậy, thì trong số 11 người có tên trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, 7 người là người của huyện đảo Lý Sơn. Ngoài ra, văn bản cổ này còn ghi những người thuộc các huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Ông Ao Văn Trâm được ghi là ở Lệ Thủy Đông Nhị, mà Lệ Thủy Đông Nhị vốn là một xã cũng thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn (có thể tương đương với xã Bình Trị hiện nay, tức là nơi có Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Theo Đồng Khánh địa dư chí, địa danh Lệ Thủy Đông Nhị (xã) còn tồn tại đến thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888). Ông Trần Văn Lê được ghi là ở Bàn An ấp, thuộc thôn Thạch Than, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (bao gồm huyện Mộ Đức và Đức Phổ hiện nay). Bàn An là tên một thôn thuộc xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ ngày nay. Ông Nguyễn Văn Dinh (Doanh) được ghi là ở thôn Thạch Than, xã An Thạch. Đối chiếu với các sử liệu cũ, thôn Thạch Than, xã An Thạch cũng thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay tên gọi Thạch Than chỉ dùng để chỉ một thôn thuộc xã Đức Phong, huyện Mộ Đức). Như vậy hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh cùng ở thôn Thạch Than, xã An Thạch, tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa. Về hai ông Dương Văn Định và Đặng Văn Siểm, họ là những người được quan Bố chánh và Án sát trực tiếp chỉ định “cứ thử”, tức phải vâng mệnh thi hành. Như đã nói ở trên, ông Đặng Văn Siểm được xác định rõ là người phường An Vĩnh (Lý Sơn). Riêng ông Dương Văn Định, hiện vẫn chưa xác định được ở làng quê nào hiện nay. Văn bản cổ chỉ ghi là ông Dương Văn Định ở thôn Hoa Diêm (không ghi rõ xã, tổng, huyện). Nhưng thôn Hoa Diêm thời ấy nay thuộc địa phương nào? Hiện nay, các thôn trong tỉnh Quảng Ngãi có chữ Diêm (muối, tức làng làm ruộng muối), gồm: Tân Diêm (thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ), thôn Tuyết Diêm (thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn), thôn Diêm Điền (thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn)…Vì húy kỵ tên mẹ vua Thiệu Trị nên vào năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất), tất cả những tên người lẫn địa danh có chữ Hoa đều phải thay đổi, như Thanh Hoa, đổi thành Thanh Hóa, Đông Hoa thành Đông Ba, Mộ Hoa thành Mộ Đức… Hoa Diêm chắc chắn cũng phải đổi, nhưng trong 3 địa danh có chữ Diêm như nói ở trên thì thôn nào vốn là thôn Hoa Diêm? Theo chúng tôi, có lẽ thôn Hoa Diêm của ông Dương Văn Định chính là thôn Tuyết Diêm, thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Sơn hiện nay, tức là nơi có bến cảng Dung Quất bây giờ. Vì rằng, thời ấy Lý Sơn thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các dân binh được tuyển chọn, ngoài hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh là người thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa, những người còn lại đều thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Các thôn Diêm Điền, Tân Diêm đều thuộc các tổng khác (riêng Tân Diêm, nay thuộc Đức Phổ, thì với khoảng cách địa lý khá xa ấy càng không hợp lý). 3.3. Sự trùng khớp với chính sử và châu bản triều Nguyễn: Lần theo chính sử, ta thấy có một số sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung của văn bản cổ này. Sách Đại Nam thực lục, chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về những sự kiện lịch sử vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15 (1834), có ghi: “Đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Nxb Giáo dục, H. 2004, tập 4, tr.120). Sách này cũng cho biết, chính năm 1834 vua Minh Mạng đã sai binh lính đi dựng miếu và lập bia ở Hoàng Sa, nhưng vì sóng to gió lớn không làm được, nên vào tháng 6 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sai Cai đội Thủy quân Phạm Văn Nguyên đem thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu, dựng bia đá đảo Hoàng Sa (tr. 673). Sách này còn cho biết thêm, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi… Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay (1834) trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọn phái biền binh thủy quân và vệ giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói cho rõ, đem về dâng trình” (tr.867). Chuẩn theo lời tấu của Bộ Công, vua Minh Mạng sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền cùng 10 bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt khắc chữ: “Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu đẳng tự” (Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét, đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ). Đây là sự kiện mà hầu hết các bộ chính sử của triều Nguyễn, như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu… đều có ghi chép. Ngoài những trang ghi chép về sự kiện đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, sách Đại Nam thực lục, đệ nhị kỷ, quyển 204, còn ghi chép thêm rằng, phái viên Hoàng Sa là Suất đội Thủy sư Phạm Văn Biện cùng thủy quân, binh phu đi Hoàng Sa bị gió bão đánh tan nát nên đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20 (1839) mới “lục tục” về đến kinh thành. Hỏi vì sao, đoàn thuyền đi Hoàng Sa lần này cho biết, họ đã nhờ thủy thần cứu giúp. Vua Minh Mạng sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở cửa biển Thuận An đặt đàn cúng tế tam sinh nhằm cảm tạ thủy thần, rồi thưởng tiền cho Phạm Văn Biện, các biền binh và dân phu đi theo (Tập 5, tr. 532). Chỉ căn cứ theo các đoạn ghi chép nêu trên cũng đã thấy nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng là hoàn toàn trùng khớp với chính sử. Nội dung trùng khớp thứ nhất, đó là về thời gian: Hằng năm cứ vào hạ tuần tháng giêng là các phái viên, biền binh xuất quân ở kinh thành, để đến thượng tuần tháng 2 là đến Quảng Ngãi và đến hạ tuần tháng 3 là đi Hoàng Sa. Thứ hai, là về số lượng binh thuyền, Đại Nam thực lục ghi: Ngoài số binh thuyền ở kinh thành phái vào, ở Quảng Ngãi (lẫn Bình Định) còn chuẩn bị thêm 3- 4 chiếc thuyền nhẹ của dân địa phương (mà ở đây văn bản cổ họ Đặng cho biết tỉnh Quảng Ngãi năm 1834 đã chuẩn bị 4 thuyền, trong đó có 1 thuyền dành riêng cho ông Võ Văn Hùng đi với 8 thủy thủ ở tỉnh Quảng Ngãi như chúng tôi đã nêu tên ở trước). Do vậy, có thể suy ra, chuyến công vụ Hoàng Sa theo văn bản cổ của dòng họ Đặng có tất cả 7 thuyền, chứ không phải chỉ có 3 thuyền như trước đây một vài người đã suy đoán. Nội dung văn bản cổ của dòng họ Đặng còn trùng khớp với nhiều nguồn tài liệu, thư tịch bằng chữ Hán của các sử gia, quan lại ở những triều vua khác nhau, đặc biệt là những tài liệu, thư tịch có ghi chép khá kỹ lưỡng về hoạt động của đội Hoàng Sa – Trường Sa cũng như việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này. Trước hết đó là những ghi chép của Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, những ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí và Hoàng Việt địa dư chí, những ghi chép của Nguyễn Thông trong Việt sử cương giám khảo lược… Sở dĩ ta xem văn bản cổ của dòng họ Đặng có sự trùng khớp về nội dung so với các tài liệu này, bởi nhiều trang ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, hay các sách của Phan Huy Chú, Nguyễn Thông không khác mấy với các bộ chính sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí. Riêng về hoạt động của đội Hoàng Sa, ngay từ thời đầu chúa Nguyễn, thì cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng, hầu hết những trang ghi chép của các sử gia Việt Nam viết về hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa) ít nhiều cũng đã kế thừa, thậm chí có những chỗ gần như nguyên văn một số sự kiện mà Lê Quý Đôn mô tả trong bộ sách Phủ biên tạp lục biên soạn vào năm 1776, tức lúc Lê Quý Đôn theo lệnh của vua Lê - chúa Trịnh vào làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Cùng với những trang ghi chép của các sử gia phong kiến Việt Nam, các quan ở Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, đó là các tờ phúc tấu, tấu trình lên cho vua của các đình thần như Bộ Công, Bộ Hộ, các quan đầu tỉnh…, và được vua phê chuẩn bằng mực son (châu bản), đặc biệt là châu bản dưới thời vua Minh Mạng. Châu bản tập Minh Mạng số 54 cho biết, ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua đã ra chỉ dụ thưởng phạt cho những người Hoàng Sa vào năm này (trong đó có ghi phạt Phạm Văn Nguyên và những viên giám thành 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian đi Hoàng Sa, thưởng Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh vì có công hướng dẫn hải trình). Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1836) cho Phạm Hữu Nhật đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền. Tờ tấu của Bộ Hộ ngày 11 tháng 7 cũng năm Bính Thân (1836) cho xin thanh toán lương thực cho dân phu đi Hoàng Sa. Tờ dụ ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18 (1837) trong Châu bản Minh Mạng tập 57 cho biết việc sai các giám thành, biền binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi đo vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Trong năm Minh Mạng thứ 19 (1838) có 3 tờ tấu trình. Thứ nhất, đó là Tờ tấu của Bộ công ngày 2 tháng 4 (nhuận) cho biết việc hoãn thi hành công vụ đi đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa trong tháng 3 vì mưa gió kéo dài. Thứ hai, cũng là tờ tấu trình của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm (1838) cho biết: hướng dẫn viên đi Hoàng Sa là Võ Văn Hùng (người được ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng là lo việc tuyển chọn binh phu và đã tuyển chọn đà công Đặng Văn Siểm) đã cung cấp thông tin là quần đảo Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần khảo sát; lần đi năm này (1838) chỉ đi được 3 nơi, còn một nơi không đi được vì gió đang mạnh nên xin để cho năm sau đi tiếp. Hướng dẫn viên Võ Văn Hùng cũng cho biết thêm, quần đảo Hoàng Sa có tất cả 25 hòn, nhưng trong năm chỉ đi đến được 12 hòn, khảo sát và vẽ được 3 bản đồ riêng, 1 bản đồ chung, còn lại 13 hòn chưa đến được. Đây là tờ tấu trình hết sức đặc biệt, không chỉ liên quan đến ông Võ Văn Hùng có ghi trong văn bản cổ của dòng họ Đặng mà còn ghi chép khá cụ thể về việc số lượng các hòn đảo trong 4 nơi thuộc quần đảo Hoàng Sa, số lượng các hòn đảo đã được đo vẽ trong năm này. Tờ tấu trình thứ ba năm 1839 là tờ tấu trình của tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 19 tháng 7, tức sau đó chưa đầy 1 tháng, quan tỉnh Quảng Ngãi tấu trình về việc cho miễn thuế cho 2 chiếc “bổn chinh thuyền” đã đưa binh lính đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa từ tháng 3 đến hạ tuần tháng 6. 3.4. Trong các thủy thủ đi theo đoàn có hai người thuộc đội súng ống, cho phép chúng ta hiểu rằng những người đi Hoàng Sa mang theo vũ khí tự vệ. Những chữ “Do Kim thương đội nhị danh”(thuộc đội súng ống, 2 tên) nằm ở dòng cước chú (ghi chú bên dưới), nét mờ, chữ nhỏ nên khi tiếp cận trực tiếp văn bản, chúng tôi đã xem rõ những chữ này (bản dịch in trên báo Thanh Niên không có phiên âm và dịch nghĩa của mấy chữ “do Kim thương đội, nhị danh”). 4. Kết luận: Văn bản tờ lệnh vừa được dòng họ Đặng phát hiện và hiến tặng cho nhà nước là một văn bản gốc, chân thực, có niên đại tuyệt đối tin cậy. Đây là một tài liệu quý giá góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. . * TS. Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VH-TT & DL Quảng Ngãi. TS. Nguyễn Xuân Diện, PGĐ Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm
|
|