|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:38:44 GMT 9
Thay Đổi Tên Đường Của Thành Phố Sài Gòn Xưa Nay - Nguyễn Công Tánh -------------------------------------------------------------------------------- Thay Đổi Tên Đường Của Thành Phố Sài Gòn Xưa Nay Nguyễn Công Tánh Phần Một Sơ Lược Về Thành Phố Sài Gòn Từ Năm 1795 Đến 2004 Tên đường của thành phố Sài Gòn đã bị đổi thay nhiều lần qua bao nhiêu trào lưu lịch sử của nước Việt Nam kể từ khi có sự xuất hiện của đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp đánh phá vụng cảng Đà Nẵng rồi quay xuống phía Nam đánh chiếm thành Gia Định vào năm 1861. Có thể nói rằng thành phố Sài Gòn là một thành phố lớn nhất của nước Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào từ tháng 8 âm lịch năm Đinh Dậu (7-9-1788) là thời điểm Nguyễn Vương Phúc Ánh phá tan quân Tây Sơn để chiếm lại đất Gia Định một cách vĩnh viễn và kể từ năm đó đến năm 1801, Nguyễn Vương lập Kinh đô Gia Định dùng làm bàn đạp để Bắc tiến: Đầu năm Canh Tuất (1790), xây đắp lại một thành đồn cũ ở làng Tân Khai cho rộng thêm. Đồn nầy còn có tên là đồn Nghi Giang (Rạch Thị Nghè ngày nay) hay Đồn Đất. Thời Pháp thuộc, trên địa danh nầy là một bệnh viện quân đội của Pháp có tên là Hopital Grall, rồi trước 30 tháng 04 năm 1975 đổi gọi là Nhà Thương Đồn Đất, sau 1975 đổi gọi là Bệnh Viện Nhi Đồng số 2. Sau khi xây đắp lại, đồn đất Tân Khai trở nên một thành lũy kiên cố tráng lệ tức là thành Gia Định còn gọi là thành Bát quái hay thành Qui (hình con rùa). Về thành mới nầy, Trịnh Hoài Đức mô tả khá rõ ràng trong sách Gia Định Thành Thông Chí (GĐTTC) : "Ngày 4 tháng 2 mùa xuân năm Canh Tuất thứ 13 (1790) mới đắp thành Bát quái ở gò cao thôn Tân Khai đất huyện Bình Dương, thành như hình hoa sen, mở tám cửa, tám đường đi ngang dọc, bề đông tây 131 trượng 2 thước, bề nam bắc cũng thế, cao 10 thước, chân dày 7 trượng 5 thước, đắp làm 3 cấp. Ngồi ngôi kiểu trông hướng Tốn. Trong thành đằng trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho trữ tích, bên hữu là Cục chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quân túc vệ ở..., thành đặt xong, ngoài thành đường ngõ, phố chợ bày hàng ngang dọc, đều có thứ tự. Đường quan lộ bên tả từ cửa Chấn hanh qua cầu Hòa Mỹ, qua sông Bình Đồng mà đến trấn Biên Hòa"(1) Tuy nhiên, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn thì còn có một con đường quan lộ khác cũng xuất phát từ cửa Cấn Chỉ của đồn thành cũ Tân Khai hướng về phía bắc, nguyên xưa khai thác từ Tất Kiều (nay là Cầu Sơn) phía bắc đến Bình Trị(?) ruộng bùn lầy lội chưa mở, hành khách muốn đến Biên Hòa hoặc lên Băng Bột đều phải đáp thuyền đò. Năm Mậu Thìn (1748), nhân có loạn Cao Man, quan Điều khiển là Nguyễn Doãn mới đăng dây đắp thẳng, gặp chỗ mương rãnh thì bắc cầu, gặp chỗ bùn lầy thì bỏ cây đắp đất để đi qua lại, từ cửa Cấn Chỉ của thành đồn cũ đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm, phía bắc tỉnh giới Biên Hòa có đặt trạm Bình Đồng theo hướng bắc qua núi Chiêu Thái (núi Châu Thới ngày nay) đến bến đò Bình Xan (hay Bình Thiển), qua bến Sa Giang (sông Cát) do đường Phủ sứ xuống Đông Môn (nay là Long Thành) đến Hưng Phước (nay là Bà Rịa), phàm gặp mấy sông lớn có đặt độ thuyền độ phu được miễn trừ sưu dịch.(2) Như vậy, sau khi Nguyễn vương Phúc Ánh xây cất lại đồn Nghi Giang hay Đồn Đất để làm kinh thành Gia Định vào năm 1790 thì thành nầy đã có sẵn một con đường cái quan để đi ra bắc từ năm 1748 và một con đường cái quan khác cũng để đi ra bắc cũng được xây cùng một lúc với công trình sửa mới thành Đồn Đất như Trịnh Hoài Đức mô tả. Bản đồ Sài Gòn xưa Thành Qui
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:40:48 GMT 9
Theo sự mô tả của GĐTTC thì từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các vòng thành bao bọc hình hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dãy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành thì đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ý rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận. Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm. Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ. Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu. Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh. Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt. Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh. Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm. Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gở lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó. Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh. Thành phố Sài Gòn năm 1993 với tên đường cũ trước 30.04.1975 Cũng theo Trịnh Hoài Đức, đường quan lộ bên hữu gặp chỗ quanh co đều chăng dây làm cho thẳng, tự cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương qua phố Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) đến cầu Bình Yên, qua gò Tuyên Tự mà đến sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông), bến đò Thủ Đoàn, sang sông Hưng Hòa (Vàm Cỏ Tây), qua giồng Trấn Định rồi đến giồng Triệu. Đường rộng 6 tầm (14m61), hai bên đều trồng các cây thổ nghi như mù u, mít, cầu cống thuyền đò sở tại thường sửa chữa, đường phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam (3). Ngoài ba con đường thiên lý cù vừa kể trên, sách ĐNNTC cũng có viết thêm một con đường thiên lý khác về phía cửa Đoài Duyệt của thành Qui như sau: "Một đường phía tây, niên hiệu Gia Long thứ 14, mệnh (tức là truyền lệnh) tỉnh thần đo từ cửa Đoài Duyệt ở tỉnh thành nơi nơi cầu Tham Cấn (Tham Lương) qua đò Thi Du, chằm Lão Phong, giáp ngã ba sứ lộ qua Xỉ Khê (Tây Ninh) đến địa phận A Ba Cao Man, giáp Đại Giang (Sông Mê Kông) dài 439 dặm. Gặp chỗ có rừng thì chặt cây đắp đường bề ngang 3 trượng (14m61), làm ra con đường bình an tiện lợi, chỉ hiềm đường xa vắng vẻ không có nhà cửa dân cư, Lại theo dọc sông A-Ba xuống phía nam 194 dặm đến đồn Lô Yêm (Lovea-em). Từ Kha Pha lên phía bắc 49 dặm đến sách Chế Lăng (Chelong hay Chlong) cũng là một yếu lộ dụng binh." (4) Con đường nầy có thể đã có từ lâu và dùng để đi Cao Miên (ngày nay là Đường Lê Văn Duyệt nối dài trước ngày 30 tháng 04 năm 1975) nhưng mãi đến năm Gia Long thứ 14 (1815) mới được chỉnh đốn lại giống như ĐNNTC mô tả. Như lịch sử đã ghi lại, có rất nhiều người Pháp đánh thuê được Nguyễn Vương Phúc Ánh xử dụng để phục vụ trong chương trình xây dựng và củng cố vùng đất Gia Định Nguyễn Ánh đã tận dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan Pháp bằng cách yêu cầu họ vẽ các họa đồ, và trông nom việc xây dựng, một tòa thành lũy tân tiến theo thiết kế của Âu Châu. Họa đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và đại tá Victor Olivier de Puymanel coi sóc công trình xây cất kinh thành Gia Định. Trên họa đồ vẽ bởi Theodore Le Brun theo lệnh của Nguyễn vương vào năm 1795 người ta thấy phía ngoài 4 mặt thành đã có nhiều phố xá; mặt phía trước thành, đường phố lấn ra tới bờ sông Bến Nghé; mặt phía trái tới bờ Thị Nghè nơi đó có dinh riêng dành cho giáo sĩ Bá Đa Lộc. (ngày nay là vị trí gần với Viện Bảo Tàng nằm bên trong Sở Thú Sài Gòn) và nhà phố lan tới phía bên kia cầu Thị Nghè; mặt phía sau thành nhà cửa phố xa đông đúc chạy dọc suốt đến Cầu Bông và cầu Kiệu ngày nay; về phía bên mặt của thành thì phố xá lan rộng ra tới đường thiên lý đi Cao Miên tức là đường Lê Văn Duyệt nối dài sau nầy. Nhìn sang hướng tây nam là các hiệu buôn bán của người Hoa mà trên bản đồ ghi là Bazar Chinois tức là thành phố Chợ Lớn Sau nầy. Trong sách Gia Định Thành Thông Chí được hoàn thành dưới thời hoàng đế Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, Trịnh Hoài Đức đã dùng nhóm chữ Phố Sài Gòn để gọi khu phố người Hoa nầy (5). Phố xá vào lúc nầy nhất định là phải có số hoặc có tên bằng tiếng Việt Nam và khó có thể có -- hoặc nếu có thì cũng chỉ là một vài trường hợp đặc biệt -- những tên đường bằng tiếng ngoại quốc. Một điểm đáng chú ý là trên bản đồ của Le Brun nơi phần chú giải góc phải phía trên được ghi là Plan de la Ville de SAIGON -- Đồ bản Thành Phố SÀI GÒN có nghĩa là kinh đô Gia Định vào năm 1795 bao gồm khu phố người Hoa Bazar Chinois của Le Brun mà Trịnh Hoài Đức gọi là Phố Sài Gòn và khu phố rộng lớn bao quanh thành Qui. Nơi quyển III, mục Cương vực chí, Trịnh Hoài Đức viết: "...Kể thì Gia Định, xưa là đất của nước Thủy Chân Lập (tức là nước Cao Mên ngày nay, nòi giống chia làm Thủy Chân Lập và Lục Chân Lập), đất ruộng béo tốt, sông nhiều, có nhiều địa lợi như thóc, đậu, cá, muối. Các đấng tiên hoàng triều ta chưa nhàn rỗi mưu tính xa, tạm cho đất ấy là đất của nước Cao Mên, đời đời xưng là nước phiên ở phương Nam, cống hiến không ngớt. Đến năm Mậu Tuất đời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế năm thứ 11 (1658), (Lê Thần Tông Vĩnh Thọ năm thứ 1; ngang với niên hiệu Minh Vĩnh Lịch năm thứ 12, Thanh Thuận Trị năm thứ 14), mùa thu, tháng 9, vua nước Cao Mên là Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới...Vua sai Phó tướng dinh Trấn Biên (khi bắt đầu mở mang bờ cõi, phàm chỗ đầu địa giới gọi là Trấn Biên, xét dinh Trấn Biên nầy, tức là trấn Phú Yên ngày nay) là Yến Vũ hầu, Tham mưu là Minh Lộc hầu, Cai đội suất tiên phong là Xuân Thắng hầu, đem 2,000 quân, đi hai tuần đến thành Mỗi Xoài (tức Bà Rịa ngày nay) nước Cao Mên, đánh phá tan được, bắt vua ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội, vẫn phong Nặc Ông Chân làm vua nước Cao Mên, cho làm phiên thần nộp cống, không được để cho dân phiên xâm nhiễu. Bèn sai quan quân hộ tống về nước. Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở." "Giáp Dần năm thứ 27 (Lê Gia Tông Đức Nguyên năm thứ 1, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 13) (1674), mùa xuân, tháng 2, người nước Cao Mên là Nặc Đài (xét Nam Việt Chí của Nguyễn Bảng Trung gọi là Nặc Ô Đài, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn gọi là Nặc Đài) đuổi vua nước ấy là Nặc Ông Non chạy sang nước ta. Sai tướng dinh Thái Khang (trấn Bình Hòa ngày nay) là Dương Lâm Hầu làm thống suất và Tham mưu là Diên Phái hầu cùng phụ trách việc biên giới, đem quân đến đánh. Mùa hạ tháng 4, phá luôn 3 lũy Sài Gòn (tức đất trấn Phiên An ngày nay), Gò Bích, Nam Vang...Mùa hạ, tháng 6, tin thắng trận tâu lên, triều đình bèn lấy Nặc Thu là phái trưởng phong làm chính quốc vương của nước Cao Mên, đóng ở thành Vũng Long (chữ Hán gọi là Long Úc, tức là thành U Đong), Nặc Non làm phó quốc vương, đóng ở thành Sài Gòn, triều cống như trước, bèn thăng Dương Lâm hầu làm trấn thủ dinh Thái Khang, phòng giữ việc biên giới." (6) Nhóm chữ lũy Sài Gòn do Trịnh Hoài Đức viết ra bằng chữ Hán nho và có thể đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn mới xuất hiện trên sách sử của Việt Nam để ghi thêm 1 biến cố lịch sử quan trọng thứ nhì xảy ra vào năm 1674, (biến cố quan trọng lần thứ nhứt là vua Cao Mên Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới vào năm 1658 như vừa kể ra ở phần trên) hay nói khác đi địa danh Sài Gòn đã là một đồn lũy phòng thủ (nhỏ hơn một thành trì bình thường), hoặc là một thị trấn của nước Cao Miên từ xưa rồi. Câu hỏi nêu lên là lũy Sài Gòn nầy bởi từ đâu mà có? Và đã có từ bao giờ? Bản đồ Sài Gòn hiện nay của Wikimapia.org Như Trịnh Hoài Đức đã viết ở phần trên, kể từ năm 1658 "địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở" có nghĩa là hai xứ nầy trên thực tế đã thành đất đai của các người dân lưu tán Việt Nam kể từ 1658 và những người dân Cao Mên bản địa của hai xứ đó đã phải bỏ xứ mà đi nơi khác (Trịnh Hoài Đức viết là họ nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở). Mặc dù trên danh nghĩa thì các phần đất nầy vẫn là của nước Cao Miên và vẫn dưới quyền cai trị của phó quốc vương bù nhìn thân Việt Nặc Ông Chân rồi kế tiếp theo là vua bù nhìn Nặc Ông Nôn do triều đình Việt Nam tấn phong đóng ở thành Sài Gòn mà Trịnh Hoài Đức (hay là dịch giả quyển Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức) chú thích trong dấu ngoặc đơn như sau: (tức đất trấn Phiên An ngày nay): trước khi có thành Gia Định thì đã có thành Sài Gòn của các phó vương nước Cao Mên ở trên một vùng đất mà sau nầy dưới thời đại của Trịnh Hoài Đức, vào năm Mậu Thìn niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808), ngày 12 tháng Giêng đổi gọi gọi là trấn Phiên An. Trấn Phiên An trước đó gọi là gì? Trịnh Hoài Đức khi mô tả Trấn Phiên An có viết "Trấn ấy lúc mới dùng gọi là dinh Phiên Trấn, có 1 huyện, 4 Tổng, lỵ sở ở thôn Tân Lân(?), tổng Bình Trị, huyện Bình Dương ngày nay".(7) Như vậy có thể nói rằng thành Sài Gòn là tên gọi một vùng đất dưới quyền kiểm soát của quan chức Việt Nam ở dinh Trấn Phiên nằm ở thôn Tân Lân, Tổng Bình Trị, huyện Bình Dương thời Trịnh Hoài Đức. Không thể truy cứu đích xác lỵ sở Tân Lân của "thành Sài Gòn" (tức dinh Trấn Phiên) vì trong danh mục xã thôn thuộc Tổng Bình Trị do chính Trịnh Hoài Đức liệt kê( không thấy tên vùng đất thôn Tân Lân. Tuy nhiên cũng theo THĐ thì dinh Trấn Phiên đã được thành hình từ năm 1698: "Mậu Dần Hiến Tông Hiếu Minh hoàng đế (tức Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu) năm thứ 8 (1698) (Lê Hy Tông Chính Hòa năm thứ 19, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 37) mùa xuân, sai Thống suất chưởng cơ là Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Nguyễn Hữu Cảnh) kinh lược nước Cao Mên lấy đât Nông Nại (nguyên cả một vùng miền Đông sau nầy) đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long dựng dinh Trấn Biên (lỵ sở ở thôn Phúc Lư ngày nay, xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (lỵ sở bên cạnh đồn mới ngày nay, mỗi dinh đặt ra các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để giữ và chăm..." (9) Phải chăng là "đồn mới ngày nay" phải được hiểu chính là đồn của huyện Tân Bình mới đuợc thiết lập chứ không thể hiều là một đồn lũy nào đó mới được xây cất vào thời THĐ viết GĐTTC. Còn xứ Sài Gòn đã có từ thời xưa thì trở thành huyện Tân Bình vào năm 1698. Vậy dinh Phiên Trấn được dựng lên để cai trị huyện Tân Bình. Dinh Trấn Biên vừa là lỵ sở vừa là đơn vị hành chánh. Còn địa phận của Tổng Bình Trị thì theo như sự mô tả của Trịnh Hoài Đức như sau: "Tổng Bình Trị (mới đặt ra) 76 xã thôn, phường, lân, ấp, phiá đông giáp sông Bình Giang (tức sông Sài Gòn bây giờ), từ trước thành sông dọc theo kho Gian Thảo (nay là vùng Cầu Kho), phía tây giáp đầu suối Bến Nãi đến đầu cầu Tham Lương (tức địa giới quận Tân Bình, Hốc Môn bây giờ), giáp địa giới phía đông tổng Dương Hòa; phía nam giáp kho Gian Thảo, qua miếu Hội Đồng đến cầu Tham Lương, phía bắc giáp trấn Biên Hòa, từ trên sông Đúc Giang (tức là sông Sài Gòn ở khúc trên khoảng gần với Thủ Đức hiện nay), dưới đến bờ phía nam sông Bình Giang (tức bến cảng Bạch Đằng của sông Sài Gòn ngày nay)" (10) hay nói khác đi thì Tổng Bình Trị nằm lọt ở khoảng giữa Rạch Thị Nghè với Cầu Kho hiện nay tức là nằm trong phạm vi của Quận I bây giờ. "Trấn Phiên An, đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ giao thông, phía bác giáp trấn Biên Hoà, trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông Thủ Đức) đến sông Bình Giang (về huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé), chuyển quanh xuống cửa ngã ba Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) ra thẳng cửa Cần Giờ. Phàm ở bờ phía nam sông ấy là địa giới trấn Phiên An, phía Nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong sang phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, phía đông xuống Vũng Cù, qua sông Trà Giang ra cửa bể Soi Rạp. Theo bờ phía bắc sông là địa giới trấn Phiên An, phía đông đến biển, phía tây giáp nước Cao Mên, ngăn chặn người Man núi, gối vào đầm phá . Từ đông sang tây cách 352 dậm, từ nam sang bắc cách 107 dặm...Năm Mậu Thìn Gia Long thứ 7 (1808, ngày 12 tháng giêng đổi làm Trấn Phiên An, lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, cứ theo đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít, hãy thấy liền nhau là bổ vào, lại thêm tên tổng, đều lập giuới hạn. Năm Tân Mùi Gia Long thứ 10 (1811), dời làm lỵ sở ở chợ Điều Khiển, lân Tân Mỹ"(11) Trở lại biến cố lịch sử năm 1674, vua nước Cao Mên thân Việt lúc bấy giờ là Nặc Ông Non bị người trong nước là Nặc Đài nổi dậy làm phản phải tháo chạy xuống vùng đất Sài Gòn để cầu cứu với các chức quyền Việt Nam. Quân nổi loạn Cao Mên do Nặc Đài cầm đầu không những truy đuổi Nặc Ông Non mà còn nhân dịp đắc thắng đã tiến thẳng xuống chiếm đóng trấn Phiên An mà THĐ viết tránh đi và gọi là lũy Sài Gòn. Sau đó thì chúa Nguyễn đã sai quan binh đi thảo trừ giặc loạn người Cao Mên, đánh bật họ ra khỏi Trấn Phiên An (lũy Sài Gòn), rồi tiến quân đánh chiếm luôn thành Gò Bích và thành Nam Vang. Nặc Đài thua chạy rồi bị chết trận. Chúa Nguyễn lại đặt Nặc Ông Thu làm Cao Mên Quốc vương ngự trị ở thành U Đong còn Nặc Ông Non thì cho làm phó Vương ngự trị ở thành Sài Gòn và thành Sài Gòn nầy của phó vương Ông Non có thể ở vào một vị trí gần với lỵ sở dinh trấn Phiên An của chúa Nguyễn để dễ bề giám hộ và kiểm soát. Chuyện xảy ra như vậy, nhưng sử thần nhà Nguyễn nào lại dám viết thật sự là quan binh chúa Nguyễn đã bị quân phiên Cao Mên nổi loạn đánh đuổi và phải bỏ chạy ra khỏi vùng lãnh thổ trấn Phiên An? Năm 1772, sau khi đánh thắng quân Xiêm, Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất hình bán nguyệt để bảo vệ vùng Sài Gòn: "...Đàm ân hầu về đến dinh đồn, đắp thành đất, phía nam từ cát ngang, phía tây đến cầu Lão Huệ, phía bắc giáp cửa trên sông Nghi Giang, kéo dài 15 dậm, bao quanh dinh đồn, chặn ngang đường bộ để làm kế phòng ngừa."(12) Lũy nầy trên bản đồ Le Brun (hình bản đồ trích dẫn ở phần trên) ghi là Mur d'enceinte (vòng tường ngoại vi). Như vậy, từ khởi đầu đến đây, ai cũng có thể thấy đuợc rằng cái tên Sài Gòn đã hiện hữu từ lâu rồi, ít ra thì cũng đã được viết lên trên giấy trắng mực đen kể từ thời của Trịnh Hoài Đức biên soạn sách GĐTTC. Vùng Sài Gòn trở nên một vùng đất phồn thịnh và thu hút kể từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất bán nguyệt kể trên và đào kinh Ruột Ngựa vào năm (1772), THĐ ghi rõ: "Sông Mã Trường (tục danh sông Ruột Ngựa). Trước kia từ cửa Rạch Cát về bắc đến lò ngói, một lối vũng trâu, thuyền bè không đi lại được. Mùa thu năm Nhâm Thìn (1713) (chỗ nầy trong sách ghi sai, phải là 1772 mới đúng) Đốc chiến Đàm Ân hầu (con thứ năm của Chánh thống Vân Trường hầu) nhân sau khi dẹp Cao Mên rồi, đào làm kênh cừ, thẳng như ruột ngựa, bèn lấy đó mà đặt tên. Nhưng còn nông nhỏ, nên thuyền đi đến đó tạm phải ngừng lại, để chờ nước triều lên mới qua được, nay khơi đào cho sâu rộng thêm, dân khen là tiện lợi."(13) Vùng Sài Gòn cũng bắt đầu biến đổi thành một thành phố đúng với ý nghĩa của 2 chữ thành phố: thành ở đây tức là tường thành bằng đât của Nguyễn Cửu Đàm và phố ở đây chính là vùng phố buôn bán của những ngưòi Hoa tàn dư của nhà Minh tha phương cầu thực mà Le Brun gọi là phố Bazar Chinois càng lúc càng trở nên sầm uất, cuốn hút dân tình tứ phương thuộc nhiều sắc tộc kéo nhau về tụ tập sinh sống trong vùng Sài Gòn, chợ búa bắt đầu nhóm họp ở nhiều nơi như Chợ Cầu Muối, Chợ Đũi, Chợ Gạo, dân cư lan tỏa ra các vùng chung quanh lũy đất Nguyễn Cửu Đàm như Phú Nhận, Gò Vấp, Bà Chiểu, Cầu Sơn, Thị Nghè, Thủ Thiêm, Xóm Chiếu, Lò Gốm và bắt đầu có sự phân biệt dân thành thị với dân ngoại ô, dân nội thành với dân ngoại thành, dân con buôn ở chợ và dân nhà quê làm ruộng rẫy. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1776 vùng Sài Gòn bị xáo trộn và đổi chủ nhiều lần qua sự tranh giành giữa chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn kéo dài mãi cho đến năm 1788 bởi vì Vùng Sài Gòn đã trở thành một vùng trọng yếu mà kẻ nào làm chủ thì kẻ đó cũng sẽ là chủ nhân cả miền Nam trù phú: lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trong khoảng thời gian nầy, vùng Sài Gòn đã phải gánh chịu hàng chục trận đánh lớn, tài sản tiêu hao, chết chóc nhân mạng dẫy đầy, dân tình xôn xao nhưng lạ lùng thay vùng Sài Gòn chưa bao giờ bị san phẳng thành bình địa và dân Sài Gòn vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, cách ăn ở, mức sống không hề bị suy sụp, nét văn hoá miền Sài Gòn không bị xóa nhòa hay biến dạng, người Sài Gòn luôn luôn nghiến răng chịu đựng, mãi cho đến tháng 8 năm Đinh Dậu tức là ngày 07-09-1788 nguyên soái Nguyễn Ánh lấy lại toàn vùng Sài Gòn và từ đây trở đi không còn bị quân của anh em nhà Tây Sơn đánh đuổi giành giựt được nữa. Và như đã trình bày ở phần trên, năm 1790, nguyên soái Nguyễn Ánh đã ra lệnh cho Le Brun và Olivier thiết kế và xây dựng kinh thành Gia Định. Theo sự kê chú trong bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun 1790 thì các cơ sở bên trong thành Gia Định được xây cất từ 1790 cho đến khi họa đồ được vẽ ra vào năm 1795 là những vị trí được Le Brun đánh số từ số 1 đến số 17. Trước khi đi vào chi tiết về kiến trúc thành Gia Định, chúng ta thử truy cứu xem vào năm 1795 ai là người đã thực hiện bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun? Dư luận từ trước tới nay đã căn cứ vào đoạn ghi chú trên bản đồ 1795 để cho rằng bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun vào năm 1795 là chính tay Le Brun vẽ từ đồ án kiến trúc Grand plan do chính của người Pháp nầy thực hiện năm 1790. Hiểu như vậy rồi thắc mắc rằng Le Brun không phục vụ Nguyễn vương Phúc Ánh đến năm 1795 thì làm sao lại có thể cho rằng bản vẽ 1795 là do Le Brun vẽ ra? Alfred Schreiner trong sách Abrégé de L' Histoire d' Annam đã viết về Théodore Le Brun như sau: Le Brun (Théodore), volontaire de 1re classe provenant de la frégate la Méduse, se fit débarqué à Macao le 13 Janvier 1790 et passa la mêm année au service du Chúạ Il fut engagé comme ingénieur et leva le plan de Saigon; mais il ne resta que quinze mois environ au service de Nguyễn Ánh, ne se trouvant pas suffisamment payé, de plus, peu disposé "à servir sous les ordres d' Olivier, volontaire de 2è class seulement, pourtant chef d' état major de l' armée de Cochinchine, fonctions qui lui donnaient autorité sur son collègue". Dịch: Le Brun Théodore, binh nhất hiện dịch của tàu chiến Méduse, đào ngũ khi tàu ghé cảng Ma Cao ngày 13 tháng 1 năm 1790 và đến phục vụ cho chúa. Được giao nhiệm vụ kỹ sư và phác họa bản đồ thành Sài Gòn. Tuy nhiên đương sự chỉ làm công cho Nguyễn Ánh khoảng 15 tháng rồi tự ý bỏ đi vì không được trả công trọng hậu mà còn bị đặt dưới quyền sai khiến của Olivier "binh nhì tham mưu trưởng trong quân đội của Nam Kỳ" Cũng theo Alfred Schreiner thì binh nhì Olivier de Puynamel đến phục vụ cho Nguyễn Ánh vào năm 1788 và được giao cho chức vụ tham mưu để lo việc tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ. Sử cũ thường gọi người Pháp đánh thuê nầy là Cai Tín. Năm 1790 được Nguyễn Ánh giao cho việc xây cất thành Quy Sài Gòn. Năm 1799 sang Malacca chữa bệnh và chết ở đó vào lúc 31 tuổi. Sử sách cũ của triều Nguyễn cũng cho biết là từ năm 1790, tức là từ lúc khởi sự xây cất thành Quy, Nguyễn vương Phúc Ánh rất bận rộn trong việc chinh chiến đối phó với quân Tây Sơn: Năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn vương khởi động chiến dịch tấn công "gió mùa", đem quân đi đánh Tây Sơn, gió thuận ra đi, gió trái trở về. Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn vương ra đánh Qui Nhơn, lấy lại phủ Diên Khánh, thâu phục phủ Phú Yên. Tháng 9 âl, Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chết. Tháng 10 âl (1793), sai Nguyễn Văn Thành giữ thành Diên Khánh, Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định. Sai Chánh đội Quang Nôi Ve (tức Cai Tín Olivier de Puynamel) và đội trưởng Ba Đờ Chê (có thể là người Pháp Laurent Barisy) qua thành Cổ Á (thành Goa) và Ma Lac Ca (Malacca) để mua binh khí.(14) Năm Giáp Dần (1794), sửa lại Văn Miếu dinh Trấn Biên. Năm Bính Thìn (1796), xây dựng Thái Miếu. Rõ ràng là trách nhiệm trông coi công tác xây cất thành Quy từ năm 1793 đến năm 1796 không còn do Cai Tín Oliver đảm nhiệm nữa vì đương sự đã xuất ngoại để lo việc mua súng ống, binh khí cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Trong khi Nguyễn vương bận rộn với chiến dịch Gió mùa, Le Brun bất mãn bỏ đi, vậy thì công tác xây thành Gia Định giao cho ai trông coi? Không thấy sử sách cũ của triều Nguyễn nói rõ về việc nầy. Gần đây, một số ít học giả Việt Nam nghiên cứu về lịch sử Việt Nam đã dựa vào Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 15 để viết rằng chính Trần Văn Học đã phụ trách việc đo đạc, phân chia khu vực và dự trù khai mở những con đường trong thành Gia Định. Trần Văn Học cũng là tác giả Bản đồ Gia Định 1815. Cũng dựa vào ĐNCBLT, người ta được biết rằng Trần Văn Học sinh quán ở Bình Dương (là Sài Gòn thời đó), từng đi theo giáo sĩ Giám mục Bá Đa Lộc trong đoàn cầu viện sang Pháp nhưng khi phái đoàn sang đến Pondichéry (Ấn Độ) thì Học trở về. Học thông thạo quốc ngữ La tinh và tiếng Pháp, được Bá Đa Lộc đề đạt làm thông ngôn cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Sau khi từ Pondichéry trở về, đương sự được giao phó việc dịch sách đặc biệt là các loại sách kỹ thuật của Pháp; cùng một lúc, đương sự cũng được giao phó nhiệm vụ chế tạo chất nổ, tàu hỏa, và chế tạo binh khí. Năm 1790, khi bắt đầu xây dựng thành bát quái Gia Định (tức thành Quy), Trần Văn Học phụ trách việc phác họa đường sá và phân chia khu vực phố phường. Người Pháp đánh thuê cho Nguyễn vương là Jean Marie Dayot (Nguyễn Văn Trí) đã tự kể lại rằng chính đương sự và Olivier đã cùng nhau thực hiện đồ án thiết kế vùng sông Sài Gòn cùng nhiều địa điểm khác nối liền với Cao Miên: "Nous avons relevé ensemble le plan de la Rivière de Saigon, ainsi que celui de plusieurs endroits qui communiquent avec le Cambodge". (15) Việc nầy nếu có thật thì chỉ có thể xảy ra vào năm 1790 vì năm nầy chính là năm Dayot mới đến xin phục vụ dưới quyền của Nguyễn vương Phúc Ánh và có thể được giao phó làm việc dưới quyền của Olivier trong việc quy hoạch xây cất thành Gia Định, sau đó thì Dayot được giao phó chức vụ chỉ huy hai thuyền chiến hiệu Đồng Nai và Vương tử Nam Kỳ và phải theo Nguyễn Ánh trong những chiến dịch Gió Mùa bắt đầu từ năm 1792. Chiến dịch Gió mùa chỉ tạo được thắng lợi khi lực lượng của Nguyễn Ánh chiếm được Qui Nhơn vào năm 1799. Võ Tánh được giao trọng trách trấn thủ Qui Nhơn và Nguyễn vương Phúc Ánh rút quân về Gia Định. Rất có thể vào lúc nầy Nguyễn vương lại giao nhiệm vụ cho Dayot theo dõi đôn đốc việc tiếp tục xây dựng thành Sài Gòn và vì thế lại có thêm một bản đồ khác gọi là bản đồ 1799 của Dayot. Le Brun bỏ đi, Olivier và Barisy bận công tác thu mua binh khí ở nước ngoài và Dayot thì phải theo Nguyễn Ánh trong các trận đánh Gió Mùa, như vậy thì công tác xây thành Gia Định từ năm 1792 đến 1799 nhất định là phải do Trần Văn Học đảm trách giám quản và năm 1795 Trần Văn Học đã vẽ bản đồ thành phố Sài Gòn dựa trên đồ án kiến trúc -- Le Grand plan -- do Le Brun thiết kế vào năm 1790. Có thể đồ án kiến trúc của Le Brun chỉ là kiểu mẫu prototype của một thành phố Sài Gòn thu nhỏ đặt trên bàn chứ không phải là một họa đồ được vẽ trên giấy trắng mực đen. Thành phố thu nhỏ hay đồ án kiến trúc năm 1790 có thể đã bị Le Brun phá hủy khi đương sự bất mãn tự ý bỏ đi mà cũng có thể đã bị dân phu thầy thợ đắp thành vì bị lao dịch khổ cực, bất mãn đã nổi loạn đập phá đồ án nguyên thủy của Le Brun: một tác giả người Pháp là Jean Bouchot viết một bài có tựa đề là Saigon sous la domination cambodgienne et annamite, đăng trên tập chí Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 1926 có cho biết rằng: "Đông đảo dân chúng và quan binh đã nổi dậy phản đối việc xây thành Gia Định". Từ những sự truy cứu kể trên, người ta có thể suy diễn một cách dè dặt rằng bản đồ thành phố Sài Gòn đã do một người Việt Nam ở miền Nam là Trần Văn Học lần đầu tiên vẽ ra vào năm 1795, được J.M Dayot bổ túc vào năm 1799 và lại được Trần Văn Học trao chuốt, bổ túc và vẽ lại vào năm 1815 với nhiều chi tiết được ghi chú rõ ràng hơn, chính xác hơn.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:42:23 GMT 9
Theo sự mô tả của GĐTTC thì từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các vòng thành bao bọc hình hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dãy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành thì đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ý rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận. Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm. Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ. Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu. Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh. Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt. Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh. Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm. Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gỡ lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó.
Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh.
Xin lưu ý: xin tham chiếu các bản đồ về thành Qui ở phần trên.
Cũng nên lưu ý rằng, cách sắp xếp các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đài (tương ứng với các phương, hướng Đông Tây, Nam, Bắc, Đông-Bắc, Đông-Nam, Tây-Bắc, Tây-Nam) trong các sách bói toán của Việt Nam có thể không đồng nhất giống nhau mà cũng không giống với sự sắp xếp trên bát quái đồ của người Hoa. Hơn nữa, nạn tam sao thất bản, thêm vào, bớt ra đối với các thư tịch cũ khiến cho việc truy cứu rất khó khăn và chỉ đưa tới một cách vẽ suy diễn thành Quy không chính xác như trên.
Để định hướng vị trí của nhiều kiến trúc bên trong thành Quy, Trịnh Hoài Hoài Đức đã dùng tên của những con đường để làm điểm hướng dẫn: phía trước đường Cấn Chỉ - Đoài Duyệt, bên hữu đường Càn Nguyên - Khảm Hiểm...v.v. Cách mô tả nầy của Trịnh Hoài Đức rất mơ hồ, rất khó cho người đọc suy định để vẽ ra một cách chính xác. Trên đây chỉ là một bản vẽ sơ phát theo sự suy diễn riêng của người viết bài nầy, cần có sự bổ túc, sửa đổi của những nhà biên soạn Sử Việt Nam trong tương lai.
Ghi chú: dùng cho hình vẽ bát quái đồ đã nêu lên ở phần trên
A: Vương cung B: Hậu điện C: Thái tử điện E: Kho Trữ Tích F: Cục Chế Tạo G: Trại xe trận H: Trại lính túc vệ P: Thái Miếu G: Chòi canh
Trong bản họa đồ 1795 do Trần Văn Học vẽ lại từ đồ án xây cất "Grand Plan" 1790 của Le Brun có ghi chú hai kiến trúc số 2 gọi là Palais de la Reine -- Vương hậu cung và kiến trúc số 4 gọi là Palais du Prince -- Vương thái tử cung tương ứng với kiến trúc (B) và (C) trong sơ đồ thành Quy Các vị trí (B), (C) và (G) không thấy được kê ra trong Gia Định Thành Thông Chí nhưng sau năm 1801, Trịnh Hoài Đức có mô tả địa điểm các kiến trúc dùng làm các công thự cho quan tổng trấn, quan phó tổng trấn và quan hiệp trấn rất trùng hợp với 3 vị trí (B), (C) và (E) được vẽ ra trong sơ đồ thành Quy kể trên. Chúng tôi suy định rằng: trước năm 1801, vị trí (B) là vương hậu cung nhưng sau đó thì được dùng làm dinh quan tổng trấn, và cũng tương tự như thế, cung vương thái tử (C) đựợc dùng làm dinh của quan phó tổng trấn, và (E) trước là kho trữ tích sau dùng làm dinh của quan hiệp trấn.
Riêng vị trí kiến trúc (G) thì Trịnh Hoài Đức mô tả rằng sở sửa chữa súng và sở tạo tác thợ rèn đối diện với Cục Chế tạo (F). Có thể cơ sở (G) nầy trước năm 1801 đã được dự trù làm trại chứa xa giá của Nguyễn vương Phúc Ánh chăng?
Bên ngoài thành Quy theo GĐTTC thì có những cơ sở như:
Xưởng Chu sư hay xưởng thủy dài 3 dặm (nay là xưởng Ba Son), ở phía đông thành khoảng 1 dặm góc bờ sông Tân Bình (nay là sông Sài Gòn) và sông Bình Trị (nay là đầu rạch Thị Nghè). Xưởng nuôi dưỡng voi ở ngoài trại đất cửa Khảm Hiểm. Trường thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh (Khôn Hậu?) của thành, cách 2 dặm. Trường rộng 1 dặm, chung quanh rào bằng loại cây có gai. Khám đường nhà ngục ở ngoài trại đất cửa Khôn Trinh. Sứ quán ở bên hữu, phía trước cửa Ly Minh, cách thành 1 dặm. Năm 1813 đặt học đường ở nền cũ dinh đồn Điều Khiển. Kho bốn trấn. Ở nền cũ kho giản thảo, cách phía Nam thành 4 dặm rưỡi. Trường Diễn Võ rộng 50 dặm. Ở phía tây nam cách thành 10 dặm. Đồn Giốc Ngư (Giác Ngư). Ở bờ Bắc sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cách thành 7 dặm thuộc địa giới trấn Biên Hòa (ở về phía Thủ Thiêm khoảng đối diện với cầu Tân Thuận ngày nay). Đồn Thảo Câu. Ở bờ Nam sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An (ở vào khoảng vị trí của cầu Tân Thuận ngày nay). Về vị trí của thành Quy so chiếu với các đường phố của Sài Gòn ngày nay thì đa số các thư tịch cận đại và ngày nay của Việt Nam cũng như của ngoại quốc đều căn cứ vào sự mô tả của học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký để suy đoán vị trí của Thành Quy.
Trong sách Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, học giả Trương Vĩnh Ký viết như sau:
Saigon sous Gia Long Ce fut en 1789 que Gia Long, après avoir repris Saigon, occupé jusqu'alors par les Tây Sơn, fit costruire la première citadelle, dont nous allons indiquer l'emplacement et les traces, sur le territoire de notre Saigon d'aujourd' hui. L'année suivante, Gia Long fit construire sous la direction de M.Olivier, officier du génie, l'ancienne citadelle de Saigon.
Elle avait presque la forme octogone (plan imposé par Gia Long) avec huit portes suivant les Bát quái (huit casiers de divinations chinoises) représentant les quatre points cardinaux avec leurs subdivisions.
La citadelle, ainsi que ses fosses et ses ponts, était en grosses pierres de Biên Hòa. La hauteur du mur était de quinze coudées annamites (5 mètres.20 centimètres).
Le centre, où se dressait le mât de pavillon, se trouve à peu près à la cathédrale actuelle. On y apercevait de très loin de très loin la cime d'un filao. Ell s' étendait: du sud au nord, de la rue Ma-Mahon jusqu'au mur de la citadelle détruite et répareé après en terre par les Français; et de l' est à l' ouest de la rue d' Espagne à la rue des Moïs.
A l'est, s'ouvraient les deux portes antérieures (của tiền). L'une qui s' appelait Gia Định môn, regardait le square et le canal du marché de Saigon; l' autre Phan Yên môn, se trouvait du côté de l'artillerie, sur une rue descendant le long du canal de Kinh Cây Cám.
La partie postérieure, à l' ouest, avait également deux portes Vọng Khuyết môn et Cộng Thìn môn, dans la direction du deuxième et du troisième pont de l' Avalanche (cầu Bông et cầu Xóm Kiệu).
La partie gauche au nord donnait, avec deux portes, Hoài lai môn, Phục viên môn, sur l' arroyo de l' Avalanche (premier pont).
Le côté droit de la citadelle, avec les prtes Định biên môn et Tuyên hóa môn, se trouve dans la rue Mac Mahon; ell donnaient: l' une sur la route stratégique, l' autre sur la route haute de Chợ lớn.
Elle fut occupée par Gia Long pendant vingt deux ans, pendant lesquels il allait tous les ans en expéditions contre les Tây Sơn, dans les saisons où la mousson étaiit favorable.
Enfin en 1801, Gia Long fixa sa résidence à Huế et fut maître de tout l' Annam, depuis le Tonkin jusqu' en Cochinchine. Ce fut Lê Văn Duyệt, le fameux vainqueur du port de Thị Nại (Bình Định) qui fut nommé gouverneur général de la Basse-Cochinchine. Il résidait à Saigon. Sa résidence officielle se trouvait derrière le Hoàng Cung (Palais royal), aujourd' hui boulevard Norodom, à peu près au point où est situé l' évêché. Celle de sa femme @ était au palais du Gouvernement en dehors du rempart et du mur de la citadelle
@ chữ sa femme: vợ của ông ta, ở đây có lẽ Trương Vĩnh Ký muốn nói là vợ của ông Tổng trấn kể từ sau thời Lê Văn Duyệt chứ không phải là vợ của hoạn quan tả quân Lê Văn Duyệt.
Tạm dịch:
Sài Gòn dưới thời Gia Long Vào năm 1789, sau khi lấy lại Sài Gòn do Tây Sơn chiếm đóng trước đó, Gia Long đã cho xây cất trấn thành đầu tiên mà chúng tôi (Trương Vĩnh Ký) sẽ chỉ cho thấy địa điểm và dấu tích trên lãnh vực thành phố Sài Gòn của chúng ta hiện nay.
Năm kế tiếp (1790), Gia Long cho xây thành trấn cổ dưới sự cai quản của một sĩ quan công binh là ông Oliver.
Thành có dạng gần giống như một hình tám cạnh (kiểu đồ án xây cất nầy theo ý muốn của Gia Long) với 8 cửa thành theo mẫu của bát quái đồ (tám quẻ trong khoa tướng số của người Tàu tượng trưng cho 4 phương chính cùng với các hướng phụ )
Thành lũy cùng với bờ hào và cầu cống được xây bằng phiến đá lớn Biên Hòa . Tường thành cao 15 thước An nam (khoảng 5m20).
Trung tâm của thành ở vào khoảng gần nhà thờ lớn hiện nay, nơi đó có một kỳ đài thẳng cao. Từ xa, người ta nhìn thấy một ngọn cây phi lao ở nơi đó. Thành trải rộng từ hướng Nam đến hướng Bắc, từ đường Mac Mahon (4) tới bức tường thành đã bị phá hủy mà người Pháp sau đó sửa lại bằng đất; và từ đông sang tây tức là từ đường d' Espagne đến đường Moï . (Xin lưu ý: đoạn nầy không hiểu ý của Trương Vĩnh Ký đề cập đến bức tường thành nào: tường thành Quy của Gia Long hay tường thành Phụng do Minh Mạng xây cất sau nầy? Chúng tôi suy định rằng ý của tác giả muốn chỉ bức tường của thành Phụng: sau biến cố Lê Văn Khôi, Minh Mạng phá hủy thành Quy và cho xây thành Phụng ở một vị trí mới không xa lắm đối với vị trí của thành Quy. Thành Phụng sau đó cũng bị quân Pháp thiêu hủy và dựng lại một bờ tường bằng đất trên vị trí một bức tường cũ của thành Phụng).
Ở phía Đông có hai cửa trước (cửa tiền), một gọi là Gia Định môn trông ra hướng công viên và con kinh của chợ Sài gòn ; cửa kia là Phan Yên môn ở về phía trại Pháo binh, nằm trên một con đường chạy dọc theo con Kinh Cây Cám.
Mặt sau (của thành) ở hướng Tây cũng có 2 cửa Vọng khuyết môn và Cộng Thìn môn , ở vào khoảng cầu thứ hai và cầu thứ ba của con kinh Avalanche. Hướng Bắc bên trái, có hai cửa Hoài Lai môn , Phục Viên môn nằm ở cạnh con kinh Avalanche (cầu thứ nhứt).
Phía tay mặt của thành thì hai cửa Định Biên môn ) và Tuyên Hóa môn nằm trên đường Mac Mahon; một cửa ăn thông ra đường Chiến lược và cửa kia ăn thông ra đường Trên của vùng Chợ Lớn. Thành nầy thuộc quyền kiểm soát của Gia Long trong 22 năm trong khoảng thời gian mà Gia Long hằng năm đem quân đi đánh Tây Sơn vào mùa gió thổi thuận lợi.
Sau cùng, vào năm 1801, Gia Long quyết định cư trú ở Huế và làm chủ toàn cõi nước An Nam từ Bắc Kỳ đến Nam Kỳ. Lê Văn Duyệt, người tướng lừng danh trong trận chiến thắng ở cửa Thị Nại được cử làm tổng trấn Nam Kỳ. Ông trú đóng ở Sài Gòn. Dinh thự hành chánh (tức là nơi làm việc) của ông ở phía sau hoàng cung, ngày nay là đại lộ Norodom, gần nơi tọa lạc của tòa giám mục. Tư thất của vợ quan tổng trấn (không phải vợ của Lê Văn Duyệt, phải chăng đây là tư dinh của tổng trấn Lê Văn Duyệt?) thì nằm trong khuôn viên phủ thống đốc , ở bên ngoài hào lũy và tường thành.
Sài Gòn là Gia Định kinh đô từ 1790 đến 1801. Sau khi đánh đuổi vua Tây Sơn ra khỏi kinh thành Phú Xuân, chú Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long và lấy Huế làm kinh sư, khởi đầu một triều đại cai trị đất nước Đại Nam thống nhất dài rộng chưa từng có trong lịch sử nước ta kể từ khi lập quốc. Thăng Long bị xuống cấp trở thành Bắc Thành và Gia Định Kinh từ nay xuống cấp trở thành Gia Định Thành nhưng vẫn tiếp tục phát triển mọi mặt. Thành bát quái hay thành Qui xuống cấp và trở thành lỵ sở cho các quan chức cai trị của triều đình như lưu trấn rồi tổng trấn; cấu trúc bên trong thành Gia Định cũng thay đổi tương ứng với các chức vụ của quan cai trị: năm 1801, sau khi thu phục kinh thành Phú Xuân, hoàng đế Gia Long tháo gở Thái Miếu trong thành Gia Định để chuyển ra Huế. Trong thành Gia Định, thời các tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn, Trịnh Hoài Đức xây cất thêm tòa Vọng cung, Hành cung phòng khi vua đến kinh lý đến ở, các công thự cho Tổng trấn, hiệp trấn hay phó tổng trấn.
Trong vòng 30 năm từ 1802 đến 1832, Sài Gòn bao gồm cả Chợ Lớn là thủ phủ của Gia Định thành và hầu như trong suốt 30 năm, Sài Gòn được an bình và tiếp tục phát triễn cho đến lúc tổng trấn Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832). Trong khoảng thời gian nầy, có một số nguời ngoại quốc đã đặt chân đến Gia Định thành: năm 1819, một sĩ quan hải quân của nước Hoa Kỳ là John White tới thăm Sài Gòn và mô tả lại cảnh trí bên trong thành Gia Định như sau:
At the end of the first street, however, the scene changed to one of a more pleasing nature. Our route lay through a serpentine covered way, walled with brick, and cut nearly a quarter of a milethrough a gentle acclivity, covered with verdure, on our arrival at which, the native canaille, bipedand quadruped, left us, and we soon arrived, by ahandsome bridge of stone and earth, thrown over a deep and broad moat, to the south-east gate of the citadel, or more properly, perhaps, the military city; for its walls, which are of brick and earth, about twenty feet high, and of immense thickness, enclose a level quadrilateral area, of nearly three quarters of a mile in extent, on each side. Here the viceroy and all military officers reside, and there are spacious and commodious barracks, sufficient to quarter fifty thousand troops. The regal palace stands in the centre of the city, on a beautiful green, and is, with its grounds of about eight acres, enclosed by a high paling. It is an oblong building, of about one hundred by sixty feet square, constructed principally of brick, with verandas enclosed with screens of matting : it stands about six feet from the ground, on a foundation of brick, and is accessible by a flight of massy wooden steps.
...
The drivers, or rather attendants, of these huge animals, are provided with a small tube of wood, closed at each end, equidistant from which is a round lateral aperture, into which they blow, and produce a noise similar to blowing into the bunghole of an empty cask, for the purpose of warning passengers, or others, of their approach, for they seldom give themselves the trouble to turn aside for any small impediment in their path ; and it was amusing to see the old women and others in the bazars, on hearing the approach of an elephanthorn, gather up their wares, and retreat, muttering, to a respectful distance, while the animal was passing to and from the river-side, where they resorted to drink. On passing us they would slacken their pace, and view, with great apparent interest, objects so unusual as our white faces and European garb presented ; nor were we totally divested of some degree of apprehension at first, from the intense gaze, and marked attention of these enormous beasts. Indeed, the Onamese appeared to fear some accident might accrue to us from our novel appearance, and advised us to assume the costume of the country, to prevent any accident; which advice we generally hereafter complied with, at which they were always highly gratified, viewing it as a compliment. Nor was this unattended with other advantages, for our dresses were those of civil mandarins of the second order, which gained us greater respect from the populace. The dress worn by me is now in the museum of the East India Marine Society of Salem.(16)
Tạm dịch:
Tuy nhiên khi đến cuối con đường thứ nhứt, cảnh trí thay đổi một cách vui mắt. Chúng tôi tới một con đường dài khoảng 1/4 dặm lượng quanh như mình rắn, dọc hai bên có tường đá, lòng đường đá nện thoai thoải cỏ mọc xanh um. Các loại gia cầm 2 chân và 4 chân phó mặc chúng tôi và chẳng bao lâu chúng tôi tới một chiếc cầu bằng đá và đất khá đẹp bắt ngang qua một cái hào rộng và sâu, chúng tôi đã tới cổng đông nam của thành, hay nói đúng hơn , một khu quân sự, bởi vì tường thành bằng gạch và đất cao khoảng 20 bộ (1 bộ dài 33cm), rất dầy, bao quanh một diện tích bằng phẳng bốn chiều, mỗi chiều rộng đến 3/4 dặm (1dặm dài 1,609m13).Chính nơi đây là trú sở của vị phó vương và tất cả quân binh, có thêm những doanh trại rộng rãi và khang trang, đủ chỗ chứa cho cho 50,000 quan binh. Vọng cung nằm ở giữa thành, trên một diện tích trãi cỏ đẹp, chung quanh với những vường hoa, rộng khoảng 8 mẫu (trên 3 hécta) với một hàng rào cao bọc kính chung quanh. Đó là một cấu trúc hình chữ nhật với chiều dài khoảng 100 bộ và chiều rộng khoảng 60 bộ, phần chính được xây cất bằng gạch, với những hàng mái hiên được bao bọc mành che. Vọng cung nầy được xây cất trên nền gạch xây cao 6 bộ và có những bậc thềm bằng gỗ nặng để bước lên.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:43:18 GMT 9
Hai bên vọng cung, cách xa khoảng 100 bộ, mỗi bên có 1 chòi canh hình vuông cao khoảng 30 bộ, bên trong có treo một cái chuông lớn. Phía sau, cách khoảng 50 bộ lại thêm một tòa nhà nữa cũng lớn rộng gần bằng như thế, gồm các phòng ốc dành cho phụ nữ và các hạng phục dịch khác nhau. Các nóc nhà đều lợp ngói trán men được trang trí hình rồng và các quái thú khác không khác gì bên Trung Quốc. Những gian phòng trong hành cung nầy để cho vua và gia đình ở nhưng họ chưa trở lại Sài Gòn kể từ những cuộc nội chiến. Hậu quả là kể từ thời kỳ đó, hành cung nầy chưa bao giờ được ai vào ở. Tuy nhiên, nó lại được dùng như một chỗ nhà lưu trử văn khố của tỉnh thành và ấn triện của triều đình; và tất cả các công văn cần phải đóng dấu triện đều phải được thực hiện tại nơi đây. Khi đi ngang qua các kiến trúc nầy chúng tôi được các quan triều hướng dẫn cách chào kính cung điện trống vắng không có người ở nầy của vị Con Trời bằng cách hạ thấp các cán lộng che cho chúng tôi. Rồi chúng tôi tới trước dinh quan tổng đốc và được đưa vào một chòi canh gát để đợi viên quan hướng dẫn và người thông ngôn đi thông báo là chúng tôi đến thăm viếng. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu vào lúc chúng tôi được thông báo là vị đại quan lớn nhất của địa phương đã sẵn sàng tiếp kiến chúng tôi . Chúng tôi đi vào khuông viên dành cho cho quan tổng đốc ngang qua một cổng rộng của một tường rào cao vây quanh; trước cổng khoảng chừng 10 bộ là một kiến trúc nhỏ áng ngữ, và có lẽ như là một bình phong che cổng. Qua khỏi tấm che nầy, chúng tôi đứng trên một bãi sân rộng thoáng, và thẳng ngay trước mặt chúng tôi cách khoảng chừng 150 bộ kể từ cổng vào là dinh thự của quan tổng đốc, một kiến trúc hình bốn cạnh, mỗi cạnh rộng 80 bộ vuông, lợp ngói. Từ những mái hiên ở mặt tiền, một mái ngói cong nối tiếp một khoảng dài 60 bộ được chống đỡ trên những cột nhà bằng gỗ hồng cẩm bóng loáng đẹp đẽ. Bốn phía của kiến trúc nầy đều có treo màng che bằng tre. Thẳng gốc và ở hai bên dinh thự chính là những bệ bằng đất nện bóng (3 bệ cho mỗi bên) cao khoảng 1 bộ từ mặt sàn nhà. Bề mặt của mỗi bệ khoảng 45 bộ chiều dài, 4 bộ chiều rộng và trên mặt đặt hai tấm phản gỗ dầy khoảng 12 phân ráp nối liền nhau và được đánh bóng thật kỹ lưỡng. Giữa hai hàng bệ cao nầy, lùi về phí trong xa hơn là một bệ khác cao 3 bộ, trên có đặt một tấm phản duy nhất với chiều rộng 6 bộ và chiều dài 10 bộ, dầy 25 phân mà màu sắc và chất liệu giống như là bằng gỗ hoàng dương và vì được xử dụng chà xát quá nhiều đến mức tấm phản nầy giống một tấm gương có thể soi chiếu một cách trung thật các đồ vật đặt chung quanh. Trên bệ cao, quan tổng dốc ngồi khoanh chân theo thể thức của ngưới Á Đông và đang vuốt chòm râu bạc trắng thưa thớt; đó là một ông già gầy gò, da nhăn, phong cách cẫn trọng, nét mặt với nụ cười khó hiểu nhưng vẫn tỏ lộ ra được lòng ngay thẳng của đương sự trong một cuộc bàn bạc trung thực. Hai bên bệ là chỗ ngồi dành cho quan chức các cấp của triều đình, đẵng trật cao ngồi gần quan Tổng đốc . Các hàng binh lính, hai tay cầm gươm và thuẫn che bằng da trâu đánh bóng gắng gù sắt, đứng hầu khắp sảnh đường. Chúng tôi tiến thẳng lên phía trước, đi giữa hai dãy bệ hai bên ngai bệ ngồi của Tổng đốc, đến ngang ngưỡng thềm của bệ giữa thì chúng ngả mũ lưỡi trai và kính cẩn cúi chào 3 lần theo lối Âu châu và được vị Tổng đốc cúi thấp đầu một cách khoan thai để hồi đáp lại. Sau đó quan Tổng đốc lệnh cho viên thông ngôn dẫn chúng tôi sang phía chiếc ghế dài bằng tre đặt ở phía tay mặt của đương sự cùng hàng với một số ghế ngồi trông như là được bọc nệm bằng vải Trung Quốc mà viên thông ngôn bảo rằng những chiếc ghế nầy được sắp xếp như thế cho chúng tôi ngồi thoải mái. Quan Tổng đốc khoan thai dùng tay ra hiệu mời chúng tôi ngồi xuống và chúng tôi tuân lời. Sau đó thì các viên thông ngôn nâng ngang đầu các tặng phẩm, quỳ bái trước bệ cao, trong khi lính hầu cận chờ tiếp nhận để dâng lên cho quan Tổng đốc. Sau khi ngắm nghía từng món tặng phẩm và trông có vẽ hài lòng, đương sự biểu lộ sự đẹp ý của mình bằng cử chỉ dịu dàng tiếp đón, hỏi thăm sức khoẻ cùng với hành trình của chúng tôi, khoảng cách xa từ quốc gia chúng tôi đến nước An Nam, mục đích của cuộc thăm viếng nầy là gì vân vân ...Sau khi đã được chúng tôi trả lời thỏa đáng những câu hỏi, đương sự hứa sẽ dành mọi sự dễ dàng để giúp chúng tôi thực hiện mục tiêu của chuyến viếng thăm nầy. Trầu cau, trà mức được mang ra để mời chúng tôi và chúng tôi đã thừa cơ hội nầy đề cập ngay đến vấn đề quà cáp, những luật lệ và thuế bến cảng. Tất cả các toan tín của chúng tôi vào lúc nầy đều bị né tránh một cách khôn khéo. Tuy nhiên quan Tổng đốc hứa là sẽ thoả mãn yêu cầu của chúng tôi trong lần tiếp kiến sắp tới . Chúng tôi kiếu từ và bởi vì ngày còn quá sớm, chúng tôi tiếp nối cuộc dạo quanh thành phố để thoả chí tò mò. Vào lúc trở lại cổng lớn ở hướng nam, chúng tôi vào cổng và đi ngang qua một doanh trại bên trong có chứa tới 250 khẩu trọng pháo đủ cỡ, đủ kiểu, đa số đúc bằng đồng và phần chính là do Âu Châu sản xuất đặt trên dàn kệ bằng cây cũ mục khác nhau. Trong số súng trọng pháo nầy còn thấy có khoảng 12 khẩu trọng pháo dã chiến tốt trên có chạm 3 hình hoa huệ và khắc ghi cho biết là được sản xuất từ triều đại vua Louis thứ XIV của nước Pháp, được bảo quản khá tốt. Kế bên là một dàn trọng pháo giả bằng cây dùng để tập huấn cho binh sĩ. Tới đồn canh chính, gần cổng vào, chúng tôi thấy nhiều binh lính bị phạt mang gông vào cổ; nhân dịp chúng tôi cũng được biết là gông phạt binh lính thì làm bằng tre còn gông phạt dùng cho những người khác thì làm bằng gỗ mun nặng màu đen. Về hướng bắc của cổng vào phía đông, chúng tôi nhìn thấy một ụ cột cờ lớn dùng để kéo cờ xí của nước An Nam vào mỗi ngày đầu tháng âm lịch và vào những dịp quan trọng khác.
Các cổng thành, đếm được 4 cổng, tất cả đều cúng chắc kiên cố đóng ghép bằng những loại đinh gù lớn giống như cửa thành của Âu Châu, và những chiếc cầu bắt ngang qua hào sâu đều được trang trí nổi bằng những hình tượng quân sự và tôn giáo. Phía trên các cổng vào là nhửng kiền trúc hình vuông lợp ngói, có 2 bật than để đi lên bờ thành ở hai bên cổng, bên trong tường thành.
Ở khu phí tây bên trong vòng các tường thành là một nghĩa địa gồm có rất nhiều lăng mộ cổ tráng lệ xây đấp theo kiểu Trung Quốc. Một vài ngôi mộ có đặt bản đá chạm khắc khá tinh xảo bài văn tế và di ảnh.
Ở khu đông bắc có 6 dãy trại rất lớn được bao bọc bằng những hàng rào dậu cách biệt nhau. Mỗi căn trại có chiều dài 120 bộ và chiều ngang 80 bộ. Nóc trại gồm có nhiều xà gỗ kiên cố và lợp ngói men, cột trụ bằng gạch xen kẻ lại có các công trình thổ mộc chạm trỗ hoành tráng. Vách trại cao khoảng 18 bộ. Các căn trại nầy dùng làm kho xưởng chế tạo, kho dự trữ binh lương, kho vũ khí của hải quân và bộ binh vân... vân . Có nhiều trại lính đó đây rải rác bên trong vòng tường thành dưới những tàn cây khá rậm mát của miền nhiệt đới, trong số đó chúng tôi thấy có những bụi cây thầu dầu. Rất nhiều lối đi thoải mái từ nhiều hướng khác nhau, hai bên trồng cây xanh đẹp giống như loại cây lê nở rộ bông trắng xoá tỏa hương thơm khắp xa gần vào những tháng 10 và 11. Từ những bông hoa nầy, người bản xứ ép lấy dầu làm một loại dầu thoa trị lành thương tích.
Trên sườn dốc ở phía ngoài cổng thành nơi cuối một lối đi có mái che, chúng tôi nhìn thấy nhều con voi đang gậm cỏ với những lính quảng tượng điều khiển ngồi trên đầu. Có một vài con rất to lớn hơn là loại voi Ấn Độ. Các lính nài quảng tượng, hay đúng hơn là những người bạn đồng hành của những con thú tuyệt vời nầy, được trang bị một óng cây nhỏ, hai đầu óng bịt kín và được xoi một lỗ tròn ở giữa dùng để thổi hơi phát ra một âm thanh giống như tiếng hú giống như khi thổi hơi ngang qua một lỗ rót của một cái thùng tôn nô rỗng để báo cho mọi người phải đứng cách xa ra vì các con voi không biết né tránh những trở ngại trên bước đường đi của chúng; và thật là buồn cười khi nhìn thấy các bà già bán hàng rong miệng càu nhàu, hối hả thâu gôm đồ đoàn hàng hóa của mình để né tránh chạy ra chỗ khác an toàn hơn khi nghe tiếng hú báo hiệu giờ đoàn voi đi ra bờ sông uống nước hoặc quay trở về. Khi đi ngang qua chỗ chúng tôi đang đứng, đoàn voi bước chậm lại như là để ngắm nhìn, có vẻ như là rất lý thú, khi nhìn thấy những giống vật lạ thường với khuôn mặt trắng và bộ y phục âu châu. Thoạt tiên, chúng tôi không phải là không e sợ khi nhận thấy cái nhìn hung tợn và chự sự châm chú của những con thú rừng khổng lồ nầy. Ngay cả những người An Nam cũng to dấu lo sợ tai nạn xảy ra vì diện mạo dị kỳ của chúng tôi, họ khuyên chúng tôi nên thay đổi cách ăn mặc theo bản xứ để tránh mọi tai nạn và sau đó thì chúng tôi nghe theo lời khuyên và họ tỏ ra rất cảm kích vì cho đó là một thái độ thân thiện. Ngoài ra chúng tôi còn có lợi ích khác nữa bởi vì chúng tôi được mặc nhung phục của hàng văn quan cấp nhị phẩm càng làm cho dân chúng thêm kính nể. Bộ lễ phục mà tôi đã mặc nay được lưu giữ tại viện bảo tàng Salem của Hiệp Hội Hải quân Đông Ấn.
J.White cũng mô tả thành phố Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) như sau:
The city of Saigon was formerly confined to the western extremity of its present site, now called old Saigon, and which part bears much greater marks of antiquity, and a superior style of architecture. Some of the streets are paved with flags; and the quays of stone and brick work extend nearly a mile along the river. The citadel and naval arsenal, with the exception of a few huts for the artificers, were the only occupants of the grounds in the eastern quarter; but since the civil wars have ended, the tide of population has flowed rapidly to the eastward, till it has produced one continued city, which has spread itself to the opposite bank (P.237 of the streams on which it is situated, and surrounds the citadel and naval arsenal. From the western part of the city, a river or canal has been recently cut, (indeed it was scarcely finished when we arrived there,) twenty-three English miles, connecting with a branch of the Cambodia river, by which a free water-communication is opened with Cambodia, which is called by the Onamese Cou-maigne. This canal is twelve feet deep throughout; about eighty feet wide, and was cut through immense forests and morasses, in the short space of six weeks. Twenty-six thousand men were employed, night and day, by turns, in this stupendous undertaking, and seven thousand lives sacrificed by fatigue, and consequent disease. The banks of this canal are already planted with the palmaria tree, which is a great favourite with the Onamese. The site of the citadel of Saigon is the first elevated land which occurs in the river, after leaving Cape St. James, and this is but about sixty feet above the level of the river : it was formerly a natural conical mound, covered with wood. The grandfather of the present monarch caused the top to be taken off and levelled, and a deep moat to be sunk, surrounding the whole, which was supplied with water from the river by means of a canal. It is most admirably situated for defence, and would be capable, when placed in a proper posture, of standing a long siege, against even an European army. The walls were destroyed in the civil wars, but were subsequently rebuilt in better style than formerly.(17)
Tạm dịch:
Thành phố Sài Gòn thuở trước nằm về phía cực tây so với địa điểm hiện tại, và nay được gọi là Sài Gòn cũ, là phần đất mang rất nhiều dấu ấn xưa cũ hơn hết với kiểu kiến trúc cao cấp hơn. Một số con đường đã được lót gạch đá; và các bến cảng (Chợ Lớn) lát gạch và đá chạy dài cả dậm dọc theo mé sông. Thành lũy và xưởng đóng tàu với một số thưa thớt lều trại dành cho thợ thuyền là những cấu trúc nằm trên khu đất hướng đông; tuy nhiên kể từ khi chấm dứt những trận nội chiến thì làn sóng dân chúng đã nhanh chóng tràn ngập về khu đất phía đông cho đến khi làn sóng đó biến đổi Sài Gòn thành một thành phố nối kết tỏa rộng ra đến bờ đối diện của các nguồn sông rạch của thành phố, bao gồm thành lũy (tức thành Gia Định) và xưởng đóng tàu. Từ khu đất phía tây của thành phố, một con sông hay con kinh vừa mới được đào xong (vào lúc chúng tôi vừa tới nơi đó), dài 23 dặm Anh, nối liền với một nhánh sông Cambodge (tức sông Cửu Long) nhờ đó mở ra một thủy lộ đi thông lên nước Cambodge mà người An Nam gọi là nước Cao Mên. Con kinh đào nầy sâu 12 bộ; rộng khoảng 80 bộ, cắt ngang qua những khu rừng và đầm lầy và được đào trong một thời gian ngắn 6 tuần lễ. Hai mươi sáu ngàn dân phu được thay phiên xử dụng ngày đêm để thực hiện công trình to tát nầy, 7 ngàn người chết vì làm việc kiệt lực và bệnh hoạn. Hai bên bờ kinh đã được trồng cây thốt nốt, một loại cây (một loại cây dừa) rất được người An Nam ưa thích. "Nơi đặt lũy thành Sài Gòn (tức thành Gia Định) là khu đất cao đầu tiên gần mé sông kể từ Ô Cấp (tức Vũng Tàu) đi ngược lên, cao khỏi mặt sông khoảng 60 bộ (1 bộ = 33cm): trước đây khu đất nầy là một gò đất cao hình nón với rừng cây che kín. Ông nội của đương kiem hoàng đế đã ra lệnh bạt thấp xuống cho bằng phẳng và cho đào một đường hào sâu vòng quanh ngập đầy nước sông nhờ một con kinh dẫn nước vào (kinh Thị Nghè). Thành lũy nầy chiếm một vị thế tuyệt hảo cho việc phòng vệ và chắc là có khả năng chống lại một trận vây hãm lâu dài ngay cả đối với một đạo quân đến từ Âu Châu. Các bức tường thành đã bị phá hủy trong thời nội chiến nhưng về sau đã được xây dựng lại theo một kiểu tốt hơn trước.
Sau khi Lê Văn Duyệt chết, chức tổng trấn Gia Định Thành bị bãi bỏ, Gia Định Thành cũng không còn tên và bị phân chia thành 6 tỉnh; trấn Phiên An, gọi là tỉnh Phiên An; thành Bát quái đổi gọi là thành Phiên An: kể từ nay triều đình kiểm soát trực tiếp tất cả các tỉnh mới lập.
Tháng 5 âl năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An.
Tháng 7 âl năm Ất Mùi (1835) quân triều đình công phá và thu phục lại thành Phiên An. Theo sách Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu thì : "Quân thứ Gia Định thâu phục được thành Phiên An, quân giặc bị bắt sống và bị chém cả thảy 1831 đứa, không còn sót đứa nào; quan binh bị thương 400 người, chết trận hơn 60 người, tù phạm thú đinh bị thương hơn 70, chết trận hơn 20"(1. Tất cả những người bị chém hoặc bị xử tử sau đều bị mang đi chôn tập thể nơi một vị trí gọi là Mả Ngụy ở gần mô súng (gần Ngã Sáu các đường Hiền Vương đầu đường Trần Quốc Toản và đường Lê Văn Duyệt tức khu Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn và cư xá Chí Hòa trước ngày 30-04-1975).
Tháng 10 âl năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836), SQTCBTY viết: "Đắp lại thành Gia Định tại thôn Hòa Mỹ thuộc huyện Bình Dương. Khi ấy giặc Khôi đã bình, bộ nghĩ rằng thành cũ cao rộng quá, nên giảm bớt cho hiệp thể chế. Ngài sắc cho bộ ban thể thức ra và tư đòi binh dân 4 tỉnh Định, Biên, Long, Tường, cả thảy 10 ngàn người tới đắp. Trong hai tháng thành đắp xong". (19) Tức là Minh Mạng phá bỏ thành Quy của Gia Long và xây một thành mới nằm trên lãnh vực thôn Hòa Mỹ tức là nằm ở góc đông bắc thành Quy cũ vì cho rằng trước đây Lê Văn Duyệt đã củng cố thêm thành Quy nhằm mục đích phòng chống triều đình bằng cách xây cao thêm bờ thành 1 thước 5 tấc bằng gạch.(20) Thành tỉnh Gia Định do Minh Mạng xây cất có chu vi 429 trượng (1960m), cao 10 thước 3 tấc (4m70), hào rộng 11 trượng 4 thước (52m07), sâu 7 thước (3m19), có 4 cửa ở địa phận thôn Nghĩa Hòa huyện Bình Dương.(21)
Trên bản đồ thành phố Sài Gòn ngày nay thành Gia Định của Minh Mạng thường được gọi là thành Phụng xây cất nằm ở góc đông bắc của thành cũ (thành Quy của Gia Long) tức là nằm trong chu vi của 4 con đường: Nguyễn Du là mặt trước, Nguyễn Đình Chiểu là mặt sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm là mặt bên trái, Mạc Đỉnh Chi là ở bên phía tay mặt. Thành Phụng (1836) mặt trước nhìn ra đường Cường Để-Bến Bạch Đằng; mặt sau nhìn ra đường Đinh Tiên Hoàng; mặt trái và phải đều hướng ra đường Hồng Thập Tự (Chasseloup Laubat).
Cuối tháng 1 d.l năm 1859, De Genouilly chỉ để khoảng 120 binh sĩ dưới sự chỉ huy của hạm trưởng Toyon ở lại giữ Đà Nẵng và kéo toàn bộ quân binh khoảng 2200 người và 13 tàu chiến trực chỉ về hướng Gia Định. Đoàn tàu chiến đến Vũng Tàu vào buổi sáng ngày 10 tháng 2 d.l năm 1859 và bắn phá ngay 2 đồn canh trên bờ. Ngày 11 tháng 2 d.l, đoàn tàu đi vào cửa biển Cần Giờ, phóng pháo hạm Plégéton bắn hạ đồn canh cửa biển rồi tất cả thận trọng tiến vào sông Tân Bình (tức sông Sài Gòn ngày nay). Từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 2.dl, tất cả các đồn canh hai bên bờ sông đều lần lượt bị bắn hạ. Trong khoảng thời gian nầy tu sĩ người Pháp là Lefèbvre trốn thoát và được tàu chiến Pháp cứu vớt. Những tin tức về hệ thống phòng thủ của quân binh triều đình Đại Nam do Lefèbvre cung cấp đã giúp cho đoàn tàu xâm lược có thể tự tin và tiến tới một cách táo bạo hơn. Buổi chiều ngày 16 tháng 2 d.l năm 1859, tàu chiến liên quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho đổ bộ lên bờ đánh chiếm đồn Hữu Bình Pháo (còn gọi là đồn Vàm Cỏ hay đồn Giao Khẩu ngày nay ở vào khoảng cửa con kinh Tân Thuận, quận Nhà Bè, đối diện với đồn nầy là Tả Bình pháo hay đồn Cá Trê ở phía Thủ Thiêm ngày nay) rồi tiến thẳng vào sông Tân Bình (nay là sông Sài Gòn) dàn trận bao vây thành Gia Định từ rạch Thị Nghè tới đầu con kinh Hoa Kiều (nơi có cột cờ Thủ Ngự và Nhà Rồng ngày nay).
Thành Gia Định được Minh Mạng xây cất lại từ năm 1837, được bao bọc, ở phía Đông bằng một hình cong bán nguyệt tạo bởi con sông Tân Bình (sông Sài Gòn); ở phía Bắc và Tây Bắc bởi con kinh Thị Nghè, ở phía Nam là Kinh Hoa Kiều mà thời đó gọi là Rạch Bình Dương và vàm Bến Nghé đổ ra sông Tân Bình.Tất cả sông rạch vừa kể không những tạo thành một hệ thống giao thông liên lạc thuận lợi và là một cấu kết hào lũy phòng thủ của thành Gia Định. Cách đầu kinh Hoa Kiều về phía Nam khoảng 2 cây số là đồn pháo thủ Giao Khẩu và đồn Cá Trê (tức là 2 tiền đồn nầy cách xa thành Gia Định khoảng gần 4 cây số).
Vua Minh Mạng
Chỉ dựa vào sông rạch thiên nhiên để bảo vệ thành Gia Định là là một chiến lược phòng thủ yếu kém và thiếu sót. Tiền đồn chỉ có hai đồn pháo thủ kém trang bị để giữ mặt tấn công từ cửa biển Cần Giờ. Cửa vào 2 con kinh Hoa Kiều và Thị Nghè không được bố phòng kiểm soát; trong thành không có súng đại pháo tầm bắn xa hơn 1,500 mét để nhắm vào các mục tiêu đậu trải dài trong vòng cung bán nguyệt của con sông Tân Bình (sông Sài Gòn).
Những khẩu súng lớn của triều đình Đại Nam đều là những khẩu súng bằng đồng lỗi thời do người Pháp đưa sang trước đây vào thời Gia Long hoặc những kiểu súng bằng đồng, hay bằng gan do thợ đúc nội địa làm ra rất thô sơ, kém kỹ thuật. Các loại súng đại pháo phòng thủ vịnh biển Đà Nẵng trước đây rất nhiều, vượt trội rất xa số lượng súng đại pháo trong thành Gia Định.
Với vị trí của thành như thế, người ta không thể nào chỉ huy hoặc điều động tiếp cứu các pháo đồn ở mặt phía Đông Sài Gòn và các pháo đồn gần biển.
Sử cũ không viết rõ pháo đồn nào trên sông Sài Gòn bị bắn hạ đầu tiên, tuy nhiên nếu nhìn trên bản đồ của Trần Văn Học thì có thể suy định rằng tiền đồn Cá Trê ở phía Thủ Thiêm (Tả Bình pháo) bị bắn hạ ngay từ khi đồn nầy mở loạt súng đầu tiên nhắm vào đoàn tàu xâm lược trên sông Sài Gòn. Pháo đồn Giao Khẩu (Hữu Binh pháo) ở Tân Thuận có thể được trang bị đầy đủ hơn cho nên đã tạm thời chận đứng đước sức tiến của đoàn tàu xâm lược.
Ngày hôm sau (17 tháng tháng 2 d.l năm 1859) liên quân xâm lược đổ bộ lên bờ và tiến chiếm đồn Hữu Bình và triệt hạ phá bỏ đồn Tả Bình. Đồn Hữu Bình được liên quân Pháp-Y Pha Nho dùng làm cứ điểm cho các tàu chiến và là điểm xuất quân trên bộ để tiến vào Sài Gòn. Đại pháo của quân triều đình pháo kích đồn Hữu Bình nhưng không được kết quả gì lại bị đại pháo tầm xa của quân xâm lược phản pháo cho nên không bao lâu mà tiếng súng từ phía thành Gia Định bắn ra chậm lần rồi ngừng hẳn. Cả vùng phía Đông Nam của con kinh Hoa Kiều (ngày nay là Xóm Chiếu) dưới quyền kiểm soát của liên quân Pháp-Y Pha Nho. Cánh quân của liên quân ở mặt Đông Nam gồm có đội công binh, 2 đại đội lính thủy, một đại đội lính yểm trợ Y Pha Nho và một tiểu đoàn quân trừ bị. Một cánh quân Y Pha Nho cùng với 2 đại đội quân lính và khẩu đội phóng pháo nòng ngắn (howitzer) dưới quyền chỉ huy của đại tá Y Pha Nho Lazarote tiến sát đến bờ thành Gia Định. Ngay loạt súng tấn công chiếm thành đầu tiên của quân xâm lược, quân triều đình trong thành Gia Định đã bỏ chạy, quân xâm lược vượt tường thành mà không gặp một sức kháng cự nào khiến cho họ phải ngạc nhiên.
Cánh quân xâm lược ở phía Bắc gặp sức kháng cự dũng mãnh của hằng ngàn quân triều đình. Đại tá Lazarote phải đưa quân tăng viện. Vào khoảng giữa trưa ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định hoàn toàn bị quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho chiếm cứ, hạm trưởng người Pháp Jauréguiberry được cử làm chỉ huy trưởng trấn thủ thành Gia Định. Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực, lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về đồn Tây Thái, đốc thần Vũ Duy Ninh, án sát Lê Từ tự sát. Quân xâm lược tịch thâu được hơn 2200 khẩu đại pháo, một thuyền buồm, 8 thuyền chiến nhỏ đậu trong ụ, 20,000 vũ khí đủ loại gồm có, gươm, giáo, súng trường, súng cầm tay, 85,000 ki lô thuốc nổ, rất nhiều quân nhu quân dụng, hàng khối kho chứa đầy gạo và nhiều cây vàng, bạc trị giá 130,000 quan tiền Pháp.
(còn tiếp)
Cước chú:
(1): Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch 1998; NXB Giáo Dục; trang 176.
(2): Đại Nam Nhất Thống Chí; Lục tỉnh Nam Việt; Tập thượng: Biên Hoà-Gia Định; phụ chép Thiên lý cù; trang 87; Sài Gòn; tái bản 1973.
(3): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176.
(4): Đại Nam Nhất Thống Chí; sđd; trang 87.
(5): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176
(6): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 74,75
(7): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 86: Trấn Phiên An
(: Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 87 và 88
(9): THĐ; sđd; trang 77
(10): THĐ; sđd; trang 87
(11): THĐ; sđd; trang 86
(12): THĐ; sđd; trang 127
(13): THĐ, sđd; trang 35
(14): QTCBTY; trang 29
(15): La geste française en Indochine, G.Taboulet, tập I, trang 243 đến trang 251
(16): A Voyage To Cochin China ; by John White, Lieutenant in The United State Navy; Chap. XIV; pp.220 to 227; London printed for Longman; Hurts, Rees, Orm, Brown, ang Green, Paternoster-Row. 1824
(17): John White; Chapter XV, pp 233-238
(1: SQTCBTY; bản dịch 1928, trang 203
(19): SQTCBTY; sđd; trang 212
(20): ĐNNTC; bản dịch: Lục tỉnh Nam Việt; tập thượng Biên Hòa-Gia Định; trang 67; Văn Hóa Tùng Thư, Sài Gòn 1959
(21): ĐNNTC; sđd; trang 55-56
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:45:45 GMT 9
Sơ Lược Về Thành Phố Sài Gòn Từ Năm 1795 Đến 2004 (tiếp theo) Khi tàu chiến Pháp-Y Pha Nho vào đến Vũng Tàu thì triều đình chỉ ra lệnh cho quyền đề đốc Gia Định Trần Trí đem 150 binh sĩ đến đóng ở cửa biển Cần Giờ. Cách phối trí các lực lượng tăng viện và phòng thủ như vừa kể trên cho thấy trình độ yếu kém về mặt quân sự quốc phòng của chính quyền Đại Nam cả hai mặt chiến lược và chiến thuật. Về mặt chiến lược, bờ biển Vũng Tàu và nhất là cửa biển Cần Giờ cùng với con sông Lòng Tàu là những vị trí tối quan trọng từ lâu đời cho tới nay: tất cả những cuộc xâm nhập của quân Tây Sơn từ hướng Bắc trên biển Đông vào đánh phá Gia Định đều đi qua các địa điểm chiến lược nầy. Tổ tiên của Tự Đức đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm xương máu về các vị thế chiến lược đó vậy mà cho đến nay Tự Đức cũng chưa nhìn thấy được tầm mức quan trọng của cửa biển Cần Giờ và con sông Lòng Tàu đối với sự sống còn của thành phố Sài Gòn vào thời đó hay sao? Cửa biển Cần Giờ chỉ được án ngữ với 150 lính thủy. Sử quán triều Nguyễn không cho biết là có thuyền chiến nào của Đại Nam được đưa đến phối trí ở cửa biển Cần Giờ hay không. Như vậy có thể suy định rằng số lượng 150 người nầy là số lính tăng cường cho các đồn pháo thủ Cần Giờ và những đồn rải rác đóng dọc theo hai bờ sông Lòng Tàu vào tới đầu sông Nhà Bè. Các đồn nầy theo sử cũ là bảo Lương Thiện, (Biên Hòa), Phúc Vĩnh, Danh Nghĩa (Gia Định) và bảo Cần Giờ. Bắn phá xong các đồn nầy, quân xâm lược liền cho lính lên bộ chiếm giữ Phù Giang thuộc Biên Hòa. Tuần phủ Biên Hòa là Nguyễn Đức Hoan tăng cường quân đến giữ pháo đài Tả Định (tức đồn Cá Trê ở phía Thủ Thiêm hiện nay. Tàu chiến của quân xâm lược thong dong lướt tiến trên sông Lòng Tàu như đang đi dạo chơi săn bắn, rồi vào sông Nhà Bè, hạ các pháo đồn Tả Định, Tam Kỳ, Bình Khánh, Phú Mỹ, Hữu Bình tức là nguyên một vòng cung của con sông Sài Gòn ngày nay từ ngả ba con kinh Tẻ ở Tân Thuận Đông, qua khỏi đầu rạch Thị Nghè đến bến đò Phú Mỹ ở Bình Khánh đều ở dưới quyền kiểm soát của đoàn tàu chiến xâm lược tức là thành Phụng Gia Định bị bao vây ở 3 hướng Đông (mặt sông Sài Gòn hiện nay), Đông-Nam (dọc theo con kinh Hoa Kiều/ Arroyo Chinois hiện nay) và hướng Bắc (dọc theo rạch Thị Nghè/ Arroyo de l' Avalanche hiện nay) và quan quân trong thành chỉ còn một hướng Tây duy nhất để chạy thoát thân. Quan binh của triều đình nhát sợ bỏ đồn lũy, thành quách trốn chạy đến mức Tự Đức phải ra dụ chỉ trấn an và kêu gọi dân chúng tổ chức dân quân để cùng hiệp lực với triều đình chống quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho: "Vua dụ cho quan binh sĩ phu Nam Kỳ rằng: quân của Tây Dương đã vào Đà Nẵng, lại đến Gia Định, Biên Hòa. Phàm sĩ phu nước ta, không ai là không nổi giận. Nhưng vì thái bình đã lâu ngày không khỏi có kẻ nghe gió thổi chim kêu cũng sợ hão. Bọn đốc, phủ, bố, án các ngươi nên trấn tĩnh, chớ để cho dân kinh động. Nếu người nào có lòng nghĩa dũng muốn tòng quân, thì cho lập đoàn luyện tập hương dõng để tự giữ lấy làng, cho việc phòng bị được nghiêm nhặt." Vua Tự Đức Từ lời dụ nầy người ta thấy được thái độ khinh thường nông cạn của Tự Đức về sức mạnh quân sự của đoàn quân xâm lược Âu Châu khi cho rằng lực lượng quân sự của họ chỉ là gió thổi, chim kêu. Là tổng tư lệnh tối cao của quân lực, nhưng Tự Đức lại chối bỏ trách nhiệm của mình và đổ trút hết tội lỗi cho đám quần thần lơ láo, thủ cựu, chậm tiến: "Vua cho là lần nầy người Tây Dương sinh sự. Những nơi bờ biển nên phòng bị, đã nhiều lần dụ các địa phương phải phòng bị cho nghiêm. Mà nay Biên Hòa, Gia Định còn sơ phòng đến nỗi thành Gia Định không giữ được." [22] Quân Pháp Tấn Công Thành Gia Định Về mặt chiến thuật, các chỉ huy quân sự của triều đình Đại Nam luôn luôn ngồi chờ đối phương tới đánh cho tan nát rồi mới tìm cách phòng thủ hoặc bao vây đối phương trở lại chứ không chủ động tấn công toàn diện. Tình trạng nầy chính là vì tổ chức quân đội ấu trĩ lỗi thời kèm theo nhóm võ tướng nhát gan không dám tự quyết hành động, luôn luôn ngồi chờ chỉ thị của trung ương: tàu chiến của đối phương di chuyển trên sông nhưng quan binh của triều đình cứ ngồi đợi ở trên bờ để rồi phải chịu hứng đạn pháo kích dũng mãnh từ các tàu của đối phương bắn vào mà không thấy có một ghe chiến hay thuyền chiến nào của triều đình lướt sông ra đón đánh. Ngày trước, các dũng tướng kể cả em gái của vua Gia Long thường đích thân đứng trước mũi thuyền chiến đế đón đánh đoàn thuyền chiến của quân Tây Sơn từ cửa biển Cần Giờ và trên sông Lòng Tàu-Nhà Bè chứ không ngồi chờ quân Tây Sơn vào tới sông Sài Gòn rồi mới rút lui bỏ chạy. Không thấy có tướng tá nào của Tự Đức giống như các tướng tá của thời Gia Long trong những thời điểm chống giữ thành Gia Định. Người Pháp đã chiếm được thành Gia Định nhưng lại thấy thành nầy quá rộng lớn và với số lượng quân binh xâm lược ít ỏi hiện tại thì họ khó có thể đồn trú và cố thủ về lâu về dài: Với chu vi của thành khoảng 1,900 mét thì phải có ít nhất từ 2 đến 4 binh sĩ cách khoảng nhau 1 mét để phòng thủ tức là phải có tối thiểu gần 4,000 người để chống trả những đợt tấn kích của quân triều đình từ bên ngoài vòng thành. Vì thế, vào ngày 8/3/1859, De Genouilly quyết định phá hủy thành Phụng, đốt phá hết công thự kho tàng: Những nhà kho chứa thóc đủ nuôi sống cho gần 10,000 quân lính đã bị quân xâm lược thiêu đốt thành than tro vì sợ lọt vào tay quân triều đình rồi rút hết quân về phòng thủ đồn Hữu Bình (Dưới gầm cầu Tân Thuận hiện nay). Để giảm áp lực bao vây của quân triều đình, quân Pháp tiến chiếm đồn Cây Mai (chùa Cây Mai) và một số chùa khác trong vùng Chợ Lớn để làm bộ chỉ huy và cứ điểm rồi tung quân tiến chiếm thành Phụng đã bị đổ nát. Đại tá Jauréguyberry được lệnh xây đắp một đồn trại mới trên nền cũ của thành Phụng. Bên trong đồn gồm có nhà thương quân đội (tức nhà thương Đồn Đất), kho quân nhu và sau đó xây cất thêm một nhà nguyện đạo Gia tô (hoàn tất vào ngày 15/8 d.l/1860). Tôn Thất Hiệp liền rút quân về hướng Thuận Kiều xây đắp một đồn lũy ở làng Chí Hòa cách thành Gia Định 5 cây số và cách đồn Cây Mai khoảng 4 cây số. Cách đồn chí Hòa khoảng 400 mét lại xây thêm đồn Tả và đồn Hữu và chỉ áp dụng chiến lược bao vây và gây rối cho quân Pháp, không quyết liệt tấn công tiêu diệt trong khi quân Pháp ở Sài Gòn chưa tới được con số 1,000. Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Cáp thay thế Tôn Thất Hiệp để thống lãnh mặt trận chống Pháp trong Nam Kỳ. Nguyễn Tri Phương tập trung mọi nổ lực xây dựng chiến lũy phòng thủ Kỳ Hoà để bao vây và không cho quân xâm lược Pháp lấn áp thêm nữa. Lực lượng quân triều đình dưới quyền của Nguyễn Tri Phương ở đồn kỳ Hòa và dân quân lên đến 30 ngàn lại thêm khoảng 15 ngàn quân trừ bị ở Biên Hòa sẵn sàng tiếp ứng. Quân Pháp sau khi được tăng viện thì gồm có khoảng 5 ngàn binh sĩ và rất nhiều tàu chiến dưới quyền thống lãnh chỉ huy của đô đốc Charner. Ngày 02 d.l năm 1861, soái hạm Impératrice-Eugénie của Charner thả neo trên sông Sài Gòn (sông Tân Bình). Cánh đồng mồ mả (Đồng Mả Ngụy/ Plaine des tombeaux) được Charner chọn để dùng làm nơi đóng quân, đi thanh sát hai vị trí đang đóng quân của liên quân Pháp-Y Pha Nho ở chùa Phúc Kiến và trại Ô Ma rồi tăng cường thêm trọng pháo cho hai vị trí nầy. Ở chùa Cây Mai và miếu Barbet cũng được tăng cường trọng pháo. Đặt 2 khẩu đại pháo nòng 125 ly có tằm bắn xa 6 cây số tại vị trí miếu Barbet để công phá vách lũy đồn Chí Hòa. Ngày 16 tháng 2 d.l/ 1861, Charner rời soái hạm để đến đặt hành dinh tại trại binh Đồn Đất (xây đắp trên vị trí của thành Phụng cũ). Đặt một chiến lũy trọng pháo ở hướng Tây Bắc đồn Cây Mai xa tằm trọng pháo từ đồn Chí Hòa bắn ra. Ngày 19 tháng 2 d.l /1861, đại pháo 125 ly từ các tàu chiến và các trọng pháo nòng 90 ly trên đất liền từ miếu Barbet đồng loạt pháo kích và đồn Chí Hòa để gây xáo động quân binh trong đồn Chí Hòa đồng thời đội tàu chiến của đô đốc Page cũng được lệnh tuần tiểu từ sông Sài Gòn lên đến Thủ Dầu Một; các tàu chiến Renommée, Forbin, Monge, Avalanche, Sham Rock, Lily và tàu sắt phóng pháo số 31 xâm nhập rạch Đá Hàng (tức Rạch Gò Vấp ngày nay); tàu phóng pháo số 18 và tàu tuần sát Espérance tiến theo lòng rạch Thị Nghè để đánh sập cầu số 2 (tức cầu Bông Đa Kao ngày nay); tàu phóng pháo số 16 và tàu tuần sát Jajaréo án ngữ trên kinh Hoa Kiều; tàu phóng pháo số 27 và tàu tuần sát Saint-Joseph và một toán bộ binh từ cửa sông Xoài Rạp, vào Rạch Cần Giuộc để tới đóng chốt trên rạch Bà Hôm: tàu phóng pháo số 16 được dùng làm trạm liên lạc giữa 2 tàu nầy với hành dinh trung ương và đồn Cây Mai. Buổi sáng ngày 24 tháng 2 d.l năm 1861, Charner ra lệnh tấn công: phòng tuyến phía Tây của đồn Chí Hòa sát với đồn Cây Mai bị vỡ; rạng sáng ngày 25, quân xâm lược đã tiến quân trên đường Trên (la Route Haute: ngày nay là đường Frère Louis/ Võ Tánh: đoạn đường từ ngã Sáu Sài Gòn, Công trường Phù Đổng đến đường Nancy). Đội pháo binh dàn trận ngoài đồng trống ở chùa Cây Mai. Đoàn quân thuộc nhiều binh chủng và quân Y Pha Nho đồng loạt tiến công với sự yểm trợ của đội công binh chiến đấu do phó thuyền trưởng Pallu de la Barrière chỉ huy cùng với 600 dân công người Hoa và 100 trâu bò. Tất cả trọng pháo từ 3 vị trí chùa Cây Mai, chùa Phước Kiển và miếu Barbet đồng loạt pháo kích vào đồn Chí Hòa.. Trọng pháo từ đồn Chí Hòa bắn trả mãnh liệt nhưng không gây được thiệt hại nào đáng kể cho đoàn quân xâm lược. Dưới sự yểm trợ của pháo binh, khi còn cách bờ vách đất của đồn Chí Hoà khoảng 500 mét, đoàn quân xâm lược lập thành 2 đội hình xung kích theo thế gọng kiềm. Quân triều đình trong đồn bắn trả mãnh liệt; tướng Vassoigne, đại tá Balanca, chuẩn úy Lesèble, đại úy Joly tất cả đều bị trọng thương khiến Charner phải đích thân đảm nhận trách nhiệm chỉ huy trực tiếp ngoài mặt trận, ra lệnh dùng bao đựng đất để che đạn và bít các lỗ châu mai, tiến quân sát bờ vách đồn Chí Hoà rồi truyền lệnh xung phong nhảy vào đồn đánh cận chiến với quân của triều đình. Lần lần quân đồn trú phải vừa chống trả, vừa rút lui dưới lằn đạn dũng mãnh của đoàn quân xâm lược. Sau hai giờ chiến đấu đồn Chí Hòa lọt vào tay quân Pháp-Y Pha Nho. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương; Nguyễn Duy, Tôn Thất Trĩ tử trận, binh sĩ chết và bị thương rất nhiều, quan quân triều đình phải rút về đồn Thuận Kiều. Về phía quân xâm lược thì có 6 tử trận và 30 bị thương được đưa về đồn Cây Mai rồi chuyển sang bệnh viện Chợ Quán. Quân xâm lược tịch thu được 150 khẩu đại pháo, 2,000 súng trường, đạn dược, 20 tấn chất nổ, giáo mát, bản đồ...Trong khi đó thì tất cả các đồn bót dọc theo thượng nguồn sông Sài Gòn đều bị hạm đội của đô đốc Page triệt hạ. Ngày 28 tháng 2 d.l/ 1861, sau khi củng cố đồn Chí Hòa, quân Pháp-Y Pha Nho lại liên tục tiến đánh 3 đồn phòng thủ ở Thuận Kiều, quân triều đình chống trả mãnh liệt nhưng cuối cùng phải bỏ đồn rút quân về đóng ở tỉnh Biên Hòa. Khoảng 300 quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho trọng thương bị loại ra khỏi vòng chiến và 12 tử trận, trong số tử trận có đại tá bộ binh Testard. Quân triều đình có 300 người bị tử trận. Trong trận nầy, quân xâm lược tịch thâu được nhiều vũ khí, và 1,400 tấn gạo. Vào buổi trưa cùng ngày (25/2 d.l/1861), quân của triều đình bị truy đuổi về hướng Hốc Môn, Rạch Tra và Tây Thủy. Vào buổi chiều, đồn Tây Thủy và các vùng phụ cận bị mất. Ngày 15-04-1861 quân Pháp chiếm Định Tường, rồi đến Biên Hoà bị mất ngày 07-01-1862, Vĩnh Long thất thủ ngày 23-03-1862. Sau khi quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho đánh hạ đại đồn Kỳ Hòa làm chủ cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé và mở rộng vùng chiếm đóng của ra 3 tỉnh miền Đông Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long thì vùng Bến Nghé và Sài Gòn cũ (tức Chợ Lớn) trở thành trung tâm cai trị, kinh tế đầu tiên của người Âu Châu trên bán đảo Ấn-Hoa (Indo-Chine) mà người Pháp là chủ nhân ông. Tháng 10 năm 1861, Charner về Pháp. Bonard sang thay thế, đến Bến Nghé ngày 24 tháng 11 1961. Đô đốc Charner Thời đô đốc Bonard (1861-1863), thành phố Bến Nghé mà người Pháp gọi là Saigon Ville đã mang hẳn một bộ mặt Âu Châu. Họ bắt đầu xây dựng một khu hành chánh ở gần gò cao Đồn Đất (tức là gần vị trí cũ thành Phụng Gia Định đã bị họ tàn phá tan nát và sau nầy họ xây dựng nhà thương quân đội Pháp Hôpital Grall mà trước 30-04-1975 người Sài Gòn gọi là Nhà Thương Đồn Đất) làm lỵ sở cai trị cho thành phố Sài Gòn lúc nầy bao gồm cả 2 vùng Bến Nghé và Sài Gòn cũ xung quanh có rào, bên trong đặt các kiến trúc sơ khởi bằng gỗ như dinh thống đốc, các sở hành chánh quản trị, nhà bưu điện, nhà thương. Phía sau khu hành chánh quản trị nầy là trại lính và phía trước gần mé bờ sông Bến Nghé (tức Bến Bạch Đằng sông Sài Gòn trước 30-04-1975) là những kho quân nhu và quân dụng của đoàn tàu chiến Pháp (trước 30-04-1975 là Bộ chỉ huy Hải Quân và cư xá Hải quân của Việt Nam Cộng Hòa). Ở cạnh đầu rạch Thị-Nghè giáp với sông Sài Gòn, nơi gọi là "Chu Sư" hay xưởng đóng tàu, thuyền của nhà Nguyễn ở thành Gia Định ngày trước, vào năm 1864 người Pháp cũng cho xây dựng một xưởng sửa chữa tàu thuyền mà người Sài Gòn sau nầy gọi là xưởng Ba Son-Arsenal với một ụ tàu có cửa đập ngăn nước và tháo nước cùng với những trại bằng gỗ có mái lợp để làm xưởng đúc, xưởng tiện, xưởng hàn, xưởng rèn, xưởng mộc v.v…Kích thước của ụ tàu Ba Son vào năm 1855 là: dài 91.44m, rộng 28.65m, sâu 12.80m; khánh thành ngày 15-08-1865 (theo tập chí Xưa & Nay số tháng 9 năm 1997). Bến cảng Saigon năm 1870 Bến nhà rồng Saigon năm 1872 Tuy nhiên theo một trung úy hải pháo người Pháp có tên là P.C Richard thì vào khởi đầu năm 1866 của thành phố Sài Gòn và các vùng phụ cận thì ụ tàu Ba Son dài 62m, rộng 24m dùng để sửa chữa và bảo trì các loại phóng pháo hạm nhỏ và các loại tàu nhỏ mà thôi.(Tập san Revue Maritime et Coloniale; Tập 18, số phát hành tháng 09-12 năm 1866 trang 535).
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:47:10 GMT 9
Thành phố Sài Gòn và các vùng phụ cận vào khởi đầu năm 1866 đã được P.C. Richard mô tả như sau:
“Kể từ lúc quân đội vinh quang của chúng ta (quân đội Pháp) đã chinh phục được một phần đất ở Nam Kỳ Hạ thì ở bên Pháp người ta đã bận tâm nhiều về phần đất Á Châu nầy vốn đã bị bỏ quên từ trước đến nay. Tuy nhiên, mặc dù đã có rất nhiều tài liệu đã được phổ biến nói về đất nước nầy, vậy mà thành phố Sài Gòn, thủ đô của vùng đất đó lại ít có người biết tới và không được mô tả một cách đầy đủ. Chúng tôi không có tham vọng lấp đầy một lổ hỏng, nhưng ít ra chúng tôi sẽ cũng nói lên đôi lời trưóc tiên về thành phố nầy và tiếp theo là những vùng phụ cận của nó. Thủ đô của Nam Kỳ Hạ thuộc Pháp tọa lạc trên một nhánh của con sông Đồng Nai, gọi là nhánh sông Sài Gòn, ở vào đầu hướng Bắc-Đông Bắc của một vùng lãnh thổ rộng lớn nhiều sông rạch, đồng bằng mênh mông, khá cao hơn mặt biển và bị xén cắt bởi nhiều nhánh của các con song Đồng Nai, sông Soài Rạp và sông Cao Miên (tức nhánh sông Cửu Long đi vào Nam Kỳ) cùng với nhiều kinh rạch (lạch nước) xuyên suốt khắp các phương hướng để cho các nguồn thủy triều lên xuống mỗi ngày hai lần mang nước vào tận các vùng đất xa xôi trong nội địa. Thành phố nầy hoàn toàn nằm trên bờ hữu ngạn của con sông và bờ phía trái của con kinh Hoa Kiều, cách xa biển Đông 100 cây số ngàn. Thành phố được bảo vệ trên mặt thủy lộ bởi một đồn lũy có tên gọi là đồn Nam và phòng chống mặt phía Bắc bởi một thành lũy, sát cạnh với một cánh đồng, được xây dựng vào năm 1821 bởi các kỷ sư người Pháp. Vị trí quân sự nầy rất thuận lợi cho việc phòng giữ; nó được xây cất trên theo một hình bốn cạnh, mặt phía đông hướng ra phía sông, mặt phía nam hướng ra kinh Hoa Kiều, mặt phía bắc hướng ra kinh Thị Nghè và mặt phía tây huớng về phía một con con kinh khác nối đầu hợp lưu hai con kinh vừa kể. Thành phố giống như được bao che trong một nắm tay co cong lại. Nó có thể bị tấn công từ mặt sông nước nhưng lại giao thông ra biển được với con song dài 25 dậm, khúc khuỷu, rất dễ phòng ngự bằng tàu, thuyền chiến và nếu chúng được phối trí đúng chỗ và được trang bị vũ khí công phá tuyệt vời của chúng ta thì có thể bất chấp đối với bất cứ hạm đội tàu chiến nào. Ở vào vị trí nằm giữa nước Ấn Độ về một phía còn phía kia là các nước Trung Hoa và Nhật Bản cho nên tầm quan trọng về mặt quân sự và chiến lược thì thành phố nầy không thể nào có thành phố nào khác có thể suy bì được. Những người ngoại quốc biết rõ như thế; cho nên ngày nay họ còn gọi một cách không đố kỵ thành phố nầy là thành phố Singapour của người Pháp.
Phía trước mặt thành phố là các hạm đội tàu chiến thả neo chung quanh tàu chiến Duperré hai tầng mang cờ soái hạm chỉ huy của phó đề đốc thống đốc và tư lệnh quân sự. Về phía dưới hơn một chút, khoảng nằm giữa kinh Hoa Kiều và đồn Nam là khu vực thương cảng với những chiếc tàu buôn Âu châu thanh lịch cặp bến chung lộn với những loại ghe chài của người An Nam, người Miên và người Hoa được tô vẽ các hình rồng tuyệt vời, tạo cho thương cảng một cảnh trí hết sức ngoạn mục. Không có gì kỳ thú hơn khi nhìn thấy các ghe thuyền của đại quan triều đình An Nam thỉnh thoảng đến đây để bái kiến quan Tổng đốc và trong các dịp như thế họ phô trương tất cả mọi thanh thế cao trọng giàu sang của mình. Thật là vui thích được ngắm nhìn gươm giáo sáng choang, khiêng mộc, cờ lông công, dấu hiệu của một thượng quan triều đình.
Rất vui thú khi được nhìn thấy ghe thuyền của các sắc dân mà mới ngày nào đây họ đã đánh trả chúng ta nhưng nay thì lại đến đây một cách hòa bình và khiêm tốn để chịu nhượng bộ nghiêng mình dưới bóng cờ của chúng ta. Thỉnh thoảng có tiếng trống nghiêm trọng nổi lên tạo cho mỗi cuộc diễn hành trên sông một nét uy vệ mà tôi không biết cách nào để mô tả cho bằng được. Đây chính là một thành phố nổi thực sự; các bến cảng được viền bờ và vụng nước bến cảng thì bị cắt ngang dọc bởi ghe thuyền và xuồng nhỏ; những loại xuồng nhỏ nầy làm bằng những thân cây đã được người An Nam khoét đục rỗng ruột giống như ngày xưa người dân Gaulois khoét đục những thân cây sồi to lớn từ những khu rừng đẹp để làm ghe thuyền của họ. Những chiếc ghe độc mộc nổi bồng bềnh trên mặt nước có một hình dạng độc đáo; khoảng giữa lòng ghe là một cái chòi lợp lá dừa nước, bên trong chứa đủ thứ vật dụng nhà bếp của người An Nam: bởi vì người lái ghe An Nam, sinh ra, sống, đau khổ và chết chung với chiếc ghe của họ. Mũi ghe và đuôi ghe uốn cong cao lên, đó là các vị trí để 2 người lái ghe đứng chèo mặt hướng về phía trước, thường là phụ nữ. Nhũng chiếc ghe khá hơn, loại ghe buồm chẳng hạn, với những cánh buồm bằng chiếu đệm thô sơ làm bang lá dừa hay than cây cói. Trong những chiếc ghe loại nầy, họ sống chen chúc bò lết như đoàn kiến đông đảo vì không có nơi nào khác để cư ngụ. Trong những khu vực sinh sống của người dân An Nam, đa số ở xa trung tâm thành phố, thì dân cư đông đảo chật ních. Trai gái trong khoảng từ 12- 14 tuổi sống chung lộn ở nơi bùn lầy hay chạy rong vất vưởng bụi đời ngoài đường. Những kẻ trước đây đã xâm lăng chinh phục Sài Gòn nhất định sẽ không còn nhận biết được phố thị nghèo nàn của người dân An Nam thuở xưa. Tại nơi chốn mà họ bỏ lại những căn chòi lụp sụp giàn dựng trên cácvùng bùn lầy nước đọng hôi hám thì nay là những căn nhà xinh đẹp, với những con lộ khang trang bao quanh đầy bóng mát cho khách nhàn du suốt ngày khi mà các hàng cây xinh đẹp được trồng đã mọc đủ cao để che ánh nắng. Những căn chòi lá ghê tởm vây quanh bờ hửu ngạn của con sông và phía tả ngạn của con kinh Hoa Kiều mà mỗi khi đi ngang qua người ta sẽ cảm thấy khó chịu nôn ói vì mùi hôi nặc nồng của nước mắm, thì nay tất cả đã biến mất nhường chỗ để xây đắp một con lộ xinh đẹp bến cảng có tên là Napoléon, rộng 50 thước, chia thành những lối đi trải cát với những bồn hoa và cây trồng. Những kho hàng ngay ngắn của thương nhân người Pháp chúng ta tạo thêm khung cảnh thú vị cho cuộc du ngoạn bên cạnh một cột cao được giới thương mại Sài gòn dựng lên như là một kỷ niệm trong số những cơ sở hành chánh cai trị khởi đầu của người Pháp. Phía bên kia rạch Hoa Kiều những chiếc tàu buôn to lớn của công ty hàng hải Messageries Impériales tạo thành một khu vực xinh đẹp nhưng khốn thay chỉ có thể giao lưu qua lại với thành phố bằng ghe thuyền mà thôi
Ghi chú thêm: Tức là vào thời buổi nầy chưa có cầu bắt ngang qua con kinh Hoa Kiều.
Kinh rạch ngang dọc khắp nơi trong thành phố và tạo thuận lợi cho sự chuyển vận thương mại. Những chiếc ghe chài di chuyển lên xuống trên các con kinh rạch nầy mang hàng hóa đến tận các kho chứa hàng ở bến cảng.
Ghi chú thêm: Ghe chài là một loại ghe rất lớn dùng để chở hàng hóa đặc biệt là gạo lúa, không có chèo, chỉ được kéo đi bằng các tàu ca nô nhỏ có gắn động cơ chân vịt. Khi ghe không có chở hàng hóa, muốn di chuyển ghe một khoảng ngắn trên sông, người ta phải cho ghe di chuyển sát bờ sông rồi dùng sào tre dài cắm xuống đáy bùn, dùng sức người đẫy cây sào cho ghe di chuyển. Người đẩy cây sào từ đầu ghe bước chậm dọc theo hai bên bờ ghe, lui đến sau bánh lái thì rút sào lên, đi nhanh trở lại phía đầu ghe rồi lại phóng sào tre cắm xuống đáy bùn để tiếp tục đẫy tiếp; cũng có thêm một người tài công ngồi trên mui ghe để lèo lái cho chiếc ghe lướt thẳng trên mặt sông.
Những con đường lớn, nhỏ, những cầu cống cho tới lúc nầy không thấy có trên đất Nam kỳ hạ để dùng cho các loại xe cơ động quân sự, xe ngựa thồ và các loại xe khác có thể chuyển hành một cách dễ dàng, và ngay cả vào lúc gần đây, người ta chỉ có thể đi bộ mà thôi, băng ngang qua các vũng ao tù lầy lội ngập tới đầu gối." [23]
Cũng theo P.C Richard thì trong vùng Sài Gòn vào lúc nầy các tượng đài Phật giáo có giá trị lịch sử ở trung tâm thành phố đã bị người Pháp tàn phá cùng chung số phận với các di tích cổ xưa giá trị khác của người dân An Nam ở khắp nơi để nhường chỗ cho các dinh thự và cơ ngơi đặc biệt của người Pháp. Nhà thờ Gia Tô Giáo nhỏ bé chật hẹp đầu tiên được xây dựng cho người Pháp và người Âu Châu: tín hữu người bản xứ An Nam chỉ được đứng vòng ngoài để xem lễ ăn ké ngày Chúa Nhật. Dinh thống đốc vẫn còn khiêm tốn, đang chờ đợi một cơ dinh khác xứng đáng hơn. Một nhà in ấn hoàng gia Pháp gần dinh thống đốc chưa xuất bản được một tài liệu nào đáng kể. Dinh hành chánh nội vụ đã xây cất xong và đang được xử dụng. Một dinh thự đặc biệt khác dùng để giam nhốt tù nhân người An Nam cũng đã xây xong, nhất định là không bao giờ bị bỏ trống không người ở. Công xưởng pháo binh của bộ hải quân và thuộc địa đang xây cất trên một vùng đất đằm lầy nhiều ao rạch đã được lắp đầy bằng đất nện cứng. Một con kinh dài hai đầu ăn thông với con sông (Sài Gòn) thuận lợi cho việc chuyển vận vật liệu và súng đạn cần yếu cho hạm đội thuyền chiến của Pháp trên các mặt biển Trung Hoa, Nhật Bản và Nam Kỳ Hạ. Doanh trại pháo binh bây giờ khang trang hơn doanh trại pháo binh hải quân Pháp đặt trên vị trí trường thi ngày trước của thành cũ Gia Định. Cư xá sĩ quan cao cấp ở vào một trong các vị trí thoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Các cơ sở hải quân Pháp chiếm một khu quan trọng có chu vi 1,250 mét nằm gần bờ sông Sài Gòn và kinh Avalanche (kinh Thị Nghè). Một ụ tàu 72m x 24m dùng để sửa chữa bảo trì tàu, thuyền loại nhỏ cũng đã được xây dựng. Đã có vườn bách thảo cùng chung với sở thú chỉ cách với các cơ sở hải quân bằng một con đường và nằm sát bờ kinh Thị Nghè trong đó bắt đầu có cây lạ, thú hiếm tứ phương gửi đến. Trường trung học của dòng Thừa Sai truyền đạo Gia tô được xây cất theo kiến trúc Hy Lạp nhưng lại trang trí theo kiểu Á đông, hiện có khá nhiều con em của người An Nam theo học. Kế cạnh chung lẫn với trường học của dòng Thừa Sai là Pháp quốc học hiệu Giám mục Bá Đa Lộc đã được xây cất ngay từ khi quân Pháp mới đặt chân lên đất Sài Gòn vào ngày 21 tháng 09 năm 1861 nhằm mục tiều đồng hóa người dân An Nam với người Pháp, khai hóa và tách rời người dân ra khỏi ảnh hưởng của nhóm nho quan cựu học của triều đình, và đào tạo một đoàn ngũ công chức người bản xứ phục vụ cho nước Pháp và chính sách thuộc địa, hạng người công chức hiểu biết phong tục tập quán và luật pháp của nước An Nam.
Ngoài ra còn có nhà tu và nhà nguyện của dòng kính Sainte Enfance (sau thường gọi là dòng kính Thérésa hay Nhà Trắng vì các dì phước đội lúp màu trắng) được xây dựng từ năm 1861 bởi các dì phước thuộc dòng tu thánh Phao Lồ (Saint Paul) được nữ hoàng nước Pháp bảo trợ để xây dựng cơ sở nầy với mục đích cứu vớt các trẻ mồ côi vô gia đình vì chiến tranh ở Sài Gòn, Biên Hoà, Bà Rịa, Gò Công..., các trẻ mồ côi được học chữ, dạy nghề chuyên môn, làm ruộng, may vá, thêu thùa; trẻ gái khi lớn lên có thể xin ở lại đời sống tu trì để trở thành dì phước người bản xứ của dòng tu thánh Phao Lồ ở Sài Gòn. Tu viện nầy cũng mở trường tư dạy học tư thục, thâu học phí (trường Saint Paul) và một khu nội trú cho các học sinh con cái (chỉ thâu nhận con gái) của người Pháp với một học phí thấp.
Về các vùng ngoại vi thành phố Sài Gòn vào khởi đầu năm 1866 thì trước hết trên bờ phía trái con kinh Hoa Kiều (theo hướng nước chảy từ trong kinh ra sông Sài Gòn), từ miệng kinh đi vào hướng Sài Gòn cũ (tức Chợ Lớn) thì nhà cửa dân cư đông đúc trên các ao đầm lầy lội bao quanh tứ phía; các ô nhà ở dựng cất từ trên bờ lấn ra đến giữa lòng con kinh và thường bị ngập nước khi thủy triều lên cao.
Các ô nhà nầy tạo thành 12 làng: Cầu ông Lãnh, Cầu Múi, Cầu Khóm, Cầu Kho, Cầu bà Tim, Cầu Sao, Cầu bà Đô, Cầu Mới, Chợ Quán, Bình Yên, Khánh Hội và Vĩnh Hội; hai làng Khánh Hội và Vĩnh Hội nằm trên vùng đất bờ phía phải của kinh Hoa Kiều. Tất cả làng nầy là làng cũ của người dân An Nam, khi quân xâm lược Pháp đánh phá Sài Gòn, người dân các vùng nầy phải lìa bỏ những làng dó đê chạy trốn rồi sau nầy, khi chiến trận tạm yên, họ quay trở về chốn cũ với chính quyền mới của vùng đất Sài Gòn. Đặc biệt, dân cư vùng Chợ Quán là những người theo đạo Gia Tô, nhà cửa khang trang, đưòng xá tốt hơn so với các làng khác. Làng nầy có một nhà thương dành cho quân đội Pháp và một nhà thờ. Từ phía bờ kinh ở làng Chợ Quán đi thẳng về phía bên trong để hướng đến một vùng ao đầm gọi là khu Ô Ma hay Xóm Miếu vì nơi đây trước kia có 2 ngôi miếu xưa, một gọi là Miếu Công Thần và ngôi kia gọi là Miếu Hội Đồng; cả hai hợp chung gọi là Chùa Hiển Trung và trong chùa nầy có thờ bài vị của một người Pháp đánh thuê cho hoàng đế Gia Long ngày trước có tên là Mạn Hoè cùng chung với nhiều bài vị công thần cũ của nhà Nguyễn. Hai miếu nầy đã bị chiến tranh thiêu hủy hoàn toàn, thật đáng tiếc. Xung quanh khu chùa Ô Ma bây giờ mọc đầy những cây phi lao (thân giống như cây trúc) reo hú xào xạc theo từng cơn gió thổi mạnh, nghe như tiếng la rầy trách móc của các linh hồn hiển linh nay không còn nơi ẩn náu.
Phía bắc vùng Xóm Chùa Ô Ma là Cánh Đồng Mồ Mả trong đó có đủ hạng mộ táng xây đắp theo nhiều kiểu mẫu bằng gạch đá hoặc chỉ là những ngôi mộ đất sơ sài. Xuyên ngang cánh đồng mồ mả nầy là 2 con lộ lưu thông khá tiện lợi nhất là dùng cho việc chuyển dịch quân sự từ trại binh lính Pháp ở Sài Gòn
Ghi chú thêm: Binh đội Pháp cũng dùng cánh đồng nầy để luyện tập cho nên còn được gọi là Đồng tập trận.
Vùng đất cao nằm trong vùng tam giác Sài Gòn-Kinh Thị Nghè-Cánh Đồng Mồ Mả có nhiều làng mạc trong đó có làng Phú Nhuận là lớn hơn hết; làng Cây Da chỉ cách thành Phụng chừng vài trăm mét; làng Đà Nẵng là một làng của giáo dân đạo Gia Tô di cư theo đoàn quân Pháp từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Gần sát làng Đà Nẵng là nghĩa địa riêng của người Pháp.
Vùng đất bằng của Sài Gòn có quan cảnh đẹp mắt với những hàng cây cổ thụ chưa bị quân binh chặt đốn, thật dễ chịu khi đi dạo dưới những hàng cây đó nhất là trong những tháng đầu năm. Vào mùa nầy, các vùng xung quanh chùa Barbet, sát liền với thành phố Sài Gòn, là những nơi cảnh trí rất đẹp.
Ghi chú thêm của NCT: chùa Barbet là một ngôi chùa cổ trong vùng Sài Gòn, ngày trước gọi là chùa Khải Tường nhưng sau khi liên quân xâm lược Pháp-Tây Ban Nha đánh chiếm và phá hủy thành Phụng thì chùa nầy bị quân Pháp dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp là đại úy Barbet chiếm đóng, biến chùa nầy thành một trong những cứ điểm quân sự chống cự với quân binh triều đình phát xuất từ đại đồn Kỳ Hòa. Vào cuối tháng 12 năm 1960, trong một cuộc hành quân tuần tỉểu quanh vùng chiếm cứ của mình, Barbet bị lọt vào ổ phục kích của quân triều đình, bị bắn hạ rơi khỏi mình ngựa và bị quân triều đình cắt lấy đầu mang vào đồn Kỳ Hòa. Sau khi đồn Kỳ Hòa bị hạ và vùng Sài Gòn hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của người Pháp, Chùa Khải Tường bị đổi tên gọi là chùa Barbet.
Chú thích thêm: Chùa nầy có một giá trị lịch sử đặc biệt: trong những ngày chúa Nguyễn Phúc Ánh (tức hoàng đế Gia Long) long đong trôi nổi ở Nam Kỳ Hạ vì sự truy đuổi ráo riết của quân Tây Sơn: một người con trai của Ánh là hoàng tử Nguyễn Phúc Đảng (tức hoàng đế Minh Mạng) đã được sinh hạ tại cư phòng phía sau của ngôi chùa Khải Tường vào năm Tân Hợi (1791). Như thế nghĩa là chùa nầy đã có từ trước năm 1791 và nằm ở địa phận thôn Hoạt Lột, huyện Bình Dương ngày trước tức nằm trong lãnh vực quận 3 Sài Gòn trước ngày 30-04-1975. Trên bản đồ thành phố Sài Gòn của người Pháp vào năm 1897 thấy xuất hiện tên đường Barbet (trước 30-4-1975 gọi là đường Lê Quý Đôn) bắt đầu từ đường Chasseloup Laubat (đường Hồng Thập Tự), chạy dọc bên cạnh trường trung học Chasseloup Laubat (trường trung học Lê Quý Đôn trước 30-4-1975) lên đến đường Richaud (trước 30-4-1975 là đường Phan Đình Phùng) thuộc quận 3 Sài Gòn. Như vậy, có thể suy định rằng chùa Khải Tường/ Barbet ngày xưa nằm nơi một khu đất có con đường ngắn Barbet (Lê Quý Đôn) chạy ngang qua. Phải chăng khu nầy chính là khoảnh đất hình vuông nằm ngay phía sau trường trung học Lê Quý Đôn và bao quanh bởi 4 con đường Trần Quý Cáp-Lê Quý Đôn-Phan Đình Phùng-Công Lý (trước 30-4-1975)? Gần đây có sách cho rằng chùa nầy nằm ở số nhà 28 đường Trần Quý Cáp-Sài Gòn và sách vở trong nước cũng theo sự suy đoán như thế kể từ sau năm 1975 nhưng chưa trưng dẫn ra được một chứng cớ cụ thể chính xác nào.
Tiến bước ngang qua chiếc cầu số 1 trên con kinh Thị Nghè thì tới làng Phú Mĩ và sẽ là điểm khởi đầu đi trên con đường dẫn đến tỉnh Biên Hòa; tiếp tục đi trên bờ phía trái của con kinh nầy thì sẽ đến vùng ruộng vườn phì nhiêu Gò Vấp trồng rau cải hoa quả cung cấp cho khắp vùng Sài Gòn, các vườn trồng dâu nuôi tầm, bông vải và các điền trại trồng cây thuốc lá được người dân bản xứ chăm sóc, tưới bón rất cần cù.
Chú thích thêm: Thuốc Rê Gò Vấp là một đặc sản của miền Nam Việt Nam. Đây là một loại thuốc lá nguyên chất được xấy khô rồi những lá thuốc được xếp chồng lên nhau, cuộn tròn lại để cắt thành từng bánh dầy khoảng 3cm hoặc 4cm giống như khoanh miếng bánh bông lan và gói lại trong lá chuối phơi khô để đem đi bán. Có thể là khi mua về, trước khi muốn sử dụng, người ta phải dùng tay xé nhỏ bánh thuốc cho rời ra giống như một ổ bông gòn rồi dùng tay để vấn thuốc hút cho nên người miền nam gọi là rê thuốc. Có thể rê thuốc hút với một loại giấy đặc biệt gọi là giấy quyến (tissue paper), loại giấy nầy được bán từng tờ khổ lớn, người mua mang về phải tự tay cắt thành từng dây giấy nhỏ có chiều ngang tương đương với chiều cao của điếu thuốc tân thời ngày nay. Các dây giấy nhỏ được cuộn tròn lại để tiêu dùng từ từ; mỗi lần rê thuốc, người hút thuốc xé một miếng giấy từ cuộn giấy nhỏ, rứt một nhúm thuốc Gò Vấp đặt lên miếng giấy huyến, dùng tay để rê (cuộn tròn) thành điếu thuốc, dùng lưỡi thấm nước miếng để dán dính bìa giấy điếu thuốc rồi châm lửa để hút: một cục than cháy đỏ, một cây củi chụm lò hoặc một đóm nhang đèn đều có thể được dùng để mồi lửa cho điếu thuốc rê. Đa số người dân ăn trầu của miền Nam Việt Nam đều kèm thêm thói quen xỉa thuốc và loại thuốc xỉa ưu chọn chính là thuốc rê Gò Vấp: người ăn trầu rứt một nhúm thuốc Gò Vấp, rê thành một viên tròn nhỏ, dùng 2 hoặc 3 ngón tay kẹp cứng viên thuốc rê để chà xát hai hàm răng qua lại đôi ba lần đang lúc nhai trầu, rồi ngậm giữ viên thuốc rê lại trong miệng trong khi vẫn tiếp tục nhai trầu. Cục thuốc xỉa sẽ được phế thải cùng một lúc với bã trầu cau vào ống nhổ (crachoir/ Spittoon).
Quanh khắp điền trại cây thuốc lá, nhiều bầy trâu cày, sừng nhọn cong vút, đang nhơi cỏ, bộ dạng hung tợn và kêu rống giận dữ và sẵn sàng dùng cặp sừng nhọn để “chém” (người miền Nam thường gọi hành động tấn công của con vật nầy là trâu chém) khi nhìn thấy bóng dáng của của người lạ hoặc ngoại quốc xuất hiện mặc dù lúc bình thường chúng rất hiền hòa và ngoan ngoản vâng phục đối với các đứa trẻ chăn trâu người bản xứ.
Cách xa Sài Gòn khoảng vài cây số là ngôi lăng mộ đẹp mắt của giáo sĩ giám mục người Pháp Bá Đa Lộc, viên thái sư đặc biệt của hoàng đế Gia Long từ lúc còn lận đận lao đao cho đến lúc Gia Long trở thành người chủ hoàn toàn vùng đất Nam Kỳ Hạ và kinh thành Huế. Giáo sĩ nầy qua đời vào năm 1799, không kịp nhìn thấy được kỳ công của hoàng đế Gia Long tiêu diệt hoàn toàn quân Tây Sơn vào năm 1802 và thống nhất đất nước từ Gia Định ra đến Hà Nội
Chú thích thêm: Lăng mộ nầy là một di tích lịch sử đặc biệt tọa lạc ở cuối đường Trương Minh Giảng, gần cổng trại Phi Long của binh chủng không quân trong phi trường Tân Sơn Nhứt trước 30-4-1975 thường được gọi là Lăng Cha Cả. Ngày nay di tích nầy đã biến mất để chính quyền hiện tại sử dụng mặt bằng.
Chợ Lớn là tên gọi thông thường cho thành phố người Hoa mà vào thời điểm nầy chu vi rộng lớn của nó được xem như là vòng biên của thành phố Sài Gòn. Với dân cư khoảng 50,000 người. Ngày trước, thành phố nầy không được chính quyền quan tâm đến nhưng nay thì đã có Hội đồng thành phố và cơ quan Hành chánh riêng
Chú thích thêm: người miền Nam thường gọi hai cơ quan nầy là Tòa Thị xã và Tòa Hành chánh hay Tòa Bố.
Chợ Lớn giao thông với Sài Gòn bằng 3 lộ trình chính: kinh Hoa Kiều, đường bến Kinh Hoa Kiều (tức bến Hàm Tử trước 30-4-1975) và đại lộ Chasseloup Laubat (đường Hồng Thập Tự trước 30-4-1975).
Trước đây một vài năm, thành phố nầy vẫn còn là một vùng bùn lầy nước đọng, đường xá chật hẹp, hôi hám, nhưng vào lúc nầy thì ở đây là một thành phố mới mẻ về thương mại nhưng vẫn giữ một sắc thái hoàn toàn của người Hoa chính gốc với thói ăn nết ở và sinh hoạt cộng đồng theo dấu ấn của người Á đông : đường phố hầu hết được mở rộng thêm và viền bờ, tường nhà quét vôi trắng hay sơn phết, nóc lợp ngói đỏ, đả có một số nhà lầu nhiều tầng, tất cả đều được trang hoàng vẽ vời với các hình ảnh khác nhau, màu mè sặc sỡ ăn khớp với những chiếc lồng đèn Trung Quốc, băng vải khẩu hiệu, chuỗi hoa, và các bản thương hiệu viết bằng chữ Hoa (chữ Hán) sơn son thếp vàng với trúc cành hoa lá. Nét Á Đông nổi bật qua những chùa chiềng trong thành phố với những tượng thần linh hiển, các hình vẽ ma quỷ ghê rợn, những lời di huấn của thánh hiền, với những tượng phật to lớn mắt nhắm nghiềng với đôi gò má phín đầy nét từ bi, hiện thân mẫu mực của phương Đông. Hầu hết các chùa chiềng nầy như bị bỏ hoang phế và trở thành những nơi hang ổ của các loài dơi quạ lớn xác nhưng không hung tợn ác hại như loài dơi ma trơi hút máu. Trong số các di tích kiến trúc đền miếu, chùa chiềng ở Chợ Lớn, phải kể đến Chùa Lớn “Kwang-chiu Way quan”(1), tôn thờ một vị thần linh chuyên phù hộ cho những người giang hồ vượt biển tránh mọi hiểm nguy sóng gió và bảo táp trên mặt biển. Khi nói về chùa nầy thì không chỉ nói về những tiệc tùng lễ hội được tổ chức tại nơi đây hoặc những trụ cột chạm trổ, nhưng điều nên chú tâm là cách trang trí lạ lùng bên trong chùa với vô số hình, tượng kỳ bí, những bài di huấn thếp vàng, trần chùa mang những hình vẽ khung cảnh vẽ theo lối tranh tường, các rìm cột, các hình chạm nổi, tất cả đều đáng được nghiên cứu tìm hiểu, nhất là ý nghĩa những cảnh trí bên ngoài và bên trên nóc chùa được kết tạo bằng ngói và loại sành sứ tráng men đầy màu sắc để tạo thành những hình tượng sông, núi, cỏ cây, hoa lá, bướm sâu, chim chóc, lâu đài, chùa miếu, dị nhân, những cảnh trí ngồi, đứng hội họp ăn uống, những trận chiến trên bộ hay chiến đấu trên mình ngựa; những hình ảnh ma quỷ, rắn rồng, hung thú quái dị, tất cả những điều mà người Âu Châu thông minh nhất cũng không thể nào tưởng tưọng được; những hình tượng quỷ ma với đầu minh xấu xí, tứ chi dị dạng được kết diễn một cách kỳ quái, lồng vào những tư thế riêng biệt. Tất cả những mẫu mực kiến trúc Trung Quốc lạ lùng nầy xứng đáng là những đề mục nghiên cứu về nhiều mặt cho những nhà khảo cổ học có khả năng.
Chú thích thêm: tức đền thờ Bà Thiên Hậu, hiện nay vẫn còn tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Chợ Lớn, là một trong những ngôi chùa cổ nhất của người Hoa tại thành phố nầy. Gọi là "chùa" nhưng đúng ra đây là ngôi đền. Tuy nhiên tên chùa Bà hay là miếu Thiên Hậu đã trở thành tên phổ thông. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí bản dịch 1973-Sài Gòn, nơi trang 89 có ghi lại: "Sài Côn thị (chợ Sài Gòn) tức là Chợ Lớn ngày nay. Cách huyện Bình Dương 12 dặm, ở phía tả và phía hữu đường quan lộ. Nơi chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc như hình chữ "điền", nhà cửa phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người Hán, người Thổ ở chung lộ dài độ 3 dặm, đủ cả hàng hóa trăm thức, ở bên sông Nam và Bắc không thiếu món gì, đầu phía Bắc đường lớn có đền Quan Công, quán Tam Hội, xây cất đối nhau phía tả và phía hữu. Phía Tây đường lớn có chùa Thiên Hậu, ghé Tây có Ôn Lăng Hội Quán... Theo sách Đại Thanh nhất thống chí của Trung Quốc, bà là một thần biển, con gái thứ sáu của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, nguyên là cô gái dệt lụa sinh vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. Tương truyền Lâm Tức Mặc khi sinh ra có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ, lớn lên có phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Từ tuổi hoa niên bà đã phát hiện ra một thứ rong biển dùng nấu thạch làm thức ăn cứu đói cho dân, và còn tìm ra một thứ dầu ăn gọi là ma mộc rút từ cây thuộc họ vừng giúp dân nghèo qua những trận đói kéo dài... Ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch bà không bệnh tật, tự nhiên qua đời. Theo thánh phả bà hoá vào một ngày có quần tiên tấu nhạc. Bốn chữ "Bạch nhật phi thăng" khắc ở cỗ kiệu trong đền của bà nói lên điều đó. Sau khi hóa, ngài thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển. Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh thường hiển linh cứu hộ thuyền bè. Thời Khang Hy phong làm Thiên Phi, sau gia phong Thiên Hậu. Người Phúc Kiến tôn bà là Thần Biển nên di cư đến đâu mang thần tích lập đền thờ đến đó. Cho nên ta không lấy làm lạ, dọc bờ biển Việt Nam có nhiều nơi lập đền thờ Thiên Hậu.
Nhiều kẻ ăn mày bệnh tật xin ăn trước cổng chùa Bà Thiên Hậu cho thấy là phố thị Chợ Lớn vẫn chưa có được một bệnh viện. Còn một điều kỳ lạ khác không thể không nói tới trong phố thị nầy: đó là một giếng nước danh tiếng gọi là Giếng nước Giám mục Bá Đa Lộc mà theo tác giả Richard trong bài Saigon et ses Environs au Commencement de 1866 là do người ta đào ngay giữa lòng một con rạch và nước giếng nầy được ghe thuyền khắp nơi đến múc nước ngọt để chở đi bán khắp vùng dân cư phía tây nam Sài Gòn và có khi mang xuống đến tỉnh Mỹ Tho. Giếng nước nầy giống như một cù lao nhỏ viền cỏ xanh nổi lềnh bềnh trên mặt nước của con rạch. Giếng nước lúc nào cũng có ghe thuyền bao quanh để lấy nước ngọt cung cấp cho cư dân các vùng đầm lầy không có nước trong ngọt để uống.
Ghi chú thêm: Học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký trong bài Souvenirs Historiques sur Saigon et ses Environs, ấn bản Sài Gòn 1885 có viết về giếng nước Bá Đa Lộc như sau:
“L’Arroyo sur lequel on trouve un beau pont avant d’arriver à l’usine, avait reçu le nom de Rạch-bà-tịnh qu’ il conserve encore à présent. Il pénètre dans l’intérieur jusqu’au grand tamarinier de la route haute. Un peu plus loin, on trouve le puits dit puits d’ Adran qui se trouvait d’autrefois sur la rive, mais l’action de l’eau du Vịnh-bà-thuông l’a détaché du rivage, de sorte qu’il est bien avant dans l’arroyo. Sur cette rive étaient établis les décortiqueurs de riz.”
Tạm dịch: “Trước khi tời nhà máy xay lúa là một con rạch trên có chiếc cầu còn tốt có tên gọi là Rạch Bà Tiệm mà đến nay tên đó vẫn còn giữ. Con rạch nầy lấn sâu vào phía bên trong đất liền đến gốc cây me cổ thụ ở đường Trên (tức đường Nguyễn Trãi trước 30-04-1975). Xa hơn một chút là một giếng nước Adran ngày xưa nằm trên bờ rạch nhưng về sau bị tác động bồi lở của vịnh bà Thuông cho nên giếng nầy bị tách rời ra khỏi bờ đến mức độ cách xa về phía truớc trên mặt nước con rạch. Trên bờ con rạch nầy có những chòi xay lúa giã gạo của cư dân ở đây”.
Giếng d’ Adran nầy không được đề cập tới trong sách ĐNNTC của sử quán nhà Nguyễn. Tuy nhiên có một giếng khác mà sử cũ gọi là Giếng An Điềm ở địa phận thôn An điềm huyện Bình Dương. Tại nơi đây cò một gò đất cao chỉ vừa chỗ một cái bọng giếng nước mà thôi. Bốn phía nước sông vừa đục vừa mặn bao quanh giếng nhưng nước bên trong lòng giếng lại là nước ngọt, dân cư xa gần và ghe thuyền qua lại đều tụ tập đến giếng nầy để múc nuớc ngọt tiêu dùng hay chở đem đi bán các nơi; giếng chưa bao giờ khô cạn và còn có một tên khác nữa gọi là An Tỉnh.[24]
Câu hỏi đặt ra: Giếng d’ Adran cúa tác giả Richard mô tả vào năm 1866 và của Pétrus Trương Vĩnh Ký mô tả 1885 phải chăng là giếng An Điềm được sử quán triều Nguyễn từ thời Tự Đức ghi chép trong ĐNNTC (biên soạn tứ năm 1865 đến năm 1882 mới xong)? Có giếng Adran hay không? Nếu có thì ai đã đặt tên Adran cho giếng nầy? Rất có thể chữ Adran là do người Pháp nghe lầm từ hai chữ An Điền do người dân bản xứ phát âm một cách nghễnh ngãng cho nên mới viết ra là Adran. Sử sách cũ Việt Nam không bao giờ dùng chữ Adran để gọi giám mục Bá Đa Lộc. Danh xưng đầy đủ bằng tiếng Pháp của giám mục nầy là Mon Seigneur Pigneau de Béhain, l’Évêque d’Adran (Đức ngài Bá Đa Lộc, Giám mục miền Adran /Pháp quốc). Như vậy khi dùng đơn độc chữ Adran thì chỉ có người Pháp mới hiểu chữ Adran là để gọi Giám mục Pigneau de Béhaine chứ người dân An Nam thuở xưa không biết ông Adran là ông nào. Hơn nữa, phải hỏi rằng giám mục Bá Đa Lộc có liên hệ dính liếu gì đến cái giếng đó đến độ phải lấy tên của giám mục nầy để đặt tên cho cái giếng khác thường đó? Hơn nữa, nếu giếng nầy đã có tên là giếng d’Adran từ thời Gia Long thì con cháu Gia Long khi ghi chép vào sử sách không thể nào dám to gan lớn mật mà xóa đi cái tên Adran để thay thế vào bằng hai chữ An Điền. Ngay cả ông Vương Hồng Sểnh khi viết về cái giếng Adran tưởng tượng nầy cũng phải viết lên một câu rằng ”giếng lọt vào giữa Vịnh kế biệt tích luôn.” Tác giả Richard của bài viết Saigon et ses Environs au Commencement de 1866 có thể đã nhìn thấy giếng An Điền nhưng lại tam sao thất bản ghi là giếng Adran; đến thời Pétrus Trương Vĩnh Ký (1885) không biết ông có tận mắt nhìn thấy cái giếng Adran đó hay không nhưng người ta chỉ thấy rằng trong bài viết của mình dưới tựa đề tương tự Souvenirs Historiques sur Saigon et ses Environs, ông cũng tiếp tục ghi chép lại các thông tin của Richard. Tới Sài Gòn Năm Xưa thì Vương Hồng Sểnh vẫn tin rằng giếng Adran có thật nhưng bị trôi dạt hay bị đắm chìm mất tích xuống đáy vịnh nước cho nên ngày nay không còn thấy được nữa. Chúng tôi dứt khoát cho rằng không có giếng d’Adran mà chỉ có giếng An Điền theo sử sách Việt Nam mà thôi.
Cước chú:
[22]: ĐNTLCB đã dẫn, trang 14
[23]: P.C Richard; Saigon et ses Environs au Commencement de 1866; tập san Revue Maritime et Coloniale; tập 18; Paris 1866; trang 530-533
[24]: ĐNNTC; bản dịch Sài Gòn; Văn Hóa Tùng Thư số 2; 1959; trang 65-66
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:49:42 GMT 9
Ðiều Tra Đời Sống Cư Dân Đô Thị Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975 Vũ Ngọc Tiến
Lời Nói Đầu
Năm 1998, tôi được mời tham gia đề tài nghiên cứu “Lịch sử 50 năm kinh tế Việt Nam 1945- 1975” của Viện Kinh tế học, có sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB). Nhiệm vụ của một nhà văn-nhà báo, một kẻ ngoại đạo như tôi trong đề tài khoa học là tìm đọc tài liệu, sách báo cũ, tác phẩm văn học, kết hợp với điều tra, phỏng vấn nhân chứng để tái hiện lại đời sống nhân dân Bắc Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 mà số liệu thống kê vốn ít và kém chính xác. Ðây là sáng kiến độc đáo của bà Tiến sĩ Nguyễn Anh Tú, người Mỹ gốc Việt, đại diện WB ở Hà Nội. Qua gần 2 năm tham gia, tôi đã viết và gửi cho họ 173 trang viết tay khổ A4, nhưng sau đó, vì nhiều lý do cá nhân, tôi không tiếp tục làm việc và liên lạc với ông GS chủ nhiệm đề tài. Không rõ họ có sử dụng, hoặc sử dụng đến đâu, như thế nào? Nay đọc lại bản thảo, tôi thấy nó có thể có ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà văn trẻ. Nó lột tả chân thực đời sống khốn khó một thời trong mô hình kinh tế Stalin, đồng thời lý giải sự thắng thua trong cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa 2 miền Nam-Bắc, từ góc nhìn thuần túy kinh tế học và xã hội học. Cần lưu ý, phần viết về nông thôn trong bản thảo khá nhiều sự kiện, nhân chứng, song vấn đề lại tương đối đơn giản. Vì vậy, để không làm mất thời gian nhiều của bạn đọc, tôi chỉ lọc ra phần viết về đời sống đô thị, lược bớt các biểu đồ, biểu bảng và bổ sung, chỉnh lý nội dung cho phù hợp. Bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu thêm về phần nông thôn có thể liên hệ với tôi qua BBT talawas.
Tháng 6 năm 2005
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
I. Giai đoạn 1954-1960: Hàn gắn vết thương chiến tranh
1. Tâm thế người dân
Người Hà Nội sẽ không bao giờ quên được giây phút tuyệt vời ngày 10/10/1954, khi đoàn quân chiến thắng từ năm cánh cửa ô kéo về trong bài ca của nhạc sĩ Văn Cao: “Trùng trùng quân đi như sóng, lớp lớp đoàn quân tiến về…” Nhạc phẩm viết từ năm 1949, đã từng bị phê bình là lạc quan tếu. Khi cụ Hồ tiếp chuyện GS. Trần Hữu Tước, nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim và nhà văn Nguyễn Ðình Thi, nghe họ ca ngợi bài hát đó là khát vọng chiến thắng, dự báo thiên tài của Văn Cao thì nhạc phẩm đó mới được phổ biến. Trong đoàn người ra đón quân cách mạng chỉ còn là những người dân Hà Nội đặt trọn niềm tin ở chế độ mới, bởi những ai không ưa cộng sản đều đã di cư vào Nam. Họ bảo nhau, hòa bình rồi, ăn đói mặc rét mà hưởng độc lập tự do vẫn sướng. Hòa bình, tự do, dân chủ là nguyện ước sâu xa trong lòng họ. Chuẩn giá trị trong đời sống xã hội lúc này là lao động hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đời sống mới, xã hội mới, không hề đòi hỏi sự đãi ngộ. Người Hà Nội nô nức đi lao động ở các công trường xa thành phố, đi đắp đê Mai Lâm (Hà Nội) trong trận lụt năm 1958 hay đi lao động công ích ở đường Cổ Ngư, hồ Bảy Mẫu với niềm tin trong sáng đến lạ kỳ. Học sinh phổ thông các trường nội thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh đi về nông thôn giúp dân nhổ mạ, bón ruộng hay gặt lúa cũng tưng bừng như đi dự trại hè. Bộ phim Cô gái công trường, một trong những tác phẩm điện ảnh đầu tiên của Việt Nam đã phản ánh chân thực tâm thế người dân lúc đó. Quan niệm về hạnh phúc của họ vừa trong sáng vừa có phần lãng mạn. Bà NTT ở phố Hàng Bè kể rằng, hồi ấy bà là hoa khôi nổi tiếng, nhiều đám sang trọng, giàu có dạm hỏi, nhưng bà chỉ mê mệt anh trung đội trưởng đội mũ nan, đeo huy hiệu chiến sĩ Ðiện Biên nhưng không viết thạo một lá thư, đóng quân ở gần nhà. Tâm thế người Hà Nội thời đó đều như bà NTT, thiên về lĩnh vực tinh thần, coi nhẹ vật chất. Khát vọng sống của họ là được cống hiến, được chia sẻ.
2. Mức sống và chất lượng sống
Trước hết, cần điểm qua kết cấu xã hội ở Hà Nội và các đô thị sau 1954. Ða số các nhà giàu, trí thức cao cấp hoặc các gia đình có liên quan đến chính quyền cũ đều đã di cư vào Nam. Số còn lại thuộc diện tư sản dân tộc chỉ có 861 người, kỹ sư và bác sĩ 150 người, giáo chức cấp tiểu học và trung học hơn 500 người, còn lại chủ yếu là các hộ tiểu thương, tiểu chủ. Tính trung bình ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh cứ 2 hộ dân có một hộ tiểu thương. Trong khi đó số công nhân mất việc làm do chủ cũ di cư vào Nam ở Hà Nội 10 vạn và ở Hải Phòng là 3 vạn người. Bộ phận công nhân viên chức ở vùng kháng chiến về Hà Nội cỡ khoảng 6 vạn người. Số này giữ cương vị chủ chốt ở các công sở, nhà máy và chỗ ở thường là nhà của người di cư, mỗi ngôi nhà có khoảng 3-5 hộ, cá biệt có nơi hàng chục hộ. Ở khu vực thành thị còn xuất hiện thêm một tầng lớp dân cư là người miền Nam ra tập kết. Từ tháng 7/1954 đến 5/1955 có 175.000 cán bộ, chiến sĩ và 15.000 học sinh miền Nam ra sống ở các đô thị miền Bắc. Nhìn chung, bức tranh xã hội đô thị thời đó khá phức tạp. Mô hình xã hội mới lại buộc Nhà nước phải lo giải quyết cùng một lúc các vấn đề việc làm, ăn, mặc, ở, điện, nước… cho khối cán bộ, công nhân, viên chức. Ngoài những nỗ lực tự thân của nền kinh tế đang còn ốm yếu, giải pháp trưng thu hàng hóa của các hộ tiểu thương, tiểu chủ, tư sản và tước đoạt một phần diện tích nhà ở của nhiều hộ dân trung lưu chia cho cán bộ, công nhân, viên chức là không loại trừ. Qua hơn 2 năm, những vấn đề nêu trên đã giải quyết tạm ổn, chính phủ đề ra kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh và đã thu được một số thành tựu tương đối khả quan. Số liệu thống kê chính thống của Nhà nước tuy còn sơ lược và kém chính xác, nhưng có thể khái quát về mức sống đô thị như sau: Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng là: năm 1957 - 18,61 đồng; 1959 - 20,39 đồng; 1960 - 21,42 đồng. Có sự nhích dần của lương và phụ cấp trong cơ cấu thu nhập của các hộ công nhân, viên chức: năm 1957 thu nhập từ lương và phụ cấp 81,7%, từ ngoài lương (làm thêm) là 18,3%; Tương ứng cho các năm sau: 1959 là 85,8% và 14,2%; 1960 là 86,5% và 13,5%. Cơ cấu tiêu dùng: năm 1957 chi về ăn 70,5%, chi về sinh hoạt vật chất khác 19,4%, chi về sinh hoạt văn hóa tinh thần 10,1%; Tương ứng cho các năm sau: 1959 là 69,5% - 21,9% - 8,6%; 1960 là 75,5% - 14,6% - 9,9%. Các số liệu thống kê vừa nêu chỉ phản ánh phần nào đời sống của khối công nhân, viên chức Nhà nước. Ðể thấy rõ hơn bức tranh đời sống xã hội đô thị, ta có thể tham khảo một số cuộc phỏng vấn các nhân chứng ở độ tuổi 50 trở lên.
Dưới đây là những lời kể:
Cụ VÐC, sinh năm 1916, làm nghề bưu tá, về hưu năm 1976, quê ở làng Yên Thái nay là phường Bưởi quận Tây Hồ - Hà Nội:
“Tháng 9/1954, tôi được một cán bộ hoạt động bí mật trong nội thành đưa ra ngoại ô huấn luyện nghiệp vụ bưu điện và phát hành báo chí, chuẩn bị tiếp quản Thủ đô. Sau đó, tôi làm chân chạy thư, báo, công văn cho UBND xã Thái Ðô (gồm thị xã Nghĩa Ðô và phường Bưởi bây giờ). Lương lúc ấy hưởng bằng tiền “cụ Hồ kháng chiến” là 2 vạn đồng, tương đương 50 kg gạo. Từ năm 1958, tôi được biên chế vào ngành bưu điện, phụ trách chuyển thư, báo cho 11 khối dân cư thuộc khu Ba Ðình. Lương khởi điểm là 33,6 đồng, phụ cấp con cái từ đứa thứ 3 được mỗi đứa 5 đồng. Ngoài ra nghề bưu tá mỗi tháng được 5 đồng uống nước, tiền hao mòn xe đạp cứ 10km được 5 xu, mỗi ngày đi khoảng 50 km được 2 hào rưỡi. Vợ tôi làm nghề xeo giấy trong tổ hợp tác mới thành lập (1958), mức thu nhập khoảng 36-38 đồng/tháng. Cộng các khoản thu nhập của gia đình cỡ 115-120 đồng/tháng. Nhà tôi 10 miệng ăn cũng tạm đủ sống. Lúc này, Nhà nước vừa đổi tiền, mỗi công dân từ 18 tuổi trở lên chỉ được đổi 200 đồng tiền ngân hàng mới. Nghe nói ở trong phố, có người nhiều tiền, uất quá ném ra đường vì không đổi được, rồi tự tử mà chết. Ðấy là một cách để Chính phủ cào bằng mức sống mọi tầng lớp cư dân đô thị. Ngoài vàng bạc, kim cương ai đó còn giấu được, không đăng ký với Nhà nước ra, tiền mặt của mọi nhà là xấp xỉ như nhau. Nhờ vậy giá trị đồng tiền rất cao, có lợi cho cánh công nhân, viên chức chúng tôi. Với mức thu nhập như đã nói, vợ chồng tôi đủ nuôi 8 đứa con, thỉnh thoảng đi xem hát chèo, cải lương diễn lưu động ở chợ Bưởi, giá vé người lớn 4 hào, trẻ em 2 hào.”
Ông NÐT, Phó tiến sĩ, Viện trưởng một Viện nghiên cứu lớn ở Hà Nội, sinh năm 1946, sống tại khu Thành Công, quận Ba Ðình:
“Quê tôi ở một xã ngoại thành, cách Hà Nội chừng 12 km. Bố mẹ tôi dọn vào nội thành ở từ năm 1949. Ông nội tôi có chút học vấn và uy tín với dân làng nên được cách mạng bố trí ra làm lý trưởng để thuận lợi che chở, giúp đỡ cán bộ kháng chiến. Bố tôi mở một xưởng xẻ gỗ nhỏ. Mẹ tôi buôn thúng bán bưng ở chợ. Khi giải phóng, gia đình tôi có 9 anh em (6 trai, 3 gái), tôi là thứ tư. Nhìn chung, từ năm 1954-1956 gia đình tôi sống tạm ổn vì Nhà nước chưa có động thái gì lớn trong chính sách kinh tế mới. Cuối năm 1956, ông nội tôi ở quê bị quy vào thành phần địa chủ cường hào ác bá, bị vu khống đủ thứ tội mà thoạt nghe như chuyện cười của Azit Nêxin. Cuối cùng cụ bị kết án và bị treo cổ ngay tại phiên tòa diễn ra ở sân vận động, nay là nhà máy ngói xi măng… May mà năm 1958 cụ được minh oan, nếu không thì đời tôi ra tóp, chẳng bao giờ ngóc đầu lên được. Năm 1958, cải tạo công thương nghiệp ở nội thành, bố tôi cũng may mắn được xếp vào diện tiểu chủ nên xưởng xẻ gỗ không bị hợp doanh. Những năm ấy giá cả bán lẻ như sau: Về gạo, gạo tám thơm hay dự hương 0,80 – 0,85% đồng/1 kg, gạo mùa 0,60 đồng/1kg, gạo chiêm 0,40 - 0,45 đồng/1 kg; Trứng gà 0,80 - 1,20 đồng/1 chục; Thịt lợn 2,5 đồng/1 kg; Cá chép tươi, cá quả, cá chày 1,80 đồng/1 kg… Tôi còn nhớ được giá cả vì hồi đó mới 12 tuổi đã phải đi chợ, nấu ăn cho các anh lớn giúp việc bố tôi ở xưởng xẻ gỗ. Mẹ tôi buôn bán ở chợ, tối về ngồi đếm tiền, tính ra mỗi ngày lãi được 2 – 3 đồng. Bố và các anh tôi ở xưởng xẻ gỗ làm cật lực, kiếm được 5-7 đồng/ngày. Với mức thu nhập ấy, gia đình tôi chỉ đủ sống ở mức ăn no, thỉnh thoảng có miếng thịt kho mặn. Tôi có một người bạn rất thân, bây giờ là một nhà văn. Gia đình anh ấy cũng thuộc diện tiểu thương, tiểu chủ, nhưng năm đổi tiền (1958) có lẽ vẫn giấu được ít vàng nên sống khá hơn. Mỗi lần đến nhà bạn học tổ, thấy nhà có lọ đường kính đầy, ai muốn uống thì lấy nước mưa trong bể pha và vắt quả chanh vào, chỉ ngần ấy thôi cũng đủ để tôi thèm muốn, đêm nằm mơ thấy lọ đường…”
Cụ NQÐ, sinh năm 1917, sống ở Nam Ðịnh, thành phần tư sản công nghiệp, vợ (cụ bà BTH) buôn bán vải, tơ lụa:
“Tôi sinh ra ở thành phố dệt, tốt nghiệp trường Thành Chung Nam Ðịnh, có học qua trường kỹ nghệ thực hành Ðông Dương trên Hà Nội. Chiến tranh xảy ra, tôi tản cư về đình làng Ngò (Thanh Hóa). Năm 1949, tôi hồi cư và mở xưởng dệt kim, có 5 máy cổ lỗ của Pháp, bé hơn rất nhiều so với xưởng của cụ Cự Doanh trên Hà Nội (80 máy). Vợ tôi mở tiệm buôn bán vải đen để bán ra vùng tự do trong Thanh – Nghệ. Gia đình có 5 con, sống ở ngôi nhà 2 tầng khá đẹp gần vườn hoa Con Cóc. Sau giải phóng, xưởng dệt kim của tôi vẫn hoạt động bình thường, còn vợ tôi dẹp tiệm, ra bán hàng tại sạp vải ở chợ Rồng. Ðời sống gia đình 3 năm đầu khá tốt, các con đi học bằng xe đạp Sterling của Anh, Marina của Pháp. Gạo ăn thường là tám xoan hay tám làn ở Giao Thủy đưa lên thành phố. Bữa ăn thường ngày đều có 4 món, do vú em quê Nghĩa Hưng nấu. Cuộc sống gia đình bắt đầu đảo lộn từ cuối năm 1957 đầu 1958, khi vợ chồng tôi bị tập trung đi học tập cải tạo công thương nghiệp. Theo quy định, những hộ sản xuất kinh doanh như sau thì bị liệt vào diện tư sản: thuê mướn từ 5 công nhân trở lên, có máy phát lực hoặc máy công cụ tiêu thụ 5 KW/giờ, vốn trên 7.000 đồng, lãi ròng trên 3.600 đồng/năm.” [Cụ bà BTH bổ sung: “Tư sản thương nghiệp thì vốn lưu động và hàng hóa hiện hữu tại thời điểm kê khai đạt 10.000 đồng trở lên. Quy định như vậy đã là thậm vô lý, nhưng ở Nam Ðịnh hồi đó, hễ ai có chút máu mặt là bị tìm cách đưa vào diện cải tạo, cửa hiệu, hàng hóa dễ bề mất không.”]
Cụ NQÐ kể tiếp:
“Tôi giống hệt tính cách của ông nội là đồ Nho, đậu cử nhân trường thi Nho học Trấn Sơn Nam [1] năm 1898, nên rất ương ngạnh, không dễ chịu khuất phục. Ði học cải tạo, tôi hay thắc mắc, đấu lý với cán bộ: ‘Cơ sở của tôi có 5 máy, dệt 2 ca mà chỉ thuê có 8 thợ, nghĩa là còn 1 máy do tôi và 2 thằng con trai làm việc như trâu, còn hơn cả thợ và phải lo đủ thứ ngoài sợi dệt, hà cớ gì quy tôi là tư sản bóc lột, ăn trên ngồi trốc? Thuế cao, nguyên liệu khan hiếm, lãi ròng 800 đồng/năm còn chưa được, lấy lý nào tính toán tôi lãi 3.600 đồng/năm?’ Tôi tuyên bố sẽ ‘dẹp tiệm’, không hợp doanh gì sất, máy sẽ hiến cho Nhà nước đem lên Hà Nội nhập vào xưởng của cụ Cự Doanh, không làm chủ dệt thì tôi mở cửa hiệu chữa ô tô, xe đạp vì tôi có bằng kỹ nghệ thực hành Ðông Dương, không sợ chết đói, chỉ thương 8 thợ dệt của tôi sẽ thất nghiệp, về quê đi cày… Ðến bây giờ sắp kề miệng lỗ, tôi mới biết mình ngu. Chuyên chính vô sản ở Nam Ðịnh là thứ “chuyên chính vô học”, tôi cãi lý với họ sao được. Họ soi lý lịch 3 đời, ông tôi là đại địa chủ phong kiến, anh tôi trước làm đại lý cho hãng hàng không Pháp ở Nam Ðịnh, lại di cư vào Nam… Tôi bị tập trung đi lao động cải tạo 6 tháng. Ở nhà, toàn bộ xưởng dệt và cả hàng hóa của vợ tôi bị trưng thu. Mấy đứa con, vì thế, học giỏi mà không được thi vào đại học, phải tình nguyện đi lao động ở các công – nông – lâm trường, sống khổ cực, hàng tháng vợ tôi phải đi xe đạp vượt trăm cây số để đem cho chúng, mỗi nhà liễn mỡ lợn và vài cân cá khô ăn dè.”
Ông TBN, sinh năm 1944, kỹ sư cơ khí giao thông, hiện là phó vụ trưởng ở một bộ quan trọng, sống ở Thanh Xuân – Hà Nội:
“Cha tôi là TVK, trước năm 1954 làm thư ký tòa án đại hình ở Hà Nội. Cụ là viên chức mẫu mực do Pháp đào tạo cả về năng lực làm việc và phong cách sống. Sau giải phóng, theo Hiệp định Giơ–ne–vơ (Geneva), cụ là viên chức lưu dung ngành tòa án, mức lương 240 đồng/tháng (tiền ngân hàng mới năm 1958). Mức lương ấy so với giá cả sinh hoạt là rất cao. Mẹ tôi chỉ ở nhà lo việc nội trợ. Nhà tôi có 6 anh em, tôi là con cả, sống rất no đủ những năm 50. Sáng nào cũng vậy, khoảng 8 giờ có chị hàng hoa ở Ngọc Hà đem hoa đến cho gia đình. Bố tôi sống và làm việc như một chiếc đồng hồ báo thức: 5 giờ 30 đi tập thể dục ở vườn hoa Hàng Ðậu, sau đó về ăn sáng, uống cà phê, đi làm. Hết giờ làm việc ông về nhà tắm rửa rồi lững thững dạo phố, đọc báo ở cửa tòa báo Quân đội nhân dân trên đường Phan Ðình Phùng và ăn tối vào 19 giờ. Chủ nhật, bố tôi thường về quê ngoại ở làng Ðại Mỗ bắn chim hay câu cá. Có lẽ ông là người có công lớn, góp phần giúp Chính phủ hình thành hệ thống tổ chức ngành tòa án và quy trình tố tụng từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm. Cuối năm 1959 đầu 1960, bố tôi được học tập và vận động viết đơn tình nguyện không nhận lương công chức lưu dung nữa, chỉ xin nhận lương 64 đồng. Bắt đầu từ đây, gia đình sống khá gieo neo. Mẹ tôi phải đi làm công nhật, nắm than tiết kiệm từ tro của nhà máy điện Yên Phụ trộn với than cám và bùn lấy ở hồ Trúc Bạch, được 1,4 - 1,6 đồng/ngày. Tuy nhiên, bố tôi chỉ cho phép cắt giảm khẩu phần ăn, còn mọi sinh hoạt gia đình, nếp sống cá nhân không thay đổi. Ðiển hình là quần áo, ở nhà vá chằng vá đụp, nhưng ra đường ai cũng phải có bộ tươm tất. Nó khác hẳn với nhiều gia đình công chức, ở nhà mới dám mặc quần áo đẹp, ra đường lại vá chằng vá đụp. Bạn bè thường khuyên cha tôi bán vàng và đồ đạc quý trong nhà con: ‘Thời thế, thế thời phải thế. Ðạo làm người trong thiên hạ lấy việc phụng sự quốc gia làm đầu’. Thế nhưng, có nhiều đêm vì thương vợ con, cụ đã khóc thầm. Sau này, khi bị thuyên chuyển từ tóa án tối cao về cấp thành phố, rồi về cấp khu làm anh ‘mõ tòa’, cụ vẫn chuyên cần làm việc như một cái máy, chủ nhật vẫn về quê ngoại bắn chim, câu cá. Có lẽ nhờ cha tôi tỉnh táo, nhẫn chịu nên tôi mới được vào đại học để có vị thế xã hội như bây giờ.”
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:50:27 GMT 9
Ông VÐH, sinh năm 1930, cán bộ kháng chiến nay đã về hưu, hiện sống ở quận Lê Chân – Hải Phòng:
“Từ năm 1955-1960, chưa được Nhà nước phân nhà, tôi sống tại nhà riêng của bố mẹ vợ ở phố Phan Bội Châu – Hải Phòng. Khác với Hà Nội, Hải Phòng có 300 ngày tập kết (tính từ 10/10/1954) cho những người có ý định di cư vào Nam. Ðó là 300 ngày giao thời, xã hội khá nhộn nhạo, giá cả sinh hoạt vô cùng đắt đỏ. Thời chống Pháp, tôi ở chiến khu chỉ là cậu bé chạy công văn, giấy tờ. Về Hải Phòng (1955), tôi đã thành anh cán bộ 25 tuổi, nhưng văn hóa chỉ qua lớp 3 hệ phổ thông 10 năm, kiếm được bà vợ khá xinh, lại giàu, có bằng tú tài toàn phần. Năm 1958, xếp lương công chức, cộng các khoản phụ cấp được 80 đồng/tháng đã là khá cao trong xã hội. Tiền hồi ấy tiêu bằng đơn vị xu là nhỏ nhất. Tiền xu có ba loại: 1 xu, 2 xu và 5 xu, bằng nhôm, có đục lỗ ở giữa. Ði ra chợ Sắt, nhìn thấy các bà hàng rau xâu một chuỗi tiền xu vào dải rút quần cũng thấy hay mắt. Ðồng 1 xu lúc đó có thể mua mớ hành hay rau thơm, 5 xu mua được mớ rau muống cỡ 1kg, cả nhà ăn không hết. Vợ tôi phụ giúp mẹ bán hàng xén ngoài chợ Sắt, thu nhập cũng đủ ăn. Lương của tôi nộp cho bà ấy 45 đồng, giữ lại 35 tiêu vặt và đãi đằng bạn bè, vậy mà vợ cũng mua trữ được mỗi tháng 1 chỉ vàng (50-55 đồng/1chỉ). Các gia đình công nhân viên chức khác không chân trong chân ngoài như tôi chỉ tiết kiệm được 2,5 - 3,0 đồng/tháng. Tôi đi làm, mỗi sáng uống cà phê 2 hào, ăn chiếc bánh bao nhân thịt 2 hào, vị chi 4 hào, là sang trọng ở đất Hải Phòng. Nhưng tôi thường phải ăn giấu ở nhà, không dám ra hiệu phở ăn 2,5 hào/1 bát. Tôi hút thuốc thơm loại Thăng Long, Hoàn Kiếm cũng phải bóc ra, nhét vào vỏ bao Bông Lúa hạng bét. Thời ấy, sống phô ra sự nghèo, giấu kín sự giàu là hành vi ứng xử chung của toàn xã hội. Nói chung, giai đoạn 1955-1960 là thời kỳ sung sướng, no nhàn nhất của gia đình tôi, nếu tính từ 1975 trở về trước.”
Nói đến chất lượng sống của cư dân, ta không thể bỏ qua lĩnh vực y tế - giáo dục. Ở lĩnh vực này, chính phủ đã thành công khá ngoạn mục. Uy tín của chính phủ trong dân chúng và trước cộng đồng quốc tế nhờ đó được củng cố. Nhiều học giả nước ngoài đã đánh giá cao trong công trình nghiên cứu của họ về thành quả y tế - giáo dục của miền Bắc trong giai đoạn 1954-1960 nên ở đây không cần nhắc lại (Le Vietnam au XXe Siècle – Paris 1979 – Feray P.). Những năm 1954-1960, phương tiện sinh hoạt văn hóa bằng radio ở thành thị vẫn còn là của hiếm, chỉ có ở các gia đình trí thức trung lưu, văn nghệ sĩ và cán bộ trung cao cấp. Bù vào đó, hệ thống loa truyền thanh công cộng được lắp đặt rộng rãi. Cuối năm 1960, các thành phố, thị xã, khu mỏ Quảng Ninh có khoảng 13.900 cái loa. Phó Tiến sĩ NÐT (đã dẫn trong mục phỏng vấn) kể rằng, năm 1958, loa truyền thanh công cộng phát buổi tường thuật trận đá bóng giữa đội Bát Nhất (Trung Quốc) và đội Thể Công (Việt Nam), số người tụ tập ở gần nhà ông lên đến 200 người. Nhạc sĩ THB cũng kể rằng, quanh nhà ông ở dốc Nghĩa Ðô gần chợ Bưởi không ai có máy quay đĩa hát, mỗi khi nhà ông mở đĩa nhạc có rất nhiều thanh niên, học sinh tụ tập ở cửa để nghe nhạc cổ điển. Quanh chiếc loa truyền thanh công cộng treo ở đầu chợ Bưởi, mỗi tối thứ bảy có khoảng vài chục đến cả trăm người già, trẻ em ngồi nghe hát cải lương. Ngành điện ảnh thời ấy chủ yếu sản xuất phim thời sự, đến năm 1960 mới có 4 bộ phim truyện do xưởng phim Hà Nội sản xuất. Số phim truyện được trình chiếu chủ yếu là về đề tài chiến tranh và hợp tác hóa nông thôn nhập từ Liên Xô, Trung Quốc: 462 bộ năm 1955, 329 bộ năm 1957 và 120 bộ năm 1960. Hà Nội có 7 rạp chiếu bóng, Hải Phòng có 2 rạp, suất chiếu nào cũng đông kín người, giá vé có 3 loại: 2 hào, 3 hào và 5 hào. Vùng ven đô có các đội chiếu bóng lưu động mỗi tháng chiếu 2 đợt, mỗi đợt 2-3 đêm. Số người xem ước chừng 1.000-2.000 người/1 suất chiếu. Giá vé người lớn 2 hào, trẻ em 1 hào. Thị hiếu thẩm mỹ của đa số dân thành thị hồi đó là xem cải lương, chèo, tuồng. Kịch nói và ca nhạc tạp kỹ, giao hưởng chỉ có ở nội thành. Giữa các màn cải lương thường xen kẽ biểu diễn ca khúc thời tiền chiến hoặc các bài hát cách mạng. Nghệ sĩ cải lương Tuấn Sửu cho biết, Hà Nội có 2 rạp cải lương “Chuông vàng Thủ đô” và “Kim Phụng”, 1 rạp chèo, tuồng “Lạc Việt”, suất diễn nào cũng kín chỗ. Mỗi lần họ đi ngoại thành biểu diễn có đến vài nghìn người xem, giá vé người lớn 4 hào, trẻ em 2 hào. Theo tài liệu thống kê chính thống về sân khấu nghệ thuật, năm 1955 số đơn vị nghệ thuật là 24, số buổi biểu diễn là 300, số lượt người xem là 1.600.000; Tương tự các năm 1957 là 40 - 630 - 2.151.000, 1960 là 54 - 1.414 - 3.511.000.
Thị trường sách văn học thời kỳ này có rất ít đầu sách được xuất bản và kiểm duyệt rất kỹ, nhưng lượng ấn bản cho mỗi đầu sách - sau khi được kiểm duyệt - lại khá lớn, thường là 2-3 vạn bản, cá biệt có đầu sách “nội dung tốt” được in 5 vạn bản. Năm 1955 có 207 đầu sách, 1.712.000 bản. Tương tự các năm 1957 là 264 - 1.496.000 và 1960 là 346 - 4.682.000. Các nhà văn được biên chế vào các nhà xuất bản, tòa báo, Hội nhà văn và các sở, ty văn hóa. Họ được hưởng lương cấp bậc theo đơn vị biên chế, ngoài ra, hưởng nhuận bút 8-10% giá bìa và số lượng bản in. Vì vậy nhà văn nào có sách được in theo kế hoạch thì nhận được khoản thù lao khá lớn. Một nhà văn lão thành cho biết mỗi cuốn sách của ông được in năm 1958-1960 nhuận bút 4.000-6.000 đồng, trong khi lương và phụ cấp ở cơ quan chỉ có 80-100 đồng/tháng. Cách đãi ngộ này khuyến khích nhà văn sáng tác phục vụ công - nông - binh. Ðương nhiên nếu ai sáng tác khác đi chẳng những không được in còn có thể mất biên chế ở cơ quan hoặc đi “lao động thực tế” ở công - nông - lâm trường. Lại nói, các nhà văn có sách được in, tiền nhiều, thường hay đãi đằng bạn bè ở các quán bia, quán phở. Ngôi nhà số 2 đường Cổ Tân trở nên nổi tiếng vì là nơi ở của các nhà văn Nam Bộ uống bia như uống nước lã (Ðoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Anh Ðức…). Lâu dần quán bia đường Cổ Tân thành nơi tụ họp của các cây bia rượu văn nghệ sĩ: các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài… hay các họa sĩ Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái… Một vại bia lúc đó giá 1,5 hào, nhưng các văn nghệ sĩ vốn hào phóng với bạn bè nên bạc trăm, bạc nghìn chẳng mấy chốc cũng “bay vèo”. Cha tôi chơi thân với một nhà văn thời tiền chiến, hồi đó ông này không có sách được in vì sở trường của ông là tiểu thuyết lãng mạn. Ông thường hay đến vay tiền, nhưng chưa một lần trả nợ. Lần ấy, bà vợ đẻ đứa con thứ 5, bị sài mòn, ông đến vay cha tôi 100 đồng, bẽn lẽn hỏi mẹ tôi xem cộng sổ nợ là bao nhiêu, rồi ông thở dài nói: “Có lẽ tôi phải đành viết quấy quá cuốn sách nào đó để trả anh chị”. Cha tôi đang hút thuốc lào, buông chiếc xe điếu, chân tình nói: “Là nhà văn mà anh định viết quấy quá cho xong một tác phẩm như nhiều đứa quen biết khác của chúng mình ư? Từ trước đến nay, bà nhà tôi có bao giờ ghi sổ nợ cho anh đâu. 100 đồng này là tôi biếu chị để mua thuốc cho cháu gái. Hết tiền anh hoặc chị cứ lên đây, tôi hết thì anh mới hết…” Về già, ông ngồi bán vé số ở góc phố Châu Long và Phó Ðức Chính. Cha tôi về già cũng ra hè phố mở một quán nước chè. Hai người gặp nhau tóc bạc phơ, nói nghề mới của các cụ hóa ra đều “hóng hớt” được ối chuyện, đáng viết cả trường thiên hý kịch. Bản thân người viết những dòng này, năm 16 tuổi cũng tập tọng học đòi viết văn, bị cha cấm đoán. Thậm chí, cha tôi còn sai các em canh chừng, hễ thấy anh ngồi viết văn thì mách lại, để cha đốt đi trong ánh mắt giận dữ, còn đứa con trai ngồi khóc nấc!...
Nói đến đời sống văn nghệ sĩ, không thể không nhắc đến cuộc đấu tranh tư tưởng với “luồng gió độc” của nhóm Nhân văn-Giai phẩm do Nguyễn Hữu Ðang, Phan Khôi, Thụy An khởi xướng. Sự kiện này đã được nhà văn Tô Hoài kể lại chi tiết trong cuốn Cát bụi chân ai (NXB Hội nhà văn, 1990). Ở đây chỉ nhắc thêm câu chuyện về nhà văn Ðoàn Phú Tứ để thấy hệ lụy của nó ảnh hưởng lâu dài đến đời sống một nhà văn ủng hộ nhóm Nhân văn-Giai phẩm. Câu chuyện xảy ra ở thời điểm cách sau vụ Nhân văn-Giai phẩm 7 năm (1964):
“Hà Nội đã lên đèn. Xe Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đi qua chợ Hàng Da, thấy một người lom khom nhặt gì ở chợ. Thủ tướng hỏi thư ký: - Ai trông giống anh Ðoàn Phú Tứ thế? Thư ký của Thủ tướng xuống xe chạy lại thì đúng là Ðoàn Phú Tứ. Ông nói thản nhiên: - Các con tôi có nuôi một con lợn. Tiền mua rau không đủ, chiều chiều tôi ra đây nhặt ít vỏ chuối, thêm vào rau cho chúng nấu cám lợn. Nghe thư ký thưa lại, Thủ tướng xuống xe đến tận nơi mời Ðoàn Phú Tứ chiều mai đến nhà riêng ăn cơm. Sau bữa cơm Thủ tướng bảo: Tôi biết anh rất giỏi tiếng Pháp. Tôi có đọc một ít tiểu thuyết cổ điển Pháp dịch ra tiếng Việt. Người dịch chỉ dịch được ý mà không giữ được văn. Sao anh không dịch cho các nhà xuất bản? - Hoàn cảnh của tôi… dịch ai in? - Tôi sẽ đảm bảo cho anh chuyện đó. Sau bữa ấy, Thủ tướng trực tiếp trao đổi ý kiến với giám đốc NXB Văn hóa. Ít lâu sau, bạn đọc nước ta được đọc tiểu thuyết Ðỏ và đen do Tuấn Ðô, tức nhà văn Ðoàn Phú Tứ dịch.” (Nguồn: Nguyễn Bùi Vợi – 101 truyện vui các nhà văn hiện đại Việt Nam – Nxb Thông tin, 1996)
Bức tranh đời sống cư dân đô thị một giai đoạn lịch sử 1954-1960 đã khép lại với những mảnh màu tối sáng đan xen. Dẫu sao chính phủ hồi đó còn nương nhẹ, có những giải pháp linh hoạt, có mềm có cứng, nên đã khá thành công trong việc khôi phục nền kinh tế sau 9 năm kháng chiến chống Pháp, bắt đầu có tiềm lực để bước vào giai đoạn quyết liệt xây dựng mô hình kinh tế Stalin trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
[1]“Trấn Sơn Nam” là tên của trường thi tại Nam Ðịnh.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:51:15 GMT 9
II. Giai đoạn 1961-1965: Khúc dạo đầu cho một mô hình kinh tế
1. Bãi cỏ xén bằng và những chuẩn giá trị
“Bãi cỏ xén bằng” là hình tượng do một người bạn Pháp của nhà văn Nga I. Ehrenburg đưa ra tại một quán cà phê nghèo ở ngoại ô Paris khi nhận xét về mô hình kinh tế Stalin. Nó thoạt trông thì gọn mắt nhưng lại trái quy luật. Một bãi cỏ ở nước Nga chỉ đẹp khi trên đó mọc lên một cây sồi, vài bụi cây phúc bồn tử. Ở vào thời điểm xuân Tân Sửu (1961), một số thành công về kinh tế ở giai đoạn 1954-1960 đã khiến không chỉ các nhà lãnh đạo mà đại bộ phận dân cư miền Bắc, nhất là ở nông thôn, cũng ngây thơ đặt cược số phận dân tộc cho mô hình này. Câu thơ “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” của Tố Hữu có lẽ phản ánh tâm trạng ông thật lòng tin theo, hy vọng ở mô hình kinh tế Stalin. Ðể hiểu rõ tâm thế người dân đô thị và những thay đổi về chuẩn giá trị, thứ bậc trong xã hội giai đoạn 1961-1965, cần xét qua tình hình chung của cả miền Bắc. Năm 1959 chỉ có 45% hộ nông nghiệp vào hợp tác xã. Ðến năm 1960 đã có 2.404.800 (85,83% hộ nông dân) làm việc trong 40.200 hợp tác xã cấp xóm, cấp thôn. Bước sang năm 1961, các hợp tác xã trên nhanh chóng sáp nhập lại để thành hợp tác xã quy mô cấp xã. Nhiều nơi như ở Ða Tốn, huyện Gia Lâm - Hà Nội, có 5 làng cổ, tên làng và cảnh sắc rất đẹp (Ðào Xuyên, Khoan Tế, Thuận Tốn, Ngọc Ðộng, Lê Xá) đều bị xóa mờ, thay bằng 18 xóm, cũng là 18 đội sản xuất… Khí thế hừng hực này đã tràn về các đô thị. Cuối năm 1960 đầu 1961, ở các thành phố, thị xã, thị trấn đã có 263.600 hộ thủ công (81%) vào hợp tác xã thủ công, 102.000 hộ tiểu thương (45,1%) vào hợp tác xã mua bán. Cả miền Bắc có 1.014 xí nghiệp quốc doanh và 889 xí nghiệp công tư hợp doanh. Như vậy, kể từ tết Tân Sửu (1961), kết cấu xã hội trong cộng đồng dân cư đã thay đổi tận gốc. Một xã hội đa tầng được thu gọn trong kết cấu đóng, hai mặt, hoặc là quốc doanh hoặc tập thể. Những hộ làm ăn cá thể ở đô thị chỉ còn ước độ 17%. Chuẩn giá trị trong xã hội đô thị lúc này cao nhất là người trong biên chế nhà nước, thứ đến xã viên hợp tác xã. Người làm ăn cá thể chẳng có vị thế gì, con cái lấy vợ, gả chồng hay học lên cao rất khó. Ngay cả người nhà quê, khát vọng lớn nhất cũng là được “thoát ly” thành người biên chế nhà nước, cho dù chỉ là đi làm công nhân ăn đói, mặc rách ở các công-nông-lâm trường. Có khách đến chơi nhà, họ không còn khoe vườn rau, ao cá mà khoe điều hãnh diện nhất là có người “thoát ly”. Ở thành thị, thân phận người làm ăn cá thể sao giống như trong bài thơ “Khúc hát người da đen” của Chế Lan Viên: “Bánh mì hạng ba, nhân phẩm hạng ba, thiên đường hạng bét và nghĩa trang hạng bét”. Bức tranh xã hội đô thị thoạt nhìn ngỡ như là bãi cỏ xén bằng, nhưng thực ra vẫn có tảng băng ngầm phân chia thứ hạng, đẳng cấp. Ngay cả những người trong biên chế nhà nước, sự phân hóa giàu nghèo đôi khi không phải do chức vụ, học vấn, tay nghề…
2. Mức sống và chất lượng sống
Ở giai đoạn này, ngành thống kê của Nhà nước đã hình thành đội ngũ khá đông các cán bộ có trình độ nghiệp vụ. Mặt khác, kết cấu xã hội sau tết Tân Sửu đã trở nên đơn giản, chỉ có hai khối người: cán bộ công nhân viên chức trong biên chế nhà nước và các xã viên hợp tác xã, nên bài toán thống kê về mức sống cá nhân cũng không mấy phức tạp. Vì vậy, kể từ giai đoạn này, chúng tôi sẽ tận dụng khai thác tối đa những chỉ báo thống kê, trước khi đi vào mô tả hay phỏng vấn.
Thu nhập bình quân đầu người trong khối cán bộ công nhân viên năm 1961: 22,13 đồng; 1963: 21,95 đồng; 1965: 21,70 đồng. Trong cơ cấu thu nhập năm 1961, thu từ lương và phụ cấp: 18,85 đồng, thu từ nguồn khác ngoài lương: 3,28 đồng. Tương ứng, năm 1963 là 18,48 và 3,47 đồng, năm 1965 là 18,79 và 2,91 đồng.
Như vậy thu nhập của họ còn thấp hơn giai đoạn 1954-1960 vì có thể do con cái đông lên. Theo cơ cấu thu nhập, họ chủ yếu sống bằng lương và phụ cấp. Họ không có cơ hội kiếm thêm nhiều vì định kiến xã hội lúc đó coi mọi biểu hiện làm thêm hoặc chạy chợ là phục hồi chủ nghĩa tư bản, là cá nhân chủ nghĩa… Lấy trường hợp một công chức bậc trung ở Hà Nội, thu nhập bình quân đầu người/ tháng là 22,18 đồng. Tổng các khoản chi 21,46 đồng (ăn 15,24 đồng, mua sắm 2,67 đồng, chi khác 1,74 đồng) thì tích lũy chỉ có 0,72 đồng/người-tháng, gần như bằng không. Tiếp tục đi sâu vào phân tích khẩu phần ăn của khối cán bộ, công nhân, viên chức, tài liệu thống kê qua các văn liệu chính thống cho biết như sau (tính theo tháng):
Năm 1961: Lương thực quy ra gạo là 10,20 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,55 kg, cá: 0,54 kg, trứng: 1,70 quả, đường: 0,19 kg, nước chấm: 0,50 lít. Năm 1963: Lương thực quy ra gạo là 11,39 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,55 kg, cá: 0,70 kg, trứng: 1,28 quả, đường: 0,18 kg, nước chấm: 0,45 lít. Năm 1965: Lương thực quy ra gạo 11,40 kg, các thực phẩm chính: thịt: 0,54 kg, cá: 0,71 kg, trứng: 1,00 quả, đường: 0,24 kg, nước chấm: 0,50 lít. Lại một lần nữa ta thấy được mô hình kinh tế của Stalin vận dụng vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đem lại khẩu phần ăn đạm bạc, hầu như không tăng lên, thậm chí có cái suy giảm do nguồn cung cấp từ nông thôn cũng suy giảm theo mô hình hợp tác xã cấp cao.
Ông LVT, sinh năm 1923, viên chức sở tài chính, sống ở phố Bà Triệu – Hà Nội kể lại:
“Gia đình tôi, cả 2 vợ chồng đều đi theo kháng chiến lên chiến khu Việt Bắc, nên từ năm 1954 đều đã có biên chế nhà nước. Giai đoạn 1954-1960 còn thị trường tự do nên sống dễ thở hơn. Bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Nhà nước có khẩu hiệu “thắt lưng buộc bụng xây dựng CNXH”, vật phẩm khan hiểm, lương tăng ít không đủ bù giá, con cái đông thêm nên khá vất vả. Cả nhà 8 miệng ăn (hai vợ chồng, mẹ già và 5 đứa con), lương tôi 85 đồng/tháng, lương vợ 45 đồng/tháng cộng thêm phụ cấp của 2 vợ chồng cỡ 30 đồng/tháng. Tổng thu nhập từ lương là 160 đồng/tháng, bình quân đầu người 20 đồng/tháng. Muốn làm thêm để có thu nhập phải theo tổ chức, nếu để vợ chạy chợ sẽ là việc động trời, tôi không dám. Cơ quan tôi nhận thêm lạc vỏ về cho mọi người bóc, mỗi tháng tôi nhận thêm 1,5-2,0 tạ lạc. Cả nhà, từ già đến trẻ ngồi bóc cũng kiếm thêm được 22-25 đồng/tháng. Vợ tôi liên hệ với bà Q, tổ trưởng đan len ở phố Hàng Gai để nhận len về đan áo xuất khẩu sang Liên Xô, mỗi tháng cũng kiếm thêm được 10 đồng. Hai khoản thu nhập thêm này đủ để đong thêm gạo tự do 0,80 đồng/1kg của người nhà quê có ruộng 5% mang ra bán “chui” cho các bà buôn ở chợ Hàng Bè. Mỗi tháng nhà tôi đong thêm 20 kg gạo hết 16 đồng. Còn lại khoảng 20 đồng làm thêm dùng để mua sách vở cho trẻ con đi học và thỉnh thoảng đi xem phim ở rạp là hết nhẵn.”
Cụ bà THT, sinh năm 1920, ở phố Hàng Thiếc – Hà Nội, thành phần tư sản vì có cổ phần ở nhà máy da Thụy Khuê, khi hợp doanh với Nhà nước, cụ ông thành công nhân kỹ thuật, đã kể lại:
“Vợ chồng tôi thuộc diện tư sản cải tạo, đang làm chủ mà khi hợp doanh biến thành người làm công. Chồng làm việc ở phân xưởng thuộc da, vợ làm nhân viên quèn ở phòng kế hoạch. Tổng thu nhập các khoản của 2 vợ chồng được 174 đồng/tháng, nuôi 9 đứa con và 1 mẹ chồng nên cũng eo hẹp lắm. Lẽ ra vàng, bạc, kim cương đều bị Nhà nước trưng thu từ năm 1959, song tôi còn chôn giấu được vài chục cây, đem ra ăn dè, mỗi tháng bán đi 1-2 chỉ cỡ 55 đồng/chỉ, đủ phụ thêm vào miếng ăn thường nhật. Mẹ chồng tôi hay đi thăm con cháu, dâu rể, tối về thường ngồi nước mắt lưng tròng. Cụ than thở: ‘Ðến chơi nhà nào cũng thấy bữa cơm đầy một rổ rau cải bắp hay rau muống luộc. Ăn thế khác nào độn rau, đến xanh ruột mất thôi. Nhà nào khá hơn thì có thêm vài bữa đậu kho với thịt mỡ mỏng tang, nổi lều bều, nuốt sao được’. Tôi biết ý cụ nhắc khéo mình bớt vài cây vàng chia cho họ, nhưng nghĩ cho cùng miệng ăn núi lở, chẳng bõ bèn gì, tôi lại nhắm mắt làm ngơ.”
Khu vực hợp tác xã thủ công và hộ làm ăn cá thể, rất tiếc, các văn liệu chính thống đều không có các chỉ báo thống kê, nhưng thiết nghĩ, mô hình hợp tác xã thủ công cũng na ná như mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy, ta có thể tham khảo các chỉ báo thống kê ở nông thôn.
Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp có sự bất bình thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Cụ thể:
Năm 1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là 7,0 đồng.
Tương ứng các năm sau cũng như vậy. Năm 1963 là 12,56 đồng – 4,8 đồng – 7,76 đồng/tháng.
Nguyên nhân của sự bất hợp lý trên được ông Nguyễn Văn Cược, 72 tuổi, sống ở thôn Ðình Tổ, xã Ðình Tổ, huyện Thuận Thành – Bắc Ninh giải thích:
“Thôn Ðình Tổ nằm dọc bờ đê sông Ðuống. Dân số vào năm Tân Sửu (1961) khoảng 2.500 suất đinh. Thôn tôi có 456 mẫu ruộng canh tác, sức kéo có 200 con trâu, bò, thuộc loại giàu của huyện. Năm 1959 lập quy mô hợp tác xã cấp xóm nên có 4 hợp tác xã (xóm Sông, xóm Nghè, xóm Ðình, xóm Chùa). Năm 1960 lập hợp tác xã cấp thôn, sáp nhập 4 hợp tác xã cấp xóm. Cuối năm 1961 lập hợp tác xã cấp cao quy mô toàn xã thì thôn tôi chỉ có 2 đội sản xuất (1 đội xóm Nghè và 1 đội gồm 3 xóm còn lại). Thực tế cho thấy hợp tác xã cấp xóm (1959) là đủ tầm quản lý của ban chủ nhiệm. Lên đến cấp thôn, nhất là cấp xã thì bộ máy quản lý cứ phình to ra, năng suất và sản lượng teo dần. Bản tính nông dân là tư hữu và vụ lợi từ cái rất nhỏ nên thu nhập ở ruộng 5% lại cao hơn ở hợp tác xã (95% ruộng!) là điều dễ hiểu, không hiểu sao các vị lãnh đạo không sớm nhận ra điều tất yếu này. Mặt khác thôn tôi có 456 mẫu thì 280 mẫu đất bãi trồng mía và đay. Các ông cán bộ thu mua lợi dụng chính sách ’thắt lưng buộc bụng’, đặt giá mua thấp như đi ăn cướp về cho nhà máy, hỏi làm sao người nông dân chịu làm việc cho hợp tác xã.”
Tình hình diễn ra ở các hợp tác xã thủ công nghiệp ngoài đô thị cũng giống như những gì ông Cược đã nói. Ta hãy nghe trả lời phỏng vấn của một vài nhân chứng.
Ông NTL sinh năm 1942, cựu chiến binh thành cổ Quảng Trị, hiện sống ở phường Cống Vị, quận Ba Ðình Hà Nội, có cha là ông NTH, chủ nhiệm hợp tác xã mây tre 1960-1970:
“Hợp tác xã của cha tôi thuộc loại lớn, có khoảng 300 lao động, chuyên sản xuất mành tre mỹ nghệ và bàn ghế bằng mây. Trước năm 1960 nó gồm nhiều tổ sản xuất thủ công độc lập nên quản lý tốt, nguyên liệu sẵn, thu nhập khá. Từ khi lên hợp tác xã cấp cao quản lý cồng kềnh, đặc biệt là khâu thu mua nguyên liệu thất thoát nhiều, đẩy giá đầu vào lên cao. Trong khi đó, đầu ra thời tổ hợp tác rất phong phú thì nay chỉ có một đầu ra độc quyền là Tổng Công ty Tocotap của Nhà nước trên đường Bà Triệu thu mua để đổi hàng cho Liên Xô nên họ định giá mua thấp, nhất là khi nào không ký được hợp đồng xuất khẩu thì họ bỏ mặc cho hợp tác xã tồn kho hàng đống để rồi bị mối mọt xông hoặc bị mốc. Lương của xã viên hồi ấy rất thấp, chỉ khoảng 40-50 đồng/người-tháng. Cha tôi và ban chủ nhiệm khá hơn cũng chỉ 60-65 đồng/tháng. Tổng thu nhập của gia đình tôi, gồm 3 lao động xã viên (cha, mẹ và chị gái) đạt khoảng 150 đồng/tháng, chia cho 11 miệng ăn là rất thấp. Các gia đình xã viên còn thấp hơn nữa. Ðó là chưa kể có những đợt 3-4 tháng liền không có lương. Ðói thì đầu gối phải bò, xã viên tìm thu nhập thêm; nhà nào có đất rộng thì nuôi gà, lợn; nhà chật thì chạy chợ, thực chất là đi buôn bán tem phiếu hoặc các đồ nhu yếu phẩm do mậu dịch viên tuồn hàng ra ngoài. Thu nhập thêm thường gấp đôi, có khi gấp ba lương hợp tác xã.”
Cụ THB, sinh năm 1917, ở phố Lò Rèn – Hà Nội, xã viên hợp tác xã cơ khí, có trụ sở ở phố Mã Mây:
“Năm 1961, theo chủ trương của Ðảng và Chính phủ, tôi vào hợp tác xã cơ khí, đóng góp hết công cụ sản xuất và nguyên liệu cho tập thể. Hai vợ chồng lao động cật lực, nhưng bộ máy quản lý thì cồng kềnh, nhiêu khê nên năng suất kém lắm. Tổng thu nhập của 2 vợ chồng chỉ cỡ trên dưới 100 đồng/tháng, trong khi lãnh đạo thì suốt ngày tiệc tùng mà lương lại cao hơn người lao động nên chẳng ai muốn làm, bây giờ ta gọi là lãn công. Gia đình tôi có 9 miệng ăn, nghề cơ khí vất vả mà gạo bông của Nhà nước bán cho chỉ đủ ăn khoảng 10-12 ngày. Bí quá, tôi đành mua sắm công cụ để làm thêm ở nhà. Mặt hàng chủ yếu là đinh các loại làm từ dây thép gai cũ của quân đội Pháp còn sót lại, do các bà đồng nát thu gom về, bán lại cho tôi và nhiều hộ xã viên khác. Mặt hàng thứ 2 là các loại thép lá tiết kiệm từ các “đề-xê” do nhà máy thải ra, dùng để gia công thành bản lề cửa các loại. Nơi tiêu thụ là phố Thuốc Bắc chuyên bán đồ kim khí và các sạp hàng ở chợ quanh Hà Nội. Tính ra mỗi ngày vợ chồng con cái làm thêm cũng kiếm được 12-15 đồng. Trung bình mỗi tháng thu nhập ngoài hợp tác xã được 340 đồng, gấp hơn 3 lần lương của 2 vợ chồng. Nhờ khoản thu nhập thêm này, cả nhà ăn đủ no, thỉnh thoảng có thịt làm nem hay bún chả để cải thiện, có tháng tích lũy đuợc 5-10 đồng.”
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:51:53 GMT 9
Ông VTÐ, kỹ sư cơ khí chế tạo máy, sĩ quan thuộc Tổng cục chính trị quân đội, hiện sống ở Tây Hồ - Hà Nội:
“Gia đình tôi năm 1961 có 8 anh em, hơn kém nhau 1 hoặc 2 tuổi, tôi là con cả 17 tuổi, cô em gái út 8 tuổi. Cha tôi làm thợ nhuộm ở hợp tác xã nhuộm tận đường Trần Nhật Duật, cách nhà gần chục cây số. Mẹ tôi làm nhân viên thu mua giấy phế liệu cho Liên hiệp thủ công ngành giấy, thường là vỏ bao xi măng ở các công trường hay giấy vụn ở các cơ sở xén kẻ giấy làm vở học trò. Mẹ tôi thường vắng nhà, còn cha tôi vốn dòng dõi thế gia, phải đi làm thợ nhuộm đã là nỗi khổ tâm lắm rồi, đâu có nghĩ đến việc làm thêm. Thu nhập của 2 cụ mỗi tháng khoảng 100-120 đồng, mỗi tháng chỉ dám bán đi 1 chỉ vàng cỡ khoảng 50-55 đồng để phụ thêm vào bữa ăn cho cả nhà. Bữa cơm nào anh em tôi cũng cạo cháy cành cạch, vét đến hạt cơm cuối cùng. Thức ăn mùa hè là rau muống luộc, đựng đầy 4 đĩa tây (đường kính 20 cm), mùa đông là một nồi cải bắp ninh nhừ với loại khoai tây chạy nước, bé bằng hòn bi ve, không thể gọt vỏ mà chỉ rửa qua cho sạch đất. Thức ăn kiểu ấy thực chất là ăn độn với cơm cho đầy bụng. Họa hoằn lắm, mẹ tôi cho anh em cải thiện bữa bún chả thì cả nhà chỉ có 8 lạng thịt, nhưng đem gạo đổi lấy 10 kg bún (1 kg gạo đổi 2,5 kg bún), giờ nghĩ lại thì bữa cải thiện ấy cũng chỉ là bún chan nước mắm là chính. Nhà đông con, lại đang tuổi ăn tuổi ngủ nên bữa nào tráng trứng thì chỉ có 3 quả, trộn ít bột mì rồi đánh đều lên, láng qua chảo gang cho to và mỏng như chiếc bánh đa, để cắt làm 8 phần đều nhau. Tôi và thằng em thứ 2 lúc đó 15 tuổi, đã biết nghĩ, thường giấu phần của mình dưới đáy bát, rồi lén gắp cho 2 đứa bé nhất vào cuối bữa.”
Mức sống cư dân đô thị chỉ có 80% là được cào bằng như nhau, qua các nhân chứng được phỏng vấn. Thật ra sự phân tầng, phân cực giàu nghèo ở khu vực đô thị vẫn diễn ra âm thầm, đa dạng và rõ nét ngay trong chế độ tem phiếu. Nhìn vào thang lương người gác cổng ở Bộ Công nghiệp so với ông Bộ trưởng, người ta có cảm giác sự đãi ngộ là không có chênh lệch bao nhiêu. Nhưng ngoài chế độ về nhà ở, xe ô tô, phương tiện sinh hoạt và làm việc ra, thì ngay trong miếng ăn thường nhật cũng có sự phân cấp công khai, trên phạm vi toàn xã hội:
Bìa A cho cấp Bộ trưởng trở lên;
Bìa B cho cấp Thứ trưởng và chánh phó chủ tịch tỉnh;
Bìa C cho cấp vụ - viện, chuyên viên cao cấp, kỹ sư bậc 3/7 trở lên;
Bìa D cho cấp cán bộ trung, sơ cấp; Bìa E cho công nhân, viên chức hành chính, sinh viên…
Người ngoài biên chế nhà nước (xã viên hợp tác xã, hộ làm ăn cá thể ở thành thị) chỉ được cấp một số mặt hàng trong bìa mua hàng nhân dân. Ngay trong đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức, một số mặt hàng phân phối ngoài định lượng (tem phiếu), dưới hình thức “căng tin” cũng được phân ra các chế độ ưu tiên khác nhau. Dân gian thời đó có bài vè truyền khẩu về sự phân chia đẳng cấp này: “Hai trăm ngồi phán – Trăm tám ngồi nghe – Tranh nhà, tranh xe là anh trăm rưởi – Tất ta tất tưởi là chị chín mươi – Dở khóc dở cười là anh sáu chục – Tối ngày lục đục là chị bốn lăm – Khóc đứng khóc nằm là anh ba sáu”. (Hai trăm đồng là lương Bộ trưởng, ba sáu đồng là lương tổi thiểu năm 1964). Tréo ngoe còn ở chỗ, chính chế độ tem phiếu đã tạo thành trong xã hội một nhóm người giàu không phải do cấp bậc, học vấn, tay nghề. Họ khá đông đảo, hiện diện ở khắp nơi, làm việc ở những chỗ nắm hàng nhu yếu phẩm và phương tiện vận chuyển hàng hóa. Lớp người này có thể điều khiển cả cán bộ trung cao cấp thông qua vợ con họ. Lớp người này cũng là đầu mối cung cấp cho một thứ thị trường ngầm tự do, còn gọi là “chợ đen”. Quá trình hình thành, vận động và phát triển các chợ đen đã tạo nên một nhóm cư dân đô thị (10-15%) sống no nhàn, thừa tiền nhiều của gồm: nhân viên các cửa hàng bách hóa, lương thực, thực phẩm, chất đốt; cán bộ cấp tem phiếu, phụ trách “căng tin” cơ quan; các lái xe và các thương nhân hoạt động trong chợ đen mà hồi ấy gọi là “con phe”. Bề ngoài các “con phe” bị dư luận xã hội khinh rẻ, lên án, nhưng chính họ lại là tác nhân điều hòa nhu yếu phẩm từ người thừa sang người thiếu, thậm chí từ địa phương này sang địa phương khác. Ðội ngũ “con phe” đã làm hư hỏng một số lớn nhân viên ngành thương nghiệp vốn được khoác cho mỹ từ “người nội trợ của xã hội”. Ðôi khi các “con phe” còn móc ngoặc với vợ con các cán bộ cao cấp để tuồn nhu yếu phẩm từ các cửa hàng đặc biệt (Tôn Ðản, Nhà Thờ, Quốc Tế ở Hà Nội) ra chợ đen.
Trong quá trình điều tra, tiếp xúc với nhiều loại “con phe” thời đó, tôi đã có nhiều tư liệu và đã viết thành truyện vừa Mỹ Linh của tôi. Ðó là nguyên mẫu cuộc đời của nữ tướng cướp Thu trọc hay Thu bít ở ngõ Mai Hương, phố Bạch Mai, Hà Nội.
Ðoạn trích dưới đây là 100% lời kể của Thu trọc dưới cái tên Mỹ Linh về tuổi thơ của chị ta:
“Thấm thoát đã 10 năm trôi đi. Bố mẹ tôi đã quen dần với cảnh sống đạm bạc. Bố tôi xin dịch tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp cho một cơ quan nghiên cứu, lấy tiền uống cà phê và hút thuốc Bông Lúa hạng bét. Mẹ tôi muốn có tiền nuôi tôi ăn học phải ra chợ Bắc Qua, Ðồng Xuân buôn bán trao tay các loại tem phiếu và nhu yếu phẩm. Hồi đó mẹ tôi bị liệt vào hạng “con phe”, tức thành phần bất hảo. Nghề này khá phức tạp, vốn dĩ hiền lành nên mẹ tôi hay bị chèn ép. Tôi thỉnh thoảng phải ra chợ giúp mẹ nên sớm thành con bé đanh đá, chua ngoa, nhất là lúc tôi bênh vực mẹ, chửi nhau với người khác. Ðiều này bố tôi cấm kỵ, nhưng thương mẹ, tôi vẫn lén lút làm. Vì học ca chiều, sáng tôi dậy từ 3-4 giờ, cắp rổ ra chợ. Quầy thịt, cá, đậu phụ, nước mắm nào cũng có vài hòn gạch của tôi dấm chỗ. Tôi len lỏi giữa đám người hôi hám xếp hàng rồng rắn, chen lấn, chửi bới nhau để mua được thực phẩm. Tính ra mỗi sáng, lúc chợ Ðồng Xuân, khi chợ Hàng Bè, con bé 10 tuổi cũng kiểm được 1 đồng rưỡi đến 2 đồng, hơn cả tiền dịch sách của bố một đêm. Ðó là chưa kể có người không dùng đến phiếu đậu phụ, cá biển hay nước mắm thối, tôi có thể mua hoặc xin lại để mua hàng giá cung cấp, bán giá cao ăn chênh lệch. Thiếu gì những “mẹ mướp” đi chợ mà cá biển đồng tiền tanh lòm hay nước mắm thối vẫn là của quý với họ. Nếu gặp mấy ông bà thợ móc cống có phiếu thịt loại nghề độc hại, mua được cân rưỡi một tháng, đem bán để mua quần áo, sách vở cho con, thậm chí để đánh bạc là tôi hôm ấy trúng to…”.
Trong cuộc điều tra, tôi còn gặp một loại người buôn bán trên lưng các “con phe”, sạch sẽ, nhẹ nhàng, không mất một xu thuế, giàu nhanh đến chóng mặt. [Họ cho tôi tư liệu viết tác phẩm ký “Câu lạc bộ các tỷ phú”, dự cuộc thi do báo Văn nghệ và Hội Nhà văn tổ chức (1996-1997), nhận được giải thưởng.] Loại người này, vào đầu những năm 90, họ sẵn có vốn tích lũy và mánh lới làm ăn nên đều phất lên thành tỷ phú.
Dưới đây trích đoạn sử dụng 100% lời kể của nhân chứng:
“Ở cửa chợ Ðồng Xuân có một chị bán bánh giò, bánh dày, chả quế. Hành trang chỉ có một chiếc thúng đại và dăm cái ghế thấp như ngồi bệt. Ai cũng gọi chị là Vân Tây Thi vì chị đẹp, có duyên, nói lời ngọt như mía lùi. 6 giờ sáng, Vân chỉ cần ngồi vỉa hè cửa chợ, đợi chừng 15 phút sẽ có người chở hàng từ Tôn Ðản đến giao theo lời dặn trước và chiều tối anh ta lại đến chở hàng còn thừa ế về nơi nó xuất phát, để sớm hôm sau lại giao hàng mới, nóng hổi. Chỉ có Vân Tây Thi mới biết rõ các ông lớn bìa A, bìa B có thể sẽ ăn hàng thừa ế của mình. Thời ấy, ai cắn giò chả ngập răng đều là dân phe có máu mặt ngoài chợ. Giò chả ăn vào thì lời ra. Họ tâm sự với Vân độ này hàng gì lên, hàng gì xuống hay bán chậm. Ai hôm đó “trúng quả đậm” muốn mua vài chỉ vàng cất giấu, ai gặp xui xẻo cần bán đều qua tay Vân vì thời đó mua bán vàng là việc quốc cấm. Mỗi ngày Vân kiếm hơn trăm đồng nhẹ như phẩy tay, bằng cả tháng lương ông Vụ trưởng.”
Một khi sự phân hóa giàu-nghèo, sang-hèn nảy sinh từ chế độ tem phiếu, chợ đen thì xã hội cũng có một thứ chuẩn giá trị mới, rất dị mọ. Một cô bán hàng ở cửa hàng thịt có thể dễ lấy đuợc chồng có học vị tiến sĩ hơn cô sinh viên y khoa hay sư phạm. Một anh lái xe chinh phục người đẹp qua bà mẹ thực dụng lại dễ hơn anh giảng viên một trường đại học. Ðó là sự thật hiển nhiên, đã được cô đúc trong bộ phim hài Kén rể do Xưởng phim Hà Nội sản xuất năm 1964. Dẫu sao chế độ tem phiếu vẫn có những mặt ưu việt nhất định, rõ nhất là sự bình ổn giá cả sinh hoạt. Biểu đồ biến động giá cả sinh hoạt 1961-1965 cho thấy rõ điều này:
Giá sinh hoạt của năm 1961, 1963, 1965 so với năm 1957 là 119,2% - 131,5% và 133,0%; so với năm 1960 là 111,9% - 123,5% và 125,2% . Nó đảm bảo cho những gia đình công nhân viên chức bậc lương thấp nhất có thể tồn tại bằng gạo và nhu yếu phẩm tối thiểu. Nó giúp cho dân cư đô thị ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Ðịnh dù ở khu vực kinh tế tập thể hay lao động tự do, nhưng có hộ khẩu thường trú sẽ có gạo ăn và cái mặc ở mức cầm chừng.
Ðiều không thể phủ nhận, cuốn sổ gạo của mỗi gia đình ở đô thị là cái bảo bối cho nhà hành pháp giữ gìn an ninh, trật tự và hạn chế gia tăng dân số cơ học (vì vậy hồi đó trong dân gian có câu ví von “trông như mất sổ gạo” chỉ người có bộ mặt đau khổ, thiểu não). Các mô hình kinh tế khác khó có thể làm việc này tốt hơn chế độ tem phiếu!...
Giai đoạn 1961-1965 có lẽ là thời kỳ thành công ngoạn mục nhất của miền Bắc về y tế, giáo dục và phúc lợi công cộng. Ðành rằng chính sách “thắt lưng buộc bụng” xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự chia đều mức sống nghèo khó trong đại bộ phận dân cư, nhưng nó cũng giúp cho nguồn thu ngân sách tăng nhanh,nhờ đó, chính phủ có điều kiện đầu tư vào giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội nhiều hơn so với giai đoạn 1954-1960.
Trong lĩnh vực y tế, các số liệu thống kê cho thấy rõ sự tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 1960 chỉ có 65 bệnh viện và 180 bệnh xá, đến năm 1965 có 252 bệnh viện và 350 bệnh xá. Chất lượng phục vụ, độ chuẩn xác của các phác đồ điều trị là rất cao, thuốc men khá đầy đủ. Năm 1960 toàn miền Bắc có 600 bác sĩ, 2.446 y sĩ, 231 dược sĩ cao cấp, 293 dược sĩ trung cấp. Năm 1961 những con số tương ứng là 1.525 - 8.043 - 428 và 703. Nhà nước thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho cán bộ, công nhân, viên chức.
Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dưới sự chỉ đạo của 2 vị Bộ trưởng cũng là hai trí thức tài năng và tâm huyết (ông Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và ông Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Ðại học và Trung học chuyên nghiệp), từng bước đi của ngành đều đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, bám sát nhu cầu và hiện trạng của nền kinh tế đất nước. Lấy số liệu thống kê niên học 1955-1956 làm điểm xuất phát để so sánh, ta sẽ thấy rõ sự tăng trưởng có tính đột biến cả về lượng và chất.
Niên học 1955-1956: 716.100 học sinh phổ thông, 2.800 học sinh trung học chuyên nghiệp, 1.200 sinh viên đại học. Số liệu tương ứng của các niên học sau là 1960-1961: 1.794.700 - 30.700 và 16.700; 1964-1965: 2.673.900 - 42.600 và 29.300.
Ðứng ở thời điểm lịch sử 1961-1965 mà xét, thành công trong lĩnh vực y tế - giáo dục đã đưa miền Bắc xếp vào hàng các quốc gia tiên tiến ở khu vực châu Á và ASEAN về lĩnh vực này.
Ðời sống văn hóa nghệ thuật của cư dân đô thị những năm 1961-1965 có bước cải thiện khá rõ rệt. Sách ngoại văn năm 1957 chỉ có 15 cuốn với 39.000 bản, tăng lên 39 cuốn và 210.000 bản (1960); 74 cuốn và 494.000 bản (1965). Ðặc biệt số lượng tác phẩm văn học nghệ thuật trong 2 năm 1960-1961 đạt con số kỷ lục: 736 đầu sách với hơn 8 triệu bản in. Rất nhiều tác phẩm ưu tú của văn học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt, in với số lượng lớn và về mặt dịch thuật đã đạt tới trình độ cao nhất so với bất cứ giai đoạn nào suốt 50 năm qua (1945-1995). Nếu so với sách dịch ở miền Nam, có thể nó không phong phú, đa dạng về các trường phái nghệ thuật, khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới cận – hiện đại, nhưng với 1 tác phẩm cổ điển cụ thể thì sách dịch của miền Bắc đạt trình độ cao hơn. Nhiều cuốn sách dịch đáng làm mẫu mực cho các thế hệ dịch giả sau này. Có thể nêu một số dịch giả nổi tiếng: Phan Ðăng Tài, Ðào Anh Kha, Ðoàn Phú Tứ (tiếng Anh, tiếng Pháp); Ðặng Thai Mai, Trương Chính (tiếng Trung); Vũ Thư Hiên, Cao Xuân Hạo (tiếng Nga). Về thư viện, năm 1957 có 33 thư viện, 208.300 lượt người đọc; năm 1965 có 105 thư viện, 410.800 lượt người đọc. Nghệ thuật điện ảnh khá phát triển, do các nghệ sĩ quay phim, đạo diễn, diễn viên được đào tạo ở nước ngoài về khá đông. Từ năm 1961-1965 đã sản xuất được 13 bộ phim truyện nhựa (đen trắng) và hàng trăm bộ phim tài liệu có giá trị nghệ thuật khá cao. Ở lĩnh vực nghệ thuật sân khấu, trình độ thẩm mỹ của công chúng đô thị đã phát triển ở mức khá cao, đa dạng. Số lượng khán giả xem kịch nói, ca nhạc tạp kỹ, opera, ba lê và nhạc giao hưởng ngày một đông lên. Hai năm 1961-1962 có lẽ là thời hoàng kim của nghệ thuật opera với các nghệ sĩ nổi tiếng Quý Dương, Trần Hiếu, Quang Hưng, Mỹ Bình, Bích Liên, Bích Thủy… Các bản giao hưởng 4 chương của các nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, Hoàng Việt, Ðỗ Nhuận… đã đánh dấu mốc phát triển huy hoàng của âm nhạc hàn lâm Việt Nam.
Nói đến đời sống văn hóa của cư dân đô thị, có lẽ nên điểm qua “mốt thời trang” của giai đoạn này, vì nó không phản ánh trình độ hay cá tính thẩm mỹ của người dân, mà bị chi phối bởi các yếu tố ngoài văn hóa. Hà Nội, Hải Phòng mất hẳn những tà áo dài của thiếu nữ và các bà nội trợ trên đường phố vào những ngày thường. Áo dài chỉ thấy trong các ngày lễ tết, nhưng cũng ít dần. Trang phục mùa hè ra đường của các bà nội trợ là quần lụa đen, áo cánh trắng khuy bấm, còn của các cô gái là quần lụa đen, áo sơ mi trắng cổ bẻ hoặc áo vải phin hoa cổ lá sen tròn. Mùa đông họ mặc áo bông màu tối, một số mặc áo vét kiểu “cán bộ”, bên trong là áo len màu tím than hoặc màu đỏ. Nam giới đơn giản hơn, mùa hè quần kaki, áo sơ mi trắng, còn mùa đông họ mặc áo bông kiểu Trung Quốc, một số mặc áo đại cán kiểu Tôn Trung Sơn. Nhưng đó là những mốt lịch sự, còn đa số dân, nhất là người trong biên chế nhà nước thường có cách ăn mặc cố ý tuyềnh toàng, vì như vậy mới đúng là “thắt lưng buộc bụng” xây dựng chủ nghĩa xã hội: ra đường thường mặc quần áo cũ hoặc cọc cạch quần mới áo cũ và ngược lại. Cán bộ lãnh đạo trong cơ quan thường nhìn cách ăn mặc của nhân viên để đánh giá lập trường chính trị!
Ông MTT là GS.TSKH, dạy ở một trường đại học ở Hà Nội, sinh năm 1944, quê Hà Tĩnh, theo cha mẹ ra Hà Nội từ nhỏ, kể lại:
“Năm 1962, tôi tốt nghiệp cấp 3 ở Hà Nội, đang chờ giấy gọi vào đại học. Nhóm bạn chúng tôi thảy đều rất mơ mộng, thích phiêu lưu mạo hiểm. Bọn tôi đọc các tiểu thuyết trong bộ Tấn trò đời của Balzac, bàn nhau tìm cách thâm nhập vào tận “hậu cung” các nhà danh giá, nghĩa là cái bếp, để xem họ sống ra sao. Cuối cùng, chúng tôi đã tìm ra một phương án tối ưu. Học sinh đi lao động hè để tu dưỡng lập trường cách mạng thì ai nỡ từ chối. Thế là chúng tôi, mấy đứa rủ nhau đi kéo xe bò than quả bàng. Thời ấy, dân Hà Nội chưa có tập quán đun nấu bằng bếp dầu hay bếp điện, mỗi nhà đều dùng lò đun bằng than quả bàng. Ðó là loại than cám 6 ở Quảng Ninh trộn với bùn, rồi đem vào bàn ép có khuôn lỗ hình quả bàng. Nhóm bạn của tôi đã thuyết phục được bác Ðính là tổ trưởng, phụ trách hơn chục chiếc xe kéo chở than quả bàng đựng vào mỗi thùng gỗ thông chừng 20 kg than, để bác cho vào làm. Nơi giao than, chúng tôi chọn các phố Quán Thánh, Phan Ðình Phùng, Bà Triệu… là những phố có nhiều gia đình danh giá ở. Nhóm tôi gồm 3 đứa con trai, một người kéo, 2 người đẩy và một đứa bạn gái chạy lên trước quan sát, hễ thấy bố mẹ hoặc người quen đi ngược chiều thì báo động cho lũ con trai đi trốn. Cứ thế, trong 2 tuần kéo xe và đội than vào tận bếp các nhà danh giá, bọn trẻ chúng tôi phát hiện ra một sự thật: Nhà công chức lưu dung, học giả hay kỹ sư thời Pháp, tuy sống ở những ngôi nhà đẹp, ra đường ăn mặc lịch sự, nhưng về nhà họ mặc áo vá chằng vá đụp, bếp ăn toàn thấy rau với muối, chai nước mắm chẳng nhà nào đầy. Họ cư xử với chúng tôi rất nhã nhặn, chân tình chứ không cau có, chỏng lỏn. Vào đến các nhà cán bộ cỡ kha khá, bọn tôi lại thấy khi ra đường họ ăn mặc lôi thôi, nhếch nhác nhưng về nhà đóng bộ pijama bằng lụa màu mỡ gà, mâm cơm khá thịnh soạn, thỉnh thoảng còn ăn cơm Tây đổi bữa. Chỉ có điều cách bài trí trong nhà luộm thuộm, kém văn hóa. Thường thì một biệt thự có hai hoặc ba hộ cán bộ nên khu vực sân và công trình phụ rất bẩn, khác với nhà ở của công chức lưu dung, chỗ nào cũng thơm tho, gọn mắt. Sau này, người bạn gái trong nhóm chúng tôi thành nhà thơ khá nổi tiếng, luôn bị ám ảnh bởi câu chuyện kéo xe than thời xa xưa ấy.”
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:52:35 GMT 9
3. Các sự kiện chính trị ảnh hưởng đến đời sống đô thị
Cuối năm 1960 đầu 1961, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam phát động chiến tranh du kích. Ở ngoài Bắc, Nhà nước có chủ trương đưa khoảng 6.000 người đã đi lính cho Pháp (ngụy quân) hay làm ở các cấp chính quyền (ngụy quyền) đang sống ở thành thị đi tập trung lao động cải tạo. Họ đi không có thời hạn và gia đình cũng không được biết địa điểm tập trung cải tạo. Chính sách đặt ra là chỉ tập trung những người có nợ máu với cách mạng, nhưng các cấp chính quyền ở cơ sở lại lợi dụng để đe dọa, chèn ép những người có nhà cửa rộng hoặc có tiền, vàng cất giấu được. Tình hình trở nên căng thẳng ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh, không kém gì ở nông thôn thời cải cách ruộng đất.
Cụ VDH, sinh năm 1921, ở phố Hàng Buồm, Hà Nội, là xã viên hợp tác xã nhuộm Hợp Tiến trên đường Trần Nhật Duật:
“Năm 1950, tôi bị bắt lính, nhưng mẹ và vợ tôi chạy tiền lo lót nhiều nên tôi chỉ mất 3 tháng thổi kèn Tây ở vườn hoa Canh Nông cho lính lê dương. Ngôi nhà 2 tầng ở Hàng Buồm là do mẹ tôi mua của người Tàu, rất rộng, cỡ 200 m2, nhưng tầng 1 cấu trúc theo kiểu nhà kho, thông thống từ ngoài vào trong, tầng 2 mới là chỗ ở và nơi thờ tự. Sau ngày giải phóng thủ đô (10/10/1954), tôi cho một người em họ xa từ chiến khu về, làm phóng viên báo Thời Mới (nay là Hà Nội mới) ở nhờ một nửa tầng 1, phía ngoài. Người ta chuyển chú ấy đi nơi khác, không hỏi ý kiến tôi, giành diện tích 100 m2 này cho hợp tác xã đóng giày sử dụng. Cuối năm 1960, Nhà nước có chính sách cải tạo ngụy quân, ngụy quyền, tôi không thuộc diện đó, nhưng mấy ông cán bộ tiểu khu Hàng Buồm – Mã Mây vẫn đến đe dọa tôi, sau đó buộc tôi giao nốt nửa tầng 1 phía trong, chia cho 5 hộ là bà con của họ dưới quê lên ở. Vì là cấu trúc nhà kho, nên năm hộ này chỉ ngăn vách bằng gỗ hoặc cót, chừa lại một lối đi lên cầu thang cho gia đình tôi và một lối đi ra khu nhà xí. Thật lòng tôi ái ngại thay cho họ vì nơi họ ở tối như hũ nút, ẩm thấp, hôi hám lắm! Nhưng quỹ nhà ở Hà Nội rất hiếm hoi, người bà con cán bộ ở quê, nhất là vùng Thanh-Nghệ ra rất đông, họ phải chịu thôi. Ðến năm 1962, có đợt tập trung cải tạo thứ 2, chính quyền lại đến đe dọa tôi một lần nữa. Sau đó họ chiếm luôn nửa tầng 2, có giếng trời đẹp nhất để phân cho ông bí thư Ðảng ủy bệnh viện Bạch Mai, là cán bộ miền Nam tập kết đến ở. Cả nhà tôi gần hai chục người, gồm 5 thế hệ phải chui rúc trong không gian chật hẹp còn lại vẫn đành ngậm bồ hòn làm ngọt, chứ biết kêu ai!”
Cuộc vận động đi khai hoang lập nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới ở miền núi thuộc Tây Bắc, Việt Bắc, Quảng Ninh diễn ra rầm rộ tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh những năm 1962-1964. Ðối tượng thứ nhất được vận động đi khai hoang là các gia đình có thành phần “bất hảo” về lý lịch. Loại này đi cả gia đình để Nhà nước giãn dân đô thị, thay vào đó là các gia đình họ mạc của cán bộ cách mạng từ các miền quê về, đông nhất là vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh. Người Hà Nội gốc thời đó bảo nhau rằng, Nhà nước tìm cách nhuộm đỏ các cụm dân cư đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. (Sau này, vào thập kỷ 80-90, các nhà Hà Nội học đặt ra tiêu chuẩn người Hà Nội gốc phải có 3 đời sinh sống ở Thủ đô trước năm 1954 thì khi thống kê chỉ còn 17-21% dân số, còn người Thanh–Nghệ-Tĩnh đến sau 1954 chiếm 40%.) Ðối tượng thứ hai là các thanh niên học sinh được học tập chính trị, khuyến khích viết đơn tình nguyện đi khai hoang ở các nông – lâm trường. Số này có khoảng 1 vạn người, trong đó có 2/3 là những con em gia đình trí thức cũ, bị ám ảnh bởi lý lịch dòng dõi quan lại, địa chủ phong kiến, không có khả năng thi đỗ vào đại học. Họ tình nguyện tham gia phong trào “Thanh niên tháng Tám” đi khai hoang lập nghiệp ở quê hương mới, hy vọng sau vài năm sẽ được tiếp tục theo học lên đại học. Họ ra đi trống dong cờ mở, tiễn đưa náo nức, nhưng khi đến nơi ở mới liền bị phân tán ra các đội sản xuất và bị đối xử như kẻ đi lao động cải tạo. Ai muốn trốn về cũng không được nữa vì không còn tên trong sổ gạo của gia đình. Thân phận của gần 1 vạn con người này được lột tả khá chân thực trong tiểu thuyết Ngoại tình của Nguyễn Mạnh Tuấn (NXB Văn học, 1993).
Một sự kiện khác, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại năm 1963 cũng tác động mạnh đến đời sống tinh thần các tầng lớp cư dân đô thị. Lúc đầu, nó đơn thuần mang màu sắc chính trị, sau lan dần sang địa hạt kinh tế, văn hóa, nghệ thuật. Ở Viện Kinh tế, ông Bùi Công Trừng và một số người khác bị coi là phần tử xét lại. Giới văn nghệ sĩ có một số người bị dính đòn nặng như Hà Minh Tuân với tiểu thuyết Vào đời, nhạc sĩ Hoàng Vân với ca khúc “Tâm tình người thủy thủ”. Có lẽ căng thẳng nhất là giới nghiên cứu ở Viện Triết học và giới báo chí ở tòa soạn báo Quân đội nhân dân.
Ông Trần Thư, sinh năm 1923, hồi đó là thiếu tá, trưởng phòng biên tập báo Quân đội Nhân dân, hiện sống tại khu tập thể văn công Mai Dịch, Hà Nội:
“Lúc ấy, Hoàng Linh là tổng biên tập thay Văn Doãn. Anh gần như trở thành cái bóng thầm lặng. Một lần gặp anh ở hành lang tòa soạn, tôi giữ anh lại và nói với anh một vài suy nghĩ về tình hình. Anh lẳng lặng nghe, mỉm cười buồn rầu, rồi lảng đi không đáp một câu. … Ít lâu sau, tôi nhận được tin sét đánh ngang tai: anh Hoàng Thế Dũng, phó tổng biên tập cũ của báo Quân Ðội Nhân Dân; anh Phạm Viết, phó tổng biên tập báo Thời Mới; anh Trần Châu biên tập viên báo Nhân Dân; anh Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện Triết học đã bị bắt.” (Nguồn: Trần Thư – Hồi ký- Chuyện một tên tù nội bộ)
Ông Trần Thư sau đó cũng bị bắt cùng đợt với nhà báo Kiên Giang và 15 người khác. Năm 1970 ông được tha về, nhưng vẫn bị quản thúc ở quê nhà Hưng Yên. Khi tôi gặp và phỏng vấn tại nhà riêng (7/1998), ông trao cuốn hồi ký dày 107 trang giấy đánh máy vi tính khổ A4 và nói: “Vụ việc của tôi với Kiên Giang và 15 anh em khác ngỡ không dính gì đến mô hình kinh tế mà hóa ra có đấy. Hãy thử hình dung, nếu không có chiến tranh, mô hình kinh tế Stalin sẽ rất nhanh bộc lộ các ung nhọt, sưng tấy lên như các năm 1978-1980 sau chiến tranh, thì không biết khủng hoảng kinh tế và mâu thuẫn nội bộ sẽ dẫn đất nước đi đến đâu!”. Lời ông Trần Thư thay cho câu kết, khép lại một giai đoạn đời sống cư dân đô thị 1961-1965.
III. Giai đoạn 1966-1975: Chiến tranh và hai mặt của mô hình Stalin
1. Chiến tranh san lấp các hố bờ ngăn cách
Ngày 5/8/1954, khi chiếc tuần dương hạm Cơ Ðốc của Mỹ cố tình đụng độ với hải quân Bắc Việt Nam, gây ra “sự kiện vịnh Bắc Bộ” thì trên thực tế, các tầng lớp cư dân đã bắt đầu cuộc sống thời chiến. Tuy nhiên, ở góc nhìn lịch sử kinh tế, ta vẫn có thể xem giai đoạn này bắt đầu từ năm 1966, khi miền Bắc kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và cuộc chiến tranh đất đối không đã lan rộng khắp các tỉnh, thành phố. Lịch sử đã chứng minh người Mỹ đã sai lầm khi áp đặt tư duy của nền kinh tế mở và tiên tiến vào một nước có mô hình kinh tế đóng, lạc hậu, tự cung tự cấp. Vì vậy, mục tiêu của người Mỹ muốn dùng máy bay phá nát hệ thống giao thông, đánh sập các cơ sở kinh tế, quốc phòng của miền Bắc để ngăn chặn chi viện cho Việt cộng ở miền Nam và kích động dân chúng đô thị miền Bắc nổi loạn đã phá sản ngay từ đầu cuộc chiến. Từ góc độ kinh tế, ta có thể lý giải như sau:
Thứ nhất, miền Bắc bước vào cuộc chiến tranh vẫn là nước nông nghiệp (chiếm hơn 70% GDP), các cơ sở kinh tế về công nghiệp và quốc phòng đều nhỏ, dễ dàng sơ tán vào rừng núi để tiếp tục sản xuất như các công binh xưởng thời chống Pháp mà không ảnh hưởng gì lớn đến năng suất, sản lượng.
Thứ hai, đời sống cư dân miền Bắc, nhất là đô thị, sau tết Tân Sửu (1961) đã bị cào bằng ở mức nghèo khổ tới độ không còn nghèo khổ hơn, nên tác động của chiến tranh là không lớn đối với họ. Người Việt từ bao đời sống trong nền văn minh lúa nước, chịu đựng được mọi điều kiện khắc nghiệt của thiên tai nên rất giỏi chịu đựng và cũng rất giỏi biến hóa trong những hoàn cảnh khó khăn. Người Mỹ đã từng biết đến trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ, từng đoàn dân công đi tiếp tế cho bộ đội chỉ bằng đôi vai trần và những chiếc xe đạp thồ. Ngay tại thời điểm người Mỹ ném bom ra miền Bắc, nếu họ chứng kiến hình ảnh những người đàn bà ở bến phà Tân Ðệ (Nam Ðịnh) có thể đội 3 thúng gạo chồng lên nhau, nặng chừng 70 kg mà vẫn vung vẩy đôi tay, đi nhanh thoăn thoắt, thì họ phải hiểu rằng bom đạn phá hủy mạng lưới giao thông sẽ không ngăn nổi miền Bắc chi viện cho Việt cộng ở miền Nam.
Thứ ba, mô hình kinh tế Stalin ở miền Bắc, như đã chứng minh trong phần 2, chứa đựng những ung nhọt kìm hãm sức sản xuất của nền kinh tế, nhưng nó lại có mặt tích cực trong quản lý an ninh, trật tự xã hội đô thị và dễ dàng huy động nhân tài vật lực cho chiến tranh. Người Mỹ chủ động đưa chiến tranh lan ra miền Bắc đã vô tình thúc đẩy mặt tích cực của mô hình kinh tế này phát huy đến mức tuyệt vời.
Cuối cùng, điều đặc biệt quan trọng mà người Mỹ không tính đến là họ không thể biện minh cho hành động đem máy bay bắn phá, dội hàng triệu tấn bom đạn lên miền Bắc, trước cộng đồng quốc tế và nhân dân Mỹ. Người Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử, có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm oanh liệt từ hàng nghìn năm. Bất cứ đảng phái hay tổ chức chính trị nào biết khơi dậy lòng yêu nước của dân tộc này đều có sức mạnh diệu kỳ, bất khả chiến bại. Người Mỹ gây cuộc chiến tranh đất đối không ở miền Bắc đã làm tác nhân tự nguyện, giúp chính phủ miền Bắc san lấp mọi hố bờ ngăn cách trong nội bộ lãnh đạo và toàn cộng đồng dân cư vừa nhen nhóm, âm ỉ bùng phát quanh việc triển khai mô hình kinh tế Stalin đã nêu ở cuối phần II. Dưới đây là một vài dẫn chứng:
Lá thư của ông Trần Hữu Nghĩa, làm việc ở nông trường Sao Vàng, gửi con trai đang tại ngũ, bị một đơn vị quân đội Mỹ (Recon – Co. 7th ARVNIV Corpo) lấy được 20/6/1967. Ông Nghĩa vốn là một trí thức ở Hà Nội chịu nhiều ấm ức khi phải đưa gia đình đi khai hoang, lập nghiệp ở miền núi:
“Trừng, con yêu quý của cậu!
Chiều hôm nay, 26/3/1967, cậu nhận được thư con viết hôm 15/2/1966 cho cậu và anh Hai, trong lúc con sắp ra sông Bến Hải. Gian khổ lắm, con ạ, cậu vẫn biết trước rồi. Có câu ‘lửa thử vàng, gian nan thử sức’, đường dài mới biết sức ngựa. Cao quý hay thấp hèn là ở chỗ ấy, con ạ! Cậu thương con, cũng vì quyết tâm đi B của con và cũng vì Tổ quốc mà cha con ta, tình cảm của con và anh Hai phải tạm chia cắt.
… Ngày 16/1/1967 Hai đã về nước, lại viết một lá thư nữa, nhờ Ban thống nhất trung ương chuyển hộ, con đã nhận được chưa? Hai có xin đi B, nhưng nghề của Hai có thích ứng với yêu cầu của tiền tuyến không? Không rõ. Có thể Hai sang Bộ Quốc phòng, kể cả đi B, còn sang Ðại học Ttổng hợp Hà Nội chỉ là phụ, trên còn đang nghiên cứu…” (Hai là con trai ông Nghĩa, anh ruột liệt sĩ Trừng. Vậy là ông Nghĩa sẵn lòng dứt ruột để hai đứa con trai đều tình nguyện đi B – VNT chú giải).
Ông ÐVX, sinh năm 1932, một nông dân ở xã Cao Mại, huyện Kiến Xương, Thái Bình:
“Ở xã tôi, người giáo (Thiên chúa giáo) có mối thâm thù với người lương trong kháng chiến vì họ cho rằng du kích đã giết cha At Khang và mấy trăm giáo dân trong kháng chiến 9 năm chống Pháp. Nhưng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, người dân hai bên lương và giáo đều có chung nỗi mong ngóng, chờ đợi con cái đi B, nhiều đứa cùng đơn vị nên cha mẹ ở nhà đều đọc thư chung của những đứa con. Lâu dần, oán thù cởi nới, họ trở nên thân thiết với nhau, cùng làm việc trong hợp tác xã, cùng chia sẻ mọi nỗi niềm.”
Ông NDL, sinh năm 1947, cán bộ ngành thủy sản, hiện sống ở khu tập thể Thành Công, quận Ba Ðình, Hà Nội:
“Quê tôi ở Nghĩa Hưng, Nam Ðịnh, là nơi đất mới quai đê lấn biển nên nghèo lắm. Mẹ tôi không chịu vào hợp tác xã, buôn bán thêm ngoài chợ huyện nên gia đình có chút của ăn, của để. Chính quyền xã và Ban chủ nhiệm hợp tác luôn nhòm ngó, ganh ghét, trù dập, phê vào lý lịch mấy anh em tôi như là con em của phần tử phản cách mạng. Cha tôi bị bạo bệnh chết từ năm 1952 mà họ phê mập mờ vào lý lịch là mất tích, không rõ theo địch hay theo ta. Tôi và ông anh cả đều học giỏi nhưng chúng tôi bảo nhau, lý lịch xấu thì đi thi đại học làm gì cho phí công, đi bộ đội phấn đấu tốt, ra khỏi làng, chẳng đứa nào chặn đường tiến thân của mình nữa. Anh tôi hy sinh ở chiến trường Khe Sanh năm 1968. Ðến lượt tôi vào bộ đội phấn đấu tốt, là em liệt sĩ, lại có văn hóa cao nên được cử đi học kỹ thuật tên lửa ở Nga. Trước ngày giải phóng miền Nam (1975), tôi là thiếu tá, tiểu đoàn trưởng tên lửa ở đất thép Vĩnh Linh. Giải ngũ, tôi được chuyển sang ngành thủy sản, được đi Nga lần thứ 2 để học về quản lý.”
2. Khái quát về thu nhập quốc dân miền Bắc trong chiến tranh
Nhiều học giả phương Tây tỏ ý nghi ngờ và phủ nhận các chỉ báo thống kê kinh tế của miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1966-1975. Họ sẵn có định kiến với mô hình kinh tế Stalin đã làm Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ, nhưng lại quên rằng, chính mô hình đó đã góp phần giúp Liên Xô đánh thắng phát xít Ðức trong thế chiến thứ 2. Bằng những phân tích ở phần II, ta có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để yên tâm sử dụng các số liệu thống kê ở miền Bắc trong thời chiến. Cho dù nó có đôi chút sai lệch do chủ nghĩa thành tích, dẫn đến gian dối ở cấp cơ sở, song về cơ bản nó vẫn cho ta một bức tranh thu nhập quốc dân khá hoàn chỉnh và có thể tin được (Niên giám thống kê nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1975). Mức tăng thu nhập quốc dân (GDP) trong chiến tranh: So với GDP năm 1961: Năm 1965 là 130%, năm 1968 là 109%, năm 1971 là 133% và năm 1974 là 167%. So với GDP năm 1965: Năm 1968 là 84%, năm 1971 là 103% và năm 1974 là 129%. Mức tăng thu nhập bình quân đầu người (GNP) trong chiến tranh: So với năm 1961: năm 1965 là 116%, năm 1968 là 92%, năm 1971 là 103%, năm 1972 là 97% và năm 1974 là 120%. So với năm 1965: Năm 1968 là 76%, năm 1971 là 90%, năm 1972 là 84% và năm 1974 là 103%. Như vậy, ngay cả năm 1968 là thời điểm chiến tranh ác liệt nhất thì GDP giảm 16% so với năm 1965, nhưng vẫn tăng 9% so với năm 1961. Về mặt đời sống nhân dân, thu nhập bình quân đầu người năm 1968 giảm 24% so với năm 1965, nhưng nó vẫn xấp xỉ năm 1961 (92%) và đến năm 1974 đã tăng 3% so với năm 1965. Ðây có thể nói là thành công tuyệt vời trong lịch sử các cuộc chiến tranh hiện đại. Một vài nhà Việt Nam học trên thế giới có phần võ đoán cho rằng người Trung Quốc đã nuôi sống dân Bắc Việt Nam trong chiến tranh. Thật ra, ở thời điểm trước khi bước vào cuộc chiến (1965), do chính sách “thắt lưng buộc bụng”, người dân miền Bắc, nhất là khu vực đô thị đã bị bần cùng hóa tới mức không thể nghèo khổ hơn được nữa. Do vậy, nền kinh tế trong suốt cuộc chiến tranh vẫn đủ nuôi sống các tầng lớp dân cư ở mức nghèo khổ như trước chiến tranh cũng là dễ hiểu. Viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và Ðông Âu cả về vũ khí và lương thực đều dồn cho chiến trường miền Nam. Một phần rất nhỏ viện trợ của Trung Quốc và cộng đồng quốc tế mang tính phục vụ dân sinh, chủ yếu nhằm cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên trong biên chế và cư dân đô thị. Ðể thấy rõ hơn, ta có thể phân tích cơ cấu sử dụng GDP trước và trong chiến tranh. Giai đoạn 1961-1965, cơ cấu sử dụng GDP chủ yếu là quỹ tiêu dùng: 75,1%-77,4% (trong quỹ tiêu dùng đó 87,74% cho tiêu dùng cá nhân của dân cư, 4,1% dùng cho y tế-giáo dục- văn hóa, 8,16% dùng cho hành chính và an ninh quốc phòng). Phần tích lũy trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, dù Chính phủ đã rất cố gắng, nhưng vẫn rất ít (24,7-25,1%) và nằm trong tài sản cố định (nhà máy, đường xá, công trình thủy nông…), không có tích lũy ngoại tệ, chỉ có rất ít tích lũy về nguyên liệu sản xuất. Bước vào chiến tranh, nền kinh tế nhỏ bé và khép kín này vẫn sử dụng GDP vào tiêu dùng từ 72,7% (1967) đến 83,5% (1973). Cái hay và độc đáo của mô hình kinh tế tập trung, bao cấp là ở chỗ dù trong hoàn cảnh chiến tranh, Nhà nước vẫn có thể tích lũy dưới dạng tài sản cố định 19,2% (1968) đến 24,0% (1974), cá biệt năm 1972 chỉ có 3,5% vì chịu thiên tai lũ lụt lớn năm 1971 và cuộc tập kích bằng B52 của Mỹ (12/1972). Những chỉ báo thống kê vừa nêu cho phép ta có bức tranh tổng thể về kinh tế thời chiến, trước khi đi vào điều tra, mô tả đời sống cư dân đô thị.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:53:20 GMT 9
3. Mức sống và chất lượng sống qua số liệu thống kê
Nhìn chung, bước vào cuộc chiến tranh khốc liệt, cái mô hình “bãi cỏ xén bằng” được tiếp tục kiện toàn, phát huy tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực trong đời sống cư dân đô thị. Trước hết, ta xét qua các chỉ báo thống kê về thu nhập của khối cán bộ công nhân viên trong biên chế. Thu nhập đầu người/tháng bằng tiền: năm 1966 là 22,15 đồng, 1968 - 22,90 đồng, 1970 - 23,51 đồng, 1972 - 23,35 đồng và 1974 - 26,67 đồng. Có sự khác biệt nếu tính thu nhập đầu người/tháng theo giá cả (giá gạo) so với năm 1959: năm 1966 là 15,5 đồng, 1968 - 14,6 đồng, 1970 - 15,6 đồng, 1972 - 15,7 đồng và 1974 - 16,3 đồng. Như vậy, trong hoàn cảnh thời chiến, hàng hóa khan hiếm, giá cả sinh hoạt tăng lên, đồng tiền mất giá (24%-31%), Nhà nước đã liên tục tăng lương cho khối cán bộ công nhân viên bằng việc lạm phát tiền. Cách làm này có tác động ổn định đời sống cho khối cán bộ công nhân viên trong biên chế nhà nước, đẩy khó khăn về mức sống sang khối xã viên nông nghiệp ở nông thôn và xã viên thủ công nghiệp, hộ làm ăn cá thể ở đô thị. Ðây là ưu thế tuyệt đối của mô hình kinh tế Stalin trong chiến tranh mà không một mô hình kinh tế nào khác có thể làm được tốt hơn. Thế mạnh của mô hình Stalin còn ở chỗ mức độ tăng giá cả trên thị trường cũng không quá lớn so với các đô thị miền Nam ở giai đoạn này (thường là vài chục phần trăm/năm), nhưng ở miền Bắc: Chỉ số giá so với 1959: Năm 1966 là 142%, 1968 là 156,4%, 1971 là 145,83% và 1974 là 163,96%. Chỉ số giá so với 1965: Năm 1966 là 107,5%, 1968 là 116,97%, 1971 là 109,08% và 1974 là 122,64%. Xét về cơ cấu thu nhập, người trong biên chế do điều kiện chiến tranh sơ tán về nông thôn không có cơ hội làm thêm để tăng thu nhập. Họ chỉ có thể trồng rau và chăn nuôi thêm để cải thiện bữa ăn, song không đáng kể, chủ yếu dựa vào lương và tiêu chuẩn cấp phát. Ðối với cán bộ xã viên thủ công nghiệp, vì không có số liệu thống kê nên tạm sử dụng số liệu thống kê cho các hộ xã viên ở nông thôn để tham khảo. Nếu trước chiến tranh (1961-1965), cơ cấu thu nhập của họ là thu nhập trong hợp tác xã 40,39%, còn ngoài hợp tác xã là 59,61%, thì các giai đoạn sau con số tương ứng sẽ là: 1966-1970 là 34,53% và 65,47%, 1971-1975 là 35,48% và 64,52%. Tình hình cơ cấu thu nhập của xã viên hợp tác xã thủ công ngoài đô thị cũng na ná như vậy. Họ phải bươn bả kiếm sống ngoài hợp tác xã là chính. Phương thức kiếm sống vẫn giống như đã điều tra, phỏng vấn ở giai đoạn 1961-1965. Chỉ có điều thời gian đầu tư vào việc kiếm thêm và cường độ lao động của họ cao hơn gấp 2-3 lần trước chiến tranh mới đủ sống. Nghiên cứu các số liệu thống kê, ta còn thấy các mặt y tế, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật đã được phát triển và chuyển hướng để phục vụ đời sống tinh thần dân cư đô thị thời chiến khá ấn tượng và hiệu quả. Về y tế, mạng lưới bệnh viện, bệnh xá phát triển rất nhanh, phân tán về các vùng có người đô thị về sơ tán. Năm 1965 cả miền Bắc có 252 bệnh viện và 390 bệnh xá. Ðến năm 1967 tăng lên 434 bệnh viện, 390 bệnh xá. Năm 1974 có 441 bệnh viện, 518 bệnh xá. Trong 3 năm chiến tranh ác liệt nhất (1967-1969) số lượng các cơ quan, xí nghiệp và dân cư đô thị sơ tán về nông thôn, rừng núi rất đông nên số trạm y tế - hộ sinh cấp xã tăng lên 6.000 trạm. Số lượng thầy thuốc năm 1966 có 1.998 bác sĩ, 8.806 y sĩ, 40.461 y tá và 15.983 nữ hộ sinh. Các con số tương ứng của những năm sau: 1968 có 2.838 – 12.056 – 46.779 – 15.713; năm 1970 có 3.806 – 18.087 – 48.077 – 12.190; năm 1972 có 4.989 – 20.102 – 45.499 – 11.266 và năm 1974 có 5.513 – 21.035 – 43.499 – 9.552. Cán bộ, công nhân, viên chức, sinh viên, học sinh trung học chuyên nghiệp được khám chữa bệnh miễn phí, ngoài ra còn được bồi dưỡng bằng tiền hoặc đường, sữa. Các bà mẹ khi sinh con được trợ cấp tiền và được cấp từ 4-8 hộp sữa/tháng. Các xã viên hợp tác xã và người lao động tự do nếu phải cấp cứu do tai nạn chiến tranh cũng được chữa chạy miễn phí toàn bộ. Về giáo dục – đào tạo, trong chiến tranh, các trường phổ thông và đại học, trung học chuyên nghiệp phải sơ tán từ thành thị về nông thôn đã tạo nên sự giao thoa về giáo dục giữa hai cộng đồng dân cư nông thôn – thành thị, làm cho chất lượng giữa 2 vùng không có chênh lệch đáng kể. Nó cũng góp phần kích thích nông dân cho con đi học để đạt mơ ước “thoát ly” thành người trong biên chế mà họ ấp ủ từ trước chiến tranh (1961-1965). Số liệu thống kê các cấp học giai đoạn này như sau: Niên học 1966-1967 có 3.325.800 học sinh phổ thông, 101.90 học sinh trung học chuyên nghiệp, 48.400 sinh viên đại học. Các số liệu tương ứng những niên khóa sau: Niên học 1968-1969 có 4.100.000 – 138.400 – 71.400 Niên học 1970-1971 có 4.568.700 – 85.800 – 69.900 Niên học 1972-1973 có 4.680.500 – 57.600 – 53.800 Niên học 1974-1975 có 5.151.300 – 69.800 – 55.500. Qua các số liệu trên, ta thấy đã bắt đầu có dấu hiệu bất hợp lý về cơ cấu đào tạo đại học và trung học chuyên nghiệp (một phần do chế độ cử tuyển (không thi) trong một số năm). Ðây là một sai lầm trong chiến lược đào tạo so với giai đoạn 1961-1965 và nó còn tiếp tục sang các niên khóa sau chiến tranh như GS Tạ Quang Bửu đã cảnh báo. Từ niên học 1965-1966, Nhà nước ồ ạt cử người đi học ở Liên Xô, Trung Quốc, Ðông Âu. Những người này gửi về nước nhiều loại hàng hóa tiêu dùng (xe đạp, xe máy, radio, quạt điện, vải, len, dạ…) cũng góp phần nào cải thiện mức sống cho cư dân đô thị. Về văn hóa – nghệ thuật, số đầu sách văn học có ít đi, nhưng lượng in tăng mạnh. Năm 1965 có 303 đầu sách với 1.372.000 bản in; năm 1973 có 114 đầu sách với 1.813.000 bản in. Ngành điện ảnh trong chiến tranh đặc biệt phát triển loại phim tài liệu, và phim truyện ngoại nhập chủ yếu là về đề tài chiến tranh. Các đội chiếu bóng lưu động phát triển rất nhanh vể số lượng và xuất chiếu. Suốt thời gian chiến tranh, mỗi năm có 70-100 triệu lượt người xem phim trên dân số 20 triệu, là con số mơ ước của bất cứ nhà kinh doanh điện ảnh nào trên thế giới. Âm nhạc phát triển song hành cả 2 thể loại ca khúc cách mạng và âm nhạc hàn lâm. Ðáng trân trọng là các bản giao hưởng của Nguyễn Văn Nam, Nguyễn Văn Thương, Cao Việt Bách…
4. Bức tranh đời sống đô thị qua điều tra, phỏng vấn
Có thể nói đây là thời kỳ nông thôn hóa thành thị do yếu tố chiến tranh. Tiêu chí khác biệt giữa nông thôn với thành thị rõ nhất là điện, nước, y phục và tiện nghi sinh hoạt. Tất cả đã được người thành thị và các khu công nghiệp chủ động nông nghiệp hóa. Người đi sơ tán hay ở lại thành phố đều ăn mặc một loại quần áo sẫm màu (đen, nâu, xanh rêu, xanh lá cây). Áo dài truyền thống của phụ nữ Việt Nam chỉ dùng cho các nhân viên khách sạn hoặc cửa hàng giao tế, thậm chí có nhiều đám cưới cô dâu cũng không mặc áo dài. Mùa hè, mốt độc đáo của những cô gái Hà Nội, Hải Phòng xinh đẹp, có nước da trắng, cổ cao ba ngấn là loại áo cánh nâu hoặc áo bà ba đen (Nam Bộ) may bằng vải lanh hoặc phin nõn đã nhuộm. Mùa đông, những cô gái này thường mặc áo kiểu nữ quân nhân có hai túi, thắt ở eo lưng, bên trong mặc áo mút hoặc len cổ lọ màu đen, đỏ hoặc màu lòng trứng. Nam giới ở thành phố diện nhất vào mùa hè là quần simili Tiệp màu ghi đá, màu lá cây, còn sơ mi là pôpơlin Tiệp hoặc Trung Quốc, cũng màu ghi đá, màu xanh lá cây. Vào mùa đông, trang phục phổ biến là áo bông xanh Trung Quốc, áo đại cán may theo kiểu Tôn Trung Sơn bằng vải kaki hoặc bông dạ Mông Cổ. Chỉ trong đám cưới mới thấy xuất hiện vài bộ complet, nhưng cũng là loại hàng len màu sẫm. Tóm lại trang phục của người thành phố không có gì khác lắm so với người có trình độ văn hóa hoặc có vị thế ở nông thôn. Do bị đánh phá ác liệt nên điện và nước sinh hoạt trở nên thiếu, chỉ tập trung ưu tiên cho sản xuất. Người dân trong thành phố luôn phải dự phòng đèn dầu để dùng những lúc bị cắt điện. Trong số đồ dùng thiết yếu trong mỗi gia đình ở thành phố lúc này không thể thiếu những vật như: bao vải để đi đong gạo, can đựng dầu, thông phong, bấc đèn, bấc bếp dầu, can nhựa mua nước mắm, dấm v.v… Nước máy không đủ công suất và áp lực, nhiều nhà phải đào một hố ở vỉa hè, hạ thấp ống nước để hứng nước máy, hoặc đào giếng ngay trong khu phố trung tâm. Năm 1972 đã có hiện tượng dân đào giếng gặp khí độc C02, mêtan bị chết ở phố Hàng Bồ (khu Hoàn Kiếm). Các máy nước công cộng thường đông nghịt những người xếp hàng chờ lấy nước. Nhiều hộ dân, các thành viên trong gia đình đi sơ tán mỗi người một nơi nên cửa luôn khóa và mặt cửa đầy những dòng chữ viết bằng phấn để nhắn tin cho nhau mua dầu, gạo, thực phẩm hoặc chỉ số điện đã tiêu thụ… Ðịnh suất lương thực cho mỗi người vẫn được Nhà nước cung cấp đủ, nhưng gạo để dành tập trung cho bộ đội ngoài mặt trận nên dân phải ăn độn như ở nông thôn. Thông thường tỷ lệ độn là 60% gạo và 40% bột mì, sắn, ngô. Ðể giải quyết việc chế biến chất độn, đã xuất hiện một đội ngũ các hộ tư nhân làm mỳ sợi, làm bánh qui gai xốp hoặc đổi bột mỳ lấy gạo với tỷ lệ chỉ còn một nửa. Lại một lần nữa ta thấy kinh tế thị trường vẫn tồn tại, góp phần đáp ứng nhu cầu cấp bách của nhân dân. Từ năm 1969, Nhà nước bán mỳ sợi cho nhân dân ăn độn thì các cơ sở làm bánh qui gai xốp thu hẹp sản xuất theo thời vụ chỉ để phục vụ Tết, cưới hỏi hoặc liên hoan. Lúc này trên thị trường “chợ đen” lại xuất hiện nghề buôn bán nguyên liệu làm bánh qui gai như bột mỳ, đường, sữa, trứng gà… Ngành thương nghiệp được mệnh danh là “người nội trợ” của toàn xã hội, ngoài việc phân phối cho toàn bộ khối cư dân thành thị cái ăn, cái mặc, chất đốt… theo định lượng tem phiếu, còn phải lo cung cấp cả những mặt hàng thiết yếu trong những ngày lễ, tết, cưới hỏi, ma chay… Người ta chia ra các loại bìa mua hàng: hộ độc thân, hộ bốn người và hộ trên bốn người… Ngày Quốc Khánh (2/9) hàng năm mỗi bìa mua hàng được mua bánh kẹo, thuốc lá Tam Ðảo, chè gói Ba Ðình. Ngày tết Trung thu mỗi bìa được mua bánh dẻo, bánh nướng. Ngày tết Nguyên Ðán thường mỗi bìa được mua một túi hàng tết gồm: bóng, miến, mỳ chính, hạt tiêu, chè Ba Ðình, thuốc lá Ðiện Biên, rượu chanh hoặc cam và một hộp mứt, vài gói kẹo… Người kết hôn được mua một chiếc giường đôi giá 80 đồng loại tốt hoặc 60 đồng loại thường, một chiếc màn đôi 5, 6 đồng và một ít thuốc lá, bánh kẹo dùng trong hôn lễ. Người chết, có giấy báo tử sẽ được mua một chiếc quan tài bằng gỗ giá 50 đồng. Các bà mẹ sinh con, nếu mất sữa toàn phần được mua 8 hộp sữa/tháng, còn nếu mất sữa một nửa được mua 4 hộp sữa/tháng… Chủ nghĩa bình quân thời chiến thực chất là chia đều sự nghèo khổ, vất vả trong đại bộ phận dân cư. Có lẽ vì thế đã nảy sinh trong tâm lý ứng xử của người dân thành thị một sự suy bì, nhòm ngó từng bữa ăn của người khác.
Bà ÐTH ở phố Mã Mây kể:
“Ngôi nhà của tôi có 8 hộ cùng ở, 5 hộ tầng dưới, 3 hồ tầng trên. Gia đình tôi ở tầng trên đun nấu bằng bếp dầu, nhưng ngại nhất là cái sàn gỗ ọp ẹp. Hễ băm chặt thức ăn gì là kinh động các hộ bên dưới. Tôi làm nghề “phe phẩy” ở phố Ngõ Gạch cũng kiếm được. Mỗi lần đi chợ về có con cá hay miếng thịt mua chui là phải dấu tít tận đáy làn, phủ mớ rau muống lên trên để các hộ khác không nhìn thấy. Nếu bữa nào mổ con gà, con vịt thì đến khổ… Lúc ăn không dám dùng dao chặt mà phải cắt từng miếng bằng kéo…”
Ông N.S kể lại:
“Vợ chồng tôi sống tập thể cơ quan trong dãy nhà cấp 4 ở Thanh Xuân. Tôi đi Tây về bán cái xe máy, đài Rigonda được ít tiền nên chủ nhật thường hay cải thiện. Nói chung mỗi lần như vậy, sáng thứ hai đi làm việc như thấy mình là đứa vừa ăn vụng bị bắt quả tang. Mọi người nhìn tôi nhấm nháy, còn sau lưng thì họ kháo nhau rành mạch hôm trước tôi ăn gì. Có lẽ vì thế mà năm ấy đại hội Ðảng bộ cơ quan, tôi ít phiếu nhất vì ‘không hòa mình với quần chúng.’” Về “mốt” ăn uống, sinh hoạt thời đó có thể điểm qua vài hiện tượng:
Quán trà
Trước chiến tranh, ở Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố, thị xã lác đác có vài quán trà ở cửa chợ, nhà ga, bến xe hoặc ngã tư lớn. Quán trà lúc đó chủ yếu phục vụ dân kéo xe ba gác, đạp xích lô hoặc khách đi tàu xe. Bắt đầu từ năm 1966 quán trà mở ra la liệt khắp mọi nơi và hình thức sinh hoạt quán trà đã trở thành mốt của cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên. Khắp các đường phố Hà Nội, đi đâu cũng gặp quán trà, thường tập trung đông nhất ở cửa cơ quan, xí nghiệp và bến xe điện, bến ô tô, ga tàu hỏa. Ở các vùng nông thôn, hễ đâu có cơ quan, xí nghiệp, trường học sơ tán về là ở đó mọc lên nhan nhản các quán trà. Hình thức quán trà rất đơn sơ, chỉ là túp lều lợp giấy dầu nếu ở thành phố; lợp rơm nếu ở nơi sơ tán. Ðồ nghề trong quán vẻn vẹn một bếp dầu, 2 hoặc 3 cái phích Trung Quốc, 2 chiếc ấm sành loại 1 lít ủ trong cái thùng gỗ lèn chặt đủ loại giẻ rách hoặc rơm. Hàng hóa trong quán gồm mấy lọ kẹo (kẹo vừng hoặc kẹo bột 5 xu/1cái, kẹo lạc hoặc kẹo vừng thanh, kẹo nhồi 2 hào/1cái), 1 hộp thuốc lá (Tam Ðảo: 1 hào hai điếu, Ðiện Biên: 1 hào rưỡi đôi, Trường Sơn: 1 hào 3 điếu, thuốc lá cuốn: 1 hào 5 điếu). Nước trà bán theo chén, giá 5 xu một chén. Nhiều quán bán thêm rượu “quốc lủi” tức rượu của tư nhân nấu lậu, giá 2 hào/1 chén, có thể nhắm với lạc rang đong bằng chén con (50ml) với giá 1 hào. Ở một số quán còn bán thêm quà sáng như bánh chưng 2 hào/1chiếc, bánh giò 1 hào/1 chiếc. Tất cả bày trên chiếc bàn gỗ thấp chừng 60 cm và mấy chiếc ghế băng thấp khoảng 25-30 cm. Khách vào quán thường không phải vì nhu cầu giải khát. Cán bộ, học sinh, sinh viên đi sơ tán xa nhà rủ nhau đến quán chuyện phiếm. Những người ở lại thành phố, thị xã rủ nhau ra quán tâm sự và bàn chuyện công tác, chuyện vặt vãnh xảy ra trong cơ quan, chuyện chiến sự trong nước và thời sự quốc tế. Vì vậy không thiếu một thứ tin tức gì từ nội bộ cơ quan đến việc quốc gia đại sự được lan truyền từ quán trà. Khái niệm “thông tấn xã quán trà” hình thành từ thực tế này. Thống kê của ngành an ninh năm 1971 cho biết Hà Nội có 7.000 quán trà loại này (theo lời cụ NVK cán bộ về hưu, nguyên là chuyên viên phòng tổng hợp Sở Công an Hà Nội). Ðối tượng kinh doanh quán nước lúc đầu là những người cao niên (ngoài 50 tuổi). Qua vài năm thấy nghề này kiếm được nên có nhiều phụ nữ trẻ đã bỏ việc cơ quan hoặc hợp tác xã thủ công nghiệp về mở quán trà kiếm sống, thậm chí làm giàu từ những quán trà lụp xụp.
Bà NTT nguyên là công nhân cơ khí nhà máy Trần Hưng Ðạo, bỏ việc về bán quán trà kể:
“Lúc đầu tôi mở quán ở chợ Ðuổi (cuối đường Bà Triệu), sau khi tôi sơ tán với các con về chợ Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) quán cũng khá đắt hàng, lại chẳng thuế má gì. Kẹo, bánh có người làm sẵn mang đến giao cho tôi, chuyến sau lấy tiền chuyến trước. Thuốc lá thì có hai nguồn: Thứ nhất, các cán bộ, công nhân, bộ đội được phân phối căng tin nhưng không dùng đem bán lại. Thứ hai, nhân viên cửa hàng bách hóa tuồn hàng ra ngoài kiếm lời. Chè là thứ nhà nước cấm bán trên thị trường, ưu tiên cho xuất khẩu và cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chè. Dọc các tuyến đường ô tô, tàu hỏa từ Phú Thọ, Yên Bái hay Bắc Thái về Hà Nội, Nhà nước kiểm soát rất kỹ, ai mang quá 0,2 kg chè là bị thu giữ. Tuy nhiên, các lái xe, cán bộ đi công tác, sinh viên đi sơ tán ai cũng tìm cách mang về trót lọt vài kg, có khi cả yến để kiếm lời. Tôi nghiệm thấy cái gì là nhu yếu phẩm cần thiết của dân mà Nhà nước cấm đoán thì chênh lệch giữa giá Nhà nước và giá thị trường tự do càng cao, càng khuyến khích cán bộ, nhân dân đi buôn lậu. Chè ngon ở Ðại Từ, Núi Pháo giá 5 đồng/1kg, lái xe hoặc sinh viên mua về bán cho chúng tôi 10 đồng/1kg. Ðến lượt chúng tôi bán cân, bán lạng là 15 đồng/1 kg, còn xé lẻ ra từng gói đủ pha 1 ấm là 5 hào/1gói (20 đồng/1kg). Tính ra từ năm 1967-1974 tôi bán quán trà tuyềnh toàng là thế mà mỗi ngày lãi 12-15 đồng, hàng tháng trung bình cũng thu được 400 đồng, đủ nuôi 5 đứa con và để dành hàng chỉ vàng mỗi tháng (vàng trên dưới 100 đồng 1 chỉ lúc này). Mặt hàng lãi nhất là thuốc lá, sau đến chè gói từng ấm, từng lạng. Chè chén bán giá 5 xu/1 chén thường là hòa vốn.”
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:53:57 GMT 9
Bia vại – Cà phê chui:
Ðây là hai hình thức sinh hoạt rất phổ biến trong cộng đồng dân cư đô thị. Bia hơi còn gọi là “bia vại” vì nó được đong vào loại cốc lớn có hình vại nước, dung tích 0,5 lít, giá bán 1 hào 5 xu/1 cốc. Trước chiến tranh nó chưa là nhu cầu phổ biến của người tiêu dùng đô thị. Nhiều người uống bia lúc đó chưa quen còn phải pha với si-rô ga. Trong quán bia mậu dịch thường có bình C02 và bình si-rô cam màu đỏ đi kèm. Giá một cốc si-rô ga là 2 hào. Người bán bia thường hay hỏi khách có pha si-rô không, nếu khách đồng ý thì họ rót vào cốc bia 10ml nước si-rô cam đặc và tính gộp tiền là 2 hào 5 xu/1 cốc bia pha si-rô. Hồi đó khách uống bia hơi chỉ là trí thức, văn nghệ sĩ hoặc số ít người đã từng đi Ðông Âu về nước quen với bia Tiệp, bia Ðức. Chiến tranh làm cho hệ thống quản lý các mặt hàng tiêu dùng theo tem phiếu cấp phát có nhiều lỗ hổng rò rỉ ra thị trường tự do. Xã hội nảy sinh một đội ngũ đông đảo các loại “con phe” giàu có, đặc biệt là giới phe xe đạp, xe máy. Ngoài ra, nhiều người trong đội ngũ lái xe chở hàng hóa, vật tư của Nhà nước đã đánh cắp hàng nên cũng nhiều tiền và có nhu cầu hưởng thụ. Những đối tượng trên trở thành khách hàng thường xuyên của quán bia. Công suất nhà máy bia không đủ đáp ứng nhu cầu nên ở các quán bia có hiện tượng chen lấn, xô đẩy, ồn ã. Quán bia càng lộn xộn khi xuất hiện một số người làm thuê “phe bia”. Hồi ấy mới xuất bản cuốn hồi ký Bất khuất của ông Nguyễn Ðức Thuận, cựu tù nhân Côn Ðảo, có viết về chuồng cọp ở nhà tù Côn Ðảo. Dân “bia vại” ở các quán liền lấy “chuồng cọp” đặt cho các quán bia như “chuồng cọp Cổ Tân”, “chuồng cọp Phùng Hưng”… Lý do đơn giản vì ở các quán bia này, Nhà nước làm một hệ thống hàng rào kiên cố để ngăn ngừa hiện tượng chen ngang, xô đẩy nhau. Giá bia Nhà nước vẫn giữ giá 1 hào 5 xu/1 cốc nhưng giá ngoài lên tới 3 hào, có khi 5 hào. Người có tiền uống bia ngoài đương nhiên là “dân phe” xe máy hoặc lái xe ăn cắp hàng Nhà nước. “Cà phê chui” là hình thức có phần tương phản với “bia vại” ở hai điểm: Thứ nhất, không khí trong các quán cà phê tư nhân thường rất tĩnh lặng và ở nơi khuất vắng. Thứ hai, đối tượng đến uống cà phê thường là các nhân sĩ nghèo, công chức lưu dung thất thế, các văn nghệ sĩ gặp nhau đàm đạo về nhân tình thế thái… Hồi ấy các cửa hàng ăn uống Nhà nước đều có bán cà phê nhưng pha không ngon, khách đến xô bồ đủ loại - cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên và cả một số người đạp xích lô hay chữa xe đạp. Quán cà phê tư nhân gọi là cà phê chui vì Nhà nước cấm bán hoặc nếu có ai được ưu tiên mở quán cũng phải tế nhị chọn nơi khuất vắng. Tính ra Hà Nội có khoảng hơn chục quán cà phê chui loại này, nhưng có lẽ nổi tiếng nhất có ba quán với ba đối tượng khác nhau: Cà phê Lâm ở Nguyễn Hữu Huân có thâm niên bán quán nhiều năm. Ðây là nơi hội tụ của nhiều họa sĩ tài danh như Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên… Theo đó có lớp họa sĩ đàn em cũng rủ nhau tìm đến quán cà phê Lâm để có cơ hội chiêm ngưỡng những danh họa bậc thầy. Có lẽ nhờ vậy mà ông chủ quán cà phê Lâm đã có cơ hội trở thành nhà sưu tập tranh nổi tiếng Hà Nội. Thời đó, những bậc tài danh trong làng họa thường rất nghèo. Những lúc túng thiếu họ vay tiền rồi gán nợ cho chủ quán bằng tranh!... Cà phê Tuyên ở gác hai số nhà 28 Trần Hưng Ðạo. Muốn uống cà phê khách phải qua một sân gạch đầy rêu mốc rồi leo lên cầu thang rất hẹp và trơn. Ông chủ quán là chiến sĩ hoạt động nội thành thời chống Pháp nên được ưu tiên. Khách đến quán của ông Tuyên thường là những nhà sử học, triết học, nhà văn, nhạc sĩ và các nhân sĩ cao niên thời Pháp không di cư, ở lại với cách mạng. Ðến đầu năm 1970 không hiểu vì lý do gì khách quen của quán cà phê Tuyên lại rủ nhau tụ tập ở quán cà phê Mậu ở đường Ðiện Biên Phủ. Cà phê Lý Hảo ở góc cắt nhau giữa ngõ Phất Lộc và đường Nguyễn Hữu Huân. Quán này có đặc điểm mặt tiền cửa hàng ở phố đóng kín, khách muốn uống cà phê phải đi vòng qua cổng sau ở ngõ Phất Lộc, qua một cái sân luôn ướt và trơn vì là nơi giặt giũ của cả 20 hộ trong căn nhà lớn ấy. Ðối tượng khách chủ yếu là công chức lưu dung, các nhà tư sản, các nghệ sĩ cải lương và các võ sĩ, ngôi sao điền kinh. Chủ nhân của quán là hai vợ chồng Hoa kiều làm nghệ sĩ biểu diễn lướt ván ở hồ Hoàn Kiếm từ thời Pháp. Hai cô con gái họ Lý này cũng là nghệ sĩ lướt ván.
Ðặc sản bụi
Vào thời ấy, ở Hà Nội, Nhà nước chỉ đặt các restaurant trong khách sạn dành cho người nước ngoài như Thống Nhất, Dân Chủ, Hòa Bình, Hoàn Kiếm. Ngoài ra còn một vài nhà hàng cao cấp như Mỹ Kinh ở Hàng Buồm, Bodega ở phố Tràng Tiền, Phú Gia ở phố Lê Thái Tổ… Các cửa hiệu đặc sản của người Hoa mở nhiều ở mấy phố Tạ Hiền, Lương Ngọc Quyến, Hàng Giày, Lương Văn Can (Hà Nội), Cầu Ðất, Phan Bội Châu (Hải Phòng). Gọi là “đặc sản bụi” vì những tiện nghi về phòng ốc, bát đĩa, bàn ghế rất sơ sài, thậm chí có quán tối tăm và thường rất chật hẹp, không hơn gì mấy quán cơm bụi bây giờ. Ở đây bán các món ăn Tàu như chim quay, thỏ, gà, dê, ngỗng, ba ba, ếch… Có những tháng ở quán đặc sản này có bán cả thịt thú rừng. Chất lượng món ăn cao nhưng giá cả không đắt: một con chim quay với sa-lát, nước sốt giá 2,00 đồng; thỏ quay, thỏ sốt vang 1,5 đồng/1 đĩa; ếch tẩm bột 2 đồng/1 đĩa; tái dê hoặc dê nướng, dê hầm thuốc bắc 1,5 đồng/1 đĩa. Nói chung những đĩa thức ăn lớn, cầu kỳ cũng không quá 5 đồng/1 đĩa. Có một điều đáng lưu ý là khách ra vào các quán này đều cảnh giác xem chừng công an theo dõi. Ðiều đó dễ hiểu vì không phải ai cũng sẵn tiền từ 15-20 đồng vào ăn. Trong các loại mốt sinh hoạt thời đó ở thành phố, thị xã cần kể đến mốt xếp hàng mua báo. Thời đó, có 3 tờ nhật báo Nhân Dân, Quân Ðội Nhân Dân, Hà Nội Mới (báo Thủ Ðô). Báo cách ngày chỉ có 1 tờ Lao Ðộng. Tuần báo (báo chính trị-xã hội) có 7 tờ là Văn Nghệ, Phụ Nữ Việt Nam, Tiền Phong, Ðại Ðoàn Kết, Ðộc Lập, Cứu Quốc và Người Công Giáo Việt Nam. Giá báo ngày hoặc cách ngày là 5 xu/1 tờ, giá tuần báo là 1 hào đến 2 hào/1 tờ. Tuy nhiên mỗi số báo đều có lượng phát hành lớn hàng chục vạn bản. Khách nước ngoài đến Hà Nội thời đó thường hay chụp ảnh những dòng người xếp hàng mua báo rất dài. Họ xem đó là biểu hiện của một dân tộc có nền học vấn và văn hóa cao. Ðiều này phải xem xét từ hai mặt: Thứ nhất, cuộc chiến tranh đã thu hút hàng triệu thanh niên ra mặt trận ở ba loại (bộ đội, thanh niên xung phong và các cán bộ chuyên môn y tế, giáo dục, cầu đường…). Hầu như gia đình nào cũng có thân nhân ngoài mặt trận nên họ khao khát xem tin chiến sự, đặc biệt là những số báo tổng kết chiến dịch mùa khô và những bài viết của Trường Sơn, Cửu Long (các cây bút chính luận nổi tiếng thời đó). Thứ hai, giá báo Nhân Dân 5 xu/1 tờ là giá báo có bù lỗ của Nhà nước. 20 tờ báo trị giá 1 đồng nặng 1kg, trong khi giấy gói bán cho các bà đồng nát là 1,2 đồng/1 kg. Người ta mua báo xem tin tức chiến sự và sau đó bán cho đồng nát vẫn lãi. Phương tiện đi lại đối với cư dân đô thị trong thời chiến là nỗi vất vả lớn nhất. Xe trong nội thành có hai loại: Xe buýt công cộng, thường rất đông, lèn người như nêm cối, điển hình là tuyến Bờ Hồ - Hà Ðông và tuyến Yên Phụ - Hà Ðông; Xe điện có 4 tuyến: Bưởi – Chợ Mơ, Yên Phụ - Ngã Tư Vọng, Bờ Hồ - Hà Ðông và Bờ Hồ - Cầu Giấy, giá vé 5 xu hoặc 1 hào nhưng rất chậm do phải chờ tránh nhau hoặc bị mất điện. Có khi từ Bờ Hồ lên Bưởi dài 6 km mà đi tàu điện mất 2-3 tiếng. Cán bộ công nhân viên đi làm chủ yếu bằng phương tiện xe đạp nhưng có đến nửa số gia đình hai vợ chồng chung một chiếc xe, đưa đón nhau rất vất vả. Khi cơ quan sơ tán, những gia đình chia ra, vợ, chồng, con cái, ông bà mỗi người một nơi do hoàn cảnh công tác và học tập. Lúc này phương tiện ô tô chạy đường dài và tàu hỏa Nhà nước vốn đã quá ít, càng thêm quá tải. Tình hình đi lại của cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên trên các tuyến đường liên tỉnh đặc biệt căng thẳng vào các năm 1969-1971. Tết năm Kỷ Dậu (1969) ở Hà Nội xảy ra vụ “Xô Viết nhà ga” vì những người quê Nghệ Tĩnh phá cửa sắt ga Hà Nội tràn vào đường ray khiến tàu không đi được, một số nhân viên nhà ga bị thương. Nguyên nhân vụ này là do lượng khách quá đông, tàu không thể đáp ứng. Sau khi Giôn-sơn (Lyndon B. Johnson, tổng thống Hoa Kỳ từ 11/963 đến 1/1969) tuyên bố ngừng bắn từ vĩ tuyến 19 trở ra, những người có quê ở Nghệ Tĩnh nóng lòng muốn về thăm quê xem mức độ tàn phá đến đâu và người thân ai còn ai mất. Họ tạm được sống yên ổn nhưng cha mẹ, họ hàng, bạn bè vẫn đang trong tầm bom đạn giặc ném xuống bất cứ lúc nào. Hơn nữa họ cũng muốn mang một ít quà tết ở Thủ đô về cho người thân trong dịp năm mới. Giá vé tàu Hà Nội – Vinh chỉ có hơn 3 đồng một chỗ ngồi, nhưng dân “phe vé” bán đắt lên tới 10-15 đồng vẫn không có mà mua. Người ta chen lấn, xô đẩy ở cửa ga, kết quả người không có vé thì lách được vào, kẻ chịu mua vé giá cao lại đang ở ngoài, dẫn đến sự phẫn nộ, đập phá. Tình hình ở bến xe ô tô Kim Liên cũng xảy ra tương tự đối với khách đi tuyến Hà Nội – Thái Bình (theo hồ sơ lưu trữ của ngành giao thông công chính thành phố Hà Nội năm 1969-1970). Tình hình trật tự ở ga Hà Nội và bến xe Kim Liên vào dịp Quốc Khánh (2/9) và Tết âm lịch những năm 1973 và 1974 cũng phức tạp không kém năm 1969. Vấn đề nhà ở của cư dân thành phố, thị xã, khu công nghiệp trong thời gian chiến tranh có thể chia làm hai thời kỳ: từ năm 1966-1969 do các cơ quan, trường học và các hộ dân phải đi sơ tán về nông thôn nên chỗ ở không còn là nhu cầu bức thiết nữa. Sau khi Mỹ hạn chế ném bom từ vĩ tuyến 19 thì vào mùa xuân Canh Tuất (1970), các cơ quan và hộ dân bắt đầu chuyển dần về thành phố, thị xã. Mặt khác, tình hình dân số cũng tăng cả hai dạng sinh học và cơ học. Sự tăng dân số cơ học chủ yếu do nguyên nhân các cán bộ, công nhân, sĩ quan quân đội quê ở phía Nam vĩ tuyến 19 tìm cách đưa gia đình, họ hàng của mình ra khỏi tọa độ lửa và an toàn nhất là về sống, làm việc trong cơ quan Nhà nước ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Nhà ở do Nhà nước quản lý vốn đã ít, lại bị chiến tranh tàn phá, nên lúc này sức ép tăng dân số đã trở nên gay cấn. Tâm lý người cán bộ trong biên chế Nhà nước, đặc biệt là những người có chức quyền hoặc học hàm, học vị dù đã có chỗ ở với bố mẹ vẫn muốn được ở nhà lắp ghép do Nhà nước phân. Ðiều này dễ hiểu vì trong cơ chế quản lý thời đó, được ở nhà tầng là biểu hiện trước mọi người về vị thế xã hội của mình. Mặt khác, được phân căn hộ là có thêm một tài sản đáng giá, khi cần có thể “hỏa hồng” cho người khác được một số tiền không nhỏ - tuy hiện tượng này thời đó chưa phổ biến. Với tất cả những lý do vừa nêu, cho dù là từ năm 1970 Nhà nước cố gắng xây thêm một số khu nhà cao tầng ở Kim Liên, Láng, Nguyễn Công Trứ… ở Hà Nội thì cũng chỉ là muối bỏ bể so với nhu cầu nhà ở ngày một tăng.
Vụ án về một phụ nữ ở quận Lê Chân – Hải Phòng phục ở cửa, chặn đón đường ông phó giám đốc Sở nhà đất trước giờ đi làm để nhét cả gói phân vào mồm ông ta là một điển hình. Các báo lớn năm 1971 tường thuật về phiên tòa xử vụ này đã làm xôn xao dư luận. Người đàn bà khai trước tòa: Căn hộ của bà vốn ở từ trước năm 1954, không có tranh chấp gì; từ năm 1965 gia đình bà đi sơ tán, đến năm 1970 quay về thì căn hộ đã bị ông phó giám đốc Sở nhà phân cho người quen, gia đình bà phải ở trong góc tăm tối gần nhà vệ sinh; đơn từ, thưa kiện nhiều lần không được giải quyết nên bà ta nghĩ mình chịu ngửi phân nhiều rồi nay để ông ấy ngửi một lần trước bàn dân thiên hạ. Tòa xử bà 18 tháng án treo vì tội xúc phạm danh dự và thân thể công dân nhưng bù lại bà được trả lại nhà như cũ.
Vụ thứ hai xảy ra ở khu nhà ký túc xá của học sinh trường Trung cao cơ điện trên đường Nguyễn Trãi, quận Ðống Ða (nay là quận Thanh Xuân). Khi trường này đi sơ tán về thì toàn bộ 6 khối nhà 5 tầng nằm bên phía tay phải cổng trường bị cán bộ công nhân khối nhà máy cao – xà – lá chiếm làm nơi ở. Nhà nước đành phải đề ra phương án: phần còn lại của trường Trung cao cơ điện giao cho trường Ðại học Tổng hợp quản lý, còn trường Trung cao cơ điện phải chuyển toàn bộ lên Thái Nguyên. Năm 1974 xảy ra vụ tranh chấp giữa giáo viên, học sinh trường Kế toán – Tài chính trung ương với Bệnh viện E… Nhìn chung tình hình chỗ ở của các thành phố khác như Việt Trì hoặc khu mỏ Quảng Ninh trong thời gian này khá căng thẳng. Tuy nhiên căng thẳng nhất vẫn là Hà Nội.
Kỹ sư LVH quê ở Thanh Hóa, làm việc tại một cơ quan thuộc Bộ công nghiệp nặng sống ở Thanh Xuân kể:
“Tôi lấy vợ năm 1965. Ðến năm 1972 vợ tôi sinh cháu gái thứ hai thì bị băng huyết. Hai vợ chồng được phân một buồng xép ở chiếu nghỉ cầu thang nhà tầng rộng 9m2 đủ kê một cái giường và bộ bàn ghế con vừa uống nước vừa làm việc. Mọi thứ sinh hoạt khác đều ở dưới sàn nhà bé tí teo. Bố vợ tôi thương con gái lặn lội từ Thanh Hóa mang gà, gạo nếp ra thăm. Thấy con trai tôi quấn quýt với ông ngoại nên đêm ấy tôi bố trí cho con ngủ với ông dưới đất còn mình với vợ và đứa bé mới sinh ngủ trên giường. Sáng sớm tôi giật mình thấy ông cụ bỏ ra ga về quê không nói một lời nào. Từ đó tôi mang tiếng với làng mạc, họ hàng khinh bố vợ nhà quê cho ngủ dưới đất còn mình nằm giường. Ðến chết tôi cũng không quên nỗi nhục này.”
Nhà văn Tô Ngọc Hiến xuất thân là thợ mỏ ở Quảng Ninh kể lại một giai thoại thợ mỏ Ðèo Nai mang màu sắc tiếu lâm cười ra nước mắt:
“Ở khu tập thể công nhân mỏ Ðèo Nai mỗi gia đình được chia nửa gian nhà cấp 4 rộng chừng 12m2. Nhà nào đông con thường gặp điều bất tiện trong sinh hoạt vợ chồng vì nghề nghiệp nảy sinh sự éo le. Có nhà chồng làm ca đêm, còn vợ làm ca hành chính. Suốt một tuần vợ chồng chỉ giáp mặt nhau vào bữa cơm chiều, muốn “sinh hoạt” một lúc lại vướng ba đứa con mà nhà thì quá chật. Ðến cuối tuần anh chồng không chịu được nghĩ cách sai con đi làm một số việc. Hai đứa lớn anh sai đi ra phố mỏ vì thiếu gì việc cho chúng chạy chừng 15 phút. Riêng đứa con nhỏ mới 5 tuổi thì anh bí quá vì không dám sai đi ra phố sợ xe cộ cán phải thì nguy, mà trên vùng mỏ vốn nhiều xe đi lại rầm rập. Cuối cùng anh nghĩ ra cách sai đứa con 5 tuổi ra đầu ngõ mua nước mắm nhưng không đựng bằng bát mà đựng bằng… đĩa. Miệng đĩa thì rộng, lòng đĩa thì nông nên đứa bé phải đi rón rén đủ 15 phút…”
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 5, 2010 16:54:31 GMT 9
5. Phân hóa giàu nghèo trong cư dân đô thị
Phân hóa trong sinh viên, trí thức Trong số gần 8 vạn học sinh chuyên nghiệp, sinh viên đại học thời chiến tranh, có khoảng hơn 6.000 người được du học ở Liên Xô và Ðông Âu. So với những sinh viên ở trong nước rất đói khổ vì phải đi sơ tán, số người này có đời sống tương đối tốt trong 4 hoặc 5 năm học. Khi về nước họ có hai lợi thế so với người học trong nước: Một là trình độ ngoại ngữ hơn hẳn sinh viên tốt nghiệp trong nước. Hai là vì có chút hàng hóa mang về, tuy không nhiều nhưng so với mức sống chung là cả một gia tài lớn thời đó, họ dễ dùng tiền xin việc làm ở thành phố, kiếm được căn hộ lắp ghép. Lấy học sinh đi du học tại Liên Xô (năm 1970-1975) làm ví dụ: “Lương sinh viên 90 rúp/tháng, nghiên cứu sinh 120 rúp/tháng. Các khoản ăn, uống và sinh hoạt phải chi khoảng 50-60 rúp/tháng, còn dư ra khoảng 30-60 rúp/tháng. Tính ra sau mỗi năm học, họ dành dụm được khoảng 400-500 rúp. Tiểu chuẩn cho phép sinh viên 2 năm về phép một lần, thì khi về họ có khoảng 1.000 rúp. Nếu căn cứ vào giá hàng hóa của Nga thời đó sẽ thấy sinh viên Việt Nam đi học Liên Xô chẳng mua được gì mấy trong lần nghỉ phép. Giá một số mặt hàng mà người Việt Nam hồi đó ưa chuộng như sau: Máy ảnh Kiev (180 rúp), bàn là (7 rúp), máy khâu Minsk (35 rúp), xe đạp Sport (40 rúp), radio-quay đĩa Rigonda (120 rúp), xe máy Java (200 rúp)… Tổng cộng sau 5-6 năm học ở Liên Xô (một lần về phép) sinh viên đi học có thể mua về nước được: 1 xe máy, 1 xe đạp, 1 máy ảnh, 2-3 quạt điện, vài chiếc bàn là, 1 đài rađiô quay đĩa, một máy khâu và một số đồ nhôm, bàn ghế gấp… Ai chịu khó không đi phép giữa kỳ hoặc tham gia lao động ở nông trường vào dịp hè có thể mua được nhiều hàng hơn. Ai mua nhiều sách kỹ thuật, văn học hoặc thích đi nhà hát sẽ gần hết tiền để dành, vì một vé xem opera, ba-lê giá 15-20 rúp. Học sinh, sinh viên đi học ở Ðông Ðức lương 600 mác/tháng, giá hàng hóa rẻ hơn ở Nga nên thường giàu hơn một chút. Học sinh đi học ở Ðức về thường có xe Diamant hoặc Mifa, xe máy Simson hoặc Star, máy ảnh Praktica… (Nguồn: Ngoại thương Việt Nam 1976-1996, phần 11, của tác giả ÐP, Viện Kinh tế học, 5/1999).
Sự phân hóa trong nhóm cán bộ công nhân biên chế Nhà nước khá sâu sắc, mặc dù nó được che đậy bởi vỏ bọc bình đẳng tới mức lương Bộ trưởng chỉ gấp 5 lần lương công nhân quét rác. Trước chiến tranh, sự phân hóa mức sống chỉ thể hiện qua chế độ tem phiếu và sự ưu đãi cung cấp về nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt… theo bậc lương, chức vụ. Bắt đầu từ năm 1967, các biểu hiện trên vẫn còn, nhưng xuất hiện nhiều dạng thức phân hóa khá mạnh mẽ và có nhiều bất hợp lý, trái với quy luật kinh tế. Khổ nhất trong nhóm này là công nhân xí nghiệp, nhân viên hành chính, giáo viên có bậc lương thấp từ 36 đồng, 45 đồng đến 63 đồng. Người công nhân từ lúc mới vào nghề lương 36 đồng/tháng đến lúc hưởng lương bậc 2/7 là 58 đồng/tháng, được hưởng tem phiếu hạng bét, nếu có con đi học sẽ luôn trong tình trạng thiếu tiền, có lúc phải bán phiếu vải, phiếu thịt đi lấy tiền chi tiêu trong gia đình. Người giáo viên hoặc nhân viên hành chính lương 45-63 đồng có tem phiếu bìa E, bìa D ở mức cung cấp thực phẩm quá ít, lại phải chịu tiêu chuẩn 13 kg/tháng, thường là đói ăn và thiếu đạm nghiêm trọng.
Thầy giáo NQV, sinh năm 1936, hiện nghỉ hưu tại khu tập thể Trung Tự kể:
“Hai vợ chồng tôi đều là giáo viên, gạo 13kg/tháng, lương vợ 56, lương chồng 70, cộng với phụ cấp khu vực 12% và thâm niên (chồng 6%, vợ3%), tất cả nhà trông vào 147 đồng và mấy bìa phiếu nên đói lắm. Ba đứa con đi học, quần áo, giấy bút không đủ. Nhiều bữa vợ chồng thay nhau ra xếp hàng mua “mì không người lái” (loại mì chỉ nấu với nước, muối, mắm không có thịt) 1,5 hào/bát, mỗi lần một người xếp hàng mua được 2 bát, nên 5 lần xếp hàng mới mua được đủ 10 bát cho cả nhà 5 người ăn thay cơm vì hết gạo.” Ðối với người công nhân viên chức, giáo viên lương thấp, niềm hi vọng có khoản thu nhập thêm là những đợt cơ quan bán hàng căng tin. Người nghiện thuốc lá, mỗi xuất nam giới mua 2 bao thuốc Tam Ðảo, 3 bao Trường Sơn cũng phải đem bán, mua thuốc cuốn hút, lấy tiền chênh lệch phụ thêm vào bữa ăn.
Ông QTT công nhân cơ khí Nhà máy Bóng đèn phích nước kể:
“Thuốc lá tiêu chuẩn được mua 2 bao Tam Ðảo và 3 bao Trường Sơn. Tam Ðảo giá 4 hào/1 bao, bán cho hàng nước được 7-8 hào/1 bao; còn Trường Sơn giá 2,5 hào/1 bao, bán được 4 hào/1 bao, tổng cộng một suất lãi được 1,05-1,25 đồng. Tôi mua nửa lạng thuốc lá cuốn giá 7 hào vẫn thừa ra 3,5-5,5 hào cho con mua vở, mực, ngòi bút… Giấy cuốn thuốc lá thì dùng giấy lịch, giấy đánh máy hỏng của văn thư nhà máy hoặc thậm chí giấy báo…” Mỗi đợt cơ quan phân phối phụ tùng xe đạp là cả một cuộc cọ xát, bình xét ồn ào. Ðối với người lương thấp, 1 xích líp xe đạp của Trung Quốc mua 4 đồng/chiếc bán được 10 đồng/chiếc, lãi 6 đồng; 1 săm Sao Vàng 5 đồng/chiếc bán được 8-9 đồng/chiếc… Tất cả đều là thu nhập thêm bù đắp vào sinh hoạt vốn rất thiếu thốn. Hiện tượng này được mô tả khá sinh động trong tiểu thuyết Ðám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, với hình tượng nhân vật Tự. Những người có mức sống no đủ, sung sướng thời chiến tranh, gồm hai loại. Thứ nhất là những người nắm quyền lực hoặc có lương cao. Số người này thực ra không nhiều và xét cho cùng họ xứng đáng được hưởng. Họ được hưởng tem phiếu từ bìa C1, C2 đến A, B. Họ được Nhà nước cấp nhà rộng, phương tiện đi lại, một số tiện nghi sinh hoạt… và có tiêu chuẩn chữa bệnh ở bệnh viện riêng (Bệnh viện Việt Xô, nay là Bệnh viện Hữu Nghị), bệnh nặng có thể được ra nước ngoài chữa bằng kinh phí Nhà nước đài thọ. Thứ hai là những người giàu có bằng việc “kinh doanh chức nghiệp”, tuồn hàng ra thị trường tự do, ăn cắp, hối lộ… Loại này chức vụ và bậc lương không cao, chủ yếu là những người nắm nguồn hàng, tiền, phương tiện vận chuyển… của Nhà nước. Họ là cán bộ cấp tem phiếu, cán bộ tuyển sinh đi học nước ngoài và học đại học, trung học chuyên nghiệp trong nước thuộc các sở, ty cấp tỉnh đến Trung ương. Một số lượng đông đảo hơn là nhân viên các cửa hàng bách hóa, thực phẩm, lương thực, lái xe ở tất cả các cấp từ huyện lỵ, tỉnh lỵ đến thành phố Hà Nội, Hải Phòng… Như đã trình bày ở các phần trên, việc phân chia ra nhiều chế độ đãi ngộ trong cán bộ công nhân viên chức xét về năng lực, sự cống hiến và địa vị xã hội là xứng đáng, không có gì đáng phê phán nặng nề như nhiều nhà nghiên cứu đã thổi phồng lên. Cái đáng phê phán là hình thức phân biệt đãi ngộ lẽ ra chỉ nên quy vào tiền lương một cách rạch ròi, sòng phẳng, thì người ta lại đẻ ra đủ loại tem phiếu phức tạp, tạo kẽ hở cho một số người làm giàu bất chính quá dễ, quá nhanh. Trước hết nói về loại người giữ và duyệt cấp tem phiếu. Hệ thống này nằm từ cấp huyện, tỉnh, thành lên đến Bộ Nội thương. Vì nó là tiền, lại không phải là tiền, nên sinh ra cấp khống, cấp ẩu và thậm chí tuồn ra thị trường từng tập tem phiếu, mà nếu có bị tố giác thì mức độ tội phạm không nặng như ăn cắp tiền. Trong thời kỳ này (1974) dư luận xôn xao bởi vụ án Nguyễn Trí Tuyển, Phó giám đốc Sở Thương nghiệp Hà Nội đã cấp khống một lượng lớn tem phiếu, nếu qui đổi giá trị ra tiền có thể xây được nhà máy Trung qui mô (Nhà máy cơ khí Hà Nội). Nhưng ông ta và các cộng sự chỉ thu được 1/10 giá trị quy đổi đó, còn kẻ được lợi nhiều nhất là gian thương “phe tem phiếu” (theo lời kể của luật sư V tham gia phiên tòa, hiện về hưu, sống ở Hà Nội). Tem gạo là một thứ dễ làm giả, nên ngoài lượng phát khống rò rỉ từ ngành thương nghiệp, trong xã hội xuất hiện bọn tội phạm làm tem gạo giả, loại từ 250 gam đến 5 kg. Năm 1971 tại Viện Ðịa chất và khoáng sản (Thanh Xuân- Hà Nội) có một kỹ sư phạm tội làm tem gạo giả bằng in lưới và chịu ra tòa nhận án phạt 2 năm tù giam. Một loại nữa là phiếu sữa dùng cho sản phụ bị mất sữa, rất khó quản lý. Nhân viên phòng thương nghiệp chỉ cần móc ngoặc với bác sĩ bệnh viện cấp giấy chứng sinh giả và xác nhận mất sữa cho người giả mạo là trót lọt. Hiện tượng này đã gặp ở bệnh viện Hải Phòng, Nam Ðịnh, Việt Trì, Hòn Gai… Hình thức làm giàu đơn giản nhất, dễ nhất là tuồn hàng nhà nước ra thị trường tự do mà các lỗ rò rỉ là nhân viên bán hàng. Tại các cửa hàng bách hóa thường có qui định bất thành văn là dành một lượng 10% số hàng nhập về như: thuốc lá, đường sữa, bánh kẹo, giấy viết, xoong nồi, bát đĩa… để bán theo lệnh của quan chức địa phương phục vụ hội nghị, khách đến công tác hoặc nhu cầu đột xuất. Theo ông NÐB, cửa hàng phó cửa hàng bách hóa phục vụ công trình khảo sát đập sông Ðà ở phố Ðúng, thị xã Hòa Bình, năm 1970 cô H là nhân viên bán hàng đã thông đồng với một cán bộ Ủy ban trị thủy sông Ðà tuồn hàng ra ngoài từ lỗ rò rỉ này mà kiếm đủ tiền về Hà Nội tậu nhà, mua xe đạp Diamant, đài bán dẫn, quần áo đắt tiền… Nếu chỉ trông vào lương tháng 45 đồng thì cô H phải ăn nhịn để dành 20 năm mới mua được 1 chiếc xe đạp là cùng.
Bà L nhân viên cửa hàng lương thực của một quầy gạo trong quận Ba Ðình (lúc đó là khu Ba Ðình) nói:
“Chúng tôi chẳng cần đến thủ đoạn tham ô mà theo quy định về tỉ lệ gạo, mì bị mốc, chuột ăn, rơi vãi thời đó là 5%-7% cũng đủ cho chị em chia nhau một khoản tiền gấp 4-5 lần lương tháng. Những đợt gạo về chậm, dân xếp hàng dài từ 3-4 giờ sáng, chúng tôi giúp bạn bè bên bách hóa, thực phẩm mua hộ gạo cho người thân của họ, tất nhiên họ sẽ có cách giúp đỡ chúng tôi khoản thịt, cá, thuốc lá, đường, sữa. Ðó cũng là một thứ thu nhập.” Nói chung, thời đó nhiêu cô gái bán lương thực, thực phẩm, bách hóa đều giàu có. Mốt thời thượng của họ là đi xe đạp Diamant, Mifa màu ngọc bích, đeo hoa tai và nhẫn vàng, đồng hồ Liên Xô loại đắt tiền… Họ là đối tượng chọn vợ của nhiều người, cao giá hơn cả kỹ sư, bác sĩ. Những phụ nữ đứng tuổi làm nghề này thường khôn ngoan hơn, không trưng diện ra ngoài nhưng tiền mặt có hàng nghìn, vàng có hàng vài chục cây. Lái xe cũng là một thứ nghề hái ra tiền bằng phương tiện Nhà nước. Trong thành phố Hà Nội, tuyến xe Bờ Hồ - Hà Ðông và Yên Phụ - Hà Ðông luôn chật cứng người đứng chen chúc. Trừ số người đi vé tháng chiếm 1/3, còn lại số đi vé ngày không sao kiểm soát được, Nhà nước đành khoán tiền theo chuyến. Ðây là kẽ hở cho lái xe kiếm thêm ngoài lương.
Ông NVM lái xe tuyến đường này kể:
“Trung bình mỗi tuần chúng tôi ăn tiêu xả láng rồi, lái và phụ xe còn chia nhau mỗi người được 100-150 đồng, bằng hai suất lương cả tháng. Lái xe khách đường dài kiếm tiền bằng vé lậu, chở hàng cấm và dân buôn.” Ông HVM ở bến xe thị xã Thái Bình kể: “Hồi đó có khẩu hiệu ‘yêu xe như con, quí xăng như máu’, thật ra chỉ các chiến sĩ lái xe tuyến lửa và một số người là vì Nhà nước mà thực hiện, thật đáng khâm phục tinh thần yêu nước của họ. Cánh tài xế lái xe khách đường dài chúng tôi cũng yêu xe như con, quí xăng như máu nhưng lại vì túi tiền của mình trước hết. Mỗi tháng nếu xe chạy đều bọn tôi kiếm ngoài được 200-300 đồng, xe nghỉ sửa chữa là mất tiền nên có khi tự bỏ tiền túi ra sửa để xe có mặt bon bon trên dặm trường kiếm tiền.” Lái xe tải cũng có nhiều hình thức kiếm tiền. Tuyến đi Tây Bắc, Nghệ Tĩnh chở gỗ quí. Tuyến đi Yên Bái, Thái Nguyên buôn chè. Bình thường ra cũng có thể buôn củi, sắn, lợn, gà, vịt hoặc ngày tết buôn lá dong gói bánh chưng.
Theo lời ông LÐC, lái xe của Bộ Nông nghiệp:
“Hàng hóa thị trường tự do khan hiếm, phưong tiện vận chuyển ít, cái gì thời đó vứt lên xe từ nơi này đến nơi khác cũng kiếm ra tiền. Ðó là chưa kể nhiều lái xe lưu manh, ăn cắp hàng của Nhà nước bằng cách ‘chọc tiết lợn’ nghĩa là rút ruột các bao tải chở gạo, đường, xi măng…” Sự phân hóa trong nhóm cư dân ngoài biên chế Trước chiến tranh, đa số những người trong nhóm này sống ở mức nghèo khổ hơn so với cán bộ công nhân viên chức và nông dân tập thể. Bắt đầu từ năm 1966 thực tế đời sống lại có xu hướng phát triển theo chiều ngược lại vì ba lý do: Thứ nhất, những người làm nghề tự do nhưng có hộ khẩu chính thức ở đô thị mặc nhiên được Nhà nước bao cấp cho một khoản “lương hiện vật”, đó là tiêu chuẩn gạo, dầu hỏa và một số nhu yếu phẩm tối thiểu. Nếu tất cả những mặt hàng này họ đem bán ra thị trường sẽ có giá trị gấp hai thậm chí gấp năm lần giá mua của Nhà nước. Trong khi đời sống cán bộ công nhân do điều kiện chiến tranh bị tụt thấp đi thì những người làm nghề tự do lại có nhiều cơ hội để tìm kiếm thu nhập. Ðơn giản như mở một quán trà hay bơm vá xe đạp, cắt tóc, bán kem, hàn xoong nồi, chữa khóa… đều đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày một tăng nên thu nhập không tồi. Trong phần mô tả mốt sinh hoạt thời chiến, chúng tôi đã phân tích kỹ thu nhập của một quán trà vỉa hè. Có thể nêu thêm một ví dụ về nghề bơm vá xe đạp. Ðồ nghề của họ rất đơn giản, chỉ là một cái bơm và một chiếc hộp gỗ đựng vài cái cờ lê, mỏ lết, kìm, búa, nhựa dính và vài miếng săm rách. Nhu cầu đi lại bằng xe đạp trong chiến tranh rất cao, mà xe đạp thì cũ nát, săm lốp và phụ tùng khan hiếm, bơm vá xe là việc xảy ra thường ngày trên đường phố. Giá bơm một lốp xe 5 xu, vá săm 3 hào/1 miếng. Một người bơm vá xe đạp ở Hà Nội, Hải Phòng ít nhất trong ngày cũng có khách bơm khoảng 20 lốp xe, vá 3-5 miếng săm, bằng lương một giáo viên cấp 2 hay nhân viên văn thư đánh máy của cơ quan hành chính, lại vẫn có sổ gạo, phiếu dầu! Thứ hai, do những khó khăn của thời chiến, Nhà nước tuy không khuyến khích nhưng ngầm thả lỏng các hộ tiểu thương buôn bán ở các chợ và mở sạp hàng nhỏ tại nhà. Sơ hở trong quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước trong giai đoạn này là một mặt cấp đăng ký kinh doanh cho họ, mặt khác vẫn bao cấp sổ gạo và chất đốt, nhu yếu phẩm theo đăng ký hộ khẩu. Lẽ đương nhiên, thu nhập của các hộ tiểu thương này, đặc biệt ở các chợ lớn như Ðồng Xuân (Hà Nội), chợ Sắt (Hải Phòng), chợ Rồng (Nam Ðịnh)… thừa đủ để mua gạo, chất đốt theo giá tự do, nhưng Nhà nước đã vô tình cấp thêm cho họ một khoản thu nhập nữa bằng tem phiếu (?).
Bà H bán hàng khô ở chợ Bắc Qua kể:
“Tôi và các chị em bạn hàng trong chợ phần lớn mua ‘gạo bông’ của mậu dịch về đem các thêm tiền đổi lấy gạo quê để con cái ăn có chất mà học hành. Phiếu chất đốt chúng tôi đun nấu nhiều hơn các hộ cán bộ nghèo nên cũng thường phải mua thêm, mỗi nhà thường mua 5-10 lít dầu hàng tháng.”
Bà T có cửa hàng tạp hóa phố Hàng Ðào (Hà Nội) kể:
“Dân phố buôn ở Hàng Ðào chúng tôi thời ấy ai cũng chỉ bày vài thứ lèo tèo trong cái tủ con, nhưng khách mua các tỉnh về cất hàng bao nhiêu cũng có, loại gì cũng chiều. Tiếng là buôn bán nhỏ mà có khi doanh số ngầm của nhiều nhà còn không thua cửa hàng bách hóa mậu dịch ở số nhà 100 cùng phố. Tôi ít vốn nhưng thu nhập cũng khá, các con sống no đủ, không phải ăn gạo mậu dịch bữa nào.” Thứ ba, cũng từ căn bệnh của mô hình quản lý bao cấp thời chiến đã hình thành trong xã hội đô thị một thứ chợ đen. Hàng hóa Nhà nước càng thiếu thì các kênh rò rỉ từ cán bộ, nhân viên Nhà nước như đã nói ở phần trên càng hoạt động mạnh, đẩy nhanh quá trình phân hóa mức sống trong nhóm cư dân ngoài biên chế ở đô thị, làm cho đội ngũ “dân phe” mỗi ngày thêm đông và trở thành đẳng cấp giàu có rất nhanh. Giàu nhất là “dân phe” các mặt hàng xe đạp, xe máy, kim khí, đồ điện gia dụng. Hoạt động trong lĩnh vực này thường là nam giới ở độ tuổi 30-40. Phương thức hoạt động của họ có hai dạng. Một là nghề môi giới hay còn gọi là “buôn nước bọt”. Hàng hóa trao đổi trong các cuộc buôn bán nước bọt thường là xe máy, đồng hồ, xe đạp và máy thu thanh các loại do Việt kiều từ Tân Ðảo mang về, cán bộ đi công tác ở nước ngoài mua về không có nhu cầu sử dụng, sinh viên đi học Ðông Âu về phép hoặc đã tốt nghiệp. Lối “buôn nước bọt” này có thể ăn chênh lệch giá của cả bên mua lẫn bên bán tùy theo “bản lĩnh” của người môi giới. Hình thức thứ hai là bỏ vốn ra móc ngoặc với nhân viên giữ kho, bán hàng của Nhà nước để đánh từng lô hàng, chủ yếu là phụ tùng xe đạp, xe máy và vật tư, nguyên liệu cho các nhà sản xuất hàng lậu. Kiểu buôn bán này giàu nhanh chóng nhưng nguy hiểm, thường là những đối tượng đã từng có tiền án, tiền sự. Cả hai phương thức trên đã tạo ra một lớp người giàu có gấp nhiều lần các gia đình cán bộ có chức quyền. Mốt sống của họ có thể hình dung qua câu ca dao:
Một yêu anh có Sen-kô Hai yêu anh có mô tô “cá vàng” Ba yêu nhà cửa gọn gàng Bốn yêu hộ tịch đàng hoàng thủ đô…
(Ðồng hồ Sen-kô của Nhật; xe cá vàng là loại xe mobylet của Pháp đời mới thời đó do Việt kiều Tân Ðảo mang về. Những thứ này vào những năm cuối 60 đầu 70 ở Hà Nội còn sang trọng hơn cả chiếc xe ôtô Toyota Nhật bây giờ. Chỉ có “dân phe” mới có tiền mua.)
Lực lượng đông đảo nhất trong số “dân phe” là những người “phe” tem phiếu và các mặt hàng nhu yếu phẩm như thuốc lá, đường, sữa, thịt, cá… Loại này thường là phụ nữ từ 16-50 tuổi. Họ hoạt động ở các chợ, quanh các cửa hàng bách hóa, thực phẩm, lương thực. Biểu tượng phô diễn giàu sang của họ là xe đạp Diamant, Mifa (Ðức), Phượng Hoàng xích hộp (Trung Quốc), vàng trang sức và đồng hồ ngoại (Nhật, Thụy Sĩ). Sự liên kết của đám người này với nhân viên ngành thương nghiệp rất chặt chẽ, làm băng hoại đạo đức nhiều cán bộ có chức quyền.
Lời kết:
Mô hình kinh tế Stalin giai đoạn 1966-1975 là một bước kiện toàn cao hơn của mô hình sơ khởi giai đoạn 1961-1965. Xét về mặt đời sống nhân dân, nó đã phát huy được một số ưu điểm trong điều kiện chiến tranh mà những mô hình khác khó có thể làm tốt hơn. Nhưng những ung nhọt của nó cũng đã bộc lộ rõ, điển hình là sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp cư dân một cách dị mọ, trái quy luật. Sự phân hóa đó cũng tạo ra tích lũy và mầm mống của kinh tế thị trường mang tính hoang dã. Một thị trường hoang dã sẽ có sức công phá đất nước sau này còn hơn cả bom đạn chiến tranh của giặc ngoại xâm mà bây giờ người ta hay nói đến khái niệm “giặc nội xâm”. Trong tác phẩm ký Câu lạc bộ các tỷ phú đã dẫn, tôi đã chứng minh đầu những năm 90, Hà Nội có khoảng 70% số tỷ phú thuộc 3 đối tượng: cán bộ Nhà nước mà thời bao cấp là những kẻ ăn cắp hàng, tem phiếu cung cấp, có vốn tích lũy, lại biết luồn sâu leo cao để có quyền lực; những người buôn bán chợ đen cũ, quen thói chụp giật chứ không sản xuất ra sản phẩm; bọn lưu manh vào tù ra tội đã nhiều nên làm ăn liều lĩnh kiểu xã hội đen. Ba loại tỷ phú này câu kết với nhau trong một thứ mafia quyền lực – kinh tế, lợi dụng chính sách nhà đất rất lạ đời và kẽ hở của các ngành ngân hàng, ngoại thương, xây dựng cơ bản… để làm giàu và thao túng nền kinh tế đất nước.
Hà Nội, 5/1999 Typed by Lê Tùng Châu
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 9:11:41 GMT 9
Nha Trang Huỳnh Tấn Ðức Nha trang: Tứ Thú Tụ - Tứ Thủy Triều Quy Thành phố Nha-Trang được bao quanh bởi những dòng nước nên khí hậu trở nên dễ chịu, tươi mát, mặc dù cái nắng khắc nghiệt của vùng nhiệt đới ngự trị trên thành phố này. Hai phái Nam và Bắc của con sông Nha-Trang, phái chảy vào Cửa Bé,phái chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển lớn Thái Bình Dương,nên gọi là Tứ Thủy Triều Quy. Rồi mượn bốn hòn núi ở ngay trong thành phố tượng hình thành bốn con thú tụ họp lại để giữ anh khí, nên gọi là Tứ Thú Tụ. Những hòn núi này là : I. Hòn Trại Thủy: là một hòn độc sơn, nằm ngay ở địa đầu thành phố Nhatrang về hướng Tây. Núi cao hơn 30 mét, dài hơn 500 mét, chạy dọc theo Quốc Lộ 1 ở phía Bắc khi con đường Cải Lộ Tuyến (nơi ngã Ba Thành chưa hoàn thành ). Hình thù ngọn núi Trại Thủy giống một con Dơi, nằm sè đôi cánh,đầu hướng về Tây-Nam.Cổ nhân gọi là "Ngọc Bức Hàm Hòan " (Dơi ngọc ngậm vòng ngọc) vì trưóc núi, tại 'đầu Dơi' có một bầu nước hình tròn như nguyệt nhưng ngày nay bị lấp mất, dân chúng cất nhà trên bầu nước này và không còn nhận ra hình dạng của nó nữa . Triền phía sau toàn đá hoa cương và dốc ngược: giáp Đình Phương Sài, chạy dài lên tận đường rầy xe lửa xóm Lò Vôi (Ngọc Hội). Triền phía trước hơi lài lài, cũng bằng đá hoa cương nhưng có lẫn đất điệp .Phía dưới có một khoảng đất rộng, dân đến chiếm xây nhà lập nghiệp, gọi là đất Bà Ngô Đình Nhu, đối diện công trường Trịnh Minh Thế và nhà Ga Thành Phố, với những hàng me xanh tươi. Trên núi không có cây cổ thụ, không có bàn thạch nhưng do sự chiếm cứ của dân nên có trồng những cây ăn trái như mít, mận, xoài, chùm ruột, cốc.. và từ xa nhìn đến thấy cả một màu xanh đang trở mình đầy sinh động . Trên lưng núi cũng tạo thành một con đường mòn,chạy dài từ đầu tới đuôi của hòn núi. Nơi đây một Kim Thân Phật Tổ được xây cất, rất đồ sộ . Núi Trại Thủy thường gọi là Hòn Xưởng. Tên chính thức đã được 'trước bạ' trong sách vở là Khố Sơn, tục danh Hòn Kho. Đại Nam Nhất Thống Chí chép: "Khố Sơn ở phía Đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền cũ kho Phước Sơn nên đặt như thế. Phía Bắc gần sông Ngu Trường. Năm At Mão đầu lúc Trung Hưng (1795) đại binh đánh phá tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu ở bảo Khố Sơn tức là chỗ này. Trên núi có đền Quan Công và miếu Ngũ Hành." Ly sở Vĩnh Xương trước kia đóng ở Phú Vinh, nên sách nói "Khố Sơn nằm ở phía Đông ". Và kho Phước Sơn là kho chứa lương thực từ thời Chúa Nguyễn . Nhà Tây Sơn chiến thắng chúa Nguyễn, lập xưởng đóng thuyền bè tại Hòn Kho. Từ ấy núi mang tên Hòn Xưởng." Sau khi lấy lại được Diên Khánh, Nguyễn Phúc Ánh lập trại nơi Hòn Xưởng,gần bến Trường Cá (tức Phương Sài) để thuỷ binh đóng giữ mặt biển. Người địa phương bèn gọi là Hòn Trại Thủy. Sang thời Pháp thuộc, tên Trại Thủy được ghi trên các bàn địa đồ và trên giấy tờ của Chính Phủ. Hòn Trại Thủy đứng giữa đất bằng, nhiều người tưởng là một hòn núi độc lập. Nhưng theo các nhà địa lý học thì núi thuộc hệ thống vùng núi Cao Nguyên. Và các nhà Phong Thủy, tục gọi là Thầy Địa, cho biết rằng đó là Trấn Thủy Khẩu của dãy núi phía Tây Diên Khánh. Long mạch phát từ Hòn Thị (ở Bình Khánh, Diên Khánh),chạy ngầm dưới đất đến gần cửa sông Cù thì đột khởi làm cột trụ giữ anh khí cho cuộc đất Diên Khánh, Vĩnh Xương. Và thành Diên Khánh lấy Hòn Thị ở phía Tây làm hữu bậc, lấy Hòn Trại Thủy ở phía Đông làm tả bậc. Vì vậy,về mặt phong thủy, hòn Trại Thủy là hòn núi quan trọng tỉnh Khánh Hòa . Và trông thấy Hòn Trại Thủy có vẽ hiền lành, mấy ai ngờ rằng trước kia đã xãy ra nhiều cuộc quyết chiến ngay dưới chân núi. Đó là những trận đánh ác liệt giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn năm Quí Sửu (1793) và năm Giáp Dần (1795) tại bến Trường Cá. Và năm Ất Dậu (1885) Nghĩa Quân Cần Vương đã dùng nơi đây làm căn cứ chống Pháp. Ngày nay, hòn Trại Thủy được trở thành một danh lam thắng cảnh nổi tiếng với năm ngôi Chùa đồ sộ với chứng tích lịch sử của thời kỳ hưng thịnh Phật Giáo Việt-Nam, như sau : Chùa Hải Đức : Xưa kia Chùa nằm phía trên chùa Hội Phước. Được xây đựng trên đỉnh núi, nhánh phía Tây, do ngài Viên Giác Thiền Sư, pháp danh Đạt Khương, tục danh Tô Văn Danh, quê quán làng Vạn Thạnh (Nhatrang), trụ trì từ năm Tự Đức (1847-1883). Ban đầu đặt tên là Duyên Sanh Tự. Đến năm Thành Thái thứ ba (1891), mới đổi tên là Hải Đức Tự. Hiện nay là một Đại Tòng Lâm, để tăng chúng khắp nước tụ họp về đây tu học, tham thiền nên chùa được xây dựng đầy đủ tiện nghi như một Phật Học Viện có Tăng phòng, tịnh thất..Phía sau lưng chùa có xây một tiểu đình để treo một Đại Hồng Chung, cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng 1009 Kg. Tiếng chuông ngân rất xa,đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn mộ đạo hay báo hiệu giờ giấc sớm chiều cho người dân sống quanh ngọn núi nhỏ này mà bài thơ sau đây cũng diễn tả một bức tranh Thiền sinh động : "Sương xuống hồi chuông lặng Dư âm tràn hư không Lững lơ vàng gợn sóng Trăng hồ Thu mênh mông " Ngài Viên Giác Thiền Sư viên tịch, các môn đệ kế tiếp nhau trụ trì : -Chánh Niệm Đại Sư , húy Chơn Minh . -Nhân Thụy giáo thọ, húy Như Khánh . -Phước Huệ hòa thượng,húy Ngộ Tánh . Phước Huệ hòa thượng, tục danh là Nguyễn Hưng Long, người Quảng Trị, được Viên Giác thiền sư thọ ký lúc 16 tuổi (1890). Năm 20 tuổi, phải bái biệt bổn sư về quê hương lo báo hiếu cho thân phụ. Rồi vào Huế tu hành. Mãi đến 15 năm sau mới trở lại Nha Trang. Vào lúc này chùa Hải Đức bị hư dột vì lâu đời, Hòa thượng ra công sửa chữa và khôi phục được quang cảnh ngày xưa.Năm 1956, Hòa thượng cùng ban Hộ Tự chùa cúng dường chùa và bất động sản liên hệ cho Phật Giáo Trung Phần để thành lập Phật Học Viện Trung Phần và ủy quyền Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm Giám Viện, thay mặt toàn ban điều khiển mọi sinh hoạt của Viện. Viện lại có một quả hồng chung, chú tạo năm 1961,kích thước phỏng theo quả hồng chung chùa Thiên Mụ ở Huế. Cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng hơn 1000 kg. Chuông treo nơi Tiểu Đình phía sau chùa Hải Đức, nơi dốc lên Tịnh Thất. Rồi tuổi già sức yếu, việc đi lại khó khăn, năm Bảo Đại thứ 14 (1938), Hòa thượng bèn giao nhiệm vụ trụ trì chùa cho Bích Không Đại Sư. Bích Không Đại Sư, pháp danh Trừng Đàn, tục danh Hoàng Hữu Đàng, quê quán Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Đậu Tú Tài năm Mậu Ngọ(1918). Đắc pháp Đại Sư năm Ất Hợi (1935) trong giới đàn chùa Sắc tứ Tịnh Quang tỉnh Quảng Trị do Hòa Thượng Phước Huệ làm đàn đầu truyền giới. Nguyên Đại Sư là trụ trì chùa Giác Phong tỉnh Quảng Trị, nên cũng gọi là Giác Phong Đại Sư . Rồi trải bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cực nhọc, Đại Sư mới trưng đất mới dỡ được non, nới rộng đất trên núi Trai Thuỷ và khởi công từ đầu năm Quí Mùi (1943) đến đầu năm Ất Dậu (1945) mới cáo thành ngôi chùa Hải Đức to lớn nhất, đẹp đẽ nhất. Nhưng chùa chưa kịp lạc thành thì gặp quốc biến năm At Dậu (1945),Đại Sư di cư về Huế, Quảng Trị, Nghệ An. Và năm 1954, ngài thị tịch tại Nam Đàn (Nghệ An). Ngày nay tại chùa vẫn còn bút tích của Đại Sư được khắc chạm trên vách, trên cột mà mưa nắng vẫn còn nguyên . Có thể nói một cách mạnh dạn rằng đó là những tuyệt phẩm của Thiền Môn Khánh-Hòa. Nơi hàng cột ở chánh điện, có ba câu đối liên. Câu chính giữa : Hải thuỷ trừng thanh vạn tượng tề hiện; Đức hương ôn nhã nhất thiết mông huân . Câu kế : Hạnh thảo tác thân mao đoan hiện sát; Vi phong thuyết pháp ngoạn thạch điểm đầu . Câu hai bên : Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả hữu : Nha Hải Phước Hải bổn bất khứ lai . Nơi vách mái hiên ngó ra sân, mỗi vách khắc bốn đại tự, mỗi bề rộng đến bốn tấc Tây . Bốn chữ vách tả ( vách phía Đông ): TRÚ BÌNH ĐẲNG HỘI Bốn chữ nơi vách hữu ( vách phía Tây ): TÁC NHƯ THỊ QUÁN Nơi lầu chuông ở phía Đông khắc 8 chữ : PHỔ ĐOẠN SANH TỬ , HƯỞNG BIẾN HÀ SA . Ý nghĩa thâm viễn. Phải thấm đạo lý của Đức Phật, mới thưởng thức nổi những cái hay cái đẹp dưới những nét thanh lão của ngọn bút tài ba đã đượm nhuần giáo lý Đại Thừa . Chùa Bửu Phong : cũng ở trên đồi Trại Thủy, nơi đầu nhánh phía Nam, cạnh đường quốc lộ 1 (nay là mộ con lộ rộng thêng thang chảy từ Thành xuống thành phố), đứng tai nơi ngã ba vào xóm Xưởng nhìn lên không thấy Chùa vì bị những lùm cây che khuất . Chùa này do người Trung Hoa lập, từ đời Hậu Lê.Trong chùa hiện còn một quả Đại Hồng Chung, có khắc tên chùa"Bửu Phong Tự" và năm chú tạo "Tuế Thứ Quí Dậu Niên Tứ Nguyệt Cát Nhật " tức là năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753). Chùa thờ Quan Thánh tức Quan Vân Trường đời Tam Quốc. Lâu đời không có người phụng tự, chùa trở thành chùa làng(làng Phước Hải). Làng vẫn thờ ngài Quan Thánh nhưng gian bên thờ thêm Bà Chúa Ngọc Thiên Y-A-NA. Người địa phương thường gọi là Chùa Núi. Dưới triều Bảo Đại (1925-1945) khi phong trào chấn hưng Phật Giáo phát động trong nước, làng Phước Hải hưởng ứng, cải chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Sau khi chùa Linh Phong trên Xuân Phong bị cháy và dời xuống Xuân Lạc đổi tên là Liên Hoa, thì có người được tấm biển "Linh Phong Cổ Tự" đem cúng cho chùa Bửu Phong, chùa giữ làm kỷ niệm. Rồi chiến tranh bùng nổ, các chùa cũng lâm vào hòan cảnh khó khăn. Sau ngày đình chiến 1954, một nhà sư ở Huế vào trụ trì chùa, thấy tấm biển "Linh Phong Cổ Tự" nơi chùa, đinh ninh là tên chùa. Khi tu bổ lại chùa, bèn đắp trước hiên,khắc trước ngõ bốn chữ "LINH PHONG CỔ TỰ" . Từ ấy chùa Bửu Phong là Linh Phong. Nếu không có quả Đại Hồng Chung không ai biết đến chùa có tên là Bửu Phong . Chùa cất theo kiểu trùng thiềm. Cây gỗ tốt. Song vì đã quá lâu đời mái đã quằn, cột đã xiêu. Đường lên chùa dốc thẳng đứng, các bậc đá gập gềnh lỏng chỏng, bị vỡ hay mất đi khá nhiều làm cho việc di chuyển lên xuống khó khăn, tạo cho cảnh trí thêm hoang vắng,khiến cho khách vãng cảnh cảm thấy e ngại . Hòn Trại Thủy hình giống con Dơi nằm sè đôi cánh, đầu hướng về phía Tây Nam.Chùa Bửu Phong đứng trên đầu con Dơi phía hai bên tả hữu bị thân Dơi và hai cánh che khuất chân mây, song phía trước nào núi nào đồng, nào xóm làng, nào phố xá, dường xe lửa..sống động nhưng không ồn ào. Nếu Chùa Bửu Phong làm mặt bằng tốt để xây một ngọn Tháp nhiều tầng như ở Thái Lan, Cao Mên hay như ngọn Tháp Thiên Mụ thì phong cảnh hòn Trai Thủy nói riêng, phong cảnh thành phố Nhatrang nói chung, sẽ nổi tiếng và tăng phần mỹ quang cho thành phố du lịch trong thế kỷ 21 này. *Chùa Long Sơn : Chùa nằm dưói chân hòn Trại Thủy,mặt hướng về Nam-Đông. Chùa Long Sơn trước có tên là Đăng Long Tự, còn gọi là Chùa Tỉnh Hội Khánh Hòa, được xây dựng trên núi vào năm 1886 do Hòa thượng Thích Ngộ Chí (1856-1935) trụ trì, là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Năm Canh Tý (1900), sau một trận bão lớn, chùa phải dời từ trên núi xuống vị trí hiện nay. Năm 1936 , chùa được Hội Phật Học chọn làm trụ sở Phật Giáo Tỉnh Khánh Hòa. Năm 1940,chùa được trùng tu do công lao của toàn thể tín đồ trong tỉnh. Năm 1968 , chùa phải sửa chữa lại. Năm 1971-1975,Thượng Tọa Thích Thiện Bình đứng ra lo trùng tu chùa, việc trùng tu mới này thực hiện được 60%theo họa đồ của Kiến Trúc Sư Võ Đình Hiệp. Chùa kiến trúc theo kiểu tân thời,có tánh chất Đông Phương .Nhưng ở vị trí tốt, được cất trên một trảng đất cao, rộng nhìn ra đường quốc lộ 1. Trước chùa có nhiều cây lớn và hàng dừa chạy dài từ Tây sang Đông che mát cho ngôi trường Trung Học Bồ Đề, đây chính cũng là sự thuận lơi cho du khách viếng thăm Chùa trong những ngày Đại Lễ như lễ Phật Đản, Vu Lan hay ngày Tết (Vía Đức Phật Di-Lặc ) để nghe thuyết pháp, cầu nguyện. Tuy gần đường xe hơi xuống lên từ Thành đến thành phố,chùa vẫn giữ được vẽ thanh tịnh, trang nghiêm. Trong các danh lam thắng cảnh ở Khánh Hòa, chùa được nhiều du khách thường lui tới thăm viếng nhiều nhất.Muốn đi lên thăm kim thân Phật Tổ, chúng ta cũng có thể dùng con đường sau lưng chùa đi lên rất là gần nhưng con đường bằng đá hoa cương quá hẹp nên vào những ngày Lễ thì chỉ còn cách chen nhau, kẻ tránh người né làm cho cảnh trí ồn ào,náo nhiệt khiến cho mọi người cảm thấy bồn chồn, thích thú mất cái mỏi gối, đau chân-nam thanh nữ tú lòng thấy rộn rã như những cây xanh đang đâm chồi nẩy lộc vào những ngày Xuân lên viếng chùa. Ngày nay trước sân chùa có xây thêm một ngôi nhà bán các vật kỷ niệm và kinh sách Phật . Từ khi thành lập đến nay, chùa do các nhà sư sau đây trụ trì : Hòa Thượng Thích Ngộ Chí (1886-1935), Thượng Tọa Thích Chánh Hóa (1936-1957), Thượng Tọa Thích Chí Tín ( 1957 về sau ). Sau lưng trên đồi Trại Thủy, ở lưng đồi có kiến tạo một Kim Thân Phật Tổ với chiều cao từ mặt bằng lên 24 m, từ đế lên 21m , phần tượng cao 14 m, đài sen 7m, đường kính đài sen 10 m,. Xung quanh đài là hình bảy vị Thánh tử vì đạo. Trước Phật đài có cặp rồng, chiều dài 7,20 m. Việc đúc tượng khởi công vào năm 1964,hoàn thành năm 1965 do Hòa Thượng Thích Đức Minh, lúc đó là Hội Trưởng Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa và điêu khắc gia Kim Điền thực hiện . Chùa Tỉnh Đức : nằm tọa lạc ở triền núi phía Đông, hướng về đường Trần Quý Cáp và công trường Trịnh Minh Thế, đi lên chùa từ con đường nhỏ từ bên hông ngôi nhà bán vật liệu xây dựng đối điện với cây xăng Mã Vòng. Ngôi chùa này do các Sư cô thành lập để tu tập và dân địa phương thường gọi là Chùa Nữ. Chùa được xây cất theo lối tân thời không có gì đặc sắc. *Lôi Am Tự : Tọa lạc ở phần cuối của hòn Trại Thủy, hướng về phía Đông,nằm phía trước bồn chứa nước thành phố và kim thân Phật Tổ. Chùa Lôi Am do Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam xây dựng từng phần vào năm 1966. Hội Pháp Hoa được một vị Giáo Chủ đã chứng quả vị Tuyệt- Đối, hướng dẫn cho mọi người tu theo con đường Nhất Thừa của đạo Phật, được giải thoát trong kiếp hiện tại. Vào những năm đầu, hội Pháp Hoa xây một hội trường để Đạo Chúng có nơi sinh hoạt với đầy đủ tiện nghi nào là nhà trù,bếp,nhà vệ sinh.. tiếp đến là xây dựng khu thiền thất phía sau chùa với hai hàng cốc dành cho thiền sinh khắp các tỉnh trên toàn quốc về đây tu học và tham thiền. Sau đó xây đựng một cốc Biệt Giáo và cốc Vô Ưu . Bên phải Chùa phần đất được nới rộng và tạo dựng khu Quán Không Thiền Viện dành riêng cho phái nữ đã xuất gia . Như thế, hàng đêm đạo chúng bao gồm mọi giới như giáo sư, sinh viên, học sinh, công chức, dân lao động, nông dân.. từ dưới thành phố hay các vùng phụ cận như Thành, Cam Ranh, Cầu Đá hay các tỉnh trong nước về đây để nghe thuyết pháp, học giáo lý, tham thiền, sinh hoạt..Từ ngày đặt viên đá đầu tiên năm 1967, Chùa tiến hành xây cất được phần hậu diện Chùa và cột cờ,riêng phần cổng Tứ Quán được thay thế tạm bằng cổng Tam Quan. Thiết kế Chùa được các nhà thầu khoán Giáo sư Nguyễn Hữu Dưỡng, Huỳnh Ngọc Điển … thi công với sự dạy vẽ của Giáo Chủ Pháp Hoa . Chùa được các vị Huynh trông nôm như Huynh Như Trí, Huynh Pháp Hư (G/S Hồ Viết Đốc ) và sau cùng là Huynh Pháp Doãn. Khi Cộng Sản tiến chiếm miền Nam với chánh sách tiêu diệt tôn giáo,chùa Lôi Am bị gài vào tội chống phá lại chế độ nên trong một đêm cuối năm 1975, Công An đột nhập vào chùa tịch thu tất cả tài sản và tiến hành đập phá chùa, nay chùa chỉ còn lai cổng Tam Quan nơi triền dốc. Và trong chùa vẫn còn hai nấm mộ cuả người Hời hay Chàm chôn từ lúc nơi đây là quốc gia cũa họ.Muốn lên chùa,có thể đi bằng hai ngã đường: Đường từ Phương Sài, chéo góc nhà hộ sanh Bác sĩ Tý, đi vào xóm lao động thuộc đất bà Ngô Đình Nhu ; ngã thứ hai là bên đường Trần Quý Cáp, bên hông đồn Quân Cảnh cùng với lối đi lên chùa Tịnh Đức, đi dọc theo triền núi.Cả hai ngã đều qui về cổng Tam Quan "Lôi Am Tự". Chùa Lôi Am tọa lạc ở vị trí của cánh phải,chân phải của con Dơi, nên khi đào hồ chứa nước Quán Không Thiền Viện đã làm thương tích long mạch . Muốn nhìn toàn diện thành phố Nhatrang chỉ có vị trí Chùa Lội Am ta mới ngắm được toàn cảnh từ Bắc (Tháp Bà, Dòng La San, Xóm Bóng,Cồn Dê, Hộ,Xóm Lò Vôi..) kéo dài về biển Đông (hòn En, hòn Tre, đường Duy Tân , Bãi biển, Cầu Đá) băng qua phía Nam (cửa Bé, núi Đồng Bò , khu Phước Hải ..).Chính vì thế vào năm Mậu Thân 1968,Cộng quân đã chiếm vị trí này để đóng bộ chỉ huy tiện việc điều động quân đánh chiếm thành phố nhưng Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa cũng đánh gía tầm quan trọng của vị trí này và cho phi cơ trực thăng phóng pháo ngay vào chổ này tiêu diệt ngay bộ đầu não Cộng quân từ lúc đầu cuộc tấn công vào ngày mồng 1 Tết Mậu Thân . Từ một khu đất hoang nay đã khang trang với các loại cây ăn trái trồng khắp chùa , nào là mận,ổi,mít,cốc,chùm ruột,chuối,mãn cầu …làm cho mảnh đất trở nên có sinh khí nhưng bây giờ đã hoang tàn bởi do một chế độ khắc nghiệt , phá hoại; lại thêm phần không có nước và người chăm sóc vì thế chỉ là chổ dung thân của những kẻ không nhà và nghiện ngập sau một ngày lang thang khắp phố trở về đây dung thân tránh mưa dưới mái chùa hoang này 2 . HÒN HOA-SƠN : tục gọi là Núi Một, ở quận Nhatrang Tây (nay đổi thành phường Phước Tiến và Phước Tân ) . Đi vào thành phố bằng con đường Gia-Long (nay là Thái Nguyên), qua Mã Vòng, đến nhà Ga Xe Lửa và gặp ngay Ngã Sáu-nhìn bên phải thấy một giáo đường to lớn , đồ sộ,uy nghi chọc thẳng lên trời và được xay trên một hòn núi nhỏ, đây chính là hòn Hoa Sơn. Nguyên thủy lúc ban sơ, hòn núi này không bị cắt thành hai cụm núi nhỏ, nó trông giống con Rùa vì phần núi nhỏ hướng ra biển Đông như "đầu Rùa", trên có ngọn cổ Tháp nhỏ; phần núi lớn hướng về phía Tây là 'thân Rùa , nên gọi là "Kim Qui đới Tháp ", nghĩa là Rùa Vàng đội tháp . Vào thời vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786), một vị Thiền Sư, pháp danh Phật An đến cất một am tranh tu khổ hạnh trên hòn Núi Một-Năm Bình Ngọ 1786, vị Thiền Sư thiết hóa trà tỳ (tự hỏa tán), đệ tử thâu xá lợi, xây Liên Hoa tháp thờ phụng ở trên đầu hòn núi Một . Khi người Pháp chiếm cứ tỉnh Khánh Hòa, núi Hoa Sơn chỉ có một ngọn cổ tháp của Thiền Sư Phật An và nơi 'cổ Rùa' người ta khai phá một con đường mòn đi qua vùng Phước Hải-Đồng Bò để kiếm củi, đốt than, bắt cá hay đi chặt những nhánh mai vào dịp gần Tết, vì đây là một động mai vàng tuyệt đẹp, được khen qua những vần thơ : Mã Vòng đêm trắng,ma trêu nguyệt, Phước Hải rừng mai,cọp thưởng Xuân . Hay : Biển En sóng vờn trăng thúy liễu, Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai . Khi đất nước chia đôi, dân miền Bắc di cư vào Nam, thành phố Nhatrang cũng đã tiếp nhận một số khá đông đồng bào miền Bắc và họ đã định cư tại khu Xóm Mới -Phước Hải vì thế thành phố nới rộng ra và phát triển mạnh và con đường mòn qua cổ Rùa trở thành con đường Phước Hải (nay là Nguyễn Trãi ) với chiều rộng 8 mét, hai bên đường nhà cửa mọc lên như nấm và từ đấy hòn Hoa Sơn bị cắt hẳn thành hai phần rỏ rệt, khu rừng mai Phước Hải cũng mất luôn với những cây xương rồng trổ hoa màu đỏ khi hè về, nay thì dân chen chút nhau mà sống . Riêng ngôi giáo đường trên phần núi còn lại vẫn như ngày nào . Vào năm 1930-1935, một nhà truyền giáo người Pháp tên là Vallet, kiến lập ngôi giáo đường này. Nhà thờ kiến trúc không giống như những giáo đường trong nước và đặt tên là Nhà Thờ Chánh Tòa Nhatrang , dân địa phương gọi là nhà thờ ông Cố hay nhà thờ Núi. Nhà thờ vừa cổ kính,trang nghiêm-vừa tân kỳ vì vật liệu xây dựng toàn là xi măng với những kính đủ màu lắp trên các cửa sổ, vách khi ánh sáng mặt trời vừa hừng đông chiếu vào tạo thành nhiều màu sắc rực rỡ, đẹp lạ thường , kỳ ảo ẩn hiện những bức tranh có tánh cách tôn giáo và đứng chắc trên một đầu non, với bộ áo xám tro', hình tướng trông nửa như khiêm nhường, nửa ngạo nghễ. Đi lên nhà thờ chúng ta có thể dùng hai lối đi: một con đường bằng đá hoa cương chạy từ dưới ngã Sáu chạy men theo triền núi phía Nam lên tận sân giáo đường với chiều rộng khoảng 8 mét, có thể dùng xe hơi lên cũng được và một con đường khác bên hông trường Hưng Đạo (đường Gia Long ) ta phải đi bằng chân với những bậc cấp xi măng . Phía bên trái nhà thờ có xây một hang đá "Tiểu Vương Cung" thờ Đức Mẹ Maria, được che mát bởi cây đa lớn nhiều lá. Lầu chuông cao ngất! Lên đứng nơi gác chuông nhìn bốn mặt, thì vọng cảnh trùm cả toàn diện thành phố Nhatrang. Trông tới ngó lui,nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của một vùng đất giàu sang trù phú với biển xanh, núi cao, đồng bằng với hòn non bộ nhỏ này. Tiếng chuông làm cho ta thức tỉnh nhưng xung quanh tháp chuông có gắn bốn cái đồng hồ to thường báo hiệu giờ giấc cho mọi người trong thành phố sớm hôm đi làm . 3. NUÍ CẢNH LONG : Núi Cảnh Long ở Chụt, là Con Rồng Cảnh là bờ cõi - Long là tốt, thịnh. Không hiểu cổ nhân thủ nghĩa ra sao, có người hỏi cụ cử Phan Bá Vỹ làm ký lục Tòa Sứ Nhatrang thời tiền chiến , cụ đáp : - Có lẽ ông cha chúng ta biết trước rằng thế nào vua ta cùng các auan bảo hộ cũng đến cất dinh thự để làm nơi thừa lương nên mới đạt tên là nuí Cảnh Long. Hình nuí chạy dài theo bờ biển, giống như một con Rồng xanh. Cổ nhân gọi là "Thanh Long hý thủy" tức là Rồng xanh giỡn nước . Con đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú) chạy ngang qua phi trường Nhatrang và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, rồi đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, chạy đến tận Chụt, con đường đổi thành tên là Đường Tự Do và vượt qua một dốc nhỏ, thấy ngay Cảng Cầu Đá và Hải Học Viện bên tay trái. Chính con dốc này cắt ngọn nuí Cảnh Long thành hai phần: một phần nhìn ra biển, gọi là "đầu Rồng " ; phần còn lại chạy dài đến tận cửa Bé, gọi là "mình Rồng ". Ngoài ra còn có một con đường piste chạy vòng theo từ sườn phía Đông cho đến Cửa Bé (cảng cá Vĩnh Trường ), chạy vòng lên sườn phía Tây, để xuống đất bằng trở về Chụt, đường này có thể gọi là " đường vòng mỹ cảnh ". Ngoạn mục nhất là đơạn đường chạy ra biển. Nằm trên lưng chừng núi, đường khi lên khi xuống, uốn éo quanh co , như con rắn bò quanh hòn non bộ. Trên đầu núi về phía Cầu Đá có lầu Bảo Đại và nhiều dinh thự của người Pháp xây vào thời Pháp thuộc. Hiện nay cũng là nơi nghĩ mát của các vị lãnh đạo Trung Ương ,đồng thời cũng mở cửa cho du khách vào thăm viếng coi như là nhà bảo tàng của thành phố . Bên dưới "đầu Rồng" sát chân núi là viện Hải Dương Học, do phủ Toàn Quyền Đông-Dương xây dựng năm 1927 và bàn giao lại cho chánh phủ Việt Nam Cọng Hòa vào năm 1952 . Viện được xây theo lối kiến trúc Tây Phương ,tọa lạc trên một khu đất rộng 20 mẫu tây, phạm vi bao trùm cả phần bên dưới đầu con Rồng. Cơ sở viện chia làm hai phần: - Nhà của cấp Chỉ Huy gồm 5 ngôi biệt thự ,khang trang, cất trên đỉnh núi cách mặt biển chừng 35 m và ẩn hiện trong bóng xanh của những cây Bàng lâu đời , lá thay đổi bốn mùa. -Viện chính thức: một sở nhà lầu đồ sộ, cất dưới chân núi phía Đông,trên một khoảng đất bằng phẳng , cách mặt biển 4m . Bao gồm : Một tòa nhà lầu hình khối chữ nhật, ba tầng với hai tầng lầu một; tầng trệt cao 12 m, dài 40 m; hai tầng lầu dùng làm phòng thí nghiệm, thư viện và văn phòng. Tầng trệt dùng nuôi những giống cá lạ ở dưới biển.. để cho công chúng thưởng lãm ( Aquarium). Một tòa lầu thứ hai, kiểu thức giống như tòa thứ nhất nhưng nhỏ thua,nằm phía Nam tòa thứ nhất, sát chân dốc, mặt ngó ra hướng Bắc dùng làm phòng nghiên cứu về Sử, Lý Hóa…trong ngành Hải học . Một nhà bảo tàng, rộng 400 mét vuông, cao 5m ,nằm phía sau chính viện và dùng cất giữ những giống thủy tộc sưu tập được ( Hall des collections ) . 4. HÒN SINH TRUNG : là một hòn độc sơn , đứng trên mé đầm Xương Huân, cạnh bến Hà Ra của con sông Cù, nơi đây có một bến xe chạy các vùng lân cận phía Bắc- Nam như Ninh Hòa, Tu Bông , Đại Lãnh, Cam ranh …(Nay bến xe chuyển lên Mã Vòng ) . Các thầy Địa Lý gọi là "Bạch Tượng quyện hồ" tức là Voi trắng cuốn hồ . Núi Sinh Trung không cao lắm, đi lên đỉnh núi chỉ cần bước trên 90 bậc cấp, được làm bằng xi măng, ngay chân núi có xay một cổng Chùa mặc dù trên đỉnh núi vẫn còn cổng Miếu cũ , nay đã trùng tu rất đẹp. Đối với thành phố Nhatrang thì núi Sinh Trung chẳng khác nào như một hòn non bộ đứng trong vườn cảnh xung quanh có sông nước bao bọc; rừng dừa, cây cối, dương liễu xếp thành hình vòng cung theo dọc bờ biển. Quanh núi toàn hững cây dẹp mọc (loại cây, dân chúng thường dùng để trị bệnh sán lãi ). Trên đỉnh núi là một vùng đất rộng khoảng hơn 150 m chiều dài và 100 m chiều ngang nhưng thiết trí chùa cũng rất gọn và trang nghiêm. Vào năm 1802- 1852,triều Nguyễn dựng một cái Miếu thờ 350 vị công thần bị tử trận hay bị mệnh vong trong khi tranh hùng với nhà Tây Sơn ,miếu có tên là Tinh Trung , sau đổi là Sinh Trung. Tên núi mượn tên Miếu mà kêu. Người địa phương cũng thường gọi là núi Ha Ra . Ha Ra là tên khu vực . Sách Đại Nam chép là A La. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) trùng tu miếu và đặt lại tên là Trung-Nghĩa miếu . Đến năm 1945 -1950, Đức bà Từ-Cung và một số hào lão làng Vạn Thạnh vận động hiến cúng Miếu cho Giáo Hội Phật Giáo Khánh Hòa , vị trù trì đầu tiên là Hoà Thượng Thích Thiện Minh, đặt tên chùa là Khuôn Hội Kỳ Viên; kế thừa là Hòa Thượng Thích Từ Mãn, Hòa Thượng Thích Chí Tín, Đại đức Thích Viên Mãn. Từ đấy thật sự Miếu Sinh Trung đổi thành tên Kỳ Viên Trung Nghĩa Tự . Năm 1990 , thầy trù trì Thích Trí Viên cùng Phật Tử khắp nước và địa phương phát nguyện cúng dường trùng tu chùa : xây dựng phần chánh điện rất trang nghiêm, nhà Tổ và những công trình phụ trông rất mỹ quang như đúc tạc các tượng Đức Di Lặc với lục tặc đặt trước cổng chùa, tượng Đức Quan Thế Am đứng trên toà sen, nhìn về hướng Đông, đặt sau lưng chùa với một công viên trồng hoa hai bên có những bức tường đá dùng làm những hộc đựng hài cốt, mặt hộc có ghi tên tuổi người quá cố để thân nhân dễ tìm và thăm viếng . Phía sau chùa một khoảng đất trống lớn xây một gác chuông với một Đại Hồng Chung cao hơn 1 mét bên cạnh có một hồ nuôi cá với những hòn non bộ và cây cảnh, cây mai chiếu thủy nở hoa trắng suốt bốn mùa , có cầu nhỏ bắt qua trông rất thơ mộng ; một tấm bia ghi tiểu sử thành lập chùa và miếu . Bên phía trái Chùa là một dãy nhà trù dành cho cho việc ăn ở của các Tu sĩ-toàn công trình được hoàn tất vào tháng 2 năm 1992. Vào năm 1995,chùa lại xây thêm một nhà mát tứ giác hai tầng , dùng vào việc tiếp khách thập phương, đối diện với nhà trù. Ngày nay, việc xây dựng chùa xem như là hoàn mỹ. Một quang cảnh tươi sáng với sân chùa trồng toàn cây bông sứ trắng nhụy vàng , xen lẫn những cây hoa phượng vỹ đỏ thắm và bức bình phong có hình con Cọp được sơn vẽ lại làm cho Chùa trở nên uy nghi . Miếu Sinh Trung và đầm Xương Huân vốn có tình "cốt nhục" . Truyền rằng : lúc ban sơ không có đầm cũng không có núi . Khi nữ thần Poh Naga giáng thế, sấm trời nổi dậy báo cho vạn vật biết tin, thì một con Cù sanh từ lúc khai thiên lập địa nằm ngủ quên trong lòng đất, giật mình vùng dậy, những lớp đất đá đã phủ lên mình Cù bị hất tung lên thành Núi và nơi Cù nằm lủng xuống thành Đầm. Cho nên Đầm có tên là Cù Đàm và Núi có tên là Cù Lĩnh . Đầm nằm ôm chân núi, núi đứng soi bóng vào lòng đầm. Nước trang điểm cho non, non trang điểm cho nước. Tương y tương ỷ, ngày nắng cũng như ngày mưa. Những đêm gió mát trăng trong, lên núi Cù Lĩnh xem Đầm thì cực kỳ thanh thú như chốn bồng lai tiên cảnh. Mặt đầm như tờ giấy băng cơ trắng láng và vầng trăng như quả ấn ngàn châu treo lơ lửng trên bầu trời, mờ mờ dưới chân núi là nhà cửa với những ngọn đèn dầu leo lét hay ngọn đèn điện thắp sáng choang-cây cối chỗ thấp, chỗ cao ẩn hiện trong ánh đèn khi thành phố bắt đầu sinh hoạt về đêm. Ngày nay, Cù Đàm bị lấp đi, để xây một ngôi chợ hình tròn, đó là chợ Đầm Nha Trang, Cù Lĩnh trơ trọi một mình, không còn soi dưới bóng nước và chị Hằng, con Voi trắng không có nước để uống khi trời hạn hán và bơ vơ giữa cảnh ồn ào, náo nhiệt của một thành phố đông người khi một cuộc 'di dân có qui mô' sau năm 1975. Đặc biệt là đứng trên núi Sinh Trung ta nhìn thấy ba hòn núi kia tượng hình ba con vật linh thiêng (Dơi , Rùa , Rồng) cùng với con Voi trắng đang hộ trì và phù trợ cho người dân thành phố nói riêng, người Khánh Hòa nói chung được phát tài như cuộc đất : Đại phú đại quí . Theo nhà phong thủy, Huyền Vi, viết trong cuốn sách Thiền và Phong Thủy đã nói về cuộc đất Nhatrang như sau : Hình thể thành phố Nhatrang rất giống Con Cóc. Bãi biển Nhatrang là bụng Cóc, hai chân sau là vùng Cầu Đá , hai chân trước chạy ra đến gần Hòn CHồng . Sóng biển vỗ quanh năm vào bụng Cóc Thần . Điều quan trọng là con Cóc Nhatrang tuy ngon lành thật nhưng chưa đủ hấp dẫn để dụ Xà Tinh vào miền Nam. Vậy phải làm sao thay đổi long mạch cho con Cóc mau chóng ngậm một hạt Minh Châu để cho Xà Tinh tăng thêm sự ham muốn .Sau khi long mạch con Cóc được làm cho vận hành mạnh mẽ , "đốt giai đoạn " thì chợ Đầm, ngôi chợ chính của Nhatrang , bị hỏa hoạn thiêu rụi . Long mạch xui khiến Kiến Trúc Sư vẽ lại Chợ Đầm để tái thiết lại vẽ thành một hình thể độc đáo, hiếm có : chợ Đầm hình tròn! Nhìn lên bản đồ thành phố Nhatrang ta thấy rõ ràng hình con Cóc ngậm hạt Minh Châu hình tròn! Ngày nay, nếu ta đi máy bay nhìn xuống Nhatrang, ta sẽ thấy hình thể của một con Cóc khổng lồ ngậm hạt minh châu! So với thiết kế thì chợ Đầm xây chưa hoàn tất, phía bên tay trái hai chung cư A va B đã xong , còn chung cư C và D bên phải chưa dựng nên phần này đã hở hẳn ra, phía sau chợ chạy dài ra tận nhánh sông Hà Ra một khoảng đất trống lớn, dân đã chiếm cất ở lộn xộn nên không thể xây phần nối tiếp khu chợ trái cây và bán thịt cá với cái cảng nhỏ cho ghe thuyền từ các nơi vào, tạo thành một khối chữ T án ngữ mặt sau. Như thế hạt Minh Châu ở cái thế nửa kín nửa hở. Nhưng nói về địa lý tạo dựng mảnh đất Nha Trang nhìn từ biển Thái Bình Dương vào,mảnh đất Nhatrang là một bãi cát trắng rộng với bốn hòn núi trấn bốn góc tạo cái thế Bốn Con Thú qui tụ gồm Long (tại Cầu Đá),Tượng (tại Sinh Trung, chợ Đầm), Dơi (tai Mã Vòng) và Qui (tại Ngã Sáu). Long Mạch thành phố lấy hai hòn núi : Hòn Trại Thuỷ và Hòn Thị ở Diên Khánh làm Hữu và Tả bậc , với bốn mặt có hai con sông Cái và sông Đồng Bò ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển khơi .Nhưng nếu ta nhìn thật lâu và hình dung bãi biển Nhatrang vừa rộng và dài trông giống như một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng . Chính vì vậy thành phố Nha Trang mỗi ngày càng hưng khởi lên sự vượng khí : " Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ cái hào quang ấy, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy tráng lệ tạo thành một kỳ quan đẹp cho mảnh đất Thánh này. Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những vật nhân cách hóa thành những người đang đứng canh giữ mảnh đất thiên. Buổi chiều,tất cả biển trời cây đá đều trõ thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và sưa. Còn ban đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân,và ánh đèn câu ngoài khơi giăng dài trên đường chân trới như nhừng hạt châu kềt thành xâu đang tỏa ra ánh sáng lúc ẩn lúc hiện. Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương , nếu trời không trăng thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích ,một nửa trải nền một nửa phất trên trần,trong một đền thờ người Ấn ". Nha Trang với cảnh đẹp tự nhiên với thiên hình vạn trạng , nó đã tạo dựng một thế phong thủy đặc biệt cho nên khi còn là đất của người Chiêm Thành hoặc là đất của dân Việt ta ngày nay và tiến dần về tương lai thì mảnh đất này chính là vùng đất Đại Phú và Đại Quý. Bước vào thế kỷ 21, thành phố đang tiến hành xây dựng chiếc Cầu nối liền từ bờ xóm Cồn đến Hòn Chồng và chạy dài ra tận bãi Tiên thì cái thế đất chưa hoàn hảo bởi vì cái long mạch chưa được nối liền bởi con sông Đồng Bò còn hở, vậy ta chỉ còn thêm một chiếc cầu nối liền Cầu Đá với Đồng Bò chạy dài đến tận Bãi Dài, Cam Ranh thì lúc ấy cái long mạch ấy mới hình thành trọn vẹn . Nhưng muốn chiếm cái ưu thế vững vàng nhất cho thành phố thì phải thay đổi vị trí tòa Thị Sảnh Nha Trang thì mặt hưng vượng của ngưới dân và chính quyền càng ngày càng cao về mọi mặt như sự xuất hiện các tài nhân, dân giàu sang, chính quyền có người tài đức ra gánh vác, đồng thời cũng là nơi đào tạo nhân tài về quân sự như Hải-Lục-Không quân rất là thuận tiện cho cả vùng Đông Nam Á và Đông Dương (Lào và Campuchia). Về mặt tâm linh, huyền bí nơi đây chính là Thánh địa vì một vị Đại Bồ Tát đến với cõi Ta Bà này thuyết pháp Đại-Thừa và Nhất Thừa trước tiên và đây chính là cái duyên to lớn nhất của chúng sanh và cho người dân Nhatrang vậy . Nhưng theo nhà Địa Lý HỨA MINH cùng con trai là HỨA VINH viết trong sách :'Địa Lý Toàn Thư" do Lưu Bá Ôn và một số tác giả ghi đã nói như sau: Chỉ có nơi Tứ Thú hội họp mới được gọi là Long Tụ Tinh. Và để hình thành một vùng Đại- Phú Đại- Quý, nhân tài xuất hiện thì khí Âm Dương cần phối hợp tức là trước biển cả mênh mông sau là núi rừng vây bọ. Vậy thì Long mạch chính nằm ở vị trí nào trong thành phố Nhatrang? Khi ấy người đầu Tỉnh đặt bản doanh mình nơi ấy thì cái hào quang vi diệu kia tỏa khắp cho mọi người đều cùng hưởng cái diễm phúc của vũ trụ dành cho. Tôi không bàn rộng vấn đề này, xin để lại cho những ai có Đức, có Hạnh mà suy nghĩ, đem cái tài mình ra mà giúp dân, giúp nước được cái hạnh phúc-phú quý trong những năm kế tiếp của thế kỷ 21
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 9:25:18 GMT 9
Giải Oan Lời Thề Vietsciences - Trần Thị Vĩnh-Tường Hà Nội đang chuẩn bị văn hoá Tràng An, kỷ niệm Một Ngàn Năm Chiếu Dời Đô 1010-2010. Nhân dịp hoa đào, hoa Tết ở Hà Nôi bị bẻ vặt, câu “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An,” lại được xem xét có phải dành cho người Thăng Long - Hà Nội không. Theo gợi ý của tác giả Hồng Thái (1), đây là chống chế của người Tràng An- Hoa Lư khi bị người Đại La dị nghị về sự kém thanh lịch. Ngày xuân ôn sử Theo wikipedia (2) tại đền Vua Đinh (tỉnh Ninh Bình) “trên bức đại tự có ghi hàng chữ: "Chính thống thủy" với ý nghĩa ca ngợi Đinh Bộ Lĩnh là người mở nền chính thống. Hai bên cột giữa có treo câu đối: "Cồ Việt Quốc đương Tống khai bảo – Hoa Lư đô thị Hán Tràng An" (Nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt sánh ngang niên hiệu khai bảo đời nhà Tống - Kinh đô Hoa Lư như kinh đô Tràng An của nhà Hán). Theo bản tin của tỉnh Ninh Bình (3) “Đền tọa lạc ở làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên - Hoa Lư. Khuôn viên đền rộng 5 ha. Đền được xây dựng dưới đời vua Lê Đại Hành, do lâu ngày đền cũ đổ nát. Cuối đời Lê - Mạc, một vị tướng nhà Lê là Bùi Văn Khuê đứng ra trùng tu, sửa chữa vào năm 1598. Kiến trúc đền hiện nay chủ yếu là công trình tu tạo năm 1698”. Từ Hoa Lư, hai vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành khai mở bình minh cho nước Việt. Cũng từ Hoa Lư, Lý Công Uẩn dựng nghiệp. Hoa Lư, nơi khởi nghiệp của những anh hùng, so hay không với Tràng An thì cũng thế. Văn hoá bẻ hoa? Tháng tư, Mậu Tý, năm 2008, lễ hội hoa Anh Đào tổ chức lần đầu tiên ở Hà Nội. Ba trăm nhánh hoa anh đào từ Nhật sang, trong chốc lát tan tành dưới bàn tay “các bạn trẻ”. Người Nhật có ngày hội hoa anh đào Hanami. Đến mùa, Kyoto đông nghẹt khách đổ về khung trời ửng hồng, nhưng không một cánh hoa nào rơi rụng. Nhiều xứ chọn hoa làm biểu tượng, Chăm có hoa Chămpaka, Lào có hoa sứ, Pháp có hoa huệ, Ấn Độ có hoa sen, Iran có hoa tulip, Nam Hàn có hoa dâm bụt… Những người thưỏng hoa hôm ấy, phải chăng chưa từng có thói quen yêu hoa, ngắm hoa, nên nỗi thèm khát biến thành bạo lực? Mùa xuân, Tân Sửu, năm 2009, chợ hoa xuân đầu tiên Hà Nội, cũng tiêu điều trong ngày đầu tiên. Theo tin trên dulich.tuoitre, cỏ nhung bị xéo nát, cành lau bị nhổ mang đi hoặc bị vặt đứt, hoa cúc Đà Lạt và các chậu hoa hải đường cũng chung số phận. Ngay đến đôi rồng chầu tượng vua Lý Thái Tổ, vảy kết bằng hồng môn Đà Lạt cũng bị vặt khá nhiều. Giải thích từ trong nước, một trong các quan điểm phổ biến cho đó là dân “nhập cư ngoại tỉnh,” người Hà Nội không như thế. Cư dân Hà Nội thoát thai từ cư dân đồng bằng sông Hồng, không tự nhiên trên trời rớt xuống. Trước khi khắt khe xem lại có phải “lỗi của dân nhập cư không”, hãy rà lại đôi điều về đất và người Hà Nội, thế nào là dân “nhập cư.” Đất Hà Nội cổ Lịch sử Hà Nội gắn bó với lịch sử đồng bằng sông Hồng. Địa phận Hà Nội dời đổi, không phải chỉ trong vòng “Năm Cửa Ô”. Ngay cả dưới thời vua Gia Long, Bắc Ninh là trấn Kinh Bắc, gồm cả Bắc Giang, một phần các tỉnh Hưng Yên, Lạng Sơn và thành phố Hà Nội. Thời An Dương Vương, Tây Vu chính là đất Hà Nội cổ, núi, gò cao và nước nhiều hơn đất. Nước mặn ăn đến tận Đầm Dạ Trạch, Hưng Yên. “Người Hà Nội” đầu tiên Cư dân ở vùng đất đó là ai? Khoa học đặt tên những sắc dân này là Négrito, Mon-Khmer và Mélanesian. Cư trú khắp châu Á, châu Úc, họ có thể là hậu duệ của những đợt di tản ra khỏi châu Phi khoảng 30.000-60.000 ngàn năm trước. Chuyện kể lại trong gia đình, năm 1950 ở Hoà Bình, nông nô của những gia đình Mường quí tộc có da đen, tóc quăn, trán nhô, mũi rộng, người thấp, có thể là người Mélanesian. Chính sử tả Mai Hắc Đế - ông vua họ Mai người đen – da đen, tóc quăn, người huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. “Người Hà Nội” trước An Dương Vương An Dương Vưong- thay thế Hùng Vương năm 257 Trước Tây Lịch- gom Mê Linh, Chu Diên, Tây Vu thành một nước với tên mới là Âu Lạc. Tự tên Âu Lạc đã thấy hai thành phần: chi Âu và chi Lạc. Cả hai thuộc chủng Bai Yue/BáchViệt -gọi là Việt-cổ để phân biệt với Việt Nam bây giờ. Mỗi chi lại có hàng ngàn tiểu chi. Chi Lạc, dân miền biển, vùng chạy dài từ đông bắc Hoàng Hà đến bờ biển đồng bằng sông Hồng. Chi Âu, dân miền núi, vùng chạy dài từ miền Nam sông Dương Tử đến đồng bằng sông Hồng. Âu-Lạc là một kết hợp ngoạn mục của một số tiểu chi Bai Yue tại đồng bằng sông Hồng, mảnh đất cực Nam của chủng Bách Việt. Khi bên Tàu có loạn Tạm dùng chữ Trung Hoa, thật sự lúc đó chưa có “nước” Trung Hoa, hay nôm na, “nước” Tàu, chỉ có những triều đại. Đại lục Trung Hoa mênh mông, sông Hoàng Hà là một đường biên giới thiên nhiên. Chủng Hoa Hạ phía Bắc Hoàng Hà, chủng Bách Việt ở phía Nam Hoàng Hà và ở ven biển Đông Bắc như đã nói ở trên. Mỗi khi bên Tàu có loạn, dân chạy tan tác. Trong vòng gần 1000 năm, kể từ thời Xuân Thu (722 TCN), Chiến Quốc, Tần Thuỷ Hoàng cho đến thời Đông Hán rồi Tam quốc, Trung Hoa là một vùng nát bét. Các “nước” lớn uýnh nhau túi bụi xưng vương xưng đế chiếm đất hoặc tranh giành người đẹp. Hai ví dụ sau cho thấy, mạng dân còn thua con kiến. Kiểm kê dân số sau thời Vương Mãng (8-23 STL)- triều đại kéo dài 17 năm chen giữa hai nhà Tây Hán và Đông Hán- xáo trộn kinh hoàng tới nỗi dân Hoa Bắc giảm 50%. Họ chạy xuống Trung Nguyên (giữa Hoàng Hà và Dương Tử) khiến dân nơi đây tăng 102% (4). Năm 756, quân An Lộc Sơn tiến về kinh đô Trường An, giết tới 36 triệu người chỉ vì nàng Dương Quí Phi. Những đợt di tản từ vùng này qua vùng khác bằng đường bộ và đường thuỷ, cách nhau cả trăm năm. Hình ảnh nên thơ vùng Lĩnh Nam, quảng cáo du lịch Trung Quốc ngày nay - một cái bè kết bằng vài cây nứa lớn lênh đênh trên sông nước - có thể phản ảnh phương tiện hàng ngàn năm trước. Một bộ phận dân cư người Hoa vùng Lĩnh Nam còn ghi nhớ phố Châu Cơ Hương, phía bắc thành phố Nam Hùng, trên con đường huyết mạch từ Giang Tây vào Quảng Đông (qua ải Mai Quan trên dãy Đại Dữu). Tuy chỉ dài 1500 mét, rộng khoảng 4 mét, con đừơng này là nơi đám tản cư sử dụng suốt từ đời Tần, Hán đến đời Tống, đời Minh. Từ đó, huyết thống và ngôn ngữ của người Hoa (Hoa Bắc + Hoa Nam) len lỏi theo hệ thống sông Bắc Giang xuống Châu Giang và Tây Giang, toả ra khắp vùng Quảng Đông, Quảng Tây (5). Các vùng mé biển Trung Hoa như Ngô - U Việt - Mân Việt (Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến) dân 100% thuộc chủng Lạc, luôn hứng những khối di dân rất lớn. Đến khi chính những nước này lại bị lôi vào vòng chinh chiến, quí tộc và gia đình, cũng như dân chúng lại tìm đường mà tẩu, theo đường bộ hay đường biển xuống Giao Chỉ, hẻo lánh và xa vòng chém giết. Ai đồng hoá ai ? Một vài văn/thi/nhạc sĩ thường hay khóc lóc kêu ầm làng nước, hết thở than “Một ngàn năm đô hộ giặc Tầu”, “da vàng mũi tẹt, thân phận nhược tiểu”, lại khóc mếu bị Hán hoá, bị lai Tầu, mà không tính tới việc nguồn gốc của bất cứ dân tộc nào cũng bắt đầu từ nhiều sắc tộc, sinh tụ tại một điểm và từ đó nảy sinh ra một dân tộc mới. Từ Do Thái là một dân tộc cổ đến Hoa Kỳ là một dân tộc non trẻ, đều là những pha trộn hết sức phức tạp. Có lẽ đã đến lúc nín khóc, bình tĩnh nhìn lại quá khứ: * thứ nhất, 2000 năm trước chưa có biên giới, chưa có các “nước”, không sổ thông hành, không chiếu khán, chỉ có vùng đất và cư dân sống trên mảnh đất đó. * thứ hai, từ thời Xuân Thu “bên Tàu" cho đến thời Lý Công Uẩn Đại Việt, trong gần hai nghìn năm, các tiểu chi Âu Lạc tản cư nhiều đợt vào đồng bằng sông Hồng, “mỗi khi pên Tàu có loạn”. * thứ ba, chỉ đám quan lại Trung Hoa mới áp đặt chính trị, quân sự và tổ chức hành chánh của phương Bắc lên cư dân sông Hồng, kỳ dư cũng chỉ là dân chạy loạn, mà đa số là dân chủng Bai Yue/Việt cổ. * thứ tư, không tài liệu nào cho biết bao nhiêu người Hoa Bắc, bao nhiêu ngừơi Hoa Nam. Có điều chắc chắn có rất ít người Hán Hoa Bắc sang Giao Chỉ ở lâu dài nổi, vì không chịu nổi khí hậu. Nếu gốc gác họ ở miệt Hoa Nam, thì 100% họ là Yue/Việt cổ * thứ năm, Hoa Bắc hay Hoa Nam, cũng chỉ vài đời là tan biến vào cư dân sông Hồng và cùng chịu chung một định mệnh trên vùng đất mới. * thứ sáu, chính sự truởng thành trong học tập và chiến đấu gian khổ đã tạo nên nòi giống Việt. Hậu duệ của giòng nhập cư từ phương Bắc biến bức tranh di tản thành một kịch bản hết sức oái oăm cho “thiên triều” : Lý Bí và Lý Công Uẩn xưng vương, mở đầu một trang sử độc lập cho dân Âu Lạc. Năm 1075, Lý Thường Kiệt mang 100.000 binh sang đánh quân Tống ở Ung Châu (Nam Ninh bây giờ), trong khi dân số Đại Việt chỉ 2.200.000 người, đủ hiểu triều Lý rất tự tin về gốc gác thần dân trong nước, không ngại đám dân dù có gốc từ phương Bắc, vì biết họ đồng chủng Việt. * thứ bảy, những Mai, Đinh, Lí, Lý, Lê… trong Mai Hắc Đế, Đinh Bộ Lĩnh, Lí Bí, Lý Công Uẩn, Lê Lợi… không chắc có phảỉ là “họ” không, hay chỉ là tên của bộ tộc nhỏ? Nếu điểm này được sử gia giải thích, có thể mang lại khám phá bất ngờ về thành phần những bộ tộc nào đã làm nên dân tộc Việt, hơn là diễn tả dân Việt gọn gàng là “dân ta”, không rõ “ta” là ai. Vạn Xuân : Mong ước “Giang san còn hoài đến hàng vạn mùa xuân” Một trong những hậu duệ ngoạn mục của người nhập cư từ “bên Tàu” là Lý Bí (hay Lí Bí?). Theo Sử, Lý Bí (503-548) là người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây). Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam ”. Chính sử Trung Hoa coi Lý Bí là “Giao Châu thổ nhân". Còn sử Việt Nam, kể cả các sử gia tân thời và sử gia tài tử, hễ cứ ai ở “bên Tàu” là coi như người Trung Quốc hết mà không bao giờ soi sáng lại nguồn gốc. Tổ tiên của Lý Bí tản cư sang Giao Chỉ trước thời Hai Bà. Có sách nói 500 năm, có sách nói 11 đời. Con số 500 năm đúng hơn. Lý Bí đã từng làm quan cho nhà Lương ở Giao Chỉ, nhưng ông bỏ về. Năm 544, tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế - hoàng đế phương Nam - đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân. Nếu nhớ ơn Hai Bà là bậc nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử, cũng phải nhớ ơn Lý Nam Đế là người mang nước Việt ra khỏi hình thức bộ lạc. Thông suốt chính trị Bắc triều, Vua tự tin dựng điện Vạn Thọ, (Hà Nội), dựng chùa Khai Quốc, cho đúc tiền đồng. Từng ấy việc trong thời gian ngắn 4 năm, Lý Bí không ngờ ông đã đặt tiền đề: từ đây nước Việt thoát khỏi thời kỳ u tối 1000 năm Bắc thuộc. Lần đầu tiên sau thất bại của An Dương Vương, một “nước” được thành lập ở đồng bằng sông Hồng, gồm hợp chủng Negrito + Mon-Khmer + Mélanesian + Âu-Lạc trước An Dương Vương + Âu-Lạc nhập cư từ “bên Tàu”. Đó cũng chính là cư dân của Hà Nội thuở bình minh. người Việt hiện giờ là hậu duệ của từng ấy sắc tộc. Khách nhập cư Hà Nội ngàn năm trước: vua Lý Thái Tổ ĐVSKTT, kỷ nhà Lý, chép “Mùa thu, tháng 7, vua rời Kinh đô từ Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của Kinh Phủ. Thuyền tạm đỗ ở dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên, sông Bắc Giang làm sông Thiên Đức. Xuống chiếu phát tiền kho 2 vạn quan thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức 8 sở, đề dựng bia ghi công”. Nhà vua cho xây dựng ở Thăng Long chùa Một Cột, cầu Đồng, cầu Dền, như đã có ở Hoa Lư. Triều Lý hướng tới tương lai, nhưng không quên quá khứ ngàn năm trước: ĐVSKTT ghi, Kỷ Lý Anh Tôn, “Canh Thìn, năm thứ 21 (1160) Tống Thiệu Hưng năm thứ 30). Mùa xuân, tháng giêng, làm đền Hai Bà và đền Xuy Vưu ở phường Bố Cái”. Tượng tạc một vị vua triều Lý nguồn: Southeast Asia: A Concise History, NXB Thames and Hudson, London, 2000 www.gio-o.com/NgoBacKWTaylorSuKyToanThu.htmThời đó, vùng Hà Nội vẫn lõng bõng nước. Sứ giả nhà Tống là Tống Cảo viếng Hoa Lư, Lê Hoàn (941 - 1005) thết tiệc một con trăn dài “vài mươi người khiêng mới xuể”, sứ giả khiếp vía không dám xơi. Rồng vàng có thể là cá sấu hay trăn nước, tô vẽ cho thêm phần “phụng mệnh trời”. Trên một số đồ gốm hoặc trống đồng Đông Sơn, hoa văn là loài bò sát . Sông Thiên Đức, là sông Đuống. Dưới thời Đinh Tiên Hoàng, Hoa Lư chỉ được ví như kinh đô Tràng An. Nhưng Lý Thái Tổ đã chính thức đổi tên Hoa Lư thành Tràng Yên, như lòng nhớ ơn nơi dựng lên nghiệp lớn. “Yên” hay “an” cũng là một. Một số phương ngữ của người Hẹ (Hakka) phát âm “yên” là “an”. Yên = âm trại = An (bình an - bình yên, an ổn - yên ổn). Người Hakka đọc âm "an" (âm Hán Việt) là "on" (giống như "on" trong tiếng Anh). Âm tiếng Phổ Thông (Mandarin) mới là "an" (như âm Hán Việt) Rồng trong Đĩa gốm men Lam thế kỷ 15 Khách nhập cư “Người Miền Dưới” Khách nhập cư huy hoàng khác từ phương Bắc là triều đại nhà Trần. Nhà Trần, tự nhận “nhà ta, người miền dưới”, tức là dân đánh cá miệt biển. Khoảng năm 1110, tổ tiên nhà Trần di cư từ đất Mân Việt, thuộc Phúc Kiến bây giờ, ban đầu đến tỉnh Quảng Ninh, trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều. Chỉ trong một thế kỷ, họ Trần trở thành giàu có ở huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đến nỗi Thái Tử Sảm cuả nhà Lý phải chạy tới náu thân. Kết quả, năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý, bằng hôn nhân ép buộc giữa công chúa Lý Chiêu Hoàng 8 tuổi với Trần Cảnh 7 tuổi. Cũng chỉ trong vòng hơn 100 năm, người nhập cư phương Bắc đã tan biến vào giòng Việt. Triều Trần là triều chống cự “thiên triều” dữ dội nhất. Năm 1257, vua Trần Thái Tông đích thân ra trận đánh nhau với quân Mông Cổ. Năm 1285, quân Trần đại thắng quân Nguyên ở trận Hàm Tử. Năm 1288, Hưng Đạo Đại Vương chiến thắng trận Bạch Đằng. Từ núi rừng Thanh hoá Nhà Minh quyết tâm xóa bỏ nền văn minh Đại Việt bằng đủ cách: san phẳng đình chùa miếu mạo ở Thăng Long, chở về Yên Kinh tất cả các loại sách, văn bia của người Việt đến một chữ cũng không cho lọt, thiến hoạn đàn ông, hãm hiếp đàn bà, cắt tai xỏ thành xâu. Sau 10 năm kháng chiến gian khổ đánh bại quân Minh, Lê Lợi từ núi rừng Thanh Hoá rời về Thăng Long và đổi tên Đông Kinh, tuy vẫn xây dựng cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa). Từ Đông Kinh, triều đại Lê đã tiếp nối tinh thần Đại Việt trong 360 năm, mà bề dài của triều đại khiến triều đình Bắc phương biết miền đất Đại Việt ấy đã vĩnh viễn ra khỏi tầm thôn tính. Khách nhập cư phương Tây : “Con của Phật, đừng lo” Thời Sĩ Nhiếp (137-226), Phật giáo Ấn độ đã đến đất Âu Lạc. Phật hoá thân thành thiền sư Khâu Đà La bước qua mình Man nương đang ngủ say khiến cô “cảm động” thụ thai. Ngòi bút vắn tắt Nho gia chỉ ban một câu ngắn gọn, khiến học trò đời sau nát óc! Câu chuyện có tính ẩn dụ cao độ: Phật giáo uyển chuyển đến với nhân gian bằng cách nhập vào chính dòng văn hoá ấy, không truyền giáo bằng cách giả ngây núp sau súng đạn. Vào miền đất mới, Phật giáo tạm quên mười ngàn pho kinh cao ngất, mà chấp nhận nền văn hóa bản địa: thân phận cao trọng cuả ngừơi nữ. Man Nương chỉ có nghĩa “cô gái đất Man”, đại diện cho nền văn hoá phồn thực Đông Nam Á: con gái 12 tuổi nhắm mắt cũng biết việc sinh tồn. Đạo Phật nâng con người lên, cho nhân vật nữ sắm vai mẹ của con Phật. Ngòi bút Nho gia ghi khi bố mẹ Man Nương bối rối vì việc thai nghén của cô con gái 12 tuổi, thiền sư Khâu Đà La dung dị vỗ về “con của Phật, đừng lo”. Phật lại truyền cho hai mẹ con cây gậy thần, múa đến đâu nước lai láng đến đấy cứu ruộng đồng khô cháy. Hòn đá cầu mưa, tạc theo hình bộ phận sinh dục nam, nữ trang quí giá nhất của đàn bà con gái, bảo vật trấn áp quỉ thần, có mỹ danh Đức Thạch Quang được thờ ở chùa Dâu. Không khí ly kỳ, Bụt tính đan lẫn dâm tính đã là một huyền bí của miền tiền Thăng Long. Dù ai buôn bán trăm nghề Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu. Chùa Dâu dựng năm 226 ở Bắc Ninh. Chùa được xây dựng lại năm 1313 và trùng tu nhiều lần. Đời Trần, quan trạng Mạc Đĩnh Chi vâng mệnh vua Trần Anh Tông dựng chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 9:27:20 GMT 9
Khách nhập cư phương Nam : Chămpa quyến rũ Một trong những điểm cách tân của nhà Lý khiến Đại Việt trở thành “vùng bản lề” của hai nền văn minh lớn của nhân loại: văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa, là chấp nhận huyết thống và văn minh Chămpa. Khi Việt bị Bắc thuộc, Chàm đã là một nước độc lập có văn minh mà di sản còn để lại đến giờ. Trong khi Nho giáo ảnh hưởng trên toàn bộ giới bút nghiên Đại Việt thì kiến trúc, âm nhạc, thần thánh, ngôn ngữ văn hoá Chăm nẩy nở dễ dàng nơi người bình dân, vì căn bản cả hai đều thuộc văn minh Đông Nam Á. Nếu Chămpa là đường cong pho tượng thiếu nữ, vú đầy lưng nhỏ mông tròn, chân tay lẳn phô bày nét quyến rũ, nụ cười hơi mỉm hứa hẹn biết bao điều thần bí, thì Nho giáo sắc như nét bút lông, thầy đồ Nho muốn mọi việc đều hoàn hảo nên mặt mũi lúc nào cũng đớn đau “lo trước cái lo của thiên hạ”. Càng về cuối thời Hậu Lê, vua quan càng khép lại nền văn minh tươi cười ấy, chấp nhận hoàn toàn văn minh Trung Hoa khắc khổ. Màu sắc lễ tết dân gian: có cần giữ gìn phẩm hạnh? Nhất là từ nhà Nguyễn Gia Long 1802, văn hoá Nho giáo tràn ngập cung đình. Đình chùa toàn long-ly-qui-phượng, chưa ai khắt khe xem lại có phải là hoa văn thuần Việt hay không. Màu sắc, kiến trúc đời Nguyễn, không khác gì một Trung Hoa thu nhỏ. Hiện nay, màu đỏ màu vàng sặc sỡ nhức nhối trong những ngày “lễ tết cổ truyền” cả trong nước lẫn ngoài nước, trông gần với sân khấu bát nháo hơn với lịch sử. Cũng chưa chắc màu sắc của triều đình, đừng nói đến màu của dân gian. Dễ tính lắm, cũng khó thể cho là “đậm đà bản sắc dân tộc” theo khẩu hiệu trong nước hoặc “phát huy truyền thống văn hoá dân tộc” theo khẩu hiệu ngoài nước nghe hoài phát ớn. Mầu sắc thiếu thuần nhã làm đứt đoạn với quá khứ chân phương, đó là chưa kể lẫn lộn triều đại này vào triều đại nọ. Mũ mão, màu sắc, cờ quạt, chiêng trống, võng lọng… giống nhau, giống cả nét lúc diêm dúa quá, lúc nhếch nhác quá. Tốn kém rất vĩ đại, rỗng tuếch cũng vĩ đại không kém. Hình như không còn ai nghĩ tớí một trong nét thanh lịch của người Hà Nội, là dùng màu sắc để tỏ ý chí, mà cái được đề cao nhất nơi người Hà Nội xưa, theo tác gỉa Hoàng Đạo Thuý, là giữ gìn phẩm hạnh (6). Theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh (7)“Phẩm phục đời Lý, Trần, Lê, phần nhiều theo nhà Tống, mầu tía quý nhất (cho các quan)… Từ Lý Cao Tổ trở đi mới cấm dân không được mặc sắc vàng là mầu dành riêng cho thiên tử dùng. Ðời Thái Tông, cung nữ dệt được gấm vóc, bèn đem hết gấm của nhà Tống trong Nội phủ bán cho quần thần may áo, quan từ ngũ phẩm trở lên được mặc áo gấm, từ cửu phẩm trở lên được mặc áo vóc, để tỏ vua không dùng riêng.” Cấm dân mặc màu vàng, vậy mầu của dân gian là mầu gì? Ra ngoài đường màu thường thấy là màu trắng, màu đen, màu cánh kiến, màu tiết dê, màu tam giang. Màu đỏ chỉ các quan to may áo vóc hay gấm, gọi là áo đại hồng. Yếm, các cô mặc màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, bà lão mặc màu hoa hiên, nửa đỏ nửa cam. Màu hoa đào là mầu lẳng lơ, chỉ đám con hát mặc (6). “Dẫu không thanh lịch cũng người Thượng Kinh” “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Nếu không thanh lịch cũng người Tràng An” nếu được viết đúng vào năm dời đô 1010 có thể là một đầu mối nghiên cứu dân tộc học: 1000 năm trước, tiếng Việt bình dân đầy chất thơ, ít từ “Hán Việt”, diễn tả sắc sảo, chống chế một cách nhẹ nhàng, kiêu hãnh một cách thơ mộng, ứng xử nhún nhường nhưng không tự hạ. Chỉ 14 chữ trong hai câu sáu/tám đã khiến “đối phưong’, người Thăng Long, không những quên bắt bẻ, lại còn vơ vào nhận của mình. Tuy nhiên, còn có một câu tương tự “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Thượng Kinh”. Thượng Kinh ám chỉ Tràng An hay Hoa Lư? Học trò lượm lặt xin ghi chép luôn cho đủ, những mong “giải oan” cho người Hà Nội, nếu có làm điều gì kém thanh lịch. “Giải oan” luôn cho người Hoa Lư, sá gì hai chữ thanh lịch khi được làm thần dân của một vì vua độc lập. Chiếu Dời Đô, đức Thái Tổ tự tay ghi rõ “Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Ngài dự liệu cho cả bốn phương trời mười phương bụt, không hề ngăn cấm ai. Tranh cãi ai thanh lịch hơn ai, chỉ làm đức Lý Thái Tổ đau buồn, vì ngài thuộc về cả hai. Vấn đề là làm thế nào để cùng nhau thanh lịch. Sự “thanh lịch” của Thăng Long, do hàng ngàn năm đãi lọc. Nơi đây nhiều sắc tộc cộng cư, cũng là thị tứ buôn bán, quan văn/quân lính, thư sinh/du đãng, thưong buôn/nông dân. Người Thăng Long luôn luôn đối diện với những điều bất ngờ nên quen với phế/lập, trung thành/phản trắc, kênh kiệu/khiêm nhường, chân thành/khách sáo, quí phái/bình dân, dịu dàng/thô lỗ, phù thịnh/phù suy, nhân hậu/tai ngược… Từng đó vai, vai nào cũng rành, thành thói quen “liệu lời mà nói” lúc chua lúc ngọt, rất đúng với câu ca dao Hà Nội “Chẳng chua cũng thể là chanh/Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây”. Khuê các Hà Nội chửi chua chửi ngọt hay hơn đám “ngoại nhập”. Một đoạn ngắn chửi mất gà, cho thấy người ngoại nhập còn lâu lắm mới đạt được cái trơn tru và óc tưởng tượng của người Hà Nội “Cha con mẹ đẻ đứa mớm cơm mớm cháo mặc áo sỏ tay cho chúng mày không biết dạy chúng mày để chúng mày ăn con gà của bà cha con đẻ mẹ đứa họ sống họ chết họ hết họ còn dương gian âm phủ họ năm tháng ba ngày họ một tháng hai mươi ngày của chúng mày bà sẽ giồng cây chuối ngược rủa cho chúng mày chết lúc chết láy chết không còn tử còn tôn còn con còn cháu lục sáu tam ba bà chửi cho mà nát gia nhà quốc nước …” Không cách nào bỏ dấu chấm dấu phẩy, vì khuê các chua ngọt một hơi không nghỉ. Thành Thăng Long từ Lý Vua Lý Thái Tổ đặt tên cung điện đặt theo ảnh hưởng Trung Hoa - điện Càn Nguyên, Cấm Thành, cung Nghinh Xuân, cửa Đan Phượng. Năm 1029 loạn Tam Vưong tàn phà Long Phượng thành. Nhà Trần lên, phá bỏ một số đền đài cung điện nhà Lý. Khi giặc Minh sang, tất cả san bằng. Năm 1430, Vua Lê Lợi xây dựng lại hoàng thành mới. Năm 1512, vua Lê Tương Dực cho dựng hơn 100 nóc cung điện nguy nga. Năm 1514, mở rộng Hoàng Thành thêm mấy nghìn trượng (một trượng bằng 3m60). Từ 1516 đến 1527, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Thăng Long lại quay cuồng trong khói lửa. Cung điện kho tàng đền chùa cũng như phố phường bị thiêu đốt tàn phá nhiều lần. Năm 1585 Mạc Mậu Hợp xây dựng lại Thăng Long. Đó cũng là lần cuối cùng, Thăng Long được tái xây dựng. Năm 1599 nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng. Hoàng thành Thăng Long phía Đông và phía Nam hồ Gươm đựoc tu sửa để đón vua Lê trở lại. Khi chúa Trịnh tiếm quyền, Hoàng thành điêu tàn dần. Riêng Phủ Chúa xây cung điện lâu đài ở phía Tây hồ Gươm nguy nga gấp bội cung vua, lại còn cấm dân lai vãng. Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị được thế mang 29 vạn người sang chiếm Thăng Long. Phe phù Lê được dip trả thù, tất cả lâu đài đình tạ của chúa Trịnh bị tàn phá suốt tận nền, cháy một tuần mới hết. Dân chúng quanh thành bấy lâu bị chúa Trịnh ngăn cấm, cũng uất ức tràn vào san phẳng hết. Năm 1789, khi Nguyễn Huệ ra Bắc đánh tan quân Thanh ở 12 gò Đống Đa, kinh thành lại thêm một phen tan nát. Tiếng than dài “Lối xưa xe ngựa, nền cũ lâu đài”của bà Huyện Thanh Quan, chính là thương tiếc cho Thăng Long vào thời điểm hưng phế này. Vua Minh Mạng đổi tên hoàng thành Thăng Long là tỉnh Hà Nội - có nghĩa thành ở trong sông - và nhường cho Pháp. Gạch ngói của Thăng Long bị rỡ mang về xây kinh đô Huế. Người Pháp đổi Hà Nội ra thành phố, dùng thành Hà Nội làm …trại lính. Suốt những trang sử mờ mịt khói và đầm đìa máu ấy, nhô lên những bóng nâu quờ quạng co quắp, tay không nhẫn nại bới Thăng Long từ đống tro tàn. Vì vậy, đừng lạ, khi văn chương, ký ức và cả tâm lý, tiếng nói và thể chất của người Hà Nội khác với miền khác. Khác, không có nghĩa là hay hơn, dở hơn, hay sang trọng hơn như một đống ông nghè một bè tiến sĩ một bị cử nhân một thuyền bảng nhãn một nạm thám hoa một toa MC-văn-thi-nhạc sĩ thường khuếch đại tô màu, tạo nên một dư luận khá nhơ nhuốc, là coi việc tâng bốc người Hà Nội và rẻ rúng người “nhà quê” hay người miền khác là chuyện…bình thường. Không nghĩ, chính những “miền khác” ấy đã sản sinh ra những vị anh hùng nhưng phải ra Thăng Long mới làm nên nghiệp lớn. Vài nét về người Hà Nội trước 1954 Khác với Thăng Long thời cổ rộng lớn, Hà Nội trước 1954 chỉ thu hẹp có 152 km² với 53.000 cư dân ở nội thành, tức là kẻ Chợ. Ngoài thành là kẻ Mơ, kẻ Lủ, kẻ Mọc, kẻ Noi. Văn thơ yêu “Hà Nội Ba Mươi Sáu phố phường/Lòng chàng có để lại muôn phương”, mường tượng Hà Nội êm như nhung, bóng như ngọc. Vậy mà không phảỉ vậy. Tôi đã hỏi khoảng năm mươi người Hà Nội "gia đình danh giá/giàu có như thế, vậy đồ cổ ngoạn của Việt trưng bày trong nhà là gì?" Qua câu trả lời của một đại tiểu thư rời Hà Nội năm 16 tuổi, mới hay không phải Hà Nội toàn khuê các: "Trong nhà, có hơn 15 người làm. Gọi một tiếng, “dạ” ầm ĩ cả lên. Nào là chị vú, con sen, thằng ở, u già, anh xe, chú tài, ông bõ, chú làm vườn, anh bồi, chị bếp, chị may, chị đan...Mỗi cô tiểu thư có một chị vú, một con sen riêng. Nhưng toàn là người nhà ở quê xin ra Hà Nội giúp việc nhà. Họ chỉ cần ăn, không xin lương. Đồ cổ ngoạn “truyền thống” Việt Nam? Có gì đâu. Nhớ mãi, chỉ có mỗi ống điếu hút thuốc phiện bịt bạc của ông nội thôi." Cư dân nội thành ở một số phố khang trang, gồm công chức, các thầy thông, thầy ký, giáo chức, thương buôn, đào kép, khu người Tây, khu người Tàu.. Xa xa chút nữa là đám thợ, thợ may, thợ cạo, thợ mộc, thợ chạm…. Đông đảo nhất là đám hàng rong, cháo, kẹo mạch nha, kẹo kéo, kẹo vừng, bành dầy bánh giò, bánh đúc, nước chè, ... người Hoa buôn bán sầm uất ở phố Phúc Kiến, hàng Buồm, hàng Ngang, nhưng cũng có những người Hoa cơ cực làm công cho các hiệu lớn, làm phu khuân vác ở bến tầu và bán hàng rong. Hai món quà Hà Nội, “hàn sôi phá xa” và phở là của người Hoa. Hàn sôi phá xa, đã đi vào bài hát “Ôi lạc rang, mới ra thơm dòn, lạc của tôi rất thơm và ngon vì có húng lìu”. Món phở, tức “ngưu nhục phấn”, Tản Đà, Tô Hoài đều nhắc đến. Nguyễn Dư viết một bài về xuất xứ phở, bản vẽ ghi chú rõ ràng một gánh phở rong của người Hoa (8) không phải từ món pot-au-feu cuả anh bếp Tây. Người Hà Nội ở… California Người ra Hà Nội làm việc là người tứ xứ. Dù làm quan, đi học, buôn bán, đi lính, cả chục đời vẫn là “Hoa chanh nở ở vườn chanh/Thầy u mình vói chúng mình chân quê”. Quê muôn đời là làng, là đình, là ruộng lúa, là giếng nước, là nương dâu. Cho nên, dù có sinh đẻ ở Hà Nội, dường như không ai nhận có “quê ở Hà Nội”. Quê nội, quê ngoại, tận Phủ Lý, sông Cầu, Yên Bái, Phú Thọ, Lạng Sơn... Bằng cớ, ở quận Cam, California, các hội đoàn, hội ái hữu, các trường trung học, đại học mỗi năm đều tổ chức tất niên/tân niên gặp gỡ, hội Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vũng Tàu, Bình Định, Ninh Thuận, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh, Xóm Mới Gò Vấp bé tẹo cũng có ngày Tết hội ngộ. Tuyệt không có “Hội Hà Nội”. Chỉ có mỗi một “Ngày Hà Nội’ đơn sơ ở Mile Square Park cách đây chừng 15 năm, và một buổi “Họp mặt Hà Nội” cách đây khoảng 5 năm do sự cố gắng của cố nhạc sĩ Nguyễn Hiền. Từ xa, người ta vẫn đắm đuối yêu Hà Nội. Yêu những con đường yêu đi - “Hà Nội, chao ơi Hà Nội, những con đường đọng tím, những con đường câm nín, những con đường chết lịm ở trong tôi…” - yêu những cánh hoa yêu lại “Từng cánh hoa đời khép lại/Thương về năm cửa Ô xưa!”. Thi sĩ Tạ Tỵ yêu một Hà Nội hấp hối, mong manh như thể chạm mạnh vào thì vỡ cả mảnh linh hồn. Người Hà Nội chúng tôi cũng cứ thế mà tin mà yêu một Hà Nội, “Dáng huyền tha thướt đê mê, tóc thề thả gió lê thê biết đâu ngày ấy em về”, tựa một cô gái liêu trai xanh xao gầy guộc tóc dài thắt cổ lè luỡi hớp hồn mấy anh thư sinh chết nhát, mà quên mất cái uy dõng của tổ tiên thuở dời đô. Các “bạn trẻ” Hà Nội Trách tuổi trẻ Hà Nội không có văn hoá ngắm hoa, là oan lắm. Làm sao bắt họ có một điều mà họ chưa từng nắm trong tay! Đời nhà Lý thanh bình, có người yêu hoa mới sinh ra làng Nghi Tàm ở bắc Hồ Tây và làng Võng Thị ở nam Hồ Tây quanh năm trồng hoa cung cấp cho nội thành. Thú chơi hoa lan, hoa thuỷ tiên, hoa trà… chỉ riêng người phong lưu. Tết nhất mới cố sắm cành đào, chậu quất. Trong gia đình còn nhắc, người Hà Nội trước 1954 không có lệ cắm hoa. Mỗi sáng, cô hàng hoa lướt qua để lại một chùm hoa ngâu hoa phượng hoa ngọc lan lên cái đĩa sành con trên bàn thờ ngoài sân. Có khi dăm ngày cô mới ghé lại lấy tiền, bước chân qua nguỡng cửa rón rén, thưa gửi nhẹ nhàng, “Bà ơi, con ghé ăn mày lộc bà đây, cả thẩy 6 xu rưõi bà ạ. Con còn ba chùm kim liên mấy lại hai bó bạch sen, bà đi đền Mẫu, bà tạ gíúp cho con với”. Lúc đó làng Bát Tràng làm nhiều ông bình vôi, không làm bình cắm hoa cho nội thành Hà Nội. Không có ngoại thành, người Hà Nội không có cả… cháo mà ăn sáng. Vào trong Nam, người Hà Nội cũng chỉ ngày Tết mới cắm hoa glaïeul, hoa huệ, bắt chước …Tây. Nhưng các “bạn trẻ” dầy đạp lên hoa hay phũ phàng bẻ ngắt, có bị mắng, thì không oan tí tẹo nào, dù rằng nguồn cơn không từ họ. Thanh niên Hà Nội sinh sau 1975, không còn phải chạy trốn bom đạn. Nhưng thế hệ này vẫn đối diện với một cuôc chiến mới hừng hực lưả. Tuổi thơ nhìn bố mẹ quăn queo, luồn lọt chạy vạy mới có miếng ăn, nên đoản văn đầy tình quê hương làng mạc của Thanh Tịnh có thể là một xa xỉ phẩm “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gíó lạnh, mẹ tôi âu yếm dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi lại lắm lần, nhưng lần này bỗng dưng tôi thấy lạ: hôm nay tôi đi học….” Đám trẻ tiểu học, không có những trang cổ tích ông Đồ Bể, lương thiện đến quỉ thần phải kinh sợ. Thanh thiếu niên lớn lên, thiếu không gian văn học. Không chắc có đọc Gánh Hàng Hoa của Nhất Linh-Khái Hưng để yêu mối tình thơm như hoa. Giờ này không còn ai hứa hẹn “Sông Thương nước chảy đôi ba dòng/Anh về Hà Nội một lòng thương em”. Ngâm ư ử ca dao Hà Nội “Hỡi người xách nước tưới hoa/Có cho anh được vào ra chốn này”, nghe ra hơi hâm hấp. Rón rén nhìn cô hàng xóm qua dậu mồng tơi có khi bị cô quát “soi cái gì”, chạy không kịp. Nhà cửa rác rưởi lấp cả cửa động trúc đào loang loáng vàng rơi ánh nguyệt trong Bích Câu Kỳ Ngộ. Tuổi thanh niên ấy, chắc cũng không nấp vội trong cánh cửa thuộc thơ Hoàng Cầm viết trong khói lửa vẫn đẫm mùi hy vọng Em mặc yếm trắng Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non sông Cười mê ánh nắng muôn lòng xuân sang Trở lại chợ hoa Ở Saigon trước 1975, chợ nào cũng có bán hoa ngày Tết. Sau 75, các thành phố như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, nơi nào cũng có chợ hoa. Ban tổ chức soạn sẵn chỗ cho khách thuởng hoa chụp hình, nên không bao giờ xẩy ra việc dày xéo lên hoa. Ngay cả ở Hải Phòng năm nay, hai mươi cây đào do Liên minh Nghị sĩ hữu nghị Nhật - Việt và Hội đồng tỉnh Kagawa (Nhật Bản) trao tặng, hoa xinh vẫn ửng hồng trên cây. Hái lộc đầu xuân là một nét văn hoá đẹp từ xưa. Nhưng khi người đông hơn hoa, lộc trong thiên nhiên không đủ, khiến người ta thản nhiên bẻ hoa đang trưng bày, thì nét đẹp không còn. Nói đi phải nói lại, vô tư bẻ hoa của người khác, không phải độc quyền của bạn trẻ Hà Nội. Đó là “Việt tính”, duy mức độ khác nhau. Tết Đinh Hợi 2007, ở Saigon có vụ cướp heo đất, hay “vô tư” bẻ hoa tặng nhau -báo chí trong nước cho đó chỉ vài cô em “nũng nịu” với bạn trai. Ở California, quận Cam, nơi các nhà bình luận tự xưng là “thủ đô văn hoá của người Việt tỵ nạn”, không có xuân thì nũng nịu đòi bạn hái hoa, nhưng cũng có “văn hoá bẻ hoa”. Mấy năm trước, tờ báo Người Việt hớn hở khoe năm nay cành đào trước cửa không bị chặt trụi như năm trước. Bài báo cũng lo lắng cho những cây đào của thành phố Westminster mới trồng dọc đường Bolsa, nếu bị chặt, sẽ rất xấu hổ với người Mỹ. Trong Tết, đài phát thanh VNCR năn nỉ xin bà con đừng chặt mấy cành đào trồng trước cửa, đài lo đến nỗi để camera canh chừng. Năm nào các chùa cũng ra thông báo mời đồng hương và Phật tử đi chùa cúng giao thừa. Các thầy cũng năn nỉ đừng vặt tơi tả cây cỏ của nhà chùa như mấy năm trước, các thầy đã cẩn thận gói sẵn lộc đầu năm. Không biết các chùa nơi khác có gặp cảnh tương tự? Có thật người Việt Nam tàn phế cả tâm linh? Không! Chỉ mới trước 1954, ở miền Bắc tiêu thổ kháng chiến, nhà nhà đục tường thông suốt nhau, chớ hề mất mát vật gì. Người thành phố chạy tản cư, đi đến đâu, cũng được “dân quê” đón vào nhà, chắt bót cưu mang mấy tháng trời cho đến khi người thành trở lại “vùng tề”. Sau 1975, nhà nước “phát động” vụ đi tù cải tạo, dọc đường xe lửa xuyên Việt chở “lính ngụy” từ Nam ra Bắc, không thiếu những gói cơm, gói quà, đàn bà con trẻ cố ném theo. Vẫn có bà mẹ từ Saigon ra thăm Hà Nội, kín đáo trả tiền vé cho anh bộ đội nhớ mẹ đánh liều chuồn lên xe lửa. Trong phim Mùa Len Trâu, bà mẹ miền Nam lấy cối xay gạo duy nhất để tống táng một người chết không quen biết. Miền quê Cửu Long, có nơi các ngoại vẫn theo tục xưa, để một lu nước với cái gáo dừa “đặng ông đi qua bà đi lợi lỡ độ đường hổng chết khát”. Báo chí trong nước, hễ đăng lên một chuyện thương tâm, lập tức trong nước ngoài nước gửi tiền nhờ nhà báo chuyển. Có những người nghiến răng “không cho một cắc”, vẫn có những người dành dụm tiền đào giếng cho làng Tây Nguyên tuốt trong xa. Riêng Hà Nội, người ta yêu hay ghét Hà Nội qua nhiều lăng kính. Người xa Hà Nội năm 1954, cố hình dung một Hà Nội tiểu thư thẫn thờ bên hồ “khăn san lả lơi trên vai ai”, ngập ngừng “nàng đi gót hài xanh”. Người ở lại Hà Nội sau 1954, lột sạch sành sanh khăn san trên vai và hài xanh dưới gót, trao cho cô tiểu thư Hà Nội một mớ khẩu hiệu bừng khí thế đấu tranh. Người ta trách người Hà Nội làm mất thanh mất lịch, hay văng đủ thứ trong người. Nhưng quên vẫn có Hà Nội dịu dàng “Rước bác vào chơi”, “Cháu mời cô xơi cơm ạ”. Than Hà Nội lọc lừa, vì không biết chuyện chú tài xế taxi tìm khách trả lại túi xách bỏ quên, trong có máy quay phim và mấy ngàn đô la. Vẫn có đám cựu bộ đội lam lũ, đêm xuân thết lữ khách Saigon bữa tiệc lề đường tuý luý, để trả món nợ canh cánh với một người Saigon không quen biết, đã chở anh ta đi tìm thân nhân hồi anh vào “tiếp thu Saigon” sau 1975. Hà Nội, đêm thâu tràn trề rượu quí; nhưng đâu đó Hà Nội đêm tối nhọc nhằn, việc làm không ai biết đến. Hà Nội ồn ào với những con số doanh nghiệp ngộp thở, nhưng Hà Nội cũng âm thầm từng bước cho đất nước tiến gập ghềnh. Hà Nội, xe Lamborghini vờn quanh đường phố mấp mô, nơi bố gầy guộc vấp ngã, mẹ cong lưng che mưa cho gánh hàng rong. Hà Nội, chục cô em ăn mặc bạt mạng, nhưng trăm cô em chắp tay tưởng niệm trận Đống Đa. Ngay cả sau vụ hội hoa anh đào, báo chí cho hay “nhiều bạn trẻ đã tỏ thái độ phản đối và bất bình với những kẻ cố tình xâm hại hoa cây cảnh, nhờ vậy đêm mồng một và ngày mồng hai 1/2009 tình hình đã đỡ lộn xộn hơn”. “Năm trăm anh đốt cho nàng. Còn năm trăm nữa giải oan lời thề” Bẻ hoa, hay hay dở? Bài học nào cũng thiêng liêng. Là dịp cho chính người Hà Nội xét lại hướng tư duy, để sửa soạn cho một thử thách mà chính người Hà Nội chọn lựa: năm 2010 “kỷ niệm 1000 năm Chiếu Dời Đô”. Từ đây cho đến hôm ấy, thái độ của người Hà Nội -“trái tim của cả nước”- sẽ định hình cho cả một thế hệ; chịu trách nhiệm với tổ tiên; và cả với thế hệ tương lai. Vấn đề e rằng không phải chối phăng phăng, đổ lỗi hay trách mắng các “bạn trẻ”. Chi bằng tìm đúng những người bạn trẻ ấy, giao cho họ trách nhiệm lo về hoa lá ngày hội 2010. Chỉ riêng khoản hoa lá, không thiếu gì việc. Đặt mua hoa, tỉa hoa, vẽ kiểu, trộn màu, tưới tắm, tạo không gian chụp ảnh như các thành phố “đàn em”. Giao cho các bạn trẻ một công việc lịch sử, còn hơn hồi hộp không biết lễ mừng Một Ngàn Năm Thăng Long, rồng hoa có bị vặt trụi cả râu lẫn vảy. Làm sao hương hoa còn mãi? Không phải chụp vài cái ảnh bên hoa là giữ mãi được mùi hương. Các bạn Hà Nội trẻ may mắn được tiếp cận địa bàn, ngàn năm mới có một lần này, đừng ngại ngược dòng lịch sử làm chuyện chắp vá: vịn vào những chi tiết nhỏ lượm lặt trong dân gian, tựa vào hàng ngàn trang sử thi sử ký, kèm theo điền dã thực tế, vẽ lại triều Đinh triều Lý ngàn năm trước, trước khi thời gian đổ ập thêm lớp bụi dầy. Học trò yêu sử ở xa như tôi thiết tha muốn biết * Tổ tiên trực tiếp của hai vì vua Lí Bí-Lý Công Uẩn là ai? * Có bao nhiêu đền chùa đình tạ đời Lý, bao nhiêu chùa Việt, bao nhiêu chùa gốc Chàm? Di tích còn không? * Có phải trong mỗi chùa Phật, đều có một bàn thờ Mẫu? * Tại sao năm 1160, vua Lý Anh Tôn làm đền thờ Xuy Vưu một lượt với đền thờ Hai Bà như ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư? * Bà Chúa Kho là ai? * Văn hoá phồn thực trước và sau đời Lý? * “Ðời Thái Tông, cung nữ dệt được gấm vóc”, có phải do công của Bà Chúa Dệt Lĩnh, bà là ai? * Gấm nhà Tống màu gì? Vóc là gì, sản phẩm của Tống hay của Việt? Nên chọn màu gì cho ngày kỷ niệm Dời Đô? * Tộc nào thuộc chi Âu, tộc nào thuộc chi Lạc? Thế nào là văn hoá bản địa, làm sao gìn giữ được nét văn hoá nơi dân tộc ấy? Hai đường rầy song song: Tìm về bản sắc và hội nhập toàn cầu Giấc mơ thế kỷ 21 không khác lắm với giấc mơ Lý Bí - Lý Công Uẩn ngàn năm trước: tự tin giữ lại văn hoá Đông Nam Á và đứng vững bên bờ Thái Bình Dương, vùng đất giao thoa của hai nền văn minh rực rỡ Trung Hoa và Ấn Độ. Tin mồng bốn Tết, mừng cho cả trong lẫn ngoài nước: Chợ hoa tuần rồi ở trong nước, các bông hoa vẫn bình yên. Hai cây đào ở trước đài phát thanh VNCR ở Califorrnia cũng bình yên. Chuẩn bị cho năm 2010, kỷ niệm một ngàn năm Chiếu Dời Đô, ngàn cây xanh đang được trồng trên đường Lê Văn Lương, đang đặt tên mới cho những con đường. Có con đường nào tên “đường Giải Oan”, như đã có Chùa Giải Oan, Suối Giải Oan, Giếng Giải Oan? Cuộc chíến anh em Nam/Bắc hơn nửa thế kỷ qua, là điều oan uổng lớn nhất. Cuộc chiến đã oan, sản phẩm của cuộc chiến ấy, làm sao không oan cho được! “Giải oan lời thề”, và quên đi vài bông hoa cướp vội! Năm mới tháng Giêng mồng bốn Tết, Xuân Kỷ Sửu 2009 California Trần Thị Vĩnh Tường Ghi chú: (1) Hồng Thái - Thêm một cách hiểu hai câu ca dao về Hà Nội (2) Hoa Lư (3) Đền vua Đinh - Tỉnh Ninh Bình (4) Keith Taylor – The Birth of Vietnam – University of California Press – 1983 (5) Văn hoá Bách Việt vùng Lĩnh Nam - Tư liệu Nguyễn Ngọc Thơ/Trường Đại Học Nhân Văn TP HCM (6) Phố phường Hà Nội xưa – Hoàng Đạo Thuý, Sở VHTT Hà Nội 1974 (7) Đại Lược Về Quan Chế / Phẩm Phục - Nghi Vệ , Nguyễn Thị Chân Quỳnh (8) Phở, phởn, phịa ..., Nguyễn Dư
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:39:43 GMT 9
VIỆT NAM VÀ ĐÔNG Á
GS. Trần Đức Thảo Rất nhiều người biết đến Giáo sư Trần Đức Thảo như một nhà triết học lỗi lạc. Tuy nhiên, không ít người không biết rằng ông còn là một nhà sử học lớn và đã từng chung tay xây dựng Khoa Lịch sử từ những ngày đầu được thành lập. Website Khoa Lịch sử xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc một bài viết nhỏ về lịch sử của Giáo sư Trần Đức Thảo dưới tựa đề Việt Nam và Đông Á. (Dịch từ nguyên bản tiếng Anh “Vietnam and East Asia”, in trong The Far Eastern Review, Vol. 6, No. 4, French Indochina (Aug., 1947), tr. 409 - 413). Vào tháng Ba trước, Hội nghị Liên Á tại New Delhi đưa ra cử chỉ rất rõ về sự cảm thông của nhân dân châu Á với Việt Nam trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đây không phải chỉ là một động thái suông. Chính phủ Ấn Độ đã quyết định hạn chế đường bay của Pháp qua lãnh thổ nước mình, đồng thời, những người công nhân khuân vác ở cảng đã từ chối cung cấp thực phẩm cho việc vận chuyển quân đội Pháp. Sẽ có người đánh giá về “Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc châu Á” trong những hành động như trên đây. Họ sẽ gợi lại sự tuyên truyền của người Nhật về một “đại Châu Á” mà thực tế là một châu Á đô hộ bởi chủ nghĩa đế quốc Nhật. Hội nghị Liên Á hướng về một ý nghĩa hoàn toàn khác. Nó khởi động lại một khuynh hướng lâu dài vốn bắt đầu từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, chấn hưng châu Á bằng tư tưởng dân chủ của Tây Âu. Những nhà lý luận Trung Quốc như Lương Khải Siêu và Khương Lương cùng với một nhóm các nhà khai quốc, trong đó nổi bật nhất là Tôn Dật Tiên - cha đẻ của Cộng hòa Trung Hoa - đã thực hiện chương trình truyền bá tích cực những tư tưởng của Cách mạng Pháp. Đã mất độc lập, Việt Nam bị cuốn vào phong trào này. Những cây bút người Việt đọc Rousseau và Montesquieu qua các bản dịch Hán ngữ và tìm cách truyền bá những giá trị của văn hóa Tây phương đến người dân mình. Sự đồng thuận trên phạm vi lớn mà họ tạo ra đã biến họ bị thành những đối tượng bị theo dõi; họ bị các nhà cầm quyến Pháp bắt bớ và đày ra Côn Đảo. Tại Trung Quốc, Tôn Dật Tiên nhậm chức năm 1912 nhưng Quốc Dân Đảng vẫn chưa đạt được cuộc cách mạng dân chủ. Cuộc nội chiến với những nhà Cộng Sản đã chuyển hóa Quốc Dân Đảng thành một Đảng của sự phản kháng và làm chậm bước tiến của cả hai mục tiêu: tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến và xây dựng một chế độ dân chủ. Và chính bởi thế, cái phong trào mà có nhiều khả năng sẽ hiện thực hóa được niềm mong ước của người châu Á về sự hòa nhập thực sự vào với quỹ đạo văn minh Tây Phương đã bị sa lầy. Giá như những nhà dân chủ cách mạng thành công ở Trung Quốc cũng như ở những nước nằm trong phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc như Việt Nam, sự hội nhập của Viễn Đông vào cộng đồng quốc tế có thể đã diễn ra một cách yên bình. Việc phong trào bị cản trở dẫn Nhật Bản đến chiến dịch tái dựng châu Á và xu hướng áp dụng những phương pháp phát xít. Sự hồi sinh của châu Á đi theo dạng thức của chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến. Người Nhật đã dùng quá nhiều bạo lực để có thể bá chủ Viễn Đông. Trung Quốc kháng chiến hào hùng mười bốn năm và cuối cùng đi đến thắng lợi. Ấn Độ, dù khôn nguôi mong mỏi giải phóng khỏi đế quốc Anh, có tầm nhìn xa trông rộng khi cùng các quốc gia dân chủ nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc phát xít. Tại Việt Nam, người Nhật - mặc cho cơ sở mà họ đạt được thông qua thỏa ước Pháp - Nhật năm 1940 - không thể thực hiện được bất kỳ một phong trào đáng kể nào trong “Khối thịnh vượng chung Đại Á”. Tại Hội nghị Toàn Á tại Tokyo năm 1943, thậm chí không có đại diện Việt Nam. Ngược lại, các mạng lưới kháng chiến - không chỉ kháng Nhật mà chống cả chính quyền Pháp ủng hộ Nhật - mọc lên ở nhiều trên lãnh thổ Việt Nam. Sự thoái vị của Bảo Đại và Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 là kết quả của một cuộc khởi nghĩa rộng khắp của một dân tộc chống lại bất kỳ một dạng đế quốc chủ nghĩa nào. Vì thế, thật không bất ngờ khi Việt Nam được đón tiếp đặc biệt trọng thể tại Hội nghị Liên Á tại New Delhi. Sự thất bại của Nhật Bản đã làm thành công việc vạch trần chủ nghĩa phát xít bằng việc chỉ ra rằng việc giải phóng châu Á chỉ có thể đạt được thông qua ý nguyện giành độc lập của con người chứ không phải chủ nghĩa đế quốc châu Á. Cách mạng Việt Nam, cùng với cách mạng Indonesia, chỉ ra những gì con người ta có thể đạt được một khi họ quyết tâm dành được tự do. Thất khó để cường điệu thêm tầm quan trọng của Việt Nam trong thế giới Đông Á. Lãnh thổ Việt Nam giữ một vị trí chiến lược; Trung Quốc, Malysia và Ấn Độ tạo thành một vòng bao rộng lớn; Sài Gòn - cảng lớn của Việt Nam - cách Batavia[1], Manila, Hồng Kông chừng 1.200 dặm, cách Ceylon[2] và Calcuta khoảng 1.500 dặm. Từ thời cổ đại, lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã là giao điểm của người Viễn Đông. Thời tiền sử, vùng đất này đã được khai phá bởi những người có thể đã đến từ Indonesia. Vùng thượng do nhiều lớp cư dân đến từ phía tây và phía bắc khai phá và làm chủ. Vào khoảng đầu công nguyên vùng châu thổ Bắc Bộ và bắc Trung Bộ được người Việt khai phá. Họ bị đô hộ bởi người Hán nhưng cũng đồng thời học từ kẻ cai trị họ những nét văn hóa và các loại thể chế chính trị. Trung bộ và nam Trung Bộ là đất của người Chàm, những người tiếp thu văn minh Hindu qua các thương nhân và giáo sĩ Ấn - những người sống xen kẽ với cư dân Chàm. Người Việt - dù sống dưới ách đô hộ của phương Bắc vẫn bảo tồn ngôn ngữ và gốc gác của họ - giành được độc lập vào thế kỷ X và liên tiếp thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống Trung Quốc xâm lược. Họ tiến xuống phía nam và dần bình định người Chàm. Trên một phương diện nào đó, quá trình nam tiến này là sự thắng lợi của văn minh Trung Hoa đối với văn minh Ấn Độ, nhưng một số yếu tố văn hóa Chàm, đặc biệt là âm nhạc, thẩm thấu vào văn hóa Việt. Vào thế kỷ XVIII, người Việt định cư trên vùng đất Nam Bộ và đồng hóa những cư dân bản địa vốn gần với văn minh Hindu. Bởi lẽ đó, lãnh thổ Việt Nam ngày nay, gồm cả Bắc - Trung - và Nam Bộ, là điểm giao thoa của hai nền văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ. Việt Nam hiện nay có bản sắc văn hóa của riêng mình, dù cho văn hóa Trung Hoa in dấu đậm, những ảnh hưởng khác cũng lưu lại dấu ấn của mình. Các cảng Việt Nam đón thuyền buôn từ Nhật, Philipine, Java và Ấn Độ. Vào thế kỷ XVI, Hội An đã có những cộng đồng người Nhật sinh sống và ngày càng hòa nhập với cư dân bản địa. Sự xâm lược của người Pháp và mối liên hệ giữa thuộc địa với mẫu quốc đã làm suy yếu - dù không hoàn toàn phá vỡ - những mối liên hệ của Việt Nam với những vùng môi trường tự nhiên truyền thống. Trung Quốc tiếp tục nhập khẩu gạo, cá khô, quế và xuất sang Việt Nam chè, miến, dược liệu, vải vóc. Việt Nam xuất sang Nhật những sản phẩm công nghiệp thô như than đá, cao su và đồ sơn, đồng thời nhập khẩu từ Nhật các loại thành phẩm. Việt Nam cũng đồng thời duy trì quan hệ thương mại, dù không quan trọng lắm, với Ấn Độ, Singapore, các vùng Đông Ấn thuộc Hà, và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc chính quyền thuộc địa ưu tiên quan hệ thương mại với Pháp là điều không tránh khỏi. Việt Nam xuất đi gạo, chè, hạt tiêu, cao su, than hoa để nhập về các loại thành phẩm. Không thể không kể đến những dạng thức “nhập khẩu vô hình” [mà người Pháp thu lợi] chủ yếu là các khoản tích cóp mà đám quan lại và nhân viên người Pháp gửi về nước sau khi đã đến xứ sở thuộc địa để làm giàu, cũng như những khoản chia chác bởi các công ty thực dân cho các nhà đầu tư tại châu Âu. Vào thời điểm khủng hoảng kinh tế năm 1929, kim ngạch giữa Việt Nam với khu vực Viễn Đông rất hài hòa trong khi với Pháp lại mất cân đối. Trước Thế chiến lần thứ nhất, xuất khẩu của Việt Nam sang Viễn Đông vượt 49% so với nhập khẩu từ khu vực đó. Sau năm 1920 con số này là 139%. Ngược lại, Pháp bán sang Việt Nam nhiều hơn là mua từ xứ này - những đa dạng về thống kê qua việc bù cân đối với những thể hiện trong quan hệ thương mại với vùng Viễn Đông. Kết quả này thu được thông qua hệ thống thuế đặc biệt mà Viễn Đông phải thể hiện sự thâm hụt trong cân bằng thương mại của thuộc địa với chính quốc. Những tác gia người Pháp của hệ thống này đã giải thích rằng vấn đề trên là sản phẩm của cấu trúc kinh tế của Việt Nam. Quả thực là nó dường như có lợi nếu những loại hàng hóa xuất khẩu trên quy mô lớn nên được bán ở những quốc gia lân cận trong khi các thành phẩm - vốn chiếm tỉ trọng lớn trong số hàng xuất khẩu - có thể đến từ những xứ sở xa xôi bởi chúng có giá trị cao trong khi khối lượng lại tương đối nhỏ nên chi phí vận chuyển thấp. Sau năm 1929, các quốc gia Viễn Đông - do bị lún sâu vào trong cuộc khủng hoảng của thế giới - sử dụng những biện pháp bảo hộ, theo đó Pháp buộc phải tiếp nhận một phần lớn của các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam. Gạo Nam Kỳ - nay không còn thị trường tiêu thụ tốt tại Trung Quốc - được chuyển về Marseilles. Khoảng cách giữa xuất khẩu và nhập khẩu từ nước Pháp suy giảm. Tỉ lệ này phần nào giảm do tỉ giá hối đoái ở vùng Viễn Đông - vốn có lợi cho Việt Nam. Không lâu sau đó hệ thống “kinh tế đế quốc” bộc lộ những khó khăn nghiêm trọng. Gạo nhập khẩu từ Việt Nam cạnh tranh với mì và các loại ngũ cốc sản xuất tại các mẫu quốc, tạo nên làn sóng phản đối mạnh mẽ của nông dân Pháp. Những nỗ lực nhằm hội nhập nền kinh tế Việt Nam đe doạ làm nền kinh tế Pháp mất thăng bằng. Ngoài ra, khó có thể đưa ra lý do chính đáng để có thể áp thuế vận chuyển đường biển quá cao đối với loại sản phẩm như gạo, hoặc cấm hoàn toàn việc người Việt tiêu thụ các hàng hoá thành phẩm có giá thấp khi mà các hàng hoá này có thể kiếm được từ Viễn Đông. Bởi lẽ đó, những sản phẩm trên phải được chấp nhận nhằm tống tháo những sản phẩm có thể xuất khẩu cuả Việt Nam - những thứ nước Pháp không thể tiêu thụ. Rõ ràng là, với vị trí nằm kẹp giữa Trung Quốc và Ấn Độ, nằm trên sườn Thái Bình Dương và quay mặt ra thế giới đại dương, nền kinh tế Việt Nam thuộc về hệ thống các mối quan hệ kinh tế tự nhiên không thể bị phân tách. Những hiện thực điạ lý, lịch sử và kinh tế nói trên hội tụ lại tạo cho Việt Nam một vị trí đặc biệt ấn tượng ở trung tâm của Đông Á. Mặc dù thế, điểm này không được nhìn nhận một cách chân xác cho đến thời gian gần đây. Dưới hệ thống thuộc địa, một nước như Việt Nam không có vị thế quốc tế. Chỉ có các phong trào cách mạng qua các thời điểm khác nhau gợi lại những mối sự ràng buộc giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới, mà cụ thể hơn là với thế giới châu Á. Đã có đề cập về những môn đệ người Việt - những người thấm nhuần tư tưởng dân chủ Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Nhiều người trong số này đã bị chính quyền Pháp trục xuất năm 1908. Tuy nhiên, trước khi áp dụng những biện pháp đàn áp, các nhà cầm quyền Pháp đã thu hút về Việt Nam những nhà cách mạng tiêu biểu như Tôn Dật Tiên. Viên Toàn quyền Paul Doumer lúc đó nghĩ rằng ông ta có thể sử dụng họ để thò một tay của mình vào nam Trung Quốc bởi Bắc Kỳ nằm ở một vị trí tiền tiêu để có thể thâm nhập vào Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên, cái kỷ nguyên mà người ta dự định chia cắt Trung Quốc giữa các cường quốc với nhau đã qua rồi; và người Hoa ở Bắc Kỳ chủ yếu hoạt động ở khía cạnh khác; nó tạo điều kiện để họ liên hệ mật thiết hơn với các cộng đồng người Việt. Những nhà cách mạng Việt Nam tham dự vào cách mạng Trung Quốc năm 1912-1913. Sau Thế chiến lần thứ nhất, Trung Quốc trở thành điểm trú chân của các nhà dân tộc Việt Nam và các nhóm Cộng sản đảng - những người tiếp tục theo đuổi cuộc chiến chống lại sự cai trị của Pháp. Chính trong cuộc chiến đó mà sự quan trọng chiến lược, kế tiếp là tầm quan trọng chính trị, của Việt Nam lần đầu tiên thể hiện rõ rệt. Các chuyên gia quân sự cho rằng cuộc tiến công tập kích vào Mã Lai và cuộc tiến chiếm Singapore không thể xảy ra nếu như không có việc quân Nhật rút khỏi Sài Gòn - cứ điểm hoạt động qua bản thỏa thuận Nhật - Pháp năm 1940. Ngoài ra, những cảng tự nhiên của dọc bờ biển Việt Nam cũng cần được lưu ý, nhất là cảng Cam Ranh - nơi hạm đội Rodjetsvinsky của Nga neo đỗ trước ngày diễn ra trận Tsushima năm 1905, đồng thời là vịnh Hạ Long, gần khu mỏ than Hòn Gai, được che chắn gió và các dòng đới lưu và có thể hình thành một cảng neo đậu lớn nhờ độ sâu tự nhiên lên tới ba mươi bộ. Vị thế thuận lợi của Việt Nam phục vụ như một đầu cầu cho chính sách quân phiệt của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản. Tuy nhiên, nó cũng có thể phục vụ những mục đích hòa bình và xây dựng. Bởi lẽ đó, sự phát triển của các mối quan hệ liên thông làm cho chúng ta có thể nhìn nhận Ấn Độ như một phần hữu cơ của một khu vực bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và toàn vùng Malayu. Nằm ở trung tâm, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành những giao đạo của các tuyến liên lạc. Với sự thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật, tiến trình của châu Á chắc chắn sẽ theo hướng dân chủ. Việt Nam vì thế sẽ không là gì hơn một con tốt - cho dù chắc chắn đó là một con tốt tối quan trọng - nếu như lại diễn ra việc sử dụng lực lượng. Tuy nhiên, nếu như tiến trình đó của người châu Á diễn ra theo các phương cách dân chủ, nếu như sự đoàn kết tự nhiên - không phải được hình thành trên cơ sở những lý thuyết dân tộc xuẩn ngốc bởi chúng thường từ những nguồn rất khác nhau nhưng trong một hoàn cảnh kinh tế thông thường - không cho phép những cản trở đối với nền độc lập của bất kỳ ai trong số đó, thì một quốc gia như Việt Nam, mặc cho lãnh thổ tương đối hạn chế và dân cư tương đối nhỏ, hoàn toàn có thể cho thấy nó vẫn là một mắt nối quan trọng. Và nếu thế thì Việt Nam sẽ góp một phần thiết thực trong tiến trình của toàn khu vực. (Hoàng Anh Tuấn dịch) [1] Nay là thủ đô Jakarta của Indonesia - ND. [2] Nay là Sri Lankar - ND.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:41:18 GMT 9
ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG - BƯỚC TRƯỞNG THÀNH VƯỢT BẬC CỦA DÂN TỘC PGS.TS Vũ Văn Quân Kinh đô - thủ đô là trung tâm quyền lực quốc gia[1]. Quyền lực đó phải được tập trung và lan toả. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu và hiệu quả về quản lý và phát triển đất nước, tạo nên sự gắn kết quốc gia - dân tộc. Vì thế, chọn lựa vị trí để dựng đặt kinh đô - thủ đô là một vấn đề lớn, có đúng đắn nhưng cũng có sai lầm, mặt khác nữa - do tác động bởi nhiều yếu tố mang tính lịch sử, cũng không phải là nhất thành bất biến. Cũng chính vì thế, phần lớn các quốc gia trên thế giới, trong suốt quá trình lịch sử của mình, việc dời chuyển kinh đô - thủ đô là chuyện bình thường. Thậm chí, đến nay, vẫn đang còn diễn ra. Vậy đâu là đúng đắn khi chọn lựa vị trí dựng đặt kinh đô - thủ đô? Ở đây phải giải bài toán giữa địa điểm và khả năng phát triển thành “trung tâm quyền lực quốc gia”. Đó là sự tổng hợp của tất cả các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá. Kinh tế, xã hội, văn hoá được quy định nhiều bởi tự nhiên. Lợi thế tự nhiên (địa hình, khí hậu, thuỷ văn) thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng như thế chưa đủ - tất cả những thế mạnh này phải được đặt ở một vị trí địa lý - không gian tối ưu nhất để, thứ nhất - cộng hưởng với yếu tố trung tâm chính trị - hành chính quốc gia vốn được tạo ra bởi chủ quan của lực lượng cầm quyền để phát triển và thứ hai - khả năng phủ - toả của quyền lực đó trên phạm vi toàn quốc. Trong điều kiện thời cổ trung đại, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đó thường phải ở vị trí “trung tâm” - theo nghĩa “ở giữa”. Sau này, từ thời cận đại, khi khoa học đã phát triển, cơ sở hạ tầng đã hiện đại - nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, yêu cầu này không còn mang ý nghĩa tiên quyết nữa. Trên những ý nghĩa như thế, lập đô là một việc lớn, liên quan không chỉ đến tầng lớp thống trị, mà còn quyết định đến sự an nguy của xã tắc, sự phát triển hay tụt hậu của quốc gia - dân tộc. Vương triều Lý ra đời năm 1009 mở đầu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của quốc gia người Việt, của một “thời đại Lý - Trần” vàng son trong lịch sử Việt Nam. Ngay sau ngày lên ngôi, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, đổi tên thành Thăng Long. Sự kiện này, xét trên mọi chiều cạnh, phản ánh một bước trưởng thành vượt bậc của dân tộc. 1. Trưởng thành về lực lượng Năm 905 Khúc Thừa Dụ xưng nền tự chủ - mở đầu một thế kỷ quá độ - bản lề của lịch sử Việt Nam[2]. Tuy nhiên, đó mới chỉ là mốc khởi đầu. Với hai nội dung cơ bản là độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia, thế kỷ X là cuộc đấu tranh không ngừng của cha ông ta để thực hiện các mục tiêu đó. Bao trùm hơn cả là cuộc đấu tranh giành, giữ và khẳng định nền độc lập dân tộc. Với Khúc Thừa Dụ - rồi họ Khúc, họ Dương (905 - 937) - nền tự chủ của người Việt đã được khôi phục, nhưng phải đến chiến thắng Bạch Đằng (938) nền độc lập của người Việt mới được xác lập đầy đủ, cả trên thực tế, cả trên danh nghĩa, và phải đến chiến thắng chống Tống lần thứ nhất (981), nền độc lập đó mới được khẳng định một cách mạnh mẽ. Dồn dập các sự kiện quân sự để rồi qua mỗi sự kiện đó người Việt thêm một bước lớn mạnh, nền tự chủ - độc lập của người Việt thêm một lần được khẳng định. Đánh bại nhà Tống - một đế chế đã thống nhất Trung Quốc và đang trên đường hùng mạnh - là thắng lợi vĩ đại của cha ông ta, nó chứng tỏ sự lớn mạnh vượt bậc về lực lượng của người Việt trên mọi phương diện và khẳng định vững chắc chủ quyền, nền độc lập của dân tộc. Thứ hai, đây cũng là thế kỷ của cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tập quyền thống nhất và phân tán cát cứ. Dưới thời Bắc thuộc, từ khoảng thế kỷ VI, trong lòng xã hội người Việt đã hình thành tầng lớp hào trưởng địa phương giàu có. Nhờ có tinh thần dân tộc muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào phong kiến Trung Hoa, tầng lớp này đã giành được uy tín lớn trong nhân dân và trở thành người phất cờ trong các phong trào khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, khi nền tự chủ - độc lập đã giành lại được, nhất là khi người đại diện cho các chính quyền tự chủ - độc lập đó không đủ công huân, tài năng và uy tín thì các hào trưởng với thuộc tính cố hữu là cục bộ địa phương sẽ lập tức trỗi dậy. Đỉnh điểm của xu hướng này là cục diện mười hai sứ quân xuất hiện sau khi Ngô Quyền mất (944), chính quyền trung ương nhà Ngô suy yếu và tan rã (965). Đó là một bất lợi lớn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước, đến nền độc lập vừa mới giành lại được. Bởi, chúng ta biết, hai nhiệm vụ có tính lịch sử của Việt Nam xuất phát từ vị trí địa lý, địa hình và đặc điểm khai phá châu thổ sông Hồng là chống ngoại xâm và trị thủy. Đó cũng chính là những nhân tố tác động đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang trong điều kiện phân hóa xã hội chưa cao, đồng thời là những nhân tố luôn tác động, quy định nhiều nội dung và đặc điểm của lịch sử Việt Nam sau nay. Cụ thể và đặc biệt là, để thực hiện hiệu quả hai nhiệm vụ đó, chính quyền nhà nước - nhất là chính quyền trung ương phải vững mạnh, quốc gia phải thống nhất. Vì thế, tập quyền và thống nhất quốc gia phải là yêu cầu và xu thế của lịch sử Việt Nam. Đinh Bộ Lĩnh cờ lau dẹp loạn, lần lượt đánh dẹp các sứ quân, thống nhất đất nước, khôi phục chính quyền trung ương đánh dấu một thành tựu, một bước trưởng thành trên “con đường dân tộc” của dân tộc Việt Nam, khẳng định sự thắng thế của yêu cầu và xu hướng tập quyền và thống nhất đất nước. Thứ ba, thế kỷ X, dù phải tập trung cao độ nỗ lực vào việc thực hiện các nhiệm vụ trên, nhưng cũng là thế kỷ bước đầu của công cuộc dựng xây đất nước. Thể chế nhà nước từng bước được xây dựng quy củ - trong đó rất đáng chú ý là những cải cách trên phương diện hành chính - tổ chức lại hệ thống chính quyền địa phương. Kinh tế có bước tiến nhất định, với nhiều sông ngòi được khai thông, đường sá được mở mang, vua đi cày ruộng tịch điền (Lê Hoàn) để khuyến khích chăm lo nông nghiệp… Văn hoá, bên cạnh phần lớn bình dân - dân giã - dân gian, ngày càng đông đảo tầng lớp sư tăng - trí thức uyên bác và lịch lãm… Tóm lại, thế kỷ X với quá nhiều các hoạt động quân sự để giành và giữ nền độc lập dân tộc, để khắc phục khuynh hướng phân tán cát cứ đã kết thúc với sự khẳng định vững chắc nền độc lập dân tộc, với sự thắng thế của xu hướng tập quyền và thống nhất quốc gia. Thành tựu đó là cộng dồn của cả một thế kỷ cha ông ta nỗ lực không ngừng, của đóng góp của họ Khúc, họ Dương, của các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê. Nó là bằng chứng về bước trưởng thành vượt bậc của lực lượng dân tộc, làm tiền đề cho cuộc bứt phá vĩ đại, mà sự kiện dời đô vừa như một biểu hiện, vừa như một mốc mở đầu. 2. Trưởng thành về nhận thức Xét trên nhiều ý nghĩa, Thăng Long - Hà Nội hội đủ những điều kiện căn bản để trở thành kinh đô - trung tâm quốc gia. Vùng đất này ở vào vị trí “trung tâm” đất nước, trung tâm châu thổ sông Hồng, điều kiện tự nhiên thuận lợi, đủ thế mạnh để hội tụ và lan toả. Có lẽ vì thế, một cách “tự nhiên”, từ rất sớm những lợi thế này đã được phát hiện. Bằng chứng là, sau kháng chiến chống Lương thắng lợi năm 542, Lý Bí - Lý Nam Đế đã chọn vùng trung tâm Hà Nội ngày nay để đặt thủ phủ, dựng thành luỹ, mở chùa Khai Quốc - tiền thân của chùa Trấn Quốc ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng, có thể coi Lý Bí là người Việt đầu tiên đã nhận ra vị trí trung tâm đất nước của Thăng Long - Hà Nội. Tiếp đấy, đến thời các chính quyền đô hộ Trung Hoa Tùy và Đường, cũng đã chọn nơi đây làm thủ phủ. Năm 607 nhà Tùy chuyển trị sở quận Giao Chỉ (vùng Bắc Bộ) từ Long Biên (Bắc Ninh) về Tống Bình (Hà Nội). Năm 679, nhà Đường lập An Nam đô hộ phủ (vùng lãnh thổ Việt Nam từ Đèo Ngang trở ra và một phần phía nam hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc), Tống Bình trở thành trị sở của An Nam đô hộ phủ. Một hệ thống thành luỹ và dinh thự được xây dựng: năm 621, Tổng quản Khâu Hòa xây Tử Thành (thành con) bên sông Tô Lịch, năm 767 Kinh lược sứ Trương Bá Nghi đắp La Thành[3], năm 866 Tiết độ sứ Cao Biền đắp Đại La thành “… chu vi 1.980 trượng 5 thước (6,139km), cao 2 trượng 6 thước (8,06m), chân thành rộng 2 trượng 6 thước (8,06m), bốn mặt xây nữ tường (tường nhỏ xây trên thành lớn) cao 5 thước 5 tấc (1,7m), 55 địch lâu (lầu vọng địch), 5 môn lâu (lầu xây trên cửa thành), 6 ủng môn (cửa tò vò, cửa nách), 3 ngòi nước, 34 con đường; lại đắp đê chu vi 2125 trượng 8 thước (6,589 km), cao 1 trượng 5 thước (4,65m), chân đê rộng 3 trượng (9,3m), lại dựng hơn 5.000 gian nhà”[4]. Dường như đặc tính “đất đế vương” của Thăng Long - Hà Nội là một cái gì đó tự nhiên, dễ nhận thấy và đã được nhận thấy từ rất sớm. Việc Lý Công Uẩn dời đô ra thành Đại La có thể coi là sự tiếp nối của nhận thức đó. Nhưng khác với trước đó, đây là lần đầu tiên, nhận thức đó được “tuyên ngôn” với những phân tích toàn diện - phản ánh một tư duy khoa học đáng kinh ngạc của Lý Công Uẩn về vị thế của Thăng Long - Hà Nội qua Chiếu dời đô: “… Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi mãi muôn đời…”[5]. Từ cảm nhận tự nhiên (Lý Bí) đến nhận thức khoa học (Lý Công Uẩn) là một bước tiến, bước trưởng thành quan trọng của người Việt Nam trong nhận thức về vị thế của vùng đất Thăng Long - Hà Nội này.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:41:49 GMT 9
3. Trưởng thành về tư duy quản lý đất nước Đó là tư duy cầm quyền dựa trên quan điểm phát triển, lấy phát triển để tạo ra khả năng phòng thủ. Kinh đô - thủ đô là trung tâm quyền lực của đất nước, là trung tâm chính trị, hành chính quốc gia. Trong điều kiện đặc thù của Việt Nam với hai nhiệm vụ lịch sử mang tính hằng xuyên là chống ngoại xâm và trị thuỷ luôn đòi hỏi một thiết chế chính trị tập quyền cao với một chính quyền nhà nước trung ương mạnh và trạng thái quốc gia thống nhất thì vai trò của kinh đô - thủ đô lại càng đặc biệt quan trọng. Vấn đề ở đây là phải giải bài toán giữa mục tiêu đảm bảo an ninh với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Có khi hy sinh cái này để đảm bảo cái kia và ngược lại. Trên một ý nghĩa nhất định, hai nhà Đinh - Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư là sự lựa chọn ưu tiên cho mục tiêu an ninh vì Hoa Lư ở vào địa thế hiểm yếu, khả năng phòng thủ tốt. Đó có thể coi là lựa chọn “không thể khác” trong bối cảnh bấy giờ[6]. Trong điều kiện một chính quyền - nhất là chính quyền trung ương chưa thực sự vững mạnh, nguy cơ xâm lăng từ phương Bắc và sự trỗi dậy của các thế lực cát cứ luôn tiềm ẩn thì việc chọn Hoa Lư làm kinh đô của hai nhà Đinh và Tiền Lê có thể coi là hợp lý. Hoa Lư dù không thật cô lập do vẫn có hệ thống giao thông - nhất là đường thủy thông với bên ngoài, nhưng có địa thế hiểm trở. Đóng đô ở Hoa Lư là một sự lựa chọn đảm bảo an toàn hơn cho chính quyền trung ương trong những điều kiện như thế[7]. Nhưng Hoa Lư không thuận lợi về vị trí, về điều kiện tự nhiên để phát triển thành trung tâm kinh tế, văn hoá số một của đất nước. Vì thế, lựa chọn này, trên một ý nghĩa nhất định, có thế xem là sự “hy sinh” phát triển để đáp ứng yêu cầu an ninh. Còn Thăng Long - Hà Nội, với vị trí ấy, điều kiện tự nhiên và lịch sử ấy tập trung rất nhiều lợi thế để phát triển thành trung tâm chính trị, hành chính, văn hoá số một của đất nước. Nhưng Thăng Long - Hà Nội lại cũng có hạn chế lớn, là ở vào nơi rất trống trải giữa vùng đồng bằng, khả năng phòng thủ kém. Chọn Thăng Long làm kinh đô là để phát triển mạnh mẽ đất nước, không phải là sự đánh đổi - hy sinh yếu tố an ninh để phát triển, mà là lấy phát triển để tạo ra khả năng quốc phòng, để đảm bảo an ninh. Có thể nhận thấy thực tế này ngay sau đó mấy thập kỷ kể từ khi vương triều Lý được thành lập. Từ Lý Công Uẩn định đô Thăng Long, quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Lý Công Uẩn và các vua nhà Lý sau này, đã trên cơ sở trung tâm chính trị, hành chính Đại La của chính quyền đô hộ phương Bắc thời Tùy, Đường xây dựng Thăng Long trở thành trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế và trung tâm văn hóa số một của đất nước. Bộ máy nhà nước trung ương được xây dựng và kiện toàn theo hướng tập quyền nên Thăng Long ngay từ đầu đã trở thành trung tâm quyền lực với sự tập trung cao. Bộ máy quan lại và quân đội tập trung về Thăng Long làm thay đổi tính chất và làm sống dậy đô thị này: đời sống kinh tế, đời sống văn hóa đều phát triển mạnh mẽ. Thăng Long thời Lý, bên cạnh vai trò trung tâm chính trị, hành chính quốc đã nhanh chóng phát triển trở thành trung tâm kinh tế, trung tâm văn hóa số một của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt. Tính chất hội tụ (tập trung quyền lực, hội tụ cư dân), kết tinh (văn hóa) và lan tỏa (quyền lực và văn hóa) của Thăng Long thời Lý dần định hình. Trên cơ sở đó, Thăng Long cùng với cả nước thời Lý đã đạt được những thành tựu hết sức rực rỡ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ trung tâm quyền lực Thăng Long, nhà Lý đã thực hiện được sự kiểm soát tương đối hiệu quả trên phạm vi cả nước và phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng ra bên ngoài; từ trung tâm quyền lực Thăng Long nhà Lý đã tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077) bằng quyết định vô tiền khoáng hậu trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của Việt Nam: đem 10 vạn quân sang đất Tống, triệt phá các căn cứ xâm lăng của Tống (ở Khâm Châu, Liêm Châu và nhất là thành Ung Châu) và, đặc biệt, bảo vệ an toàn trọn vẹn cho kinh thành bằng phòng tuyến sông Như Nguyệt - kỳ tích mà các triều đại về sau hầu như không thực hiện được. Rõ ràng, sức mạnh của quốc gia, của kinh đô đã là một nhân tố mang ý nghĩa quyết định đến khả năng phòng thủ vững chắc của đất nước, của kinh đô trước xâm lược ngoại bang mà cuộc kháng chiến chống Tống ở cuối thế kỷ XI là một ví dụ sinh động - cũng là bằng chứng sinh động về giải quyết mối quan hệ giữa phát triển với an ninh - quốc phòng. 4. Trưởng thành về trách nhiệm Một thực tế phải thừa nhận là, sự ra đời của vương triều Lý, định đô Thăng Long - mốc mở đầu cho thời kỳ phát triển rực rỡ của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt, là dựa trên những tiền đề được tạo ra trong suốt một thế kỷ nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của cha ông ta. Lý Công Uẩn dời đô là dựa trên cơ sở của những thành tựu, của sự lớn mạnh lực lượng dân tộc ấy kết hợp với nhận thức sáng suốt về vị thế của vùng đất này và tư duy cầm quyền - quản lý đất nước khoa học của ông và rộng ra là của người Việt Nam lúc này. Nhưng còn một khía cạnh nữa để góp thành một nhân tố làm nên sự kiện lịch sử lớn lao này - đó là trách nhiệm của Lý Công Uẩn, cũng như cả triều đình Hoa Lư bấy giờ trước sự hưng thịnh của đất nước. Trách nhiệm đó thể hiện ở sự trăn trở của Lý Công Uẩn trước quyết định dời đô: “Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương, Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời”[8]. Trách nhiệm đó thể hiện ở sự sẵn sàng trước những bất lợi của vùng đất thành Đại La. Trong Chiếu dời đô chỉ thấy Lý Công Uẩn phân tích về những lợi thế của thành Đại La mà không thấy nhắc đến những hạn chế của vùng đất này. Nhưng điều đó không có nghĩa là Lý Công Uẩn và triều đình Hoa Lư không thấy được những điểm yếu của nơi đây. Bản thân Lý Công Uẩn và những cố vấn thân cận nhất của ông chắc chắn đều hiểu rất rõ những hạn chế đó, mà lớn nhất là tính chất trống trải, khả năng phòng thủ kém của vị trí này. Nhưng Lý Công Uẩn và triều đình do ông đứng đầu đã không theo cách của hai nhà Đinh - Lê mà gia cố Hoa Lư hay về quê Cổ Pháp đóng đô. Quyết định ra thành Đại La “ở giữa khu vực trời đất”, Lý Công Uẩn đã không “theo ý riêng”, chấp nhận “mạo hiểm” để “tính kế” cho muôn đời con cháu mai sau. Đó là một tinh thần trách nhiệm nghiêm túc trước xã tắc, trước vận hội phát triển của đất nước, đành rằng việc dời đô là dựa trên sự chuẩn bị về lực lượng của cả thế kỷ X, là thể hiện sự tự tin vào sự trưởng thành của Đại Cồ Việt của Lý Công Uẩn. * Nhà Lý ra đời và dời đô ra Thăng Long đã chính thức khép lại một thế kỷ với dồn dập những sự kiện quân sự, với sự thay đổi liên tục các dòng họ - triều đại cầm quyền, với sự “loay hoay” của cha ông ta trong dựng đặt kinh thành[9] - để mở đầu một thời kỳ mới phát triển rực rỡ của quốc gia dân tộc - của kỷ nguyên Đại Việt, văn hoá Thăng Long. Nó phản ánh bước tiến lớn, bước trưởng thành vượt bậc của người Việt về lực lượng, về nhận thức, về tư duy quản lý đất nước và về trách nhiệm trước vận hội đi lên của đất nước trên con đường phục hưng và phát triển.
[1]“Quyền lực” ở đây được hiểu theo nghĩa là lực lượng - sức mạnh; “trung tâm quyền lực” ở đây cũng được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là quyền lực chính chính trị - hành chính, mà còn là quyền lực kinh tế, quyền lực văn hoá. [2]Tham khảo: Thế kỷ X những vấn đề lịch sử, Nxb KHXH, Hà Nội, 1984. [3]La Thành vốn không phải là một danh từ riêng như xác nhận của hầu hết các nhà nghiên cứu. “La” có nghĩa là bao bọc, “la thành” là thành bao (ôm lấy) Tử Thành, rồi sau dần trở thành một danh từ riêng. [4] Việt sử lược, bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội,1959, tr. 37. [5] Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tập I, tr. 241. [6] Việc nhà Đinh và nhà Tiền Lê lựa chọn Hoa Lư làm kinh đô là điều có thể giải thích được trong bối cảnh: - Trước hết, phải thừa nhận một thực tế, dưới thời họ Khúc, họ Dương và các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê chính quyền nói chung - nhất là chính quyền trung ương chưa thực sự vững mạnh. Họ Khúc, họ Dương vẫn cơ bản sử dụng mô hình tổ chức và bộ máy cai trị dưới thời thuộc Đường. Các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê tuy có nhiều nỗ lực trong việc thiết lập một mô hình tổ chức và bộ máy cai trị mang tính tập quyền nhưng trên thực tế chưa thực sự có hiệu quả. - Trong khi đó, xâm lược của phong kiến phương Bắc nhằm tái áp đặt ách đô hộ diễn ra liên tục trong thế kỷ X. Tính từ ngày Khúc Thừa Dụ xưng nền tự chủ (905), trong thế kỷ X đã ít nhất ba lần phong kiến Trung Hoa tiến hành chiến tranh xâm lược: hai cuộc xâm lược của nhà Nam Hán vào các năm 930 và 938 và đặc biệt là cuộc xâm lược của nhà Tống vào năm 981. - Đồng thời với nguy cơ xâm lược của phong kiến phương Bắc là sự trỗi dậy của các thế lực cát cứ. Đỉnh điểm của xu hướng này là cục diện mười hai sứ quân xuất hiện sau khi Ngô Quyền mất, chính quyền trung ương nhà Ngô suy yếu. [7]Cùng với việc lựa chọn Hoa Lư với địa thế hiểm trở, để bảo vệ chính quyền trung ương trước sự tấn công của phong kiến phương Bắc và của các thế lực cát cứ chống đối trong nước, các nhà nước Đinh, Tiền Lê áp dụng các biện pháp cai trị rất khắt khe cũng như đặc biệt tăng cường quân đội. Sử chép đến những hình phạt khốc liệt được áp dụng dưới hai triều Đinh, Tiền Lê như đặt vạc dầu, nuôi hổ đói để xử tử người có tội…; quân đội dưới thời Đinh đông tới một triệu người (?). [8]Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Sđd, tr. 241. [9]Thế kỷ X có ít nhất 5 hoạt động quân sự lớn liên quan đến cuộc đấu tranh giành và bảo vệ nên độc lập dân tộc: khởi nghĩa chống Đường năm 905, xâm lược của Nam Hán năm 930, kháng chiến chống Nam Hán lần thứ nhất năm 931, kháng chiến chống Nam Hán lần thứ hai năm 938, kháng chiến chống Tống lần thứ nhất năm 981; có 5 dòng họ - triều đại thay thế nhau: họ Khúc (905 - 930), họ Dương (931 - 937), nhà Ngô (939 -965), nhà Đinh (968 - 980), nhà Tiền Lê (981 - 1009); có 3 lần chuyển đổi thủ phủ - kinh thành: Đại La (hai họ Khúc, Dương), Cổ Loa (nhà Ngô), Hoa Lư (hai nhà Đinh, Tiền Lê). Bài in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học 1000 năm Vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2009
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:43:27 GMT 9
THIÊN ĐÔ CHIẾU CỦA VUA LÝ CÔNG UẨN - NHỮNG GIÁ TRỊ CHƯA BAO GIỜ CŨ PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế 1. Mùa xuân năm 1010, vài tháng sau khi Triều Lý được thành lập, và sau tết đầu tiên trên cương - vị - vua ở kinh thành Hoa Lư (Hoa Lau), Lý Công Uẩn về thăm hương Cổ Pháp, cho các bô lão trong hương tiền, lụa; viếng đền vị anh hùng làng Dóng và tặng thần danh hiệu Xung thiên thần vương (Thần vương xông lên trời)... Tiếp đến cho sứ giả Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống kết hảo. Sau những việc trên, Lý Công Uẩn tự tay viết chiếu[1] về việc chuyển kinh đô - sự kiện trọng đại sau ngày sáng nghiệp vương triều: Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ. Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị, tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế đế vương chi thượng đô. Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà? Dịch nghĩa[2]: Xưa nhà Thương[3] đến Bàn Canh[4] năm lần đời đô[5]; nhà Chu[6] đến Thành Vương[7] cũng ba lần dời đô[8]. Phải đâu các vua thời Tam đại[9] theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời. Làm như thế cốt để mưu toan nghiệp lớn, đóng đô ở nơi trung tâm, tính kế cho con cháu muôn đời; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót, không thể không đổi dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[10] ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư không phải chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chổ ở. Các khanh nghĩ thế nào? 2. Hơn một lần, nhất là trong thập niên qua[11], người Việt Nam, các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá ngẫm ngợi, nghĩ suy về bài chiếu tự tay Vua viết (thủ chiếu) chủ trương về chuyện dời đô (mà về sau quen gọi là Thiên đô chiếu)[12] của Người. Và, cứ mỗi lần như vậy, các con cháu của Người lại nhận chân ra điều tâm đắc mới từ "Chiếu thiên đô". Chẳng hạn: - Khi 950 kỷ niệm năm triều Lý (1959), Nguyễn Lương Bích phân tích: "Lý Công Uẩn đã quyết định dời Hoa Lư, thiên đô đi nơi khác, không phải về vùng quê Bắc Ninh của ông, mà thiên đô tới miền Hà Nội bây giờ,... không phải là việc làm ngẫu nhiên hoặc do ý muốn chủ quan hay do tài năng đặc biệt của Lý Công Uẩn, càng không phải vì miền Hà Nội có sẵn cái thành của Cao Biền khi xưa mà lúc ấy đã không còn nữa. Việc thiên đô của Lý Công Uẩn năm 1010 chính là do hoàn cảnh xã hội lúc ấy cho phép và cũng là do những yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam lúc ấy đặt ra. ... Lý Thái Tổ đã chọn miền Hà Nội, vì miền Hà Nội lúc ấy, ngoài những điều kiện thiên nhiên thuận lợi sẵn có, còn có những điều kiện kinh tế xã hội rất tốt để làm nền tảng cho việc xây dựng kinh thành mới được bền vững lâu dài. Những điều kiện kinh tế xã hội của miền Hà Nội thời ấy đã được Lý Thái Tổ nhận thấy và nói rõ trong bài chiếu Thiên đô”[13]. - Năm 980 năm của Thăng Long - Hà Nội, Đinh Gia Khánh khi phân tích trong Chiếu dời đô, viết: "Lý Thái Tổ nói đến việc trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân. Mệnh trời, thiên mệnh, theo cách nói của người xưa được sắc màu huyền bí, nhưng thiên mệnh, thiên lý chắng qua để gọi cái lẽ phải làm theo, không thể cưỡng lại”[14]. 990 năm vương triều Lý (năm 1999), khi suy nghĩ tản mạn nhân đọc lại bài chiếu về việc dời đô,Trần Quốc Vượng nhận thấy ít nhất mấy điều sau: - Chỉ sau khi qua Đại La để về Cổ Pháp - Kinh Bắc và lại còn sau khi tiếp sứ Tống sang kết hiếu.., ý định dời đô của vua đầu triều Lý mới quyết. - Thi pháp chiếu dời đô xuất phát từ xa xưa để rồi mới lân la nói đến chuyện ngày nay, bây giờ, ở đây. - Khi học cái ngoại sinh, Lý Công Uẩn chỉ rút tỉa trong các khối tư tưởng đó những cái gì có thể áp dụng được. - Chiếu của Lý Công Uẩn về việc dời đô là một bản tuyên ngôn địa chính trị, địa - chiến lược, địa - văn hoá về Đại La, Thăng Long - Hà Nội. - Câu văn đắt nhất trong bài chiếu là ở câu cuối cùng: Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy, để định nơi ở, ý các khanh ra sao? Đó là cái thần của bài chiếu nước Việt, là một bản sắc dân tộc, một bản sắc văn hoá Việt đầu đời Lý”[15]... 3. Bây giờ, tròn 1 thiên niên kỷ Vương triều Lý, và bậc thềm cuối cùng lên đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, những giá trị của Chiếu Thiên đô mà các nhà nghiên cứu đi trước đã tìm tòi, càng được khẳng định, và tiếp tục tỏa sáng. 3.1 Đúng làbài thủ chiếu mở đầu bằng "Tích" - ngày xưa, xưa,… Tư duy Việt Nam từ xưa cho đến hôm nay, vẫn thường có điểm xuất phát kiểu: "ngày xửa, ngày xưa" - như trong mở đầu các truyện cổ tích, truyền từ đời trước qua đời sau. Điều đó cũng không có gì lạ. Thế kỷ X ở Việt Nam khép lại với những cố gắng không mệt mỏi của các thế hệ để vượt qua qua gần 1.000 năm thuộc địa trực tiếp của các đế chế phương Bắc, đã phải trực tiếp giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia dân tộc bằng Bạch Đằng năm 938, năm 981. Thế nhưng bây giờ - năm 1010, trí tuệ cao nhất, tiêu biểu nhất, người đứng đầu vương triều Lý lại dẫn kinh nghiệm từ chính Phương Bắc!. Đó là sự sao chép, giáo điều hay bị áp đặt?. Qua các thời kỳ lịch sử, các trung tâm văn minh lớn của châu Á - là Thế giới đối với Việt Nam hàng ngàn năm, là một hấp dẫn, ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam ngay từ thời cổ đại. Ở phần bắc lãnh thổ, mối quan hệ và hấp lực ấy, mạnh mẽ trực tiếp, thường xuyên là văn minh phương Bắc. Trong quan hệ biện chứng với tư cách một quốc gia độc lập, không có một vấn đề gì, nhất là vấn đề chiến lược, trí tuệ và kinh nghiệm nào lại tách rời, cô lập, đơn tuyến với những tác động kinh tế, chính trị, xã hội đương thời. Sự tiếp xúc với văn minh Trung Quốc cổ đại - dưới nhiều hình thức là tác nhân quan trọng dẫn đến những chuyển biến kinh tế, xã hội Văn Lang - Âu Lạc nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên, rồi thiên niên kỷ I sau đó. Giờ đây, khi thoát khỏi ách đô hộ, giành được quyền độc lập gần một thế kỷ, nhà Lý - Đại Việt có điều kiện, chủ động để thâu hoá kinh nghiệm Trung Hoa. Nói cách khác, việc rút kinh nghiệm phương Bắc, của Lý Công Uẩn - và rộng ra là của trí tuệ lớn, đương thời, trong chuyện dời kinh đô không phải là việc lựa chọn nhất thời, nông nổi, mà là một sự thẩm định, có cân nhắc kỹ càng, khách quan. Nhưng không chỉ có dựa vào kinh nghiệm phương Bắc, Lý Công Uẩn đối chiếu với kinh nghiệm lịch sử - mà thế hệ cha ông ở kinh thành Hoa Lư (từ 968 đến 1009) trong đó bản thân ông trải nghiệm, chính là tri thức thực tiễn nóng hổi. 3.2 Khi nhắc lại kinh nghiệm phương Bắc cổ đại và bài học thời Đinh, Lê, hai lần Lý Công Uẩn dùng đến "kỷ tư" (tự tiện, riêng mình). - “Khởi Tam đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ” (Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời). - “Nhị Đinh, Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư” (Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình). Đó cũng chính là hai lần Lý Công Uẩn quán triệt đi, quán triệt lại một nguyên tắc: Việc dời đô không được tự tiện theo ý riêng của mình. Rồi lần lượt tự phản biện với chính tiền đề, lý lẽ của mình đưa ra với tư duy lịch đại và đồng đại, kế thừa - phát triển, tránh chủ quan. Nói cách khác, dù là dẫn kinh nghiệm - trí thức lịch sử phương Bắc cổ đại là tri thức thế giới đương thời, là tri thức sách vở, hay là chuyện Đinh, Lê của Đại Cồ Việt là thực tiễn, là môi trường cụ thể Hoa Lư thế kỷ X (từ 968), thì với Lý Công Uẩn, cả hai bài học kinh nghiệm, kiểm định lịch sử ấy, là nền cho phép ông xây dựng, xác định, nhất quán một nguyên tắc: Không được tự tiện, theo ý riêng mình (chủ quan) trong việc chuyển dời kinh đô (thiên đô)! Công việc đó chỉ khi nào phải đảm bảo kết hợp, thống nhất "Trên vâng mệnh trời” với “dưới theo ý dân”, đồng nghĩa và cụ thể “là không theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời”. Mục đích tối thượng của việc xây dựng kinh đô của quốc gia, theo Lý Công Uẩn là: - “Mưu toan nghiệp lớn” là đồng nghĩa với “vi ức vạn thế tử tôn chi kế" (tính kế muôn đời cho con cháu). -“Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ” (vận/ nền nước vững bền lâu dài, phong tục phồn thịnh)là đối nghịch với “triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi”. (Nhân đây, cũng phải nói rõ, mục đích đầu tiên và tối thượng của Lý Công Uẩn trước hết chính là vì con cháu (tử tôn) của chính vua. Không phải ngẫu nhiên mà đến năm1070: "Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”; rồi năm 1076, gần 70 năm ngày định đô Thăng Long, lớp con, cháu của Đức Lý Công Uẩn cho dựng Quốc Tử Giảm - trường để dạy, rèn chính con vua - người quản lý cao nhất của vương triều, quốc gia). 3.3 Sau khi đã xác lập vững vàng nguyên lý ấy, Lý Công Uẩn đã chỉ ra vùng ven sông Nhĩ - Nhị, Kim Ngưu, Tô Lịch hiện thời, nơi: - Thứ nhất: đã được lịch sử thẩm định: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương”. - Thứ hai: vùng đất này: “ở vào nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng". -Thứ ba: vị thế tự nhiên, thẩm định của lich sử - dù rất quan trọng, nhưng, căn bản hơn cả chính là đáp ứng được tiêu chuẩn cuối cùng, liên quan đến nền tảng rộng lớn hơn của nhân tài,vật lực quốc gia: “Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”. Ông đã đi đến một nhận định, một kết luận: “Xem khắp nước Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước”.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:43:59 GMT 9
Như vậy là: Không phải chỉ nhấn mạnh bài học của quá khứ, chỉ mở đầu bằng "Tích" (chuyện xưa) - là kiểu tư duy lịch đại (diachronic) - nhờ đó, con người có cách đo, lường, “ôn cố nhi tri tân” rút kinh nghiệm sâu sắc cái đã qua, một cách tiết kiệm trong số những tiết kiệm của năng lực con người, mà Lý Công Uẩn thiếu đi tư duy đồng đại (synchronic). Đến đầu thế kỷ XXI, nhân loại bàn nhiều đến sự phát triển bền vững, sau khi đã trả giá cho quá nhiều sai lầm trên quá trình vận động của mình về sự nhắm mắt, trực kiến về kết quả nhãn tiền... Lịch đại và đồng đại là hai mặt của quá trình tồn tại - vận động - phát triển. Nếu thiếu đi tư duy đồng đại thì không có sự vận động, phát triển. Ngược lại thiếu đi tư duy lịch đại, không rút kinh nghiệm, thiếu sự định hướng, thì sự vận động đó không thể bền vững, thậm chí có tác dụng ngược lại - kìm chế, phá hoại sự phát triển, là bóc ngắn cắn dài, hy sinh tương lai cho cái trước mắt, hy sinh thế hệ cháu con, làm rối loạn sự phát triển. 3.4 Nhưng, trước khi đặt dấu chấm cho thủ chiếu cúa mình, đấng quân vương - người lãnh đạo cao nhất, tuyệt đối của chế độ quân chủ thời Lý, vẫn thêm một lần hạ bút “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chổ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”. Chỉ có như thế, Đức vua Lý Công Uẩn mới thật thanh thản! Dòng cuối cùng trong Thiên đô chiếu, mà theo Trần Quốc Vượng, là “Câu văn đắt nhất trong bài chiếu. Đó là cái thấn của bài chiếu nước Việt, là một bản sắc dân tộc, một bản sắc văn hoá Việt đầu đời Lý”. Sau đoạn này, thấy Sử cũ ghi: Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo. Vua cả mừng”. Nếu biết rằng, theo Việt sử lược - tác phẩm gần với đương thời nhất, Lý Công Uẩn rất chặt chẽ trong hành động. Khi còn là Thân vệ trong kinh đô Hoa Lư của triều đình Lê, khi Vạn Hạnh nói: “Gần đây tôi thấy lời sấm lạ, biết rằng nhà Lê tất phải mất mà nhà Nguyễn (Lý) tất phải lên. Họ Nguyễn không ai nhân từ, khoan dung như ông, lại được lòng dân...”. Lý Công Uẩn bảo Vạn Hạnh đến ẩn náu ở núi Ba Sơn. Đầu năm 1009, khi Chi hậu Đào Cam Mộc hai, ba lần trực tiếp, hết dùng lẽ xa xôi để khích, rồi: “thong thả chấp nhận đành chịu chết”, đến quyết liệt hơn rằng: “Chuyển hoạ thành phúc cũng chính là lúc này” để phân tích Lý Công Uẩn lên ngôi, thì: - Lần thứ nhất, Lý Công Uẩn vờ mắng: “ông sao lại dám nói lời như thế, ta tất phải bắt ông nạp quan làm tội”. - Lần thứ hai: “Ta sao lại nhẫn tâm đi cáo giác ông, nhưng sợ rằng lộ ra thì bị giết cả”. - Lần thứ ba, thì: “Ta xem chí ông cùng Vạn Hạnh không khác gì nhau, nếu thực như lời nói ấy, thì phải làm thế nào? ”[16]. Hoá ra không phải là một lời khen mà vẫn là một câu hỏi cần chỉ dẫn, góp ý, tư vấn! Sau 1010, theo Đại Việt sử ký toàn thư - bộ biên niên sử muộn hơn, thì thêm hai ba lần vua Lý Công Uẩn bộc lộ qua ngôn từ, chẳng hạn: - Năm 1012: Vua thân đi đánh Diễn Châu. Khi về đến Vũng Biệngặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội, vua đốt hương khấn trời rằng: "Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét"[17]. Năm 1016: + Động đất. Làm lễ tế vong các danh sơn. (Vua nhân đi xem núi sông, đến bến đò Cổ Sở, thấy khí tốt của núi sông, tâm thần cảm động, bèn làm lễ rưới rượu xuống đất, khấn rằng: "Trẫm xem địa phương này, núi lạ sông đẹp, nếu có nhân kiệt địa linh thì hưởng lễ"[18]. Những sự kiện góp phần soi rõ hơn chân dung, phẩm chất nhân cách Lý Công Uẩn, về hành động của đức Lý Công Uẩn khi tự tay viết 214 chữ trong Chiếu dời đô. Thủ chiếu của vua Lý Công Uẩn về việc chuyển kinh đô, sản phẩm của một chiều sâu trí lự, đối chiếu so sánh, kết hợp cả kinh nghiệm của ngoài nước và trong nước, của quá khứ và hiện tại (lịch đại và đồng đại), sự đồng lòng trên và dưới, giữa triều đình và dân chúng, thoả mãn cả quyền lợi của tập đoàn nhà Lý, với quyền lợi căn bản của chúng dân về việc chuyển dời, xây dựng một kinh đô mới. Chiếu dời đô bộc lộ khúc triết, tổng thể tâm thế, tư duy, nhân cách của bậc đế vương khai sáng một triều đại, khai sinh một kinh thành của quốc gia Đại Việt 1.000 năm trước. Đó chính là khối toàn bích, biện chứng mẫu mực trong tư duy của đức Lý Công Uẩn, vì thế chẳng bao giờ mờ cũ mà hẳn càng toả sáng theo dặm dài tháng năm của Thăng Long - Hà Nội - Việt Nam.
[1] Chiếu: tức chiếu lệnh, còn gọi là "Chiếu thư", "Chiếu chỉ", "Chiếu bản". Đó là thể văn mà vua truyền đạt mệnh lệnh của mình xuống cho thần tử và nhân dân biết về, hay phải thực hiện một vấn đề gì đó (dù bài văn thực tế do ai viết thì lời lẽ và địa vị của chủ thể vẫn luôn là nhà vua). Chiếu quan trọng vì nó vừa là mệnh lệnh của vua, vừa là chủ trương, chính sách của triều đình về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục.... Các loại chiếu như: tức vị chiếu (chiếu kế vị), di chiếu (chiếu dặn lại trước khi qua đời), ai chiếu, phục chiếu, mật chiếu, thủ chiếu, khẩu chiếu. Thư tịch cổ Trung Quốc còn lưu lại những: Cao Đế cầu hiền chiếu (Chiếu cầu người hiền của Hán Cao Tổ), Văn Đế nghị tá bách tính chiếu (Hán Văn Đế đề nghị các đại thần nghĩ cách giúp đỡ trăm họ), Cảnh Đế lệnh nhị thiên thạch tư chức chiếu (Hán Cảnh Đế lệnh cho các quan phải thực hiện đúng chức trách), Vũ Đế cầu mậu tài dị đẳng chiếu (Hán Vũ Đế cầu người tài xuất chúng để lập chiến công lừng lẫy). Đại Việt thời Lý cũng còn thấy để lại những: Xá thuế chiếu của Lý Thánh Tông, Lâm chung di chiếu của Lý Nhân Tông, Chung hối tiền quá chiếu (Chiếu hối lỗi) của Lý Cao Tông, Thảo Trần Tự khánh chiếu (Chiếu đánh dẹp Trần Tự Khánh) của Lý Huệ Tông, Thiên vị chiếu (Chiếu nhường ngôi) của Lý Chiêu Hoàng.... [2] Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư. Bản dịch và chú thích của Ngô Đức Thọ. Hiệu đính của Hà Văn Tấn. Nxb KHXH, H.1993. tập 1, tr. 241. [3] Thương: Triều đại do Thành Thang dựng lên [4] Bàn Canh: Vua thứ 17 của nhà Thương (khoảng thế kỷ XVI tr.CN - 1066 tr.CN). [5] Năm lần dời đô: từ đất Bặc (Thương Khâu, Hà Nam) sang đất Hiệu (Huỳnh Trạch, Hà Nam), đất Tương (An Dương, Hà Nam), đất Cảnh (Hà Tân, Sơn Tây), đất Hình (Hình Đài, Hà Bắc), rồi đất Ân (Yển Sư, Hà Nam). [6] Chu: triều đại cổ tiếp nối nhà Thương do Chu Văn Vương mở đầu. [7] Thành Vương: Vua thứ 3 nhà Chu (ước khoảng năm 1066 tr.CN - 771 tr.CN) [8] Ba lần dời đô: Chu Văn Vương dựng nghiệp ở đất Kỳ (Thiểm Tây), Chu Vũ Vương dời đô đến Trường Yên (cũng Thiểm Tây), và Chu Thành Vương lại dời đô sang Lạc Ấp (Hà Nam). [9] Tam đại: ba đời Hạ, Thương, Chu ở Trung Quốc. [10] Cao Vương: tức Cao Biền, viên quan đứng đầu bộ máy cai trị của nhà Đường ở nước ta (thời đó gọi là Giao Châu), vào nửa sau thế kỷ thứ IX và Cao Biền cho đắp thành Đại La (khoảng năm 866). [11] Có thể kể, như: (năm 1925) mục “Việc dời kinh đô về Thăng Long”, trong Việt sử yếu, Hoàng Cao Khải viết: Nhà vua nghĩ Hoa Lư là nơi ẩm thấp, chật hẹp, nên ngài muốn dời kinh đô ra thành Thăng Long, nhưng ngài lại còn e ngại quần thần và nhân dân trong nước không chịu nghe theo ý nghĩ của người...Vua Lý Thái Tổ đã khôn khéo mượn thần đạo để cột chặt lòng người", Bản dịch của Hồng Liên Lê Xuân Giáo. Bản in của Nxb. Nghệ An, 2007, tr. 136. Trong thập niên 1999 - 2009 có thể kể như: Trần Quốc Vượng: Vài suy nghĩ tản mạn nhân đọc lại bài chiếu về việc dời đô của vị vua khai sáng triều Lý, in lại trong: Trên mảnh đất ngàn năm văn vật, Nxb. Hà Nội, 1999, tr.238-252. Nguyễn Quang Khải: Thiên đô chiếu - Văn bản đầu tiên thể hiện chủ trương dời đô ở nước ta, Bắc Ninh xưa và nay, 11/5/2009. Tạ Ngọc Liễn:Lý Công Uẩn và Chiếu dời đô, áng văn bất hủ. Tạp chí Hội nhà văn. .... [12] Trần Quốc Vượng, Vài suy nghĩ tản mạn nhân đọc lại bài chiếu về việc dời đô của vị vua sáng nghiệp nhà Lý, in trong: Trên mảnh đấy ngàn năm văn vật, Nxb. Hà Nội.2000, tr.238-252; Đầu đề bài chiếu này vốn không có tên. Các tác gia, nhà nghiên cứu về sau gọi là Tỉ đô Thăng Long chiếu (Hoàng Việt văn tuyển) hay Thiên đô chiếu (Văn học đời Lý, Hợp tuyển thơ văn, Thơ văn Lý Trần tập I... cũng không phải là nguyên tác. [13] Xem Mục B. Định đô Thăng Long trong Lịch sử Thủ đô Hà Nội (Trần Huy Liệu chủ biên) Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, Nxb Hà Nội tái bản năm 2000, tr. 27 - 28. [14] Trong Địa chí văn hoá dân gian Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, Sở VHTT Hà Nội, 1991, tr.17. [15] Trần Quốc Vượng, Vài suy nghĩ tản mạn nhân đọc lại bài chiếu về việc dời đô của vị vua khai sáng triều Lý. sđd, tr.238 - 252 . [16] Việt sử lược, Bản dịch của Trần Quốc Vượng. Bản in lại của Nxb Thuận Hoá, 2005, tr. 72 - 73. [17] Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 243. [18] Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 245.
Bài in trong Kỷ yếu Hội thảo 1000 năm Vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, Nxb Thế giới, H., 2009
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 28, 2010 3:46:13 GMT 9
LÀNG, LIÊN LÀNG VÀ SIÊU LÀNG (Mấy suy nghĩ về phương pháp) GS. Hà Văn Tấn Có nghiên cứu làng xã, chúng ta mới nhận thức đầy đủ xã hội và văn hoá Việt Nam trong lịch sử cũng như tìm được những biện pháp đúng đắn để xây dựng nông thôn mới hiện tại. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu làng xã thật rõ ràng. Có lẽ chẳng cần nói gì thêm về điều này. Chúng ta mừng vì là gần đây đã có những công trình nghiên cứu khá tốt về làng xã, ngoài những phần miêu tả có giá trị, đã nêu lên mô hình nhằm vạch rõ cơ chế của làng xã Việt Nam cổ truyền. Nhưng đáng tiếc là trong đó không ít những khái quát không có mối liên hệ rõ rệt với tài liệu thực tế được mô tả. Thậm chí có những khái quát được mượn từ bên ngoài, có sẵn, đó là những nhận định tưởng như là lô-gích nhưng thực ra là tiên nghiệm. Và đặc biệt là hiện nay, chúng ta thường gặp khá nhiều mệnh đề đánh giá đề cao cái gọi là văn minh xóm làng trong khi rất ít gặp những sự phân tích đầy đủ và thoả đáng về nó. Tình trạng đó không phải là không thể giải thích. Đề tài nghiên cứu làng xã cơ bản là một đề tài xã hội học - dân tộc học. Khi nghiên cứu nó như một đề tài sử học nghĩa là biến nó thành một đề tài xã hội học - lịch sử, ngoài những tài liệu quan sát trực tiếp, chúng ta cần có những tài liệu lịch đại. Điều đáng tiếc là những tài liệu giúp ta đi sâu vào kết cấu làng xã hiện còn, thường không sớm hơn thế kỷ XVII. Vì thiếu tài liệu, trong các công trình nghiên cứu làng xã Việt Nam trong lịch sử, phương pháp hồi cố “lấy nay suy ra xưa”, “lấy muộn suy ra sớm” vẫn chiếm một vị trí đáng kể. Và vì vậy, hiển nhiên khó tránh được những suy diễn, những giả thuyết không được chứng minh hay chứng minh yếu. Nhưng sự thiếu tài liệu lịch sử về làng xã không phải là lý do duy nhất để cắt nghĩa tình trạng nói trên. Ở đây còn có vấn đề phương pháp. Có thể thấy rằng phương pháp hệ thống - cấu trúc tỏ ra có hiệu quả trong việc nghiên cứu làng xã. Làng được coi như một hệ thống riêng gồm những yếu tố hợp thành. Tuỳ theo đối tượng nghiên cứu của mình mà người nghiên cứu chọn lựa yếu tố hợp thành khác nhau của hệ thống. Chẳng hạn, có thể nghiên cứu làng như một hệ thống xã hội gồm các nhóm xã hội, các đẳng cấp, các nhóm tuổi v.v…, hay nghiên cứu làng như một hệ thống kinh tế gồm các nhóm, các ngành hoạt động sản xuất nghề nghiệp v.v…, hoặc là như một hệ thống kinh tế - xã hội mà các yếu tố hợp thành chằng chéo phức tạp hơn. Bản thân các yếu tố của hệ thống làng lại cũng có thể coi là những hệ thống con để nghiên cứu riêng biệt như gia đình, dòng họ, phe giáp v.v…, Điểm chủ yếu mà người nghiên cứu hướng tới là vạch ra mối liên hệ tương tác giữa các yếu tố bên trong của hệ thống, nêu lên cơ chế vận hành của hệ thống. Những công trình nghiên cứu làng xã gần đây phần nào đã tiến hành theo cách đó. Ngay làng xã, như một thực thể khách quan, đã là một hệ thống biệt lập nửa đóng, điều đó là một thuận lợi cho việc sử dụng phương pháp hệ thống - cấu trúc có kết quả. Ta có thể coi làng như một vi vũ trụ (microcosmos) qua đó ảnh xạ đặc điểm xã hội và lịch sử Việt Nam. Nhưng chính do phương pháp tiếp cận (mặc dầu không phải lỗi của nó) cũng như do tính độc lập tương đối của làng, người nghiên cứu thường chỉ chú ý đến những liên hệ trong hệ thống mà ít chú ý hơn đến những liên hệ ngoài hệ thống. Rồi dường như dần dần người ta quên đi những mối liên hệ đó hoặc là tưởng rằng những mối liên hệ ngoài hệ thống cũng là do sự phát triển mở rộng các mối liên hệ trong hệ thống mà hình thành. Tất nhiên là trong các công trình nghiên cứu về làng xã hiện nay, người ta không quên nói rằng các làng xã Việt Nam không đóng kín như công xã Ấn Độ. Thực ra thì nhận định này cũng không phải là được đưa ra từ một sự so sánh thấu đáo các đặc điểm khác biệt giữa làng xã Việt Nam và Ấn Độ hay các nơi khác. Nhưng dầu có nói rằng làng Việt Nam không đóng kín, trên thực tế, người ta đã trình bày nó như một thể cô lập, bất biến. Trong thực tế người ta đã coi nước như tổng các làng, coi dân tộc như tổng các cộng đồng làng, coi văn hoá Việt Nam cổ truyền như tổng văn hoá làng. Để tránh các khái niệm phiến diện, đã đến lúc chúng ta phải chú ý đầy đủ đến các mối liên hệ giữa làng với bên ngoài, tức là những mối liên hệ ngoài cấu trúc. Có thể chia những liên hệ đó ra làm hai loại: Một loại gồm những liên hệ giữa làng này với làng khác, tức mối liên hệ giữa các hệ thống tương đương, mà ở đây chúng tôi gọi là liên hệ liên làng. Loại thứ hai gồm những liên hệ giữa làng với cộng đồng hay khu vực rộng lớn hơn, tức mối liên hệ giữa hệ thống coi làng với các hệ thống lớn chứa đựng nó, mà ở đây chúng tôi gọi là liên hệ siêu làng. Cộng đồng siêu làng rộng hẹp với các thứ bậc khác nhau. Khi cộng đồng tộc người đã tiến tới trình độ dân tộc thì cộng đồng siêu làng lớn nhất là nước, là dân tộc. Luôn luôn phải nhớ rằng trong lịch sử Việt Nam, từ rất lâu, các cộng đồng siêu làng đã tồn tại song song với cộng đồng làng, chứ không phải cộng đồng làng đã mở rộng thành cộng đồng siêu làng, không phải làng mở rộng thành nước. Cần đặc biệt chú ý điểm này vì nếu không thấy được như vậy, dễ nảy sinh các nhận định không đúng về mối quan hệ giữa làng với nước. Chẳng hạn, trong một số quyển sử hay sách nghiên cứu về làng xã gần đây người ta viết rằng ý thức cộng đồng làng xã phát triển thành ý thức quốc gia và ý thức dân tộc. Viết như thế dễ gây ra ngộ nhận. Thực ra, ý thức dân tộc là phát triển lên từ ý thức cộng đồng siêu làng tiền dân tộc chứ không phải là phát triển lên từ ý thức làng. Ở đây cần phải thấy được mối liên hệ biện chứng giữa ý thức cộng đồng làng và ý thức cộng đồng dân tộc. Ý thức cộng đồng làng và ý thức cộng đồng nước có những mặt thống nhất nhưng cũng có những mặt đối lập. Cái gần gũi là tình cảm gắn bó với nơi cư trú, với nơi chôn rau cắt rốn. Nhưng giữa ý thức làng và ý thức nước có một cái ngưỡng không dễ vượt qua được, nếu chỉ với tình quê hương đó thôi. Lịch sử cho ta biết không ít những trường hợp có sự đối lập giữa làng và nước. Đó cũng là vấn đề chúng ta phải giải quyết trong thực tiễn hiện tại. Không thể nói một cách đơn giản là ý thức làng xã phát triển thành ý thức dân tộc. Sở dĩ các thành viên làng xã ngoài ý thức cộng đồng làng, có được ý thức cộng đồng dân tộc là vì cùng với làng, từ lâu đời, đã có sự tồn tại của cộng đồng siêu làng mà người ta có thể cảm nhận được qua những mối liên hệ làng và siêu làng. Những mối liên hệ liên làng và siêu làng đó rất đa dạng và tất nhiên không phải phát triển giống nhau giữa các làng. Các làng thủ công nghiệp và các làng thương nghiệp có những mối liên hệ liên làng và siêu làng mạnh mẽ hơn là giữa những làng thuần tuý nông nghiệp. Nhưng không phải các làng nông nghiệp là không có những mối liên hệ liên làng và siêu làng. Ngay trong một làng, mối liên hệ siêu làng cũng khác nhau giữa các nhóm xã hội. Chẳng hạn, đối với nho sĩ ở làng, thì “làng nho” rộng hơn làng, và đạo nho lại tạo ra một thế giới tinh thần siêu làng. Chính từ những mối liên hệ siêu làng mà hình thành ý thức cộng đồng siêu làng, rồi từ ý thức cộng đồng siêu làng tiền dân tộc hình thành ý thức cộng đồng siêu làng dân tộc, chứ không phải ý thức cộng đồng làng phát triển thành ý thức cộng đồng dân tộc. Có người nhận định rằng trong các thời kỳ đất nước ta bị ngoại xâm như thời kỳ Bắc thuộc, nước mất nhưng còn làng, và nhờ còn làng mà cuối cùng còn nước. Tôi cũng từng cho đó là câu nói hay. Nhưng thực ra, câu này hay nhờ biện pháp tu từ hơn là nói được bản chất của hiện tượng. Ta phải hiểu rằng nói nước mất là nói chủ quyền về một cộng đồng siêu làng đã mất. Nhưng vì đã từng có một cộng đồng như vậy tồn tại nên đã tạo ra ý thức về cộng đồng đó. Chính nhờ ý thức về một cộng đồng siêu làng như vậy mà các làng khác nhau đã nổi dậy để chiếm lại các cộng đồng siêu làng đã mất, chiếm lại nước. Nếu không có ý thức cộng đồng đó, không dễ gì đã có sự liên kết làng. Cho nên nói cuộc nổi dậy là từ làng, nhưng thực ra bao giờ cũng nhanh chóng vượt ra giới hạn làng, và thường có sự tham gia của “người hàng xứ” ở làng khác, hoặc từ những nơi rất xa. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là vậy mà khởi nghĩa Lam Sơn cũng là vậy. Vả lại cũng cần định nghĩa rõ thế nào là mất nước mà còn làng. Mất nước là mất chủ quyền của nước. Nhưng mất nước thì chủ quyền của làng còn toàn vẹn đến đâu? Ở đây cũng lại phải xét về mức độ và khu vực, không thể nói chung chung đựơc. Có thể nói một cách văn vẻ rằng xóm làng là đòn bẩy thần thánh dấy lên những cuộc khởi nghĩa giành lại nước, nhưng nên nhớ rằng lực tác động chủ yếu vào đòn bảy đó là ý thức nước, tức cộng đồng siêu làng, chứ không phải là ý thức làng. Nếu làng còn thì cuộc nổi dậy hẳn không phải vì ý thức làng. Còn nếu như cho rằng ý thức làng cũng tác động vào cái đòn bảy thần thánh đó, thì đó là vì làng cũng mất. Đây hoàn toàn không phải là vấn đề các từ ngữ. Đây là việc quan trọng đối với việc nhận thức mối quan hệ giữa làng và nước, giữa cộng đồng làng xã và cộng đồng dân tộc, cũng như đối với việc đánh giá vị trí của làng xã trong lịch sử dân tộc. Liên quan với vấn đề này là vấn đề văn hoá - văn minh xóm làng. Hiện nay người ta nói khá nhiều vè cái gọi là văn hoá xóm làng nhưng đáng tiếc là không ở đâu, nó được định nghĩa rõ ràng. Văn hoá xóm làng là văn hoá nông dân hay văn hoá nông thôn? Đó là văn hoá được biểu hiện ra trong xóm làng hay là văn hoá được đặc trưng bằng kết cấu xóm làng? Vì không có định nghĩa rõ ràng, hiện tại chúng ta không thể “đánh giá sự đánh giá” cái gọi là văn hoá xóm làng. Nhưng dầu định nghĩa nó như thế nào, chúng ta cũng phải luôn luôn nhớ rằng văn hoá làng bao giờ cũng là một bộ phận của văn hoá siêu làng. Đường biên của cộng đồng văn hoá bao giờ cũng là đường biên của khu vực có quy mô siêu làng. Những sắc thái riêng biệt của văn hoá từng làng không đủ để làm nổi rõ đường biên ở kích thước làng. Ngay trong thời nguyên thuỷ, khi làng định cư chưa xuất hiện, thì cộng đồng văn hoá đã hình thành trên một khu vực khá rộng. Cho đến khi làng định cư xuất hiện thì cộng đồng văn hoá vẫn có quy mô siêu làng. Cộng đồng văn hoá này tuỳ theo giai đoạn mà lúc rộng lúc hẹp, nhưng bao giờ cũng là cộng đồng siêu làng. Ta có thể nói bản chất của cộng đồng văn hoá siêu làng. Điều đó cũng dễ hiểu vì có những mối liên hệ cơ bản của cộng đồng văn hoá như ngôn ngữ, tộc thuộc v.v…, luôn luôn là liên hệ siêu làng. Vì vậy, nếu xét về đường biên cộng đồng văn hoá, thì chúng ta có thể nói rằng không có văn hoá làng. Khi nói tới văn hoá làng ta nhìn nhận nó với ý nghĩa mô thức văn hoá. Mô thức văn hoá làng như thế nào, chúng ta cần nghiên cứu. Nhưng mô thức này cần phải được liên hệ với cấu trúc làng. Làng Việt Nam không phải lầ cấu trúc đóng mà là cấu trúc mở, chí ít là nửa mở. Những mối liên hệ làng và siêu làng luôn luôn tác động đến làng, làm cho làng biến chuyển. Làng là một cấu trúc động. Không có làng bất biến. Sau luỹ tre xanh, bao biến động đã xảy ra. Ruộng đất tư lẫn ruộng đất công. Thân phận cá nhân, gắn liền với các đẳng cấp mà sự phân chia không nghiêm ngặt, luôn luôn có sự xáo động. Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo rồi Thiên chúa giáo kế nhau vào và cùng nhau thấm vào làng. Như vậy đã xảy ra những biến động về kinh tế, xã hội, và văn hoá tư tưởng trong làng. Có thể thấy rằng cái ít biến đổi của làng là do cái ít biến đổi của cộng đồng siêu làng hay đất nước quy định. Và cái biến đổi của làng cũng xảy ra trong những biến đổi chung của đất nước. Số phận của làng gắn liền với số phận của đất nước. Cộng đồng làng biến chuyển cùng với cộng đồng siêu làng. Tất nhiên là tốc độ biến chuyển của làng và của cộng đồng siêu làng không phải bao giờ cũng giống nhau. Ở đây ta phải kể đến quán tính của làng và sự chi phối của các lực khác. Một số người Pháp thường ca tụng một cách cố ý tính chất tự trị dân chủ của làng. Thậm chí họ còn đưa ra luận điểm cho rằng xã hội Việt Nam chỉ thay đổi “mặt tiền” còn cấu trúc bên trong làng xã thì không thay đổi. Cái lý thuyết biến đổi “mặt tiền” này từng hấp dẫn một số nhà nghiên cứu Việt Nam. Phải thấy rằng kết cấu làng xã chính là kiểu thức lắp ráp kèo cột của ngôi nhà xã hội Việt Nam cổ truyền. Ngôi nhà chưa bị phá, chưa đổ, thì cái khung đó vẫn còn nhưng không phải vì thế mà ngây thơ tin rằng gỗ vẫn còn tốt nguyên, không bị mọt ruỗng ở bên trong. Có thể lúc nào đó, vào giai đoạn sớm, cộng đồng làng còn có mang ít nhiều yếu tố dân chủ, di sản của cộng đồng thị tộc. Nhưng cùng với quá trình phân tầng mãnh liệt trong nông thôn, phân chia giai cấp, dẳng cấp và sự đấu tranh giữa các nhóm xã hội đó, làng đã mất hết tính dân chủ. Đừng lẫn lộn tự trị với dân chủ. Những tầng lớp trên của làng thường muốn cắt rời cộng đồng làng với cộng đồng nước để dễ bề khuynh loát, khống chế. Ở đây tự trị đối lập dân chủ, tự trị giết chết dân chủ. Và chế độ gia trưởng cũng là kẻ thù muôn thủa của dân chủ. Chớ tưởng rằng Hội nghị Diên Hồng thời Trần là một biểu hiện yếu tố dân chủ cổ truyền của làng xã. Hội nghị Diên Hồng chỉ xảy ra vào lúc ý thức cộng đồng nước vượt lên trên ý thức cộng đồng làng. Trong hiện tại, không thể nói đến việc phát huy truyền thống dân chủ từ làng xã cổ truyền. Nền dân chủ hiện tại là có nguồn gốc mới thuộc về cộng đồng nước, siêu làng. Như ta thấy, làng cổ truyền là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình - tông tộc gia trưởng. Vì vậy mà sức sống của nó trong lịch sử thật kỳ lạ, thậm chí có lúc phải bị phá nát ra thì sau đó nó lại tái sinh, y như con thuỷ tức. Cùng với cấu trúc và thiết chế của làng, tâm lý ý thức làng hình thành và có sức ỳ không kém. Nếu như các mối liên hệ liên làng và siêu làng đã tác động đến làng thì ngược lại, tâm lý ý thức làng cũng tác động đến các mối liên hệ siêu làng. Người dân của làng đã nhìn nước qua khe hẹp của làng. Họ coi cộng đồng siêu làng hay cộng đồng nước chỉ là một thứ “làng lớn”. Như vậy là tâm lý làng được phóng chiếu lên quy mô nước. Đó cũng là một thực tế cần thấy trong lịch sử và cần khắc phục trong hiện tại. Tóm lại chúng ta cần phải đánh giá khách quan vị trí của làng xã trong lịch sử và trong hiện tại. Và muốn có một sự đánh giá như vậy, không thể tìm hiểu làng tách rời các mối liên hệ liên làng và siêu làng. Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 1, 1987 In lại trong Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb ĐHQGHN, 2007
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 23, 2020 17:29:40 GMT 9
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA HOÀNG XUÂN HÃN
Quần đảo Hoàng Sa là đất của Việt Nam, hoặc nói cho hợp hơn, là đất của Đại-Việt từ khi dân Việt định cự ở phủ tư Nghĩa, tức là đất Quảng Ngãi ngày nay.
Bút chứng cũ nhất và đầy đủ nhất thấy trong sách Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn soạn vào năm 1776, với những tư liệu của các Chúa Nguyễn. Sau đó, các sử gia, địa gia đời vua Nguyễn đều dựa theo đó và thêm thắt việc mới vào. Về đồ vẽ, các “bản đồ” và “lộ đồ” đời Lê cũng có ghi một cách sơ sài cái “bãi cát vàng” hoặc “bãi Trường sa” ấy.
Sau đây tôi sẽ trích văn dịch từ bản của Viện sử học Hà Nội xuất bản năm 1964 (Hoàng Lộc dịch, nhà xuất bản Khoa học phát hành). Muốn cho văn dịch rõ nghĩa, tôi có sửa chấm câu và có thêm một vài chữ để trong hai dấu ngoặc.
Trích văn gồm hai đoạn, một ngắn, một dài.
Đoạn đầu, trang 119: “Phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, có
núi gọi là Cù lao ré, rộng hơn 30 dặm. Trước có phường Tứ chinh, dân cư trồng đậu. Ra biển bốn canh thì đến.
“Phía ngoài nữa lại có đảo Đại-tràng-sa. Trước kia có nhiều hải vật và những hóa vật của tàu (bị đắm), (đã) lập đội Hoàng Sa để lấy. Đi ba ngày đêm thì mới đến. (Ấy) là chỗ gần xứ (không đúng ý) Bắc Hải.”
Đoạn sau, trang 123: “Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển. Ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày, hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt.
“Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào. Các thứ chim có hàng nghìn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi, to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, các vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà. Có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng. Lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được.
“Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là trắng bông (hình) giống đồi mồi mà nhỏ, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng. Trứng bằng đầu ngón tay cái, có thể muối ăn được. Có hải sâm tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bên bãi. Lấy về, dùng vôi xát qua, bỏ ruột, phơi khô. Lúc ăn thì ngâm nước cua đồng, cạo sạch đi; nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
“Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước, họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào. Cắt phiên, mỗi năm cứ tháng 2, nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng. Đi bằng năm chiếc thguyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy, tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu (đắm), như gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ. Đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hạt ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào Cửa Eo đến thành Phú Xuân nộp. Cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng, trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định. Cũng có khi về người không.
“Tôi đã xem sổ của một cai đội cũ là Thuyên Đức Hầu, biên rằng: “Năm Nhâm Ngọ (1762) lượm được 30 hốt bạc (12 ki-lô); Năm Giáp Thân (1764) được 5100 cân thiếc (3 tấn, 24); năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỉ Sửu đến năm Quí tỵ (1769-1773) năm năm ấy, mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được khối thiếc, bát sứ và hai khẩu súng đồng mà thôi”
“Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ chinh ở Bình Thuận (trên kia có phường Tứ chinh ở Cù lao Ré) hoặc người xã Cảnh Dương (ở Quảng Bình?) ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần, đò. Cho đi thuyền câu nhỏ ra xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu (đắm) và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm. Cũng sai cai đội Hoàng Sa cai quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc, của quí, ít khi lấy được.
“Hoàng Sa chính gần phủ Liêm châu đảo hải Nam. Người đi thuyền có lúc gặp thuyền đánh cá Bắc Quốc, hỏi nhau ở trong biển.Tôi đã thấy một đạo công văn của quan chánh đường huyện Văn xương (thuộc) Quỳnh châu gửi cho Thguận Hóa nói rằng “Năm Kiên-long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh, đội Cát liềm, huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam, ngày tháng 7 đến Vạn lý Tràng sa tìm kiếm cát thứ. Có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh-lan cảng. Quan ở đây xét thật, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thức-lượng hầu làm thư trả lời”” (Hết lời Lê Quý Đôn)
Về vụ cuối này, sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên quyển 10, trang 24 bản khắc của Quốc sử quán, soạn vào đời Minh Mạng có chép sơ lược hơn. Chính văn-dịch như sau:
“Năm Giáp Tuất (1754 chứ không phải 1753) mùa thu tháng 7, dân đội Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi cưỡi thuyền đi quần đảo Hoàng Sa, gặp gió to, giạt vào hải phận Quỳnh Châu thuộc nước Thanh. Quan tổng đốc nước Thanh cấp cho hậu và sai đưa về. Chúa sai viết thư gửi trả lời”
So với lời Lê Quý Đôn , thì cái thời điểm tháng 7 năm Giáp Tuất là lúc trả lời, một năm sau khi thuyền đội Hoàng Sa bị nạn. Trong sách Thất- Lục có thêm chú thích về quần đảo và đội Hoàng Sa. Lời gần như trích ở sách Phủ biên nhưng rút ngắn. Có thêm rằng “tên tục là bãi Vạn lý Tràng- sa”.
Sách Hoàng Việt địa dư chí bản khắc năm 1833, tức là phần Dư địa chí của tập Lịch Triều Hiến Chương loại chí tác giả là Phan Huy Chú, cũng đã lược văn của Lê Quí Đôn mà viết hai mục Bãi Hoàng sa và Đội Hoàng sa trong phần viết về phủ Tư Nghĩa (quyển 1 trang 10b).
Các bản đo vẽ đất ta thời Lê (xem phụ trương) tuy rất sơ sài và bất xác, nhưng đã muốn ghi rõ đất Hoàng sa. Những bản đồ ấy chắc cũng có một gốc trước khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, có lẽ từ đời Lê Thánh tông. Nhưng những bản còn lại ngày nay đều có thêm những sự thay đổi sau khi Trịnh-Nguyễn phân tranh, nhất là những dinh lũy của hai họ xây dựng trên đất Nam Nghệ An và Bắc Quảng Bình. Các bản đồ ấy đều vẽ trên bể trước đất Quảng Ngãi một dải đất dài có đề tên hoặc Đại Tràng Sa hoặc ibãi cát vàng. (Xem các bản đồ phụ trương). Theo những bản vẽ thì nó ở áp gần các cửa sông Tam kì, sông Trà Khúc, sông Vệ, hình như một bãi cát lớn. Nhưng sự thực thì, như thấy rõ trong các bản đồ ngày nay, trong khoảng bờ bể Việt Nam này không có bãi cát dài như những bãi Tiểu-Tràng-sa và Đại-Tràng-sa dọc các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên. Henri Maspéro có để lại một sách Toản tập Thiên nam lộ đồ (các bản khác có thêm hai chữ Tứ chí nghĩa là đi bốn phương) vẽ năm Cảnh hưng thứ 2, 1741. Trong sách này, bãi cát ấy mang tên Tràng sa và trên hình nó có thêm ba chữ Quá nhất-nhật, nghĩa là đi đến đó phải hơn một ngày. Hình đảo ở xa ngoaì bể. Giữa khoảng bể từ cửa Sa-kì (cửa sông Tam kì) đến bãi Tràng sa có vẽ hình một đảo có núi đề tên Du-tràng sơn (viết lầm ra Chữ Tràng là dài, chính phải viết chữ Trường là xưởng, là nhà...). G.Dumontier đã vẽ lại trong sách Étude sur un Portulan Annamite du XV siècle một bản đồ tuy cùng gốc với sách nói trên, nhưng có nhiều chi tiết hơn Bức XIX có vẽ bãi cát đề tên Bãi Cát vàng, và đảo Du trường nhưng chữ Trường lại lầm ra chữ Ái vì tự-dạng (trong sách này còn có khá nhiều chữ lầm như vậy: trong bức này, huyện Mộ hoa đã lầm ra Qui hoa vì tự dạng). Đảo Du-trường này chắc là Cù lao Ré ngày nay, thuộc phường An Vĩnh phụ trách việc đội Hoàng Sa, mà tên nôm là cát vàng (theo Tabert thì gọi là Cồn vàng. Bản Giao Châu chí, cũng của H.Maspero để lại, là do tay tiến sĩ Nguyễn Tông vẽ, có bức đồ Quảng Nam xứ (đời Lê) với hình Bãi cát vàng ở xa ngoài khơi (trang 19b). Xét các bức đồ ấy, thì ta chắc rằng trong ý địa-đồ-gia xưa, Đại-Tràng- sa hay là Bãi Cát vàng đều trỏ quần đảo Tràng Sa hoặc Hoàng Sa hoặc vạn lý Tràng Sa mà người Âu gọi là parcel hay Paracel. Và trong các địa đồ của Âu châu đang thời khi vẽ vẽ Paracel cũng vẽ như một bãi cát rất dài chắn trước hải phận phần giữa nước ta.
Sách Hồng Đức bản đồ xuất bản ở Sài Gòn năm 1963 cũng chỉ là một toản tập những địa đồ nước ta đến cuối đời Lê. Nhân tiện, xin mách một sự lầm trong sách ấy về tên vị đốc suất Đoan quận-công sai vẽ bản Giáp ngọ niên Bình Nam đồ. Đó không phải là Nguyễn Hoàng như chú thích ở trang 139 đã ghi. Ấy là Bùi Thế Đạt, làm đốc suất coi trấn Nghệ An năm Giáp Ngọ 1774 (Đại Việt Sử kí tục biên). Vậy những bản đồ này vẽ năm ấy. Tuy ở trang 149 có vẽ bãi, trên đề: Đại Tràng sa dĩ hạ, nhưng hình như chỉ muốn nói bờ bể từ cửa sông Thu bồn đến cửa sông Tam kì mà thôi.
Lại có sách Thuận Hóa Quảng Nam địa đồ Nhật trình nối sau bản Giao Châu chỉ. Về bãi Tràng sa, vẽ ở ngoài xã Du Trường (Cù lao Ré), có đề: “Bãi Tràng sa hành nhị nhật. Tam tổng cư thử, đa điền sản”, nghĩa là: đây là bãi Tràng sa, đi hai ngày; ba tổng ở đó, có nhiều vật ở ruộng sinh ra. Hoặc giả phải đọc hải sản thay Điền sản chăng? Còn nói đến ba tổng thì ý ra sao. Hoặc có tổ chức Hoàng sa chia ra làm ba tổng chăng?
Kết luận về các bản đồ trước đời Gia long cho biết rằng “Bãi” Tràng sa, hoặc Cát vàng được coi là phần quan trọng của đất Việt.
Đời Gia long, tháng giêng năm Ất Hợi 1815, sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo hoàng Sa thăm dò đường bể (Đại Nam Thực lụcChính biên đệ nhất kỉ, quyển 50). Ý chừng bấy giờ, thấy các người Tây- dương chiếm các đất chung quanh bể Đông, cho nên triều Nguyễn đã sai đội Hoàng Sa ra đó để biểu thị bản quyền về Việt Nam.
Trong tờ báo của Á-châu hội của người Anh tại xứ Bengale, linh mục itabert đã có viết bài dài về Việt Nam trong hai số báo, số 6 và số 7. Về Hoàng Sa, nguyên văn bằng Anh ngữ như sau:
Pracel or Paracels (Cồn vàng) Although this kind of archipetago presents nothing but rocks and great depths which promises more inconveniences than advantages, the king Gia Long thought he had increased his dominions by this sorry addition. In 1816, he went with solennity to plant his flag and take formal possession of these rocks, which it is not likely anybody will dispute with him. (Note on the geography of Cochinchina by the Right Rev, Jean Louis, Bishop of Isauropolis. Vic. Apost. Of Cochin China – The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol. VI, page 745)
Dịch nghĩa: Pracel hoặc Paracels (Cồn Vàng). Tuy rằng cái thứ quần đảo này không có gì ngoài đá tảng và những cồn lớn nó hứa hẹn nhiều bất tiện hơn lợi, vua gia Long đã nghĩ tăng lãnh thổ bằng cách chiếm thêm cái đất buồn bã này. Năm 1816, ông đã tới long trọng cắm cờ ông và chính thức giữ chủ quyền các hòn đá này, mà hình như không một ai tranh giành với ông.
Trong bài Geography of the Cochinchinese empire đăng trong tập san Journal of the Geographical Society of London, Gutzlaff có` chép khá dài về Hoàng Sa. Nguyên văn như sau: “We should not mention here the Paracels (Katvang) which approach 15-20 leagues to the coast of Annam, and extend between 15-17 N. lat. and 111-113 E. longitude, if the king of Cochinchina did not claim these as his property, and many isles and reefs, so dangerous to navigators. Whether the coral animals or other causes contribute to the growth of these rocks we shall not determine; but merely state that the islets rise every year higher and higher, and some of them are now permanently inhabited, through which the waves, only a few years ago, broke with force. They would be no value if the fisheries were not very productive, and did not remunerate all the perils of the adventurer. From time immemorial, junks in large number from Haenan, have annually visitted all these shoals, and proceeded in their excursions as far as the coast of Borneo. Though more than ten percent are annually wrecked, the quantity of fish taken is so freat as to ensure all loss, and still leave a very good profit. The Annam government, perveiving the advantages which it might derive if a toll were raised, keeps revenue cutters and a small garrison on the spot to collect the duty on all visitors, and to ensure protection to its own fishermen. A considerable intercourse has thus gradually been established, and promises to grow in importance on account of the abundance of fish which come to these banks to spawn. Some isles bear a stunted vegetation, but fresh water is wanting; and those sailors who neglect to take with them a good supply are often put to great straits.
(vol. the 19 – 1849 – page 93)
Dịch nghĩa: Đây chúng tôi đáng lẽ không kể đến quần đảo Cát vàng nó ở gần bờ be An-nam 15 đến 20 dặm và lan giữa các vĩ tuyến 15 và 17 độ Bắc, và các kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, nếu vua xứ Cochin-China đã không đòi quần đảo ấy là của mình, với nhiều đảo và ghềnh rất nguy hiểm cho người hàng hải. Không biết vì san hô hay vì lẽ khác mà các ghềnh đá ấy lớn dần; nhưng rõ ràng nhận thấy rằng các đảo ấy càng năm càng cao, và một vài cái bây giờ đã có người ở vĩnh viễn, thế mà chỉ mấy năm trước sóng đã vỗ mạnh đập qua. Những đảo ấy đáng lẽ không giá trị nếu nghề chài ở đó không phồn thịnh và không bù hết mọi nguy nan cho kẻ phiêu lưu. Từ lâu đời, những thuyền phần lớn từ Hải Nam tới, đã hằng năm đến thăm các bãi nổi này và tiến hành cuộc viễn du xa xa đến tận bờ đảo Borneo. Tuy rằng hằng năm hơn phần mười bị đắm, nhưng cá đánh được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết mọi thiệt thòi, mà còn để lại món lợi rất to. Chính phủ An nam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế đã đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này mà mọi người ngoài tới đây đều phải trả, và để bảo trợ người đánh cá bản quốc. Vậy nên, một cuộc giao dịch lớn được dần dà gây nên và có cơ bành trướng nhờ sự có rất nhiều cá tới trên các bãi này đẻ trứng. Một vài đảo có cây cối cằn cỗi, nhưng thiếu nước ngọt; và những thủy thủ nào quên mang theo nước trữ đầy đủ, thường bị lâm vào cơn khốn đốn lớn.
(Trích tập san Á châu hội tại London năm 1849) J. B.
Chaigneau (nguyễn Văn Thắng) đã ghi lại chuyện vua Gia Long khẳng định bản quyền trên quần đảo Hoàng sa, Nguyên văn bằng tiếng Pháp ngữ như sau:
La Cochinchine don’t le sourverain prote aujourd’hui le titre d’empereur, comprend la Cochinchine proprement dite, le Tonquin, une portion du Royanme de Cambode, quelques isles habitées peu éloignées de la cote et l’archipel de Paracel, composé d’ilots d’écueils et de rochers inhabités. C’est senlement en 1816, que l’empereur actuel a pris possession de cet archipel.”
(Le mémoire sur la Cochinchine par J. B. Chaigneau) Bulletin des Amis du Vieux Hué, No 2, 1923, page 257
Lời dịch: Nước Cochinchine mà vua bây giờ lấy hiệu Hoàng đế gồm xứ Cochinchine thật hiệu, xứ Đông kinh, một phần xứ Cao miên, một vài đảo có dân cư không xa bờ bể và quần đảo paracel hợp thành bởi những tiểu đảo, ghềnh, đá không dân cư. Chỉ đến năm 1816, mà Hoàng đế bấy giờ mới lấy chủ quyền trên quần đảo ấy.
Đời minh Mạng, triều đình chú tâm đến Hoàng Sa về phương diện che chở thuyền mành và thủy thủ trong hải phận quần đảo ấy. Thủy thủ tất cả mọi nước khi qua Đông Hải đều rất sợ quần đảo Hoàng Sa. Nhiều tàu bể bị cạn hoặc bị đắm trong vùng ấy. Eugène Chaigneau, cháu điệt Nguyễn Văn Thắng (Jean Baptiste chưởng cơ quản tàu Phi long đời Gia Long) khi sang làm phó lãnh sự ở nước ta năm 1830 đi tàu Saint Michel bị đắm ở đó. Lời y kể (trích từ Le Consulat de France à hué par H. Cordier, trang 127): “Khốn nỗi, tàu này đã đắm ngày mồng 9 tháng 8 năm 1830 trên ghềnh đá thuộc Paracels cách Tourane chừng 80 hải lý (450 km)...”
Tháng 8 năm Quí-tị 1833: “Vua (Minh Mạng) bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không pâh nbiệt được nông sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu lập bia, và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”
(Đ.N.T.L. Chính biên Đệ nhị kỷ quyển 104, Theo bản dịch nhà xuất bản Khoa học Hà Nội 1965 Tập 13, trang 53)
Tháng ba năm sau 1834: “Sai giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ. Khi trở về, vua hỏi về những thứ sản vật ở đấy. Sĩ tâu: “Nơi này là bãi cát giữa bể, man mác không bờ, chỉ có người nhà Thanh đi lại đánh cá bắt chim mà thôi”. Nhân đem dâng vua những thứ chim cá, ba ba, ốc, sò, ngao, đã bắt được ở nơi đó, đều là những vật lạ ít thấy “Vua vời thị thần đến xem và thưởng những những người đi về, tiền bạc, có khác nhau” (Sách trên, quyển 122, bản dịch quyển 14, trang 189)
Ý vua Minh-mệnh muốn xây miếu thờ thần bể ở Hoàng Sa phải đợi đến năm sau mới thi hành được. Một sự-ngạc-nhiên là phát giác rằng trước đã có miếu, có bia rồi. Sách ĐNTL chép: về tháng 6 năm Ất Mùi:
“Dựng đền thờ thần 9ở đảo) Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um. Giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc bốn chữ VẠN LÍ BA BÌNH
“Chú thích: Cồn Cát trắng chu vi 1070 trượng (5 cây số), tên cũ là núi Phật tự. Bờ đông , tây, nam, đều đá san hô, thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc giáp với một cồn toàn đá san hô sừng sững nổi lên, chu vi 910 trượng (1 cây số rưỡi), cao một trượng ba thước (6,11 mét), nagng với Cồn Cát. Tên gọi là Bàn-than thạch
“Năm ngoái, vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám-thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu, cách toà Miếu cổ 7 trượng (33 mét). Bên tả Miếu, dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong, rồi về”
(Sách trên quyển 154, bản dịch quyển 16, trang 309)
Sách Đại Nam Nhất thống chí quyển Tỉnh Quảng-nghĩa chép khá dài về đảo Hoàng Sa, đại để lặp lại những chi tiết đã thấy trong Hoàng Việt địa dư chí và Đại Nam Thật lục nhưng cũng cho biết thêm một vài điểm: một là Hoàng sa cũng gọi là Hoành-sa, nghĩa là bãi bể chắn ngang; hai là: “Năm Minh mệnh thứ 16 (tức là 1835, xem trên), sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả, hữu và sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn hai nghìn cân (1,3 tấn)”
(bản dịch Viện Sử học Hà Nội 1970, quyển 2, trang 370)
Về những biến cố liên quan đến quần đảo Hoàng Sa về thời Pháp thuộc và sau vụ đại chiến trang 1939-1945, giáo sư Nguyễn Khắc Kham đã trình khá tường trong bài Lịch sử hai quần đảo Trường sa và Hoàng sa.
Cuối cùng tôi xin mách một bút ký cảm tưởng sợ hãi của thủy thủ Việt đối với Hoàng sa trong khi vượt bể.
Năm 1832, một sai nhân Việt đi tàu sang phi Luật Tân, suýt bị cạn ở Hoàng Sa. Ấy là Lí Văn Phức, một văn nhân rất có tiếng đời Minh Mệnh. Ông đã ghi cảm tưởng kinh khủng khi thấy bóng bãi cát ấy trong bài tựa và bài thơ đề: “Vọng kiến Vạn lí tràng sa tác. Bài tựa rằng:
“Vạn lí Tràng sa là một dải cát trắng từ bể nổi lên, phía tây tiếp dương phận trấn Quảng Ngãi, phía giáp đông dương phận nước Lữ Tống (Lưu xông), phía bắc tiếp dương-phận các tỉnh Quảng đông và Phúc Kiến. Giằng-dặc kéo ngang, không thể lu72ng đo được. Ấy là chỗ rất hiểm đệ nhất có tiếng từ xưa đến nay. Tàu thuyền qua đó, thường thường kiêng dè sự không thấy nó. Ấy vì chân bãi cát ra rất xa. Một khi lầm (đi đụng phải) thì không thể trở lại.
“Ngày 14 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1832), thuyền (Định tường) rời khỏi cõi Quảng Ngãi, đã vào hải-phận trấn Bình Định. Trù tính là không lầm, một đường thẳng vo, lấy hướng kim Mão-ất (đông, hơi xế nam) mà tiến. Không dè gió trái, nước xiết, con thuyền không tiến. Thình lình trưa hôm sau, ngóng trông thấy nó. Sắc cát lờ mờ, khắp chân trời đều trắng. Tất cả người trên thuyền, trong lòng bừng bừng, nước mắt rưng rưng. Trên thuyền, ngoảnh hỏi đà-công (người cầm lái). Y là một tay lão luyện Tây dương. Nó nói rằng: lấy thước Đạc thiên (lục phân, sextant) mà đo thì may thuyền chưa phạm vào chân bãi cát, còn chuyển buồm kịp”.
“Bèn lấy hướng kim Dậu (Tây), nhằm Quảng Ngãi mà lùi. May nhờ phúc lớn của triều đình, về đến cửa bể Thái-cần mà tạm đỗ. Cuối cùng không việc gì.”
(Sách Đông hành thi thuyết thảo của Lí Văn Phức)
Hoàng Xuân Hãn Trích Tập San Sử Địa số 29 - Đặc Khảo về Hoàng Sa - Trường Sa
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 8, 2020 3:03:47 GMT 9
Cái Nhum, Vĩnh Long Nếu em có về thăm quê đất Vĩnh Ghé Cái Nhum dòng Mang Thít nước còn xanh? (Thơ của HL)
“Cái” là từ cổ của người Phù Nam, nghĩa là con rạch. Ở miền Nam có những địa danh bắt đầu bằng chữ Cái, chỉ vùng nằm bên một con sông nhỏ, chảy ra một con sông lớn. Ðịa danh Cái Nhum được đặt từ tên của cây nhum thuộc họ của cây cau, cây dừa. Cái Nhum nằm cách tỉnh lỵ Vĩnh Long 17 km về phía Ðông Nam. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Cái Nhum là quận của tỉnh Vĩnh Long. Lịch sử Cái Nhum Ngày 25 tháng 1 năm 1908, Pháp lập quận Cái Nhum, gồm có 2 tổng là Bình Thạnh với 3 làng và Bình Chánh với 5 làng. Ngày 18 tháng 12 năm 1916, quận Cái Nhum bị giải thể, nhập tổng Bình Thạnh vào quận Chợ Lách và tổng Bình Chánh vào quận Tam Bình cùng tỉnh. Ngày 18 tháng 5 năm 1955, chính phủ Ngô Ðình Diệm lập quận Cái Nhum, thuộc tỉnh Vĩnh Long, trên cơ sở tách ra từ quận Châu Thành, gồm tổng Bình Long với 9 xã, quận lỵ đặt tại Cái Nhum. Ngày 08 tháng 10 năm 1957, giải thể quận Cái Nhum, nhập địa bàn vào quận Châu Thành và quận Chợ Lách cùng tỉnh. Ngày 10 tháng 3 năm 1961, quận Cái Nhum được tái lập, gồm 2 tổng là Thanh Thiềng với 4 xã và Bình Thiềng với 4 xã. Ngày 31 tháng 05 năm 1961, đổi tên quận Cái Nhum thành quận Minh Ðức. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Cái Nhum là huyện của tỉnh Cửu Long. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Cái Nhum hợp với huyện Châu Thành Tây (trừ các xã Tân Ngãi, Tân Hòa) và các xã Hòa Hiệp, Hậu Lộc của huyện Tam Bình thành huyện Long Hồ. Ngày 18 tháng 3 năm 1994, thành lập thị trấn Cái Nhum trên cơ sở tách ra từ xã Chánh Hội. Rạch Cây Nhum/Cái Nhum Thời Pháp rạch Cây Nhum được người dân đọc trại thành rạch Cái Nhum. Theo thời gian, lòng sông rộng ra và sâu hơn nên cư dân gọi là sông Cái Nhum. Bấy giờ đầu vàm có bắc cây cầu tên cầu Số 9 do đó sông Cái Nhum còn gọi là sông Số 9. Sông Cái Nhum dài khoảng 9 km. Vàm sông giáp sông Mang Thít, ngọn sông ăn sâu quanh co vào đất liền về hướng Tây Bắc đến giáp rạch Cây Sộp (xã Hòa Tịnh), từ đầu vàm vào khoảng 4,5km, lòng sông rộng khoảng 70m, còn lại rộng trung bình khoảng 32m và sâu đến 9-10 m. Ðây là sông lớn và dài nhất, thuộc địa bàn huyện Mang Thít. Sông Cái Nhum vừa là sông mang nguồn nước tưới tiêu vừa là đường giao thông thủy huyết mạch của quận. Từ thị trấn Cái Nhum theo tuyến sông Cái Nhum có thể lưu thông hàng hóa, hành khách đến các xã Chánh Hội, Nhơn Phú, Mỹ An, Hòa Tịnh, Bình Phước… Ðặc biệt, theo tuyến sông Cái Nhum đến kinh Thầy Cai đổ ra sông Cổ Chiên là tuyến lưu thông đường thủy chính từ trung tâm quận Mang Thít đến thị xã Vĩnh Long. Ven hai bờ sông nhà cửa san sát với nhiều cây ăn trái. Phía sau bờ Tây Bắc của sông Cái Nhum là hương lộ trải đá thông xe hai bánh vào mùa khô lẫn mùa mưa đến tận tỉnh lộ 31, thông về thị xã Vĩnh Long. Sông Cái Nhum còn gắn liền với chợ Cái Nhum, thị trấn Cái Nhum, huyện lỵ Mang Thít, do đó nó có vị trí rất quan trọng cho việc giao lưu cũng như phát triển kinh tế xã hội của huyện. Cái Nhum có họ đạo lâu đời nhứt miền Nam Họ đạo Cái Nhum có lâu đời nhất ở miền Nam Việt Nam, được thiết lập vào năm 1731. Lúc đầu có ít người Công Giáo đến đây tìm đất đai sinh sống. Họ tìm thấy có nhiều nhà bỏ hoang nên vào ở trọ nơi đó. Như thế là giai đoạn đầu của họ đạo được thành hình. Khi được biết có một số người Công Giáo tập họp sinh sống trong xã này, Linh Mục Giuse Garcia dòng Phanxicô (1687-1761) thường thăm viếng, như chủ chăn ưu ái luôn bám sát vào đoàn chiên. Tiếp sau Cha Garcia là Cha Emmanuel De Valdehermoso đang truyền đạo ở vùng sông Cửu Long giữa những năm 1742 đến 1747. Có thể Cha đã lần lượt ở tại Cái Nhum, Cái Mơn. Những tháng cuối năm 1749 cho đến tháng 6, 1750, đúng vào thời kỳ triều đình Huế cấm truyền đạo Kitô bùng lên, và lúc này số tín đồ vào khoảng 600 người, một con số rất to đối với thời ấy. Có thể nói toàn trong làng đều là người Công Giáo (?). Cái Nhum tương tự như Cái Mơn, Bình Nhâm, Nhị Bình là những vùng có tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa Giáo cao và là vùng có nhiều vườn cây ăn trái như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm do các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo mang giống từ Penang về. Trương Vĩnh Ký xuất thân trường dòng Cái Nhum Ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1837, tại chợ Cái Mơn, làng Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, mất ngày 1 tháng 9 năm 1898 tại Sài Gòn, hưởng thọ 62 tuổi. Lúc nhỏ đi học chữ Hán, sau đó được một linh mục người Pháp đưa vào học trường Dòng ở Cái Nhum…. Có thể nói chuyện này đã góp phần định hướng những suy tư và chánh trị Trương Vĩnh Ký sau này… Trong lĩnh vực văn hóa, Trương Vĩnh Ký đã chứng tỏ có kiến thức uyên bác về nhiều mặt, không chỉ trong khoa học xã hội mà cả trong khoa học tự nhiên. Ðặc biệt về hoạt động sưu tầm, biên khảo, phiên âm, phiên dịch, ông đạt những thành tựu đáng kể. Mặt khác, cũng có nhiều ý kiến phê phán, buộc tội họ Trương là đã cộng tác với thực dân, phản lại Tổ quốc, như Lê Thanh trong quyển Trương Vĩnh Ký, Trần Huy Liệu trong Lịch sử 80 năm chống Pháp, Phạm Long Ðiền và Nguyễn Sinh Duy trong quyển Cuốn Sổ Bình Sanh của Trương Vĩnh Ký… Nhiều ý kiến trái ngược nhau tùy thuộc vào chỗ đứng, cách nhìn và đánh giá khác nhau của từng người đối với nhân vật lịch sử này. Ðến cuối đời Trương Vĩnh Ký đã rơi vào hoàn cảnh nghèo nàn, túng bấn khi bị Pháp bỏ rơi cho nên ông cũng đã bộc lộ nhiều băn khoăn, khắc khoải. Hai câu cuối của bài thơ tuyệt mệnh như muốn gửi gắm tâm sự cho người đời sau, khi phẩm bình về sự nghiệp của ông: Cuốn sổ bình sanh công với tội Tìm nơi thẩm phán để thừa sai Ngày nay, chúng ta không ai phủ nhận toàn bộ những cống hiến của ông đối với văn hóa của dân tộc. Nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký đã có những sai lầm về chính trị, hoạt động chính trị của ông rất ngắn ngủi so với hoạt động văn hóa khá nhất quán của ông là phục vụ trung thành nước Pháp, như ông đã hơn một lần thừa nhận. Hãy suy ngẫm về trường hợp Trương Vĩnh Ký…
Nam Sơn Trần Văn Chi/ Nguồn: Báo Người Việt
|
|