|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:25:06 GMT 9
Ổn định và phát triển:
Trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì?
Trần Hữu Dũng
Như Việt Nam, Trung Quốc hiện phải đương đầu với nhiều thử thách kinh tế, xã hội, môi trường, vv.. Kinh nghiệm của họ đặc biệt là hữu ích vì, cũng như Việt Nam, họ là một nước “xã hội chủ nghĩa” (trên danh nghĩa) và chỉ thực sự bắt đầu cải cách khoảng ba mươi năm nay (trước Việt Nam độ 10 năm). Đó là chưa nói đến một lý do quan tâm thiết thực nhất cho chúng ta: Trung Quốc là một quốc gia cận kề, ảnh hưởng lớn lao đến Việt Nam về văn hóa, về chính sách (và nhiều phương diện khác nữa!). Hiển nhiên, đã có vô số văn kiện, báo cáo của nhà nước Trung Quốc về các kinh nghiệm này, và cũng đã có rất nhiều nghiên cứu của các tác giả Tây phương về Trung Quốc, song, đối với những người muốn nhìn vấn đề từ nhiều phía thì vẫn còn một điều muốn biết: còn những trí thức Trung Quốc ngoài chính quyền, tương đối độc lập, thì họ nghĩ sao?
Bài này giới thiệu một số nhận định và phân tích của các học giả Trung Quốc về những vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường... của nước họ. (Những ý kiến về chính trị, ngoại giao và quốc phòng sẽ được dành cho một bài khác.) Đây là những công trình được thấy trên các ấn phẩm được phép xuất bản ở Trung Quốc, nhưng không phải là trong các văn kiện chính thức của Đảng và chính phủ nước này. Theo nhiều nhà bình luận thì tác giả của những ý kiến này có thể được xếp (một cách đại thể) thành hai “phe”: một phe là nhóm trí thức thường được gọi là Tân Tả, và phe kia là nhóm thường được mệnh danh “phóng khoáng” (đôi khi cũng được gọi là Tân Hữu). Song, phải thêm: giữa hai phe này có những người... không thuộc phe nào. Đó cũng là cấu trúc của bài này.[1]
I. Phái Tân Tả
Nhớ lại, ngay từ những năm 1990, sau hơn một thập kỷ theo đuổi và có nhiều thành tựu đáng kể, chính sách cải cách theo hướng thị trường của Trung Quốc đã bị nhiều trí thức nước này chỉ trích. Tuy chuyên về nhiều ngành khác nhau (sử học, kinh tế, xã hội, môi trường, vv.. ) và theo nhiều tiếp cận khác nhau, những trí thức này có chung một số quan tâm về đất nước họ.
Một là, họ bất bình về tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng và sự suy đồi đạo đức (theo họ) của Trung Quốc. Dù không có ý hô hào Trung Quốc trở lại như trước thời kỳ cải cách, họ nhớ lại thời kỳ này với nhiều luyến tiếc.
Hai là, đa số tin rằng hầu hết những hụt hẫng sâu đậm của Trung Quốc ngày nay là bắt nguồn từ những lổ hổng của tư bản chủ nghĩa (chính xác hơn, cơ chế thị trường) và tham nhũng.
Ba là, số lớn nhóm này là những học giả, những trí thức được đào tạo bài bản, tốt nghiệp từ các đại học hàng đầu và, đáng chú ý hơn, đã sống nhiều năm, thậm chí khá thành danh, ở Mỹ và Anh. Họ quen thuộc với tư tưởng Tây phương hiện đại (với các tên tuổi như Michel Foucault, Edward Said, Paul Baran, Immanuel Wallerstein... , những lý thuyết như “tân Mác”, “hậu hiện đại”, “hậu thực dân”), nhưng họ không sùng bái các trào lưu thời thượng này như các thế hệ trước. Họ cho rằng nhiều quan điểm về tính tân thời, về phát triển..., phát xuất từ Tây phương, là không thích hợp với Trung Quốc. Vài tác giả còn đi xa hơn nữa, cho rằng cần “vượt qua” (không nhất thiết là “dung hợp”) những phạm trù tương phản ̶ giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa “cái tân thời” và “cái cổ truyền”, giữa Trung Quốc và phương Tây. Họ muốn vạch một con đường mới trong suy nghĩ về Trung Quốc.
Những nhân vật chủ chốt của nhóm này là nhà xã hội học Uông Huy và các nhà kinh tế Thôi Chi Nguyên, Vương Thiệu Quang, Hồ An Cương, và nhà sử học Tiễn Lí Quần. Họ thường được biết qua danh hiệu “Tân Tả”.
Có lẽ nhóm Tân Tả đã không để lại dấu ấn sâu đậm trên sinh họat trí thức Trung Quốc như đã thấy – thậm chí đã không là một “nhóm” ̶ nếu không có nguyệt san Độc Thư. Được nhà ngôn ngữ Trần Nguyên sáng lập từ năm 1979, nguyệt san này lúc đầu chỉ là một ấn phẩm hàn lâm, ít người đọc. Tuy nhiên, từ khi Uông Huy và Hoàng Bình đuợc bổ nhiệm đồng tổng biện tập năm 1996, cho đến khi Uông và Hoàng bị miễn nhiệm năm 2007, thì Độc Thư trở thành diễn đàn trụ cột của luồng tư tưởng ngoài dòng ý thức hệ chính thống đương thời. Trên tạp chí này người ta có thể đọc những phân tích về nhiều vấn đề hệ trọng mà, cho đến nay, rất hiếm thấy trên báo chí “chính thống” Trung Quốc. Chẳng hạn, đó là những phân tích về khủng hoảng nông thôn ở Trung Quốc (nghiêng về giải thích cho rằng khủng hoảng này là hậu quả trực tiếp của chính sách “thân tư bản chủ nghĩa” của Bắc Kinh). Độc Thư cũng đưa ra ánh sáng những yếu kém của hệ thống y tế, giáo dục, và sự xuống cấp trầm trọng của môi trường ở nước này. Tạp chí cũng là diễn đàn cho những tranh luận sôi nổi về nước Nga hậu-Xô viết, và các biến chuyển chính trị ở châu Á.[2]
Đáng để ý là danh hiệu “Tân Tả” chẳng những không là do những người trong nhóm này tự gọi, họ cũng hơi “dị ứng” với danh hiệu ấy – ít ra là lúc đầu.[3] Uông Huy giải thích: Thứ nhất, tên “Tân Tả” là do những người thiếu thiện cảm với họ (cụ thể là phe thường được gọi là “phóng khoáng” (liberal)) gán cho họ, với ngụ ý rằng họ (“Tân Tả”) chẳng qua chỉ là hậu duệ của phe “cựu tả” thời Mao, và mơ ước khôi phục một nước Trung Quốc như dưới thời Mao.[4] Thứ hai, danh xưng này đã được dùng ở Tây phương trong một truyền thống tư tưởng hoàn toàn khác. Theo Uông Huy, nhóm của ông không dính líu gì đến những người thường được gọi là Tân Tả ở phương Tây,[5] và ông thích được gọi là “trí thức phê phán” (critical intellectual) hơn.[6]
Dù được xem là cùng “nhóm”, một đặc điểm (mà có người cho là nhược điểm) của Tân Tả là họ không có chung một hệ tư tưởng quy mô, chặt chẽ, nhất quán. Nói theo ngôn ngữ Tây phương hiện đại, họ không có chung một “lý thuyết phê phán” (critical theory) – tức là một cách nhận định và phê bình trên nền tảng khoa học xã hội và nhân văn. Mỗi “thành viên” thường chỉ chuyên về một vấn đề cục bộ, có người (như Thôi Chi Nguyên) thì quan tâm đến vấn đề sở hữu (và liên hệ là vấn đề quản lý xí nghiệp), có người (như Vương Thiệu Quang, Hồ An Cương) thì tập trung phân tích chính sách thu chi (fiscal policy) của chinh phủ, còn đối với Tiễn Lí Quần thì vấn đề giáo dục là trọng tâm. Nếu phái Tân Tả có một mẩu số chung thì đó là sự quan tâm đặc biệt, gần như là ám ảnh, đến công bằng xã hội, đến môi trường. Một điều nữa: nói chung, họ không phải là thành phần “chống đối” (muốn lật đổ) nhà nước Trung Quốc, hoặc chủ trrương “thay đổi chế độ”. Thực vậy, ảnh hưởng của phe Tân Tả đã có phần lên cao sau khi Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo lên cầm quyền.
1. Uông Huy: “hiện đại tính” và “Trung Quốc tính”
Uông Huy (sinh năm 1959, người gốc Dương Châu, tỉnh Giang Tô), được Hàn lâm viện Khoa học Xã Hội Trung Quốc cấp tiến sĩ năm 1988, hiện là giáo sư văn học Trung Quốc ở Đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh). Là một nhà xã hội học[7] có hạng (tác giả bộ sách bốn cuốn “Sự hưng khởi của tư tưởng Trung Quốc hiện đại”,[8] được đánh giá cao) Uông Huy gây dấu ấn sâu sắc cho nhóm Tân Tả từ khi ông ta, cùng với Hoàng Bình[9], được bổ nhiệm làm trưởng biên tập nguyệt san Độc Thư vào năm 1996.
Trước biến cố Thiên An Môn năm 1989 thì, như nhiều trí thức trẻ lúc ấy, Uông Huy cực lực ủng hộ chính sách mở cửa của Đặng Tiểu Bình, rất mực tin tưởng ở “kinh tế thị trường”. Sau sự cố Thiên An Môn, vì là một người tham gia (dù lúc ấy ông không còn là sinh viên) Uông Huy bị “lưu xứ” đến miền sơn dã ở Tần Lĩnh, Thiên An (một vùng thuộc hàng nghèo nhất Trung Quốc). Sống với nông dân và lao động, Uông Huy có những nhận định mới về xã hội Trung Quốc.[10] Nói như Paul Baran, một kinh tế gia mác xít Mỹ mà Uông Huy chịu nhiều ảnh hưởng: Từ một người “trí thức cấp tiến”, Uông đã trở thành một “cấp tiến trí thức”.
Theo Uông Huy thì từ rất sớm (khoảng giữa thập niên 1980) đã có thể thấy là những cải cách theo hướng thị trường đã làm giảm đi rất nhiều những lợi ích của xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc đã gặt hái được từ khi giải phóng. Do đó, theo Uông, mục tiêu cuộc nổi dậy của một bộ phận sinh viên và lao động trong sự cố Thiên An Môn không phải là phản kháng chế độ chính trị lúc ấy, nhưng nhắm chống đối một thể chế không còn tồn tại, mất đi vì chính tiến trình chuyển đổi của Trung Quốc.[11] Nói cách khác, Uông Huy cho rằng khả năng thay đổi của nhà nước đã không theo kịp kỳ vọng thay đổi của quần chúng. Oái oăm thay, sự đàn áp (mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc cho là) cần thiết để giải tán những người biểu tình đã trở thành một công cụ để áp đặt cải cách thị trường và, qua đó, mở cửa xã hội Trung Quốc.
Uông Huy nghi ngờ sự công bằng của một nền kinh tế thị trường hoàn toàn thả lỏng. Theo ông, đối với hầu hết dân Trung Quốc thì trách nhiệm của nhà nước hiển nhiên là lo cho dân, và mọi người trong xã hội phải hợp tác, đùm bọc nhau. Uông Huy cho là nhà nước phải ngăn ngừa bất bình đẳng trong xã hội. Ông khẳng định “(sự ngăn ngừa ấy) không phải (chỉ) là một lý tưởng của xã hội chủ nghĩa” bởi vì, “ngay trong thời quân chủ, những người cai trị Trung Quốc bao giờ cũng phải giữ một sự quân bình nhất định giữa người giàu và người nghèo, qua hệ thống thuế má và chẩn tế”.
Quan trọng hơn, theo Uông Huy, chưa chắc là thị trường sẽ tất yếu đưa đến dân chủ. Để dẫn chứng, Uông Huy bảo cứ nhìn vào liên minh giữa các thành phần “ưu tú” (elites) – tức là phi dân chủ – mà tiến trình tư nhân hóa đã tạo ra. Uông Huy cho rằng nhà nước chỉ thật sự thay đổi khi nó bị áp lực mạnh mẽ của xã hội, đặc biệt là từ lao động và nông dân.
Theo Uông Huy, đa số học giả (Tây phương lẫn Trung Quốc) đã lầm khi xem cải cách như là một cách “tạ lỗi quá khứ” (“apologia for the past”). Xã hội chủ nghĩa có thể không còn là thời thượng, Uông Huy nhấn mạnh, song chừng nào mà thế giới (và nhất là Trung Quốc) chưa thể loại trừ, ngăn chặn, những hậu quả bất công của tự do thị trường – những bất công tiềm ẩn trong tư bản toàn cầu ̶ thì xã hội chủ nghĩa vẫn còn lý do tồn tại.
Theo Uông Huy, Trung Quốc ngày nay bị kẹp giữa hai thái cực: một bên là thứ xã hội chủ nghĩa nhầm đường (misguided socialism), bên kia là thứ chủ nghĩa tư bản bồ bịch (crony capitalism). Trung Quốc, do đó, “lãnh đủ” những gì tồi tệ nhất của hai chế độ này. Uông Huy ủng hộ cải cách kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên, theo ông, phát triển của Trung Quốc phải bình đẳng hơn, cân đối hơn.
Uông Huy nhấn mạnh đến con đường phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa đặc thù của Trung Quốc và cho rằng tư tưởng của Mao đã xuất hiện như một lựa chọn khác (alternative) cho “tính hiện đại” của tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu của chủ nghĩa Mao, theo Uông, là tránh những mặt khắc nghiệt, những liên hệ có tính bốc lột hàm chứa trong chủ nghĩa tư bản của phương Tây. Dựa vào những lập luận khá giống lập luận của Immanuel Wallerstein (một nhà kinh tế thiên tả nổi tiếng của Mỹ), Uông Huy chỉ trích chủ nghĩa tư bản quốc tế, phê phán các quan hệ quyền lực chi phối những tiến trình kinh tế toàn cầu. Ông cho rằng toàn cầu hóa cốt yếu chỉ là sự bành trướng và triển khai của các công ty đa quốc gia, cộng với sự cấu kết giữa các công ty này với những nhóm lợi ích tại địa phương và quốc gia liên hệ. Toàn cầu hóa, như thế, chẳng những sẽ ngấm ngầm lũng đoạn dân chủ (về mặt chính trị) mà còn đe dọa tự do thị trường (về mặt kinh tế). Uông Huy cũng thường viện dẫn những nghiên cứu của Fernand Braudel (một sử gia người Pháp nổi tiếng với cách giải thích lịch sử căn cứ trên các yếu tố kinh tế và xã hội) về thế giới trước chủ nghĩa tư bản, và thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa này.
Tuy không phải là nhà kinh tế nhưng Uông Huy rất tâm đắc với (những nhà kinh tế danh tiếng) John Stuart Mill, Joseph Stiglitz, Amartya Sen và George Akerlof. Đặc biệt Uông Huy bị quyến rũ bởi lý thuyết của Akerlof (và Paul Romer) trong bài “Cướp bóc: Kinh tế xã hội đen của phá sản nhằm thủ lợi” . Trong bài ấy, Akerlof và Romer báo cáo một hiện tượng thường xảy ra ở các doanh nghiệp (lớn) nhà nước sau khi cổ phần hóa. Những doanh nghiệp này được các ngân hàng nhà nước ưu đãi, mà những ngân hàng ấy (vì là của nhà nuớc!) lại rất biếng lười, chểnh mảng, trong việc đòi nợ... Hậu quả là, quản lý các doanh nghiệp (nhà nước, sau khi cổ phần hóa) có xu hướng vay thả cửa cho mục đích cá nhân của họ mà không hề có ý định trả nợ! Khi doanh nghiệp phá sản thì họ chuồn mất, hoặc trơ mặt, phủi tay, để lao động ở doanh nghiệp ấy và những cổ đông khác... lãnh đủ. Theo Uông Huy, phát hiện này của Akerlof và Romer chứng minh sự không hoàn toàn đúng của ý kiến cho rằng tư hữu có lợi vì nó khích lệ sản xuất. Uông Huy chê những người tán tụng tư hữu vì nó khuyến khích lao động là chỉ thấy một nửa vấn đề. Tuy nhiên, theo người viết bài này (THD), Uông Huy xé chuyện bé ra to. Tư hữu có thể bị phê phán trên nhiều mặt, không nhất thiết phải đơn cử Akerlof và Romer.[12] Ngược lại, ít có nhà kinh tế nghiêm túc nào lại ngây thơ tin rằng tư hữu là liều thuốc vạn năng, không có những hiệu ứng xấu. Tuy vậy, Uông Huy kết luận (khá đúng, theo ý người viết bài này) rằng, khi thiết lập chính sách tư hữu hóa, nhà nước không nên chú ý đơn thuần đến cơ cấu sỡ hữu mà còn phải chú trọng đến những khích lệ về tài chính (financial incentives) và các biện pháp điều tiết.
2. Thôi Chi Nguyên và các vấn đề về xí nghiệp
Một nhân vật chủ chốt khác (và bạn thân của Uông Huy) trong nhóm Tân Tả là nhà kinh tế Thôi Chi Nguyên (Cui Zhiyuan). Ông sinh năm 1963 tại Tứ Xuyên trong một gia đình trí thức (cha là một kỷ sư nguyên tử). Thôi Chi Nguyên học ở Hồ Nam, rồi sang Mỹ du học vào năm 1987. Sau khi lấy PhD về chính trị học ở Đại học Chicago, ông được bổ nhiệm giáo sư ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Năm 2004 Thôi Chi Nguyên trở về Trung Quốc để phụng dưỡng cha mẹ già vì ông là con một. Hiện ông giảng dạy môn chính sách công và quản trị (public policy and management) ở Đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh).
Điều đáng ngạc nhiên là, dù được đào tạo trong “sào huyệt” kinh tế học tân cổ điển của Đại học Chicago và MIT, Thôi Chi Nguyên lại là một trong những học giả Trung Quốc mạnh dạn nhất, năng nổ nhất trong hoài nghi tính thích hợp (relevance) của chủ nghĩa tự do kinh tế, và của kinh tế học tân cổ điển nói chung, cho Trung Quốc. Ông cho rằng xã hội chủ nghĩa kiểu Mao, xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Trung Quốc, là một mô hình phát triển thích hợp cho Trung Quốc hơn bất cứ mô hình nào của Tây phương. Thôi Chi Nguyên là người tích cực biện hộ cho những chính sách “Mao-ít” như Đại Nhảy Vọt và Cách Mạng Văn Hóa. Theo ông, những thành tựu của Trung Quốc trong thập niên 1980, cũng như nền tảng tự trị địa phương và các xí nghiệp hương trấn (được xem là đã tạo những điều kiện thuận lợi cho cuộc cải cách sau này), đều là hậu quả trực tiếp của chế độ công xã và của chính sách Đại Nhảy Vọt. Còn cuộc Cách Mạng Văn Hóa, mặc dù có nhiều mặt thái quá, đã được phát động như một thử nghiệm cần thiết, và có chủ ý tốt, để chống lại những người có quyền lực trong một nền hành chính quan liêu (Thôi Chi Nguyên gọi là sự “khống chế hành chính”) luôn luôn là một tai ương trong suốt chiều dài lịch sử.
Có lẽ “lỗi lầm” (gần như lập dị!) lớn nhất của Thôi Chi Nguyên là ông bị “ám ảnh” bởi cái gọi là “thí nghiệm Nam Nhai”. Nam Nhai là một thị trấn khá nhỏ ở Hà Nam, xưa chỉ là một thôn trại bình thường. Tuy nhiên, từ năm 1979 thì thị trấn này có những cải cách đặc biệt, cốt yếu là kết hợp chủ nghĩa tập thề (collectivism) và kinh tế thị trường để xây một loạt (26) nhà máy, và hiện thời là một trong những nơi sản xuất ... mì ăn liền lớn nhất Trung Quốc.
Nam Nhai ngày nay có khoảng 13.000 dân, lượng xe hơi có thể được đếm trên đầu ngón tay. Ngoài xe đạp, phương tiện giao thông công cộng chủ yếu là xe buýt (với khẩu hiệu “Tình nguyện” và “Hi sinh” được sơn bằng chữ đỏ bên hông xe!). Không có thẩm mỹ viện, rạp hát, tiệm karaoke hay quán cà phê Internet nào ở đây. Đập vào mắt du khách khi đến Nam Nhai không phải là các panô quảng cáo mà là chân dung của Marx, Engels, Lenin, Stalin... Ảnh và tượng Mao Trạch Đông có mặt khắp nơi, từ công viên có lính gác đến trường học, công sở, bệnh viện... Tiếng loa phát thanh các bài hát ca ngợi chế độ và chủ tịch suốt ngày vang khắp đường phố.
Thu nhập trung bình của người dân Nam Nhai là khoảng 80-250 nhân dân tệ/tháng (tương đương 9,66-30,2 USD). Mọi khoản tiền bệnh viện, tiền nhà, học phí từ mẫu giáo đến đại học đều được miễn, các nhu yếu phẩm (từ điện, nước, khí đốt… đến dầu ăn, trứng, thịt, sữa, bia…) đều được bao cấp. Công nhân sống trong các ký túc xá, tám người một phòng. Hàng ngày cứ mỗi sáng và đầu giờ trưa đến nhà máy họ phải xếp hàng và hát bài ca tụng Mao Trạch Đông trước khi làm việc. Tối về phải đi học các lớp chính trị. Trong khi đó, các quan chức và các nhà đầu tư nước ngoài vẫn sống trong các biệt thự sang trọng. Tuy nhiên người dân ở đây rất hiền hòa và hầu như chẳng mấy ai than phiền. Cuộc sống nơi đây vẫn y hệt như 20, 30 năm trước.
Tuy rằng Nam Nhai có thể được xem là thành công theo cách mà người dân ở đó muốn, song ngay như bạn bè Tân Tả của Thôi Chi Nguyên cũng xem trường hợp này là quá cá biệt và ít ai cho rằng đó là một mô hình phát triển cho toàn Trung Quốc, như Thôi Chi Nguyên thường cổ vũ.
Dù sao, từ những phân tích của ông, Thôi Chi Nguyên hô hào xã hội hóa vốn và cải cách quyền tài sản để lao động có tiếng nói trong các công ty mà họ đang làm. Ông cũng chủ trương lợi nhuận của các xí nghiệp quốc doanh phải được phân phát thẳng cho dân chúng thay vì nộp cho nhà nước hoặc những người đã giàu có.
Một nhà kinh tế khác là Tả Đại Bồi (Zuo Dapei) cũng có nhiều phân tích về chính sách tư hữu hóa xí nghiệp của Trung Quốc. [13] Trong khối Tân Tả thì nhóm kinh tế gia như Thôi Chi Nguyên tương đối “mạnh miệng” về mặt chính trị hơn những người khác. (Trong thời kỳ đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2007 Thôi Chi Nguyên là người hay công khai bình luận trên các phương tiện truyền thông, kề cả báo chí nước ngoài, về các diễn biến ở đại hội.) Chính Tả Đại Bồi đã cùng với Hàn Đức Cường (Han Deqiang) và Dương Phàm (Yang Fan) viết một kháng thư phản đối những sơ hở trong tiến trình tư hữu hóa (sẽ nói thêm dưới đây, đoạn nói về Hàn Đức Cường). Hay đi chung với Thôi Chi Nguyên là Lang Hàm Bình (Lang Xianping), cũng được đào tạo ở Mỹ. Tác giả này thường viết cho báo ở Hồng Công, chỉ trich kịch liệt các tập đoàn doanh thương của Trung Quốc, có lần bị kiện.
3. Vương Thiệu Quang và Hồ An Cương: Nhà nước lớn hay nhỏ?
Hồ An Cương (Hu Angang) thường được gọi là “đứa bé ngỗ nghịch” (enfant terrible) của nhóm Tân Tả ̶ tương đối trẻ, rất giỏi, nhưng lý luận “không giống ai”, thậm chí “hơi ngông”. Vào những năm 80, 90 của thế kỷ trước, khi mà hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng “nhà nước lớn thì xấu, nhỏ thì tốt” thì Hồ An Cương và Vương Thiệu Quang (Wang Shaoguang), bạn tâm giao từ hồi ở Đại học Yale, có ý kiến ngược lại. Trong một báo cáo nhiều ảnh hưởng vào đầu thập niên 1990,[14] Hồ và Vương khẳng định rằng quyền lực trong tay nhà nước Trung Quốc hiện nay là một thứ quyền lực sai. Đó là thứ quyền lực chuyên chế (despotic) thay vì cai trị (governing). Đúng là nhà nước này rất “mạnh” trong việc kiềm chế tự do cá nhân của dân chúng, nhưng về phương diện quản lý quốc gia thì họ lại thuộc vào hạng bạc nhược nhất thế giới!
Hai ông này ghi nhận sự suy giảm rõ rệt trong khả năng chính trị và quyền lực tài chính của chính phủ trung ương Trung Quốc. Sự suy giảm này là hậu quả của một sự thoái hóa (devolution): quyền lực và quyền kiểm soát ngân sách và tài nguyên thay vì theo tiến trình đi từ địa phương đến trung ương thì ở Trung Quốc lại đi ngược lại, từ trung ương phân tán xuống địa phương. Dùng các chỉ số gọi là “khả năng vắt chiết” (extractive capabilities) dựa vào thuế má, Vương và Hồ kết luận rằng những cải cách thu chi (fiscal reforms) bắt đầu vào những năm 1980 đã làm giảm đi nặng nề số tiền thuế mà nhà nước trung ương thu được.
Họ dẫn chứng: số thu cho ngân sách của chính phủ trung ương, tính theo phần trăm của GDP, đã liên tục giảm từ 31,2% năm 1978 xuống còn 14,2% năm 1992. Vương và Hồ báo động rằng Bắc Kinh đang đứng trước nguy cơ “chết đói tài chính” (fiscal starvation).
Trong lúc ngân sách của chính phủ trung ương giảm như thế thì số thu của các địa phương lại ngày càng tăng, tạo thêm cơ hội cho các “lãnh chúa đỏ” dùng những lệ phí này một cách tùy tiện để vừa tự làm giàu, vừa tăng ngân quỹ địa phương và củng cố quyền thế của họ. Đến cuối thập niên 1980 thì quyền lực của các “lãnh chúa đỏ” này không thua gì chính quyền trung ương. Kết cục là, khả năng khai thác nguồn lực quốc gia của nhà nước trung ương ngày càng giảm, trong lúc những “của cải ẩn” (hidden wealth) thì bị các chính quyền địa phương và xí nghiệp quốc doanh tom góp.
Theo ước tính của Hồ An Cương thì tổng cộng lãng phí do chạy chọt, đúc lót (rent-seeking activities), trốn thuế, lệ phí địa phương tùy tiện và trộm cắp công khai của quan chức, hàng năm lên đến 15% GDP của Trung Quốc. Ông ta cho rằng chính các quan chức địa phương, không sợ cấp dưới (dân) mà cũng chẳng ngán cấp trên (Bắc Kinh), là đầu dây mối nhợ của những tham ô lãng phí này. Do dó, theo Hồ An Cương, Trung Quốc phải tập trung quyền thu thuế để tránh sự tràn lan của những lệ phí tùy tiện và để xây dựng những cơ chế ở trung ương hòng đối phó với tham nhũng.
Phân tích của Vương Thiệu Quang và Hồ An Cương đưa phe Tân Tả đến kết luận: Hầu như tất cả khó khăn cho cải cách của Trung Quốc (tham nhũng, kinh tế quá nóng, đầu tư xấu, nợ xấu, tiêu thụ trong nước quá thấp, và bất bình đẳng ngày càng tăng) đều là hậu quả của sự quá bạc nhược của chính phủ trung ương, chẳng phải vì chính phủ này quá “mạnh” như nhiều người lầm tưởng.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:26:07 GMT 9
4. Hồ An Cương và “Phát triển mèo xanh”
Nhóm Tân Tả còn một đặc điểm nữa, đó là sự quan tâm đến môi trường. Sự quan tâm này xuất phát từ (a) lo lắng cho sự bền vững của phát triển, (b) bất ổn chính trị.
(1) Phát triển bền vững. Ít người quên được câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình “Mèo trắng hay mèo đen không phải là điều quan trọng, cái quan trọng là mèo bắt được chuột” (Bạch mao hắc mao thuyết). Hồ An Cương cho rằng chính vì tư duy “phát triển mèo đen” này mà môi trường Trung Quốc bị hủy hoại. Theo Hồ An Cương và những người như ông, Trung Quốc không thể theo con đường mà Tây phương đã đi: Phát triển cái đã, còn việc “tẩy uế” môi trường thì sẽ tính sau. Lộ trình này không khả thi cho Trung Quốc vì tốc độ và mức độ phát triển chưa từng có của Trung Quốc sẽ làm việc “dọn dẹp” môi trường, nếu đợi phát triển xong mới bắt tay, sẽ là quá trễ. Hồ An Cương đưa ra khái niệm “phát triển mèo xanh” – một sự phát triển “thân thiện” với môi trường – để phân biệt với “phát triển mèo đen, mèo trắng” của Đặng Tiểu Bình mà Trung Quốc đang theo, một cách phát triển tuy thực dụng, không giáo điều, nhưng tàn phá môi trường.
Hồ An Cương dùng một phiếm dụ: Trung Quốc ngày nay quả phát triển rất nhanh, nhưng giống như một người vừa nhảy ra một chiếc phi cơ đang bay, ban đầu hí hửng tưởng là mình biết bay... đến khi rơi đụng đất thì quá muộn! (Hồ kể cho Thomas Friedman – nhà bình luận của tờ New York Times nổi tiếng với ý niệm “thế giới phẳng” ̶ nghe phiếm dụ này, Friedman rất thích và kể lại trong nhiều bài báo). Hồ An Cương rất may là được sự ủng hộ của Phan Nhạc (Pan Yue), phụ trách môi trường cho Trung Quốc.[15] (Phan Nhạc cũng là con rễ của Đề Đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), chỉ huy hải quân Trung Quốc những năm 1982-1988, người được xem là có công hiện đại hóa hải quân này, từng là ủy viên Bộ Chính Trị.)
(2) Thật ra, quan tâm về môi trường của lãnh đạo Trung Quốc (thúc đẩy bởi nhóm Tân Tả) cũng có lý do chính trị trong đó: họ sợ rằng hủy hoại môi trường sẽ gây bất ổn xã hội. Theo Chu Sanh Hiền (Zhou Shangxian), viên chức cao nhất phụ trách môi trưởng Trung Quốc, cho biết thì năm 2005 có đến 51.000 vụ phản kháng của dân chúng liên quan đến môi trường, trong đó nhiều vụ thu hút hàng vạn người.
Nhưng điều này lại rơi vào cái nhược điểm khác mà Hồ An Cương và Vương Thiệu Quang đã vạch ra: sự bạc nhược của chính quyển trung ương, bởi vì các địa phương không bao giờ hăng hái chống hủy hoại môi trường bằng trung ương. Địa phương nào cũng muốn nơi của mình phát triển,[16] bất chấp hậu quả cho nơi khác. Thực vậy, chính vì sự phản đối của điạ phương mà ý định tính toán chỉ số “GDP xanh” của Phan Nhạc – một cách để báo động sự suy thoái của môi trường – rốt cuộc chẳng đi đến đâu cả!
5. Tiễn Lí Quần và vấn đề giáo dục
Tiễn Lí Quần (Qian Liqun) là một trí thức Tân Tả quan tâm đặc biệt đến những vấn đề giáo dục và văn hóa. Thần tượng của Tiễn Lí Quần là nhà giáo dục nổi tiếng Thái Nguyên Bồi (Cai Yuanpei 1868-1940), một người có uy tín lớn trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc vì là sư phụ của hai sáng lập viên Đảng này là Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu.
Tiễn Lí Quần nhận xét rằng từ khi Trung Quốc cải cách thì trong các đại học của nước này tinh thần độc lập quả đã nở rộ. Tuy nhiên, các đại học cũng bị áp lực vô cùng nặng nề để cung cấp những “tài năng thực tế” cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Áp lực này đã khiến đại học Trung Quốc đi ngược lại với những lý tưởng khai sáng của Thái Nguyên Bồi là muốn đại học (nhất là các đại học tinh hoa như Đại học Bắc Kinh) chỉ có nhiệm vụ đào tạo những nhà trí thức độc lập đứng ngoài “cơ chế nhà nước, những người luôn luôn có một tinh thần phán đoán, và luôn luôn ý thức những ưu và khuyết điểm của sự độc lập của họ và hậu quả của sự độc lập ấy”. Ngày nay, đại học Trung Quốc lại phải loay hoay trực diện với câu hỏi mà ngày xưa Thái Nguyên Bồi đã bức xúc: đại học ấy phải như thế nào?
Tiễn Lí Quần kêu gọi đại học Trung Quốc trở lại với mục đích rèn luyện những tài năng có tư duy phán đoán độc lập. Đại học phải lưu tâm đến lợi ích của quốc gia và nhân loại nói chung (chứ không phải của cá nhân). Đại học phải là nơi đào tạo những nhà tư tưởng, những nhà văn .... Đó phải là nơi khám phá những tư tưởng mới, những tiếp cận mới không chỉ cho Trung Quốc mà còn cho cả nhân loại.
Tiễn Lí Quần cũng than phiền sự lan tràn của chủ nghĩa thương mại và sự phai lạt ký ức về lịch sử.
Cũng nên kể thêm một người tuy không thường được xem là thuộc nhóm Tân Tả, nhưng là một nhà báo có ảnh hưởng đặc biệt, đó là Hà Thanh Liên (He Qinglian) tác giả cuốn Cạm bẩy của hiện đại hóa (“Hiện đại hóa đích hãm tịnh”, The pitfalls of modernization).[17]
II. Phe Tân hữu
Tuy là phe Tân Tả có phần “phát” lên từ khi Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo cầm quyền, họ chưa phải là “một mình một chợ” trong sinh họat văn hóa Trung Quốc. Chống lại họ là một nhóm có thể được gọi là “Tân Hữu” (cũng được gọi là “phóng khoáng” (liberal) hoặc “tân phóng khoáng” (neoliberal)).[18] Hai phe này đã đôi co với nhau về nhiều vấn đề như: (1) cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997, (2) những hậu quả của trị trường hóa và tư hữu hóa, nhất là (a) nạn tham ô, (b) bất bình đẳng thu nhập, và (c) hủy hoại môi trường. Cũng nên để ý rằng, như phe Tân Tả, phe Tân Hữu cũng có nhiều nhánh. Cụ thể, phía Hữu cũng có những người biện hộ cho công bình xã hội, cho trách nhiệm đạo đức trong phát triển kinh tế.
1. Trương Duy Nghênh
Người nổi tiếng nhất trong phe Tân Hữu là Trương Duy Nghênh (Zhang Weiying), hiện là giáo sư kinh tế ở Đại học Bắc Kinh. Trương Duy Nghênh lấy PhD ở Đại học Oxford dưới sự hướng dẫn của nhà kinh tế James Mirrlees. Trương cho rằng không gì quan trọng bằng tự do hóa thị trường, và sẳn sàng “chung sống” với một chế độ chính trị chuyên chế nếu chế độ này theo chính sách ấy.
(1) Muốn hiểu Trương Duy Nghênh thì nên biết về thầy của ông ta, tức James Mirrlees, người được giải Nobel kinh tế năm 1996 (chia giải với William Vickrey). Đóng góp lớn của Mirrlees là về lý thuyết gọi là “hệ thống thuế thu nhập tối hảo” (optimal income taxation), trong đó ông “giải” bài toán khó khăn là làm thế nào để khắc phục sự bất đối xứng thông tin (asymmetric information), và đồng thời khích lệ người chịu thuế đến mức tốt nhất (theo một nghĩa nhất định). Nói cách khác, Mirrlees cho rằng tuy thị trường có nhiều lổ hổng (nhất là do sự thiếu thốn thông tin) nhưng vẫn có cách, qua hệ thống thuế má, vuợt qua những lổ hổng này mà không cần một thay đổi căn bản về thể chế.
(2) Một nhà kinh tế khác có ảnh hưởng nhiều đến Trương Duy Nghênh là Steven Cheung, “thành viên” của trường phái thị trường tự do của Đại học Chicago. Bắt chước Cheung (1969, 1973), Trương Duy Nghênh ví nền kinh tế của một quốc gia như một con thuyền đánh cá mà chủ thuyền là một nhóm ngư dân cùng ra khơi trên chiếc thuyền ấy. Tuy nhiên, nếu vì là “chủ” mà mỗi người trên thuyền đều có quyền chỉ huy chiếc thuyền thì sẽ không làm được gì cả. Muốn đánh cá hữu hiệu, những người “chủ” – “sở hữu phương tiện sản xuất” ̶ này phải thuê một thuyền trưởng để chỉ huy họ!
Nhìn qua lý thuyết của Mirrlees cũng như của Cheung, và qua chính những bài viết của Trương Duy Nghênh thì có thể thấy là nhưng nhà kinh tế “thiên hữu” như ông ta, tuy ngoài mặt thì hay thích nói đến sự “teo nhỏ” của nhà nước, nhưng thật sự là họ mong muốn có một nhà nước chuyên chế (theo lối của họ) để thực thi những chính sách mà họ đề nghị.[19]
Mới nhìn qua thì sự khác biệt giữa Tân Tả và Tân Hữu không phải là lớn lắm, nó chỉ ở mức độ quan trọng mà họ gán cho mỗi vấn đề, và thứ tự (thời gian) mà nhà nước nên theo trong việc thực thi. Chẳng hạn, phe Tân Hữu cũng quan tâm đến môi trường, cũng ái ngại về tình trạng thu nhập bất bình đẳng, v.v, nhưng họ cho rằng ưu tiên số một phải là làm cho nền kinh tế hiệu quả hơn, và theo họ thì điều ấy chỉ có thể thực hiện được bằng cách thu nhỏ khu vực quốc doanh. Trong mục đích chỉ trích doanh nghiệp nhà nước, họ cho là lao động trong các doanh nghiệp này cũng là hưởng lợi. Nói cách khác, sự bất bình đẳng mà phái Tân Tả thường nói đến (giữa lao động và quản lý) thì, duới mắt của phái Tân Hữu, không tai hại bằng sự bất bình đẳng giữa quốc doanh và tư doanh.
Song những người “Tân Hữu” không đi sâu vào nội bộ xí nghiệp và đặc biệt là không quan tâm đến sự khác biệt trong cách ứng xử của ban quản trị và công nhân trong những xí nghiệp ấy. Trái lại, nội bộ xí nghiệp là vấn đề mà phe Tân Tả đặc biệt lưu ý. Uông Huy, như đã nói ở trên, nêu nghi vấn về giả định (của kinh tế tân cổ điển mà phái Tân Hữu chấp nhận) rằng chính vỉ “xí nghiệp gia” (entrepreneur) quyết liệt chạy theo lợi nhuận mà họ sẽ là đầu tàu làm cho kinh tế hiệu quả hơn.
2. Chu Học Cần
Một người nữa cũng không có thiện cảm với Tân Tả là Chu Học Cần (Zhu Xueqin), sinh năm 1952, giáo sư sử học Đại Học Thượng Hải từ năm 1992.[20] Chu Học Cần là đàn em của Cố Chuẩn (Gu Zhun, 1915-1974), nạn nhân của phong trào “phản hữu” (“phản hữu phái vận động”) do Mao phát động cuối thập niên 50, đầu 60 để thanh trừng nội bộ.[21]
Khác với Trương Duy Nghênh, Chu Học Cần để ý nhiều đến những vấn đề ngoài kinh tế. Ông kêu gọi Trung Quốc cải cách theo định hướng kinh tế thị trường nhanh hơn nữa, đồng thời lưu ý rằng cái “hụt hẫng hiện đại” không phải là ở kinh tế thị trường, nhưng ở sự bất bình đẳng của những quyền phi kinh tế.[22] Thực vậy, đối với Chu, một nền kinh tế hoàn toàn tự do sẽ đảm bảo những tự do khác (ngoài kinh tế). Một nền kinh tế tự do cũng không thể tách rời, chí ít là trong hình thức lý tưởng của nó, khỏi dân chủ.
Nhưng Chu Học Cần có một mối lo khác, đó là những tiềm năng của kinh tế thị trường sẽ bị ngăn chặn, bị làm xơ cứng, vì một thứ văn hóa tiêu dùng hạ cấp. (Về thái độ phê phán văn hóa vật chất thô lậu của Trung Quốc ngày nay, Chu Học Cần rất tâm đầu ý hợp với Vương An Ức, tác giả tiểu thuyết Trường Hận Ca)
Nói cách khác, Chu Học Cần, cũng như đa số các trí thức “phóng khoáng” Trung Quốc ngày nay, ủng hộ cải cách theo hướng thị trường. Tuy nhiên, họ chỉ trích nhà cầm quyền ở chỗ đã không hiện đại hóa theo con đường mà, theo họ, mới thực sự là quan trọng: đó là cho dân chúng quyền mà chính pháp luật và hiến pháp nhìn nhận (legal and constitutional rights). Trái với những trí thức “Tân Tả”, Chu Học Cần cho rằng Trung Quốc cần nhiều cải cách thị trường hơn nữa, và khẳng định rằng sự ngày càng nhiều bất bình đẳng và bất công là do sự can thiệp quá đáng của nhà nước vào cơ chế thị trường (không để cơ chế ấy được tự do) – cái “bàn chân hữu hình” (của nhà nước) đang dẫm lên “bàn tay vô hình” (của Adam Smith). Quan điểm này của Chu Học Cần đã bị Uông Huy (lãnh tụ Tân tả mà ta gặp ở trên) phản bác. Uông nói thẳng là không đồng ý với quan điểm với Chu Học Cần là nhà nước và kinh tế thị trường phải là đối nghịch lẫn nhau.
Sự khác biệt giữa cánh Tân Tả và Tân Hữu ở Trung Quốc có thể quy về vấn đề phân phối thu nhập (hay nói rộng hơn là sự quân bình xã hội). Cánh tả thì cho rằng một yếu tính của xã hội chủ nghĩa phải là làm cho thu nhập được phân phối đồng đều hơn, cánh hữu thì dù đồng ý rằng đây là một vấn đề về công bằng và xã hội hòa đồng, nhưng không cho rằng đó là một điều kiện cần thiết của xã hội chủ nghĩa. Thực vậy, Đặng Tiểu Bình cho rằng chút ít bất bình đẳng có thể là cần thiết để kích động những sinh hoạt dẫn đến tăng trưởng kinh tế, và chính tăng trưởng kinh tế (chứ không phải giảm bớt bất bình đẳng) là điều kiện cần cho sự tồn tại của xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, xã hội chủ nghĩa có thể được hiện thực ở nhiều mức độ thu nhập bình đẳng (hoặc bất bình đẳng) khác nhau, nhưng, họ nhìn nhận, sự “an hòa xã hội” (social peace) có thể đòi hỏi một mức độ bình đẳng lớn hơn là mức độ cần thiết để xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Một điều oái oăm là Chu Học Cần (và số lớn các đồng minh “phóng khoáng” của ông ta) tuy đã lớn lên hoàn toàn ở Trung Quốc (không du học như các người Tân Tả), lại “mở cửa” đối với Tây phương, so với các trí thức Tân Tả mà, ta đã thấy trên đây, phần lớn là những trí thức bài bản và thành danh ở phương Tây, nhất là Mỹ. Ngược lại, những người Tân Tả lại kêu gọi nhiều hơn vào “tinh thần quốc gia” xem đó như một nội lực. Chu Học Cần xem đó chỉ là dụng tâm của nhóm này để tạo “tính chính đáng” cho chế độ.
III. Không Tân Tả, chẳng Tân Hữu
Tần Cối (Qin Hui, sinh năm 1953), giáo sư sử kinh tế ở Đại Học Thanh Hoa, có một vị thế đặc biệt trong sinh hoạt trí thức Trung Quốc tường thuật trên đây.[23] Trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, vì gia đình ông bị “đày” đi Quảng Tây, ông đã phải tự học, chật vật mưu sinh, bị nhiều trù ếm. Ông tin vào thị trường, xã hội chủ nghĩa, lẫn chủ nghĩa tự do. Tần Cối chỉ trích thái độ mà ông cho là “sô vanh” dân tộc của Tân Tả; ông bác bỏ luận điệu của phái Tân Tả hô hào sự kiểm soát của nhà nước, mà cũng không đồng ý với cánh Tân Hữu là phải “dung thứ” sự kiểm soát này. Ông cho rằng không thể tách rời tư hữu hóa và dân chủ hóa. Chúng phải đi đôi với nhau. Tần Cối khẳng định: tư hữu hóa mà không dân chủ hóa, hoặc ngược lại, đều sẽ gây đại họa. Ông mong muốn một nước Trung Quốc “nhiều tự do kinh tế (laissez-faire) hơn, mà cũng nhiều trợ giúp phúc lợi từ nhà nước hơn”. Ông không cho mình là người “đối kháng” mà chỉ đóng góp để hoàn thiện chính sách nhà nước mà thôi.
Trong một bài thuyết trình đọc ở Đại học Monash gần đây, Tần Cối bắt đầu như thế này:
Mao Trạch Đông hay nói: “Chỉ xã hội chủ nghĩa mới có thể cứu Trung Quốc”. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu, nhiều người nói rằng “chỉ Trung Quốc mới có thể cứu vãn xã hội chủ nghĩa”. Nhưng điều này có vẻ ngày càng mỉa mai (ironic). Hơn một thập kỷ từ năm 1992 đã cho thấy rõ là chỉ Trung Quốc mói có thể hủy diệt xã hội chủ nghĩa”[24]
Tần Cối có một ý kiến khá độc đáo. Đó là, thể chế hiện nay của Trung Quốc (một loại tư bản chủ nghĩa mà nhà nước là khống chế, và một hệ thống phúc lợi “nhẹ”[25]), đã giúp Trung Quốc xuất khẩu hàng rẻ, và chính điều này làm rung rinh cả những truyền thống xã hội dân chủ của… phương Tây! Theo Tần Cối, sở dĩ Trung Quốc có những thành công kinh tế kỳ diệu là vì họ đã tước mất quyền lập hội và thương lượng của nông dân và lao động.
Ông gọi nhóm Tân Tả là Dân Túy (populists). Theo Tần Cối, chủ tâm của nhóm này là phục hồi truyền thống “cộng đồng” của Trung Quốc nhằm ngăn chận sự lan truyền của tự do chủ nghĩa kiểu Tây phương. Họ xem di sản xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc như một liều thuốc giải độc (antidote) căn bệnh của chủ nghĩa phóng khoáng.
Tần Cối cũng chỉ trích phe “phóng khoáng”. Theo ông, thực chất phe này chỉ là những người tôn sùng chế độ “quả đầu chính trị” (oligarchy), xem tài sản nhà nước như một thứ “chiến lợi phẩm” để chôm chia, theo nguyên tắc “ai có quyền lực thì được hưởng” (to each according to its power).
IV. Thay lời kết
Bài này đã phác họa một góc của sinh hoạt trí thức Trung Quốc khỏang hơn mươi năm gần đây. Cần nhấn mạnh, một lần nữa, rằng đây chỉ là một mảng nhỏ, và phiến diện, của các luồng tư tưởng hiện đại ở Trung Quốc. Không thể nghi ngở là, ở quốc gia ấy, tư tưởng chính ngạch của Đảng Cộng Sản vẫn là khống chế.[26] Một mảng khác, cũng khá lớn, mà bài này không đề cập đến là những tranh luận về chính sách ngoại giao và quốc phòng của nước này (như quan niệm “hòa bình quật khởi” của Trịnh Tất Kiên, chẳng hạn). Song, qua lược thuật trên đây cũng đủ thấy là sinh hoạt trí thức Trung Quốc rất sống động (một cách làm ngạc nhiên nhiều nhà quan sát ở nuớc ngòai[27]), có những tranh luận khá thẳng thắn, không giáo điều, về những vấn đề mà nước này phải đương đầu.
Trong khuôn khổ “được phép”, giới trí thức Trung Quốc đã có một chất lượng tranh luận khá cao. Nhìn những trí thức “công khai” này cũng thấy được một điều: đó là những ý kiến (cụ thể là trong khoảng hai thập kỷ vừa qua) mà nhà cầm quyền Trung Quốc “dung thứ”, thậm chí lắng nghe,[28] là đa chiều, đa dạng, không đơn điệu như nhiều người tưởng.
Đáng chú ý nhất có lẽ là nhóm Tân Tả. Sau những cực đoan “thị trường hóa” “tây phương hóa” trong cuộc cải cách của Trung Quốc, sau những thành công và nhiều mặt xấu của nó, rõ ràng là đã có nhiều phản ứng ngược lại mà tiêu biểu là nhóm Tân Tã. Một “ưu điểm” của nhóm này (và nhờ ưu điểm này mà họ có thể “chung sống”, thậm chí có đồng minh trong cấp lãnh đạo) là họ chỉ phê bình những chính sách cụ thể của nhà nước, chứ không (công khai) thách thức tính chính đáng và uy quyền của Đảng. (Tuy nhiên, lối phê bình “cục bộ” này đôi khi cũng men đến những vấn đề nhạy cảm, chẳng hạn như khi họ chỉ trích một số chính sách hiện nay, cho đó là một hình thức bốc lột, thậm chí cưỡng chiếm, công của của nông dân và lao động… và những sự bất công khác). Nhưng rõ ràng là nhóm Tân Tả đã tạo một đối trọng cần thiết, nhắc nhở nhà nước những lý tưởng của xã hội chủ nghĩa... “May mắn” cho những người này (và cũng thể hiện phần nào sự “sáng suốt” của chính quyền Trung Quốc), họ không bị xem là “phản động”, mà đôi khi còn là cố vấn, là những nhà lý luận “quan phương” cho cấp lãnh đạo hiện nay... Nhưng điều này có thể nhìn ngược lại: rằng họ vẫn còn bị thấy, phần nào, phải biện hộ cho sự phát triển (đúng hơn là sự tiến hóa) của Trung Quốc trong “khung tư tưởng” Tây phương.
Nhưng nhóm Tân Hữu (và những người chỉ trich cả Tân Tả lẫn Tân Hữu) cũng có một số ý kiến đáng ghi nhận. Họ chú ý nhiều hơn đến Trung Quốc trong bối cảnh thực tế (không quá “triết lý” như phe Tân Tả) của những liên hệ kinh tế tài chính quốc tế (nếu không muốn dùng cụm từ “tòan cầu hóa” thời thượng) và là một phản biện cần thiết cho nhóm Tân Tả mà, trong lúc hăng say nhấn mạnh đền cái đặc thù của Trung Quốc, lập luận của họ (Tân Tả) đôi khi phảng phất một mùi “sô vanh” dân tộc nguy hiểm! Việc nhóm Tân Hữu nhìn nhận và sẵn sàng tranh luận về những chọn lựa khó khăn: giữa dân chủ và chuyên chế, giữa bình đẳng và phát triển ít ra cũng thể hiện một sự lương thiện trí thức.
Chúng ta cũng không thể loại trừ trường hợp lý luận của phe này hoặc phe kia được dùng như những vũ khí chính trị nội bộ (và bị vứt bỏ, thậm chí trở cờ, khi tình thế xoay chiều và những hậu thuẫn trí thức không còn cần đến).[29] Cũng phải nhấn mạnh rằng Trung Quốc vẫn còn là một quốc gia chuyên chế, không có tự do ngôn luận. Sự kiện Uông Huy và Hoàng Bình bị bãi nhiệm tổng biên tập Độc Thư (dù có kháng thư của trên 400 trí thức) khi tình hình trở nên “nhạy cảm” trước Đại hội Đảng năm 2007, và nhiều hạn chế khác (như việc thu hồi cuốn sách của Hà Thanh Liên), đã chứng tỏ (mà chắc không ai còn cho là cần thiết!) điều này. Tuy nhiên, sinh hoạt trí thức Trung Quốc như lược thuật trên đây vẫn cho thấy dù một xã hội có là chuyên chế, cũng còn một số “vùng trống”, lúc rộng, lúc hẹp, mà sinh hoạt trí thức chân chính có thể phát triển, và những phân tích học thuật cao vẫn có thể nẩy mầm.
Tháng 7, 2009
Trần Hữu Dũng
(Bài này là bản hoàn chỉnh báo cáo đọc tại Hội Thảo Hè (27-29/7/2008) tại Nha Trang)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:26:49 GMT 9
Chú thích
[1] Gần đây, có ba bài về phái Tân Tả đã được dịch ra tiếng Việt: Leslie Hook (2007), Mark Leonard (2008), và Zhang Yongle (2008).
[2] Ngoài tờ Độc thư, những tạp chí thường đăng bài của nhóm Tân tả là: Biên giới (Tianya) Thế kỷ hai mươi mốt, Chiến lược và Quản Lý (Strategy and Management). Bán nguyệt san Tài kinh (Caijing), chuyên về tin xí nghiệp và kinh doanh, cũng có nhiều tiếng nói của nhóm này.
[3] Danh hiệu này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1994 trên tờ Bắc Kinh Thanh Niên Báo, xem Mierzejewski (2009).
[4] Thậm chí, có người như Misra (2003) còn gọi nhóm này là “tân Mao-ít”
[5] Tuy rằng chính tạp chí “New Left Review” xuất bản ở Anh (của các trí thức thiên tả nổi tiếng như Perry Anderson, Robin Blackburn, Tariq Ali) là nơi đã thường đăng nhiều bài (dịch ra tiếng Anh) của Uông Huy và thân hữu, và đã đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá nhóm này cho độc giả Tây phương.
[6] Xem, chẳng hạn, Pocha (2005)
[7] Nhưng trước đó thì Uông Huy thường được coi là một chuyên gia về Tam Quốc
[8]“Hiện đại Trung Quốc tư tưởng đích hưng khởi”(2004)
[9] Hoàng Bình (Huang Ping, sinh 1958) lấy PhD về xã hội học ở Trường Kinh Tế Luân Đôn (London School of Economics), là tác giả của nhiều bài về phát triển nông thôn và sự cân bằng giữa các miền (regional balance) ở Trung Quốc.
[10] Xem, chẳng hạn, Wang Hui (1994, 2003)
[11] Về những cách diễn nghĩa khác nhau sự cố Thiên An Môn, đọc, chẳng hạn, Wang (2003)
[12] Thực ra, bài này của Akerlof và Romer hình như chỉ gây ấn tượng cho Uông Huy! Ít có nhà kinh tế Tây phương nào biết đến nó.
[13] Cha (2009) là một bài dài về Tả Đại Bồi.
[14] Xem Wang Shaoguang và Hu Angang (2001)
[15] Chính Phan Nhạc là người tuyên bố một câu trên báo Der Spiegel (của Đức) vào cuối năm 2006, được trích khắp thế giới: "Để sản xuất hàng hóa đáng giá 10000 USD, chúng tôi [Trung Quốc] phải dùng gấp 7 lần lượng tài nguyên mà Nhật Bản dùng, gần 6 lần lượng tài nguyên mà Mỹ dùng, và – điều này là đáng đặc biệt hổ thẹn – gần 3 lần lượng tài nguyên mà Ấn Độ dùng” . Xem Elizabeth C. Economy, The Great Leap Backward?, Foreign Affairs, Sep/Oct 2007
[16] Một biến thể của quan niệm “bi kịch của cái chung” (“tragedy of the commons”) mà nhà kinh tế Mỹ Garrett Hardin (1968) đã làm nổi tiếng.
[17] Xem thêm: Cam Dương (Gan Yang) trong Trương Húc Đông (Zhang Xudong) (2001)
[18] Misra (2003) gọi nhóm này là “tân chuyên chế” (neo-authoritanism”)
[19] Bạn đọc trong ngành kinh tế có thể để ý điều này: sự khác biệt giữa tư duy Tân Hữu và Tân Tả có thể xem như phản ảnh sự khác biệt giữa”truyền thống Oxford” (Alfred Marshall, John Hicks) và “truyền thống Cambridge” (Joan Robinson)
[20] Xem, chẳng hạn, Mishra (2006)
[21] Chu cũng là người viết lời tựa cho cuốn Cạm Bẩy của Hiện Đại Hóa (Pitfalls of modernization) của Hà Thanh Liên nói ở trên
[22] “We believe the market economy is not a sin. On the contrary, the sin comes from inequality of non-economic rights. It is this inequality of rights that distorts China's market economy, and that also leads to omnipresent corruption and peasant problems in China” (Harmony stems from democracy, Chinadaily 2-12-05)
[23] Xem, chẳng hạn, Garnault (2008). Vợ của Tần Cối, Kim Yến, bút hiệu Tô Văn, cũng là một học giả nổi tiếng.
[24] " 'Only socialism can save China', Mao Zedong used to say. After the collapse of Soviet and Eastern European communism, some said that 'only China can save socialism'. But this now seems more and more ironic. The decade and more since 1992 above all shows that only China can destroy socialism."
[25] State-dominated, welfare-lite capitalism
[26] Bài này cũng không nói đến những luồng tư tưởng “ngầm” trong xã hội Trung Quốc cũng như trong cộng đồng người Hoa ở nước ngoài.
[27] Xem, chẳng hạn, Leonard (2008)
[28] Chẳng hạn, nhiều nhà quan sát cho rằng chính sách tích cực trợ giúp lao động nhập cư của chính phủ Ôn Gia Bảo là do đề nghị của nhóm Tân Tả.
[29] Đó là không nói đến một thực tế khá “thô lậu”: một số trí thức này hiển nhiên đã được sự bao che của nhiều “ô dù” cao cấp trong Đảng. Chẳng hạn như đàng sau Hồ An Cương là Phan Nhạc (và Phan Nhạc là con rễ của Đề Đốc Lưu Hoa Thanh). Tiễn Lí Quần thì dựa thế của Thái Nguyên Bồi, thầy của nhị vị khai quốc công thần Trần Độc Tú và Lý Đại Chiêu. Cũng dễ thấy sự gần gũi của phe Tân Hữu với nhóm Thượng Hải của Giang Trạch Dân, và của phe Tân Tả với Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo.
Tham Khảo
Akerlof, George A., và Paul M. Romer, 2003, “Looting: The Economic Underworld of Bankruptcy for Profit” Brookings Papers on Economic Activity, Bộ 1993, Số 2, tr. 1-73
Cha, Ariana Eunjung, 2009, For China's New Left, Old Values, Washington Post, 19 tháng 4
Chaohua Wang, 2003, One China, Many paths, New York: Verso
Cheung, Steven N S, 1969, The Theory of Share Tenancy, Chicago: University of Chicago Press
Cheung, Steven N S, 1973, "The Fable of the Bees: An Economic Investigation," Journal of Law and Economics, Bộ 16, Số1, tr. 11–33.
Dowd, Douglas, 2005, “The dynamics, contradictions, and dissent of today’s China”, Review of Radical Political Economics, Mùa Đông, tr. 116-125.
Garnaut, John, 2008, “China's economic power needs the party”, Sydney Morning Herald, 7 tháng 1.
Hardin, Garrett, 1968, "The Tragedy of the Commons". Science 162, tr. 1243-1248
Hook, Leslie, 2007, “The Rise of China's New Left,” Far Eastern Economic Review, 170, Số 3. tr. 12-27. Bản dịch của Vũ Quang Việt: Sự trỗi dậy của cánh tả mới ở Trung Quốc, Thời Đại Mới số 10, tháng 3/2007
Leonard, Mark, 2008, “China’s New Intelligentsia”, Prospect, tháng 3. Bản dịch của Phạm Toàn: Giới trí thức mới của Trung Quốc, talawas, 20-3-2008
Leonard, Mark, 2008, What does China Think?, N.Y.: Public Affairs
Mierzejewski, Dominik, 2009, ‘Not to Oppose but to Rethink’: The New Left Discourse on the Chinese Reforms, Journal of Contemporary Eastern Asia, Bộ 8, Số 1, tr. 15-29
Minqi Li, 2008, “The New Left in China,” Monthly Review, 22 tháng 8
Mishra, Pankaj, 2006, Getting Rich, London Review of Books, 30 tháng 11
Misra, Kalpana, 2003, “Neo-left and neo-right in Post-Tiananmen China,” Asian Survey, Tháng 9 - Tháng 10, tr. 717-744
Nguyễn Hải Hoành, 2009, Trung Quốc không vui, Hội Nhà Văn, 14 tháng 4
Pocha, Jehangir, 2005, China Today: Misguided Socialism Plus Crony Capitalism, New Perspectives Quarterly, Bộ 22, Số 2
Wang Hui, 1994, The Gradual Society, N.J.: Transaction Publishers
Wang Hui, 2003, China’s New Order: Society, Politics, and Economy in Transition, (Theodore Huters biên tập) Cambridge: Harvard University Press
Wang Hui, 2005, “China’s New Left,” New Perspectives Quarterly, 7 tháng 3.
Wang Shaoguang và Hu Angang, 2001, The Chinese Economiy in Crises, New York: M.E Sharpe
Zhang Xudong, 2001, Whither China?, Durham: Duke University Press.
Zhang Yongle, 2008, “No forbidden zone in reading?”, New Left Review 49, Tháng 2 - Tháng 3. Bản dịch của Hoài Phi: “Không có vùng cấm trong lĩnh vực đọc? “Ðộc thư” và giới trí thức Trung Quốc”, talawas, 15-9-2008
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:31:04 GMT 9
Vài nhận xét và suy nghĩ về Công bằng trong Mậu dịch (Fair Trade) Ngô Vĩnh Long Trong bài về sự bí ẩn trong “thế giới hàng hóa” của Marx,[1] tác giả Lữ Phương có viết những dòng sau đây về trao đổi hàng hóa (trang 1): Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi, mình cần cái mình không có mà không bị thiệt thòi. Muốn như vậy thì phải tìm ra một chuẩn mực chung giữa hai hàng hoá để làm cơ sở cho cuộc trao đổi đó. Chuẩn mực chung đó là gì? Trong trao đổi đơn giản, Marx cho rằng nếu đó là sự chi phí sức lao động tính bằng độ lâu (durée) về thời gian của các loại lao động riêng biệt thì trong xã hội mà sự trao đổi hàng hoá đã trở thành hiện tượng “chi phối”, phổ biến, sự chi phí về sức lao động đó đã biểu hiện như một hình thái đồng nhất, trừu tượng mang ý nghĩa của một bản thể xã hội gọi là giá trị. Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội. Đoạn trích ở trên có hai câu gây cho tôi ít nhiều suy nghĩ: “Trừ những trường hợp riêng biệt, nguyên tắc của trao đổi là ngang giá, hai bên đều có lợi” và “Không có cái bản thể chung quy định cho hình thái giá trị này làm cơ sở thì việc trao đổi hàng hoá sẽ trở nên tuỳ tiện, không thể bảo đảm được nguyên tắc ngang giá, có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội.” Lữ Phương đã trình bày rất chi tiết phân tích của Marx về “hình thái giá trị” đề cập ở trên; và việc đánh giá nguyên tắc ngang giá của Marx như thế nào là tùy người “đọc.” Nhưng vì hiện nay tại nhiều nước trên thế giới người ta nói rất nhiều đến việc “hai bên đều có lợi” (“giải pháp cùng thắng,” win-win solution) trong trao đổi hàng hóa (mậu dịch) và việc “có lợi cho các đối tác trên phạm vi toàn xã hội” (mà tiếng Anh người ta gói trong các khái niệm như “cosmopolitan egalitarianism” và “global justice”), nhân cơ hội nầy tôi xin trình bày một vài nhận xét và suy nghĩ về công bằng trong mậu dịch. Theo tôi công bằng trong mậu dịch (Fair Trade) là một nhân tố của công bằng cho toàn xã hội loài người (global justice, cosmopolitan egalitarianism) nhưng, khác với khái niệm global justice hay cosmopolitan egalitarianism, có một quan niệm với những mục tiêu rất thiết thực mà người ta có thể, từng bước, đạt được từ các cấu trúc kinh tế, xã hội và chính trị hiện hữu qua những cuộc vận động hay đấu tranh kiên trì. Những nguyên tắc bình đẳng toàn cầu “mới” và “cũ” Các lý thuyết gia về “cosmopolitan egalitarianism” hình dung một xã hội hay một cộng đồng toàn cầu (có hay không có một chính quyền toàn cầu) và đi từ những lý thuyết về tính chất nguyên thủy của xã hội toàn cầu hay từ những quan niệm đạo đức về bình đẳng tương tự để tạo ra những nguyên tắc về công bằng toàn cầu mà họ cho là phải cao hơn hay phải kiềm hãm được các nguyên tắc về công bằng của các quốc gia cá thể.[2] Những nguyên tắc toàn cầu nầy gồm có “nguyên tắc khác biệt trên toàn cầu” (global difference principle)[3], “cơ hội bình đẳng toàn cầu” (global equality of opportunity)[4], “bình đẳng về tài nguyên cho toàn cầu” (global equality of resources)[5], và “tự do thật sự cho tất cả” (real freedom for all).[6] Theo khái niệm “cosmopolitan egalitarianism” thì vấn đề công bằng trong mậu dịch chỉ là một phần phụ, nếu không nói là ngoại vi, trong việc coi nền kinh tế toàn cầu như là một cơ cấu hợp tác xã hội độc nhất, với sự đối đãi và tôn trọng mọi cá nhân trên toàn cầu một cách bình đẳng. Khái niệm bình đẳng hay công bằng toàn cầu nầy không quan tâm đến vai trò của các quốc gia cá thể, hầu như coi nó không quan trọng hay cần thiết. Các lý thuyết gia chống khái niệm bình đẳng toàn cầu đưa ra khái niệm mà ta có thể gọi là khái niệm công bằng toàn cầu tối thiểu, tức là nguyên tắc đòi nhân sinh và nhân quyền của mọi người trên thế giới phải được nâng cao lên và đãm bảo đến mức tối thiểu có thể. Nhưng để thật sự có công bằng toàn cầu được thì trước hết là phải thành lập được một một chính thể hay một chúa tể cho toàn cầu (“global sovereign”) để thẩm định các yêu sách một cách có hệ thống như đề nghị của Thomas Nagel[7]; hay như kêu gọi của John Rawls là các nước trên thế giới phải có trách nhiệm trợ giúp các “xã hội bị oằn lưng” (burdened societies), nhưng trách nhiệm trợ giúp nầy phải có mục tiêu rõ ràng và phải có thời hạn dứt điểm (cutoff)[8]; và như đề án “Global Resource Dividend” của Thomas Pogge, tức là một quỹ được thành lập từ thuế tiêu dùng nguyên liệu của thế giới để nâng thu nhập của mọi người vượt được ngưỡng nghèo đói tối thiểu của Liên Hiệp Quốc (United Nations poverty line.)[9] Nhưng khái niệm công bằng toàn cầu tối thiểu nầy cũng không đề cập gì đến vấn đề công bằng trong mậu dịch và dường như cũng cho nó là vấn đề ngoại vi, nếu không nói là không quan trọng. Hai khái niệm về công bằng toàn cầu trên được đưa ra vì người ta thấy quan niệm “cùng thắng ” (win-win) trong trao đổi hàng hóa (mậu dich, thương mại) là quá eo hẹp và không còn thích hợp trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay nữa. Họ cho là nếu hai cá thể (hai cá nhân, hai công ty, hai quốc gia) nào đó thấy họ “đều có lợi” và đều hài lòng mỹ mãn trong việc trao đổi hàng hóa đi nữa thì việc nầy không có nghĩa là những người khác không bị thiệt thòi (thiệt hại). Trong ba thập kỷ vừa qua, tuy đã giúp phát triển mậu dịch và tăng tổng thu nhập quốc dân (GDP) chưa từng thấy cho nhiều nước trên thế giới, toàn cầu hóa đã càng ngày càng làm tăng sự cách biệt giàu-nghèo giữa nhiều nước cũng như giữa những thành phần xã hội trong mỗi nước. Ngay tại Hoa Kỳ, một quốc gia giàu có nhất trên thế giới và được hưởng lợi lớn nhất qua toàn cầu hóa, số người thất nghiệp cũng đã tăng đến khoảng 10% (theo các con số chính thức phần lớn là trong các khu vực sản xuất và chế biến) và khoảng 50 triệu người (trong tổng số 300 triệu) không có bảo hiểm sức khỏe vì quá nghèo. Do đó, người ta có lý do hoàn toàn chính đáng để yêu cầu một sự đền bù—hay công bằng—nhất định đối với những phần tử xã hội bị thiệt thòi hay thiệt hại. Công bằng “cực đoan” hay Utopia Cho nên, đứng về mặt lý tưởng mà nói tôi không phản đối khái niệm công bằng toàn cầu, kể cả khái niệm công bằng tối thiểu mặc dầu tôi không tán thành phần lớn các lập luận “ảo tưởng” được áp dụng (như việc phân phối cho công bằng phải cần có một chính thể toàn cầu hay một chúa tể toàn cầu, hay như việc đền bù những thiệt hại phải có thời hạn dứt điểm làm như các thiệt hại đó chỉ có xảy ra hay tồn tại trong một thời gian nhất định thôi). Nếu nhân dân thế giới đạt được những mục tiêu tối thiểu đề cập đến trong khái niệm nầy thì đây cũng đã là một thành quả rất to lớn vì hiện nay có khoảng một nữa nhân loại đang đói khổ ngặt nghèo. Hai khái niệm trên không thực tế; và càng không hiểu tại sao những lý thuyết gia của hai khái niệm ấy (và những người ủng hộ nó) lại cho rằng quan điểm công bằng trong mậu dịch là ngoại vi. Có thể họ cho rằng xu hướng toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện tại sẽ dẫn đến một sự hòa nhập sâu đậm và do đó hai khái niệm công bằng trên sẽ rất cần thiết và sẽ nhận được sự đồng tình của số đông. Nhưng như Dani Rodrik[10] ̶ một kinh tế gia đại học Harvard rất nổi tiếng về các vấn đề toàn cầu hóa và phát triển ̶ đã nhận định: “Với các cấu trúc chính trị và những thực tế kinh tế hiện hành, hòa nhập sâu đậm là một điều không tưởng” (Under current political configurations and economic realities, deep integration is a utopia).[11] Tuy nhiên Rodrik cũng cho biết trong bài viết nầy của ông là nếu nhân dân lao động có nhiều tự do di chuyển và di dân thì các nước đang phát triển sẽ có lợi lớn hơn gấp 25 lần tất cả các khoản mục đang được ghi trong các chương trình nghị sự của các tổ chức mậu dịch quốc tế.[12] Không biết có phải đây là một trong những lý do làm cho nhiều người nghĩ rằng công bằng trong mậu dịch là vấn đề phụ, là vấn đề không quan trọng lắm hay không? Nhưng nếu việc tự do di chuyển và di dân thật sự có lợi nhiều hơn việc đòi hỏi bình đẳng trong các tổ chức mậu dịch quốc tế và việc tự do di dân và di chuyển nầy là việc khả thi như Rodrik nói (chứ không phải lại là một việc không tưởng) thì câu hỏi vẫn có thể được đặt ra là trong hai điều kiện, cái nào khả thi hơn “với các cấu trúc chính trị và những thực tế kinh tế hiện hành”? Trên thực tế hiện nay chưa thấy có những cơ cấu hay tổ chức đặc biệt nào dành cho việc bảo đãm sự tự do di trú của nhân dân lao động trên thế giới. Nhưng hiện nay đã có nhiều tổ chức mậu dịch đa phương như NAFTA (North American Free Trade Agreement), AFTA (Asia Free Trade Agreement), APEC (Asia Pacific Economic Cooperation), và WTO (World Trade Organization) qua đó người ta có thể không những tranh đấu cho có công bằng hơn trong mậu dịch mà cũng có thể tranh đấu cho có công bằng hơn trong việc tự do di trú của nhân dân lao động. Vấn đề là cụ thể phải làm gì, “chuẩn mực chung” như thế nào để các hoạt động đấu tranh cho có công bằng hơn trong mậu dịch khỏi phải “tùy tiện”, và chuẩn mực chung nầy làm sao có thể hướng dẫn việc làm chính sách hay đánh giá chính sách và những cơ chế hiện hành chứ không phải chỉ là ý niệm luân lý trừu tượng chung chung? Trước hết là Công bằng trong Mậu dịch theo tiêu chí nào Hiện nay phong trào đòi hỏi công bằng trong mậu dịch đang lan tỏa tại nhiều nước trên giới. Ở Mỹ, chẳng hạn, phong trào công bằng trong mậu dịch (Fair Trade Movement) được chia ra làm hai cánh. Cánh thứ nhất chú trọng vào sự lựa chọn của các cá nhân và tổ chức trong việc mua bán hàng hóa và đặt ra những tiêu chuẩn mà họ cho là công bằng trong việc đối xử với những người sản xuất những hàng hóa đó. Các tiêu chuẩn nầy, theo định nghĩa của Fair Trade Federation (Liên Đoàn Công Bằng trong Mậu Dịch) gồm có: trả lương công bằng trong bối cảnh địa phương (paying fair wages in local context), ủng hộ sự tham gia của tất cả mọi người tại các chỗ làm việc (supporting participatory work places), bảo đảm sự bền vững của môi trường (ensuring environmental sustainability), cung cấp sự trợ giúp về mặt tài chính và kỹ thuật (supplying financial and technical support), tôn trọng văn hóa bản xứ (respecting cultural identity), có trách nhiệm trước công chúng (offering public accountability), và giáo dục những người tiêu dùng (educating consumers).[13] Vấn đề giáo dục người tiêu dùng về thực trạng của nông dân và công nhân tại các nước đang phát triển là đóng góp rất quan trọng của phong trào Fair Trade nầy. Ở Mỹ khi người tiêu dùng thấy trên nhãn hiệu các hàng hóa như cà phê, trà, ca-cao, sô-cô-la, chuối, vải cô-tông có đóng mộc với chữ “Fair Trade Federation” hay “Fair Trade Certified” thì họ biết là các mặt hàng đó đã đạt được những tiêu chuẩn nói trên. Ngoài những thông tin có thể tìm được trên trạm của Fair Trade Federation (http://www.FairTradeFederation.org) người ta còn có thể tìm thấy nhiều thông tin cụ thể tại các trạm như www.fairtraderesource.org/.[14] Trạm này là của Fair Trade Resource Network ở Philadelphia, Pennsylvania, và ngày 13 tháng 7 năm 2009 có đăng một bản tin là mặc dù kinh tế toàn cầu suy thoái những mặt hàng “Fair Trade Certified” bán ra trên toàn cầu năm 2008 tăng 22%, với tổng giá trị là 4 tỷ Mỹ kim. Ở Mỹ tăng 10% (1,06 tỷ Mỹ kim), ở Anh tăng 43% (1,23 tỷ Mỹ kim), ở Đức tăng 50%, ở Ca-na-đa tăng 67%, ở Tân Tây Lan tăng 72% và ở Thụy Điển tăng 75%. Các mặt hàng với giá trị tăng cao nhất là trà (tăng 112%) và cô-tông (tăng 94%). Các mặt hàng với số lượng tăng cao nhất là cà phê (tăng 14%, đạt đến 66.000 tấn) và chuối (tăng 28%, đạt 300.000 tấn). Đến cuối năm 2008 trên toàn thế giới có 746 tổ chức sản xuất được danh hiệu Fair Trade Certified và những tổ chức nầy làm đại diện cho hơn 1 triệu rưỡi nông dân cá thể và công nhân. Thêm vào đó có hơn 700.000 người trong các chi nhánh (affiliated organizations) của các nhóm có danh hiệu Fair Trade Certified, nhưng không trực tiếp sản xuất các món hàng bán ra, cũng được hưởng lợi gián tiếp. Mặc dầu chỉ số tăng trên trông rất lạc quan so với sự suy thoái trung bình khoảng 30% của tổng giá trị mậu dịch thế giới từ năm 2008 cho đến cuối quý đầu năm 2009, tổng giá trị các mặt hàng Fair Trade Certified được bán ra chỉ là một phần không đáng kể của tổng giá trị mậu dịch thế giới.[15] Để có những thay đổi to lớn hơn cho đời sống của những người bị ảnh hưởng bởi mậu dịch ở các nước đang phát triển, cánh thứ hai trong phong trào tại Mỹ đòi hỏi công bằng trong mậu dịch cho rằng người ta phải chú trọng đến các điều kiện về mậu dịch do các hiệp định thương mại dựng lên. Do đó, cánh nầy tập trung vào việc cải cách NAFTA, WTO và các hiệp định hay cơ chế tương tự. Cụ thể thì các phần tử trong cánh nầy hiểu vấn đề (hay đặt vấn đề) công bằng trong mậu dịch như thế nào? Phần lớn các tổ chức trong cánh nầy đều quy tụ và đoàn kết xung quanh đạo luật “Trade Reform, Accountability, Development and Employment Act of 2008”—gọi tắt là TRADE Act (H.R. 6180.S.3083). Do đó, các điều khoản của đạo luật cũng như các biện luận và phân tích ủng hộ đạo luật nầy là những nơi ta có thể tìm thấy những tiêu chuẩn về công bằng của các phần tử trong cánh nầy.[16] Ở đây tôi không thể đi vào chi tiết về các điều khoản của đạo luật nầy và những biện luận ủng hộ nó vì chúng ta chưa có một “chuẩn mực chung” để có thể phân tích hay đánh giá các điều khoản của đạo luật nầy cũng như các lập luận ủng hộ một cách có hệ thống. Làm sao có thể xét được là sự đòi hỏi về công bằng trong mậu dịch của cánh nầy là thật sự công bằng, là đem lại lợi ích cho mọi người và không gây thiệt hại cho bất cứ ai ở các nước đang phát triển hay ở tại Mỹ cả? Bốn quan niệm về Công bằng trong Mậu dịch Thiết nghĩ một chuẩn mực chung về công bằng trong mậu dịch (chứ không phải công bằng cho toàn xã hội hay toàn cầu) cũng cần phải có một tiêu chuẩn bình đẳng. Vì thế công bằng trong mậu dịch cần được phân biệt với những quan niệm về công bằng hay bất công bằng sau đây mà người ta thường thấy trong những tài liệu về mậu dịch: 1. Quan niệm bất công bằng trên khía cạnh luật lệ (legal unfairness), tức là việc vi phạm các điều khoản trong các hiệp định mậu dịch. Nếu các điều khoản trong các hiệp định đó đã không công bằng thì bắt phạt những người vi phạm những điều khoản không công bằng đó là không công bằng. Một ví dụ là các điều khoản của WTO về bảo vệ quyền sở hữu trí thức (protections for intellectual property rights) mà các nước phát triển muốn đẩy mạnh để chống việc vi phạm quyền sở hữu (piracy) tại các nước nghèo. Nhưng như Aaron James, một giáo sư triết tại đại học University of California (Irvine), đã trình bày rất thuyết phục là trong nhiều trường hợp vi phạm quyền sở hữu là công bằng và có thể, về mặt đạo đức mà nói, chấp nhận được.[17] 2. Quan niệm không phân biệt đối xử (non-discrimination). Đây là nguyên tắc về thủ tục rất cơ bản đối với các luật lệ trong các hiệp định, nhưng không thể có tiêu chí chung cho công bằng trong mậu dịch được. Xin lấy ví dụ về một trường hợp được nhiều người biết đến. Đó là việc một nhóm chuyên gia (panel) của WTO phán quyết rằng chính sách hạn chế nhập khẩu xăng tái chế (reformulated gasoline) của Sở Bảo Vệ Môi Trường (Environmental Protection Agency) của Mỹ là việc không công bằng trong mậu dịch. Vấn đề chính ở đây không phải là vấn đề công bằng trong mậu dịch được coi là quan trọng hơn những qui định bảo vệ môi trường (mặc dầu có nhiều người diễn dịch phán quyết nầy như thế), mà là các qui định nầy phân biệt đối xử giữa những nhà cung cấp dầu trong nước và nước ngoài.[18] 3. Quan niệm không công bằng gọi là “mercantilist unfairness” hay “mercantilism,” tức là khi một quốc gia dựng hàng rào thuế quan hay trợ giá (bao cấp) trong khi các quốc gia khác không làm việc đó. Ví dụ như thuế quan cao ở Ấn-độ hay việc trợ giá cho các tập đoàn nông nghiệp ở Mỹ đã giúp hai nước này bán nông phẩm trên thị trường thế giới rẽ hơn là giá của nông dân Mê-hi-cô.[19] Nhiều kinh tế gia phủ nhận những giả định “mercantilist” vì họ cho đây là những quan niệm lỗi thời về mậu dịch.[20] Do đó họ cũng hoài nghi luôn về công bằng trong mậu dịch.[21] Đối với nhiều kinh tế gia, nhất là những người theo thuyết thị trường tự do, thì nói đến công bằng trong mậu dịch là thừa vì lợi ích của mỗi nước, mỗi xã hội, là giảm thiểu các hàng rào ngăn cản gây bất lợi cho mậu dịch (trade barriers) và trao đổi theo lợi thế so sánh của chính mình, bất chấp các nước khác làm gì. Khi một nước tháo bỏ hàng rào ngăn cản của mình thì kết quả là những hàng nhập sẽ rẻ hơn và vì thế sẽ có lợi rất lớn. Do đó nếu các nước khác không khôn ngoan và không chịu tháo gỡ hàng rào để có lợi thì mình cũng phải thủ lợi cho riêng mình bằng cách chấp nhận thị trường tự do.[22] Paul Krugman, giáo sư kinh tế giải Nobel năm 2009, cho rằng: “Nếu các kinh tế gia cai trị thế giới thì sẽ không cần có Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới…Mậu dịch tự do toàn cầu sẽ tự phát từ những theo đuổi thoải mái của lợi ích quốc gia.”[23] 4. Quan niệm công bằng thực dụng (utilitarian fairness). Đây là quan niệm trong nhiều lập luận về mậu dịch tự do (free trade). Những lập luận nầy cho rằng mậu dịch tự do là một phương cách để cải thiện phân phối nguyên liệu, để tăng hiệu xuất/năng xuất (vì có cạnh tranh của nước ngoài), để tăng sự đa dạng của hàng hóa, và để đem đến những lợi ích gián tiếp khác như là giảm thành kiến, phát huy dân chủ và củng cố hòa bình. Những lợi thế tương đối sẽ đem đến lợi ích tổng thể cho tất cả các đối tác trong trị trường tự do.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:32:07 GMT 9
Về tính thực dụng của mậu dịch tự do Nhưng mậu dịch tự do có thật là mậu dịch công bằng không? Đã có nhiều sách phê bình tính thực dụng của các lập luận mậu dịch tự do.[24] Vấn đề cần đặt ra là nếu mậu dịch là tự do thì việc đòi hỏi được có công bằng (hay công bằng hơn), mặc dầu chỉ áp dụng trực tiếp trong mậu dịch mà thôi, có quan trọng gì đối với mậu dịch và những chính sách liên quan đến mậu dịch? Để câu hỏi trên có thể được sáng tỏ hơn, tôi xin lấy ví dụ bài viết với tựa đề “Spreading the Wealth” (Trải rộng sự Giàu có) của hai kinh tế gia Ngân Hàng Thế giới, David Dollar và Aart Kraay, đăng trên tạp chí Foreign Affairs năm 2002. Trong bài nầy Dollar và Kraay dùng các số liệu thống kê để biện hộ cho việc tự do hóa mậu dịch và vốn đầu tư kết hợp với các “chính sách kinh tế vĩ mô bảo hộ tăng trưởng thông thường” (standard pro-growth macro-economic policies.) Để chứng minh Dollar và Kraay nói rằng các chính sách nầy đã làm giảm nghèo một cách rất ấn tượng tại Ấn-độ và Trung Quốc sau 30 năm “toàn cầu hóa.” Họ nói rằng nghiên cứu về xu hướng bất bình đẳng trong 150 năm trước đó, so sánh sự khác nhau giữa thu nhập của bất cứ một cá nhân nào được lựa chọn một cách ngẫu nhiên và thu nhập trung bình chung, cho thấy rằng bất bình đẳng trong thu nhập đã được ổn định hay đã đảo ngược (trang 123.) Từ đó Dollar và Kraay đi đến kết luận họ không tìm ra được mối tương quan giữa tự do hóa mậu dịch và sự tăng trưởng bất bình đẳng trong tất cả các xã hội trên thế giới. Họ nói rằng ở mỗi nước thu nhập của các hộ thuộc thành phần 20 phần trăm nghèo nhất tăng trưởng cùng nhịp độ với tăng trưởng GDP. Bất bình đẳng trong thu nhập có tăng ở những nước như Trung Quốc, nhưng lại giảm tại các nước như Phi-líp-pin và Mã-lai. Theo Dollar và Kraay, sự khác nhau giữa các nước nói trên là do chính sách đối nội khác biệt trong lĩnh vực giáo dục, thuế má, và bảo hiểm xã hội chứ không phải là do sự khác biệt về chính sách mậu dịch (trang 128). Hàm ý bài của Dollar và Kraay là chính sách mậu dịch và những chính sách liên hệ khác trong toàn cầu hóa không cần phải quan tâm đến việc phân phối các lợi lộc đạt được từ mậu dịch như thế nào. Đối với họ không phải là không có những lựa chọn khác như kết hợp các chính sách mậu dịch và đối nội làm sao nhằm chuyển tốc độ tăng tưởng kinh tế (có thể cho nó chậm hơn) để giảm nghèo và giảm bất bình đẳng nhanh hơn trong từng nước và trên toàn cầu. Theo quan niệm công bằng thực dụng thì nếu tính hữu dụng được tăng tối đa cho tổng thể qua mậu dịch (qua toàn cầu hóa) và các đối tác đều đạt được ít nhiều lợi lộc thì không còn có ràng buộc gì khác đối với việc nên phân phối các lợi lộc hay các gánh nặng như thế nào. Phân phối không công bằng dù kinh tế tăng trưởng Phân phối công bằng là nhân tố rất quan trọng của công bằng trong mậu dịch. Một ví dụ là người ta có thể sẽ nghĩ rằng Ấn-độ và Trung Quốc không toàn cầu hóa thành công nếu sự giảm nghèo ở các thị thành, vì hậu quả của mậu dịch, đã làm cho sự nghèo khổ ở các vùng nông thôn tăng lên cho dù thu nhập ròng cho toàn xã hội có tăng trưởng. Mặc dầu đây là nhận định về việc phân phối không công bằng trong hai xã hội nói trên, người ta cũng có thể áp dụng suy luận nầy đối với việc phân phối giữa các xã hội khác nhau. Giả dụ như vì Ấn-độ và Trung Quốc gộp lại có phần lớn dân số và phần lớn người nghèo trên thế giới thì người ta có thể tối đa hóa sự xóa đói giảm nghèo bằng cách chỉ buôn bán riêng với hai nước nầy mà thôi. Và để cho việc xóa đói giảm nghèo nầy càng có hiệu quả hơn có lẽ người ta cũng nên dựng hàng rào mậu dịch rất cao đối với các nước phát triển và đang phát triển khác. Nhưng không biết có ai gọi sự tối đa hóa lợi ích tổng hợp (aggregate welfare) như thế nầy là công bằng trong mậu dịch hay không? Aaron James cho rằng các tiêu chuẩn của trường phái mậu dịch tự do là “hẹp không thể tưởng tượng” (implausibly narrow) bởi vì “ít nhất thì một quan niệm công bằng phải quan tâm đến những tổn thương của mậu dịch” (if nothing else, fairness surely concerns the harms of trade) trong khi quan điểm của trường phái mậu dịch tự do làm ngơ trước những tổn thương nảy sinh từ những yếu thế trước sức áp đảo của thị trường.[25] Vì thế James nhận xét: “Rõ ràng một trong những yêu cầu về công bằng trong mậu dịch là phải có những điều chỉnh đặc biệt qua các hình thức bảo hộ quá độ và những trợ giúp về mặt kỹ thuật và tài chính để nuôi dưỡng các cơ chế bảo hộ đó. Đây là việc phải có dù mục tiêu chỉ là phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thương không cần thiết.”[26] Từ nhận định nầy James đưa ra một nguyên tắc mà ông ta gọi là “Collective Due Care” (Quyền được bảo hộ tập thể), hay ngắn gọn là “Due Care,” mà ông định nghĩa là một tổ chức tập thể phải tìm mọi cách để phòng ngừa những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra từ những hoạt động chung và phải có chính sách bồi thường những tổn thương nảy sinh từ những hoạt động đó.[27] Nguyên tắc nầy ăn khớp với những đề nghị của những kinh tế gia phê phán các giả định của trường phái thị trường tự do chính thống như Joseph Stiglitz và Ha-Joon Chang. Thêm vào đó nó cũng đã trở thành nền tảng của những đòi hỏi về bồi thường cho những người bị tổn thương ở những nước giàu do hậu quả của mậu dịch gây ra.[28] Vì người ta có thể đi xa hơn là chỉ không gây tổn thương, nguyên tắc “Due Care” của James được ông ta bổ sung thêm nguyên tắc mà ông ta gọi là “Fair Distribution” (Phân phối công bằng). Ông ta dành 7 trang để định nghĩa và phân tích nguyên tắc nầy và đề cập đến hàng loạt các trường hợp mà lợi ích của các nước phát triển có thể có ưu tiên hơn là những mục tiêu của các nước đang phát triển.[29] Với lý do cho rằng sự tồn tại của mậu dịch là cùng có lợi, ở đây không có tiền giả định là các nước phát triển là các nước phải chịu thiệt thòi để có được công bằng, nhưng có nhận định là có các cá nhân trong các nước phát triển đó bị thiệt hại. Trong trường hợp những việc làm của các công nhân Mỹ bị mất đi vì ảnh hưởng của NAFTA, thì nguyên tắc Due Care bắt phải bồi thường cho những mất mát đó. Nhưng “vì các nước giàu có thể luôn luôn chi trả cho các biện pháp bồi thường, nó không gây chi phí cho các nước đang phát triển.”[30] Trừ những trường hợp tương tự như trên, James nói rằng ông ta không tìm ra được tình huống hợp lý nào khác mà lợi từ mậu dịch phải chuyển qua cho các nước phát triển thay vì cho các nước đang phát triển. James thuyết phục: “vì các lý do của nguyên tắc ‘ưu tiên cho trường hợp xấu nhất’—tức là quan niệm lợi ích được coi là quan trọng hơn, từ khía cạnh luân lý và khía cạnh công bằng, thì người nghèo nhất là người có ưu tiên tuyệt đối.”[31] Cũng như “nguyên tắc khác biệt” của Rawl được nêu trên, ở đây một cái lợi nhỏ cho người nghèo có ưu tiên hơn cái lợi lớn cho người giàu. Sự phân phối nầy có thể tiếp tục đến mức mà những người giàu ở những nước giàu “không khá thêm” (left no better off) nhưng “không dễ bị tổn thương” (cannot fairly be harmed.)[32] Nên nhớ rằng ở đây ta chỉ bàn đến lợi ích từ mậu dịch. Ưu tiên phân phối công bằng cần một tiêu chí phổ cập Các suy xét về ưu tiên sẽ giảm dần khi có được càng nhiều người bước qua ngưỡng nghèo khổ. Nhưng vì lĩnh vực của nguyên tắc đang được đề cập đến là lợi từ mậu dịch, chứ không phải là giảm nghèo, quan điểm về bình đẳng “vẫn được áp dụng kể cả trong một thế giới mà sự nghèo khổ đã được xóa bỏ” (can still apply even in a world in which poverty has been eliminated.”[33] Do đó, nguyên tắc “phân phối công bằng”, khác với quan niệm “công bằng toàn cầu tối thiểu”, là không có mục tiêu nhất định hay thời hạn dứt điểm. Nguyên tắc “phân phối công bằng” vẫn mãi có hiệu lực và như thế cuối cùng là nguyên tắc bình đẳng hơn cho dù, trong hoàn cảnh hiện tại của thế giới, một sự chú tâm tối thiểu đến việc xóa đói giảm nghèo có thể tạm thời chuyển nhiều lợi ích đến các nước đang phát triển hơn. Như đã đề cập từ đầu bài nầy, công bằng trong mậu dịch chỉ là một phần của lý thuyết về công bằng toàn cầu. Quan niệm công bằng trong mậu dịch, qua việc phân phối bình đẳng như nhau các lợi ích thu được từ mậu dịch, không loại trừ việc các nước phát triển cần phải chi thêm để giảm nghèo tại các nước đang phát triển và việc phải phân phối lại nguyên liệu để có công bằng thêm trên thế giới. Hay là việc những nước bị bỏ rơi ngoài các cơ chế mậu dịch hiện hành thì vấn đề công bằng trong mậu dịch chưa được áp dụng cho họ, nhưng vấn đề làm sao để họ có thể gia nhập các cơ chế mậu dịch một cách công bằng cần được thảo luận. Vấn đề đáng lưu ý ở đây là mậu dịch phát sinh một số nguyên tắc riêng của nó; và quan niệm công bằng trong mậu dịch phải có nhân tố bình đẳng là có lý hơn những khái niệm của trường phái mậu dịch tự do như đã trình bày ở trên. Có thể công bằng trong mậu dịch là ngoại vi đối với những lý thuyết về công bằng toàn cầu, nhưng thiết tưởng vấn đề phân phối công bằng, chẳng hạn, sẽ có thể đem lại hòa nhập sâu đậm hơn trong mỗi nước, trong nhiều vùng (như trong vùng EU và NAFTA), và (biết đâu?) dần dần sẽ đem đến nhiều đổi thay trên thế giới. Do đó quan niệm công bằng trong mậu dịch mà tôi trình bày ở trên không những có thể được áp dụng như là một tiêu chí phổ cập cho các phong trào đấu tranh trong hiện tại mà cũng có thể dùng cho việc đánh giá các hiệp định mậu dịch, các tổ chức mậu dịch, và các điều khoản trong các đạo luật thương mại như TRADE Act (H.R. 6180.S.3083) như đã đề cập ở trên. Chú thích [1] Lữ Phương, 2009, “Về điều bí ẩn trong “thế giới hàng hoá” của Marx,” Thời Đại Mới số 16, tháng 7 (Số này) [2] Một ví dụ là: Tan, K. 2004. Justice Without Borders: Cosmopolitanism, Nationalism and Patriotism. Cambridge: Cambridge University Press. [3] Beitz, C. 1979. Political Theory and International Relations. Princeton: Princeton University Press. [4] Caney, S. 2001. “Cosmopolitan Justice and Equalizing Opportunities.” Metaphilosophy 32: nos. 1-2: 113—134. Moelledorf, D. 2002. Cosmopolitan Justice. Boulder, Colorado: Westview Press. [5] Barry, B. 1991. “Humanity and Justice in Global Perspective.” In Liberty and Justice: Essays in Political Theory, 2: 182—210. Oxford: Clarendon. [6] Van Parijs, P. 1995. Real Freedom for All. Oxford: Clarendon Press. [7] Nagel, T. 2005. “The Problem of Global Justice.” Philosophy & Public Affairs 33: no. 2: 113-147. [8] Rawls, J. 1999. The Law of Peoples. Cambridge, Mass.: Harvard University Press. [9] Pogge, T. W. 2002. World Poverty and Human Rights: Cosmopolitan Responsibilities and Reforms. Cambridge: Polity Press. [10] Xem Trần Hữu Dũng, 2009, "Về kinh nghiệm phát triển: Đọc Rodrik và Chang, hai kẻ nghi ngờ," Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, số Tết Dương Lịch. [11] Rodrik, D. 2002. “Feasible Globalizations.” Research Paper, July, trang 24. Bài nầy có thể tải về từ: ksghome.harvard.edu/~drodrik/papers.html. [12] Như trên, trang 20. [13] Xem: greenlivingideas.com/topics/food-and-cuisine/fair-trade/fair-trade-vs-free-trade. [14] Sau đây là một vài trạm chính: www.GlobalExchange.org www.SierraClub.org/trade www.EqualExchange.org www.tenthousandvillages.com/ [15] Xin xem chi tiết trong: The collapse of global trade, murky protectionism, and the crisis: Recommendations for the G20, A VoxEU.org publication. Cuốn sách nầy có thể tải về từ: www.voxeu.org/reports/Murky_Protectionism.pdf. Cũng nên xem thêm bài “Demystifying the collapse in trade” của Caroline Freund đăng ngày 3 tháng 7 năm 2009 tại: www.voxeu.org/index.php?q=node/3731. [16] Chi tiết về các điều khoản và các biện luận được trình bày ở các trạm sau đây: thomas.loc.gov/cgi-bin/query/z?c110:H.R.6180:www.washingtonwatch.com/bills/show/110_HR_6180.htmlwww.citizen.org/trade/tradeact/www.citizen.org/trade/wto/[17] Xem: “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair.” Bài nầy có thể tải về từ trạm: www.faculty.uci.edu/profile.cfm?faculty_id=4884[18] Xem: Irwin, Douglas A. 2002. Free Trade Under Fire. Princeton: Princeton University Press, trang 193-196. [19] Như trên, trang 55-62 và trang 181. [20] “Mercantilism” là chủ nghĩa và cơ chế kinh tế chính trị thịnh hành ở Âu-châu sau khi chủ nghĩa phong kiến suy sụp. Cơ chế nầy dựa trên các chính sách quốc gia về tích lũy vàng bạc, thành lập các thuộc địa và các hạm đội thương thuyền, phát triển kỹ nghệ và khai thác mỏ để dành lợi thế trong cáng cân thương mại. [21] Paul Krugman, giáo sư về kinh tế tại đại học Princeton và là người được giải Nobel kinh tế năm 2008, giải thích như sau: Anyone who has tried to make sense of international trade negotiations eventually realizes…they are a game scored according to mercantilist rules, in which an increase in exports—no matter how expensive to produce in terms of other opportunities forgone—is a victory, and an increase in imports—no matter how many resources it releases for other uses—is a defeat. Ai mà đã muốn hiểu ý nghĩa của những cuộc thương lượng về mậu dịch quốc tế thì cuối cùng thấy rằng… nó là một trò chơi được tính điểm theo các nguyên tắc mercantilist, trong đó một sự tăng gia trong xuất khẩu—mặc dù có phải trả giá đắt đến đâu để sản xuất so với những cơ hội khác bị bỏ qua—là một thắng lợi, và một sự tăng gia trong nhập khẩu—dù có dành được không biết bao nhiêu tài nguyên để sử dụng cho các việc khác—là một thất bại. Xem: Krugman, P. (1977). "What Should Trade Negotiators Negotiate About?" Journal of Economic Literature 35(1): 113-120, trang 113-4. [22] Nhưng theo Jagdish Bhagwati, một giáo sư kinh tế nữa, nếu hai nước cùng chấp nhận thị trường tự do thì kết quả sẽ càng lớn hơn cho cả hai. Bhagwati, J. (2002). Free Trade Today. New Jersey, Princeton University Press, trang 102. Joseph Stiglitz, một giáo sư kinh tế giải Nobel nữa, không đồng ý với nhiều quan niệm của trường phái thị trường tự do chính thống. Xem: Stiglitz, J. và Charleton, A. 2005. Fair Trade for All: How Fair Trade Can Promote Development. Oxford: Oxford University Press [Trần Hữu Dũng (2006) điểm cuốn sách này: "Đọc “Công bằng thương mại cho tất cả” của Joseph E. Stiglitz và Andrew Charlton," Tia Sáng, Xuân Bính Tuất] [23] Krugman, như trên, trang 113. Nguyên văn: “If economists ruled the world, there would be no need for a World Trade Organization. (…) [G]lobal free trade would emerge spontaneously from the unrestricted pursuit of national interest.” Lập luận trên của Krugman có thể diễn dịch một cách khác như sau (cho dễ hiểu hơn?): Nếu (giả định?) một người khôn ngoan, thận trọng, và nhìn xa hiểu rộng (như các kinh tế gia?) không bao giờ đi giết người vì có khả năng bị thương tích hay bị tổn thương danh dự (vân vân và vân vân) thì trong một thế giới có những người khôn ngoan, thận trọng và nhìn xa hiểu rộng đó không cần có những đạo luật xử phạt người giết người hay các cơ chế nhà tù để giam cầm những người đó. Nhưng nếu, trong thực tế, đã có những đạo luật và cơ chế nhà tù dành cho những người giết người và ta thấy rằng một nhóm người thuộc chủng tộc hay giới tính nào đó thường bị xử phạt khắc nghiệt hơn nhóm người khác thì ta có thể phản đối sự không công bằng đó mà không cần phải so sánh ai khôn ngoan và nhìn xa hiểu rộng hơn ai. Cùng một thể ấy, giả dụ như hiệp định WTO đã được thành lập vì sự thiếu khôn ngoan và không nhìn xa hiểu rộng của các quốc gia (hay các nhà lãnh đạo các nước nầy) trên thế giới đi nữa, nếu người ta thấy các điều lệ mậu dịch hiện hành trong hiệp định nầy không công bằng vì có ảnh hưởng xấu hay đem lại thiệt hại cho nhóm người nào đó hơn thì ta có quyền phản đối và đưa ra những đề nghị thay đổi các điều khoản đó. [24] Xem: Stiglitz, J. và Charleton, A. 2005, như trên; Chang, Ha-Joon. 2003. Kicking Away the Ladder. London: Anthem Press; và Chang, Ha-Joon và Grabel, I. 2004. Reclaiming Development. New York: Zed Books. [25] “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair”, như trên, trang 23. [26] Như trên, trang 23. Nguyên văn: “Special accommodation in the form of transitional protections, and technological and financial assistance to support them, seem a clear demand of fairness in trade. This is so even if the goal is limited to the prevention and mitigation of unnecessary harm.” [27] James, A. 2005. “Distributive Justice without Sovereign Rule: The Case of Trade.” Social Theory and Practice 31:4, trang 10. Nguyên văn: “when people (or their activities) are organized as a governable social practice, we can expect them, as a collectivity, to take reasonable precautions to prevent foreseeable negative consequences of their joint activity, and to compensate for any resulting harm.” Bài nầy có thể tải về từ: webfiles.uci.edu/ajjames/DistributiveJusticewithoutSovereignRule.pdf[28] “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair”, như trên, trang 25. [29] James, A. 2005. “Distributive Justice without Sovereign Rule: The Case of Trade.” Social Theory and Practice 31:4, trang 10-17. [30] “When International Intellectual ‘Piracy’ is Fair”, như trên, trang 25. Nguyên văn: “because rich countries can almost always afford such measures, they do not entail a cost to developing countries.” [31] Như trên, trang 25. Nguyên văn: “for reasons of ‘priority for the worse off’—the idea that a benefit matters more, from a moral or fairness point of view, the worse off a person is in absolute terms.” [32] Như trên, trang 26-27. [33] Như trên, trang 28.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:34:19 GMT 9
Xã hội dân sự, Trung Quốc và Việt Nam Nguyễn Ngọc Giao
Tổ chức bầu cử chỉ cần 6 tháng, lập nên một nền kinh tế thị trường thì một năm, còn muốn tạo ra một xã hội dân chủ phải cả một thế hệ. Mà không có xã hội dân sự thì không thể có dân chủ.
Ralf Dahrendorf
Trong câu chuyện nổi tiếng của Lewis Carroll, Alice ở Xứ Thần Tiên, có con mèo Cheshire. Đó là con mèo ảo, khi hiện ra khi biến mất, sắc sắc không không. Nó lại có đặc điểm là thường hay mở miệng cười. Đặc biệt là có khi nó mất dạng, nhưng nụ cười của nó vẫn còn đó. Khiến cho cô bé Alice, một người ít khi ngạc nhiên vì bất cứ cái gì, kể cả những điều nghịch lí nhất, cũng phải kinh ngạc thốt lên: “Tôi từng thấy những con mèo không cười, chứ chưa bao giờ thấy cái cười không mèo”. Nhà Trung Quốc học người Pháp Yves Chevrier[1] đã nhắc tới con mèo Cheshire khi ông bàn tới “xã hội dân sự” ở Trung Quốc, hay đúng hơn, khi ông nghiên cứu những bước truân chuyên lao tâm khổ tứ của những nhà Trung Quốc học khi họ đi tìm “xã hội dân sự” ở Trung Quốc, cổ đại và hiện đại, để rồi rốt cuộc hình như không đi xa hơn cuộc tranh luận nảy lửa: có thể “áp đặt” khái niệm “Tây phương” là “societas civilis” vào việc nghiên cứu một nước phương Đông là Trung Quốc hay không?
Có nhà nghiên cứu còn viện dẫn G. W. F. Hegel, nhà triết học nghe nói đã viết ở đâu đó rằng Trung Quốc là một Nhà nước không có xã hội.[2] Chẳng biết, chẳng hiểu gì về Hegel, nhưng nghe câu nói động trời ấy, tôi vội gõ vào cái cửa thích đáng nhất là địa chỉ email của người đã dịch Hiện tượng học tinh thần.[3] Được trả lời: câu ấy không thấy trong văn bản, không có trong mấy chục trang Hegel viết về phương Đông, cụ thể trong Các bài giảng về Lịch sử triết học (tập I) và Các bài giảng về triết học Lịch sử. Nó phản ánh phần nào cái nhìn của Hegel về Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng câu chữ như vậy, nếu có, thì không “hê-ghê-liên” chút nào, vì đối với Hegel, “Nhà nước” cao hơn “xã hội”.
Nhưng thôi, chuyện Hegel, chúng ta lát nữa sẽ đề cập. Xin trở lại “con mèo Cheshire” và cái “cười” của nó. Trước khi xem ở Trung Quốc và Việt Nam có mèo, có mèo cười hay mèo không cười, có cười có mèo hay không mèo, chúng ta hãy làm công việc “chính danh”: thử định nghĩa “xã hội dân sự”, và rất nhanh chóng, chúng ta sẽ thấy nó là một mớ bòng bong khá rối rắm, nó là A và là không-A, nó được giá và mất giá, nó đáng sợ, đáng nghi và nó rất cần, “không có nó thì không có dân chủ” ; tóm lại, muốn gỡ mối bòng bong ấy, để biết chúng ta bàn về cái gì, thì trước hết, xin điểm qua lịch sử của cụm từ “xã hội dân sự”. Sau đó, chúng ta sẽ xét tới số phận của cụm từ ấy ở “phương Đông” là Trung Quốc và Việt Nam, và từ đó, bàn qua thực trạng và triển vọng của bản thân xã hội dân sự ở đó.
Lịch sử một cụm từ - khái niệm
Cụm từ “civil society” / “société civile” mãi đến thế kỉ 17 mới xuất hiện trong các văn bản tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng “nguyên bản” bằng tiếng Latinh của nó, “societas civilis”, đã được Cicéron sử dụng từ thời Cổ La Mã, với một nội dung tương đương với cụm từ Hi Lạp koinōnia politikē. Trong thời cổ đại và trung cổ, cái xã hội được gọi là civilis ấy chính là xã hội con người được tổ chức thành Nhà nước, nó hầu như đồng nhất với khái niệm Nhà nước, civilis được hiểu với hai nghĩa: một là nó văn minh / civilisé, đối nghịch với trật tự tự nhiên, hoang dại, tức là nó có pháp luật, có lễ độ ; hai là công dân, người tham gia trực tiếp vào sinh hoạt dân chủ của thành quốc – tất nhiên, tại thành quốc Athènes, cái nôi của nền dân chủ ấy, số công dân chỉ là một thiếu số nhỏ bé, vì trong đó không có đàn bà, không có nô lệ, không có mê-téc μετοίκος / metoikos nghĩa là “người ngoài”, những người “ngụ cư” (chắc cũng không có... Việt kiều luôn).
Như vậy là cho đến thế kỉ 17 ở châu Âu, khái niệm “xã hội civilis” hầu như đồng nhất với khái niệm xã hội được tổ chức về mặt chính trị, nghĩa là Nhà nước. Nhưng bản thân nó đã mang mầm mống của sự phân hoá và mâu thuẫn: bởi vì trong xã hội châu Âu thời Trung Cổ và Phục hưng, quyền lực chính trị được chia sẻ giữa hai đối tác: Giáo hội và Quân vương (le Prince). Một hay hai? Một thành hai, hai thành một? Vấn đề lại càng trở nên phức tạp và gay cấn vì xuất hiện hai tay phá đám. Một là Luther phủ nhận vai trò của linh mục – người trung gian giữa tín đồ và Thượng đế – phản đối vai trò cồng kềnh, sa hoa của Giáo hội. Với quan niệm Tin Lành, mỗi cá nhân tín đồ trở thành những cá nhân thực thụ, không còn nấp bóng áo chùng của linh mục (người chăn linh hồn) được nữa, mà phải tự chăn phần hồn của mình, cá nhân trở thành cô độc một cách kinh khủng – và chính những còn người cô độc kinh khủng ấy sẽ gặp nhau trong các cuộc “town meetings” mà Alexis de Tocqueville đã mô tả trong tác phẩm Bàn về nền dân chủ ở Mĩ. Sau Luther (và Calvin nữa, tất nhiên), người phá đám thứ nhì là giai cấp tư sản thương nhân, sẽ nhân danh “xã hội dân sự” để đòi hỏi quyền tự trị đối với chính quyền (quân chủ) và thần quyền (của giáo hội).
Thế là từ đây trở đi, “xã hội civilis” sẽ phải tự định nghĩa, tự định vị đối với bộ ba: thần quyền, chính quyền và kinh tế quyền (trong một số trường hợp, với cả quân quyền nữa...)
Đối với Thomas Hobbes (1588-1679) – người được coi là đã tạo ra cụm từ này -- “civil society” còn gần như đồng nghĩa với Nhà nước, với một khác biệt đáng kể: xã hội “civil” là một kiến tạo tự nguyện của các cá nhân thành viên nhằm mực đích bảo đảm trật tự và an lạc. Tiếp theo Hobbes, Samuel von Pufendorf (1632-1694) phân biệt xã hội «civis”, tức là xã hội của những công dân, với “xã hội của những Kitô-hữu” (tức là Giáo hội), cũng như với “xã hội” nghĩa là tập hợp đơn thuần, tự nhiên của những cá nhân, không do một thoả ước tập thể nhằm kiến lập một quyên lực chung. Với John Locke (1632-1704), xã hội “civil” không chỉ có mục đích là bảo đảm an ninh và an lạc nữa mà “cứu cánh chủ yếu của nó là duy trì tư hữu” (Of political or civil society). Đi xa hơn nữa, Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) tách biệt Nhà nước và xã hội dân sự, Nhà nước là quyền lực chính trị, xã hội dân sự là nơi chốn của quyền tư hữu: “kẻ đầu tiên dựng nên hàng rào quanh mảnh đất và nói: đất này là của tôi... kẻ đó là người sáng lập xã hội dân sự” (Discours sur l’origine et les fondements de l’inégalité parmi les hommes, phần hai, câu đầu). Không đi vào chi tiết quan điểm của Rousseau, tôi chỉ xin nhấn mạnh trên một ý: Như ta biết, Rousseau chủ trương “khế ước xã hội”, nhưng cũng rất cảnh giác với “văn minh”, “tiến bộ”, chống lại sự ngự trị của “luật về tư hữu và bất bình đẳng”, chống lại tình trạng mà luật pháp mang lại “những cản trở mới cho kẻ yếu và những sức mạnh mới cho kẻ giàu”.
Cuối thế kỉ 18, trong khi nhóm Bách khoa toàn thư của Diderot và d’Alembert vẫn còn gần như đồng nhất Nhà nước và xã hội “civil” và thu hẹp xã hội “civil” vào một kích thước là kích thước chính trị, Adam Smith quan niệm khác hẳn: tuy không dùng cụm từ “civil society” mà chỉ nói đến “nation” (dân tộc) hay “society” (xã hội), và định nghĩa nó là xã hội của trao đổi thương mại, một cơ chế trong đó các quyền lợi tư tự chúng hài hoà với nhau, không cần phải do ý muốn chủ đích của các cá nhân. Với Smith, từ nay xã hội “dân sự” tách biệt hẳn với Nhà nước mà “bổn phận” chỉ còn là đảm nhiệm ba chức năng: bảo đảm an ninh đối ngoại, giữ gìn trật tự quốc nội, và “bảo trì một số công trình công cộng” khi mà tư nhân không đảm đương được (The Wealth of Nations).
Bước sang thế kỉ 19, nảy sinh hai quan niệm về xã hội dân sự. Một quan niệm “phóng khoáng [4]”, khẳng định sự “tự lập” của nó đối với Nhà nước: đó là quan niệm của bộ Dân luật (1804) Pháp cũng như trong tác phẩm của Benjamin Constant (1767-1830). Quan niệm kia là quan niệm của Hegel, rồi của Marx, dựa trên hai đặc trưng của xã hội dân sự phái sinh từ cuối thế kỉ trước: xã hội kinh tế và xã hội xung đột.
Quan niệm “phóng khoáng” về xã hội dân sự trong bộ Code civil / Luật dân sự của Pháp (1804), trong một ý nghĩa nào đó, là một sự sửa sai đối với Cách mạng Pháp 1789. Thật vậy, “xã hội dân sự” hoàn toán vắng bóng trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và các bản Hiến pháp của Cách mạng Pháp, cũng như trong các bài viết của Robespierre, Saint-Just, Sieyès. Đối với các nhà lãnh đạo “cứng rắn” của Cách mạng tư sản, chỉ có một bên là “xã hội hiện thực, chia năm xẻ bảy và đa nguyên”, và một bên là “dân tộc”, là “quốc gia”, “một” và là “tất cả”. “Xã hội dân sự” không những bị triệt tiêu trong văn bản, mà trên thực tế: đạo luật Le Chapelier (14-16.07.1791) đã giải tán tất cả các phường hội. Tôi mở ngoặc nói về giai đoạn này, coi đó như một tiền lệ của Cách mạng tháng Mười Nga, và của quan niệm bôn-sê-vich. Sự triệt tiêu xã hội dân sự ở Nga từ sau 1917, ngày nay, 90 năm sau, Cộng hoà Liên bang Nga vẫn còn phải trả giá trong công cuộc xây dựng dân chủ. Số phận tương tự cũng dành cho xã hội dân sự tại các nước “xã hội chủ nghĩa” ra đời sau Thế chiến lần thứ nhì.
Với bộ Luật dân sự, “xã hội dân sự” được thiết lập và vận hành theo pháp luật. Dân luật (code civil) và Công luật (droit public) trở nên nền tảng để tách biệt xã hội dân sự và Nhà Nước, cái “dân sự” và cái “chính trị”, lãnh vực tư (sphère privée) và lãnh vực công (sphère publique). Benjamin Constant, nhà lí luận của quan niệm này, “đòi duyền tự do dân sự cùng một lúc với các dạng thức khác của quyền tự do chính trị”, và định nghĩa tự do dân sự là “sự thụ hưởng an nhiên của sự độc lập cá nhân” (De la liberté chez les Modernes). Điều cần nhấn mạnh ở Constant, là ông chủ trương sự cân đối mà không đối lập giữa xã hội dân sự và Nhà nước, ông không hề đòi giảm nhẹ vai trò của Nhà nước (như hiện nay những người “liberal cực đoan” đang làm để tư nhân hoá – hay “xã hội hoá”?!!! – những dịch vụ công cộng), mà cho rằng Nhà nước và xã hội dân sự bổ sung nhau: vấn đề không phải là dựng nên những rào cản giả tạo để ngăn ngừa sự can thiệp của Nhà nước vào xã hội dân sự, mà là tạo điều kiện để xã hội dân sự tự tổ chức. Đối với Constant, một Nhà nước hùng cường giả định một xã hội dân sự mạnh mẽ ; vấn đề không phải là hi sinh tự do dân sự để có tự do chính trị hay ngược lại, mà phải “kết hợp cả hai”.
Nói kết hợp, nghĩa là thừa nhận sự dị biệt, và có thể xung đột giữa Nhà nước và xã hội dân sự. Làm sao hoà giải được Nhà nước và xã hội dân sự? Đó là bài toán mà Hegel tìm cách giải quyết trong Nguyên lí triết học luật pháp. Có thể nói không ngoa là với Hegel và Marx, khái niệm “xã hội dân sự” hiện đại mới thực sự được định hình và triển khai. Không thể nói dài, nhưng cũng không thể nói ngắn, và càng không thể nói dở và nói sai, tôi xin tóm tắt ở dưới đây, một vài ý chính đã được anh Bùi Văn Nam Sơn giảng cho tôi trong một lá thư riêng – tất nhiên tôi xin chịu trách nhiệm về mọi sai lầm tất nhiên mắc phải trong việc hiểu và nói lại như vậy:
* Trước tiên, Hegel phân biệt xã hội tiền – hiện đại và xã hội hiện đại. Xã hội tiền hiện đại có 2 đặc điểm:
- con người bị chìm đắm trong cái Bản thể (xã hội) và bị cai trị một cách trực tiếp, không có sự trung giới.
- chỉ có sự phân biệt giữa “xã hội” tự nhiên và riêng tư của gia đình với “xã hội” công cộng và nhân tạo của nhà nước chính trị.
Trong một trật tự xã hội như thế, không có chỗ cho những cá nhân hoạt động với tư cách là những “personnes” và những “chủ thể” sử dụng sự tự do lựa chọn của mình để theo đuổi những mục đích riêng và phát triển tính cá nhân độc đáo của mình trong vũ đài công cộng rộng hơn của đời sống xã hội.
Còn trong xã hội hiện đại:
- Con người hiện đại hiểu chính mình như là personnes có quyền tự do lựa chọn trong lĩnh vực ngày càng rộng rãi. Lĩnh vực này bắt đầu với thân thể của mình, rồi mở rộng ra thành những gì được gọi là “tài sản cá nhân” (Triết học pháp quyền, §§45-47). Với Hegel, hình thức chính đáng duy nhất của tài sản được xã hội hiện đại thừa nhận là sự tư hữu (nt, §46).
- Con người hiện đại còn hiểu chính mình như là những chủ thể mang lại ý nghĩa cho cuộc đời thông qua những lựa chọn của mình. Chủ thể đòi hỏi một lối sống tự chủ, xem hành động của mình là kết quả của sự lựa chọn chứ không phải của tập quán hay của sự cưỡng chế xã hội. Ðiều này cần có cấu trúc xã hội mà Hegel gọi là “sự tự do chủ quan” (nt, §224).
- Thoạt nhìn, có vẻ giống với quan niệm của Liberalisme classique, nhưng chỗ khác cơ bản là: với Hegel, “personne” và “chủ thể” chỉ là những sự trừu tượng; tự chúng không đủ để mang lại nội dung cho quyền con người hay nghĩa vụ luân lý. Trong hình thức trừu tượng ấy, chúng sẽ dẫn đến “tinh thần cá nhân nguyên tử” tách rời con người với nhau và với đời sống xã hội. Nếu nhà nước chính trị chỉ được quan niệm như là kẻ bảo vệ quyền của “personne”, thì nhà nước không tránh khỏi trở thành một sức mạnh trừu tượng đối lập lại cá nhân với chức năng duy nhất là giám sát và cưỡng chế. Nếu nhà nước chỉ có chức năng “cảnh sát”, nó sẽ bị quy giản thành “nhà nước cảnh sát”, trở nên thù địch với con người. Vậy, pháp quyền và luân lý chỉ phát triển trong một hệ thống bảo đảm sự tự do và hạnh phúc của cá nhân trong những vai trò nhất định được xã hội thừa nhận. Hệ thống ấy Hegel gọi là “đời sống hay trật tự đạo đức” (Sittlichkeit/ordre ou vie éthique). Vậy, trong xã hội hiện đại, quyền và hạnh phúc cá nhân đã có được vị trí chính đáng độc lập với lợi ích của toàn bộ xã hội. Việc theo đuổi lợi ích của toàn bộ xã hội này đòi hỏi một loại định chế xã hội mới mẻ, trong đó sự tham gia của cá nhân trong đời sống xã hội phải được trung giới thông qua ý chí tự do lựa chọn của cá nhân và phải diễn đạt được ý kiến chủ quan của cá nhân (Sđd, §206). Hegel gọi định chế xã hội mới mẻ ấy là “bürgerliche Gesellschaft (viết tắt BG) / société civile, vì xã hội ấy bao gồm những “Bürger”. Chữ Bürger có cả hai nghĩa: citoyen và bourgeois. Hegel nhấn mạnh: ông hiểu theo nghĩa sau: bourgeois (nt, §190).
Vì thế, BG không phải là một lĩnh vực tự nhiên hình thành từ việc những cá nhân theo đuổi những ham muốn riêng tư bằng cách tham gia vào thị trường. Cách hiểu đơn thuần kinh tế này về BG bị Hegel gọi là “cộng đồng thú vật mang tính tinh thần” (Hiện tượng học Tinh thần, §§339 và tiếp). Mục đích của BG không chỉ để thoả mãn nhu cầu và ham muốn mà để tự - hiện thực hoá cá nhân. “Nhân vị cụ thể” (konkrete Person) chỉ là nguyên tắc thứ nhất của BG, cần được bổ sung bằng nguyên tắc thứ hai: “hình thức của tính phổ biến” (Triết học pháp quyền, §182). Như thế, sự phân tích của Hegel về BG bao hàm cả việc xem xét các hình thức của sự đoàn kết hay liên đới xã hội, qua đó cá nhân tự quan hệ với những mục đích phổ biến của Nhà nước (nt, §§230-56). BG là xã hội đích thực (wahre Gesellschaft / vraie société) trong đó cá nhân có được những bản sắc xã hội nhất định, phát triển các mối quan tâm đạo đức đến hạnh phúc của những người khác cũng như chia sẻ những mục đích tập thể. Chức năng sâu xa của việc phân công lao động không chỉ là để nâng cao năng suất mà còn mang lại lối sống nhất định, được BG thừa nhận. Khi thuộc về một “tầng lớp” hay “giai cấp” (Stand), cá nhân có được một lối sống nhất định, một phẩm giá được những người khác thừa nhận, và có thước đo khách quan cho giá trị của bản thân. Vì thế, Hegel đề nghị BG phải được tổ chức thành những “hiệp hội”, tạo ra “tinh thần hội đoàn”, “tinh thần liên đới”. Ðiều này không chỉ mang lại sự cố kết của tầng lớp mà còn hướng tới những mục tiêu chung, làm cho cá nhân là thành viên của một “xã hội phổ biến”. Bằng cách ấy, “lĩnh vực của BG chuyển hóa thành Nhà nước” (Sđd, §256).
Hiểu như thế, lý luận của Hegel đã mặc nhiên chứa đựng các đặc điểm chủ yếu của Marx khi phân tích chủ nghĩa tư bản hiện đại. Hegel là người đầu tiên phân biệt “BG” (hay lĩnh vực “kinh tế” theo nghĩa rộng) với gia đình và Nhà nước. Marx cho rằng quan niệm này đã cung cấp chìa khóa cho chủ nghĩa duy vật lịch sử: cấu trúc và sự thay đổi của BG là yếu tố quyết định cho việc chuyển hóa lịch sử nói chung. Hegel đã đi trước Marx khi nhận ra rằng thị trường chỉ là vẻ ngoài của các cấu trúc xã hội sâu xa hơn mà các mục đích cơ bản của chúng là có tính tập thể hơn là cá nhân. Tất nhiên, Hegel xem cấu trúc bề sâu ấy là một cơ chế hài hoà giữa các giai cấp, trong khi Marx xem đó là miếng đất tranh chấp và bùng nổ của cuộc đấu tranh giai cấp. (Hegel cũng dùng quan niệm “giai cấp” để mô tả sự xung đột trong BG, chỉ khác với Marx ở chỗ: Hegel xem tầng lớp “dân đen” là không có năng lực hành động tập thể và hầu như bị loại khỏi “trật tự đạo đức”, ngược lại với quan niệm của Marx về “giai cấp vô sản”).[5]
Ðiểm mấu chốt là: Hegel xem BG là miếng đất hiện thực để xây dựng nên “Nhà nước chính trị” hài hoà; ngược lại, Marx muốn cải biến BG để xóa bỏ xung đột giai cấp, bấy giờ sẽ thủ tiêu luôn Nhà nước, bởi Nhà nước chỉ là “thượng tầng kiến trúc”. Hegel và Marx đều xuất phát từ tiền - giả định về sự “trong suốt” trong nhận thức về xã hội. Với Hegel, sự tự do chủ quan (tính chủ thể tự giác) là điều kiện để đi tới sự trong suốt, nhưng điều này chỉ đạt được nơi “triết gia” khi hồi cố về sự phát triển lịch sử. Với Marx, “sự trong suốt” là ảo tưởng trong mọi giai đoạn lịch sử trước đây. Chỉ khi con người không còn phục tùng sự phân chia giai cấp, thì mới có sự tự do đích thực, nghĩa là khi đời sống chung trong BG trở thành “ý chí của những cá nhân hợp nhất”. Tự do ấy, một khi đạt được, sẽ bền vững: cách mạng vô sản sẽ không phải là sự kết thúc của lịch sử mà chỉ là sự cáo chung của thời “tiền sử” của con người”!
Nói tới xã hội dân sự mà Marx coi là “hạ tầng cơ sở”, không thể không nói tới ý kiến của Antonio Gramsci.[6] Đối với nhà mac-xit Ý, Nhà nước (tư sản) không chỉ mạnh nhờ bộ máy trấn áp, mà còn nhờ sự bá quyền tư tưởng của nó, thông qua những định chế trong đời sống hàng ngày của xã hội dân sự (hội đoàn, giáo hội, trường học...), những định chế mà sau này, Bộ phận ấy, Gramsci xêp vào “thượng tầng kiến trúc”, Louis Althusser gọi là “bộ máy tư tưởng của Nhà nước” (appareils idéologiques d’Etat). Khái niệm này đáng chú ý, nhất là trong giai đoạn toàn cầu hoá với những phương tiện truyền thống toàn năng.
Như thế, ta đứng trước hai mô hình (Hegel và Marx)! Các lý thuyết hiện đại về xã hội dân sự dường như đều là các cách phản ứng trước hai mô hình này. Nếu thấy cả hai mô hình đều có mặt không tưởng (hoang tưởng?!), nếu thấy BG ngày càng trở thành quyền lực kinh tế lũng đoạn (thể hiện cực đoan trong quan niệm của Hayek chẳng hạn…), còn viễn tượng “nhà nước tiêu vong” là xa vời, thì chỉ còn cách… tự vệ của người “công dân”! Trong vô số lý luận hiện nay về xã hội dân sự, tôi thấy đáng lưu ý là quan niệm của J. Habermas về cái gọi là “deliberative Demokratie / deliberative Politik” (nền dân chủ tham vấn?). Ðó là sự quyết định bằng thảo luận chứ không bằng mệnh lệnh. Khác với lý luận về định chế của khoa chính trị học, Habermas tập trung vào vai trò công luận của công dân. Bên cạnh hai nguồn lực cố hữu của xã hội là sức mạnh kinh tế và quyền lực chính trị, ông muốn xây dựng nguồn lực thứ ba: sự đoàn kết, liên đới, hình thành từ sự truyền thông của quần chúng. Chính chất lượng lập luận trong tiến trình này sẽ mang yếu tố “lý tính” vào trong tiến trình chính trị vốn chỉ dựa trên các sự thoả hiệp về lợi ích. Qua đó, hệ thống chính trị không còn là đỉnh cao và trung tâm của xã hội (kiểu Hegel) mà chỉ là một hệ thống hành vi truyền thông bên cạnh các hệ thống khác. Vị trí và tính chất của nền “dân chủ tham vấn” vừa khác với mô hình dân chủ pháp quyền - tự do (dựa trên những thỏa hiệp về lợi ích riêng) lẫn với mô hình cộng hòa nhân dân (dựa trên sức mạnh tự tổ chức của quần chúng được chính trị hoá). Nói cách khác, bên cạnh khu vực của thị trường và của nhà nước, Habermas chủ trương xây dựng khu vực của xã hội công dân (Bürgergesellschaft / Zivilgesellschaft). Nghĩa là, khác với chủ nghĩa tự do xây dựng trên xã hội dân sự (Bürgerliche Gesellschaft / Civil Society), Habermas đề nghị xây dựng nền “dân chủ tham vấn” trên xã hội công dân (Bürgergesellschaft / Citizen Society) [7]
Nguồn lực Hệ thống Khu vực Quyền lực cai trị hành chính Bộ máy chính trị Nhà nước (hệ thống chính trị) Quyền lực kinh tế (tiền) Hệ thống hành vi kinh tế Thị trường (xã hội dân sự) Quyền lực truyền thông (sự đoàn kết, liên đới, tin cậy…) Mạng lưới truyền thông công cộng Xã hội-công dân (công luận)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:35:39 GMT 9
Phương Đông nhìn từ Iena Tại sao Hegel có thể cho rằng ở Trung Quốc, ở Phương Đông nói chung, không có “xã hội” hay “xã hội dân sự”? Trong hai tác phẩm kể tên ở đầu bài, nhà triết học ở Iena có một số câu đoạn nói về phương Đông, Trung Hoa và Ấn Độ, và nói một cách không mấy quan tâm tới “quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc”. Có những nhận định có thể nói là võ đoán, cường điệu, nhưng có những điều đáng làm ta suy nghĩ. Dưới đây, xin trích dẫn một vài đoạn. Trong Các bài giảng về Lịch sử triết học (tập I): “Con người [phương đông] sống trong sự khiếp sợ, hay nói cách khác, con người thống trị con người bằng sự khiếp sợ: cả hai đứng cùng ở một cấp độ. (...). Ông vua chuyên chế thực hiện những sáng kiến của mình, có khi cả điều tốt, nhưng không phải như là pháp luật mà như là sự tuỳ tiện của mình.” “Sự tự do ở phương Đông, Hy Lạp và thế giới Germain có thể xác định một cách sơ sài trong các sự trừu tượng hoá sau đây: ở phương Đông chỉ có một người duy nhất là tự do (ông vua chuyên chế) ; ở Hy Lạp, một số người là tự do, còn trong đời sống Germain, câu nói sau đây có hiệu lực: tất cả mọi người đều tự do, nghĩa là, con người là tự do với tư cách là con người. Nhưng, ở phương Đông, một con người duy nhất cũng không thể là tự do, vì muốn tự do thì những người khác cũng phải tự do, nên ở đó chỉ là sự ham muốn, sự tuỳ tiện, sự tự do hình thức, sự bình đẳng trừu tượng của Tự - ý thức (Tôi=Tôi)”… Trong Các bài giảng về triết học Lịch sử: “Người Trung Quốc xem mình là thuộc về gia đình và đồng thời như là những đứa con của Nhà nước. Trong bản thân gia đình, họ không phải là những “nhân vị” (Personen), bởi sự thống nhất bản thể ở đây là sự thống nhất của huyết thống và của tính tự nhiên. Trong Nhà nước, họ cũng không phải là những “nhân vị”, vì quan hệ thống trị ở đây là quan hệ gia trưởng, và chính quyền dựa trên việc thực thi sự chăm lo của vua đối với dân như của cha đối với con… để giữ mọi việc trong vòng trật tự”… “Nền tảng gia đình cũng là nền tảng của “hiến pháp”, nếu có thể dùng một từ như thế. Vì, tuy ông vua có quyền của một vị quân chủ đứng đầu toàn bộ nhà nước nhưng ông ta lại thực thi quyền của mình theo cách của một người cha đối với con cái của mình. Ông ta là gia trưởng (…) và đồng thời cũng là thủ lĩnh của tôn giáo và của khoa học. Vua là gia trưởng, còn thần dân là con cái không ra khỏi vòng luân lý gia đình, không tạo nên được sự tự do độc lập của người công dân, khiến toàn bộ nhà nước biến thành một vương quốc, một sự cai trị và lề thói chỉ có tính luân lý, nghĩa là, chỉ có tính giác tính (verständig / entendement) chứ không có lý tính tự do và sự tưởng tượng”. “Ở Trung Quốc, sự khác biệt giữa nô lệ và tự do tất nhiên là không lớn, bởi trước mặt hoàng đế, tất cả đều bình đẳng, nghĩa là, đều bị giáng cấp như nhau”. Trung Quốc, Việt Nam ngày nay Nếu còn sống, chắc Hegel sẽ không khỏi ngạc nhiên trước cảnh tượng Trung Quốc và Việt Nam ngày nay – ít nhất khi ông đọc những số liệu về tổ chức hội đoàn, một trong những chỉ dấu để đo sức sống của xã hội dân sự. Đó là những con số hoành tráng: * tại Trung Quốc, theo ước tính chính thức thì năm 2005, có khoảng 300 000 tổ chức phi chính quyền (NGO), thêm vào đó là 120 000 tổ chức mà Hán ngữ gọi là “dân biện phi xí nghiệp đơn vị” (民办非企业), tức là những tổ chức không có quy chế hội đoàn đăng kí ở Bộ nội vụ mà là “đơn vị” đăng kí ở Bộ Công thương, hoạt động vô vị lợi... Bên cạnh số đó, có vô số hội đoàn “tự phát”, không có tư cách pháp nhân, không được thừa nhận. Theo một ước tính của các NGO, tổng số những hội đoàn đủ loại này có thể lên tới 3 triệu.[8] * tại Việt Nam “đến nay, có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc và hơn 2.150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng hàng nghìn hội ở các cơ sở. Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẻo… Với sự đa dạng như thế, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam Nguyễn Xuân Hướng (đại biểu Hà Tĩnh) đã dí dỏm ví, dân gian có câu ‘đông như hội’” [9]. Ấn tượng hơn nữa là những chỉ số về sự tham gia: “Ở Việt Nam, trung bình mỗi người là thành viên của 2,33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0,39) và Singapore (0,86). Theo khảo sát này, tỷ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73,5%, một tỉ lệ tương đối cao” [10]. Tất nhiên, các con số không nói lên thực chất vấn đề. Nếu trong thập niên 1980, sau cuộc đại cải cách 1979 của ông Đặng Tiểu Bình, ở Trung Quốc đã nở rộ những tổ chức NGO, về kinh tế, xã hội, kể cả những viện nghiên cứu độc lập (dân biện nghiên cứu sở) – nổi tiếng nhất là trung tâm của Trần Tự Minh (Chen Zimin, nhà nghiên cứu triết học)[11] – thì sau sự kiện Thiên An Môn (1989), chính quyền ban hành Quy chế đăng kí và quản lí các đoàn thể xã hội (tháng 10.1989), rồi 10 năm sau: Quy chế tạm thời về đăng kí và quản lí các đơn vị nhân dân phi thương mại, theo đó các NGO phải đăng kí tại Bộ dân sự vụ và đặt dưới sự chủ quản của một cơ quan chính quyền hay tương đương. Cơ quan chủ quản này thường được gọi là “mẹ chồng”, “mẹ chồng” có quyền và nhiệm vụ coi chừng “con dâu”. Thực chất mà nói, đó không phải là những NGO mà là GONGO (Government Organized Non Governmental Organisations): những “tổ chức phi chính quyền do chính quyền tổ chức”. Theo quy định, mỗi NGO được phép hoạt động trong một lãnh vực nhất định và trong phạm vi một đơn vị hành chính nhất định, nó không được phép hoạt động ra khỏi khu vực địa lí đó, và trong phạm vị một đơn vị hành chính đó, không thể có hai NGO được phép hoạt động trong cùng một lãnh vực. Phí đăng kí cũng rất “lụa”: 30 000 nhân dân tệ. Nói như nhiều tác giả, “xã hội dân sự” ở Trung Quốc thực chất vẫn là “xã hội dân sự do Nhà nước lãnh đạo”. Có lẽ về cơ bản, giữa hai “xã hội dân sự” Trung Quốc và Việt Nam, cũng mặc nhiên có một mối quan hệ “16 chữ vàng”. Ở Việt Nam, bộ luật về hội đoàn vẫn chưa được thông qua. Dự án vẫn duy trì chế độ “mẹ chồng con dâu” mà ta gọi là “cơ quan chủ quản”. Đây là vấn đề cốt lõi, vì nó liên quan tới thực chất quan niệm về tổ chức xã hội dân sự: đó là những tổ chức tự lập của xã hội dân sự, của công dân, hay chỉ là tổ chức để chính quyền “nắm” từng bộ phận nhân dân, và nếu vậy, ở thời đại hiện nay, nó chỉ có thể là môt tổ chức có trên giấy tờ. Chỉ cần nêu ra hai thí dụ: những cuộc gặp gỡ xuân thu nhị kì giữa đại biểu Quốc hội với “đại diện” cử tri (ít nhất các đại biểu quốc hội cũng đã được bầu ra, còn các “đại diện” cử tri thì chỉ được ai đó chỉ định), và việc từ nhiều năm nay, chưa hề có một cuộc đình công nào do công đoàn khởi xướng hay chủ trương. Nhân đây, cũng xin mở dấu ngoặc, tuy không ra ngoài đề: Là một “Việt kiều”,[12] tôi không thể không bàng hoàng khi được đọc Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg của Thủ tướng về “VỀ VIỆC TIẾP TỤC TĂNG CƯỜNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CÔNG TÁC VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI” (ngày 08.06.2008). Văn bản này xác nhận một lần nữa các nhiệm vụ của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài từ nay là một tổng cục, trong đó có nhiệm vụ này: “d) Chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài tiến hành tổ chức, thành lập các hội đoàn người Việt Nam ở địa bàn có thể triển khai được, định hướng và phát triển các hoạt động của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài nhằm củng cố sự ổn định lâu dài tại chỗ, cùng nhau đoàn kết hướng về Tổ quốc. Danh sách ban chấp hành hội cần được Bộ Ngoại giao (Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài ) thẩm định và ra quyết định chuẩn y trên cơ sở giới thiệu của các hội và cơ quan đại diện ngoại giao tại địa bàn”[13] Hegel vẫn có thể ngủ yên trên quan niệm của ông về “phương Đông”. Càng dễ ngủ yên vì ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, ba chữ NGO đã từng bị đồng hoá với âm mưu “diễn biến hoà bình”, đối trọng và/hay độc lập được ghép thành một chữ là đối lập, nhẹ nhất là “rách việc”... Cách đây chưa đầy 15 năm, cuốn Từ điển Xã hội học trong đó lần đầu tiên, thuật ngữ Xã hội dân sự được định nghĩa một cách hoàn chính, tác giả của nó, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, còn phải mượn tên của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Hơn mười năm đã trôi qua, xã hội công dân, rồi xã hội dân sự xuất hiện trên báo chí, có bài còn nói lên tại sao có người sợ nó... Trên các cuốn sách, bìa 1 vẫn mang tên Nhà xuất bản, còn tên của “Công ti X” hay “Trung tâm Y” mà ai cũng biết mới thực là người xuất bản, mới chỉ ở bìa 4 – đôi lần nó leo lên bìa 1 nhưng đã bị huýt còi ngay. Tương tự, “ trên thực tế, hiện nay đã hình thành rất nhiều các tổ chức xã hội dân sự như các hội, các ngành kinh tế, các lĩnh vực khoa học và công nghệ, các lĩnh vực dịch vụ. Sự thực, một khuôn mặt xã hội dân sự kiểu mới ở nước ta đang hình thành, có thể coi đó là bước tiến của nền dân chủ, khác về bản chất với xã hội trước đổi mới. Tuy vậy, về mặt thể chế, phạm trù xã hội dân sự chưa được xác định trong văn bản, tức là chưa dám đặt viên gạch thứ ba (là xã hội dân sự) tạo cơ sở đầy đủ cho mối quan hệ thể chế kinh tế chính trị nước ta.”[14] (viên gạch thứ ba: hai viên gạch đầu là kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền). Có thể tác giả hơi lạc quan. Nhưng không hẳn: ngày 23.07.08, ông Theodore Huang, chủ tịch Hội Công Thương Quốc Gia của Đài Loan kêu gọi chính quyền Việt Nam phải “xử lý” các cuộc đình công ngày càng gia tăng. Ông Hoàng nói: “Kinh tế không phải là vấn để lớn ở Việt Nam, vì tư bản nước ngoài sẽ tới (đầu tư). Khó khăn thực sự là làn sóng đình công” [15]. Ta đừng trách ông Hoàng coi nhẹ vấn đề lạm phát, đầu tư, pháp chế đầu tư... Ta cũng không cần biết ông ta hiểu chữ “xử lý” là như thế nào. Chắc ông không nghĩ tới phương pháp xử lý của Phác Chung Hy hay cha con họ Tưởng ở Nam Hàn và Đài Loan cách đây 20 năm. Chính quyền xử lí ra sao là chuyện của chính quyền. Chỉ biết đó trước hết là việc của công đoàn: Tổng công đoàn Việt Nam, nếu nó không muốn đóng mãi vài trò “công đoàn vàng”, hay một công đoàn độc lập sẽ phải ra đời, nếu không. Tác giả đoạn trích dẫn trên có thể hơi lạc quan, nhưng ông hoàn toàn có lý khi nhấn mạnh tới việc “dám” đặt viên gạch thứ ba cho xã hội dân sự / công dân. xã hội dân sự/CD là chân kiềng thứ ba của bộ ba Nhà nước Pháp quyền – Thị Trường – Xã hội dân sự/công dân của thời đại hôm nay. Trở lại con mèo Cheshire của cô bé Alice và nhà toán học lôgic Lewis Carroll. Nói đến xã hội dân sự ở Việt Nam hay ở Trung Quốc, đọc những bài viết về vấn đề này, kể cả bài này, nhiều khi chúng ta không biết người ta nói đến con mèo hay cái cười của nó. Hay nếu không muốn nói tới mèo, cũng có thể nói tới chuột. Con chuột chũi (taupe) nổi tiểng của Hegel, mù loà, nhưng cứ lầm lũi, âm thầm, dưới lòng đất, đào những địa đạo. Mèo hay chuột, đằng nào xã hội dân sự cũng vẫn “lừng lững”[16] tiến tới. Nguyễn Ngọc Giao (Paris) Chú thích: [1] Yves Chevrier: La question de la société civile, la Chine et le chat de Cheshire, trong Etudes chinoises, Vol.XIV, n°2, automne 1995. [2] Timothy Brook & B. Michael Frolic, Civil Society in China, Studies on Contemporary China, M. E. Sharpe, New York & London, 1997, p.3. [3] Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải Hiện tượng học Tinh thần, Nhà xuất bản Văn Học, 2006, 1640 trang. [4] Tôi xin dùng chữ “phóng khoáng” để gọi khái niệm “liberal” theo nghĩa chính tri – khác với khái niệm “liberal” về kinh tế. Chữ “tự do” hay “tự do chủ nghĩa” mà nhiều tác giả dùng (trong ngữ cảnh chính trị cũng như kinh tế) tôi nghĩ không phù hợp – nếu không nói là nó xúc phạm khái niệm “tự do”. [5] Về quan niệm của Marx, có thể đọc Lữ Phương: Xã hội công dân: từ triệt tiêu đến phục hồi, tham luận tại hội thảo VIETNAM UPDATE 94, Trường đại học Quốc gia Úc, Canberra, 11.1994, toàn văn bản tiếng Việt được đăng trên tạp chí Diễn Đàn, số 36, tháng 12.1994, đăng lại trên Trang Lữ Phương: www.viet-studies.info/LuPhuong/LuPhuong_XaHoiCongDan.htm [6] A. Gramsci, Cahiers de prison, Gallimard, 1996. [7] Jurgen Habermas: Faktizität und Geltung (Droits et démocratie: entre faits et normes), 1992/1994. Tham khảo thêm: khái niệm “xã hội dân chính” (Civic Society) thí dụ trong bài của Tôn Thất Nguyễn Thiêm: “Tiếng nói công dân: Vốn xã hội nhìn từ tương quan giữa Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân chính” in trong Sĩ phu thời nay, kỷ yếu mừng giáo sư Hoàng Tuỵ, Nxb Tri Thức & Cti văn hoá Phương Nam, 2008. [8] Albert CHEN LICHUAN (Trần Lệ Xuyên), Relations entre Etat et société civile en Chine, Fondation Charles Léopold Meyer, 2006 (http://base.china-europa-forum.net/rsc/docs/fiche_1171.pdf) [9] Báo Công an Nhân dân điện tử, 10.06.2006 (http://ca.cand.com.vn/vi-VN/xahoi/2007/10/77833.cand) [10] Đặng Ngọc Dinh, “Tình hình và đặc điểm của xã hội dân sự ở Việt Nam – Những mặt tích cực và các vấn đề cần hoàn thiện”, tr 129-130, trong XÃ HỘI DÂN SỰ Một số vấn đề chọn lọc, Vũ Duy Phú chủ biên, Viện những vấn đề phát triển, Nxb Tri Thức, 2008. [11] Jean-Philippe BÉJA, A la recherche d'une ombre chinoise / Le mouvement pour la démocratie en Chine (1919-2004). Ed. du Seuil, Paris 2004 [12] Có thể xem thêm tham luận của tôi tại Hội thảo Đà Nẵng 2005 “Vấn đề Việt kiều” (http://hoithao.viet-studies.info/2005_NNGiao.pdf) [13] www.thuvienphapluat.com/Default.aspx?CT=VC&LID=10490008[14] Trần Ngọc Hiên, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự nước ta”, Tạp chí Cộng sản điện tử (http://www.tapchicongsan.org.vn/print_preview.asp?Object=4&news_ID=8534515 ) [15] Central News Agency: www.taiwannews.com.tw/etn/news_content.php?id=697607&lang=eng_news&cate_img=35.jpg&cate_rss=news_Business_TAIWAN[16] chữ của nhà văn Nguyên Ngọc.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Sept 29, 2011 4:50:07 GMT 9
Độc tài sống được nhờ đâu? Bruce Bueno De Mesquita và Alastair Smith
Trần Quốc Việt (danlambao) dịch – Tại sao có những nhà độc tài trụ được trong khi những nhà độc tài khác sụp đổ? Suốt trong chiều dài lịch sử, những công dân bị chà đạp đều cố gắng hất tung ách nô lệ mà những kẻ áp bức áp tròng lên cổ họ, nhưng các cuộc cách mạng, giống như những cuộc cách mạng đang tràn qua thế giới Ả Rập, lại thường hiếm. Các bạo chúa cai trị vẫn giữ vững quyền lực nhờ ban thưởng cho một nhóm nhỏ các kẻ trung thành, thường thường gồm có các viên chức quân đội quan trọng, các công chức cấp cao và những người thân trong gia đình hay thân tộc. Trách nhiệm chính của những kẻ trung thành này là đàn áp phong trào phản kháng chế độ. Nhưng họ chỉ thực hiện nhiệm vụ bẩn thỉu, xấu xa này nếu họ được thưởng công hậu hĩ. Do vậy các nhà độc tài cần bảo đảm các nguồn lợi chảy đều đặn liên tục vào túi riêng của những kẻ thân tín. Nếu những kẻ ủng hộ nhà độc tài từ chối đàn áp các cuộc nổi dậy tập thể hay nếu họ đào thoát sang phía đối thủ, thì nhà độc tài ấy thật nguy đến nơi. Vì thế các nhà độc tài thành công đều ban thưởng cho những kẻ thân tín trước rồi cuối cùng mới đến nhân dân. Chừng nào những kẻ thân tín của họ còn được bảo đảm về nguồn thu nhập béo bở chắc chắn, các cuộc biểu tình sẽ bị đàn áp thẳng tay. Nhưng một khi quần chúng nghi ngờ lòng trung thành của đám thuộc hạ và thân tín ấy đang đến hồi lung lay, cuộc nổi dậy có cơ hội thành công. Ba loại kẻ cai trị đặc biệt dễ bị những kẻ ủng hộ họ bỏ rơi: đó là những kẻ cai trị mới, già yếu, và khánh kiệt. Những nhà độc tài mới an vị không biết lấy tiền ở đâu ra hay họ không biết có thể mua được lòng trung thành chắc chắn của ai với giá rẻ. Cho nên, trong những lúc chuyển tiếp quyền lực, những người khởi xướng cuộc cách mạng có thể nhân cơ hội đó lật đổ chế độ mới còn non yếu. Nguy cơ càng lớn hơn chờ chực sẵn nhà độc tài già nua khi các kẻ thân tín của y không còn trông mong y tiếp tục ban phát đặc quyền và tiền công để bảo đảm sự ủng hộ của họ. Họ biết người chết rồi hết trả. Cho nên già yếu làm vơi dần lòng trung thành, từ đấy có nhiều khả năng các lực lượng an ninh sẽ ngồi không hơn là chặn đứng cuộc nổi dậy, qua đó tạo cho quần chúng một cơ hội thật sự để nổi loạn. Đây chính là những gì đã gây ra sự sụp đổ của các chế độ độc tài ở Philippines, Zaire và Iran. Ngoài các tin đồn đáng lo âu về sức khoẻ của Zine el-Abidine Ben Ali và Hosni Mubarak, Tunisia và Ai Cập còn gánh chịu những vấn đề kinh tế nghiêm trọng mà làm nhen nhúm cuộc nổi dậy. Giá thóc và nhiên liệu ngày càng tăng, nạn thất nghiệp, đặc biệt trong tầng lớp có học, ngày càng cao và, riêng trường hợp Ai Cập, nguồn viện trợ từ Mỹ bị giảm sút đáng kể (sau này Tổng thống Obama tăng lại như cũ). Giới quân đội ủng hộ ông Mubarak, tức những kẻ hưởng lợi từ nguồn viện trợ ấy, lo sợ rằng ông ta không còn là nguồn thu nhập chắc chắn cho họ nữa. Khi tiền trở nên khan hiếm, lãnh đạo không thể trả cho những kẻ thân tín như trước, vì thế không có ai đứng ra ngăn cản nhân dân nếu họ nổi loạn. Đây chính là điều đã diễn ra trong các cuộc cách mạng Nga và Pháp và trong sự sụp đổ của ách cai trị cộng sản ở Đông Âu – và đây cũng chính là lý do chúng tôi đã tiên đoán sự sụp đổ của ông Mubarak trong một lần nói chuyện với các nhà đầu tư vào tháng Năm vừa qua. Mối đe doạ hiện nay đối với chế độ cai trị của Bashar al-Assad ở Syria có thể được xem xét trong cùng hoàn cảnh. Với mức thâm hụt năm 2011 dự đoán độ 7 phần trăm G. D. P., nguồn thu nhập từ dầu lửa giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao trong giới trẻ, ông Assad đang đối mặt với những điều kiện chín mùi cho cuộc cách mạng. Hôm nay ông có thể đánh vỡ đầu người dân, nhưng chúng tôi tin chắc rằng hoặc ông cuối cùng sẽ ban hành những cải cách khiêm nhường hay sẽ có người thay thế ông làm việc ấy. Bắt chước cũng đóng vai trò quan trọng trong thời cách mạng. Khi nhân dân biết các nhà lãnh đạo ở các nuớc lân cận không thể mua được lòng trung thành, họ liền hiểu rằng họ cũng có thể có một cơ hội. Song điều ấy không phải nhất thiết đưa đến các cuộc cách mạng tương tự. Tại nhiều nước, nhất là Các Nước Vùng Vịnh giàu nhờ dầu hoả thì từ xưa đến nay một là không có biểu tình hai là biểu tình bị trấn áp dữ dội. Chẳng hạn, tại Bahrain, 60 phần trăm thu nhập của chính quyền xuất phát từ khu vực kinh tế dầu khí; vì thế những nhà lãnh đạo của nước này đối mặt với ít rủi ro khi đối phó với các cuộc biểu tình bằng sự trấn áp khốc liệt. Điều này là vì các nhà độc tài ở các nước giàu tài nguyên đều có sẵn một nguồn thu nhập chắc chắn để ban thưởng cho những kẻ thân tín – và trấn áp không tổn hại đến nguồn tiền mặt có sẵn này. Của cải từ tài nguyên tự nhiên cắt nghĩa tại sao Robert Mugabe ở Zimbabwe tuy hơn tám mươi tuổi nhưng vẫn không tỏ dấu hiệu nào sẽ từ chức và đại tá Muammar el-Qaddafi ở Libya ngay từ đầu chẳng màng nói bóng gió gì đến sự thoả hiệp. Tuy nhiên, khi bom NATO rơi trên Tripoli đại tá Qaddafi chợt nhận ra ông cần thuyết phục những kẻ trung thành còn sót lại rằng ông có thể tái thiết lập sự kiểm soát các mỏ dầu của Libya nếu không họ rồi cũng sẽ bất ngờ đánh lại ông. Buồn thay, nếu phe nổi loạn thắng, họ cũng có thể bóp nghẹt tự do để đảm bảo sự kiểm soát của họ về tài nguyên dầu hoả. Các chế độ giàu tài nguyên tự nhiên hay nhận được rất nhiều viện trợ từ nước ngoài có thể sẵn sàng bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí và, quan trọng nhất, quyền hội họp. Ngược lại, các nhà lãnh đạo các nước nghèo tài nguyên không thể dễ dàng hạn chế sự vận động dân số nếu không đồng thời khiến cho công việc sản xuất khó khăn đến nỗi họ tự cắt đứt nguồn thu nhập thuế mà họ cần để mua lòng trung thành. Những nhà lãnh đạo ở những nước như thế thấy mình lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan và nếu khôn ngoan thì họ nên nới lỏng hơn trước để tránh cái hoạ về sau. Đây là lý do chúng tôi kỳ vọng trong vài năm tới các nước như Morocco và Syria sẽ cải cách cho dù phản ứng ban đầu của họ trước cuộc biểu tình là đàn áp. Chúng ta cũng nên dành niềm cổ vũ tương tự cho quá trình dân chủ hoá ở nhiều nước không có dự trữ tài nguyên tự nhiên như Trung Quốc và Jordan – điềm gở cho các nhà cai trị chuyên chế nhưng tin vui cho tất cả quần chúng bị áp bức trên toàn thế giới. Bruce Bueno de Mesquita và Alastair Smith là các giáo sư ở New York University và là đồng tác giả tác phẩm “Cẩm nang của nhà độc tài”. Nguồn: The New York Times 9/6/2011
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 22, 2012 8:16:52 GMT 9
Miến Điện: Cơ duyên của thay đổi kỳ thú (03/20/2012) Tác giả : Bùi Tín (Viết riêng cho VOA) Báo the Economist số ra tháng 2-2012 có bài bình luận khá sinh động và bổ ích về tình hình mới đây ở Miến Điện. Báo này thường có bài viết của một nhóm nhà bình luận chuyên sâu có mặt ở Rangoon Miến Điện và trong khu vực, chung sức tạo nên những bài viết có giá trị. Bài báo đặt vấn đề vì sao tình hình Miến Điện lại có thể thay đổi đột ngột sâu sắc đến vậy, làm cho một số nhà bình luận quốc tế ngỡ ngàng, làm cho một số trí thức trong cộng đồng người Miến Điện sống tỵ nạn ở phương Tây bán tín bán nghi. Trước đây, ai có thể nghĩ đến chuyện bà Aung San Suu Kyi bị tù, quản thúc, giam lỏng, không được ra nước ngoài thăm chồng con, kể cả khi chồng bà hấp hối, rồi tổ chức chính trị của bà là Tập họp quốc gia vì Dân chủ bị khủng bố, đặt ra ngoài vòng pháp luật, vậy mà bỗng nhiên nay bà được đi khắp nơi để vận động bầu cử cho mình và cho đảng của mình, và đảng của bà nay lại có đầy đủ quy chế hợp pháp như mọi chính đảng khác để ra ứng cử trong cuộc bầu cử bổ sung tháng 4-2012. Điều gì đã xảy ra để suốt 22 năm qua tên của bà không hề được nêu lên trên báo chí công khai, trừ khi để chỉ tên một kẻ tội phạm nguy hiểm cho nền an ninh quốc gia, một kẻ cầm đầu âm mưu lật đổ chính quyền, đang bị trừng phạt như một kẻ thù của nhân dân, nay bỗng nhiên xuất hiện trên trang nhất các báo lớn, trên đài phát thanh và truyền hình toàn quốc, với ảnh màu trang trọng, trong tư thế một nhà lãnh đạo chính trị hợp pháp đàng hoàng. Báo the Economist giải thích cặn kẽ rằng sở dĩ có sự đổi thay kỳ thú như thế là do sự trùng hợp của nhiều nguyên nhân, nhiều cơ duyên hiếm có. Một số trí thức người Miến tỵ nạn ở Pháp cũng có ý kiến tương tự. Trước hết, về phía bà Aung San Suu Kyi và Tập họp quốc gia vì Dân chủ của bà đã tự tin giữ vững hàng ngũ, có uy tín lớn trong và ngoài nước, được xã hội và giới Phật giáo thật sự quý trọng suốt hơn nửa thế kỷ qua. Về phía các tướng cầm quyền, họ gặp những khó khăn chồng chất nan giải, dẫn đến bế tắc kinh tế xã hội, nhất thiết phải tìm cách thoát khỏi khủng hoàng nặng nề kéo dài. Kinh tế đình trệ. Nợ nước ngoài của nhà nước đã vượt qua 11 tỷ đôla; y tế và giáo dục xuống cấp nặng nề; chiến tranh với các bộ tộc Shan và Karen do Trung Quốc sách động vẫn dai dẳng. Cuộc phong tỏa của phương Tây kéo dài gần 20 năm ngày càng ngấm sâu. Họ buộc phải tìm ra con đường sống. Tình hình quốc tế thời gian qua mang lại nhiều tác động sâu sắc. Các ông tướng cầm quyền theo dõi sát tình hình Tunisia, Ai Cập, Libya …rất lo nếu có đông đảo dân chúng xuống đường như hồi năm 1988 hay năm 2007, sẽ rất dễ đụng độ với cảnh sát và quân đội, xô xát, bắn giết dễ xảy ra và leo thang, khó ngăn chặn những điều tệ hại như ở Ai Cập và Libya, dẫn đến sự can thiệp và trừng phạt của quốc tế, đưa đất nước đến nội chiến đẫm máu mờ mịt. Báo the Economist cho biết nhiều ông tướng thực sự lo âu khi được tin cha con Mubarak nếu bị bắt sống sẽ bị giải sang Tòa án Hình sự Quốc tế ICC ở La Haye, và rất sợ viễn cảnh như thế đối với bản thân. Cộng đồng Miến Điện ở Anh và Pháp cũng cho biết đã sưu tầm khá nhiều tài liệu về tài sản bất minh của một số tướng lĩnh đương quyền cũng như những cuộc bắn giết, tra tấn, hành hạ dân thường, trí thức, nhà báo, nhà tu hành, và đã công bố trước thế giới, đồng thời gửi cho Tòa án Hình sự Quốc tế. Các tướng lĩnh cầm quyền không đồng nhất. Có những nhóm rất xấu, tham ô, quân phiệt, mê tín dị đoan, kinh doanh đủ thứ, đã thành nhóm tài phiệt quân sự như tướng Than Shwe; ngược lại có những tướng sống giản dị, có lòng yêu nước, thương dân, thấm nhuần bản chất hòa bình vị tha của đạo Phật, tin ở kiếp luân hồi - sống là gửi, thác là về - như Tướng Thein Sein, đã từ bỏ quân phục, quân hàm, là tổng thống dân sự hiện tại. Họ thiên về cuộc sống nội tâm hơn là thụ hưởng vật chất. Tổng thống Thein Sein tỏ ra quả đoán và cương trực, đang cùng nhóm tin cẩn của ông chèo lái cuộc đổi mới đầy khó khăn, là một người như thế.. Bà Aung San Suu Kyi đóng một vai trò đặc biệt hệ trọng trong sự chuyển biến kỳ thú của Miến Điện. Thời gian qua bà không phải chỉ là một nhà lãnh đạo gương mẫu, kiên cường, chịu đựng mọi hy sinh cá nhân vì dân, vì nước, bà còn là một nhà ngoại giao sắc sảo, luôn nụ cười lạc quan trên môi, am hiểu sâu sắc tâm lý của đối phương và luôn tìm ra giải pháp có lợi cho sự nghiệp đổi mới. Bà sống giản dị tại ngôi nhà nhỏ ven hồ, ăn chay trường. Sau khi bà được tự do ngày 11 tháng 10 năm 2010, bà đã tập trung trí tuệ và tâm huyết cho sự nghiệp đổi mới mà nội dung cốt lõi được bà và nhóm cố vấn của bà xác định là: hòa giải dân tộc, hòa bình vững chắc, chấm dứt chiến sự, sớm chấm dứt phong tỏa và trừng phạt của quốc tế, nâng cao uy tín của Miến Điện ở trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới, chuẩn bị tốt cho sự nghiệp khôi phục và phát triển đất nước với tốc độ khá, bù lại thời gian đã phí phạm do chia rẽ xung đột. Tranh thủ sự trợ giúp, tiếp sức của quốc tế là một hướng nỗ lực đạt kết quả cao của bà. Bà tin ở Liên Hợp Quốc, ở các tổ chức dân chủ, ở chính quyền các nước dân chủ, tin ở Hoa Kỳ, ở các nước Liên minh châu Âu và được các nước này tin cậy trở lại. Nhiều phái viên của bộ ngoại giao, ngành an ninh Hoa Kỳ đến gặp bà. Ngoại trưởng Hillary Clinton nhiều lần đến gặp bà trong thời gian dài để trao đổi mọi vấn đề cần thiết. Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama trên đường thăm Úc cũng gọi điện thoại từ trên máy bay Air Force One để nói chuyện trao đổi với bà. Từ đó, có tin thuật lại là khi Tổng thống Thein Sein và quan chức thân cận từng hỏi bà rằng theo bà nghĩ, sau khi phía Miến Điện đã thực hiện tự do báo chí rộng rãi, cho công đoàn tự do hoạt động, trả hơn 600 tù chính trị thì phía Hoa Kỳ có thật sự chấm dứt phong tỏa, viện trợ trở lại như trước không. Bà đã trả lời dứt khoát là những điều ấy đã và sẽ chắc chắn được thực hiện. Không những vậy bà còn bảo đảm rằng Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới WB cùng một số tổ chức tài chính quốc tế cũng sắp viện trợ trở lại và cho vay với lãi xuất thấp. Theo tin trong nước, chính bà Aung San Suu Kyi đã chấp nhận để một số tướng lãnh ở lại cầm quyền nhưng phải từ bỏ quân phục và phải cai trị như một chính quyền dân sự, dựa vào hiến pháp, luật pháp chứ không dựa vào quân đội như cũ. Bà đã biết uyển chuyển từ bỏ yêu sách cũ là tất cả tướng lãnh phải ra đi, thậm chí phải bị truy tố về tội ác và tham nhũng. Theo tiết lộ, bà còn ngỏ ý bảo đảm tài sản riêng của các tướng lãnh cũ nói chung sẽ được tôn trọng, trừ những trường hợp phạm pháp rõ rệt phải trả lại công quỹ mà không phải qua truy tố. Điều này giải tỏa nỗi lo lắng và sự chống đối của một bộ phận tướng lãnh từng cầm quyền. Họ chỉ mong được hạ cánh an toàn. Cũng cần phải nói Miến Điện từng trải nghiệm một thời gian về một kiểu xã hội chủ nghĩa - kinh tế tập trung theo kế hoạch - rầt gần với Bắc Kinh và Moscow, dưới thời thủ tướng U Nu, nhưng đẫ bị thất bại nặng nề. Khái niệm xã hội chủ nghĩa đã bị chính chế độ quân phiệt khai tử. Mặt khác sự trở lại lâu dài của Hoa Kỳ ở châu Á với những trục liên minh Hoa Kỳ - Indonesia, Hoa Kỳ - Philippines, Hoa Kỳ - Ấn Độ, Hoa Kỳ - Đài Loan, Hoa Kỳ - Úc…nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc đi cùng với tệ ngạo mạn nước lớn của Bắc Kinh ở vùng biển Đông Việt Nam cũng làm cho Miến Điện cảnh giác và lặng lẽ tự tách dần khỏi Bắc Kinh. Các tướng từng phụ trách các bộ giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật đều phát biểu là Trung Quốc không có trình độ để giúp phát triển khoa học - kỹ thuật, giáo dục, các công ty Trung Quốc tràn vào Miến Điện mấy năm qua gây tổn hại cho nền kinh tế và phá hại môi trường hơn là giúp cho sự phát triển. Họ chỉ lợi dụng Miến Điện để mở đường bành trướng xuống Ấn Độ Dương. Có thể nói cuộc gặp gỡ giữa tổng thống Thein Sein và bà Aung San Suu Kyi ở thủ đô Naypidaw tháng 8 năm 2011 thẳng thắn, chân thành đã tạo nên niềm tin giữa 2 nhà lãnh đạo quốc gia. Hai người không chỉ cùng tuổi Ất Dậu – sinh năm 1945 – còn chung một niềm tin triết lý và tôn giáo của đạo Phật, còn chung lòng nhân hậu yêu nước thương dân, bằng những sáng kiến và việc làm cụ thể có hiệu quả. Rồi đây Miến Điện sẽ có thể là quốc gia nổi lên trong cộng đồng các nước Đông Nam Á, vừa có hòa hợp dân tộc, vừa có hòa bình, phát triển, như một tấm gương chính trị đẹp đẽ của thời đại mới, của hòa hợp dân tộc, của hòa bình, dân chủ, tự do và phát triển cho toàn dân cùng hưởng. Gần đây quan hệ giữa Việt Nam và Miến Điện có nhiều nét phát triển về kinh tế, chính trị và cả về quân sự, qua sự thăm viếng của các nhà lãnh đạo, ngoại giao và quân sự. Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam thăm Miến Điện; tàu hải quân Miến ghé thăm cảng Đà Nẵng. Ngày 20-3 này tổng thống Thein Sein sang thăm Việt Nam. Năm ngoái khi Việt Nam là chủ tịch Đông Nam Á, ông Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Miến Điện thực hiện bầu cử dân chủ đa đảng và hòa hợp dân tộc. Nay phía Miến Điện đã thực hiện đúng yêu cầu ấy, nhưng mỉa mai thấy 2 điều đó vẫn còn là món nợ của đảng CS Việt Nam đối với nhân dân Việt Nam và cả với các nước Đông Nam Á. Gặp ông Thein Sein, ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ ăn nói ra sao đây? Xem ra phía Việt Nam đang ở thế rất khó xử, vì chưa sẵn sàng thay đổi hẳn hệ thống cầm quyền như Miến Điện, chưa chịu chuyển từ độc đoán sang dân chủ đa đảng trong luật pháp và trật tự, chưa chịu thông qua luật tự do báo chí, luật tự do công đoàn, chưa chịu công nhận quyền tư hữu tư nhân về ruộng đất của nông dân, chưa chịu thành thực hòa giải và hòa hợp dân tộc. Trông người lại nghĩ đến ta. Bao giờ ta sẽ bằng người. Để cả nước sống hòa thuận tử tế với nhau trong thương yêu tin cậy nhau, tỉnh ngộ sâu sắc sau một thời gian dài xung đột và chia rẽ. Miến Điện đang cho ta một kinh nghiệm, một hy vọng, một gợi ý và niềm tin. Xin chớ bỏ qua bài học hiếm và quý này.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:08:00 GMT 9
Khi chủ nghĩa thực tiễn phá sản Tháng 12-1991, trên báo Thông Luận số 44, tôi có viết bài “Quỹ đạo của chó” (xin xem phụ lục 1), dùng tên một bài toán động học để chứng minh sự sai trái của chủ nghĩa thực tiễn và trọng lượng của nó trong văn hóa chính trị Việt Nam. Lúc đó không ai có thể ngờ rằng một năm sau, Bill Clinton, một thanh niên trốn lính với kinh nghiện chính trị sơ sài, có thể đánh bại George H. W. Bush, một anh hùng và một tổng thống tài ba, nhờ lập trường chính trị thực tiễn một cách cực đoan “chỉ làm kinh tế !” (Economy, stupid!). Tôi vốn dị ứng từ lâu với chủ nghĩa thực tiễn trong chính trị và không thể ngờ nó có thể ngự trị trong bang giao quốc tế trong suốt hai mươi năm qua với những hậu quả nghiêm trọng như người ta ngày càng thấy. Trong một bài viết cách đây hai năm (“Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama” – Thông Luận, tháng 3-2010 – xin xem phụ lục 2) tôi đã trình bày chủ nghĩa thực tiễn những sai lầm tai hại của nó cho thế giới, bạn đọc nào muốn có thể xem lại. Ở đây chỉ xin tóm lược một vài nét chính: Không nên lẫn lộn chủ nghĩa thực tiễn (realism) tiễn với chủ nghĩa phúc lợi (utilitarialism), một phương thức đánh giá hành động, đặc biệt là hành động chính trị, theo tiêu chuẩn hành động đúng là hành động đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người. Hay với chủ nghĩa thực dụng (pragmatism), một phương pháp đánh giá các lý thuyết, theo đó một lý thuyết chỉ đáng để ta quan tâm và học hỏi nếu sự kiện nó đúng hay sai và có ảnh hưởng cụ thể trong đời sống. Chủ nghĩa thực tiễn có thể tóm lược như một chọn lựa chính trị dành cho quyền lợi chỗ đứng trước hết và trên hết, nghĩa là mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và các giá trị đạo đức thì quyền lợi phải được dành ưu tiên. Quyền lợi ở đây phải được hiểu là quyền lợi cụ thể và ngắn hạn, bởi vì mọi hành động xét cho cùng đều nhắm một lợí ích nào đó. Những lợi ích dài hạn có thể mâu thuẫn với quyền lợi ngắn hạn và đòi hỏi một tầm nhìn xa mà nhiều người không có được, những lợi ích tình cảm và vị tha lại càng khó nhận diện hơn. Ðặc tính của chủ nghĩa thực tiễn nhắm những quyền lợi trước mắt. Nó chỉ là một tên gọi khác của sự thiển cận. Quyền lợi cũng thay đổi tùy theo mục tiêu của chế độ chính trị. Ðối với các chế độ độc tài, mà mục tiêu là giữ chặt quyền lực, chủ nghĩa thực tiễn có nghĩa là đàn áp thẳng tay để tiêu diệt mọi mầm mống phản kháng. Ðối với các chế độ dân chủ, mà mục tiêu là hòa bình và thịnh vượng, nó có nghĩa là tránh mọi xung đột ngay cả vì những lý do chính đáng và dồn mọi quan tâm cho kinh tế. Clinton đã tóm gọn chủ nghĩa thực tiễn trong khẩu hiệu economy, stupid ! - Chủ nghĩa thực tiễn đã gây tác hại lớn về mặt chính trị quốc tế. Nó đã bỏ qua những giá trị đạo đức và nhân quyền để bình thường hóa các chế độ độc tài bạo ngược đã rất chao đảo sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Các chế độ này không những được củng cố nhờ trao đổi thương mại với các nước dân chủ phát triển mà còn liên kết với nhau và trở thành một đe dọa cho dân chủ và hòa bình. Chủ nghĩa thực tiễn trong quan hệ đối ngoại đã là một sai lầm lớn. Quan hệ thương mại với các nước dân chủ đã không khiến các chế độ độc tài trở thành cởi mở và thân thiện, trái lại chỉ giúp chúng thêm sức mạnh để đối đầu. Lý do là vì ý thức hệ bao giờ cũng quyết định sự chọn lựa bạn và thù. Sau những nhắc lại này, chúng ta hãy thử nhận diện chủ nghĩa thực tiễn về mặt kinh tế. Phải nói ngay là cuộc khủng hoảng dài và nghiêm trọng như chưa từng có mà chúng ta đang sống đã là hậu quả của sự ngự trị của chủ nghĩa thực tiễn trong hai mươi năm qua. Ðặc tính của chủ nghĩa thực tiễn là nó tự nhiên dẫn tới chọn lựa kích thích tăng trưởng kinh tế bằng tiêu xài.Tại sao ? Ðó là vì gia tăng tiêu xài, tuy có thể tác hại về lâu về dài, là phương pháp nhanh chóng nhất để gia tăng tổng sản lượng nội địa và rất được lòng cử tri. Ai không thích tiêu xài ? Ai thích thắt lưng buộc bụng ? Gia tăng tiêu xài được lòng cử tri đến nỗi nhiều chính trị gia biết là nguy hiểm mà vẫn phải làm. Jean-Claude Junker, thủ tướng Luxembourg, gần đây đã giải thích tại sao chính phủ của ông không thể thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay như sau: “Chúng tôi biết rõ phải làm gì nhưng nếu làm như thế thì không có gì bảo đảm là chúng tôi sẽ còn cầm quyền sau cuộc bầu cử sắp tới”. Niềm tin rằng tiêu xài kích thích tăng trưởng dựa trên một lý luận đơn giản và khá chính xác của J. M. Keynes, theo đó một khoản tiêu xài có tác dụng làm tổng sản lượng nội địa (GDP) tăng lên một số lượng nhiều lần lớn hơn; như thế nên kích thích tiêu xài để có tăng trưởng. Lý luận đó cần được trình bày ít nhất một cách sơ lược để chứng tỏ rằng Keynes không sai nhưng chủ nghĩa thực tiễn đã vận dụng sai lý thuyết của ông. Hãy giả thử một số tiền D được bơm vào sinh hoạt kinh tế qua một khoản tiêu xài, thí dụ như để thực hiện một dự án. Khoản tiền này đến tay một số người bán và họ sẽ chi ra một số tiền trị giá Dc (D nhân với c, viết tắt là Dc) nếu c là thiên hướng tiêu thụ (propensity to consume), nghĩa là tỷ lệ trung bình trong xã hội giữa số tiền tiêu ra và số tiền nhận được. Một cách đơn giản nếu một người mỗi khi nhận được 100 đồng tiêu ra 90 đồng thì thiên hướng tiêu thụ của người đó là 0,9 hay 90%, chỉ khác một điều là ở đây c là thiên hướng tiêu thụ trung bình trong xã hội. Như vậy, sau khi khoản tiêu xài D được tung ra, đợt tiêu xài thứ nhất sẽ lại đưa một số tiền Dc vào tay những người cung cấp hàng hóa hay dich vụ mới. Ðến lượt nó, số tiền Dc này khiến những người vừa có tiền tạo ra một đợt tiêu xài thứ hai Dcc hay Dc². Các đợt tiêu xài cứ kế tiếp nhau như thế, mỗi đợt cộng thêm môt số chi tiêu mới, hậu quả sau cùng của khoản chi tiêu D ban đầu là tạo ra một tổng số mua bán, tức gia tăng GDP, là D’ với trị giá D’ = D / (1-c). D’chắc chắn là lớn hơn D và càng lớn nếu thiên hướng tiêu xài của xã hội càng cao. Thí dụ nếu c = 0,9 (nghĩa là xã hội tiêu xài trung bình 90% thu nhập nhận được) thì D’ = 10D, nghĩa là một chi tiêu mới có tác dụng tạo ra một gia tăng GDP lớn gấp 10 lần. Mỗi đồng mới được đưa vào sinh hoạt kinh tế làm GDP tăng thêm 10 đồng. Keynes gọi kết quả này là hiệu ứng nhân. Sở dĩ tôi phải hơi dài dòng trình bày lý luận của Keynes như trên, làm phiền lòng những người đã biết hoặc không cần biết lý luận của Keynes, là để độc giả làm chứng hai điều: Một là, trong suốt tiến trình tiêu xài qua các đợt, không hề có vấn đề trị giá đồng tiền thay đổi hay thiên hướng tiêu thụ thay đổi; như thế phải hiểu rằng Keynes chỉ lý luận trên một khối lượng chi tiêu mới tương đối nhỏ để không làm thay đổi trị giá đồng tiền và tập quán tiêu xài. Nói cách khác lý luận của Keynes không áp dụng cho một chính sách lớn trên qui mô quốc gia. Hai là, quan trọng hơn, lý luận của Keynes giả thử rằng toàn bộ các đợt tiêu xài không ra khỏi biên giới quốc gia; nếu số tiền tiêu xài được dùng để mua hàng nhập khẩu, hay để đi du lịch, thì nó sẽ chủ yếu đóng góp tăng trưởng kinh tế của một nước khác. Lý luận của Keynes không còn đúng trong một bối cảnh có trao đổi thương mại quốc tế, chưa nói trong bối cảnh toàn cầu hóa. Như vậy đặc tính đầu tiên của chủ trương kích thích tăng trưởng bằng tiêu thụ, cốt lõi của chủ nghĩa thực tiễn trong kinh tế, là sai. Ðó là sự áp dụng sai bối cảnh của lý luận Keynes. Ðặc tính thứ hai là nó tự nhiên dẫn tới thâm thủng mậu dịch và nợ công do tác dụng phối hợp với chính sách đối ngoại thực tiễn.Lý do là vì gia tăng tiêu thụ tự nhiên làm giá cả tăng lên kéo theo lạm phát, và tăng trưởng vì thế bị sút giảm. Phương pháp thực tiễn nhất là thay thế hàng nôi địa bằng hàng Trung Quốc rẻ hơn nhiều, vì nhân công rất thấp lại không tốn kém cho an sinh xã hội và môi trường. Các nhà máy được di chuyển dần dần sang các nước đang phát triển, số mặt hàng nhập khẩu ngày càng nhiều. Sản xuất giảm khiến nguồn thuế thu vào cũng giảm, trong khi chính quyền một mặt không ngừng tung ra những chi tiêu công cộng (để kích thích tiêu thụ), mặt khác phải gia tăng hoặc duy trì ngân sách xã hội bởi vì chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể biện minh bằng lợi ích kinh tế. Ðặc tính kinh tế quan trọng thứ ba của chủ nghĩa thực tiễn là thả lỏng đầu cơ tài chính. Clinton nới lỏng dần dần sự kiểm soát đối với các sản phẩm đầu cơ tài chính. Năm 2000, trước khi từ chức, ông vận động quốc hội biểu quyết một đạo luật chấm dứt mọi kiểm soát trên các dụng cụ đầu cơ tài chính với sự yểm trợ của Alan Greenspan. Các sản phẩm đầu cơ tài chính được hoàn toàn thả lỏng. Chúng không có ích gì cho hoạt động “kinh tế thực” mà còn có hại – Warren Buffet gọi chúng là những vũ khí giết người hàng loạt – nhưng chúng cần cho chính sách kinh tế thực tiễn vì chúng mang lại thuế và chúng làm gia tăng nguồn tài trợ tín dụng nhà đất, do đó kích thích ngành xây dựng, một trong những ngành hiếm hoi không thể di chuyển ra nước ngoài, hơn nữa lại sử dụng nhiều công nhân và kích thích nhiều ngành khác. Vào cuối năm 2007, khi cuộc khủng hoảng sắp bùng nổ, nhiều ước lượng cho thấy 95% khối lượng tiền tệ lưu hành là thuần túy đầu cơ không liên hệ gì tới kinh tế thực, nghĩa là sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Nhưng chắc chắn giá nhà đất không thể tăng mãi mãi để người ta có thể tiếp tục đầu cơ nhà đất. Phải có một lúc mà giá nhà trở thành quá cao và thu nhập của một số đông người không còn đủ để cho phép họ trả nợ hàng tháng nữa. Lúc đó cỗ máy đầu cơ sẽ kẹt, quả bong bóng nhà đất sẽ bể. Ðó là năm 2008, khi ngân hàng Lehman Brothers phá sản. Nhiều người tự hỏi phải chăng có một quan hệ mật thiết giữa dân chủ và nợ công. Mọi người đều thấy là các chính quyền dân chủ nợ chồng chất trong khi các chế độ độc tài rất ít mắc nợ và trong một số trương hợp còn có tiền cho vay. Những gì vừa nói ở trên cho phép chúng ta giải đáp rằng dân chủ không tự động đưa tới nợ công, cái đưa tới nợ công là chủ nghĩa thực tiễn trong một nước dân chủ phát triển. Trong hai mươi năm ngự trị, chủ nghĩa thực tiễn đã dần dần tạo ra một tình trạng ngược đời, trong đó các nước giàu lại phải đi vay các nước nghèo. Một trong những tác dụng của nó là di chuyển một phần đáng kể tài sản của các nước giàu sang các nước nghèo. Ðây đáng lẽ phải được coi là một điều tốt. Tiếc thay, thực tế đã không phải như vậy. Của cải từ các nước giàu đã không vào tay quần chúng mà vào một nhóm nhỏ những người có danh phận, và những người này còn bóc lột đồng bào họ dã man hơn cả người ngoại quốc. Chưa chắc là đời sống quần chúng ở Trung Quốc đã khá hơn ngày xưa. Chắc chắn là họ không còn phải ăn đói nhưng họ có sung sướng hơn trước hay không còn là một vấn đề phải bàn cãi. Họ không còn nước sạch để uống và không khí sạch để thở, họ đang khám phá ra rằng những thứ này còn cần hơn cơm. Và họ phải sống lầm lũi tủi nhục hàng ngày bên cạnh những kẻ phô trương sự giàu sang. Lợi tức trung bình trên mỗi đầu người của Trung Quốc là 500 USD mỗi tháng, nhưng một người Trung Quốc bình thường sẽ rất may mắn nếu kiếm được 200 USD mỗi tháng để nuôi vợ con. Ðiều chắc chắc là Trung Quốc hiện nay là khách hàng lớn nhất của những xa xỉ phẩm. Chủ nghĩa thực tiễn đã là một thảm kích cho các dân tộc dưới ách độc tài. Các tập đoàn cầm quyền bạo ngược được mặc sức đàn áp những tiếng nói chống đối, tha hồ bóc lột công nhân và bất chấp môi trường để sản xuất thật nhiều với giá thật rẻ và xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Châu Âu. Ðó là logic của chủ nghĩa thực tiễn đã ngự trị trong chính sách của các nước dân chủ trong hơn hai mươi năm qua. Người ta hy sinh các giá trị đạo đức và nhân quyền, bỏ mặc hàng tỷ người dưới những ách thống trị dã man nhân danh kinh tế. Nhưng cuối cùng chủ nghĩa thực tiễn đã chỉ đem đến cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất, dài nhất và trầm trọng nhất trong lịch sử thế giới. Ðiều an ủi là thế giới đã thức tỉnh và chủ nghĩa thực tiễn đang bị chôn vùi, có thể sẽ bị vĩnh viễn chôn vùi. Các lý thuyết gia của nó đã im bặt vì không còn gì để nói. Chính trị tìm lại được thế giá, kinh tế tìm lại được sự nghiêm chỉnh. Từ cuộc khủng hoảng này sẽ xuất hiện một trật tự thế giới mới đặt nền tảng trên những giá trị phải có cho một thế giới hòa bình và hợp tác, trật tự dân chủ. Và cùng với chủ nghĩa thực tiễn, các chế độ độc tài cũng sẽ bị dứt khoát đào thải vì không còn dưỡng khí. Một lời sau cùng: một làn sóng dân chủ mới đang dâng lên và rất nhiều dân tộc sắp vĩnh viễn trút bỏ được ách độc tài. Liệu chúng ta có ở trong số những dân tộc may mắn này không? Câu hỏi đáng lẽ không thể có, nó chỉ được đặt ra vì một lý do: trí thức Việt Nam quá thực tiễn. Như phần trên đã nói, thái độ thực tiễn trong chính trị chỉ là thái độ nhu nhược; trên mặt cá nhân nó là thái độ cúi đầu thay vì đối đầu. Thái độ thực tiễn khiến chúng ta không dám dứt khoát chống lại chế độ trong khi cuộc cách mạng nào cũng đòi hỏi những hy sinh, thậm chí một chút lãng mạn. Chúng ta thừa hưởng chủ nghĩa thực tiễn từ ông cha. Tất cả các triều đại của chúng ta đều chỉ là những chế độ hà hiếp, nhưng những kẻ sĩ đã chọn làm công cụ cho các bạo quyền để ức hiếp dân chúng thay vì đứng về phía dân chúng. Ðó là di sản lịch sử và văn hóa của chúng ta. Nhân danh lẽ phải để chống lại một bạo quyền không thuộc truyền thống của chúng ta. Đấu tranh cho dân chủ vì vậy đòi hỏi một vượt thoát lớn. Ðó là một khó khăn nhưng đồng thời cũng là một niềm tự hào. © Nguyễn Gia Kiểng Paris, 2012 nguồn:
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:09:55 GMT 9
“Chủ nghĩa thực tiễn” và trường hợp ông Nguyễn Gia Kiểng Nhân đọc bài “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của tác giả Nguyễn Gia Kiểng, xin có vài dòng ý kiến dưới góc nhìn của một bạn đọc. Cũng xin được hiểu bài viết của ông dưới góc độ triết lý và chính trị, vì ông Nguyễn Gia Kiểng dường như là một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, chứ không phải là một người viết bình thường. Sau khi tìm hiểu chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Sanders Charles Peirce. Có lẽ đây là lần đầu tiên, người viết bài này được biết thêm một chủ nghĩa mới – Chủ nghĩa thực tiễn – Một phát minh (hay là một phát hiện) của ông Nguyễn Gia Kiểng. Trước hết, thế nào là một chủ nghĩa? “Chủ nghĩa” là tập hợp những nguyên tắc lý luận về nhận thức, tư tưởng. Nó tạo nên một hệ thống lý thuyết nhằm định hướng một cách có ý thức cho hoạt động của con người. Vấn đề thực tiễn là gì? Thực tiễn là một phạm trù. Nó phản ánh quá khứ và hiện tại, hoàn toàn phụ thuộc vào những gì đã và đang diễn ra trong cuộc sống. Thực tiễn giống như một tấm gương phản chiếu mọi sự vật. Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhận thức. Nó giúp con người nhân thức được những gì tốt và xấu, thuận và nghịch đang diễn ra. Từ đó người ta rút ra được những kinh nghiệm cho các hoạt động sống trong tương lai. Vì vậy thực tiễn không phải là bản chất, nó chỉ là hiện tượng nhằm phản ánh thực tế của cuộc sống. Ông Nguyễn Gia Kiểng là một con người sáng tạo. Không ít người đã từng “toát mồ hôi hột” khi đọc tựa đề bài viết “Tổ Quốc Ăn Năn” của ông, vì người ta không hiểu được, “tổ quốc” chỉ là một khái niệm, tại sao khái niệm lại biết…ăn năn? Trong bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” Ông lại sáng tạo ra một chủ nghĩa mới, đó là “chủ nghĩa thực tiễn”. Theo quan điểm riêng, trên thực tế không thể có “chủ nghĩa thực tiễn”, vì nó không có những yếu tố cần và đủ để có thể cấu thành một chủ nghĩa như đã dẫn ở trên. Hoạt động sống không thể thiếu sự sáng tạo. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và tiến bộ là điều luôn xảy ra. Việc xúc tiến để biến đổi xã hội Việt Nam hiện nay từ chế độ Độc Tài độc đảng sang chế độ Đa Nguyên Dân Chủ là một công việc tất yếu. Đó thực sự là một cuộc cách mạng. Muốn có cách mạng thì phải có lý luận cách mạng, đó cũng là điều tối quan trọng và cần thiết. Thế nhưng lý luận đó sẽ như thế nào? Có phù hợp với văn hóa, lối sống, nếp nghĩ của người dân (đại chúng) hay không, có sáng tạo hay không? Đó là điều cần quan tâm hàng đầu. Nhưng không vì vậy mà ta cứ sáng tạo (ra lý luận) một cách tùy ý, thậm chí là… tùy tiện! Trong bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông đã viện dẫn ra câu chuyện “quỹ đạo của chó”. Đây là một câu chuyện lại không có (hoặc rất ít)… thực tế! Chó là một loài vật được người thuần dưỡng từ rất sớm, có lẽ là từ buổi bình minh của loài người. Loại trừ chó hoang dạng Dingo, chó Sói (ít khi săn những con mồi nhỏ như Thỏ), một số ít chú Chó dùng cho việc đi săn của người cũng chỉ được giao nhiệm vụ đánh hơi, theo dõi phát hiện con mồi mà thôi. Vì vậy kỹ năng săn mồi của Chó (nhà) hiện nay là rất kém. Về tư duy (!), Chó chỉ là bậc con cháu so với loài Cáo. Cáo là một loài thông minh, nó biết cách giả chết khi cần (thậm chí một số họ nhà Cáo có thể tiết ra mùi của xác chết), nó biết cách rình mồi, bí mật tiếp cận và tung đòn tấn công chớp nhoáng (chưa kể đến tốc độ chạy của Cáo cũng thuộc loại đáng nể). Vì vậy, trong hầu hết các cuộc đối đầu với Cáo, Thỏ đều chịu thúc thủ. Con Cáo chẳng cần dùng chiến thuật “hò hẹn với tương lai” (lại một sáng tạo về ngôn ngữ) như ông Nguyễn Gia Kiểng đã trình bày. Cáo có chiến thuật khác – Chiến thuật thông minh – Hay ngày nay như người ta thường nói, dùng “sức mạnh thông minh” (học thuyết của Gioseph Nye), có thể tạm ví như vậy. Có lẽ câu chuyện “quỹ đạo của chó” nên viết thành “sức mạnh thông minh của Cáo” thì tính thuyết phục sẽ cao hơn? Nhận xét của ông Nguyễn Gia Kiểng về ông Obama. Người viết bài này hoàn toàn tôn trọng ý kiến cá nhân của ông. Theo ý hiểu riêng, chắc ông Kiểng cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ vấn đề “chủ nghĩa thực tiễn” của ông, để áp dụng (hay là giải thích sự chậm trễ) vấn đề “dân chủ đa nguyên” ở Việt Nam mà thôi. Tổng thống Obama nhậm chức trong lúc cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu đang lên. Ông Obama (cùng bộ máy của ông) giữ được sự cân bằng của nền kinh tế Mỹ, đã là một thắng lợi. “Nước Mỹ và chính quyền Obama cần phải tỉnh táo để không áp dụng những sai lầm của chủ nghĩa hiện thực giáo điều cho các quyết sách kinh tế và ngoại giao của mình”. Đó là phát biểu của Paul Wolfowitz- Một nhà đối ngoại hàng đầu dưới thời tổng thống George Bush. Với phương châm “không can thiệp vào nội bộ các nước khác”. Người Mỹ chủ trương “xử lý mối quan hệ giữa các nước với nhau” hơn là “trực tiếp làm thay đổi bản chất của một chế độ nào đó”. Họ không chủ trương “áp đặt giá trị của nền văn minh Mỹ lên một nước khác”. Chính vì vậy, mọi tư tưởng “há miệng chờ sung” của ai đó, mong người Mỹ dọn cỗ sẵn sàng, để mình chỉ việc ngồi vào ăn, là một việc làm hoàn toàn thụ động và sai lầm. Người Mỹ, tổng thống Obama, hay một vị tổng thống tiền nhiệm nào của ông có thể mắc sai lầm. Điều đó cũng dễ hiểu vì họ cũng là những con người bằng xương bằng thịt mà thôi. Hơn bao giờ hết, người Mỹ (cụ thể là bất kỳ vị tổng thống nào của họ) đều phải ưu tiên đặt lợi ích của nước Mỹ lên hàng đầu, nếu các vị tổng thống này muốn nhận được sự ủng hộ từ các cử tri của mình… Phong trào dân chủ ở một nước nhỏ (như Việt Nam) chỉ nên trông chờ vào các nước lớn bởi sức ép chính trị (hợp lý và hợp pháp) của họ trên các diễn đàn quốc tế. Chính nhờ điều này, hiện nay các nước độc tài trên thế giới ít nhiều đều có những sự “chuyển động” nào đó. Nhưng những thay đổi ấy vẫn chưa đáp ứng được với mong mỏi của nhân dân (đặc biệt là đối với những nhà chính trị như ông Nguyễn Gia Kiểng). Cho nên chúng ta có thể hiểu được (phần nào) những chỉ trích của ông Kiểng đã dành cho tổng thống Obama… Tựu chung lại, người viết bài này không có ý công kích ông Nguyễn Gia Kiểng. Chỉ xin bày tỏ quan điểm và suy nghĩ riêng của mình về bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của ông. Cùng một vài nhận xét chủ quan trong phạm vi vốn kiến thức còn nhiều khiêm tốn của mình. Thiết nghĩ, người dân Việt trong nước đang cần những điều thiết thực bằng hành động của bà con người Việt hải ngoại, cụ thể: Tạo áp lực lên chính phủ các quốc gia mà mình đang cư trú, yêu cầu họ có tiếng nói lên án chế độ độc tài thiếu dân chủ ở Việt Nam. Đòi nhà nước Việt Nam tôn trọng các cam kết của họ về việc thực thi nhân quyền (được thể hiện trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyên), bảo đảm các quyền tự do về dân sự, tự do về chính trị cho người dân. Giúp đỡ tiền bạc, phương tiện cho các cá nhân và tổ chức đấu tranh (chủ yếu là trong nước), nhằm phá thế bao vây kinh tế của chế độ độc tài. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh giành quyền tự do Internet, nhằm gỡ bỏ “bức màn sắt thông tin” (lời của bà Hillary Clinton) đang bao trùm lên xã hội Việt Nam. Qua đó cải thiện kiến thức nhân quyền cho nhân dân trong nước. Nhưng không phải bằng những sản phẩm văn hóa lạc lõng, các bài viết nặng tính giáo điều. Vì chính những tư tưởng chính trị sai lạc, mơ hồ, sẽ đem lai một cuộc cách mạng mất định hướng. Điều này chắc chắn những nhà chính trị như ông Nguyễn Gia Kiểng, là những người biết rõ hơn ai hết. Lê Nguyên Hồng
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:11:53 GMT 9
Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama Không cần phải là người Mỹ để quan tâm đến các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tôi đã là một trong hàng tỷ người trên thế giới theo dõi cuộc tranh cử năm 2008. Tôi lưỡng lự giữa Obama mà tôi tự nhiên thấy có cảm tình và McCaine mà tôi quý trọng từ lâu về nhân cách. Chọn lựa của tôi lệch về Obama sau khi bà Sarah Pallin được chọn làm ứng cử viên phó tổng thống cho McCain và tôi đã là một trong hàng tỷ người hân hoan theo dõi lễ nhậm chức của Obama trên truyền hình. Trong lịch sử nước Mỹ có lẽ ngoại trừ George Washington chưa có vị tổng thống Mỹ nào được hoan nghênh khi đắc cử bằng Obama. Nhưng rồi Obama trở thành một trong những tổng thống Mỹ ít được tín nhiệm nhất sau một năm cầm quyền. Ronald Reagan trước đây cũng đã từng xuống thấp trong tỷ lệ tín nhiệm sau một năm tại chức như Obama, nhưng sau đó đã lên dốc được và trở thành một trong những tổng thống Mỹ được ái mộ nhất vì ông quả quyết theo đuổi một chính sách và chính sách đó -quyết tâm đánh gục lạm phát và chủ nghĩa cộng sản- dần dần chứng tỏ là đúng và đã thành công. Obama thì khác, ông khó có thể đảo ngược được tình thế bởi vì không thể chờ đợi kết quả của một hò hẹn nào với tương lai cả, ông là một con người thực tiễn. Thất vọng đầu tiên của tôi đối với Obama đến ngay trong khi nghe ông đọc bài diễn văn nhậm chức. Obama nói đại khái: “Với những chế độ độc tài bám lấy quyền lực bằng mọi giá và bịt miệng đối lập chúng tôi nói quí vị đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu quí vị chìa bàn tay ra chúng tôi cũng sẽ nắm lấy“. Diễn nghĩa: quí vị cứ tiếp tục vi phạm nhân quyền cũng không sao miễn là đừng thù địch với chúng tôi. Câu nói ngắn ngủi này diễn tả một cách bóng bẩy chủ thuyết đối ngoại thực tiễn của Obama. Ông đã trình bày một cách tỉ mỉ hơn trong bài diễn văn tại Cairo ngày 4-6-2009. Hôm đó đúng là ngày kỷ niệm 20 năm cuộc thảm sát Thiên An Môn nhưng Obama đã không có một lời nào cho biến cố này, hơn thế nữa trong phần nói về dân chủ Obama đã làm một triệt thoái lớn trong khái niệm dân chủ: ông định nghĩa dân chủ một cách mơ hồ là chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của người dân. Nhưng đây chỉ là định nghĩa của dân chủ sơ đẳng nhất, không hề làm phiền các chế độ độc tài vì chúng đều tự xưng là thể hiện trung thành ý chí của nhân dân. Đây là dân chủ ở mức độ zero. Hình như nghĩ rằng nói như thế vẫn chưa đủ để làm vừa lòng các chế độ độc tài, Obama còn nói thêm rằng không một dân tộc nào có quyền quyết định chế độ nào là phù hợp nhất cho một dân tộc khác. So much for democracy. Quý vị nào muốn có thể đọc bài nhận định của tôi về ông Obama sau bài diễn văn này. Chủ nghĩa thực tiễn của Obama có thể tóm tắt như sau: thôi nhấn mạnh về dân chủ và nhân quyền trong quan hệ đối ngoại, thoả hiệp thay vì đương đầu với các chế độ hung bạo, tương đối hoá các giá trị và các văn hoá, tránh can thiệp khi quyền lợi của Hoa Kỳ không trực tiếp bị đe doạ. Trong chuyến công du châu Á vừa qua, gồm cả Trung Quốc, Obama đã hầu như không đề cập đến vấn đề dân chủ và nhân quyền. Obama mất dần uy tín bởi vì chính sách thực tiễn của ông đã thất bại. Iran đã bạo tay hơn trong việc đàn áp các cuộc biểu tình chống bầu cử gian lận và cũng mạnh dạn hơn trong việc chuẩn bị chế tạo bom nguyên tử, tương tự như Bắc Triều Tiên. Các chế độ độc tài tại Venezuella, Cuba, Sudan còn hung hăng hơn. Tình hình Trung Đông bế tắc vì cả Do Thái lẫn các lực lượng khủng bố Hồi Giáo Hizbollah và Hamas đều leo thang trong sự quá khích. Trung Quốc, Việt Nam và Miến Điện gia tăng đàn áp một cách thô bạo đối với những người dân chủ. Trung Quốc và Việt Nam còn công khai hành xử như bọn tin tặc, đánh phá các website của đối lập, bất chấp luật pháp quốc tế, thách thức cả thế giới. Chắc chắn họ không làm như vậy với một tổng thống Mỹ khác. Thái độ của Trung Quốc đặc biệt đáng lưu ý. Trung Quốc làm ngơ trước đòi hỏi tăng hối suất đồng Nhân Dân Tệ, phá đám và làm thất bại hội nghị quốc tế về khí hậu tại Copenhagen, có lúc một thành viên phái đoàn Trung Quốc còn la ó phản đối trong khi Obama đọc diễn văn. Các chế độ bạo ngược đều muốn gia tăng sự bạo ngược vì đó là bản chất của họ; với Obama họ tha hồ làm tới vì được bảo đảm là sẽ không gặp khó khăn. Trong chính sách đối ngoại chủ nghĩa thực tiễn là điều mà ngay cả nếu bất đắc dĩ phải áp dụng cũng không nên nói ra như Obama. Obama cũng áp dụng chủ nghĩa thực tiễn trong chính sách đối nội. Dự luật cải tổ y tế của ông sau quá nhiều nhượng bộ và thoả hiệp đã mất dần ý nghĩa; nó hầu như không đả động đến vấn đề cốt lõi của nền y tế Mỹ là giá điều trị quá đắt để chỉ tập trung vào một vấn đề ít quan trọng hơn là mở rộng bảo đảm chăm sóc. Trước sự suy sụp của cảm tình và uy tín dành cho ông, Obama đã bắt đầu thay đổi thái độ. Ông đã tỏ ra cứng rắn hơn đối với Iran và Trung Quốc, các quan chức Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng tố giác các chính quyền độc tài. Obama có nhiều lợi thế hơn để bênh vực nhân quyền, so với Bush 43 chẳng hạn, vì con người truyền thông của ông và vì mọi người đều tin ông là một con người ôn hoà chừng mực, nhưng ông có một trở ngại lớn: chính ông. Obama là con người thực tiễn, và chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể thất bại. * Nhưng chủ nghĩa thực tiễn là gì? Trước hết không nên lẫn lộn chủ nghĩa thực tiễn (realism) với hai triết lý về đạo đức: chủ nghĩa phúc lợi (utilitarianism) và chủ nghĩa thực dụng (pragmatism). Chủ nghĩa phúc lợi là một phương pháp đánh giá hành động, đặc biệt là hành động chính trị, theo tiêu chuẩn hành động đúng là hành động đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người; chính vì thế mà chủ nghĩa phúc lợi được coi là một nền tảng của dân chủ; những người khai sáng ra chủ nghĩa này (Bentham và Stuart Mill) cũng là những người đấu tranh nhiệt tình cho dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa thực dụng là một phương pháp đánh giá các lý thuyết, theo đó một lý thuyết chỉ đáng để ta quan tâm và học hỏi nếu sự kiện nó đúng hay sai có ảnh hưởng cụ thể trong đời sống, còn nếu không nó chỉ là một lý thuyết suông không đáng để ta mất thì giờ. Chủ nghĩa thực tiễn không phải là một triết lý, dù là triết lý tri thức hay là triết lý hành động, nó là một thái độ hướng dẫn chọn lựa, theo đó mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và nguyên tắc thì quyền lợi phải được dành ưu tiên, trái tim phải phục tùng cái đầu, tình cảm phải nhường chỗ cho lý trí. Obama thực tiễn cho nên dù ông có cho rằng các chế độc độc tài là sai ông cũng sẵn sàng bắt tay như ông đã nói trong bài diễn văn nhậm chức của ông, hay như khi ông định nghĩa dân chủ một cách chung chung và khẳng định rằng không một quốc gia nào có quyền quyết định thế nào là một chế độ đúng cho một nước khác để khỏi bị sự chống đối của các chế độ độc tài. Đặng Tiểu Bình cũng phát biểu chủ nghĩa thực tiễn khi ông nói “mèo trắng mèo đen mèo nào cũng được miễn là bắt chuột”. Bản chất của một chế độ không có tầm quan trọng nào trong chính sách đối ngoại của một chính quyền thực tiễn, điều quan trọng là lợi và hại. * Các chính trị gia thực tiễn không bao giờ nhìn nhận là chủ nghĩa thực tiễn đồng nghĩa với sự mềm yếu. Họ có thể viện dẫn trường hợp nhiều nhân vật rất quả quyết từng được coi, có khi tự coi, là thực tiễn. Barry Goldwater, Richard Nixon và Ronald Reagan đã được coi là những chính trị gia Mỹ thực tiễn. Với một bản chất khác hẳn, Lenin, Stalin và Đặng Tiểu Bình cũng là những con người rất thực tiễn. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn thì sự thực có thể khác. Năm 1964 nghị sĩ Barry Goldwater tranh cử với tổng thống Johnson trên một lập trường mà ông cho là thực tiễn và có thể tóm tắt như sau: hy vọng thoả hiệp với cộng sản chỉ là hão huyền, cộng sản chỉ hiểu ngôn ngữ của sức mạnh vì thế thái độ thực tiễn nhất đối với họ là phải tỏ ra sẵn sàng dùng sức mạnh, phải sẵn sàng tăng cường quân lực tại Việt Nam, sẵn sàng đánh Cuba, Trung Quốc và cả Liên Xô nếu cần. Thực ra Goldwater không phải là một người thực tiễn. Ở vào giữa thập niên 1960, cao điểm của phong trào phản chiến và chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy một lập trường như thế là chuốc lấy thảm bại, và quả nhiên Goldwater đã thua rất xa Johnson trong cuộc tranh cử tổng thống. Goldwater đã lấy thái độ diều hâu như thế, dù biết sẽ thất cử, chỉ để chặn đứng khuynh hướng chủ bại. Ông là một người lý tưởng. Reagan có lúc cũng đã bị đánh giá là thực tiễn một cách sơ đẳng như Goldwater nhưng đã chứng tỏ là một tổng thống lỗi lạc, có lý tưởng, bản lãnh và tầm nhìn. Chỉ có Nixon quả thực là con người thực tiễn. Người Mỹ không còn chấp nhận những hy sinh tại Việt Nam? Vậy thì phải Việt Nam hoá chiến tranh và chuẩn bị triệt thoái. Khối cộng sản có dấu hiệu chia rẽ? Vậy hãy bắt tay với Mao để tách hẳn Trung Quốc và Liên Xô mà không cần thắc mắc về bản chất tội ác của chế độ Trung Cộng. Đặc tính thực sự của chủ nghĩa thực tiễn là sự mưu tìm hiệu quả một cách giản dị trong lý luận và hành động ngay cả nếu phải hy sinh hoặc gác lại các nguyên tắc nền tảng. Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đều đã hành động giản dị như thế, và vì họ không bị ràng buộc bởi một luật pháp nào nên họ đã không dừng tay trước tội ác. Trong trường hợp các nước dân chủ, mà bản chất là muốn giải quyết mọi vấn đề trước hết bằng đường lối hoà bình, chính do sự giản dị của nó mà chủ nghĩa thực tiễn dẫn đến sự nhu nhược một cách khá tự nhiên. Lý do là vì đối đầu luôn luôn là một chọn lựa khó khăn, đòi hỏi sự quyết tâm mà những người thực tiễn thường không có. Hơn nữa đối đầu bao giờ cũng bao hàm một thiệt hại nào đó lúc ban đầu cho nên không được coi là khôn ngoan, nhất là khi quyền lợi quốc gia không bị trực tiếp đe doạ, vì thế những người lãnh đạo thực tiễn thường hay chọn giải pháp nhân nhượng và thoả hiệp, ngay cả khi những giá trị nền tảng bị vi phạm. Chủ nghĩa thực tiễn thường được hưởng một lợi thế về ngôn ngữ. Người ta thường có khuynh hướng coi thực tiễn là thái độ đúng và có lợi, ngược lại với thực tiễn là viển vông và vô ích. Nhưng đây chỉ là một sự hiểu lầm. Không cần phải là một người thực tiễn, bất cứ ai cũng đều hành động nhắm lợi ích. Ngay cả những nhà tu hành cũng chỉ chọn cuộc sống tu hành vì nghĩ đó là cách sống có lợi nhất, hoặc vì nó mở cửa thiên đường cho cuộc sống vĩnh cửu sau này, hoặc vì cho rằng đó mới là hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc đời này. Tất cả vấn đề chỉ là quan niệm thế nào là quyền lợi, quyền lợi thực sự hay quyền lợi biểu kiến, quyền lợi lâu dài hay quyền lợi ngắn hạn. Chủ nghĩa thực tiễn dựa trên thực tại trước mắt và coi nhẹ các nguyên tắc và giá trị nền tảng nên thường chỉ là quyền lợi ngắn hạn. Các nguyên tắc và các giá trị nền tảng là gì nếu không phải là những điều mà trí tuệ và kinh nghiệm cho thấy là nên tuân thủ vì phúc lợi lâu dài? * Một đặc tính của chủ nghĩa thực tiễn là nó không phù hợp với thực tế. Nó luôn luôn nhắm tiến thẳng tới mục tiêu bằng giải pháp trực tiếp nhất và vì thế luôn luôn bị hụt hẫng. Thực tại không ngừng thay đổi cho nên những người thực tiễn phải vất vả chạy theo nó và có mọi triển vọng là sau khi đã tốn nhiều thì giờ và cố gắng người ta nhận ra rằng thực tại đã thay đổi đến độ mà mục tiêu theo đuổi đã mất ý nghĩa. Làm chính trị là hò hẹn với tương lai cho nên khả năng quan trọng nhất là tiên liệu cái gì sẽ xảy ra, các vấn đề hiện nay sẽ đặt ra như thế nào trong tương lai, các vấn đề nào sẽ không còn đặt ra nữa và các vấn đề mới nào sẽ xuất hiện. Người làm chính trị phải có viễn kiến. Chủ nghĩa thực tiễn thực ra chỉ tố giác sự thiếu viễn kiến. Các trường đại học, và các cố gắng trau dồi văn hoá nói chung, không nhắm mục đích nào khác ngoài việc cho chúng ta khả năng nhìn xa trông rộng, nói cách khác là giải phóng chúng ta khỏi phản xạ thực tiễn. Một đặc tính khác cần được lưu ý của chủ nghĩa thực tiễn mà có lẽ Obama không thấy là nó luôn luôn sai trong chính sách đối ngoại. Nó bỏ qua quan tâm ý thức hệ để chỉ đặt chính sách đối ngoại trên nền tảng quyền lợi mà không biết rằng ý thức hệ, nghĩa là bản chất của chế độ, bao giờ cũng quyết định chính sách ngoại giao và các đồng minh của một quốc gia. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Dù Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây có ve vãn đến đâu đi nữa thì các chế độ độc tài Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Sudan, Miến Điện, Iran… vẫn coi họ là thù địch, và dù trong thâm tâm các chế độ độc tài có khinh bỉ nhau thế nào đi nữa chúng vẫn là đồng minh. Câu nói “buột miệng” của ông Nguyễn Minh Triết (theo đó ông tìm cách “phân hoá” nước Mỹ) là một bằng cớ. Mỹ và các nước dân chủ nói chung cần rút kinh nghiệm trên hai trường hợp mà chủ nghĩa thực tiễn đã được thể hiện. Trong hơn ba thập qua họ đã hợp tác với Trung Quốc mà không đặt vấn đề bản chất của chế độ, ngay cả sau cuộc thảm sát Thiên An Môn, có lẽ với hy vọng là tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ dần dần đem đến dân chủ (cứ như là độc tài là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân của sự nghèo khổ). Thực tế đã không như vậy, nhờ giao thương với các nước dân chủ, đặc biệt là Hoa Kỳ, Trung Quốc đã mạnh hơn nhiều nhưng vẫn là một chế độ bạo ngược và còn yểm trợ cho nhiều chế độ hung bạo khác. Đôi khi Trung Quốc còn được viện dẫn như là một bằng cớ về sự đúng đắn của chủ thuyết tăng trưởng kinh tế bất chấp nhân quyền. Sức mạnh kinh tế đã chỉ khiến Trung Quốc tự tin hơn trong thái độ thách thức và đang trở thành một lo âu cho thế giới. Một bài học khác là Pakistan. Tại đây, một cách thực tiễn, Hoa Kỳ đã ủng hộ chế độ quân phiệt của tướng Pervez Musharraf sau khi ông này đảo chính lật đổ chính quyền dân cử cuối năm 1999 và coi ông này như một đồng minh đắc lực trong cuộc chiến tranh chống khủng bố. Thực tế đã ngược hẳn với sự mong đợi, chính Musharraf đã giúp quân khủng bố Taliban hồi sinh; Hoa Kỳ đã chỉ tỉnh mộng một cách muộn màng. Bản chất của những tập đoàn độc tài là gian trá. Phải nói rõ để tránh mọi hiểu lầm: ngày nay ít ai còn đòi hỏi cô lập và trừng phạt các chế độ độc tài, các biện pháp này chỉ đánh vào nạn nhân thay vì thủ phạm. Nhưng ít nhất cũng phải gây áp lực và gắn bó hợp tác với những tiến bộ về nhân quyền bởi vì đó vừa là đạo đức quốc tế được qui định trong hiến chương Liên Hiệp Quốc vừa là điều kiện để có những đối tác đáng tin cậy. Coi nhẹ các giá trị dân chủ và nhân quyền còn là một sai lầm lớn nếu hoà bình là điều cần được trân quý nhất. Trong lịch sử thế giới các cuộc chiến đã chỉ xảy ra hoặc giữa các nước độc tài với nhau hoặc giữa một nước độc tài và một nước dân chủ. Chưa có trường hợp hai nước dân chủ chiến tranh với nhau. Dân chủ và nhân quyền là nền tảng của hoà bình. Chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể đem lại thất vọng bởi vì trong chiều sâu nó là một sự từ nhiệm. Dân chúng chờ đợi ở những người lãnh đạo khả năng, viễn kiến và đởm lược để lấy những quyết định khó khăn có thể khó hiểu và nhức nhối lúc ban đầu chứ không phải để lấy những quyết định hiển nhiên, dễ dãi. Người dân đòi hỏi người lãnh đạo phải đi trước họ, họ bầu ra người lãnh đạo để nếu cần áp đặt những cố gắng và hy sinh cần thiết chứ không phải để chạy theo họ. Vả lại nếu không có viễn kiến và lý tưởng thì bước vào trường chính trị để làm gì? Các chính trị gia thực tiễn có thể được lòng dân lúc mới xuất hiện nhưng chắc chắn sẽ gây thất vọng sau đó. Trong trường hợp Obama sự thất vọng còn lớn hơn bởi vì rất nhiều người đã bỏ phiếu cho ông vì những giá trị dân chủ và nhân quyền để rồi khám phá ra rằng chính ông không tha thiết gì lắm với những giá trị này. Có một bài toán động học và hình học giải tích trình bày một cách khá chính xác chủ nghỉa thực tiễn. Bài toán, với cái tên dí dỏm là “quỹ đạo của chó”, mô tả một con chó đuổi bắt một đối tượng đang di chuyển. Chó có bản năng rất thực tiễn nên nhắm thẳng đối tượng mà chạy tới nhưng vì đối tượng di chuyển không ngừng nên chính tính thực tiễn của nó khiến chó phải chạy trên một quỹ đạo rất cầu kỳ, ngay cả nếu đối tượng di chuyển một các giản dị trên một đường thẳng với một vận tốc cố định. Trong trường hợp đối tượng di chuyển một cách phức tạp hơn thì bài toán không có giải đáp. Chủ nghĩa thực tiễn được chứng minh là sai bằng toán học. * Một lời sau cùng: tại sao người Việt Nam cần hiểu rằng chủ nghĩa thực tiễn là sai? Đó là vì cuộc đấu tranh cho dân chủ đang rất vất vả với chủ nghĩa thực tiễn. Có quá nhiều người mong muốn một tương lai dân chủ cho Việt Nam nhưng lại suy nghĩ và hành động một cách thực tiễn. Trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản thái độ thực tiễn là không bộc lộ lập trường dân chủ để khỏi bị trù dập và vô hiệu hoá. Ngoài xã hội thái độ thực tiễn là kiếm tiền, và làm giàu nếu có thể được, thay vì đối đầu với một chính quyền đồ sộ và hung bạo. Chủ nghĩa thực tiễn có một tên gọi khác: chủ nghĩa luồn lách. Người ta chán ghét chế độ nhưng thấy phải thoả hiệp với thực tại để sống, và vì thế vô tình củng cố chế độ. Cuộc chuyển hoá về dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn, như chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nó đòi hỏi những trí tuệ và những tấm lòng rất lớn. Những người thực tiễn chẳng bao giờ làm được những thay đổi lớn và thực sự đáng mong ước. Nguồn: Thông Luận.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:33:17 GMT 9
Chủ nghĩa yêu nước không phải là chủ nghĩa phát xít Thủ đô Warsaw, Ba Lan, ngày 13/12/1981 - Ảnh: Tư liệu Cách đây tròn 30 năm nhà nước cộng sản Ba Lan đã ban hành tình trạng chiến tranh. Đây là một sự kiện lịch sử lớn của Ba Lan, một chủ đề gây tranh cãi không nhân nhượng suốt 20 năm nay kể từ khi chế độ cộng sản Ba Lan bị sụp đổ vào năm 1989. Vào lúc 6 giờ sáng, ngày 13/12/1981 đài phát thanh Ba Lan đã phát đi lời của đại tướng Wojciech Jaruzelski, nhà lãnh đạo cao nhất của đảng và nhà nước cộng sản Ba Lan, công bố rằng, dựa trên quyền hiến định, Hội đồng Quân sự Cứu quốc được thành lập và theo pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước, ông thông báo ban hành tình trạng thiết quân luật trên cả nước. Tình trạng thiết quân luật bị đình chỉ vào ngày 31/12/1982 và bãi bỏ sau 586 ngày, vào ngày 22/7/1983. Mùa Thu năm 1980, trước sức ép mạnh mẽ từ các cuộc tranh đấu can trường và bền bỉ của dân chúng Ba Lan, đi đầu là giai cấp công nhân, nhà nước cộng sản Ba Lan đã phải nhượng bộ và chấp nhập 21 yêu sách của phong trào Đoàn kết, trong đó có quyền được thành lập công đoàn độc lập. Họ đòi hỏi công đoàn phải là tổ chức bảo vệ lợi ích của người lao động, chứ không thể là công cụ để chính quyền sử dụng phục vụ cho sự kiểm soát xã hội của đảng. Công đoàn Đoàn kết Ba Lan từ đây đã ra đời và chỉ trong vòng ít tháng sau trở thành một trong những phong trào quần chúng lớn nhất trong lịch sử đấu tranh của công nhân lao động thế giới, với gần 10 triệu thành viên, đánh dấu một bước ngoặt to lớn của nhân dân Ba Lan trong các hoạt động phản kháng, chống lại chế độ cộng sản, đòi tự dân chủ và cải thiện dân sinh. Dưới sự lãnh đạo của Công đoàn Đoàn kết, làn sóng đình công và biểu tình tiếp theo dồn dập, lan rộng trên cả nước, đã khiến chính quyền cộng sản Ba Lan lo ngại sâu sắc và phải tính đến khả năng áp đặt tình trạng thiết quân luật để ngăn chặn bất ổn xã hội và dập tắt phong trào dân chủ non trẻ. Tuy nhiên, lý do chính thức cho việc ban hành tình trạng thiết quân luật mà nhà chức trách đưa ra là tình hình kinh tế của đất nước hết sức khó khăn, hàng hoá tiêu dùng thiếu nghiêm trọng và sẽ không đủ điện cung cấp cho mùa đông trước mối đe dọa một cuộc tổng đình công toàn quốc. Ngoài ra, sự đối đầu của xã hội leo thang có thể dẫn tới mất khả năng kiểm soát của chính quyền. Đồng thời chính quyền cũng muốn ngăn ngừa một cuộc can thiệp quân sự của Liên Xô vào Ba Lan như đã từng xảy ra ở Tiệp Khắc vào mùa xuân 1968. Ngay trước nửa đêm ngày 12 tháng 12 năm 1981, chiến dịch đàn áp, bắt giam các nhà lãnh đạo và thành viên của phe đối lập đã bắt đầu. Nếu một ai tưởng rằng, cuộc tranh đấu giành tự do của nhân dân Đông Âu nói chung và của dân tộc Ba Lan nói riêng, được tiến hành bằng phương pháp tranh đấu bất bạo động, đã làm chuyển hoá thể chế cộng sản sang thể chế tự do, dân chủ một cách êm ả, thì hoàn toàn sai lầm. Người Ba Lan đã phải trả giá rất cao! Cảnh sát, quân đội được huy động cho việc đàn áp phong trào đối lập trong giai đoạn thiết quân luật ở Ba Lan với quy mô lớn chưa từng có: 70 ngàn binh sĩ, 30 ngàn công an, 1.750 xe tăng, 1.900 chiến xa và 9 ngàn xe ô tô. Tâm lý xã hội Ba Lan căng thẳng, ngột ngạt, bao trùm nỗi ám ảnh bị bắt bớ, tra hỏi, hành hạ bởi an ninh, mật vụ bất cứ lúc nào, và bất kỳ lý do gì nếu nhà chức trách có ý nghi ngờ. Chỉ trong năm 1981-1982 đã có gần 2.900 người Ba Lan tự tử! Một cuộc “Exodus” không kém gì người miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Gần một triệu người Ba Lan bằng mọi cách đã bỏ chạy khỏi đất nước. Công đoàn Đoàn kết đã phải rút vào hoạt động bí mật. 11 ngày sau khi ban hành thiết quân luật, có tới 4 ngàn người, chủ yếu là các nhà lãnh đạo và những người tham gia các cuộc đình công và biểu tình bị toà án buộc tội và kết án tù giam. Trong gần hai năm thiết quân luật con số bị nhà cầm quyền cộng sản bắt giam lên tới gần 10 ngàn người. Năm 2006, Viện Tưởng niệm Quốc gia Ba Lan đã ước tính số tử vong trong các cuộc biểu tình, đình công là 56 người. Tổng số người chết trong năm 1981-1989, tức là từ lúc ban hành thiết quân luật tới khi chế độ cộng sản sụp đổ khoảng 100 người. Ban hành tình trạng chiến tranh, nhà nước cộng sản Ba Lan đã đặt đất nước vào một cuộc khủng khoảng còn tệ hại hơn trước. Một năm trước, cũng nhân dịp này, trả lời phỏng vấn của nhật báo “Polska The Times” ngày 12/12/2010, giáo sư lịch sử, chính trị học Ba Lan Atoni Dudek nói rằng, những năm 80 là thập kỷ kinh khủng nhất của Ba Lan. Các cơ sở kinh tế bị đổ vỡ không thể cứu vãn vì sản xuất tê liệt và chịu sự trừng phạt, phong tỏa kinh tế của Mỹ và phương Tây. Trong cuộc chạy đua với nền văn minh, dân tộc Ba Lan đã bị bỏ lại rất xa, với khoảng cách nhanh chưa từng thấy trước đó. Để tồn tại nhà nước cộng sản Ba Lan đã nỗ lực vay tiền nước ngoài. Chỉ trong thập niên 80, nợ nước ngoài của Ba Lan tăng gấp đôi, từ 20 tỷ đôla lên hơn 40 tỷ đôla. Giáo sư Atoni Dudek cũng cho biết, sau hơn mười năm xây dựng hệ thống dân chủ và khôi phục kinh tế, dân Ba Lan mới té ngửa ra rằng, 4 tỷ đôla tiền tiết kiệm của họ gửi tại Ngân hàng Thương mại (Bank Handlowy) và Ngân hàng Pekao đã bị nhà cầm quyền cộng sản “giật tạm” và xài hết sạch! Nhà nước dân chủ đã phải đóng kín thông tin vào lúc đó, không dám công bố cho công luận biết sự việc động trời này, xem nó như là bí mật quốc gia, nhằm ngăn ngừa tình cảnh hoảng loạn của dân chúng. Trong năm 2005, Tổng thống Ba Lan, ông A. Kwasniewski, từng là một cựu đảng viên cộng sản Ba Lan, đã chính thức xin lỗi nhân dân Ba Lan về việc ban hành tình trạng chiến tranh và thừa nhận việc đàn áp nhân dân của chế độ cộng sản trong thời gian này là tội ác chống dân tộc. Thế nhưng, người đứng đầu nhà nước cộng sản Ba Lan cuối cùng, đại tướng Wojciech Jaruzelski, luôn bảo vệ quan điểm của mình. Rằng, ban hành tình trạng thiết quân luật năm 1981 ông đã tránh cho Ba Lan khỏi sự can thiệp quân sự của Liên Xô, tránh một cuộc đụng độ đẫm máu có thể xảy ra. Rằng, giữa hai cái xấu ông đã phải chọn cái ít xấu hơn. Quan điểm của ông chưa bao giờ có được đồng thuận trong xã hội và càng ngày càng ít đi số người ủng hộ sự biện minh này. Cơ quan thăm dò dư luận xã hội Ba Lan Pentor cho thấy, trong tháng 11/2010 chỉ còn 41 % người Ba Lan nhận định việc ban hành tình trạng chiến tranh là hợp lý (tỷ lệ thấp nhất kể từ năm 1995), 33% cho rằng phi lý và 27 % không có ý kiến. Trong năm 1995, lần đầu tiên Pentor thực hiện thăm dò dư luận về quyết định áp đặt thiết quân luật. Lúc đó có tới 49% số người nói quyết định là hợp lý, 27% là phi lý và 24% không có ý kiến. Kết quả trong năm 2002 làm nhiều người ngạc nhiên hơn: 54% hợp lý, 19% phí lý và 27% không có ý kiến. Tổng hợp các cuộc điều tra dư luận trong suốt 15 năm qua đã chỉ ra rõ rệt rằng, để tránh một cuộc xâm lăng của Liên Xô là luận cứ cơ bản mà từ đó người Ba Lan đưa ra nhận định về sự hợp lý hay không của việc ban hành tình trạng thiết quân luật. Trong năm 2010, tới 33% lấy lý do này, trong khi 19% cho rằng chính quyền cộng sản Ba Lan muốn “ngăn ngừa sự sụp đổ”, 12% để “hủy diệt Công đoàn Đoàn kết”, 23% vì những nguyên do khác. Năm nay, kỷ niệm 30 năm, vào thứ Hai, ngày 12/12/2011, trong khi tướng W. Jaruzelski, ở tuổi 88, phải nhập viện chữa bệnh, thì vào buổi tối một cuộc biểu tình của vài trăm người đã diễn ra trước nhà riêng của ông, như thông lệ hàng năm từ suốt 21 năm nay, kể từ khi Ba Lan giành được tự do dân chủ. Họ mang theo biểu ngữ: “Đả đảo cộng sản”, “Chủ nghĩa yêu nước không phải là chủ nghĩa phát xít”, “Chúng tôi vẫn nhớ”… Đúng như thế! Không thể nhân danh yêu nước, bảo vệ đất nước và ổn định chính trị xã hội mà chính quyền lại trở thành phát xít với chính người dân của mình. Thông điệp của người Ba Lan rất rõ ràng. Cũng rõ ràng như thông điệp từ các phiên toà xét xử tướng W. Jaruzelski và những người gây tội ác với nhân dân trong thời kỳ cộng sản: Dư luận Ba Lan đồng tình rằng, việc xét xử chủ yếu nhằm mục đích bảo vệ công lý, chứ không phải trả thù những người cộng sản; là cốt nhắc nhở để cái ác của quá khứ lịch sử không tái diễn và để lại bài học cho các thế hệ tương lai! Cũng tối ngày 12 và trong ngày 13/12 tại nhiều thành phố Ba Lan các hội đoàn và chính quyền còn tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ, tuần hành và đốt nến cầu nguyện cho các nạn nhân bị chết trong giai đoạn thiết quân luật và trong suốt thời kỳ chế độ cộng sản cai trị. Biểu tình trước nhà cựu lãnh đạo CS, tướng W. Jaruzelski tối ngày 12/12/2011 Một cuộc tuần hành khác tại thủ đô Warsaw tối ngày 12/12/2011
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 25, 2012 8:34:55 GMT 9
Đảng không phải là cha mẹ, còn nhân dân cũng không phải là con cái.Tác giả: Gordon Chan Phạm Nguyên Trường (Bản tiếng Việt)Gordon Chan Sự đoàn kết của xã hội Trung Quốc được thực hiện bằng những biện pháp ép buộc. Đảng cộng sản Trung Quốc đã thực hiện thành công kế hoạch tăng tốc phát triển, nhưng số vụ phản đối mang tính xã hội cũng gia tăng nhanh chóng – gần 230 ngàn vụ trong năm 2009 – chứng tỏ rằng nền tảng xã hội là không ổn định. Các nhà phân tích khẳng định rằng người Trung Quốc sợ rối loạn và chính nhờ sự sợ hãi đó mà Đảng cộng sản còn giữ được quyền lực. Nhưng nếu đúng như thế thì tại sao hiện nay ở Trung Quốc lại có nhiều cuộc bạo loạn đến như vậy? Phản ứng thái quá của Bắc Kinh đối với những lời kêu gọi tiến hành “Cách mạng hoa nhài” chứng tỏ rằng những người lãnh đạo chóp bu cảm thấy bất chế độ đang bất ổn. Những người lãnh đạo tự tin sẽ không thả chó ra, không đánh đập các phóng viên và không ngăn chặn mạng Internet. Đối với Bắc Kinh, bài học của các cuộc cách mạng ở Trung Đông là rõ ràng. Đảng không thể tiếp tục coi nhân dân là những đứa trẻ con, không có khả năng quản lí chính mình, như trước được nữa. Đảng cộng sản hầu như đã không còn các đối tác tiềm tràng trong xã hội nữa. Hiện nay Đảng đang phải dựa vào liên minh của các quan chức tham những và các đại phú gia. Tất cả các thành phần khác trong xã hội, đặc biệt là nông dân, công nhân và phần đông tầng lớp trung lưu, không phải là đối tác của họ. Cũng như trong bất kì xã hội hiện đại nào khác, tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc đang càng ngày càng trở thành giai tầng tự giác hơn về mặt chính trị. Đảng cộng sản luôn luôn tìm mọi cách can thiệp vào quá trình hình thành tầng lớp trung lưu. Nam Hàn (những năm 1980) và Đài Loan (những năm 1990) cho thấy điều gì sẽ xảy ra khi tầng lớp trung lưu trở thành giai tầng năng động về mặt chính trị. Điều đó có nghĩa là gì? Các chính phủ phải thay đổi thì mới có thể đáp ứng được những đòi hỏi khi giai tầng này bắt đầu tham gia chính trị một cách tự giác. Chưa chắc Đảng cộng sản sẽ đi theo hướng này. Đảng cộng sản Trung Quốc chỉ còn một cách – chủ nghĩa dân tộc. Điều này sẽ gây nguy hiểm cho các nước láng giềng của Trung Quốc, vì Bắc Kinh có yêu sách về lãnh thổ với những nước khác và đang nhòm ngó các vùng biển quốc tế. Chủ nghĩa dân tộc là biện pháp duy nhất nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những thành phần bất mãn trong xã hội. Đi đêm với các quan chức tham nhũng và các đại phú gia là Đảng cộng sản đã đánh mất sự ủng hộ của xã hội. Những người lãnh đạo chủ chốt ở Bắc Kinh cho rằng không sử dụng con ác quỉ là chủ nghĩa dân tộc thì không thể nào thiết lập được sự đồng thuận trong xã hội. Đảng cộng sản cần phải nhanh chóng thiết lập cơ sở cho sự ủng hộ, nhưng ngoài những ngôn từ xáo rỗng và những hành động lặt vặt, nó vẫn chưa làm được gì theo hướng này. Nguồn: dịch từ nguyên bản tiếng Nga
|
|
|
Post by Vĩnh Long on May 16, 2013 9:10:27 GMT 9
Nhật khiến TQ ‘rụng rời tay chân’, Châu Á lo ngại. 02-05-2013 Tại hội nghị Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ ngày 25/4/2013 đã đưa ra Tuyên bố chung có nội dung “nhấn mạnh tính phi nhân đạo của vũ khí hạt nhân, không sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất cứ trường hợp nào”, nhưng Nhật Bản, nước duy nhất bị hại bởi vũ khí hạt nhân, đã không ký Tuyên bố này. Giải thích về điều này, đại diện Chính phủ Nhật Bản là Đại sứ Mari Amano nói: “Tuy bày tỏ tán thành với tính chất phi nhân đạo của việc sử dụng vũ khí hạt nhân, nhưng việc không sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất cứ trường hợp nào không phù hợp với chính sách bảo đảm an ninh của Nhật Bản”. Chấm hết. Rõ ràng, những quốc gia có VKHN thì họ không bao giờ ký vào Tuyên bố này, bởi vì hoặc là vô nghĩa, không ai tin hoặc là họ phải hủy bỏ ngay toàn bộ VKHN, giữ làm gì cái đồ vô dụng, “không được dùng trong bất kỳ trường hợp nào” nhưng tốn kém và vô cùng nguy hiểm đó? Điều này có bao giờ xảy ra không? Xin thưa là không bao giờ. Rốt cuộc, trong 74 quốc gia ký vào tuyên bố này, đương nhiên là những quốc gia không có và không có khả năng chế tạo được VKHN. Vì thế, tuyên bố của 74 quốc gia này giống như một lời “cầu xin Chúa ban phước lành” mà thôi, không hơn không kém. Nhưng Nhật Bản thì không, dù không có VKHN. Tại sao? Có 2 lý do: Trước hết, cho đến lúc này, khối mâu thuẩn Trung Quốc – Nhật Bản có từ quá khứ và hiện tại đã bộc lộ đỉnh điểm và không thể che giấu được nữa. Đó là sự hận thù dân tộc bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang thắng thế đẩy lên cao; đó là sự đối đầu về địa chính trị, đia quân sự và địa kinh tế không thể dung hòa bởi tham vọng quá lớn trong sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhật Bản, một cường quốc kinh tế, nhưng tại sao Trung Quốc lại tỏ ra hung hăng, xem thường, coi như “con gà” muốn giết lúc nào thì giết để dọa “khỉ” Mỹ, trong khi hơn 30 năm nín nhịn, chờ thời, mới đuổi kịp Nhật Bản năm 2010 về GDP? Đơn giản dễ hiểu là vì Trung Quốc có 2 thứ mà Nhật Bản không có (vì Nhật Bản dựa vào ô của Mỹ và đang bị trói buộc bởi Hiến pháp hòa bình), đó là tên lửa đạn đạo (TLĐĐ) và vũ khí hạt nhân (VKHN). Mới đây, một vị tướng Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng VKHN nếu “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc bị uy hiếp, trong khi quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đang bị Nhật Bản quản lý, là nơi xảy ra tranh chấp quyết liệt cũng được Trung Quốc cho là “lợi ích cốt lõi”… Đành rằng trên đất Nhật Bản có căn cứ quân sự của Mỹ, nhưng khi sử dụng đòn hạt nhân hay TLĐĐ, Trung Quốc đâu có dại nhằm vào đó để buộc Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác là thực hiện đòn trả đũa. Trung Quốc sẽ nhằm vào chỗ khác trên đất Nhật Bản để Mỹ có thời gian lựa chọn mà “tính toán thiệt hơn”. Tất cả những điều trên liệu Nhật Bản có biết cái “thiệt, hơn” trong đầu của Mỹ là gì? Và do đó có yên tâm dựa vào “ô hạt nhân” của Mỹ không?… Với tình thế đó, việc Nhật Bản không ký vào tuyên bố “không sử dụng vũ khí hạt nhân trong bất cứ trường hợp nào” là “đừng có ngạc nhiên”. Với tình thế đó Nhật Bản không thể ngây thơ để “xin Trung Quốc ban phước lành, đừng dùng đòn hạt nhân, tên lửa tầm xa vào đất Nhật Bản”. Cuối cùng, Nhật Bản dù bị bại trận trong thế chiến thứ 2, nhưng là một cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới suốt hơn nửa thế kỷ qua trong khi Trung Quốc mới đuổi kịp (chỉ về tiêu chí GDP) năm 2010, cho nên Nhật Bản đang tích trữ một nội lực hùng hậu, một “thế năng” rất lớn. Chẳng hạn như về năng lượng hạt nhân. Theo tiết lộ, kế hoạch của Ủy ban Năng lượng nguyên tử Nhật Bản năm 1990 định ra thì đến năm 2010, Nhật sẽ cung ứng 85 tấn plutonium. Nhưng theo tính toán, lượng plutonium mà Nhật yêu cầu đến năm 2010 nhiều nhất cũng chỉ hơn 20 tấn. Như vậy, đến năm 2010 Nhật sẽ dư thừa hơn 60 tấn plutonium. Được biết, cứ khoảng 1 tấn plutonium có thể chế tạo được 120 đầu đạn hạt nhân thì Nhật Bản có đủ nguyên liệu chế tạo ra 7200 đầu đạn hạt nhân. Về kỹ thuật, Nhật Bản có đủ đội ngũ chuyên gia giỏi và nhân viên kỹ thuật trình độ cao, tay nghề chắc trên mọi lĩnh vực chuyên môn liên quan đến nghiên cứu chế tạo VKHN. Nhật Bản đã nghiên cứu thành công máy tính siêu cao tốc, vận hành tốc độ 600 tỉ lần/giây; với loại máy này hoàn toàn có thể mô phỏng thực thử nghiệm nổ hạt nhân giúp cho việc tiếp tục nghiên cứu chế tạo và hoàn thiện VKHN kiểu mới. Nhật Bản nhanh chóng có thể nắm vững bí quyết vận dụng máy tính tiến hành thử nghiệm nổ hạt nhân phi giới hạn, đồng thời qua đó có thể tiến hành thử nghiệm chế tạo và cải tiến tính năng của đầu đạn VKHN mà không ai biết , không giống như Triều Tiên hay Iran. Như vậy có thể nói việc Nhật Bản không ký vào tuyên bố “không sử dụng VKHN trong bất kỳ trường hợp nào” (lưu ý là trong khi Nhật Bản không có VKHN) với lời giải thích ngắn gọn nhưng đầy hàm ý đã gửi đến cho các quốc gia có VKHN và quốc gia đòi lăm le sử dụng VKHN, một thông điệp mà chắc rằng không ai có thể nghĩ khác đi, đó là: “Hãy cẩn trọng với VKHN, sử dụng nó là vô nhân đạo nên đừng đem nó ra dọa nạt nhau. VKHN hay TLĐĐ đối với Nhật Bản là không thành vấn đề. Vấn đề của Nhật Bản là tuyên bố có lúc nào, bao nhiêu và sự hiện đại tiên tiến ở mức độ nào mà thôi”. Người Mỹ sẽ làm gì? Mỹ chắc là OK, Ixrael hay Nhật Bản có gì là khác nhau với Mỹ, vả lại, đâu phải dễ dàng khống chế được Nhật Bản khi Trung Quốc càng ngày càng hung hăng. Người dân khu vực châu Á-TBD chẳng thích thú gì việc quốc gia nào cũng sở hữu VKHN, nhưng khi có quốc gia sở hữu VKHN lại tỏ ra hung hăng, bất chấp, đe dọa giáng vào quốc gia không có VKHN thì hết sức thông cảm với Nhật Bản… tuy hết sức lo ngại. Báo chí Trung Quốc chẳng có bình luận nào sâu vào động thái này của Nhật Bản bởi vì bình luận càng sâu khiến càng “rụng rời tay chân”. Việc ông tướng về hưu La Viện hô hào đòi LHQ “bóp chết tiềm lực hạt nhân của Nhật Bản từ trong trứng” là đã quá muộn. “Trứng” đã đủ lông đủ cánh và chỉ cần một cái nhún chân nhẹ là con đại bàng Nhật Bản tung cánh. Vấn đề chỉ là thời gian khi nào? Thủ tướng Nhật Bản, ông Shinzo Abe tuyên bố: “Chỉ trong vòng 2 năm nữa thôi, tương quan sức mạnh quân sự Trung – Nhật sẽ bị phá vỡ triệt để”. Trung Quốc có hiểu điều gì không hay là bất chấp hay là như không nghe thấy để che dấu sự hoảng hốt? Tại sao Trung Quốc biết thực hiện sách lược “giấu mình, chờ thời”, bắt tay nhún nhường với Mỹ, Nhật Bản để “trỗi dậy” mà Nhật Bản lại không? Thật ra, sau thất bại trong cuộc tranh thế giới lần 2, hơn ai hết Nhật Bản đã hiểu bài học về thói ngạo mạn, hung hăng, về ý muốn “mặt trời không bao giờ lặn trên đất Nhật”. Từ những nỗi đau đầy máu và nước mắt khi bị 2 quả bom nguyên tử, nhưng người Nhật đã làm cho cả thế giới phải sững sờ khi họ biết cách để nuốt nước mắt lẫn máu vào trong trái tim câm lặng của mình để bắt tay với người Mỹ. Hiệp ước An ninh Mỹ – Nhật năm 1951 đã giải phóng cho nước Nhật khỏi mọi gánh nặng chạy đua vũ trang và nước Nhật, đất nước vừa nhỏ (377.600km2) lại vừa chật chội (130 triệu dân – 2005), 4.000 hòn đảo nhưng chỉ có chưa đầy 10% đất đai có thể canh tác, tài nguyên chủ yếu là “động đất và sóng thần” có được vị trí, vai trò như bây giờ khiến thế giới ngưỡng mộ, kính trọng. Xem ra dù đang còn non nớt nhưng Trung Quốc cũng đang cố tập tễnh đi vào con đường mà Nhật Bản đã đi, đã từng biến mình thành nạn nhân. Tham vọng quá lớn, khả năng hạn chế, bộc lộ quá sớm Trung Quốc khó có thể vượt qua được “lời nguyền Nhật Bản”. Lê Ngọc Thống nguồn Chanlyonline
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 28, 2013 9:56:19 GMT 9
Biển Đông: Dầu mỏ, những yêu sách trên biển, và cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung
Nguồn: Leszek Buszynski (2012). “The South China Sea: Oil, Maritime Claims, and U.S.–China Strategic Rivalry”, The Washington Quarterly, 35:2, 139-156. >>PDF
Biên dịch: Nguyễn Thị Thanh Dung | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Nguy cơ xung đột leo thang từ những sự kiện tương đối nhỏ đã tăng lên tại Biển Đông trong hơn hai năm qua với những cuộc tranh chấp bây giờ ít có cơ hội hơn để đàm phán hoặc giải quyết. Về nguồn gốc, những tranh chấp này nảy sinh từ sau Thế chiến thứ hai khi những quốc gia ven biển – Trung Quốc và 3 nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), gồm Indonesia, Malaysia và Philipines, cũng như Việt Nam sau này – tranh giành để chiếm giữ những hòn đảo ở đó [Chi tiết này không chính xác – NHĐ]. Nếu vấn đề này chỉ đơn thuần là về tranh chấp lãnh thổ, thì nó có thể đã được giải quyết thông qua những nỗ lực của Trung Quốc nhằm xích lại gần ASEAN và thắt chặt quan hệ với khu vực này.
Khoảng những năm 1990, việc tiếp cận các mỏ dầu và khí cũng như nguồn cá và tài nguyên biển đã bắt đầu làm phức tạp hóa các yêu sách. Vì nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng lên, các bên yêu sách đề ra những kế hoạch khai thác các mỏ hydrocarbon của Biển Đông, khiến cho tranh chấp tiếp bước một cách không có gì bất ngờ, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, những tranh chấp năng lượng này không nhất thiết phải dẫn đến xung đột, vì chúng đã và có thể tiếp tục sẽ được quản lý thông qua cơ chế phát triển chung hoặc đa phương, điều đã có nhiều tiền lệ khác nhau mặc dù không trường hợp nào phức tạp như Biển Đông.
Tuy nhiên, hiện tại, vấn đề đã không còn chỉ là những yêu sách chủ quyền và việc tiếp cận nguồn tài nguyên năng lượng, vì Biển Đông đã trở thành trọng tâm của cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung tại Tây Thái Bình Dương. Kể từ năm 2010, Biển Đông đã bắt đầu trở nên liên quan tới những vấn đề chiến lược rộng lớn hơn liên quan đến chiến lược hải quân của Trung Quốc và sự hiện diện của Hoa Kỳ tại khu vực. Điều này làm cho cuộc tranh chấp trở nên nguy hiểm và là lý do gây quan ngại, đặc biệt khi Hoa Kỳ đã tái khẳng định lợi ích của mình tại Châu Á Thái Bình Dương và củng cố quan hệ an ninh với các bên yêu sách thuộc ASEAN trong cuộc tranh chấp.
Nguồn gốc tranh chấp về lãnh thổ
Trung Quốc và Việt Nam đòi hỏi chủ quyền toàn bộ khu vực Biển Đông và các đảo ở đó trong khi Malaysia, Philipines, Indonesia và Brunei tuyên bố yêu sách đối với các khu vực tiếp giáp. Có hai nguyên tắc chi phối các yêu sách, mà cả hai đều chống lại yêu sách đòi chủ quyền toàn bộ vùng biển của Trung Quốc. Nguyên tắc thứ nhất là “chiếm hữu thực sự”, một tiền lệ đã được thiết lập bởi Tòa Trọng tài Vĩnh viễn trong vụ đảo Palmas tháng 4 năm 1928.1 “Chiếm hữu thực sự” bao gồm khả năng và ý định sử dụng quyền tài phán liên tục và không bị gián đoạn, điều khác với xâm lược. Mặc dù Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, một quần đảo bao gồm khoảng 30 đảo/ đá cách đều bờ biển Trung Quốc và Việt Nam, nhưng nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” đã chống lại Trung Quốc trong trường hợp quần đảo Trường Sa, một quần đảo nằm ngoài khơi Philipines và Malaysia, nơi mà ngoại trừ 9 bãi đá đã bị Trung Quốc chiếm từ năm 1988 đến năm 1992, những đảo/đá còn lại đều do các nước ASEAN có yêu sách chiếm giữ.
Nguyên tắc thứ hai là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đặt ra những quy tắc xác định rằng các yêu sách đối với nguồn tài nguyên phải dựa trên cơ sở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa (EEZ là một vùng biển trải dài tới 320 km tính từ đường bờ biển, là cơ sở cho những đòi hỏi của các quốc gia ven biển với nguồn tài nguyên ở đó). UNCLOS không ủng hộ những yêu sách vượt ra ngoài phạm vi EEZ hoặc các thềm lục địa đã được công bố. Tuy nhiên, yêu sách của Trung Quốc vượt ra xa khỏi phạm vi EEZ của họ và chồng lấn với những yêu sách hợp pháp của các nước ASEAN.
Những yêu sách của Trung Quốc dựa trên lịch sử, nhưng những yêu sách như vậy không có nhiều giá trị trong luật quốc tế, cái mà theo quan điểm của Trung Quốc đã hạ thấp (lý do) di sản tổ tiên để lại của họ và là nguồn gốc cho sự bất mãn của nước này. Quan điểm của Trung Quốc là yêu sách của nước này có trước UNCLOS (được thông qua vào năm 1982 và có hiệu lực vào năm 1994 sau khi quốc gia thứ 60 phê chuẩn), và rằng Công ước này cần được điều chỉnh để phù hợp với các quyền lịch sử. Để khẳng định những yêu sách mà trong tình huống này sự phức tạp của luật quốc tế có thể không ủng hộ họ, người Trung Quốc đã dùng đến áp lực ngoại giao thường trực để luật quốc tế phải được thay đổi hoặc để đạt được một ngoại lệ đặc biệt, theo đó những yêu sách từ các thế hệ trước của họ sẽ được tất cả các bên công nhận.
Dầu mỏ, năng lượng, và nghề cá
Nếu chỉ là một tranh chấp chủ quyền đơn thuần, Biển Đông có thể sẽ đã tiếp tục bế tắc như vậy mà không nhiết thiết phải giải quyết ngay. Tuy nhiên, sự tồn tại của nguồn dự trữ năng lượng trong khu vực đã ngăn chặn giải pháp này. Với nhu cầu năng lượng toàn cầu đang tăng lên, những nước tiêu thụ lớn như Trung Quốc đang tìm kiếm những nguồn năng lượng mới để thỏa mãn nền kinh tế đang mở rộng của họ. Năm 2009, Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, và sức tiêu thụ của họ có thể tăng gấp đôi vào năm 2030, biến nước này thành nước tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới. Năm 2010, Trung Quốc đã nhập khẩu 52% lượng dầu tiêu thụ của mình từ Trung Đông, và Saudi Arabia cùng Angola cộng lại chiến đến 66% lượng dầu nhập khẩu của nước này. Trung Quốc đã và đang đa dạng hóa nguồn cung năng lượng của mình để giảm phụ thuộc vào dầu nhập khẩu và đã tìm cách gia tăng sản lượng ngoài khơi xung quanh lưu vực sông Châu Giang và Biển Đông.2
Các yêu sách năng lượng đối kháng
Việt Nam là quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn trong khu vực, với công ty dầu khí quốc doanh PetroVietnam năm 2010 sản xuất được 24,4 triệu tấn dầu từ ba mỏ ở Biển Đông, tương đương với 26% tổng GDP của Việt Nam.3 Với việc sản lượng ở các mỏ đã xây dựng đang suy giảm, PetroVietnam đã ký 60 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với các công ty nước ngoài khác nhau nhằm khai thác các mỏ mới. Tuy nhiên, các mỏ mới được cho là sẽ không đủ bù đắp cho số sản lượng sụt giảm của các mỏ cũ.4 Khi Việt Nam cố gắng khai thác các mỏ mới, có khả năng sẽ xảy ra xung đột mới với Trung Quốc, nước đã kiên quyết phản đối nỗ lực của Việt Nam nhằm ký hợp đồng khai thác với các công ty dầu quốc tế trên Biển Đông.
Trung Quốc cáo buộc các nước ASEAN có yêu sách đã xâm phạm vào vùng biển của họ và cho rằng Trung Quốc có quyền thực thi các yêu sách chống lại các nước này. Chẳng hạn vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, hai tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò dầu khí của một tàu khảo sát đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách bờ biển phía nam Việt Nam khoảng 120 km. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố những đoạn video cho thấy một con tàu Trung Quốc quả thật đã cắt đứt cáp nối với tàu Việt Nam mang tên Bình Minh.5 Jiang Yu, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng tàu Trung Quốc đang tham gia “các hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển hoàn toàn bình thường trong khu vực thuộc quyền tài phán của Trung Quốc”.6 Vào ngày 9 tháng 6, một tàu cá Trung Quốc cũng đã đâm ngang cáp khảo sát của một con tàu khảo sát khác của Việt Nam.
Philipines cũng đã có nhiều vấn đề với Trung Quốc. Manila đã nổ lực để nâng cao khả năng tự cung tự cấp dầu của mình, và đặt mục tiêu (tự cung) 60% vào cuối năm 2011, điều mà họ có khả năng không đạt được. Nước này dự tính chào thầu 15 hợp đồng trong những năm tới cho việc thăm dò vùng biển ngoài khơi đảo Palawan, trong một khu vực bị yêu sách bởi Trung Quốc.7 Năm 2011, Philipines đã báo cáo 7 sự cố liên quan đến sự quấy rối của Trung Quốc. Trong một trường hợp, vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã quấy rối một tàu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Philippines yêu sách nằm cách bờ biển Palawan 250 km về phía tây. Hai con tàu này chỉ rời khỏi khu vực sau khi lực lượng không quân Philipines được điều động. Ngày 5 tháng 4, Manila đã phản đối chính thức lên Liên Hợp Quốc và tìm kiếm sự ủng hộ từ ASEAN nhằm đạt được lập trường chung về vấn đề này.8 Người Trung Quốc đã phản ứng lại vài ngày sau đó, chính thức tố cáo Philipines “xâm lược” vùng biển của họ.9 Sau khi Trung Quốc triển khai tàu tuần tra 3000 tấn Haixun-31 được trang bị một trực thăng đến khu vực này, thì vào tháng 6, Philipines đã phải một tàu hải quân loại cũ từ thời Thế chiến thứ hai, tàu Rajah Humabon, đến vùng biển yêu sách của họ.10 Chiếc tàu này đã di dời hết các cột mốc được người Trung Quốc dựng lên trên các bãi đá khác nhau thuộc vùng biển yêu sách bởi Philipines.11 Cũng trong tháng 6, văn phòng tổng thống Philipines cũng tuyên bố đổi tên “Biển Nam Trung Hoa” (Biển Đông) thành “Biển Tây Philipines”, và công bố một chương trình nâng cấp hải quân, điều sẽ giúp nâng cao sự hiện diện hải quân đang hạn chế của họ tại khu vực. 12
Bất chấp phản đối từ phía Trung Quốc, cả Việt Nam và Philipines đều có kế hoạch xúc tiến các dự án thăm dò khí đốt hợp tác với các công ty nước ngoài. PetroVietnam sẽ hợp tác cùng Talisman Energy và sẽ bắt đầu khoan tại một khu vực mà Trung Quốc năm 1992 đã giao cho công ty Crestone, một công ty hiện được điều hành bởi Harvest Natural Resources. ExxonMobil cũng lên kế hoạch khoan thăm dò ngoài khơi Việt Nam, trong khi Philipines dự định khoan tại khu vực nơi mà các tàu Trung Quốc đã quấy rối tàu khảo sát của họ hồi tháng 3 năm 2011.13
Trong lúc đó, Ấn Độ cũng đã trở nên liên quan với tư cách một tác nhân bên ngoài, càng làm tình hình phức tạp hơn. Trung Quốc có thể có ảnh hưởng với các bên yêu sách ASEAN nhờ quy mô và sự gần gũi về vị trí địa lý của họ với các nước ASEAN, nhưng Ấn Độ lại có một vị thế và sức mạnh đủ để đối kháng với Trung Quốc. Hơn nữa, Ấn Độ vẫn đang chất chứa sự khó chịu riêng với Trung Quốc vì sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho Pakistan và các yêu sách của Trung Quốc đối với biên giới chung của hai nước. Những điều này khiến Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi đối phó với Ấn Độ. Quan hệ của Ấn Độ với Việt Nam bắt đầu từ thời của Indira Gandhi, khi chính phủ Gandhi đã công nhận chính phủ do Việt Nam hậu thuẫn tại Campuchia vào năm 1984. Nhiều người Ấn Độ coi Việt Nam như một đồng minh chống lại Trung Quốc.
Tàu hải quân Ấn Độ INS Airavat khi đang di chuyển đến Nha Trang thuộc miền Nam Việt Nam vào tháng 7 năm 2011 thì đã bị Trung Quốc cảnh báo bằng tín hiệu radio là hãy tránh xa “vùng biển Trung Quốc”. Bộ Ngoại giao Ấn Độ phản ứng lại rằng “Ấn Độ ủng hộ tự do hàng hải trên vùng biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông, và quyền qua lại phù hợp với những nguyên tắc đã được công nhận trong luật quốc tế”.14 Trong khi đó, Trung Quốc đã phản đối những hoạt động thăm dò của Công ty Dầu và Khí tự nhiên Ấn Độ (ONGC) xung quanh quần đảo Hoàng Sa, khu vực mà người Trung Quốc đặc biệt nhạy cảm. Quan điểm của ONGC là các yêu sách của Việt Nam phù hợp với luật quốc tế, và họ sẽ tiếp tục các dự án thăm dò tại hai lô gần quần đảo Hoàng Sa.15
Sau đó, khi Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang sang thăm New Delhi, ONGC và PetroVietnam đã ký một hợp đồng ba năm về hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí vào ngày 12 tháng 10 năm 2011, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc.16 Đáng chú ý hơn, hợp đồng này được ký trong khi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang đi thăm Bắc Kinh và bày tỏ tình hữu nghị với Trung Quốc.17 Việt Nam lại dùng đến phương sách truyền thống trong ứng xử với Trung Quốc – tức là nhấn mạnh những điểm chung và tình hữu nghị, vốn là công việc của tổng bí thư Đảng, trong khi vẫn tìm kiếm ở Ấn Độ một đối trọng hiệu quả [để cân bằng với Trung Quốc]. Quả thực, sự can dự của Ấn Độ đến khu vực và mối quan hệ ngày càng thân thiết của họ với Việt Nam sẽ làm cho tình hình Biển Đông thêm khó khăn. Có thể dự đoán là sẽ xảy ra nhiều sự cố hơn nữa, khi mà Trung Quốc vạch ra giới hạn cho cường quốc đối thủ cạnh tranh ở châu Á này.
Cuộc chiến giành cá
Như thể tranh chấp về năng lượng vẫn chưa đủ, sự cạnh tranh về cả nguồn cá và các tài nguyên biển từ Biển Đông cũng góp phần gia tăng căng thẳng. Trong quá khứ, các tàu cá thường xuyên ra vào các vùng chồng lấn, nhưng việc gia tăng mức độ thường xuyên của những vụ việc như vậy đã gây ra những quan ngại. Việt Nam tuyên bố rằng 63 tàu cá cùng 725 ngư dân đã bị phía Trung Quốc bắt giữ trên Biển Đông kể từ năm 2005.18 Sau đó tất cả họ đều bị yêu cầu nộp tiền phạt rất cao thì mới được phóng thích. Trong một vụ việc gây sự chú ý lớn của dư luận Việt Nam, một tàu tuần tra Trung Quốc đã bắt giữ tàu cá Việt Nam cùng 12 thủy thủ khi họ đang hoạt động quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa vào tháng 3 năm 2010. Đây không phải lần đầu tiên Trung Quốc làm điều này và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối dữ dội, và đây là một trường hợp cho thấy sự bất mãn của Việt Nam với hành xử của Trung Quốc.
Trung Quốc áp đặt một lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm trên Biển Đông, họ xem đó như là cách bảo tồn nguồn cá cho đội tàu của mình tại Biển Đông. Lần đầu tiên Bắc Kinh ban lệnh cấm là vào năm 1999, từ tháng 6 tới tháng 7 hàng năm, và tới năm 2009 thì họ kéo dài lệnh cấm thành từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 1 tháng 8 hàng năm. Phạm vi cấm rất mơ hồ, mặc dù lệnh cấm bao trùm lên một khu vực bao quanh quần đảo Hoàng Sa nhưng lại không vươn xa xuống phía Nam tới quần đảo Trường Sa.20 Việt Nam phản đối kịch liệt, vì lệnh cấm ảnh hưởng tới sinh kế của các ngư dân Việt. Để thực thi lệnh cấm và bảo vệ các tàu cá của mình, Trung Quốc phái đến khu vực các tàu mà họ gọi là “tàu kiểm ngư”, nhưng thực chất đó là những tàu hải quân được hoán chuyển. Trung Quốc cũng đã tuyên bố kế hoạch tăng cường sức mạnh của lực lượng hải giám, lên đến 16 máy bay và 350 tàu biển vào năm 2015, số máy bay và tàu này sẽ được sử dụng để giám sát hoạt động tàu bè trên biển, thực hiện các nhiệm vụ khảo sát, “bảo vệ an ninh hành hải” và kiểm tra các tàu nước ngoài hoạt động “trên vùng biển của Trung Quốc”.21
Một vấn đề khác là tàu Việt Nam cũng đi vào vùng biển mà các nước ASEAN khác yêu sách. Hai tàu Việt Nam mang tên Indonesia đã bị tàu tuần tra Indonesia bắt hồi tháng 2 năm 2011 gần quần đảo Natuna.22 Phía Indonesia nói rằng trong năm 2009, khoảng 180 tàu (không phải tất cả đều là của Việt Nam, ví dụ như có một số là của Malaysia) đã bị bắt giữ vì đánh cá bất hợp pháp trong vùng biển của họ.23 Khi nhu cầu tăng lên mà nguồn cá bị cạn kiệt, việc tranh chấp đánh bắt cá chắc chắn sẽ gia tăng trên Biển Đông, đặc biệt là khi các bên có yêu sách đều nâng cấp hải quân và lực lượng tuần tra bờ biển.
Cạnh tranh giữa các cường quốc
Năng lượng và nguồn cá không là những yếu tố duy nhất trong cuộc tranh chấp này. Biển Đông đang được đưa vào phạm vi cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ khi Trung Quốc tăng cường mở rộng chiến lược hải quân và triển khai các năng lực hải quân mới. ASEAN cho rằng những yêu sách bành trướng của Trung Quốc đến toàn bộ khu vực là có thể đàm phán được, rằng Trung Quốc sẽ chịu dàn xếp cho một hiệp định khu vực có các điều khoản thuận lợi, trong đó những tuyên bố chủ quyền sẽ được điều chỉnh, và nguồn lợi dầu khí cũng như ngư trường sẽ được chia sẻ. Dựa vào cơ sở này, ASEAN đã kéo Trung Quốc vào tham gia đối thoại thường xuyên với hy vọng thuyết phục các nhà cầm quyền Trung Quốc về giá trị của một cơ chế chuẩn tắc giúp điều chỉnh hành vi ở Biển Đông. ASEAN thường xuyên cẩn trọng trong việc tránh khiêu khích Trung Quốc và kỳ vọng Trung Quốc sẽ đáp lại kịp thời, và rằng phương cách ASEAN trong việc khuyến khích đồng thuận sẽ được Bắc Kinh chấp nhận một cách đúng lúc.
Nếu vấn đề chỉ liên quan đến những yêu sách cạnh tranh về năng lượng và ngư trường, thì một hiệp định chỉ rõ quy tắc tương tác và quản lý tranh chấp (gọi cách khác là một cơ chế hàng hải) rất có thể có khả năng trở thành hiện thực như các nhà hoạch định chính sách ASEAN đã lập luận. Tuy nhiên, cạnh tranh chiến lược với Hoa Kỳ đã định hình lại tranh chấp theo cách làm giảm vai trò của ASEAN và khả năng của họ trong việc đàm phán một giải pháp cho vấn đề với Trung Quốc. Điều đó làm Trung Quốc lãnh đạm với các ý tưởng của ASEAN và trở nên quan ngại hơn về các động thái bên ngoài khu vực của Hoa Kỳ cũng như các hoạt động hải quân của nước này. Điều này cũng dẫn đến việc Trung Quốc cư xử đặc biệt quyết liệt hơn bởi khả năng lớn hơn trong việc kiểm soát Biển Đông là một phần cần thiết cho sự triển khai và chiến lược tăng cường hải quân của nước này.
Chiến lược hải quân của Trung Quốc đã được định hình trong nhiều năm qua kể từ khi Tư lệnh Hải quân Liu Huaqing (1982-1988) lần đầu tiên kêu gọi hình thành một lực lượng hải quân viễn dương đủ sức bảo vệ quyền lợi hàng hải của Trung Quốc. Hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã đều đặn phát triển sức mạnh hải quân, được nước này coi là cần thiết cho vị thế siêu cường. Khi Trung Quốc tăng sức mạnh kinh tế, lợi ích hàng hải của họ cũng mở rộng tương ứng (cùng với sức mạnh hải quân), đưa họ vào cuộc xung đột với Hoa Kỳ – cường quốc hải quân thống trị tại Tây Thái Bình Dương.
Sự bành trướng của hải quân Trung Quốc
Chiến lược hải quân Trung Quốc đề ra ba nhiệm vụ nhằm định hướng cho sự phát triển năng lực hải quân của họ. Thứ nhất là ngăn chặn Đài Loan tuyên bố độc lập đồng thời cản trở Hoa Kỳ ủng hộ Đài Loan bằng việc triển khai hải quân khi có các sự kiện xung đột. Nhiệm vụ này đã trở thành một điểm nổi bật của chiến lược hải quân Trung Quốc sau khi Hoa Kỳ điều động hai tàu sân bay trong suốt giai đoạn khủng hoảng ở eo biển Đài Loan năm 1995 và 1996, đó là chiếc Nimitz vào tháng 12 năm 1995 và chiếc Independence vào tháng 3 năm 1996, như một cách phô diễn sức mạnh hải quân mà người Trung Quốc chưa thể nào quên. Nhiệm vụ thứ hai là bảo vệ các tuyến giao thương mở rộng của Trung Quốc và các nguồn cung cấp năng lượng đang vận hành xuyên Ấn Độ Dương và eo biển Malacca, nơi ước tính chừng 80% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc được chuyên chở.24 Nhiệm vụ này đã trở nên quan trọng sau khi Trung Quốc trở thành một nước nhập khẩu ròng về dầu mỏ vào năm 1993 và khi Bắc Kinh nhận ra nền kinh tế của họ phụ thuộc vào dầu nhập khẩu đến thế nào vào cuối thập niên 1990. Nhiệm vụ thứ ba là triển khai năng lực đánh trả hạt nhân lần thứ hai từ mặt biển tại khu vực Tây Thái Bình Dương, một hệ quả khác của cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1995 -1996. Bắc Kinh hiểu rằng năng lực này sẽ là một sự răn đe tối hậu chống lại Hoa Kỳ trong các cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan cũng như các cuộc khủng hoảng khác.
Để thực hiện các sứ mệnh này, Trung Quốc đã phát triển hoặc triển khai bốn lớp tàu ngầm và sáu lớp tàu khu trục mới trong vòng hơn hai thập kỷ qua. Trung Quốc đã đặt mục tiêu phát triển lực lượng hải quân viễn dương, và như Đô đốc tư lệnh Hải quân Wu Shengli đã tuyên bố vào tháng 5 năm 2009, Trung Quốc sẽ thiết lập một “hệ thống phòng thủ trên biển” để “bảo vệ an ninh hàng hải và sự phát triển kinh tế”.25 Hải quân viễn dương cần có những tàu sân bay, và tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, chiếc Shi Lang, được xây dựng lại từ chiếc tàu sân bay thời Xô Viết trọng tải 32.000 tấn Varyag, đã được thử nghiệm trên biển từ ngày 10 đến ngày 14 tháng 8 năm 2011. Họ hy vọng nó sẽ đi vào hoạt động trong năm 2012 và sẽ mang theo 48 chiếc máy bay chiến đấu trên biển Su-33 và máy bay chiến đấu Trung Quốc Jian- 10 được điều chỉnh để phù hợp với hoạt động trên tàu sân bay. Trung Quốc được cho là sẽ xây dựng một chiếc tàu sân bay khác trọng tải 50.000 đến 60.000 tấn trước năm 2015 và một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân trước năm 2020.26 Các tàu sân bay đều đòi hỏi đội tàu hộ tống để cung cấp năng lực phòng không và ngăn chặn các cuộc tấn công từ tàu ngầm. Điều này chỉ ra rằng họ đã có kế hoạch mở rộng năng lực hải quân quy mô lớn.
Xét về lực lượng hạt nhân trên biển, Trung Quốc có bốn tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, hay gọi là SSBN. Chiếc tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đầu tiên của Trung Quốc là tàu lớp Hạ (Xia) bây giờ đã lỗi thời, được hoàn thành vào năm 1981 và mang theo được 12 tên lửa đạn đạo JL – 1 (SLBM) có tầm bắn lên đến 2.700 km, không đủ để tấn công vào đất liền của Hoa Kỳ. Hai trong số những chiếc SSBN hiện đại và đáng tin cậy hơn thuộc lớp Tấn (Jin) đã được triển khai từ năm 2004, mỗi cái mang theo 12 tên lửa đạn đạo JL- 2 với tầm bắn lên đến 8.400 km, tạo cho chúng khả năng tấn công liên lục địa. Trung Quốc được cho là sẽ triển khai ít nhất 5 chiếc thuộc lớp Tấn trong những năm tới.27
Trung Quốc cần nơi trú ẩn cho các nền tảng hải quân của họ để chống lại những cuộc tấn công từ trên không và trên biển.28 Những chiếc tàu sân bay và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo cũng đòi hỏi tiếp cận những vùng biển mở để hoàn thành sứ mệnh của mình; nếu không chúng có thể bị giam hãm vào một khu vực giới hạn và trở thành gần như là vô ích. Chỉ một vài nơi dọc theo bờ biển của Trung Quốc là có thể cung cấp chỗ trú ẩn cho hải quân của họ, nơi có thể tổ chức phòng ngự, đồng thời có thể dễ dàng tiếp cận vùng biển mở. Một là ở Hoàng Hải, nơi có căn cứ tàu ngầm đặt tại Xiaopingdao gần Đại Liên. Một nơi hợp lý khác là khu vực Hải Nam và khu vực nửa đóng của phía bắc Biển Đông, nơi có lợi thế gần với eo biển Malacca và các tuyến đường biển nối sang Ấn Độ Dương. Bất cứ vị trí nào khác xa hơn về phía Bắc sẽ có thể dễ bị tấn công ngăn chặn từ phía biển vào bởi Hoa Kỳ.
Vì lý do này, Trung Quốc đã và đang xây dựng căn cứ ngầm ở Tam Á trên đảo Hải Nam, nơi sẽ chứa không chỉ các tàu SSBN mà cả tàu sân bay cũng như đội tàu hộ tống khi chúng được triển khai.29 Năm 2008, một chiếc tàu ngầm SSBN lớp Tấn đã được triển khai ở đó, và tới tháng 10 năm 2010, hai tàu ngầm hạt nhân lớp Thương (Shang) đã vào bến ở Tam Á.30 Tàu sân bay Shi Lang cũng có thể sẽ được đóng ở đó. Khi Hải Nam phát triển trở thành căn cứ hải quân thì quần đảo Hoàng Sa ở phía nam đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp lá chắn bảo vệ đường không và đường biển cho Hải Nam. Điều đó giải thích vì sao Bắc Kinh rất nhạy cảm với các tàu khảo sát của Hoa Kỳ và tại sao 5 tàu hải quân Trung Quốc đã đụng độ với chiếc USNS Impeccable của Hoa Kỳ khi nó đi vào trong vùng biển cách đảo Hải Nam 121 km vào ngày 9 tháng 3 năm 2009.31
Bảo vệ Hải Nam là một chuyện, nhưng đảm bảo cho tàu sân bay và SSBN tiếp cận được vùng biển mở là một chuyện khác. Để làm được việc này, Trung Quốc cần phải kiểm soát được quần đảo Trường Sa, hoặc ít nhất họ cần có khả năng ngăn chặn các cường quốc bên ngoài can thiệp vào các hoạt động của hải quân Trung Quốc trong một khu vực mở rộng đến tận eo biển Malacca. Năm 2009, tướng Zhang Li, nguyên Phó tổng Tư lệnh Giải phóng quân Trung Quốc (PLA) đã kêu gọi xây một sân bay và một cảng biển tại bãi đá Vành Khăn trong khu vực Philipines tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Trường Sa mà hiện giờ đang do Trung Quốc chiếm. Ý định của họ là nhằm tiến hành các cuộc tuần tra trên không tại khu vực, để yểm trợ các tàu cá Trung Quốc, và để thể hiện chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.32
Chính Liu Huaqing là người đưa ra các khái niệm phòng thủ khu vực cho Trung Quốc, tạo ra không gian hàng hải phòng vệ cho việc phát triển hải quân. Liu đã học được khái niệm phòng thủ khu vực từ Sergei Gorshkov, chỉ huy hải quân Liên Xô, và là người hướng dẫn của ông tại Học viện Hải quân Liên Xô khi ông du học ở đó những năm 1950. Dưới trướng Liu, chiến lược hải quân của Trung Quốc chuyển từ phòng thủ ngoài khơi hay phòng thủ bờ biển sang “phòng thủ biển gần”, bao trùm một khu vực rộng kéo dài tới “chuỗi đảo đầu tiên”. Vùng biển này trải dài suốt từ Nhật Bản đến quần đảo Ryukyu, đến Philipines rồi đến Biển Đông; chuỗi đảo thứ hai nằm xa hơn ngoài khơi Thái Bình Dương, trải dài từ Nhật Bản và bao gồm cả đảo Guam.33 Kể từ khi hình thành cách đây hai thập niên, khái niệm chuỗi đảo tiếp tục định hình tư duy hải quân Trung Quốc, đóng vai trò là một cách để xác định và phân ranh giới các khu vực lợi ích.34 Khái niệm chuỗi đảo đầu tiên bao gồm Đài Loan như là điểm then chốt và cả không gian biển bao quanh nó, cho phép phong tỏa bằng tàu ngầm trong trường hợp Đài Loan tuyên bố độc lập khỏi đại lục. Nó cũng bao gồm những vùng biển đủ lớn cho các tàu ngầm SSBN thường xuyên tuần tra và triển khai các điểm phóng tên lửa ở giữa đại dương.35
Nếu là một khái niệm phòng thủ khu vực, nó bao gồm cả Hoàng Hải lẫn Biển Đông như là những vị trí trú ẩn an toàn để đặt các căn cứ hải quân cũng như đường ra biển khơi an toàn. Tuy nhiên, phòng thủ khu vực đòi hỏi phải giữ chân Hải quân Hoa Kỳ từ xa và ở một khoảng cách đủ lớn để nó không thể can thiệp vào việc triển khai của hải quân Trung Quốc trong khu vực. Để đạt mục tiêu này, Trung Quốc đã triển khai DF-21D, được mô tả là một loại tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM) có khả năng nhắm đến các tàu sân bay Hoa Kỳ và các tàu mặt nước lớn khác.36 Đô đốc Robert F. Willard, tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, nói rằng khi kết hợp cùng tàu ngầm Trung Quốc, tên lửa này có thể gây ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hải quân Mỹ, và cuối cùng có thể sẽ “vô hiệu hóa” năng lực triển khai sức mạnh của Hoa Kỳ.37 Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên bố rằng với khả năng định vị và truy đuổi mục tiêu hiệu quả, loại tên lửa này có thể đe dọa các tàu hải quân Mỹ trong tầm bắn từ 1.500 đến 2.100km.38
Phù hợp với các khái niệm phòng thủ khu vực này, Trung Quốc cũng kỳ vọng Hoa Kỳ công nhận các vùng ảnh hưởng riêng của mình ở Tây Thái Bình Dương, trong đó Đài Loan và Biển Đông phải chắc chắn nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong quan điểm của Trung Quốc, sự hiện diện của hải quân Hoa Kỳ ở vùng biển Tây Thái Bình Dương ngăn chặn việc Đài Loan thống nhất với đại lục và khuyến khích các nước ASEAN có yêu sách ở Biển Đông chống lại các yêu sách của Trung Quốc. Nếu có thể đạt tới một thỏa thuận nào đó theo cách này với một nước Mỹ đang suy yếu về kinh tế thì Trung Quốc quả thật sẽ trở thành siêu cường thống trị tại khu vực Tây Thái Bình Dương.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2013 8:54:35 GMT 9
Xét về phương diện lịch sử, Việt Nam nên liên kết với Mỹ hay Trung Quốc?
Hồ Bạch Thảo
Có thuyết cho rằng Việt Nam nên đứng trung lập, không liên kết với phe nào, để khỏi bị ràng buộc. Mới nghe qua cũng thuận tai, nhưng vị trí Việt Nam tại vùng nhạy cảm, nằm giữa hai thế lực đối nghịch, liệu có thể đứng giữa theo kiểu xiếc đu dây, mãi được hay không?
Kinh nghiệm Campuchia vào hậu bán thế kỷ 20, ông Hoàng Sihanouk tự hào về chính sách trung lập để khỏi sa vào chiến tranh. Nhưng thời cuộc đưa đẩy, qua cuộc đảo chánh của Lon Nol vào năm 1970, khiến ông Hoàng mất ngôi. Rồi từ Bắc Kinh [Beijing, Trung Quốc] trở về nước hô hào ủng hộ Khmer đỏ, chẳng bao lâu phải chạy sang Bình Nhưỡng [Pyongyang, Triều Tiên] sống lưu vong, trong khi đó Khmer đỏ làm cuộc tàn sát lớn, giết đến khoảng 1/5 dân số Campuchia!
Một cường quốc như nước Mỹ, cũng không muốn có thêm một lần tổn thất như đã xẩy ra tại châu Âu trong Thế chiến lần thứ nhất, nên cố hết sức tránh né không dấn thân vào Thế chiến thứ hai. Nhưng rồi bị Nhật Bản ném bom Trân Châu Cảng [Pearl Habor] vào tháng 12/1941, nên đành phải lao vào cuộc chiến, với tổn thất gần nửa triệu người.
Xét vậy, qua thực tế không ai để cho Việt Nam được yên ổn đứng giữa mãi, cần phải chọn một thế lực để liên kết; vậy nên chọn Trung Quốc hay Mỹ?
Có người viện dẫn câu tục ngữ “Môi hở răng lạnh” để chọn nước gần; xét ra ý nghĩa câu tục ngữ này chỉ có tác dụng trong trường hợp hai nước lân bang thực sự là đồng minh, như làn môi mềm sẵn sàng che chở cho hàm răng trong cùng một thân thể; nhưng điều thông thường xẩy ra cho mọi người là răng thường cắn phải môi đau điếng!
Hãy trưng bằng cớ lịch sử từ Trung Quốc đến Việt Nam, để chứng minh mối hại của các nước lân bang:
Vào thế kỷ thứ 19 Trung Quốc bị liệt cường xâm lăng, tình trạng được mô tả như “Một miếng thịt, trăm dao xâu xé.” Nước Anh hùng hổ gây hấn đầu tiên, lần lượt với các cuộc chiến tranh nha phiến, chiến tranh tại duyên hải Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô, Nam Kinh; rồi liên quân Anh Pháp tiến chiếm Bắc Kinh. Hậu quả với các điều ước bất bình đẳng mưu chiếm đất theo hình thức cho mướn [tô giới] giành được Hồng Kông và các cửa khẩu tại Chiết Giang [Zhejiang], Giang Tô [Jiangsu] hoặc dọc sông Trường Giang [Changjiang] để buôn bán, cùng thu được số tiền bồi thường chiến tranh.
Riêng nước lân bang Nga, không cần tốn một phát đạn, mượn cớ nói giúp để liên quân Anh Pháp rút ra khỏi Bắc Kinh; rồi manh tâm theo lối “ đợi nhà hàng xóm cháy đi hôi của”; bắt ép ký điều ước Trung Nga [14/11/1860] giành phần đất quan trọng tại phía đông sông Tuy Phân Hà [Suifenhe, tỉnh Hắc Long Giang] bao gồm cả vùng đất giáp giới bắc Triều Tiên cùng ngược lên đến hải cảng nổi tiếng Hải Sâm Uy [Vladivostok] hiện nay. Sự xâm chiếm này quan trọng hơn cả quyền lợi của nước Anh, vì những vùng tô giới của Anh hiện nay đã giao hoàn hết cho Trung Quốc, riêng đất lấy được trong điều ước Trung Nga thì vẫn vĩnh viễn nằm trong tay Nga.
Chưa hết, sau cuộc chiến tranh Trung Nhật [1894] nước Nga lại một lần nữa ra ơn cho Trung Quốc, bằng cách liên kết với Đức, Pháp đòi hỏi Nhật phải rút ra khỏi vùng đất đã chiếm tại tỉnh Liêu Ninh. Lẽ dĩ nhiên nước Nga được trả ơn với những đặc quyền như xây đường xe lửa từ Nga băng qua tỉnh Nội Mông Cổ Tự Trị Khu [Inner Mongolia] để đến hải cảng Vladivostok cho gần. Lại một đường sắt khác từ biên giới Nga băng qua các tỉnh Hắc Long Giang [Heilongjiang], Cát Lâm [Jilin] Liêu Ninh [Liaoning] đến hải cảng Lữ Thuận; phần đất dọc theo các tuyến đường sắt được hưởng qui chế trung lập; như vậy vùng ảnh hưởng của Nga tại Nội Mông, Hắc Long Giang, Cát Lâm và Liêu Ninh rất lớn, với ý đồ nuốt trọn 4 tỉnh này trong tương lai.
Rồi đến năm 1897, sau khi nước Đức chiếm hải cảng Giao Châu Loan [Jiaozhou, Sơn Đông], Nga cũng ngỏ ý giúp Trung Quốc can thiệp, rồi thình lình mang quân chiếm 2 quân cảng quan trọng Lữ Thuận [Lushun, Liêu Ninh], Đại Liên [Dalian, Liêu Ninh].
Cũng cần phải đề cập đến nước láng giềng thứ hai của Trung Quốc là Nhật Bản, tuy đến sau các cường quốc nêu trên, nhưng hung dữ hơn hết. Trong chiến tranh Trung Nhật năm Giáp Ngọ [1894] sau khi tiêu diệt Bắc Dương hạm đội và quét sạch quân Trung Quốc tại Triều Tiên; quân Nhật Bản đánh chiếm phía nam tỉnh Liêu Ninh và quân cảng Uy Hải Vệ [Weihaiwei] tại Sơn Đông. Sau mấy lần sai Sứ giả điều đình nhưng Nhật không chấp thuận, cuối cùng Thanh triều phải cử viên Đại thần hàng đầu, Lý Hồng Chương, đến Nhật thương lượng. Ngày 17/4/1895 họ Lý ký hoà ước nhục nhã Mã Quan (1), nội dung nhường cho Nhật vùng đất rộng phía nam tỉnh Liêu Ninh, cùng các đảo Đài Loan [Taiwan], Bành Hồ [Penghu]; bồi khoản 2 vạn vạn lượng bạc, số tiền lớn tương đương với ngân sách Trung Quốc trong 2 năm, gấp 8 lần tiền bồi thường cho liên quân Anh Pháp. Sau khi liệt cường Nga, Anh, Pháp can thiệp, Nhật chấp thuận từ bỏ vùng đất phía nam tỉnh Liêu Ninh, nhưng đòi tăng thêm tiền bồi thường.
Với số tiền lớn giúp Nhật trang bị thêm vũ khí, để chuẩn bị cho các cuộc xâm lăng mới. Điển hình năm 1937, sau vụ gây hấn tại Lư Câu Kiều [Marco Polo Bridge] gần Bắc Kinh, Nhật mở rộng chiến tranh, chiếm gần hết các tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hoàng Hà [Yellow river], Hoài Hà [Huaihe river], Trường Giang [Changjiang]. Lực lượng kháng chiến Trung Quốc phải co lại tại các tỉnh miền núi như Tứ Xuyên [Sichuan], Vân Nam [Yunnan], Thiểm Tây [Shaanxi], Cam Túc [Gansu]. Có thể nói nếu không nhờ thắng lợi của phe đồng minh trong Thế chiến thứ hai, thì số phận Trung Quốc không biết sẽ đi về đâu.
Hành động của Nga, Nhật đối với Trung Quốc đã được trình bày qua; nay hãy bàn ngay đến hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam, lân bang tại phương Nam. Trung Quốc thường cho Việt Nam là phiên bang cứng đầu, thoát ra ngoài vòng cương tỏa, nên họ chủ trương tìm mọi cách để sáp nhập Việt Nam vào bản đồ. Nhưng việc làm không dễ, nên triều đình Trung Quốc phải chọn thời cơ thuận lợi lúc nước Việt có nội loạn, thay đổi triều vua; hoặc khi binh lực Trung Quốc hùng mạnh ở thế tất thắng. Nay thuận theo dòng thời gian, ghi lại những sự kiện chính kể từ thời Việt Nam giành quyền tự chủ đến nay:
– Năm 981, nhà Tống được tin vua Đinh Tiên Hoàng mất, con còn nhỏ, trong nước có loạn, bèn mang quân sang xâm lăng, bị Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn đánh thua.
– Năm 1075, sau khi thi hành Tân pháp, Thừa tướng Vương An Thạch nhà Tống chuẩn bị mang quân sang đánh Việt Nam, nên bị Lý Thường Kiệt ra tay trước, đánh các châu Ung, Khâm, Liêm của Trung Quốc.
– Từ năm 1279-1292: Nguyên Mông trên đà chiến thắng tại Âu, Á; đến xâm lăng Việt Nam, hai lần bị đánh thua.
– Từ năm 1410-1406: lợi dụng việc Hồ Quí Ly giành ngôi họ Trần, nhà Minh mang quân sang đánh Việt Nam.
– Năm 1788, nhà Thanh lợi dụng việc thay đổi triều đại tại Việt Nam bèn mang quân sang xâm lăng, bị vua Quang Trung đánh thua vào mùa xuân Kỷ Dậu [1789].
Qua các sử liệu vừa trình bày chứng minh rằng nước sát nách có mối đe dọa lớn hơn nước xa. Chẳng phải nước gần độc ác hơn, nguyên nhân chính do bởi ba yếu tố: thời, thế, cơ, đun đẩy. Thật vậy, một khi không gian gần thì chiếm được nhiều thời cơ, thế lực mạnh yếu tương phản, dễ sinh ra chiếm đoạt.
* Nay đến lượt trực tiếp phân tích, giữa Mỹ và Trung Quốc, nên kết thân với nước nào?
Bàn về nước Mỹ, đất rộng, tài nguyên giàu có, từ trước đến nay không có truyền thống chiếm đất làm thuộc địa; ngoại trừ một vài đảo quốc có thể làm căn cứ quân sự như Phi Luật Tân, Guam vv… Trên 150 năm về trước, Ngụy Nguyên, Học giả kiệt xuất Trung Quốc trong tác phẩm đồ sộ Hải Quốc Đồ Chí đã nhận xét về chế độ dân chủ tại Mỹ, với lời như sau: “Chương trình [hiến pháp] của nước Mỹ đời qua đời không có mối tệ… 27 bộ [tiểu bang] (2) cộng cử một đại Tù trưởng [Tổng thống] cứ 4 năm thì thay đổi; quan chức tuy thay nhưng lòng người vui vẻ một dạ… Nghị sự, tố tụng, tuyển quan, cử hiền tài, đề bạt từ dưới lên; cứ dân chấp nhận là được, dân phủ nhận thì bỏ… Lại vừa giàu và mạnh nhưng không ăn hiếp nước nhỏ, không quen thói cú vọ với Trung Quốc, vì nghĩa phẫn giận, tình nguyện ra tay”.
Hiện nay nước Mỹ là cường quốc với nền kinh tế đứng vào bực nhất thế giới, xuất cảng sang Việt Nam những sản phẩm kỹ thuật cao mà Việt Nam cần, ngược lại Việt Nam có thể nhập cảng vào Mỹ các hàng thủ công, chế biến, hoặc thủy sản; nói tóm lại sự trao đổi hai bên đều có lợi.
Về quân sự và chính trị, Mỹ hiện nay đang hướng về châu Á, cùng với các nước Đông Nam Á dựng lá chắn, ngăn chặn thế lực Trung Quốc lấn xuống phương Nam và chiếm biển Đông thành ao nhà. Việc làm của Mỹ vô hình trung thuận với hoài bão ngàn năm của Việt Nam “Nam quốc sơn hà Nam đế cư.”
Nói về Trung Quốc, qua những dẫn chứng đã đề cập ở trên, chứng tỏ nước này là mối đe dọa truyền kiếp của Việt Nam. Hiện nay Trung Quốc trên đà phát triển, cần nhiều tài nguyên; kho tàng dầu mỏ to lớn tại biển Đông khiến họ thèm nhỏ dãi, nên nhắm mắt không cần biết đến sự phải trái, quyết chiếm cho bằng được.
Về mặt kinh tế Trung Quốc xuất cảng những hàng mà trong nước Việt Nam có thể sản xuất được; nên Trung Quốc xuất cảng sang nhiều bao nhiêu, thì kinh tế Việt Nam càng kiệt quệ bấy nhiêu. Ngược lại hàng Việt Nam không bán được tại Trung Quốc, nên số lượng nhập siêu rất lớn. Không nói đến việc người Trung Quốc có truyền thống di cư sinh sống khắp thế giới, Việt Nam là nước sát nách, lại được chính quyền Trung Quốc cổ võ, nên số lượng nhập cư càng đông; lúc bình thường thì khống chế nền kinh tế bản quốc, lúc hữu sự là đạo quân thứ năm, không thể không cảnh giác.
Xét về lịch sử , các triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn tại Việt Nam tuy có bất đồng, từng giao tranh trên chiến trường; nhưng về việc đấu tranh giành lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, thì không ai bảo ai, mọi triều đại, mọi thành phần đều nhất trí. Vậy bất cứ chính quyền nào tồn tại ở Việt Nam cũng không thể làm ngược lại truyền thống đó.
* Vậy tương lai ra làm sao? Câu trả lời thực rất khó; chỉ biết thành thực lấy tư liệu lịch sử để suy đoán. Xét tình thế hiện nay, Mỹ và các nước châu Á đang muốn thực hiện 2 trục “Hợp Tung” (3) và “Liên Hoành”(4) để chế ngự Trung Quốc. Về Liên Hoành kể từ đông sang tây có các nước Đông Nam Á và Ấn Độ; về Hợp Tung có các đảo quốc như Phi Luật Tân, Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn. Một khi hai trục được xiết chặt, trước tiên nền kinh tế Trung Quốc bị ảnh hưởng nặng, khiến nền móng bị lung lay. Kèm theo mối mâu thuẫn nội bộ có sẵn tại trong nước như: giữa giàu và nghèo, giữa thành thị xa hoa và miền quê nghèo khổ, giữa kẻ cầm súng với đồng lương hạn chế, với những công thương gia phè phỡn có con đi du học; giữa độc tài tham nhũng và người dân thấp cổ bé miệng. Một khi những “nhân” này gặp cơ duyên nẩy sinh, sẽ gây nên “quả” lớn, và ai dám bảo rằng tấn tuồng lịch sử Trung Quốc năm 1920 không diễn lại, chỉ khác đào, kép mà thôi. Lúc bấy giờ tại Trung Quốc quân phiệt cát cứ, tranh giành lẫn nhau; phương Bắc có Trực hệ [Hà Bắc], Phụng hệ [Liêu Ninh], Hoán hệ [An Huy]; phương Nam có Điền hệ [Vân Nam] Quế hệ [Quảng Tây] và Quốc Dân Đảng. Nếu thực sự xẩy ra tương tự, thì nước Việt Nam cảm thấy nhẹ gánh; lúc này chỉ cần một lời nói khéo, có thể lấy lại đất đai và vùng biển đảo bị mất.
Hồ Bạch Thảo
Chú thích:
Mã Quan: nay là cảng Hạ Quan, thuộc huyện Sơn Khẩu, Nhật Bản.
27 bộ: bộ chỉ tiểu bang, thời đó nước Mỹ mới có 27 tiểu bang.
Hợp Tung: thời Chiến Quốc Tô Tần thuyết các nước Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ, Tề, Sở, hợp lại để khống chế Tần gọi là Hợp Tung; vì Nam đến Bắc là tung.
Liên Hoành: thời Chiến Quốc Trương Nghi liên hợp 6 nước theo Tần gọi là Liên Hoành. Vì đất Tần nằm phía Tây Trung Quốc, 6 nước tại vùng Sơn Đông, gộp lại theo hướng Đông Tây tức hoành.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2013 9:00:53 GMT 9
Ai cho chú mày làm vua? 1 Chính đáng và chính đáng hóa Cao Huy Thuần Tôi mượn một trang sử của Pháp để mở đầu câu chuyện giải trí này. Chẳng phải vì tôi mê gì nước Pháp, nhưng quả thật, động đến chuyện hiến pháp, dù chỉ để giải trí, không đâu giàu hiến pháp bằng nước Pháp, bởi lẽ không đâu có 1789. Cách mạng rồi phản cách mạng, cực đoan rồi phản cực đoan, từ tả qua hữu rồi từ hữu qua tả, 1789 là nguồn sáng tạo cho nhiều bản hiến pháp chết non, chết trẻ, chưa sống đã chết, làm giàu cho tư tưởng chính trị, không riêng gì cho nước Pháp. Vậy thì tôi mượn một trang sử của Pháp, hồi bắt đầu hình thành nước Pháp. Như ai cũng biết, trước khi thành hình như các quốc gia có chủ quyền, châu Âu sống một thời gian dài dưới chế độ phong kiến trong đó quyền lực của vua bị chèn ép giữa hai quyền lực, ở trên và ở dưới. Trên là Hoàng Đế. Dưới là quý tộc. Rất chậm, chậm hơn nhiều so với ta, các quốc gia ở châu Âu mới thành hình, sau khi các ông vua đánh bại được thế lực ở trên và ở dưới, xác nhận chủ quyền toàn vẹn của mình. Bởi vậy, cho đến năm 987, nước Pháp chưa thành hình mà cũng chưa có vua. Do con cháu của Hoàng Đế ở bên trên suy yếu, chư hầu ở bên dưới của vùng lãnh thổ mà ngày nay ta gọi là nước Pháp, họp lại để bầu. Ấy, để bầu. Họ bầu. Trong giới quý tộc, họ bầu một ông bá tước lên làm vua. Đó là Hughes Capet, lấy vương hiệu là Hughes Đệ Nhất. Hai ngày sau, Nhà thờ làm lễ đăng quang cho vua. Với vương miện trên đầu, do bàn tay của đại diện Thượng đế đặt lên, vua chính thức là vua. Nhưng dù vậy, cùng với cái mũ, vua cũng phải cầm khí giới trong tay để chống lại các ông quý tộc lăm le chống đối. Một trong những ông bá tước bất trị như vậy đã bị tân vương hạch hỏi: –Ai cho chú mày làm bá? Câu đó hay, nhưng câu trả lời của ông bá tước cứng đầu còn hay hơn, lưu danh trong lịch sử: –Ai cho chú mày làm vua? Qui t'a fait roi? Câu trả lời hàm ý, như ai cũng thấy: “Tao! Tao cho chú mày làm vua. Chú mày được làm vua là do chúng tao bầu lên. Không có chúng tao thì chú mày đếch có cái ngai ”. Trong thời đại phong kiến, vua đầu tiên của nước Pháp là một lãnh chúa được các lãnh chúa khác bầu lên. Bầu cử đó tạo ra nguồn gốc và tính chính đáng cho tước vị và quyền lực của ông vua, cùng với cái mũ của Nhà thờ. Trong một thời gian vài thế hệ, hậu duệ của “chú mày”Huyghes Đệ Nhất này giữ đúng luật lệ bầu cử, nhưng khéo léo làm đủ mọi cách để cho trưởng tử của mình được bầu lên khi ông vua còn tại vị. Riết một hồi, mánh lới này không còn cần thiết nữa, thực tế cha truyền con nối trở thành thông lệ. Hai thế kỷ sau, vương quyền được củng cố, ông vua bỏ lửng chuyện bầu bán, con trưởng của vua cứ vô tư lên ngôi, thông lệ trở thành nguyên tắc từ năm 1223. Nguyên tắc ấy ban tính chính đáng cho quyền lực quân chủ. Cho đến thế kỷ 18, nguyên tắc ấy chắc như chân lý bất di bất dịch, tuy rằng trong học thuyết không thiếu gì các tác giả nêu lên câu hỏi: thí vua vì vua tàn bạo có chính đáng hay không? Ở phương Đông, câu hỏi đó cũng được đặt ra và Mạnh Tử được xem như người có ý tưởng táo bạo đáng kính. Nhưng đó là tính chính đáng trong việc hành xử quyền lực. Còn tính chính đáng về nguồn gốc của quyền lực thì ai cũng đinh ninh như thế: quyền lực là do Thượng đế ban cho một dòng họ, con tiếp nối cha. Đinh ninh ấy, cũng giống như đinh ninh về Thượngđế-tácgiả, bị lung lay tận gốc khi gió bão triết lý bắt đầu báo trước cách mạng 1789. Hobbes, Locke, rồi Rousseau gieo một tư tưởng mới vào trí óc con người, tống Thượng đế ra khỏi vai trò người ban chủ quyền, đặt vai trò ấy vào đoàn thể các cá nhân tập hợp thành quốc gia. Nguồn gốc của quyền lực từ nay là cái hợp đồng trong đó người chủ thể của quyền lực là dân và dân cai trị thông qua các người đại diện được bầu lên. Trên thực tế, cách mạng 1789 thổi bay hai chỗ tựa của tính chính đáng cũ: bay cái đầu của vua Louis 16 và bay luôn cái mũ của Nhà thờ. Thế nhưng không phải dễ gì mà tất cả mọi thành phần xã hội đều chấp nhận tư tưởng mới, thực tế mới. Hai tính chính đáng, cũ và mới, va chạm nhau, gây nên bất ổn chính trị và xã hội trong suốt mười năm đầu sau cách mạng. Trong vòng mười năm, nước Pháp thay đổi hiến pháp bốn lần, không lần nào mang lại kết quả ổn định. “Cách mạng ăn thịt con ruột của mình ”là câu nói bất hủ diễn tả rất đúng tình trạng tương tàn tương sát giữa phe cách mạng với nhau, giữa cánh cực đoan và cánh ôn hòa, để giữ vững quyền lực chống lại khuynh hướng phản cách mạng níu chặt lấy quân quyền, củng cố lại tính chính đáng cũ đã ăn sâu trong đầu óc của một thành phần xã hội. Trên đây là tôi chỉ mới vào đề. Bây giờ tôi mới nói đến chỗ muốn nói: giữa cơn hỗn loạn chế độ đó, tay hảo hán nào hứa hẹn được ổn định sẽ phất lên như diều gặp gió. Ổn định vốn là tâm lý chung của người người, xưa cũng như nay. Đánh đúng tâm lý đó, nay là đảng, xưa là người hùng. Nói chung, xưa nay gì, người hùng thường là một ông tướng. Sau 1789, đúng là một ông tướng, một tướng quân, chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, mới 30 tuổi uy danh đã lừng lẫy khắp Âu châu. Đó là tướng Bonaparte, kẻ đã đánh bại đế quốc Áo, chiếm nước Ý, thắng Ai Cập, một mình từ xa quyết đoán vận mệnh Âu châu, bất chấp ý kiến của chính quyền cách mạng ở thủ đô. Năm 1799, Bonaparte hãy còn là Bonaparte, trên ngưỡng cửa để trở thành Napoléon, trở thành vua. Nhưng... “Ai cho chú mày làm vua?” Là con đẻ của cách mạng, ông giương cao ngọn cờ chính đáng của cách mạng. Phe cách mạng cần ông để giữ quyền lực. Ông cần phe cách mạng để mưu đồ thăng tiến. Nhưng một phần của quần chúng và quý tộc còn sót vẫn còn tha thiết với vương quyền. Thì ông tạo ra vương quyền! Thì ông xây dựng chiếc ngai của ông trên cả hai tính chính đáng! Chuyện ấy, ông phải mượn tay của nhà tư tưởng cừ khôi nhất của thời 1789, người đã tạo cơ sở lý thuyết cho bản hiến pháp đầu tiên: Sieyès. Tài của Sieyès là trộn được nước với dầu. Ngày 18 Hạ Thu 1799, Bonaparte làm đảo chánh. Soạn hiến pháp mới, Sieyès tưởng tượng ra một sự phân quyền nữa ngay giữa lòng cơ quan lập pháp và giữa lòng cơ quan hành pháp. Quốc hội bị chia ra nhiều thành phần, có thành phần chỉ lo việc soạn thảo luật, có thành phần thảo luận dự luật nhưng không biểu quyết, có thành phần biểu quyết mà không thảo luận: một viện nói và một viện câm. Chính phủ cũng chia ra thành hai đầu, hai quốc trưởng, một ông lo việc nội trị, một ông lo việc ngoại giao, mỗi ông có một nội các riêng biệt. Trình dự thảo hiến pháp lên Bonaparte, tướng quân sổ toẹt cái mục quốc trưởng hai đầu, thế vào bằng ba đầu, hai cái đầu hữu danh vô thực, chỉ đóng vai trò cho ý kiến, thực quyền dồn cả vào một đầu thôi, là ông. Miễn cho tôi đi vào chi tiết của bản hiến pháp nhiêu khê này mà ý đồ lúc đầu của Sieyès là chia quyền lực ra như thế để tránh cả hai mối hiểm nguy đã vấp phải: hiểm nguy từ Quốc hội độc tài, hiểm nguy từ hành pháp độc tài. Nhưng, với Bonaparte đầy tham vọng, hành pháp làm sao không độc tài được? Quốc trưởng ba đầu chỉ là tạm thời, tướng quân sửa hiến pháp ba lần trong vòng bảy năm để: lần thứ nhất, phong Bonaparte làm quốc trưởng trọn đời, có quyền chỉ định người kế vị; lần thứ hai, biến quốc trưởng thành Hoàng Đế, biến Bonaparte thành Napoléon. Cả hai lần, Bonaparte đều “trưng cầu dân ý”, cũng như đã “trưng cầu dân ý”để chấp thuận hiến pháp. Ba triệu dân chấp thuận. 1500 chống. Nhưng 4 triệu dân không bỏ phiếu. Đâu có hề chi khi Bonaparte chỉ là kẻ tiếm quyền bằng sức mạnh. Ông lên ngai bằng sức mạnh, cũng sức mạnh sẽ đẩy ông ra khỏi ngai. Như thế, mặc dù ông đã khôn ngoan đặt cái ngai của ông lên cả hai tính chính đáng và đây mới là chuyện đáng nói của tôi. Trước hết là tính chính đáng mới mà cách mạng vừa đem lại, chính đáng dân chủ. Ông tuyên bố: “Hiến pháp được xây dựng trên những nguyên tắc thực sự của chính thể đại diện...”. Nghĩa là quyền lực của ông là do từ dân, chứ không phải do đảo chánh, do bạo lực. Hơn thế nữa, dân đang muốn chấm dứt tình trạng hỗn loạn, ông là người sẽ thực hiện khao khát đó, đưa cách mạng đến hồi kết thúc. Cho nên ông kêu gọi: “Hỡi công dân, cách mạng đã được gắn chặt vào những nguyên tắc lúc khởi đầu: cách mạng đã chấm dứt”. Bonaparte tiếp nối cách mạng và khép lại cách mạng: tính chính đáng của cách mạng đã gắn chặt vào ông. Bởi vậy, ông làm gì cũng là do ý của dân. Hiến pháp là do ý của dân. Làm quốc trưởng trọn đời cũng là ý của dân. Lên ngôi hoàng đế cũng là do ý của dân, vì tất cả đều thông qua trưng cầu dân ý. Chuyện lạ đời chưa bao giờ thấy trong lịch sử: điều 1 của hiến pháp được sửa đổi lần thứ hai tuyên bố: “Chính quyền của Cộng Hòa được giao cho một hoàng đế”. Như vậy còn là Cộng Hòa? Như vậy là dân chủ hay quân chủ? Là Cộng Hòa quân chủ? République monarchique? Là quân chủ cộng hòa? Monarchie républicaine? Ông nói: Napoléon là vua trong một nước Cộng Hòa bởi vì Cộng Hòa của ông là tiếp nối Cộng Hòa đã được khai sinh sau khi vua Louis 16 bị xử trảm. Ông là tiếp nối, nên một mặt ông phải tuyên thệ trung thành với những nguyên tắc của 1789: tự do, bình đẳng, quyền tư hữu. Ông phải chấp nhận những cơ quan lập pháp được xem như biểu hiện ý muốn của dân. Là vua, ông không rời tính chính đáng dân chủ. Nhưng, mặt khác, ông là vua, ông là hoàng đế. Là vua, ông phải cư xử giống như các vua trong lịch sử lâu đời, giống như các vua tại vị trong các nước lân bang. Cho nên ông phải để vợ cũ, lấy vợ mới là công chúa, lại phải làm lễ cưới ở Nhà thờ, phải nhận vương miện từ Thượng đế. Lễ lược, cưới hỏi, đăng quang, diễn xuất như vua... ông làm tuốt như truyền thống vua chúa, ông tưởng ông khoác được lên vai cả hai tính chính đáng. Nhưng chẳng hoàng hậu, chẳng giáo hoàng, chẳng diễn xuất nào thay thế được sự công nhận tự nhiên của lịch sử lâu đời. Diễn xuất tài tình đến đâu đi nữa, Napoléon vẫn hiện nguyên hình là con của một thứ dân đảo Corse, một kẻ tiếm vị, một vua tân trang, một tay cách mạng giả. Thế còn ba cuộc trưng cầu dân ý thì thế nào? Chẳng phải là ý dân đó sao? Sách luật của Pháp phân biệt hai thứ trưng cầu dân ý, một thứ chân thật, có lựa chọn thực sự, thì gọi là référendum, một thứ giả hiệu, bắt buộc và không có lựa chọn nào khác, thì gọi là plébiscite. Ba cái plébiscite của Napoléon chụm lại chỉ làm nên hòn núi giả – hòn giả sơn. Các viện trong cơ quan lập pháp cũng vậy, chỉ là những con rối trong sợi chỉ của phù thủy. Gián tiếp, Napoléon cử vào đấy bộ hạ tay chân, chẳng dính dáng gì với dân, chẳng chút hào khí để chống đối, bảo vâng gọi dạ thì mau, nói ngược thì ngọng. Chính phủ thì là quái thai, chẳng phải quân chủ, chẳng phải cộng hòa, chẳng phải quý tộc, chẳng phải thứ dân. Cái chính phủ ấy dọa nạt, dọa nạt nước Pháp và dọa nạt cả Âu châu. Lời thề chưa ráo nước bọt, Napoléon, ngay khi mới được bầu lên Đệ nhất Quốc trưởng, đã dẹp tất cả những tự do mà Sieyès hy vọng sẽ được gìn giữ. Cướp chính quyền mà lên, Napoléon chỉ có thể giữ được chính quyền bằng bạo lực. Chế độ của ông dần dần đi vào con đường độc tài rất chi là chuyên chính. Hoàng Đế không chấp nhận một dấu hiệu chống đối nào, dù cho tất cả mọi cơ quan đều được sắp đặt để tung hô. Một mình ông thay thế tất cả, lãnh đạo tất, trái luật cũng bất cần, hiến pháp cấm thì ông ra luật bằng sắc lệnh. Báo chí? Ồ, báo chí, cái lũ ấy thì phải bịt mồm cho kỹ, rất kỹ. Ông để lại cho các hậu thế độc tài một câu nói để đời: “Nếu ta thả lỏng dây cương cho báo chí, ta sẽ không ở được trong chính quyền quá ba tháng”. Ông có lý: tuyết nhẹ thế kia, nhưng tuyết có thể làm rơi núi đá. Để giữ núi đá, ông tái lập quân quyền, giảng hòa với lớp dân còn tin ở vua chúa, tạo ra một giới quý tộc mới cha truyền con nối, cưỡng hôn giữa chủ quyền của dân và chủ quyền của trời. Ông lấy danh hiệu “Hoàng Đế do ân sủng của Thượng đế và chủ quyền nhân dân”. Quái đản cái ý thức hệ con lai cha gà mẹ vịt. Nói gì thêm? Thôi thì thế này: dân chúng có thể lầm củ cà rốt với củ sâm nhưng không ai lầm tính chính đáng thật với tính chính đáng giả cầy. Kẻ độc tài nào cũng bắt buộc phải tạo chính đáng cho mình bằng cách chính đáng hóa quyền lực. Nhưng bản tâm đã độc tài thì cái gì nhắm đến cũng chỉ là quyền lực mà thôi, càng chính đáng hóa càng lộ ra tính bất chính, thủ thuật. Trong trường hợp Napoléon, cái giả lộ ra ở cả hai mặt, mặt vua và mặt dân, dơi không nhận ra ông mà chuột cũng không rúc rích với ông được. Đó là chuyện bên Tây. Bên Tàu có hào kiệt nào đánh đu với hai tính chính đáng như vậy không? Có, mà không chừng còn lý thú hơn. Cứ đọc hiến pháp thì biết. Điều 1, ngay từ điều 1: “Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước xã hội chuyên chính nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo... ”. Ông Mác chễm chệ ngồi ở trên ngai. Ông Mao xen vào ngồi ké: “... và xây dựng trên liên minh giữa công nhân và nông dân”. “Ai cho nị làm vua?”. Cả ông Mác và ông Mao cùng đáp một lần: “Ngộ!”Nhanh tay hơn, ông Mao hích ông Mác, giơ quyển sách đỏ lên. Đâu phải! Đâu phải! Có người lên giành cái ngai. Đó là ông Rousseau, xin lỗi, ông Lư Thoa. Ông Lư Thoa la lớn: “Không phải toa! Moa!”Và ông chỉ tay vào cái điều 2: “Mọi quyền lực trong Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc thuộc về nhân dân”. Các ông ấy cãi nhau như vậy từ 1954. Cãi bên ấy chưa đủ, họ đem nhau qua cãi ở bên ta. Trước hết, phải chân thành công nhận rằng ông bạn lớn của ta có lý khi khẳng định ngay từ trên chóp bu hiến pháp nguồn gốc chính đáng nguyên thủy nơi quyền lực của ông ấy là ý thức hệ. Khác với ta, ông ấy đã vạn lý trường chinh với cái ý thức hệ đó nhiều năm trước khi cắm được ngọn cờ trên Thiên An Môn. Bắt đầu của họ khác với bắt đầu của ta: nguyên thủy của Nhà nước độc lập của ta không mang cái tính chính đáng ý thức hệ ấy. Còn họ, Mao đánh nhau với Tưởng, quân đội đánh nhau với quân đội, đảng Cộng sản đánh nhau với Quốc dân đảng, ý thức hệ cộng sản đánh nhau với ý thức hệ chủ nghĩa tam dân. Chuyên chính vô sản thắng, lên nắm quyền. Quyền ấy đương nhiên là chuyên chính vô sản. Bình minh của họ là chuyên chính vô sản. Còn bình minh của ta thì bầu trời xanh lơ, đâu có đỏ như thế. Nơi bầu trời xanh lơ ấy, không có chuyên chính, không có vô sản, chỉ có hạnh phúc, chỉ có dân tộc. Ta có tính chính đáng của ta, họ có tính chính đáng của họ. Cái tính chính đáng nguồn gốc ấy, họ phải bảo vệ là chuyện của họ và họ có lý, họ không bảo vệ thì quyền lực của họ mất tổ tiên. Cho nên họ sì sụp hương khói ông Mao. Nhưng cả ông Mao lẫn ông Mác đều phải biết rằng cái tính chính đáng ấy càng ngày càng chỉ là giấy tờ. Trên thực tế, nghĩa là trên cái ngai, nó chỉ là con mèo, con mèo giấy, không bắt được chuột. Tuy vậy, cái chữ “chuyên chính”của hai ông lại là nanh vuốt phải thờ bởi vì nó hợp với truyền thống của tổ tiên để lại từ hồi cụ tổ Tần Thủy Hoàng đốt sách. Không thờ thì cái tên Lư Thoa kia sẽ chiếm ngai mất.
1 Tham luận viết cho Hội Thảo Hè, 12-13 tháng 8-2013, Singapore
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2013 9:03:45 GMT 9
Vậy thì hóa ra ông Lư Thoa vẫn sống dai, vẫn trường thọ, ngay cả trên đất của quyển sách đỏ, vệ binh đỏ. Vẫn cứ oang oang “mọi quyền lực thuộc về dân”. Cái ấy thì ta cũng nói, ai cũng nói, ông Napoléon cũng bập bẹ. Có điều là, ông Lư nói là nói thiệt, nói như mục đích, nói như cứu cánh. Nói rằng đấy là mục đích, đấy là cứu cánh, đấy là chính đáng. Còn về sau, nhiều kẻ cũng nói, nhưng nói như đầu lưỡi, nói để cúng cụ. Ông Lư nói là chỉ đích danh cái tính chính đáng. Còn về sau, nhiều kẻ vái ông ba xá để mượn câu nói của ông mà đóng vở kịch chính đáng hóa một tình trạng chính đáng lung lay. Bởi vì, trong thời đại ngày nay, dù độc tài bao nhiêu cũng không né tránh được sự thật hiển nhiên này: không có dân thì không có tính chính đáng. Trước sau gì, nhiều ít gì, rồi cũng phải chính đáng hóa quyền lực, nhất là khi quyền lực ấy công khai mang tính chuyên chính. Chuyên chính đến bao nhiêu đi nữa, không quyền lực nào phô trương thân hình trần trụi của mình. Văn minh thì phải bận áo. Vấn đề là: bận áo vì thật tâm thấy đó là văn minh hay bận áo để che mắt cái bản chất man rợ. Vấn đề là: thật tâm thấy ông Lư như lý tưởng hay bản tâm mượn ông Lư để trường tồn. Thấy ông ấy như lý tưởng thì là dân chủ. Thấy ông ấy như phương tiện thì là... Napoléon. Cãi nhau trên lý thuyết thì gần 60 năm rồi vẫn chưa hết cãi. Một bên nói rằng nếu thật tâm dân chủ thì phải hỏi cái lá phiếu và minh bạch gắn tính mạng chính trị của mình vào lá phiếu. Một bên nói: ta có trăm cách để dân chủ gấp ngàn lần, nào là thương thảo với dân, nào là hỏi ý kiến, cứ gì cái mảnh giấy cỏn con ấy. Tính chính đáng đâu có phải chỉ đo bằng lá phiếu! Đem lại cho dân phồn vinh kinh tế chẳng phải là chính đáng sao? Ổn định chính trị chẳng phải là chính đáng? Tính chính đáng tìm ở đâu nếu không phải là nơi tâm lý thỏa mãn của người dân? Chính đáng không phải chỉ nằm nơi lá phiếu, nhưng, được rồi, nếu phải bầu cử để chứng minh tính chính đáng thì ta bầu cử. Sợ gì! Bầu phiếu cũng là nghề của ta! Khổ nỗi, có lá phiếu và lá phiếu, lá phiếu này không giống lá phiếu kia. Lá phiếu, ôi lá phiếu, ở nơi này ngươi là giáo dục, ở nơi kia ngươi là xảo trá. Phất phơ giữa chợ, ở nơi này em là tấm lụa đào, ở nơi kia em đi vào lầu xanh. Thế giới bàn tán không ngớt về lụa đào hay lầu xanh từ khi cái quận Buyun (Bộ Vân) đưa lá phiếu vào chính trị địa phương năm 1998. Đây là cuộc đầu phiếu trực tiếp đầu tiên bầu thủ lãnh ở cấp quận. Tham nhũng, lộng quyền thì trên dưới gì cũng đều có, nhưng phép vua vẫn cứ thua lệ làng, ở cấp dưới, các tiểu vương nhũng nhiễu quá đến nỗi dân quê phải nổi loạn. Dân nổi loạn thì tính chính đáng nằm đâu? Thỏa mãn hay bất mãn? Buyun sẽ trả lời. Buyun sẽ chứng minh: lá phiếu ở đây là lụa đào chính hiệu. Buyun có 16.000 dân. Mười sáu ngàn dân sẽ đi bỏ phiếu trực tiếp. Nhưng dân chủ ở đây là “dân chủ với màu sắc Trung Quốc”, cho nên cái gì cũng đặc biệt và hãy tìm cái mới trong cái đặc biệt ấy. Cái mới trước tiên là có nhiều ứng cử viên. Ba mươi chữ ký giới thiệu của cử tri là đủ. Nhiều, cho nên phải giới hạn. Thế là phải tổ chức một cuộc bỏ phiếu hạn chế ở vòng loại để giới hạn số ứng cử viên còn 15 người. Mười lăm người vẫn là nhiều. Thế là đến lượt một “hội nghị liên tịch tuyển cử”(xuanju lianxi huiyi) được tổ chức, gồm 162 vị chức sắc của các làng và quận, để chọn ra 2 người trong số 15 người ấy, bằng phiếu kín hẳn hoi, để đưa ra tranh cử chức chủ tịch Ủy ban nhân dân. Hai người này có một tuần để vận động, để trả lời chất vấn của cử tri. Thế nhưng, không cần phải qua vòng loại vì được hưởng một điều khoản đặc biệt của luật lệ bầu cử địa phương, một nhân vật thứ ba xuất hiện để tranh cử. Ứng cử viên ấy tên là Tan Xiaoqiu, phó bí thư đảng ủy Buyun. Ngày 31-12-1998, toàn thể cử tri bỏ phiếu, thế là trực tiếp, đúng là dân ý. Tan Xiaoqiu thắng cử. Đúng là dân chủ, nhất là lại có cái mới này nữa: chàng thắng cử với tỷ số 50, 29 % mà thôi. Ba năm sau, cuối tháng 12-2001, hết nhiệm kỳ, Buyun lại tổ chức bầu cử. Cũng vòng loại. 14 người lọt sổ. Hai người bị loại nữa vì lý do hình thức. Một người tự ý rút tên. Hội nghị liên tịch tuyển cử họp lại, lần này gồm 165 người, đại biểu của các làng và quận. Bầu phiếu. Kín. Chọn ra 2 người tranh cử. Một trong 2 người là... Tan Xiaoqiu. Cử tri bỏ phiếu. Trực tiếp. Người thắng cử là Tan Xiaoqiu. Tha hồ bình luận, cả thế giới bình luận, người tỉa ra cái hay, người thọc vào cái dở, ai cũng có lý. Người nào là cảm tình viên của chế độ thì hoan hô: Trung Quốc đi vào con đường dân chủ. Người nào thiếu hồng huyết cầu lạc quan thì lắc đầu: nào là sàng lọc, nào là lựa chọn, cái lưới an ninh không để lọt qua bất cứ một bất ngờ nào. Người nào ba phải thì tủm tỉm: “thà chút chút còn hơn không”, “chút chút để ổn định hơn nhiều nhiều mà bất ổn”. Chút chút để ổn định, để anh nông dân xả uất khí trước tham nhũng, để đưa ra trước dư luận và thế giới bằng chứng cụ thể về tính chính đáng của chế độ, ở tận gốc rễ làng xóm, thế là gì nếu không phải là chính đáng hóa cơ sở? Nếu anh nông dân bằng lòng thì chính đáng hóa ấy là hay lắm chứ, là đáng làm. Nhưng nếu dư luận cho là thủ thuật, thì sao? Thay vì chính đáng hóa, phải chăng mục đính cốt lõi chỉ là khí cụ hóa anh nhà quê, phương tiện hóa người dân? Con người, rốt cục, vẫn là dụng cụ, không phải chủ thể. Trong hàng trăm bài báo, hàng chục quyển sách viết về những thử nghiệm bầu cử tương tự như kiểu Buyun, tôi nhặt ra đây cái lý luận bênh vực tính chính đáng - hành xử ấy của một cảm tình viên ở Mỹ: dân chủ không phải là mục đích, không phải là cứu cánh nhắm đến; dân chủ chỉ là phương tiện để giữ vững chính quyền. Ông ấy dám nói thêm: ở đâu cũng vậy, không riêng gì Buyun. Chẳng lẽ ở ông Lư Thoa cũng vậy sao? Ở phong trào Ngũ Tứ cũng mắm sốt? Ở nơi xe tăng Thiên An Môn cũng thế thôi? Ông ấy viết: “Bao nhiêu nhà nghiên cứu Tây phương, đầu óc bị ô nhiễm vì những lý thuyết tự do về tính chính đáng, đã gặp khó khăn để hiểu cách chính đáng hóa trong chính thể cộng sản, nhất là trong bối cảnh văn hóa và lịch sử chính trị của Trung Quốc”. Và ông cắt nghĩa: Nhà lãnh đạo chính đáng là “một nhà lãnh đạo nhận được Thiên mệnh, nhân từ và biết tôn trọng thần dân, ban phát lợi tức quốc gia một cách công bằng, và được dân chúng thương mến, dù không bày tỏ. Một người lãnh đạo phải biết không được làm hại dân, trái lại, có chính sách làm lợi, làm giàu cho dân và để cho dân làm những gì họ cho là tốt”. Nói cách khác, thế là minh quân trong đạo Khổng. Ngày nay, được như thế cũng là may rồi. Nhưng, thứ nhất, ông ấy quên lửng cái điều 2 trong hiến pháp Bắc Kinh! Nếu chỉ muốn minh quân thì vứt cái điều 2 ấy đi. Vả chăng, thứ hai, minh quân là gì trong học thuyết chính trị Tây phương? Là despotisme éclairé, độc tài sáng suốt. Là Frédéric II của nước Phổ. Là Cathérine II của nước Nga. Cũng không phải là cái lý tưởng chính đáng của điều 2. Điều 2 đã gửi trả lại cái thiên mệnh của đức Khổng về cho ông trời rồi. Đố ông tác giả ấy trả lời được câu này: tại sao một minh quân như vậy, được dân thương như vậy, lại còn sàng lọc đủ trò để kiếm cho được cái lá phiếu của anh nông dân? Phải chăng, vì ở thời đại này, dù là anh nhà quê ít học đi nữa, cũng biết đứng lên mà hỏi: “Ai cho chú mày làm vua?” Có lẽ chuyện Buyun đã cũ quá rồi, không diễn tả đúng thực tế sinh động dân chủ ngày nay. Thì tôi xin mượn chuyện mới hơn. Chuyện sửa đổi hiến pháp gần đây nhất, thực hiện năm 2004. Cũng là điều 2 đấy! Bộ Chính trị quyết định sửa đổi hiến pháp 1982. Một nhóm quan chức được chỉ định để soạn thảo. Họp lần đầu ngày 27-3-2003. Bộ Chính trị vạch ra nguyên tắc. Tham khảo ý kiến trong vòng hạn chế. Dự thảo thành hình tháng 8 năm ấy. Khi đó cái chuyện sửa đổi mới được chính thức công bố. Dự thảo đưa ra Quốc hội. Như thường lệ, Quốc hội biểu quyết nhanh, gọn, ngày 14-3-2004. Xong. Tuy chỉ được chính thức công bố vào tháng 8, báo chí đã biết vào tháng 6. Nhiều nhà nghiên cứu danh tiếng cũng đã được tham vấn trước đó. Giới đại học mở nhiều thảo luận. Đại học Thanh Đảo. Đại học Thượng Hải. Nhiều giáo sư đại học được Bộ chính trị hỏi ý kiến. Giáo sư Jiang Ping (Giang Bình). Giáo sư Wu Jinglian (Ngô Kính Liễn). Giới đại học xôn xao, hồ hởi. Không lâu! Một chỉ thị mật ra lệnh ngưng thảo luận, ngưng xuất bản bài viết của đại học. Vài nhà kinh tế, vài luật gia từng phát biểu ý kiến được công an hỏi chuyện. Truyền thông tuyên bố: sửa đổi hiến pháp đã được tổ chức một cách dân chủ và trong khuôn khổ một cuộc tham khảo ý dân rộng rãi. °°° Napoléon đem lại nhiều thành tựu tích cực cho nước Pháp. Nhưng ông độc tài thì người Pháp nói ông độc tài. Ông bóp nghẹt tự do thì người Pháp nói ông bóp nghẹt tự do. Nước Pháp có sách vở mà ta khâm phục. Thứ văn hóa ấy tỏa sáng văn minh. Đức Khổng có nhiều ý kiến chính trị không hợp thời nữa. Nhưng chỉ một chữ của ngài thôi, mà ngài để trên đầu mọi sự mọi vật, chữ Nhân, cũng đủ để người Việt Nam tôn thờ ngài như Thầy. Chữ Nhân ấy đã bị truất phế, thay thế trên bàn thờ cụ tổ Thủy Hoàng bằng chữ lợi, chữ tham, chữ dối, chữ thủ đoạn, chữ xảo trá. “Ai cho chú mày làm vua?”Cái văn hóa ấy. Chú thích 1. Về Buyun và những thử nghiệm bầu cử tương tự, bình luận đầy dẫy trong các sách báo đại học Mỹ. Trình bày tổng kết rất gọn trong: Gunter Schubert, La démocratie peut-elle coexister avec le Parti unique? Perspectives chinoises, n° 77, mai-juin 2003. 2. Ông tác giả nói ở cuối bài là: Guo Baogang (Quách Bảo Cương), China's Quest for Political Legitimacy: The New Equity-Enhancing Politics, Lanham Lexington Books, 2010. 3. Về sửa đổi hiến pháp 2004, xem: Chen Jianfu (Trần Kiến Phúc), La dernière révision de la Constitution chinoise. Grand bond en avant ou simple geste symbolique, Perspectives chinoises, n° 82, mars-avril 2004.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:33:36 GMT 9
BI KỊCH AI CẬP, MÙA XUÂN Á RẬP, CHÍNH TRỊ TÂY PHƯƠNG Khi Muhammad Morsi đắc cử tổng thống Ai Cập cách đây hơn một năm, Hoa Kỳ rất âu lo và cảnh giác. Cuồng nhiệt và hãnh diện với chủ thuyết dân chủ tự do trong kỷ nguyên Hậu Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ, nhất là phe Tân Bảo Thủ, không chút thoải mái với Muslim Brotherhood, đảng của Morsi. Theo họ, Hồi giáo luôn tin tưởng chính trị là một phần của tôn giáo và có lập trường tiêu cực đối với phụ nữ và các sắc dân thiểu số. Thế giới Tây Phương luôn ước muốn phe thế tục lãnh đạo cuộc cách mạng Ai Cập đắc thắng. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng đã phải thừa nhận 52% cử tri Ai Cập đã bỏ phiếu lựa chọn Morsi — một hậu thuẩn mạnh mẽ hơn cả số phiếu cử tri Mỹ dành cho Barack Obama 5 tháng sau đó. Vì vậy , Morsi vẫn có đủ quyền lãnh đạo chính đáng ở Ai Cập. Hơn nữa, quần chúng trong các xứ Trung Đông và Bắc Phi đã rất hoan hỉ: sau hơn 30 năm dưới chế độ độc tài chuyên chế với hậu thuẩn của Hoa Kỳ và các đồng minh Tây phương, Ai Cập đang trên đường trở thành một quốc gia dân chủ. Vì những lẽ đó, thế giới đã phải rúng động khi chứng kiến các biến cố trong mấy tuần lễ gần đây. Cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Morsi bởi quân đội Ai Cập đã tạo một tiền lệ nguy hiểm trong toàn khu vực. Và viễn cảnh đối với Ai Cập thật sự bi đát. CHÍNH TRỊ HẬU ĐẢO CHÁNH Chính quyền Morsi bắt đầu gặp khó khăn khi tay chân và phe phái của nguyên tổng thống Hosni Mubarak đã xuống đường chống đối ngày 30-6-2013, ngày kỷ niệm một năm Morsi lên cầm quyền. Do phe quân đội giàn dựng, với sự đồng tình từ phía Mỹ, phong trào phản đối đã trở nên lúc một bạo động, đã phóng hỏa trụ sở của “Brothers,” và gây thiệt mạng cho 48 thường dân. Ngày 1 tháng 7, quân đội ra tối hậu thư: Morsi có 48 tiếng đồng hồ để giải quyết các tranh chấp với phe chống đối. Morsi đã đáp ứng với lập trường khẳng định tính chính đáng của một tổng thống dân cử và bác bỏ mọi đòi hỏi của phe quân đội. Ngày 3 tháng 7, tham mưu trưởng quân đội, tướng Abdel Fattah al-Sisi, loan báo ngưng thi hành hiến pháp và câu lưu tổng thống. Các cơ quan truyền thông Tây Phương, đặc biệt Hoa Kỳ và Anh Quốc, quy trách: tai họa đối với nền dân chủ của Ai Cập là do lỗi của Morsi. Giới truyền thông dòng chính loan báo phe chống đối không chỉ gồm một nhóm nhỏ bất đồng chính kiến. Vài nguồn tin còn đi xa hơn, ước tính khoảng 14 triệu người đã tham gia biểu tình. Tạp chí The Economist, số ra ngày 6- 7-2013, đã tường thuật: hầu hết dân Ai Cập đã chống đối Morsi. Tờ báo đưa ra nhiều lý do: Morsi bất lực và đã chẳng làm gì để cứu vãn nền kinh tế lúc một suy sụp; số dự trữ bằng đồng pound Ai Cập và ngoại tệ sụt giảm; lạm phát lúc một gia tăng; nạn thất nghiệp của tầng lớp dưới 24 tuổi vượt quá 40%; Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) đã thất vọng khi phải dành cho Ai Cập một khoản tiền vay lớn lao, một tiền lệ không tốt đối với nhiều quốc gia khác; cúp điện đã trở thành một sự kiện thường xuyên trong những ngày hè thiêu đốt; từng đoàn xe lúc một dài nối đuôi chờ mua nhiên liệu tại các trạm xăng; nông dân không được trả tiền cho lúa mì bán ra; tội phạm đã gia tăng gấp ba kể từ Mùa Xuân Á Rập… Tóm lại, trong nhãn quan Tây phương, sự thất bại của phong trào Brothers trong nỗ lực thành lập một chính quyền đại diện cho nhiều quan điểm khác nhau đã khiến tình hình ngày một thêm bi đát. Ai Cập, ngay cả trong những thời kỳ an bình nhất, cũng đã rất khó trị vì, bởi lẽ xã hội luôn phân cực chia rẽ. Các thành phần thế tục và học thức luôn ao ước lôi kéo xứ sở vào một thế giới tân tiến, đa diện và cởi mở. Một tầng lớp xã hội bảo thủ và nặng về tôn giáo luôn xem một Cộng Hòa Hồi Giáo, thay vì chủ nghĩa xã hội hay tư bản, như giải pháp cho nhiều thế kỷ bất công, bất bình đẳng và thối nát. Vả chăng, Ai Cập còn có một thiểu số Cơ Đốc giáo khá quan trọng, chiếm khoảng 1/10 trong số 84 triệu dân, bên cạnh một thiểu số Hồi giáo phái Shia ít quan trọng hơn — cả hai luôn bất mãn với một chính quyền phái Sunni. Cũng theo các cường quốc Tây phương, thay vì tìm cách xây dựng các định chế độc lập — tòa án, truyền thông, công nhân viên, quân đội, cảnh sát — để kiềm chế quyền hạn của chính quyền như trong các xứ có truyền thống dân chủ vững chắc, Morsi đã tìm hết cách phá hoại các định chế sẵn có. Tổng Thống Morsi đã thể hiện chương trình lập pháp qua một Thượng Viện đã được bầu chọn chỉ với 10% cử tri; đã có những chọn lựa sai lầm, không thích đáng, hành động trái với hiến pháp; sắp xếp tay chân thuộc phong trào Brotherhood vào các vị trí then chốt; gieo mầm sợ hải trong giới thế tục với khả năng phong trào Brotherhood đang tìm cách Hồi-giáo-hóa xã hội Ai Cập về mọi phương diện; giữ im lặng khi các tên côn đồ đe dọa và tấn công các thành phần tôn giáo thiểu số; dung túng tay chân hãm hại, truy tố, và kết tội người nước ngoài làm việc cho các tổ chức phát huy nhân quyền và dân chủ với những tội trạng giả hiệu… Vì vậy, trong nhãn quan Tây phương, không có gì khó hiểu khi nhiều người Ai Cập muốn truất phế Morsi. Sự kiện họ đã thành công trong địa hạt nầy rất có thể trở thành một tai họa, và không chỉ riêng cho Ai Cập. Hậu quả ngoài ý muốn rất dễ tràn lan ra khắp nơi. Tiền lệ truất phế T T Morsi là một điều ghê tởm đối với các nền dân chủ khập khiểng — khuyến khích các thành phần chống đối tìm cách lật đổ chính quyền không qua đa số cử tri, mà chỉ qua gây rối; đem lại động lực thúc đẩy phe thân Tây phương trong khắp thế giới Á Rập theo đuổi những nghị trình trên đường phố, thay vì qua nghị viện hay quốc hội. Dĩ nhiên, tiền lệ nầy sẽ làm suy giảm cơ may hòa bình và thịnh vượng trong khu vực. Cuộc đảo chánh ở Ai Cập cũng gửi một thông điệp đáng sợ đến tín đồ Hồi giáo khắp nơi: Nếu thành công lên nắm chính quyền qua các cuộc bầu cử, phe đối lập sẽ dùng các phương tiện phi dân chủ để lật đổ. Vì vậy, một khi nắm được chính quyền, phe Hồi giáo sẽ làm mọi cách củng cố quyền lực. Và nghiền nát đối phương có thể là phương châm của họ. BIỆN PHÁP GIẢM THIỂU TAI HỌA Theo Hoa Kỳ và đồng minh, tai họa đó đã xảy ra, và không dễ gì để vãn hồi tình trạng trước khi Hosni Mubarak bị lật đổ — thời kỳ trước Mùa Xuân Á Rập nay đã thất bại — nếu phe quân đội cứ bám lấy quyền lực. Tuy vậy, theo họ, cũng có nhiều phương cách để tránh tai họa tiếp diễn. Họ gợi ý: nếu quân đội công bố và tôn trọng một thời biểu và lộ trình tổ chức tuyển cử, lúc đó Ai Cập sẽ có nhiều cơ may. Nhưng quân đội cần phải cam kết một cách đáng tin cậy với các tín đồ Hồi giáo: nếu họ thắng, họ sẽ được phép nắm chính quyền — một điều, theo các nhà cầm quyền Tây phương, với thành tích của chính quyền Morsi trong năm rồi, phong trào Brotherhood chắc khó thể thành công. Thuyết phục tín đồ Hồi giáo về điểm nầy, đã hẳn, là một việc làm thật sự khó khăn. Tuy vậy, tổ chức bầu cử sớm sủa vẫn có thể rất hữu ích. Theo các chính trị gia và các cơ quan truyền thông Tây phương, quân đội Ai Cập đã giữ một vai trò nòng cốt trong cuộc cách mạng, khi họ đã chịu đứng qua một bên để quần chúng phản kháng truất phế Mubarak. Họ tin quân đội đã lấy được lòng tin của người dân Ai Cập, những thành phần có khuynh hướng quay về với quân đội trong thời khủng hoảng. Nếu các tướng lãnh đáp lại lòng tin nầy, họ phải sớm lèo lái Ai Cập trở lại con đường hướng đến dân chủ càng sớm càng tốt. MÙA XUÂN Á RẬP ĐÃ THẤT BẠI? Trên hai năm rưởi sau Mùa Xuân Á Rập, không một xứ nào ở Trung Đông và Bắc Phi đã ghi được những bước tiến rõ ràng trên con đường xây dựng một quốc gia dân chủ, ổn định, và hòa bình. Những xứ có nhiều hy vọng nhất như Tunisia, Libya, và Yemen, vẫn đang gặp nhiều trở ngại. Một thí nghiệm dân chủ hỗn loạn ở Ai Cập, quốc gia đông dân nhất, đã kết thúc với cuộc đảo chánh quân sự, truất phế và câu lưu tổng thống dân cử; Syria cũng đang chìm đắm trong máu lửa của một cuộc nội chiến — rõ ràng do chính sách của Mỹ và đồng minh… Theo các nhà bình luận trong thế giới Tây Phương, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người đã nghĩ: Mùa Xuân Á Rập đang trên đường thất bại. Lý do theo họ: Trung Đông chưa sẵn sàng để thay đổi, vì thiếu vắng các định chế dân chủ. Trong bối cảnh đó, quyền lực của người dân sẽ thối rữa, biến thái, và dễ rơi vào tình trạng vô chính phủ, hay có nguy cơ một chế độ độc tài có thể được tái áp đặt. Họ còn ngụy tạo một lý do khác: lực lượng Hồi giáo, vốn có sẵn chất keo kết nối, vẫn không đủ khả năng đem lại dân chủ. Và họ kết luận: Trung Đông có thể đã khá hơn rất nhiều nếu Mùa Xuân Á Rập đã không xẩy ra. Đây là một quan điểm quá vội vàng nếu không muốn khẳng định là sai lầm. Giai đoạn chuyển tiếp qua dân chủ thường mang tính ít nhiều bạo động và dài lâu. Những gì đã xẩy ra, lúc đầu ở Libya, và hiện nay ở Syria, rất đáng ghê tởm. Tuy nhiên, hầu hết các người gốc Á Rập đều không muốn đảo ngược bánh xe lịch sử. Trong thực tế, lý do quan trọng nhất đưa đến biến động không gì khác hơn là chính sách đối ngoại mang tính đế quốc của Hoa Kỳ và các đồng minh Tây Phương từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, đặc biệt là từ năm 1989 và kéo dài trong suốt kỷ nguyên Hậu-Chiến-Tranh-Lạnh. ĐẶT CÀY TRƯỚC TRÂU Xác quyết Mùa Xuân Á Rập đã thất bại là đã không lưu ý tới mùa đông dài trước đó và tác động của nó trên đời sống của người dân. Vào năm 1960, Ai Cập và Nam Hàn đều có một đời sống trung bình và GDP theo đầu người tương đương. Ngày nay hai xứ như đang sống trong hai thế giới hoàn toàn khác. Mặc dù hiện nay dân Ai Cập sống trong khu vực thành thị ngày một đông và 3/4 dân chúng đều biết đọc biết viết, GDP theo đầu người cũng chỉ bằng 1/5 GDP trung bình của người Nam Hàn. Nghèo khó và thiếu dinh dưỡng lan tràn. Theo các giới truyền thông Tây Phương, chính quyền Muslim Brotherhood, ” ngắn ngủi và bất lực”, chẳng làm được gì để cải thiện. Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, các cường quốc Tây Phương, hình như luôn tin vào sách lược đế quốc “vừa ăn cướp vừa la làng,” đã không ngừng gây chia rẽ và xáo trộn. Chính sách nầy đã được các lãnh đạo độc tài do chính Tây phương dựng lên làm trầm trọng thêm. Và đa số các xứ Á Rập khác cũng chẳng khá gì hơn. Điều nầy khá quan trọng, bởi lẽ, trước đà tiến bộ không đồng đều của Mùa Xuân Á Rập, nhiều người đã gợi ý “giải pháp canh tân độc tài”: một Augusto Pinochet, Lee Kuan Yew, hay Đặng Tiểu Bình, rất cần thiết để duy trì trật tự và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng khác với Đông Nam Á, người Á Rập không thể tự hào đã có các vị quốc-vương-triết-gia sẵn sàng hậu thuẩn dân chủ khi kinh tế dưới quyền phát triển nhanh chóng. Thay vào đó, thân nhân và tay chân của giới lãnh đạo độc tài luôn giành hết các cơ hội kinh doanh thương mãi béo bở. Và các bạo chúa chuyên quyền — luôn e dè khuấy động quần chúng — có khuynh hướng tránh né các thử thách cải cách lớn, như dần dà giảm thiểu và cắt bỏ các trợ cấp năng lượng, riêng ở Ai Cập cũng đã nuốt lốn 8% GDP. Ngay cả ngày nay, các vương quốc giàu năng lượng cũng đang tìm cách “mua” hòa bình. Nhưng một khi giới trẻ có học và nghèo khó đã nếm mùi vị tự do, phương cách làm việc cũ ngày một khó tiếp diễn để duy trì chế độ. Vì vậy, vài vương quốc Á Rập, như Morocco, Jordan và Kuwait, cũng đã phải mò mẫm tìm cách hướng đến các hệ thống lập hiến nhằm đem lại cho thần dân một tiếng nói lớn hơn. Một số khác lại luôn tin dân chủ Á Rập chỉ đưa đến sự ngự trị của Hồi giáo, những thành phần chẳng có khả năng cải cách gì hơn các chính thể của các người hùng độc tài chuyên chế, và vì sự thiếu rộng lượng của Hồi giáo chính trị, còn tồi tệ và phi dân chủ hơn. Theo họ, Muhammad Morsi, một thành viên Muslim Brotherhood, bị lật đổ cách đây hơn một tháng bởi các tướng lãnh, hình như do sự khuyến khích của nhiều triệu người Ai Cập xuống đường, mặc dù đã đắc cử một cách dân chủ, nhưng đã coi thường mọi chuẩn mực dân chủ trong một năm cầm quyền ngắn ngũi. Các thành phần Á Rập thế tục và bạn bè của họ ở phương Tây ngày nay lập luận, vì người Hồi Giáo có khuynh hướng xem quyền cai trị của họ là do Thiên Chúa ban phát, họ sẽ không bao giờ chấp nhận một nền dân chủ với hệ thống đối trọng và kiềm chế, kể cả một ngành tư pháp độc lập, tự do báo chí, với quyền lực có giới hạn và một hiến pháp chấp nhận đa đảng, để bảo vệ các sắc dân thiểu số. Đã hẳn, đây cũng là quan điểm sai lầm. Bên ngoài thế giới Á Rập, người Hồi giáo — ở Mã Lai Á và Ấn Độ chẳng hạn — đã chứng tỏ có thể học hỏi thói quen dân chủ. Thổ Nhĩ Kỳ cũng tương tự. Phong trào chống đối thủ tướng độc tài nhưng đắc cử một cách dân chủ, Recep Tayyip Erdogan, có nhiều điểm giống với Brazil hơn là Mùa Xuân Á Rập. Mặc dù có nhiều lỗi lầm, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay vẫn dân chủ hơn trước đây rất nhiều khi quân đội từ sau hậu trường luôn sẵn sàng can thiệp. Theo các cường quốc Tây phương, vấn đề là do chính Hồi giáo Á Rập. Điều nầy không có gì phải ngạc nhiên. Phe Hồi giáo cho đến nay hình như đã quá quen thuộc với nhiều thập kỷ đàn áp, và luôn tin chỉ có thể thượng tồn với sách lược âm mưu và tổ chức. Hậu thuẩn của các phong trào nầy là một thiểu số khá lớn trong hầu hết các xứ Á Rập. Do đó, thiểu số nầy cũng cần được quan tâm và hòa nhập vào dòng chính. Chính vì vậy, cuộc đảo chánh ở Ai Cập là một thực tế khá bi đát. Nếu Muslim Brotherhood tiếp tục cầm quyền, họ rất có thể đã học hỏi được tinh thần khoan dung và thực tiễn, cần thiết cho guồng máy điều hành xứ sở. Thay vào đó, sự nghi ngờ của họ đối với chính trị dân chủ giờ đây lại đã được xác nhận và tăng cường. Hiện nay, mọi chuyện chỉ còn mong chờ và tùy thuộc ở Tunisia, quốc gia đầu tiên trong các xứ Á Rập đã lật đổ gông xiềng chuyên chế và chứng tỏ người Hồi giáo Á Rập cũng có thể điều hành xứ sở một cách đứng đắn. Thực vậy, Tunisia đang trên đường thành đạt một hiến pháp như nền móng của một nền dân chủ khá nghiêm túc và đa phương. Phần còn lại của thế giới Á Rập, nếu muốn đi theo hướng đó, cũng sẽ phải cần đến nhiều năm tháng dài lâu hơn. Điều nầy không có gì đáng ngạc nhiên, vì quá trình thay đổi chính trị đòi hỏi một thời gian thực nghiệm lâu dài. Trải nghiệm sẽ giúp làm dịu bớt tình trạng hỗn độn của lịch sử. Chẳng hạn, quá trình chuyển tiếp từ chủ nghĩa Cộng Sản ngày nay nhìn lại có vẻ dễ dàng. Tuy vậy, ba năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Âu châu cũng đã do các nhóm mafias tội phạm thống lĩnh; các chính trị gia cực đoan đã ngự trị ở Ba Lan, Slovakia và vùng Baltics; vùng Balkans cũng đã phải trải nghiệm chiến tranh, và xung đột cũng đã xẩy ra ở Georgia. Ngay cả ngày nay, hầu hết các dân tộc trong khối Xô Viết trước đây cũng đang sống dưới các chế độ độc tài chuyên chế. Tuy vậy, cũng rất ít xứ muốn đi ngược dòng trở lại. ĐỪNG CHẬN ĐỨNG TRÀO LƯU Mùa Xuân Á Rập luôn được mô tả như một thức tỉnh: cách mạng thực sự ở ngoài đường phố không quan trọng bằng trong tinh thần. Mạng internet, truyền thông xã hội, truyền hình qua vệ tinh, và tinh thần hiếu học — của nữ giới cũng như nam giới Á Rập — không thể cộng tồn với các chế độ độc tài vọng ngoại trước đây. Người Ai Cập nay đã hiểu được dân chủ không chỉ là vấn đề bầu cử, cũng không phải khả năng thúc đẩy hàng triệu người xuống đường. Các hình thức xuống đường luôn hỗn độn, ngay cả phải đổ máu. Hành trình đến dân chủ có thể phải mất nhiều thập kỷ. Tuy vậy, vẫn còn được đón mừng. DÂN CHỦ VÀ ĐẠO ĐỨC GIẢ Phản ứng của Hoa Kỳ và đồng minh Tây Phương trước cảnh tàn sát thường dân Hồi giáo không vũ trang gần đây ở Cairo đã phơi bày tính hèn nhát và thiển cận. Chúng ta còn nhớ nỗi sỉ nhục Recep Tayyip Erdogan, Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ, đã phải đối đầu trong tháng 6-2013, khi sử dụng hơi cay và vòi nước chống lại dân chúng xuống đường phản đối. Và thử tưởng tượng sự lăng nhục nếu Vladimir Putin ra lệnh cho quân đội Nga sử dụng đạn thật để đối phó với người biểu tình ngoài đường phố Mạc Tư Khoa. Tuy vậy, vào cuối tháng 7-2013, khi các tướng lãnh Ai Cập tàn sát đám đông biểu tình phản đối, chính quyền các xứ Tây Phương đã chỉ đáp ứng bằng những cử chỉ như cau mày và yêu cầu mọi bên nên tránh bạo động. Phản ứng nhẹ nhàng đó phản ảnh không những tinh thần thiếu can đảm, mà còn một ý thức quá thiển cận về quyền lợi thực sự của Ai cập và của chính các cường quốc Tây Phương. Hành động tàn sát đã xẩy ra ở Cairo vào sáng sớm ngày 27-7-2013 gần khu vực diễn hành, nơi ba thập kỷ trước đây Tổng Thống Anwar Sadat đã bị ám sát. Phe hậu thuẩn Tổng Thống Muhammad Morsi, người vừa bị phe quân đội lật đổ trong cuộc đảo chánh vào đầu tháng 7-2013, hiện nay vẫn tiếp tục xuống đường đòi hỏi quân đội phải hồi phục Morsi trở lại chức vụ Tổng Thống. Cảnh sát chống biểu tình và phe ủng hộ đã nổ súng. Hơn 80 người thuộc phong trào Muslim Brotherhood đã phải thiệt mạng và nhiều người khác bị thương. Sau biến cố, Barack Obama đã thảo luận với các cố vấn thân cận. Được trao nhiệm vụ lên tiếng, John Kerry, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, cũng chỉ kêu gọi cấp lãnh đạo Ai Câp lùi bước trước vực thẳm. Từ Anh quốc, Thủ Tướng David Cameron cũng hành động tương tự: ủy nhiệm cho William Hague, Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhẹ nhàng cảnh cáo các tướng lãnh Ai Cập. Rút cuộc, trước hành động lật đổ Tổng Thống dân cử Morsi của quân đội Ai Cập, Mỹ và đồng minh cũng chỉ phản đối hời hợt với quyết định hoản cung cấp vài chiến đấu cơ F-16 cho Ai Cập. Nhưng ngay cả cử chỉ khiêm tốn nầy cũng chẳng có tác dụng gì khi ngay trước cuộc đảo chánh, trong một tiền lệ thiếu khôn ngoan, chính quyền Hoa Kỳ đã từ chối gọi hành động của quân đội Ai Cập là một cuộc đảo chánh, thay vì phải tự động cắt mọi viện trợ. Phong trào Muslim Brotherhood và người Hồi giáo trong khắp vùng Trung Đông cố nhiên đã phải kết luận: các quốc gia Tây Phương đã áp dụng một tiêu chuẩn khi phe thế tục bị tấn công, và một tiêu chuẩn hoàn toàn trái ngược khi phe Hồi giáo là nạn nhân. Họ cũng hiểu rất rõ dân chủ không phải là một hệ thống chính quyền phổ quát, mà cũng chỉ là một xảo thuật chính trị giúp đưa phe thế tục lên nắm chính quyền. Các cường quốc Tây Phương thật sự khó lòng có thể tìm được một phương cách tốt hơn để làm nản lòng phong trào Brothers đang tìm cách tham dự vào quá trình chính trị ở Ai Cập. Trong mọi trường hợp, dù với giả thiết phong trào Brothers sẽ trở lại chính quyền, cũng không có dấu hiệu nào cho thấy quân đội sẽ sẵn sàng chấp nhận. Ý thức được các cường quốc Tây Phương đã bật đèn xanh, lãnh tụ quân đội, Abdel Fattah al-Sisi, cũng đã tỏ ra tin tưởng các cuộc biểu tình ngày 26-7- 2013 đã đem lại cho ông sứ mệnh đối đầu với “nạn khủng bố tiềm năng”. Và chính quyền mới cũng đang vực dậy nhà nước an ninh của Mubarak trước đây. Trong chiều hướng đó, dưới áp lực của phe quân đội, một tòa án Ai Cập đã ra lệnh phóng thích nguyên tổng thống Hosni Mubarack vào ngày thứ năm 22-8-2013. Phe Ai Cập tự do, những thành phần hậu thuẩn cuộc đảo chánh của phe quân đội lật đổ Tổng Thống Morsi, sẽ có dịp phải ân hận vì sự sốt sắng của họ. Đã hẳn, phe quân đội đã lên án phong trào Brothers đã phạm nhiều lỗi lầm trong khi cầm quyền, như chỉ lo củng cố quyền lực và không quan tâm đến các vấn đề kinh tế, cũng như đã để tình trạng hỗn độn và phe phái xẩy ra… Tuy nhiên, phe Hồi giáo đang chiếm đa số ở Ai Cập. Cách duy nhất để loại họ khỏi chính trị là các lực lượng an ninh phải tìm cách nắm hết quyền hành. Và nếu điều nầy xẩy ra, cố nhiên Ai Cập sẽ không còn có thể vận hành như một quốc gia dân chủ. Tây Phương có quyền lợi để quảng bá dân chủ — và không chỉ ở Ai Cập. Quá trình sẽ không dễ dàng. Đã hẳn, một số chính trị gia thân cận và thực tiễn đã cố vấn cho Obama và Cameron: cần bám chặt các tướng lãnh, vì lẽ các tướng lãnh đang làm chủ tình hình. Tuy nhiên, qua hành động tránh né chỉ trích cuộc đảo chánh và bắn giết thường dân không võ trang hiện nay, Tây Phương chứng tỏ đã chấp nhận quan điểm của kẻ thù của dân chủ ở khắp nơi: các lời thuyết giảng của Tây Phương, vì vậy, rõ ràng đã hoàn toàn mang tính đạo đức giả. Trong tương lai, mỗi khi Obama cần thúc đẩy một lãnh tụ độc tài nào đó phải chọn lựa các quyền dân sự, Tổng Thống sẽ thật sự khó lòng có đủ sức thuyết phục Nguyễn Trường Irvine, California, USA 24-8-2013
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:41:34 GMT 9
TIẾN TRÌNH HỒI PHỤC KINH TẾ TOÀN CẦU CÒN KÉO DÀI (Bài Rút ngắn để đăng lên báo) TS Nguyễn Trường (LĐCT) – Với trên 40 năm kinh nghiệm giảng dạy bộ môn kinh tế, TS Nguyễn Trường từng là giám đốc các dự án nghiên cứu thuộc Viện RIHED và Giáo sư thỉnh giảng Đại học Nanyang (Singapore). Sau năm 1975, ông là chuyên viên nghiên cứu ở Montreal (Canada) và chuyên viên kinh tế ở quận Cam, California (Mỹ). Ông đã xuất bản một số tác phẩm về các xí nghiệp quốc doanh và giáo dục đại học ở Đông Nam Á. Sau năm 2000, ông chuyển hướng nghiên cứu qua địa hạt địa chính trị và kinh tế thế giới. Hiện ông đang sống tại vùng Nam California. Nhân chuyến về VN, ông đã có dịp trao đổi kinh nghiệm với trường Đại học quốc gia TPHCM. Giáo sư cũng đã có một số buổi nói chuyện với giới doanh nhân TP về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008.
Theo ông, nói một cách ngắn gọn, điều mà nước Mỹ cần phải làm ngay bây giờ là gì? - Là phải đảo ngược các biện pháp giảm thuế cho người giàu trong hai năm 2001 và 2003 của Tổng thống Bush, khởi sự thanh toán hệ thống đế quốc với hơn 800 căn cứ quân sự trên toàn cầu, và cắt giảm khỏi ngân sách quốc phòng tất cả các dự án không liên quan gì đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, cũng như phải chấm dứt việc dùng ngân sách quốc phòng như một chương trình tạo việc làm theo kiểu Keynesianism. Nếu làm được những điều đó, Hoa Kỳ sẽ có cơ may thoát nạn. Ngược lại, Hoa Kỳ có lẽ phải đối đầu với nguy cơ một cuộc khủng hoảng lâu dài. Xin ông cho biết những điểm tương đồng và dị biệt giữa cuộc khủng hoảng 1997 ở Đông Nam Á và cuộc suy thoái 2008? - Trong mỗi trường hợp, người ta nhận thấy một diễn tiến vòng tròn đáng ngại: Những vấn đề tài chính khó khăn của các công ty, ngân hàng và mọi gia đình đưa đến sự mất lòng tin lan rộng trong giới đầu tư, nhất là giới đầu tư nước ngoài, đến sự sụp đổ tiền tệ, lãi suất lên cao, kinh tế đình trệ, rồi những khó khăn tài chính của các công ty, ngân hàng cứ thế tiếp tục… Thái Lan trong thập kỷ 1980, đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, phần lớn do giới doanh thương Nhật đến xây dựng nhà máy. Dân quê đua nhau ra thành phố kiếm việc, giới ngân hàng và doanh thương bắt đầu đầu tư vào ngành xây dựng, và kinh tế Thái Lan bắt đầu tăng trưởng nhanh – 8%/năm. Ngân hàng Nhật có thể cho một công ty tài chánh Thái vay. Công ty Thái đổi đồng yen ra đồng baht và cho các các công ty bất động sản vay lại, để trả tiền mua vật liệu, trả lương nhân công bằng tiền Thái. Nhu cầu đồng baht gia tăng, và đồng baht cũng tăng giá trị – giả thiết tiền Thái được thả nổi. Để thu hút đầu tư, Chính phủ Thái đã quyết định giữ hối suất giữa đồng baht và USD ổn định. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Thái Lan phải gia tăng nguồn cung đồng baht hay khối tiền tệ lưu hành và đồng thời mua vào ngoại tệ để dự trữ. Hậu quả tất nhiên là lượng tín dụng quốc nội gia tăng vì các ngân hàng nhận được nhiều tiền ký thác phải tìm cách cho vay kiếm lợi nhuận. Tất cả những điều đó có nghĩa là một nguồn tài trợ mới xuất hiện, thúc đẩy các dự án xây dựng, dẫn đến đến tình trạng vay mượn thêm từ nước ngoài và cứ thế tiếp tục. Kết quả tất yếu chung cuộc là bong bóng bất động sản. Ngân hàng Nhà nước Thái Lan đã phải cố gắng làm nguội bớt nền kinh tế, bằng cách vay lại đồng baht từ các ngân hàng ngoại quốc. Nhưng biện pháp tạm bợ này chỉ làm tăng lãi suất quốc nội, khuyến khích vay mượn từ nước ngoài (có lợi vì lãi suất thấp) và đem về nhiều tiền yen hơn. Ngân hàng trung ương rất có thể chỉ để giá trị đồng baht gia tăng, như nhiều kinh tế gia Mỹ hiện nay tìm cách thuyết phục Trung Quốc nâng giá đồng nhân dân tệ. Nhưng điều này chỉ có nghĩa hàng xuất khẩu của Thái (những thứ do các công ty Nhật sản xuất) đắt hơn trên các thị trường nước ngoài – do đó, vô hình trung giết chết con gà đẻ trứng vàng. Giáo sư Nguyễn Trường nói chuyện với giới doanh nhân tại TPHCM Số trứng vàng tích lũy nhiều cũng đem lại một thứ bi kịch khác. Đầu tư gia tăng (nhập trang thiết bị cho công nghệ xây dựng) và chi tiêu mang tính tiêu thụ (nhập TV, xe hơi cho giới nhà giàu Thái mới lên) làm chậm đà tăng trưởng xuất khẩu so với nhập khẩu. Do đó, cán cân nghiêng hẳn về nhập siêu. Người Thái bắt đầu phải dùng số ngoại tệ vay mượn để trang trải hàng nhập khẩu, trong khi ngân hàng trung ương phải dùng ngoại tệ dự trữ đang có để bảo vệ đồng baht. Tháng 7.1997, sự tăng trưởng kinh tế Thái Lan đạt mức đỉnh điểm; nền kinh tế bắt đầu bùng nổ. Ngân hàng trung ương không còn đủ ngoại tệ dự trữ, nên không đủ sức bảo vệ đồng baht: Giá trị đồng baht tuột dốc khoảng 50% chỉ trong vòng vài tháng. Tai hoạ xảy đến, gây suy thoái không những cho Thái mà cả Hàn Quốc và Malaysia khi các nhà đầu tư ngoại quốc hoảng sợ hối hả tháo chạy. Vùng Đông AÁ bắt đầu trải nghiệm nỗi đau của Argentina và Do Thái trong thập kỷ 1980. Giữa hai cuộc khủng hoảng, có thể nhận diện được những nguy cơ nào chung nhất theo ông? - Người ta vẫn nhận diện được một sự đối xứng trong cách ứng xử của các tay chơi tài chính giữa hai phía. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan đã được nhen nhúm bởi các tay chơi trung gian có nhiều quyền lợi để rao giảng ảo tưởng là đầu tư vào ngành xây dựng và buôn bán bất động sản thì không thể thất bại. Đó là những người hưởng lợi từ các giao dịch chứ không phải từ tính lành mạnh của dự án. Trở lại các công ty tài chính Thái đứng làm trung gian trong các khoản cho vay của các nhà đầu tư nước ngoài. Những người điều hành các công ty này phần lớn là thân nhân họ hàng của các vị bộ trưởng hoặc các viên chức cao cấp trong chính quyền. Họ không phải là những bộ óc tài chính xuất sắc, nhưng họ có lý do để tin chính quyền Thái sẵn sàng cứu trợ công ty họ khi lâm nguy. Đồng thời, những quan hệ chính trị của họ sẽ là lợi thế đối với các nhà đầu tư. Nói chung, họ hưởng lợi khi thuận buồm xuôi gió, tiếp tục cho vay và được che chở khi gặp khó khăn bão tố – cho đến khi toàn bộ mạng lưới sụp đổ, lúc đó họ cũng đã kiếm được một tài sản kếch sù. Trước cuộc khủng hoảng 2008, các ngân hàng thông thường quản lý khoảng 6.000 tỉ USD; các ngân hàng phi ngân hàng – hedge funds và ngân hàng đầu tư – khoảng 4.000 tỉ, 1.800 tỉ trong số này nằm trong tay các quỹ đầu cơ. Theo Krugman, sự sụp đổ của những định chế này có thể xô đẩy các nhóm đầu tư lớn, kể cả các quỹ hưu bổng, các quỹ endowments của các đại học, vào tai hoạ đầu cơ. Tất cả các quản lý viên các quỹ vừa nói, các CEO, được thưởng khi đem lại lợi nhuận trên trung bình. Nhưng làm thế nào tất cả các lợi nhuận đều trên trung bình. Krugman đã đúng khi nhấn mạnh tài sản thực sự có thể bị tiêu tan vì sự sụp đổ không thể tránh của các quỹ đầu tư. Khi kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh, các lỗ lã trên giấy tờ có thể lấy lại trong vài tuần lễ. Nhưng khi lỗ lã quá lớn, mọi người đều hoảng sợ, sản xuất tất sẽ suy sụp, thất nghiệp sẽ tràn lan, suy thoái thấy rõ, và có thể cả khủng hoảng và đại khủng hoảng rất dễ xảy ra cho toàn bộ quốc gia, thậm chí cả toàn cầu. Xin ông phân tích những giải pháp mà Hội nghị thượng đỉnh G20 đã đưa ra. - Trong nỗ lực vượt qua các dị biệt trong căn bản triết lý và chính sách tài chính, cấp lãnh đạo nhóm G20, ngày 3.4.09, đã chấp thuận một chương trình phục hồi kinh tế toàn cầu hiện đang bị tê liệt. Hội nghị đã cam kết một ngân khoản phụ trội 1.100 tỉ USD để tài trợ mậu dịch quốc tế và cứu trợ các quốc gia gặp khó khăn. Tuy nhiên, ngân khoản cam kết 1.100 tỉ còn quá ít so với nhu cầu tiếp sức rất lớn của kinh tế thế giới đang thiếu máu trầm trọng, và sự thiếu vắng một cơ chế toàn cầu có đủ thẩm quyền để điều phối, giám sát, chế tài, tất cả các định chế tài chính toàn cầu, các quỹ đầu tư, các hedge funds xuyên quốc gia, cũng đủ phản ảnh những dị biệt sâu xa và dai dẳng giữa Châu Âu và phần lớn thế giới bên ngoài, cũng như giữa Hoa Kỳ và Châu Âu, về nhu cầu phải hành động cấp bách hay phải đợi xem hiệu quả của các chính sách chi tiêu kích cầu hiện hữu, về một cơ chế điều phối, giám sát siêu quốc gia hay bởi các quốc gia riêng rẽ. Giải pháp chóng vánh cho cuộc khủng hoảng ngày một sâu rộng, vì thế, rất khó đạt được hiệu quả mong muốn. Ở đây, tưởng cũng nên nhắc lại lời cảnh báo của Paul Krugman. Theo Krugman, chính quyền đang đứng trước những lựa chọn nghịch lý. Trong cương vị tác nhân duy nhất điều hướng chi tiêu còn đứng vững, chính quyền trở thành nhà đầu tư tối thiết. Tiến trình hồi phục còn dài lâu. Krugman nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở, bảo hiểm y tế, giáo dục, ngay cả sản xuất xe hơi… Mức độ đầu tư phải đủ lớn để đè bẹp khủng hoảng. Lỗi lầm tệ hại nhất là biện pháp nửa vời, chỉ muốn nhảy năm thước khi phải vượt qua một hố thẳm rộng bảy thước, vì e ngại hành động để cứu nguy hệ thống tài chính có thể bị xem như mang tính xã hội chủ nghĩa. Ý nghĩa cuộc sống đối với ông là gì? - Tôi đã qua tuổi bảy mươi. Tôi nghĩ, không ai biết được những năm tháng còn lại của đời mình. Nhưng bất cứ ai cũng có thể làm chủ được một điều: Đừng để chết khi còn sống; và ngày nào còn sống, phải ráng làm những việc hữu ích cho chính mình, cho gia đình, cho bạn bè, và cho xã hội. Theo tôi, đó là ý nghĩa của cuộc sống. Xin cảm ơn giáo sư. Nhật Lệ thực hiện VN ( Lao Động Cuối tuần số 15 Ngày 12/04/2009) TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA BÁO LAO ĐỘNG (Trước khi rút ngắn) Hỏi: Để mở đầu, xin giáo sư cho biết các nguyên nhân gần xa của cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay. Trả lời: Trước hết phải nói ngay cuộc khủng hoảng tài chánh 2008 không những mang tính thời vận mà cả tính cơ cấu. Trong thực tế, sự gở bỏ giám sát tài chánh đã đem lại sinh động cho sinh hoạt kinh tế, khi thịnh vượng lúc thoái trào – gở bỏ rào cản đối với chuyển dịch tư bản, cho phép tự do giao dịch các sản phẩm tài chánh mờ ám, và thả lỏng các định chế tài chánh đưa tới tự do vay nợ ngày một nhiều hơn. Tiền vay nhẹ lãi từ Trung Quốc và Cục Dự Trử Liên Bang đã thêm dầu vào lửa. Và các định chế tài chánh được buông lỏng tự do của Hoa Kỳ – các định chế trung gian môi giới, các qũy đầu cơ, và các ngân hàng phi- ngân- hàng (nonbank banks) – giữ một vai trò quan trọng trong những diễn biến đưa tới thảm họa, với bong bóng bất động sản tan vở, với nạn khan hiếm thanh khoản. Bên cạnh tính thời vận vừa nói, khía cạnh cơ cấu của cuộc khủng hoảng còn quan trọng hơn. Bước qua năm 2008 , Hoa kỳ chợt nhận ra mình đang lâm vào cảnh ngộ bất thường vì không đủ khả năng theo đuổi mức sinh hoạt quá tốn kém hay guồng máy quân sự quá lớn lao , phung phí . Chính quyền cũng không còn tìm cách tiết giảm các chi phí khổng lồ nhằm duy trì những đạo quân hiện hữu , thay thế số quân trang , quân dụng bị hủy hoại hoặc hư hao sau nhiều năm chinh chiến , hoặc chuẩn bị cho cuộc chiến thượng từng không gian chống lại những kẻ thù chưa xuất hiện . Thay vào đó , chính quyền Bush chuyển việc thanh toán những phí tổn nầy lại cho các thế hệ tương lai – hoặc tảng lờ phủ định . Thái độ vô trách nhiệm về thuế vụ đó đã được ngụy trang qua các thủ thuật tài chánh ( như buộc các xứ nghèo hơn cho Hoa Kỳ vay những khoản tiền lớn vô tiền khoáng hậu ) ; nhưng tình trạng nầy không thể tiếp diễn . Cuộc khủng hoảng công trái phải được phân tích từ ba góc cạnh khác nhau : (1) Trong nhiều năm qua , Hoa Kỳ đã dành cho các mục “quốc phòng” những ngân khoản điên rồ không dính dáng gì đến an ninh quốc gia Hoa kỳ . Đồng thời , gánh nặng thuế khóa dành cho những tầng lớp giàu có lại ở mức quá thấp . (2) Hoa Kỳ vẫn luôn tin tưởng có thể bù đắp vào đà xói mòn ngày một tăng tốc trong cơ sở kỹ nghệ chế biến và số công ăn việc làm thất thoát ra các nước ngoài , bằng các chi phí quốc phòng khổng lồ — thường được gọi “chính sách Keynesianism về quân sự” (military Keynesianism) . Qua cụm từ military Keynesianism , chúng tôi muốn nói đến niềm tin sai lầm là những chính sách công –tập trung vào các cuộc chiến liên tục , vào những chi tiêu về vũ khí , quân trang , quân dụng , vào những đạo quân lớn lao — có thể giúp duy trì một nền kinh tế tư bản mãi mãi thịnh vượng . Thực tế luôn trái ngược . (3) Khi dồn hết tài nguyên luôn mang tính hữu hạn vào các chính sách quân sự , Hoa Kỳ đã bỏ quên đầu tư vào hạ tầng cơ sở xã hội và các chi tiêu cần thiết cho sự lành mạnh của xứ sở . Đó chính là điều các kinh tế gia gọi là “phí tổn cơ hội” (opportunity costs) — hay những gì không làm được vì chúng ta đã dành tiền chi tiêu vào những thứ khác . Hệ thống giáo dục công lập đã xuống cấp một cách đáng lo ngại .Hoa Kỳ đã không cung cấp dịch vụ bảo hiểm y tế cho mọi công dân và đã lơ là trong trách nhiệm một nước gây ô nhiểm số một trên thế giới . Nhưng quan trọng hơn hết là Hoa Kỳ đã đánh mất khả năng cạnh tranh trong địa hạt sản xuất hàng tiêu dùng dân sự — một phương cách sử dụng tài nguyên khan hiếm vô cùng hữu hiệu so với sản xuất vũ khí. Sự thoái hóa trong cơ sở hệ thống kỹ nghệ chứng tỏ hậu quả hao mòn, suy yếu của việc chuyển dịch tư bản và chất xám qua phục vụ khu vực quân sự của Hoa Kỳ” . Từ năm 1968 cho đến nay , chúng ta chưa thấy một nổ lực nào nhằm đảo ngược xu hướng trên đây . Tình trạng nầy đã được phản ảnh trong việc nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm trang bị , từ máy móc dùng trong y tế như máy tăng tốc proton (proton accelerators) dùng trong xạ trị (radiological therapy) –phần lớn từ Bỉ , Đức , và Nhật –, cho đến xe du lịch , xe vận tải . Kỷ nguyên siêu cường duy nhất quá ngắn ngủi đã đến hồi kết thúc . Như giáo sư Benjamin Friedman đã viết : “Đã nhiều lần , Hoa Kỳ luôn là quốc gia lãnh đạo và trái chủ , một quốc gia hàng đầu về ảnh hưởng chính trị , ngoại giao , và văn hóa . Đó là điều đương nhiên khi chúng ta thay thế vai trò Anh quốc , đồng thời …vai trò một quốc gia lãnh đạo trái chủ của toàn thế giới . Ngày nay , chúng ta không còn là quốc gia lãnh đạo và trái chủ của thế giới .Trong thực tế , chúng ta đang là quốc gia con nợ lớn nhất thế giới , và chúng ta đang tiếp tục nắm giữ ảnh hưởng chỉ dựa trên căn bản sức mạnh quân sự “. Vài tổn hại đã gánh chịu có thể không bao giờ cứu chữa được . Tuy nhiên , vẫn còn vài việc nước Mỹ cần phải cấp tốc thực hiện: phải đảo ngược các biện pháp giảm thuế cho người giàu trong hai năm 2001 và 2003 của Bush , phải khởi sự thanh toán hệ thống đế quốc với hơn 800 căn cứ quân sự trên toàn cầu , phải cắt giảm khỏi ngân sách quốc phòng tất cả các dự án không liên quan gì đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ , và phải chấm dứt việc dùng ngân sách quốc phòng như một chương trình tạo việc làm theo kiểu Keynesianism . Nếu làm được những điều đó, Hoa Kỳ sẽ có cơ may thoát nạn . Ngược lại , Hoa Kỳ có lẽ phải đối đầu với nguy cơ một cuộc khủng hoảng dài lâu . Hỏi: Xin ông cho biết những điểm dị đồng giữa cuộc khủng hoảng 1997 ở Đông Nam Á và cuộc suy thoái 2008. Đáp: Trong mỗi trường hợp, người ta nhận thấy một diễn tiến vòng tròn đáng ngại – các vấn đề tài chánh khó khăn của các công ty, ngân hàng và mọi gia đình; đưa đến một sự mất lòng tin rộng khắp trong giới đầu tư, thường là giới đầu tư ngoại quốc; đến sự sụp đổ tiền tệ, lãi suất lên cao, kinh tế đình trệ, những khó khăn tài chính của các công ty, các ngân hàng và cứ thế tiếp tục. Thái Lan, một xứ đến trể trong phép lạ Á châu (Asian miracle), trong thập kỷ 1980s, đã thay đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp phần lớn do giới doanh thương Nhật đến xây dựng các xưởng máy. Dân quê đua nhau ra thành phố kiếm việc, giới ngân hàng và doanh thương bắt đầu đầu tư vào ngành xây cất, và kinh tế Thái Lan khởi sự tăng trưởng nhanh – 8%/năm. Thị trường tư bản toàn cầu đáp ứng: xét cho cùng, chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại, lãi suất ở Nhật và Âu châu quá thấp. Tính đến năm 1997, khoảng 256 tỉ mỹ kim đã được rót vào các thị trường đang lên, đặc biệt là Đông Nam Á. Vậy bằng cách nào tiền đã được rót từ Tokyo vào Bangkok? Đây chính là yếu tố then chốt của nội vụ. Ngân hàng Nhật có thể cho một công ty tài chánh Thái vay. Công ty Thái cải hoán đồng yen ra đồng baht và cho các các công ty xây cất bất động sản vay lại, để trả tiền mua vật liệu, lương nhân công bằng tiền Thái. Số cầu đồng baht, do đó, gia tăng, và đồng baht cũng tăng giá trị – giả thiết tiền Thái được thả nổi. Để thu hút đầu tư vào Thái , một xứ từ lâu bị thế giới bỏ quên, chính phủ Thái đã quyết định giữ hối suất giữa đồng baht và đồng mỹ kim ổn định. Vì vậy, Ngân Hàng Nhà Nước Thái Lan đã phải gia tăng số cung đồng baht hay khối tiền tệ lưu hành và đồng thời mua vào ngoại tệ để tăng cường số dự trử. Hậu quả tất nhiên là lượng tín dụng quốc nội gia tăng vì các ngân hàng nhận được nhiều tiền ký thác phải tìm cơ hội cho vay kiếm lợi nhuận. Tất cả những điều đó có nghĩa là một nguồn tài trợ mới xuất hiện, thúc đẩy các dự án xây cất, đưa đến vay mượn thêm từ nước ngoài và cứ thế tiếp tục. Kết quả tất yếu chung cuộc là bong bóng bất động sản. Ngân Hàng Nhà Nước Thái Lan đã phải cố gắng làm nguội bớt nền kinh tế, bằng cách vay lại đồng baht từ các ngân hàng ngoại quốc. Nhưng biện pháp tạm bợ nầy chỉ làm tăng lãi suất quốc nội, khuyến khích vay mượn từ nước ngoài (có lợi vì lãi suất thấp) và đem về nhiều tiền yen hơn. Ngân hàng trung ương rất có thể chỉ để giá trị đồng baht gia tăng, như nhiều kinh tế gia Mỹ hiện nay tìm cách thuyết phục TQ nâng giá đồng nhân dân tệ. Nhưng điều nầy chỉ có nghĩa hàng xuất khẩu của Thái (những thứ do các công ty Nhật sản xuất) đắt hơn trên các thị trường nước ngoài – do đó, vô hình chung giết chết con gà đẻ trứng vàng. Số trứng vàng tích lũy nhiều cũng đem lại một thứ bi kịch khác. Đầu tư gia tăng (nhập cảng trang thiết bị cho kỹ nghệ xây cất) và chi tiêu mang tính tiêu thụ (nhập cảng TV, xe hơi cho giới nhà giàu Thái mới lên) làm chậm đà tăng trưởng xuất khẩu tương đối với nhập khẩu. Do đó, cân chi phó khuy khiếm trầm trọng. Người Thái bắt đầu phải dùng số ngoại tệ vay mượn để trang trải tiêu thụ phẩm nhập khẩu trong khi ngân hàng trung ương phải dùng ngoại tệ dự trử sở hữu để bảo vệ đồng baht. Tháng 7 năm 1997, sự tăng trưởng kinh tế Thái Lan đạt mức đỉnh điểm; nền kinh tế bắt đầu bùng nổ. Ngân hàng trung ương với số ngoại tệ dự trử tan biến, không đủ sức bảo vệ đồng baht: giá trị đồng baht tuột dốc khoảng 50% chỉ trong vòng vài tháng. Tai họa xẩy đến, gây suy thoái không những cho Thái mà cả Nam Hàn và Mã Lai Á khi các nhà đầu tư ngoại quốc hoảng sợ hối hả tháo chạy. Vùng Đông Á bắt đầu trải nghiệm nổi đau của Argentina và Do Thái trong thập kỷ 1980s. Câu hỏi được đặt ra là câu chuyện của Thái Lan ăn nhằm gì đến khủng hoảng 2008? Có, và có khá nhiều. Đã hẳn kinh tế Thái Lan khác xa kinh tế Mỹ: nếu người Mỹ , giống như giới trung lưu mới lên của Thái, chi tiêu phung phí trên khả năng của chính mình (và bù vào số khuy khiếm bằng những món nợ gia tăng từ thế giới bên ngoài), họ đã không nhập khẩu những thứ hàng giống như người Thái. Chẳng hạn, phần lớn giao thương của Mỹ với Trung Quốc chỉ là những giao dịch nội bộ của các đại công ty đa quốc gia Hoa Kỳ làm ăn trên khắp thế giới. Các công ty nầy nắm trong tay giá trị thiết kế và mãi dịch sản phẩm, và chỉ đến TQ mua các vật liệu thông thường và lắp ráp. Ngoài ra, kinh tế Hoa Kỳ có sức chịu đựng dẽo dai hơn hẵn kinh tế Thái, với đặc tính chuyễn dịch của yếu tố lao động theo chiều ngang cũng như chiều dọc khó có nước nào có thể sánh kịp. Và chính quyền Mỹ cũng chẳng phải bảo vệ đơn vị tiền tệ của mình như Thái Lan. Đồng mỹ kim đã là tiền dự trử của thế giới kể từ sau đệ nhị thế chiến. Sự mất giá của đồng mỹ kim có nghĩa khuynh hướng tiêu xài hoang phí của người Mỹ đã làm giảm thiểu tài sản của giới trung lưu toàn cầu một cách thầm lặng, tương tự số lượng carbon các xe SUVs ở Mỹ đã thải ra âm thầm làm ô nhiểm không khí khắp hành tinh. Người Mỹ cũng còn có thể trông cậy ở giới trung lưu TQ đầu tư trở lại trong các thị trường tài chánh Mỹ phần lớn trong số 2.000 tỉ mỹ kim tích lũy từ xuất khẩu hàng hóa qua Hoa Kỳ. Trong mọi trường hợp, điều may mắn của Hoa Kỳ là toàn bộ số nợ nước ngoài đều được tính theo đồng mỹ kim. Tuy nhiên, giữa hai cuộc khủng hoảng người ta vẫn nhận diện được một sự đối xứng trong cách ứng xử của các tay chơi tài chánh giữa hai phía. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan đã được nhen nhúm bởi các tay chơi trung gian có nhiều quyền lợi để rao giảng ảo tưởng là đầu tư vào ngành xây dựng và buôn đi bán lại không thể thất bại. Đó là những người hưởng lợi từ các giao dịch nhưng không nhất thiết từ tính lành mạnh của dự án.Trở lại các công ty tài chánh Thái đứng làm trung gian trong các khoản cho vay của các nhà đầu tư nước ngoài. Các người điều hành các công ty nầy phần lớn là thân nhân họ hàng của các vị bộ trưởng hoặc các viên chức cao cấp trong chính quyền. Họ không phải là những bộ óc tài chánh xuất sắc, nhưng họ có lý do để tin chính quyền Thái sẵn sàng buộc người chịu thuế phải cứu trợ công ty họ khi lâm nguy. Đồng thời, những quan hệ chính trị của họ sẽ là lợi thế đối với các nhà đầu tư. Nói chung, họ hưởng lợi khi thuận buồm xuôi gió, làm giàu là động lực thúc đẩy họ tiếp tục cho vay trong khi được che chở khi gặp khó khăn bảo tố – cho đến khi toàn bộ mạng lưới sụp đổ, lúc đó họ cũng đã kiếm được một tài sản kếch sù. Họ cũng không chịu tai tiếng (moral hazard). Họ lấy tiền của người khác nhưng chẳng chịu rủi ro bất trắc nếu quyết định của họ sai lầm, thiếu cẩn trọng hay khờ dại. Sự nhẹ dạ của giới đầu tư qua các móc nối với các yếu nhân Thái có thể không mấy giống sự nhẹ dạ của họ do sự đánh giá AAA của Moody đối với các khách hàng được nuông chiều. Nhưng nếu những lợi nhuận của các công ty tài chánh nhắc nhở chúng ta về sự thủ lợi của các công ty cho vay đầu cơ bất động sản mà chẳng điều tra nghiêm túc các đơn vay nợ, hay các ngân hàng đầu tư bán các trái phiếu hay chứng khoán với thế chấp bất khả tín, chúng ta có thể được tha thứ. Theo Paul Krugman, người được giải Nobel về kinh tế năm 2008, Wall Street đã trở nên quá hồ hởi đầu tư vào Ponzi pyramid không chút âu lo miệng tiếng hay moral hazard. Điều đó đưa chúng ta tới một tay chơi bá đạo khác – một tay chơi luôn sẵn sàng tấn công các nền kinh tế Tây phương cũng như những nền kinh tế đang lên – có thể làm cho cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn nhiều. Chúng tôi muốn nói đến các hedge funds, các quỹ đầu cơ. Các quỹ nầy đã lớn mạnh và trở thành một bộ phận lớn, vô cùng nguy hiểm, của hệ thống ngân-hàng-không-phải-ngân-hàng, hầu như không tuân theo một quy luật và cũng chẳng chịu một sự giám sát nào: những định chế nhận tiền của bất cứ ai với lời hứa sẽ trả lợi nhuận kếch sù nhưng chẳng tuân theo một điều lệ quy luật nào. Paul Krugman đã nhắc nhở chúng ta sự lớn mạnh đáng ngạc nhiên của các hedge funds nầy, bắt đầu với cuộc tấn công thần kỳ (legendary) Bộ Ngân Khố Anh (British Exchequer) bởi Quantum Fund – Quỹ Lượng Tử – của George Soros trong năm 1992; vụ đầu cơ nầy đã làm đồng bảng (pound) suy yếu đến mức khiến Thủ Tướng John Major cuối cùng đã phải rút khỏi cuộc thương nghị gia nhập khu vực đồng Euro, và chính phủ ông phải sụp đổ. Trước cuộc khủng hoảng 2008, các ngân hàng thông thường quản lý khoảng 6.000 tỉ mỹ kim; các ngân hàng phi ngân hàng – hedge funds và ngân hàng đầu tư – khoảng 4.000 tỉ, 1.800 tỉ trong số nầy nằm trong tay các quỹ đầu cơ. Theo Krugman, sự sụp đổ của những định chế nầy có thể xô đẩy các nhóm đầu tư lớn, kể cả các quỹ hưu bổng, các quỹ endowments của các đại học, vào tai họa đầu cơ. Tất cả các quản lý viên các quỹ vừa nói , các CEO, được tưởng thưởng khi đem lại lợi nhuận trên trung bình. Nhưng làm thế nào tất cả các lợi nhuận đều trên trung bình. Krugman đã đúng khi nhấn mạnh tài sản thực sự có thể bị tiêu tan vì sự sụp đổ không thể tránh của các quỹ đầu tư. Khi kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh, các sự lỗ lả trên giấy tờ có thể lấy lại trong vài tuần lễ. Nhưng khi sự lỗ lả quá lớn, mọi người đều hoảng sợ, sản xuất tất sẽ suy sụp, thất nghiệp sẽ tràn lan, suy thoái , và có thể cả khủng hoảng và đại khủng hoảng, rất dễ xẩy ra cho toàn bộ quốc gia, thậm chí cả toàn cầu. Hỏi: Xin ông cho biết hội nghị G20 ngày 2 tháng 4 vừa rồi đã tìm được những giải pháp nào cho cuộc khủng hoảng. Đáp: Trong nổ lực vượt qua các dị biệt trong căn bản triết lý và chính sách tài chánh, cấp lãnh đạo nhóm G20, ngày 3-4-2009, đã chấp thuận một chương trình phục hồi kinh tế toàn cầu hiện đang bị tê liệt. Hội Nghị đã cam kết một ngân khoản phụ trội 1.100 tỉ mỹ kim để tài trợ mậu dịch quốc tế và cứu trợ các quốc gia gặp khó khăn. Chương trình bao gồm những điều lệ khắt khe mới đối với các quỹ đầu tư và đầu cơ; các cơ quan thẩm định tính minh bạch, lành mạnh của các định chế tài chánh; các biện pháp kiểm soát và chế tài những cơ sở tránh thuế an toàn nếu từ chối cung cấp thông tin thuế vụ cho nhà cầm quyền các xứ khác. Nhóm G20 cũng đồng ý về những quy định mới chặt chẻ ấn định mức trần các khoản thù đáp và tưởng thưởng cho các cấp lãnh đạo ngân hàng, cũng như một phương cách chung để đối phó với các tích sản mất hết giá trị trong đối chiếu biểu các ngân hàng trên thế giới. Các xứ thành viên cũng thỏa thuận biện pháp vạch mặt chỉ tên và bêu xấu các xứ áp dụng các biện pháp bảo vệ mậu dịch và cam kết dành 250 tỉ mỹ kim để hổ trợ mậu dịch. Biện pháp cụ thể nhất liên quan đến những biện pháp hổ trợ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), cơ quan đã có những hành động sớm sủa đối phó với khủng hoảng toàn cầu qua việc cho một số quốc gia gặp khó khăn vay khẩn cấp. Nhóm G20 cam kết tăng tài nguyên IMF lên gấp ba – 750 tỉ – với 500 tỉ tiền vay của các quốc gia thành viên và đặc biệt phát hành thêm 250 tỉ tiền Special Drawing Rights (SDR), loại tiền đặc biệt của Quỹ, để phân phối cho 185 quốc gia thành viên. Các xứ nầy có thể sử dụng số SDR của mình để cho các xứ láng giềng gặp khó khăn vay lại. Các quốc gia thành viên còn thỏa thuận dùng số tiền thu từ nghiệp vụ bán số vàng dự trử của IMF để cho các xứ nghèo vay. Ngoài ra, một Hội Đồng Ổn Định Tài Chánh cũng được sáng lập với đủ quyền hạn một cơ chế kịp thời báo động các xứ thành viên về những bất trắc mang tính hệ thống đối với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, ngân khoản cam kết quá khiêm tốn 1.100 tỉ, so với nhu cầu tiếp sức hết sức lớn lao vào kinh tế thế giới đang thiếu máu trầm trọng, và sự thiếu vắng một cơ chế toàn cầu có đủ thẩm quyền để điều phối, giám sát, chế tài, tất cả các định chế tài chánh toàn cầu, các quỹ đầu tư, các hedge funds xuyên quốc gia, cũng đủ phản ảnh những dị biệt sâu xa và dai dẳng giữa Âu châu lục địa và phần lớn thế giới bên ngoài, cũng như giữa Hoa Kỳ và Âu châu, về nhu cầu phải hành động cấp bách hay phải đợi xem hiệu quả của các chính sách chi tiêu kích cầu hiện hữu, về một cơ chế điều phối, giám sát siêu quốc gia hay bởi các quốc gia riêng rẽ. Ở đây, tưởng cũng nên nhắc lại lời cảnh báo của Paul Krugman, người được giải Nobel kinh tế năm 2008. Theo Krugman, chính quyền đang đứng trước những lựa chọn nghịch lý. Trong cương vị tác nhân duy nhất điều hướng chi tiêu còn đứng vững, chính quyền trở thành nhà đầu tư tối thiết. Tiến trình hồi phục còn dài lâu. Krugman nhấn mạnh tầm quan trọng của những số đầu tư lớn lao vào hạ tầng cơ sở, bảo hiểm y tế, giáo dục, ngay cả sản xuất xe hơi… Số đầu tư, mang tính hệ thống và tâm lý, phải đủ lớn để đè bẹp khủng hoảng. Lỗi lầm tệ hại nhất là biện pháp nửa vời, chỉ muốn nhảy năm thước khi phải vượt qua một hố thẳm rộng bảy thước, vì e ngại hành động để cứu nguy hệ thống tài chánh có thể bị xem như mang tính xã hội chủ nghĩa. Hỏi: Ý nghĩa cuộc sống đối với ông là gì? Trả lời: Tôi đã quá tuổi “cổ lai hy”. Tôi nghĩ, không ai biết được những năm tháng còn lại của đời mình. Nhưng bất cứ ai cũng có thể làm chủ được một điều: đừng để chết khi còn sống; và ngày nào còn sống, phải ráng làm những việc hữu ích cho chính mình, cho gia đình, cho bạn bè, và cho xã hội. Theo tôi, đó là ý nghĩa của cuộc sống.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 17, 2014 10:31:07 GMT 9
Công nghệ phản độngHiện nay một chữ được hâm mộ khắp vũ trụ kinh tế tài chánh toàn cầu là “phản động”, dịch thoáng từ Anh ngữ: disrupt (verb), disruptor (noun) hay disruptive (adjective). Disruptor thực ra là kẻ “thọc gậy bánh xe”, người phản nghịch…gây ra tình huống mới rất disruptive….cho sự ổn định của hệ thống, của cơ chế, của tổ chức, của lối kinh doanh bình thường, cổ truyền…Tóm lại, một thế lực thù địch có hành vi phản động muốn phá hoại trật tự. Trong những road shows gây quỹ, trên thị trường chứng khoán, tại các mạng truyền thông…chữ phản động được đề cao như là một thành tích và tài sản quý giá nhất của bất cứ doanh nghiệp nào. Hai mươi năm trước, mọi công ty đều cố gắn nhãn dotcom sau tên gọi; rồi sau đó là e- hay i-, rồi là social network, là mobile platform, là IT cloud …Bây giờ, phản động là lời khen tốt nhất. Nguyên lý của phản động Thực ra, lịch sử thế giới luôn tạo tiến bộ bằng hành vi phản động. Những cuộc cách mạng bắt đầu bằng triết thuyết phản động, tiến hành bởi những tổ chức phản động…cho đến khi nắm được chính quyền. Sau đó, kẻ nào chống lại “cách mạng” đều là phản động. Lịch sử kinh tế cũng diễn biến tương tự. Một hay nhiều công ty sẽ đề xướng một mô hình kinh doanh mới lạ, khác hẳn với cách kinh doanh truyền thống. Sau khi họ thuyết phục được người tiêu dùng, chiếm lĩnh thị trường, thì họ lại phải đối phó với những disruptors mới, tìm cách thay đổi cuộc chơi (game changers). Họ phải biết điều chỉnh…nhưng thường là bị tiêu diệt bởi các đối thủ nhỏ hơn, trẻ hơn, nhanh lẹ hơn, sáng tạo hơn. Vài thí dụ. Vào thập kỷ 70’s, IBM thống lĩnh thị trường máy tính điện tử. DEC (Digital Equipment) nghĩ là chỉ nên nhắm vào thị trường ngách là máy tính cỡ trung cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thành công tuyệt đỉnh trong thập kỷ 80’s, DEC đã bị Apple và các nhà sản xuất PC xóa tên trên địa bàn máy tính cá nhân. IBM và Apple đã nhanh chân đổi mới khi mô hình phản động chuyển qua tablet, smart phone và điện toán đám mây…nhưng các disruptors lớn nhỏ vẫn đang tìm cách hạ bệ những ông khủng long này. Bọn phản động còn đặt trong tầm nhắm các đại gia như Google, Facebook, Amazon, Boeing, GM, Toyota, Samsung…Định luật này được hiểu như là huỷ diệt để sáng tạo (creative destruction). Ngay chính Microsoft đã đẩy IBM qua một bên với lối tiếp thị phần mềm trực tiếp cho các nhà sản xuất PC; Amazon đã chôn vùi những hệ thống bán sách lớn nhất thế giới như Border, Dalton, Barnes & Nobles; Tesla đang thử thách sự thống trị thế giới ô tô của Toyota, GM, Ford; hay Skype đã đảo lộn trật tự viễn thông của AT&T và những đại công ty thế giới; và cả ngàn disruptors khác đang tranh nhau để trở thành “the next best thing”. Các công ty phản động Trong 30 năm qua, có đến 47% những công ty “tỷ đô” khởi nguồn từ con số không 15 năm trước đó. Chưa bao giờ lịch sử kinh tế toàn cầu lại có sự thay đổi ngôi vị, thứ hạng, tài sản…nhanh như vậy. Công nghệ phản động đã là động cơ chính turbocharged những cuộc cách mạng mới này. Mạng truyền thông CNBC bắt đầu lên danh sách Top 50 Disruptors hàng năm, được chia sẻ bởi các nhà đầu tư nhiều hơn Top 500 người giàu nhất của Forbes hay Fortune. Các nhà bình luận, phân tích gia…theo dõi và đánh giá những hoạt động của các disruptors hàng ngày. Và quan trọng hơn hết, dòng tiền đầu tư cũng như venture capital đang ào ạt đổ vào kênh này, hy vọng sẽ bắt đúng một siêu sao như Facebook, Alibaba, Google… Các disruptors đang thay đổi cuộc chơi đã đạt thị giá hơn tỷ đô la gồm có những tên tuổi quen thuộc như Twitter, DropBox, Pinterest, AirBnb, Uber, Square…Tuy nhiên, các nhà đầu tư đang sục sạo đi tìm những viên kim cương lẫn trong đá sỏi. Những disruptors có tiềm năng trên nhiều danh sách là DocuSign, Genband, GiamMedia, Xirrus, Dataminr, TransferWise, RedFin, Kickstarter…Bạn chỉ cần tìm ra một “siêu sao” trong đám đông này là bảo đảm sự an toàn tài chánh của cá nhân và gia đình bạn trong nhiều thập kỷ. Dù nằm trong bất cứ lãnh vực nào, các disruptors đều có thể thành công vĩ đại hay thất bại thảm thương. Ngoài từng cá nhân mỗi công ty, bạn có thể đầu tư thì giờ và tiền bạc vào ba công nghệ mà mọi người tin sẽ là nền tảng cho tương lai kinh tế trong vài thập kỷ tới. Đó là “3D Printing”, “Robotic Command System” và “Internet of Things”. Mỗi công nghệ đều được ước tính là sẽ mang lại khoảng 1 ngàn tỷ đô la trong 10 năm tới và có thể nhiều hơn. Sau Internet, có lẽ đây là công nghệ có khả năng thay đổi hiện trạng kinh tế toàn cầu. Nó được so sánh với sự phát minh của máy in Guttenberg, của động cơ xe hơi, và ngay cả của lửa. Mọi cách thức vận hành một nhà máy sản xuất sẽ biến dạng sâu rộng. Lấy ví dụ chúng ta muốn sản xuất đinh vít. Theo mô hình hiện tại, mỗi cỡ đinh phải được làm khuôn, rồi sản xuất ra cả trăm ngàn đơn vị và phải tồn kho, vận chuyển, kiểm soát thật tốn kém cho từng chặng sản xuất. Một nhà máy làm động cơ phản lực bên Mỹ chỉ cần khoảng 1 ngàn đơn vị cho 3 cỡ đinh và phải mua qua các nhà nhập khẩu phân phối từ Trung Quốc. Với máy 3D printer, nhà máy bên Mỹ chỉ cần viết hay mua lại phần mềm và tự sản xuất 3 cỡ đinh này trong 20 phút. Không những chỉ đinh vít mà tất cả cơ phận của động cơ đều có thể tự in ra và ráp nối. Vì 3D printer có thể dùng bất cứ nguyên liệu gì, nên nhiều phòng thí nghiệm đã bắt đầu thử làm những bộ phận của thân thể, đơn giản như cơ bắp, xương, răng, mạch máu…và chỉ trong vài năm nữa, một quả thận, một lá gan, ngay cả trái tim nhân tạo…cũng có thể được sản xuất ngay trong bệnh viện theo đúng kích thước, nhu cầu cá nhân. 3D printing sẽ hiện thực bất cứ điều gì bạn nghĩ trong đầu khi coi các phim khoa học giả tưởng. Dĩ nhiên, mặt trái của 3D printing là sự dễ dàng sản xuất những vũ khí khủng bố, khó kiểm soát được thuế và tài chánh (khi cơ xưởng của bạn nằm trong garage), nạn thất nghiệp của người lao động không có kỹ năng, và vấn đề ăn cắp bản quyền trí tuệ. Hiện nay, một máy 3D printer đơn giản cho người tiêu dùng chỉ tốn có 2 ngàn đô la và giá này trong tương lai còn xuống thấp hơn một chiếc IPhone nhờ số lượng sản xuất. Robotic Command System (RCS) Khi nói đến robots, mọi người hình dung đến những người máy với chân tay cứng ngắc, và những tác động giống như con người. Thực tình, robots trong tương lai chỉ là những máy tính lớn nhỏ với các phần mềm điều khiển ngay tại chỗ hay từ xa. Robots dùng trong dây chuyền của cơ xưởng lắp ráp ô tô chỉ là những “cánh tay” liên tục di chuyển vật liệu rồi hàn hay vặn vít. Tuy nhiên, trong tương lai gần, robots sẽ được trang bị nhiều chức năng hơn và theo ước tính của McKinsey, 40% nhân công trong các nhà máy sản xuất công nghiệp sẽ bị robots thay thế trong 20 năm tới. Ứng dụng phổ thông nhất hiện nay của RCS là máy bay không người lái (drones), đang được quân đội Mỹ điều động khắp các mặt trận. Giá bán của drone đã xuống khá thấp để những công ty thương mại hay cá nhân có thể sở hữu; nhưng chính phủ Mỹ vẫn chưa soạn thảo xong luật kiểm soát về sự an toàn hay việc lợi dụng drones trong các dịch vụ phi pháp (do thám của tư nhân hay vận chuyển ma tuý). Google cho biết sẽ bán ra thị trường xe hơi không người lái vào khoảng 2017. Sony cho ra đời cách đây vài năm một robot tên Asimo biết làm các công việc vặt trong nhà như tưới cây, bưng nước, ca hát nhảy múa…còn hãng Tosy của Việt Nam thì cho ra đời một robot biết đánh ping pong. Người tiêu dùng Mỹ hiện đang chuộng loại máy tự động chùi dọn nhà cửa bằng cách hút bụi thảm hay chùi sàn. Quan trọng hơn, robots có thể thay người trong những việc nguy hiểm như gỡ bom mìn, hay độc hại như xử lý phóng xạ hay môi trường khắc nghiệt của nóng và lạnh (dương hay âm ngàn độ C)…Trong ngành y khoa, những robots siêu vi được tiêm vào bệnh nhân để dò tìm hay chữa trị những biến thái trong mạch máu và các bộ phận khác. Trong tương lai, khi artificial intelligence hoàn thiện hơn nữa thì robots sẽ hiện diện cùng khắp xã hội và chung sống hoà bình cùng nhân loại. Nhưng chỉ trong vòng 20 năm tới, chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng về cách vận hành sản xuất, cung cấp dịch vụ và nhiều ứng dụng do robotics đem lai. Internet of Things (IOT) Nói nôm na, IOT là việc sử dụng Internet và phần mềm để các máy trao đổi thông tin rồi quyết định vận hành mà không cần tương tác với con người. Ví dụ một ngôi nhà thông minh sẽ biết là bạn cần máy sưởi hay máy lạnh vào những giờ giấc nào trong ngày và tự động xử lý. Tủ lạnh thông minh sẽ biết là bạn cần sữa hay bánh mì hay trái cây gì…và tự liên hệ với máy tính của siêu thị để đặt hàng. Chiếc xe thông minh sẽ thông báo là chỗ đậu xe nào trong thành phố còn trống; do đó bạn không phải chạy xe lòng vòng tìm chỗ đậu. Một phòng mạch thông minh sẽ khám bệnh qua các sensors cài sẵn trên điện thoại của bệnh nhân, ngay cả khi nạn nhân chưa cảm thấy bệnh chứng. Ở bình diện rộng hơn, một thành phố thông minh sẽ tự tưới cây, lên đèn ban đêm, điều phối traffic, báo động về động đất hay lửa hay lụt, cũng như điều hành xe rác, xe quét đường…đo lượng ô nhiễm, lượng chất thải ra sông biển…để cùng xử lý với các hệ thống máy tính khác. Trong kinh doanh, một công ty thông minh sẽ tự xuất hoá đơn, thu và trả tiền, lập chương trình giao hàng, kiểm soát toàn bộ supply chain, lập kế hoạch bảo trì máy móc và xe cộ, ngay cả quản trị hồ sơ nhân viên và các chương trình phúc lợi. Trong nông nghiệp, hệ thống máy tưới cây tự động, gieo giống hay bón phân, trồng và gặt theo thời điểm của khí hậu và thị trường, chương trình chăm nuôi và cho gia súc ăn…là những thay đổi đang diễn ra sâu rộng tại Mỹ. Libelium, một công ty tiền phong trong IOT, ước tính là đến 2020 sẽ có 50 tỷ máy móc kết nối trực tiếp với nhau để điều hành sinh hoạt hàng ngày của nhân loại. Nếu các bạn bắt đầu vào ngày hôm nay, tạo cho mình kỹ năng chuyên sâu và kiến thức cập nhật về một trong ba công nghệ này; rồi tìm cách làm việc hay kinh doanh vào các hoạt động liên quan; tôi tin chắc là tối thiểu các bạn sẽ trở thành triệu phú đô la, sớm hay chậm tuỳ kỹ năng, lòng kiên nhẫn và ý chí theo đuổi đến cùng. Bạn có thể là một nghiên cứu sinh, một chuyên viên, một nhà đầu tư hay chỉ một nhà bán lẻ phân phối hàng hoá và dịch vụ. Hãy bắt đầu bằng cách lên các search engines để tìm biết tất cả kiến thức “miễn phí” trên mạng trước đã. Công nghệ phản động mới sẽ tạo một cuộc cách mạng tận cùng gốc rễ của truyền thống. Tham gia cuộc cách mạng này là bảo đảm cho chính bạn và gia đình một vị trí vững chắc trong xã hội.Cứ hỏi các thế lực phản động 70 năm về trước khi họ vào rừng để bắt đầu sự nghiệp. Một khác biệt: cuộc cách mạng này sẽ diễn ra nhanh chóng hơn, tại những thành thị đã phát triển…và sẽ không đổ máu. Và luôn nhớ rằng, “những cuộc cách mạng lớn mạnh nhất bắt đầu rất nhẹ nhàng, ẩn che trong bóng tối” (The greatest and most powerful revolutions often start very quietly, hidden in the shadows – Richelle Mead) July 15, 2014 Allan Phan
|
|