|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:30:25 GMT 9
Cùng Trên Mảnh Đất Ấy Hồ Trường An
Gần sân vận động tỉnh Vĩnh Long, cách một con lộ tráng nhựa là nhà máy đèn vào đầu thập niên còn chạy bằng than đá. Cũng theo con lộ đưa về một cái gò cao có trồng một cây da trên đỉnh gò. Dưới bóng rậm rịt của cây da, người ta xây một cái miễu mái ngói tráng men đỏ lẫn men màu thúy lục, mặt tiền sơn son thếp vàng. Trong miễu, nhang thắp suốt ngày. Người ta gọi cái miễu đó là miễu Cây Da Cửa Hữu. Ở đây gần Thánh Thất Cao Ðài, chủng viện đạo Gia Tô, trường tiểu học Vĩnh Long, bịnh viện Thánh Minh. Xa hơn nữa, ném về miệt Công-xi Heo, là lò heo và đất thánh An nam.
Khoảng giữa nhà máy đèn và miễu Cây Da Cửa Hữu có một ngôi Niệm Phật Ðường. Ðó là một căn nhà ba gian hai chái, tường đúc, hàng rào bông bụp vây quanh, lại còn bọc thêm một lớp hàng rào xương rồng vòng ngoài. Chỗ đó trang nghiêm khuất tịch, do vợ một thương gia Hoa kiều lập ra để tu niệm...
Ðối diện với Niệm Phật Ðường là một cái quán mái lá, bàn gỗ, ghế đẫu. Một chiếc sạp ván đặt bên trái quán, từ cửa ngó vào. Trên sạp bày đầy các keo lọ thủy tinh, cái đựng dưa kiệu, cái đựng dưa chuột, cái đựng nước mắm, cái đựng tương ớt...Kế bên mớ keo lọ đó là rổ rau, rổ bún. Bên sạp ván có hai chiếc hỏa lò luôn rực lửa. Một chiếc đặt chảo mỡ, chiếc kia đặt cái nồi đất để nấu trà huế. Chảo, nồi đều đóng khói đen ngòm. Ðây là giang san của bà Hai Ách. Bà bán bún chả giò, bún nem, bún bì, bánh cống, gỏi cuốn, bì cuốn, nem cuốn...Từ xà nhà, phía trên vạt tre, bà treo tòn ten những xâu nem bì, nem chua, những nải chuối già. Dưới vạt tre là thùng nước đá phủ mạt cưa, các két nước xá xị, nước cam, bạc hà, li-mô-nát, la de...
Cách đây hai năm, chú Tư Nghinh, em ruột của bà Hai Ách bảo bà:
- Chị mà bày bán thêm đồ nhậu và rượư thì thể nào cũng kiếm thêm mỗi ngày trên trăm bạc chớ không chơi.
Từ đó trên sạp ván bày thêm mớ khô cá đường, khô mực và thúng hột vịt lộn lẫn hột vịt ung luộc chín vùi vào trong trấu để giữ hơi nóng.
Bà Hai Ách bán quán nhậu nầy từ hồi trào Tây đến năm 1954 là chẵn mười năm. Bà thường nhắc nhở với các bà khách từ xa tới:
- Hồi trào Tây, cái Niệm Phật Ðường kia là....
Bà hạ thấp giọng, kề miệng sát tai bà khách. Ánh mắt họ rực lên thích thú, mặt họ tái nhợt vì bị kích thích.
Bà Hai Ách từ "hồi trào Tây" đã biết cái quá khứ, cái tiền thân của Niệm Phật Ðường kia. Vì rằng trước kia, hồi Tây cai trị xứ mình, chồng bà làm tới chức "ách" trong đội lính khố xanh. Ðến thời bình minh của nền Ðệ Nhứt Cộng Hoà thì ông Ách giải ngũ. Thiên hạ không có dịp kêu ông là ông thượng sĩ Trần văn Cảnh mà vẫn tiếp tục kêu ông Hai Ách, bà Hai Ách như xưa tuy rất ít người hiểu căn nguyên của nó.
Ông Hai Ách tuổi tuy đã 60 nhưng khí huyết hãy còn phương cường lắm nên ông tò tí với bà Tám Rớt nhỏ hơn ông tới mười tuổi. Bà Hai Ách tuy mới 56 mà đã chê việc ăn nằm với chồng. Tuy vậy bà cũng biết đau, biết ghen khi thấy chồng cưng vợ bé quá là cưng. Bà thường cùng hội bắt ghen lên tận nhà bà Tám Rớt để làm dữ. Sau cùng, ông Hai Ách điều đình với vợ, xin nộp nguyên vẹn tiền hưu trí mỗi tháng để ông được tự do hú hí với bà Tám Rớt. Ông mở phòng coi chỉ tay, quẻ diệc, nham độn và bàn xâm (gồm cả xâm Ông tức đức Quan Thế Ðế Quân và xâm Bà tức đức Thiên Hậu) kiếm ăn lai rai. Bà Tám Rớt thì bán cá ngoài chợ Vãng. Bà nầy về sau lân la tới vợ lớn của chồng mình, tỏ ra mềm mỏng dễ thương. Mỗi lần thăm viếng bà đều tặng cho bà Hai Ách khi thì bánh trái, lúc thì gà vịt. Bà Hai Ách bị khớp miệng và tê liệt tay chơn bởi cách xử sự của mụ vợ bé chồng mình, nên thay vì chửi đánh tình địch, bà kêu "dì nó" ngọt xớt, tay rót nước trà mời "dì nó uống cho thấm giọng" một cách ân cần.
Bà Hai Ách nhờ việc bán quán cốc nên đỡ buồn về chồng san sẻ tình nghĩa với người đờn bà khác. Bà có cặp lỗ tai rất thính, trí nhớ rất dẻo dai... Ðám thực khách đờn bà của bà lui tới quán có sẵn cả chục câu chuyện ngồi lê đôi mách để làm quà cho nhau. Mỗi câu chuyện một khi lọt qua tai bà thì nó được trí óc bà ghi nhận kỹ. Tuy nhiên, vì tuổi tác càng ngày càng chồng chất nên sự ghi nhận của ký ức bà giảm dần đôi phần chính xác. Nhưng không lo! Chỗ nào quên hoặc nhớ mù mờ thì bà tưởng tượng thêm vài tình tiết lý thú để trám vô chỗ thiếu thốn, hở hang đó.
Cái Niệm Phật Ðường đối diện quán cốc, bà Hai Ách biết rất rõ, từ lúc nó chỉ là bãi đất trống mọc đầy cỏ mần chầu và cỏ đuôi chồn, tới lúc ông thầu khoán Thái văn Bảnh mướn xe cam nhông chở vật liệu xây cất về để dựng lên một toà nhà bánh ếch kiểu Tây, và cho tới lúc bà bang trưởng Phúc Kiến bỏ tiền ra mua lại, thỉnh tượng A Di Ðà Tam Tôn về thờ ở căn giữa.
Gặp khách ở xa ghé qua quán ăn bì, ăn chả giò, bà Hai Ách thường chỉ ngôi Niệm Phật Ðường, bảo:
- Cái Niệm Phật Ðường Bê Em Xê (BMC) đó đó hồi bốn năm về trước...
Các bà khách vừa ăn vừa giảo lỗ tai lắng nghe bà chủ quán sành đời. Bà Hai Ách có lối kể thập phần hấp dẫn vì bà biết thêm thắt câu chuyện, biết nhấn giọng hoặc bào mỏng giọng cho câu chuyện thêm phần ly kỳ. Các bà thực khách cười ré lên từng chặp khoái trá, rồi làm ra màu mắc cỡ:
- À, té ra là vậy. Thiệt tình, tụi nầy đâu có dè...
Nhưng họ chỉ được nghe bà Hai Ách kể cho nghe chuyện năm xưa chớ không hề giải nghĩa ba tiếng "Bê Em Xê" là cái gì. Nhưng chính vì chỗ không hiểu rõ đó mà óc tưởng tượng của họ hoạt động nhiều hơn, cảm thấy chúng có nhiều ý nghĩa lý thú lắm! ° ° ° Bà Phủ Long là một nhà giàu nổi tiếng ở cầu Cái Cá. Nhà bà cách chợ Vãng chừng hai cây số. Bà cũng nổi tiếng là một Phật tử thuần thành, một lòng quy y tam bảo, cố gắng giữ vẹn ngũ giới.
Vào kỳ rằm hạ nguơn năm đó, bà cùng cô con gái cưng là Năm Phụng Kiều xách dù đến quán bà Hai Ách. Hôm đó bà Hai bán đồ chay. Món chả giò chay, bì bún chay và món kiểm chay của bà thì trong trào ngoài quận ai cũng trầm trồ, ai cũng hít hà chắt lưỡi.
Năm nay tóc bà Phủ Long đã bạc như phết vôi, song sắc mặt bà hồng hào, cái nhìn của bà hãy còn sắc sảo, tròng mắt bà đưa đẩy rất mau. Bà mặc chiếc áo gấm màu dưa cải, tai đeo bông hột xoàn năm ly bự trưu trứu, cổ đeo dây chuyền mặt mề đai cẩn hột xoàn chấp chới. Cô Năm Phụng Kiều khuôn mặt phúc hậu, nước da trắng ăn phấn. Cô mặc chiếc áo nhiễu tím, quần sa-teng đen, đeo nữ trang khiêm tốn hơn mẹ: một chiếc kiềng trơn, một đôi bông tai cẩm thạch, một chiếc đồng hồ Thụy sĩ, một chiếc nhẫn hột xoàn....
Bà Phủ Long gọi sáu cuốn bì chay và sáu cuốn chả giò chay cùng bún, rau thơm, cải xà-lách, dưa leo xắt mỏng. Bà tằng hắng, bảo bà Hai Ách:
- Nè thím Hai Ách, tui nghe thiên hạ đồn thím bán đồ chay thiệt ngon, giá phải chăng nên tui hâm mộ lắm lắm. Bữa nay má con tui tới đây, trước là để thưởng thức món khéo của thím, sau nữa là để nói với thím một điều.
Bà Hai Ách hớn hở:
- Xin thỉnh bà Phủ ngồi chơi, rồi ăn uống cho đã đời, chê chán. Bà Phủ là bực giàu sang, danh giá ở tỉnh Vĩnh Long nầy, trong trào ngoài quận ai mà không biết!
Bà Phủ Long cuốn chả giò trong lá cải xà-lách đệm bún, rau thơm, dưa leo, chấm vào nước tương điểm ớt rồi nhai ngau ngáu. Bà nhìn qua Niệm Phật Ðường hỏi:
- Cái Niệm Phật Ðường kia do ai lập vậy?
Bà Hai Ách nói:
- Dạ, đó là do bà Bang Hậu lập ra. Chồng bả là bang trưởng bang Phước Kiến ở tỉnh nhà. Ổng có tiệm thuốc bắc gần Cầu Lầu. Tuy là chệt, nhưng ổng cũng là bực Ưu-bà-tắc, tu pháp môn Tịnh Ðộ tại nhà. Còn bả là người Việt, từ bốn năm nay đã xuống tóc làm vãi, làm ni, lập ngôi đạo tràng nầy để dễ bề tu hành tinh tấn.
Bà Phủ Long trợn mắt:
- Bộ Niệm Phật Ðường nầy không có tên hay sao mà thím cứ kêu là Niệm Phật Ðường Bê Em Xê rồi xúi thiên hạ kêu theo? Mà thím biết nghĩa Bê Em Xê là gì không?
Bà Hai Ách xẻn lẻn:
- Dạ thưa bà Phủ, Niệm Phật Ðường nầy không có tên, tui cứ y chang tên toà nhà cũ để kêu cho tiện.
Bà Phủ Long liếc xéo:
- Cho tiện hả? Tiện đâu tui chưa thấy, tui chỉ thấy thím bị mắc khẩu nghiệp, chừng chết sẽ sa xưống địa ngục A tỳ, bị qủy ngưu đầu mã diện cắt lưỡi.
Bà Hai Ách tái mặt:
- Kính trình bà lớn, phận tui dốt nát. Hồi xưa ở đây là nhà thổ, nhà đĩ của lính Tây có trương bảng đề chữ BMC. Tui không hiểu BMC là gì, nhưng thấy không có gì thô tục, không có phỉ báng Trời Phật thánh thần nên tui kêu đỡ vậy mà.
Bà Phủ Long hứ một cái:
- BMC tuy không phải là tiếng thô tục nhưng nó ác ôn lắm thím Ách à! - Bà quay qua cô con gái - Nè Năm, con nên giảng cho thím Hai đẫy rõ cái nghĩa BMC coi nào.
Cô Năm Phụng Kiều đỏ mặt sượng sùng:
- Thưa thím Hai, BMC là chữ viết tắt của Bordel Militaire Contrôlé, nghĩa là nhà thổ đỉ của binh sĩ, có đóng thuế cho chính phủ nhà nước bảo hộ Lang Sa. Mấy cô buôn hương bán phấn được bộ y tế của nhà nước kiểm soát kỹ để tránh bịnh...phong tình.
Cô Năm đặt tay lên ngực trái vì quả tim cô đập mạnh trong lúc giải nghĩa ba chữ BMC trời ơi đất hỡi kia. Chữ thì không tục không thanh, nhưng sự việc nằm trong chữ nghĩa đó quả thật là động trời, làm sao cô không sượng điếng cho được.
Tới phiên bà Hai Ách đổ mồ hôi hột. Mặt bà xanh dờn như bị xảo thai. Bấy lâu nay, bà cứ tưởng BMC là tên cái nhãn hiệu nào đó của Tây, cũng như BGI là tên của hãng la-de hiệu trái thơm vậy. Bà mếu máo:
- Thôi rồi, tui mắc khẩu nghiệp rồi! Dạ bẩm bà lớn, bà đừng chấp nhứt kẻ ngu si như tui đây, tội nghiệp! Ai mà dè tụi nó kêu tên tắt điên điên đảo đảo như vầy! Bẩm bà lớn, thưa cô Năm, tui vốn u mê ám chướng nhưng tui tu kỹ lắm. Trời ơi, công tui ăn chay một tháng mười ngày kể như đổ sông đổ biển rồi! Tui hùn tiền in kinh, đúc chuông kể như tiêu tùng rồi! Bà lớn ơi, xin bà thương tình vợ thằng Ách nầy, nhờ bà chỉ biểu coi tui phải làm sao hết tội bây giờ?
Bà Phủ Long cười:
- Thím làm như tui có đủ quyền thưởng phạt thiên hạ vậy. Thiệt ra tui cũng là người phàm phu như thím, dẫu tui có kim văn ngọc kệ lão thông cũng chỉ có thể làm bực thiện tri thức cho thím, chỉ biểu thím lánh đưòng cong nẻo lạc, để thẳng theo con đường Phật đã đi.
Cô Năm Phụng Kiều an ủi:
- Thôi thím chớ quá lo buồn. Chuyện đâu còn có đó. Lát nữa, má con tui qua bên Niệm Phật Ðường, nói phải quấy với am chủ, khuyên bả đặt cho cái cảnh già lam kia một cái tên rồi dựng bảng lên để thiên hạ khỏi kêu bậy kêu bạ nữa.
Bà Hai Ách nói xuôi:
- Trăm sự xin nhờ bà lớn và cô Năm.
Bà Phủ Long khuyên:
- Thím nên ăn năn sám hối, làm phước làm van thì may ra hoán cải nghiệp dữ thành nghiệp lành, biến ác khẩu thành tịnh khẩu.
Bà Phủ Long kêu thêm cho mẹ con bà mỗi người một tô bún chan với kiểm. Ngay từ giờ phút nầy bà Hai Ách coi bà Phủ Long và cô Năm Phụng Kiều là bực thiện tri thức của mình rồi. Bà bốc rau xắt ghém bỏ vào tô, trải bún rồi chan kiểm lên. Món kiểm nầy đủ bộ vận nào khoai lang, bầu, bí rợ, mướp xắt miếng cỡ ngón cẵng cái, rồi thì đậu đũa, đậu ve cắt khúc. Tất ca được nấu chín mềm trong nước cốt dừa. Hôm nay gặp bực thiện tri thức, bà Hai múc vào tô thiệt nhiều khoai lang, bí rợ và đậu trướckhi rải trên mặt tô một nhúm đậu phọng giã nhỏ.
Bà Hai Ách nhìn má con bà Phủ Long, ngẫm nghĩ. Cách đây mười năm, bà Phủ chuyên cho vay ăn lời cắt cổ, tánh tình ke re cắc rắc. Khi cất cái nhà bánh ếch ở cầu Cái Cân, bà cả gan đem kho mắm con dê chết để cho thợ mộc ăn. Có người thèo lẻo học lại, bọn thợ mộc đem bùa Lỗ Ban ra trù ếm bà. Từ đó, mấy đứa con trai bà học hành lận đận, đâm ra chơi bời phá phách. Chỉ có cô Năm Phụng Kiều là hiền lành thùy mị.
Ít lâu, bà Phủ Long bị tai nạn xe cộ. Khi chở tới nhà thương, bà được cứu sống. Trong cơn hôn mê suốt một tuần lễ, bà Phủ Long thấy lại hết quãng đời ác đức của mình, chứng kiến những hành vi bòn tro đãi trấu chẳng kể nhơn nghĩa, tội phước của mình. Khi bình phục, bà phát hùng tâm, xé bớt một mớ giấy nợ của lũ con nợ nghèo sặc máu. Dần dà bà xa lánh nghề cho vay ăn lời cắt cổ theo kiểu "xanh xít đít đui".
Cô Năm Phụng Kiều là con gái độc nhất của ông bà Phủ Long. Cô có tiền của riêng do bà dì của cô để lại. Cô cũng có bóng sắc mà cô không kiêu căng, hống hách. Càng lớn tuổi, bà Hai Ách càng ưa chuyện mai mối. Bà kiếm khắp tỉnh một trang văn nhơn hảo hớn để làm mai cho cô mà tìm hoài chưa gặp.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:31:17 GMT 9
Từ bên dãy nhà lá, gần Niệm Phật Ðường, bỗng có tiếng the thé cất lên:
- Nè con đĩ Ba Lỷ, con đĩ mười thành, chín huyện, bảy phủ...Hồi trào Tây, mầy ỷ thế cậy thần thằng cò-mi Bù-rầy nên mầy tác quái tác yêu, tác oai tác phước. Giờ đây, mầy mà đỏng đảnh, hỗn hào là chết với tao. Tao sẽ xé tét mầy ra từng manh từng mún từng sợi để trộn gỏi bắp cải, gỏi đu đủ nghe chưa!
Người chửi là mụ đờn bà tuổi ngoài bốn mươi, mặc quần bô áo vải đen, từ căn nhà mái lợp tôn xẹt ra. Chị ta đứng dưới mái hiên, gần cái lu nước có cái gáo cán dài gác trên miệng lu. Mặt chị ta cùng hung cực ác, mắt long mày trợn, miệng mím chặt làm cho sát khí, nộ khí bừng bừng hiện ra như lửa cháy.
Bà Hai Ách than với hai mẹ con bà Phủ Long:
- Con Chín Sa-teng và con Ba Lỷ cứ sanh giặc, cứ hỗn chiến với nhau hoài nên lân lý ở đây bị náo động luôn luôn.
Một mụ thực khách, vốn là dân trong xóm, tay chỉ chỏ, miệng ré lên:
- Kìa, chị Ba Lỷ ra kia kìa.
Ba Lỷ từ căn nhà kế bên, có tấm tôn che phía trước mái hiên bước ra. Mặt chị ta xám như chì, môi thâm, vai rút. Rõ ràng đây là bợm ghiền á phiện, đệ tử của nàng tiên nâu. Ba Lỷ xáng cho địch thủ cái nhìn sấm sét, cất giọng kháp kháp như giọng vịt xiêm để trả đủa:
- Con đĩ điếm cỏ cầu sương, con đĩ chết ương chết sình, con đĩ chằng tinh gấu ngựa, con đĩ ma dựa quỷ ốp kia! Giờ đây mầy làm bà gì mà mầy hống hách lớn lối với tao? Tao ghiền, tao đau yếu, mầy đừng tưởng tao không đủ sức đốt nhà mầy. Mầy mà chọc tao là mầy lãnh thẹo, nghe chưa?
Trước đây, Ba Lỷ có nhan sắc nên nổi danh là bực huê khôi trong giới gái chơi bời ở tỉnh Vĩnh Long nầy. Ba Lỷ là tiếng kêu trại của cái tên Marie. Tên nầy do Tây đặt cho chị, chớ thiệt ra chị tên là Bảy Ðán. Lối xóm, láng giềng chị hầu hết là dân thợ, dân mua thúng bán bưng không quen bẻ miệng gọi chị là Marie nên đọc trại là Ba Lỷ cho gọn, cho nó tiện. Cũng vậy, thằng con trai Ba Lỷ tên là Pascal cũng được họ gọi là thằng Bánh Canh, còn con Hélène được gọi là con Ốc Len. Ðôi lúc Ốc Len nghĩ mình còn may mắn lắm mới được gọi trại như vậy, chớ nếu bà con cô bác trong xóm gọi nó là con Heo Lang thì nó cũng phải ráng mà chịu.
Ba Lỷ thường khoe:
- Ba tụi nó tên là Paul Brugeille, vậy mà tụi cùng đinh trong xóm cứ gọi là ông cò-mi Bốn Bù-rầy hoài. Ðáng lẽ con tui phải có tên là Pascal Brugeille và Hélène Brugeille mới phải. Ngặt vì ổng còn kẹt bà vợ bên Tây nên không dám nhìn tụi nó. Cái con mụ ó đâm đó bị lao nặng, chích thuốc trụ sinh như chích nước lã. Chừng nào nó chết rồi thì ổng sẽ rước mẹ con tui về bên Tây. Tui sẽ cai á phiện, o bế bóng sắc lại cho ổng cưng.
Bởi Ba Lỷ chót chét, xảnh xẹ quá nên ai cũng ghét. Chín Sa-teng ở sát vách với chị ta, cứ bị chị ta chê rằng Chín ta mặc sa-teng đen, đẹp đẽ đâu không thấy, chỉ thấy Chín ta láng mướt giống như con cá trê.
Sáng hôm nay, sau bốn điếu thuốc sái, Ba Lỷ mơ màng sống lại cái thời mình còn bóng sắc chói chan, cái thưở chưa xảy ra cuộc chiến tranh Ðông Dương. Chị thiệt ra là gái bao. Chị gặp ông Bù-rầy vào năm 1934, hồi chị còn đang dan díu với ông bác vật canh nông Trần Hữu Cảnh ở Mỹ Tho. Ông nầy là đại điền chủ. Cái bằng kỹ sư tuy không giúp ông hành nghề nhưng vẫn tô điểm hoa lá cành cho thân thế ông, cho gia tộc ông.
Sống ở chốn Cái Thia hẻo lánh quê mùa, bên cạnh tình nhơn già, chị đâm ra buồn nên xin qua Vĩnh Long thăm người em gái có chồng làm thư ký toà Bố. Tại đây chị gặp ông Bù-Rầy. Ông ta là bạn quần vợt với em rể Ba Lỷ nên tới nhà anh ta luôn. Ông cò-mi Bù rầy cường tráng, hét ra lửa lại hào huê phong nhã khiến Ba Lỷ quên cảnh Cái Thia mà khi mới về ăn ở với ông bác vật Cảnh, chị ta đã trầm trồ là cảnh thơ cảnh mộng, quên luôn người tình già mà chị hằng ca ngợi là "người quân tử".
Ông cò-mi Bù-rầy mua cho Ba Lỷ cái nhà bánh ếch ở gần dãy phố bà Thông Vịnh. Ngôi nhà nằm trong mảnh vườn trồng cây ăn trái hai mẫu. Nhà có bộ sa-lông bằng gỗ cẩm lai, tủ thờ bằng cây nu khảm xà-cừ, có tủ kiếng soi mặt bằng gỗ huỳnh đàn, có hai cái divan bằng gỗ giáng hương. Còn trong tủ chè, ngoài chén dĩa, độc bình xưa, chị còn dám mua sắm thêm đồ sứ nhập cảng từ bên Pháp. Lại nữa, Ba Lỷ cũng là một trong năm tay sắm radio đầu tiên trong tỉnh. Chị cũng đã có giàn máy hát, xe mui trần. Chiều chiều, chị trang điểm phấn son lộng lẫy, diện quần áo hực hỡ, đeo hột xoàn lấp loá rồi ngồi xe mui trần để dạo mát trước khi tới Bông-ga-lô (Bungalow) giải khát. Ðây là nhà hàng khách sạn sang trọng mà chỉ có mấy ông Tây bà Ðầm và dân Việt có quốc tịch Pháp lui tới.
Lúc gặp thời, Ba Lỷ kiêu căng với bọn gái làng chơi trong tỉnh. Chị ta đã từng đía những câu kiêu căng giảm phước như sau:
- Làm đĩ cũng có năm bảy hạng chứ! Con điếm đứng đường, con đượi ở Bộc-đền (Bordel) làm sao sánh được với Trà Hoa Nữ đã từng ăn nằm với các công tước, bá tước...Bọn công chức ở toà Bố, ở sở Trường Tiền, ở bộ Thanh tra Giáo dục, bọn thầy giáo, thầy ký, thầy thông...lương tháng của họ không đủ để trả tiền xăng nhớt cho chiếc xe Citroen của tui, có đâu để trả tiền Bông-ga-lô, tiền son phấn, dầu thơm cho tui nữa?
Bởi chị ta đía quá, phách lối quá nên dân trong tỉnh nói hành nói tỏi:
- Nó là con đĩ Bù-rầy, con đĩ bù-chét, con đĩ bù mắt đó bây ơi!
Khi tên cò-mi về nước, Ba Lỷ cặp với gã chệt Trương Chấn, chủ tiệm tạp hoá Hồng kông. Tên này cũng giàu có, cũng dám chi cho chị thật sộp. Nhưng tai hoạ lại đến. Ba Lỷ bị đụng xe trên đường từ Vĩnh Long qua Cần Thơ. Trương Chấn vừa chở tới nhà thương đã tắt thở. Còn Ba Lỷ thì được chở lên nhà thương Ðồn Ðất, giải phẩu nhiều lượt. Ðể làm dịu cơn đau cho chị, họ chích thuốc có chất morphine.
Sau nầy, khi Ba Lỷ về nhà, mỗi khi trở trời trái gió hay mưa lạnh, các vết thương lại rỉ rả hành hạ chị, làm chị đau nhức khủng khiếp. Rồi có người bày chị khi đau nhức, nếu hút vài điếu á phiện là hết ngay. Bịnh ghiền "cơm đen" bắt đầu từ đó. Xe mui trần, radio hiệu Philips, giàn hát máy hiệu Columbia di tản trước, rủ theo các món ngoạn khí, rồi tới bàn ghế tủ thờ. Sau cùng, Ba Lỷ bán vườn, bán nhà và dọn về ở gần nhà thổ đĩ BMC, lúc đó đã biến thành Niệm Phật Ðường. Thằng Bánh Canh đi học đóng giày, làm bóp da. Con Ốc Len thì sớm chiều đi bán hột vịt lộn ở khu quán nhậu gần chợ cá hoặc trước rạp hát bóng Lạc Thanh. Còn Ba Lỷ đôi khi gặp ngày rằm, ngày vía, chị bưng thúng xôi nhuộm màu tím lá cẩm đi bán dạo trong xóm, tiếng rao khàn đặc như sắp đứt hơi, nghe buồn vô hạn.
Dù cái ngày bà Bù-rầy từ giã cõi đòi còn xa, nhưng Ba Lỷ vẫn cứ hy vọng. Và dù bóng sắc của chị như chiều nghiêng bóng xế, như trời đã cuối thu sửa soạn sang đông, chị vẫn cứ mơ cơn bỉ cực rồi sẽ qua, thời thới lai sẽ đến bằng sự bao che của ông Bù-rầy.
Từ sáng tinh sương cho tới bây giờ, Ba Lỷ cảm thấy mình như sống lại thời oanh liệt cũ. Dư huởng thuốc phiện lảng vảng ở khứu giác, ở tế bào, ở óc não chị từng thoáng sảng khoái kỳ diệu. Chị cất giọng the thé hát một vài bản Tây mà hồi xưa ông Bù-rầy yêu qưí của chị đã dạy chị rồi xổ một tràng tiếng Tây giòn khấm khứu.
Chín Sa-teng bấy lâu nay vốn đã ghét Ba Lỷ từ hồi chị ta mới dọn về. Bạn láng giềng đâu không thấy, chỉ thấy đây là oan gia gặp oan gia, oán tằng hội khảo. Chiều hôm qua, con khô cá sưởu Chín Sa-teng treo ở xà bếp, vậy mà khi Ba Lỷ bước qua xin trái khế về ăn mắm chưng thì con khô không cánh mà bay mất. Chó treo mèo đậy. Con khô kia treo tòn teng, thử hỏi con mèo nào phóng tới nổi? Con chó nào đủ phép thần thông từ dưới đất chồm lên ngậm con khô tha đi chỗ khác? Ðây chắc là con Ba Lỷ, con mèo cũ của ông Bù-rầy chớ ai trồng khoai đất nầy? Bởi vậy vừa khi nghe Ba Lỷ độc thoại bằng tiếng Tây, Chín Sa-teng ré lên:
- Con đĩ chó! Mầy chửi tao đó hả?
Ba Lỷ đang mơ tới lớp ông Bù-rầy đón chị ở phi trường. Chị ngã vào vòng tay ông, úp mặt lên ngực ông vừa bệu bạo khóc vừa kể lể ân tình, bỗng chị nghe tiếng chửi. Tất cả những điều mường tượng kỳ thú đều tan theo khói , biến theo sương. Ba Lỷ dụi mắt thấy mình nằm trên vạt tre. Chiếc mùng cháo lòng phủ quanh giường có vài mụn vá. Bóng đèn trứng vịt đặt trên chiếc bàn gần lu gạo rọi một khoảng sáng, tuy nhỏ nhưng cũng đủ soi cả một hiện tại lam lũ và chán chường. Chị ta rít lên:
- Chín Sa-teng à, mầy điên vừa vừa chớ! Tao ca hát, tao nhắc lại những câu ân tình của chồng tao, tại sao mầy đổ hô tao chửi mầy? Cái thứ mầy tao coi như dế như trùn, có ra cái gì đâu để tao chửi? Thay vì chửi mầy, tao dành miệng để đọc kinh đọc kệ, để nói lời ngọt bùi với hai đứa con tao, để nói những câu mặn mòi ân nghĩa với chòm xóm có hơn không?
Chín Sa-teng hầm hừ:
- Con đĩ ngựa! Phải rồi, mầy đâu thèm chửi tao! Mầy để miệng ăn món ngon vật lạ mà! Mầy để miệng đặng ăn khô cá sưởu xé nhỏ trộn khế, dưa leo, rau răm mà...
Thế là cuộc chửi lộn bắt đầu, phừng phừng lửa dậy, sùng sục nước sôi. Cả hai cùng chạy ra hàng ba, chửi nhau muốn xé họng rách phổi, cốt cho lối xóm nghe ké nghe hùn.
Quả nhiên bên quán, bà Phủ Long, bà Hai Ách, cô Năm Phụng Kiều cùng các bà thực khách bước ra. Bên nầy hai đối thủ bắt đầu bêu xấu lẫn nhau, tàn sát nhau bằng ngôn ngữ. Luôn luôn họ khởi đầu bằng ba tiếng "hồi trào Tây" để lấy trớn bươi móc cái quá khứ mà đối thủ mình kiên trì che đậy.
Chín Sa-teng giọng chua như giấm tiều, giấm xủ:
- Hồi trào Tây, mầy bảnh quá mà ! Ối bất quá cũng là thứ me Tây, thứ bán trôn cho bọn Phiên tặc, Phiên tướng, Phiên lang nên mới có cái tên Ma Ly, Mê Ly, Ba Lỷ đó đó... Mầy cậy thế cậy thần thằng Bù-rầy, bù chét, bù mắc, bù hung, úp cái hụi của bà Sáu Ngọc Lầu ở cầu Bà Ðiều, ai mà không biết!
Ba Lỷ cong cớn:
- Tao không bảnh hơn ai, nhưng bảnh hơn con Chín mặt rổ hoa mè, tóc rễ tre, miệng củ ấu, ưa bận đồ sa-teng láng mướt như con cá trê. Hồi trào Tây, chồng con đĩ thúi thây lầy lụa đó đi lính Partisan đóng ở bót Ô-nam bị Việt Minh bắn nát óc. Con đĩ đó tay dắt đứa con gái tám tuổi, tay bồng thằng con trai hai tháng trồi đầu về thành. Con đĩ đó bán mình cho thằng Ma-rốc cốc-keng tên là...
Ba Lỷ vụt quên tên chàng lính Bắc Phi nên khựng lại, cố tìm trong đáy thẳm của trí nhớ cái tên người tình cũ của Chín Sa-teng. Chín ta ngứa miệng, ré lên :
- Tên là Du-xép (Youself) nghe chưa con đĩ Long vương, con đĩ Hà bá, con đĩ Thủy quan! Tao bán mình nuôi con, tao không xấu hổ với vong hồn chồng tao. Tao là con đĩ cao thượng, biết chưa?
Ðau khổ cho Chín Sa-teng chưa! Cái thời kỳ đó là khoảng thời gian đen tối nhứt đời chị. Một thân góa bụa , chị dắt con gái, bồng con trai về thành phố, trong túi chỉ có vỏn vẹn năm đồng bạc. Chị phải năn nỉ bà chủ chứa để mẹ con chị được ở đậu trong căn nhà kho gần cầu tiêu. May mà chị gặp thằng Youself Kouari, người lính viễn chinh Maroc có lòng thương xót, cho chị chút ít tiền, trước để chị chữa dứt bịnh sốt rét kinh niên, sau để chị mua sữa hộp cho đứa con hãy còn trứng nước. Youself là trai mới lớn, mê lăn mê lóc thứ đờn bà đã có kinh nghiệm trong chuyện gối chăn. Khi đổi đi nơi khác, hắn giới thiệu Chín Sa-teng cho bạn bè mới đổi về. Tên nào dính vô Chín ta cũng đều mê man đắm đuối.
Khi góp nhóp được ít tiền làm vốn, Chín ta thôi nghề bán dâm cho khách ngoại kiều. Thời đen tối rồi cũng qua. Chị bày gánh cháo đậu bán ở trước sở Trường Tiền. Chị nấu cháo bằng gạo huyết rồng với đậu đỏ, khi chan nước cốt dừa thì ngon ơi là ngon, béo ơi là béo! Gạo huyết rồng là thứ gạo lức giã chưa sạch cám, nếu nấu dở thì nhai xảm cả lưỡi, cả miệng. Ðằng nầy Chín Sa-teng nấu cách nào không biết mà hột gạo thiệt mềm, thiệt nhừ, bỏ vô miệng là nó muốn tan ngay. Những món ăn với cháo Chín ta kho nấu cũng khéo ác ôn: dưa mắm trộn tỏi ớt dòn tan, cá bống trứng kho tiêu thấm tháp mặn mòi. Mỗi khi không có cá bống trứng để kho, chị kho cá cơm khô thay thế. Và trước khi nhắc tộ cá cơm kho khỏi bếp, Chín ta bỏ vào vài muỗng mỡ xắt hột lựu trước khi rắc tiêu cay. Nhưng khéo nhứt là món bắp chuối luộc, xé tơi trộn giấm ớt để ăn kèm với món mặn kia. Chi gia giảm giấm ớt vừa phải, trộn thêm đậu phọng, mè rang giả nhỏ, rắc thêm rau răm xắc nhuyển nên mới ngó qua, ai cũng tưởng món gỏi bắp chuối của chị là gỏi gà xé phay.
Gánh cháo đậu của Chín Sa-teng được các thực khách chiếu cố nồng nhiệt. Một tô cháo đậu rẻ hơn một tô bánh canh giò heo, dĩa cơm tấm bì, tô bún bò...Nó cũng không quá mắc hơn gói xôi, gói bắp nấu, gói bánh sùng bao nhiêu, rất vừa túi tiền của các chị mua gánh bán bưng, của các thợ thuyền trong hãng xưởng. Nhờ gánh cháo đậu mà Chín ta giã từ vĩnh viễn nghề bán phấn buôn hương, cho đứa con gái lớn vào học trường Cao Tiểu Vĩnh Long, cho đứa con trai theo người cậu họ vốn là linh mục học ở trường Thầy Dòng.
Cũng thời trào Tây, kẻ thì sung sướng hả hê khi nhắc tới, người thì trào nước mắt khi nghe ba tiếng quái ác kia.
Hai mụ háo chiến đào mồ cuốc mả tổ tiên nhau qua hai cái miệng tục tĩu, dữ dằn. Ba Lỷ hét:
- Ðồ con đĩ lanh miệng! Lanh ăn bánh canh không chừa cặn, ăn cá mặn không chừa xương, ăn lươn không chừa đầu, ăn mãn cầu không chừa vỏ, ăn c. lõ không chừa lông!
Chín Sa-teng không chịu thua:
- Sao mầy dám đem cái thứ c. lõ dơ dáy vô đây? Cái thứ đớ để chú mầy nhai, anh hai mầy gặm, cặm đầu cha mầy!
Sau đó cảm thấy chửi tục chưa đã nư giận, hai mụ lại chôn sống danh dự nhau bằng cách quật mồ dĩ vãng, bươi móc rác rến trong các góc kẹt tối tăm của quá khứ.
Bên Niệm Phật Ðường, tiếng tụng kinh Phổ Môn không sao át nổi câu chửi, lời thoá mạ.
Bà Hai Ách bên kia quán mơ màng như đứng trước một khung cảnh hồi bảy, tám năm về trước. Thuở đó, ngày nào tụi lính Lê Dương cũng ra vào tấp nập, nhứt là vào mỗi chiều thứ bảy. Bọn điếm lưu động có đóng thuế thì tới đây một thời gian ngắn, lớp nầy thay lớp khác. Ðó là thứ gái buôn hương bán phấn hạng xoàng, hạng bét, điểm tô son phấn lòe loẹt, xức dầu thơm rẻ tiền nồng nặc. Tụi nầy giỡn hớt, đú đởn với khách tìm hoa bất kể trời đất, quân thần. Lũ trẻ nít đứng ngoài vòng rào chỉ trỏ, cười nói theo họ rần rần như ong vỡ ổ, đôi lúc khiến mụ chủ chứa bực mình, phải lấy chổi chà rượt đuổi tụi nó đi chỗ khác.
Bà Hai Ách tỉnh giấc mơ về dĩ vãng để trở về thực tại có hai mụ cựu kỹ nữ đang chửi qua rủa lại làm náo động xóm làng. Xời ơi, giờ đây Tây tà đã về nước rồi, cuộc đất ô trọc nầy đã đổi thành nơi tôn nghiêm thì con Chín Sa-teng dữ tợn kia, con Ba Lỷ hỗn hào nọ phải quên quá khứ ô uế của nhau, để nơi nầy giữ trọn ý nghĩa thanh cao, siêu thoát mới là phải chớ.
Bà Hai Ách hét lớn:
- Thôi cho tao can! Không có ai là đĩ hết! Con nào nếu không là tiểu thơ, mạng phụ thì cũng là công chúa , quận nương hoặc vương phi, hoàng hậu ráo trọi. Mảnh gương trinh con nầy hãy còn trong ngọc trắng ngà thì tiết hạnh con kia như băng thanh ngọc khiết. Cả hai cùng toàn vẹn, chói rạng như nhau. Tao nói vậy, bây vừa lòng chưa?
Cô Năm Phụng Kiều ngã đầu lên vai mẹ cười hăng hắc. Bà Hai Ách nói:
- Hôm nay có bà Phủ và cô Năm không kể nắng nôi gió máy, chịu khó dời gót ngọc tới đây để thưởng thức món chay của tao, thôi thì tụi bây vị tình tao mà hưu chiến phứt cho rồi! Qua đây! Con Ba lẫn con Chín, qua đây hầu chuyện bà lớn và cô Năm, nghe bà lớn luận về kim văn ngọc kệ.
Thằng Bánh Canh từ trong nhà bước ra, măt sật sừ ngái ngủ. Thằng nầy lai nhưng chất Tây chiếm hết 80% nên coi nó bảnh trai và khôi vĩ lắm. Bánh Canh chắc lưỡi bảo bà Hai Ách :
- Rầu quá bà Hai à! Ðã là chòm xóm với nhau mà dì Chín và má con cứ ganh nhau từng cái ngáp, ghét nhau từng tiếng ho.
Minh Nguyệt, đứa con gái của Chín Sa-teng từ trong hẻm sâu bước ra, cặp mắt đỏ chạch vì khóc nãy giờ, từ đầu cuộc gấu ó giữa hai mụ đờn bà. Cô nữ sinh nầy trắng trẻo, tóc xoã vai như gái Huế, trông thiệt là đoan trang thùy mị. Minh Nguyệt năn nỉ Ba Lỷ :
- Xin dì Ba bớt giận! Bởi má con mất con khô cá sưởu nên đêm qua ngủ không ngon, sáng sớm dể nổi quạu.
Bánh Canh liếc qua Minh Ngưyệt, cặp môi đỏ của nó cười chúm chím, cặp mắt trong xanh híp lại. Ðang rầu rĩ, Minh Nguyệt cũng không bỏ lỡ cơ hội, liếc truyền ý, tuy miệng không cười hở răng nhưng cái nhếch mép làm cho sóng mắt nó ướt rượt, tình tứ. Cô Năm Phụng Kiều thấy hết, nghĩ thầm : « Hai bà mẹ hung hăng, lại sanh mấy đứa con ăn nói mềm mỏng. Ðã vậy mặt mày tụi nó rạng rỡ như kiếng soi, như trăng rằm. Hai đứa nầy xứng cặp với nhau quá chớ! »
Bánh Canh quay lại Chín Sa-teng :
- Xin dì Chín vuốt giận làm lành. Chỗ chòm xóm với nhau, mình phải nghĩ tới lúc trái gió trở trời, hoặc tới khi tắt đèn tối lửa mới là phải cho chớ.
Minh Nguyệt vỗ về mẹ :
- Má có chứng tức ngực lói hông, dẹp chưyện phiền não có hơn không? Má chớ quên hồi năm ngoái con đau ban cua, dì Ba nấu súp lê-ghim đem qua cho con ăn hoài đó.
Bà Hai Ách biểu đồng tình, mắng vãi hai đối thủ :
- Tụi bây có nghe hai đứa nhỏ nói không, bớ hai con đĩ chó? Thôi thì dầu bây có giận nhau chín xe mười giàn thì bây cũng nên bỏ qua, nên quên phứt là hơn. Hôm nay là ngày rằm, miệng mình nên ăn chay, niệm Phật, tụng kinh chớ đâu phải để chửi nhau! Cái trào Tây là cái trào xa lắc tí tè rồi! Hơi đâu mà bây bươi xấu lẫn nhau cái cái dở, cái thúi thuở đó! Qua đây! Qua đây, hai con đĩ ngựa. Tao đãi cho mỗi đứa một tô bún chả giò chay vun vĩ vèo để bây ăn cho thấm giọng rồi cùng nghe bà lớn và cô Năm đây luận chuyện nhơn nghĩa, thủy chung có phải hơn không?
Bà Phủ Long hớn hở :
- Thím Hai tính vậy cũng phải. Ngày rằm ngày vía mà mấy người cứ sân hận hoài thì sau nầy chết đi, mấy người sẽ thác sanh vô đường A-tu-la cho coi! Cũng bởi mấy nguời gọi Niệm Phật Ðường là Bê Em Xê nên cuộc đất nầy mới sanh ra đủ chuyện rắc rối tréo hèo như vầy.
Cô Năm Phụng Kiều nói với mẹ :
- Cái tỉnh Vĩnh Long mình nhỏ như cái chén chung. Tưởng ai đâu xa lạ, em Nguyệt và cậu Nghĩa (chỉ thằng Bánh Canh) nầy học chung lớp Anh văn với con do ông bà giáo sĩ đạo Tin Lành dạy đó má.
Bà Phủ Long niềm nở :
- Biểu hai đúa nhỏ qua đây ăn luôn, má bao hết cho.
Hai bà mẹ cùng Minh Nguyệt và Bánh Canh xẻn lẻn bước vô quán. Bánh Canh cứ tống tình Minh Nguyệt hoài. Phụng Kiều nghĩ thầm : "Nếu hai đứa nầy mà thành vợ chồng với nhau chắc hai bà mẹ bớt rầy lộn và hoà nhã với nhau hơn". ° ° ° Nhờ bà Phủ Long can thiệp mà Niệm Phật Ðường gần Cây Da cửa Hữu tỉnh Vĩnh Long có cái tên mới : Niệm Phật Ðường Giác Ngộ. Phải lắm, có giác ngộ thì tâm phiền não, tâm phàm phu sẽ thành tâm Phật, tâm Bồ Ðề, còn cõi uế độ, cõi địa ngục thành cõi cực lạc, cõi niết bàn. Hồi trào Tây, nơi đây là kỹ viện, dâm phòng. Con người có giác ngộ mới biến chốn yên hoa thành nơi đạo tràng, tịnh xá, cảnh già lam. Mà đã là cảnh già lam thì phải tước bỏ ba tiếng BMC đi mới phải chớ.
Nhờ chí thú học tiếng Anh mà Bánh Canh và Ốc Len, sáu năm sau được đi làm sở Mỹ. Sau đó, khi vào quân đội, Bánh Canh trở thành thông dịch viên với cấp bậc trung sĩ đồng hoá, được biệt phái về ban cố vấn Mỹ ở tiểu khu Vĩnh Long. Bánh Canh không thích cái tên Bánh Canh do lối xóm gọi hay tên Pascal Brugeille ở cửa miệng mẹ mình. Chàng thích được là trung sĩ Trần Háo Nghĩa có quốc tịch Việt Nam, kết hôn với cô giáo trường tiểu học cộng đồng Long Hồ tên là Ðỗ thị Minh Nguyệt.
Ốc Len trong khai sanh tên là Trần thị Ái Lan, cũng là kêu trại tiếng Hélène nhưng nghe văn chương huê mỹ hơn cái tên Ốc Len dị dị nừng nừng nhiều. Ái Lan kết hôn với viên kỹ sư Mỹ đúng tuổi nhưng bảnh trai tên Cary Smith. Do đó trong giấy tờ, nàng có cái tên Helen Cary Smith thay vì Hélène Brugeille như mẹ con nàng từng ao ước.
Ba mẹ con Ba Lỷ cố quên cái ông cựu cò-mi Brugeille hồi trào Tây. Bà vợ ổng dù có chết vị bịnh lao phổi nhưng ông không thèm ngó ngàng tới Ba Lỷ và hai giọt máu rơi của mình. Ông Bù-rầy tục huyền với một quả phụ đồng chủng, xô gẫy nhịp cầu vốn đã mong manh nối liền giữa ông và Ba Lỷ từ bao năm qua.
Ba Lỷ và Chín Sa-teng càng lớn tuổi càng thân thiết nhau để lo săn sóc lũ cháu. Thỉnh thoảng cả hai thì thầm với nhau cả buổi và bắt đầu bằng : « Hồi trào Tây đó đó… » nhưng trào Tây đã không còn nhóm chút lưu luyến, kích thích nào với họ nữa. Giờ đây ở Niệm Phật Ðường, lời giảng kinh của pháp sư, lời cầu kinh của bổn đạo, tiếng chuông mõ lóc cóc leng keng dần dà đem lại sự thanh tịnh trong bầu tâm cảnh của hai mụ đối thủ thuở trước.
Ba Lỷ thường khoe với bà Hai Ách :
- Con Ốc Len của tui nếu trong khai sanh nó không được làm con của ông Paul Brugeille thì trong giấy hôn thú, nó được làm vợ của ông Cary Smith.
Bà Hai Ách ngạc nhiên :
- Cà-ri Xơ-mít hả? Ðời thuở nào mà xơ-mít đem nấu cà-ri bao giờ! Cái tên gì kỳ cục quá!
Ba Lỷ cười hề hề :
- Nghe nói Cary cũng là kêu tắt. Hai đứa con trai của con Ốc Len, đứa lớn tên Tom, đứa nhỏ tên Tab.
Bà Hai Ách chận ngang :
- Chắc Tôm hay Tép gì cũng là kêu tắt chớ gì? Cái con Ốc Len đặt tên cho con cũng ngộ quá! Mẹ tên Ốc Len, con tên Tôm, tên Tép, toàn là thứ ao hồ sông rạch dùng làm món nhậu không hà!
Cả hai cùng cười giòn khấm khứu…
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:32:57 GMT 9
Bà Già Trầu Cảm Khái
Hồ Trường An
Mèn ơi, lẩm rẩm tui ở Xóm Gà được ba năm rồi đó chị Tám. Thời buổi giặc giã, dân quê kéo nhau ra thành phố mỗi lúc một đông. Xóm Gà bởi đó mà nhà cửa mọc thêm nhiều.
Thú thiệt với chị Tám, cũng bởi tui thương hai đứa cháu nên tui đành đoạn bỏ nhà bỏ cửa đi theo tụi nó. Ở đây, đêm đêm tui nhớ xóm quê, vườn nhà, nhớ mấy cây cau Bà Ðiểm, mấy nọc trầu vàng mà ứa nước mắt. Thiệt tình, trầu cau do mình chăm nom, bón gốc, tưới mát hằng ngày mình ăn mới ngon. Ðằng nầy cứ mỗi tuần, tui lặn lội ra chợ Bà Chiểu để mua trầu cau vôi thuốc. Tui mất cái thú đêm nằm trong buồng lắng chừng mùi hương cau từ cửa sổ lọt vào tận lá mùng. Tui hết còn dịp tự tay ra sân hái lá trầu xếp từng ốp vào khay, tui đâu còn được bổ cau từng miếng bày trong những cái sàng rồi đợi nắng tốt đem phơi hoặc vào những ngày mưa dầm, quạt than cho đỏ sấy cau, để dành ăn lai rai.
Như chị biết, thằng con trai tui năm 45 bỏ nhà theo Việt Minh, rồi tới năm 53 nó đành đoạn theo "mấy ổng" đi tập kết. Con dâu tui nổi sùng giao hai đứa con nó cho tui rồi bỏ lên Lèo lấy chồng khác. Tui lo làm vườn, làm rẫy nuôi hai con cháu còn cha mẹ đầy đủ mà hoá ra côi cút kia. Nhờ trời thương Phật độ, tụi nó mạnh cùi cụi, lớn mau như thổi.
Con chị Ngọc Hạnh thôi học sớm để đi làm sở Mỹ. Chỉ có con em Ngọc Hiền thì còn đi học năm thứ nhứt đại học Sư phạm. Chèn ơi, Mỹ đang rục rịch muốn rút về nước nên con Ngọc Hạnh lo lắm. Nó lo kiếm thằng chồng Mỹ để nương dựa. Nó nói:
- Thằng Ðít (thingy) muốn cưới con. Con qua Mỹ rồi sẽ lo giấy tờ rước nội và con Hiền qua luôn.
Mẹt mẻ ông bà ông vải, tiên nhơn tổ đường ơi! Mỗi tiếng nói của nó là một phát súng cà nông nã vào đầu tui làm tui xây xẩm tối tăm mặt mũi. Chị nghĩ coi, hồi nó mới đẻ, má nó đi buôn bán giao nó cho tui. Tui nuôi cháu bằng sữa Con Chim, sữa bột chớ tui đâu có nuôi nó bằng máu hoè mà nó ngu dại đòi lấy cái thứ râu rìa, mắt mèo, mũi lõ đó! Tui rống lên khóc. Con Ngọc Hiền cũng khóc theo. Xời ơi, con Ngọc Hạnh mọc lông mọc cánh rồi, đủ vi đủ kỳ rồi nên nó muốn bay bổng, lội xa ra mái nhà của nội nó. Tui biết lỗ tai nó điếc rồi, đâu có để lời than van khóc lóc của tui lọt vô...
Vậy mà rồi tui cũng đến nhà thờ Tin Lành để dự đám cưới con cháu nội bất hiếu của tui. Tên thằng cháu rể Phiên bang Rít-sa (Richard) gì đó, vậy mà sao bạn bè cùng con vợ nó lại Ðít hổng biết! Con Ngọc Hạnh cũng đổi tên MỹOăn-đa (Wanda) nghe kỳ hết sức.
Con Oăn-đa Ngọc Hạnh tùng phu về xứ Huê kỳ để lại cho bà nội nó 20 lượng vàng làm vốn nuôi em. Tui nai lưng bán sinh tố, lưng mỏi, mình rêm mà nào dám bỏ phế việc bán buôn.
Con Ngọc Hiền lớn lên coi bộ có duyên và mướt hơn con chị của nó. Nó lên năm thứ ba rồi sanh sứa theo bọn sinh viên phản chiến trong trường, nay đi họp mai đi quay truyền đơn biểu ngữ, có khi gần tới giờ giới nghiêm mới chịu về nhà. Tui lui cui hâm cơm canh cho nó ăn rồi rút vô bưồng, cứ nghĩ tới đường kia nỗi nọ mà ứa nước mắt.
Con Ngọc Hiền coi bộ nghiêm trang, cười không hở răng vậy mà có cặp mắt mời trai chị Tám à! Chòm xóm nói nó trinh không ra trinh, dâm không ra dâm, chém chết cung mạng nó không có sao Ðào Hoa thì cũng có sao Hồng Loan chiếu chi đây nên tui lo lắm chị Tám! Lo nó giống như con Ngọc Hạnh, lấy một tên Phiên tặc to lớn dình dàng thì chết tui.
Nhắc tới con Ngọc Hạnh tui càng thêm thương, thêm buồn không cầm được nước mắt. Dẫu cỏn nỡ bỏ bà nội và em để theo thằng chồng Phiên tặc về nước, dẫu nó chê tên cha mẹ đặt cho, lấy tên Mỹ mẽo chăng nữa, nhưng nó gởi tiền, gởi quà về cho tui đều đều. Chèn ơi, mỗi bức thơ gởi về Xóm Gà là nó than thở nhớ nhà, nó rống nó kêu chỗ nó ở nào là mùa đông tuyết ngập tới gối, mùa hè thì nóng như cái lò bát quái luyện linh đơn và ẩm ướt làm cho da thịt nó nhơn nhớt như bôi keo. Nó chụp hình màu gởi về. Tui dụi mắt mấy lượt, vái trời mình thấy lộn, để khi nhìn lại sẽ thấy con cháu nội cưng của mình bận áo dài. Nhưng mà không. Con nầy đâu còn là Ngọc Hạnh nữa, nó là Oăn-đa rồi mà. ° ° ° Chị Tám, tui coi bộ thời cuộc găng dữ đa chị. Ỏ ngoại ô thì bom đạm tơi bời, pháo kích ầm ĩ; ở thành thị thì biểu tình tùm lum. Ðó đây, truyền đơn bươm bướm phơi xác đầy đường, lâu lâu đạn cay ứ nghẹt từng góc phố góc đường. Con Ngọc Hiền vắng nhà hà rầm. Tui già cả, quê mùa bù trất chuyện thời cuộc nên cứ lo thủ phận mần ăn.
Một buổi chiều nọ, con Ngọc Hiền thỏ thẻ:
- Nội à, có một anh sinh viên trường quân y để ý thương con. Mai sau, ảnh ra làm bác sĩ, vinh diệu vô cùng..
Tui mừng quýnh, nghĩ rằng nhờ phước đức ông bà, nhờ mồ mả tổ tiên nên có người đàng hoàng tử tế đòi cưới nó. Thằng sinh viên trường quân y kia là dân Bắc kỳ di cư, mặt mày coi phải thế thanh niên, ăn nói mềm mỏng, nhỏ nhẹ, hễ mở miệng ra là thưa cụ, đóng miệng lại là kính cụ, thấy thương hết sức! Tui mới hỏi con cháu nội:
- Mầy gặp nó ở đâu? Dịp nào?
Con Ngọc Hiền cười chúm chím, cặp mắt ướt rượt coi giống mấy con đào thủ vai Phàn Lê Huê, Mộc Quế Anh, Ðoàn Hồng Ngọc...thứ gái được vua chúa, cha mẹ, bà thầy thánh mẫu nuôi cho nên vai nên vóc rồi trở mặt phủi ơn để theo trai nước cừu địch...Sao tui ghét mấy con lủng đó quá trời! Gạn hỏi hoài tui mới rõ con cháu nội tui trời biển lắm đó chị Tám! Té ra phản chiến gì nó! Họp hành, xuống đường, dự đêm không ngủ là nó cốt tìm dịp kiếm chồng. Con nầy khôn trật đời! Tuy tui có bần dùn về kiểu kiếm chồng dị hụ đó, nhưng nghĩ tới thằng cháu rể mai sau làm bác sĩ quân y là tui mát dạ mát gan. Rồi tui đâm ra hối hận. Trước kia, khi thấy cỏn cùng lũ bạn gái dượt mấy bản phản chiến là tui tức mình tức mẩy, nóng phổi, ngứa gan. Có lần tụi nó xúm lại đờn địch rầm rĩ rồi cất giọng eo éo:
Máu ai đây? Xác của ai? Giòng máu này là bạn? Thây ma nào là thù? Ô hay chỉ là người, Cùng tiếng nói Việt Nam...
Chu choa ơi, tụi nó hát tới hát lui, dượt đi dượt lại làm mụ già trầu nầy bắt thuộc lòng. Tui ghét quá, phang mạnh: "Máu của con nào thì con đó biết. Mỗi tháng bây biết đều đều, khéo làm bộ hỏi nhau rằng máu ai đây?" khiến tụi nó mắc cỡ, xẻn lẻn giải tán...
Thôi từ đây tui cũng nhẹ thở. Rồi đây con Ngọc Hiền sẽ làm bác sĩ phu nhơn. Tui ra sức o bế thằng hổ bôn tiểu tặc Bắc kỳ. Tui nấu suông đặc ngừ tôm quết nhuyễn đỏ ối. Tui đổ bánh xèo, nhưn bánh đầy tôm thịt, nấm rơm. Tui nấu canh chua cá bông lau với khóm, tui lựa cá rô mề để kho tộ, tui nấu cơm gạo nanh chồn, thơm ngát xóm trên lừng xóm dưới...Tiểu tướng Bắc kỳ chắc lưỡi hít hà khen ngợi làm tui mát bụng, lá gan nở bự như cái quạt, xả thân mẹo dậu kho nấu chiên xào cho thẳng.
Sau đám hỏi, con Ngọc Hiền chí thú học hành nên tốt nghiệp đại học Sư phạm, đi dạy tại một trường trung học bên Phú Lâm. Có nghề nghiệp trong tay, được một ý trung nhơn tốt mã, con cháu nội tui yêu đời lắm nên cứ chót chét véo von tối ngày. Sáng sáng nó theo bài hát mở đầu chương trình gia binh phát thanh, rống lên: "Mừng cho đôi uyên ương, sống vui vầy trăm năm hạnh phúc..." Hay quá! Chẳng những con Ngọc Hiền hát ra tiếng mà tui đây cũng hát thầm để chúc cho con Oăn-đa Ngọc Hạnh lỡ lấy thằng Ðít thì lấy luôn, đừng lạng quạng mà gặp cảnh ba chìm bảy nổi; cho con Ngọc Hiền sẽ được thằng chồng Bắc kỳ tưng tiu, không ép vợ ăn rau muống, không mời vợ xực mắm tôm mà chỉ khuyên vợ chơi năm ba chân hụi. Có vậy nếp nhà mới không bại xuội, vợ chồng mới thuận thảo đề huề.
Vậy mà gần tới ngày đám cưới, không hiểu mắc mớ gì mà con Ngọc Hiền cứ ong ỏng ca: "Giờ thì cũng yêu mà yêu với chồng..." hoặc "Thôi hết rồi, em đã về vui với người, ta xa nhau rồi" khiến tui phải la:
- Con nhà tử tế thì phải hát bản vui tươi, lời nhạc có đạo lý, lẽ đâu tối ngày mầy lại nghêu ngao mấy bài ôn dịch nghe mà xuội bại tứ chi, bủn rủn tâm trí đó!
Rồi đó tui nhận được thơ của con Oăn-đa than thở kêu nhớ nhà, chung quanh không có kẻ đồng chủng. Linh tính của tui sao mà nhạy, coi vèo con quỉ đó hết mê Ðít mê Khu rồi chị ơi! Nó muốn nhảy lăng ba vi bộ gì đây!
Thơ trước vừa nằm trong ngăn tủ kéo chưa đầy một tháng thì thơ sau tới, con Oăn-đa báo tin nó vừa kết hôn với thằng Mỹ khác, lớn tuổi hơn thằng Ðít nhưng là bác sĩ có phòng mạch. Thì ra, khi viết thơ trước, cỏn đã lôi thằng Ðít ra toà xé giấy hôn thú từ bốn tháng trước. Thằng chồng mới của nó tên là Uy-li-âm mà nó biểu kêu là Biêu cho gọn. Thiệt tui xẩu mình con cháu lớn nầy quá trời quá đất. Nó hết dại nầy sang dại khác. A thần phù lấy Mỹ là đã trét tro trét bùn lên mặt tui. Lỡ lấy rồi còn không chịu ăn đời ở kiếp với chồng lại ôm cầm sang thuyền khác làm tui thêm nhục.
Tấm hình chụp hôm con Oăn-đa Ngọc Hạnh tái hôn ngó mà ớn óc. Nó bận áo voan, ôm bó bông hường liếc qua thằng chồng mới tóc vàng như rơm khô, mắt xanh lè như mắt mèo. Chèn ơi, bởi cặp mắt với nụ cười đó mà đờn ông chịu khiếp phục để nó vo tròn bóp mép đó đa!
Hồi trước, khi thằng con trai tui dắt con vợ nó ôm bụng chửa chình ình về trình diện tui, thấy cặp mắt con đó là tui bủn rủn, bàng hoàng rồi. Gái mà có cặp mắt đó đâu có đợi đàng trai cầm trầu cầm cau cười hỏi. Nó thấy trai là xáp vô bày bát quái trận hoặc mê hồn trận để chim trai. Nó vác bụng chửa về nhà chồng dẫu không cưới hỏi mà không hề ngại ngùng, hỗ thẹn. Con Ngọc Hạnh với con Ngọc Hiền lựa nét lẵng của mẹ tụi nó mà giống. Con Ngọc Hạnh lựa hai, giống má nó cả cặp mắt lẫn nụ cười; con Ngọc Hiền đỡ hơn, chỉ giống má nó ở cặp mắt. Thiệt tình, con chị đi trước nêu toàn gương xấu nên tui chỉ còn kỳ vọng ở con em.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:34:20 GMT 9
Chị Tám, chèn đét ơi, ai mà dè chị em mình có ngày sống trên đất Mỹ rộng minh mông nầy? Chị ở Tây Nam, tui theo lũ cháu ở Ðông Bắc. Tui đâu có dè tụi Cộng sản nuốt trộng miền Nam rùm rụp vậy! Vợ chồng con Ngọc Hiền bắt đủ mọi đường dây để lánh nạn quỉ đỏ, đuơng thèm lo lắng cho tui. Bửa 30 tháng 4, tui ra bến tàu kiếm tụi nó, lòng chết điếng. Rồi tui bị lớp sóng người đẩy văng tuốt lên cầu tàu. Tui la, tui khóc, muốn tháo lộn trở lại mà không được. Tàu rời bến, tui hét lên chết giấc.
Khi tới đảo Gam (Guam), tui bật ngửa ra, gặp con Ngọc Hiền có mặt ở đó trong lớp người di tản. Thì ra trong lúc quính quáng, nó chợt nhớ tới thằng mèo cũ vốn là sĩ quan hải quân làm trong phòng tâm lý chiến ở căn cứ Bạch Ðằng, nên xin tháp tùng theo, nỡ bỏ chồng lại.
Nó ỏn ẻn hứa hẹn:
- Qua Mỹ, con sẽ cố sức vận động để đem chồng con qua.
Miệng nói nhỏ nhẹ mà cặp mắt ướt rượt của nó rà qua thằng hải quân! Thằng nầy cao lớn, trắng trẻo mắt sáng mày thanh, ria mép tỉa mỏn, coi bộ sáng hơn thằng cháu rể Bắc kỳ của tui. Chị Tám ơi, cặp mắt ướt rượt kia đã dắt con mẹ tụi nó đi xa, qua tuốt bên Lèo, đẩy con Ngọc Hạnh mới chưa đầy bốn năm từ vòng tay thằng Ðít tới thằng Biêu. Rồi cũng cặp mắt đó theo thời cuộc, đẩy con Ngọc Hiền vào cảnh thay chồng, quên nghĩa tào khang.
Trời ơi, ngay trên đảo, con Ngọc Hiền đã bỏ bê tui, đánh đôi đánh đọ với đủ thứ đàn ông, vầy cuộc đờn ca hát xướng. Con cháu nội tui đó, tuy giọng nó không chát không chua nhưng lên cao thì tét, xuống trầm thì nghẹt, vậy mà mơ làm ca sĩ. Nó hăm he hễ đặt chơn tới Mỹ là đi tìm thầy luyện giọng. Cũng trong thời gian hai bà cháu ở đảo, con Ngọc Hạnh lo làm giấy để rước bà nội và em về thủ đô Hoa Thịnh Ðốn.
Thiệt tình tui tưởng dù có đánh đôi đánh đọ hát xướng với bọn đờn ông, con Ngọc Hiền vẫn là của riêng của thằng hải quân nọ. Ai dè một bữa nọ, nó đem một tên mập mạp rậm râu sâu mắt tới giới thiệu:
- Thưa nội, anh Hát đây trước kia là giám đốc trung tâm băng nhạc Sơn Ca và cũng là nhạc sĩ. Ảnh muốn cưới con...
Tui bợ ngợ:
- Còn thằng chồng mầy kẹt bên nhà thì sao?
Nó cười gằn, mắt đổ hung quang:
- Hôm nay con xin thú thiệt với nội. Thằng chồng Bắc kỳ của con, trước ngày mất nước một tuần nó đã tò vè được con ông chủ tàu đánh cá ở Phú Quốc. Thằng con trai ổng cũng là sĩ quan hải quân tại đó. Chồng con chịu đi theo gia đình ông ta, bỏ con ở lại.
Nó trình cho tui coi bức thư tạ lỗi vợ của thằng cháu nội rể trời đánh kia.
Khi tên rậm râu sâu mắt đi khỏi, tôi mới hỏi:
- Còn ông quan ba hải quân thì sao đây?
Ngọc Hiền cười cười:
- Thì vẫn là bạn bè. Ảnh có vợ rồi. Vợ ảnh quốc tịch Pháp. Từ hai năm rồi bả qua Pháp để trị bịnh suy nhược thần kinh. Bả có viết thơ nói sẽ làm giấy bảo lãnh ảnh qua Pháp.
Hứ! bạn bè gì kỳ cục vậy? Từ hôm qua đảo tới lúc dẫn tên cựu giám đốc trung tâm băng nhạc tới trình diện tui, con Ngọc Hiền ở miết trong lều tên đại úy hải quân. À, thì ra nó đền ơn đáp nghĩa ân nhân và trả đũa thằng chồng bạc bẽo của nó bằng cách đó! Tui khờ khạo lắm chị Tám à. Thời cuộc dồn dập xảy tới tui trở tay không kịp. Trên đảo thiếu thốn tiện nghi, vừa nhớ nước nhớ nhà lại vừa khốn đốn thói đi ngang về tắt của con cháu đàng điếm khiến tui tê điếng, không biết tính sao nữa. Những ngày đầu tui thèm trầu cau muốn khóc, riết rồi cũng quen. Ðêm đêm dưới mái lều, tui trằn trọc. Ðời bà già đã gần 70 bỏ xứ ra đi, còn hy vọng gì? Bỏ làng quê một lần, bỏ xứ thêm một lần nữa, tấm lòng đã hao hớt hơn phân nửa. Chong mắt nhìn hai con cháu ăn ở trái luân thường đạo lý, tui không hiểu mình còn dựa điều gì mà sống đây? Ánh trăng mờ sương bên ngoài lọt kẽ lều đến chỗ tui nằm, đưa tui vào giấc chiêm bao có những cây cau phơi bẹ xạm nắng, những nọc trầu lá ửng lấp lánh dưới trăng. Từ vườn cau, vườn trầu, tui gặp lại biết bao nhiêu khuôn mặt bà con chòm xóm ở quê nhà. Tui thấy lại những chiếc lu, khạp bể liệng dưới gốc cây da che mát miếu thổ địa. Tui thấy cảnh chợ quê, duới bến chợ ghe lúa, ghe khoai, ghe mắm đậu lển nghển. Ðặc biệt nhứt là chiếc ghe chở đồ gốm như lu hũ, cà ràng, hoả lò, nồi ơ, chén dĩa... ° ° ° Con Ngọc Hạnh bảo lãnh bà nội và em về thủ đô Hoa Thạnh Ðốn. Nó dọn cho tụi tui một căn ở dưới từng trệt, lúc đầu tui cứ gọi là tầng địa huyệt. Từng đó cũng đầy đủ tiện nghi, có cầu tiêu nhà tắm, có chỗ phơi quần áo. Nó còn mua cho tui ba cái lồng chim, mỗi lồng nhốt bốn con cùng giống, véo von cho vui nhà.
Tui quên cho chị hay, bữa đón tui và con Ngọc Hiền ở sân bay, con Ngọc Hạnh có mang theo hai thằng cả chồng mới lẫn chồng cũ. Ðít, Biêu có vẻ thuận thảo lắm. Con Ngọc Hạnh đứng giữa hai thằng Mỹ, vóc nó nhỏ thó khác nào con gà tre đứng giữa hai con gà cồ. Con quỉ sống nầy bày cảnh gia đình ông Táo sao chớ! Thằng Ðít cứ xà quần theo con Ngọc Hiền, còn cỏn thì như nhồng lột lưỡi, nói thôi tía lia.
Mỗi ngày con Ngọc Hiền và tui lụm cụm leo ba bực thang để lên nhà bếp nấu ăn cho vợ chồng thằng Biêu. Nhưng tui phải làm theo chỉ thị của con Ngọc Hạnh là không được kho thịt cá vì mùi nước mắm sẽ thấm vào thảm, vào màn cửa. Thằng Biêu mê chả giò, tôm lăn bột chiên, gỏi gà, cà ri...Nó kêu tui bằng "gờ-răng-ni" (granny) coi bộ cũng tử tế. Tui tuy 68 tuổi rồi nhưng nhờ vận động nhiều nên tay chơn cứng cáp, làm bếp còn sõi lắm. Qua xứ nầy, coi bộ con Ngọc Hiền khó làm bà, bởi đó tui khuyên nó tập làm bếp. Nó nhún vai, mắt ngó lên tấm hình con ca sĩ Mỹ tóc chải như lông nhím mà cặp mắt ướt rượt. Tui sợ quá chị Tám ơi! Cái thằng cựu giám đốc hãng băng nhạc ở Cali cứ gọi điện thoại cho con Ngọc Hiền đều đều. Tui sợ con nầy bỏ chị bỏ bà qua Cali để làm ca sĩ hết sức.
Quên, tui chưa kể với chị, từ hôm có con Ngọc Hiền, thằng Ðít mỗi tuần đều lái xe cả 50 mai (miles) đến thăm con em vợ cũ. Cỏn coi bộ cũng ưa thằng cựu anh rể. Con Ngọc Hạnh thì không nói không rằng nhưng có vẻ khuyến khích hai đứa. Do đó mà con Ngọc Hiền vắng nhà hà rầm. Tui lo quá, cứ than thở hoài. Con Ngọc Hạnh cười:
- Kệ nó nội ơi! Nó lớn rồi. Ở cái xứ nầy, con cái trưởng thành là tự chọn bạn chọn bồ, chọn chồng, chọn vợ. Thằng Ðít coi cũng xứng với con Hiền. Nó tử tế, dễ thương. Nó mà cưới con Hiền thì con mừng lắm.
Tui trợn mắt:
- Nó tử tế, vậy sao mầy lộn nài bẻ ống bỏ nớ?
Nó có vẻ buồn buồn:
- Tại vì con không làm tròn bổn phận chăn gối với nó. Chuyện gối chăn lắt léo lắm. Con đành trả tự do cho nó. Con vẫn thương yêu nó như thương yêu thằng Biêu, có điều là thằng Biêu dịu dàng, kiên nhẫn, hạp với con hơn. Lại nữa...
Thôi, thôi, nó càng nói tui càng hổng hiểu gì ráo! Tui già cả đầu óc đã mù mịt, giờ càng đen đậm đen đặc như đêm ba mươi. Chuyện gối chăn giữa vợ chồng với nhau mà con nầy cũng đem ra nói. Chồng mình không ưng bụng về chuyện đó thì phải tìm cách làm đẹp lòng chồng, có lý đâu lại bỏ chồng để lấy chồng khác? Chị Hai tui hồi xưa, sau hai lần sanh nở khó khăn, liền cưới vợ bé cho chồng. Thời buổi nầy, đờn ông lấy vợ bé thì kỳ cục lắm nhưng nếu mình không làm đẹp lòng chồng là mình phạm lỗi rồi. Bỏ chồng để lấy chồng khác thì chỉ có mấy con Hạ Cơ, Tuyên Khương, Võ Chiếu mới làm nổi chuyện đó.
Nằm đêm nghĩ lại, tui thấy mình tuy vậy cũng còn có phước hơn mấy ông già bà cả di tản qua đây bị con cái bỏ bê không thèm ngó ngàng tới lui hoặc bị bỏ vô nhà dưỡng lão. Hai con Ngọc của tui sớm xa cha mẹ nên đeo dính bà nội từ nhỏ. Qua đây tụi nó có bè có lũ riêng nên không đeo theo tui như chầu xưa nữa nhưng vẫn chịu khó đưa tui đi mua trầu, mua cau, mua dầu cù-là Trung cộng, thuốc Bắc loại cao đơn huờn tán; chở tui đi giao thiệp với ông già bà cả người mình trong viện dưỡng lão. Duy có điều con Hạnh không cho tui kho cá kho thịt hay chưng mắm.
Tại nhà dưỡng lão, tui gặp một bà người Huế nói tiếng Nam sành sỏi. Nghe đâu bả là cháu nội của quan đại thần hồi trào vua Ðồng Khánh. Chồng trước của bả là hoàng thân, vốn là thày dạy của thái tử Bảo Long. Ông hoàng chết, bả tái giá với ông nhạc sĩ dòng dõi quan quyền gì đó ngoài Bắc. Hồi xưa bả là ca sĩ nổi tiếng tên là Minh Loan, sau đó nghe đâu bị suyễn nên mất giọng và chức đệ nhứt nữ danh ca của bả mới chuyền qua cô ca sĩ được thiên hạ kêu là "tiếng hát trường cữu". Giờ đây bả tuy già mà lưng thẳng như cây cau, dáng dấp thon mảnh, đi nhẹ nhàng và vùn vụt như gió. Gặp bả, tui thẹn phận mình quê mùa, chữ trét chưa đầu lá mít vậy mà bả chịu khó nghe tui kể chuyện cà kê dê ngỗng, cười từng chập. Bả kêu tui bằng chị, xưng em. Rồi đó mỗi tuần bả tự lái xe tới thăm tui, chở tui đi mua đồ, đi chơi. Nhận thấy bả thành thiệt, không làm phách, tui mến bả, làm món ngon mời bả.
Bà Minh Loan có tám đứa con, đứa nào cũng ca hay đờn giỏi nhưng không ai theo nghề ca hát hết, chỉ lo làm ăn bồi đắp gia đình. Còn con Ngọc Hiền của tui thì giọng hát ngang ngang mà sanh sứa mơ làm ca sĩ, hễ ban tổ chức buổi trình diễn văn nghệ nào mời là nó nhảy lên sân khấu liền một khi làm tui khổ tâm hết sức!
Con Ngọc Hiền đi tới đâu là có thằng Ðít phò tá tới đó. Nó săn đón kỹ quá, riết rồi con Ngọc Hiền ở miết nhà anh rể cũ. Tuy có buồn bực, tui cũng vái trời cho nó lấy thằng Ðít phứt cho rồi. Lấy Ðít là nó còn ở đây, đôi ba bữa tui còn thấy mặt nó, làm món ngon vật lạ cho nó ăn.
Ðều đều bà Minh Loan vẫn lui tới thăm viếng, an ủi tui. Bả nói tụi trẻ thời nay không giống tụi mình, thôi cứ để tụi nó sống theo ý, dẫu có vấp ngã thì tụi nó lại đứng dậy, làm lại cuộc đời dễ dàng. Mà cũng lạ, tại sao bả với tui, người học thức, kẻ quê dốt mà lại hạp nhau? Bả chở tui về nhà cậu con trai bả, đãi tui một bữa cơm có cá lụn vụn kho tiêu và canh cải nấu tôm khô ngon thần sầu. Tụi Mỹ đời nào chịu húp canh nấu tôm khô, bởi đó ở nhà con Ngọc Hạnh, tui đâu được ăn món nầy.
Chiều thứ sáu tuần đó, vợ chồng con Ngọc Hạnh đi nghỉ mát ở xa, hẹn tối chúa nhật mới về. Một bà trong viện dưỡng lão có cho tui một nửa hũ mắm sặt. Bà Minh Loan bèn đưa tui ra chợ Việt Nam mua rau thơm, giá sống, cà tím, nấm, cá hồi, tôm đông lạnh về làm món mắm và rau. Hai chị em cùng hai bà bạn già khác thưởng thức món ăn quê nhà vô cùng hả hê, khoái lạc.
Ai dè sau bữa ăn đó tui gặp nạn. Thằng Biêu vừa vô nhà là la rùm lên. Con Ngọc Hạnh hơ hải hỏi:
- Có phải nội kho mắm không? Thằng Biêu nó nói có con chuột hay con gì đó chết sình nên mùi thúi bay tùm lum đây nè....
Nghe qua tự sự, thằngBiêu đem quần áo ra ở khách sạn. Tui và con Ngọc Hạnh xịt đủ thứ dầu chanh, dầu cam, dầu sả mà mùi mắm quái ác vẫn lẩn quần trong nhà. Túng thế, tui điện thoại gọi bà Minh Loan. Bả bảo:
- Chị cứ lấy nhang thơm của chà và đốt vài nén là tẩy hết mùi. Thôi được, em có nén nhang bạch đàn đây, để em đem lại.
Mùi mắm bay đi, thằng Biêu trở về. Bà Minh Loan có gặp thằng Phiên tặc đó để giải thích. Nó đặt tay lên vai tui xin lỗi nhưng từ đó tui hết dám nghĩ tới mắm kho, mắm chưng, hết dám mơ tưởng tới thịt kho, cá kho gì nữa.
Bà Minh Loan mê bài bạc nên bả leo lên máy bay đi Cali ở với cô con gái út để lãnh tiền cấp dưỡng gấp đôi. Ở đó người Việt đông, bả sẽ mở lớp dạy ca sĩ, luyện giọng, làm một cái gì có ích hơn là đánh bạc. Hôm tiễn bả ra phi trường, mấy tay đánh bạc và tui khóc mùi. Bả hứa sẽ trở về nhưng tui biết bả về là cũng chỉ về thăm thôi rồi trở lại Cali. Nghĩ vậy mà tui ôm bả khóc ngất.
Cái ngày tui lo sợ con Ngọc Hiền bỏ bà nội đi Cali đã tới rồi, chị Tám! ThằngÐít đi trước, nó đi sau, cách nhau một tháng. Tui lấy làm lạ hỏi con Ngọc Hạnh:
- Em mầy qua bển làm vợ thằng Hát hay làm vợ thằng Ðít?
- Nó có định làm vợ ai đâu? Thằng nào cũng là bạn nó thôi nội à!
- Bạn cách nào? Tao thấy...
Ngọc Hạnh nhăn nhó
- Ối, chuyện tụi trẻ...khó nói lắm. Nội để ý làm gì cho mệt! Ít tháng nữa nội có cháu cố, xin nội cưng nó như đã từng cưng tụi con.
Cỏn có bầu rồi chị Tám à. Cái bụng nó tròn như trái dưa hấu xẻ đôi úp lên. Nghĩ tới lúc được bồng cháu cố mà tui sướng run.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:35:01 GMT 9
Giấc mơ ca sĩ của con Ngọc Hiền lẩm rẩm vậy mà thành đó chị Tám! Nó gửi hình, gởi tấm chương trình về cho tui và cho chị nó hà rầm. Trong hình nó nhuộm tóc vàng như trét cà-ri rồi không biết nó thoa vuốt cách nào mà từng tép tóc nó chĩa ra như lông nhím. Nó còn thoa son môi màu tím như màu cà dái dê, đánh phông mắt đỏ hoét, đeo vòng chuỗi nặng cả ký lô, mặc áo hở ngực hở vai ...coi lạ hoắc. Ca sĩ Giên Ngọc Hiền đó đa! Nó biểu hát nhạc trẻ thì phải có tên Tây tà mới hạp.
Con Ngọc Hiền có vẻ yêu đời. Nó ở chung với thằng Ðít nhưng đi lưu diễn với thằng Hát, nghe đâu được hoan nghinh lắm. Mới đây nó theo phái đoàn lưu diễn của thằng Hát trở về Hoa Thạnh Ðốn trình diễn, nghe đâu là chương trình nhạc trẻ một trăm phần trăm, tụi nhỏ ưa lắm. Tui dẫu già cả, quê dốt nhưng cũng mua giấy để coi con Giên tui hát hỏng ra sao.
Chèn ơi, chị Tám! Không hiểu mồ mả ông nội của hai con Ngọc có bị trâu dẫm, bò đạp, heo chó phóng uế hay không mà mả bị động khiến lũ cháu gái mất nết hư thân. Con Giên tuy không dám loã thể trên sân khấu nhưng nó chế ra cái áo giống như cái áo lá, để chừa một khoảng bụng lòi cái lỗ rún thật sâu đựng cỡ một muổng cà phê nước mắm. Cái quần của nó thiệt lạ đời: xì-líp không ra xì-líp, quần cụt không ra quần cụt. Quần bằng nhung đen, thêu con dơi bằng kim tuyến ngay chỗ giữa cặp đùi. Quên nữa, cái áo hở bụng của nó cũng bằng nhung đen, ôm tròn cặp vú, thêu từng vòng tròn ở chỗ lồi của vú. Mèn ơi, áo quần mà thêu kiểu đó có khác nào réo gọi khán giả rằng: "Mấy người hãy coi đây!". Ngộ hén! Ca sĩ trình diễn là để mời khán giả thưởng thức giọng hát chớ có lý đâu mời họ nhìn và tưởng tượng mấy thứ bửu bối của đờn bà nằm dưới con dơi và những vòng tròn thêu kim tuyến đó!
Con Giên vừa ỏng ẹo bước ra, lũ choai choai thôi huýt sáo, rít tu hít từng tràng dài. Tui nhục nhã biết để đâu cho hết, chị Tám! Khi hát nó ưa xoay lưng lắc lắc cái mông thiếu điều dện vô mặt khán giả. Rồi khi quay mặt lại là nó nẩy người lên, chàng hảng chê hê coi thiệt là tục tĩu, vô phép tắc. Vậy mà lũ trẻ coi bộ thích lắm, hoan nghinh như sấm. Tui và bà bạn già bỏ ra về, ở coi cho hết chương trình càng thêm nhục! Tới chỗ bán băng nhạc, tui tò mò nhìn vô. Tui bị quáng mắt hay thông manh đó chăng? Cái băng nhạc có cái nhãn in hình cô nữ ca sĩ trần truồng nguyên con là ai vậy? Ðầu óc tui đảo lộn, tui ngã quị xuống như cây chuối bị đốn. Có tiếng nói văng vẳng:
- Ca sĩ Giên Ngọc Hiền đó đa bà con. Cổ là cháu nội bà Năm Xóm Gà chớ ai!
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:37:09 GMT 9
Bà Năm Tơ Hồng
Hồ Trường An
Tôi còn nhớ trong xóm tôi có bà Năm Tơ Hồng. Tên thật là bà Năm Lương nhưng vì bà thích làm mai làm mối nên chòm xóm kêu bà là bà Năm Tơ Hồng. Thuở đó, bà Năm Tơ Hồng đã năm mươi tuổi, nhưng bà trẻ dai, coi như khoảng ba mươi ngoài. Bà ăn mặc tươm tất, áo lụa quần lãnh hoặc áo xuyến trắng quần xá xị, quần sa-teng, quần lục soạn, coi khác hẳn mấy bà lam lũ trong xóm. Bà Năm Tơ Hồng ưa đi chùa và có mặt thường xuyên ở các đám tiệc, đám giổ, cúng thôi nôi...trong xóm hoặc các làng lân cận.
Bà Năm sống bằng nghề cho vay ăn lời rẻ và làm đầu thảo mấy chơn hụi. Bà có biệt tài lựa kẻ chơi hụi nên không bị úp hụi bao giờ. Nhờ lui tới giao thiệp chỗ nầy chỗ nọ, từ nơi giàu sang tới chốn hạ tiện trong tỉnh nên bà buôn bán cẩm thạch, hột xoàn chút chút, gọi là để cầu vui. Qua câu chuyện, người mới đến xóm tưởng đâu bà chỉ thuộc hạng trung lưu, đủ ăn đủ tiêu vậy thôi. Ai dè có đến nhà bà mới thấy cảnh bài trí xuê xoang hực hỡ: tủ cẩn, đi-văng chân qùy, choé độc bình bằng sứ lâu đời, lư hương, chân đèn bằng đồng, liễn son, liễn mun nổi chữ thếp vàng...Bà Năm cười khiêm nhượng:
- Tui có cái vỏ bề ngoài chớ cái ruột trống lốc hè. Bà con coi thấy bàn ghế tủ thờ toàn bằng gổ nu, cẩm lai là bởi của ông bà để lại, "hù" láng giềng lối xóm vậy mà!
Lâu lâu bà đeo nữ trang. Gặp kẻ chắc lưỡi hít hà, bà làm bộ nhũn nhặn: - Ối, có gì đâu, của thiên hạ nhờ tui bán giùm kiếm chút huê hồng đó đa! Nè, thím coi cái hột xoàn nầy đi. Năm ly hai, nước trắng tím, lại tra chiếc vỏ bạch kim nên nó chiếu còn hơn sao Nam Tào Bắc Ðẩu nữa. Thím mua chiếc cà rá nầy đeo vô là chú sắp nhỏ có mấy con vợ bé cũng bỏ tuốt để ở nhà hủ hỉ với thím. Ừa, hay là thím để dành cưới vợ cho thằng con trai đầu lòng của thím, có bảnh hơn không?
Thiệt tình, chẳng ai biết việc làm của bà có xuôi chèo mát mái hay không, nhưng về chuyện làm mai thì hễ bà nhúng tay vào chỗ nào là chém chết ít lâu có chuyện gả cưới ở chỗ đó.
Bà Năm Tơ Hồng thường tuyên bố:
- Tui mát tay làm mai lắm. Tui mà xe duyên cho đám nào thì họ ăn đời ở kiếp với nhau, phu xướng phụ tùy. Gặp mấy thằng con trai thuộc hạng "đâm cha chém chú, lắc vú chị dâu, cạo đầu bà thím" tui cũng ghép được với mấy con "cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai". Tuy hai đàng thuộc hạng trời ơi đất hỡi vậy mà khi họ ăn ở với nhau rồi thì sắt cầm hảo hiệp, chí thú làm ăn, nên cửa nên nhà.
Bà Năm quả có biệt tài làm mai lắm. Làng xóm ai cũng tin miệng lưỡi của bà. Bà có óc quan sát, có cặp mắt nhắm tướng người. Một hôm bà gặp cô Sáu Ngọc Huệ cặp rổ đi vào rẫy mua rau. Cô gái hơi mảnh khảnh nhưng da trắng mịn như cánh hoa ngọc lan, đôi mắt đen láy nổi bật trên khuôn mặt trái soan.
- Nè Sáu, con được mấy tuổi?
Cô Sáu Ngọc Huệ nghiêng cây dù màu đỏ, sắc đỏ dưới nắng trải lên gò má mịn màng của cô một màu hồng tươi đẹp. Cô nhỏ nhẹ:
- Thưa má Năm, năm nay con được mười bảy tuổi.
- Chèng ơi! Con nhỏ nầy trổ mã coi được đến! Sáu à, con chịu lấy chồng không con? Ðể má Năm làm mai cho con nghen con?
Cô Sáu Ngọc Huệ mắc cỡ kiếu từ, đi một nước vô rẫy. Hôm sau, bà Năm Tơ Hồng tìm cách lân la tới nhà ông bà giáo Hạt, song thân cô Sáu Ngọc Huệ. Nhà ông giáo Hạt ở gần khúc quanh Long Hồ, giữa khu vườn trồng ổi xá-lỵ sum sê. Ông bà có cậu trưởng nam tên Hai Hiếu, ăn học thành tài, hiện làm giáo sư toán. Nhưng năm cô con gái kế trước kia làm ông bà lo lắm. May nhờ có bà Năm Tơ Hồng mà ông bà gả trôi cô Ba Ngọc Lan cho một thương gia Minh hương, gả cô Tư Ngọc mai cho một thầy giáo dạy lớp tiếp liên, gả phăng cô Năm Ngọc Cúc cho thầy giám thị trường công lập tỉnh. Vừa khi cô Năm đi lấy chồng thì cô Sáu Ngọc Huệ cũng bắt đầu trổ mã.
Hôm đó cô Sáu Ngọc Huệ đi vào xóm thâu tiền hụi và mua bún, bánh hỏi để dọn bữa trưa cho khách. Mỗi khi có bà Năm Tơ Hồng tới chơi, ông bà giáo Hạt mừng lắm, nhứt là từ khi cô Sáu Ngọc Huệ và cô Bảy Ngọc Lựu ra vẻ thiếu nữ trong chiếc áo dài màu xanh da trời. Hai cô mà luộc đầu heo, lỗ tai heo để ăn với bún, bánh hỏi, rau sống, mắm nêm thì khỏi chê. Miếng thịt luộc vừa mềm vừa giòn, lại trắng phau phau. Dĩ nhiên cái bí quyết luộc thịt đó do bà giáo Hạt truyền cho con gái được giữ kín. Mỗi khi chị em cô luộc thịt thì cả hai lo đóng cửa trước, ngõ sau cẩn thận, sợ có kẻ ăn cắp nghệ thuật luộc thịt gia truyền.
Bà Năm Tơ Hồng súc miệng bằng chén nước trà huế pha lợt, rồi cất giọng:
- Thầy giáo Cảnh năm nay được hai mươi bốn tuổi, người thiệt thà. Thẩy có được rảnh rang là chúi đầu vô sách luyện thi tú tài toán chớ không sanh sứa cờ bạc, rượu chè. Nếu chị với anh giáo bằng lòng thì tui dắt má thẩy lại. Má thẩy có một sở vườn bốn mẫu trồng cây trái, huê lợi mỗi năm cũng khá, lại thêm mười mẫu ruộng tốt ở miệt Lộc Hoà, cách chợ Vãng mười bảy cây số.
Bà giáo Hạt têm một miếng trầu đưa cho bà Năm Tơ Hồng:
- Ờ, con Huệ tui cũng như con của chị. Chị liệu coi chỗ nào tử tế gả nó dùm. Nhưng mà....- Bà giáo Hạt thấp giọng- thầy giáo Cảnh vóc vạc cao lớn, cười có lúm đồng tiền coi cũng có duyên. Có điều thiên hạ đồn rằng tía thẩy vốn lai Chà Và Châu Giang. Bà nội củ thẩy trước kia xinh tốt như tiên nga, kén chồng dữ lắm. Có thằng Chà Và Châu Giang giàu có muốn cưới bả, chẳng những bả không ưng mà còn nhiếc mắng người ta. Thằng Chà Và bèn dùng bùa ngải mê hoặc, rù quến bả tới nước bả có chửa, rồi đẻ ra ông già tía của thầy Cảnh. Chị Năm không thấy sao, nước da thầy Cảnh đen hù, giống như da ông nội thẩy vậy.
Bà Năm Tơ Hồng nói:
- Ối, hơi nào nhắc gốc tích người nầy người nọ, chị giáo! Tía của thầy Cảnh tuy lai Chà Và nhưng là người đàng hoàng, làm công chức ở Kho Bạc, chớ có thua sút ai đâu!
Bà giáo Hạt nói xuôi:
- Ờ, chị nói cũng phải. Song tui cũng cần hỏi lại con Sáu coi nó có ưng không. Thời buổi nầy tụi trẻ khó tánh lắm chị ơi. Lai nữa ông nhà tui thường nói "ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên" đó chị Năm.
Bà Năm cười chúm chím:
- Ai mà thèm ép! Cứ nói phải quấy cho tụi nó nghe cũng đủ rồi. Chị để đó tui. Lưỡi của tui đây nè, ngọt như mật, trơn như mỡ. Tui chỉ nói vài tiếng là đá cũng phải mềm nữa là.
Mâm cơm dọn lên. Ông giáo Hạt cũng vừa ở ngoài vườn bước vào. Vừa thấy bà Năm, ông vui vẻ:
- Ðêm qua có đom đóm vô nhà, tui biết thế nào cũng có điềm lành. Té ra bữa nay chị Năm tới chơi.
Bà Năm Tơ Hồng cười hắc hắc:
- Chớ sao, tui tới đâu là đem chuyện vui tới đó. "Thứ nhứt đom đóm vô nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn" tức là ba điềm hên đó đa anh.
Hai vợ chồng ân cần mời bà Năm ngồi vào mâm. Bà giáo Hạt hỏi cô Sáu Ngọc Huệ:
- Con Bảy làm giống gì mà cứ lúc thúc trong buồng hoài vậy? Biểu nó ra đây chào hỏi má Năm đi chớ.
Cô Sáu Ngọc Huệ trở vào buồng. Một lát, hai chị em cô bước ra. Cô Bảy Ngọc Lựu tròn trịa, xinh xắn. Môi cô tươi, răng cô trắng, cườm tay cô no nưỡng, trắng phau phau, đeo đôi vòng cẩm thạch màu xanh hoa lý.
Bà Năm Tơ Hồng hỏi:
- Con Bảy đây hả chị giáo? Năm nay nó được bao nhiêu tuổi vậy chị?
- Ờ, con Bảy Ngọc Lựu đó đa! Nó mười sáu tuổi rồi đó. Tui sanh năm một mà chị.
Bà Năm Tơ Hồng ngắm nghía cô gái, tấm tắc:
- Da trắng, tóc mịn, tay chân suông đuột, môi đỏ au...Chèng đéc ơi, con nhỏ nầy có thua sút chị nó chỗ nào đâu! Mắt lại lá răm nữa. "Con mắt lá răm, chơn mày lá liễu đáng trăm quan tiền". Ðể tui làm mai giùm chị, chị chịu không chị giáo?
Bà giáo Hạt nói:
- Thì mình lo cho con Sáu xong rồi sẽ tính việc chung thân cho con Bảy.
Bà Năm Tơ Hồng ngon lành:
- Tui có thể làm mai một lượt một trăm đám. Nè, có thầy y tá tên Quỳnh, làm việc ở nhà thương chợ tỉnh, mới có hai mươi lăm tuổi, mặt mày sáng sủa, tánh tình dễ chịu, lại bặt thiệp nữa...Chị biết thẩy không? Thẩy ở dãy phố bà Thông Vịnh đó...
Bà giáo Hạt cười nửa miệng, môi chỉ hé một nửa hàm răng hô:
- Tui cứ lúc thúc trong nhà lo việc bếp núc, đâu có đi ta bà mà biết hết dân tứ xứ mới tới.
Cô Bảy Ngọc Lựu ngứa miệng:
- Con biết thẩy mà. Thẩy mập mạp, trắng như bạch chảng, coi ghê quá!
Bà Năm Tơ Hồng quở:
- Ê, đừng nói tầm bậy nà. Thời buổi nầy khó kiếm ông chồng trắng trẻo, bảnh trai lắm nghe con. Mà từ da trắng muốn làm cho da đen dễ ợt hè. Con cứ bắt thẩy trồng bông kiểng, trồng rau, phơi mình ngoài nắng chừng vài cữ là da thẩy sậm sòi chớ gì.
Mặt cô Bảy vẫn phụng phịu:
- Trắng gì mà trắng như heo cạo. Dẫu thẩy có phơi một trăm cữ nắng thì da thẩy bất quá đỏ thén như mồng gà lôi chớ làm sao mà sậm được!
Bà Năm Tơ Hồng:
- Má Năm cam đoan với con đó. Kỳ hè vừa rồi thẩy đi Vũng Tàu nghỉ mát, da thẩy bắt nắng, coi cũng mặn mòi như ai....
Cô Bảy Ngọc Lựu chỉ cười tủm tỉm không cải nữa. Bà Năm Tơ Hồng hỏi cô Sáu Ngọc Huệ:
- Nè Sáu, má Năm định làm mai con cho thầy giáo Cảnh. Con nghĩ sao đây?
Cô Sáu ngập ngừng:
- Thưa má Năm, thầy giáo Cảnh nào?
- Thầy Cảnh con ông Hát, trưởng kho bạc đó con.
- Có phải cái thầy đen như cột nhà cháy đó không?
- Thẩy đó đa. Thẩy tuy đen đúa nhưng tướng tá mạnh dạn, mặt mày khôi ngô.
Cô Sáu Ngọc Huệ vặn vẹo cái khăn mù-soa trong tay:
- Ý cha, lấy thẩy làm chồng, đố con khỏi bị tụi bạn nó chế nhạo là lấy nhằm ông thần lọ nghẹ hoặc Uất Trì Cung, Hà Ô Lôi...
Bà Năm Tơ Hồng dễ gì chịu thụt lùi trước sụ vùng vằng của cô gái. Bà dỗ ngọt:
- Con nhỏ nầy sao mà dại! Trai đen đúa mới có duyên chớ bộ. Mầy khéo kén cá chọn canh hoài đi, rủi hụt con cá lớn, sẩy con tôm bự thì chừng đó đừng có chắc lưỡi mà tiếc nghe con! Chưa chi mà con chê người ta thiếu điều....muốn ngộp hơi tắt thở vậy đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:38:03 GMT 9
Dù có chê bai kẻ bà Năm Tơ Hồng định làm mai, nhưng đêm đó cả hai cô gái cứ rạo rực, khó ngủ. Cô Sáu Ngọc Huệ từ chiều đã tắm rửa bằng xà-bông cô Ba thơm ngát. Cô bận quần áo trắng lên trung đường đốt đèn, thắp nhang, thay nước trong mấy bình bông sen, bông huệ. Cô lầm thầm khấn vái rất lâu trước bức tranh đức Quán Thế Âm bồ tát. Vừa khi cô vào buồng thay quần áo ngủ thì cô Bảy Ngọc Lựu bận áo tràng màu khói nhang đến bàn thờ Phật Bà. Cô triệt hạ dĩa quít, xuống bếp lấy mận và ổi đơm vô dĩa khác để cúng Phật. Dù cây nhang bạch đàn mà chị cô vừa thắp chưa lụn, cô vẫn đốt thêm cây nhang trầm hương. Cô khấn vái lâu hơn cô Sáu Ngọc Huệ và lạy như tế sao.
Vừa về tới buồng, cô Bảy bắt gặp cô Sáu đang rọi kiếng. Cô Sáu Ngọc Huệ hết nặn mụn tới xỉa răng, rồi chải đầu. Chải đầu xong, không biết làm gì hơn, cô Sáu kéo hộc tủ lấy củ nghệ chấm lên mấy vết mụn vừa mới nặn.
Cô Bảy Ngọc Lựu đương thèm săn sóc tóc da. Da của cô thuộc loại mịn màng. Tóc cô nhỏ sợi, thuộc loại tóc mật, bỏ xoã ngang lưng coi thiệt là thơ mộng.
Dù sao hai chị em cũng phải tính chuyện đi ngủ, vì khóm dạ lý bên hè bắt đầu toả hương thơm ngát tức là gần nửa đêm rồi.
Cô Bảy Ngọc Lựu cứ than dài thở vắn. Cô Sáu Ngọc Huệ cứ ngó mông ngọn đèn. Rốt cuộc cô chị lên tiếng trước:
- Con hà bá, bộ mầy ăn không tiêu hay sao mà cứ thở nghe bắt mệt vậy?
Cô em cười:
- Còn chị, bộ đau bụng máu hay sao mà cứ xăng văng hoài, không chịu đi ngủ cho khoẻ?
Cô Sáu thu dọn gương lược vô cái hộp tròn:
- Nè Bảy, mầy thấy ...thầy Cảnh ra sao?
Cô Bảy Ngọc Lựu lúc nào cũng muốn chị mình lấy ai thì lấy phứt cho rồi, để ba má cô tính tới phần cô. Cô nói:
- Ðờn ông đâu cần đẹp trai. Thầy Cảnh có sống mũi cao, lưng dài, vai rộng, vóc vạc cân đối.. Thẩy có tương lai trước mặt, có quá khứ tốt lành sau lưng, ở đó mà chê bai thẩy rồi đèo bòng nọ kia. Chị sao ưa thói thả mồi bắt bóng!
Sáu Ngọc Huệ vốn thích lấy chồng trắng trẻo, nho nhã. Nhưng mà cái thầy Quỳnh trắng gì mà trắng lạnh trắng lùng, coi nhột mắt làm sao! Nghe giọng chua lè của em, cô hăm he:
- Coi bộ ba má chíp cái thầy Quỳnh đó rồi đa! Thây kệ, Bảy à! Mặt mày thẩy dù không có mặn mòi nhưng cũng hiền hậu. Duyên phận đã định rồi, mầy có chạy đàng trời cũng không tránh khỏi. Chạy trời không khỏi nắng, Bảy ôi!
Cô Bảy Ngọc Lựu bứt rứt:
- Thầy Quỳnh đâu có tóc đen như người Việt mình. Tóc thẩy hoe hoe đỏ, chắc là giống bạch chảng chứ gì!
Cô Sáu mở hộp thuốc tể, lấy một viên cỡ viên bi đen óng và bát ngát mùi mật ong, nhai nhỏ rồi chiêu một ngụm nước trà. Thấy cô gầy gầy nên cô Ba Ngọc Lan bổ cho cô một tể thuốc có tác dụng làm kinh nguyệt điều hoà. Kinh nguyệt của cô Sáu khi trồi khi sụt như nước thủy triều nên thỉnh thoảng bà giáo Hạt làm món gà ác tiềm sanh địa hay trái tim heo chưng với châu sa, thần sa cho cô ăn. Vậy mà cô chẳng lên được kí-lô nào. Còn cô Bảy dẫu chỉ ăn một hột cơm vẫn không ốm bớt một gờ-ram.
Cô Bảy Ngọc Lựu nhìn bóng trăng lồng ngoài khung cửa sổ, thở dài một cái sượt. Cô Sáu Ngọc Huệ háy:
- Con nầy kỳ cục chưa? Lấy chồng mà nó làm như bị....xử bắn vậy!
Cô Bảy tức mình:
- Chồng con nỗi gì nà. Em chưa kịp lớn để lấy chồng, nay có má Năm a thần phù tới bày chuyện mai mối! Bộ chị tưởng lấy chồng rồi mình nhắm mắt về nhà chồng hay sao? Còn phải chuẩn bị tinh thần nữa chớ. Bô chị hổng lo hay sao, chị Sáu?
Cô Sáu trề môi:
- Ối, lo làm gì cho hao hơi tổn sức, Bảy! Tới đâu hay đó. Có khi mầy tính một đàng, kết quả một nẻo.
Cô Bảy nhìn ngọn đèn lom lom:
- Cha chả, còn cái đêm tân hôn nữa! Chừng đó mình sẽ....tính cách nào đây?
Cô Sáu mắng:
- Ðồ khùng nà! Mầy khỏi cần tính, lúc đó thầy Quỳnh sẽ....tính cho mầy.
Cô Bảy "hứ" một tiếng ghét bỏ:
- Rủi thẩy...không chịu tính thì sao?
Cô Sáu cười ngất:
- Thì ...tới phiên mầy tính.
Cô Bảy cùn quằn:
- Thôi, em không thèm lấy chồng đâu. Hổng có tính toán gì ráo trọi á.
Cô Bảy thay một đồ mát bằng sa-teng xanh dịu rồi chui vô mùng. Cô xoay mặt về khung cửa sổ, hỏi chị:
- Còn chị, trong đêm tân hôn, chị tính sao?
Cô Sáu cười:
- Tao hả? Tao sẽ....nhắm mắt.
- Nhắm mắt hả họng phải không?
- Ừa, tao sẽ nhắm mắt đưa chân, thử xem con Tạo xoay vần đến đâu.
- Rủi con Tạo không chịu xoay vần thì mới làm sao?
- Chừng đó sẽ hay. Mầy quên một điều là ở đời nầy đâu phải ai cũng nhút nhát như mầy.
Cô Bảy hỏi gặng:
- Nếu...con Tạo không xoay vần thì chị phải tính chớ?
Cô Sáu Ngọc Huệ mắng:
- Cái con ôn dịch nầy sao mà ăn nói trặc trẹo quá! Ừa, chừng đó tao sẽ tính một cái rụp.
Vốn có óc tò mò thiệt bự, nghe tới đây cô Bảy Ngọc Lựu lồm cồm ngồi dậy, hỏi dồn:
- Ðâu? Chị tính cách nào, nói em nghe chơi.
Cô Sáu Ngọc Huệ ngon lành:
- Chừng đó tao sẽ xách va-ly về nhà nầy.
Cô Bảy rít lên hai tiếng "Tưởng gì!" rồi nằm xuống. Chưa giập bả trầu mà cô Bảy đã ngáy pho pho. Cô Sáu ngớ đăm đăm về phía em, lắc đầu nghĩ thầm: "May mà nó lo mà nó còn ham ăn ham ngủ như vậy đó! Hèn chi ông bà mình nói tụi nhỏ ăn chưa no lo chưa tới..."
° ° °
Ðời làm mai hễ càng gặp khó khăn là càng thích chí, vì có dịp đem miệng lưỡi ra thuyết phục đôi bên trai gái. Bà Năm Tơ Hồng thường tuyên bố như vậy. Bởi đó, bà cứ trau giồi miệng lưỡi của mình cho càng ngày càng tinh vi, điêu luyện hơn.
Về phía thầy giáo Cảnh, thầy cho rằng cô Sáu Ngọc Huệ hơi gầy, hơi khô. Nhận xét của thầy vừa thoát ra cửa miệng bị bà Năm Tơ Hồng chận liền:
- Con gái lúc chưa chồng thì nó ốm gầy. Chừng đẻ xong vài lượt, máu huyết thay đổi, mình mẩy nó sẽ phốp pháp chớ gì. Cháu có thấy vợ thằng Tám Kéo không? Hồi chưa chồng, nó ốm như cây tre miểu, mình mẩy chỉ có da bọc xương. Vậy mà khi đẻ xong đứa con so, nó mập mạp tròn trịa, da trắng tóc dài, ai thấy cũng lấy làm lạ, cũng khen om sòm.
Ba má thầy y tá Quỳnh sẵn sàng làm suôi với ông bà giáo Hạt vì hai bên đều môn đăng hộ đối. Thầy Quỳnh thì chê cô Bảy Ngọc Lựu hơi mập. Bà Năm Tơ Hồng thuyết phục:
- Ối, con gái mập mạp là tướng vượng phu ích tử đó đa cháu. Như con Bảy Ngọc Lựu, vì là con út được tía má nó cưng chiều, chỉ ăn rồi lo việc thêu đan, sung sướng lắm. Chừng nào nó về với cháu, nó phải lo bếp núc cùng trăm thứ việc nhà, có cực khổ lo lắng là nó ốm bớt đi liền, cháu khéo lo!
Dầu đôi bên chê khen lẫn nhau, dẫu đàng trai và đàng gái không mấy hài lòng về phương diện sắc vóc, bà Năm Tơ Hồng vẫn trổ tài thuyết phục để hai cái đám cưới được cử hành vào tháng giêng năm sau. Thầy giáo Cảnh muôn đời giữ màu da đen, cô Sáu Ngọc Huệ thì không mập thêm chút nào. Vậy mà họ yêu nhau rất mực. Cô Sáu Ngọc Huệ thường nhìn chồng nói giỡn:
- Chắc hồi có chửa anh trong bụng, má anh uống thuốc bắc, ăn chè đậu đen hơi nhiều nên da anh đen quá là đen.
Thầy giáo Cảnh vuốt ve vợ:
- Chắc lúc má em mang em trong bụng, bà ăn cá lòng tong nên em ốm nhom ốm nhách. Phải chi bả ăn cá rô mề, ăn thịt gà thiến thì em sẽ mập mạp dễ thương hơn.
Màu da thầy Cảnh đối với cô Sáu Ngọc Huệ không thành vấn đề từ sau tuần trăng mật. Nó như đứng ngoài bờ rào nhân dạng đầy nam tính của chồng cô. Khi thầy bị sốt rét, thiếu máu, nó trở thành màu mắm. Khi thầy phục sức, hồng hào nó trở nên màu tương tàu. Cô không cần nhìn nó nữa. Cô chỉ thấy ở chồng mình một thân thể dẻo dai, ngập tràn sức sống, óc khôi hài tế nhị, nụ cười cởi mở, bao dung.
Về phía thầy Cảnh, thầy chỉ thấy vợ mình tuy mảnh mai nhưng thân thể mềm mại. Cái yếu ớt của cô đã gợi nơi thầy một sư che chở đầy âu yếm của đấng trượng phu.
Bà Năm Tơ Hồng hài lòng lắm khi thấy cặp vợ chồng nầy yêu thương, hoà thuận. Hễ mua được món quà nào đặc biệt, họ cũng kính biếu bà. Mùa xoài, mùa mận, mùa quít, mùa vú sữa, mùa ốc gạo, mùa chim...Mùa nào thức đó, họ tặng bà đủ các món quà quê hương.
Còn thầy Quỳnh và cô Bảy Ngọc Lựu thì sao? Mỗi xế chiều, thầy Quỳnh thích ra sân vận động để dợt đá banh. Thầy chỉ mặc cái quần cụt nên nước da thầy tiếp xúc với nắng nhiều, trở nên nâu hồng. Ðường banh của thầy khá điêu luyện, nhờ đó hội banh của thầy đã từng thắng hội banh tỉnh Sa Ðéc một cách vẻ vang trong kỳ so tài năm ngoái. Còn cô Bảy Ngọc Lựu vì sợ chồng chê nên không dám ăn uống xô bồ xô bộn. Thân thể cô bớt mập, trở nên tròn lẵn.
Vợ chồng Quỳnh dọn về xóm Cầu Ðào, gần miểu Quan Thánh Ðế Quân. Cô Bảy Ngọc Lựu tỏ ra một người nội trợ xuất sắc. Thầy Quỳnh có nhiều dịp thưởng thức món đầu heo, lỗ tai heo luộc ăn với bánh hỏi rau sống mắm nêm do vợ làm. Nhiều lúc trong cơn chăn gối mặn nồng, cô Bảy Ngọc Lựu nhìn màu da nâu hồng nắng táp của chồng, thỏ thẻ:
- Hồi xưa, khi má Năm tính làm mai anh cho em, em lỡ dại chê anh trắng như con heo cạo.
Thầy Quỳnh ve vuốt đôi vai tròn của vợ, nhìn tấm lưng thon của vợ, thú thiệt:
- Anh cũng vậy. Hồi đó anh chê em mập tròn như con cá bống mú.
Bà Năm Tơ Hồng vui lắm. Gặp chòm xóm láng giềng bà khoe inh ỏi:
- Bà con thấy chưa? Tui nói đâu là trúng đó. Cứ coi thầy Quỳnh và con Bảy Ngọc Lựu... Thiệt xứng đôi vừa lứa. Hồi chưa lấy con Bảy, thẩy trắng ngó mà phát ớn, còn con Bảy thì mập như trái xoài tượng. Bây giờ chồng thì mặn mòi, coi bảnh trai hết sức. Còn vợ thì liễu yếu đào tơ, thiệt đúng là một cặp tiên đồng ngọc nữ. Họ nồng nàn với nhau quá xá cỡ. Tui làm mai mát tay thiệt mà. Chắc kiếp trước tui là đồ đệ của ông Tơ bà Nguyệt đó đa.
Và để chấm dứt sự khoe khoang rất chi là dễ thương của mình, bà chìa tấm ảnh cô Hai Kim Tuyến con của ông bà Bang biện Thuận ra khoe:
- Cô nầy đang kén chồng đây. Cổ học trường Sư phạm ở Thầy gòn. Tui nhứt định làm mai cổ cho thầy đốc công sở Trường tiền tên là Trương Anh Tuấn. Bà con coi họ có xứng cặp với nhau hay không?
Trong ảnh, cô Hai Kim Tuyến đứng bên chậu thược dược, mặt nghiêng nghiêng, miệng cười, mắt liếc có vẻ hớn hở lắm.. Bà Năm Tơ Hồng chắc lưỡi hít hà:
- Thiệt là dễ thương! Hèn chi hồi xưa có một ông thi sĩ nào đó vịnh một mỹ nhơn khi cổ đi dạo vườn huê, xem bông kiểng: "Người ngọc bên hoa, hoa ửng sáng. Hoa cười bên ngọc, ngọc thêm trong". Hai câu thơ nầy vịnh cô Hai Kim Tuyến thiệt là không uổng cái hay, cái đẹp của thơ và nhứt là không phụ cái nhan sắc mặn mòi của cổ.
° ° °
Thưa bà con độc giả xa gần. Trải qua bao lớp sóng phế hưng của lịch sử, trải qua bao cuộc thăng trầm của tổ quốc, không ngờ mùa xuân năm ngoái tôi có dịp gặp lại bà Năm Tơ Hồng tại chùa Khánh Anh trên đất Pháp. Năm nay bà trên bảy chục tuổi, răng cỏ sệu sạo, tóc bạc như phết vôi, ấy vậy mà sắc mặt bà sáng hồng, mắt đưa đẩy theo câu chuyện dù da mặt bà đã nhăn, vai bà co rút. Tôi hỏi:
- Sao bà qua bên đây được? Ði chánh thức theo quốc tịch Pháp hay đi vượt biên?
Bà Năm Tơ Hồng cười hắc hắc:
- Tui đâu có phải là dân Tây. Tốn mười hai lượng vàng mới được ông chủ tàu đánh cá ở Rạch Giá cho đi hùn đó. Tui đi với vợ chồng thằng Hứa. Cậu còn nhớ nó chớ?
Hứa là con trai độc nhứt của bà. Anh ta làm thợ bạc nổi tiếng về việc tra kim cương vô vỏ bạch kim, mãi tới bốn mươi ngoài mới lấy vợ. Chòm xóm đồn rằng Hứa đi hỏi đám nào là đàng gái chạy tét vì Hứa ăn nói vô duyên. Mẹ làm mai nên con trai mất duyên! Sau cùng Hứa đi cưới cô Sâm vốn gái lỡ thời, ốm tong teo như cây sậy, trái với thân hình mập núc của Hứa. Khi ăn ở với nhau, cô Sâm béo đẹp ra, còn Hứa thì rắn chắc lại.. Cả hai cùng yêu đương, thuận thảo lắm. Bà Năm Tơ Hồng làm mai đám nào cũng suôn sẻ, trơn tru, nhưng tới khi đi hỏi vợ cho con lại phải trầy vi tróc vảy mới cưới được cô gái ế chồng, lạt nhách như cơm nguội cho con.
Bà Năm Tơ Hồng khoe:
- Bây giờ tui mộ đạo lắm cậu à. Chúa nhựt nào tui cũng lên mấy chùa làm công quả. Tui cũng làm áp phe chút chút. Cậu coi ai muốn mua cẩm thạch thì nhớ liên lạc với tui nghe không?
Bà cho tôi số điện thoại rồi dặn:
- Thằng Hứa làm thợ bạc chắc cậu chưa quên. Ai có san hô, mã não, hổ phách, ngọc lựu, ngọc miêu nhỡn, ngọc huyền...muốn tra vỏ bạc, vỏ vàng thì cũng cứ phone theo số điện thoại đó.
Tôi hỏi bà còn tiếp tục làm mai nữa không, bà vỗ vai tôi, cười tít mắt, nói ngon lành:
- Vẫn tiếp tục chớ cậu. Tui thương cho mấy cậu thanh niên, mấy cô gái bơ vơ xứ người mà chưa có đôi bạn. Phải tìm cách "xe duyên chỉ thắm" cho họ để họ đẻ con cho đông, một khi kéo về nước là tấn công tụi cộng sãn một cái rụp để kéo tụi nó xuống địa ngục chầu thằng cha Bác Hồ của tụi nó.
Tràng cười dòn khấm khướu của bà chấm dứt câu nói. Trước khi chia tay bà còn dặn tôi:
- Có rảnh lại tui chơi nghen cậu. Con cháu vợ của thằng Hứa đẹp như đào Thanh Nga hiện cũng đang kén chồng. Cậu lại đàng tui chơi đi. Nó mà nấu canh chua cá "đô-rát" cho cậu ăn là cậu mê liền...
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:40:15 GMT 9
Một Thuở Xuân Như Ý
Hồ Trường An
Thầy giáo Ba Biền vốn có cái mặt đỏ bừng mỗi khi xúc động. Hễ ngượng, giận, háo hức...thầy đỏ mặt đã đành, mỗi khi cười, mặt thầy cũng đỏ hừng hực mới là kỳ cho chớ. Bởi đó thầy được chòm xóm âu yếm tặng cho cái hỗn danh là thầy Ba Gà Lôi. Ông bà mình cho rằng người mà có khuôn mặt như vậy là người bộc trực, lòng dạ thẳng bon và suông đuột như ống nứa ống tre, thấy sao nói vậy.
Vào thượng tuần tháng chạp, chợt nghe gió chướng thổi lao xao trên hàng cây vông lá mướt hình trái tim, bông đơm đỏ thắm, thầy Ba Gà Lôi ngoắc chú Thường Xuyên Bạch đang neo xuồng câu tôm bên mé rạch, bảo:
- Lật bật mà Tết sắp tới rồi. Thấy vông đồng trổ bông, nghe cu kêu trên cây là mình lo phải sắm Tết.
Chú Thường Xuyên Bạch cười:
- Năm nay vùng mình trúng mùa, tui tin rằng nhà nào cũng sẽ ăn Tết lớn.
Thầy Ba Gà Lôi bảo:
- Ở xứ Nam kỳ mình, nhà nào dù nghèo mạt rệp thì trong bửa ăn vẫn có món canh, món mặn, món xào. Sông rạch miền Hậu giang mình tôm cá ê hề, đất ruộng màu mỡ nên dư lúa gạo để ăn, để sắm vàng. Dân Hậu giang mình chỉ ăn cá bự cỡ bắp tay sắp lên chớ đuơng thèm rớ tới thứ cá lụn vụn như cá chốt, cá rói, cá linh... Ðất tân bồi do phù sa đắp một khi xả hết chất phèn là trở nên phì nhiêu. Dân mình nếu chí thú làm ăn sẽ giàu có mấy hồi.
Ðó là vào thập niên ba mươi thời tiền chiến. Gia đình thầy Ba Gà Lôi ở trong căn nhà lợp ngói vùng Cầu Ðúc Cái Xình, gần chợ Hoả Lựu tỉnh Rạch Giá, cạnh con kinh Vàm Xáng, hễ vào mùa xuân nước trong văn vắt.
Thầy Ba Gà Lôi sau cuộc nói chuyện tào lao với chú Thường Xuyên Bạch bèn trở vào sân săm soi mấy chậu mồng gà, ớt kiểng, vạn thọ, kim quất...sắp lển nghển trong vuông sân gạch tàu. Bây giờ kim quất mới trổ bông trắng, ớt kiểng cũng trổ bông trắng. Còn vạn thọ và mồng gà mới cao chừng một tấc. Ðược cái đám cây vạn thọ và mồng gà đều bén phân nên mập tốt sởn sơ. Thầy Ba Gà Lôi bằng lòng lắm, liền xuống bếp nướng một con khô cá gộc, một khúc khô cá đường để làm món nhậu với rượu thuốc mà thầy đã bổ ở tiệm thuốc bắc ông bang Xạch Ỵục (Thạch Ngọc) cách đây nửa tháng.
Giữa lúc đó thím Ba Gà Lôi đi đánh bài về. Thím lén chồng đi vòng ngã sau để vô nhà. Thầy Ba tinh ý, thính tai nên nghe được bước chân rón rén thận trọng của vợ mình. Thầy liền xuống bếp để chận đầu vợ. Mặt thầy đỏ kè như ruột dưa hấu, hàng ria mép rung rung, mắt thầy nẩy ánh sao. Thầy hét om sòm:
- Ði đánh tứ sắc hay đánh xá ỏ về vậy? Trời đất ơi, có ai bạc phước hơn tui không? Vợ con người ta khôn ngoan, biết đạo lý, lo mần ăn, lo săn sóc cửa nhà. Còn con đờn bà của tui là thứ hại chồng, đẻ lũ con ngu si học hành đội sổ trong lớp. Bởi vướng nhằm thứ vợ con như vậy hèn chi mà tui cất đầu không nổi chổi đầu không lên. Tết nầy tui bỏ nhà đi chơi mình ên, không thèm ăn Tết với lũ ngu si heo ăn cám sú nầy.
Thím Ba chưa tới ba mươi tuổi, vóc dáng thon mảnh, da trắng trẻo,mặt trứng ngỗng, nụ cười hơi lẵng, miệng chưa cười mà cặp mắt lá răm xinh xắn kia đã híp lại rồi. Thấy chồng nổi tam bành, thím cười mơn:
- Ðừng có gầm, đừng có nạt em làm em sợ, tội nghiệp em lắm! Ai chơi bài hồi nào? Con nào thèo lẻo học bậy với mình, mình hãy chỉ cho em biết để em vả nó trẹo quai hàm cho mình coi. Em đi lại bà Bảy Khá hốt hụi để sắm sửa bánh trái, trà rượu kẻo thiên hạ chê cười mình ăn Tết lôi thôi.
Thím vỗ vỗ vào cái túi bà ba căng phồng giấy bạc. Thiệt ra thím có hốt hụi nhưng thím cũng vừa ăn bạc. Thím tự nghĩ rằng từ đây thím sẽ xa lánh sòng tứ sắc, chiếu đánh xệp. Qua Tết, thím sẽ ngồi chợ Vàm Xáng bán mắm, bán ba khía, khô sặt, khô cá sưởu, khô cá mặn...
Vẻ thịnh nộ của thầy Ba Gà Lôi bay biến đâu mất, nhưng màu đỏ phừng phừng vẫn còn. Thầy bước vào nhà tiếp tục uống rượu và nhai khô cá gộc.
Thím Ba nguýt yêu chồng rồi dặn:
- Nè, đừng có cho cô Tư, cô Năm biết là nhà mình ăn Tết lớn nghe cha nội, nghe tía non!
Cô Tư, cô Năm đây là em ruột của thầy Ba Gà Lôi. Cô Tư Cúc lấy chồng có trại đóng xuồng lẫn trại đóng hòm ở đầu ngọn rạch Hóc Hoả. Cô Năm Lan thì mở tiệm bán guốc, bán nón lá ngoài chợ Vàm Xáng, gần trường tiểu học. Năm rồi, cô Tư Cúc bán lúa, bán dừa đều lỗ lã nên hôm qua khi bơi xuồng đến thăm chị dâu, mặt mày cô bí xị. Cô than não nuột:
- Có ai xui xẻo hơn em không? Ðã bị giựt nợ, bị úp hụi còn buôn bán lỗ lã. Cái tiệm hàng xén của em ế quá chị ơi! Năm Thìn mới có người ghé mua dầu lửa, năm Tị mới có kẻ tới mua nước mắm...Năm cùng tháng tận rồi, em không thèm sắm sửa gì hết. Ăn Tết làm chi cho mất công! Mai mốt em dẹp bàn thờ Thần Tài cho nó gọn. Ông thần nầy chỉ ưa giúp đở mấy kẻ thù kẻ nghịch của em cùng mấy con đỉ ưa dòm hành chuyện nhà em rồi nói hành nói tỏi em. Thờ ổng làm chi cho tốn nhang, tốn dầu đốt đèn, tốn bông tốn trái, tốn bánh tốn chè!
Thiệt ra, tuy trong năm cô Tư Cúc có nhiều điều bực mình về tiền bạc, song chồng cô vừa trúng mối vụ mua đi bán lại cây xẻ ván, tiệm hàng xén của cô đông khách. Cô còn có vựa mắm và nhờ mua dưa gang nhiều để gài mắm nên bạn hàng tới mua tấp nập. Chẳng những cô trang trải hết nợ nần mà còn dư dả chút ít để mua sắm vải lụa may đồ Tết cho mẹ con cô. Chồng cô bỏ ra năm chục đồng mua sắm trà rượu, bánh mứt và hai chục dưa hấu Cầu Ðúc Cái Xình nổi tiếng là ngon nhứt vùng. Từ lâu cô Tư Cúc sợ thím Ba Gà Lôi mượn tiền của mình nên giả bộ than thở ỉ ôi rằng mình eo nghèo ót ngọt, năm nào cũng thiếu trước hụt sau. Thứ đờn bà mà mê bài bạc như chị dâu cô, hễ cô cho chị ta mượn tiền thì đời nào chị ta mới trả hết cho!
Thím Ba Gà Lôi cũng bởi miệng bòng chanh bóc chanh của mấy mụ ngồi lê đôi mách mà mang tiếng là thứ đàn bà bạch tuột, ngày nào không xoè bài tứ sắc là phiền muộn thiếu điều ngặt mình ngặt mẩy. Có kẻ ác khẩu còn đồn rằng thím là tay cờ gian bạc lận, lâu lâu giở thói ăn vùa thua giựt. Thứ đờn bà như vậy, cô Tư Cúc chẳng những không nên dây dưa thăm viếng mà cũng đừng nên cho vay cho mượn. Hể cẩn tắc thì vô ưu, ông bà mình đã nói như vậy thì cô nên lấy đó làm câu kinh nhựt tụng để đề phòng mụ chị dâu kia.
Còn cô Năm Lan, em kế cô Tư Cúc thì lấy chồng giàu. Chồng cô có nhiều ruộng đất ở vịnh Chèo. Nhà cô ở chợ Vàm Xáng thiệt khang trang, ba căn hai chái thiệt rộng, mái lợp ngói móc âm dương, vách bổ kho, sân lót gạch tàu. Cô lại có tiệm bán guốc, bán nón lá bên hông chợ nên bề ăn xài của cô ngoả nguê lắm. Nhưng thầy Hương thân Lộc, chồng cô Năm, từ ba năm nay nếu không mê sa nịch ái con mèo nầy thì cũng bợ đít con mèo nọ, đeo dính miêu kia làm cô ốm o so bại vì ghen tương.
Vừa khi nhge tiếng chim tu hút hót trên cây vông mọc bên dòng kinh nước biếc, cô xỉa ngón tay vô trán chồng:
- Thứ đồ dâm tặc! Thứ đồ dê xồm! Tết nầy tao hốt lũ con về nhà má tao, để mầy ăn Tết ở đây với con chó vện. Tao đi luôn, nói cho mầy liệu mà tự xoay sở...Mầy làm tao xất bất xang bang quá rồi! Tao đâu có dại gì nuôi mầy cho mập thây đặng mầy đi đéo bậy, biết đâu mầy sẽ dến tiêm la, đau lậu, cù đinh, thiên pháo về đây báo đời tao.
Cô Năm Lan có cùng khuôn mặt với cô Tư Cúc. Nhưng cô Tư Cúc trắng trẻo, mảnh mai, điềm đạm hơn. Cô Tư tuy ưa cà khịa, ưa cằn nhằn cửi nhửi nhưng cô nói năng rỉ rả chứ không quát tháo ầm ĩ như em. Khi giận dũ, cô Năm Lan giống mấy cô đào hát bội đóng vai nữ tướng như Cao Long Ngà, Sáu Bê, Năm Sa Ðéc , mày ngài cô dựng ngược, khoé hạnh tròn xỏ, mặt cô phừng phừng đổ lửa. Cô có tướng hơi cứng cỏi, vai ngang nên mấy bà già trầu đều cho đó là tướng khổ sở vì chồng con.
Bà Hương sư Bách, mẹ của thầy Ba Gà Lôi thường than:
- Lũ con gái nhà tui, miệng đứa nào cũng có đinh, có gai. Còn lũ dâu tui đều có nanh có vuốt cả. Con Hai thì có miệng củ ấu ưa nói hành thiên hạ, con Ba thì cái miệng cá chim, cà khịa với bất cứ ai.
Con Hai đây tức là nàng dâu trưởng của bà, vợ thầy Hương quản Bưng.
Từ lâu, thím Ba Gà Lôi ác cảm với cô Năm Lan vì cô nầy ưa chê bai chỉ trích cái tánh mê bài bạc và cái tật cả nhổng của thím. Cô Năm Lan đã rỉ tai với thím Hương quản Bưng:
- Con mẹ đó tới cuối năm mà quần áo vẫn xập xệ thì mong gì mẻ có tiền sắm Tết với người ta.
Ðược rồi, cô Năm Lan khinh thím, sẽ phải chống mắt coi thím ăn Tết. Thím cứ giả đò thiếu trước hụt sau, để rồi tới mồng một, mồng hai, cô ta sẽ được thím mời tới chứng kiến sự sung túc của thím. Thiệt ra, lâu lâu thím mới ngồi vô sòng bài chiếu bạc. Thím chơi tứ sắc mỗi lệnh một xu chứ đâu có đánh lớn! Năm qua, thím đã mua bao giàn mấy gánh hát, kiếm lời khá bộn. Nhưng thím cứ than lỗ lã để đánh lừa anh chị em bên chồng, để chồng thím dễ bề bòn rút, xin xỏ tiền bà mẹ chồng thím. ° ° ° Cằn nhằn, hăm he, chửi rủa, rên rỉ điếc tai ớn óc như vậy, nhưng ai cũng như ai, nghĩ rằng năm nay mình xui xẻo, vận số hắc ám như cái quần vải ú đen, như đít chảo đít nồi, nhưng biết đâu năm tới vận hạn mình sẽ hanh thông hơn. Nếu năm nay mình hên một, biết đâu năm tới mình sẽ hên hai ba hoặc hên mười!
Cô Năm Lan tuy chửi chồng giòn rụm, hăm he chồng ớn óc như vậy nhưng sau một đêm được chồng yêu đương mặn nồng, liền thỏ thẻ:
- Em nuôi cặp gà mái tơ và mấy con vịt cà cuống để dành ăn Tết tới mồng mười. Mình rành trà rượu, nhớ mua hai thứ đó cho thiệt bảnh, trước kính má, sau để thưởng xuân. Mai em sẽ làm bánh mứt và đón ghe thương hồ mua dưa hấu, mua hồng khô, chà là...
Cô Tư Cúc trong bữa cơm chiều có món canh đọt bợ nấu tôm, ỏn ẻn bảo chồng:
- Tết nầy em sẽ nấu canh bát tiên cho thiên hạ lé con mắt chơi. Ðể em mua bóng da heo, kim châm, nấm mèo, tóc tiên, nấm đông cô, bào ngư...Ngoài món canh bát tiên, em sẽ nấu vài món Tàu, đó là không kể món thịt cá kho chung, món khổ qua dồn thịt, món tôm kho tàu nước gạch đỏ ối để ăn lai rai cho đến hạ nêu.
Ai cũng có dự định thưởng xuân qua món ngon, qua tiệc tùng. Ai cũng hy vọng năm mới biến đổi hoàn cảnh đang hồi hắc ám củ mình. Cô Năm Lan không cần chuyện làm ăn xuôi chèo mát mái, chỉ cầu cho gia đình mình hoà thuận, chồng cô chán chuyện én oanh, ong bướm, hồi tâm nghĩ tới vợ nhà. Cô đã dùng thuốc Huyết Trung Bửu, Cửu Long Hoàn, Nữ Kim Ðơn nên kinh nguyệt cô điều hoà, bớt ốm bớt ròm, lại có vèo đỏ da thắm thịt ai cũng khen nên cô hy vọng chồng cô sẽ yêu thương say đắm cô hơn.
Cô Tư Cúc đẻ hai lượt đầu hai con tiểu tì nên cô hy vọng năm tới cô sẽ đẻ cho chồng một thằng cốt đột kháu khỉnh. Riêng thím Ba Gà Lôi cũng hy vọng mình đã đi chùa cúng dường rất hậu, mình đã thành tâm chiêm bái đức Phật Bà Quan Âm thì hai đứa con mình sẽ học hành sáng dạ. Thím cũng mong bọn chòm xóm láng giềng đã từng xung khắc với thím sẽ sáng mắt vì sự thành công trong chuyện làm ăn của thím, sẽ cụp tai nhục nhã để lân la làm quen và tùng phục thím, chừng đó thím sẽ tỏ ra khoan hồng đại lượng với họ.
Vợ chồng Hương quản Bưng vì là phận con trưởng nên phải ở chung với bà Hương sư Bách. Thím Hương quản phục tùng mẹ chồng trước mặt nhưng ưa nói xấu bà sau lưng. Thím không dám cầu cho bà chết sớm, nhưng mỗi khi thấy bà cầm chùm chìa khoá mở tủ sắt ngắm giấy bạc buộc từng cuộn, vàng lá xếp từng bó, nữ trang bày lổn ngổn thì thím ao ước một ngày nào đó bằng cách nầy hay cách khác, thím sẽ cầm được chùm chìa khoá kia. Vì ngoài chìa khoá mở tủ sắt còn có chìa mở lẫm lúa, chìa mở tủ đựng đồ cổ ngoạn, chìa mở tủ chè đựng toàn rượu quý, trà ngon, thức ăn mắc tiền....
Bà Hương sư Bách mừng thầm đại gia đình lẫn đám con cái ra riêng, đứa nào cũng có miếng ăn miếng để. Trong khi đó có vài gia đình tá điền bà túng hụt, phải bán bớt số lúa để dành ăn trong năm để sắm Tết. Lại còn vài gia đình ngoài chợ Vàm Xáng phải cầm đồ hoặc hốt hụi hay phải tièn vay bạc hỏi để tạo được cái Tết tương đối tươm tất. Nhưng đó là những trường hợp rủi ro, bà hơi đâu nghĩ tới cho mệt óc, mệt tim. Vào thời buổi sông trong biển lặng nầy, các gia đình trung lưu ở xứ Nam kỳ nầy đều ăn Tết mười ngày, từ mồng một cho tới mồng mười, không kể ngày dựng nêu và cúng rước ông bà tức ngày ba mươi tháng chạp.
Còn việc chuẩn bị Tết thì chị ruột bà Hương sư Bách là bà Cai tổng Hài đã chuẩn bị từ đầu tháng chạp. Xời ơi, người ta giàu có danh giá nên người ta sợ tổ chức đón Tết xập xệ thì trong trào ngoài quận, từ tổng tới làng sẽ xầm xì chê bai, nói tỏi nói hành, trổ giọng chanh giọng khế. Mấy ông thương gia Ba Tàu ngoài chợ Vàm Xáng cũng không dám ăn Tết nhỏ vì sợ nếu tổ chức đón Tết sơ sài thì bề buôn bàn sẽ gặp trở ngại vì mấy ai chịu hùn hạp với kẻ coi bộ không được giàu có? Việc ăn Tết lớn nhỏ đánh giá sự thạnh suy của mỗi gia cảnh con buôn. Bà Hương sư Bách tuy chỉ là một địa chủ, bà chẳng cần ai đóan già đoán non sự thạnh suy của mình, song bà muốn bày biện hực hỡ, nghi vệ rườm rà để con cháu vui chơi hầu quên cảnh mưu sinh vất vả đè nặng suốt năm qua.
Từ đầu tháng chạp, lũ cu đất, cu cườm, tu hú kêu văng vẳng từ vườn sau ngõ trước. Lũ ong bướm cũng dập dìu trên những luống cải sáng rực hoa vàng.
Cu kêu ba tiếng cu kêu Trông mau tới Tết dựng nêu ăn chè
Ở nhà sau, trên bộ ngựa gõ ngó ra sàn nước, bà Hương sư Bách cùng hai cô con gái và hai nàng dâu ngồi ăn cơm nguội mắm sống. Mắm lóc thịt đỏ au au xé từng miếng cỡ ngón tay út, thị ba chỉ xắt mỏng, tép muỗi xào mỡ xắt hột lựu, ớt trái, dưa leo bổ dọc, cải thơm cay tươi non, rau thơm...Năm mẹ con hả hê ăn món mắm đồng rau rẫy, mắt sáng quắc vì cay. Bà Hương sư Bách dặn dò:
- Tao muốn mồng hai Tết, tất cả con trai con gái, dâu rể, cháu nội cháu ngoại phải tề tựu đông đủ dưới mái nhà nầy.
Thím Ba Gà Lôi nhỏ nhẹ:
- Thưa má, chồng con có cho trồng hai vồng cải tùa xại để làm dưa. Vậy má để con bao thầu nồi thit cá đệm trứng luộc kho chung cùng hai hai món dưa cải dưa giá.
Cô Tư Cúc nói:
- Con lo khoản đầu heo luộc, lòng heo cho. Con có nuôi hai con heo thiến mỗi con nặng cỡ một tạ. Lối 29 tháng chạp nầy lò heo Chánh Hiệp sẽ tới bắt, họ kiếng lại cho con hai cái thủ vĩ và hai bộ đồ lòng.
Cô Năm Lan hớn hở:
- Còn con có nuôi bầy gà, con sẽ lựa hai con gà mái tơ thiệt mập để má cúng hạ nêu. Ngoài ra con cũng xí phần khoản bánh luộc như bánh tét, bánh ích, bánh dừa và khoản bánh hấp như bánh bò, bánh da lợn, bánh qui, bánh thuẩn...
Ngoài vườn sau, trong khuôn viên bà Hương sư Bách, thầy Hương quản Bưng cùng em là thầy Ba Gà Lôi đang săn sóc mấy luống cà, cà dái dê tím đậm và dài sọc, cà dĩa trắng ngà, cà tô-mách tròn xinh thắm đỏ. Trời trong nắng tốt, hàng vông đồng bên bờ rạch, bờ mương trổ hoa thắm màu huyết bồ câu. Ðó là thứ màu đỏ thuần một sắc, không ửng vàng như hoa điệp tây, không ửng tim tím như màu ngọc lựu. Miền Nam có mai vàng và vông đỏ để đón Tết. Nhưng mai có thể cắt nhánh rồi chưng trong độc bình da rạn, còn hoa vông thì chỉ đẹp ngoài đất trời, nếu đem cắt nhánh cắm vô bình thì hoa lẫn nhánh đề trơ trẽn vô duyên và mau héo rũ.
Thầy Ba Gà Lôi trồng mồng gà, vạn thọ, ớt kiểng, kim quất trong giỏ tre. Nhưng thầy sang kim quất vô chậu sứ tráng men lam. Và khi qua Tết, mồng gà, vạn thọ phải bứt bỏ đi, ớt kiểng thì trồng trên vuông đất trồng rau để lấy trái. Thầy ghét loại vạn thọ màu hoả hoàng nên trồng toàn vạn thọ cúc màu huỳnh yến. Thầy cũng không ưa mồng gà đuôi chồn màu vàng lẫn màu đỏ, bông hình tháp bút. Thầy chỉ trồng mồng gà lưỡi búa như một cuộn nhung đỏ bẻ vặn. Còn ới kiểng thì thầy trồng theo một loạt màu: vàng, đỏ, tím....
Cô Tư Cúc mua mấy chậu cúc lẫn vạn thọ cúc đặng tôn vinh cái tên mỹ miều của cô. Mua được hai chậu cúc đại đóa màu tím lợt và hai chậu màu huỳnh yến, cô mừng húm. Còn cô Năm Lan mua mồng gà, vạn thọ, kim quất, ớt kiểng, cúc nhưng cô còn mua thêm hai chậu cẩm nhung. Ðây là loại cẩm chướng màu trắng sọc tím, mỗi đóa lớn cỡ trái chanh gồm nhiều cánh có răng cưa khép lại. Cũng như lá cẫm chướng, lá cẫm nhung thuộc loại lá cỏ màu túy lục phủ một lớp tuyết nhưng thiệt mỏng thiệt mịn.
Năm nay thầy Hương quản Bưng trồng hoa qùy và hoa thược dược để ăn Tết. Hai anh em thầy săm soi mấy chậu bông qùy màu vàng ấm, mấy chậu thược dược hường cánh sen rực rỡ dưới anh nắn vàng tươi như hỗ phách. Thầy Hương quản bảo em:
- Có người gọi bông quỳ là hoa hướng dương, hoa thục quỳ, hoa nhật quỳ. Dân Nam kỳ mình là bông quỳ trơn lu cho gọn.
Thầy Ba Gà Lôi nói:
- Năm nay anh trồng bông qùy tốt quá. Rồi đây mỗi bông sẽ nở bự cỡ cái dĩa đựng nước mắm chớ không chơi. Còn thược dược màu hường thì thường quá, thược dược màu huỳnh yến hoặc cánh trắng nhị vàng mới hiếm qúy.
Thầy Hương quản Bưng nói bọc xuôi:
- Sân mình rộng, trồng bông huê cần ê hề chớ không cần quí.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:41:34 GMT 9
Yên lòng về khoảng bông huê, thím Hương quản Bưng liền nghĩ tới việc may áo Tết cho chồng con và cho mình. Thím biết vóc mình thím hơi mập nhưng gọn, ngặt là nước da thím hơi đen nên dù thích màu hường cánh sen và màu xanh đọt chuối, thìm vẫn không dám may mặc hai màu đó. Thôi thì thím may cái áo dài lụa màu xám vảy cá thác lác và một cái bằng hàng màu cam lợt điểm bông trắng là nhu nhã nhứt rồi. Con gái bà Cai tổng Hài cũng đen cỡ thím, bận áo màu xám, màu cam coi được đến! Thím phải bắt chước cô ta trong việc may mặc vì khắp Vịnh Chèo, dân nhà giàu đều khen cô ta ăn mặc đẹp.
Dân miệt vườn từ 20 tuổi đến 30 tuổi chỉ cần hai bộ quần áo bằng vải ú hay vải xiêm để thay đổi hàng ngày là đủ. Hễ vào ngày Tết hay lễ lạc thì họ mới diện bộ quần áo đặc biệt tùy theo túi tiền. Thầy Hương quản Bưng năm nay gần 40 tuổi, lại là kẻ có chức phận trong hàng ngũ mười hai vị hương chức hội tề của làng nầy thì phải mặc áo dài bằng tố đen, đầu bịt khăn đóng hoặc khăn be, chơn đi giày hàm ếch. Nhưng thím muốn chồng mình năm nay diện áo gấm lam bông bạc để đi chúc Tết mấy ông hương chức, đứng đầu là ông Hương cả Bỉnh, ông Hương chủ Thử, ông Hương sư Hạt, ông Hương trưởng Bôn. Sau nữa, chồng thím sẽ chúc Tết thầy Cai tổng Ban, ông Bang biện Tịnh, toàn là dân danh gíá trong tổng, trong làng.
Nhưng mỗi khi nhìn bàn chơn to phè của chồng, thím phát tức cười. Thầy Hương quản Bưng cũng như bao dân miệt vườn khác, thích đi chơn đất. Hễ có việc họp hành tại nhà làng thì thầy mới chịu xỏ chơn vô đôi guốc vông. Vậy còn đỡ hơn chú Tám Huỳnh Lân, chồng cô Tư Cúc. Tuy có tiền nhưng chú không thích se sua, cứ đi chơn đất. Tới tối, chú trèo lên giường phủi chơn sơ sịa rồi lăn đùng ra ngáy khò khò. Vào mấy ngày Tết hoặc vào những dịp đi ăn giỗ, chú Tám Huỳnh Lân ôm kè kè đôi guốc theo. Tới nhà gia chủ, chú liền bương bả ra sàn nước rửa chơn rồi mới xỏ guốc vào. Còn thầy Hương thân Lộc, chồng cô Năm Lan, khi ở nhà thì đi chơn đất để bồi líp, móc mương, nhưng hễ bước ra ngoài là thầy xỏ chơn vô guốc. Còn đôi giày đánh xi-ra đen thì thầy chỉ mang một lần, đó là dịp thầy đi Vịnh Chèo ăn cưới cô Hai Thiên Kim, con gái bà Cai tổng Hài. Sau đó thầy đem chưng giày trong tủ kiếng, coi như thờ sống của báu vậy.
Cô Năm Lan bảo thím Hương quản Bưng và cô Tư Cúc:
- Năm nay em không thèm sắm guốc cho thằng dê ôn dịch đó đâu. Ðôi guốc em sắm cho nó hồi tháng rồi vẫn còn mới, gót chưa mòn, quai còn tốt. Còn đôi giày tây của nó hoạ may ba mươi năm sau mới chịu mòn một ly ở gót.
Cô Tư Cúc cười:
- Dượng Năm trắng trẻo bảnh trai, dẫu có ăn mặc xịch xạc mà vẫn đắt mèo nên dì tức sôi bọt quáp rồi chửi chồng rùm beng. Chồng tui coi vậy chớ chỉ biết nghĩ tới vợ nhà, không dây dưa chuyện mèo mỡ chim chuột. Năm nay tui nhứt định đưa ảnh đi chợ Cần Thơ, sắm cho ảnh một đôi giày tây đánh xi-ra cho thiệt bóng.
Cô Năm Lan nguýt chị, xí một tiếng dài, Chồng chị tuy bảnh trai nhưng cù lần thì đắt mèo sao được? Chồng tui đã khôi ngô, trắng trẻo, lại có duyên ngầm nên lũ dâm phụ chạy theo rầm rầm nên gái lẵng lơ rủ nhau theo bám đít nó thì có gì lạ đâu nà!
Cô Năm Lan không thuộc vào loại đờn bà nhà quê mà thuộc vào hạng phụ nữ trung lưu miệt vườn. Cô không đi nhổ mạ, cấy lúa, gặt lúa. Cô chỉ làm công việc trong nhà. Giờ con cô đã lớn và cô không còn chửa đẻ gì thêm nên cô xoay qua buôn bán để có đồng ra đồng vô. Bởi đó, Tết năm nay cô sẽ diện đôi dỏn nhung thêu cườm mà cô vừa mới sắm vì đi guốc hoài, dẫu là guốc sơn đen quai vẽ bông xanh đỏ đi nữa, cũng làm thiên hạ nhàm mắt.
Bà Hương sư Bách, thím Hương quản Bưng, thím Ba Gà Lôi và cô Tư Cúc thì nghĩ rằng loại guốc vông mà thường mang trong nhà nếu còn mang trong dịp Tết sẽ có vẻ dị dị nừng nừng, cho nên họ sắm guốc sơn đen. Bà Hương sư đã sắm cái áo dài the La cải, bộ quần áo xuyến trắng để mặc cặp lúc đi ra ngoài. Hai chị em dâu mua lãnh tàu về để may quần. Chèn ơi, thứ lãnh trơn mà cặp lưng bằng nhiễu màu đọt chuối, thứ lãnh đen dệt bông mà cặp lưng bằng nhiễu màu hường cánh sen thì đẹp quá cỡ! Hễ bận quần lĩnh đen thì họ mặc áo nhiễu tím, áo xuyến trắng, áo lụa màu hường cho cái Tết của mình thêm thắm thêm tươi. Còn thứ áo bà ba bằng vải in bông xanh đỏ, dù còn mới đi nữa, cũng nên cất vô rương đợi ra giêng mặc lại.
Cô Tư Cúc vốn cưng chồng, nhưng cô không nghĩ đến việc sắm quần áo Tết cho anh ta. Chú Tám Huỳnh Luông có một cái áo sơ-mi lụa trắng, một cái bằng vải ba-tít màu trứng sáo, một quần dài bằng nỉ xám, một quần bằng vải ka-ki màu xanh dương, một đôi giày xăng-đan. Nhưng chú ít có dịp diện đồ tây. Cô nói sẽ sắm giày tây cho chồng là để hù hai mụ chị dâu và cô em gái mình chớ cô ngại ra tỉnh Cần Thơ bằng đò máy lắm. Chồng cô không bảnh bao hào hoa như em rể cô, nhưng chú ta lực lưỡng, khoẻ mạnh, mặt mũi hiền hậu, dễ thương.
Nhớ thuở nào, mỗi khi cô đi ngang qua xưởng mộc của ông Sáu Thiệt, có nghe anh chàng thợ tập sự tên Tám Huỳnh Luông vừa bào khúc gỗ căm xe vừa hát:
Má ôi, con muốn lấy anh thợ bào Khòm lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu
Bà Hương sư Bách sở dỉ chọn Tám Huỳnh Luông làm rể vì thấy anh ta chí thú làm ăn. Từ chỗ làm mướn, nhờ chút ít của cải của vợ, anh ta đi học đóng xuồng, đóng hòm và hiện nay làm chủ trại xuồng lẫn trại hòm, công cuộc làm ăn có vèo mở mang thêm. Còn cái việc anh ta khòm lưng đẩy sâu đẩy cạn thì thiên hạ chỉ biết từ khi cô Tư Cúc làm vợ anh ta rồi, cô ngoả nguê bơi lội trong hạnh phúc. Cô phốp pháp và non nheo nhẻo. Cô ưa nhỏng nhẻo với chồng nhưng cũng săn sóc chồng từ miếng ăn thức uống tới tấm áo manh quần.
Khoảng giữa tháng chạp, cô Tư Cúc rủ cô Năm Lan may áo bà ba, áo dài cho thiệt xuê xoang. Ngoài chợ Cần Thơ có nhiều hàng lụa phổ thông. Nào là sa-teng trơn, sa-teng dệt bông nổi lấp lánh. Thứ trơn để may quần, thứ dệt bông nổi may áo thì đúng điệu quá rồi. Nào là sa-teng tây trơn láng mịn mát mà có người gọi là sa-teng mình phấn vì nó phủ một lớp tuyết nhung thiệt mỏng thiệt nhẹ. Nào là xá-xị hơi giống sa-teng có màu đen dùng để may quần. Lại có cẩm tự là thứ lụa màu đen in bông chữ thọ dùnh để may quần. Cẩm tự có sắc gỗ mun chớ không có sắc huyền ngọc như sa-teng. Cô Tư Cúc khi đặt chơn tới tiệm tơ lụa là cô kêu bà chủ xé cho cô ba khúc sa-teng, cẩm tự, xá xị để cô may quần. Còn cô Năm Lan thì mua cẩm nhung đen để may áo bà ba và quần dài. Ðể may áo dài, cô Tư Cúc chọn cẩm châu trắng, cô Năm Lan chọn cẩm vân màu hoàng yến.
Vào thời Pháp thuộc, về tơ lụa, phụ nữ miền Nam dùng nhiều thứ cẩm. Trước hết, ở miệt Tân Châu có sản xuất lụa cẩm châu (châu là Tân Châu) mềm và xốp. Còn cẩm nhung mỏng hơn, mỗi khi căng trong ánh sáng xuyên qua, ta thấy có những vạch sáng lấp lánh. Cẩm nhung màu trắng hay màu đen dùng để may quần, màu hoàng yến, hồng phấn hay tím sen dùng để may áo dài. Cẩm vân là lụa dệt nổi bông tiền điếu hay nét mây cuốn, chắc nhứt, vóc lụa còn thơm mùi tơ tằm. Cẩm trước là lụa dệt nổi bông lá trúc. Cẩm sen là lụa dệt nổi hình bông sen. Cẩm quít là lụa dệt nổi hình trái quít. Cẩm kim là lụa dệt nổi hình mũi kim.
Thầy Ba Gà Lôi vốn có học cọt quẹt vài ba chữ nho, nghe vợ và hai mụ em gái cứ chót chét những tiếng "cẩm sen, cẩm quít, cẩm kim..." ngứa họng nạt nhàu:
- Sao mấy người ưa dùng ba chữ nửa nạc nửa mỡ vậy? Lụa nổi hình bông sen tức là cẩm liên, nổi hình trái quít là cẩm quất, nổi hình mũi kim thì gọi là cẩm châm. Ai đời chữ đầu thì mấy người gọi bằng chữ Hán, chữ cuối thì gọi bằng chữ nôm nghe sao thuốc chuột quá!
Thím Ba Gà Lôi không thèm cãi cọ với ông chồng nói chữ của mình. Thím nhứt định gọi là cẩm sen, cẩm quít, cẩm kim, ai có kiện thì thím sẽ vác chiếu đi hầu. Thím mà gọi cẩm liên, cẩm quất, cẩm châm thì ma nó hìểu!
Cô Tư Cúc chọn cẩm cúc màu vàng tươi, cẩm phù dung hường để may áo bà ba. Còn cô Năm Lan chọn cẩm lan may thêm chiếc áo dài, còn dư một khúc lụa, cô may áo túi. Ngoài ra, cô chọn cẩm phụng trắng để may quần. Cô ỏn ẻn bảo chồng:
- Mình thấy em bận chiếc quần cẩm phụng, chiếc áo cẩm lan trẻ hơn mấy tuổi? Mình có nhớ hồi mình chưa cưới em, sáng sáng em mặc áo cẩm lan ra sân tưới mấy líp bông huệ, mình đi ngang nhà, hát: Lan huệ sầu ai lan huệ héo. Lan huệ sầu tình trong héo ngoài tươi.
Thầy Hương thân Lộc nói bọc xuôi:
- Ờ, anh nhớ hoài đó chớ. Hồi đó, có vài lần anh đi qua nhà mình, có nghe mình hát câu: Trách ai đánh trống bỏ dùi. Dê tui cho được xô tui xuống bùn.
Cô Năm Lan sừng sộ:
- Ma bắt thằng cha nầy cho rồi! Tui đời nào thèm hát những câu xui xẻo đó? Ðó là con ở của chị tui hát ru thằng con anh Hai tui ngủ. Thiệt rõ ràng hồi xưa thằng cha ôn binh cốt đột nầy lượn qua nhà tía má tui cốt để ve vãn con Tí chới có thèm ngó ngàng gì tới tui đâu nà. Phải mà, con Tí trắng da dài tóc, còn tui đen thủi đen thui, đen thùi lùi cứt chuột mà...
Thầy Hương thân Lộc lật đật dọt lẹ, không dám ngồi nghe con vợ hoạn thơ tụng một chầu kinh điếc con ráy.
Nhà thầy Ba Gà Lôi vốn sát bờ kinh Vàm Xáng, lại gần Cầu Ðúc Cái Xình là nơi ghe thương hồ ưa tụ họp. Chợ Vàm Xáng hay các chợ quê khác thường bán vải nhiều hơn bán hàng lụa. Vải trắng và vải đen hiệu Xe Lửa, hiệu Trái Ðào thạnh hành nhứt. Ngoài ra còn có vải xiêm tẩm hồ bóng mượt, vải ta dệt to sợi, vải hộ giền dệt thô tháp, có gút mắt nhỏ cở hột giền. Ở chốn quê mùa hẻo lánh, vào mùa nắng và nhứt là vào lúc lúa đã gặt xong, thường có ghe trà vải len lỏi theo những dòng nước để vào đến tận nơi. Thím Ba Gà Lôi đón mua vải in bông để may áo bà ba cho hai cô con gái xí xọn của mình.
Ôi ghe trà vải! Có một anh thương hồ tên là Chín Tân Ngãi có giọng hò thiệt dễ thương. Cứ sau ngày rằm tháng chạp, Chín ta chèo ghe qua lại kinh Vàm Xáng và rạch Hóc Hoả để bán hàng. Chẳng những chàng bán trà vải mà còn bán kim hát máy, dĩa hát máy và các tuồng cải lương được in thành những tập sác mỏng khổ nhỏ. Các cô gái ở dọc theo sông thường bồi hồi xúc động khi nghe giọng hò ấm áp của chàng:
Hò.. ơ.. ớ... ơ Cây da tróc gốc Thợ mộc đem cưa Gặp em đứng bóng ban trưa Trách trời mau tối, phân chưa hết lời Lụy nhỏ lúc biệt ly Anh đi em ở Rạng mặt đá vàng, xin chớ bỏ nhau...
Cô Út Ngọc Nhung, em ruột thím Ba Gà Lôi vốn nhạy cảm với bất cứ câu hò nào được diễn tả bằng giọng đẹp và mùi. Từ bốn năm nay, kể từ khi má cô là bà Chín Lũ chết đi thì cô ở chung với vợ chồng thầy Ba Gà Lôi. Hai chị em có cùng một khuôn mặt, nhưng thím Ba thì vóc dáng thanh cảnh, tươi mát, còn cô thì thân mình phốp pháp nồng nàn hơn. Mắt thím Ba ranh mãnh, linh hoa, còn mắt cô Út là thứ mắt mời, ướt rượt và lẵng ngầm. Cô thường nói với mấy cô bạn chòm xóm rằng Chín Tân Ngãi bảnh trai như kép Bảy Nhiêu của gánh Phước Cương, sáng láng như kép Từ anh của gánh Trần Ðắc. Mỗi khi nghe Chín Tân Ngãi hò ở mút đầu dơi đất là cô liền bước ra bến nước, đứng dưới gốc cây khế đơm đầy hoa tím, lòng man mác bâng khuâng.
Có lần cô hỏi thầy Ba Gà Lôi:
- Thưa anh Hai, em không hiểu tại sao mấy chủ ghe thương hồ, hễ bán trà thì họ ưa bán cặp với vải.
Thầy Ba Gà Lôi vốn là tay uyên bác. Chuyện gì cũng được thầy cắt nghĩa có lớp có lang, có gốc có ngọn ráo trọi:
- Một lẽ dể hiểu là họ tin rằng hương trà thấm vào vải làm cho mọt, gián không léo hánh tới. Ðã vậy vải sồ, hàng lụa còn thơm mùi trà. Có người cho rằng hương trà còn trừ được mùi ẩm mốc nữa.
Thầy Ba Gà Lôi cắt nghĩa vo vo, nhưng thầy không để ý cái hương vị ái tình trong câu hát của anh chàng bán trà vải đã thấm sâu vào tâm hồn, đã ướp mềm trái tim cô em vợ đa tình đa cảm của mình. ° ° ° Yên khoản may mặc, từ rằm tháng chạp, người nội trợ còn lo khoản bánh mứt.
Vì nhà bà Hương sư Bách là một đại gia nên bắt đầu từ mồng mười tháng chạp, thím Hương quản Bưng đã lo làm các món bánh phơi khô: bánh phồng, bánh tráng, bánh tổ. Bánh phồng nếp, bánh tráng ngọt và bánh tổ mà làm bằng đường om thì thơm phải biết! Ðây là thứ đường mật mía, đựng trong cái om đất, sột sệt màu nâu đỏ. Ðường này thắng lỏng bỏ thêm gừng giã nát, chan lên tàu hũ bánh lọt hoặc sương sa hột lựu thì ngon hơn đường cát thập bội. Thím Ba Gà Lôi nhứt định chọn đường om để làm bánh tổ. Thứ bánh nầy không cần ăn vào dịp Tết cho nên thím không cần làm gấp, đợi đón ghe thương hồ để mua cho được đường om. Thím dặn cô Út Ngọc Nhung:
- Mầy nhớ đón ghe thương hồ nào có bán đường om cho tao.
Cô Út dạ dạ, mắt đã ướt giờ thêm sáng long lanh. Cô nhìn ra bến sau nhà đang lúc nước dồn lai láng và trong văn vắt như mắt mèo. Ngày ngày cô bồn chồn, đêm đêm cô khắc khoải mơ một bóng dáng, một giọng hò.
Nhưng một buổi sáng mát rười rượi, giữa lúc con chim chìa vôi hót lảnh lót trên mái nhà, thì một giọng thân yêu, quen thuộc vang lồng lộng ngoài bến:
Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa ló Qưới nương em ơi, qua xin tỏ với nàng Con gái ông Bang, con gái ông Phủ qua cũng không màng Chỉ chuộng con bạn ngọc biết đá vàng thỉ chung.
Cô Út Ngọc Nhung kêu ghe thương hồ lại. Quả thiệt đây là ghe của Chín Tân Ngãi. Cách mặt một năm, cô thấy Chính ta thêm lực lưỡng, mặt lúc nào cũng vui tươi, nụ cười mắt liếc lúc nào cũng tình tứ. Cô hỏi mua một xấp vải in bông hường. Sau đó cô bảo:
- Em muốn mua đường om để làm bánh tổ, bánh ích, bánh bò nhưng tìm hoài mà không thấy. Anh Chín có biết ghe nào bán thứ đường đó xin nhắn họ ghé qua đây giùm em.
Chín Tân Ngãi cười:
- Hôm qua tui có mua được hai om đường. Thôi thì tui xin kỉnh cô một om làm duyên. Khi cô làm bánh xong, xin nhớ đến tui một chút cho ấm lòng kẻ sống đời gạo chợ nước sông nầy.
Khi trao om đường cho cô gái, Chín Tân Ngãi miệng cười mắt liếc có vẻ gian tà dịch vật lắm. Anh ta hò:
Nếm muỗng đường om, mùi thơm vị ngọt Thức trót canh gà, tuôn giọt cảm hoài Thân bậu như nhánh bông mai Phận qua chim cú lạc loài đứng trông
Cô Út cười ngỏn ngoẻn
- Thằng cha mắc dịch nầy hò cái điệu gì tầm xàm tầm bậy vậy? ° ° ° Thím Hương quản Bưng vừa khi làm xong bánh phồng nếp và bánh phồng khoai liền cho thím Ba Gà Lôi, cô Tư Cúc, cô Năm Lan một chục bánh mỗi thứ. Thím khoe:
- Tui làm bánh phồng nếp bằng đường the, còn bánh phồng khoai bằng đường cá trắng trộn sữa hộp đó đa.
Thím Ba Gà Lôi nhìn mặt bánh phồng khoai, miệng thì dạ dạ nhưng mắt liếc về hai cô em chồng. Cô Tư Cúc lẫn cô Năm Lan trề môi sau lưng thím Hương quản, kẻ nguýt ngưòi háy coi thiệt tức cười.
Hôm sau, cô Năm Lan đội khăn màu hột gà, che dù tía tới nhà cô Tư Cúc xầm xì to nhỏ gì đó một hồi. Cô Tư liền quơ cái khăn màu hường quàng lên cổ, chụp cái nón gò găng thêu chỉ ngũ sắc ở mặt trong lên đầu rồi rủ cô Năm đến nhà thím Ba Gà Lôi, vẻ mặt cô nào cũng lộ vẻ tức tối.
Thím Ba Gà Lôi cười mơn:
- Cô Tư, cô Năm nghĩ sao? Bánh phồng nếp do chị Hai làm với đường thẻ hay đường hũ vậy?
Cô Năm Lan cười lạt:
- Bánh phồng nếp đó mà làm bằng đường thẻ sao không thơm mùi mật mía? Chị ăn một chút khi bánh chưa nướng chín thử coi. Ðây là chỉ làm bằng đường hũ, em mà nói sai thì Thiên Lôi quánh em cháy thành than đi! Bánh làm đường thẻ thì làm sao tới tay tụi mình?
Ðường hũ là thứ đường thốt nốt được đựng trong hũ bằng sành thô nặng, có mùi chua mà không thơm bằng các loại đường mí như đường thẻ, đường cát vàng, đường cát trắng, đường phổi...
Cô Tư Cúc cằn nhằn:
- Thiệt tình em chưa thấy ai xạo như chị Hai mình. Chỉ đổ hô bánh phồng khoai của chỉ làm bằng đường cát trắng. Xời ơi, mặt bánh thì tối tăm như trời sắp chuyển mưa. Ðiệu đó con mẻ làm bánh bằng đường cát vàng hay đường cát mỡ gà, mà hổng chừng con mẻ còn trộn lộn thêm đường thẻ. Bánh làm bằng đường cát trắng thì mặt bánh vàng tươi và sáng rỡ như trăng rằm. Mà cũng lạ, sao tui nếm bánh không cảm thấy có mùi sữa hộp. Bánh nầy béo thì có béo, nhưng vị béo của nước cốt dừa tươi.
Thím Ba Gà Lôi châm dầu vô lửa:
- Bánh phồng nếp làm bằng đường thẻ, bánh phồng khoai làm bằng đường cát trắng trộn sữa hộp thì làm sao bọn nhà nghèo như tụi mình có phước phận được hưởng? Bánh ngon bánh khéo, bánh thượng hảo hạng thì chị Hai dùng để biếu xén dì Cai tổng hoặc bà Bang Biện, bà Hương cả, bà Hương chủ, bà Ðốc học...
Hôm đó, cô Năm Lan lẫn cô Tư Cúc được gia chủ mời ăn cháo gà. Bấy giờ họ mới để ý cách chưng dọn nhà cửa để chuẩn bị ăn Tết của thím Ba Gà Lôi. Thím Ba mới mua cặp liễn son, chữ mạ vàng để treo trên hai thân cột chỗ bàn thờ đức Quan Thánh Ðế Quân, mua thêm một cái dĩa quả tử bằng sứ tráng me lam nét vẽ màu chàm, lớn gần bằng cái sàng gạo, đặt trên cổ bồng. Ngoài sân bông kiểng đón xuân đang bắt đầu đơm nụ. Trên thân cột ngoài hàng ba chưa chi đã dán liễn đỏ bằng giấy kim tương, giấy hồng đơn rồi.
Khi rủ nhau ra về, cô Tư Cúc hỏi em:
- Chị Ba than túng trước hụt sau, vậy mà chưa chi chị ta trang hoàng nhà cửa lộng lạc dường ấy.
Cô Năm Lan cũng thắc mắc:
- Mới nãy em có xuống nhà sau, thấy có con Út Ngọc Nhung đang ủi quần áo Tết. Chèng ơi, chị Ba mới sắm cái áo the nhung màu hường. Còn con Út được chỉ sắm cho chiếc áo lụa Bombay màu xanh da trời. Cả hai còn may quần sa-teng mình phấn trắng, quần cẩm tự đen.
Cô Tư có vẻ bứt rứt:
- Ờ, tao cũng thấy dưa hấu chất đầy bộ ngựa nơi gần buồng ảnh chỉ. Thiệt tình tao không dè chị Ba chuẩn bị ăn Tết lớn. Vậy mà ngoài miệng con mẻ cứ than nghèo than túng, làm như tàn mạt tới nơi.. Thiệt khó mà lường được bụng dạ của mụ chị dâu đó!
Tuy nhiên với bản tánh phù thạnh, cô Tư Cúc lẫn cô Năm Lan nghĩ tới việc biếu xén quà cáp cho thím Ba Gà Lôi. Ðó cũng là cách chuộc lỗi vì từ lâu họ có vẻ coi thường thím. Trưa hôm sau hai cô lựa dịp nhà thầy Ba tới giờ cơm đến tặng quà. Cô Tư tặng một chai nước mắm nhỉ, một gói bánh phồng tôm và gói bánh phồng cá. Cô Năm tặng nửa kí hạt dưa, một cân chà là, một chai rượu cỏ-nhác. Cả hai được mời dùng cơm. Mâm cơm có món cá chẽm chưng tương, món cá bống tượng chưng kim châm nấm mèo, món canh xà bần gồm củ cải muối nấu với sườn heo rắc ngò gai, món tôm kho tàu nước gạch đỏ ối...Mâm cơm thiệt sang làm hai cô trầm trồ không ngớt. Trước khi hai cô em chồng ra về, thím Ba Gà Lôi tặng mỗi cô một con khô cá lăng sình, một gói tôm khô cỡ nửa kí. Thím khen cô Tư:
- Thiệt tui chưa thấy ai làm bánh phồng cá khéo như cô. Ý là cô dùng cá thác lác mà bánh khi chiên không tanh, ăn vô tui có cảm tưởng như ăn bánh phồng tôm vậy.
Và thím không quên nịnh cô Năm Lan:
- Chèng ơi, nhè chồng tui là dân quê mùa, cô tặng rượu qúy, ảnh không dám uống đâu. Chắc ảnh phải chưng trên bàn thờ để....thờ luôn.
Cô Út Ngọc Nhung lãnh phần tráng bánh tráng giúp thím Ba Gà Lôi. Từ lúc canh năm, cô thức dậy pha bột, pha đường và nhúm bếp. Bánh tráng ăn vào dịp Tết thường có thứ bánh tráng rắc mè đen và bánh ngọt trộn đường om màu nâu đỏ rắc mè trắng. Bánh béo lẫn bánh ngọt đều có trộn nước cốt dừa. Ngoài ra cô Út còn làm bánh tráng trộn tôm khô cà nhuyễn và trộn nước cốt dừa, món ruột bên tía cô truyền lại.
Trong khi cô Út Ngọc Nhung tráng bánh tráng thì dưới sông, Chín Tân Ngãi vừa chèo ghe vừa hát vọng cổ, khởi đầu bằng câu: "Một khi đã lậm với tình...". Cô vừa tráng bánh không ngừng tay, vừa chớp mắt lia lịa nhìn ánh lửa đỏ hừng hực trong lò. Cô cất giọng thiệt trong thiệt êm lên hò:
Tết nhứt tới nơi, em có đôi lời muốn nhắn Ðược bột khoai rồi, quên bột sắn sao anh?
Tức thì ở dưới sông, Chín Tân Ngãi liền hò đáp lễ:
Ai ưa chè táo sọn? Ai chuộng chè thưng? Ai ưng chè mè đen chú Chệt? Ai mê ai mệt chè bạch quả hột sen? Qua xin thề trước ngọn đèn Qua thích chè đậu trắng, thương con bạn hiền thỉ chung.
Cô Út Ngọc Nhung nhìn bóng tối còn dầy đặc ngoài trời, nụ cười cô thêm rạng rỡ, đôi mắt cô càng ướt rượt. Thằng cha nầy hôm qua hát: "Chỉ chuộng con bạn ngọc biết đá vàng thỉ chung", hôm nay nó lại hát "Qua thích chè đậu trắng, thương con bạn hiền thỉ chung".
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:42:22 GMT 9
Bánh tráng phơi hai ba cữ nắng là khô mặt, nhưng tâm hồn cô Út Ngọc Nhung vẫn thấm ướt âm vang dư vị giọng hò. Trong lúc phơi bánh tráng trên sân nắng, lâu lâu cô đảo mắt ngóng chừng xuống kinh Vàm Xáng. Thỉnh thoảng Chín Tân Ngãi chèo ghe lướt qua, khi thì giọng hò diệu vợi cất cao, lúc thì câu vọng cổ buồn như một lời thề rải vào cơn gió chướng lao xao từng đợt âm ba ngát lịm. Cô Út chớp mắt theo nhịp đập của trái tim, cứ cười chúm chím, má cô đỏ hồng hồng....
Thím Ba Gà Lôi vô tình nào biết chuyện gì xảy ra trong hai đêm 18, 19 tháng chạp. Hễ gần đầu canh ba khi chuổi sao Bắc Ðẩu mọc ngang trời, đôi mắt cô Út cũng rạng ngời như sao vì một câu hò:
Ngước nhìn nguyệt lặn sao mờ Muốn qua thăm bậu, phải chờ canh ba
Cô Út Ngọc Nhung mở nhẹ cửa buồng rồi đi xuống mé sông. Cho đến sáng 22, thím Ba Gà Lôi bước vô buồng em để kêu em đi chợ Vàm Xáng với thím thì giường cô Út trống trơn, một bức thơ của cô đặt trên chiếc gối hình bán nguyệt nhún tai bèo.
Giữa lúc thím Ba Gà Lôi chết điếng thì cô Tư Cúc và cô Năm Lan làm bánh nướng như bánh men, bánh phục linh, bánh gai, bánh con đuông để sắp vào quả sơn son. Hồi còn son giá, hai cô được mẹ cho ra ở nhà bà Cai Tổng Hài để học môn bánh mứt. Bắt đầu từ rằm tháng chạp, cả hai làm mứt bí, mứt đu đủ, mứt củ cải, mứt khổ qua tỉa lộng bông hoặc cắt thành hình tròn, hình quả chám, tất cả đều viền răng cưa. Mứt dừa có thể nhuộm phẩm đỏ, xanh, vàng, màu nào cũng lợt nhưng tươi. Mứt gừng có ba loại: xắt mỏng rồi xên với đường, để nguyên củ xâm lỗ cho bớt cay rồi rim cách nào mà mặt ngoài khô ráo nhưng khi cắn thì chất đường đặc sánh tươm ra , và gừng xắt chỉ xên với đường làm mứt dẻo.
Món mứt khế và khổ qua của cô Tư Cúc có phần khéo hơn của cô Năm Lan nhờ ở chỗ chơi trội màu sắc. Cô Tư nhuộm mứt với nước cỏ rồng chầu nên màu mứt xanh thắm thiết như màu ngọc thạch. Riêng cô Năm có bí quyết làm mứt cà chua. Trái cà khi chưa làm mứt chỉ đỏ có một, nhưng khi nằm trong chiếc chảo xên đường của cô rồi thì nó đỏ tới hai ba, đỏ rực rỡ và tươi lộng lạc.
Vào ngày 23 tháng chạp đưa ông Táo về chầu trời, cô Tư Cúc và cô Năm Lan kẻ cắp quả bánh, người mang quả mứt đến nhà vợ chồng thầy Ba Gà Lôi. Cả hai ngứa ngáy về cái tin cô Út Ngọc Nhung mất tích từ khi Chín Tân Ngãi chèo ghe đi khỏi khúc kinh Vàm Xáng chảy qua vùng nầy.
Thím Ba Gà Lôi mặt tỉnh rụi, giọng ráo rẻ bảo hai cô em chồng:
- Con em tui vưng lịnh vợ chồng tui về Cai Lậy tặng quà Tết cho bà con.
Cô Tư Cúc chưng hửng:
- Lâu nay chị thường than thở rằng từ khi hai bác thất lộc rồi thì ở Cai Lậy chị không còn ai là bà con thân thích để thăm viếng.
Thím Ba Gà Lôi cười xí xoá:
- Ối, ở đó thiếu gì bạn bè của ba má tui. Lại có dì Tám Chiếu em con nhà chú của má tui nữa chi! Dỉ đau bụng máu nên nhắn con Út về coi chừng coi đổi lũ con dùm dỉ. Tui thấy suốt năm nay con Út làm lụng cực khổ cho nên tui khuyên nó đi.... đổi gió vậy mà.
Cô Nam Lan làm bộ nhớ ra:
- Mèn ơi, vậy mà con Tám cháu chị Hai Hương quản nhà mình nói nó có gặp con Út ngồi xe thổ mộ đi chợ Vãng sắm Tết.
Thím Ba Gà Lôi vẫn giữ giọng phới phới và sắc mặt tươi rói, trả lời:
- Ối, người giống người là chuyện thường. Chị em tui đâu có ai quen biết ai ở Tân Ngãi, Vĩnh Long thì mắc mớ chi con Út đặt chơn tới chỗ lạ hoắc lạ huơ đó!
Cô Tư Cúc và cô Năm Lan bợ ngợ nhìn nhau, không biết nói gì thêm. Mụ chị dâu của họ vốn tráo trở, đã sắp đặt sẵn những câu trả lời để che đậy hành vi của em mình và để đối phó một cách liệt liệt oanh oanh với những câu hỏi trặc trẹo của kẻ tò mò tọc mạch.
Khi hai cô em chồng kiếu từ ra về, thím Ba Gà Lôi vừa đấm ngực vừa khóc với chồng:
- Con Út đem máu hoè trét lên mặt tui! Chị Hai Hương quản và con Tám cùn hai mụ cô sắp nhỏ vốn độc miệng đi đồn tùm lum rằng con Út có chửa nên cuốn gói theo trai luôn. Tui có nghe chị Bảy Hớn ở cuối xóm là chị bà con xa với thằng Chín Tân Ngãi, đâu mình thử dọ hỏi tông tích thẳng coi, rồi cho hai đứa nó xáp cục cho rồi. ° ° ° Chị Bảy Hớn sai khi nghe vợ chồng thầy Ba Gà Lôi tỏ tường trong đục ý định của họ, liền bảo:
- Tụi nó đâu có về Tân Ngãi làm chi! Hiện giờ tụi nó đi vịnh Trà Bay ở đậu nhà thằng em tui. Nếu thầy thím cho tụi nó xáp cục với nhau thì chồng tui sẵn sàng đi với thầy để kiếm tụi nó.
Thế là vào hăm tám tháng chạp, thầy Ba Gà Lôi đi vịnh Trà Bay. Thím Hương quản Bưng cũng nóng lòng muốn biết chuyện cô Út Ngọc Nhung nên xách đít đến nhà thím Ba Gà Lôi, giả bộ đem cho nem và bì gói. Thím Hương quản Bưng hỏi:
- Chú Ba đi đâu vậy thím?
- Ai mà biết! Có lẽ ảnh đi theo con đĩ nào ở miệt Hóc Hoả hoặc ảnh đi mướn thầy pháp dùng bùa để ếm mấy con đĩ nhiều chuyện nỡ phao vu cho con em tui bỏ nhà xách gói theo trai.
Mặt thím Hương quản Bưng từ màu tương tàu biến thành màu tro xám. Còn mặt thím Ba Gà Lôi phừng phừng lửa giận. Thím Hương quản đau nhức tâm can vì Hóc Hoả là nơi mà con Tám, cháu kêu thím bằng cô, đã lập nghiệp bốn năm nay.
Thím Ba Gà Lôi lo quét dọn nhà cửa, chưng bày bàn thờ và lo sắp đạt mâm cơm cúng rước ông bà. Chiều ba mươi Tết, thầy Ba Gà Lôi trở về nhà với Chín Tân Ngãi và cô Út. Chín ta cùng cô Út rẽ qua nhà chị Bảy Hớn. Tại đây, chị Bảy sắp sẵn mâm trầu rượu để lát nữa, cặp Chín Tân Ngãi và Út Ngọc Nhung sẽ bưng qua tạ lỗi vợ chồng thầy Ba và làm lễ ra mắt ông bà luôn.
Vừa về tới nhà, thầy Ba Gà Lôi bảo vợ:
- Thằng Chín không còn ai là họ hàng ruột thịt ở Tân Ngãi hết. Nó nói nó sẽ về lập nghiệp ở vùng nầy. Nó vừa mua một miếng vườn hai mẫu ở Hóc Hoả để cất nhà. Nó cũng có chút ít vốn để sắm ruộng. Vậy mình gả con Út cho nó cũng là việc tốt, việc nên làm.
Thím Ba không biết nói sao, chỉ biết khóc ngon khóc ngọt. Con em tui đó, con Thị Mầu, con Trác Văn Quân đầu thai, thấy trai là động lòng chồn dạ thỏ, theo thói liễu ngõ huê tường, mê phường trôi sông lạc chợ. Xời ơi, mấy hôm rày tui phải mặt dạn mày dày với mấy con lủng, con lành có cái miệng thọp thẹp ưa bươi móc chuyện thiên hạ. Tui phải gom hết sức lực để gượng mặt làm mặt tỉnh tuồng, chớ tui khóc mấy tĩn mấy vịm nước mắt vì nhục nhã để đâu cho hết.
Chín Tân Ngãi mặc áo dài bịt khăn be bưng khay trầu rượu đi trước, vợ chồng chị Bảy Hớn và cô Út đi sau. Chị Bảy mặc áo dài xuyến trắng, chơn đi guốc vông, còn cô Út mặc áo dài màu đọt chuối chơn đi guốc sơn đen, quai vẽ bông xanh đỏ. Hai thằng con trai của chị cũng lẽo đẽo theo sau làm lũ trẻ lối xóm và con chó phèn của chị cũng bắt chước vầy đoàn. Thầy Ba Gà Lôi đứng chờ sẵn ở cỗng. Thấy bên "đàng trai" tới, thầy chỉ cho anh Bảy Hớn, Chín Tân Ngãi và cô Út Ngọc Nhung vào sân rồi đóng cổng lại. Con chó cúp đuôi chui lỗ chó để vô sân làm thầy hét toánh lên.
Khi đàng trai bước vô nhà thì đã thấy thím Ba Gà Lôi mặc áo dài tử tế ngồi vắt vẻo trên chiếc divan chơn quì bằng cẩm lai. Chị Bảy Hớn cười ngỏn ngoẻn bảo thím Ba bằng giọng văn vẻ:
- Thằng Chín và con Út không đợi lịnh thím giáo, nỡ đành tò tí lén lút rồi cuốn gói đi tìm chỗ khác hú hí với nhau cho nên tụi nó ăn năn lung lắm. Nay thầy giáo thím giáo tính chuyện xáp cục cho sen ấu chung bàu, mận đào kề cận, thiệt may cho tụi nó lắm. Nay tui dắt tụi nó về xin lỗi thím giáo, xin thím ăn miếng trầu héo, uống chung rượu lạt để chứng nhận cuộc lương duyên của tụi nó. Tuy là tiền dâm hậu thú nhưng đôi xứng đôi, lứa xứng lứa, đào kia kép nọ hiệp thành một cắp xinh tốt rồng phụng. Sau nữa, xin thím cho tụi nó lạy bàn thờ ông bà gọi là ra mắt với kẻ ruột rà khuất mày khuất mặt.
Thím Ba nguýt con em trời đánh và thằng tặc tử dâm bôn rồi khóc thêm một chặp nữa. Song thím cũng nhận lời chị Bảy Hớn uống ngụm rượu và ăn miếng trầu. Trong lúa nhai trầu rau ráu, thím ngó cái bụng của cô Út coi nó có bự lùm lùm như cái mả lạn chưa. Thiệt tình thím không biết con em thím đã vụng trộm với tên Chín Tân Ngãi từ hồi nào.
Mâm cơm cúng rước ông bà ngoài món cháo vịt còn có mì xạ xào lòng gà và tôm đất lột vỏ, món chả cá thác lác để thầy Ba Gà Lôi và Chín Tân Ngãi cụng ly với nhau. Chén rượu thắt chặt tình anh em bạn cột chèo thắm thiết. Thầy Ba gọi Chín ta bằng "dượng Út" và xưng "anh" ngọt xớt. Còn Chín ta gọi thầy Ba bằng "anh Hai" và xưng "em" thiệt thân ái nhu mì. Thịt vịt chấm nước mắm gừng, rượu nếp than hương nồng vị ngọt làm cho mặt thầy Ba đỏ thôi phừng phừng, làm thím Ba nhớ tới cái thuở thầy mới trổ giọng dê thím cũng với cái mặt đỏ cỡ mặt nầy. Vậy mà sao thuở đó thím vẫn thấy thầy có duyên. Nghĩ tới đây, thím dịu bớt cơn thịnh nộ với con em út thuồng luồng hổ mang kia. Thím cứ gắp thịt vịt bỏ vào chén Chín Tân Ngãi và chén củ chồng liền tay.
Sáng ngày mồng một, Kim Liên, Kim Huệ, con gái thầy Ba Gà Lôi, được dượng Út tụi nó tặng cho mỗi đứa một cái lược đồi mồi và lì xì năm đồng bạc mới tinh (thuở đó một tô cháo lòng giá 5 xu). Cô Út Ngọc Nhung đem mớ nữ trang mà Chín Tân Ngãi định làm sính lễ đưa cho thím Ba Gà Lôi coi. Tất cả gồm có một cặp bông hột xoàn bốn ly, một cây kiềng vàng, một cặp vòng vành chạm phụng giao đầu, một chiếc vòng mã não xanh, một chiếc cà rá nhận mặt cẩm thạch vuông, một sợi giây chuyền có miếng mề đai nhận hột ngọc điệp hình bầu dục. Thím Ba Gà Lôi trầm trồ:
- Thằng Chín chắc có quen với tụi chệt xẩm nên mới mua được thứ mã não xanh lặt lìa như vầy. Còn ngọc điệp thì vừa trong vừa sáng ngời, lộng chấm đỏ, chấm xanh, chấm vàng lóng lánh. Chị Bảy Hớn có nói mồng mười tới, mình làm lễ thú phạt tiện lắm. Tao mà gả mầy càng sớm tao càng đỡ phập phồng, chừng đó tao mới được nhẹ mình nhẹ mẩy...
Cô Út Ngọc Nhung năn nỉ:
- Thôi mà chị Hai. Tết nhứt xin chị nhẹ lời cho em út nhờ mà....
Mồng một, vợ chồng thầy Ba Gà Lôi ở nhà tiếp khách. Hễ gặp ai thầy cũng giới thiệu Chín Tân Ngãi:
- Em bạn cột chèo của tui đó. Nó ở đây chơi, ra Tết nó mới sắm đồ đạc để chuẩn bị cưới con em vợ tui.
Thím Ba Gà Lôi trọn đêm mồng một Tết cứ mài nanh vuốt để khi qua chúc Tết bà Hương sư Bách sẽ cắn xé chị dâu và hai mụ em chồng của mình bằng những lời nói xeo nói nạy độc địa.
Nhà bà Hương sư Bách chưng dọn hực hỡ. Ðồ đồng chưng trên bàn thờ đánh bóng sáng choang. Ðèn năm ngọn treo trên trần nhả ánh sáng trắng xoá khắp trung đường. Trên các bàn thờ, đèn nến như sao sa. Nhang trầm tuôn khói thơm ngát. Dĩa quả tử trên mỗi bàn thờ chưng xoài, dừa xiêm, đu đủ, trái sung, bánh tét, bánh dừa, bánh ích, bánh in, bánh đậu xanh, trà hộp. Còn rượu tây, rượu thuốc thì sắp hàng dài dưới bàn thờ. Ðây là dịp bà Hương sư Bách đem chưng bức màn thêu kim tuyến cùng tiền bàn, liễn chấn thêu cườm, chỉ ngũ sắc để nhà cửa thêm chóang lộn.
Trai, gái, dâu, rể, cháu nội, cháu ngoại tề tựu đông đủ. Bà Hương sư Bách mặc áo gấm màu hồng điều nổi bông tròn mặt nguyệt, ngồi trên chiếc đi-văng chơn qùi để con cháu mừng tuổi và lì xì cho tuị nó.
Lũ trẻ ra sân đốt pháo lạch tạch đùng. Thím Ba Gà Lôi xuống bếp, mặt xám bệt bạc nhưng nụ cười mở rộng toàng hoạc. Thím cất giọng the thé:
- Chèn ơi, con Út tui đi Cai Lậy được dì Tám tui đùn nó cho thằng Chín Tân Ngãi. Thẳng mồ côi cha mẹ nên anh chị Bảy Hớn sẽ đứng làm chủ hôn, còn vợ chồng em của chỉ là anh chị Tám Thiệt sẽ làm ông mai bà mai cho gọn. Hôm ba mươi, con Út dắt thằng Chín về đây lạy vợ chồng tui để xin phép cho tụi nó làm một cái lễ đơn sơ. Tuy vậy đồ sính lễ thì ê hề, vòng vàng, chuỗi hột, bông tai, cà rá tốt lộng lạc. Hôm nào rãnh, xin mời chị Hai cùng cô Tư, cô Năm qua coi.
Thím Hương quản Bưng cùng cô Tư Cúc, cô Năm Lan nhìn nhau bợ ngợ. Cả ba cảm thấy quai hàm mình cứng lại, không biết nói sao cho phải. Thím Ba Gà Lôi vẫn cười tít toát nhưng giọng nói lúc rít, khi gầm, lúc nghiến, khi chói lói:
- Con em tui đoan trang, thùy mị, hạnh kiểm nó không có chỗ nào đáng chê trách được hết. Bởi đó thằng Chín vừa thương yêu, vừa kính nể nó nên mới đi sính lễ hậu hĩ như vậy. Vậy mà có kẻ thúi miệng tanh mồm vu oan phao phản nó lấy ai không biết cho tới mang bầu, phải cuốn gói theo trai. Xời ơi, nói vậy mà không sợ mắc khẩu nghiệp!
Thím quét cặp mắt ngùn ngụt nộ khí khắp ba người đờn bà lẽo lự kia. Cả ba cảm thấy lúng túng như con cá mắc cạn. Ai cũng biết con sư tử cái có bờm nầy vừa hổn dữ vừa liều lĩnh. Vào ngày Tết mà chọc nó thì nó sẽ làm rùm lên, suốt năm mình sẽ xui xẻo chớ chẳng ích lợi gì. Cô Tư Cúc vốn mau mắn, liền nói xuôi:
- Vậy thì em mừng cho chị, cho con Út. Cuộc hôn nhơn của nó coi vậy mà xuôi chèo mát mái. Chẳng bằng thuở trước, em phải làm trành làm tréo tía má em dữ lắm, ổng bả sau rốt mới chịu gả em cho thằng cha Tám Huỳnh Luông đó.
Cô Năm Lan phụ hoạ:
- Ừ, con Út dễ tánh, hào hiệp nên cuộc đời nó không trục trặc gút mắc. Em xin có lời mừng cho nó.
Thím Hương quản Bưng tránh cặp mắt chau quảu của mụ em dâu, cười cười dã lã:
- Ðể tui nói với chồng tui, ngày cúng tất hạ nêu nên mời thằng em rể thím tới đây dùng cơm cho bà con mình biết nhau.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:46:50 GMT 9
Quê Chồng Chợ Tỉnh Hồ Trường An
Câu chuyện nầy xảy ra vào thập niên 30.
Cô Hai Phụng là gái miệt vườn. Tía cô là ông hương cúng Nguyễn văn Bàu ở xóm Ðình, làng An Hương, cách tỉnh Vĩnh Long lối 12 cây số. Thiệt tình cái chức hương cúng trong làng chẳng lấy gì làm vinh dự, bởi nó không được phần trong ban hương chức hội tề. Hương cúng chỉ lo việc cúng giỗ các sắc thần trong đình làng. Hễ vào lễ kỳ yên hoặc lễ tế thần thì ông hương cúng Bàu lo việc mua heo, mổ heo cùng việc cắt đặt dân làng nấu nướng cỗ cúng.
Cô Hai Phụng lớn lên trong căn nhà mái lợp ngói bắc cầu do ông bà nội cô để lại. Mẹ cô, bà hương cúng Bàu mở gian hàng xén bán gạo củi, nước mắm, dầu lửa, bánh kẹo, kim chỉ...cho dân làng. Còn cô làm nghề hàng xáo, mua lúa về xay, giã thành gạo trắng cho cha đem ra chợ tỉnh bán nên gia đình cô tương đối sung túc.
Cô Hai Phụng vóc mình dong dỏng, nước da ngăm đen nhưng tóc cô mềm và nhuyễn, dợn sóng trước trán, mắt cô ướt rượt, nụ cười cô có duyên phô hàm răng trắng muốt như hột dưa leo. Cô mặn mòi xinh đẹp lắm. Hễ cô liếc tên trai làng nào thì tên đó bủn rủn mới có một, nhưng khi cô cười thì hắn bàng hoàng tới mười. Ý là cô chỉ mới biết đọc biết viết, cô lại không biết đọc tiểu thuyết, không mấy khi được coi hát bội, hát cải lương, nhưng cách nói chuyện của cô vừa nhõng nhẽo vừa mơn trớn làm tự ái đờn ông được vuốt ve. Rốt cuộc hắn sương rên cả người, hồn phách tâm trí hắn bị cô hớp hết vô cái miệng xạo đía của cô.
Nạn nhơn số một của cô Hai Phụng là thầy giáo Thưởng dạy lớp ba trường làng. Bà hương cúng mừng thầm trong bụng, đợi từng ngày thầy tới nhà bà xin làm đám hỏi. Bà bắt cô Ba Loan, em kế cô Hai Phụng và thằng Năm Bé là cháu kêu bà bằng cô lo việc xay lúa giã gạo. Bà không ngại tốn kém sắm cho cô trưởng nữ của mình quần sa-teng tây, quần xá xị, quần lãnh, áo hàng cẩm nhung, cẩm vân rồi để cô đứng coi hàng, bán quán. Từ đó, cô Hai Phụng tối ngày diện quần áo đẹp, chơn đi guốc sơn đen quai vẽ bông xanh đỏ, tóc xức dầu bông lài láng mướt, tai đeo bông cẩm thạch, cườm tay đeo đôi vòng đồng chạm bánh ú.
Cô Năm Hảo, con ông hương quản Kiểm, một đối thủ của cô Hai Phụng, cứ theo dõi sự thay đổi của cô Hai rồi nhún trề, nguýt háy với mẹ:
- Má coi đó, con Hai Phụng mà bận quần áo tốt thì áo đi đàng áo, người đi đàng người! Nước da đen hù của nó hoạ may có ông trời từ thiên đình xuống chế xà-bông mới có thể giúp con đó tắm cho trắng da, sáng rỡ mặt mày.
Bà hương quản Kiểm nhìn con gái, lòng buồn bực. Nước da cô Năm Hảo mởn hơn nước da cô Hai Phụng nhiều. Ngặt nổi cô bán hàng trên sông rạch, quanh năm bơi xuồng dưới trời nắng chang chang nên khó có cơ hội để trắng. Cô Năm lại không biết ăn nói, tối ngày cứ lầm lì, im ỉm, mà hễ cô cất tiếng thì giọng nói lúc rổn rảng, khi rít róng. Tuy nhiên cô Năm Hảo có nhiều nét thanh tú trên khuôn mặt, vóc mình.
Nhưng ở đời ai mà học được chữ ngờ, nhứt là dân Xóm Ðình. Ðang lúc thày giáo Thưởng ve vãn cô Hai Phụng và cô Hai Phụng trổ hết màu mè ra mê hoặc thầy thì đùng một cái, một chàng trai trên tỉnh xưống tận Xóm Ðình coi mắt cô Năm Hảo. Cuộc hôn nhơn của cô Năm tiến hành rùm rụp, xuôi chèo mát mái ngon lành. Ðám hỏi tổ chức vào tháng năm âm lịch và sẽ rước dâu vào tháng bảy cùng năm. Nghe nói chú rể tên Luông, làm tới chức đội lính khố đỏ, năm đó ba mươi tuổi ngoài, lớn hơn cô Năm 14 tuổi nhưng mặt mũi thẩy khôi ngô, vóc dáng điệu bộ thiệt đáng bực hảo hớn.
Cô Hai Phụng cay đắng bảo mẹ:
- Thằng chồng con Năm Hảo đã trải qua hai đời vợ rồi đó! Ai mà ngó y ta cũng biết y ta có tướng sát thê. Con đương thèm chịu thứ chồng lớn hơn mình năm sáu tuổi, đàng nầy cái tên khố đỏ đó lớn hơn con Năm tới 14 tuổi, già ngắt, cứ coi tác, ai cũng nói hắn đáng làm chú, làm tía con Năm.
Giọng mềm mỏng ngọt ngào của cô Hai Phụng không còn nữa. Sự ghen tị, thù hằn đã biến giọng của cô thành giọng cô Năm Hảo.
Tối hôm đó, thừa lúc bà hương cúng Bàu lui cui nướng bánh lá dứa trên mẻ lửa than cháy đỏ, cô Hai Phụng lén lấy thẻ nhang huyền đàn, chiếc hộp quẹt và cây hồng lạp rồi men theo con đường viền câu mãng cầu dai, cây ổi cửu ngoạt, cây lựu bạch, lựu hường đưa tới miễu thổ địa ở cuối vườn. Trời nổi gíó lao xao, đêm giăng màn nhung đen khắp bốn phương tám hướng. Vì gió nên khi cô bật hộp quẹt máy để thắp đèn nhang thì ngọn lửa cứ bị dập tắt hoài. Cô đành mò ba cục đất sắp trước miễu, vái:
- Lạy thổ địa, xin ngài chứng cho lời cầu xin của con. Xin ngài xui thầy giáo Thưởng mê lậm mê lú con, dỗ ngọt dỗ mặn tía má thẩy cầm trầu cau đi cưới con cho thẩy. Bấy lâu nay con lỡ lên mặt với con Năm Hảo vì con rù quến được một thầy giáo gốc tỉnh thành. Nay, bỗng dưng nó được kẻ miệt chợ đi coi mắt nên nó dúc dắc với con. Con mà không lấy được thầy giáo Thưởng chắc con đội quần thiên hạ. Con kính trọng thờ phượng ngài, xin ngài đừng để cho con đội quần trong khi nó đội khăn the màu hường, khăn lụa màu hột gà, đội nón gò găng, che dù lụa tía. Con mà lấy được thầy giáo Thưởng, con sẽ tu bổ miễu của ngài, mua ngói Cần Thơ về lợp mái, mua vôi trộn a dao quét tường, mỗi ngày con thắp nhang bạch đàn, nhang trầm hương thơm phức, còn thứ nhang huyền đàn lạt nhách kia con chỉ dành đốt cho thần tài, ông địa thờ trong nhà...
Khi cô Hai Phụng vô nhà thì con Chín Kim anh, con chú hương kiểm Bạch có nhà bên kia cầu lót ván qua chơi. Con nầy cũng trắng trẻo nhưng mặt lanh lợi, miệng thọp thẹp nói không lành da non. Ban ngày nó ăn mặc xập xệ để làm công chuyện nhà và lo săn sóc gà heo. Chiều chiều nó ưa bận quần vải xiêm đen, áo vải in bông rồi đứng bẹo hình bẹo dạng bên cầu để mấy chàng trai thương hồ chở đồ gốm, chở lúa trẩy ngang qua. Ðôi lúc nó còn hát vài câu huê tình, giọng lảnh lót.
Vừa thấy cô Hai Phụng, Chín Kim Anh tía lia liền:
- Chèn ơi, thầy đội Luông bảnh trai quá xá. Ai cũng khen mắt thẩy tình tứ như mắt kép Bửu Ngọc của gánh Rương Vàng. Ai cũng trầm trồ cái miệng thẩy có duyên như miệng kép Minh Châu của gánh Bầu Ðen. Uổng quá, chị bị máu xâm nên không đi dự đám hỏi. Ðàng trai đem vòng vàng đỏ au, hột xoàn chớp lia chớp lịa làm sính lễ. Chị Năm Hảo bưng trà ra chào khách thì bận chiếc áo lụa Duy Xuyên màu huỳnh anh, đeo bông mù u, neo quai chảo, kiềng chạm, cà rá cửu khúc liên huờn, vòng bát bửu...Chèn ơi, chỉ coi xinh tốt như tiên giáng thế. Hai bác hương Kiểm đãi đàng trai món nem cá cơm, món mắm cá linh ăn với thịt phay, rau sống, bún...Ba má thầy đội rớ tới món nào là khen món nấy...
Rồi đó, đang lúc bông điệp tây nở đỏ sân đình, đang lúc xoài voi, xoài cát, mận hồng đào đơm đầy cành thì đám cưới thầy đội Luông và cô Năm Hảo được cử hành. Cô Hai Phụng giả bộ nhức đầu nên không đến nhà ông bà hương Kiểm để dọn đám.
Buổi sáng hôm nhà trai rước dâu, cô Hai Phụng đang săm soi cặp mai tứ quí trồng trong chậu sứ trắng men lam, liếc thấy chú rể mặc áo gấm xanh bông bạc, chơn mang giày tây da vàng, bước đi vững vàng, thân mình cao lớn, mặt mũi sáng sủa, cô tức mình, tủi phận bỏ vô buồng, đóng cửa nằm khóc.
Ðã vậy, khi cô vừa nguôi ngoai tính xuống bếp nấu cơm kho cá thì con Chín Kim Anh mắc dịch từ bên kia cầu ván chạy qua, miệng chót chét:
- Chèn ơi, chị Năm Hảo hôm nay xinh tốt như tiên nga. Chỉ đeo bông hột xoàn sáng ngời ngời, đeo chuyền bướm, vòng tay chạm phụng giao đầu, cà rá cẩm thạch. Chiếc áo gấm đỏ của chỉ chói loà loà, thiệt hạp nước da chỉ. Khi cô dâu chú rể lạy trước bàn thờ, ai cũng trầm trồ họ tốt đôi xứng lứa!
Ông trời ngó xuống mà coi con Chín! Từ lâu nó ganh ghét cô Hai Phụng vì cô được thầy giáo Thưởng xun xoe ve vãn. Nay được dịp, nó mặc sức mà nói xốc hông cô. Lúc nói, nó gằn giọng ở chỗ nầy, ỏn ẻn mơn trớn ở chỗ kia để cào sướt tự ái cô, để nhen nhúm ngọn lửa hờn ghen thiêu đốt gan ruột cô. Cô mở cặp mắt chau quảu nhìn nó thiếu điều ăn tươi nuốt sống. Ðúng là thứ đâm bị thóc thọc bị gạo mà! Nữ trang con Năm Hảo đeo hôm đám hỏi gồm bông mù u, neo quai chảo, kiềng chạm, vòng bát bửu, cà rá cửu khúc liên huờn, bây giờ lại đổi thành chuyền bướm, vòng chạm phụng giao đầu, cà rá cẩm thạch. Dóc tổ! Cái con Chín khốn nạn đặt dóc cho tui chết vì uất ức đây mà!
Sau đám cưới cô Năm Hảo, cô Hai Phụng làm ra vẻ màu mè cao thượng. Cô viếng thăm bà Hương quản Kiểm, tỏ ra vui sướng cho cái may mắn của cô Năm Hảo. Tự hồi nào tới bây giờ, cô nổi tiếng ăn nói mềm mỏng nên cô không có nhiều kẻ thù. Giờ đây cô còn tỏ ra ân cần, vồn vã với mọi người nên cô càng được mọi người có cảm tình hơn. Lối xóm ca tụng, nói tốt cho cô nên khi lời đồn có lợi cho cô tới tai gia đình thầy giáo Thưởng thì qua tháng giêng năm sau, cô leo lên chức thím giáo một cái rột. Sau khi cưới vợ xong, thầy giáo Thưởng xin được thuyên chuyển về dạy trường Thiềng Ðức ném về làng Long Ðức Ðông, chỉ bước qua cây cầu sắt lót ván là tới thành phố của tỉnh.
Lối 28 tháng tám năm sau, vợ chồng cô Năm Hảo về thăm nhà vì thầy đội Luông được nghỉ phép thường niên. Cô trở nên mập tốt, trắng trẻo hơn. Dường như cái hạnh phúc của cuộc sống lứa đôi, niềm yêu đời đã gột rửa vẻ cau có, dữ tợn trên khuôn mặt cô làm cô tươi mát, thoải mái hơn. Ðường nét trên khuôn mặt cô vốn hài hoà, cô chỉ có làn da hơi khô, cặp má hơi thỏm và nhứt là vẻ nhăn nhó, khổ sở làm cho khuôn mặt cô tối sầm. Hôn nhơn đã thắp sáng khuôn mặt cô, da dẻ cô lần đổi ra mịn màng hơn.
Khi về nhà, tuy cô Năm Hảo không mặc áo dài nhưng mỗi ngày cô thay hai lần áo bà ba, thứ nào thứ nấy nếu không là hàng, là lụa thì cũng là vân, xuyến, màu sắc tươi thắm trẻ trung. Trưa nào cô cũng quàng khăn san màu hường, che dù màu tía đi dạo xóm. Cô đợi chiều tối mới xên mứt, làm bánh gai, bánh đuông để dành đi đám giỗ. Chiều tối, khách viếng thăm hầu như không có ai, nhưng khi xên mứt, làm bánh, cô vẫn biểu lũ em trai canh cửa, hễ có khách đàn bà tới thì báo cáo để cô đề phòng lúc cân bột, cân đường hay lúc cô đang đảo cặp đũa bếp trong chảo mứt xên. Cô không muốn ai học lóm nghề khéo của mình.
Lối xóm xầm xì rồi chắc lưỡi hít hà về tài khéo của cô. Bà Mười Chiểu thành thạo:
- Con Năm Hảo khi theo chồng ra chợ Vãng, được mẹ chồng truyền nghề bếp núc, bánh trái, thêu thùa. Giờ đây nó khéo nhứt xứ. Con dâu bà Phủ, con dâu bà Huyện chưa chắc qua mặt được nó.
Thím Bảy Liệu trầm trồ:
- Mèn ơi, nó làm bánh men lớn cỡ trái chanh cắt đôi, rồi bắt bông nổi đủ màu xanh đỏ trắng vàng...Tui có hỏi nó bông nổi làm bằng gì thì nó bắt lảng qua chuyện khác.
Chị Năm Thàng cười:
- Chắc nó giấu nghề. Nó còn khoe biết làm bánh men không cần nướng nữa đó bà con.
Gái quê lấy chồng tỉnh đã là danh giá, mà ông chồng lại ở cấp bực trung sĩ khi tuổi chỉ mới ba mươi hai. Rồi đây theo cái vèo nầy, thầy đội Luông lên chức đội nhứt (trung sĩ nhứt), ách (thượng sĩ) rồi ách nhứt (thượng sĩ nhứt) mấy hồi! Thím đội đã quần lụa áo hàng, vàng đeo bạc khảm sáng chói, còn biết làm bánh làm trái xuất sắc nên dân làng trên xóm dưới đồn đãi tùm lum.
Hôm tháng tám năm đó, thầy Hương hào Kình làm đám giỗ cho mẹ, có mời vợ chồng thầy đội Luông tới dự. Thím đội mặc chiếc áo bà ba bằng lụa tím, quần lãnh bông chữ thọ cạp lưng bằng nhiễu hường cánh sen, che dù máu tía. Thầy đội mặc áo bành tô bằng vải xi-mi-li trắng tinh, nút bằng hổ phách coi sang thiệt là sang! Quần của thầy mặc dù bằng vải ka-ki trắng nhưng được hồ cứng và ủi sắc lẻm. Ðôi giày tây da vàng của thầy cũng được đánh nẩy sao. Thầy học đòi thói nịnh đầm, tự tay ôm quả bánh cho vợ.
Khi thầy đội tới nhà thầy Hương hào Kình thì đã có mặt vài ba ông hương chức hội tề đang cùng đàm đạo bên nhạo rượu thuốc, có vài ba dĩa mồi nhắm: cốc, khế xắt miếng chấm mắm ruốc trộn tỏi ớt, thịt phay chấm mắm nêm, dế cơm độn đậu phọng và muối hột rồi lăn bột chiên giòn.
Còn thím đội Luông nhũ danh là cô Năm Hảo khi tới nhà thầy Hương hào Kình thì chững chạc bưóc vào trung đường chào gia chủ và khách khứa, nói ba điều bốn chuyện rồi mới ôm quả bánh xuống bếp chào thím Hương hào Kình cùng các bà các cô tới dọn đám. Thím Hương hào Kình mở nắp chiếc quả sơn son ra. Phe phụ nữ xúm lại ngắm nghía bánh phục linh trắng như dồi phấn có hình bông hường, bông mai, hình miếng chả chạy nét hoa văn được xếp ở ngăn quả trên. Còn bánh men bắt bông nổi thì được xếp ở ngăn quả dưới. Ai cũng hết lời khen ngợi và đồng ý rằng bánh nầy nên để chưng hơn là để ăn vì bánh đẹp quá!
Cô Năm Hảo giờ đây thay đổi nhiều. Cô nói lời ngọt dịu như Cam Cái Bè, như quít chợ Lách. Tuy giọng cô không được êm, giọng cao thì rít róng, giọng thấp thì gay gắt, tiếng cười cô the thé, nhưng đôi lúc cô cũng biết buông lơi bỏ nhỏ giọng nói của mình để cho người nghe có cảm giác dễ chịu hơn. Cô Năm Hảo tuyên bố:
- Thưa các bác, các dì, các cô cùng mấy chị em, tui còn biết làm thứ bánh men không cần nướng. Bữa nào rảnh, tui sẽ trổ tài cho quí bà con cô bác coi chơi. ° ° ° Con Chín Kim Anh nhờ cái miệng phèng la, cái họng ống loa quảng cáo không công về tài khéo của cô Năm Hảo, nào là bánh nướng bánh chiên của cô Năm giòn rụm, bánh hấp của cô Năm vừa dẻo vừa mềm; nào là hễ cô Năm vẫy tay một cái là cỗ bàn cỡ mười món sắp lên bày ra ê hề...nên được cô Năm Hảo thưởng cho một đôi guốc sơn đen với quai nhựa trong vắt, chiếc lược giắt tóc bằng đồi mồi, cái khăn mu-soa bằng lụa bạch thêu bông hường. Cô ra công tỉa cặp chơn mày của mó mỏng và cong như chiếc móng trời, dạy nó bới tóc vén khéo, chỉ biểu nó rửa mặt bằng nước cơm vo cho da mặt mịn màng, xông khói trà cho da mặt hồng hào như màu bồng lồng đèn, bông bụp. Nó đợi cô dạy nó làm một món bánh, một món ăn nhưng cô bền lòng chặt dạ quyết giữ kín nghề khéo của mình.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:48:00 GMT 9
Nhưng cô Năm Hảo đã không uổng công dạy dỗ cách làm đẹp cho con Chín Kim Anh. Nó cũng không uổng công chiều chiều đứng bên cầu lót ván để bẹo hình bẹo dạng với trai thương hồ. Có chàng trẻ tuổi chuyên nghề mua lá dừa nước rồi ủ chín đỏ để bán cho các trại lá chầm, một hôm nó chèo ghe ngang cầu ván, thấy con Chín Kim Anh bận chiếc quần lãnh tàu, chiếc áo bà ba bằng vải đen in bông đỏ liền gọi lớn:
- Qua tên Võ Tòng đây em! Võ Tòng, anh hùng sát hổ ở Cảnh Dương cương đây em!
Con Chín Kim Anh hò liền:
Anh hùng hà xứ anh hùng lai? Ðể tui liều mạng đối trai anh hùng. Anh hùng bảnh lắm anh hùng ôi, Ðể tui liều mạng đái trôi anh hùng.
Vậy mà chàng trai tên Võ văn Tòng kia lại cảm lăn cảm lóc con Chín Kim Anh mới là kỳ! Nhà chàng ở Cầu Dài, cách chợ tỉnh Vĩnh Long con rạch Long Hồ, hễ bước xuống đò ngang thì năm phút sau là tới bến chợ cá của trung tâm thành phố. Má chàng Võ văn Tòng có lập trại lá chầm thiệt lớn ở Cầu Dài. Kể ra thì chàng cũng là dân thành thị đó chớ!
Ðám hỏi tiến hành rùm rụp. Con Chín Kim Anh dầu không được cô Năm Hảo chỉ dạy cách làm món ngon, làm bánh làm trái nhưng nó vẫn mang ơn cô vì nhờ cô mà nó biết chải chuốt áo quần, biết làm cho dung nhan mình rạng rỡ hơn để lọt được vào mắt xanh của cái anh chàng mà nó đòi đái trôi. Cho nên cô Hai Phụng vẫn là đối thủ của con Chín Kim Anh vì dẫu Võ văn Tòng không làm mướn ở đợ, và dẫu chàng là dân thị thành nhưng đâu có văn hay chữ tốt nhu thầy giáo Thưởng kia.
Tháng sáu, vì còn đang lúc bãi trường, thầy giáo Trần Xuân Thưởng dắt vợ về chợ An Hương để hứng gió sông, thở không khí đồng nội. Thầy giáo Thưởng không có gì thay đổi, lúc nào cũng chải tóc thấm nước, mặc sơ-mi cụt tay, quần tây vải ga-bạc-đin, chơn đi giày xăng-đan để dạo xóm. Riêng thím giáo Thưởng nhũ danh là cô Hai Phụng thì đeo nhiều nữ trang hơn, ăn nói văn chương huê mỹ hơn, nước da mởn hơn. Thím chẳng những tỉa cặp chơn mày nhỏ rí và cong vòng như cái cầu vồng, thím còn cạo lông mặt như mấy bà xẩm. Trưa trưa thím nằm trên võng treo tòn teng ngoài hàng ba để đọc tiểu thuyết. Thiệt ra các cô thôn nữ, các mụ bành miệt vườn, các bà già trầu cũng ưa săm soi các kiểu nữ trang của cô Hai Phụng. Nhưng cô Năm Hảo cũng đâu có thua kém cô Hai về chuyện vi cánh đó. Mấy cô gái con ông Hương cả Tiếu, con ông Hương chánh Bân cũng biết lên tiệm vàng Võ Văn Hưng ở chợ Vãng để sắm nữ trang kim thời.
Với thôn dân, cái hình ảnh người đờn bà tỉa chơn mày, nằm tòn teng đưa võng ở chỗ bán lộ thiên là ngoài hàng ba để đọc tiểu thuyết là một hình ảnh xốn mắt. Ðã vậy, lâu lâu cô Hai Phụng còn ré lên hát vài câu vọng cổ rồi xướng nhạc inh ỏi coi thiệt không giống ai:
Từ phu tướng, Bửu kiếm sắc phong lên đường Vào ra luống trông tin chàng Ðêm năm canh mơ màng Hò lìu xang xê cống Líu cổng, líu cổng xê xàng...
Con Chín Kim Anh trề nhún với đám con gái ông Hương ân:
- Thứ đồ làm phách! Cái thứ cà xốc chó gì đâu á! Nó ra tỉnh nấu cơm tháng cho mấy đứa học trò, lại còn nuôi heo nên cực bù đầu, mặt mũi lem luốc, tóc tai chơm bơm. Vậy mà về đây làm bộ khoe giàu, ra điều phong lưu nhàn hạ thấy mà ứa gan!
Và trưa trưa nó chõ mỏ qua hàng rào cây xương rồng hát xỉa xói cô Hai Phụng:
Hò lìu xang xê cống Líu cổng nuốt trộng tôm càng Hò lìu xang xê cống Líu cổng chổng khu la làng...
Từ lúc về thăm nhà, cô Năm Hảo không thèm dạo gót sen qua thăm ông bà Hương cúng Bàu. Bởi đó cô Hai Phụng đương thèm dời gót ngọc đến viếng ông bà Hương quản Kiểm. Tiếng đồn về tài khéo cô Năm cứ dồn dập đến tai cô Hai Phụng, làm cô bứt rứt xốn xang. Tới hôm nghe tin cô Năm Hảo sắp trổ tài làm bánh men không cần nướng, cô Hai Phụng vì óc tò mò quá mạnh nên mới xách đít qua nhà ông bà Hương quản Kiểm coi hư thực ra sao.
Khi cô Hai Phụng tới nơi thì thấy các bà các cô tề tựu đông đảo. Cô Năm Hảo lăng líu chào hỏi cô Hai Phụng. Cô Hai Phụng véo von đía dóc với cô Năm Hảo. Ðôi bên tỏ ra thân mật, nồng nàn như đôi tri kỷ. Cô Năm Hảo mời:
- Chị Hai ngồi chơi, vừa ăn mứt uống trà vừa coi tui trổ tài khéo. Mà nếu không khéo thì xin chị mởi lòng từ bi hỉ xả giùm nghen!
Cô Hai Phụng miệng thì cười mà mắt thì nguýt háy đối thủ. Thứ gì giả dối! Có chút tài mọn mà đã kiêu căng. Phải chi nó trổi giọng phách lối thì tui còn đở tức, đằng nầy nó giả nhơn giả nghĩa ăn nói mềm như bông gòn, ngọt như đu đủ chín, dịu nhẹ như gió thoảng làm tui ứa gan quá chừng chừng!
Cô Năm Hảo vô buồng lấy một cái tô sành đựng chất gì trắng trắng bột không phải bột, bọt xà bông cũng chẳng phải bột xà bông. Nó đặc như sửa hộp, trĩn trĩn như nhớt mồng tơi. Chị Năm Xứng hỏi:
- Cái thứ trắng trắng nầy làm bằng gì vậy?
Cô Năm Hảo cười bí mật:
- Thì cũng bột, cũng đường, cũng trứng gà, men nổi...chớ có giống gì ngoài bốn cái thứ đó! Bà con để tui nắn bánh coi chơi.
Cô lấy giấy dầu làm cái quặng, bỏ chất trắng trắng đó vào rồi lấy kéo cắt ở đầu nhọng làm miệng quặng. Cô bóp nhẹ quặng. Từ miệng quặng, một vòi trắng lòi ra. Cô Năm Hảo xịt chất trắng lên dĩa bàn, nắn thành từng cục tròn tròn. Cục tròn khô cứng tuy hơi chậm nhưng láng mặt. Cô Năm Hảo mời mọi người ăn thử. Bà Mười Chiểu gật gù:
- Tuy giống bánh men nhưng không xốp, không thơm.
Chị Năm Thàng nói:
- Bánh nầy chắc tại không nướng nên có mùi tanh của lòng trắng trứng gà.
Dù vậy mọi người vẫn trầm trồ khen cô Năm Hảo ở chỗ làm bánh men không cần nướng. Cô Hai Phụng cười gượng gạo rồi ngoe nguẩy xách đít ra về, dã dượi bần thần như muốn nhuốm bịnh. Ðã vậy, con Chín Kim Anh mắc dịch mắc toi kia mỗi khi giả đò tới thăm cô, cứ đem cái tài cái khéo của cô Năm Hảo ra khen làm cô thêm đau lòng. ° ° ° Ngày hôm sau, cô Hai Phụng ăn cơm trưa xong, bước ra võng đưa tòn teng qua lại. Nhưng cô không đọc tiểu thuyết, không trổi giọng du dương hò lìu xang xê cống nữa. Cô nằm lim dim, thức không ra thức, ngủ không ra ngủ. Ngay chiều hôm đó, cô đích thân bơi xuồng tới nhà thầy Thôn Cường mua ba chai rượu thuốc. Cô về pha thêm một lít rượu đế. Thầy Thôn Cường ngâm rượu thuốc bằng thục địa, hoài sơn, cam thảo như mọi người bán rượu thuốc khác. Nhưng đặc biệt là thầy còn ngâm thêm rễ cây nhàu nên màu nâu của rượu sóng sánh ánh vàng, vị rượu đằm hơn. Cô Hai Phụng còn mua mít nướng cho thơm lừng rồi ngâm vô rượu. Xong xả, cô trộn vào đó gói bột hoa-ni (vanille). Ðây là thứ bột thơm mà thầy giáo Thưởng mua ở Sài gòn đem về tặng cô để cô làm bánh bò, bánh da lợn. Ðây là thứ bột thơm từ bên Tây nhập cảng qua, nhưng các bà nội trợ ở lục tỉnh Nam kỳ ít ai biết, huống hồ gì các bà các cô miệt vườn!
Pha rượu xong, cô Hai Phụng trèo lên võng đưa tòn teng qua lại rồi cô hát chót chét mấy câu vọng cổ. Sắc diện cô phơi phới, thỉnh thoảng cô nở một nụ cười đắc chí. Xời ơi, cái con đĩ "bạch chảng" đó (cô ám chỉ cô Năm Hảo) khi làm mấy thứ bánh hấp như bánh bò, bánh da lợn, bánh thuẫn, nó xịt dầu chuối thơm gay gắt, thơm hỗn hào. Bột hoa-ni của tui mà bỏ vô bánh hấp, bánh nướng như bánh phục linh, bánh con đuông...thì thơm thoang thoảng, thơm dịu nhẹ mà bền bỉ, đằm thắm, thấy thương quá trời quá đất!
Thế là hôm đám giỗ ông Bồi bái Hùng (tức là ông nội cô Hai), ông Hương cúng Bàu bưng ra một cái mâm có ba nhạo rượu và một mớ chén chung. Mâm thau chùi sáng bóng, nhạo rượu bằng sứ tráng men trắng vẽ bông lá màu chàm đậm, nét vẽ rối rít, tỉ mỉ, vô cùng ngoạn mục. Còn chung thì màu trắng mỏng tay, nét vẽ mặt võng thêu bông cũng màu chàm đậm. Chưa biết rượu ngon dở ra sao, nội thấy mâm, nhạo, chén, chung choáng lộn như vầy, ai mà chẳng rộn lên niềm háo hức?
Ông Hương cúng Bàu thưa với khách:
- Thưa bà con, đây là rượu khai vị cốt giúp cho bà con ngon cơm . Tuy nói là khai vị nhưng đây cũng là thứ ích khí bổ thần. Thưa bà con, đây là mỹ tửu mà cũng là dược tửu do con gái tui bào chế. Trước hết, bà con uống sương sương mỗi người một chung cho ngon miệng, cho phơi phới tinh thần, rồi mình cùng nhậu rượu đế tới hoắc cần câu luôn...
Ông Hương cúng Bàu rót rượu ra chung. Tuy rượu có màu lợt hơn rượu thuốc nhưng mùi mít nướng quyện mùi hoa-ni bốc lên thoang thoảng và lạ lẫm là mọi người không đoán rõ là mùi gì. Khi nhắm nháp qua "thứ mỹ tửu lẫn dược tửu" kia thì khắp bàn tiệc lời khen ngợi xôn xao, tiếng chắt lưỡi hít hà sôi nổi.
Ở bên trong, cô Hai Phụng lóng tai nghe động tĩnh bên ngoài. Tới chừng nghe tiếng chắc lưỡi hít hà khen hương vị của rượu do cô pha chế, cô nghĩ mình nên chường mặt ra chỗ bàn tiệc để hưởng cái vinh diệu mà cô từng khao khát sau bữa coi cô Năm Hảo làm bánh men không cần nướng.
Cô Hai Phụng vội vã chải đầu thiệt kỹ, giắt chiếc trâm hình trăng khuyết có cẩn những chấm hột xoàn tấm lóng lánh. Cô đeo vô cổ, vô cườm tay, ngón tay, trái tai những món trang sức mà cô cắc ca cắc củm mang theo. Nữ trang bằng vàng thiệt chen vàng giả miễn sao nó hợp sức cùng hào quang trên chiếc áo lụa màu ngân bạch nổi bông tiền điếu màu vàng để gây nhức mắt mọi người. Cô giành bồi tiệc cho các ông. Cô lăng líu như chim chèo bẻo, véo von như chim chìa vôi làm thầy giáo Thưởng mặt khờ ra vì sung sướng đã cưới được một cô vợ bãi buôi, bắt thiệp.
Cô Hai Phụng đặt dóc về các dược thảo ngâm trong rượu khá dài giòng lâu lắc. Sau cùng cô bảo:
- Thưa các bác, các chú, các cậu, các dượng, các anh. Rượu nầy là rượu gia truyền. Hễ ai bị chứng no hơi sình bụng kinh niên chỉ uống chừng ba tháng là dứt tuyệt, hơi thở thơm tho, lưõi sạch đỏ au. Còn ai bị chứng phong thấp thì chỉ cần điều trị bằng rượu nầy chừng một năm là bớt dần dần. Bị bại xuội cũng nhờ rượu nầy mà đi đứng nhậm lẹ còn hồi chưa mang tật nữa.
Rồi cô ỏn ẻn liếc qua chồng:
- Mình, em nói có đúng hôn mình?
Thầy giáo Thưởng đang nhai cái phao câu con vịt sau khi vừa ực hớp rượu Sâm Nhung Huyết Tửu bào chế ở hãng rượu Bình Tây. Rượu nầy khá nặng tuy có tên đẹp đẽ quý giá nhưng chỉ ngâm bằng loại dược thảo rẻ tiền. Hơi rượu làm thầy bàng hoàng, hụt hẫng, tâm trí ngây ngất...Nghe vợ hỏi thình lình, thầy rụng rời như bị chém hụt vì thầy có để ý nghe vợ nói trời, nói trăng những gì. Thầy trả lời liều mạng cho qua:
- Ðúng, đúng lắm! Sâm Nhung Huyết Tửu ở hãng Bình Tây bổ nhứt xứ!
Mọi người cười rân vì câu trả lời ăn trớt của thầy.
Ai ai cũng biết cô Hai Phụng ưa xạo đía. Và cũng chẳng ai lạ gì cái thói khoác lác của cha cô. Rượu vừa trôi khỏi cổ, ông Hương cúng Bàu bắt đầu mở máy đía vang rân:
- Con gái tui nhờ quen mấy bà lớn trên tỉnh nên nó mua được một thứ bột thơm nhập cảng từ bên Tây. Thưa bà con, số là trong vườn ngự uyển của ông vua xứ Lang-sa có một cây bông quỳnh trổ bông ngũ sắc, thơm bay ngàn dặm. Bà hoàng hậu hôm đó dạo vườn ngắm kiểng vật, gặp lúc tiết xuân nên bông quỳnh trổ ê hế. Bả thấy đủ loại ong như ong bầu, ong mật, ong nghệ cứ bu theo loài bông quý hút nhụy nên bả truyền cho cung nga thái giám hái bông về cà nhuyễn để làm bột thơm. Khi đầu bếp làm bánh, bà hoàng hậu truyền cho họ rắc bột thơm vô. Khi bánh chín, bà hoàng hậu biểu dưng bánh lên cho bà mẹ vua "ngự". Gặp lúc đó, bà mẹ vua ể mình, chê súp, chê sữa, chê phô-mai...Vừa hưởi bánh thơm, bà mẹ vua ních một lèo hết ổ bánh, bịnh hết bảy còn ba. Bả bèn truyền cho cung nga pha bột vô rượu để dành uống lai rai. Ðức vua thấy bông lạ nên truyền cho toán coi sóc ngự uyển trồng thêm cây quỳnh quý báu kia vì bông của nó vừa đẹp vừa có dược tánh.
Cô Hai Phụng cảm thấy mát gan mát ruột như sương sâm, sương sáo, sương sa được ướp nước đá. Cô ỏn ẻn cười mơn rồi liếc qua cái mặt chim bỉm và nặng nề như cái cối xay của ông Hương quản Kiểm một cách đắc thắng. Hôm nay là ngày mà tên tuổi cô được các ông ở trung đường nhắc nhở, khen ngợi quá nhiều cho nên khi xuống bếp, nghe các bà phụ dọn cổ bàn suýt soa khen tài làm bánh của cô Năm Hảo, cô không thèm đếm xỉa tới, không làm mặt quạu như cách đây một tuần.
Ðám giỗ rộn ràng trôi qua. Bà Hương cúng Bàu chèo xuồng ra chợ Vãng mua một hơi hai chục lít rượu và tới tiệm thuốc bắc bổ các dược phẩm như hoài sơn, cam thảo, thục địa...
Khi rượu được chiết ra từng chai và được đậy nút cẩn thận, cô Hai Phụng ra hàng ba nằm trên võng đưa tòn teng qua lại. Cô chõ miệng qua bên nhà con Chín Kim Anh, cất giọng rổn rảng:
- Tui là con nhà ăn chắc mặt dầy, tui đấm thèm ba cái thứ bánh khéo. Rượu thuốc của tui có nhiều công dụng trị bá chứng để giúp đời, gây âm đức cho con cháu về sau. Thử hỏi bánh nào sánh kịp tới gót chơn nó chưa? Vậy mà có con đĩ chó ăn cơm nhà làm chuyện tào lao, đi quảng cáo không công cho ba cái thứ bánh đẹp thì có đẹp, ăn vô thì dở ẹt, cứt heo hổng chừng còn ngon hơn. Cứt heo lỡ dính gót chơn tui, tui mua xà bông sả về rửa. Còn thứ bánh đó hễ chui vô miệng má con, dì cháu, chị em nhà nó thì miệng cả phồn cả lũ nó thúi hoắc như miệng cá vồ...
Con Chín Kim Anh nghe hết. Nó liền xẹt qua nhà ông bà Hương quản Kiểm, thuật lại những câu đon ren của cô Hai Phụng, rồi thỏ thẻ
- Con Hai Quạ (ám chỉ cô Hai Phụng có màu da đen như lông chim quạ) xỏ xiên chị đó! Chớ em đây thấp kém, nó đấm thèm chửi em. Nó chửi lông bông cho em nghe, nhưng kỳ thiệt là nó ám chỉ chị.
Từ đó cô Hai Phụng và cô Năm Hảo tránh mặt nhau. Riêng thầy đội Luông và thầy giáo Thưởng thì có dịp gặp nhau luôn trong các đám cưới, đám giỗ được tổ chức trong xóm trong làng. Cả hai vẫn chào hỏi nhau, chuyện vãn, cụng ly với nhau hà rầm. Nếu có ai nhắc chuyện hiềm khích giữa hai bà vợ thì thầy đội Luông chắc lưỡi:
- Ối, chuyện đờn bà với nhau, hơi nào tui lý tới? Tuy vậy, con đờn bà của tui vốn tốt bụng. Tui tin ít lâu nó sẽ cầu huề chị giáo.
Thầy giáo Thưởng phụ hoạ:
- Nhà tui dễ nóng nhưng mau quên. Tui cũng tin rằng nay mai chị đội và nhà tui sẽ trở lại tình bạn lối xóm.
Nói dứt lời, thầy rót rượu cho thầy đợi, cả hai cụng ly lanh canh rồi ngửa cổ uống một cái ực cạn ly. Mặt người nào cũng đỏ gay như mặt trời mới moc, miệng cười toàng hoạc, giọng cười hề hề.
Cầu huề? Hàn gắn trong nay mai? Làm gì có chuyện đó! Cô Hai Phụng làm sao nguôi ngoai nổi khi thấy ai đi đám cưới đều đặt bánh ở nhà ông Hương quản Kiểm. Cô Năm Hảo truyền nghề khéo cho hai con em mình là Sáu Mỹ và Bảy Lành. Dù cô Năm ở trên tỉnh nhưng tên tuổi cô vẫn được nhắc nhở đều đều qua bánh mứt do hai em cô làm ra. Tuy nhiên thiên hạ cũng ưa đến nhà ông bà Hương cúng Bàu để mua rượu thuốc do cô Hai Phụng truyền lại bí quyết ngâm rượu của cô cho cha mẹ. Mỗi khi dắt cô Sáu Mỹ hay Bảy Lành ra chợ tỉnh thăm vợ chồng cô Năm Hảo, bà Hương quản Kiểm tỉ tê kể lại sự mến chuộng của thôn dân đối với rượu thuốc ấy cho cô Năm nghe. Cô Năm cảm thấy mình khó mà giao thiệp với con "Hai Quạ" đó. ° ° ° Trường tiểu học An Hương có một cô giáo mới đổi về dạy lớp nhì. Cô nầy tính tình bãi buôi, ưa thích giao thiệp với mọi người. Cô khéo léo các món bánh mứt, lại tốt bụng, sẵn lòng chỉ dạy các cô gái trong xóm. Cô giáo cho biết bánh men nướng bắt bông nổi của cô Năm Hảo là thứ bánh men bắt bông đường. Ðường cát trắng trộn lòng trắng trứng gà rồi nhuộm phẩm xanh phẩm đỏ để vẽ lên mặt bánh men. Và rồi mấy cô gái làng cũng lần lần khám phá ra bánh men không cần nướng của cô Năm Hảo chỉ làm bằng đường trộn với lòng trắng trứng gà đánh cho nổi mà thôi, chẳng có pha thêm bột thêm men gì ráo trọi.
Lần hồi, vài cô gái trong làng làm được bánh bông lang bắt bông đường diêm dúa loè loẹt nếu họ khéo tay. Họ còn biết bỏ bột hoa-ni vào bánh nướng lẫn bánh hấp. Ðiều đáng nói thêm, từ khi cô giáo Hiền đem bột hoa-ni giới thiệu với các cô gái ưa học làm khéo thì mùi thơm trong rượu thuốc do cô Hai Phụng pha chế bị khám phá ra. Cô Kiều Tiên, con gái ông Hương sư Bình, cất giọng nhọn hoắc:
- Té ra đó là bột hoa-ni. Ngoài chợ tỉnh, các tiệm ba-da bán thiếu gì!
Cô Nguyệt Nga, con gái ông Hương chủ Khánh, trề môi:
- Con Hai Phụng và con Năm Hảo tuy kình địch nhau nhưng thiệt ra cùng một thứ xạo đía, cùng một phồn gạt người.
Từ đó, mỗi khi về thăm nhà, cô Năm Hảo không dám trưa trưa đội khăn san màu hường, che dù màu tía đi dạo xóm nữa. Còn cô Hai Phụng thì khi bột hoa-ni bị khám phá, cô được thôn dân âu yếm tặng cho cái hỗn danh là cô Hai Quạ. Mỗi trưa, sau khi ăn xong, cô vào buồng đánh giấc trưa thiệt say sưa, hết dám nằm đong đưa trên võng treo ngoài hàng ba để đọc tiểu thuyết và chửi đổng nữa.
Ngoài tỉnh Vĩnh Long, nhà thầy giáo Thưởng ở tại dãy phố lầu, gần miễu Quốc công. Còn nhà thầy đội Luông ở xóm Khương Hữu Phụng. Sáng sáng cô Hai Phụng xách giỏ đi chợ Cầu Lầu thường gặp vợ chồng cô Năm Hảo ngồi điểm tâm trong tiệm nước chệt Lìn luôn. Cô Năm ăn sáng no cành hông rồi mới chịu xách giỏ đi mua thức ăn nên cả hai ít có dịp chạm mặt nhau. Nếu rủi có đụng mặt nhau thì cả hai cúi gằm mặt bương bả đi chỗ khác. Nhưng mà cả hai đã cảm thấy giữa đối thủ và mình chẳng còn gì để ganh đua, để loè bịp thôn dân xóm Ðình, làng An Hương nữa.
Cô Năm Hảo sanh được một trai kháu khỉnh. Còn cô Hai Phụng lấy chồng đã hai năm mà chưa có điềm chửa nghén gì nên cô bứt rứt lắm.
Tháng bảy, mưa gió sụt sùi, trời đất mịt mờ, khí âm huyền độc địa. Cô Hai Phụng bỗng ngã bịnh, cơm cháo nuốt vô là cô ói mửa lai láng. Cô liền kêu xe kéo đến nhà ông Bộ Công để chẩn mạch hốt thuốc. Ông cho biết cô chẳng có bịnh chi hết mà chỉ bị thai hành. Lời tiết lộ đó làm cho cô Hai Phụng mừng quính. Vừa lúc đó, cô Năm Hảo bồng đứa con trai bước vô, nước mắt chan hoà. Ðứa nhỏ mặt mày đỏ ửng, mắt nhắm thiêm thiếp. Cô Hai Phụng đang mong có con, thấy thằng nhỏ đau ốm chi chưa biết mà có vẻ thừa chết thiếu sống nên tâm can cô thốn động, xốn xang. Cô quên mối thù hiềm cũ, hỏi:
- Cháu đau sao đó, chị Năm?
Cô Năm Hảo bệu bạo:
- Nó nóng rồi làm kinh. Hai đêm, ba ngày qua tui không dám ngủ.
Cô Hai Phụng không chịu ra về liền, cô đợi ông Bộ Công chẩn mạch đứa nhỏ để biết nguồn cơn bịnh hoạn nó ra sao. Ông Bộ Công bắt mạch nó xong, an ủi cô Năm Hảo:
- Thằng nhỏ nầy đau ban trắng. Ban bắt đầu phát nên không hề gì.
Ông pha thuốc tán cho nó uống hạ hoả trước khi hốt cho nó một thang thuốc. Khi cô Năm Hảo sửa soạn bồng con ra về thì cô Hai Phụng nói
- Coi chị đừ rồi đó! Ðể tui tháp tùng chị đưa cháu về nhà.
Cô Hai Phụng kêu xe xích lô cho bạn. Khi cả hai cùng đứa nhỏ lên xe thì cô Hai giương dù ra che cho mẹ con cô Năm. Xe tới nhà cô Năm Hảo, cô Hai giành trả tiền xe rồi theo bạn vào nhà. Ðứa nhỏ nhờ thấm hiệp thuốc tán nên không còn thiêm thiếp nữa. Nó giương mắt có thần nhìn mẹ và khách. Cô Năm Hảo pha trà mời bạn rồi hỏi thăm đủ thứ, từ việc nhà ở An Hương tới đại gia đình thầy Thưởng...Lúc đầu cả hai trò chuyện còn bợ ngợ, ngập ngừng nhưng rồi bản tánh hồn nhiên, bặt thiệp, cả hai ngon trớn bắt chuyện trơn tru, thỉnh thoảng chêm từng chuỗi cười giòn khấm khứu.
Bỗng ngoài cửa có tiếng léo xéo:
- Chị Năm của em đâu rồi? Con em Chín của chị tới thăm chị đây nè. Mai nó về An Hương, chị có gởi gì về hai bác Hương quản thì giao cho em.
Cô Năm Hảo bảo nhỏ cô Hai Phụng:
- Con Chín Kim Anh đó. Từ khi nó lấy thằng Hai Tòng, nó được má chồng dựng cho nó cái chái lá xéo xéo chùa Bà Thiên Hậu. Nó mở tiệm bán nem nướng phát đạt thất kinh.
Chín Kim Anh õng ẹo bước vô, áo dài màu hoàng yến thướt tha theo nhịp bước đi nhún nhảy. Chèn ơi, giờ đây ả đẹp đẽ, mượt mà thêm ra. Ðôi bông hột xoàn trên tai ả chớp lia chớp lịa mỗi khi ả ngúc ngoắc đầu õng ẹo làm điệu. Vừa thấy cô Hai Phụng, mặt ả hơi tái nhưng rồi ả gượng làm tỉnh, bô lô ba la liền:
- Mèn ơi, chị Hai! Hèn lâu em mới gặp chị. Lóng rày coi bộ chị đỏ da thắm thịt, đẹp nhức nhối! Nè, mai em về thăm nhà, chị có muốn gởi trà bánh cho bác Hương cúng thì em đem về giùm cho.
Cô Hai Phụng cuời:
- Tuần tới tui về nhà dự đám giỗ bà nội tui. Thôi, tui không dám làm nhọc lòng Chín, nhưng dầu sao tui cũng cảm ơn lòng sốt sắng của Chín.
Chín Kim Anh đía:
- Em về An Hương để dự đám coi mắt đứa con gái lớn của chị Hai em. Chèn ơi, em mua đủ thứ thập vật tặng tía má em: nào là trái vải đóng hộp, nào trà Thiết quan âm, nào bôm, nho, xá-lỵ, khô cá sưởu, lạp xưởng...
Trong lúc ả Chín chót chét khoe khoang, cô Năm lẫn cô Hai nhìn nhau. Lại thêm một nhân vật nữa lấy chồng tỉnh về làng thăm quê,, mặc tình mà nói trời nói đất, mặc sức khoe khoang chuyện bá láp tầm phào. Cô Hai thì nhớ tới bột vanille, cô Năm thì nhớ tới thứ bánh men không cần nướng. Mặt cả hai đỏ thén nhưng mắt họ sáng rạo rực, nụ cười họ chúm chím nở trên môi.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:57:48 GMT 9
Tết Này Anh Trở Về Hồ Trường An
Cô Hai Nguyện săm soi mớ dưa giá trắng phau phau trong chiếc thau nhôm. Cọng giá mập mạp thấy thương hết sức! Ðiểm vào đó là những cọng hẹ xanh biếc. Tui có biệt tài nấu bất cứ món rau cải nào cũng giữ được màu xanh. Rau lang luộc, rau cải trời luộc, rau giền, mồng tơi, bồ ngót, cao kỷ nấu canh xanh tươi ngăn ngắt. Còn tui mà xào cải bẹ với thịt gà thì màu cải khi chưa vô chảo chỉ xanh có bảy, đến khi ra dĩa nó xanh tới mười, vừa xanh vừa trong, đẹp dễ sợ!
Năm nay cô Hai Nguyện tính ăn Tết tươm tất hơn năm ngoái. Cô đã lựa con cá lóc vừa bự vừa mập để kho chung với thịt bắp đùi, nước kho phải bằng nước dừa xiêm tươi thì cô mới bằng bụng. Có nồi thit cá kho chung đệm trứng luộc để dành ăn với bánh tét hoặc bánh chưng của cô Ký người Bắc thì phải điệu quá rồi, ăn lai rai, ăn hoài hoài tới hạ nêu cũng không ngán. Bánh tét ăn với món kho phải đệm thêm dưa giá, dưa cải hoặc củ kiệu, củ hành ngâm giấm thì mới nổi vị mà không ngán. Bởi vậy cô Hai Nguyện cùng hai đứa con gái lớn, Trang và Hiền, làm đủ thứ dưa. Trang trổ tài làm khéo, mua củ cải trắng, cà rốt, đu đủ xanh để tỉa bông huê, chim bướm trước khi ngâm giấm, coi vừa đẹp lại vừa ngon!
Sáng ba mươi tháng chạp ta, cô Hai Nguyện thở một cái phào, khoan khoái hết sức. Nồi cá thịt cùng trứng luộc kho chung đã xong. Cô còn làm thêm nồi giò heo hầm với măng, nồi khổ qua dồn thịt bằm với bún tàu, nấm mèo nước trong leo lẻo, niêu tôm kho tàu nước gạch đỏ ối…Chiều nay cô mới mổ gà nấu cháo kèm gỏi gà trộn bắp chuối, rau răm để cúng rước ông bà.
Cô Hai Nguyện đã lau chùi, quét tước nhà cửa, bàn thờ ông bà. Lư hương, chân đèn, mâm cổ bồng đã đánh sáng loáng. Trên vách, cô treo bộ tranh tứ quí màu sắc tươi rói. Trên các cột hàng ba, cô dán liễn bằng giấy hồng đơn, chữ thảo mực tàu đen lánh. Năm nay cô chỉ mua một cặp cúc vạn thọ màu hoàng yến, một cặp mồng gà lưỡi búa đỏ để bày trong sân. Bánh phồng, bánh tráng, bánh tét thì đã có má cô là bà Hương kiểm Thiện ở chợ Trường an cho ê hề. Còn mứt thì cô mua ở chợ Vĩnh Long. Hai hộp mứt hình trái tim gói giấy trang kim lấp lánh cài cái nơ sa-teng hường coi mê quá! Trong hộp, mứt củ cải và mứt bí như giồi phấn, mứt khổ qua tươi nước cốt cỏ rồng chầu xanh như cẩm thạch, mứt cà-rốt màu gạch mới, mứt cà-chua đỏ như son tàu, mứt nào cũng khéo ơi là khéo, bỏ tiền ra mua giá phải chăng, tội gì mà làm cho mệt để lãnh cái thua sút, thô kém!
Dữ ác! Năm nay không hiểu ông ứng bà hành gì mà cô Hai Nguyện phấn khởi đón xuân như vậy? Năm năm qua, thằng bảy Huỳnh Kim Báu, thằng chồng trời đánh thánh đâm của cô đã bỏ nhà theo vợ bé, trôi nổi ở chơn trời góc biển nào rồi. Hễ cở mười năm mà nó không về, hoặc cô không tìm được tung tích nó, thì cô đành lấy cái ngày nó ra đi để làm đám giỗ. Thây kệ, ai quấy ai sai có trời cao đất dày, có nước mây cây cỏ chứng giám. Thằng Bảy kia dù gì cũng là tía của lũ con cô. Bên chồng cô kể từ khi biết nó ăn ở tệ bạc với cô, họ đâm ra thương mến cô. Bởi đó tuy giận nó, cô vẫn không nỡ để lũ con cô quên nguồn cội, tổ tông.
Năm năm qua, một thân đàn bà yếu đuối, cô Hai Nguyện vẫn phải đảm đương mọi việc mưu sinh. Cô mua lúa đem tới nhà máy chà gạo rồi đem gạo ra bán ngoài chợ. Con Trang vừa học xong đệ lục phải bỏ học ngồi trước rạp hát bóng Lạc Thanh bán quà vặt như cốc, ổi, xoài dầm chua, me ngào đường…Con Hiền thì ở nhà coi việc bếp núc, dọn dẹp. Chỉ có thằng Ðức được đi học. Nhờ trời thương Phật độ, má con cô lần hồi đủ ăn. Tối tối Trang đi xuống cầu Cái Cá học nghề luôn áo vắt sổ nơi cô Tám Kim Chi, em kế ba nó. Tới năm ngoái, bà nội nó mua cho nó cái máy vắt sổ để nó trả góp. Nhờ luôn áo khéo, vắt sổ tính giá phải chăng nên nó có khá nhiều khách hàng.
Năm nay con Trang mười tám, sáng đẹp như trăng rằm. Con nầy lanh lợi, biết phải quấy, ăn nói mực thước, lớp lang nên được lối xóm mến yêu, bạn bè trang lứa nể nang. Còn con Hiền mười lăm tuổi mà khờ khạo lắm! Nước da nó trắng hơn con Trang, vóc vạc thanh cảnh, thân hình đã bắt đầu dậy mẩy. Chiều chiều nó ưa mượn cáo quần xăng-đầm của cô Hai Nguyện mặc vào rồi kéo quần lên tới ngực buộc chặt, nhảy xuống cái đìa bên hông nhà tắm lội đùng đùng như cù dậy. Một hôm ngủ đêm sáng dậy, nó thấy máu từ quần loang ra ướt mền, ướt chiếu, nó hoảng hồn gọi cô Hai Nguyện, mếu máo kể lể:” Má ơi, con hay tắm đìa nên chắc đĩa chui vô người con làm ổ, máu me nhểu tùm lum đây nè!” Cô Hai an ủi: “Hễ làm đờn bà con gái, tới tuổi dậy thì là mỗi tháng máu tuôn ra rỉ rả như vậy đó, không sao đâu con”.
Nhìn hai đứa con gái, cô Hai Nguyện tự hào, nhủ thầm: “Tui không được đẹp nên không giữ nổi thằng chồng mắc dịch, bị nó phụ bạc bỏ lăn bỏ lóc. Bù lại, tui được bầy con hiếu hạnh, ngoan ngoãn. Con Trang sắc sảo, con Hiền đoan trang, thằng Ðức siêng năng, tuy giống ông già nó như đúc nhưng thằng tía nó mặt mày dúc dắc, lẳng lơ bao nhiêu thì thằng con nghiêm trang, đằm thắm bấy nhiêu. ° ° ° Từ ngoài đầu ngõ, Trang và Hiền la chói lói:
- Má ơi, ba dìa! Ba dìa má ơi!
Cô Hai Nguyện đang ngồi xắt su hào, vụt đứng dậy, mặt xanh dờn như đờn bà xảo thai. Nhưng cô không nhúc nhích, chơn cẳng như chôn chặt trong đất. Thằng Ðức tưởng má nó chưa nghe kịp, nhắc:
- Ba dìa má à. Ba dìa thiệt mà!
Cô Hai Nguyện vụt tỉnh cơn bàng hoàng, ngây ngất. Thằng chồng ôn dịch của tui về? Nó còn dám vác cái bản mặt chai mày đá về đây làm gì? Tưởng nó chết bờ chết bụi, không bỏ xương trong miệng cọp thì cũng gởi thịt trong bụng sấu rồi chớ! Ai dè nó còn xách đít về đây để tui tức thiếu điều trào máu hoè ra khỏi họng. Cô rít lên:
- Thây kệ mồ nó!
Cô ngoe nguẩy ra ngoài vườn, ngồi trên cây sung gie ra mặt ao. Hừ, thằng khốn nạn Bảy Báu, thằng chồng oan gia của cô, năm năm nay đi theo con Tư Mỹ Huệ, chẳng hiểu nó có phỉ chí trong thú yêư đương, hay bị con dâm nương kia hành thân hoại thể? Hồi nó gây gổ, bỏ cô đi theo con Tư, cô hăm he:
- Mầy đành đoạn bỏ tao mà đi theo bợ đít mấy con thúi thây lầy cốt, mai sau mầy vác mặt về đây là chổi nhúng đường mương, chổi dọn chuồng heo tao sẽ quét mầy ra khỏi nhà, biết chưa?
Tên Huỳnh Kim Báu đã mặt trơ trán bóng, bảo:
Con cá buôi quạt đuôi ra biển Bắc, Bơi dọc lộc ngang, không chắc trở về.
Ôi năm năm qua, ngày ngàyb cô làm lụng đầu tắt mặt tối để kiếm miếng ăn. Ðêm đêm, càng nghĩ tới thằng chồng lòng lang dạ thú kia mà tay chân cô lạnh ngắt, ngực cô nặng trĩu, châu lụy cô tuôn rơi đồm độp:
Cu kêu từng cặp trên cây Tào khương nghĩa nặng, sao mầy bỏ tao?
Ngồi trên cành sung, cô Hai Nguyện lắng tai nghe tiếng lao xao từ trên nhà vọng tới. Có lẽ chòm xóm tới chào hỏi thằng chồng đi hoang của cô đó mà. Xời ơi, họ chỉ biết nó là thằng hàng xóm dễ thương chớ đâu thèm biết tới cái tánh bạc bẽo, ưa thay đào đổi mận của nó! Còn lũ con cô đó, bởi sợi dây huyết thống thiêng liêng, thấy tía nó về là mừng rối rít. Lá rụng về cội mà! Tụi nó quên tưốt luốt cái thói vô trách nhiệm của tía tụi nó, quên lúc tên Bảy Báu bỏ nhà ra đi, bốn mẹ con đổ mồ hôi hột ra vật lộn kiếm miếng ăn, chơn chạy không bén đất. Ðã bao phen đi bán gạo về, thay vì nghỉ ngơi, cô hăng hái ra sở rẩy sau nhà để săn sóc mười luống dưa gang. Tháng bảy âm lịch vừa rồi, cô trúng mùa dưa. Cô bán mớ dưa chín mềm, còn kỳ dư loại dưa cứng cạy, cô bán cho các vựa mắm để họ gài mắm. Vốn là dân làng Tân Ngãi nên cô rất mát tay trồng dưa:
Dưa Tân Ngãi, bự trái dầy cơm, Dẫu mình không nợ, không duơn, Tháng bảy, tháng tám mau chơn trở về
Té ra, Tết nầy chồng cô trở về! Cơn giận làm trái tim cô nhảy ạch đụi trong lồng ngực. Thiệt tình cô Hai Nguyện không oán cô Tư Mỹ Huệ. Cô có bao giờ gặp mặt con tình địch nầy đâu! Nhiều lần cô suy nghĩ, biết Bảy Báu là thứ tham thanh chưộng lạ, hết đèo con nọ tới xọ con kia. Cô đã từng nhiều phen trách ai tham giấy bỏ bìa; khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.. Chồng của cô nếu không dính con Tư Mỹ Huệ vốn là gái điếm chợ Lách, thì cũng rượn theo con Bảy Kim Hoàng ở Cái Nhum, cũng lẹo tẹo với con Mít con Xoài, cũng mê say con Ổi con Lựu nào đó…Trước con Tư Mỹ Huệ, Bảy Báu cũng đã từng cặp xách hết con ngựa bà nầy lại du dương mùi mẫn với con đĩ chó khác. Cô Hai Nguyện đã từng ốm o so bại, mình mẩy mỏng lét, da dẻ xanh chành vì ghen. Ngày tối cô đâu có làm ăn gì cho an ổn được! Cô cứ rình rập để bắt gian phu. Cô hết ghịt tóc lột quần tình đình lại đè đầu đè cổ chồng ngắt véo, đánh vả. Cô phung phí hơi sức chửi bới la rầy chồng tới mỏi miệng rát cổ, ran ngực thốn tim. Chồng cô lúc nào cũng nhịn cô, mặt mày lấm la lấm lét, mắt mũi dớn dác, lơ láo… Vậy mà đời nào nó chừa thói ngoại tình, bỏ tật phong nguyệt cho cô nhờ! Mà cắc cớ thay, ông trời ổng sanh chi cho cô cái tánh lạc lòng. Chồng cô mỗi khi chán mèo hoặc bị mèo đá đít là quay về với cô, dùng giọng kèn tiếng quyển lung lạc khiếng cô xiêu lòng ăn ở với nó, để nó bơm cho cô một cái bầu bự chình ình. Hễ cô vừa đẻ xong là nó đánh lừa đánh đảo cô để đi ve vãn, tò tí mấy con khác rồi quất ngựa chuối bôn đào. ° ° ° Bảy Báu xách chiếc valise bự tổ chảng, tay kia bồng một thằng nhỏ cỡ hơn một tuổi đứng tần ngần trước ngõ. Trang vồn vã:
- Ba vô nhà đi ba, kẻo nắng. Không sao đâu!
Bảy Báu gượng làm tỉnh:
- Ừ, có sao đâu! Nhưng ba nhờ tụi bây năn nỉ má tụi bây dùm ba một tiếng.
Hiền rụt rè hỏi:
- Con của ai đây ba?
Bảy Báu tỉnh tuồng:
- Em của bây đó đa. Ba đặt tên nó là thằng Phước. Má nó chết rồi. Ba vừa làm tuần bách nhật cho cổ hôm qua.
Ðứa nhỏ thiệt dễ thương, mập mạp trắng trẻo. Nó giuơng cặp mắt đen huyền như hai hột nhãn, nhìn hai cô gái rồi cười hịch hạc, thấy thương đứt rưột. Trang sốt sắng:
- Ba đưa em cho con bồng. Vô nhà mau đi ba.
Khi bốn cha con vô nhà thì Hiền đòi bồng em lấy hên rồi hun thằng nhỏ chùn chụt. Trang giằng lấy thằng nhỏ, hun ngay cái nọng của nó, đả đớt:
- Mèn ơi, cưng của chị “Chang” thơm “xữa” quá “chời” quá đất!
Hiền xía vô nựng đứa nhỏ, miệng tía lia:
- “Chắng” gì mà “chắng” như dừa nạo, như bông bưởi vậy nè “chời”!
Thằng Phước nhột quá cười sằng sặc. Chu choa ơi, hoàn cảnh côi cút của đứa nhỏ cùng sợi giây huyết thống đã làm hai cô gái yêu thương đứa em khác mẹ của mình tức thời. Hai cô gái giống mẹ ở chỗ ưa con nít. Ba mẹ con hễ rảnh rang là dạo xóm, thấy con ai cũng bồng, cũng hun hít, cũng nựng nịu. Cô Hai Nguyện ưa làm bánh chuối, kẹo chuối để kêu tụi con nít lối xóm lại ăn.
Thằng Ðức lỏn lẻn nhìn cha rồi nhìn thằng Phước. Vì nhút nhát, nó không dám tới gần để rờ rẫm hun hít, nhưng nó nhìn em nó bằng cặp mắt sáng quắc vì thèm thuồng coi thiệt tức cười. Bảy Báu buông valise ở góc nhà một cái xạch rồi dựa ngửa người trên ghế, hỏi:
- Má tụi bây đâu rồi?
Ðức xớt trả lời:
- Nghe tin ba dìa, má bỏ ra vườn sau rồi. Má cứ bụm mặt khóc ào ào…
Bảy Báu nhìn đứa con trai, ứa nước mắt:
- Ðức lại đây!
Ðức ngoan ngoãn bước lại gần cha. Bảy Báu vuốt ve con trai, ngậm ngùi:
- Thiệt thằng con tui mau lớn quá! Năm nay con ngồi lớp mấy?
Ðức thỏ thẻ:
- Dạ con học lớp đệ thất rồi ba. Con thi nhảy lớp hồi năm ngoái, nghĩa là từ lớp nhứt con thi thẳng một lèo vô đệ thất chớ không cần ngồi lớp tiếp liên.
Bảy Báu đỏ mặt vì ăn năn, hổ thẹn, nước mắt chảy ròng ròng. Sau cùng, anh ta nói vắn tắt:
- Con học giỏi là ba mừng.
Vừa thấy Bảy Báu cà rà trước ngõ, bà Năm Thẹo ở gần bên, cách hàng rào xương rồng, đã lập lờ lập lượn sau cánh cổng để nghe ngóng. Rồi kế đó bà chạy qua nhà thím Năm Én, nhà cô Bảy Ơn rủ họ nhập bọn qua nhà cô Hai Nguyện. Liền sau đó, bà Chín Ích ở đối diện nhà bà Năm Thẹo cũng lạch bạch bước qua, miệng ong óng:
- Bây chờ tao đi với chớ!
Bà Năm Thẹo tuôn vô nhà cô Hai Nguyện trước hết, cười ỏn ẻn:
- Nghe thằng Bảy mầy dìa nên tao rủ chị Chín với mấy con lủng, con lành qua thăm.
Bà Chín Ích nhìn thằng Phước trầm trồ:
- Chèn ơi, thằng nhỏ giống cháu Bảy quá chừng chừng!
Cô Bảy Ơn nói:
- Thiệt tình, chị Bảy khi khổng khi không có thằng con dễ thương quá!
Thím Năm suýt soa:
- Tui nghĩ rằng ông trời thương chị Bảy nên Tết nầy ông lì xì cho chỉ đứa con trai nầy. Con Trang, con Hiền, thằng Ðức đều thua nó màu da trắng.
Phút chốc chòm xóm bu tới, ồn ào bàn tán. Cô Hai Nguyện từ ngoài vườn bước vào, mặt trắng bệch như sáp, mắt chau quảu ngút lửa. Cô hét:
- Ai vào đây làm giặc, nổi loạn đó vậy?
Bảy Báu làm tỉnh, đứng dậy:
- Qua đây, em Hai. Bảy Báu, chồng của em dìa ăn Tết với vợ con đây!
Cô Hai Nguyện xáng cho chồng một cái nhìn sấm sét:
- Báu nào? Báo đời, báo hại chớ quí báu gì nà! Mà thôi, nhà tui là nhà mần ăn, không chứa cái phường mèo mả gà đồng, cái quân mèo đàng chó điếm, thầy nghe chưa? Thầy làm ơn xách gói đi chỗ khác, chỗ nào có mấy con dâm phụ chuyên môn cướp giựt chồng người. Thầy còn nấn ná chần chờ thì tui sẽ lấy chổi quét cứt gà, chổi tẩm cứt heo quét thầy xuống đường mương cho thầy coi.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 9:59:53 GMT 9
Bảy Báu nhăn nhó:
- Tội nghiệp qua lắm mình ôi. Mình hãy cho qua phân giải đôi lời.
Cô Hai Nguyện nhảy đong đỏng:
- Thầy đã phân giải nhiều lần rồi. Tui cũng đã lạt lòng nhiều quá rồi. Không mình không đầu gì nữa hết! Thầy hãy cuốn gói cho lẹ để mẹ con tui ăn Tết.
Nói được những tiếng thô nhám như đá ong, cứng nặng như đá xanh đó, cơn giận cô hạ xuống, rút biệt một cái rột như nước lọt qua miệng cống.
Bà Năm Thẹo tằng hắng can:
- Thôi cho tao can đi! Mầy cũng để cho thằng chồng mầy phân bua phải quấy đôi lời chớ! Hễ nó vừa mở miệng là mầy nạt nhào thì còn non nước gì!
Thím Năm Én khuyên:
- Hai, em phải nghe lời bác Năm, bác Chín. Chị cũng can em. Bổn phận làm vợ là phải nể nang, ngọt dịu với chồng. Nó dẫu ăn ở quấy với em thì có trời cao chứng giám, có bà con láng giềng chê cười nó. Nhưng nếu em mà gay gắt với nó quá thì té ra em cũng quấy theo nó hay sao? Gắt quá thì nó nổ đa em! Hễ mọi sự nổ tanh banh tét bét thì mụ nội ai mà hàn gắn lành lặn như xưa?
Cô Hai Nguyện quét mắt qua khắp bà con hàng xóm láng giềng. Coi bộ ai cũng có ý binh vực thằng chồng dâm bôn bạc bẽo của cô. Cô nhìn con Hiền bồng đứa nhỏ. Mèn đéc ơi, thằng nhỏ coi giống hịt thằng Bảy Huỳnh Kim Báu quá trời quá đất! Nó ngó cô, hả miệng chim dòng dọc ra cười hịch hạc, bày cái nướu màu hồng tươi vừa nhú mấy cái răng sữa lùn tịt. Chèn ơi, nụ cười nó giống nụ cười tía nó quá chừng chừng! Bởi nụ cười đó mà hồi mười tám năm về trước, cô lén ăn cắp tiền bạc vòng vàng của tía má cô để đi theo tiếng gọi của trái tim. Trái tim cô lúc nào mà chẳng dại dột! Nụ cười đó đã từng hóa giải tủi hờn, căm tức nơi cô mỗi khi thằng Bảy Báu bị mèo đá xất bất xang bang bò về. Cô Hai Nguyện hét:
- Con cái ai đây?
Bảy Báu ấp úng:
- Thì…nó là con của…qua. Qua bồng nó về đây cho em nuôi làm phước.
- Ê, đùng có giỡn nghe cha nội! Cây không trồng, lòng không tiếc; con không đẻ, mẹ ghẻ không thương
Cô Bảy Ơn khuyên lơn:
- Chị Bảy, em khuyên chị bớt nóng. Thiệt tình chị nóng cũng phải, chẳng ai dám trách chị chút nào. Anh Bảy bậy quá, sái quấy lung lắm . Em mà ở vô hoàn cảnh chị, em cũng giống như chị vậy, cũng tức bể ngực rồi hộc máu cả chậu cả vịm chớ không vừa. Nhưng mà xin chị suy cho cùng, nghĩ cho cạn. Nếu chị nóng quá mất khôn, làm cho gia cang xào xáo thì tụi nhỏ khốn đốn, gẫm có ích lợi gì đâu! Xin chị cho ảnh ăn năn chuộc tội.
Cô Hai Nguyện rống lên khóc:
- Ðây đâu có phải lần đầu nó vác mặt mo mặt thớt về đâu? Tui nuôi nó lúc nó thất cơ lỡ vận để rồi khi sung sức mập thây, nó xách đít đi đép bậy cho ốm o so bại, thân tàn ma dại rồi mới trở về. Một lần, hai lần thì còn bỏ qua được, chớ lần nầy thì nhứt quá cửu, quá thập rồi chớ đâu phải quá tam! Nó đội vàng cả thúng, hột xoàn cả tráp về đây tui không ham nữa là!
Bà Chín Ích xía vô ỉ ôi:
- Con vợ thằng Bảy nè. Con phải nghe lời má Chín lần nầy. Chồng con trở về đây tốt tươi phi mỹ chớ không te tua bèo nhèo, không rách rưới đói khát. Nó ăn bận như thầy thông thầy ký ở đất thầy-gòn đó con. Nó về đây chắc có duyên cớ gì đó chớ không phải mong nhờ hột cơm của con đâu! Vợ chồng bây có thể hiểu nhau, chớ người ngoài làm sao tỏ tường trong đục! Vậy con gắng nuốt giận, nghe nó cạn phân bày giải. Má Chín khuyên con đùng tỏ ra lấn lướt với kẻ lép vế, thất thế hơn mình. Không nên đâu con!
Thấy chưa? Chỉ vừa thấy thằng nhỏ mà coi bộ bà con lối xóm đều ngã rạp về phía tên Bảy Báu hết trọi. Họ thấy đứa nhỏ mồ côi mồ cút chớ họ làm sao thấy lúc cô canh khuya trằn trọc, tủi phận bị chồng chán, chồng chê, não nề lo gánh mưu sinh cho bầy con dại? Té ra tên Bảy ó đâm nầy sanh ra để được thương yêu dung thứ. Còn cô sanh ra để làm nạn nhơn của nó cho tới tim bảy lỗ héo khô, gan bảy lá héo hắt mà người ngoại cuộc đương thèm biết tới.
Bỗng đứa nhỏ bị con Hiền ôm chặt khóc ré lên. Thằng Ðức vụt chạy lại ôm tía nó, khóc rống:
- Ba ơi, ba đừng đi đâu hết! Má ơi, má đừng để ba bồng em cho bà phước xóm đạo nghe má! Em con dễ thương quá má à!
Mấy bà lối xóm cùng khóc ngon khóc ngọt theo thằng Ðức. ° ° ° Khi lối xóm về hết, cô Hai Nguyện xuống bếp bắt con cá lóc rọng trong vịm rq cạo vẩy. Cô hỏi Trang:
- Tía mầy đâu rồi?
- Ông Năm Thẹo mời tía qua cụng ly bên bển rồi.
- Còn con Hiền đâu?
- Nó bồng thằng Phước qua nhà thím Năm Én mượn cái bình sữa và núm vú cao su.
Cô Hai Nguyện trề môi:
- Tía mầy là thứ đờn ông hư thúi. Vừa về tới nhà là liệng va-ly cái xạch nên bình sữa mới bể hai bể ba như vầy….
Bảy Báu chỉ dám nhậu sương sương với ông Năm Thẹo rồi lật đật trở về nhà kẻo vợ quở, vợ rầy. Cô Hai Nguyện và Trang lo nấu, dọn cơm trưa. Cô dặn cô trưởng nữ của minh:
- Con lên nhà trên mời tía con rửa mặt, thay đồ mát đi. Cơm nước xong, con nhớ gói bánh tét, bánh dừa để tối nay má luộc. Chút nữa má ra chợ Vãng mua bình sữa, xà bông, khăn lau,thau chậu cho thằng Phước.
Hiền mượn được bình sữa, bồng em về nhà. Cơm canh chưa xong nhưng cô Hai Nguyện đã dọn chén, bày bàn sẵn. Cô rửa tay sạch sẽ, bồng đứa nhỏ. Thằng nầy dễ thương thiệt mà. Cô vừa bồng nó là nó rúc đầu vô ngực cô làm cô bồi hồi xúc động. Nó lại cười tít toát, thấy ghét hết sức! Nhưng cô Hai Nguyện chưa hun nó liền đâu. Cô tự hỏi mình có thể yêu thương nó thiệt tình không? Cô chưa biết mặt má nó lần nào. Cô chỉ có thể hình dung má nó qua khuôn mặt của những tình địch khác: mắt con nầy, mũi con kia, tóc tai con nọ, hình vóc con khác nữa…Mà lạ dữ! Thiệt tình cô chẳng ghét con nào hết. Bao nhiêu việc oan trái cũng do cái tánh chuộng trăng hoa, ưa đào đĩ của tên Bảy Báu mà ra. Nếu nó không có tâm địa uốn éo ruột rồng, lòng vòng ruột rắn, lắn quắn ruột dê thì chẳng có con nào có thể nhảy vào cuộc sống lứa đôi của cô để ăn mót hoặc cướp giựt hạnh phúc của cô được hết. Bởi chồng cô già không bỏ, nhỏ không tha, tươi như hoa nó liền mê lú, xấu như ục cú nó cũng say sưa…như vậy thì con đờn bà nào cũng có thể để nó dê, nó nịch ái ráo trọi. Nhưng mà trời ơi, dù cô đã khóc cả thùng, cả thau, cả xô nước mắt vì sự bạc bẽo của chồng, nhưng lòng cô vẫn sẵn sàng dọn một chỗ tha thứ đợi nhày nó trở về.
Trang làm bình sữa xong, đem lại mẹ. Cô Hai Nguyện cho thằng Phước bú. Và khi bình sữa chưa cạn thì nó đã ngủ khò, miệng thỉnh thoảng mỉm cười. Cô Hai Nguyện đặt nó lên vạt tre trải chiếu đậu, rồi đắp mền mỏng lên tận ngực nó. Thằng Ðức cứ cà rà bên em ngắm nghía, lâu lâu hun lên đôi má măng sữa của nó.
Bảy Báu rửa mặt chải đầu, thay đồ mát xong. Biết là vợ bớt cơn thịnh nộ, anh ta giả bộ ra sàn nước rủa chơn rồi mang guốc lóc cóc tới bên vợ nói nhỏ:
- Mình! Bảy Huỳnh Kim Báu, chồng mình dìa với mình đây nè, mình.
Cô Hai Nguyện quắc mắt khi thấy Bảy Báu chờn vờn muốn ôm mình:
- Anh chớ rớ tới tui. Anh mà xáp lại gần là tui tri hô anh muốn ám sát tui, nói cho anh biết.
Bảy Báu tha thiết:
- Mình ôi, anh dìa đây là quyết lòng trụ luôn bên mình cho tới mãn đời suốt kiếp. Anh đã chán ngán việc mèo đàng chó điếm rồi. Khi má thằng Phước lâm chung có dặn anh quay về với mình vá bắt anh thề dứt bỏ chuyện én anh, ong bướm để tạo dựng nghiệp nhà.
Cô Hai Nguyện trề môi:
- Nói dóc! Con Tư Mỹ Huệ đó mà kể số gì tới tui. Ðừng có xạo nghe cha nội! Con này ăn cơm bảy phủ, dạo đủ khắp nơi, nó đâu có khờ như anh tưởng!
Bảy Báu giọt dài giọt vắn:
- Má thằng Phước không phải là cô Tư Mỹ Huệ đâu!
Cô Hai Nguyện chưng hững:
- Ủa! Vậy chớ con nào?
Bảy Báu kể vắn tắt:
- Khi qua đưa cô Tư Mỹ Huệ lên Tân Châu lập nghiệp thì cổ tình cờ gặp lại thằng chồng cũ. Ông bà mình thường nói : “Vợ chồng cũ không rũ cũng tới” nên cổ đành đoạn bỏ qua để về với thằng cha đó. Cả hai dắt nhau qua Hồng Ngự mần ăn. Riêng qua thì dẫu gặp cảnh xất bất xang bang thì cũng không còn mặt mũi nào về với mình. Qua nhờ nghề chích dạo kiếm ăn rồi gặp má thằng Phước tức cô Hai Lành con gái thầy Hương quản Nên…Cổ làm cô mụ vường mát tay lắm, tiền kiếm bộn bàng nhưng duyên số hẩm hiu nên mãi ba mươi ngoài mà cổ còn ở vá. Cùi mít trôi lên gặp cùi thơm trôi xuống, cả hai gá nghĩaq bậy với nhau mà ăn nên làm ra. Bởi qua xử tệ với mình nên trời không cho qua hưởng trọn cảnh êm ấm với cô Hai Lành cho tới mãn kiếp. Ðẻ thằng Phước xong một tháng là cô Hai đau dây dưa gần một năm rồi nhắm mắt qua đời…
Món canh chua cá lóc với bạc hà do Trang nấu ngon dễ sợ. Trong bữa cơm trưa hôm đó, Bảy Báu hỏi han vợ con đủ thứ.
Hiền mặc cái áo lụa màu hoàng yến, đeo sợi giây chuyền bướm lóng lánh, dịu dàng bảo mẹ:
- Má cứ ở nhà hủ hỉ với ba, con đón xe ngựa ra chợ Vãng mua sắm vật dụng cho thằng Phước. Con có nấu nước bồ kết và hái chanh cho má gội đầu.
Cô Hai Nguyện ôn tồn:
- Con nhớ mua phấn trị sảy, xà bông thơm, rượu chổi cho em con. Về sữa, con nhớ mua sữa hiệu Con chim chớ đừng mua hiệu khác. Nhớ mau về nghe con. Má cần đủ thứ bộ vận để tắm rửa cho nó.
Khi thằng Phước thức dậy, thằng Ðức giành bồng em đi dạo xóm. Cô Hai dặn dò:
- Nhớ đừng bồng em ra chỗ nắng nôi, gíó máy mà nó ấm đầu sổ mũi nghe hôn con!
Rồi cô dặn Trang:
- Con Trang nhớ làm gà nấu cháo và trộn gỏi bắp chuối để ba con rước ông bà về ăn Tết với con cháu. Tối nay con nhớ ủi quần áo cho cả nhà. Cúng tất, hạ nêu xong, má sẽ đi chuộc bùa trừ tà tróc quái cho em con ăn chơi, mau lớn.
Tết nầy cô Hai Nguyện mua xấp lụa cẩm vân màu cánh sen, xấp lụa hồng đào để may áo dài cho Trang. Cô mua xấp cẩm nhung màu hoàng yến và xấp nhiễu tím may áo dài cho Hiền. Còn thằng Ðức, cô sắm cho nó chiếc quần tây bằng nỉ xám, áo sơ-mi trắng bằng tít-so và đôi giày xăng-đan.
Sực thấy chồng cứ theo tò tò bên mình, cô hỏi:
- Còn ông tía non nầy, ông uống trà hay ưống cà-phê thì nói một tiếng cho tui biết để tui làm?
Bảy Báu cười mơn:
- Mình cho gì thì uống nấy.
Cô Hai Nguyện nguýt chồng rồi lủi xuống bếp, lầu bầu lẩm bẩm:
- Cái thứ trời đánh thánh đâm như anh, uống nước cống, nước đường mương mới đáng, ở đó mà uống cà phê, uống trà…
Nói vậy, nhưng cô vẫn pha một tách cà phê cho chồng và không quên pha thêm một bình trà Xiểu Chủng.
Xế xế, cô Hai Nguyện gội đầu bằng nước bồ kết vàn nước cốt chanh tươi. Hôm nay là ngày ba mươi tháng chạp, cô Hai Nguyện theo thường lệ, tắm rửa và gội đầu để xả xui.
Bữa cơm chiều, vì để mừng ngày phu thê tái hiệp, cô Hai Nguyện làm thêm vài món nhậu tươm tất cho chồng như nem cá cơm ăn với thịt phay, bún, rau sống; như gỏi sứa tôm thịt…
Tối hôm đó, Trang và Hiền tình nguyện thức canh nồi bánh tét, bánh dừa cùng nồi luộc đầu heo, lòng heo.
Vợ chồng lâu ngày tái hiệp, ân ái thiệt mặn nồng. Thằng Ðức nằm ngủ ở vạt tre kê giáp tấm vách ngăn buồng cô Hai, nửa đêm thức giấc, nghe tiếng lào xào của cha mẹ.
Tối hôm nay, cô Hai Nguyện mặc chiếc áo bà ba lụa tím, quần lãnh trơn cặp lưng bằng nhiễu màu hường cánh sen, chơn đi guốc sơn đen. Khi cô ra ngoài trung đường thắpnhang, cúng nước trở vào thì thấy Bảy Báu mở valise lôi ra một cái gói vuông bọc mo cau. Anh ta mở gói, bày những phiến vàng lá, bảo vợ:
- Bốn chục lượng vàng đó. Xứ Tân Châu dễ làm ăn hơn ở đây nhiều. Qua tặng mình hết để làm vốn, đặng cho hai đứa con gái mình rảnh rang kiếm cách học thêm.
Cô Hai Nguyện nhìn sững chồng rồi gói vàng lại, cẩn thận cất vô tủ. Cô nhỏ nhẹ:
- Mình cứ ngủ đi. Em sửa soạn cúng giao thừa đây.
Giao thừa tới. Pháo chuột, pháo tre hàng xóm nổ vang. Thằng Phước giật mình khóc ré. Cô Hai Nguyện cúng kiếng xong, lại bồng nó, dỗ nó ngủ lại. Bảy Báu ăn mặc chỉnh tề, bước ra phòng khách, bảo vợ:
- Mình kêu sắp nhỏ ăn mặc đàng hoàng để mừng tuổi vợ chồng mình.
Bảy Báu lì xì cho Trang chiếc kiềng chạm, cho Hiền chiếc kiềng trơn kèm chiếc nhẫn nhận hột cẩm thạch hình hột dưa. Thằng Ðức thì được chiếc đồng hồ đeo tay.
Trước khi xuống bếp vớt bánh tét dừa đặt vào rổ cho ráo nước, Trang hỏi mẹ:
- Năm nay con gì ra đời vậy má?
Cô Hai Nguyện trầm ngâm:
- Má chẳng nghe con gì ra đời hết! À, lúc giao thừa, em con giựt mình khóc om sòm. Vậy là con trống ra đời đó. Con trống nầy tên Phước, tức nhiên nó đem phước tới cho nhà mình.
Khi trở về buồng, Bảy Báu ôm chặt vợ vào lòng. Anh ta thấy giờ đây vợ mình mặn mòi quá cỡ, môi má đỏ au chớ không xanh xao như chầu xưa. Anh ta ứa nước mắt:
- Kiếp trước chắc anh tu kỹ nên kiếp nầu được trời ban thưởng cho một người vợ hiền như mình.
Cô Hai Nguyện nguýt:
- Xạo vừa vừa chớ! Em đã bao phen bầm dập bởi lời ỏn thót của mình rồi. Mình về đây được…
Cô toan nói rằng mình về đây được ngày nào là em mừng ngày đó, nhưng cô ngưng ngang vì đó là câu nói gở, gây điềm xuì xẻo. Cô nằm bên chồng, cất giọng ngọt lìm lịm:
- Ra giêng, mình nhớ đem hình má thằng Phước hoạ lớn để thờ. Em muốn vong linh má nó theo phù hộ cho nó mạnh khoẻ, ăn chơi….
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 10:03:13 GMT 9
Ngôi Nhà Của Người Vợ
Cặp vợ chồng Hoa và Hiền dưới mắt bà con họ hàng, dưới mắt hàng xóm láng giềng, không hể gọi là giai ngẫu được. Hôm lễ rước dâu, dì Út của Hoa nới với họ hàng :
- Chú rể không xấu trai, nhưng con người y sao mà lạt lẽo như cơm nguội! Cặp mày y ta rậm mà vàng vàng như dính đất sét, tóc y ta cũng vàng, dơ dơ lem luốc. Da y trắng bủng trắng beo như da bụng con thằn lằn, như da con cá cơm, cá khoai vậy!
Khi cô dâu về nhà chồng, lũ em chồng cùng mấy đứa em bà con cũng tùng tam tụ ngũ để nói hành nói tỏi :
- Ðờn bà gì mà hàm vuông, cằm vuông, miệng rộng! Con mẻ mà hả miệng ngáp, con cá bông bự bằng cườm tay phóng vô cũng lọt tuốt.
- Chị dâu tui tuy cao lớn, nhưng tui biết đâu là thứ đờn bà xuơng nhiều thịt ít. Mí mắt mụ nặng nề như mui xe đề-ca-bô-táp.
- Tướng cô dâu cứng ngắc cứng còng. Ðã vậy mà tiếng nói còn khao khao, kháp kháp như tiếng vịt xiêm…
Ðám cưới của Hoa và Hiền cử hành vào thời chiến nên hai bên đàng trai đàng gái cố làm đơn giản tối đa. Chàng là đại úy cảnh sát, nhà ở tận Lộc Ninh. Còn ngôi nhà từ đường của nàng ở tận làng Tân Ngãi thuộc tỉnh Vĩnh Long. Hiền làm việc tại ty cảnh sát Phú Lâm, còn Kim Hoa thì dạy học tại trường tư thục Xóm Gà. Hôm đám cưới, ông bà suôi gái từ Tân Ngãi lên Xóm Gà. Còn phần Hiền thì cha mẹ đã qua đời từ lâu nên người chú họ chàng đứng ra chủ hôn. Hiền mãi bốn năm sau mới về thăm ngôi nhà từ đường bên vợ. Còn Kim Hoa kể như chưa về thăm nhà chồng lần nào. Mãi cho tới ngày định bỏ Việt Nam vượt biên, nàng mới theo chồng về thăm Lộc Ninh, nhưng nhà đã bị dội bom sập nát, chỉ còn cái nền đất cỏ mọc rậm rịt, kèo cột đã được em gái Hiền giỡ đi.
Dù là không phải giai ngẫu, nhưng ai cấm vợ chồng Hiền yêu nhau rất mực? Hồi còn là học sinh trường Cao Tiểu Vĩnh Long, dù không ưa xi-nê, ca kịch nhưng Hiền chiều ý lũ bạn đi xem phim Giai nhơn và Ác quỷ (La Belle et La Bête) do Jean Couteau đạo diễn. Chàng hoàng tử bị mụ phù thủy trù rủa nên biến thành ác quỉ mình người mặt nửa cọp nửa sư tử. Mụ phù thủy cho biết, nếu có cô gái nào yêu chàng ta hết lòng hết dạ thì chàng ta sẽ trở lại hình người như xưa. Và quả vậy, về sau khi chàng được một cô gái đẹp, hiếu thảo, hảo tâm thương yêu, chàng đã trút bỏ đuợc lớp dung mạo xấu xí kia.
Cuốn phim đã làm Hiền suy nghĩ nhiều. Nó mang một ẩn dụ sâu sắc. Hễ mình thương yêu ai thì người đó dù xấu xí gớm ghiếc thế nào đi nữa, cũng trở thành xinh đẹp dưới mắt mình. Cái đẹp thật sự không hẳn ở nét tạo hình mà còn do sự chiêu cảm của người ngắm. Xấu với người, đẹp với ta mà lại! Bởi vậy ông bà mình mới có câu : Ra đường lượm cánh hoa rơi, hai tay nưng lấy cũ người mới ta.
Sau ngày cưới, Kim hoa rủa thầm mấy con em họ, mụ dì Út của nàng một cách tức tối. Chồng « người ta » như vậy mà họ chê lạt chê trơ. Thử đem ba, bốn tên kép hát bóng mà đổi coi nàng có thèm không! Trong đêm tân hôn, Kim Hoa đã được ngắm một tấm thân mảnh dẻ nhưng săn chắc và những điều quyến rũ mà chỉ riêng mình nàng thầm biết khiến nàng quên đi cặp chưn mày vàng vàng cùng màu tóc dơ dơ, luốc luốc của chàng.
Còn Hiền dù biết vợ mình nhiều xương ít thịt, cứng ngắc cứng còng, nhưng chàng hơn thiên hạ ở chỗ được áp lên tấm thân đó để tận hưởng làn da mát rượi của nàng. Chàng cũng như bao nhiêu người khác, thường nghe Kim Hoa cà khịa với lũ bạn đồng nghiệp, cằn nhằn bà láng giềng thiếu nợ nàng đã lâu mà không chịu trả, mắng mỏ con tới gái ăn ở bầy hầy. Ừ, giọng nàng khao khao kháp kháp thiệt đó, nhưng trong lúc đầu ấp tay gối, giọng nói ấy sao mà mềm dịu, ấm áp lạ lùng, làm cho chàng đôi lúc ứa nước mắt vì cảm xúc.
Thiệt ra, trước ngày đám cưới, Hiền và Kim Hoa chỉ mới chuyện vãn với nhau đôi ba lần. Kim Hoa năm đó 27 tuổi, lứa tuổi mà các cô gái cảm thấy mình bắt đầu lỡ thời. Còn Hiền vì ít nói, và nói ra lời gì cũng đều lạt lẽo nên bị gái chê. Chàng để ý tới ai cũng bị kẻ đó lạnh lạt, chàng đi dạm hỏi đám nào cũng không xong. Nếu không có thằng bạn chí thân của chàng vốn là anh chú bác Kim Hoa trổ tài làm mai thì chắc Hiền còn lâu mới kiếm được vợ.
Ăn ở với nhau được một mụn con gái đầu lòng sau hai năm lễ cưới. Kim Hoa đã khám phá thêm một điều kỳ diệu ở chồng. Ðâu phải Hiền ăn nói vô duyên! Chỉ tại chàng nhút nhát, có mặc cảm mình vụng về. Bởi đó chàng ưa ngậm miệng hến, khép miệng sò và ưa nói vắn tắt tiếng một, ngắn gọn đến mức cộc lốc. Nhưng với Kim Hoa, Hiền hết lòng tin cậy nên chàng không nhút nhát. Chàng còn có thể diễn tả những gì chàng suy nghĩ một cách thoải mái , trơn tru. Cái nheo mắt của chàng mới tếu và có duyên làm sao! Cái nụ cười hóm hỉnh của chàng mới dễ thương nhức nhối, tươi rạng thần sầu!
Một bận, có cô chị bạn dì và cô em của Kim Hoa lên Sài gòn mua sắm. Dĩ nhiên là Kim Hoa mời họ về nhà ở cho tới lúc họ khăn gói quả mướp trở về Vĩnh Long. Trong bửa cơm đầu tiên, Hiền hỏi Ngọc Thanh, cô chị bạn dì của vợ :
- Nghe nói ở miệt chị có chim quay, ốc gạo, xoài cát, ổi xá lỵ ngon lắm?
Ngọc Thanh vốn nghe đồn tên quan ba cảnh sát nầy ít nói, nay nghe hắn hỏi, nàng trả lời thôi liên tu bất tận. Thỉnh thoảng nàng quay qua hỏi Kim Lan, em ruột Kim Hoa để cô ả có dịp góp chuyện cho vui. Hiền yên lặng ngồi nghe, cặp mắt trơ trơ, không hưởng ứng mà cũng không tỏ vẻ thờ ơ, chán ngán. Sau cùng, Hiền bảo :
- Tôi vốn quen sống ở vùng miền Ðông đất đỏ nên không thích chốn đồng bằng lầy lội, làng nầy qua làng kia bằng tam bản, xuồng ghe…
Lời kể của khách thì hăng hái, tràn ngập hứng thú, nhưng chủ lại kết một câu chát ngắt, mặn lè, như một cái xô thô bạo làm người kể té ngửa. Câu nói của Hiền chẳng những làm Ngọc Thanh và Kim Lan cụt hứng mà còn vét nạo hết mớ tình cảm vốn ít oi, phơi phới của họ đối với chàng.
Khi không có mặt Hiền, Kim Lan mè nheo chị :
- Ðấng trượng phu của chị ăn nói có duyên quá nên không đủ tiền mà thưởng. Ai coi…
Chu choa ơi! Con mén Kim Lan tuổi tuy còn nhỏ, nó khờ chuyện gì không biết chớ về chuyện buộc tội kẻ khác, nó hay thần sầu.
Ngọc Thanh bảo Kim Hoa :
- Thằng đực của mầy nên đọc tiểu thuyết cho nhiều, đi coi hát bóng, cải lương cho thường để tập ăn, tập nói, tập cư xử với đời.
Cũng một hôm, hai ả nằm ườn xác trên gác ngủ trưa. Hiền từ Phú Lâm lái xe về, than ể mình.. Kim Hoa lấy thuốc cảm cho chồng uống. Không ngờ Ngọc Thanh, Kim Lan ở trên gác, Hiền kể cho vợ nghe đủ thứ chuyện. Chàng khen Ngọc Thanh có kiến thức rộng ở chỗ cận nhơn tình chớ không phải chỉ là thứ kiến thức thu thập ở sách vở. Hiền còn bày tỏ quan niệm sống của mình : « Ậy, ở đời mà em! Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị! Nhưng tới lúc cao nhơn bậc chót không còn cao nhơn nào hơn nữa thì tới phiên tiểu nhơn trị cao nhơn bậc chót đó. Con voi sợ con chuột là do lẽ đó. Còn con rít tối độc mà nhè lại sợ con gà. Gà trống gáy là nó chết đứng. Gà mái cục tác là nó bại liệt chưn cẳng hết bòn nổi… » Hoặc «Ðời mà em! Kẻ thích ăn mì, người thích ăn hủ tiếu. Có người ăn đủ món ngon vật lạ, lại quay qua thèm mắm nêm, mắm ruốc, ba khía, cá mòi… »
Khi Hiền lái xe trở lại sở thì Ngọc Thanh và Kim Lan tuột xuống gác. Ngọc Thanh tấm tắc :
- Mèn ơi, ai mà dè thằng đực của con quỉ nầy gáy lảnh lót, mà gáy hay nữa. Nãy giờ tui ở trên gác mắc tiểu cứng bọng đái mà tui đâu dám tuột xuống đi tiểu, sợ làm nó cụt hứng nên tui rán nhịn, mệt muốn xỉu vậy đó.
Kim Lan trầm trồ :
- Mới nãy ảnh có nói tới cái áo dài bằng soie Pháp màu cam của em. Ảnh khen nó hợp với màu da nâu hồng ánh nắng của em.
Ngọc Thanh nguýt :
- Bộ nó chê tao hay sao? Nó khen tao lịch duyệt, cận nhơn tình thế thái, khen đủ thứ, có con vợ nó làm chứng. Mèn ơi, ai mà dè nó ăn nói ngọt như bưởi Biên Hoà, như mía Gò Mây, như quít chợ Lách vậy chớ!
Ðó rồi Ngọc Thanh lẫn Kim lan xúm lại ca tụng Hiền. Kim Lan chót chét :
- Ảnh độ rày o bế tóc tai nên tóc ảnh dầu luốc luốc vàng vàn mà vóc lại mịn bóng. Tóc nhỏ sợi chỉ cần bóng lên một chút là đẹp ngay.
Ngọc Thanh lại véo von :
- Da thằng Hiền bắt nắng coi nâu hồng ấm áp chớ đâu có trắng bủng trắng beo như dì Út thường chê.
Kim Hoa đắc chí lắm. Nàng biết nàng có tật hay xạo đía, nói ra lời gì cũng chẳng ai thèm tin nên hôm nay, tình cờ mà nàng có cơ hội chứng tỏ rằng chồng mình có kiến thức, hoạt bát, biết ăn nói. Nàng biết thế nào khi về Vĩnh Long, hai ả Ngọc Thanh và Kim Lan sẽ đồn rùm chuyện tốt đẹp cho chồng nàng. Bởi đó, nàng thết món ngon vật lạ cho cả hai : nào là cá lóc nướng, tôm càng nướng cuộn rau sống bánh tráng, nào cá ngừ kho ớt bột ăn với bún, rau sống, nào là cá thu Phan Thiết ăn với bún, thịt luộc…
Quả thiệt, khi Ngọc Thanh và Kim Lan về Vĩnh Long chừng mười bữa là Lân, em trai Kim Hoa, gởi thơ lên Sài gòn cho biết : « Bà Ngọc Thanh lẫn mụ Kim Lan kẻ thì nổi danh đạo chê, người vốn hà tiền lời khen, kỳ nầy đi Sài gòn về khen anh Hiền đủ thứ làm má tụi mình mát lòng hởi dạ, lá gan nở bằng cái vịm, mũi nở lớn cỡ trái mận hồng đào. Họ còn khen chị lúc nầy mập đẹp, tướng tá mềm mại cao sang như mệnh phụ, đúng là tướng vượng phu ích tử. Nay mai anh Hiền lê lon, chị sẽ làm bà quan tư rồi nếu khép giao thiệp, ảnh sẽ được làm trưởng ty cảnh sát, vẻ vang vô cùng… »
Kim Hoa nhờ uống dầu gan cá thu và mỗi tuần nàng đều khỉa rượu có pha huyết gà trống đều đều nên bớt ốm, bớt khô khan. Hễ mập ra một chút là da nàng mởn ra, tươi mát hơn lên. ° ° ° Trong năm đầu tiên, Hiền me vợ ở cách ăn nói. Chàng cũng nhận thấy vợ mình có đôi mắt bụp quá, như sưng sưng và mí mắt lại dầy. Nàng đẻ một lứa con, cặp mắt đó đã hết bụp nhưng mí mắt trở nên nặng nề. Cặp mắt đó lúc nào cũng dửng dưng với mọi người. Vậy mà khi nghe chàng nói chuyện, cặp mắt đó hưởng ứng say mê nhiệt thành, sáng kỳ dị lại ươn ướt vì cảm xúc. Lúc đó, cặp mắt Kim Hoa trở nên đẹp vô ngần, nhưng khi rời chàng ra, cặp mắt đó trở về vẻ buồn ngủ thờ ơ cố hữu. Ngay trong đêm tân hôn, dưới ánh đèn có cái chụp màu ngà trên bàn đêm, cặp mắt đó sáng ngời ngợi, đắm đuối kỳ dị. Chính chúng giúp Hiền thêm can đảm để không cần phải giấu giếm chút gì trên thân thể mình trước mắt vợ. Chúng còn giúp chàng yêu tất cả mọi khuyết điểm trên thân thể vợ. Nhưng mà ngẩm cho cùng, thân thể nàng chỉ hơi cứng trong chiếc áo dài may không được khéo, chứ nó có nhiều ưu điểm mà chỉ riêng chàng biết : cặp đùi thon chắc, khúc eo thật nhỏ, bộ ngực vừa phải và xinh xắn, đôi mông tròn trĩnh. Và khuôn mặt nàng trong phút đam mê chất ngất sao mà đẹp! Nét gãy ở lưỡng quyền như bị xoá đi bởi màu hồng chói lọi trên da mặt, khuôn mặt nàng như mềm xuống, dịu dàng…
Nhưng Hiền vẫn biết vợ mình đía và xạo. Cái miệng nàng chót chét, véo von không lành da non. Trước hết, nàng khoe ông nội nàng là đốc phủ sứ, có ruộng cò bay thẳng cánh ở vùng Lộc Hoà, Phước Hậu, tỉnh Vĩnh Long. Nàng tả ngôi nhà từ đường nào là cột kèo bằng gỗ căm-xe có chạm trổ tuyệt khéo, nào là nền nhà đúc bằng đá da qui cao tới ngực và nền nhà lót gạch bông.
Bằng một giọng sôi nổi, Kim Hoa bảo :
- Ông nội em đời nào sắm bàn ghế, đi-văng bằng gổ bằng-lăng, cẩm lai, huỳnh đàn, giáng hương…Ván gổ thì kê ở dưới bếp cho tôi tớ ngủ. Bàn tủ, đi-văng ở trung đường toàn là gỗ nu nổi vân tuyệt đẹp. Còn tủ thờ nạm xa-cừ sự tích Bát Tiên Quá Hải, Tiên Nữ Tán Hoa, Hằng Nga Ly Nguyệt Ðiện. Hồi xưa, ông nội em nuôi thợ khảm, thợ chạm hằng năm trong nhà, cắt tôi tớ phục dịch họ, coi việc cơm bưng nước rót, giũ chiếu giăng mùng cho họ…
Mắt nàng lim dim khi tả đồ cổ ngoạn :
- Xời ơi, em chưa thấy ở Sài gòn có nhà bá hộ, thiên hộ, vạn hộ nào nhiều đồ cổ ngoạn như nhà ông nội em. Ổng có cái tô thời Nam Tống màu thúy lục da rạn đẹp tuyệt vời. Nhà khảo cổ Viễn Ðông đòi mua bạc triệu mà ba em đương thèm bán.
Nàng đổi giọng trầm thống :
- Khi ông nội em sắp chết, ổng có trối với ba em và mấy cô mấy chú của em, phải bảo trì đồ gia bảo, đừng cho thất lạc tẩu tán mà ở suối vàng ổng xót dạ đau lòng. Ba em nhứt nhứt tuân theo lời phụ huấn.
Ôi, niềm yêu mến mái nhà từ đường khiến Kim Hoa tả tỉ mỉ nơi chôn nhau cắt rún của mình. Nàng tả vườn sau sân trước. Nàng tả trung đường, các phòng ốc, căn bếp, thậm chí đến hàng lu khạp, hũ chóe, bồn ảng ở sân giữa. Hiền nghe vợ tả mà mê. Chàng vốn yêu đồ cổ, thích nếp nhà xưa. Kim Hoa tả hăng hái, sôi nổi đến nước mắt ràn rụa. Nàng nhắc tới cặp chậu sứ Giang Tây trồng mai chiếu thủy mà ba nàng mua hôm má nàng sinh ra nàng. Cặp mai đó đặt gần hòn non bộ ở sân trước.
Một hôm, Kim Hoa đòi chồng đưa nàng đi Lái Thiêu để thăm nhà một cô bạn gái. Nhà cô ta ở xã Hưng Ðịnh, gần Lò Chèn Chòm Sao. Trước sân nhà đặt những chậu mai tứ quý đơm bông vàng đài đỏ thắm, cánh hoa ôm cái hột đen huyền. Nhưng khi vào sân giữa, Hiền lấy làm lạ. Hàng lu khạp, hũ chóe, bồn ảng ở đây sao mà giống hàng lu khạp mà Kim Hoa đã tả ở ngôi nhà xã Tân Ngãi của nàng. Kim Hoa điềm nhiên giải thích :
- Mấy ông nhà giàu xưa đều có cách sống, các trang hoàng giống nhau.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 10:04:41 GMT 9
Anh hai Kim Hoa có vợ là dân có quốc tịch Pháp, được bên vợ cho đi Tây du học. Trước khi đi, anh ta để lại cho Kim Hoa hai rương sách nhưng Hiền không hề rớ đến. Chỉ có Kim Hoa khi buồn hay mở rương tìm sách đọc, phần nhiều là loại tiểu thuyết. Một hôm nhơn ngày chúa nhật rảnh rang, Kim Hoa nhờ Hiền mở rương kiểm điểm coi có mối mọt gì xâm phạm sách vở hay không. Hiền kiểm điểm từng cuốn, thấy sách còn mới, bát ngát muì long não. Chàng bỗng thấy tận đáy rương có một quyển sách nói về đồ cổ ngoạn Tàu, có hình màu minh hoạ. Mèn ơi, đọc sách chàng mới biết cái tô Nam Tống, chiếc dĩa Càn Lon, cái độc bình Khang Hy trong sách y chang những thứ Kim Hoa đã tả trong ngôi nhà từ đường của nàng. Tuy ngờ vực nhưng Hiền không tỉện hỏi. Hơn nữa, chàng tự nhủ chẳng có gì cần thiết để biết rõ gia đình bên vợ. Có điều làm chàng hơi bực mình là Kim Hoa từ trước có bảo hàng rào nhà nàng làm bằng cây sơn xanh, cổng trồng hai cây bằng lăng hoa tím hai bên. Vậy mà, một hôm hai vợ chồng đến chơi nhà thằng bạn chàng ở miệt cầu Băng-ky, Kim Hoa nhìn say mê cây bông giấy trổ hoa tím hồng uốn thành hình vòng cung trước cỗng. Nàng reo lên :
- Anh coi cổng bằng cây bông giấy có đẹp hay không? Cổng nhà hương hoả ba em cũng bện cây bông giấy như vậy. Nhưng xen với bông giấy, ông nội em còn trồng thêm cây huỳnh anh bông vàng. Cổng bằng cây tươi bện khung, bện vòm mới hoà hơp5 với cái đẹp của hàng rào trà xanh có thả dây tơ hồng màu vàng như mì sợi trên mặt rào cắt bằng.
Hiền mỉm cười :
- Sao trước đây em nói cổng và hàng rào nhà em bằng cây sơn xanh?
Kim Hoa quắc mắt :
- Ðời nào em nói vậy? Nhà ông nội em là nhà giàu xưa. Ðời nào ông nội em thèm sắm cái cổng và cái hàng rào như anh nói. Ký ức của anh lóng rày coi bộ lộn xộn rồi đa…
Hiền vốn làm biếng cải lẫy nên cũng bỏ qua. Nhưng dù muốn dù không, chàng cũng nhận thấy cây cối trong sân, trong vườn và đồ đạc trong ngôi nhà đó thường bị Kim Hoa biến đổi luôn. Hồi nào nàng bảo trong sân có cây điệp ta, nay nàng quả quyết trong sân có một cây mộc lan hoa trắng và cây thông thiên hoa vàng. Mới bữa trước nàng nói nhà nàng có một cái tủ đứng bằng cây cẩm lai, giờ nàng đổ hô là nhà nàng có hai tủ lót gương soi hình hột xoài.
Sự vật thì vậy. Còn nhân vật cũng bị vợ chàng thay đổi luôn.. Người em kế của cha vợ chàng hồi nào Kim Hoa bảo là hiệu trưởng trường tiểu học, giờ nàng bảo là y sĩ tốt nghiệp đại học Y khoa Hà nội mà thiên hạ gọi là y sĩ Ðông Dương. Hồi nào nàng chê dì út nàng da đen như bánh ích đường hũ, nay nàng ca tụng màu da trắng như bông bưởi của dì. Thiệt tình, hôm đám cưới, Hiền đâu chú ý tới ai, chỉ biết rằng hôm Ngọc Thanh và Kim Lan đi Sài gòn, dì có gởi tặng Kim Hoa một bức tranh Nam Hải Quan Âm để nàng thờ. Kèm theo bức tranh là giỏ ổi xá lỵ, giỏ ốc gạo và một chục nem chua.
Hiền dần dà biết vợ mình hình như có cái gì trục trặc trong đầu óc, trong ngôn ngữ đây. Nhưng mà nhằm nhò chi. Nàng yêu chồng thắm thiết, đẻ cho chàng hai đứa con gái xinh đẹp. Nàng thôi dạy học tư để làm sở Mỹ. Khi sở dẹp tiệm, nàng có đủ vốn để chạy áp-phe. Nàng hoạt động, vui tươi, dù cực nhọc cách mấy vẫn không hề nhăn nhó, ủ dột trước mặt chồng. Nàng trông coi việc tề gia nội trợ, sắp đặt đâu đó có khuôn nếp, nhà cửa sạch bóng. Nàng luôn luôn giấu giếm nỗi cực nhọc, chuyện bực mình với chồng. Nhưng Hiền biết hết. Chàng khuyên vợ nên bớt việc thì nàng cười :
- Ối, má em làm gấp năm gấp bảy em mà bả vẫn khoẻ mạnh như thường. ° ° ° Rốt cuộc Hiền cũng biết được ngôi nhà từ đường bên vợ ở xã Tân Ngãi, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Ðó là dịp đàm tang bà nội vợ của chàng. Kim Hoa phải đem chồng và các con về quê chịu tang. Bà nội nàng đã già khú đế, năm năm qua cứ nằm một chỗ ỉa trây đái dầm. Giờ đây, cái chết là điều giải thoát cho bà và cất đi một gánh nặng cho cả nhà. Từ thơ dại, Kim Hoa cũng chẳng mấy yêu mến bà cụ độc tài, đã từng đối xử với mẹ và thím nàng quá khắc nghiệt.
Trên chiếc xe nhà do Hiền lái, Kim Hoa kể liên tu bất tận về thời thơ ấu và mới lớn của nàng dưới mái nhà từ đường. Nàng ứa nước mắt :
- Chắc là em sẽ khóc khi nhìn lại cảnh xưa. Em sẽ thao thức khi ngủ dưới mái nhà ấy để ôn lại kỷ niệm. Thuở nhỏ nơi quê nhà, em như một nàng tiên sống hạnh phúc trong nội cỏ thiên đường. Khi em mười sáu, ai cũng trầm trồ em xinh đẹp gấp ba gấp bốn nữ tài tử Romy Schneider trong phim Sissi. Có anh chàng học sinh lớp đệ tam trường Long Hồ bỏ nhà đi tu vì gởi thư tỏ tình cho em mà em không đọc và gởi trả lại. Lại còn có thầy dạy Pháp văn đẹp như Alain Delon nhờ mai mối tới ba em. Nhưng khi ba em nhờ thầy tử vi so đôi tuổi thì thầy bảo hai tuổi xung khắc, vợ chồng không thể ăn ở bền lâu, chưa nát chiếc chiếu là én bắc nhạn nam hoặc sanh ly tử biệt. Anh coi, nhắc tới thuở còn ở quê nhà, em khóc đây nè! Làm sao em quên được thuở đó! Nhà trường có tổ chức đêm văn nghệ cuối niên học, em được chọn đóng vai Huyền Trân công chúa cho vở kịch nòng cốt. Em hát bài Nhắn người phương xa của Phạm Duy có nét giống Thái Thanh. Chắc anh không tin em hát có nét ca sĩ nhà nghề? Cũng tại em bị bịnh suyển nên giọng em mới hết trong, hết ấm…
Nàng nhắm mắt thả hồn về dĩ vãng và nói trơn như mỡ. Khi mở mắt ra, bắt gặp ánh mắt tinh quái và nụ cười hóm hỉnh của chồng, nàng háy dài :
- Em đang mềm lòng, tim em nức nở khi nhắc lại kỷ niệm đẹp cũ cho anh nghe, anh không thèm chia sẻ nỗi cảm hoài của em, còn đành đoạn tỏ ra giễu cợt em nữa. Thiệt tình căn đày kiếp đọa em mới gặp người chồng thiếu thơ mộng, trái tim dần dần hoá thành gỗ đá thì còn nước non gì!
Khi tới Tân Ngãi, vợ chồng con cái dắt díu nhau đi trên con đường đất. Gần bên ngôi đình núp bóng dưới tàn cây phượng vĩ trổ hoa đỏ ối, Hiền đứng lại trước chiếc cỗng bện bằng bông giấy hoa tím lẫn cây huỳnh anh màu vàng. Chàng nhìn vào sân. Ðúng rồi, đây đúng là nhà từ đường bên vợ chàng rồi, trong sân có trồng cây mộc lan và cây thông thiên. Kim Hoa kêu lớn :
- Ðâu phải nhà mình. Nhà mình đang có đám ma, lẽ nào vắng ngắt như vậy! Anh sao quê quá!
Hiền bảo :
- Sao hồi trước em nói cỗng nhà có bện cây bông giấy và cây huỳnh anh? Coi kìa, trong sân còn có cây mộc lan và cây thông thiên đúng lời em tả.
Kim Hoa đỏ mặt, nhưng nàng lại sừng sộ :
- Em nói như vậy hồi nào? Em ăn cơm trắng cá tươi, lẽ nào nói chuyện nước lã khuấy nên hồ như vậy! Anh sao hay đề án tử cho em hoài hà.
Hiền không cãi. Chàng nhì qua ngôi nhà có cổng và hàng rào bằng gỗ sơn xanh. Trong sân vẫn lặng ngắt. Dĩ nhiên đây cũng không phải là ngôi nhà từ đường của bên vợ chàng.
Kim Hoa đưa Hiền đến một ngôi nhà lợp ngói âm dương, vách bổ kho. Cổng trước bằng gỗ tạp, hàng rào bằng dây kẽm gai, sân trước tráng xi-măng. Tuy nhiên, khuôn viên khá rộng. Nhà năm căn, mái thấp lè tè. Nơi đó, kẻ ra người vào tấp nập. Kim Hoa bảo :
- Vào đi. Nhà mình đó đa. ° ° ° Qua bốn ngày ma chay, cả gia đình Hiền trở về Sài gòn. Hiền không thấy hàng lu khạp, hũ choé, bồn ảng và cái sân giữa như lời vợ tả. Chàng không thấy đồ cổ ngoạn với tô Nam Tống, dĩa Càn Long, độc bình Khang Hy…Chàng cũng chẳng thấy bàn ghế bằng gỗ nu, gỗ cẩm lai, gỗ giáng hương, gỗ huỳnh đàn…
Trong dịp Hiền về thăm quê vợ thì ông Huyện Ðăng, hàng xóm của gia đình vợ chàng, có mời chàng đến chơi. Nhà ông chính là ngôi nhà có cổng kết bằng cây bông giấy và cây huỳnh anh. Nơi đó, chàng tìm được loại bàn ghế bằng đủ loại danh mộc mà Kim Hoa đã tả. Cũng trong dịp này, Hiền có gặp cô cháu nội ông Huyện Ðăng trước kia học chung với Kim Hoa. Cô nầy được nhà trường chọn đón vai Huyền Trân công chúa trong khi Kim Hoa đóng vai thị nữ Bích Liễu. Chàng còn khám phá ra Kim Hoa có một cô bạn khác hát thật truyền cảm, nhái giọng Thái Thanh hát bài Nhắn người phương xa hay thần sầu. Hôm đám ma, cô ta cũng có tới phúng điếu. Thôi rồi, Hiền cưới nhằm con vợ láo thiên láo địa, láo từ Bà Rịa láo qua, láo từ Cà Mau láo tới.
Cũng dưới mái nhà bên vợ với các bộ ngựa bằng ván gõ, tủ kệ đóng bằng gỗ thao lao, Hiền được cha mẹ vợ và họ hàng bên vợ tiếp đãi ân cần. Họ đều là những người ân cần hiếu khách, chất phác khiến chàng yêu mến ngay. Ông nội vợ chàng xưa kia làm nghề thương hồ, về già dừng bước ở đây lập vườn, sắm ruộng. Kim Hoa lớn lên được cha cho đi học. Nàng đọc tiểu thuyết nhiều và mơ có ngày trở thành văn sĩ. Nàng vốn chê nếp nhà mình cổ lổ, quê mùa, chê cách sống quá lu mờ nơi sàn dã, cho nên vừa đậu tú tài là nàng dông lên Sài gòn, dạy Việt văn cho trường tư thục ở Xóm Gà.
Kim Hoa không thoả mãn nếp sống ở quê nhà. Nàng lấy hình ảnh ngôi nhà ông Huyện Ðăng để dựng nên ngôi nhà trong giấc mơ củ mình . Nàng khoắng hình ảnh cái sân giữa và hàng ba khạp hũ chóe ảng bồn của nhà cô bạn ở Lái Thiêu để ráp vào căn nhà đó. Chưa hết! Nàng còn chưng bàn ghế bằng đủ loại danh mộc nhái theo bàn ghế nhà ông Huyện. Nàng còn thuổng luôn hình ảnh đồ cổ ngoạn trong quyển sách cất dưới đáy rương để bày biện trang hoàng cho ngôi nhà thêm sang, thêm đẹp. Nhưng mà cái tôi của nàng vốn nhan sắc tầm thường, vóc mình cứng còng cứng ngắc, giọng nói kháp kháp như giọng vịt xiêm mà đặt vô ngôi nhà mộng tưởng đó thì đâu có xứng, có hạp! Bởi đó, nàng dựng lên một cô Kim Hoa thuở mới lớn mỹ miều như Romy Schneider qua hình ảnh cô cháu nội ông Huyện Ðăng, hát hay như Thái Thanh qua cô bạn gái hát bài Nhắn người phương xa
Hiền hồi tưởng lại căn nhà mộng tưởng lúc ban đầu của Kim Hoa với hàng rào và cổng bằng cây sơn xanh. Ðó là nhà ông giáo Võ Hữu Trí, gần sát nhà ông Huyện Ðăng. Có lẽ lúc đầu vợ chàng không dám mơ cao, chỉ ước được ngôi nhà cỡ nhà ông giáo Trí mà thôi. Ngôi nhà đó không có hai cây bằng lăng trước ngõ nên coi hơi trơ trẽn. Con người của Kim Hoa một khi đã rơi vào mơ ước rồi thì tội gì nàng không trồng thêm hai cây bằng lăng nữa cho thêm màu sắc rực rỡ?
Có một điều Hiền biết rằng mình không nên đem điều khám phá về ngôi nhà thừa tự để chế giễu hay mè nheo vợ. Nàng như vậy đó, một mythomane chẳng làm chết con muỗi, con rệp nào. Nàng làm áp-phe mà vẫn làm vui lòng những kẻ hùn hạp, đổi chác. Không ai rên siết nàng về tiền bạc. Không ai tròng vào đầu nàng tội lường công. Hiền còn biết thêm một điều : nếu không được gặp ai để xạo đía, nói dóc, Kim Hoa sẽ ủ rủ như ngặt mình ngặt mẩy. Nàng ngáp lớn, ngáp dài như không xua đuổi nổi cơn phiền muộn ùn ùn chất nặng xuống tâm hồn mình. Có nói những chuyện ba hoa chích choè, chuyện cà kê dê ngỗng, ba voi không đầy bát nước xáo, Kim Hoa mới bừng bừng sinh lực, khuôn mặt tươi rạng sinh khí, mắt sáng ngời ngời. Nàng nói láo, nói dóc quá nhiều nên quên hầu hết những lời đã nói, đã tuyên bố. Khi có ai nhắc lại, nàng chưng hửng, lướt cái nhìn sợ sệt và bơ ngơ báo ngáo lên người nhắc.
Những gì thuở nhỏ Kim Hoa thiếu thốn, mơ ước thì giờ đây nàng quyết lòng mua sắm cho bằng được để lấp đầy lỗ hổng trong giấc mộng của nàng. Nàng mua sắm từ từ, dù phẩm vật mua sắm không ngang giá với vật mơ ước, nhưng cũng đủ tạo căn nhà hai vợ chồng nàng thành một biệt thự xinh đẹp, trang nhã. Té ra ngôi nhà trong giấc mơ của Kim Hoa, song song với việc biến nàng thành kẻ gàn chướng, dở hơi, cũng đủ sức thắp sáng tiềm lực, đẩy nàng vào thương trưòng bằng tất cả phấn khởi, nhiệt thành hầu cố gắng thực hiện một phần mơ ước của mình.
Hiền không biết phải đối phó với cái tính ưa nói dóc của vợ mình cách nào! Nếu kéo vợ ra khỏi những giấc mơ trời ơi đất hỡi đó thì chàng tàn nhẫn quá đi. Mà dung túng, để nàng bơi lội thoả thuê trong đó thì cũng không ổn vì dù sao đó cũng là trạng thái bất bình thường của con người. Thôi thì chàng đành làm ngơ, không đá động tới những gì nàng đã kể, nhưng cũng sẽ không ngồi nghe nàng huênh hoang chuyện trên trời dưới đất nữa. Chàng sẽ không tỏ ra hưởng ứng cái tật xấu đó, và sẽ lái vợ qua những thực tế, đáng tin hơn.
Từ hôm dự tang lễ về Sài gòn, Kim Hoa cũng bắt đầu nhận thấy chồng ưa lách ra khỏi những câu chuyện sang đàng rẽ dọc của nàng. Kim Hoa cụt hứng nên tốp bớt đía dóc, bớt kể những điều lọt ra ngoài sự thật, hoặc mượn sự thậtg của người khác làm của mình. Nhưng nàng biết tìm ai thay thế Hiền để nghe nàng nói dóc đây? Người khác có kẻ tin nàng nói hơn là Hiền đã tin. Nhưng được nói dóc với chồng vẫn thú vị hơn. Nàng đâu cần Hiền phải tuyệt đối tin nàng. Nàng chỉ cần chàng bỏ bớt vẻ hững hờ, miễn cưỡng để nghe nàng nói!
Chỉ có một điều an ủi cho Kim Hoa là sau khi từ Vĩnh Long về, Hiền đã có nhiều dịp tiếp xúc với họ hàng xa gần bên vợ. Nàng biết giữa chàng và họ, sự thương mến thành thật đã nảy sinh. ° ° ° Khi Mỹ rút về nước, nghề chạy áp-phe của Kim Hoa không còn được trôi chảy như xưa. Nhưng nhờ khéo gói ghém, dè xẻn, nàng vẫn giữ cho chồng con được nếp sống hưởng thụ, sung sướng. Nàng xông xao ra chốn thương trường làm việc trối chết. Hai đứa con gái nàng đã đến tuổi dậy thì. Con Kim Hoàn 17, con Kim Xuyến 15. Nàng mua sắm cho con những bộ cánh vừa đẹp vừa sang. Không ai biết nàng bắt đầu chi nhiều thu ít, phải bán bớt một số nữ trang đi. Trước mặt Hiền, nàng luôn tuơi cười âu yếm. Nụ cười dù có tươi ratng trên cặp môi tô son hồng đào nhưng ánh mắt nàng đã kém rạng rở, chung quanh mắt có nhiều vết chân chim. Nhiều đêm, khi Hiền ngủ an lành, sảng khoái thì nàng hãy còn thao thức, lăn trở vì tính toán đủ mọi chuyện. Ðôi lúc Kim Hoa cảm thấy não cân mình bị căng thẳng tột độ, nội tâm bị dồn nén tối đa, nàng vào phòng tắm đóng chặt cửa để than khóc, kể lể, đôi khi hét lên. Có vậy nàng mới cảm thấy nhẹ nhõm, thư thái hơn để tiếp tục lăn xả vào guồng máy sinh hoạt ngoài xã hội.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 19, 2009 10:05:22 GMT 9
Sau ngày đổi đời 30.4.75, Hiền phải đi học tập cải tạo ở Bình Tuy. Kim Hoa phải ra chợ trời kiếm sống. Nỗi gian lao, nàng cố giấu hai con gái để tụi nó yên lòng ăn học. Nhưng Kim Hoàn tinh ý, biết mẹ mình vất vả nên thường bảo :
- Thời buổi nầy, con thấy có đi học cũng chỉ tốn tiền bạc, công sức thôi. Lý lịch ngụy quân ngụy quyề như nhà mình thì đừng hòng ngóc đầu lên nổi. Chi bằng má cho con ra chợ trời với má.
Kim Xuyến phụ hoạ :
- Càng đi học càng thấy tủi nhục. Ngày mai con sẽ đi theo dấu vết tư sản mại bản cho xứng đáng là con ngụy quyền.
Kim Hoa xí một tiếng dài, nguýt hai cô con gái thiệt bén. Con nàng có nước da trắng như bông bưởi, như dừa nạo, đời nào nàng chịu cho tụi nó giãi nắng dầm mưa ở chợ trời! Sau cùng, Kim Hoa lập cho hai cô con một chái lá ở nhỏ ở đường Trương Minh Giảng cũ để tụi nó bán cà phê và chè đậu. Còn nàng vẫn mua đầu chợ bán cuối chợ.
Vào giữa năm 1977, Kim Hoa được giấy đi thăm nuôi Hiền. Nàng mua cà phê, đường cát trắng, sữa hộp, trà tàu, lạp xưỡng, thuốc men…Nàng còn làm thịt chà bông, chấy tôm trứng với thịt ba rọi khá mặn, kho gà với gừng sả để mang lên cho chồng. Trước ngày đi, nàng uốn tóc lại, tỉa chơn mày, làm móng tay nhưng không dám tô son giồi phấn và sơn móng tay. Kim Hoa muốn cho chồng lầm tưởng rằng nàng vẫn như xưa, không quá cực nhọc sau cuộc đổi đời, cốt để chàng yên lòng. Nhưng vầng trán nhăn, đôi má hóp, màu da sạm nắng của nàng làm sao che giấu được? Bao nhiêu năm chung sống với vợ, Hiền làm sao không biết nàng hay giấu giếm nỗi gian lao của mình để chồng con được vui sống? Chàng vẫn bắt gặp đôi lúc nàng vào nhà tắm khóa trái cửa lại để than khóc, gào rống. Chàng vụt hối tiếc tại sao những lúc đó chàng không đủ can đảm ôm chầm lấy vợ vuốt ve, nói lời dịu ngọt, và hơn thế nữa, chịu nghe nàng nói dóc, nói xạo để nàng lên tinh thần, phấn chấn mà quên đi bao cam go của cuộc sống?
Cũng trong vòng lao lý, hơn lúc nào hết, Hiền mới cảm thương cho thời thơ ấu của Kim Hoa. Trong chiến tranh Việt Pháp, cha và chú của Kim Hoa bỏ nhà theo Việt Minh. Cảnh đại gia đình củ ông nội nàng trước đó cũng chỉ đủ ăn nhờ sự bương chải của hai người con trai, nay chuyển qua gánh cơm tấm của mẹ nàng, gánh chè đậu của thím nàng để nuôi mười bốn miệng ăn trong nhà. Kim Hoa vừa đi học,vừa chăm lo việc nhà, xắt chuối, nấu cám cho heo ăn, tắm rửa heo, quét dọn, rửa ráy chuồng heo…Năm đầu thi trung học đệ nhứt cấp, nàng trượt vỏ chuối. Năm sau nàng trượt vỏ dưa, rồi trợt vỏ dừa. May mà không có bằng trung học đệ nhứt cấp nàng vẫn lên được đệ tam rồi đệ nhị và cuối năm thi đậu tú tài phần nhứt. Lúc đó cha và chú Kim Hoa đã có cơ sở làm ăn tương đối vững vàng, nàng ngồi lớp đệ nhứt an ổn, có đủ thời giờ gạo bài nên đậu tú tài toàn phần cuối năm đó.
Hiền lấy làm lạ là về sau, khi đã ăn nên làm ra, Kim Hoa không hề nhắc tới tuổi ấu thơ cực khổ của mình. Nàng không hãnh diện rằng sở dĩ nàng thành công ngày hôm nay là do được tôi luyện trong môi trường thanh bần hồi nhỏ. Nàng quả cảm trong mọi việc nhưng lại nhút nhát trong việc đối diện tuổi ấu thơ nghèo khổ nên Kim Hoa tìm mọi cách để khoả lấp, trốn tránh. Bởi đó nàng mới tạo một ngôi nhà trong tâm tưởng theo kiểu bứt râu cho chó cặm qua mồm con mèo và vẽ nên một nữ chủ nhân vừa xinh đẹp vừa hát hay dưới cái tên Huỳnh thị Kim Hoa.
Trong quãng đời lao tù cực nhục, hơn lúc nào hết, Hiền mới biết cảm thương, hiểu thấu nhược điểm của con người, nhất là cái tật nói dóc của vơt. Phải chi chàng kiên nhẩn một chút để nghe nàng ba hoa chích choè sau khi dự đám ma ở Tân Ngãi về. Sự tận tụy, tình yêu của Kim Hoa đối với chồng con phải được đền bù những điều qúy giá gấp trăm ngàn lần hơn việc kiên nhẫn ngồi nghe đó. Chàng đã tỏ ra sáng suốt tìm cách từ chối, không tham dự vào giấc mộng bệnh hoạn của vợ. Nhưng chàng có thật sự sáng suốt không? Hay đó chỉ là một hành động khe khắt, một thái độ ích kỷ?
Ôi, ngày được phóng thích sao mà xa thăm thẳm! Hiền không biết chàng còn được dịp nào được sum họp với Kim Hoa để gánh vác với nàng gánh nặng mưu sinh, để chia sẻ đủ mọi tâm tình, luôn cả niềm hoan hỉ về ngôi nhà mộng tưởng kia! Nếu rủi ngã gục trên quãng đời tù đày thì chàng chết mà không sao nhắm mắt nổi vì không tìm được dịp mua chuộc lỗi lầm với vợ.
Nhưng rồi vào năm 1984, Hiền được thả. Chàng trở về Xóm Gà để nhìn thấy căn nhà trống trơn, chỉ còn chiếc giường kê ở góc phòng khách, nơi Kim Hoa đang nằm lim dim ngủ gật. Nàng bịnh nhiều, thân thể gầy gò khô đét nhưng khuôn mặt vẫn rạng rỡ. Kim Hoa an ủi chồng :
- Em thấy anh về là em khoẻ liền, khỏi cần uống sâm nhung, ăn yến huyết. Em bán hết đồ đạc để có đủ 20 cây vàng cho hai đứa con mình vượt biên. Bây giờ cả hai đương ở Mỹ, vừa đi làm vừa đi học.
Lối xóm nghe Hiền về đều tới thăm. Họ khuyên chàng nên chăm sóc Kim Hoa chu đáo. Nàng nằm bịnh hơn hai tuần nay và cách đây hai hôm nàng đi tiểu ra máu. Tuy có một y sĩ quen thân cũ thuờng đến săn sóc nàng nhưng vì thuốc men khan hiếm, ông ta phải mua thuốc chợ đen. Cách đây hai hôm, ông ta bị bắt không hiểu vì lý do gì.
Hiền săn sóc vợ. Thấy chồng về, Kim Hoa vui lắm. Nàng trao cho chàng một gói vòng vàng nữ trang và một xấp bạc. Chàng lo tìm chỗ quen biết để đưa nàng vào nhà thương nhưng Kim Hoa lắc đầu :
- Em có nhắn Kim Lan, nay mai nó sẽ lên đây. Vì tưởng anh chưa về, em muốn giao tiền bạc và nữ trang còn lại để nó giữ giùm anh. Nhưng anh đã về đây rồi, vậy là may lắm. Em bị ung thư anh à. Ði nhà thương làm gì, vô ích!
Nàng nhắm mắt lại, chập chờn muốn rơi vào cơn hôn mê. Hiền ôm vợ vào lòng, khóc nức nở. Kim Hoa mở mắt :
- Trước đây hai đêm khi anh chưa về, em nằm chiêm bao thấy lại căn nhà nầy thuở vợ chồng mình mới dọn về. Nhà chỉ có bộ sa-lông và cái giường ngủ. Quần áo vẫn còn để trong va-ly, trong chiếc rương cây. Hồi năm 79, khi hai đứa con mình mới vượt biên, bẳng đi bốn tháng không có tin tức, em lo lắm. Cũng một đêm nọ, căn nhà lại hiện ra trong chiêm bao của em. Sáng ra, em được thơ tụi nó gởi từ đảo Bidong về.
Hiền cố dằn cơn nức nở :
- Căn nhà nầy hồi đó, với vợ chồng mình là một tổ ấm lý tưởng.
Kim Hoa cười rạng rỡ :
- Trong chiêm bao, nó hiện về báo điềm hên đó đa. Anh có nhận thấy như vậy không? Nếu em thấy nó một lần nữa, thế nào chúng ta cũng nhận được giấy nhập cảnh do toà lãnh sự Huê kỳ đưa tới. Nhưng thôi, em bạc phước chết trước, anh rán chờ. Nếu không thấy lại nó thì em sẽ hiện hồn về để báo cho anh tin mừng.
Những ngày sau cùng, Kim Hoa mê nhiều hơn tỉnh. Ðã đến lúc Hiền cảm thấy mình phải nói gì với vợ. Do một linh cảm bén nhạy, Hiền nghĩ rằng không nên nhắc tới căn nhà bịa dóc của vợ. Ôi, trong những năm tháng cuối đời, chắc Kim Hoa đã nghĩ nhiều về căn nhà nầy, thuở hai người mới sống chung, đắm đuối trong hạnh phúc, tình yêu. Căn nhà thuở đó chẳng có hàng rào cây trà, chẳng có cây bông giấy, huỳnh anh; chẳng có sân giữa với bồn ảng, lu khạp chứa nước mưa; chẳng có bàn ghế bằng danh mộc; cũng chẳng có đồ cổ ngoạn Khang Hy, Nam Tống…mà chỉ có hai vợ chồng son, chàng nhút nhát, ăn nói lạt lẽo, con nàng thì nhan sắc dưới mức trung bình. Vậy mà cả hai yêu nhau đắm đuối. Cuộc đời cay nghiệt đã rứt Hiền ra khỏi tổ ấm, nên căn nhà mộng tưởng cũ cũng ra khỏi đầu óc Kim Hoa, thay vào đó là hình ảnh căn nhà nầy, để nàng sống lại tuần trăng mật cũ, những năm son trẻ cũ.
Trong những lúc Kim Hoa tỉnh táo, Hiền nói miên man về căn nhà nầy, về kỷ niệm đẹp, về hạnh phúc thời son trẻ. Kim Hoa yên lặng nghe, úp mặt vào ngực chồng. Nàng chưa bao giờ nghe Hiền nói nhiều đến vậy. Những lời nói của chàng dù bị cơn hôn mê của nàng vùi lấp, nhưng dư âm giọng chàng sao mà đầm ấm làm nàng cảm thấy an ổn tuyệt vời.
Kim Hoa chết đi, thất khiếu xuất huyết dầm dề mà mặt nàng tươi rạng kỳ ảo, môi nàng nở một nụ cười đẹp lạ lùng trong giấc ngủ ngàn đời.
|
|