|
Post by NhiHa on Oct 7, 2009 6:02:07 GMT 9
Phát Hiện Bức Tượng Của Nữ Thần HeraCác nhà khảo cổ học Hy Lạp hôm 01-03-2007 công bố họ vừa tìm thấy bức tượng nữ thần Hera 2,200 tuổi được xây trong bức tường của một thành phố dưới chân núi Olympus, quê hương của các vị thần trong truyền thoại Hy Lạp. Bức tượng không đầu bằng đá cẩm thạch này được phát hiện vào năm ngoái trong chiến dịch khai quật các tàn tích của thành phố cổ Dion nằm cách thành phố Thessaloniki 53 km về phía Tây Nam. Chuyên gia khảo cổ Dimitris Pantermalis cho biết những dân cư thiên chúa giáo đầu tiên của ngôi làng Dion đã sử dụng các bức tượng to như người thật để làm các bức tường phòng thủ cho ngôi làng. Bức tượng có niên đại thế kỷ thứ 2 trước công nguyên này dường như đã được đặt tại ngôi đền của thần Giớt (Zeus), là thần cai trị các vị thần. Bức tượng của thần Zeus cũng được tìm thấy trong tàn tích của một ngôi nhà vào năm 2003. Pantermalis, người đã có hơn 30 năm dẫn đầu các cuộc khai quật ở Dion, nói: “Chúng tôi có thể khẳng định rằng bức tượng thần Hera được đặt gần với bức tượng thần Zeus trong ngôi đền đó". Theo thần thoại của người Hy Lạp, Hera là người vợ chịu nhiều đau khổ của thần Zeus, vị thần nổi tiếng có tật mê phụ nữa cả con người lẫn thần thánh. Pantermalis giải thích: “bức tượng là hình ảnh của một phụ nữ ngồi trên ngai vàng và được làm bằng đá cẩm thạch có thế dày giống với loại đá của bức tượng thần Zeus. Nó có cùng một kỹ thuật chế tác và kích cỡ, điều này làm cho phép chúng ta nghĩ rằng 2 bức tượng này có mối liên hệ với nhau.” Pantermalis nói rằng nếu điều này là chính xác thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử từ trước tới nay 2 vị thần khác nhau được đặt trong cùng một ngôi đền tại Hy Lạp. Ông nói thêm rất có thể là bức tượng của vị thần Athena, nữ thần trí tuệ, cũng được đặt trong cùng một ngôi đền với thần Zeus và ông hy vọng rằng mình sẽ tìm thấy nó trong các cuộc khai quật trong tương lai. Bức ảnh được cung cấp bởi các nhà khảo cổ học vào hôm thứ năm này 1 tháng 3 năm 2007. Bức tượng này có niên đại thế kỷ thứ 2 Dion là một trung tâm tôn giáo chính của người Macedonian. Đây là nơi mà Alexander đại đế đã tổ chúc cúng tế trước khi tiến hành chiến dịch chống lại đế chế Ba Tư vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên. Các cuộc khai quật từ trước đến giờ đã phát hiện được các ngôi đền, nhà hát và đấu trường, tường thành, khách sạn, nhà tắm công cộng, các con đường với một hệ thống thoát nước phức tạp cũng như rất nhiều bức tượng. Vùng này có người sinh sống đầu tiên vào thời kỳ đồ Sắt và tồn tại cho tới đầu công nguyên thời đại mà nó là nơi ở của giám mục. Pantermalis đã giới thiệu bức tượng vào ngày 2-3, trong suốt một cuộc hội thảo 3 ngày về khảo cổ học diễn ra tại Thành phố Thessaloniki vào ngày 1-3 qua. Thế Kiệt
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 7, 2009 6:05:50 GMT 9
Kim Tự Tháp được xây dựng như thế nào ? Những công trình hùng vĩ ở Giza là biểu tượng bất tử cho tài năng kiến trúc phi thường của người Ai Cập cổ đại. Không ai biết chúng được xây dựng như thế nào, bằng công cụ gì, cũng không thể tìm thấy bất cứ dấu tích nào tiết lộ trong tất thảy những tài liệu, bức hình còn sót lại từ hàng nghìn năm trước. Màn sương bí ẩn càng thêm đặc quánh bởi hàng trăm truyền thuyết hư thực không rõ đúng sai. Những người theo suy luận truyền thống cho rằng Kim Tự Tháp là công trình được xây dựng ròng rã qua nhiều thập kỷ, bằng mồ hôi công sức của hàng triệu triệu nô lệ thời cổ đại. Nghe có vẻ thuyết phục, nhưng trên thực tế giả thuyết này không có chứng cứ rõ ràng. Người phản đối thì bác bỏ: dù có nhiều người đến đâu cũng khó đủ sức nâng được những tảng đá nặng hàng tấn như thế, lên một độ cao như thế vào đặt chúng vào vị trí chính xác và vừa vặn đến tuyệt đối đến thế. Người Ai Cập cổ chắc hẳn phải nắm trong tay một bí mật công nghệ nào đó - mà có lẽ tới nay nó đã thất truyền trong lịch sử. Có thể là một thiết bị “kháng trọng lực” để thôi miên những tảng đá khổng lồ bay lên, cũng có thể họ đã được... người ngoài hành tinh giúp sức. Một giả thuyết khác mới xuất hiện gần đây cho rằng: những phiến đá vuông vức đến lạ kỳ được trả vào vị trí vừa khít là nhờ sử dụng một công cụ đặc biệt làm bằng bê tông đá vôi. UFO xuất hiện ở Roswell Tháng 6/1947, một vật thể lạ rơi chúc đầu xuống trang trại của nông dân William Mac Brazel ở ngoại ô Corona, New Mexico. Chính xác nó là cái gì, cho đến nay người ta vẫn chưa thể khẳng định. Những nhà nghiên cứu UFO thì cho rằng chắc hẳn đó là mảnh vụn rơi ra từ đĩa bay, còn lực lượng quân sự Mỹ thì ra sức đưa ra lời bác bỏ nhằm “hạ nhiệt” cơn sốt UFO của dân tình. Có trời mà biết được vì sao họ làm thế. Cho đến nay, Roswell vẫn được coi là sự kiện UFO chấn động nhất mọi thời đại. Dù chính quyền Mỹ có cố gắng che đậy đến cỡ nào thì cũng không thể bác bỏ sự thật rằng: chắc chắn đã có 1 vật thể lạ rơi xuống trang trại Mac Brazel mùa hè năm 1847, và rằng quân đội Mỹ, dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Jesse Marcel thuộc Lực lượng Không quân Roswell, chắc chắn đã mò tới đây để xóa sạch dấu vết UFO ở Roswell : một sự thật bị che đậy? Vậy vì cớ gì mà thiên hạ đồn đại nó là UFO? Xin thưa, đó là lời tuyên bố ban đầu của chính quân đội Mỹ. Trong thông cáo báo chí ngày 8/7/1947, Quân đội tuyên bố: “Những nghi hoặc xung quanh sự tồn tại của đĩa bay đã chính thức trở thành sự thật ngày hôm qua, khi Văn phòng tình báo thuộc Căn cứ không quân số 8 ở Roswell thu hồi 1 mảnh vỡ nhờ sự hợp tác đắc lực từ 1 nông d ân địa phương và Cảnh sát trưởng Hạt Chaves”. Tất nhiên ngay sau đó, Quân đội vội vàng “đính chính” lại thông tin sai lệch này, đồng thời quả quyết đó chỉ là một quả khí cầu đo thời tiết không hơn. Sau đó đến giữa những năm 1990, họ lại khẳng định nó là mảnh vỡ từ Project Mogul - một thiết bị tuyệt mật nhằm dò tìm các chương trình thử vũ khí hạt nhân của Nga. Những tuyên bố đó không thuyết phục nổi những nhà nghiên cứu UFO kỳ cựu như Stanton Friedman. Ông và đồng nghiệp đã tiến hành các cuộc thẩm vấn với chủ trang trại Mac Brazel và những người trong gia đình cũng như cư dân quanh vùng ở Roswell, rốt cuộc đi đến kết luận: không chỉ có đĩa bay rơi xuống đây mà cả người ngoài hành tinh cũng xuất hiện - một trong số đó rất có thể vẫn còn sống. Cuộc thí nghiệm Philadelphia Thí nghiệm được thực hiện dựa trên Lý thuyết “Vùng hợp nhất” của tiến sĩ Franklin Reno. Hiểu một cách ngắn gọn, lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành “vô hình”. Trong bối cảnh Thế chiến lần II lúc đó, dễ hiểu vì sao Lực lượng Hải quân Mỹ lại tỏ ra ủng hộ nhiệt tình đến vậy. Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”. Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7/1943 và đạt thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại than phiền dữ dội vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân phải ra lệnh tạm dừng. Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28/10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia bang Pennsylvania. Lần này, Eldridge không chỉ không vô hình trước mắt nhân chứng mà chỉ còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng radar. Lạ lùng hơn ngay cùng thời điểm đó, Căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk (bang Virginia) nằm cách xa hơn 600 km báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi đến vài phút, sau đó thì mất tăm - đó cũng là lúc Eldridge tái xuất hiện trên biển Philadelphia. Tàu khu trục USS Eldridge trên vùng biển Philadelphia Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề. Sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể 1 số trường hợp được ghi nhận “mất tích không dấu vết”. Hoảng hốt, quan chức Hải quân Mỹ ra lệnh ngừng lại thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói họ còn bị “tẩy não” để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia. Thế giới sau cái chết Liệu có cuộc sống nào khác sau khi chúng ta chết đi không? Linh hồn sẽ trôi dạt về đâu? Có thật sự tồn tại Thiên đàng và Địa ngục? Đó là những ẩn số mãi chưa thể giải đáp kể từ khi con người biết chiêm nghiệm về cái chết. Cho đến nay chưa có bất kỳ bằng chứng khoa học nào chứng tỏ sự hiện diện của thế giới sau cái chết. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà dấy lên vô số giai thoại về linh hồn bất tử, không kể xiết những câu chuyện ma, trong đó nghe chừng thuyết phục nhất là những buổi gọi hồn - khi người cõi âm trở về trò chuyện với người trần thông qua “trung gian” là ông đồng bà bóng. Đấy là chưa kể không ít trường hợp “trở về từ cõi chết”, khẳng định rằng họ đã bước 1 chân sang ngưỡng cửa thế giới bên kia, rằng họ đã đi qua một “đường hầm ánh sáng” và gặp gỡ những người thân đã khuất... Có thật chăng họ đã trải nghiệm cuộc sống sau khi chết? Và những trường hợp đầu thai thi thoảng vẫn rùm beng đâu đó - ngay cả giới khoa học cũng chịu bó tay với những chi tiết trùng lặp lạ kỳ. T.Vân
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 7, 2009 6:07:31 GMT 9
10 Câu Chuyện Lý Thú Về Loài Vật
Trong bụng cá sấu có những gì ? Bồ câu tìm đường về nhà thế nào ? Vẹt có hiểu được tiếng nói của người ? Đó là những điều thú vị về các loài động vật trên cạn và dưới nước.
Dạ dày của cá sấu luôn lổn nhổn lủng củng, đó là bởi chúng nuốt tất cả mọi thứ từ rùa, cá, chim tới hươu cao cổ, trâu, sư tử và thậm chí là cả cá sấu khác. Do tình trạng như vậy nên sỏi đá cũng xuất hiện bụng của cá sấu. Chúng nuốt những hòn đá to và có khi nằm vĩnh viễn trong bụng. Những viên đá này còn có thể dùng làm đồ dằn khi lặn.
Nuôi con không phải là một chuyện nhỏ với những con cá voi, khi con non của chúng, sau 10-12 tháng trong bụng mẹ sẽ to bằng 1/3 chiều dài của mẹ (9 m với một con cá voi xanh bé bỏng). Bà mẹ phun sữa vào miệng con non bằng những bộ cơ quanh tuyến * trong khi đứa con ôm chặt lấy ti mẹ. Với gần 50% lượng chất béo, sữa cá voi có lượng chất béo gấp 10 lần so với sữa người, giúp các con non đạt được tốc độ tăng trưởng chóng mặt, gần 9 kg mỗi ngày.
Bạn có bao giờ có một chuyến đi dài mà không có những lần rẽ nhầm, không gặp phải những ông tài xế cứng đầu và những lần loay hoay với bản đồ? Tất nhiên là không rồi, bạn không phải là chim. Bồ câu có thể bay hàng hàng km để tìm đúng địa điểm mà không gặp khó khăn gì. Một số loài chim, như chim nhạn Nam cực, thực hiện chuyến đi khứ hồi 40.233 km mỗi năm. Rất nhiều loài sử dụng nam châm ngay trong người để tìm ra hướng đi tương ứng với từ trường của trái đất. Một nghiên cứu năm 2006 cũng tìm thấy bồ câu sử dụng các dấu mốc trên mặt đất để giúp chúng tìm đường về nhà.
Hải ly hầu như không sinh hoạt trong mùa đông, chúng chỉ sống nhờ vào những thức ăn đã được lưu trữ từ trước hoặc trữ lượng mỡ trong chiếc đuôi to lớn. Hải ly duy trì năng lượng bằng cách tránh ra ngoài trời giá rét, chúng thà ở trong những hang tối tăm. Kết quả là những con vật gặm nhấm này không có khái niệm về thời gian và chúng phát triển một chu kỳ tự do 29 giờ một ngày.
Với đôi mắt ti hi và cuộc sống chui lủi dưới đất, chuột chũi châu Phi từ lâu đã được coi là gần như mù, mắt chỉ để cảm giác chuyển động không khí chứ không phải để nhìn. Nhưng một nghiên cứu mới tìm thấy, chuột chũi thực ra vẫn nhìn thấy rõ, và chúng chỉ không thích những gì nhìn thấy. Nhìn thấy ánh sáng có nghĩa là một kẻ săn mồi đã đột nhập được vào đường hầm.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng sự tiến hóa tạo ra những con vật ích kỷ chỉ biết lo cho sự sống còn của mình. Lòng vị tha xuất hiện ở những trường hợp khi nó có thể giúp bảo tồn những gene tương tự với mình. Những con chim non giúp đỡ lẫn nhau bằng cách tạo ra tiếng kêu đặc biệt khi được ăn. Tiếng kêu này nhằm thông báo hãy tìm kiếm thức ăn cho cả những con bên cạnh là họ hàng gần và có chung nhiều gene với mình. Chìa khóa của sự chọn lọc tự nhiên là không phải tạo ra những con vật khỏe mạnh tốt nhất, mà là bộ gene tốt nhất, vì vậy những hành vi nào ưu tiên mối quan hệ gần gũi sẽ luôn phát triển.
Với rất nhiều sinh vật trên cạn đầy kỳ bí, người ta dễ dàng quên đi những hành vi kỳ quặc ở dưới biển. Tình trạng lưỡng tính xảy ra ở nhiều loài cá hơn bất cứ động vật có xương sống nào. Một số con cá thay đổi giới tính để thích nghi với sự thay đổi khí hậu. Những con khác đồng thời sở hữu cả hai cơ quan giới tính đực và cái.
Những con hươu cao cổ có chiếc cổ cao ngồng là để tranh giành lá cây với những loài ăn thực vật khác. Mặc dù lợi thế chiều cao là rõ ràng, nhưng chúng vẫn gặp một số bất lợi khác. Tim phải hoạt động gấp 2 lần con bò để đưa máu lên não và cần tới một hệ thống mạch máu phức tạp để đảm bảo máu không dồn xuống mặt khi cúi đầu xuống. Ở phía dưới, da chân cũng phải cực kỳ chắc để ngăn máu đọng lại ở bụng.
Voi có bộ não lớn nhất trong các loài vật đi lại trên trái đất - gần 5 kg, nhưng chúng có sử dụng tất ? Sự thông minh khó để định lượng ở người và vật, nhưng chỉ số EQ (encephalization quotient), tỷ lệ giữa kích cỡ bộ não của con vật với kích cỡ bộ não cần có trên tổng khối lượng cơ thể, có mối quan hệ tương ứng với khả năng xử lý các thách thức và cản trở. Chỉ số EQ ở voi trung bình là 1,88. Ở người là 7,33 - 7,69, và tinh tinh là 2,45, lợn 0,27.
Lời nói của vẹt thường được cho là những câu bắt chước vô nghĩa. Nhưng nghiên cứu trong 30 năm qua cho thấy vẹt không chỉ bắt chước con người. Chúng có thể xử lý ngôn từ như một đứa trẻ 4-6 tuổi. Chúng có thể hiểu được ý nghĩa của các từ như "giống nhau", "khác nhau", "to hơn", "lớn hơn" và các con số. Điều lý thú hơn cả là chúng có thể kết hợp các cụm từ theo cách rất sáng tạo.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 4:56:50 GMT 9
Tại sao lá cây có màu đỏ vào mùa thu Lá cây đổi màu là một trong những hiện tượng báo hiệu mùa thu đến, nhưng tại sao lá của một số loài chuyển sang màu đỏ? Câu hỏi này khiến các nhà sinh học bối rối suốt nhiều thập kỷ. Giờ đây tiến sĩ Thomas Doring, giảng viên tại Đại học Imperial College London (Anh) đề xuất một cách giải thích mới. Thomas cùng hai cộng sự đặt giả thiết rằng lá cây tạo ra sắc tố đỏ vì tránh màu vàng thu hút sự chú ý của các côn trùng gây hại như rệp vừng. Sắc tố vàng hiện diện trên lá vào cả mùa xuân và mùa hè, nhưng chúng ta chỉ nhìn thấy nó vào mùa thu khi lá cây ngừng sản xuất chất chlorophyll tạo ra màu xanh trước khi rụng. Còn màu đỏ được tạo ra bởi một loại sắc tố có tên anthocyanin. Nhiều loài cây cối sản xuất sắc tố này vào mua thu trước khi lá rụng. Để kiểm tra giả thiết, ba nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu xu hướng lựa chọn màu sắc của rệp vừng khi chúng tìm tới cây vào mùa thu để giao phối và đẻ trứng. Họ bôi 70 màu khác nhau lên 140 đĩa rồi đổ đầy nước để theo dõi số lượng rệp vừng đậu trên mỗi đĩa. Hai tuần sau, nhóm nghiên cứu nhận thấy số lượng rệp trên những đĩa màu xanh dương nhiều gấp hơn ba lần so với đĩa có màu đỏ, nhưng đĩa màu vàng lại thu hút được số lượng rệp nhiều gấp 4 lần so với đĩa xanh. Màu đỏ giúp cây xua đuổi côn trùng gây hại trong mùa thu. Ảnh: tinypic.com Sau đó, tiến sĩ Thomas dùng màu sắc của vài trăm loại lá thuộc nhiều loài cây để bôi lên đĩa và lặp lại thử nghiệm. Kết quả cho thấy những lá màu đỏ không thu hút được nhiều rệp bằng lá xanh và vàng. Từ thí nghiệm này nhóm chuyên gia nhận định lá một số loài cây chuyển màu đỏ để chống lại rệp vừng. Nếu loài côn trùng này đậu lên lá để đẻ trứng với số lượng lớn, sự sinh trưởng của cây có thể chậm lại và sức khỏe của chúng sẽ giảm sút. Lợi ích của màu đỏ đã rõ ràng, nhưng tại sao lá của một số loài cây vẫn chuyển màu vàng khi mùa thu tới? “Về mặt lý thuyết, thực vật phải hứng chịu tổn thất cho việc chuyển sang màu đỏ. Nếu thiệt hại mà côn trùng gây ra lớn hơn tổn thất phát sinh từ việc sản xuất sắc tố đỏ vào mùa thu, lá cây sẽ có xu hướng chuyển sang màu đỏ. Ngược lại, nếu thiệt hại do côn trùng gây ra thấp hơn, cây sẽ giữ lại màu vàng trên lá”, tiến sĩ Thomas giải thích. Thomas và hai cộng sự sẽ tiếp tục tìm hiểu những tác động của rệp vừng đối với sức khỏe của lá cây và sự khác biệt về hành vi của rệp vừng khi đậu trên lá màu đỏ, màu xanh và màu vàng. Theo nhiều chuyên gia, phát hiện nói trên của các nhà khoa học có ý nghĩa to lớn. Ít nhất thì mọi người đã hiểu rằng, nếu muốn xua đuổi lũ côn trùng gây hại khỏi ruộng đồng vào mùa thu, chúng ta nên trồng nhiều loại cây lá đỏ
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 5:04:49 GMT 9
Những “kỷ lục gia” trong thế giới động vật Bọ cánh cứng tê giác có thể mang khối lượng gấp 850 lần khối lượng cơ thể, trong khi cá cờ có khả năng di chuyển với tốc độ 109 km/giờ... Chúng được gọi là những kỷ lục gia trong thế giới động vật.... Hải âu cũng là loài có khả năng bay xa kỷ lục. Những kẻ di trú đường trường này có thể di chuyển 64.000km mỗi năm từ New Zealand tới bán cầu bắc để tìm thức ăn. Năm 2005, một con cá mập trắng lớn tên Nicole được ghi nhận là cá mập di trú dài nhất: nó đã di chuyển một đoạn đường dài 20.000km từ châu Phi đến Úc trong chín tháng. Hệ thống định vị cho thấy Nicole đã trải qua rất nhiều thời gian trên mặt nước mà các nhà khoa học tin rằng nó sử dụng những dấu hiệu trên bầu trời để định vị khi di chuyển. Loài cá nhanh nhất thế giới là cá cờ, với tốc độ di chuyển có thể lên đến 109 km/giờ trên một quãng đường ngắn. Chúng thường săn mồi theo nhóm bằng cách sử dụng chiếc vây lưng khá ấn tượng để dồn các bầy cá mòi hoặc cá trồng... Báo cheetah hiện nắm giữ kỷ lục là động vật di chuyển nhanh nhất trên cạn: nó có thể chạy với tốc độ 96 km/giờ và đạt tốc độ này chỉ trong 3 giây và tăng tốc đến khoảng 115 km/h trong 10s. Tuy nhiên loài báo này tốn rất nhiều năng lượng cho cuộc săn đuổi và chỉ có thể chạy được một cự ly ngắn khoảng 274m. Bạn đừng có dại dột chọc giận những con báo, ngoài tốc độ trên, báo còn leo cây rất giỏi, nhìn ban đêm rất tốt và sẵn sàng lao xuống nước để tắm và săn ... cá sấu Chim ưng được phong là "vua tốc độ" trong thế giới động vật. Chúng săn mồi bằng cách bổ nhào xuống con mồi (chim cu, bồ câu...) với tốc độ 322 km/giờ, chụp con mồi trong không trung bằng những chiếc móng vuốt sắc bén, sau đó đáp xuống đất để xé nhỏ và ăn. Từ hàng ngàn năm trước, con người đã biết sử dụng sức mạnh của voi châu Á và voi châu Phi để phục vụ trong các cuộc chiến: dùng chúng làm phương tiện vận chuyển. Một cái vòi voi chứa khoảng 100.000 cơ bắp và có thể nâng 270kg. So với voi, bọ cánh cứng tê giác quá nhỏ bé. Nhưng nếu so sánh tỉ lệ khối lượng mang được trên khối lượng cơ thể thì loài này có lẽ là loài khỏe nhất thế giới: chúng có thể mang khối lượng gấp 850 lần khối lượng cơ thể. Nếu con người có sức mạnh như thế, họ có thể nâng được 65 tấn! Ve sầu nhảy được ghi tên vào sách kỷ lục là côn trùng nhảy cao nhất: nó có khả năng nhảy bật cao đến 70cm trong không khí mặc dù chỉ dài 6mm. Nếu con người có khả năng như loài côn trùng này, họ có thể nhảy cao tới 210m! Linh dương châu Phi với chân dài và mảnh khảnh cũng được biết đến là loài thú nhảy xa kỷ lục: khi bị đe dọa, nó lập tức phóng ra xa với một bước nhảy dài khoảng 10m và cao 3m. Vào năm 2007, một chú chim di trú có tên khoa học Limosa lapponica đã lập kỷ lục là chim di trú bay liên tục trên quãng đường dài nhất. Trong vòng chín ngày nó đã bay được 11.500km từ Alaska tới New Zealand mà không hề dừng lại để ăn hoặc uống. Cuối chuyến hành trình này trọng lượng nó giảm hơn một nửa.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 26, 2009 5:38:20 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 9:16:14 GMT 9
Thế giới trong thập kỷ 2010s Vietsciences-Nguyễn Trường 18/02/2010
Khi thập kỷ thứ hai thế kỷ 21 bắt đầu, nhân loại đang bước vào một thời kỳ lịch sử sôi động - cán cần quyền lực trên thế giới đang chuyển dịch nhanh chóng.
Nếu thập kỷ đầu của thế kỷ 21 đã chứng kiến nhiều biến động tai họa, trên vài phương diện, thế giới năm 2009 vẫn ít nhiều tương tự với thế giới năm 1999: Hoa Kỳ vẫn là cường quốc quân sự số một, đồng mỹ kim vẫn là ngoại tệ dự trữ của thế giới, và NATO vẫn là đồng minh quân sự then chốt của Mỹ.
Đến cuối thập kỷ thứ hai, thế giới chắc sẽ có bộ mặt khác hẳn. Những chuyển dịch dồn dập trong quan hệ quyền lực toàn cầu, và sự thay đổi vai trò đế quốc áp đảo nay mới rõ nét, sẽ càng nổi bật vào năm 2020 khi các tay chơi mới, các xu thế mới, các quan tâm mới, và các định chế mới khống chế toàn cầu. Tuy nhiên, tất cả cũng chỉ nằm trong chuẩn mực lịch sử, dù bi hài đến mấy đối với chúng ta.
Một yếu tố bất thường trong thập kỷ thứ hai là sự can thiệp của chính địa cầu. Một hiện tượng mang tính vật lý đang đe dọa sẽ trở thành một thành tố thiên nhiên có tác động khôn lường, đáng âu lo và mang tính tai họa vào năm 2020.
Như vậy, những đặc điểm chính của thập kỷ thứ hai trong thế kỷ mới là gì? Đã hẳn, không ai dám đoan chắc. Tuy nhiên, dự phóng căn cứ trên những xu thế hiện nay, chúng ta có thể nhận diện bốn khía cạnh then chốt của đời sống: sự trỗi dậy của Trung Quốc (TQ), sự xuống dốc tương đối của Hoa Kỳ, vai trò ngày một lớn mạnh của các quốc gia Nam bán cầu, và quan trọng hơn hết, tác động ngày một lớn lao do khủng hoảng môi trường và khan hiếm tài nguyên.
RỒNG TRUNG QUỐC ĐANG LÊN
Vai trò một siêu cường đang lên của TQ không còn ai có thể chối cãi. Ảnh hưởng của TQ đã biểu lộ ở hội nghị thượng đỉnh về thay đổi khí hậu ở Copenhagen trong tháng 12-2009 khi thế giới thấy rõ không thể có một thỏa ước đáng kể nếu không có sự đồng tình của Bắc Kinh.
Vai trò then chốt của TQ cũng rất dễ thấy trong khả năng đối phó với đại suy thoái: Bắc Kinh đã rót nhiều tỉ mỹ kim vào các chương trình phục hồi kinh tế, nhờ đó, đã duy trì được tỉ suất tăng trưởng 8,7% GDP trong năm 2009 và 10,7% trong quý 4 vừa qua. TQ cũng đã chi tiêu hàng chục tỉ để mua nguyên liệu và đầu tư ở Phi châu, châu Mỹ La Tinh, và Đông Nam Á, và qua đó, đã giúp đà hồi phục ở các châu lục nầy.
Nếu hiện nay TQ đã là một đại cường kinh tế, TQ sẽ là một siêu cường vào năm 2020. Theo Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ, GDP của TQ sẽ tăng vọt từ 3.300 tỉ năm 2010 lên 7.100 tỉ năm 2020 (theo giá trị đồng USD năm 2005), lúc đó sẽ vượt qua mọi quốc gia trên thế giới trừ Hoa Kỳ. Thực vậy, vào năm 2020, GDP của riêng TQ sẽ vượt quá GDP của tất cả các quốc gia Phi châu, Mỹ La Tinh, và Trung Đông gộp lại. Cùng với thời gian, TQ sẽ leo lên những bậc thang kỹ thuật cao và hiện đại, sản xuất các sản phẩm ngày một cao cấp hơn, kể cả năng lượng xanh và các hệ thống vận tải tiền tiến, thiết yếu cho kinh tế hậu-carbon tương lai. Với đà tiến bộ vừa nói, ảnh hưởng của TQ trong sinh hoạt quốc tế sẽ ngày một lên lớn lao.
Đã hẳn TQ sẽ sử dụng sự thịnh vượng gia tăng và sức mạnh kỹ thuật tiền tiến để tăng cường thế lực quân sự của mình. Theo Viện Nghiên Cứu Hòa Bình Quốc Tế Stockholm (Stockholm International Peace Research Institute - SIPRI), TQ đã có ngân sách quân sự lớn thứ hai trên thế giới, mặc dù con số 85 tỉ USD đầu tư vào quân đội trong năm 2008 chẳng là bao so với 607 tỉ của Mỹ. Vả chăng, quân đội TQ vẫn tương đối lạc hậu về kỹ thuật và khí giới không mấy tân tiến so với các trang bị quân sự tiền tiến của Hoa Kỳ, Nhật , và Âu châu. Tuy nhiên, hố cách biệt sẽ thu hẹp một cách đáng kể trong thập kỷ thứ hai khi TQ dồn thêm tài nguyên vào chương trình canh tân quân sự.
Vấn đề then chốt cần được đặt ra: TQ sẽ sử dụng lực lượng quân sự gia tăng như thế nào để đạt các mục tiêu theo đuổi?
Cho đến nay, lãnh đạo TQ đã vận dụng sức mạnh ngày một gia tăng một cách khá thận trọng, tránh những cách ứng xử có thể gây âu lo hay nghi ngờ từ phía các xứ láng giềng và đối tác kinh tế. Thay vào đó, chính quyền TQ đã sử dụng các phương tiện tài chánh và "sức mạnh mềm" - ngoại giao, viện trợ phát triển, quan hệ văn hóa - để tranh thủ thêm bạn và đồng minh. Tuy nhiên, liệu TQ sẽ tiếp tục phương cách tiếp cận hòa hợp, không mang tính đe dọa, khi những rủi ro, trong quá trình tích cực theo đuổi quyền lợi quốc gia, ngày một giảm bớt? Chắc chắn là không.
Một TQ không mấy khiêm tốn, tự tin và khẳng định, đã biểu lộ khá rõ ràng trong những tháng cuối năm 2009 khi T T Obama gặp Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào ở Bắc Kinh và Thủ Tướng Ôn Gia Bảo ở Copenhagen. Trong cả hai dịp, TQ không còn tìm kiếm một cách tiếp cận hài hòa: Ở Bắc Kinh, TQ đã hạn chế cơ hội gặp gỡ giữa Obama và giới truyền thông, từ chối mọi hòa dịu trong vấn đề Tây Tạng, và đã tỏ thái độ bất hợp tác trong các biện pháp chế tài đối với Iran; ở Copenhagen, vào thời điểm quyết định, TQ chỉ gửi những viên chức cấp thấp đến thương nghị với Obama - một chỉ dấu rõ ràng thiếu kiêng nể - và áp đặt một thỏa ước theo đó TQ không bị ràng buộc cắt giảm mức khí thải carbon dioxide.
Nếu các cuộc hội kiến thượng đỉnh là một chỉ dấu, các lãnh đạo TQ đang sẵn sàng theo đuổi một lập trường cứng rắn, buộc Hoa Thịnh Đốn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi căn bản của mình với rất ít nhượng bộ, ngay trong những vấn đề có tầm quan trọng thứ yếu. TQ tin tưởng có đủ khả năng hành động như vậy, bởi lẽ kinh tế của nhiều quốc gia hiện đang lệ thuộc vào chính sách thương mãi và đầu tư của TQ - một vai trò toàn cầu nòng cốt trước đây chỉ do Hoa Kỳ nắm giữ - và vì kích cỡ và vị trí địa lý của mình trong một vùng năng động nhất hoàn cầu. Vả chăng, trong thập kỷ đầu thế kỷ 21, các lãnh đạo TQ đã chứng tỏ đặc biệt khôn khéo xây đắp quan hệ với lãnh đạo các quốc gia nhỏ cũng như lớn ở Phi châu, Á châu, và châu Mỹ La Tinh - những xứ sẽ giữ vai trò ngày một quan trọng hơn trong địa hạt năng lượng và sinh hoạt quốc tế.
Một câu hỏi khác cần được đặt ra: TQ nhằm những mục tiêu gì khi vận dụng quyền lực đang lên của mình? Các lãnh đạo Bắc Kinh đang theo đuổi ba mục tiêu: bảo đảm độc quyền chính trị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc - CPC; duy trì tỉ suất tăng trưởng kinh tế nhanh cần thiết cho địa vị áp đảo của mình; và phục hồi địa vị lịch sử của TQ. Trong thực tế, cả ba mục tiêu đều liên kết chặt chẽ với nhau. Các lãnh đạo cao cấp tin, CPC chỉ có thể duy trì địa vị cầm quyền chừng nào tiếp tục điều hợp được bành trướng kinh tế , thỏa mãn khát vọng quốc gia chủ nghĩa của người dân, cũng như cấp chỉ huy Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân. Mọi việc làm của Bắc Kinh, quốc nội cũng như quốc tế, đều nhằm cả ba mục tiêu. Khi TQ hùng mạnh hơn, TQ sẽ sử dụng quyền lực gia tăng của mình để uốn nắn môi trường toàn cầu có lợi cho mình như người Mỹ đã và đang làm lâu nay. Trong trường hợp của TQ, điều nầy có nghĩa một thế giới rộng mở, nhập khẩu các sản phẩm và tư bản đầu tư của TQ, cho phép các xí nghiệp TQ nắm giữ tài nguyên toàn cầu trong khi ngày một bớt lệ thuộc vào đồng Mỹ Kim như ngoại tệ dự trữ.
Một vấn đề chưa có giải đáp: Liệu TQ đã có thể bắt đầu hành xử sức mạnh quân sự của mình hay chưa?
Rất có thể. Bắc Kinh có thể hành động như thế, ít ra một cách gián tiếp. Qua việc cung cấp vũ khí và cố vấn quân sự cho mạng lưới các đồng minh ngày một mở rộng ở hải ngoại, Bắc Kinh sẽ thiết lập sự hiện diện quân sự khắp nơi trên thế giới. Có lẽ TQ sẽ tiếp tục tránh né việc dùng vũ lực trong những trạng huống có thể dẫn đến va chạm với các cường quốc Tây phương, nhưng rất có thể sẽ không ngần ngại sử dụng vũ lực những lúc mục tiêu và quyền lợi quốc gia xung đột với các nước láng giềng. Một biến cố như thế có thể xẩy ra, chẳng hạn, trong những tranh chấp hải phận để kiểm soát những khu vực giàu năng lượng ở biển Đông hay Trung Á, hay khi một trong những cộng hòa Xô Viết trước đây trở thành căn cứ địa của các chiến binh Uighur đang tìm cách xói mòn quyền kiểm soát Tỉnh Tân Cương của TQ.
DIỀU HÂU HOA KỲ ĐANG MỎI CÁNH
Trong khi TQ đang trên đà đi lên, đà tuột dốc của Hoa Kỳ ngày nay đã là một sự kiện thực tế. Thế giới đã mất rất nhiều giấy mực về sự suy giảm quyền lực không thể tránh của Hoa Kỳ, như một xứ chịu hậu quả của các chính sách kinh tế, tài chánh sai lầm và tham vọng đế quốc giàn trải quá mỏng [1]. Thực vậy, mặc dù vẫn còn có thể duy trì địa vị tay chơi hùng mạnh duy nhất trong hai thập kỷ sắp tới, sức mạnh tương đối của Hoa Kỳ, ngay cả trong địa hạt quân sự, sẽ giảm dần và thế đòn bẫy cũng sẽ bị hạn chế.
Ngoại trừ những tai họa không thể tiên liệu, Hoa Kỳ chắc sẽ không nghèo đi hay lạc hậu hơn về kỹ thuật. Trong thực tế, theo dự báo của Bộ Năng Lượng gần đây nhất, GDP của Hoa Kỳ vào năm 2020 sẽ ở khoảng 17.500 tỉ (theo giá trị đồng USD năm 2005), tăng khoảng 33% so với hiện nay. Hơn nữa, một vài sáng kiến của T T Obama hỗ trợ các hệ thống năng lượng tân tiến sắp bắt đầu mang lại kết quả , rất có thể sẽ giúp Hoa Kỳ dẫn đầu trong một số kỹ thuật xanh. Và cũng không nên quên, Hoa Kỳ vẫn còn là cường quốc quân sự số một , với TQ lẽo đẽo theo sau , và không một đối thủ nào khác có đủ tiềm năng huy động các tài nguyên như TQ để thách thức những lợi thế quân sự của Mỹ.
Điều đã thay đổi là địa vị tương đối của Hoa Kỳ đã suy giảm nhiều đối với TQ và các quốc gia khác - và như vậy, cố nhiên cả khả năng khống chế kinh tế toàn cầu, và nghị trình chính trị thế giới. Một lần nữa, theo dự phóng của Bộ Năng Lượng, vào năm 2005, GDP 12.400 tỉ của Mỹ vượt quá GDP của tất cả các nước Á châu và Nam Mỹ , kể cả Brazil, TQ, Ấn Độ, và Nhật. Vào năm 2020, GDP gộp của Á châu và Nam Mỹ sẽ vào khoảng 40% lớn hơn GDP của Mỹ, và tăng trưởng với một tỉ suất nhanh hơn. Lúc đó, Hoa Kỳ sẽ là con nợ của nhiều xứ khác giàu hơn, đặc biệt là TQ, các món nợ cần thiết để bù đắp ngân sách liên tục khuy khiếm do các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, ngân sách Pentagon, gói kích cầu liên bang, và các "tích sản nhiễm độc" (toxic assets) của các ngân hàng và các công ty gặp nghịch cảnh.
Điều khó tránh là trong nền kinh tế thế giới ngày một cạnh tranh gay gắt hơn và lợi thế các xí nghiệp Mỹ lúc một giảm bớt, viễn ảnh đối với người Mỹ bình thường ngày một rõ ràng ảm đạm hơn. Một vài khu vực kinh tế, và một vài địa phương chắc chắn sẽ tiếp tục phồn thịnh, nhưng nhiều khu vực, nhiều nơi khác chắc phải chịu số phận của Detroit, trở nên rỗng ruột và chịu cảnh nghèo khó. Đối với hầu hết người Mỹ, thế giới 2020 vẫn còn có thể đem lại một mực sống cao hơn đa số nhân loại; nhưng lối sống xa xỉ của giới trung lưu trước đây - dịch vụ y tế, đi ăn tiệm, du lịch - sẽ ngày một khan hiếm.
Ngay cả lợi thế quân sự của Hoa Kỳ cũng sẽ bị bào mòn. Các chi phí khổng lồ do hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan sẽ giới hạn khả năng của Mỹ cáng đáng các sứ mệnh quân sự quan trọng ở hải ngoại. Không nên quên trong thập kỷ đầu của thế kỷ mới, phần lớn các trang bị tác chiến căn bản của lục quân và thủy quân lục chiến đã bị hư hao hay hủy hoại trong hai cuộc chiến, trong khi các đơn vị tác chiến đã quá mỏi mệt và căng thẳng vì nhiều đợt phục vụ tại chiến trường. Các biện pháp tu bổ, phục hồi, sẽ đòi hỏi ít ra một thập kỷ tương đối hòa bình, một điều hiện rất khó thấy trong một tương lai gần.
Những hạn chế ngày một lớn đối với quyền lực của Hoa Kỳ gần đây đã được T T Obama xác nhận trong một khung cảnh bất thường: bài nói chuyện loan báo đợt tăng quân ở Afghanistan tại West Point. Trái với giọng điệu ngông cuồng ngạo nghễ của Bush trước đây, lời lẽ của Obama là một sự mặc nhiên thú nhận quyền lực suy giảm của Mỹ. Ám chỉ những lời lẽ dao to búa lớn của Bush, Obama đã ghi nhận: "Chúng ta đã không thẩm định được mối tương quan giữa kinh tế và an ninh quốc gia. Với cuộc khủng hoảng kinh tế, láng giềng và bạn bè của chúng ta đang thất nghiệp và phải vất vả phấn đấu để trả nợ nần... Trong khi đó, cạnh tranh trong kinh tế toàn cầu ngày một gay gắt hơn. Vì vậy, chúng ta không thể không lưu ý đến cái giá phải trả của các cuộc chiến hiện nay"[2].
Nhiều người đã chọn lối giải thích, quyết định tăng quân của Obama ở Afghanistan như một tiêu biểu, kiểu thế kỷ 21, của sự sẵn sàng can thiệp quân sự ở bất cứ đâu trên hành tinh. Trong thực tế, quyết định đó chỉ là một hành động quá độ hay chuyển tiếp nhằm ngăn ngừa một sự sụp đổ toàn bộ và tuyệt đối của cuộc phiêu lưu quân sự sai lầm vào một thời điểm Hoa Kỳ ngày một phải sử dụng những biện pháp phi quân sự như thuyết phục và hợp tác, dù chỉ tạm thời, với các đồng minh. T T Obama đã nói: " Chúng ta sẽ phải linh hoạt và chính xác khi sử dụng sức mạnh quân sự... Và chúng ta không thể chỉ trông cậy vào sức mạnh quân sự"[3]. Lời cảnh cáo nầy từ nay sẽ là kinh nhật tụng chi phối đại bàng Hoa Kỳ đang suy yếu trong việc hoạch định chiến lược.
Barack Obama đã thừa hưởng một quốc gia đang trên đà tuột dốc, và sau một năm vào Tòa Bạch Ốc vẫn chưa tìm được một phương cách vực dậy. Người Mỹ có cảm tưởng đang bị sa lầy.
Trên một bình diện cơ bản, tình trạng thiếu sáng sủa đó bắt nguồn từ sự chuyển dịch uy quyền. Hoa Kỳ không còn như trước. Bị tấn công, phản ứng của Hoa Kỳ đã mang lại nhiều tổn hại về sinh mạng và tài nguyên. Giận dữ chồng cất, bức xúc nợ nần ngày một tăng.
Dù muốn dù không, thế giới đang chứng kiến Tây phương ngày một mất dần ảnh hưởng, dù chỉ tương đối. Obama hiểu rõ thế giới đã đổi thay và đòi hỏi những chính sách mới, nhưng lại luôn bị chính trị Hoa Thịnh Đốn cản đường. Năm đầu trên sân khấu chính trị thế giới, Obama đã đưa ra nhiều diễn văn sáng tạo, nhưng chính sách chẳng mấy tân kỳ. Từ vận động tuyển cử thành công qua thực hiện nghị trình, quá trình chuyển tiếp vẫn còn là một công trình đang diễn tiến. Đề tài là thay đổi. Obama đã nói đến một nền tảng mới. Các trung tâm tăng trưởng trọng yếu đã chuyển dịch đến TQ, Ấn Độ, Brazil... Nhưng đổi thay không thể chỉ qua diễn văn, mà đòi hỏi lòng tin và can đảm. Nhưng hiện chưa thấy có tín hiệu thay đổi đối với Bắc Kinh, Tehran, Jerusalem, hay Havana...
Trong thập kỷ 1950s, khi quan sát Hoa kỳ đang vướng vào cuộc xung đột về sau đã trở thành cuộc chiến Việt Nam, một viên chức chính quyền đã đưa ra nhận xét : "Dù người Pháp thích hay không thích, độc lập cũng sẽ đến với các xứ Đông Dương. Vì vậy, tại sao chúng ta lại tự buộc mình vào cái đuôi của con diều đã tơi tả của người Pháp?"[4].
Obama hiện đang cỡi theo nhiều con diều tơi tả.
Trước hết, hơn 6 tỉ mỹ kim vũ khí bán cho Đài Loan, ai cũng biết, đã khiến Bắc Kinh giận dữ. Không thể tưởng tượng một quan hệ mới có thể tái xuất hiện chừng nào Bắc Kinh xem Hoa Thịnh Đốn đang can thiệp vào quyền lợi chiến lược căn bản của mình. Bằng cách nào Obama có thể tăng gấp đôi ngạch số xuất khẩu của Hoa Kỳ vào năm 2015 trong khi gây hấn với TQ là một điều bí hiểm. Làm sao Obama mong đợi TQ hợp tác trong vấn đề Iran cũng không ai có thể hiểu thấu.
Trong một thư phúc đáp cho nhà báo Roger Cohen của Mỹ tháng 1-2010 về vấn đề Iran, Bộ Ngoại Giao TQ đã viết: "Chúng tôi nghĩ chế tài không thể giải quyết vấn đề một cách căn bản. Vẫn còn nhiều biện pháp ngoại giao chúng ta có thể sử dụng về vấn đề hạt nhân"[5]. Bộ Ngoại Giao TQ cũng đã nói với Cohen: TQ ủng hộ mạnh mẽ đường lối cấm phổ biến hạt nhân, nhưng kêu gọi phải kiên nhẫn trong nỗ lực giải quyết vấn đề hạt nhân Iran một cách hòa bình và toàn diện.
Lập trường của TQ như vậy thật quá xa với giọng điệu của Obama trong Diễn Văn về Tình Trạng Liên Bang, khi ông đã xếp Iran chung với Bắc Triều Tiên ( hoàn toàn khác nhau và không nên xếp chung) và cảnh cáo các lãnh đạo Iran là họ " sẽ phải đối đầu với các hậu quả ngày một gia tăng . Đây là một lời hứa"[6].
Obama muốn có một quan hệ mới với TQ, nhưng ông đang bị kẹt với Luật Quan Hệ với Đài Loan 1979 - 1979 Taiwan Relations Act. Ông đang tìm kiếm một quan hệ mới với Tehran nhưng đang rơi trở lại mẫu mực các đe dọa chế tài vô bổ xưa cũ trong thời điểm biến chuyển chính trị nhanh chóng và lớn lao ở Iran khiến mọi đe dọa chỉ phản tác dụng. Đề nghị thương thảo có thể sẽ gây âu lo cho lãnh đạo Iran; và đe dọa chỉ có lợi cho phe cứng rắn.
Ở Trung Đông, Obama muốn tái định hình quan hệ với thế giới Hồi Giáo, và thúc đẩy hòa bình giữa Israel và Palestine trong khi lại lắng nghe Benjamin Netanyahu cam kết sẽ vĩnh viễn duy trì các khu định cư ở Bờ Tây. Obama đã không thể thay đổi động lực ngày một đào sâu hố cách biệt trong lập trường giữa hai xứ.
Khu vực duy nhất nơi hành động của Obama đã rõ ràng đi đôi với lời nói là loại trừ các chiến binh Al Qaeda - nhiều hơn năm 2008 . Đây là chủ thuyết mới chưa được công bố của Obama: tàn sát đại trà các mục tiêu. Đây là chiến lược ít tốn kém và hiệu quả hơn xâm chiếm bằng bộ binh , nhưng lại nêu lên nhiều vấn đề không thể bỏ qua trong yên lặng.
Nền tảng mới rất cần thiết. Nhưng nền móng mới không thể xây dựng nửa vời. THẾ GIỚI THỨ BA ĐANG ĐI LÊN
Thập kỷ thứ hai của thế kỷ mới cũng sẽ chứng kiến tầm quan trọng ngày một gia tăng của các quốc gia nghèo khó phương Nam: các xứ cựu thuộc địa đang phát triển ở Phi châu, Á châu, và châu Mỹ La Tinh. Trước đây, các quốc gia thuộc thế giới thứ ba chỉ được xem như những lãnh thổ bỏ ngõ để các đại cường Âu châu, Bắc Mỹ, và Nhật đến chiếm đóng, vơ vét, và thống trị. Ngày nay, trong một chừng mức nào đó, các quốc gia nầy vẫn còn giữ một vai trò ngoại biên, nhưng tình hình hiện đang đổi khác.
Một thời là thành viên của thế giới thứ ba, TQ ngày nay đã là một siêu cường kinh tế. Ấn Độ cũng đang theo sát TQ. Brazil, Indonesia, South Africa, và Turkey, cũng trên đường trỗi dậy. Ngay cả các xứ nhỏ, nghèo nàn ở phương Nam, cũng đã bắt đầu được thế giới chú ý ngày một nhiều hơn như những xứ cung cấp nguyên liệu cần thiết hay những xứ đang gặp nhiều vấn đề nan giải, kể cả nạn khủng bố và các tổ chức tội phạm.
Trong một chừng mức nào đó, đây là sản phẩm của các con số - dân số gia tăng và tài sản gia tăng. Năm 2000, dân số các xứ Nam bán cầu được ước tính 4,9 tỉ; vào năm 2020, con số nầy dự báo sẽ lên tới 6,4 tỉ. Phần đông sẽ còn nghèo khó và không có cơ hội tham gia ứng cử, bầu cử, nhưng hầu hết sẽ là những nhân công (trong nền kinh tế chính thức hay không chính thức), một số sẽ tham dự vào quá trình chính trị một cách nào đó, một số ít là doanh nhân, lãnh đạo lao động, thầy giáo, tội phạm, hay chiến binh. Trong mọi trường hợp, họ cũng đã có cách riêng buộc thế giới không thể bỏ quên.
Các quốc gia phương Nam cũng sẽ giữ một vai trò kinh tế ngày một quan trọng như những nguồn cung cấp nguyên liệu ngày một khan hiếm, và như suối nguồn của sức sống kinh doanh. Theo một ước tính, GDP gộp của các xứ phương Nam (ngoại trừ TQ) sẽ tăng vọt từ 7.800 tỉ năm 2005 đến 15.800 tỉ năm 2020, một sự gia tăng hơn 100%. Đặc biệt, nhiều quặng mỏ, dầu, hơi đốt thiên nhiên, và những khoáng sản then chốt rất cần cho hệ thống kỹ nghệ của các quốc gia kỹ nghệ phương Bắc, đang cạn kiệt dần sau nhiều thập kỷ cực lực khai thác. Chỉ còn trữ lượng tài nguyên của phương Nam là chưa được khai thác đúng mức.
Dầu lửa là một ví dụ. Năm 1990, 43% số dầu sản xuất hàng ngày trên thế giới đến từ các xứ thành viên OPEC (Organization of Petroleum Exporting Countries), gồm các quốc gia vùng Vịnh Ba Tư, Algeria, Angola, Ecuador, Libya, Nigeria, và Venezuela, các quốc gia Phi châu, châu Mỹ La Tinh, và các xứ vùng Vịnh Caspian. Vào năm 2020, con số nầy dự phóng sẽ lên tới 58%. Một sự chuyển dịch trung tâm sản xuất tương tự trong địa hạt khoáng sản trên thế giới sẽ xẩy ra, với một số quốc gia bất ngờ như Afghanistan, Kazakhstan, Mongolia, Niger (uranium), và Cộng Hòa Dân Chủ Congo giữ một tiềm năng then chốt.
Các quốc gia thuộc thế giới thứ ba cũng chắc chắn sẽ giữ một vai trò nổi trội trong nhiều địa hạt mang tiềm năng tai họa. Nạn nghèo đói cùng cực triền miên phối hợp với tình trạng kinh tế tuyệt vọng, dân số tăng nhanh, và thay đổi khí hậu, sẽ là một cái nôi bất ổn chính trị, biến động, bạo loạn, tôn giáo cực đoan, tội phạm tràn lan, di dân hàng loạt, và bệnh tật lan tràn. Các quốc gia kỹ nghệ giàu có phương Bắc sẽ tìm cách tránh né các hiểm họa bất ổn qua việc thiết lập đủ loại rào cản, nhưng với số đông sẵn có, dân chúng phương Nam nghèo đói, chắc chắn, với một cách nào đó, sẽ khẳng định sự hiện diện của mình.
HÀNH TINH KHỦNG HOẢNG
Tất cả những gì được mô tả ở các phần trên cũng chỉ là những biến đổi bình thường trong tương tác giữa các cường quốc thuộc địa trên thế giới, nếu hành tinh tự nó không có gì chuyển đổi sâu xa hơn chính các đại cường riêng rẽ hay từng phe nhóm. Các thực tế - như hiện tượng khí thải nhà kính, tài nguyên và thực phẩm khan hiếm, ngày một hiển nhiên vào cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ - cũng sẽ đủ khả năng làm lu mờ vai trò của mọi quyền lực quân sự, kinh tế thông thường, dù hùng mạnh đến đâu.
Giáo sư Ole Danbolt Mjos, chủ tịch Ủy Ban Nobel Thụy Điển, nhân dịp phát giải thưởng hòa bình cho Hội Đồng Liên Chính Phủ về Thay Đổi Khí Hậu và Al Gore, tháng 12-2007, đã nói: "Ngày càng đông các khoa học gia đã đạt được đồng thuận liên quan đến những hậu quả ngày một bi thảm của hiện tượng hâm nóng toàn cầu"[7]. Trong cùng chiều hướng, một số chuyên gia năng lượng ngày một đông đã kết luận, việc sản xuất dầu quy ước toàn cầu sẽ đạt đỉnh điểm một ngày gần đây để rồi bắt đầu tiệm giảm, sẽ dẫn đến nạn thiếu hụt năng lượng toàn cầu. Trong khi đó, tình trạng khan hiếm thực phẩm trong tương lai , như đã được nhắc nhở một phần bởi hiện tượng hâm nóng toàn cầu và giá năng lượng tăng cao, ngày một trở nên nghiêm trọng.
Tất cả đều đã rõ ràng khi các nhà lãnh đạo thế giới họp ở Copenhagen và đã không thể thiết lập một chế độ quốc tế hữu hiệu nhằm giảm bớt khí thải nhà kính làm thay đổi khí hậu (greenhouse gases - GHGs). Mặc dù họ cũng đã đồng ý tiếp tục thương nghị và theo đuổi một chương trình tự nguyện cắt giảm GHGs, không mang tính ràng buộc, giới quan sát tin: những nỗ lực như thế khó thể dẫn đến những tiến bộ đáng kể có thể giúp kiểm soát thay đổi khí hậu trong một tương lai gần. Điều ít ai nghi ngờ là nhịp thay đổi khí hậu sẽ tăng tốc một cách tai họa trong thập kỷ thứ hai, dầu khí và các tài nguyên then chốt sẽ ngày một khan hiếm và khó khai thác, số cung thực phẩm ngày một sút giảm trong nhiều vùng nghèo đói và chịu ảnh hưởng nặng nề của hiện tượng thay đổi khí hậu.
Các khoa học gia chưa thể đồng ý về bản chất, thời điểm, và tác động địa lý chính xác của thay đổi khí hậu, nhưng họ đều đồng ý càng về sau chúng ta sẽ chứng kiến một sự gia tăng theo cấp số nhân trong tỉ trọng khí thải nhà kính trong không khí khi số năng lượng hóa thạch tiêu thụ gia tăng và số khí thải của các nhà máy kỹ nghệ trong quá khứ di chuyển vào thượng tầng khí quyển. Chẳng hạn, theo các dữ kiện của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ, giữa năm 1990 và 2005, lượng khí thải carbon dioxide đã tăng 32%, từ 21,5 lên 31,0 tỉ tấn. Phải mất 50 năm để GHGs tới được lớp khí thải nhà kính, có nghĩa tác động sẽ gia tăng, ngay cả khi tất cả các quốc gia trên thế giới ngay sau đó sẽ bắt đầu giảm bớt mức khí thải tương lai của mình.
Nói một cách khác, sự xuất hiện sớm sủa của hiện tượng hâm nóng toàn cầu trong thập kỷ đầu của thế kỷ - bảo tố tăng mạnh, lủ lụt nghiêm trọng và kéo dài trong vài khu vực, ngay cả hạn hán vượt kỷ lục trong vài vùng khác, băng đá tan, mực nước biển dâng cao - sẽ gia tăng trong thập kỷ thứ hai. Theo báo cáo năm 2007 của IPCC, nhiều thung lũng không thể sinh sống sẽ xuất hiện trong nhiều vùng rộng lớn ở Trung và Đông Bắc Á, ở Mexico, ở Tây Nam Hoa Kỳ, và vùng lòng chảo Địa Trung Hải. Nhiều nơi ở Phi châu sẽ bị tàn phá bởi nhiệt độ lên cao và vũ lượng giảm sút. Nhiều thị trấn sẽ bị bảo lụt tàn phá như New Orleans sau trận bảo Katrina năm 2005. Và những mùa hè nóng bức cũng như ít mưa sẽ hạn chế mùa màng trong những vùng sản xuất thực phẩm.
Các hệ thống năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, và nhiên liệu sinh học, sẽ ghi nhận được nhiều bước tiến rõ rệt. Mặc dù có thể thu hút những số đầu tư quan trọng để phát triển, những nguồn năng lượng tái tạo cũng chỉ chiếm một thị phần năng lượng thế giới tương đối nhỏ bé vào năm 2020. Theo dự báo của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ, nguồn năng lượng có thể tái tạo chỉ chiếm 10,5% số cầu năng lượng vào năm 2020, trong khi dầu khí còn chiếm 32,6% số cung toàn cầu, và hơi đốt thiên nhiên, 23,8%. Nói một cách khác, tai họa khí thải nhà kính sẽ hoành hành. Và thật trớ trêu, chỉ riêng số cung dầu lửa tiệm giảm cũng sẽ dẫn đến một tai họa khác - giá tất cả các loại năng lượng sẽ tăng cao và đe dọa ổn định kinh tế. Theo các chuyên viên trong ngành, kể cả các chuyên viên Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (Internatioal Energy Agency - IEA) ở Paris, nhân loại hầu như không thể tiếp tục gia tăng số lượng dầu khí sản xuất (kể cả dầu rất khó khai thác ở Arctic, dầu từ cát sạn ở Canada, và dầu shale), nếu không có những số đầu tư mới hàng nghìn tỉ mỹ kim, tất cả đều đổ vào các vùng bất ổn, bị chiến tranh tàn phá, như Iraq, hay các xứ không đáng tin cậy như Liên Bang Nga.
Trên đây là bốn khuynh hướng mang tính áp đảo trong thế kỷ thứ 21. Có lẽ còn có nhiều khuynh hướng quan trọng, hay nhiều biến cố tai họa khác, sẽ làm thay đổi quang cảnh toàn cầu, nhưng hiện nay, đó là con rồng đang lên, đại bàng sắp hạ cánh, các quốc gia trong thế giới thứ ba đang lên, và hành tinh có thể có tác động áp đảo.
© GS Nguyễn Trường,
Irvine, CA 92606, U.S.A.
14-02-2010
[1] Xin xem thêm bài "Hoa Kỳ trong Kỷ Nguyên Mới: Một Dự Phóng Tương Lai" của cùng tác giả.
[2] We've failed to appreciate the connection between our national security and our economy. In the wake of the economic crisis, too many of our neighbors and friends are out of work and struggle to pay the bills... Meanwhile, competition in the global economy has grown more fierce. So we simply can't afford to ignore the prices of these wars".
[3] We'll have to be nimble and precise in our use of military power... And we can't count on military might alone.
[4] Whether the French like it or not, independence is coming to Indochina. Why therefore do we tie ourselves to the tail of their battered kyte?
[5] We think sanctions would not fundamentally solve the problem. There are still diplomatic means that we can try regarding the nuclear issue.
[6] ...will face growing consequences. That is a promise.
[7] More and more scientists have reached ever closer agreement concerning the increasingly dramatic consequences that ewill follow from global warming.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 9:49:01 GMT 9
Phẩm cách quan trọng của người trí thứcVietsciences- Nguyễn Huệ Chi 21/06/2009 (SVVN) Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chia sẻ với SVVN về tư cách của trí thức, và sứ mệnh của trí thức trong sự nghiệp đưa đất nước ngày một cường thịnh. GỌI TÊN TRÍ THỨC Thưa GS, trong hình dung của GS, thế nào là một trí thức? GS Nguyễn Huệ Chi: Theo tôi nghĩ, trí thức được hiểu theo hai phương diện: Một là học vấn tổng quát để hiểu về mọi phương diện của cuộc sống, chứ không chỉ bó hẹp trong chuyên môn thuần tuý. Nếu như chỉ là nhà chuyên môn sâu thuần tuý, suốt đời chỉ nhìn vào cái “khe hẹp” ấy thì không được coi là trí thức. Mà anh có học vấn chung để nhìn cuộc đời trên tư thế của một người độc lập. Thứ hai, anh phải có một nhân cách làm chỗ tựa cho học vấn ấy phát huy, để giúp ích cho đời. Đó chính là hai phương diện quan trọng để nhận diện một trí thức. Nhưng chưa phải ai cũng biết được rành rọt những đóng góp và vai trò của anh trí thức trong một xã hội? Vốn trong thiên bẩm – người được gọi là trí thức đã có chức năng là phản biện xã hội. Cho nên ở cơ chế của một xã hội dân chủ, giới trí thức có thể làm được nhiều việc. Nguyên lý của xã hội là tạo cho người dân được quyền phát ngôn, được tự do suy nghĩ, góp phần làm cho xã hội năng động... Anh trí thức phải là người đầu đàn để làm những việc đó một cách tốt nhất. Nhưng trong những xã hội độc tài xưa kia, thì người trí thức đứng ở một cự ly nhất định với trung tâm quyền lực. Khoảng cách ấy đủ để cho anh có được cái nhìn tương đối tỉnh táo, nhìn vào thế giới quyền lực, dõi mắt theo thế giới ấy, và lên tiếng khi nó “có vấn đề” ảnh hưởng đến xã hội, đến sự dân chủ. Và với sự hiểu biết sau khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, GS thấy tiếng nói của giới trí thức trong những xã hội xưa thế nào? Ở xã hội phong kiến ngày xưa, giới trí thức Nho học được răn dạy rằng: Khi mình không làm được những thứ theo ý mình với mục đích làm xã hội tốt đẹp hơn, thì mình phải làm một việc để thể hiện khí phách và phẩm tiết của người trí thức là rút lui. Mặc dù vẫn được trọng dụng, nhưng đề xuất chém lộng thần không được nghe, thì Chu Văn An cáo quan, treo mũ, từ biệt kinh thành về núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) ở ẩn. Xin nhắc lại, đấy là người trí thức trong những cơ chế xã hội xưa kia. Đó là một xã hội độc tài, độc tôn, lấy ông vua làm trung tâm. Hễ ông vua tốt thì xã hội thịnh, ông vua xấu thì xã hội suy. Còn trí thức ngày nay, khi xã hội chúng ta đã phát triển theo mô hình mới rồi, không phải là xã hội cũ nữa, thì rõ ràng vai trò của giới trí thức hiện nay phải tích cực hơn so với những trí thức trong xã hội cũ. “Có những người rất trẻ nhưng đã có tư cách vững vàng của một trí thức, nhờ được đào tạo, dạy dỗ trong truyền thống của gia đình, có học vấn rất cao. Còn những người đã già, nhưng đầu óc vẫn sáng láng, vẫn giữ được phẩm cách và phát huy được học vấn của mình thì vẫn xứng đáng là một trí thức sáng láng. Trí thức không phụ thuộc vào tuổi tác. Chỉ khi nào người ta đánh mất các phẩm cách của người trí thức thì lúc đấy mới không còn được gọi là trí thức nữa”. KHÔNG "MŨ NI CHE TAI" Hiểu thế nào về sự “tích cực hơn”, thưa GS? Tích cực hơn có nghĩa là anh không được làm những điều nhũng thoái. Anh đóng vai trò phản biện xã hội, lên tiếng khi có những vấn đề khẩn bách ảnh hưởng đến sinh mệnh của cả dân tộc, của cả đất nước, hoặc là của cả một bộ phận nào đấy ở trong dân tộc này. Hoặc có nguy cơ làm cho con đường đi của đất nước có thể rơi vào một khó khăn nào đấy. Người trí thức phải biết hy sinh lợi ích của bản thân mình, kiên trì với những chính kiến của mình để đóng góp những điều có ích cho đất nước, cho dân tộc. Người trí thức chân chính phải vì lợi ích lớn của dân tộc, của đất nước, hay của một bộ phận dân chúng nào đấy. Trong một thời đại được gọi là dân chủ, một bộ phận dân chúng nào đấy mà đang có nguy cơ mất sự sống an ổn thì người trí thức cũng không được thờ ơ. Là một nhà nghiên cứu, theo GS, trí thức ngày xưa và trí thức ngày nay, có gì khác nhau? Trí thức ngày xưa có thể lui về vườn để trở thành một người sống ẩn dật, hái củi, làm thơ. Nhưng người trí thức ngày nay, với trách nhiệm xã hội giao phó, không cho phép như thế. Vấn đề yếu kém của nền giáo dục hiện nay chẳng hạn, đó là một vấn đề, theo tôi, đang ở tình thế ngàn cân treo sợi tóc với dân tộc ta. Nếu người trí thức không lên tiếng thì đã vô tình trùm “mũ ni che tai”, và đó là thái độ không phải của một trí thức. Anh phải biết kiên trì theo đuổi chính kiến hy sinh lợi ích cá nhân. Đó là điểm khác biệt giữa trí thức ngày xưa và trí thức ngày nay. Trí thức là tầng lớp tinh hoa của một dân tộc, vậy đóng góp của họ phải thể hiện như thê nào? Đương nhiên, anh giỏi về chuyên môn, cắm cúi trong chuyên môn thì đó là một đóng góp rất tốt về mặt tri thức trong một ngành nào đấy. Nhưng những người đó không được hiểu theo kiểu những trí thức có trách nhiệm dẫn đạo xã hội, hay là bộ phận tinh hoa của xã hội. Nhóm tinh hoa ấy bao giờ cũng tạo ra những định hướng có tầm để xã hội phát triển. Xã hội mà thiếu những định hướng tầm xa như thế thì sẽ khó có hướng để phát triển. Xã hội chỉ được tạo nên bởi những nhóm quyền lực, hoặc nhóm lợi ích thì luôn luôn bị chi phối bởi những lợi ích và quyền lợi khác nhau. Phải là người đứng ở cự ly phía ngoài để nhìn vào quyền lực, nhìn vào các nhóm lợi ích và tìm ra hướng đi cho xã hội, thì lúc đó xã hội mới phát triển đúng hướng được. Vai trò, sự đóng góp của người trí thức thể hiện ở chỗ đó. PHẨM CÁCH QUAN TRỌNG CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC Trong các phẩm cách của người trí thức, theo GS, phẩm cách nào là quan trọng nhất? Người trí thức bao giờ cũng có mấy phẩm cách sau: Thứ nhất , phải có sự tự do trong tư tưởng – đó là một phẩm cách hàng đầu. Bởi vì nếu anh để tư tưởng bị khuất phục bởi một thứ giáo điều nào đấy, thì không bao giờ anh có sự sáng tạo được, và cách nghĩ của anh sẽ méo mó, thiên lệch, thậm chí là thấp hèn. Thứ hai, là sự độc lập đối với quyền lực. Quyền lực đương nhiên là chúng ta phải tôn trọng, vì quyền lực là đại diện cho chỗ đứng cao nhất của một bộ phận đang điều khiển đất nước. Nhưng phải luôn luôn có một sự độc lập để tỉnh táo nhận biết đâu là chỗ đúng, chỗ sai, để nhận thấy những khiếm khuyết, chỗ nào không khiếm khuyết của xã hội. Một xã hội không bao giờ có những con người tuyệt đối tốt, tuyệt đối hoàn hảo, mà họ dù ở cương vị nào cũng chỉ là những con người thôi. Mà đã là người thì bao giờ cũng có những mặt được, mặt hạn chế, nhất là trong xã hội hôm nay người ta luôn bị chi phối bởi nhiều nhóm lợi ích, sau mỗi con người là những nhóm lợi ích khác nhau. Do vậy, con người thường không hoàn hảo, do đó càng đòi hỏi người trí thức phải có sự độc lập suy nghĩ để tìm ra cái hay, cái đúng, cái sai, cái xấu... Và việc tìm ra cái hay, cái đúng, cái sai, cái xấu... này để phục vụ lợi ích tối thượng của đất nước, chứ không phải là của những nhóm quyền lực khác. Tóm lại, người trí thức phải đứng ở chỗ đứng khách quan nhất. Như tinh thần trao đổi trên đây của GS, thì chưa hẳn người có học hàm học vị đã được gọi là Trí Thức? (Cười lớn) Theo tôi, xã hội ngày nay nhất thiết phải có những chức danh, học vị cho người trí thức. Chẳng biết có phải vì lý do đó mà có nhiều GS, TS, thậm chí có cả những ông đi mua bằng ở nước ngoài về để trở thành Viện sĩ, mà thực chất đó cái bằng Viện sĩ đó chỉ có mấy trăm USD thôi (Cười buồn). Nhưng không phải cứ gắn vào một cái mác là GS, TS, hay Viện sĩ thì đã được gọi là trí thức, mà trí thức là phải xét ở phương diện anh có thực hiện được chức năng và phẩm cách của một trí thức hay không. Và trong những bước ngoặt, bước gấp khúc của đất nước thì anh đứng ở chỗ nào, anh bỏ quên lợi ích của cá nhân anh vì đất nước hay chỉ là vì “vinh thân phì gia” của bản thân. Tôi không bao giờ xét trí thức ở mấy chữ phía ngoài. Tôi thấy những người không gắn học vị gì cả nhưng tư cách trí thức hết sức đàng hoàng, như nhà văn Nguyên Ngọc chẳng hạn, anh ấy không có học vị học hàm nào cả, nhưng anh ấy là trí thức 100%, xứng đáng là trí thức ưu tú; hay như nhà văn Phạm Toàn có học vấn cực kỳ cao, nhưng anh ấy không gắn với bất cứ cái danh vị nào cả. GS thấy thế nào khi mà hiện nay, có những người có chức danh GS, học vị tiến sĩ... nhưng lại mang danh đó để đi quảng bá các sản phẩm như đồ uống, dược phẩm..., và xem đó như là một việc mưu sinh? Như thế họ đã thể hiện đúng vai trò của một trí thức chưa? Xã hội hiện nay đang theo hướng kinh tế thị trường, phải bán sản phẩm, phải kinh doanh để sống... Do vậy, anh trí thức cố nhiên cũng phải bị chi phối bởi quy luật ấy. Cho nên có những người mang danh là GS, TS nhưng đi quảng cáo cho những món hàng nào đó. Tôi nghĩ, chúng ta nên thông cảm cho họ, vì thực chất họ cũng đang đi mưu sinh, việc này cũng chẳng khác là mấy so với mấy cô gái xinh đẹp đứng ra làm PG(promotion girl) vậy thôi. Những người ấy đáng thông cảm hơn là đáng chê bai, nhưng tuy nhiên, đấy không phải là hành vi của người thuộc tầng lớp trí thức, mà đó chỉ là hành vi của người đang mưu sinh mà thôi. Xin cảm ơn GS! Lê Ngọc Sơn (Thực hiện)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2010 7:45:41 GMT 9
Bước tiến trong nghiên cứu văn minh Chăm - Văn học ChămNguyễn Đức Hiệp 18/02/2010 Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, ngoài những khám phá các di chỉ khảo cổ mới quan trọng ở Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam, đã có những công trình nghiên cứu đáng kể về nền văn minh Chăm được xuất bản, nối tiếp truyền thống nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc của các nhà sử học và khảo cổ người Pháp thuộc trường Viễn đông bác cổ vào những năm đầu đến giữa thế kỷ 20. Các công trình này cho ta hiểu rõ thêm về lịch sử và văn hóa của dân tộc Chăm ở Việt Nam. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho sự phát triển tìm hiểu một nền văn minh cổ bản sứ, rực rỡ và rất đặc thù ở Đông Nam Á. Có thể liệt kê một vài kết quả gần đây trong nhiều công trình nghiên cứu mà tôi cho là đáng ghi nhận. Ở ngoài nước hiện nay có các học giả như A. Hardy, I. Glover, M. Yamagata, P. Zolese, Po Dharma, E. Guillon, G. Wade, A. Schweyer, W. Southworth, M. Vickery (6)(7)(8)(9)(20)(21). Guillon (10) đặc biệt cho ta thấy ảnh hưởng và sự liên hệ của nghệ thuật ở bắc Champa (Thừa thiên, Quảng Trị) qua các tượng bồ tát Avalokitesvara Phật giáo Đại thừa trải rộng đến nghệ thuật ở thung lũng Chin và Mun (bắc Thái), nghệ thuật Môn Dvaravati (Miến Điện và trung Thái Lan) và nghệ thuật ở Vân Nam. Levin (18) cho thấy qua sự khám phá năm 2001 ở Khương Mỹ (Quảng Nam) các nền của ba đền và điêu khắc ở chân nền tả các cảnh từ câu truyên thần thoại Ramayana Ấn độ mà trong đó có cảnh về sự đối chọi giữa Ravana và Sila ở vườn Asoka. Cảnh này chưa bao giờ được thể hiện trong nghệ thuật điêu khắc đền ở Đông Nam Á và Nam Ấn. Vì thế Levin cho là sự sắp loại nghệ thuật đền Khương Mỹ là giai đoạn chuyển tiếp của phong cách Đồng Dương đến phong cách Mỹ Sơn mà các nhà nghiên cứu ở thế kỷ trước như Parmentier cho là do ảnh hưởng của nghệ thuật từ Java bắt đầu từ thế kỷ 9 có thể phải xét lại và thật sự là có chiều hướng đi ngược lại: Champa ảnh hưởng lên nghệ thuật Java. Nhưng điều chắc chắn là Champa và Java đã có những tiếp xúc trao đổi sâu đâm về văn hóa và cả chiến tranh giữa hai bên qua đường hàng hải. G. Wade cho rằng nguồn gốc của chữ viết Tagalog Phi Luật Tân trước khi chuyển ra chữ latin vào thế kỷ 17 là từ chữ viết Chăm (20). W. Southworth và M. Vickery phân tách lại các nguồn dữ kiện và cho rằng Maspero có những sai lầm: có nhiều tiểu quốc Chăm chứ không phải một vương quốc Champa và Lâm Ấp không phải là thực thể Chăm trong giai đoạn đầu (21). Và sau cùng Po Dharma đã lấp lỗ hổng lớn về lịch sử cận đại của dân tộc Chăm vùng Panduranga trong giai đoạn các thập niên đầu thế kỷ 19 đánh dấu sự hiện diện cuối cùng của vương quốc Champa (19). Ở Việt Nam, chú trọng về lịch sử, khảo cổ, nghệ thuật là những nhà nghiên cứu như Ngô Văn Doanh (1),(2), Trần Kỳ Phương (3)(4)(5). Đặc biệt về văn học Chăm là những công trình của Inrasara, một người Việt gốc Chăm (11)(12)(13)(14)(15). Ngô Văn Doanh phổ thông các kiến thức hiểu biết về văn minh văn hóa Chăm trong độc giả Việt nam trong nhiều năm qua các sách về lịch sử Champa và di chỉ văn hóa Champa như Mỹ Sơn, mà năm 1999 được liệt kê là Di sản văn hóa thế giới bởi tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc. Dựa vào những kết quả của các cuộc khai quật ở các di chỉ khảo cổ gần đây bắt đầu từ năm 1993 ở Trà Kiệu và những kết quả trước kia của Claeys do trường Viễn đông Bác cổ thực hiện ở Trà Kiệu vào năm 1927-1928, Trần Kỳ Phương đã chỉ ra sự liên hệ mật thiết giữa kiến trúc đền tháp Chăm và các điêu khắc chung quanh bệ thờ ở trung tâm đền, chia ra thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu bệ thờ trung tâm nằm “lộ thiên” ở giữa đền không có tường đá và đền được xây bằng khung gỗ với mái ngói dựa trên các cột đá (như đền B14 Mỹ Sơn), giai đoạn hai tất cả đền đựợc xây bằng gạch đá với các cửa giả (3). Từ đó Trần Kỳ Phương cho rằng bệ thờ Trà Kiệu với điêu khắc tinh xảo tuyệt mỹ (mà ông cho là từ huyền thoại Ramayana) xuất phát từ điểm B nơi chỉ còn lưu lại nền kế cạnh bên điểm A nơi là vị trí chính của tháp trong họa đồ khảo cổ của Claeys. Tuy vậy P. Baptist (16) thì lại cho rằng bệ thờ Trà Kiệu thật ra là xuất phát từ chân của tháp chính của đền. Khác với các nhà nghiên cứu chuyên về khảo cổ, lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật Chăm, Inrasara tập trung vào văn học Chăm. Đây là lãnh vực mà chúng ta còn thiếu hiểu biết và là mảng trống to lớn mà ít nhà nghiên cứu quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó trong đời sống văn hóa và tâm linh của dân tộc Chăm. Có thể các nhà nghiên cứu đã quá ấn tượng với một nền văn minh cổ để lại những dấu vết vừa hùng vĩ vừa kỳ bí qua những tháp chàm, bia ký.. để nhìn về quá khứ cố gắng soi sáng mong sao hiểu được đôi chút về điều gì, động cơ nào của một dân tộc trong quá khứ đã tạo thành những di sản trên mà quên đi rằng hậu duệ của dân tộc này hiện nay mặc dầu trong một không gian hạn hẹp vẫn còn và đang cố gắng giữ gìn, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, văn hóa, lịch sử mà tổ tiên họ đã truyền lại trong một thế giới mới nhiều đổi thay, đầy bất trắc của thời đại toàn cầu hóa mà ngay cả nền văn hóa chính của xã hội mà họ đang sinh sống cũng phải đối chọi để giữ lại được sắc thái riêng. Chính vì thế mà vai trò của Inrasara rất là quan trọng. Inrasara có một vị trí đặc biệt và thuận lợi vì anh vừa là người Việt và người Chăm thấm nhuần cả hai nền văn hóa. Chúng ta thật may mắn là nhờ anh, chúng ta đã có thể được hé nhìn và thưởng thức những thành quả của một nền văn hóa bản địa, một nền văn minh đã có lâu đời ở miền Trung Việt Nam, tiếp nối của một nền văn hóa tiền sử không kém rực rỡ ở Đông Nam Á: văn hóa Sa Huỳnh. Ít có ai trong chúng ta biết là chỉ cách đây khoảng 200 năm, vẫn còn một tiểu quốc Chăm ở Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay) thần phục và triều cống vua Gia Long và sau này tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt khi vua Gia Long mất. Tiểu quốc Panduranga đã hiện diện cho đến năm 1833 khi vua Minh Mạng dẹp tan liên minh Lê Văn Khôi (Gia Định thành) – Katip Sumat (Panduranga), phá bỏ Gia Định thành và sát nhập Panduranga vào tỉnh Bình Thuận (19). Inrasara đã trải qua nhiều năm khổ cực, lắm lúc gian nan thu thập tư liệu từ nhiều nguồn trong dân gian, từ sách, tư liệu viết tay để lại.. để cuối cùng anh viết lại và cho ra đời các công trình nghiên cứu về văn học Chăm một cách có hệ thống. Các tư liệu viết tay là đều bằng chữ Chăm akhar thrah. Inrasara dự định xuất bản toàn bô gồm 10 quyển, 3 quyển đã được công bố: Văn học dân gian, sử thi Chăm và trường ca Chăm. Cho đến nay văn tự cổ nhất chữ Phạn tìm thấy ở Đông Nam Á là trên bia Võ Cảnh, gần Nha Trang thuộc thế kỷ 3, và tiếng Chăm vào khoảng thế kỷ 6 trên bia tìm được vào năm 1936 ở Đông Yên Châu gần Trà Kiệu. Chữ Phạn được giới cầm quyền, giới thượng lưu như giáo sĩ Brahma dùng lúc đầu nhưng sau này vào khoảng thế kỷ 8 CE thì tiếng Chăm qua chữ viết akhar thrath (bắt nguồn từ mẫu tự Brahmi ở Nam Ấn) mới được dùng nhiều và sau thế kỷ 16 thì phổ biến rộng rãi hơn trên các bia ký. Còn tồn tại nhiều nhất là các tư liệu viết tay trên giấy, trên lá buông mà cổ nhất là cách đây khoảng 200 năm. Đây là những tư liệu mà Inrasara tập trung, với nội dung vừa truyền thống và vừa cận đại Trong tác phẩm Văn học Chăm – khái luận (11), Inrasara đã đề cập hầu như toàn bộ văn học Chăm bắt đầu từ văn học dân gian như d**nưy (thần thoại, truyền thuyết), Dalikal (chuyện cổ tích), Panwơc yaw (tục ngữ), Panwơc pađau (câu đố), Panwơc Pađit (ca dao), Kadha rinaih dauh (đồng dao), các loại hát dân gian, akayet (sử thi), ariya (thơ ca trữ tình), thơ thế sự, gia huấn ca, thơ triết lý cho đến văn học Chăm hiện đại ngày nay. Chi tiết hơn là các tác phẩm cho từng lãnh vực trên gồm các trích tuyển bằng chữ akhar thrath (*), chuyển âm qua chữ latin và dịch ra tiếng việt: Văn học dân gian, ca dao - tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm (12), Akayet - Sử thi Chăm (13), ariya cam trường ca chăm (14). Sơ qua về sự phong phú và chi tiết của các công trình nghiên cứu trên, tôi xin trích lược một vài đoạn tư liệu trong toàn bộ công trình đầy lý thú và đáng để ý này. Về thần thoại Chăm, điểm đặc biệt như ta biết là yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của thần thoại Ấn độ thường rất ít hoặc đa số đã bị bản địa hóa. Thí dụ thần thoại Pram Dit-Pram Lak dựa vào thần thoại Ramayana Ấn độ nhưng đã được bản địa hóa với yếu tố Chăm là nổi trội. Trong thần thoại Chăm, Ppo Inư Nưgar (Mẹ của xứ sở hay Bà Chúa Xứ) đóng một vai trò chủ đạo. Thần thoại d**nưy Ppadauk Tanưh Riya kể rằng, thuở sơ khai, lúc vũ trụ còn chìm trong tối tăm, Ppo Inư Nưgar là một sinh thể tự sinh đầu tiên và duy nhất. Từ ngài phát sinh ra Ppo Yang Amư (thần cha) tạo ra muông thú và viết sử, Ppo Alwah dùng chính phần châu thân mình hóa Thánh đường truyền dạy giáo lý cùng phong tục tập quán cho người Chăm Bàni (Awal) và Ppo Debita Swơr hóa mâm thờ và lo cho bên Chăm Bà-la-môn (Ahier). Ppo Alwah được tôn vương trị vì đất nước. Sau đó mỗi cử động của Ppo Inư Nưgar, xuất hiện tinh tú, trời, đất, sấm, sét… Ở đây ta thấy thần mẹ Ppo Inư Nưgar quan trọng hơn thần cha Ppo Yang Amư, một nét đặc biệt có nguồn từ xã hội mẫu hệ Chăm truyền thống xa xưa. Tuy nhiên sự hiện diện của Ppo Alwah cho người Chăm Bani (Hồi giáo bản xứ) và được tôn vương trị nước cho thấy d**nưy Ppadauk Tanưh Riya có lẽ đã được sửa đổi hay thêm vào sau này trong thần thoại cổ Chăm sau khi Hồi giáo du nhập và chiếm vị trí trội hơn Bà Là Môn truyền thống bắt đầu từ thế kỷ 12. Ngoài thần thoại về Ppo Inư Nưgar về sự thành lập trời, đất, con người và muôn thú, đất nước, tập quán, xã hội.. còn có câu truyện Atmuhekat (hay Sự tích con gà gáy sáng) về sự hình thành vũ trụ. “Chuyện kể rằng, Thánh Ppo Kuk Parahimuk là Đấng sáng tạo ra vũ trụ và mọi vật trong trời đất. Một ngày kia, Ppo Kuk phái Thánh Iparahamuk cùng các vị thánh khác xuống trần gian để cai quản thế giới. Không ngờ, các vị thánh này bê tha rượu chè, ngủ say sưa để chỉ trong một đêm, quỷ Mưnưmax Xibac Kayong đến lén lấy cây cung và mũi tên vàng của Ppo Kuk, bắn tan nát hết mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú. Trời đất trở nên tối tăm, mù mịt. Muôn loài lại chìm trong hỗn loạn. Vùng thức giấc, Ppo Kuk biết nỏ thần bị đánh cắp, Ngài cũng chẳng thấy cột thánh đường đâu cả. Ngay tức thì, Ppo Kuk triệu tập những đại biểu ưu tú nhất của muôn loài để cùng Ngài đi tìm mặt trời, mặt trăng để thắp sáng vũ trụ trở lại. Ppo Kuk vượt đại dương cùng với đôi bạn gà vịt tự nguyện (gà gáy báo sáng và vịt chở họ đi) và tìm được mặt trời, mặt trăng đang lẩn trốn trong con ngươi của thần Inưrathwơl Akmư Lia-el. Vũ trụ được thắp sáng trở lại, trật tự được tái tạo, và xã hội loài người ổn định từ đó.” (11) Tại sao lại có hai thần thoại khác nhau về sự thành lập vũ trụ, vạn vật ?. Theo tôi thì thần thoại d**nưy Ppadauk Tanưh Riya về Ppo Inư Nưgar với tính cách nghiêm trang xuất khởi từ giai cấp giáo sĩ thượng lưu trong vương triều. Ngược lại Atmuhekat với sự nhân cách hóa các vị thánh thần (cũng bê tha rượu chè) bắt nguồn từ quần chúng Chăm. Ta cũng không loại trừ sự khác biệt do thời gian trong lịch sử và nguồn gốc khác nhau từ các vương quốc Chăm trong khắp vùng từ Indrapura đến Panduranga. Trong các truyền thuyết, tôi để ý đến nhất là truyền thuyết về Ppo Rome (d**nưy Ppo Rome) và truyền thuyết Ppo Bin Swơr (Chế Bồng Nga) với lý do chính là chúng có liên quan đến những sự kiện trong lịch sử Việt Nam d**nưy Ppo Rome kể chuyện dựa vào sự kiện vua Rome lấy công chúa Đại Việt (như có ghi trong chính sử), và vào chuyện chặt cây kraik - cây lim thần (biểu tượng cho sức mạnh và linh hồn của Champa) “.. quần chúng Chăm đã thêu dệt xung quanh hai sự kiện này vô vàn chi tiết mang tính huyền hoặc. Công chúa đã giả vờ đau bệnh, đã giấu bánh tráng dưới chiếu để tạo tiếng kêu như tiếng xương gãy khi lăn qua lăn lại trên giường bệnh, và được lành hẳn khi kraik bị đốn. Còn kraik: kraik đã than vãn, đã phun máu giết chết đám quần thần khi họ đến đốn kraik. Rồi thì tiếng khóc của kraik trước nhát búa đầu tiên của Ppo Rome, cái chết với dòng máu đỏ của kraik! Óc tưởng tượng của quần chúng cũng không dừng lại ở đây: gỗ kraik tiếp tục được mang đi đóng thuyền chiến dẫn Ppo Rome vượt đại dương làm nên những chiến tích lẫy lừng. Khi gặp địch đóng cọc ở cửa khẩu, thuyền kraik biết trước, dừng ngay lại. Ppo Rome không chịu hiểu kraik, nổi cơn thịnh nộ và chặt bỏ mũi tàu được đóng bằng phần quý nhất của gỗ kraik. Đến lúc này kraik mới chịu chết thật sự. Sau đó là cái chết không tránh khỏi của Ppo Rome, cùng lúc là sự sụp đổ của vương triều Ngài.” (11) Qua câu chuyện này, ta thấy rất rõ là người dân Chăm tin rằng nguyên nhân chính mà vương quốc Chăm mất là do nội xâm từ bên trong vương triều, tầng lớp thượng lưu. Và Đại Việt đã mượn tay họ để giết đi sinh khí, cái hồn của dân tộc mà quần chúng Chăm đã bất lực không thể cứu vãn được. Niềm tin này có cơ sở hay không, hay chỉ là một lý luận bào chữa lãng tránh về sự yếu kém của vương quốc Chăm trong sự tranh đấu sanh tồn giữa các dân tộc trong lịch sử là một vấn đề gây nhiều bàn cãi. “Chuyện Ppo Bin Swơr (Chế Bồng Nga) đã thủ đắc được cây thanh long đao (bat) bách chiến bách thắng cùng với những chiến công hiển hách cũng được bao bọc bởi một màn thần thoại khác. Riêng về cái chết của Ngài, truyền thuyết kể rằng khi đầu Ngài đã rơi vào tay quân thù, thân Ngài vẫn tiếp tục sống, hẹn với đầu sẽ nối kết lại khi về đến quê hương. Trở về đến bãi biển làng Bal Riya (Bính Nghĩa - Ninh Thuận), bị bọn trẻ chăn trâu hiểu nhầm, đã lên tiếng chế nhạo. Khi đó Ngài mới ngã xuống và chết thực sự.” (11) Thông qua chuyện thần thoại này, theo tôi thì người dân Chăm mặc dầu kính trọng Ppo Bin Swơr như một vị anh hùng qua những chiến thắng lớn lao của ngài nhưng coi những chiến công đó là do có được cây thanh đao thần kỳ chứ không do biệt tài quân sự mà ông thực ra đã được đánh giá như một vị vua lỗi lạc nhất trong lịch sử Champa. Phải chăng Ppo Bin Swơr đã chưa thuyết phục được dân tộc Champa về đường lối và chính sách của ngài trong quan hệ và chiến tranh với Đại Việt. Và niềm tin của Ppo Bin Swơr cho đất nước Champa mãi mãi không bao giờ mất. Đối với quân thù, ngài không bao giờ chết nhưng ngài chỉ thực sự chết khi người dân Champa không còn tin tưởng ở ngài. Ta có thể hiểu được tâm tình của đất nước Champa trong giai đoạn lịch sử này khi nghiên cứu thần thoại của Champa về Ppo Bin Swơr. Liên hệ đến chuyện thần thoại là các chuyện cổ tích. Đọc Inrasara về phần chuyện cổ tích Chăm, tôi cảm thấy như đi vào một thế giới kỳ ảo đầy bất ngờ, hồn nhiên đầy sức sống. Chuyện cổ tích Chăm rất phong phú như các truyện giải thích với ẩn ý giáo dục như chuyện con hổ có nhiều đốm vằn vện là hậu quả của sự ngu ngốc, chuyện con vịt không ấp trứng chỉ là phần thưởng cho đức hi sinh (Sự tích con ễnh ương) hay giải thích những hiện tượng đã có trong thiên nhiên như màu lông sặc sỡ của loài công hay màu đen thui của con quạ (Truyện Quạ, Dông và Công). Lý do trái bầu có eo ở khúc giữa hay lá chuối có đường rãnh (Truyền thuyết về Ppo Klaung Girai). Nguyên nhân ra đời của phong tục tập quán dân tộc như tại sao người Chăm Bà-la-môn kiêng thịt bò (Bà thần Kapil), tín đồ Bàni (đạo Hồi Chăm đã được bản địa hóa) không được uống rượu… Ta thấy có vài truyện cổ tích Chăm có vài điểm tương đồng với chuyện cổ tích Việt Nam như chuyện con công và quạ. Trong dân gian Việt Nam truyền tụng chuyện trạng Quỳnh thì chuyện cổ tích Chăm cũng có diễn tả thực tài tình trí thông minh láu lỉnh như chùm truyện về Trạng Con (ám chỉ Ppo Klaung Girai) đấu trí với quan quân của triều đình, đánh lừa các sứ giả vượt qua tất cả những thử thách của nhà vua, đã làm cho nhiều thế hệ quần chúng Chăm tắc lưỡi thán phục. Blơk blơng amư (Chúa nói dối) đã chọc thiên hạ cười suốt từ đầu đến cuối câu chuyện không chỉ do yếu tố gây cười ở cốt truyện mà chính là bởi trí thông minh sắc sảo của chàng trai lãng tử (11). Như mọi dân tộc khác, tục ngữ là tích đọng túi khôn và chúng có nhiều điểm tương đồng lẫn nhau rất lý thú. Tục ngữ Chăm cũng vậy. Inrasara đã tổng hợp, hệ thống hóa với các dị bản và xuất xứ các sưu tầm của anh trong nhiều năm từ dân gian qua các điền dã và từ vài tư liệu đã xuất bản trước về tục ngữ ca dao như Dictionnaire Cam – Vietnamien – Francais do G. Moussay và một số cộng tác viên Chăm biên soạn năm 1971 v.v.. để cho ra một công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ nhất hiện nay vê văn học dân gian gồm hơn 1500 câu tục ngữ, thành ngữ, hơn 70 bài ca dao, đồng dao và hơn 70 câu đố Chăm (12). Ở đây ta có thể thấy một vài thí dụ đặc thù như (12) Rimaung gamrơm rimaung bbơng asuw, rimaung ppadơp kakuw rimaung bblơng mưnwix Cọp gầm to là cọp ăn chó, cọp giấu vuốt mới là cọp vồ người. Palak tangin hu inư kađieng, inư canuw Bàn tay có ngón út, ngón cái. Dak lihik kabaw yuw oh dak di mưluw bbauk Thà mất đôi trâu còn hơn mất mặt Hay ca dao (kadha pađit) qua thể thơ ariya diễn tả tâm tình của người con trai đi xa chiến đấu và khi ngoảnh nhìn lại, không gian ở quê hương chỉ toàn là một vùng mây mù, không thấy đâu là cửa nhà, đâu là làng xóm (12) Cơk glaung glai cơng mưng nak Kuw maung mai wơk o bboh dhan phun Núi cao rừng lá che ngang Ngoái nhìn nào thấy bóng làng ta đâu. không khác chi tình cảm của người Việt đối với quê hương xóm làng mình khi đi xa. Giá trị của công trình “Văn học dân gian” là ở chổ tác giả Inrasara đã minh định rõ các thuật ngữ dịch từ tiếng Chăm trước khi phân loại, hệ thống hóa, chi tiết các dị bản cũng như xuất xứ, nguồn.. Đây là những thao tác không thể thiêu của một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc. Thể thơ Ariya tương tự như thơ lục bát Việt và Inrasara cho ta thấy qua đối chiếu và phân tích sơ bộ, lục bát Việt và ariya Chăm có rất nhiều điểm giống nhau. Trong đó cái giống nhất là nhịp điệu của chúng. Thể thơ ariya đã được mang vào các tác phẩm về thơ ca trữ tình, tương tự như thể thơ lục bát trong những tác phẩm văn học Việt Nam như Bích câu Kỳ ngộ, Lục Vân Tiên hay Truyện Kiều. Tuy nhiên có điều khác biệt là ngoài Ariya Ppo Thien và Ariya Kei Oy của Ppo Thien (Thiên Sanh Tây), Ariya Rideh Apwei của Phú Bô, tất cả các tác phẩm văn học trước thế kỷ 20 kể cả ariya thơ ca trữ tình, sử thi Akayet đều là khuyết danh, không xác định được tác giả. Inrasara cũng đã phân loại một loại thơ mà anh gọi là thơ thế sự (11). Thơ thế sự xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 20 gồm những sáng tác mô tả các cuộc nổi dậy của nông dân Chăm chống lại triều đình nhà Nguyễn như Ariya Twơn Phauw (71 câu), Ariya Kalin Thak Wa (80 câu). Ariya Twơn Phauw nói về cuộc khởi nghĩa của một thủ lảnh tên Twơn Phauw cùng với Lê Văn Khôi chống lại Minh Mạng. Hay Ariya Glơng Anak (116 câu) kể về tâm tư , nổi ưu sầu về thế sự của tác giả (khuyết danh) trong tình cảnh đất nước suy tàn, thu hẹp và loạn lạc dưới thời chúa Nguyễn và sau đó Tây Sơn và niềm hy vọng nhỏ bé vào cuộc sống của chính mình lúc nào cũng mở rộng với lòng bao dung độ lượng chứ không yếm thế và hận thù. Tâm trạng của tác giả trong Ariya Glơng Anak có thể cũng thể hiện tâm tư của đại đa số dân Chăm lúc đó. Một tác phẩm triết lý tuyệt tác trong văn học Chăm. Các loại thơ thế sự như trên là các tư liệu văn học có giá trị cho nghiên cứu lịch sử và xã hội Chăm vào cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Ngoài ra còn một tập thơ thế sự khác có giá trị trong nghiên cứu xã hội và lịch sử Việt Nam là Ariya Ppo Parong. Tập thơ này mô tả chuyến du khảo điền dã của tác giả (nay được xác định là Hơp Ai) vào năm 1885 cùng với nhà nghiên cứu Pháp E. Aymonier đi từ Phan Rang đến Nha Trang, Phú Yên, Bình Định, Huế, Hà Nội rồi quay trở lại Saigon và sau cùng về lại Phan Rang. Tác giả đã thích thú học hỏi, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và mô tả cảnh vật, cuộc sống dân tình, phong tục ở mỗi nơi: nông dân, đàn bà, giọng nói ở xứ Bắc, đồng ruộng, sông Hồng, rừng mía ở Nha Trang, tàu Pháp bắn hỗ trợ lính Lê Dương trong lúc đánh kinh thành Huế, phố xá choáng ngợp ở Saigon, quan sát đủ sắc dân trong đoàn lính Lê Dương v.v... (11). Một nhân chứng sống động về xã hội Việt Nam ở cuối thế kỷ 19. Trong các tác phẩm nổi tiếng về thơ ca trữ tình phải kể đến Ariya Bini – Cam, Ariya Xah Pakei. Hai tác phẩm này xuất hiện sau thời đại Po Rome vào thế kỷ 18 trong khoảng thời kỳ phân tranh giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh. Lúc này vương quốc Chăm đôi lúc trở thành bãi chiến trường của quân đội Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Ariya Sah Pakei nói về một chuyện tình và phản ảnh nhân sinh quan Chăm qua triết lý âm-dương (mà linga-yoni là biểu tượng), một triết lý chủ đạo chi phối lối suy nghĩ, sự sinh hoạt của người Chăm trong cuộc sống. Ariya Bini-Cam nói lên sự xung đột giữa hai tôn giáo Bàlamôn Ấn độ và Hồi giáo qua một chuyện tình đổ vỡ giữa một hoàng thân Chăm và công chúa Hồi giáo. Sự xung đột và mất niềm tin của người Chăm với văn hóa Ấn Độ là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Chăm. Hồi giáo được mang vào không những ở Champa mà ở các nước Đông Nam Á hải đảo từ thế kỷ 9 CE qua các thương gia Ả Rập. Tôn giáo này phát triển mạnh bắt đầu từ thế kỷ 12 khi các tầng lớp thượng lưu và cai trị ở các vương quốc trong vùng Đông Nam Á bỏ đạo Bà La Môn chuyển sang Hồi giáo. Thời điểm này cũng là thời kỳ mà sự giao thương liên hệ và ảnh hưởng văn hóa giữa Champa và thế giới Mã Lai hải đảo phát triển mạnh mẽ ở điểm cao trong lịch sử quan hệ giữa hai vùng. Sự du nhập của Hồi giáo đã gây nhiều đổi thay và biến động trong xã hội Đông Nam Á mà văn hóa truyền thống trước đó là văn hóa Ấn độ Bà La Môn. Nhưng so với các nơi khác như Trung Đông, Ấn Độ thì sự đổi thay ít có xung đột và có chiều hướng hòa bình hơn qua sự bản địa hóa các ý thức hệ du nhập trong một xã hôi mà cơ bản là đa dạng. Có phải sự phân cực văn hóa tôn giáo trong xã hội Chăm là nguyên nhân chủ yếu gây nên sự suy tàn và cuối cùng là sự biến mất hoàn toàn của vương quốc Champa trước sức mạnh Nam tiến của Đại Việt hay không là một vấn đề đáng lưu tâm suy nghĩ và cần nghiên cứu. Về sử thi thì ba sử thi quan trọng nhất trong văn học Chăm là Akayet Dewa Mưno, Akayet Inra Patra và Akayet Um Mưrup. Văn bản in Akayet Dewa Mưno và Akayet Inra Patra lần đầu được xuất bản trong các năm đầu thập niên 1970 do nhóm nghiên cứu của Trung tâm văn hóa Chàm-Phan Rang gồm G. Moussay, Thiên Sanh Cảnh, Lâm Gia Tịnh, Nại Thành Bô, Đàng Năng Phương, Lưu Ngọc Hiến và Trượng Tốn thực hiện. Akayet Deva Muno là thi phẩm ca nổi tiếng, đóng vai trò quan trọng trong văn học Chăm và được phổ biến rất rộng rãi. Có lẽ đây là tác phẩm đầu tiên được sáng tác bằng chữ akhar thrah. Tác phẩm kể về cuộc chiến đấu cam go anh hùng của Deva Muno chống lại Deva Samulaik, cứu công chúa Ratna và mang lại hòa bình cho thế giới trần gian. Năm 1975, G. Moussay đã xác định nguồn gốc Mã Lai của thi phẩm Akayet Deva Muno. Sử thi Akayet Deva Muno vay mượn cốt truyện Hikayat Deva Mandu của Mã Lai có ảnh hưởng Ấn độ. Bản in sử thi này đã được chuyển tự ra tiếng Pháp, Việt, Mã Lai và xuất bản ở Mã Lai năm 1989. Tuy vậy bản in đã có một số sai lầm mà Insara đã vạch rõ và vì thế sau đó đã được sửa chửa và hiệu đính trong các bản in sau này. Akayet Inra Patra cũng có nguồn gốc từ Hikayat Indra Putera của Mã Lai có ảnh hưởng Hồi giáo Ả Rập được sáng tác gồm 581 câu ariya vào đầu thế kỉ XVII. Tương tự như mô tip Deva Munro, người anh hùng Inra Patra (biểu hiện cho cái thiện), sau khi vượt qua bao khó khăn và với đức độ của mình đã chiến thắng các lực lượng đại diện cho cái ác, cuối cùng mang lại an bình cho xứ sở, hạnh phúc cho nhân dân. Trong ba sử thi trên thì Akayet Um Mưrup là sáng tác bản địa hoàn toàn của Chăm không vay mượn yếu tố nào từ ngoài. Tuy vậy mặc dù có vay mượn cốt truyện hay không, nhưng các Akayet Chăm có những đặc trưng và phong cách riêng như Inrasara phân tích sau (13) "Mặc dù hai trong ba akayet nổi tiếng được vay mượn từ ngoài, vay mượn từ cốt truyện đến tên nhân vật, địa danh… nhưng với chữ viết (akhar thrah) và ngôn ngữ của mình, các thi sĩ Chăm đã kịp thời hoán cải chúng cho phù hợp với đặc trưng văn hóa dân tộc. Do đó, xét về mặt hình thức, dù các akayet Chăm không có được cái tầm vóc đồ sộ của sử thi Ấn Độ hay các tác phẩm cùng thể loại của các nước trong khu vực, nhưng chúng luôn đạt tới một bố cục gẫy gọn và cô đúc. Điều cốt yếu là chúng đã nêu bật được hành động và tính cách anh hùng của nhân vật bằng các trận giao chiến với kẻ thù, các chiến công lẫy lừng, í chí vượt trở ngại để đi đến tiêu đích một cách anh dũng. Cả ba sử thi đều lược bỏ mọi sinh hoạt đời thường, các lễ nghi phong tục tập quán rườm rà và cả quang cảnh hùng vĩ cũng được tiết chế một cách đáng kể. Tất chi tiết đều nằm trong màn kịch và chỉ phục vụ cho tấn kịch.” Với cốt truyện về sự va chạm giữa ý tưởng mới Hồi giáo và Bà la Môn truyền thống, sử thi Chăm Akayet Um Mưrup cho ta thấy hoàn cảnh xã hội và tâm tư con người Chăm trong bối cảnh lịch sử Champa lúc đó. Đây là những tư liệu quý giá bổ sung cho các nhà nghiên cứu lịch sử Chãm. Theo Inrasara thì sự phân cực và đối chọi giữa hoàng tử Um Mưrup (đại diện cho Hồi giáo) và vua cha (đại diện cho Bà La Môn truyền thống) cuối cùng dẫn tới vương quốc Chăm phải chấp nhận Hồi giáo. “Một khía cạnh khá độc đáo nổi bật lên ở các akayet này là, bên cạnh hai khuôn mặt đại diện cho sức mạnh của thế lực cũ là Dewa Mưno và Inra Patra, xuất hiện một khuôn mặt hoàn toàn mới: Um Mưrup. Có lẽ chính vì thế mà trong khi Dewa Mưno và Inra Patra, sau khi vượt qua mọi hiểm nguy, trở về quê hương trong khúc ca khải hoàn thì, Um Mưrup lại kiêu dũng gục chết nơi chiến trường. Nhưng cái chết của tráng sĩ này báo hiệu một lực lượng mới đang đi tới, rầm rộ và không gì cản nổi, hướng về vương quốc Champa. Để rồi sau đó, Champa, trước nguy cơ tan rã, đã phải mở vòng tay đón nhận một luồng ảnh hưởng mới khác từ bên ngoài: văn hóa Hồi giáo." (13) Và sau cùng Inrasara đã phát họa tổng quan cho chúng ta thấy một khía cạnh quan trọng khác mà ít ai đề cập đến. Đó là văn học Chăm hiện đại. Trong khái luận về văn học Chăm hiện đại, Inrasara sơ lược các nhà văn, thơ Chăm từ đầu thế kỷ 20 như Ppo Thien (Hữu Đức) đã có hai tập thơ Ariya Ppo Thien và Ariya Kei Oy được truyền tụng trong quần chúng. Nhà thơ Mưdwơn Jiaw được Inrasara coi như là một gạch nối giữa văn học cổ điển và văn học hiện đại Chăm. Sau Mưdwơn Jiaw, là nhà thơ Jaya Mưyut Cam có một bài thơ dài “Su-on bhum Cam” (Nhớ quê Chăm) được nhiều người biết, và các nhà thơ nhà văn Jaya Panrang, Huyền Hoa, Jalau, Chế Thảo Lan... đóng góp trong các đặc san Hồn quên Ninh Thuận, Panrang, Ước Vọng xuất bản ở Phan Rang trước 1975. Các tác giả Chăm sau này có Trà Vigia với tập truyện Chăm H’ri, nhà thơ Chế Mỹ Lan, Đồng Chuông Tử, Jalau Anưk, Jaya Hamu Tanran (chuyên sáng tác bằng tiếng Chăm), Phú Đạm, Trầm Ngọc Lan, Trà Ma Hani, Trần Wũ Khang, Tuệ Nguyên và Inrasara với tập thơ nổi tiếng Tháp Nắng, Lễ tẩy trần tháng Tư, tiểu thuyết Chân dung cát. Văn hóa Chăm sẽ khó có cơ hội bảo tồn và phát triển nếu không có sự liên tục tiếp nối của những người đi sau với truyền thống để lại của tiền nhân. Văn hóa Chăm phải là một thực thể hữu cơ tiến hóa trong hoàn cảnh và môi trường mới luôn thay đổi của thời đại. Hiểu được điều này, Inrasara, bản thân cũng là một nhà văn, đã tích cực trở thành một trong những người sáng lập và xuất bản thường kỳ tuyển tập Talagau tập hợp các tác giả, nhà văn, nhà nghiên cứu Chăm hiện đại sáng tác hay viết về các vấn đề văn học, xã hội, ngôn ngữ, lịch sử... liên quan đến văn hóa Chăm. Ngoài các công trình nghiên cứu văn học chính như đã nêu trên, còn có các bài về vấn đề văn học, văn hóa, tự thuật cũng như các nghiên cứu về xã hội .. đã được đăng nhiều nơi nay được trình bày chung trong quyển “Văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại “(15). Trong đó có các bài với đề tài như ‘Người Chăm Pandagura ở Thành phố Hồ Chí Minh”, “Thử soi rọi ba vùng mờ của văn hóa Chăm: “Họ” của người Chăm, Múa Chăm, Harơk Kah ở đâu ?”,”Chế độ mẫu hệ Chăm”, “Xã hội Chăm hôm nay và tương lai cộng đồng”, “Làm thế nào để nói tiếng Chăm”, “Để hiểu văn chương Chăm”, “Sáng tác văn chương Chăm hôm nay”, ‘Chuyện chữ”, “ Tagalau, bảy năm nhọc nhằn và kiêu hãnh”… đều là những tư liệu xã hội, văn hóa có giá trị. Để kết luận cho bài này, theo tôi thì nếu G. Coedes trước đây (1944) đã thành công tổng hợp các thành quả nghiên cứu khảo cổ, sử học của các học giả về các vương quốc Ấn độ hóa ở Đông Nam Á để cho ta một công trình có tầm vóc với cái nhìn toàn cảnh về lịch sử và sự liên hệ của các nước trong vùng, trở thành một cuốn sách (16) tham khảo gối đầu giường cho tất cả những nhà nghiên cứu thì những công trình của Inrasara về văn học Chăm cũng đã thành công tương tự trong lãnh vực văn học. Mặc dầu anh chủ yếu là nhà văn nhưng những công trình của anh qua các thao tác có tính cách khoa học và hệ thống là những thành quả hàn lâm nghiêm túc rất giá trị. Có thể Inrasara chưa được đánh giá đúng mức trong giới học giả trên thế giới vì những tác phẩm nghiên cứu của anh được viết bằng tiếng Việt và cũng có thể anh không thấy cần thiết là phải đăng trong các tạp chí hàn lâm. Nhưng tôi tin rằng chẳng bao lâu những thành quả của anh sẽ được tham khảo rộng rãi và dịch ra tiếng nước ngoài. Mà thật ra các thành quả của anh đã được tiếp cận và tham khảo gần đây rồi bởi một số các nhà nghiên cứu về văn minh và lịch sử Chăm. Nhưng quí giá hơn hết và quan trọng hơn hết là như anh đã viết (11) “Chòm nến thơ ca kia ngỡ đã tắt hẳn, nhưng không. Các thế hệ Chăm đi tới vẫn cứ sống, làm việc, làm thơ… và làm nên phép lạ. Khik baik adat Cam drei Bilan saung harei jang tơl pajơ Cố giữ nhé, đạo cha ông Sắp đến rồi kia ngày mai tươi sáng. (Pauh Catwai 3, Inrasara dịch)“ (Sydney 5/1/2010) Tham khảo (1) Ngô Văn Doanh, Văn hóa cổ Champa, Nxb Văn hóa dân tộc, 2002 (2) Ngô Văn Doanh, Thánh địa Mỹ Sơn, Nxb Trẻ, 2003 (3) Trần Kỳ Phương, The relationship between architecture and sculpture in Cham sacred art of the Seventh to the Ninth Centuries CE, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 55-72. (4) Trần Kỳ Phương, The wedding of Sita: A theme from the Ramayana represented on the Tra Kieu pedestal, in "Narrative sculpture and literary traditions in South and Southeast Asia", ed. by J. Fontein, M. Klokke, 2000. (5) Tran Ky Phuong, Rie Nakamura, The Mỹ Sơn and Pô Nagar Nha Trang sanctuaries: On the cosmological dualist cult of the Champa kingdom in Central Vietnam, Asia Reseaarch institute Working paper Series No. 100, 2008, www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps08_100.pdf(6) A. Hardy, M. Cucarzi, P. Zolese, Champa and the Archaeology of My So'n (Vietnam), Nus Press, 2009. (7) Po Dharma, Le Panduranga (Campa), 1802-1835: Ses Rapports Avec Le Vietnam, 1987, Ecole Francaise d'Extreme-Orient. (8) Emmanuel Guillon, Cham art: treasures of the Da Nang museum Vietnam, 2001, River Books, Bangkok (9) Emmanuel Guillon, Hindu-Buddhist Art of Vietnam: Treasures from Champa (translated from the French by Tom White). Trumbull, CT: Weatherhill, 1997. (10) Emmanuel Guillon, The archaeology of Champa, North of Hue - Towards new perspectives, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 73-84. (11) Inrasara, Văn học Chăm - khái luận, Nxb Văn hóa dân tộc, 1994 (12) Inrasara, Văn học dân gian, ca dao - tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm, Nxb văn hóa Dân tộc, 2006. (13) Inrasara, Akayet - Sử thi Chăm, Nxb Khoa học xã hội, 2009. (14) Inrasara, ariya cam trường ca chăm, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2006 (15) Inrasara, văn hóa - xã hội Chăm, nghiên cứu & đối thoại, Nxb Văn Học, 2007. (16) G. Coedes, The indianized states of Southeast Asia, East West Center, Honolulu, 1968. (17) P. Baptiste, The dancers and musicians of Tra Kieu: Pedestal or base, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 46-54. (18) C. Levin, Recasting the sacred heroes: a new discovery of sculptural epic narration from ancient Champa, in "Interpreting Southeast Asia's past: monument, image and test", 2009, Ed. by E. Bacus, I. Glover, P. Sharrock, pp. 85-99. (19) Po Dharma, Le Panduranga (Campa) 1802-1835: ses rapport avec le Vietnam, Publication de l’ Ecole Francaise d’Extreme-Orient (EFEO), Paris, 1987. (20) G. Wade, On the Possible Cham Origin of the Philippine Scripts, Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 24, 1993 pp. 44-87. (21) M. Vickery, Champa revisited, ARI working paper 37, 2005, www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps05_037.pdf (*) Chữ akhar thrath hiện nay cũng đã được đưa lên máy tính.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 16:31:10 GMT 9
Chó Tây và Ta Nguyễn Quý Đại Mùa xuân trở về, năm Ất Dậu chấm dứt vào nửa đêm 29.01.2006, bắt đầu năm mới Bính Tuất . Tuất là chó, con vật đứng thứ 11 trong 12 con giáp được chỉ cho hạng tuổi của con người . Thập-Nhị : Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ Ngọ, Mùi Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu ; Can-chi : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý . Tổ tiên của loài chó Khoa học gọi là : "Canis Familiaris/Canidae " đều có nguồn gốc thuộc các loại sói rừng : Wolf, Hyänenhund, Mähnenwolf, Füchse, Schakale, Coyote. Cách đây 7000 v Ch. con người bắt chó rừng mang về thuần hóa thành gia súc (Haustier). Thời đó con người dùng chó để săn bắn, hay kéo xe trên những vùng băng giá. Trong quá trình thuần dưỡng, có thể nói trong những súc vật nuôi trong nhà, chó là người bạn lâu đời thông minh và trung thành nhất, chính những mối quan hệ thâm giao chó hiểu được tiếng người . Ngày nay chúng ta thấy rất nhiều giống chó, người ta thường nuôi : Chow-Chow, Collie, Leonberger, Cokerspaniel, Husy, Bernhardiner, Basset Hound, West Highland White Terrier, Mops, Boxer, Mastiff, Dalmatiner, Afghhane, Deutsch Kurhaar, Airedaleterrier. Labrador, Balthazar, Dino, Bullstiff, Old English sheepdog, Siberian husky.... Hơn 300 loại chó được tiến hoá, loại chó cao to như "Great Dane" hay giống chó thật nhỏ bằng con mèo gọi là "Chilhuahua". Ở Đức giống chó nổi tiếng thông minh, người ta gọi là chó Cảnh sát hay chó biên phòng "German Shepherd/ Deutscher Schäferhund" Loại chó nầy thông minh, giúp Cảnh sát truy tìm ma tuý, vũ khí và tội phạm, các nông trại dùng chó để chăn cừu. Ngoài ra còn có các loại chó Deutsche Gogge, Deutscher Wolfsspitz được nhiều người ưa thích. Các quốc gia Tây Phương, người ta yêu thích chó, họ đặt tên như : Jackson, Mina, Tina... Họ ôm ấp chó như trẻ con, hôn hít, chăm sóc cẩn thận, đóng bảo hiểm y tế. Mùa đông may áo cho chó mặc, chó có bộ lông dày và dài thì họ phải chải lông, cắt tỉa tắm gội, dắt đi khám bệnh chủng ngưà, Ngoài ra có trại nuôi (Tierheim) săn sóc thú vật vô chủ. Có hội bảo vệ thú vật với khẩu hiệu "quäle nie ein Tier zum Scherz, dem es fühlt wie du dem Schmerz " nghiã là đừng hành hạ một con thú để làm vui, vì nó cũng cảm nhận nỗi đau đớn như mình. Tuần báo "Ein Herz für Tiere/ một trái tim cho thú vật " hướng dẩn cách nuôi chó, mèo...v v . Các siêu thị bán thức ăn riêng cho chó mèo. Người La Mã cổ đại đã biết dùng chó tham gia chiến đấu, chó cắn vào chân ngựa địch thủ, ngựa bị đau bỏ chạy. Vào thế kỷ 15, người Tây Ban Nha còn trang bị cho chiến binh chó những chiếc áo giáp bông. Quân đội Hoa Kỳ, có đội quân khuyển lớn, mang tên từng đơn vị phục vụ trong chiến tranh, thời chiến tranh Việt Nam, những đàn quân khuyển nầy đã tìm hầm bí mật, hệ thống địa đạo ở Củ Chi, dù ống thông hơi được ngụy trang khéo léo dưới gốc cây, ổ mối đất... Từ ngày 1.11.2005, chính quyền Anh cho áp dụng việc thi vào quốc tịch Anh với bài thi gồm 24 câu hỏi, tập trung nhiều vào lịch sử và các vấn đề liên quan đến thể chế và sinh hoạt công dân, ngoai ra còn có câu hỏi về chuyện nuôi chó ?. Khác với Việt Nam nuôi mèo để bắt chuột, nuôi chó đễ giữ nhà, ăn cơm thừa canh cặn, đôi khi dọn vệ sinh cho em bé. Mỗi quốc gia đều nuôi những giống chó đặc thù riêng, giống chó Berger thường to con nặng kí, Ở Á Châu, Phi Châu có chó xoáy nhỏ con. Theo các tài liệu thì giống chó có xoáy trên lưng được liệt vào danh sách những loài chó tinh khôn, lanh lợi trong việc săn bắn và trên thế giới chỉ 3 giống chó có xoáy lưng, đó là là chó Phú Quốc, chó xoáy Thái Lan và chó xoáy Rhodesia Nam Phi. Nguồn gốc chó xoáy, hai nhà vạn vật học Hoa Kỳ là Merle Wood và Merle Hidinger trong các nghiên cứu về giống chó Thái Lan (Thai Ridgebacks) đều cho rằng, những cái xoáy lưng từng được ghi nhận chỉ bắt gặp duy nhất ở giống chó xoáy miền Đông Thái Lan. Chó xoáy Thái Lan được biết đến nhiều như là "Mah Thai Lung Ahn" Năm 1627 triều đại của Vua Songtham Ayutthaya, cho rằng giống chó xoáy bản địa Thái có từ lâu đời nhất ở Đông Nam Á . Loại chó nầy có nhiều màu và mỗi con có một xoáy trên lưng. Giống TRD (Chó Xoáy Thái) có bộ lông ngắn (Kon San), có xoáy (Lung Ahn), có tai thẳng (Hoo Tang), và có đuôi cao nhu lưỡi kiếm (Hang Dab). Kiểu xoáy lớn nhất gọi là "Bai Pho" giống như lá cây "Bhodi". Ngoài các loại màu lông đen, trắng, vàng đớm có loại màu xanh da trời và màu đỏ. Để bảo vệ về giống chó xóay, ở Thái có Hiệp Hội Chó Thái Lan (DAT= Dog Association of Thailand) nay là Câu Lạc Bộ Cũi Chó Thái Lan (Kennel Club of Thailand = KCTH). Câu Lạc Bộ Chó Xoáy Thái Lan (TRCUS= Thai Ridgeback Club of the United States), AKC- FSS (Americam Kennel Clubs Foundation Stock Service), UKC (TRAC) Thai Ridgeback Association of Canada , và ARBA ở Hoa Kỳ. Ở cấp bậc quốc tế, giống đã được chấp nhận bởi FCI và AKU (Asian Kennel Union). Thời Việt Nam Cộng Hòa có trung tâm huấn luyện quân khuyển, huấn luyện chó Berger, ở chợ Cũ trên đường Hàm Nghi hay Ngã năm chuồng chó ở Gò Vấp có chợ chó mèo. Ngày nay ở Việt Nam cũng có trung tâm huấn luyện chó đua ở Vũng Tàu, những đoàn chó đua greyhound với những cái tên chó hết sức hay như : Chiến Phong, Phi Phụng, Hoàng Gia, Hằng Nga, Phú Long...và trại chăng nuôi chó theo công nghiệp, trường huấn luyện chó tư nhân Hàng tuần, khoảng 80 chó đua được chọn vào trường đua chó Vũng Tàu, với hình thức bán vé để phục vụ công chúng, nhưng thật sự đó là những lần cá cược ăn tiền. Nhiều đại gia nuôi chó Berger nhập cảng như : New Foundland từ vùng biển Canada, Great Dane của Đan Mạch... Chó Phú Quốc cũng là loại đang được người nuôi chú ý hiện nay, giống chó Phú Quốc, có thể bắt nguồn từ giống chó Thai Ridgebacks, trước đây những ngư phủ Thái đã mang vào đảo Phú Quốc ?. Giống chó Phú Quốc thì xoáy lưng thường gặp là dãy lông mọc ngược chiều so với phần lông trên mình chó, có hình dáng rất đa dạng có thể là hình kim, hình mũi tên, yên ngựa, cây đàn, chiếc lá... Dùng từ xoáy lưng chưa sát nghĩa lắm, vì xoáy lưng có cảm nhận vòng tròn trôn ốc. Đằng này, xoáy lưng chó Phú Quốc lại chạy thẳng một đường trên sống lưng từ vai đến xương khu với bề ngang độ 1 - 2 phân. Ngoài xoáy lưng như nói trên, còn có các xoáy ở hai bên cổ, sau mông. Lông chúng xoáy lại cứng và dài hơn bình thường. Lúc đuổi mồi hoặc gặp đối thủ mạnh tấn công, ngay lập tức hàng xoáy dựng đứng lên như cái bờm ngựa khiến con vật như to hơn, dữ dằn hơn. Bàn chân của chúng khác với các loại chó khác là giữa các ngón có một màng thịt như chân vịt giúp chúng bơi lội giỏi như rái, Hai chân trước hầu hết là 5 ngón, thường có móng đeo ở chân sau. Chó Phú Quốc rất thích tắm biển, nhờ bộ lông mượt ngắn như nhung không có lông măng không bị ướt, lông có thể nhiều màu khác nhau, đây là đặc tính khiến chó phú Quốc rất khó thích nghi khi được đưa vào nuôi trong đất liền. Mỗi khi sinh con chó Phú Quốc thường tự vào rừng đào hang sinh đẻ, đến khi nào chó con cứng cáp thì cả bầy mới dắt díu nhau về. Chó Phú Quốc có nhiều đặc tính nổi bật trong việc giữ nhà, săn chuột, bắt chim... cũng như vóc dáng thanh săn, mình thon dài, chân cao, bàn chân rộng, ngực nở, bụng thon, tai đứng đuôi vót như cần câu. Chó Phú Quốc có đầu nhỏ, gọn phù hợp với thân hình thon, mõm dài vừa phải và thường có màu đen, xương đầu thuộc nhóm đầu dài. Chiều dài tai trung bình. Mắt chó đa số có màu nâu, một số khá lớn có màu vàng, còn lại màu đen rất ít. Đa số chó có độ dài mõm vừa, lưỡi chó có đốm hay bớt.. Hầu hết chó có màu đen tuyền, một số khác có thể có ức vàng hay chân và ức đều vàng hoặc nâu. Nhóm màu này chiếm tỉ lệ cao nhất. Chó Phú Quốc có thể săn được thú lớn hơn chúng rất nhiều như : nai, heo rừng, rắn độc. Chó sủa rất tốt, nhạy cảm với người hay vật lạ. Ban đêm, chó dễ dàng phát hiện những mục tiêu lạ và không bao giờ buông tha. Chó Phú Quốc rất gần gũi và thân thiện với chủ, dễ làm quen. Đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái lan nguồi tài nguyên biển, rừng nguyên sinh phong phú, bãi biển cát trắng trải dài đã làm hấp dẫn bước chân du khách đến nghỉ mát, tắm biển. Bên cạnh đó phát triển vùng nuôi ngọc trai và trại nuôi chó giống, giá bán một chó con giống tốt khoảng 30 Euro. Điều lo ngại đảo Phú Quốc chiều dài 50 km rộng 28 km diện tích 573 km2 từ thị trần Dương Đông, An Thới tới Gành dầu đều có các quán " Cờ tây, Nai đồng quê " là những quán nhậu thịt cày, khác với tây phương có tên Chili dog, Hot dog nhưng họ không bao giờ giết chó bán thịt . Nếu chính quyền việt Nam không bảo vệ chó Phú Quốc, rồi một ngày nào đó chó xoáy sẽ mất dần ! bởi nhiều người nghiện thịt chó từng nói Sống trên đời, không ăn miếng dồi chó Chết xuống âm phủ, đâu có chó mà ăn" Trại nuôi chó Phú Quốc hình hè 2005 Trong văn chương bình dân Việt Nam thường nhắc đến chó, và người ta gọi con chó lông đen là chó mực, chó có nhiều đớm lông gọi là chó đớm, chó vàng, chó vện. Chó là con vật trung thành với chủ nhà, dù ăn uống thiếu nhưng nó không bao giờ bỏ nhà đi hoang, như ca dao Con không chê cha mẹ khó Chó không chê chủ nghèo. Chó ngoan và trung thành, nhưng đề phòng chó mèo ăn vụng "chó treo mèo đậy" đôi lúc cũng bị vạ lây như trường hợp con mèo leo trèo làm bể nồi con chó bị vạ Con mèo làm bể nồi rang Con chó chạy lại mà mang lầy đòn Chỉ những thóùi quen của chó, Chơi với chó, chó liếm mặt Chó cậy gần nhà, Gà cậy gần chuồng Chó nào chó sửa chổ không Chẳng thằng ăn trộm, cũng ông ăn mày Chó giữ nhà, gà gáy trống canh Chó gặm xương, Mèo liếm chảo Chó liền da, Gà liền xương Chó ngáp phải ruồi Cò bay thẳng cánh, Chó chạy cong đuôi Giai thoại Ông Ích Khiêm về chó, sau khi vua Tự Đức (1829- 1883) băng hà, triều đình rối loạn vua kế vị còn nhỏ, các quan đại thần vì quyền lợi riêng không lo việc nước. Ông bực mình bèn làm tiệc mời các quan tới dự. Bàn trên cỗ dưới các món ăn đều bằng thịt chó . Lúc vào tiệc, nhiều quan không quen ăn thịt chó, hỏi có món nào khác không ? ông trả lời - Bẩm, hôm nay trên dưới toàn là chó cả Tiệc xong, các quan gọi nước mãi không thấy người nhà mang nước cho khách, vì ông dặn trước đừng đưa nước, các quan khát nước, khô cổ vì rượu. Một lúc lâu, người nhà đến bàn tiệc, ông quát tháo - Lũ chúng bay đứa lớn, đứa nhỏ ăn hại cơm trời, chẳng biết việc nước là chi cả ? Các quan tham dự buổi tiệc biết bị chưởi khéo, ra về trong lòng mỗi người một suy tư, thương, ghét theo thế thái nhân tình, nhưng Ông Ích Khiêm cũng đã lấy thịt chó để răn đời . Trong ngôn ngữ Đức cũng có những câu nói về chó : Hund, die bellen, beissen nicht chó sủa chó không cắn, der Grosse Hund, der Kleine Hund để gọi chòm sao Đại thiên lang, Tiểu Thiên lang ; ein feiner Hund một người đáng tin cậy, nhưng ngược lại : er ist ein krummer Hund một kẻ đáng nghi ngờ ... Đôi khi nghe người ta chửi "Đồ chó mất dạy, ngu như chó ", nhưng không ai chửi "Đồ chó phản bội". Bởi con chó không bao giờ phản bội. Trung thành là một đức tính cao quý của con người, nhưng kẻ tiểu nhân thường không có đức tính đó. Bản tính của con chó rất trung thành, bất di bất dịch. Bên Nhật tại nhà ga Shibuya, nơi có bức tượng con chó Hachiko. Hachiko là con chó nổi tiếng trung thành nhất ở Nhật. Mỗi ngày Hachiko đều đến ga Shibuya chờ chủ đi làm về. Một ngày kia, chủ nó chết ở sở và thế là con chó trung thành tội nghiệp vẫn tới nhà ga hằng ngày chờ chủ cho tới khi già yếu và chết, liên tục trong 10 năm liền. Con chó không bao giờ bỏ chủ. Nếu chủ gặp gian nguy, con chó bao giờ cũng liều mình cứu chủ. Vì chủ, nhiều con chó đã xả thân. Khi chủ chết, nhiều con chó ra mộ nhịn ăn chết theo chủ, ở nghiã trang Munich Đức năm qua người trồng hoa, cắt cỏ, ngạc nhiên thấy con chó, nằm bên ngôi mộ đang xây, nhiều ngày không ăn uống, ông ta báo cảnh sát đến mang nó vào trại nuôi dưỡng, con chó đáng yêu trung thành với chủ, được nhiều người giàu nợp đơn xin nó về nhà. Đời sống tập tính của chó có những đặc thù, Mỗi khi ngủ, nó dán tai xuống đất, bởi mặt đất truyền âm thanh vừa nhanh hơn không khí vừa rõ ràng hơn, chỉ cần nghe thấy tiếng động gì là chó tỉnh ngay lập tức; dù chó có khứu giác rất nhạy cảm. Cấu tạo mũi chó phức tạp hơn nhiều so với mũi những loài động vật khác. Bộ phận để phân biệt các mùi vị của nó cũng đặc biệt lớn. Trong xoang mũi có nhiều nếp nhăn, bên trên có một màng nhầy, niêm mạc trên thường xuyên tiết ra chất dịch nhầy làm ướt các tế bào khứu giác này. Nhờ đó, chúng có thể đưa các loại mùi vị từ thần kinh khứu giác lên đại não, niêm mạc đầu mũi này thường xuyên tiết ra rất nhiều dịch nhờn để làm ướt mũi, khiến khứu giác của chó đặc biệt nhạy cảm, nhưng chó rất kỵ tiêu bột. Về sinh lý của loài chó khác những con vật khác, theo tài liệu anh ngữ đã giải thích rõ về sự giao phối của chó. Chó đực tiếng Anh gọi là chó (dog), con cái gọi là (pregnant dog) và chó nhỏ gọi là chó con (puppies hoặc pups)... Sự giao phối được cho phép bởi chó cái chỉ trong thời kỳ phát dục (estrus/động đực). Thời kỳ phát dục trong hai hoặc ba tuần lễ và xuất hiện chừng mực trong khoảng thời gian sáu tháng...(1) Loại cây có dược tính làm thuốc tên là Chó đẻ lá răng cưa đông y gọi là Hy Thiêm, ( cùng loại nhưng nhiều tên khác như : Cõ dĩ, Cổ bà a, Chó đẻ hoa vàng, Cúc dính, Nụ ào rià, Cứt lợn ) Người Trung Hoa gọi Diệp Hạ Châu, Cambodia gọi Park Phle, Laos gọi Klao Ham Lọai cây nầy mọc ở miền nhiệt đới, cao khoảng 40, 50 cm. Được dùng chữa viêm gan, đau mỏi cơ, xương, đau lưng, đầu gối, tê dại tay chân, đầy bụng, chán ăn hay bệnh thấp nhiệt lở loét. Cây chó đẻ mọc hoang nhiều ở vùng trung du và miền núi, được thu hái vào mùa hè, chặt nhỏ thành từng đoạn từ 3- 5 cm, rửa sạch phơi khô. Một số bài thuốc cụ thể: Chữa phong thấp lở loét: Hy thiêm 15 g, cẩu tích 8 g, cốt toái bổ 10 g, rễ gấc 6 g. Dùng sắc uống hằng ngày, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 40- 50 ml. Uống 10- 20 ngày liền. Chữa tay chân tê dại: Hy thiêm 1.000 g, rượu trắng 1.000 ml, mật mía 30 g. Hy thiêm băm nhỏ, mật quấy đều tan trong rượu. Lấy một phần rượu mật tẩm vào Hy thiêm trộn đều, đem sao trên lửa nhỏ cho khô rồi lại tiếp tục tẩm rượu mật đem sao. Làm như vậy 9 lần, đem tán nhỏ hy thiêm thành bột mịn, dùng phần rượu mật còn lại trộn đều, đem viên thành từng viên nhỏ, uống ngày 3 lần, mỗi lần 15 viên uống với nước sôi nguội. (tôi chỉ tham khảo theo tài liệu, vấn đề trị bệnh phải cần hỏi các thầy Đông Y ) Năm con Gà đã gây nên thiên tai, sóng thần, động đất bệnh cúm gà khắp nơi trên thế giới . Theo luật thuận hạp hay khắc kị của Ngũ Hành thì năm 2006 thuộc "Can sanh Chi" tức Trời sanh Đất .. Hy vọng năm mới cầm tinh con Chó, đời sống nhân loại đến với nhau trong tình thương, hòa bình và thịnh vượng Tài liệu Universal Lexikon Ein Herz für Tiere chó xoay Thái (www.thairidbackdog.com), chó xoáy Châu Phi (www.dogbreedinfo.com), www.hund.de (1) SEX, MATING, GESTATION and PARTURITION The male is usually just called, dog. The female dog is called, pregnant dog. The young are called puppies or pups. A group of dogs may be referred to as a pack. The external genitalia of a male dog consists of two testes contained in an external scrotal sac. The external orifice of the penile sheath is located just caudal to the umbilicus. The female's external genitalia consists of a vulva. The pregnant dog becomes sexually mature somewhere between eight and twelve months old; there is a great deal of variation between breeds and larger dogs tend to have slower onset of sexual maturity. Mating is permitted by the female only during estrus (heat). Estrus lasts for two or three weeks and occurs at approximately six- month intervals. The start of estrus is signaled by vulvar swelling and a blood- twinged girl thingyl discharge. Ovulation is spontaneous and takes place during early to mid- estrus. The female is attractive to males during the entire estrus two- three week period, but usually permits mating only during a four to ten day window, beginning eleven to seventeen days after the onset of full estrus. After some exploratory sniffing and licking by the dog, the pregnant dog signals her readiness to mate by standing with her tail held to one side. The dog mounts the pregnant dog, clasping her around the loins with his forelegs. He makes thrusting motions and releases his semen within a minute. After ejaculation of the semen, a gland at the base of the dog's thingy expands to lodge itself in the girl thingy, which serves to "tie" the two together. Often the male will turn so that the dogs are partially back to back. After about twenty minutes, the blood vessels to the thingy relax, the glands and the thingy return to normal size and the tie is broken. The dogs part, usually retire to lick themselves clean, after which they may play together, or just rest peacefully.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 16:42:38 GMT 9
PHÁP LUẬT VÀ... CHÓ - Tâm Minh Ngô Tằng Giao Theo từ điển thì chó là một con vật thật đơn giản: có bốn chân, thường được người ta nuôi để làm bạn, để săn bắn, làm việc hay canh gác v.v... (a common four-legged animal, esp. any of the many varieties kept by humans as companions or for hunting, working, guarding, etc.) Chó là một súc vật tầm thường, nhiều khi bị liệt vào loài quá hạ đẳng, có dính dáng gì tới pháp luật để mà nói! Vì pháp luật là cái gì nó có vẻ... cao siêu, dễ nể! Còn các vị quan tòa thường "mặt sắt đen sì", người dân đen trông thấy mà... khiếp vía! Thật ra không đúng như vậy! Người ta thấy có nhiều luật lệ liên quan tới... chú chó và các vị thẩm phán cũng thường hay liên hệ với những chàng khuyển này. Nhân dịp Năm Tuất chúng ta thử liếc qua một vòng xem Pháp Luật và Chó có mối... "giao hảo" như thế nào! Tại nước Pháp, theo tin các báo đăng vào cuối năm 2001 thì tại thủ đô Paris ước lượng có 200 ngàn con chó. Tính trung bình cứ 11 người sinh sống tại kinh đô ánh sáng thì có một người nuôi chó và mỗi năm Paris phải dành một ngân khoản là 10 triệu đô la để hốt phân chó. "Bà đầm" dẫn chó đi chơi mà gây tốn kém cho ngân sách địa phương quá chừng, nên hội đồng thành phố ban hành một lệnh là kẻ nào vi phạm không hốt "mìn" của chó sẽ bị phạt tới 400 đô la Mỹ. Còn tại Hoa Kỳ thời về phương diện pháp luật, chó được Tòa Án Tối Cao phán bằng những lời như sau: "Chó thường được coi là gia súc, một loại động sản, nhưng chúng không hoàn toàn cùng loại với ngựa, cừu, hay bò. Chúng nên được xếp cùng loại với khỉ, vẹt, chim biết hót, và các súc vật tương tự khác được nuôi để giải trí, để thỏa mãn tính tò mò hoặc vì sở thích đặc biệt riêng tư". Ngài thẩm phán Brown của Tòa Án Tối Cao trên còn phán thêm: "Chó khác biệt nhau rất nhiều, khó có thể nói chúng có những đặc điểm gì chung cho toàn giống. Trong khi có những loại chó cao cấp được xếp vào hàng những đại biểu quý phái nhất của vương quốc súc vật (the noblest representatives of the animal kingdom) và được đánh giá cao vì sự thông minh, lanh lợi, lòng trung thành, tính cẩn thận, tình cảm chan chứa, và nhất là mối thân hữu tự nhiên với con người (natural companionship with man), thì có những loại chó khác chỉ gây phiền toái và làm rối loạn trật tự công cộng (public nuisance)". Vì lý do trên nên tại xứ Cờ Hoa đã có những luật lệ đặc biệt quy định riêng về chó. Nói tới các luật lệ về chó, ta phải kể đến tài... chơi chữ của các luật gia ở Belvedere, California: "Không có chú chó nào được đi ra chốn công cộng mà không có chủ ở một đầu giây xích" (no dog shall be in a public place without its master on a leash). Thế này thì chủ cầm dây xích dắt chó hay chó cầm dây xích dắt chủ đi chơi phố đây?. Chó thường tỏ ra rất đắc lực trong việc phòng chống tội phạm. Tiếng sủa của chó càng to, càng hùng dũng, thì các kẻ trộm cướp càng... nể mặt chủ nhà mà né đi chỗ khác chơi. Ấy vậy mà luật lệ ở Wananassa, New Jersey, lại cấm chó tru (howl) lớn tiếng. Ở Collingswood, New Jersey, thì lại có luật: "Chó không được phép sủa hay tru giữa khoảng thời gian từ 8 giờ chiều tới 6 giờ sáng". Ở Smithtown, New York, luật cấm chó không được sủa quá 15 phút mỗi lần. Vi phạm lần thứ nhất sẽ bị phạt 50 đô la. Vi phạm lần thứ nhì tiền phạt tăng lên 100 đô la. Tái phạm lần thứ ba thì bị phạt gắt gao hơn: 500 đô la tiền phạt và 15 ngày tù giam (không rõ giam chủ hay giam chó?) Còn ở Forpoint, Wisconsin, thì luật lệ địa phương ngoài việc cấm chó không được sủa bậy um xùm, còn cấm thêm "không được gầm gừ hoặc có những thái độ hăm dọa bà con lối xóm". Và cấm chó "không được diễn xuất những vai xấu xa" khi tham gia các đoàn kịch. Theo các luật lệ trên thì có lẽ chủ của chó phải dạy cho chó biết giữ yên lặng, biết phép lịch sự, và nhất là phải biết coi đồng hồ mất thôi ! Nhưng chủ của chó sẽ gặp rắc rối lớn nếu sống ở Hartford, Connecticut, vì luật ở đây cấm không ai được dạy dỗ, giáo dục chó. Về mặt... "lâu đài tình ái" thì phải kể đến luật ở Danburry, Connecticut. Luật định rằng: "Nếu một cậu chó lỡ làm cho cô chó hàng xóm có bầu thì người chủ của cậu chó sẽ chịu trách nhiệm". Nếu người hàng xóm muốn phá bỏ cái "bầu tâm sự" của cô chó thì chủ của cậu chó phải chịu tất cả mọi chi phí tốn hao. Thật là cảnh... "quít làm, cam chịu"!. Ở Eastlake, Ohio, luật ghi: "Ai có hành động tình dục với chó là vi phạm luật pháp". Hình phạt là 25 đô la và 10 ngày tù giam, hoặc một trong hai hình phạt trên. Người ta thường nói trong xã hội Hoa Kỳ ngày nay chó được xếp hạng cao hơn... đàn ông (điều này bị nhiều vị mày râu phản đối kịch liệt), nhưng có điều chắc chắn là thời xưa thì chó bị pháp luật cấm đủ chuyện cả. Ta hãy đọc cái luật này của Hartford, Connecticut: "Cấm dẫn chó đi rong hay chạy rong ngoài phố". Cộng đồng nhỏ bé và yên tĩnh Pateros, Washington, có luật cấm chó không được phép gây rối và làm quẩn chân khách bộ hành ngoài đường phố. Tại Provo, Utah, luật cấm chó chạy rong ngoài phố sau 7 giờ chiều (đâu có cấm... đàn ông!). Bạn có từng bao giờ thấy một đám đông đảo toàn chó tụ hội tại một địa điểm nào đó ở Shawnee, Oklahoma không?. Nếu thấy thì cần phải kiểm soát xem chúng có giấy phép đặc biệt của ngài thị trưởng địa phương không vì luật lệ tại đây đòi hỏi rằng: "Từ ba chú chó trở lên mà muốn tụ họp nhau lại trong khuôn viên một tài sản tư hữu sẽ phải có giấy phép". Ngủ là một trong tứ khoái của người ta, nhưng cũng nên lựa nơi, lựa chốn. Tại Wallace, Idaho, luật triệt để ngăn cấm không cho phép ai được nổi hứng mà chui vào ngủ trong... chuồng chó (không rõ có phải là tội xâm nhập... gia cư bất hợp pháp không!) Tại Duluth, Minnesota, luật cấm không được để chó, ngựa, hay bất cứ súc vật nào khác ngủ trong lò bánh mì. Luật cũng cấm chó không được ngủ trong tiệm hớt tóc quý ông hay tiệm uốn tóc quý bà. Tại Indiana, luật cấm chó và các súc vật khác ngủ trong xưởng làm phó mát (cheese factory). Tại Kentucky, luật cấm chó ngủ trong tiệm ăn. Trong đống luật lệ cũ về chó ta còn thấy cả lô những điều luật ngộ nghĩnh: Tại thành phố nhỏ bé Zion, Illinois, luật quy định: "Không ai được cho chó, mèo, hoặc các gia súc khác... hút xì-gà" (it is illegal for anyone to give lighted cigars to dogs). Không biết vậy nếu cho chó hút cigarettes thời có được hay không đây?. Tại Normal, Oklahoma, luật cấm không cho ai được "làm xấu" bằng cách nhăn mặt trêu chọc chó (making ugly faces at a dog). Kẻ vi phạm có thể bị bắt giữ, bị phạt tiền, bị phạt tù, hoặc bị phạt cả tiền lẫn tù. Tại đô thị nhỏ bé Beebe River, New Hampshire, luật cấm con nít chọc ghẹo hay hành hạ chó. Cả Colorado lẫn Idaho đều có luật cấm không được đánh cá độ ăn tiền trong các cuộc vui đấu chó. Người ngồi coi cũng bị cấm luôn. Ở Chaseville, New York, không đàn ông, đàn bà, con nít nào được phép lái xe chó (a dogcart) chạy qua cửa nhà thờ khi đang có lễ hay đang có những lớp học đạo ngày chúa nhật. Ở Madison, Wisconsin, khi hai vợ chồng ly dị thì không còn được phép nuôi chung một con chó nữa. Chó sẽ được trao cho người đang nuôi giữ nó lúc hai vợ chồng ly thân. Ở Birmingham, Alabama, luật cấm các công dân cột chó vào gốc cây có bóng mát, dù cho chó có tỏ vẻ muốn nằm trong bóng râm đi nữa. Tại Shorewood, Wisconsin, có thời thành phố này quy định là mỗi gia đình chỉ được phép nuôi nhiều nhất là hai con chó mà thôi. Tại Wesport, Massachusetts, luật cấm chở chó trên xe cấp cứu, dù cho chủ nó đang được xe chở cấp tốc vào bệnh viện. Nhưng ta sẽ gặp rắc rối lớn nếu làm như trên tại Springfield, Illinois, vì luật tại đây lại cấm không cho phép ai bỏ bê chó, bất cứ trong hoàn cảnh nào. Tại Kentucky, luật cho phép chó có "quyền tự vệ" chống trả lại các chó khác nếu bị tấn công, nhưng luật cấm chó rượt mèo. Trong khi đó tại Madison, Wisconsin, luật lại cấm chó rượt các chú sóc trong công viên bên cạnh trụ sở quốc hội. Tại Denver, Colorado, luật buộc các người bắt chó phải treo bảng niêm yết tại các nơi công cộng trước khi mở cuộc bố ráp chó hoang. Luật với lệ dù chỉ liên quan tới chó thôi, cũng rất là... "cà kê dê ngỗng", nói hoài không hết, vậy xin tạm ngưng ở đây để chuyển qua chuyện... chó chết. Người ta thường nói: "Chó chết là hết chuyện", nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Nhớ lại hồi trước kia tại Việt Nam ta mỗi khi báo chí không có tin tức gì thêm về những chuyện... ăn bẩn của một số "ông lớn" (chuyện xảy ra như cơm bữa, kiểu chuyện dài "nhân dân tự vệ") thì thường thường dân ngồi ghếch chân đọc báo tại các quán cóc lại bĩu môi nói rằng: "Báo với chí! Chẳng có cái quái gì cả! Toàn tin tức "xe cán chó không à!". Tin "chó chết" quả thật bị loài người coi chưa bằng... nửa con mắt, không đáng nói tới. Tục ngữ Việt Nam có câu: "Làm người thì khó, làm chó thì dễ". Có lẽ lý do giản dị vì làm người thì phải giữ tư cách của con người đối với con người. Phải làm sao cho đừng bị tiếng là tham ăn, tục uống, là giành nhau cướp nhau, là ra luồn vào cúi, là bán nước buôn dân, là lừa thầy phản bạn, là bất trung bất hiếu, bất thuận bất hòa, bất liêm bất tín, bất trung bất sỉ, v.v... "Đồ chó chết" thường là một câu dùng để nhục mạ, chửi bới người ta! Nhưng đôi khi chuyện... "chó chết" lại được dùng để răn đời. Tục truyền có một vị quan võ thời xưa tên là Ông Ích Khiêm. Tuy là quan võ nhưng ông lại ghét các quan văn võ khác của triều đình vô cùng vì dưới mắt ông, tất cả đều là một lũ ăn hại nên phải đi mượn quân nhà Thanh sang đánh Pháp, đánh đã không được còn làm khổ dân chúng khắp nơi. Để chửi vào mặt bọn quan lại này, một bữa nọ ở kinh đô Huế, ông thết tiệc, mời các quan đại thần văn, võ đến sơi. Các quan đến đông lắm. Bàn trên cỗ dưới đều ăn toàn... thịt chó cả. Có người không quen ăn thịt chó, hỏi món khác, ông Khiêm xoa tay cười đáp lại: - Xin lỗi, trên chó dưới chó, tất cả đều chó, thành không có gì khác nữa ! Các quan biết ông chơi xỏ, nhưng vẫn ngậm cay, nuốt đắng để muối mặt mà ăn. Tưởng đâu chỉ có thế. Ai dè tiệc xong, gọi nước mãi mà không thấy quân hầu đưa lên (thật ra chủ nhà đã dàn cảnh trước như thế), chủ nhân lại lên tiếng quát tháo: - Nước đâu? Nước đâu? Tụi bay định để chúng tao khô cổ chết phải không? Một tên lính hầu đi lên thưa: "Bẩm quan lớn, nước chưa được!". Ông Khiêm làm bộ nổi nóng, hét om sòm: - Đồ chó chết! Chó chết! Chỉ biết vục đầu ăn, không lo nước non gì! Các quan nghe la hét như thế ai nấy đều tím cả mặt mày lại vì biết bị chơi cú cay nữa. Nhưng cay thì ráng chịu, vì người ta mắng chửi người nhà người ta mà. Nhân bữa tiệc... thịt cầy nói trên người ta mới thấy rằng "cầy tơ" có lẽ là một món ăn khoái khẩu của một số dân tộc, kể cả ở nước Việt ta. Thi hào Nguyễn Du trong một bài thơ bằng chữ Hán với nhan đề là "Hành Lạc Từ" đã từng đặt bút viết: "Hữu khuyển khả tu sát, Hữu tửu khả tu khuynh. Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận, Hà sự mang mang thân hậu danh?" Xin chuyển ngữ sang tiếng Việt là: "Sẵn cầy, làm thịt ta sơi, Rượu đây hãy rót, xin mời cùng say. Mất, còn, trước mắt nào hay, Huống hồ danh hão sau này mà lo?" (Tâm Minh dịch) Thi hào Nguyễn Du may mắn là có... quốc tịch Việt Nam chứ nếu lại là công dân một tiểu bang nào trên đất... Mỹ thì sẽ gặp rắc rối với pháp luật ngay. Dân Việt ta sống lưu vong nơi xứ lạ quê người, những ai trót khoái món... "cầy tơ" chắc cũng nên đổi khẩu vị, nên... "nhập gia tùy tục" bằng cách chuyển qua một món khác của địa phương có tên gọi hơi tương tự là món... "hot dog" thì an toàn hơn, kẻo mang vạ và ở tù vì tội "cruelty to animals". Nhiều triết gia cùng đưa ra nhận xét rằng muốn biết một xã hội có đạo đức nhiều hay ít ta hãy xem cách họ đối xử với súc vật. Điều này đối với các súc vật khác không rõ ra sao nhưng đối với chó quả rất đúng, nhất là chó ở Mỹ. Súc vật tại Hoa Kỳ được bảo vệ. Các hội bảo vệ súc vật mọc lên nhan nhản khắp nơi. Ngược đãi, hành hạ, hay giết hại chó là một tội phạm hình sự. Mấy chú khuyển tại Mỹ được bảo vệ tối đa. Ta hãy nghe vụ án sau : Floyd Bertran Sterling, một chàng đưa thư ở California, vào mùa Giáng Sinh năm 1989 bỗng dưng nổi tiếng. Được biết trong khi đi đưa thư tại một nhà kia, chàng được chủ nhà thân ái mở cửa trao tặng một chai rượu Vodka làm quà. Nhân dịp này, chú chó của chủ nhà cũng lẹ chân lẻn ra theo. Chàng mailman lật đật móc súng và nhanh tay (kiểu bắn chậm thì chết) tặng chú chó săn giống Đức này mấy viên kẹo đồng. Chó chết. Không hết chuyện. Chàng mailman... "vác chiếu ra tòa". Chàng không phủ nhận tội "cruelty" nhưng vẫn cãi: "Chó hăm dọa tôi nhiều lần lắm rồi, đây không phải lần đầu". Chủ nhà cãi: "Chó nó thân mật chào đón anh mailman, chứ có gì khác đâu!". Tòa án nghiên cứu hồ sơ thấy ghi mấy tiền án của chàng mailman: nào là ngược đãi đánh đập vợ, nào là trộm cắp, nào là mang vũ khí bất hợp pháp v.v... Kết quả tòa tuyên án phạt chàng mailman 6 tháng tù ở cùng với 3 năm quản chế! Chuyện chưa hết! Sở Bưu Điện Hoa Kỳ phải lo việc ma chay cho chú chó hết tất cả là 685 đô la. Bưu Điện tức quá lập thủ tục định sa thải chàng mailman. Chàng bèn từ chức. Lời bàn: Người đưa thư thường hay bị chó cắn. Theo National Dog Bite Prevention Week thì có "gần 3500 người đưa thư bị chó cắn riêng trong năm 2003" và người ta đề nghị chủ nhà phải giữ chó trong một phòng khác trước khi mở cửa nhà ra mà nhận thư. Không thấy ghi trong hồ sơ vụ án trên một yếu tố quan trọng là chú chó có tỏ vẻ thân thiện, đầy tình hữu nghị kiểu... "môi hở răng lạnh" bằng cách vẫy đuôi khi nhào tới chàng mailman không, vì mấy kẻ ưa triết lý... vụn thường nói rằng: "Chó là một con vật có thể chỉ trong vài phút mà biểu lộ được nhiều tình cảm bằng... cái đuôi của nó hơn là những chính trị gia xôi thịt, đón gió, trở cờ, diễn thuyết ba hoa trước nghị hội trong nhiều giờ đồng hồ bằng... cái lưỡi của mình". Nói chung thời chó luôn luôn được coi là... "bạn thân nhất" (best friend) của con người.. Bên trời Tây y sĩ Pommery đã chứng minh trong một tác phẩm của ông rằng chó là vật trung thành nhất đối với chủ nhân vì đó là tính nô lệ bẩm sinh, chó lại có lòng nhân ái, hay cứu người dù phải hy sinh đến tính mạng. Trong tác phẩm Illiade, một tác phẩm cổ Hy Lạp của Homèra, kể chuyện con chó Arqus, sau 20 năm lưu lạc vì chiến tranh, tình cờ tìm gặp lại chủ cũ là Ulysée, chó mừng quá nên... lăn ra chết. Nhân chuyện... chó chết chúng ta cũng chợt nhớ đến một vị "quan tòa" thời trước rất ư là nổi tiếng. Đó là Bao Công. Ông quan tòa này xử án như thần. Những vụ xử kiện của Bao Công đã được in thành sách và rồi được quay thành "phim bộ". Người ta coi hoài mà không chán. Một trong những chuyện này nói về một chuyến đi công tác của Bao Công. Bao Công trên đường đi công tác có lần đi ngang một ngọn đồi mang tên là "Đồi Nghĩa Khuyển". Bao Công truyền dừng kiệu bước xuống ngắm nhìn thì thấy trên đồi có một cái đình mang tên là "Báo Ân Đình". Bao Công hỏi quan phụ tá là Công Tôn tiên sinh thì quan phụ tá trình rằng đình này được dựng lên để kỷ niệm một con chó trung thành. Cả đoàn ghé vào thăm đình. Trong đình có dựng tượng một con chó đen thui, đó là chó Đại Hắc. Quan phụ tá cho biết lai lịch chú chó như sau: "Đây là một con chó đen tên gọi Hắc Khuyển. Một con chó hoang, vô chủ, hấp hối, gần chết. Chó được một lão tiều phu cứu sống và mang về nuôi. Một ngày mùa đông tuyết bay tơi bời chủ và chó cùng đi ngang ngọn đồi này thì thình lình chủ phát bệnh nặng không đi nổi nữa, bị vùi thân trong tuyết gần chết. Chó bỏ chạy đi kiếm người cứu chủ. Chó chạy hết một ngày một đêm giữa băng tuyết mới kiếm được người đến cứu mạng chủ nhân của nó nhưng chính nó thì lại bị kiệt sức mà chết. Đó là câu chuyện Đại Hắc cứu chủ đền ơn. Người ta thương tiếc lập ra cái đình này và dựng tượng chó để thờ". Bao Công nghe chuyện bèn nói: "Không ngờ một con vật mà cũng biết báo ơn đền đáp, vậy cái bọn người vong ân bội nghĩa trên thế gian này không thấy hổ thẹn hay sao? Một nghĩa khuyển như vậy đáng để chúng ta đảnh lễ !". Sau đó Bao Công và các thuộc hạ cùng thắp nhang đảnh lễ tượng chó. Người ta cũng được biết thêm là ông quan tòa Bao Công này có một cặp cận vệ tên là Trương Long và Triệu Hổ luôn đứng hầu hai bên tả hữu cùng với ba cái "máy chém" là Long Đầu Đao, Hổ Đầu Đao và Cẩu Đầu Đao. Những thanh đao này tùy theo tên gọi của nó mà mang hình đầu rồng, đầu cọp hay... "đầu chó" để xử tử tội nhân theo các thứ bực sang hèn khác nhau. Nhân dịp Năm Tuất nói chuyện chơi về pháp luật và quan tòa mới thấy biết bao nhiêu hình ảnh chú Chó thấp thoáng ẩn hiện. Nhiều khi chính con người lại phải nhìn vào chó mà suy ngẫm để rút ra những bài học cho chính mình. Để chấm dứt câu chuyện phiếm này cần nhắc lại đây một câu tục ngữ của Ấn Độ: "Khi thấy chó thì không thấy đá. Khi thấy đá thì không thấy chó". Tư tưởng này được giải thích là con người ta trong một đêm tối đen như... mõm chó, nếu tâm thần hoảng hốt thì khi thấy một cục đá lù lù bên đường lại cứ tưởng là trông thấy một con chó và sợ nó chồm tới cắn thế là ba chân bốn cẳng ù té bỏ chạy, té sấp té ngửa. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy bình tĩnh tới nhìn lại mới thấy đó không phải là "chó", chỉ là "đá" mà thôi. Thế mới hay con người khi "mê" thì chỉ thấy "chó", nào còn thấy "đá", khi "tỉnh" mới thấy "đá", lúc đó nào còn thấy "chó" nữa đâu. Chi bằng ta cố gắng diệt trừ những "tâm sở" xấu, những ý nghĩ đen tối, những âm mưu gian xảo thì có lẽ lúc nào ta cũng thấy vui với cái "tâm" thanh tịnh của chính mình. Cầu chúc mọi người "thân tâm an lạc" suốt năm... Con Chó! Lành thay! Tâm Minh Ngô Tằng Giao -------------------------------------------------------------------------------- [ Trở Về ] Phụ lục Tại Pháp : 1 - Une rottweiler en justice - La justice n'est pas faite pour les chiens METZ, 23 mars (AFP) - (... ) Me Nadia Weiler-Strasser avait déposé vendredi au nom de " M. Philippe Welsch et de Mlle. Kaya ", habitant à la même adresse, une " requête en référé d'extrême urgence " ... ( Mlle Kaya là một " cô chó 13 tháng ...) 2 - LE CHIEN DE MONTARGIS - Jugement de Dieu au XIVe siècle ( Truyện chó kiện người đã giết chủ mình )
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 10, 2010 4:54:28 GMT 9
Những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử Danh tính thực sự của "chúa trộm nhân từ" Robin Hood, nhân vật chính trong bộ phim đình đám cùng tên tại khu vực Bắc Mỹ, là một trong số những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử loài người. Dưới đây là những bí ẩn lớn nhất chưa có lời giải thích trong lịch sử do trang Livescience bình chọn. Ai là Robin Hood?Nhân vật Robin Hood (tài tử Russell Crowe đóng) trong bộ phim cùng tên phát hành vào năm 2010. Ảnh: imdb.com. Trong những câu chuyện dân gian của người Anh, Robin Hood là một kẻ sống ngoài vòng pháp luật có khả năng bắn cung siêu phàm. Hood chuyên cướp tài sản của vua quan và những tên nhà giàu xấu xa rồi phân phát lại cho người nghèo. Sự tồn tại của một tên cướp nhân hậu sống trong rừng có lẽ đáng tin cậy hơn câu chuyện một vị vua huyền thoại với thanh gươm thần. Tuy nhiên, việc tìm kiếm Robin Hood trong suốt chiều dài lịch sử đã dẫn đến hàng loạt khả năng. Người ta tìm thấy hàng loạt nhân vật có thể là Robin Hood, trong đó có hai cái tên là Robert Hod và Robert Hood. Cuộc tìm kiếm trở nên phức tạp vì cái tên “Robin Hood” cuối cùng lại đồng nghĩa với “kẻ sống ngoài vòng pháp luật” như trong trường hợp William Le Fevre. Theo ghi chép của toà án thời trung cổ, một kẻ sống ngoài vòng pháp luật mang tên William Le Fevre cũng khá nổi tiếng. Họ của người này sau đó lại được đổi thành Robehod. Thực hư về Robin Hood lại càng trở nên mơ hồ khi các tác giả của câu chuyện cổ lại thêm những nhân vật khác vào ví dụ như hoàng tử John. Những xác ướp tại Trung Quốc Trong khi khai quật tại thung lũng Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện hơn 100 xác ướp có niên đại khoảng 2000 năm. Tuy nhiên, giáo sư Victor Mair của trường Đại học Pennsylvania tại Mỹ hết sức ngạc nhiên khi tìm thấy một số xác ướp có tóc vàng, mũi dài được trưng bày tại một bảo tàng. Vì vậy, năm 1993, Mair quay lại đây để thu thập mẫu ADN. Kết quả phân tích đã xác nhận dự đoán của ông: Những xác ướp tại thung lũng Tarim có nguồn gốc từ châu Âu. Trong khi các tài liệu Trung Hoa cổ từ thế kỉ một trước Công nguyên ghi nhận sự tồn tại của những nhóm cư dân có nguồn gốc châu Âu thì lại không hề có chi tiết nào đề cập đến sự biến mất của họ tại đây. Sự mất tích của đội quân La Mã Sau khi đội quân của tướng La Mã Marcus Licinius Crassus bị những người Parthia tại Ba Tư đánh bại, truyền thuyết kể lại rằng một nhóm nhỏ tù binh La Mã đã trốn thoát. Họ lang thang qua sa mạc và cuối cùng bị quân đội người Hán bao vây. Sử gia Trung Quốc Ban Gu sống ở thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên đã miêu tả lại cuộc chạm trán với một đội quân lạ chiến đấu theo “thế trận vảy cá” đặc trưng của quân đội La Mã. Một nhà sử học tại Đại học Oxford, Anh so sánh các ghi chép cổ và cho rằng đội quân La Mã mất tích từng xây dựng thị trấn nhỏ mang tên Liqian gần sa mạc Gobi. (Liqian là cách viết từ “La Mã” trong tiếng Trung). Các thí nghiệm ADN đang được tiến hành để làm rõ giả thiết này và hy vọng sẽ giải đáp những bí ẩn của đội quân La Mã này. Sự biến mất của nền văn minh thung lũng IndusNhững công trình còn sót lại của nền văn minh Indus. Ảnh: wordpress.com. Indus là một nền văn hóa trải tồn tại từ năm 2500 tới 1500 trước Công nguyên với dân số khoảng 5 triệu người. Khu vực sinh sống của người Indus trải dài từ phía tây Ấn Độ đến Afghanistan. Đây là nền văn minh lâu đời nhất từng được biết đến ở Ấn Độ. Sự sụp đổ đột ngột và bí ẩn của nó có thể được so sánh với sự suy vong của đế chế Maya vĩ đại. Phải đến năm 1922, các cuộc khai quật mới phát hiện ra di tích của một nền văn hóa phát triển cao với một hệ thống thoát nước phức tạp và nhà tắm sạch sẽ. Điều kì lạ là không có bất cứ bằng chứng khảo cổ nào về quân đội, nô lệ, xung đột xã hội hay những thói xấu vẫn phổ biến ở những xã hội cổ đại tại đây. Bản thảo Voynich Bản thảo Voynich có lẽ là cuốn sách khó đọc nhất trên thế giới. Di vật 500 năm tuổi này được tìm thấy vào năm 1912 tại một thư viện ở Rome, Italy bao gồm 240 trang minh họa và được viết bằng một thứ ngôn ngữ chưa từng được biết đến. Việc không thể giải mã được những văn tự này khiến có người cho rằng đây chỉ là một trò đùa. Nhưng một phân tích thống kê lại cho thấy bản thư tịch này hoàn toàn tuân theo cấu trúc và quy luật cơ bản của một ngôn ngữ thực sự. ************ Hàng nghìn viên đá dựng đứng và nằm thẳng hàng tại Pháp, các xác ướp dưới đầm lầy tại châu Âu nằm trong danh sách những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử loài người của trang Livescience. Bãi đá Carnac tại PhápMột phần của bãi đá Carnac. Ảnh: wikipedia.org. Nằm dọc bờ biển Brittany thuộc miền tây bắc nước Pháp, bãi đá Carnac gồm hơn 3.000 khối đá dựng đứng to lớn được sắp xếp thành những đường hoàn hảo và trải dài dài hơn 12 km. Truyền thuyết địa phương kể rằng ngày xưa, khi một đội quân La Mã đang hành quân thì phù thuỷ Merlin đã biến họ thành đá. Một nhà khoa học nghiên cứu bãi đá đã đưa ra một giải thích hợp lý hơn: Nó có thể là một công cụ dự báo động đất. Ngoài ra, không có dấu hiệu cho thấy những người thuộc thời kì đồ đá mới xây dựng bãi đá này. 7. Sự sụp đổ của đế chế MinoaMột phế tích của đế chế Minoa trên đảo Crete, Hy Lạp. Ảnh: tgeyatch.com. Nền văn minh Minoa bắt đầu trên đảo Crete của Hy Lạp và tồn tại từ thế kỷ 27 tới thế kỷ 15 trước Công nguyên. Mãi tới những năm đầu thế kỷ 20, một nhà khảo cổ người Anh có tên Athur Evans mới phát hiện ra sự tồn tại của nền văn minh này. Trong khi nguyên nhân sụp đổ của đế chế La Mã đã khá rõ ràng thì sự suy vong của đế chế Minoa vẫn còn là một thách đố. 3.500 năm trước, cuộc sống trên đảo Crete đã bị chôn vùi sau một vụ phun trào núi lửa từ đảo Thera gần đó. Những phiến đất sét khai quật được cho thấy đế chế Minoa vẫn tiếp tục tồn tại thêm 50 năm nữa sau khi núi lửa phun rồi mới biến mất vĩnh viễn. Có giả thiết cho rằng tro bụi núi lửa tàn phá mùa màng hoặc sự thống trị của Hy Lạp là nguyên nhân khiến đế chế Minoa lụi tàn. 8. Xác ướp đầm lầyMột xác ướp dưới đầm lầy tại châu Âu. Ảnh: wired.com. Hàng trăm tử thi cổ chôn trong các đầm lầy phía bắc châu Âu đã được phát hiện. Các nhà nghiên khoa học cho biết, họ nhận thấy có dấu vết tra tấn và phạm tội thời trung cổ. Những vết tích đáng sợ này khiến họ nghi ngờ những người chết là vật hiến tế của một nghi lễ tôn giáo. Livescience cho rằng ngay cả những cảnh sát điều tra hiện trường án mạng giỏi nhất thế giới cũng không thể tìm ra nguyên nhân dẫn đến cái chết của những xác ướp này. Helike - thành phố bị lãng quênMột điểm khai quật thuộc thành phố cổ Helike trên đảo Phục sinh. Ảnh: helike.org. Nhà văn người Hy Lạp Pausanias đã miêu tả lại sự kiện một trận động đất phá huỷ cả thành phố Helike chỉ trong một đêm vào năm 373 trước Công nguyên. Một lát sau, một cơn sóng thần lại cuốn phăng đi những thứ còn lại của thành phố một thời thịnh vượng này. Helike từng là một trung tâm tôn giáo thờ Poseidon - vị thần cai quản biển cả. Thành phố huyền thoại không để lại chút dấu vết gì và cũng không hề được nhắc đến trong các thư tịch Hy Lạp cổ. Năm 1861, một nhà khảo cổ đã phát hiện được một thứ bị lấy cắp từ Helike. Đó là một đồng xu bằng đồng chạm hình đầu Poseidon đặc trưng. Năm 2001, hai nhà khảo cổ học đã xác định được vị trí tàn tích của Helike bên dưới lớp bùn và đá sỏi ven biển. Hiện tại, họ đang nỗ lực khai quật thành phố. Chữ tượng hình RongorongoMột bản khắc chữ tượng hình Rongorongo. Ảnh: wordpress.com. Được coi như một bí ẩn khác của Đảo Phục Sinh thuộc Chile, Rongorongo là loại chữ tượng hình được những cư dân đầu tiên của vùng đất này sử dụng. Trong khi không có một tộc người lân cận nào có chữ viết, chữ Rongorongo lại xuất hiện một cách đầy bí ẩn vào thế kỉ 18. Tuy nhiên, sau khi bị những thực dân châu Âu đầu tiên cấm đoán vì mối liên hệ với nguồn gốc vô thần của người dân bản địa, loại chữ viết này đã bị mai một khiến cho việc giải mã cũng trở nên vô vọng. Ngọc Thúy
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 8:29:58 GMT 9
Các món ăn lạ của châu Á trong mắt người nước ngoài Tuấn Thảo - RFI Bạn có biết? Một khu chợ thực phẩm của người Hồi giáo ở Bagdad REUTERS/Mohammed Ameen Chuyên trang du lịch của tạp chí Forbes gần đây có bài giới thiệu các món ăn lạ của người châu Á. Một cách để khuyên du khách Âu Mỹ đừng gan dạ làm liều, ăn thử để rồi nhăn mặt than trời, nhưng đồng thời khuyên họ nên có cách nhìn cởi mở, đừng vội vàng phê phán những thức ăn rất khác với truyền thống ẩm thực Tây phương. Chủ yếu cũng vì các nước Âu Mỹ có nhiều món mà người châu Á không thể nào ăn nổi (món lòng cừu haggis của Scotland hay rượu pha sữa hột gà egg-nog của Mỹ). Theo tờ báo, các món ăn châu Á đa dạng phong phú vì trong khu vực có rất nhiều dân tộc không cùng nguồn gốc văn hóa sống gần kề nhau. Chẳng hạn như Riêng ở Đông Nam Á, các món ăn Thái Lan lại khác biệt với Việt Nam hay Mã Lai. Về trái cây rau quả, tờ báo cho rằng đa số khách phương Tây rất khó thể nào thưởng thức nổi mùi sầu riêng, mà tờ báo mô tả như một quả bóng vỏ cứng đầy gai nhọn và nhất là có mùi hương giống như một đôi vớ giầy rất bẩn, lâu ngày bỏ quên trong xó. Trái thanh long thì được đánh giá là đẹp mắt do màu sắc rực rỡ nhưng lại nhạt nhẽo, vô vị khác hẳn với các loại trái cây miền nhiệt đới. Vô vị không kém là món yến sào của người Hoa. Dân Hồng Kông có thể chi 100 đôla cho mỗi bát, xem đó là một món cao sang bổ dưỡng, cường dương và tốt cho hệ thống miễn dịch, nhưng suy cho cùng trong mắt người nước ngoài, đó chỉ là nước giãi của chim yến, có mùi hay chăng là do được nấu súp thịt gà. Khó ăn hơn cả là món đậu hũ lên mùi, khá thông dụng ở Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông. Theo tờ báo thì mùi nồng của món này có thể khiến cho khách phải đổi đường mà đi. Món này được chế biến từ đậu hũ có khi đã lên men từ vài tuần đến 6 tháng. Sau khi được ngâm nước muối trong vài giờ, đậu hũ được chiên giòn thành từng miếng, rồi sau đó được phết nước xốt làm với giấm, dầu mè, dưa leo xắt nhỏ và cải thảo ngâm chua. Tại Hồng Kông, món này chỉ được bán ở ngoài chợ và trên đường phố, chứ nhà hàng tiệm ăn thì không được cấp giấy phép. Món chân gà rút xương hấp đậu đen coi vậy mà dễ ăn hơn. Tại Thái Lan hay tại Lào, thử thách lớn nhất đối với du khách vẫn là các món côn trùng chiên giòn bày bán ở ngoài chợ. Các loại mắm cá, mắm tôm một khi đã được xào nấu, hay pha loãng để trộn vào gỏi đu đủ thì còn có thể ăn được, nhưng các món như châu chấu, cào cào, kiến càng, trứng dế, bọ nước, cà cuống (maengda) đã là một thách thức đối với người châu Á, huống chi là người Anh Mỹ. Nhưng cũng nhờ vào maengda, mà nhiều gia vị nấu ăn của Thái Lan rất thơm. Chẳng hạn như cà cuống được nghiền nhuyễn để làm tăng thêm hương vị cho tương bột ớt namprik nổi tiếng của người Thái. Có những món khó ăn vì do mùi vị, những cũng có một số món không dễ dùng do rào cản tâm lý. Người Tây Tạng và Nepal có món Trà bơ (pocha) làm từ sữa bò địa phương mà ngay cả những dân tộc châu Á láng giềng không quen nổi. Gọi là trà nhưng nó lại gần giống với món xúp gồm trà đen, pha muối rồi trộn bơ vào cho nước súp thật nhuyễn và đậm đặc. Dân miền núi uống rất nhiều trà bơ này mỗi ngày, để cho cơ thể có đủ năng lượng chống lạnh. Tâm lý người nước ngoài quen uống trà ngọt, chứ không uống trà mặn, cho nên du khách dễ nhận lời hơn khi họ được mời dùng xúp nóng thay vì dùng trà. Người Malaysia cũng có một món ngọt khá lạ miệng. Đó là món “air batu campur”, gọi tắt là ABC. Đây là một loại nước đá bào xay với sữa đặc, đường cọ, đậu phộng rang, đậu đỏ, bắp hộp và sương sáo. Để thêm mùi, người ta còn trộn thêm với một loại rau thơm, gần giống với lá cây bạc hà. Một loại giải khát nằm giữa milkshake (sinh tố) và chè đậu, chè bắp. Người nước ngoài ít dùng món này vì đối với họ uống milkshake thì phải có mùi trái cây. Về các món ăn của Nhật, tạp chí Forbes cho rằng xứ hoa anh đào luôn bị ám ảnh bởi sự tươi mát. Nhưng các món sushi đều đã trở nên quá tầm thường. Lạ hay chăng là món Kikzakana, tức là cá vừa bị bắt được mổ sống, nguyên con bỏ vào đĩa, thịt cá thái thành từng lát mỏng. Cá tươi đến nỗi, miệng cá vẫn còn thoi thóp khi được dọn ra bàn tiệc. Nhưng người Nhật không chỉ thích ăn cá tươi hay thịt sống, mà còn có nhiều món khác như món Tazukuri, cá mòi khô ngâm sốt chua ngọt), món Kombumaki (cá hồi ướp với rong biển), kazunoko (trứng cá trích giòn ngâm muối). Đó là chưa kể đến món natto, đậu nành lên men rất nhầy nhớt, mà ngay cả một số người Nhật không yêu chuộng, nhưng họ vẫn thích dọn lên bàn để chọc ghẹo khách nước ngoài, để xem họ gan dạ phiêu lưu đến mức nào.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 8:45:50 GMT 9
Góp nhặt kiến thức Phong Lan 1) Ngay cả khi bạn ngồi thoải mái trước máy vi tính để đọc sách, bạn cũng đang chuyển động vì trái Ðất quay quanh mặt trời với vận tốc 30 cây số một giây. 2) Ngày 14/10/1968 là lần đầu tiên chiếu trực tiếp qua đài truyền hình chuyến bay Apollo 7 khi nó quay trong quỹ đạo trái đất 3) Lần đầu tiên truyền hình được phát sóng với độ kỹ thuật hình ảnh cao (haute définition) tại Anh quốc năm 1936 4) Bởi vì có vi khuẩn trong miệng ta mà đôi khi buổi sáng thức dậy ta hôi miệng vì chúng phân hủy những thức ăn còn dính trong chân răng thành những hợp chất chứa lưu huỳnh. Khi ngủ, miệng khô nên dân số vi khuẩn đông đảo vì không bị nước miếng hủy diệt bớt và tích lũy càng lúc càng nhiều 5) Vận tốc xe đạp kỷ lục là 270 km/giờ. Ðương nhiên là lúc xuống dốc 6) Bên Trung quốc, thế kỷ thứ 17, những người hút thuốc có nguy cơ bị xử trảm. Cùng thời này, bên Âu châu họ có thể bị rút phép thông công bởi các giám mục. 7) Trên Hỏa tinh, bầu trời có màu hồng do không khí trên đó chỉ chứa 2% oxy thay vì 20% như ở trên quả Ðất chúng ta. 8) Theo những nhà khảo cứu Mỹ, lúc trời mưa, nếu chạy ta sẽ ít bị ướt hơn khi đi bộ 9) Con Quạ (corbeau) làm được dụng cụ để kiếm mồi: bên Tân Tây Lan người ta đã quan sát những con Quạ bẻ những cành cây nhỏ, gỡ lá ra rồi dùng để lượm côn trùng trong lỗ 10) Thiên hà , thí dụ như Ngân hà của chúng ta, có hàng tỉ ngôi sao. Mặt trời là một trong những vì sao trong đó, nó cũng không phải là ngôi sao sáng nhất 11) Bắt đầu từ năm 1500 ngành thủy tinh được phát triển một cách hoàn hảo, là nguồn gốc của những kính lúp đầu tiên, những viễn vọng kính đầu tiên và những kính hiển vi đầu tiên. 12) Vì muốn chế tạo ra một loại siêu keo dán mà năm 1938 kỹ sư Roy Plunkett đã sáng chế ra một chất... không dính với chất nào hết: chất TEFLON. Nhưng mãi đến năm 1950 người ta mới để ý đến những tính chất kỳ diệu của nó. Chịu lạnh: ngay cả ở vài độ cao hơn nhiệt độ tuyệt đối mà nó cũng chưa hề hấn gì, không dẫn điện, không bị tác dụng của oxygène. Hiện nay Teflon có mặt trên khắp mọi nơi, từ vật dụng trong nhà (như chảo không dính...) đến những áp dụng trong khoa học kỹ thuật đủ mọi ngành. Tuy nhiên cũng vì nó không dễ bị phân hủy, nếu ta dùng chảo có lớp teflon, không nên lấy muỗng nỉa bằng kim loại dùng vì sẽ trầy. Khi bị trầy, chất này sẽ dính theo thức ăn vào cơ thể ta. Một số sẽ tích lũy và vô ở trong các mô của chúng ta, gây ra ung thư. Bởi vậy khi soong chảo bị trầy thì nên bỏ đi, đừng dùng nữa. 13) Tâm của trái Ðất quay nhanh hơn chính trái Ðất một chút nên trái đất càng ngày càng quay nhanh hơn. Cũng dựa trên các trầm tích thuỷ triều còn để lại ở các địa tầng, nhóm khoa học Australia công bố rằng, cách thời đại chúng ta 650 triệu năm, một ngày dài 22 giờ và ngược chiều thời gian 2,5 tỷ năm, con số ấy là 20 giờ và trong tương lai sẽ 30 tiếng... 14) Chất Radon là một chất khí thiên nhiên có tính phóng xạ. Nó được tạo ra bởi sự phân hủy của chất Radium trong các chất cấu tạo quả đất như đá, đất, gạch, bê tông. Ngoài trời có rất ít, nhưng trong nhà thì nhiều hơn (vì nhà của ta làm bằng, đá, gạch, bê tông). Nếu không thoáng khí, dẽ bị chất phóng xạ gây ung thư phổi (vì ta thở nó vô phổi) Nó nguy hiểm như vậy, tuy nhiên đã trên mười năm nghiên cứu về chất phóng xạ độc hại này đã làm lo lắng mà chưa thấy phát hiện trường hợp ung thư về chất này 15) Con đường vùng VITTEL bên Pháp được trải một lớp thảm dày 2 ly dùng để ngăn chận xăng xe hơi thấm xuống đất, vì dưói đất có những nơi dự trữ nước Vittel để xuất cảng khắp nơi trên thế giới 16) Tất cả mọi cơ quan trong cơ thể ta đều được tạo bởi những tế bào. Chúng luôn phân cắt và nhân lên. Tế bào phân đôi khi chúng cần thế chỗ những tế bào bị tổn thương hay chết, cũng giống như trường hợp một trứng được thụ tinh. Mỗi phút trong cơ thể ta có 300 triệu tế bào được thay thế (ngay cả trong lúc ta ngủ!)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 8:49:16 GMT 9
"Ngân hàng Thụy sĩ (Swiss Banks) Sagant Phan Nói đến đề tài này thì trống ngực tự nhiên đập nghe liên hồi. Ngày xưa , tại Saigon nghe đến Thụy sĩ là người ta nghĩ đến Ngân Hàng mà thôi , chớ đâu có ai nghĩ đến chuyện đi du lịch làm chi ? Còn mở trương mục tại Thụy Sĩ thì là chuyện thần tiên . Có cắc nào đâu mà nói đến ? Nhưng tại Mỹ nầy chuyện mở một trương mục ký thác tại Ngân hàng là chuyện dễ ợt .. Ngân Hàng Thụy sĩ làm mình bỗng nhiên muốn mai này nhào ra ngân hàng của mình mà rút ra vài trăm bạc, rồi gởi qua ngân hàng Thụy Sĩ để lấy le chơi, lấy le với mấy tay loại sư tổ tham nhũng ngày xưa đã từng gởi tiền qua xứ này với trương mục vô cùng bí mật . Nói thì dễ nhưng làm không phải dễ. Hiện nay nhiều tay triệu phú loại multi-millionaire gởi kiểu này, từ Mỹ qua Thụy Sĩ hi vọng trốn thuế . TIền từ chuyện mua bán mấy chất bột trắng hay mua bán những loại mà thuộc dạng quốc cấm , bị bắt một cái là gỡ lịch vài chục cuốn như chơi .Họ, tất cả đều khoái gởi tiền qua Thụy Sĩ với trương mục bí mật (secret account) mà chưa đọc bài này , nhưng thâtỵ sự hầu hết loại dân thuộc dạng xã hội đen đều , hầu như tất cả đang nằm ấp gỡ lịch vài chục cuốn trong khám New York rồi. Ngân hàng Thụy Sĩ nghe như là một huyền thoại trên trời nào đó, nhưng nó có thiệt và hiện nay vẫn đứng vững như trời trồng, mặc dù đại đa số chánh phủ ngoại quốc đều ghét nó hết ...vì nó hút hết tiền của dân từ những tay cầm quyền tham nhũng , đến khi tay cầm quyền mới lên thì ngân quỹ hết sạch bách tiền rồi ..Lấy gì mà mần ăn cho dân chúng nó nhờ đây ? . Thử nhìn theo ngón tay đây nầy một chút nhá ..... Một buổi chiều cuối thu, gần tan sở trên đại lộ Basel/ Thụy Sĩ nhiều cao ốc biệt thự, cứ vài bước là có một ngân hàng, cửa đóng im ỉm. Ngoài đường ít người qua lại vì lạnh từ núi cao Thụy Sĩ thổi về. Bầu trời thì xám xịt như pha chì, đường dốc thoai thoải lạng quạng là té như chơi , lòng đường lót toàn bằng đá cuội xanh thẩm đen . Có một ông già , rất già ...tướng đi chậm chạp, áo quần tả tơi, vai vác một túi, hình như quần áo cũ, khá nặng. Lần bước lên dốc, thỉnh thoảng, cho chắc ăn không bị theo dõi, ông lão làm bộ đứng thở dốc, ho khù khụ tay vuốt ngực. Rồi ông tiếp tục hướng về một ngân hàng cao và bề thế nhất con đường Basel này. Thành lập trên gần hai trăm năm nay rồi. Tích sản nghe đồn lên đến hơn 400 tỉ đô la . Ông lão bước lên bậc thềm, mặc cho lính gác cổng nhìn hơi khó chịu. Lão chưa kịp mở cửa nặng nề, thì cửa mở với một người gác mặt khó chịu. Ông lão ăn mày ấy nói nho nhỏ điều gì đó vào lỗ tai người giữ cửa.... thì lập tức, có ba người từ góc tường ngân hàng chạy vội đến , gật gật đầu chào mời ông lão ấy vào. Trong nhóm ba người ấy thì người thứ nhất hơi mập và lùn, áo quần rất đẹp , trang trọng vội đưa tay bắt tay ông lão. Nhưng ông lão không thèm đáp lễ. Rồi 4 người theo sát luôn ông lão vào căn phòng lớn nhất , sau khi mở một cánh cửa bằng loại gỗ rất dầy , nặng như gỗ lim vậy , màu cánh cửa đen thẩm so với thời gian , trên trăm năm nay rồi còn gì ? Đó là Ông chủ ngân hàng Volksbank , ông ta vội vàng kéo màn cửa nhìn ra đường, che ánh sáng và ông tắt bớt vài ngọn đèn trong phòng. Tất cả ngồi xuống, giấy tờ ghi ghi chép chép, thêm 6 cô thư ký ngồi đếm một mớ.giấy cũ lẫn mới từ trong túi balô của ông lão để trên bàn. Túi khá hôi, vì ông lão vừa mua của một tay ăn mày chính hiệu con nai vàng bên trạm xe lửa tại trạm Paris , rồi ông lão ra bờ sông Seine móc ra nào áo quần, vớ cũ.thật hôi của tên ăn mày chánh hiệu con nai ấy mà vứt xuống sông Seine của Paris thơ mộng. Túi hôi rình thiệt, nhưng trong đó chính là một mùi mà mọi người không ngửi thấy đó là .... mùi tiền nó thơm hơn dầu thơm Chanel 5 gấp ngàn lần hơn . Trở lại ngân hàng ấy, trên bàn có hai cái máy electronic loại đếm tiền đô la của Mỹ chạy nghe ào ào., con số đếm lên đến con số triệu dollar rồi , còn một số chứng khoán cũ của ngân hàng Paris nữa , nhiều công khố phiếu lắm , mổi tấm vài trăm ngàn đôla là chuyện nhỏ . Thành thử ông lão vừa lên dốc vừa ho là phải. Ông lão chỉ sợ mình đóng kịch khéo quá, tướng đi lạng quạng nếu mà té lăn bò càng trên đường thì. Lòi chành hết ráo tiền bạc triệu văng vãi tứ tung. Vả lại có gió thu thổi mạnh nữa đó , thổi bay tiền bạc tứ tung thế là mai có báo Thụy sĩ chạy tít to lớn trên trang chánh ...thì lộ chuyện tại nước nhà liền ... . Giờ tan sở đã từ lâu rồi, nhưng mọi người trong phòng không chú ý gì hết. Tất cả đều chú ý đếm tiền. Khi đường đã lên đèn, thì đồng hồ cũ nhà thờ đong đưa 8 tiếng. Tối rồi , phố xá lên đèn và hơi sương trên núi đồi Thụy sĩ lần lần phà xuống phố . Ông lão mới rời ngân hàng thuộc loại xưa nhất Thụy Sĩ này. Ông quẹo vội vàng ba bốn góc đường, thì đã có một chiếc xe Mercedes đen loại SEL 600 đang nằm im chờ ông từ lúc nào rồi. Ông mỉm cười khoái trá, óc ráng nhớ câu thần chú bí mật Tư Râu Bạc và con số 353570. Vì số 35 là số của ông Thầy. Thầy Dê xồm đó, còn con số 70 là 2 con dê cộng lại. Thật là tuyệt diệu. Làm sao mà ai mò ra ám hiệu thần chú này được? Vả lại ngày gởi là ngày mình kỷ niệm ngày cưới vợ cho.con. Còn con số gởi trong ngân hàng là 35 triệu lần trước và lần này cũng đúng 35 triệu nữa. Vị chi là 70 triệu. Thôi trở về thực tế đi. Chuyện gởi tiền vào bank Thụy Sĩ không phải như tôi vừa kể đâu . Make-up story cho vui cửa vui nhà đấy mà . Ngân hàng Thụy Sĩ/ Swiss Bank tại Switzerland, rất kỵ chuyện tình tiết loại gián điệp James Bond 007. Bạn mà làm bộ đóng vai ông già ăn mày, vai ôm túi bạc mà vào ngân hàng gởi kiểu này....thì lạng quạng bị Security gần đấy , bẻ tay rồi nhốt vào bót trước cái đã rồi tính sau. Họ , Swiss Banks , thuộc vào loại võ lâm cao thủ về tiền mà. Lúc họ còn giữ tiền thiên hạ thì lúc đó Mỹ đang đánh giặc với tụi da đỏ bên miền Viễn Tây kia mà. Lúc họ đang cầm vận mạng Âu Châu, thì lúc đó anh cao bồi Mỹ đang bị. mọi Apache rượt thiều điều.sút quần Jeans kia mà. Ta gọi là quần bò đấy. Thành thử mấy ngân hàng loại Citicorp hay Bank of America là loại. con nít , hỉ mũi chưa sạch. Tuổi tác đâu được bao nhiêu mà kể . Tại Hoakỳ từ dân tới tổng thống Mỹ đều ớn tụi IRS ( Sở Thuế Vụ ).... thì họ, nhóm ngân hàng Thụy Sĩ đã cho tụi IRS vào chung danh sách Bad Guys cùng chung với tụi Gestapo của Hitler hay K.G.B. của Nga hay Phòng Nhì Bureau của Pháp thì đủ biết công lực họ thâm hậu đến chừng nào. Ngày xưa biết bao nhiêu anh chàng K.G.B hay Gestapo vào ngân hàng Thụy Sĩ gỡ cửa hỏi ông chủ nhà băng một vài câu chuyện tiền bạc của ông bá tước này hay ông nhân sĩ nọ. Tất cả đều vào ấp Thụy Sĩ mà gỡ lịch Thụy Sĩ hết ráo. Vì luật pháp Thụy Sĩ bắt bỏ bót mà không cần đưa ra Tòa chi cho nó mệt , những tay nào vào ngân hàng Thụy Sĩ nói trật ám hiệu bùa chú của. người khác. Nằm ấp như chơi. Luật Thụy sĩ như vậy đó . Còn ấp hay khám của Thụy Sĩ rất đúng giờ, như đồng hồ Thụy Sĩ vậy. Không có màn ân xá hay giảm khinh gì hết. Chỉ có việc ăn xong rồi tay ngó đồng hồ Omega hay Longine cho chắc ăn là đủ rồi. Trở lại đề: Ngân hàng Thụy Sĩ cống hiến rất nhiều loại trương mục cho thân chủ. Nơi đây là tiền. Tiền và Tiền viết chữ Hoa . Thân chủ chọn kiểu nào cũng có. Y như Las Vegas bên Mỹ vậy, thân chủ muốn chơi cờ bạc loại gì cũng có. Ðụng đến là tiền vô ào ào, nhưng ào ào bên chủ tiệm. Nhưng nổi tiếng nhất thế giới của Ngân Hàng Thụy Sĩ là trương mục bí mật (secret numbered account). Loại trương mục này đã làm vang danh thiên hạ hàng trăm năm nay . Chắc chắn như thiên la địa võng của Trời vậy. Bất chấp những tay sư phụ xâm nhập vào mà phá lưới. Biết bao nhiêu thư tình của những sở thuế bên xứ lạ gửi đến, có đóng dấu quốc gia đàng hoàng gửi đến , rồi tất cả đều bị vứt vào thùng rác ngân hàng Thụy Sĩ. Họa hoằn lắm họ lịch sự gửi trả lại. Sorry ! No such name in here (Cáo lỗi, chúng tôi không có tên này trong ngân hàng). Dưới góc thơ của ngân hàng Thụy Sĩ có in dấu nổi cái Búa và cái Ðục. Ngụ ý là bạn cứ việc vác Búa và cái Ðục vào tiệm chúng tôi mà tìm. Luật hiện hành của ngân hàng Thụy Sĩ là đòi hỏi sự riêng tư tuyệt đối cho thân chủ. Ở đây không có tính tiền thuế cho trương mục đầu tư từ những tiền tệ ngoại quốc. Tiền tệ ngoại quốc được thông dụng và chấp nhận tại ngân hàng Thụy Sĩ là: Dollars USD, đồng tiền Mark (DM) của Ðức, Yen của Nhật, và British Pound Sterling của Anh quốc, nay là tiền Europe rồi . Tiền Maroc hay tiền Iraq đều phải đổi ra tiền thông dụng nói trên trước hết cái đã rồi mới tính sau. Những ngân hàng lớn tại Thụy Sĩ hầu như đều có đủ nhân viên phục vụ biết nói tiếng ngôn ngữ của bạn. Bạn là người Tàu thì họ có người biết nói tiếng Quan Thoại hay tiếng Quảng Đông cho bạn liền lập tức. Dường như chỉ trừ tiếng da đỏ là họ chịu thua mà thôi. Hình như tiếng da đỏ này tụi Mỹ có xài cho ban truyền tin trong kỳ Ðệ Nhị Thế Chiến làm cho Ðức quốc Xã kẹt đạn rất nhiều. Vì tiếng Da đỏ không có trường dạy học mà cũng không có chữ viết luôn. Muốn biết tiếng đó thì chỉ có nước mà. ở trần múa bên đống lửa với tụi da đỏ chừng vài chục năm là hiểu liền . Ngân hàng Thụy Sĩ dành riêng một loại ám số cho những người ngoại quốc có tiền gởi ngân hàng. Ám số này khác với ám số của những cư dân tại Thụy Sĩ. Vì được pháp luật bảo vệ chặt chẽ cho người gởi tiền, nên rất ít nhân viên cao cấp ngân hàng biết rõ danh tánh người gởi tiền. Có thể ngân hàng có trên dưới hàng trăm nhân viên phục vụ tại ngân hàng, nhưng những người thẩm quyền cấp ám số và biết danh tích khách hàng có thể chừng vài ba người mà thôi. Và danh tánh người gởi sẽ không được hiện rõ, hay xuất hiện trên màn ảnh computer ngân hàng. Những danh sách được bảo vệ vô cùng cẩn thận tại những tủ sắt khóa rất kỹ những danh tánh khách hàng. Nhân viên thẩm quyền ngân hàng chỉ có thể biết số mật mã và cho khách hàng biết số tiền tồn động ký thác tại ngân hàng bao nhiêu. Ðó là do thân chủ cung cấp sau khi được kiểm soát qua nhiều lần số mật mã. Mở Một Trương Mục Tại Ngân Hàng Thụy Sĩ (Opening an Account at Swiss Bank) ra sao đây ? Có trên khoảng 1300 ngân hàng tại Thụy Sĩ hiện nay. Có nhiều ngân hàng rất lâu đời trên dưới 300 năm là thường. Có ngân hàng tích sản trên dưới 200 tỉ dollars USD cũng là thường. Cũng có trên dưới vài chục ngân hàng lớn ngoại quốc tại Thụy Sĩ, hoặc ngân hàng Thụy Sĩ có những phần hùn của F.B.I nữa không chừng. Lạng quạng gởi tiền vào những ngân hàng này thì đừng có ngạc nhiên la làng tại sao tụi thuế vụ IRS Mỹ biết rành từng con số nhỏ lẻ tẻ của bạn. Tại Thụy Sĩ có ba ngân hàng lớn của Thụy Sĩ như: Swiss Bank Corporation, kế đó là Credit Suisse và chót là Swiss Volksbank. Những mùa tấp nập khách hàng nhất là những mùa nghỉ hè, tại Zurich thân chủ có thể được dẫn giải rất lễ độ của nhân viên ngân hàng đủ loại tiếng thông dụng nhất thế giới. Nên nhớ rõ ràng Liên Hiệp quốc đầu tiên xuất hiện tại Thụy Sĩ tức gọi là Hội Quốc Liên. Còn một điều lạ lùng là những xứ trên thế giới ai ai cũng nô nức muốn xứ mình trở thành một hội viên của Liên Hiệp Quốc để cho nó oai với xứ láng giềng, còn trái lại Thụy Sĩ là một xứ không là hội viên trong Liên Hiệp Quốc. Nay thì họ dở chứng kỳ cục là xin gia nhập Liên hiệp Quốc rồi . Có khoảng trên 150 ngân hàng Thụy Sĩ do chính phủ làm chủ và nhận tiền gởi của khách hàng, để đầu tư investment , họ chia lời rất trọng hậu cho khách hàng. Tại Mỹ cũng có chi nhánh của ngân hàng Thụy Sĩ, dĩ nhiên người khách phải chịu luật lệ của chủ nhà. Bạn mà gởi tiền vào ngân hàng Thụy Sĩ có chi nhánh tại Los Angeles , California Hoakỳ thì tốt hơn nên gởi tại sòng bạc Las Vegas là ấm tâm hồn, tối ngủ không sợ thuế vụ IRS hỏi thăm. Muốn gởi ngân hàng Thụy Sĩ thì tốt hơn nên bắt chước bác "Tư Râu Bạc" đi bộ đến ngân hàng tại Thụy Sĩ , mà nên nhớ cũng đừng gởi lầm ngân hàng nào mà có phần hùn hạp của Mỹ. Biết bao nhiêu anh hùng xa lộ tỉ phú, bán bột gạo trắng lời đến hàng trăm triệu dollars, gởi vào một ngân hàng tại Thụy Sĩ với một trương mục bí mật. Năm trước được chia lời hậu hĩnh, năm sau thì nằm ấp gỡ hàng chục cuốn lịch tại New York mà không hiểu vì sao tôi buồn. vì sao tôi buồn. Buồn vì gởi tiền lậu nhầm vào Sở Cảnh Sát Hoakỳ rồi .Ngày xưa , lúc còn Vua T...có một vụ làm động trời tại Hoàng Cung Saigon ...là Hoàng hậu gời tiền vào Ngân Hàng Thụy Sĩ...không dè gởi lầm vào ngân hàng trá hình nào đó...bị Họ lấy mất đến 6 triệu đôla một cách dễ dàng...tức gần chết mà Vua dám hó hé cho dân biết đâu ? Có hai cách gởi tiền tại Thụy Sĩ. Cách đầu tiên là gởi thư xin hẹn, cách thứ nhì là cứ việc đường đường chính chính mở cửa ngân hàng và nói thẳng với nhân viên ngân hàng. Bạn có thể gởi viễn liên thẳng từ xứ bạn đến Thụy Sĩ mà xin cái hẹn tùy theo thuận lợi của bạn. Ngân hàng Thụy Sĩ đất nhỏ và rất nhiều so với Mỹ, nhưng tại Mỹ, bạn gởi tiền tại ngân hàng Mỹ không nghĩa là bạn giàu có đâu, mà gởi vào dùng để trả tiền nhà tiền điện. Biết bao nhiêu vị mày râu Mễ gởi trả tiền điện thoại hay tiền nhà bằng cash và rồi sau đó học khôn phải đứng xếp hàng tại ngân hàng Mỹ mà gởi tiền và. ký check. Và khi gởi tiền tại ngân hàng Thụy Sĩ thì cũng đừng hỏi vụ thuế má ra làm sao, vụ này họ không biết, vào đây không phải chuyện nói về Tax Thuế với họ. Nhưng thật sự nếu bạn là người quá nổi tiếng trên thế giới về Xã hội Ðen, thì thường thường ngân hàng Thụy Sĩ rất dễ dàng từ chối bạn. Mặc dù họ biết bạn gởi tiền vài trăm triệu dollars tại ngân hàng của họ ngày mai , để rồi cuối tuần bị. phơi xác ở góc đường New York Manhattan nào đó. Thì dĩ nhiên tiền đó thuộc về họ là cái chắc. Nhưng thật sự nếu như vậy, thì ngân hàng Thụy Sĩ đa số đều lắc đầu từ chối khéo và khuyên bạn nên chọn ngân hàng khác. Bạn đến ngân hàng khác tại Thụy Sĩ, nếu thấy ngân hàng đó rất ư là niềm nở quá mức tưởng tượng thì chắc chắn ngân hàng đó của tụi F.B.I/I.R.S có phần hùn lớn là cái chắc rồi . Tụi nó đang giương bẫy mà chộp bạn đó . Để rồi khi về lại New York thì cũng đừng có ngạc nhiên để mà nhảy cửa sổ khi thấy...tụi cảnh sát đến gỡ cửa apartment của bạn. Nhảy không kịp đâu, vì họ đã bủa lưới kỹ lắm rồi. Những trương mục bí mật gởi tiền và số tiền lời hậu hĩnh qua phần đầu tư investment của ngân hàng Thụy Sĩ đa số đều đổi tiền gởi tối thiểu là $50 ngàn dollars USD. Còn ngân hàng nhỏ tối thiểu là $10 ngàn đô Mỹ. Những nhân viên Ngân Hàng Thụy Sĩ họ biết rất có ít người công dân Mỹ mà đem gởi tiền 10 ngàn đô là Mỹ lắm. Vì đem khỏi xứ Mỹ 10 ngàn đô là chuyện khá giỏi hơn chuyện giấu á phiện. Vì muốn đem 10 ngàn đô bạn mà quên điền giấy tờ tại phi trường Mỹ thì lúc trở về bị nằm ấp thì đừng có la. Hiện giờ tại Mỹ, những tiền xê dịch (transaction) mà lên đến $9995 đô Mỹ đều được bị bật đèn đỏ báo động cho IRS nhân viên tại ngân hàng mà bạn có tên đăng ký . Luật Hoakỳ bắt buộc như vậy . Họ sợ vụ “rửa tiền“ lắm . Vụ rửa tiền họ gọi nôm na là “ money laundery “...nằm ấp như chơi . Còn nếu đem tiền đô đến Pháp, rồi từ Pháp vào biên giới Thụy Sĩ thì tất cả hành khách đều bị quan thuế Pháp khám xét tận tâm lắm. Nam khám nam, nữ khám nữ. Nếu bạn mang tiền đô trị giá tương đương đến $5 ngàn Franc Pháp thì dễ dàng nằm ấp lắm và gặm bánh mì ba gét loại dài cả thước tây với phô mai đầu bò. Luật Pháp cấm như vậy . Nay là tiền Euro còn khó hơn . Nhưng còn ngõ trống tiện lợi vô cùng là ngỡ Belgium, tại biên giới Belgium hầu như không thấy nhân viên quan thuế trên xe lửa mà khám xét hành khách có đem nhiều tiền gởi vào Thụy Sĩ hay không. Thật sự hiện nay có 3 xứ mà mang tiền ra vào không bị hạn chế khám xét là: Anh quốc, Hòa Lan và Ðức. Vì tiền Thụy Sĩ nổi tiếng trên thế giới là một trong những đồng tiền mạnh nhất thế giới và ít bị lạm phát nhất trên thế giới từ hàng trăm năm nay. Nên vấn đề gởi tiền đều được chia lời rất hậu hĩnh và rất sòng phẳng với khách hàng. RÚT TIỀN RA RẤT DỄ DÀNG Nhưng cũng có vài điều lệ, nếu tiền rút ra trên $25 ngàn Swiss Franc thì trong vòng 30 ngày gởi vô rút ra rất dễ dàng. Không như ngân hàng Mỹ đâu. Sáng bạn gởi $10 ngàn và chiều buồn buồn nhớ Las Vegas rút ra $9 ngàn chơi thì bạn nên đợi thêm vài hôm để ngân hàng Mỹ gọi bạn đến trả. gởi trên $25 ngàn Swiss Franc thì nên đợi 90 ngày mới rút được tiền. Tiền trên $25 ngàn đều chịu lệ phí tổn là 3%. ÐIỀU KHÓ Khi bạn gởi tiền vào ngân hàng Thụy Sĩ thì bắt buộc họ phải hỏi bạn địa chỉ để mà thông báo sổ sách hàng 3 tháng một lần hay 1 năm một lần. Chẳng lẽ bạn để địa chỉ là. chợ Bến Thành Sài Gòn? Còn nếu gởi về tận nhà bạn thì tốt hơn kêu họ gởi thẳng vào địa chỉ police sướng hơn. Từ năm 1968 đến 1971 tụi IRS đã rõ danh tính trên 50 ngàn tay trốn thuế bằng cách gởi vào ngân hàng Thụy Sĩ . Vì tụi Bad Guys IRS có dặn tụi bưu điện Mỹ khi nào có thơ tình gởi từ ngân hàng Thụy Sĩ cho bất kỳ thằng cha nào tại Mỹ thì phải gởi trước cho họ đọc trước cái đã rồi tính sau. Và 50 ngàn tay đó đều lần lượt được mời lên văn phòng IRS nói chuyện thăm nom nhan sắc tái xanh của họ. Thường gởi tiền vào Thụy Sĩ thì nhân viên ngân hàng thường đòi hỏi bạn có người nào thân nhất hay người nào thừa kế khi lỡ thình lình bạn lên Thiên Ðàng đột ngột không lời từ giã bạn bè. Thì người thừa kế với đầy đủ giấy tờ hợp pháp thứ thiệt của chính quyền có quyền đem trọn gói về nhà không mất một xu teng. Mặc dầu người thừa kế đó không biết câu bùa chú của bạn để lại như "Tư Râu Bạc" và "353570" NHỮNG NGÂN HÀNG NỔI TIẾNG KÍN ĐÁO NHẤT TẠI THỤY SĨ Swiss bank Corp. tích sản $160 tỉ USD Paradeplatz 6 8021 Zurich, Switzerland Tel (01) 223 - 1111 Swiss Bank Corp Aeschenplatz 6 4002 Basel, Switzerland Tel (061) 207 - 020 Credit Suisse.tích sản 95 tỉ USD Pradeplatz 8 (CH 8001) 8021 Zurich, Switzerland Tel (01) 215 - 1111 Union Bank of Switzerland .tích sản 215 tỉ USD 45 Bahnhoftstrasse 8021 Zurich, Switzerland Tel (01) 234 - 1111 Banque Contonale de Berne.tích sản 14 tỉ USD Spiegelgasse 2 4051 Basel, Switzerland Tel (031) 222 - 701 Swiss Volksbank.tích sản 70 tỉ USD 3001 Bern, Switzerland Tel (031) 66 - 6011 Hypotheken and Handelsbank 8401 Winterthur, Switzerland Tel (062) 238 - 021 ÐỊA LÝ THỤY SĨ Thụy Sĩ đúng là xứ nằm ngay giữa Châu Âu. Cao nhất. Núi bọc khắp nơi. Bắc giáp Ðức, Tây giáp Áo (Austria) và Ðông giáp Pháp. Hai con sông lớn phát nguồn từ rặng núi Alps là sông Rhine qua Holland, rồi qua Ðức và ra biển Bắc (North Sea). Sông xuống tạo ra hồ Geneva (Nơi xưa ký hiệp định Geneve chia Nam Bắc) đó là sông Rhone, nhập chung dòng sông Saone của Pháp. Hồ Geneva nổi tiếng vì nó chia phần của Pháp và của Thụy Sĩ. Diện tích: 15943 square miles, kể luôn 523 square miles của những hồ. Dân số: Ðộ 7 triệu người. Hơn 70% dân số nói tiếng Ðức. 20% dân nói tiếng Pháp. Còn 5% dân nói tiếng Ý Ðại Lợi. Thủ đô: Bern. Ngoài ra những thành phố nổi tiếng hơn là Zurich, Basel, Geneva và Lausanne. Tôn giáo: Ða số là đạo Công giáo, và đạo Tin Lành Tiền Tệ: US $1 = 1.35 Swiss francs Kỹ nghệ: chánh là đồng hồ, kim loại và nhất là ngành ngân hàng rất nổi tiếng đứng đắn trên thế giới. Ngoài ra nổi tiếng là chocolate sữa kẹo. Thụy Sĩ gồm 23 Cantons (tương tự tiểu bang của Mỹ vậy). Nhưng rất độc lập hơn Mỹ. Thời tiết: mùa hè mát và nhiều nắng mặt trời. Mùa đông thì âm u lạnh lẽo, gió thổi rất mạnh từ những ngọn núi cao 15000 feet (4600 met) ngọn Monte Rosa, gần xứ Ý Ðại Lợi. Ngoài ra với những bạn chưa có trương mục tại Thụy Sĩ, và cũng không muốn đến thăm xứ Thụy Sĩ làm gì cho lanh lẽo. thì xứ Thụy Sĩ chắc bạn chưa quên chuyện gia đình Swiss Robinson trên hoang đảo năm nào. Còn đại đa số dân chúng Thụy Sĩ rất nhàn hạ. Họ có thể ngồi ngó ly cà phê nhỏ giọt tại quán cà phê hàng năm sáu tiếng dồng hồ mà không chịu đi chỗ khác chơi. Và nổi danh môn chơi thiên hạ là thẩy Boule. Ðó là những cục sắc nặng tròn, rớt một cái là dập chân liề, liệng boule đó. Vì chuyện này mà có một chuyện cũng nổi tiếng không kém chuyện Robinson là một giấc ngủ 20 năm, tương tự như chuyện Lưu Nguyễn nhập thiên thai của mình vậy. S.P Thụy Sĩ gồm 23 Cantons (tương tự tiểu bang của Mỹ vậy). Nhưng rất độc lập hơn Mỹ Bản đồ Âu Châu. Thụy sĩ nằm giữa Pháp, Đức, Áo và Ý
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2010 5:49:45 GMT 9
Dat nuoc ,Lich su Mien Dien Lịch sử MyanmaMyanma thời tiền sử Các thị quốc Pyu (100 TCN-840) Các quốc gia Arakan (788-1784) Các quốc gia Môn (thế kỷ 9-1757) Các quốc gia Shan (1298-1364) Triều Pagan (849–1287) Triều Ava (1364–1555) Triều Taungoo (1486–1752) Triều Konbaung (1752–1885) Thuộc Anh (1824–1942, 1945–1948) Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) Thời kỳ Dân chủ (1948–1962) Nhà nước quân sự I (1962–1989) Nhà nước quân sự II (1989–nay) Myanma có một lịch sử lâu dài, rực rỡ và tương đối phức tạp. Người Miến - dân tộc đông nhất ở Myanma hiện đại - không phải là những chủ nhân đầu tiên của Myanma. Trước khi người Miến di cư tới và lập nên các triều đại của mình, người Pyu đã có các quốc gia thành thị của mình suốt từ thế kỷ 1 TCN ở miền Trung và miền Bắc Myanma hiện đại. Ngoài ra, có thể người Môn đã tới định cư và lập quốc gia của mình ở miền Nam Myanma trước khi người Miến bành trướng xuống. Mục lục 1 Thời kỳ đầu 2 Vương triều Pagan thống nhất Myanma lần thứ nhất 3 Thời kỳ bị tàn phá và chia cắt 4 Vương triều Taungoo thống nhất Myanma lần thứ hai 5 Vương triều Konbaung 6 Xung đột với người Anh 7 Thời thuộc địa 8 Miến Điện trong thế chiến thứ 2 9 Thời kỳ độc lập 10 Giai đoạn gần đây 11 Tham khảo 12 Xem thêm Thời kỳ đầu Vào thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Pyu di cư tới đây và tiến tới xây dựng các thành bang có quan hệ thương mại với Ấn Độ và Trung Quốc. Trong đó, mạnh nhất là vương quốc Sri Ksetra, nhưng nó bị từ bỏ năm 656. Sau đó, một quá trình tái lập quốc diễn ra, nhưng đến giữa thập niên 800 thì bị người Nam Chiếu xâm lược. Vào khoảng trước những năm 800, người Miến bắt đầu từ Tây Tạng hiện nay di cư tới châu thổ Ayeyarwady. Tới năm 849, họ đã thành lập quốc gia của mình xung quanh trung tâm Pagan và quốc gia này ngày càng trở nên hùng mạnh. Vương triều Pagan thống nhất Myanma lần thứ nhất Trong thời Anawratha trị vì (1044-1077), người Miến đã mở rộng ảnh hưởng ra khắp Myanma hiện nay. Tới thập niên 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Pagan, với kinh đô tại Mandalay. Theo sử truyền khẩu của người Miến và người Môn, từng có quốc gia Môn giàu có và văn minh ở châu thổ châu thổ Ayeyarwady - vương quốc Thaton. Nhưng vua Pagan Anawratha đã thôn tính vương quốc người Môn này. Tuy nhiên, người ta chưa tìm thấy các hiện vật khảo cổ thuyết phục nào về sự tồn tại của quốc gia Môn này, có lẽ vì các nghiên cứu khảo cổ chủ yếu được tiến hành ở Thượng Miến. Có thể, trước sức ép của Đế quốc Khmer, người Môn từ Dvaravati (ở miền Trung Thái Lan hiện đại) phải di tản sang Hạ Miến vào khoảng thế kỷ 9. Trải qua hơn 200 năm, đến cuối thế kỷ 13, đế quốc Pagan hưng thịnh, kiểm soát phần lớn lãnh thổ Myanma ngày nay. Đây là một vương quốc Phật giáo mà các ngôi đền còn lại ở Bagan ngày nay không những chứng minh sự giàu có tột đỉnh về nông nghiệp mà còn chứng minh sự hiểu biết của người dân về toán học, hình học và xây dựng. Các đền thờ ở Bagan trải dài trong khu vực 40km vuông trên bờ sông Ayeyarwad. Pagan là kỷ nguyên vàng son từ thế kỷ 11-13 trong tâm trí người Miến Điện. Thời kỳ bị tàn phá và chia cắt Tới cuối thế kỷ 13, Hốt Tất Liệt đã thống lĩnh quân Nguyên Mông xâm lược Myanma, thành phố Pagan bị cướp phá và sau đó bị bỏ hoang, chỉ còn lại các ngôi đền do các tự viện Phật giáo quản lý. Mặc dù quân Nguyên rút lui ngay sau khi cướp phá Pagan, nhưng triều Pagan sụp đổ hoàn toàn. Myanma bước vào một giai đoạn bị chia cắt suốt gần 300 năm. Trong thời kỳ chia cắt kéo dài này, hàng loạt quốc gia của người Miến, người Rakhine, người Shan và người Shan Miến hóa, người Môn đã thành lập. Các quốc gia này xung đột với nhau. Lớn mạnh nhất trong số các quốc gia đó là Hanthawaddy của người Môn, Mrauk U của người Rakhine. Người Shan Miến hóa lập nên quốc gia của mình và xưng là Triều Ava với ý tiếp nối Triều Pagan. Giữa thế kỷ 16, liên minh các quốc gia Shan đã cướp phá Ava, chấm dứt sự tồn tại của Triều Ava. Vương triều Taungoo thống nhất Myanma lần thứ hai Người Miến lập nên Triều Taungoo vào khoảng cuối thế kỷ 15 với trung tâm là Taungoo. Đến giữa thế kỷ 16, Taungoo dưới sự cai trị của vua Tabinshwehti đã tái thống nhất Myanma. Vì sự ảnh hưởng ngày càng tăng từ Châu Âu ở Đông Nam Á, Vương quốc Taungoo trở thành một trung tâm thương mại lớn. Bayinnaung đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục các quốc gia Manipur, Chiang Mai và Ayutthaya. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Taungoo. Anaukpetlun, người đã đẩy lùi cuộc xâm lăng của Bồ Đào Nha, đã khôi phục lại triều Taungoo vào năm 1613. Giữa thế kỷ 18, người Mon với sự trợ giúp của Pháp đã nổi dậy, khôi phục quốc gia Hanthawaddy, khiến triều Taungoo sụp đổ vào năm 1752. Vương triều Konbaung Giữa thế kỷ 18, một vương quốc Miện Điện mới xuất hiện là vương quốc Ava do Alaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung gọi là Đế chế Miến Điện thứ ba vào khoảng thập niên 1700 tại khu vực ngày nay là Mandalay. Nó từng bước mở rộng kiểm soát trên nhiều vùng đất bây giờ là Myanma, gồm cả việc chinh phục các nhà nước ở vùng đồi núi của người Shan. Myanma trở thành một cường quốc khu vực đáng kể, tranh giành lãnh thổ và dân cư với vương quốc Ayuthaya của người Thái. Cuộc cạnh tranh giữa người Myanma và người Thái gay gắt và ác liệt. Năm 1767, Myanma đã đủ mạnh để phái một đạo quân tiến đánh thủ đô Ayuthaya của người Thái. Thủ đô này đã bị cướp phá, của cải bị cướp bóc, hàng vạn người Thái bị bắt và bị đem về Myanma làm nô lệ; vương quốc Ayuthaya sụp đổ. Nhà Thanh (Trung Quốc) lo ngại sự lớn mạnh của Myanma, đã bốn lần xâm lược nước này trong khoảng thời gian từ 1766 đến 1769 nhưng không lần nào thành công. Tuy nhiên, chiến tranh với Thanh đã khiến Myanma phải giảm áp lực đối với Ayutthaya và rồi đánh mất quyền kiểm soát với nước này. Tuy nhiên triều Konbaung đã chiếm thêm được Mrauk U và Tenasserim. Vào cuối thế kỷ 18, Myanma là một nước hùng mạnh nhất ở lục địa Đông Nam Á, một phần do sự giảm sút tại vương quốc của người Thái phải đang khôi phục sau sự suy tàn của Ayuthaya và vương quốc của người Việt đang bị nội chiến. Tuy nhiên tới đầu thế kỷ 19, vương quốc Thái và Việt Nam hưng thịnh lên, trong khi vương quốc Miến Điện bị suy tàn, tầng lớp quý tộc của Myanma hướng về bên trong hơn là hướng về các đối tác của họ là Thái và Việt Nam và ít có quan hệ thương mại với thế giới bên ngoài. Khi người Anh gia tăng sự hiện diện của họ ở vùng Đông Nam Á vào thế kỷ 19, thì tầng lớp quý tộc Miến Điện tỏ ra ít có khả năng đánh giá mối đe dọa đối với họ như người Thái và vì vậy càng ít có khả năng để đưa ra những chiến lược đối phó. Xung đột với người Anh Từ thế kỷ 17, công ty Đông Ấn của Anh EIC đã mở rộng lãnh thổ kiểm soát ở Ấn Độ, đặc biệt lại thủ phủ Calcuta gần Ava, ban đầu Myanmar được EIC xem như là vùng đệm, nó có tầm quan trọng về thương mại, nhưng quan trọng hơn vẫn là về mặt chiến lược. Không một cường quốc Châu Âu nào khác giành được ảnh hưởng ở đó và người ta cho rằng các nhà cầm quyền Miến Điện đã thừa nhận sức mạnh của xứ Ấn Độ thuộc Anh, cùng tạo điều kiện để hai bên quan hệ buôn bán có kết quả. Tuy nhiên, sau cuộc chinh phục Ayuthaya năm 1767, tới năm 1820 họ tiếp tục mở rộng quyền kiểm soát qua vùng Arakan tiếp giáp với vịnh Bengal, những người tị nạn Arakan đã bỏ chạy qua biên giới Ấn Độ và từ đó tổ chức các cuộc kháng chiến chống lại người Miến Điện. Cuối cùng, vua Miến Điện đã yêu cầu người Anh đưa dân tị nạn trở lại, đổi lại người Anh ngày càng gia tăng sự quan tâm của họ đến sự bất ổn chính trị ở vùng biên giới phía đông thuộc địa Ấn Độ của mình Triều đình Miến Điện đã đánh giá thấp sức mạnh của EIC, năm 1822 các lực lượng quân đội của Miến Điện chiếm Bengal và đe doạ tiến vào Chitagong trong cuộc tranh chấp đòi trao trả những người tị nạn Arakan, kết quả đội quân quân viễn chinh của Anh đã tiến vào Myanmar, cuộc chiến tranh Anh - Miến Điện đầu tiên kéo dài 2 năm, từ 1822 – 1824, cuối cùng với ưu thế về chiến thuận và vũ khí, lại được sự hậu thuẫn từ Bengal, người Anh đã chiến thắng, người Miến Điện buộc phải nhượng lại một phần lớn lãnh thổ ở bờ biển thuộc vịnh Bengal, qua hơn hai thập niên kế tiếp, EIC đã khai thác tiềm năng nông nghiệp của vùng đất mới này, tăng sản lượng lúa gạo và phát triển mạnh các ngành thương mại xuất khẩu về gạo, gỗ và đóng tàu Mặc dù bị đánh bại trong cuộc chiến đầu tiên với người Anh và bị mất đất, tuy nhiên những tranh chấp trong các thập niên kế tiếp đã dẫn tới cuộc chiến tranh lần thứ 2 giữa Anh và Miến Điện vào năm 1850, kết quả người Anh lại thắng và họ thu thêm các vùng đất thấp của Myanmar, cuộc thôn tính của người Anh tiếp diễn và tới năm 1885, khi nhà vua Miến Điện cùng hoàng tộc bị bắt và lưu đày sang Calcuta, Myanmar chính thức bị sát nhập vào Anh năm 1886 Thời thuộc địa Sau khi chiếm hoàn toàn Myanmar vào năm 1886, chế độ quân chủ Miến Điện bị xoá bỏ và giới quý tộc bị tước hết quyền lực, Myanmar được cai trị từ Calcuta như một tiểu khu vực của đế quốc Anh - Ấn. Mô hình quản lý Ấn Độ do người Anh áp đặt vốn chẳng hiểu gì hoặc tôn trọng gì các cơ cấu xã hội tại chỗ, vùng đất thấp Myanmar vốn là những đồng bằng màu mỡ là cái nôi của người Miến Điện và là trái tim của các vương quốc Miến Điện lại được cai trị trực tiếp bởi chính phủ thuộc địa với đầy đủ các chính sách chính trị và kinh tế của Anh Ở vùng đồi cao của Myanmar, ở các khu vực có các sắc tộc sinh sống như người Shan, người Karen thì người Anh áp dụng một chính sách cai trị gián tiếp. Cơ cấu xã hội và tầng lớp tinh hoa bản địa ít nhiều vẫn được giữ nguyên vẹn khác với vùng thủ đô của Miến Điện, điều này đã dẫn tới làm gia tăng sự chia rẽ giữa người Miến Điện và các sắc tộc thiểu số Sự thống trị của thực dân Anh đã tạo ra một bộ máy cai trị mạnh mẽ, được duy trì bằng việc kiểm soát xã hội dựa vào một lực lượng cảnh sát và quân đội có hiệu quả. Bộ máy cai trị do người Anh giám sát, nhưng được hình thành với các viên chức phần lớn do người Miến Điện gốc Anh và người Ấn. Tầng lớp thượng lưu quan chức mới do Anh tạo ra đại bộ phận là người Miến Điện gốc Anh với mô thức văn hoá chịu ảnh hưởng của Anh nhiều hơn là của Myanmar, điều này đã đặt ra nhiều vấn đề lớn cho Myanmar sau khi giành độc lập Sự cai trị của Anh đã làm gia tăng tính đa dạng về sắc tộc của Myanmar, mối liên kết trong bộ máy cai trị với Ấn Độ có nghĩa là người Ấn được tự do di dân, cùng với dân nhập cư người Hoa từ Malaya đã dẫn tới tại các vùng đất thấp hình thành một xã hội đa chủng tộc, đa tôn giáo Người Anh đã làm thay đổi nền kinh tế của Myanmar, vào những năm 1850 họ khuyến khích dân định cư ở vùng đồng bằng, nơi phần lớn là các vùng đầm lầy và rừng rậm, hệ thống đường xá, cảng biển được mở rộng với kết quả là làn sóng mạnh mẽ người Miến Điện từ vùng phía bắc khô cằn tiến xuống vùng đồng bằng màu mỡ Miến Điện trong thế chiến thứ 2 Trong Thế chiến thứ hai Miến Điện trở thành một mặt trận chính tại Mặt trận Đông Nam Á. Sau những thắng lợi ban đầu của Nhật Bản trong Chiến dịch Miến Điện, trong đó người Anh bị đẩy lùi khỏi đa phần Miến Điện, Đồng Minh đã phản công. Tới tháng 7 năm 1945 họ đã chiếm lại toàn bộ nước này. Người Miến Điện chiến đấu cho cả hai phía trong cuộc chiến. Họ chiến đấu trong Đội quân Miến Điện Anh năm 1941-1942. Năm 1943, Chin Levies và Kachin Levies đã được thành lập ở các quận biên giới Miến Điện và vẫn thuộc quyền kiểm soát của người Anh. Đội quân Miến Điện chiến đấu trong thành phần Chindit dưới quyền Tướng Orde Wingate từ 1943-1945. Ở giai đoạn sau của cuộc chiến, người Mỹ đã lập ra Đội biệt kích Kachin-Hoa Kỳ cũng chiến đấu cho quân Đồng Minh. Nhiều người Miến Điện khác chiến đấu trong lực lượng SOE của Anh. Quân đội Miến Điện độc lập dưới quyền chỉ huy của Aung San và Quân đội quốc gia Arakan đã chiến đấu với Nhật Bản từ 1942-1944, nhưng đã nổi lên chống lại người Nhật năm 1945. Thời kỳ độc lập Năm 1947, Aung San trở thành Phó chủ tịch Uỷ ban hành pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp. Tuy nhiên, trong tháng 7 năm 1947, các đối thủ chính trị đã ám sát Aung San và nhiều thành viên chính phủ khác[3]. Ngày 4 tháng 1 năm 1948, quốc gia này trở thành một nước cộng hoà độc lập, với cái tên Liên bang Miến Điện, với Sao Shwe Thaik là tổng thống đầu tiên và U Nu là thủ tướng. Không giống như đa số các thuộc địa của của Anh, nước này không trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh bởi vì họ đã giành lại độc lập trước khi Khối thịnh vượng chung cho phép các nước cộng hoà trở thành một thành viên của nó. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia[4]. Vùng địa lý hiện nay của Myanma có thể suy ngược từ Thoả ước Panglong, là toàn bộ Miến Điện gồm Hạ Miến Điện và Thượng Miến Điện và Các vùng biên giới, đã từng được quản lý hành chính độc lập bởi Anh Quốc. Năm 1961, U Thant, khi ấy là Đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên hiệp quốc và cựu Thư ký Thủ tướng, được bầu làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc, ông là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây lãnh đạo bất kỳ một tổ chức quốc tế nào cho tới lúc ấy và sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong vòng mười năm. Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên hiệp quốc khi ông đang giữ chức Tổng thư ký có cô gái trẻ Aung San Suu Kyi. Giai đoạn dân chủ kết thúc năm 1962 với một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Ne Win lãnh đạo. Ông này sẽ cầm quyền trong 26 năm và theo đuổi chính sách xã hội chủ nghĩa. Năm 1974, đám tang của U Thant dẫn tới một cuộc biểu tình chống chính phủ đẫm máu. [sửa] Giai đoạn gần đây Năm 1988, Cuộc nổi dậy 8888 đẩy đất nước tới bờ vực cách mạng. Để đối phó, Tướng Saw Maung tiến hành một cuộc đảo chính. Ông thành lập Uỷ ban Luật pháp Quốc gia và Vãn hồi Trật tự (SLORC). Năm 1989, thiết quân luật được ban bố sau những cuộc biểu tình rộng lớn. Các kế hoạch bầu cử Quốc hội đã hoàn thành ngày 31 tháng 5 năm 1989[8]. Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do được tổ chức trong vòng 30 năm. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đảng của bà Aung San Suu Kyi, thắng 392 trong tổng số 485 ghế, nhưng các kết quả của cuộc bầu cử đã bị SLORC huỷ bỏ và họ từ chối giao lại quyền lực[9]. SLORC đổi tên Miến Điện (Burma) thành Myanma năm 1989. Dưới sự lãnh đạo của Than Shwe, từ năm 1992 chính quyền quân sự đã tiến hành các thoả thuận ngừng bắn với các nhóm du kích thiểu số. Năm 1992, SLORC tiết lộ các kế hoạch thành lập một hiến pháp mới thông qua Hội nghị Quốc gia, bắt đầu ngày 9 tháng 1 năm 1993[10]. Năm 1997, Uỷ ban Luật pháp Quốc gia và Vãn hồi Trật tự được đổi tên thành Uỷ ban Hoà bình và Phát triển Quốc gia (SPDC). Ngày 23 tháng 6 năm 1997, Myanma được chấp nhận gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hội nghị Quốc gia tiếp tục được triệu tập và hoãn lại. Nhiều đảng chính trị lớn, đặc biệt Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đã bị trục xuất và có ít tiến bộ đã được hoàn thành[10]. Ngày 27 tháng 3 năm 2006, hội đồng quân sự đã di chuyển thủ đô đất nước từ Yangon tới một địa điểm gần Pyinmana, đặt tên chính thức cho nó là Naypyidaw, có nghĩa vùng đất của những ông vua.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2010 6:00:08 GMT 9
Triều Pagan (tiếng Myanma: ပုဂံခေတ်) hay vương quốc Pagan là vương triều đầu tiên thống nhất các miền đất tạo thành nước Myanma ngày nay. Triều đại này kéo dài 250 năm (849 - 1287), đóng đô ở Pagan (nay là thành phố Bagan), thống trị vùng lưu vực sông Ayeyarwaddy và ngoại vi của nó, đặt nền móng cho sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa Myanma, sự bành trướng của dân tộc Miến ở Thượng Miến, và sự phát triển của Phật giáo Thượng toạ bộ tại Myanma và cả lục địa Đông Nam Á. Triều Pagan sụp đổ năm 1287 do cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sau khi Triều Pagan diệt vong, Myanma lại rơi vào tình trạng chia cắt và phân tranh cho đến tận giữa thế kỷ 16. Mục lục 1 Lịch sử 2 Danh sách các vua Pagan 3 Tham khảo 4 Xem thêm Lịch sử Triều Pagan khởi đầu từ một địa phương của người Miến ở Pagan. Người Miến đã từ Nam Chiếu (ở Vân Nam ngày nay) đến định cử ở trung tâm vùng đồng bằng Ayeyarwaddy.[1][2] Lịch sử Triều Pagan chính thức bắt đầu vào khoảng năm 849 khi một vị vua người Miến cho xây thành bao ở đây. Trong hai trăm năm kế tiếp, vương quốc Pagan dần dần lớn mạnh và thâu tóm các khu vực lân cận. Năm 1057, vua Anawrahta chinh phục vương quốc Ramannadesa (hay vương quốc Thaton) của người Môn ở Hạ Miến. Những vị vua nhà Pagan tiếp theo đã mở rộng ảnh hưởng của họ xa hơn nữa về phía nam tới phần phía bắc bán đảo Mã Lai, về phía đông tới tận sông Thanlwin và có thể xa hơn thế, về phía bắc tới tận gần biên giới Myanma-Trung Quốc hiện nay, và phía tây tới tận vùng đất của người Arakan và người Chin.[1][3] Các sử ký của Myanma thậm chí còn ghi rằng các vua Triều Pagan đã vươn thế lực tới toàn bộ đồng bằng sông Chao Phraya và tới tận eo biển Malacca.[2] Có thể nói, vào giữa thế kỷ 12, phần lớn lục địa Đông Nam Á nằm dưới sự kiểm soát ở những mức độ nào đó hoặc của Đế quốc Khmer hoặc của Pagan. Ngôn ngữ và văn hóa Miến dần dần thống trị ở miền bắc đồng bằng Ayeyarwaddy; và vào khoảng cuối thế kỷ 12, đã lấn át cả ngôn ngữ và văn hóa Pyu, Môn và Pali. Phật giáo bắt đầu lan rộng đến các thôn xóm mặc dù Phật giáo Đại thừa, Mật tông, Bà la môn, và bái vật giáo vẫn còn bám chắc ở tất cả các tầng lớp xã hội.[4] Trong thời gian từ giữa thế kỷ 11 đến thế kỷ 13, các vua Pagan đã cho xây dựng hơn 10.000 ngôi chùa trong vùng kinh đô. Khoảng 3.000 trong số đó vẫn còn cho tới ngày nay. Các phú hộ cũng rất tích cực cúng dường bằng đất đai. Đất đai của nhà chùa lại không bị đánh thuế. Vương quốc Pagan bắt đầu suy thoái từ thế kỷ 13. Một trong những nguyên nhân quan trọng là việc dồn quá nhiều nguồn lực cho xây dựng các công trình tôn giáo. Vào những năm 1280, có tới hai phần ba số đất canh tác miễn thuế ở Thượng Miến đã bị chuyển cho tôn giáo, vì thế làm giảm bổng lộc của quan lại và giới quân sự, cũng có nghĩa là làm giảm lòng trung thành của họ đối với hoàng tộc. Điều này tạo nên những vòng xoáy bất lợi gồm những rối loạn bên trong và các thách thức bên ngoài từ người Môn, Nguyên Mông và Shan.[5] Bắt đầu từ đầu thế kỷ 13 đầu, người Shan bắt đầu bao vây vương quốc Pagan từ phía bắc và phía đông. Người Mông Cổ, sau khi chinh phục Nam Chiếu, quê hương cũ của người Miến, vào năm 1253, bắt đầu xâm lược Myanma vào các năm 1277 và năm 1287, triệt phá kinh đô Pagan, kết thúc 250 năm cai trị của Triều Pagan ở đồng bằng Ayeyarwaddy và xung quanh. Myanma sau đó rơi vào tình trạng chia cắt suốt 250 năm. Trong xã hội Pagan, phụ nữ đóng vai trò quan trọng. Họ làm người đứng đầu các thôn xóm, quan lại triều đình, thợ thủ công, người cho vay, học giả và tu sĩ Phật giáo. Hoàng hậu Pwa Saw, vợ vua Uzana, được xem là người có công lớn trong việc điều hành đất nước suốt 40 năm trời vào thời kỳ đầy khó khăn của Pagan khi phải đối mặt với nạn ngoại xâm và rối loạn chính trị bên trong.[6] Danh sách các vua Pagan Quang cảnh thành phố Bagan, từng là kinh đô của Pagan. Phạm vi ảnh hưởng của vương quốc Pagan.1.Pyinbya, trị vì từ năm 846 đến năm 878 2.Tannet, 878–906 3.Sale Ngahkwe, 906–915 4.Theinhko, 915–931 5.Nyaung-u Sawrahan, 931–964 6.Kunhsaw Kyaunghpyu, 964–986 7.Kyiso, 986–992 8.Sokkate, 992–1044 9.Anawrahta, 1044–1077 10.Sawlu, 1077–1084 11.Kyanzittha, 1084–1112 12.Alaungsithu, 1112–1167 13.Narathu, 1167–1170 14.Naratheinkha, 1170–1173 15.Narapatisithu, 1173–1210 16.Htilominlo, 1210–1234 17.Kyaswa, 1234–1250 18.Uzana, 1250–1254 19.Narathihapate, 1254–1287 20.Kyawswa, 1287–1298 21.Sawhnit, 1298–1312 22.Uzana II, 1312–1325 Tham khảo 1.^ a b Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800–1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. 88–112. ISBN 978-0-521-80496-7. 2.^ a b Thant Myint-U (2006). The River of Lost Footsteps—Histories of Burma. Farrar, Straus and Giroux. tr. 56. ISBN 978-0-374-16342-6, 0-374-16342-1. 3.^ GE Harvey (1925). History of Burma (ấn bản 2000). Asian Educational Services. tr. 21. ISBN 8120613651, 9788120613652. 4.^ Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800–1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. 112–119. ISBN 978-0-521-80496-7. 5.^ Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800–1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. 119–123. ISBN 978-0-521-80496-7. 6.^ Craig A. Lockard (2009), Southeast Asia in World History, Oxford University Press, Inc., ISBN 978-0-19-516075-8.Bagan Bách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm Bagan <div style="width: Lỗi biểu thức: Từ “px” không rõ ràngpx; float:none; clear:none; "> ************** Bagan Tên bản địa: ပုဂံမြို့ - IPA [bəgàn mjoṵ] - MLCTS pu. gam mrui. Cấp hành chính: Mandalay Division Diện tích: km² Dân số: Tọa độ: 21°10'19.59"N, 94°51'36.71"E Thị trưởng: Nhân khẩu học Sắc tộc: Bamar Tôn giáo: Phật giáo Đền Payathonzu xây theo phong cách dân tộc Môn Đền chùa ở PaganBagan (tiếng Myanma: ပုဂံမြို့; MLCT: pu. gam mrui.), hiện tại là một thành phố nhỏ thuộc vùng Mandalay, Myanma Bagan có tên cũ là Pagan, từng là kinh đô của vương quốc Pagan tồn tại từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13 ở miền trung Myanma ngày nay Thành phố Bagan hiện nay nằm ở vùng đất khô, trung tâm Myanma, nằm ở bờ phía đông sông Ayeyarwady, cách Mandalay 145 km về phía Tây Nam, thuộc Vùng Mandalay. Nó có diện tích khoảng 25 dặm vuông với hàng trăm đền chùa, tự viện. Những đền chùa này được xây dựng trong khoảng từ giữa thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 13, trong thời kỳ chuyển tiếp từ Phật giáo Đại thừa sang Phật giáo Theravada. Những đền chùa được xây dựng trong thời đại hoàng kim này đánh dấu sự khởi đầu của những truyền thống Phật giáo mới ở Myanma. [sửa] Lịch sử Vương triều Pagan có thời kỳ hoàng kim từ năm 1057 với cuộc thôn tính vương quốc Thaton của vua Anawrahta và chấm dứt vào năm 1287 khi Kublai Khan và đoàn quân tràn qua vùng này. Anawrahta đã mang về Bagan nhiều thánh tích và kinh văn Phật giáo từ Thaton cùng với nhiều nghệ sĩ, kiến trúc sư. Ông và những vị vua kế vị đã cho xây dựng đền chùa, bảo tháp..kéo dài gần 200 năm. Những cung điện và kiến trúc hoàng gia khác cũng được xây dựng, tuy nhiên, do làm bằng gỗ nên chúng đã bị hủy hoại cùng thời gian. Xem thêm Triều Pagan. [sửa] Kiến trúc Đền Ananda là một trong những ngôi đền rộng lớn nhất và được bảo quản tốt nhất ở đây. Nó được xây dựng vào năm 1105, biểu thị trí tuệ vô thượng vô biên của Phật. Ngôi đền được làm bằng đá, có kiến trúc theo hình thập tự, ở trung tâm là khối lập phương và trên mỗi phía là tượng Phật đứng. Khối kiến trúc vươn lên với tận cùng là các đỉnh nhọn, vuốt thon búp măng, gọi là shikhara. Mặt tường phía ngoài có các bức tranh ghép bằng gạch men bóng pha màu, minh họa những cảnh trong cuốn Bản sinh kinh. Đền Thatbinnyu được xây dựng vào giữa thế kỷ 12 là ngôi đền cao nhất ở Bagan và có thể được nhìn thấy tại mọi điểm ở vùng này. Ở Bagan còn có những ngôi chùa bằng gạch và sau đó được phủ vàng. UNESCO đã không thành công trong việc đưa Bagan vào danh sách di sản văn hóa thế giới. ****************** Nghệ thuật Về phương diện lịch sử, nghệ thuật vủa Myanma lấy cơ sở trên nền Phật giáo hay vũ trụ học và thần thoại Hindu. Có nhiều hình tượng Phật, mỗi hình tượng đều có các tính chất riêng biệt. Myanma có 10 nghệ thuật truyền thống gọi là pan sè myo: 1.Nghề rèn (ပန္းပဲba-bè) 2.Nghề chạm khắc gỗ (ပန္းပု ba-bu) 3.Nghề thợ vàng (ပန္းထိမ္ ba-dein) 4.Stucco relief (ပန္းတော့ pan-daw) 5.Nghề thợ nề (ပန္းရန္ pa-yan) 6.Nghề chạm khắc đá (ပန္းတမော့ pan-ta-maw) 7.Nghề tiện(ပန္းပ္ဝတ္ pan but) 8.Nghề vẽ tranh(ပန္းခ္ယီba-gyi) 9.Nghề sơn(ပန္းယ္ဝန္း pan-yun) 10.Nghề đúc đồng(ပန္းတဥ္း ba-din) Cùng với đó các nghệ thuật truyền thống như dệt lụa, làm đồ gốm, làm thảm, chạm đá quý, và làm lá vàng. Nghệ thuật kiến trúc thành trì rất độc đáo với gạch và vữa stucco, các ngôi chùa thường được phủ một lớp vàng lá trong khi các tu viện được dựng bằng gỗ (mặc dù các tu viện ở thành phố thường được xây dựng bằng nguyên liệu hiện đại). Văn học Miến Điện chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Phật giáo, đáng chú ý là truyện Jataka. Do Phật giáo chính thống cấm những câu truyện hư cấu[cần dẫn nguồn], nhiều tác phẩm thuộc thể loại người thật việc thật. Tuy vậy, quá trình thực dân hóa của Anh đã đem tới nhiều thể loại truyện viễn tưởng rất phổ biến ngày nay. Thơ là một nét rất đáng chú ý và có nhiều thể loại độc nhất vô nhị trong văn học Miến Điện. Pwe (nghệ thuật biểu diễn) nổi bật nên một nghệ thuật nhảy gọi lyo-da-ya a-ka vốn bắt chước với nghệ thuật nhảy của Thái Lan, trong đó người phụ nữ chỉ dùng tay và chân thể hiện tình cảm.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2010 6:14:44 GMT 9
Triều Ava hay Vương quốc Ava (tiếng Myanma: အင်းဝခေတ, phiên âm quốc tế: ʔíɴwɑ̯ kʰiʔ) từng thống trị miền Thượng Miến từ năm 1364 đến năm 1555. Ava là sự tiếp nối của các vương quốc nhỏ Myinsaing, Pinya và Sagaing sau khi Triều Pagan sụp đổ vào cuối thế kỷ 13. Giống như các vương quốc nhỏ mà nó kế tục, các vua Ava đều xưng là hậu duệ của các vua Pagan, song thực tế họ là người Shan đã Miến hóa.[1][2] Thadominbya lập nên Ava vào năm 1364, khi các vương quốc Sagaing và Pinya trược các cuộc tấn của người Shan từ phía bắc. Trong những năm mới thành lập, Ava, tự xưng là người kế thừa xứng đáng Triều Pagan, đã cố gắng khôi phục một đế quốc hùng mạnh Pagan thông qua các cuộc chiến liên tục chống lại Vương quốc Hanthawaddy ở phía nam, các nhà nước Shan ở phía bắc và phía đông, và Arakan ở phía tây. Vào thời kỳ hùng mạnh nhất, Ava đã chiếm được Taungoo và các tiểu quốc Shan ngoại vi (Kale, Mohnyin, Mogaung, Thibaw), song vẫn không thể chinh phục được các phần còn lại. Cuộc chiến tranh 40 năm (1385-1424) với Hanthawaddy đã khiến Ava kiệt sức. Từ thập niên 1420 đến đầu 1480, mỗi khi một vua Ava mới lên ngôi lại xảy ra những cuộc nổi loạn của các nước chư hầu. Trong thập niên 1480 và 1490 Prome ở phía nam và các nhà nước Shan ở phía bắc đã li khai, và Taungoo trở nên hùng mạnh không kém gì Ava. Đến năm năm 1510, Taungoo cũng li khai.[1] Trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 16, Ava bị người Shan tấn công dồn dập. Vào năm 1527, liên minh các quốc gia người Shan do quốc gia Shan Mohnyin làm thủ lĩnh cùng với Prome đã triệt phá Ava, lập vua Ava mới, và cai trị phần lớn miền Thượng Miến. Trong khi Prome liên minh với các quốc gia Shan, thì chỉ còn Taungoo lúc đó mới là một quốc gia nhỏ ở phía đông đông nam của dãy núi Bago Yoma là quốc gia của người Miến. Các vua Taungoo đã cai trị đất nước một cách sáng suốt, giữ được độc lập trước sự bao vây của người Shan, rồi sau đó tiêu diệt quốc gia Môn Hanthawaddy, tiêu diệt Prome, chiếm thành phố Pagan, rồi sau đó chiếm kinh đô Ava vào năm 1555. Triều Ava chính thực diệt vong. [sửa] Danh sách các vua Ava 1.Thadominbya, trị vì từ năm 1364 đến năm 1368 2.Swasawke, 1368 - 1401 3.Minkhaung I, 1401 – 1422 4.Mohnyin Thado, 1427 – 1440 5.Narapati, 1443 – 1469 6.Shwenankyawshin, 1502 – 1527 [sửa] Tham khảo 1.^ a b Maung Htin Aung (1967). A History of Burma. New York and London: Cambridge University Press. 84–103. 2.^ Lt. Gen. Sir Arthur P. Phayre (1883). History of Burma (ấn bản 1967). London: Susil Gupta. 63–75. Triều TaungooBách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Taungoo (định hướng). Bài viết này có chứa các ký tự Myanma. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì các chữ Myanma. Lịch sử Myanma Myanma thời tiền sử Các thị quốc Pyu (100 TCN-840) Các quốc gia Arakan (788-1784) Các quốc gia Môn (thế kỷ 9-1757) Các quốc gia Shan (1298-1364) Triều Pagan (849–1287) Triều Ava (1364–1555) Triều Taungoo (1486–1752) Triều Konbaung (1752–1885) Thuộc Anh (1824–1942, 1945–1948) Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) Thời kỳ Dân chủ (1948–1962) Nhà nước quân sự I (1962–1989) Nhà nước quân sự II (1989–nay) sửa Phạm vi của vương quốc TaungooTriều Taungoo hay Toungoo (tiếng Myanma: တောင်ငူခေတ်, phiên âm quốc tế: tàuɴŋù kʰiʔ) là một trong những triều đại vĩ đại nhất trong lịch sử Myanma. Các vua triều Taungoo đã lần thứ hai thống nhất đất nước Myanma. Taungoo là gọi theo tên kinh đô đầu tiên của triều đại này, hiện là thành phố Taungoo, vùng Bago. [sửa] Lịch sử Vào thời Pagan, Taungoo chỉ là một làng nhỏ. Sau khi triều Pagan sụp đổ, nạn dân người Miến đổ dồn về Taungoo. Một tiểu quốc nhỏ của người Miến đã được thành lập vào khoảng giữa thế kỷ 14, trung tâm là Taungoo. Vương quốc này trở thành trung tâm mới của người Miến. Đến cuối thế kỷ 15, vua đời thứ tư của Taungoo là Mingyinyo (còn viết là Minkyinyo, 1486-1531) đã lãnh đạo đất nước một cách xuất sắc, phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, mở rộng lãnh thổ đến tận sông Sittaung ở phía nam Ava vào khoảng năm 1510. Khi người Shan xâm chiếm Ava năm 1527, một lần nữa nạn dân người Miến lại đổ về Taungoo, góp phần làm cho Taungoo thêm mạnh. Sau đó, Taungoo đã đánh bại quốc gia Mohnyin của người Shan ở Bắc Myanma. Đến đời vua Tabinshwehti, Taungoo đã thống nhất được phần lớn lãnh thổ Myanma, và tiến quân về phía nam tới đồng bằng Ayeyarwady và chiếm kinh đô của quốc gia người Môn Hanthawaddy ở Pegu (thành phố Bago ngày nay). Tabinshwehti xưng là vua của toàn cõi Myanma và rời đô về Pegu. Việc dời đô này đã giúp cho triều Taungoo phát triển được thương mại, làm giàu đất nước.[1] Nhờ đó, quân đội Taungoo được tăng cường và tiến quân về miền biển Rakhine chinh phạt vương quốc Mrauk U của người Rakhine. Tuy thất bại ở Mrauk U, nhưng Taungoo đã kiểm soát được phần lớn Hạ Miến tới tận Prome (thành phố Pyay hiện nay). Rút quân từ phía tây sang phía đông, Tabinshwehti tấn công vương quốc Ayutthaya của người Thái, nhưng lại bị đánh bại. Chuyến hướng lên phía bắc, quân đội Taungoo lại thua ở Ava. Những thất bại quân sự liên tục đã dẫn tới những cuộc nổi loạn từ phía quân đội. Tabinshwehti đã bị ám sát vào năm 1550. Tướng Bayinnaung, đồng thời là anh rể Tabinshwehti, trở thành vua Taungoo. Là một người mạnh mẽ và có tài, vua Bayinnaung đã chinh phạt thành công nhiều vùng đất, kể cả Manipur (1560) và Ayutthaya (1569), Mong Mao (của người Shan, ở Vân Nam ngày nay), Lan Na (bắc Thái Lan), và Lan Xang (Lào).[2] Myanma lúc này trở thành quốc gia hùng mạnh bậc nhất Đông Nam Á, với biên giới mở rộng tới tận Lào và Bangkok ngày nay. Tuy nhiên, những cuộc chiến tranh liên tục đã làm Taungoo kiệt quệ tài nguyên. Taungoo đã không tiêu diệt được các quốc gia mà nó xâm chiếm. Nên sau khi Bayinnaung qua đời, các nước phụ thuộc đều lần lượt giành lại độc lập. Trước việc các miền đất từng bị chinh phục nổi dậy, vua Nanda Bayin (con của Bayinnaung) phải rút khỏi miền nam Myanma, rời đô về Ava năm 1599. Triều Taugoo từ đây còn được gọi là Triều Hậu Taungoo (hoặc Triều Nyaungyan). Và thời kỳ hùng mạnh trước đó được gọi là Triều Tiền Taungoo để phân biệt. Cháu nội Bayinnaung là vua Anaukpetlun (1605-1628), một lần nữa thống nhất được Myanma vào năm 1613 và đánh bại nỗ lực xâm lược của Bồ Đào Nha, nhưng đế chế của ông dần dần tan rã. Vua tiếp theo là Thalun (1629-1648) đã xây dựng lại đất nước bị chiến tranh tàn phá. Dựa trên các cuộc điều tra năm 1635 của Thalun, dân số của vương quốc được ước tính là khoảng 2 triệu người.[3] Triều Taungoo tồn tại thêm một thế kỷ rưỡi nữa, cho đến khi vua Mahadammayaza Dipadi qua đời năm 1752. Được sự hậu thuẫn của người Pháp ở Ấn Độ, người Môn nổi dậy chống lại Taungoo, tiếp tục làm suy yếu nhà nước này. Alaungpaya của triều Konbaung là người đã khiến triều Taungoo chính thức diệt vong vào năm 1752. Tham khảo 1.^ Victor B. Lieberman, "Burmese Administrative Cycles: Anarchy and Conquest, c. 1580-1760", Princeton University Press, 1984, p. 111.) 2.^ Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800-1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. tr. 150–154. 3.^ Dr. Than Tun (December 1968). “Administration Under King Thalun”. Journal of Burma Research Society 51, Part 2: 173–188.Triều KonbaungBách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm Bài viết này có chứa các ký tự Myanma. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì các chữ Myanma. Lịch sử Myanma Myanma thời tiền sử Các thị quốc Pyu (100 TCN-840) Các quốc gia Arakan (788-1784) Các quốc gia Môn (thế kỷ 9-1757) Các quốc gia Shan (1298-1364) Triều Pagan (849–1287) Triều Ava (1364–1555) Triều Taungoo (1486–1752) Triều Konbaung (1752–1885) Thuộc Anh (1824–1942, 1945–1948) Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) Thời kỳ Dân chủ (1948–1962) Nhà nước quân sự I (1962–1989) Nhà nước quân sự II (1989–nay) Triều Konbaung (tiếng Myanma: ကုန်းဘောင်ခေတ) là vương triều cuối cùng ở Miến Điện, thành lập năm 1752 và diệt vong năm 1885. Dưới sự cai trị của triều Konbaung, Miến Điện đã thống nhất và trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Đông Nam Á, xâm chiếm nhiều nước láng giềng và đánh bại những cuộc xâm lược của Càn Long. Tuy nhiên, việc hướng nội và chậm canh tân đất nước của triều Konbaung đã đã khiến Miến Điện bị Anh thôn tính. Mục lục 1 Lịch sử 2 Danh sách các vua Triều Konbaung 3 Kinh đô 4 Tham khảo Lịch sử Nhân việc người Môn tấn công Taungoo, Alaungpaya một tù trưởng người Miến ở làng Moksobo (nay là Shwebo) ngay cạnh Innwa (thủ phủ bang Mandalay) ở Thượng Miến đã phát triển thế lực của mình. Alaungpaya đã liên tục đánh bại người Môn và đồng thời thu hút được sự liên minh của nhiều lực lượng người Miến. Mặc dù sau đó hậu duệ nhà Taungu vẫn tuyên bố vương quyền, nhưng Alaungpaya không phục mà tự lập nên Triều Konbaung, lấy chính quê mình làm kinh đô. Năm 1757, Alaungpaya thống nhất được Miến Điện. Năm 1759, Triều Konbaung bắt đầu tiến hành xâm lược Ayuthaya của người Thái, nhưng lần thứ nhất thất bại phải triệt thoái, vua Alaungpaya bị thương nặng và chết trên đường rút lui. Cuộc chinh phạt lần thứ hai (1764-1766) kết thúc thắng lợi, Ayuthaya thất thủ. Tiếp tục chủ nghĩa bành trướng, Triều Konbaung còn tiến hành xâm lược Lan Na, Lào. Lo ngại trước thế lực ngày càng mạnh của Triều Konbaung, năm 1765, Càn Long phái quân Vân Nam chinh phạt nhưng thất bại. Ba lần tiếp theo, Càn Long phái quân Bát Kỳ tinh nhuệ sang, song cũng đều thất bại. Hai bên chấp nhận hòa hoãn và Triều Konbaung chấp nhận triều cống nhà Thanh. Cuộc chiến với nhà Thanh đã khiến Triều Konbaung không thể duy trì sức mạnh ở Ayuthaya và là thời cơ cho Xiêm trỗi dậy. Miến Điện và Xiêm có chiến tranh liên tục trong các năm 1785-1787, 1792-1793, và 1808-1811. Cho đến đầu thế kỷ 19, Miến Điện dưới Triều Konbaung tiếp tục là một bá quyền ở Đông Nam Á. Năm 1795, Miến Điện xâm lược Arakan; năm 1814, xâm lược Manipur; năm 1817, xâm lược Assam. Các thế lực thực dân phương Tây ham muốn Miến Điện. Triều Konbaung đã tìm cách cân bằng giữa người Pháp và người Anh để tránh bị xâm lược. Tuy nhiên, Anh và Pháp cuối cùng đi đến một thỏa thuận cho phép Anh tiến hành xâm lược Miến Điện. Liên tiếp trong ba cuộc chiến tranh với Anh vào các năm 1824-1826, 1852, 1885. Trong cuộc chiến tranh thứ nhất, triều Konbaung bị thất bại, phải chấp nhận trao cho Anh Assam và Manipur. Trong cuộc chiến tranh thứ hai, Triều Konbaung để mất Hạ Miến. Trong cuộc chiến tranh thứ ba, quân Anh chiếm kinh đô Mandalay. Năm sau, Triều Kongbaung diệt vong. Danh sách các vua Triều Konbaung Cung điện ở Amarapura, năm 17951.Alaungpaya, trị vì từ năm 1752 đến năm 1760; 2.Naungdawgyi, 1760-1763 3.Hsinbyushin, 1763-1776 4.Singu Min, 1776-1781 5.Phaungkaza Maung Maung, 1782 6.Bodawpaya, 1782-1819 7.Bagyidaw, 1819-1837 8.Tharrawaddy Min, 1837-1846 9.Pagan Min, 1846-1853 10.Mindon Min, 1853-1878 11.Thibaw Min, 1878-1885 Kinh đô Quan lại Konbaung, năm 1795Shwebo (1752-1760) Sagaing (1760-1764) Ava (1764-1783) Amarapura (1783-1823) Ava (1823-1841) Amarapura (1841-1859) Mandalay (1859-1885)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2010 6:25:18 GMT 9
Người Shan Tổng dân số 6 triệu (ước) Khu vực đông người sinh sống Myanma Ngôn ngữ Tiếng Shan, tiếng Myanma, khác Tín ngưỡng Phật giáo thượng tọa bộ, vật linh Người Shan (tiếng Shan: ; IPA: [tɑ́ɪ], tiếng Myanma: ရှမ်းလူမျိုး; IPA: [ʃán lùmjóʊ]; chữ Hán: 掸族; bính âm: Shànzú; 傣族) là một sắc tộc thuộc nhóm sắc tộc Thái sử dụng ngữ hệ Tai-Kadai, sống chủ yếu ở bang Shan cùng một số nơi khác của Myanma (các bang như Kachin, Kayin) và các khu vực cận kề tại Trung Quốc, Thái Lan[1]. Mặc dù hiện tại không có số liệu chính thức, nhưng theo ước tính, dân số người Shan vào khoảng 6 triệu người. Những thành phố có đông người Shan sinh sống là Taunggyi, thủ phủ bang Shan, với khoảng 15 vạn người và Thibaw (Hsipaw), Lashio, Kengtong, Tachileik. [sửa] Lịch sử Các sắc tộc người Thái - Shan có lẽ đã từ Vân Nam di cư xuống phía nam. Người Shan là hậu duệ của nhánh người Thái cổ xưa nhất, đó là người Tai Long hay Thai Yai (người Thái Lớn). Người Shan đã bắt đầu định cư trên Cao nguyên Shan và một số nơi khác ở Myanma và Thái Lan từ khoảng thế kỷ 10 sau Công nguyên. Nhà nước của người Shan gọi là Mong Mao tại nơi nay là biên giới Myanma - Trung Quốc đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 10 và làm một chư hầu của Triều Pagan. Trong lịch sử Myanma, các bộ tộc Shan đã cung cấp nhiều nhân lực phục vụ triều đình. Nhiều người Shan qua đó đã bị Miến hóa. Khi Triều Pagan sụp đổ, người Shan đã nắm lấy thời cơ và nổi lên. Nhiều nhà nước người Shan hoặc nhà nước do người Shan Miến hóa thống trị đã xuất hiện. Trước tiên là các nhà nước Myinsaing, Pinya và Sagaing ở miền Trung Myanma. Đây là những nhà nước mà tầng lớp cai trị là người Shan đã bị Miến hóa. Từ ba nhà nước này, Triều Ava được thành lập. Một người Shan dòng dõi hoàng gia Ava nhưng trốn trong cộng đồng người Môn được người Môn dựng làm vua đầu tiên của vương quốc Hanthawaddy. Triều Ava bị suy yếu và diệt vong chính là do sự tấn công của một liên minh nhà nước Shan ở Bắc Myanma do Mong Yang và Mogaung làm thủ lĩnh và của Hanthawaddy. Từ giữa thế kỷ 16, các nhà nước Shan ở Trung Quốc và Myanma đã bị các triều đình cai trị Trung Quốc và Myanma khuất phục. Tuy nhiên, các thủ lĩnh người Shan vẫn được phép có một số quyền lực nhất định. Chế độ saopha được duy trì suốt, ngay cả dưới thời Anh cai trị Myanma. Song nó đã bị tướng Ne Win bãi bỏ. Đây là một trong những nguyên nhân kích thích người Shan ở Myanma đòi ly khai. [sửa] Ghi chú Commons có thêm hình ảnh và tư liệu khác về Người Shan. 1.^ Sao Sāimöng, The Shan States and the British Annexation. Đại học Cornell, Cornell, 1969 (ấn bản lần 2) ******************* Các quốc gia Môn ở Myanma Bách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm Lịch sử Myanma Myanma thời tiền sử Các thị quốc Pyu (100 TCN-840) Các quốc gia Arakan (788-1784) Các quốc gia Môn (thế kỷ 9-1757) Các quốc gia Shan (1298-1364) Triều Pagan (849–1287) Triều Ava (1364–1555) Triều Taungoo (1486–1752) Triều Konbaung (1752–1885) Thuộc Anh (1824–1942, 1945–1948) Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) Thời kỳ Dân chủ (1948–1962) Nhà nước quân sự I (1962–1989) Nhà nước quân sự II (1989–nay) sửa Người Môn là một trong những tộc người ở Myanma. Trong quá khứ, người Môn ở Myanma đã từng lập nên quốc gia riêng. Các quốc gia Hanthawaddy và Hanthawaddy Phục hưng được công nhân là có thực. Trong khi đó, sự tồn tại của Ramannadesa (Thaton) thực hay không vẫn còn chưa ngã ngũ. Mục lục [ẩn] 1 Ramannadesa 2 Hanthawaddy 2.1 Danh sách các vua Hanthawaddy 2.2 Kinh đô 3 Hanthawaddy Phục hưng 4 Tham khảo 5 Xem thêm [sửa] Ramannadesa Ramanndase, nằm giữa sông Sittaung và sông Thanlwin,[1] có thể là quốc gia đầu tiên của người Môn ở Myanma. Quốc hiệu là Ramannadesa. Song vì trung tâm của vương quốc là Thaton, nên nước này còn được gọi là vương quốc Thaton.[1] Thực ra Thaton là cách gọi bằng tiếng Miến, còn gọi theo tiếng Môn là Sadhuim. Sadhuim có nguồn gốc từ Sudhammapura trong tiếng Pali, nghĩa là "ngôi nhà của thượng đế". Trung tâm này, và đôi khi cả vương quốc, hoặc với người nước ngoài là toàn bộ vùng duyên hải Myanma xưa, cũng được gọi là Suvannabhumi ("Đất Vàng").[2] Theo truyền thuyết của người Môn, Vương quốc Ramannadesa thành lập vào thời Đức Phật, trải qua 59 đời vua. Cũng theo truyền thuyết của người Môn, một nhóm người tị nạn chính trị đã thành lập thành phố Pegu (Bago) vào năm 573.[3] Nhưng có lẽ lịch sử vương quốc mới chỉ bắt đầu vào khoảng thế kỷ 9, sau khi người Môn từ phía bắc Thái Lan di cư tới Hạ Miến. Theo truyền thuyết của người Miến, năm 1057, vương quốc Ramannadesa đã bị vương quốc Pagan thôn tính. Một nhà sư Môn tên Shin Arahan đã thuyết phục được vua Anawrahta của Pagan cải đạo sang đạo Phật Thượng tọa bộ. Theo lời khuyên của Shin Arahan, Anawrahta đã xin vua Manuha của Ramannadesa kinh Phật, nhưng Manuha từ chối với lý do không thể để sách quý vào tay kẻ ngoại đạo. Tức giận, Anawrahta đã khởi binh đánh bại Ramannadesa và mang về nước 32 bộ Tam tạng kinh cùng nhiều nhà sư và nghệ nhân Môn.[1] Văn hóa Miến nhờ đó có sự phát triển mạnh. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho rằng cuộc chinh phạt vương quốc Thaton của vua Anawrahta chỉ là sản phẩm tưởng tượng của hậu thế.[4] Có thể có cuộc viễn chinh của Anawarhta xuống Hạ Miến thật, nhưng lúc đó ở đây không có thực thể chính trị độc lập nào. Cuộc chinh phạt chỉ là để đề phòng Đế quốc Khmer, khi người Khmer đang tiến về bờ biển Tenasserim. Cuộc viễn chinh đã thúc đẩy trao đổi văn hóa, nếu không phải với người Môn thì cũng là với người Ấn Độ và người Sri Lanka, để văn hóa Miến trở nên phong phú.[5] [sửa] Hanthawaddy Hanthawaddy (tiếng Myanma: ဟံသာဝတီ ပဲခူး တိုင်းပြည်; còn gọi Hanthawaddy Pegu hoặc đơn giản là Pegu) từng là một quốc gia lớn của người Môn cai trị miền Hạ Miến (Myanma) trong thời kỳ 1287-1539. Khi Đế quốc Pagan sụp đổ vào năm 1287, vua Wareru đã thành lập Hanthawaddy dưới cái tên Ramanya và làm một nước chư hầu danh nghĩa của Sukhothai, và của nhà Nguyên.[6] Đến năm 1331, quốc gia này chính thức độc lập với Sukhothai, nhưng vẫn là một liên bang lỏng lẻo của ba trung tâm quyền lực lớn trong khu vực: vùng đồng bằng Ayeyarwady, Pegu, và Martaban. Các vua của Hanthawaddy lúc đó có ít hoặc không có quyền lực gì đối với chư hầu. Martaban đã công khai vùng dậy trong những năm 1363-1388. Dưới sự cai trị mạnh mẽ của vua Razadarit (1383 - 1422), vương quốc đã được củng cố. Razadarit đã thống nhất vững chắc ba vùng người Môn trên với nhau, và đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước trước âm mưu thôn tính của quốc gia người Shan-Miến Ava trong cuộc chiến tranh kéo dài 40 năm (1385 - 1424), đồng thời khuất phục vương quốc Arakan ở phía tây. Chiến tranh kết thúc bất phân thắng bại, nhưng xét đến việc Ava rốt cục phải từ bỏ tham vọng phục hồi Đế quốc Pagan, thì có thể nói là Hanthawaddy đã chiến thắng. Sau đó, Hanthawaddy đôi khi còn hỗ trợ các nước chư hầu phía nam của Ava là Prome và Taungoo nổi dậy chống lại Ava, nhưng vẫn đồng thời cẩn thận để tránh bị rơi vào một cuộc chiến tranh toàn diện. Sau cuộc chiến tranh 40 năm, Hanthawaddy bước vào thời đại hoàng kim của mình trong khi đối thủ Ava dần đi vào suy vong. Từ thập niên 1420 đến thập niên 1530, Hanthawaddy là vương quốc hùng mạnh nhất và thịnh vượng trong tất cả các vương quốc sau thời đại Pagan. Dưới sự cai trị liên tục của một loạt các vị vua anh minh - Binnya Ran I, Shin Sawbu, Dhammazedi và Binnya Ran II - vương quốc đã có được một thời kỳ thịnh vương kéo dài, với những nguồn thu lớn từ ngoại thương. Thương nhân của Hanthawaddy đã giao dịch với thương nhân từ khắp Ấn Độ Dương, làm đầy kho bạc của nhà vua bằng vàng, bạc, lụa và gia vị, và tất cả những thứ khác của nền thương mại thời tiền hiện đại. Vương quốc cũng đã trở thành một trung tâm nổi tiếng của Phật giáo Thượng tọa bộ. Nó thiết lập quan hệ chặt chẽ với Sri Lanka, và khuyến khích những cải cách mà sau này lan rộng trong cả nước.[7] Sự thịnh vượng của vương quốc kết thúc đột ngột. Từ năm 1535 trở đi, nó liên tục bị vương quốc Taungoo tấn công. Vua Takayutpi không thể lãnh đạo nổi vương quốc với nhiều nguồn lực và nhân lực hơn so với nước Taungoo nhỏ bé nhưng có vua Tabinshwehti anh minh và tướng Bayinnaung tài ba. Taungoo đã thâu tóm vùng đồng bằng Ayeyarwady vào năm 1538, Pegu vào năm 1539, và Martaban vào năm 1541.[8] Năm 1550, nhân việc vua Tabinshwehti bị ám sát, Hanthawaddy đã kháng cự mạnh mẹ. Nhưng Bayinnaung đã nhanh chóng đánh bại các cuộc kháng cự vào năm 1551. Thời kỳ vàng son của Hanthawaddy được người Môn ở Hạ Miến nhớ mãi. Vào năm 1740, khi triều Taungoo suy yếu, người Môn lại giành độc lập và lập nên nước Hanthawaddy Phục hưng. [sửa] Danh sách các vua Hanthawaddy 1.Wareru, trị vì từ năm 1287 đến năm 1306 2.Razadarit, 1383 – 1422 3.Shin Sawbu, 1453 – 1472 4.Dhammazedi, 1472 – 1492 5.Takayutpi, 1526 – 1539 [sửa] Kinh đô 1.Martaban (1287 – 1324) 2.Pegu (1324 – 1348) 3.Martaban (1348 – 1363) 4.Donwon (1363 – 1369) 5.Pegu (1369 – 1539) [sửa] Hanthawaddy Phục hưng Hanthawaddy Phục hưng (tiếng Myanma: ဟံသာဝတီ ပဲခူး တိုင်းပြည) là một quốc gia cổ của người Môn, thống trị miền Hạ Miến và một số nơi ở Thượng Miến trong một thời kỳ ngắn ngủi 15 năm (từ năm 1740 đến 1757). Quốc gia này trải qua hai đời vua, đóng đô ở Pegu (thành phố Bago hiện nay). Vương quốc Hanthawaddy (1287–1539) và những thành tựu của nó được người Môn nhớ mãi. Khi triều Taungoo suy yếu, người Môn lại nổi dậy khôi phục quốc gia của mình, lập nên Hanthawaddy Phục hưng. Người Môn đã chọn một người Miến dòng dõi hoàng gia vì tranh chấp ngôi báu mà phải trốn chạy và giả làm một nhà sư người Môn làm vua danh nghĩa của mình. Từ năm 1742, hàng năm, Hanthawaddy Phục hưng đều bắc tiến dọc theo sông Ayeyarwady, chiếm đồng bằng Ayeyarwady, và có lúc đánh tới Ava (Innwa hiện nay). Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh mà Hanthawaddy Phục hưng thực hiện trong thời vua Smim Htaw Buddhaketi chỉ có quy mô nhỏ. Khi Binnya Dala lên ngôi, được sự trợ giúp của người Pháp - những người đang muốn mở rộng ảnh hưởng của mình ở Myanma lúc đó - Hanthawaddy Phục hưng đã mở rộng quy mô chiến tranh, tấn công kinh đô Ava năm 1752, kết liễu triều Taungoo. Tuy nhiên, sau đó người Môn đã rút về củng cố Pegu, chỉ để lại một phần ba lực lượng quân đội ở Thượng Miến. Người Miến đã nhanh chóng tập hợp lực lượng xung quanh Alaungpaya và bắt đầu phản công. Alaungpaya đã đánh bại lực lượng của Hanthawaddy đến đàn áp mặc dù quân số ít hơn. Năm 1755, Alaungpaya tiến quân về phía nam, chiếm được đồng bằng Ayeyarwady và Dagon (Yangon ngày nay). Người Pháp đã chậm chễ trong hỗ trợ Hanthawaddy, và Pegu đã rơi vào tay người Miến vào tháng 5 năm 1757. Hanthawaddy Phục hưng diệt vong. Sau khi Hanthawaddy diệt vong. Hàng ngàn người Môn đã phải bỏ tổ quốc sang tỵ nạn ở Xiêm. Cùng với đó là sự đồng hóa của người Miến. Kết cục, người Môn chỉ còn là một sắc tộc nhỏ ở Myanma ngày nay. [sửa] Tham khảo 1.^ a b c Ngô Văn Doanh (2010), "Các vương quốc Môn ở Mianma", Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr.. 2.^ H.L. Shorto (2002). "The 32 Myos in the medieval Mon Kingdom". trong Vladimir I. Braginsky. Classical civilisations of South East Asia: an anthology of articles. Routledge. tr. 590. ISBN 0700714103, 9780700714100. 3.^ Lt. Gen. Sir Arthur P. Phayre (1883). History of Burma (ấn bản 1967). London: Susil Gupta. 24–32. 4.^ Michael Aung-Thwin (2005). The Mists of Rāmañña: the Legend that was Lower Burma. University of Hawaii Press. 433. ISBN 0824828860, 9780824828868. 5.^ Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800-1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. tr. 91. ISBN 978-0-521-80496-7. 6.^ Maung Htin Aung (1967). "Pagan and the Mongol Intrusion". A History of Burma. New York and London: Cambridge University Press. 78–80. 7.^ Thant Myint-U (2006). The River of Lost Footsteps--Histories of Burma. Farrar, Straus and Giroux. 64-65. ISBN 978-0-374-16342-6, 0-374-16342-1. 8.^ GE Harvey (1925). "Toungoo Dynasty". History of Burma. London: Frank Cass & Co. Ltd.. 153-157. GE Harvey (1925). "Shan Migration (Ava)". History of Burma. London: Frank Cass & Co. Ltd. Victor B Lieberman (2003). Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800-1830, volume 1, Integration on the Mainland. Cambridge University Press. Thant Myint-U (2006). The River of Lost Footsteps--Histories of Burma. Farrar, Straus and Giroux. **************** Các quốc gia Arakan Bách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm Bài viết này có chứa các ký tự Myanma. Nếu không được hỗ trợ hiển thị đúng, bạn có thể sẽ nhìn thấy các ký hiệu chấm hỏi, ô vuông, hoặc ký hiệu lạ khác thay vì các chữ Myanma. Lịch sử Myanma Myanma thời tiền sử Các thị quốc Pyu (100 TCN-840) Các quốc gia Arakan (788-1784) Các quốc gia Môn (thế kỷ 9-1757) Các quốc gia Shan (1298-1364) Triều Pagan (849–1287) Triều Ava (1364–1555) Triều Taungoo (1486–1752) Triều Konbaung (1752–1885) Thuộc Anh (1824–1942, 1945–1948) Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) Thời kỳ Dân chủ (1948–1962) Nhà nước quân sự I (1962–1989) Nhà nước quân sự II (1989–nay) sửa Dân tộc Arakan (hiện nay ở Myanma gọi là dân tộc Rakhine) là một dân tộc định cư lâu đời ở Myanma. Trong quá khứ, người Arakan có quốc gia riêng ở phần phía tây của Myanma hiện đại. Các quốc gia Arakan nối tiếp nhau tồn tại đến tận cuối thế kỷ 18. Mục lục [ẩn] 1 Các quốc gia trong huyền sử 2 Waithali 3 Mrauk U 4 Hình ảnh [sửa] Các quốc gia trong huyền sử Theo truyền thuyết của người Rakhine (còn gọi người Arakan), vua Marayu lập nên quốc gia độc lập đầu tiên của người Arakan thành lập vào năm 3.325 trước Công nguyên. Vương quốc ấy gọi là "Dhanyawadi" có nghĩa là đất "được ban mùa màng bội thu". Người ta đã phát hiện những bằng chứng khảo cổ học có niên đại nửa sau thế kỷ 1 Công nguyên ở thành phố Dhanyawadi. Dhanyawadi cổ đại, nằm ở sườn phía tây của rặng núi giữa sông Kaladan và sông Lê-mro. Thành phố có tường bao bằng gạch, chu vi khoảng 9,6 km, bao quanh một diện tích khoảng 4,42 km vuông. Ngoài các bức tường thành còn có một con hào rộng mà đến nay vẫn có thể nhận ra dù đã bị bao phủ bởi những cánh đồng. Những tàn tích của các thành quách bằng gạch vẫn còn dọc theo dãy núi đồi bảo vệ thành phố từ phía tây. Trong thành phố, một bức tường tương tự và hào sâu bao quanh khu vực hoàng cung rộng khoảng 0,26 km vuông, và một bức tường thành khác bao quanh chính cung điện. Những bức ảnh trên không cho thấy hệ thống kênh mương thủy lợi, bể chứa, của Dhanyawad I ngay trung tâm hoàng cung. [sửa] Waithali Người ta cho rằng trung tâm quyền lực của người Arakan chuyển từ Dhanyawadi tới Waithali trong thế kỷ 6. Waithali là quốc gia Arakan bị Ấn Độ hóa rõ nhất trong các quốc gia Arakan trong lịch sử. Song giống như tất cả các quốc gia Arakan, Vương quốc Waithali dựa trên thương mại giữa phía Đông (các thị quốc Pyu, Trung Quốc, các quốc gia Môn) và phía Tây (Ấn Độ, Bengal, và Ba Tư). Theo bia ký Anandacandra, được khắc vào khoảng năm 729, người Waithali thực hành Phật giáo Đại thừa, và tuyên bố rằng các vua Waithali là con cháu của thần Hindu Shiva. Một số tượng Phật quan trọng nhưng bị hư hỏng nặng đã được phát hiện ở Letkhat-Taung, một ngọn đồi phía đông quần thể các cung điện cũ. Những bức tượng này được xem là vô giá, giúp người đời sau hiểu được những kiến trúc kiểu Waithali, và cũng hiểu được mức độ ảnh hưởng của đạo Hindu ở vương quốc này. Theo truyền thuyết địa phương, Shwe-taung-gyi (nghĩa là "Đồi Vàng Lớn"), một ngọn đồi phía đông bắc của quần thể cung điện có thể là nơi chôn cất của một vị vua Pyu thế kỷ 10. Các đấng cai trị của Vương quốc Waithali được gọi là triều đại Chandra, bởi vì họ sử dụng Chandra trên các đồng tiền kim loại của Waithali. Thời kỳ Waithali được nhiều người xem là khởi đầu của thời đại tiền đúc Arakan - sớm hơn gần một thiên niên kỷ so với người Miến. Trên mặt trái của các đồng xu, có biểu tượng Srivatsa (tiếng Arakan và tiếng Myanma đều là Thiriwutsa), trong khi mặt trước có hình con bò, biểu tượng của triều đại Chandra, và phía dưới có khắc tên nhà vua bằng tiếng Phạn. Waithali sụp đổ vào thế kỷ 10 do sự xâm lấn của các sắc tộc Tạng-Miến Điện (người Miến Điện) từ Tây Tạng. [sửa] Mrauk U Mrauk U là một quốc gia cổ cuối cùng của người Arakan, tồn tại từ năm 1430 đến năm 1784. Năm 1430, vua Min Saw Mon lập nên vương quốc này và đóng đô ở Mrauk U (nay là một thị xã ở phía bắc bang Rakhine). Ở thời cực thịnh, Mrauk U kiểm soát một nửa Bangladesh hiện đại, bao gồm cả Dhaka và Chittagong, toàn bộ bang Rakhine hiện đại, và phần phía tây của Hạ Miến. Trong thời gian đó, các vị vua của vương quốc này đã cho đúc tiền kim loại ghi bằng tiếng Rakhine, tiếng Kufic và tiếng Bengal. Khi thịnh vượng, họ xây dựng nhiều chùa và đền thờ, trong đó nhiều công trình vẫn tồn tại đến tận ngày nay. Đáng chú ý nhất là chùa nutse-thaung, chùa Htukkanthein, chùa Koe-thaung. ****************** Các thị quốc PyuBách khoa toàn thư mở WikipediaBước tới: menu, tìm kiếm Lịch sử Myanma Myanma thời tiền sử Các thị quốc Pyu (100 TCN-840) Các quốc gia Arakan (788-1784) Các quốc gia Môn (thế kỷ 9-1757) Các quốc gia Shan (1298-1364) Triều Pagan (849–1287) Triều Ava (1364–1555) Triều Taungoo (1486–1752) Triều Konbaung (1752–1885) Thuộc Anh (1824–1942, 1945–1948) Nhật Bản chiếm đóng (1942–1945) Thời kỳ Dân chủ (1948–1962) Nhà nước quân sự I (1962–1989) Nhà nước quân sự II (1989–nay) sửa Các thị quốc Pyu là tên gọi chung cho các quốc gia thành thị của người Pyu từng tồn tại ở miền Trung và miền Bắc Myanma hiện đại từ thế kỷ 1 TCN cho đến năm 840. Lịch sử của các thị quốc Pyu được khám phá dựa vào các bi ký tìm thấy và qua các ghi chép của những người Trung Quốc về nước Phiêu (骠). Người Pyu là một trong những dân tộc tổ tiên của người Miến.[1] Người Pyu đến Myanma vào khoảng thế kỷ 1 TCN hoặc sớm hơn và lập nên những thành bang tại Binnaka, Mongamo, Sri Ksetra, Peikthanomyo, Kutkhaing ở phía bắc, bờ biển Halin gyi Thanlwin ở phía đông, vịnh Martaban và bờ biển phía nam của nó, Thandwe ở phía tây nam và Yoma ở phía tây.[2] Thời đó, con đường thương mại từ Trung Quốc sang Ấn Độ đi qua Myanma. Vào các năm 97 và 121, sứ đoàn La Mã sang Trung Quốc đã chọn lộ trình đường bộ qua Myanma. Tuy nhiên, người Pyu có một lộ trình khác, đó là xuôi dòng Ayeyarwaddy tời Shri Ksetra và sau đó đi bằng đường biển về phía tây tới Ấn Độ và về phía đông để tới Đông Nam Á hải đảo. Thư tịch cổ Trung Quốc kể rằng có 18 vương quốc Phiêu, rằng Phiêu là một dân tộc nhân văn và hòa bình, có cuộc sống sung tung và văn hóa. Giữa các nước Phiêu hầu như không có chiến tranh, và tranh chấp thường được giải quyết thông qua tỷ thí tay đôi hay thi xây dựng. Họ thậm chí mặc vải bông gạo thay vì vải lụa để không phải giết con tằm. Tội phạm bị phạt roi hoặc phạt tù, nếu tội nghiêm trọng thì có thể bị tử hình. Người Phiêu theo đạo Phật Thượng tọa bộ, và tất cả trẻ em được giáo dục trong các tự viện từ khi 7 tuổi cho đến khi 20 tuổi. Các thị quốc Pyu không bao giờ thống nhất thành một vương quốc, nhưng các thành phố mạnh hơn thường chiếm ưu thế và nhận cống nạp từ các thành phố nhỏ. Thành phố mạnh mẽ nhất có lẽ là Sri Ksetra, dựa vào bằng chứng khảo cổ. Một số thị quốc Pyu nổi bật.Không rõ các thị quốc Pyu được thành lập sớm nhất chính xác vào thời điểm nào, nhưng chắc chắn là trước năm 94 - năm mà các biên niên sử Pyu cho biết có sự thay đổi triều đại. Trong thế kỷ 7, người Pyu dịch chuyển kinh đô của mình lên phía bắc theo hướng Halingyi ở vùng khô, để lại Shri Ksetra làm một trung tâm hạng hai có vai trò thương mại là chính ở phía nam. Tuy nhiên kinh đô mới ở phương bắc đã bị vương quốc Nam Chiếu cướp phá vào khoảng giữa thế kỷ 9. Sự kiện này dẫn tới sự diệt vong của các thị quốc Pyu. [sửa] Tham khảo Janice Stargardt: The ancient Pyu of Burma, Cambridge 1990, ISBN 1-873178-01-8 Dr Than Tun (History Professor, Mandalay University) ‘The Story of Myanmar told in pictures’. Elizabeth Moore, Myanmar Historical Research Journal 2004. D. G. E Hall, A History of the South East Asia, New York, 1968. G.E Hervey, History of Burma, London 1925 1.^ Dr Than Tun (History Professor, Mandalay University) ‘The Story of Myanmar told in pictures’. 2.^ Dr Than Tun , “The Story of Myanmar told in pictures”
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2010 6:36:17 GMT 9
Khẩu hiệu không có Quốc ca Kaba Ma Kyei Thủ đô Naypyidaw 19°17′B, 96°20′Đ Thành phố lớn nhất Yangon Ngôn ngữ chính thức Tiếng Myanma Chính phủ Độc tài quân phiệt - • Chủ tịch Hội đồng Quốc gia • Thủ tướng Than Shwe Soe Win Độc lập - Ngày Diện tích - Tổng số 676,577 km² (hạng 39) - Nước (%) 3,06% Dân số - Ước lượng 6/2007 47,373,958 triệu (hạng 27) - Mật độ 70 /km² GDP (PPP) Ước tính - Tổng số 74,53 tỉ Mỹ kim HDI (2003) 0,578 (trung bình) (hạng 129) Đơn vị tiền tệ Kyat (MMK) Múi giờ (UTC+6.5) Tên miền Internet .mm (trước là .bu) Mã số điện thoại +95 Myanma còn có các tên cũ Miến Điện hay Diến Điện, tên đầy đủ là Cộng hòa Liên bang Myanma (tiếng Myanmar: ြည်ထောင်စု သမ္မတ မြန်မာနိုင်ငံတော် Pyidaunzu Thanmăda Myăma Nainngandaw) là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn. Có 5.876 km đường biên giới với Trung Quốc (2.185 km), Thái Lan (1.800 km), Ấn Độ (1.463 km), Lào (235 km) và Bangladesh (193 km). Đường bờ biển dài 1.930 km. Diện tích 676.577 km². Myanma giành được độc lập từ Anh 1948 và trở thành Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Myanma vào 1974 sau đó đổi thành Liên bang Myanma vào 1988. Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanma đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này thời hiện đại. Hệ thống chính trị của nước này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của Hội đồng hòa bình và phát triển quốc gia, chính phủ quân sự do Thống tướng Than Shwe lãnh đạo từ năm 1992. Từng là một nước thuộc địa bên trong Đế quốc Anh cho tới tận năm 1948, Myanma tiếp tục đấu tranh cải thiện những căng thẳng sắc tộc, và vượt qua những cuộc đảo chính. Nền văn hóa nước này bị ảnh hưởng nhiều từ các nước xung quanh, dựa trên một hình thức Phật giáo duy nhất có hòa trộn các yếu tố địa phương. Myanma thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với Việt Nam từ ngày 25 tháng 5 năm 1975. Ngày 22 tháng 10 năm 2010, Myanma tuyên bố đổi quốc hiệu thành Cộng hòa Liên bang Myanma, thay đổi quốc kỳ và quốc ca. Sự kiện này diễn ra chỉ trước 17 ngày diễn ra cuộc bầu cử sau 20 năm kể từ lần bầu cử gần nhất trước đây vào năm 1990. Mục lục [ẩn] 1 Tên gọi 2 Lịch sử 3 Chính trị 4 Quan hệ đối ngoại và Quân đội 5 Hành chính 6 Địa lý 7 Kinh tế 8 Nhân khẩu 9 Văn hóa 9.1 Ngôn ngữ 9.2 Ẩm thực 9.3 Âm nhạc 9.4 Tôn giáo 10 Xem thêm 11 Ghi chú 12 Liên kết ngoài [sửa] Tên gọi Myanma là tên gọi bắt nguồn từ tên địa phương Myanma Naingngandaw. Nó được sử dụng vào đầu thế kỷ 12 nhưng nguồn gốc của nó vẫn còn chưa được sáng tỏ. Một gốc của tên gọi này là từ Brahmadesh trong tiếng Phạn có nghĩa là "mảnh đất của Brahma", vị thần Hindu của mọi sinh vật. Năm 1989, hội đồng quân sự đổi tên tiếng Anh từ Burma thành Myanmar, cùng với nhiều thay đổi trong tên gọi tiếng Anh của nhiều vùng trong đất nước, chẳng hạn tên gọi trước kia của thủ đô đổi từ Rangoon thành Yangon. Tuy vậy, tên chính thức của đất nước trong tiếng Myanma là Myanma vẫn không đổi. Trong tiếng Myanma, Myanma là tên quốc gia, trong khi Bama (Burma lấy nguồn gốc từ đây) là tên gọi thông tục. Sự thay đổi trong tên gọi là biểu hiện của một cuộc tranh cãi chính trị. Nhiều nhóm người Myanma tiếp tục sử dụng tên "Burma" vì họ không chấp nhận tính hợp pháp của chính quyền quân sự cũng như sự đổi tên đất nước. Một vài chính phủ phương tây, chẳng hạn Hoa Kỳ, Úc, Ireland và Anh tiếp tục sử dụng tên "Burma", trong khi Liên minh châu Âu sử dụng cả hai. Liên Hợp Quốc sử dụng tên "Myanmar". Việc sử dụng tên "Burma" vẫn còn phổ biến ở Hoa Kỳ và Anh. Trong tiếng Anh, người ta vẫn dùng từ "Burmese" như một tính từ. [sửa] Lịch sử Bài chi tiết: Lịch sử Myanma Các chùa và đền tại Bagan ngày nay, nơi từng là thủ đô của Vương quốc PaganNgười Môn được cho là nhóm người đầu tiên di cư tới vùng hạ lưu châu thổ sông Ayeyarwady (ở phía nam Myanma) và tới khoảng giữa thập niên 900 trước Công nguyên họ đã giành quyền kiểm soát khu vực này[1]. Sau đó, vào thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Pyu di cư tới đây và tiến tới xây dựng các thành bang có quan hệ thương mại với Ấn Độ và Trung Quốc. Trong đó, mạnh nhất là vương quốc Sri Ksetra, nhưng nó bị từ bỏ năm 656. Sau đó, một quá trình tái lập quốc diễn ra, nhưng đến giữa thập niên 800 thì bị người Nam Chiếu xâm lược. Vào khoảng trước những năm 800, người Bamar (người Miến Điện) bắt đầu di cư tới châu thổ Ayeyarwady từ Tây Tạng hiện nay. Tới năm 849, vương quốc họ đã thành lập xung quanh trung tâm Pagan trở nên hùng mạnh. Trong giai đoạn Anawratha trị vì (1044-1077), người Miến Điện đã mở rộng ảnh hưởng ra khắp Myanma hiện nay. Tới thập niên 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Pagan, thường được gọi là Đế chế Miến Điện thứ nhất với kinh đô tại Mandalay. Tới cuối thập niên 1200, Hốt Tất Liệt đã thống lĩnh quân Mông Cổ xâm lược Vương quốc Pagan, nhưng tới năm 1364 người Miến Điện đã tái lập vương quốc của họ tại Ava, nơi văn hóa Miến Điện bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, vào năm 1527 người Shan cướp phá Ava. Trong lúc ấy người Mon thiết lập địa điểm mới của họ tại Pegu, nơi này đã trở thành một trung tâm tôn giáo và văn hóa lớn. Những người Miến Điện đã phải chạy trốn khỏi Ava thành lập Vương quốc Toungoo năm 1531 tại Toungoo, dưới quyền Tabinshwehti, người đã tái thống nhất Miến Điện và lập ra Đế chế Miến Điện thứ hai. Vì sự ảnh hưởng ngày càng tăng từ Châu Âu ở Đông Nam Á, Vương quốc Toungoo trở thành một trung tâm thương mại lớn. Bayinnaung đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục các quốc gia Manipur, Chiang Mai và Ayutthaya. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Toungoo. Anaukpetlun, người đã đẩy lùi cuộc xâm lăng của Bồ Đào Nha, đã lập nên một vương triều mới tại Ava năm 1613. Cuộc nổi dậy trong nước của người Mon, với sự trợ giúp của Pháp, khiến vương quốc sụp đổ năm 1752. Một bản in thạch năm 1825 của Anh về ngôi chùa Shwedagon cho thấy buổi đầu xâm nhập của người Anh tại Miến Điện trong giai đoạn Chiến tranh Anh-Miến lần thứ nhấtAlaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung và Đế chế Miến Điện thứ ba vào khoảng thập niên 1700[2]. Năm 1767, Vua Hsinbyushin chinh phục Ayutthaya dẫn tới việc văn hóa Thái Lan có ảnh hưởng lớn tới văn hóa Miến Điện. Nhà Thanh (Trung Quốc) lo ngại sự lớn mạnh của Miến Điện, đã bốn lần xâm lược nước này trong khoảng thời gian từ 1766 đến 1769 nhưng không lần nào thành công. Các triều đại sau này mất quyền kiểm soát Ayutthaya, nhưng chiếm thêm được Arakan và Tenasserim. Dưới thời cai trị của Vua Bagyidaw, năm 1824, Mahabandoola chiếm Assam, sát lãnh thổ Anh ở Ấn Độ, gây nên một cuộc chiến tranh. Trong các cuộc chiến tranh Anh-Miến (1823-26, 1852-53 và 1885-87), Miến Điện mất một số lãnh thổ vào tay người Anh và trở thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh. Ngày 1 tháng 4 năm 1937, Miến Điện trở thành một thuộc địa hành chính riêng biệt, độc lập khỏi quyền hành chính Ấn Độ. Trong thập niên 1940, Ba mươi chiến hữu, do Aung San lãnh đạo đã lập nên Quân đội Miến Điện độc lập[3]. Ba mươi chiến hữu được huấn luyện quân sự tại Nhật Bản[3]. Trong Thế chiến thứ hai Miến Điện trở thành một mặt trận chính tại Mặt trận Đông Nam Á. Sau những thắng lợi ban đầu của Nhật Bản trong Chiến dịch Miến Điện, trong đó người Anh bị đẩy lùi khỏi đa phần Miến Điện, Đồng Minh đã phản công. Tới tháng 7 năm 1945 họ đã chiếm lại toàn bộ nước này. Người Miến Điện chiến đấu cho cả hai phía trong cuộc chiến. Họ chiến đấu trong Đội quân Miến Điện Anh năm 1941-1942. Năm 1943, Chin Levies và Kachin Levies đã được thành lập ở các quận biên giới Miến Điện và vẫn thuộc quyền kiểm soát của người Anh. Đội quân Miến Điện chiến đấu trong thành phần Chindit dưới quyền Tướng Orde Wingate từ 1943-1945. Ở giai đoạn sau của cuộc chiến, người Mỹ đã lập ra Đội biệt kích Kachin-Hoa Kỳ cũng chiến đấu cho quân Đồng Minh. Nhiều người Miến Điện khác chiến đấu trong lực lượng SOE của Anh. Quân đội Miến Điện độc lập dưới quyền chỉ huy của Aung San và Quân đội quốc gia Arakan đã chiến đấu với Nhật Bản từ 1942-1944, nhưng đã nổi lên chống lại người Nhật năm 1945. Năm 1947, Aung San trở thành Phó chủ tịch Uỷ ban hành pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp. Tuy nhiên, trong tháng 7 năm 1947, các đối thủ chính trị đã ám sát Aung San và nhiều thành viên chính phủ khác[3]. Ngày 4 tháng 1 năm 1948, quốc gia này trở thành một nước cộng hòa độc lập, với cái tên Liên bang Miến Điện, với Sao Shwe Thaik là tổng thống đầu tiên và U Nu là thủ tướng. Không giống như đa số các thuộc địa của của Anh, nước này không trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh bởi vì họ đã giành lại độc lập trước khi Khối thịnh vượng chung cho phép các nước cộng hòa trở thành một thành viên của nó. Một hệ thống chính trị lưỡng viện được thành lập gồm Viện đại biểu và Viện quốc gia[4]. Vùng địa lý hiện nay của Myanma có thể suy ngược từ Thoả ước Panglong, là toàn bộ Miến Điện gồm Hạ Miến Điện và Thượng Miến Điện và Các vùng biên giới, đã từng được quản lý hành chính độc lập bởi Anh Quốc[5]. Lá cờ của Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ được thể hiện bởi một chú 'gà chọi', một biểu tượng của tự do[6]Năm 1961 U Thant, khi ấy là Đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên hiệp quốc và cựu Thư ký Thủ tướng, được bầu làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc; ông là người đầu tiên không xuất thân từ phương Tây lãnh đạo bất kỳ một tổ chức quốc tế nào cho tới lúc ấy và sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong vòng mười năm[7]. Trong số những người Miến Điện làm việc tại Liên hiệp quốc khi ông đang giữ chức Tổng thư ký có cô gái trẻ Aung San Suu Kyi. Giai đoạn dân chủ kết thúc năm 1962 với một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Ne Win lãnh đạo. Ông này sẽ cầm quyền trong 26 năm và theo đuổi chính sách xã hội chủ nghĩa. Năm 1974, đám tang của U Thant dẫn tới một cuộc biểu tình chống chính phủ đẫm máu. Năm 1988, Cuộc nổi dậy 8888 đẩy đất nước tới bờ vực cách mạng. Để đối phó, Tướng Saw Maung tiến hành một cuộc đảo chính. Ông thành lập Uỷ ban Luật pháp Quốc gia và Vãn hồi Trật tự (SLORC). Năm 1989, thiết quân luật được ban bố sau những cuộc biểu tình rộng lớn. Các kế hoạch bầu cử Quốc hội đã hoàn thành ngày 31 tháng 5 năm 1989[8]. Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do được tổ chức trong vòng 30 năm. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đảng của bà Aung San Suu Kyi, thắng 392 trong tổng số 485 ghế, nhưng các kết quả của cuộc bầu cử đã bị SLORC huỷ bỏ và họ từ chối giao lại quyền lực[9]. SLORC đổi tên Miến Điện (Burma) thành Myanma năm 1989. Dưới sự lãnh đạo của Than Shwe, từ năm 1992 chính quyền quân sự đã tiến hành các thoả thuận ngừng bắn với các nhóm du kích thiểu số. Năm 1992, SLORC tiết lộ các kế hoạch thành lập một hiến pháp mới thông qua Hội nghị Quốc gia, bắt đầu ngày 9 tháng 1 năm 1993[10]. Năm 1997, Uỷ ban Luật pháp Quốc gia và Vãn hồi Trật tự được đổi tên thành Uỷ ban Hòa bình và Phát triển Quốc gia (SPDC). Ngày 23 tháng 6 năm 1997, Myanma được chấp nhận gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hội nghị Quốc gia tiếp tục được triệu tập và hoãn lại. Nhiều đảng chính trị lớn, đặc biệt Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đã bị trục xuất và có ít tiến bộ đã được hoàn thành[10]. Ngày 27 tháng 3 năm 2006, hội đồng quân sự đã di chuyển thủ đô đất nước từ Yangon tới một địa điểm gần Pyinmana, đặt tên chính thức cho nó là Naypyidaw, có nghĩa "vùng đất của những ông vua"[11][12]. [sửa] Chính trị Bài chính về chính trị và chính quyền của Myanma có thể tìm đọc tại Loạt bài về chính trị và chính quyền của Myanma.Các đại biểu được bầu ra trong cuộc bầu cử Quốc hội nhân dân năm 1990 hình thành nên Liên minh Chính phủ Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB), một chính phủ hải ngoại vào tháng 12 năm 1990, với trách nhiệm vãn hồi nền dân chủ tại Myanma[13]. Sein Win, người anh họ của Aung San Suu Kyi, là thủ tướng hiện thời của NCGUB. Tuy nhiên, NCGUB có rất ít quyền lực và đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật tại Myanma. Lãnh đạo Nhà nước hiện nay là Thống tướng Than Shwe, người giữ chức vụ "Chủ tịch Hội đồng Hòa Bình và Phát triển Quốc gia". Ông nắm mọi quyền lực quan trọng, gồm quyền bãi nhiệm các bộ trưởng và các thành viên chính phủ, đưa ra các quyết định quan trọng trong vấn đề chính trị đối ngoại[14]. Khin Nyunt từng là thủ tướng cho tới ngày 19 tháng 10 năm 2004, và đã bị thay thế bởi Tướng Soe Win, người có quan hệ mật thiết với Than Shwe. Đa số các bộ và các vị trí chính phủ đều do các sĩ quan quân đội nắm giữ, ngoại trừ Bộ y tế, Bộ giáo dục, Bộ lao động và Bộ kinh tế và kế hoạch quốc gia, do các viên chức dân sự quản lý[15]. Các đảng chính trị lớn ở Myanma gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ và Liên đoàn Dân tộc Shan vì Dân chủ, dù các hoạt động của họ bị chế độ quản lý chặt chẽ. Nhiều đàng khác, thường đại diện cho lợi ích của các dân tộc thiểu số thực sự có tồn tại. Tại Myanma ít có khoan dung chính trị cho phe đối lập và nhiều đảng đã bị đặt ngoài vòng pháp luật. Đảng Thống nhất Quốc gia đại diện cho quân đội, và được sự ủng hộ của một tổ chức to lớn tên gọi Hiệp hội Liên đoàn Đoàn kết và Phát triển[16]. Theo nhiều tổ chức, gồm cả Human Rights Watch và Amnesty International, chính quyền này có bản thành tích nhân quyền kém cỏi[17]. Không có tòa án độc lập tại Myanma và đối lập chính trị với chính phủ quân sự không hề được khoan dung. Truy cập Internet tại Myanma bị hạn chế chặt chẽ thông qua các phần mềm lọc các trang web có thể truy cập đối với công dân, hạn chế đa số các trang đối lập chính trị và ủng hộ dân chủ[18][19]. Lao động cưỡng bức, buôn người và lao động trẻ em là điều thông thường, và bất đồng chính trị không được khoan dung[20]. Năm 1988, quân đội Myanma đã dùng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình phản đối sự quản lý kinh tế yếu kém và sự áp bức chính trị. Ngày 8 tháng 8 năm 1988, quân đội nổ súng vào những người biểu tình trong vụ việc được gọi là cuộc Nổi dậy 8888. Tuy nhiên, cuộc biểu tình năm 1988 đã dọn đường cho cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990. Kết quả của cuộc bẩu cử sau đó đã bị chính quyền bác bỏ. Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, do Aung San Suu Kyi lãnh đạo, thắng hơn 60% số phiếu và 80% ghế trong quốc hội trong cuộc bầu cử 1990, cuộc bầu cử đầu tiên được tổ chức trong 30 năm. Aung San Suu Kyi được quốc tế công nhận là một nhà hoạt động vì dân chủ tại Myanma, đoạt Giải Nobel Hòa bình năm 1991. Bà đã nhiều lần bị quản thúc tại gia. Dù có lời kêu gọi trực tiếp từ Kofi Annan tới Than Shwe và áp lực của ASEAN, hội đồng quân sự Myanma vẫn kéo dài thời hạn quản thúc tại gia đối với Aung San Suu Kyi thêm một năm ngày 27 tháng 5 năm 2006 theo Luật Bảo vệ Quốc gia năm 1975, trao cho chính phủ quyền cầm giữ hợp pháp bất kỳ người nào[21][22]. Hội đồng quân sự ngày phải đối mặt với sự cô lập quốc tế. Vào tháng 12 năm 2005, lần đầu tiên tình trạng của Myanma đã được thảo luận không chính thức tại Liên hiệp quốc. ASEAN cũng đã bày tỏ sự thất vọng của mình với chính phủ Myanma. Tổ chức này đã thành lập Cuộc họp kín liên nghị viện ASEAN đề bàn bạc về sự thiếu dân chủ tại Myanma[23]. Sự thay đổi chính trị lớn ở nước này hiện vẫn khó xảy ra, vì sự ủng hộ từ các cường quốc trong vùng, đặc biệt là Trung Quốc[24][25]. [sửa] Quan hệ đối ngoại và Quân đội Bài chi tiết: Quan hệ nước ngoài của Myanma và Quân đội MyanmaQuan hệ nước ngoài của Myanma, đặc biệt với các nước phương Tây, đã rơi vào tình trạng căng thẳng. Hoa Kỳ đã áp đặt các biện pháp trừng phạt rộng lớn với Myanma vì sự đàn áp quân sự năm 1988 và vì sự từ chối thừa nhận các kết quả cuộc bầu cử Quốc hội Nhân dân năm 1990 của chế độ quân sự. Tương tự, Liên minh châu Âu đã áp đặt lệnh cấm vận lên Myanma, gồm cả cấm vận vũ khí, ngừng ưu tiên thương mại và hoãn toàn bộ viện trợ ngoại trừ viện trợ nhân đạo[26]. Những biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu chống lại chính phủ quân sự, cộng với sự tẩy chay và những sức ép trực tiếp khác từ người dân ở các nước phương Tây ủng hộ phong trào dân chủ Myanma, khiến đa số các công ty Hoa Kỳ và châu Âu phải rời khỏi nước này. Tuy nhiên, nhiều công ty khác vẫn còn ở lại nhờ các kẽ hở của biện pháp cấm vận. Nói chung các tập đoàn ở châu Á vẫn muốn đầu tư vào Myanma và tiến hành thực hiện các dự án đầu tư mới, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Công ty dầu mỏ Pháp Total S.A. hiện đang điều hành đường ống dẫn khí Yadana từ Myanma tới Thái Lan dù có lệnh cấm vận của Liên minh châu Âu. Total hiện là bị đơn của nhiều vụ khiếu kiện tại Pháp liên quan tới cái gọi là mối quan hệ với những vụ vi phạm nhân quyền liên quan tới đường ống dẫn khí họ đang đồng sở hữu với các công ty Hoa Kỳ Chevron và Tatmadaw. Trước khi bị Chevron thâu tóm, Unocal đã giải quyết một vụ kiện tụng liên quan tới nhân quyền với phí tổn được thông báo lên tới nhiều triệu dollar[27]. Vẫn còn những cuộc tranh cãi sôi nổi về việc liệu các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ có mang lại kết quả trái ngược trên cuộc sống của người dân chứ không phải với những nhà cầm quyền quân sự[28][29]. Các lực lượng vũ trang Myanma được gọi là Tatmadaw, với số lượng 488.000 người[30]. Tatmadaw gồm các lực lượng vũ trang, hải quân và không quân. Myanma được xếp hạng thứ 10 trên thế giới theo số lượng binh lính của mình[30]. Quân đội có nhiều ảnh hưởng trong nước, các vị trí chủ chốt trong chính phủ và trong quân đội đều do các sĩ quan quân sự nắm giữ. Dù những con số chính thức về chi tiêu quân sự của Myanma không được công bố, Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm, trong bảng xếp hạng hàng năm của mình đã đặt Myanma trong số 15 nước chi tiêu quân sự nhiều nhất thế giới[31]. [sửa] Hành chính Bài chi tiết: Hành chính Myanma 14 bang và vùng hành chính tại MyanmaMyanma được chia thành 7 bang và 7 vùng hành chính[32]. Vùng lớn nhất là Bamar (). Các bang (), thực chất, là các vùng sinh sống của một số sắc tộc đặc biệt. Các vùng hành chính được chia nhỏ tiếp thành các thành phố, khu vực và các làng. Các thành phố lớn được chia thành các quận. Tên Thủ phủ Vùng hành chính Vùng Ayeyarwady Pathein Vùng Bago Bago Vùng Magway Magwe Vùng Mandalay Mandalay Vùng Sagaing Sagaing Vùng Tanintharyi Dawei Vùng Yangon Yangon Bang Bang Chin Hakha Bang Kachin Myitkyina Bang Kayin Pa-an Bang Kayah Loikaw Bang Mon Mawlamyaing Bang Rakhine Sittwe Bang Shan Taunggyi Các vùng và bang của Myanma lại được chia thành các huyện (kayaing). Bang Shan là bang có nhiều (11) huyện nhất. Các bang Chin, bang Mon và bang Kayah chỉ có hai huyện mỗi bang. [sửa] Địa lý Bài chi tiết: Địa lý MyanmaMyanma có tổng diện tích 678.500 kilômét vuông (261.970 dặm vuông), là nước lớn nhất trong lục địa Đông Nam Á, và là nước lớn thứ 40 trên thế giới (sau Zambia). Nước này hơi nhỏ hơn bang Texas Hoa Kỳ và hơi lớn hơn Afghanistan. Myanma nằm giữa Khu Chittagong của Bangladesh và Assam, Nagaland và Manipur của Ấn Độ ở phía tây bắc. Nó có đường biên giới dài nhất với Tây Tạng và Vân Nam của Trung Quốc ở phía đông bắc với tổng chiều dài 2.185 km (1.358 dặm)[30]. Myanma giáp biên giới với Lào và Thái Lan ở phía đông nam. Myanma có đường bờ biển dài 1.930 km (1.199 dặm) dọc theo Vịnh Bengal và Biển Andaman ở phía tây nam và phía nam, chiếm một phần ba tổng chiều dài biên giới[30]. Tập tin:Vetinh.jpg Đồng bằng Ayeyarwady, diện tích gần 50.400 km², phần lớn canh tác lúa gạo[33]Ở phía bắc, núi Hengduan Shan tạo nên biên giới với Trung Quốc. Hkakabo Razi, nằm tại Bang Kachin, ở độ cao 5.881 m (19.295 feet), là điểm cao nhất Myanma[34]. Các dãy núi Rakhine Yoma, Bago Yoma và Cao nguyên Shan nằm bên trong Myanma, cả ba đều chạy theo hướng bắc-nam từ dãy Himalaya[35]. Các dãy núi phân chia ba hệ thống sông của Myanma, là Ayeyarwady, Thanlwin và Sittang[33]. Sông Ayeyarwady, con sông dài nhất Myanma, gần 2.170 km (1.348 dặm), chảy vào Vịnh Martaban. Các đồng bằng màu mỡ nằm ở các thung lũng giữa các dãy núi[35]. Đa số dân cư Myanma sống trong thung lũng Ayeyarwady, nằm giữa Rakhine Yoma và Cao nguyên Shan. Đa phần diện tích Myanma nằm giữa Hạ chí tuyến và Xích đạo. Myanma nằm trong vùng gió mùa Châu Á, các vùng bờ biển của nó nhận lượng mưa trung bình 5.000 mm (197 in) hàng năm. Lượng mưa hàng năm tại vùng đồng bằng gần 2.500 mm (98 in), trong khi lượng mưa trung bình hàng năm tại Vùng Khô, nằm ở trung tâm Myanma, chưa tới 1.000 mm (39 in). Các vùng phía bắc đất nước có khí hậu lạnh nhất, nhiệt độ trung bình 21 °C (70 °F). Các vùng duyên hải và đồng bằng có nhiệt độ trung bình 32 °C (90 °F)[33]. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm của Myanma góp phần giữ gìn môi trường và các hệ sinh thái. Rừng, gồm rừng nhiệt đới với loại gỗ tếch có giá trị kinh tế cao ở vùng hạ Myanma, bao phủ 49% diện tích đất nước[36]. Các loại cây khác mọc ở vùng này gồm cao su, cây keo, tre, lim, đước, dừa, cọ. Trên những cao nguyên phía bắc, sồi, thông, và nhiều giống đỗ quyên khác bao phủ đa phần diện tích[36]. Những vùng đất dọc bờ biển có nhiều cây ăn trái nhiệt đới. Tại Vùng Khô, thực vật thưa thớt và còi cọc hơn. Các loại động vật rừng rậm tiêu biểu, đặc biệt hổ và báo có nhiều tại Myanma. Ở vùng Thượng Myanma, có tê giác, trâu rừng, lợn lòi, hươu, linh dương và voi nhà, sử dụng nhiều nhất trong công nghiệp khai thác gỗ. Các loài có vú nhỏ hơn cũng rất nhiều từ vượn, khỉ tới cáo bay và heo vòi. Đáng chú ý là sự đa dạng các loài chim với hơn 800 loài gồm vẹt, peafowl, gà lôi, quạ, diệc và gõ kiến (paddybird). Trong số các loài bò sát có cá sấu, tắc kè, rắn mang bành, trăn và rùa. Hàng trăm loài cá nước ngọt, rất phong phú và là nguồn thực phẩm quan trọng[37]. Năm 1994, đất canh tác 15,3% (2% có tưới), đồng cỏ 0,5%, rừng và cây bụi 49,3%, các đất khác 34,9%. Khoáng sản chính: dầu khí, thiếc, kẽm, antimon, đồng, vonfram, chì, than, đá quý. Thu Do Mien Dien ngay nai : Naypyidaw (tiếng Myanma: , còn viết là Nay Pyi Taw, phát âm như Ne-pi-đô) là thủ đô của Myanma từ ngày 6 tháng 1 năm 2006 tới nay. Thành phố này vốn là làng Kyatpyae ở thị trấn Pyinmana, Vùng Mandalay. Naypyidaw có nghĩa là "Thành phố Hoàng gia" và tên này chỉ được chính thức sử dụng từ tháng 3 năm 2006.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 24, 2010 6:37:35 GMT 9
Kinh tế Bài chi tiết: Kinh tế MyanmaTập tin:Sakur.jpg Tháp Sakura tại Yangon rõ ràng đang trống rỗng vì thiếu đầu tư nước ngoàiMyanma là một trong những nước nghèo nhất thế giới với hàng thập kỷ ở trong tình trạng trì trệ, quản lý kém và bị cô lập. Sau khi một chính phủ nghị viện được thành lập năm 1948, Thủ tướng U Nu đã nỗ lực biến Miến Điện trở thành một quốc gia thịnh vượng. Chính quyền của ông đã thông qua Kế hoạch kinh tế hai năm nhưng tiếc thay đây là một kế hoạch sai lầm[38]. Vụ đảo chính năm 1962 tiếp sau là một kế hoạch phát triển kinh tế được gọi là Con đường Miến Điện tiến tới Chủ nghĩa xã hội, một kế hoạch nhằm quốc hữu hóa mọi ngành công nghiệp, ngoại trừ nông nghiệp. Năm 1989, chính phủ Myanma bắt đầu bãi bỏ kiểm soát tập trung hóa nền kinh tế và tự do hóa một số lĩnh vực kinh tế[39]. Các ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận như ngọc, dầu khí và lâm nghiệp vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Gần đây những ngành này đã được một số tập đoàn nước ngoài liên doanh cùng chính phủ tham gia khai thác. Các loại hàng hóa ở thành thị thường được vận chuyển bởi phu khuân vác, như thấy trong khu phố Tầu tại YangonMyanma bị liệt vào hạng nước kém phát triển nhất năm 1987[40]. Từ năm 1992, khi Than Shwe lên lãnh đạo quốc gia, chính phủ đã khuyến khích du lịch. Tuy nhiên, chưa tới 750.000 du khách tới nước này hàng năm[41]. Các doanh nghiệp tư nhân thường là đồng sở hữu hay thuộc sở hữu trực tiếp của Tatmadaw. Trong những năm gần đây, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nỗ lực phát triển quan hệ với chính phủ nước này vì mục tiêu lợi ích kinh tế. Nhiều quốc gia khác, trong đó gồm cả Hoa Kỳ, Canada và Liên minh châu Âu, đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư đối với Myanma. Đầu tư nước ngoài chủ yếu từ Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ và Thái Lan[42]. Ở thời thuộc địa Anh, Miến Điện là một trong những nước giàu có nhất vùng Đông Nam Á. Đây là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới và là nước cung cấp dầu khí thông qua Công ty Dầu khí Miến Điện. Miến Điện cũng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào. Họ sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới, và dân cư có tỷ lệ biết đọc biết viết cao[43]. Nước này từng được tin tưởng sẽ có tương lai phát triển nhanh chóng[43]. Ngày nay, Myanma thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Trao đổi hàng hóa chủ yếu qua biên giới với Thái Lan, và đó cũng là đầu mối xuất khẩu ma tuý lớn nhất, và dọc theo Sông Ayeyarwady. Đường sắt cũ kỹ và mới ở mức kỹ thuật sơ khai, hiếm khi được sửa chữa từ khi được xây dựng trong thập niên 1800[44]. Đường giao thông thường không được trải nhựa, trừ tại các thành phố lớn[44]. Thiếu hụt năng lượng là điều thường thấy trong nước, kể cả tại Yangon. Myanma cũng là nước sản xuất thuốc phiện lớn thứ hai thế giới, chiếm 8% tổng lượng sản xuất toàn cầu và là nguôn cung cấp các tiền chất ma tuý lớn gồm cả amphetamines[45]. Các ngành công nghiệp khác gồm sản phẩm nông nghiệp, dệt may, sản phẩm gỗ, vật liệu xây dựng, kim cương, kim loại, dầu mỏ và khí ga. Việc thiếu hụt nguồn nhân công trình độ cao cũng là một vấn đề ngày càng tăng đối với kinh tế Myanma[46]. Nông nghiệp chiếm 59,5% GDP và 65,9% lao động. Công nghiệp chế biến chiếm 7,1% GDP và 9,1% lao động; khai khoáng 0,5% GDP và 0,7% lao động; xây dựng 2,4% GDP và 2,2% lao động; thương mại 23,2% GDP và 9,7% lao động; tài chính, dịch vụ và công chính 1,5% GDP và 8,1% lao động. GDP/đầu người: 2.399 USD (1995); GNP/đầu người: 2610 USD (1996). Sản phẩm nông nghiệp chính (1999): lúa 17 triệu tấn, mía 5,4 triệu tấn, đậu 1,9 triệu tấn, lạc 562 nghìn tấn, ngô 303 nghìn tấn, vừng 210 nghìn tấn, bông 158 nghìn tấn. Chăn nuôi: bò 10,7 triệu, lợn 3,7 triệu, trâu 2,4 triệu, cừu và dê 1,7 triệu, vịt 6,1 triệu, gà 39 triệu. Gỗ tròn 22,4 triệu m³ (1998). Đánh bắt cá 917,7 nghìn tấn (1997). Sản phẩm công nghiệp chính: khai khoáng (đồng 14,6 nghìn tấn, thạch cao 40,6 nghìn tấn, chì 1,6 nghìn tấn, thiếc 154 tấn); chế biến (xi măng 513 nghìn tấn, phân hóa học 66 nghìn, đường 43 nghìn; 1996). Năng lượng (1996): điện 4,3 tỉ kW.h, than 72 nghìn tấn, dầu thô 2,8 triệu thùng, khí đốt 1,6 tỉ m³. Giao thông: đường sắt 3955 km (1999-2000), đường bộ 28,2 nghìn km (1996, rải nhựa 12%). Xuất khẩu (1997-98) 5,4 tỉ kyat (nông sản 26,9%, gỗ và cao su 15,7%). Bạn hàng chính: Singapore 13,2%; Thái Lan 11,9%; Ấn Độ 22,6%; Trung Quốc 10,6%; Hồng Kông 5,8%. Nhập khẩu (1997-98) 12,7 tỉ kyat (máy móc và thiết bị vận tải 28,6%, tư liệu sản xuất 48%, hàng tiêu dùng 4,3%). Bạn hàng chính: Singapore 31,1%, Thái Lan 9,8%, Trung Quốc 9,4%, Malaysia 7%. Đơn vị tiền tệ: kyat Myanma. Tỉ giá hối đoái: 1USD = 6,25 kyat (10/2000). [sửa] Nhân khẩu Bài chi tiết: Nhân khẩu Myanma Một tòa nhà chung cư tại khu kinh doanh Yangon, đối diện Chợ Bogyoke. Đa số dân đô thị Yangon sống trong những khu chung cư đông đúcMyanma có dân số khoảng 40 tới 55 triệu người[47]. Con số dân cư hiện tại chỉ là ước tính bởi vì cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc cuối cùng, do Bộ Nội và các Vấn đề Tôn giáo tiến hành, đã xảy ra từ năm 1983[48]. Có hơn 600.000 công nhân nhập cư Myanma có đăng ký tại Thái Lan, và hàng triệu người lao động bất hợp pháp khác. Những công nhân nhập cư Myanma chiếm 80% số lao động nhập cư tại Thái Lan[49]. Mật độ dân số bình quân của Myanma là 75 người trên km², một trong những mức thấp nhất vùng Đông Nam Á. Các trại tị nạn tồn tại dọc theo biên giới Ấn Độ-Myanma, Bangladesh-Myanma và Myanma-Thái Lan và hàng ngàn người khác sống tại Malaysia. Những ước tính thận trọng cho rằng hơn 295.800 người tị nạn từ Myanma, đa số là người Rohingya, Kayin và Karenni[50]. Một em bé thuộc cộng đồng thiểu số Padaung, một trong nhiều dân tộc thiểu số tạo nên dân số MyanmaMyanma rất đa dạng về chủng tộc dân cư. Dù chính phủ công nhận 135 dân tộc khác nhau, con số thực thấp hơn nhiều[51]. Người Bamar chiếm khoảng 68% dân số[52], 10% là người Shan[52]. Người Kayin chiếm 7% dân số[52], người Rakhine chiếm 4%. Người Hoa chiếm gần 3% dân số[53][52]. Người Mon, chiếm 2% dân số, là nhóm người có quan hệ dân tộc và ngôn ngữ với người Khmer[52]. Người Ấn chiếm 2%[52]. Số còn lại là người Kachin, Chin và các nhóm thiểu số khác. Myanma có bốn ngữ hệ chính: Hán-Tạng, Nam Á, Tai-Kadai và Ấn-Âu[54]. Các ngôn ngữ thuộc hệ Hán-Tạng được sử dụng nhiều nhất. Chúng gồm tiếng Myanma, tiếng Karen, Kachin, tiếng Chin và tiếng Hoa. Ngôn ngữ Tai-Kadai chính là tiếng Shan. Tiếng Mon là ngôn ngữ Nam Á chính được sử dụng ở Myanma. Hai ngôn ngữ Ấn-Âu chính là tiếng Pali, ngôn ngữ dùng trong nghi thức của Phật giáo Tiểu thừa và tiếng Anh[55]. Theo Viện Thống kê UNESCO, tỷ lệ biết đọc biết viết chính thức của Myanma năm 2000 là 89,9%[56]. Về mặt lịch sử, Myanma có tỷ lệ biết chữ cao. Nhằm đạt mức đánh giá tình trạng quốc gia kém phát triển của Liên hiệp quốc để được cho vay vốn, Myanma đã hạ thấp mức biết chữ của nước mình từ 78,6% xuống còn 18,7% năm 1987[57]. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ước tính số người biết chữ thực là 30%[52]. Phật giáo tại Myanma chủ yếu là phái Tiểu thừa hòa trộn với những đức tin bản địa. 89% dân số nước này theo Phật giáo Tiểu thừa, gồm người Bamar, Rakhine, Shan, Mon và Hoa. 4% dân số là tín đồ Cơ Đốc giáo, chủ yếu là những cư dân vùng cao như Kachin, Chin và Kayin, và Âu Á bởi vì các nhà truyền giáo thường tới các vùng này. Đa số tín đồ Cơ Đốc giáo là Tin lành, đặc biệt là phái Baptist của Hội nghị Baptist Myanma. 4% dân số theo Hồi giáo, chủ yếu là dòng Sunni[58]. Hồi giáo thường phát triển trong các cộng đồng dân cư Ấn Độ, Ấn Miến, Ba Tư, Ả Rập, Panthay và Rohingya. Những người dân theo Hồi giáo và Thiên chúa giáo không có vị trí quan trọng trong xã hội và thường sống cô lập[58][59]. Một số nhỏ dân cư theo Hindu giáo. [sửa] Văn hóa Bài chi tiết: Văn hóa MyanmaDù có nhiều nền văn hóa bản xứ tồn tại ở Myanma, nền văn hóa chiếm vị trí trọng yếu là Phật giáo và Bamar. Văn hóa Bamar từng bị ảnh hưởng từ các nền văn hóa các nước xung quanh. Nó được biểu hiện qua ngôn ngữ, ẩm thực, âm nhạc, nhảy múa và sân khấu. Nghệ thuật, đặc biệt là văn học, trong lịch sử từng bị ảnh hưởng bởi phong cách Phật giáo tiểu thừa Miến Điện. Nếu coi thiên sử thi quốc gia của Myanma, Yama Zatdaw, là một sự phóng tác theo Ramayana, thì nó đã mang nhiều nét ảnh hưởng lớn từ các văn bản Thái, Mon và Ấn Độ của vở kịch này[60]. Phật giáo cùng sự thờ phụng nat liên quan tới những nghi lễ phức tạp hay đơn giản từ một đền bách thần gồm 37 nat[61][62]. Những người đi tu được kính trọng trên khắp Myanma, đây là một trong những quốc gia có đa số Phật giáo tiểu thừa trên thế giớiTrong các làng Myanma truyền thống, chùa chiền là trung tâm của đời sống văn hóa. Các nhà sư được sùng kính và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng họ. Lễ nhập tu được gọi là shinbyu là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng nhất của một chú bé khi vào chùa tu trong một khoảng thời gian ngắn[63]. Các cô bé cũng có lễ xuyên lỗ tai () khi đến tuổi trưởng thành[63]. Văn hóa Myanma được thể hiện rõ rệt nhất tại những ngôi làng nơi các lễ hội địa phương được tổ chức trong suốt năm, lễ hội quan trọng nhất là lễ chùa[64][65]. Nhiều làng xã ở Myanma có quy ước, các phong tục mê tín và những điều cấm kị riêng. Thời kỳ cai trị thuộc địa của Anh cũng đã để lại một số ảnh hưởng phương Tây trong văn hóa Myanma. Hệ thống giáo dục Myanma theo khuôn mẫu hệ thống giáo dục Anh Quốc. Những ảnh hưởng kiến trúc thuộc địa là điều dễ nhận thấy nhất tại các thành phố lớn như Yangon[66]. Nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Karen ở phía đông nam và người Kachin, người Chin sống ở phía bắc và tây bắc, theo Thiên chúa giáo nhờ công của các nhà truyền giáo[67]. [sửa] Ngôn ngữ Bài chi tiết: Tiếng MyanmaTiếng Myanma, tiếng mẹ đẻ của người Bamar và là ngôn ngữ chính thức của Myanma, về mặt ngôn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc[55]. Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình tròn và nửa hình tròn, có nguồn gốc từ ký tự Mon. Bảng chữ cái này được phỏng theo ký tự Mon, ký tự Mon được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong thập niên 700. Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự được biết tới từ thập niên 1000. Ký tự này cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Tiểu thừa. Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan, nhiều thổ ngữ Karen và Kayah (Karenni); ngoài ra mỗi ngôn ngữ còn có thêm nhiều ký tự và dấu phụ đặc biệt khác[68]. Tiếng Mayanma sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác[64]. Xã hội Myanma truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ. [sửa] Ẩm thực Bài chi tiết: Ẩm thực MyanmaẨm thực Myanma bị ảnh hưởng nhiều từ ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, Thái, và các nền văn hóa ẩm thực của các dân tộc thiểu số khác[69]. Món chủ yếu trong ẩm thực Myanma là gạo. Mỳ và bánh mì cũng là các món thường thấy. Ẩm thực Myanma thường sử dụng tôm, cá, patê cá lên men, thịt lợn và thịt cừu[69]. Thịt bò, bị coi là món cấm kỵ, rất hiếm được sử dụng. Các món cà ri, như masala và ớt khô cũng được dùng. Mohinga, thường được coi là món quốc hồn Myanma, gồm nước luộc cá trê có gia vị cà ri và hoa đậu xanh, miến và nước mắm[70]. Các loại quả nhiệt đới thường dùng làm đồ tráng miệng. Các thành phố lớn có nhiều phong cách ẩm thực gồm cả Shan, Trung Quốc và Ấn Độ. [sửa] Âm nhạc Bài chi tiết: Âm nhạc MyanmaÂm nhạc truyền thống Miến Điện du dương nhưng không hài hòa. Các nhạc cụ gồm một bộ trống được gọi là pat waing, một bộ cồng gọi là kyi waing, một đàn tre gọi là pattala, chũm choẹ, nhạc cụ bộ hơi như hnè hay oboe và sáo, bamboo clappers, và nhạc cụ bộ dây, thường được kết hợp thành một giàn giao hưởng gọi là saing waing[65][63] Saung gauk, một nhạc cụ bộ dây hình chiếc thuyền gồm các dây tơ và thủy tinh trang trí dọc theo thân từ lâu đã đi liền với văn hóa Myanma[71]. Từ thập niên 1950, các nhạc cụ phương Tây đã trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn[72]. [sửa] Tôn giáo Thống kê 1983: Phật giáo 89%, đạo Cơ đốc 4,9%, Hồi giáo 3,8%. [sửa] Xem thêm Ẩm thực Myanma Lịch sử giáo hội Miến Điện Văn học Myanma Âm nhạc Myanma Vận tải tại Myanma [sửa] Ghi chú 1.^ George Aaron Broadwell; Dept. of Anthropology; University at Albany, Albany, NY; truy cập 11 tháng 7, 2006 2.^ An Account of An Embassy to the Kingdom of Ava by Michael Symes,1795. dlxs.library.cornell.edu/cgi/t/text/text-idx?c=sea;cc=sea;view=toc;subview=short;idno=sea328. 3.^ a b c Houtman, Gustaaf (1999). Mental Culture in Burmese Crisis Politics: Aung San Suu Kyi and the National League for Democracy. ISBN 4-87297-748-3. 4.^ “The Constitution of the Union of Burma”. DVB (1947). Truy cập 7 tháng 7 năm 2006. 5.^ Smith, Martin (1991). Burma -Insurgency and the Politics of Ethnicity. London and New Jersey: Zed Books. 42-43. 6.^ “Honoring those who fought for freedom "Golden Anniversary"”. Mainichi Daily News. National Coalition Government of Union of Burma (12 tháng 1 năm 1998). Truy cập 10 tháng 7 năm 2006. 7.^ Aung Zaw. “Can Another Asian Fill U Thant's Shoes?”. The Irrawaddy tháng 9 năm 2006. Truy cập 12 tháng 9 năm 2006. 8.^ “PYITHU HLUTTAW ELECTION LAW”. State Law and Order Restoration Council. iBiblio.org (31 tháng 5 năm 1989). Truy cập 11 tháng 7 năm 2006. 9.^ Khin Kyaw Han (1 tháng 2 năm 2003). “1990 MULTI-PARTY DEMOCRACY GENERAL ELECTIONS”. National League for Democracy. iBiblio.org. Truy cập 11 tháng 7 năm 2006. 10.^ a b “The National Convention”, The Irrawaddy, 31 tháng 3 năm 2004. Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 11.^ “Chính quyền Myanma chuyển sang thủ đô mới”, VietNamNet, 7 tháng 11, 2005. Truy cập 27 tháng 3, 2007. 12.^ “Myanma lần đầu giới thiệu thủ đô mới với thế giới”, VietNamNet, 27 tháng 3, 2007. Truy cập 27 tháng 3, 2007. 13.^ “The Birth Of The NCGUB”. National Coalition Government of the Union of Burma. Truy cập 19 tháng 7 năm 2006. 14.^ Aung Zaw, “Than Shwe—Man in the Iron Mask”, The Irrawaddy. Truy cập 19 tháng 7 năm 2006. 15.^ “Chiefs of State and Cabinet Members of Foreign Governments: Burma”. Central Intelligence Agency (2 tháng 6 năm 2006). Truy cập 11 tháng 7 năm 2006. 16.^ McCain, John (11 tháng 5 năm 2003). “Crisis in Rangoon”. National Review Online. Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 17.^ Brad Adams. “Statement to the EU Development Committee”. Human Rights Watch. Truy cập 11 tháng 7 năm 2006. 18.^ “Internet Filtering in Burma in 2005: A Country Study”, OpenNet Initiative. 19.^ “Burma bans Google and gmail”, BurmaNet News, 27 tháng 6 năm 2006. Truy cập 28 tháng 6 năm 2006. 20.^ “Myanmar: 10th anniversary of military repression”. Amnesty International (7 tháng 8 năm 1998). Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 21.^ The Irrawaddy, “Suu Kyi’s Detention Extended, Supporters likely to Protest”, The Irrawaddy, 2006-05-27. Truy cập 27 tháng 5 năm 2006. 22.^ The Irrawaddy, “Opposition Condemns Extension of Suu Kyi’s Detention”, The Irrawaddy, 2006-05-27. Truy cập 27 tháng 5 năm 2006. 23.^ “About Us”. ASEAN Inter-Parliamentary Myanmar Caucus. Truy cập 9 tháng 7 năm 2006. 24.^ thingy, Khim Shee (2002). “The Political Economy of China-Myanmar Relations: Strategic and Economic Dimensions” (PDF). Ritsumeikan University. Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 25.^ Selth, Andrew (Spring 2002). “Burma and Superpower Rivalries in the Asia-Pacific”. Naval War College Review. Truy cập 16 tháng 7 năm 2006. 26.^ “The EU's relations with Burma / Myanmar”. European Union. Truy cập 13 tháng 7 năm 2006. 27.^ “Dilemma of dealing with Burma”, BBC News, 2004-10-20. Truy cập 2 tháng 11 năm 2004. 28.^ “How Best to Rid the World of Monsters”, Washington Post, 2003-06-23. Truy cập 24 tháng 5 năm 2006. 29.^ “Reuters Belgian group seeks Total boycott over Myanmar”, Ibiblio, Reuters, 1999-05-10. Truy cập 24 tháng 6 năm 2006. 30.^ a b c d CIA Factbook 31.^ Starck, Peter (7 tháng 6 năm 2005). “World Military Spending Topped $1 Trillion in 2004”. Reuters. Common Dreams NewsCenter. Truy cập 19 tháng 7 năm 2006. 32.^ “Administrative divisions”. The World Factbook. Central Intelligence Agency (29 tháng 6 năm 2006). Truy cập 9 tháng 7 năm 2006. 33.^ a b c Thein, Myat (2005). Economic Development of Myanmar. ISBN 981-230-211-5. 34.^ Dr. Patrick Hesp et al., ed (2000). Geographica's World Reference. Random House Australia. 738, 741. 35.^ a b Than, Mya (2005). Myanmar in ASEAN: Regional Co-operation Experience. ISBN 981-230-210-7. 36.^ a b Myanmar's Forest Law and Rules BurmaLibrary.org Truy cập 15 tháng 7, 2006 37.^ "Flora and Fauna" at Myanmars.net 38.^ Watkins, Thayer. “Political and Economic History of Myanmar (Burma) Economics”. San José State University. Truy cập 8 tháng 7 năm 2006. 39.^ Stephen Codrington (2005). Planet geography. Solid Star Press. 559. ISBN 0-9579819-3-7. 40.^ “List of Least Developed Countries”. UN-OHRLLS (2005). 41.^ Henderson, Joan C.. “The Politics of Tourism in Myanmar”. Nanyang Technological University. Truy cập 8 tháng 7 năm 2006. 42.^ Fullbrook, David. “So long US, hello China, India”, Asia Times, 4 tháng 11 năm 2004. Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 43.^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên steinberg 44.^ a b “Challenges to Democratization in Burma” (PDF). International IDEA (tháng November năm 2001). Truy cập 12 tháng 7 năm 2006. 45.^ “Myanmar Country Profile” (PDF). Office on Drugs and Crime trang 5-6. United Nations (tháng December năm 2005). Truy cập 9 tháng 7 năm 2006. 46.^ Brown, Ian (2005). A Colonial Economy In Crisis. Routledge. ISBN 0-415-30580-2. 47.^ “POPULATION AND SOCIAL INTEGRATION SECTION (PSIS)”. UN Economic and Social Commission for Asia and the Pacific. 48.^ “Conflict and Displacement in Karenni: The Need for Considered Responses”. PDF. Burma Ethnic Research Group (tháng May năm 2000). Truy cập 13 tháng 7 năm 2006. 49.^ “Thailand: The Plight of Burmese Migrant Workers”. Amnesty International (8 tháng 6 năm 2006). Truy cập 13 tháng 7 năm 2006. 50.^ “Myanmar Refugees in South East Asia”. PDF. UNHCR (tháng April năm 2006). Truy cập 13 tháng 7 năm 2006. 51.^ Gamanii, “135: Counting Races in Burma”, The New Era Journal. Truy cập 22 tháng 7 năm 2006. 52.^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên statedept 53.^ Mya Than (1997). Leo Suryadinata. ed. Ethnic Chinese As Southeast Asians. ISBN 0-312-17576-0. 54.^ Gordon, Raymond G., Jr. (2005). “Languages of Myanmar”. SIL International. Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 55.^ a b Gordon, Raymond G., Jr. (2005). “Language Family Trees: Sino-Tibetan”. Ethnologue: Languages of the World, Fifteenth edition. SIL International. Truy cập 9 tháng 7 năm 2006. 56.^ “Adult (15+) Literacy Rates and Illiterate Population by Region and Gender for 2000-2004” (XLS). UNESCO Institute of Statistics (tháng April năm 2006). Truy cập 13 tháng 7 năm 2006. 57.^ Robert I Rotberg, ed (1998). Burma: Prospects for a Democratic Future. 58.^ a b Priestly, Harry. “The Outsiders”, The Irrawaddy, 2006-01. Truy cập 7 tháng 7 năm 2006. 59.^ Samuel Ngun Ling (2003). “The Encounter of Missionary Christianity and Resurgent Buddhism in Post-colonial Myanmar” (PDF). Payap University. Truy cập 14 tháng 7 năm 2006. 60.^ “Ramayana in Myanmar's heart”. Goldenland Pages (13 tháng 9 năm 2003). Truy cập 13 tháng 7 năm 2006. 61.^ Temple, R.C. (1906). The Thirty-seven Nats-A Phase of Spirit-Worship prevailing in Burma. 62.^ “The Worshipping of Nats - The Special Festival of Mount Popa”. 63.^ a b c Khin Myo Chit (1980). Flowers and Festivals Round the Burmese Year. 64.^ a b Tsaya (1886). Myam-ma, the home of the Burman. Calcutta: Thacker, Spink and Co.. 36-37. 65.^ a b Shway Yoe (1882). The Burman - His Life and Notions. New York: Norton Library 1963. 211-216,317-319. 66.^ Martin, Steven. “Burma maintains bygone buildings”, BBC News, 30 tháng 3 năm 2004. Truy cập 9 tháng 7 năm 2006. 67.^ Scott O'Connor, V. C. (1904). The Silken East - A Record of Life and Travel in Burma. Scotland 1993: Kiscadale. 32. www.archive.org/details/TheSilkenEast. 68.^ “Proposal for encoding characters for Myanmar minority languages in the UCS” (PDF). International Organization for Standardization (2 tháng 4 năm 2006). Truy cập 9 tháng 7 năm 2006. 69.^ a b Kong, Foong Ling (2002). Food of Asia. Tuttle Publishing. ISBN 0-7946-0146-4. 70.^ “Get a taste of Myanmar’s national dish”, Indo-Asian News Service, PlanetGuru. 71.^ “Postcard of Saung Gauk (arched harp)”. National Music Museum. University of South Dakota (18 tháng 10 năm 2004). Truy cập 15 tháng 7 năm 2006. 72.^ “Myanmar worries as rappers upstage traditional xylophones”, Agence France Presse, BurmaNet News, 28 tháng 9 năm 2005. Truy cập 15 tháng 7 năm 2006.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 5:04:14 GMT 9
Xác chết không nát Thánh Bernadette trong quan tài pha lê. Ảnh: Livingmiracles. Qua đời cách đây 128 năm, thi thể của Thánh Bernadette (Pháp) vẫn còn nguyên vẹn, dù mộ bà đã được khai quật 3 lần vì các nghi lễ tôn giáo. Có những thi thể không bị rữa nát qua thời gian dù không trải qua bất cứ sự can thiệp kỹ thuật nào. Hiện tượng có vẻ đi ngược với quy luật tự nhiên này được gọi là nhục thân bất hoại (incorruptible body). Thánh Bernadette (Lourder, Pháp) là một ví dụ điển hình. Bà qua đời ở tuổi 35. Và 30 năm sau đó (1909), vì một nghi lễ tôn giáo, nhà thờ đã khai quật mộ. Đại diện nhà thờ, bác sĩ phẫu thuật và những người chứng kiến đã vô cùng kinh ngạc khi thấy thi thể của bà vẫn nguyên vẹn, dường như đang trong một giấc ngủ dài. Bác sĩ phẫu thuật Tourdan đã ghi lại những gì ông quan sát được: “Cỗ quan tài của bà được mở ra dưới sự chứng kiến của mọi người trong đó có tôi. Di hài của Thánh Bernadette trong trang phục yêu thích của bà không hề có mùi xú uế. Khuôn mặt, bàn tay và cẳng tay lộ ra bên ngoài. Đầu của bà nghiêng sang một bên, miệng hé mở có thể nhìn thấy hàm răng trắng. Hai tay đặt trên ngực, vẫn giữ được lớp da hoàn hảo”. Gia đình của Thánh Bernadette đã làm lễ tắm rửa, thay quần áo và quan tài cho bà. Di hài của bà được đặt vào một vị trí mới sâu trong nhà mồ. Vào năm 1913, Giáo hoàng Pius 10 phong Thánh cho Bernadette. Điều này đồng nghĩa với việc mộ của bà được mở ra một lần nữa. Việc này bị gián đoạn đến năm 1919 vì cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều kinh ngạc là ở lần khai quật này, di hài của bà vẫn nguyên vẹn. Năm 1925, một lần nữa, Bernadette được Giáo hoàng Pius 11 phong Thánh. Lần thứ ba, mộ bà được mở ra. Di hài được đưa vào một quan tài bằng pha lê cho mọi người chiêm ngưỡng và quàn tại nhà nguyện ở Nhà thờ Lourder cho đến bây giờ. Các tài liệu tôn giáo ghi nhận nhiều trường hợp các vị thánh “nhục thân bất hoại”. Thánh Jean Marie Baptiste Vieanney (1786-1859) được khai quật năm 1904, xác cũng còn nguyên vẹn. Thánh Francis Xavier (1506-1552) được chôn cất tại một đảo ở Trung Quốc trong quan tài bằng gỗ. Khoảng 2 tháng rưỡi sau, người ta khai quật mộ ông để di chuyển, thấy thánh thể vẫn như lúc sống. Hiện nay di hài 400 năm tuổi của ông vẫn còn nguyên và được lưu giữ tại Goa (Ấn Độ). Hiện tượng nhục thân bất hoại không chỉ được ghi nhận trong Thiên chúa giáo, mà còn xuất hiện nhiều đạo khác như Phật giáo, Hindu. Mộ đại sư Itigelove (1852-1927, Siberia, Liên bang Nga) được khai quật năm 2002 đã gây kinh ngạc. Nhục thân của ông liệm trong lớp vải lụa, quàn trong một quan tài bằng gỗ tuyết tùng, chôn dưới huyệt mộ. Khi khai quật, thi thể của ông vẫn còn nguyên, da dẻ mịn màng, các khớp xương vẫn mềm mại có thể co duỗi được. Hiện nay, xác của ông đang được lưu giữ tại Ivogisky Datsan. Phương pháp tự biến thành xác ướp mà không hề sử dụng bất cứ kỹ thuật nào được ghi nhận tại Nhật Bản với cái tên Sokushibutsu. Các nhà tu hành sẽ luyện chế độ ăn uống, tu hành đặc biệt. Họ chọn ngày giờ để viên tịch và chỉ dẫn cách, nơi tống táng bản thân. Ở vùng Yamagata (Bắc Nhật Bản) có khoảng 16-24 xác “tự ướp” được tìm thấy. Khoa học đang tìm lời giải Các tài liệu tôn giáo nhìn chung đều cho rằng hiện tượng các vị thánh, cao tăng đạt tới nhục thân bất hoại là do sức mạnh siêu nhiên, hoặc tu luyện đến độ gột rửa sạch mình đến mức cơ thể không thể bị phân hủy. Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu hiện tượng này, nhưng theo một hướng khác. Một giả thiết được đưa ra là trong những điều kiện môi trường, vật chất khá đặc biệt (như nhiệt độ, độ ẩm, yếm khí), vi khuẩn bị tiêu diệt làm quá trình phân rã theo tự nhiên không thể thực hiện. Bằng chứng mà các nhà khoa học đưa ra là xác ướp tự nhiên 5.000 năm tuổi của một người đàn ông Celt tìm thấy trên dãy Apls (Áo). Xác ướp nguyên vẹn do vô tình được bảo quản bởi lớp băng giá trên đỉnh núi cao. Hoặc những xác ướp của người và động vật có độ tuổi 5.500 năm, được tìm thấy trong các vùng đầm lầy tại Bắc Âu, Anh Quốc, Ireland, còn nguyên do môi trường đầm lầy có tính acid, yếm khí, vô hình trung đã tiêu diệt vi khuẩn. Giới khoa học Nga đang sử dụng các phương tiện phân tích hiện đại nhất để tìm hiểu hiện tượng bất hoại của đại sư Itigelov. Họ giả thiết rằng, có thể trong quá trình tu hành, khổ luyện, ông đã sử dụng những loại hóa chất có sẵn trong tự nhiên, theo một trình tự bí mật nào đó trong ăn uống hằng ngày để “gột rửa” sạch cơ thể. Và vì thế xác của ông không bị phân hủy dù trong điều kiện bình thường. Để chứng minh được giả thiết này, các nhà khoa học cần rất nhiều tài liệu liên quan đến quá trình tu luyện của các đại sư, nhưng điều này luôn được giữ tuyệt mật và gần như người thường không thể tiếp cận. Cho đến nay, chưa có cơ sở nào để giải thích hiện tượng nhục thân bất hoại. Hiện tượng này đang bị bao phủ bởi một bức màn kỳ ảo, và tất cả vẫn đang là giả thiết. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 28, 2010 5:08:32 GMT 9
Vàng lếch “chợ tình” di dân Gần đây, người Tây Bắc rỉ tai nhau, ở Vàng Lếch (thuộc huyện Mường Nhé - Điện Biên) có chợ tình vào mỗi chủ nhật. Khắp mạn ngược này, xưa nay chỉ nghe chợ tình Khâu Vai (Hà Giang) họp vào cuối tháng 3 hằng năm, chưa nghe nhắc đến chợ tình Vàng Lếch bao giờ... Sáng chủ nhật, chúng tôi phóng xe từ trung tâm huyện Mường Nhé, thả mấy ngọn đèo Lò Xo trên 50km để quay về Trà Cang - Si Sa Phìn. Từ cây cầu Nậm Pô, có con đường đất chạy men sườn đồi, chừng 12km là tới Vàng Lếch... Cái chợ lưu lạc Trên các rẻo cao Tây Bắc, những chợ phiên lớn được nhắc đến nhiều như: Sa Pa, Bắc Hà, Đồng Văn, Mèo Vạc... Những chợ phiên, từ chỗ mua bán trao đổi hàng hoá cho đến giao lưu tình cảm của người miền cao bản địa đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho những nhà kinh doanh du lịch. Nhưng Vàng Lếch là một chốn lạ. Một kiểu chợ phiên tự phát ít ai biết và nhờ thế chưa từng bị bê-tông xen vào, tất cả giữ được nét nguyên sơ khó cưỡng. Người Mông từ trên những rẻo đồi cao của các bản: Nậm Tin, Vàng Lếch, Hội Trá, Nà Hài, Tàng Gio, Hội Tăng... đổ về như những dòng suối thổ cẩm muôn màu. Trên con đường đầy bụi đỏ, chốc chốc lại thấy những chàng trai Mông chở người tình vội vã vượt đèo, cô gái tay ôm chiếc cassette đời cũ, má ửng đỏ; trên dốc, bọn trẻ lóc nhóc chia nhau một cây mía dài hay một que kem trên đường đi chợ về, mấy bà già cõng cả gánh củi như cõng nguyên một bầu trời về chợ... Những hình ảnh ấy toát ra từ không khí, tinh thần chợ phiên truyền thống dần cuốn hút chúng tôi lặn vào đám đông ngập tràn những làn sóng hoa văn thổ cẩm xôn xao một ngọn đồi. Chưa đến mười gian lán nhỏ lợp tre, bạt tạm bợ nhưng có khi khúc quanh con đường này ngập trong sắc thổ cẩm, có hôm chen chân không lọt. Vàng Vềnh (37 tuổi) đứng tựa vào vách nứa, phả khói mù một khoảng trước mặt bảo, đây là cái chợ theo người Mông lang thang. Không có cái chợ phiên là thiếu cả hồn vía. Thế nên, cứ đến sáng chủ nhật, không ai lên nương cả, con gái phải mặc vào những bộ đồ đẹp nhất, bà già phải gùi con gà, gánh rau, thanh niên dắt ngựa, ôm máy hát đi chợ... “Cả tuần mình đi làm nương khổ rồi. Cuối tuần về chợ chơi mà. Cả người ở xa chợ nhất là bản Nậm Tin 1, ở trên núi cao (cách 5km) cũng đi bộ xuống chợ chơi đó mà!”- Vềnh nói. Chợ cái nuôi tình Năm 1994-1996 có nhiều bản Mông di dân từ Lào Cai sang Điện Biên, chủ yếu tập trung vào vùng Trà Cang - Mường Nhé (trước đây là Mường Tè). Chợ phiên Vàng Lếch chỉ được họp trong vòng khoảng 2 năm nay sau khi người Kinh ở mạn ngược mở một vài lán nhỏ bán hàng vào mỗi chủ nhật... Sau mỗi mùa thu hoạch rẫy nương, một phiên chợ của người Mông Hoa thường mang lại nhiều giác quan: từ hương thơm của nồi thắng cố, đến chén rượu ngô ngất ngất say và nụ cười tươi tắn, ánh mắt đưa duyên, đợi chờ của những thiếu nữ hay sự trầm ngâm đáy mắt những người già... Ít thấy cảnh cãi cọ và thêm bớt. Người Mông nuôi được con gà lớn “đến tuổi đi chợ” thì đan rọ, bồng đi chợ bán. Con gà giá năm mươi ngàn, nếu có ai đó trả giá bốn mươi chín ngàn chín trăm đồng cũng không bán, mà ôm con gà về nhà nuôi tiếp đến buổi chợ sau lại mang ra bán. Và lạ nữa là hiện nay nhiều người Mông đi chợ vẫn chưa làm được tính cộng. Có hai vợ chồng ông lão người Mông nọ gom góp trong chuồng được năm mươi quả trứng gà, dùng lá tranh tết lại. Mỗi tết mười trứng. Khi bán, người mua phải tay này nhận trứng đồng thời tay kia đưa tiền. Cứ thao tác đủ như thế dù số tiền của mỗi tết trứng là bằng nhau. Chợ phiên, nhờ thế lại càng đông vui và kéo dài từ sáng đến xế chiều. Nghe nói hôm trời mát, thanh niên uống rượu tìm được người yêu, trên đường về bản xa có thể rủ nhau cùng về, tình tự và hẹn hò phiên chợ sau. Người Mông xem chuyện tình dục khá thoáng, họ xem đó là những giao lưu tình cảm đầy thiêng liêng và đáng chia sẻ, không sở hữu. Người đàn ông Mông ở Lào Cai, bạn của một hướng dẫn viên du lịch kể rằng, vợ ông ta có năm người con của năm mặt “tác giả” khác nhau. Nhưng ông ta vẫn lấy làm tự hào vì “con mái đẹp thì nhiều con trống theo”... Chuyện vợ chồng như thế, thì chuyện tình tự trên đường về sau những phiên chợ của những cô gái, chàng trai Mông tuổi mới lớn là chuyện thuộc về cảm xúc hoang dã, nguyên sơ không gì có thể cầm buộc. Vì thế những phiên chợ càng thêm bồng bềnh, phiêu diêu. Chả trách khi thấy một phiên chợ mới của người Mông được họp nên, nhiều người bảo ngay đó là chợ tình. Vàng Lếch - chợ tình di dân là trường hợp như thế. Người tình Vàng Lếch Xế chiều, trên chái tranh đỉnh đồi, cô gái Mông tựa cột nhìn buổi chợ vãn như chờ đợi một người bạn để đường về bản không quá xa. Những bà mẹ gùi con và mớ thức ăn mua được nối đuôi nhau lên đồi. Những đứa trẻ tóc sém nắng chân trần từ nhỏ đã quen sương gió, món quà của chúng là những que kem và mấy lóng mía lót dạ trên con đường về bản đất đỏ, bụi mù... Đến, để hiểu hơn trong ánh mắt đưa tình của thiếu nữ Vàng Lếch sau buổi chợ có niềm hy vọng rạo rực và nỗi buồn thăm thẳm từ những cuộc du cư không ngừng của dân tộc Mông hơn ba trăm năm qua... Chúng tôi đã đến tìm gặp trong ánh mắt Vàng Lếch một câu hò hẹn để nẻo về nhà không còn xa. Mong cho cô gái tựa cột chờ đợi trên đồi cao sẽ bắt gặp được ánh mắt người tình. Sưu tầm
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 31, 2010 9:19:23 GMT 9
Cảm Tưởng Về Chuyến Du Lịch Qua Một Nước Hồi Giáo
Trần Bình Nam Chúng tôi, một đoàn du khách 22 người từ nhiều tiểu bang khác nhau ở Hoa Kỳ, hẹn gặp nhau tại phi trường John F. Kennedy (JFK Airport) ở New York để cùng đáp chuyến bay số 84 của hãng Delta Aitlines cất cánh lúc 10:35 tối ngày 25/11/2010 đi Cairo, thủ đô của Ai Cập. Người Pháp gọi là “Le Caire”. Máy bay đáp xuống phi trường Cairo lúc 4:25 chiều hôm sau, tổng cộng 12 giờ bay cộng với 7 múi giờ cách biệt giữa New York và Cairo. Ông Trần Chính, chủ nhân của công ty du lịch Voyages Saigon Inc. tại Orange County đích thân hướng dẫn. Cairo nằm trên hữu ngạn sông Nile, trước khi tẽ ra nhiều nhánh như rẽ quạt mang phù sa thượng nguồn về thành lập một vùng châu thổ phì nhiêu, cái nôi của nền văn minh Ai Cập cổ đại kéo dài hơn 5000 năm và là vựa lúa nuôi dân Ai Cập hôm nay. Đáy của châu thổ sông Nile áp với bờ biển đông nam Địa Trung hải gần miền Trung Đông, nơi manh nha văn minh nhân loại, trước cả nền văn minh lâu đời của Trung quốc, và là nơi diễn ra những cuộc tranh chấp giữa các nền văn minh Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Ai Cập nằm trong lục địa châu Phi, nhưng có nhiều sắc thái của một nước Cận đông hơn là sắc thái Phi châu của người da đen. Phía đông giáp Do Thái, Hồng Hải, và giải đất Gaza. Phía nam giáp Soudan, phía Tây là Lybia và phía bắc là Địa Trung Hải. Ai Cập có 75 triệu dân, theo đạo Hồi hệ phái Sunni 84%, 13.5 % theo Thiên chúa giáo chính thống, 1.4% theo Thiên chúa giáo La Mã. Ba thành phố lớn là thủ đô Cairo 6.7 triệu dân, Alexandria 4.0 triệu dân và Port Said 570.000 dân. Ai Cập là một nước có một nền văn minh lâu đời nhất thành hình như một quốc gia do người Ai Cập tự cai quản cách đây 5000 năm và kéo dài gần 2.700 năm qua 31 triều đại nối tiếp nhau cho đến năm 332 trước công nguyên (332 B.C.). Thời gian 2.700 năm này được chia thành 3 thời đại rõ nét: Cổ đại (Old Kingdom), Trung Cổ (Middle Kingdom) , và Tân cổ (New Kingdom). Thời Cổ đại là thời kỳ người Ai Cập xây dựng các Kim tự tháp. Thời Trung cổ họ phát triển điêu khắc. Thời đại Tân Cổ là thời đại người Ai cập thiết lập đế quốc và cũng là thời đại người Do Thái ồ ạt di cư đến Ai cập. Vào thế kỷ thứ 7 BC người Assyrian (một đế quốc nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates hiện nay) xâm lăng Ai Cập và năm 525 BC Ba Tư (Iran ngày nay) thiết lập một đế quốc tại đó. Đến năm 332 BC Alexander Đại đế từ Macedon (bây giờ là Cộng Hòa Macedonia, ở phía bắc Hy Lạp, trước đây là một phần của lãnh thổ Nam Tư) chiếm Ai Cập Năm 30 BC người La mã đến và cầm quyền cho đến năm 395 sau Công nguyên (395 AD). Khi giáo hội Thiên chúa giáo chia thành 2 trung tâm quyền lực, Ai Cập nằm dưới sự quản trị của trung tâm Constantinople. Năm 313 AD vua Constantine cho phép Ai Cập thành lập giáo hội riêng gọi là Giáo hội Thiên chúa giáo Ai Cập (Coptic Church). Từ thế kỷ thứ 7 người A Rập chiếm Ai Cập và biến Ai Cập thành một vùng nói tiếng Arabic, hầu hết theo đạo Hồi trải qua các triều đại của các ông vua Umayyad , Abbasid, Fatimid , Mamluks kéo dài cho đến thế thế kỷ thứ 16. Năm 1517 Ai Cập trở thành một phần của đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ cho đến năm 1914 ngưòi Anh chiếm Ai Cập. Năm 1922, bốn năm sau khi Thế chiến I chấm dứt người Anh thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến tại đó và trao trả độc lập cho Ai Cập một cách hình thức. Vị vua bù nhìn cuối cùng là vua Farouk lên ngôi năm 1936 lúc mới 16 tuổi . Năm 1952 tướng Mohammed Naguib lật đổ vua Farouk. Năm sau đại tá Nasser (Gamal Abdul) lên thay và trở thành lãnh tụ uy tín của khối Hồi giáo dựa vào lập trường chống Tây phương và nghiêng về chế độ xã hội trong cuộc chiến tranh lạnh. Năm 1958 cùng với Syria đại tá Nasser thành lập nước A Rập thống nhất. Đại tá Nasser phát động cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967 đánh Do Thái nhưng thất bại làm Ai Cập mất bán đảo Sinai. Năm 1970 Nasser qua đời, Anwar Sadat thay thế và năm 1973 tấn công Do Thái để giành lại bán đảo Sinai, nhưng cũng không thành công. Năm 1979 Anwar Sadat thay đổi thái độ chính trị, và do tổng thống Jimmy Carter làm trung gian dàn xếp, thương thuyết với Do Thái. Kết quả là thỏa ước hòa bình Ai Cập – Do Thái ký tại Camp David công nhận Do Thái để đổi lấy bán đảo Sinai (dự trù trao trả lại vào năm 1982). Từ phi trường Cairo về thành phố, sông Nile uốn khúc, trong xanh. Mặt nước phẳng lờ hiền lành như sông Hương giang. Ai Cập và sông Nile là một. Không có sông Nile thì không nền văn minh Ai Cập 5000 năm trước, với Kim tự tháp, đền đài lăng tẩm, và cũng không có Ai Cập hôm nay. Sông Nile dài 6650 km là con sông dài nhất thế giới (sông Cửu Long dài 4350 km đứng thứ 10 trong những con sông dài hơn 1000 km) và là con sông lớn duy nhất trên thế giới chảy từ phía Nam đổ ra biển ở phương Bắc. Mùa mưa nước từ từ dâng lên mang phù sa tấp hai bên bờ và tạo một châu thổ lớn phì nhiêu nhìn ra Địa Trung Hải. Các thành phố và đền đài thành quách, Kim tự tháp của Ai Cập đều tụ họp chung quanh hai bờ sông Nile kéo dài từ thành phố Cairo đến thành phố Abu Simbel sát biên giới Soudan, còn lại là cát và cát của sa mạc Sahara phía đông ra tân Hồng Hải và phía Tây ngút ngàn đến biên giới Lybia. Sông Nile tạo nên vựa lúa của Ai Cập như sông Cửu Long đối với Việt Nam, nhưng khác ở chỗ sông Cửu Long nước đục và nước dâng vào mùa mưa không nhịp nhàng như sông Nile. Từ ngàn xưa vào mùa nước lên nông dân ngưng đồng áng, và các vua chúa trưng dụng nhân công để xây dựng đền đài. Nước sông dâng lên gíúp thuyền bè đến lấy đá từ các núi đá và chở đển các vùng xây dựng. Chuyến bay số 84 bay theo một vòng tròn lớn băng qua Canada, Bắc Hải, Băng Đảo (Iceland), Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp, Địa Trung Hải trước khi đáp xuống Cairo. Trời cuối thu ngày ngắn thành phố đã nhấp nháy lên đèn. Nhìn chung, thành phố xây cất hổn độn và đa số nhà cửa còn dang dở. Gió mang cát từ sa mạc chung quanh phủ lên thành phố một lớp bụi cát. Cairo do vua Menes xây dựng từ năm 3100 BC. Khi người Hy Lạp chiếm Cairo họ đóng bản doanh phía tây ngạn sông Nile phía nam trung tâm Cairo 15 km và đặt tên là Memphis. Hai ngày đầu ở Cairo chúng tôi đi thăm các công trình xây cất chung quanh thành phố gồm vùng lăng mộ Sakkara ở Memphis chôn vùi dưới cát trong suốt 2000 năm trước khi các nhà khảo cổ Âu châu phát hiện và biến thành một trung tâm du lịch. Công trình nổi bật của Sakkara là Kim tự tháp bậc thang mộ của vua Djoser (2668 – 2649 BC) thuộc vương triều thứ 3 do kiến trúc sư Imhotep xây cất. Rải rác dọc sông Nile từ Cairo về hướng nam có hằng trăm kim tự tháp lớn nhỏ mồ chôn của các vua chúa, hoàng hậu, hòang thân quốc thích của nhiều triều đại. Vĩ đại nhất là 3 Kim tự tháp trong sa mạc Giza gồm Kim tự tháp của vua Khufu, Khaefra và Menkaue và một Nhân Sư (Sphinx) khổng lồ xây dựng từ thế kỷ thứ 26 BC. Kim tự tháp Khufu là một trong 7 kỳ quan thế giới. Du khách nào trước khi đến Ai Cập cũng từng nghe các Kim tự tháp Ai cập vĩ đại và huyền bí như thế nào. Nhưng khi đứng trước chúng chúng ta không khỏi có một cảm giác ngây ngất kỳ lạ làm ngưng đọng suy tưởng của chúng ta. Trời đất bỗng mênh mông hơn, con người nhỏ bé hơn, và kẻ kiêu căng nhất cũng phải chùn lòng thấy sự kiêu căng của mình là vô nghĩa . Một du khách trong đoàn đã cảm hứng: Nhìn Kim tự tháp đứng uy nghi Lòng khách viễn du nghĩ ngợi gì? Tượng tháp huy hoàng khi đắc thế Đền đài hoang phế lúc suy vi Công lao nước mắt người nô dịch Thành tích mồ chôn kẻ trị vì Dâu bể khác nào cơn gió thoảng Kìa bao danh lợi có còn chi! ĐBC Chữ viết của cổ Ai Cập cũng là một trong những huyền bí khác. Ngày hôm nay Ai Cập dùng chữ Arabic. Nhưng từ ngàn xưa họ có một thứ chữ viết gọi là Hyeroglyphic do các nhà trí thức Ai Cập (gọi là Scribers) sáng chế gồm các hình vẽ tạo nên theo âm thanh. Vào thế kỷ thứ 1 AD khi Thiên chúa giáo du nhập vào Ai Cập các tu sĩ Thiên chúa giáo dùng mẫu tự Hy Lạp để viết tiếng Ai Cập với mục đích rao giảng Tân ước và Cựu ước. Vào thế kỷ thứ 5 AD khi người A Rập xâm chiếm Ai Cập, chữ Hyeroglyphic biến mất. Một bản văn bằng chữ Hyeroglyphic được tìm thấy tại đền thờ nữ hoàng Isis vợ vua Osiris (380 – 343 BC) trên đảo Philae ở Aswan và do nhà khảo cổ Pháp Jean Francois Champollion giải mã năm 1824. Từ Cairo chúng tôi bay đi Luxor cách Cairo 700 km về phía nam nằm trên bờ đông sông Nile. Luxor, tiếng A rập có nghĩa là “lâu đài” là nơi có nhiều di tích lịch sử nhất của Ai Cập, được xây dựng khoảng năm 2000 BC và có đền thờ vua Amontohap III trị vì Ai Cập vào thế kỷ thứ 15 BC. Đền thờ vua Amontohap III được xem là nơi linh thiêng nhất, các vua chúa Ai Cập về sau thường phải vào đó để chính thức xưng vương. Dưới triều vua Ramses đệ nhị (Ramses II) thuộc vương triều thứ 19 (1279-1212 BC) Luxor là thủ dô của một dế quốc Ai Cập thịnh vượng 1000 năm kéo dài từ sông Euphrates (bây giờ thuộc Iraq) sang tận Nubia (nam Ai Cập) có rất nhiều di tích lịch sử và là một nguồn phong phú để nghiên cứu lịch sử Ai Cập. Theo nhà khảo cổ Champollion nghệ thuật điêu khắc Ai Cập dường như đã được bắt nguồn tại Luxor. Bên kia sông Nile đối diện vơi Luxor là “Thung lủng các nhà vua” (Valley of the Kings) gồm lăng tẩm của các vua Seti II, Ramses III và Ramses IV. Các nhà khảo cổ tin rằng trong khối núi đá khổng lồ của thung lũng còn nhiều mồ chôn các vua chúa và vương hầu Ai Cập. Cuộc đào xới đang được tiếp tục trước mắt du khách. Từ Luxor chúng tôi xuống du thuyền xuôi nam dọc giòng sông Nile. Du thuyền có đầy đủ tiện nghi, phòng ngủ rộng rãi, thức ăn tuyệt hảo, sân thượng mênh mông với quầy rượu, hồ bơi, ghế ngồi ghế nằm ngắm cảnh dưới ánh nắng mặt trời mùa Thu dịu dàng. Giòng sông phẳng lặng trong veo, hiền từ như “nữ tu sĩ” cứ thế đưa chúng tôi vào trái tim của Ai Cập. Hai bên bờ sông chà là, ruộng vườn, nhà cửa nhấp nhô thanh bình và sung túc. Du thuyền cặp bến Esna cách Luxor 50km đế lấy hành khách trước khi đến Edfu cách Esna 40km. Edfu tọa lạc trên bờ Tây sông Nile có đền Horus thời đại Hy-La có khắc nhiều văn bản cho biết lịch sử và sự hưng thịnh của các vương triều và văn minh Ai Cập thời Ptolemaic (304 – 30 BC). Du thuyền tiếp tục xuôi nam qua vùng núi đá Gebel Silsika trên một khúc sông rộng uốn khúc nên thơ đưa chúng tôi đến Kom Obo thăm đền Kom Obo và thành phố Aswan. Đền Kom Obo là một đền đôi gồm hai đền nằm trong một kiến trúc chung. Một đền thờ thần cá sấu Sobek và một đền thờ thần chim ưng Horoeris. Bên trong đền thờ là các hình chạm trổ dụng cụ y khoa của nền mổ xẻ cổ đại Ai Cập. Aswan ở phía nam Kom Obo 20km có đập Aswan nổi tiếng thế giới xây cất trong hai thập niên 1960 và 1970 bởi đại tá Nasser, một người hùng của Ai Cập được nhân dân Ai Cập kính mến. Đập Aswan là đối tượng tranh chấp giữa hai khối Tự do – Cộng sản trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong khi xây cất các nước tây phương (Anh, Pháp, Mỹ) không bằng lòng với chính sách thiên tả của Nasser đã ngưng viện trợ, Nasser nhờ viện trợ của Liên bang Xô viết tiếp tục xây cất. Tại đó hiện còn một đài ghi dấu sự hợp tác giữa Liên bang Xô viết và Ai Cập. Đập Aswan hoàn thành sản xuất điện lực giúp phát triển kỹ nghệ vùng nam Ai Cập và điều hòa lưu lượng sông Nile ở hạ nguồn. Nước sông Nile bị đập ngăn lại tạo thành một cái hồ nước ngọt nhân tạo lớn nhất thế giới (hồ Nasser) trải dài 230 km từ Aswan đến Abu Simbel sát biên giới Soudan. Hồ Nasser tràn ngập một số di tích và thế giới Tây phương đã giúp Ai Cập dời đến chỗ cao hơn như đền thờ trên đảo Philae (tại Aswan) được dời qua đảo Agikila và đền Abu Simbel. Đền Philae được xây cất thời Hy-La trong thế kỷ thứ 4 BC thờ hoàng hậu Isis (vợ vua Osiris – vua Osiris có đền thờ trên đảo Biggeh gần đó). Aswan là cổng chiến lược phía nam của Ai Cập cổ đại. Các vua chúa Ai Cập đã chinh phục và chiếm đất của người Nubia kéo biên giới đến tận Abu Simbel cách Aswan 230 km, sát biên giới Soudan. Sáng sớm ngày 3/12 chúng tôi đáp máy bay đi Abu Simbel. Đền Abu Simbel tôn vinh vua Ramse II và hoàng hậu Nefertari nguyên được tạc trong núi đá khối và bị cát chôn vùi không ai biết trong nhiều thế kỷ cho đến năm 1817 nhà mạo hiểm Belzoni (Giovanni Battista – người Ý) nhân đi tìm châu báu khám phá ra. Vào thập niên 1960, 1970 nước hồ Nasser de dọa tràn ngập đền Abu Simbel và thế giới đã giúp đỡ cắt đền ra từng mảnh ráp lại một điạ điểm mới (nơi chúng tôi đến thăm). Đền Abu Simbel tiểu biểu bởi 4 bức tượng khổng lồ của vua Ramses II ở lối vào hướng chếch Đông. Bên trong là môt hành lang nhỏ dài 60 mét chấm dứt bằng 4 bức tượng nhỏ của thần Ptah, thần Amon-Re, vua Ramses II và thần mặt trời Re-Horakhty. Hành lang được kiến tạo để ban ngày và quanh năm bên trong tranh tối tranh sáng, ngoại trừ một năm hai lần vào hai ngày Hạ chí 21/6 và Đông chí 21/12 khi mặt trời vừa mọc có một thời gian chừng vài phút mặt trời chiếu thẳng vào hành lang rọi sáng 3 bức tượng Amon-Re, Ramses II và Re-Horoakhty, nhưng vẫn để thần Plah trong bóng tối. Lối xây cất chứng tỏ người Ai Cập hơn một ngàn năm trước đã có những hiểu biết chính xác về thiên văn và sự đổi chỗ của mặt trời trên bầu trời trong năm. Chiều cùng ngày chúng tôi đáp máy bay trở về Cairo và sáng hôm sau đi viếng thành phố Alexandria. Alexandria do Alexander Đại đế xây cất năm 332 BC. Alexandria trở thành trung tâm kinh tế, quân sự và văn hóa của Ai Cập trong suốt 500 năm, và là trung tâm phát triển và truyền bá Thiên chúa giáo tại Ai Cập trong thế kỷ thứ 3 AD. Hiện Alexandria có lăng vua Ceasar và mộ Alexander Đại đế và khu nghĩa địa của người Roman gọi là Catacomb ở Kom-el-Shukafa. Trong thời kỳ hưng thịnh Alexandria có thư viện lớn nhất thế giới, có đèn pha Pharos cao 140 mét bằng đá cẩm thạch. Vật đổi sao dời. Ceasar đốt thư viện để dẹp tàn tích của Muslim. Đèn pha sụp đổ bởi một trận động đất vào thế kỷ thứ 14. Trở về Cairo, đoàn du khách chúng tôi có dịp quan sát đời sống của người Ai Cập tại khu chợ Khan al-Khalili. Cảnh sát du lịch (Tourist Police) hiện diện khắp nơi. Sinh hoạt thương mãi nhộn nhịp. Chúng tôi thấy nhiều du khách gốc Á châu (Đại Hàn, Trung quốc, Nhật Bản) hơn là người da trắng Tây Phương. Phái nam len lõi vào các lối nhỏ “window shopping” và chụp hình trong khi các bà mua bán. Chúng tôi có dịp vào “Naguib Mahfouz Coffee Shop” trong một ngỏ hẽm của khu chợ, nơi nhà văn nổi danh Naguib Mahfouz người được giải văn chương Nobel năm 1988 thuở sinh thời từng đến uống cà phê gặp bạn bè và văn hữu. Là một nước theo Hồi giáo nhưng người phụ nữ được tự do trang phục khi đi ra ngoài. Đa số choàng khăn kể cả phụ nữ theo Thiên chúa giáo cho chúng tôi thấy choàng khăn (ít nhất đối với Ai Cập) là một văn hóa chứ không nhất thiết là một ràng buộc của tôn giáo. Điều kỳ lạ là chúng tôi thấy phụ nữ với khăn choàng trông khả ái hơn phụ nữ đầu trần. Trên đường phố Ai Cập khăn choàng trở thành một vật dụng trang sức của phụ nữ. Số phụ nữ mặc tuyền đen, bịt mặt chỉ chưa đôi mắt rất ít và đó là sự chọn lựa của họ. Các cô sinh viên trẻ tuổi tụ tập nhau tại quảng trường lớn trước khu chợ trao đổi chuyện trò và chụp hình với khách du lịch một cách thoải mái tự nhiên. Các cô chia nhau kẹo bánh ríu rít cười đùa. Ai Cập là quốc gia Hồi giáo đang ở thế bản lề làm trung gian trong cuộc chiến tranh chống khủng bố của Hoa Kỳ và thế giới Tây phương. Chính sách bản lề này do tổng thống Anwar Sadat thực hiện sau khi ký thỏa ước hòa bình với Do Thái. Vì thỏa ước hoà bình này năm 1981 tổng thống Sadat bị các thành phần Hồi giáo qúa khích giết trong một cuộc diền binh tại Cairo. Thỏa ước hòa bình vẫn tồn tại sau khi tổng thống Hosni Mubarak thay thế Sadat. Ông Mubarak năm nay 82 tuổi vẫn còn cầm quyền. Thế giới đang lo nếu ông không sắp xếp một sự chuyển quyền ổn thỏa, sự ra đi của ông có thể tạo ra sự bất ổn định tại Trung đông. Trên đường ra phi trường trở về Hoa Kỳ chúng tôi dừng chân thăm mộ tổng thống Anwar Sadat chôn tại một quảng trường ngay trước khán đài nơi ông bị hạ sát. Mộ chôn là một Kim tự tháp nhỏ lóng lánh đèn ngủ sắc. Qua chuyến du hành Ai Cập cá nhân tôi (và nhiều bạn khác trong đoàn) thấy có cảm tình với nhân dân Ai Cập mặc dù có bận tâm đối với cuộc chiến tranh chống khủng bố do thái độ quá khích của một thành phần tín đồ Hồi giáo. Chúng tôi thấy có thể hòa mình vào sinh hoạt của người bản xứ, cảm thấy gần gũi và không lo sợ. Cơ quan phụ trách du lịch của chính phủ Ai Cập có cho cảnh sát thường phục vũ trang bảo vệ ngầm chúng tôi khi di chuyển bằng xe coach, hoặc khi đi thăm các khu di tích. Trên đường từ phi trường Cairo đến khách sạn và ngược lại có xe vũ trang hộ tống. Tôi nghĩ đó chỉ là sự bảo vệ hình thức để làm yên lòng du khách nhất là du khách người da trắng hơn là một sự bảo vệ hữu hiệu. Sự đe dọa du khách ở nước nào cũng có! Trong một cuộc tranh chấp hai bên cách ly nhau, sợ nhau, nghi ngờ lẫn nhau thì sự căng thẳng dễ đưa đến chiến tranh. Xích lại gần nhau để thông cảm nhau và quý mến nhau như những con người cùng “đầu đen máu đỏ” mỗi bên có thể cảm nhận rằng nổi sợ lẫn nhau chỉ là tượng tuợng. Phải chăng đó là phương án giải quyết các tranh chấp trên thế giới, và là một trong những phương án giải quyết cuộc đối đầu vì tranh chấp văn hóa Tây phương và văn hóa Muslim? Suy nghĩ đó ám ảnh tôi trong suốt chuyến bay dài 13 giờ cất cánh từ thủ đô Cairo lúc 11 giờ đêm ngày Thứ Hai 6/12/2010 đưa đoàn du khách chúng tôi trở về Hoa Kỳ. Đường bay trên màn ảnh nhỏ, do sự ưu ái đối với hành khách theo đạo Hồi, có hình vị trí máy bay với mũi tên chỉ về thánh địa Mecca ở Saudi Arabia để hành khách theo đạo Hồi biết hướng nghiên mình cầu nguyện. Khi máy bay cất cánh mũi tên chỉ hướng sau đuôi của máy bay. Chập chờn với giấc ngủ trên chiếc ghế lưng nghiêng 200, khi thức dậy mũi tên đã hướng về hướng 10 giờ, cũng là lúc phi trưởng thông báo hành khách cài dây lưng an toàn và sửa lại cho ngay lưng ghế để đáp xuống phi trường New York. Sau thủ tục nhập cảnh chúng tôi chia tay nhau, người bay về San Francisco, Seattle , kẻ đi Las Vegas và Los Angeles chấm dứt một chuyến du lịch phong phú về hiểu biết và hữu ích về mặt tinh thần. Thế giới chúng ta sống không nguy hiểm như chúng ta tưởng, nếu ai cũng có một tấm lòng. Trần Bình Nam Dec . 19, 2010
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 5:18:28 GMT 9
MIẾN ĐIỆNNgười thứ Chín biên soạn Xứ này nhìn những hình ảnh trong sách hình chúng ta tưởng rằng đây là xứ Cambodge láng giềng của Việt Nam. Cũng hình ảnh giòng sông, cây dừa và chiếc xe bò đi chậm rãi ở nông thôn. Nông dân quấn xà rông ở trần, miệng ngậm điếu thuốc rê.
Còn những người dân sơn cước thì tay chân xâm mình khắp nơi.
Thành thử những nhà nhân chủng học thế giới xếp hạng dân Việt là chung với giống tộc Malay hay Indonesia và Người Hoa cũng không lấy gì sai quấy. Nên nhớ đến đời vua Trần (đời chót) thì dân Việt mới bỏ tập tục xâm mình xanh nghẹt lưng, vai, đùi.
Tại sao chúng ta lại nói đến xứ này?
Sau khi chính phủ quân phiệt Miến thả Bà Chánh trị gia nổi tiếng thế giới là bà Daw Aung San Suu Kyl sau nhiều năm giam lỏng bà trong nhàThì ngôi sao xứ Miến được thế giới chú ý rất nhiều.Xứ Miến Điện đổi tên và đổi tên thành phố một vài lần. Ngày xưa Miến có hoàng triều được xây dựng tại Bagan, Inwa và Mandalay. Ngon núi cao nhất là Hkakabo Razi (cao gần 6 km = 19300 feet). Hướng Bắc nối với Trung Hoa, hướng Đông là Laos và Thailand. Lãnh thổ rộng gần 700 ngàn cây số vuông. Xứ Miến có sông dài nhất là là sông Thanlwin, chảy từ Hymalayas và trút vào vịnh Mottama. Nhìn nơi xa một đồng lúa xanh thẵm và có nước lấp xấp, có tre và vài cánh diều bay cao của trẻ em mục đồng thì chúng ta thấy rất gần với miền nam Nước Việt nhất, hơn là bên Laos và bên Kampuchea. Rừng rậm có voi và nhiều loại chim to bự nhiều màu sặc sở. Nhiều nhà khảo cổ họ cho rằng đất đai xứ Myanmar có người cư ngụ vào thời tiền sử khoảng 11 ngàn năm trở lại. Theo sử ký của nhà Tần (Tang Dynasty) thì có một giống dân gọi là Pyu, họ nói ngôn ngữ trộn lẫn tiếng Tây Tạng và Miến bây giờ, lập triều đình gần khu vực Ayeyarwady khoảng thế kỷ thứ 1 và đến thế kỷ thứ 8 thì tàn lụi mất. Giống tộc này xây rất nhiều chùa to lớn nay đã hoang tàn đổ nát theo thời gian. này Trong khi đó hướng Nam thì có một giống tộc người Úc-Á (Austro- Asian) mà người ta gọi là tộc Mon. Nhóm tộc này phát triển về hướng Đông Nam vànguoì ta thấy có vài dấu vết liên hệ đến một số sắc tộc Miền Nam nưóc Việt (mà người ta có thể gọi là Mon-Khmer). Đến thế kỷ thứ 9, thì nhóm người ta có thể gọi là Mabar (hay Burmans) một nhánh tộc từ sắc dân Pyu mạnh lên, tộc này lập thành phố Bagan tên là Halingyi thì thời gian ngắn sau đó có một nhóm tộc người xuất phát từ Nanchao (bây giờ là Yunan hay Vân Nam cũng thế) đến tấn công và chiếm lãnh giang sơn cùng thành phố này. Như vậy từ đây giống Bamar trộn lẫn với giống Yunan mà thành lập ra nhóm Myanmar bây giờ. Nhưng thực tế thì hơi khác nhiều. Khoảng năm 849 A.D Kinh đô đầu tiên là Bagan. Năm 1044 Vua Anawrahta đánh bại nhóm tộc Mon năm 1057 và thống nhất san hà thành một nước duy nhất dưới sự kiểm soát từ kinh đô Bagan. Kéo dài đến thế kỷ 13 thì đạo quân Mông cổ Mongol đến đánh tan xứ này, rồi xứ này rối loạn từ đó. Xứ này chia ra làm hai khu vực: khu vực Mon và khu vực Shan (bạn nên nhớ lại vua Á phien nổi danh thế giới là Khungsha, bị Hoa Kỳ treo giá mạng sống, nay ông quy hàng với chánh phủ Tháilan và dâng tặng rất nhiều tiền lên đến vài tỉ để Bangkok Tháilan cho ông sống yên lành. Ông này thuộc nhóm tộc Shan từng tử chiến hàng trăm năm với tộc Mon ngày nay). Tộc Shan bị bại đành phải chạy lên núi rừng âm u giáp với Vân Nam Trung Hoa lập quốc tại thủ đô Inwar (như nước Việt ngày xưa có tộc mang họ Nùng trí Cao chiếm lãnh biên giới Việt Hoa một thời gian khá dài mà triều đình vua Việt tại Thăng Long không làm gì được). Năm 1531 dưới quyền vua Tabinshweti lập triều đình mang tên Toungoo. Vua này thống nhất đánh bại tộc Shan từ miền Bắc và tọc Mon miền Nam. Với sự trợ giúp của nước ngoại quốc là Bồ đào Nha (Portuguese) (thật sự là do nhóm con buôn Bồ đào Nha có súng đạn và pháo binh mạnh y như nước Việt chúng ta cũng bị nhóm Bồ đào Nha, Pháp đến tranh giành ảnh hưởng thời Trịnh Nguyễn vậy.) Vua này bắt đầu xâm lăng xứ Tháilan (trước đó gọi là Siamese). Năm 1635 thì tiêu diệt được tộc Shan và vua này liền dời đô lên Inwar của Shan mà cai trị. Năm 1752 thì tộc Mon mạnh lên đánh hạ được thành Inwar, cáo chung triều đình Burmese đời thứ hai này. Nhưng cũng trong năm đó có một tù trưởng tên Aung Zeya khởi nghĩa chống lại tộc Mon và lập triều đình tên là Konbaung. (Đến đây bạn thấy nghe tên quen quen là Aung Zeya vì ngày nay bà nữ tướng lừng danh thiên hạ, bị chánh phủ quân phiệt cấm cung Bà gần chục năm trời và Bà tên là "Aw Aung San Suu Kyi".) Như vậy chúng tôi đi khá xa vòng vo tam quốc thì bạn thấy một phần nào lịch sử khá phức tạp của nước Miến Điện này rồi phải không? Năm 1824 lúc này Anh quốc đang cai trị xứ Ấn, sau đó quân đội Anh vào chiếm xứ Miến Điện, nhiều trận đánh xảy ra. Sau cùng năm 1885 Anh quốc hoàn toàn làm chủ tình hình, dẹp ngai vàng triều đại Konbaung. Vua Thibaw và hoàng hậu Supayalat bị đày sang một vùng núi non hoang vắng bên Ấn. Quân đội Anh đặt tên là "Burma", xem nước này như một phiên quốc trực thuộc Ấn. Nhiều cuộc cách mạng nổi lên, nhưng đều bị dẹp tan dễ dàng. Năm 1930, một nhà sư tốt nghiệp Bác sĩ tên là "Saya San" khởi nghĩa, Anh quốc vất vả đến 2 năm mới dẹp tan. Năm 1935 một Hội được thành lập mang tên "Dobama Asiayone" (nghĩa là Dân tộc Miến Hiệp Hội) những hội viên hội này gọi nhau bằng danh từ "thakin" (bạn hữu) (y như Cộng Sản gọi là Đồng Chí vậy.) Năm 1940, một thanh niên nhiều nhiệt huyết bí mật sang Nhật mà học hỏi (y như chúng ta có Đông Kinh Nghĩa Thục vậy). Anh tên "Aung San". Trở về xứ bí mật thành lập một đoàn quân giải phóng Miến mang tên là "Burma Independence Army" (gọi tắt là BIA). Năm 1941 thì quân Nhật bí mật đến giúp đoàn quân này. Aung San được đề cử lên làm Tổng Tham Mưu Trưởng đoàn quân BIA. Trong năm đó Nhật đánh tan đạo quân Anh chiếm đóng tại xứ Miến. Năm 1943 quân Nhật cho xứ Miến được độc lập trên giấy tờ. (Bạn còn nhớ phim nổi danh thế giới là Cầu Sông Kwai hay không? The Bridge of River Kwai). Với sự cai trị tàn ác của Nhật, nên nhóm lãnh tụ đoàn quân BIA này liền trở cờ, bí mật hợp tác với quân Anh đang còn mạnh tại Ấn. Nhật thua và năm 1945 thì đoàn quân BIA này ca khúc khải hoàn. Thủ lãnh Aung San ráng điều đình với Đế quốc Anh để cho xứ này được độc lập. Chuyện gần xong thì thủ lãnh Aung Sang bị nhóm đối lập ám sát chết năm 1948. Y như miền Nam Việt Nam vậy, thủ lãnh đoàn quân Hòa Hão là Huỳnh phú Sổ bị Việt Minh hay nôm na là Cộng Sản Hà Nội cho người ám sát chết. Mayanmar, vào ngày 4 tháng Giêng năm 1948 được độc lập. Nhưng nội bộ tranh dành ghế mà xảy ra nhiều vụ ám sát. Tổng tuyển cử đầu tiên vào năm 1951 thí đảng AFPFL thắng (AFPFL = The Anti-Facist People’s Freedom League). Đảng này cũng thuộc một cánh ngoại vị của Aung San. Nhưng đảng trưởng chết thì Đảng này bị tách ra làm hai. Và từ đó nội chiến xảy ra trên toàn lãnh thổ Miến. Vùng núi rừng thì thuộc đãng này, còn đồng bằng thì thuộc đảng kia. Dĩ nhiên có bàn tay bí mật trợ giúp của Trung Cộng là cái chắc. Năm 1962, tướng Ne Win làm cú đảo chánh, lật đổ chánh phủ, tướng này bắt giam Thủ tướng U Nu cùng Nội Các mà giam hết vào tù. Tướng Ne Win lập ra Hội đồng Chấp Chánh, và Quốc Hữu Hóa toàn thể những nhà máy lớn. Nhiều cuộc biểu tình chống chính phủ quân đội độc tài xảy ra triền miên từ thành thị đến thôn quê. Kéo dài từ 1980 đến 1988 làm tình hình kinh tế xứ Miến này xuống bờ vực thẳm. Tướng Saw Maung lật đổ chính phủ quân đội của tướng Ne Win, tên này còn tàn ác hơn tên trước gấp chục lần hơn. Nhiều trăm nhà tù mọc lên khắp nơi. Và quân đội là Cha mẹ của dân tộc Miến. Tên này ra lệnh bắn bỏ những người biểu tình đòi chiến tranh. Nhiều học sinh bị bắn chết trước sân trường khi tập họp đòi tự do, nhiều tu sĩ áo cà sa vàng bị bắn chết luôn. Tên này cùng các tướng lãnh lập ra Nội các và ban hành nhiều lệnh Thiết quân Luật. Từ nay dân Miến được xử theo luật rừng của nhóm võ biền vô học này. Năm 1990 có một đảng mang tên NLD (National League for Democracy) do bà Aung San Suu Kyi thắng cữ vẻ vang trong trận bầu cử chọn Tổng thống. Toàn dân Miến đều bỏ phiếu hết cho Bà này. Ghế Tổng thống vào tay Bà Aung San Suu Kyithì tên võ biền vô học Tướng Saw Maung và bộ hạ cho xe tăng và quân đội đến bắt giam bà. Họ lập ra một Tòa Án mang danh là "Xử tội kẻ phản quốc" (Lý do chồng Bà là một người Anh). Dân chúng biểu tình kinh khủng và Liên hiệp Quốc nhảy vào can thiệp. Nhóm võ biền vô học này đành nhượng bộ, bỏ án tử hình mà chuyển thành án giam lỏng bà Aung San Suu Kyi tại nhà riêng của Bà. Hiện nay xứ Mayanmar vẫn còn hành xử luật rừng thiết quân luật của nhóm võ biền vô học này từ năm 1988. Luật pháp, Hành Pháp đều nằm trong tay những tên này. Hiện nay thủ lãnh nắm quyền vận mệnh đất nước là tướng Than Swe. Tên này trước xuất thân là một lính dõng gác đồn cho Nhật tại biên giới Miến- Ấn. Lên làm Quốc Trưởng Miến Điện và đồng thời kiêm nhiệm luôn chức vụ Thủ tướng và Chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Quân đội Miến tên là "Tatmadaw" hiện nay đông và mạnh sau Việt Nam. Chia xứ Miến ra làm 12 Quân Khu. Dưới tay có đến 23 Ban An Ninh Quân Đội ngày đêm canh chừng dân Miến. Quyền hạn Ban này rất rộng hơn quyền hạn ban Mật Vụ thời Đệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam VN, tương tự như Bộ Công An của CSBV tại Hà Nội vậy. Trên giấy tờ thì xứ Miến được chia ra làm 7 Phân Khu và 7 Bang. Xứ Mayanmar là xứ rất nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn Ấn Độ gấp chục lần. Có nhiều mỏ đồng, chì, kẽm, thiếc, đặc biệt là tungsten (loại làm tiêm bóng đèn điện). Có rất nhiều mỏ dầu ngoài khơi lẫn nội địa. Riêng Thượng đế ban cho Miến một bảo vật mà không cứ nào có: đó là Cẩm Thạch (Jade). Cẩm thạch Miến tốt hơn nhiều cẩm thạch giả mạo của Trung Hoa và Tháilan. Miến có nhiều loại gỗ tốt nhất thế giới. Loại gỗ gọi là "pyinkado" (tục gọi là Burmese ironwood). Cưa rất khó và chôn dưới đất thì trọn đời không bị mối mọt, trong khi đó sắt chôn dưới đất thì vài chục năm thì bị rỉ sét hư hỏng hoàn toàn. (Tuong tụ như gỗ Cẩm Lai của VN vậy). Riêng Miến có loại Tre xanh mà thân tre đến 3 người ôm mới giáp vòng hết. Chủng tộc khác biệt về ngôn ngữ và tánh tình. Chủng tộc: Shan lớn nhất trong chủng tộc Miến. Nhiều chủng tộc nhỏ như: Padaung, Intha, Danu, Paulung. Ngôn ngữ là T’ai (phát âm gần gióng như xứ Laos và Tháilan vậy) (Bạn còn nhớ trên Ban Mê Thuột có một bộ tộc người Thượng mà chúng tôi quên tên rồi. Bộ tộc này khi nói chuyện với nhau có lần một sĩ quan Indonesia trong Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên lúc còn Miền Nam Cộng Hòa. Vị sĩ quan này khi gặp bộ tộc này thì nói tiếng Indonesia thì hai bên hiểu nhau hoàn toàn. Thành thử người Pháp gọi Việt Nam là: Indochinese là có phần nào đúng sự thật vậy). Kế đó là bộ tộc Kayin, có nhiều phụ nhánh. Đa số bộ tộc này theo đạo Công Giáo. Sau cùng là bộ tộc Mon. Tiếng nói thì những bộ tộc vùng Vân Nam và cực bắc thượng du Bắc Việt hiểu được gần hết. Bộ tộc này có thời kỳ oanh liệt như nói phần trên. Nếu bạn có dịp đi du lịch thì bạn sẽ thấy một bộ tộc kỳ lạ tên là Padaung. Đàn bà được tròng cái niếng từ lúc còn bé gái. Mỗi năm tăng một vòng. Và như vậy khi được 30 tuổi thì cần cổ phụ nữ này dài kinh khủng. Nếu tháo vòng ra hết thì xương cần cổ sẽ gãy đôi vì quá dài chịu không nổi sức nặng của cái đầu. Người Miến còn giữ được một phong tục rất tốt là vô cùng kính trọng người lớn tuổi. Những người già và những vị sư thường được dân chúng rất kính trọng. Chào kính rất lễ phép. Người Miến rất kỵ ôm nhau, bắt tay là một chuyện bắt buộc mà thôi. Nhưng họ rất có lòng thương người hơn người Ấn hay người Thái. Gia đình thường ở chung với nhau thuận hòa. Ông Nội, Cha và Con ở chung là chuyện thường. Trai gái ngũ khác phòng với nhau. Có nghĩa là phong tục tốt của người Á Đông còn giữ rất kỷ nơi dân tộc Miến này. Người chồng được xem là chủ chốt trong gia đình. Nhưng kỳ lạ là người dàn bà cũng rất được tôn trọng. Nếu người vợ mà biết chồng xấu và muốn ly dị, thì người vợ đội một lá đơn đến nhà một người trưởng lão trong làng. Người này thường được xem như vị tộc trưởng. Nếu các vị bô lão xét thấy đơn yêu cầu này có lý, thì các vị trưởng lão đồng ý cho người vợ ly dị. Tiền của cải thì người vợ được nhiều hơn người chồng. Vì trước khi về nhà chồng, người vợ thường được của hồi môn của cha mẹ cho rất nhiều. Như vậy có nhiều ông chồng thuộc diện "Cà Chớn" thì khi bị ly dị là trắng tay ngay. Rồi từ đấy cuộc đời đầy phong ba bão táp tới liền. Không ai dám lấy hết. Ngày nay Nam Nữ bình quyền. Phụ nữ thường gặp làm nghề Bác sĩ, luật sư và các đại học có rất nhiều phụ nữ ghi danh đi học. Nói tóm lại tuy dưới quyền của các tướng lãnh, nhưng xã hội Miến vẫn còn tốt so hơn nhiều xã hội Tây Phương. Dân vẫn được nhiều tự do, trẻ em được học hành đến nơi đến chốn. Dân không bao giờ sợ đói. Nếu so với chứng bệnh Thời đại là Aids / Sida hay HIV thì xứ Miến này chưa có nhiều như xứ Việt Nam chúng ta. Vì dân chúng rất ngại giao thiệp với người ngoại quốc da trắng. Nếu chọn xã hội tại một thành phố Miến so với xã hội của New York thì chúng tôi chọn xã hội Miến hơn. Tại thành phố New York, về đêm rất ít ai dám ra ngoài đường lang thang một mình. Tội ác xảy ra rất nhiều như cơm bữa tại thành phố New York hay Manhattan cũng thế. Ngôn ngữ của Miến là ngôn ngữ thuộc dạng "Sino-Tibetan". Chữ viết Miến ngày nay nhập từ giống dân Mon mà có thời đại huy hoàng lan đến Cmabodge và Nam Việt là Mon-Khmer. Chữ viết tượng dạng Pali bên Ấn độ có thể đọc và hiểu dễ dang với các nhà sư thuộc phai Áo Vàng Tiểu thừa Theravada. Miến điện có nhà văn Nữ mang tên "Ma Ma Lay" (1917-1982). Bà viết rất nhiều truyện có chân thực gía trị hơn hẳn nhà văn Nữ của Đài Loan là Quỳnh Dao. Sách bà viết nhiều thể loại và có sự xây dựng hơn nhà văn Quỳnh Dao đầy bệnh tật trong mỗi quyển truyện. Năm 1980 bà được Tokyo chọn là nhà văn Nữ hay nhất Á Đông với quyển sách mang tên “Thwei” (Blood) được dịch ra nhiều thứ tiếng kể tiếng Nhật. Miến nổi tiếng với nghệ thuật múa rối nhập từ Jakarta (Indonesia) sang. Người con gái Miến khi dự lễ thường ăn mặc nhìn xa như một áo dài Việt Nam ngắn vậy và quận một xiêm xàrong rất khéo. Áo dài ngắn lưng này vẫn có tà áo tay "raglang" cắt và may rất khéo như áo dài Việt Nam có hai cái đuôi bay phấp phới vậy. Âm nhạc cổ truyền thì nhiều chuông trống và đờn nhiều dây như đờn tỳbà vậy. Những con nít Miến rất thích chơi với nhau từ ba người đến bốn người, xử dụng thuần nhuyễn đôi bàn tay như con nít Việt Nam chơi đánh tù tì vậy. Và môn chơi mà con nít thích nhất là dùng bàn tay mà giả dạng loài chim, như gà bay nhảy làm sao, chim công múa hay chim câu bay làm sao tất cả phãi làm bằng hai bàn tay càng giống loài chim thì càng tốt. Dân tộc Miến giống như dân tộc Miền Nam VN là thích đá gà. Họ chọi gà ăn thua rất lớn. Chân gà chọi thường có mang dao nhọn. Ngày lễ thì có lễ nước lên là tạt nước y như bên Tháilan hay Cambodge vậy. Vào tháng 9 thì có lễ rất vui là Lễ Lồng Đèn y như bên Hội An tại miền Trung Việt Nam vậy. Nhà nhà đua nhau chưng đèn đủ màu sắc như Tết Trung Thu vậy. Đa số dân Miến Điện ăn bốc bằng bàn tay. Tay trái bưng dĩa cơm và thức ăn, tay mặt thì bốc thức ăn vào miệng rất khéo léo còn không quen thì đỗ tràn ra đất hết. Dùng nhiều chất cay như bột càry và dùng nước mắm chắm thức ăn như xứ Đông Nam Á vậy. Vì bị kềm hãm bởi quân phiệt cai trị, nên xứ Miến hàng chục năm trước vẫn y như vậy. Xe đò thì cũ kỷ và nhiều người đeo đánh đu ngang hông xe. Vì ít xe nnên ít xảy ra tai nạn. Trên sông thì người ta tận dụng đò ngang hay đò dọc loại ghe như tắc ráng dài lườn, chở đến 15 người và chạy bay bay trên mặt nước. Giống dân thuộc sơn cước thì vẫn như giống dân người Thượng của chúng ta. Ở nhà sàn và bếp lò nấu trong nhà sát bên chiếc chiếu ngủ. Người Akha thì ngôn ngữ giống như người Khả lá Vàng của miền Trung Châu nước Việt gần đèo Mụ Già miền Trung vậy (quý bạn nên đọc sách Nguồn gốc dân tộc Việt của Bình nguyên Lộc có rất nhiều phần trúng trong người Akha của Miến Điện này.)
|
|