|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 5:49:46 GMT 9
CHIẾN TRANH VỀ ĐẤT ĐAI
Tú Gàn Những người hay quên lịch sử, nhìn cuộc tấn công của Do Thái vào lãnh thổ dành cho Palestines trong những tháng gần đây, nhất là thái độ ngang bướng của Do Thái đối với dư luận quốc tế cũng như Liên Hiệp Quốc... đã cảm thấy thương hại cho dân Palestines và bực tức người Do Thái. Nhưng nếu chịu khó nhìn lại lịch sử một chút, chúng ta sẽ hiểu được tại sao Do Thái đã làm như vậy và dám làm như vậy. Nếu so sánh cuộc tấn công của Do Thái lần này với các cuộc tấn công trước đây, nhất là cuộc tấn công vào năm 1967, chúng ta sẽ thấy cuộc tấn công này chỉ là "mấy món món ăn chơi" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì cả. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến giữa người Do Thái và người Palestines cũng có thể giúp người Việt hải ngoại hiểu nhiều hơn về số phận của mình. Đây là những bài học lịch sử quý báu.1.- Sự phân chia của Anh Người Việt cũng đã phải trải qua nhiều cuộc tranh chấp gay cấn về lãnh thổ với lân bang trong suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và mở nước. Nếu ở phía Bắc, người Việt đã phải đối đầu bằng nhiều cách khác nhau với Trung Hoa, khi cương khi nhu, để bảo vệ phần đất đã chiếm được từ lúc ban đầu, thì ở phía Nam, người Việt đã tìm cách thanh toán toàn bộ lãnh thổ của Chiêm Thành rồi đến một phần lãnh thổ của dân tộc Khmer. Ngày nay, người Việt đã có một lãnh thổ ổn định từ Đồng Văn đến Cà Mau. Người Do Thái không được may mắn như thế. Tuy họ đã có một lịch sử trên 6000 năm văn hiến, tức ngang với người Tàu, nhưng lãnh thổ của họ lại khi có khi không. Phần đất Canaan trên bờ phía đông Địa Trung Hải, nơi mà họ muốn chọn làm quê hương, đã bị mất đi và chiếm lại hàng chục lần qua tiến trình lịch sử, và cho đến nay, việc xác định và bảo vệ phần lãnh thổ này vẫn chưa dứt khoát. Như chúng tôi đã trình bày trong số báo ra ngày 12.4.2002, vào năm 638, khi người Hồi Giáo chiếm trọn vùng Canaan và ra lệnh cho người Do Thái "Hoặc theo Hồi Giáo và nộp cống hay là chết", người Do Thái đành phải ra đi để bảo vệ tôn giáo và truyền thống của mình, phần đất Canaan trở thành lãnh thổ của người A-rập Hồi Giáo. Người Do Thái lang thang trên khắp thế giới, bị kỳ thị, bị ghét bỏ, bị đày đọa, bị thanh toán đẩm máu... nhưng lúc nào họ cũng cố gắng vươn lên và quyết tâm trở về lại đất hứa của mình. Phải đến 1284 năm sau, họ mới bắt đầu thực hiện được ý nguyện đó. Sau thế chiến thứ nhất (1914 - 1918), nước Anh đánh bại đế quốc Ottomans, đuổi Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi vùng A-rập và quản lý vùng này. Qua nhiều cuộc vận động ráo riết của người Do Thái lang thang, ngày 2.11.1917 Ngoại Trưởng Anh là Arthur James Balfour tuyên bố sẽ cho lập một nước Do Thái tại đất Palestine. Việc tạo lập lại nước Do Thái mới được khỏi đầu. Năm 1922, chính phủ Anh đã chia vùng đất mà người A-rập và người Do Thái đang cư ngụ ở hai bên bờ sông Jordan trên bờ phía đông Địa Trung Hải, ra làm 2 vùng: Vùng phía tây sông Jordan kéo ngang qua tới Địa Trung Hải được giao cho người Do Thái. Vùng phía đông sông Jordan, nước Anh cho thành lập một quốc gia A-rập mới lấy tên là Transjordan. Đó là phần đất dành cho người Palestines, được gọi là nước Palestine-A-rập. Sau đó, người Anh đưa Abhulah lên làm lãnh tụ người A-rập, cai quản vùng này. Người A-rập không chấp nhận sự phân chia của Anh. Họ nhất định đòi lại hai phần đất mà họ coi là rất quan trọng của họ, nhưng đã được Anh chia cho người Do Thái: Phần thứ nhất là vùng có thành phố Jerusalem, nằm giữa Judea và Samaria, vì coi đây là đất thánh của họ. Thật ra, Jerusalem ngày xưa là đất thánh của người Do Thái, nhưng bị người Palestines chiếm. Phần đất thứ hai là dãi Gaza ở phía tây nam, trên bờ Địa Trung Hải. Người Palestines coi đây là phần đất của tổ phụ họ. Khối A-rập còn đi xa hơn, họ nhất định mở “Jihad”, tức thánh chiến, để đuổi người Do Thái ra khỏi vùng Canaan. Họ không thể chấp nhận một nước khác tôn giáo nằm xen vào giữa khối Hồi Giáo A-rập được. 2.- Sự phân chia lại của Liên Hiệp Quốc Không giải quyết được sự tranh chấp giữa A-rập và Do Thái, Anh đưa nội vụ ra Đại Hội Đồng Liên Quốc xin giải quyết. Ngày 29.11.1947, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã họp và biểu quyết nghị quyết số 181, phân chia lại lãnh thổ của người Do Thái và người Palestines, với 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu vắng mặt. Theo sự phân chia mới này thì Do Thái bị thiệt nặng: Liên Hiệp Quốc lấy một số vùng đất trên phần đất người Anh đã chia cho người Do Thái mà người Palestines đang đòi hỏi, giao lại cho người A-rập để thành lập một quốc gia mới được gọi là "THE ARAP STATE", tức quốc gia A-rập, sau này đổi thành Palestine. Đó là các vùng sau đây: Thứ nhất là vùng đất Judea và Samaria nằm ở trung nguyên, sát với phía tây sông Jordan, nên thường được gọi là WestBank. Vùng này rộng đến 5640 cây số vuông. Thứ hai là dãi đất nằm trên chóp phía bắc của WestBank, trên thành phố Jenin. Thứ ba là dãi Gaza nằm phía tây nam, sát Địa Trung Hải, giáp với bán đảo Sinai của Ai Cập. Phần còn lại dành cho người Do Thái, được gọi là "THE JEWISH STATE". Với cách phân chia như trên, các phần của Do Thái và các của Palestine nằm lẫn lộn nhau, giống như những ốc đảo ở trên biển. Tính lại, lãnh thổ dành cho người Do Thái chỉ bằng 22% toàn bộ vùng đất phía tây sông Jordan mà thôi. Với cách phân chia này, khi muốn đi từ bắc xuống nam, Do Thái phải đi băng qua cái mũi của dãi Gaza ở phía bắc nối liền với vùng Judea dành cho người A-rập. Riêng thành phố Jerusalem, Liên Hiệp Quốc đặt dưới một quy chế đặc biệt (special regime) và sẽ do Liên Hiệp Quốc quản trị. Mặc dầu đã phân chia lại như thế, 13 quốc gia sau đây không đồng ý ký tên vào nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, đó là Afghanistan, Cuba, Ai Cập, Hy Lạp, Ấn Độ, Iran, Iraq, Lebanon, Pakistan, Saudi Arabia, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Yemen. Không đồng ý thì đánh nhau. Jordan đem quân chiếm WestBank và sát nhập vào Jordan, trong đó có Jerusalem. Syria đưa quân chiến đồi Golan phía trên WesBank. Ai Cập đem quân chiếm dãi Gaza... Lãnh thổ dành cho người Do Thái lại được thu hẹp lại hơn. Nhưng không nước A-rập nào cho người Palestines được tự trị. 3.- Lấy vũ lực đối đầu với vũ lực Có tất cả 5 nước bao quanh lãnh thổ của Do Thái, đó là Libanon ở phía bắc, Syria và Jordan ở phía đông, Saudi Arabia ở phía nam, và Ai Cập ở phía tây nam. Phía tây là Địa Trung Hải. Trong 5 quốc gia này, chỉ 3 quốc gia là cương quyết ăn thua đủa với Do Thái, đó là Ai Cập, Jordan và Syria. Saudi Arabia, nằm phía cực nam của Do Thái, vì thân với Anh và đang nhận viện trợ của Anh và Mỹ, nên đứng ngoài cuộc chiến. Lebanon ở phía cực bắc, có một nữa dân số theo Thiên Chúa Giáo, cũng không muốn gây sự với Do Thái. Ai Cập là hung hăng nhất, sau đó đến Jordan và Syria. Tuy diễu võ dương oai như thế, nhưng qua các cuộc giao tranh năm 1949 và 1956, khối A-rập đều thua. Ngày 23.6.1956, Tướng Gamal Abdel Nasser chính thức lên làm Tổng Thống Ai Cập. Ông quyết tâm đánh bại Do Thái. Ông ra lệnh phong tỏa hải cảng Aliat làm việc giao thông qua kinh đào Suez bị bế tắc. Ngày 31.10.1956, Anh, Pháp và Do Thái phải mở cuộc hành quân để giải tỏa. Sau đó, quân đội Liên Hiệp Quốc đã được gởi đến đóng ở vùng ranh giới giữa bán đảo Sinai của Ai Cập và dãi Gaza, nên khu này tạm yên. Còn vùng phía đông bắc giáp giới với Jodan và Syria, chiến tranh xẩy ra hằng ngày. Do Thái lúc nào cũng trả đủa ác liệt và mở rộng vòng vây để bảo đảm an ninh. Tính lại, Do Thái đã mở thêm được khoảng 50% phần lãnh thổ đã được Liên Hiệp Quốc chia cho. Tướng Nasser của Ai Cập giận lắm, cương quyết phải đánh bại Do Thái. Năm 1964, Tướng Nasser cho thành lập Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) và đưa Caoukeiri (còn đọc là Shugayri) làm lãnh tụ (đến 1968 Yesser Arafat thay thế) với mục tiêu dùng đoàn quân này để quấy rối Do Thái. Chỉ trong 2 năm, Phong trào này đã tuyển mộ được 16.000 dân quân. Ngoài đội quân phá hoại này, khối A-rập còn có tổ chức cảm tử quân Fatah, lúc nào cũng sẵn sàng ôm bom nhảy vào những nơi có người Do Thái. Về mặt quốc tế, Tướng Nasser đã vận động khối cộng sản là Nga, Trung Quốc và Tiệp Khắc viện trợ võ khí và tiền bạc để giúp khối A-rập đánh bại Do Thái. Ai Cập đã nhận hàng trăm máy bay, xe tăng, đại bác, hỏa tiễn, vũ khí đủ loại và tiền bạc của Nga và Tiệp Khắc. Nga gởi huấn luyện viên đến huấn luyện quân sự cho quân Ai Cập. Tám quốc gia tuyên bố sẵn sàng đứng sau lưng Ai Cập là Algéria, Maroc, Kuweit, Yemen, Irak, Soudan, Jordan và Syria. Khi nào cần, họ sẽ đưa quân đến tham chiến ngay. Khi khối A-rập tăng cường quân đội và võ khí để chuẩn bị mở cuộc tấn công thì Do Thái cũng chỉnh đốn lực lượng để chống cự lại. Thanh niên Do Thái phải thi hành quân dịch hai năm rưỡi, còn phụ nữ không chồng thì hai năm. Mỗi tháng, lực lượng trừ bị phải thay nhau học tập về quân sự một ngày, và mỗi năm đi thụ huấn thêm 40 ngày. Họ huấn luyện rát gắt gao, gắt gấp ba lần quân đội Mỹ. Những thiếu niên từ 14 đến 18 tuổi được hàng ngũ hóa và huấn luận để trở thành lực lượng bảo vệ. Do Thái tính rằng nếu chiến sự xẩy ra, chỉ từ 24 đến 72 giờ, họ có thể động viên khoảng 250.000 quân. Tại khắp các vùng biên giới và trong sa mạc Neguev, nơi nào các Kibboutz (giống ấp chiến lược của Việt Nam) cũng được thành lập, có thể tự vệ cho đến khi viện binh đến. Về vũ khí, nhờ tiền của những người Do Thái ở ngoại quốc gởi về và viện trợ Mỹ, Do Thái đã mua của Pháp và Mỹ những vũ khí tối tân nhất, trong đó có cả máy bay Mirage, xe tăng, hỏa tiễn và trọng pháo. Những vũ khí này tối tân hơn vũ khí của Nga viện trợ cho Ai Cập nhiều. Do Thái cũng xây dựng những nhà máy sản xuất các loại đạn để tự túc, khỏi phải lệ thuộc quá nhiều vào các cường quốc. Tính lại, lúc đó dân số khối A-rập có khoảng 70 triệu, trong đó ba nước bao quanh Do Thái là Ai Cập có 270.000 quân, Syria 60.000 và Jordan 60.000, chưa kể viện binh của các quốc gia khác hứa sẽ gởi đến khi có chiến sự. Trong khi đó, Do Thái chỉ có 2 triệu rưỡi dân và 250.000 quân. Với tương quan lực lượng như thế, Ai Cập tin rằng thế nào cũng chiến thắng. 4.- Một sự thảm bại chua chát Đầu tháng 5 năm 1967, Ai Cập yêu cầu quân Liên Hiệp Quốc rút khỏi vùng biên giới giữa dãi Gaza và bán đảo Sinai. Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là ông U Thant đã hứa nếu có lời yêu cầu của Ai Cập hay Do Thái, ông sẽ cho rút quân, nên các quân Liên Hiệp Quốc được lệnh rời khỏi vùng này. Cả ông U Thant lẫn Do Thái đều hiểu rằng Tướng Nasser đang chuẩn bị khai chiến. Nhưng Do Thái ra tay trước. Khoảng 8 giờ sáng ngày 5.6.1967, Do Thái bất thần mở cuộc tấn công vào bán đảo Sinai của Ai Cập ở phía tây nam và các vùng đóng quân của Jordan và Syria ở phía đông và đông bắc. Ở phía nam, chỉ trong 80 phút đầu, phi cơ do thái đã phá tan hết các phi cơ chiến đấu và chuyên chở của Ai Cập trên bán đảo Sinai. Các súng phòng không và hệ thống hỏa tiển phòng vệ không còn hoạt động được. Các phi trường của Ai Cập trở thành những nghĩa địa của phi cơ. Chỉ vài giờ sau, không quân Ai Cập hoàn toàn tan rã. Các chiến xa Do Thái bắt đầu tiến vào vùng Sinai của Ai Cập theo ba hướng khác nhau, băng qua sa mạc, tiến tới đến kinh đào Suez và Hồng Hải. Binh sĩ Ai Cập không kịp phản ứng, đã cởi quần áo bỏ chạy. Có khoảng 10.000 quân Ai Cập đã bị quân Do Thái giết, 5000 quân bị bắt làm tù binh. Vô số xe tăng, súng đại bác 160 ly, các võ khí đủ loại, đạn dược, quân trang quân dụng và lương thực bị tịch thu. Tại mặt trận phía bắc, quân Do Thái phải chiến đấu vất vã mới chiếm được thành phố Jerusalem, đuổi quân Jordan ra khỏi vùng Judea và Samaria. Một toán quân khác tiến chiếm Naplouse, Jenin và qua ngày 8.7.1967 đã tiến tới tận bờ sông Jordan. Vua Hussein ra lệnh bỏ khí giới sau khi trên 6000 quân bị tử thương và khoảng 640 quân bị bắt. Ông nói với quốc dân rằng chưa bao giờ Jordan bị tai họa lớn như vậy. Tất cả quân Palestine do Ai Cập huấn luyện và trang bị bỏ chạy qua Jordan ẩn nấp. Việc đánh quân Syria để chiến đồi Golan (Golan Heights) ở phía cực bắc cũng rất vất vã, vì quân Syria khá thiện chiến và tại đây họ đã xây dựng các công sự chiến đấu rất vững vàng. Nhưng cuối cùng Do Thái cũng đánh bật được quân Syria về phía bên kia sông Jordan. Syria thiệt mất 200 quân và trên 5.000 người bị thương. Ngày 10.6.1967, lệnh đình chiến do Liên Hiệp Quốc ban ra đã cứu được người A-rập. Do Thái ngưng tiến quân thêm nữa. Nhìn lại, quân Do Thái chỉ bị chết chưa đến một ngàn người và khoảng 1500 người bị thương. Nhưng Do Thái đã lấy lại được cả vùng đất mà ngày xưa Anh đã phân chia cho Do Thái, trong đó có thành phố Jerusalem, vùng đất phía tây sông Jordan (WestBank), và một vùng khoảng từ 20 đến 30 cây số của Syria. Ngoài ra, Do Thái còn chiếm thêm bán đảo Sinai của Ai Cập rộng 61.000 cây số vuông và làm chủ vùng kinh đào Suez. Nhưng có lẽ thắng lợi lớn lao hơn cả mà Do Thái đã đem lại cho khối Tây Phương, đó là tách được Liên Sô ra khỏi khối A-rập. Sau khi thất trận, các quốc gia A-rập không còn tin ở Liên Sô nữa, vì Liên Sô đã không cứu được họ. Thắng lợi lớn thứ hai của Do Thái là đã gây phân hóa trong nội bộ của khối A-rập. Quần chúng không còn tin tưởng ở nhà cầm quyền. Các nước A-rập không còn tin nhau. Trong hội nghị Khartoum, thủ đô của Sudan, vào tháng tám, các quốc gia A-rập đã chia ra làm hai phe: Phe cách mạng và phe bảo thủ. Phe cách mạng chống các nước Tây phương gồm có Ai Cập, Algeria, Syria, Sudan, Irak và Yemen. Phe bảo thủ lo sợ ảnh hưởng của Liên Sô hơn là Do Thái, gồm các quốc gia Saudi Arabia, Jordan, Maroc, Tunisia, Lybia, Libanon và Kuwait. Hai phe tranh cãi rất gay cấn và cuối cùng họ không tìm ra được biện pháp nào để đối phó với Do Thái. Riêng ba nước thất trận bị thiệt thòi về kinh tế khá nặng. Kinh Suez bị đóng, Ai Cập mất mỗi tuần 1 triệu rưởi Mỹ kim. Vùng Jerusalem bị chiếm, Jordan không còn thu được tiền của du khách, mất khoảng 34 triệu Mỹ kim một năm. Người Palestines ở WestBank tản cư qua Jordan làm cho cuộc sống ở Jordan trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, nhóm dân quân Palestine khoảng 20.000 người còn làm loạn, đánh với cả quân Jordan, khiến chính phủ Jordan phải mở cuộc hành quân để tống cổ nhóm này ra khỏi Jordan. Sở dĩ Do Thái đã đạt được thắng lợi to lớn trong cuộc chiến tranh 6 ngày, vì các yếu tố sau đây: Trước hết, Do Thái có những nhà chính trị và quân sự rất giỏi, biết hình thành những chiến lược và chiến thuật thích hợp để đối phó, biết tổ chức quân đội, biết tùy cơ ứng biết mau lẹ... Hai Tướng Moshé Dayan và Yitzhak Rabin của Do Thái được liệt vào loại danh tướng của thế giới. Thứ hai là Do Thái mua được những võ khí tối tân hơn võ khí của Nga cung cấp cho người A-rập nên có thể làm chủ chiến trường một cách nhanh chóng. Thứ ba là quân đội Do Thái được huấn luyện rất thành thục, có trình độ, có sáng kiến và có tinh thần chiến đấu cao. Thứ tư là hệ thống tình báo rất giỏi. Họ biết được một cách chính xác việc dàn quân của địch, từ nơi tập trung quân và chiến xa, đến nơi đặt trọng pháo và súng phòng không, các hầm máy bay giả và hầm máy bay thật... nên đánh đâu trúng đó. Thứ năm là sự yểm trợ tích cực của người Do Thái ở hải ngoại. Thứ sáu là sự yểm trợ ngầm của khối Tây phương. Do Thái trở thành một tiền đồn của Hoa Kỳ ở Trung Đông và đã gây được niềm tin nơi các chính phủ Tây phương. Không thắng được Do Thái, khối A-rập phát động chiến tranh khủng bố để chống lại Do Thái. Đó là một cuộc chiến đã gây khá nhiều tổn thất cho cả hai bên và không đưa tới kết quả nào. Lực lượng của Palestine ngày càng yếu đi, vì khối A-rập không còn tin tưởng ở khả năng chiến đấu của họ. Mỗi lần bị tấn công hay khủng bố, Do Thái thường trả đủa rất mạnh. Do Thái tin rằng chỉ có biện pháp đó mới có thể giúp họ bảo đảm được an ninh. 5.- Oslo 1 và Oslo 2 Anh và Liên Hiệp Quốc không giải quyết được vấn đề Do Thái và Palestine. Chiến tranh chẳng những không loại trừ được Do Thái mà còn làm cho lãnh thổ Do Thái ngày càng rộng ra thêm. Gần như trên vùng phía Tây sông Jordan không còn chỗ nào được coi là vùng đất có chủ quyền của người Palestine. Cuối cùng, người ta thấy rằng chỉ có một phương cách duy nhất là hai bên lâm chiến tự dàn xếp với nhau, mỗi bên nhượng bộ một ít, cuộc tranh chấp mới có thể chấm dứt được. Do sự trung gian của tổ chức FAFO ở Na Uy, một cuộc họp bí mật đã được tổ chức tại thành phố Oslo của Na Uy vào năm 1993 để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh. Sau các cuộc thương thuyết gay cấn, cả hai bên đã đi đến những thỏa thuận sau đây: Do Thái công nhận có sự hiện diện của một dân tộc Palestine tự trị trong một số vùng ở WestBank (gồm Judea và Samaria) và dãi Gaza. Palestine công nhận "quyền của một quốc gia Israel tồn tại trong hòa bình và an ninh." Bản đồ phân vùng được vẽ rất kỷ càng. Hòa ước này đã được ký kết ngày 13.9.1993 tại Washington, thường được gọi là Hòa Ước Oslo 1. Nhìn lại, chúng ta thấy sau các cuộc chiến và các cuộc thương thuyết, vùng đất được đặt dưới quyền kiểm soát của Do Thái trở thành rộng gấp đôi phần đất đã được Liên Hiệp Quốc quy định năm 1947. Tuy nhiên, việc thi hành Hòa ước Oslo 1 gặp nhiều khó khăn, vì một số tổ chức Palestine và A-rập không chấp nhập hòa ước do lãnh tụ Yesser Arafat đã ký kết. Có tổ chức vẫn chủ trương phải tiếp tục chiến đấu để loại người Do Thái ra khỏi vùng Trung Đông. Vì thế, các cuộc khủng bố vẫn tiếp tục xẩy ra, nó nằm ngoài quyền kiểm soát của ông Yesser Arafat. Do Thái lấy lý do an ninh không được bảo vệ, nên không chịu rút ra khỏi các vùng đã hứa dành cho Palestine. Năm 1995, do sự dàn xết của Washington và Ai Cập, một cuộc họp thứ hai giữa đôi bên đã bàn lại các vấn đề sau đây: Vấn đề an ninh trong vùng WestBank, việc chuyển các phần đất đã hứa cho Palestine, việc chuyển các quyền dân sự lại cho các nhà lãnh đạo Palestine, vấn đề phóng thích các tù binh, vấn đề tổ chức bầu cử cho người Palestine và vấn đề giao thương giữa Do Thái và Palestine. Hai bên đã đi đến một hòa ước thứ hai và hòa ước này đã được ký kết ngày 24.9.1995 tại Washington trước sự chứng kiến của Tổng Thống Clinton. Hòa ước này thường được gọi là Hòa ước Oslo 2. Nhìn bản đồ phân vùng đính theo Hòa ước Oslo 2, người ta có cảm thưởng như đây là một bản đồ đình chiến da beo. Vì lý do an ninh của Do Thái, quân đội Do Thái còn được quyền kiểm soát nhiều vùng dành cho Palestine ở WeskBank cho đến khi ông Yesser Arafat có thể bảo đảm được an ninh. Ngoài ra, vấn đề Jerusalem vẫn chưa giải khuyết dứt khoát được, vì hai bên đều không muốn nhượng bộ một vùng vừa được coi là đất thánh của riêng họ, vừa là nguồn lợi lớn do du khách đem lại. 6.- Vẫn chưa đi tới đâu Hai hòa ước Oslo 1 và Oslo 2 đã đem lại những phản ứng khác nhau ngay giữa những người Israel, những người Palestines và những nước A-rập khác nhau. Về phía ngưới Do Thái, nhiều nhà chính trị và quân sự của Israel không tin hai hòa ước đó có thể chấm dứt được bạo động vì không thể thiết lập những hàng rào răn giới tách khu của người Do Thái ra khỏi khu người Palestine. Trong hiện tượng phân chia theo lối "da beo" này, bất cứ lúc nào sự đụng chạm cũng có thể xẩy ra. Về phía người Palestine, có nhiều người cũng muốn hai hòa ước đó được thi hành nghiêm chỉnh để cuộc sống của họ được ổn định, nhưng cũng có nhiều người cho rằng ông Yesser Arafat đã nhượng bộ quá nhiều, nên không thể chấp nhận được. Họ tiếp tục tổ chức khủng bố để đòi lại các phần đất mà họ tin rằng họ đã bị mất. Các tổ chức này hoạt động dưới sự xúi biểu và yểm trợ của Iran, Irak, Sudan, Syria... nên nằm ngoài tầm tay của ông Yesser Arafat. Qua kinh nghiệm chiến đấu, phe diều hâu ở Israel cho rằng với những kẻ chủ trương khủng bố, càng đấu dịu họ càng làm tới. Biện pháp tốt nhất vẫn là phải tiếp tục tiến hành chiến dịch "lùng và diệt" khủng bố mới có thể bảo vệ an ninh cho người Do Thái. Vì thế, chính quyền Israel hiện tại đang mở những cuộc trả đủa rất mạnh, bất chấp dư luận quốc tế. Sở dĩ Israel dám làm như vậy vì các lý do sau đây: Lý do thứ nhất là sự chia rẽ trong khối A-rập hiện nay rất trầm trọng, nên không sợ phản ứng của khối này. Các phản ứng riêng rẽ không đáng kể. Lý do thứ hai là Do Thái thừa biết các cường quốc Tây phương chỉ phản ứng mạnh khi quyền lợi của họ có thể bị xâm phạm. Do Thái gõ đầu quân khủng bố Palestine chẳng những không phương hại gì đến quyền lợi của các cường quốc mà còn giúp các cường quốc khống chế các thành phần luôn muốn nổi loạn để chống lại các quốc gia Tây phương. Do đó, các quốc gia Tây phương chỉ lên tiếng lấy lệ và lấy lòng khối A-rập mà thôi. Họ chẳng can thiệp vào đâu. Lý do thứ ba là Do Thái thừa biết Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân quyền chẳng làm được gì họ. Về lý, họ đặt câu hỏi: Tại sao NATO có quyền đem quân vào Nam Tư trừng phạt chế độ diệt chủng Milosevik và Hoa Kỳ có quyền chiếm Afghanistan để lùng những kẻ khủng bố... trong khi đó người Do Thái lại không có quyền mở cuộc lành quân "lùng và diệt" những kẻ gây tang thương cho quốc gia và đồng bào của họ? Giả thiết có một số nước nào đó đưa vấn đề Do Thái phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại ra Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và yêu cầu Hội Đồng áp dụng lệnh cấm vận đối với Do Thái, Hoa Kỳ sẽ phủ quyết là xong. Các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ bị đưa ra trước Tòa Án Hình Sự Quốc Tế ư? Còn lâu chuyện đó mới có thể xẩy ra. Kinh nghiệm cho thấy Tòa Án Hình Sự Quốc Tế chỉ có thể xử những kẻ bại trận hay những kẻ chống lại quyền lợi của các cường quốc mà thôi. Những kẻ đang có quyền bính và sức mạnh trong tay, Tòa Án Hình Sự Quốc Tế làm gì được? Bọn Khmer Đỏ gây tội ác chống nhân loại một cách rùng rợn và ghê tởm như thế, nhưng chính quyền Cam-bốt từ chối không chịu giao nạp các bị cáo và cũng không chịu cho các thẩm phán quốc tế tham gia xét xử, Liên Hiệp Quốc làm được gì đâu? Cam-bốt là một nước nhỏ bé nhất và yếu nhất, đang cần viện trợ, mà còn dám chơi ngang như vậy, huống chi Do Thái? Quy Chế Tòa Án Hình Sự Quốc Tế mới, chỉ mới có đủ túc số 60 quốc gia phê chuẩn vào ngày 11.4.2002 để có hiệu lực thi hành vào ngày 1.7.2002. Nhưng luật lệ về tố tụng chưa được soạn xong và chưa được phê chuẩn, nên còn lâu tòa này mới hoạt động được. Vã lại, quy chế này là một hiệp ước quốc tế nên chỉ quốc gia nào ký kết và phê chuẩn mới bị ràng buộc. Các quốc gia không ký kết và phê chuẩn sẽ không bị ràng buộc. Do đó, các quốc gia “có vấn đề” như Do Thái, Algegia, Trung Quốc, Bắc Hàn, Miến Điện, Việt Nam, Cam-bốt, Indonesia, Iran, Irak... ngu gì mà ký kết và phê chuẩn lúc này? Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trên thế giới có đến 188 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc, nhưng mới chỉ có 60 quốc gia phê chuẩn, còn 128 quốc gia đang đứng ngoài. Trong văn tế các liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, cụ Phan Bội Châu có viết: Ma cường quyền đắc thế sinh hung uy, Thần công lý bó tay nghe tử tội. Nhìn cách tranh đấu của người Palestines, chúng ta không tin họ có thể thắng được, vì đó là một tổ chức chiến đấu ô hợp. Họ không có sự lãnh đạo thống nhất, không chiến lược, không chiến thuật, không có trình độ, không biết thời thế... cứ dùng lòng cuồng tín tôn giáo để húc, nên càng tranh đấu càng thua. Người Việt chống cộng ở hải ngoại cũng phải chú ý đến bài học này. Tú Gàn
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:02:45 GMT 9
KOREA
Kim chánh Nhật biên soạn. Nhờ World Cup 2002 và sự cố gắng của đội banh Nam Hàn (hay Nam Triều Tiên) thế giới mới có dịp ngó đến vùng xứ sở mà người Việt chúng ta gọi là Hàn băng giá lạnh. Còn danh từ Triều Tiên (mà hiện nay Hà Nội gọi nuoc Korea) là phát từ lời vua nhà Minh khi thấy sứ giả bốn phương đến triều cống, thì sứ giả này đến sớm nhất và luôn như vậy, nên vua Minh gọi là "Nước chư hầu đến triều cống sớm nhất". Còn nước Việt thì đi sứ đến muộn nhất. Có lẽ vì Kinh đô nhà Minh khá gần với kinh đô Hàn Quốc hơn Thăng Long của chúng ta. Và mỹ hiệu được vua ban gắn liền đến ngày nay "Triều Tiên". Chúng ta gọi là Đại Hàn hay Triều Tiên cũng không trúng lắm, nhưng dân hàn quốc thì họ thích gọi bằng một cụm từ khá dài nếu dịch ra, còn ngắn như sau "Choson", nghĩa là "morning freshness" hay là dài hơn nữa "The Land of the morning Calm", nếu tạm dịch cho vui cửa nhà: "Vùng đất mờ sương khói". Quả vậy xứ này chớm Đông thì được hơi lạnh từ Băng Cực thổi về (Siberian Air), đến đầu xuân thì được làn gió mát từ phương Nam của Thái Bình Dương thổi đến. Và cũng là một xứ duy nhất có rất nhiều chim hạc, hơn cả nước Nhật. Ta thường thấy tranh thủy mạc của người Hoa vẽ loài hạc này, có loài hạc đầu đen chân đen và loài hạc đầu đỏ chân đỏ, chớm Đông là hạc về múa và nhảy nguyên bầy, nơi xa là tuyết bắt đầu bay phất phới như hoa trắng trên bầu trời xanh thẳm vậy. Tuy có giống Hạc đến xứ này nhưng xứ này lại bị ngoại nhân đến kiểm sóat hay canh chừng từ thuở lập quốc đến nay. Từ người Hoa, người Mông Cổ, người Nga, người Nhật, nay người Mỹ đến canh chừng xứ này sợ phương Bắc tấn công bất ngờ. Ngôn ngữ tiếng nói của người Korea khác người Hoa hay người Nhật, nó thuộc nhóm gọi là "Ural-Altaic" mà trong đó có luôn nhóm Thổ nhĩ Kỳ và Mông cổ. Chữ viết thì mượn từ chữ Hán như đất Việt ta vậy, nay thì họ đổi tiết tấu và hình dạng như chúng ta có lần thay đổi sang chữ Nôm. Chữ Nôm rất khó học vì dùng đến hai lần chữ Hán ráp vào, còn chữ hàn quốc ngày nay giản dị hơn nhiều. Triều vua kéo dài lâu nhất là thế kỷ thứ 7 đến 1945 là triều đại Silla. Đại Hàn hay Triều Tiên là một đảo quốc nhỏ, gắn chung với nước Trung Hoa quá vĩ đại về bề thế. Tầm cở ngang diện tích với Tân tây Lan hay Anh Quốc (United Kingdom) hay rõ hơn là bằng tiểu bang New York vậy mà thôi (85 ngàn dậm vuông kể luôn 3000 hòn đảo lớn nhỏ vây quanh). Nước này bị nạn Nam Bắc phân tranh. Nam hàn với 70 triệu dân năm 1997, còn Bắc Hàn thì trên dưới 30 triệu dân mà thôi (đó là kể luôn những người sống tại Mãn Châu trên 600 ngàn người, và 1 trăm ngàn tại Nhật. Núi thì không cao lắm tại biên giới Hoa- Hàn (núi Paektu cao khoảng 9000 ft, thành thử đại quân người ngựa của Mông Cổ tiến đánh không ai cự nổi). Thủ đô của Nam Hàn là Seoul có dòng sông hiền hòa chảy ngang mang tên là: sông Han – River Han. Người Hàn quốc cho rằng mình là giống phát sanh bởi người Cha đến từ Trời cao hòa hợp với người Mẹ thuộc họ Hùng (là giống gấu hay khốc áo da gấu). Nhưng thật sự nhóm người Hàn là một chuỗi di cư của loài người kéo dài từ Phi Châu, sang Ấn rồi sang Hoa Lục rồi đi nữa nhánh rẽ lên lập giống dân da trắng, nhòm rẽ dưới thì lập nhóm dân Eskimo, rồi Nam MỹLúc đó có ba triều đại vua hùng cứ quanh Mãn Châu và Bắc Hàn đó là khoảng thế kỷ thứ 4 trước tây Lịch (triều đại Choson, Taedong và Liao. Nhưng triều đại Choson mạnh nhất mà chúng ta đã nhắc từ phần đầu bài viết này.) Tuy là môt quốc gia bị ngoại bang dày xéo từ xưa đến nay, dân tộc xứ này rất có lòng tin. Họ theo đạo Công Giáo, Tin Lành rất đông hơn nước Việt chúng ta nếu kễ theo phần trăm. Xứ này là một xứ Á Đông mà có đầy đủ bộ kinh tạng của đạo Phật hơn mọi xứ khác trừ Ấn độ hay Tích Lan mà thôi. Họ có Bộ Đại Tạng Phật Kinh và còn lưu trữ đến 7000 bản khắc bằng gỗ. Trong khi đó nước Việt thì bị Chúa Trịnh Nguyễn phân chia và lo hưởng thụ cho dòng họ mình mà không lo cho dân chúng gì hết. Và điều ngạc nhiên là Đạo Khổng (nếu tạm gọi là đạo) đã biến mất trên nước trung Hoa từ lâu, nhưng tại xứ này vẫn có trường dạy Đạo Khổng, và môn sinh tốt nghiệp được làm lễ rất quy củ phép tắt không thua gì thơì Khổng Tử còn tại thế . Áo mão, cân đai và cuối mình làm lễ của những môn sinh tốt nghiệp trường này, du khách không khỏi cảm động và bùi ngùi. Đó gọi là Trường Khổng Giáo tại Sungkyunkwan (mà ta có thể gọi là the National Confucian Academy of the Choson). Không một đạo nào dạy cho con người có một tư cách oai nghi hơn mọi đạo khác bằng đạo Khổng. Đó là Nhân Đạo và Quân Tử đạo vậy mà Miền Nam nước Việt chúng ta có một vị mang tên là Nguyễn đình Chiểu, tư cách ông rất sáng ngời, và người Pháp muốn chiêu dụ ông, ông tuy mù nhưng cương quyết từ chối. Nay Hà Nội vẫn còn kính nể nhà Nho Nguyễn đình Chiễu này rất nhiều. Viết tới bài này chúng tôi sực nhớ đến lời nói của Khổng Tử như sau khi Ngài được hỏi về người Tốt: Thầy Tử Lộ có lần đến hỏi Thầy “Thế nào là người Tốt thưa Thầy?" – Khổng Tử mĩm cười "Đâu con nói trước xem?" – Thầy Tử Lộ nói "người Tốt có phải là người mà trong làng đều thương mến hết phải không?” - Khổng Tử lắc đầu. – Tử Lộ nói tiếp “như vậy người Tốt có phải là người mà dân làng đều ghét hết phải không? “- Khổng Tử mĩm cười lắc đầu “Không phải vậy đâu con” – Tử Lộ cuối đầu nói “như vậy nghĩa là sao?" – Lúc này Khổng Tử mới nói "người Tốt nghĩa là người được những người tốt trong làng thương và những người xấu trong làng ghét". Câu này chúng ta thấy rõ là kẻ giả hình hay không giả hình như lời Chúa Giê Su nói vậy trong kinh Thánh ngàn năm trước đó. Triều đại Koguryo (37 BC đến 668 AD) thống nhất san hà, đánh bại người Hoa. Lập triều đình tại vùng cực Bắc Mãn Châu ngày nay. Nhưng chúng ta có thể kể thời kỳ này có 3 bộ tộc mạnh nhất của Korea là: Mahan, Chinhan, Pyohan (chúng ta thấy tiếp vĩ ngữ là Han nghĩa là họ vẫn còn ít nhiều phong tục người Hoa Hạ. Triều đại Silla 660 AD hợp với người Hoa để đánh tộc Paekche. Nhưng nhận thấy dã tâm của người Tần, triều đại Silla ráng xuống miền Nam mà thống nhất Korea rồi đánh trở lại người Tần, người Tần lui binh vì lúc này tại Trung thổ Hoa có nhiều biến chuyển lớn. Nên triều đại Silla được xem là thời kỳ cực thịnh nhất của Korea. Triều đại Silla ở ngai vàng lâu nhất từ đó đến giờ, từ năm 676 AD đến 1945 nghĩa là gần hơn 1300 năm.Nhờ sự kéo dài ngôi báu như vậy nên nền văn minh nghệ thuật của Korea mới có cơ hội nẩy nở vẹn toàn nhất nếu so với các nước lân bang xa gần như Nhật, Việt, Lào, Thái Tôn giáo lúc đó hầu như độc tôn là đạo Phật. Người ta mời nhiều vị sư Ấn từ Thiên Trúc đến giảng kinh nghĩa và cử tông đồ đến Thiên Trúc mà học đạo rồi đi đến nước Trung quốc và Nhật Bản mà hoằng pháp. Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 7 người Đại Hàn hầu như là Thầy dạy cho nước Nhật dưới chân của mình. Thế kỷ thứ 6 thì hầu như Nhật bắt chước toàn bộ nghệ thuật văn hóa của Korea. Những du học sinh từ Nhật mà sang Đại Hàn học thành tài rồi về lại Nhật dạy học đều được Nhật Hoàng trọng vọng hết mình. Ngôi chùa xưa nhất tại Nhật ngày nay đều là dấu vết của bàn tay người thợ Đại Hàn sang xây dựng. Hiện nay Thiền Tông Phật Zen Buddhism của Nhật là nhập từ Trung Hoa sang từ con đường Korea hết, rồi Nhật có Trà đạo nổi danh cũng bắt chước hết 8/10 của bộ tộc Paekche từ Korea. Quyển sách cực quý về Trà đạo của Nhật ngày nay mà Nhật Hoàng còn lưu giữ thật sự là bản copy từ bên Korea mà ra, tiếc rằng khi quân Nhật Thiên Hoàng sang xâm lấn Korea, họ tìm tất cả những ấn bản nào mà Nhật có họ đều đốt sạch, nghĩa là phi tang dấu vết Thầy xưa nghĩa cũ hoàn toàn. Trong thời kỳ Mông Cổ cai trị Korea, thì người Korea học được của người Mông về Thiên văn học, Y Khoa, và cách trồng bông vãi rồi dệt lụa. Nay Nhật học cách trồng bông vãi và nuôi tằm cũng từ nước đàn anh Korea mà ra. Năm 1592 đế 1597 thì Nhật và hàn quốc có đại chiến với nhau., Dưới quyền điều khiển tài ba và là một kiến trúc sư nổi danh, Đề Đốc Yi Sun-shin vẽ nhiều kiểu chiến thuyền mà họ gọi là Qui Thuyền (chiến thuyền có hình con Rùa Thần) nơi nầy đầu bọc sắt thép nên đụng chìm gần hết 250 tàu chiến của Nhật. Lúc này Nhật động binh đến trên 100 ngàn người, nhiều trận đánh với Đề Đốc Yi Sun-shin thì hầu như Nhật bị thua, kết quả bất ngờ là Đề Đốc trong một lúc chỉ huy đánh với Nhật tại trận thủy chiến eo biển Chin-do thì Ngài bị trúng đạn chết. Đó là vào năm 1598. Lúc này nước Hàn Quốc bị đại họa khắp nơi, miền Bắc thì giống Mãn Châu (một phần giặc Kim) đến đánh miền Bắc, còn miền Nam thì bị Nhật mà họ gọi là giặc lùn. Sau đó đến the kỷ thứ 18 thì ảnh hưởng của tây phương truyền đến Đại Hàn qua ngã Trung Hoa. Năm 1784 một du học sinh Korea sang Bắc Kinh học, tên là Yi Sunghun được rửa tội trở thành một người Công Giáo đầu tiên của Đại Hàn. Yi Shunhun về nước mở trường dạy học và truyền bá đạo Công Giáo. Năm 1791 khi mẹ mất thì ông không để tang phục hiếu 3 năm nên bị chánh quyền bắt xử trãm. Nghĩa là Yi Shunhun là một người Công Giáo tuẫn đạo đầu tiên tại Korea này. Rồi chiến dịch bắt đạo do nhà vua khởi xướng bùng nỗ từ năm đó đến năm 1839. Trên 130 người Công Giáo bị giết và trên 2 ngàn người bị cầm tù khốn khổ. Vì vua thiển cận cứ lo tìm đạo ngoại mà bắt bớ, nên những văn minh ngoại quốc vua này bỏ ngoài tai. Thế là mất dịp canh tân cho đất nước thành phú cường như Nhật, hành động mù quáng này không khác cho triều đại nhà Nguyễn bên trời Nam. Năm 1860 triều đình Đại Hàn rất bối rối trước tin kinh khủng là Anh quốc và Pháp tiến vào cung điện Bắc Kinh mà bắt Từ Hi. Từ trước đến giờ triều đình Korea vẫn xem Trung Hòa là nước Thần quốc bất khả xâm phạm. Nay đùng một cái Trung Hoa tan ra bọt nước. Rồi sự trỗi dậy thật mạnh của người Nga. Lúc nầy đại họa liên tiếp giáng xuống triều đình Yi Huang. Năm 1871 Tàu chiến của Hoakỳ chiếm đảo Kanghwa, rồi năm 1875 người Nhật mạnh nữa đánh Đại Hàn luôn, trong khi đó vua này cứ ngày đêm nghĩ đến làm sao nước mình trở lại thời vàng son của đạo Khổng. Y hệt như triều đại nhà Nguyễn vậy. Rồi Nhật tiến đến Korea làm chủ nước này lập vua bù nhìn Tonghak / Kojong. Khi triều đình Meiji (Minh Trị) đánh bại được Trung Hoa thì Korea chỉ còn con đường ngó đến Nga cầu cứu mà thôi. Mọi chuyện canh tân Korea đang sùng bái nước Nga hết mình. Đùng một cái, năm 1904 Nhật Hoàng đánh bại Hạm đội mạnh nhất vùng Thái bình Dương bấy giờ của Nga chỉ huy. Vào đúng cuối năm 1904 đầu năm 1905 thì Nhật hoàn toàn cai trị Korea từ A đến Z. Nhiều hiệp ước bị Nhật bắt Korea ký và triều đình Kojong đành phải chịu khuất phục hoàn toàn, dĩ nhiên có nhiều cuộc nỗi loạn hay cách mạng đánh Nhật đều tan rã từ phút ban đầu. Lý do lính hay quân đội, cảnh sát Korea đều được Nhật cấp lương bổng. Nhiều phụ nữ đẹp của Hàn quốc được tuyển dụng cho quân đội Thiên Hoàng giải khuây vui chơi. Cho đến Đệ Nhị Thế Chiến và ngày gần tàn của đế quốc Nhật, Nguyên sối Mac Arthur đặt chân lên Korea và Nhật bắt đầu lui quân về cố quốc thì Korea chia làm hai khuynh hướng. Khuynh hướng nhờ Nga và khuynh hướng nhờ Mỹ đến đánh Nhật thống trị xứ mình. Mà kết quả là Bắc trở thành chư hầu của Trung Cộng. Tay đầu tiên mang máu Cộng Sản là Pak Hanyong lập đảng Cộng Sản Korean Communist Party. Tháng 12 năm 1945, Kim II –sung được lọt vào mắt xanh của Mao trạch Đông, nên nhóm Trung Cộng đảo chánh cung đình, lật Pak Hanyong thân Nga hơn. Thâm ý của Mao trạch Đông là cần có nhiều chư hầu Cộng Sản hiếu chiến còn mình làm bộ mặt ông chủ nhân đức hiền hòa, như thế Hoakỳ hay Tây Phương sẽ kính nể mình hơn. Y như một ông chủ đồn điền với gương mặt nhân hậu và một bầy chó hung dữ quanh mình, sẵn sàng cắn xé những kẻ nào xâm phạm đất đai và cây trái của mình và như thế mọi người đều kính nễ mình vô cùngÝ tưỡng nay được Trung Hoa áp dụng triệt để tại Bắc Hàn, Việt Nam và Tây Tạng và kết quả Tây Phương và Hoakỳ đều đến bái kiến triều đình Bắc Kinh Beijing vậy. Chiến tranh Nam-Bắc Hàn không thể nào tránh khỏi. Và ngày nay như chúng ta biết là Bắc Hàn không thể nào thóat khỏi bàn tay Trung Cộng được. Vĩ tuyến 38 được Trung Cộng và Hoakỳ ký kết phân chia hai nước Hàn Quốc ra làm hai. Đó là vào ngày 27 tháng 7 năm 1953. Năm 1994 thì Kim II – sung chết và truyền ngôi vĩnh cửu cho con trai bệnh hoạn gan của mình là Kim – Jong il. Tại Nam Hàn thì Tổng thống Rhee Syngman (mà ta dịch là Lý thừa Vãn. Vị này có đến thăm Miền nam Việt Nam được Tổng thống Ngô đình Diệm tiếp đón thật nồng hậu). Năm 1960 thì Rhee thua phiếu đảng Tư Do Liberal Party, Ông đành lưu vong với tuổi 85 tại Hawaii. Nắm 1961 một tướng lãnh liêm khiết Park Chung Hee lên nắm quyền, đem đất nước đấy xáo trộn có lợi cho Bắc hàn Tổng thống Phác chúng Hy thiết lập Quân lực và đam Nam hàn thành một nước phú cường về kinh tế mà ngày nay chúng ta đuọc biết. Từ một nước sống nhờ lòng thương hại viện trợ của Hoakỳ mà ngày nay thành một cường quốc kinh tế Á Châu cũng nhờ công lao của Park chung Hee này. Năm 1979 Phác chúng Hy bị thuộc cấp cận vệ Kim Jae Kyu bắn chết khi đang ăn cơm. Tên này Kim Jae Kyu cùng 6 người bị xử bắn sau đó không lâu. Tướng Chung Doo Hwan điều tra vụ này và là bạn thân của Park lên nắm quyền. Nhưng bị bàn tay phá của Hoakỳ, năm 1987 Chung Doo Hwan trao quyền cho Roh Tae Woo. Năm 1993 thì cha h phũ dân sự hoàn toàn được thành lập, Tổng thống Kim Young- sam lên nắm quyền, nhưng vị này thì có tư tưởng bồ câu với Bắc hàn hơn những vị tiền nhiệm trước, điều này phù hợp với Hoa thình Đốn, nghĩa là lo mần ăn và đất nước ta bảo vệ, nếu không nghe lời thì ta rút quân và Cộng quân Bắc Hàn đứng ngay cửa lập tức. Bị tố cáo tham nhũng đến $650 triệu USD từ các Đại Tổ Hợp Xe Hơi như Hyundai, Samsungnên Kim Young-sam từ chức và hiện nay ngôi vị Tổng thống Nam hàn là Kim Dae-jung (1997). Vị này còn bồ câu hơn nhiều vị trước, hàng ngày suy nghĩ làm sao bắt tay cho được Kim jong-iL Bắc Hàn. Y như miền Nam nước Việt sắp sửa đi bán muối thì rất nhiều đoàn thể ngăn cản hay la làng là chánh phủ Thiệu Kỳ hiếu chiến, gây tang tóc và làm ông Vua Miền Nam phải suy nghĩ là bề nào Miền Nam cũng mất không năm này thì năm sau và tiền của ráng lo vơ vét càng nhiều càng tốt. Kết quả nay mai Nam hàn sẽ không cách chi mà thốt khỏi bàn tay Bắc Hàn hết. Khi vừa viết xong bài này thì chúng ta được tin Bắc hàn đem vài chiếc tàu hải quân và bắn hạ Tàu hải quân Nam Hàn. Tàu chiến Nam hàn vì do Hoakỳ trang bị nên không cách chi vượt trội hơn tàu chiến của Bắc hàn hết, chúng ta đã thừa biết trận hãi chiến của Thủy quân Miền Nam Cộng Hòa và thủy quân của Trung Cộng từ hơn 27 nam trước Mà Nam hàn muốn trang bị hải quân mình tối tân như mua vũ khí của Đức hay Pháp thì Hoakỳ không chấp thuận nên kết quả đánh là thua 100 %. Nam hàn nổi danh với tập đoàn kinh doanh có tầm cỡ quốc tế gọi là "Chaebol" làm kinh ngạc nhiều nước cướng quốc kinh tế trện thế giới. Người Nhật hiện nay không sợ nền khoa học kỹ thuật của Hoakỳ mà họ rất sợ sự lớn mạnh của Nam hàn. Nay Nam Hàn có cơ xưởng đóng Tàu lớn nhất nhì thế giới và nền Công Nghệ Thông Tin của Nam Hàn hiện nay đứng hàng thứ 4 trên thế giới sau Hoakỳ, Nhật, Trung Hoa. Hiện nay Nam hàn có đến 30 Chaebol như vậy. Nền kỹ nghệ phim ảnh của Nam hàn hiện nay được giới trẻ Thành phố Hồ chí Minh và HàNội tiếp đón đậm đàø. Hàng ngày phim Hàn được Việt Nam trích dịch và cho trình chiếu trên các kênh TIVI nước Việt, thay thế phim ảnh bệnh hoạn của Đài Loan mà dựa theo phim của Quỳnh Dao làm căn bản. Quỳnh Dao đang đầu độc tư tưởng bệnh hoạn cho giới trẻ Đài Loan nên ngày nay nền kinh tế của đài Loan bị Nam hàn chận đứng. Bằng cớ đội banh bóng tròn của nam Hàn lăn trên sân cỏ, bức phá nhiều đội banh có nhiều kinh nghiệm trên thế giới, bỏ xa hoàn toàn đội banh của Đài Loan và Trung Cộng. Về chữ viết, nếu Việt Nam chúng ta không nhờ các vị giảng đạo thừa sai Công Giáo Bồ đào Nha, Tây ban Nha và Pháp dùng Latin chuyển thành chữ Việt ngày nay, thì chữ Nôm của chúng ta khó bì kịp chữ "Hangul" và chữ "Hanja" của Korea ngày nay. Truớc thế kỷ 15 thì ngôn tự của Korea hoàn toàn từ chữ Hán mà ra, viết đọc phát âm in hệt như vậy, lúc đó họ gọi là chữ "Hanja". Như chữ Hán nói vế núi non (mountain) là "shan" (đọc là san, như san hà vậy) còn Korea đọc là "san" nặng hơn. Hướng Nam (South) Hán đọc là "nan" thì Korea đọc là "nam" (y như Việtnam ta vậy). Đến thế kỷ 15 thì người Korea chế ra chữ riêng gọi là "hangul ". Năm 1970 Tổng thống Park Chung Hee ra lệnh dẹp "hanja" mà tăng cường lên "hangul" (Nên nhớ chữ "hangul" là do Korea sáng chế ra mà người Trung Hoa không đọc được). Lúc Nhật chiếm đóng Đại Hàn, họ ra lệnh xử dụng chữ "hanja" vì chữ này người Nhật đọc được dễ dàng vì dựa theo chữ Hán hết 98%. Sau năm 1975 thì chữ Hangul được dùng trở lại tại Trung học và chữ Hanja được đóng ngoặc đơn để người nào đợc được chữ hanja thì dễ hiễu hơn hangul Tự điển của Korea gồm đến 4888 từ phát ra trong khi đó 1800 từ phát ra bởi hanja. Hiện nay sau khi Trung Cộng thống nhất san hà thì họ tung ra đến thêm 2238 từ nữa mà ngày nay tại Hongkong và Đài Loan đang bắt buộc phải dùng. Chúng ta nên nhớ trước 1975 người Việt Miền Nam dùng nhiều tiếng dễ nghe hơn ngày nay. Như ngày nay tại Tp HCM người ta dùng từ "khẩn trương" một cách dễ dàng, hay là cụm từ "đối tác" nghĩa là người Việt 1975 nói danh từ 1975 và đến nay 2002 thì người Việt 1975 khó lòng trôi chảy nhiều từ mới lạ được như Trung Hoa thống nhất giang sơn và Đài Loan phải hiểu mà thôi. Hiện nay tất cả báo chí hay ngay cả thực đơn của South Korea đều cấm dùng chữ Hán 100%, còn Bắc Hàn thì bắt buộc phải dùng chữ hán thêm chữ bắc Kinh khoảng 2200 từ mới lạ nữa. Quý bạn có xem phim Hà Nội cho chiếu tại Saigon cách đây không lâu như “Đến hẹn lại lên” Bạn năm 1975 nghĩ ra làm sao? Việt kiều năm 1975 nghe thì tủm tĩm cười, còn dân Tp HCM năm 1985 thì tỉnh bơ "Hừ! Đến hẹn lại lên" hình như hay hơn phim "Đến hẹn lại xìu". Có cần "Viagra" không nè?
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 4:48:28 GMT 9
Ngọc trắng miền Khotan (Tân Cương) Vietsciences- Trần thị Vĩnh-Tường Bài hát Lương Châu Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi “Lương Châu Từ”của Vương Hàn cũng đẹp như ngâm khúc chinh phu chinh phụ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, quan tái tiễn người. Rất lạ, giọng người bạn Quảng Đông đọc những vần thơ Đường bằng tiếng Hán Việt rất du dương. Đọc bằng tiếng Quảng Đông tuy không bằng, nhưng hay hơn tiếng Quan Thoại thanh âm khô và ngắn. Người bạn trẻ này chỉ biết bồ đào là một loại trái cây, không rõ trái gì. Ít nhất, anh chàng không dám nói liều là trái từ xứ… Bồ Đào Nha. Trương Thái Du dịch thoáng: Rượu ngon hồng chén dạ quang Lòng ham, nhạc giục hoang mang tỳ bà Đừng cười ra trận ta say Chiến chinh máu chảy xưa nay ai về Chiến binh thời nào có khác chi nhau! Nhân dư hương ngày 30-4 còn đó, độc giả thân mến có thể nào sửa giùm ý này cho có vần có điệu, gửi những người ra đi không về, suốt dọc đường chiến chinh từ Nam lên Bắc, những người cũng nòi giống Việt Nam nhưng biến thành kẻ thù một cách tình cờ. “Chiến binh ôi! Mắt nhìn hoài không cạn. Dặn dò tràn không vơi. Tình em lưu nơi đáy cốc. Chàng có nghe chăng. Tiếng đàn thay tiếng em than. Mốt mai chẳng thể quay về. Chiến binh ôi! Nhớ nhất điều chi?” Dạ Quang Bôi, yé quang bei Đời Hán, vùng ngoài quan ải nếu không phải là nơi đi đầy, cũng toàn việc binh đao. Bài hát Lương Châu thật hiếm có, chỉ trong một câu ngắn, ghi lại một không gian lịch sử: Lương Châu hồi đó chưa thuộc “thiên triều”, hiện giờ thuộc Cam Túc. Thời cổ đại, Tây Vực ám chỉ một vùng rộng lớn ngày nay gồm Tân Cương, Trung Á, Tây Á. Người Hán gọi tất cả người không-Hán miệt đó là “rợ” Hồ, Hu 胡, đám rợ miền Bắc và Tây, gồm người Persian, Sogdian, Turkish, Xianbi, Indians, Kushans, và Xiongnu. Xiongnu: Hung Nô, rất quen thuộc với người mình. Nói chung, Man Di Nhung Địch đều kém cỏi không bằng “người Hán”, dẫu tất cả những món trong bài thơ, người Hán hoàn toàn không có, hoặc bị các Rợ wính phá đến phải làm Vạn Lý Trường Thành. Có thể vì có nhiều bảo vật, Khotan dần dần bị Trung Hoa nuốt trọng. Tham vọng “đại Hán” lấn chiếm thiên hạ, dù tốn hàng ngàn năm, là bài học lịch sử không bao giờ quên. Vườn nho Khotan như một thảm nhung xanh cạnh sa mạc cát bỏng. Nho ở Khotan nhiều loại, không hột, ngon ngọt, làm nho khô hay rượu. Rượu nho hồng Khotan, hồi xưa nổi tiếng khắp miền Trung Á. Uống rượu Khotan phải dùng ly bằng ngọc trắng Khotan như ly kế bên. Thời Hán Vũ Đế, có mang nho giống về trồng trong cung điện. Nhưng bảy trăm năm sau nho vẫn chưa phải là loại trái phổ biến. Đường thiên lý từ Khotan đến Bejing là 3200 km. Thi sĩ đời Đường Vương Chi Hoán than rằng tiếng sáo của người Khương cứ reo mãi làm chi, khiến người chốn biên cương có nhớ cũng đành, vì Ngọc Môn Quan xa tới nỗi “gió xuân không tới được/xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan.” Vì thế, nho và rượu nho Khotan chỉ dành cho vua chúa. Mãi đến đời Đường Thế Tông, Trung Hoa mới đem giống nho vú ngựa về trồng ở Trường An, và bắt đầu học cách chế tạo rượu nho mà họ tấn phong là bồ đào mỹ tửu, so với rượu Khotan, vị thơm và màu hồng kém tươi. Trên những tấm gương đồng bắt đầu có hoa văn dây nho. Cũng từ đời Đường, Lý Bạch, mẹ người Tây Vực, cha người Hán, bắt đầu giòng thơ ngất ngưởng rủ trăng uống rượu “Không bạn, uống mình ta. Mời trăng cùng nâng chén…” Trong số cống phẩm từ Khotan cho Trung Hoa, có dạ quang bôi, chén dạ quang. Dạ quang trong văn cảnh là tĩnh từ, không phải tên của một loại ngọc/đá nào cả, chỉ hàm ý ca tụng vẻ đẹp của chén ngọc trong vắt, ban đêm toả ánh sáng đẹp như trăng. Chén dạ quang càng không phải là “ngọc lưu ly”. Lưu ly là thuỷ tinh, làm bằng cát, Quartz SiO2. Mãi đến đời nhà Đường, Trung Hoa vẫn không làm được đồ thuỷ tinh, phải nhập từ Trung Á. Thuỷ tinh không phải vật tầm thường, mà là tinh hoa của nền văn minh Trung Á, xin trở lại trong một bài khác về “ngọc lưu ly”. Chămpa/Chiêm Thành chịu ảnh hưởng Ấn Độ, cũng có lưu ly. Trong cống phẩm của Chămpa cho Trung Hoa, có chuỗi “ngọc lưu ly”. Trong tiếng Việt, lưu ly không còn dính líu tới thuỷ tinh, mà ám chỉ sự trong trẻo hoặc men bóng như ngọc, ví dụ ngói lưu ly, hay trong thơ: Cảm vì em bước chân đi Nước nghiêng mặt ngọc lưu ly phớt buồn. Vũ khúc nghê thường Hồ nữ tay ngon như bạch ngọc nhấn phím đàn tỳ là ai? Vũ nữ người Hồ dong dỏng, tóc hung dóc thành nhiều bím, da trắng, mũi cao, mắt to, chân dài. Đẹp nhất là hai bờ vai mịn và cánh tay dịu như rắn uốn. Vũ khúc xoay tròn của người Hồ đẹp nổi tiếng khiến Bạch Cư Dị suýt rớt linh hồn vào ly rượu. Qua một DVD, người xem có thể chóng cả mặt, nhưng nét hoa em vẫn tươi, cuốn trăm buớc giữa ngàn ngàn hoa tuyết phiêu phiêu như mảnh lụa. Sóng mắt liếc rất tình, nhưng khuôn mặt đoan chính. Thân hình chập chờn úp mở nét đẹp xử nữ thanh tân. Y phục bó sát với những gam màu tươi sáng nổi bật cả thảo nguyên. Yang Guifei khiến vua Đường mê mẩn chỉ vì nàng biết múa điệu Hồ, tức điệu nghê thường, dù nàng có hơi sổ sữa. Ở Tây An, Thiểm Tây, “Vũ khúc Nghê Thường do Dương Quí Phi sáng tác” trình diễn cho khách du lịch, vũ công ăn mặc vừa Ấn Độ, vừa Nghìn Lẻ Một Đêm, vừa Trung Hoa, tuy khá …năm cha ba mẹ, nhưng cho thấy họ không thể từ chối xuất xứ của vũ điệu này. Người Việt một năm thưởng thức khúc nghê thường một lần, in trên hộp … bánh trung thu, giai nhân bới tóc xiêm áo giải lụa bay loạn, “made in Hongkong,” mà không hay điệu múa này từ Tây Vực. Đôi Mắt Tây Vực Ngoài Quan ẢiBức ảnh hiếm hoi, cô gái Uighur thảo nguyên dong ruổi, mắt mở to đầy nghi vấn. Kim Dung có lẽ cũng mê vẻ huyền bí của cô gái Hồ. Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, nhân vật Tiểu Siêu, có mẹ Ba Tư, Tía Sam Long Vương Kim Hoa Bà Bà và bố Trung Hoa, Hàn Thiên Diệp. Kim Dung xây dựng tâm lý cô như một tiểu thư Hoa Hạ miền Nam mơ mơ màng màng con cá vàng. Nếu cô gái Trung Hoa tự cắt bỏ tay mình khi nam nhân lỡ chạm phải, thì cô gái Tây Vực rút ngay dao găm cán ngọc thủ sẵn dưới chân, tiện ngang một nhát cắt ngay bàn tay nam nhân loạng quạng. Tiểu Siêu vì yêu thầm Vô Kỵ nên người ngọc mềm như lụa. Chỉ đến khi quần hùng quần tà quì xuống đợi lệnh Tiểu Siêu, Vô Kỵ mới hay nàng là Đại Thánh Nữ, giáo chủ Minh Giáo Ba Tư. Trên mặt biển sóng nhấp nhô, giây phút biệt nhau, Thánh Nữ chải tóc cho Vô Kỵ lần cuối, giọt ngọc vũ bão rơi, môi nho rớm máu, chỉ muốn ở lại Trung Nguyên kề cận công tử, ngàn lần không muốn xa chàng trở lại xứ Ba Tư Ngàn mây đỡ chân thiếp Ngàn hoa rải quanh thiếp Không bằng được gặp chàng Bên bờ cỏ Trường Giang Vương triều Khotan, Hvatäna-kshīraNăm 1878, Khotan hoàn toàn thuộc về Trung Hoa > Khotan được gọi dưới nhiều tên. Khotan, tiếng Sanskrit là Kustana, tiếng Hoa là Yu-than, Yu-tien, Kiu-sa-tan-na, và Khio-tan. Ngày nay, người Trung Hoa gọi vùng này là Hetien, thuộc vùng tự trị Tân Cương. Ngọc ở đó, họ gọi là ngọc Hetian. Khotan chỉ cách sa mạc Tử Thần Taklamakan 10km. Chính thức thành lập từ thế kỷ thứ 3 TCN, vương triều nhỏ bé nhưng giầu có này ban đầu là một miền đất Phật, di tích các hang động tới giờ vẫn còn nhiều. Cuộc hôn nhân với một công chúa Đường triều, quân vương Khotan nhắn riêng, “nàng nhớ mang theo tằm mới có lụa mà mặc, chúng tôi chỉ mặc vải thô”, công chúa xuất giá với một con tằm giấu trên mũ. Hoá ra màn Trọng Thuỷ/Mỵ Châu nơi đâu cũng có và phụ nữ giành độc quyền lụy vì tình. Khotan từ đó thủ đắc kỹ thuật dệt lụa tơ tằm của nhà Đường. Lụa Khotan một phen bá chủ thị trường Trung Á. Về sau kỹ thuật này truyền sang Iran, rẻ hơn lụa Trung Hoa, nhờ gần hơn. Dân tộc Khotan là tập hợp của nhiều giống dân du mục, có tên Urguys hay Uighur (tiếng Việt là Duy Ngô Nhĩ), nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, theo đạo Muslim kể từ thế kỷ thứ 10 khi Khotan lọt vào ảnh hường của Ả Rập. Cũng giống như Chămpa, xứ nhỏ nhưng giầu có, Khotan là miếng mồi ngon giữa nhiều thế lực chính trị trong vùng. Từ khoảng giữa 1700, Trung Hoa đã tìm đủ mọi cách để thôn tính Khotan. Cho đến năm 1878, Khotan hoàn toàn thuộc về Trung Hoa. Tuy mang tiếng “khu tự trị”, nhưng đến mức độ nào, vẫn là câu hỏi. Cũng như đám Parthians, đám Gurkha, hay Taliban… không chịu khuất phục ngoại bang, Tân Cương-Tây Tạng luôn là nỗi nhức nhối của chính quyền Trung Quốc. Do chính sách di dân của Beijing, từ 1949 dân Hán tại Tân Cương tăng từ 7% đến hơn 40%. Miệt Tân Cương, Tajikistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Afghanistan sẽ luôn luôn là những điểm tranh cãi công khai/ngấm ngầm cho Mỹ-Trung Hoa-Nga Sô-Ấn Độ vì vị trí địa lý và tài nguyên. Vài con số ý nghĩa Vào những năm 1910-1930, khi đoàn thám hiểm của Aurel Stein đến Khotan, họ thấy mặc dù đất hoàng thổ rất phì nhiêu, dân số chỉ khoảng 200.000, gấp mười lần so với 20.000 thống kê thời Hán. Hai con số này rất có ý nghĩa cho những tìm hiểu dân tộc học, nhất là ở Việt Nam, nơi có nhiều nền văn hoá trước khi nước Việt đựợc thành lập. Theo Hậu Hán Thư, dân Giao Chỉ thời Hai Bà Trưng là 400.000. Con số này đúng hay sai? Nếu tạm dựa trên hai con số 400.000 và 17,582 năm 1930 (1), phải tính theo phát triển hàm số mũ hay phải dùng phép tính luỹ thừa để tìm ra dân số Việt tộc vào thời Hồng Bàng, thời Văn Lang? Dân số, địa điểm, không gian và thời gian thường vắng bóng trong các nghiên cứu về sử Việt, mà tính “tự hào dân tộc” không phải đối tượng của môn sử học, chỉ làm học trò như tôi bối rối. Con Đường Bạch Ngọc/Nephrite RoadKhoảng 3000 năm đến 5000 năm truớc, các loại đá quí từ Afghanistan, Ấn Độ và Khotan đã tạo thành con đường Bạch Ngọc/Nephrite Road và Con Đường Lam Ngọc/Lapis Lazuli, trao đổi các loại đá quí, vàng bạc và nữ trang với châu Âu, là một nơi hiếm đá quí mà cũng chẳng có tơ tằm. Loại hàng quí nhất, chính là ngọc Nephrite trắng, chỉ tìm thấy ở Khotan, nổi tiếng khắp miền Trung Á. Những ngôi mộ ở Urals, Kazakhstan, Siberia, ở Turbino, Okunevo… tìm thấy nhiều đồ ngọc nephrite. Email trao đổi với một bạn Uighur, ngọc, tiếng Uighur là khaxtexi (qashteshi). Người Uighur đã biết giá trị của nephrite và chế tạo được dụng cụ cắt, mài giũa từ 3000 năm trước công nguyên. Từ Khotan và Yarkand, thương nhân chất đầy hàng hoá trên lưng lạc đà vượt hàng ngàn dặm tới các nuớc vùng thuộc thảo nguyên Trung Á. Con Đường Tơ LụaNăm 138 TCN trào Hán Vũ Đế, Trương Khiên mạo hiểm 30 năm, hoàn thành sứ mạng mở cánh cửa cho nhà Hán ra phương Tây. Từ thành Dunhuang/Đôn Hoàng đến Khotan, dần dần thành hình một con đường, men giữa sa mạc Taklamakan và rặng Kunlun/núi Ngọc nối với Con Đường Ngọc Bích đã sẵn có. Từ đó, triều Hán mới biết tới nephrite Khotan. Họ học từ người Urguys và người Ấn độ nghệ thuật chạm khắc, mài ngọc. Họ cũng đã đi khắp các cửa sông miền Khotan tầm ngọc, nhưng kết quả rất ít, nên họ đành chờ đợi nguồn duy nhất từ người Urguys. Khotan cung cấp ngọc, nữ trang, giấy, bông vải, thảm, bắp, trái cây cho hai miền Mesopotamia và tiền-Trung Hoa. Đổi lại, nguòi Trung Hoa cung cấp kỹ thuật in ấn, thuốc súng, địa bàn, và nhất là tơ lụa. Từ đại đế César đến nữ hoàng Cléopâtre đều khoác áo choàng khăn lụa Trung Hoa. Người La Mã mê tơ lụa của Trung Hoa đến nỗi gọi nơi này là Seres, tiếng Hy Lạp, có nghĩa tơ tằm. Một cân lụa đổi một cân vàng. Bạch Cư Dị tả cô em dệt lụa khéo như thể vừa dệt vừa lấy mẫu từ đàn nhạn đang bay trên trời. Tên Con Đường Tơ Lụa/Silk Road mới có từ thế kỷ 19, do một nhà nghiên cứu người Đức, Ferdinan von Richthofen đặt, Seidenstraße, mà tính lịch sử không bằng tên Con Đường Ngọc Bích. Trung Hoa không có ngọc nephrite
Ở Liêu Ninh -phía bắc Beijing, thuộc đông bắc Trung Hoa và Nội Mông- chỉ có loại đá bây giờ gọi là soapstone, độ cứng Mohs scale từ 2.5 đến 4, người Trung Hoa lúc đó đã yêu lắm, gọi là “yu”, cẩm thạch, đá xanh. Năm 1970, tại địa điểm Chifeng, thuộc Nội Mông, nhóm khảo cổ Nhật đào được cả trăm tượng bằng soapstone, từ 3 đến 30cm. Hình người, đa số là phụ nữ, chíên sĩ, thợ săn, nô lệ, thầy phù thuỷ…. Các con thú, nhiều nhất là rồng và heo, có cả rùa, thỏ, mèo, chim, phượng hoàng, cú mèo, ve sầu, cào cào, bướm, sâu… Soapstone không thể nào sánh được với nephrite, tuy vậy loại đá này đã hân hạnh ghi lại thời Đồ Đá châu Á. Đó là nền văn hoá Hongshan (≈3500 - ≈2000TCN), bao trùm một vùng từ Nội Mông/Inner Mongolia, Hà Bắc/Hebei và Liêu Ninh/Liaoning, lúc đó chưa cấu thành quốc gia, nên không có biên giới. Hình rồng kế bên cho thấy ý niệm về loài bò sát thời đó. Con rồng chữ C này, được đặt tên Zhulong (Zhu; heo, long: rồng), hay “pig dragon” đầu giống heo thân giống rắn. Con rồng này đẹp nhất trong số 38 “rồng heo” đào được, cả về kỹ thuật mài giũa lẫn “nước ngọc”. Những con thú này về sau cũng tìm thấy nơi nền văn hoá Liangzhu (≈3400 - ≈2250TCN) ở hạ lưu sông Dương Tử; và ở cuối đời nhà Thương (1700-1100 TCN). Các nhà Trung Hoa học coi Zhulong là tiền thân của “văn hoá” rồng Trung Hoa. Soapstone được khai thác mãi đến đời Hán mới cạn. Điều này cho thấy buớc chân lãng du của con người. Đồng thời, theo thiển ý, sự cọ sát giữa những nhóm người trong một thời điểm và địa bàn tương đối liên tục, đã khai sinh ra kết quả chung mà chủ nhân khó có thể chỉ là một cá nhân hay một nhóm người. Từ trào Hán, Trung Hoa mới biết đến nephrite trắng ở Khotan. Từ đó họ học từ người Urguys và người Ấn độ nghệ thuật chạm, khắc, mài ngọc. Họ cũng đã đi khắp các cửa sông miền Khotan tầm ngọc, nhưng kết quả rất ít, nên họ đành chờ đợi nguồn duy nhất từ người Urguys. Nhà Hán dành mua Nephrite với Ấn độ. Các triều đại Trung Hoa tiếp theo luôn dành độc quyền mua nephrite của Khotan. Triều đình chuộng hơn cả vàng và ngà, không để lọt ra ngoài miếng nào, đặt tên là ngọc mỡ trừu/mutton-fat jade/yangzhi yu. Đội thợ cung đình mài giũa chạm khắc thành ngọc tỷ, hốt, đồ trang sức, nghiên mực, ly chén, thắt lưng… cho hoàng gia, và ban nhỏ giọt cho đại thần. Họ còn giữ bí mật tuyệt đối, không cho biết bạch ngọc nephrite trắng xuất xứ từ đâu. Năm 1780, khi nhà Thanh biết tới ngọc Burma, họ cũng dành độc quyền. Từ Hi Thái Hậu có tới 3000 hộp đựng đồ ngọc. Vua Càn Long ngủ dậy phải cầm ngay một vật bằng ngọc. Năm 1860, tám nuớc Tây Phương đốt phá Bắc Kinh, cướp đi rất nhiều của cải. Từ Hi tiếc cố đô, cho xây lại Di Hòa Viên cực kỳ xa xỉ, tốn 300 triệu lượng tiền. Năm 1900, quân Anh Pháp lại đốt phá Bắc Kinh lần nữa và cướp phá Di Hoà Viên. Không phải ngẫu nhiên mà cả hai đại gia chuyên mua bán đấu giá cổ vật, nhà Christie's và nhà Sotheby’s đều có trụ sở ở Hongkong. Đa số cổ vật, người Hoa ẩn danh mua lại hết để rửa cái nhục hoàng thành bị tàn phá, ngọc tỉ phiêu bạt. Ngọc tỉ kế trên 6cm, làm bằng ngọc trắng Khotan, chạm năm 1796 nhân dịp vua Càn Long nhường ngôi cho thái tử. Ngọc tỉ này lưu lạc giang hồ, đại gia Sotheby’s vớt được đâu đó, bán đấu giá 5.92 triệu đô la ở Hongkong năm 2007, khiến thị trường ngọc nephrite trắng từ đây có một giá trị bất ngờ. Tiện đây xin nhắc tới việc các đại gia kiếm tiền rất quí phái trên những đồ vật ăn cướp. Tháng Hai 2009, nhà Christies’s bán đấu giá hai con thỏ và chuột bằng đồng, thuộc sưu tập riêng của nhà vẽ kiểu Yves Saint Laurent. Phản ứng dữ dội của Trung Quốc rất đáng ca ngợi, họ cho rằng hai món đồ này thuộc về mười hai con giáp, trang trí văn phòng tứ bảo của vua Càn Long ở Cung Điện Mùa Hè, bị Anh/Pháp cướp phá năm 1860. Trung Quốc đã tìm lại đượcc 5 trong số 12 con, hiện trưng bày tại viện bảo tàng Bắc Kinh. Không rõ vụ việc sau đó ra sao. Cổ vật Chàm và Việt Nam cũng lưu lạc ở các bảo tàng châu Âu nhiều hơn ở lại VN, nhưng hình như không ai có ý truy tầm, dù với phản ứng yếu ớt, “cha chung không ai khóc”. Có thể định tuổi ngọc không?Đa số chủ nhân tiệm nữ trang giải thích - rất hợp với nghĩa cử cao đẹp là móc túi tiền các quí phu nhân, nhưng không với sự thật - “Em bảo đảm với ông bà ngọc của em toàn là ngọc xưa không hà”. Nhưng chính họ cũng không biết xưa là nhiêu tuổi. Có trăng nào không già, có ngọc nào không xưa, trời ạ! Không thể áp dụng phương pháp đồng vị phóng xạ C14 để định tuổi ngọc; vì khác với những bộ xương cổ đại có chứa chất hữu cơ, ngọc nói chung thuộc nhóm silicate. Ngọc nào -đây đang nói về ngọc thật- cũng cả trăm ngàn hay triệu tuổi cả. Vì vậy, nếu là thuần nữ trang hay cổ ngoạn, thời điểm làm thành có thể là (vài) trăm năm trước, có thể là ngày hôm qua. Nếu là cổ vật đào từ những ngôi mộ hay địa điểm khảo cổ, chỉ có thể định được thời điểm chế tạo, bằng cách so sánh hoa văn chạm trên ngọc, với hoa văn trên những món đồ được khám phá tại hiện trường, chẳng hạn trên kiến trúc, chạm khắc đền thờ, lăng mộ, nữ trang, tranh ảnh, quần áo. Những sai lầm khó sửaHiện nay, mặc dù giới học thuật đều biết rằng lý lịch của các loại ngọc đã được soi sáng, rằng từ ngàn năm các vương triều Trung Hoa luôn luôn dấu nhẹm về nguồn gốc của loại ngọc mà họ dành độc quyền, nhưng tuyệt đối trên các thông tin ở website, sách vở nơi các nghiên cứu nghiêm trang, vẫn ghi chú rất sai lầm, gọi Chinese mutton-fat nephrite thay vì Khotan mutton-fat nephrite. Điều này cho thấy sự hiểu lầm triền miên của đám nghiên cứu Tây Phương: luôn bị bóng ma văn minh Trung Hoa ám ảnh; chúng khẩu đồng từ rất phù hợp với chính sách vĩnh viễn của người Hoa: dù khinh bỉ Man Di Nhung Địch, nhưng Rợ hở ra cái gì, chàng thâu gom đủ thứ và hoà tan tất cả vào giòng Đại Hán. “Đại Hán” là một phạm trù văn hoá, vô nghĩa về mặt nhân chủng. Lúc đó, nhà Thương rồi nhà Châu chỉ rải rác ở miệt bắc sông Hoàng Hà, như bản đồ đính kèm. Không có chủng nào gọi là “chủng Hán”. Bằng cớ, Hán Cao Tổ Lưu Bang, không phải … người Hán. Họ Lưu xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo ở đất Bái thuộc nước Sở. Bái hiện nay thuộc Từ Châu, Giang Tô, vùng biển. Chàng không ưa làm ruộng, thích lêu bêu nên hợp với nghề hơi kém quí phái, nghề chăn tù. Đất Báí là vùng của “rợ” Việt, dù 18 đời Sở Vương do nhà Châu bổ nhiệm, nhưng dân chúng vẫn là “rợ Việt” (nhưng không phải Việt Nam, vì lúc đó chưa có nuớc Việt Nam, dù đồng bằng sông Hồng đã có cư dân). Ngọc Môn quan! Yumen Guan Pass! Jade Gate Pass! Ngọc Môn quan! Trung Hoa có hai cửa ải. Nhạn Môn Quan ở phía Bắc chim nhạn bay kín trời, là nơi Chiêu Quân sang xứ Hồ. Ngọc Môn quan ở phía Tây, nhưng không phải thò tay xuống đất là có ngọc cầm chơi, mà chỉ vì tất cả ngọc nhập vào đất Trung Hoa đều đi qua cổng này. Ngọc Môn Quan cách thành phố Đôn Hoàng 90 km, là trạm biên giới xa nhất về phía Tây của Trung Hoa lúc đó. Khu vực này khoảng 373 km vuông. Ngọc Môn quan được xây bằng đất hoàng thổ, loess, dài 24.7 mét, ngang 26.5 mét và cao 10.7 mét. Hai dòng sông ngọc Khotan khoảng 720 km vuông, mấy năm mới mưa một lần. Ở độ cao 1,410 mét trên mặt nước biển, Khotan là môt ốc đảo cao nhất trong khu lòng chảo Tarim. Khotan, có nghĩa “thành phố ngọc”. Có lẽ không nơi nào trên thế giới, mà “sông rót ngọc từ trời cao”. Người Urguys thành kính gọi hai giòng sông thần thánh này là ranījai ttāji, ‘the rivers of precious stone”, cái nôi của sự sống và nền văn minh ốc đảo Khotan. Người Uigur gọi Karakash River, Qara-qās, “bờ sông đen” hay “sông ngọc đen” vì ngọc đen hay xanh đậm tìm thấy ở đây. Giòng sông dài 808 km chảy từ rặng Kunlun/Qurum gần đỉnh Karakorum. Đường Tam Tạng trong “Đại Đường Tây Vực Kí” có đi ngang giòng sông này, lãnh cái nóng thiêu người, phải mượn quạt của Thiết Phiến Công Chúa tức Bà La Sát. Yurung-kāsh, “bờ sông trắng” hay “sông ngọc trắng”, trôi xuống toàn ngọc trắng. Sông dài 513 km phát nguyên từ rặng Muz Tagh (núi tuyết) gần biên giới phía Bắc cao nguyên Tây Tạng. Từ Venice, Marco Polo 17 tuổi cũng đi qua con sông này tới Seres. Chàng tuổi trẻ có chứng kiến cảnh người Uigur xuống sông vớt ngọc và lầm tuởng là agate, một loại đá nếu để cạnh nephrite như con gà với con công. Tìm ngọc dưới sôngLoại ngọc có giá nhất, là ngọc tìm được dưới lòng sông. Truyền thống Uiguys rất ít “khai mỏ” ngọc, tức không đào xới bằng cuốc. Sợ đau lòng ngọc? Không kiên nhẫn nào sánh bằng kiên nhẫn của người Urguys tìm ngọc, mà cũng khó có sự tinh tường nào bằng. Mỗi mùa xuân từ tháng sáu đến tháng chín, tuyết tan từ đỉnh núi. Nước đá lũ lựơt chảy xuống xuôi cuốn theo những hòn đá từ trên núi cao, nơi không ai có thể lên tới được. Mùa hạ, từ tháng mười đến tháng năm, nuớc rút bớt, lòng sông hẹp lại, là lúc người Uygurs đi săn ngọc lẫn với những loại đá khác nằm rải rác trên bờ sông hay dưới giòng nuớc. Khi Khotan còn vua, mỗi năm đến mùa vớt ngọc, nhà vua thân lội xuống sông tìm ngọc, giống như vua nhà Lý của ta làm lễ tịch điền. Theo người Uygurs, nơi nào giòng nuớc sáng rực, nơi đó có ngọc. Trẻ con Uygurs 10 tuổi cũng phân biệt được đá ngọc lẫn trong đá khác. Chỉ có khoảng 50 đến 60 người kiếm ngọc quanh năm. Nông dân chỉ vào ngày mùa rảnh rỗi mới kiếm thêm. Cả làng nắm tay nhau thành hàng ngang đi dưới lòng sông, nước trong suốt cạn đến bắp chân, họ cảm được chất ngọc quí với bàn chân trần. Nguồn ngọc này không bao giờ ồ ạt, mà cũng không bao giờ cạn. Tất cả tuỳ vào lưu lượng hai giòng sông cuốn những phiến đá nào nằm trên dòng chảy. Trên bãi sông, không phải tất cả đều là ngọc. Mỗi năm, chỉ vớt đựoc chừng 250 kg đến 1000kg loại hai. Còn loại hạng nhất, không tỳ vết, rất hiếm. Ngọc được bán cho lái buôn từ Beijing, đặt tên là ngọc Hetian, qua tiếng Việt, là ngọc Vu Điền hay Hoà Điền. Vì vậy, bức ngọc khổng lồ hiện để ở bảo tàng Bắc Kinh, phải nói là vô giá. Phải phục dân tộc Trung Hoa thật kiên trì và thích làm những chuyện khó. Năm 1780, tìm thấy một khối ngọc nặng 6 tấn ở núi ngọc Kun Lun. Phải mất 2000 người ngựa, trong vòng ba năm mới kéo được khối ngọc này về Bắc Kinh. Vua Càn Long tuyển toàn thợ khéo, làm việc bẩy năm, ghi lại truyền thuyết về vua Đại Vũ trị lụt ở giòng Hoàng Hà. Vũ kiên trì mất 13 năm khai 9 tuyến đường băng ngang núi, khơi 9 con sông khiến nuớc sông Hoàng Hà không còn gây ngập lut. Vua Nghiêu giết chết cha của Vũ vì không hoàn thành nhiệm vụ trị thuỷ. Nhưng vua Thuấn -con vua Nghiêu- lại cảm công của Vũ mà nhường ngôi. Vũ trở thành Đại Vũ, vua thứ nhất của nhà Hạ (2100 TCN). Theo Nguyên Nguyên, Đại Vũ sinh ở Tứ Xuyên, thuộc tộc Khương, cũng là giống “rợ”. Tạc xong, khối ngọc còn 4.5 tấn. Góc bên phải còn con dấu của Càn Long. Tượng “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” nặng 4,5 tấn cũng vĩ đại như bức ngọc trên. Tim ngọc theo truyền thuyết: loã thể bên bờTruyền thuyết này chắc không phải của người Uigurs. Đa phần là của mấy thi sĩ Trung Hoa say xỉn, bầy vẽ siêu hơn cả Hồng Lâu Mộng, nào là trinh nữ nào là âm dương, nào là trăng sáng nào là ngọc gọi. Mấy ông Tây không rành mấy ông Tầu, nên xanh lè mắt truớc hình ảnh lãng mạn tột cùng này: đêm trăng, trinh nữ Urguys loã thể vừa đi dọc bờ sông vừa hát khúc ngọc ca. Bàn chân trần nàng dẫm lên những phiến đá. Nàng là âm ấm áp, những phiến ngọc vốn có tính dương lạnh lẽo, cảm động trước toà ngọc mời gọi ấy mà động tình lên tiếng. Trinh nữ chỉ việc chạy ào tới, mừng rỡ ôm lấy chàng mang về. Chàng có hoá thân thành người, đêm đêm trò chuyện vói giai nhân? Nếu hai ba hòn ngọc lên tiếng một lúc, nàng biết ôm chàng nào truớc? Chàng sẽ vừa ghen vừa sầu làm thơ lủi thủi mách cáo chị Hằng phân bua chú Cuội? Chỉ người Trung Hoa miền Nam Dương Tử, có thể cọp pi thi sĩ nhạc sĩ Việt Nam, mới thích ngắm trăng ngắm sao, quên rằng Tây Vực, nơi ngày nóng đêm lạnh chết cá chết tôm, độ chênh lệch từ 25 đến 30; không mặc quần áo ra ngoài trời sưng phổi mà chết. Họ cũng quên rằng ban ngày, gió sa mạc thổi cát và đất vàng bay mù mịt khiến có khi tầm nhìn chưa tới 50m, ban đêm chắc còn rùng rợn hơn nhiều. Vì vậy, khi đọc sử hay truyện cổ tích của Trung Hoa, đừng say xỉn và khoan “thành kính nghiêng mình ”. Ngọc đến từ đâu ?Đâu đó trên thượng nguồn, nơi vết chân con người không đến được, từ hồi nào không rõ, có một mỏ ngọc hay một mạch ngọc hình thành do dung nham từ lòng đất dâng trào. Do sự xâm thực và bào mòn, các khối đá, có cả đá ngọc, bị nước cuốn trôi xuống hạ lưư. Không ảnh từ satellite, thấy rõ mạch ngọc ngoằn ngoèo chỉ bằng ngón tay ở trên mặt, có thể có một lớp ngọc trắng lớn hơn ẩn phía dưới, nhưng cũng có thể không có gì. Điều này cho thấy năng lực phi thường và huyền bí của tạo hoá cũng như cơ duyên của dân tộc Uighurs, duy nhất làm chủ khối ngọc nephrite trắng qua mấy ngàn năm. Điều lạ, kể từ khi Khotana bị sát nhập hẳn vào Trung Hoa, khối lượng ngọc nephrite trắng hầu như càng ngày càng ít trôi xuống nữa. Càng hiếm, người ta càng hâm mộ vẻ đài các của bạch ngọc nephrite. Khoảng gần đây, người Hoa cố dùng phương tiện cơ giới để đục núi Kun Lun, nhưng núi lắc đầu không cho ngọc nữa. Dù nephrite Khotan có màu vàng, xanh, nâu. Nhưng nổi tiếng nhất, vẫn là "mutton fat" jade, mịn như mỡ dê, trắng như ánh trăng, bóng lọng như thoa dầu khác hẳn tất cả nephrite trên thế giới. Nephrite trắng Siberia có màu vàng nhạt. Nephrite trắng Korea có màu xanh nhạt. Ngay cả Jadeite của Burma và Guatemala, tuy quí hơn, nhưng thiếu vẻ êm mượt của Nephrite Khotan. Người Hoa đã tìm ra gần bốn chục địa điểm khai thác trên khắp nước; mong tìm kiếm nephrite trắng Khotan vốn không đủ cung cấp cho thị trường nội địa. Nhưng hoài công. Sự hiếm hoi này cho thấy những phiến ngọc/cổ ngoạn/nữ trang, thật sự là ngọc trắng nephrite Khotan, đều có lý lịch, không lang thang bừa bãi trên thị truòng. Những quảng cáo trên internet, “mỗi tháng có thể cung cấp 5,000 vòng mutton-fat jade,” là chuyện dế mèn phiêu lưu ký cho nhi đồng. Tóm tắt- Thế giới chỉ duy nhất Khotan có ngọc trắng nephrite. Richard Gump, người đầu tiên mở cửa hàng nhập cảng đồ cổ ngoạn châu Á vào thị trường Mỹ ở San Francisco năm 1861, có nói “Trung Hoa xây dựng nền văn minh của họ trên những hòn đá”. Đáng lẽ phải thêm “Trung Hoa xây dựng nền văn minh của họ trên những hòn đá của người khác”. - Qua ngõ Khotan, Trung Hoa đã học được nhiều từ nền văn minh Trung Á, từ Phật giáo đến những sản phẩm quí giá như ngọc, thuỷ tinh, bông vải, hương liệu, trái cây, lông thú, gạc nhung, nhất là ngựa quí. - Ở Việt Nam có miếng ngọc trắng nephrite nào không ? Các trào Trung Hoa đều độc quyền món ngọc. Thời đám di thần nhà Minh chạy sang Việt Nam, không rõ có ông quan nào mang theo miếng ngọc vua ban. Không rõ đời nhà Thanh có tặng khánh ngọc cho mười ba ông vua trào Nguyễn Việt Nam không. Nếu có, cũng thuộc về hoàng gia. Vua Khải Định, trên ngực áo có cài một khánh ngọc màu trắng. - Trong vòng hơn 400 năm (206 TCN–220 CN), nhà Hán bành trướng lãnh thổ từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam. Khotan là miền viễn Tây, Việt Nam là cực Nam. Vương quốc Khotan, dù có khối Hồi giáo hậu thuẫn, đã hoàn toàn bị Trung Hoa thôn tính năm 1878. Riêng Việt Nam bền bỉ và cô độc trên con đường giữ gìn nền độc lập, tuy có lúc thiếu tự chủ. Soi trong đáy ngọcKhông phải ai cũng sở hữu được một miếng bạch ngọc mỡ trừu, Khotan mutton-fat nephrite. Nếu có, đó là mối duyên vạn dặm vói đỉnh Qurum tuyết phủ, với miếng đá trên triền núi từ trăm ngàn năm truớc, một ngày đẹp trời theo giòng nuớc hữu tình cuồn cuộn về xuôi. Quãng đường cheo reo mấy ngàn cây số từ hòn đá vô tri đến tay người thợ vô danh, chứa đựng bao điều nào ai hay biết. Soi trong đáy ngọc, xin nhớ không chỉ cái đẹp diễm lệ của một món cổ ngoạn hay một nữ trang đắt giá, mà cả một lịch sử bi hùng của một dân tộc, cả một nền văn minh nay đã thay tên. Cũng nhớ luôn đến bản tin này: theo Radio Internationale France, tiếng Việt, ngày 10 tháng tư 2009: Trung Quốc vừa xử tử hai người Urguys ngay trên chính đất nước của họ, vì tội "khủng bố " ( ? ) . Trần Thị Vĩnh Tường California May 01-2009 ----------------------------------- (1) vneconomy.vn/2009040210345706P0C11/dan-so-viet-nam-qua-cac-thoi-ky.htm
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:22:48 GMT 9
10 nhà độc tài đang khốn đốn Time Những cuộc biểu tình khổng lồ ở Ai cập nhằm trục xuất Tổng thống Hosni Mubarak đánh dấu một thời điểm chưa từng có trong lịch sử Ai cập và hết sức khó chịu đối với Mubarak trong ba thập kỷ chiếm giữ quyền lực của ông ta. Tinh thần của cuộc nổi dậy này dường như đang lây nhiễm. TIME cho chúng ta một cái nhìn lướt qua những kẻ bạo quyền mà sự níu giữ quyền lực lúc này đã yếu hơn bao giờ hết. 1. Hosni Mubarak Ông Hosni Mubarak Trong nhiều năm Ai Cập không nằm trong tầm rà soát Trung Đông của hầu hết người Mỹ - mặc dù trong một thời gian dài Washington là nhà hảo tâm đối với chế độ Cairo. Nhưng Ai cập, có thời từng là lực lượng áp đảo trong khu vực, nay đang ở trung tâm sự cố khi tổng thống Mubarak đang vật vã bám chặt lấy quyền lực trước những cuộc biểu tình chưa từng thấy. Lãnh tụ chuyên quyền này đã lãnh đạo Ai Cập từ sau cuộc ám sát Anwar Sadat năm 1981. Mặc dầu chính phủ Mubarak đã cải thiện các cuộc bầu cử năm 2005, đối lập chính trị thật sự từ lâu đã bị đàn áp dưới sự thống trị của ông ta. Muslim Brotherhood, một nhóm chính trị Hồi giáo có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng đã bị đàn áp, và lực lượng cảnh sát Ai Cập khét tiếng là tàn bạo đối với những người chống chính phủ. Các cuộc bầu cử quốc hội năm ngoái bị nhiều người cho là gian lận, và nhiều người Ai cập thấy xấu hổ trước những dấu hiệu đầu tiên Mubarak mở đường cho con trai ông ta lên nối ngôi - đặt cơ sở cho một triều đại gia đình trị được hậu thuẫn bởi một phái đặc quyền đặc lợi thối nát. Mubarak hiện đang đứng trước một thách thức nghiêm trọng đối với sự thống trị dài nhiều thập kỷ của ông ta bởi một khối dân chúng tràn đầy phẫn nộ và thất vọng dồn nén từ nhiều năm nay. Josh Sanburn 2. Ali Abdullah Saleh Ali Abdullah Saleh Một tuần lễ biểu tình chống đối trên khắp Yemen đã khiến nỗi sợ thấm nhập vào tim tổng thống Ali Abdullah Saleh, buộc ông ta vội vã trả tự do cho nhiều nhà hoạt động nhân quyền và nhà báo chỉ ít ngày sau khi họ bị bắt giữ. Saleh, người đã trị vì Yemen trong 32 năm, từ lâu đã bị phê phán vì chính phủ tham nhũng của ông ta, và được coi như con tốt đen trong những cố gắng chống khủng bố của Mỹ. Saleh cũng có một lịch sử thỏa thuận cay đắng với các chiến binh Hồi giáo và những cuộc nổi dậy của nhiều bộ tộc để giữ được chính quyền - một sự kiện mà cộng đồng quốc tế đã và đang chú ý kể từ khi al Qaeda ở bán đảo A rập, hoạt dộng chủ yếu bên ngoài Yemen, nhận trách nhiệm về âm mưu năm 2009 đánh bom một máy bay của Northwest Airlines trên đường đến Detroit. Đầu năm nay, quốc hội Yemen đã sơ bộ chuẩn y một biện pháp cho phép Saleh, kẻ đã cai trị hơn ba thập kỷ, được ở lại chính quyền vượt quá sự ủy trị hiến định của ông ta. Thông tin đã thúc đẩy những cuộc biểu tình trên đà gia tăng mạnh mẽ kể từ khi có cuộc nổi dậy của Tunisia. Frances Romero 3. Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) Kim Chính Nhật Là lãnh tụ tối cao của một trong những nước cô lập nhất thế giới, Kim Chính Nhật của Bắc Triều Tiên không được biết đến gì nhiều ngoài những tuyên bố huênh hoang, thường là ngu xuẩn, của những cái loa phóng thanh chính thức của chế độ. Những sự việc như ông ta đã có lần viết sáu vở opera trong hai năm, “huấn luyện” cho đội tuyển World Cup của nước ông ta bằng công nghệ điện thoại di động tàng hình (mà ông ta sáng chế ra) và ghi được tỉ số thắng 38 điểm trong một trận đấu golf (biến ông ta thành tay đánh golf vĩ đại nhất của mọi thời đại). Những kỳ tích về tài nghệ của ông ta xem ra mù mờ, nhưng sự đói khổ cùng cực ở Bắc Triều tiên thật là rõ ràng. Khi Kim đã xây dựng một trong những quân đội thường trực lớn nhất thế giới, thì các tổ chức viện trợ ước tính khoảng 2 triệu người đã chết từ giữa những năm 1990 do thiếu lương thực phần lớn vì quản lý kinh tế tồi tệ. Chế độ toàn trị của Kim đã bị lên án vì những vụ tra tấn, những vụ hành hình công khai, lao động nô lệ, cưỡng bức phá thai và giết hại trẻ sơ sinh; và khoảng 200.000 người bị giam là những tù nhân chính trị. Tia hy vọng mỏng manh duy nhất của Bắc Triều Tiên là cái chết của Kim - hiện đang ốm yếu. Trong việc chọn để bổ nhiệm con trai của ông ta là Kim Chính Ân (Kim Jong Un), một kẻ độ tuổi 20, không có kinh nghiệm gì, làm người kế vị, Kim đã tạo ra một tương lai thiếu chắc chắn khi những người có thế lực trong gia đình đua tranh vào chức vụ chóp bu này. Một số người nói rằng sự bất định này có thể đưa đến việc thay đổi đội ngũ hay thậm chí một cuộc nổi loạn lãnh đạo bởi các sĩ quan quân đội bất mãn. Kayla Webley 4. Alexander Lukashenko Lukashenko Thường được mô tả như “nhà độc tài cuối cùng ở châu Âu”, Tổng thống Belarus Alexander Lukashenko đã cai trị nước Đông Âu này trong 16 năm. Để chống đỡ cho nền cai trị của mình, những tiếng nói đối lập thường xuyên bị chặn, còn phương tiện truyền thông độc lập thì từ có ít đến không có. Các đối thủ chính trị thường xuyên bị theo dõi bởi công an mật Belarus, trong nước cộng hòa thuộc Liên xô cũ này nó vẫn còn được gọi là KGB. Lukashenko bắt đầu kiểm soát đất nước từ năm 1996 khi Quốc hội xem xét kết tội ông ta, ông ta liền lập tức giải tán nó. Lukashenko sau đó tự tay chọn ra một quốc hội kế tục và nắm lấy quyền kiểm soát ngành tư pháp của đất nước. Tháng 12 vừa qua, nhà độc tài này đã được bầu lại với 80% số phiếu, nhưng nhiều nhà quan sát độc lập cho biết có sự gian lận phổ biến. Từ đó, Lukashenko đã lãnh đạo một cuộc đàn áp tàn bạo các đối thủ chính trị, trong đó có một vài người ra tranh cử với ông ta trong cuộc bầu cử tổng thống. Cộng đồng quốc tế đã có những biện pháp chế tài Belarus vì những hành động này của ông ta. Josh Sanburn 5. Omar Hassan al-Bashir Omar Hassan al-Bashir Omar Hassan al-Bashir, người lên cầm quyền ở Sudan sau khi lãnh đạo một cuộc đảo chính năm 1989 (ông ta là tổng thống từ năm 1993), có một danh hiệu nhục nhã là nguyên thủ quốc gia đương chức đầu tiên mà Tòa án Hình sự Quốc tế phát lệnh bắt. Ông ta bị truy nã về tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh và theo một lệnh bắt thứ hai năm 2010, tội diệt chủng ở Darfur. Những bản cáo trạng này không phải là thách thức duy nhất mà al-Bashir phải đối mặt. Trong tháng Giêng 2011, cùng tháng người miền nam Sudan đi bỏ phiếu trong một cuộc trưng cầu dân ý để ly khai, các sinh viên miền Bắc đã chiếm các đường phố để phản đối chế độ của al-Bashir. Alexandra Silver 6. Mahmoud Ahmadinejad Mahmoud Ahmadinejad Cuộc bầu cử lại vào nhiệm kỳ thứ hai năm 2009 mà ông ta thắng lớn - với hơn 60% số phiếu - đã gây ra một cuộc nổi dậy ở Iran. Đối thủ chính của Mahmoud Ahmadinejad, là Mir-Hossein Mousavi và những người ủng hộ ông kêu là lừa đảo, yêu cầu kiểm lại phiếu và sau đó kêu gọi hủy bỏ kết quả bầu cử. Hàng chục người bị giết trong các cuộc biểu tình bị đàn áp bởi các lực lượng bán quân sự. Sau một tuần chống đối mãnh liệt, Lãnh tụ Tối cao của Iran Ayatullah Ali Khamenei tuyên bố các kết quả bầu cử là hợp lệ và khẳng định thắng lợi của Ahmadinejad. Chỉ ít ngày sau đó, Hội đồng Vệ quốc xác nhận rằng 50 khu vực bầu cử có số phiếu thu được nhiều hơn số cử tri đã đăng ký. Ahmadinejad và Khamenei xung đột trên nhiều khía cạnh chính trị, trong đó có cả vấn đề thành phần nội các của Tổng thống. Sự căng thẳng này, đi đôi với sự chống đối rộng rãi và lâu dài đối với chính quyền Ahmadinejad - bao gồm trong số tăng lữ cao cấp của nước này - đang đặt Ahmadinejad, người cầm quyền với sự hậu thuẫn của tầng lớp giáo sĩ Hồi giáo, trên một mặt đất đang rung chuyển. Frances Romero 7. Robert Mugabe Robert Mugabe Robert Mugabe đã cai trị Zimbabwe từ khi đất nước giành được độc lập năm 1980. Trong quá trình hơn 30 năm làm Thủ tướng và Tổng thống, ông ta và Mặt trận Yêu nước - Liên hiệp Dân tộc Phi châu Zimbabwe của ông ta đã đàn áp khốc liệt những người đối lập và quan tâm đến việc duy trì quyền lực hơn là cải thiện đời sống của công dân trong nước. Bất chấp những thủ đoạn của nhà độc tài, sự bất mãn của nhân dân bộc lộ rõ năm 2009 khi Morgan Tsvangirai của Phong trào vì Chuyển đổi Dân chủ nhận được nhiều phiếu hơn Mugabe trong cuộc bầu Tổng thống. Tuy nhiên, bạo lực đã xảy ra trước khi bầu cử và ông Tsvangirai không tham gia. Sau đó Mugabe đi vào một cuộc thương lượng chia sẻ quyền lực với phe đối lập, ông ta vẫn là tổng thống, trong khi Tsvangirai làm Thủ tướng. Alexandra Silver 8. Emomali Rahmon Emomali Rahmon Từ 1992, chỉ một năm sau khi độc lập, Emomali Rahmon đã thống trị nhà nước Trung Á Tajikistan nhỏ bé này. Cựu thành viên của ban lãnh đạo đảng cộng sản Liên xô lên nắm quyền vào lúc trong nước bắt đầu cuộc nội chiến đẫm máu, đấu với một phe cánh dẫn đầu bởi những người Islamist chống lại khối thống trị thế tục của những lực lượng được Nga ủng hộ, trong đó có Rahmon. Mười ngàn người chết, nhưng cuối cùng Rahmon thắng lợi và, giống như các lãnh tụ của các chế độ khác ở Trung Á, ông ta bào chữa cho sự chuyên quyền của mình phần nào bằng cách coi mình như một hàng rào ngăn chặn mối đe dọa của những kẻ cực đoan quá khích. Nhưng các chuyên gia mô tả nước Tajikistan của Rahmon là một nước nghèo khổ và vô luật pháp, và là nơi chủ yếu tuồn thuốc phiện từ nước láng giềng Afghanistan. Sau cuộc suy thoái tài chính đánh vào những nước giàu hơn là Nga và Kazakhstan, hàng chục ngàn công nhân Tajik - mà tiền họ gửi về là dòng máu nuôi sống nền kinh tế Tajikistan - trở về nhà ở những làng quê xác xơ tiêu điều vì nghèo đói. Trong không khí ấy, các nhà quan sát nói về cuộc nổi dậy của những người Islamist từ lâu nằm im đang trỗi dậy mãnh liệt, một phần được hậu thuẫn bởi những chiến binh mới đến, (trước đây họ trú ngụ trong những vùng thuộc các bộ lạc Pakistan). Trong khi đó, Rahmon tiếp tục cai trị Tajikistan như thái ấp riêng của ông ta, gia đinh ông ta nhiều năm được hưởng lợi lộc từ hối lộ. Chính phủ của ông ta có thể vẫn còn đứng vững, nhưng những đám mây đen đã lơ lửng treo trên tương lai của nước Tajikistan của Rahmon. Ishaan Tharoor 9. Triều đình A-rập Saudi Vua Abdullah A-Rập Saudi Với 25% trữ lượng dầu mỏ của thế giới, của cải tích lũy và những người bạn mạnh - chủ yếu là Mỹ - cuộc sống của Vua Abdullah của A rập Saudi không đến nỗi tệ. Nhưng trong khi ông ta và khoảng 7000 thành viên hoàng tộc của ông ta giàu có, hưởng tài sản khoảng 20 tỉ $, thì tại đất nước ông ta cứ bẩy người lớn thì có một người không biết chữ. Thất nghiệp đã lên đến 10% trong nhiều năm. Kiểm duyệt tràn lan. Việc phê phán chính phủ, gia đình hoàng tộc và cảnh sát, những người có quyền lực tuyệt đối, là không được phép. Phụ nữ có rất ít quyền và nói chung ở ngoài lực lượng lao động. Gia đình thống trị này có quyền lực tuyệt đối trong gần một trăm năm nay, mặc dầu chưa bao giờ được bầu ra. Các đảng chính trị đối lập đơn giản là không được phép. Trong khi Abdullah được xếp cùng hàng với những nhà độc tài khác trong khu vực - ông ta đã chào mừng lãnh tụ Tunisia lưu vong Zine el Abidine Ben Ali và đã viện trợ cho Hosni Mubarak của Ai cập - một cuộc nổi dậy của dân chúng trong cái quốc gia bị hạn chế nhưng tương đối giàu có này, có vẻ ít có khả năng xảy ra hơn so với các nơi khác ở Trung Đông. Tuy nhiên, sự nắm quyền của nhà nước Saudi có hai điểm yếu: gia đình trị từ chối tạo ra một hệ thống dân chủ, ngay cả khi xã hội Saudi đang khao khát được tự do hơn, và sự tiếp tục hiện diện của mạng lưới những kẻ Islamist chính thống chủ nghĩa đe dọa phá hủy uy tín của Abdullah như một gương mặt của ổn định ở nước ngoài. Kayla Webley 10. Abdelaziz Bouteflika Abdelaziz Bouteflika Abdelaziz Bouteflika 73 tuổi là tổng thống Algeria từ năm 1999, một nhà hoạt động lâu dài trong Mặt trận Giải phóng Dân tộc - đảng của những người cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh đẫm máu của họ đã giành được độc lập cho Algeria từ tay Pháp năm 1962, nhưng sau đó nhanh chóng chuyển thành chế độ độc đảng lãnh đạo, dựa trên quân đội. Từ những năm 1990 chế độ thống trị này tiến hành một cuộc chiến tranh dữ dội với những người Islamist, những người đã bị từ chối chỗ đứng chính đáng trong chính phủ sau khi quân đội loại bỏ các cuộc bầu cử. Trong nhiệm kỳ của mình, Bouteflika đã thử nuôi dưỡng những mối quan hệ với các đảng khác cải thiện hồ sơ tệ hại của đất nước về dân chủ, nhưng các quyền tự do chính trị vẫn còn bị kiểm soát trong khi các nhà quan sát chỉ ra nạn tham nhũng đang tăng tiến trong giai cấp thống trị của Algeria. Mặc dầu đất nước sung túc nhờ nguồn khí đốt tự nhiên, tỉ lệ thất nghiệp cao và dân cư đặc biệt trẻ đang khao khát những cơ hội tốt hơn. Sau cuộc nổi dậy của công dân đuổi tổng thống Tunisia Zine el Abidine Ben Ali vào tháng Giêng, Boutelflika - nước ông nghèo hơn nhiều so với nước láng giềng Tunisia - trông có vẻ cũng phải bắt đầu đối mặt với một cuộc nổi dậy của dân chúng đang nảy nở. Cuộc nổi dậy của Tunisia bùng cháy khi một thanh niên châm lửa tự thiêu. Từ đó đến nay ở Algeria đã có bảy trường hợp bắt chước tự hy sinh như vậy. Ishaan Tharoor Một nhóm ký giả của Time Nguồn: TIME Hiếu Tân dịch
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 27, 2011 6:48:37 GMT 9
Trung Đông: Bức tường Bá Linh của Mỹ? Vietsciences-Nguyễn Trường DÂN CHỦ VÀ SIÊU CƯỜNG Trong khi người dân Ai Cập đang vui mừng trước sự thành công của dân chủ nhân dân chân chính, các nhà quan sát không thể không tự hỏi điều gì đang xẩy đến với nền dân chủ Hoa Kỳ. Hình như dân chủ nơi đây đang ngày một rỗng ruột và héo mòn. Nước Mỹ đang đứng trước nguy cơ dân chủ chỉ còn lớp vỏ bên ngoài. Trong khi nhiều triệu người Mỹ thất nghiệp và mực sống tuột dốc, quyền lực đã hoàn toàn lọt vào tay giới lãnh đạo tài chánh, ngân hàng, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ. Không mấy ai quan tâm đến số phận giới bình dân nghèo khổ. Thiểu số giàu có giàn dựng giai điệu và các chính trị gia, Dân Chủ cũng như Cộng Hòa, luôn nhịp nhàng bước theo tiết tấu. Những gì gặt hái được từ dân chủ Mỹ là các lần cắt giảm thuế suất lố bịch, và những mối lợi bất ngờ, dành cho giới nhà giàu; cùng lúc, các chính trị gia đã bị mua chuộc và được thù đáp hậu hĩ luôn sẵn sàng cắt xén các dịch vụ công và mạng lưới an sinh xã hội, với lý do ngân sách khiếm hụt. Tiểu bang nầy rồi đến tiểu bang khác nối tiếp loan báo không đủ khả năng thanh toán nợ nần. Hàng trăm nghìn công nhân viên nhà nước lũ lượt mất việc. Camden, một thành phố nhiều tội phạm ở tiểu bang New Jersey, đã phải sa thải gần phân nửa số cảnh sát. Dịch vụ y tế (Medicaid), và an sinh xã hội (Social Security), dành cho người nghèo, đang bị tấn công từ mọi phía. Ít ai lưu tâm đến tình cảnh người nghèo đang gặp quá nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế, và cũng chẳng có khả năng vận động hành lang. Tay chân TT Obama đang cần huy động hàng tỉ USD để tài trợ vận động bầu cử nhiệm kỳ hai. Các chính trị gia không còn tài nguyên và thì giờ để lo cho giới nghèo. Họ còn phải lo o bế chiều chuộng giới giàu có. Trong một bài đăng trên báo The Times vào cuối tháng 1-2011, nghị sĩ John Kerry đã ghi nhận, người Ai Cập "đã nói rõ họ sẽ tranh đấu đến cùng để tăng cường dân chủ và có thêm nhiều cơ hội thăng tiến kinh tế"[1]. Người Mỹ ngược lại đang được yêu cầu phải chịu đựng và hy sinh nhiều hơn.Trong nhiều thập kỷ vừa qua, với đà hăng say tư hữu hóa của các chính quyền kế tiếp ở Mỹ, dân chủ đã được đem rao bán, và chỉ người giàu mới có đủ sức mua. Giới thương lưu và tập đoàn các đại công ty đã tung nhiều khoản tiền khổng lồ vào quỹ vận động tuyển cử, vận động hành lang cao cấp, tài trợ các định chế nghiên cứu, mua chuộc giới truyền thông, và bất cứ thứ gì họ còn có thể nghĩ đến. Họ chiêu đãi các lãnh tụ quyền hành lưỡng đảng: trả phí tổn thuê phi cơ phản lực tư, tiền chơi golf, tiền nghỉ hè, tiền dành mướn các quan chức cao cấp hưu trí cần thiết cho công tác vận động hành lang...Tất cả những khoản đầu tư đó đều đem lại lợi nhuận gấp nhiều lần. Như Jacob Hacker và Paul Pierson đã viết trong tác phẩm "Chính-Trị-Được-Ăn-Cả" -Winner-Take-All Politics: "Từng bước một và từng đợt thảo luận, các quan chức chính quyền đã viết lại quy luật chính trị Hoa Kỳ và kinh tế Mỹ theo những phương cách có lợi cho một thiểu số và phương hại cho tuyệt đại đa số"[2]. Tuồng như cơ chế kiểm soát sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ của các đại công ty chưa đủ chặt chẽ, Tối Cao Pháp Viện đã phải tăng cường với các "quyết định Công Dân Nhất Trí" - Citizens United Decisions, những quyết định củng cố quyền lực chính trị vốn đã lấn át của đồng tiền các đại công ty. Người Mỹ bình thường không đủ khả năng tiếp cận hành lang quyền lực. Nhưng bạn có thể đoan chắc các đại diện dân cử luôn lắng nghe khi đồng tiền các đại công ty lên tiếng. Khi trò chơi đã an bài sẵn lợi thế cho bạn, bạn sẽ thắng. Vì vậy, dù ngay trong thời buổi suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ sau Đại Khủng Hoảng, các đại công ty vẫn đang ngồi trên núi tiền, thị trường chứng khoán lại lên giá và mọi việc đều thuận lợi cho giới nhà giàu đang cầm quyền. Chẳng hạn, các anh em gia đình Kock, David và Charles, có tài sản ước tính trị giá khoảng 35 tỉ USD. Tuy vậy, họ hình như vẫn cảm thấy xã hội đã không đối xử với họ đủ công bằng. Như Jane Mayer đã nêu rõ trong bài viết đăng trên The New Yorker, "anh em nhà họ Kocks thuộc giới tự do lâu đời, luôn tin ở thuế cá nhân và công ty phải thấp hơn nhiều, các dịch vụ xã hội cho người nghèo phải ở mức tối thiểu, và giám sát kỹ nghệ , nhất là pháp chế môi trường, cần được giảm thiểu nhiều hơn "[3]. Một cái nhìn kỹ thành tích gây ô nhiễm của họ cũng đã có thể khiến bạn phải kinh tởm. Chúng ta đang chứng kiến một định chế dân chủ ngày một đồi trụy, khi những cá nhân như anh em họ Kochs nắm trong tay nhiều thế lực và ảnh hưởng, trong khi hàng triệu dân thường Hoa Kỳ lại hoàn toàn bất lực. Anh em họ Kochs luôn có những gì họ muốn. Cắt giảm thuế cho giới nhà giàu? Không thành vấn đề. Cắt xén dịch vụ dành cho người nghèo, người bệnh, giới trẻ và người tàn tật? Cần ngăn chặn hoặc kiềm chế. Chúng tôi còn có thể làm được gì nữa cho quí vị? Người Ai Cập muốn thiết kế một nền dân chủ sinh động, và đây là con đường khá dài và rất gay go. Người Mỹ đang trong quá trình tự đánh mất dân chủ thật sự. Trong một dịp trao đổi với phóng viên Bob Herbert, báo New York Times, vài tuần trước khi mất trong tháng 1-2010, cố sử gia Howard Zinn đã tỏ ra buồn lòng trước hiện tình chính trị Mỹ. Tuy vậy, sử gia vẫn không nản lòng. Ông nói: " Nếu muốn có thay đổi, thay đổi thực sự, điều đó sẽ phải đến từ dưới lên, từ chính nhân dân"[4]. PAX AMERICANA VÀ POX AMERICANA Cách đây gần 5 năm, tác giả đã có dịp viết: "Hoa Kỳ đang nắm trong tay đủ quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự. Thế giới đang ở trong thời khắc hội nhập. Bằng cách nào để hai phía có thể kết hợp hài hòa. Liệu thế giới có đủ cơ may để được hưởng một Pax Americana (hòa bình do Mỹ)? Hay không may, phải gánh chịu một Pox Americana (đại dịch do Mỹ). Cuộc hôn nhân thành công hay đổ vỡ sẽ quyết định di sản của Hoa Kỳ trong lịch sử và số kiếp của thế kỷ 21 mới bắt đầu"[5]. Trong khi theo dõi những biến động bi hài ở Trung Đông, người Mỹ khó lòng ý thức được phần trách nhiệm của chính họ trong những gì đang xẩy ra ở một vùng xa xôi phía bên kia địa cầu. Trong cuộc Chiến Chống Khủng Bố, Hoa Thịnh Đốn trong nhiều năm đã yểm trợ nhiều chính quyền nhũng lạm và vọng ngoại, luôn bị nhân dân căm hận và lên án. Những biến động ở Ai Cập lúc đầu còn được các cơ quan truyền thông dòng chính bình luận với lễ độ và đạo đức giả, nêu lý do có mâu thuẫn giữa quyền lợi và hệ thống giá trị của chính Hoa Kỳ. Do đó, người Mỹ chỉ giảm thiểu hậu thuẫn đến một mức độ nào đó đối với chế độ Mubarak. Chính quyền Obama đã phải đi dây một cách tế nhị khó khăn. Tổng thống và các quan chức thân cận cũng chỉ giữ lập trường ít nhiều trung tính, vừa thận trọng lên tiếng nhẹ nhàng chỉ trích'đồng minh lâu đời', vừa tỏ ra thông cảm với quần chúng xuống đường chống đối, tựa như Hoa Kỳ trong nhiều thập kỷ chưa bao giờ chọn đứng về phía nào. Đối diện với phong trào đòi hỏi dân chủ và tự do của quần chúng Trung Đông, điều đáng lưu ý là sự thiếu vắng"nghị trình dân chủ" ồn ào của kỷ nguyên Bush. Trong một thời gian ngắn đầy tai họa, nghị trình đã được sử dụng như một vũ khí đối với các chế độ Hoa Kỳ xem như thù nghịch và như một nệm ấm lâm thời dành cho các chế độ Hoa Kỳ cần ve vãn trong tương lai. Tuy nhiên, không ai không biết Hoa Thịnh Đốn hiện đang choáng váng và kinh ngạc - một chính quyền rõ ràng thiếu uy lực, đang mất phương hướng và tinh thần, trước viễn tượng mất đi Ai Cập, một đồng minh trụ cột trong chính sách Trung Đông. Hoa Kỳ hiện đang ở trong trạng huống một siêu cường đã trải nghiệm những gì đã diễn ra vào cuối kỷ nguyên chiến tranh lạnh cho siêu cường nhỏ. Thực vậy, năm 1991, khi Liên Bang Xô Viết cáo chung và Hoa Kỳ vẫn là siêu cường lớn còn đứng vững, Hoa Thịnh Đốn đã tưởng lầm đó là một chiến thắng hiếm hoi. Trong những năm kế tiếp, đang tự mãn và huênh hoang cực điểm, các lãnh đạo Hoa Kỳ đã hăng say khai sinh một Pax Americana toàn cầu. Kết quả ngày nay đã mồn một. Hoa Kỳ không khỏi sửng sốt vì chính mình đang chứng kiến một tai họa đang đến cận kề. Chưa đầy 20 năm sau ngày tiểu siêu cường thời chiến tranh lạnh phải rời sân khấu chính trị thế giới, siêu cường đắc thắng còn lại nay cũng đang trên đường lùi vào dĩ vãng. Nói một cách khác, chiến tranh lạnh chưa hề chấm dứt vào năm 1991 như lịch sử quy ước đã ghi nhận. Chiến tranh lạnh chỉ mới chấm dứt trong những ngày đầu của năm 2011 khi những biến động tiếp diễn ở Trung Đông như đang nói lời tiển biệt với siêu cường lớn của hành tinh. SÂN SAU VÀ KHU VỰC ẢNH HƯỞNG Nguyên nhân trực tiếp đưa đến thế chênh vênh của Hoa Thịnh Đốn là nguy cơ địa vị đế quốc sắp sụp đổ, trong một khu vực, kể từ khi TT Jimmy Carter tuyên bố chủ thuyết Carter năm 1980, đã được xem như cơ sở của uy lực toàn cầu, nơi ván bài lớn nhất đang tiếp diễn. Ngày nay, uy lực quần chúng (people power) đang làm lung lay vị trí của Hoa Kỳ ở Trung Đông. Thực vậy, mặc dù sức mạnh quân sự áp đảo đã được Ngũ Giác Đài giàn trải khắp nơi trong khu vực, trong hỗn loạn chính quyền Obama vẫn cảm thấy bất lực. Như cảnh tượng một đế quốc lâm nguy, chúng ta chưa bao giờ chứng kiến một sự kiện tương tự kể từ năm 1989 khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ. Lúc đó, sức mạnh quần chúng cũng đã làm thế giới kinh ngạc. Chấn động của biến cố lan tràn đến các nước chư hầu Đông Âu, những trụ cột của đế quốc Xô Viết trước đây, phần lớn, cũng như Trung Đông ngày nay, đều bình lặng yên ả trong nhiều năm trước đó. Chúng ta đang chứng kiến một thời kỳ đầy sinh lực khác. Những thời kỳ như thế rất hiếm khi xẩy ra, họa hoằng lắm cũng chỉ một lần trong đời người, nói gì đến hai lần trong vòng chưa tới 20 năm. Ngay đối với những ai ở bên ngoài Hoa Thịnh Đốn, những biến động ở Trung Đông hiện nay cũng không kém phần bất ngờ, không kém phần ấn tượng, so với năm 1989. Trong thực tế, hai thời kỳ quần chúng vùng dậy đã liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong khi chúng ta đang chứng kiến đoạn kết thực sự của chiến tranh lạnh, rõ ràng 'kẻ chiến thắng' trong cuộc đấu tranh vĩ đại trước năm 1989, cũng như Liên Bang Xô Viết trước đây, đã gieo mầm tự diệt, để rồi bị buộc phải chứng kiến với "sốc và kinh hoàng", khi hồi cuối bùng phát. Khía cạnh đáng thán phục nhất trong sự sụp đổ của Khối Xô Viết là quyết định của vị lãnh đạo xuất sắc Mikhail Gorbachev khi từ chối sử dụng Hồng Quân, như các lãnh tụ Xô Viết trước ông đã từng làm ở Đông Đức năm 1953, Hung Gia Lợi năm 1956, và Prague năm 1968. Sự lựa chọn can đảm của Gorbachev, thà để khối Xô Viết sụp đổ thay vì sử dụng bạo lực để thay đổi thời cuộc, vẫn luôn là một hành động độc nhất vô nhị trong lịch sử. Ngày nay, sau gần hai thập kỷ thao túng với chính sách đế quốc, Hoa Thịnh Đốn đang lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Chẳng khác gì chúng ta đang xem lại đoạn phim Gorbachev chiếu chậm - chỉ thiếu bóng dáng một Gorbachev trong vai người cầm lái. Trong một nghĩa nào đó, chúng ta hiện đang chứng kiến câu chuyện hai loại [khu vực] "ngoại quốc". Năm 1990, tiếp theo sau cuộc chiến Afghanistan tai họa, ngay trong lòng biến động của quần chúng, người Nga đã đánh mất khu vực mệnh danh "các xứ láng giềng sân sau" (near abroad) - Liên Bang hay Đế Quốc Xô Viết - vùng lãnh thổ chạy dài từ Đông Âu đến Trung Á. Hoa Kỳ, siêu cường hùng mạnh và giàu có hơn trong hai siêu cường thời Chiến Tranh Lạnh, đang có khu vực mà người Xô Viết chưa bao giờ có - chúng ta tạm gọi một "far abroad", những "nước bạn xa" [không phải sân sau]. Ngày nay, cũng trong lòng một cuộc chiến Afghanistan tai họa khác, trước sự vùng dậy của một dân tộc khác, "một nước bạn xa thiết yếu" trong nhóm những"nước bạn xa"của Mỹ, đang bị lay động đến tận gốc rễ. Ở Trung Đông, hai trụ cột của quyền lực đế quốc, từ lâu do Hoa Kỳ kiểm soát, là Ai Cập và Saudi Arabia - dĩ nhiên bên cạnh còn có Do Thái và Jordan. Trong những kỷ nguyên trước đó, những thành lũy "ổn định" và "ôn hòa" chọn lựa, những từ Hoa Thịnh Đốn thích dùng, là Shah của Iran trong thập kỷ 1960 và 1970, và Saddam Hussein trong thập kỷ 1980. Trong khu vực rộng lớn hơn [chính quyền Bush thích gọi 'Trung Đông Nới Rộng'] , Greater Middle East, hay" vòng cung bất ổn", một trụ cột khác là Pakistan, một xứ giờ đây đang bị bất-ổn-hóa dưới áp lực của cuộc chiến Afghanistan tai họa của Mỹ. Tuy vậy, không một Gorbachev hiện diện, chính quyền Obama đang lúng túng tìm cách xoay xở. Trong tiến trình thương thảo gấp rút bên sau hậu trường nhằm duy trì uy quyền và ảnh hưởng ở Ai Cập, Hoa Kỳ đã không lựa chọn giải pháp can thiệp quân sự. Trong cốt lõi, biện pháp can thiệp quân sự của Hoa Kỳ là một quyết định rõ ràng không thể quan niệm. Không ai chờ đợi người Mỹ gửi quân nhảy dù xuống kênh đào Suez như Pháp và Anh, hai đế quốc trong thời mạt vận, đã thử nghiệm năm 1956. Hoa Thịnh Đốn đang kiệt quệ, sau nhiều năm chiến tranh và khủng hoảng tài chánh, nên điều đó sẽ khó thể xẩy ra. Đối mặt với chiến dịch "sốc và kinh hoàng" của quần chúng đang xuống đường làm cách mạng, chính quyền Obama đã sửng sốt và kinh ngạc. Hoa Thịnh Đốn đã tỏ ra bất lực, choáng váng, không biết phải làm gì, và luôn đi sau các biến động vài bước. Các quan chức tòa Bạch Ốc đang âu lo về chính trị đối nội nay mai khi vấn đề được đặt ra: Ai đã để mất Trung Đông? Trong giao thời, những lời tuyên bố trang trọng, được cân nhắc đắn đo, vẫn với giọng điệu chủ-nhân-ông mang tính đế quốc, tập trung trên những gì các xứ khách hàng ở Trung Đông phải làm. Nhưng cũng chỉ những lời lẽ khuôn sáo rỗng tuếch như trong suốt mấy thập kỷ vừa qua. Vấn đề cần đặt ra: Bằng cách nào các biến động đã xẩy đến? Và câu trả lời, một phần, sẽ là: chỉ vì phương cách Chiến Tranh Lạnh đã chính thức chấm dứt, cũng như thái độ xấc láo, kiêu căng, và đường lối đơn phương cấp lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đã chọn lựa sau đó. CHỦ THUYẾT ĐƠN PHƯƠNG Khi Liên Bang Xô Viết tan rã, Hoa Thịnh Đốn sửng sốt. Sự sụp đổ thật bất ngờ, mặc dù đã có nhiều dấu hiệu báo trước một điều gì đó lạ thường, lớn lao, đáng kinh ngạc, sắp xẩy đến. Chiến Tranh Lạnh đã chấm dứt và Hoa Kỳ chợt xúc động, vui mừng và tự nghĩ: 'Chúng ta đã thắng. Đối thủ hùng mạnh của chúng ta đã biến khỏi địa cầu'. Không phải đợi lâu, từ ngữ "siêu cường duy nhất" xuất hiện, giấc mơ Pax Americana hình thành, và nhiều người Mỹ đã nói đến quyền lực và vinh quang chói sáng hơn cả đế quốc Anh và đế quốc La Mã. Người Mỹ đã kiêu căng tự tin chính mình đã chiến thắng, và cũng như hồi kết của đệ nhị thế chiến, có thể đã đem lại nhiều lợi thế. Thế giới thuộc về Hoa Kỳ. Và hai đợt sóng đơn phương đã đưa Hoa Kỳ đến bờ vực thẳm gần nhất, cũng như bất thần giúp phát động sự bùng nổ của sức mạnh quần chúng ở Trung Đông. Đợt sóng thứ hai bắt đầu với quyết định tai họa hậu 11-9 của George W. Bush, thingy Cheney, Donald Rumsfeld, và phe nhóm: "tát cạn đầm lầy toàn cầu",[6] như nhóm nầy thường nói sau biến cố New York và Hoa Thịnh Đốn. Họ muốn nói đến quyết định truy lùng al-Qaeda và bất cứ ai họ xem như thù địch, với tất cả các phương tiện quân sự khả dụng. Chiến dịch bao gồm quyết định xâm lăng Afghanistan, cảnh báo thế giới và Pakistan "theo chúng tôi hay chống lại chúng tôi"[7], kể cả hăm dọa bỏ bom xứ nầy cho đến khi "Trở Lại Thời Đại Đồ Đá"[8]. Chiến dịch cũng bao gồm quân sự hóa toàn bộ, tư nhân hóa chính sách đối ngoại, và trên hết, tiêu diệt Saddam Hussein và chiếm đóng Iraq. Tất cả những động thái đó đều dính liền với "chủ thuyết đơn phương"(unilateralism), với ý tưởng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ đã đạt mức: Hoa Thịnh Đốn có thể đơn phương hành động chỉ cần "bất cứ liên minh chia sẻ tổn phí nào" (coalition of the billing) có thể huy động, và vẫn thành đạt được những gì Hoa Kỳ ước muốn. Làn sóng đơn phương thứ hai, nay đã được các kênh truyền thông dòng chính cho lùi vào lich sử, đã giúp chuẩn bị cho những biến động ở Tunisia, Ai Cập, và nhiều nơi khác. Để bắt đầu, từ Pakistan đến Bắc Phi, Cuộc Chiến Chống Khủng Bố của Bush, cùng với hậu thuẫn dành cho những chính quyền thổ phỉ dưới danh nghĩa chống al-Qaeda, đã đẩy toàn khu vực vào thế cực đoan quá khích. Chẳng hạn, sau khi Hoa Thịnh Đốn đã rót hàng tỉ USD tài trợ và trang bị quân đội Ai Cập, kể cả huấn luyện các cấp tướng lãnh và sĩ quan, các quan chức chính quyền Bush đã rất thích thú trao cho chế độ Mubarak vai trò chiến binh chống khủng bố, sử dụng các nhà tù Ai Cập như những trung tâm tra tấn các thành phần nghi can bắt cóc trên đường phố từ nhiều nơi trên thế giới. Qua việc càn quét vùng Trung Đông Nới Rộng từ Bắc Phi đến biên giới TQ trong cuộc chiến chống khủng bố, chính quyền Bush rõ ràng đã đem lại cho toàn khu vực một ý thức nhất trí - với cảm nghĩ số phận một khu vực rời rạc đã bị buộc chặt vào nhau. Ngoài ra, các quan chức chính thống trong chính quyền Bush, vững tin vào sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và cuồng tín trong ảo tưởng những điều giới quân sự có thể thành đạt, đang nắm trong tay một sức mạnh lớn lao: sức mạnh tàn phá. Với khẩu hiệu "sốc và kinh hoàng", sức mạnh đó đã được sử dụng để chọc thủng tim Trung Đông khi xâm chiếm Iraq. Đồng thời, họ cũng đã nối kết toàn khu vực vào máy trợ sinh. Họ chưa bao giờ thành công. Trong chiến tranh, nội chiến cũng như du kích, hàng trăm nghìn dân Iraq thương vong, hàng triệu đã phải bỏ nước tìm đường lánh nạn. Ngày nay, Iraq chỉ còn hấp hối, không đủ khả năng cung cấp điện cho người dân kiên cường hay bơm đủ dầu để trang trải tai họa. Cùng lúc, chính quyền Bush chỉ ngồi nhìn trong khi Do Thái tự tung tự tác, chiếm đất của người Palestine qua các chính sách định cư, xâm chiếm miền Nam Lebanon với hậu thuẫn của Hoa Kỳ trong mùa hè 2006, và tàn phá giải Gaza năm 2009. Nói một cách khác, từ Lebanon đến Pakistan, toàn bộ khu vực Trung Đông Nới Rộng đã trở nên hoàn toàn bất ổn và cực đoan. Hành động của các quan chức trong chính quyền Bush đã không thể nào phiêu lưu và tai họa hơn. Chẳng hạn, họ đã biến Afghanistan thành một quốc gia sản xuất nha phiến quan trọng nhất hoàn cầu, cũng như vực dậy và tiếp sức cho Taliban, một kỳ công không nhỏ đối với một phong trào, từ năm 2001, đã mất hết hậu thuẫn trong quần chúng. Quan trọng hơn hết, cùng với chính quyền Obama sau đó, họ đã mở rộng chiến tranh qua một Pakistan nguyên tử và đông dân. Chúng ta có thể truy nguyên sự trổi dậy của Hezbollah ở Lebanon, một phần đã nhờ những kế hoạch và dự án điên rồ của họ (kết quả có ý nghĩa duy nhất của nghị trình dân chủ của Bush, kể từ các cuộc bầu cử ở Iraq trước sự chống đối của chính quyền Bush, là nhờ ở uy tín của lãnh tụ tôn giáo Ayatollah Ali Sistani). Chính quyền Bush cũng đã có công đem lại cho Iraq một chính quyền Shiite thân Iran, đã giúp phục hồi phong trào Taliban ở Afghanistan, và sự lớn mạnh của một nhánh Taliban trong khu vực các bộ tộc Pakistan dọc biên giới. Cũng phải ghi nhận công lao của họ đã đóng góp vào tình trạng hỗn loạn và ngày một nghèo khó hơn trong toàn khu vực. Tóm lại, khi lên nắm quyền, Bush, với chính sách đơn phương, đã nhanh chóng quân sự hóa toàn bộ nền kinh tế và lèo lái Hoa Kỳ đến bờ vực thẳm. Người ta còn nhớ lời nói đùa đầy kiêu hãnh của phái Tân Bảo Thủ: "Mọi người đều muốn tới Baghdad. Các nam nhi trượng phu còn muốn đến Tehran"[9]. Dù chính quyền Bush luôn lớn tiếng ba hoa, điều cần nhớ là chính sách đơn phương luôn giữ vai trò quyết định. THÁNH CHIẾN KINH TẾ Trước George W. Bush và phái Tân Bảo Thủ, chính quyền đã từng nằm trong tay phe chủ trương toàn cầu hóa. Nhóm nầy, còn được biết dưới tên gọi Tân Tự Do (Neo-liberals), đã tung hoành trong những năm hoàng đạo hậu chiến tranh lạnh. Dưới thời Clinton, phái nầy cũng ước mơ một trật tự thế giới mới và một thứ quyền lực mới của Hoa Kỳ: quyền lực kinh tế. Họ vẫn còn được trọng dụng trong chính quyền Obama. Trong niềm tin Hoa Kỳ là siêu cường kinh tế của mọi thời đại, họ luôn hăng say theo đuổi Pax Americana. Với quyết tâm áp đặt một thế giới đồng bộ qua một trật tự kinh tế theo khuôn mẫu Hoa Kỳ, chiến thuật gây "sốc và kinh hoàng"của họ dựa trên một số định chế như IMF, dồn ép các quốc gia đang phát triển vào một dạng thức nghèo khó cơ hàn có lợi cho giới tài phiệt Mỹ. Cuối cùng, qua các biện pháp chia cắt, nhào nặn tín dụng bất động sản với lãi suất cực thấp - subprime mortgages, họ đã làm thế giới đảo điên. Họ là những chiến binh thánh chiến trong địa hạt tài chánh. Với chiến thuật "sốc và kinh hoàng" riêng, họ đã thành công trong sứ mệnh gieo rắc tang tóc đau thương theo lối riêng của họ. Điều oái oăm là trong quá trình suy thoái kinh tế 2008, cuối cùng họ đã lôi kéo kinh tế toàn cầu, chính họ đã giúp "thống nhất" trước đó, xuống vực thẳm. Tai họa đã đến đúng lúc các chiến binh đơn phương trong đợt sóng thứ hai đang đối diện với ván bài chót của giấc mơ thống trị toàn cầu. Chẳng hạn, Ai Cập, quốc gia đông dân nhất trong các xứ Á Rập, đã được tân-tự-do-hóa và bần-cùng-hóa, ngoại trừ một thiểu số tài phiệt thổ phỉ. Đó là phương thức phá hoại sáng tạo của hai phái Tân Bảo Thủ và Tân Tự Do! Hai đợt sóng chiến binh đơn phương của Hoa Kỳ đã làm hành tinh điêu đứng. Kinh nghiệm đầu của siêu cường duy nhất đã diễn ra ngắn ngủi. Tuy nhiên, trên đống tro tàn sau đại họa giá thực phẩm và nhiên liệu tăng vọt, tình hình đã sôi bỏng vừa đúng lúc que diêm Tunisia được châm ngòi ... Những gì đang diễn tiến trong vùng Trung Đông Nới Rộng cũng chẳng làm ai ngạc nhiên. Hỏa hoạn rất có thể sẽ không dừng ở đó. Đây có thể hay không có thể là thời cơ của Hồi Giáo. Nếu đợt sóng đơn phương thứ hai của Hoa Kỳ đã báo hiệu khởi điểm của hiện tượng sôi động Trung Đông, những điều kiện cần cho sự bùng nổ của các phong trào quần chúng cũng đang hiện hữu trong nhiều nơi khác trên thế giới. NGƯỠNG CỬA ĐỊA NGỤC Ngày nay, không mấy ai nhớ lời mô tả tình hình sau ngày Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq của Amr Musa, lãnh tụ Liên Minh A Rập. Trong tháng 9-2004, Amr Musa đã nói: "Các cánh cửa địa ngục đang rộng mở ở Iraq"[10]. Đây không phải là thứ ngôn từ chúng ta thường nghe ở Mỹ, dù đã cảm nhận ra sao về cuộc chiến. Nó đã vang vọng, và có lẽ còn vang vọng như một hình ảnh ẩn dụ từ đỉnh cao, cũng có thể dễ dàng được xem như một mô tả chính xác những gì đã diễn ra không những ở Iraq, mà cả ở Trung Đông Mở Rộng, và trong một chừng mức nào đó, trên toàn thế giới. Giới tài phiệt đơn phương Hoa Kỳ đã hai lần vô tình vượt qua cánh cửa địa ngục, những tưởng đang đi qua cánh cửa thiên đường. Hậu quả ra sao mọi người hiện đang chứng kiến. Nhưng cũng đừng quên, cánh cửa địa ngục nay vẫn còn rộng mở. Chúng ta cần tỉnh táo mở lớn đôi mắt nhìn kỹ ít nhất ở hai nơi, bắt đầu với Saudi Arabia, nơi tình hình một ngày nào đó rất có thể sẽ trở nên sôi động nhiều hơn chúng ta đang tưởng. Thực vậy, những ai kiểm soát thị trường chứng khoán Saudi chắc biết rõ, trong khi tình hình đang biến động khẩn trương ở Ai Cập, chứng khoán Saudi đã sụt giảm mạnh. Với Saudi Arabia, chúng ta khó thể thấu hiểu gốc rễ chính sách của Hoa Kỳ và số phận của hành tinh, khi trữ lượng dầu hỏa vẫn còn nằm dưới mặt cát sa mạc. Và cũng đừng quên quốc gia đáng sợ nhất, Pakistan, nơi giới tài-phiệt-quân-sự-đơn-phương Hoa Kỳ đang phô diễn trong một phim dài chưa đến hồi kết thúc. Vâng, chính quyền Obama rất có thể sẽ len lõi trở lại Trung Đông một lần nữa. Cũng rất có thể các tư lệnh và sĩ quan cao cấp trong quân đội Ai Cập, hơn phân nửa đã đi qua lò đào luyện Hoa Thịnh Đốn, rút kinh nghiệm từ Honduras ở Nam Mỹ, sẽ tìm cách chia rẽ để khống chế một quần chúng đang thiếu vắng lãnh đạo, ít ra thêm một thời gian. Thật khó lòng tiên đoán! Nhưng một điều đã rõ ràng bên trong cánh cửa địa ngục: dù hoa hay cỏ dại còn có thể lớn mạnh trên mảnh đất cày xới vun quén kỹ càng bởi "siêu cường còn đứng vững sau năm 1991", Pax America cũng đã chứng tỏ chỉ là một Pox Americana trong toàn khu vực và trên khắp thế giới. Trong mọi trường hợp, giới quan sát nhạy bén đã bắt đầu nói đến, không phải một thế giới win-win, G-7, G-8, G-20, mà một thế giới Zero-sum Game và G-Zero, G-Everybody, một thế giới đa cực mạnh-được-yếu-thua còn thiếu-vắng-lãnh-đạo. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 18-02-2011 -------------------------------------------------------------------------------- [1] The Egyptian people "have made clear they will settle for nothing less than greater democracy and more economic opportunities. [2] Step by step and debate by debate, America's public officials have rewritten the rules of American politics and the American economy in ways that have benefited the few at the expense of the many. [3] The Kochs are long time libertarians who believe in drastically lower personal and corporate taxes, minimal social services for the needy, and much less oversight of industry - especially environmental regulation. [4] If there is going to be change, real change, it will have to work its way from the bottom up, from the people themselves. [5] Thế Giới Thời Hậu Chiến Tranh Lạnh, Nguyễn Trường, nxb Tri Thức, Hà Nội, 11-2010, tr 35. [6] ...drain the global swamp. [7] ...with-us-or-against-us. [8] ...back to the Stone Age. [9] Everyone wants to go to Baghdad. Real men want to go to Tehran. [10] The gates of hell are open in Iraq.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 4:03:07 GMT 9
Phòng Chống Sóng Thần và Hiện Tượng Matsushima Vietsciences- Võ Ngọc Phước Trận động đất có chấn độ cao ( Magnitude 7.9 Ritcher ) với những đợt sóng thần tiếp theo có chiều cao trên dưới 10 m xảy ra ở ngoài khơi bờ biển miền Đông Bắc Nhật Bản vào ngày 11/3/2011 đã tàn phá nặng nề vùng duyên hải này có hơn 500 km, đặc biệt ở 3 tỉnh Iwate, Miyagi và Fukushima. Cho đến nay, người ta nhận thấy có hầu hết nhà cửa, công trình, phố sá, phương tiện giao thông vv…của vùng duyên hải 3 tỉnh này đã phải tan hoang và trong số khoảng 27.000 chết và mất tích, khoảng 90 phần trăm thuộc về 3 tỉnh này. Chỉ về mặt vật chất, thiệt hại đã được ước tính là khoảng 250 tỷ Mỹ kim và phải mất khoảng 5-10 năm mới có thể làm khôi phục lại, nên đây là một tai họa về con số thiệt mạng và thiệt hại vật chất lớn nhất cho Nhật Bản sau thế chiến thứ hai. Tuy chưa có những phân tích cặn kẽ về nguyên do những thiệt hại, nhưng qua những kiểm chứng hình ảnh và hiện trường đang được thực hiện, giới chức liên hệ tại Nhật Bản hiện nay đã đánh giá là khoảng 90 phần trăm của các thiệt hại vật chất và nhân mạng là ở nguyên nhân sóng thần có chiều cao trên 10 m và cường độ quá mạnh. Ngoài những dự trù thiết kế cho hệ thống phòng chống sóng thần của nước này. Dù Nhật Bản, đặc biệt là vùng duyên hải Sanriku của tỉnh Iwate ở miền Đông Bắc này, đã từng hứng chịu nhiều tác hại của sóng thần ( tiếng Nhật gọi là Tsunami ) trong quá khứ, đặc biệt là ba lần kinh nghiệm chịu tác hại đau đớn của ba cơn sóng thần lịch sử.. Lần thứ nhất vào năm 1896, trận động đất Meiji Sanriku Đại Địa Chấn với những cơn sóng thần cao đã làm hơn 2 vạn cư dân thiệt mạng. Lần thứ hai vào năm 1933 là trận động đất Showa Sanriku Đại Đia Chấn cũng với cơn sóng thần cao khoảng 6 m đã làm chết khoảng vạn sinh mạng. Rồi vào năm 1960, trận động đất lớn ở nước Chile Nam Mỹ cách xa trên 1.700 km cũng đã đưa một đợt sóng thần cao đến Nhật Bản làm khoảng 150 thiệt mạng mà 1/3 là ở vùng này. . Cũng vì những thiệt hại nhân mạng to lớn liên tiếp xảy ra như vậy nên giới chức Nhật Bản liên hệ về phòng chống động đất và sóng thần đã bỏ ra rất nhiều công lao và phí tổn tài chính để nghiên cứu và thực hiện các hệ thống cành báo và phòng chóng động đất và song thần, đặc biệt cho vùng Sanriku và duyên hải miền Đông Bắc phía Thái Bình Dương. Ngưới ta có thể nhìn thấy một hệ thống phòng thủ gần như kín mít bao che cho dân cư bờ biển này trước tai họa song thần với các cơ sở quan trắc cảnh báo, các hệ thống đê phòng, rừng bảo hộ cùng các huấn luyện thường xuyên về bản đồ vùng tác hại ( hazard maps ) cũng như phương cách di tản tránh nạn ( evacuation plan ) đến các vị trí an toàn. Có thể nói Nhật Bản đã có một hệ thống cảnh báo và phòng chống sóng thần cho vùng duyên hải này vô cùng tân tiến vào bậc nhất thế giới, trong đó có hai hệ thống phòng chống sóng thần ở vúng duyên hải này được Guiness Book công nhận là “nhất thế giới “ Đó là công trình tại vùng Miyako của tỉnh Iwate ở cách tâm chấn của trận động đất lần này khoảng 50 km về phía Tây Bắc, vốn là một vùng đất thấp “phơi lưng” ra Thái Bình Dương, nên trước nay đã phải hứng chịu nhiều thảm họa sóng thần, một hệ thống đê phòng sóng thần kiên cố đã dược xây dựng ở khu vực Taro, nơi đã có những thiệt hại cao. Hệ thống đê phòng này. có tổng chiều dài khoảng 2,5 km với một chiều cao ngất ngưỡng 10 m được hoàn thành vào năm 1979 sau gần 30 năm xây dựng với một phí tổn hơn 800 triệu Mỹ kim.. Với tính cách đồ sộ như vậy, hệ thống đê phòng này còn được mệnh danh là “ Vạn Lý Trường Thành Taro “ và được Guiness Book ghi nhận là “hệ thống đê phòng triều đồ sộ nhất thế giới”. “Vạn Lý Trường Thành Taro” (Ảnh Wikipesia) Với sự hoàn thành của hệ thống đê phòng đò sộ này, chỉ có một phần nhỏ dân cư vùng Taro sống phía ngoài đê, còn lại phần lớn dân cư đều được an cư trong bọc bảo vệ của hệ thống đê phòng này. Chính vì chủ quan ở độ an toàn của hệ thống đê phòng kiên cố này với chiều cao 10 m, vậy mà một lần nữa khoảng 5.000 dân cư của vùng Taro đã phải gánh chịu tai họa đau đớn khi các đợt sóng thần lần này cao hơn 10 m đã dồn vào nhau lại đánh sập và vượt qua đê để tràn vào tàn phá tan tành nhà cửa phía trong bọc và làm khoảng gần 2.000 người phải thiệt mạng và mất tích. Một hệ thống đê phòng khác tại vịnh Kamaishi, cũng là một địa điểm của tĩnh Iwate. Hệ thống đê phòng sóng thần này có chiều dài khoảng 2 km được xây trải ngang dưới măt biển của vịnh ở độ sâu 63 m với một phí tổn khoảng 1,2 tỷ Mỹ kim. Hệ thống đê phòng này chỉ mới hoàn thành vài năm trước đây và đã được Guiness Book công nhận là công trình đê phòng xây ở độ sâu nhất thế giới. Công trình tân tiến này đã được giới liên hệ Nhật Bản dày công nghiên cứu cho xây dựng để có thể làm suy giảm cường độ của sóng thần để không tràn vào tác hại đến vùng ngư cảng Kamaishi trù phú với hơn 4 vạn dân cư ở phía trong vịnh này.. Nhưng qua trận động đất vừa qua, những cơn sóng thần đã đánh sập tan tành hệ thống đê phòng này và huỷ diệt gần như hoàn toàn vùng ngư cảng trù phú Kamaishi Lý do là dựa vào các dữ liệu chiều cao 6-8 m cuả những cơn sóng thần trong quá khứ, toàn bộ hệ thống cảnh cáo, di tản và các công trình xây dựng để phòng chống sóng thần ở vùng duyên hải này đã được hoạch định để đối phó với sóng thần ở cường độ này. Chính vì vậy mà trước những cơn sóng thần cao hơn 10 m, có nhiều nơi trên 15 m, của trận động đất này, toàn bộ hệ thống cảnh báo, công trình đê phòng, di tản tránh nạn vv…đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa ngay sau đó. Như trên, vì lý do thiết kế ngoài dự trù của song thần có cao độ trên 10 m và cường độ của loại sóng thần như vậy, toàn bộ công trình đê phòng và hệ thống phòng chống song thần đã bị vô hiệu hóa ngay sau đó và tan vỡ hoàn toàn đưa đến thảm họa kinh hoàng như đã thấy. Cả đến cái toà nhà 3 tầng bê tông cốt sắt xây trên vùng đất cao của Cơ Quan Chỉ Huy Phòng Chống Sóng Thần của khu vực cũng bị sóng thần tràn tới tàn phá chỉ để lại cái sườn cốt sắt ngả nghiêng trên đống xà bần trơ trụi. Điều đó chứng tỏ sức tàn phá mãnh liệt của những cơn sóng thần trong trận động đất ở miền Đông Bắc Nhật Bản lần này. Tuy nhiên, có một điều kỳ diệu là trong khi hầu hết các địa điểm dân cư của vùng duyên hải miền Đông Bắc này đều phải gánh chịu những thiệt hại vật chất và nhân mạng vô cùng thê thảm đến gần như tan hoang thì tại địa điểm Matsushima ( Matsushimashi ) của vịnh Matsushima vốn không có một hệ thống đê phòng nào và cũng chỉ cách tâm chấn khoảng 40 km nhưng về phía Tây Nam, thì lại có rất ít thiệt hại về vật chất với một số nhà cửa đổ bể do chấn động và chỉ có một người thiệt mạng trong trận động đất vừa qua.. Điều này đang được xem như một sự kỳ diệu và cư dân ở Matsushima đã cho là cụm đảo trong vịnh đã che chở cho họ qua cơn tai họa này. Phong cảnh Matsushima (Ảnh horizonsdujapon ) Matsushima là một trong ba địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất của Nhật Bản ( hai danh lam thắng cảnh khác là Đền Miyajima ở tỉnh Hiroshima và Cảnh trí Amanohashidate ở phủ Kyoto ), nằm ven vịnh Matsushima cách thành phố Sendai ( tỉnh Miyagi ) khoảng 50 km về phía Bắc. Thắng cảnh này có khoảng 60 đảo lớn nhỏ có độ cao 5-10 m nằm ngổn ngang vắt ngang vịnh này cách bờ khoảng trên dưới 1-2 km tạo ra một phong cảnh đặc biệt mỹ miều như Vịnh Hạ Long. Chính cụm đảo lớn nhỏ nằm xen kẽ này đã tạo thành một hệ thống đê phòng thiên nhiên che chở cho dân cư Matsushima trước những đợt sóng thần vũ bão lần này. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản như giáo sư Matsutomi ( ngành thuỷ công ) của Đại Học Akita hiện cho rằng các đợt sóng thần khi đập mạnh vào các đảo này đã bị phản lực lại để bị phân tán lực và suy giảm cường độ khi tràn luồng qua vị trí giữa các đảo để tiến vào bờ vừa giảm dần cường độ, Hiện tượng đê phòng sóng thần của các đảo thiên nhiên ở vùng duyên hải có lẽ rồi đây sẽ được nghiên cứu nhiều hơn trong tương lai để có những phương cách xây dựng hệ thống “ cụm đảo nhân tạo” cho hệ thống đê phòng sóng thần một cách hữu hiệu hơn các hệ thống đã thực hiện trước đây. Trong hiện tại, tuy Việt Nam chưa có tai họa sóng thần, nhưng trong những năm gần đây người ta đã bắt đầu nhận thấy có những rung động dư chấn ở miền Bắc và ở vùng đất Bà Rịa- Saigon do ảnh hưởng các địa chấn bên ngoài. Theo đó, nếu trong tương lai, một khi những trận động đất ở phía Phi Luật Tân và Indonesia có phát sinh ra sóng thần, thì Việt Nam cũng có thể bị tác hại của sóng thần từ các nước này như Thái Lan đã phải kinh hoàng hứng chịu tại vùng biển Phuket từ trận động đất ở Sumatra của Indonesia. Trước đây, người ta cho rằng Bác sĩ Yersin (một môn đệ của nhà bác học Pasteur ) khi đang làm việc trên lầu cao của tòa nhà 4 tầng ( nay đã bị mất dấu ) ở phía Cù Lao ven biển Nhatrang đã nhìn thấy được một đợt sóng thần đang từ ngoài khơi tiến vào bờ biển này ( và vị bác sĩ này đã lấy súng bắn về phía sóng thần ?). Sau đó cơn sóng thần này đã dần dần mất dạng. Có thể cũng giống như hiện tượng Matsushima, cụm đảo lớn nhỏ nằm ven biển Nhatrang đã làm một hệ thống đê phòng để làm tan loãng đợt sóng thần này.. Ngoài ra cụm đảo ngoài khơi này còn có thể ngăn cản phần nào các cơn bão tố vào vùng đất này như đã được nhìn thấy từ bấy lâu nay VNP
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 4:05:43 GMT 9
Những nhân tố tạo nên đức tính của người Nhật
Vietsciences- Ngô Khôn Trí Người nước ngoài lấy làm ngạc nhiên khi chứng kiến cung cách giao tiếp, cúi đầu thật thấp trong lễ nghi chào hỏi của người Nhật. Cũng như khi cổ vũ 1 người thân trước khi ra tranh tài trong 1 bộ môn thể thao hay 1 cuộc thi cử nào đó, người Nhật thường nói : “Ganbatte kudasai”, tức là “Hãy cố gắng lên” chứ không nói “Chúc may mắn” như “Good luck” trong tiếng Anh hay “Bonne chance” trong tiếng Pháp. Điều ngạc nhiên hơn nữa là trong lúc hoạn nạn của trận động đất và sóng thần vừa qua, người Nhật rất điềm tỉnh, tôn trọng trật tự, không gây hỗn loạn trộm cướp mà còn biết chia sẻ cho nhau. Đó là những nét đặc thù, những đức tính ưu việt mà không dễ gì tìm thấy ở các dân tộc khác. Những đức tính này được rèn luyện nhờ những nhân tố chính được nêu lên như sau : Tính thuần chủng : Nhật Bản có khoảng 128 triệu dân, là 1 nước đông dân đứng hàng thứ 9 trên thế giới , nhưng lại là 1 quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa. 99% dân số có nguồn gốc là Nhật. Người Nhật Bản có nguồn gốc Mông Cổ. Khoảng 10.000 năm về trước, sắc tộc gốc Mông Cổ này đã di cư tới Nhật Bản là nơi có sẵn người Ainu, một loại thổ dân gốc Caucase. Ngày nay thổ dân Ainu chỉ còn vào khoảng 14.000 người, sinh sống trong các khu vực riêng biệt ở phía bắc nước Nhật. Vì là xứ đảo , sống biệt lập với các quốc gia khác tại châu Á trong nhiều thế kỷ và nhất là chưa từng bị các đế quốc thực dân xâm chiếm cho nên Nhật Bản đã sáng tạo và duy trì được những tố chất đặc thù của riêng mình. Ví dụ như: thần đạo (神道), võ sĩ đạo (武士道), Zen (禅), nhu đạo (柔道), trà đạo (茶道), kabuki (歌舞伎), hanami((花見), v.v…. Tính đoàn kết và chia sẻ : Nước Nhật là 1 quần đảo bao gồm 4 hòn đảo chính: Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu, cùng với nhóm đảo Ryukyu (Okinawa) và nhiều hòn đảo nhỏ khác. Là một trong những khu vực xảy ra nhiều thiên tai nhất trên thế giới. Từ trận động đất lớn Kanto vào năm 1923, làm 140.000 người chết, tàn phá phần lớn Tokyo và toàn bộ vùng Yokohama, thiệt hại 28 tỷ, cho tới nay nước Nhật đã phải trải qua 16 vụ động đất và sóng thần. Năm 1993 đã xảy ra trận động đất cường đô 7,8 và sóng thần, 3000 người chết. Năm 1995 cũng xảy ra động đất Hanshin, cường độ 7,3 gây thiệt hại 102 tỷ đô la, 6.434 người thiệt mạng, khoảng 300.000 người mất nhà. Mới đây nhất là vào ngày 11-3-2011 xảy ra 1 trận động đất 9.0 và sóng thần cao 10m tấn công vào khu vực dân cư, làm 30 ngàn người chết và mất tích, thiệt hại có thể lên trên 300 tỷ đô. Từ khi lập quốc đến nay, dân tộc Nhật đã chứng kiến rất nhiều thiên tai, họ thừa hiểu bộ mặt hung bạo không thương tiếc của thiên nhiên. Chính vì thế, mỗi khi có biến cố người dân Nhật rất điềm tĩnh để có thể ứng phó với những biến cố kế tiếp. Họ được tôi luyện tinh thần đoàn kết và chia sẻ cho nhau để sinh tồn từ ngàn xưa. Tính dung hòa và kết hợp tôn giáo : Ở nhiều nơi trên thế giới người ta giết nhau chỉ vì khác biệt tôn giáo, thế nhưng ở Nhật thì không thấy xảy ra chuyện này, bởi vì từ xưa nước Nhật đã biết dung hòa và kết hợp 3 tôn giáo chính lại với nhau để làm nền tảng đạo đức cho xã hội, làm khuôn mẫu cho cách xử thế của người Nhật. 3 tôn giáo đó là Thần Đạo của Nhật Bản, Phật Giáo của Ấn Độ và Khổng Giáo của Trung Hoa. Thái tử Shotoku (574- 622) là người có công trong việc kết hợp các tôn giáo này lại với nhau. Thần Đạo chăm lo cuộc sống hiện tại, Phật giáo thì lại lo cho cuộc sống sau khi chết, còn Nho giáo thì giúp tạo ra thiết chế chính trị chặt chẽ và một xã hội có đẳng cấp trên dưới. Ngày nay, khoảng 70% các buổi lễ kết hôn ở Nhật được tiến hành theo phong cách của Thần đạo (Shinto), số còn lại được tiến hành theo phong cách của đạo Thiên Chúa, đạo Phật hoặc một số đạo khác. Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Nhật Bản. Chân dung Thái tử shotoku được in trên đồng 10.000 yen. Quan niệm dung hòa và kết hợp các tôn giáo lại với nhau này nói lên quan niệm về tôn giáo và văn hóa của người Nhật. Biết “lấy hòa làm quý”, không quá khích, không tự đại tự tôn mà biết tiếp thu cái hay của người, đồng thời vẫn duy trì bản sắc của mình. Chính cái tư tưởng này đã giúp cho nước Nhật không những thành công nhanh chóng trong việc tiếp thu văn hóa và kỹ thuật của Phương Tây, mà còn làm cho dân tộc Nhật có được những phẩm chất về nhân cách mà không dễ gì tìm thấy được ở các dân tộc khác. Việc dung hòa và kết hợp một tôn giáo mới với tôn giáo cổ truyền qủa thật là chuyện không dễ xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Ví dụ như Ấn Độ đã gặp phải nhiều vấn đề khi đạo Islam truyền tới. Ở châu Âu khoảng thế kỷ 16 và 17 đã xảy ra nhiều cuộc xung đột giữa những người Tin Lành và Công giáo . Tại Hy Lạp thời cổ cũng đã gặp nhiều phản đối khi đạo Thiên chúa du nhập vào. Ở Đức cũng đã có nhiều xung đột với tôn giáo cổ truyền khi đạo Cơ đốc đã từ vùng Địa Trung Hải truyền bá tới. Hiện nay, tại 1 số nước ở Trung Động, Ấn độ, Indonesia, Nigeria sự xung đột giữa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo vẫn còn diễn biến rất nghiêm trọng. Ở những nước này, tư tưởng gộp đạo đã không xuất hiện, người ta giết nhau, tìm cách tiêu diệt những người khác tôn giáo, gây bao nhiêu tội ác, tạo nên những mối thù truyền kiếp. Chính vì thế mà chiến tranh tôn giáo đã diễn ra triền miên và còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Chỉ vì không muốn bị đồng hóa, sợ mất đi truyền thống của mình mà ra. Nói một cách khác, chính vì họ cuồng tín, quá khích, bảo thủ cực đoan, không biết “lấy hòa làm quý” cho nên mới phát sinh ra chiến tranh tôn giáo và sự thù ghét lẫn nhau. Thật là nghịch lý, mặc dù tôn giáo nào cũng khuyên dạy con người nên biết thương nhau ? Ngay trong chữ viết của tiếng Nhật cũng thể hiện tính dung hòa nay. Tiếng Nhật được viết trong sự phối hợp 3 kiểu chữ: Kanji , Hiragana và Katakana. Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ,… Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài. Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và biểu trưng của các công ty. Nhờ thế tiếng Nhật trở nên phong phú, tạo thuận lợi trong việc dịch thuật các tác phẩm có giá trị của thế giới, giúp nước Nhật tiếp thu văn hóa và kỹ thuật của nước ngoài 1 cách nhanh chóng . Tính quật cường vươn lên : Vì thua trận trong thế chiến thứ hai, vì đất nước bị tàn phá nặng nề, người dân Nhật đã phải âm thầm cui đầu nhẫn nhục tìm cách vươn lên từ những đống tro tàn. Hơn nữa , nước Nhật là nước nghèo nàn về tài nguyên. Ibuka Masaru, người sáng lập ra công ty Sony, đã phát biểu trong ngày thành lập công ty như sau: “Phải cố gắng đem công nghệ, kỹ thuật góp phần vào việc phục hưng tổ quốc chúng ta”. Tinh thần trách nhiệm đó là động lực thúc đẩy người Nhật luôn siêng năng trong công việc. Chính nhờ được tôi luyện trải qua những giai đoạn khó khăn gian khổ cho nên người Nhật có được tính kiên cường, điềm tĩnh và khiêm tốn trong bất cứ tình huống khó khăn nào.. Tinh thần võ sĩ đạo : Trong lịch sử nước Nhật, nhất là từ khi chế độ phong kiến chính thức được thành lập, nhờ xuất hiện một số giai cấp võ sĩ với cái tên là “Samurai” có những nhân cách cao thượng về Nhân, Nghĩa, Lễ , Dũng, Tín . Họ được xem như là những tấm gương , những mẫu người được kính trọng trong xã hội, đã gây ảnh hưởng sâu đậm trong lòng của người dân Nhật. Người Nhật rất hãnh diện về truyền thống này. Một khí phách của võ sĩ đạo mà thế giới điều biết đến đó là Harakiri hay Seppuku. Nó không chỉ là 1 hành vi tự sát, mà là 1 hình thức để chứng minh lòng thành của mình, để tránh khỏi nhục nhã, để nói lên lời xin lỗi, nhận trách nhiệm. Được xem như là 1 hình phạt đúng nghi thức đối với 1 võ sĩ đạo chân chính, biểu hiện tinh thần trách của người Nhật. Võ sĩ đạo (武士道 Bushido) Có thể còn có nhiều nhân tố khác nữa đã tạo ra đức tính của người Nhật, nhưng có thể nói sự dung hòa kết hợp các tôn giáo và sự xuất hiện tầng lớp võ sĩ đạo là 2 nhân tố quyết định tạo nên 1 nước Nhật hùng mạnh, không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong phẫm chất nhân cách của người Nhật. Nhân tố thứ 2 là quan trọng hơn hết, phát triển kinh tế mà đạo đức suy đồi sẽ dẫn đền những hậu quả không lường. Người Việt Nam mình cũng đã được dạy ngay từ buổi mới cặp sách đến trường “Tiên học lễ hậu học văn”. Giáo dục vẫn phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu, có con người tốt thì sẽ có 1 xã hội thật sự tốt theo đúng nghĩa ? Vận mệnh của đất nước mình không được may mắn như nước Nhật, chúng ta đã không có 1 thái tử Shotoku như Nhật, biết kết hợp và dung hòa các văn hóa lại với nhau.Vua chúa của chúng ta bất tài để cho đất nước bị ngoại xâm, chính vì bị thực dân cho nên phải gánh chịu hậu qủa của chiến tranh với thực dân và nội chiến với nhau, đã làm thay đổi tư duy, đạo nghĩa của con người VN mình. Người VN ta không đoàn kết, thích chia thành phe nhóm, nghi kỵ lẫn nhau, dễ bị khích động, công kích và giết hại nhau 1 cách mù quáng, bất chấp hậu quả ra sao. Đạo đức bị suy đồi. Rút từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Việt Nam mình cần có những người lãnh đạo như thái tử Shotoku, biết dung hòa và kết hợp tất cả người VN lại với nhau làm tăng lên sức mạnh của dân tộc. Chúng ta cũng rất cần có những con người lãnh đạo có phẩm chất cao thượng như võ sĩ đạo của Nhật Bản để làm gương ? Montréal ngày 30 tháng 3 năm 2011 Ngô Khôn Trí
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 15, 2011 6:44:35 GMT 9
Nền khoa học Australia - Một kim tự tháp vững chắc!Vietsciences- Phạm Việt Hưng Năm 2010, nền khoa học và giáo dục Việt Nam đã trải qua một “cơn địa chấn” của niềm xúc động và háo hức do “sự kiện Ngô Bảo Châu” gây ra. Ai cũng phấn khởi, tự hào, nhưng những người sâu sắc tự hỏi: Chúng ta tự hào vì cái gì?
PGS-TSKH Phùng Hồ Hải, trưởng phòng Đại số thuộc Viện Toán học Việt Nam, đã trả lời câu hỏi này trên Diễn đàn các nhà báo môi trường Việt Nam[1] ngày 30/08/2010:
“Tôi không nghĩ Giải Fields là tấm gương phản ánh sức mạnh nền toán học của một quốc gia”. Theo ông, “Sức mạnh nền toán học nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung, kể cả kinh tế và xã hội, được phản ánh qua rất nhiều tham số chứ không đơn thuần giải thưởng”. Ông nói tiếp: “Đấy là niềm tự hào về tiềm năng của người Việt. Không phải là tự hào về nền giáo dục của chúng ta, mà là tự hào về tiềm năng tư duy của con người chúng ta”, rồi ông quả quyết: “Một nhà khoa học công tác ở Việt Nam, làm việc ở Việt Nam, tôi không xác định được là đến bao giờ mới có vinh dự như anh Châu hôm nay. Anh Châu, nếu làm việc trong môi trường thuần túy Việt Nam, tôi khẳng định, không thể đoạt được giải thưởng Fields”. Khẳng định ấy dựa trên nguyên lý cốt lõi của giáo dục: “Không thầy đố mày làm nên”.
Chừng ấy vẫn chưa đủ, bởi “một con chim én chẳng làm nên mùa xuân”. Muốn có những thành tựu lớn của khoa học thì cần phải có “cả một cộng đồng để cộng tác, cần một môi trường khoa học để tạo nên một nền tảng kiến thức dẫn đến một tư duy mới”, ông Phùng Hồ Hải nhấn mạnh.
Ông ví “một nền khoa học giống như một kim tự tháp, chân đế càng rộng, đỉnh càng cao”, rồi bất ngờ đi đến một kết luận tưởng như bình thường nhưng lại mang tính nền tảng: “… để có nhà khoa học xuất chúng, cần có nhiều nhà khoa học bình thường”. Nói cách khác, cần có một xã hội trí thức để tạo ra một tầng lớp tinh hoa (elite)! Ông lập luận: “Không thể xây dựng một tòa nhà cao vút mà chân đế lại bé tí”, và do đó, muốn có một kim tự tháp khoa học vững chắc, phải “sớm tạo ra một môi trường khoa học đủ mạnh để lôi kéo số đông khoa học gia”.
Môi trường ấy là gì, nếu không phải là hệ thống đại học và các viện nghiên cứu đủ mạnh, dựa trên nền tảng của một nền giáo dục phát triển?
Nhưng làm thế nào để tạo ra môi trường đó?
Trong khi tìm kiếm một câu trả lời cho Việt Nam, hãy thử tìm hiểu xem điều gì đã làm cho một quốc gia như Australia, với một lịch sử phát triển ngắn ngủi và dân số ít ỏi, đã có thể xây dựng nên một kim tự tháp khoa học cao chót vót với chân đế vững chắc. 1. Một kim tự tháp vững chắc: Với một dân số vẻn vẹn chỉ có 20 triệu người, Australia thực sự đáng kính nể vì đã “sản xuất” ra một đội ngũ hùng hậu các trí thức hàng đầu thế giới, với 10 nhân vật đoạt Giải Nobel và 1 nhân vật đoạt Giải Fields: 1. Elizabeth H. Blackburn, Nobel Y học năm 2009 2. Barry Marshall, Nobel Y học năm 2005 3. J. Robin Warren, Nobel Y học năm 2005 4. Peter C. Doherty, Nobel Y học năm 1996 5. John Warcup Cornforth, Nobel Hoá học năm 1975 6. Patrick White, Nobel Văn học 1973 7. John Carew Eccles, Nobel Y học năm 1963 8. Sir Frank Macfarlane Burnet, Nobel Y học năm 1960 9. Sir Howard Florey, Nobel Y học năm 1945 10. William Lawrence Bragg, Nobel Vật lý năm 1915, đến nay vẫn giữ kỷ lục người trẻ nhất đoạt Giải Nobel. 11. Terence Tao (Đào Triết Hiên), thần đồng toán học, đoạt Giải Fields năm 2006, người trẻ nhất đoạt Giải Fields, được mệnh danh là “Mozart của toán học” – danh hiệu cao quý trước đây chỉ dành riêng cho nhà toán học vĩ đại Henri Poincaré. Nhưng như PGS Phùng Hồ Hải đã nói, không thể đánh giá tiềm lực khoa học và giáo dục của một quốc gia đơn thuần qua số giải thưởng. Vậy Úc có thực sự là một cường quốc khoa học và giáo dục hay không? Xin trả lời ngay: Bên cạnh những ngôi sao sáng rực rỡ – các nhà khoa học đoạt Giải Nobel và Giải Fields – bầu trời khoa học Úc còn có rất nhiều ngôi sao sáng khác, tạo nên một môi trường khoa học hùng mạnh. Môi trường này nẩy nở từ một nền giáo dục tiên tiến – cái nôi đào tạo ra một lực lượng trí thức thành thục về chuyên môn, vững vàng về văn hoá, làm nòng cốt xây dựng Australia thành một cường quốc kinh tế, khoa học và công nghệ, đủ sức cạnh tranh với các quốc gia hàng đầu trên thế giới. Nhờ đó mà Úc đã đứng thứ 8 trong bảng xếp hạng năm 2009 của Ngân hàng Thế giới (World Bank) về Tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người (GDP per capita), sau Luxembourg, Ả-rập thống nhất, Na-uy, Singapore, Mỹ, Ai-len, Hà-Lan, và đứng trước một loạt quốc gia phát triển khác như Áo, Canada, Thụy-điển, Ireland, Đan Mạch, Anh, Đức, Bỉ, Pháp, Phần-lan, Tây-ban-nha, Nhật, Ý, … Trong một bảng xếp hạng khác do tạp chí Newsweek công bố vào tháng 08-2010 mang tên “Các quốc gia tuyệt vời nhất thế giới” (The World’s Best Countries)[2], với các tiêu chí cơ bản là y tế, giáo dục, kinh tế, chính trị, Australia được xếp hạng 4. Riêng về giáo dục, Australia được xếp thứ 13. Mặc dù “mọi so sánh đều khập khiễng”, nhưng những bảng xếp hạng nói trên về căn bản đã phản ánh đúng sự thật. Tuy chưa có những trung tâm khoa học và công nghệ mạnh như Silicon Valley của Mỹ, Australia vẫn là một trong những quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản. Xin đơn cử một thí dụ: Chương trình nghiên cứu “viễn tải lượng tử” (teleportation)[3] tại Đại Học Quốc Gia Australia (ANU) ở Canberra. Tại đây, các nhà khoa học Úc, dưới sự lãnh đạo của Tiến sĩ Ping Koy Lam, đã đạt được những thắng lợi bước đầu làm nức lòng giới khoa học toàn cầu: Truyền được thông tin tức thời qua khoảng cách 1m mà không cần có bất cứ một dòng chuyển động nào của các hạt lượng tử. Đây là một trong những thí nghiệm đầu tiên ứng dụng “tương tác ma quái” (spooky interaction) của các hạt lượng tử để chuyển thông tin tức thời. Thuật ngữ “tương tác ma quái” do chính Albert Einstein nghĩ ra nhằm mô tả một hiện tượng lượng tử mà ông không thể hiểu nổi: một hạt ánh sáng có thể đồng thời tồn tại ở hai vị trí hoàn toàn cách biệt – một hiện tượng “vô lý” dưới nhãn quan của Cơ học Newton (không thể giải thích bằng luật nhân quả) nhưng hoàn toàn hiện thực trong thế giới lượng tử. Vậy mà các nhà khoa học tại ANU vẫn đang tiếp tục tìm cách “tác động ma quỷ từ xa” (ghostly action at a distance) thông qua một khoảng cách lớn hơn 1m và tiến tới khoảng cách bất kỳ. Thật là kinh ngạc khi biết rằng về mặt lý thuyết, “tương tác ma quái” còn có thể vận chuyển cả những “đồ vật” qua khoảng cách vạn dặm với tốc độ “tức thời”! TS Ping Koy Lam nói: “Về lý thuyết, không có gì ngăn trở con người di chuyển tức thời trong không gian, nhưng vào thời điểm hiện nay, đó vẫn là chuyện viễn tưởng. Tuy nhiên trong tương lai không xa, việc vận chuyển tức thời một vật rắn có thể trở thành hiện thực. Tôi dự đoán trong vòng từ 3 đến 5 năm nữa khoa học sẽ có thể vận chuyển tức thời một nguyên tử”. Nếu mục tiêu này trở thành hiện thực thì khó có thể tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra trên thế gian này, bởi lúc đó chuyện Tề Thiên Đại Thánh thoắt biến, thoắt hiện trên thiên đình hay dưới hạ giới sẽ là chuyện có thật. Vì thế đề tài “viễn tải lượng tử” đã và đang trở thành một mũi nhọn của khoa học hiện đại, làm dấy lên một cuộc chạy đua ráo riết giữa các cường quốc khoa học, trong đó Úc là một trong những quốc gia đi tiên phong. Thoạt nghe câu chuyện trên, người ta dễ có cảm tưởng nền khoa học Úc có xu hướng “bay bổng siêu thoát, chân không chạm đất”. Nhưng ngược lại, người Úc rất thực tiễn: những nghiên cứu lý thuyết vô bổ nhằm đoạt danh hiệu hão hoặc sản xuất ra những “tiến sĩ giấy” dường như không có chỗ đứng trong nền khoa học và công nghệ ở Úc. Điều này giải thích vì sao Úc đạt được rất nhiều thành tựu về y khoa, nông nghiệp, hoặc các lĩnh vực khác gắn liền với đời sống. Ngày 08-09-2010, kết quả thử nghiệm lâm sàng một loại thuốc mới đặc trị ung thư ác tính rất hiệu quả đã được công bố trên tạp chí Nature. Giáo sư MacArthur, người lãnh đạo chương trình nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư tại Trung tâm Nghiên cứu Ung thư MacCallum cho biết đây là những tín hiệu rất khả quan. Ông nói: “Loại thuốc này được điều chế để điều trị triệt để và diện tận gốc các khối u”. Giáo sư Austin Curtin, một người tham gia trực tiếp vào chương trình nghiên cứu này, cho hay việc sử dụng kỹ thuật di truyền mang lại hiệu quả tích cực. Ông cho biết: “Một bệnh nhân trẻ 23 tuổi, bị ung thư đã di căn, chỉ sau vài tuần lễ điều trị bằng loại thuốc mới, các khối u tái phát ở xương đã teo lại, còn các khối u di căn trên não cũng hoàn toàn biến mất”. Ông khẳng định đây là một phát minh đột phá, mở ra triển vọng tiến tới thời đại tiêu diệt ung thư tận gốc – ước mơ của nhân loại từ nhiều thế kỷ nay. Chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên với thành tựu nói trên nếu biết rằng tại Australia sức khỏe con người là vấn đề được ưu tiên số một, khám bệnh thông thường không mất tiền (nhà nước chi trả thông qua chính sách medicare), nghề y là một trong những nghề được trọng vọng nhất, thi tuyển vào Đại học Y khoa là khó nhất, quá nửa số công trình đoạt Giải Nobel của Úc đều thuộc y khoa, v.v. Tính thực tiễn trong nghiên cứu khoa học ở Úc cũng lộ rõ trong lĩnh vực nông nghiệp. Ai cũng biết Úc có những sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng như ngô, thịt bò, nhưng có thể ít người để ý rằng đất đai của Úc nói chung khô cằn. Vậy mà từ những vùng đất khô cằn đó, người Úc làm ra những sản phẩm nông nghiệp tươi tốt không thua kém gì sản phẩm của những xứ nông nghiệp truyền thống, nếu không muốn nói là còn chất lượng hơn. Nguyên nhân rất dễ hiểu: người Úc rất giỏi trong khoa học nông nghiệp, và những khoa học này được áp dụng triệt để trong thực tiễn. Cách đây hơn chục năm, ở Úc hầu như không có thịt gà ngon như gà nuôi thả ở Việt Nam, vì chỉ có gà công nghiệp. Nhưng hiện nay gà ngon đã có mặt ở khắp các chợ Á Châu tại Úc. Trước đây Úc cũng không có nhãn, vải. Những hoa quả này nhập từ Việt Nam sang được coi là món quà quý hiếm. Nhưng nay chợ hoa quả của Úc đã bán đầy vải, nhãn trồng tại Úc, ngon hơn rất nhiều so với vải, nhãn của Việt Nam. Trong khi nhãn Hưng Yên ở Việt Nam hầu như mất giống thì nhãn ở Úc vừa to, vừa dầy cùi, vừa ngon ngọt đậm đà. Cái gì làm cho nhãn Úc ngon như thế? Câu trả lời rất đơn giản: khoa học chọn giống và lai tạo, chăm sóc cây cối đã đi vào cuộc sống, thay vì nằm trên các bàn giấy và làm đồ trang sức cho các bằng tiến sĩ! Các nhà khoa học tại Trung tâm Ứng dụng Thực vật Di truyền Úc (ACPFG) tại Đại học Adelaide cũng vừa thành công trong việc tạo ra một giống lúa mới chịu được nước mặn, và đang chuyển kỹ thuật này sang lúa mì và lúa mạch, những loại lương thực chủ yếu trên toàn thế giới. Thành công này sẽ dẫn tới sự tăng sản lượng lúa tới mức không thể ngờ tới, vì diện canh tác sẽ được mở rộng gấp bội. Tất cả những thành công đó đã được ươm trên mảnh đất giáo dục – giáo dục chính là nền tảng của phát triển! 2. Nền tảng giáo dục: Nền giáo dục Úc không chú trọng từ chương, nhồi nhét, mà nhấn mạnh tới tư duy độc lập và sáng tạo. Tinh thần ấy đã thấm vào tâm hồn học sinh ngay từ cấp tiểu học, trung học, và trở thành phương châm cơ bản đối với sinh viên đại học. Điều này đã được trình bầy rất rõ trong Lời giới thiệu trên trang mạng “Study in Australia”[4] (Học tập ở Úc). Xin trích đoạn: Tại Úc, bạn có quyền tự do lựa chọn con đường học tập thích hợp với mục tiêu riêng của bạn. Có hàng ngàn ngành học dành cho bạn, nhưng dù chương trình bạn chọn thế nào thì bạn cũng vẫn được đào tạo theo một đường lối giáo dục duy nhất: Việc học tại Úc khuyến khích tư duy đổi mới, sáng tạo và độc lập …Quan trọng nhất, bạn sẽ học cách làm thế nào để ứng dụng sáng kiến của bạn. Thầy giáo của bạn sẽ khuyến khích bạn suy nghĩ về những giải pháp độc đáo và thực tiễn đối với những vấn đề thực tế … Mỗi đại học Úc sẽ cung cấp cho bạn một sự hiểu biết đâu ra đấy về lĩnh vực mà bạn chọn, cùng với những kỹ năng chuyên sâu có thể được ứng dụng ở những khu vực khác. Bạn không chỉ học các môn về sức khoẻ, khoa học, công nghệ hay nghệ thuật, mà còn học cách làm thế nào để tư duy một cách sáng tạo và độc lập. Lời giới thiệu trên sẽ là một quảng cáo thiếu hấp dẫn nếu nó không có những sản phẩm giáo dục ưu tú để chứng minh. Nhưng may thay, Úc có thừa những sản phẩm như thế. Thần đồng toán học Terence Tao là một sản phẩm sáng chói của nền giáo dục đó. Nhiều nhà khoa học Úc gốc Việt, vốn xuất thân từ những nền văn hoá chịu nhiều ảnh hưởng của Khổng giáo (quen rập khuôn hơn là độc lập sáng tạo), cũng trở nên năng động lạ thường khi được đào tạo và rèn luyện qua môi trường giáo dục Úc. Xin kể hai thí dụ: . 2a. GS Kiều Tiến Dũng, người dám đối mặt với những bài toán không giải được[5]: Chúng ta đều biết rằng computer đã, đang và sẽ làm được nhiều điều kỳ diệu mà ngày xưa tưởng chừng chỉ có Thượng Đế mới làm nổi. Tuy nhiên những người không chuyên ngành thường không để ý rằng thực ra có nhiều bài toán không thể giải được. Nguyên nhân không phải vì các nhà khoa học “kém cỏi”, mà do những “căn bệnh bẩm sinh” của computer! Thật vậy, khoa học trong thế kỷ 20, trong khi tạo ra một kỳ tích như computer thì nó cũng đồng thời nêu lên một nguyên lý khẳng định rằng có những bài toán không thể và không bao giờ giải được. Nguyên lý đó đã trở thành “Kinh Thánh” của khoa học tính toán, một “chân lý bất khả kháng”, một “bức tường” bất khả xâm phạm, một “cột mốc” ở bên kia tầm với. Trong suốt hơn 50 năm qua, không ai dám đụng đến nguyên lý đó, dám biến đổi chân lý đó, dám vượt qua bức tường đó. Nhưng có một người dám làm điều đó: nhà khoa học Kiều Tiến Dũng. Đến Úc năm 1980, Kiều Tiến Dũng không dừng lại ở một đời sống hội nhập bình thường, mà khao khát hoà nhập vào dòng tư tưởng khoa học đang cuộn chẩy mãnh liệt tại những quốc gia phát triển nhất thế giới. Vốn bản chất ham mê hiểu biết, anh lao vào học tập, nghiên cứu như một sở thích, một nỗi đam mê. Anh biết chọn con đường nghiên cứu là con đường gian truân, phải hy sinh nhiều tham vọng vật chất và thú vui khác trong đời. Nhưng công lao của anh sớm được đền bù: Năm 1984, sau khi đỗ bằng cử nhân toán-lý xuất sắc tại Đại học Queensland, Kiều Tiến Dũng nhận được học bổng làm luận án tiến sĩ tại Đại học Edinburgh ở Anh. Hoàn thành luận án năm 1988, ông trở thành giáo sư Đại học Edinburgh và Đại học Oxford. Năm 1991, ông trở về làm giáo sư Đại học Melbourne, nhưng vẫn thường xuyên có những chương trình cộng tác nghiên cứu với các đại học danh tiếng nhất của Mỹ như Đại học Princeton, Đại học Columbia, Đại học MIT. Hiện ông là lãnh đạo nhóm nghiên cứu của CSIRO, kiêm giáo sư vật lý lý thuyết tại Đại học Swinburne, Melbourne. Trong hai công trình nổi bật, “Computing the Non-Computable” (Tính cái không thể tính được), và “A reformulation of Hilbert's tenth problem through Quantum Mechanics” (Một cách phát biểu lại bài toán số 10 của Hilbert thông qua Cơ học Lượng tử), được trình bầy trên trang web của Viện nghiên cứu quốc gia Los Alamos (Los Alamos National Laboratory) của Mỹ, đồng thời đã đăng tải trên nhiều tạp chí khoa học hàng đầu khác như “Proceedings of the Royal Society” (Biên bản của Hội Hoàng Gia Anh), “International Journal of Theoretical Physics” (Tạp chí quốc tế về vật lý lý thuyết), v.v. GS Kiều đã chỉ ra rằng computer lượng tử có thể giải được những bài toán không thể giải – computer lượng tử có thể biết cái không thể biết! Ông tuyên bố: “Chúng tôi bác bỏ Luận đề Turing-Church bằng cách chỉ ra rằng tồn tại những bài toán không giải được theo nguyên lý Turing nhưng có thể giải được bằng cách thực hiện những quy trình cơ học lượng tử xác định rõ ràng”. Ngay lập tức, tuyên bố này gây chấn động trong giới khoa học tính toán, toán học và vật lý lượng tử. Dẫu còn quá sớm để có một kết luận khẳng định ý nghĩa công trình táo bạo của GS Kiều, bởi vì hiện nay computer lượng tử vẫn chỉ đang trong giai đoạn thai nghén, nhưng về mặt lý thuyết, công trình của GS Kiều đang làm dấy lên một mối quan tâm đặc biệt của giới khoa học computer trên toàn thế giới. Tiến sĩ Richard Gomez, giáo sư Đại học George Mason ở Mỹ, một chuyên gia có uy tín lớn trong khoa học computer hiện nay, nhận định: “Tôi đã đọc các công trình của GS Kiều và nhận thấy những công trình đó hoàn toàn phù hợp với những khám phá của các nhà nghiên cứu khác trong lĩnh vực tính toán lượng tử và vật lý lượng tử. Không còn nghi ngờ gì nữa, hiện nay đã có một sự chấp nhận rộng rãi rằng thông tin mang tính chất vật lý, và vật lý lượng tử cung cấp những quy luật của sự ứng xử vật lý đó”. Ông nói tiếp : “Đặc trưng kỳ lạ của cơ học lượng tử cho phép chúng ta làm việc với toàn bộ thông tin theo những cung cách hoàn toàn mới. Đơn giản là giáo sư Kiều đã biết lợi dụng những quy luật của vật lý lượng tử để đạt tới những kết quả mà trong thế giới của vật lý cổ điển không thể đạt tới được”. Theo nhận định của tạp chí NewsFactor, công trình của GS Kiều có thể bắn một phát đạn trúng hai đích: Bài toán số 10 của David Hilbert và Sự cố Dừng của Alan Turing. Trong bài báo nhan đề “Quantum Leaps May Solve Impossible Problems” (Những bước nhẩy lượng tử có thể giải được những bài toán không giải được), tạp chí này viết: “Nhà vật-lý-toán-học Úc gốc Việt, Giáo sư Kiều, đã có một khám phá có thể làm cho nền toán học và khoa học computer của thế kỷ trước vượt qua được giới hạn của chính nó: Những bài toán từng được coi là “không giải được” (unsolvable) hoặc “không tính được” (uncomputable) có thể sẽ giải được bằng cách sử dụng những tính chất bí ẩn của cơ học lượng tử !”. Tạp chí New Scientist, trong bài “Smash & Grab” (Đột phá và nắm bắt) coi đó là “một cuộc tấn công táo bạo vào chính những giới hạn của toán học, nhờ đó có thể lấy lại những kho báu mà chúng ta tưởng rằng vĩnh viễn sẽ nằm ở phía bên kia tầm với. Hãy sẵn sàng để biết cái không thể biết!”. Nếu đặc trưng của nền giáo dục Úc là “khuyến khích tư duy sáng tạo và độc lập” thì công trình táo bạo của GS Kiều chính là một bằng chứng hùng hồn của đường lối giáo dục đó. Nói cách khác, đường lối giáo dục đúng đắn chính là bệ phóng của tinh thần sáng tạo, bản thân GS Kiều cũng nghĩ vậy. Trong thư trao đổi với cá nhân tôi (người viết bài này), ông nói: “Sau những năm trung học và gần hai năm đại học tại Việt Nam tôi rất bỡ ngỡ khi bước thẳng vào năm thứ hai tại đại học Queensland với một môi trường và phương pháp giảng dạy rất khác lạ. Ở phương tây, nền giáo dục khuyến khích sự sáng tạo cá nhân, không gò bó vào khuôn thước của học thuyết cũ. Nhất là trong lãnh vực khoa học hay toán học, khuôn thước ràng buộc tối hậu là những chân lý thiên nhiên và khách quan, thay vì những lý thuyết do người đi trước đặt/tìm ra. Tôn trọng lịch sử, tôn trọng người đi trước, tôn trọng bậc thầy là những điều phải có. Nhưng không để phải đến mức diệt chết cái tự do tìm tòi, tự do suy nghĩ, tự do đặt câu hỏi, nghi vấn ngay cả những lý thuyết hiện thời. Có như thế mới có tiến bộ và phát triển. Dù sao đi nữa thì lý thuyết cũng chỉ là lý thuyết, chúng phải được kiểm chứng, bồi đắp hay đào thải với những dữ kiện mới. Cũng như những thời đại đến rồi đi, lý thuyết cũng chỉ hữu ích trong một thời gian nào đó đề làm nền tảng, bàn đạp cho sự tiến triển mai sau. Có ý kiến cho là sinh viên học sinh phương tây coi thường thầy cô mình. Nhưng ngược lại, họ kính phục thầy cô của mình một cách khác. Chính bản thân tôi dù đã rất lúng túng khi phải tranh luận với giảng sư hay thầy đỡ đầu luận án vì những giá trị đạo đức Á châu của mình, nay lại lấy làm thích thú khi tranh luận một cách ngang hàng với sinh viên mình dạy. Qua đó, sự kính nể giữa thầy và trò lại càng tăng thêm ở chổ nể phục khả năng chuyên môn, thái độ tôn trọng sự thật của nhau, thay vì một sự phục tòng tuyệt đối do lề lối, phong tục áp đặt. Dĩ nhiên, ngoài vòng tranh luận, người trò vẫn tôn trọng và phải tôn trọng người đã bỏ công truyền đạt, dạy dỗ mình. Nhưng khoa học nói riêng và sự thật nói chung không phân biệt tuổi tác và thứ bậc trong xã hội. Một điểm khác mà mình có thể học hỏi ở người là phải dám nghĩ đến những chuyện lớn: “Think big”. Nên có cái nhìn tổng quát và toàn diện để tổng hợp vấn đề cho những bước tiến lớn. Do đó giáo dục phương tây không chủ trương từ chương, nhồi nhét chi tiết, không chú trọng vào việc làm thật nhiều bài toán một kiểu cho thật lẹ để có điểm cao mà không hiểu nguồn gốc của phương pháp giải và của bài toán được giải; nếu chỉ như thế người học trò sẽ không biết áp dụng toán vào những trường hợp mới lạ. Phải chăng đây là lý do tại sao học sinh Á châu, phần lớn, thi toán thì điểm cao nhưng kết quả sáng tạo, ngay cả trong toán học, thì lại thua học sinh Âu Mỹ ? Trong thời đại ngày nay, sự phát triển và cạnh tranh (và ngay cả đến sự sống còn) của một quốc gia trên bình diện thế giới đều phải dựa vào dân trí và kiến thức, nhất là kiến thức về khoa học, kỹ thuật và y khoa (kiến thức trong các lãnh vực khác không phải là không cần thiết.) Thiếu một nền tảng dân trí cao, thiếu cơ sở kiến thức vững vàng thì sớm muộn gì một quốc gia cũng sẽ phải, nếu không đã, lệ thuộc vào nước ngoài. Ngay cả nước Úc, một đất nước từng được coi là may mắn vì giầu quặng mỏ, tài nguyên thiên nhiên, nhưng với thời đại toàn cầu hóa hiện nay, với một dân số chỉ khoảng vỏn vẹn 20 triệu, Úc muốn giữ được vai trò tiên tiến và duy trì được mức sống cao của người dân thì cần phải và rất đang chú trọng đến việc đào tạo và giáo dục – điển hình là việc cải tổ ngành đại học gần đây của chính phủ. Richard Feynman, người Mỹ, một nhà vật lý lý thuyết lớn của thế kỷ 20, đã tâm tình trong cuốn sách “The meaning of it all”[6] là muốn làm khoa học thì trước hết phải học để biết nghi ngờ! Nghi ngờ là cần thiết và sự nghi ngờ có cái giá trị của nó. Từ cái nghi ngờ ta mới đặt vấn đề, mới nêu câu hỏi và từ đó tìm cách giải đáp thích đáng. Tiến sĩ Feynman nhấn mạnh là chúng ta không nên sợ những nghi ngờ mà phải đón nhận và trân quý chúng. Cái quyền được nghi vấn đã phải trải qua bao nhiêu tranh đấu chứ không phải loài người tự nhiên mà có. Có nghi ngờ, có không chắc chúng ta mới có cơ hội để cải thiện hoàn cảnh, lý thuyết đã không còn phù hợp với các dữ kiện mới nữa …”. 2b. Phan Kiều Oanh với “giấc mơ Úc”: Để có thêm một thí dụ làm sáng tỏ tính mở của đại học Úc, xin kể thêm trường hợp của nhà lập trình Phan Kiều Oanh. Khi Kiều Oanh còn ở Việt Nam, cô là một sinh viên xuất sắc, đặc biệt trong môn toán và tiếng Anh. Trong những năm phổ thông trung học, cô đã tham gia các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc về toán và tiếng Anh, trong đó đã hai lần đoạt giải nhì môn toán và một lần đoạt giải nhất tiếng Anh. Các cuộc thi này được tổ chức hàng năm để phát hiện những học sinh năng khiếu giỏi nhất. Năm 1983, sau khi đạt điểm xuất sắc trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học, Kiều Oanh được học bổng du học. Năm 1989, sau khi tốt nghiệp Đại học Công nghệ Sofia, Bulgaria, cô lại nhận được học bổng của đại học này để làm luận án tiến sĩ. Hoàn thành luận án năm 1993, cô lên đường sang Úc để khởi đầu sự nghiệp khoa học của mình. Tuy nhiên bằng cấp của nhiều quốc gia trên thế giới không nghiễm nhiên được công nhận tại Úc, trong đó có bằng cấp của Bulgaria. Vì thế, khi mới đặt chân tới Úc, Kiều Oanh gặp khó khăn rất lớn trong khi tìm kiếm một việc làm thích hợp. Cô phải đối mặt với hàng đống thách thức trong bước khởi đầu cuộc sống mới của mình. Nhưng khó khăn không làm cô nản lòng. Cô nhớ tới một danh ngôn của nhà bác học vĩ đại Pythagoras: “Bước khởi đầu là một nửa sự nghiệp”, tương tự như ngạn ngữ Việt Nam: “Vạn sự khởi đầu nan”. Vốn là một phụ nữ năng động và nhiệt tình, Kiều Oanh không thất vọng và không đầu hàng số phận. Cô quyết định khởi đầu lại toàn bộ sự nghiệp: Cô nộp đơn theo học tại Đại Học Công Nghệ Sydney (UTS) như một sinh viên năm thứ nhất. Đó là một quyết định cực kỳ khó khăn, vì lúc ấy cô không có tiền để sinh sống, thuê nhà ở, trả học phí và mua sách vở tài liệu. Chi phí cho việc học hành có thể sẽ rất lớn nếu chương trình học kéo dài nhiều năm (4 hoặc 5 năm). Nhưng thử thách tạo nên phẩm chất con người. Đó là điều Kiều Oanh đã được ông nội và cha mẹ giáo dục từ khi cô còn nhỏ, và giờ là lúc cô đem ra áp dụng: Cô quyết định vừa đi học vừa đi làm – đi làm để trang trải mọi chi phí đời sống và học hành. Cô làm đủ mọi việc có thể làm: may thuê, dạy học thuê, v.v. Tuy nhiên, phẩm chất con người là chứng chỉ tốt nhất trong cuộc sống! Ngay ngày đầu tiên tại đại học UTS, Kiều Oanh đã thể hiện khả năng vượt trội của cô so với các bạn cùng lớp. Giáo sư Roman Stere, với kinh nghiệm từng trải của ông, nhanh chóng nhận ra cô sinh viên xuất sắc của mình – Kiều Oanh tỏ ra biết và hiểu sâu sắc mọi điều ông trình bầy đến nỗi ông phải tạm ngừng bài giảng để hỏi cô: -Này cô Kiều, có vẻ như cô đã biết tất cả những gì tôi giảng trước khi cô đến đây, đúng không? -Vâng, đúng thế, thưa giáo sư, Kiều Oanh trả lời. -Tại sao cô biết? -Vì em đã tốt nghiệp đại học và hoàn thành luận án tiến sĩ từ mấy năm trước. -Thế ư? Ở đâu và bao giờ? Hãy nói cho tôi biết quá trình học tập của cô! Giáo sư Roman hối thúc. Thế là Kiều Oanh kể lại chuyện học hành của cô, rằng cô đã tốt nghiệp đại học ra sao và đã làm luận án tiến sĩ ra sao. Nghe cô kể xong, giáo sư Roman liền hỏi: -Vậy cô còn đến lớp này để làm gì? -Thưa giáo sư, vì Úc không công nhận bằng cấp của Bulgaria. Vì thế em không tìm được một công việc thích hợp để khởi đầu sự nghiệp khoa học. Do đó em tới đây để kiếm một cái bằng của Úc! Kiều Oanh giải thích. -Ồ, thì ra là như thế, vậy tôi sẽ cho cô thi chương trình năm cuối đại học ở đây. Nếu cô thi đỗ, cô có thể lập tức trở thành một người tốt nghiệp đại học ở Úc. Cô có muốn như thế không? Kiều Oanh ngạc nhiên, sung sướng bất ngờ. Tất nhiên là cô chấp nhận đề nghị của giáo sư Roman ngay lập tức. Những gì xẩy ra sau đó đã xác nhận những điều Kiều Oanh nói là đúng. Cô đã vượt qua kỳ thi tốt nghiệp với kết quả xuất sắc và giáo sư Roman đã giữ cô ở lại đại học UTS để làm trợ lý. Trong ba năm tiếp theo, Kiều Oanh hoàn thành luận án master (thạc sĩ) tại chính đại học này. Luận án này được đánh giá là đặc biệt xuất sắc vì đề tài do chính Kiều Oanh phát hiện từ thực tiễn của công nghệ, trong khi phần lớn đề tài thạc sĩ hoặc thậm chí tiến sĩ đều do giáo sư hướng dẫn có sẵn từ trước rồi giao cho học trò làm. Người phụ trách đề tài của cô cũng chính là GS Roman. Ông rất thích thú với những trình bầy toán học của cô, nhưng một hôm ông đột nhiên hỏi cô: “Theo sự hiểu biết của tôi, tôi thấy sinh viên Việt Nam nói chung rất thông minh, giỏi Toán. Vậy lẽ ra nền khoa học và công nghệ của các bạn phải phát triển lắm chứ. Nhưng tại sao thực tế không phải như vậy? Những người giỏi toán của các bạn đi đâu? Hay các bạn chỉ quen giỏi lý thuyết sách vở thôi mà xa rời thực tiễn? Hay vì nguyên nhân nào khác? Vậy tại sao cô giỏi Toán? Cô học Toán ở đâu? Ai dạy cô?”. Câu hỏi vượt quá khả năng trả lời của Kiều Oanh, bởi cô đi du học từ khi 18 tuổi. Thực tiễn trong nước cô không nắm bắt được hết. Cô chỉ trả lời những gì cô biết: “Thưa thầy, kiến thức của em chủ yếu được học từ gia đình. Ông nội em, rồi bố em dạy em là chính. Đã có những năm em phải học chương trình cải cách giáo dục với rất nhiều đảo lộn, nhưng rất may là kiến thức cơ bản em đã nắm vững. Vì thế em vẫn vươn lên được, bất chấp sự hỗn loạn của chương trình cải cách”. Có lẽ Kiều Oanh sẽ tiếp tục sự nghiệp hàn lâm và có nhiều cơ hội để trở thành một giáo sư đại học nếu một công ty của Mỹ không mời cô làm việc cho họ với tư cách một nhà lập trình, kèm theo một đề nghị lương bổng vô cùng hấp dẫn. Đối với Kiều Oanh, lập trình là một nghề nghiệp thích thú, rất phù hợp với những ai giỏi toán. Lập trình là một lĩnh vực mà ở đó khoa học về logic và tư tưởng hệ thống tha hồ phát huy sức mạnh. Logic và hệ thống hoá đóng một vai trò nền tảng trong toán học. Đó là lý do để nhiều người nhận định rằng giỏi toán thường sẽ giỏi lập trình, nếu đi vào ngành này. Cuối cùng Kiều Oanh đã chọn con đường trở thành một nhà khoa học lập trình, thay vì đi theo con đường hàn lâm ở trường đại học. Thời gian đã chứng tỏ lựa chọn của Kiều Oanh là khôn ngoan. Cô tiếp tục gặp thách thức trong công việc, nhưng càng bị thách thức cô càng yêu công việc. Có lần cô tâm sự: “Thắng lợi trong sự nghiệp chỉ có ý nghĩa thật sự khi người ta cảm thấy yêu công việc của mình, đồng thời nhận được những phần thưởng xứng đáng vì công việc đó”.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 15, 2011 6:48:04 GMT 9
Câu chuyện của Kiều Oanh là một câu chuyện về một nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm thực hiện một ước mơ, và cũng là câu chuyện về một niềm tin mạnh mẽ rằng một ngày nào đó, ước mơ của bạn có thể trở thành hiện thực ở đâu đó. Cô tâm niệm lời của Pierre Curie: “Phải tạo cho cuộc đời một giấc mơ và phải biến giấc mơ thành hiện thực”. Và cô cám ơn nền đại học của Úc đã tạo cho cô điều kiện biến “giấc mơ Úc” thành hiện thực. Mặc dù đến nay đã trở thành một chuyên gia lập trình “có hạng” của Úc, nhưng Kiều Oanh vẫn không sao quên được công ơn của GS Roman và Đại học UTS. Cô nói: “Điều khác biệt căn bản giữa đại học ở Bulgaria và Australia là ở chỗ học xong ở Bul, mặc dù có bằng tiến sĩ, mà bước chân vào thực tế vẫn thấy bỡ ngỡ, không biết bắt đầu từ đâu, bởi cách học ở Bul vẫn nặng về từ chương, lý thuyết sáo rỗng, trong khi ở Australia, học ở trường thế nào thì ra thực tế làm thế ấy. Kiến thức được mài dũa qua thực tế nên trưởng thành rất nhanh chóng. Kỹ sư ở Úc nếu không làm đúng chuyên môn của mình trong 3 năm thì tấm bằng đại học sẽ vô giá trị. Khi xin việc người ta không còn nhìn bạn bằng tấm bằng đó nữa. Có nghĩa là bằng cấp không thể dùng để trang sức và loè bịp được”. 3. Kết: Việc GS Roman tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho Kiều Oanh trong học tập không có gì đáng ngạc nhiên, bởi đó chính là phương châm chủ đạo của giáo dục Úc – khuyến khích sinh viên phát huy tối đa năng lực sáng tạo của cá nhân. Điều này đã từng được áp dụng rất hiệu quả trong trường hợp thần đồng toán học Terence Tao. Chỉ cần nhìn tấm hình cậu bé 9 tuổi Terence đang “quỳ” trên ghế Đại học Flinders ở Adelaide cũng có thể cảm nhận được “phong cách Úc” trong giáo dục đại học Úc thoáng mở như thế nào: Một nghiên cứu sinh Việt Nam là Vũ Trung Thành, đang làm luận án Master tại Úc, ngành Quản trị kinh doanh, đề tài “Quản trị nhân lực”, mới đến Úc chỉ vài tháng nhưng đã nhận thấy ngay những khác biệt trong lối giáo dục ở đây so với những gì anh đã từng trải qua. Thành nói: “Bên cạnh chi phí sinh hoạt dễ chấp nhận, môi trường sống an toàn, khí hậu tốt, các trường đại học Úc có những điểm hấp dẫn sinh viên Việt Nam, đặc biệt nếu so sánh 2 môi trường giáo dục Việt Nam và Úc. ● Thứ nhất, các đại học ở Úc quản trị theo phong cách phương Tây. Có những ví dụ rất đơn giản mà các đại học ở Việt Nam chưa làm được. Đơn cử như việc tự sắp xếp môn học, lịch học thi qua trang web của trường. Thư viện online mở luân phiên 24/7, tức là mọi hoạt động đều đặt sự tiện lợi của người học lên cao nhất. Trong khi đó, đại học ở Việt Nam đặt sự tiện lợi của những người làm công tác quản lí lên cao nhất. ● Thứ hai, đại học ở Úc giảng dạy theo chất lượng Âu Mĩ. Trong các đại học ở Việt Nam, tình trạng đạo văn là phổ biến (khi trò thấy thầy không sáng tạo mà sao chép là chủ yếu thì chuyện sao chép bất bình thường sẽ trở thành hết sức bình thường). Sinh viên các trường đại học ở Việt Nam, ít nhất ở khu vực Hànội như tôi thấy, không cần nỗ lực thực sự vẫn có có thể có bằng tốt nghiệp. Nhưng nguy hiểm nhất là chấp nhận sự dễ dãi, qua loa và gian dối. Tôi đã từng có 4 năm đi học như thế. Nhìn lại đại học ở Úc, họ không chấp nhận sự làm việc hời hợt, gian dối. Trích dẫn phải có nguồn, phải paraphrasing. Phải chăng yêu cầu cơ bản mà giáo dục bậc cao đòi hỏi có lẽ là bất khả ở những quốc gia đang phát triển? ● Thứ 3, đại học ở Úc có cơ sở vật chất tốt. Không ai nghi ngờ sự thành công của giáo dục Úc. Hai yếu tố cơ bản là con người và điều kiện vật chất đầy đủ thì rất dễ nhận thấy”. Nếu phải nói thêm, người viết bài này chỉ xin nhắc lại lời của PGS Phùng Hồ Hải như một nhấn mạnh: “Không thể xây dựng một tòa nhà cao vút mà chân đế lại bé tí”. Vâng, nền khoa học của một quốc gia không thể trở thành một kim tự tháp vững chắc nếu nền giáo dục của nó chỉ chạy theo những giá trị ảo. Vấn đề là chúng ta phải tạo ra những trí thức thật với một vốn văn hoá cơ bản vững chắc, làm nền móng cho mọi tư duy trong cuộc sống, dù là tư duy khoa học, công nghệ hay tư duy xã hội. Nói cách khác, chúng ta phải có một nền giáo dục tạo ra dân trí cao, thay vì chỉ có những thành tích “khổng lồ chân đất sét”. Trước khi hoàn thành bài viết này, tôi vô tình đụng phải những tư tưởng rất chí lý về giáo dục. Xin lấy làm lời kết: “Hãy tránh những sai lầm trong giáo dục. Đó là những sai lầm tệ hại nhất” (Ý kiến một học giả Ấn Độ). “Một nền giáo dục tồi là nền giáo dục làm thui chột tài năng, người bình thường trở thành kẻ tầm thường; Một nền giáo dục tốt là nền giáo dục làm cho những người bình thường trở thành những người tài năng hữu dụng” (Ý kiến một học giả Trung Hoa). Sydney ngày 30 tháng 09 năm 2010 Phạm Việt Hưng [1] www.vfej.vn/vn/chi_tiet/25134/can_mot_moi_truong_loi_keo_so_dong
[2] www.newsweek.com/2010/08/15/interactive-infographic-of-the-worlds-best-countries.html
[3] Xem 1/“Bước đột phá trong vật lý lượng tử: Chuyển thông tin tức thời” của Phạm Việt Hưng trên VnExpress ngày 01-07-2002; 2/ “Dùng ‘tương tác ma quỷ’ để chuyển thông tin tức thời” trong cuốn “Những câu chuyện khoa học hiện đại” của Phạm Việt Hưng, NXB Trẻ và Tia Sáng xuất bản năm 2003
[4] studyinaustralia.gov.au/Sia/vi/WhyAustralia/whyaustralia.htm
[5] Để biết rõ hơn về các công trình của GS Kiều Tiến Dũng, có thể tham khảo các tài liệu sau đây: “Quantum Leaps May Solve Impossible Problems”, Mike Martin, NewsFactor; “Smash & Grab”, Marcus Chown, New Scientist 06-04-2002, “Computer lượng tử có thể biết cái không thể biết”, Phạm Việt Hưng, Tia Sáng tháng 06-2003
[6] Quyển sách đã được dịch ta tiếng Việt với tên gọi “Ý nghĩa mọi thứ trên đời”, bản dịch của Nguyễn Văn Trọng, Nxb Tri thức, 2010
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 24, 2011 7:53:17 GMT 9
Biến động Bắc Phi, Trung Đông và Trung Quốc Vietsciences-Nguyễn Trường Trong hơn ba tháng qua, quần chúng "xuống đường" đã lật đổ hai chế độ ở Tunisia và Ai Cập, châm ngòi cuộc nội chiến ở Libya, và gây biến động trong nhiều xứ khác ở Bắc Phi và Trung Đông. Nhiều người đã tự hỏi: Phải chăng các chế độ độc tài vọng ngoại hiện đang bị đe dọa bởi làn sóng dân chủ mới? CHIẾN LƯỢC MỚI CỦA HOA KỲ Chính quyền Bắc Kinh rõ rệt đang lo ngại. Nhiều biện pháp khắt khe đã được áp dụng nhằm theo dõi, kiểm soát, kiềm chế hoặc ngăn chặn tin tức về các biến động ở Bắc Phi và Trung Đông, các nhà hoạt động đối lập và phóng viên báo chí ngoại quốc, kể cả các lời cổ súy vô danh trên Internet về Cách Mạng Hoa Nhài ở TQ. Trang bình luận gần đây trên Bắc Kinh Nhật Báo, cơ quan chính thức của đảng bộ thành phố, đã viết: phần lớn quần chúng ở Trung Đông không mấy hài lòng với các vận động đối kháng trong xứ họ - những "biến động tự lừa dối"[1] do một thiểu số giàn dựng. Riêng chủ tịch Hồ Cẩm Đào cũng đã thúc đẩy tăng cường Bức Tường Lửa - một guồng máy kiểm duyệt và giám sát tinh vi mạng Internet. Các động thái vừa nói của giới lãnh đạo TQ không phải không có lý do. Chỉ cần tỉnh táo phân tích những gì người Mỹ đã và đang theo đuổi ở Iraq, Iran, Afghanistan, Pakistan, Honduras, và gần đây ở Bắc Phi và Trung Đông, nhất là ở Libya, chúng ta cũng có thể thông cảm một phần nào với thái độ thận trọng của TQ. Thực vậy, người Mỹ, trong thực tế, khó lòng làm được gì khác sau những phiêu lưu quân sự tai họa ở Iraq, Afghanistan, Pakistan, và nhất là sau Đại Suy Thoái Kinh Tế 2008. Cũng như các đế quốc trong thời mạt vận trước đây, Hoa Kỳ đã tỏ ra dễ bị lôi cuốn vào các phiêu lưu quân sự ở hải ngoại. Có lẽ đã đến lúc Hoa Kỳ nên từ bỏ bá quyền và đóng cữa trên dưới 800 căn cứ quân sự trên khắp thế giới, khả dĩ tập trung mọi nổ lực chấn chỉnh nội bộ và giải quyết gánh nợ khổng lồ đối với các nước ngoài. Tuy vậy, gần đây chính quyền Mỹ hình như đã tìm được một chiến lược mới, ít tốn kém hơn: những chiến dịch xây dựng dân chủ. Dưới nhiều hình thức, và qua trung gian các tổ chức phi chính phủ -NGO, họ đã tài trợ và huấn luyện hàng nghìn cán bộ về các kỹ năng xã hội trong nhiều quốc gia đang phát triển, đặc biệt ở Á, Phi, Nam Mỹ, nhất là Trung Đông, những xứ TQ đang có nhiều ảnh hưởng chính trị và quyền lợi kinh tế. Nói rõ hơn, qua các phương tiện truyền thông xã hội, social media, như mạng Internet, Facebook, Twitter..., người Mỹ đã tiến hành cuộc chiến truyền thông và kiểm soát tự động, cyberwar. Mục tiêu là len lỏi hay cài người vào giới lãnh đạo địa phương để thể hiện nghị trình kinh tế, chính trị của Mỹ dưới chiêu bài Cách Mạng Dân Chủ. Cho đến nay, hình như họ đang khá thành công, và đang trông chờ ở ripple effects hay hiệu ứng làn sóng lan truyền. Theo những công điện ngoại giao do WikiLeaks tiết lộ gần đây, những hoạt động nầy đã được chuẩn bị qua các chương trình huấn luyện và tài trợ bởi The International Republican Institute, The National Democratic Institute và Freedom House - một "tổ chức nhân quyền bất vụ lợi" ở Hoa Thịnh Đốn. Những Viện Cộng Hòa và Dân Chủ - hai tổ chức liên kết với Đảng Cộng Hòa và Đảng Dân Chủ - do Quốc Hội Hoa Kỳ sáng lập và tài trợ qua The National Endowment for Democracy, thành lập năm 1983, để phân phối ngân khoản tài trợ các hoạt động "phát huy dân chủ" trong các quốc gia đang phát triển. The National Endowment nhận 100 triệu USD mỗi năm từ Quốc Hội. Freedom House cũng được chính quyền tài trợ, phần lớn qua Bộ Ngoại Giao. Stephen McInerny, giám đốc Dự Án Dân Chủ Trung Đông, có trụ sở ở Hoa Thịnh Đốn, cho biết:"Chúng tôi không tài trợ để khởi động các cuộc phản đối, nhưng chúng tôi đã giúp phát triển các kỹ năng và cách kết nối. Việc huấn luyện đã giữ một vai trò trong những gì cuối cùng đã xẩy ra, nhưng đó là cuộc cách mạng của chính họ. Chúng tôi đã không giữ vai trò khởi động"[2]. Không một nhà khoa học xã hội hay phân tích tình báo nào đã dự báo thời điểm chính xác và tiềm năng lan tràn của "làn sóng cách mạng dân chủ Á Rập" - sự kiện cuộc phản kháng đầu tiên đã xẩy ra ở Tunisia, thay vì ở bất cứ nơi nào khác, đã được khởi động bởi sự tự thiêu của một người bán rong hoa quả ; hay những biến động buộc quân đội Ai Cập đã phải bỏ rơi Tổng Thống Hosni Mubarak. Trong nhiều thập kỷ, thế giới Á Rập đã tỏ ra ổn định một cách kỳ lạ. Tại sao các cuộc xuống đường phản đối lại bất thần bùng nổ vào năm 2011 ở các xứ nầy là một điều chỉ có thể hiểu được sau khi đã thực sự trải nghiệm. CÁCH MẠNG DÂN CHỦ - LÝ THUYẾT SAMUEL HUNTINGTON Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa chúng ta không thể quan niệm có thể có các cuộc cách mạng xã hội được tổ chức cẩn mật hơn. Ngay cả những sự kiện bất khả dự đoán cũng phải diễn ra trong một khung cảnh nào đó, và tình trạng Trung Quốc và Trung Đông hiện nay hoàn toàn khác biệt. Hầu hết các chỉ dấu đều chứng tỏ TQ khá an toàn trước làn sóng dân chủ đang diễn ra ở rất nhiều nơi trên thế giới, ít ra cho đến nay. Có lẽ tư tưởng gia thích ứng nhất có thể hiểu rõ Trung Đông hiện nay và TQ mai sau là Samuel Huntington - không phải Huntington tác giả cuốn "Sự Xung Đột Giữa Các Nền Văn Minh" - The Clash of Civilizations, người đã đưa ra luận cứ có những dị biệt hay bất thích ứng căn bản giữa Hồi Giáo và dân chủ, mà là Huntington tác giả tác phẩm kinh điển Trật Tự Chính Trị Trong Các Xã Hội Đang Thay Đổi - Political Order in Changing Societies, xuất bản lần đầu năm 1968, trình bày lý thuyết hố cách biệt trong phát triển - the development gap. Quan sát tình trạng bất ổn định chính trị lan tràn trong thế giới đang phát triển trong các thập kỷ 1950 và 1960, Huntington đã ghi nhận: trình độ phát triển kinh tế và xã hội cao thường đưa đến các xáo trộn như đảo chính, cách mạng, và quân đội cướp chính quyền. Theo tác giả, điều nầy có thể được giải thích bởi hố cách biệt giữa những thành phần vừa mới được khích động, có học vấn, và có khả năng kinh tế, và hệ thống chính trị hiện hữu, nói một cách khác, giữa những kỳ vọng tham gia vào sinh hoạt chính trị và các định chế không cho phép họ thể hiện những ước mơ của mình. Theo Huntington, sự kiện chống đối trật tự chính trị hiện hữu ít khi do các người nghèo khó nhất trong giới nghèo, mà thường do các tầng lớp trung lưu bức xúc vì thiếu cơ hội tham gia vào sinh hoạt chính trị và kinh tế trong các xã hội liên hệ. Những nhận xét vừa nói hình như khá đúng với Tunisia và Ai Cập. Cả hai đã ghi được nhiều tiến bộ xã hội quan trọng trong những thập kỷ gần đây. Chỉ Số Phát Triển Nhân Văn (Human Development Indices) thu thập bởi Liên Hiệp Quốc (một mực thước đo lường hỗn hợp về y tế, giáo dục, và lợi tức) đã gia tăng 28% ở Ai Cập và 30% ở Tunisia trong các năm giữa 1990 và 2010. Số người đến trường cũng đã gia tăng đáng kể. Đặc biệt ở Tunisia, số sinh viên tốt nghiệp đại học khá đông. Thực vậy, các biến động đối kháng ở Tunisia và Ai Cập đã được phát động trước hết bởi các thành phần trung lưu trẻ tuổi, có học, có kỹ năng, sẵn sàng bày tỏ với những ai lắng nghe những bức xúc của họ đối với xã hội - chẳng hạn, không được phép trình bày quan điểm; không thể buộc cấp lãnh đạo chịu trách nhiệm về tệ nạn tham nhũng; và bất lực, hay không thể kiếm được việc làm nếu không có thế lực chính trị. Huntington nhấn mạnh đến khả năng gây bất ổn của những nhóm xã hội mới đang tìm cơ hội tham gia vào sinh hoạt chính trị. Trước kia, người dân thường được khích động bởi báo chí và truyền thanh. Ngày nay, họ thường được thúc đẩy hành động qua điện thoại di động, Facebook và Twitter, những phương tiện giúp họ chia sẻ những ấm ức, bất bình đối với hệ thống chính trị, và học hỏi những điều mới lạ ở thế giới rộng lớn bên ngoài. Sự thay đổi ở Trung Đông đã đến rất nhanh, và đã thay thế các sự thật xa xưa như tính thụ động của văn hóa A Rập và tính đề kháng trước nhu cầu canh tân của Hồi giáo. CÁCH MẠNG DÂN CHỦ VÀ TRUNG QUỐC Nhưng liệu những phân tích trên đây có thể giúp chúng ta được gì trong việc tìm hiểu các nguyên do khả dĩ gây bất ổn định trong tương lai ở TQ? Quả thật mồi lửa bất bình xã hội luôn hiện diện ở TQ cũng như ở Trung Đông. Nguyên do khởi động phong trào phản kháng ở Tunisia là sự cố tự thiêu của Mohamed Bouazizi, người đẩy xe rau cải, hoa trái ... đi bán rong, bị nhà cầm quyền tịch thu nhiều lần, và bị cảnh sát tát tai và sỉ nhục khi khiếu nại. Đây là điều luôn xẩy ra trong các chế độ thiếu thượng tôn luật pháp: nhà cầm quyền thường có hành động thiếu tôn trọng nhân phẩm của người dân. Lối đối xử nầy luôn gây căm hờn trong mọi nền văn hóa. Đây là một vấn đề lớn và phổ biến ở TQ. Một phúc trình gần đây của Đại Học Jiao Tong cho biết đã có 72 vụ biến động xã hội nghiêm trọng ở TQ trong năm 2010, tăng 20% so với năm trước. Hầu hết các quan sát viên bên ngoài đều đồng ý con số các vụ biến động trong thực tế vượt xa con số nói trên. Những biến động loại nầy rất khó kiểm chứng bởi lẽ thường xẩy ra trong các vùng nông thôn, những nơi báo chí thường bị nhà cầm quyền kiểm duyệt gắt gao. Trường hợp điển hình nhất liên quan đến vi phạm nhân quyền ở TQ ngày nay là chính quyền địa phương toa rập với giới kinh doanh bất động sản tước đoạt đất đai của dân quê để thực hiện các dự án hoành tráng, hay một công ty xử lý chất thải gây ô nhiễm cho nguồn nước một cách vô trách nhiệm mà chẳng có biện pháp chế tài, bởi lẽ cá nhân cấp lãnh đạo đảng ở địa phương có nhiều quyền lợi trong công ty. Mặc dù không đến mức cướp đoạt trắng trợn như ở nhiều xứ Phi châu hay Trung Đông, nạn tham nhũng vẫn tràn lan ở TQ. Người dân chứng kiến và phẫn uất trước lối sống với nhiều đặc quyền đặc lợi của giới thượng lưu và gia đình. Phim Avatar đã rất được ưa thích ở TQ một phần vì nhiều người Hoa đồng cảm với dân địa phương có đất bị một đại công ty thiếu trách nhiệm cưởng đoạt, như đã được phản ảnh trong phim. Hơn nữa, hố cách biệt giàu nghèo lớn lao và ngày một gia tăng cũng là vấn đề gây nhiều phẫn nộ ở TQ. Hầu hết lợi ích từ tỉ suất tăng trưởng choáng ngợp ở TQ đã được phân phối bất cân xứng - tập trung trong các tỉnh ven biển và bỏ quên nhiều khu vực nông thôn nằm sâu trong lục địa. Chỉ số Gini - một chuẩn mực đo lường trình độ chênh lệch lợi tức phân phối trong xã hội - đã tăng lên mức không mấy khác các xứ Mỹ La Tinh trong vòng một thế hệ. Để so sánh, phân phối lợi tức ở Ai Cập và Tunisia tương đối ít chênh lệch hơn. Tuy nhiên, theo Huntington, cách mạng thường được khởi động, không phải bởi người nghèo, mà bởi giai cấp trung lưu đang đi lên - hiện rất đông ở TQ - với nhiều khát vọng không được đáp ứng. Tùy theo định nghĩa, giai cấp trung lưu ở TQ còn vượt quá tổng dân số của Hoa Kỳ. Tương tự với giai cấp trung lưu ở Ai Cập và Tunisia, giai cấp trung lưu ở TQ cũng chẳng có nhiều cơ hội để tham gia vào sinh hoạt chính trị. Nhưng khác với giới trung lưu ở Trung Đông, giai cấp trung lưu ở TQ đã được thụ hưởng nhiều lợi ích từ một nền kinh tế tăng trưởng ngày một nhanh và một chính quyền luôn chú tâm vào việc tạo công ăn việc làm cho chính tầng lớp họ. Trong chừng mức công luận được đo lường qua các cuộc thăm dò, như Phong Vũ Biểu Á Châu (Asia Barometer) ở TQ, một đa số lớn lao người Hoa cảm thấy đời sống kinh tế của họ ngày một được cải thiện trong những thập kỷ gần đây. Đa số người Hoa cũng tin dân chủ là hình thức chính quyền tốt nhất, nhưng đồng thời họ cũng nghĩ TQ đang có dân chủ và tỏ ra thỏa mãn với tình trạng hiện hữu. Điều nầy chuyển hóa thành một trình độ hậu thuẫn tương đối thấp dành cho bất cứ cuộc vận động dân chủ tự do đích thực nào. Thực vậy, chúng ta có lý do để tin giai cấp trung lưu TQ có thể e ngại một loại dân chủ đa đảng, bởi lẽ nó có thể phát động những đòi hỏi tái phân lợi tức lớn lao ngay từ giới đang bị bỏ lại phía sau. Những người Hoa trù phú thấy sự phân cực bình dân trong sinh hoạt chính trị gần đây ở Thái Lan, như một cảnh cáo về những bất ổn định và biến động, dân chủ có thể mang lại. Trong thực tế, chất lượng của chủ nghĩa toàn trị ở TQ vẫn có một giá trị cao hơn rất nhiều so với Trung Đông. Mặc dù không chính thức chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhân dân qua các cuộc bầu cử trực tiếp, chính quyền TQ luôn cẩn trọng theo dõi những bất mãn của quần chúng và thường đáp ứng bằng cách xoa dịu thay vì đàn áp. Chẳng hạn, Bắc Kinh đã thẳng thắn công nhận hố cách biệt ngày một gia tăng trong phạm trù phân phối lợi tức, và trong nhiều năm gần đây đã tìm cách giảm thiểu tình trạng bất cân xứng qua biện pháp chuyển hướng đầu tư qua những vùng sâu vùng xa nghèo khó bên trong đại lục. Trong các trường hợp rõ ràng có tham nhũng hay lạm quyền, như vụ sữa bột trẻ em bị nhiễm melamine hay chuẩn mực xây cất trường ốc tồi tệ đã được phơi bày qua tai họa động đất ở Tứ Xuyên, chính quyền thường không nương tay nghiêm trị các quan chức địa phương, đôi khi ngay cả xử tử hình. Một nét đặc trưng đáng ghi nhận khác của chính quyền TQ là quy luật tự nguyện chi phối quá trình thay đổi cấp lãnh đạo. Cấp lãnh đạo A Rập như Zine al-Abidine Ben Ali ở Tunisia, Mubarak ở Ai Cập, và Muammar Gadhafi ở Libya, chẳng bao giờ tự hiểu lúc nào phải ra đi, thay vào đó đã bám lấy quyền hành liên tục trong 23, 30, và 41 năm. Kể từ thời chủ tịch Mao Trạch Đông, cấp lãnh đạo TQ luôn chấp hành đứng đắn nhiệm kỳ khoảng 10 năm. Theo lịch, đương kim Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào sẽ hưu trí vào năm 2012 và nhường chỗ cho Phó Chủ Tịch Xi Jinping. Thay đổi lãnh đạo có nghĩa đem lại nhiều cơ hội để canh tân chính sách, trái ngược với các xứ Tunisia và Ai Cập luôn bị kẹt cứng trong lối mòn của chủ nghĩa tư bản thân thuộc (crony capitalism) trong nhiều thập kỷ. Chính quyền TQ cũng tỏ ra khôn khéo và cứng rắn hơn trong phương cách trấn áp. Khi đối diện với một đe dọa rõ ràng, nhà cầm quyền không bao giờ để cho các kênh truyền thông Tây phương loan truyền trước. Facebook và Twitter bị ngăn cản, nội dung các mạng internet, websites, và các phương tiện truyền thông xã hội có trụ sở ở TQ được sàng lọc bởi đội quân kiểm duyệt. Đã hẳn, lời đồn về những việc làm tội lỗi của chính quyền rất có thể lọt ra bên ngoài trong khoảng thời gian từ khi lên mạng một micro-blogger và khi bị xóa bỏ bởi một nhân viên kiểm duyệt, nhưng trò chơi trốn tìm nầy đã gây khó khăn và trở ngại cho một không gian xã hội có đủ thì giờ xuất hiện. Một nét đặc trưng khác mang tính quyết định: bản chất của quân đội TQ. Do nét đặc trưng nầy, tình hình TQ sẽ rất khác với Trung Đông. Số phận các chế độ toàn trị đối diện với sự phản kháng của quần chúng cuối cùng cũng phụ thuộc ở trình độ trung thành của các tổ chức quân sự, cảnh sát và tình báo. Quân đội Tunisia đã sớm từ chối ủng hộ Ben Ali; sau chút ít do dự, quân đội Ai Cập cũng đã quyết định không nổ súng đàn áp dân biểu tình và lật đổ Mubarak. Ở TQ, Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân (PLA) là một tổ chức khổng lồ và ngày một độc lập với nhiều quyền lợi kinh tế đòi hỏi phải duy trì hiện trạng. Như trong cuộc trỗi dậy ở Thiên An Môn năm 1989, PLA có nhiều đơn vị trung thành ở khắp TQ có thể được huy động về Bắc Kinh hay Thượng Hải, và các đơn vị nầy có thể không mấy do dự khi phải đàn áp người biểu tình. PLA tự xem có sứ mệnh phải bảo vệ "tinh thần quốc gia" ở TQ. PLA đã khai triển một tự truyện thay thế cho lịch sử thế kỷ 20 với địa vị của chính mình ngay trung tâm các biến cố: đánh bại phát xít Nhật trong cuộc chiến Thái Bình Dương và sự trỗi dậy của một Trung Quốc hiện đại. Thật khó lòng quan niệm PLA có thể thay đổi lập trường để hậu thuẫn một phong trào dân chủ manh nha trong thời tuột dốc của đế quốc Hoa Kỳ. Một nền dân chủ - trong đó Bộ Chính Trị Đảng chỉ định các ứng viên để cử tri lựa chọn, nhưng đã từng đối phó thành công với cuộc Đại Suy Thoái 2008 và giữ vai trò đầu tàu kinh tế đối với các quốc gia khác trên thế giới - khó lòng chấp nhận đi theo một nền dân chủ - trong đó Wall Street sàng lọc và đề cử các ứng viên cả Dân Chủ lẫn Cộng Hòa để cử tri chọn lựa - đang trên đà tuột dốc. Xét cho cùng, TQ sẽ không lây nhiễm căn bệnh biến động đang lan tràn ở Bắc Phi và Trung Đông, ít ra trong một tương lai gần. Tuy vậy, TQ vẫn có thể đối mặt với nhiều vấn đề trọng đại trong tương lai dài lâu. TQ chưa hề trải nghiệm một cuộc khủng hoảng quan trọng hay suy thoái kinh tế kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế năm 1978. Nếu bong bóng bất động sản hiện nay xì xẹp và hàng chục triệu người mất việc, tính chính đáng của chính quyền, vốn cơ sở trên căn bản khả năng quản lý kinh tế, rất có thể sẽ bị xói mòn. Hơn nữa, kịch bản các chờ đợi đang lên nhưng chưa được thỏa mãn của tầng lớp trung lưu vẫn còn đang tiếp diễn. Mặc dù hiện nay TQ đang thiếu nhân công ít khả năng chuyên môn, nhưng số thanh niên nam nữ tốt nghiệp đại học lại thặng dư. Mỗi một năm, trên 7 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học, so với con số trên dưới một triệu trong năm 1998, và nhiều người trong số nầy đang tranh đua kiếm việc làm thích ứng với khả năng của chính mình. Một vài triệu thanh niên tốt nghiệp đại học thất nghiệp còn nguy hiểm đối với một chế độ đang canh tân hơn hàng trăm triệu nông dân nghèo nàn. Ngoài ra, còn có vấn đề người TQ thường gọi: " bạo chúa" hay quốc vương xấu . Những thành tích trong lịch sử TQ qua nhiều thế kỷ đã là thành quả của sự kiến tạo một chính quyền trung ương xuất sắc. Khi người trị vì chuyên chế có đủ khả năng và trách nhiệm, mọi việc có thể rất tốt đẹp. Thực vậy, việc lấy quyết định, trong trường hợp nầy, thường hữu hiệu hơn trong một thể chế dân chủ. Nhưng chẳng có gì bảo đảm hệ thống sẽ luôn đem lại những "minh quân" như vua Nghiêu vua Thuấn, và khi thiếu vắng tinh thần thượng tôn luật pháp và giám sát bởi cử tri đối với quyền hành pháp, không có một phương cách nào khác để loại bỏ một bạo chúa như Tần Thủy Hoàng. Chúng ta không thể biết một bạo chúa hay một lãnh tụ tham ô nào đang chờ đợi lên nắm quyền ở TQ trong tương lai. Sự thật là dù chúng ta có thể đưa ra nhiều lý thuyết khác nhau về các nguyên nhân đưa đến cách mạng xã hội, xã hội con người vẫn luôn phức tạp và đổi thay nhanh chóng, để một lý thuyết đơn giản có thể cung cấp một sự hướng dẫn khả tín. Biết bao quan sát viên, căn cứ trên kiến thức uyên thâm về Trung Đông, đã loại bỏ lý thuyết sức mạnh của đường phố A Rập có thể đem lại thay đổi chính trị, họ đều luôn đúng trong mọi năm cho mãi đến năm 2011. Điều khó tiên đoán nhất đối với bất cứ quan sát viên chính trị nào là yếu tố đạo đức. Tất cả các cuộc cách mạng xã hội đều được khởi động bởi một sự giận dữ mãnh liệt khi một nhân cách bị thương tổn. Một nổi oan ức hay căm hận, đôi khi kết tinh của một biến cố đơn độc hay một hình ảnh đau thương, có thể động viên nhiều cá nhân trước đó rời rạc và kết nối họ thành một cộng đồng. Chúng ta có thể đưa ra các con số thống kê về giáo dục hay tăng trưởng trong việc làm, hay đào sâu vào kiến thức về lịch sử và văn hóa một xã hội, và vẫn hoàn toàn không hiểu nổi phương cách ý thức xã hội đang diễn biến nhanh chóng qua vô số những thông điệp, những videos chia sẻ hay những câu chuyện trao đổi đơn thuần. Yếu tố đạo đức then chốt khó đo lường ở TQ là giai cấp trung lưu, cho đến nay, hình như luôn bằng lòng đánh đổi tự do chính trị để đổi lấy mức lợi tức ngày một gia tăng và ổn định. Tuy nhiên, đến một thời điểm nào đó, sự đánh đổi rất có thể thất bại; chế độ không còn khả năng đem lại món hàng trao đổi, hay thiếu tôn trọng nhân quyền ở TQ trở nên quá lớn để có thể tha thứ. Chúng ta không nên lầm tưởng chúng ta có thể tiên đoán chính xác thời điểm khả dĩ bùng nổ. Tuy nhiên, như Samuel Huntington đã gợi ý, sự kiện khả dĩ đó luôn buộc chặt với logic của chính quá trình canh tân. Trong thực tế, hình như Samuel Huntington đã không tiên liệu được yếu tố nằm ngoài logic - chiến lược mới của Hoa Kỳ và các đồng minh trong khối NATO: Chiến Dịch Xây Dựng Dân Chủ và Nghị Trình Chặn Đứng Ảnh Hưởng của Siêu Cường Trung Quốc ở Á châu, Phi châu và châu Mỹ La Tinh. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 19-4-2011 -------------------------------------------------------------------------------- [1] ...a self-delusional ruckus.
[2] Stephen McInerny: "We didn't fund them to start protests, but we did help support their development of skills and networking. That training did play a role in what ultimately happened, but it was their revolution. We didn't start it".
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 4, 2011 7:17:15 GMT 9
Một tuần ở Bắc Hàn
Tác giả: Gaup
Tôi quyết định viết một cái gì đó tương tự như thế này sau khi từ Bình Nhưỡng trở về Bắc Kinh hồi cuối tháng tư. Có lẽ lý do chính là một tuần ở Bắc Triều Tiên để lại nhiều ấn tượng nặng nề quá làm tôi cảm thấy phải rút ra được một kết luận nào đó, phải tìm ra một lời giải thích dù chỉ đơn giản. Chuyến đi này cho tôi một cơ hội mà có ít người Việt Nam mình có được, là một lần nữa sống lại thời những năm đầu 1980 ở Việt Nam. Giống như là nghe lại những bài hát trẻ con tìm ra được những điều mới mẻ, ở Bình Nhưỡng một tuần làm tôi ngẫm ra được nhiều điều ở chính trong đầu mình, kết quả của việc lớn lên trong một thời kỳ gian khổ ở một đất nước khi đó mệt mỏi và nghèo đói, mà lúc trẻ con tôi không nghĩ được ra.
Từ Bắc Kinh đi lên Dandong là thành phố biên giới sát Bắc Triều Tiên thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc mất khoảng 15 tiếng bằng tầu hỏa. Tầu rời ga Bắc Kinh lúc 5h10 chiều và đến nơi khoảng 7h30 sáng ngày hôm sau, giá vé khoảng 70 đô la Mỹ. Từ BK đến Dandong tôi ở một mình một toa bốn giường, các toa bên cạnh phần nhiều là cán bộ Bắc Hàn đi công tác về. Tàu liên vận nhưng chỉ có hai toa ghép liền vào tàu thường tốc hành của Trung Quốc, đến Dandong thì tách ra. Khi đến Dandong bắt đầu có thêm nhiều người lên tàu, toa của tôi chỉ một lúc đã đầy chật hàng hóa và một gia đình 4 người lớn một trẻ con, cả nhà nói với nhau bằng cả tiếng Triều và tiếng Hoa. Hàng hóa thì đủ loại, quần áo, chai lọ lỉnh kỉnh, mà không chỉ có toa tôi, các toa khác đều như thế. Cán bộ hải quan và công an cửa khẩu của Trung Quốc lên tàu làm thủ tục rất nhanh gọn và thân mật, một hai người thấy hộ chiếu Việt Nam còn bắt tay tôi rất chặt rồi hỏi chuyện vui vẻ lắm. Khoảng chín giờ, hai toa tầu đã được nối vào một đầu máy chạy điện của Trung Quốc, chúng tôi dần dần được đẩy sang phía đất Triều Tiên.
Tàu ra khỏi ga chỉ khoảng một phút là lên cầu vượt sông áp Lục, con sông nổi tiếng trong chiến tranh Triều Tiên nơi diễn ra những trận đánh đẫm máu giữa quân giải phóng Triều Tiên, chí nguyện quân Trung Quốc và liên quân Mỹ-Nam Hàn. Sông không rộng, có thể còn hẹp hơn cả sông Hồng đoạn chạy qua Gia Lâm. Chỉ mấy phút tầu đã vượt qua cầu đi thẳng vào ga của Triều Tiên.
Rất khó kể lại được ấn tượng đầu tiên của tôi khi bắt đầu sang đến đất Triều Tiên như thế nào. Trước chuyến đi này, do nhiều lý do khác nhau tôi đã tìm đọc, nghe kể và cả viết về Bắc Triều Tiên nên hiểu biết chung về đất nước này là có mặc dù chỉ trên sách vở và kinh nghiệm của người khác. Thực ra mà nói, chuyến đi Triều Tiên là kết quả của một dự định, có thể là một mơ ước nữa, dù có lúc không nghiêm túc lắm, của tôi nhen nhóm trong khoảng thời gian gần 12 năm. Đặc biệt vài năm lại đây, kể từ khi Triều Tiên trải qua nạn đói khốc liệt hổi 1995-1997, khi mà có có tin đồn về việc trẻ em bị bắt trộm để làm thịt, rồi đến những thỏa thuận về chương trình đổi dầu và năng lượng lấy việc ngừng sản xuất vũ khí nguyên tử giữa Triều Tiên và liên minh Hàn-Nhật-Mỹ-châu Âu rồi gần đây nhất là những tin tức lạc quan về khả năng hai miền bán đảo này thống nhất, tôi lại càng mong muốn được đến thăm trước khi Triều Tiên thay đổi. Sự trông đợi của tôi là sẽ thấy một đất nước khổ sở và kém phát triển, nơi người dân đói ăn và nói chung là bị động trong mọi quyết định của riêng hay của chung.
Thế nên tôi hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy những hình ảnh đầu tiên của Triều Tiên. Trong ga mặc dù chỉ là ga biên giới mọi thứ đều có vẻ đàng hoàng, đẹp đẽ và sạch sẽ. Những người Triều Tiên đầu tiên tôi nhìn thấy, những cán bộ nhà ga và biên phòng, không có vẻ gì đói ăn hay mệt mỏi, ngược lại, ở họ có cả những dấu hiệu của sự đầy đủ nếu không nói là dư thừa. Công nhận là đến 90% mọi người đều mặc một loại đồng phục nào đó, màu sắc khác nhau và cái khác nữa so với bên kia biên giới là sự xuất hiện bất ngờ của nhiều loại vũ khí sát thương nặng nhẹ do nhiều người mang vác. Một vài người Triều Tiên đầu tiên lên tàu, nếu chỉ xét từ cách ăn mặc, chi đầu, đeo kính thì có thể nhầm là diễn viên từ một bộ phim truyền hình Hàn Quốc nào đó. Nhiều người trong số họ nói tiếng Anh, mặc dù cách phát âm còn lẫn nhiều giọng Hàn, nhưng sự nhạy cảm trong cách dùng từ, tốc độ phản ứng đều chỉ ra là kết quả của một quá trình học hỏi nghiêm túc và có kết quả tốt.
Đầu tiên là biên phòng lên tầu, sau đó là các cán bộ hải quan. Trên tàu bắt đầu nhộn nhịp, mọi người lấy giấy tờ ra khai nhập cảnh, mang hàng hóa ra để chờ kiểm tra, lúc đấy mới thấy hàng hóa nhiều và đa dạng thế nào và mới bắt đầu hiểu tại sao lại có sự sung túc đầy đủ thế. Cứ mỗi toa được kiểm tra xong lại có một lượng hàng hóa xuống tầu, lúc két bia, khi một mớ quần áo, tất cả đều được chất gọn thành một đống dưới sân ga đằng sau dẫy các chú lính đang cầm súng đứng gác. Thỉnh thoàng lại có cây thuốc Marlboro hay thùng táo được đặt thêm lên trên. Trong toa của tôi, khi hi quan khám gần xong hàng của gia đình nhà kia thì tự nhiên có tiếng như chuột kêu ở dưới gầm giường, hải quan lập tức lôi ra được một thùng 5 con chó Nhật bé xíu. Chủ hàng, hai vợ chồng nhà nọ, nhớn nhác nhìn nhau rồi một lúc sau khi anh hải quan đã xuống ga hút thuốc, anh chồng lôi một mớ đến 12 cái váy áo phụ nữ, bánh kẹo thuốc lá một túi lùng tùng kèm theo một con chó con giấu trong túi áo vét xuống theo, lúc sau trở lên mặt mày vui vẻ. Khi khám đền đồ của tôi, chỉ có quần áo nhưng một bác hải quan lại hỏi là tôi có mang táo theo không. Một lúc tôi mới hiểu ra và phì cười vì nghĩ là hỏi gì hỏi quái lạ, ai mang theo táo đi cho nặng người. Lý do vì sao mọi người đọc thêm về sau sẽ biết. Khi đứng ở hành lang toa tầu, tôi thoáng nhìn vào toa bên cạnh của các cán bộ Triều Tiên thấy có một bác mặc quần áo dạ cổ Mao đang ngồi khám túi và đã lục ra một số các giấy tờ kiểu tờ rơi quảng cáo nhà cửa, căn hộ nhiều nhà màu sắc bên Trung Quốc không chỗ nào không có. Lục xong rồi, bác áo dạ đứng dậy cầm cả mớ giấy xé đôi, đút vào túi rồi cắp đít đi luôn. Ngay lập tức một đồng chí cán bộ lục đồ ra lấy mấy bao thuốc hai quả táo, cho vào một túi nylon rồi chạy ngay theo. Đến tận 12h trưa các thủ tục mới xong, tôi đi xuống sân ga tìm nhà vệ sinh. Một chú lính trơn trông mặt khoảng 20 tuổi những người chắc chỉ khoảng 15 vui vẻ chỉ cho tôi vào của một dẫy nhà 3 tầng kiểu Pháp, rất rộng rãi trần cao, kiểu nhà ga thành phố lớn. Đi lên gác hai có một phòng rộng cỡ 100m2 không một bóng người, toilet nằm ở góc cùng phía Tây trông ra quảng trường trước cửa nhà ga. Đưa mọi người vào toilet cùng tôi là để kể tôi đã nhìn thấy gì phía ngoài sân ga. Lúc nhìn qua cửa sổ trông thẳng ra một quảng trường nhỏ kiểu của các thành phố châu Âu là một khoảng sân rộng có nhà cửa bao quanh và có hai đường vào từ hai phía đối diên tôi mới thấy được những hình nh thật của một nước Triều Tiên lam lũ. Trên quảng trường có một đám đông dân chúng đang đứng chờ nhà ga mở cửa để vào lên tầu, quần áo của họ chỉ độc vài mâu nâu và xám tối, phần lớn mọi người đều đi bộ, chỉ có lèo tèo vài chiếc xe đạp đựng xung quanh còn xe máy và ô tô thì không thấy. Trên sân quảng trường đổ bê tông là những hình tròn kẻ bằng vôi rất lớn trong có đánh số, không có vẻ gì là mọi người phải chờ trong những lằn vôi đấy. Phụ nữ và trẻ em nhiều nhưng nhiều nhất là những người mặc quân phục, từng người một vẻ lam lũ vất vả đều hiện rõ trên mặt.
Khoảng 12h40 cổng ga mở cho dân vào, theo sau là một vài chiếc ô tô 12 chỗ của Nhật, vẫn còn nguyên tay lái nghịch đi vào chở theo một số người ăn mặc giản dị nhưng chỉnh tể; các xe đều chở theo hàng hóa. Hàng hóa và người đều nhanh gọn được đưa lên tầu. Dân chúng thì vẫn ùa vào rất đông, rất vội vàng, nhưng không ai được đi vào gần hai toa tàu quốc tế cả, hàng lính đứng cách tàu khoảng 1.5 m làm nhiệm vụ nhắc nhở. Tôi ngạc nhiên khi thấy mọi người Triều Tiên bình thường đều rất thấp, phụ nữ đặc biệt thấp kể cả những người trưởng thành. Đến khoảng 1h chiều tầu bắt đầu đi Bình Nhưỡng.
Tự nhiên trong đầu tôi nảy ra so sánh là nhà ga Triều Tiên, dù là ga nhỏ biên giới cũng đàng hoàng và khang trang hơn ga ở Hà Nội, tầu Triều Tiên, mặc dù chạy chậm hơn tầu Trung quốc, nhưng vẫn nhanh và sạch sẽ hơn tầu Việt nam. Đồng ý là hải quan và biên phòng Triều Tiên cũng tay trong tay ngoài nhưng người dân nói chung có vẻ kỷ cương và tôn trọng luật lệ, cũng dễ hiểu vì luật lệ ở đây được đảm bảo bằng súng đạn. ...
Từ biên giới đi Bình Nhưỡng chỉ khoảng 300km nhưng tầu chạy mất 6 tiếng. Suốt cả quãng đường dài này hai bên cảnh vật chỉ là cánh đồng không trồng cấy gì, thỉnh thoảng mới thấy một vạt cỏ hay rau xanh còn lại toàn một mầu đất bụi nâu. Núi đá có nhiều nhưng đều không có cây cỏ gì mọc, ngoài đồng cũng không có nhiều người làm việc, đi lâu mới nhìn thấy mấy người dân đang đào bới gì đó, hình thức phân công lao động cũng rất lạ, lúc thì có 2,3 người đào còn lại hơn 10 người đứng chơi không hoặc cả 10 người cùng đào trên một khoảnh đất chỉ to hơn manh chiếu. Phần lớn thời gian tầu chạy men theo đường quốc lộ, trên đường chẳng mấy khi có xe cộ gì nhưng thỉnh thoảng có người đi bộ. Có lúc tôi nghĩ là không hiểu mấy người này đi bộ đi đâu vì nhìn xung quanh ra phía xa chẳng thấy làng mạc phố xá gì cả. Sau khi đã nhìn thấy rất nhiều người đi bộ như thế mới hiểu là ở Triều Tiên phương tiện giao thông công cộng chạy bằng xăng không có nhiều, xe đạp thì rất đắt tiền nên mọi người thường đi bộ nếu khỏang cách không đủ dài để đáng nhận vé tầu phân phối. Mỗi khi tầu đến một ga lại có rất nhiều người lên xuống chủ yếu là phụ nữ, trông có vẻ người buôn bán nhỏ. Loại đồ đựng nhiều nhất là túi vải thô đeo sau lưng, hình dáng giống balô lộn ngược ở ta thời trước nhưng quai đeo thô sơ hơn, trong đựng gạo hay một loại ngũ cốc nào đó. Nhìn những đồng chí phụ nữ ăn mặc đồ lính cũ, tuổi cũng trung niên chỉ cao khoảng 1.4m mà đeo balô nặng đến cả 40kg đi nhanh chúi người về phía trước trông rất thương. Mà không chỉ phụ nữ, trẻ con cũng đeo những cái túi lưng thực kiểu này cũng to cũng nặng quá khổ. Cả đám đông trông đều như kiến, mang vác nặng nề trên lưng đến nỗi thân trên gần như vuông góc với thân dưới đi lại vội vàng. Có điều đàn ông không mang vác gì hộ cho phụ nữ. Có nhiều đôi vợ chồng và con trai đi với nhau, chồng mặc quân phục đeo túi sache nhỏ bên sườn, vợ và con thì è cổ ra đeo gạo chạy theo bên cạnh. Trên tàu mấy người đi buôn, là Hoa Kiều ở Bình Nhưỡng, lôi cơm với thức ăn ngon lành ra mời tôi ăn chung. Thấy ăn không hết đồ ăn, gà rán và hai loại cá khác nhau, họ bắt phải ăn cố nếu không họ sẽ phi vứt đi. Rõ ràng ở Triều Tiên, mặc dù mọi người đều nghèo như nhau nhưng đã manh nha sự mất công bằng trong phân phối và thu nhập cho dân chúng.
Khoảng 6h30 tối thì Bình Nhưỡng bất ngờ hiện ra. Bất ngỡ là vì vừa đang đồng không mông quạnh bỗng thành phố xá xe cộ nhà cửa. Tàu vào ga lúc 7h, tôi vác đồ đi ra thấy phải có đến cả chục nghìn người rồng rắn xếp hàng chờ chui ra một cái cửa ga bé tí. Người bạn đi đón tôi dẫn tôi qua một cửa dành cho người nước ngoài chỉ một chút đã chui ra ngoài.
Đường phố ở Bình Nhưỡng rất to, rất rộng và sạch sẽ mỗi tội không có điện đường. Hôm tôi sang đang là ngày kỷ niệm thành lập quân đội nên một vài phố chính có căng đèn kết hoa, kiểu đèn hàng ngàn con đom đóm chăng quanh thân cây. Xe cộ cũng không có nhiều, chủ yếu là tầu điện và xe buýt. Trước đó vài tháng Trung Quốc có tặng cho Triều Tiên hn trăm cái xe buýt hai tầng, kiểu và màu sắc rất đẹp nhưng trông như những con công đi vào giữa bầy gà đen.
Sau khi được nghe dặn dò kỹ lường về những gì được và không được làm: không được tự ý nói chuyện với người Triều Tiên, không được chụp ảnh người địa phương hay những tòa nhà công cộng mà không rõ là nhà gì, tôn trọng không nhìn chằm chằm hay sờ vào huy hiệu lãnh tụ mà ai ai cũng đeo, vv tôi được các bạn đưa đến câu lạc bộ quốc tế của Bình Nhưỡng nơi người nước ngoài có thể đến ăn uống giải trí. Trên gác hai là các phòng hát, quầy bar, và phòng chi bi-a rất lớn. Sàn trải thảm và đồ trang bị thì đều là của Nhật, giá cả thì tính bằng đôla Mỹ, rẻ một cách ngỡ ngẩn, ví dụ một đĩa thịt gà rán US$0.7, một đĩa thịt bò US$0.95. Phòng ăn thì ở dưới tầng một là một phòng hình chũ nhật ở giữa kiểu như sàn nhảy, các bàn ăn đặt trong hõm tường ghế kê hình móng ngựa. Chỉ có chúng tôi và phía đối diện là một số người của sứ quán Nga, chắc vì thế nên nhạc là nhạc Nga. Đồ ăn rất ngon, các đồng chí phục vụ ăn mặc đẹp, chị em không thấy ai phải đeo huy hiệu chắc là vì làm đối ngoại. Nhân lúc ăn tôi có hỏi về thu nhập của mọi người. Các bạn trả lời là bên này nhà nước bao cấp đủ thứ mỗi tội là đồ có ít quá nên chia đều ra cũng chẳng ai được bao nhiêu. Mỗi người được thêm 150 won một tháng. Tôi hỏi thế là bao nhiêu, trả lời là mua được 1.5kg táo ngoài chợ đen. Hóa ra người Triều Tiên quý táo, cái gì cũng quy được ra táo, vì thế hi quan cũng hỏi tôi là có mang táo vào không.
Có ba loại tiền tiêu được ở Bình Nhưỡng, tiền đô la Mỹ kể cả tiền xu, tiền won dân tiêu và won cho người nước ngoài. Người nước ngoài bình thường thì bắt buộc tiêu đô la Mỹ, lưu học sinh nước ngoài thì có thể đổi đôla tiêu tiền won để hàng tuần đến mua hàng ở cửa hàng hữu nghị. Tỷ giá nhà nước quy định là US1/W2 nhưng nếu đổi cho Hoa Kiều thì có thể được đến 1/8. Như thế có nghĩa khi ăn uống cái gì đó giá USD1 mà trả bằng tiền won thì thực chỉ mất có 25cent. Hoa Kiều ở Bình Nhưỡng buôn bán đủ thứ, môi giới chính trị và lập nhà chứa trá hình.
Có khoảng 700 người nước ngoài ở Bình Nhưỡng, tức là ở cả Triều Tiên, 500 người trong 25 đoàn ngoại giao khác còn lại cán bộ các cơ quan phát triển hay viện trợ của LHQ. Ngoại giao thì không biết thế nào nhưng cán bộ LHQ cứ làm việc 6 tuần thì bị bắt nghỉ đi ra khỏi Triều Tiên một tuần do điều kiện làm việc căng thẳng quá. Tất cả các cơ quan nước ngoài đều nằm trong một khu riêng khá đẹp và nhiều cây cối, có cảnh vệ đứng gác ở ngoài cách nhau 30 m lại có một vọng gác. Trong khu này có cả một siêu thị nhỏ cung cấp lương thực và vật dụng gia đình cho người nước ngoài, đồ cũng phong phú.
Cảm giác trong suốt thời gian ở Bình Nhưỡng là mình luôn là đối tượng bị để ý. Đúng là không ai đi theo nhưng nếu cần thì mình đi đâu về đâu giờ nào đều có người biết. Tôi nghĩ hình thức giám sát này không chỉ áp dụng cho người nước ngoài mà còn là hình thức tự giác đáng biểu dương trong dân chúng với nhau, từ chuyện ăn ở ngủ nghê đến chuyện đeo huy hiệu lệch nếu cần đều có thể thành to chuyện. Việc giám sát đối với người nước ngoài không thuộc diện ngoại giao, tức là đa phần cán bộ phát triển và nhân đạo, đã trở thành một vấn đề công khai nên các bác tây càng đau đầu hơn. Thử nghĩ xem nếu làm việc mà biết là từ việc hắt hi sổ mũi đến mở cửa bằng tay trái hay tay phải hay ở trong toilet bao lâu đều được đồng chí thư ký ghi chép lại đầy đủ thì hiệu suất sẽ cao thấp thế nào, tinh thần sẽ bị thử thách ra sao? Tôi đồng ý với quan điểm của các bạn Triều Tiên là ngoài các bạn Việt Nam ra tất cả người nước ngoài còn lại đều là gián điệp sang tìm hiểu tình hình và phá hoại công tác sản xuất lương thực của Triều Tiên. Chính vì bọn gián điệp này mà năm nay quá hai tuần mà vẫn chưa có mưa để có nước cấy vụ hè. Để nâng cao tinh thần cảnh giác và ý chí, hàng tuần trên TV đều có một chương trình gọi là thiên đường và địa ngục. Màn ảnh chia làm hai nửa, một bên là những gia đình Triều Tiên hạnh phúc đi sóng đôi trong công viên, trẻ em cầm hoa đeo khăn đỏ, béo tốt hồng hào, màn ảnh bên kia là hình ảnh sụp đổ ở Đông Âu, hay cảnh người ăn xin vô gia cư ở những đường phố Âu Mỹ. Cháy nhà, bom nổ, động đất, núi lở băng tan, bắn giết là những hình ảnh hay được sử dụng. ....
Bình Nhưỡng có rất nhiều tượng đài và công trình kiến trúc công cộng, có những thứ mang tầm quốc tế như khách sạn hình kim tự tháp cao 105 tầng xây để chuẩn bị cho festival sinh viên thế giới mùa hè 1989 mà đến bây giờ vẫn chỉ mới có cái xác nhà to sừng sững một góc trời. Tượng của chủ tịch Kim Nhật Thành bằng đồng cao đến 60m cứ ba năm lại được quét một lớp vàng nấu chảy. Cung thể thao hình nửa quả bí ngô đặt úp to quá mức cần thiết. Chính phủ hay viết báo nói cho dân biết về những cái nhất của Triều Tiên, rằng sông Đại Đồng chảy qua Bình Nhưỡng là sông sạch nhất thế giới; báo New Yorker của Mỹ cách đây không lâu cũng đăng lại một bài của báo Triều Tiên trong đó chủ tịch Kim Chính Nhật được khen là người có khiếu hài hước xuất sắc nhất của thể kỷ 20 và là mặt trời chói sáng nhất của thiên niên kỷ thứ 3, những khẩu hiệu tương tự thế này ở Bình Nhưỡng chỗ nào cũng có. Người Triều Tiên bao năm nay đã được nghe những thứ này nên nói khác đi là không thể chấp nhận được. Một ví dụ là khi từ Bình Nhưỡng về Bắc Kinh, có ba bác cán bộ mò vào toa tầu tôi ngồi chơi, một bác đòi mở lon bia, bác kia hỏi hộp bánh Thái Lan tôi mua bao nhiêu rồi chỉ xin cái hộp chứ cho bánh không lấy hết. Thấy các bác có vẻ vui vui lại về đến gần Trung Quốc rồi tôi mới bạo dạn chỉ tay vào huy hiệu rồi đưa dấu hai tay nắm nhau (thân thiện, bằng hữu) nói Hồ Chí Minh-Kim Nhật Thành. Nói chưa xong cả ba bác đã đứng dậy lảng đi cả. Thế tức là người Triều Tiên đã được dạy là trong số những người vĩ đại, thì người vĩ đại của họ là vĩ đại nhất. Thật uổng hộp bánh của tôi.
Cách đây vài năm một nhà báo việt nam sang đây về bất bình quá có viết bài gọi người Triều Tiên là rôbôt, gọi chính giới ở đây là độc tài. Tôi nghĩ nhà báo này suy nghĩ có rộng mà không có sâu thật xứng đáng bị cách chức ở báo phụ nữ thành phố HCM. Người Triều Tiên coi chuyện kỷ luật quân đội quan trọng, bởi nếu không có kỷ luật thì đất nước đã bị bọn đế quốc sài lang nuốt từ lâu rồi, nên có thể gọi là trại lính chứ nhà tù và chuồng rôbốt thì thật coi thường nước và dân bạn quá lắm. Tính kỷ luật cao giúp cho người Triều Tiên làm được những việc người thường không làm nổi như người nặng 40kg vác gạo nặng 60kg, hay học để giao tiếp được bằng ngoại ngữ chỉ qua sách vở, hay trong điều kiện bị cấm vận thiếu lưng thực trầm trọng mà vẫn xây dựng được những công trình kiến trúc khổng lồ sánh ngang tầm với người cổ Ai Cập xây kim tự tháp. Cách Bình Nhưỡng khong 20 km có một nơi mà trước đây chủ tịch Kim Chính Nhật khi còn trẻ đến tập quân sự trong vòng vài tháng cũng là nơi có mộ mẹ ông. Trên đỉnh núi cây cối um tùm có một khối đá nguyên khắc hàng nghìn chữ Triều Tiên chắc là lời căn dặn gì đó của tướng quân. Người hướng đãn nói là khối đá này nặng 300 tấn đưa từ nơi khác về, núi cao 500 m nêu không có kỷ luật thì làm sao mà đẩy lên được? Người hướng dẫn cũng kể là khi tướng quân thi bắn đúng vào ngày giỗ mẹ ông, ông quyết định không lên núi viếng mộ mẹ và ở lại bắn với đồng đội. Trong phần thi nằm bắn từ trên núi xuống bia cách xa 300m ông bắn bốn phát thì ba phát trúng hồng tâm lại chui vào đúng một lỗ, còn phát cuối cũng chắc trong lòng ông xúc động nên chệch vào vai bia. Mọi người khen ông thì ông nói như thể chưa thể nào đáng gọi là xạ thủ bách phát bách trúng được, vẫn còn kém lắm. Tôi nghĩ là tướng quân lúc đấy chỉ khiêm tốn để làm gương thôi chứ thực ra ông là người bắn giỏi. Chỉ hơi tiếc là trong điều kiện đất nước khó khăn đạn dược thiếu, nếu chỉ bắn một phát đã tiêu diệt được kẻ thù thì việc gì phải phí thêm ba phát nữa như thế.
Trong thời gian ở Bình Nhưỡng tôi có gặp bác đại diện UNDP đồng thời phụ trách chương trình lương thực thế giới (wfp) ở Triều Tiên, một số các đồng chí mũi lõ tóc vàng nữa làm phân phối lương thực và phát triển. Trong số 24 triệu dân Triều Tiên thì trên giấy tờ có 6 triệu người phụ thuộc vào nguồn lương thực của Wfp. Tổ chức nay kêu gọi các nguồn viện trợ lương thực từ Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ, rồi chuyển bằng tầu biển vào các cảng của Triều Tiên, lương thực thì nhiều đế quốc Nhật Bản và đế quốc Hàn Quốc chỉ dám thuê tàu 10000 tấn chở vào vì sợ ông Triều Tiên ông ấy bắt luôn tầu, nếu tàu to quá thì không có gì mà đền. Triều Tiên thì lên án hai ông kia là cố tình làm chậm quá trình chuyển lương thực vào cho dân đói. Lương thực chuyển đến cảng bốc lên xe tải, wfp trả cả tiền đi lại ăn uống cho lái xe tải và công vận chuyển, còn ông chính phủ chở đi đâu thì không biết, mà đòi kiểm tra thi ông ấy dọa ngay là đòi lại visa. Hàng triệu tấn lương thực hàng năm cứ như thế cứ như thế không biết đâu mà lần, thiên hạ cứ đổ của vào, đến bạn thân là Trung Quốc ngày xưa cũng phải dọa cắt viện trợ vì gạo ngon trung quốc cho thì ông ấy cho quân đội ăn một nửa, một nửa ông ấy bán rồi lấy tiền mua gạo mục trung quốc cho gia súc ăn về để phát cho dân. Mà ông Triều Tiên ông ấy tính cục lắm, ai nói không vừa ý là ông ấy chơi luôn, xin lỗi giải thích sau nên không ai dám nói.
Vậy thì tại sao Triều Tiên thiếu thân thiện thế mà thế giới vẫn cứ phải đỡ ông ấy dậy. Là bởi vì ông ấy có bom nguyên tử, mà tính ông ấy là tử vì đạo bất kể là đạo gì, thế giới mà để cho ông ấy đói là ông ấy dọa nổ một quả. Cách đây hai ba năm khi chậm mang gạo cho ông ấy ăn, ông bắn hai quả tên lửa bay vọt qua Nhật Bản, thiên hạ chả sợ chết khiếp. Trung Quốc chẳng tiếc ngẩn ngơ là tại sao lại đi dạy ông kia làm bom, đúng là đưa kiếm sắc vào chỗ không có phẩm tiết.
Nếu để ý thì sẽ thấy ở đây có một vòng tròn luẩn quẩn. Không cho ông ấy ăn thì ông ấy chủi, cho ông ấy ăn thì có sức ông ấy chủi càng to. Nên là cứ phải nghe ông ấy chửi mà vừa phải bón cho ông ăn. Trước nay thì thiên hạ đứng từ xa cho ăn để khỏi bị nghe chửi điếc tai quá, nay chính sách mới, đi đầu là Sunshine (ánh nắng) của TT Hàn Quốc Kim Đại Trọng, cho rằng ông ấy chửi thế là vì ông ấy thiếu tình yêu thương nên sẽ phải xáp lại gần để giúp ông ý làm việc có ích hơn là suốt ngày ngồi mà chửi. Tôi đồng ý với chính sách này, ở nước ta và Trung Quốc có hai bác chắc cũng đồng ý là các bác Nam Cao và Lỗ Tấn.
Đối với Việt Nam, tôi nghĩ là ông Triều Tiên tuy bé những lúc nào cũng trịch thượng coi mình là nước lớn do có ông anh cả trung quốc đứng bên. Thời chiến cho ông mượn máy bay ông đếch thèm trả, rồi ông tiếp Polpot như thượng khách, chủi bới Việt nam xâm lược Campuchia, khi việt nam lập quan hệ ngoại giao với hàn quốc trong suốt 1.5 năm đại diện của nhà nước không chịu gặp đại sứ việt nam để nhận quốc thư. Mới gần đây chính phủ ta lại quyết định gửi tặng ông mấy nghìn tấn gạo. Chắc chắn là những hình ảnh mất mùa thiên tai của Việt Nam đã từng được gửi lên chương trinh thiên đường địa ngục tôi nói lúc trước...tôi thà là làm quỷ ở nước nam còn hơn làm thiên thần đất bắc (Hàn).
*****************
Triều Tiên không có dấu hiệu thả lỏng của một đất nước đang đến kỳ thay đổi mà ngược lại, sự áp đặt của thể chế có vẻ được củng cố kỹ càng hơn. Mấy năm trước đây nhà nước quyết định đưa vào sử dụng một hệ thống lịch mới tính năm thứ nhất là năm sinh của lãnh tụ Kim Nhật Thành, gọi lịch này là lịch chủ thể. Chủ thể là một biến dạng của chủ nghĩa Marx pha trộn đậm đà với chủ nghĩa dân tộc hẹp hoi của Triều Tiên, phát biểu những câu kiểu như là chính trị đựoc thực thi trên nòng súng. Đáng buồn là người viết ra hệ tư tưởng mới này trước là hiệu trưỏng đại học tổng hợp Kim Nhật Thành, là thầy học của chủ tịch hội đồng quốc phòng tướng quân nguyên soái Kim Chính Nhật đã bỏ nước mà đi thông qua đường đại sứ quán Hàn Quốc ở Bắc Kinh. Năm nay là năm 91 chủ thể, một cách gọi gợi nhớ về một quá khứ của các triều đại phong kiến, ngoài ra chủ tịch Kim Nhật Thành, dù đã chết, trên giấy tờ và văn bản vẫn được coi là chủ tịch muôn đời của Triều Tiên. Sau khi ông mất một năm, Triều Tiên vẫn gửi quốc thư cho đại sứ cầm đi ký tên ông, đến khi các nước phản đối họ mới chịu thôi.
Cách thức này gợi ý về một xu hướng phát triển ở Triều Tiên từ một chính thể cách mạng dân chủ giải phóng nhân dân chuyển sang một triều đại phong kiến với mục đích cuối cùng là biến chủ thể thành một tôn giáo với sự sùng bái vô điều kiện cho các bậc tối cao tinh thần. Nhà nước ở Triều Tiên không có được sự quan tâm thật sự đến hoàn cảnh đáng buồn của người dân như nhà nước ở Việt Nam và Trung Quốc, nên mặc dù nhận ra những sai lầm trong quản lý kinh tế và phương châm đối ngoại vẫn không đi những bước đi cải cách mở cửa và thân thiện với bạn bè quốc tế như ở ta hay ở Trung Quốc.
Thế giới đối với Triều Tiên là một thế giới lưỡng cực, Triều Tiên là chủ thể và cả thế giới đều là thù, với mức độ thù địch khác nhau. Nếu không có biến động gì đáng kể, chỉ 50 năm nữa Triều Tiên sẽ biến thành một dạng sơ khai của một tôn giáo cực đoan ví như đạo Hồi hay Do Thái giáo các dòng chính thống. Hệ thống tăng lữ sẽ ăn trên ngồi trốc và dân thì ngày càng bần cùng. Trong khi phát triển ở Trung Quốc và Việt Nam cải thiện mức sống của người dân ở các vùng nghèo, Triều Tiên đang phát triển theo bước thụt lùi mà mỗi năm thụt lùi sẽ là 10 năm cố gắng sau này. Phát triển ở Triều Tiên, bất kể là có hay không có những giao lưu với miền Nam, bắt buộc phải là một tiến trình tự giác bắt đầu từ bên trong. Chỉ có người Triều Tiên mới giúp được người Triều Tiên mà thôi.
Tôi lên tầu ở Bình Nhưỡng khoảng 9h sáng ngày 30-4 đúng ngày giải phóng miền Nam, rất mừng là có đến 7-8 người ra ga tiễn. Bẩy tiếng sau khi tầu lên cầu lần này vượt sông áp Lục về lại Trung Quốc tôi cảm thấy như những ám ảnh và sức ép dồn nén trong đầu suốt cả tuần qua đến lúc này được thả ra hết cả. Hình nh đầu tiên nhìn thấy trên sân ga Trung Quốc làm tôi thấy ấm khắp người là hai cán bộ đường sắt Trung Quốc chắc tình iêu với nhau, đang ngồi trên một cái áo mưa ở góc khuất sân ga, anh chàng áo đồng phục để phanh ngực mặt mày hớn hở. Không thấy đâu có súng ống, thép gai, phụ nữ khốn khổ oằn mình dưới sức nặng của bao gạo mục , cờ hoa khẩu hiệu ảnh chú Kim cũng chẳng thấy có, tôi xuống sân ga đứng máy như lăm lăm muốn chụp gì thì chụp, bên cạnh có hai biên phòng Trung Quốc, cô gái đang gọi đùa cậu trai là đồ con lợn. Tôi nhìn lại sang bên phía xa chỉ chưa đầy hai km, cùng chung một khoảng trời, cùng hít thở một bầu không khí nhưng là nơi đau khổ, chịu đựng, và tù túng. Các đồng chí Triều Tiên ơi, hãy còn xa lắm mới đến được thiên đàng, càng xa hơn nếu các đồng chí đi lùi....
Như tôi đã nói ở trên, chuyến đi Bắc Triều Tiên làm cho tôi nhớ lại và hiểu thêm nhiều điều về cuộc sống ở Việt Nam thời trước mở cửa mà trước đây do còn trẻ con tôi chỉ biết chấp nhận như một thực tế cuộc sống. Nhiều năm đã qua, nhờ có đọc và học, tôi đã may mắn có được những công cụ và kỹ năng phân tích để bây giờ không chỉ chấp nhận thực tế mà còn có thể đặt câu hỏi; trong một số trường hợp cụ thể nếu may mắn còn có thể có được câu trả lời.
Đặt câu hỏi, dù có trả lời được hay không, cũng là một hoạt động có ích của con người. Nói không ngoa thì mọi tiến bộ trong cuộc sống loài người đều là kết quả của việc một ai đó đă đặt ra một câu hỏi về một hiện tượng quan sát thấy. Với mong muốn cải thiện điều kiện sống là động cơ chủ đạo, đặt câu hỏi và tìm câu trả lời là những bước đầu tiên một cá nhân, một tập thể, một quốc gia hay cả thế giới phải làm để có một bản đồ dẫn tới những cái mới hơn và tốt hơn.
Để nhận được những câu trả lời có ích trước hết phải biết cần phải hỏi những câu hỏi nào, điều này này phụ thuộc vào việc có đủ thông tin về đối tượng mình quan tâm hay không. Với cách nhìn này, triết học chẳng qua cũng chỉ là môn lý thuyết về phát triển chung của loài người khi mà ba câu hỏi trọng tâm của nó là: a) Chúng ta từ đâu đến; b) Chúng ta làm gì ở đây; và c) Chúng ta sẽ đi đâu tiếp từ đây. Câu hỏi thứ nhất nhằm tìm kiếm thông tin về quá khứ, về khả năng và tiềm năng; câu hỏi thứ nhì để có thông tin về ý nghĩa cuộc sống xem cái gì đối với chúng ta là quan trọng; trả lời được tốt hai câu hỏi trên, việc trả lời được câu hỏi cuối cùng về tương lai dù khó cũng chỉ là vấn đề thời gian.
Kỳ I: Khát vọng thống nhất trên vùng DMZ (VietNamNet) - Hình ảnh quen thuộc trên bất kỳ vùng phi quân sự nào ở bất kỳ đâu chỉ là hàng rào dây thép gai, bãi mìn và sự xuất hiện dày đặc của binh sĩ hai phía.
Tuy nhiên, ở vùng DMZ cách Thủ đô Seoul của Hàn Quốc khoảng hơn một giờ xe, vẫn nằm dọc theo vĩ tuyến 38 đó, vẫn còn hàng rào dây thép gai, vẫn sự hiện diện của binh sĩ, nhưng giờ đây đã dày đặc những dấu hiệu thể hiện khát vọng thống nhất.
Chiếc cầu sắt bắc qua sông chạy dọc DMZ mang tên cây cầu tự do. Nơi đây, 12.773 người bị giam giữ được trở về nhà trong ngày đầu thực hiện chương trình trao đổi tù nhân sau thoả thuận đình chiến cuộc chiến Nam - Bắc Triều Tiên năm 1953. Dù cho chiếc cầu cũ kỹ, đơn giản này không mang giá trị kiến trúc, nhưng nó tải nặng giá trị lịch sử. Chiếc cầu tự do bị chặn ngang bởi chằng chịt hàng rào dây thép gai. Sau khi hoàn thành chương trình trao đổi tù nhân. Chiếc cầu trên đã bị chặn lại. Trên chiếc cầu đó, người dân Hàn Quốc treo lên những khát vọng của mình, được thống nhất, được thông cầu và đặc biệt được gặp lại người thân ở bên kia hàng rào. Cách cây cầu Tự do không xa là một bức tường hoà bình, trên đó gắn những viên đá được thu thập từ những trận địa trên khắp thế giới, những nơi từng chứng kiến sự mất mát, đau khổ của chiến tranh. Trên bức tường đó, Lim Chang - Yuel, Tỉnh trưởng tỉnh Kyonggi, đề lại ước nguyện rằng: ’’Tôi ước rằng, quy tụ lại những hòn đá từ 86 trận địa trên khắp 64 quốc gia sẽ tạo nên một tảng đá lót đường cho tiến trình hoà giải Triều Tiên và đánh dấu bước khởi đầu cho một thế kỷ hoà bình, hoà hợp cho nhân loại’’.
Ngay bãi gửi xe để vào khu vực đường hầm số 3, mọi người rất dễ bị lôi cuốn bởi một tác phẩm mang tên ’’Thống nhất trái đất’’.
’’Tác phẩm này thể hiện niềm hy vọng của mọi người về hoà bình và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên... Hai nửa quả cầu bị chia cắt thể hiện những tàn dư của chiến tranh lạnh - một bán đảo Triều Tiên bị chia cắt. Những tượng người xung quanh đang cố gắng cùng nhau thống nhất lại bán đảo này’’, đó là đề tựa trên biển giới thiệu về tác phẩm.
Hầu hết các du khách tới khu vực này đều chung tay ’’lắp lại’’ địa cầu với mong muốn góp sức giúp thống nhất hai miền Nam - Bắc Triều Tiên. Ngay trong vùng DMZ này, giờ đây mọi người dễ cuốn hút bởi một công trình hiện đại. Có lẽ, nếu như ở đô thị lớn, nó cũng chẳng có gì đặc biệt so với vô số các công trình khác. Tuy nhiên, đây là DMZ và công trình đó - nhà ga Dorasan - phải mất nửa thế kỷ đàm phán, hai miền Nam - Bắc Triều mới thống nhất thông tuyến đường sắt liên Triều. Và, nhà ga đó ra đời. Từ nhà ga này, một chuyến tàu đặc biệt đã vượt sông Imjin vào ngày 12/2/2002 sang đất CHDCND Triều Tiên sau 52 năm ngừng hoạt động.
Đặc biệt, nhà ga Dorasan đã thu hút được sự chú ý của cộng đồng quốc tế khi Tổng thống Bush và cựu Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung tới thăm vào ngày 20/02/2002.
Phát biểu trong chuyến thăm, ông Bush phát biểu: ’’Cầu mong tuyến đường sắt này đoàn tụ các gia đình Triều Tiên’’.
Trước đó, vào ngày 18/09/2000, tại lễ khởi công tuyến đường sắt này, Tổng thống Hàn Quốc lúc đó, Kim Dae Jung, đã nhấn mạnh: ’’Một kỷ nguyên hoà bình, thịnh vượng trên bán đảo Triều Tiên’’.
Rất nhiều người đã tài trợ cho công trình ga Dorasan với hy vọng thống nhất bán đảo Triều Tiên. Vào ngày 17/05/2007, tuyến đường sắt Gyeongui hoàn thành. Nhiều nhân vật nổi tiếng, các chính trị gia và thậm chí người lái chuyến tàu cuối cùng vượt biên giới hai nước năm 1951 cũng có mặt trên hai đoàn tàu, một xuất phát từ CHDCND Triều Tiên và một từ Hàn Quốc. Mỗi tàu sẽ thực hiện hành trình khoảng 25km, đi qua biên giới cuối cùng thời Chiến tranh lạnh.
’’Chính phủ Hàn Quốc cũng như người dân nước này luôn mong mỏi những dấu hiệu nhân nhượng lẫn nhau’’, Brian Myers, phó giáo sư chuyên về quan hệ quốc tế tại trường đại học Dongseo cho hay.
Vào ngày trọng đại đó, cả người Hàn Quốc lẫn người CHDCND Triều Tiên cùng nhau đi trên hai chuyến tàu chở khách, mỗi tàu chở 150 người, chạy trên đoạn đường sắt do Hàn Quốc xây dựng.
Và, nhà ga Dorasan chính là nơi chuyển tiếp hành khách, hàng hoá giữa CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nga. Giờ đây dù vẫn là biểu tượng của sự chia cắt nhưng nhà ga này sẽ là ’’cổng’’ trao đổi giữa miền Bắc và miền Nam Triều Tiên.
Edward Ahn (22 tuổi), một người Mỹ gốc Hàn cho biết: ’’Nhà ga Dorasan là biểu tượng tương lai của Nam - Bắc Triều Tiên. Hy vọng, tuyến đường sẽ nối liền hai đất nước thành một dải’’.
Bí Ẩn Triều Tiên
Bị cuốn hút bởi nàng Kim Huyn Hee trong hồi ký " Giọt lệ trong hồn", tôi đã ảo tưởng về một chuyến đi đến Triều tiên mà không thể nghĩ đó lại là sự thật . Nhưng mọi chuyện lại dễ dàng và quyết định đến với đất nước bí ẩn này rất nhanh chóng , visa không mất một đồng , chỉ với lời dặn của anh chàng lãnh sự tại Hà nội Pak Chang Ghi “ Không được mang máy ảnh có tele đến 150 , không mang theo laptop và điện thoại di động , không được ở lại quá số ngày quy định ( 9 ngày ) “.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 4, 2011 7:19:47 GMT 9
Bac HanNhưng để đến với xứ sở Kim Chi tôi phải qua Bắc Kinh , visa vào Trung Quốc được thương mại hóa theo từng hạng mục . Ra vào một tháng một lần 30$ , một tháng hai lần 45$ , sáu tháng nhiều lần 60$, một năm nhiều lần 90$...làm trong 2,3 ngày trả thêm 20$ , làm nhanh trong ngày trả thêm 30$ …đấy là chưa kể một đội ngũ cò ngồi ngoài cửa ĐSQ , dịch vụ 5$ thì không phải xếp hàng… Visa của tôi không được chấp nhận loại sáu tháng nhiều lần , tôi đành phải làm qua dịch vụ mất thêm 10$ . Cuối cùng tiền vẫn giải quyết được tất cả mọi khó khăn và hành trình đến với Triều Tiên bắt đầu . Khi nhìn thấy số hiệu tàu Triều tiên trong nhà ga Bắc Kinh Tây. Đoàn chúng tôi 5 người mỗi người một tâm trạng nhưng bất cứ ai cũng đang háo hức và nóng lòng được tận mục sở thị phần còn lại của thế giới. Mất 6 tiếng cho việc kiểm tra hành lý và thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi bị hỏi đi hỏi lại về việc đến Triều Tiên để làm gì, hành lý bị lục tung để kiểm tra, điện thoại của tôi bị niêm phong. Hải quan Triều tiên kiểm tra rất chặt chẽ, nhưng họ cũng không được update về máy móc hiện đại, bởi thế ngay cả lúc vào và ra khỏi Triều Tiên, họ đã bỏ xót nhiều thứ như thẻ máy ảnh, HDD box và laptop mà chúng tôi đã mang vào ... Triều Tiên không đẹp, chả có cảnh vật nào đặc sắc,nông thôn Triều Tiên không có cánh đồng bát ngát xanh ngắt một màu xanh tuyệt vời như Việt Nam . Bốn bề xung quanh chỉ một màu cỏ úa, màu cũ nát , màu của xã hội bao cấp. Thi thoảng trông xa xa là những bức tranh tường vẽ hình bác Kim Nhật Thành , có bức thì vẽ bác đang chơi với trẻ em…nhưng phổ biến nhất vẫn là hình ảnh bác Kim nhân hậu với cái miệng cười tươi lộ nguyên cả hàm răng trắng bóc. Nhà ở nông thôn được nhà nước xây dựng cho dân ( tôi đoán thế ) vì các ngôi nhà đang được xây mới giống nhau y hệt , họ xây thành một cụm khoảng chục ngôi nhà gần sát nhau . Có rất nhiều những khu tập thể kiểu Kim Liên khoảng 5 tầng đều cũ nát như chẳng có người ở , chắc đã được xây dựng từ thời Liên Bang Xô Viết . Ngược hắn với Trung Quốc về dân số, có rất ít người ở ngoài đường, ở ngoài ruộng có vài người, trên đường có vài người , khi đi qua một đô thị nhỏ cũng chỉ thấy rất ít, có vài người di chuyển bằng xe đạp, lác đác ô tô , xe bus thì rất cũ và xấu… Bình Nhưỡng - thủ đô của Triều Tiên, xây dựng hoàn toàn theo lối xã hội chủ nghĩa nhưng hoàn hảo và quy mô đúng bài bản , tôi nói thế vì họ không có những công trình theo kiểu như của nước ta thời bao cấp . Hà nội có những công trình đẹp ngẩn ngơ như Rạp Công nhân trên phố Tràng Tiền , đã bị phá bỏ để xây theo kiểu mới thời đó, mặt tiền gắn hoa bê tông, sau này được sửa chữa lại nhưng vẫn không thể chấp nhận được. Những con đường trong thành phố rất to, rộng 10 làn xe chạy, vỉa hè rộng đến 6 mét , các công trình hầu hết là nhà ở cao tầng( số tầng trung bình khoảng từ 10 đến 30 tầng ). Tôi nhớ Hà nội cách đây 5 hay 6 năm gì đó, khi Tổng HUT cho xây dựng công trình nhà chung cư 9 tầng đầu tiên tại HN ( khu Linh Đàm ) đó là sự cố gắng vượt bậc cho nền công nghệ xây dựng Việt Nam, mà sau này là nền tảng cho các công trình cao trên 10 tầng. Triều Tiên có số lượng tượng đài rất lớn, đâu đâu cũng thấy đài kỷ niệm các vị anh hùng đã hy sinh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, chống Nhật. Tượng Đài bác Kim Nhật Thành lừng lững , một tay dơ cao chào đón, miệng cười tươi, những tượng đài nhỏ nhỏ theo kiểu lá cờ với biểu tượng công – nông – trí thì nhan nhản khắp thành phố và cả ngoại ô. Nhà tưởng niệm và lưu giữ những vật kỷ niệm của bác Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật được xây dựng khiêm tốn theo lối kiến trúc cổ Triều Tiên nằm ép bên sườn núi , nhìn bên ngoài nhỏ nhắn xinh xắn nhưng bên trong mới thật sự rất rất sa hoa và hoành tráng . Ở đây người ta trưng bày tất cả những món quà kỷ niệm của rất nhiều quốc gia đã tặng hai cha con ngài Kim. Từ những thứ rất lớn như ô tô hay cả một đoàn tàu đến những vật dụng nhỏ nhất như nhẫn, điện thoại di động, đồng hồ, mỹ phẩm…hai ngài đều không dùng mà trưng bày hết ở đây. Đó là hình ảnh chứng tỏ hai ngài có cuộc sống thanh tao, liêm khiết và giản dị . Là điều mà bất cứ người dân Triều Tiên nào cũng kính yêu và họ rất tự hào về vị lãnh tụ của mình. Nhưng đó là những con người với những khuôn mặt khắc khổ , hốc hác và gân cốt . Họ chỉ có một kiểu trang phục, màu quần áo thì có hai màu là màu xanh bộ đội và màu xanh đen thẫm . Phụ nữ lớn tuổi chỉ có một kiểu tóc , thiếu nữ cũng chỉ một kiểu tóc . tôi thấy có ba loại trang phục : Áo truyền thống Hanbok, áo vest juyp văn phòng và quần áo của người lao động. Tất cả họ đều rất thấp , giống Việt Nam mình cách đây 20 năm, thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, thiếu thông tin, nên ai cũng thấp bé lùn và khuôn mặt thì ngờ nghệch. Nhưng tất cả những điều đó không làm chúng tôi ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên nhất đó là sự suy nghĩ và tư duy của người dân Triều Tiên . Khi chúng tôi chụp ảnh họ, họ lẳng lặng báo với cấp quản lý, cấp quản lý báo lại với tourguider của chúng tôi và lát sau nhân viên an ninh đi cùng chúng tôi yêu cầu cho xem ảnh và bắt phải xóa ngay lập tức.Lúc này tôi mới nhớ đến câu chuyện của nàng Huyn Hee, trích đoạn : ...Ngay từ những ngày tháng đẹp đẽ đó, chúng tôi đã bị nhồi sọ bởi những lời dạy của Kim Nhật Thành. Những câu đầu tiên mà chúng tôi học thuộc lòng là: “Chúng em biết ơn Kim Nhật Thành, Lãnh tụ Vĩ đại của chúng em”. Chúng tôi học căm thù mỗi khi nghe từ Nước Mỹ, ngay những trẻ nhỏ xíu cũng căm thù Mỹ sôi sục. Ở Bắc Triều Tiên, nước Mỹ được nhắc đến như “kẻ thù truyền kiếp, không đội trời chung”. Trong thời gian ở Cuba, cha tôi hay nói đến “cuộc tấn công đe dọa của đế quốc Mỹ”. Một lần, trên bờ biển (biển là một từ màu nhiệm đối với tôi, nó gợi nhớ những cồn cát vô tận và nước biếc) cha tôi chỉ vào một mảnh đất rất xa xôi nào đó ở đường chân trời mà tôi không thấy mấy. - Đằng kia là Mỹ đấy, Hyun Hee ạ, đó là nơi tồi tệ nhất trên thế gian này. .... Trở về Bình Nhưỡng, tôi được đăng ký vào Trường Phổ thông Cơ sở Hashin. Về thực chất, tại đây tôi mới bắt đầu được giáo dục về ý thức hệ. Các môn học chỉ chiếm non nửa thời gian của chúng tôi. Phần còn lại của ngày, chúng tôi học hỏi sự nghiệp của Lãnh tụ Vĩ đại Kim Nhật Thành. Chúng tôi học thuộc lòng bài hát “Ngu xuẩn”, kể về chiến thắng của Kim Nhật Thành trước quân Nhật bao nhiêu năm về trước. Người giáng cho lũ Nhật một đòn chí mạng khiến chúng chỉ còn biết ôm đầu chạy về nước, không kịp mang theo tử thi những kẻ bỏ mạng. Ngoài những giờ học đầy tính tư tưởng, mọi học sinh đều phải tham gia nhiều hoạt động và những hoạt động này được tăng cường tới mức thường thường chúng tôi chỉ về đến nhà sau mười giờ tối. Mùa đông năm thứ ba, người ta chọn mười đứa trong số chúng tôi để ca hát trong một buổi lễ thanh niên và họ nói đích thân Kim Nhật Thành cũng sẽ tới dự. Chúng tôi học hát trong hai tháng trời, bài hát có cái tựa đề “Chúng em yêu bộ đồng phục mà Lãnh tụ Vĩ đại đã trao cho”. Trong thời kỳ ấy, sau những buổi tập dượt tôi luôn phải chờ chuyến xe buýt đêm khuya, đôi khi tôi phải chờ đợi nhiều giờ đồng hồ khiến rốt cục chân tôi lạnh cóng. Tuy vậy, trong thời gian thử thách này, mặc dù nhớ nhà nhưng không bao giờ tôi phàn nàn vì tôi biết được hát cho Lãnh tụ nghe là một vinh dự lớn lao biết mấy! Những lời kể của Huyn Hee hoàn toàn là sự thật, khi chúng tôi ở đó , rất nhiều những tấm biểu ngữ, tranh cổ động với những hình ảnh đánh thắng đế quốc Mỹ giống Việt nam mình ngày xưa . Trẻ em múa hát những bài hát mang âm hưởng hùng hồn, chắc chắn đó là những lời ca ngợi bác Kim và cách mạng , hoàn toàn không có những giai điệu theo kiểu " Một con vịt xòe ra hai cái cánh..." ... Chúng tôi được tham dự lễ hội Arirang của người Triều tiên , hoành tráng và công phu cực kỳ. Hầu hết trẻ em, thanh thiếu niên ,sinh viên ...được huy động để tham gia biểu diễn lễ hội. Các bài múa, hát mô phỏng hình ảnh đất nước từ sơ khai đến khi có chiến tranh và bị chia cắt...Màn biểu diễn xếp hình của các bạn nhỏ cũng rất ấn tượng . Đối với mỗi đứa trẻ Triều tiên, được tham gia biểu diễn là một vinh dự rất lớn lao. Giá vé hạng bét : 50Euro/ng 80 Euro/ng/ngày x 6 ngày là giá mà chúng tôi phải trả cho công ty du lịch Triều Tiên. Chúng tôi được đón ngay tại nhà ga Bình Nhưỡng . Mỗi đoàn như chúng tôi dù 1 người hay nhiều người cũng luôn có 3 người phục vụ , một tourguider, một nhân viên an ninh và một lái xe. Họ đưa chúng tôi đến khách sạn một nghìn phòng 5* Yanggakdo International . Trong 6 ngày tại Triều Tiên , chúng tôi được đưa đến các điểm tham quan nổi tiếng như lăng Kim Nhật Thành, nhà tưởng niệm hai cha con ngài Kim và các thể loại tượng đài mà tôi chả nhớ nổi cái nào với cái nào, chúng tôi được đi xem các em bé thiếu nhi biểu diễn ở Cung thiếu nhi, vào nhà trẻ, viện bảo tàng chiến tranh, nhà trưng bày...Cũng được rời Bình Nhưỡng đi thăm làng truyền thống Traditional Keasong, cách thành phố DMZ khoảng 20 phút đi xe. Đi tắm suối nước nóng và đến DMZ nơi giáp ranh với Nam Hàn... Sáu ngày tại Triều Tiên buồn như trấu cắn, sau khi ăn tối, chúng tôi về khách sạn và chẳng được đi đâu cả , không được ra khỏi khách sạn, không có điện thoại liên lạc về nhà, nhớ nhà và bạn bè da diết. Thế là tối nào cũng vậy , hai chị em lại mua bia Triều tiên về phòng, mở toang cửa sổ , ngắm Bình Nhưỡng trong đêm từ tầng 38 nhâm nhi nhậu nhẹt Sáu ngày mà dài như sáu tháng, tò mò và háo hức là vậy mà cuối cùng tôi vẫn mong đến ngày trở về. Có những cảm giác mơn man buồn vì sau nỗi thỏa mãn thị giác trong lòng tôi lại chẳng thấy vui vì chẳng được chia sẻ với người mình yêu mến. Tôi đã được đặt chân đến Triều tiên , tôi đã thấy cuộc sống của họ là như thế, có bao người mong muốn được đi như tôi...nhưng để làm gì chứ khi mà tôi vẫn thấy buồn, khi niềm vui không được chia sẻ và điều đã mất không thể tìm lại được...
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2012 3:55:09 GMT 9
Tuyệt đẹp vũ điệu múa quạt Buchaechum*Buchae: Quat *Chum [ danh tu]= man mua, vũ ( dancing) , dong tu: Chu (to dance-verb) + m ( danh dong tu) Khi điệu nhảy bắt đầu, chỉ có một vũ công duy nhất chuyển động và hé lộ gương mặt. Điệu múa quạt Buchaechum truyền thống Hàn Quốc được coi là một trong những vũ điệu uyển chuyển, quyến rũ nhất trong những điệu múa ở Châu Á. Nguồn gốc của Buchaechum là sự kết hợp giữa tình yêu thiên nhiên và sự phát triển văn hóa, bắt nguồn từ triều đình Nhật Bản dưới thời Cho-Sen. Điệu nhảy là một sự mô phỏng hình ảnh, màu sắc và sự rung động của cỏ cây, hoa lá và những làn sóng nước, thể hiện qua những chiếc quạt hồng đào. Tất cả các vũ công Buchaechum đều mặc trang phục truyền thống giống nhau. Loại trang phục chính tên là dangui, gồm một chiếc váy dài và một áo choàng với tay áo dài. Áo có hình phượng hoàng được đính hạt lấp lánh trước và sau lưng. Các vũ công cầm một chiếc quạt lớn với màu hồng là chính, hình ảnh tươi sáng thường là hình hoa nở để phụ trợ cho những chuyển động của họ. Một số vũ công sẽ đeo băng đội đầu, tượng trưng cho vương miện, gọi là jokduri. Ở phần đầu của vũ điệu, tất cả các vũ công đều đứng yên và che quạt trước mặt. Chỉ có một vũ công duy nhất để lộ khuôn mặt và chuyển động quạt duyên dáng quanh khuôn mặt và cơ thể cô. Sau đó, 20 vũ công còn lại sẽ lần lượt đứng dậy, chuyển động quanh sân khấu với chiếc quạt trên tay chẳng khác gì một đàn bướm lượn quanh hoa, rung rinh trước gió. Các vũ điệu Buchaechum thường mô phỏng những cành hoa nở hay những đợt sóng nước uốn lượn, vì vậy mọi chuyển động đều chính xác và trôi chảy Điệu Buchaechum thường được biểu diễn trong những dịp quan trọng của quốc gia và ngày nay đã trở thành điệu nhảy “đại sứ” của Hàn Quốc khi giao lưu với bạn bè quốc tế. Hiền Trang
|
|