|
Kinh tế
Jan 30, 2010 16:30:35 GMT 9
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 16:30:35 GMT 9
Đổi tiềnDuy Anh Trên lý thuyết, việc đổi tiền cộng với sự loại bỏ một loạt con số không đàng sau một đồng tiền đã mất giá quá nhiều không phải là một chuyện xấu. Trong lịch sử đã từng xảy ra rất nhiều các cuộc đổi tiền, tiến hành bởi những chính phủ khác nhau trên thế giới. Có những trường hợp bắt buộc phải làm, chẳng hạn như sau Thế Chiến Thứ Hai, đồng Reich Mark của Đức Quốc Xã được đổi thành đồng Deutsche Mark của Cộng Hòa Liên Bang Đức. Hay sự thành lập của đồng Euro trong mục đích thống nhất hệ thống tiền tệ Âu Châu. Nếu tiến hành một cách hợp lý và đúng đắn, đúng thời điểm, công việc đổi tiền là một trong những bước cần thiết trong một chương trình cải tổ tiền tệ (currency reform) để mang lại một sự ổn định cho sinh hoạt kinh tế của một quốc gia hay của cả một vùng kinh tế chung. Những lý do cần đổi tiền 1. Sự tiêu hủy của một chính thể tiếp theo một cuộc chiến hay một biến cố chính trị. Đây là một sự hiển nhiên như sau cuộc chiến Việt Nam với sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, đồng tiền VNCH không còn lý do gì để tồn tại nữa. Cũng có nhiều trường hợp khi một chính phủ bị sụp đổ vì lý do chính trị (đảo chánh, bầu cử tự do…) những đồng tiền có mang hình ảnh người thủ lãnh cũ sẽ bị thay thế sau một thời gian nhất định vì không còn phù hợp nữa. 2. Cải tổ tiền tệ nhằm chấm dứt tình trạng lạm phát phi mã. Lạm phát phi mã thường xảy ra khi một chính phủ không kiểm soát nổi tình trạng lạm phát trong nước vì đã ban hành những chính sách về tiền tệ không thích hợp. Nước Đức sau Thế Chiến Thứ Nhất cũng đã từng trải qua một giai đoạn siêu lạm phát vào năm 1923 và sau đó, công việc đổi tiền 1 tỷ đồng Mark cũ ăn một đồng Mark mới đã mang lại niềm tin của dân Đức đối với đồng tiền của quốc gia mình. Gần đây nhất, những cuộc đổi tiền của Thổ Nhĩ Kỳ (NPR, 2009) và Ghana đã có một số thành công nhất định vì một trong những lý do lớn nhất của lạm phát phi mã là tâm lý hoảng loạn của người dân. Tháng 5, 2005, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã quyết định đổi 1 triệu đồng Lira cũ thành 1 đồng Lira mới (bỏ đi 6 con số không). Tháng 12, 2006 ngân hàng Ghana cũng quyết định đổi 10 ngàn đồng Cedi cũ thàng 1 đồng Cedi mới. (Wanted in Africa, 2006). 3. Loại bỏ những hậu quả của lạm phát trước đó. Có những trường hợp sau khi kinh tế đã ổn định trở lại, một chính phủ có thể quyết định đổi tiền nhằm loại bỏ những tồn đọng của thời kỳ lạm phát vừa qua. Chẳng hạn những chi phí dịch vụ hay chi phí trao đổi có thể vẫn nằm ở mức cao mặc dù lạm phát đã ổn định khiến sinh hoạt kinh tế bị gặp trở ngại. Hiện tượng này gọi là sự “kết dính” của giá cả (sticky prices) mà biện pháp tốt nhất là tháo bỏ những con số không của một đồng tiền để tái lập một trật tự mới. Nước Pháp năm 1960 cũng đã từng đổi 100 đồng Franc cũ ăn 1 đồng Franc mới (Nouveau Franc). Sau một thời gian sử dụng, chữ Nouveau bị loại bỏ và người sử dụng trở lại chữ Franc để nói về tiền của nước Pháp. 4. Những yếu tố chính trị đòi hỏi sự thành lập của một đồng tiền mới. Đổi tiền của những nhà nước độc tài nhằm tước đoạt tài sản của người dân thì chẳng khác gì... Nguồn: euro.com -------------------------------------------------------------------------------- Một số trường hợp vì lý do chính trị cũng đòi hỏi phải có đổi tiền như trong những trường hợp thống nhất hay chia cắt đất nước sau những biến cố chính trị. Sự sáp nhập Đông Đức vào Tây Đức năm 1990 hay Miền Nam Việt Nam vào Miền Bắc Việt Nam sau 1975 bắt buộc sự thành lập của những đồng tiền mới. Sự tách rời của Tiệp Khắc năm 1993 hay của các quốc gia cũ trong Liên Bang Sô Viết cũng đưa đến những công cuộc cải tổ tiền tệ mà việc đổi tiền là một chuyện bắt buộc. 5. Những yếu tố khác đưa đến đổi tiền. Ngoài những lý do kể trên, còn một số lý do khác về kinh tế hay về thực dụng có thể dẫn đến việc đổi tiền của một quốc gia hay một vùng kinh tế. Sự thành lập của đồng Euro là một ví dụ hay nhất vì lý do kinh tế và thực dụng. Đồng Euro là một cải tổ quan trọng trong chính sách tiền tệ của khối Âu Châu Thống Nhất, đưa đến sự giảm thiểu các chi phí trao đổi (transaction costs) giữa các quốc gia Âu Châu với nhau. Từ khi có đồng Euro, các quốc gia Âu Châu không còn phải hoán chuyển ngoại tệ với nhau và làm giảm đi đáng kể các chi phí hối đoái. Các tổ chức tài chánh với qui mô toàn cầu như IMF, World Bank vẫn thường khuyên các quốc gia có những đồng tiền bị phá giá quá lớn (như Việt Nam, Zimbabwe…) nên tiến hành đổi tiền và loại bớt những con số không vô nghĩa một khi đã ổn định được tình hình kinh tế của quốc gia mình. Một sự đồng nhất tương đối giữa các đồng ngoại tệ với nhau phần nào giúp cho sự trao đổi thương mãi toàn cầu được tiện lợi hơn. Ảnh hưởng của việc đổi tiền đối với khối lượng tiền tệ trong một quốc gia Mỗi quốc gia phát hành một lượng tiền nhất định, đủ cho những sinh hoạt trao đổi của quốc gia đó. Theo thể chế phân đoạn dự trữ được sử dụng trong hệ thống ngân hàng ngày nay, lượng tiền ban đầu này được nhân ra theo hệ số gọi là “money multiplier” tùy theo tỉ lệ các ngân hàng phải ký quỹ với ngân hàng trung ương để trở thành một tổng thể lượng tiền lớn hơn nhiều lần gọi là “money supply” của một quốc gia tức là khối lượng tiền hiện sẵn có để sử dụng của một quốc gia trong một thời điểm nào đó. Có nhiều cách định nghĩa money supply và cách thông thường nhất là chia thành các Ms. Sau đây là một cách phân loại lưu lượng tiền một cách đơn giản nhất: -M0: gồm tiền keng và tiền giấy đang lưu hành cũng như cất giữ trong ngân khố của các ngân hàng. -M1: gồm M0 + các tài khoản vãng lai (checking accounts) trong các ngân hàng. -M2: gồm M1 + các tài khoản tiết kiệm (saving accounts) trong các ngân hàng + các tài khoản ký quỹ có thời hạn (time deposits) dưới $100,000 và money market deposit của tư nhân. Nói chung M2 là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá lạm phát cũng như hiệu quả của các chính sách tiền tệ vì bao gồm những khối lượng tiền được trao đổi thường xuyên trong một nền kinh tế. -M3: gồm M2 + những tài khoản tiết kiệm lớn và tài khoản money market của những cơ sở tài chánh lớn. Trên lý thuyết, những tài khỏan này không biến động nhiều nên hiện nay không được sử dụng rộng rãi như M2. Như vậy, trên nguyên tắc, loại bỏ một loạt những con số không trên một đồng tiền chỉ là một qui ước không làm ảnh hưởng gì đến tỉ lệ các Ms. Trên phạm vi hối đoái, việc thay đổi mệnh giá đồng tiền cũng được thay đổi theo tỉ lệ nên cũng không có tác động gì. Thông thường, việc đổi tiền với sự loại bỏ những con số không vô nghĩa được xem như là một sự cố gắng của chính phủ nhằm ổn định ngân sách nhà nước (cắt giảm chi phí để cân bằng ngân sách) và thường được tiến hành khi kinh tế đã có phần khả quan hơn. Cách tiến hành đổi tiền hợp lý Công tác đổi tiền là một biến cố lớn cho sinh hoạt xã hội cho nên cách tiến hành cần một số thủ tục cần thiết nhằm mang lại những hiệu quả tốt nhất và tránh những xáo trộn không cần thiết. 1. Chọn thời điểm thích hợp Ngoại trừ trường hợp khẩn cấp để chận đứng hiện tượng siêu lạm phát vì lý do tâm lý, công tác đổi tiền thường nên tiến hành trong những thời kỳ tương đối ổn định của nền kinh tế. Ví dụ khi tình trạng lạm phát đã tạm lắng và kinh tế đã có những bước hồi phục nhất định. Ngoài ra, sự hứa hẹn của một nguồn thu nhập mới cho ngân sách nhà nước như trúng mùa, xuất cảng gia tăng, phát hiện thêm nguồn tài nguyên mới cũng là những yếu tố tốt để tiến hành đổi tiền. Kinh nghiệm đổi tiền của nước Đức năm 1926 dựa vào một vụ trúng mùa lúa mạch đã góp phần vào sự thành công của công tác đổi tiền vào năm đó. 2.Công tác sửa soạn về tâm lý Mục tiêu chính của công việc đổi tiền phải là từ ý muốn của chính phủ mang lại một sự ổn định về sinh hoạt xã hội cho người dân, do đó công tác chuẩn bị tâm lý phải được tổ chức một cách chu đáo và được sự chấp nhận của mọi tầng lớp trong xã hội. Một trong những yếu tố quan trọng nhất là người dân phải hiểu được là tài sản của họ hoàn toàn được pháp luật bảo vệ và việc đổi tiền chỉ làm cho cuộc sống của họ tốt đẹp hơn. Những âm mưu của nhà nước độc tài nhằm tước đoạt tài sản của người dân luôn luôn sẽ để lại những hậu quả hết sức tại hại về sau. 3.Sự trong sáng trong công tác đổi tiền Mọi động tác của chính phủ cần được thông báo từ trước, tránh những vụ đổi tiền bất ngờ rất dễ gây tâm lý hoang mang. Một công cuộc đổi tiền hợp lý không bao giờ ấn định số lượng tiền được đổi, tức có bao nhiêu được đổi bấy nhiêu và ngoài ra rất cần một thời gian chuyển đổi trong đó cả hai đồng tiền mới và cũ được sử dụng song song. Thời hạn hợp lý là 6 tháng, đủ để ngân hàng trung ương thu lại hết và chấm dứt việc sử dụng đồng tiền cũ. Những tài khoản ngân hàng được tự động chuyển đổi theo thời giá mới và được thông báo đầy đủ cho các thân chủ. Thay lời kết Những ngày gần đây, tin tức về vụ đổi tiền tại Bắc Triều Tiên đang là đề tài sôi nổi và chứng minh cho một sự thất bại của công tác đổi tiền nếu không phù hợp với những định luật tự nhiên của kinh tế. Các nhà phân tích cho rằng mục tiêu của nhà nước nhằm triệt tiêu thành phần kinh tế tư nhân đang có khuynh hướng phát triển và có khả năng làm suy giảm quyền lực của nhà nước độc tài. Hành động hạn chế mức đổi chỉ còn tương đương với $40 USD đã phát sinh sự bất bình của người dân và bạo loạn đã xảy ra. Một số người đốt tiền tại Hamhung và biểu tình phản đối chính phủ. Hai người buôn tiền bị bắn chết tại Pyongsong khi phân pháp những số tiền lớn cho người khác nhờ đổi dùm. Tại Chongjin, những túi tiền won cũ mang hình ảnh lãnh tụ Kim Il Sung bị mang thả trôi song. Tất cả những sự kiện này chắc chắn sẽ để lại hậu quả vô cùng tai hại cho kinh tế của xứ này (The Wall Street Journal, 2009). Trường hợp Việt Nam, ba vụ đổi tiền sau 1975 đã được tiến hành trong những hoàn cảnh bất công và không trong sáng đối với xã hội miền Nam Việt Nam cũng đã để lại hậu quả vô cùng tai hại cho đất nước hàng chục năm sau. Sự chống đối ngấm ngầm của người dân miền Nam, nhất là những thành phần có liên quan với chế độ cũ, cộng thêm những chính sách kinh tế sai lầm của nhà nước đã làm cho công cuộc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh bị ngăn trở nghiêm trọng. Tài liệu tham khảo: (1) Economy-point.org (2009). Currency reform. Truy cập ngày 8/12/2009 (2) Encyclopedia.com (2009). Money Supply. Truy cập ngày 8/12/2009 (3) NPR (2009). Turkey to Drop Currency Zeros to Battle Inflation. Truy cập ngày 8/12/2009 (4) The Wall Street Journal (2009). North Koreans Protest Currency Issue. Truy cập ngày 8/12/2009 (5) The Wall Street Journal (2009). North Koreans Protest Currency Issue. Truy cập ngày 8/12/2009 (6) Wanted in Africa (2006). Economy: Currency reform in the making. Truy cập ngày 8/12/2009 (7) Wikipedia (2009). Money Supply. Truy cập ngày 8/12/2009
|
|
|
Kinh tế
Jan 30, 2010 16:52:14 GMT 9
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 16:52:14 GMT 9
Thái Lan -Trung Quốc: khó khăn trong tự do mậu dịchPiyaporn Wongruang - Ngũ Phương lược dịch Xâm nhập một thị trường 1.3 tỉ người là một đề nghị hấp dẫn cho bất kỳ chính phủ hay công ty nào. Đó là lý do chính khiến sáu năm về trước chính phủ Thái Lan đã thử mọi cách để đẩy nhanh một thỏa thuận thương mại với Trung Quốc. Bất chấp những những lời chỉ trích mạnh mẽ về việc giao thương này, chính phủ Thái lúc đó dưới sự lãnh đạo của Phó Thủ tướng Thaksin Shinawatra đã vội vàng ký một hiệp ước có tính lịch sử, Hiệp định Mậu dịch Tự do (FTA - Free Trade Agreement) với Trung Quốc. Hiệp định này nằm trong khuôn khổ lớn hơn của thỏa thuận Khu vực Mậu dịch Tự do Asean - Trung Quốc (Asean-China Free Trade Area) sẽ chính thức có hiệu lực vào năm tới (2010). Hiệp định Thương mại Tự do Trung-Thái gồm 8 loại nông sản, nhưng từ khi được ký kết tháng Sáu 2003, Thái Lan đã thường xuyên gặp phải những trở ngại với Trung Quốc. Những khó khăn xảy ra trong nhiều lãnh vực khác nhau, từ hậu cần và vận chuyển đến việc áp đặt rào cản phi thuế quan của Trung Quốc, kết quả là có sự mất cân đối ngày càng gia tăng trong khối lượng thương mại giữa hai nước. Sau những cuộc đàm phán đa phương (dưới sự dưới sự hướng dẫn của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO) đã thất bại tại Cancun (Mexico), ông cựu phó thủ tướng cho rằng Thái Lan cần có những mối quan hệ thương mại song phương. Trung Quốc là nước quan trọng thứ hai sau Bahrain. Trong FTA với Trung Quốc, hai nước đồng ý về một “chương trình thu hoạch sớm” - qua đó cho phép 116 nông phẩm gồm trái cây và rau cải được giảm thuế nhập khẩu tới 0 phần trăm. Điều này bắt đầu có hiệu lực từ tháng Mười, 2003. Theo nghiên cứu của Văn phòng Kinh tế Nông nghiệp, tháng Ba trước đó, Thái đã đạt được khoảng 11.6 tỉ bạt (Baht) khi trao đổi 116 nông sản này với Trung Quốc, chỉ riêng trái cây và rau quả đã chiếm đến 7 tỷ baht. Tình hình hứa hẹn một thặng dư thương mại lành mạnh, nên chính phủ và các công ty tư nhân hơn bao giờ hết muốn gia tăng việc buôn bán với Hoa Lục. Tuy nhiên sau đó, cả chính phủ lẫn các công ty Thái mới nhận ra rằng hiệp định FTA không được sử dụng tới mức độ đầy đủ của nó do sự hạn chế về cơ sở hạ tầng giao thông từ Thái Lan qua Trung Quốc và vì Hoa Lục áp đặt thêm những rào cản khác trên các mặt hàng phi thuế quan của Thái. Theo ông Sunchai Puranachaikere, chủ tịch Hiệp hội Thương mại và Xuất cảng Thực phẩm tươi, Thái Lan thường chuyển trái cây và rau bằng đường hàng không đến Hồng Kông, từ đó chở đến các chợ tại Hoa Lục thông qua Quảng Châu, cách Hồng Kông 120km về phía Tây Bắc. Hành làng Kinh tế Đông Tây (Đường số 9) chạy từ Cảng Đà Nẵng qua Lào, Thailand, đến Cảng Mawlamyine tại Myanmar Nguồn: blogspot.com -------------------------------------------------------------------------------- Chỉ những năm gần đây Thái mới có thể xử dụng đường bộ để vào Trung Quốc. Trong đó có Đường số 9, cắt qua vùng Đông Bắc Thái, Lào và Việt Nam trước khi đến tỉnh Quảng Tây-Trung Quốc, và Đường số 3, một lối đi tắt qua Lào và tỉnh Vân Nam vẫn còn đang được xây dựng. “Ít đường giao thông nghĩa là ít khả năng buôn bán”, ông Sunchai nói. Hơn nữa Trung Quốc vẫn còn áp thuế VAT (Value Added Tax - thuế trị giá gia tăng) đến 13% trên các hàng nhập cảng, một vấn đề vẫn chưa được giải quyết dù Hiệp định đã được ký kết. Chưa giải quyết xong khó khăn trong việc vận chuyển, những doanh nhân như ông Sunchai lại gặp thêm những rào cản mới trên hàng hóa phi thuế quan, nổi cộm nhất là những quy định nghiêm ngặt hơn về vệ sinh của chính quyền Hoa Lục. FTA Trung-Thái được ký kết năm 2004 hứa hẹn lợi ích chung cho cả hai nước. Thế nhưng Trung Quốc cứ đặt ra những đòi hỏi mới trong việc kiểm tra và chứng nhận nông sản của Thái. Và do đó can có thêm những những thỏa thuận mới trong việc trao đổi hàng hóa giữa hai nước. Kết quả là, nông dân và thương nhân Thái cần có giấy chứng nhận của Sở Nông nghiệp và Bộ Thương mại Thái Lan mới chứng minh được nguồn gốc hàng hóa và bảo đảm lô hàng đó không nhiễm độc hay bị bệnh. Nếu không đáp ứng các điều kiện nay, Trung Quốc sẽ giam hàng, hay rút giấy phép, thậm chí đóng cửa biên giới, điều do’ đã xảy ra vào năm ngoái trên Đường số 9. Theo những viên chức Thái trực tiếp giải quyết vụ việc, các quan chức Hoa Lục bảo rằng họ tim` thấy rắn, tê tê và và những động vật độc hại khác trong một chuyến hàng đã được chấp thuận. Mãi đến tháng Sáu năm nay (2009) hai nước mới giải quyết được vấn đề này và ký kết một thỏa thuận quy định hàng hoá Thái phải được đóng kín hoàn toàn trong khi quá cảnh trên Đường số 9. Đó là chưa kể đến những quy định đã có trước đó về kiểm định và chứng nhận. Ông Sunchai cho biết các biến chứng liên tục của FTA một phần là kết quả của sự thiếu tham khảo ý kiến công chúng trước khi ký kết hiệp định. Ông nói rằng cần đưa những ý kiến đóng góp của người dân vào những thỏa ước thương mại trong tương lai để có thể bảo đảm cả hai bên sẽ được đối xử bình đẳng. Ông nói hiện nay thương nhân Hoa Lục được hưởng toàn bộ lợi ích từ giá thuế 0% khi xuất nông phẩm qua ngả sông Mekong. Những viên chức Thái cần phải cương quyết hơn trong việc thương lượng trong tương lai việc xử dụng Đường số 3, hoặc chờ Trung Quốc tạo những điều kiện tương tự như đã được áp dụng cho việc xuất cảng trên Đường số 9. “Chúng ta hiện nay đã ở vào thế bất lợi. Câu hỏi cần đặt ra là liệu chúng ta có thể ngăn chặn được sự buôn bán và bắt đầu đàm phán hay không. Đây là một vấn đề về quản lý cần được giải quyết.” ông Sunchai nói. Ông Sompong Nimchuar, Bộ trưởng Bộ Tư vấn (Nông nghiệp) của Văn phòng Nông thương thuộc tòa Đại sứ Hoàng gia Thái lan tại Bắc Kinh nói rằng những trở ngại trong tự do thương mại FTA bao gồm những hành rào về hàng phi thuế quan là việc thường gặp. “Điều quan trọng nhất là cách các quốc gia phải đối xử với nhau giựa trên các tiêu chuẩn quốc tế. Như thế ảnh hưởng của những rào cản về hàng phi thuế quan sẽ được giảm thiểu, và các quốc gia có thể cùng hưởng những lợi nhuận tương đương với nhau.” “Khoảng cuối năm nay Thái lan sẽ tổ chức cuộc họp lần thứ ba giữa hai nước về vấn đề vệ sinh và phòng chống khuẩn bệnh để cải thiện các điều kiện thương mại.” “Tối thiểu chúng ta có một thông cáo về việc cố gắng giải quyết những vấn đề giao thương. Nhiều vấn đề vẫn có thể xảy ra sau khi một hiệp định được ký kết.” Ông Sompong nói. Một nghiên cứu của FTA Watch (một tổ chức bất vụ lợi có nhiệm vụ quan sát những hoạt động thương mại tự do) và Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Kinh tế của ban Kinh tế thuộc Đại học Kasetsart, đã xác nhận rằng những rào cản trên các nông sản không thuế của Thái sau hiệp định thương mại là có thực, cho dù hệ thống vận chuyển đã được cải thiện. Cuộc điều nghiên này còn khám phá ra người nông dân Thái thu hoạch chẳng được bao nhiều từ Tự do Thương mại, bởi vì họ vẫn không có được những thông tin cần thiết về thị trường, lại còn phải chịu thêm những chuyện rắc rối khác như các cuộc khám nghiệm và kiểm tra về chất độc và bệnh tật khó khăn hơn lúc trước. Một số nông gia còn bị thiệt hại vì sự nhập cảng hàng Trung Quốc như tỏi. Ông Jacque-chai Chomthongdee, một chuyên viên của FTA Watch, nói rằng tự do thương mại với Trung Quốc sẽ là bài học cho Thái Lan để biết họ cần soạn thảo kế hoạch kỹ lưỡng hơn trước khi tham gia vào các hiệp định thương mại song phương. Theo ông, các yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến sự thành công của hiệp định FTA, trong đó có các hàng rào phi thuế quan. “Thái Lan ngay lúc đầu cần biết rõ tới lúc cuối cùng ai sẽ được và ai sẽ mất trong cuộc làm ăn này. Và Thái Lan chỉ biết được như thế nếu biết chuẩn bị kỹ lưỡng với đầy đủ thông tin,” ông Chomthongdee nói. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và Hợp tác, Thái Lan đã đạt 15,9, 19,5, 16,5, và 11.9 tỉ baht từ nông sản xuất sang Trung Quốc trong những năm 2005 đến 2008, tương ứng, trong khi nông sản nhập từ Trung Quốc có trị giá 4,7, 6,1, 7,1 và 5,1 tỷ baht so với cùng kỳ. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Thái, Theera Wongsamut, gần đây đã chủ trì một triển lãm nông sản Thái tại chợ bán xỉ Xinfadi Agro Bắc Kinh. Đối tác Trung Quốc, Wang Yong, Bộ trưởng Bộ Hành chính tổng hợp của chất lượng giám sát, thanh tra và kiểm dịch, đã yêu cầu ông bộ trưởng Thái xem xét việc hợp tác về thương mại trong tương lai trên Đường số 3, được xem là có khả năng quan trọng hơn Đường số 9 vì ngắn hơn, và vị trí của nó sẽ cho phép nông sản Trung Quốc xuất vào thị trường Thái Lan ồ ạt hơn trước.
|
|
|
Kinh tế
Jan 30, 2010 17:12:37 GMT 9
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 17:12:37 GMT 9
Vàng giảm giá tuần thứ ba liên tiếp Cập nhật lúc 07:48, Thứ Bảy, 30/01/2010 , Giá vàng thế giới trên sàn New York đêm qua tiếp tục giảm phiên thứ ba liên tiếp do đồng USD tăng giá và sự bất ổn xuất phát từ đề xuất hạn chế ngân hàng đầu tư vào các kênh rủi ro. Với phiên giảm giá đêm qua, vàng đã chứng kiến tuần giảm thứ ba liên tiếp. Vàng giảm giá tuần thứ ba liên tiếp. (Ảnh: LAD) Giá vàng giao tháng 4 đóng cửa phiên giao dịch 29/1 trên sàn COMEX của NYMEX giảm 1 USD xuống 1.083,8 USD/ounce. Khoảng dao động trong phiên là từ 1.075-1.091,4 USD/ounce. Vàng giảm giá chủ yếu là do áp lực tăng giá khá mạnh của đồng USD. Đêm qua, đồng bạc xanh này đã tăng phiên thứ tư liên tiếp so với đồng Euro. Theo một số chuyên gia, USD có thể còn tiếp tục lên giá trong 2-3 tháng qua và đây rõ ràng là một tín hiệu xấu cho vàng. Bên cạnh đó, các loại hàng hoá, trong đó có vàng, cũng đang chịu áp lực giảm giá sau khi Tổng thống Mỹ Obama đề xuất hạn chế các ngân hàng mua bán các loại tài sản rủi ro như chứng khoán và một số hàng hoá. Trước đó, theo nhận định của tỷ phú George Soros, vàng đã rơi vào tình trạng bong bóng quá mức và giá có thể rớt mạnh. Mặt hàng có quan hệ mật thiết với vàng là dầu cũng giảm mạnh. Đêm qua, dầu giảm thêm 0,75 USD (-1,02%) xuống 72,89 USD/thùng. Hà Linh (Theo Bloomberg, Reuters) ************************************** Is It Too Late To Invest in Gold? If you have been paying attention to financial news lately, you’ll have noticed that the price of gold has been rising. In fact, gold has tripled in value over the last seven years, outperforming the S&P 500 for this same period of time. But can it continue? According to many experts, the answer is a resounding – yes! Many analysts argue that the global economy is in the midst of a long-term cycle of rising commodity prices that started in 2001. In inflationary times as well as times of uncertainty, the price of gold tends to rise. In addition, over the past few years, the world's central banks have been flooding the market with liquidity. Historically, this has lead to devaluation in currency and a relative rise in the value of gold, as it’s one of the only "currencies" they can't just print. Many of these same analysts think global conditions today could lead to another gold boom similar to what we experienced in the 1970s. Today, government central banks, led by China and India, are again net purchasers of gold*. According to an internal client report from Citibank in November 2008, signs from China indicate their central bank may be intending to boost its gold reserves from 600 tons to as much as 4,000 tons to diversify away from paper currencies and that could help push the price of gold above $2000 an ounce in 2011** If you want to invest in gold, how to go about it One of the easiest and most popular ways to buy gold is to invest in bullion coins whose value is usually closely tied to the daily published price of gold on the world market. Another popular method is to buy historic or mint gold coins that, due to their collectable nature, have a value greater than their pure precious metal content. Both strategies are valid for investment, with the latter providing additional features and benefits. If you are interested in learning more about diversifying your portfolio, or starting or completing a coin collection, one of the best places to turn is Goldline International. With an A+ rating from the Better Business Bureau, this 50 year old company has demonstrated its commitment to reliability and trust in the market. Goldline realized early on that customer service was a critical element for people interested in acquiring gold. Today they sell over 500 million dollars per year of rare and collectible numismatic coins and gold, silver, and platinum coins and bars to collectors and investors. Perhaps one reason for their success is that they have developed some very special customer service programs for their clients. They offer secure delivery or can arrange third party storage of your precious metals. They also have a wide variety of payment options as well as a price guarantee program on select coins and a satisfaction guarantee that gives first-time buyers in most coin transactions a full seven-day money-back guarantee (limits and different refund periods may apply). Goldline can even assist you in adding precious metals to your IRA. While nobody can predict the exact movement of gold, and, like any investment, investing in gold does have risks, many experts agree that gold should be considered as part of a diversified portfolio. Goldline recommends no more than 5-20% of your investment dollars should be in precious metals. And Goldline is the company that thousands of satisfied clients choose to acquire gold with confidence. Suu Tam******************* Vàng không còn quý như xưa... NEW YORK (CNNMoney.com) - Gần đây, vàng có vẻ bớt sáng hơn một chút. Giữa lúc những lo sợ về nợ nần, lạm phát, và bất ổn chính trị giảm bớt trong mấy tuần lễ vừa qua, vàng đã thụt lùi đằng sau các chứng khoán và trái phiếu. Vàng của ngân hàng Thụy Sĩ. (Hình minh họa: Sebastian Derungs/AFP/Getty Images) Loại kim khí quý này đã giảm giá hơn 6% so với hồi đầu năm và hiện đang được mua bán ở một nhịp độ thấp trong ba tháng nay. Ðiều đó trái ngược với việc mua bán kỷ lục mà vàng đã trải qua trong nửa sau của năm 2010. Lý do đằng sau sự gia tăng trong năm ngoái rất giản dị. Vàng được nhiều người coi như một cách đầu tư an toàn, có thể được dùng như một hàng rào chống lại các áp lực lạm phát, bất ổn chính trị và sự bất trắc kinh tế nói chung. Với những lo sợ đó đang giảm bớt, các nhà phân tích nói ít có lý do để họ giữ vàng vào lúc này. “Trong mấy tuần lễ vừa qua, bạn đã nhìn thấy các thị trường chứng khoán gia tăng tới những mức cao trong nhiều năm và môi trường chính trị có vẻ hơi khá hơn cả ở trong nước lẫn ngoài nước,” theo lời ông Carlos Sanchez, nhà phân tích về các kim khí quý làm việc cho CPM Group. Không phải là những vấn nạn nợ nần của Âu Châu đã được giải quyết, cũng không phải nền kinh tế Hoa Kỳ đã hoàn toàn thoát khỏi nguy khốn, lý do chỉ là các nhà đầu tư đang khởi sự đủ tin tưởng vào sự hồi phục để thấy các tài sản khác - như các chứng khoán hoặc trái phiếu, trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng nếu sự hồi phục của Hoa Kỳ thực sự bắt đầu và các ngân hàng khởi sự tăng lãi suất, các nhà phân tích nói có thể giá vàng sẽ giảm thêm từ 5% đến 10% trước khi trở lại bất cứ sự tăng giá đáng kể nào. “Hiện ngày càng nhiều người đồng ý rằng nền kinh tế Hoa Kỳ đang trở lại thế đứng vững vàng và Quỹ Dự Trữ Liên Banhg (Fed) có thể bắt đầu kềm chế chính sách tiền tệ cực kỳ dễ dãi hiện nay,” theo lời ông Daniel Brebner, nhà phân tích về kim khí quý cho Deutsche Bank. “Nếu điều này quả thật đúng - khi đó vàng không còn cần thiết như một phần nằm trong vốn liếng.” Các nhà phân tích cũng nêu lên biện pháp mới đây của Trung Quốc nhằm thắt chặt các tiêu chuẩn cho vay như một dấu hiệu xấu đối với vàng. Thật lạ, một điều gần đây ít gây ảnh hưởng tới vàng là sự kiện đồng đô la Mỹ yếu đi. Vàng thường di chuyển ngược chiều với đồng đô la, nhưng kể từ đầu năm, hai thứ này đã di chuyển cùng chiều. Ông Brebner nghĩ vàng sẽ kết thúc năm 2011 với giá $1,600 một ounce và có thể lên tới $2,000 vào năm 2012. Theo một cuộc thăm dò mới đây của CNNMoney, một số các chiến lược gia thị trường đồng ý rằng vàng sẽ tăng giá trở lại, nhưng với một nhịp độ chừng mực hơn. (n.n.)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 26, 2010 8:29:52 GMT 9
Shawn W Crispin, Asia Times Hoàng Quân chuyển ngữ
Việt Nam có trở thành quân cờ domino 10.02.2010
BANGKOK – Trong khi thị trường thế giới đang lo lắng về những món nợ tiền của châu Âu, liệu Việt Nam có trở thành quân cờ domino kinh tế sẽ sụp đổ do chi tiêu kích thích kinh tế quá trớn đầu tiên của châu Á hay không? Với đồng tiền đồng bất ổn, nạn cho vay tín dụng lỏng lẽo và ồ ạt của ngân hàng, cùng với sự bất tín nhiệm vào khả năng điều hành kinh tế của chính phủ, Việt Nam nổi lên như là một ứng cử viên chính trong vùng cho việc bất ngờ tái định giá thị trường do tác động tài chánh gây ra bởi việc chi tiêu tài khóa ào ạt nhưng thường xuyên phân bổ không hợp lý mới đây.
Đằng sau việc bơm một lượng tiền khổng lồ vào thị trường để kích thích kinh tế của chính phủ, năm ngoái Việt Nam đã vượt xa nhiều quốc gia trong vùng với 5.5% GDP tăng trưởng. Để ngăn chặn ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, chính phủ đã hứa chi nhiều gói kích thích kinh tế với tổng trị giá lên đến 8% của GDP. Mặc dù chưa tới một nửa số đó đã thực sự được giải ngân, việc chi tiêu theo ngân sách và việc cho vay ngoài ngân sách của ngân hàng nhà nước đã giúp đẩy nền kinh tế vượt qua được cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Trước những dấu hiệu hồi phục trên toàn cầu, chính phủ do đảng Cộng Sản lãnh đạo đã phát đi tín hiệu sẽ ghìm lại những gói kích thích và sẽ đưa kinh tế trở lại phát triền bằng định hướng xuất khẩu. Nhưng do thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa những cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nên đã làm xói mòn thêm niềm tin của dân chúng vào khả năng kiểm soát lạm phát của chính phủ trong tương lai và đã làm yếu đi đến một mức đáng kể những nổ lực của trung ương muốn kìm hãm những áp lực đối với đồng nội tệ và thị trường bất động sản đang trở nên quá nóng.
Tình trạng đoạn giao giữa mệnh lệnh của trung ương với phản ứng bất tuân của địa phương đã hiện rõ lên từ năm ngoái khi những ngành công nghiệp xuất khẩu đã từ chối đổi ra tiền mặt số tiền đô mà họ thu về từ hoạt động xuất khẩu theo tỉ giá hối đoái chính thức qui định giữa tiền đồng đối với tiền đô la Mỹ. Vào tháng Mười, khoảng cách sai biệt giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen là 9%, hiện trạng này đã buộc chính phủ vào tháng Mười Một phải phá giá 5% đồng tiền đồng bằng cách nới rộng biên độ giao dịch cho phép của nó. Mặc dù với mức phá giá như thế, những nhà phân tích tài chánh theo dõi sát tình hình cho rằng vẫn còn 5% chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen.
Một yếu tố làm nảy sinh ra tình trạng méo mó này chính là do chính sách hỗ trợ lãi xuất của chính phủ, mà đã được triển khai từ năm ngoái như là một phần trong gói kích thích nhằm thúc đẩy hơn nữa việc cho vay ở trong nước. Chính sách này đã làm giảm một cách hiệu quả lãi xuất cho vay từ 10% xuống còn 6.5%, và đã thúc đẩy một đợt cho vay mới có trị giá rất lớn lên tới khoảng 24 tỷ USD, hoặc bằng khoảng 23% của GDP. Theo Standard & Poor’s, một cơ quan tính toán định mức tín dụng, mức tăng trưởng tín dụng cho vay của Việt Nam tăng 37% so với năm trước.
Những nhà phân tích tài chính nói rằng vì lý do hầu như không có nhu cầu sử dụng vốn lưu chuyển giữa những doanh nghiệp nhà nước và những công ty xuất khẩu tư nhân mà đã nhận được những khoản tín dụng mới với giá trị rất lớn, nên phần lớn nguồn tiền đã được xoay vòng ở thị trường chứng khoán trong nước. Nguồn thanh khoản tiền mặt quá lỏng lẽo không được kiểm soát đã giúp thị trường chứng khoán của Việt Nam trở thành một trong những thị trường hoạt động sôi nổi nhất trên thế giới suốt nửa đầu năm 2009; nhưng rồi đã tuột dốc thảm hại trong nửa năm về sau.
Những nhà phân tích tiền tệ và tài chánh không biết rõ là đã có bao nhiêu trong số 24 tỷ USD từ đợt cho vay năm ngoái đã bị thua lỗ vào trò may rủi trên thị trường chứng khoán. Kim Eng Tan, một nhà phân tích tài chánh và tiền tệ của Standard & Poor’s, ban đầu đã bày tỏ quan ngại của mình về tốc độ tăng 37% của các khoản nợ vay hồi năm ngoái. Ông Tan nói rằng bản cân bằng kế toán của những ngân hàng chính của Việt Nam ở “tình trạng tương đối hợp lý” tại thời điểm cuối năm 2008, nhưng nói thêm rằng “chúng ta cần theo dõi xem những gì đã thay đổi kể từ sau đợt sóng cho vay mới.”
Từ quan điểm của chính phủ, đợt cho vay tiền dễ dãi đó là nhằm để ngăn ngừa trước một đợt thất nghiệp tăng cao vào ngay thời điểm những công nghiệp xuất khẩu có sử dụng số lượng đông nhân công đang phải đối mặt với tình trạng gần như sụp đổ trong nền mậu dịch toàn cầu. Giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản không muốn để tái diễn tình trạng bất ổn xã hội như đã xảy ra vào năm 2008, khi mà nạn lạm phát tăng lên đỉnh điểm vượt hơn mức 25% và tình trạng công nhân gây bất ổn xã hội xảy ra tràn lan trong những xí nghiệp do địa phương cũng như ngoại quốc làm chủ trên khắp cả nước.
Nạn lạm phát phi mã cũng góp phần vào hiện trạng khiếm hụt thanh khoản đang nổi bong bóng do những công ty hùa nhau tích trữ một lượng lớn hàng hóa nhập khẩu để hưởng lợi do dự đoán giá cả và nhu cầu ngày càng tăng cao. Việc mất quyền kiểm soát kinh tế được cho là đã làm suy yếu vị thế của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người có khuynh hướng cải cách tự do mà một số nhà phân tích đánh giá là đã tránh được khỏi cơn lạm phát lớn cực độ của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và sự sụp đổ giá cả hàng hóa tiêu dùng liên đới. Một số nhà phân tích tin tưởng rằng cánh bảo thủ trong đảng sẽ dành lại ưu thế trong kì đại hội Đảng lần thứ 11 sẽ nhóm họp vào tháng Một năm 2011.
Giáo sư Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt Nam thuộc Học Viện Quốc Phòng Úc, đã chỉ ra trong những báo cáo rằng cánh bảo thủ trong đảng trong một phiên họp ban chấp hành trung ương năm 2008 đã đòi Nguyễn Tấn Dũng từ chức vì bị cho là đã điều hành kinh tế sai lầm. Sự chia rẻ trong chính sách chính giữa cánh bảo thủ và cánh tự do trong đảng khiến sẽ ảnh hưởng đến tốc độ cũng như phạm vi hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng của nó đối với sự ổn định trong nước và khả năng kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế, theo lời của giáo sư Thayer.
“Cánh bảo thủ muốn duy trì quyền cai trị độc đảng, bảo đảm ổn định và trật tự và quyền kiểm soát của nhà nước trong những thành phần mấu chốt của nền kinh tế, mà họ bảo là “những con bò sữa” của họ, giáo sư Thayer viết trong một điện thư trao đổi với Asian Times Online. “Rõ ràng là việc cải cách những doanh nghiệp nhà nước đã lâm vào bế tắc, đó là một minh chứng. Những ai [giống như ông Dũng] muốn thúc đẩy gia tăng hội nhập toàn cầu đều muốn thấy những lực lượng thị trường đóng một vai trò lớn hơn.”
Giữa lúc chương trình tự do hóa tài chánh và kinh tế mở rộng của ông Dũng vẫn còn vận hành, có những dấu hiệu cho thấy những thành phần bảo thủ đang ra sức gây ảnh hưởng lên việc điều hành kinh tế. Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam yêu cầu những ngân hàng nhỏ, mà đã góp sức tao ra cuộc lạm phát thông qua đợt cho vay đại trà vào năm 2008, phải tăng gấp ba nguồn vốn căn bản trước cuối năm, nếu không thì sẽ bị cho đóng cửa. Chính phủ cũng đã ra lệnh đóng cửa những sàn trao đổi vàng trên toàn quốc – một qui định hạn chế sẽ có hiệu lực vào tháng ba trong nổ lực nhằm ngăn chặn người dân bán tống đồng tiền đồng để đổi lấy vàng.
Áp Lực và Biến Dạng
Những thử nghiệm mang tính chất kỷ trị mới đang nổi lên với những dấu hiệu của nạn lạm phát, thâm hụt mậu dịch gia tăng và áp lực đè nặng kéo dài lên đồng tiền đồng trong thế mặt đối mặt với với đồng đô Mỹ đang yếu đi trên khắp toàn cầu. Cho dù với đợt phá giá 5% của đồng tiền đồng vào tháng Mười Một năm ngoái và việc tăng lãi xuất căn bản từ 10% lên 12%, những công ty quốc doang và tư nhân vẫn tiếp tục đầu cơ vào đồng tiền đô chứ không phải tiền đồng, chứng tỏ sự mất tin tưởng của người dân vào khả năng hay ý chí muốn kiểm soát lạm phát của Ngân Hàng Nhà Nước.
“Ngân hàng trung ương cần phát đi một tín hiệu khá kiên quyết tới thị trường rằng họ sẽ sẵn sàng bảo vệ biên độ dao động của đồng tiền, có lẽ bằng việc nâng lãi xuất cao hơn nữa,” Sriyan Pietersz, trưởng nhóm nghiên cứu của J P Morgan ở Bangkok. Nếu không làm được như thế, họ phải đối mặt với rủi ro có thể mất đi nguồn vốn FDI [Đầu Tư Trực Tiếp Ngoại Quốc] tiềm năng đang đổ vào vì lý do đồng nội tệ không ổn định.”
Hôm tháng Giêng, Chính phủ đã bán được 1 tỷ Mỹ Kim trái phiếu cho những nhà đầu tư ngoại quốc, nhưng những nhà phân tích lại cho rằng như thế vẫn chưa đủ để làm giảm áp lực đang đè năng lên đồng nội tệ. Trong tháng này, đồng nội tệ chắc sẽ hưởng được một đợt giảm áp lực ngắn nhờ vào việc thanh toán tiền trả vào nhân dịp nghỉ lễ Tết, nhưng nhiều nhà phân tích tin rằng Ngân Hàng Nhà Nước cần nâng lãi xuất lên ít nhất 3% nữa để áp một mức thuế trừng phạt đối với những ai muốn chuyển đổi tiền đồng để lấy tiền đô.
Trong lúc Ngân Hàng Nhà Nước chỉ là nguồn chính thức duy nhất cho việc chuyển đổi ngoại hối trong nước, chính phủ vẫn duy trì những biện pháp kiểm soát về vốn thật gắt gao nhằm để bảo vệ đồng tiền đồng. Theo luật định, những công ty và những xí nghiệp chỉ được phép giữ lại một lượng ngoại tệ vừa đủ để trả nợ và chi trả những thương vụ hiện hành. Tuy vậy, cho đến quí ba năm ngoái, có tới 27% lượng thanh khoản thuộc hệ thống lài chánh nội địa đã được lén đổi qua thành tiền đô Mỹ, theo báo cáo của JP Morgan.
Bất chấp những biện pháp kiểm soát đồng nội tệ đã ban hành, theo ước tính những doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ khoảng 10 tỷ trị giá bằng ngoại tệ mà phần lớn là đồng đô Mỹ. Đáng chú ý, mới đây, họ đã quyết liệt phản đối một thông tư do chính phủ ban hành đặc biệt nhắm vào 10 doanh nghiệp nhà nước lớn, gồm Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, Tập Đoàn Than Khoán Sản Việt Nam, và Tổng Công Ty Hóa Chất Quốc Gia Việt Nam, và yêu cầu những doanh nghiệp này phải chuyển đổi đồng đô họ đang nắm giữ để lấy tiền đồng.
Theo thông tư này, các doanh nghiệp nhà nước đáng ra đã phải nộp vào hơn 3 tỉ đô trong số ngoại hối mà họ đang nắm giữ cho Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam trước cuối năm ngoái; nhưng mãi đến đầu tháng Hai, họ chỉ mới chuyển vào 300 triệu đô, các nhà phân tích theo dõi tình hình cho biết. Việc bất tuân chỉ thị này, cùng những nhà phân tích đó cho biết, đã khiến cho Ngân Hàng Nhà Nước lần khân không muốn bơm thêm thanh khoản cho thị trường nhằm để bảo vệ đồng nội tệ. Theo các thống kê chính thức thì Ngân Hàng Nhà Nước hiện giữ một lượng dự trữ ngoại tệ trị giá khoảng 16 tỉ đô.
Trong khi Việt Nam rõ ràng là rập khuôn theo lề lối chi tiêu tài khóa khác thường của Trung Quốc trong chính sách ứng phó đối với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, Hà Nội so với Bắc Kinh tỏ ra thiếu khả năng kiểm soát từ thượng tầng xuống, điều mà đã cho phép Bắc Kinh có nhiều thẩm quyền kiểm soát hãm đà hơn đối với những chương trình kích thích kinh tế của họ. Như cuộc chiến giằng co về ngoại hối gần đây đã chỉ ra cho thấy, thì các Doanh Nghiệp Nhà Nước lớn của Việt Nam vẫn được điều hành như những lãnh địa riêng của các đảng viên Đảng Cộng Sản đầy quyền lực chính trị với đầy đủ sức mạnh để thẳng thừng bất tuân những chỉ thị của trung ương.
Một số nhà phân tích tin chắc rằng các doanh nghiệp nhà nước của VN vốn bấy lâu nay luôn làm ăn thua lỗ, rốt cuộc lại lại giành được ưu tiên hưởng lợi từ chính sách của nhà nước. Đối với những thành phần khác, thực tế rõ ràng là tình trạng thiếu minh bạch và thiếu trách nhiệm từ phía những doanh nghiệp nhà nước lớn vẫn còn kéo dài, và làm dấy lên những lo ngại đối với một loạt thắc mắc mới không rõ số tiền nhiều tỉ đô la từ các khoản vay của ngân hàng mà họ nhận được từ năm ngoái đã được sử dụng như thế nào. Số tiền cho vay theo thúc đẩy của chính phủ hồi năm ngoái mà đã được điều phối cho chảy vào các hoạt động đầu cơ trên thị trường chứng khoán, giờ đây rõ ràng là đang đẩy giá bất động sản tăng cao, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Điều hiển nhiên hơn là Việt Nam vẫn thiếu sự phối hợp chính sách có hiệu quả xuyên suốt giữa những cơ quan nhà nước và những doanh nghiệp vào thời điểm mà các giới thẩm quyền trong lãnh vực kinh tế cần chứng tỏ cho thị trường thấy một cam kết mới được củng cố nhằm duy trì sự ổn định giá cả và kinh tế vĩ mô. Việc thiếu kiểm soát cũng làm dấy lên những thắc mắc về cách giải quyết chắp vá của ngân hàng trung ương đối với làn sóng lạm phát năm 2008 và năng lực kỹ trị của cơ quan này trong việc ngăn chặn những áp lực mới nổi lên làm gia tăng lạm phát, kể cả trong thị trường bất động sản.
Ông Pietersz thuộc JP Morgan cho biết, các giới chức liên đới đều “rất thông minh và tận tụy”, song vẫn còn “vừa làm vừa học” trong khi điều hành nền kinh tế. Các nhà phân tích khác thì nói rằng không rõ là chính phủ với nội bộ đang chia rẻ có đủ quyết tâm chính trị để thu gọn lại những giải pháp kích thích kinh tế mà đã ban hành từ năm ngoái trước hiện trạng các phe cánh trong đảng đang tranh đua dành dựt quyền lực chính trị chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc vào năm tới.
“Hiển nhiên, chính phủ không thể đóng cửa toàn bộ nền kinh tế … song những dự đoán về lạm phát chắc chắn sẽ xảy ra không thể tránh khỏi theo cách này hay cách khác,” ông Tan thuộc Standard & Poor’s nhận xét. “Nếu như lạm phát xảy ra ở mức cao kéo dài trong một thời gian dài, thì sẽ gây ra mối nguy làm tổn thương trầm trọng”.
Một nhà phân tích làm việc cho một ngân hàng đầu tư châu Âu ước đoán rằng “cái ngày tính sổ” của Việt Nam là “không thể tránh khỏi do tình trạng bất lực của chính phủ trong việc nâng cao nguồn thu nhập của quốc gia” và rằng đất nước này sẽ phải đối mặt nhiều hơn với “những đợt phá giá đồng bạc gây chấn động” cho tới khi nào ngân hàng trung ương được độc lập hơn, thoát ra khỏi tay của những tên ngoáo ộp trong đảng.
Bất chấp những áp lực gần đây lên đồng nội tệ, ông Tan cho hay là Việt Nam chưa bộc lộ những triệu chứng của một “cuộc khủng hoảng tiền tệ cổ điển” bởi vì “mức vay bên ngoài phần lớn vẫn nằm trong tầm kiểm soát” và “FDI vẫn duy trì được ở mức cao”. Không giống như các quốc gia ngập chìm trong nợ nần bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, ông lưu ý, gánh nặng nợ nần của Việt Nam tương đối khiêm tốn bởi vì đa phần nợ của Việt nam thuộc về nhóm có nguy cơ thấp, và thuộc loại nợ ưu đãi dài hạn.
Nhưng khi việc kiểm soát thị trường đối với khu vực tài chánh công gia tăng mạnh ở châu Âu, mức độ rủi ro từng quốc gia riêng rẻ ở châu Á sẽ ngày càng được lượng định bởi quan điểm, nhận thức của các nhà đầu tư về cách thể chính quyền quản lý và chi tiêu ra sao qua các giải pháp chi tiêu tài khóa được thực hiện mạnh mẽ mới đây. Các địa phương ở Việt Nam đã tỏ rõ sự bất tín nhiệm đối với khả năng điều hành kinh tế của chính phủ và lịch sử cho thấy thái độ bén nhạy của ngoại quốc thường lùi chậm lại nhưng rốt cục lại cũng chạy theo những đầu dẫn bản năng hướng tới những thị trường mới nổi nhưng có mức rủi ro cao. Khi những nỗi lo sợ trước căn bệnh truyền nhiễm về chi tiêu tài chính do nhà nước gây ra càng tăng cao ở châu Âu, Việt Nam có vẻ như là ứng viên hàng đầu cho một cuộc khủng hoảng lòng tin tương tự song hành tại châu Á.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:03:50 GMT 9
Kinh tế Việt Nam trước sự trỗi dậy của Trung QuốcTrần Văn Thọ thời đại mới, Số 19 - Tháng 7/2010 Mở đầu: Vấn đề gì cần đặt ra? 1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu 2. Cơ cấu mậu dịch Việt Trung 3. Vài hàm ý về mặt lý luận Thay lời kết: Con đường để Việt Nam thoát khỏi nguy cơ ***************************************** Mở đầu: Vấn đề gì cần đặt ra? Với qui mô dân số và với tốc độ phát triển nhanh kéo dài hàng chục năm, kinh tế Trung Quốc đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới trên nhiều phương diện. Sự tác động đó lớn hay nhỏ, nhất thời hay làm ảnh hưởng sâu sắc đến con đường phát triển của nước khác là tùy theo trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế của nước chịu tác động. Tại Đông Á, Nhật và Hàn Quốc cũng bàn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác động của hiện tượng nầy đến con đường phát triển của nước họ. Nhưng trình độ phát triển của hai nước nầy cao hơn Trung Quốc nhiều, GDP đầu người còn lớn hơn Trung Quốc 9-10 lần (Nhật) hoặc 5-6 lần (Hàn Quốc), về chất lượng thể chế, tiềm năng khoa học, công nghệ của họ còn đi trước Trung Quốc nhiều chục năm. Do đó, Nhật và Hàn Quốc ý thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc để vừa nỗ lực hơn trong việc củng cố lợi thế hiện tại và lợi dụng cơ hội từ thị trường Trung Quốc. Cũng là nước lân cận với Trung Quốc nhưng vị thế của Việt Nam hoàn toàn tương phản. Nhìn từ nhiều mặt, Việt Nam ở trình độ phát triên thấp hơn Trung Quốc. GDP đầu người của Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc, chất lượng giáo dục, trình độ phát triển khoa học, công nghệ cũng đi sau nước nầy. Thêm vào đó, về qui mô, kinh tế Trung Quốc lớn áp đảo, tốc độ phát triển cũng nhanh hơn Việt Nam. Từ nhận định nầy ai cũng thấy thách thức của sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với con đường phát triển của Việt Nam là vô cùng lớn. Việt Nam cần nghiên cứu sâu tác động của sự trỗi dậy của Trung Quốc để có chiến lược, chính sách phát triển thích hợp. Đây là một đề tài lớn. Bài viết nầy chỉ xoay quanh vấn đề phát triển công nghiệp. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp đang và sẽ tác động như thế nào đến con đường công nghiệp hóa của Việt Nam? Dưới đây, sau khi điểm qua các đặc trưng trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc (Tiết 1), bài viết sẽ phân tích quan hệ ngoại thương Việt Trung (Tiết 2) và nhìn từ một số lý thuyết về mậu dịch để rút ra vài hàm ý đối với vấn đề công nghiệp hóa của ta (Tiết 3). Các phân tích nầy sẽ cho thấy, cùng với trào lưu tự do mậu dịch ở Đông Á hiện nay, sự tác động của Trung Quốc đối với kinh tế Việt Nam sẽ rất sâu sắc và có thể tạo ra nguy cơ lâu dài. Cuối cùng, trong phần kết luận, bài viết sẽ đề cập đến một số chiến lược, chính sách để Việt Nam có thể tránh được nguy cơ từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. 1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp Từ đầu thập niên 1980 đến nay, kinh tế Trung Quốc phát triển trung bình gần 10%. Kết quả là hiện nay nước nầy vươn lên vị trí thứ hai thế giới về GDP và mậu dịch và có lượng dự trữ ngoại tệ nhiều nhất thế giới. Từ góc độ quan tâm của bài viết nầy ta thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc có một số đặc điểm sau: thứ nhất, đó là quá trình công nghiệp hóa tiến nhanh trên quy mô lớn. Nhiều ngành trong công nghiệp chế biến, chế tác (manufacturing) phát triển trên dưới 20% mỗi năm như đồ điện gia dụng, xe hơi, máy tính cá nhân và nhiều loại máy móc khác. Trong nhiều mặt hàng thuộc các ngành này, Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% sản lượng thế giới. Vì vậy mà Trung Quốc được xem là công xưởng của thế giới. Thứ hai, phát triển của Trung Quốc ngày càng dựa vào xuất khẩu. Xuất khẩu ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong qúa trình công nghiệp hóa của nước nầy. Tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP chỉ có 7 % vào năm 1980 nhưng đã tăng lên 33% năm 2008. Xuất khẩu của Trung Quốc hiện nay cũng hầu hết là hàng công nghiệp. Vào những năm mới mở cửa, tỉ trọng của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc chưa tới 50% nhưng từ năm 2001 con số đó đã lên trên 90%. Như vậy trong quá trình phát triển, Trung Quốc ngày càng hướng ngoại và chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng hàng công nghiệp. Thứ ba, phát triển của Trung Quốc còn có đặc tính là dựa nhiều vào đầu tư. Trước năm 1992 tỉ lệ của đầu tư trên GDP vào khoảng 30% nhưng năm 2002 tăng lên 40% và mấy năm gần đây lên tới 50%. Các tỉnh cạnh tranh đầu tư và sản xuất hàng công nghiệp, gây nên hiện tượng đầu tư trùng lặp và sản xuất thừa làm kém hiệu suất của toàn nền kịnh tế. Nhưng đối với Việt nam và các nước có nền kinh tế còn nhỏ ở Đông Nam Á, hiện tượng sản xuất thừa của Trung Quốc là một trong những nguyên nhân chính làm tràn ngập hàng công nghiệp giá rẻ vào thị trường các nước nầy. Thứ tư, cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc ngày càng chuyển dịch lên cao. Khuynh hướng nầy phản ảnh rõ trong cơ cấu xuất khẩu. Biểu 1 chia các mặt hàng thành 5 nhóm, trong đó 3 nhóm được chia theo 3 trình độ liên quan đến kỹ năng (skill) của lao động. Những sản phẩm có hàm lượng công nghệ càng cao càng cần nhiều lao động có kỹ năng cao và do đó để sản xuất và xuất khẩu được những mặt hàng này đòi hỏi nền giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học phải cung cấp đủ nguồn nhân lực có trình độ tương ứng. Biểu 1 cho thấy hiện nay (2008) có tới trên 30% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thuộc nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng cao (high skill) như máy tính, máy móc về viễn thông, về y tế, dược phẩm, v.v.. . Nếu kể cả nhóm hàng dùng nhiều kỹ năng vừa phải (medium skill) như xe hơi, xe máy, đồ điện gia dụng, kim khí, v.v.. thì tỉ trọng của 2 nhóm hàng nầy chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý là các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v.. vẫn còn chiếm một tỉ trọng lớn. Tỉ trọng trong xuất khẩu của Trung Quốc chỉ giảm đáng kể trong hai lãnh vực nông sản và nguyên liệu. Điều nầy cho thấy các loại hàng công nghiệp, từ trình độ thấp đến trình độ cao Trung Quốc đều hiện diện trên thị trường thế giới với số lượng lớn. bang-1 Nhìn ở một khía cạnh khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải chỉ tạo ra thách thức đối với khu vực Á châu và thế giới. Trung Quốc phát triển mạnh không phải chỉ nhập khẩu tài nguyên, năng lượng mà còn trở thành một thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài. Như Biểu 2 cho thấy, từ năm 1990 đến 2008, nhập khẩu của Trung Quốc tăng 18 lần. Trong 983 tỉ USD nhập khẩu năm 2008, hàng công nghiệp chiếm trên 60%, đặc biệt riêng các loại máy móc chiếm khoảng 40%. Từ cùng nguồn tư liệu như trong Biểu 2, ta tính thử tỉ trọng của các loại máy móc trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc thì thấy con số đó là 47.5%. Nhìn từ hàm lượng kỹ năng trong hàng xuất khẩu, Biểu 1 cũng cho thấy khuynh hướng tương tự. Máy móc là các loại sản phẩm có nhiều bộ phận, linh kiện, công đoạn nên trong nội bộ mỗi ngành, các công ty đa quốc gia (MNCs) triển khai phân công lao động trên qui mô toàn cầu, hình thành các chuỗi cung ứng (supply chain).[1] Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tập trung trong các ngành chế tạo các loại máy móc từ trung cấp (như đồ điện gia dụng) đến cao cấp (như máy tính, máy chụp hình kỹ thuật số) làm thành các cụm công nghiệp ở các tỉnh ven biển, nhất là ở tam giác sông Châu Giang tỉnh Quảng Đông. Qua đó, Trung Quốc tham gia mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu, vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu các mặt hàng thuộc nội bộ các ngành nầy, Hiện nay có hơn 50% kim ngạch xuất và nhập khẩu của Trung Quốc do MNCs thực hiện, nhất là MNCs có gốc Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan. bang-2 Phân tích ở trên cho thấy Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp trên quy mô lớn và triển khai hầu như toàn diện trong các lãnh vực, từ sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp đến các sản phẩm có hàm lượng kỹ năng cao, công nghệ cao; đồng thời Trung Quốc triển khai phân công hàng ngang (horizontal trade), phân công nội ngành (intra-industry trade) với các nước khác trong các mặt hàng chế tạo các loại máy móc, là những lãnh vực chủ đạo trong mậu dịch quốc tế hiện nay. Với tính chất nầy, các nước phát triển ở trình độ cao hơn Trung Quốc như Nhật, Hàn Quốc, hoặc các nước đã thành công trong việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu (như Malayssia, Thái Lan,…) có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao hoặc trung bình. Nhưng đối với các nước ở trình độ phát triển thấp hơn, sự trỗi dậy của Trung Quốc là một thách thức lớn vì vừa bị Trung Quốc cạnh tranh mạnh trong những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp nhưng lại chưa có năng lực triển khai phân công hàng ngang với Trung Quốc trong những nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng trung và cao cấp.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:06:40 GMT 9
2. Cơ cấu mậu dịch Việt Trung Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tuy hàng công nghiệp chiếm khoảng 60% nhưng chủ yếu là những ngành dùng nhiều lao động giản đơn. Thêm vào đó, sản xuất các mặt hàng này phải phụ thuộc vào nguyên liệu và sản phẩm trung gian nhập khẩu. Các loại máy móc, những sản phẩm có hàm lượng kỹ năng lao động cao, chỉ chiếm độ 10% tổng xuất khẩu. Trở lại Biểu 1, so sánh cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam với Trung Quốc ta thấy Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào nông sản, nguyên liệu, và trong các sản phẩm công nghiệp thì Việt Nam phải cạnh tranh với Trung Quốc trong những mặt hàng dùng công nghệ thấp và dùng nhiều lao động kỹ năng thấp. Tỉ trọng các mặt hàng đòi hỏi lao động có kỹ năng cao chỉ bằng Trung Quốc vào năm 1990. Riêng mậu dịch với Trung Quốc, cơ cấu của Việt Nam còn yếu hơn nữa. Mậu dịch hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Từ năm 2000 đến năm 2009, đối với Trung Quốc, nhập khẩu của Việt Nam tăng 11 lần nhưng xuất khẩu chỉ tăng 5 lần. Từ năm 2003 Trung Quốc vượt Nhật trở thành nước có thị phần lớn nhất trong tổng nhập khẩu của Việt Nam và sau đó ngày càng bỏ xa Nhật Bản. Do nhập khẩu tăng nhanh, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc ngày càng mở rộng. Năm 2009, riêng nhập siêu vơi Trung Quốc (11,5 tỉ USD) chiếm tới 90% tổng nhập siêu của Việt Nam. Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ta thấy nguyên liệu và nông sản phẩm chiếm vị trí áp đảo. Theo Biểu 3 (Biểu nầy dựa trên thống kê nhập khẩu của Trung Quốc), 7 mặt hàng (SITC 3 con số) [2] xuất khẩu sang Trung Quốc có kim ngạch cao nhất (năm 2007) đều nằm trong 2 nhóm nguyên liệu và nông phẩm. Riêng than đá đã chiếm gần 30%. Hàng công nghiệp chỉ chiếm 12% (năm 2007). Cơ cấu này hầu như không thay đổi trong 10 năm qua. Các loại máy móc (và linh kiện) dùng cho văn phòng, cho công nghệ thông tin, cho điện lực,… gần đây bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc do kết quả của chiến lược triển khai chuỗi cung ứng của các công ty Nhật như Canon, Sumiden, Hitachi (các công ty nầy đầu tư vào miền Bắc Việt Nam để bổ sung vào mạng lưới sản xuất của họ ở vùng Hoa Nam Trung Quốc). Tuy nhiên, những sản phẩm nầy mới chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. bang-3 Nhìn sang cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc ta thấy hàng công nghiệp chiếm vị trí áp đảo (chiếm tới 75% vào năm 2007). Tất cả 20 mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu nhiều nhất đều là hàng công nghiệp (Biểu 4). Các loại hàng nầy có thể chia ra thành 3 nhóm: thứ nhất là nguyên vật liệu hoặc sản phẩm trung gian như thép để chế biến thành phẩm tiêu dùng, hai là các loại máy móc (và bộ phận, linh kiện) như xe hơi, khí cụ dùng cho bưu chính viễn thông, và nhóm thứ ba là các loại sản phẩm trung gian ngành dệt may như tơ sợi tổng hợp, vải bông, vải may nội y,… Điều nầy cho thấy nền công nghiệp Việt Nam quá mỏng manh, phụ thuộc nhiều vào sản phẩm trung gian nhập từ Trung Quốc. Nếu xét đến quá trình phát triển kinh tế, Việt Nam lẽ ra phải có lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực vải sợi (trừ loại sợi cao cấp chủng loại đặc biệt như tơ sợi tổng hợp). Tuy nhiên trên thực tế, các sản phẩm như vải dệt may hay dệt kim hầu hết Việt Nam phải nhập từ Trung Quốc.Trong vài ngành nằm trong dây chuyền cung ứng toàn cầu của các công ty đa quốc gia (các loại máy dùng cho văn phòng như máy tính xách tay, máy in, …) Việt Nam có xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng kim ngạch còn rất nhỏ. bang-4 Mậu dịch ở biên giới qua 3 cửa khẩu chính cũng mang tính chất tương tự. Tại cửa khẩu Lào-Cai-Hà Khẩu (Vân Nam), Việt Nam xuất khẩu nông lâm thủy sản và nhập phân bón, thuốc trừ sâu, v.v.. Lạng Sơn-Bằng Tường (Quảng Tây) là cửa khẩu chuyên nhập các loại máy móc, thiết bị từ Trung Quốc vào Việt Nam. Tại của khẩu Mông Cái-Đông Hưng (Quảng Tây) Việt Nam xuất khẩu than và nhập hàng công nghiệp tiêu dùng. Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như phân tích ở trên đã hình thành từ những năm 1990 và hiện nay cơ cấu nầy vẫn như cũ. Từ năm 2002 tôi đã gọi đây là cơ cấu mậu dịch có tính Nam Bắc, nghĩa là cơ cấu giữa nước chậm phát triển và nước tiên tiến.[3] Với cơ cấu nầy, khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN Trung Quốc (ACFTA) được thực thi hoàn toàn thì áp lực của Trung Quốc đối với Việt Nam còn mạnh hơn nữa. ACFTA ký kết vào tháng 11 năm 2002 và có hiệu lực từ tháng 7 năm 2005 (thuế suất bắt đầu cắt giảm). Đối với các thành viên mới trong khối ASEAN như Việt Nam, thời hạn hoàn thành thời khóa biểu cắt giảm thuế đối với hàng nhập từ Trung Quốc là đầu năm 2015, nghĩa là chỉ còn hơn 4 năm nữa, chỉ trừ một số mặt hàng nằm trong danh mục nhạy cảm, tất cả hàng công nghiệp nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam sẽ không bị đánh thuế. Thêm vào đó, thuế suất của phần lớn những mặt hàng trong danh mục nhạy cảm cũng sẽ phải giảm xuống dưới 5% trước năm 2020. Đặc biệt so với thuế suất hiện hành mà Việt Nam áp dụng đối với hàng nhập từ các nước thành viên WTO, thuế suất cắt giảm đối với hàng nhập từ Trung Quốc theo khuôn khổ ACFTA sẽ rất lớn đối với hàng công nghiệp trong các lãnh vực như tơ sợi và vải, các loại hóa chất, đồ điện gia dụng và sản phẩm phụ trợ, xe hơi và sản phẩm phụ trợ.[4] Như đã thấy ở trên, đây là những mặt hàng mà Việt Nam hiện nay nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc dù thuế suất cao. Do đó, khi ACFTA hoàn thành những mặt hàng nầy sẽ tràn sang Việt Nam nhiều hơn nữa. 3. Vài hàm ý về mặt lý luận Thử bàn thêm về quan hệ kinh tế Việt Trung nhìn từ một số lý thuyết về mậu dịch để thấy rõ hơn những vấn đề của Việt Nam. Trước hết là mô hình về lực dẫn (gravity model). Theo mô hình nầy, mậu dịch giữa hai nước tùy thuộc vào lực dẫn của nước nầy đối với nước kia. Lực dẫn lớn hay nhỏ tùy theo quy mô thị trường (đo bằng GDP) và khoảng cách địa lý giữa hai nước. Khoảng cách địa lý càng nhỏ thì phí tổn chuyển chở hàng hóa và các dịch vụ như bảo hiểm càng thấp và thông tin về thị trường cũng dễ thu thập. GDP lớn và tăng nhanh cũng tăng sức mua đối với hàng hóa của nước ngoài. Việt Nam và Trung Quốc là hai nền kinh tế phát triển với tốc độ cao hoặc tương đối cao, lại ở cạnh nhau nên hội đủ cấc yếu tố thuận lợi trong mô hình về lực dẫn. Đặc biệt đối với Việt Nam, Trung Quốc là nền kinh tế lớn và phát triển nhanh. Thế nhưng như đã phân tích trong Tiết 1 và 2, Việt Nam không tận dụng được thế mạnh nầy, chỉ xuất khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế trong khi các nước khác đẩy mạnh được xuất khẩu hàng công nghiệp sang nước nầy. Nguyên nhân chỉ có thể được giải thích bằng năng lực cung cấp yếu và hạn chế của phía Việt Nam. Mô hình về lực dẫn chỉ chú ý đến mặt cầu. Cần phải phân tích mặt cung nữa. Lý luận thứ hai liên quan đến điều kiện giao dịch (terms of trade), tức là quan hệ tương đối giữa giá hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu. Từ giữa thập niên 1950, các nhà nghiên cứu về kinh tế phát triển hầu như thống nhất nhận định cho rằng điều kiện giao dịch của các nước xuất khẩu nông phẩm và nguyên liệu tức sản phẩm khai thác từ tài nguyên luôn bất lợi vì nhu cầu của các sản phẩm nầy tăng ít, giá cả lại biến động, trong khi đó nhu cầu và giá cả của hàng công nghiệp luôn tăng nhanh vì có đàn tính thu nhập cao (thu nhập của người dân càng tăng thì nhu cầu về các mặt hàng ấy càng tăng, tăng hơn cả thu nhập). Do đó, điều kiện giao dịch của các nước sản xuất và xuất khẩu sản phẩm khai thác từ tài nguyên sẽ càng bất lợi và các nước nầy càng tăng xuất khẩu càng giảm sức mua. Nhận định nầy đã trở thành cơ sở cho chủ trương là các nước xuất khẩu tài nguyên phải công nghiệp hóa thì kinh tế mới phát triển. Về quan hệ mậu dịch Việt Trung, Việt Nam cũng xuất khẩu nguyên liệu, nông sản. Theo ý kiến chính thống trong lý luận về kinh tế phát triển thì Việt Nam bất lợi trong điều kiện giao dịch với Trung Quốc. Tuy nhiên, có ý kiến ngược lại cho rằng kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với quy mô lớn nên nhu cầu về nguyên liệu luôn tăng, do đó các nước xuất khẩu nguyên liệu có lợi từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cụ thể là điều kiện giao dịch với Trung Quốc chẳng những không bất lợi mà ngược lại.[5] Điểm nầy cần được kiểm chứng. Rất tiếc người viết bài nầy chưa có điều kiện về thì giờ cho việc kiểm chứng nầy nhưng có thể suy đoán là điều kiện giao dịch của Việt Nam không bất lợi vì các lý do sau: Thứ nhất, giá cả trên thì trường thế giới về những mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc trong 10 năm qua có khuynh hướng tăng, đặc biệt, như Hình 1 cho thấy, các mặt hàng nguyên liệu, năng lượng như than đá, dầu thô từ khoảng năm 2002 đến năm 2008 đã tăng gấp 3-4 lần. Tình trạng săn lùng tài nguyên của Trung Quốc trên khắp châu Phi, châu Á và Nam Mỹ cho thấy nhu cầu của nước nầy rất cao và ngày càng tăng. Hình 1 Biến động giá trên thị trường thế giới của một số nguyên liệu bang-6 Tư liệu: Datastream. Thứ hai, các mặt hàng công nghiệp Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam giá thường rẻ. Trên thế giới Trung Quốc còn bị phê phán là bán phá giá. Tại Việt Nam hàng Trung Quốc cũng nổi tiếng giá rẻ. Như đã nói đến ở Tiết 1, các tỉnh ở Trung Quốc cạnh tranh nhau trong đầu tư sản xuất gây ra vấn đề sản xuất thừa. Tuy nhiên dù cho điều kiện giao dịch đang theo chiều hướng thuận lợi, một nước đông dân như Việt Nam không thể phát triển dựa trên khai thác và xuất khẩu tài nguyên. Không kể khả năng tài nguyên sẽ cạn kiệt, mô hình phát triển nầy sẽ không kích thích, không khuyến khích việc xây dựng nguồn nhân lực có tri thức, có kỹ năng cao, những điều kiện cần để có một nền kinh tế phát triển bền vững. Thu nhập qua việc khai thác tài nguyên cũng thường được phân phối giữa những người thuộc tầng lớp lãnh đạo hoặc quan chức và doanh nghiệp liên hệ. Đây là hiện tượng liên quan đến giả thuyết về lời nguyền của tài nguyên (resource curse) đã được phân tích nhiều cả về lý luận và thực chứng.[6] Vấn đề ở đây là dù biết xuất khẩu tài nguyên là bất lợi trên đường phát triển nhưng với quy mô sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp quá lớn, và nhu cầu tiêu thụ tài nguyên với quy mô lớn và đang tăng mạnh của Trung Quốc, thách thức đối với Việt Nam là rất lớn. Thêm vào đó, trong quan hệ mậu dich Việt Trung, còn một điểm nữa về mặt lý luận cũng đáng quan tâm. Đó là ảnh hưởng của trào lưu mậu dịch tự do hiện nay. Ở Đông Á hiện nay, Hiệp định tự do mậu dịch (FTA) và Hiệp định hợp tác kinh tế (EPA) đang trở thành trào lưu chính trong quan hệ kinh tế giữa các nước. Mục tiêu chính của các hiệp định là cắt giảm hoặc bãi bỏ các hàng rào quan thuế và phi quan thuế, đẩy mạnh phân công lao động, tăng mậu dịch và đầu tư. Đối với các nước thành viên, do thị trường mở rộng, và do các yếu tố sản xuất như lao động, tư bản dịch chuyển nhanh sang các ngành có lợi thế so sánh, kinh tế phát triển nhanh hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong các hiệp định tự do mậu dịch mà trình độ phát triển giữa các nước thành viên quá khác biệt, cơ hội và thách thức đối với các nước sẽ không giống nhau. Đối với các nước còn ở trình độ phát triển thấp, thách thức lớn hơn cơ hội nếu không nỗ lực nhanh chóng hình thành và thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển thích hợp trước khi hiệp định được thực thi hoàn toàn. Khác với kinh nghiệm của những nước đã phát triển (như Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, v.v..), các nước đang phát triển ngày nay không đủ thời gian để bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ, ít thời gian để chuẩn bị chuyển dịch sang một lợi thế so sánh mới. Do đó, trong khi chưa có các chính sách, chiến lược hiệu quả, trong khuôn khổ của FTA hoặc EPA, hàng công nghiệp từ các nươc phát triển trước sẽ tràn ngập vào các nước phát triển sau. Trong quá trình hội nhập, lợi thế so sánh hiện tại của các nước đi sau có khả năng sẽ bị cố định hóa. Tôi đã có dịp bàn vấn đề nầy chi tiết hơn trên Thời Đại mới (TV Thọ 2006) và đưa ra thuật ngữ Cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do trên Thời báo kinh tế Saigon để nói về thách thức mà Việt Nam phải trực diện trên đường hội nhập (TV Thọ 2007). Đối với Việt Nam, ảnh hưởng của Hiệp định mậu dịch ASEAN Trung Quốc (ACFTA) là đáng lo ngại. Như đã phân tích ở Tiết 2, chỉ còn hơn 3 năm nữa thì hiệp định nầy sẽ được thực hiện hoàn toàn giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hiệp định nầy sẽ làm cho tác động từ sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với Việt Nam càng mạnh mẽ hơn. Cơ cấu về lợi thế so sánh của Việt Nam sẽ bị cố định hóa, nghĩa là cơ cấu xuất nhập khẩu hiện tại (các Biểu 1, 3 và 4) của Việt Nam có nguy cơ sẽ kéo dài nhiều năm trong tương lai. Việt Nam có nguy cơ sẽ trở thành thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp của Trung Quốc và cung cấp tài nguyên và các sản phẩm nông lâm, ngư nghiệp cho nước nầy. Thay lời kết: Con đường để Việt Nam thoát ra khỏi nguy cơ Phân tích trên đây cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây tác động lớn, đang trở thành trở lực lớn trên con đường công nghiệp hóa của Việt Nam. Mặt khác, nhìn tình trạng và chính sách kinh tế, chính sách giáo dục của Việt Nam hiện nay, ta không thể không bi quan. Nếu lãnh đạo hiện nay không ý thức đầy đủ thách thức nầy và khẩn trương đưa ra các chiến lược, chính sách thích hợp và dốc toàn lực thực hiện các biện pháp liên hệ thì nguy cơ đến từ dòng thác công nghiệp Trung Quốc cộng với cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do chắc chắn sẽ xảy ra. Đâu là con đường để Việt Nam thoát khỏi nguy cơ nầy? Đề tài nầy sẽ được bàn đến trong một dịp khác. Bài viết nầy chỉ có chủ đích phân tích hiện trạng để thấy rõ hơn bản chất của sự trỗi dậy của Trung Quốc và xét xem sự trỗi dậy đó ảnh hưởng như thế nào đến con đường phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, để kết thúc bài viết, ta thử nêu vài điểm liên quan đến chiến lược, chính sách của Việt Nam nhằm đối phó với nguy cơ nầy. Thứ nhất, trước mắt và trong trung hạn (độ 3 năm), cần có ngay các chính sách tăng sức cạnh tranh quốc tế của những mặt hàng đang có lợi thế so sánh (nhóm hàng có hàm lượng kỹ năng thấp trong Biểu 1) và chuẩn bị tham gia mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng trung bình. Chính sách nầy gồm rất nhiều bộ phận. Một là phải tạo điều kiện khai thông thị trường vốn, thị trường lao động để doanh nghiệp tiếp cận được đến các yếu tố sản xuất (hiện nay có tình trạng khu công nghiệp thiếu lao động trong khi lao động dư thừa ở nông thôn; doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa không có vốn để đầu tư thay đổi công nghệ). Chính sách hạ tầng xã hội liên quan đến đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng phải được quan tâm. Hai là phải cải thiện ngay các điều kiện về hạ tầng, ưu tiên cung cấp điện cho sản xuất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng giao thông liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp. Ba là phải cải thiện các khâu liên quan thủ tục hành chánh ở bến cảng, ở khu công nghiệp và những nơi có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Những vấn đề nầy có thể thực hiện được ngay. Nhưng vấn đề là lãnh đạo phải có quyết tâm và quan chức liên hệ phải có năng lực và tinh thần trách nhiệm. Thứ hai, trong dài hạn phải có chiến lược chuẩn bị điều kiện để chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn, tham gia được vào sự phân công hàng ngang với Trung Quốc và các nước khác ở Đông Á trong những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao. Có hai điểm quan trọng liên quan đến chiến lược nầy. Một là triệt để cải cách giáo dục và đầu tư thích đáng cho giáo dục và nghiên cứu khoa học, công nghệ để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn chuyển dịch cơ cấu công nghiệp như đã nói. Hai là có chiến lược chọn lựa, thu hút dòng đầu tư nước ngoài (FDI) có chất lượng cao để nhanh chóng tham gia vào mạng lưới phân công lao động trong các ngành có hàm lượng công nghệ cao, đòi hỏi kỹ năng lao động cao. Nếu không có các chính sách nầy, Việt Nam sẽ không bao giờ theo kịp Trung Quốc và sẽ sa vào một cái bẫy khác, cái bẫy của nước thu nhập trung bình. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đang và sẽ tác động mạnh đến kinh tế Việt Nam. Tránh được nguy cơ nầy hay không tùy thuộc vào bản lãnh, quyết tâm của lãnh đạo và quan chức Việt Nam. Trần Văn Thọ Trich tu: Thời Đại Mới Tư liệu có trích dẫnAndo, Michiyo (2006), Fragmentation and Vertical Intra-Industry Trade in East Asia, North American Journal of Economics and Finance, 17, Issue 3 (December), pp. 257-281. Athukorala, Prema-chandra (2009), The Rise of China and East Asian Export Performance: Is the Crowding –Out Fear Warranted? , The World Economy, 32-2, pp. 234-266. Coxhead, Ian (2007), A New Resource Curse? Impacts of China’s Boom on Comparative Advantage and Resource Dependence in Southeast Asia, World Development, Vol. 35 No. 7, pp. 1099-1119. Coxhead, Ian and Sisira Jayasuriya (2009), China, India and the Commodity Boom: Economic and Environmental Implications for Low-Income Countries, The World Economy, pp. 1-27. Kimura Fukunari and Michiyo Ando (2005), Two-Dimensional Fragmentation in East Asia: Conceptual Framework and Empirics, International Review of Economics and Finance, 14, Issue 3, pp. 317-348. Kwan, C. Hung (2010), China As Number One, Toyo Keizai Shinpo-sha, Tokyo. Trần Văn Thọ (2002), Tính chất bắc-Nam trong quan hệ kinh tế Việt Trung, Thời báo kinh tế Saigon, số báo Tết Nhâm Ngọ, pp. 17-18. Trần Văn Thọ (2006), Cộng đồng kinh tế Đông Á nhìn từ các nước đi sau, Thời đại mới số 8 (tháng 7). . Trần Văn Thọ (2007), Việt Nam trước cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do, Thời báo kinh tế Saigon (31/12/2007) Trần Văn Thọ (2009), Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ kinh tế Việt Trung, Diễn Dàn (Tết Kỷ Sửu), bổ sung và đăng lại ở Tuanvietnam (Vietnamnet) ngày 6/1/2010. Tran Van Tho & Kunichika Matsumoto (2010), Chugoku to Betonamu no Boueki no Jittai (Thực thể ngoại thương Việt Trung), Ch. 2 trong Viện nghiên cứu Việt Nam (2010), Chíến lược, chính sách nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của công nghiệp Việt Nam trước sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc, Đại học Waseda, Tokyo. Chú thích [1] Hiện tượng nầy gần đây được phân tích bằng lý luận về sự phân khúc hoặc phân đoạn (fragmentation theory). Xem, chẳng hạn Kimura and Ando (2005), Ando (2006). Từ góc độ nầy, phân tích của Athukorala (2008) cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đẩy mạnh phân công nội ngành với các nước Á châu khác. [2] SITC: Mã số tiêu chuẩn phân loại của thống kê Liên Hiệp Quốc. [3] Xem Trần Văn Thọ (2002). Vấn đề nầy được phân tích trở lại trong Trần Văn Thọ (2009). [4] Theo kết quả tính toán trong Tran & Matsumoto (2010). [5] Điển hình cho ý kiến nầy là Kwan (2010). Ông ta cho rằng trong quá trình trỗi dậy của TQ những nước có vai trò bổ sung (xuất khẩu nguyên liệu) thì được lợi và những nước ở vị trí cạnh tranh (cùng xuất khẩu hang công nghiệp như TQ) thì bất lợi. [6] Về vấn đề nầy, tư liệu khá nhiều. Riêng bàn về ảnh hưởng của Trung Quốc đến các nước Đông Nam Á, xem, chẳng hạn, Coxhead (2007).
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:43:51 GMT 9
Hổ vẫn gầm, đến bao giờ? (I)Trần Bình Chỉ một tuần lễ sau khi Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) điều chỉnh dự báo tăng trưởng của Trung Quốc (TQ) năm 2009, 2010 lên 8.5% và 9.0% (1) cuối tháng 10/2009, Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đã nâng dự báo về mức tăng trưởng của TQ năm 2009 lên 8.4% và 8.7% cho năm 2010 (2). Các thông tin cập nhật này củng cố độ tin cậy của hai dự báo quan trọng khác: Năm 2010 TQ sẽ vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai, và đồng thời xuất khẩu TQ sẽ chiếm 10% thế giới, là tỷ lệ xuất khẩu nước Nhật đã từng đạt được năm 1986. Nêu lên những dữ kiện trên đây, Pam Woodall, nhà bình luận kinh tế Châu Á của tờ The Economist đặt vấn đề cho bài viết Con Rồng Vẫn Gầm (3): "Nhưng nền kinh tế của TQ có nhiều nét tương đồng đáng quan ngại với nền kinh tế Nhật Bản vào những năm 1980. Vậy liệu rằng sự phồn thịnh này có thể sẽ suy sụp như đã từng xảy ra cho đất nước Phù Tang?". Ngày nay, với những chỉ dấu trọng yếu của nền kinh tế TQ, được các tổ chức kinh tế tài chánh hàng đầu thế giới như WB và IMF xác nhận, những luận cứ minh chứng TQ là con hổ giấy đang thưa dần. Các cuộc thảo luận về khả năng duy trì tốc độ phát triển hiện nay, ảnh hưởng và vai trò của TQ trên thế giới là các vấn đề trọng tâm của các cuộc luận bàn. Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, một luận điểm khá mới mẻ cho rằng các nền kinh tế đang lên (emerging markets) dẫn đầu bởi TQ và Ấn Độ là chủ lực trong tiến trình phục hồi nền kinh tế thế giới đang trên đà suy thoái. Ngày nay, những bài bình luận về TQ ngày thêm dày đặc trên các diễn đàn thế giới, vì cũng như các cường quốc kinh tế đứng đầu thế giới Hoa Kỳ-Nhật-Đức, những biến động của nền kinh tế TQ sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế toàn cầu, có thể cảm nhận được trong đời sống thường nhật của mỗi quốc gia. Trở thành cường quốc kinh tế, TQ tất nhiên sẽ mở rộng ảnh hưởng chính trị qua việc tăng cường sức mạnh quân sự, gia tăng đầu tư ra nước ngoài, chiếm hữu nguồn nguyên, nhiên liệu chiến lược, thiết lập liên minh kinh tế và quân sự. Mặc dù các động thái này vẫn xảy ra với bất kỳ cường quốc kinh tế nào trên thế giới, và chiêu thức "củ cà rốt và cây gậy" là chiến lược ngoại giao được sử dụng phổ biến trong bang giao quốc tế, song con hổ TQ là một chế độ chuyên quyền, liệu nó có tuân thủ các qui ước quốc tế mới là mối quan ngại của các nhà quan sát chính trường thế giới. Sự phát triển nhanh chóng của TQ còn là một thách đố đối với công cuộc vận động dân chủ, xây dựng trên luận điểm nền tảng rằng xã hội dân sự và định chế chính trị dân chủ là điều kiện tối ưu cho công cuộc phát triển quốc gia. Với những thành tựu kinh tế, ngày nay TQ đã quy tụ được không ít môn đồ; những nước đang ra sức củng cố thể chế độc tài, hoặc với niềm tin rằng mô hình TQ là khuôn mẫu phát triển hiệu quả, hoặc sử dụng nó như cái phao để bám víu, duy trì quyền lực chính trị và lợi ích cá nhân. Thế giới ngày nay đang dõi theo từng bước phát triển của TQ và Liên Xô, đại biểu cho hai nền kinh tế tư bản hiện đang, hay có khuynh hướng, theo chế độ chính trị chuyên quyền, và hai nền kinh tế Ấn Độ, Brazil, đang phát triển trong khuôn khổ của mô hình chính trị dân chủ. Trên một góc độ khác, dù rằng các nhà đầu tư, các cường quốc chỉ quan tâm đến lợi nhuận và quyền lợi quốc gia, chỉ lên án một cách chiếu lệ các vấn đề nhân quyền và bình đẳng xã hội, song sự phát triển kinh tế đơn thuần sẽ phiến diện nếu như những thành tựu không được phân bố rộng rãi đến các tầng lớp dân chúng, và khi các quyền căn bản của người dân không được tôn trọng và bảo vệ. I. Tổng Quan: Mức tăng trưởng GDP của TQ trong ba thập niên qua đạt trung bình gần 10% mỗi năm. Với tốc độ phát triển này, từ một nền kinh tế đứng thứ 10 thế giới 20 năm trước, TQ hiện là nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới, với GDP 4.327 tỷ USD theo số liệu năm 2008. Khoảng cách GDP giữa TQ và nền kinh tế thứ hai Nhật Bản đang thu hẹp dần, các nhà kinh tế dự báo rằng TQ sẽ vượt Nhật trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 vào năm 2010. Vị thế và tiến trình phát triển kinh tế TQ được biểu thị qua bảng xếp hạng 10 nền kinh tế đứng đầu thế giới dựa theo số liệu của WB và IMF (4), và biểu đồ so sánh sự phát triển của hai nền kinh tế của TQ và Nhật Bản giai đoạn 1985-2010 do nhóm Economist Intelligence Unit thiết lập (5). Các nhà kinh tế còn dự đoán TQ có khả năng vựợt qua Hoa Kỳ trong vòng 20 năm tới. Tuy nhiên, cũng đã từng có những dự đoán tương tự như vậy khi nước Nhật đang ở thời kỳ phát triển sung mãn của những năm 80. Thế rồi cuộc khủng hoảng kinh tế nước Nhật xảy ra, nền kinh tế Nhật suy thoái kéo dài hàng thập niên, và khoảng cách giữa hai nền kinh tế Nhật và Hoa kỳ không thu hẹp mà gia tăng. Xuất khẩu là nhân tố chính của cán cân thanh toán thặng dư, nguồn chủ lực cho phát triển kinh tế TQ. Ngành xuất khẩu TQ tăng nhanh, chiếm 4% tỷ phần xuất khẩu của thế giới năm 2000, và dự báo sẽ đạt 10% vào năm 2010. Số liệu từ hai bảng số 4 (6) cho thấy thặng dư cán cân thượng mại của TQ tăng mạnh những năm gần đây. Theo bảng xếp hạng xuất khẩu năm 2008 của The World Fact Book, kim ngạch xuất khẩu của TQ năm 2008 đạt 1435 tỷ USD, gần bắt kịp Đức quốc (1498 tỷ USD) là nước dẫn đầu thế giới (7). Bảng số 5 biểu thị một góc cạnh quan trọng khác về ngành xuất khẩu của TQ. Các sản phẩm sơ chế và gia công như may mặc (apparel), bàn ghế (furniture), khoáng sản (mineral fuel & oil) tuy vẫn nằm trong số 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, song chiiếm tỷ lệ thứ yếu so với các sản phẩm hóa chất, thiết bị, máy móc cơ khí, điện tử và y tế, là các mặt hàng có giá trị gia tăng cao (8). Mức tăng trưởng của ngành xuất khẩu và cán cân thương mại thặng dư cũng là điểm nóng của nền mậu dịch quốc tế vì sự mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thương mại giữa TQ và thế giới, đặc biệt đối với Hoa kỳ. Cuộc khủng kinh tế thế giới làm giảm mạnh mức cầu tiêu thụ trên thế giới, đặc biệt tại các nước phát triển. Liệu TQ có thể duy trì được mức tăng trưởng kinh tế trước sự suy thoái của hoạt động xuất khẩu? TQ sẽ đối phó thế nào trước áp lực gia tăng của các cường quốc kinh tế, đặc biệt Hoa Kỳ, về cán cân thương thặng dư quá lớn? Dự trữ ngoại hối của TQ lên đến 2.270 tỷ USD, tính đến tháng 9/2009. TQ hiện là quốc gia có nguồn dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, với lượng dự trữ lớn hơn hai lần dự trữ ngoại hối của nước đứng thứ hai là Nhật Bản, 1.052 tỷ USD (9). Biểu đồ số 2 dưới đây cho thấy thặng dư cán cân thanh toán (current account) của TQ tăng mạnh những năm gần đây khiến nguồn dự trữ ngoại hối không ngừng gia tăng. Năm 2006, thặng dư cán cân thanh toán hàng năm của TQ đã vượt Nhật Bản, trở thành quốc gia có thặng dư cán cân thanh toán lớn nhất thế giới. Mức thặng dư năm 2008 đạt 426 tỷ USD, chiếm 9.8% GDP (10). Trong mối giao thương với Hoa Kỳ, từ năm 2000 TQ đã thay thế Nhật Bản là quốc gia mà Hoa Kỳ có thâm hụt thương mại cao nhất. Chỉ riêng năm 2008, thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ với TQ lên đến 268 tỷ USD, chiếm 32.8% tổng thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ (11). Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của công ty Pivot Capital Management cho rằng con số dự trữ ngoại hối trên 2 ngàn tỷ USD và số nợ rất thấp tương ứng với 23% GDP không phản ảnh thực trạng tài chính của TQ. Với khoản nợ chính phủ trên 1000 tỷ USD, giá trị trái phiếu ấn hành để cứu các ngân hàng năm 2003, các khoản bảo chứng nợ ngân hàng, và dòng đầu tư nóng nước ngoài đang rút ra dần, TQ sẽ không có khả năng chi dùng số dự trữ ngoại khổng lồ này (12). Mặc cho các thành quả và những con số thống kê đầy ấn tượng của nền kinh tế Trung Quốc (TQ), được công nhận bởi các tổ chức kinh tế tài chánh hàng đầu thế giới như World Bank (WB), International Monetary Fund (IMF), Moody's Investor Serivices, không ít nhà kinh tế, nhà đầu tư vẫn hoài nghi thực lực và triễn vọng phát triển của nền kinh tế TQ. Cuộc tranh luận của họ có thể giúp làm sáng tỏ những vấn đề của nền kinh tế Trung Quốc. (Xem tiếp Phần II) Trần Bình - tháng 12/2009 (1) IMF Raises 2010 Growth Forecast for Asia - TRENDSnIFF (2) World Bank Raises Forecast for China's Economy - New York Times (3) The dragon still roars - The Economist - Dragon (4) List of countries by GDP - Wikipedia (5) Dragon (6) US-China Trade Statistics and China's World Trade Statistics - USCBC (7) Country Comparison : Exports - CIA The World Factbook (8) USCBC (9) List of states by foreign exchange reserves - Wikipedia (10) Redressing the Global Imbalance - RIETI (11) RIETI (12) China's Investment Boom the Great Leap Into the Unknown
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:45:55 GMT 9
Hổ vẫn gầm, đến bao giờ? (II)
Trần Bình
Mặc cho các thành quả và những con số thống kê đầy ấn tượng của nền kinh tế Trung Quốc (TQ), được công nhận bởi các tổ chức kinh tế tài chánh hàng đầu thế giới như World Bank (WB), International Monetary Fund (IMF), Moody's Investor Serivices, không ít nhà kinh tế, nhà đầu tư vẫn hoài nghi thực lực và triển vọng phát triển của nền kinh tế TQ. Cuộc tranh luận của họ có thể giúp làm sáng tỏ những vấn đề của nền kinh tế Trung Quốc. II. Thần kỳ hay Ảo vọng: 1. Đầu tư và sản xuất thừa (overinvestment/overcapacity) có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế quá nóng (overheat) do sản phẩm làm ra vượt quá nhu cầu tiêu thụ là vấn đề trọng tâm của cuộc bàn luận. Bản báo cáo tháng 8/2009 của công ty đầu tư Pivot Capital Management (PCM), một công trình nghiên cứu công phu (1), đã nhận định rằng hiệu quả đầu tư và phát triển của nền công nghiệp của TQ đã đạt điểm đỉnh, ở mức bão hòa; do đó, sự gia tăng đầu tư để duy trì mức tăng trưởng hiện nay không những sẽ giảm hiệu quả mà còn có khả năng dẫn đến suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Nhận định này xây dựng trên các luận cứ sau đây: * Duy trì một tỷ lệ đầu tư trên GDP cao là con đường phát triển thành công của một số quốc gia trong hậu bán thế kỷ 20 và cũng là con đường phát triển của TQ. Tuy nhiên, nếu 9 năm là thời gian dài nhất mà Thái Lan và Singapore đã duy trì tỷ lệ đầu tư trên 33% GDP, thì TQ đã vuợt qua tỷ lệ này suốt 12 năm qua. * Trải qua ba thập niên phát triển, hệ số hiệu quả đầu tư (ICOR) trong hai thập niên đầu hầu như không thay đổi quanh con số 3.0, nhưng hệ số này tăng lên 4.0 giai đoạn 2001-2008, tức là hiệu quả đầu tư đang giảm dần. * Để giữ đà tăng trưởng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, TQ nới lỏng tín dụng trong nước lên đến 50% năm 2009. Nếu tiếp tục mức gia tăng tín dụng 35%, tỷ lệ tín dụng trên GDP có thể lên đến 200% GDP vào năm 2010, là tỷ lệ đã từng xảy ra ngay trước thời kỳ khủng hoảng của Nhật năm 1991 và Hoa Kỳ năm 2008. Do vậy, TQ không thể kéo dài chính sách gia tăng tín dụng nhằm duy trì mức tăng trưởng cao. * TQ cũng không thể sử dụng khoản dự trử khổng lồ trên 2 nghìn tỷ USD cho đầu tư, vì các khoản nợ chính phủ, trái phiếu phát hành giải cứu ngân hàng năm 2003, bảo chứng nợ ngân hàng gộp lại khoảng 1.7 nghìn tỷ, và dòng đầu tư nóng nước ngoài ước tính 500 tỷ USD đang chảy dần ra nước ngoài. * Công nghiệp (manufacturing) là một trong ba lĩnh vực chính thu hút vốn đầu tư của TQ. Năng lực sản xuất công ngiệp TQ đã đạt mức của các nước phát triển, đã bão hòa, và phạm vi mở rộng rất hạn hẹp. Ví dụ, sản lượng thép TQ sản xuất 500 triệu tấn, bằng EU, Nhật, Hoa Kỳ và Liên Xô gộp lại. Năng lực sản xuất thép thừa (idle capacity) 166 triệu tấn, bằng sản lượng của Nhật và Nam Hàn gộp lại. Lượng xi-măng TQ tiêu thụ 1 nghìn 350 tỷ tấn tương đương với lượng tiêu thụ của thế giới, và năng lực sản xuất xi-măng thừa 340 triệu tấn, bằng sản lượng của Ấn Độ, Hoa Kỳ và Nhật cộng lại. Năng lực sản xuất nhôm thừa của TQ tương đương với sản lượng tổng hợp của Brazil và Ấn Độ. * Ngành xây dựng là địa hạt thu hút đầu tư lớn khác để đáp ứng nhu cầu đô thị hóa. Mức độ đô thị hóa 45% của TQ do WB tường trình thấp hơn thực tế đến 20% vì tiêu chuẩn xếp loại đô thị của TQ cao hơn tiêu chuẩn quốc tế. Như vậy, lượng dân cư cần đô thị hoá sẽ chỉ ở khoảng 100 triệu thay vì 350 triệu. Hơn thế nữa, theo IMF, tỷ lệ dân TQ sở hữu nhà cửa lên đến 86%. Do đó, nhu cầu xây dựng nhà cửa, đô thị không còn cao như trước đây. Cần lưu ý rằng đô thị hoá và xây dựng không chỉ là cách nâng cao GDP dễ, nhanh mà còn là phương cách làm giàu của các viên chức nhà nước. * Cơ sở hạ tầng là phạm vi thứ ba thu hút nhiều đầu tư. Tính theo tỷ lệ diện tích lãnh thổ, mật độ dân số sống tập trung và số lượng sông ngòi giữa TQ và Hoa Kỳ, thì TQ có số km đường tráng nhựa, cao tốc tương đương với Hoa Kỳ và số cầu vượt qua Hoa Kỳ. Ngành hoả xa TQ chưa phát triển cao với 80 nghìn km, đứng thứ 3 thế giới sau Hoa Kỳ và Liên Xô, đang được đầu tư 420 tỷ USD để xây dựng thêm 63 nghìn km trong giai đoạn 2009-2012. TQ còn có nhiều công trình hạ tầng lãng phí và phô trương. 37 trên 44 phi trường xây dựng giai đọan 2005-2010 tọa lạc ở những vùng dân cư thưa thớt miền Tây, và nhiều công trình hoành tráng đã thực hiện, mà điển hình là tuyến đường xe lửa cao nhất thế giới Quinghai-Tibet và đưòng xe lửa hoả tốc sử dụng công nghệ từ trường Shanghai. * Sau cùng, giả thuyết cho rằng gia tăng tiêu thụ nội địa có thể giúp TQ duy trì mức tăng trưởng hiện nay là không thực tế. Để đạt được điều này, mức tăng trưởng thị trường nội địa phải đạt 20-30% mỗi năm. Mức tăng thị trường nội địa ở thời kỳ cao nhất của Nhật cũng chỉ đến 12%. Trên thực tế, mức tăng trưởng tiêu thu nội địa của TQ giai đoạn 1997-2007 là 8.2% và tỷ lệ lợi tức hộ dân cư trên GDP giảm 20% từ 1999-2008. Tuy đồng quan điểm với nhóm PCM trong nhận định rằng mức tăng trưởng của TQ sẽ chậm dần lại, song Pam Woodall, qua bài bình luận Con Rồng Vẫn Gầm trên tờ The Economist tháng 11/2009 (2), có cái nhìn lạc quan hơn về viễn cảnh của nền kinh tế TQ. Ông cho rằng nền kinh tế TQ ngày nay có nhiều lợi thế hơn so với nước Nhật Bản vào trước thời kỳ khủng hoảng cuối thập niên 80, do đó, ít có khả năng TQ sẽ lâm vào tình trạng suy thoái và khủng hoảng kinh tế như đã từng xảy ra với Nhật Bản ở thập niên 90: * Khác với Nhật Bản vào thập niên 80, TQ ngày nay đang ở giai đoạn đầu của phát triển, vẫn còn có thể tiếp tục phát triển, bắt kịp các nước giàu, qua việc gia tăng dung lượng vốn và nâng cao năng suất. Dung lượng vốn (capital stock) của TQ hiện chỉ bằng phân nửa của Nhật Bản, và gần phân nửa lực lượng lao động ở khu vực nông nghiệp có thể chuyển dần qua ngành công nghiệp và dịch vụ. * Mặc dù có tình trạng đầu tư quá tải trong một số lĩnh vực, như ở ngành thép, song mối lo ngại về đầu tư thừa là sự phóng đại. * Không như nước Nhật thường bị đem ra chế giễu là đã xây dựng đường xá đến chỗ không (to nowhere) vào thời kỳ trước khủng hoảng nhằm duy trì mức tăng trưởng kinh tế, TQ vẫn có nhu cầu đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng công cộng, cần thiết cho công cuộc phát triển mai sau. 2. Các con số thống kê của nền kinh tế Trung Quốc là vấn đề quan trọng khác thường được bàn luận. Luật gia Gordon Chang, tác giả quyển sách The Coming Collapse of China (Trung Quốc trên con đường suy sụp) ấn hành năm 2001, và nhà đầu tư tỷ phú Jim Chanos là hai trong số các nhà nghiên cứu, nhà đầu tư đặt vấn đề trung thực của các con số thống kê của TQ. Chanos nổi danh từ năm 2001 khi ông sớm phát hiện ra sự ngụy tạo trong các bản báo cáo tài chánh của công ty Enron, nhanh chóng bán đi các cổ phiếu Enron trước khi công này sụp đổ. Chang và Chanos cho rằng TQ ngụy tạo ra các con số thống kê, chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn con số thực, nhầm phục cho mục tiêu chính trị. Một ví dụ khác được hai ông nêu lên là những con số chênh vênh giữa bảng báo về số lượng xe bán tháng 8/2009 tăng vọt lên 94.7 %, trong khi đó, lượng xăng dầu tiêu thụ gia tăng trong cùng thời kỳ chỉ có 6.4% (3). Song, Jim O'Neill, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của công ty đầu tư tầm cỡ thế giới Goldman Sachs lại bác bỏ các luận cứ ngờ vực về các con số thống kê của nền kinh tế TQ. Theo ông, "nếu như có điều gì đáng nói, thì đó chính là nền kinh tế TQ đang bị đánh giá thấp" (4). Một số nhà nghiên cứu lưu ý rằng vì đồng yuan đạng được định giá thấp, do đó, các chỉ số kinh tế khi chuyển đổi từ đồng Yuan qua USD thấp hơn con số thực. Bài bình luận trên tờ The Economist dưới tựa đề Liệu Trung Quốc có cố ý hạ thấp con số thống kê về thặng dư thương mại cũng đã nêu lên con số thặng dư thương mại do TQ báo cáo thấp hơn đáng kể so với con số thâm hụt thương mại do các nước trao đổi mậu dịch với TQ tường trình. Thực ra, sự chênh lệch này là do một phần đáng kể hàng xuất khẩu của TQ đi qua ngõ Hong Kong, do đó việc theo dõi hàng TQ xuất từ Hong kong thường gặp khó khăn. Hơn thế nữa, Hong Kong lại tăng giá hàng TQ thêm khoảng 25% khi tái xuất khẩu và cách tính các phí tổn liên quan đến dịch vụ xuất giữa nước xuất và nhập cũng khác nhau (5). *** Qua bài viết Sự Hồi phục của nền Kinh tế TQ - Thần diệu hay Ảo tưởng, đăng trên tờ TIME tháng 11/2009, Cesar Bacani ví von nền kinh tế TQ và các quan điểm đối nghịch của các nhà đầu tư, nhà nghiên cứu với giai thoại Con voi và anh mù. Chanos, nhà đầu tư tỷ phú, thì nhận định rằng "Nền kinh tế chỉ huy sau cùng đã phát triển như vậy là Liên Xô, đổ vốn đầu tư vào các nhà máy kém hiệu quả, các đập nước bị vỡ, nhà máy nguyên tử xảy ra tai nạn, v..v.. Trung Quốc cũng đang đi theo con đường như thế". Jim O'Neill, công ty Goldman Sachs, từng giao dịch và viếng thăm TQ từ hai thập niên qua, lại cho rằng "Trung Quốc là câu chuyện kinh tế quan trọng nhất của thời đại chúng ta, và rất có thể đến thế hệ con cháu chúng ta". Thế nhưng, theo quan điểm của Nhóm PCM, nền kinh tế TQ đã đạt điểm đỉnh và đang trên đà suy thoái. Viễn cảnh của nền kinh tế TQ, hoặc là mức tăng trưởng sẽ hạ thấp dần trong thập niên tới, hoặc là sẽ xảy ra sự suy giảm đầu tư đột ngột đi đôi với cuộc khủng hoảng tài chính. Cũng như PCM, Pam Woodall dự đoán rằng mức tăng trưởng của TQ sẽ giảm dần xuống còn khoảng 7% trong vài năm tới, song ông cho rằng đây vẫn một trong những mức tăng trưởng cao nhất thế giới. Pam dự đoán nền kinh tế tương lai của TQ sẽ bớt lệ thuộc vào xuất khẩu. Khi xuất khẩu của nước Nhật đạt 10% thế giới, thì tỷ lệ này giảm dần vì đồng Yen tăng giá. Tương tư, nền xuất khẩu của TQ ở ngưỡng cửa 10%, đang chịu áp lực mạnh mẽ của thế giới sẽ phải nâng giá. Mặc khác, nếu đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhầm kích thích phát triển kinh tế là giải pháp ngắn hạn, thì về lâu dài, TQ sẽ phải phát triển thị trường tiêu thụ nội địa qua các chính sách tái phân phối lợi tức kinh doanh từ các công ty đến các hộ dân cư, cải thiện hệ thống an sinh xã hội và y tế. Với sự suy giảm về tỷ lệ xuất khẩu và gia tăng thị trường nội địa, thặng dư cán cân thanh toán hàng năm của TQ sẽ quân bình hơn, ở mức 5%, giảm phân nửa so với thời kỳ cao điểm năm 2007; và như thế, sự phát triển của nền kinh tế TQ sẽ đi vào ổn định hơn (6). Tầm quan trọng của thị trường nội địa của TQ cũng được các ông Richard Dobbs, Andrew Grant, và Jonathan Woetzel nhấn mạnh trên bài viết Hãy mở cửa cho giới tiêu thu Trung Quốc, đăng trên Newsweek tháng 9/2009. Các vị này nhận định rằng, trong khi khả năng tiêu thụ của các nước phát triển sẽ không thể trở lại như thời kỳ trước khủng hoảng vì tuổi già của thế hệ hậu thế chiến, nguồn tiết kiệm đang cạn kiệt dần và gánh nặng thuế má gia tăng, thì Châu Á và các nền kinh tế mới nổi, mà TQ là nước đầu đàn, sẽ có thêm khoảng 1 tỷ dân số vào năm 2015, với thành phần trung lưu ngày một đông đảo, hứa hẹn sẽ góp phần gia tăng thị trường tiêu thụ thế giới. Do đó, sự thành bại của TQ trong nỗ lực gia tăng sức tiêu thụ của thị trường nội địa sẽ là yếu tố tối hệ trọng, không chỉ riêng với TQ, mà còn cho cả quá trình hồi phục của nền kinh tế thế giới (7). Sự thành bại của nền kinh tế TQ còn sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế Hoa kỳ hiện đang chiến đấu vất vả, cố thoát ra khỏi thời kỳ suy thoái, Dan Carter đã cảnh báo như thế qua bài viết Nền Kinh tế Trung Quốc là Thần diệu hay Ảo vọng trên tờ airamerica.com (8). Hoa Kỳ đang lệ thuộc vào TQ để tài trợ khoản nợ quốc gia. Theo bộ Ngân khố Hoa Kỳ, TQ hiện là chủ nợ lớn nhất của Hoa Kỳ (9). Và cũng với mối quan ngại này, Cesar Bacani, đã kết thúc bài viết Sự Phục hồi nền kinh tế TQ - thần diệu hay Ảo tưởng: "Thật khó mà biết ai đúng ai sai, nhưng vì lợi ích của 1.3 tỷ dân Trung Quốc và của chính chúng ta, hãy hy vọng rằng các phân tích của Jim Chanos sai và Jim O'Neill là đúng. * Tuy các phân tích về mặt lý thuyết trong tài liệu của công ty đầu tư PCM dẫn tới kết luận rằng, do các khoản nợ lớn và đầu tư ngắn hạn đang rút dần, Trung Quốc (TQ) không có khả năng sử dụng khoản dự trữ ngoại khối trên 2 nghìn tỷ USD, song các nhà nghiên cứu như Ken Davies, Michael Forsythe lại cho rằng với nguồn dự trữ dồi dào này, TQ có khả năng mởi rộng đầu tư ra nước ngoài và tăng cường sức mạnh quân sự. Trên thực tế, các báo cáo cho thấy các khoản đầu tư của TQ ra nước ngoài và chi phí quốc phòng vẫn gia tăng mạnh mẽ. Những diễn biến này tuy không làm ngạc nhiên giới quan sát, song cũng đã gây không ít mối quan ngại vì TQ hiện là quốc gia có chế độ chuyên quyền. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế TQ còn là một thách thức với cuộc vận động dân chủ. (Xem tiếp Phần III) Trần Bình - tháng 12/2009 (1) China's Investment Boom the Great Leap Into the Unknown - Pivot Capital Management - (2) The dragon still roars - How sustainable is China’s economic boom? - The Economist (3) China's Economic Recovery: Miracle or Mirage? - Time - Recovery (4) Time - Recovery (5) Is China deliberately understating the size of its trade surplus? - The Economist (6) Time - Recovery (7) Unleashing the Chinese Consumer - Newsweek (8) Is China Economic Miracle A Mirage? (9) MAJOR FOREIGN HOLDERS OF TREASURY SECURITIES - US Department of Treasury
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:46:50 GMT 9
Hổ vẫn gầm, đến bao giờ? (III)
Trần Bình Tuy các phân tích về mặt lý thuyết trong tài liệu của công ty đầu tư Pivot Capital Management trình bày ở phần II dẫn tới kết luận rằng, do các khoản nợ lớn và đầu tư ngắn hạn đang rút dần, Trung Quốc (TQ) không có khả năng sử dụng khoản dự trữ ngoại khối trên 2 nghìn tỷ USD, song các nhà nghiên cứu như Ken Davies, Michael Forsythe lại cho rằng với nguồn dự trữ dồi dào này, TQ có khả năng mở rộng đầu tư ra nước ngoài và tăng cường sức mạnh quân sự. Trên thực tế, các báo cáo cho thấy các khoản đầu tư của TQ ra nước ngoài và chi phí quốc phòng vẫn gia tăng mạnh mẽ. Những diễn biến này tuy không làm ngạc nhiên giới quan sát, song cũng đã gây không ít mối quan ngại vì TQ hiện là quốc gia có chế độ chuyên quyền. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế TQ còn là một thách thức với cuộc vận động dân chủ. III. Vươn ra thế giới: 1. Mở rộng đầu tư ra nước ngoài: Dư luận xôn xao nhiều về các đầu tư của TQ tại Châu Phi, song thực ra, tỷ lệ đầu tư vào châu lục này chỉ chiếm 4% trên tổng số đầu ra nước ngoài của TQ, thể theo số liệu của Ken Davies, nhà kinh tế và trưởng ban liên lạc quốc tế của Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD). Những số liệu về đầu tư của TQ ra nước ngoài trong bài viết "Sự phát triển nhanh chóng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc" tháng 8/2009 của Ken Davies làm rõ nét các động lực, hiện trạng và viễn cảnh của nguồn đầu tư này (1). Theo số liệu cuối năm 2007, TQ đã đầu tư 118 tỷ USD, với tỷ lệ theo thành phần khu vực lãnh thổ như sau: Châu Á 67%, Châu Mỹ Latin (Nam Mỹ) 21%, Châu Âu 4%, Châu Phi 4%, Bắc Mỹ 3%, Oceania 2%. Cho đến nay, đầu tư ra nước ngoài của TQ vẫn chỉ là một con số khiêm tốn, chiếm 1% thế giới. Song tốc độ phát triển rất nhanh của con số này gây chú ý đối với giới các nhà nghiên cứu. Biểu đồ dưới đây cho thấy các con số đầu tư hàng năm tăng nhanh từ năm 2004, với số đầu tư năm 2008 lớn hơn 7 lần con số năm 2004. Trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới khủng hoảng, một câu hỏi thường đặt ra là liệu nguồn đầu tư này của TQ sẽ suy giảm? Con số sơ khởi về đầu tư năm 2009 cho thấy tốc độ đầu tư ra nước ngoài không hề có dấu hiệu suy giảm, mà ngược lại. Chỉ tính riêng quý 1, đầu tư của TQ vào nước Úc đã tăng lên 13 tỷ USD từ con số 1.4 tỷ USD năm 2008, và tổng đầu tư quý 1 năm 2009 đã vuợt con số của cả năm 2008. Cũng theo Ken Davies, các động lực về kinh tế thúc đẩy đầu tư của TQ bao gồm: * Bảo đảm nguồn nguyên liệu cho nền sản xuất đang phát triển nhanh * Các doanh nghiệp lớn của TQ đang mua lại các công ty có danh hiệu thế giới như Lenovo mua lại chi nhánh máy vi tính cá nhân (PC) của IBM, hay SAIC và Nanjing mua MG Rover. * Các doanh nghiệp lớn nhà nước đang mất dần lợi thế độc quyền trong nước, cần mở rộng ra nước ngoài. * TQ đang mất dần lợi thế cạnh tranh do giá lao động tăng, chuyển các doanh nghiệp thâm dụng lao động qua các nước như Việt Nam và Châu Phi. * Các doanh nghiệp lớn nội địa xuất khẩu lượng hàng lớn đang cần các dịch vụ như vận chuyển và bảo hiểm. Sự gia tăng nhanh chóng đầu tư của TQ được nhiều nước Châu Phi đón nhận vì những khoản viện trợ không điều kiện, song những ngờ vực về ý đồ của TQ cũng lan rộng. Do vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế TQ, hiện đang có mối e ngại rằng "các đầu tư này có thể không được quản lý theo tiêu chuẩn thương mại thông thường, và hơn thế nữa, có thể là cánh tay nối dài của các chính sách ngoại giao và quốc phòng". Trên tờ NewYork Times số ngày 9/1//2009 qua bài viết "Trung Quốc Cam kết viện trợ 10 tỷ USD cho Châu Phi" (2) Michael Wines nhắc lại những chỉ trích của một số học giả về điều kiện lao động và an toàn tại một số mỏ khoáng sản do TQ điều hành, và tình trạng tràn ngập hàng hóa TQ giá hạ đang thay thế các sản phẩm đã từng được sản xuất tại Châu Phi. TQ ngày nay đã trở thành một trong quốc gia đứng đầu trong giao dịch thương mại với Châu Phi, với kim ngạch 106.5 tỷ USD năm 2008, lớn hơn khoảng 11 lần con số mậu dịch năm 2000, và hiện đang khai thác rộng rãi các mỏ dầu và khoáng sản của lục địa giàu tài nguyên thiên nhiên này. Trong nỗ lực đánh tan mối ngờ vực rằng TQ đang trở thành thực dân mới thay thế cho Châu Âu truớc đây, và để củng cố mối quan hệ khá sâu rộng với các nước Châu Phi, TQ hiện là một trong những nước chủ lực xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho các nước Châu Phi. Tháng 11/2009 vừa qua, TQ đã tung ra hàng loạt các chính sách viện trợ kinh tế cho các nước Châu Phi: tăng khoản cho vay lãi suất thấp lên 10 tỷ USD cho ba năm tới, xóa bỏ một số nợ cho vay không lãi, hạ thuế quan trên hầu hết hàng xuất cảng vào TQ cho các nước cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan, sẽ xây dựng 100 dự án điện lực sạch ..v..v.. 2. Tăng cường sức mạnh quân sự: TQ không che giấu chính sách hiện đại hóa quân lực, dưới các danh hiệu mỹ miều "vươn ra thế giới" (go global), "phát triển hòa bình" (peaceful development). Theo tờ công báo của bộ quốc phòng TQ, "TQ đang sẽ đẩy mạnh nỗ lực nhằm tạo được những bước tiến về mặt kỹ thuật, một quân lực có khả năng, hầu có thể hoạt động tầm xa vào năm 2020". Việc gửi hai khu trục hạm và các tàu tiếp liệu đến vùng biển Somalia tháng 12/2008 nhằm bảo vệ các tàu thương mại của TQ được các nhà quan sát lưu ý vì đây là lần đầu tiên hải quân TQ mở rộng phạm vi hoạt động xa phạm vi lãnh hải. Dưới tựa đề "Hãy quan sát TQ đang tăng cường không lực" trên NewYork Times số ngày 20/10/2009 (3), Michael Forsythe trích dẫn báo cáo tháng 7/2009 của cơ quan tình báo hải quân Hoa Kỳ, dự báo rằng TQ sẽ hạ thuỷ chiếc hàng không mẫu hạm (trang bị phi cơ chiến đấu) Varyag vào khoảng thời gian 2010-2012, và sẽ tự sản xuất được loại mẫu hạm vào năm 2015. Chiếc Varyag mua lại của Ukraine năm 2002, đang được tân trang, sẽ gia nhập hạm đội 190 chiếc, so với hạm đội 285 chiếc bao gồm 15 hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ. Động thái tăng cường hạm đội tại một vùng biển mà Hoa Kỳ giữ thế khống chế từ thế chiến thứ II "tuy chưa thây đổi cán cân quân lực giữa TQ và Hoa Kỳ, song nó tiếp sức cho TQ trong cuộc tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với các nước Nhật, Nam Hàn, Việt Nam và Philippines". Các phân tích của Jayshree Bajoria trong bài bình luận "Bối cảnh của quân lực Trung Quốc" trên Newyrok Times số ngày 3/5/2009 (4) bổ sung các góc nhìn và dữ liệu quan trọng khác về quân lực TQ. Theo sự đánh giá của các chuyên gia, việc tăng cường quân lực của TQ là một tiến trình tự nhiên khi quốc gia này trở thanh cường quốc, và TQ sẽ phải mất nhiều thập niên mới có thể đủ mạnh để đối đầu với Hoa Kỳ. Song sự quan ngại của các chuyên gia phương Tây đối sự phát triển của quân lực TQ là về những động lực dài hạn của TQ. Các mối quan ngại này đã Jayshree trích dẫn từ bản báo cáo của Kerry Dumbaugh, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề Châu Á của hạ viện Hoa kỳ trong báo cáo năm 2008, như sau: * Sự thiếu minh bạch về ngân sách quốc phòng và các hoạt động quân sự: Ngân sách quốc phòng do TQ công bố là 52 tỷ USD năm 2008. Con số ngân sách quốc phòng TQ do Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ ước tính khoảng 97 tỷ năm 2007 và 139 tỷ USD năm 2008. Quan điểm của TQ là ngân sách quốc phòng chỉ chiếm 1.38% GDP nếu so với Hoa Kỳ 4.5% GDP. * Các hoạt động gián điệp thu thập bí mật quốc phòng: Hoa Kỳ tố giác TQ không những xâm nhập hệ thống vi tính của bộ Ngoại giao, thương mại và quốc phòng của Hoa Kỳ mà còn cả các công ty Anh Quốc, và các cơ quan chính phủ của Pháp, Đức, Nam Hàn, và Đài Loan. Do hệ thống phòng ngự xâm nhập các mạng vi tính kinh tế và quốc phong Hoa Kỳ còn thiếu hữu hiệu, bản báo cáo nhấn mạnh, nếu như xảy ra sự xung đột, lợi thế của TQ về phương diện này sẽ làm giảm ưu thế của Hoa Kỳ về sức mạnh của vũ khí qui ước. * TQ đang cải thiện kỹ năng về kỹ thuật và quân sự: Cuộc thử nghiệm hỏa tiễn chống vệ tinh của TQ tháng giêng 2007, qua việc bắn hạ vệ tinh của chính mình, chứng tỏ TQ đã đạt tiến bộ về lĩnh vực không gian, do đó, "Lợi thế của Hoa Kỳ về địa hạt này có lẽ sẽ giảm đi trong vòng 10 đến 20 năm tới". Về vũ khí nguyên tử, TQ gần đây đã đạt bước cải tiến quan trọng về hoả tiễn liên lục địa, qua việc thay thế loại nhiên liệu lỏng bằng nhiên liệu đặc (solid-fuel DF-31), tăng độ chính xác và khả năng chống trả các cuộc tấn công nguyên tử. Trong cuộc tường trình trước quốc hội tháng 1/2009, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, ông Robert M. Gate tuyên bố rằng: việc hiện đại hóa của TQ có thể đe dọa sức mạnh quân sự và khả năng bảo vệ các nước đồng minh tại vùng biển Thái Bình Dương * Các viện trợ về kỹ thuật và quân sự cho Zimbabwe, Myanmar (Miến Điện) và các nước bị thế giới lên án vì chính sách áp bức và bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Mặc dù khả năng xảy ra cuộc xung đột quân sự TQ và Hoa Kỳ là rất thấp, các chuyên gia quân sự vẫn e ngại rằng những "tai nạn" đã từng xảy ra giữa TQ và Hoa Kỳ, nhự vụ chạm trán giữa phi cơ dọ thám Hoa Kỳ và các chiến đấu cơ TQ năm 2001, hay hoả tiễn Hoa Kỳ bắn "nhầm" vào tòa đại sứ TQ tại Bỉ năm 1999, có thể làm bùng nổ chiến tranh. Hơn thế nữa, với sự mở rộng phạm vi hoạt động, không quân và hải quân TQ sẽ cọ sát nhiều hơn với các lực lượng của Hoa Kỳ, Đài Loan và Nhật Bản. Cũng theo nhận định của Jayshree, Hoa Kỳ gần đây có nỗ lực tái lập sự hiện diện tại Châu Á, qua việc xích lại gần Ấn Độ và các nước trong khu vực, và việc tăng cường lực lượng hải quân và không tại đảo Guam. Song thách thức lớn của chiến lược quốc phòng Hoa Kỳ hiện nay, theo bộ trưởng Robert Gate và các nhà phân tích, là làm thế nào để giữ được thế quân bình giữa hai mặt trận, cuộc chiến tranh chống khủng bố tại Iraq và Afghanistan, và việc hiện đại hóa quân lực TQ. 3. Cuộc cạnh tranh mô hình phát triển: Sự phát triển nhanh chóng của TQ còn là một thách đố đối với công cuộc vận động dân chủ. Với những thành tựu kinh tế, ngày nay TQ đã quy tụ được không ít môn đồ; những nước đang ra sức củng cố thể chế độc tài, hoặc với niềm tin rằng mô hình TQ là khuôn mẫu phát triển hiệu quả, hoặc sử dụng nó như cái phao để bám víu, duy trì quyền lực chính trị và lợi ích cá nhân. Thế giới ngày nay đang dõi theo từng bước phát triển của TQ và Liên Xô, đại biểu cho hai nền kinh tế tư bản hiện đang, hay có khuynh hướng, theo thể chế chuyên quyền, và hai nền kinh tế Ấn Độ, Brazil, đang phát triển trong khuôn khổ của mô hình chính trị dân chủ. Trong bài viết "Cuộc thảo luận về sự tiến triển của dân chủ sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ" trên tờ The Wall Street Journal số ngày 29/10/2009 (5), Marcus Walker đã nêu lên các con số thống kê quan trọng do tổ chức nghiên cứu Freedom House tại Hoa Kỳ thực hiện. Nền dân chủ phát triển mạnh mẽ kể từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ, với tỷ lệ quốc gia có được nền dân chủ phát triển tăng từ 36% vào 1989 lên 46% năm 1999; hầu hết xảy ra tại các nước nằm trong quỹ đạo của Liên Xô cũ, nơi đã đạt mức phát triển kinh tế ngoạn mục dưới thể chế dân chủ. Tuy nhiên, con số 46% đã chựng lại, vẫn không thay đổi từ 1999 cho đến nay. Trong những năm gần đây, Liên Xô và đa số các nước láng giềng của Liên Xô cũ đã trở lại với thể chế chuyên quyền. Giáo sư Fukuyama, tác giả tập tiểu luận nổi tiếng “Sự cáo chung của lịch sử” viết năm 1989, cũng đã thận trọng hơn về sự diễn biến của lịch sử, đã nhận định: "Sự thành công bất ngờ của TQ trong việc phát triển nền kinh tế tư bản trong khi vẫn duy trì chế độ độc đảng là thử thách lớn nhất đối với khái niệm cho rằng chế độ chuyên quyền sẽ sớm tàn lụi và tiêu vong. TQ đang làm chủ được sự phát triển kinh tế trong một thể chế thể độc tài, và do đó, bạn có thể kết luận rằng họ làm được điều đó nhanh hơn vì họ chuyên quyền". Mô hình phát triển TQ hiện là "một sự lựa chọn mới, khác với mô hình Tây phương, đang hấp dẫn các nước như Châu Phi, nơi nền dân chủ đã sớm nở rộ sau chiến tranh lạnh, nhưng ngày nay đang nhìn về Bắc Kinh như một nguồn khích lệ. Bộ trưởng lao động Nam phi tuyên bố trong chuyến thăm TQ năm 2007: Rõ ràng có điều gì đó đúng về những gì TQ đang làm, và Nam Phi có nhiều điều cần học hỏi qua việc trao đổi kinh nghiệm với TQ". Mô hình phát triển TQ cũng đang lôi cuốn Nga. Trong bài viết tháng 10/2009 trên NewYork Times "Giới lãnh đạo Nga xem Trung Quốc như là thể khuôn mẫu cai trị" (6), Clifford J. Levy phân tích rằng nước Nga sau khi trải nghiệm những ngày tháng đen tối của tiến trình chuyển đổi qua nền kinh tế thị trường, đang hổ thẹn vì nền kinh tế lệ thuộc nặng nề vào dầu, khí đốt và tài nguyên thiên nhiên, nay thán phục TQ về "khả năng sử dụng hệ thống chính trị một đảng có thể duy trì được sự kiểm soát quốc gia, đồng thời vẫn phát triển kinh tế với mức tăng trưởng cao". Nga chắc chắn sẽ không trở lại thời kỳ cộng sản cũ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Vladimir V. Putin và đảng của ông, United Russia, đang chuyển dần theo mô hình phát triển chính trị và kinh tế của TQ". Trong cuộc họp mặt với các viên chức TQ ngày 9/10/2009 tại Trung Quốc, Aleksandr D. Zhukov, phó thủ tướng và phụ tá cao cấp của ông Putin đã ngợi khen "Những thành tựu của đảng Cộng Sản TQ trong việc phát triển chính quyền xứng đáng được đánh giá cao". Và ông Zhukov đã mời Tổng bí thư đảng Cộng Sản TQ Hu Jintao đến tham dự đại hội đảng United Russia tháng 11/2009 tại St. Petersburg. * Các luận cứ quan trọng từ các phản ứng của các nhà vận động dân chủ trước làn sóng TQ, như Niall Ferguson, Harvard, cho rằng "không có gì chắc chắn là TQ có thể duy trì cấu trúc quyền lực hiện nay". Giáo sư Fukuyama biện luận: "Dân chủ cuối cùng vẫn có thể thắng thế ngay tại TQ. Nếu như lợi tức đầu người tăng lên gấp đôi trong vòng 10-15 tới, ở mức lợi tức mà nền dân chủ chuyển mình tại Nam Hàn và Đài loan, phải chăng lúc ấy sẽ có áp lực đòi dân chủ hóa? (7). Một luận điểm quan trọng khác được Fukuyama nhấn mạnh trong cuộc phỏng vấn trên Die Welt: "Tạm thời thì Trung Quốc được cái ân huệ là có các nhà lãnh đạo nhiều năng lực. Nhưng trước đó thì Trung Quốc có Mao Trạch Đông. Thiếu một hình thức ràng buộc trách nhiệm kiểu dân chủ thì không gì có thể ngăn cản một Mao Trạch Đông mới lại xuất hiện." (8) Ngày nay thế giới đang đặt kỳ vọng vào hai ngôi sao mới nổi là Ấn Độ và Brazil, hai nền kinh tế tư bản đang phát triển trong khuôn khổ của nền chính trị dân chủ, như những chứng cứ cho sự thành công của con đường phát triển dân chủ. Cả hai nền kinh tế này vẫn ở khoảng cách khá xa so với TQ, song hứa hẹn nhiều triển vọng. Bài bình luận "Brazil cất cánh" trên The Economists (9), số ngày 12/11/2009 nhận định: Gần một thập niên trước, khi các nhà kinh tế của Goldman Sachs ghép Brazil với Russia, India, và China (BRIC) là bốn nền kinh tế sẽ khống chế thế giới, thì đã có nhiều người muốn gở bỏ chữ B trong BRIC đi. Mối ngờ vực này nay đã rõ là sai lầm. Một số nhà phân tích nêu lên những lợi thế của Brazil trong nhóm BRIC: Khác với India, Brazil không có các nhóm phiến loạn, các xung đột về sắc tộc, tôn giáo, và với nước láng giềng. Khác với TQ, Brazil là một nước dân chủ. Khác với Nga, Brazil xuất khẩu dầu nhiều hơn là vũ khí, và tôn trọng các nhà đầu tư. Brazil đang nhanh chóng hồi phục từ cuộc khủng hoảng kinh tế, là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, hiện là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới, và được nhiều nhà phân tích dự đoán sẽ vượt qua Anh, Pháp, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong thập niên tới. Ấn Độ từ bỏ con đường phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa từ khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 và duy trì nền dân chủ đầy khó khăn của mình. Mức độ tăng trưởng quanh con số 9% trong những năm gần đây và sự phục hồi nhanh chóng trước cuộc khủng hoảng hiện là những thành tựu rất ấn tượng. Bài bình luận "Miền đất hứa hẹn phía Đông" trên The Economists (10), số tháng 19/11/2009, lưu ý rằng sự phục hồi kinh tế của Ấn Độ không dựa nhiều vào gói kích thích lớn như TQ, và mức độ của đầu tư vào sản xuất và cơ sở hạ tầng cũng cân đối hơn. Ấn Độ hiện là ngôi sao của ngành công nghệ thông tin, vốn đầu tư của Nhật vào nước này đang vượt qua TQ, và ngành điện tử của Nam Hàn đang đổ bộ vào đất nước này. Nền kinh tế Ấn Độ hiện đứng thứ 12 trên thế giới, phát triển khá cân đối vì không lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu và có thị trường nội địa khá mạnh. Tác giả bài bình luận cho rằng trong trường kỳ, Ấn Độ sẽ vượt qua ngay cả TQ. *** Sự phát triển của Trung Quốc là niềm khích lệ cho các nước đang phát triển, có thể có cơ hội vươn lên từ đói nghèo và lạc hậu. Song, nó cũng là mối đe dọa đáng lo ngại, nhất là đối với các quốc gia láng giềng, vì TQ là một nước chuyên quyền. Trong mối bang giao giữa TQ và Hoa Kỳ, các nhà quan sát nhận thức rằng kết quả của các nỗ lực tăng cường hợp tác quân sự giữa hai nước sẽ rất hạn chế. Tuy nhiên, họ hy vọng rằng "sự phụ thuộc lẫn nhau về phương diện kinh tế ngày càng gia tăng giữa hai nước sẽ là nền tảng để hai bên tránh các cuộc xung đột" (11). Trên bình diện thế giới cũng thế. Trong bối cảnh của nền kinh tế toàn cầu hội nhập ngày nay, TQ cũng sẽ phải lệ thuộc vào các nền kinh tế khác để có thể duy trì được mức tăng trưởng và sự thịnh vượng, và do đó sẽ phải thận trọng cân nhắc trong các chiến lược phát triển kinh tế và quân sự. Trên một góc độ khác, dù rằng các nhà đầu tư, các cường quốc chỉ quan tâm đến lợi nhuận và quyền lợi quốc gia, chỉ lên án một cách chiếu lệ các vấn đề nhân quyền và bình đẳng xã hội, song sự phát triển kinh tế đơn thuần sẽ phiến diện nếu như những thành tựu không được phân bố rộng rãi đến các tầng lớp dân chúng, và khi các quyền căn bản của người dân không được tôn trọng và bảo vệ. Hãy thử hình dung, nếu nơi bạn đang tạm cư là một nước có nền dân chủ phát triển, các quyền căn bản về tự do và bình đẳng đến với người dân mặc nhiên và thiết yếu như không khí hít thở. Rồi bỗng dưng một ngày nào đó, người dân bị tước đoạt tất cả các quyền căn bản ấy. Họ không được tự do chọn người đại diện trong chính phủ. Bị bỏ tù, tra tấn vì phát biểu chống đối chính phủ. Phải đút lót để có được cơ hội thăng tiến, và các viên chức chính phủ giàu sụ lên nhờ tham nhũng sống nhởn nhơ mà không bị trừng phạt. Nếu những điều tồi tệ này xảy ra, thì người dân sẽ nghĩ gì? làm gì? Tôi đoan chắc rằng dân chúng sẽ lồng lộn lên vì tức giận, sẽ xuống đường biểu tình đấu tranh, cho dù phải đổ máu, phải hy sinh, để giành lại các quyền đã mất, như thể giành lại không khí, hơi thở để sống. Dân chủ, vì vậy không phải chỉ vì cơm với áo. Cơm áo dù rất thiết thực cho cuộc sống, song cuộc sống không phải chỉ có cơm áo. Trần Bình 12/2009
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 4:16:49 GMT 9
Khủng hoảng tài chánh, kích cầu và kiệm ước Nguyễn Trường KHAN HIẾM THANH KHOẢN VÀ KHUY KHIẾM NGÂN SÁCH Trước các dấu hiệu khập khiểng trong phục hồi kinh tế Hoa Kỳ, thị trường tích sản suy sụp, giá công khố phiếu gia tăng, lợi nhuận[1] sụt giảm, và đồng USD lên giá so với đồng euro. Giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Wall Street đã sụt giảm tiếp theo sau quyết định của Cục Dự Trữ Liên Bang mua vào các công khố phiếu. Thống kê cập nhật về ngoại thương xác nhận tỉ suất tăng trưởng của Hoa Kỳ rất yếu ớt. Chỉ số tích sản đã sụt giảm ít ra 2,5% khi thị trường chứng khoán đóng cửa, vừa đúng một ngày sau khi Cục Dự Trữ công bố đà phục hồi kinh tế đã chậm lại, và đã có quyết định tái luân chuyển qua Ngân Khố ngân khoản mới thu hồi trong gói trái phiếu có thế chấp bất động sản. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng đã biết rõ cân thương mãi hữu hình ảm đạm đã đưa đến việc tái thẩm định tỉ suất tăng trưởng trong quí II. Khuy khiếm trong chương mục vãng lai của Mỹ đã gia tăng bất thần lên 18,8% trong tháng 6, do xuất khẩu sụt giảm. Khi thị trường chứng khoán đóng cửa vào ngày 10-8, chỉ số kỹ nghệ trung bình Dow Jones đã sụt giảm 265,42 điểm hay 2,49%, xuống mức 10.378,83, trong khi chỉ số Standard & Poor sụt 31,59 điểm, hay 2,82%, xuống còn 1.089,47. Chỉ số Nasdaq đã sụt giảm 68,54 điểm, hay 3%, xuống còn 2.208,63. Suy giảm xẩy ra trong nhiều địa hạt, dẫn đầu bởi nguyên liệu và cổ phiếu. Nhiều khu vực S&P sụt giảm ít nhất cũng 2%. Đối diện với bất trắc, nhiều nhà đầu tư đã bất động, lẫn tránh thị trường. Cổ phiếu trên ba thị trường chứng khoán Hoa Kỳ nay đã xuống thấp nhất trong năm, với Nasdaq sụt 2,5%. Ở Luân Đôn, chỉ số FTSE 100 sụt 131,20 điểm, hay 2,45%; chỉ số DAX ở Frankfurt sụt 132,18 điểm, hay 2,1%; chỉ số CAC 40 ở Paris sụt 102,29 điểm, hay 2,7%. Chứng khoán Á châu phần lớn cũng mất giá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc (TQ) cũng đã có dấu hiệu nguội dần. Trong khi giá chứng khoán sụt giảm, giá các trái phiếu Ngân Khố lại tiếp tục gia tăng. Tỉ suất lợi nhuận xuống mức thấp chưa từng thấy trong hơn một năm qua. Trái phiếu Ngân Khố thời hạn 10 năm đã sụt từ 2,76 xuống còn 2,68 % hôm thứ ba 10-8-2010. Dầu thô cũng sụt giá, giảm 2,27 USD, hay 2,8%, xuống còn 77,98 USD một barrel, trước tin kinh tế TQ đã có dấu hiệu bớt nóng và tăng trưởng ở Hoa Kỳ đã chậm lại. Khuy khiếm trong cân thương mãi hữu hình của Hoa Kỳ gia tăng nhanh vì nhập khẩu tiếp tục gia tăng, nhất là xe hơi và các tiêu thụ phẩm. Nigel Gault, kinh tế trưởng Hoa Kỳ, thuộc IHS Global Insight, cho biết: khuy khiếm cùng với các tín hiệu suy yếu khác chứng tỏ tỉ suất tăng trưởng trong quí II chỉ ở mức 1,2 %, so với dự phóng nguyên thủy của chính quyền 2,4%. Kinh tế Hoa Kỳ, vì vậy, mong manh hơn nhiều, và Cục Dự Trữ đã phải nới lỏng tín dụng. Nhưng Gault cũng tiên đoán khuy khiếm thương mãi có thể sẽ cải thiện trong những tháng tới - nhập khẩu có thể chậm lại vì số cầu của giới tiêu thụ suy giảm. Stuart A. Schweitzer, chiến lược gia thị trường toàn cầu của Ngân Hàng J.P. Morgan, cũng cho biết: các số liệu về mậu dịch và tăng trưởng đã báo hiệu tình trạng trì trệ lúc một nghiêm trọng hơn. Schweitzer nói: " Bất trắc sẽ rất cao. Tôi luôn có quan điểm, với giai đoạn tăng trưởng đã lùi vào quá khứ, các nhà đầu tư sẽ hành động tùy theo các dữ kiện kinh tế vĩ mô, và cho tới nay các dữ kiện nầy không mấy thuận lợi. Quả thật, tình hình đã không như tất cả chúng ta mong muốn. Tất cả chúng ta phải công nhận bất trắc đối với tăng trưởng lúc một gia tăng"[2]. Các nhà đầu tư cũng đang đối diện với các tin tức kinh tế đáng thất vọng trong hai châu lục khác. Ở Á châu, tin tức mới nhất từ TQ cho thấy kinh tế tăng trưởng nhanh trong nửa năm đầu nay đang dần dà giảm tốc. Thống kê trong tháng 7 về sản lượng kỹ nghệ, ngạch số bán lẻ, đầu tư vào tích sản cố định, và tín dụng ngân hàng, tất cả đều cho thấy hình ảnh một xứ có tăng trưởng kinh tế mạnh mẻ nhất thế giới. Tuy nhiên, tổng chi tiêu trong những tháng cuối đang bắt đầu suy yếu. Theo Schweitzer, tất cả họp lại hình như đang báo hiệu một viễn ảnh suy thoái trái với sự mong đợi của nhiều người. Ở Âu châu, Ngân Hàng Anh Quốc đã tái thẩm định tỉ suất tăng trưởng trước tin tức các ngân hàng đã quá dè dặt trong nghiệp vụ cho vay, và nhịp phục hồi kinh tế ở Âu châu và Hoa Kỳ đã giảm thiểu. Ngân hàng trung ương Anh Quốc giờ đây dự phóng tăng trưởng tối đa chỉ ở khoảng 3%, thấp hơn 3,6% dự phóng trong tháng 5-2010. Tỉ suất lạm phát cũng đã được tái định ở mức cao và kéo dài hơn mục tiêu 2% của ngân hàng cho đến cuối năm 2011. Đồng USD tăng giá so với đồng euro - 1,2889 USD/1 euro ngày 11-8 so với 1,3196 USD/1euro ngày 10-8. Tuy nhiên, đồng USD đã mất giá đối với đồng yen, xuống mức thấp nhất trong vòng 15 năm qua, khi kết quả tái thẩm định bi quan của Cục Dự Trữ Liên Bang về kinh tế Hoa Kỳ đã thúc đẩy giới đầu tư bán Mỹ kim và mua vào đồng yen. Đồng USD đã mất giá hơn 10% đối với đồng yen trong ba tháng gần đây, và theo Electronic Brokering Services, lại sụt xuống 84,72 yen/1USD ngày 11-8-2010, mức thấp nhất kể từ 4-1995. Chỉ số Nikkei ở Nhật cũng sụt giảm 2,7%. Theo Tom di Galoma, một nhân viên cao cấp Mỹ ở Guggenheim Securities, khi hối suất đồng yen ở mức 85 yen/1USD, người ta chờ đợi giới đầu tư Nhật sẽ tìm mua các trái phiếu Ngân Khố Hoa Kỳ. Điều đáng ngạc nhiên là rất nhiều người đã không tiên liệu Cục Dự Trữ Liên Bang đã quyết định mua vào các tích sản và hiện đang chú tâm đến các tích sản đang mất giá. Quyết định của Cục Dự Trữ hôm 10-8, bắt đầu mua ít nhất 10 tỉ trái phiếu Ngân Khố mỗi tháng, đã làm ngạc nhiên giới trung gian trên các thị trường chứng khoán. Trước các tín hiệu phục hồi kinh tế đã chững lại, Cục Dự Trữ đã có kế hoạch sử dụng số tiền thu hồi khổng lồ trong gói trái phiếu có thế chấp bất động sản để mua vào các trái phiếu Ngân Khố dài hạn. Theo Galoma, quyết định của Cục Dự Trữ trong tháng 8-2010 cho thấy các nhà làm chính sách đã lo lắng nhiều hơn trước. Mọi người cảm thấy bất an trước tiến trình hồi phục thiếu ổn định. Theo Joe Battipaglia, chiến lược gia của Stifel Nicolaus, hành động của Cục Dự Trữ đã không gây thêm tin tưởng ở thị trường tích sản toàn cầu, mà chỉ làm lung lay lòng tin và đặt ra nhiều vấn đề đối với tương lai. Battipaglia nói: nền kinh tế của chúng ta ra sao mà lại đòi hỏi gia tăng lượng tín dụng. NHÂN DỤNG VÀ THẤT NGHIỆP Ở Hoa Kỳ, tình trạng nhân dụng còn tệ hại hơn nhiều so với phúc trình về số người thất nghiệp tuần rồi. Nước Mỹ đang đối diện với một cuộc khủng hoảng nhân dụng trầm trọng, và các nhà làm chính sách vẫn chưa ý thức để cấp tốc đối phó. Con số thất nghiệp trong tháng 7, công bố ngày 6 tháng 8 vừa qua, cho thấy: mặc dù khu vực tư đã đem lại 71.000 việc làm mới trong tháng, tỉ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 9,5%. Tuy tỉ lệ thất nghiệp tự nó đã đáng lo ngại, tình trạng nhân dụng trong thực tế còn nghiêm trọng hơn nhiều. Số công nhân viên nhà nước bị mất việc trong toàn quốc không phải ít. Khoảng 143.000 nhân viên tạm tuyển trong chương trình kiểm tra dân số vừa phải nghỉ việc, và 48.000 công nhân viên trong khu vực công cũng đã bị sa thải vì ngân sách khiếm hụt ở cấp tiểu bang và địa phương. Nhưng quan trọng hơn hết, trong dài hạn, tỉ lệ thất nghiệp đã không cao hơn chỉ vì 181.000 nhân công đã rời hàng ngũ lao động. Phần lớn trong số nầy đã mất việc và không có hy vọng kiếm được việc làm khác trước tình hình nhân dụng tệ hại nhất kể từ thời Đại Khủng Hoảng. Bất đắc dĩ, họ đã phải rời hàng ngũ các người lao động đang kiếm việc làm. Với phương pháp thống kê hiện nay, họ không được tính vào số người thất nghiệp. Chuyên gia nhân dụng Charles McMillion, chủ tịch và kinh tế trưởng của MBG Information Services ở Hoa Thịnh Đốn, đã nghiên cứu thị trường lao động trong nhiều năm. McMillion nói: "Trong ba tháng vừa qua, 1.155.000 người thất nghiệp đã rời hàng ngũ lao động tích cực và đã không được xem như thất nghiệp. Ngay cả khi không kể đến gia tăng dân số, nếu số người nầy không rời bỏ hàng ngũ lao động, một phép tính đơn giản cũng đủ cho thấy tỉ lệ thất nghiệp chính thức lẽ ra đã tăng từ 9,9% trong tháng 4 lên 10,2% trong tháng 7, thay vì sụt xuống mức 9,5%"[3]. Với tăng trưởng bình thường trong dân số vào độ tuổi kiếm việc làm, lực lượng lao động sẽ gia tăng khoảng từ 150.000 đến 200.000 người mỗi tháng. Nếu tính thêm con số nầy, theo McMillion, thất nghiệp hiện nay cũng sẽ ở trên mức 10,2 phần trăm. Người Mỹ hiện vẫn chưa có dấu hiệu bắt đầu đối phó với khủng hoảng nhân dụng, khác với trong thập kỷ 1930s, họ đã bắt đầu ngay cả trước nhật kỳ Đại Khủng Hoảng xẩy ra. Theo McMillion, người Mỹ đang chứng kiến một số lớn nhân công đã hết hy vọng kiếm được việc làm. Nhưng McMillion cũng nói rõ: hiện đang có một số kỹ lục những người thất nghiệp lâu dài vẫn còn đi tìm việc. Trong số 14,6 triệu chính thức được tính như thất nghiệp, gần 45% đã thất nghiệp sáu tháng hay lâu hơn. Vào đầu tháng 8, Michael Luo đã viết một bài trên báo New York Times về những người tự gọi là những "người 99" (the 99ers), có nghĩa họ đã thất nghiệp hơn 99 tuần lễ, và vì vậy, đã tận dụng phụ cấp thất nghiệp đến tối đa. Gần một triệu rưởi người đã thất nghiệp trên 99 tuần lễ - và không phải tất cả đều được hưởng phụ cấp thất nghiệp. McMillion nói: "Khi các bạn tính chung số người thất nghiệp dài lâu với những người rời bỏ hàng ngũ lao động, và những người chỉ làm việc bán thời gian vì không có việc gì tốt hơn, kết quả sẽ vượt xa những gì các bạn đã thấy trên thị trường việc làm kể từ thập kỷ 1930s"[4]. Rất có thể Hoa Thịnh Đốn đang nghĩ đến điều nầy, nhưng chắc chắn họ chưa làm gì nhiều để đối phó. Cách tiếp cận khủng hoảng nhân dụng của các chính trị gia không khác gì phân phát các dù che mưa trong bảo tố. Hàng triệu người đang đau khổ chịu đựng và toàn bộ nền kinh tế đang lâm nguy trong khi họ chỉ bận tâm với kinh phí cho chiến cuộc ở Iraq, Afghanistan, Pakistan, và bàn luận suông về phương cách quân bình ngân sách. Đến một lúc nào đó họ sẽ không còn có thể bám víu vào thái độ chối bỏ. Với 14,6 triệu người chính thức thất nghiệp, 5,9 triệu bỏ cuộc không còn tìm kiếm nhưng nói rõ họ muốn có việc làm, và 8,5 triệu đang làm việc bán thời gian nhưng muốn có công việc toàn thời gian, tóm lại, gần 30 triệu người Mỹ không thể kiếm được việc và đang cần có việc làm. Ngày một đông người trong lứa tuổi làm việc và ngày một ít việc làm dành cho họ. McMillion cho biết hiện việc làm trong khu vực tư ở Hoa Kỳ đã mất bớt 3,4 triệu so với cách đây một thập kỷ. Trong mười năm qua, chúng ta đã chứng kiến số công ăn việc làm ngày một sụt giảm xuống mức thấp nhất kể từ 1928-1938. Không phải người Mỹ đang tiến dần đến bờ vưc thẳm. Họ hiện đang ở ngay trong khu vực nguy khốn. Nước Mỹ sẽ không còn là một xã hội ổn định nếu cuộc khủng hoảng nhân dụng lớn lao hiện nay không sớm được giải quyết. Không ai có thể cho phép tình trạng thất nghiệp ở tầm cỡ nầy ngày một trầm trọng hơn. Đó là một lỗi lầm tai họa không thể tha thứ, dù là một điều khó tránh. KINH TẾ ĐỨC VÀ LIÊN HIỆP ÂU CHÂU Chính quyền Liên Bang Đức đã tranh luận với các đối tác Âu châu trong quá trình tìm phương thức đối phó với khủng hoảng tài chánh, với Hoa Kỳ về lợi ích kích cầu hay kiệm ước, và quyết tâm theo đuổi viễn kiến của chính mình nhằm duy trì một nền kinh tế lành mạnh. Thống kê công bố ngày 13-8 đã tăng cường quan điểm của người Đức là họ đã tìm được phương thức đúng. Theo đó, tỉ suất tăng trưởng trong hai quí đầu 2010 là 2,2 %, cao nhất kể từ ngày thống nhất Đông và Tây Đức cách đây 2 thập kỷ, tương đương với gần 9% cho toàn năm 2010, nếu tỉ suất được duy trì cho đến cuối năm. Các con số tăng trưởng mạnh mẽ dĩ nhiên đã củng cố niềm tin: khác với các đối tác Âu châu, giới lao động và quản lý các công ty Đức trong những năm gần đây đã chấp nhận những hy sinh cần thiết trong đoản kỳ để bảo đảm thành công trong trường kỳ. So với Hoa Kỳ, họ đã giải quyết khủng hoảng tài chánh và suy thoái đi kèm hiệu quả hơn nhiều. Và người Đức cũng không bao giờ ngần ngại nhắc nhở: chính Hoa Kỳ đã đưa thế giới vào cuộc khủng hoảng hiện nay. Mở rộng chương trình - trả tiền để giúp công nhân tiếp tục làm việc, thay vì đợi họ mất việc rồi mới tìm cách cứu trợ - là biện pháp trực tiếp nhất được áp dụng ngay khi khủng hoảng đang trong thời kỳ cao điểm . Nhưng gốc rễ của sự thành công dựa trên xuất khẩu làm đầu tàu của Đức đã bắt nguồn từ kế hoạch tái cấu trúc kinh tế đầy gian nan dưới thời Thủ Tướng Gerhard Schröder. Với các biện pháp cắt giảm phụ cấp thất nghiệp, thủ tục tuyển dụng và sa thải dễ dàng, đồng thuận giữa giới quản lý và công nhân trong việc ấn định mức lương, người Đức một lần nữa đã thành công dùng xuất khẩu làm đầu tàu cho tăng trưởng, với hậu thuẩn của các công ty nhạy bén, có đủ khả năng cạnh tranh, biết lựa chọn sản xuất các loại xe và máy móc dụng cụ, cần thiết để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của các nền kinh tế dù mới trỗi dậy hay đã phát triển. Người Đức đã tránh đi theo con đường kích cầu qua việc khuyến khích vay nợ để chi tiêu, theo họ, đã là nguyên nhân đưa đến khủng hoảng. Suốt trong chiều dài suy thoái, thủ tướng Angela Merkel luôn đề kháng phương thuốc kích cầu hay tăng công chi - những biện pháp Hoa Kỳ và một số đối tác Âu châu xem như thiết yếu cho phục hồi kinh tế. Cuộc tranh luận về phương cách xử lý khủng hoảng đã giúp làm sáng tỏ hình ảnh một nước Đức hậu chiến tranh lạnh, đang tự khẳng định như một quốc gia không chấp nhận những áp lực và thuyết giảng từ bên ngoài - một thái độ gây căng thẳng trong quan hệ với các đối tác Âu châu. Mặc dù còn nhiều vấn đề nội bộ phải giải quyết, nước Đức cũng đã không còn quá bận tâm với các tội phạm lịch sử của chính mình và luôn tự hào với mô hình kinh tế đặc thù, bản sắc văn hóa riêng, và vị trí được cải thiện trên trường quốc tế. Jenny Wiblishauser, một bà mẹ độc thân 33 tuổi, ở Memmingen, cho biết: bà rất hãnh diện trước thái độ thận trọng tài chánh, và không bị lay chuyển bởi làn sóng phê bình từ các lãnh đạo nước ngoài, của chính quyền Đức. Bà nói: "Trước đây, người Hy Lạp có thể gọi chúng tôi là Quốc Xã, và chúng tôi cũng đã tỏ ra dễ tổn thương. Ngày nay, người ta không ngần ngại trả lời: 'Vâng, tôi sẽ không đến đó để nghỉ dưỡng' "[5]. Vài nhà phê bình Âu châu đánh giá thái độ tự tin đó như mang tính tự tôn trong cuộc tranh luận hiện nay về vấn đề cứu trợ Hy Lạp và giúp phục hồi lòng tin vào đồng euro đang gặp khó khăn. Theo Thomas Klau, một chuyên gia về hội nhập, thuộc Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại Âu Châu, thái độ khinh khi kẻ cả của các hảng thông tấn Đức đối với Hy Lạp đã gây quan ngại giữa các đồng minh về một nước Đức tự khẳng định đang trỗi dậy. Klau nói: "Điều nầy, giống như tiếng chuông cảnh tỉnh đối với phần còn lại của Âu châu, là một cái gì đó đã thay đổi ở Đức Quốc"[6]. Trong giao thời, quan hệ giữa Pháp và Đức đã trở nên gắt gỏng và đầy bức xúc, ảnh hưởng tai hại đến tương lai của dự án hội nhập Âu châu. Như thống kê mới nhất cho thấy, sản lượng của Đức ngày một vượt xa các xứ láng giềng, gây e ngại một Âu châu với hai tỉ suất tăng trưởng chênh lệch sẽ khó lòng duy trì sự ổn định của đơn vị tiền tệ chung - đồng euro. Tỉ suất tăng trưởng của kinh tế Pháp, 0,6% trong quí II, chỉ bằng một phần nhỏ của Đức. Kinh tế của Tây Ban Nha chỉ tăng trưởng òi ọp 0,2%, trong khi kinh tế Hy Lạp tiếp tục suy thoái với tỉ suất âm -1,5%. Nếu các nhà làm chính sách ở Berlin đúng và kinh tế Đức đã thực sự phục hồi, trước mắt mọi người, họ sẽ được xem như khôn ngoan sáng suốt. Nếu tiến trình phục hồi mong manh và sụp đổ, như các dấu hiệu đáng lo - đà hồi phục ở Hoa Kỳ đã chậm lại và kinh tế Trung Quốc bắt đầu mất trớn, người Đức có thể bị chỉ trích là đã làm quá ít để giúp kinh tế Âu châu và toàn cầu. Các quan chức Đức tin chắc: họ đã chọn cách tiếp cận đúng, kể cả một giải pháp tốt hơn cho vấn đề thất nghiệp. Họ đã triển khai "Kurzarbeit" - chương trình khuyến khích các công ty cho công nhân nghỉ phép và cắt giảm giờ làm việc hàng tuần thay vì sa thải, và sử dụng quỹ bù trừ, do công nhân và công ty cùng đóng góp lúc bình thường, để bù vào số lương bị sụt giảm. Vào thời điểm cao nhất, tháng 5-2009, khoảng 1,5 triệu công nhân ghi tên tham gia chương trình. Tổ chức OECD (Organization for Economic Cooperation and Development) gần đây đã ước tính, vào quí III năm 2009, giải pháp nầy đã giúp hơn 200.000 công nhân khỏi mất việc. Kinh tế Đức đã phục hồi rất rõ rệt trong những thành phố nhỏ như Memmingen, trong vùng Swabia lịch sử. Khu thị tứ, sơn phết sáng sủa, trong thành phố thịnh vượng nầy, hiện diện như một câu chuyện thần thoại ở Đức, bên ngoài những thành quách Trung Cổ của thành phố cổ Memmingen. Memmingen, tuy nhỏ bé, là một phần trong bức tranh nhân dụng toàn quốc tái khởi sắc, và đã được chính thủ tướng Merkel xem như một phép lạ. Sau một năm 2008 đạt kỹ lục, đơn đặt hàng các sản phẩm điện từ của xí nghiệp Magnet-Schultz đã sụt giảm nhanh chóng. Gần 1/3 trong số hơn 1.500 công nhân được xếp vào "chương trình làm việc ít giờ" . Kết quả: chỉ có 57 công nhân bị mất việc. Wolfgang E. Schultz là chủ tịch, và con trai - Albert, giữ chức phó chủ tịch từ tháng 1-2010. Đây là một xí nghiệp gia đình do ông nội của Wolfgang E. Schultz thành lập cách đây gần 100 năm. Chủ tịch Schultz tuyên bố: mục tiêu là duy trì xí nghiệp về lâu về dài, công ty chỉ để mất càng ít thợ chuyên môn càng tốt. Ông hứa sẽ thuê lại những người đã cho nghỉ việc khi tình hình được cải thiện. Cho đến nay, 40 trong số nầy đã được tái tuyển. Xuất khẩu của Đức trong tháng 6 đã gia tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước, tỉ suất cao nhất kể từ khủng hoảng tài chánh tháng 10-2008. Với đà phục hồi, các công ty như Magnet-Schultz đã thành công giúp giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp xuống mức 3,4% ở Memmingen, 50% thấp hơn tỉ lệ thất nghiệp trung bình toàn quốc - 7,6%. Trả lời phỏng vấn, chủ tịch Schultz tuyên bố: "Chính quyền đã hành động đúng đắn khi quyết định mở rộng chương trình làm việc ít giờ, bởi lẽ chương trình nầy đã giúp bắc cầu qua thời buổi khó khăn"[7]. Kể từ khi khủng hoảng tài chánh bắt đầu, thủ tướng Merkel đã là nhà lãnh đạo luôn chọn chính sách khắc khổ và kiệm ước, một tầm nhìn đã được nhóm G20, tại hội nghị thượng đỉnh Toronto vào cuối tháng 6-2010, noi theo, khi lãnh đạo các nền kinh tế lớn nhất thế giới hứa hẹn sẽ giảm thiểu số thâm thủng ngân sách. Mặc dù uy tín của thủ tướng Merkel đã lên cao trên chính trường quốc tế, chính quyền của bà cũng đã phải đấu tranh để lật ngược kết quả thăm dò công luận trong nước hết sức bất lợi. Mặc dù lập trường của bà đã phản ảnh đúng ý dân và tin tức kinh tế thuận lợi, công luận vẫn tiếp tục âu lo về tương lai kinh tế. Mặc dù chính sách kiệm ước đã giúp nước Đức cải thiện khả năng cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu, vượt qua các đối tác Âu châu ít kỹ luật, và yếu đuối hơn, chính các biện pháp kiểm soát lương bổng chặt chẽ, tăng tuổi hưu trí từ 65 lên 67, giảm mức trợ cấp xã hội, cho phép tuyển dụng và sa thải dễ dàng, cũng đã đưa đến cảm giác bất an sâu sắc. Bà Wiblishauser, người mẹ độc thân ở Memmingen, đã sống nhờ chương trình trợ cấp xã hội một tháng trong năm 2006, dưới tên Hartz IV. Mặc dù ngày nay làm việc như một trợ lý tư vấn về thuế vụ, bà nói trở lại sống nhờ trợ cấp xã hội là nguồn lo âu hãi hùng nhất. "Nó đem lại cho người thụ hưởng một cảm giác 'sợ hãi hiện sinh' "[8]. Các đối tác của Đức đã khuyến dụ, van nài, và đòi hỏi chính quyền Berlin phải khuyến khích giới tiêu thụ chi tiêu nhiều hơn, để giúp đem lại quân bình giữa các thành viên trong khu vực Euro. Nhưng Wiblishauser vẫn cảm thấy viễn tượng phải chi tiêu để giúp các xứ Âu châu khác là điều đáng ghê tởm. Giống như nhiều người Đức khác, Wiblishauser cho biết bà không thấy lợi ích gì khi làm thành viên Liên Hiệp Âu châu. Bà nói "Tôi thực sự sẽ thích thú hơn nếu chúng tôi tự túc , giống như người Thụy sĩ"[9]. Theo các số liệu công bố ngày 13-8-2010, kinh tế khu vực euro đã tăng trưởng 1% trong quí II năm 2010, một tỉ suất cao hơn chờ đợi, vì tỉ suất tăng trưởng cao nhất của kinh tế Đức kể từ ngày thống nhất đã bù đắp vào tỉ suất thấp của Tây Ban Nha, Ý, và tỉ suất âm của Hy Lạp. Sở thống kê Eurostat của Liên Hiệp Âu châu đã báo cáo: Tăng trưởng trong GDP của khu vực Euro đã nhanh nhất trong bốn năm, so với 0,2% trong qúi I. Các kinh tế gia đã cảnh báo Âu châu có thể sẽ không duy trì được tỉ suất nầy trong suốt năm. Và các số liệu cũng làm nổi bật sự khác biệt trong tỉ suất tăng trưởng giữa Đức và các quốc gia Nam Âu, trung tâm của cuộc khủng hoảng công trái. Theo Chris Williamson, kinh tế trưởng của Markit, tỉ suất tăng trưởng 2,2 % ở Đức tương phản với tỉ suất âm -1,5% ở Hy Lạp (đang chìm đắm trong suy thoái), tỉ suất khiêm tốn 0,2 % của Tây Ban Nha, và 0,4% của Ý. Tuy nhiên, đà tăng trưởng mạnh mẻ ở Đức đã đem lại hy vọng: sự thành công của Đức có thể có "ảnh hưởng vệt dầu loang" qua các xứ Âu châu khác. Các kinh tế gia Ngân hàng Credit Suisse, trong phúc trình ngày 13-8-2010, đã viết:" Trong thời gian nhiều người đang âu lo về tiến độ hồi phục của Mỹ, điều thật đáng chú ý là hồi phục ở Đức đang khởi đầu khá mạnh mẽ và bền vững. Khuynh hướng gia tăng trong chi tiêu và nhập khẩu của giới tiêu thụ Đức có thể có tác động tích cực đến phần còn lại của khu vực euro, kể cả các xứ ngoại vi đang gặp khó khăn"[10]. Các nhà phân tích đã chờ đợi khu vực euro nói chung sẽ tăng trưởng ít hơn 1% trong quí II, với vài người tiên đoán tỉ suất sẽ gần với số không. Đức, với xuất khẩu đang gia tăng, đã tăng trưởng 2,2% so với quí I, một tỉ suất cao nhất kể từ ngày thống nhất Đông và Tây Đức cách đây hai thập kỷ. Kết quả thăm dò của 34 kinh tế gia hãng Reuters tiên đoán: tăng trưởng 1,3%. Sau khi các số liệu được công bố, người ta thấy có dấu hiệu các nhà đầu tư không còn muốn nắm giữ các tích sản nhiều bất trắc. Họ e ngại tỉ suất tăng trưởng tương phản trong khu vực rất có thể gây trở ngại cho hồi phục kinh tế trong tương lai. Các tỉ suất lợi nhuận (yield) - các nhà đầu tư đòi hỏi để giữ các trái phiếu chuẩn mực của Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ý, và Ái Nhĩ Lan - đều gia tăng, trong khi mức lợi nhuận các trái phiếu Đức lại sụt giảm. Chứng khoán ở Âu châu sụt giảm vì những lo ngại tương tự. Chứng khoán Euro Stoxx 50 sụt giảm 0.4%. Hối suất đồng euro sụt xuống mức 1,2755 USD ngày 13-8, so với 1,32 vào đầu tuần. Thống kê về mậu dịch do Eurostat công bố ngày 13-8 phản ảnh sự khác biệt lớn lao giữa Bắc và Nam Âu châu. Cân thương mãi Đức thặng dư 60,2 tỉ euros, hay 76,9 tỉ USD, trong thời gian từ tháng giêng đến cuối tháng 5, vượt xa phần còn lại của Âu châu. Như Rolf Schneider, kinh tế gia công ty bảo hiểm Đức Allianz, đã viết: "Nhờ tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, kinh tế Đức đã hưởng lợi nhiều hơn hầu hết các xứ khác từ sự tái khởi sắc nhanh chóng trong mậu dịch quốc tế"[11]. Thực vậy, các công ty Đức có vẻ đã hưởng lợi từ sự kiện: nỗi âu lo của các nhà đầu tư về khả năng hoàn trái của Hy Lạp và Tây Ban Nha đã đẩy giá trị đồng euro xuống thấp so với đồng USD. Do đó, giá hàng xuất khẩu của Đức đã thấp hơn trên các thị trường nước ngoài. Chẳng hạn, ngày 13-8, hảng xe Volkswagen cho biết đã bán hơn bốn triệu xe hơi từ tháng giêng đến tháng 7, cao hơn số xe bán được cùng kỳ trong các năm trước. Tuy nhiên, VW cũng cảnh cáo thị trường xe hơi đã trở nên ngày một khó khăn hơn. Với một vài ngoại lệ, như Hà Lan và Ái Nhĩ Lan, phần lớn cân thương mãi của các quốc gia Âu châu năm nay đều khuy khiếm lớn. Anh quốc, khuy khiếm lớn nhất, với 42,8 tỉ euros trong năm tháng đầu của 2010, trong khi Tây Ban Nha và Pháp cả hai đều khuy khiếm hơn 20 tỉ euros. Ở Pháp, GDP đã tăng 0,6% trong quí II, từ 0,2 % trong quí I. Tăng trưởng trong quí II hơi cao hơn con số dự phóng 0,5% theo kết quả thăm dò của Reuters. Kinh tế trưởng Commerzbank, Jorg Krämer, cảnh báo: vài con số gia tăng ở Đức chỉ là kết quả của các dự án xây cất bị trì hoãn bởi mùa đông giá buốt một cách bất thường. Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh, tỉ suất tăng trưởng 1,5% vẫn còn rất lành mạnh. Krämer cũng nêu rõ tăng trưởng 2,2% mỗi quí tương đương với tỉ suất cao trọn năm - gần 9%, rất khó duy trì dài lâu. Ông nói: "Chúng ta có tín hiệu báo động từ TQ. Không có động lực nào đến từ phần còn lại của Âu châu. Hình như chỉ ở mức ôn hòa trong tương lai"[12]. Tuy nhiên, Ngân hàng đã nâng dự phóng tăng trưởng ở Đức lên 3,25% cho toàn năm 2010. Ngay cả với tăng trưởng gần đây, Âu châu cũng chỉ có thể bù đắp khoảng 1/4 ngạch số sản lượng đã mất trong suy thoái. Điều nầy, cùng với sức ép lên giá cả, dù chỉ nhẹ nhàng, có nghĩa: Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu sẽ giữ lãi suất căn bản ở mức thấp kỹ lục cho đến 2011. Theo Sở Thống Kê Liên Bang, chi tiêu của giới tiêu thụ Đức, thường rất yếu ớt ngay cả khi kinh tế phồn thịnh, cũng đã góp phần nâng cao mức tăng trưởng, trong khi số người lao động đã gia tăng 0,2% so với năm trước, đạt con số 40,3 triệu. Số chi tiêu ở Đức cũng đã giúp ít nhiều phần còn lại của Âu châu. Tuy nhiên, giới lãnh đạo của vài xứ đã phàn nàn Liên Bang Đức đã không làm nhiều hơn để chuyển biến số thặng dư xuất khẩu thành số cầu hàng hóa và dịch vụ trong các xứ đối tác Âu châu. Bằng chứng tăng trưởng mạnh ở Đức sẽ khuyến khích Thủ Tướng Angela Merkel đẩy mạnh kế hoạch giảm chi và cắt giảm khuy khiếm trong ngân sách nhà nước, một việc làm đã được Jean-Claude Trichet, Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương Âu châu, ủng hộ mạnh mẻ. Các nhà chỉ trích lại nghĩ, biện pháp kiệm ước có thể chờ đợi cho đến khi tăng trưởng Âu châu bền vững hơn. Gần đây, Trichet đã tỏ vẻ lạc quan về kinh tế khu vực euro, đồng thời cũng cảnh cáo tình trạng kinh tế toàn cầu còn thiếu ổn định và nguy cơ hay bất trắc vẫn còn nhiều. Theo tài liệu ngân hàng trung ương, tín dụng ngân hàng còn yếu ớt, và hệ thống tài chánh còn quá mong manh. Trong khi Hy Lạp, dù đã có nhiều tiến bộ cắt giảm khuy khiếm ngân sách, vẫn còn phải đối diện với nguy cơ các nhà đầu tư , vì âu lo khả năng hoàn trái, có thể buộc phải rời khỏi khu vực euro. Theo Insee, cơ quan thống kê quốc gia Pháp, chi tiêu của các hộ gia đình Pháp cũng đã gia tăng 0,4% sau khi ngưng trệ trong quí I, đầu tư gia tăng 0,8% trong quí II , và hàng tồn kho cũng gia tăng, những yếu tố đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ngoại thương đã gây trở ngại cho tăng trưởng, vì nhập khẩu tăng 4,2% trong khi xuất khẩu chỉ tăng 2,7%. Oscar Bernal, chuyên gia phân tích của ING, cho biết: "Chúng tôi chờ đợi kinh tế Pháp sẽ chậm lại ít nhiều trong nửa năm sắp tới, vì kỹ nghệ - nhất là kỹ nghệ xe hơi - giảm tăng trưởng và không thể hưởng được gì nhiều từ sự phục hồi trong mậu dịch quốc tế"[13]. Bernal nói, một sự chững lại như thế là tin chẳng lành đối với chính quyền, vào đúng thời điểm cần củng cố hệ thống tài chánh. Pháp hiện đang bị thâm thủng ngân sách lớn nhất trong khu vực euro và có kế hoạch cắt giảm phần lớn số khiếm hụt trước năm 2013. Christine Lagarde, bộ trưởng tài chánh Pháp, cho biết: một vòng tăng trưởng tích cực (virtuous circle of growth) có sẵn trong khi các công ty đang trên đường tăng đầu tư và vun đắp hàng tồn kho trở lại. Bà còn nói, điều nầy sẽ giúp đem lại công ăn việc làm một cách tiệm tiến, và nâng cao khuynh hướng tiêu thụ, và bà cũng vững tin nước Pháp có thể thành đạt mục tiêu tăng trưởng hàng năm lối 1,4% trong năm nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 9, 2010 4:17:29 GMT 9
KÍCH CẦU VÀ KIỆM ƯỚC
Thông thường, trước áp lực lạm phát, chính quyền phải thắt chặt chính sách tiền tệ và tín dụng. Lãi suất lên cao đưa đến suy thoái.
Lần nầy khủng hoảng tài chánh lại bắt đầu từ các khó khăn trong cân chi phó: các thiệt hại về tài chánh của các hộ gia đình và ngân hàng tiếp theo sau sự sụp đổ của thị trường tín dụng và bất động sản.
Ở Hoa Kỳ, các hộ gia đình đã đánh mất hơn 20% tích sản ròng trong vòng 18 tháng suy thoái, từ 64.400 tỉ USD giữa tháng 7-2007 xuống còn 51.500 tỉ vào cuối 2008 - 2/3 tài sản các loại và 1/3 bất động sản. Hiện nay, lợi tức trung bình mỗi hộ gia đình còn khoảng 50.000 USD mỗi năm, số nợ khoảng 130% số thu nhập năm 2008. Chính quyền Mỹ đã phải tung ra gói kích cầu 700 tỉ hay 5% GDP, và 19 tháng trước đây, đã phải chi ra 13.000 tỉ bảo lãnh các trái phiếu và các khoản đầu tư cho hệ thống tài chánh và ngân hàng. Tổng số công trái (trái phiếu ngân khố kể cả tiền lãi) đã lên đến trên dưới 14.000 tỉ. Trong thực tế, theo Keiser Report, các kinh tế gia ước tính tổng số nợ chính thức và không chính thức (cả công lẫn tư) đã lên đến 202.000 tỉ (nếu tính cả các chương trình y tế, an sinh xã hội, hưu bổng cho thế hệ baby-boomers sắp hưu trí...).
Nhật còn bị ảnh hưởng nặng nề hơn. GDP trong năm 2009 đã giảm 6,6% và còn tiếp tục sụt giảm trong năm 2010, nhất là trong khu vực xuất khẩu; khuy khiếm ngân sách trên 130% GDP.
Trong các quốc gia đang phát triển, xuất khẩu, kể cả xuất khẩu lao động, sụt giảm; đầu tư ngoại quốc giảm xuống còn 165 tỉ năm 2009 so với 461 tỉ năm 2008.
Theo chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang Ben Bernanke, không có gì khó hiểu khi các doanh nghiệp Hoa kỳ rất do dự thuê mướn nhân công trong tình huống mất ổn định bất thường hiện nay.
Ngoài lý do khủng hoảng tài chánh bắt nguồn từ các chương trình cho vay đầu cơ bất động sản cuồng loạn, nước Mỹ còn phải đối đầu với ba vấn đề lớn mang tính cơ cấu, kéo dài trong nhiều thập kỷ nay cũng đã đến lúc nghiêm trọng.
Như Mohamed El-Erian, CEO của Pimco, đã nhiều lần nhấn mạnh: Các vấn đề cơ cấu đòi hỏi những giải pháp cơ cấu. Không thể có giải pháp dễ dàng. Hoa Kỳ và Âu châu, do đó, cần một số biện pháp tái cơ cấu để xây dựng lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng bền vững - những đổi thay đòi hỏi một trình độ đồng thuận và hy sinh cao cho đến nay vẫn còn thiếu vắng trong nhiều xứ.
Vấn đề cơ cấu lớn thứ nhất là vấn đề của Mỹ. Người Mỹ vừa trải nghiệm một thập kỷ tăng trưởng qua việc vay mượn TQ để tài trợ các chương trình giảm thuế, an sinh xã hội, y tế, và hai cuộc chiến mang tính đế quốc ở Iraq và Afghanistan, mà chẳng làm gì để giảm chi hay đầu tư dài hạn trong những ngành mũi nhọn làm đầu tàu tăng trưởng. Ngày nay chính quyền Mỹ nợ nần ngày một nhiều, và tăng trưởng thực sự có thể đem lại khả năng hoàn trái ngày một ít. Nhiều người ở Hoa Kỳ nghĩ có lẽ còn cần thêm kích cầu để kích hoạt chương trình tạo công ăn việc làm, và đầu tư thực sự, nhằm đẩy nhanh tăng trưởng; ngược lại, khuyến khích tiêu thụ chỉ làm gia tăng gánh nặng nợ nần. Điều nầy có nghĩa đầu tư để bồi đắp kỹ năng và hạ tầng cơ sở, cùng với động lực thuế khóa nhằm khuyến khích thiết lập doanh nghiệp mới và phát huy xuất khẩu. Để thuyết phục Quốc Hội thông qua, chương trình phải đính kèm những biện pháp cắt giảm chi tiêu, và tăng thuế theo tiến độ phục hồi kinh tế.
Vấn đề cơ cấu thứ hai: khả năng hoàn trái của Hoa Kỳ trùng hợp với vấn đề công nghệ cao hay kỹ thuật. Với sự phổ biến của internet và máy vi tính, mạng lưới xã hội, và sự khả dĩ chuyển dịch từ máy vi tính xách tay ( laptops) và máy vi tính để bàn (desktops) đến iPads và iPhones, tiến bộ kỹ thuật đã bóp chết các việc làm đòi hỏi ít kỹ năng chuyên môn với mức thù lao vừa phải, cùng lúc tạo ra những việc làm đòi hỏi kỹ năng mới với mức thù đáp phải chăng nhưng đòi hỏi thời gian huấn nghệ dài lâu.
Cách duy nhất để đáp ứng thách đố nầy là các cải cách nhằm kích thích và khuyến khích những kỹ nghệ và việc làm mới, với mức thù đáp 40 USD một giờ, song hành với việc đào tạo công nhân Mỹ có đủ kỹ năng cạnh tranh với nhân công toàn cầu trong những ngành nghề mới.
Tuy vậy, kinh tế toàn cầu cũng cần một Âu châu với kinh tế hùng mạnh. Vì lẽ đó, vấn đề cơ cấu thứ ba Hoa Kỳ phải đối diện là Liên Hiệp Âu châu - một thị trường khổng lồ đang đối diện với tình trạng John Kornblum, nguyên đại sứ Hoa Kỳ ở Đức, gọi là cuộc "khủng hoảng hiện sinh đầu tiên của EU"[14]. Korkblum ghi nhận EU đang đối diện với nguy cơ tan rã. Đức Quốc đã nói rõ nếu eurozone muốn trường tồn, nó sẽ phải đi theo hệ giá trị lao động chỉ đạo của Đức (German work ethic), không phải của Hy Lạp. Liệu các đối tác của Đức trong khu vực euro có chấp nhận hệ giá trị mới? Không ai dám chắc.
Trước hết, các nước nầy không dễ gì theo kịp người Đức. Cách đây một thập kỷ, Đức quốc chỉ là "con bệnh của Âu châu". Nhưng thời đó đã qua. Người Đức ngày nay đã thống nhất và đoàn kết. Giới lao động chịu nhượng bộ về công xá và chấp thuận để các doanh nghiệp cải tiến kỹ năng cạnh tranh và chế độ lao động mềm dẽo, trong khi nhà nước trợ cấp cho các xí nghiệp để giữ lại các nhân công kỹ năng cao ngay cả khi kinh tế đang suy thoái.
Nước Đức đang đi lên, nhưng không phải hoàn toàn tránh khỏi các thách thức cơ cấu. Tỉ suất tăng trưởng tùy thuộc ở khả năng xuất khẩu qua Trung Quốc. Đức đồng thời cũng là nguồn cung cấp tài chánh lớn nhất cho Hy Lạp. Vã chăng, theo Kornblum, nước Đức cũng không còn là một xứ với sinh viên già nhất và giới hưu trí trẻ nhất.
Ngược lại, hai đảng lớn của Hoa Kỳ vẫn bám chặt các đức tin cơ đốc căn bản giống như đã không có gì thay đổi dưới ánh sáng mặt trời. Đảng viên Cộng Hòa luôn tìm cách cản trở, nếu không muốn nói phá hoại, mọi chính sách, chương trình của tổng thống, và luôn bám chặt ý niệm vạn ứng linh đơn "cắt-giảm-thuế-sẽ-giải-quyết-mọi-vấn-đề", mà chẳng chịu từ bỏ bất cứ dịch vụ hay quyền lợi cụ thể nào để dành tiền tài trợ giảm thuế. Tổng thống Obama đã thành công phần nào đem lại một hệ thống y tế và xã hội mở rộng cho người Mỹ trước khi tìm được phương sách bành trướng kích cỡ chiếc bánh kinh tế để trang trải các dịch vụ an sinh luật định.
Nếu tổng thống, lãnh đạo nghiệp đoàn, doanh nghiệp, Quốc Hội không thể ngồi lại với nhau tìm cho bằng được một đồng thuận về thuế khóa, phát huy mậu dịch, về năng lượng, kích cầu, cân bằng ngân sách..., tóm lại, về vấn đề xây dựng một nền kinh tế cho thế kỹ 21, phía trước mặt chắc chỉ còn thất nghiệp dài lâu và một nền kinh tế òi ọp, thiếu máu. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ KHỦNG HOẢNG
Trên phương diện lý thuyết, chủ nghĩa tư bản tin tưởng ở thị trường cạnh tranh tự do, như cơ chế phân phối tài nguyên ưu việt, và bàn tay vô hình giải quyết mọi vấn đề để đem lại quân bình kinh tế. Chủ nghĩa tư bản, vì vậy, chủ trương tư nhân hóa tối đa mọi sinh hoạt kinh tế, và chống đối mọi biện pháp giám sát và can thiệp của chính quyền.
Năm 1989, bức tường Bá Linh sụp đổ. Năm 1991, Liên Bang Xô Viết tan rã. Trong tác phẩm The End of History and the Last Man, xuất bản năm 1992, Francis Fukuyama đã chính thức tuyên bố "Điểm Chung Cuộc của Lịch Sử".
Theo nhóm Washington Consensus - giới lãnh đạo trong Bộ Ngân Khố, Cục Dự Trử Liên Bang, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế giới, và một số trường đại học nổi tiếng Hoa Kỳ - sau chiến tranh lạnh, chủ nghiã tư bản tự do là hệ thống duy nhất đã vượt qua thử thách và thích hợp với thế giới ngày mai. Theo họ, toàn cầu hóa - tiến trình hội nhập các nền kinh tế và các đại công ty đa quốc gia qua mậu dịch và đầu tư quốc tế - là nguyên tắc chỉ đạo, là phương châm hành động. Họ chủ trương: quân bình ngân sách, giảm thuế, thị trường tự do, tư hữu hóa, bảo vệ quyền tư hữu, giảm thiểu vai trò của chính quyền... Họ tin tưởng mô hình nầy sẽ mang lại thịnh vượng, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đưa đến dân chủ, hòa bình và ổn định.
Trong thực tế, với tình trạng chiến tranh khắp nơi, với hiện tượng ô nhiễm môi trường, thay đổi khí hậu, tình trạng nghèo đói dai dẳng trong nhiều vùng trên thế giới, và nhất là với chính sách đối ngoại của chính siêu cường Hoa kỳ, trật tự thế giới mới không còn đứng vững.
Nếu toàn cầu hóa kinh tế là trào lưu bất khả kháng, nó cũng che giấu nhiều đợt sóng ngầm dẫn tới các cuộc khủng hoảng tài chánh trầm trọng như cuộc khủng hoảng năm 1997 ở Á châu, và cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay.
Qua thời gian, chủ nghĩa tư bản cũng đã ít nhiều biến thái, biểu hiện qua vai trò của chính quyền, các tài hóa công, các pháp chế xã hội, nhất là sau cách mạng tháng 10-1917 ở Nga, và mỗi lần suy thoái và khủng hoảng.
Với khủng hoảng 2008 đang kéo dài, với nguy cơ giảm phát và đại khủng hoảng, mô hình Anglo-Saxon và toàn cầu hóa đã sụp đổ hay ít ra không còn được nhiều người ưa chuộng. Vị thế của siêu cường Hoa Kỳ trên đà tuột dốc. Thế giới đơn cực đã cáo chung. Thế giới đa cực hay lưỡng cực ngày một rõ nét, mặc dù chưa một quốc gia nào đủ điều kiện thay thế Hoa Kỳ, kể cả Trung Quốc.
Ấn Độ và Trung Quốc với hệ thống tài chánh nằm trong tay của chính quyền ít bị tổn hại, thậm chí vẫn tiếp tục gia tăng số ngoại tệ sở hữu và tăng trưởng kinh tế nhanh.
Nói một cách ngắn gọn, các cuộc tranh luận giữa kích cầu và kiệm ước, giữa kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường ít nhiều theo hướng xã hội ... đều mang tính lý thuyết. Những chính sách hay biện pháp thành công ở Đức không nhất thiết sẽ mang lại hiệu quả mong muốn ở Hy Lạp hay một quốc gia nào khác. Mỗi quốc gia sinh hoạt trong những điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội, văn hóa, và những cung bậc phát triển kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, đòi hỏi những chính sách, những biện pháp thích ứng ít nhiều khác nhau. Không một quốc gia, một định chế nào có thể buộc bất cứ một quốc gia nào khác phải rập khuôn theo mô hình của chính mình. Cho đến bao giờ, sự thật đơn giản đó mới được lãnh đạo các đại cường, nhất là các siêu cường, tôn trọng!
Có lẽ người Pháp đã có đủ lý do chính đáng để đòi hỏi người Đức phải ứng xử như người Âu châu nhiều hơn. Có lẽ người Đức cũng không phải vô cớ khi đòì hỏi người Âu châu phải ứng xử theo gương người Swabians của họ. Có lẽ người Mỹ và người Hoa có đủ lý do để tranh giành ảnh hưởng ở Á, Phi, và châu Mỹ La Tinh. Có lẽ người dân trong thế giới thứ ba cũng có đầy đủ kinh nghiệm để nghi ngờ lòng vị tha, tinh thần yêu chuộng tự do, dân chủ, công lý, và hòa bình, của các cường quốc trong mọi châu lục.
Trong mọi trường hợp, về lâu về dài không ai có thể sống trên khả năng và phương tiện của chính mình, dù đó là người Hy Lạp, người Pháp, người Đức, người Hoa, người Mỹ hay người nước nào khác.
© GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
23-8-2010.
[1] Yield
[2] Uncertainty is very high. My view has been that with earnings season behind us, investors are depending on the macroeconomic data to point the way, and so far the data is not cooperating. Certainly not in the way we would all like to see. We all have to acknowledge that the risks to growth are rising.
[3] Over the past three months, 1,155,000 unemployed people dropped out of the active labor force and were not counted as unemployed. Even ignoring population growth, if these unemployed had not dropped out of the labor force, simple arithmetic shows that the official unemployment rate would have risen from 9.9 percent in April to 10.2 percent in July, rather than - as it has - fallen to 9.5 percent.
[4] When you combine the long-term unemployed with those who are dropping out and those who are working part-time because they can't find anything else, it is just far beyond anything we've seen in the job market since the 1930s.
[5] Before, the Greeks would call us Nazis, and we would act vulnerable. Now one says, 'Well, I'm not driving there for vacation'.
[6] That was like a wake-up call to the rest of Europe that something had changed in Germany.
[7] Mr. Schultz said in an interview: The government took the right steps in extending the short-work program because it bridged a difficult situation.
[8] It gives you an existential fear.
[9] Ms Wiblishauser said: "I would really like it if we were self-sufficient, like the Swiss.
[10] At a time when many are concerned about the vigor of the U.S. recovery, it is worth remarking on how strong and self-sustaining the German recovery is starting to look. German consumer spending and imports should rise which would be positive for the rest of the euro area, including the troubled periphery countries.
[11] Thanks to its high international competitiveness, the German economy is benefiting more than most from the sharp rebound in world trade.
[12] We have warning signals from China. There is no impulse from the rest of Europe. Some moderation is in the pipelines.
[13] We expect economic activity in France to decelerate somewhat in the second half of the year as industry - and in particular the car industry - loses steam and is unable to benefit much from the recovery of international trade.
[14] EU's first existential crisis.
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 7:58:24 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:58:24 GMT 9
Năng lượng và phát triển bền vững và Việt Nam Vietsciences- Đặng Đình Cung SWOT analysis Phát triển bền vững là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu hiện nay mà không làm nguy hại đến khả năng những thế hệ sau đáp ứng được nhu cầu của họ. Một vế của chiến lược bền vững là cung ứng và tiêu thụ năng lượng. Làm gì để vẫn còn có thể tiếp tục cung ứng năng lượng khi những nguồn năng lượng không tái tạo sẽ cạn và tiêu thụ năng lượng ra sao để không vi phạm đến môi trường tự nhiên ? Trong một bài trước, chúng tôi có trình bày một số yếu tố đóng góp vào giải đáp vấn đề này1. Trong bài này chúng tôi xin phân tích vị trí chiến lược của ngành năng lượng Việt Nam. Từ phân tích đó, chúng tôi xin phác họa một mô hình chiến lược cung ứng và tiêu thụ năng lượng để Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững. Những số liệu chúng tôi dẫn chứng và dùng để tính và vẽ các họa đồ trong bài này do EIA, IEA, UNEP, WEC, APERC và TCTK cung câp2. Chúng tôi cập nhật kinh nghiệm cá nhân về năng lượng từ những sách giáo khoa mới được xuất bản, từ những thông số kỹ thuật do ADEME và IFP cung cấp3 và, chủ yếu, từ báo cáo "2007 Survey of Energy Resources" cuả WEC4. Các sách báo chuyên môn dùng nhiều đơn vị năng lượng khác nhau. Để tiện việc so sánh và để dùng một đơn vị nhiều người biết đến và quen dùng, trong bài này chúng tôi chuyển những số liệu đã được công bố sang đơn vị TWh (Têra watt giờ, một triệu kWh) hay kWh (Kilô watt giờ) thường dùng trong ngành điện. Phần 1: Phân tích chiến lược Điểm mạnh Những nguồn năng lượng Ưu điểm chính của Việt Nam là chỉ số độc lập năng lượng cao. Năm 2005, chỉ số này là 158 phần trăm, gấp đôi chỉ số trung bình của tất cả các nước Châu Á và Châu Đại Dương (bảng 1). Từ 1996 đến 2005, mỗi năm chỉ số đó tăng trung bình 1,5 điểm % nhờ mỗi năm sản xuất tăng trung bình 8,7 % và tiêu thụ chỉ tăng trung bình có 7,1 phần trăm. Bảng 1 : Sản xuất và tiêu thụ năng lượng cơ bản của Việt Nam và của một số quốc gia Châu Á và Châu Đại Dương (Tính từ số liệu của EIA, 2005) Tiêu thụ Sản xuất Chỉ số độc lập (TWh) (%) (TWh) (%) (%) Ấn Độ 4 749 3,8 3 438 2,9 72 Australia 1 610 2,6 3 290 3,9 204 Đài Loan 1 318 3,8 142 0,1 11 Hàn Quốc 2 719 3,1 440 6,1 16 Indonesia 1 571 4,2 2 730 2,3 174 Malaysia 746 4,4 1 142 3,2 153 Nhật Bản 6 615 0,7 1 202 0,3 18 Philippines 392 2,7 144 7,6 37 Thailand 1 063 4,0 515 6,0 49 Trung Quốc 19 663 6,3 18 531 5,7 94 Việt Nam 359 7,1 568 8,7 158 Châu Á và Châu Đại Dương 43 403 4,2 33 750 4,4 78 Ghi chú : 1. Sản xuất và tiêu thụ tính cho năm 2005 2. Chỉ số độc lập về năng lượng tính cho năm 2005 3. Tăng trưởng trung bình hàng năm tính từ 1996 đến 2005. Ưu điểm này được tăng cường bởi điều kiện tự nhiên thuận lợi. 1. 38 % nguồn năng lượng cơ bản là năng lượng tái tạo. So với 13 % trung bình của thế giới, đây là một tỷ lệ rất lớn. Ở dạng cơ bản, chất đốt rắn tái tạo và rác dồi dào hơn dầu thô và than đá (bảng 2). Nguồn năng lượng này cung ứng hơn một nửa năng lượng khả dụng của Việt Nam. Bảng 2 – Sản xuất, cung ứng và và tiêu thụ năng lượng (Tính từ số liệu của IEA, 2005) Cơ bản (TWh) Cung ứng (TWh) Khả dụng (TWh) Than 211 95 70 Dầu thô 226 5 0 Sản phẩm dầu 0 139 139 Khí 72 57 1 Thủy năng 21 21 0 Chất đốt rắn tái tạo và rác 279 279 270 Điện 0 0 46 Tổng cộng 809 597 526 2. Với hơn 3 400 km bờ biển và nhiều sông với lưu lượng nước lớn, khả năng xây nhà máy nhiệt điện của Việt Nam có thể coi là vô tận. Một nhà máy nhiệt điện, cổ điển hay hạt nhân, cần đến nhiều nước để làm nguội bộ ngưng và cũng cần đến một bến cảng chuyên dụng để tiếp nhận nhiên liệu. Một nhà máy nhiệt điện phải được xây ở bờ biển hay bờ một sông lớn và, nếu có thể, ở một nơi có thể xây bến cảng. Đa số người Việt Nam sống gần bờ biển hay bờ sông. Tải điện từ những nhà máy nhiệt điện đến nơi tiêu dùng không tốn kém mấy. 3. Tiềm năng kinh tế của thủy điện (tính với giá năng lượng năm 2005) là 78 TWh mỗi năm. Việt Nam mới khai thác chưa tới phần tư tiềm năng kinh tế đó và non 15 % tiềm năng kỹ thuật (bảng 3). Tiềm năng kinh tế đó mỗi ngày mỗi tăng với gia tăng của giá năng lượng trên thị trương quốc tế. Trong vòng vài năm nữa những nhà máy đang lắp đặt thêm sẽ nhân đôi sản lượng thủy điện. Đây là tỷ số tăng trưởng cao nhất thế giới. Bảng 3 – Tiềm năng và công suất của thủy năng (WEC, 2005) Tiềm năng (TWh/năm) Lý thuyết 300 Khả thi kỹ thuật 123 Khả thi kinh tế 78 Sản lượng (2005) 18 Công suất (GW) Hiện có 4,2 Đang lắp đặt thêm 7,8 Dự trù lắp đặt thêm 4,6 4. Nông nghiệp sinh ra nhiều phụ phẩm và phế liệu có thể dùng làm nguồn năng lượng sinh học. Việt Nam là một nước xuất khẩu nông nghiệp có tầm vóc lớn và nông nghiệp Việt nam tăng trưởng khoảng 4 % mỗi năm. Trong số những chất đốt rắn thì Việt Nam có nhiều củi gỗ, phế liệu những nhà máy chế biến gỗ, phế liệu nông phẩm và rác đô thị. Thêm vào đó, bờ biển dài cho phép lập nhiều trại trồng rong làm nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học. 5. Tiềm năng của năng lượng gió có thể dự đoán là rất lớn vì Việt Nam ở vùng gió mùa thổi và bờ biển dài với đáy biển nông cho phép lập nhiều trang trại phong điện (wind power farm). Nếu lắp đặt những trại phong điện ở ngoài khơi thì giảm được ô nhiễm thẩm mỹ và ô nhiễm âm thanh. Những quạt phong điện sẽ hoàn vốn mau hơn trung bình những nước khác nhờ đáy biển nông và gió ở ngoài khơi thổi đều dặn suốt năm. 6. Những nguồn năng lượng tái tạo khác chưa được khai triển nhưng tiềm năng cũng có nhiều dấu hiệu lạc quan : * những hệ thống dùng bản mặt trời để hấp thụ năng lượng mặt trời sẽ hoàn vốn mau hơn những nước khác nhờ mặt trời chiếu đều đặn quanh năm, * dọc bờ biển miền Trung có một luồng nước ngầm có thể chạy những tuabin khai thác năng lượng biển, * những suối nước nóng tự nhiên trên khắp lãnh thổ là dấu hiệu một nguồn năng lượng từ lòng đất tiềm tàng quan trọng. Tất cả những tiềm năng này cần được xác định chính xác hơn. Tiêu thụ năng lượng Cơ cấu năng lượng tiêu thụ ở Việt Nam thuộc loại thân thiện với môi trường : * hơn một nửa năng lượng khả dụng là năng lượng tái tạo (bảng 2 và hình 1), * tổng cộng 80 % điện lực được sản xuất từ thủy năng và khí đốt (hình 2), hai loại năng lượng dùng để sản xuất điện ô nhiễm môi trường ít nhất. Hình 1 – Tiêu thụ năng lượng chia theo nguồn năng lượng (Tính từ số liệu của IEA, 2005) Hình 2 – Tiêu thụ năng lượng để sản xuất điện chia theo nguồn năng lượng (Tính từ số liệu của IEA, 2005) 1. Theo EIA, năm 2005, tổng công suất những nhà máy điện của Việt Nam là 11,3 MW sản xuất 51,3 TWh. Từ mười năm nay, công suất tăng trung bình 9,4 % mỗi năm và sản lượng điện tăng 7,1 % mỗi năm. Những tỷ số tăng trưởng này lớn hơn gấp hai lần trung bình các nước Châu Á và Châu Đại Dương (bảng 4). Bảng 4 Sản xuất và tiêu thụ điện của Việt Nam và một số quốc gia Châu Á và Châu Đại Dương (Tính từ số liệu của EIA, 2005) Tiêu thụ Sản xuất Công suất lắp đặt (TWh) (%) (TWh) (%) (GW) (%) Ấn Độ 489 4,1 662 4,7 138 3,6 Australia 220 3,4 237 3,4 49 2,3 Đài Loan 202 5,8 210 5,6 37 5,3 Hàn Quốc 352 5,6 366 5,5 62 7,1 Indonesia 105 6,2 120 6,3 23 3,7 Malaysia 79 6,0 82 5,3 24 8,4 Nhật Bản 974 0,6 1 025 0,6 248 1,9 Philippines 47 4,9 54 4,3 16 4,7 Thailand 118 4,4 125 4,1 26 5,6 Trung Quốc 2 197 8,7 2 372 8,6 442 7,1 Việt Nam 45 12,3 51 11,3 11 9,4 Châu Á và Châu Đại Dương 5 075 5,2 5 589 5,2 1 150 4,7 Ghi chú : 1. Sai biệt giữa sản xuất và tiêu thụ là do xuất hay xuất nhập khẩu điện và mất điện trên đường dây tải điện. 2. Sản xuất, tiêu thụ và công suất lắp đặt tính cho năm 2005. 3. Tăng trưởng trung bình hàng năm tính từ 1996 đến 2005. 2. Đốt khí tự nhiên thải ít bụi và ít khí có hiệu ứng nhà kính hơn là đốt than và sản phẩm dầu. Theo thống kê của IEA, năm 2005, Việt Nam sản xuất 72,1 TWh khí tự nhiên trong đó 56,0 TWh đã được dùng để sản xuất 20,6 TWh điện. Nhờ dùng tuabin khí với chu trình kết hợp hiệu suất năng lượng đạt 37 phần trăm, hơn hiệu suất trung bình của thế giới một chút. 3. Than Việt Nam chủ yếu đào từ vùng mỏ Quảng Ninh. Đây là loại than anthracit, nghĩa là một loại than có hàm lượng năng lượng cao. Hiện nay chính phủ không cho xuất khẩu than để dành than chạy những nhà máy nhiệt điện. Vì những nhà máy đã được xây trong thời gian gần đây nên thụ hưởng công nghệ CCT (Clean Coal Technology, Công nghệ Than Sạch), ít ô nhiễm hơn những nhà máy cũ của các nước láng giềng. 4. Hầu như tất cả lưu vực các sông Việt Nam đều có thể được quy hoạch thành thang thủy lợi. Đây là phương pháp tối ưu việc cung ứng nước cho thủy điện cũng như cho các nhu cầu của nông nghiệp, giao thông, du lịch, giải trí,.... Trên phương diện kinh tế, điện của giờ cao điểm được tích trữ dưới dạng nước được bơm lên những hồ tích năng và, vào những giờ thấp điểm, nước ở trong những hồ tích năng đó sẽ được quấy ráo để sản xuất điện trở lại.
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 7:59:24 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 7:59:24 GMT 9
Điểm yếu Khuyết điểm lớn nhất của ngành năng lượng Việt Nam là sự phung phí tài nguyên năng lượng và khả năng tài chính để đầu tư vào những cơ sở sản xuất năng lượng. Những nguồn năng lượng 1. Chất đốt rắn tái tạo và rác tổng cộng hơn một nửa lượng năng lượng khả dụng đã được tiêu thụ. Nhưng tỷ lệ đó biểu hiện một nước lạc hậu người dân đốt củi, than củi và phế liệu của nông nghiệp để nấu thức ăn và dùng vào vài sinh hoạt khác. Rừng cây bị phá để có củi và than củi. Những phế liệu nông nghiệp bị đốt thay vì dùng làm phân bón tự nhiên. 2. Điện là nguyên do chính của những khó khăn hiện nay của Việt Nam về năng lượng : * nhầm lẫn công suất, tính bằng mêga watt, và năng suất, tính bằng têra watt giờ mỗi năm, của một dự án nhà máy điện, * không tính hay tính sai tỷ số lợi nhuận trước khi thực hiện những dự án, * không dự trù khả năng cân bằng cung ứng với biến đổi của nhu cầu ở mỗi thời điểm. Những mêga watt đo khả năng sản xuất điện ở một thời điểm nào đó còn những têra watt giờ đo lượng điện đã được cung ứng. Hai nhà máy điện, đặc biệt hay nhà máy thủy điện, cùng công suất không nhất thiết có cùng một năng suất. Cộng những công suất để dự báo lượng điện sẽ được cung ứng dẫn tới thiếu hụt giữa thực tế và dự báo. Xây một nhà máy thủy điện thì sau này sẽ có điện gần như miễn phí. Nhưng so với một nhà máy nhiệt điện thì nhu cầu vốn đầu tư cho một đơn vị công suất của một nhà máy thủ điện cao hơn và thời gian để hoàn tất công trình cũng lâu hơn. Kết quả là một nhà máy nhiệt điện hoàn vốn mau hơn, vốn hoàn lại đó có thể dùng để xây dựng một công trình khác. Như thế, một hệ thống nhà máy nhiệt điện có thể tăng trưởng mau hơn là một hệ thống thủy điện. Chúng tôi không đi sâu hơn vào phương pháp tính tỷ số lợi nhuận để tuyển lựa giữa những dự án khác nhau. Một nhà máy thủy điện có thể phản ứng trong vòng vài phút để phát điện hay ngưng phát điện, một nhà máy nhiệt điện cần đến vài giờ và một nhà máy điện hạt nhân cần đến vài ngày. Vì thế người ta thường dùng thủy điện để cân bằng mạng phân phối điện chứ ít khi dùng để sản xuất lượng điện cơ sở. Thêm nữa, lượng mưa có thể biến đổi từ mùa này sang mùa khác, từ năm này sang năm khác. Dùng thủy điện làm cơ sở thì những mùa hạn hán, những năm mưa ít sẽ thiếu điện. Vì ba sai lầm đó mà Việt nam đang thiếu điện và thiếu vốn để xây những công trình sản xuất điện. 3. Thay vì có một chính sách năng lượng phù hợp với hoàn cảnh kinh tế và thiên nhiên, Việt Nam chạy theo thị hiếu đương thời với những dự án phiêu lưu hay, ít ra, lãng phí tiền của và công lao của người dân. Sau đây là một số thí dụ : * quyết định xây nhà máy điện hạt nhân mà không đào tạo trước nhân lực kỹ thuật và nâng cao dân trí về an toàn công nghiệp5, * kêu gọi đầu tư vào những công trình quang điện và phong điện mà không tính rằng những nguồn điện đó chưa khả thi về phương diện kinh tế6, * đặt chỉ tiêu sản xuất nhiên liệu sinh học mà chưa nghiên cứu hiệu ứng đến môi trường và sử dụng đất dành cho nông nghiệp7, * thay vì xây hạ tầng cho đường thủy và đường sắt, có khả năng vận tải lớn và tiêu thụ ít năng lượng, thì tiếp tục ưu tiên xây những hạ tầng cho vận tải bằng xe ôtô, với khả năng vận tải kém hơn, tốn kém về năng lượng hơn lại vừa lấn chiếm hơn nhiều đất có thể dùng vào việc khác8. 4. Những dự án đã đưa vào thi công bị chậm trễ vì nguồn tài trợ không được dự trù đủ và vì cán bộ cũng như công nhân thiếu kỹ năng nghiệp vụ9. Không những thế mà những tổng công ty quốc doanh phung phí tài chính ngắn hạn vào những khoản đầu tư không liên quan gì đến mục địch kinh doanh của công ty : khách sạn, ngân hàng, viễn thông,...10. Một thị trường phát điện cạnh tranh được thành lập như là một phép mầu sẽ mang lại những kilô watt giờ hiện đang thiếu11. Tiêu thụ năng lượng Theo thống kê của EIA, Việt Nam sử dụng 27.400 BTU (8,0 TWh) để sản xuất một đôla Mỹ GDP (Gross Domestic Product, Tổng Sản Lượng Quốc Nội). Cường độ tiêu thụ năng lượng này gần gấp hai lần Hàn Quốc, gấp ba lần rưỡi Pháp, gấp ba lần Hoa Kỳ, quốc gia nổi tiếng là phung phí năng lượng. Từ một chục năm nay, cường độ tiêu thụ năng lượng trên thế giới giảm trung bình 0,5 % mỗi năm. Cường độ này ở các nước Châu Á và Châu Đại Dương cũng giảm theo nhịp đó. Nhờ tiến bộ công nghệ, các nước công nghiệp giảm cường độ tiêu thụ năng lượng mau hơn. Từ mười năm nay, mỗi năm cường độ này giảm 0,6 % ở Hàn Quốc, 1,0 % ở Pháp và 2,2 % ở Hoa Kỳ. Việt Nam là một trong số ít những quốc gia có cường độ tiêu thụ năng lượng gia tăng (hình 3). Trung Quốc có cường độ tiêu thụ năng lượng cao hơn nhiều và cường độ tiêu thụ năng lượng đó tăng từ năm 2000 cho tới nay. Nhưng Trung Quốc không phải là một kiểu mẫu để noi theo. Hình 3 Tiêu thụ năng lượng để sản xuất một nghìn USD (Tính từ số liệu của IEA) 1. Thống kê của IEA cho thấy nguyên nhân của sự lãng phí này. Trung bình trên thế giới, năng lượng khả dụng được chia đồng đều cho công nghiệp, giao thông vận tải, tiện nghi nhà ở và những sử dụng khác. Những sử dụng khác chủ yếu là các ngành lọc dầu và hóa chất, hai ngành sản xuất công nghiệp. Thương mại và dịch vụ công cộng là những hoạt động sản xuất dịch vụ. Các nước có chính sách kinh tế nghiêm chỉnh ưu tiên dành năng lượng cho sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Thí dụ, Hàn Quốc dành 87 % năng lượng cho sản xuất, Pháp ba phần tư. Ở Việt nam thì 60 % năng lượng dùng cho tiện nghi nhà ở và không sinh lợi gì (hình 4). Hình 4 Tiêu thụ năng lượng theo ngành (Tính từ số liệu của IEA, 2005) 2. Nhận xét này thể hiện rõ hơn với phân bố tiêu thụ điện (hình 5). Ở Pháp, một nước khuyến khích sử dụng điện trong những áp dụng gia dụng và dịch vụ nhờ có nhiều nhà máy điện hạt nhân, 35 % điện dùng cho tiện nghi nhà ở. Ở Hàn Quốc chỉ có 14 % . Ở Việt Nam thì 42 % điện dùng cho tiện nghi nhà ở thay vì dùng để sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Tiêu thụ điện tăng gấp rưỡi lần tăng trưởng của kinh tế mà lại chủ yếu ít dùng cho sản xuất. Mọi chuyện diễn ra như điện lực ở Việt Nam là một xa xỉ phẩm được cấp cho người có tiền mua những thiết bị cơ điện nội thất chứ không phải là một nhân tố sản xuất. Hình 5 – Tiêu thụ điện theo ngành (Tính từ số liệu của IEA, 2005) 3. Theo TCTK, từ 1990 đến 2005, lượng hàng luân chuyển tăng 9,4 % mỗi năm, cao hơn tăng trưởng trung bình của tổng sản lượng quốc nội chừng 1,5 điểm % (hình 6). Hình 6 Thị phần và tăng trưởng những phương tiện giao thông vận tải (Tính từ số liệu của TCTK, 2005) Nhưng thống kê chi tiết cho thấy, ngược lại với xu hướng các nước công nghiệp tiên tiến đang tìm cách giảm tỷ số lượng hàng vận chuyển bằng đường bộ : * ngành đường sắt và đường sông gia tăng ít hơn tăng trưởng của tổng sản lượng quốc nội, * và ngành hằng hải chỉ tăng có 10 % mỗi năm ít hơn tăng trưởng 14 % mỗi năm của ngoại thương mà hàng ngoại thương thì chủ yếu được luân chuyển bằng đường biển. Tỷ số tăng trưởng lớn của ngành hàng không không có ý nghĩa vì lượng hàng luân chuyển bằng phương tiện này không đáng kể. Nhưng cũng là một nguồn gia tăng nhu cầu năng lượng. Đặc biệt, không có lý do gì phải lập một công ty hàng không giá rẻ (low cost airline) nội địa như Pacific Airlines để sinh ra một thị trường đi lại bằng đường hàng không12. 4. Chính sách đô thị với nhiều cao ốc và trung tâm thương mại gây ra tiêu thụ năng lượng và ùn tắc giao thông nhiều hơn là những khu nhà ít tầng với những cơ sở thương mại bán lẻ kế bên. Ùn tắc giao thông gây ra tiêu thụ sản phẩm dầu một cách vô ích và gây ra ô nhiễm khí quyển tới độ xâm phạm tới sức khỏe của cư dân. Ùn tắc mỗi năm mỗi trầm trọng hơn vì : * những cao ốc và trung tâm thương mại làm tăng nhu cầu đi lại bằng cơ giới, * dân số những thành thị lớn tăng làm cho nhu cầu giao thông tăng và số xe vận tải vào nội thành để tiếp tế cư dân cũng tăng. 5. Nhà riêng cũng như chung cư mới xây thường không theo những quy tắc của kiến trúc khí hậu sinh học truyền thống. Đặc biệt, nhiều nhà không được cách nhiệt, không tự nhiên thông gió và không có bộ phận chắn nắng. Những nhà như vậy, đặc biệt những cao ốc, cần rất nhiều năng lượng để bảo đảm một tối thiểu về tiện nghi. Thời cơ Thời cơ rất thuận lợi cho Việt Nam hợp tác quốc tế trong mọi lãnh vực tài chính, khảo sát tài nguyên, phát triển công nghệ hạt nhân và nghiên cứu khoa học kỹ thuật. 1. Việt Nam đang xuất siêu năng lượng và giá năng lượng cao hiện nay tham gia vào những cố gắng kiềm chế nhập siêu của toàn bộ ngoại thương. Từ khi gia nhập WTO (World Trade Organization, Tổ chức Mậu dịch Quốc tế), xí nghiệp nước ngoài ồ ạt đăng ký đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Một số lớn vốn này có thể được hướng vào những dự án sản xuất và nghiên cứu triển khai cung ứng và sử dụng năng lượng hợp lý. 2. Nhiều nước bạn muốn Việt Nam tham gia vào những dự án năng lượng của họ. Những mỏ hydrô cácbua ở Trung Đông đã bị các cường quốc công nghiệp và các hãng dầu lớn dành hết rồi. Nhưng vẫn còn nhiều quốc gia thuộc Liên Xô cũ và một số nước khác đang tìm đối tác thân thiện để vừa khai thác chung tài nguyên của họ vừa trao đổi kinh nghiệm cải cách kinh tế xã hội. Với thành tích hơn hai chục năm chính sách Đổi Mới Việt Nam là một đối tác lý tưởng. 3. Uy tín quốc tế của Việt Nam sẽ giúp khai triển những kế hoạch về năng lượng trên quy mô quốc tế. Việt nam đã được kết nạp vào WTO, được bầu vào Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc,... Với những hiệp ước NPT (Nuclear Non Proliferation Treaty, Hiệp ước Chống tăng sinh vũ khí hạt nhân) và hiệp ước Bangkok (Southeast Asia Nuclear Weapon Free Zone Treaty, Hiệp ước Đông Nam Á là Vùng không có vũ khí hạt nhân)13 và những hiệp ước khác Việt Nam đã ký, không còn ai phủ nhận Việt Nam cương quyết khai triển năng lượng hạt nhân với mục đích duy nhất là củng cố hoà bình. Chính sách "làm bạn với mọi người" tạo cơ hội hợp tác quốc tế trên mọi mặt thương mại, kỹ thuật cũng như khoa học liên quan đến năng lượng hạt nhân. Với uy tín đó Việt Nam đã và đang được IAEA, các tổ chức quốc tế khác và các xí nghiệp siêu quốc gia trợ giúp khai triển những nhà máy điện hạt nhân tương lai. 4. Nông nghiệp và năng lượng là nhu cầu cốt yếu của nhân loại. Hai ngành này sẽ là trung tâm của những cuộc cách mạng công nghệ sắp tới. Những công trình nghiên cứu triển khai cần đến nhiều vốn, những bước tiến nhảy vọt sẽ không xảy ra thường xuyên và những công nghiệp năng lượng sẽ không biến chuyển mau chóng như công nghệ thông tin. Với triển vọng nguồn năng lượng không tái tạo một ngày nào đó sẽ cạn, nhiều vốn đang được đổ vào những dự án khai triển ứng dụng cũng như những dự án nghiên cứu cơ bản liên quan đến sản xuất, tiết kiệm và tiêu thụ năng lượng. Nhờ đó các nước đang nhoi lên, như Việt Nam, vẫn còn cơ hội tham gia vào những dự án nghiên cứu triển khai về năng lượng của thế giới. Đe dọa Đe dọa chính là những nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút khỏi Việt Nam, vì hiện nay thiếu điện và rủi ro trung hạn sẽ thiếu năng lượng. Nguyên do là Việt Nam đã không đầu tư đúng lúc để theo kịp tăng trưởng kinh tế. Vài năm nữa, những dự án công nghiệp nặng đang đưa vào thực hiện sẽ tiêu thụ nhiều năng lượng và nguy cơ thiếu năng lượng sẽ trầm trọng hơn. Năng lượng hóa thạch Mặc dù sản xuất năng lượng cơ bản khiêm tốn, Việt Nam vẫn còn xuất siêu về năng lượng vì nhiều nguyên nhân. Công nghiệp Việt Nam có tăng trưởng nhưng chưa đạt trình độ để tiêu thụ hết năng lượng sản xuất. Những ngành công nghiệp biến chế khoáng sản thành sản phẩm trung gian (luyện kim, hóa chất, lọc dầu, ximăng,...) là những ngành công nghiệp tiêu thụ năng lượng nhiều nhất và gây ô niễm khí quyển nhiều nhất. Ở Việt Nam, những ngành này chưa quan trọng mấy. Những ngành công nghiệp chủ lực là những ngành dùng nhiều nhân công với hàm lượng năng lượng thấp. Những dự án đầu tư và kêu gọi đầu tư vào những ngành phân hóa học, lọc dầu hay luyện kim sẽ là nguy cơ thay đổi tình trạng xuất siêu năng lượng này trong vài năm tới. Theo bảng 5 trích từ thống kê của WEC dựa trên trữ lượng đã được chứng minh và nhịp khai thác năm 2005 thì tối đa 33 năm nữa là không còn tài nguyên năng lượng hóa thạch nữa. Khí tự nhiên còn có thể khai thác được trong hơn 90 năm nữa nhưng tài nguyên dầu mỏ và than sẽ cạn trong vài năm tới. Nếu kể thêm tăng trưởng của nhu cầu năng lượng thì tình hình này nguy cập. Bảng 5 – Trữ lượng những năng lượng không tái tạo (WEC, 2005) Năng lượng Dầu thô(Mt) Khí tự nhiên (Gm3) Than đá (Mt) Uranium (Kt) Trữ lượng 413 365 150 5(*) Khai thác 19 4 35 ? Số năm khai thác còn lại 22 91 4 ? (*) Với giá thị trường 130 USD/kg Theo bảng 5 quy ra đơn vị TWh thì trữ lượng năng lượng hóa thạch hiện nay của Việt Nam tổng cộng 9.900 TWh. Nếu Việt Nam không có chính sách năng lượng độc đáo nào và, với giả thuyết : * sản lượng thủy điện đã đạt tiềm năng kinh tế, 78 TWh mỗi năm, * nhờ trao đổi những loại năng lượng với các nước khác, * nhờ biến đổi công nghiệp, có thể chuyển từ loại năng lượng hóa thạch này sang loại năng lượng hóa thạch khác, * nhu cầu năng lượng cơ bản sẽ tăng 7,1 % mỗi năm như trung bình từ mười năm trước, * sản xuất năng lượng cơ bản sẽ tăng 8,4 % mỗi năm như trung bình từ mười năm trước thì sẽ có hai thời điểm trữ lượng năng lượng hóa thạch sẽ cạn hết tùy ở chính sách tiếp tục xuất khẩu năng lượng hay không. Nếu Việt Nam ngưng ngay xuất khẩu năng lượng mà chỉ khai thác tài nguyên để thoả mãn nhu cầu nội địa thì chậm nhất 11 năm nữa là Việt Nam sẽ tiêu thụ hết trữ lượng năng lượng hóa thạch đã được chứng minh. Mười một năm nữa kể từ năm 2005 sẽ là năm 2016. Năm đó, nhịp độ khai thác và tiêu thụ năng lượng cơ bản sẽ là 756 TWh. Nếu Việt Nam tiếp tục xuất khẩu năng lượng theo nhịp trung bình từ mười năm nay thì chỉ 5 năm nữa là sẽ nhập siêu năng lượng. Năm năm nữa kể từ năm 2005 sẽ là năm 2010. Năm đó nhịp độ khai thác năng lượng cơ bản sẽ là 837 TWh với nhịp độ tiêu thụ nội địa là 504 TWh. Những giả thuyết dùng cho hai kịch bản này là những giả thuyết thuận lợi nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên những dự báo bi quan này chưa tính đến * những cố gắng để tiết kiệm năng lượng, * mỏ dầu mới được khám phá thêm ở vùng Hải Sư Trắng, * bể than dưới mặt đất tỉnh Quảng Ninh và dưới đáy biển Vịnh Hạ Long, * và một mỏ than rất lớn ở đồng bằng Bắc Bộ14. Thủy năng 1. Tỷ trọng thủy điện gần một nửa là quá cao. Tình trạng này sẽ trầm trọng hơn với những dự án sẽ đưa vào vận hành trong vài năm nữa. Vấn đề là lượng nước mưa biến động từ năm này qua năm khác và từ mùa này qua mùa khác làm cho lượng điện được sản xuất nhờ những hồ chứa cũng biến động theo. 2. Những công trình thủy lợi là một đe dọa đến an toàn dân chúng sống ở hạ lưu những hồ chứa. Dù thiết kế và xây cất kỹ đến đâu chăng nữa, một đập thủy lợi vẫn có rủi ro bị vỡ. Một thang thủy lợi gia tăng xác suất rủi ro này. Chúng tôi chưa được biết tin chính quyền trung ương hay chính quyền địa phương thông tin dân chúng về cách ứng xử khi có sự cố và tổ chức những khóa thao luyện cứu trợ và sơ tán dân chúng khi có sự cố đập bị vỡ. Năng lượng hạt nhân Chúng tôi lấy giả thuyết nhu cầu điện sẽ tăng 7,8 % mỗi năm từ nay cho đến 2035. Đây là một tỷ số thực tế bao gồm tăng trưởng kinh tế, những cố gắng về tiết kiệm năng lượng, ngành đường sắt chuyển sang sử dụng điện và các ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều điện hơn15. Chúng tôi thêm giả thuyết một khoản điện hạt nhân 1.000 MW có thể cung ứng 7,50 TWh mỗi năm và khoản 1.500 MW có thể cung ứng 11,25 TWh mỗi năm. 1. Với hai giả thuyết đó thì năm 2015 nhu cầu điện sẽ là 108,7 TWh, tăng thêm 7,9 TWh so với năm trước. Một phần tăng trưởng nhu cầu của năm đó có thể được đáp ứng bởi một lò phản ứng 1.000 MW sản xuất 7,5 TWh mỗi năm kể từ năm đó. Nếu cứ tiếp tục xây nhà máy điện hạt nhân để đáp ứng gia tăng nhu cầu điện của mỗi năm tối đa bằng điện hạt nhân thì đến năm 2035, khi nguồn cung ứng năng lượng hóa thạch đã có xu hướng giảm, nhu cầu điện sẽ là 488 TWh và Việt Nam đã phải xây 19 lò phản ứng 1.000 MW và 18 lò phản ứng 1.500 MW, sản xuất tổng cộng 345 TWh mỗi năm, nghĩa là 71 % nhu cầu điện của năm đó. Tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ điện hạt nhân hiện nay của Pháp, quốc gia có tỷ lệ điện hạt nhân cao nhất thế giới. Tỷ lệ này chưa bao hàm những lò hơi cổ điển có thể được thay thế bằng lò hơi hạt nhân. Tỷ số tăng trưởng nhu cầu điện bằng 7,8 % mỗi năm là một ước tính dài hạn cho tới năm 2030/2040. Từ mười năm nay tỷ số đó bằng 12,3 nhưng, từ nay cho tới năm 2015, khó mà có thể xuống dưới 10,0 % mỗi năm. Với nhu cầu điện bằng 10,0 % mỗi năm thì năm 2010 đã có đủ nhu cầu bội thêm để khởi động một nhà máy hạt nhân rồi. Để có điện hạt nhân năm 2015 thì phải đã bắt đầu xây nhà máy năm 2010 và đã phải bắt đầu đào tạo nhân lực kỹ thuật muộn nhất phải bắt đầu từ năm 2000. Nhưng lịch trình đó chỉ đủ để Việt Nam có điện từ năng lượng hạt nhân thôi. Để đi vào kỷ nguyên năng lượng hạt nhân mà vẫn bảo đảm được độc lập công nghệ và an toàn của dân chúng thì Việt Nam phải sửa soạn nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực kỹ thuật chậm nhất từ hai chục năm trước, nghĩa là từ năm 1995. Vì đã không sửa soạn như vậy, cho tới ngày những dòng này đang được viết, những nhà lãnh đạo đã phải hoãn lại năm năm thời điểm sản xuất điện hạt nhân lần đầu tiên, nghĩa là tới năm 2020. 2. Sản xuất điện chỉ là một khâu của chu trình nhiên liệu hạt nhân. Trước đó có khâu làm giàu uranium và sau đó thì có khâu xử lý nhiên liệu đã bị phóng xạ. Chỉ có vài nước trên thế giới nắm được công nghiệp của hai khâu này. Những nước sản xuất điện hạt nhân khác đều phải chịu yêu sách của những nước đó. Khi quyết định sản xuất điện hạt nhân thì chính sách của Việt nam về hai khâu làm giàu uranium và xử lý nhiên liệu đã bị phóng xạ chưa thấy được nêu rõ. Với một vài lò phản ứng cung ứng non 10 % nhu cầu điện thì hai vấn đề này không quan trọng mấy. Nhưng, chỉ vài năm sau, với một phần điện hạt nhân đáng kể trong nguồn cung ứng năng lượng, độc lập chính trị của quốc gia Việt Nam sẽ bị đe dọa nếu không giải quyết ổn thỏa toàn bộ chu trình nhiên liệu hạt nhân. Kinh nghiệm dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, những khó khăn khi khởi động nhà máy nhiệt điện Uông Bí mở rộng hay việc tắt một nhà máy nhiệt điện để bảo hành ngay giữa mùa khô cho thấy trình độ quản lý công nghiệp của cán bộ Việt Nam chưa cao mấy. Đọc báo mạng không thấy có chương trình đạo tạo cụ thể gì ngoài việc mời các công ty thiết kế nhà máy hạt nhân đến chào hàng và gọi đó là những khóa đào tạo của họ16 và tuyên bố của nhân dân hai xã tỉnh Ninh Thuận ủng hộ việc xây nhà máy trên xã họ17. 3. Trừ khi Việt Nam đang tiến hành những chương trình đào tạo nghiêm chỉnh mà chúng tôi không được biết, kế hoạch rất khiêm tốn một lò phản ứng 1.000 MW sản xuất điện hạt nhân vào năm 2020 sẽ không thể thực hiện được và có nguy cơ gây ra một tai họa tương tự như ở Tchernobyl cách đây hai chục năm. Cung ứng điện Việt Nam có nguy cơ vốn đầu tư nước ngoài sẽ rút lui nếu không được bảo đảm cung ứng điện liên tục và với chất lượng tiêu chuẩn. Cắt điện ở Việt Nam không còn là một đe dọa mà là một thực tế hàng ngày. Mặc dù công suất lắp đặt và sản lượng điện tăng mau gấp ba lần trung bình các nước Châu Á và Châu Đại Dương, nhu cầu điện không được hoàn toàn thỏa mãn. Từ mười năm nay nhu cầu điện tăng mau hơn là sản xuất tới 1,6 điểm phần trăm. Đây là một ngoại lệ nguy hiểm. 1. Người dân Việt Nam quen bị cắt điện. Như viết ở một phần trên, điện bị phung phí trong tiện nghi nhà ở. Cắt điện gia dụng chỉ gây phiền phức chứ không có ảnh hưởng kinh tế gì mấy. Ngoài những bệnh viện và những cơ sở quốc phòng, cắt điện ở những công sở, cũng không có ảnh hưởng kinh tế xã hội gì mấy. Ngược lại, cắt điện dùng trong sản xuất là một tai họa kinh tế chứ không chỉ là một thiếu hụt trong doanh thu của EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam). Khi một cơ sở dịch vụ bị cắt điện thì làm giảm doanh thu cửa hàng của họ vì khách hàng sẽ đến ít hơn. Du khách nước ngoài sẽ ngại đến tiêu tiền, doanh nhân nước ngoài sẽ ngại đến tìm cơ hội làm ăn và tiếng tăm xấu về Việt Nam sẽ được quảng bá khắp nơi. Khi một cơ sở công nghiệp bị cắt điện trong một thời gian lâu thì chỉ có nước là ngưng sản xuất. Khi bị cắt điện bất chợt hay chu kỳ của dòng điện giảm xuống quá mức, dù chỉ trong một giây khắc, là những động cơ điện và những linh kiện điện tử bị hỏng. Những phiền hà đó gây thiệt hại lớn cho kinh tế. 2. Nhiều cơ sở dịch vụ và công nghiệp ở Việt Nam bây giờ có những ổ phát điện an toàn để đề phòng bị cắt điện. Nhưng những ổ phát điện an toàn chạy bằng những động cơ nhỏ tiêu thụ sản phẩm dầu, có hiệu suất năng lượng kém và ô nhiễm môi trường hơn là những tổ máy sản xuất điện lớn của mạng phân phối quốc gia. Trông cậy vào những ổ phát điện an toàn để ngành điện lực tiết kiệm đầu tư là một vi phạm đến phát triển bền vững và làm những doanh nhân Việt Nam cũng như doanh nhân nước ngoài không muốn đầu tư ở Việt Nam nữa. 3. Tình trạng không thể tăng nguồn cung ứng điện này còn ngăn cản Việt Nam khai triển những dự án cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững. Tỷ dụ dự án * điện hoá ngành đường sắt sẽ không thể thực hiện được vì sẽ không có nguồn cung cấp điện, * những xí nghiệp không thể chuyển đổi công nghệ để hiện đại hóa vì chuyển đổi công nghệ thường đi song song với chuyển từ tiêu thụ năng lượng hóa thạch sang tiêu thụ điện. Tham khảo 1 Đề nghị độc giả tham khảo loạt bài "Năng lượng và phát triển bền vững" trên mặt báo này. 2 IEA (International Energy Agency, Cơ quan Năng lượng Quốc tế) là một bộ phận của OECD (Organization for Economic Co operation and Development, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế). Bộ phận này làm tư vấn cho 27 thành viên của OECD trong việc bảo đảm nguồn cung ứng năng lượng đáng tin cậy, phải chăng và sạch. Địa chỉ Internet : www.iea.org/Textbase/stats/index.asp/. EIA (Energy Information Administration, Sở Thông tin Năng lượng) là một bộ phận của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ. Địa chỉ Internet : www.eia.doe.gov/iea/. UNEP (United Nations Environment Program, Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc) là một bộ phận của Liên hiệp quốc. Địa chỉ Internet : www.unep.org/. WEC (World Energy Council, Hội đồng Năng lượng Thế giới) là một tổ chức bao gồm gần một trăm quốc gia với mục đích xúc tiến việc cung ứng và sử dụng bền vững tất cả các loại năng lượng để mang lại nhiều lợi ích nhất cho mọi người. Địa chỉ Internet : www.worldenergy.org/. APERC (Asia Pacific Energy Research Center, Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng Châu Á Thái bình dương) là một bộ phận của IEEJ (The Institute of Energy Economics Viện Kinh tế Năng lượng) Nhật Bản. Địa chỉ Internet : www.ieej.or.jp/aperc/index.htmlTCTK (Tổng cục Thống kê) là một bộ phận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam. Địa chỉ Internet : www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217. 3 ADEME (Agence de l'Environnement et de la Maîtrise de l'Energie, Cơ quan môi trường và Tự chủ Năng lượng) là một bộ phận của chính phủ Pháp. Địa chỉ Internet : www2.ademe.fr. IFP (Institut Français du Petrole, Viện Công nghệ Dầu Pháp) là một trường kỹ sư và một trung tâm nghiên cứu Pháp. 4 Báo cáo này đăng ở địa chỉ Internet www.worldenergy.org/documents/ser2007_final_online_version_1.pdf. 5 “Năm 2020 ấn nút mấy lò phản ứng?” đăng trên Tia Sáng ngày 13 05 2008 và ở địa chỉ Internet www.tiasang.com.vn/news?id=2693. 6 “Bình Thuận: Xây dựng nhà máy điện sử dụng năng lượng gió” đăng trên Lao Động ngày 12 01 2008 và ở địa chỉ Internet www.laodong.com.vn/Home/kinhte/2008/1/72827.laodong/. 7 “Phát triển nguồn năng lượng mới ở TPHCM Dồn sức cho xăng sinh học” đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 06 04 2008 và ở địa chỉ Interrnet www.sggp.org.vn/trithuccongnghe/2008/4/148235/“Quảng Ngãi: 1.600 tỷ đồng xây dựng nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học” đăng trên Tuổi Trẻ ngày 19 04 2008 và ở địa chỉ Interrnet www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=253750&ChannelID=11/. 8 "Khởi công xây dựng tuyến đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam" đăng trên Nhân Dân ngày 19 05 2008 và ở địa chỉ Internet www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=131&article=122288. 9 Về những bê bối của những dự án điện, “Thiếu điện có phải không biết trước?” đăng ở địa chỉ Internet vietnamnet.vn/kinhte/2008/03/775207/và, đặc biệt về những chậm trễ của tổ máy điện Uông Bí I bài “Dự án Nhà máy nhiệt điện Uông Bí mở rộng hoạt động chậm trễ, vì sao?” đăng trên Nhân Dân ngày 12 04 2008 và ở địa chỉ Internet www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=131&article=11968210 “Khởi công xây dựng khách sạn Petrolimex Huế” đăng trên Nhân Dân ngày 26 04 2008 và ở địa chỉ Internet www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=39&sub=66&article=120734“Đua xây cao ốc trên 'đất vàng' Hà thành” đăng ở địa chỉ Internet www.vnexpress.net/GL/Kinh doanh/2007/11/3B9FC1B8/ và “EVN đầu tư ngoài ngành để cứu... lỗ (?!)” đăng trên Lao Động ngày 16 05 2008 và ở địa chỉ Internet www.laodong.com.vn/Home/kinhte/2008/5/88750.laodong11 "Hoàn thiện thị trường phát điện cạnh tranh" đăng trên Nhân Dân ngày 14 04 2008 và ở địa chỉ Internet www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=131&article=119782. 12 Chiến lược và mô hình kinh tế của Pacific Airlines diễn biến sôi động từ khi công ty được thành lập cách đây một chục năm. Cuối tháng năm 2008 xí nghiệp này sẽ đổi tên thành Jetstar Pacific. 13 Để nghị đọc giả tham khảo nguyên văn hiệp ước NPT ở địa chỉ Internet V www.iaea.org/Publications/Documents/Infcircs/Others/infcirc140.pdfvà hiệp ước Bangkok ở địa chỉ Internet httH://www.iaea.org/Publications/Documents/Infcircs/1998/infcirc548.pdf. 14 “Phát hiện mỏ dầu có trữ lượng lớn ngoài khơi Việt Nam” đăng ở địa chỉ Internet vietnamnet.vn/kinhte/2004/04/60569/"Triển khai hai dự án mỏ than đồng bằng sông Hồng" đăng ở địa chỉ Internet www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/4822/. 15 Trong báo cáo "APEC Energy Demand and Supply Outlook 2006 Projection to 2030" đăng ở địa chỉ Internet www.ieej.or.jp/aperc/2006pdf/Outlook2006/Whole_Report.pdf, APERC chỉ phóng giả thuyết này đến năm 2030. Trong bài này, chúng tôi phóng tới năm 2035. 16 "Chuẩn bị nhân lực cho nhà máy điện hạt nhân" đăng ở địa chỉ Internet www.vtc.vn/congnghe/179846/index.htm. 17 "Người dân ủng hộ xây dựng nhà máy điện hạt nhân" đăng ở địa chỉ Interrnet vtc.vn/xahoi/180502/index.htm 1. Phần 1: Phân tích chiến lược 2. Phần 2: Đề nghị một mô hình chiến lược năng lượng và phát triển bền vững
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 8:00:49 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:00:49 GMT 9
Năng lượng và phát triển bền vững và Việt Nam Vietsciences- Đặng Đình Cung
Đề nghị mô hình chiến lược năng lượng và phát triển bền vững An ninh năng lượng - Những năng lượng hoá thạch
Từ thập niên 1970 cho tới nay nhiều chuyên gia nổi tiếng đã định thời điểm những nguồn năng lượng hoá thạch sẽ cạn hết. Thời điểm đó là ba bốn chục năm tới. Nhưng, mỗi khi giá dầu thô tăng lại có người tính lại thời điểm đó và vẫn thấy thời hạn sẽ hết năng lượng hoá thạch là ba bốn chục năm nữa. Dù những dự báo đó đúng hay sai, thời hạn ba bốn chục năm đủ lâu để Việt Nam tiếp tục có một chiến lược bảo đảm nguồn cung ứng những loại năng lượng này.
1. Việt Nam vẫn cần phải đa dạng hoá nguồn cung ứng bằng cách mua của nước ngoài một số quyền được mua năng lượng dài hạn, quyền khảo sát địa chất và quyền khai thác một số mỏ ở nước ngoài. Để chia sẻ chi phí và rủi ro thất bại, thường có một tập đoàn gồm bởi nhiều đối tác tài trợ chung khảo sát của một vùng và chia nhau trữ lượng của mỏ đã khám phá được. Việt Nam đã tham gia với các nước bạn và các xí nghiệp siêu quốc gia khảo sát và khai thác những mỏ năng lượng hoá thạch ở những nước khác và đã có kết quả đầu tiên1..
Chúng tôi đề nghị Việt nam tăng cường hợp tác đa phương đó tới tối đa khả năng thương lượng của mình. Để làm được việc này một cách hữu hiệu và có hệ thống, chúng tôi đề nghị thành lập một đội ngũ cán bộ am hiểu tình hình chiến lược năng lượng thế giới. Đội ngũ này có chức năng cố vấn chính phủ về những cơ hội giao thương với những đối tác nước ngoài để củng cố tiềm năng cung ứng năng lượng hoá thạch một cách bền vững. Ở nhiều nước đội ngũ cán bộ này tùy thuộc Bộ Công nghiệp hay Bộ Năng lượng. Chúng tôi đề nghị đội ngũ Việt Nam thuộc Bộ Ngoại giao hay Thủ tướng.
2. Năm 2020, Việt Nam sẽ là một quốc gia công nghiệp và kết cấu tiêu thụ năng lượng sẽ không còn là một ngoại lệ như hiện nay. Xu hướng về năng lượng của các ngành công nghiệp là chuyển sang sử dụng điện nhiều hơn và điện sẽ được sản xuất bằng than và năng lượng hạt nhân nhiều hơn. Than có nhiều trên thế gới. Than là nguồn năng lượng hoá thạch sẽ cạn sau khi dầu thô và khí tự nhiên không còn nữa. Nhưng than là loại năng lượng ô nhiễm nhiều. Ngoài việc cung ứng chất đốt cho những nhà máy nhiệt điện, than sẽ là nguyên liệu để sản xuất những nhiên liệu lỏng thay thế cho sản phẩm dầu và nhiên liệu khí thay thế cho khí tự nhiên. Việt Nam sẽ phải dùng đến những nhiên liệu này vì có trữ lượng than quan trọng.
Chúng tôi đề nghị Việt Nam tham gia tích cực vào những chương trình quốc tế nghiên cứu triển khai những công nghệ liên quan đến than và hạt nhân.
3. Như mọi quốc gia đang ngoi lên, Việt Nam cấp bách phải xây dựng hạ tầng và bị những xí nghiệp các nước giàu cám dỗ mua lại những thiết bị đã qua sử dụng của họ. So với mua mới, mua lại một thiết bị đã qua sử dụng thì rẻ hơn và, nhất là, tiết kiệm được thời gian chờ thiết bị được thiết kế và chế tạo. Nhưng, đặc biệt về những lò hơi và lò đốt, những thiết bị đã qua sử dụng có hiệu suất kém và ô nhiễm môi trường tự nhiên nhiều hơn là thiết bị mới.
Chúng tôi đề nghị triệt để không mua lại những lò hơi, lò đốt, tuabin khí và những thiết bị bảo vệ môi trường đã qua sử dụng. Những thiết bị sau lò hơi (bộ ngưng, bộ phát điện, bộ chuyển áp,...) cũ có thể mua nếu có chứng minh hãy còn chạy tốt và giá mua vừa phải. Năng lượng hạt nhân
Chúng tôi đề nghị Việt Nam áp dụng một kế hoạch tương tự như kế hoạch PEON của Pháp2.
1. Ý kiến của những vị lãnh đạo là năm 2020 sẽ đưa vào hoạt động một hay hai nhà máy, tổng cộng một tới bốn lò phản ứng. Với giả thuyết nhu cầu điện tăng 7,8 % mỗi năm trình bày ở trên thì năm 2020 nhu cầu điện sẽ là 158,3 TWh và phải sản xuất thêm 11,5 TWh so với năm trước. Lượng điện bội thêm này sẽ làm cho một lò hơi hạt nhân 1.500 MW có thể sinh lợi. Ba năm sau đó có thể lắp đặt thêm một lò hơi như thế mỗi năm. Để có điện hạt nhân năm 2020 thì phải đã bắt đầu xây nhà máy năm 2015 và đã bắt đầu đào tạo nhân lực kỹ thuật chậm nhất từ năm 2005. Cho tới nay đọc báo trên mạng chỉ thấy Việt Nam mời những công ty thiết kế nhà máy hạt nhân các nước đến trình bày công nghệ của họ và coi đó là đào tạo nhân lực.
Chúng tôi đề nghị khẩn cấp tạo ra một văn hoá công nghiệp trong mọi tầng lớp nhân dân và đào tạo nhân lực kỹ thuật để có thể xây dựng những nhà máy điện hạt nhân kể từ năm 2025 và đưa vào hoạt động kể từ năm 20303. Dù để phát triển ngành hạt nhân hay mọi ngành kinh tế kỹ thuật nào chăng nữa, Việt Nam cũng không thể tiết kiệm được công lao và chi phí nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực kỹ thuật bản xứ. Mua từ những tập đoàn siêu quốc gia những nhà máy theo dạng chìa khoá trao tay chắc chắn sẽ cho phép có được nhà máy điện hạt nhân và sản lượng điện của nhà máy đó. Nhưng làm như thế không phải là một phương pháp hữu hiệu để vừa dẫn nước Việt Nam vào kỷ nguyên hạt nhân vừa duy trì độc lập quốc gia.
2. Xung quanh mọi nhà máy lớn như nhà máy hoá chất, nhà máy lọc dầu, đập thuỷ lợi,... hay nhà máy hạt nhân đều có rủi ro tai nạn công nghiệp. Mọi chính quyền địa phường gần những nhà máy đó cũng đều phải :
* có sẵn những quy trình bảo vệ người dân khi có sự cố : quản thúc trong nhà, di tản có trật tự, cứu trợ nạn nhân,...
* có chương trình thao luyện thường xuyên những lực lượng cấp cứu,
* và thường xuyên tổ chức những đợt tuyên truyền cảnh báo dân chúng về rủi ro của nhà máy và cách cư xử khi có sự cố.
Nếu thiết kế, xây dựng và vận hành đúng thì một nhà máy hạt nhân nguy hiểm không hơn không kém gì một nhà máy lớn khác. Nhưng, cho tới nay, chúng tôi chưa có thông tin gì về những việc này cả.
3. Vấn đề an ninh nguồn cung ứng năng lượng hạt nhân nằm ở khâu làm giàu và sản xuất thanh nhiên liệu cho lò phản ứng. Hai khâu này bị những cường quốc hạt nhân trấn áp. Nhưng những nước khác vẫn có thể xây dựng một công nghiệp nhiên liệu hạt nhân miễn là tôn trọng những quy định của hiệp ước NPT.
Chúng tôi đề nghị Việt Nam xây một nhà máy làm giàu uranium và một nhà máy sản xuất thanh nhiên liệu chung với các thành viên khác của khối ASEAN và dưới sự kiểm soát chặt chẽ của IAEA. Liên doanh này sẽ giảm "giá vé vào cửa" công nghệ hạt nhân của mỗi thành viên và sẽ trấn an thế giới uranium đã được làm giàu sẽ không bị biến thủ để chế tạo vũ khí hạt nhân. Dù sao muốn làm một quả bom nguyên tử thì phải có uranium đã được làm giàu đến ít nhất 90 phần trăm U 235. Một nhà máy được thiết kế để làm giàu uranium đến 3/5 phần trăm U 235 không thể nào là một đe dọa quân sự được. Với uy tín quốc tế hiện nay của mình, Việt Nam nên chủ động đề xuất dự án này trước khi khởi công xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Chúng tôi không đi sâu hơn nữa vào những lợi thế ngoại giao của dự án này.
4. Xử lý những thanh nhiên liệu đã được phóng xạ không cấp bách mấy vì khối lượng của chúng nhỏ và vì chưa ai biết xử lý những vật liệu này một cách ổn thỏa. Ngoài ra, vào thập niên 2030 dự báo Diễn đàn Generation IV sẽ khai triển xong những hệ thống mới sản xuất năng lượng hạt nhân. Những kiểu lò hơi đang được Diễn đàn Generation IV nghiên cứu triển khai sẽ thay đổi một cách đáng kể những thông số kính tế kỹ thuật về xử lý nhiên liệu đã được phóng xạ4.
Chúng tôi đề nghị Việt Nam tạm thời bỏ sang một bên vấn đề xử lý những thanh nhiên liệu đã được phóng xạ và xin tham gia vào Diễn đàn Generation IV. Cung ứng điện
1. Điện là một sản phẩm công nghiệp không thể tích trữ được. Dự đoán nhu cầu về lượng điện trong một khoảng cách thời gian thì chưa đủ vì nhu cầu về công suất ở một thời điểm biến đổi từ giây khắc. Tối ưu hoá một hệ thống sản xuất và phân phối điện là một việc rất phức tạp. Tối ưu hoá mỗi lúc một hệ thống như vậy lại còn phức tạp hơn.
Chúng tôi đề nghị Việt Nam thiết lập một mô hình toán học tối ưu hoá việc thiết kế và điều hành hệ thống sản xuất và phân phối điện của mình.
2. Điện là một nhu yếu phẩm nên phải do Nhà nước độc quyền quản lý. Nhà nước quản lý cũng có nghĩa là Nhà nước có thể gia công sản xuất một phần lớn điện cho tư nhân hay các xí nghiệp nước ngoài. Chúng tôi đồng ý với chủ chương của chính phủ khi thành lập "Cục Điều tiết Điện lực để cung cấp điện ổn định, thu hút đầu tư rộng rãi vào ngành điện, nhất là đầu tư phát triển nguồn điện, giá điện phản ánh đúng chi phí; khuyến khích cạnh tranh nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh doanh trong ngành điện"5.
Chúng tôi đề nghị khách hàng cuối cùng (end user) được chia làm hai khối : khối cá thể (điện tiêu dùng) và khối sản xuất. Mỗi khối mua điện theo những nguyên tắc sau đây :
* Phân phối và bán điện tiêu dùng cho cá thể phải là độc quyền của một xí nghiệp quốc doanh tuân theo những chỉ thị của chính phủ về giá biểu và chất lượng dịch vụ. Xí nghiệp đó có thể là một công ty con của EVN và chỉ có xí nghiệp đó mới có quyền mua điện để bán lại cho tư nhân.
* Những đối tác thuộc khối sản xuất có thể mua điện của bất cứ xí nghiệp sản xuất điện nào. Những điều kiện mua điện sẽ do hai bên tự do thỏa thuận.
3. Chính phủ đã có một biểu giá phản ảnh chính sách chia sẻ thu nhập quốc gia của một Nhà nước xã hội chủ nghĩa : những hộ mua ít điện thì trả dưới giá thành và sai biệt sẽ do những hộ tiêu thụ nhiều điện chịu với giá điện cao hơn. Nhưng biểu giá hiện nay của xí nghiệp quốc doanh EVN phức tạp và không có tính cách giáo dục khuyến khích tiết kiệm điện6.
Đối với khối tư nhân, chúng tôi đề nghị EVN :
* đồng nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia biểu giá điện,
* giảm số bậc thang trong biểu giá,
* nhưng tăng cường thêm sai biệt về giá điện giữa những hộ tiêu thụ ít điện (trên nguyên tắc là những hộ nghèo) và những hộ tiêu thụ nhiều điện (trên nguyên tắc là những hộ có khả năng phung phí điện).
Đối với khối sản xuất, chúng tôi đề nghị EVN :
* ngưng phân loại khách hàng không thuộc diện "sinh hoạt bậc thang" của giá biểu hiện hành và hợp nhất những đối tác này vào khối sản xuất,
* biểu giá cần có một chi phí cố định tùy ở điện áp thể hiện chi phí đường dây tải điện từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng,
* lập trong biểu giá hai bực thang "mùa khô" và "mùa mưa" với định nghĩa thời điểm của hai mùa đó tùy khí hậu ở điểm tiêu thụ điện và lồng vào mỗi bực thang đó những bực thang con tính theo thời điểm cung cấp điện (giờ thường, giờ cao điểm và giờ rỗi) hiện có trong biểu giá
Những nguồn năng lượng tái tạo
Ngoài thủy năng, tiềm năng những nguồn năng lượng tái tạo khác và hiệu ứng của chúng đến xã hội và môi trường chưa được Việt Nam xác định.
Chúng tôi đề nghị Việt Nam nghiên cứu kỹ những vấn đề này trước khi quyết định khai triển chúng một cách đại trà. Năng lượng sinh học
1. Nông nghiệp Việt Nam mạnh nên sinh ra nhiều phế liệu hữu cơ. Những phế liệu này ủ trong những lò phản ứng khí sinh học sẽ sinh ra khí methan có thể dùng làm nguồn năng lượng các miền đồng quê. Trường đại học Đà nẵng và một số Tổ chức từ thiện phi chính phủ hoạt động tại Việt nam đã thiết kế và thử nghiệm thành công những lò phản ứng này7. Rác đô thị chôn ở một hố rác được thiết kế thích nghi cũng có thể là nguồn khí sinh học hỗ trợ cho mạng phân phối khí đốt đô thị.
Chúng tôi đề nghị :
* vườn ươm xí nghiệp trường Đại học Đà Nẵng thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một lò phản ứng khí sinh học tiêu chuẩn cho một hộ nông thôn trung bình,
* các thành phố 100.000 nhân khẩu xử lý rác trong những hố rác có thể sản xuất khí sinh học.
2. Việt Nam đã nhiều lần chế tạo thành công những lò đốt phế liệu của nông nghiệp : bã mía, trấu, rơm,... Nhưng, ngoài những nhà máy đường đốt bã mía, những lò đốt này không có quy mô lớn và chỉ có tính cách làm để thử nghiệm8.
Chúng tôi đề nghị một trường đại học hay một trung tâm nghiên cứu thiết kế và thử nghiệm một kiểu mẫu lò hơi tiêu chuẩn có công suất chừng 10 MW. Lò hơi này sẽ được thiết kế chủ yếu chạy bằng dầu và, khi có nguồn cung ứng thì chạy thêm bằng bất cứ một chất đốt rắn nào. Trong khuôn khổ kế hoạch đô thị hoá công nghiệp hoá nông thôn lò hơi sẽ đặt ở những khu công nghiệp địa phương để thanh toán vấn đề phế liệu nông nghiệp và để sản xuất điện cho những nhà máy của khu công nghiệp và những làng xã lân cận.
Chúng tôi cũng đề nghị những thành phố hơn 500.000 nhân khẩu đốt rác đô thị trong những nhà máy đồng phát sinh điện và hơi nước. Điện và hơi nước được sản xuất này sẽ tham gia cung ứng năng lượng sinh hoạt của thành phố.
3. Những loại năng lượng sinh học khác cần được nghiên cứu sâu rộng và trong một thời gian lâu để hiểu rõ tiềm năng và hậu quả của chúng đến xã hội và môi trường tự nhiên.
Trong khi chờ đợi, chúng tôi can ngăn chính phủ đừng vội vã quyết định gì ngoài những quyết định nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và nghiên cứu khả thi. Thủy năng
1. Tỷ lệ thủy điện trong kết cấu sản xuất điện của Việt Nam quá cao để có thể ổn định cung ứng điện suốt năm và trên toàn lãnh thổ quốc gia. Những công trình thủy điện xây lâu và tốn nhiều vốn ban đầu hơn là những nhà máy nhiệt điện. Việt Nam đang thiếu điện và thiếu vốn. Vậy ưu tiên là phải xây những nhà máy nhiệt điện chứ không phải là xây những nhà máy thủy điện.
Cho tới khi tỷ lệ thủy điện xuống tới dưới một phần tư nhu cầu9, chúng tôi đề nghị :
* hủy bỏ những dự án nhà máy thủy điện công suất trên 10 MW nếu không có nhu cầu chính là chống lũ hay cung cấp nước cho nông nghiệp,
* đình chỉ những công trình chưa khởi công,
* tạm thời đình hoãn những công trình đã khởi công nhưng, vì lý do này lý do khác, chưa tiến độ mấy hay tiến triển quá chậm.
Tài chính ngắn hạn được giải phóng sẽ dùng để xây nhà máy nhiệt điện.
2. Việt Nam và các nước lân cận có nhiều địa điểm thuận lợi để lắp đặt những máy thủy điện nhỏ và rất nhỏ. Cho tới nay, người dân có nhu cầu điện phải tự chế những bộ thủy điện gồm một ống dẫn nước, một tuabin và một máy phát điện. Vì tự chế và không được thiết kế có quy củ, những bộ thủy điện này có hiệu suất thấp và chế tạo chúng tốn nhiều công và vật liệu.
Chúng tôi đề nghị tư nhân hay chính quyền một địa phương thành lập một xí nghiệp thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một số bộ thủy điện tiêu chuẩn ở những bậc thang công suất dưới 10 MW (tỷ dụ 10 MW, 5 MW, 1.000 kW, 500 kW, 250 kW, 100 kW, 50 kW, 10 kW). Những tư nhân hay địa phương có nhu cầu chỉ cần phối hợp những bộ tiêu chuẩn đó để đạt công suất của công trình muốn xây. Giá thành, suy ra giá bán, một bộ máy tiêu chuẩn rẻ hơn là một bộ máy thiết kế đặc biệt cho một công trình vì :
* công lao và tiền của để thiết kế đã được khấu hao trên nhiều đơn vị,
* những bộ máy bán chạy nhất có thể được chế tạo trước để khách hàng khỏi phải chờ lâu,
* và nhân lực chế tạo bộ máy sẽ hưởng định luật hiệu ứng tay nghề nên có năng suất cao, giá thành thấp và chất lượng cao10.
Năng lượng mặt trời
1. Ở Việt Nam, năng lượng mặt trời ở dạng nhiệt, những máy nước nóng không mấy phổ biến như ở các nước ven bờ Địa Trung Hải. Có vài xí nghiệp bán những bản hấp thụ ánh sáng mặt trời với những ống rỗng của Đức. Những máy nước nóng đó có hiệu suất cao hơn là những bản mặt trời tự chế nhưng đắt gấp bội. Đức là một nước lạnh, họ cần đến những ống rỗng để mùa đông giữ hiệu suất ở một mức có thể chấp nhận được. Việt Nam là xứ nóng nên sai biệt hiệu suất giữa hai loại bản mặt trời tự chế và nhập từ Đức không đáng sai biệt về giá bán.
Chúng tôi đề nghị những xí nghiệp đó ngưng nhập những máy nước nóng và thiết kế những bản mặt trời giản dị để bán cho người tiêu dùng. Một trường đại học có thể đứng ra làm phòng thí nghiệm đo hiệu suất những bản mặt trời và phát giấy chứng nhận năng suất của những máy nước nóng.
2. Về năng lượng mặt trời ở dạng quang điện, cũng có vài nơi ở Việt Nam, đặc biệt trên những ghe thuyền có người cư ngụ, chưa liên kết với mạng phân phối điện quốc gia dùng bản quang điện để có điện nghe đài hay xem truyền hình. Nhưng, so với sức mua điện của người Việt Nam, quang điện vần còn là một thiết bị vẫn còn tốn kém.
Chúng tôi đề nghị thay thế những bản quang điện bằng những tuabin vi thủy điện hay những quạt phong điện loại nhỏ. Những thiết bị này có thể tự chế. Nhưng, tốt hơn, vườn ươm của một trường đại học có thể đứng ra thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường những bộ vi thủy điện và những quạt phong điện tiêu chuẩn có công suất dưới 10 kW.
Chúng tôi cũng đề nghị vườn ươm một trường đại học nghiên cứu thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một hệ thống câu điện an toàn từ mạng điện quốc gia đến những ghe thuyền.
3. Nhiều chính phủ những nước công nghệ tiên tiến khuyến khích và trợ cấp tư nhân đầu tư vào những nhà có tổng kết năng lượng dương. Những nhà này thường được trang bị bới những bản quang điện gắn trên mái nhà. Mục đích của trợ cấp này là để những xí nghiệp nước họ tích lũy diện tích những bản quang điện đã được sản xuất và, nhờ hiệu ứng tay nghề, giảm giá thành của quang điện ở nước họ xuống dưới giá mua từ mạng phân phối điện quốc gia. Thị trường quốc tế những bản quang điện này rất lớn.
Chúng tôi đề nghị tư nhân hay chính quyền một địa phương thành lập một xí nghiệp sản xuất những tế bào quang điện và chế tạo để xuất khẩu những bản quang điện. Mặc dù chưa có thị trường quốc nội, sản xuất để xuất khẩu sẽ giúp xí nghiệp Việt Nam tích lũy diện tích những bản quang điện đã được sản xuất và có ưu thế về giá khi quang điện có thể đua tranh được với điện cổ điển.
4. Trong khi chờ quang điện có thể đua tranh được với điện cổ điển, quang điện tiện lợi khi cần cung ứng một lượng điện rất nhỏ và những sản phẩm cần đến rất ít điện. Sản xuất những sản phẩm này không cần đến công nghệ quá cao (xin đọc phần II bài “Năng lượng và phát triển bền vững” của chúng tôi). Về tổng số công suất điện thì không có là bao nhiêu, nhưng về tổng số lượng sản phẩm có gắn một tế bào quang điện thì thị trường đa dạng và rất lớn.
Chúng tôi đề nghị tư nhân hay chính quyền địa phương thành lập những xí nghiệp thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm phải dùng pin điện hay cần kéo dây điện để cung ứng một lượng điện rất nhỏ như là đồng hồ, máy tính bỏ túy, máy radio, máy truyền hình nhỏ, đèn điện chiếu sáng vườn cảnh, trạm tín hiệu, cọc tiêu, rờle viễn thông, máy tính tiền đỗ xe, máy phát tiền,… Năng lượng gió
1. Chúng tôi được biết tỉnh Bình Thuận đang khai triển một trại phong điện11. Đây là một điều đáng tiếc vì một quạt phong điện sản xuất điện không đều đặn và do đó có khả năng làm cho mạng phân phối điện quốc gia mất ổn định.
Chúng tôi đề nghị tách ly khỏi mạng phân phối điện quốc gia những quạt phong điện và dùng chúng để bơm nước vào những hồ tích nước dùng cho nông nghiệp, du lịch, giải trí và sản xuất điện cho mạng phân phối điện quốc gia vào những giờ cao điểm.
2. Ngược lại, ở những hải đảo có cộng đồng ít cư dân thì những quạt phong điện nhỏ hay trung bình sẽ giảm nhu cầu nhiên liệu của ổ phát điện chạy bằng dầu. Ngoài ra, ở ngoài khơi, những quạt phong điện cũng có thể cung cấp điện cho những trạm tín hiệu, cọc tiêu và rờle viễn thông.
Chúng tôi đề nghị một trường đại học nghiên cứu chế độ gió trên các hải đảo Việt Nam và phương pháp liên kết quạt phong điện với những ổ phát điện và bình acquy. Mục đích của những công trình nghiên cứu này là tìm phương pháp tối ưu cung ứng điện cho cư dân những hải đảo.
Chúng tôi cũng đề nghị tư nhân hay chính quyền một địa phương thành lập một xí nghiệp thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một số quạt phong điện tiêu chuẩn ở một bậc thang công suất dưới 10 kW (tỷ dụ 10 kW, 5 kW, 1.000 W, 500 W, 250 W, 100 W, 50 W, 10 W). Cũng như với quang điện, về tổng số công suất điện thì không có là bao nhiêu, nhưng về tổng số lượng sản phẩm thì thị trường đa dạng và rất lớn.
3. Nhiều nước Âu Châu và Bắc Mỹ đang lắp đặt những trại phong điện. Thị trường này rất lớn. Chế tạo những cột quạt phong điện không khó lắm, tương tự như chế tạo những trụ cầu và trụ dàn khoan mỏ dầu ở ngoài khơi mà Việt Nam đã biết chế tạo và đã xuất khẩu. Hiện nay một xí nghiệp Đức đang thương lượng xây dựng một nhà máy quạt phong điện ở Việt Nam12.
Chúng tôi đề nghị xí nghiệp hợp doanh này không giới hạn chức năng ở khâu lắp ráp những quạt phong điện mà có thể :
* thiết kế và lắp ráp toàn bộ một quạt phong điện,
* gửi kíp nhân công đi xây những trại phong điện ở nước ngoài dưới sự lãnh đạo của một kỹ sư dự án trưởng Việt Nam.
Những năng lượng tái tạo khác
Tiềm năng năng lượng biển và năng lượng từ lòng đất ở Việt Nam có thể rất lớn và đáng được chú ý đến. Nhưng những cơ sở để xác nhận điều này Việt Nam chưa có.
Cũng như với những năng lượng sinh học, chúng tôi đề nghị các trường đại học và trung tâm nghiên cứu địa chất khảo sát thêm và nếu thấy có triển vọng thì đánh giá kỹ hiệu ứng xã hội, kinh tế và kỹ thuật trước khi chính quyền địa phương quyết định khai thác một loại năng lượng sinh học hay không.
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 8:01:38 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:01:38 GMT 9
Phát triển kinh tế bền vững Một định luật quản lý Nhà Nước là "biểu thuế thể hiện chính sách kinh tế của chính phủ và biểu giá một dịch vụ hay sản phẩm cốt yếu thể hiện chi phí sản xuất". Nếu giảm thuế hay trợ giá những sản phẩm cốt yếu như là lương thực hay năng lượng thì sẽ khuyến khích người dân và xí nghiệp lãng phí tài nguyên. Với giá năng lượng cao xí nghiệp sẽ được khuyến khích hiện đại hoá những quy trình sản xuất để tiết kiệm năng lượng. Dù sao giá thực tế những sản phẩm cốt yếu sẽ không bao giờ giảm và ngân sách dành cho những hỗ trợ đó sẽ sớm cạn. Kinh nghiệm các nước cho thấy khi chính phủ không thể tiếp tục hỗ trợ được nữa thì sẽ xảy ra khủng hoảng kinh tế và xáo trộn xã hội. Chúng tôi đề nghị chính phủ giữ thuế đánh trên năng lượng ở mức cao và không trợ giá năng lượng cho một đối tác kinh tế xã hội nào. Thay vào đó, chính phủ có nhiều cách can thiệp khác : * đối với thành phần xã hội có đời sống khó khăn thì phát học bổng một cách hào hiệp, bảo hiểm y tế đại trà, xây chung cư giá rẻ, trợ giá giao thông công cộng,... * đối với một ngành nông nghiệp hay công nghiệp có vấn đề thì tăng cường đào tạo nhân lực, tài trợ phiêu lưu (venture financing) và tư vấn xuất khẩu, tài trợ phiêu lưu khai triển sáng kiến, tài trợ đầu tư vào hiện đại hoá những phương tiện sản xuất, lập quỹ ổn định giá những sản phẩm thu hoạch theo vụ (tỷ dụ nông sản) hay tùy thời tiết (tỷ dụ ngư sản),... Những hình thức hỗ trợ này sẽ giúp người dân duy trì sức mua và các xí nghiệp giảm giá thành. Đây là hai điều kiện để vượt qua một khủng hoảng kinh tế một cách lành mạnh. Giao thông vận tải Những xa lộ cao tốc chiếm nhiều đất và ô tô chạy trên đó tiêu thụ nhiều dầu và phun ra nhiều khí có hiệu ứng nhà kính. Những xe vận tải nặng chạy trên những đường cao tốc sẽ không bao giờ đáp ứng được nhu cầu luân chuyển hàng hoá của một quốc gia công nghiệp. Những xa lộ nội thành sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề ùn tắc giao thông đô thị. Vận tải bằng đường sắt, đường sông và đường biển chiếm ít đất lộ giới, tiêu thụ ít năng lượng và có trọng tải lớn hơn là bằng đường bộ. Chuyên chỏ công cộng hành khách trong những cụm đô thị tiêu thụ ít năng lượng hơn và ô nhiễm môi trường ít hơn là những phương tiện di chuyển cơ giới cá nhân khác. Chúng đề nghị : * ưu tiên khai triển mạng đường sắt, đường sông và đường biển để giảm nhu cầu giao thông vận tải bằng đường bộ, * liên kết những khu công nghiệp với mạng đường sắt để gia tăng tiềm năng vận chuyển hàng hoá giữa những khu công nghiệp với nhau và giữa những khu công nghiệp và các bến cảng, * nếu có thể, đặt những khu công nghiệp ở ven sông hay ven biển để tận dụng những phương tiện vận tải bằng đường thủy. Công nghiệp 1. Ba nguyên tắc của chiến lược quân sự cũng như chiến lược kinh doanh là tập trung lực lượng, giữ thế chủ động và tiết kiệm tiềm năng13. Về tập trung lực lượng, chúng tôi đề nghị : * những tập đoàn quốc doanh chuyên về năng lượng bán lại cho SCIC (Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước) những công ty con không dính dáng gì đến năng lượng (viễn thông, cao ốc, ngân hàng,...), * sau khi cổ phần hoá những hợp tác xã và những xí nghiệp quốc doanh xây dựng cơ sở, sản xuất và phân phối năng lượng, SCIC kết hợp, tùy theo ngành chuyên môn, vào một trong ba tập đoàn lớn chuyên về than (Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, TKVN), dầu khí (Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam, PVN), sản xuất và phân phối điện (Tập đoàn Điện lực Việt Nam, EVN), * nếu niêm yết trên thị trường chứng khoán ba tập đoàn này thì SCIC luôn luôn giữ tối thiểu 51 % cổ phiếu để có thể áp đặt chính sách năng lượng của chính phủ, TKVN và PVN chỉ có quyền bán chất đốt cho EVN chứ không có quyền xây dựng cơ sở, sản xuất và phân phối điện. Về giữ thế chủ động, chúng tôi đề nghị mỗi khu công nghiệp trên 200 ha phải có riêng một nhà máy nhiệt điện, có đủ công suất để đáp ứng nhu cầu của khu công nghiệp và những khu đô thị lân cận và bắt buộc liên kết với mạng phân phối điện quốc gia. Về tiết kiệm tiềm năng, chúng tôi đề nghị nhà máy nhiệt điện của những khu công nghiệp : * đốt than và những chất đốt rắn khác như là rác đô thị, phế liệu công nghiệp, phế liệu nông nghiệp, củi gỗ của ngành khai khẩn rừng,... * xử lý đúng tiêu chuẩn vệ sinh khói và những phế liệu sinh ra từ việc đốt những vật liệu đó, * có tuabin và bộ ngưng đã được thiết kế để cho nhà máy có thể chạy theo chu trình kết hợp. 2. Vì định luật hiệu suất Carnot, một nhà máy nhiệt điện chỉ biến đổi thành điện có 35 đến tối đa 50 phần trăm năng lượng khả dụng. Phần còn lại bị thải ra thiên nhiên qua bộ ngưng. Chúng tôi đề nghị : * nhà máy nhiệt điện xây những ống dẫn hơi nước nén từ bộ ngưng đến các đô thị và các khu công nghiệp lân cận để bán hơi nước nén cho những đối tác có nhu cầu, * những khu đô thị gần một nhà máy nhiệt điện có một mạng phân phối để dẫn hơi nước nén đến từng nhà tư nhân. 3. Những thiết bị công nghiệp có hiệu suất cao, tiêu thụ ít năng lượng và ô nhiễm ít môi trường nếu được bảo trì như mới. Chúng tôi đề nghị : * các xí nghiệp có chính sách bảo trì sản xuất cục bộ (TMP, Total Productive Maintenance), * tư nhân và chính quyền địa phương thành lập những xí nghiệp phụ trợ chuyên về bảo trì những thiết bị công nghiệp. 4. Như viết ở một phần trên, những cơ sở công nghiệp nặng, nhà máy lọc dầu, nhà máy phân bón, các nhà máy hoá chất,… đều có rủi ro tai nạn như một đập thủy lợi hay một nhà máy hạt nhân. Chúng tôi đề nghị Quốc hội thông qua một bộ luật về quản lý tai nạn công nghiệp quy định trách nhiệm và quyền hành của mỗi cơ quan Nhà Nước về phòng ngừa rủi ro công nghiệp và ứng phó khi có tai nạn. Chúng tôi cũng đề nghị chính phủ lập : * một bộ tiêu chuẩn bảo đảm an toàn và kiểm tra an toàn những cơ sở công nghiệp, * một bộ chương trình thao luyện thường xuyên những lực lượng cấp cứu, * một bộ quy trình tuyên truyền về rủi ro công nghiệp và những phương cách ứng xử khi có tai nạn. 5. Quy ra giá trị gia tăng thì công nghiệp nặng tiêu thụ nhiều năng lượng và ô nhiễm môi trường nhiều hơn là công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Nhưng, trong quá trình phát triển kinh tế, Việt nam phải khai triển những công nghiệp nặng để tránh khỏi phải nhập khẩu bán thành phẩm dùng trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Để giảm thiểu nhu cầu năng lượng và những vi phạm đến môi trường, chúng tôi đề nghị chỉ xây dựng những cơ sở công nghiệp nặng có năng suất đủ để đáp ứng những nhu cầu quốc nội. Như vậy có nghĩa là Việt Nam sản xuất đủ phân bón, xi măng, gang thép, bán thành phẩm kim loại,… để đáp ứng tất cả nhu cầu quốc nội của nông nghiệp, ngành xây dựng và các ngành công nghiệp. Đặc biệt chỉ nên xây đủ năng suất lọc dầu để cung ứng nhu cầu quốc nội trung bình về nhiên liệu và hoá chất. Những bất cập của thị trường sẽ được điều chỉnh trên thị trường quốc tế : nhập khẩu khi thiếu và xuất khẩu khi thừa. Những năng suất công nghiệp nặng vượt hơn nhu cầu quốc nội là những nguồn nhập khẩu nguyên liệu và ô nhiễm môi trường quá mức. Tiện nghi nhà ở 1. Vì Việt Nam vẫn còn là một nước lạc hậu nên củi gỗ và những chất đốt rắn khác là nguồn năng lượng lớn nhất. Tính trạng này uy hiếp môi trường tự nhiên, đặc biệt sinh ra nạn phá rừng. Chúng tôi đề nghị PVN khai triển một mạng phân phối những bình gas gia dụng đến tất cả các xã, kể cả những những xã vùng xa hẻo lánh. So với mạng phân phối điện của EVN thì xây dựng một mang phân phối những bình gas gia dụng rẻ hơn và có thể được thực hiện trong một thời gian ngắn hơn nhờ PVN có thể dựa trên những kênh phân phối bán lẻ. 2. Những cao ốc phải có thang máy và ban ngày bị mặt trời hâm nóng mà lại không thể mở cửa sổ. Những nhà loại đó tiêu thụ nhiều năng lượng để chạy thang máy và điều hòa không khí. Chúng tôi đề nghị chỉnh trang đô thị bằng những khu nhà cao tối đa hai ba tầng. Những khu đô thị được liên kết với nhau bằng những trục giao thông rộng lớn. Nhưng những khu nhà chỉ cách nhau bằng ngõ hẻm cấm xe ô tô và đủ rộng để một xe cấp cứu có thể ra vào khi cần thiết. Như thế, nhà này che nắng cho nhà kia. Xung quanh những khu nhà có cây cao tạo ra bóng mát. Những kiến trúc sư nên tìm nguồn cảm hứng ở những nhà cổ truyền Việt Nam và những đô thị các nước ven bờ Địa Trung Hải. 3. Những nhà không được cách nhiệt sẽ nóng và không khí bên trong phải được làm lạnh thì mới ở được. Những máy điều hòa không khí cá nhân có hiệu suất kém và, cho tới này, chỉ có thể chạy bằng điện. Những máy nước nóng cá nhân cũng chỉ có thể chạy bằng điện hay bằng khí đốt. Chúng tôi đề nghị : * chính phủ ban hành những tiêu chuẩn cách nhiệt cho các văn phòng, trung tâm thương mại và nhà ở, * chính quyền địa phương chỉ cho phép xây nhà nếu chủ đầu tư chứng minh nhà sẽ được cách nhiệt đúng tiêu chuẩn, * nếu gần một nhà máy nhiệt điện thì ưu tiên dùng hơi nước nén của nhà máy để đun nước sinh hoạt và điều hòa không khí theo chu trình hấp thụ. * chính quyền địa phương chỉ cho phép xây những nhà hai tầng trở lên nếu có phương án đun nước nóng sinh hoạt bằng ánh sáng mặt trời hay bằng hơi nước nén của một nhà máy nhiệt điện, Nghiên cứu khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế Những vấn đề nêu trên có thể được coi là liên hệ đến nhiều nước khác. Nhưng chúng đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của kinh tế Việt Nam. Vì thế Việt Nam không nên chờ có trợ giúp của nước ngoài mới bắt đầu tìm giải pháp cho những vấn đề của mình. Ở những phần trên, chúng tôi đã đề nghị nhiều cơ hội kinh doanh liên hệ đến năng lượng. Ở phần này chúng tôi sẽ đề nghị một số đề tài nghiên cứu triển khai Việt Nam có thể tiến hành một mình hay trong khuôn khổ hợp tác quốc tế. 1. Tạp chí Hoạt động Khoa học, trích dẫn Ngân hàng Thế giới, nêu năng lượng gió ở Việt Nam có tiềm năng công suất 513 360 MW, nhiều hơn 200 lần công suất của Thuỷ điện Sơn La, hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 202014. Một số báo trong nước đăng tin bể than tỉnh Hưng Yên có trữ lượng 210 tỷ tấn than. Theo WEC thì trữ lượng than đủ loại của cả thế giới chỉ có 847 tỷ tấn và sản lượng năng lượng gió của cả thế giới cũng chỉ là 106 TWh mỗi năm. Những sai biệt lớn giữa những số liệu quốc tế và thông tin của báo chí Việt Nam không được cải chính cho thấy Việt Nam chưa nắm được tất cả những số liệu cần thiết để thiết kế một chiến lược năng lượng thực tế. Chúng tôi đề nghị Việt Nam khảo sát kỹ lưỡng địa chất, khí tượng, sinh vật, thảo vật, môi trường tự nhiên, môi trường nhân bản và tiềm năng của mỗi năng lượng tái tạo trước khi quyết định về khai triển một loại năng lượng nào. 2. Với bốn chục năm chiến tranh, Việt Nam có kinh nghiệm tổ chức cứu trợ khi có thảm họa. Nhưng an toàn công nghiệp là một ngành khoa học kỹ thuật. Vấn đề không những là xử lý tai nạn mà, quan trọng hơn, ngăn ngừa tai nạn. Những bộ tiêu chuẩn và quy trình về an toàn công nghiệp chúng tôi nêu ở một phần trên cần đến nhiều chuyên gia được đào tạo quy củ và có kinh nghiệm thâm niên viết và đưa vào thi hành. Hiện nay, mới chỉ có 100 người đang được đào tạo để điều hành an toàn bức xạ hạt nhân mà những chu trình bảo đảm an toàn và đối phó với sự cố thì phải viết đến cả pho sách15. Tự viết, dù là với sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài, rồi đưa vào áp dụng tất cả những chu trình đó thì đến năm 2020 sẽ không xong. Sau đó lại còn phải thử nghiệm để sửa chữa những khuyết điểm trước khi quảng bá giữa dân chúng và chính quyền điạ phương. Chúng tôi đề nghị chọn mua bản quyền những tiêu chuẩn và quy trình bảo đảm an toàn và cấp cứu của một cường quốc công nghiệp như là Pháp, Đức, Nhật hay Hoa Kỳ, dịch sang Việt ngữ và đưa vào dùng thử ngay. Sau này, với sự giúp đỡ của AEIA và các nước bạn, sẽ tuần tự cải biên để cho thích hợp với điều kiện của Việt Nam. Dù sao, những chu trình và tiêu chuẩn kỹ thuật đều người này chép người kia. Sau Thế chiến II, Nhật Bản cũng chỉ chép nguyên văn những tiêu chuẩn của Hoa Kỳ để "đi tắt đón đầu". 3. Các nước công nghệ tiên tiến vẫn còn tiến hành những dự án nghiên cứu triển khai về sản xuất, ứng dụng và tiết kiệm những loại năng lượng này. Chúng tôi đề nghị Việt Nam tham gia vào phong trào này và xin gợi ý vài đề tài liên quan mật thiết với Việt Nam : * công nghệ than sạch CCT, * lỏng hoá và khí hoá than, * những công nghệ hoá học than, * những tuabin khí nhỏ chạy theo chu trình kết hợp, * lọc và rửa khói thải ra từ những nhà máy. 4. Về năng lượng hạt nhân, những cường quốc hạt nhân đã có sẵn công nghệ làm giàu uranium nhưng chưa biết xử lý ổn thỏa nhiên liệu đã được phóng xạ. Nhưng Diễn Đàn Generation IV đang nghiên cứu triển khai một hệ thống sản xuất năng lượng hạt nhân giảm cường độ của hai vấn đề này. Như viết ở một phần trên, chúng tôi đề nghị Việt Nam : * xây một nhà máy làm giàu uranium và sản xuất những thanh nhiên liệu hạt nhân chung với các nước bạn thuộc khối ASEAN, * và xin tham gia vào những dự án nghiên cứu triển khai quốc tế đó, mặc dù lúc đầu chỉ là một đóng góp khiêm tốn. 5. Mặc dù nhân lọai chủ yếu dùng năng lượng sinh học cho tới cách mạng công nghiệp thứ nhất, ảnh hưởng kỹ thuật, kinh tế và xã hội của những loại năng lượng này vẫn còn là một bí hiểm. Chúng tôi đề nghị Việt Nam tham gia tích cực vào những chương trình nghiên cứu triển khai quốc tế và xin gợi ý vài đề tài liên quan mật thiết với Việt Nam : * trồng rong biển làm nguyên liệu sản xuất năng lượng sinh học, * trồng cây mọc mau như là tre, cây bạch hạc,… tại những vùng bị chiến tranh ô nhiễm hay phá hoại để làm củi đốt cho các nhà máy điện địa phương, * dùng phế liệu nông nghiệp để sản xuất nhiên liệu sinh học như là dầu điêzen sinh học, ethanol sinh học,... Xin chú ý chúng tôi đề nghị dùng phế liệu nông nghiệp chứ không dùng những thảo vật được trồng đặc biệt để làm nguyên liệu cho ngành năng lượng sinh học. Kết luận Nói chung thì Việt Nam tiêu pha năng lượng chứ không chăm chú dùng năng lượng để sản xuất. Những chính sách công nghiệp, giao thông vận tải cũng như thiết kế đô thị dẫn tới lãng phí năng lượng. Đầu tư vào những cơ sở sản xuất điện cầm chân nhiều vốn một cách vô ích và, dù đầu tư bao nhiêu chăng nữa, tình trạng thiếu điện sẽ duy trì. Mỗi nước có tài nguyên thiên nhiên và điều kiện khí hậu khác nhau. Chép lại y nguyên mô hình chiến lược phát triển kinh tế xã hội của một nước, dù nước đó là một cường quốc công nghiệp, không phải là một phương kế. Việt Nam phải rà xét lại tất cả chiến lược công nghiệp, giao thông vận tải và thiết kế đô thị để thiết kế những chính sách thích ứng với hoàn cảnh riêng của mình. Công nghiệp hoá hiện đại hoá kinh tế xã hội Việt Nam vẫn còn ở dạng sơ khai. Những yếu kém nêu trong bài này vẫn còn có thể chữa lại được. Tài nguyên thiên nhiên không có nhiều nhưng vẫn đủ để Việt Nam kế hoạch hoá tăng trưởng kinh tế bền vững trước khi những nguồn năng lượng hoá thạch cạn hết. Biến đổi khí hậu là một vấn đề quốc tế và Việt Nam cũng phải quan tâm nếu muốn được coi là một quốc gia có tinh thần trách nhiệm và tiếp tục "làm bạn với mọi người". Nhưng Hoa kỳ, quốc gia giàu nhất thế giới, không giảm lượng khí có hiệu ứng nhà kính để duy trì phát triển kinh tế của họ thì tại sao Việt Nam phải hy sinh tăng trưởng kinh tế của mình để cứu nhân loại ? Khủng hoảng năng lượng, như mọi khủng hoảng, chỉ có tính cách trạng huống. Lý do duy nhất mà Việt Nam phải chuyển sang năng lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo là những nguồn năng lượng hoá thạch có xu hướng sẽ cạn. Việt nam phải chuẩn bị sản xuất tối đa điện bằng năng lượng hạt nhân và tiêu thụ tối đa năng lượng dưới dạng điện vì : * trong tương lai, phải dành những năng lượng hoá thạch cho công nghệ hoá học, * năng lượng hạt nhân là loại năng lượng không sinh ra khí có hiệu ứng nhà kính, * một nước nắm công nghệ hạt nhân và điện hoá những quy trình sản xuất là một quốc gia công nghệ tiên tiến. Việt Nam cũng phải chuẩn bị sản xuất và tiêu thụ đại trà những năng lượng tái tạo vì : * tiềm năng của Việt Nam về năng lượng tái tạo rất lớn, * công nghệ năng lượng tái tạo có tiềm năng thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, một vế của phát triển bền vững mà Việt Nam có thế mạnh. Chọn trở thành một quốc gia công xưởng là chọn phải nhập khẩu nguyên liệu và nhiên liệu để sản xuất mỗi ngày mỗi nhiều hơn và chọn phải ô nhiễm môi trường tự nhiên mỗi ngày mỗi trầm trọng hơn. Chuyển hướng kinh tế xã hội để thành một quốc gia công nghệ tiên tiến thì Việt Nam phải nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực kỹ thuật. Đây hai việc khó khăn, tốn nhiều công nhiều của. Nhưng thực hiện được hai việc sớm bao nhiêu thì chuyển hướng kinh tế xã hội sẽ mau chóng và dễ dàng bấy nhiêu. Kỳ I : Phân tích chiến lược 1 "Petro Việt Nam đầu tư 208 triệu USD sang Algeria" đăng trên Nhân Dân ngày 28 08 2006 và ở địa chỉ Internet www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=131&article=71963. "Hơn 1,8 tỷ USD xây dựng nhà máy thủy điện tại Lào" đăng ở địa chỉ Interrnet vietnamnet.vn/kinhte/2007/12/760566/"VN sẽ khai thác mỏ dầu đầu tiên ở nước ngoài" đăng trên Thanh Niên ngày 10 05 2008 và ở địa chỉ Internet www2.thanhnien.com.vn/Kinhte/2008/5/10/238058.tno. 2 Vào cuối thập niên 1970, chính phủ Pháp thông qua kế hoạch PEON (Production d’Electricite d’Origine Nucleaire, Sản xuất Điện từ Nguồn Hạt Nhân). Kế hoạch này đại khái là như sau. Mỗi năm nhu cầu điện gia tăng và có những nhà máy điện cần phải thay thế. Công suất phải lắp đặt thêm cộng với công suất những nhà máy điện phải thay thế sẽ được đáp ứng tối đa bằng những nhà máy điện hạt nhân. Để bảo đảm an ninh năng lượng, kế hoạch PEON được tăng cường bới chính sách khuyến khích tư nhân và xí nghiệp chuyển sang sử dụng điện thay vì sử dụng những năng lượng phải nhập khẩu. 3 "Công nghệ hạt nhân và Việt Nam", đăng ở địa chỉ Internet zdfree.free.fr/diendan/articles/u163ddcung.html. 4 Để giải quyết vấn đề nguồn uranium khai thác như hiện nay để sản xuất năng lượng cũng sắp cạn, mười hai quốc gia và tổ chức quốc tế hiệp sức để khai triển sáu loại lò phản ứng hạt nhân sản xuất năng lượng. Nhóm này mang tên Diễn đàn Generation IV và bao gồm Anh, Brazil, Canada, Euratom, Hàn Quốc, Hoa kỳ, Nga, Nam Phi, Nhật, Pháp, Thụy Sĩ, Trung quốc.. Mục đích là nghiên cứu triển khai một hệ thống sản xuất năng lượng : * bền vững, * an toàn và đáng tin cậy, * khả thi về kinh tế, * không gây tăng sinh vữ khí hạt nhân và bảo vệ bằng những phương tiện của vật lý học. Hệ thống này có tiềm năng giải quyết những vấn đề năng lượng của nhân loại cho một nghìn năm sắp tới ! 5 "Xây dựng thị trường riêng cho ngành điện" đăng ở địa chỉ Interrnet www.icon.evn.com.vn/Home/Nh%C3%A2nv%E1%BA%ADts%E1%BB%B1ki%E1%BB%87n/tabid/68/TopicId/12/ItemId/5346/language/vi VN/Default.aspx 6 "Biểu giá điện" đăng ở địa chỉ Interrnet www.icon.evn.com.vn/Home/News/tabid/55/TopicId/91/language/vi VN/Default.aspx 7 "Đà Nẵng sản xuất 1.000 máy phát điện mini chạy bằng biogas" đăng ở địa chỉ Interrnet www.sggp.org.vn/kinhte/2008/6/155857/8 "Năm 2008, sẽ xây dựng nhà máy điện đốt bằng trấu công suất 10MW tại Thốt Nốt " đăng trên Báo Cần Thơ ngày 11 05 2007 và ở địa chỉ Interrnet moi.gov.vn/News/detail.asp?Sub=6&id=29045"Trà Vinh dùng lò hơi đốt trấu tiết kiệm 10 triệu đồng/ngày" đăng trên Tiền Phong ngày 08 05 2008 và ở địa chỉ Internet www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=121720&ChannelID=3. 9 Chúng tôi chỉ gợi tỷ lệ này. Tính chính xác tỷ lệ cần đến một algorithm phức tạp vận động nhiều số liệu của thống kê thiên văn và thống kê về dạng nhu cầu điện hàng ngày. 10 "Hiệu ứng tay nghề" đăng ở địa chỉ Internet vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/kinhte/hieu ungtaynghe.htm 11 "Bình Thuận: Xây dựng nhà máy điện sử dụng năng lượng gió" đăng ở địa chỉ Internet www.laodong.com.vn/Home/kinhte/2008/1/72827.laodong12 "Xây dựng nhà máy chế tạo turbine điện gió tại miền trung" đăng trên Nhân Dân ngày 30 05 2008 và ở địa chỉ Internet www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=41&sub=72&article=12313013 Gil Fievet : "De la strategie Militaire a la Strategie d'Entreprise", InterEditions, 1992. Đọc giả có thể tham khảo thêm những bài viết của Ferdinand Foch và Mao Trạch đông về những nguyên tắc này. 14 “Tiềm năng và cơ hội phát triển năng lượng gió ở Việt Nam" đăng ở địa chỉ Internet www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2846“Mỏ than 210 tỷ tấn dưới lòng Đồng bằng sông Hồng” đăng ở địa chỉ Internet vietnamnet.vn/kinhte/2004/04/60569/15 Tỷ dụ xem quy trình ORSEC của Pháp đăng ở địa chỉ Interrnet www.interieur.gouv.fr/sections/a_l_interieur/defense_et_securite_civiles/dossiers/plan orsec/downloadFile/file/Guide_ORSEC.pdf?nocache=1190566360.0 hay tổ chức đối phó tai họa của Hoa kỳ ở địa chỉ Interrnet www.fema.gov/index.shtm
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 8:05:06 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:05:06 GMT 9
Tư bản tinh khiết Vietsciences- Phan Huy Đường Cuộc "khủng hoảng tài chính" hôm nay đã và sẽ tác động lớn vào đời hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người. Không thể thờ ơ được, phải tìm hiểu nó một chút. Cũng chẳng để làm gì. Nó quyết định tương lai của mình nhưng mình đâu có khả năng tác động vào nó ! Thân phận làm người hôm nay nó thế, ngay tại Pháp, một nước dân chủ. Bề gì cũng ăn đòn thôi. Nhưng đã ăn đòn cũng nên "biết" mình ăn đòn của ai, vì sao, như thế nào, sẽ đau điếng tới đâu, bao lâu. Nếu điều ấy khả dĩ "hiểu" được, ít nhiều. Đột nhiên, trong thời gian vài tuần thôi, kinh tế thế giới có thể sập xuồng. Hệ thống ngân hàng có thể phá sản. Hệ thống sản xuất - kinh doanh - dịch vụ (từ đây gọi vắn tắt là sản-xuất cho gọn) có thể lụi tàn vì không vay được vốn đầu tư, sản-xuất, thậm chí vay tiền mặt để thanh toán hàng ngày thôi, dù đơn đặt hàng đầy ắp. Người lao động có thể thất nghiệp. Đồng tiền có thể phá giá. Sức mua của người tiêu thụ có thể bị sa sút nặng nề. Et tutti quanti. Do đâu mà nên nỗi này ? Cả tháng nay tôi đọc trên báo chí bài vở của các chuyên viên có máu mặt trên quốc tế, ở Pháp và Châu Âu, của các vị Nobel kinh tế. Lúc này, ngoài hai vị trước kia bị coi là hâm hâm, các vị khác biến đâu hết ? Tôi chẳng hiểu gì cả. Thôi đành liều, thử tưởng tượng một cách hiểu "ngoại đạo". Nó có sai vì mình dốt cũng chẳng sao. Chí ít cũng bịa được một giả thuyết cho đỡ bực mình. Tư bản tài chính là gì, từ đâu ra ? Tư bản tài chính có thể coi như hình thái "tinh khiết", "nguyên chất", "lý tưởng" của tư bản. Không hình thái tư bản nào biểu hiện rõ ràng, mạch lạc hơn, công thức vận động cơ bản của tư bản : tiền đẻ ra tiền, bất tận. T → T + T' → … Trong học thuyết kinh tế kinh điển (Ricardo, Marx), người ta công nhận nguyên lý sau : trong thị trường, hàng hoá được trao đổi ngang giá trị (valeur, khái niệm kinh tế học chứ không phải X $ nhe) với nhau. Đó là tiền đề cần thiết để đảm bảo tính khoa học của môn kinh tế học : khách quan (khoa học ! hết sức trừu tượng, chẳng "khách quan" tí nào, như thuyết tương đối của Einstein ấy mà). Trong đời thực, không có chuyện ấy. Từng lúc, có người mua đắt, có người bán rẻ. Có kẻ lời người lỗ. Nhưng tổng hợp lại, lời bù lỗ, kết quả = 0. Rất dễ hiểu : nếu trong một năm xã hội sản-xuất được một lượng giá trị mới = 100 nằm trong hàng hoá đã được sản-xuất và in một lượng tiền = 100$ biểu hiện chúng, buôn đi bán lại như thế nào đi nữa, tiền từ túi anh này nhảy qua túi anh kia ra sao đi nữa, cuối cùng thì trong thị trường cũng chỉ có bấy nhiêu giá trị và tiền thôi. Tính khách quan ở đó. Trên cơ sở ấy, làm sao giá trị có thể đẻ ra giá trị, tiền có thể đẻ ra tiền được ? Chẳng thể giải thích được bằng sự kiện nhà nước in bạc giấy quá đà : chỉ tổ lạm phát thôi, không thay đổi được lượng giá trị có thực ở đời. Marx là người đầu tiên vạch rõ bí mật thầm kín đáng mê của phương thức sản-xuất tư bản trên cơ sở nguyên lý trao đổi ngang giá trị của kinh tế thị trường. Tiền vứt một xó hay gửi ngân hàng chẳng bao giờ đẻ ra tiền cả. Ngay kôm nay, ngân hàng Pháp không trả lãi cho những món tiền mà bàn dân gửi nó. Nhưng dùng tiền để mua sức lao động của con người, rồi khiến nó sản-xuất, thì nó có khả năng sản-xuất ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Lượng giá trị dôi ra đó gọi là giá trị thặng dự. Không có nó, không thể có tái sản-xuất mở rộng dưới bất cứ hình thái kinh tế nào nói chi tới hình thái kinh tế tư bản. Kinh tế tư bản mới chỉ hình thành khoảng 300 năm nay thôi mà. Trước hình thái kinh tế tư bản, vẫn có thị trường, vẫn có bóc lột đủ kiểu mà. Vì thế, cơ sở phát triển của tư bản là… thị trường sức lao động, người Pháp gọi một cách không chính xác là "marché du travail", "thị trường lao động". Trong thị trường ấy, làm quái gì có lao động (travail) để mua ! Chỉ có sức lao động thôi, bản thân tôi chẳng hạn, ai muốn mua, tôi bán liền vì sợ … đói. Dẹp hàng hoá "sức lao động của con người", dẹp "thị trường lao động" đi thì kinh tế tư bản tiêu vong. Ta có thể chứng kiến điều ấy hàng ngày. Ai đã nếm mùi délocalisation thì hiểu liền : "thị trường lao động" đã toàn cầu hoá. Quá trình vận động trên của tư bản rất minh bạch, sòng phẳng, hợp pháp : mỗi người đã hành động trong tư cách tự do, bình đẳng với nhau trước pháp luật, không ai lừa gạt ai, không ai ăn cắp của ai xu nào. Nhưng đã có người bóc lột sức lao động của người khác. Trên cơ sở đó, tư bản tài chính đã hình thành. Nó không từ trên trời rơi xuống. Nó không do các bực thiên tài đẻ ra trong chớp mắt. Nó chỉ là những giá trị thặng dư trên tập trung trong tay hay trong quyền quyết định của một số ít người, ít so với hơn 6 tỷ người gọi là nhân loại. Những "người" đó có thể là : a/ Tổng giám đốc Ngân hàng quốc gia "Trung Cộng", đang bơm hàng tỷ $ để cứu bồ Mỹ, nghĩa là mấy vị cầm quyền ở Trung Quốc ngày nay. b/ Tổng giám đốc của các Fonds d'investissement Mỹ. Số tiền khổng lồ này là tiền dành dụm thuộc quyền sở hữu của hàng triệu bàn dân lao động Mỹ. Mỗi người làm chủ một tí tiền còm, không ai có quyền quyết định sử dụng nó ra sao, ngoài mấy anh lãnh đạo dù mấy anh ấy không bỏ xu nào vào đó. c/ Những nhà tỷ phú. Thí dụ Bill Gates khi ông rút lui khỏi hoạt động sản-xuất và nếu ông bán hết cổ phiếu của ông, thu tiền bỏ túi. Với số tiền ấy, ông có thể mua tác phẩm nghệ thuật mang về nhà thưởng thức, hưởng thụ cạn đời cũng chưa cạn của, hay cho không Foundation Bill Gates để làm việc từ thiện như ông đã làm với 28,8 tỷ $, 95% tài sản của ông . Trong quan hệ ấy với đời, 28,8 tỷ $ của Bill Gates không có chức năng tư bản : tiêu mãi cũng cạn, chẳng bao giờ đẻ ra tiền cả, dĩ nhiên là đối với ông Bill Gates thôi vì người được giúp đỡ có thể dùng nó làm… vốn tư bản để sản-xuất. Nhưng nếu ông cho Foundation Bill Gates quyền sở hữu một số cổ phiếu trong công ty này ngân hàng nọ và sử dụng tiền lời do chúng tạo ra để làm chuyện từ thiện thì, trong quan hệ này, 28,8 tỷ $ của ông cho có chức năng tư bản. Cho thấy : tiền có nhiều bộ mặt, nhan sắc khác nhau, có khi bất ngờ không thua gì chữ nghĩa ! Tôi cố ý dùng thí dụ này vì tôi quá sợ người đời ghép tội cực tả bị "ý thức hệ" làm cho ngu muội : tôi công nhận trong nền văn minh tư bản ở Mỹ vẫn còn có những con người, như Bill Gates và tỷ phú Warrant Buffet (không thèm lập Foundation dưới tên mình mà cho không 37 tỷ $ cho Foundation Bill Gates), là tư bản kếch xù mà vẫn có quan điểm và hành động nhân bản : dùng tiền mình đã thu được để làm việc từ thiên. Chí ít cũng khá hơn những nhà ý thức hệ kinh tế thị trường định hướng xhcn ở ta. d/ bản thân các ngân hàng hay cơ quan bảo hiểm khi nó mua bán những "sản phẩm tài chính" để kiếm lời chớp nhoáng. e/ et tutti quanti. Tư bản tài chính có ba đặc tính sau : 1/ Nó biểu hiện giá trị có thực, đã được sản-xuất, dưới dạng tiền hay dưới dạng những món nợ được đảm bảo "vững chắc" như trái phiếu của nhà nước Mỹ chẳng hạn. 2/ Nó đã ít nhiều dứt khỏi cái dây nheo gắn nó với lao động sản-xuất thực trong nghĩa này : nó là giá trị có thực, nằm trong túi ông chủ, không dính dáng tới bất cứ quá trình sản-xuất hiện hữu nào cả, nó là sản phẩm của lao động đã qua mà. Khi chủ nó cho người khác vay, nó có thể gắn trở lại với một quá trình sản-xuất mới (tái sản-xuất), tùy người vay làm gì với nó : a/ người vay dùng nó để đầu tư vào sản-xuất : giấy nợ được quá trình sản-xuất ấy bảo lãnh, giá trị tài chính biến thành giá trị tư bản sản-xuất, có khả năng tạo giá trị thặng dư đích thực. b/ nhà nước vay, để làm gì, không biết. Giấy nợ được lao động tương lai của bàn dân bảo lãnh. c/ một chàng lãng tử vay, chơi bời trác táng đã đời rồi tự tử để thoát tù. Giá trị thực tan trong du hí tiêu thụ. Giấy nợ trở thành giấy lộn. 3/ Qua đó, sự vận động của tư bản tài chính có thể : a/ chớp nhoáng, không gắn bó với thời gian của hệ sản-xuất. b/ về mặt giá trị, nó "chỉ" tuỳ thuộc chủ quan của chủ nó thôi. Về mặt chức năng, tư bản tài chính khác tư bản ngân hàng ở đó. Chức năng ban đầu của tư bản ngân hàng là : tập trung những món tiền lẻ tẻ của hàng triệu người, từng món không đạt lượng cần thiết để biến tiền thành tư bản, tạo ra vốn đầu tư tập thể cho phép phát triển sản-xuất. Vốn riêng[1] của nó là giá trị có thực ở đời. Cho xí nghiệp vay, nó lấy quá khứ đánh cá tương lai : khả năng tái sản-xuất giá trị cũ và tạo giá trị thặng dư mới của các công ty sản-xuất. Nó có chức năng kinh tế cần thiết, hữu ích đối với xã hội, rõ ràng và đáng được thù lao. Dù những créances (quyền đòi nợ) của nó có thể đổi tay chớp nhoáng trong thị trường tài chính, những créances đó, cuối cùng, chỉ trở thành hiện thực sau một quy trình sản-xuất đích thực. Nó cho anh Renault vay 3 tỷ $ để xây dựng nhà máy ở Trung Quốc thì nó phải chờ vài năm, khi anh Renault xây dựng xong nhà máy và khai thác, tức là mua sức lao động rẻ tiền ở Trung Quốc để sản-xuất hàng hoá, và bán được sản phẩm với giá hằng mong. Lúc đó người đời mới biết được 3 tỷ $ ấy đáng giá bao nhiêu, cả vốn lẫn lời hay… lỗ. Tư bản tài chính thì khác. Nội một tuần thôi, tuy bản thân ông chẳng có vốn liếng bao nhiêu, ông Soros đã lời 2 tỷ $ không ảo tí nào. George Soros
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 8:06:35 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:06:35 GMT 9
Ba câu hỏi ám ảnh
Với kẻ ngoại đạo, có mấy câu hỏi cứ ám ảnh trở đi trở lại :
1/ Vì sao một con chuột có thể đẻ ra một con voi khủng khiếp đến thế ?
Bước đầu, "chỉ là" một món nợ 1 ngàn tỷ $ không có khả năng thanh toán "của" bàn dân Mỹ ham mua nhà nên vay tiền càn. Nhưng, theo anh Vũ Quang Việt cho bạn bè biết, và tôi tin số liệu của anh, nó đã biến thành 516 ngàn tỷ $ trong đủ thứ thị trường chứng khoán, trong khi "GDP của Mỹ chỉ có 16 ngàn tỷ và của cả thế giới là 50 ngàn tỷ." Hơn 10 lần GDP của cả nhân loại !
2/ Vì sao các ngân hàng bỗng nhiên cạn tiền mặt, mất hết khả năng thanh toán, nợ nần lụt mặt, lâm vào nguy cơ phá sản ?
3/ Tiền thực đã đi đâu mất hút ?
Cho tới nay tôi chưa may mắn được đọc một bài nào giúp tôi hiểu ba sự kiện ấy một cách tổng hợp và hữu cơ.
Đành tự mình mày mò vậy.
Trước hết, tôi nhại chương trình giáo khoa trong môn kinh tế học lý thuyết ở năm đầu đại học Tây U, thời tôi xách cặp tới trường, yêu quê hương kinh tế qua từng trang sách nhỏ : đơn giản hoá và khái niệm hoá vấn đề, bịa ra vài tác nhân kinh tế (agents économiques) liên quan với hiện tượng này để vạch rõ chức năng của chúng trong sự vận động của hiện tượng. Điều ấy có nghĩa : ta gạt qua một bên tất cả những tham số không cần thiết để hiểu cốt lõi của sự kiện, tuy chúng có thể tác động ít nhiều vào kết quả cụ thể, coi như là nhiễu.
Trong tinh thần đó, những số liệu sau đây dĩ nhiên là vớ vẩn, chi có chức năng lôgích thôi.
Trong vấn đề này, sơ khởi, có mấy tác nhân đại diện cho những chức năng sau :
A : bàn dân Mỹ ham làm chủ cái nhà mình ở, đi vay tiền mua.
B : một anh đầu cơ, cho A vay tiền mua nhà với điều kiện rất đặc biệt, nhưng hợp pháp.
C : ngân hàng cho B vay tiền để làm ăn, theo kiểu truyền thống.
D : ngân hàng kinh doanh subprimes et tutti quanti.
E : "những thị trường tài chính", tôi tạm định nghĩa kiểu tôi : toàn bộ những ai nắm những giá trị thặng dư khổng lồ có thực trên thế giới dưới dạng tiền hay dạng nợ do các quốc gia bảo lãnh (nợ do lao động tương lai của bàn dân bảo lãnh) : những tỷ phú, những cơ quan đầu tư, fonds d'investissement, những "fonds souverains" (tiền của các quốc gia như Trung Quốc, Nga, Ảrạp) et tutti quanti, và ngay cả tôi nếu tôi sẵn sàng đem ít tiền còm của tôi để mua bán sản phẩn tài chính này nọ. Đây là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho "thị trường".
Đương nhiên, những tác nhân ở đây chỉ biểu hiện chức năng kinh tế thôi. Anh đầu cơ B có thể là cá nhân ông Soros, tổng giám đốc một Fond d'investissement Mỹ, một ngân hàng nào đó, hay Ngân hàng quốc gia của Trung Quốc chẳng hạn. Có "người" có thể vừa là đầu cơ, vừa là chủ ngân hàng, vừa là tư bản tài chính. Et tutti quanti. Khái niệm luôn luôn trừu tượng, xám xịt, thế giới thực mới khởi sắc thôi mà.
Ta thử tưởng tượng xem, về mặt lôgích thôi, 5 tác nhân kinh tế ấy có thể hành động như thế nào trong chuyện này.
Cho rằng số $ có thực ở đời tương đương với giá trị hàng hoá có thực ở đời.
Điều này cãi cọ với nhau mãn kiếp cũng chưa cạn vấn đề. Ta không cần biết tới. Ta xuất phát từ hiện thực này : trong đời thực lúc đó có một lượng hàng hoá nhất định và một lượng $ nhất định cho phép người ta thoải mái trao đổi hàng hoá với nhau bằng lượng $ tiêu biểu cho giá trị của chúng. Lời bù lỗ, tổng số lời-lỗ = 0. Đó là nguyên lý cơ bản của kinh tế thị trường. Vứt nó đi, chẳng có gì hiểu đươc. Chấm hết.
Trong những bảng sau, $ màu đen là $ có thực tương ứng với hàng hoá có thực. $ màu đỏ là $ ảo, chỉ có trong kế toán, tương ứng với khả năng sản-xuất tương lai 20 năm của A.
"Thoạt kỳ thuỷ", xuất hiện một hàng hoá mới vừa được sản-xuất, có thực : nhà = 100$
hành động có nợ vốn nợ lãi A vay tay đầu cơ B tiền mua nhà 100$ biến thành nhà của A 100$ (*) 900$ trên 20 năm B cho A vay -100$ + 1000$
(*) 100$ thực đã vào túi của người bán nhà. Món nợ này của A là tiền ảo, chứ nếu A có thực thì đã không phải đi vay và chịu lãi nặng nề đến thế ! Nhưng món nợ này có bảo lãnh thực : bản thân cái nhà. 900$ còn lại đương nhiên là tiền ảo nguyên chất, bảo lãnh của nó là khả năng làm ra 900$ trong tương lai 20 năm của A.
Hỡi ơi, bản thân B cũng không có 100$ để cho A vay, nên B đã đi vay người khác. Vì B "có tài", dám liều, và nhất là B có quan hệ tốt đẹp đầy niềm tin với hệ thống ngân hàng, lại biết chơi ngon, B vay được.
B vay ngân hàng C với tỷ lệ lãi 100%/năm 100$ 100$ 100$ trên 1 năm C cho B vay + với lời -100$ + 200$ B bán rẻ giấy nợ của A cho ngân hàng D 300$ D mua giấy nợ - 300$ + 1000$ → (700$ lời) B thanh toán nợ cho C -200$ C nhận tiền của B 200$ B thủ túi tiền lời và zông 100$
Đến đây, B đã thủ túi 100$ một cách sòng phẳng, đúng pháp luật, và có thể biến, đàng hoàng tử tế. Với các tác nhân còn lại trong hệ thống tiền tệ, kết quả tổng hợp là :
tác nhân có nợ vốn nợ lãi A nhà 100$ 900$ trên 20 năm C 200$ D -300$ + 1000$
D đã đánh đổi 300$ thật lấy một giấy nợ 1000$ ảo. Vốn riêng của D từ 300$ thật đã biến thành 300$ ảo. Qua đó D đã lời 700$ ảo.
Giá trị cổ phiếu của D tăng vùn vụt trên thị trường chứng khoán. Lương của tổng giám đốc của D còn tăng nhanh hơn ! Trước kia cổ phiếu của D đáng giá 300$. Bây giờ nó đáng giá 600$, tăng thêm 300$, toàn là giá trị ảo cả : 300$ trong số 1000$ và 300$ do tăng giá trên thị trường chứng khoán. Nhưng, đúng theo một nguyên lý khác của "khoa học" kinh tế hàn lâm, giá trị đích thực của hàng hoá do cung-cầu quyết định, ở đây là cung-cầu trong thị trường chứng khoán. Thế là trong hệ thống tài chính, 20 năm lao động tương lai của A bảo lãnh cho 1300$ ảo.
Tiền của D ảo vì không có trong đời thật, dưới dạng hàng hoá hay tiền. Nó chỉ là một dòng chữ số trong bảng kế toán của D. Người đời lại dựa vào bảng kế toán ấy để đánh giá giá trị "thật" của D !
Nếu vốn riêng của D (do bàn dân gửi tiền, người đời cho vay, v.v.) là 300$ và nếu chủ nợ cùng lúc đòi D trả lại thì D… chìm xuồng : thắt cổ A cũng không vắt được 300$ thôi, nói chi là 1000$.
300$ thật của D đã được phân phối như sau :
100$ vào túi người bán nhà. Làm ăn lương thiện và hợp pháp.
100$ vào túi anh đầu cơ B. Tuy không có một xu vốn nhưng lời đích thực và hợp pháp.
100$ vào túi ngân hàng C. Lời đích thực và hợp pháp.
Chẳng có gì ám muội, khó hiểu cả.
Mô hình đơn sơ này, hoàn toàn không dùng tới một tham số tâm lý nào cả, đã đủ giải thích về mặt lôgích, một cách tổng hợp và hữu cơ 3 hiện tượng :
1/ Vì sao con chuột 100$ đã đẻ ra con voi 1000$, rồi, qua thị trường tài chính, đẻ ra một con voi 1300$. Tiền thì ảo, nhưng nợ thì… thật, lôi thôi ra toà thì biết.
2/ Vì sao có ngân hàng bỗng nhiên cạn tiền mặt, mất hết khả năng thanh toán nợ thực của mình và, nếu vứt bỏ 1000$ ảo kia thì nợ nần lụt mặt, cổ phiếu chẳng còn giá trị gì cả.
Đó là cốt lõi của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay. Ngân hàng và cơ quan bảo hiểm, tài chính rất giàu trên giấy tờ, nhưng đều đang cạn túi tiền mặt, không có ngay cả khả năng hoàn lại tiền bàn dân đã cho nó vay.
3/ Tiền thực đã đi đâu mất hút ?
Từ đó, đẻ ra hiện tượng tâm lý :
4/ Ngân hàng không dám cho nhau vay tiền nữa, bởi vì đâu ai còn tiền mặt để trả, chỉ trả nhau bằng tiền chữ-số nửa ảo nửa thật thôi, không ai biết thật ảo tới mức nào.
5/ Ngân hàng cũng e ngại cho anh tư bản sản-xuất vay tiền thực để phát triển sản-xuất : bản thân nó đang thiếu tiền mặt để trả nợ, còn cho ai vay nữa ? Và anh tư bản sản-xuất thì không thể dùng tiền ảo để mua phương tiện sản-xuất thực và nhất là trả lương nhân viên ! Thế thì chỉ tái sản-xuất thôi cũng không đảm bảo nổi nói chi là tái sản-xuất mở rộng. Vì thế mà có thể có "tăng trưởng âm". Ngôn ngữ của chính trị gia và kinh tế gia đáng nể thật !
6/ "Các thị trường tài chánh" e ngại đổ tiền vào hệ thống ngân hàng, bảo hiểm et tutti quanti : đổ tiền thật để mua nợ ảo, dù có thể lời ảo đến bao nhiêu, để làm gì ?
Chỉ còn lại một điều bí hiểm thôi : quy mô của con voi. Cuộc khủng hoảng bước đầu chỉ ở mức thiếu hụt tối đa là 1000$, cho rằng cái nhà không ai thèm mua nữa nên đã mất giá = 0$ !
Về mặt lôgích, nó có thể tự phình ra, mô hình trên đã cho thấy. Nhưng đến thế thì tưởng tượng sao được ?
Các chính quyền Tây Âu đã đổ ra hơn 1000 $ nhiều mà chẳng giải quyết được gì, lại còn đang tự hỏi : liệu 1 000 000 $ có đủ chăng ?
Lý do ? (có thể)
1/ Món tiền ảo kia đã được xé nhỏ ra, trộn lẫn với những giá trị khác (công nghiệp, kinh doanh, trái phiếu, et tutti quanti) biến thành những món "sản phẩm tài chính" ô hợp, nửa thực nửa ảo, mua đi bán lại cho nhau trên cơ sở những tham số, ở đây, nặng tâm lý cá cược và kiến thức toán học kinh tế hão. Tư bản tài chính đã thoát dây nhau trói buộc tiền với sản-xuất thực mà. Có ai biết giá trị thực của các "sản phẩm tài chính" ấy là bao nhiêu đâu ? Ngay trước mắt, nói gì tới tương lai 20 năm ! Thế thì mua bán với giá nào mà chẳng được, miễn sao cuối năm khai lời và lãnh tiền thưởng là xong ? Còn lại, sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.
2/ Tác nhân kinh tế trừu tượng D, trong thực tế là toàn bộ hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, et tutti quanti, tương tác hàng ngày hàng phút hàng giây với nhau và với những tác nhân kinh tế khác, với "các thị trường tài chính", tức là những người hay cơ quan nắm số vốn tư bản không lồ có thực trên thế giới, thí dụ những cơ quan đầu tư (fonds d'investissement) vui chơi với tiền tiết kiệm, bảo hiểm hay hưu trí của bàn dân lao động ở Mỹ, Ngân hàng nhà nước Trung Quốc, Nga, Ảrạp, các anh hùng hảo hớn khác, mua qua bán lại tiền, giá trị, thực và ảo, để thủ lời chớp nhoáng. Trong sự trao đổi này, người ta rất có thể trao đổi không ngang giá trị vì có ai biết được 1000$ ảo "của" A giá trị bao nhiêu đâu ? Và cũng chẳng ai ngờ được rằng giá trị cổ phiếu của D hoàn toàn ảo !
Hai nhân tố ấy có thể giải thích chăng hiện tượng này ? Tôi không biết, không quan tâm. Để làm gì ? Vì sao ?
Vì dù sao thì kết quả cuối cùng là :
a/ Các ngân hàng và cơ quan bảo hiểm, v.v. cạn tiền mặt, nợ nần lụt mặt, chẳng còn giá trị nào cả.
b/ "các thị trường tài chính" ứ hự tiền nhưng không muốn cho vay… trừ khi các nhà nước tư bản lấy tiền dân, hôm nay và ngày mai, ra bù lỗ, bảo lãnh tương lai của các ngân hàng, các cơ quan bảo hiểm et tutti quanti bằng lao động tương lai của bàn dân. Cứ đọc thông tin về thị trường chứng khoán mấy ngày qua thì thấy. Các nhà nước bơm tiềm bù lỗ tới đâu, niềm tin của "các thị trường tài chính" khởi sắc tới đó. Được vài ngày, lại xìu. Có thể vì nhà nước chưa bơm đủ tiền để hài lòng tin của chúng ?
Các nhà nước tư bản không dám in tràn tiền giấy để bù lỗ, thế là ngoan : lạm phát sẽ bùng nổ ngay, hậu quả không ai lường được, chết cả lũ, kể cả "các thị trường tài chính" ! Nguyên lý của kinh tế thị trường là vậy mà ! Nhưng bàn dân tứ xứ lao động cật lực trong 10-20 năm thì có thể bù lỗ ? Điều ấy tạm tin được. Các lãnh tụ chính trị chỉ cần sai vài chuyên viên kinh tế chứng minh như đinh đóng cột, 1+1=2, rằng bàn dân đã sống trên khả năng của mình quá lâu[2], từ nay phải thắt lưng buộc bụng, lao động hết mình để trả nợ. Rất khó nuốt, nhưng vẫn nghe được được. Trừ khi cái bụng đã teo quá rôi, không thể thắt lại hơn nữa, sẽ kiệt sức lao động ngay. Thế thì còn lâu, chí ít ở Tây Âu. Bụng của mấy ông Tây bụng phệ teo đến mấy vẫn còn quá lớn so với bụng của 350 triệu lao công Trung Quốc mà.
Hiện tượng con chuột đẻ ra con voi khổng lồ có thể tim hiểu được. Cũng vui thôi. Nhưng, đối với tôi, nó không thuộc lý luận cơ bản trong môn kinh tế học, nó thuộc :
a/ Lĩnh vực kỹ thuật. Cứ moi hết sổ sách của các tác nhân trong các căn cứ dữ liệu thì có đủ tài liệu để phân tích. Cũng chẳng cần đến phương tiện tính toán khổng lồ và kiến thức toán siêu việt : hệ thống kế toán của kinh tế tư bản rất chặt chẽ, hoàn chỉnh, dễ hiểu. Nó quản lý giỏi cũng nhờ hệ thống ấy. Với những thông tin mà họ có được thôi, tất nhiên là rất thiếu, các lãnh tụ tư bản cũng đã tính đại khái phải đổ bao nhiêu tiền để tạm thời ổn định tình hình trong điểm này điểm nọ. Trong hệ kế toán ấy, người ta có thể khai gian để ăn cắp, nhưng bới tới cùng sổ sách, chẳng trốn vào đâu được, tiền ra luôn luôn phải đối xứng với tiền vào. Còn lưu lượng tiền ấy có thực sự biểu hiện một công việc thực hay không là chuyện vặt của công an, toà án, không thuộc về lý thuyết kinh tế. Đây là lãnh vực có thể nghiên cứu một cách khoa học, nghĩa là : trên cơ sở của hiện thực, không trên cơ sở của tâm lý, toàn là chuyện đã qua rồi mà, và có bằng chứng cụ thể. Chính các ngân hàng cũng phải dựa vào những bằng chứng cụ thể ấy để biết mình còn bao nhiêu tiền, nợ ai bao nhiêu và ai nợ mình bao nhiêu mà ! Nếu chuyện ấy khả thi, nó có thể cho phép ta giải thích quá trình phóng đại tiền ảo, và đó là một vấn đề kỹ thuật đơn thuần : bất kể tâm lý của ai thế nào trong quá khứ thì những chuyện ấy đã xảy ra, có bằng chứng khách quan. Quá trình hành động khách quan đó, ta có thể biết, phân tích, hiểu và, cho tương lai, điều chỉnh hay cấm đoán được. Còn tâm lý người đời trong 10-20 năm nữa, thậm chí ngày mai thôi, ta không thể biết được, đừng hòng dùng "khoa học" kinh tế để điều chỉnh nó. Thế thôi. Ngay trong kiếp nhân văn, tinh thần khoa học khác ý thức hệ kinh tế ở đó.
Còn những lý do rất thực khiến chuyện ấy không thể thực hiện được, tiền vòng vèo qua những thiên đường tài chính rồi trở lại trong tay những ai ai và luật pháp đảm bảo bí mật ngân hàng, chúng nằm ngoài lý luận kinh tế lý thuyết. Những lý thuyết cho phép một số người tạo ra một cơn khủng hoảng tai hại như thế này, lại được bí mật ngân hàng bảo vệ và ung dung đi nhậu những bữa ăn trị giá 3000€/người tại Monaco, tôi không mê tí nào. Ai muốn bàn ra tán vào thế nào cũng được : đó là ý thức hệ, là niềm tin không cần phải chứng minh của mỗi người.
Ngoài ra, đương nhiên là còn có trăm thứ vấn đề liên quan :
b/ Lĩnh vực chính trị. Nhà nước nên can thiệp vào kinh tế để điều tiết nó hay không ? Đến mức nào ? Cứu hay không cứu ? Cứu ai ? Lấy tiền của ai để cứu ai ? Cứu như thế nào ? V.v.
c/ Lĩnh vực ý thức hệ kinh tế. Niềm tin lẫn nhau của các ngân hàng, của các "thị trường tài chính", của người tiêu thụ.
d/ et tutti quanti.
Những chuyện đó có thực, có thể giải thích được hậu quả tức thời của cuộc khủng hoảng, không giải thích được nguồn gốc và quá trình phát triển của nó đã dẫn tới thực trạng hôm nay và đẻ ra những niềm tin hay tâm lý ấy. Nếu có thể, người đời đã vạch ra từ lâu rồi và ai mà chẳng hiểu được : tâm lý thôi mà ! Chỉ vài tuần thôi mà niềm tin ấy đã quay 180° rồi mà ! Có mấy ai tiên đoán được đâu ? Và có ai dám nghĩ rằng cơn bão đã được giải quyết tận gốc đâu ? Mấy ngày nay, niềm tin ấy lắc lư như con lúc lắc nổi điên. Dựa vào nó đó để xây dựng khoa học kinh tế là chuyện hão.
Bây giờ ta trở lại một vấn đề "lý thuyết" của môn kinh tế học. Sức mạnh của kinh tế tư bản là : nó khuyến khích con người cả gan chấp nhận rủi ro, đánh cá tương lai, qua đó nó khiến con người phát triển khả năng sáng tạo, hành động et tutti quanti. Tôi hoàn toàn đồng ý : chính Marx đã nói thế hơn 100 năm nay rồi mà, và sâu sắc toàn diện hơn các giáo trình lý thuyết kinh tế mà tôi đã được học.
Chỉ có điều này tôi hơi bị khác thôi : các anh hùng hảo hớn ấy đánh cá tương lai của mình thì ít, đánh cá tương lai của tha nhân thì có thể… bạt mạng. Khi đã thất bại, họ còn được đi nhậu một bữa ăn 3000€/người và về nhà ngủ dưới một cái "dù vàng" vài hay cả trăm triệu $ mà. Thí dụ : Henry Paulson, cứ vào Wikipedia đọc thì biết.
Khi nhà tư bản mua sức lao động sẵn có trong thị trường lao động với giá 100$ và tin tưởng rằng với cách mình sử dụng nó, nó sẽ sản-xuất ra 120$, nhà tư bản đã đánh cá với tương lai, chí ít là của người lao động (vì không chỉ có thế thôi) : nếu, ngay trong hoàn cảnh sản-xuất bình thường, người ấy dở quá thì… lỗ to.
Ngày nay, trong cuộc đánh cá hi hữu này :
1/ Kẻ đầu tiên đánh cá có thể là ngài giám đốc ngân hàng với tiền của… người khác (của tất cả những ai gửi tiền vào ngân hàng hoặc cho nó vay) : cho nhà tư bản chức năng vay vốn để sản-xuất.
2/ Người thứ hai đánh cá, tuy không ham, nhưng cực chẳng đã, chính là người lao động làm thuê, phải ứng vốn cho nhà tư bản đánh cá : phải làm việc hết tháng mới được lĩnh lương. Trong thời gian ấy, ăn cơm nhà vác ngà voi. Ai mà chẳng "biết". Nhưng chỉ khi khủng hoảng, bị quỵt lương mới ý thức được. Đó là điều kiện tồn sinh bình thường của kẻ bán sức lao động để sống. Trong nhiều nghề khác, người ta không mần ăn kiểu ấy, cứ thuê trạng sư thì biết.
3/ Giám đốc công ty sản-xuất, và là nhà tư bản sở hữu nếu ông là chủ của công ty : ký hợp đồng rồi, có thể lĩnh chút tiền cọc, nhưng phải sản-xuất xong sản phẩm thì mới lĩnh được hết tiền. Chính vì thế mà cần ngân hàng cho vay ngắn hạn để thanh toán lương bổng, chi phí sản-xuất hàng ngày. Trong lĩnh vực siêu thị ở Pháp thì kinh hoàng : các xí nghiệp nộp hàng cho chủ siêu thị xong rồi, phải chờ 90 ngày mới được trả tiền. Một phần quan trọng tiền lời của các siêu thị xuất phát từ khai thác lượng tiền ứng trước ấy trong thị trường tài chính. Đúng là buôn lấy lời bằng tiền vốn của người khác. Dũng cảm chấp nhận rủi ro đến thế là cùng ! Những ngân hàng cũng thế thôi : trong chức năng ngân hàng truyền thống, tiền nó cho thiên hạ vay là tiền của chúng ta gửi nó, không có lời. Thế thôi.
T → T + T' → …
Bí quyết thành công của công thức này là : cả gan đánh cá tương lai thật thà… của người khác và, nếu có thể, với tiền của người khác ! Và biết thu lời đúng lúc bất kể tương lai ấy sẽ thế nào. Hơn thua nhau ở hai từ đúng lúc. Thế thôi. Tương lai ảo đổi ngay ra tiền thực dễ yêu hơn bất cứ tương lai "thực" bấp bênh nào. Biết được lúc nào là "đứng lúc", quả là không dễ. Nhưng vẫn có người biết hơn người khác. Ông Tổng giám đốc ngân hàng Société Générale chẳng hạn. Thí dụ có đầy trong báo chí hàng ngày.
Có người sẽ cười : ôi, lại kiểu lý luận duy vật lỗi thời, chẳng khoa học gì cả. Tôi chấp nhận : nó không cần biết tới tâm lý của ai cả, chỉ lý luận trên cơ sở những hành động đã có thực và hậu quả có thực của chúng thôi. Ngay như thế, cũng chỉ ở dạng tưởng tượng lôgích thôi : tôi không là chuyên viên kỹ thuật trong môn này, không biết hết những thông tin chi tiết khách quan, chưa kể tới luật lệ cụ thể của từng quốc gia, chỉ biết đại khái qua báo chí thôi.
Nhưng đồng thời, kiểu lý luận này không coi hoạt động kinh tế của con người như sự kiện tự nhiên tuân theo quy luật của tự nhiên, dù nó phải có kích thước vật chất mới có thực, không coi rằng toán học có thể bảo lãnh kinh tế học như nó bảo lãnh vật lý.
Tôi đặt hành-động của con người trong thời gian, đương nhiên là thời gian trong cõi trung mô, thời gian của người. Thời gian ấy đương nhiên là thời gian vật lý đếm bằng năm, tháng, ngày, giờ. Ai có thể hành động ngoài thời gian vật lý ấy, trừ các hảo hớn tài chính ? Nhưng nó cũng là thời gian sinh học. Ai mà chẳng sợ đói, cần ăn, thậm chí thà ăn nhiều mà ngon còn hơn ăn ít mà dở ? Ai chẳng thèm có một mái nhà để trú thân mưa nắng ? Ai có thể làm gì mà không có ý-hướng ? Và, cuối cùng, nó là thời gian của văn hoá, của ý thức hệ : niềm tin vào đủ thứ linh tinh, có thực và không có thực, chính đáng hay không chính đáng, et tutti quanti. Tất cả, cuối cùng, đọng lại trong hành-động có thực của con người với con người, với thế giới tự-nhiên. Hành động ấy khách quan. Hậu quả cuối cùng của nó trong thế-giới cũng khách quan.
Chỉ có "những thị trường tài chính" mới có khả năng suy luận và hành động độc lập với thời gian ấy. Cứ xem thị trường chứng khoán thì thấy : mỗi ngày người ta trao đổi hàng chục hàng trăm tỷ $ như chơi, xuyên qua quyết định của một đống định trình, không cần biết trao đổi cái gì với cái gì trong đời thực cả. Chúng suy luận như thế nào, tôi không biết. Nhưng hành động ấy có thực, hậu quả của nó khách quan. Và tai hại cho người đời.
Suy luận biện chứng là thế thôi.
2008-10-29
[1] Trong bài này, để tránh nhiễu, ta giới hạn định nghĩa "vốn riêng" của ngân hành bằng tổng số tiền thực do bàn dân gửi hay cho vay. Đó là chức năng ban đầu của nó.
[2] Luận điểm của thủ tướng Pháp Raymond Barre cách đây… 30 năm !
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 8:09:32 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:09:32 GMT 9
Thế giới đơn cực - Luật quốc tế và toàn cầu hóa Vietsciences- Nguyễn Trường
I : VÀI NÉT CHÍNH VỀ LUẬT QUỐC TẾ: Lịch sử cận đại cho thấy kể từ ngày lập quốc, Hoa Kỳ luôn sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để thành đạt những mục tiêu đối ngoại: bảo vệ quyền lợi thương mãi và áp đặt hệ ý thức kinh tế, xã hội, chính trị của chính mình lên toàn thể nhân loại. Tham vọng nầy đã thể hiện rõ nét trong mối quan hệ giữa quyền lực quân sự, các định chế chính trị và cấu trúc pháp lý. Sau đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ nghiễm nhiên trở thành siêu cường duy nhất. Với sự đồng tình của Anh quốc, Roosevelt rồi Truman bắt tay ngay vào việc thiết lập một trật tự thế giới mới dựa trên căn bản luật pháp. Trong thực tế, luật quốc tế đã xuất hiện từ lâu, nhưng mãi đến những năm gần đây, mới trở nên ngày một quan trọng trong đời sống chính trị hiện đại. Những đặc miễn ngoại giao, hiểm họa diệt chủng, cạnh tranh thương mãi, xung dột mậu dịch, hiện tượng hâm nóng toàn cầu, tôị phạm quốc tế... dồn dập đẩy mạnh khía cạnh chính trị vào đời sống hàng ngày. Trước đệ nhị thế chiến, luật quốc tế quả thật còn hiếm hoi và chỉ thu hẹp trong vài phạm trù sinh hoạt của nhân loại. Nghĩa vụ quốc tế thường chỉ được quy định trong các hiệp ước và các quy luật tập quán (customary law) chi phối quan hệ giữa một số quốc gia. Ngoài Hôị Quốc Liên (League of Nations) và Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (International Labour Organization) ra đơì vào năm 1919 với hiệp định Versailles chấm dứt Đệ Nhất thế chiến, hầu như không có một định chế hay tổ chức quốc tế nào khác. Luật nhân quyền, luật cấm dùng vũ lực để gây chiến chưa ra đời. Nói một cách ngắn gọn, quyền tư do hành động của các quốc gia độc lập với đầy đủ chủ quyền hầu như không mấy bị hạn chế. Phải đợi đến tháng 8 năm 1941, Hiến chương Đaị Tây Dương mới được ký kết. Tiếp theo đó là Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, Công Ước Geneva III (1949) và Hiệp Nghị Thư Geneva I (1977) về Tù Binh Chiến Tranh, Thỏa Ước Chống Tra Tấn và các cách Đối Xử hoặc Trừng Phạt Vô Nhân Đạo, Quy Chế Rome về Tòa Hình Sự Quốc Tế, Hiệp Ước Tư Do Mậu Dịch Bắc Mỹ, Thỏa Ước thành lập Tổ Chức Thương Mãi Quốc Tế và Hiệp Định Tổng Quát về Quan Thuế và Mậu Dịch, Thỏa Ước Khung LHQ về Thay Đổi Khí Hậu và Hiệp Nghị Thư Kyoto... [1] Sau Đệ Nhị Thế Chiến, rút kinh nghiệm từ những lỗi lầm phạm phải trong những năm tiếp theo sau Đệ Nhất Thế Chiến, Hoa Kỳ theo đuổi một chính sách mang tính xây dựng hơn với mục đích củng cố quan hệ đồng minh với Nhật và các xứ Tây Âu. Kế hoạch Marshall đã dành một ngân khoản tương đương với 90 tỷ Mỹ kim ngày nay để giúp trùng tu Âu châu. Kế hoạch Dodge cũng được chấp thuận để giúp Nhật Bản vực dậy. Trên nền tảng đồng Mỹ kim, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund-- IMF) được thành lập nhằm duy trì sự ổn định trên các thị trường tài chánh quốc tế, Ngân Hàng Thế Giới (World Bank--WB) để cung cấp nguồn vốn thiết yếu cho các xứ đang phát triển. Cố nhiên, Hoa Kỳ là trụ cột của cả hai định chế nầy. Quan trọng hơn cả là với Thoả ước GATT, Hoa Kỳ và các cường quốc kỹ nghệ tiền tiến cam kết hạ thấp thuế quan và theo đuổi chính sách tự do mậu dịch trên toàn cầu. Bắt đầu từ vòng đàm phán Geneva năm 1947 và tiếp tục cho đến vòng đàm phán Uruguay năm 1994, các xứ nầy đã thành công trong việc cắt giảm thuế quan và tháo gỡ các rào cản đối với thương mãi hữu hình xuống một mức khá thấp. Cùng thời gian, kinh tế Nhật và các xứ Tây Âu đã phục hồi và phát triển với tốc độ cao, nhờ vậy, đã thu hẹp khoảng cách lớn lao trong năng suất (productivity) với Hoa Kỳ trong thời hậu chiến. Kết quả là Nhật đã bắt kịp rồi vượt qua Hoa Kỳ trong vài ngành công kỹ nghệ then chốt. Lơị tức theo đầu ngươì, tùy theo hối suất, đôi khi còn cao hơn cả Hoa Kỳ. Hàn quốc, Hong Kong, Singapore và Mã Lai Á, chẳng những nhanh chân theo gương Nhật mà còn thành công trong việc thu hút tư bản các nước ngoài và các công ty Hoa Kỳ đến tìm cơ hội đầu tư. Chẳng mấy chốc, cụm từ " Những Con Rồng Á châu" đã trở thành phổ thông trong giới truyền thông quốc tế. Gần đây hơn nữa, trong khu vực NAFTA, Mexico, với ngạch số xuất khẩu gia tăng 137%, đã trở thành đối tác thương mãi thứ hai sau Canada và điểm đến hấp dẫn đối với tư bản Hoa Kỳ.[2] Nói chung, trong vòng 50 năm qua, tự do mậu dịch đã là yếu tố quan trọng đưa đến sự phồn thịnh trong nền kinh tế thế giới. Kim ngạch xuất nhập khẩu toàn cầu gia tăng gấp trăm. GDP toàn cầu gia tăng đều đặn 4% mỗi năm. Nhịp độ tăng trưởng nhanh cũng đã đưa Trung Quốc và Ấn Độ lên hàng ngũ những nền kinh tế tân kỹ nghệ hoá (newly industrializing economies). Đời sống hàng triệu người trong hai xứ đông dân nhất nhì thế giới đã vượt lên trên mức nghèo đói tồi tệ 2 mỹ kim mỗi ngày. Đã hẵn là Hoa Kỳ đã đóng góp một phần không nhỏ trong thành quả choáng ngợp vừa nói. Thực vậy, Hoa Kỳ đã là thị trường tiếp nhận 25% tổng xuất khẩu từ Á châu, 60% từ châu Mỹ La Tinh, cũng như đã trực hoặc gián tiếp cung cấp khoảng 35% tổng đầu tư toàn cầu vào các nền kinh tế đang phát triển. Nói một cách khác, toàn cầu hóa rõ rệt đã có lơị cho các quốc gia ngoài Hoa Kỳ. Nhưng moị huy chương đều có mặt trái. Và mặt trái của toàn cầu hóa cũng vô cùng quan trọng. II : Hệ THỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU - SÂN CHƠI MỚI CUẢ HOA KỲ: 1 : Giai Đoạn Trước 1960 : Năm 1944 taị thành phố nghỉ mát Bretton Woods thuộc bang New Hampshire, Hoa Kỳ và các đồng minh Tây Âu đã đạt thỏa hiệp về cấu trúc tài chánh thời hậu chiến và từ đó đặt nền móng cho hệ thống kinh tế toàn cầu hiện nay. Mục tiêu là tránh lặp laị những chính sách sai lầm về bảo vệ mậu dịch và thi đua phá giá phương hại cho moị quốc gia (beggar thy neighbor protectionist policies) -- những chính sách đã đưa đến cuộc đại khủng hoảng vào cuối thập kỷ 1920’s, đầu thập kỷ 1930’s, cũng như sự trỗi dậy của chế độ phát xít. Chính tại Bretton Woods, Hoa Kỳ và Anh quốc đã đồng ý những nguyên tắc căn bản của hệ thống kinh tế mới toàn cầu, nhằm quy định một bầu không khí thông thoáng cũng như những phương cách đối phó với những khó khăn bất trắc trong sự vận hành của hệ thống. IMF giữ vai trò trọng tài trong hệ thống mới và WB được thiết lập như một cơ chế cấp vốn đa phương hỗ trợ tiến trình phát triển của các nước thuộc thế giới thứ ba. Qua số phiếu nắm giữ, Hoa Kỳ đã dành quyền quyết định trong cả hai định chế. John Maynard KeynesVấn đề gây tranh cãi gay gắt lúc đó liên quan đến bản chất của hệ thống chi phó quốc tế mới. Kinh tế gia người Anh, John Maynard Keynes, chủ trương phát hành một đơn vị tiền tệ quốc tế mới lấy tên là Bancor dựa trên kim bản vị, và dành cho các quốc gia thành viên một vị trí bình đẳng nhằm bảo đảm sự quân bình cho hệ thống. Theo đề nghị của Keynes, khi cân thương mãi một xứ bị khuy khiếm, quốc gia đó, thay vì phá giá đơn vị tiền tệ, bị buộc phải thi hành những biện pháp thắt lưng buộc bụng khả dĩ nâng cao xuất khẩu và lấy lại quân bình. Để làm dịu bớt tính khe khắt của quá trình điều chỉnh, IMF cần dự liệu một chế độ cho vay chuyển tiếp. Ngược lại, các xứ có cân thương mãi thặng dư phải có chính sách kích cầu và hàng xuất khẩu phải chịu những khoản thuế quan tạm thời. Sự chuyển dịch tư bản giữa các nước phải được quy định và kiểm soát chặt chẽ nhằm hỗ trợ cho chính sách lãi suất cần thiết trong quá trình tái lập ổn định kinh tế. Một lần nữa, Hoa Kỳ lại dành quyền quyết định. Đồng Mỹ kim, thay vì đồng Bancor, được lựa chọn làm bản vị tiền tệ quốc tế. Đồng Mỹ kim có thể chuyển hoán thành vàng theo một tỉ suất nhất định (kim bản vị). Đơn vị tiền tệ các nước khác phải được định nghĩa theo đồng Mỹ kim, nghĩa là gián tiếp theo vàng (kim hoán bản vị). Mọi thay đổi hối suất phải được sự thỏa hiệp trước của IMF, nói rõ hơn, phải được sự chấp thuận của Hoa Kỳ. Kiểm soát mọi chuyển dịch tư bản giữa các nước cũng trở thành một phần của thỏa ước chung cuộc. Đề nghị của Keynes về thuế quan tạm thời đánh trên hàng xuất khẩu của các xứ có cân thương mãi thặng dư không được chấp thuận. Trong khi đó, các xứ có cân thương mãi khuy khiếm bị buộc phải tự động điều chỉnh để tái lập quân bình xuất nhập khẩu với sự khả dĩ trợ giúp của IMF để tạm thời tài trợ khiếm hụt qua chương trình cho vay chuyển tiếp (transitional loans). Hiệu quả thực tế đã vượt quá mọi kỳ vọng. Trong khoảng thời gian 1947-1961, mậu dịch quốc tế tăng trưởng nhanh; thuế quan được giảm thiểu 73%; kinh tế Âu châu và Nhật Bản phục hồi như một phép lạ. 2 : Giai Đoạn Sau 1960 : Vào đầu thập kỷ 1960’s, ngạch số thặng dư khổng lồ của Hoa Kỳ trong những năm tiếp theo sau đệ nhị thế chiến tan biến, nhường chỗ cho số khiếm hụt ngày một gia tăng. Trong cùng lúc, năng suất ngày một gia tăng trong các nền kinh tế Âu châu và Nhật Bản liên tục nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ từ nay tương đối rộng mở. Trước đó, khi chọn đồng Mỹ kim, thay vì đồng Bancor, làm phương tiện chi phó quốc tế, Hoa Kỳ nhằm nắm giữ lợi thế có thể mua bất cứ thứ gì, bất cứ ở đâu, với chính đơn vị tiền tệ của mình. Giờ đây, ngược lại, khuy khiếm lũy tích trong cân thương mãi đang gây ra nhiều khó khăn nhức nhối bất ngờ cho Hoa Kỳ. Với sự bác bỏ đề nghị của Keynes trước đây về biện pháp thuế quan tạm thời đánh trên hàng xuất khẩu của các xứ có cân thương mãi thặng dư, các xứ nầy giờ đây không bị bó buộc phải nâng cao hối suất hay giảm bớt xuất khẩu. Nhờ vậy, ngân khố các xứ nầy đã tích lũy được những khoản dự trữ Mỹ kim khổng lồ. Số Mỹ kim dự trữ nầy có khuynh hướng làm gia tăng khối tiền tệ lưu hành và áp lực lạm phát. Thực vậy, số khiếm hụt trong cân thương mãi Hoa Kỳ, chừng nào còn được tính bằng Mỹ kim, là một hình thức xuất khẩu lạm phát và cũng là bằng chứng Hoa Kỳ đã tự dành cho mình ngoại lệ (exceptionalism), không phải bị ràng buộc bởi những chế tài như những thành viên khác trong hệ thống. Như đã nói ở trên, để đồng Mỹ kim được chọn làm phương tiện chi phó quốc tế, Hoa Kỳ đã phải cam kết gắn liền đồng Mỹ kim vào vàng; do đó, đồng Mỹ kim có thể chuyển hóa thành vàng theo một tỉ suất cố định. Suốt thập kỷ 1960’s, một số quốc gia đã theo gương Pháp bắt đầu đổi đồng Mỹ kim lấy vàng. Số vàng dự trữ của Hoa Kỳ vì vậy cạn kiệt. Hoa Kỳ giờ đây phải đối diện với một sự lựa chọn vô cùng khó khăn: hoặc duy trì cơ chế hiện hữu và phải chấp nhận luật chơi như tất cả các thành viên khác trong hệ thống; hoặc dẹp bỏ hệ thống do chính mình đã khai sinh. Hoa Kỳ đã chọn giải pháp thứ hai: dẹp bỏ hệ thống. Để làm việc nầy, Hoa Kỳ –cậy vào sức mạnh vô song của mình—đã hành động đơn phương. Cùng lúc, gánh nặng tài trợ cuộc chiến Việt Nam đồng thời với Chương trình Đại Xã Hội (Great Society) trong nước -- trong lúc vì lý do chính trị nôị bộ không thể tăng thuế -- đã đưa đến lạm phát. Gánh nặng chi phó quốc tế, vì vậy, vượt quá khả năng tài chánh của Hoa Kỳ. Để giải quyết, ngày 3 tháng 3 năm 1971, Tổng Thống Richard Nixon đơn phương quyết định đình chỉ tính cải hoán của đồng Mỹ kim. Điều nầy có nghĩa, Hoa Kỳ, trong thực tế, đã chọn một đơn vị tiền giấy -- đồng Mỹ kim -- làm bản vị (de facto dollar standard), thay thế kim bản vị. Với hành động đơn phương nầy, Nixon ngang nhiên áp đặt đồng Mỹ kim, giờ đây đã là một đơn vị tiền giấy bất khả hoán (không thể đổi lấy vàng) làm bản vị quốc tế (world fiat currency) lên toàn cầu[3].. Hối suất trên thị trường hối đoái toàn cầu trở nên bất định (erratic). Trong vai trò quản lý đơn vị tiền quốc tế, Hoa Kỳ đã không chấp nhận một nghĩa vụ hay trách nhiệm nào với thế giới bên ngoài. Trong lúc đó, các xứ khác trên toàn cầu buộc lòng hoặc định nghĩa hoặc thả nổi đơn vị tiền tệ của mình theo đồng Mỹ kim, và quan trọng hơn cả, là phải điều chỉnh kinh tế của mình mỗi khi có sự thay đổi trong thái độ hoặc mục tiêu (vagaries) của các nhà hoạch định chính sách kinh tế, tài chánh Hoa Kỳ. Với việc bải bỏ chế độ kiểm soát mọi chuyển dịch tư bản kể từ ngày 01 tháng 01 năm1974, Hoa Kỳ thực sự có thể mua bất cứ thứ gì mình muốn với đồng Mỹ kim mà chẳng phải băn khoăn đến hậu quả đối với chính mình hay trách nhiệm với các quốc gia khác. Ngược lại, các xứ nầy luôn phải chung vai chia sẻ các khó khăn của Hoa Kỳ. Đó mới thực sự tự do -- một thứ tự- do -của -Hoa- Kỳ- dành- riêng- cho- Hoa -Kỳ. Với khả năng in giấy bạc quốc tế vô giới hạn trong tay, Hoa Kỳ nắm đặc quyền uốn nắn, định hình toàn cầu hóa. Quan trọng hơn nữa, Hoa Kỳ nghiễm nhiên trở thành người tiêu thụ cuối cùng của thế giới (world’s consumer of last resort). Nước Mỹ không cần phải dành dụm, tiết kiệm trước khi tiêu xài dù cho khuy khiếm thương mãi ngày một gia tăng. Khác với Hoa Kỳ, thế giới bên ngoài luôn phải giữ cân thương mãi ít nhiều thăng bằng qua thời gian và chỉ có thể tiêu thụ trong giới hạn khả năng sản xuất. Hoa Kỳ chẳng cần bán vẫn có thể mua, chẳng phải xuất khẩu trước khi nhập khẩu. Hoa kỳ chỉ cần in thêm tiền giấy. Đô la bản vị cũng giúp các công ty Hoa Kỳ dễ dàng thực hiện đầu tư ở hải ngoại. Nhờ vậy, tính đến cuối thế kỷ 20, Hoa Kỳ có thể bình thản tích lũy một số khiếm hụt lên đến 6.000 tỉ Mỹ kim bên cạnh một số đầu tư hải ngoại lũy tích hơn 1.100 tỉ.[4]. Đồng đô la không phải là vũ khí duy nhất của Hoa Kỳ. Bên cạnh đồng Mỹ kim, tầm vóc thị trường Hoa Kỳ, tính phổ cập của Anh ngữ như một ngôn ngữ quốc tế (lingua franca), cũng như sức mạnh vô song của siêu cường duy nhất, cũng là những yếu tố quan trọng bảo đảm vai trò lèo lái tiến trình toàn cầu hóa của Hoa Kỳ. kỹ nghệ phim ảnh và truyền hình là một ví dụ. Một nhà làm phim hay truyền thông Hoa Kỳ có thể bắt đầu với một số trên 280 triệu khán thính giả tiềm năng quốc nội, so với 60 triệu đối với một đồng nghiệp người Pháp hay 80 triệu với một đồng nghiệp người Đức. Đối với một đồng nghiệp người Trung quốc hay Ấn độ, con số nầy có thể lên hàng tỉ, nhưng cũng chỉ thu gọn trong phạm vi biên giới của từng nước. Riêng đối với một nhà làm phim Mỹ, ngoài thị trường quốc nội, anh ta còn có một thị trường tiềm năng hàng tỉ người sử dụng Anh ngữ như ngôn ngữ thứ hai trên khắp thế giới. Vì lý do đó, không ai lấy làm lạ khi người Mỹ sản xuất nhiều phim ảnh, chương trình truyền hình, trò chơi vi tính, đĩa nhạc, hơn bất cứ nước nào khác. Văn hóa thương mãi bình dân Mỹ (American pop culture) cũng lan tràn khắp nơi trên toàn cầu. Tình trạng tương tự cũng có thể tìm thấy trong nhiều địa hạt khác. Chẳng hạn, sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ. Trong địa hạt nầy, chẳng những Hoa Kỳ là nguồn cung cấp vũ khí hàng đầu thế giới, mà còn là nguồn tài nguyên khổng lồ hỗ trợ cho vai trò lãnh đạo trong các ngành công nghệ, kỹ thuật. Mạng Internet là một bằng chứng hùng hồn khác. Khởi đầu với mạng ARPA-Net, một mạng lưới của Cơ Quan quản Trị các Dự án Nghiên cứu Cao cấp của Bộ Quốc Phòng (Advanced Research Projects Agency) cách đây hơn 25 năm, mạng Internet đã chi phối hơn 75% hoạt động trên xa lộ thông tin toàn cầu. Ngoài ra, với lực lượng quân sự hùng mạnh, vị trí của đồng đô la dễ dàng được củng cố vì từ lâu Hoa Kỳ đã trở thành nơi ẩn trú an toàn nhất thế giới. Dù đang ngụp lặn trong biển đô la, thế giới ngày một thèm muốn cất giữ đồng Mỹ kim bởi lẽ trong thời buổi đầy biến động bất trắc hiện nay đồng đô la vẫn là nơi ẩn trú an toàn nhất. Với thế mạnh sẵn có, Hoa Kỳ, trong giai đoạn đầu của toàn cầu hóa, cũng chỉ tự dành cho mình một số ngoại lệ cần thiết cho việc bảo vệ thị trường bông vải và nông sản-- những thị trường luôn nhạy cảm trong sinh hoạt chính trị quốc nội. Ngoài ra, trong 20 năm đầu kể từ ngày ký kết GATT, các nhà thương thuyết Mỹ -- cả tin ở tính cạnh tranh cao của kỹ nghệ -- đã mở rộng cửa thị trường mà không đòi hỏi các đối tác phải áp dụng những biện pháp tương ứng. Sau một thời gian nhập khẩu tăng mạnh, lập trường các nhà ngoại giao cứng rắn hẳn lên. Trong các kỹ nghệ xe hơi, máy truyền hình mầu, họ đòi hỏi các quốc gia đối tác, nhất là Nhật bản, một sự tự nguyện hạn chế ngạch số xuất khẩu. Họ còn khuyến cáo các đối tác xây dựng xưởng máy ngay trong nội địa Hoa Kỳ. Đây là thái độ trịch thượng, nghịch lý, và đạo đức giả: một mặt thuyết giảng tính tích cực, lợi ích của tự do mậu dịch; mặt khác, tự dành quyền thụ hưởng những đặc lợi của chế độ bảo vệ mậu dịch. Đã hẳn các đối tác của Hoa Kỳ rất bất bình và thất vọng, nhưng cũng chẳng thể làm được gì nhiều để chống đỡ. Thị trường Hoa Kỳ -- dù còn nhiều rào cản-- vẫn là thị trường lớn lao, béo bở nhất thế giới. Đã thế, các quốc gia xuất khẩu luôn cần đến sự bảo vệ của các lực lượng đặc nhiệm của hải quân Hoa Kỳ trên các đại dương. Vả chăng, tự do mậu dịch, thị trường mở cửa vẫn luôn là chính sách được cổ súy, một thứ kinh nhật tụng của các Tổng Thống liên tiếp từ thời Franklin Roosevelt. Trong thực tế, nghị trình của các nhà ngoại giao Hoa Kỳ luôn phản ảnh quyền lợi của các đại công ty và các nhóm vận động hành lang quốc hội: mở cửa thị trường các nước ngoài và áp đặt những quy luật thuận lợi cho các công ty, các kỹ nghệ Hoa Kỳ. Chẳng hạn các nhà thương thuyết Hoa Kỳ đòi hỏi các nước phải mở cửa thị trường cho kỹ nghệ thuốc lá. Trong khi đó, ở quốc nội, Bộ Tư Pháp đã đưa các công ty thuốc lá ra tòa vì đã đánh lừa dư luận về tác dụng gây ung thư của sản phẩm nầy. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nguồn lơị thiết thân của các nhóm công nghệ cao, cũng là một địa hạt quan trọng khác đòi hỏi một ưu tiên cao trong nghị trình thương thuyết. Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ cũng thành công trong việc ngăn cản các xứ đang phát triển tranh đấu ghi vào quy chế toàn cầu hóa những yêu sách chuyển giao công nghệ trước khi mở cửa thị trường cho các công ty chế tạo các sản phẩm chiến lược như phi cơ, các loại bán dẫn (semi-conductors). Vào thập kỷ1980’s, Nhật bản đã thắng thế trong các ngành ngân hàng, điện tử, xe hơi, sắt thép, máy móc trang bị... trên các thị trường then chốt. Nhưng với Thỏa Ước Plaza năm 1985 (lấy tên khách sạn Plaza Hotel ở New York, nơi ký kết), Hoa Kỳ đã "thuyết phục" Nhật đánh giá lại đồng Yen, và từ đó, đã khởi động một chuổi biến cố đưa đến sự thoái trào kinh tế Nhật vào năm 1992 [5]. Các sự kiện---chiến tranh lạnh cáo chung, Liên Bang Xô Viết tan rã, những thành quả ngọan mục trên thị trường chứng khoán Hoa Kỳ---đã đánh tan mọi nghi ngờ về vai trò bá chủ của Hoa Kỳ. Quốc gia nào không tuân thủ các quy luật của chủ nghĩa tư bản thị trường là tự chuốc lấy tai ương bất trắc. Trong mô hình nầy, mục tiêu tối hậu của các công ty là tối đa hóa doanh lợi cho cổ đông. Quyền lợi của giới quản lý đồng thời cũng được thăng tiến vì được tưởng thưởng hậu hỹ dưới hình thức những chứng khoán hoặc cổ phiếu đặc biệt (stock options). Nhiệm vụ của chính quyền là giảm bớt can thiệp, bãi bỏ các biện pháp kiểm soát, đẩy mạnh tư nhân hóa. Tất cả những việc khác sẽ được giải quyết ổn thỏa bởi bàn tay vô hình của thị trường tự do. Tóm lại, thị trường tự do là guồng máy phân bổ tài nguyên ưu việt và là cơ chế phát triển kinh tế hữu hiệu nhất. Trong thập kỷ 1990’s, với mô hình nầy, năng suất trên thế giới đã gia tăng 33% và hình như đã giúp tránh được các chu kỳ kinh tế. Trước thành tích đó, nhóm Washington Consensus càng thắng thế hơn. Nhóm nầy gồm những người cổ súy toàn cầu hóa trong Bộ Ngân khố, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân Hàng Thế giới và một số trường đại học danh tiếng Hoa Kỳ. Theo họ, sau chiến tranh lạnh, chủ nghĩa tư bản tự do là hệ thống kinh tế duy nhất đã vượt qua thử thách và thích hợp với thế giới ngày mai. Toàn cầu hóa -- tiến trình hội nhập các nền kinh tế và các công ty đa quốc gia qua mậu dịch và đầu tư trên toàn cầu -- là nguyên tắc chỉ đạo, là chìa khóa, là phương châm hành động. Họ chủ trương: quân bình ngân sách; giảm thuế; thị trường tự do; tư hữu hóa; bảo vệ quyền tư hữu, nhất là quyền sở hữu trí tuệ; giảm thiểu vai trò của chính quyền... Theo họ, mô hình nầy sẽ mang lại thịnh vượng, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đưa đến dân chủ hoá, và từ đó, đến hòa bình, ổn định. Theo Tom Friedman, phát ngôn nhân của nhóm, cơ chế thực thi những biện pháp nầy nằm trong tay của nhóm Electronic Herd. Đó là nhóm những tài phiệt, những tỉ phú trong các trung tâm tài chánh thế giới. Qua màn hình và chuột vi tính, họ có thể chuyển dịch hàng tỉ đô la tới bất cứ nơi nào trên thế giới trong khoảnh khắc. Khi cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu xẩy ra năm 1997, IMF nghĩ ngay đến biện pháp duy trì sự ổn định tiền tệ trong vùng qua sự áp đặt các biện pháp khắc khổ và một lãi suất cao, xem đó là điều kiện để được vay khẩn cấp của IMF. Thay vì đem lại ổn định trong hệ thống, IMF đã trở thành một công cụ để thực thi những nguyên tắc kinh điển cứng nhắc của nhóm Washington Consensus. [6]. Toàn cầu hóa rõ ràng chỉ là Mỹ hóa. Về sau, các lãnh đạo IMF và các quan chức trong chính quyền Hoa Kỳ đã phải công nhận sai lầm khi áp đặt những biện pháp không thích ứng. Dù sao, kinh tế Hoa Kỳ không mấy hề hấn. Nhưng thay vì đưa đến thịnh vượng, dân chủ, hòa bình, ổn định, cho Indonesia, Mã Lai Á, Hàn Quốc, Hong Kong, Thái lan, người dân trong các xứ nầy bị tổn thương trầm trọng. Họ thật sự khó lòng quên được thái độ trịch thượng, dửng dưng, dốt nát, của các giới hữu trách trong chính quyền Hoa Kỳ và các định chế toàn cầu hóa. III : TOÀN CẦU HÓA -- PHẢN ỨNG TRÊN THẾ GIỚI : Suốt tuần lễ cuối tháng 11, 1999, các bộ trưởng tài chánh từ nhiều nước tụ họp tại Seattle, bang Washington, để tham dự vòng đàm phán mới về mậu dịch quốc tế. Đây là cuộc họp mặt lần đầu của Tổ chức Thương mãi Quốc Tế (WTO) vừa được thiết lập để kế thừa GATT sau vòng đàm phán cuối năm 1994. Trước đó, những hội nghị về mậu dịch quốc tế thường chỉ thu hút một số hạn chế các tín đồ nhiệt thành. Nhưng lần nầy, vì toàn cầu hóa đã trở thành một đề tài nóng bỏng gây xúc động trong nhiều giới, nhất là trong thế giới thứ ba. Trên 50.000 người đã đổ về Seattle để chống đối toàn cầu hóa. Họ là những phu bến tàu, những công nhân các nhà máy Boeing kế cận, những người quan tâm đến nạn ô nhiễm môi trường, những sinh viên phản đối sự bóc lột của các đại công ty...Họ đến để dóng lên tiếng nói cảnh tỉnh nhân dân thế giới nói chung và nhân dân Hoa Kỳ nói riêng về tác động tiêu cực và thiếu đạo đức trên toàn cầu của mạng lưới các công ty đa quốc gia, các kỹ nghệ chiến tranh và giới lãnh đạo chính trị trong các cường quốc kỹ nghệ, nhất là siêu cường Hoa Kỳ.. Theo họ, các định chế toàn cầu hóa chỉ là những cánh tay nối dài của các đại công ty đứng đàng sau kiểm soát sự vận hành của hệ thống. Họ chống đối mọi toan tính đặt mục đích tối đa hóa doanh lợi lên trên sự an sinh và tự do của dân nghèo trên toàn thế giới, nhất là trong thế giới thứ ba, cũng như lên trên sự lành mạnh và tính đa dạng của môi trường. [7]. Cuối cùng, vấn đề trợ cấp khu vực nông nghiệp trong các xứ kỹ nghệ tiền tiến đã đưa đàm phán đến bế tắc và tan vỡ. Nói chung, các đề tài gây bế tắc trong vòng đàm phán Doha (Qatar) -- cắt giảm thuế quan đối với nông sản, mở cửa thị trường cho các sản phẩm công, kỹ nghệ và dịch vụ các loại, mở cửa thị trường tài chánh --vẫn còn nguyên vẹn ngay cả sau những vòng đàm phán ở Seattle năm 1999, Cancun năm 2003, và Hongkong năm 2005. Hố cách biệt giữa các xứ thành viên nòng cốt của WTO -- Hoa Kỳ, Liên hiệp Âu châu và các nền kinh tế khổng lồ đang lên Ấn Độ, Ba Tây, Trung quốc -- còn quá sâu rộng. Để ra khỏi bế tắc, rất nhiều việc còn cần phải làm. Những lời hứa trống rỗng -- giúp đỡ các nước nghèo, toàn cầu hóa đang đi đúng hướng... --chỉ đưa đến thất vọng và mất tin tưởng trong thế giới thứ ba. Rõ ràng các giới lãnh đạo trong các định chế toàn cầu hóa, trong các cường quốc kỹ nghệ, các nước lớn, và nhất là Hoa Kỳ, chưa đủ ý chí chính trị cũng như viễn kiến cần thiết. Con đường đi đến toàn cầu hóa trước mắt chắc chắn còn lắm chông gai. Ngay trong các xứ kỹ nghệ tiền tiến -- những nước hưởng lợi nhiều nhất từ toàn cầu hóa --, sự chống đối cũng không kém phần gay gắt. Chống đối mãnh liệt nhất đến từ phía các tổ chức lao động và nghiệp đoàn. Toàn cầu hóa, theo những tổ chức nầy, đã bào mòn những thắng lợi giành được sau nhiều năm tranh đấu cam go và đã được hợp pháp hóa trong những định chế giúp thuần hóa chủ nghĩa tư bản thị trường. Kỹ nghệ may mặc là một thí dụ điển hình. Nhiều công nhân với mức lương tối thiểu phải mất việc khi các chủ công ty quyết định dời xưởng máy tới những xứ phí lao động rẻ như Mexico và Trung quốc. Các tổ chức lao động trong các xứ tiền tiến đòi hỏi phải được đền bù thỏa đáng cũng như phải ghi rõ trong các thoả ước mậu dịch quốc tế những điều khoản bảo đảm các quyền lợi căn bản của giới lao động. Các nhà môi sinh học e ngại toàn cầu hóa rất dễ đưa nhân loại trở về với kỹ nguyên tư bản kinh điển thô bạo, tai họa cho môi sinh. Áp lực thường xuyên phải giảm gía thành sản phẩm để tăng tính cạnh tranh đã là động lực thúc đẩy các công ty đa quốc gia di chuyển công xưởng đến những vùng pháp chế bảo vệ môi sinh còn lỏng lẻo. Theo một số nhà phân tích kinh tế, Trung quốc đã phải trả một giá rất đắt -- khoảng từ 8 đến 12% GDP -- cho sách lược phát triển lấy xuất khẩu làm đầu tàu vì sách lược nầy đã gây ô nhiễm trầm trọng cho môi sinh ở Trung quốc.[8] Ở Nam Dương, kỹ nghệ cung cấp gỗ làm sàn nhà, bàn ghế, văn phòng phẩm, cho các thị trường Nhật, Trung quốc, Hong Kong, Âu châu, (80% phi pháp), đã tàn phá các rừng nhiệt đới, các động vật hiếm quý như cọp và vượn ở đảo Sumatra. Ở Ba Tây, các rừng gỗ màu nâu (mahogany) cũng bị khai thác bừa bãi vì những lý do tương tự. Theo các nhà đại dương học, rùa và một vài loại cá bị đe dọa diệt chủng vì khai thác quá lạm. Một vài tổ chức thiện nguyện như Global Compact, với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc, đã cố thuyết phục các công ty đa quốc gia chấp nhận các nguyên tắc bảo vệ môi sinh. Nhưng các nhà môi sinh học không mấy lạc quan trước những lời tuyên bố của Tổng Thống George H.W. Bush ở hội nghị thượng đỉnh Earth Summit, Rio de Janiero (Ba Tây), năm 1992: " Lối sống của Hoa Kỳ không là đề tài thảo luận" (The American way of life is not up for negociation, cũng như của Tổng Thống George W. Bush khi rút khỏi Hiệp Nghị Thư Kyoto về Hiện Tượng Hâm Nóng Toàn Cầu: " Điều đó có hại cho kinh tế Hoa Kỳ" (It would be bad for the US economy). Điều nầy chứng tỏ toàn cầu hóa cần phải được xét duyệt lại nghiêm chỉnh và thay đổi. Sinh viên và trí thức tả phái cũng chống đối tính cực đoan của các định chế toàn cầu hóa, nhất là xu hướng áp đặt một thứ văn hóa đồng nhất (cultural homogenization) lên toàn thế giới và chèn ép các quốc gia nhỏ bé nghèo nàn. Những xứ nầy không có một tiếng nói đáng kể nào trong tiến trình hình thành các định chế toàn cầu. Quan trọng hơn nữa, đa số các xứ nầy không tìm thấy một lợi ích nào trong hệ thống toàn cầu hóa do Hoa Kỳ áp đặt. Trong khi nhiều quốc gia Đông Á -Thái Bình Dương, trong vòng 20 năm qua, kể cả Trung quốc trong những năm gần đây, đã cải thiện đáng kể mực sống của người dân, phần lớn thế giới thứ ba đều thất vọng. Lợi tức tính theo đầu người ở Trung Đông, Bắc Phi, châu Mỹ La Tinh, chỉ tăng khỏang 1,5% mỗi năm. Trong vùng sa mạc Sahara, Trung và Đông Âu, Trung Á, lợi tức theo đầu người lại sụt giảm. Đã hẵn phần lớn trách nhiệm trong những trường hợp thất bại nầy bắt nguồn từ những lầm lỗi trong chính sách đối nội, nhưng tác động của toàn cầu hóa cũng không phải ít. Chẳng những thế, một vài xứ, mặc dù đã chấp hành nghiêm chỉnh các quy luật toàn cầu hóa, vẫn chuốc lấy thất bại đắng cay. Mexico là một thí dụ. Kể từ ngày gia nhập NAFTA năm 1994, Mexico đã hoàn toàn hội nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu: hạ thấp rào cản mậu dịch, mở cửa thị trường tài chánh, tuân thủ những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ...với mục đích thu hút đầu tư ngoại quốc. Mexico cũng đã dân chủ hóa sau hơn 70 năm theo chế độ độc đảng. NAFTA đã không dự liệu việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, các nguồn vốn đặc biệt để tài trợ phát triển, hoặc lao động được tự do lưu chuyển giữa các xứ thành viên như trường hợp Liên Hiệp Âu châu khi thu nhận những quốc gia thành viên mới kém phát triển. Theo thống kê, trong khoảng 1991-2001, ngạch số xuất khẩu bên trong khu vực NAFTA đã gia tăng hơn 120 tỉ mỹ kim. Tuy nhiên, hơn 50% con số nầy không phải là xuất khẩu đúng nghĩa mà chỉ là những giao dịch nội bộ của các đại công ty Hoa Kỳ. Chẳng hạn, hãng xe Ford Hoa Kỳ gửi những bộ phận rời xuống Mexico -- một xứ có giá nhân công rẻ và luật bảo vệ môi trường lỏng lẻo -- để lắp ráp rồi chuyển trở lại Hoa Kỳ để hoàn tất. Trong mọi trường hợp, rất ít người dân Mexico cảm thấy đời sống khá giả hơn. Sau hơn 20 năm theo kinh tế thị trường và trên 10 năm gia nhập NAFTA, 50% dân Mexico sống với khỏang 4 đô la mỗi ngày. Vào thập kỷ 1970’s, 60% dân số có thể xem thuộc giới lao động trung lưu. Ngày nay, tỉ lệ nầy chỉ còn 35% và còn tiếp tục sụt giảm. Một vấn đề khác nhức nhối hơn là số công ăn việc làm sụt giảm vì nhiều nhà máy đóng cửa và dời tới những xứ phí lao động thấp hơn. Hàng vải nội không cạnh tranh nổi với hàng nhập từ Trung quốc [9]. Luiz Inácio da Silva, tổng thống Brésil (2002 tái đắc cử 2006) Ba Tây là một thí dụ khác. Bị ép phải dân chủ hóa về mặt chính trị và mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế toàn cầu, Ba Tây, vào năm 2002, đã phải kinh qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Lý do là các nhà đầu tư ngoại quốc, nhất là Hoa Kỳ, rút khỏi thị trường khi ứng cử viên Tổng thống tả phái Luiz Inácio "Lula" da Silva đắc cử. Ba Tây đã phải trả một giá đắt khi tiến hành bầu cử tự do. Tệ hơn nữa, Hoa Kỳ còn dựng nhiều rào cản đối với hơn 50% số sản phẩm xuất khẩu của Ba Tây như đậu nành, đường, cam, sắt thép... Hoa Kỳ cũng thiết lập rào cản và hạn ngạch đối với hàng vải của Pakistan, nông phẩm của Tân Tây Lan, Úc, và Phi Luật Tân. Phi châu và Ấn Độ -- những nơi bệnh AIDS lan tràn -- cũng đã phải đối phó với một loại vấn đề khác. Trong các xứ giàu có phương Tây, bệnh nhân AIDS, nhờ có thuốc trị, đã có thể tiếp tục một đời sống hữu ích. Giá loại thuốc nầy lại quá đắt trong thế giới thứ ba vì luật bảo vệ bản quyền sáng chế của WTO đã không cho phép các xứ nầy sản xuất dược phẩm tương đương (generic). Vô hình chung, WTO đã là nguyên nhân đưa đến một số tử vong đáng tiếc trong các xứ nghèo khó[10]. Một vấn đề gai góc mới trong thế giới thứ ba phát xuất từ " hiện tượng Trung quốc ". Trước đây, theo chủ thuyết toàn cầu hóa, các xứ đang phát triển chỉ cần mở cửa thị trường cho hàng hóa, tư bản, tự do xuất nhập, tư hữu hóa, thiết lập nhà nước pháp quyền, minh bạch, quân bình ngân sách..., tư bản các nước ngoài sẽ đổ vào đầu tư. Đó là phương thức hữu hiệu nhất để phát triển, để nhanh chóng đạt được hoà bình và thịnh vượng. Trong thực tế, trong những năm gần đây, Trung quốc, mặc dầu chưa thể nói là đã có một nhà nước pháp quyền, thị trường chưa mấy thông thoáng minh bạch, vẫn thành công thu hút hầu hết các luồng tư bản đầu tư trực tiếp từ thế giới bên ngoài. Trong quá khứ, trong quá trình phát triển, các xứ đang phát triển thường phải bắt đầu với các ngành dùng nhiều lao động (labor intensive) như may mặc, giày dép, rồi tiến dần lên những ngành công nghệ cao. Nhưng ngày nay, Trung quốc đã thành công trong việc sản xuất với giá rẻ cả hai loại hàng. Rút cuộc, nền kinh tế toàn cầu không còn mấy không gian cho các nước thế giới thứ ba cựa quậy. Trong tiến trình đi đến cất cánh (take-off), các con rồng Đông Á trước đây đã học kinh nghiệm và đi theo con đường của xứ mặt trời mọc. Mô hình nầy không mấy giống phương thức toàn cầu hóa. Các nguyên tắc chỉ đạo lúc đó là tiết kiệm cao; hạn chế tiêu thụ quốc nội; chuyển giao công nghệ, là điều kiện tiên quyết cho đầu tư trực tiếp từ nước ngoài; nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc phân phối tài nguyên, bảo vệ thị trường quốc nội; xuất khẩu giữ vai trò đầu tàu trong quá trình phát triển[11] . Những điều kiện khách quan trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay có cho phép các nước nghèo đi theo mô hình nầy trong giai đoạn đầu trên con đường phát triển đầy cam go trước mặt ? Và liệu với "hiện tượng Trung quốc" vừa nói, ngay cả mô hình nầy có còn đủ khả năng và cơ may để đem lại thành công !
|
|
|
Kinh tế
Sept 19, 2010 8:12:01 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:12:01 GMT 9
IV: TOÀN CẦU HÓA VÀ THẾ GIỚI ĐƠN CỰC: Woodrow Wilson (1856 –1924), TT thứ 28 của Hoa kỳ Lịch sử trần trụi của địa chính trị trong suốt 100 năm qua có thể tóm tắt trong mấy cụm từ: đệ nhất thế chiến, đệ nhị thế chiến, chiến tranh lạnh, và đế quốc Mỹ. Sau đệ nhất thế chiến, Tổng Thống Woodrow Wilson thiết lập Hội Quốc Liên. Sau đệ nhị thế chiến, hai Tổng Thống Roosevelt và Truman thiết lập Liên Hiệp Quốc và một số định chế quốc tế. Roosevelt (1882-1945) TT thứ 32 Hoa Kỳ, Truman (1884-1972) kế nhiệm Roosevelt Những định chế nầy đã đưa đến một hệ thống luật pháp quốc tế thời hậu thực dân. Nói một cách khác, một trật tự thế giới mới dựa trên luật pháp quốc tế đã hình thành. Trong sự vận hành của hệ thống lúc ban sơ, quyền lợi của Hoa Kỳ ít nhiều hòa quyện với lợi ích chung của toàn thế giới. Hơn 60 năm sau, dưới sức ép nặng nề của toàn cầu hóa, với tình trạng nghèo đói dai dẳng trong nhiều vùng trên thế giới, với sự xuất hiện của tổ chức khủng bố, các hệ phái tôn giáo qúa khích, và quan trọng hơn cả, với chính sách đối ngoại của chính siêu cường duy nhất Hoa Kỳ, trật tự thế giới mới nầy không còn đứng vững. Ngày nay, thế giới đang kinh qua một đại khủng hoảng khác: một thế giới trong tình trạng chiến tranh. Những vấn đề trọng đại từ hiện tượng hâm nóng toàn cầu, khai thác hải sản bừa bải, tàn phá rừng, khan hiếm nước sạch, ô nhiễm môi trường, mối đe dọa diệt chủng đối với vài hệ sinh vật phương hại đến tính đa dạng của sinh thái, cho đến tình trạng nghèo đói dai dẳng, khủng bố, tội phạm có tổ chức, mạng lưới buôn bán ma túy và vũ khí, HIV-AIDS...đang đe dọa toàn cầu. Liên Hiệp Quốc tỏ ra bất lực, nếu không muốn nói là tê liệt. Các quốc gia nghèo nàn nhỏ bé không đủ sức đối phó. Liên hiệp Âu châu, Liên bang Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tây, không nhất trí, bất ổn định. Các định chế quốc tế còn èo uột, ngân sách hạn hẹp, thiếu hiệu quả. Rút cuộc chỉ có Hoa Kỳ, hùng mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế, chính trị, là quốc gia duy nhất có đủ khả năng và ý chí chính trị để tiếp tục vai trò lãnh đạo thế giới. Trong thực tế, Hoa Kỳ, vì thiếu viễn kiến xây dựng toàn cầu, đã theo đuổi một chính sách đối ngoại thiển cận đối đầu với hầu hết các nước. Với cái nhìn vĩ mô, hội nhập kinh tế -- hiểu theo nghĩa toàn cầu hoá kinh tế dựa trên chủ nghĩa tư bản với thị trường cạnh tranh tự do -- tự nó đã thể hiện tính đặc trưng của chủ nghĩa đế quốc. Toàn cầu hóa lan tràn thẩm thấu khắp nơi với sức mạnh áp đảo đối với tất cả các thành viên trong hệ thống. Không một quốc gia nào có thể cưỡng lại sức hút toàn cầu hóa. Rất ít xứ có đủ khả năng tránh né những đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu và những điều kiện khắt khe của Ngân Hàng Thế Giới, của IMF, của WTO. Những định chế nầy, dù không mấy hoàn hảo, vẫn nắm quyền áp đặt những quy luật chi phối toàn cầu hóa kinh tế, quy định ai sẽ được tưởng thưởng khi tuân thủ, ai sẽ bị chế tài khi vi phạm. Sức ép toàn cầu hóa đủ mạnh để hội nhập, dù không đồng đều, tất cả các nền kinh tế quốc gia vào một hệ thống thị trường tự do toàn cầu duy nhất[12]. Đây cũng là mục tiêu và ý định của nhóm Washington Consensus: san bằng những rào cản mậu dịch, chấm dứt chế độ bảo vệ, mở rộng thị trường tự do và các khu vực mậu dịch tự do, mở cửa thị trường tài chánh để tư bản được tự do lưu chuyển với tối thiểu quy định. Hoa Kỳ đứng sau chủ động và hưởng lợi qua việc bảo đảm thực thi các chính sách nầy. Điều đó có nghĩa toàn cầu hóa kinh tế như hiện nay chỉ là công cụ để phụng sự quyền lợi của chính Hoa Kỳ, hay nói rõ hơn, của các công ty đa quốc gia Hoa kỳ. Điều quan trọng cần ghi nhận là nếu toàn cầu hóa kinh tế là trào lưu bất khả kháng trong tương lai, nó cũng che dấu nhiều đợt sóng ngầm có thể dẫn đến những khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng tương tự như cuộc khủng hoảng năm 1997 ở Á châu. Kinh tế thị trường tự do và các khu vực tự do mậu dịch, dù thiết yếu cho sự phong phú và thịnh vượng, đồng thời cũng gây nhiều hậu quả tai hại cho môi sinh và xã hội. Trong các khu vực mậu dịch tự do, theo quy luật của WTO hiện hành, tư bản được tự do lưu chuyển. Nhưng quyền tự do nầy không áp dụng cho các lực lượng lao động, cả trí óc lẫn tay chân. Mở cửa thị trường tài chánh, vì vậy, đã bào mòn khả năng kiểm soát kinh tế của chính quyền từng quốc gia thành viên và phương hại đến mạng lưới an sinh và an toàn của người dân ngheò. Lý do là thị trường công ăn việc làm và tài chánh công của các quốc gia thành viên trở nên bất ổn định. Ronald Wilson Reagan (1911-2004) TT thứ 40 của HK Tình trạng nầy không phải chỉ là hệ quả của tiến trình toàn cầu hóa, mà chính là hậu quả của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ thời Tổng thống Reagan (1980) và các tổng thống kế tiếp. Trong cuốn Bàn về Toàn Cầu Hóa (On Globalization), George Soros đã gọi chính sách nầy là chủ nghĩa kinh điển về thị trường (market fundamentalism). Theo đó, bàn tay vô hình mầu nhiệm của thị trường là cơ chế phân phối tài nguyên hữu hiệu nhất và mọi sự can thiệp chỉ làm suy giảm hiệu lực kinh tế[13].. Đó là ý niệm, là niềm tin Hoa Kỳ không ngừng thúc đẩy, thuyết giảng khắp thế giới. Theo các nhà lãnh đạo chính trị ở Hoa Kỳ, thị trường hoàn toàn tự do cạnh tranh sẽ giúp giải quyết tốt đẹp mọi vấn đề của bất cứ quốc gia, xã hội nào. Người ta quên rằng thị trường bao giờ cũng phi đạo đức (amoral). Thị trường cho phép mọi người tự do theo đuổi quyền lợi riêng tư của mình mà không màng đến khía cạnh tốt xấu của các quyền lợi ấy. Tư lợi đưa đến phồn thịnh phong phú nhưng không đưa đến công lý hay công bình xã hội. Thị trường tự do không thể giải quyết những nhu cầu xã hội như luật pháp và trật tự, bảo vệ môi sinh, chuẩn mực an toàn và sức khỏe của nhân công, trợ giúp những thành phần dễ bị thương tổn (the vulnerable ) trong xã hội. Thị trường tự nó không thể đáp ứng những đòi hỏi của một xã hội có chất lượng, có nhân tính. Những tiện ích công cộng, những thứ lợi ích chung cho cộng đồng, chỉ có thể đạt được qua một quá trình chính trị cho phép mọi công dân thảo luận và nhất trí về những phạm trù đạo đức và thứ tự ưu tiên xã hội. George Soros, tỷ phú Mỹ gốc Budapest, giàu lòng nhân đạo, giúp các hội từ thiện của 50 nước trên thế giới Theo George Soros, chính sách nói trên đã đưa đến ba tác động tiêu cực: (a) Mạng lưới an sinh xã hội bị bào mòn chẳng những ở phần Nam thế giới nghèo nàn mà ngay ở cả phần Bắc kỹ nghệ tiền tiến ; (b) Tài nguyên được phân phối lệch lạc giữa tư lợi và công ích, pháp chế bảo vệ môi sinh và các chuẩn mực xã hội khác bị xói mòn ; (c) Các thị trường tài chánh ngày một bất ổn đưa đến một hệ thống tài chánh toàn cầu rất dễ suy sụp và khủng hoảng như đã xẩy ra cho các thị trường tài chánh Đông Á năm 1997 và sự phá sản của Argentina năm 2002. Mô hình nầy đã làm ngơ trước tình trạng thiếu thốn đói nghèo của một phần khá lớn nhân loại. Tình trạng thống khổ nầy đã được phơi bày qua các con số thống kê đã được Jim Garrison, chủ tịch tổ chức Tình Trạng Diễn Đàn Thế Giới (The State of The World Forum) trích đẫn trong cuốn America As Empire –Global Leader or Rogue Power? như sau: - 47% dân số thế giới sống dưới mức 2 đô la mỗi ngàỵ - 40% không có điện. - 33% trẻ con dưới 5 tuổi bị bệnh suy dinh dưởng với khoảng 30 nghìn tử vong mỗi ngày do những bệnh có thể chữa trị. - 25% số người trưởng thành trên thế giới còn mù chữ. - 20% dân số toàn cầu không được chăm sóc sức khỏe[14]. V : THAY LỜI KẾT LUẬN : TOÀN CẦU HÓA VÀ NHÓM TÂN BẢO THỦ : Các chính sách hiện nay của Tổng thống G. W. Bush (con) thực ra đã manh nha từ thời Tổng thống George H. W. Bush (cha) với thingy Cheney, lúc đó đang giữ chức Tổng trưởng quốc phòng. Sau khi bức tường Bá linh sụp đổ vào năm 1989, theo chỉ thị của Cheney, Wolfowitz và nhóm tân bảo thủ (neoconservatives, thường đựơc biết dưới danh hiệu nhóm Neocons ) đã xét duyệt lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thời hậu chiến tranh lạnh trong viễn kiến chiến lược vĩ mô. Trên căn bản lực lượng quân sự hùng mạnh của siêu cường duy nhất, nhóm Wolfowitz, gồm Lewis Libby và Eric Edelman, đã soạn thảo ra tài liệu Hướng Dẫn Hoạch Định Quốc Phòng (Defense Planning Guidance). Sau này khi Bill Clinton đắc cử Tổng thống, tài liệu đã được viết lại, với lời lẽ ngoại giao hơn, vào tháng giêng 1991, dưới tên gọi Chiến Lược Quốc Phòng cho Thập Kỷ 1990’s (Defense Strategy For the 1990’s ). Nhưng phải đợi đến năm 1995, lập trường của nhóm mới được Zalmay Khalizad, một thành viên mới, trình bày đầy đủ và thẳng thắn trong một cuốn sách nhỏ nhan đề Từ Ngăn Chận Đến Lãnh Đạo Toàn Cầu (From Containment to Global Leadership). Mục tiêu chiến lược là củng cố vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong hệ thống kinh tế, chính trị toàn cầu và ngăn chận bất cứ một hay một nhóm quốc gia nào khác toan tính cạnh tranh. Khalizad còn đi xa hơn và nói rõ Hoa Kỳ phải sẵn sàng sử dụng vũ lực để chận đứng những toan tính như vậy[15]. Suốt thập kỷ 1990’s, nhóm nầy còn khai triển lập trường và đưa ra chủ trương: Hoa Kỳ chỉ nên nhìn thế giới theo góc độ quyền lợi quốc gia của chính mình, nên rút khỏi những hiệp định hay thỏa ước quốc tế và gạt Liên Hiệp Quốc qua bên lề nếu gây trở ngại hoặc vướng víu cho khả năng hành động đơn phương của mình. Sức mạnh quân sự vô song của Hoa Kỳ sẽ hữu ích để loại trừ các quốc gia ngoài vòng pháp luật (rogue states): Iran, Iraq và Bắc Hàn (the Axis of Evil hayTrục ma quỷ) cũng như Pakistan và Syria. Biện pháp quân sự là cần thiết đối với Iraq và Bắc Hàn. Những chiến dịch phá hoại ngầm và áp lực kinh tế, chính trị, để gây bất ổn, cũng đủ để chế ngự Iran và Syria. Riêng đối với Pakistan, Hoa kỳ chỉ cần tìm cách thu hút vào quỹ đạo tình báo và quân sự của mình. Một khi các mục tiêu nầy hoàn tất, thế giới có thể an toàn hơn cho sự nghiệp phát huy dân chủ và hòa bình. Chiến lược nầy đã được đem ra áp dụng ngay sau khi George W. Bush bắt đầu nhiệm kỳ Tổng thống vào tháng giêng năm 2001. Biến cố 9-11 đã đem lại cơ hội tốt cho nhóm Tân Bảo Thủ đang tìm dịp chính thức hóa chiến lược tấn công và xâm lăng đã chuẩn bị từ trước. Các cố vấn của G.W. Bush còn dự phóng với sức mạnh quân sự vô song của mình, Hoa Kỳ có thể duy trì địa vị bá chủ toàn cầu trong ít nhất 50-70 năm tới.[16] Cần phải đủ bình tỉnh và sáng suốt để hiểu rằng mặc dù Hoa Kỳ đã bị tấn công một cách bất ngờ và tàn baọ trong biến cố 9-11, nhiều nơi thế giới cũng đã kinh qua những tàn phá có khi còn lớn lao, dã man hơn nhiều bởi chính bàn tay Hoa Kỳ. Từ quan điểm của kẻ thù, người Mỹ đã phạm nhiều tội ác và đã đến lúc phải hứng chịu những phản ứng đầy hận thù và tàn bạo. Osama bin Laden đã làm những gì mà từ lâu họ đã muốn thấy xẩy đến cho Hoa Kỳ. Trong nhiều thập kỷ qua, Hoa Kỳ đã gầy dựng được nhiều quyền lực nhưng cũng đã tạo ra lắm kẻ thù. Mỗi lần Hoa kỳ được thắng lợi, một nơi nào đó trên thế giới đã phải chịu thua thiệt. Trong thời chiến tranh lạnh, Hoa kỳ đã ủng hộ, che chở nhiều chế độ độc tài tham nhủng trong thế giới thứ ba trong khi các đại công ty Mỹ đã chiếm được nhiều thị trường, đã thu lượm được nhiều lợi lộc kinh tế. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi phản ứng chống đối, hận thù lan tràn đó đây trên khắp thế giới. Bảo rằng Osama bin Laden và tổ chức al-Qaeda là một mạng lưới cô lập có thể là một cách nói mang tính trấn an, nhưng rõ ràng không xác thực. Ngay sau biến cố 9-11, Arundhati Roy, một nhà văn Ấn độ, đã lên tiếng thay cho nhiều người, đặc biệt là trong thế giới phương nam, khi bà viết : Osama bin Laden là ai? Ông là bí mật gia đình của nước Mỹ. Ông là bóng ma đen tối của tổng thống Hoa Kỳ, là kẻ song sinh man rợ của tất cả những gì tự cho là xinh đẹp và văn minh. Ông ta đã được tạc từ một mảnh xương sườn của thế giới đổ nát vì chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ: ngoại giao bằng tàu chiến, kho tàng vũ khí nguyên tử, chính sách sống sượng nhằm thống trị rộng khắp, coi thường kinh rợn mạng sống con người không phải là Mỹ, những sự can thiệp quân sự man rợ, ủng hộ những chế độ độc tài toàn trị, chính sách kinh tế tàn bạo như những đàn châu chấu tàn phá kinh tế các xứ nghèo, và những công ty đa quốc gia đang săn lùng chiếm đoạt không khí chúng ta đang thở, mảnh đất dưới chân chúng ta, nước chúng ta uống, những ý nghĩ chúng ta tư duy[17]. Osama bin Laden và phe nhóm không phải là những cá nhân tha hóa như Timothy McVeigh hay Unabomber. Họ xuất phát từ một thứ văn hóa mất niềm tin và thù địch với phương Tây nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Họ hoạt động với sự hỗ trợ của hàng triệu người trong thế giới thứ ba và các quốc gia Hồi giáo. Bằng chứng là rất nhiều người Palestine đã nhảy múa vui mừng ngoài đường phố trong vùng West Bank khi nghe tin 9-11. Báo chí Á Rập cũng đăng nhiều bài ca ngợi, kín đáo nhưng rõ rệt, đối với bin Laden. Đối với họ, 9-11 không phải là hành động khủng bố vì khủng bố. Đó là một hành động để trừng phạt và trả đũa[18]. Vai trò lãnh đạo toàn cầu hóa của Hoa kỳ đang bị thử thách khắp nơi. Dù thiển cận và đã phạm nhiều lỗi lầm trong chính sách đối ngoại, Hoa kỳ vẫn là siêu cường duy nhất với quyền lực quân sự và kinh tế vô song. Hoa kỳ đã, đang và còn giữ vai trò sáng lập, định hình, và duy trì một trật tự mới, cũng như vai trò chỉ đạo trong hệ thống toàn cầu hóa.Từ lâu, Hoa kỳ đã tỏ ra tha thiết với vai trò lãnh đạo và muốn vai trò đó được trường tồn. Để thành công, kêu gọi mở cửa thị trường, thuyết giảng các phép mầu của tự do mậu dịch chưa đủ. Hoa kỳ phải biết lắng nghe tiếng nói của các nước nghèo trong thế giới thứ ba. Toàn cầu hóa và các định chế cũng như các quy luật liên hệ cần phải được rà soát lại để bổ khuyết những bất nhất, bất công, phải được hoàn chỉnh, khả dỉ đem lại những giải pháp thỏa đáng cho các khát vọng, những đòi hỏi chính đáng của thế giới phía Nam. Những thách thức nầy chỉ có thể giải quyết qua sự hợp tác đa phương, với sự ủng hộ của nhân dân toàn cầu và nhân danh toàn thể cộng đồng các quốc gia. Sức mạnh của Hoa kỳ phải được sử dụng không phải để khống chế các quốc gia khác, mà để đem lại sức mạnh cho cộng đồng các quốc gia. Hoa kỳ phải đồng thời là một siêu cường và một siêu đối tác. Trong vai trò lãnh đạo toàn cầu, Hoa kỳ phải tìm cách du nhập yếu tố đạo đức vaò định chế thị trường, phải đạo đức hóa thị trường, vì yếu tố đạo đức hiện nay còn thiếu vắng trong chính sách kinh tế Hoa kỳ cũng như trong điều lệ WTO. Như Soros đã từng nói: "Chúng ta có những thị trường toàn cầu nhưng chúng ta chưa có một xã hội toàn cầu. Và chúng ta không thể xây dựng một xã hội toàn cầu mà không quan tâm đến những lý do đạo đức"[19]. Hoa kỳ đang nắm trong tay đủ quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự. Thế giới đang ở trong thời khắc hội nhập. Bằng cách nào để hai phía có thể kết hợp hài hòa. Liệu thế giới có đủ cơ may để được hưởng một pax Americana (hòa bình do Mỹ)? Hay không may phải gánh chịu một pox Americana (một đại dịch do Mỹ). Cuộc hôn nhân thành công hay đổ vỡ sẽ quyết định di sản của Hoa kỳ trong lịch sử và số kiếp của thế kỷ 21 mới bắt đầu. © GS Nguyễn Trường Irvine, CA, USA Tháng năm, 2006. [1] Atlantic Charter -1941, Charter of the United Nations -1945 ,Universal Declaration of Human Rights -1948, Convention Against Torture and Other Cruel , Inhuman or Degrading Treatment or Punishment -1984, Rome Statute of the International Criminal Court - 1998, The North American Trade Agreement -1994, The Agreement Establishing the World Trade Organization -1994, General Agreement on Tariffs and Trade -1994, UN Framework Convention on Climate Change -1992, The Kyoto Protocol -1997, Philippe Sands , Lawless World : America and the Making and Breaking of Global Rules from FDR's Atlantic Charter to George W. Bush's Illegal War , Viking Penguin , 2005, trang (tr) 1-22 . [2] Clyde Prestowitz , Rogue Nation- American Unilateralism and the Failure of Good Intentions , Basic Books , New York , 2003 , tr 67-69 . [3] Noam Chomsky , Understanding Power , The New Press , New York , 2002 , tr 377-381 . [4] Clyde Prestowitz , sách đã dẫn (Sđd) ,tr 51-80 . [5] Clyde Prestowitz , sđd , tr 74 . [6] Noam Chomsky , Rogue States -The Rule of Force in World Affairs , South End Press , 2000 , Cambridge , MA , tr 130 . [7] Howard Zinn , A People's History of The United States - 1492-Present , Harper Collins Publishers , New York , 2005 , tr 671-674 . [8] Elizabeth Economy , Painting China Green : The Next Sino-American Tussle , Foreign Affairs ,March 1 , 1999 , Vol. 78 , No 2 , tr 16 . [9] Clyde Prestowitz , sđd , tr 79 . [10] Clyde Prestowitz , sđd , tr 79 . [11] Clyde Prestowitz , sđd , tr 80 . [12] Jim Garrison , America As Empire - Global Leader or Rogue Power , Berrett-Koehler Publishers , 2004 , San Francisco , CA , tr 38-41 . [13] George Soros , On Globalization , New York : Public Affairs , 2002 , tr 6 . [14] Jim Garrison , sđd , tr 41 . [15] Zalmay Khalizad , From Containment to Global Leadership ? : America and The World After The Cold War , Washington , DC : Rand/US Air Force , 1995 . [16] Jim Garrison , sđd , tr 53-56 . [17] Martin Walker , What Kind of Empire ? , Wilson Quarterly , Summer 2002 , "Who is Osama bin Laden? He is America’s family secret. He is the American president’s dark doppelganger, the savage twin of all that purports to be beautiful and civilized. He has been sculpted from the spare rib of a world laid to waste by America’s foreign policy: its gunboat diplomacy, its nuclear arsenal, its vulgarly stated policy of Ộfull spectrum dominanceỢ, its chilling disregard for non-American lives, its barbarous military interventions,its support for despotic and dictatorial regimes, its merciless economic agenda that has munched through the economies of poor countries like a cloud of locusts, and its marauding multinationals who are taking over the air we breathe, the ground we stand on, the water we drink, the thoughts we think" . [18] Jim Garrison , sđd , tr 154-157 , 189 . [19]George Soros , sđd , tr 165 ," We have global markets but we do not have a global society . And we cannot build a global society without taking into account moral considerations" .
|
|
|
Kinh tế
Sept 28, 2010 8:11:00 GMT 9
Post by NhiHa on Sept 28, 2010 8:11:00 GMT 9
Kinh tế học và chính sách kinh tế Vietsciences- Lê Văn Cường
Trong bất kỳ một quốc gia nào, mọi công dân, từ những nhà lãnh đạo đến người dân bình thường, đều mong muốn kinh tế học phục vụ tốt để phát triển kinh tế cho nước mình. Đó là một đòi hỏi chính đáng. Nhưng một người lãnh đạo, theo ý tôi, cần phải nhận thức được những hạn chế sau đây của kinh tế học: 1. Đó là một ngành thuộc phạm trù khoa học xã hội, không thể được thử nghiệm được như ngành khoa học tự nhiên. Dĩ nhiên, kinh tế học dựa trên sự quan sát, sự vận hành của xã hội. Nhưng cũng vì vậy, theo góc độ và thời điểm chúng ta quan sát, nẩy sinh ra nhiều học thuyết kinh tế khác nhau. Ví dụ: Muốn nâng cao tăng trưởng của GDP chúng ta nên làm gì? Không có một phương án trả lời duy nhất. (a) Nếu xã hội ở trong trạng thái cung hàng hóa lớn hơn cầu, ta nên tăng lương, thu nhập để tăng cầu và từ đó tăng sản xuất (mô hình kinh tế dựa trên học thuyết Keynes). (b) Nếu xă hội ở trong trạng thái cầu cao hơn cung, tăng lương chỉ làm tăng lạm phát và thâm hụt cán cân ngoại thương (mô hình cổ điển). Như vậy phải tác động lên những yếu tố làm tăng cung. Nếu cung hàng hóa bị "nghẽn" vì các chi phí sản xuất (lương nhân công, thuế,...) quá cao, thì nhà nước nên giảm các chi phí ấy để đẩy mạnh sản xuất. Nếu cung hàng hóa bị "nghẽn" vì làm ăn thiếu hiệu quả (máy móc quá cũ, lao động quá nhiều,...) thì phải tìm những biện pháp để thúc đẩy năng suất. Qua thí dụ đơn giản ở trên, ta có thể nhận thức rằng cần phải đẩy mạnh: (i) hiểu biết sâu rộng các học thuyết kinh tế (ii) nghiên cứu lý thuyết về kinh tế nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng. Hai ý này không phải là "xa xỉ phẩm" ngay cả trong tình hình kinh tế hiện nay ở Việt Nam. 2. Tương đối hóa lòng tin vào học thuyết vì những lý do sau đây: 2.1. Mỗi học thuyết chỉ "đúng" trong một hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định (thí dụ, sử dụng học thuyết Keynes nếu xã hội ở trong trạng thái cung cao hơn cầu). Do đó, cần phải có số liệu trung thực, hoàn chỉnh, đầy đủ nhằm xác định chính xác tình hình cụ thể của nền kinh tế để biết nên sử dụng học thuyết gì để đáp ứng đúng nhu cầu của xã hội về kinh tế. Do vậy, số liệu liên quan đến kinh tế phải được công bố. 2.2. Các học thuyết kinh tế không bất di bất dịch mà luôn luôn cần được bổ sung thêm. Nếu những dự báo kinh tế dựa trên một học thuyết kinh tế không phù hợp với số liệu, cần phải tìm hiểu tại sao. Bản thân học thuyết ấy có thiếu sót gì không? 2.3. Đừng có ảo tưởng rằng một mô hình kinh tế được định lượng có thể giúp đưa ra những dự báo hoàn toàn chính xác vì những chuỗi số liệu bao giờ cũng có sai số . Trong thực tế, có nhiều vấn đề kinh tế mà mô hình chưa nắm bắt được. Nhưng mô hình có thể cho biết một chính sách kinh tế có tác động tốt hay xấu với một độ tin cậy nào đó. Chúng ta có thể không hoàn toàn thỏa mãn nhưng ít nhất là biết được còn hơn không biết gì cả. 2.4. Mỗi học thuyết đều có chức năng của riêng nó. Ví dụ, theo ý tôi, không thể sử dụng học thuyết kinh tế Marx để làm chính sách kinh tế vì mục đích của học thuyết kinh tế Marx là phân tích và phê phán tư bản chủ nghĩa. Nhưng để vận dụng học thuyết Marx hay một học thuyết nào khác vào thực tế kinh tế xã hội Việt Nam để xây dựng một xã hội công bằng, giàu mạnh, văn minh là một thách thức cho các nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam. Lê Văn Cường Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Quốc gia nghiên cứu khoa học Pháp.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 6:48:19 GMT 9
Bí mật quanh đồng Euro Vietsciences- Nguyễn Thanh Lâm Câu chuyện tưởng xa vời ở Châu Âu lại rất gần với các quốc gia và doanh nghiệp đang có nguy cơ điên đảo vì tiền : Đồng Euro mạnh lên, sẽ đem đến thuận lợi hay khó khăn gì ? Khu vực đồng Euro đang so găng với đồng Đô là Mỹ như thế nào ? và những bí mật gì đã và sẽ bao quanh đồng Euro ? Vì sao có đồng Euro ? Sau thế chiến thứ II, Châu Âu tan hoang đã vụt dậy như phượng hoàng từ đống tro tàn. Hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dựa vào kim bản vị và chương trình Marshall đã góp phần ổn định các khu vực đồng Bảng Anh, đồng Franc Pháp, đồng Franc Thụy Sĩ và đồng D-Mark ở Tây Đức. Tuy nhiên, Liên minh thuế quan trở thành hiện thực cho Đức và Pháp từ năm 1968, vẫn phải chống chọi với việc tỷ giá hối đoái giao động mạnh do hệ thống Bretton Woods đã sụp đổ sau sứ mệnh lịch sử của mình, khi sự phát triển của nền kinh tế thế giới gia tốc vươn tới mục tiêu toàn cầu hoá. Năm 1970, lần đầu tiên về một Liên minh tiền tệ Châu Âu được cụ thể hoá, dựa trên kế hoạch Werner, đúc kết dự án Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu với một đồng tiền thống nhất trong tương lai, do các chuyên viên kinh tế lỗi lạc và Thủ tướng Luxembourg , Pièrre Werner soạn thảo. Lộ trình nhắm đến Liên minh vào năm 1980 thất bại, cũng vì sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1972. Thay vào đó, Liên minh tỷ giá hối đoái Châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là hệ thống tiền tệ Châu Âu năm 1979, nhằm ngăn chặn sự giao động quá mạnh của các đồng tiền Châu Âu. Đơn vị tiền tệ Châu Âu (European Currency Unit-ECU) ra đời như một đơn vị thanh toán vì mục đích này và được xem là tiền thân của đồng Euro. Nhưng mãi đến năm 1988, chủ tịch Uỷ Ban Châu Âu Jacques Delors đã lập ban soạn thảo Báo cáo Delors, lên kế hoạch ba bước tiến tới thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu. Jacques Delors Bước đầu tiên bắt đầu từ 1.7.1990 cho phép chuyển vốn tự do hoá giữa các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) Bước thứ hai từ 1.1.1994 khi Viện tiền tệ Châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) hình thành và tình trạng ngân sách quốc gia các nước thành viên EU được xem xét (*) Ngày 13.12.1996 các Bộ trưởng Bộ tài chính của EU đi đến thoả thuận về Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm tạo riềng mối kỷ luật về ngân sách các nước thành viên và qua đó bảo đảm giá trị của tiền tệ chung. Bước thứ ba xác định 11 quốc gia thành viên ban đầu của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ theo các tiêu chuẩn hội tụ đươc quy định trước và ngày 1.1.1999 tỷ lệ hối đoái giữa đồng Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được xác định không thể thay đổi và Euro thành đồng tiền chính thức Tên gọi và mái nhà Có những tên gọi được đề cử cho đồng tiền chung của Châu Âu: Franc Châu Âu, Krone Châu Âu hay Gulden Châu Âu. Những tên nghe khá hay nhưng khá dài. ECU cũng là một lựa chọn. Nhưng cuối cùng, đề nghị của Bộ trưởng tài chính Đức Theodor Waigel đã được hoan nghênh nhiệt liệt: Euro (viết tắt là EUR) Ký hiệu € lấy từ ý tưởng của Arthur Eisenmenger, sếp đồ họa của Cộng đồng Châu Âu EG: một chữ C với hai vạch ngang biến thành chữ E tròn cách điệu: một vạch tượng trưng cho sự bền vững và vạch thứ nhì tượng trưng cho mặt bằng kinh tế Châu Âu. Ký hiệu ấy gợi nhớ đến chữ Epsilon (e) của tiếng Hy Lạp vốn là biểu tượng của Châu Âu cổ xưa. Ký hiệu € được viết thay chữ E của slogan bằng tiếng La Tinh thường xuất hiện trên các chứng từ tiền tệ của EUROPA FILIORUM NOSTRORUM DOMUS (Châu Âu /là/ mái nhà của con cái chúng ta) Mái nhà EU đang có 27 quốc gia thành viên, và 15 nước trong số đó đang sử dụng đồng tiền chung EURO. Anh, Đan Mạch và Thụy Điển đã có quyết định không gia nhập Khu vực đồng Euro (Eurozone). Tại các nước khác trong Châu Âu như Cộng Hoà Séc, Ba Lan, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ và Thụy Sĩ, bạn có thể trả bằng tiền bằng Euro. Nhưng điều này thường có hai bất lợi: giá chuyển đổi cho đồng Euro thường không hấp dẫn và tiền thối lại thường là tiền bản xứ. Nếu lưu lại đó lâu hơn, bạn nên dùng tiền bản xứ để thanh toán. Nhiều nước ở Miền Tây Châu Phi, vốn thuộc khu vực đồng Franc Pháp trước đây đã gia nhập khu vực đồng Euro qua việc xác định một tỉ giá hối đoái cố định với Euro. Đồng Euro so găng với đồng Đô la Mỹ. Trên lĩnh vực dự trữ ngoại tệ mạnh của toàn thế giới, đồng Đô la Mỹ vẫn đang chiếm tỷ trọng lớn nhất là 63,9%. So với năm 2000, bảy năm trước đây, con số đó còn là 70,5% với niềm kiêu hãnh đặc biệt, bởi các bước đi của hệ thống Bretton Woods và tác động của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) cũng như Ngân hàng thế giới ( World Bank) đã tạo thế thượng phong và làm luật cho đồng đô la Mỹ. Một kinh tế gia tầm cỡ đã gọi đó là thời kỳ của giang hồ tài chính quốc tế với những luật lệ áp đặt làm mưa làm gió trên toàn thế giới. Khu vực đồng Bảng Anh hiện đạt 4,7% và đồng Yen là 2,9%. Từ hai năm nay, khối lượng tiền giấy Euro với 592 tỷ Euro đã vựơt qua tổng khối lượng Đô la xanh của Hoa Kỳ là 579 tỷ USD. Tỉ giá hối đoái thay đổi theo hướng Euro ngày càng mạnh và USD yếu sát điểm cực tiểu. Nói cách khác, nếu ngày 26.10.2000 khi tỉ giá Eur/USD là 0.83 và bạn đầu cơ mua vài tỉ Euro thì ngày 23.04.2008 khi bán ra với tỉ giá Eur/USD là 1,594, tài sản của bạn đã tăng gấp đôi, chưa kể lãi suất tiết kiệm ở ngân hàng. Giá bạn đầu cơ mua bằng tiền đồng Việt Nam , thì chỉ tính rợ thôi, tài sản tiền đồng của bạn đã tăng hơn 300% trong vòng 8 năm. Việc đồng Euro liên tục tăng giá so với USD đã tác động mạnh nhiều đến nền kinh tế, xã hội và đời sống người dân ở Châu Âu. Hàng Châu Âu xuất khẩu đi các nước trở nên đắt đỏ và mất đi nhiều tính cạnh tranh. Khi nhu cầu hàng xuất khẩu không cao, việc cắt giảm nhân công là điều khó tránh khỏi. Vì thế, ECB luôn canh chừng để đưa ra các biện pháp cần thiết nhằm giảm giá Euro. ECB luôn nhắm mục tiêu ổn định giá cả và giá mức lạm phát dưới 2% (dù mới đây, đã có tháng tăng 3,6% so với cùng kỳ năm ngoái) Rõ ràng đồng Euro mạnh làm hãng chế tạo máy bay Airbus khó cạnh tranh với Boeing của Hoa Kỳ trong thời gian này. ECB củng cố và tiến hành chính sách tiền tệ, quản lý quỹ dự trữ ngoại tệ của các nước thành viên, kinh doanh ngoại tệ và nhất là chăm sóc nền kinh tế quốc dân luôn có đủ tiền lưu chuyển thông suốt. Nhờ nguyên tắc tự trị mà ECB đã làm chủ được tình hình phát hành tiền mặt và kiểm soát cả lượng tiền M1, M2, M3 để tránh việc ngân sách quốc gia nào đó thâm thủng và các chính khách, nhà nước tự động in thêm tiền cân đối, nhưng thực chất là biến động tiền mất giá, mất ổn định và dẫn đến lạm phát nghiệm trọng hơn. Đây là bài học kinh nghiệm quí báu cho các nền kinh tế chuyển đổi hay kinh tế mới nổi như nước ta. Trong thời gian trước năm 2002, khi đồng Euro không tồn tại trên thực tế dưới dạng tiền mặt, đồng Euro đã bị đánh giá thấp hơn giá trị thực, thêm vào đó Cộng đồng Châu Âu lúc bấy giờ gặp khó khăn kinh tế-xã hội và thiếu hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, bởi 3 nguyên nhân sau: - Thâm hụt ngân sách và cán cân thương mại trong bối cảnh Hoa Kỳ luôn tăng nợ. - Có nhiều chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ ở các nước khác, nhất là Trung Quốc, Nhật, Nga và Ấn Độ. - Các nước xuất khẩu dầu như Nga tương đối thành công, còn Irak, Iran, Venezuela thì gặp khó khăn trong việc nhận đồng Euro trong thanh tóan buôn bán dầu khí. Đến năm 2004, khi đồng đô la Mỹ chấm dứt vai trò tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi suất thả nổi (Floating Rate Notes), đồng Euro vươn lên vị trí thứ nhì, bỏ xa đồng bảng Anh và Yen Nhật, trong rổ ngoại tệ toàn cầu, và việc bảo hộ tiền tệ (currency hedging) cho các doanh Châu Âu đã không bức thiết như trước đó, mặc dù thương mại vẫn là nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Điều này đã giúp Châu Âu giảm lạm phát và tăng sức mua. Sự trỗi dậy của nền kinh tế Đức trong khoảng một năm gần đây là một ví dụ sinh động cho quá trình nêu trên. Bí mật quanh đồng Euro. Sau mười năm có mặt trên thế giới, đồng Euro đã mạnh lên với nỗi lo của kẻ mạnh sợ lật kèo cùng với sự cẩn trọng cần thiết để kinh bang tế thế. - Tổng thống Pháp đưa ra luận điểm: sự tăng giá của đồng Euro không hẳn là một biểu hiện tài chính vững mạnh mà có thể là tai họa thương mại. - Nhà kinh tế Patrick Artus thuộc Ngân hàng Natixis của Pháp cho rằng: vào thời điểm mới được đưa vào lưu hành, đồng Euro bị đổ lỗi là gây ra lạm phát. Hôm nay nó bị đổ lỗi là làm chậm lại tốc độ phát triển kinh tế. Nhưng lỗi thực sự lại không nằm ở đồng Euro mà ở đồng USD. - Cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu (Finance), khủng hoảng giá lương thực (Food) và giá nhiên liệu (Fuel) nói chung là 3 chữ F phá rối trật tự kinh tế toàn cầu, cộng với sự sa sút, vỡ bong bóng của thị trường bất động sản đã dẫn đến sự thua lỗ của nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư lớn : Citigroup, Credit Suisse, UBS, Merrill Lynch, Fannie Mae, Freddie Mac ... đang biến đồng Euro thành một hằng số biến thiên khó xác định . - Việc kinh doanh chênh lệch lãi suất (carry trade) hiện nay có thể cản trở dòng chảy của lưu thông phân phối bởi dòng vốn xuyên biên giới. Ở nước ta, lượng kiều hối 8 tỉ USD (ước lượng cho năm 2008) và hàng chục tỉ USD từ đầu tư trực tiếp (FDI) mỗi năm đang là trợ thủ ngăn dòng nhập siêu và đó lại là một câu chuyện khác. - Đồng Euro là một sản phẩm được dày công nghiên cứu và thử nghiệm. Có thể nói là rất thành công. Nhưng một trong những bí mật quanh những đồng tiền mạnh trên thế giới là sự trỗi dậy gần như được lập trình trong tương lai gần của đồng Nhân Dân Tệ( Trung Quốc). - Giá trị đồng tiền quá yếu như đồng USD hay đồng Việt Nam hiện nay là một nỗi lo, nhưng sở hữu một đồng tiền quá mạnh (có thể hơn cả thời “con rắn tiền tệ” trong đường hầm biên độ mở, sau giai đoạn Bretton Woods) thì nỗi lo còn lớn hơn nhiều. Một rổ ngoại tệ tương đối tối ưu sẽ điều tiết kinh tế ngoại thương tiến đến tối ưu, giảm rủi ro, đe dọa thực sự, đối với các ngành xuất khẩu của từng quốc gia, từng khu vực. - Lãi suất đồng Euro có thể tăng nữa nếu tình hình lạm phát không hạ nhiệt. Thời của tín dụng giá rẻ sẽ qua đi. - Thành công của đồng Euro vẫn không che dấu hai thất bại: Thứ nhất là sự thích nghi của các nứơc trong khu vực sử dụng đồng tiền này khác nhau khá nhiều. Nhiều cải tiến hóa thành cải “lùi”. Thất bại thứ hai chính là mặt trái thành công của đồng Euro nói chung, buộc các nước thành viên của khu vực tiền tệ này phải có nhiều điều chỉnh lớn trong chính sách tài khóa và cơ cấu. - ECB có thể là tấm lá chắn chống khủng hoảng tiền tệ chăng?, nhất là cho đồng Euro, vừa là thanh gươm mở rộng vùng ảnh hưởng hay chăng? Bí mật quanh đồng Euro vẫn còn nằm ở phía trước . (*) Có thể tham khảo trang web nói về các vấn đề của ECB, sự hình thành, chính sách tiền tệ và các thống kê www.ecb.int/pub/html/index.en.htmlĐã đăng trên vieteuronet Xin mời xem www.vieteuronet.com
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 5:59:49 GMT 9
Đế quốc suy tàn và thế giới đa cực mỗi ngày một rõ nétVietsciences-Nguyễn Trường "Nghèo đói phải lùi vào lịch sử"[1], một khẩu hiệu hấp dẫn, một mục đích đáng ca ngợi, đã được các lãnh đạo thế giới chấp nhận tại phiên họp thượng đỉnh Liên Hiệp Quốc ở New York ngay trước ngày đầu của Thiên Niên Kỷ Mới. Một thập kỷ sau, chính Hoa Kỳ đã làm nên lịch sử - nhưng lịch sử ngược dòng. Thống kê mới nhất của Văn phòng Điều Tra Dân Số cho thấy, năm 2009, cứ một trong chín người Mỹ đã sống dưới mức nghèo khó, con số cao nhất trong hơn nửa thế kỷ. Trên 95.000 vụ tịch biên bất động sản riêng trong tháng 8-2010: một kỷ lục mới. Trên đây chỉ là hai trong nhiều dấu hiệu suy giảm quyền lực của siêu cường duy nhất, nay đang nợ nần Trung Quốc (TQ) quá nhiều. Các chỉ dấu khác gần đây gồm có sự thất bại trong nỗ lực thuyết phục TQ tái định giá trị đồng nhân dân tệ đối với đồng USD, và áp lực buộc Nga, TQ, Ấn, hay ngay cả Pakistan phải theo chân Hoa Kỳ kìm hãm mua bán dầu lửa và hơi đốt thiên nhiên với Iran. Qua sự thất bại của Hoa Thịnh Đốn áp đặt chính sách tiền tệ và năng lượng lên phần còn lại của thế giới, chúng ta đã bước vào kỷ nguyên mới trong lịch sử. KINH TẾ HOA KỲ VẪN TRÌ TRỆ Công ăn việc làm và kinh tế rõ ràng là những ưu tư hàng đầu của cử tri Hoa Kỳ trong cuộc bầu cử Quốc Hội giữa kỳ 2-11-2010. Tiến trình phục hồi tỏ ra khập khiễng, ngập ngừng, thiếu máu. Tỉ suất tăng trưởng 2% GDP của Hoa Kỳ trong quí III vốn đã thấp, và Tổ chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế OECD, với 30 quốc gia thành viên giàu nhất thế giới, đã dự phóng khoảng 1,2% trong quí IV. Donald Kohn, nguyên Phó Chủ Tịch Dự Trữ Liên Bang, đã tóm lược tình trạng khốc liệt như sau: "Kinh tế Hoa Kỳ đang ì ạch thoát ra khỏi hố sâu thăm thẳm "[2]. Hãy thử thăm dò độ sâu của hố thẳm: từ tháng 12-2007 - khởi điểm chính thức Đại Suy Thoái - cho đến tháng 12-2009, kinh tế Hoa Kỳ đã đánh mất tám triệu việc làm . Ngay cả khi thị trường nhân dụng được cải thiện đến mức các năm phát triển nhanh của thập kỷ 1990s, người ta cũng phải đợi đến tháng 3-2014 chỉ để cắt giảm phân nửa tỉ suất thất nghiệp 9,6% hiện nay và trở lại mức tiền suy thoái 4,7%. Chẳng trách James Bullard, chủ tịch Dự Trữ Liên Bang St. Louis, cảnh báo kinh tế Hoa Kỳ đang từng bước tiến tới "lỗ đen" giảm phát Nhật Bản đã trải nghiệm trong thập kỷ 1990s. Đến nay, chương trình kích cầu 787 tỉ USD của chính quyền Obama đã hoàn tất lộ trình qua hệ thống với rất ít tác động tạo thêm công ăn việc làm trên thị trường nhân dụng. Cũng không nên quên tỉ suất thất nghiệp chính thức cao 9,6% còn thấp hơn nhiều so với con số thực tế, vì đã bỏ sót ở bên ngoài những người chỉ làm vệc bán thời gian trong khi muốn có việc toàn thời gian, những người bỏ cuộc không còn tích cực kiếm việc sau nhiều tháng năm thất bại, và những thanh niên đến tuổi đi làm nhưng chẳng tìm được việc làm. Cuối cùng, các nhà làm chính sách trong chính quyền hình như chưa hiểu được suy thoái do khủng hoảng ngân hàng luôn tệ hại hơn suy thoái không vì khủng hoảng ngân hàng. TRUNG QUỐC VỮNG TIẾN Trong khi chính quyền Obama đã tái duyệt tỉ suất tăng trưởng thiếu máu GDP xuống thấp hơn, kinh tế TQ đã vượt qua kinh tế Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn số 2 thế giới. Tỉ suất tăng trưởng ở TQ vẫn ở mức 10% mỗi năm; cùng lúc, kinh tế Nhật vẫn như rùa lẹt đẹt theo sau xa hút với 0,4%. Trước đà suy giảm trong ngạch số xuất khẩu như hệ quả của suy thoái 2008-2009 từ phương Tây, cấp lãnh đạo TQ đã đáp ứng bằng cách nhanh chóng thay đổi các ưu tiên của mô hình. Họ nhanh chóng quyết định hành động nhằm tăng cường và phát triển số cầu quốc nội và mạnh dạn rót tiền đầu tư vào hạ tầng cơ sở và cải thiện các dịch vụ công. Trong khi chính quyền các quốc gia Tây phương tìm cách khống chế khủng hoảng đầu tư nhằm vào gốc rễ Đại Suy Thoái qua biện pháp lạm chi - tài trợ với khuy khiếm ngân sách[3], các ngân hàng TQ, do nhà nước kiểm soát, đã gia tăng công chi và cung cấp tín dụng dễ dàng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm các tiêu thụ phẩm bền lâu như xe hơi và nhà cửa. Ngoài ra, chính quyền còn đầu tư vào các dịch vụ công cộng như y tế, đã suy đồi tiếp theo sau quyết định tự do hóa kinh tế trong ba thập kỷ qua. Rút cuộc, các biện pháp vừa kể đã giúp GDP tăng trưởng 9% trong năm 2009, trong khi kinh tế Hoa Kỳ sụt giảm 2,6%. Cấp lãnh đạo trong nhiều quốc gia đang phát triển rất ấn tượng trước thành tích của TQ. Họ kết luận mô hình phát triển do chính quyền chỉ đạo của TQ thích hợp với dân tộc họ hơn mô hình phát triển do giới tư doanh của Tây phương rất nhiều. Trên bình diện ý thức hệ, đối với các nhà làm chính sách ở TQ, sự thất bại phủ phàng của hệ thống ngân hàng, cơ sở của khu vực tư ở Tây phương, đã đem lại lòng tin và sinh khí cho hệ thống xã hội chủ nghĩa từ lâu đang trên đà suy yếu. Để đáp lại, họ quyết định tăng cường các doanh nghiệp công do nhà nước kiểm soát, chứng minh cho cả thế giới thấy sai lầm của các nhà phân tích Tây phương khi quyết đoán các định chế doanh thương trong khu vực công luôn kém hiệu quả hơn các đối tác trong khu vực tư. Vai trò công chi và chính sách bột phát mở rộng tín dụng ngân hàng đã đưa đến gia tăng đầu tư bởi các công ty quốc doanh. Dù trong ngành khai thác khoáng sản, dầu khí, than đá, hay sản xuất sắt thép, chuyên chở hành khách và hàng hóa , các công ty quốc doanh đã được tài trợ đầy đủ để canh tân các cơ sở kỹ nghệ và dịch vụ, một quá trình tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Thêm vào đó, họ cũng đã bắt đầu mở rộng hoạt động vào những ngành nghề mới như bất động sản. Nói chung, Đại Suy Thoái ở phương Tây, bắt nguồn từ các lạm dụng, tham lam của Wall Street, đã tạo cơ hội cho Bắc Kinh nhấn mạnh, ở TQ xã hội chủ nghĩa, vốn tư nhân chỉ giữ một vai trò thứ yếu. Như Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã nói trước phiên họp hàng năm của Quốc Hội Nhân Dân trong tháng 3-2010: "Những lợi điểm của hệ thống xã hội chủ nghĩa đang giúp chúng ta lấy quyết định kịp thời, tổ chức hiệu quả, và tập trung tài nguyên để thành đạt những công trình lớn"[4]. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ NGOẠI GIAO TÀU CHIẾN Trong hai tháng 3 & 4-2010, Tòa Bạch Ốc rất huyên náo với vấn đề đồng nhân dân tệ TQ được định giá quá thấp, do đó, đã đem lại cho các nhà xuất khẩu TQ những lợi thế bất công đối với các đối tác Hoa Kỳ. Thẩm định nầy dĩ nhiên đã được giới truyền thông dòng chính tích cực phổ biến. Các nhà bình luận tai mắt tiên đoán phúc trình định kỳ của Bộ Ngân Khố Mỹ vào giữa tháng 4-2010 sẽ lên án TQ đã nhào nặn giá trị đơn vị tiền tệ của mình, bước đầu để nâng mức thuế quan đánh vào các hàng hóa nhập khẩu từ TQ. Nhưng rồi cũng chẳng có gì xẩy ra. Thay vào đó, Bộ Ngân Khố đã hoãn phúc trình thêm ba tháng. Đến kỳ hạn công bố, phúc trình chỉ nói, trong khi đồng nhân dân tệ vẫn còn được định giá thấp, TQ cũng đã có một "động thái có ý nghĩa"[5] qua việc chấm dứt buộc chặt đơn vị tiền tệ của mình vào đồng USD. Các sự kiện thực tế đã chứng minh ngược lại, nêu rõ sự bất lực của siêu cường duy nhất trong tương quan giao tiếp với Bắc Kinh đang đi lên nhanh chóng. Từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 9-2010, tỉ suất hối đoái đồng nhân dân tệ chỉ ghi nhận một gia tăng "có ý nghĩa" vỏn vẹn 1%. Điều các nhà làm chính sách ở Bạch Ốc âu lo hơn là phương cách TQ chuyển đổi sức mạnh kinh tế thành sức mạnh quân sự và ngoại giao. Sự tranh luận chung quanh vụ đánh chìm tàu tuần tiểu Nam Hàn Cheonan trong tháng 3 là một trường hợp điển hình. Tiếp theo sau phúc trình vào tháng 5 của đoàn chuyên viên Hoa Kỳ, Anh quốc, và Thụy Điển nói rõ một ngư lôi Bắc Hàn đã phá hủy tàu tuần tiểu, Hoa Kỳ và Nam Hàn đã loan báo những cuộc tập trận chung trong vùng Hoàng Hải ngoài bờ Tây bán đảo Cao ly. TQ phản kháng, đưa ra luận cứ: cuộc tập trận, được hoạch định diễn ra rất gần lãnh hải Bắc Hàn, đã đe dọa an ninh của xứ nầy. Vào cuối tháng 5, tại cuộc họp thượng đỉnh Nam Hàn-Nhật Bản-TQ, thủ tướng TQ Ôn Gia Bảo từ chối nêu đích danh Bắc Hàn như thủ phạm, và thay vào đó, đã nhấn mạnh nhu cầu giảm thiểu tình hình căng thẳng trên bán đảo Cao Ly. Hoa Thịnh Đốn tảng lờ khuyến cáo của Bắc Kinh, và cuộc tập trận chung đã diễn ra trong tháng 7. Sáu tuần lễ sau, Hoa Kỳ lại loan báo một cuộc diễn tập tương tự tại Hoàng Hải vào đầu tháng 9. Tức giận, Bắc Kinh đã đáp lại với một cuộc tập trận hải quân trong ba ngày trong cùng địa bàn. Phá vỡ mọi nghi thức thường lệ, TQ đã quảng bá rộng rãi các cuộc diễn tập trên các kênh truyền thông đại chúng. Bất ngờ, thời tiết đã can thiệp. Một trận bão nhiệt đới kéo đến gần Hoàng Hải đã buộc Ngũ Giác Đài hoãn lại các cuộc tập trận chung. Đến thời điểm đó, Bắc Kinh đã thực sự đối đầu với Hoa Thịnh Đốn, thách thức tuyên bố của Hoa Kỳ Hoàng Hải là hải tuyến thuộc hải phận quốc tế rộng mở cho tàu bè qua lại, kể cả các tàu chiến. Đây là chỉ dấu không thể lầm lẫn là hải quân TQ đang chuẩn bị mở rộng tầm với ra khỏi hải phận của mình. Thực vậy, kế hoạch rõ ràng đã sẵn sàng để nới rộng địa bàn hoạt động đến nhiều vùng trong Thái Bình Dương trước đây do Hải quân Hoa Kỳ khống chế. Bộ Tư Lệnh Hải Quân TQ nay công khai bàn thảo việc gửi các tàu chiến đến vùng Eo Biển Malacca và Vịnh Ba Tư, với mục tiêu bảo vệ các tuyến đường vận chuyển dầu lửa đến Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. CHÍNH SÁCH IRAN CỦA HOA THỊNH ĐỐN ĐANG BỊ THỬ THÁCH Như một quốc gia cung cấp dầu khí đứng thứ ba cho TQ sau Saudi Arabia và Angola, Iran luôn hiện diện rõ nét trên màn ảnh radar của Bắc Kinh. Cho đến nay, các công ty năng lượng TQ, đều do nhà nước sở hữu, đã đầu tư 40 tỉ trong địa hạt dầu khí của Cộng Hòa Hồi Giáo. Các công ty nầy cũng sẵn sàng tham dự vào việc xây cất bảy nhà máy lọc dầu ở Iran. Hồi đầu năm, khi các công ty của Liên Hiệp Âu Châu ngưng cung cấp dầu lửa cho Iran, phải nhập khẩu đến 40% nhu cầu, các công ty dầu TQ đã nhảy vào thay thế. Nhờ vậy, trong năm 2009 , với 21,2 tỉ USD thương mãi hai chiều, TQ đã qua mặt EU như đối tác thương mãi số 1 của Iran. Mậu dịch TQ-Iran được ước tính sẽ gia tăng khoảng 50% trong năm 2010. Cũng như Nga, TQ chỉ ủng hộ một gói chế tài kinh tế thứ tư của LHQ sau khi Hoa Thịnh Đốn đồng ý nghị quyết của Hội Đồng Bảo An sẽ không dự liệu những gì có thể phương hại đến nhân dân Iran. Vì vậy, nghị quyết sau đó đã không cấm đoán đầu tư hay tham gia trong kỹ nghệ dầu và hơi đốt của Iran. Điều đáng buồn đối với Mạc Tư Khoa, ngày 1-7-2010, T T Obama đã ký ban hành luật Chế Tài Phổ Thông, Trách Nhiệm, và Giải Tư năm 2010 -CISADA[6]. Luật cấm xuất khẩu các sản phẩm dầu lửa đến Iran và triệt để hạn chế đầu tư vào kỹ nghệ dầu. Luật cũng gồm một điều khoản dự liệu cho phép Tòa Bạch Ốc trừng phạt bất cứ chủ thể nào trên thế giới vi phạm, qua biện pháp hạn chế mọi giao dịch thương mãi với các ngân hàng hay chính quyền Hoa Kỳ. Hai tuần lễ sau, bộ trưởng dầu khí Nga Sergey Shmatko công khai chống đối. Shmatko loan báo Nga sẽ khai triễn và nới rộng các hình thức hợp tác hiện hữu trong khu vực dầu khí của Cộng Hòa Hồi Giáo. Ông nhấn mạnh: "Chúng tôi là láng giềng"[7], và còn tuyên bố: các công ty dầu Nga sẽ tự do bán xăng dầu cho Iran và vận chuyển dầu xuyên qua Biển Caspian cả hai quốc gia cùng chia sẻ. Điện Cẩm Linh cũng cảnh cáo, nếu Hoa Thịnh Đốn trừng phạt các công ty Nga vì các hoạt động ở Iran, Liên Bang Nga sẽ trả đũa. Đại sứ Nga bên cạnh LHQ, Vitaly Cherkin, ra tuyên bố khẳng định: Liên Bang Nga đóng cửa mọi thắt chặt hơn nữa các chế tài đối với Iran. Như đã công khai hứa hẹn nhiều lần, người Nga cuối cùng cũng đã khai trương nhà máy điện hạt nhân dân sự gần Bushehr trong tháng 8 - hợp đồng xây cất đã được ký từ năm 1994. Nhà máy đáp ứng mọi điều kiện của Cơ Quan Năng Lượng Hạt Nhân Quốc Tế - IAEA[8]. Nga sẽ cung cấp cho nhà máy các que hạt nhân và sẽ di dời các nhiên liệu phó sản có thể dùng làm vũ khí hạt nhân. Chính vì vậy, Nga và TQ đã có tên trên danh sách 22 quốc gia giao dịch đáng kể với Iran. Điều làm các nhà phân tích Mỹ ngạc nhiên là sự hiện diện của Ấn Độ trên danh sách, chứng tỏ họ chưa ý thức được một sự kiện nổi bật: "an ninh năng lượng trên hết"[9] luôn là nguyên tắc điều hướng chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia đang lên. Chẳng bao lâu sau khi luật CISADA được ban hành, Bộ trưởng Ngoại Giao Ấn Độ Nirupama Rao đã tuyên bố "chính phủ của bà rất lo ngại các biện pháp chế tài đơn phương do một số quốc gia riêng rẽ áp đặt có thể có tác động trực tiếp và bất lợi đối với các công ty Ấn Độ và, quan trọng hơn nữa, đối với an ninh năng lượng của chúng tôi"[10]. Lời tuyên bố của bà đã được khen ngợi rộng rãi trong giới báo chí Ấn, phẫn uất trước sự can thiệp của nước ngoài vào thánh địa an ninh năng lượng. Delhi đã đáp ứng CISADA bằng cách vực dậy ý tưởng xây một tuyến dẫn dầu dài 680 hải lý từ Iran đến Ấn Độ, với phí tổn 4 tỉ USD. Đáng để ý hơn cả, chính sách của Hoa Thịnh Đốn còn bị các chủ thể chính trị phụ thuộc vào thiện chí và hào phóng của chính Hoa Kỳ phá hoại. Trong các giao dịch chợ đen với tầm cỡ lớn lao , trên 1.000 xe chở dầu chứa đầy các sản phẩm dầu lửa từ Kurdistan thuộc Iraq vào Iran mỗi ngày. Về phía Kurdistan, số lợi nhuận từ mậu dịch năng lượng phi pháp đã lọt vào túi các đảng phái chính trị Kurdish liên kết chặt chẽ với Hoa Thịnh Đốn kể từ sau Cuộc Chiến vùng Vịnh I năm 1991. Một ví dụ coi thường Hoa Thịnh Đốn trắng trợn hơn chỉ vì lý do năng lượng đã đến từ Pakistan, một xứ khó thể đứng vững nếu không có đôi nạng kinh tế do Mỹ cung cấp. Trong tháng 1-2010, Hoa Thịnh Đốn đã gây sức ép với Islamabad buộc phải từ bỏ dự án xây tuyến dẫn dầu Iran-Pakistan dài 690 dặm được hoạch định từ mấy năm nay. Islamabad từ chối. Vào tháng 3-2010, đại diện Islamabad đã ký một thỏa ước với Iran. Và một tháng sau, Iran loan báo đã hoàn tất công tác xây 630 dặm tuyến dẫn dầu trên phần lãnh thổ của mình, và dầu Iran sẽ khởi sự chảy vào Pakistan trong năm 2014. UY QUYỀN SUY SỤP KHÔNG THỂ HỒI PHỤC Trong nhiều vùng trên thế giới, uy lực của Hoa Kỳ đang thay đổi, nói chung đang suy sụp. Hoa Kỳ vẫn còn là quốc gia hùng mạnh với một quân lực vô song, với trọng lượng không thể phủ nhận trên sân khấu toàn cầu. Nhưng quyền lực tuột dốc vẫn là một sự thật, và trên nhiều phương diện, không thể đảo ngược. Thế kỷ 21, dù có thế nào, chắc cũng không thể là thế kỷ của Hoa Kỳ. Những ai quen thuộc với thị trường chứng khoán đều biết giá cổ phiếu của một công ty đang trên đà suy yếu cũng sẽ không rơi tự do xuống vực thẳm. Công ty suy sụp thu hút người mua mới, phục hồi phần lớn những gì đã mất, chỉ để suy sập hơn nữa lần sau. Đó chính là trường hợp cổ phiếu của chính Hoa Kỳ trên thế giới. Đỉnh điểm như siêu cường duy nhất đã trôi qua và không có viễn tượng hồi phục hoàn toàn, chỉ một cơ may thành công mong manh trong địa hạt xung đột Do Thái-Palestine, nơi Hoa Kỳ vẫn còn là cường quốc duy nhất với quyền lực đáng kể. Gần một thập kỷ, Hoa Thịnh Đốn đã rót những tài nguyên khổng lồ, máu, sức mạnh quân sự, và vốn liếng ngoại giao, vào những cuộc chiến tai họa tự tạo ở Afghanistan và Iraq, cùng lúc đã đánh mất ảnh hưởng ở Nam Mỹ và toàn bộ Phi châu, ngay cả ở Ai Cập. Hai cuộc chiến tranh kéo dài cũng chỉ làm nổi bật những giới hạn quyền lực của các loại vũ khí quy ước, và lý thuyết quân sự áp dụng sức mạnh vũ bão đối với kẻ thù. Trong khi bộ tư lệnh ở Ngũ Giác Đài huấn luyện một thế hệ quân nhân và sĩ quan mới về chiến tranh chống khởi nghĩa, đòi hỏi những công tác dài lâu tìm hiểu văn hóa nước ngoài và học ngoại ngữ, kẻ thù của Mỹ, rất thành thạo trong việc sử dụng mạng lưới internet, đang rèn luyện những chiến thuật mới. Trước sức mạnh kinh tế ngày một lên cao của TQ, Brazil, và Ấn Độ , ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong nhiều cường quốc đang lên, sẽ tiếp tục tàn lụi. Đà tuột dốc của Hoa Kỳ trong mọi tình huống thật khó lòng đảo ngược. THẾ GIỚI HẬU CHIẾN TRANH IRAQ Âu châu đã điều chỉnh từ lâu, dù phải trải nghiệm nhiều đau đớn, với địa vị nhỏ bé hơn trên chính trường quốc tế. Sau kênh đào Suez đối với người Anh, sau Algeria đối với người Pháp, ngay cả những ảo tưởng dai dẳng nhất hậu thế chiến II rồi cũng thành mây khói. Chiếc gậy chỉ huy đã được trao qua tay người Mỹ. Các quốc gia Âu châu chỉ còn tập trung tư duy về một Liên Hiệp loại trừ chiến tranh. Hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan đối với Mỹ, không như những biến cố Suez và Algeria đối với Anh và Pháp: những điểm chuyển biến hay biến tố không thể thay đổi. Tuy nhiên, không ngã ngũ và do điều hành sai quấy, hai cuộc chiến đã đặt giới hạn mới cho quyền lực Hoa Kỳ. T T Obama đang tập trung giảm thiểu những cuồng vọng cuả người Mỹ trong "kỷ nguyên không một lễ đầu hàng được cử hành ". Obama đã định nghĩa thời đại chúng ta như thế trong bài nói chuyện chấm dứt bảy năm chiến tranh Iraq của Mỹ. Đó là bài diễn văn cốt lỏi của Obama - thông minh nhưng không gây xúc động, vững chắc, ôn hòa và trang nghiêm, tất cả trong hình ảnh một Tòa Bạch Ốc sơn phết lại với sắc màu trung tính, bình lặng và không ưa thích bất trắc. Văn phòng và bài nói chuyện được phối trí hài hòa: chúng ta có thể ngợi khen giọng điệu gọn gàng sạch sẽ nhưng nhịp tim không hề xao động. Đề tài chính không gợi cảm phải hoan hô. Ở Iraq, một thắng lợi ngắn ngủi đã nguội lạnh trong chuổi dài bất lực dẫn đến đổ vỡ với hàng trăm nghìn thường dân thương vong, một tình trạng bất định đầy biến động, bạo lực và bế tắc dân chủ. Không một vũ điệu tinh thần, ngay cả những xáo động 'cho và nhận chính trị', có thể ghi lại trong lịch sử một thắng lợi của Hoa Kỳ trong "Chiến Dịch Tự Do Cho Iraq"[11]. Một thời đại không có lễ đầu hàng chỉ là thế: một thời đại không kẻ thắng người thua rõ ràng, một thời kỳ mù mờ tranh sáng tranh tối. Obama đã mô tả tình trạng như sau: "Một trong những bài học từ nỗ lực của chúng ta ở Iraq là ảnh hưởng của người Mỹ trên thế giới không chỉ là một hàm số của chỉ lực lượng quân sự. Chúng ta phải sử dụng mọi yếu tố trong quyền lực của chúng ta - kể cả ngoại giao, sức mạnh kinh tế, và uy lực 'làm gương của Mỹ' - để bảo vệ quyền lợi của chúng ta và giúp đỡ đồng minh của chúng ta"[12]. Quyền lực, trong chủ thuyết Obama, không phải để chiến thắng hay đánh bại kẻ thù. Mục tiêu khiêm tốn hơn nhiều: chỉ để theo đuổi quyền lợi của Hoa Kỳ hay quyền lợi của các quốc gia bạn. Obama là người thực tế trong hình ảnh một chính khách thế kỷ 19 của Anh Quốc, Lord Palmerston, người đã từng nói: Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn và chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn. Quyền lợi của chúng ta là vĩnh viễn và trường tồn , và những quyền lợi đó chúng ta có bổn phận phải theo đuổi"[13]. Theo Jonathan Eyal, một nhà phân tích chính sách người Anh, điều kiềm chế Obama là lòng tin Hoa Kỳ "vẫn còn là cường quốc lớn nhất nhưng không phải là cường quốc quyết định. Và người Mỹ sẽ chỉ chấp nhận điều đó với thời gian và nhiều nhồi xóc qua các giảm sốc"[14]. Đây không phải là loại tự truyện anh hùng của Mỹ, những thành phố tỏa sáng trên đỉnh đồi, hay hải đăng hướng dẫn nhân loại. Một cách tế nhị nhưng kiên trì, Obama muốn tiết giảm cường độ chủ thuyết Biệt lệ Hoa Kỳ và thay vào đó quyền lợi hổ tương và tương kính, hai cụm từ ưa chuộng. Obama cũng tìm cách giảm thiểu tham vọng của Hoa Kỳ - lối ra khả dĩ khỏi Afghanistan đang được chuẩn bị theo chiều hướng không thắng không bại kiểu Iraq - với mục đích tái xây dựng Hoa Kỳ. Đây chính là chỗ đảng Cộng Hòa sẽ tấn công Obama từ nay cho đến 2012. Đảng viên Cộng Hòa sẵn sàng gọi Obama một lãnh tụ nước đôi hay thiếu lập trường rõ rệt. Họ sẽ rêu rao Obama luôn thỏa hiệp với các thành phần quá khích Hồi Giáo thay vì đánh bại những thành phần nầy như nước Mỹ đã từng đánh bại Quốc Xã hay Cộng Sản. Họ lên án Obama đang bán đứng uy quyền Hoa Kỳ. Họ quảng bá Obama như một lãnh tụ chủ hòa thiếu lòng ái quốc. Họ sẽ gọi ông một người truyền giáo thuyết giảng chủ nghĩa xã hội thế quyền, muốn lèo lái Hoa Kỳ vào tình trạng xơ cứng của Âu châu. Trong thực tế, họ đã bắt đầu. Chỉ cần lắng nghe những ứng cử viên Cộng Hòa tiềm năng như Newt Gingrich, ám ảnh bởi Hồi Giáo và luôn thấy luật Hồi Giáo Shariah đang ngoi đầu lên ở New Jersey, hay Mitt Romney luôn rêu rao Obama đang bán đứng cho gấu già Liên Bang Nga, hay Sarah Palin hay ngay cả Tim Pawlenty vô danh miền Trung Tây luôn than phiền những tín hiệu nhu nhược lập lờ. Cuộc bầu cử Tổng Thống 2012 sắp tới sẽ không được quyết định trên những chủ đề vừa nói. Vấn đề cốt lõi sẽ là kinh tế Hoa Kỳ có thể hồi phục đủ nhanh và bền vững. Nhưng Obama cũng dễ bị tổn thương vì lập trường thiếu vững chắc - một hình ảnh ăn sâu vào đầu óc người Âu từ quyết định leo thang ở Afghanistan. Ông cũng dễ bị tấn công vì luận điệu ông đã từ bỏ tự truyện anh hùng gắn liền với ý thức của người Mỹ về chính nước Mỹ. Đã hẳn, lô-gic đứng về phía Obama. Như Obama đã ghi nhận, hơn 1.000 tỉ USD đã phung phí từ sự kiện 11-9. Đó là lý do kinh tế Mỹ, nợ nần quá nhiều, đã mất quân bình đến độ phải cần nhiều năm để khống chế. Cắt xén, tái củng cố và tái cơ cấu là những điều kiện tiên quyết để tự vực dậy - những việc Hoa Kỳ vẫn còn có đủ khả năng thành đạt. Nhưng lô-gic không giúp thắng cử. Sự thắng cử vẻ vang của Obama năm 2008 là bằng chứng rõ ràng nhất. Nhưng tình hình đã đổi khác. Hoa Kỳ hiện nay không giống Anh quốc ngày trước trong giai đoạn chuyển tiếp từ đế quốc thực dân đến liên hiệp các xứ độc lập Commonwealth. Nhưng những khó khăn của Mỹ đang đặt Obama trong tình trạng tương tự phải cắt xén, giảm thiểu và bắc cầu. Vấn nạn chính trị của Obama có thể tóm tắt: làm cách nào để lấy lại tự tin và lạc quan trong khi lôi kéo Hoa Kỳ ra khỏi hai cuộc chiến ngông cuồng tốn kém, thay vì nhảy vào một cuộc chiến mới và tai họa, chẳng hạn ở Iran. MỘT HOA KỲ SUY NHƯỢC TRƯỚC VẬN HỘI MỚI Ở Á CHÂU Các chính sách bành trướng quân lực và mậu dịch khẳng định của TQ đang gieo rắc âu lo kinh sợ khắp Á châu, thúc đẩy các xứ láng giềng phải nhen nhúm lại các liên minh cũ và vun quén các đồng minh mới khả dĩ bảo vệ quyền lợi của chính mình hữu hiệu hơn - trước một siêu cường đang lên. Những vận động ngoại giao và mậu dịch cuồng nhiệt , từ Tokyo đến New Delhi, đã đem lại cho Hoa Kỳ cơ hội tái khẳng định sự hiện diện khó tránh bị lu mờ bởi một TQ lên nhanh trong khu vực. Cuộc công du của Obama trong tuần nầy, rộng lớn và quan trọng nhất kể từ ngày nhận chức, đến những quốc gia dân chủ lớn mạnh, Ấn Độ, Indonesia, Nam Hàn và Nhật Bản, trong vòng rìa TQ. Các xứ nầy và một số quốc gia láng giềng khác đã có nhiều động thái, với trình độ bộc trực ít nhiều khác nhau, để kiềm chế các hoạt động khẳng định của TQ trong khu vực. Các nhà quan sát chờ đợi T T Obama và Thủ Tướng Ấn Manmohan Singh sẵn sàng ký kết thỏa ước mua bán các phi cơ vận tải quân sự Mỹ và ngay cả các chiến đấu cơ phản lực , những động thái có thể nâng quan hệ đối tác quốc phòng giữa Ngũ Giác Đài và Ấn độ lên một bậc cao mới. Nhật và Ấn cũng đang ve vãn các quốc gia Đông Nam Á về các thương ước và thảo luận về một "vòng đai dân chủ"[15]. Việt Nam cũng đang khai triển một quan hệ ngày một ấm dần với cựu thù Hoa Kỳ, phần lớn vì đồng minh cũ TQ đang đòi hỏi chủ quyền nhiều hải đảo ở Biển Đông hay Nam Hải theo TQ. Các thỏa ước và liên minh không hẳn hoàn toàn để ngăn bờ TQ, nhưng cũng đã gợi ý một chuyển dịch cụ thể trong bối cảnh ngoại giao, đã phơi bày sống động khi lãnh đạo 18 quốc gia gặp nhau hồi cuối tuần ở Trung tâm Hội nghị Hà Nội với mái lượn sóng tân thời, không mấy xa lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong một hội nghị trong không khí tràn ngập căng thẳng giữa TQ và các xứ láng giềng. Xung đột Nhật-Trung, đang leo thang về một nhóm hải đảo đang tranh chấp khác trong vùng biển phía Đông TQ, đã chiếm các tít lớn vào ngày thứ bảy vừa qua. Và ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton đã đề nghị các cuộc thương thảo tay ba để giải quyết. Hầu hết các quốc gia Á châu, ngay cả khi tin chắc TQ sẽ thay thế Hoa Kỳ trong vai trò cường quốc hàng đầu trong khu vực, đã ngày một âu lo trước sự chuyển dịch quyền lực nhanh chóng và lối hành xử vẫn còn là một ẩn số của siêu cường TQ. Các đối tác thương mãi của TQ đã lớn tiếng phàn nàn TQ đang can thiệp quá hung hăng và khẳng định với lập trường duy trì tỉ suất hối đoái ở mức thấp. Quyết định - hạn chế xuất khẩu các khoáng sản đất quí hiếm thiết yếu đến Nhật rồi đến Hoa Kỳ và các nước Âu châu - đã cho thấy viễn tượng TQ có thể sử dụng vị trí áp đảo của mình trong một số kỹ nghệ then chốt như một loại vũ khí chính trị và ngoại giao. Và sự bành trướng hải quân nhanh chóng, cùng với lập trường lớn tiếng bảo vệ các đòi hỏi chủ quyền trong các vùng lãnh thổ đang tranh chấp xa biên giới TQ, đã thuyết phục Nhật Bản, Nam Hàn, Việt Nam, và Singapore tái xác nhận nhiệt tình đối với dù an ninh che chở của người Mỹ. Ngoại trưởng Clinton đã tuyên bố khi đến Hawaii, mở đầu chuyến công du bảy nước Á châu kể cả trạm dừng chân chỉ lên lịch phút chót ở TQ, "Điều các lãnh đạo Á châu đã thường nói với tôi nhất trong các chuyến công du trong 20 tháng vừa qua: Cám ơn quý vị, chúng tôi rất vui mừng khi Hoa Kỳ một lần nữa đang giữ một vai trò tích cực ở Á châu"[16]. Rất ít láng giềng của TQ đã nói lên những quan ngại của họ đối với TQ một cách công khai, nhưng các nhà phân tích và ngoại giao cho biết, trong giao tiếp riêng tư, họ đã bày tỏ quan ngại trước tốc độ bành trướng quân sự và tính khẳng định chát tai trong chính sách mậu dịch của TQ. Kenneth G. Lieberthal, nguyên cố vấn về các vấn đề TQ bên cạnh T T Clinton và hiện công tác ở Brookings Institution, cũng đã phát biểu, "Hầu hết các quốc gia nầy đã nói với chúng tôi, 'Chúng tôi thật sự rất quan ngại TQ' "[17]. Chính quyền Obama đã nhanh chóng lợi dụng các bước sai lầm của TQ. Các quan chức Hoa Thịnh Đốn trước đây thường nói tới TQ như cường quốc kinh tế khổng lồ Á châu, giờ đây họ đã nói đến Ấn Độ và TQ như cặp khổng lồ song sinh. Và họ nói rõ xứ nào họ tin đồng cảm với Hoa Kỳ nhiều hơn. "Ấn Độ và Hoa Kỳ chưa bao giờ thiết yếu cho nhau hơn", bà Clinton phát biểu. "Như hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, chúng tôi đoàn kết nhất trí vì quyền lợi và hệ giá trị chung"[18]. Trong khi Obama viếng thăm Ấn Độ trong chặng dừng đầu trong chuyến công du đến các quốc gia dân chủ Á châu, thủ tướng Ấn Manmahan Singh cũng vừa trở về sau chuyến công du lớn của mình - cả hai, ít nhiều rõ ràng hay ít ra cũng tình cờ, đã đi vòng quanh TQ. Những chi tiết đó hình như không có vẻ đưa đến một thế quân bình kiểu chiến tranh lạnh. TQ đã hội nhập đầy đủ vào kinh tế toàn cầu, và tất cả các nước láng giềng rất hăm hỡ kết thân với TQ. Ngoài cuộc chiến dạy Việt Nam một bài học cách đây ba thập kỷ, TQ đã không gây chiến với ai sau đó, và luôn nhấn mạnh không có ý định dùng vũ lực để biểu dương quyền lực. Cùng lúc, nỗi âu lo - TQ đã ngày một giàu mạnh và khẳng định hơn - tự nó, cũng đang đem lại nhiều hệ quả thực sự. Ấn Độ đang tự tiến cử như một đối trọng của TQ trong khu vực; Nhật đang giải quyết tranh chấp với Hoa Kỳ về căn cứ không lực của thủy quân lục chiến; Việt Nam đang thương thảo một hiệp ước về kỹ thuật hạt nhân dân sự với Hoa Kỳ; và người Mỹ, trước đây đã bỏ quên Á châu vì quá bận rộn với hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan, đang thấy một cơ hội để hiên ngang trở lại. Một ví dụ, trong tháng 7, ngoại trưởng Clinton đã trấn an Việt Nam và Phi Luật Tân khi loan báo Hoa Kỳ rất muốn giúp giải quyết các tranh chấp giữa TQ và các quốc gia láng giềng về một chuổi các hải đảo có tầm quan trọng chiến lược ở Biển Đông. Bộ trưởng ngoại giao TQ, Yang Jiechi, đã phản ứng giận dữ, lên án Mỹ đang có âm mưu chống lại TQ. Yang còn nhìn thẳng vào mặt bộ trưởng ngoại giao của Singapore nhỏ bé và nhấn mạnh: TQ là một nước lớn. Không do dự, ngoại trưởng Clinton, thứ bảy tuần rồi từ Hà Nội, không những đã lặp lại cam kết của Hoa Kỳ đối với tranh chấp ở Biển Đông, mà còn mở rộng cam kết để bao gồm cả tranh chấp Nhật-Trung. Tuy nhiên, trong hiện tình đối nội-đối ngoại của Hoa Kỳ, cam kết cũng có thể chỉ là cam kết. Đó là điều không nên quên. Sự trỗi dậy của TQ như một cường quốc chuyên chế cũng đã làm sống lại ý thức: các quốc gia dân chủ cần phải thực sự đoàn kết . K. Subrahmanyam, một nhà phân tích chiến lược uy tín ở Ấn Độ, đã ghi nhận: một nửa dân số thế giới hiện sống trong các quốc gia dân chủ; và trong số sáu cường quốc lớn nhất trên thế giới, chỉ có TQ là chưa hay không chấp nhận dân chủ. Ông nói thêm, "Vấn đề ngày nay là một TQ không dân chủ và đang thách thức giữ địa vị số 1 thế giới"[19]. Thực vậy, phương thức ứng xử thích hợp với một TQ đang lên nhanh luôn là ưu tư ám ảnh các lãnh đạo Á châu. Ở Nhật, Thủ Tướng Naoto Kan và Thủ Tướng Ấn Singh đã thảo luận các vấn đề kinh tế tăng trưởng nhanh, bành trướng quân sự, và khẳng định gia tăng lãnh thổ của TQ. Bộ trưởng ngoại giao Ấn, Nirupama Rao, đã tuyên bố với các phóng viên báo chí, "Thủ Tướng Kan rất quan tâm tìm hiểu cách ứng xử của Ấn Độ đối với TQ. Thủ Tướng của chúng tôi đã nói cần phải khai triển lòng tin ở nhau, giao tiếp chặt chẽ, và rất nhiều kiên nhẫn"[20]. Nam Hàn đã rất bức xúc hồi đầu năm khi TQ chận đứng một nghị quyết minh thị lên án Bắc Hàn đã đánh đắm tàu tuần tiểu Nam Hàn, chiếc Cheonan. Nam Hàn tố cáo Bắc Hàn là thủ phạm, nhưng TQ, một đồng minh lịch sử của Bắc Hàn, đã không muốn buộc Bắc Hàn phải chịu trách nhiệm. Ấn Độ đang theo dõi với đầy âu lo TQ đã bắt đầu xây các hải cảng ở Sri Lanka và Pakistan, nối dài đường hỏa xa đến biên giới Nepal, và tìm cách bành trướng sự hiện diện ở Nam Á. Bộ Quốc Phòng Ấn đã tìm kiếm những quan hệ quân sự với nhiều quốc gia Á châu trong khi liên tục mở rộng quan hệ và tạo mãi vũ khí từ Hoa Kỳ. Theo các quan chức Mỹ, Hoa Kỳ đã tổ chức nhiều cuộc diễn tập chung trong những năm gần đây với Ấn Độ, nhiều hơn bất cứ với quốc gia nào khác. Chuyến công du vừa qua của thủ tướng Singh là một phần trong "chính sách Nhìn Phía Đông - Look East policy", nhằm mở rộng mậu dịch với phần còn lại của Á châu. Thủ tướng nói, điều nầy không liên hệ gì đến bất cứ xung đột nào với TQ, nhưng TQ vẫn quan ngại. Thứ năm tuần trước, Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản TQ, trong bài xã luận, đã đặt câu hỏi: "Chính Sách 'Nhìn Phía Đông' có nghĩa 'Nhìn Nhằm Bao Vây Trung Quốc?' "[21]. Cách nhìn cảnh giác đó rất có thể chính là phản ứng của TQ đối với toàn bộ các động thái trong các xứ láng giềng. Theo Charles Freeman, một chuyên gia chính trị và kinh tế TQ, tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Thế Giới[22], "Người TQ nhận thức cuộc họp ở Hà Nội như một tấn công tập thể đối với họ. Rõ ràng họ đã tính toán sai lầm về chỗ đứng của họ trong khu vực"[23]. GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 07-11-2010 [1] Make poverty history! [2] The U.S. economy is in a slog out of a very deep hole. [3] Deficit financing. [4] The socialist system's advantages enable us to make decisions efficiently, organize effectively, and concentrate resources to accomplish large undertakings. [5] ...a significant move... [6] CISADA: Comprehensive Sanctions, Accountability, and Divestment Act . [7] We are neighbors. [8] IAEA: International Atomic Energy Agency. [9] Energy trumps all. [10] Her [India's Foreign Secretary Nirupama Rao] was worried unilateral sanctions recently imposed by individual countries [could] have a direct and adverse impact on Indian companies and, more importantly, on our energy security. [11] Operation Iraqi Freedom. [12] One of the lessons of our effort in Iraq is that American influence around the world is not a function of military force alone. We must use all elements of our power - including our diplomacy, our economic strength, and the power of American's example - to secure our interests and stand by our allies. [13] We have no eternal allies and we have no eternal enemies. Our interests are eternal and perpetual, and those interests it is our duty to follow. [14] The United States 'is still the biggest power but not the decisive power. And Americans will only accept that with time and with bumping against buffers. [15] A circle of democracy. [16] The most common thing that Asian leaders have said to me in my travels over the last 20 monhsis, 'Thank you,we're so glad that pou're playing an active rol in Asia again'. [17] Most of these countries have come to us and said,'We're really worried about China'. [18] Hillary R. Clinton: "India and the United States have never mattered more to each other. As the world's two largest democracies , we are united by common interests and common values". [19] Today the oroblem is a rising China that is not democratic and is challenging for No. 1 position in the world. [20] Prime Minister Kan was keen to understand how India engages China. Our prime minister said it requires developing trust, close engagement and a lot of patience. [21] Does India's 'Look East' Mean ''Look to Circle China? 22 Center for Strategic and Internatioal Studies. 23 The Chinese perceived the Hanoi meeting as a gang attack on them. There's no question that they have miscalculated their own standing in the region.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 7:43:16 GMT 9
Vấn đề vàng – đô la : phải chăng là dấu hiệu khủng hoảng tài chính đang tới? Vietsciences- Vũ Quang Việt Tình hình kinh tế Việt Nam đang có nhiều triệu chứng nguy cơ mở màn cho khủng hoảng tài chính nếu không được điều hành đúng đắn trong thời gian tới. Những phân tích dưới đây hy vọng chỉ mang tính cảnh báo. Vàng không nên là phương tiện thanh toán Vàng là gì ? Đúng là vàng chỉ là quý kim, dùng làm vật trang sức. Nhưng có lúc, vàng trở thành phương tiện thanh toán khi dân chúng mất tin tưởng vào đồng tiền nội địa. Việc biến, hoặc gắn vàng vào giá trị đồng tiền (chế độ kim bản vị ngày xưa) tưởng là giải pháp nhưng thật ra là không vì không nền kinh tế nào có thể kiểm soát được lượng cung vàng ; nó tuỳ thuộc vào lượng vàng sản xuất và đặc biệt là đầu cơ, không liên quan gì đến mức phát triển kinh tế và nhu cầu thanh toán. Nó lại biến nhà nước bất cứ nơi đâu thành nạn nhân tế thần của các lực ngoại biên, và triệt tiêu khả năng làm chủ chính sách tiền tệ của nhà nước. Vàng trở về đúng vị trí quý kim của nó từ thời Tổng thống Mỹ Nixon, khi ông ta quyết định xóa bỏ việc bảo đảm giá trị đồng đô-la Mỹ bằng vàng. Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trở về đúng vị trí của nó là chính sách mà nhà nước (qua ngân hàng trung ương và chi tiêu ngân sách) có thể dùng để quản lý nền kinh tế, mà không bị trói buộc bởi những yếu tố nằm ngoài nó. Trong quá khứ, lạm phát đã từng xảy ra chỉ vì đào được nhiều vàng, hoặc có khi ngược lại sự phát triển kinh tế bị hạn chế lại vì thiếu thanh khoản do không thể tăng được lượng vàng lên. Ngày nay, tăng cung hay hạn chế cung tiền có thể nằm trong tay nhà nước. Thí dụ các nhà kinh tế hiện đại đều biết rằng cung tiền thái quá sẽ tạo ra lạm phát nhưng nhà chính trị thì có thể lại quá nôn nóng hoặc chủ quan muốn thực hiện điều gì đó mà cố tình quên đi nguyên lý này. Do đó mà lạm phát hay ổn định tiền tệ là kết quả của chính chính sách kinh tế mà nhà cầm quyền đưa ra, và do đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng. Giá vàng tăng trên thị trường thế giới Giá vàng tăng trên thị trường thế giới vì nền kinh tế thế giới bất ổn. Sự bất ổn này là do chính sách sai lầm của hai cường quốc Mỹ và Anh, mở cửa tự do cho tư bản tài chính, cho phép phát hành các công cụ tài chính phát sinh, mà không có thế chấp, nhằm đầu cơ vào thị trường chứng khoán và thị trường nhà đất, đẩy giá lên tưởng như không có chỗ dừng. Nhưng rồi bong bóng ảo tưởng vỡ vì giá cả vượt ngoài khả năng chi trả của người lao động. Giá xuống đã đẩy hàng loạt các nhà đầu cơ phá sản, trong đó phần lớn là những người đầu tư cá nhân nhỏ lẻ, chạy theo kiểu bầy đàn. Để cứu nguy, các nền kinh tế phải bội chi ngân sách, phát hành thêm tín dụng để chặn đứng khủng hoảng. Giới đầu cơ trục lợi, rồi cả những người bình thường, cho rằng như thế lạm phát toàn thế giới sẽ tăng và cổ động mua vàng. Giá vàng đã tăng vùn vụt. Tình hình hiện nay ở Mỹ, cũng không khác gì tình hình đã từng xảy ra ở Nhật, là doanh nghiệp chưa dám đầu tư vì phải cố gắng giảm tỷ lệ nợ quá lớn do trước đây đã chạy theo bong bóng. Ở Mỹ hiện nay, mặc dù lãi suất rất thấp, thanh khoản tràn đầy nhưng ít ai dùng nên khả năng lạm phát ở Mỹ trong thời gian tới là rất thấp, hay có thể nói không có. Thời gian này có thể kéo dài tới 5-6 năm. Ở đây, với tốc độ tăng việc làm khoảng 150 000 người một tháng thì cũng cần 6 năm để giải quyết việc 15 triệu người thất nghiệp, đưa tỷ lệ thất nghiệp từ 10 % xuống 3 %. Giá vàng lên chỉ vì người ta nghĩ rằng lạm phát sẽ tăng mạnh. Nhưng nếu lạm phát không xảy ra thì giá đầu cơ hiện nay sẽ xuống. Khó có thể đoán là trong thời gian tới khi nào giá vàng sẽ xuống nhưng nó sẽ xuống, giống như sự lao dốc của giá nhà đất và chứng khoán ở Mỹ. Tấn công và tháo chạy của tư bản nước ngoài Các quốc gia châu Á đã học được bài học năm 1997. Đó là cần làm chủ phương tiện thanh toán của mình. Tài chính nước ngoài ồ ạt chảy vào các nước châu Á, đầu cơ vào thị trường địa ốc và chứng khoán, giá lên đến mức tưởng như châu Á mãi mãi là trung tâm thịnh vượng của thế giới. Chi tiêu ồ ạt. Cán cân thanh toán thiếu hụt. Chính sách của hầu hết mọi nước ở đây là chính quyền quyết định tỷ giá đồng bạc. Tình huống trên đã cho phép giới đầu cơ tài chính mở cuộc tấn công vào nội tệ ; họ bán nội tệ, mua ngoại tệ, tạo ra một cuộc tháo chạy của giới tài chính đầu cơ. Giá nhà, giá chứng khoán xuống. Ngoại tệ tháo chạy đưa đến việc chính quyền các nước này phải huỷ bỏ tỷ giá cứng. Chính sách tự do dòng chảy tư bản mà IMF cổ võ, kể cả ép buộc các nước thành viên thực hiện, đã hoàn toàn thất bại. Suharto ở Indonesia sụp đổ. Chỉ có Malaysia, chống lại IMF, ra lệnh cấm rồi hạn chế cuộc bán tống tháo chạy trên mà nền kinh tế đỡ bị ảnh hưởng nhất. Mở cửa hoàn toàn cho dòng chảy tư bản chính là tự làm mất quyền và khả năng kiểm soát lượng cung tiền qua chính sách tiền tệ của mình. Để vàng và đô la Mỹ trở thành phương tiện thanh toán cũng là tự hy sinh quyền kiểm soát chính sách tiền tệ. Việt Nam : vẫn tiếp tục cuộc chạy đua đạt tốc độ bất kể chất lượng và ổn định Năm 2007 mở đầu cho sự kiện Việt Nam vào WTO với dòng tư bản ồ ạt chảy vào. Chứng khoán và giá nhà lên tận mây. Ai nấy đều kỳ vọng mức phát triển cao với tốc độ 9-10 %. Vinashin và hàng loạt các dự án tiền tỷ khác được đặt lên bệ phóng, quên mất tác dụng của chúng mang đến cho ngân sách và tiền tệ. Vay mượn tăng, dòng chảy tư bản nước ngoài đổ vào, tín dụng tăng, chi tiêu nhà nước tăng. Lạm phát nhanh chóng tăng, đạt mức 28 % vào năm 2008. Thiếu hụt cán cân thanh toán tăng. Và sau đó ngòi nổ xẹp vì kinh tế thế giới khủng hoảng. May là có khủng hoảng, cắt đứt dòng chảy tư bản vào Việt Nam nếu không tác hại của dòng vốn này còn cao hơn nữa. Vấn đề là Việt Nam vẫn đặt các chỉ tiêu tăng trưởng cao, tiếp tục chi tiêu quá mức, lần này là với lý do nhằm làm giảm ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế thế giới. Tất nhiên bội chi ngân sách tăng rất cao. Theo kế hoạch năm 2010, thiếu hụt ngân sách được quyết định là 6,2 % GDP, nhưng theo IMF, có thể lên tới 9 % nếu tính cả chi tiêu ngoài ngân sách. Nợ công tăng nhanh, năm 2009 tăng 9 % và năm 2010 tăng 12 % năm, do đó tỷ lệ nợ công trên GDP đã nhanh chóng vượt quá 50 % GDP, có lẽ là 57 %. Nhập siêu vẫn tiếp tục lớn, năm 2009 là 12,2 tỷ đô-la, năm 2010 dự báo cũng sẽ tương tự, ít nhất là trên 12 tỷ đô-la. Nợ nước ngoài vì vậy tăng nhanh, hiện nay là khoảng 28 tỷ đô-la, bằng khoảng 40 % GDP. Tình hình như thế nhưng không giống như bất cứ nước nào trên thế giới là có lạm phát rất thấp, Việt Nam lại vẫn lạm phát cao ; vào năm 2010 sẽ ở mức gần đạt hai con số. Khó có thể chấp nhận mức lạm phát như thế vì trong năm năm qua, kể từ năm 2006, lạm phát đã làm giảm sức mua gần 57 % và như thế khiến đời sống người lao động ngày càng khó khăn thêm. Hiện nay lạm phát lại đang trong đà tăng tốc ; đây là những dấu hiệu đáng cảnh báo nhất. Tất cả chỉ là vì các nhà làm chính sách ở cả trung ương và địa phương vẫn chạy đua nhằm đạt tốc độ tăng GDP cao, thậm chí tất cả mọi tỉnh đều báo cáo đạt mức tăng trên dưới 10 % GDP, trong khi cả nước chỉ tăng 6 %. Vì đặt chỉ tiêu tốc độ tăng GDP cao, bất chấp thực tế và các hệ luỵ của nó, mà chúng ta đã thấy tỷ lệ đầu tư tăng nhanh từ 33 % GDP năm 2006 lên 42 % GDP hiện nay và ngay năm 2011 sắp tới, chỉ tiêu vẫn ở mức 42 % và tốc độ phát triển là 7-8 %. Tỷ lệ đầu tư ở Việt Nam hiện nay là cao nhất thế giới. Mà càng đầu tư cao, càng cần vốn, cần tín dụng, và vì không thể tăng năng suất do đó mà lạm phát. Đầu tư cao, đặc biệt tập trung ở các doanh nghiệp và tập đoàn nhà nước, là tăng cường cho cơ hội tham nhũng cho các nhóm lợi ích, chính vì thế mà từ trung ương đến địa phương nơi nào cũng muốn có đầu tư cao. Đầu tư ở Việt Nam rất khác Trung Quốc. Họ nhập công nghệ mới, để tự tạo ra máy móc, sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu có sức cạnh tranh với nước ngoài. Ngược lại, Việt Nam là nhập máy móc, nhập nguyên liệu, làm gia công để bán tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ tiền. Có lẽ các nhà làm chính sách hài lòng vì có tốc độ tăng GDP coi được. Nhưng đây là kinh tế ảo, vì về mặt thống kê học, khi có đầu tư thì giá trị đầu tư làm tăng GDP vì nó được tính trực tiếp vào GDP. Mặt trái của đầu tư cao, như trường hợp Vinashin, là tăng nhập siêu và nếu không bán được hàng thì phá sản, đưa đến công nợ không trả được. Nhu cầu ngoại tệ đang tăng cao để nhập máy móc, nhập nguyên liệu và trả nợ nước ngoài. Dự trữ ngoại tệ trước đây là trên 25 tỷ đô-la, mới đây theo IMF chỉ còn 15 tỷ đô-la. Rất tiếc là không có thông tin về dự trữ ngoại tệ hiện nay, nhưng có lẽ còn xuống thấp hơn nữa. Tình hình hiện nay : vấn đề vàng và đô la Mỹ Có thể nói một nền kinh tế bình thường là nền kinh tế ở đó nhà nước có thể kiểm soát được phương tiện thanh toán. Khi phương tiện thanh toán vượt ngoài tầm hoạt động của mình thì rõ ràng là có vấn đề. Để làm chủ được nền kinh tế, tất cả mọi nước đều cố gắng làm chủ được phương tiện thanh toán, qua đó điều hành chính sách tiền tệ. Tất nhiên điều hành sai hay đúng là chuyện khác nhưng phải đặt nó trong tầm tay của mình. Ngày trước, đã có lúc người Việt chỉ có tin vàng và đô la Mỹ. Sau cải cách từ năm 1989, giá trị của đồng tiền Việt đã trở lại. Từ năm 2008, giá trị đồng tiền Việt giảm đều, vàng và đô la lại trở thành phương tiện thanh toán trong nước, tước bỏ đi một phần quan trọng khả năng điều hành kinh tế của nhà nước. Tất nhiên, lý do cơ bản là lạm phát, mà lạm phát là kết quả của chính sách chạy theo tốc độ GDP, bỏ tiền cho doanh nghiệp quốc doanh đầu tư vô tội vạ. Để ổn định tình hình nhà nước cần điều chỉnh chính sách phát triển chạy theo chỉ tiêu số lượng như hiện nay, tức là phải giảm mức đầu tư, và như vậy phải tăng lãi suất nhằm thu hút tiền vào ngân hàng, và đồng thời tăng giá tín dụng mà nhà đầu tư phải trả. Về mặt tiền tệ, dù là trong ngắn hạn, mọi biện pháp cần thiết là triệt tiêu việc biến vàng và đô la thành phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, chứ không phải cổ võ việc dùng chúng là tiền. Nhưng các nhà chính sách Việt Nam đang làm ngược lại. Ngân hàng Nhà nước giữ giá đồng đô la, làm lợi cho những người có thể vay dễ dàng (như các tập đoàn) và tạo thêm nhu cầu giả tạo, không phải nhằm đầu tư mà nhằm đầu cơ. Thiên hạ, những người không thể tiếp cận đô la, phải đổ xô mua vàng. Ngân hàng Nhà nước lại cho phép nhập vàng để giảm giá vàng. Mà ổn định giá vàng đâu có phải là nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước. Tất nhiên là tuyên bố như thế thì hy vọng sẽ tạo ra tâm lý giảm giá vàng. Nhưng nếu nhập thì sẽ mất nguồn ngoại tệ, tạo thêm áp lực tăng giá trị của nó. Rồi lại có những “ kinh tế gia ” đề nghị tạo ra tài khoản tiết kiệm vàng và trả lãi cho nó. Đây là hành động của thời bao cấp trước đây. Chứ hiện nay là phải làm sao có biện pháp xóa bỏ vàng như một phương tiện thanh toán. Và để làm điều này dễ nhất là đánh thuế nhập hay xuất vàng. Giống như đánh thuế các cuộc tháo chạy tư bản nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chúng đối với nền kinh tế mà nhiều nước đã làm. Quan trọng hơn, cần thay đổi cách suy nghĩ theo hướng chạy đua đạt tốc độ GDP, từ đó đầu tư cao mà thiếu hiệu quả, bội chi ngân sách, đẩy mạnh cung tiền để tài trợ bội chi, đưa đến lạm phát và sự mất giá của đồng bạc. Mọi tiêu cực đang phát triển hiện nay là do cách tư duy này và các chính sách hiện nay. Thông tin mới nhất từ báo chí là quyết định bù lỗ xăng dầu để chống tăng giá. Kinh nghiệm cho thấy chính sách này sẽ không thành công vì lạm phát đâu có thể bù lỗ để giảm. Nguyên nhân của chúng nằm trong chính sách tài khoá và tiền tệ dễ dàng để đẩy mạnh đầu tư các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước. Chính sách đang đi về đâu đây ? Phải chăng đang chờ đón một cuộc khủng hoảng toàn diện, bắt đầu từ khủng hoảng thiếu ngoại tệ ? Vũ Quang Việt
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 4:14:44 GMT 9
Trung quốc, Hoa kỳ và kinh tế thế giới
Vietsciences-Nguyễn Trường QUAN HỆ KINH TẾ ĐAN XEN Một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng căng thẳng trong các quan hệ quốc tế gần đây, đặc biệt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc (TQ) là hối suất đồng nhân dân tệ (renminbi - RMB). Được duy trì ở một mức thấp và cố định đối với đồng USD, hối suất đồng RMB đã gây trở ngại không ít cho quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Lãnh đạo một số quốc gia trên thế giới đã lên tiếng chỉ trích TQ nhào nặn hối suất đồng RMB. Từ năm 2003, TQ luôn bán đồng RMB và mua các ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD, với mục đích hạ thấp giá trị đồng RMB nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Vào thời điểm đó, TQ đã gặt hái được 10 tỉ USD thặng dư mỗi tháng, và cân thương mãi hữu hình đã tích lũy một số thặng dư 46 tỉ. Ngày nay, số thặng dư hàng tháng đã lên đến 30 tỉ và tổng số ngoại tệ dự trữ cũng đã trên dưới 2,400 tỉ USD. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), chương mục vãng lai của TQ sẽ thặng dư trên 450 tỉ riêng trong năm 2010 - gấp 10 lần con số năm 2003. Đây là chính sách hối suất bất cân xứng nhất một siêu cường đã và đang theo đuổi. Đã hẳn, chính sách kinh tế vừa nói của TQ đã gây tai hại nghiêm trọng cho phần còn lại của thế giới. Hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới hiện đang kẹt trong tình trạng thiếu thanh khoản và suy thoái trầm trọng, nhưng không thể hồi phục qua biện pháp cắt giảm lãi suất vì lãi suất hiện cũng đã xuống gần số không. Qua việc theo đuổi một chính sách ngoại thương nhằm thành đạt một ngạch số thặng dư không mấy chính đáng, TQ, trong thực tế, đã áp đặt một phương cách chống kích cầu lên phần còn lại của thế giới, một lỗ hổng lãnh đạo các đại cường khó thể bù đắp. Trước thực trạng nầy, cấp lãnh đạo nhiều nước đang chờ phản ứng của Mỹ. Theo luật, Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ phải phúc trình hai lần mỗi năm nêu danh tính những nước "đã nhào nặn hối suất đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD với mục đích ngăn trở các điều chỉnh hữu hiệu trong cân chi phí hay giành lợi thế để cạnh tranh bất chính trong mậu dịch quốc tế"[1]. Chủ đích của đạo luật rất rõ ràng: phúc trình là một văn kiện xác định tình hình thực tế, không phải chỉ là một xác định chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, Bộ Ngân Khố vừa không muốn có hành động cụ thể đối với đồng RMB cũng như không muốn làm những gì luật pháp đòi hỏi: giải thích trước Quốc Hội lý do tại sao không hành đông. Thay vào đó, Bộ Ngân Khố, trong 6, 7 năm qua, đã giữ thái độ làm ngơ như chẳng thấy gì. Lý do không nói ra: Bộ Ngân Khố muốn tránh phản ứng của TQ, nói một cách khác, không dám khiêu khích, e ngại TQ có thể sẽ tung ra thị trường phần lớn khối lượng tích sản USD dự trữ. Câu hỏi cần được đặt ra: Điều gì sẽ xẩy đến nếu TQ tung ra bán phần lớn tích sản USD của họ? Lãi suất sẽ tăng vọt? Chắc là không. Lãi suất ngắn hạn của Mỹ sẽ không thay đổi vì Cục Dự Trữ đang duy trì lãi suât ngắn hạn ở mức gần số không, và sẽ không nâng cao cho đến lúc nào tỉ lệ thất nghiệp sụt giảm. Lãi suất dài hạn có thể tăng lên đôi chút, nhưng phần lớn còn tùy thuộc ở sự chờ đợi của thị trường về lãi suất ngắn hạn trong tương lai. Và Cục dự trữ luôn có thể bù đắp bất cứ tác động nào trên lãi suất bằng cách mua vào các trái phiếu dài hạn. Đã hẳn, nếu TQ bán ra các tích sản USD, đồng Mỹ kim sẽ mất giá đối với các ngoại tệ mạnh khác, như đồng euro chẳng hạn. Nhưng điều nầy sẽ có lợi cho Hoa Kỳ, bởi lẽ hàng Mỹ sẽ hạ giá và tăng tính cạnh tranh, nhờ đó, sẽ giúp giảm thiểu khuy khiếm trong cân thương mãi. Mặt khác, điều nầy sẽ bất lợi cho TQ, vì TQ sẽ thua thiệt khi số mỹ kim dự trữ kếch sù mất giá. Vì vậy, Hoa Kỳ không có lý do phải sợ TQ. Một câu hỏi khác cần được trả lời: Hoa Kỳ nên làm gì ? Nhiều nhà phân tích nghĩ, Hoa Kỳ nên thương thảo với TQ thay vì đối đầu. Nhưng điều đó Hoa Kỳ đã từng làm trong nhiều năm và chẳng đi đến đâu, trong khi số thặng dư trong cân thương mãi TQ ngày một tăng vọt. Vào đầu tháng 3-2010, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã tuyên bố một cách sống sượng: đồng RMB không hề bị định giá thấp, trong khi Viện Kinh Tế Quốc Tế Peterson ước tính đồng RMB đã được định giá thấp khoảng từ 20 đến 40%. Và họ Ôn đã tố cáo các quốc gia khác đang làm những gì TQ thực sự đang làm: tìm cách làm suy yếu đơn vị tiền tệ của chính mình "chỉ để tăng xuất khẩu". Dù sao, nếu thương thảo dịu ngọt không thành công, liệu Hoa Kỳ có thể làm gì khác? Năm 1971, Hoa Kỳ đã phải đối diện một sự kiện tương tự, nhưng ít nghiêm trọng hơn, liên quan đến việc đánh giá thấp đơn vị tiền tệ của một số quốc gia, và đã áp đặt một thuế quan phụ thu tạm thời 10% lên hàng nhập khẩu trong vài tháng, cho đến khi Đức, Nhật, và một số các quốc gia khác, chịu nâng giá đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD. Cho đến nay, người ta thấy khó lòng thuyết phục TQ thay đổi chính sách trừ phi phải đối diện với một đe dọa tương tự - nhưng lần nầy thuế suất phụ thu có lẽ phải cao hơn nhiều, 25% chẳng hạn. LẬP TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ Chiều ngày 19-6-2010, TQ loan báo sẽ cho phép hối suất đồng RMB tự do lên xuống, một động thái nhằm giảm thiểu sự chỉ trích các chính sách kinh tế TQ ở trên thế giới và tháo ngòi một trong những nguyên nhân gây căng thẳng lớn lao nhất giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn. Bản tuyên bố của ngân hàng trung ương TQ là dấu hiệu rõ ràng Bắc Kinh sẽ cho phép đơn vị tiền tệ của mình dần dà tăng giá đối với đồng USD. Lãnh đạo thế giới sẽ họp mặt một tuần sau đó để thảo luận các vấn đề kinh tế, và chính sách tiền tệ của TQ sẽ có thể là nguyên nhân đưa đến xung đột. Hoa Kỳ cùng với một số quốc gia thúc đẩy TQ chấp nhận thả nổi đồng RMB. Nhiều dân biểu nghị sĩ trong Quốc Hội Mỹ tin: chính sách hối suất của TQ đã đem lại cho Bắc Kinh lợi thế không chính đáng trong mậu dịch quốc tế, và hiện đang có một phong trào ngày một lớn mạnh đòi hỏi phải hành động trả đũa nếu TQ không chịu điều chỉnh. Tuy nhiên, T T Obama và bộ trưởng ngân khố, Timothy F. Geithner, đã nhanh nhẩu khen ngợi hành động của TQ. Obama tuyên bố: "Quyết định tăng tính uyển chuyển của hối suất là một bước xây dựng có thể giúp bảo đảm tiến trình phục hồi và đóng góp vào một nền kinh tế toàn cầu quân bình hơn"[2]. Ủy Hội Âu Châu cũng đồng tình ủng hộ động thái vừa nói. Dù sao, người ta cũng phải đợi xem: liệu động thái đó sẽ giúp tái lập quân bình mậu dịch quốc tế đến mức nào. Ngân Hàng Nhân Dân TQ, thận trọng trong chừng mức đồng RMB có thể dao động, đã minh thị cảnh báo: "hiện không có cơ sở cho một sự tăng giá quan trọng trong hối suất đồng RMB"[3]. Các quan chức TQ nói rõ, đồng RMB sẽ thay đổi tương đối với một giỏ ngoại tệ không được liệt kê, chứ không chỉ với đồng USD.Theo nhiều chuyên gia, tùy theo hệ thống được thiết kế như thế nào, TQ có thể tránh các điều chỉnh chóng vánh. Bộ trưởng Ngân Khố Geithner cũng ám chỉ như vậy khi nói: "Đây là một bước tiến quan trọng, nhưng sự thử thách sẽ ở biên độ và nhịp độ cho phép đơn vị tiền tệ lên giá"[4]. Dấu hiệu đầu tiên - đồng RMB lên giá bao nhiêu - sẽ diễn ra vào sáng thứ hai kế tiếp, khi chính quyền TQ ấn định biên độ điều chỉnh hối suất lần đầu của đồng RMB trong phiên giao dịch trên thị trường ngoại hối Thượng Hải. Từ giữa năm 2008, TQ luôn giữ giá trị đồng RMB ở mức thấp, gắn liền với giá trị đồng USD, và không cho dao động. Vì vậy, giá trị đồng RMB lẽ ra đã phải cao hơn nhiều nếu được thả nổi, và hàng hóa của TQ cũng đã đắt hơn đối với giới tiêu thụ nước ngoài, và rất có thể đã làm chậm tỉ suất tăng trưởng của nền kinh tế cơ sở trên xuất khẩu của TQ. Trong tuyên bố ngày 19-6 vừa qua, ngân hàng trung ương nói rõ kinh tế TQ đã được tăng cường sau cuộc khủng hoảng và hiện nên xúc tiến cải cách chính sách tiền tệ. Điều nên lưu ý là bản công bố lần nầy đã đồng thời bằng tiếng Hoa và Anh ngữ, một điều hiếm khi xảy ra, và theo một viên chức Mỹ, các quan chức TQ đã thông báo trước cho các chính phủ nước ngoài là họ sắp đưa ra lập trường mới trong chính sách tiền tệ. Mặc dù TQ cho biết hành động nầy cơ sở trên quyền lợi kinh tế của chính TQ, trong thực tế, TQ đang bị sức ép từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu châu, Brazil và Ấn Độ. Riêng T T Obama, trong suốt một năm qua, cũng đã nhiều lần nêu vấn đề với Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, lần mới nhất vào đầu tháng 6-2010; và bộ trưởng Ngân Khố Geithner cũng đã qua TQ thương thảo trong tháng 5-2010. TQ đã tiến hành chính sách mới một cách rất dè dặt, âu lo người dân TQ có thể xem đây là động thái nhượng bộ trước sức ép của nước ngoài, không phù hợp với quyền lợi quốc gia. Riêng đối với T T Obama, hối suất đơn vị tiền tệ TQ từ lâu đã là một vấn đề khó xử lý. Obama cũng rất cần Bắc Kinh giúp chế ngự các chương trình nguyên tử của Iran và Bắc Hàn, hành động như một trong những đầu tàu trong kinh tế thế giới, cũng như kiềm chế trong nổ lực độc quyền tiếp cận các tài nguyên và nguyên liệu trên khắp thế giới cần thiết cho tốc độ và tầm vóc tăng trưởng của TQ. Tuy nhiên, thế đòn bẫy của Obama không đáng kể; và rút cuộc, hình như chỉ có sự đe dọa qua các biện pháp bảo hộ mậu dịch trong dự luật đã đệ trình trước Quốc Hội, bất lợi đối với hàng xuất khẩu của TQ, mới mong có thể thuyết phục được Bắc Kinh thả nổi đồng RMB. Biện pháp đe dọa lần nầy được nhiều dân biểu, nghị sĩ trong Quốc Hội hậu thuẫn. Các nhà lập pháp tin, TQ đang duy trì đơn vị tiền tệ của họ ở một mức thấp giả tạo, phương hại cho kinh tế Hoa Kỳ. Max Baucus, nghị sĩ Dân chủ bang Montana và chủ tịch Ủy Ban Tài Chánh Thượng Viện, đã phát biểu: "Sự loan báo ngày hôm nay [19-6] là một bước đầu đáng hoan nghênh, giúp các doanh nghiệp Mỹ tăng tính cạnh tranh và tạo thêm công ăn việc làm cho dân Mỹ"[5]. Trong khi đó, Charles E. Schumer, nghị sĩ Dân chủ bang New York, lại cảnh cáo: trừ phi TQ nói rõ thêm chi tiết của kế hoạch, "chúng tôi sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là xúc tiến dự luật của chúng tôi"[6]. Nếu đồng RMB tăng giá đáng kể, hàng hóa từ Hoa Kỳ và nhiều xứ khác cuối cùng cũng có thể bắt đầu thay thế hàng xuất khẩu của TQ. Điều nầy có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều nước đối tác của TQ, cùng lúc kiềm hãm tốc độ tăng trưởng của TQ cho đến nay đã bành trướng nhanh đến độ lạm phát giờ đây đã lúc một gia tăng. Công xá ngày một tăng cao sau những bất ổn lao động gần đây, cùng với một đồng RMB mạnh, cũng có thể biến TQ thành một thị trường tiêu thụ hấp dẫn hơn đối với các công ty trên thế giới. Điều nầy sẽ có thể có lợi cho Âu châu nhiều hơn là Mỹ. Xuất khẩu từ Mỹ đến TQ lâu nay rất yếu ớt và chỉ tập trung vào một vài loại hàng hóa như phi cơ, các máy turbines, và đậu nành, trong khi các công ty Âu châu đã rất thành công với các tiêu thụ phẩm xuất khẩu cao cấp. Đối với TQ, một đồng RMB mạnh sẽ gia tăng mãi lực của giới tiêu thụ, và giá năng lượng và các sản phẩm nhập khẩu có thể rẻ và ít tốn kém hơn. Đối diện với các bất ổn lao động ngày một lan tràn, nhất là trong kỹ nghệ xe hơi, nhà cầm quyền TQ đã bắt đầu các nổ lực nhằm cải thiện đời sống của công nhân viên trong các ngành công kỹ nghệ. Nhiều kinh tế gia bên trong và bên ngoài TQ đã lập luận: sự lên giá của đồng RMB trước hết là nằm trong quyền lợi của TQ. TQ đã chi tiêu gần 10% GDP để mua trái phiếu ngân khố, chứng khoán, và các loại trái khoán có bảo đảm của nước ngoài trong khi in và bán ra đồng RMB, trong nỗ lực nhằm ngăn ngừa đồng RMB lên giá đối với đồng USD. Đồng RMB, đồng thời với đồng USD, đã tăng giá khoảng 15%, đối với đồng euro trong hơn hai tháng qua. Điều đó đã khiến các viên chức TQ âu lo về tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu qua Âu châu, thị trường lớn nhất cho hàng xuất khẩu TQ. Cui Tiankai, thứ trưởng ngoại giao, ngày thứ sáu 18-6-2010, cho biết: giá trị đồng RMB không phải là đề tài thảo luận toàn cầu, phát biểu mới nhất trong chuổi nhiều lần phát biểu bởi các quan chức TQ, phản ảnh sự nhạy cảm mang tính "quốc gia chủ nghĩa" đối với chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, những người quen thuộc với quá trình làm chính sách ở TQ, trong hai tháng qua, luôn cho biết: giới lãnh đạo TQ, ngay từ đầu tháng 4-2010, đã nhất trí thay đổi chiều hướng chính sách tiền tệ. Nhưng trận động đất tàn phá miền Tây TQ vào giữa tháng 4-2010 cùng với những âu lo về tác động của suy thoái kinh tế Âu châu, đã đưa đến việc trì hoãn các hành động thể hiện quyết định vừa nói. THAY ĐỔI HỐI SUẤT ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ Trong những năm tháng gần đây, các nhà làm chính sách trong thế giới giàu đã gây sức ép buộc TQ từ bỏ việc gắn chặt hối suất đồng nhân dân tệ với đồng USD. Ngày 19-6-2010, một tuần trước ngày nguyên thủ các quốc gia quy tụ về Toronto, Canada, tham dự hội nghị thượng đỉnh G20, TQ cuối cùng cũng đã nhượng bộ. Ngân Hàng Trung Ương TQ cho biết sẽ cho phép đồng nhân dân tệ tự do lên xuống đối với một gói các ngoại tệ mạnh, mặc dù loại bỏ khả năng tái định giá dứt khoát một lần. Sự loan báo đã được bộ trưởng ngân khố Hoa Kỳ Tim Geithner đón nhận một cách dè dặt. Tuy nhiên, trong chỗ riêng tư, ông đã tỏ ra nhẹ nhõm vì đã tránh được khả năng va chạm về đồng nhân dân tệ. Động thái nầy cũng đã đến rất đúng lúc, giúp giảm thiểu nổi e ngại: TQ có thể không còn mặn nồng với việc tìm cách giúp tái lập quân bình kinh tế thế giới. Ngạch số thặng dư lớn lao trong cân thương mãi hữu hình của TQ đã sụt giảm tương đương khoảng 1/3 GDP trong năm 2009, và có thể sẽ sụt giảm nhiều hơn. Nhưng số xuất khẩu gia tăng trong tháng 5-2010 đã gây lo ngại: TQ có thể một lần nữa trông cậy vào các thị trường hải ngoại để duy trì tăng trưởng một khi thế giới giàu ra khỏi đại suy thoái. Qua việc thả nổi đồng RMB, TQ có thể xoa dịu phe chỉ trích trong Quốc Hội Mỹ, nay không còn nhiều lý do để tin TQ đã trợ giúp giới xuất khẩu qua duy trì đơn vị tiền tệ ở một hối suất thấp. Đồng thời nó cũng giúp TQ có thêm dụng cụ để làm nguội bớt nền kinh tế đang nóng và kiềm chế lạm phát. Một RMB mạnh hơn sẽ làm giảm giá hàng nhập khẩu. Một điều lợi khác là việc từ bỏ buộc chặt hối suất đồng RMB vào đồng USD cũng giúp giải phóng chính sách lãi suất của TQ. Sự thay đổi chiều hướng được hoan hỉ đón nhận nhưng sẽ khó lòng đem lại hiệu quả nhanh chóng. Một vấn đề khác là chính sách hối đoái của TQ sẽ được một số quan chức ở Hoa Thịnh Đốn xét đoán tùy theo tầm cỡ lên giá của đồng nhân dân tệ đối với đồng USD, không với các đơn vị tiền tệ khác. Nếu đồng euro mất giá hơn nữa, sự lên giá của đồng RMB đối với đồng USD sẽ chậm hơn, và điều nầy sẽ khiến Quốc Hội Hoa Kỳ thêm phần chống đối khi ngày bầu cử giữa kỳ vào tháng 11 đến gần hơn. Đã hẳn, phần lớn cũng còn tùy thuộc tốc độ lên giá của đồng nhân dân tệ. Một số nhà quan sát mong đợi sự lên giá của đồng RMB sẽ cùng tốc độ với lần tách rời khỏi đồng USD năm 2005 và tiếp diễn trong 3 năm. Sự mong đợi nầy có lẽ quá lạc quan. Sự lo ngại của TQ đối với viễn ảnh kinh tế của thế giới giàu có thể có nghĩa sự lên giá của đồng nhân dân tệ lần nầy sẽ phải chậm hơn. TQ muốn chận đứng dòng chảy "tư bản nóng" vào TQ (để đầu cơ) khiến các loại chứng khoán và giá bất động sản và nhà ở bất thần tăng vọt. Bên cạnh các biện pháp bảo vệ qua các biện pháp kiểm soát tư bản, TQ chắc sẽ dè dặt trong ý tưởng cho phép đồng RMB lên giá với một nhịp ổn định và nhanh chóng. Do đó, sự tăng giá 0,4% đối với đồng USD trong ngày đầu ngay sau khi loan báo đã sụt giảm một phần trong ngày kế tiếp. Trong mọi trường hợp, điều chỉnh những mất quân bình trong mậu dịch không phải chỉ là vấn đề điều chỉnh hối suất đơn vị tiền tệ đơn thuần. Trên nguyên tắc, một đồng RMB mạnh hơn sẽ khiến lợi nhuận từ hàng xuất khẩu thấp hơn, và giới tiêu thụ quốc nội sẽ có nhiều mãi lực hơn. Tuy nhiên, số nhân công mất việc từ các kỹ nghệ xuất khẩu của TQ sẽ phải đi tìm việc mới ở các ngành khác. Và nhiều xáo trộn và cọ xát sẽ làm quá trình nầy thêm phần khó khăn. Cho đến khi các trở ngại được san bằng, một sự lên giá nhanh chóng của đồng RMB có thể đưa đến một sự gia tăng trong số nhân công bị mất việc, chứ không phải một sự bùng nổ tăng chi ở TQ. Những cải cách cần thiết để giải quyết tận gốc các nguyên nhân của số tiết kiệm thái quá ở TQ, vì vậy, phải là một phần thiết yếu trong giải pháp dài lâu đối với các mất quân bình toàn cầu. Điều nầy có nghĩa nới lỏng tín dụng nhiều hơn để làm dễ dàng cho các xí nghiệp nhỏ trong các ngành dịch vụ cần nhiều nhân công dễ cạnh tranh với các xí nghiệp được nhà nước nuông chiều và yểm trợ; cũng có nghĩa cần quản lý các công ty tốt hơn nhằm giúp giải tỏa số thanh khoản, tồn trữ hay bất động hóa bởi các xí nghiệp quốc doanh, vào nền kinh tế; cũng còn cần một mạng lưới an sinh xã hội rộng lớn hơn để thuyết phục các hộ gia đình họ không còn cần phải bảo hiểm phòng ngừa mọi tai ương. Một đơn vị tiền tệ mạnh là một trợ lực cho các thay đổi. Tuy vậy, nó không thể đủ để chuyển hóa nền kinh tế TQ. TIẾN TRÌNH ĐIỀU CHỈNH ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ VÀ GIỚI HẠN Hàng hóa từ TQ, dù với giá rẻ, vẫn có thể làm vẩn đục quan hệ với Hoa Kỳ. Chẳng hạn, vào đầu tháng 6-2010, các viên chức Hoa Kỳ đã tịch thu một số mật ong nhập khẩu từ TQ với lý do vi phạm các chuẩn mực an toàn thực phẩm. Mật ong TQ chứa thuốc trụ sinh dùng để ngừa "foulbrood", loại bệnh thường tấn công các nhộng ong mật. Charles Schumer, nghị sĩ Dân Chủ bang New york, đã lên án những công ty xuất khẩu mật ong TQ như "những người rửa mật ong" (honey launderers). Tuy nhiên, mật ong không phải là vấn đề rắc rối duy nhất chia rẽ hai quốc gia. Schumer và nhiều dân biểu nghị sĩ trong Quốc Hội còn chỉ trích chính sách tiền tệ của TQ. Họ luôn thúc đẩy T T Barack Obama phải có lập trường cứng rắn đối với TQ. Ngày 16-6-2010, Schumer đã gửi thư cho lãnh đạo nhóm G20, nhấn mạnh "hối suất thị trường, do cung cầu ấn định, là thiết yếu đối với sinh hoạt kinh tế toàn cầu"[7]. Nhiều người e ngại một bầu không khí căng thẳng khi các nhà lãnh đạo quy tụ về Toronto, Canada, trong hai ngày 26-27 tháng sáu. Nhưng như đã đề cập ở các phần trên, vào ngày 19-6-2010, TQ đã công bố biện pháp định giá đồng RMB uyển chuyển hơn. Động thái nầy có khả năng giảm thiểu sự chỉ trích quốc tế, nhất là Hoa Kỳ. Ngân Hàng Nhân Dân Trung Ương TQ (People's Bank of China - PBOC) sẽ ấn định mức tương đồng giữa đồng nhân dân tệ và đồng USD mỗi buổi sáng. PBOC loan báo sẽ gia tăng tính mềm dẻo của hối suất đồng nhân dân tệ, đã được ấn định bằng 6,83 USD kể từ tháng 7-2008. Từ nay, để ấn định hối suất, PBOC sẽ quan tâm đến tỉ trọng mậu dịch trong một giỏ các ngoại tệ, cũng như luật cung cầu của thị trường. Trên thị trường ngoại tệ non trẻ của TQ, Ngân Hàng Trung Ương sẽ ấn định mức tương đồng giữa đồng RMB và đồng USD. Trong hai năm qua, ngân hàng trung ương đã cho phép đơn vị tiền tệ lên xuống không đáng kể đối với mức tương đồng 6,83 USD. Nay PBOC hình như sẵn sàng cho phép hối suất tăng tới 0,5% mỗi ngày. Vào ngày thứ hai tiếp theo sau ngày công bố chính sách mới, PBOC đã để đơn vị tiền tệ tăng giá trên 0,4%, đưa đến phản ứng khá sôi nổi trên thị trường. Với nhịp nầy, giá trị đồng nhân dân tệ sẽ tăng gấp đôi sau 174 ngày. Buổi sáng hôm sau, PBOC lại ấn định hối suất mới phản ảnh tình hình cung cầu vào cuối ngày hôm trước. Tuy nhiên, sau ngày thứ ba, PBOC quyết định cung cầu trên thị trường cần được thúc đẩy chút ít. Các ngân hàng lớn của nhà nước đã mua rất nhiều USD, có lẽ theo sự thúc đẩy của Ngân Hàng Trung Ương, do đó, PBOC đã có thể ấn định hối suất vào sáng thứ tư ở mức thấp - 6,81 USD. Lần cuối cùng sau ba năm, hối suất đồng nhân dân tệ chỉ gia tăng 21% so với đồng USD. Nhưng rất có thể, lần nầy giá trị đơn vị tiền tệ của TQ không tăng ngay cả lên mức đó. TQ không muốn đơn vị tiền tệ của mình tăng giá nhiều hơn đối với đơn vị tiền tệ mạnh của các nước khác (đôi khi còn sụt giảm đối với đồng USD). Theo Ngân Hàng Trung Ương, hiện nay TQ có một danh sách dài các đối tác thương mãi. Đối với giỏ các ngoại tệ căn bản, hối suất đồng nhân dân tệ trong năm nay đã tăng nhiều: 17% riêng đối với đồng euro. Vào một ngày bất kỳ nào đó, đồng nhân dân tệ rất có thể sẽ sụt hay tăng giá đối với đồng USD. Ngân Hàng Trung Ương luôn quan tâm tránh "tiền nóng" (hot money) có thể len lỏi qua mạng lưới kiểm soát tư bản của nhà nước, để đầu cơ thủ lợi từ một ngoại tệ mạnh hơn. Theo Mark Williams thuộc Capital Economics, một tổ chức nghiên cứu, TQ đã thành công. Thị trường tiền tệ tương lai chờ đợi đồng nhân dân tệ chỉ tăng giá khoảng 2,2% trong 12 tháng tới, một bách phân nhỏ nhoi, nhất là trước các khó khăn rắc rối chuyển tiền ra vào TQ. Ngay cả khi không có sự can thiệp của Ngân Hàng Trung Ương, theo Zhao Qingming, nguyên kinh tế gia PBOC, và David Li, một cố vấn ngân hàng trung ương, áp lực tăng giá đồng nhân dân tệ có thể cũng chẳng bao nhiêu lần nầy.Trong một cuộc phỏng vấn dành cho HSBC, họ cho biết ngạch số thặng dư trong mậu dịch sẽ giảm sụt quan trọng. Sáu tháng trước đó, William Cline và John Williamson, thuộc Viện Kinh Tế Quốc Tế ở Hoa Thịnh Đốn, đã tính: đồng nhân dân tệ có lẽ sẽ phải tăng giá khoảng 40% so với đồng USD để tái lập thăng bằng - được họ định nghĩa như ngạch số thặng dư 3% trong cân thương mãi hữu hình ở mức toàn dụng. Ngày nay, họ tính lại, chỉ cần gia tăng 24% đối với đồng USD và 14% đối với toàn gói tiền tệ của các đối tác thương mãi lựa chọn dựa trên tỉ trọng mậu dịch. Tuy nhiên, mặc dù thặng dư thương mãi của TQ không còn lớn lao như trước đại suy thoái, chuẩn mực mất quân bình được Mỹ chấp nhận cũng đã sụt giảm. Trong tháng 3, 2010, sau khi đưa ra dự luật đánh thuế quan đối với các quốc gia luôn can thiệp vào thị trường hối đoái, Schumer đã bắn tiếng: "sự nhào nặn đơn vị tiền tệ của TQ, ngay trong thời kinh tế bình ổn, đã không thể chấp nhận. Trong thời buổi 10% thất nghiệp, chúng tôi sẽ không thể đơn thuần chịu đựng"[8]. Paul Krugman, người đã được giải thưởng Nobel, đưa ra luận cứ, khi kinh tế thế giới đang suy thoái vì số cầu sụt giảm, các xứ thường xuyên chi tiêu ít hơn lợi tức (xuất siêu) phải chịu một phần trách nhiệm đã gây ra tình trạng thất nghiệp. Trong thư gửi các vị lãnh đạo nhóm G20, T T Obama đã chỉ trích những xứ dựa nhiều vào xuất khẩu trong khi đã kiếm được nhiều thặng dư từ mậu dịch quốc tế. TQ không phải là quốc gia duy nhất thủ lợi . Cân thương mãi hữu h́ình của Đức cũng thặng dư - 135 tỉ USD năm 2009, tuy chưa bằng phân nửa của TQ; nhưng kích cỡ của nước Đức cũng bé nhỏ hơn nhiều và kim ngạch thặng dư của TQ cũng giảm sụt nhanh hơn. Theo dự phóng của The Economist Intelligence Unit, một công ty chị em với tạp chí The Economist, kim ngạch thặng dư của Đức sẽ chỉ sụt giảm 20 tỉ trong năm 2010 (so với TQ: 68 tỉ). Những số sụt giảm nầy cũng sẽ là phần gia tăng số cầu hàng hóa và dịch vụ đối với phần còn lại của thế giới. Cũng như TQ, trong hai năm qua, Đức cũng có hối suất buộc chặt với đồng euro. Không ai lên án Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu (ECB) nhào nặn giá trị đồng euro. Tuy nhiên, sự mất giá của đồng euro cũng có nghĩa các xứ thành viên trong khu vực euro sẽ phải trông cậy vào số cầu của các nước bên ngoài khu vực để phục hồi kinh tế. Goldman Sachs dự phóng cân thương mãi hữu hình của khu vực euro sẽ thặng dư năm nầy, và năm sau số thặng dư sẽ còn gia tăng nhiều hơn. Có lẽ Schumer cũng nên đòi hỏi cấm nhập khẩu Frankfurter sausages. VÀI NHẬN XÉT TỔNG QUAN TQ có thể đã mong đợi một phản ứng thuận lợi hơn từ các cấp lãnh đạo thế giới. Quyết định ngưng chính sách buộc chặt hối suất đồng RMB vào đồng USD cuối cùng cũng chỉ đem lại cho TQ yên bình trong chốc lát với đối tác lớn nhất. Không để mất thì giờ, Charles Schumer, nghị sĩ Dân chủ bang New York, sau đó, vẫn không ngừng xúc tiến dự luật nhằm thuyết phục TQ nhanh chóng chấp nhận một mức điều chỉnh cao hơn. Schumer thực ra đã thúc đẩy Quốc Hội phải hành động đối phó với chính sách thương mãi của TQ ngay từ năm 2004. Với tỉ suất thất nghiệp vẫn xấp xỉ 10% và rất ít thay đổi trong hối suất giữa RMB-USD từ 2008, chiến lược của Schumer đã thu hút được sức hậu thuẫn ngày một gia tăng. Ông còn đệ trình một biện pháp mới với sự bảo trợ lưỡng đảng trong tháng 3-2010. Nếu được thông qua, dự luật sẽ buộc Bộ Ngân Khố phải phúc trình về tình hình nhào nặn hối suất của TQ (một việc Tim Geithner đã trì hoản trong tháng 4-2010). Tùy kết quả phúc trình, hàng TQ có thể phải gánh chịu thuế quan nhập khẩu. Chính sách hối suất mới của TQ đã không làm chùn tay vị nghị sĩ, vì theo ông, sẽ không làm hài lòng các đồng nghiệp của ông. Rất có thể ông sẽ sớm đệ trình Quốc Hội một tu chính án cho dự luật với nhiều hỗ trợ, và nhiều người nghĩ, cơ may được chấp thuận cũng khá cao. Viễn ảnh nầy hình như đang khiến Tòa Bạch Ốc lo ngại. Barack Obama đã từng nhấn mạnh: rồi ra đồng RMB cũng sẽ được tái định giá cao hơn. Nhưng trong hội nghị thượng đỉnh của nhóm G20, Obama đã giải thích: ông không chờ đợi một sự tăng giá nhanh chóng của đồng RMB. Thay vào đó, chính quyền Obama có thể phải lưu tâm trong vài tháng sắp tới. Tòa Bạch Ốc đang gây sức ép để Schumer chịu dành cho TQ có đủ thì giờ điều chỉnh. Một sự va chạm về mậu dịch và tiền tệ có thể gây rắc rối nghiêm trọng cho chính quyền Mỹ: Obama đang cần sự trợ giúp của TQ trong các vấn đề Iran và Bắc Hàn. Và với tiến tŕnh hồi phục toàn cầu c̣òn quá mong manh, thế giới không muốn có thêm một gánh nặng: đối đầu với một tranh chấp thương mãi nghiêm trọng. Các nhà phê bình cho rằng, với kinh tế Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng suy thoái trầm trọng, hối suất thấp một cách giả tạo của đồng RMB có nghĩa nước Mỹ đang nhập khẩu thất nghiệp. Họ lập luận, hối suất mềm dẻo hay uyển chuyển chỉ là "đại ngôn". Kể từ khi TQ công bố chính sách mới, đồng RMB chỉ lên giá 0,7% đối với đồng USD, và thị trường chỉ chờ đợi đồng RMB tăng giá khoảng từ 2 đến 3% cho toàn năm 2011. Tuy nhiên, tỉ suất nầy cũng chỉ chậm hơn chút đỉnh so với tỉ suất lên giá lúc bắt đầu giai đoạn 2005-2008, và tổng cộng 20% cho toàn giai đoạn. Theo nhận định của các nhà phân tích, một sự tái định giá vào cỡ nầy sẽ có thể đưa đồng RMB lên gần mức giá tương đồng với đồng USD. Tuy vậy, với mức thâm thủng trong cân thương mãi của Hoa Kỳ lên tầm cỡ tiền suy thoái, các nhà lập pháp Hoa Kỳ rất nôn nóng muốn thấy kết quả nhanh chóng hơn. Sự chờ đợi của họ có thể thiếu thực tế. TQ cũng đang đối diện với nhiều khó khăn nội bộ liên quan đến đồng RMB, một sự đối đầu hay va chạm giữa các nhà ngoại giao và các nhà vận động hành lang cho giới xuất khẩu thế lực hùng mạnh. Vì vậy, Bắc kinh có thể có rất ít lựa chọn ngoài biện pháp tái định giá lần hồi. Một sự tái định giá nhanh chóng có thể gây thương tổn cho kỹ nghệ chế biến, phương hại nhiều hơn cho kinh tế toàn cầu. Cấp lãnh đạo của cả Hoa Kỳ lẫn TQ đang âu lo tác động của cuộc khủng hoảng trầm trọng trong kinh tế Âu châu đối với kinh tế Mỹ Và TQ. T T Obama một lần nữa rất có thể sẽ thành công thuyết phục Quốc Hội dành cho TQ nhiều thời gian hơn. Nhưng cử tri Hoa Kỳ đang hết sức bức xúc và các nhà lập pháp cũng rất âu lo. Chút ít yên bình TQ giành được với chính sách mới có thể sớm bị xói mòn. Trong mọi trường hợp, TQ, và Hoa Kỳ, đang trải nghiệm những giờ phút nhức nhối trong việc thương thảo chính sách tiền tệ của TQ. Sau những kinh nghiệm không mấy dễ chịu của cả hai phe, thế giới bên ngoài, nhất là phần thế giới luôn là nạn nhân của những chính sách tàn bạo của chính hai siêu cường 1 và 2, tưởng cũng có quyền chờ đợi cả hai siêu cường sẽ có lập trường "mềm dẻo hay uyển chuyển" hơn mỗi khi thương thảo về các vấn đề sinh tử đối với họ - vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, vấn đề bồi thường chiến tranh, hay nhỏ nhoi hơn, vấn đề bồi thường cho các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam, là những trường hợp điển hình. GS Nguyễn Trường Irvine, California, USA 18-7-2010.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 2:51:19 GMT 9
Khủng hoảng toàn cầu: Âu châu, Hoa kỳ, Trung quốc
Vietsciences-Nguyễn Trường Kinh tế thế giới giàu đang trong tình trạng tồi tệ. Từ đầu tháng 8-2011, nhiều tín hiệu báo động đã được ghi nhận. Ở Âu châu, tỉ suất lợi nhuận của trái phiếu thời hạn 10 năm ở Ý và Tây Ban Nha đã lên trên 6%. Hoa Kỳ trong khi đó đã tỏ ra âu lo khi tầm cỡ an toàn tín dụng đã bị xuống cấp bởi một trong những cơ quan thẩm định lớn - S&P's. Trên khắp thế giới, các thị trường chứng khoán chao đảo, một vài thị trường đã ghi nhận mức độ sụt giảm lớn nhất trong một ngày kể từ 2008. Chứng khoán các ngân hàng cũng sụt giảm mạnh, một chỉ dấu bất ổn trầm trọng trong hệ thống tài chánh. Các ngân hàng trung ương đã phải can thiệp. Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu (ECB) cho biết có thể ứng cứu Tây Ban Nha và Ý qua việc mở rộng chương trình mua trái phiếu của hai xứ nầy. Cùng lúc, Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ cũng đã thông báo sẽ giữ mức lãi suất thấp gần số không ít ra cho đến năm 2013, và ám chỉ có thể có nhiều biện pháp khác hỗ trợ nền kinh tế. Tỉ suất lợi nhuận các trái phiếu Ý và Tây Ban Nha đã sụt giảm phần nào. Đà suy sụp trên thị trường chứng khoán đã tạm thời dừng lại, dù chỉ ngắn ngủi, khi sự âu lo lan tràn tới Pháp. Mặc dù các nền kinh tế đang lên vẫn tăng trưởng đủ mạnh để duy trì tăng trưởng toàn cầu, làn sóng bi quan ở Âu châu và Hoa Kỳ đang đè nặng lên toàn thế giới. ÂU CHÂU VÀ HOA KỲ Tâm trạng bi quan rõ ràng có gốc rễ từ các dữ kiện kinh tế, nhất là từ Hoa Kỳ, cho thấy đà hồi phục hết sức chậm chạp. Tuy nhiên, cũng cần nhắc đến nổi ám ảnh với các nguy cơ chính trị. Sau hơn ba năm trông chờ các chính trị gia giải quyết các vấn đề, các nhà đầu tư đã mất hết tin tưởng. Một thỏa hiệp tồi tệ nâng mức trần công trái với Quốc Hội Mỹ và sự bất lực của khu vực euro trong nỗ lực giải quyết các vấn đề khó khăn không những chẳng tốt lành, mà còn cho thấy các chính trị gia hoặc đang thất bại hay đang làm tình hình ngày một tệ hại hơn. Làn sóng thất vọng cũng đã ảnh hưởng đến lòng tin của giới doanh nhân. The Economist/FT global business barometer mới nhất, một cuộc thăm dò các nhà quản lý trên khắp thế giới, tiết lộ những kẻ tin điều kiện sẽ tồi tệ hơn trong vòng sáu tháng tới vượt quá số người đang chờ đợi một sự cải thiện đến 10,5 %, một sự đổi chiều lớn so với cuộc thăm dò trong tháng 5. Các xí nghiệp Hoa Kỳ giờ đây có thái độ cẩn trọng hơn nhiều trong việc bỏ thêm vốn đầu tư. Chừng nào tình trạng nầy còn kéo dài, các ngân hàng trung ương, ngay cả khi quyết định đúng, may mắn lắm cũng chỉ có thể đem lại một liều thuốc giảm đau. Chuỗi sụt giảm trên thị trường chứng khoán trong mấy tuần qua đã gây thêm mất tin tưởng, nhưng cũng chưa phải lý do để phải quá hoảng sợ. Một sự điều chỉnh trong giá trị các tích sản Hoa Kỳ lẽ ra đã phải thể hiện sớm hơn: chỉ số S&P 500 đã tăng gấp đôi kể từ mức thấp nhất trong tháng 3-2009, và tỉ số giá cả thị trường điều chỉnh theo chu kỳ/lợi tức[1] - 20,7, vào ngày 4-8-2011, mức cao hơn rất nhiều so với tỉ số trung bình 16,4. Đà phục hồi sau suy thoái tài chánh yếu ớt, trong khi khu vực tư đang trả bớt nợ nần. Từ lâu thị trường trái phiếu đã ghi nhận thực tế vừa nói, và cuối cùng có thể đã phải cùng chung số phận với các thị trường chứng khoán. Tuy vậy, kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn dấu hiệu sinh động: tháng 7-2011 đã ghi nhận 117,000 việc làm mới, tuy chưa đáng kể, nhưng không phải là bằng chứng của suy thoái. Tuy nhiên, nguy cơ Hoa Kỳ và các xứ giàu đang rơi trở lại suy thoái là thực sự. Gốc rễ của vấn đề ở cả hai bên bờ Đại Tây Dương khá giản dị: quá nhiều nợ nần, thiếu vắng ý chí chính trị để đối phó với hậu quả. Điều đó cho thấy vấn đề thực sự đang ở đâu. Trong khu vực đồng euro, gánh nặng nợ nần, bắt đầu với các quốc gia ngoại vi, đã lan tràn đến các xứ lớn Tây Ban Nha, Ý và có lẽ cả Pháp. Như thường lệ, cuộc khủng hoảng đã dừng lại trong vài ngày tiếp theo sau phiên họp thượng đỉnh khẩn cấp trong tháng 7, để rồi tiếp tục trở lại với đe dọa mới khi các chính trị gia rõ ràng đã chưa làm đủ, và hệ thống ngân hàng vẫn đang lâm nguy. Trong lúc đó, ở Hoa Thịnh Đốn, các chính trị gia đang tiếp tục cãi vã mặc dù đã thoát nguy cơ vỡ nợ với thỏa hiệp nâng mức trần công trái, một thỏa hiệp sai quấy vì hai lý do: (1) Thắt chặt tín dụng ngắn hạn trong khi nền kinh tế đòi hỏi tăng chi và kích cầu; (2) Chưa có biện pháp xử lý vấn đề giảm thiểu khiếm hụt trong trung hạn. Vì vậy, tín dụng bị S&P xuống cấp là điều dễ hiểu. Câu hỏi cần được đặt ra là Ngân hàng trung ương có thể làm được gì? Ở Âu châu, sự can thiệp của ECB đã đem lại hiệu quả cần thiết: lợi nhuận các trái phiếu Ý và Tây Ban Nha đã sụt xuống 5%. Jean-Claude Trichet, chủ tịch ECB, có thể có đủ khôn ngoan để đảo ngược quyết định nâng cao lãi suất hồi đầu năm: lạm phát trong khu vực đồng euro đã sụt giảm và cần sụt giảm hơn nữa khi giá các mặt hàng xuống thấp. Nhưng lãi suất đang ở mức khá thấp, và ECB đang ngần ngại can thiệp vào địa hạt tài chánh qua hành động mua vào nhiều hơn các công trái phiếu. Ở Hoa Kỳ, chủ tịch Cục Dự Trữ, Ben Bernenke, cần xét đến khả năng nới lỏng tín dụng đợt ba (in thêm tiền để mua trái phiếu). Tuy nhiên, tác động của biện pháp nầy có lẽ sẽ rất hạn chế , và có thể gây rắc rối thêm cho các nền kinh tế đang lên khi các xứ nầy có thể đối diện một đợt gia tăng tư bản nhập khẩu mới. GIỚI LÃNH ĐẠO BARACK OBAMA & ANGELA MERKEL... Khuynh hướng hiếu động của ngân hàng trung ương thường mang theo những bất trắc tinh thần. Nói rõ hơn, đó là nguy cơ khuyến khích các chính quyền giữ một vai trò thụ động, phó mặc cho người khác làm những việc chính quyền cảm thấy khó đảm đương. Thái độ nầy là một hành động chối từ trách nhiệm nguy hiểm và bỏ phí cơ hội. Ở Hoa Kỳ, Quốc Hội cần ủng hộ các biện pháp tài chánh đoản kỳ - gia hạn tín dụng giảm thuế căn cứ trên bảng lương nhân công, gia hạn bảo hiểm thất nghiệp, và đầu tư vào hạ tầng cơ sở - và một kế hoạch khả tín cắt giảm khiếm hụt trung hạn qua cải cách thuế vụ và các chương trình an sinh xã hội. Hiện đang có những kế hoạch lưỡng đảng để làm những việc nầy. Obama và những đối thủ Cộng Hòa trước đây đã mở cữa thương nghị những chương trình lớn lao như thế. Một ủy ban mới, phụ trách giảm thiểu thiếu hụt, là một cơ hội khác. Các lãnh đạo Âu châu sẽ phải đối diện với sự lựa chọn khó khăn hơn nhiều - giữa nguy cơ tan rã của khu vực euro và liên hiệp tài chánh khắng khít hơn. Cứu vớt đồng euro sẽ đòi hỏi một quỹ cứu trợ lớn lao hơn là khu vực euro hiện sẵn sàng chấp nhận. Trên bình diện viễn kiến kinh tế, một ý tưởng mạnh dạn hơn có thể là khả năng phát hành những trái phiếu Euro được bảo đảm bởi cộng đồng các quốc gia thành viên trong khu vực. Đây là một quyết định chính trị can đảm, không phải một điều các cử tri Âu châu chỉ có thể thấy được đưa vào cửa hậu, mà là một cam kết thực hiện một công trình vĩ đại. Đã hẳn, đây là một quyết định chính trị vô cùng khó khăn. Nhưng Angela Merkel và Nicolas Sarkosy không còn nhiều lựa chọn. Các ngân hàng trung ương có thể đem lại cho các chính trị gia hai bên bờ Đại Tây Dương thêm chút ít thời gian. Và đã đến lúc các chính trị gia phải quyết định. TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ Suốt mùa đông 2010, các quan chức Trung Quốc và Hoa Kỳ đã cố gắng lật qua một trang mới trong quan hệ hai nước. Tháng 1-2011, trong cuộc công du đến Hoa Thịnh Đốn của chủ tịch Hồ Cẩm Đào(Hu Chin Tao) lãnh đạo hai nước đã nỗ lực cải thiện quan hệ giữa hai quốc gia. Sau đó, Phó Tổng Thống Joseph R. Biden đã quyết định sẽ viếng thăm Trung Quốc, vào mùa hè 2011, để gặp đối tác Xi Jinping (Tập Cận Bình), người được chờ đợi thay thế Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào vào năm tới. Trong khi Biden đang chuẩn bị lên đường vào hôm thứ ba 12-8, một diễn biến mới lại bao phủ quan hệ Mỹ-Hoa. Các lãnh đạo TQ đặt nhiều câu hỏi quan trọng về nền kinh tế và giới lãnh đạo Hoa Kỳ. Chính quyền Mỹ đang phải đối đầu với các khó khăn thanh toán nợ nần và phân hóa đảng phái. Và tê liệt chính trị đã biến tình trạng nầy thành một cuộc khủng hoảng. Mặc dù Biden đã quyết định hoản ngày lên đường trong tháng 7 ngõ hầu giúp đem lại thỏa hiệp nâng cao mức trần công trái, phương cách duy nhất thanh toán số nợ đáo hạn trong tháng 8, tuy vậy, vẫn không tránh được sự kiện Standard & Poor's hạ thấp an toàn tín dụng của Hoa Kỳ từ AAA xuống AA+. Thông Tấn Xã Xinhua công bố lời bình luận đòi hỏi Hoa Kỳ phải"chữa trị bịnh ghiền vay mượn và sống trong giới hạn khả năng của chính mình."[2] Những khó khăn kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ đã có những hệ lụy trực tiếp đến tài chánh TQ. Thực vậy, TQ đang chấp hữu hơn 1,1 nghìn tỉ công khố phiếu của Mỹ, và đã trở thành trái chủ lớn nhất của Hoa Kỳ. Không ít người TQ công khai chỉ trích cấp lãnh đạo đã đầu tư quá nhiều vào công khố phiếu Mỹ. Các nguy cơ dai dẳng không trả được nợ nước ngoài sắp đáo hạn của Âu châu, bóng ma chập chờn đại suy thoái kép của Mỹ, và những xáo trộn trên các thị trường toàn cầu, càng làm tăng thêm nỗi lo ngại của TQ, một xứ có tỉ suất tăng trưởng kinh tế tùy thuộc phần lớn vào khu vực xuất khẩu rộng lớn của mình. Zhu Feng, giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại Học Bắc Kinh , cho biết: trong lần tham dự buổi họp ở Bộ Tài Chánh gần đây, ông nhận thấy các tham luận viên đều ái ngại âu lo. Theo ông, "mọi người đều cảm nhận kinh tế thế giới đột nhiên trở nên rất khó tiên liệu. Chẳng ai muốn thấy kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục tuột dốc và một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. TQ và Hoa Kỳ đang giữ một vai trò rất quan trọng - tìm cách duy trì sự ổn định trong kinh tế toàn cầu."[3] Trong bước đầu làm quen, Biden và Xi cũng sẽ thảo luận một số vấn đề an ninh đang chia rẽ hai nước - Hoa Kỳ bán vũ khí cho Đài Loan, chương trình hạt nhân của Bắc Hàn, tình hình căng thẳng trên Biển Đông hay Nam Hải... Nhưng các vấn đề kinh tế đã là những vấn đề nổi trội hàng đầu. Theo Jeffrey A. Bader, Giám đốc kỳ cựu Đông Á Sự Vụ trước tháng 4-2011 trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, "mục tiêu của chuyến công du, được hoạch định trước các khó khăn kinh tế mới đây, là để làm quen với Xi Jinping. Đã hẳn những biến cố gần đây trong địa hạt kinh tế đã là lý do các vấn đề kinh tế Hoa Kỳ và đồng USD được ưu tiên ghi vào nghị trình."[4] Theo Da Wei, Phó Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Hoa Kỳ thuộc Liên Viện Quan Hệ Quốc Tế Đương Đại Trung Quốc ở Bắc Kinh[5], đối với TQ, "nợ công khố phiếu Hoa Kỳ là mối lo ngại lớn nhất vì liên quan đến tính an toàn số đầu tư tài chánh lớn lao của TQ."[6] Trong khi đó, theo Hoa Kỳ, những khó khăn quốc nội của TQ đã lấn át các quan hệ đối ngoại. Các nỗ lực duy trì ổn định xã hội của các lãnh đạo TQ trong mùa hè đã bị thách thức bởi bạo động sắc tộc trong khu vực phía tây Xinjiang và các chỉ trích của công chúng về cách xử lý tai nạn xe lửa cao tốc trong tỉnh Zhejiang của chính quyền. Có lẽ vấn đề nhức nhối nhất đối với cấp lãnh đạo TQ là lạm phát gia tăng. Chỉ số giá tiêu thụ của TQ đã tăng 6,4% trong tháng 6-2011, cao nhất trong vòng ba năm qua. Các nhà phân tích cho biết lạm phát trung bình cho cả năm chắc chắn sẽ quá 4%, mức ấn định bởi cấp lãnh đạo. Lạm phát sẽ đặt TQ trước các khó khăn về chính sách nếu các xứ Tây phương lại rơi vào một suy thoái mới. Trong năm 2008, cao điểm của suy thoái tài chánh toàn cầu, TQ đã trông cậy vào chi tiêu công để kích cầu và nới lỏng tín dụng bởi các ngân hàng nhà nước, để bơm tiền vào các chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở và các dự án đòi hỏi những khoản đầu tư lớn lao nhằm duy trì tỉ suất tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, các quan chức TQ đang lo ngại về sự chi tiêu phung phí và đang cố gắng thắt chặt tín dụng. Một vấn đề gay cấn giữa Hoa Kỳ và TQ trước đây nay ngày một bớt căng thẳng và lùi vào hậu trường: định giá đồng nhân dân tệ - Yuan hay Renminbi RMB. Chính quyền Obama trong một thời gian lâu dài trước đây đã thúc đẩy TQ tái định giá đồng RMB để điều chỉnh những bất quân bình trong cân thương mãi và giúp tái cơ cấu kinh tế thế giới. Chính quyền TQ đã dè dặt từ chối, e ngại khu vực xuất khẩu sẽ bị tổn thương. Tuy nhiên, đồng nhân dân tệ, nếu được định giá quá thấp một cách giả tạo, sẽ đưa đến lạm phát. Do đó, gần đây TQ đã để đơn vị tiền tệ, đồng RMB, từ từ tăng giá đối với đồng USD. Đề tài nầy có thể đang mất dần tầm quan trọng trong chính trị Mỹ. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), trong phúc trình tháng 7-2011, đã nói rõ: một đồng nhân dân tệ mạnh hơn không nhất thiết đã có thể giúp đem lại công ăn việc làm mới cho Hoa Kỳ. Chính vì vậy, thay vì Biden gây áp lực đối với TQ về tiền tệ, các quan chức TQ rất có thể sẽ gây áp lực với Biden, đòi hỏi Hoa Kỳ phải ổn định giá trị đồng USD. Trong lúc đó, TQ sẽ tìm cách đánh giá uy lực của T T Obama, trước những khó khăn đang đối diện trong nỗ lực thuyết phục phe Cộng Hòa trong Quốc Hội nâng cao mức trần công trái. Kenneth G. Lieberthal, một học giả về TQ tại Brookings Institution đã từng phục vụ trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia dưới thời Clinton, đã cho biết, "khi họ tin đang làm việc với một tổng thống Hoa Kỳ mạnh, người TQ luôn ứng xử tử tế. Thật khó lòng bằng cách nào những biến cố gần đây có thể đem lại một ấn tượng tổng thống Hoa Kỳ là một lãnh đạo mạnh."[7] Thứ năm (18-8-2011), Phái đoàn Hoa Kỳ đã đến Bắc Kinh với e ngại người TQ có thể bày tỏ lo âu về sự an toàn của số nợ khổng lồ của Mỹ. Trong thực tế, Phó T T Joseph R. Biden và các lãnh đạo TQ đã nhấn mạnh nhu cầu hợp tác kinh tế vào thời điểm kinh tế toàn cầu đang đương đầu với các khủng hoảng mới. Và các quan chức tháp tùng hiện diện trong buổi họp cho biết các lãnh đạo TQ đã nói với Biden họ vẫn có lòng tin ở hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và đã không tỏ ra quá lo ngại đối với số đầu tư khổng lồ vào trái phiếu ngân khố. Tuy nhiên, vì các quan chức TQ đã không tiết lộ gì với các phóng viên ngoại quốc, không ai có thể đoan chắc những gì đã thực sự được trao đổi. Những bình luận gần đây của các cơ quan truyền thông chính thức TQ đã phản ảnh tâm trạng hoảng sợ về số đầu tư vào trái phiếu ngân khố Hoa Kỳ tiếp theo sau cuộc khủng hoảng về trần quốc trái ở Mỹ. Biden trong lúc đó vẫn trở lại một đề tài cũ: TQ cần xây dựng một nền kinh tế vững bền hơn, ý muốn nói một nền kinh tế cơ sở trên tiêu thụ quốc nội hơn là xuất khẩu. Ông nhấn mạnh một sự tái quân bình như thế là phương cách TQ có thể giúp kích thích tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ và các xứ khác, và điều chỉnh cơ cấu kinh tế của chính TQ. Thực vậy, trong cuộc họp chiều 18-8 với Wu Bangguo, chủ tịch Quốc Hội Nhân Dân và là lãnh đạo số hai ở TQ, Biden đã tuyên bố: "Đó là lý do chính tôi đã đến đây: để thảo luận về việc làm [nhân dụng] và tăng trưởng, và như đã được phát biểu sáng nay, tái cơ cấu kinh tế - của quý quốc và của chính chúng tôi."[8] Phó T T Biden nói tiếp: Trên cương vị hai nền kinh tế lớn nhất trong thời buổi khó khăn, cả hai quốc gia "đang cùng nhau giữ vai trò nòng cốt không những trong sự thịnh vượng của chính chúng ta, mà còn là nguồn lực đem lại tăng trưởng và nhân dụng cho toàn thế giới."[9] Các quan chức Mỹ cũng đã nhấn mạnh: khía cạnh quyết định chủ chốt của tái quân bình hai nền kinh tế là cho phép đơn vị tiền tệ TQ, đồng nhân dân tệ , tăng giá. Và theo các quan chức Mỹ, kể từ tháng 6-2010, đồng RMB đã tăng giá 7%, nhưng vẫn chưa đủ. Đây là chuyến viếng thăm TQ lần đầu của Phó T T Biden kể từ ngày nhận chức. Mục tiêu chính của chuyên công du, gồm ba ngày họp ở Bắc Kinh và thị trấn miền Tây Chengdu, là để Biden và các quan chức tháp tùng làm quen và xây dựng quan hệ với Phó Chủ Tịch Xi Jinping, người được chờ đợi sẽ trở thành lãnh đạo của TQ năm tới. Trong ngày Thứ Năm, Biden đã có hai cuộc họp với Phó Chủ Tịch Xi ở Nhân Dân Đại Sảnh và dự tiệc tối do Xi khoản đãi. Biden và Xi đến Đại Sảnh lúc 10:30 sáng. Bên trong Đại Sảnh, cả hai duyệt qua hàng quân danh dự cử hành quốc ca Hoa Kỳ và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Chủ và khách đã trao đổi lời mở đầu tại bàn hội nghị. PCT Xi nói trước, nhấn mạnh đề tài chính của cuộc thăm viếng của PTT Biden: quyền lợi đan xen chồng chéo ngày một gia tăng, nhất là quyền lợi kinh tế, giữa hai nước. Ông nói, "Tôi cũng vậy, tôi tin trong hiện tình, TQ và Hoa Kỳ có nhiều quyền lợi chung ngày một rộng lớn, và chúng ta cùng gánh vác nhiều trách nhiệm chung ngày một nhiều và quan trọng hơn."[10] Về phía Mỹ, PTT Biden nhắc lại chuyến thăm TQ đầu tiên năm 1979, khi ông còn là một nghị sĩ. Trước khi ông có thể hoàn tất lời mở đầu, được soạn thảo dành riêng cho các quan chức và báo chí, các nhân viên an ninh TQ đã buộc một số phóng viên ngoại quốc và vài nhân viên Tòa Bạch Ốc ra khỏi phòng họp. Người ta không rõ đã có sự hiểu lầm gì gây ra sự lộn xộn, thường hiếm hoi trong các cuộc họp cấp cao như thế, nhưng các quan chức Mỹ đã từ chối bình luận về sự kiện nầy. DOLLAR BẢN VỊ HAY ĐƠN VỊ TIỀN DỰ TRỮ QUỐC TẾ Ngay sau khi Standard & Poor's xuống cấp trình độ an toàn của tín dụng Hoa Kỳ, Alan Greenspan, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã nói: "Hoa Kỳ có thể trả bất cứ món nợ nào của mình vì lẽ chúng tôi luôn có thể in thêm tiền để làm việc đó."[11] Để trả lời, người ta thường nhắc lại trường hợp Zimbabwe. Như Cộng Hòa Phi châu thiếu may mắn nầy đã chứng tỏ, chính quyền luôn gặp một giới hạn nào đó đối với số tiền giấy có thể in, trước khi kinh tế phải đối đầu với siêu lạm phát. Tuy nhiên, Zimbabwe không còn bị siêu lạm phát. Theo The Economist Intelligence Unit, một công ty chị em của The Economist, lạm phát trung bình chỉ ở mức 5,5% năm nay. Làm thế nào Zimbabwe đã thành đạt phép lạ đó? Bí quyết là chấp nhận đồng USD như đơn vị tiền tệ chính thức của mình. Như John Chambers thuộc Standard & Poor's đã nói: người Mỹ có thể đã đánh mất mức an toàn tín dụng AAA, nhưng đồng USD sẽ "duy trì cương vị đồng tiền dự trữ quốc tế then chốt dưới bất cứ kịch bản khả dĩ nào."[12] Theo con số mới nhất của IMF, Zimbabwe là một trong 66 quốc gia, ngoài nước Mỹ, hoặc chấp nhận đồng USD như đơn vị tiền tệ chính thức, ràng buộc đơn vị tiền tệ của mình với đồng USD, hay thả nổi hối suất theo đồng USD. Đơn vị tiền tệ cạnh tranh duy nhất hiện nay, đồng euro, chỉ có một phạm vi ảnh hưởng nhỏ bé hơn, gồm 25 xứ, bên ngoài 17 quốc gia thành viên của khu vực euro. Nhóm 66 thành viên trong khu vực USD chiếm một GDP gộp lên tới 9,000 tỉ USD, hay khoảng 14% kinh tế toàn cầu. Danh sách gồm những xứ nhỏ bé như St Kitts và Nevis, vài xứ đông dân như Bangladesh, và vài cường quốc kinh tế bậc trung như Saudi Arabia. Nhóm nầy còn bao gồm các đồng minh như Qatar, và xứ kình địch như Venezuela, luôn coi thường chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ ngay cả khi đã phải hy sinh chủ quyền tiền tệ của chính mình cho Cục Dự Trữ Liên Bang hay ngân hàng trung ương của Mỹ. Trong mọi trường hợp, tất cả không phải đều tốt đẹp bên trong khối USD. Năm 2010, lạm phát trung bình lên tới 5,6% trong mọi xứ thành viên không tính theo kích cỡ GDP. Năm nay, tỉ suất lên đến 8%. Thành viên lớn nhất trong khối là Trung Quốc, xứ kiểm soát chặt chẽ các giao động của đồng RMB đối với đồng USD. TQ nuôi mộng tạo dựng một thứ tiền dự trữ riêng. Nhiều xứ đang theo dõi đồng RMB vì lẽ các xứ nầy không thể để mất khả năng cạnh tranh đối với một xứ xuất khẩu lớn lao như TQ. Một phân tích bởi ba kinh tế gia trong Viện Chính Sách và Tài Chánh Công Quốc Gia ở Delhi cho thấy: đồng RMB đã có ảnh hưởng đáng kể trên tiền tệ 33 xứ. Một nền kinh tế nằm giữa khối USD và khối RMB tiềm năng là Hong Kong. Đồng dollar Hong Kong được định nghĩa theo đồng USD là một điều dễ hiểu, vì đồng RMB cũng đang được buộc chặt với đồng USD. Một khi đồng RMB tách khỏi đồng USD, Hong Kong sẽ bị lôi kéo theo hai chiều hướng khác nhau. Vài người chủ trương chấp nhận đồng RMB làm đơn vị tiền tệ chính thức của Hong Kong song song với đồng dollar Hong Kong. Nhưng các quan chức Hong Kong cho đến nay vẫn luôn giữ thái độ im lặng về đề tài nầy. Họ e ngại thảo luận vấn đề tiền dự trữ thay thế sẽ làm suy giảm lòng tin vào đồng dollar Hong Kong. Sau ngày S&P hạ cấp tín dụng Hoa Kỳ, Norman Chan, chủ nhiệm Hong Kong Monetary Authority đã cho biết: "sự kết nối với đồng USD đã có tác dụng rất tốt đối với sự ổn định tiền tệ và tài chánh của Hong Kong từ năm 1983 đến nay."[13] Tuy nhiên, sự trung thành với đồng USD không thể xem như thái độ tự nhiên, ngay cả trong những xứ đồng USD giữ một vị thế quan trọng nhất. Newsday số ngày 10-8-2011, một nhật báo ở Zimbabwe, đã tự hỏi: liệu đã đến lúc Zimbabwe nên rời bỏ đồng USD, e ngại Zimbabwe rồi sẽ phải nhập khẩu tính khinh suất hay liều lĩnh kinh tế vĩ mô của Mỹ. Vài người nghĩ đồng rand của Nam Phi có thể là một thứ tiền dự trữ thay thế tốt hơn. Mặc dù đồng USD vẫn còn là tiền dự trữ của thế giới, nhưng ngay cả vài người Zimbabwe nay cũng đang tìm đơn vị tiền dự trữ thay thế, đó không thể là một dấu hiệu tốt đối với người Mỹ. Trong bài nói chuyện ngày thứ sáu, 26-8-2011, đương kim chủ tịch Cục Dự Trữ, Ben S. Bernanke, quy lỗi cho các chính trị gia đã gây ra nhiều xáo trộn tài chánh nguy hiểm. Theo Bernanke, thỏa hiệp hồi đầu tháng 8-2011 nâng cao mức trần tối đa chính phủ có thể vay mượn, để đổi lấy cắt giảm thiếu hụt ít nhất 2,1 nghìn tỉ USD, chưa giảm thiểu số nợ xuống mức hầu hết các kinh tế gia tin có thể chịu đựng, và những tranh cãi chính trị hỗn loạn là các lý do Standard & Poor's đã loại các trái phiếu ngân khố dài hạn khỏi danh sách các cơ hội đầu tư an toàn. Bài nói chuyện đã được nhiều quan chức nóng lòng chờ đợi vì lẽ Bernanke cũng như các vị chủ tịch tiền nhiệm thường có thói quen đến dự hội nghị do Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Kansas City chủ trì, để làm sáng tỏ quan điểm của mình về tình hình kinh tế và chính sách tiền tệ. Thay vì mô tả với đầy đủ chi tiết các giải pháp có thể lựa chọn, Bernanke lại chỉ chú tâm vào chính sách tiền tệ và tài chánh. Bernanke đã lặp lại lời kêu gọi cải cách tài chánh quen thuộc nhằm giảm thiểu nợ liên bang trong dài hạn, cùng lúc tránh các cắt xén chi tiêu hay tăng thuế trong đoản kỳ có thể gây khó khăn cho phục hồi kinh tế. Ông cũng nói chính quyền có thể giúp tăng tốc đà phục hồi qua một số biện pháp kể cả "chính sách gia cư tốt và hiếu động."[14] Trong khi đó một số kinh tế gia ngày một đông lập luận: Cục Dự Trữ cần chấp nhận một tỉ suất lạm phát cao hơn. Vài người nói ngân hàng trung ương cần cho phép lạm phát cao hơn để giảm thiều thất nghiệp. Vài người khác còn nói lạm phát có thể hữu ích qua việc giảm thiểu gánh nặng nợ nần của các hộ gia đình khi họ có thể trả nợ với một đồng USD ít giá trị hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, các lãnh đạo Cục Dự Trữ chưa có dấu hiệu chịu thuyết phục. Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
30-8-2011
[1] ...market's cyclically adjusted price/earnings ratio.
[2] ...demanding the United States cure its addiction to debts and live within its means.
[3] The feeling of everyone was that the world economy has just suddenly become very unpredictable. No one wants to see the U.S. economy keep going downhil and a new financial crisis. China and the U.S. are very important in keeping the global economy stable.
[4] The primary purpose of the trip was to build the relationship with Xi Jinping. Recent events in the ecomic sphere have undoubtedly put the U.S. economy and U.S. currency on the agenda.
[5] Institute of American Studies at the China Institutes of Contemporary International Ralations in Beijing.
[6] U.S. Treasury debt is the biggest concern since it's about the safety of China's financial investment.
[7] It always encourages good behavior in China when they think they're dealing with a strong U.S. president. It's hard to see how recent events would have created an impression that he's a strong leader.
[8] That's the overwhelming reason I've come: to talk about jobs and growth, and as was phrased this morning, the reordering of our economies - yours and ours.
[9] ...both nations "hold the key together to not only our own prosperity, but to generating growth and jobs worldwide."
[10] I, too, believe that under the new situation, China and the United States have ever more extensive common interests, and we shoulder ever more important common responsibilities.
[11] The United States can pay any debt it has because we can always print money to do that.
[12] America may have lost its triple-A rating, but the dollars it issues will remain the key international reserve currency under any plausible scenario.
[13] The ink to the dollar has served Hong Kong very well asthe anchor for monetary and financial stability since 1983.
[14] ...good, proactive housing policy.
|
|