|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:31:23 GMT 9
III.- Khoa Tử-vi đời Tống
Tống Thái-tổ được truyền khoa Tử-vi bằng bộ Tử-vi chính nghĩa, giữ làm của riêng của hoàng tộc họ Triệu. Bộ sách chỉ được lưu truyền trong hoàng cung để biết kẻ trung, người nịnh, để biết vận số mưu đồ đại sự. Tất cả công trình nghiên cứu của hoàng tộc nhà Tống, sau được chép thành sách gọi là Ngự giám tử-vi. Nhưng khi nhà Tống mất, thì con cháu nhà Tống dùng bộ sách này làm kế sinh nhai, nên không dám dùng tên cũ nữa, mà đổi là Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. So sánh giữa bộ Tử-vi chính nghĩa và bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, thì bộ thứ nhất cố tính chất lý thuyết đaị cương, như những định luật. Bộ thứ nhì có tính chất thực nghiệm, thu góp kinh nghiệm mấy trăm năm nghiên cứu lại. Như bộ thứ nhất không bàn đến việc :
- Hai người sinh cùng ngày, giờ, tháng, năm, nhưng lá số khác nhau. Bộ thứ nhì đi vào chi tiết này rất kỹ. - Số người sinh đôi. Trong khi bộ thứ nhì nghiên cứu đến mấy trăm cặp sinh đôi. - Số những người chết tập thể. Như chết chìm đò, chết trong chiến tranh. Bộ thứ nhì lại nghiên cứu kỹ hơn, đưa ra giải quyết v.v...
Sau đây chúng tôi trình bày một giai thoại về Tử-vi đời Tống, mà hầu như ai cũng biết, và sử Trung-quốc cũng có chép : Khi còn cầm quân tranh thiên hạ, Tống Thái-Tổ có người em kết nghĩa tên là Trịnh Ân. Ân là một võ tướng dũng mãnh, tài ba, vợ Ân là Đào Tam Xuân cũng là một nữ tướng. Cả hai đã giúp cho Thái-tổ thành nghiệp lớn. Thái-tổ phong cho Trịnh Ân tước vương và thay vua trấn thủ ngoài biên trấn. Nhân đầu năm Thái-tổ xem số các tướng sĩ, văn võ quần thần, thấy số Trịnh Ân là Tướng-quân, Thiên-tướng thủ mệnh đại hạn gặp Kình-dương, tiểu hạn Thiên-hình. Lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kị mới nói với quần thần rằng :
- Trịnh Ân do hai ông tướng thủ mệnh. Tướng sợ nhất kiếm và đao, không sợ Hỏa, Linh, Kiếp, Không. Nay đại hạn ngộ Kình là dao, tiểu hạn ngộ Hình là kiếm. Ta e rằng Ân sẽ bị chém mất đầu. Đã vậy lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kị thì sẽ do kẻ tiểu nhân ám hại. Hơn nữa Kiếp, Kị lại ngộ Hồng, Đào, thì kẻ hại Trịnh Ân sẽ là đàn bà. Triều đình đề nghị gọi Trịnh Ân về triều để được bảo vệ. Bấy giờ Trịnh Ân đương trấn thủ ngoài xa, nghe lệnh triệu hồi về kinh thì tuân theo. Khi đến kinh thấy một toán quân hầu hộ vệ kiệu vua, tiền hô hậu ủng. Ân tưởng Thái-tổ, vội xuống ngựa phủ phục bên đường tung hô vạn tuế. Nhưng khi ngửng đầu lên không phải là vua, mà là cha của một Phi-tần được Thái-tổ sủng ái. Chức tước, địa vị của Trịnh Ân cao hơn nhiều, mà phải lạy phục xuống đất thì nhục quá. Trịnh Ân nổi giận lôi vị Quốc-cữu xuống đất đánh cho một trận về tội tiếm nghi vệ Thiên-tử. Vị Quốc-cửu bị đòn nhừ tử, về nhà báo cho con gái biết, khóc lóc đòi trả thù. Vị phi thấy cha bị đòn đau, trở vào cung phục rượu cho Thái-tổ say mèm, rồi dâng biểu nói Trịnh Ân làm phản đập phá nghi trượng Thiên-tử. Tống thái-tổ say quá không tự chủ được, phê vào chữ Trảm. Thế là Trịnh Ân bị mang ra chém đầu. Khi Thái-tổ tỉnh rượu được triều đình tâu tự sự, thì chỉ còn biết bưng mặt khóc lớn.
Đào Tam Xuân thay chồng trấn ngoài ải, thấy chồng bị thác oan, Tam Xuân truyền quân sĩ để tang, kéo quân về triều hỏi tội. Các tướng phần bất mãn với việc Thái-tổ giết Trịnh Ân, nên không quyết tâm chiến đấu, hơn nữa không địch nổi Tam Xuân nên thua chạy. Tam Xuân vây kinh thành rất gấp. Triều đình tâu giết thứ phi, giết cả nhà Quốc cửu để tạ tội với Tam Xuân. Nhưng Tam Xuân vẫn không lui binh. Tình hình nguy ngập, Triệu Quang Nghĩa tâu với Tống Thái-tổ (Quang Nghĩa là em Tống Thái-tổ, sau được truyền ngôi vua):
- Thần xem số Tam Xuân thấy Vũ-khúc, Phá-quân thủ mệnh. Vũ-khúc thì hay giận, Phá-quân thì nhẹ dạ. Tử-vi kinh nói rằng: Chỉ có Lộc-tồn chế được tính ác của Vũ-khúc, Thiên-lương chế được tính điên của Phá-quân. Vậy ở đây có vị văn thần nào Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đề nghị có thể thuyết phục được Tam Xuân.
Thái-tổ chuẩn tấu, tìm ngay ra vị văn thần có tên Cao Hoài Đức có cách trên, sai ra ngoài thành, thuyết phục Tam Xuân. Quả nhiên Tam Xuân lui binh. Từ đấy trong suốt đời nhà Tống, con cháu họ Trịnh được nối tiếp nhau phong tước.
Như vậy thì Triệu Quang Nghĩa đã học tới trình độ khá uyên thâm khoa Tử-vi, nên dùng phá cách dữ tợn của Tam Xuân và trợ cách giúp Thái-tổ. Nghiên cứu lá số của Thái-tổ, năm đó đại hạn ngộ Kỵ, tiểu hạn đi vào cung nô, gặp Thiên-thương, Kiếp. Hạn Thiên thương gặp Kiếp, Không thường là hạn bị hàm oan nguy đến tính mệnh. Chính Khổng-tử bị hạn này, bị vây tại nước Trần, hút chết đói. Số của Cao Hoài Đức, ngoài Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đại hạn ngộ Quyền, Khốc, Hư, Xương, Lương, Lộc chỉ chế được Tam Xuân. Nhưng chính Quyền, Khốc, Hư nói Tam Xuân nghe theo, và Văn-xương là sao giải hạn Địa-kiếp vậy.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:32:06 GMT 9
IV. Khoa Tử-vi sau Hi-Di
Hi-Di tiên sinh chết không chỉ định ai làm chưởng môn, thành ra học trò tiên sinh mạnh ai nấy nghiên cứu, không thống nhất. Bản chính bộ sách chép tay lại nằm trong hoàng cung, thành ra trong các đệ tử tiên sinh, người được truyền nhiều thì giỏi, người được truyền ít thì dở nhưng vẫn tưởng mình được truyền đầy đủ. Năm 1127, quân Kim chiếm phía Bắc nước Trung-hoa, nhà Tống di cư xuống phía Nam. Khoa Tử-vi cũng theo đó chia làm Bắc-tông với Nam-tông. Bắc-tông thì theo đúng Hi-Di không sửa đổi gì về các sao, an sao, chỉ nghiên cứu rộng ra áp dụng giống như hoàng tộc nhà Tống. Còn Nam phái bị ảnh hưởng của khoa bói dịch, nên đổi rất nhiều :
1.Vòng Thái-tuế Theo Hi-Di có năm sao là: Thái-tuế, Tang-môn, Bạch-hổ, Điếu-khách, Quan-phù. Trong khi Nam phái thêm vào bảy sao nữa là: Thiên-không, Thiếu-âm, Tử-phù, Tuế-phá, Long đức, Phúc-đức, Trực-phù. Vị trí chính của sao Thiên-không được thay bằng sao Địa-không (bịa thêm ra).
2.Giải đoán vận hạn Theo Hi-Di tiên sinh thì đại hạn thứ nhất bắt đầu từ cung Huynh đệ hoặc Phụ mẫu. Trong khi Nam phái đổi là khởi từ cung mệnh. Rồi họ thêm những thứ đặc biệt như: Hạn Tam-tai, hạn Huyết-lộ, hạn Ác-thần, rồi căn cứ vào đó coi mỗi vì sao như một ông thần phải cúng vái trừ tà.
Người ta quen gọi Bắc phái là chính phái và Nam phái là phái Hà-lạc. Đời Nguyên khoa Tử-vi bị cấm ngặt, bởi dân Trung-hoa đồng hóa khoa Tử-vi với nhà Tống, nên Nguyên triều cấm đoán, cũng không có gì lạ. Suốt đời nhà Minh khoa Tử-vi không có gì đặc sắc, chỉ mô phỏng những điều có từ đời Tống. Đến đời nhà Thanh, vua nhà Thanh thấy rằng: Mấy ông thầy Tử-vi thường được lòng dân chúng. Nhiều ông mượtn cớ coi Tử-vi để khích động dân nổi dậy chống triều đình. Vua Khang-Hy mời các nhà Tử vi danh tiếng về kinh, phong cho mỗi vị một chức quan để biến các vị thành tôi tớ triều đình. Lại cử một người Thanh đứng ra cai quản các vị này soạn bộ Tử-vi đại toàn. Bộ này chưa in thành sách. Trong dịp bát quốc xâm lăng Trung-hoa, thì Pháp, Nhật mỗi nước lấy được một bản.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:32:31 GMT 9
V. Tử-vi vào Việt-nam
Có hai thuyết nói về khoa Tử-vi truyền vào Việt-nam.
1.- Thuyết thứ nhất Nói rằng một nhân viên sứ đoàn Đại-việt thời Lý tên Trần Tự Mai đã trộm được trọn vẹn bộ Tử-vi chính nghĩa và bộ Ngự-giám tử-vi, rồi đem về nước. Nhưng chính Tự-Mai cũng chỉ nghiên cứu rồi truyền cho con cháu.
Ghi chú: Từ Trần Tự-Mai đến vua Trần Thái-tông gồm 8 đời. Trần Tự Mai sinh Trần Vỵ Hoàng. Trần Vỵ Hoàng sinh Trần Tự Quang. Trần Tự Quang sinh Trần Tự Kinh. Trần Tự Kinh sinh Trần Tự Hấp. Trần Tự Hấp sinh Trần Lý. Trần Lý sinh Trần Thừa. Trần Thừa sinh Trần Liễu, Trần Cảnh tức vua Thái-Tông nhà Trần.
Nên sau này Hoàng Bính đem Tử-vi cho vua Trần, thì có cuộc tranh luận về Tử-vi giữa Hoàng Bính với Chiêu Minh vương Trần Quang-Khải và Chiêu-Quốc vương Trần Ích- Tắc.
2.- Thuyết thứ nhì Một thuyết khác nói khoa Tử-vi truyền vào Đại-việt từ niên hiệu Nguyên-phong thứ bảy đời vua Trần Thái-Tông (1257). Người truyền sang Đại-việt là tiến sĩ Hoàng Bính. Hoàng Bính sinh vào niên hiệu Gia-thái thứ nhì đời Tống Ninh-Tông (1203), đậu Tiến-sĩ làm Thị độc học sĩ (chức quan đọc sách và giang sách cho vua nghe) thời Tống Lý-Tông. Năm Bảo-hựu nguyên niên (1253), tiên sinh nhân ở chức vụ Thị độc học sĩ, nên nghiên cứu, hiểu tường tận các bộ sách Tử-vi chính nghĩa, Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, tiên sinh nghiên cứu số Tử vi của vua, Hoàng-hậu, các vương thần, khanh sĩ, văn võ đại thần, thì thấy số người cũng sắp táng gia bại sản, hoặc chết thê thảm, hoặc gia đình ly tán. Lúc đầu tiên sinh cho rằng có cuộc thay đổi ngôi vua trong triều, nhưng sau xem đến số của các vị trấn thủ đại thần, cũng đều tương tự cả. Tiên sinh cho rằng đó là vận nước sắp mất. Tiên sinh lại xem số mình và vợ con đều thấy thân cư Thiên-di, mệnh lập tại Tý, cung Thiên-di ở Ngọ. Tiên sinh mới giải đoán rằng: Tý là phương Bắc, Ngọ là phương Nam, vậy gia đình mình có số lập nghiệp ở phương Nam. Lại xem thiên văn, thấy tất cả các tinh hoa đều tụ cả ở phương Nam, mới bàn với phu nhân rằng:
- Ta xem thiên văn thấy phương Nam sáng rực, tương lai thánh nhân đều xuất hiện ở đó. Nay quân Thát-đát (Mông-cổ) chiếm gần hết giang sơn rồi, mà triều đình trên thì vua hôn ám, các quan thì nhũng lạm, lòng dân đã mất, cái vạ vong quốc không xa cho lắm. Âu là ta cáo quan về hưu, rồi đem tộc thuộc xuống phương Nam lánh nạn.
Năm 1257, Hoàng Bính đem tộc thuộc hơn ba nghìn người, đến biên giới Hoa-Việt, xin được vào đất Đại-Việt làm cư dân. Vua Thái-tông nhà Trần sai người lên tra xét, thấy họ quả thật tình, không có chi giả dối, mới thuận cho Hoàng Bính lập nghiệp ở vùng Yên bang. Hoàng Bính dâng người con gái út 16 tuổi, nhan sắc diễm lệ, làu thông thi thư và thuật số, Tử-vi tên Hoàng Chu-Linh. Vua Trần Thái-Tông thu nhận, phong làm Huệ-Túc phu nhân rất sủng ái.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:33:47 GMT 9
VI.- Khoa Tử-vi đời trần
1.- Trường hợp được trọng dụng Khoa Tử-vi được triều Trần biết đến trong một dịp đặt biệt: Thái-tử Hoảng bị bệnh mê man suốt ba ngày rồi mắt trợn ngược, tưởng qua đời. Vua đem thanh Thượng-phương bảo kiếm và áo Ngự-bào để bên cạnh rồi tuyên chỉ ; - Nếu tỉnh dậy sẽ ban cho. Ý nói sẽ truyền ngôi. Nhưng Thái-tử mắt vẫn trợn ngược.
Hoàng hậu, phi tần khóc lóc thảm thiết, chuẩn bị chôn cất, nhân thấy Huệ-Túc phu nhân văn hay chữ tốt, có ý nhờ viết bài vị. Vì vậy phu nhân biết ngày, giờ, tháng, năm sinh của Thái-tử. Phu nhân bấm số, rồi tâu: - Xin Hoàng-hậu đừng lo, Thái-tử chỉ mê man thôi, giờ Sửu ngày mai sẽ tỉnh dậy. Vua và Hoàng-hậu tin tưởng và hỏi tại sao phu nhân biết? Phu nhân tâu: - Thần tính số Tử-vi của Thái-tử thấy Đồng, Âm thủ mệnh tại Tý. Cung phúc tại Dần có Cự, Nhật. Tử-vi kinh nói rằng:
“ Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ, Do ư phúc trạch cát hung”.
Nghĩa là : Giàu, sống lâu, làm lớn, tiếng tăm, chết non, đau thương, khổ, do cung phúc tốt hay xấu. Đây cung Phúc của Thái-tử có Cự, Nhật tại Dần, lại có Tả, Hữu, Xương, Khúc hợp chiếu, thì căn cơ là người thọ lắm. Mệnh lại được Đồng, Âm tại Tý... thế thì Thái tử không chết non, sau còn trở thành vị minh quân anh hùng, tạo sự nghiệp rạng rỡ cho họ Đông-a và cho nhà Đại-Việt nữa. Hiện Thái-tử bị hạn Tang, Hổ, Kiếp, Hình thì đau yếu nặng đó thôi. Vua và Hoàng-hậu còn phân vân chờ đến giờ Sửu hôm sau, thì Thái-tử tỉnh dần, rồi khỏi hẳn. Sau là vua Trần Thánh-tông, một vị vua anh hùng trong lịch sử Đại-Việt. Nhân đó vua Thái-tông mới hỏi lý do tại sao phu nhân biết, phu nhân mới trình bày khoa Tử-vi. Vua Thái-tông triệu Hoàng Bính vào cung, tiên sinh dâng lên hai bộ sách Tử vi chính nghĩa và Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. Vua Thái tông và hoàng tộc nhà Trần lại đua nhau nghiên cứu Tử-vi, và dùng như một nguyên tắc để cử người giúp nước.
2.- Một sự kiện sáng tỏ nhờ Tử-vi Qua những lá số được Huệ-Túc phu nhân và vương hầu đời Trần chấm còn để lại, ngày nay chúng ta thấy được nhiều khía cạnh lịch sử. Như hiện trong văn học sử, người ta không biết vị thiền sư đắc đạo Tuệ-Trung thượng sĩ đời Trần, bản sư của Trần Nhân-tông là Trần Quốc Tung, anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, tước phong Hưng-Ninh vương hay là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con thứ nhì của Hưng Đạo vương?
Căn cứ vào lá số của Huệ-Túc phu nhân, người sống đồng thời với Hưng Ninh vương, lại là thím của ngài, là sư phụ của ngài về khoa Tử-vi, thì những gì do phu nhân viết về ngài phải đúng. Hơn nữa phu nhân lại là người tích cực tiến cử Hưng Đạo Vương giữ chức vụ Tiết-chế binh mã, tức là Tổng tư lệnh quân đội, thì chắc chắn tình nghĩa thím cháu, vua tôi, thầy trò, phu nhân viết về gia đình Hưng Ninh Vương, Hưng Đạo vương không sai. Phu nhân chấm số cho Hưng-Ninh vương có phê như sau:
"... Kinh vân Tử, Tham, Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng. Ngô kim nhật kiến Tuệ Trung chi số: Tử, Tham ư Dậu ngộ Quyền, Đào, tuấn nhã chi lang. Tả, Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử, Tham cư Dậu ngộ Không, Kî tất thoát tục vi tăng”. Nghĩa là sách Tử-vi kinh nói rằng: người mệnh lập tại Dậu hay Mão, mà có Tử-vi, Tham lang thủ mệnh đa số là người thoát tục đi tu. Nay ta xem số của Tuệ Trung thì thấy mệnh lập tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang thủ mệnh, còn gặp Đào-hoa, Hóa-quyền thì là người đẹp đẽ. Được Tả, Hữu hợp chiếu thì là người đa tài, đa năng. Nhưng tiếc rằng cái số và mệnh lập tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang thủ mệnh,gặp Thiên-không, Hóa-kỵ thì thế nào cũng đi tu."
Từ sự kiện trên ta tìm được Tuệ Trung thượng sĩ là Hưng-Ninh vương Trần Quốc Tung, chứ không phải là Trần Quốc Tảng.
3.- Phá cách, trợ cách Qua các tài liệu còn lại, thì khoa Tử-vi đời Trần có một sắc thái đặc biệt hơn ở Trung-quốc, đó là Phá cách và Trợ cách. Câu chuyện Đoàn Nhữ Hài là một bằng cớ. Nếu Tống Thái-tổ biết Trịnh Ân bị nạn mà cứu không được, thì vua Trần Nhân-Tông biết Đoàn Nhữ Hài bị nạn mà cứu thoát. Câu chuyện như sau:
Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc-tử giám ở Thăng-long. Năm 20 tuổi, Hài chuẩn bị để thi Thái-học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học sinh thì Hài phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, nếu thấy khá thì mới được cử đi thi. Một hôm ra chùa Diên hựu (chùa Một-cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn trời, Hài hỏi: - Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe rằng người tu hành có thể biết được vận số sau này sẽ ra sao, có đúng không? Hòa thượng hỏi: - Tiên sinh muốn biết điều gì? - Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh mong sư phụ chỉ giáo cho tương lai.
Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, năm sinh của Hài rồi nói: - Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá vua ở sân rồng, tức là số làm tới tể tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là người đa tài, đa năng. Tử-vi kinh nói, Tả-phụ, Hữu-bật bình tính khắc khoan, khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi chiếu là cách Nhật, nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp minh quân. Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào-hoa, Hồng loan cư nô, lại gặp Hình, thì tất thế nào cũng vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng. Đáng tiếc, đáng tiếc.
Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. Hài giận lắm, tìm vị hòa thượng hỏi: - Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể-tướng, thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái-học sinh được? Không đậu Thái-học sinh thì sao có thể làm Tể-tướng? Vị Hòa-thượng cười đáp: - Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể-tướng mà không đậu đại khoa? Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể-tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái-dương miếu địa, Hóa-khoa từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên-nhan. Nhưng đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên-mã gặp Đà-la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp vua, nhưng tiên sinh nhớ một điều:
Khi được gặp vua, nếu hoàng-thượng ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp cho lão tăng một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng đoán gặp vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa Diên-hựu để hỏi tội hòa-thượng. Nhưng trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa ng phải, té lăn vào bụi cỏ. Hài túm lấy dây cương hạch tội: - Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù ng phải ta? Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ lỗi: - Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây! Hài bực mình nói: - Ta học trường Quốc-tử giám, sắp thi Thái-học sinh, thì Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu, Tam-giáo đều thông. Sao lại không biết chữ? Người cỡi ngựa tiếp: - Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc-tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng? - Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái-học sinh đậu Trạng-nguyên, đó là vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy? Người kia đáp: - Tôi là Vua đây. Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám. Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh-tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ-phúc, thì ng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc. Thượng-hoàng nghe được hỏi: - Văn ở đâu mà hay như vậy? Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền: - Đưa vào đây! Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng: - Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán: - Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung). Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của Hài, rồi phán: - Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay. Vua Anh-tông tâu rằng: - Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không? Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:
“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..
Thượng-hoàng phán: - Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh. Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau: Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa. Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và Thiên-thương, triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài với một cung nữ của vua Anh-Tông. Luật triều Trần rất khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với thường dân khi ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người chồng tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại thần với một cung nữ. Nên cả hai bị khép tội chém đầu. May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa cuốn kinh Kim-cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh- Tông truyền gả cung nữ cho Đoàn Nhữ Hài.
Đoạn trên đây chúng tôi tóm lược trong sách Đông-a di sự, phần Đoàn Nhữ Hài liệt truyện.
4.- Tinh hoa khoa Tử-vi đời Trần Hầu hết những bậc vua chúa, vương hầu nhà Trần đều nghiên cứu Tử-vi, để làm chìa khóa biết kẻ trung, người nịnh, biết vận hạn, mưu đồ đại sự. Như khi triều đình phân vân không biết nên hòa với Mông-cổ, cho Mông-cổ mượn đường đánh Chiêm-thành, hay nhất định chống lại, vua Thái-tông do dự không quyết, Huệ- Túc phu nhân chấm số cho tất cả vua, hoàng-hậu, vương hầu, tướng sĩ, thấy đa số là những vĩ nhân, làm nên những chuyện kinh thiên động địa. Có một số bị chết thảm nhưng tiếng tăm vang dậy. Phu nhân quyết định rằng: nên đánh. Bởi đánh thì sẽ thắng, có thắng các vương hầu mới có sự nghiệp vĩ đại như vậy. Một vài người tuy tuẫn quốc thật nhưng danh thơm muôn thuở. Có ai ngờ việc quyết định vận số quốc gia như thế, mà do khoa Tử-vi chiếm một phần. Khoa Tử-vi đời Trần cũng dựa theo bộ Tử-vi chính nghĩa, rồi nghiên cứu rộng ra về phá cách và trợ cách. Tỷ dụ, Tử-vi kinh nói rằng :
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:34:40 GMT 9
Thiên-hình, Thất-sát cương táo nhi cô. Nghĩa là, người có thiên-hình, Thất-sát thủ mệnh thì tính tình nóng nảy, cứng rắn quá mà hóa cô độc. Muốn khuyên răn, chế ngự bớt sự cuồng táo đó, phải dùng người mệnh có Thái-dương, Thiên-đồng, Thiên-lương, Văn-xương, Văn-khúc, Đào-hoa, Hồng-loan. Bởi các sao này có thể giảm bớt sức nóng nảy của Hình, Sát. Tuyệt đối không dùng người mệnh có Kiếp, Không, Kình, Đà, Tang, Hổ đã đành mà còn tránh dùng người có Tử-vi, Thiên-phủ, bởi Tử, Phủ kỵ Hình, Sát. Như muốn phá người mệnh có Tử, Phủ thì dùng người có Kiếp, Không, Kỵ, Hình thủ mệnh. Tử, Phủ thì ngay thẳng, Kiếp, Không thì gian trá, tiểu nhân vậy dùng những mánh lới hạ cấp sẽ làm cho người Tử, Phủ khốn khổv.v.... Khoa Tử-vi còn đi sâu hơn nữa. Như người có cung Phúc tại Thìn được Thái-dương tọa thủ, tức là được hưởng phúc ngôi mộ ông hoặc bố. Muốn ếm người đó, thì dùng cách ếm mộ ông nội hay cha y, thì y khốn khổ ngay.
Lối này trước đây người ta đã dùng để ếm mộ ông nội nhà văn Phạm Quỳnh, sau này ếm mộ nhà Ngô. Khi cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm còn tại vị, nhiều người thù ghét, sau biết ngôi mộ tổ được cách Long phụng triều thì con trai, con gái, con dâu sự nghiệp đều vĩ đại cả. Người ta đã ếm ngôi mội này. Thành ra khi con long bị đau, nó dẫy lên, lại một người nam bị nạn, khi con phụng dẫy lên thì có một người nữ bị nạn. Cái lối ếm này rất thất đức, nên chúng tôi không trình bày chi tiết vào đây. Tỷ dụ: Nhà Trần đã dùng lối ếm đó để diệt dòng dõi họ Chế ở Chiêm-thành. Trần Khắc Chung vì thương yêu Huyền Trân công chúa, mà công chúa bị triều đình nhà Trần gả cho Chế Mân, Khắc Chung tìm biết số Tử-vi của Chế Mân, rồi tìm ngôi mộ cung Phúc đức ếm, nên chỉ một năm sau Chế Mân chết
VII. Khoa Tử-vi các đời sau
Khi nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi (1400), con cháu họ Trần tản mác đi khắp nơi, có người dùng khoa Tử-vi làm kế sinh nhai, khoa này đã do nẻo đó truyền ra khắp dân chúng. Tương truyền Trần Nguyên Hãn, một danh tướng đã giúp vua Lê Thái-tổ đánh đuổi quân Minh. Nhưng ông là cháu nội của Trần Nguyên Đán, một vị Tể-tướng cuối đời Trần, nên khi đuổi giặc Minh rồi, vua Lê Thái-tổ muốn giết ông. Ông biết ý nói với bạn bè rằng: Ông xem số Lê Thái-tổ là chỉ có thể ở với nhau khi hoạn nạn, lúc đại nghiệp thành thì nhà vua sẽ giết công thần. Vì vậy ông cáo quan về ở ẩn trong dân. Tuy vậy nhà vua vẫn sai 42 vệ sĩ xá nhân về quê bắét ông. Khi đi đường về kinh, ông dùng võ giết các xá nhân rồi trốn đi (sử chép thuuyền chìm xá nhân và ông đều chết hết). Ông trốn vào Thanh-hóa ếm ngôi mộ kết long mạch của nhà Lê, nên sau khi vua Lê Thái-tổ băng, tiếp theo vua Lê Thái-tông bị thượng mã phong mà băng lúc 20 tuổi. Con vua Lê Thái-tông mới hai tuổi lên ngôi vua cũng bị anh là Lê Nghi Dân giết chết. Một giai thoại nữa diễn ra dưới triều Lê.
“Khi Lê Thái-Tổ thành đại nghiệp, về quê tế tổ, một ông lão người cùng quê hỏi rằng: - Tôi với bệ hạ sinh cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm, cùng quê, thế sao bệ hạ làm vua, mà tôi thì vẫn làm dân? Trần Nguyên Hãn đáp: - Đó là cung Phúc cả. Cung Phúc của Chúa tôi với ông đều có Thiên-đồng tọa thủ tại Hợi. Nhưng ngôi mả tổ ông lại không để trúng long mạch, ngược lại ngôi mộ của Chúa tôi để trúng long mạch nên được hưởng mệnh trời. Bởi số giống nhau, nên tướng mạo ông với Chúa tôi tương tự. Tôi nghĩ số ông có phần nào giống Chúa tôi chứ? Ông làm nghề gì nào? Đáp rằng: - Tôi làm nghề nuôi ong, hiện nuôi chín tổ ong. Trần Nguyên Hãn đáp: - Đó tôi nói có sai đâu. Bệ hạ làm Chúa chín châu, thì ông làm Chúa chín tổ ong, tổ nào cũng có vua, có quan, có tướng mà.”
Sau này ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung-quốc mua được bộ Tử-vi âm-dương chính nghĩa, Nam-tông đem về nghiên cứu. Ông có diễn giải ra bằng thơ lục bát khá đầy đủ. Khoa Tử-vi theo Nam-tông truyền vào Việt-nam từ đó.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:36:17 GMT 9
VIII.- Dị biệt chính, Nam phái
1.- Sự khác biệt về số sao
1.1. Bộ Tử-vi chính nghĩa Được coi như là chính thư. Không nói về số sao. Song trong mục dạy an sao có 93 sao, đó là:
1.1.1. Các chòm. Tử-vi: 6 sao là Thiên-cơ, Thái-dương, Vũ-khúc, Thiên-đồng, Liêm-trinh. Thiên-phủ: 8 sao là Thiên-phủ, Thái-âm, Tham-lang, Cự-môn, Thiên-tướng, Thiên-lương, Thất-sát, Phá-quân. Thái-tuế: 5 sao là Thái-tuế, Tang-môn, Điếu-khách, Bạch-hổ, Quan-phù. Lộc-tồn: 17 sao là Lộc-tồn, Kình-dương, Đà-la, Quốc-ấn, Đường-phù, Bác-sĩ, Lực-sĩ, Thanh-long, Tiểu-hao, Tướng-quân, Tấu-thư, Phi-liêm, Hỉ-thần, Bệnh-phù, Đại-hao, Phụcbinh, Quan-phủ. Trường-sinh: 12 sao là Trường-sinh, Mộc-dục, Quan-đới, Lâm-quan, Đế-vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai Dưỡng.
1.1.2. Các sao an theo tháng: 7 sao Tả-phụ, Hữu-bật, Tam-thai, Bát-tọa, Thiên-hình, Thiên-riêu, Đẩu-quân.
1.1.3. Các sao an theo giờ: 8 sao Văn-xương, Văn-khúc, Ấn-quang, Thiên-quý, Thai-phụ, Phong-cáo, Thiên-không, Địa-kiếp.
1.1.3. Tứ trợ tinh: 4 sao là Hóa-quyền, Hóa-lộc, Hóa-khoa, Hóa-Kî.
1.1.4. Các sao an theo chi: 17 sao là Long-trì, Phượng-các, thiên-đức, Nguyệt-đức, Hồngloan, Đào-hoa, Thiên-hỉ, Thiên-mã, Hoa-cái, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Hỏatinh, Linh-tinh, Thiên-khốc, Thiên-hư.
1.1.5. Các sao an theo can: 5 sao là Lưu-hà, Thiên-khôi, Thiên-việt, Tuần-không, Triệtkhông.
1.1.6. Các sao cố định: 4 sao là Thiên-thương, Thiên-sứ, Thiên-la, Địa-võng.
1.2.Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh Đều ghi có 93 sao, giống như bộ Tử-vi chính nghĩa.
1.3.Bộ Tử-vi đại toàn Ghi rõ ràng rằng trong lá số phải có 93 sao như Hi-Di tiên sinh, kỳ dư an thiếu, đủ hay khác đi đều là tạp thư, ma thư của bọn đạo sĩ bịa đặt để lừa nhau, còn giả đạo đức, tỏ ra là người bác học, song chẳng qua là phường lưu manh!
1.4.Bộ Tử-vi Đẩu-số toàn thư Nói về số sao rất lờ mờ. Phần dạy cách an sao có ghi rõ 85 sao. Các sao cũng giống như ba bộ trên. Duy thiếu các sao sau đây: Đào-hoa, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Lưu-hà. Nhưng khi đọc bài phú nói về các sao, thì lại thấy nói tới Đào-hoa, Ân-quang, Thiên-quý v.v...
1.5.Bộ Đông-a di sự Thấy ghi đúng 93 sao như bộ trên, nhưng khi xét các lá số để chiêm nghiệm thì thấy thiếu các sao: Bác-sĩ, Thiên-la, Địa-võng, Thiên-thương, Thiên-sứ. Có lẽ các Tử-vi gia đời Trần quan niệm rằng các sao trên đều ở vị trí cố định, nên không cần an vào như sao Bác-sĩ bao giờ cũng đóng chung với sao Lộc-tồn. Sao Thiên-thương bao giờ cũng ở cung Nô, sao Thiên-sứ bao giờ cũng ở cung Tật-ách và sao Thiên-la bao giờ cũng ở cung Thìn cũng như sao Địa-võng bao giờ cũng ở cung Tuất. Trên đây là các bộ chính thư, dưới đây là các bộ tạp thư.
1.6.Bộ Tử-vi Ấm-dương chính nghĩa Bắc-tông Thấy ghi đến 104 sao. Các sao cũng như giống như chính thư về số sao cũng như cách an sao, song thêm các sao sau đây: Thiên-tài, Thiên-thọ, Thiên-trù, Thiên-y, Thiên-giải, Địa giải, Giải-thần, Thiên-lộc, Lưu-niên văn tinh, Thiên-quan quý nhân, Thiên-phúc quý nhân.
1.7.Bộ Tử-vi âm-dương chính nghĩa Nam-tông Ghi tới 128 sao, các sao cũng giống như sao Bắc-tông, nhưng thêm 24 sao là Thái-túc, Niên-xá, Thiên-khôi, Nguyệt-khôi, Niên-thổ-khúc, Nguyệt-thổ-khúc, Thiên-thương (Nghĩa là kho lúa khác với Thiên-thương ở cung Nô, như vậy trong lá số có hai sao Thiên-thương). Thiên-phủ-khố, Thiên tiễn, Hồng-diệm, Địa-không, Phù-trầm, Sát-nhận. Vòng Thái-tuế được thêm vào 7 sao nữa cho đủ 12 sao, đó là các sao Thiếu-dương, Thiếu-âm, Tử-phù, Tuế-phá, Long-đức, Phúc đức, Trực-phù, Tứ-phi-tinh, Thiên-trượng, Thiên-dị, Mao-đầu, thiên-nhận.
1.8.Bộ Tử-vi thiển thuyết gồm 128 sao Giống như bộ Nam-tông nhưng thêm vào 13 sao nữa rất quái dị, không có trong thiên-văn mà chỉ có trong tiểu thuyết thần kỳ chí quái, ma trâu đầu rắn. Đó là các sao: Nam-cực, Đông-đẩu tinh-quân, Bắc-đẩu tinh-quân, Nam-đẩu tinh-quân, Cửu-thiên huyền nữ, Dao-trì kim mẩu, Vũ-tinh, Lôi-tinh, Thiên-vương tinh, Địa-tạng tinh, Thái-bạch kim tinh.
1.9.Lịch số Tử-vi toàn thư Số sao cũng giống như bộ Tử-vi thiển thuyết song dạy an sao ngược với các bộ trên. Như sao Trường-sinh không những chỉ an ở Dần, Thân, Tî, Hợi mà còn thấy ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Vòng Tử-vi an xuôi, vòng Thiên-phủ an ngược. Số sao cũng có 128 mà thôi.
2.- Sự khác biệt về sao lưu niên 2.1.Chính thư Các sao lưu niên đều an giống nhau, số sao cũng giống nhau: -Vòng Lộc-tồn với 15 sao không có Quốc-ấn, Đường-phù. (Bộ Tử-vi đẩu số toàn thư chỉ nói đến hai sao Kình, Đà thôi) - Thiên-khôi, Thiên-việt, Thiên-mã, Thiên-khốc, Thiên-hư và vòng Thái-tuế 5 sao, Vănxương, Văn-khúc. Tất cả 27 sao.
2.2.Tạp thư Vẫn gồm các sao như bộ chính thư nhưng thêm: Hỏa-huyết, Lan-can, Quân-sách, Quyện thiệt, Bạo-tinh, Thiên-ách, Thiên-cẩu, Huyết-nhận, Huyết-cổ, Ngũ-quỷ và vòng Trường sinh 12 sao.
3.- Sự khác biệt về đại hạn Chính phái an đại hạn như sau: - Từ lúc đẻ ra tới số cục thì đại hạn an tại cung Mệnh. - Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung phụ mẫu, hoặc huynh đệ.
Tỷ như: Người Hỏa-lục-cục, thì từ 1 tới 5 tuổi thì đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì đại hạn ở cung Huynh đệ hoặc Phụ-mẫu.
- Nhưng Nam phái lại an ngay đại hạn thứ nhất ở cung Mệnh, rồi đại hạn thứ nhì ở cung Phụ mẫu hoặc Huynh đệ. Như vậy từ lúc đẻ ra tới số tuổi “số cục” không có đại hạn. Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam phái phải đi tìm nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho đúng, nhất là đoán vận hạn chết rất quan trọng. Bắc phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam phái lại khó khăn. Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam phái không dùng bài phú đoán của Hy-Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì an đại hạn theo Bắc phái. Những người học theo Nam phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. Trong khi những người học theo Bắc phái, thì ngay sau khi học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách xử dụng phú đoán được.
Tỷ dụ: Chính phái đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán: Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên-không nhi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa-kiếp dĩ vong gia. Nghĩa là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên-không nên mất nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa-kiếp nên tan nhà nát cửa. Nếu xét theo Nam phái thì câu phú trên không đúng được:
- Thứ nhất, theo Bắc phái chỉ có sao Thiên-không, Địa-kiếp đi đôi với nhau, không có sao Địa-không. Sao Thiên-không không đóng ở vị trí sao Địa-không của Nam phái và không có sao Thiên-không trước Thái-tuế một cung. Hạng Vũ, đại hạn tới Dần gặp Địa-kiếp, tiểu hạn ở Thân gặp Thiên-không. Đại, tiểu hạn Kiếp, Không gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không đúng:
- Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái-tuế, mà Thiên-không đóng ở Thìn. Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ gặp hạn Địa-không ở Thân mà thôi. Hồi còn ở Việt-nam, chúng tôi dạy Tử-vi cho các vị yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không nên học những bài phú của Hy-Di, mà học các bài phú của Ma-Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ lộn tùng phèo.
4. Sự khác biệt về an sao Trong 93 tinh đẩu không có sự khác biệt. Nhưng duy sau này những bộ tạp thư đưa ra an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái gở khi an vòng Trường-sinh: Họ khởi Trường-sinh ở cả Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa-lộc đi với Thái-dương, Hóa-quyền đi với Vũ-khúc, Hóa-khoa đi với Thiên-đồng, Hóa-kî đi với Thái-âm. Trong khi tạp thư Hóa-khoa đi với Thái-âm, trong khi Hóa-kî đi vối Thiên-đồng.
5. Đối với sách Tử-vi hiện tại Trừ bộ Tử-vi đẩu số toàn thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một đại đức Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với chính phái. Ông Vũ Tài Lục là con của cụ Kép Nguyễn Huy Chiểu, hiện ở Hoa-kỳ. Còn ông Nguyễn Phát Lộc với chúng tôi có chút duyên văn nghệ, trước đây ông là phó Đặc-ủy trung ương tình báo VNCH, không rõ nay ở đâu, nếu ông còn ở Việt-nam thì có lẽ đã bị giết rồi.
Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả Tử-vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử-vi làm kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bới bỏ tâm não ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử-vi không tiền nào, bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một lá số kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:36:45 GMT 9
IX.- Kết luận
Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng. Khoa Tử-vi truyền vào Đại-Việt thời Lý do Trần Tự Mai, hay Hoàng Bính mang vào không cần thiết. Dù Tự Mai hay Hoàng Bính thì Tử-vi đó cũng thuộc chính phái. Nhưng bí truyền trong dân gian. Đợi mãi đến khi ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung-hoa về mang theo bộ Tử-vi của Nam phái, bấy giờ khoa Tử-vi mới được đại chúng hóa. Nhưng cũng chính vì vậy khoa Tử-vi ở Việt-nam có hai trường phái: Một trường chính phái, học rất mau, theo sát Hy-Di tiên sinh. Một trường phái nữa ảnh hưởng Nam phái, vì thất truyền thành ra không có hệ thống nào cả. Những người nghiên cứu Tử-vi cần phân biệt rõ hai hệ thống, để lúc học mới khỏi bị bỡ ngỡ. Tuy nhiên không phải những sách vở nào của Nam phái cũng hỗn tạp, không phải những vị nào của Nam phái đều đoán liều cả. Tử-vi cũng như y học cần đi đến đối tượng là kết quả, ai đoán trúng, người đó đạt được học thuật. Cũng như y học, nói, viết không phải là cứu cánh, mà ai trị khỏi bệnh, người đó có lý. Một vấn đề trước mắt của chúng ta là, làm sao có đủ sách cho các vị nghiên cứu tìm hiểu.
Sách vở của cổ nhân chỉ là nền móng lúc đầu. Tại sao xưa kia Hy-Di tiên sinh đã tìm ra được nhiều nguyên lý Tử-vi, ngày nay chúng ta không thể đi sâu hơn tìm ra những nguyên lý khác. Cái xe hơi thế kỷ thứ 18 thô sơ, người sau cải tiến dần, nay trở thành những xe tối tân. Tử-vi là khoa học, chúng ta có thể tìm thêm, nghiên cứu rộng, để đưa ra những phát hiện mới. Bấy giờ mới đi tìm vận số con người, lại có thể đi xa hơn, phát triển phá cách, trợ cách, một lối phát huy độc đáo đời Trần, cần được đào sâu để đạt được tuyệt đích khoa học vậy.
Viết tại Bruxelles, mùa Đông, Tân-dậu (1981) Trần Đại Sỹ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Hầu hết bằng Hoa-văn, và vài bộ bằng Việt-ngữ, gồm những bộ ghi trên.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:40:49 GMT 9
QUAN NIỆM VỀ TÍNH CÁCH CON NGƯỜI THEO CÁC TUỔI
(trích nguồn: tuviglobal)
Việc sử dụng mười hai con giáp làm biểu tượng cho thời gian chủ yếu gắn liền với các dân tộc nằm trong vòng ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa , trong số này có Nhật Bản . Người Nhật Bản sử dụng mười hai con giáp , sử dụng lịch can chi trong lịch pháp của họ . Việc nghiên cứu hệ can chi đã giúp người Nhật xây dựng phép đoán số tử bình với thành tựu đáng tin cậy . Phép tính tử bình cũng dựa trên tử vi , và sử dụng nhiều đặc điểm của tử vi . Phép tính tử bình dựa vào các yếu tố năm tháng ngày giờ , theo can chi của các yếu tố đó . Từ đây sẽ tạo ra bát tự và người Nhật xét đoán công việc cuộc đời trên sự tính tóan bát tự này theo các quy luật Âm Dương - Ngũ Hành . Họ còn xây dựng một quan niệm cho các tuổi theo các con vật . Sau đây là quan niệm của người Nhật với con người theo các tuổi :
1.Tuổi chuột : vui vẻ , xởi lởi , dễ gần , dễ mến nhưng hay lo vặt vẵnh nên cũng dễ cáu giận . Học thức ít nhưng tự tin và tự trọng . Thích làm đẹp làm sang cho bản thân nhưng trong khuôn khổ cho phép . Tuổi chuột hợp với các tuổi khỉ , rồng , trâu , kỵ các tuổi rắn , chó và lợn , đặc biệt tối kỵ tuổi ngựa .
2.Tuổi trâu : là người nhẫn nại , ít lời , không hay khoe mẽ về mình do đó dễ tranh thủ được sự gíup đỡ của người khác . Tính nóng và cục tính . Chăm làm , khéo tay và quyết đoán , không chấp nhận , không nhúng nhường kẻ cản trở họ . Làm ăn đối với họ là chính , tình cảm là chuyện thứ yếu nên họ khó lấy vợ . Tuổi hợp là tuổi chuột và tuổi gà , không nên lấy tuổi chó và kỵ nhất là tuổi lợn .
3.Tuổi hổ: là ngưởi nhạy cảm , đa tình có đời sống nội tâm cao nên thường do dự . Tuổi hổ trọng người ít tuổi , kỵ người cao tuổi hơn mình . Quả cảm kiên trì nhưng có vẽ ích kỷ , thiển cận , tuổi này giữ vía , ma quỷ cũng phải tránh đường , do đó người Nhật thường cầu mong trong gia đình có người tuổi hổ . Tuổi này hợp duyên với tuổi ngựa và rồng , khắc tuổi trâu , rắn và khỉ .
4.Tuổi mèo: là tuổi thành đạt , nhã nhặn, khiêm nhường , hiếu thảo, và giao thiệp rộng . Ðời người may mắn nhưng hay ba hoa , được cái ba hoa đúng lúc , đúng chỗ . Ít cáu giận, dễ đi vào kinh doanh buôn bán . Tuổi này dễ khóc dễ cười , chăm học, chăm đọc xong ít tài năng đặc biệt. Rộng rãi trong giao tiếp nhưng bảo thủ , so đo . Hợp với tuổi chó , dê, lợn, khắc với tuổi chuột , gà và không hợp tuổi rồng.
5.Tuổi rồng: khoẻ mạnh , năng nỗ , xốc vát, dễ bị khích bác, kích động, khó làm chủ bản thân. Vừa ương gàn vừa độ lượng nên dễ giàu và dễ được tiếng vang , dễ bị lôi kéo vào việc xấu . Tuổi này về già thì nhàn nhưng không kín miệng . Nên lấy người tuổi chuột, rắn, khỉ, gà. Tránh rồng, trâu, chó
6.Tuổi rắn: khôn ngoan, có ý chí, gặp may nhiều và dễ thành đạt. Thích loè loẹt , phô trương ,ích kỷ và keo kiệt. Ða nghi nhưng khi cho tiền ai, thì cũng cho rất nhiều . Họ rất thích khen nịnh vì tuổi này có lãng mạng . Con gái Nhật cho dù tuổi gì cũng thích được một lần gọi là "mỹ nhân tuổi tỵ" . Họ hợp tuổi trâu,gà , xung khắc với hổ, lợn.
7.Tuổi ngựa: vui tính , ba hoa , mồm mép và khá nổi tiếng và dễ được cảm tình . Giỏi kinh doanh , giỏi đoán ý đồ của người khác để "lựa lời mà nói" . Tuổi ngựa nhiều tài nhưng khó tính , cầu kỳ trong ăn mặc, cầu toàn trong công việc nên họ coi tình yêu là thứ yếu .Họ dễ bị lừa trong yêu đương cho dù họ rất thích độc lập sáng tạo . Họ hợp với tuổi hổ, dê, chó. Kỵ tuổi chuột.
8.Tuổi dê: nhạy bén , tinh tế trong cảm xúc, cuồng nhiệt nhưng cũng dễ thất vọng bi quan . Dễ thích nghi với người mọi kiểu . Cuộc đời ít gặp may nhưng rất mộ đạo . Ðời sống vật chất tạm ổn . Họ hợp với người tuổi mèo , lợn, ngựa . Tránh tuổi chuột, chó, trâu.
9.Tuổi khỉ : thông minh, hiểu biết , biết rộng nhưng không để tâm nhiều đến công việc . Nhớ thì làm , quên thì cho qua luôn mặc dù khi sử lý công việc thì khá nhanh . Dễ hoà nhập , quản giao , trí nhớ tốt . Ðường nhân duyên không lấy gì làm may mắn . Gặp tuổi chuột hoặc tuổi rồng thì tốt , gặp tuổi lợn , rắn thì kém may mắn , gặp tuổi hổ thì đại hoạ
10.Tuổi gà : tuổi bận rộn , lo toan, tham công tiếc việc, việc gì cũng muốn làm mà dễ bi quan , thất vọng. Thích hoạt động xã hội. Tự tin nhưng lại ít tin người . Luôn luôn tỏ ra viễn vông , kỳ cục .Tiêu pha hoang toàng nhưng cũng có sao nói vậy . Họ hợp người tuổi trâu , rắn , rồng. Tránh tuổi gà , chuột , chó. Kỵ nhất là tuổi mèo .
11.Tuổi chó: là biểu hiện tập trung mọi phẩm chất tốt của con người . Ngay thẳng , chân thành, biết mình, biết người , có đức tin và cao độ tin cậy cao . Ðại lượng , không vụ lợi, tuổi chó ít giao du, sống kín đáo ,bướng bỉnh và thẳng thắn , giỏi quản lý , giỏi hoạt động xã hội. Họ hợp người tuổi chó , tuổi mèo , ngựa không hợp tuổi trâu , gà kỵ nhất là tuổi rồng , dê.
12.Tuổi lợn: Kiên định, kiên trì , cuộc đời tuổi lợn mang tính mục đích rõ rệt . Ít bạn nhưng có tính sẵn sàng hy sinh vì bạn . Ít nói nhưng vẫn không biết giữ bí mật . Tuổi lợn không thích cãi vả . Ðường tình duyên không thuận . Họ hợp người tuổi mèo , dê , tranh tuổi khỉ , đại kỵ tuổi rắn.
Ðó là cách nhìn nhận của Phương Ðông (qua người Nhật) . Ở Phương Tây cũng có cách nhìn tương tự .
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:42:00 GMT 9
Ðó là cách nhìn nhận của Phương Ðông (qua người Nhật) . Ở Phương Tây cũng có cách nhìn tương tự .
Dưới đây là những điều tóm lược đã được trình bày trong tạp chí Elle của Pháp.
QUAN NIỆM VỀ TÍNH CÁCH CON NGƯỜI THEO CÁC TUỔI :
1.Tuổi Tý : Tý tương ứng với sao Aquaries .
Nhanh nhẹn , tò mò , lạc quan và gần gũi con người . Chuột là giống vật thích nghi với mọi hoàn cảnh . Trong sự nghiệp , người mang tuổi Tý sống thận trọng tỉ mỉ , nhưng luôn luôn xứng đáng với vị trí công tác và tình huống cần xử lý . Ẩn dấu sau bề ngoài bình tĩnh và nghiêm túc , người tuổi Tý có trái tim sôi nổi , luôn hướng về hành động . Trung thực , chung thuỷ với chồng (vợ) và các con , dễ bị xúc động rối loạn khi gặp nỗi đau về tình cảm . Về mặt tài chính, người tuổi tý tiêu tiền không cần tính toán.
Tương hợp:Tý và Sửu tương hợp (tức là hiểu được nhau và giúp đỡ lẫn nhau) , Tý và Thìn :có thành công đảm bảo , Tý và Tuất kính trọng lẫn nhau.
2.Tuổi Sửu: Sửu tương ứng với sao Capricornus
Người mang tuổi Sửu sống tự tin trong mọi hoàn cảnh . Tính kiên định , thực tiễn, làm chủ bản thân, tự khép mình vào kỷ luật thép , không cơ hội và khuất mình. Trung thực thích giao du rộng rãi nhưng chỉ trong mối quan hệ đứng đắn và bền chặt , nhưng có nhược điểm là khó tự diễn đạt những tình cảm sâu kín và thích số cô đơn trọng danh dự hơn là yêu một người chưa tương xứng với mình . Người tuổi Sửu lao động cần cù , làm ra tiền nhưng sống cần kiệm , tìm mọi cách để được cuộc sống an toàn , thanh thản .Ẩn mình sau bề ngoài khiêm nhường , nhưng không để ai nịnh bợ đánh lừa . Nhược điểm duy nhất , không thua thiệt ai bao giờ !
Tương hợp: Sửu và Tý : sống trọn vẹn với bản chất lương thiện sâu kín nhất, Sửu với Mão : có quan hệ bền chặt nhờ hợp tác được với nhau , Sửu và Tị : một câu chuyện tình thơ mộng , Sửu và Dậu : cùng lao động , Sửu và Hợi : chung sống hoà bình .
3.Tuổi Dầnần tương ứng với sao Sagittaries .
Theo đường Hoàng Ðạo , Dần tượng trưng cho đối nghịch . Người tuổi Dần mạnh mẽ nhưng luôn thận trọng, thích tranh đấu, ghét những tật xấu, dám lao mình vào những công việc đầy rủi ro để thử thách bản lĩnh . Người tuổi Dần được những người khác yêu mê say nhưng ngược lại cũng bị ghét cay ghét đắng . Người tuổi Dần không kìm hãm được tình cảm nửa vời . Tính tình lãng mạng, nhiệt huyết trong tình yêu, dao động giữa tính thiếu chung thuỷ và tính độc lập . Cũng chỉ vì bản chất hấp dẫn quá nhiệt tình .
Tương hợp : Dần và Mão :bổ sung cho nhau , Dần và Ngọ : cùng thích độc lập, Dần và Dậu : cùng nhau lao vào chuyện phiêu lưu , Dần và Tuất : chọn tính diệu hiền , Dần và Hợi : hỗ trợ cho nhau.
4.Tuổi Mão :Mão tương ứng với sao Scorpius.
Hiền diệu, thận trọng, cân bằng, ẩn sau bề ngoài bình thản . Nhiều khi dối lừa, bản chất ích kỷ, coi mình đứng trên người khác . Lối sống cầu kỳ, xa hoa nhưng lại không phấn đấu để đạt mục tiêu vì ít đấu tranh, không thích làm một mình . Thích các đồ vật trang trọng tinh tế, yêu nghệ thuật, thích đọc sách và nghiên cứu . Trong tình yêu hạnh phúc thường kín đáo. Khi yêu ai thích có quan hệ bình yên. Ða tình thích được chiều chuộng.
Tương hợp : Mão và Tý : chia vui, Mão và Mùi : có sự hiểu biết tương hổ, Mão và Tuất sống được với nhau, Mão và Hợi cặp hoàn hảo.
5.Tuổi Thìn :Thìn tương ứng với Libra
Người tuổi Thìn có cuộc sống độc đáo: xuất sắc, hấp dẫn, duyên dáng,Người tuổi Thìn giỏi nhìn nhận về thời trang , có đầu óc sáng tạo, nhiệt tình, dám lao mình vào những đề án lớn (không hẳn đã có thể thực hiện được.)với nhiệt tình cao . Tự xét mình có tầm vóc lớn và có cá tính mạnh . Với thuật chiêm tinh Trung Hoa , người tuổi Thìn được coi là người ban ơn và đem lại điều tốt lành cho người khác (Rồng là biểu tượng của hoàng đế Trung Hoa) . Trong lao động và tình yêu, người tuổi Thìn bao giờ cũng phải tìm được nguyên nhân để tự bảo vệ mình , tìm được quần chúng để ủng hộ và giúp đỡ . Người tuổi Thìn chung thuỷ với người mình yêu.
Tương hợp : Thìn và Tý : hợp tác chặt chẽ và năng động, Thìn và Dần : có những bất ngờ lường trước được , Thìn và Tỵ : hiểu biết lẫn nhau, chỉ cần nửa lời, Thìn và Thân : đùa vui với nhau.
6.Tuổi Tỵ:tương ứng với sao Virgo
Người tuổi Tỵ có nghệ thuật tìm được chỗ đứng và thời điểm đúng lúc , đúng thời.Dựa vào linh cảm, tìm cách tiêu năng lượng tối thiểu , nhưng lại đạt kết quả tối đa . Người tuổi Tỵ có tính biết tính toán, sáng suốt, kiên định, biết kìm mình và dấu diếm tình cảm thực của bản thân . Người tuổi Tỵ mê tiền tài, sự thanh lịch, sân khấu, âm nhạc và đồ quý hiếm . Là người có đầu óc thẩm mỹ, nên đòi hỏi cuộc sống bao giờ cũng phải tuyệt vời nhất . Người tuổi Tỵ có nhiều đòi hỏi cao trong tình yêu , nên rất thận trọng và tạo trước cho mình lối thoát an toàn.
Tương hợp : Tỵ hợp với các con vật trong vòng Hoàng Ðạo. Trừ với Dần, Ngọ và Hợi tương khắc.
7.Tuổi Ngọ: Ngọ tương ứng với sao Leo.
Người tuổi Ngọ vốn hay bồn chồn, cúi đầu lao mình trước gió bão và chỉ hạnh phúc khi thấy mình có tự do . Có tính xã giao, dễ giao du với mọi người , nhưng vẫn giữ tính độc lập, thích tìm cuộc sống dễ chịu , dễ dàng có nhiều thay đổi và những chuyến đi . Trong lao động, biết thả sức và chịu đựng gian khổ, không nề nà vượt qua mọi khó khăn nhưng không biết thích sống khép mình hay bị giam hãm . Không ai đóng cương được người tuổi Ngọ, kể cả trong tình yêu . Nhiệt tình, đam mê sống hết mình và dao động giữa ham muốn mê say và tính ích kỷ.
Tương hợp: Ngọ và Dần hợp nhau trong công việc kinh doanh và tình yêu, Ngọ và Mùi gần nhau và hỗ trợ nhau, Ngọ và Dậu hiểu nhau và tạo quan hệ bền nhưng chậm đến với nhau, Ngọ và Tuất bổ sung cho nhau.
8.Tuổi Mùi : Mùi ứng với sao Cancer.
Người tuổi Mùi thiên về tình cảm và mơ mộng , là đấu tranh mang tính Âm dịu hiền nhất trong Hoàng Ðạo Trung Hoa. Người tuổi Mùi luôn cần những lời khuyên, cần chỗ dựa, không thể sống một mình, người tuổi Mùi có tính thẩm mỹ, ưa các đồ vật đẹp, mỹ thuật, sống chung thuỷ gắn bó với những người hay đồ vật, trốn tránh hiện thực gây phiền luỵ tới đời sống riêng . Trong lao động, dao động giữa tính cần mẫn thông minh và tính lười biếng, vì ghép khép mình vào kỷ luật và cơ chế máy móc. Sống tình cảm nhưng yếu đuối , khó khăn khi chọn lựa về người thương nhưng sẵn sàng xả thân cho người mình yêu.
Tương hợp: Mùi và Mão hợp nhau vì cùng quan điểm sống, có quan hệ thành đạt với Ngọ, giúp cho Tị, có ham muốn và cuộc sống gia đình bình yên giống như Hợi.
9.Tuổi Thân: Thân tương ứng với sao Germini.
Người tuổi Thân nhanh nhẹn, láu lỉnh, khôn ngoan, là bậc thầy trong nghệ thuật ứng xử . Họ biết chọn lời chọn ý, chọn sáng kiến, biết tập trung trí tuệ vào những đề án, kể cả những đề án có nhiều rủi ro nhất . Có tài thuyết phục và lấy lòng người , nhưng tuổi thân luôn luôn năng động lao mình vào nhiều đề án cùng một lúc . Họ ưa tiếp xúc gặp gỡ, khám phá, không chịu cô đơn và nghỉ ngơi buồn chán, cả về phương diện sự nghiệp và tình cảm.
Tương hợp : Quan hệ tốt với Tý vì hợp nhau về tính cách , Thân và Thìn kính trọng lẫn nhau, làm vừa lòng nhau,với Ngọ tương đồng về mọi mặt , với Tuất giúp đỡ và kính trọng lẫn nhau.
10.Tuổi Dậu: Dậu tương ứng với sao Taurus.
Khi gà trống gáy, không phải cho người khác mà cho chính bản thân..Tư cách mạnh, tự tin (ít nhất cũng là vẻ bề ngoài), cao thượng trong công việc và tình yêu ,trung thực trong quan hệ, người tuổi Dậu ghét lời nói dối, tính thụ động và nhàm chán trong công tác và sống với trật tự trên dưới nghiêm minh. Chỉ có trật tự như thế người tuổi Dậu mới phát huy được năng lực lao động, nhưng vẫn giữ được tính độc lập và làm việc nhưng không quên vui chơi giải trí . Về tình yêu, ưa được người khác ngắm mình, khen ngợi để khẳng định tính hào hoa phong nhã, ưa các chuyện phiêu lưu tình ái . Biết yêu và chiều người khác nhưng cũng biết tự chiều mình.
Tương hợp : Dậu và Thìn chung nhau những nét về hạnh phúc và quyền uy , Dậu và Tỵ tin tưởng và tôn trọng đức tính quý của nhau , Dậu động viên cho Mùi , nhưng vẫn giữ tính độc lập , Dậu và Hợi hợp thành một gia đình yên ấm .
11.Tuổi Tuất :Tuất tương xứng với sao Aries
Có tính cảnh giác cao , nên người tuổi Tuất biết bảo vệ cho người mình yêu ... tới mức có thể làm mờ cả nhân các người khác . Trung thành , âu yếm , nhưng cũng buồn lặng và bi quan , nhất là khi sống cô đơn - trạng huống mà người tuổi Tuất khó chịu đựng hơn cả . Trong tình yêu , người tuổi Tuất luôn bị tình cảm ghen tuông hành hạ , vì cảm thấy người ta yêu mình chưa đủ . Tình cảm trách nhiệm là động lực sống , lao động . Không bị từ chối những trách nhiệm dù khó khăn nhất , ngược lại chấp nhận một cách nhiệt tình .Người tuổi Tuất không thích làm công việc dở dang , nửa vời .
Tương hợp :có quan hệ tốt và sâu sắc với Tý , có quan hệ năng động với Dần , bổ sung tính cách mạnh cho Ngọ , thông cảm và trung thành với người tuổi Tuất khác , có quan hệ bền vững và lâu dài với Hợi .
12.Tuổi Hợi :Hợi tương xứng với sao Pices.
Người tuổi Hợi là người có tư tưởng thực tiễn và duy vật .Ưa vui chơi hội hè , thích ăn ngon , mặc đẹp và chuộng các chuyện về tình cảm và yêu đương , nhưng thực chất lại là người có lý tưỡng .Nhược điểm chính : tính bướng bỉnh ương nghạnh đôi khi dẫn họ vào con đường xấu , làm cho họ sau này hối hận , nhưng đã quá muộn .Trong lao động , có tính làm cho người khác tin tưởng , luôn luôn tìm mọi cách làm vừa lòng người khác . Là người có tình cảm , ưa được vuốt ve chiều chuộng , lời nói dịu dàng và coi tổ ấm gia đình là hạnh phúc cao nhất .
Tương hợp : Cảm thấy an toàn khi sống với người tuổi Mão , với Ngọ ; có quan hệ bền chắc với Mùi : có nhiều hy vọng hạnh phúc , Tuất bổ sung tính cách cho Hợi , nhất là chuyện gia đình .
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:43:27 GMT 9
Đoán Tính Cách Qua Tên
Hãy viết ra tên của bạn để tìm số tương ứng bằng cách tra các số ứng với từng chữ cái của tên theo bảng sau. Bạn sẽ biết mình là kiểu người như thế nào.
.
Số 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Chữ A B C D E F G H I J K LM N O P Q R ST U V W X Y Z
Ví dụ: NGUYỄN THỊ HẰNG: 5 7 3 7 5 5 2 8 9 8 1 5 7. Lấy tổng của các số này: 5 + 7 + 3 + 7 + 5 + 5 + 2 + 8 + 9 + 8 + 1 + 5 + 7 = 72. Tiếp tục cộng đến khi chỉ còn một con số duy nhất: 7 + 2 = 9. Con số của bạn là 9 .
Số 1: Người năng động
Bạn có tâm hồn lạc quan, thích bắt đầu các dự án mới để tạo ra những chuyển biến và hy vọng cho cuộc sống. Bạn thường ở vị trí điều hành tổ, đội, phòng, ngành vì đủ sáng tạo và can đảm để biến ý tưởng thành hiện thực. Quan sát và đứng bên lề cuộc sống không phải là tính cách của bạn, vì thế hãy tiến lên và chinh phục.
Số 2: Người hỗ trợ
Bạn kín đáo, ngọt ngào trong mối quan hệ với mọi người. Bạn quyết đoán và khá thầm lặng, thích lắng nghe và hỗ trợ bạn bè. Bạn có sức mạnh cá tính và thường tham gia đội nhóm, không thích làm việc một mình. Bạn luôn khiến người khác có cảm giác tin cậy và chia sẻ. Kiên nhẫn và nhân hậu, bạn luôn tạo ra không khí thân mật, dễ chịu để thực hiện tốt các công việc.
Số 3: Người trò chuyện
Bạn vui vẻ, hơi nhẹ dạ, yêu thích trò chuyện với bạn bè. Với bạn, cuộc sống là liên kết với mọi người và bắt tay vào hành động. Bạn rất sáng tạo với suy tưởng mạnh mẽ nhưng không sâu sắc trong phương pháp. Cuộc sống là một dạ tiệc lớn và bạn tham dự với nhiều ý tưởng để thúc đẩy người khác tạo niềm vui cho mình.
Số 4: Người tổ chức
Bạn là người hoạt động và biết tổ chức với ý thức rõ ràng về trách nhiệm bản thân và người ta tin vào bạn. Bạn cũng tinh thông trong kiểm soát và tìm ra vai trò thích hợp cho mỗi người trong nhóm hoạt động. Lý trí và quyết đoán, bạn không sợ công việc nặng nhọc, tỏ ra yêu thích sự bận rộn. Tất nhiên, bạn được ngưỡng mộ và ghen tị.
Số 5: Người du hành
Bạn là người hoạt bát, nhanh nhẹn, yêu thích mọi niềm vui trong cuộc sống và nhất là du lịch. Bạn thích khám phá và thường xuyên tìm câu trả lời cho những tò mò của mình. Một trong những kỹ năng của bạn là dùng sự thu hút của mình trong các mối quan hệ để trở nên nổi tiếng. Bạn thích liên hoan, hội họp và mọi người tìm thấy ở bạn sự thú vị, quyến rũ.
Số 6: Người hòa đồng
Bạn kín đáo, ngọt ngào trong mối quan hệ với mọi người. Với tính cách hòa đồng và là một nhà ngoại giao bẩm sinh, bạn dễ dàng tập hợp mọi người vì mục đích chung. Không tinh nhạy trong phát biểu hay tranh luận, bạn tránh mâu thuẫn bằng mọi giá nên trở thành người hòa giải. Bạn lãng mạn trong tình yêu, luôn kiềm chế để giữ danh dự và đạo đức.
Số 7: Người kiêu hãnh
Bạn độc lập và kiêu hãnh, thường làm theo cái tôi của mình. Cá tính mạnh, không thích bị qua mặt, không đầu hàng trước thất bại, bạn luôn được ngưỡng mộ, là hình mẫu để mọi người noi theo. Tự do luôn là điều quan trọng nhất với bạn. Nên cẩn thận và dè chừng với những rắc rối nảy sinh từ sự thể hiện tự do.
Số 8: Người lý trí
Bạn có cả tính cân bằng và rất lý trí, yêu thích trật tự và cái đẹp. Bạn thường tìm kiếm sự hòa hợp và biết cách tạo ra sự cân bằng trong nhà. Bạn hay để ý chi tiết và giỏi về tài chính. Bạn mạnh mẽ trong phán xét và tách biệt công tư. Nên hướng tới sự thanh thản trong cuộc sống và suy ngẫm về niềm hạnh phúc đơn giản.
Số 9: Người quản lý
Bạn có khuynh hướng suy nghĩ sâu sắc và nghiên cứu về sự vật. Bạn bè thường trông cậy vào lời khuyên hay hướng dẫn của bạn. Bạn biết khi nào nên lùi bước tạm thời trước tình huống khó khăn để tìm ra giải pháp tốt nhất. Bạn cần có giải pháp nghỉ ngơi hợp lý để tạo ra sự thư thái cho tâm hồn. Bạn nhiều linh cảm, thích giải mã các tín hiệu và giấc mơ.
Sưu Tầm
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 13, 2006 1:45:47 GMT 9
(nguồn: Tử Vi Global)
ĐOÁN TƯỚNG TIỂU NHI
Con nít vì cơ thể chưa phát triển đầy đủ nên không thể căn cứ vào ngũ quan, Lục phủ để định tốt xấu như người đã thành niên. Việc coi tướng trẻ em phần lớn chỉ dựa vào thần khí, cử chỉ nên chỉ có tính cách phỏng chừng. Ở mục này, soạn giả cố gắng tổng hợp các nét chính về tướng tiểu nhi phân thành từng trọng điểm để độc giả tiện tham khảo. 1 - Tướng trẻ sơ sinh dễ nuôi Hầu hết trẻ em dễ nuôi và sống đến tuổi thành niên, trong hoàn cảnh bình thường đều có bảy nét tướng chính yếu sau : - Mới sinh ra tóc dài tới sát lông mày - Đầu tròn trịa, da hồng hoặc ngăm đen - Lỗ mũi khi thở phát ra hơi đều và mạnh, lúc ngủ ngậm miệng - Mắt có thần, khi cất tiếng khóc mới đầu giọng cao, tiếng lớn có âm lượng . - Con trai, hai trứng dái ( âm nang ) đàn hồi và có nhiều nếp xếp - Tai và miệng lớn - Mũi cao, môi hồng và dầy cân xứng 2 - Tướng trẻ sơ sinh khó nuôi -Da đầu trông có vẻ quá mỏng và căng -Lông mày quá lớn so với Đầu và mũi quá thấp đường chỉ thấy có phần chuẩn đầu -Mắt thay vì có màu đen bóng như hạt huyền lại có màu lạt như đậu đỏ -Khuôn mặt tròn như mắt gà -Tai nhỏ và mềm như bún -Không có bắp chân -Khi cất tiếng khóc mới đầu rất lớn , về sau nhỏ dần -Thịt nhiều, bệu, xương quá ít -Môi mỏng như giấy và phía sau tai không có nhĩ căn nổi rõ -Đầu lớn, cổ quá nhỏ -Hai mắt lờ đờ không thần -Mắt lúc nào cũng ướt như khóc -Đầu nhỏ, nhọn -Bụng lớn, rốn nhỏ -Tóc vàng khè và thưa, ngắn -Chưa tới sáu tháng mà đã sớm mọc răng trong khi lông mày hầu như không có Sự dễ nuôi và có khả năng sống đến tuổi thành niên hay khó nuôi hoặc yểu tử còn có thể căn cứ vào xương đầu để đoán định. Trong phần xương đầu của tiểu nhi ta cần đặc biệt lưu ý mấy khu vực sau đây : -Xương chẩm ( phía sau đầu , trên xương gáy ) -Sơn căn -Tỵ lương ( Sống mũi ) Xương chẩm nổi rõ và rộng, Sơn căn có bề ngang và cao hơn mặt phẳng của lưỡng quyền, sống mũi ở ngay giữa khuôn mặt và không lệch là dấu hiệu bề ngoài về mặt hình thể cho biết đó là cát tướng. Ngược lại là yểu tướng.
3 - Tướng tiểu nhi phúc hậu Từ khi bắt đầu biết đi đến 5 tuổi muốn biết phúc phận trẻ em dầy mỏng ra sao thì coi thần khí. Thần khí nói ở đây bao gồm tọa thần, ngọa thần và mục thần nghĩa là ánh mắt hoà ái, nói năng thong thả trong trẻo, đi đứng nằm ngồi có vẻ nhàn hạ là tướng phúc hậu. Sau 6 tuổi coi thêm Nam, Trung và Bắc nhạc. Nam nhạc cao rộng đúng cách chủ về sơ vận phúc lộc tốt, Trung nhạc đắc thế thì trung vận khá giả, Bắc nhạc đầy đặn cân xứng thi vãn vận hưởng phúc. Tóm lại cuộc đời về sau của trẻ em có thể biết trước được một cách khái quát ngay từ khi chúng còn thơ ấu.
4 - Tướng tiểu nhi tương lai nghèo hèn Lúc còn nằm trong nôi mà tiếng khóc không trong trẻo chủ về lớn lên vừa nghèo khổ vừa khó nên người, tiếng khóc mà âm thanh tản mát, lớn lên thì vô tài bất tướng. Thần khí bất túc, biết đi quá sớm cũng cùng một ý nghĩa như trên . Từ 3, 4 tuổi trở lên không thích quần áo sang trọng, không phân biệt sạch bẩn Nam, Trung và Bắc nhạc lệch hãm ….đều là dấu hiệu báo trước rằng khi lớn lên khó có thể khá giả. 5 - Tướng tiểu nhi trong bệnh Góc trán có sắc xanh xám, hai mắt thất thần, Thiên thương và ấn đường sắc đỏ, môi miệng xám đen. Khi thấy có những màu sắc trên bắt đầu xuất hiện là phải đề phòng trọng bệnh. Khi bị bệnh nặng, nếu thấy Sơn căn, Tỵ lương, môi, miệng đều xám xanh một lúc là dấu hiệu sẽ chết trong vòng năm, bảy ngày tới. Các bộ vị trên đều từ xám xanh chuyển dần sang màu vàng nghệ thì khoảng ba bốn ngày khó tránh khỏi tuyệt mạng. Nếu mắt lộ phù quang, gián đài, đình uý khô cằn, chuẩn đầu đen, môi miệng vàng là dấu hiệu sắp chết nội trong ngày. Ngược lại, bệnh dù nặng, nhưng màu đỏ của ấn đừơng biến dần sang màu vàng, môi miệng từ đen xạm sang hồng lạt là dấu hiệu nội tại cho biết bệnh tạng bắt đầu thuyên giảm, sinh mạng không có gì nguy hiểm. 6 - Tướng trẻ em trai khắc cha -Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật nệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường -Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng -Thân mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của mũi bị khuyết hãm -Quyền trái lộ -Tai trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược -Nhân trung lệch về bên trái -Khoé miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn môi dưới quá đáng Có từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha. Càng nhiều hơn thì sự khắc phá càng nặng. Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó 7 - Tướng trẻ em trai khắc mẹ -Nguyệt giác thấp, lệch, lẹm có lông măng quá đậm -Lông mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng, trái lẽ thường trong khi phía trái bình thường -Sống mũi lệch về phải, các bộ vị phía phải của mũi có hình dạng bất thường -Quyền phải lệch, lộ, nhọn -Tai phải thấp, nhọn, khuyết -Nhân trung lệch về bên phải -Môi dưới dài hơn môi trên, hoặc khoé miệng phải lệch
Nói chung, khuôn mặt bên phải chủ về mẹ. Nếu các bộ vị bên trái bình thường mà ít nhất hai hay nhiều bộ vị bên phải có các dấu hiệu trên thì có thể tiên đoán được đứa trẻ đó khắc mẹ. Nhẹ thì mẹ con bất hoà, tính tình xung khắc, nặng thì có thể vì sinh đứa con đó mà chết trước chồng .
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:14:27 GMT 9
Chùa-Một-Cột qua lăng-kính Việt Dịch
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng
Từ cuối năm 1995, sau khi đã thấy rõ 36 quân của Trò Khép-Mở KIANO Close-Open Game [một trò-chơi kết-tinh giữa Văn-hóa truyền-thống của Việt-Nam (mà hình ảnh mâm Bánh-Dầy và Đồng Bánh-Chưng lớn buộc bằng 4 lạt, từ thời Tổ Hùng-Vương truyền ngôi cho con-thứ Lang-Liêu, là chính) và luật đối-xứng quân-bình của thiên-nhiên (mọi sinh-vật đều có trục đối-xứng quân-bình tự-thân để dễ tồn-tại)] là 64 tượng-quẻ của Việt Dịch, tôi nhận ra những di-tích của Văn-Minh Việt-Nam (như Gậy-Thần 9 đốt, Thành Cổ-Loa, Chùa-Một-Cột...) xuất-phát từ Việt Dịch (1). Thí-dụ như quẻ Sơn-Lôi-Di là hình ảnh chiếc-thuyền-con hay cái-võng mà Đại-Đế Quang-Trung đã ra lệnh cho quân sĩ xử-dụng trong cuộc hành-quân thần-tốc ra Thăng-Long đánh đuổi quân Thanh vào năm Kỷ-Dậu 1789. Quẻ Hỏa-Thiên-Đại-Hữu là hình Thập-Tự-giá của Thiên-Chúa-Giáo... Và quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc thì rõ-ràng là hình-ảnh Chùa-Một-Cột, một kỳ-quan của Việt-Nam.
Tôi cho rằng người nghĩ ra và cho xây-dựng Chùa-Một-Cột là một nhà Việt-Dịch, hoặc nếu là một Thiền-Sư thì ít ra vị này cũng làu thông Tam-giáo và Việt-Dịch. Vào tháng 10 năm 1990, trong khi giảng về chữ "Tâm", nhân dịp Thiền-Sư Thích-Thanh-Từ dẫn một phái-oàn Tăng Ni và Cư-Sĩ Phật-Tử ghé thăm Hà-Nội, Hòa-Thượng Pháp-Chủ Phật-Giáo Việt-Nam Thích-Đức-Nhuận có nói:"Cái Thái-Cực trong Dịch chính là Chân-Tâm trong Phật-Học vậy". Suy-xét về tượng-quẻ của Việt-Dịch và hình ảnh thực-tế, ta thấy có sự đồng-nhất:
Tượng-quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc Hình vẽ đơn-giản & theo Việt-Dịch Chùa-Một-Cột
O . 0 0 . . 0 0 . . O . O . O .
Trước đây, qua cuốn Việt-Nam Văn-học Toàn-thư (3) và gần đây là "Tập Kỷ-Yếu về Hòa-Thượng Pháp-Chủ" (4) có nói đến Sự-tích Chùa-Một-Cột, nhất là trên tấm bia tại chùa Long-Đọi (Nam-Hà Bắc-phần Việt-Nam). Hai tài-liệu cho chúng ta thấy Chùa-Một-Cột có tên chữ là Chùa Diên-Hựu: Vào thời thịnh-đạt của Phật-Giáo (hay nói đúng hơn, Việt dung Tam-giáo), năm 1049, một hôm vua Lý-Thái-Tôn nằm mộng thấy Phật-Bà-Quàn-Âm hiện ra, đưa nhà vua đến một tòa sen rạng-ngời ánh-sáng. Sau khi tỉnh dậy, Vua thuật lại câu chuyện cho triều-thần cùng nghe. Thiền-Tăng Thuyền-Lão, vị Sư đã hướng-dẫn nhà vua trên đường đạo-hạnh, bàn cùng Vua nên dựng một ngôi chùa để kỷ-niệm và nhớ ơn Đức Quán-Âm. Chùa được xây giữa hồ Linh-Chiếu, trong vườn Tây-Cấm gần Kinh-đô Thăng-Long. Về chi-tiết, Chùa Diên-Hựu được dựng trên một cây cột lớn độc nhất, đỉnh cột là một bông sen nghìn cánh, trên bông sen đặt một tòa nhà đỏ-tía và trong nhà có tượng-Phật-mình-vàng. Kiến-trúc ngôi Chùa đặc-biệt này theo nghệ-thuật Đại-La thời Nhà Lý. Bông sen nghìn cánh tượng trưng cho trí-tuệ viên-mãn:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (ca-dao)
Chùa-Một-Cột hàm-chứa ước-vọng của người Việt, đã đồng-nhất Đức-Phật, hiện-thân của trí-tuệ vô-biên với nguồn sinh-lực vĩnh-cửu của Đất-Trời. Nguồn sinh-lực này chảy qua cột đá, truyền xuống Đất và Nước để bừng trở lên một cuộc sống hạnh-phúc cho thế-gian. Ý-thức nọ và biểu-tượng kia đã đủ là một thách-thức hào-hùng đủ trấn-áp và làm triệt-tiêu ảnh-hưởng và vết-tích Cột-Đồng-Mã-Viện của thực-dân Hán ngày trước và máy-chém của thực-dân trắng sau này:
“Đồng Trung-Hoa đến mang làm cột,
Máy Pháp-Lan sang để chém người” (Lý-Đông-A/ Đ.T.N.)
Chùa-Một-Cột cũng như"Nhà Việt-Nam ở trên Trời" không khác gì ý-nghĩa câu:
"Tuyệt nhiên định phận tại thiên-thư" (Lý-Thường-Kiệt)
hoàn-toàn phù-hợp với giai-đoạn đầu của thời-kỳ khẳng-định nền Độc-Lập Dân-Tộc. Hiện nay ngôi Chùa-Một-Cột vẫn còn tồn-tại trên đất Thăng-Long, Việt-Nam. Và một ngôi Chùa-Một-Cột khác cũng đã được Hòa-Thượng Thích-Trí-Dũng tôn-tạo tại Thủ-Đức, miền Nam Việt-Nam từ năm 1958 với tên chữ là Nam-Thiên-Nhất-Trụ.
Về phương-diện Lý-Dịch, tượng Sơn-Thiên Đại-Súc trong Việt-Dịch là "núi ở trên Trời" như có ý nhắn-nhủ kẻ thù phương Bắc rằng "Các người không thể tiêu-diệt được Dân-Tộc ta đâu, Trời đã định vậy, Trời nâng-đỡ chúng tao!”. Riêng hai chữ "Diên-Hựu" đã đầy đủ ý-nghĩa của sự "hiện-hữu lâu dài"; nay qua Việt-Dịch, ta còn thấy có thêm ý-nghĩa "chất-chứa đại-thể cao-cả” của tượng-quẻ Đại-Súc nữa, thật là dịêu-kỳ. Các vị Thiền-gia Đạo cao Đức trọng, làu thông Phật và Dịch, luôn có tấm lòng Đại-Bi lo cho sự tồn-vong của Dân-Tộc, một nền Độc-lập và cường-thịnh cho Dân Nước qua những biểu-tượng:
- Độc-lập (một cột).
- Diên-Hựu (hiện-hữu lâu bền)
- Đại-Súc (chất chứa những điều cao-cả, thịnh-vượng)
- Đạo-hạnh (như hoa-sen trong đầm bùn, như nhà trên Trời, không ô-trọc, cao-cả)
đầy-đủ Chân – Thiện – Mỹ vậy.
Chùa Một-Cột Diên-Hựu, qua lăng-kính Việt-Dịch, như một nhắn gửi, khuyên răn những kẻ theo khuynh-hướng độc-tôn cần biết hối-cải, lo cho đại bộ-phận Dân-Tộc:
Không chỉ độc-lập xuông (thực sự hay chỉ là chiêu-bài?) mà còn phải gồm cả thịnh-vượng cho toàn-dân!
Biểu-tượng Chùa-Một-Cột, vượt thời-gian và không-gian, vẫn mãi mãi là hình-ảnh hào-hùng, một ước-vọng chính-đáng của Dân-Tộc Việt-Nam.
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng
Thủ-Đô Hoa-Kỳ, tháng 7 năm Đinh-Sửu 1997
Chú-thích-
Xem ‘Văn-Minh Chế-tác của Nòi Việt’, sẽ công-bố, của cùng tác-giả.
Tạp-chí Nguồn-Đạo, chùa Giác-Hoàng phát-hành 1994.
của Hoàng-Trọng-Miên, xuất-bản 1976 Hoa-Kỳ.
Bài "Đôi lần yết-kiến Đức Pháp-Chủ” của G.S. Trần Lâm Biền, trang 126.
Phụ chú:
Dường như tại Thành Lục-Niên ở Thanh-Hóa, dưới thời Vạn-Thắng-Vương Đinh-Tiên-Hoàng cũng có di-tích một Chùa-Một-Cột.
Thành Đại-La cũng được xây-dựng vào thời Nhà Lý (1009-1225), tiều Lý-Thái-Tổ; khi dời Đô đến, vì thấy Rồng xuất-hiện, Vua mới đổi tên là Thăng-Long-Thành. Thành này có kiến-trúc phối-trí theo hình 8 quái (Văn-Minh Việt-Nam / Lê-Văn-Siêu). Xin đề-cập vào một dịp khác.
Tại Thủ-Đức, gần Sài-Gòn, Chùa "Nam-Thiên-Nhất-Trụ" cũng còn được gọi là Chùa Diên-Hựu II. Bề cao xử-dụng trong lòng Chùa cao hơn Chùa chính ở Hà-Nội một chút nên việc đi đứng trong Chùa tương-đối thoải-mái hơn. Chùa do Hòa-Thượng Thích-Trí-Dũng tôn-tạo vào năm 1958. Khuôn viên Chùa có nhiều công-trình phụ, gồm cảtượng Phật lộ-thiên, tháp ‘Báo-Ân’, Nhà Tổ . v . v . Chùa vẫn có tượng-quẻ Đại-Súc và bao-hàm ý-nghĩa Độc-lập Tự-chủ và phồn-vinh cho Dân-Tộc. Được biết, trong tương-lai, Thượng-Tọa Thích-Thanh-Ngọc sẽ là người kế-thừa Trụ-trì Thắng-tích Nam-Thiên-Nhất-Trụ này.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 9:03:10 GMT 9
Hiện nay có rất nhiều sách viết và dịch về Kinh Dịch. Các bạn trẻ lật vài trang xem qua thấy chưa hiểu gì cả, vì vậy, ít bạn chịu khó đọc kinh Dịch. Ngược lại, có bạn đọc ít nhiều sách về Kinh Dịch lại chuyên đem chuyện này ra để loè bè bạn và dự đoán lung tung về số phận từng con người.
Thật ra Kinh Dịch là cái gì vậy? Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay, bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch rồi, mà ông vua huyền thoại này xuất hiện cách đây hàng nghìn năm hay hàng vạn năm thì hiện vẫn chưa có gì chứng minh được. Tri qua hàng nghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, đã lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác phẩm vừa lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, bởi vì chỉ đôi câu đã đủ làm thành một đạo lý rồi. Đời nhà Tống, khi viết về Kinh Dịch học giả Trình Di đã phải thốt lên: “ Thánh nhân lo đời sau như thế có thể gọi là tột bậc”.
Không phải không có lý khi cụ Phan Bội Châu coi Kinh Dịch “Là nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại”. Cụ Phan cho rằng đúng như tinh thần Kinh Dịch: “Bình đẳng, đại đồng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh”, “Tinh thần có quy củ trật tự đạo đức là lẽ công bình của mỗi người”.
Những tư duy Khổng học như “Không sợ dân nghèo mà chỉ sợ phân chia không đều” (sách Luận ngữ), “Tính kế trăm năm không gì bằng trồng người” (sách Hán thư) …
Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng: “Trong khoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi”. Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng nhiều là ít, chẳng khen là chê, chẳng tiến là lùi, chẳng mặn là nhạt, chẳng nhanh là chậm, chẳng xấu là tốt, chẳng to là nhỏ, chẳng trước là sau, chẳng rủi là may.
Hoá ra lâu nay ta quá say sưa với triết học Tây phương mà ít chú ý đến triết học Đông phương, trong khi đó thì người dân thường tuy ít học nhưng lại thường tin tưởng và làm theo vô số những lời dạy của thánh hiền. Sự biến động ghê gớm của các nước phương Tây với đầy những mâu thuẫn nội sinh đồng thời với sự hưng thịnh đột xuất của không ít quốc gia châu Á, kể cả sự phục hồi nhanh chóng sau khi xảy ra tình trạng khủng hoảng tài chính, kinh tế…đã làm cho cả nhân loại không thể không chú ý nhiều hơn đến triết học Đông phương. Văn minh châu Á trở nên hấp dẫn đối với hàng tỉ người dân bình thường ở phương Tây. Kinh Dịch là một trong những thần kỳ của triết học và văn minh Đông phương.
Trong hoạt động của con người rõ ràng là âm dương luôn luôn biến động, song thường vẫn giữ được những sự tự điều chỉnh của cơ thể, nếu không ắt hẳn sẽ sinh ra ốm đau, bệnh tật.
Trong hoạt động xã hội, cái thế của nó là Dịch, cái lý của nó là Đạo, cái dụng của nó là Thần, âm dương khép ngỏ là Dịch, một khép một ngỏ là Biến. Ở đời, dương thường thừa, âm thường thiếu, chính vì không bằng nhau nên đã sinh và sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ là Thiện-ác, nhưng cái thời, cái cơ bản của mỗi lúc một khác, không phải lúc nào cũng giống nhau. Phải hiểu rõ ràng các phép tu, tề, trị, bình thì mới quản lý được xã hội.
Cổ nhân dạy rằng: “Bất học Dịch khả dĩ thức tạo hoá chi đoạn” (Không học Dịch làm gì rõ được đầu mối của tạo hoá). Ngược lại: “Dịch thông tắc vật lý tự thông” (Dịch mà thông thì sự lý trong vạn vật khắc thông).
Ngũ hành có Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ.
Bát quái có Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Thiên can có Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Địa chi có Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dởu, Tuất, Hợi.
Chu kỳ của cửu cung là 1 (Khảm) > 2 (Khôn) > 3 (Chấn) > 4 (Tốn) > 5 (Cấn) > 6 (Càn) > 7 (Đoài) > 8 (Cấn) > 9 (Ly) > 10 (Khảm).
Ngày xưa, cổ nhân ngẩng đầu lên quan sát bầu trời, quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, cúi đầu xuống xem phép tắc dưới đất, xem những sự thích nghi của muôn loài, ngẫm nghĩ ngay về cơ thể mình và nhìn ra xa, gần từ đó làm ra các quẻ để thông suốt đức thần minh, để điều hoà cái tình của muôn vật.
Dịch bắt nguồn bằng các hình ảnh, nói đúng hơn là các phù hiệu, mỗi quẻ có ba hào gồm hào âm, hào dương, ba hào xếp thành ngôi dưới, ngôi giữa, ngôi trên (đối xứng với đất, người và trời), quẻ đơn gọi là kinh quái, quẻ kép gọi là biệt quái. Vì sao như vậy, thì thượng cổ đã làm gì có văn tự. Bát quái, thái cực, hà đồ, lạc thư… đều là hình ảnh.
Người xưa nói: “Đông tình vô đoan, âm dương vô thủy”, còn nói: “Vật phương sinh phương tử”. Có nghĩa là âm dương không có cái trước cái sau, không có cái này sinh ra cái kia, mọi vật đều vừa sinh vừa tử. Thực ra thì cũng không thể phân biệt rạch ròi âm dương, sinh tử. Gọi là dương khi phần dương lấn át phần âm và ngược lai, gọi là âm khi phần âm lấn át phần dương. Âm dương xen kẽ nhau và hàm chứa lẫn nhau. Âm dương lúc dày (thái), lúc mỏng (thiếu) cho nên mới có thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm. Âm là bề trái, dương là bề phải, âm là bề lưng, dương là bề bụng, âm là vật chất bên ngoài, dương là tinh thần bên trong, âm thuộc về đất, dương thuộc về trời, âm nặng nên xuống đất, dương nhẹ nên lên cao. Gọi là âm dương (chứ không gọi là dương âm) có cái lý của nó. Cái gì cũng từ dưới đi lên, từ ngoài vào trong, có phần tối mới nổi được phần sáng.
Kinh dịch thật là thú vị nhưng cũng thật là khó. Đọc mãi không hiểu đừng vội lấy làm lạ. Đọc lại chỉ hiểu thêm một ít. Đọc thêm nữa lại hiểu nhiều hơn. Có nhiều sách kinh dịch, nhưng theo thiển ý của tôi thì chỉ nên đọc nguyên bản Kinh dịch qua bản dịch của học giả cừ khôi Ngô Tất Tố. Đọc Kinh dịch qua sự giải thích của người khác mất hết cả sự thiêng liêng, huyền bí, vả lại đã chắc gì hiểu được đúng để giải thích cho người khác.
Chính vì vậy, các bạn trẻ đừng đọc Kinh Dịch như đọc tiểu thuyết mà nên đọc dẫn từng đoạn, đọc vào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn êm, thanh thoát. Chỉ đọc như vậy mới mong đạo lý lưu thông, nghĩa tình bao quát. Khổng Tử đã bảo là phải “ học Dịch” ( chứ không phải là đọc Dịch), thật là chí lý!
Bạn đọc cứ đọc đi và thấy hiện dần vô số điều tâm đắc.
Hãy xem vài ví dụ:
Trong quẻ Kiều có lời Kinh: “ Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã, tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã... ” (Lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất định, đừng xa rời quần chúng ... ).
Trong quẻ truân có lời Kinh: “ Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã. Di quí hạ tiện, đại đắc dân dã ... ” (Tuy gian truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ hèn, nhưng rồi sẽ được dân tin...) .
Trong quẻ Mông có lời Kinh: “ Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã...” ( dung quẻ phạt người để giữ nghiêm pháp luật).
Quẻ Nhu có lời Kinh: “ Nhu, hữu phu, quang ranh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên...” (Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ sáng láng, hanh thông, chính bền là tốt, có lợi cho việc vượt sông lớn...).
Quẻ Tụng có lời Kinh: “Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã...” (Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp tình...).
Nếu vừa “học Dịch” vừa học thêm chữ Hán trong lời Kinh thì càng ích lợi và thú vị thêm biết bao. Đừng quên rằng trong ngôn ngữ của nhân dân ta hiện nay có tới trên 60% số từ có nguồn gốc từ âm Hán. Nếu tính cũng đừng quên rằng trên thế giới cứ 6 người thì có tới gần hai người biết chữ Hán.
Thiết nghĩ, trong thời buổi cái đúng, cái sai còn lẫn lộn; người tốt, người xấu chưa tường minh; khó chung, khó riêng còn đầy rẫy; nên nhớ rằng cái gốc của dân ta thì mãi mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở. Trong điều kiện như vậy mong sao mỗi bạn trẻ mỗi tuần có xếp chút thời gian để bình tâm đọc (đúng hơn phải nói là học) Kinh Dịch. Nghe lời người xưa mà ngẫm đến chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điều nghĩa...
Cuộc đời sẽ đẹp thêm biết bao, tâm hồn mỗi người sẽ rộng mở và sáng láng thêm biết bao, quan hệ giữa người với người sẽ tốt lành hơn biết bao- bạn cứ kiên nhẫn đọc đi, sẽ thấy đúng là như vậy đấy. Nguyen Lan Dung
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 4:56:28 GMT 9
Kỳ Môn Ðộn Giáp là gì?
Ngọa Long
Kỳ Môn Ðộn Giáp là một khoa học về phương - vị dựa trên cơ sở nguyên lý Cảm Ứng Ðiện Từ.
Ta đều biết trái đất là một từ trường lớn, chịu ảnh hưởng của hệ Mặt Trời, tức chịu ảnh hưởng của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hệ sao khác. Con người là một vật mang điện (nhân điện). Khi một vật mang điện mà di động trong một từ trường nó sẽ bị từ trường ảnh hưởng, cảm ứng và tác động. Mà từ trường của trái đất lại chịu sự ảnh hưởng của cả Hệ Mặt Trời. Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hệ sao khác luôn luôn di chuyển, do đó sự cảm ứng và tác động điện từ vào con người ta cũng luôn luôn thay đổi theo từng ngày, từng giờ, từng phút. Làm cho con người ta lúc khỏe lúc yếu, lúc tốt lúc xấu.
Kỳ Môn Ðộn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sự ảnh hưởng của điện từ trường đó sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.
Kỳ Môn Ðộn Giáp là một môn cổ học tinh hoa của người Trung Hoa được phát minh vào khoảng 5 ngàn năm trước đây. Từ thời Hoàng Ðế lập quốc đã được sử dụng trong trận chiến với Si Vưu. Sau này, được các Thánh hiền khác như Thái Công, Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng Khổng Minh, Lưu Bá Ôn, . phát triển và hoàn chỉnh thêm. Thời xưa, chủ yếu được dùng trong đấu tranh chính trị và quân sự. Hiệnnay, Kỳ Môn Ðộn Giáp đã được áp dụng rất rộng rãi trong mọi lĩnh vực trong đời sống hàng ngày.
Kỳ Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa Lợi Nhân Hòa).
Kỳ là Tam kỳ và Lục Nghi trong 10 Thiên can thì Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ, còn Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Con giáp được ẩn đọng trong Lục Nghi nên gọi là Ðộn Giáp.
Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh Môn, Kinh Môn, và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ mà Gia Cát Khổng Minh đã sử dụng để nhốt Lục TỐn. Tên trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn, và Xà Môn. Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Cái kỳ diệu đó có lẽ cũng chỉ có một số nhà quân sự vĩ đại như Gia Cát Khổng Minh, Tôn Tử, Thái Công, Trương Lương, Lưu Bá Ôn mới hiểu hết được cái thần diệu vĩ đại của nó. Ở Việt Nam chỉ có cụ Trạng Trình là thấu hiểu được môn khoa học này. Vậy Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta.
Ngoài ra còn có Cửu Cung Tinh tức là chín cung màu. Là 1 - Trắng, 2 - Ðen, 3 - Biếc, 4 - Lục, 5 - Vàng, 6 - Trắng, 7 - Ðỏ, 8 - Trắng, và 9 - Tím. Là chín loại bức xạ của tuyến Vũ Trụ, chúng xuyên qua lớp khí quyển tới mặt đất và ảnh hưởng đến sinh lý, hành vi của sinh vật trên trái đất.
Cửu Thiên Tinh là 9 ngôi sao gồm có 7 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu và 2 ngôi sao phụ. Chúng có tên là Thiên Bồng, Tiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm, Thiên Tâm, Thiên Trụ, Thiên Nhiệm và Thiên Anh. 9 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu này có ảnh hưởng tới con người ta trên Trái Ðất đã được biết từ ngàn xưa.
Bát Thần là 8 ông thần có tên Trực Phù, Ðằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Ðịa, và Cửu Thiên.
Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng tới trái đất theo năm, tháng, ngày, giờ và thời tiết, gây nên những cảm ứng khác nhau cho vạn vật trên trái đất trong đó có con người chúng ta, hình thành tốt (cát) hay xấu (hung). Sự biến hóa thay đổi đó được thể hiện trên 9 cung của Bàn Ðồ Kỳ Môn Ðộn Giáp như một mạch điện từ, nó thay đổi biến hóa theo sự vận chuyển của trái đất và Thái Dương Hệ theo năm, tháng, ngày, giờ và tiết khí. Vậy Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp chính là một "Phương vị học" được dùng để tuyển cát, tức dùng để chọn một thời điểm một hướng tốt, thời điểm đó và hướng đó ta có thể có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, để htực hiện mục đích riêng của ta, và biến vận xấu thành vận tốt.
Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp xưa kia được dùng trong đấu tranh chính trị quân sự, sau này mới phát triển và được dùng trong mọi lĩnh vực cả về tướng mệnh học, địa lý bói toán, .
Việc ứng dụng Kỳ Môn Ðộn Giáp trong đời sống hàng ngày.
Như phần trên đã nó, ngoài quân sự và chính trị, Kỳ Môn Ðộn Giáp còn được ứng dụng rất rộng rãi trong các vấn đề đời sống hàng ngày như sự nghiệp, nghiệp vụ, quan trường, thưng mại, tổ chức xí nghiệp, du lịch, kiện tụng, bệnh tật, thi cử, vay mượn, sinh đẻ, mua bán nhà đất, xây cất hay sửa chữa nhà, mở tiệm, tổ hợp kinh doanh, tình yêu, và hôn nhân, di chuyển chỗ ở, dấu ấn, số mệnh học, và chọn ngày giờ tốt ch mọi vấn đề, . (sau này bút giả sẽ dành thì giờ để soạn tiếp các mục).
Riêng về vấn đề chọn ngày giờ tốt và hướng tốt, nếu như ta dựa trên những cuốn lịch để chọn, nhiều lúc không thể phù hợp với vấn đề cụ thể của ta được, vì lịch dựa trên cơ sở bất động để chọn, ví dụ như chọn ngày giờ theo tuổi của ta, nếu xung là xấu nếu hợp là tốt, rồi xem gặp vị thần nào, lành hay dữ thì quyết định là tốt hay xấu. Còn việc chọn ngày giờ theo Kỳ Môn Ðộn Giáp là dựa theo cơ sở động, mà con người ta cũng có thể di chuyển, không phải ngồi yên một chỗ, một khi di chuyển như vậy thì không gian và thời gian cũng thay đổi theo, các vấn đề tốt hay xấu đều thay đổi theo từng giờ từng phút. Do đó, Kỳ Môn Ðộn Giáp có dạy ta là bất kỳ một ngày nào, giờ nào hay hướng nào đều có thể sử dụng được, chủ yếu là phương pháp sử dụng của ta như thế nào để có lợi và tránh được cái bất lợi mà thôi.
Kỳ Môn Ðộn Giáp đầu tiên thời Hoàng Ðế lập thành 1080 cục. Ðến Thái Công rút gọn thành 72 cục. Sau đó Trương Lương rút gọn lại nữa thành 18 cục cơ bản, gồm có 9 cục dương và 9 cục âm. Nếu ta sử dụng hết 1080 cục kết hợp với sự biến hóa của Bát Môn, Cửu Thiên Tinh, Bát Thần, Cửu Cung Tinh và tiết khí thì ta có hàng triệu cách biến hóa. Do sự thiên biến vạn hóa như vậy đã đưa tới sự bách chiến bách thắng của Thái Công, Trương Lương, Gia Cát Khổng Minh, Lưu Bá Ôn lưu danh muôn đời.
Cái khó của Kỳ Môn Ðộn Giáp là ở chỗ thiếp lập các đồ bàn sao cho chính xác. Một khi đã lập xong các đồ bàn thì việc xét đoán lại rất dễ. Nhằm vào cái khó khăn đó, bút giả dã dày công nghiên cứu và đã lập thành các bảng biểu để tra, và tính sẵn thành lịch Ðộn Giáp để độc giả dễ bề sử dụng được nhanh chóng. Cần nói thêm là lịch Ðộn Giáp ở đây bút giả đã chuyển đổi theo lịch Thiên Nhiên và sử dụng Dương Lịch để độc giả tiên việc tra cứu.
Khi lập bàn đồ Ðộn Giáp, độc giả chỉ cần chuẩn bị như sau:
_ 1 tấm bản đồ
_ 1 cái la bàn
_ 1 cuốn lịch Ðộn Giáp
_ Một số kiến thức cơ bản về Can, Chi, Ngũ Hành sinh khắc và tiết khí là đủ.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 28, 2010 9:38:14 GMT 9
Duong Co, Am Phan Trụ đồng Mã Viện
Thiên Ðức Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống. Vào năm 40 sau công nguyên (scn), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng. Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó. Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê. Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là: - Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước? - Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng? - Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch? - Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc? Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải. Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam. h**p://i152.photobucket.com/albums/s196/hp...ip_image002.jpg Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu Nguồn: Thiên Ðức 8/2005 ________________________________________ Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng? Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng. Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi: “Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”. Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc... Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép: Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy. Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang. Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. (viethoc) A- Trụ Ðồng Mã Viện Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau: I - Sự thật của trụ đồng Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu. Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy. “Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219) “Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279). II - Vị trí của trụ đồng Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau: - Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm. - Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm. Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán. Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu? Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com), thì: Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên. Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay. III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý. 1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật. 2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy. 3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý. Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau. IV- Công dụng của trụ đồng Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp. 1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui. 2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử). Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này. Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn. Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng. Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc? 3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng? Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh? B - KIỂN THÀNH Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử. Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau: - Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng. - Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài. - Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác. Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách. Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng. Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc. Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau: Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua... Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org) Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy. Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau: 1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị. Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao. 2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương. 3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn: Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông. Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái. h**p://i152.photobucket.com/albums/s196/hp...ip_image001.jpg Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình) Nguồn: Thiên Ðức 8/2005 ________________________________________ Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa. Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý. Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau: - Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ. - Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?). - Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc. Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây: - Ðặt đúng huyệt vị. - Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm. - Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này. Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách. Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, nhiều người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí. Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng với chứng cứ và lý luận khó có thể phản biện như trên, trong tư cách là một người nghiên cứu phong thủy lâu năm, người viết trân trọng bố cáo: Trước trời đất và mọi người chứng giám rằng: Những âm mưu đê tiện của Mã Viện người Trung Quốc đã dùng thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc Giao Chỉ, nay đã được phơi bày ra ánh sáng. Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho cố chủ. Cấp! Cấp! tuân lệnh! Ðể tăng thêm uy lực hóa giải lời nguyền của Mã Viện, khẩn mong các bạn có cơ duyên đọc bài viết này thì xin cho một lời nguyền rủa từ đáy lòng mình trả lại cho Trung Quốc là nơi xuất phát nguồn gốc của câu chuyện. Người viết mong mỏi các nhà viết sử tiếp nhận thông tin này và tiếp tục làm sáng tỏ sự việc hòng trả lại sự thật cho lịch sử với cầu mong giải tỏa lời nguyền rủa gớm ghiếc để cho dân tộc Việt Nam có thể có những nữ anh hùng dân tộc trong tương lai vậy. Xin trân trọng chờ đợi ý kiến phản hồi của các nhà nghiên cứu phong thủy và bạn đọc. Sưu tầm @ Internet
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 28, 2010 9:40:00 GMT 9
Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
Phong thuỷ là gì? Theo quan niệm của người Trung Hoa thì phong có nghĩa là khí chuyển động còn thuỷ là dòng nước, khí và nước là nguồn năng lượng, là môi trường sống của con người .Vị thế của ngôi nhà, phương hướng, cách bố trí phòng bếp, cầu thang, nhà bếp, cửa chính, cổng điều có liên quan đến lợi thế. Trước nay, rất nhiều người vẫn xem phong thủy như một trường phái mê tín nhưng khoa học đã chứng minh tác động của các nguyên tắc phong thủy là rất quan trọng, góp phần không nhỏ trong thành công cuộc sống con người. Không chỉ ở Trung Quốc mà ngay những nước tiên tiến nhất như: Anh, Đức, Mỹ, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Pháp, Tây Ban Nha, Singapore, Hàn Quốc... cũng đã nghiên cứu và áp dụng phong thủy vào cuộc sống.
Phong và Thủy là hai yếu tố có tác động mạnh mẽ đến đời sống của con người. Nếu phong thủy xấu sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống thể chất và tinh thần của con người. Còn nếu phong thủy tốt sẽ mang lại những điều tốt lành, tích cực.
Phong Thủy Nhà Đất & Cách sửa chữa ( Kể cả nhà của bạn hay nhà bạn thuê ) : Nếu làm đúng như sách ( Không khó đâu ) Thì Gia đình bạn sẽ luôn -Thuận hòa, vui vẻ -Làm ăn tiến tới -Vạn sự Bình an -Sức khoẻ Dồi Dào
Y kien doc gia :
Cột đồng của Mã Viện , đến bây giờ cũng chưa biết rõ ở đâu và có thật hay không :
-Theo An Nam Chí Lược của Lê Trắc , cột đồng ở Khâm Châu ( Quảng Đông ) -Theo hậu duệ của Mã Viện tên là Mã Tổng 馬總 ( làm An Nam đô hộ đời Đường ) , có chôn thêm 2 cột đồng khác tại chỗ khi xưa Mã Viện chôn cột , nhưng không nói rõ chỗ nào . -Theo Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên 水经注-郦道元 , sau khi dẹp được Hai bà Trưng , quân của Mã Viện chia làm 2 đạo , một tiến đánh Cư Phong , một tấn công phủ Vô Biên và cột đồng dựng ở Vô Biên (tức Diễn Châu , nay thuộc Nghệ An ) . -Theo Hậu Hán Thư 後漢書 , hoặc tất cả những chính sử của Tàu , cột đồng không được đề cập đến , có nghĩa là chuyện Mã Viện dựng cột đồng là không có thực .
Sau khi Mã Viện đánh dẹp Hai Bà Trưng , Mã Viện ở lại Giao Chỉ 1 năm để bình định , cũng như sửa sang lại thành quách và kênh ngòi v. v .... , rồi được lịnh của Hán Quang Vũ gọi về ( vì sợ Mã Viện tiếm quyền cát cứ ). Cho nên cũng theo chính sử của Tàu , Mã Viện không xây dựng được một thành lũy nào cả .
Hơn nữa , giả sử Mã Viện là người giỏi địa lý phong thủy , tử vi tướng số , nhưng Mã Viện không biết rằng mình sẽ chết trên đường đánh Ngũ Khê , Nam Man 6 năm sau đó tức năm 49 , đến nổi bị ghép tội thu thập châu báu làm của riêng , chôn thây ngoài hoang dã , vợ con bị liên lụy .
Ngay cả những người khét tiếng về tướng số , phong thủy như Cao Biền , Hoàng Phúc sau này , vẫn không thấy được số mạng mình và không tránh khỏi nạn chết thảm . Cao Biền vì tin tướng số , trọng thuật sĩ , cư xử không công bình với tướng sĩ dưới quyền , bị các tướng nổi loạn bắt giết , phanh thây tại thành Dương Châu .
Hoàng Phúc ( tướng nhà Minh ) giỏi tử vi vận mệnh mà không biết có ngày phải quỳ gối van lạy xin hàng trước Bình Định Vương Lê Lợi .
Trong số 10 tên tướng Tàu qua đánh Đại Việt xưa , có đến 2,3 biết tử vi , phong thủy , thế mà lớp chết , lớp ra hàng không sao kể hết . Cho nên có thể nói chúng không giỏi về nghệ thuật này , trong đó có Mã Viện , Cao Biền , Hoàng Phúc , Mộc Thạnh , Liễu Thăng , Tôn Sĩ Nghị .......
Tướng Tàu thường hay nói hoa , nói " cường điệu " lên rất nhiều . Một nói thành mười , mười thành một trăm , để hù dọa người khác .
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 3:27:48 GMT 9
Chuyện Phong Thủy Xưa Nay
Quảng Đức @ ThuVienToanCau.
Không phải chờ đến thế kỷ thứ 21, sách Phong Thủy mới tràn ngập thị trường. Là vì sách nào cũng đầy lý lẽ, cũng tự cho là bí truyền chính giáo, cho nên người đọc tối tăm mày mặt, khó phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai. Từ thời Tam Quốc, ngay cả 100 thiên trước tác của Quản Lộ, Tổ sư của thuật Phong Thủy, cũng phải bị nghi ngờ là rởm giả, không đáng tin, vì đã có quá nhiều tác giả giả danh. Dương Quân Tùng, Hình phái Đại sư đời Đường , từng là Quốc sư thời Đường Hi Tông , gặp loạn phải chạy về Tràng An thì sách Phong Thủy giả tên ông được rao bán đầy khắp tại Sơn Tây. Lại Bố Y, thầy địa trứ danh đời Tống cho dù đã từ quan, phiêu bạt giang hồ , lênh đênh không nhà không cửa, không màng đến bút nghiên, mà sau khi chết hàng trăm cuốn Phong Thủy giả mạo bàn về long huyệt sa thuỷ, lại ghi rõ người soạn là Tiên tri Sơn Nhân, đúng biệt danh của họ Lại. Ngay cả Lưu Bá Oân, bậc thầy về thần cơ diệu toán, nhân vật để lại nhiều dấu ấn nhất trong lịch sử khoa Phong Thủy, dù chưa từng ghi chép một điều gì về thuật Phong Thủy, mà sau khi mất, dân gian vẫn thấy rất nhiều sách của Lưu Cơ lưu hành trên thị trường.
Dưới thời Tống Huy Tông, đặc biệt vào thời Tống Nhân Tông, mặc dù các học giả đã bắt đầu bàn bạc, nghiên cứu thuật Phong Thủy, tiêu biểu là Hàn lâm học sĩ Lý Tư , nhưng việc ghi chép thì cũng chỉ vẫn do các Thầy Phong Thủy. Một số học giả quan tâm viết, thì lại giấu biệt, không dám đề tên thật. Thời bấy giờ, các học về thuật số vẫn còn bị người đời coi rẻ. Đã là học giả, đại phu mà lại đi viết về thuật Phong Thủy thì coi sao được, xấu hổ chết . Bước qua các triều đại Minh, Thanh, thuật Phong Thủy rất thịnh hành. Vua, quan triều đình cho đến dân chúng đều rất chuộng thuật Phong Thủy. Lúc này, các học giả mới thực sự để tâm ghi chép. Không như dưới các triều Đường, Tống, các tác giả đời Minh ,Thanh viết sách về Phong Thủy phần lớn đều đã dám đề tên thật. . Ngặt nỗi, đại đa số tác giả viết về thuật Phong Thủy, lại là những tay bị trượt rớt ở trường thi. Thời bấy giờ, hể thi rớt là về...... đuổi gà, người nào khá lắm thì về làm nghề gõ đầu trẻ. Vì vậy, dù viết để được cái lưu danh, thì họ cũng vẫn còn mang nặng mặc cảm. Họ thường dùng lời văn bỡn cợt, trêu chọc, để chứng tỏ ta đây bác học, không dị đoan, mê tín; đồng thời là để che dấu khả năng kém cỏi, thiếu kinh nghiệm trong nghề. Một số tác giả am tường, thì lại bị mang nặng cái bệnh giấu nghề truyền kiếp. Học thuật của thánh hiền ngày xưa để lại bị mai một dần. Trình độ của thánh hiền, theo ngày tháng, thì rồi dần cũng chỉ ngang bằng trình độ của người viết sách. Đúng ra, cũng đã có rất nhiều sách Phong Thủy được viết rất nghiêm túc, thì lại bị liệt vào loại Cấm Thư, chỉ dành cho các vương tước trong bảo điện. Đã là cấm thư, hoàn toàn không phổ biến thì làm gì mà phổ cập đến dân đen? Người muốn nghiên cứu khoa này , may mắn vớ đọc đúng sách viết nghiêm túc đi nữa, thì cũng chỉ học được cách tầm long tróc mạch , cao minh lắm cũng chỉ tìm học được thế huyệt phát Trạng Nguyên, hay là thế huyệt phát cự phú, chứ làm gì học được những các thế huyệt phát ngôi Vương ?
Vô tình vớ đọc bài thơ : Quân giải phóng đánh chiếm Nam Kinh của Mao Trạch Đông thì mới rõ té ra họ Mao cũng biết đến cái thế Hổ cứ Long bàn, cũng biết tận dụng cái thế kề núi, dựa sông. Vậy là họ Mao cũng là tay say mê thuật Phong Thủy. Nhưng khi thâu tóm được xã tắc, thì chính họ Mao cách mạng văn hóa, ra lệnh đốt hết sách. Hồ Chí Minh cũng từng nghiên cứu khoa Phong Thủy, từng học Địa Lý cùng thầy với người anh ruột một thời trùm địa lý vùng Nghệ An, tên là Cả Đạt. Nhưng ngay khi nắm được quyền lực trong tay, thì cũng học theo Mao cải cách văn hóa, lại cũng ra lệnh thu đốt hết sách , gọi là để triệt phá tàng dư mê tín. Thuật Phong Thủy ngỡ như đã bị rực lãng vào hư vô. Bỗng dưng, những năm gần đây, sách Phong Thủy lại tràn ngập trên thị trường. Người Trung hoa cho rằng thuật Phong Thủy vốn là tinh hoa lý luận kiến trúc của riêng Trung hoa từ thời cổ đại. Tuy vẫn còn xếp khoa Phong thủy vào loại thần bí. nhưng họ nói lật lại : Phong thủy là một tín ngưỡng, có cơ sở tâm ly,ù đã bám rễ chắc chắn trong lòng người dân của họ. Chính quyền Bắc Kinh cũng đã mới chính thức đưa giáo trình vào giảng dạy taị một số trường Đại học lớn trong nước. Trong khi Hà Nội lại có tham vọng cao hơn là cố dần đưa các công trình này vào chiến lược giáo dục tổng hợp cho một xã hội toàn cầu, và cho đó là thành tích để chào mừng thế kỷ 21.
Tìm đọc một số sách thuộc loại thần bí do HàNội xuất bản bày bán trên thị trường trong những năm gần đây, thì thấy hầu hết đều là sách dịch lại của các tác giả Trung quốc đương thời. Số còn lại là do một số tác giả lấy râu ông này, cắt đầu xén đuôi, cắm sang cằm bà nọ, xào nấu hằm bà lằng, viết thành sách. Người nào không may vớ được , vội vã ngốn đọc thì sớm muộn cũng bị tẩu hỏa nhập ma. Xưa nay ai cũng biết là Khoa Phong Thủy bắt nguồn từ Dịch lý, màø Dịch thì lấy Aâm Dương làm trọng. Muốn nghiên cứu để biết tường tận thuật Phong Thủy, lỡ dại đọc nhằm mấy tập viết đảo ngược Aâm thành Dương, Dương thành Aâm mà chỉ bị tẩu hỏa nhập ma thì coi như là còn may mắn lắm. Không tin thì cứ thử tìm đọc bộ Địa Lý Toàn Thư - Bộ này gồm 3 tập – Khoảng trên 1000 trang - Do Nhà Xuất Bản Thông Tin Hà Nội xuất bản tháng 7 năm 1996 - Bộ sách này bình giải văn hóa thần bí căn bản và tương đối đầy đủ các tác giả nhất - Chỉ cần đọc kỷ trang 81 tập III là trang mấu chốt, luận bàn về Aâm Dương thì mới thấy cái luận ngạo ngược vô cùng – Aâm mà luận lộn thành Dương, Dương mà luận đảo thành Aâm. Aâm Dương đảo lộn , người học mất hết căn bản rồi thì sao mà biết phân biệt đoạn nào thì đúng, đoạn nào thì sai ? Câu nào sẽ không bị đảo và chữ nào thì sẽ không bị lộn ?. Từ cái căn bản đảo lộn Aâm Dương này, một số tác giả trong nước trích dẫn, xào nấu lại viết thành sách bày bán trên thị trường, để cho hậu thế tham khảo, thì không chừng họ Mao ra lệnh đốt sách như vậy mà lại đúng ! Sàng lọc cho thật kỷ, may mắn mới tìm ra được một hai tập viết nghiêm chỉnh, thì tập của tác giả Nguyễn Hoàng Phương có thể được xem là công trình sáng giá và nghiêm chỉnh nhất. Thế nhưng, trong suốt 68 chương, chia ra làm 5 tập, tổng cộng gần 1200 trang , thì chỉ có 7 chương viết về Phong Thủy . Phải thừa nhận giáo sư Phương uyên bác bậc thầy, chỉ tiếc là riêng phần Địa lý Phong Thủy thì thầy cũng chịu bí, cũng phải sao lục viết lại của người xưa. Dù rất có khả năng toán học, có học vị tiến sĩ, mà bàn về Phong Thũy, thầy cũng đành bó tay chào thua. Trong suốt 100 trang viết về Địa Lý Phong Thủy, hoàn toàn không thấy thầy dụng được một toán thuật nào để giải thích rõ thêm cho người học. Khác với tập của Nguyễn Hoàng Phương, thì Bộ Thái Cổ Khoa học Toàn thư– đặc biệt phần viết về Dương Cơ – nhất là phần Sinh Cơ Toán thuật Aùp dụng – từ đầu đến cuối, người viết hoàn toàn dụng toán để chứng minh , giải thích, hướng dẫn rõ ràng. Chỉ tiếc là Bộ Thái Cổ học Toàn thư, vẫn còn trên bản viết tay- người viết lại còn dấu biệt tên thật , chỉ thấy tự xưng là Bổn Sơn Nhân . Thử trích một đoạn tác giả mào đầu của chương khái luận về Dương Cơ Lý Học,: “ .....Với mục đích hoàn chỉnh học thuật của nhân gian và đã phá những sai lầm về tà đạo, Bổn Sơn Nhân biên soạn tập này theo lối tân học, để các độc giả đã sẳn có căn bản khoa học cận đại hiểu rõ được khoa học tính của bộ môn dương cơ lý học, ngõ hầu giúp cho độc giả khỏi bị lừa bịp bởi các tay đạo sĩ nửa mùa , và tự mình tìm hiểu thiên nhiên mà tự vạch ra địa bàn thích nghi nhất cho cuộc sống của mình.......” Chỉ cần mới mào, người đôïc cũng đã thấy nhiều hấp dẫn và may là tập này chưa bị lộn lẫn với các sách Phong Thủy tạp nhạp bày bán trên thị trường hiện nay.
Trong nước , tác giả của Bộ Thái Cổ Học Toàn Thư đã ẩn danh không tính, thì tác giả Nguyễn Hoàng Phương được xem là sáng giá và người đọc sách Phong Thủy do ông viết có thể an tâm . Xê xích trước sau vài năm, ở nước ngoài, xuất hiện một số tác giả tên tuổi chuyên viết về Phong Thủy như Khổng Trọng Hinh, Đoàn văn Thông , Nguyễn phước vĩnh Tung,..... Tác giả Vĩnh Tung thì mới xuất hiện đâu 3, 4 năm trở lại , nhưng Đoàn văn Thông thì trước Nguyễn Hoàng Phương. Không như Nguyễn Hoàng Phương, cả 3 tác giả đang tại ngoài nước đều chỉ viết sâu về Dương Trạch, chưa thấy tác giả nào viết về Aâm Trạch và như thế thì trừ tác giả tập Bộ Thái Cổ Học Toàn Thư, cả 4 tác giả tên tuổi từ trong cho đến ngoài nước, chưa thấy có tác giả nào dụng được các phép toán để chứng minh tính khoa học của khoa Địa Lý Phong Thủy. Riêng tác giả Khổng trọng Hinh sau một loạt bài Phong Thủy tại xứ người, tên ông vừa rộ lẫy lừng thì lại không thấy ông xuất hiện nữa. Rất nhiều độc giả ham mộ tên ông, thật ra chưa chắc là vì họ ham mộ thuật Phong Thuỷ , nhưng chắc là vì ông có văn tài, ông viết về Địa Lý Phong Thủy sao mà nhẹ nhàng, trơn tru, hấp dẫn, y như Kim Dung viết truyện kiếm hiệp. Có tin đồn là sau khi tạo được uy tín cùng khắp trong lãnh vực Địa Lý Phong Thủy , cũng có thể, ông lại bước sang nghiên cứu ngành Nhạc ? CD Nhớ gì Không em của nhạc sĩ Ngọc Loan và CD Còn Dấu Yêu Xưa của nhạc sĩ Đổ Duy Thụy xuất hiện mới đây, mà đài BBC mấy lần phát sóng, dù tìm mãi cũng vẫn không thấy tên ông trên đề mục tác giả, thì chắc gì CD nào có dính dáng đến tài nghệ đa diện của ông ? Vậy mà có người vẫn nghi là ông có liên hệ mật thiết với 1 trong 2 CD đó.
Hơn 500 năm trước, trong Bình Ngô Đại Cáo , Nguyễn Trải viết:
....Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có......
Cường mạnh là Dương. Nhược yếu là Âm, là Nguyễn Trải nói đến Khí thế của nước nhà có khi mạnh, khi yếu, có khi cường, khi nhược. Nhưng trong Địa Lý Phong Thủy thì hoàn toàn ngược khác là vì trên trời thì Dương động mà Aâm thì tĩnh – Dưới đất thì Dương tĩnh, mà Aâm thì lại động. Động thì cương cường, tỉnh thì nhu nhuyễn. Địa Lý Phong Thủy là chuyện đất đai, núi đồi, mồ mả, nhà cửa...và con người, là nói toàn chuyện ở dưới đất, nghĩa là toàn nói về Hình. Cho nên các nhà Phong Thủy nhìn thấy Hình mà cao vút, cương cường, nhọn hoắc thì luận là Aâm Khí, ngụ ý tiểu nhân. Hễ thấy Hình mà lõm thấp, nhu nhuyễn, bằng phẳng thì luận là Dương Khí, ngụ ý quân tử. Thế nhưng, tuy Hình và Khí cho dù có khác biệt, mà lại không thể tách rời được nhau Là vì Hình luôn là để thể hiện Khí và Khí thì dựa vào tượng mà thành Hình, cho nên phải nhìn rõ Hình thấp cao, nhu nhuyễn hay cường kình thì mới phân biệt được Dương Khí hay Aâm Khí . Nhớ rõ, Địa Lý Phong Thủy là nói toàn chuyện dưới Đất cho nên sách vở người xưa để lại đều cho rằng Aâm thì Cường mà Dương thì Nhược . Tác giả sách Phong Thủy Địa Lý nào mà viết ngược Aâm thành Dương, viết Dương thành Âm là vì họ đang nói chuyện ở trên Trời. Mà trời với đất thì khác nhau xa, rất xa............
Chuyện Phong Thủy xưa nay là vậy, mời quý vị đọc kỷ lại sách Phong Thủy Địa Lý có sẵn trên kệ sách, rồi thủng thẳng, suy tư, ngẫm nghĩ , tự mình viết cho lời kết. Quảng Đức
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:18:40 GMT 9
Đại Chúng số 55 ngày 1/8/2000
TỰ CHỌN NHÀ, TỰ XEM HƯỚNG
Chỉ Nam
Trái Ðất là một từ trường lớn, con người từ thời lọt lòng mẹ thì ngay lập tức bị Trái Ðất này phó cho một tính chất, có thể gọi là "nhiễm tư" mà tính chất này sẽ mang theo suốt cả cuộc đời được thể hiện ở năm, tháng, ngày, giờ sinh, và cổ sinh cũng chia con người thành hai nhóm lớn là Ðông Mệnh và Tây Mệnh, đồng thời dựa vào 8 quẻ của Bát Quái là CÀN, KHÔN, CẤN, CHẤN, TỐN, LY, KHÔN, ÐOÀI, để chia con người thành 8 loại.
Người có mạng CÀN, KHÔN, CẤN, ÐOÀI thì gọi là Tây Mệnh. Còn người có mạng CHẤN, TỐN, KHẢM, LY thì gọi là Ðông Mệnh. Người có Ðông Mệnh và người có Tây Mệnh sẽ có các hướng tốt xấu như sau:
Ðông Mệnh: CHẤN, TỐN, KHẢM, LY
Chấn mạng
Tốn mạng
Khảm mạng
Ly mạng
Sinh khí (Ðại cát)
Diên niên (Ðại cát)
Phục vị (Cát)
Thiên y (Cát)
Tuyệt mệnh (Ðại hung)
Ngũ quỷ (Hung)
Lục sát (Hung)
Họa hại (Hung)
Tây Mệnh: CÀN, KHÔN, CHẤN ÐOÀI
Càn mệnh
Khôn mệnh
Cấn mạng
Ðoài mạng
Ta so sánh giữa Ðông mệnh và Ðông trạch, Tây mệnh và Tây trạch, ta thấy như sau:
Ðông mệnh với đông trạch
Mệnh Chấn = tọa Ðông hướng Tây
Mệnh Tốn = tọa Ðông Nam hướng Tây Bắc
Mệnh Khảm = tọa Bắc hướng Nam
Mệnh Ly = tọa Nam hướng Bắc
Tây mệnh với Tây trạch
Mệnh Càn = tọa Tây Bắc hướng Ðông Nam
Mệnh Khôn = tọa Tây Nam hướng Ðông Bắc
Mệnh Cấn = tọa Ðông Bắc hướng Tây Nam
Mệnh Ðoài = tọa Tây hướng Ðông
Như vậy là người Ðông mệnh thì ở nhà Ðông trạch và người Tây mệnh thì ở nhà Tây trạch là thuận, gia đạo được hưng thịnh, còn người Ðông mệnh mà ở nhà Tây trạch hay người Tây mệnh mà ở nhà Ðông trạch sẽ bị suy tàn, bệnh tật tai ương. Ta hãy xét một số ví dụ sau đây.
Ví dụ một người Tây mệnh mạng Cấn, ở nhà Tây trạch là tọa Ðông Bắc hướng Tây Nam.
Ta thấy nhà này có cửa chính mở vào hướng Sinh Khí, phòng chủ nhân cửa cũng mở ở vị trí Cát, còn nhà bếp là tọa hung hướng cát, một nhà như vậy là tương đối lý tưởng, bất kỳ một người nào là Tây mệnh ở vào nhà này đều tốt cả, còn ngược lại, nếu như đổi thành người có Ðông mệnh mà ở vào nhà này thì tình hình hoàn toàn ngược lại. Ta thử xem một người có Ly mệnh mà ở vào nhà nay ra sao.
Ta thấy người mà có Ly mệnh mà ở vào nhà này thì tình hình hoàn toàn ngược lại. Cửa chính, cửa phòng chủ đều mở vào hướng xấu (Hung), còn nhà bếp thì lại tọa Cát hướng Hung hoàn toàn nghịch lý, gia đạo sẽ bị suy tàn và tai ương bệnh tật.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:37:16 GMT 9
Long mạch và văn hoá Việt Nam ở thời toàn cầu hoá Bùi Trọng Liễu Theo một cuốn từ điển, « long mạch » là « mảnh đất tốt, quyết định vận mệnh con người, theo thuyết phong thuỷ ». Tôi là kẻ không may, vì không có được lòng tin, cả đời đã cố tin mà không được, chẳng tin thần thánh thì làm sao mà tin được thuyết phong thuỷ. Tôi chỉ biết đơn giản tôn trọng nhân cách, dù không lý giải được tại sao tự mình lại « phải » buộc mình tôn trọng nhân cách. Cho nên sống đã khó, mà chết cũng sẽ khó. Vì thế mà tôi hoang mang, nên muốn luận bàn chút ít , may ra tìm được trả lời cho vài câu hỏi. Nghe đâu như thưở xưa, người ta tìm nơi có long mạch để táng cha mẹ, hay chính mình, để mong con cháu được « phát ». Nếu tham vọng cao hơn, người ta cũng tìm long mạch để xây cất, mong nghiệp đế vương được lâu dài. Nhưng trong lịch sử, thiếu gì chuyện sinh « con thánh » mà chẳng cần long mạch. Chuyện ta cũng có, chuyện nước ngoài cũng có. Này nhé : - Tục truyền rằng Lý Công Uẩn (sau lên ngôi vua tức là vua Lý Thái tổ) không có cha, bà mẹ đi chơi chùa Tiêu Sơn, nằm mộng thấy mình ngủ với thần rồi về có thai, mà đẻ ra ông (theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ; còn Đại Việt sử ký thì không viết là « nằm mộng » mà chỉ viết là cùng với « người thần » giao cấu rồi có chửa ; tôi không biết là nên nhấn mạnh đến chữ « thần » hay đến chữ « người »). Dù sao, vậy cũng là « không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian thường tình », quả là con đẻ ra là chân mệnh đế vương. Chính vị Lý Thái tổ này chọn đất Thăng Long để đóng đô. - Theo Hoàng Lê nhất thống chí, mẹ chúa Trịnh Khải là Ngọc Hoan, được tuyển vào làm cung nữ của chúa Trịnh Sâm (vì chị bà trước là cung nữ được yêu của chúa Trịnh Doanh, bố Trịnh Sâm). Nhưng được tuyển vào cung, mà không được chúa Trịnh Sâm ngó tới, nên ngày đêm nàng vẫn cô quạnh. Bỗng một đêm, nàng « mơ » thấy một vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng. Nàng « không hiểu » đó là điềm gì, mới đem chuyện này hỏi viên hoạn quan Khê Trung hầu. Viên này biết là điềm sinh con « thánh ». Đêm sau, nhân dịp chúa sai gọi cung tần Ngọc Khoan vào « hầu », Khê Trung hầu cố ý giả nghe lầm tên, đưa Ngọc Hoan vào. Chúa không thích, nhưng đã trót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Nàng chỉ trải qua « một trận mưa móc », liền có thai ngay. Sau đó, sinh ra Trịnh Khải. Chúa Trịnh Sâm nghĩ đầu rồng tuy có khí tượng làm vua, nhưng chỉ là rồng vẽ không phải rồng thật, mà lại chỉ có đầu không có đuôi, chưa hẳn đã là điềm tốt cả. Như vậy là cái ông thần trong mộng này cũng oái ăm : nhờ ông mà bà Ngọc Hoan, với sự đồng loã của Khê Trung hầu, mới được hưởng một trận « mưa móc », để sau đó lòi ra được cái ông chúa Đoan Nam vương Trịnh Khải ; nhưng ông thần chỉ cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng, có thể vì vậy mà làm cho chúa Trịnh Sâm không ưa con cả, mà yêu con thứ Trịnh Cán do bà chúa Chè Đặng Thị Huệ đẻ ra, để cho cơ nghiệp chúa Trịnh đến nỗi : « Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ ; truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ »… - Hoặc như chuyện Tần Thuỷ hoàng bên Tàu. Cuối thời Chiến quốc (từ 479 trước Công nguyên đến 220 trước Công nguyên), Lã Bất Vi là nhà buôn lớn nước Triệu, lập kế đem vợ lẽ của mình là Triệu Cơ, đã có mang với mình nhưng giữ kín, dâng cho Tử Sở (con trai thái tử nước Tần) đang bị làm « con tin » ở nước Triệu. Đúng là « quý nhân » nên mười mấy tháng mới sinh ra, vì vậy Tử Sở không nghi ngờ, cứ tin là con mình, đặt tên là Chính ; lúc sinh ra đã có răng (!), mắt có hai tròng. Rồi Lã Bất Vi bày mưu lập kế, đưa được Tử Sở về nước Tần. Khi vua Tần chết, thái tử lên làm vua, cũng vì Lã Bất Vi mà Tử Sở được làm thái tử rồi làm vua, tức là vua Trang Tương vương. Tương truyền, Trang Tương vương làm vua được ba năm, bị bệnh ; Lã Bất Vi dâng thuốc, vua chết. Thái tử Chính lên làm vua, tức Tần Thuỷ hoàng sau này. Những chuyện này có kể trong Sử ký của Tư Mã Thiên và sách Đông Chu Liệt Quốc. Ai muốn tin thì cứ tin. - Xa hơn là chuyện nữ hoàng Hatchepsout, vua bà nổi tiếng nhất trong 5 vua bà của lịch sử Ai-cập, trị vì hơn 20 năm vào khoảng 1500 năm trước Công nguyên (triều đại thứ 18 thuộc Đế chế Tân đại). Huyền thoại về bà này cũng ly kỳ, được kể qua những di tích trong đền của vua Aménophis III ở Louqsor : Amon-Rê, thần chúa tể của các thần và là « thượng đế » của các vua Ai-cập, quyến rũ hoàng hậu Ahmès, vợ vua Thoutmosis I. Một đêm, thần biến dạng thành hình dáng vua, vào phòng hoàng hậu Ahmès và mê mẩn vì sắc đẹp của bà trong giấc ngủ, lách vào trong chăn của bà. Bà tỉnh giấc, được thần tiết lộ cho biết mình là ai. Trải qua một cuộc mây mưa, thần báo cho biết là bà sẽ đẻ ra con thánh, và đặt tên sẵn cho đứa bé gái tương lai là Hatchepsout, và cho bà biết sau này đứa con gái này sẽ làm vua Ai-cập. Khi vua Thoutmosis I chết, theo tập tục trong hoàng gia, Hatchepsout lấy anh trai cùng cha khác mẹ là Thoutmosis II, một vua kém, nên bà tự nắm quyền và lên ngôi vua (pharaon) ở Karnak (chính bà làm vua, cũng mang râu giả, ăn mặc quần áo như vua « đực », chứ bà không đóng vai hoàng hậu chấp chính)… Người xưa tuyên truyền giỏi thật : rõ ràng là mẹ bà này chính chuyên ngủ với chồng là vua, mà lại đẻ ra được con thần ! Gần đây, tôi đọc báo trong nước, thấy kể có nhiều « đại gia » giàu có – không biết họ làm cách nào mà giàu chóng vậy ? – chọn đất tốt để xây mồ xây mả hoành tráng ; chắc là muốn được « phát » để con cháu lâu dài kế tiếp trọng trách phục vụ nhân dân. Nhưng đấy là chuyện cá nhân. Câu tôi muốn hỏi là câu chuyện lớn hơn : đó là việc di tích khu vực hoàng thành và xây nhà Quốc hội. Tôi đọc báo thấy bao nhiêu loại người phát biểu ý kiến, can việc xây nhà Quốc hội ở khu này. Nào là bảo vệ di tích lịch sử từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn chưa khai quật hết. Nào là bảo vệ những di tích gần đây hơn, nhà Quốc hội hiện tại, nơi đã có những quyết định lớn, tổng hành dinh của quân đội, trong suốt thời gian chống Mỹ, đưa đến ngày Toàn thắng mùa Xuân thống nhất đất nước, vv. Gần đây lại thấy mấy kiến trúc sư phát biểu ý kiến rằng nước Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập toàn cầu, cần có một khu vực trung tâm chính trị, hành chính bề thế tương xứng, mà khu hoàng thành này thì quá hẹp, nên xây nhà Quốc hội mới ở một khu khác rộng hơn, vv. Nhưng tất cả những lý do chính đáng đó đưa ra, cũng chẳng lay chuyển nổi quyết định của những nhà đại điện nhân dân. Chắc không phải lỗi tại mấy doanh nhân, họ là những người lo xây cất kiếm lời, làm giàu, họ đâu có ảnh hưởng được đến đại sự vì dân vì nước ! Vì vậy nên tôi thủ thỉ hỏi thăm, thì có người mách rằng : chắc tại « long mạch ». Không lẽ vậy ? Đã là « long » mà lại là « mạch » thì đâu có bất di bất dịch. Ngay cả các lục địa cũng còn « trôi dạt » nữa cơ mà ! Vả lại nếu tin có « Trời » thì triều Lê đóng đô nơi đó cũng đã bị suy. Long mạch chắc đã dời đi nơi khác. Vả lại thịnh hay suy là ở sự được lòng dân hay không , không lẽ ở cái « long mạch » ? B. T. L.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:37:50 GMT 9
Long mạch : Trả lời những câu hỏi
Bùi Trọng Liễu Đúng là “bút sa gà chết”, đã trót viết ra thì “đâm lao phải theo lao”. Sau khi đăng bài “Long mạch và văn hóa Việt Nam ở thời toàn cầu hóa” trên Zidol www.diendan.org/viet-nam/long-mach-o-thoi-toan-cau-hoa/ và Viet-studies www.viet-studies.info/BTLieu_LongMach.htm, tôi nhận được một số câu hỏi của một số bạn đọc. Tuy câu hỏi của những người đó gửi riêng cho tôi, nhưng đại loại nó cũng tương tự như nhau, nghiêm chỉnh và vui, vả lại chẳng có gì là “mật”, nên nghĩ rằng tôi có thể trả lời chung trên mạng. Tóm tắt những câu hỏi đó là như sau: Khi anh (nghĩa là tôi, tác giả bài đã dẫn) nói long mạch di chuyển, như vậy có phải anh gián tiếp thừa nhận có long mạch không? Nếu vậy, nhờ anh mách giùm long mạch ai đó đang tin, nó chạy về đâu? Có công cụ hay phương pháp nào định vị và cố định nó vào một chỗ được không? Chẳng lẽ nó di chuyển đi đâu thì lại cứ phải di dời theo nó sao? Như thế mệt lắm! Anh viết một câu về doanh nhân, cho rằng họ là những người lo xây cất kiếm lời, làm giàu, họ đâu có ảnh hưởng được đến đại sự vì dân vì nước. Anh có ý chê bai họ không ? Anh viết rằng triều Lê đóng đô nơi đó (khu hoàng thành) cũng đã bị suy. Anh có thể nói kỹ hơn là long mạch lúc đó nằm đâu? Bây giờ tôi xin cố trả lời những câu hỏi hóc búa này. Trước hết, tất nhiên là tôi không “tin” gì hết; như tôi đã viết, tôi cố tin thần thánh mà còn chẳng tin được thì sao mà tin được long mạch. Tuy nhiên, tôi “ghi nhận” lòng tin của người khác, đặc biệt là của “mấy” người có quyền thế. Và từ đó mà tôi luận. Rằng long mạch nó chạy về chỗ nào mà phù hợp với lòng dân. Nếu toàn dân không phát biểu được thì đã có những thức giả, nhà khoa học, chuyên gia, trí thức, vv. có tâm có tầm, nói lên. Đấy là một phương pháp, phần nào nó cũng xác định được là long mạch nó chạy về hướng nào. Định vị nó ở chỗ nào, ở khu đất nào ở Hà Nội ngoài khu hoàng thành, thì theo tôi không phải là vấn đề chính, thiếu gì khu ! Còn chuyện mỗi lần nó di dời đi đâu, thì có phải di dời theo nó không, theo tôi không có vấn đề : ở thế kỉ 21 này, nó cũng như cái điện thoại di động hay cái máy tính sách tay, đi đâu sách nó theo cũng được mà! Hồi kháng chiến chống Pháp, nó di động trong ATK (An Toàn Khu, nơi đóng của Chính phủ kháng chiến) có ai hỏi nó cố định chỗ nào đâu, vì thế mà có chiến thắng Điện Biên, vv. Còn cái thời gian CCRĐ, thì nó đi nghỉ ở nước ngoài, nên vắng mặt. Tôi không hề có ý chê bai “các” doanh nhân, trong đó không ít người làm ăn lương thiện; họ là những người góp phần làm ra của cải cho đất nước. Tôi chỉ viết rằng về “mấy” doanh nhân – tôi quên viết thêm : trong đề án xây cất nhà Quốc hội ở khu hoàng thành – tôi đoán rằng không vì chuyện lo kiếm lời của họ mà long mạch nó nằm ở đó. Như vậy tôi cũng không có lời chê họ. Bây giờ tôi xin trả lời câu hỏi về triều Lê. Mà cũng chỉ xin nói tóm tắt thôi vì dài dòng lắm. Đúng là tôi đã sơ suất không nói kỹ Lê nào. Thời Lê Thái tổ, Thánh tông, thì chắc long mạch nó nằm ở khu hoàng thành. Còn sau đó, khi họ Trịnh, đặc biệt là Trịnh Tùng chiếm lại được Đông Đô (1592), thì long mạch nó nằm ở phủ Chúa (nếu tôi không nhầm thì nó nằm đâu ở cái khu Thư viện Trung ương ngày nay) chứ nó có còn ở trong hoàng thành nữa đâu. Vua Lê chỉ là cái bù nhìn, chúa Trịnh cho sống thì mới được sống, bắt chết thì phải chết như vua Lê Kính tông, phải tự thắt cổ (1619). Không ít vua Lê là cháu chúa Trịnh do mẹ họ Trịnh đẻ ra, có khi nuôi dạy ngay trong phủ Chúa. Vua Lê thuở đó bị đối xử xem ra cũng không được bằng mấy vua nhà Nguyễn sau này dưới thời Pháp thuộc. Ngay cả cái ông vua Lê Hiển Tông, đã nhịn nhục đủ điều khi bị chúa Trịnh Sâm bắt nạt, vậy mà cũng không cứu nổi con trai là thái tử Duy Vỹ bị chết (Duy Vỹ là bố của vua Lê Chiêu Thống). Câu chuyện như thế này, theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC, bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, nxb Văn học, Hà Nội 1970) : Chính phi (vợ cả) của chúa Trịnh Doanh (bố Trịnh Sâm, lúc ấy còn là thế tử – nhắc lại “thái tử” là con sẽ nối ngôi vua, còn “thế tử” là con sẽ nối ngôi chúa –) không có con trai, nhưng có người con gái là công chúa Tiên Dung (có lẽ phải gọi là “quận chúa” mới đúng?), được bố rất yêu chiều. Chính phi xin với chúa Trịnh Doanh gả cho thái tử Duy Vỹ, để sau này được làm hoàng hậu. Một hôm, thái tử và thế tử cùng vào thăm chúa Trịnh Doanh, chúa mời ăn cơm và để con rể và con trai cùng ngồi một mâm. Chính phi thấy vậy, liền nói rằng : “Sao chúa lại được cùng ăn với vua?”. Rồi bà ta bắt ngồi riêng mỗi người một mâm. Thế tử giận, nhưng không dám cãi. Lúc tan tiệc ra, thế tử mới bảo thái tử: “Hai chúng ta sẽ phải một sống, một chết. Vua ấy không nên đứng với chúa này”. Khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa, đổ vu cho Duy Vỹ tội thông dâm với cung nữ của chúa Trịnh Doanh; thái tử Duy Vỹ trốn trong cung vua, nhưng cũng bị bắt, giam vào ngục, sau bị qui tội phản nghịch (1771), ghép vào tội thất cố chết (1). Như vậy là long mạch đâu có ở hoàng thành nữa. Nhưng trước và sau câu chuyện kể trên, cũng lắm việc lôi thôi ở phủ Chúa thuở ấy rồi, có lẽ long mạch cũng lăm le di cư đi nơi khác rồi. Ở đây, tôi xin “múa rìu qua mắt thợ” một chút – hay đúng hơn “múa bút qua mắt mấy sử gia” : Mới rồi , ngày 25/10/2007, Vietnamnet có đăng bài Hai người đàn bà "ghê gớm" chốn thâm cung, vietnamnet.vn/thuhanoi/2007/10/751167/ (nếu ai không mở xem trực tiếp được bài này, thì mở xem trong trang www.viet-studies.info/HaiNguoiDanBaGheGom.pdf). Tác giả Nhi Anh của bài, kể là đã căn cứ những tư liệu của Nguyễn phả Linh Đường. Trong bài có nói tới đôi ang đựng nước thờ trong đền làng Phù Đổng do bà chúa Chè Đặng Thị Huệ, ái phi của chúa Trịnh Sâm, cung tiến, và kể chuyện hai bà "ghê gớm" trong phủ chúa là bà Nguyễn Thị Hoa Dung, thuộc dòng họ Nguyễn ở Linh Đường trong cuốn gia phả nói trên, mẹ chúa Trịnh Sâm, và bà Đặng Thị Huệ. Tìm được sử liệu mới, thì là việc quí. Tuy nhiên tôi không phải là sử gia, lại không được đọc cuốn phả nói trên, nên không dám đánh giá. Tôi chỉ xin nói là một số điều kể trong bài không hoàn toàn “khớp” với những gì viết trong HLNTC. Vì vậy tôi xin nhân cái long mạch mà kể những chuyện lê la một chút, nó liên quan đến tất cả 7 bà (2 bà vừa nói, và 1 bà “ghê gớm” nữa, cộng thêm với 4 bà “phụ”) trong cái đoạn sử này. Tất nhiên, Đặng Thị Huệ là nhân vật chính. Bà ta được chúa Trịnh Sâm để ý đến là vì một hôm, “tiệp dư” Trần Thị Vịnh sai bà ta (lúc ấy là nữ tỳ của mình) bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. Chúa nom thấy, rất bằng lòng, trở nên mê mẩn, nên…. Sách không nói bà Trần Thị Vịnh là “tiệp dư” của ai, nhưng thường thì các cung nữ của các triều vua chúa trước, không can dự gì đến các vua chúa sau, cho nên có lẽ bà ta là tiệp dư của chính chúa Trịnh Sâm chứ không phải của chúa Trịnh Doanh. Dù sao bà ta cũng chỉ xuất hiện một lần này thôi trong đoạn sử (dù là sự tình cờ này của bà ta gây nên sóng gió), nên tôi coi bà ta là “phụ”. Trong đoạn tôi đã kể trên, chính phi của chúa Trịnh Doanh không phải là mẹ đẻ ra Trịnh Sâm, HLNTC viết là bà không có con trai chỉ đẻ ra ra con gái là công chúa Tiên Dung gả cho thái tử Duy Vỹ. Bà vì cái câu lỡ miệng về việc mâm cơm, mà “góp phần” làm chết con rể; nhưng sau đó không thấy nói gì đến bà nữa, nên tôi cũng coi bà là “phụ”. Một bà ái phi khác của chúa Trịnh Doanh là chị ruột của bà Dương Ngọc Hoan (cái bà mẹ của chúa Trịnh Tông – còn gọi là Trịnh Khải – sau này, mà tôi đã kể trong bài “Long mạch và văn hóa Việt Nam ở thời toàn cầu hóa”, mơ được ông thần cho tấm đoạn đầu rồng ấy mà). Bà ái phi này cũng không phải là mẹ của Trịnh Sâm, cho nên mới tiến cử em gái là Ngọc Hoan làm cung nữ cho Trịnh Sâm (nếu không thì là quá loạn luân, nhà Trịnh không đến nỗi như nhà Trần!). Bà chỉ vô tình muốn giúp em gái mà thành ra việc lòi ra cái ông Trịnh Tông; cho nên tôi cũng xếp bà là “phụ”. Một bà “phụ” thứ tư nữa đáng thương hơn cả, là công chúa Ngọc Lan, con gái yêu của chúa Trịnh Sâm. Vẫn theo HLNTC, vì Đặng Thị Huệ ép chúa Trịnh Sâm gả cho em trai mình là Đặng Mậu Lân; chúa nể nên đành nhận, tuy biết tay Đặng Mậu Lân này là hung bạo, ỷ vào thế của chị để làm những việc càn rỡ; chúa cũng đành làm lơ (té ra ngày xưa con cái nhà quyền thế cũng đã vậy rồi!). Tuy nhiên, trót gả rồi, nhưng lại thương tiếc rằng con gái mình mảnh khảnh, không chịu nổi một tên đàn ông cường bạo như vậy, nên mới sai quan a bảo, nhiều thị nữ và viên nội sai Sử Trung hầu đi theo giám chế, không cho Lân xâm phạm tới công chúa. (Chao ôi, đã trao mỡ cho mèo, mà lại cấm nó liếm! Kỳ lạ thật). Như vậy, Lân tuy lấy được công chúa Ngọc Lan, nhưng mỗi lần tính mò vào với công chúa thì lại bị Sử Trung hầu ngăn cản. Y nổi giận, bảo Sử Trung hầu rằng: “Chúa bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé xách giày nhà ta, có quý hóa gì? Đây ta không phải ham gì nhan sắc của nó; nhưng tốn kém bao nhiêu tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn thì cũng phải vần một trận cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đáp lại sự phí tổn, rồi bấy giờ sẽ tống cổ nó đi. […]”. Sử Trung hầu cưỡng lại, bị Lân chém chết. Việc lộ ra, chúa sai quân đến bắt Lân, triều thần đều nói đáng xử tội chết bêu đầu, nhưng Đặng Thị Huệ khóc lóc xin chết thay em; chúa bắt đắc dĩ phải giảm tội chết thành tội đày đi xa. Trở lại chuyện tranh quyền bính. Huy quận công Hoàng Tố Lý (trước tên là Hoàng Đăng Bảo), gọi tắt là quận Huy, con rể chúa Trịnh Doanh, trấn thủ Nghệ An, rất được lòng dân địa hạt. Chúa Trịnh Sâm nghi ngờ, sợ ông ta làm phản, thường bí mật bàn cách giết. Quận Huy, lòng không yên, mới xin thôi chức trấn thủ để về triều, và được chấp thuận. Quận Huy tính rằng Đặng Thị Huệ tuy được chúa yêu, nhưng Cán còn nhỏ, hùa theo cánh này thì không phải là kế lâu dài. Nên mới đút lót cho kẻ chân tay của thế tử Tông, lại đem trăm lạng vàng và mười tấm đoạn làm lễ yết kiến, xin vào ra mắt thế tử. Nhưng thế tử không nhận, lại còn đe sau này lên ngôi sẽ tịch thu gia sản nhà quận Huy, cần gì đồ lễ bây giờ. Quận Huy như “chuột chạy cùng sào”, đành quyết ý hùa theo Đặng Thị Huệ. Trở lại chuyện Tông, từ ngày có Cán, thì rất lo mình sau này không được làm chúa, nên cùng bọn gia thần bàn mưu kế. Gặp lúc chúa Trịnh Sâm bị bệnh nặng, Tông mới lo sắm khí giới, liên kết với 2 viên trấn thủ bên ngoài, phòng việc đảo chính, nếu Sâm chết. Nhưng rồi Sâm khỏi bệnh, và có kẻ tố giác, Sâm mới sai tra xét, một số quan lại bị tội chết (2). Còn Tông thì vì “tình nghĩa cha con”, chỉ bị “truất xuống làm con út, trọn đời giữ đạo làm tôi”. (Đó là vào năm 1780). Vẫn theo HLNTC , khi Tông đã bị giáng, nhiều người khuyên chúa nên lập Cán làm thế tử. Lúc ấy Nguyễn thái phi mẹ chúa Trịnh Sâm mới khuyên chúa rằng : Tông đã lớn lại khỏe mạnh, còn Cán nhỏ lại hay đau yếu, nên nghĩ đến tôn miễu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung thế tử lại đó, may ra Tông biết hối lỗi thì hay, bằng không thì đợi lúc Cán khôn lớn hãy lập cũng chưa muộn. Sâm trả lời sẵng rằng : “Nếu đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được tư túi. Nếu cuối cùng bệnh Cán không khỏi thì thà lập Côn quận công (3), trả lại ngôi chúa cho dòng chính cho nhà bác, chứ không thể giao cho thằng con bất hiếu (Tông) để làm hỏng cơ nghiệp tổ tiên”. Nguyễn thái phi không dám nói gì nữa. Ít lâu sau, Sâm ốm nặng, bệnh nguy kịch, chỉ có Đặng Thị Huệ và quận Huy bên cạnh; họ khuyên chúa làm tờ cố mệnh truyền ngôi cho Cán làm chúa, phong Đặng Thị Huệ làm Tuyên Phi, và ủy cho quận Huy làm phụ chính. Quận Huy cũng khôn, xin cho 6 đại thần khác cũng nhận cố mệnh với mình. Nguyễn thái phi mẹ Sâm vào, khóc hỏi thăm, ngập ngừng có ý muốn đặt lại vấn đề ngôi chúa, nhưng có Đặng Thị Huệ ở đó nên không nói được, dùng dằng không muốn ra. Sâm phải đuổi khéo, mà nói: “Mẹ quá thương con, không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung”. Nguyễn thái phi đành trở ra. Khi tờ cố mệnh thảo xong, quận Huy dâng trình, chỉ còn thiếu đề tên vào những chỗ để trống, thì Sâm không còn viết được nữa, chỉ lấy tay xua đi. Quận Huy thưa với chúa, xin cho quận Khanh (chú của Sâm) viết thay. Chúa không nói được nữa, chỉ gật đầu. Rồi mất (1782). Cán lên ngôi chúa (Điện Đô vương), còn nhỏ mà bệnh tật, Quận Huy uy quyền lớn quá, ở phố phường mới đồn đại linh tinh, có câu ca dao: “Trăm quan có mắt như mờ. Để cho Huy quận vào rờ Chính cung” , Chính cung đây là chỉ Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Đây cũng là lời đồn, không có bằng chứng lịch sử. Khi Cán lên ngôi rồi, Đặng Thị Huệ vẫn muốn ngầm hại Tông, nhưng vì Thùy Trung hầu, một trong 7 viên cố mệnh đại thần, khôn khéo che chở nên Tông chưa bị hại, chỉ bị giam ở nhà Tả-xuyên, quân lính canh giữ rất ngặt, tính mệnh như treo sợi tóc. Lúc ấy bà Dương Ngọc Hoan mẹ Tông (bà “ghê gớm” thứ ba), mới nhờ chị là Dương phu nhân(người ái phi cũ của chúa Trịnh Doanh) lại kêu van với quận Huy; quận Huy nể – một sai lầm lớn khi làm chính trị, “bất độc bất anh hùng” như có người nói! – mới bí mật sai quân canh lỏng lẻo bớt trong việc canh giữ, từ đó các gia thần và người thân mới được ra vào gặp gỡ, không ai xét hỏi. Do đó Trịnh Tông và bà Dương Ngọc Hoan cùng đồng đảng mới mưu mô đem tiền bạc mua chuộc xúi giục quân lính nổi loạn. Việc đã sắp đặt xong, nhưng có người muốn có “chỉ” của “thánh mẫu thái tôn” – mẹ của Trịnh Sâm, trước là thái phi vì là mẹ chúa, nay có chúa mới, mẹ chúa mới là thái phi, thì bà nội của chúa mới được tôn gọi là “thánh mẫu thái tôn”, (theo HLNTC) – bà này mới sai người khuyên quận Huy để Tông tạm làm chúa cho yên lòng người, xin Tuyên phi (Đặng Thị Huệ) nhận Tông là con nuôi, quận Huy phụ chính, đợi khi Cán trưởng thành thì Tông sẽ trao trả quyền chính và lui về giữ đạo làm tôi. Quận Huy tất nhiên không đồng ý, dùng lý lẽ ngược lại mà trả lời rằng : tiên vương (Sâm) đã có di chúc, tiên chúa chỉ có hai con, vậy thì khi nào tân chúa không gánh vác nổi công việc, thì sẽ đến lượt vương tử Tông đàng hoàng thay thế, cần gì phải vội vã. Như vậy là thái độ mọi người đều rõ rệt. Có điều lạ là quân lính đã lăm le nổi loạn, lại đã có bài hịch “Ba quân phò chính” dán khắp ở phố, vậy mà quận Huy vẫn chủ quan, không lo phòng bị, để đến nỗi khi họ hành sự, bị giết. Quân lính phò Tông lên ngôi chúa, tức là Đoan Nam vương. Lúc ấy Đặng Thị Huệ khiếp sợ, phải thay đổi quần áo nấp ở hậu cung, các gia thần và cận vệ của Cán đều bỏ trốn, chỉ có a bảo là quận Diễm bế lánh đi một nơi khác, cả ngày không được một miếng ăn, khóc nheo nhéo. Đến đêm, thánh mẫu mới sai người đi tìm được Đặng Thị Huệ và Cán đưa về cung cho thay quần áo và ăn uống. Bà ta là bà nội của Tông và của Cán, chẳng có lý do gì lại hại cháu mình (sao có người lại viết là “không trả thù”?). Tông đối với em cũng tử tế, treo giải thưởng, hẹn ai chữa khỏi bệnh cho Cán thì thưởng cho trăm lạng vàng và phong tước hầu; nhưng bệnh Cán không chữa được, ít lâu thì chết. Lúc kiêu binh giết quân Huy, lật Trịnh Cán rồi, thì bà thánh mẫu mới phê vào tờ cố mệnh rằng “không phải là bút rồng của tiên vương (Trịnh Sâm), không đủ làm bằng chứng”, do đó mà những người liên quan đến tờ cố mệnh đều bị tội, và ngôi Tuyên phi của Đặng Thị Huệ bị truất. Tông lên ngôi chúa thì bà Dương Ngọc Hoan trở thành Dương thái phi. Bà “ghê gớm” thứ ba này cũng lắm mưu mô: đã “mơ” ông thần cho tấm đoạn vẽ đầu rồng, rồi lại nhờ chị van xin quận Huy cho con mình sống, lại đút lót tiền bạc cho quân lính nổi loạn. Khi Trịnh Tông lên làm chúa rồi, thì bà ta và em trai là Khuông giật dây trong phủ chúa. Sau này, khi kiêu binh tiếp tục làm loạn, tính lật chúa Trịnh Tông để phò vua Lê, thì bà lại biết đút lót, đồng thời ra khóc lóc kêu van, để cứu vãn được tình thế. Vẫn theo HLNTC, khi con lên làm chúa rồi thì bà ta trả thù, sai người bắt Đặng Thị Huệ đến trước mặt mình, kể tội, bắt bà này phải lạy tạ. Bà này không chịu lạy, Dương thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên nắm tóc rập đầu xuống đất, nhưng bà Huệ nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Dương thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam ở vườn sau, hành hạ đủ đường. Năm sau trong nhà tẩm miếu ở lăng Thịnh Phúc, “tự dưng” đồ thờ bằng gỗ bằng vàng hễ động tay vào là nát như bùn (!). Dương thái phi cho đòi cô đồng vào hỏi. Cô đồng, nhập đồng, phán : chúa (Tông) bất hiếu, Đặng thị (Huệ) là người tiên vương (Sâm) yêu, mà nay bị hành hạ đủ đường, nên vong linh của tiên vương không yên, nếu không hối lỗi, tai biến sẽ còn nhiều nữa. Mẹ con chúa sợ hãi, sai quan tế lễ tạ tội , rồi cho bà Huệ được trở lại làm cung tần nội thị, vào thờ phụng ở tẩm miếu. Bà ta ngày đêm khóc lóc. Đến ngày giỗ “đại tường”, bà ta uống thuốc độc tự tử. (Như vậy xem ra, bà này cũng can trường, không phải là con người quê mùa thô lỗ gì đâu). Còn gia đình quận Huy, thì sau khi ông ta bị giết, vợ là vốn là công chúa con gái chúa Trịnh Doanh, nghĩa là chị em của chúa Trịnh Sâm, bị Dương thái phi trả thù, bắt giam vào hậu cung, hành hạ. Hai người con trai chạy sang vùng Kinh Bắc dấy binh, bị thua, đóng cũi giải về kinh. Các quan bàn nên kết vào tội chết, chúa Trịnh Tông nghĩ tình anh em cô cậu tha tội chết. Nhưng Dương thái phi ngầm sai người đến bắt uống thuốc độc. Có người báo với chúa, ông ta sai trung sứ đến ngăn lại, nhưng đến nơi thì người con cả (4) đã bị trúng độc chết rồi, còn người con thứ thì bị giam trong ngục. Sau đó không thấy nói đến số phận. So Dương thái phi với Đặng Tuyên phi, thì cũng “kẻ kia tám lạng, người này nửa cân”, (tất nhiên, cân đây là cân ta, bằng 16 lạng), khác nhau có lẽ là ở cái “nhan” và thời gian cầm quyền (?). “Đàn bà dễ có mấy tay. Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!”. Khi Án Đô vương Trịnh Bồng thua Nguyễn Hữu Chỉnh, bỏ trốn, vua Lê Chiêu Thống sợ hậu hoạn, sai người đốt phủ chúa. Theo Đại Việt Sử ký tục biên và HLNTC, khói lửa bốc ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt. Hai trăm năm lâu đài cung khuyết huy hoàng đều cháy hết. “Xa gần nghe tin đó, ai cũng trách vua làm quá đáng”. Chắc là họ oán vua không biết giữ gìn di tích. Đó là vào ngày mồng tám tháng chạp năm Bính Ngọ (1786). Long mạch có lẽ lại dời đi nơi khác ! Bùi Trọng Liễu 3/11/2007 Chú thích: (1) Sau này, khi Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ra Bắc lần đầu, “phò Lê diệt Trịnh”, chúa Đoan Nam vương Trịnh Tông đi trốn, bị Nguyễn Trang lừa bắt giải nộp cho quân Tây Sơn, nửa đường tự tử chết. Lê Chiêu Thống lúc ấy còn đang là hoàng tự tôn, chưa nối ngôi vua, có lời cảm ơn Nguyễn Huệ rằng : “Tôi có thù cha chưa trả, nay ông trả thù thay cho tôi, đời tôi không còn mong gì hơn thế. Nếu thân này có phải chết ở quý quốc, tôi cũng không hề phàn nàn. Huống chi ông lại còn phò dựng họ Lê, khiến cho được thờ phụng tôn xã lâu dài, công đức ấy thật không nói sao cho xiết”. Lời nói dễ bay. 1786, thời Lê Chiêu Thống, bắt được Trang, vua sai chém Nguyễn Trang ở trước mả Trịnh Tông, cắt đầu làm lễ tế. Chả hiểu được ân oán là thế nào. (2) Theo Việt sử Thông giám Cương mục (bản dịch của Tổ biên dịch của Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, nxb Văn Sử Địa, Hà Nội 1957), Ngô Thì Nhậm cũng ít nhiều liên quan đến việc tố giác, (tuy HLNTC có bào chữa ) nên được thăng chức thị lang bộ Hộ, cha là Ngô Thì Sĩ can không được nên uống thuốc độc tự tử; thời đó một phần dư luận có câu chê : “Sát tứ phụ nhi thị lang”, nghĩa là giết 4 cha để mà làm thị lang, 4 cha đây là : Sĩ là thân phụ, Tông là quân phụ, hai người nữa là phụ chấp (bạn của cha). Cũng vì thế và sau này, khi Tông được kiêu binh giúp lên ngôi Chúa, Nhậm phải lẩn tránh. (Cái giai đoạn vừa kể là giai đoạn thắng thế của Đặng Thị Huệ, và liền đó mới ép chúa Trịnh Sâm gả con gái cho Đặng Mậu Lân em trai mình như vừa kể trong bài). Khi Bắc Bình vương Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ hai (giết Võ Văn Nhậm), Ngô Thì Nhậm nhờ Trần Văn Kỷ đưa tới yết kiến, Bắc Bình vương nói: “Ngày trước, chúa Trịnh không dung,ngươi phải bỏ nước mà đi.[…]. Có nhẽ đó là ý trời muốn để dành người tài để ta dùng. […]”vv. (3) Côn quận công là Trịnh Bồng, con chúa Trinh Giang. Theo Đại Việt Sử ký tục biên (ĐVSKTB, bản dịch của Ngô Thế Long – Nguyễn Kim Hùng, và Nguyễn Đổng Chi hiệu đính, nxb KHXH, Hà Nội 1991), năm 1730, chúa Trịnh Giang (nối ngôi cha là chúa Trịnh Cương) lên cầm quyền, là người tàn ác, ham chơi, tiêu dùng xa xỉ, thuế má nhiều, sưu dịch nặng, lại « dâm loạn », thông gian với vợ lẽ của bố là Kỳ viên phi họ Đặng ; Thái phi mẹ của Trịnh Giang (và của Trịnh Doanh) biết được, nên bắt ép Kỳ viên phi phải tự tử. Rồi một hôm, Giang bị sét đánh, gần chết, nên mắc bệnh sợ sấm, hễ nghe thấy tiếng sấm là mất cả hồn vía. Bọn hoạn quan mới bảo rằng vì dâm dục nên ác báo, phải đào hầm làm nhà dưới đất mà ở để tránh sấm sét. Giang bèn dựng cung Thưởng Trì để ở, không dám ra ngoài nữa. Quyền hành thì vào tay hoạn quan Hoàng Công Phụ và đồng đảng. Dân tình đói khổ, giặc dã nổi lên khắp mọi nơi. Sau các quan ở phủ liêu, với sự đồng ý của Thái phi, mới truất Giang, và lập em Giang là Trịnh Doanh lên làm chúa (1740). Trịnh Giang có con trai là Trịnh Bồng. Vì Trịnh Doanh truyền ngôi cho con là Trịnh Sâm, nên Trịnh Bồng tuy thuộc dòng chính, nhưng không được làm chúa. Cái bà thái phi mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh cũng là một là một bà “ghê gớm” trong phủ chúa Trịnh đấy chứ, nhưng không ở đúng giai đoạn kể trong bài, mà ở giai đoạn trước đó một chút và có hậu quả sau đó một chút : vì sau này, khi Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ra Bắc lần đầu, “phò Lê diệt Trịnh” rồi về Nam, vua Lê Chiêu Thống bơ vơ, thì Trịnh Bồng mới về làm chúa (Án Đô vương) được ít lâu. Năm 1786, vua Lê Chiêu Thống kèn cựa với Án Đô vương Trịnh Bồng; vua vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân từ Nghệ An ra giúp. Bồng thua bỏ trốn, sau không biết chết ở nơi nào. (4) Trong cuốn Thượng Kinh Ký Sự (“Ký sự lên kinh”, bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn, nxb Hà Nội, 1977), Hải thượng Lãn ông (Lê Hữu Trác) kể rằng trong thời gian ông ta bị gọi lên kinh chữa bệnh cho Cán, lúc đầu, ông ta cho rằng còn có thể chữa được, nhưng không được nghe, vì bọn lang băm không chữa được bệnh mà dùng bậy nhiều thuốc làm bệnh nặng thêm. Ai đó (không phải tôi đâu!) gần đây có đem tích này ví với nền giáo dục ngày nay chưa cải cách được mà cứ đổ thêm ngân quĩ. Hải thượng Lãn ông cũng kể là khi ông ta thấy bệnh của Cán không chữa được nữa (lúc ấy Trịnh Sâm còn sống), ông ta có nói thật cho quận Huy biết; ông này nghe xong, nằm vật ra giường thở dài […]. Hải thượng Lãn ông cũng kể về người con trai cả của quận Huy với nhiều thiện cảm : tuy còn trẻ tuổi, mà học vấn uyên bác, y như một người đã từng trải nhân tình thế thái, mà tính tình khiêm tốn, không chút kiêu hợm, không như những kiểu công tử vương tôn, chỉ quen thói phồn hoa ăn chơi dông dài mà thôi.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 24, 2010 9:09:08 GMT 9
Lăng Ba Vành hội đủ các tiêu chí lăng Vua Vietsciences- Trần Viết Điền Để khẳng định chủ nhân lăng Ba Vành là Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại một số nhà nghiên cứu ở Huế dựa vào cứ liệu duy nhất là hương phổ làng Đồng Di và gia phả họ Lê Quang thuộc làng Đồng Di, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Thực tế họ Lê Quang làng Đồng Di không có gia phả chép các vị tổ trước 1930 và các thư tịch như hương phổ và tư văn nghi tiết tế lễ của làng, soạn trước năm 1966, không hề có ngài Hộ bộ kiêm Binh Bộ Ý Đức Hầu Lê quí công. Có người làng Đồng Di đọc báo Bách Khoa Sài Gòn năm 1961, thấy bài viết của cụ Bửu Kế nói về ngài Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Ý Đức Hầu họ Lê là người làng, có mộ là lăng Ba Vành nên làng đã ghi thêm vào hương phổ vị nhân thần này từ 1966. Còn quan Hồng lô tự khanh Vũ Bá Khương từng đưa hài cốt thân phụ Vũ Bá Bình của ông vào chôn ở nấm lăng Ba Vành vào năm 1917. Bị ông Án Chất tố giác việc cải táng mộ cha, ông Vũ Bá Khương phải nhờ con trưởng là Hàn lâm biên tu Vũ Bá Đạm chạy án, nhờ tòa khâm sứ Pháp can thiệp với Nam triều, mới khỏi trọng tội. Ông Vũ Bá Khương phải đưa hài cốt của cha khỏi lăng Ba Vành ngay trong năm 1917. Bộ Lễ Nam triều khi trả lời ông R.Orband thì cho rằng ông Vũ Bá Khương đã đưa Hộ Bộ kiêm Binh Bộ vào chôn ở lăng Ba Vành. Chẳng có tờ khai với bút tích của Đinh Như Nghi, Vũ Bá Khương! Cụ Bửu Kế chẳng chụp ảnh và công bố các tư liệu. Trong vụ việc này có phần mờ ám!!!. Trong khi đó ngài Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại là nhân vật lịch sử duy nhất, thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, có mộ táng tại làng Xuân Hòa, bia đá có khắc chức vụ và nơi ngài từng làm quan. Chúng tôi đã công bố đầy đủ tư liệu cho phép khẳng định chủ nhân đầu tiên của lăng Ba Vành không phải Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại. Như vậy cho đến nay [2009], lăng Ba Vành vẫn chưa có chủ nhân. Thế thì chủ nhân đầu tiên của lăng Ba Vành là ai? Để trả lời câu hỏi hóc búa này, chúng tôi sẽ lần lượt công bố các bài viết sau đây: 1. Lăng Ba Vành hội đủ các tiêu chí của lăng vua. 2. Lăng Ba Vành là lăng vua bị quật phá để trị tội và bị yểm. 3. Lăng Ba Vành bị người đời sau tìm cách che giấu khi giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu dựa vào gợi ý của linh mục Cadiere, đã công bố chủ nhân của lăng là vua Quang Trung vào năm 1961. 4. Lăng Ba Vành là công trình kiến trúc thời Tây Sơn. ********************************************************* Mục lục : Bài viết này gồm có 8 mục: 1. Cảnh quan phong thủy lăng Ba Vành hội đủ yếu tố địa cuộc đế vương. 2. Tân nguyệt trì chỉ có ở lăng vua hay lăng mẹ của vua. 3. Chỉ lăng vua mới có cổng tam quan trước bửu thành. 4. Nấm mộ hình mai rùa dành cho bậc tôn quí: đại quan, vua. 5. Nhà bia ở lăng vua có nền chữ thập và mái che. 6. Lăng vua chúa có toại đạo. 7. Lăng vua có nhà hà hộ lăng, vườn lăng, giếng nước sinh hoạt. 8. Motip rồng được trang trí ở lăng Ba Vành thuộc về thời Tây Sơn. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Chúng tôi dựa vào những tư liệu thành văn, quan sát những lăng vua, chúa, đại quan qua các thời, nhất là thời cuối Lê đầu Nguyễn, so sánh đối chiếu để tìm qui luật bất thành văn. Sau đó vận dụng cho lăng Ba Vành. Mục A chúng tôi đã công bố trên diễn đàn “Chim Việt cành Nam” qua bài “Lăng Ba Vành dưới góc nhìn địa lý phong thủy”. Còn mục H khá tỉ mỉ và dài, xin công bố thành một bài riêng sau bài [1]. ************************************************ Mục B. TÂN NGUYỆT TRÌ CHỈ CÓ Ở LĂNG VUA VÀ LĂNG MẸ VUA
Nghiên cứu những tiêu chí lăng vua, cha mẹ vua trong kiến trúc lăng mộ cổ sẽ giúp ngành khảo cổ học phát triển phương pháp giám định chủ nhân những lăng mộ cổ bị tàn phá. Một trong những tiêu chí sẽ được xét trong bài này là cấu kiện tân nguyệt trì. Một lăng vua trên bình đồ có thể chia làm hai phần : + Bửu thành và tân nguyệt trì ; + Vườn lăng. Bửu thành và Tân nguyệt trì là cấu kiện có trục đối xứng hình học. Bửu thành tượng nhật, tân nguyệt trì tượng nguyệt, nhật 日 hợp nguyệt 月 là minh [明]; hàm ý chủ nhân ngôi mộ là bậc minh quân. Bao quanh Bửu thành và Tân nguyệt trì là Vườn lăng. Vườn lăng bao gồm các cấu kiện khác của lăng như nhà bia, điện thờ, hồ, nhà thủy tạ… và tùy theo địa hình địa thế mà xây dựng, trang trí; không cần đối xứng hình học giữa các cấu kiện trong vườn lăng. Tân nguyệt trì? Tân nguyệt trì có khi gọi là hồ tân nguyệt, là ao trăng non, nó không phải là hồ bán nguyệt, tức hồ nửa hình tròn mà là hồ hình hạt đậu quyên.Tân nguyệt trì trước Bửu thành, cùng trục đối xứng với Bửu thành và Bửu thành thì bao bọc che chở nấm mộ. Các chúa Nguyễn của Đàng Trong chưa bao giờ được triều Thanh phong vương, chỉ một số vua Đinh, Lê, Lý, Trần, Tây Sơn, các vua đầu triều Nguyễn mới được Thanh triều phong An Nam quốc vương, Việt Nam quốc vương. Vì thế các lăng của các chúa Nguyễn không bao giờ có tân nguyệt trì. Tẩm mộ của các bà vợ của chúa Nguyễn cũng không có tân nguyệt trì, nhưng nếu có hồ thì đó chỉ là hồ bán nguyệt. Quan sát các lăng vua như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định hoặc lăng mẹ vua, tức người sinh ra vua, như lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên, lăng Hiếu Đông của bà Hồ Thị Hoa, lăng Xương Thọ của bà Từ Dũ… thì thấy trước bửu thành đều có tân nguyệt trì. Tuy nhiên lăng mộ thân phụ của vua mà không từng làm vua thì trước bửu thành cũng không có Tân nguyệt trì như lăng Cơ Thánh (lăng Cao Hoàng), lăng Thoại Thái Vương, lăng Kiên Thái Vương, dẫu Nguyễn Phúc Luân là cha của vua Gia Long, Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y là cha của vua Dục Đức, Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai là cha của vua Đồng Khánh. Để minh họa xin được trích một số ảnh chụp các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Đồng Khánh, Khải Định, phía trước lăng có tân nguyệt trì: Hình1: Lăng Gia Long phía trước có tân nguyệt trì Hình 2: Tân nguyệt trì của lăng Minh Mạng Hình 3: Tân nguyệt trì khá rõ của lăng Thiệu Trị. Hình 4: Toàn cảnh bình đồ lăng Tự Đức, có Hồ Tân Nguyệt trước Bửu Thành Hình 5: Tân nguyệt trì trước bửu thành lăng vua Tự Đức. Hình 6: Một bờ của tân nguyệt trì trước An Lăng của vua Dục Đức Hình 7: Một đoạn bờ tân nguyệt trì trước cửa lăng vua Đồng Khánh (ảnh của Ph. Eberhardt) Hình 8: Lăng Khải Định đang xây dựng dở dang, trước lăng có khe (sẽ tạo tân nguyệt trì cho lăng). Hình 9: Tân nguyệt trì trước lăng Thiên Thọ hữu, lăng mẹ vua Minh Mạng Hình 10 : Tân nguyệt trì trước lăng Hiếu Đông (lăng mẹ vua Thiệu Trị),đã cạn, nhưng phần kè đá vẫn còn. Hình 11 : Tân nguyệt trì trước Xương Thọ Lăng của đức Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức) Nhưng lăng thân phụ các vua như lăng Cơ Thánh (lăng cha vua Gia Long), lăng Thoại Thái vương (cha vua Dục Đức)… không có tân nguyệt trì vì các vị này không làm vua. Hình 12 : Lăng Cơ Thánh ( lăng cha vua Gia Long) không có tân nguyệt trì. Hình 13: Lăng Thoại Thái vương không có tân nguyệt trì (ảnh tư liệu gia đình TTV) Triều Nguyễn không có văn bản luật lệ cụ thể về tân nguyệt trì, nhưng lệ bất thành văn về xây dựng hồ trước lăng mộ cũng có sức mạnh ghê gớm! Cựu tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành từng làm bồn hoa trước lăng Đông Quân, lăng mẹ của ông, thoạt nhìn bồn hoa có hình bán nguyệt. Chỉ tỉ mỉ đo đạc mới thấy bồn hoa của lăng Đông Quân không phải là hình bán nguyệt mà là hình bán nguyệt hơi khuyết một chút, nghĩa là bồn hoa thuộc loại tân nguyệt trì. Việc này góp thêm tội “sửa mộ mẹ quá phép” của Nguyễn Văn Thành, một trong những trọng tội dẫn đến cái chết của đại công thần này. Vậy: “Chỉ có lăng vua và mẹ sinh ra vua mới có tân nguyệt trì trước bửu thành hay tẩm. Còn thân phụ của vua mà chưa từng làm vua thì trước tẩm mộ không có xây tân nguyệt trì” Thế thì lăng Ba Vành có tân nguyệt trì trước bửu thành là một điều không thể bỏ qua. Các cụ già như cụ Châu Mậu, Nguyễn Phương ở Ngũ Tây đều nhớ hồ trước bửu thành lăng Ba Vành được kè đá, có nước bốn mùa. Lăng các chúa Nguyễn không có tân nguyệt trì, lăng ông quan Hộ bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại, thời các chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa Nguyễn Phúc Khoát, dám xây tân nguyệt trì trước lăng ư? Vua chúa triều Nguyễn có chấp nhận việc làm này không? Khi lăng Ba Vành đã thành phế tích, năm 1917 quan Hồng Lô Tự Khanh Vũ Bá Khương, người làng La Ỷ, cải táng hài cốt thân phụ Vũ Bá Bình vào chôn dưới nấm của lăng, bị ông án Chất tố cáo, suýt bị trọng tội. May có con trai là Hàn lâm biên tu Vũ Bá Đạm chạy án, nhờ tòa Khâm sứ Pháp can thiệp với triều đình vua Khải Định thì quan Vũ Bá Khương mới khỏi bị tội. Một điều dễ hiểu là ông Vũ Bá Bình khi vào lăng Ba Vành nằm, ông này có tân nguyệt trì trước mộ, hóa ra ông là vua ư? Vũ Bá Khương dời ngay hài cốt của ông Vũ Bá Bình ra khỏi lăng Ba Vành trong năm 1917. HọVũ Bá sau năm 1917 không ai dám trở lại lăng Ba Vành!!! .Hình 14 : Tân nguyệt trì trước bửu thành lăng Ba Vành (nhìn từ cổng lăng) Hình 15 :Tân Nguyệt Trì của lăng Ba Vành ( nhìn bên hông). Hình 16: Tân nguyệt trì có nước (chụp phía hông ). Lăng Ba Vành có tân nguyệt trì chứng tỏ lăng này là lăng vua! Mục D CHỈ LĂNG VUA MỚI CÓ CỔNG TAM QUAN TRƯỚC BỬU THÀNH Lăng, tẩm, mộ có uynh thành tất có cửa lăng, cửa tẩm, cửa mộ. Một vấn đề chúng tôi quan tâm là cổng lăng của hoàng đế và cổng lăng của các vương có gì khác nhau? Xem xét cổng lăng của các vua Lý, các vua Lê của Đại Việt, thường được các vua Tống, vua Minh phong “An nam quốc vương” thì cổng lăng là “cổng tam quan”. Không rõ khi mới xây dựng thì cổng một cửa hay cổng ba cửa? Nhưng thời Nguyễn, dân sở tại cùng với sự hỗ trợ của các quan trấn nhậm của triều Nguyễn, đóng góp công của để tôn tạo lăng vua Lý, lăng các vua Lê… thì cổng lăng phải là cổng tam quan. Hình 17 : Cổng tam quan vào lăng vua Lý Thái Tổ. Hình 18 : Cổng tam quan vào lăng vua Lê Thái Tổ. Khảo sát các lăng vua triều Nguyễn thì thấy rằng cổng vào lăng là cổng tam quan. Nhưng khảo sát lăng của các thân vương, hoàng tử, công chúa, các phi tần thì cổng lăng chỉ có một cửa. Đây là một lệ thời phong kiến, dẫu bất thành văn nhưng có thể kiểm chứng ở hằng trăm lăng mộ cổ ở Thừa Thiên Huế. Các lăng vua Nguyễn dù to hay nhỏ bao giờ cũng có cổng tam quan. Hình19: Cổng tam quan trước Điện Minh Thành của lăng Thiên Thọ ( lăng Gia Long) (chụp năm 1950, tư liệu của P.T.A) Hình 20: Cổng tam quan ở Hiếu Lăng ( lăng vua Minh Mạng) Hình 21: Cổng tam quan ở Xương Lăng ( lăng vua Thiệu Trị ) Hình 22: Cổng tam quan trước bửu thành Khiêm Lăng ( lăng vua Tự Đức) Hình 23: Cổng tam quan trước bửu thành An Lăng ( lăng vua Dục Đức) Hình 24: Cổng tam quan ở trước Tư Lăng (lăng vua Đồng Khánh) Hình 25: Cổng tam quan trước lăng Khải Định. Triều Lê gần triều Nguyễn. Một số lệ luật triều Nguyễn vẫn kế thừa triều Lê. Một vị đại quan họ Phan có lăng mộ ở Bắc Giang, có khu lăng mộ với tên gọi Lăng Bầu Đá, được xây dựng vào thời Lê, có cổng lăng chỉ có một cửa. Hình 26: Cổng một cửa trước lăng Bầu Đá ( mộ ông tổ họ Phan) Hay khu lăng đá Dinh Hương, có mộ của quận công tước hầu họ La, quan thái giám triều Lê khá bề thế với tượng người hầu, voi chầu, ngựa chầu… cũng có cổng lăng với một cửa. Hình 27: Cổng một cửa của lăng Dinh Hương (có mộ của quận công họ La, thái giám triều Lê) Một vị thái vương như Thoại Thái vương, thân phụ của vua Dục Đức, ông nội của vua Thành Thái, ông cố của vua Duy Tân, có lăng ở gần sông Bồ với cổng lăng chỉ có một cửa. Một vị thái vương khác là Kiên Thái Vương, thân phụ vua Đồng Khánh có lăng với cổng một cửa. Các chúa Nguyễn Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các vị chúa như Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần dẫu xưng vương nhưng do triều Thanh không chấp thuận nên lăng mộ của các ngài có cổng lăng với một cửa mà thôi. Hình 28: Cổng một cửa thuộc lăng Trường Cơ của chúa Nguyễn Hoàng Hình 29: Cổng một cửa thuộc lăng Trường Thanh của chúa Nguyễn Phúc Chu. Hình 30: Cổng một cửa thuộc lăng Trường Thiệu của chúa Nguyễn Phúc Thuần Hình 31: Cổng một cửa của lăng Kiên Thái Vương (Ảnh tư liệu của P.T.A) Hình 32: Cổng một cửa của lăng Thoại Thái Vương (Ảnh tư liệu của gia đình TTV) Hình 33: Cổng một cửa của lăng Tuy Lý Vương. Vậy: “Lăng vua Đại Việt, hay vua Việt Nam, được thiên triều Trung Quốc phong An nam quốc vương hay Việt Nam quốc vương thì mới có cổng tam quan. Còn lăng các quốc chúa, thân vương với cổng lăng chỉ có một cửa”
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 24, 2010 9:33:27 GMT 9
Từ những nhận định trên, chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên khi đến khảo sát lăng Ba Vành. Bửu thành lăng Ba Vành to hơn lăng các chúa Nguyễn và uynh thành ngoài cùng có hai trụ cổng rất lớn, dù đã bị phá. Má trong hai trụ cổng cách nhau 6 mét. Một cổng lăng như thế thật là hiếm. Khi phát hiện những tảng đá dài vài mét, có dấu vết vôi đắp phù điêu, dấu vết chữ Hán khắc trên đá bị đục đế xóa… chúng tôi đã ngờ cổng lăng này thuộc loại cổng tam quan (?). Hình 34: Hai trụ cổng còn lại của lăng Ba Vành với hai má trong cách nhau 6 mét. Nếu cổng lăng chỉ có một cửa rộng 6 mét thì rất khó tạo tác và không mỹ thuật, chưa kể vi phạm điều tối kỵ trong thuật phong thủy cổ. Vậy cổng này phải có 3 cửa, dĩ nhiên cửa giữa to và hai cửa hai bên nhỏ. Chúng tôi đã cho phát quan, làm cỏ và dọn lớp đất đá ở cổng lăng Ba Vành và sơ bộ phát hiện: * Rất nhiều mảnh vỡ của gạch bìa 23x14x3 (cm) để xây vòm, khung. * Một số gạch vuông màu xám 23x23x5 (cm), được ép chứ không nung, dùng để chèn, kê đá có khắc chữ, đá đắp phù điêu, chống nứt, rạn… Một số gạch múi bưởi, tiết diện hình rẽ quạt, bán kính 20 cm, góc ở tâm 300 để chèn những phần uốn cong. * Một số mảnh ngói liệt. * Đặc biệt chúng tôi đã phát lộ dấu vết khá rõ ràng của hai móng trụ 80x130 (cm) rất đối xứng qua đường thần đạo của lăng Ba Vành. Hai móng này chứng tỏ ở cổng lăng từng có hai trụ giữa, cùng với hai trụ lớn ở hai bên chống đỡ vòm cổng, tạo nên cổng tam quan. Hình 35 : Dấu vết hai trụ giữa của cổng tam quan thuộc lăng Ba Vành Hình 36: Bậc thềm trước cổng tam quan phủ đầy gạch vỡ của cổng bị phá. Trên vòm cổng tam quan từng có những tảng đá dài làm lăng tô : * Tảng đá lớn hình thoi, dài1,5m, để chế tác biển có hiệu lăng. Tảng đá này vẫn còn một mặt khá phẳng có khắc chữ đã bị đục nát. * Tảng đá to bảng, dài khoảng1,8 mét, còn dấu vôi vữa đắp phù điêu. * Tảng đá dài gần 2 mét để làm lăng tô phía trên vòm cửa giữa của cổng tam quan. Hình 37: Một tảng đá dài để tạo tác biển khắc hiệu lăng ( còn dấu vết đục xóa tỉ mỉ ) và một tảng đá dài còn dấu vết của vôi vữa đắp nổi phù điêu. Hình 38: Tảng đá dài để làm lăng tô cho cửa bên của cổng tam quan. Hình 39: Tảng đá dài gần 2 mét dùng làm lăng tô cho cửa giữa của cổng tam quan.
Lăng Ba Vành có cổng tam quan chứng tỏ lăng Ba Vành là lăng vua! MUC.E. NẤM MỘ HÌNH MAI RÙA DÀNH CHO NHỮNG BẬC TÔN QUÍ. Con qui là một trong 4 con vật linh, khi nó có mặt ở lăng mộ với cái mai bao bọc nấm mộ thì nó có vai trò che chở chủ nhân ngôi mộ, vị chủ nhân này là bậc tôn quí như các đại quan có tước công, hầu hoặc các vương, đế. Linh mục Cadiere, trong bài Các mô típ mỹ thuật An Nam có viết về con rùa. Cadiere cho rằng con rùa là biểu tượng sự vững bền, cái mai chắc chắn biểu tượng cho sự chở che và con rùa có trong truyền thuyết mang màu sắc dịch lý… Vì vậy nấm mộ mai rùa không phổ biến trong dân gian. Loại lăng mộ cổ có nấm mai rùa rất khó kiếm ở Phú Xuân Thuận Hóa. Trong công trình nghiên cứu LĂNG MỘ CỦA NGƯỜI AN NAM TRONG PHỤ CẬN HUẾ (B.A.V.H, tập XV, 1928) linh mục Cadiere từng viết: “Trong số những ngôi mộ xây, ngược lại, chúng tôi tìm thấy nhiều hình dạng. Trước hết chúng ta có những nấm hình bán cầu đã miêu tả ở trên, hiển nhiên có qui tắc hơn, và cũng vậy, nấm này không bao giờ có kích thước lớn (xem mộ cổ 150). Nhưng mẫu này lại hiếm hơn: trong tập sưu tầm những phụ bản in theo đây, người ta chỉ gặp một nấm theo kiểu đó. Trong trường hợp này nấm nằm trên một cái nền cũng hình tròn. Một hình dạng khá phổ biến nhiều hơn là hình dạng nửa hình trứng hoặc theo một thành ngữ An nam, đó là nấm hình trứng ngỗng… Có vài dạng đặc biệt cũng liên kết với hai dạng trên. Ở mộ số 138, cái nấm biểu thị hình mai rùa;…” (sdd, các trang 9,10). Và trong phần LIỆT KÊ VÀ MIÊU TẢ NHỮNG LĂNG MỘ, có ngôi mộ được Cadiere đánh số 138 và miêu tả : “Làng Phú Xuân, thôn Trường Cưỡi. Đồ bản B. Phụ bản XXXIV-XXXV: A – Nấm liếp hình con qui…” (sdd, tr83) và ảnh vẽ: Hình 40: Hình vẽ ngôi mộ số 138 có nấm hình mai rùa. Hình 41: Hình vẽ bình đồ của ngôi mộ số 138 Con qui thuộc tứ linh, chủ nhân ngôi mộ có nấm hình con qui là bậc tôn quí. Hơn nữa mai của con qui còn có ý nghĩa chở che, bảo vệ. Loại này chỉ có một trong 317 ngôi mộ mà Cadiere đã sưu tầm, đủ thấy thời phong kiến, ở kinh đô Phú Xuân người ta dựng mộ kiểu này rất ít. Năm 2001 cán bộ Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Huế đã phát hiện và công bố nhóm lăng mộ cổ thời chúa Nguyễn ở Văn Quí, Hải Tân, Quảng Trị. Trong năm ngôi mộ cổ này có một ngôi mộ với nấm hình mai rùa. Dựa vào bài nghiên cứu đăng ở Thông tin khoa học công nghệ… nhóm nghiên cứu Trần Đức Sáng -Hoàng Thị Ái Hoa - Hoàng Minh Tuấn viết: “Nấm mộ ở khu lăng này đều là những tác phẩm điêu khắc tượng tròn hoàn chỉnh. Ngôi mộ số I có hình ảnh linh quy rất sinh động với mai, đầu nhìn thẳng, cũng như khoảng phân định giữa mai và chân đều được tạo hình một cách sắc sảo. Nấm hình rùa được đặt trên bệ chữ nhật khá đăng đối. (4)….” Hình 42: Ảnh chụp toàn cảnh ngôi mộ có nấm mai rùa ở Văn Quý, Hải Tân, Quảng Trị. Hình 43: Nấm mai rùa có hai con cù bao quanh của ngôi mộ ở Văn Quý, Hải Tân,QuảngTrị. Ngôi mộ có nấm hình mai rùa ở Văn Quí, Hải Tân, Quảng Trị với chủ nhân là một viên quan họ Trần, từng giữ chức Cai Hợp thuộc Ty Tướng Thần Lại ở Quảng Nam, được một con trai và bốn người con gái dựng bia vào năm Kỷ Hợi[?]. Các tác giả chú thích văn bia: “Văn bia được chạm theo lối chữ chân, góc trên tả, hữu của mặt bia khắc hai chữ Việt Cố khá lớn (5cm x 5cm), ở giữa khắc dòng chữ nhỏ hơn (4cm x 4cm): "Đầu khảo Quảng Nam Tướng Thần Lại ty Cai hợp Trần Quí công chi mộ". Dòng chữ bên trái (3,5cm x 3,5cm): "Hiếu tử nam nhị, nữ tứ đồng lập thạch". Dòng bên phải (3,5 cm x 3,5 cm): "Long phi Kỷ Hợi lương (?) (bị vỡ không đọc được) cát đán (?) (bị vỡ không đọc được)". Và các nhà nghiên cứu trên cũng phát hiện một ngôi mộ có nấm mai rùa nữa ở làng Hà Trung, các nhà nghiên cứu giới thiệu: “Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện tại làng Hà Trung (Gio Châu, Gio Linh, Quảng Trị) một ngôi mộ bằng hợp chất vôi hàu giã thô, còn khá nguyên vẹn, với nấm rùa có kích thước tương đối lớn (dài 1,89m, rộng 1,50m, đầu cao 0,53m), mai rùa hoa văn hình lục giác, mắt hướng thẳng về trước, trông rất uy nghi, bề thế….” Tất nhiên các tác giả cũng chưa khẳng định được các ngôi mộ có nấm mai rùa được xây dựng vào thời chúa Nguyễn khi viết: “Phải chăng những ngôi mộ vô chủ nằm rải rác trên dải đất miền Trung, mà dân gian thường gọi "mả vôi", "mả rùa", "mả Tàu", "mả Mọi", "mả Hời", "mả trứng", được xây dựng dưới thời chúa Nguyễn.” Thật vậy một ngôi mộ cổ không phải được xây dựng và lập bia một lần. Có khi ban đầu chỉ là mộ đất, về sau con cháu thành đạt, ăn ra làm có mới đủ điều kiện để xây lăng đắp mộ cho cha ông. Có thể con cái dựng bia sớm cho cha mẹ, sau đó các cháu tôn tạo ngôi mộ, vẫn bảo lưu bia cũ mà không cần khắc lại… Hơn nữa những ngôi mộ của những vị tôn quí, con cháu đã xây lớn mà bỏ hoang thì có khả năng những vị ấy thuộc dòng họ thế gia vọng tộc của triều trước, bị triều sau bắt bớ, giết chóc… con cháu phải bỏ trốn không dám viếng mộ của cha ông! Vì lẽ đó khi giám định niên đại ở một ngôi mộ cổ mà chỉ căn cứ vào năm dựng bia, rồi vội kết luận kiểu thức xây dựng, môtíp trang trí thuộc thời chủ nhân ngôi mộ đang sống là có thể phạm sai lầm. Chẳng hạn chúng tôi thử dựng một kịch bản, như một giả thuyết công tác để xác định chủ nhân ngôi mộ có nấm mai rùa ở Văn Quý, Hải Tân, Quảng Trị: Trần Văn Kỷ là con trai của quan Cai hợp thuộc ty Tướng Thần Lại ở Quảng Nam, từng sống ở Vân Trình thuộc miền hạ lưu sông Ô Lâu. Cha mất trước năm 1775. Vì con quan, có điều kiện ăn học, từng dự những buổi bình văn ở văn miếu Long Hồ, có sự hướng dẫn của quan hiệp trấn Lê Quí Đôn vào giai đoạn từ 1775 đến 1779. Trần Văn Kỷ đã ra Thăng Long ứng thí và đã đổ cao. Về lại Phú Xuân, gia đình ông phấn khởi, nhờ phúc ấm của tổ phụ nên đã xây mộ (chưa bề thế) và ông cùng các em dựng bia cho thân phụ vào năm Kỷ Hợi[1779], nhân dịp Trần Văn Kỷ được “rồng mây gặp hội”(long phi). Vì ân sâu nghĩa nặng với chúa Nguyễn, nên Trần Văn Kỷ không làm quan với Lê-Trịnh, ẩn dật chưa có điều kiện tôn tạo mộ phần tổ tiên. Mùa hè năm 1786 Nguyễn Huệ ra Phú Xuân với danh nghĩa phò hoàng tôn Dương, mời Trần Văn Kỷ và ông đã tham gia phong trào Tây Sơn đắc lực… Khi làm đến chức Trung Thư phụng chính, Trần Văn Kỷ có điều kiện tôn tạo mộ cha và các thân nhân khác ở vùng thượng nguồn sông Bồ, tức ở Văn Quí, Hải Tân, Quảng Trị. Khi vua Gia Long thanh toán triều Tây Sơn, Trần Văn Kỷ bị giết và con cháu cũng phiêu tán… nên mộ phần gia tộc Trần Văn Kỷ cũng bị quên lãng. Giả thuyết công tác vừa nêu gọi là góp ý kiến với các nhà nghiên cứu nhằm giám định lịch sử kiến trúc, lịch sử mỹ thuật về nhóm mộ ở Văn Quý, Hải Tân, Quảng Trị. Không vội khẳng định nhóm mộ này được xây thời chúa Nguyễn vì còn có khả năng nhóm mộ được xây dựng vào thời Tây Sơn. Chủ nhân sống và chết thời chúa Nguyễn, con lập bia thời quân Lê Trịnh chiếm Phú Xuân và tôn tạo lớn khi có điều kiện làm quan lớn ở triều Tây Sơn. Để có cơ sở khoa học hơn chúng ta phải dùng kỹ thuật định tuổi của khảo cổ học mới có kết luận. Tuy nhiên có thể nhất trí rằng đối với những ngội mộ có nấm hình mai rùa, tức có con qui, thuộc bộ tứ linh thì chủ nhân ngội mộ phải là những bậc tôn quí như đại quan, vương hầu và hoàng đế. Ở lăng Ba Vành, nấm hình con qui gấp nấm ngôi mộ 138 nói trên, hoặc nấm hình rùa ở hai ngôi mộ ở Quảng Trị đến 5 lần! Mai rùa ở lăng Ba Vành to hơn mai rùa ở các mộ ở Trường Cỡi (Huế), Hải Tân (Quảng Trị), Hà Trung (Quảng Trị). Như vậy chủ nhân lăng Ba Vành phải là một vị đại tôn quí, không ai hơn nữa đó là vua. Hình 44: Nấm mộ hình mai rùa to lớn của lăng Ba Vành Hình 45: Bia trước nấm mai rùa là bia ghi năm xây dựng lăng chứ không phải bia thờ. MUC .F. NHÀ BIA CÓ NỀN CHỮ THẬP Ở LĂNG VUA. Khuôn tĩnh ở lăng vua là phần quan trọng nhất của lăng mộ về mặt phong thủy, đặt ở nơi có long mạch đế vương. Nhưng phần này ở dưới mặt đất, khó xác định vì được giữ bí mật. Phần công khai là bi đình hay nhà bia, nơi tôn trí bia “thánh đức thần công”, có minh văn ca ngợi công đức của vị vua táng ở trong lăng. Bia có nhà bia với cột gỗ được sơn son thếp vàng hoặc cột bê tông có chạm nổi hình rồng uốn lượn. Mái của nhà bia lợp ngói, với tầu đao, diềm mái có trang trí rồng… Điều chúng tôi quan tâm là nền nhà bia. Thường nền nhà bia của lăng vua có hình chữ THẬP, với ý nghĩa “BÁT PHƯƠNG THIÊN ĐỊA”. Bốn phía nhà bia người ta trỗ 4 cửa, mỗi cửa đều có bậc cấp. Hai bên bậc cấp có cặp rồng hoặc cù. Mộ cổ của các thân vương của triều Nguyễn cũng có nhà bia nhưng nền không có bình đồ là chữ thập, thay vào đó có bình đồ là hình vuông hoặc chữ nhật. Để minh họa qui luật bất thành văn này, đối với việc dựng bi đình ở lăng vua, chúng tôi giới thiệu hình ảnh một số bi đình lăng vua tiêu biểu ở nước ta như sau: Hình 46: Nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ Hình 47: Nhà bia Vĩnh Lăng của Lê TháiTổ Hình 48: Nhà bia đổ nát của Lăng vua Gia Long Hình 49: Nhà bia của lăng vua Minh Mạng Hình 50: Nhà bia lăng vua Thiệu Trị. Hình 51: Nhà bia của lăng vua Tự Đức Hình 52: Nhà bia của lăng vua Dục Đức Hình 53: Nhà bia của lăng vua Đồng Khánh Hình 54: Nhà bia của lăng vua Khải Định Vậy: Ở lăng vua Đại Việt hay Việt Nam thời phong kiến thì nhà bia có nền chữ thập, có mái che, bốn phía đều mở cửa và có bậc cấp. ******************************************************** Chúng tôi từng chứng minh ở lăng Ba Vành có hai bia, bia ghi năm phụng lập vẫn còn nhưng có dấu yểm. Còn bia thờ tất nhiên to hơn bia phụng lập và có bài minh ghi công nghiệp của chủ nhân ngôi mộ. Bia này đã bị hủy và có khả năng đã được tận dụng để tạo ra bia thờ thổ thần cho ngôi mộ giả ở sân chầu. Nền nhà bia có hình chữ thập, biểu trưng bát phương thiên địa. Dấu vết bẻ góc nền nhà bia thành chữ thập vẫn còn ở 2 góc trong 4 góc. Dưới những viên đá hộc mới chất về sau, chúng tôi phát hiện nhiều gạch bìa và ngói mỏng. Điều này chứng tỏ ban đầu có nhà bia với bốn cột gỗ, có mái lợp ngói liệt để che bia thờ. Điều này chứng tỏ nền móng chữ thập phát hiện ở lăng Ba Vành không phải là bàn thờ thổ thần. Nhà bia ở trên trục vuông góc với đường thần đạo của ngôi lăng. Như thế bia thờ đặt trên trục này, hướng về đông-bắc, nghiêng bắc 300. Hình 55 : Nền móng nhà bia của lăng Ba Vành Hình 56: Một góc còn rõ góc cạnh của một phần tư nền nhà bia ở lăng Ba Vành Hình 57: nền nhà bia có nền chữ thập. Hình 58: Một góc khác của nền bia chữ thập. Hình 59: Gạch, ngói, đá để dựng nhà bia tìm thấy ở lăng Ba Vành Ở làng Cư Chánh, có cụ Nguyễn Ngọc Tiên, 70 tuổi, hậu duệ của ngài An Ninh bá Nguyễn Ngọc Huyên, cho biết ở Cư Chánh từng có cái miếu nhỏ thờ một khối đá thần hoặc khối đá trạng. Khối đá thuộc loại đá Thanh hình hộp nhưng mặt đá còn thô. Hình 60: Ảnh chụp cụ Nguyễn Ngọc Tiên, trước từ đường phái nhất họ Nguyễn Ngọc ở Cư Chánh Cụ Nguyễn Ngọc Tiên kể nguồn gốc khối đá như sau: Ngày xưa khi chưa có lăng Hiếu Đông, lăng vua Thiệu Trị, lăng Bà Nhất, lăng bà Từ Dũ đã có khối đá ở dưới gốc nhãn. Dân làng Cư Chánh phải đặt bát hương trước khối đá để thờ. Tại sao? Theo truyền khẩu khi voi kéo một cái bia to nặng, từ dưới Huế lên Bến Than, đến làng Cư Hóa để vào dựng ở lăng Ba Thành, voi ré không kéo bia nữa, quan quân quyết định hớt một khúc khoảng 4 tấc phía chân bia để làm phép, khi ấy voi mới kéo tiếp theo đường núi để vào lăng Ba Vành, còn khối đá để bên vệ đường… Về sau, có sở đá gần nơi làng thờ khối đá, các thợ đá xây dựng lăng Thiệu Trị, nghe dân làng Cư Hóa [Cư Chánh] thuật chuyện về khối đá ấy, đã xây am nhỏ bằng gạch để thờ “khối đá thần”. Về sau làng vẫn tiếp tục thờ khối đá ở am. Hiện nay am bị triệt giải và đưa đến vị trí mới cách gốc nhãn khoảng 5 mét. Dân sở tại vẫn bảo lưu những viên gạch vồ của am, còn khối đá vẫn lưu giữ. Người ta dùng vữa để đắp sát khối đá một bệ nhỏ để đặt 3 bát hương. Tư liệu này góp phần khẳng định lăng Ba Vành từng có bia thờ khá lớn và tất nhiên có nhà bia. Còn bia có dấu trãm là bia ghi năm phụng lập. Chúng tôi sẽ làm rõ hai cái bia ở lăng Ba Vành trong bài viết [2],[3]. Hình 61: Tảng đá thần được làng Cư Chánh thờ trên 200 năm. 6. ĐƯỜNG TOẠI ĐẠO Ở LĂNG VUA CHÚA Đường toại đạo ở một lăng vua là con đường hầm được đào sâu dưới đất, có hai chức năng: * dùng để đưa quan tài của vua vào huyệt mộ; * thoát nước để làm ráo khô huyệt mộ. Lăng Minh Mạng có đường toại đạo. Lăng Thiệu Trị có đường toại đạo giống lăng Minh Mạng. Và tất nhiên lăng Tự Đức cũng có đường toại đạo. Đỗ Phước Tiến viết bài “ Miếng ăn để đời”có đoạn: “Và chuyện này do người thuyết minh di tích Hiếu lăng kể: ngày 20-8-1841, quan tài của vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu thành bằng đường toại đạo (đường hầm đưa quan tài vào huyệt mộ). Đường hầm kéo dài từ Đại Hồng môn đến điểm tận cùng của La thành cách nhau đến 700 mét…Theo lời dặn của vua cha Thiệu Trị, khi xây Xương lăng vua Tự Đức căn dặn Đổng lý Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm toại đạo của Hiếu lăng. Nghĩa là truyền thống vẫn tiếp tục.” Vua Thiệu Trị lâm bệnh mất ngày 4 tháng 11 năm 1847, lúc mới 41 tuổi. Khi hấp hối, nhà vua còn dặn Hồng Nhậm: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”. Vua Tự Đức dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm “toại đạo” giống như Hiếu lăng. Toại đạo, tức là đường hầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ, được xây vào ngày 24 tháng 3 năm 1848. Khi xây dựng các công trình như điện, đình, các, viện thì bắt chước quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa hình để châm chước định liệu mà làm. Những vụ đào trộm mộ cổ, trong đó có một số mộ chúa Nguyễn, kẻ đào trộm thường đào bên trái của mộ (khi đứng nhìn từ nấm ra cửa mộ) thì gặp đường toại đạo. Đường toại đạo không thẳng, uốn cong theo bình đồ và có đoạn sâu hơn nơi xây khuôn tĩnh. Một vị thuộc Nguyễn Phước Tộc (yêu cầu giấu tên) sau vụ đào trộm lăng Trường Thanh của chúa Nguyễn Phúc Chu, được tin đã lên hiện trường và đã từng theo đường toại đạo để tiếp cận khuôn tĩnh. Vị ấy đã thấy cốt dâu bện rơm chứ không có hài cốt. Vậy lăng vua chúa thời cuối Lê đầu Nguyễn có xu hướng dựng đường toại đạo để đưa quan tài vào huyệt và có chức năng như một cái họng để chứa nước, nhằm làm ráo nước huyệt mộ. Cách đây 21 năm chúng tôi có gửi bảo tàng Huế một bộ sưu tập gạch qua các thời, tìm thấy ở Thừa Thiên Huế, trong đó có một viên gach tìm thấy ở hầm chứa đồ tùy táng của lăng Ba Vành, được nung rất kỹ, hình hộp ( trông như cái bánh chưng), kích thước 15cmx15cmx4cm. Trên một mặt vuông của viên gạch, người xưa đã vẽ phác thảo ngọn đồi, ở đỉnh đồi có mộ, và một đường toại đạo từ dưới chân đồi lên mộ. .Hình 62: Mặt viên gạch có khắc chìm đường Toại Đạo (tìm thấy ở hầm chứa đồ tùy táng) Như vậy lăng Ba Vành từng bị lấy quan tài ra do đường toại đạo. Chắc chắn quan quân Tây Sơn về hàng Nguyễn Vương có người biết và đã chỉ con đường toại đạo này.Vậy nấm mộ mai rùa bị đục một góc, không vì mục đích lấy quan tài hay lấy hài cốt. Bằng phương pháp âm học, chúng tôi biết được bên dưới mai rùa tạo bằng lớp bê tông dày lại có một lớp vữa bê tông khá dày. Mai rùa và lớp bê tông này cách nhau chưa tới 1mét, không thể đặt quan tài trên lớp bêtông. Vậy khuôn tĩnh phải ở dưới lớp bêtông và chắc chắn có cửa để vào đường toại đạo. Đây cũng là bằng chứng không có sự kiện “người cháu Lê Xuân của họ Lê Quang Đồng Di đã quật nấm mai rùa để dời hài cốt Lê Quang Đại sang Ngự Bình, rồi bỏ trốn vào Đà Nẵng…” 7. LĂNG VUA CÓ NHÀ HỘ LĂNG, CÓ GIẾNG ĐỂ SINH HOẠT,VƯỜN LĂNG Lăng vua có nhà hộ lăng hoặc tả, hữu tùng viện để quan hộ lăng, quân lính giữ lăng hoặc người thân của nhà vua thường trú để giữ lăng, lo hương khói và tổ chức bái tảo… Ngay thời Pháp thuộc, những lăng vua xây muộn như Tư Lăng, An Lăng, Ứng Lăng cũng có nhà hộ lăng hoặc tả hữu tùng viện. Ở An Lăng, sau điện Long An có Tả Hữu tùng viện. Bên ngoài tường thành có nhà trực, điếm canh và nhà ở của quan quân hộ lăng. Ứng Lăng của vua Khải Định, với cung Thiên Định ở vị trí cao nhất gồm 5 công trình liền nhau mà hai bên có tả hữu trực phòng để lính hộ lăng ở… Đan Dương lăng của vua Quang Trung chắc chắn có nhà hộ lăng. Thật vậy, trong phần nguyên chú của bài thơ Xuân đề kỷ sự, Phan Huy Ích có nhắc đến “bọn tiểu giám hộ lăng” tức chức quan trông coi hai lăng ở kinh đô Phú Xuân. Giới nghiên cứu ở Huế nhất trí: Đan Dương lăng và lăng bà Tả Cung họ Phạm có nhà hộ lăng để tiểu giám hộ lăng làm việc và binh phu bảo vệ lăng thường trú. Đã ở thì phải có giếng nước để lấy nước sinh hoạt. Vấn đề nhà hộ lăng của Đan Dương lăng từng được các nhà nghiên cứu ở Huế đặt ra như một tiêu chí trong bước đường tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung. Hơn nữa đã là lăng vua như Đan Dương lăng thì phải có vườn lăng. Thật vậy trong bài Cảm Hoài, viết khi đi sứ Trung Quốc để báo tang, Ngô Thì Nhậm từng nguyên chú có câu:“…trông vời viên lăng [ ], không ngăn được tấm lòng một ngày bằng ba thu…” Thế thì lăng Ba Vành có nhà hộ lăng và vườn lăng hay không và nếu có thì dấu tích ở đâu ? Hình 63: Ảnh chụp vệ tinh toàn cảnh quần thể lăng Ba Vành. Trong hai mươi ba năm nghiên cứu lăng Ba Vành, do tôn trọng vườn cam của Đan Viện Thiên An, chúng tôi rất ngại tiếp cận các thầy đang làm việc và tất nhiên không dám vào khu vực vườn cam của tu viện. Hình 64: Công trình kiến trúc Đan Viện Thiên An. Năm 2007, khi đi vào làng Kim Sơn tìm bác Liễng, nhờ bác kiếm người giúp chúng tôi phát quang lăng Ba Vành để tiện nghiên cứu thì chúng tôi phát hiện trên đường sát bờ rào phía đông của vườn cam có những mảnh gạch bìa giống gạch bìa của lăng Ba Vành, ở Gò Viên Khâu Tây Sơn (Núi bân), ở Đàn Phương Trạch Tây Sơn (sau chùa Thiên Mụ), ở Học Cung Long Hồ (do Tây Sơn mở rộng Văn Miếu Long hồ)…. Tín hiệu này, thôi thúc chúng tôi phải tìm gặp các thầy đang tu học và đang lao động ở vườn cam để hỏi. Nhóm chúng tôi gồm có Trần Viết Điền, Trần Viết Hòa đã gặp thầy Phan Quang Hoành của Đan viện Thiên An đang đi dạo bên hồ Thủy Tiên, gần Đan viện. Chúng tôi được thầy Phan Quang Hoành tiếp chuyện và thầy đã nhiệt tình cho phép chúng tôi vào nhà quản vụ để nói chuyện khi biết chúng tôi từng lên lăng Ba Vành nghiên cứu trong 21 năm. Trong câu chuyện, biết chúng tôi đến đây với mục đích nghiên cứu, không liên quan những việc thương thảo về đất đai giữa xã Thủy Bằng với Đan Viện Thiên An, nên quản vụ vườn cam Đoàn Tiến An và thầy Phan Quang Hoành vui vẻ trả lời những thắc mắc của chúng tôi quanh lịch sử Đan Viện Thiên An nói chung và vườn cam Thiên An nói riêng. Hình 65: Nhà ban quản vụ vườn cam thuộc Đan viện Thiên An. Hình 66: Thầy Phan Quang Hoành và Trần Viết Điền đang trao đổi về lịch sử vườn cam. Ngồi ở bàn đá trong sân nhà ban quản vụ vườn cam, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy nhiều đá táng, đá kê cột, đá lát bằng đá Thanh… trong sân. Và những chậu cảnh cũng tạc đá Thanh, trông rất cổ. Được biết Đan viện Thiên An được thành lập khoảng năm 1940, kiến trúc thuộc phong cách phương Tây, không có xây dựng kiểu nhà rường cho nhà ban quản vụ vườn cam, nơi các thầy vừa lao động sản xuất vừa tu học. Thế thì những vật liệu đá cổ nói trên vì sao có mặt ở đây? Có viên đá làm bàn, có viên làm ghế ngồi, lại có viên bó nền, có viên lát lối đi với vữa kết dính là vôi Long Thọ và xi măng. Nền nhà ban quản vụ vườn cam được tạo tác bằng bờ lô của nhà máy vôi Long Thọ, từng sản xuất thời Pháp thuộc, và xen lẫn các thứ đá cổ nói trên… Gần đây trên mạng có bài “Lược sử Đan viện Thiên An”(NVHBT, 22-03-08) có đoạn: “Tháng 3 năm 1939, cha Romain Guillauma, một đan sĩ người Pháp, quyết định lập dòng tại Huế, và vẫn duy trì sở Miévelle làm nơi nghỉ chân (sở đất này sẽ bán lại cho các nữ tu Phan sinh vào năm 1954). Ngày 10-6-1940, thánh lễ đầu tiên được cha Romain cử hành trong ngôi nhà tranh vừa dựng xong gần chân đồi Ðức Mẹ, đánh dấu ngày thành lập Ðan viện Thiên An, trước sự hiện diện của cha Corentin. Cha Romain chọn Thánh Tâm Chúa Giêsu làm quan thầy Ðan viện Thiên An. Nhờ cha Romain được mời đi giảng nhiều nơi, và cha Corentin đi học tiếng Việt ở Loan Lý, nên chẳng những nhiều anh em ở Huế, ở Loan Lý, mà còn ở trong Nam, ngoài Bắc đã tìm đến xin tu. Trong 3 năm đầu mọi người đều sống ở ngôi nhà tranh. Và vào những lúc trời mưa, cóc, nhái, rắn rết thích di tản vào nhà sống chung với người, lắm lúc chui vào tạm trú trong giày dép làm các thân chủ lắm khi phải nhảy đựng lên khi buổi đêm dậy đọc kinh đêm, hay buổi sáng thức dậy xỏ chân ngay vào giày hoặc dép. Ngày 23-10-1943, làm phép và khánh thành nhà nguyện và ngôi nhà ở 3 tầng, có 28 phòng. Ða số vật liệu xây cất 2 ngôi nhà này được khai thác tại chỗ: đá, gỗ thông và gạch. Hai tầng lầu để ở, còn tầng trệt làm phòng cơm. Ngày 17-10-1945, cha Benoit Nguyễn Văn Thái được thụ phong linh mục sớm hơn dự định, phòng hờ các cha Tây bị quân Nhật bắt.” Hình 67: Bậc cấp ở sân nhà ban quản vụ vườn cam được xây bằng đá Thanh Qua đoạn lược sử trên cho thấy Đan viện Thiên An ba năm đầu rất khó khăn. Đan viện đã lao động cật lực để xây được hai ngôi nhà, vật liệu khai thác tại chỗ. Các thầy Phan Quang Hoành, Đoàn Tiến An không biết nguồn gốc những vật tạo tác bằng đá Thanh, thường có ở những ngôi nhà cổ, lại có mặt ở nhà ban quản vụ. Như vậy Đan viện Thiên An không từng mua sắm những khối đá kê cột, đá lát, đá bó nền, chậu cảnh bằng đá Thanh để xây dựng nhà quản lý vườn cam. Đan Viện đã dựa trên nền móng của một công trình kiến trúc cổ, theo cách “khai thác tại chỗ” để dựng nhà quản vụ vườn cam.. Chúng tôi đã xin phép các thầy Đoàn Tiến An, Phan Quang Hoành, chụp ảnh những vật liệu cổ ấy. Các thầy đồng ý. Những bức ảnh tư liệu ấy như sau: Hình 68: Một chậu cây cảnh đặt trên hai tảng đá kê cột đều tạo tác từ đá Thanh. Hình 69: Bàn khách, ghế ngồi đều bằng đá Thanh ở nhà ban quản vụ. Hình 70: Đã kê cột làm bằng đá Thanh ở nhà ban quản vụ. Hình 71: Một viên đá lát làm bằng đá Thanh ở nhà ban quản vụ. Các thầy rất ngạc nhiên khi chúng tôi quan tâm những viên đá Thanh rất cổ có mặt ở nhà quản vụ. Các thầy nhiệt tình đưa chúng tôi vào nhà bếp chỉ cho chúng tôi cái cối đá bị vỡ… từng thu được ở công trình cổ, tiền thân của nhà quản vụ. Hình 72: Cái cối đá bị vỡ trong nhà ban quản vụ vườn cam. Chúng tôi lại hỏi về các giếng nước của vườn cam. Thầy Phan Quang Hoành cho biết ở vườn cam có hai giếng cổ. Cả hai giếng đều thuộc vườn cam Thiên An quản lý và sử dụng. Trước đây, vườn cam chỉ quản lý và sử dụng một giếng từ 1940. Khi vào lập vườn cam, được phép của chính quyền lúc ấy, thì Đan Viện Thiên An đã gặp một phế tích đã đổ nát, có gạch bìa (như lăng Ba Vành), có đá táng, đá kê cột, đá lát, có cối đá… và có giếng cổ xây bằng đá. Về sau để bảo đảm vệ sinh, ban quản vụ vườn cam đã thay đá bằng bi xi măng, có đoang tròn dày làm nắp đậy giếng. Hình 73: Giếng cổ và cạnh giếng có bể nước, và gần giếng cũng có nhiều đá kê cột làm bằng đá Thanh. . Vậy tiền thân của nhà quản vụ vườn cam thuộc dòng tu Thiên An là nhà hộ lăng của lăng Ba Vành.Hình 74: Vị trí tương đối của nhà hộ lăng .Hình 75: Hình vẽ phối cảnh lăng Ba Vành Trên đây là một số tiêu chí lăng vua mà lăng Ba Vành đã hội đủ. Chưa kể qui mô bửu thành của lăng gấp 3, 4 lần qui mô lăng các chúa Nguyễn, và lăng cũng tọa lạc trên đồi được tạo tác thành ba tầng… là những bằng chứng đầy sức thuyết phục của giả thuyết: Lăng Ba Vành là Đan Dương lăng của vua Quang Trung. Trong bài tới chúng tôi sẽ công bố tiếp về 9 giao long hóa rồng rất độc đáo ở lăng Ba Vành, và motip giao long hóa rồng này triều Tây Sơn thường dùng để trang trí các tạo tác thuộc về cung đình. Chúng tôi sẽ chứng minh lăng Ba Vành là lăng vua bị quật phá, có ấn chứng trị tội của vua Nguyễn, bị yểm. Và chúng tôi cũng chứng minh lăng Ba Vành bị che giấu bằng cách thay đổi chức năng các cấu kiện, làm hồ sơ giả để đánh lạc hướng các nhà nghiên cứu. Rất mong các nhà nghiên cứu quan tâm vấn đề lăng Ba Vành. Các nhà nghiên cứu phủ định giả thuyết lăng Ba Vành là Đan Dương lăng, đã dựa vào những cơ sở không thuyết phục để vội kết luận lăng Ba Vành là lăng quan, rồi thờ ơ với ngôi lăng cổ có kiến trúc độc đáo, có giá trị lịch sử mỹ thuật như lăng Ba Vành, khiến các cơ quan hữu trách không có biện pháp bảo tồn di tích lịch sử quí hiếm lăng Ba Vành và lăng Ba Vành hoang tàn nhanh chóng. Huế, tháng 3, 2009. Thay mặt nhóm nghiên cứu Trần Viết Điền
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:29:30 GMT 9
Phong Thủy Trấn Yểm Hồ Chí Minh? THIÊN ĐỨC Ảnh từ trái sang: Vị trí Hội trường Ba Đình và phu cận – Nguồn: RFA 19/11/2007; Phương án L 787 - Giải A – Nguồn: Tuanvietnam.net ; Phong thủy cái đòn dông – Nguồn: Thiên Đức; Hội trường Ba Đình đã tháo dỡ ghế - Nguồn: TienphongOnline 22/11/2007 Thế là xong, tòa nhà quốc hội cũ được xem như là di tích lịch sử Ba Đình đã thật sự đi vào quá khứ. Khởi đầu bằng quyết định của Quốc hội: Vào ngày thứ Hai ngày 2/4/2007, 9 giờ 30 phút: Quốc hội họp phiên bế mạc (truyền hình trực tiếp) có nhiều nội dung, trong đó có việc biểu quyết thông qua nghị quyết về chủ trương xây dựng nhà quốc hội. 86,56% đại biểu quốc hội (ĐBQH) đã đồng ý với phương án xây mới tòa nhà QH trên nền hội trường Ba Đình cũ. (Nguồn: www.tienphongonline.com.vn, 3/4/2007). Ngày 30/3/2007, quốc hội đã tham khảo các ĐBQH bằng hình thức phát phiếu hỏi ý kiến. Đa số ĐBQH đã đồng ý với phương án xây mới tòa nhà quốc hội trên nền hội trường Ba Đình. Cụ thể trong số 309 phiếu thu về có 32 ý kiến phản đối. Hiện nay “Hội trường Ba Đình trong mùa tháo gỡ” đã xong. Những tranh cãi nhằm bảo tồn di tích cổ như tòa nhà quốc hội cũ, hay Thăng Long thành không cần phải tiếp tục nữa. Thế nhưng những tranh cãi phong thủy về tòa nhà quốc hội mới chỉ là bước khởi đầu, nhằm làm sáng tỏ những hệ qua nghiêm trọng có thể xảy ra chính là mục đích của bài viết vậy. 1) Vị trí xây dựng Tòa nhà quốc hội mới nằm trong khu vực chính trị Ba Đình, lô 8 Hoàng Diệu được giới hạn bởi đường Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn. Đối diện trực tiếp với lăng Hồ Chí Minh. Với vị trí đặc biệt này, dù muốn dù không, tòa nhà quốc hội mới và lăng Hồ Chí Minh sẽ phải chịu ảnh hưởng hỗ tương lẫn nhau hay nói cách khác là chịu sự tác động hai chiều về mặt phong thủy. Về tư tưởng: Hiện nay đảng CS tôn vinh tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh như là một chuẩn mực cao nhất của thời đại, lăng Hồ Chí Minh chính là biểu tượng đó. Do ảnh hưởng này, trình độ và tư tưởng của những đại biểu trong tòa nhà quốc hội sẽ không thể nào vượt qua ra giới hạn đó, như vậy sẽ trở thành những người “lùn trí tuệ” so với thời đại. Không ai có quyền vượt cao hơn trí tuệ của Hồ Chí Minh là người từng tuyên bố “Không, tôi không có tư tưởng gì cả, ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin” (1) Về văn hóa: Lăng Hồ Chí Minh chỉ là một bản sao mô hình lăng Lenin của Liên Xô, hoàn toàn không có một tí gì bản sắc văn hóa Việt Nam. Do vậy tòa nhà quốc hội mới không thể nào là một biểu tượng văn hóa Việt Nam để phá hỏng đi cảnh quang chung của khu vực Ba Đình. Phương án được chọn lựa xây dựng tòa nhà quốc hội mới bao gồm những hình khối hộp nằm chồng lên nhau, tự thân của nó không mang một màu sắc văn hóa của bất cứ một dân tộc nào. Tòa nhà quốc hội biểu tượng cho quyền lực lớn nhất của đất nước chỉ là một tổng hợp hình khối vô hồn, thì khối đại biểu quốc hội nằm trong tòa nhà đó chẳng khá gì hơn là những cái máy gật và lắc đầu vô cảm trước nỗi đau thương của tổ quốc bị phanh thây xẻ thịt hay người dân bị áp bức bất công của xã hội. Một điểm chú ý là vị trí xây cất này nằm ngay phần đất Thăng Long thành cổ chưa được khai quật bảo tồn đầy đủ. Một vùng đất “địa linh” gây nhiều tranh luận, rất tiếc phạm vi này nằm ngoài chủ đích của bài viết. 2) Mô tả cấu trúc Cuộc thi vẽ thiết kế tòa nhà quốc hội đã được Bộ Xây dựng gấp rút tiến hành. Kết quả được trưng bày tại trung tâm hội nghị quốc gia tại Hà Nội từ ngày 2 đến 15 tháng 9 năm 2007 vừa qua. Phương án L 787 đoạt giải A đưa vào thực hiện với lời biện minh chính thức bởi PGS-TS Lưu Đức Hải, Viện trưởng viện Quy hoạch Đô thị - Nông thôn: “Tòa nhà Quốc Hội là ngôi đình quốc gia của thế kỷ 21”. Người viết không biết ông Lưu Đức Hải dựa trên tiêu chuẩn nào để khẳng định đây là ngôi đình quốc gia. Vì rằng biểu tượng của ngôi đình Việt Nam là cái mái với những hoa văn đặc thù của nó. Thế nhưng tòa nhà quốc hội mới lại là loại nhà không có mái. Phải chăng đây là một cuộc cách mạng văn hóa Việt Nam hay chỉ là một lối giải thích cho bằng được, “cả vú lấp miệng em”; chẳng khác gì thời kỳ hoang tưởng giải thích chủ nghĩa xã hội ưu việt và chủ nghĩa tư bản đang rẫy chết vậy. Dưới cái nhìn phong thủy, người xưa từng dạy rằng: “Con không cha như nhà không có nóc” nhìn vào phương án tòa nhà quốc hội mới có thể giải đoán theo nghĩa hẹp, người nắm quyền lực cao nhất vào thời điểm tòa nhà xây dựng là Nông Đức Mạnh, phải là người không cha hay thuộc loại con rơi vô thừa nhận. Nếu giải đoán theo nghĩa rộng, toàn bộ đại biểu trong quốc hội phải là một tập hợp bất phục lẫn nhau, mạnh ai nấy làm. Chủ tịch quốc hội là một người hữu danh vô thực, trên bảo dưới không nghe. Một cách khác cũng có thể nói tòa nhà quốc hội mới có mái nhà khiếm khuyết, không đầy đủ để chống mưa, che nắng, theo câu nói người xưa “nhà dột từ nóc”, quốc hội làm sao có thể chống tham nhũng được, khi mà tham nhũng đã trở thành một quốc nạn phát xuất từ những nhân sự quyền lực cao nhất trong Bộ Chính Trị lại có quyền sống ngoài luật pháp? Mái nhà quốc hội mới được phân chia bởi hai mảnh hình khối vành khăn (hành kim) và hình dài đa chiều (hành hỏa), tự thân đã tạo nên sự xung khắc nội tại. Theo dịch lý quân bình âm dương có Trời thì phải có Đất tượng trưng bởi hình vuông và hình tròn. Mái nhà quốc hội chỉ có hình tròn hoàn toàn không có hình vuông, có thể giải đoán rằng ngôi nhà này biểu tượng cho một chế độ có quan mà không có dân, hay nói một cách khác một chế độ xem dân như cỏ rác và hình ảnh người dân oan khiếu kiện là một minh chứng điển hình. 3) Phong thủy cái đòn dông Với loại nhà có hai mái, cái đòn dông nằm ngay trên nóc, cao nhất có công dụng nâng đỡ mái nhà, xét về mặt phong thủy cây đòn dông này rất quan trọng vì có thể tạo ra một lực bắn ra gây tác hại cho những vật cản phía trước. Ví dụ, cái đòn dông của nhà này chĩa thẳng vào cửa chính căn nhà đối diện ắt rằng đem lại sự hiểm nguy hay khó ở cho những người ở trong căn nhà đó nếu không hóa giải kịp thời. Đối với loại nhà mái bằng rơi vào trường hợp không có đòn dông nếu không có mũi nhọn nào chĩa ra. Trường hợp có mũi nhọn chĩa ra sẽ trở thành loại nhà có nhiều đòn dông, vì tất cả các mũi nhọn xuất phát từ những cây chống đỡ có công dụng giống nhau. Trở lại mô hình tòa nhà quốc hội mới, được tạo thành bởi hai tầng khối: Tầng thứ nhất làm nền tảng là một khối vuông rỗng ruột. Chính giữa là một khối hình nón cụt đáy chổng lên trời. Tầng thứ hai hình thành bởi những khối chữ nhật nằm bao quanh trụ nón sắp đặt theo chủ ý là bắn ra đầy đủ bốn hướng. Dưới cái nhìn của một nhà quân sự thì mô hình này chẳng khác gì một công sự phòng thủ hiện đại bao gồm một bệ phóng vuông tầng thứ nhất, với nhiều ổ súng chỉa ra đầy đủ bốn hướng và hình nón chính giữa là ổ tiếp đạn luân hoàn cho tất cả cây súng. Qua nhãn quang phong thủy đây là loại nhà có nhiều đòn dông có tác dụng mãnh liệt nhất theo số lượng lực bắn của nó. Thật vậy, tính theo vòng “sinh lão bịnh tử”, một cây đòn dông tạo nên một lực bắn “sinh” có nghĩa là người đối diện nhận lãnh lực bắn này còn có cơ hội tránh né 50/50 giữa sinh và tử. Đối với bốn mũi súng bắn ra từ mặt tiền tòa nhà quốc hội mới là lực bắn tận diệt “tử” không còn đường tránh né tức là người đối diện phải tan xác không còn lối thoát. (Xem hình minh họa số 3). Trở lại lăng ông Hồ, cái xác ướp luôn luôn đặt nằm ngửa, mặt nhìn thẳng ra phía trước tức là tòa nhà quốc hội. Như vậy, ông Hồ Chí Minh luôn luôn phải đối diện và phải hứng chịu bốn lực bắn của những khối nhà quốc hội mới tất yếu phải đem lại nhiều hậu quả khốc liệt về mặt phong thủy. Theo đảng CSVN, Hồ Chi Minh là một lãnh tụ đầy tôn kính, với tòa nhà quốc hội này đã thể hiện một sự bất kính nếu không muốn nói là thù địch về mặt phong thủy như những trận chiến phong thủy thường thấy trong lãnh vực xây dựng vậy. Đảng CSVN ép buộc mọi người dân Việt học tập đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh theo chuẩn mực danh nhân thời đại thế mà thực tế thân xác Hồ Chí Minh được xử lý là phải chịu những lực bắn phong thủy từ tòa nhà quốc hội như là một “tội đồ dân tộc” với hình phạt “vạn tiễn phơi thây” là một nghịch lý không thể chấp nhận được. 4) Những quan niệm phong thủy sai lầm a)- Giáo sư sử học Phan Huy Lê, chủ tịch hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, trong bài viết “Vẫn còn giải pháp hay cho cấm thành” có đoạn viết: “Đúng Cấm Thành là vùng trung tâm nhất, nhưng nói “địa linh”, “thắng địa” của kinh thành thì cần hiểu bao gồm cả Hoàng Thành Thăng Long và rộng ra là cả vùng kinh sư như vua Lý Thái Tổ đã xác định “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước”, “chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư của muôn đời. Thậm chí có người cho rằng nhà Quốc hội cần xây dựng trong khu trung tâm của Cấm Thành, phía trước nền điện Kính Thiên, giữa Đoan Môn và Cột Cờ vì núi Nùng là “Rốn Rồng”, là trung tâm theo quan niệm phong thủy và tâm linh, mọi long mạch của non sông đất nước đều từ đây tỏa ra. Chúng ta không bàn về thuyết phong thủy, nhưng xin lưu ý là nếu theo phong thủy thì xây dựng một công trình hiện đại với móng đào và đóng cọc sâu đến vài ba chục mét là tự ta đã cắt đứt long mạch rồi”. Ở đây người viết nhấn mạnh rằng giáo sư Phan Huy Lê đã có sự nhầm lẫn giữa khái niệm “Địa linh” và “Long mạch” về phương diện phong thủy cho nên đã có nhận định sai lạc “cắt đứt long mạch” như trên. Thật vậy Thăng Long thành là vùng đất địa linh dùng xây dựng dương trạch, nhằm sản sinh ra nhân kiệt. Lịch sử Việt Nam đã từng khẳng định điều đó bằng hành động cụ thể xây dựng thành Đại La từ thế kỷ thứ VII đến thứ IX, hoàng thành Thăng Long từ thế kỷ XI đến XVIII và cả thành Hà Nội vào thế kỷ XIX. Tổng cộng chiều dài lịch sử là 1.300 năm . Như vậy không có chuyện cắt đứt long mạch bởi những công trình xây dựng trong vùng đất này. Khoa khảo cổ cũng không tìm thấy được ngôi mộ cổ nào có tầm cỡ có thể ảnh hưởng đến phong thủy trong vùng địa linh này. Trái lại vùng đất “long mạch” dùng để xây dựng “âm trạch” tức là mồ mả, lăng tẩm dưới hình thức địa táng. Nếu ai may mắn được chôn cất ngay huyệt “hàm rồng”trong vùng long mạch, huyệt mộ kết phát cho con cháu trở nên làm vua theo truyền thuyết. Điểm sai lầm nghiêm trọng ở đây là đảng CSVN đã cho xây dựng lăng Hồ Chí Minh tại vùng đất địa linh lịch sử hàng ngàn năm, phá hỏng phong thủy vùng này, làm ô nhiễm âm khí và cản trở việc sản sinh nhân kiệt cho đất nước. Thực tế đã thấy rõ, gần nữa thế kỷ nay số lượng hào kiệt nhân sĩ đất Hà thành đã hiếm hoi xuất hiện so với người dân Sài Gòn bị trù dập, trấn áp và đánh giá là thành phần “ma cô đĩ điếm” thế nhưng họ vẫn vươn lên thành công sáng chói trên nhiều lãnh vực ở tầm vóc quốc tế ngày càng nhiều là một minh chứng. b)- Trong bài viết “Đảng chỉ tay, quốc hội vỗ tay, và nhân dân trắng tay” của Hoàng Quân có đoạn viết: “Gần 20 năm nay, thuật địa lý và phong thủy phát triển rất mạnh tại Việt Nam. Không chỉ khi xây dựng những công trình lớn người ta mới phải mời thầy để xem hướng đất hướng nhà, mà ngay cả khi mua nhà mua đất, người ta cũng cần đến các người có hiểu biết về địa lý để quyết định. Đặc biệt, các quan lớn chóp bu của cộng sản còn tin và có điều kiện nhiều hơn ai khác. Những công nhân xây dựng đã kể rằng, khu tòa biệt thự của quan Phan văn Khải đã phải hoãn xây dựng đến 2 lần, chỉ vì chưa có sự thống nhất về ngày khởi công của 2 thầy địa lý người Tầu. Cả tòa biệt thự với sân trực thăng trên nóc của quan Nông đức Mạnh hiện nay cũng có sự góp công của nhiều thầy địa lý cả trong và ngoài nước, đặc biệt là các thầy người Tầu". Lần này, khi quyết định phá bỏ Hội trường Ba đình, theo các nguồn tin vỉa hè thì những người thân cận ông Nông Đức Mạnh kể rằng, ông đã tìm thấy “long mạch”, nên để bảo đảm sự trường tồn của chế độ CS, nhất định phải xây dựng lại tòa nhà mới theo đúng với thế đất”. Trước đây trong bài viết “Phong thủy lăng Hồ Chí Minh” người viết đã từng chứng minh rằng lăng Hồ Chí Minh luôn luôn ở trong tình trạng động mồ, động mả bởi ba yếu tố: * Sự chuyển động liên tục của những đoàn người tham quan. * Thân xác Hồ Chí Minh phải dịch chuyển hằng ngày theo nhu cầu bảo quản xác ướp. * Lăng mộ nằm ngay giao điểm hội tụ của những dòng chảy sinh khí. Phải chăng vì lý do này, mà đảng CSVN đã cố tình xây dựng tòa nhà quốc hội mới nhằm mục đích trấn yểm lăng Hồ Chí Minh? để bảo đảm sự trường tồn của chế độ CS? Nếu đây là sự thật, thì đây giải pháp phong thủy rất thâm độc và gian trá. Thật vậy, những người chủ trương xây dựng quốc hội mới đã áp dụng đúng phong thủy cơ bản là dùng những mũi tên độc hay nòng đại pháo của tòa nhà để trấn áp một ngôi mồ bị động mả hay nói đúng hơn là đè bẹp oan hồn Hồ Chí Minh không cho nổi loạn để cho chế độ CS được ổn định và an bình. Những điều đáng nói ở đây là: 1) - Có nhiều phương cách để hóa giải hữu hiệu một vấn đề phong thủy, thế nhưng người có trách nhiệm đã chọn lựa một phương án ác độc, mất đạo đức và luân lý. Thật vậy trên lịch sử thế giới không có ông vua nào vì ổn định ngai vàng mà lại đi trù yểm cha ruột của mình như là một tội đồ phơi thây với những mũi tên phong thủy. Chỉ có Nông Đức Mạnh mới làm được điều đó, phải chăng đây là sự báo hiếu nhãn tiền của dòng họ Hồ, hay nói rõ hơn đây là phong cách đối xử nhân quả giữa một đứa con bị bỏ rơi và một ông già từng chơi chạy, vô trách nhiệm. Người viết xin giành lại cho lịch sử và công luận sẽ phán xét. 2) - Tòa nhà quốc hội nằm ở một vị trí rất quan yếu ngay giữa trái tim Việt Nam (trung tâm chính trị Ba Đình) và ngay trọng điểm của vùng đất địa linh của hoàng thành Thăng Long, thế mà tòa nhà này được xây dựng như là một công sự quân sự những mũi súng độc phong thủy nằm đầy đủ bốn hướng như vậy công trình xây dựng này không chỉ trấn yểm lăng Hồ Chí Minh mà còn nhằm mục đích trấn yểm hay tàn phà vùng đất địa linh, làm tuyệt đường phát sinh nhân kiệt cho đất nước chính là điểm cần làm sáng tỏ trong âm mưu thâm độc này. 3) - Với mọi sự dè dặt, theo thông tin bài báo trên, công việc xây dựng tòa nhà quốc hội có sự cố vấn của những ma đầu phong thủy người Tàu, thì đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Ngày xưa, người tàu đã mượn tay người dân Việt ném đá vào trụ đồng Mã Viện, để chôn sâu vào lòng đất nhằm phá hỏng huyện đế vương nữ giới làm cho đất nước ta qua 4000 ngàn năm nay không thể xuất hiện thêm một nữ anh hùng với tầm cỡ Hai Bà Trưng. (Xem “Nghi án Phong thủy Trụ đồng Mã Viện”, cùng tác giả). Phải chăng ngày nay, cũng người tàu mượn tay Nông Đức Mạnh xây tòa nhà quốc hội mới như là một loại bùa trấn yểm vùng đất địa linh để không còn sản sinh anh hào nhân kiệt nước Nam? Việt Nam sẽ mãi mãi rơi vào vòng nô lệ trong tham vọng bành trướng của Trung Quốc chăng? Phải chăng cũng vì lý do này, mà khi tòa nhà quốc hội cũ vừa bị tháo dỡ xong, hồn thiêng sông núi đã phản ứng mạnh mẽ, làm thức tỉnh những tầng lớp trí thức, sĩ phu, sinh viên học sinh vùng lên biểu tình chống Trung Quốc để bảo vệ Hoàng Trường Sa. Giáo hội công giáo Việt Nam từng một thời gian dài ngủ yên trong câm lặng giờ đây đã thức tỉnh thực sự, lên tiếng nguyện cầu cho công lý. Rồi đây những ngày tháng tới sẽ còn tiếp diễn ra sao? câu trả lời nên dành cho tất cả những ai hằng quan tâm đến vận mạng đất nước trả lời. Người viết trong khả năng hạn hẹp của mình, vạch ra những âm mưu thâm độc nói trên trước công luận trong và ngoài nước, mong bạn đọc tiếp tay phổ biến thông tin này đến tất cả mọi người để có biện pháp ngăn chận kịp thời, trước khi quá muộn. * (1) Nguyễn Văn Trấn: Viết cho Mẹ & Quốc hội, nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác-Lê.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:32:43 GMT 9
Tôi Đi Học Phong Thủy Địa Lý ĐẶNG HÙNG SƠN . Tài tử Đặng Hùng Sơn (phải) nhận văn bằng phong thủy. Đôi khi trong cuộc đời lắm lúc tôi cũng có những băn khoăn về đời sống và tự hỏi tại sao họa phúc rủi may của con người đều do ảnh hưởng của phương hướng nhà cửa địa lý phong thủy . Tính tôi hay tò mò về những điều cổ xưa của những bậc tiền bối phương Đông, và đó là lý do để tôi tìm hiểu, nghiên cứu về những phương thang Đông y, cùng huyệt đạo trên cơ thể con người. Đọc sách thuốc và những sách về phong thủy của người xưa mới thấy rằng có rất nhiều điều mà chúng ta cần phải học. "Đọc Thư Thiên Bất Phụ" Nhân đọc trong báo về lớp Địa lý phong thủy, tôi tìm đến và gặp cô Như Thanh Trần thị Tính. Cô là học trò của cụ Nguyễn trọng Đồng, chân truyền của Cụ Vân Lĩnh Việt Hải. Cô là giảng viên vào mỗi ngày cuối tuần tại Hội Cao Niên Á Mỹ. Lớp học vào khoảng hơn mười người gồm những người đã biết qua và một số người chưa biết gì về bộ môn văn hóa cổ truyền này. Trong vũ trụ quan, yếu tố nhân văn luôn liên hệ chặt chẽ với yếu tố Thiên thời và địa lợi. Những yếu tố khảo sát ở môi trường sống cụ thể như hướng gió và nước ở quanh vùng dân cư thịnh hay suy cũng giúp ta khám phá ra địa khí tiềm ẩn trong vùng với kinh nghiệm của nhà phong thủy. Chúng tôi đã say sưa theo dõi những bài giảng của cô Tính qua những điều cơ bản về khoa địa lý phong thủy về Bát quái hậu thiên… Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài (8 quẻ dịch). Thập can,Thiên can ngũ hành, Thiên can âm dương, Địa chi. Địa chi tam sát, Lục thập hoa giáp, Cửu cung. Tính cung phi của mệnh. Đông tứ trạch và Tây tứ trạch. Phối cung, Tứ trụ. Hướng nhà phạm sao hung thì phải đặt bếp ra làm sao. Dùng la bàn để xác định hướng và tọa của căn nhà. Nhà ở cul de sac thì không tốt (5 căn chung quanh), vì bị khí trực xạ ngay con đường đâm thẳng vào căn nhà. Nhờ học địa lý mà tôi biết được những quý vị nào có máu cờ bạc, khi đi đánh bạc thì ít khi ăn và thua thì nhiều. Bàn đánh bạc hình vòng cung ví như giòng sông có ngọn nước lớn (Thủy Bảo Tiền). Nơi người ngồi đánh bạc ở vị trí xấu, Dealer chia bài ở vị trí tốt hơn mình. Hàng ngày, đi thăm mộ bố tôi ở Nghĩa Trang Westminster Memorial Park (Peek Family), tôi đều phải lái xe đi qua mộ của Ông Đỗ Ngọc Yến (Cố chủ nhiệm Báo Người Việt). Đứng ngắm ngôi mộ một lúc, bên cạnh là con đường ngoằn ngoèo uốn khúc như giòng sông. Đó là ngôi mộ Âm dương (yin & yang) vòng tròn thái cực viên mãn. Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ chung quanh khí tụ tốt. Nhiều nhà ở Mỹ, vị trí của bếp lò (hỏa) nằm đối diện với cái sink rửa chén (thủy). Thủy hỏa tương khắc. Để hóa giải nó dùng Thảm màu xanh lá cây (mộc) để ở dưới đất. Hơn hai tháng trôi qua, những điều bổ ích và chiêm nghiệm được với những kiến thức căn bản về khoa cổ truyền địa lý phong thủy đã mang lại cho tôi nhiều hứng thú. Được biết khóa hai sẽ khai giảng vào ngày thứ Bảy vào lúc 2:00 chiều cũng tại Hội Cao niên Á Mỹ tại số 220 Hospital Circle, Westminster. Theo dịch lý, mọi vật đều kết tinh nguyên khí âm dương, mọi sự đều tương ứng (harmony) với nhau theo lý ngũ hành. Khí lưu thông thì sự vật nảy sinh tươi tốt, chỗ nào khí bế tắc thì hóa ra hiện tượng tiêu điều, suy thoái. Do đó, khi ta cảm thấy bất an, nên xem xét có điều gì bất ổn, có sự vật hình thể nào cản trở đường lưu hành tự nhiên của khí vận hay không. "Thiên địa giao nhi vạn vật thông Thượng hạ giao nhi kỳ chí đồng dã." ĐẶNG HÙNG SƠN
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 3:34:50 GMT 9
Điều Cần Lưu Y Khi Lỡ Mua Nhà Phạm Chủ SONG LỘC .
Khách đến thật đúng hẹn. Họ là một cặp vợ chồng trẻ, lanh lợi hoạt bát nhưng nét mặt cả hai đều đượm vẻ lo buồn man mác, tinh ý mới nhận thấy. Chắc chắn họ phải có điều gì khúc mắc trong cuộc sống nên mới tìm đến tôi. Sau khi an vị, tôi ghi năm, ngày, tháng và giờ sanh, rồi độn quẻ và bấm hai lá số. Sau khi quan sát kỹ 2 lá số, nhìn diện sắc của họ và suy nghĩ về tượng quẻ, tôi nói: "Tổng hợp lại thì chắc mấy năm vừa qua, anh chị có sự thay đổi, gặp nhiều rắc rối và sang năm nay lại có sự suy thoái lo lắng về tài vật, tiền bạc và cơ sở làm ăn." Cô vợ nhanh nhẩu lên tiếng: Thưa bác, đúng thế, bác xem có thể giúp tụi cháu hóa giải đi vận hạn xấu được không ạ? Tôi đáp: "Bệnh quỷ thì có thuốc tiên, biết được bệnh căn thì trừ trường hợp quá đặc biệt có thể chữa trị được." Nghe tôi nói như vậy, người chồng tươi mặt nói: Thưa bác, tổng quát thì bác đã biết nhưng cháu thấy cũng cần phải trình bầy rõ thêm về hoàn cảnh của chúng cháu để bác rộng đường giải đoán và giúp chúng cháu". Tôi đáp: "lẽ ra thì không cần nhưng có thêm chi tiết thì càng tốt, thấy được việc cần làm để nhanh chóng triệt tiêu được sư nguy hiểm và mang lại sự êm ấm và thịnh đạt. Câu chuyện họ kể khá dài, có thể tóm lại như sau: Gia đình hai bên đều đến Hoa Kỳ vào cuối thập niên 80 theo diện bảo lãnh. Người bảo lãnh cũng không được dư giả, nên mọi người đều phải lo vừa đi học vừa đi làm để phục giúp về mọi phí khoản như nhà của, xe cộ, ăn uống. Ban đầu, họ xin được việc làm ở một hãng điện tử, với tiền lương tối thiểu, chỉ có thể sống qua ngày. Nhưng có điều đặt biệt là quen nhau từ đấy. Hợp nhãn và được hai gia đình chấp nhận là họ nên duyên bằng một đám cưới cho nho nhỏ, vui vui. Xây tổ uyên ương xong, mới thấy nhiều nhu cầu cho cuộc sống lứa đôi, phải "bung ra" mới đủ. Do đó, họ quyết định đi học nail và theo người chi họ đi làm nail tại vùng "South Los". Họ còn trẻ lại gặp chủ tốt nên "tay nghề" tiến triển mau lẹ. Tiền lương và tiền "tip" cộng lại của hai người bây giờ có thể đủ sống dư giả. Nhưng "nghề nail" ở Cali hồi này không còn hấp dẫn như trước, nhiều thợ giỏi đã phải đi xuyên bang làm ăn và thành công đáng kể. Tin tức vui vẻ dồn dập làm họ nóng lòng và rồi cũng "khăn gói gió đưa" vào mùa hè năm sau đó. Tay nghề giỏi lương cao họ thành công mau lẹ, có ăn có để mà còn phụ giúp được cho gia đình bên Cali. Một năm sau, họ đã đủ sức sang được một tiệm nail khá đẹp, ở ngay khu thị tứ, công việc làm ăn phát đạt tiền vào như nước và chỉ một năm sau họ đã "bil" thêm một tiệm nữa. Khi đứa con gái đầu lòng chào đời thì cô vợ đã có nhiều thì giờ lo cho con và tối đến ngồi đếm tiền do các người thợ bạn làm "manager" đưa tới. Ba năm sau họ mua nhà và quyết định nghỉ 1 tháng đưa con gái về thăm nội ngoại ở Cali và về thăm quê hương. Họ rất vui sướng vì bay giờ đã có đủ: nhà đẹp, xe sang, tiền bạc rủng rỉnh. Nhưng! Chữ nhưng thật là tai hại. Sau 1 tháng vacation trở về, cả 3 tiệm đều suy giảm trầm trọng: Thợ giỏi bỏ đi vì các manager hống hách, khách bỏ đi, nhiều tiệm mới, có thợ giỏi mọc lên ngay khu kế cận. Tiền phố tăng, tiền thu nhập không đủ trang trãi hàng tháng. Bà mẹ vợ ở Cali lo cho con gái nên bay sang ngay, bà nói: Từ ngày mua căn nhà này là có chuyện, phải mời thầy phong thủy tới xem và sửa chữa mới được. Họ mời một thầy Hồng Kông tới coi, thầy nói nhà này phạm ngũ quỹ và có nhiều khắc hại, không sửa được, phải bán đi mới thoát nạn. Sợ quá, họ vội nhờ luật sư khai "bankruptcy"và rút về Cali hy vọng làm lại cuộc đời. Về Cali vào gần cuối năm rồi, với số tiền còn lại họ nhờ người em đứng tên "down" một căn nhà mới xây và sang một cửa tiệm ở vùng "chino". Họ nghĩ nhà mới do người khác đứng tên, tiệm nai đẹp và đông khách; và hai người cùng "đồng tâm hiệp lực" là chắc ăn; không ngờ từ đầu năm đến giờ, mọi chuyện đều rắc rối suy sụp, thê thảm hơn nữa, chưa biết tính sao. May thay, vừa rồi có bà chị vợ ở Indiana cũng gặp khó khăn nhưng nhờ bác giúp nên đã phục hồi được nguyên trạng. Vì thế chúng cháu đã tìm đến bác. Nghe xong tôi trấn an: Theo vận số trên tử vi diện tướng của anh chị, mấy năm nay gặp vận hạn xấu, thêm vào đó chỗ ở và các cơ sở làm ăn chắc chắn phải có sự khắc kỵ nên mới nên chuyện. Lẽ ra, nếu có lòng tin và biết được sự việc trước thì đều có thể hóa giải các điểm xấu, kỵ hầu có được sự an lành và thịnh đạt. Việc khai phá sản để mất nhà cửa và các cơ sở làm ăn hồi năm ngoái là một sai lầm, do nghiệp quả, vận số mà ra không có gì xấu lắm nhưng chỗ ở và cơ sở làm ăn phải có sự khắc hại, cần phải xem xét tại thực địa để thiết trí lại và dùng "y dịch liệu pháp" hóa giải đi mới được. Đây là bản đồ khu vực Chino và Ontario xin anh chị coi kỹ để biết chắc phương hướng chính xác của hai nơi trên và phác thảo nội ngoại vì cũng như sự thiết trí nội thất là có thể tìm ra căn bệnh. Nói xong, như thường lệ, tôi trải bản đồ trên bàn, định vị, hướng dẫn họ dò tìm và thấy là hai nơi trên đều "tọa bắc", "hướng nam" và sau đó, qua bản phác thảo của họ thì việc thiết kế nội thất cũng như khung cảnh môi trường xung quanh có nhiều điểm không hợp về phong thủy và còn khắc hại nữa. Thảo nào! Tôi nhìn họ và giải thích: anh tuổi mậu thân, trạch khôn, chị tuổi giáp thìn, trạch càn. Cả hai đều thuôc tây tứ trạch và được phước đức là tốt. Nhưng 3 năm qua cả hai đều bị hạn tam tai, và niên hạn TV có nhiều hung tinh và chỗ ở cũng như các cơ sở làm ăn có sự khắc hại, gặp thời vận xấu mà không hoá giải kịp thời nên có chuyện. Hiện nay chỗ làm ăn và chỗ ở cũng đều thuộc đông tứ trạch, thêm vào đó tuổi mậu thân còn gặp "tam hình" phải hoá giải đi mới được. Tôi ghi ra tờ giấy này các việc cần làm, xin anh chị theo dõi kỹ càng, khi cần hỏi rõ thêm xin cho biết. Cô vợ chăm chú ghi chép và hơn một giờ sau thì công việc hoàn tất. Xong xuôi, tôi lấy lịch xem xét kỹ và dặn họ, thứ ba tuần sau, lúc 10 giờ và 14 giờ là các giờ tốt để sắp xếp lại. Nhờ làm tuần tự và chu đáo, chắc chỉ một tuần sau là sẽ có sự thay đổi thay tốt thuận lợi cho anh chị. Điều cần nhớ từ nay mỗi khi cần thay đổi chỗ ở hay mở cơ sở làm ăn thì nên cố tránh các hướng thuộc Đông tứ trạch. Trường hợp bất đắc dĩ thì nên gọi tôi hoặc các vị thông thạo về phong thủy để tham cứu, rồi sắp xếp lại, hóa giải đi mới được, đừng quá vội vã mà hỏng việc. Hai tuần sau, họ gọi phone báo tin là tình huống đã thay đổi khác nhiều: chỗ ở tạm ổn định, gia đình không xào xáo nữa và tiệm cũng phục hồi, có khách và có thợ. Họ xin lấy hẹn sẽ đón tôi vào ngày thứ hai đầu tuần, giúp họ duyệt lại toàn bộ, hầu bảo đảm giữ được sự an lành, thịnh đạt. Họ khá cẩn thận, nên chắc từ nay sẽ tránh được nhiều khiếm khuyết, và nóng vội trong mọi công việc. Họ hiểu được việc làm ăn thất thoát một phần là do vận sô xấu, phần còn lại là do nơi chốn cư trú và làm việc có sự khắc kỵ tai hại. Thời vận tốt mà "an cư" thì chắc chắn sẽ "lạc nghiệp". PTTVG Song Lộc
|
|