|
Post by NhiHa on May 27, 2010 8:07:32 GMT 9
Bệnh tật thông thường
Các vụ đau đớn hay bệnh tật thông thường rất có thể là chẳng có gì quan trọng… nhưng đôi khi lại vô cùng nghiêm trọng. Vì vậy chúng ta cẩn phải cẩn thận cân nhắc những gì phải làm mỗi khi sự việc xẩy ra cho chúng ta.
1- Khi không (bỗng nhiên) thấy tức thở
Lý do: có thể là do nghẽn mạch phổi(pulmonary embolus). Nhận xét: Cảm thấy khó thở sau khi tập thể dục hay đang ngồi có thể là do vận động hay do ưu tư lo lắng. Nhưng nếu đột nhiên bị khó thở có thể là do chứng nghẽn mạch phổi do cục đông máu làm nghẹt mạch máu trong phổi. Bệnh này có thể nguy hiểm tới tính mạng. Một lý do khác là tim lên cơn đau hoặc trụy tim. Cả hai tình huống trên đều làm cho bệnh nhân thở gấp hay khó chịu hoặc cảm thấy thiếu không khí . Cẩn đưa bệnh nhân đi cấp cứu.
2- Tim đập rộn trong khi đang ngồi yên Lý do: có thể là do lên cơn đau tim (heart attack). Nhận xét: Đánh trống ngực (palpitations) có thể chỉ là vì ưu tư lo lắng, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của cơn đau tim hay chứng loạn nhịp tim (arrhythmia) .Nên liên lạc với bác sĩ ngay.
3- Choáng váng chóng mặt khi ra khỏi giường Lý do: có thể là do huyết áp thấp. Nhận xét: Chóng mặt vào buổi sáng được gọi là "huyết áp thế đứng thấp" (orthostatic hypotension) gây ra bởi sự loại nước (dehydration) , bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, bệnh trụy tim, hay thuốc men bao gồm cả thuốc lợi tiểu và thuốc huyết áp. Một lý do khác có thể là chứng "chóng mặt tư thế nhẹ " (benign positional vertigo) gây ra bởi sự xáo trộn của các bộ phận cân bằng của tai trong. Nên đi gặp bác sĩ để chẩn đoán.
4- Nước tiểu rò rỉ Lý do: có thể là do chứng són đái (urinary incontinence) mà nguyên nhân không phải vì lão hoá, nhiểm khuẩn đường tiểu (urinary tract infection-UTI) , bệnh tiền liệt tuyến, dây thẩn kinh bị ép. hoặc tiểu đường Nhận xét: đi gặp bác sĩ để chẩn đóan
5- Đầu đau như búa bổ Lý do: có thể là do xuất huyết não Nhận xét: Trong phần lớn trường hợp đó là triệu chứng của chứng nhức nửa đầu (migraine) chỉ cần uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi là hết. Nhưng một vài trường hợp hiếm xẩy ra là chứng nhức đầu có thể là dấu hiệu có khối u hay xuất huyết trong não. Cẩn đặc biệt chú ý là khi bị đau nhiều nửa bên đầu một cách đột ngột và kéo dài mà lại kèm theo buồn nôn, ói mửa, và chảy nước mắt. Trong trường hợp sau này phải đi bệnh viện gấp.
6- Mắt bị sưng vù Lý do: có thể là do viêm dây thần kinh mắt (optic neuritis). Nhận xét: Dây thần kinh mắt có thể bị nhiễm khuẩn hay bị dị ứng. Nếu chữa sớm thì không hại gì cho mắt vì vậy cần đi bác sĩ khẩn cấp.
7- Tai đau và mắt nhìn thấy hai hình (song thị) Lý do: có thể do tai giữa bị nhiễm khuẩ Nhận xét: Bệnh có thể trở thành nghiêm trọng bất ngờ vì vậy cần đi bác sĩ cấp thời nếu chứng đau không dứt và/hoặc có bị thêm chóng mặt lảo đảo, nhức đầu, ói mửa, song thị, nửa ngủ nửa thức, cổ cứng đơ, sưng ở sau tai, sốt nhiều và liệt mặt.
8- Tự nhiên giảm sút ký Lý do: có thể là do ung thư. Nhận xét: Nếu ăn uống vẫn bình thường như cũ mà đột nhiên bị sút cân thì có thể là bị bệnh ác tính. Một nguyên nhân khác cũng có thể là do sự bất bình thường nội tiết (endocrinic abnormality) như bệnh tuyến giáp trạng (thyroid disorder), trầm cảm hay tiểu đường. Nên đi gặp bác sĩ ngay để chẩn đoán.
9- Đột nhiên đau háng Lý do: có thể là do tinh hoàn bị xoắn Nhận xét: Đây là một khuyết tật bẩm sinh khá thông thường. Ống dẫn tinh trùng bị xoắn làm máu không chạy tới tinh hoàn. Cơn đau cũng giống như bị đá vào háng. Đôi khi ngoài cơn đau còn thấy bị sưng nữa. Trong vòng 4 hay 6 tiếng thì còn cứu đươc, chứ trễ từ 12 đến 24 tiếng thì coi như phải cắt bỏ. Một nguyên nhân khác có thể là nhiểm khuẩn mào tinh hoàn (epididymis) tức là bộ phận trữ tinh trùng. Trong trường hợp này có thể dùng trụ sinh để chữa trị.
10 - Đau nhói gan bàn chân Lý do: có thể là do bệnh thần kinh (neuropathy) . Nhận xét: Đau nhói cứ tái phát ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể có thể là do sự nén ép dây thần kinh, tăng thông khí phổi (hyperventilation) hoặc bệnh thần kinh. Liên lạc với bác sĩ càng sớm càng tốt.
11- Vết thâm tím mãi không tan Điều gì xẩy ra: bệnh tiểu đường. Nhận xét: Vết đứt hay thâm tím chậm lành có thể là dấu hiệu của bệnh tiểu đường (dấu hiệu khác gồm có da bị ngứa hoặc đau nhói bàn tay hay bàn chân). Nên tìm cách giảm cân (giảm 10 phẩn trăm trọng lượng ảnh hưởng đáng kể lên mức đường trong máu), tập thể dục và coi chừng thói quen ăn uống.
12 - Răng đau buốt khi ăn Sô-cô-la Điều gì sẽ xẩy ra: viêm lợi. Nhận xét: Một trong những dấu hiệu đầu tiên của sâu răng là nhạy cảm với đồ ngọt. Dấu hiệu đầu tiên khác là răng mất mầu và có mùi khi cà răng. Kỹ thuật laser có thể phát hiện sớm các ổ răng sâu và tiêu diệt các vi khuẩn trước khi làm sâu răng.
13 - Vòng eo rộng 42 inch Điều gì sẽ xẩy ra: bất lực. Nhận xét: Có thể bây giờ chưa có vấn đề nhưng trong tương lai bạn có thể bị loạn năng cường dương (erectile disfunction) . Nguyên do là vì khi đàn ông quá mập các động mạch thường hay bị nghẹt nên dòng máu không đủ làm cho cương. Hãy tập thể dục đều cho đến khi eo thon lại, thắt vừa dây lưng 34 inch.
14 - Mắt thoáng không thấy gì - chỉ trong một giây Lý do: có thể là do đột quỵ (stroke). Nhận xét: Các yếu tố rủi ro chính của đột quỵ là cao huyết áp (trên 140/90) và cholesterol toàn phần cao hơn 200. Bị tê một bên người và tạm thời hai mắt không nhìn thấy gì là những dấu hiệu đáng chú ý nhất. Đột nhiên bị tê, nói liú lưỡi, hay mất thăng bằng có thể là bẳng chứng của một cơn đột quỵ nhẹ gọi là đột quỵ thiếu máu cục bộ đoản kỳ (transient ischemic attack- TIA). Đột quỵ nhẹ này thường báo trước một đột quỵ thật sự nên khi có triệu chứng của TIA thì phải gặp bác sĩ ngay.
15 - Có cảm giác như bị ợ nóng (heartburn) Lý do: có thể là do chứng đau thắt (angina). Nhận xét: Đau ngực cả hàng giờ, lúc có lúc không, được bác sĩ gọi là "hội chứng mạch vành không ổn định" (unstable coronary syndrome). Nguyên nhân là vì các cục đông máu đươc tạo thành bên trong thành động mạch vành ngay tại chỗ mảng (plaque) bị bể vỡ. Khoảng 50 phẩn trăm những người có hội chứng trên đây sẽ bị lên cơn đau tim trong vòng 6 tháng sau. Mỗi khi thấy đau thắt ngực, cần phải đi bệnh viện.
16 - Đau lưng nhiều Lý do: có thể là do chứng phình mạch (aneurysm). Nhận xét: Đau cũng tương tự như vừa dọn dep xong tủ quẩn áo bề bộn. Thế nhưng chườm nóng, nghỉ ngơi, uống thuốc giảm đau thông thường lại không khỏi. Nếu không phải vì tập thể dục thì đau lưng bất chợt như vậy có thể là dấu hiệu của chứng phình mạch. Chứng đau này chỉ hết khi động mạch chủ bị bể. Một nguyên nhân khác của chứng đau lưng này - kém phần nguy hiểm hơn - là sạn thận. Bác sĩ cho chụp CT scan để xác định vị trí và hình dạng của chỗ mạch phình, sau đó cho uống thuốc huyết áp hay giải phẫu ghép nối nhân tạo.
17- Ngồi lâu trên ghế không yên Lý do : có thể do các cơ lưng bị căng thẳng. Nhận xét : Nếu cứ phải thay đổi vị thế ngồi luôn tức là có dấu hiệu các cơ lưng bị căng thẳng và điều này có thể dẫn đến đau lưng dưới. Cẩn phải lựa chọn ghế ngồi cho thoải mái, sao cho đầu ở vị trí ngay đối với cột sống để giảm tối thiểu sức căng thẳng trên cổ, vai và lưng dưới.
18 - Bạn mới biết thân phụ bị cao huyết áp Điều gì sẽ xẩy ra: bạn cũng sẽ bị cao huyết áp luôn. Nhận xét: Vì bệnh cao huyết áp vừa phải không có dấu hiệu bên ngoài nên cẩn phải đo huyếp áp mỗi năm một lần, nhất là nếu trong gia đình có tiền sử bị cao huyết áp. Nghiên cứu cho thấy là những người bị căng thẳng tinh thần vì cha mẹ mắc bệnh cao huyết áp cũng có nhiểu rủi ro bị bệnh này luôn. Nếu số đo huyết áp cao hơn 140/90, bạn nên tập thể dục nhiều hơn, tìm cách sụt cân, giảm sodium trong chế độ ăn uống, ăn loại cá tốt cho tim, uống nhiều vitamin C.
19 - Tay bị run khi tập thể dục Lý do: có thể là do cơ bắp bị mỏi mệt. Nhận xét: Nếu bạn đã bỏ tập cả nhiều tháng thì cơ bắp bị run có thể là vì mệt mỏi. Vì vậy khi mới tập trở lại bạn nên tập vừa phải, đừng tập quá mệt. Bạn hãy ngưng tập khi cảm thấy các cơ bắp bắt đầu run.
20 - Trong bàn tiệc bạn thấy mọi thứ đều quay cuồng Lý do: do bạn đã quá chén. Nhận xét: Rượu làm suy yếu hệ thần kinh trung ương. Vì vậy nếu bạn uống quá nhiều, tất cả những gì trong cơ thể có liên quan tới hệ này sẽ đều bị suy yếu: trí phán đoán, khí sắc, khả năng phối hợp và quân bình, sự nhạy cảm với đau đớn, khả năng sinh dục… Bạn nên tránh đừng uống rươu nhiều. Bạn nên nhớ là nếu nồng độ rượu trong máu hơn 0.06 phần trăm là trên pháp lý bạn đã bị coi như là say rượu.
21- Đau dai dẳng ở bàn chân và cẳng chân Lý do: nhiều triển vọng là do gẫy xương vì sức nén (stress fracture). Nhận xét: Cũng giống như các mô khác trong cơ thể, xương tự tái tạo. Nhưng nếu bạn tập thể dục quá mạnh, xương không có cơ hội để lành trở lại nên một vết gẫy vì sức nén (stress fracture) sẽ có thể xuất hiện. Vì thế mu bàn chân và phiá trước cẳng chân sẽ đau dai dẳng. Bạn càng tập thể dục thì càng đau và ngay cả khi ngưng nghỉ cũng đau. Uống thuốc ibuprofen hay paracetamol không ăn thua gì. Thuốc mầu phóng xạ cho thấy chỗ xương gẫy qua hình chụp tia X, và bác sĩ sẽ bắt bạn phải nghỉ tập cho đến khi xương lành. Trường hợp xấu nhất là bạn phải bó bột vài tuần.
22 - Đau như cắt ở bụng Lý do: Vì vùng giữa xương sườn và háng có kẹt đầy các bộ phận nên đau có thể là triệu chứng hoặc của viêm ruột thừa, viêm tụy tạng hoặc của túi mật bị sưng. Cả ba trường hợp đểu có cùng một nguyên nhân : vì một lý do nào đó các bộ phận này đã bị nhiễm khuẩn nguy hại đến tính mạng. Nhận xét : Nếu để bộ phận nói trên bể vỡ ra thì bệnh nhân có thể bị chết, vì vậy cẩn đi bệnh viện cấp thời.
23- Cẳng chân bị đau và sưng to Lý do: có thể là do chứng huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis –DVT). Nhận xét: Chỉ cẩn ngổi một chỗ liền chừng 6 tiếng hay hơn là máu sẽ tụ ở cẳng chân dưới tạo thành cục đông máu (gọi là chứng huyết khối tĩnh mach sâu). Cục đông máu đủ lớn sẽ làm nghẹt tĩnh mạch bắp chân gây đau và sưng. Xoa cẳng chân là điểu đầu tiên bạn sẽ làm nhưng cũng là điều tệ hại nhất vì cục đông máu lớn có thể chạy ngược lên phổi, điều nầy gây nguy hiểm đến tính mạng của bạn. Muốn chụp hình tia X để định bệnh DVT bác sĩ phải chích chất mẩu vào tĩnh mach. Bác sĩ sẽ cho thuốc làm tan cục đông máu hoặc đặt cái lọc vào tĩnh mạch để chặn cục đông máu không cho chạy lên phổi.
24 - Tiểu tiện bị đau Lý do: có thể là do ung thư bàng quang (bọng đái). Nhận xét: Rặn tiểu là cả một cực hình và nước tiểu lại có màu rỉ sắt. Đau và máu trong nước tiểu là hai triệu chứng của ung thư bàng quang. Hút thuốc là yếu tố rủi ro bị bệnh lớn nhất. Nếu khám phá sớm bệnh có 90 phẩn trăm triển vọng được chữa khỏi. Nhiễm khuẩn bàng quang cũng có cùng các triệu chứng như trên
(Theo "24 warning signs you cannot afford to ignore").
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:15:55 GMT 9
Vài vấn đề ưu tiên cho sức khỏe tuổi vàngBs Nguyễn Ý Ðức "When grace is joined with wrinkles , it is adorable; There is an unspeakable dawn in happy old age ." Victor Hugo. Tuổi Vàng là thời gian mà ta sẽ trải qua sau khi đã đóng góp nhiều công sức, tâm não cho xã hội cũng như cho gia đình con cháu. Tại nhiều quốc gia, tuổi đó được coi như từ 65 trở lên. Tuổi mà xã hội cho mình cái quyền vui thú điền viên với những khoản trợ cấp theo luật định hoặc tiền hưu, tiền để dành sau nhiều năm lao động. Với tuổi này, sức khoẻ con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Có những yếu tố ngoài tầm kiểm soát của mỗi cá nhân như chủng tộc, đặc tính di truyền, phái tính. Ngược lại, cũng có một số yếu tố mà khi muốn duy trì một sức khoẻ tốt , ta có nhiều khả năng ảnh hưởng tới. Đó là thói quen tốt xấu trong nếp sống hàng ngày; mức độ quan tâm tới việc chăm lo sức khoẻ; sự lượng định chính xác các điều kiện y tế trong môi trường chung quanh; thái độ thích ứng với tiến trình lão hóa; dinh dưỡng ẩm thực và phương pháp vận động cơ thể. Xin hãy cùng phân tích một số yếu tố vừa đan cử, rút tỉa ra những đường hướng, những quy luật cần theo để có một tuổi vàng an lạc. MỐI QUAN TÂM VỀ Y-TẾ . Sự quan tâm, chăm sóc này là điều ta cần thực hiện liên tục trong suốt cuộc đời. Tới tuổi vàng, nó sẽ trở thành ưu tiên số một. Ở tuổi này, cơ thể con người sẽ trải qua nhiều đổi thay về thể xác lẫn tâm hồn. Các đổi thay đều làm suy yếu một số chức năng cũng như hệ thống phòng chống bệnh tật của cơ thể. Người cao tuổi cần chủ động, tích cực trong việc chăm sóc sức khoẻ của mình; cần hiểu rõ những vấn đề mình phải đối phó, vì các nhu cầu về y tế bây giờ không giống như mấy chục năm về trước. Hiểu biết những thay đổi đó rất cần thiết để ứng phó, thích nghi. 1-Theo thời gian, tế bào thần kinh bị hủy diệt dần dần mà không được thay thế; lượng máu nuôi dưỡng óc giảm, sự suy nghĩ bắt đầu chậm chạp, rối loạn, nhầm lẫn. 2-Thủy tinh thể của mắt trở nên cứng đục, võng mạc kém nhạy cảm với ánh sáng, thị giác giảm khi nhìn sự vật ở gần hay trong bóng tối. 3-Tai nghe nghễnh ngãng, khó bắt được các âm thanh có tần số cao và tiếng nói bình thường. 4-Ăn uống mất ngon. Thức ăn như đắng chát vì tế bào vị giác trên lưỡi ngày một ít đi; miệng khô vì hiệu năng sản xuất của hạch nước miếng giảm tới mức đáng ngại. 5-Khứu giác kém, mũi không phân biệt và tiếp nhận được mùi của hóa chất, thực phẩm. 6-Nhịp tim chậm, lượng máu xuất tim giảm, cơ tim xơ cứng, dễ bị suy tim, gây ngất sỉu, khiến ta không cáng đáng được những công việc thường làm khi còn trẻ. 7-Hơi thở ngắn, nhanh; lượng dưỡng khí trong máu giảm. Tất cả đưa đến khó thở, dễ thấm mệt khi làm việc chân tay. 8-Gan teo. Lượng máu lưu thông qua gan giảm; chức năng thanh lọc độc chất kém hữu hiệu. Thuốc uống vào được giữ trong cơ thể lâu hơn và ở mức độ cao hơn. 9-Thận cũng nhỏ đi. Máu đi qua thận giảm, nước tiểu loãng. Khả năng tống xuất chất muối kém, dễ gây sự khô nước trong người và kéo dài tác dụng của nhiều loaị dược phẩm. Bàng quang co bóp yếu, gây chứng khó tiểu và chứng không nín đái được. Nhiếp hộ tuyến sưng, gây bí tiểu, đôi khi phải thông cho dễ chịu. 10-Lớp mỡ dưới da teo, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn kém hoạt động. Hậu quả là da khô, nhăn nheo, dễ bị tổn thương, ít chịu đựng được nhiệt độ lạnh gía. 11-Hệ thống miễn nhiễm yếu, sự sản xuất kháng thể bị trì trệ, cơ thể dễ bị nhiễm trùng, bệnh tật sẽ trầm trọng hơn. 12-Đời sống tính dục cũng có nhiều thay đổi, nhưng nói chung thì khả năng tình ái nam nữ giới tồn tại tới tuổi 80, 90. 13-Về tâm trí, khả năng thâu nhận kiến thức bằng suy luận, trực giác hay giác quan có nhiều rối loạn. Trí nhớ ngắn hạn kém dần. Tri thức lỏng, gồm khả năng thích nghi với hoàn cảnh mới và giải quyết cấp bách các vấn đề, đều giảm đi với tuổi già. Tri thức kết tinh laị tăng lên. Tri thức này bao gồm khả năng thu nhập, tích lũyï những hiểu biết về vũ trụ, ngôn ngữ, sự việc, ngày tháng, tên tuổi, nghề nghiệp. Thành ra khi ngồi hầu chuyện với một trưởng lão, ta cứ được nghe các vị kể vanh vách những sự việc xẩy ra xưa rất xưa. Cũng trong phạm vi tâm thần, nhiều người già có một số phản ứng tâm lý tiêu cực. Họ thường trầm mặc bi quan, hạ giá khả năng bản thân, thích cô đơn, giảm quan hệ qua laị, hay than thân trách phận hoặc oán trách người khác. Có người đang năng động, đột nhiên thu mình: bạn bè mời sinh hoạt, ăn uống đều từ chối, lại còn dẹp bỏ những hoạt động mà trước đây họ say mê. Lý lẽ chính được nêu ra là "Tôi già rồi, đâu còn khỏe mạnh như trước". Con cái nhiều khi thắc mắc là bố tôi không còn là bố tôi của mấy năm về trước hoặc tôi không thể nào hiểu được mẹ tôi nữa. Biết được những thay đổi trong cơ thể và những bệnh thường có của mình chưa đủ, ta còn cần hợp tác chân thành với người thầy thuốc gia đình. Cũng phải lựa chọn một thầy thuốc có lương tâm chức nghiệp, sằn sàng dành thì giờ cho bệnh nhân, chăm sóc, giải thích kỹ càng bệnh tật và nhu cầu trị liệu. Không được " Lương y như từ mẫu" thì cũng với tinh thần nhiều phục vụ hơn là thương mại. Ngoài ra, cũng nên gây mối giao hảo tốt với cô y tá của ông bác sĩ, vì "quan xa, nha gần". Cô ta sẽ là người mà ta tiếp xúc nhiều hơn như lấy hẹn, hỏi thuốc, hỏi kết quả thử nghiệm hoặc xin mua thêm thuốc. . Hãy tích cực trong việc tự săn sóc sức khoẻ . Đề phòng bệnh bằng sự chích ngừa như cúm, viêm phổi, viêm gan... Tham dự chương trình sớm phát hiện bệnh như chụp hình nhũ hoa tìm kiếm ung thư vú, khám tìm ung thư nhiếp hộ tuyến, làm Pap smear cho ung thư cổ tử cung... Khám sức khoẻ tổng quát hàng năm dù không có bệnh. Sự khám tổng quát này nhắm mục đích là tìm ra những dấu hiệu của bệnh trước khi bệnh lan rộng. Trong dịp này. thầy thuốc sẽ có cơ hội giải đáp những thắc mắc ta nêu ra, kiểm soát toàn bộ sức khoẻ của mình. Đây cũng là dịp để thầy thuốc thực hiện một số thử nghiệm về máu để coi mức độ đường, cholesterol, hồng cầu, bạch cầu; thử nghiệm nước tiểu để coi tình trạng chức năng của thận, bàng quan. Khám ngực nhũ hoa, khám hậu môn nhiếp hộ tuyến, làm Pap Smear tử cung qúy bà cũng nằm trong chương trình khám sức khoẻ tổng quát hàng năm. Sau cùng là ta cần sử dụng thuốc men đúng lời chỉ dẫn, giữ hẹn tái khám, kiêng khem trong việc ẩm thực, ngủ nghỉ đầy đủ để gìn giữ tuổi vàng. THÁI ĐỘ TÍCH CỰC TRƯỚC SỰ HÓA GIÀ. Đã sống tới tuổi 65, thì sẽ có nhiều triển vọng là ta sẽ sống tới ngoài 80- 90. Thành ra giai đoạn tuổi già có thể là khoảng thời gian lâu hơn tuổi trung niên hay thiếu niên. Để an hưởng tuổi vàng, ta cần có một thái độ ứng xử tích cực. Nhà hùng biện Ciceron đã noí: " Ai cũng mong sống lâu, nhưng khi tới tuổi đó thì lại than phiền. Người khôn ngoan sẽ đối diện với sự già một cách nhẫn nhục, vì chống cự lại với thiên nhiên thì cũng vô ích, khác chi cuộc chiến của những người khổng lồ chống lại các thần linh " Đối diện với tiến trình lão suy, con người có thể hoặc phe lờ không để ý tới nó; bực bội với nó; sợ hãi khi thấy nó từ từ tiến tới hoặc là bình tĩnh chờ đón nó vì nghĩ là không tránh được nóù. Một thái độ ứng xử tích cực, xây dựng, là cần . Vạn sự khởi đầu nan. Cuộc hành trình đi vào tuổi vàng không phải bắt đầu bằng bước chân đầu tiên, mà bằng cái ý định là sẽ nhập cuộc. Rồi từ đó, tùy theo chương trình, kế hoạch, tuổi vàng của ta sẽ hoặc hào hứng, đầy sinh động, nhiều sáng tạo, ích lợi cho gia đình cũng như cho bản thân. Hoặc buồn tẻ, vô vị. Kinh nghiệm cho hay, quan niệm của ta về tuổi gìa có nhiều ảnh hưởng tới tiến trình của sự lão hóa, chẳng khác chi cái liên hệ chặt chẽ giữa tâm thần và thể xác, cảm xúc và sức khoẻ, bệnh tật. Quan niệm "tâm bất lão, trường thọ", lòng trẻ sống lâu, hay "Lạc giả trường thọ, ưu gỉa dị yểu", vui vẻ lạc quan sống lâu, ưu tư phiền não chết sớm, chắc còn giá trị muôn đời. Hãy luôn luôn lạc quan. Albert Einstein đã có nhận xét : "Người lạc quan suốt ngày thấy ánh sáng mầu xanh; người bi quan chỉ thấy mầu đỏ." Còn nhận xét của Abraham Lincoln thì đúng cho cả trẻ lẫn gìa : " Nhiều người sống sung sướng, hạnh phúc theo đúng như quyết định là họ muốn sung sướng." 1-Hãy trở thành cần thiết cho mọi người. Sằn sàng làm những việc lớn , nhỏ cho tha nhân. Làm cho người khác cảm thấy sung sướng là họ đươc chăm sóc, ưu ái. 2-Giữ phần chủ động cuộc đời mình : Tỏ ra mình còn hữu dụng, còn khả năng, không cần phụ thuộc vào ai. Chủ động giúp ta khắc phục được những chông gai trên đoạn đường còn lại của cuộc đời. 3- Tiếp tục học hỏi. Các cụ ta thường nói ông bẩy mươi học ông bẩy mốt. Đừng để khả năng học hỏi cùn dần với thời gian. Có người đã ví bộ óc như một chương mục đầu tư. Càng dùng thì nó càng sinh lợi cho ta, ta càng giầu thêm kiến thức mới. 4-Luôn luôn giữ bề ngoài cho tươm tất, chải chuốt. Nữ giới thọ hơn nam giới, một phần có lẽ vì lúc nào cũng mặc đẹp đẽ, trang điểm như sắp đi dự dạ hội. Chả bù với nhiều vị nam thì mặc sao cũng được, lơ là chăm sóc cả cái răng cái tóc là góc con người. Nom nó GIÀ con người đi. 5- Đừng để mình bị cô đơn, lẻ loi. Trong sinh hoạt hàng ngày, hãy ráng gần gũi với người này người khác. Bớt tư dục, kiềm chế phẫn nộ, gạt bỏ tâm tư xấu, ngăn ngừa căng thẳng thần kinh, tránh tranh chấp mà nên nhượng bộ. Hãy cố gắng suy nghĩ như Ciceron : " Tuổi già chỉ được kính nể khi nó tự tranh đấu, duy trì cái tư cách của mình, tránh bị lệ thuộc, và quyết tâm lãnh quyền kiểm soát cái vị trí của mình trong xã cho tới phút chót của cuộc đời . Bởi vì cũng như tôi thích ở người trẻ có phảng phất một vài nét già giặn, thì tôi đồng ý ở người già cũng nên mang một chút trẻ trung."
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:17:08 GMT 9
ĐIỀU HÒA ĂN UỐNG.
Nói về điều hòa ăn uống thì ta thấy có ở cả trăm ngàn pho sách trong thư viện. Vì phép ăn uống với thực phẩm dinh dưỡng là mối quan tâm lớn của con người. Nhất là ở các nước có nền kinh tế kỹ nghệ cao.
Hỏi rằng có một công thức nấu ăn nào toàn hảo cho tuổi thọ trường sinh, thì câu trả lời là không có. Nhưng những lời khuyên thực tế sẽ là: thực phẩm phải đa dạng, phẩm chất dinh dưỡng cao và cân bằng.
Con người, nói chung, không giống các sinh vật khác ở chỗ là ta không phải di chuyển để lùng kiếm thức ăn hay lo không kiếm đủ thức ăn. Mà ta lại có mối lo là làm sao không chỉ-ngồi-đó-mà-ăn hoặc ăn-quá-nhiều. Tại nhiều quốc gia, thực phẩm quá dư, chỉ cần muốn ăn gì và có tiền là xong. Nhưng ăn nhiều mà không vận động,tiêu dùng thì thật là nguy hiểm.
1- Biết lựa thức ăn thích hợp.
Tại Hoa kỳ, năm 1990 một đạo luật liên hệ tới việc liệt kê phẩm chất, thành phần của thức ăn đã được ban hành, mục đích là để giới tiêu thụ dễ chọn lựa thức ăn hợp với nhu cầu của mình. Các quốc gia khác cũng đã làm theo. Những nhãn hiệu (Food label) đó không hoàn toàn đáng tin cậy, nhưng ít nhất nó cũng có giá tri hướng dẫn. Ta nên coi kỹ nhãn hiệu phân tích này để lựa thức ăn thích hợp vơi cơ thể của mình.
2-Khi nào thì ăn ?
Tất nhiên sẽ có câu trả lời: Thấy đói là tôi ăn. Vậy khi nào thì đói, đói bụng hay đói con mắt?. Laị nữa : ăn để sống hay sống để ăn?.
Á Đông quan niệm để sống lâu chỉ nên ăn" ba phần đói, bẩy phần no", Để còn hơi thòm thèm, sau này muốn ăn nữa.
Nhiều người phương Tây có thói quen: bữa sáng bữa trưa nhe, bữa tối thịnh soạn. Tiện đấy, vì sáng dậy vội vã đi làm, chỉ đủ thì giờ để chiêu một ly cà phê. Trưa ngồi ở sở vừa làm việc vừa nhai miếng bánh mì kẹp chả. Tối về rảnh rang, ta làm một bữa cơm rượu no nê, rồi lên giường ngủ. Thế là cholesterol trong máu tăng cao, những tảng mỡ không mời mà ngang nhiên xâm lấn vùng bụng, vùng hông.
Từ hơn ba chục năm trước, tại viện Đaị Học Chicago, Clarence Cohln đã chứng minh rằng những người ăn một bữa no mỗi ngày thì cholesterol sẽ cao hơn ở những người nhâm nhi nhiều lần trong ngày. Và đây cũng là lý do mà cholesterol ở nữ giới, lúc thiếu thời, thấp hơn ở nam giới, vì quý bà hay ăn quà vặt. Còn quý ông thì nhồi nhét một bữa cho xong.
Ăn một bữa no cũng bắt buộc sự biến hóa thực phẩm phải làm việc qúa sức, vị tố tiêu hóa, nhất là Insulin, phải tiết ra nhiều trong một thời gian qúa ngắn, đôi khi có khuyết điểm. Tốt hơn hết là tuổi gìa ta nên cứ nhâm nhi, ăn lai rai chút một, nhiều lần trong ngày.
3-Tránh thực phẩm có nhiều chất mỡ, nhất là mỡ động vật có vú. Mỡ bão hòa làm tăõng cholesterol trong máu. Mỡ thực vật, bất bão hòa, làm giảm cholesterol. Giản dị nhất là ăn thịt nạc, thịt gà, vịt bỏ lớp da đầy mỡ; hấp hay nướng nhiều hơn là chiên; thay thịt bằng cá, rau, trái cây; uống sữa có ít chất béo.
4-Ăn thực phẩm có nhiều chất carbohydrates như rau, trái cây hạt ngũ cốc, vừa rẻ lại tốt lành và cũng có nhiều năng lượng.
Cơ quan Natural Research Council khuyên nên dùng 5 servings trái cây và rau mỗi ngày, 6 tới 11 servings hạt ngũ cốc. Mỗi serving là một đơn vị thức ăn mà ta thường dùng như là một bát cơm, một quả táo cỡ trung.
Nên nhớ là trên thế giới có cả hàng trăm triệu người ăn chay mà họ vẫn sống lâu. Như vậy ăn chay chắc phải có một gía trị dinh dưỡng nào đó.
Lại nữa: khẩu phần ăn của các lực sỹ vô địch trước khi tranh giải đều có nhiều carbohydrates, là một lý do để ta tăng số lượng rau và trái cây trong bếp và trên bàn ăn của chúng ta .
5-Một vài ý kiến về chất đạm protein. Con người được dựng lên bằng chất đạm. Chất này có nhiều nhất trong thịt động vật nhưng cũng có trong thảo mộc, nhất là các cây thuộc họ đậu ( legumes): đậu hoà lan, đậu cô ve, đậu nành.
Khoa học đã chứng minh là một khẩu phần có nhiều chất thịt súc vật làm tăng hiểm họa bệnh tim. Với tuổi cao, chúng ta nên theo một chế độ thực phẩm với thịt nạc, sữa ít chất béo, nhiều rau, trái cây .
6-Nước và muối cũng cần được lưu ý. Trong cơ thể, tỷ lệ nước lên đến 60%, mỗi ngày trái thận lọc gần hai trăm lít máu và thải ra1/100 dung dịch nước. Như vậy cơ thể đòi hỏi một số nước tối thiểu để sống. Trung bình ta cần uống 1 lít rưỡi nước mỗi ngày, và uống thêm khi nào thấy cần để tránh tình trạng khô nước hay loãng tiểu.
Nước không có calories, không có khoáng chất, đôi khi không mất tiền mua lại còn là chất bôi- trơn (lubricant) tốt cho cơ thể.
Còn muối thì chỉ cần một phần tư thìa cà phê mỗi ngày là đủ. Dân chúng dùng nhiều muối, như người Nhật, thường có nhiều nguy cơ cao huyết áp .
7- Gần đây, chất xơ (fiber) trong rau và trái cây được nhắc nhở tới nhiều vì nó có công dụng trong việc hạ thấp lượng cholesterol trong máu, tăng tốc độ di chuyển của thức ăn trong ruột, tránh được táo bón và viêm ruột. Chất xơ không có giá trị dinh dưỡng mà chỉ làm đầy bao tử, nên còn có tác dụng giúp ta giảm béo mập .
8-Sinh tố và khoáng chất có tác dụng xúc tác trong việc chuyển hóa thức ăn và có nhiều trong các loại thực phẩm.
Tuy nhiên, ở người cao tuổi, khẩu phần nhiều khi không được cân bằng và có thể thiếu một vài loại sinh tố nào đó. Vì vậy cũng nên dùng thêm một phân lượng sinh tố phụ trội .
Tiện đây, xin nói qua về các chất chống-oxy-hóa (anti oxidant) và về gốc-tự do (free radicals ).
Ai cũng biết là dưỡng khí là là một nhu yếu phẩm cho toàn bộ cơ thể. Thiếu dưỡng khí trong ít phút, não bộ bị tê liệt. Chẳng hạn chỉ nín thở dăm phút là mặt trở nên xanh rờn . Vậy mà cũng chính cái Oxygene này lại gây ra một hiện tượng làm rỉ sét trong cơ thể, như là một chiếc xe hơi bỏ trong mưa gió, không dùng đến .
Số là, để có năng lượng điều hành, tế bào dùng dưỡng khí để đốt hoá chất, như đường trong máu. Trong khi làm công tác này, một vài đơn vị Oxygene mất đi một số điện tử, và trở thành những gốc-tự-do. Để bổ túc điện tử bị mất, gốc-tự-do bèn cướp điện tử của các phân tử khác, gây thiệt hại cho cơ thể về hóa tính cũng như chức năng. Đây có thể là một trong những nguyên nhân đưa tới hoá già với da nhăn, thịt teo, xương mềm và môt số bệnh như ung thư, xơ cứng động mạch.
Để chống lại phản ứng gây hại này, người ta dùng những antioxidant, mà 3 chất chính là sinh tố C, sinh tố E và Beta-Caroten .
VẬN ĐỘNG CƠ THỂ.
Ciceron có phát biểu : " Sự tập luyện và sự tự chủ giúp con người duy trì được một phần lớn sức bền bỉ đã có dù rằng người ta đã vào tuổi lão suy".
Ngày nay, nhiều người, nhất là các vị trọng tuổi, cứ cho là mình phải giữ gìn và duy trì tiềm năng của cơ thể bằng cách thư thả về thể xác. Chúng ta quá nhấn mạnh vào sự phải nghỉ ngơi, dưỡng sức. Tập luyện làm gì cho phí sinh lực, mất calories, hao mòn cơ thể.
Thực tế ra thì, cơ thể ta rỉ sét vì không-được-dùng-tới, nhiều hơn là, hao mòn vì được dùng tới. Một đời sống tĩnh tại, có hại cho cả sức khoẻ cũng như sự trường thọ và đưa tới sự sớm hủy hoại về tâm thần, thể xác.
Các cơ thịt và khối xương teo lại, yếu đi. Tế bào mỡ to lên, chiếm chỗ của bắp thịt, con người mập phệ ra. Tim đập yếu. Khả năng xử dụng dưỡng khí giảm, nuôi dưỡng kém,làm ta dễ mỏi mệt, uể oải chán nản . Con người trở nên kém linh động, di chuyển chậm chạp, buông suôi mọi việc, NOM GÌA ĐI, một sự già trước tuổi.
Sinh học đã chứng minh ngưng trệ đưa tới sự thoái hóa. Nước chẳng lưu thông, nước thành thối, bẩn. Ao tù thì nước đọng. Mà cơ thể ta gồm 60% là chất lỏng. Cho nên, vào tuổi già mà tự cho phép mình sống một đời sống tĩnh tại, không vận động, thì chắc là bệnh hoạn cũng như tử vong sẽ đến rất mau.
Sự sung sức của người còn trẻ là một tự do lựa chọn, nhưng với người cao niên, nó là một cái gì thiết yếu. Hãy nghĩ tới cái đồng hồ chạy bằng giây thiều xưa kia. Nó ngưng chạy không phải vì hư mòn bay bể vỡ, mà nó cần lên dây thiều . Ta cũng vậy : Cũng cần tự lên dây thiều.
Ích lợi của sự vận động cơ thể thì vô biên . Chỉ xin tóm lược là nó tăng sự nhịp nhàng cuả toàn thân; tim phổi tăng hiệu năng; giảm cao huyết áp và cao cholesterol; khớp xương co duỗi trơn chu, thịt xương cứng cáp; trí óc sáng suốt, nhậy cảm hơn, tâm thần thoải mái, yêu đời và làm tình cũng tốt hơn. Tuổi Thọ sẽ cao hơn, để chiêm ngưỡng những thành qủa mà con cháu đạt được với sự đóng góp công sức của mình .
Hãy sắp đặt một chương trình tập luyện thích hợp với tuổi, sức khoẻ, hoàn cảnh, điều kiện của mình. Dành cho sự vận động một thì giờ ưu tiên và cố định trong ngày, coi sự vận động như một nhu cầu chứ không phải để giải trí. Hãy tự lấy hẹn để vận động, rồi giữ hẹn đó như hẹn đi bác sĩ, đi vay tiền ngân hàng và kiên nhẫn tiếp tục chương trình. Đừng sợ hãi sự tập dươt. Hãy làm sao để sự tập dượt trở thành người bạn đồng hành, đồng chí của các cơ năng trong người mình .
Sự bỏ đi không được dùng đến, sự sao lãng không chăm sóc, sự biếng nhác không vận động là những nguyên nhân đưa tới hao mòn, bệnh tật của cơ thể. Câu nói "Use it or loose it" đáng để ta ghi nhớ.
NHỮNG THÓI QUEN TỐT
.Đã leo lên đến tuổi sáu nhăm một cách bình an thì ta đã có nhiều đóng góp tốt cho cơ thể trong lúc thiếu niên, trung niên. Ta đã có nhiều thói quen tốt hơn là những tật xấu. Giờ đây ta cứ tiếp tục như vậy mà đi, giữ vững lập trường.
Tứ đổ tường thì cũng cứ tránh, để tâm thân an lạc, gia đạo bình an, tài chánh ổn định . Tứ khoái thì giữ cho hài hòa, hợp luật trời và luật sinh hóa, chẳng nên thái qúa mà hao tổn tâm can, sức khỏe, nhất là với đệ Tam khoái. Có phải dùng đến Viagra, Levita thì cũng nên lựa phân lượng nhỏ thôi mà tăng sự mơn chớn, nỉ non...
KẾT LUẬN
Trên đây là một số ý kiến đóng góp vào việc bảo trì và vận hành bộ máy tuy đã cũ, nhưng còn nhiều công dụng cho gia đình và xã hôị.
Xin hãy đồng ý với Maria W. Chapman là " Đừng kéo lê cái đầu máy xe lửa như một tên khờ khạo mà hãy tiếp tế củi, nước và lửa như một tay lành nghe.à "
Để xe tự di động một cách hào hùng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:19:59 GMT 9
Những Thay Ðổi Của Cơ Thể Khi Về GiàBS.Nguyen Y Duc Với tuổi cao, sẽ có những thay đổi trong toàn bộ cơ thể con người: thay đổi về các hành động, xử thế, về bộ dáng thân hình, cũng như thay đổi về chức năng của các cơ quan.Trong bài này, chúng tôi sẽ cũng quý vị lược qua những thay đổi về hình dáng bề ngoài cuả cơ thể. Các thay đổi này nhiều khi mang đến vẻ già nua cho người cao tuổi. Những Thay Ðổi Về Hình Dáng Bề Ngoài 1-Thay đổi về lông-tóc :Những thay đổi về tóc của con người có nhiều điều khó hiểu mà chưa có giải đáp và gồm có thay đổi về số lượng, mầu sắc, phẩm chất. Về mầu sắc, sự kiện tóc bạc hay tóc hoa dâm là những dấu hiệu sớm của tuổi về gìa. Tóc bạc bắt đầu từ hai bên thái dương rồi lan lên đỉnh đầu. Mới đầu, nó còn có tính cách muối tiêu,trắng đen lẫn lộn, sau đó thì muối nhiều hơn tiêu. Sở dĩ tóc thành trắng là vì loại tế bào sinh hắc tố (melanin) giảm đi, tóc thành không có mầu. Tuy được coi là một dấu hiệu sớm của tuổi về già, nhưng sự kiện bạc tóc chỉ xẩy ra ở khoảng 65% người cao tuổi, còn 35% thì hoặc tóc không bạc hay chỉ bạc khi tuổi rất cao. Có nhiều trung niên, 25-30 tuổi tóc đã bạc. Thành ra sự bạc tóc này không phải là chỉ dấu của sự hóa gìa các bộ phận trong cơ thể, cũng như không có ảnh hưởng gì tới sức khỏe hay tới tuổi thọ. Còn huyền thoaị Ngũ Tử Tư, sau một đêm trầm suy, sáng dậy tóc đã trắng sóa cũng vẫn chỉ là huyền thọai, không có căn bản gỉai thích khoa học. Rụng tóc : Rụng tóc là một hiện tượng bình thường trong tiến trình hóa gìa giống như khi da đầu bị nhiễm trùng, do ảnh hưởng của một vài loại thuốc, vài thực phẩm. Trung bình, mỗi ngày có khoảng 100 sợi tóc rụng. Lông nách và lông mu cũng rụng dần theo số tuổi cao. Ngòai ra, khi về gìa tóc khô, ròn dễ rụng vì các tuyến nhờn kém họat động. Ở nữ giới, lông tóc mọc ở cằm trên khi mà số lượng kích thích tố nữ gỉam vào thời tắt kinh. Sự mọc lông này gây nhiều ngượng ngùng cho quý bà. Ta có thể nhổ, caọ hoặc dùng các chất hóa học để làm mất những lông này. Một chi tiết cũng cần được nêu ở đây là, khi qúy bà dùng thuốc có nam kích thích tố, thì lông tóc cũng mọc ra ở mặt và thân thể, nhưng khi ngưng thuốc thì lông tóc ngưng mọc. 2- Thay đổi về da: Không có ai chết vì da trở nên gìa, mặc dù lớp da của con người thay đổi rất nhiều với tuổi cao. Ðã từ lâu, người ta căn cứ trên vóc dáng của nó để mà đoán tuổi con ngươì: Sự mất mâù da, sự nhăn cuả da, sự hư hao của da thường được coi như là phản ảnh của niên kỷ, của tình trạng sức khoẻ tổng quát. Vì, ngoài quần aó mặc, khi nhìn một người thì trước tiên ta chú ý tới lớp da của họ. 2/1 -Da nhăn.- Sự xuất hiện của lớp da nhăn đầu tiên trên cơ thể làm nhiều người hoảng hốt. Nhưng lỗi lầm đích thực của phản ứng hoảng hốt này không phải là vì những vết nhăn, mà vì xã hội ta đang sống đã đánh gía thấp người già, nam cũng như nữ. Lớp da nhăn nheo làm con ngươì trông thấy như già đi. Da trở nên nhăn nheo vì ở người già, chất collagen nằm dưới da giảm đi, chất elastin laị tăng lên, làm da mất tính đàn hồi. Chúng ta có thể đo sự mềm diụ đàn tính của da bằng cách kẹp lớp da giữa hai ngón tay trong ít giây, rồi thả ngơn tay, đo coi xem mất mấy giây để lớp da nhăn trở lại bằng phẳng. Thường thì một hai giây, nhưng ở người trên 60 tuổi, thì phải mất vài chục giâ. Sự da nhăn nheo, không có nghĩa là những cơ quan cốt yếu trong cơ thể cũng suy mòn đi. Bởi vì, ở người trẻ tuổi mà da không được chăm sóc thì da cũng vẫn nhăn nheo như thường. 2/2.- Da khô : Ở người cao tuổi, sự bài tiết mồ hôi giảm vì những tuyến mồ hôi, tuyến nhờn ít đi hoặc kém hiệu năng, làm da trở nên khô và hay ngứa. 2/3- Thay đổi khả năng điều hoà thân nhiệt: dưới lớp bì và biểu bì là một lớp da mỏng chứa nhiều chất mỡ có công dụng chống sự thất thóat thân nhiệt. Ở người cao tuổi, lớp mỡ này mất đi, nhất là ở mu bàn tay, mặt, gan bàn chân. Các cảm giác ngoài da cũng kém đi, nhất là cảm giác đau đớn nên người cao tuổi hay bị phỏng ở bàn chân. Số lượng những mạch máu nhỏ ở da gỉam ở người cao tuởi, nên người gìa chịu đựng độ lạnh kém người trẻ. Một hậu qủa có thể gây chết người vì kém chịu lạnh này là sự gỉam thân nhiệt, xẩy ra khi nhiệt độ giảm xuống dưới mức an toàn. 2/4- Chậm lành vết thương - Xúc giác giảm cộng thêm sự suy yếu của hệ thống miễn nhiễm kéo dài độ nhạy cảm của da khi tiếp xúc với hoá chất kích thích nên người gìa hay bị tổn thương về da. Ở người gìa, khả năng lành da khi bị tổn thương cũng rất chậm. 3- Thay đổi về chiều cao: -Với tuổi cao, con người như co lại, và dáng điệu ngay thẳng hiên ngang lúc trai tráng không còn nữa. Trung bình, khi về gìa, đàn ông thấp đi khoảng 2cm, đàn bà 1,5 cm. Ðây là do ảnh hưởng của một số yếu tố như sự gỉam nước trong cơ thể, các bắp thịt yếu, thay đổi vóc dáng, sự hoại cốt, xương sống hao mòn và biến dạng. Riêng ở nữ giới, nguyên nhân chính cuả ngắn chiều cao vẫn là do sự hư xương 4- Thay đổi về sức nặng của cơ thể - Kết qủa của nhiều cuộc nghiên cứu đều xác nhận là, sức nặng của cơ thể tăng lên ở tuổi trung niên rồi giảm xuống lúc tuổi gìa. Ðồng thời, tế bào mỡ tăng lên và thay thế vào chỗ những tế bào thịt bị mất đi vì ta khôngsử dụng đến chúng.Tế bào mỡ xuất hiện nhiều nhất ở vùng bụng và hông. 5- Một số những thay đổi khác- Nhận xét chung cho thấy,về gìa vòng ngực tăng lên,sống muĩ và tai dài ra môt chút.Trên xương đầu thì những khớp nối của xương dính liền laị, xương sọ dầy lên. Móng tay, móng chân mọc chậm đi, đổi mầu và có những lằn gợn gồ ghề. 6- Thay đổi về dung lượng nước trong cơ thể - Ở tuổi thanh niên, 60% sức nặng của cơ thể là nước, khi về già chỉ còn có 51%. Nữ giới cũng vậy: từ 51% lúc trẻ xuống 46% lúc về gìa. Nguyên do là số lượng tế baò hoặc mất đi hoặc teo đi. Trên đây là những thay đổi bình thường xẩy ra trong tiến trình lão hoá. Ngày nay khoa học đã chứng minh là ta có thể làm những thay đổi này chậm lại bằng cách sống theo quy luật thiên nhiên, tránh lạm dụng những chất có hại cho cơ thể, vận động cơ thể đều đặn cho khí huyết lưu thông, gân cốt thư dãn, cũng như giữ cảnh lòng luôn luôn an lạc, như lời người xưa : Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yểu Những Thay Ðổi Về Giác Quan Tất cả ngũ quan: nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ mó đều suy giảm bắt đầu từ tuổi trung niên. Rồi với thời gian chồng chất, giác quan lần lần ra đi, để ta trong bóng tối, im lặng. Ngay thú vui đọc sách, nghe âm nhạc, nếm món ăn ngon đều trở nên khó khăn. Chúng tôi xin lần lượt tìm hiểu về những thay đổi, mất mát đó. I- Thay đổi về mắt.- Thị gíac.- Một ngày nào đó, khi cầm tờ báo lên để đọc một mẩu tin, ta phải đẩy tờ báo xa ra một chút nữa mới đọc được, thì ta thấy có lẽ mình đã già rồi. Thật vậy, những thay đôỉ ở mắt đôi khi là những thay đổi sớm báo hiêụ tuổi về già. Những vết da nhăn chung quanh đuôi mắt , những tuí mỡ nhỏ nơi mi dưới, những quầng đen, lần lần xuất hiện. Mi mắt trên không có hạch mỡ, da sẽ trở nên khô và nhăn. Mi dưới, ngược laị, có nhiêù hạch nhờn, giừ chất nhờn, làm mi mắt sưng lên. Những cơ thịt mất tính đàn hôì, cộng với mỡ dưới da tiêu đi, tạo thành những tuí nhỏ dưới con mắt. Ðây là những thay đổi có tính cách tích tụ và không thể đảo ngược được. Nhưng săn sóc da cẩn thận có thể dữ khóe mắt trẻ lâu : dùng dâù chống nắng khi ra ngoaì nắng, mỹ phẩm làm mềm da, ngủ đầy đủ vì da dưới mắt rất mỏng manh dễ bị ảnh hưởng của mệt mỏi và tâm trạng căng thẳng (Stress), đừng ruị mắt vì làm vậy da sẽ nhăn và sệ.. Phần trắng của mắt đổi thành bớt trắng vì mạch máu nôỉ lên kèm theo những li ty khoáng chất đọng xuống. Mầu sắc tinh anh cuả con ngươi thuở tráng niên không còn nữa vì những tế bào gây mầu mất đi. Giác mạc mất độ cong. Thuỷ tinh thể, trong suốt và deỏ của thuở trẻ, trở thành đục và cứng, ánh sáng vào võng mạc giảm đi khiến ta nhìn sự vật mờ mờ. Những bắp thịt vận động mắt bớt tính đàn hồi, khả năng bắt hình của mắt gỉam. Võng mạc, nơi thu nhận hình ảnh ánh sáng, cũng thay đổi: mạch máu nuôi dưỡng võng mạc ít đi, một số tế bào sẽ chết và taọ ra những điểm mù (blind spot) của thị giác. Thị gíac bắt đầu yếu từ tuổi 45. Khả năng nhìn gần kém cũng như điều tiết cặp mắt với khoảng cách khác nhau đều khó khăn. Vì thế khi một lão bà đang chăm chú khâu vá, có người tới gần chào, bà ta ngẩng đầu lên, ngó nghiêng và phải mất cả chục giây tập trung trước khi bà nhìn rõ người chào. Phân biệt mầu sắc khó khăn nhất là với mầu xanh và mầu lục, nhìn các mầu cuả cầu vồng như mờ dần, khiến sự vật không còn đường nét và chiều sâu. Muốn đọc hàng chữ nhỏ phải mang kính lão. Nhiều người, vốn cận thị, khi về gìa không cần mang kính cận, vì nhãn cầu đổi từ hình bầu dục sang tròn triạ hơn, hình ảnh laị hiện lên gíac mạc. Tầm mắt thu hẹp, trí nhớ thị giác giảm, khả năng thị giác ưóc lượng khoảng cách không chính xác. Vì đồng tử thu hẹp, ánh sáng thu nhận giảm đi quá nửa so với tuổi trung niên khiến người già cần thêm ánh sáng để nhìn rõ sự vật. Trong bóng tối, họ cần tời gian lâu hơn để điều chỉnh thị năng, nhưng cũng hay bị chóa mắt khi ánh sáng quá chói, nên người già gặp trở ngai khi lái xe ban đêm.Chứng đục thuỷ tinh thể, do sự thay đổi cấu taọ của chất proteine <đạm chất > trong tinh thể này, thường là một bệnh của mắt, nhưng cũng có thể xẩy ra với tuổi già. Áp xuất ở trong con mắt tăng lên, gây chứng tăng nhãn áp Glaucoma. Với thi sĩ, thì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, khoa học gia thì coi con mắt là những tuyến di chuyển hoá năng và điện năng lên óc, với nhà dinh dưỡng, đầu bếp thì cặp mắt là thước đo coi thức ăn nào thích hợp, nhưng với người thường chúng ta thì chỉ quan tâm tới mầu mắt nâu hay xanh, hình dáng mắt bồ câu hay lá dăm...cho tới khi nào thấy thị giác bắt đầu kém thì mới ưu tư suy nghĩ tới tuổi sẽ già. Mất hay giảm thị năng có thể đưa ta tới sự thu mình với xã hội, tự cô lập rồi rơi vào tình trạng trầm cảm, buồn rầu. 2- Thay đổi về thính giác.- Diễn biến những thay đổi ở tai thường chậm chạp, không đau đớn, bắt đầu từ ngay khi mới sanh, và âm thầm liên tục trong suốt cuộc đời con người. Có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng tới khả năng nghe, thì cũng có những thay đổi chỉ có ảnh hưởng thẩm mỹ như :tai to lên, dái tai dài ra, lông mọc trong ống tai ngoaì, nhiều dáy tai hơn, những tế baò lông ở tai trong bắt đầu hư hao, gây ra sự nghễnh ngãng hay điếc, các mạch máu nuôi tai cũng nhỏ dần. Thính giác có ba mức độ: Nghe âm thanh hậu trường (như tiếng động trong thành phố), giúp ta nhận diện không gian quanh mình, mà khi mất đi khiến ta như lạc lõng, cô đơn. Âm thanh tín hiệu báo cho ta một bất thường, nguy hiểm có thể đến như tiếng hú cuả con chó sói, mất âm thanh này đưa ta vào tình trạng bất an, cảm giác thiếu thốn. Âm thanh biểu tượng cho ta hiểu ý nghiã cuả ngôn ngữ, lời nói mà sự mất mát làm ta mất truyền thông, gây cô lập trong xã hội. Về khả năng thính giác thì nhiều nhà khoa học đều cho là có một sự mất mát không thể tránh được khi con người trở về gìa.Ở Mỹ, khoảng một nửa số người già trên 50 tuổi có khiếm khuyết về thính gíac mà đa số đều có thể điều chỉnh được. Một khiếm khuyết thính giác vĩnh viễn, không chữa được của người gìa là sự mất khả năng nghe âm thanh có tần số cao mà nguyên nhân là do sự thoái hóa của các tế bào lông ở tai trong. Ðây là hội chứng nghễnh ngãng của tuổi già (Presbycusis ), bắt đầu từ tuổi 20-30, nhưng rõ rệt vào tuổi 50. Một phần ba người trên 65 tuổi bị chứng này,và khi tới tuổi 85,thi qúa nửa mắc phải. Người cao tuổi đôi khi nghe được tiếng nói nhưng không phân biệt được ý nghĩa, nên ta cần hơi lên cao giọng một chút, đồng thời nói chậm dải, rõ ràng, với câu ngắn và nhìn vào mắt họ. Giảm hoặc mất thính giác có thể điều chỉnh được bằng giải phẫu hay mang trợ thính cụ. Có điều cần nhớ là trợ thính cụ không mang lại toàn bộ khả năng nghe mà chỉ khuếch đại âm thanh. 3- Thay đổi về khứu giác và vị giác.- Taọ hóa cho ta những khả năng để nhìn thấy ánh sáng và sự vật, để nghe những âm thanh, tiếng động, để cảm thấy sự thay đổi của hơi nóng và sức ép của không khí. Nếm và ngửi là hai khả năng để nhận ra và phân biệt vị chất hóa học. Mất khả năng ngửi một bông hồng thơm hoặc nếm một bát canh cải ngọt, là giảm biết bao nhiêu thú vui của cuộc đời. Khứu giác giúp ta khám phá những phân tử li ti mà hầu hết các loại động vật hoặc thực vật phát tiết ra dưới dạng muì vị. Khả năng này rất cần thiết cho động vật để tự vệ, để săn mồi và trong nhiều trường hợp,trong việc yêu đương. Ngửi được không phải là do caí cục thịt nhô ra giữa mặt, mà là do cả triệu những tế bào nằm trong soang muĩ. Những tế bào này thu nhận kích thích chuyển lên vùng khứu gíac ở óc để phân tích thành những mùi khác nhau. Bình thường mũi có thể phân biệt được 18 mùi nhưng nếu được huấn luyện, ta có thể ngửi được cả ngàn mùi vị khác nhau. Khả năng phân biệt các loại mùi tốt nhất lúc tuổi 20-40, rồi giảm dần với số tuổi già.Vaò tuổi bẩy tám mươi, 60% ngươì gìa mất đi một phần nào khả năng khứu giác. Nguyên nhân của sự mất mát naỳ chưa được biết rõ: có thể là hệ thống thần kinh ngửi bị hư hao với thời gian, cũng có thể là do ảnh hưởng của sự nhiễm trùng hoặc tác dụng cuả các hóa chất, ô nhiễm không khí, thay đổi thời tiết nóng lạnh bất thường. Một chứng cớ là khả năng ngửi ở những người hút thuốc lá nặng giảm rất nhiều. Vị gíac gíup ta thưởng thức những vị chua, đắng, mặn, ngọt của vật chất, của thực phẩm. Rải rác trên lưỡi, cuống họng, vòm miệng là cả ngàn những nụ vị giác để nếm, thu nhận, phân biệt các hóa chất rồi chuyển về trung tâm vị giác trên óc để phân loại. Vị giác phụ thuộc nhiều vào khứu giác, cho nên khi khả năng ngửi cuả muĩ kém thì vị giác cũng giảm theo. Khi già, vị giác đối với các chất ngọt, đắng, chua giảm đi, còn vị giác mặn thì không thay đổi mấy. Nguyên nhân sự giảm này là do các nụ vị giác teo mất, nước miếng ít đi, vệ sinh răng miệng kém. 5- Thay đổi về Xúc giác.- Ðây là cảm giác, sự hay biết khi đụng chạm hay tự mình sờ mó. Cảm giác này mang lại tình người khi chung đụng, diễn tả một an uỉ, một hỗ trợ, một thoa dịu cũng như làm nhẹ bớt sự đau đớn tâm thân. Nó cũng giúp ta nhận biết, phân biệt hình thù, chất lượng cuả sự vật. Cảm xúc này được hoàn tất nhờ nhiều bộ phận tiếp nhận nằm rải rác trên da. Khi có sự thay đổi trên da về đàn tính, nuôi dưỡng vì tuổi cao thì chức năng cảm xúc thay đổi: thời gian nhận, phân tích, đáp ứng tín hiệu sờ mó lâu hơn. Hậu quả là một vài nguy cơ tai nạn có thể xẩy ra: Một giây lưng, nịt vú quá chặt, mà ta không cảm thấy, làm trầy da. Giây giầy quá chặt làm cản trở máu lưu thông ở bàn chân. Nằm hoặc ngồi lâu ở cùng vị trí gây thương tích cho phần mềm da thịt. Kém cảm giác với độ nóng đưa tới phỏng da, mà giảm cảm giác với độ lạnh dễ gây cóng cơ thể. Rất khó mà phục hồi lại sự mất mát về xúc giác, mà người già vẫn cần sự trìu mến vuốt ve cuả người thân yêu. Hãy sưởi ấm tình già bằng những bàn tay ấm áp./.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:21:42 GMT 9
Một số bệnh thường thấy ở Người Cao Tuổi
Sinh Lão Bệnh, Tử là một chu kỳ bình thường của cuộc sống.
Khi đến khâu Bệnh mà có sẵn một số kiến thức về những bệnh có thể xẩy ra cho mình, thì đôi khi bệnh cũng nhẹ nhàng hơn. Vì ta biết tại sao có chúng, biết cách phòng ngừa chúng và biết cách cùng thầy thuốc áp dụng phương thức để điều trị chúng.
Với tuổi già, có một số bệnh thường thấy. Nhưng đây chỉ là một sự trùng hợp, chứ không phải cứ già là có những bệnh này. Cũng như sự già của cơ thể không đưa tới những bệnh này.Có điều là ở lớp tuổi cao thì các bệnh này hay có ra hơn. Một chiếc xe đã cũ, một cơ thể đã hao mòn, thì mọi khó khăn có thể xẩy đến. Tuy nhiên, có nhiều vị cao niên cả năm không hề bệnh hoạn, ngoại trừ đau xương nhức cốt, cảm mạo vì trái gió trở giời.
Những bệnh thường thấy ở tuổi cao là:
1- Bệnh xương khớp.
Gồm mấy loại như viêm xương khớp, loãng xương.
Viêm Xương Khớp ảnh hưởng tới quá nửa số người cao tuổi. Lớp sụn lót đầu khớp xương bị hao mòn, xương mới có thể được tạo ra làm khớp đau nhất là khi cử động. Các khớp đầu gối, bàn tay, xương sống, hông là nơi hay bị đau.
Nguyên nhân bệnh chưa được xác định. Có thể là vì hư hao với thời gian xử dụng. Có thể là hậu quả những chấn thương nhỏ tiếp diễn ở khớp đó. Cũng có thể do cơ thể quá béo mập hoặc không vận động. Giống như cơ thịt, xương rắn chắc khi vận động và teo đi khi không được dùng tới.
Chữa viêm khớp đều tập trung vào việc làm giảm đau nhức và phục hồi hoặc duy trì chức năng của khớp. Hiện nay có nhiều loại thuốc có thể làm nhẹ triệu chứng đau nhức của viêm khớp, nhưng không có thuốc nào chữa dứt được bệnh. Aspirin, Acetaminophen ( Tylenol), Ibuprofen là các thuốc thường dùng.
Thêm vào đó, sự vận động cơ thể là điều cần làm để phòng bệnh cũng như làm nhẹ bớt bệnh. Giống như các bộ phận khác của cơ thể, chức năng của xương trở nên hữu hiệu khi nó thường xuyên hoàn tất nhiệm vụ của nó, là chống đỡ cho cơ thể khỏi sức hút của trái đất. Có nghĩa là ta phải đi đứng ít nhất ba giờ đồng hồ mỗi ngày. Giải phẫu thay khớp đôi khi cũng có công hiệu.
Loãng xương là chuyện thường thấy ở phụ nữ khi vào tuổi mãn kinh và ở tuổi về chiều của cả nam lẫn nữ. Đây là hậu quả của Calcium trong xương bị tiêu hao.
Ở đàn bà, lý do chính yếu là kích thích tố estrogen giảm khi hết kinh. Nhưng cả hai giới, loãng xương có thể do không dùng đủ calcium và sinh tố D, hút thuốc lá, uống quá nhiều rượu.
Phương thức đối phó với loãng xương hiệu nghiệm nhất là sự phòng ngừa bệnh. Ăn uống đầy đủ calcium và sinh trố D. Mỗi ngày nhu cầu calcium là 1500 mg, đến từ thực phẩm và dược phẩm.
Quý bà cần tham khảo ý kiến bác sĩ về dùng estrogen thay thế.Vận động cơ thể đều đặn, như đi bộ, cũng có nhiều ích lợi.
2-Ung Thư.
Ung thư nhũ hoa rất thông thường ở phụ nữ trung niên và cao niên. Bệnh có thể phát hiện sớm nhờ ba phương pháp: tự khám nhũ hoa, khám nhũ hoa bởi bác sỹ/ y tá và chụp X-Ray nhũ hoa.
Phụ nữ trên 50 tuổi cần chụp quang tuyến X nhũ hoa mỗi năm một lần.
Khám phá sớm, bệnh có thể điều trị bằng giải phẫu, phóng xạ hoặc dược phẩm.
Ung thư phổi xẩy ra ở quá bán những người tuổi ngoài 65. Nguyên nhân chính yếu vẫn là do hút thuốc lá lâu năm.
Bệnh hầu như bất khả trị. Khám phá sớm, khi chưa có di căn, bệnh có thể chữa với giải phẫu, hóa trị, nhưng thường thường vẫn mau mệnh một.
Cho nên, ngừa bệnh vẫn là phương thức hữu hiệu nhất đối với nan bệnh này: không hút thuốc hoặc đang hút thì ngưng đi.
Ung thư tuyến nhiếp trở nên khá thông thường ở lão niên ngoài lục tuần. Tỷ lệ gia tăng với mỗi mười tuổi thọ.
Bệnh tiến triển âm thầm, chậm chạp. Nghi bệnh khi có rối loạn tiểu tiện ( nghẹt tiểu tiện, đái ra máu) hoặc khi bác sĩ khám tuyến qua hậu môn, thấy tuyến sưng to. Xác định bệnh bằng thiết sinh tế bào tuyến và thử nghiệm Prostate-specific antigen (PSA).
Khi chưa lan ra ngoài, giải phẫu có thể lấy u bướu đi. Khi trầm kha, di căn, có thể dùng phóng xạ trị liệu phối hợp với giải phẫu và dùng thuốc để hạ testosterone trong cơ thể. Kích thích tố này đã được coi như là một trong nhiều nguy cơ đưa tới ung thư nhiếp tuyến.
3-Bệnh Tim Mạch.
Nói tới bệnh tim mạch là nói tới Nhồi Máu Cơ Tim, Vữa Xơ Động Mạch, Tai Biến Động Mạch Não... Thứ nào cũng đều hiểm nguy, đều đưa tới không tử vong thì tàn phế cơ thể.
Tai Biến Động Mạch Não (Strokes) là nguyên nhân tử vong thứ ba ở người cao tuổi và có thể gây ra một số tổn thất thần kinh như bán thân bại xụi, mất thị giác, ngôn từ, suy giảm chức năng nhận biết.
Có tới 30% nạn nhân thiệt mạng trong vòng vài tháng; người sống sót đều có thể bị tai biến trở lại hoặc bị quỵ tim (Heart attack) trong vòng 2 năm.
Bệnh là hậu quả của rối loạn trong mạch máu nuôi tế bào não bộ: Một cục máu có thể tạo ra hoặc đưa từ nơi khác tới mạch máu não; mạch máu não có thể bị đứt làm máu tran hòa ép lên não bộ.
Nguy cơ gây ra tai biến gồm có: tuổi trên 60; nam giới, gia đình có người đã bị tai biến, cao huyết áp, bệnh tiểu dường, loạn nhịp tim, hút thuốc lá, uống nhiều rượu...
Một vài dấu hiệu báo trước như đột nhiên giọng nói ngọng nghịu, lơ lớ, mặt méo xệch.
Định bệnh, trị bệnh đều là cấp cứu và cần được nhập viện tức thì.
Cao huyết áp vẫn thường được coi như " Một tên sát nhan thầm lặng" (Silent Killer) vì nó âm thầm, từ từ đưa người bệnh tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Là cao khi huyết áp tâm thu (Systolic) => 140 mm Hg; HA tâm trương (Diastolic) => 90mm Hg.
Cao huyết áp là nguy cơ hàng đầu của Tai Biến Động Mạch Não và là một trong nhiều nguy cơ của Quỵ Tim.
Bệnh rất thông thường ở tuổi trung niên và thấy ở trên 40% người ngoài lục tuần. Ở các vị cao niên này, hầu hết chỉ có huyết áp tâm thu (Systolic) là cao.
Tới 90% cao huyết áp chưa xác định được nguyên nhân; một số nhỏ là do rối loạn về thận.
Bệnh cần được điều trị lâu đời bằng dược phẩm, bằng chế độ ăn uống thích hợp, giảm muối mặn; vận động cơ thể; giảm béo phì, bớt thuốc lá, tránh khổn lực (stress).
Nên đo huyết áp đều đặn. Các máy đo ở siêu thị thường không chính xác lắm.
Bệnh Động Mạch Vành, nguồn cung cấp dưỡng chất chính yếu của tim.
Đây là nguyên nhân tử vong số một của người già và thấy ở 70% những người trên 90 tuổi.
Các dấu hiệu bệnh có thể xuất diện dưới ba hình thức: Cơn đau tim (angina) vì thiếu máu tới tim, gây ra cơn đau thắt trước ngực, nhất là khi gắng sức, ăn uống linh đình hoặc tâm thần kích động, hết đi khi nghỉ ngơi. Cơn quỵ tim (heart attack) và Chết bất tử (Sudden Death) hầu như đều gây ra do cục máu đông đột nhiên làm tắc nghẽn Động Mạch Vành (Coronary Artery Disease).
Bệnh thường do hiện tượng vữa xơ động mạch: sự đóng bựa các chất béo, tế bào vào lòng của mạch máu, làm máu lưu thông bị gián đoạn.
Các nguy cơ đưa tới bệnh này gồm có: cholesterol LDH quá cao, HDL quá thấp; hút thuốc lá; cao huyết áp; mập phì; sống quá tĩnh tại.
Giải phẫu ghép nối động mạch vẫn được coi như phương thức trị bệnh công hiệu. Sự phòng ngừa bệnh bao gồm thay đổi nếp sống, giảm tiêu thụ thực phẩm nhiều chất béo bão hòa, ăn nhiều rau, trái, giảm ký, vận động cơ thể, giảm căng thẳng tâm thần.
4- Giảm khả năng Trí Tuệ.
Người cao tuổi thường lo ngại sự giảm khả năng trí tuệ nhiều hơn là giảm các chức năng khác. Vì nó gây ra nhiều khổ đau cho người bệnh và thân nhân.
Các cụ ưu tư vì đột nhiên quên tên một người bạn lâu đời, quên tên một tiệm ăn vừa tới tuần trước. Rồi phải nghĩ một lúc lâu mới chợt nhớ ra. Các cụ than phiền, " lại bị bệnh Sa Sút Trí Tuệ (Dementia- mà Alzheimer là một loại) rồi."
Thực ra, sự chợt nhớ chợt quên chẳng phải là vấn đề riêng cho người già, vì sau tuổi tam thập, nhiều người chúng ta đôi khi cũng có rắc rối với cái trí nhớ này rồi. Cho nên mới có lỡ hẹn với đào, với kép cũng như cặp kính gài trên mái tóc mà cứ đi kiếm khắp nhà...Sự chậm chạp trí nhớ này khác với Sa Sút Trí Tuệ: các chức năng khác của tâm thần không suy yếu, sự quên không ngày một trầm kha và sự sinh haot hàng ngày vẫn bình thường.
Còn bất hạnh Sa Sút Trí Tuệ thì tàn phế nhiều hơn. Không nhận ra cả thân nhân, quên cả cách ăn uống, tắm rửa, quên cả các động tác vệ sinh cơ thể, mất hết ngôn từ, không biết diễn tả sự việc quá quen thuộc...Nghĩa là hoàn toàn lệ thuộc vào thân nhân, vào cộng đồng. May mắn là Sa Sút Trí Tuệ này cũng không nhiều, chỉ dăm ba phần trăm người trên 65 tuổi bị mà thôi. Nhưng bất hạnh nữa là, cho tới nay Y Khoa học vẫn còn bó tay trước nan bệnh. Vì chưa biết rõ nguyên nhân. Vì không có phương thức trị liệu hữu hiệu.
5- Giảm Thính Thị Giác.
Giảm thính giác ở người cao tuổi, là rối loạn thường thấy nhất trong ngũ giác. Có tới 30% người trên 65 tuổi và gần 50% người trên 85 tuổi đều cho hay là nghe không còn tốt như vài chục năm về trước. Lão nam thường có vấn đề nghe này nhiều hơn lão nữ. Và có tới 20% quý cụ ông trên 85 tuổi điếc đặc cán mai.
Rối loạn nghe thường thấy là điếc với âm thanh cao và điếc nhận thức của tuổi già: nghe được từ ngữ mà không nhắc lại hoặc viết ra được từ ngữ đó.
Ngoài lý do tự nhiên của tuổi già, một vài loại thuốc kháng sinh, vài thuốc thông tiểu có thể gây ra giảm thính giác ở người cao tuổi. Nhiều khi ráy tai đóng cục trong lỗ tai cũng là một nguyên nhân.
Giảm thính giác có thể đặt người già vào hoàn cảnh cô đơn: nhìn thiên hạ chung quanh sôi nổi bàn tán, mà chẵng biết họ nói gì. Rồi buồn rầu. Rồi tự cô lập.
Cho nên, hàng năm quý cụ cần đi khám đo thính giác. Nếu cần thì mang trợ thính cụ, rất hữu ích và dễ mang. Nên mang máy cả hai tai để nghe được âm thanh đều hơn.
Khi đối thoại: đợi khi thấy người nghe nhìn tahý mình hãy nói, nói hơi cao giọng nhưng khốt hét to; tránh nói trực tiếp vào tai người khác; nói với nhịp bình thường và ngắt giọng sau mỗi dòng tư tưởng, nếu cần, ta nói thêm bằng tay.
Thị lực thay đổi với tuổi già. Tới tuổi 65 thì khoảng 15% vị có vấn đề, mà tới 85 tuổi thì số người bị rối loạn thị lực lên tới 28%.Trên 90% quý vị cao niên cần mang kính mà tới 20% dù có mang kính mà nhìn vẫn kém. Đa số đều cảm thấy như cánh tay mình ngắn lại khi dương tờ nhật trình ra trước mặt để đọc.
Hầu hết giảm thị lực đều do các bệnh đục thủy tinh thể hoặc cườm mắt (cataracts), tăng nhãn áp (Glaucoma), Thoái Hóa Võng Mạc (Macular degeneration) và biến chứng Bệnh Tiểu Đường.
Đục thủy tinh thể thấy ở 40% người ngoài 75 tuổi và có thể bị hoặc một mắt hoặc cả đôi bên. Bệnh nhẹ có thể điều chỉnh bằng kính. Nặng thì có thể giải phẫu thay thủy tinh thể.
Cao nhãn áp xẩy ra ở 3% quý vị trên tuổi 65, khiến thị lực giảm đi. Bệnh này rất dễ hàng được phát hiện nếu ta đi bác sĩ khám mắt hàng năm và bệnh chữa được dễ dàng bằng thuốc hoặc giải phẫu với tia Laser.
Thoái hóa võng mạc là nguyên nhân số một đưa tới mù ở người cao tuổi. Thoái hóa có thể là Khô, thường xẩy ra nhưng ít đua tới mất thị lực; Ướt, ít xẩy ra nhưng hay gây mù. Điều trị thường ít mang lại kết quả.
Bệnh tiểu đường gây ra rối loạn thị giác cho 3% người cao tuổi, và thị lực càng giảm khi tuổi càng cao. Tiểu đường hủy hoại giây thần kinh và mạch máu trên toàn cơ thể, trong đó có mắt. Rối loạn diễn ra âm thầm, nên bị tiểu đường cần đi khám bác sĩ chuyên khoa mắt hàng năm. Phát hiện sớm có thể chữa được bằng tia Laser.
Trên đây là một số bệnh thường thấy, xin tường trình cùng quý cụ. Cầu mong là chúng chẳng bao giờ bén mảng tới tuổi già, để mọi người được nhẹ nhàng xuôi buồm thuận gió tới miền vĩnh cửu.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:22:47 GMT 9
Một số dược thảo thường dùng
BS Nguyen Y Duc
Hiện nay, phong trào dùng cây cỏ thiên nhiên với mục đích chữa bệnh đang gia tăng trong dân chúng. Có người dùng theo lời giới thiệu của bạn bè. Có người vì bệnh không chữa được bằng tây y, đã đi tìm thầy thuốc cổ truyền.
Nhưng cỏ cây dù thiên nhiên, có loại an toàn, công hiệu, cũng có loại không có công dụng gì, đôi khi nguy hiểm vì tác dụng phụ. Nên nếu đã dùng, thì ta cần biết qua về thảo chất, về dược tính của cỏ cây đó.
Trong bài này, dựa vào các tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi xin trình bầy đặc tính mấy món dược thảo đang rất phổ thông, mà có thể một số quý vị đang dùng.
1- Ginkgo Bilobạ-
Việt Nam ta goị là cây gỗ Bạch Quả, cao tới 30 thước, lá hình cái quạt, hạt giống như qủa trứng. Hạt và lá được dùng làm thuốc. Cây Ginkgo đã mọc ở Trung Hoa từ nhiều triệu năm, nhập cảnh Âu châu năm 1730, vào Hoa Kỳ năm 1784. Hiện nay, cây được trồng nhiều ở miền Đông Nam nước Pháp, ở Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Hạt Gingo đã được người Trung Hoa dùng để trị bệnh từ năm 2800 trước Thiên Chúa. Từ hơn 20 năm nay, lá Ginkgo rất thông dụng trên thị trường dược thảo và đã có nhiều cuộc nghiên cứu khoa học về công dụng trị bệnh, nhất là ở nước Đức.
Ginkgo chứa nhiều dược chất có tác dụng làm dãn động mạch, khiến máu lưu thông dễ dàng, được dùng trị các trường hợp giảm tuần hoàn ở não bộ, nhất là người cao tuổi, ở tai, rối loạn tuần hoàn ngoại vi.
Nhiều thử nghiệm đã xác nhận công dụng trị liệu của Bạch Qủa trong chứng sa sút trí tuệ, bệnh Alzheimer, nâng cao khả năng nhận thức, trí nhớ và giao tế trong đời sống hàng ngày.
Ginkgo làm giảm chứng đau bắp chân khi đi bộ lâu do tuần hoàn ngoại vi kém. Bạch qủa hiện cũng đang được thử nghiệm để trị sự rối loạn tình dục gây ra do vài loại thuốc trị trầm cảm. Trong các chứng nhức đầu, ù tai, chóng mặt, đổi tính, cáu gắt, ngủ gật, u buồn của tuổi già, Ginkgo cũng có công hiệu.
Ginkgo còn được coi như một chất chống oxy hoá ( anti- oxidant ), được dùng để trì hoãn sự lão hóa.
Bên Nhật, người ta còn dùng Ginkgo để trị bệnh ung thư, bệnh hư giác mạc, bệnh thiếu chú ý ( Attention Deficit Disorder ) của người lớn.
Hiện nay, hình thức Ginkgo thường dùng là chất chiết ( G.B.extract) rút ra từ lá khô, do công ty Willmar Schwabe, Đức quốc, sản xuất đầu tiên và phổ biến trên thị trường. Phân lượng dùng là 40-80mg, ba lần trong ngày, và dùng liên tục trong 4-6 tuần lễ.
Tác dụng phụ thường nhẹ xẩy ra trong mấy ngày đầu khi mới dùng thuốc, gồm có buồn nôn, ói mửa, tiêu chẩy, chóng mặt, nhức đầu.
Không nên dùng Bạch Qủa khi đang uống thuốc chống đông máu như Warfarin, Aspirin.
2-St John Wort.-
Tên khoa học là Hypericum perforatum, thường được biết qua tên St John Wort vì loại cây này nở hoa mầu vàng rất đẹp vào ngày kỷ niệm sinh nhật Thánh St John the Baptist, 24 tháng Sáu mỗi năm. Cây có nguồn gốc ở Âu Châu từ thời kỳ trung cổ, nay được trồng khắp nơi trên thế giới. Vào thời Trung cổ, SJW đã được dùng để trừ ma qủy, làm trong sạch không khí, khiến được mùa ngũ cốc khi đốt trên ngọn lửa vào đêm trước lễ St John. Dân chúng cũng tin là nằm ngủ trên một cành SJW trước ngày sinh nhật Ông Thánh này thì sẽ được bình an suốt năm. Từ nhiều thế kỷ trước, nó được coi như có thể chữa được bệnh u sầu, nhiễm độc tiểu tiện, tiêu trừ vi trùng, mau lành vết thương ngoài da. SJW được Hippocrates, Dioscorides giới thiệu, rồi bị rơi vào lãng quên cho đến vài chục năm mới đây, một loại trà từ cây này được tung ra thị trường quảng cáo là trị được trầm cảm, lo âu.
Đại học Duke được Viện Quốc Gia Bệnh Tâm Thần trợ cấp trên 4 triệu đồng để thực hiện dự án 3 năm nghiên cứu sự an toàn và công hiệu của SJW trong việc trị bệnh u sầu.
Tại Âu Châu, nhất là bên Đức, SJW được các bác sĩ biên toa cho bệnh nhân 7 lần nhiều hơn thuốc Prozac; được mệnh danh là Prozac Thiên Nhiên và được xếp hạng có công dụng trung bình, giữa hai loại âu dược trị trầm cảm chính hiện có. Ở Hoa Kỳ SJW hiện rất được nhiều ngưòi dùng để chữa trầm cảm, vì được coi là an toàn, công hiệu, rẻ tiền, và không cần toa bác sĩ.
Mới đây, SJW được các chuyên viên về bệnh AIDS của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ để tâm nghiên cứu vì một dược chất của cây này có tác dụng vào một vài loại siêu vi trùng, trong đó HIV. Phân lượng thường dùng là 300mg, 3 lần mỗi ngày, trong 8-10 tuần lễ.
Tác dụng phụ của nó ít hơn tác dụng phụ của một vài âu dược trị trầm cảm, như ngứa, mệt mỏi, lên kí, nhức đầu, đau bụng nhất là mẫn cảm của da ( cháy da) khi đi ra ngoài nắng. Ở thú vật, SJW có tác dụng vào tử cung, nên khi có thai, ta cần cẩn thận khi dùng thuốc này.
Chưa có bằng chứng tác dụng tương quan giữa SJW với các âu dược khác. Tuy nhiên nếu đang uống âu dược trị trầm cảm thì nên cho bác sĩ hay khi dùng dược thảo St John.
3-Saw Palmettọ-
Trong tương lai gần đây, Saw palmetto có hy vọng là dược thảo đầu tiên được chứng nhận là có công dụng trị một bệnh đặc biệt. Cơ quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ dang cứu xét đơn xin xác nhận giá trị cuả SJW để trị trầm cảm, Ginkgo Biloba để trị rối loạn trí tuệ và Saw Palmetto, trị xưng nhiếp hộ tuyến.
Đây là một loại cây cọ cao từ 1 tới 3 thước, lá rộng tới gần một thước, mọc trên bãi cát từ miền Nam Carolina tới Florida, Texas. Vào mùa xuân, cây nở rộ hoa mầu trắng, trái của nó bắt đầu chín mọng từ mùa Hạ sang mùa Thu.
Thổ dân lục địa Mỹ Châu đã dùng trái cây cọ này để ăn và trị vài chứng rối loạn tiểu tiện đàn ông từ năm 1700. Trong nửa đầu của thế này, nó còn được dùng cho tới năm 1950 thì bị loại ra khỏi danh sách của National Formulary Hoa Kỳ, trong khi đó thì ở Âu châu nó vẫn còn rất phổ thông.
Trái Saw Palmetto có tác dụng ức chế nam kích thích tố testosterone, giảm sưng và viêm của tế bào và được dùng nhiều ở Âu châu để trị chứng sưng không ung thư nhiếp hộ tuyến. Tại Đức, cơ quan y tế đã chấp thuận cho bán một dược phẩm tinh chế hoà tan trong mỡ của cây cọ này.
Tập san y học của Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ, số tháng 9 năm 1998, lần đầu tiên đã để ý và nêu ra nhiều cuộc nghiên cứu trên khắp thế giới về công dụng của Saw Palmetto trong việc trị sưng nhiếp tuyến.
Phí tổn mỗi ngày cho dược thảo này từ 25 tới 50 mỹ kim, trong khi âu dược thì tốn tới 200 mỹ kim.
Theo Physicians Desk Reference for Herbal Medecines, Saw Palmetto được dùng trong giai đoạn đầu của sưng nhiếp hộ tuyến lành. Tác dụng phụ rất ít như vài rối loạn về tiêu hoá (ói mửa, đau bụng nhẹ ). Mồi ngày uống từ 1 tới 2 gờ ram.
Một điểm quan trọng là, nhiều người vì dùng thuốc này mà không đi khám bác sĩ để xác định tính lành- dữ của sưng nhiếp hộ tuyến. Nên khi khám phá ra thì ung thư bộ phận này đã đi tới giai đoạn bất khả trị.
4- Ephedrạ-
Họ Ephedra, ta gọi là Ma Hoàng, gồm có nhiều loại, mọc ở Châu Âu, Trung Hoa, và đã được dùng làm thuốc chữa bệnh ở Trung Hoa từ trên 5000 năm.
Dược chất chính cuả Ma Hoàng là chất Ephedrine đã được nhà hoá học Nhật Bản N. Nagai phân tích từ năm 1887. Đến năm 1924, giáo sư K.K. Chen ở Đại học Bắc Kinh công bố đặc tính trị liệu cuả Ephedrine trong các bệnh suyễn, nghẹt mũi, kích thích thần kinh. Ephedrine làm thư dãn ống phổi, khiến không khí lưu thông dễ dàng, đồng thời làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim.
Ở Việt Nam, Ma Hoàng được nhập cảng từ Trung Hoa và được dùng để trị các bệnh như ngoại cảm phong hàn, ho hen.
Hiện nay, ở Mỹ, thuốc có chất Ephedrine được quảng cáo có công dụng trong việc làm giảm kí, mà nhà sản xuất gọi là herbal phen-phen, thay thế cho âu dược Pondimin, Redux hiện đã bị cấm bán vì nhiều tác dụng phụ nguy hiểm.
Vì có tính kích thích thần kinh , làm sảng khoái, nên nhiều tay nghiền cần sa, ma túy cũng dùng Ephedra để yêu đời hơn. Một số lực sĩ đã lạm dụng thuốc này để có bắp thịt nở nang. Ephedra có nhiều tác dụng phụ như làm mất ngủ, nhức đầu, nóng nẩy, cao huyết áp, sạn thận, kinh phong, rối loạn nhịp tim, kích thích não và tim, đôi khi đưa tới tử vong. Do đó, cơ quan FDA rất quan tâm tới dược thảo này và đề nghị giới hạn phân lượng dùng mỗi ngày không quá 24mg.
5- Họ Aloe-
Nhiều gia đình ta ở trong bếp đôi khi thấy có trồng một chậu nhỏ cây Aloe, vừa làm cảnh vừa dùng lá nó để đắp lên vết phỏng da xẩy ra trong khi nấu nướng.
Loại cây này có nguồn gốc ở Đông Nam Châu Phi, đã có tài liệu ghi nhận công dụng trị bệnh từ năm 1750 TTC. Người dân Ai Cập dùng trị da nhiễm trùng từ 550 TTC. Danh Mục Dược Khoa Hoa Kỳ năm 1820 đã ghi công dụng của Aloe vera và từ năm 1920 đã được trồng để dùng trong dược phòng.
Từ lá Aloe, người ta lấy ra được một chất gel để dùng ngoài da và chất nước vắt để giúp nhuận tràng, chữa lở bao tử. Gel Aloe làm vết thương mau lành bằng cách làm co vết thương và tăng tiết chất collagen, nên được dùng khi bị phỏng da, chầy da. Mới đây nó cũng được dùng để trị bệnh vẩy nến da (Psoriasis) và làm tăng cường tính miễn nhiễm của cơ thể.
Trên thị trường, gel Aloe được giới thiệu như có công hiệu làm mềm da, sạch da, chống ngứa, diệt trùng, làm da tăng trưởng mau, đôi khi trị cả da dị ứng với lá thường xuân (poison ivy).
Bên Nhật, Aloe còn được dùng để trị bệnh ung thư do khả năng chống viêm và chặn tăng trưởng tế bào ung thư. Kết qủa nghiên cứu tại University of Maryland cho thấy Aloe có thể diệt siêu vi trùng bệnh mụn giộp ( herpes ) và vài loại trùng bệnh cúm, trong khi đó , thử nghiệm tại University of Missouri cho thấy Aloe gel có thể dùng để ngừa thụ thai.
Aloe kích thích tuỵ tạng bài tiết Insulin, nên đang có nghiên cứu dùng Aloe để trị bệnh tiểu đường.
Kết luận
Kỹ nghệ bào chế dược thảo ở khắp nơi trên thế giới hiện giờ đang rất phát triển để đáp ứng nhu cầu của người dân. Các nhà sản xuất cũng đang tranh đấu để dược thảo của họ sớm được đối xử công bằng như âu dược chứ không phải chỉ là thực phẩm phụ như hiện nay. Triển vọng đó chắc cũng không còn quá xa, vì ngay tại Mỹ, Quốc Hội cũng như Hiệp Hội Y Sĩ Hoa Kỳ đã quan tâm tới vấn đề dược thảo và các phương pháp trị liệu không chính thống mỗi ngày một phổ thông này.
oOo
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:23:57 GMT 9
Phục Hồi Sau Tai Biến Não
-"Tội nghiệp anh Bình vừa mới bị Tai biến não. Chị Bình không chăm sóc nổi nên phải đưa anh vào nhà dưỡng lão".
-" Ấy, chú tư Hanh cũng bị stroke năm ngoái, nhưng nhẹ nên cũng còn đi lại được".
Tai biến động mạch não!!! Stroke!!!
Những tiếng mà khi nghe tới nhiều người đã e ngại. Chỉ sợ là một lúc bất hạnh nào đó, nó sẽ đến thăm mình.
Tai biến vẫn còn là một bệnh gây ra tàn phá nghiêm trọng cho cơ thể và là một trong ba nguy cơ tử vong cao. Một trăm người bị bệnh thì khoảng mươi người mới có hy vọng gần-hoàn-toàn-phục-hồi. Lý do là bệnh nhân thường đi cấp cứu hơi trễ để được khám nghiệm và điều trị sớm.
Bên Mỹ, hàng năm có cả triệu nạn nhân mới của tai biến này. Một số lớn may mắn thoát khỏi lưỡi hái Tử Thần thì lại kéo dài cuộc đời tàn phế thần kinh. Số người sống sót tăng với tuổi thọ và nhờ ở các phương pháp trị liệu hữu hiệu. Nhưng chi phí chăm sóc hậu tai biến cũng nhiều hơn. Và là một vất vả cho gia đình, một tai họa cho bệnh nhân.
Bên Việt Nam ta, số người bị tai biến cũng cao, người tàn phế không phải là ít, và sự chăm sóc chắc cũng khó khăn hơn.
Stroke gây ra do sự đột ngột ngưng tuần hoàn tới một vùng nào của não bộ. Ngưng vì một mạch máu bể vỡ, một cục máu chặn lối giao thông, một u bướu đè xẹp mạch máu. Tế bào thần kinh nơi đó thiếu dưỡng khí và đường glucose, chỉ cần vài phút là hết sống. Đó là các tế bào điều khiển sự di chuyển, suy tư, hành động, phát âm... Con người trở thành tàn tật.
Tàn tật vì:
- Liệt yếu nửa thân, đi đứng loạng choạng, mất thăng bằng;
- Nói lơ lớ khó khăn, không thành ngôn từ;
- Kém trí nhớ, nhận thức, suy luận và giải quyết sự việc;
- Thị giác rối loạn;
- Mất cảm giác, tê dại ngón tay, chân;
- Ăn trệu trạo, nuốt không xuôi;
- Mất kiểm soát tiểu đại tiện;
- Hết khả năng tự chăm sóc trong đời sống hàng ngày...
- Và hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào người khác.
Một đời người đang khỏe mạnh như anh Vọi thuyền chài, mà chỉ một giây một phút trở nên tàn tật. Nhiều khi cũng chỉ vì quá lơ là với sức khỏe của mình.
Huyết áp cao thì coi thường, thuốc khi uống khi ngưng. Cholesterol phi mã mà vẫn tái nạm vè gầu, thêm chén nước béo. Thuốc lá hút mỗi ngày vài tút, rượu uống dăm vò. Cơm no, rượu say xong "ngọa triều" nhiều hơn là vận động.
Cho sướng thân đời. Biết đâu rằng: "Bệnh tùng khẩu nhập", người xưa nhắc nhở chẳng sai chút nào. Vì đó là một số trong những nguy cơ đưa tới tai biến.
Cơ sự đã xẩy ra, bây giờ đành đương đầu, đối phó với hậu quả. Phải kiên nhẫn, tích cực phục hồi tối đa khả năng đã mất. Đừng buông xuôi, bai bải chối "tôi có sao đâu". Và cả nhà cũng như người bệnh phải tiếp sức phục hồi.
Vài ngày sau khi áp dụng các trị liệu hiện đại, bệnh đã được kiểm soát, thầy thuốc sẽ hướng dẫn phương thức lấy lại các chức năng đã bị tai biến lấy đi. Các phương pháp này rất hữu hiệu để giúp ta phục hoạt sức mạnh, khả năng điều hợp cử động, sự bền bỉ và niềm tự tin, tránh phụ thuộc cũng như hội nhập với các sinh hoạt của gia đình, chòm xóm.
Ta phải học lại cách nói làm sao, nghĩ thế nào, đi sao cho vững và làm sao để tự mình hoàn tất được các sinh hoạt thường lệ. Tắm rửa, đánh răng; ăn cơm, mặc quần áo, đi vệ sinh... Ôi thôi thì trăm việc cần thiết để sinh tồn.
Xin hãy kiên tâm. Đa số bệnh nhân đều phục hồi khá hơn; nhanh hay chậm cũng tùy thuộc stroke nặng hay nhẹ. Nhiều khi diễn tiến phục hồi bắt đầu ngay sau khi bị tai biến, khi bệnh tình ổn định, não bắt đầu lành vết thương.
Ngoài áp dụng phục hồi, cũng cần phòng ngừa stroke trở lại, nhất là trong thời gian một năm sau khi bị lần đầu.
Nguy cơ tái phát tăng với tuổi cao, nếu ta tiếp tục hút thuốc lá, uống nhiều rượu, cao huyết áp, cao cholesterol, mập phì, tiểu đường, suy tim, hoặc đã bị gián đoạn máu não thoảng qua (Transient ischemic attack- TIA).
Cần đi khám sức khỏe theo định kỳ. Chữa các bệnh đang có, nhất là kiểm soát huyết áp, một "tên sát nhân thầm lặng" (Silent Killer); bỏ thuốc lá; nhâm nhi chút chút rượu thôi; kiêng chất béo; giảm tiểu đường; bớt nặng kí; mỗi ngày uống viên aspirin nhỏ bé và các thuốc khác mà bác sĩ cho. Và cũng năng vận động cơ thể theo lời khuyên của thầy thuốc để máu huyết lưu thông, gân cốt thư giãn.
Một vấn đề thường xẩy ra cho người bị tai biến là bệnh trầm cảm, hậu quả của tổn thương tế bào não và sự tàn tật. Cảm xúc sẽ lên xuống, buồn nhiều hơn vui, đôi khi thất vọng, nhỏ lệ, bực tức rồi buông xuôi.
Cũng dễ hiểu thôi. Đang xốc vác khỏe mạnh mà giờ đây xe lăn, nạng chống; ăn phải nhờ người bón, tắm rửa cần người phụ; nói không ra câu, nhìn một hóa hai... Nhưng dù trầm cảm đến đâu, khoa học hiện đại vẫn có cơ hóa giải được. Nói cho thầy thuốc hay cảm xúc của mình và sẵn sàng nhận sự chữa chạy. Nhiều dược phẩm công hiệu cũng như phương thức trị liệu điện tử có thể giúp ta vượt qua.
Với thân nhân thì sự hỗ trợ, chăm sóc, khuyến khích người bệnh là cần. Đây là việc làm lâu dài, đòi hỏi sự hy sinh và thương yêu.
Mà thương yêu thì ai chẳng có. Đầu gối tay ấp trên dưới nửa thế kỷ. Công ơn sinh thành dưỡng dục cả vài chục năm. Bây giờ là lúc chứng tỏ tình nghĩa phu thê mặn ngọt có nhau cũng như báo hiếu song thân. Có thể tham dự vài khóa huấn luyện cách chăm sóc, cách giúp người thân phục hồi, học lại những chức năng đã mất.
Xin gợi ý:
- Cần có một phân chia việc săn sóc cho mỗi người trong gia đình để tránh ôm đồm quá sức cho một người;
- Giúp bệnh nhân uống thuốc đều đặn;
- Khích lệ để bệnh nhân tập cử động, làm vài việc săn sóc chính bản thân để gây niềm tự tin;
- Ca ngợi bất cứ một cố gắng mà người thân đã thực hiện được, để khỏi nản lòng;
- Mời kéo thân nhân tham dự góp ý vào các sinh hoạt gia đình, cho họ một niềm tin là vẫn còn một vai trò quan trọng; giúp thân nhân giữ mối liên lạc với bạn bè, cộng đồng;
- Tránh để thân nhân lủi thủi một mình với chiếc TV hay radio; dành thì giờ nói chuyện cũng như nhờ bạn bè thăm hỏi;
- Liên lạc thường xuyên với thầy thuốc để trình bày diễn tiến phục hồi cũng như nhận thêm hướng dẫn chăm sóc.
Và không quên chăm sóc chính mình, ăn uống ngủ nghỉ đầy đủ, có thời giờ thư giãn giải trí.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas 9-03
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:24:36 GMT 9
Vào Tuổi Mãn Kinh
Bài viết là để đáp ứng yêu cầu của một số tỉ muội thắc mắc: chỉ thấy nói về những chuyện ngoại sáu mươi mà chẳng viết gì tới vấn đề nữ giới chúng tôi, sắp có hoặc đang có, khi không còn kinh nguyệt. Ý giả các vị nhắc khéo là nói chút đỉnh về thời kỳ mãn kinh. Vâng, đây là vấn đề gây ra nhiều thảng thốt cho một số tỉ muội, nên xin cùng tìm hiểu.
Mãn Kinh là gì?
Về phương diện sinh lý học, Mãn Kinh (menopause) là một diễn biến bình thường trong chu kỳ tăng trưởng của người phụ nữ. Đó là sự nối dài của giai đoạn có kinh nguyệt mỗi tháng với khả năng sanh đẻ sang thời kỳ mà cả hai chức năng trên đều ngưng. Nó đến tự nhiên khác chi sự có kinh lần đầu của một bé gái 12, 13 tuổi.
Nhưng một số tỷ muội ta coi hết kinh như một dấu hiệu chớm vào già, một khởi đầu của cuộc đời mới. Từ nay ta sẽ không còn đẹp nữa, cơ thể xệ ra, mất vẻ duyên dáng hấp dẫn, lại không còn khả năng tạo ra những nối dõi tông đường. Cánh cửa đã khép lại, không còn tự do lựa chọn có con hay không có con...
Sống trong một thời đại mà hình ảnh son trẻ hấp dẫn thể chất được đề cao thì những thay đổi khi tới tuổi mãn kinh cũng là điều mà nhiều người nữ ưu tư. Tuy nhiên cũng nhiều vị đón nhận mãn kinh với mọi hình tĩnh, thích nghi. Vì, tuổi nào ta sống theo tuổi đó, một cách tích cực.
Trên lý thuyết, thời kỳ mãn kinh được coi như bắt đầu khi kinh nguyệt xuất hiện lần cuối cùng. Nhưng trên thực tế, nó phải diễn ra khi đã mất kinh được một năm với một số thay đổi cơ thể. Trong 90% trường hợp, mãn kinh ở tuổi 51; 10% sớm hơn khi mới 40. Với người được giải phẫu cắt bỏ dạ con và noãn sào, hoặc do biến chứng của hóa trị liệu, thì mãn kinh xẩy ra liền sau đó.
Cơ thể người nữ khi có kinh.
Chu kỳ kinh nguyệt là khoảng thời gian giữa mỗi ngày đầu của hai kinh kỳ nối tiếp nhau, thông thường là28 ngày, đôi khi thay đổi từ 23 tới 35 ngày.
Vào giữa thời gian này, một trứng trong noãn sào rụng. Túi đựng trứng tiết ra nhiều estrogen hơn, làm niêm mạc tử cung dầy lên với nhiều mạch máu để sẵn sàng đón nhận trứng nếu được thụ tinh. Phải mất sáu ngày trứng mới hoàn tất cuộc di chuyển từ noãn sào xuống dạ con.
Khi không có thụ tinh, niêm mạc dạ con teo tróc, máu và tế bào chảy ra ngoài: người nữ bắt đầu thấy kinh. Đã có một thời kỳ người ta coi kinh nguyệt như một cái gì không trong sạch, là sự trừng phạt của thần linh, hoặc là dấu hiệu một bất hạnh sẽ tới. Muối cà muối dưa mà phụ nữ có kinh đi qua thì dưa cà khú là cái chắc. Các cụ ta nói vậy.
Trong cuộc đời ba bốn mươi năm mầu mỡ, người nữ đã trải qua cả ba bốn trăm lần thấy kinh và nhiều dịp mang nặng đẻ đau. Trong diễn tiến này, buồng trứng tiết ra các kích thích tố estrogen, progesterone mà công dụng là làm cho người nữ trở nên quyến rũ, hấp dẫn cũng như phục vụ các chức năng của cơ thể.
Từ ngày xưa, người ta đã nghĩ là buồng trứng giữ vai trò quan trọng trong đời sống nữ giới.
Bốn mươi năm trước đây, các bác sĩ Edward A. Doisy và Edgar Allen, St Louis Hoa Kỳ, làm thử nghiệm cắt bỏ buồng trứng của chuột cái, thì dạ con của nó teo, tính dục hết. Nhưng khi chích nước chiết trong buồng trứng, thì mọi sự trở lại bình thường. Quan sát cũng thấy là nước tiểu người nữ mang thai chứa một hóa chất có tác dụng tương tự. Từ những nhận xét khoa học, lần lần con người đã chứng minh sự hiện hữu hóa chất đó, gọi nó là kích thích tố và bào chế để dùng trong trị liệu.
Thay đổi ở người nữ khi mãn kinh
Mãn kinh thường bắt đầu vào tuổi 40. Đây không phải là việc xẩy ra đầu hôm sớm mai, mà đi qua một giai đoạn chuyển tiếp với kinh kỳ tháng có tháng không, dài ngắn bất thường, khi đậm khi nhạt. Hai phần ba người nữ chịu đựng nhiều thay đổi, khó chịu:
Vẻ dáng con người vốn thanh tao hấp dẫn, trở thành nới rộng bề ngang với mỡ ở vòng hông, vòng bụng; ngực xệ, da nhăn khô, tóc rụng và cơ thể nặng cân hơn. Tất cả khiến người đẹp đôi khi nghĩ là đã trở nên vô hình trong đám đông. Vì: "Ta già rồi chăng! Ôi đâu còn thời kỳ hấp dẫn của thuở thanh xuân".
Tế bào cơ quan sinh dục rất nhậy cảm với sự giảm thiểu của estrogen: Cửa mình teo ngắn, màng niêm khô gây ra cảm giác đau khi giao hợp khiến bạn gái đôi khi thoái thác. Nhiễm độc đường tiểu tiện cũng thường xẩy ra vì những thay đổi trên cộng với sự thay đổi môi trường sinh học ở âm hộ.
Mạch máu dãn nở, máu dồn nhiều về mặt, đầu, ngực tạo ra những cơn nóng hừng hực, nhiệt độ trên da tăng đến bẩy tám độ. Cảm giác này kéo dài hai ba phút, đôi khi cả giờ. Nó trầm trọng hơn khi trong người mệt mỏi hoặc dưới ảnh hưởng của căng thẳng tâm-thân. Nhiều người đêm không ngủ được vì bị cơn nóng hành. Lại còn đổ mồ hôi, cứ phải để quạt hoặc chạy máy lạnh tối đa, đôi khi muốn nhẩy vào bồn nươc lạnh ngâm cho giảm cơn bốc hỏa. Thêm vào đó là những cơn nhức đầu như búa bổ, đau bụng ngầm ngầm rất khó chịu.
Có tới 75% người nữ bị cơn hành này, và phải chịu đựng trong dăm ba năm. Điểm đáng lưu ý là phụ nữ Á châu ít bị hành hơn vì trong thực phẩm của họ có hóa chất phytoestrogen, rất nhiều trong đậu nành.
Thay đổi tâm thần cũng đáng kể. Nhiều người có tâm trạng lo âu, buồn chán, không thiết gì đến sự đời. Tính tình trở nên nóng nẩy, dễ bị kích thích, hay gây gổ nhất là với chồng con. Họ thường cảm thấy bồn chồn ngồi đứng không yên.
Hậu qủa xa của giảm thiểu estrogen là nguy cơ loãng xương và bệnh tim mạch.
Loãng xương là một thay đổi thường xẩy trong tiến trình hóa gìa. Bất hạnh là nhiều lão nữ bị chứng này hơn khi đi vào thời kỳ mãn kinh. Xương được tạo nên bởi chất hữu cơ và nhiều khoáng chất, nhất là calcium và phosphate. Estrogen có tác dụng tăng cường phẩm chất, độ cứng của xương và có thể trì hoãn hiện tượng rỗ xương. Vào thời kỳ mãn kinh, xương trở nên sốp, ròn vì calcium tan vào dòng máu. Xương sống lưng, xương đùi rất dễ gẫy khi té nhẹ.
Ngoài ra, giảm thiểu Estrogen ở tuổi mãn kinh sẽ tăng nguy cơ bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim. Bình thường, estrogen có tác dụng tăng lượng cholesterol lành HDL và làm giảm lượng cholesterol dữ LDL trong máu.
Ứng phó với khó khăn của mãn kinh
Người nữ trải qua một phần ba cuộc đời với mãn kinh. Thường thì 1/3 quý bà hết kinh rất tự nhiên, an lành. Số còn lại sẽ chịu đựng một vài khó khăn không trầm trọng lắm, ngoại trừ khi có hậu quả xấu như loãng xương. May mắn là khó khăn cũng không kéo dài và người nữ có thể thích nghi được, nếu hiểu rõ vấn đề.
Nhiều nhà chuyên môn nhận thấy thay đổi về tính tình, cảm xúc trong mãn kinh đôi khi là sự tăng thêm cường độ của ưu tư sẵn có. Những ai vốn đã làm chủ được lòng mình thì cũng đối phó được với xáo trộn tâm thần do mãn kinh gây ra. Bằng chứng là khi quý bà bù đầu bận bịu với công việc ngoài đời thì ít bị ảnh hưởng này hơn người làm việc nhà, có nhiều khoảng trống thời gian để nghĩ tới khó khăn.
Một vị thầy thuốc già nhiều kinh nghiệm đã nói: liều thuốc hữu hiệu nhất cho người đàn bà gặp khó khăn vào kỳ mãn kinh là những lời giải thích rõ ràng. Rằng mãn kinh không phải đánh dấu sự chấm dứt của tận hưởng tình dục, hết hấp dẫn; rằng đó chỉ là sự chuyển tiếp sang một giai đoạn mới với thú vui và tình yêu cách khác, có khi lại tốt lành hơn
Điều trị.
Ngày nay, tiến bộ y khoa đã mang tới nhiều phương thức trị liệu để người nữ hết kinh có thể an vui với sự chuyển tiếp này.
1-Kích thích tố thay thế
Nhắc lại là ở nữ giới, estrogen bắt đầu giảm ở tuổi 30. Tới tuổi 40 là thời kỳ tiền mãn kinh, estrogen lên xuống bất thường, niêm mạc dạ con mỏng, đường kinh khi có khi không, lúc nhiều lúc ít. Tới tuổi 50 trở đi là vào thời kỳ mãn kinh, estrogen giảm trông thấy. Cho nên mãn kinh còn được gọi là "trạng thái thiếu thốn" và nẩy sinh ra trị liệu thay thế (Replacement therapy).
Từ lâu, y học đã biết là estrogen có thể làm nhẹ những cơn hừng hực, những thay đổi tính tình của nữ giới vào thời kỳ mãn kinh. Estrogen có thể dùng riêng rẽ hoặc chung với progesteron.
Tuy nhiên kích thích tố thay thế ( Hormone replacement Therapy-HRT) cũng gây ra vài rủi ro nếu dùng lâu, do đó việc sử dụng cần được cân nhắc kỹ cho từng cá nhân. Đồng thời quý bà cũng cần được bác sĩ theo dõi và định kỳ khám phụ khoa, làm Pap Smears và chụp hình nhũ hoa để phát hiện dấu hiệu các rủi ro.
Sau đây là hướng dẫn mới về việc dùng estrogen thay thế:
a-Nhiều chuyên gia vẫn đồng ý với nhau rằng: estrogen là thuốc công hiệu hiện có để làm dịu cảm giác nóng phừng, nhưng không giúp ích gì cho thay đổi tính tình, trầm cảm , hay quên và giảm ước tình. Thường thường sự nóng phừng này mất dần sau dăm năm.
Estrogen có thể dùng dưới bất cứ hình thức nào như uống, chích, dán trên da. Nhiều người có thể giảm phân lượng thuốc lần lần sau 5 năm dùng. Nếu dùng dưới 5 năm thì ít có nguy cơ bị ung thư vú.
Không nên dùng estrogen để trị trầm cảm, u sầu vì có nhiều thuốc khác rất tốt cho chứng bệnh này.
b- Chưa có bằng chứng nào xác định là dùng HRT có thể giảm nguy cơ bệnh động mạch vành ở phụ nữ vào tuổi mãn kinh. Hội American Heart Association đã khuyên không nên dùng kích thích tố nữ để ngừa bệnh tim.
c- Estrogen đã được cơ quan Food and Drug Administration chấp thuận cho dùng trong việc ngừa loãng xương chứ không để trị bệnh này. Kích thích tố làm giảm sự tiêu hao xương ở phụ nữ sau thời kỳ hết kinh. So với người không dùng kích thích tố thì những người dùng có thể giảm nguy cơ loãng xương tới 50%.
d-Khi điều trị trong thời gian lâu dài, estrogen làm tăng nguy cơ ung thư vú bằng cách thúc đẩy sự tăng trưởng tế bào của cơ quan này. Phụ nữ có kinh lần đầu sớm, hết kinh trễ có nhiều nguy cơ bị ung thư vú vì lượng estrogen trong cơ thể của họ nhiều hơn và lâu hơn.
2- Dinh dưỡng tốt giúp bảo trì xương khỏi loãng và giảm nguy cơ bệnh tim Do đó ta cần ăn uống điều độ, cân bằng với đầy đủ loại sinh tố, khoáng chất calcium, phosphate, selenium, ít chất béo. Cũng nên bớt ăn gia vị cay chua để giảm cơn nóng phừng phừng.
3-Tập thể dục đều đặn làm tăng độ cứng chắc của xương cũng như làm phấn khởi tinh thần;
4-Nếu hút thuốc lá thì nên bỏ vì hóa chất của thuốc làm mãn kinh tới sớm, tăng triệu chứng mãn kinh, giảm khối lượng xương, dễ đưa đến tổn thương cho xương.
5-Mặc quần áo nhẹ, rộng rãi thoải mái; nhà cửa thoáng khí, mát mẻ để làm bớt những cơn bốc nóng.
6-Tâm tình với người cùng cảnh ngộ để chia xẻ kinh nghiệm cũng như hỗ trợ lẫn nhau;
7-Lựa một bác sĩ kinh nghiệm, tận tâm để được hướng dẫn cách dùng kích thích tố thay thế cũng như giảm thiểu các triệu chứng khác.
8-Tiếp tục đời sống tình ái, vì hành động này làm tăng máu tuần hoàn và độ ẩm ở âm hộ. Để tránh đau khi giao hợp vì hạ bộ khô mỏng, dùng vài loại kem bán tự do như Replens, K-Y jelly.
9-Về với mẹ thiên nhiên qua các môn thuốc thảo mộc, cỏ cây hoa lá. Dù khoa học chưa chứng minh công hiệu của các chất này, nhưng kinh nghiệm sử dụng lâu năm với kết quả tốt của nhân dân là bảo chứng.
Quan sát cho thấy thảo mộc có kích thích tố (phytoestrogens), công hiệu như hóa chất estrogen lại ít tác dụng phụ. Phụ nữ Á châu được mô tả có ít triệu chứng mãn kinh vì ăn nhiều sản phẩm của đậu nành, chứa nhiều isoflavones và phytosterols. Các chất này có công dụng như estrogens trong việc bảo trì màng niêm âm hộ, làm bớt phừng mặt, rỗ xương và giảm LDL.
Từ rễ cây củ cải ( Mexican yam ), một loại thuốc nhờn có progesterone đã được chế và có công dụng như trên. Ngoài ra các dược thảo như đương quy ( Angelica sinesis), thăng ma( Cimici fuga), sinh địa ( Rehmania), cam thảo (licorice root) cũng có một vài công dụng trong việc giảm thiểu rối loạn mãn kinh.
Chất béo cá omega 3-6 cũng có những tác dụng tương tự.
Kết luận
Trên đây là một số giải đáp về thắc mắc của vài tỉ muội, hy vọng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi.
Nếu mãn kinh qủa thật là một vấn đề thì qúy phu nhân có rất nhiều bạn đồng cảnh, vì đâu có bà chị nào tránh được nó. Nó không phải là một bệnh hoạn, mà chỉ là một chuyển tiếp vào phần ba cuối cuộc đời. Đây là giai đoạn mà các cảm xúc, hành động của mình không do kích thích tố chi phối, mà là do mình dùng vốn liếng khôn ngoan, kinh nghiệm trường đời của mỗi người để thích nghi với hoàn cảnh.
Mong rằng ai đó khéo vượt qua.
BS Nguyễn Ý-ĐỨC
Texas-USA
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:25:35 GMT 9
Ung Thư Nhũ Hoa
Ðây là chuyện riêng nói với quý bà. Nhưng quý ông cũng nên biết nên nghe. Vì Lang tôi sẽ đề cập tới cặp nhũ hoa mà tạo hóa ban cho nữ giới và nam giới rất quan tâm cách này cách khác.
Ngoài vai trò biểu tượng tính cách phụ nữ và đặc tính sinh dục thứ nhì với làm đẹp, gợi tình, nhậy cảm (vú đàn bà, quà đàn ông ), nhũ hoa có một nhiệm vụ thiêng cao cả hơn: đó là nuôi dưỡng con thơ bằng những giọt sữa ngon lành tươi ấm tự lòng mình. Vì "đàn bà không vú lấy gì nuôi con". Tất nhiên là liền ông cũng có vú nhưng chỉ là hai vùng mô bào với núm cau nhỏ síu, chẳng có công dụng gì, ngoài việc điểm trang cho ngực khỏi trơ trụi. Và đôi khi để người tình tìm cảm hứng.
Nhũ hoa được Bà Mụ nặn mỗi người mỗi dạng lớn nhỏ khác nhau. nhưng vẫn có sữa nhiều ít để con bú tí và cũng mang những rủi ro bệnh tật như nhau. Do sự tinh nghịch thêm bớt chút mỡ béo của Bà Mụ mà đa số nữ giới có ngực trái hơi nhỉnh hơn ngực phải một chút. Có người thì bà cho tròn no, quả mướp, bánh dầy, người thì sừng trâu, cao như trái núi, cũng nhiều người xẹp lép như hai miếng bánh bèo.
Nhũ hoa quý bà được cấu tạo phù hợp chức năng sinh sữa nuôi con. Vú có khoảng 20 thùy tuyến sữa, mỗi tuyến có ống riêng mở ra ngoài núm vú. Vú không có bắp thịt mà có tế bào mỡ, mô liên kết, mạch máu, dây thần kinh và hệ thống bạch huyết. Vú đàn ông không có thùy sữa. Nhũ hoa lớn hay nhỏ là tùy theo nhiều ít tế bào mỡ. Mà càng lớn con càng có phận nhờ, vì kinh nghiệm các cụ cho hay "nhớn vú bụ con". Ung thư xẩy ra ở tuyến thùy và ống dẫn sữa. Mấy sợi dây chằng cột vú vào lồng ngực. Dây chằng mà xệ giãn thì vú cũng xệ theo. Núm và quầng vú là phần gợi tình với nhiều sợi thần kinh cảm giác kích thích. Mô bào của vú chịu ảnh hưởng của kích thích tố nữ tiết ra từ noãn sào và vài bộ phận khác. Các kích thích tố này thay đổi kích thước, hình dáng của vú từ lúc mới sanh tới tuổi dậy thì, trưởng thành có kinh có thai rồi khi đáo tuổi về già.
Nếu vẻ đẹp của đôi gò Bồng đảo đã là đề tài lý thú, hấp dẫn của văn thi sĩ, giới thẩm mỹ thì rủi ro bệnh tật của vú cũng làm bận tâm các nhà y khoa học và người chẳng may vướng phải rủi ro. Vì vú cũng chỉ là một tập hợp những mô bào, có sinh có tử, có đau yếu lành mạnh như trăm ngàn loại mô bào khác trong cơ thể.
Ung Thư Vú là một trong những rủi ro đó.
Ngoài ung thu da, ung thư vú là niềm lo ngại nhất của phụ nữ khắp nơi. Càng lo ngại càng nên nhớ rằng nếu quý tỷ muội tìm ra ung thư sớm thì điều trị cũng hiệu quả hơn và ta có nhiều hy vọng kéo dài cuộc sống bình an.
Tại Hoa Kỳ, ung thư Vú đứng thứ nhì trong số các ung thư thường thấy và cũng là nguyên nhân tử vong thứ nhì vì ung thư ở nữ giới. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, trong năm 2005 sẽ có 211,240 phụ nữ được chẩn đoán bị ung thư vú và số tử vong sẽ là 40,410 trường hợp.Với phụ nữ người Mỹ gốc Á châu, ung thư vú đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư. Bên Việt Nam, ung thư nhũ hoa có nhiều thứ nhì sau ung thư cổ tử cung; Sài Gòn nhiều ung thư hơn Hà Nội 2000/1521 trường hợp.
Từ 20 năm qua, tháng 10 mỗi năm đã được Hoa Kỳ chọn là Tháng Quốc Gia Quan Tâm tới Ung Thư Vú. Trong tháng, các cơ quan y tế công tư đều phát động chiến dịch hướng dẫn phụ nữ sớm phát hiện, xác định rồi điều trị nan bệnh này. Ðể tìm ra bệnh, phụ nữ trên 40 tuổi nên chụp X quang nhũ hoa mỗi năm vì đây là phương thức tốt nhất để tìm ra bệnh ở giai đoạn phôi thai. Thứ Sáu tuần lễ thứ ba của tháng Mười là ngày Quốc Gia Chụp X Quang vú. Năm nay trùng vào ngày thứ Sáu 21 tháng 10. Một số phòng quang tuyến sẽ giảm hoặc miễn lệ phí chụp nhũ hoa trong ngày này. Muốn biết địa chỉ các cơ sở tham gia, xin liên lạc với a) Hội Ung Thư Hoa Kỳ 1-800-ACS.2345; b)Tổ Chức Ung Thư Vú Susan G Komen 1-800-IM-AWARE.
Sau đây là một số kiến thức căn bản về bệnh Ung Thư Nhũ Hoa.
1-Có phải ung thư nhũ hoa là loại ung thư thường thấy nhất ở phụ nữ?
Thưa đúng vậy. Theo thống kê, ung thư nhũ hoa là một trong những ung thư thường thấy nhất ở nữ giới và là ung thư gây tử vong hạng nhì sau ung thư phổi.
2-Như vậy thì đàn ông có bị ung thư vú không?
Ung thư vú ở đàn ông rất hiếm nhưng vẫn xẩy ra với tỷ lệ 1%. Bên Mỹ, có khoảng 1450 trường hợp ung thư vú mới được khám phá mỗi năm ở người nam và khoảng 450 người sẽ thiệt mạng.
3-Xin cho biết những rủi ro đưa đến ung thư vú?
Mặc dù khoa học chưa tìm ra nguyên nhân chính xác nhưng một số yếu tố đã được nêu ra. Ðó là:
a-Tuổi tác- Tuổi càng cao thì ung thư càng dễ xẩy ra. Ung thư ở phụ nữ dưới 35 tuổi ít hơn ở tuổi từ 60 trở lên. Thống kê cho hay 82% các trường hợp xẩy ra ở phụ nữ trên 60.
b-Y sử cá nhân- Nếu đã có ung thư một bên vú hoặc bệnh về vú thì vú bên kia cũng dễ bị ung thư;
c-Y sử gia đình- Nguy cơ tăng gấp đôi, nhất là trước khi mãn kinh, nếu mẹ, chị em gái, con gái hoặc thân nhân gần gũi bị ung thư vú;
d-Ðột biến gene trong tế bào vú gây nguy cơ ung thư cơ quan này.
4-Các nguy cơ khác là gì?
a-Vai trò kích thích tố nữ- Estrogen kích thích sự tăng trưởng và phân chia tế bào, nên estrogen càng nhiều thì rủi ro ung thư càng cao. Vì thế có kinh nguyệt trước tuổi 12, chưa bao giờ có con hoặc có con sau tuổi 30, mãn kinh sau tuổi 50, dùng kích thích tố thay thế, thuốc viên ngừa thai trong nhiều năm đều tăng nguy cơ ung thư. Lý do là trong những trường hợp này, cơ thể tiếp xúc với kích thích tố nữ estrogen trong thời gian lâu hơn.
b- Đã điều trị các ung thư khác bằng phóng xạ;
c-Mập phì sau tuổi mãn kinh tăng rủi ro trong khi đó mập ở tuổi trung niên dường như giảm rủi ro ung thư vú
d-Tiêu thụ rượu tăng sản xuất estrogen do đó hơi tăng nguy cơ ung thư vú;
e-Dịch tễ học cho thấy thực phẩm có nhiều chất béo, tiếp xúc với hóa chất diệt sâu bọ, tăng rủi ro ung thư vú;
g-Nghiên cứu mới đây cho hay ít vận động cơ thể ở tuổi thiếu niên cũng là một rủi ro.
5-Vậy bây giờ phải làm gì để giảm thiểu các nguy cơ vừa kể?
Chúng ta không thay đổi được các rủi ro do di truyền hoặc gia đình, tuổi tác nhưng ta có thể thay đổi được nếp sống để giảm nguy cơ ung thư vú. Như là:
a-Ngưng thuốc lá;
b-Vận động cơ thể nhiều lần mỗi tuần;
c-Không uống rượu quá 2 drinks mỗi ngày;
d-Giới hạn thịt đỏ, giảm mỡ động vật dưới 30% vì chúng có thể chứa nhiều kích thích tố và thuốc trừ sâu bọ; ăn nhiều rau trái cây có chất xơ
e-Giảm ký nếu quá mập nhất là sau thời kỳ mãn kinh.
g-Nếu định có con, nên có con sớm và cho con bú sữa mẹ trong nhiều tháng;
h-Tự khám nhũ hoa hàng tháng; chụp nhũ ảnh hàng năm nếu trên 40 tuổi;
i-Nếu có thân nhân gần bị ung thư vú thì nên khám tổng quát thường xuyên hơn và hỏi ý kiến bác sĩ chuyên môn về thử nghiệm gene di truyền
6-Xin kể các triệu chứng bệnh.
Ung thư vú có thể có một số dấu hiệu như: thay đổi cấu trúc vú với u cục cứng không đau, sưng, da dầy lên, núm vú lẹm vào, nhăn nhúm, có vẩy, lở loét, đau hoặc chẩy nước.
Chụp quang tuyến vú sẽ thấy hình dạng của vú không đều, có nhiều bóng mờ. Bác sĩ khám ngực thì thấy có u cục, hạch nổi lên ở nách, cổ vì ung thư lan ra.
7- Mammogram là gì và công dụng ra sao?
Mammogram là chụp quang tuyến X vú để tìm ra những thay đổi trong cấu trúc của nhũ hoa mà khám tay không thấy được. Chụp quang tuyến Vú giúp ích khá nhiều vì có thể phát hiện sớm khoảng 80-90% ung thư với u nhỏ dưới 0.5 phân.
8-Khi nào thì phụ nữ phải chụp QTV?
Hội Ung Thư Hoa Kỳ khuyên phụ nữ trên 40 tuổi, không có triệu chứng như không cục nhũ hoa, không tiết dịch núm vú, vẫn khỏe mạnh đều cần chụp nhũ ảnh X quang mỗi năm một lần. Nghiên cứu cho hay chụp QTV giảm tử vong ung thư vú từ 20 tới 30% so với không chụp. Chụp quang tuyến vú không gây ra ung thư bởi vì lượng phóng xạ dùng rất ít, hầu như không có nguy cơ độc hại. Quý vị có Medicare đều được chính phủ trả mọi phí tổn chụp QTV một lần mỗi 12 tháng. Bác sĩ sẽ cấp giấy giới thiệu để đi chụp QTV.
9-Chúng tôi có phải sửa soạn gì trước khi chụp QTV không?
Không nên làm QTV một tuần trước khi có kinh; không nên thoa phấn, kem trên da để hình X quang khỏi bị lu mờ.
10-Chụp QTV được thực hiện ra sao?
- Phương thức này rất giản dị. Chuyên viên yêu cầu quý tỷ muội áp nhũ hoa vào giữa hai tấm chắn của máy quang tuyến để hình được rõ ràng. Quý vĩ sẽ cảm thấy hơi khó chịu một chút nhưng thời gian chup không quá một phút là xong.
Khi chụp QTV mà có dấu hiệu bất thường thì phải làm gì?
Bác sĩ có thể làm siêu âm, chụp cắt lớp, sinh thiết tế bào vú để xác định bệnh.
11- Thế còn tự khám vú thì sao?
Các chuyên nhà chuyên môn về ung thư đều khuyên quý bà nên tự khám nhũ hoa đều đặn để phát hiện bất thường trên vú. Theo thống kê, 75% trường hợp ung thư vú được quý bà tự tìm ra, vì họ hiểu rõ tường tận về cơ quan này hơn ai khác. Họ dễ dàng phát hiện những thay đổi trên cặp nhũ hoa của họ: một vài cục nhỏ, một thay đổi méo mó của vú, một nhăn nheo của làn da hoặc tiết dịch từ núm vú. Ðây là phương thức mà mọi người có thể làm được, vừa không tốn tiền, sẵn sàng có và chỉ mất có dăm phút mỗi tháng. Tự khám nhũ hoa mỗi tháng là điều nên làm để phát hiện các cục nhỏ nằm trong vú.
Chọn một ngày nhất định nào đó trong tháng để tự khám. Nếu còn kinh nguyệt thì vài ngày sau khi hết thấy kinh, vì nhũ hoa lúc này sẽ không căng phồng. Nếu đã vào thời kỳ mãn kinh thì ngày nào khám cũng được, nhưng nên làm cùng ngày mỗi tháng đễ khỏi quên.
Dụng cụ khám rất giản dị: đôi mắt ngọc ngà, hai bàn tay vàng của mình và một tấm gương trong sáng.
Trước hết, ta đứng ngay thẳng trước gương với nụ cười hiền hòa thư dãn, hai tay buông thõng thoải mái. Quan sát nhũ hoa coi có gì bất thường. Chẳng hạn da nhăn co, méo mó, sưng đỏ; núm vú lẹm vô, rỉ chất lỏng.
Rồi quan sát nhũ hoa khi chống hai tay lên hông, úp hai bàn tay sau đầu.
Tiếp theo là thoa nắn. Để động tác này dễ dàng, ta nên tắm qua với một chút xà bông cho da chơn mềm.
Đặt bàn tay phải sau gáy, sờ nắn nhũ hoa phải với bàn tay trái. Hãy tưởng tượng nhũ hoa là mặt chiếc đồng hồ. Với đầu ngón tay khép chặt, bàn tay úp đặt trên vú ở 12 giờ, đưa các ngón tay từ từ xuống một giờ, hai giờ, sáu giờ rồi lần lần trở lại 12 giờ. Sờ nắn coi có u cục cứng nhỏ không đau phục kích đâu đó trong nhũ hoa.
Rồi chuyển hai ngón chỏ và cái ngón tay vào núm vú, nhắc lại động tác trên để sờ nắm núm, coi rắn mềm, co rút ra sao, có chẩy nước hoặc máu hay không.
Sau hết là chuyển các ngón tay ra xa hơn, tới nách để khám vì nơi đây cũng có tế bào vú.
Nhắc lại cùng động tác với vú bên trái.
Để hoàn tất, ta nằm ngửa ngay thẳng, rồi khám từng bên vú và núm vú. Muốn dễ dàng cho việc khám, lót cái gối nhỏ dưới vai, và bàn tay dưới đầu, mỗi khi khám vú trái hoặc vú phải.
Thế là hoàn tất việc tìm kiếm những bất thường của cặp nhũ hoa thân yêu.
Nếu cặp nhũ hoa bình thường như tháng trước thì ta yên tâm, khoe với chồng rồi ăn mừng. Nếu thấy vài cục nho nhỏ đâu đó thì cho thầy thuốc hay ngay. Các cục này thường xuất hiện nhiều hơn ở góc trên phía ngoài của vú. Cũng may là 75% các cục này lành tính, điều trị dễ dàng.
Ðồng thời cũng nên xin chuyên viên y tế khám nhũ hoa mình hàng năm. Vì với chuyên môn kinh nghiệm, bàn tay của họ đôi khi cũng điêu luyện hơn mình trong việc tìm kiếm u cục bất thường.
13- Khi đã xác định ung thư thì việc điều trị ra sao?
Có nhiều phương thức điều trị như xạ trị, hóa trị, miễn nhiễm, giai phẫu hoặc phối hợp các phương pháp kể trên
Đa số trường hợp ung thư vú đều được chữa bằng giải phẫu. Tùy theo giai đoạn ung thư, có di căn không, mà người bệnh được chữa thêm bằng hóa chất, phóng xạ, kích thích tố...Phóng xạ hóa chất có thể gây ra một số tác dụng phụ không muốn mà đa số bệnh nhân rất lo ngại.
Giải phẫu có thể là mổ lấy cục ung thư với một số tế bào lân cận rồi được chữa thêm bằng phóng xạ; hoặc cắt một phần vú rồi phóng xạ; lấy cả vú; cắt bỏ vú với hạch ở gần; cắt bỏ vú, các hạch lân cận và cơ thịt trên ngực.
Ngoài ra cũng nên nói qua tới các phương thức trị liệu không chính thống mà nhiều giới tây y cho là không căn bản khoa học, vô hiệu, hoang đường. Nhưng rất đông người bệnh vẫn theo dùng. Có bệnh thì vái tứ phương mà. Ðó là điều trị bằng cây con thiên nhiên, thoa bóp, phản xạ, châm cứu, thư giãn cơ thể vv...Dù không hữu hiệu trông thấy nhưng các phương thức này cũng hỗ trợ tinh thần, giúp người bệnh mau lành hơn Tuy nhiên trước khi dùng nên tìm hiểu rõ ràng công dụng cũng như ảnh hưởng không hay. Nếu không gây ra nguy hại thì dùng cũng chẳng sao. Và có lẽ nên dùng song hành, phụ thêm vào với các phương pháp thực nghiệm đã có chứng minh giá trị trừ bệnh, sau khi hội ý với bác sĩ đang chăm sóc. Ðể tránh tương tác không tốt giữa hai ba phương thức khác nhau.
Vài hàng tâm sự Trong ung thư nhũ hoa có vài điều mà quý tỷ muội hằng ưu tư suy nghĩ.
a-Thứ nhất là tôi sẽ đau đớn chết lần mòn với tàn phá của ung thư, với tác dụng phụ ghê gớm của thuốc men trị liệu hay sao?
Xin quý tỷ muội hãy bình tâm khi thấy có dấu hiệu ung thư vì khám phá ra sớm có rất nhiều hy vọng chữa lành. Y khoa học ngày nay tiến bộ lắm. Cái đáng ngại là thấy một bất thường trên nhũ hoa mà mũ ni che tai, làm lơ chẳng chịu tiếp tục xét nghiệm, chẳng chịu gặp nhà chuyên môn để tham khảo ý kiến rồi điều trị ngay. Còn tác dụng phụ thì có đấy, nhưng dưới sự hướng dẫn khôn khéo kinh nghiệm của bác sĩ, rủi do cũng giảm bớt. Vả lại "thuốc đắng dã tật" mà.
b-Không còn nhũ hoa thì thân hình tôi đâu còn cân đối, hấp dẫn như xưa.
Quý tỷ muội chẳng phải e ngại ở điểm này. Phẫu thuật thẩm mỹ ngày nay "hiện đại" lắm. Ngay sau giải phẫu, các bàn tay chuyên môn có thể tái tạo tức thì cho quý tỷ muội một cặp nhũ hoa to đẹp hơn trước rất nhiều. Hoặc vì lý do nào đó không đền bù phần đã mất đi thì quý tỷ muội cũng có thể mang những nhũ hoa nhân tạo bằng vật liệu mềm đẹp chẳng kém gì quà tặng của bà mụ.
c-Sau khi chữa ung thư tôi có con được không?
Theo nhiều nghiên cứu, vài năm sau khi giải phẫu mà không có dấu hiệu ung thư tái phát thì có thể có con với rất ít rủi ro.Nhưng có ung thư mà mang thai thì sợ rằng kích thích tố sẽ khiến tế bào bất thường tăng sinh mạnh hơn.
d-Tôi nghe nói là trị liệu các loại làm người tôi trở nên khô khan, giảm ước muốn tình dục, giao hợp khó khăn.Như vậy thì đời sống sinh lý của tôi sẽ ra sao?
Về điểm này thì tùy tâm trạng, quan niệm của mỗi cặp vợ chồng, người yêu. Nhũ hoa chỉ là một trong nhiều yếu tố để có thỏa mãn tình dục. Nếu thương yêu nhau thật tình thì còn nhiều cách khác để làm nhau vui, xá chi bộ ngực còn hay mất, lớn hay nhỏ. Nếu tỷ muội mặc cảm, sợ người yêu ruồng bỏ lơ là, nếu tỷ muội thấy xấu hổ khi lộ sẹo giải phẫu cho người yêu thấy thì ước tình của quý tỷ muội có thể nguội lạnh dần dần rồi ra đi vĩnh viễn. Rồi liệu người yêu có cảm thấy bối rối trước thân hình đổi thay của đối tượng, nếu khơi động thì có bị coi là chỉ nghĩ tới thỏa mãn cá nhân mà không thấy nỗi đau của người khác; nếu kiềm chế thì lại bảo tôi xấu rồi, bỏ rơi tôi. Thành ra đôi bên cần có sự cảm thông, khích lệ lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Có khi tình yêu, tình dục lại đậm đà hơn trước vì hai người vượt qua được căng thẳng hay dở của nhau.
Ngoài ra, sau những ngày tháng điều trị, giải phẫu, nhiều người cảm thấy mệt mỏi suy nhược và đều tự hỏi bao giờ có thể trở lại với công việc hàng ngày cũng như ăn uống, tập luyện cơ thể ra sao.
Giải phẫu u bướu trên vú thường cũng lấy đi những hạch ở nách. Bắp thịt và mô bào ở ngực, vai, cánh tay đều chịu ảnh hưởng như sưng, co cứng khiến cho các động tác chải tóc, cài cúc áo, đánh răng, là ủi quần áo khó khăn hơn. Quý tỷ muội nên tham khảo ý kiến các chuyên viên vật lý trị liệu, học hỏi cách thức tập luyện để phục hồi cử động của tay. Tránh cầm hoặc mang túi nặng trên vai phía ngực giải phẫu. Vận động cơ thể dần dần tùy theo sức khỏe cho phép. Ăn uống cân bằng, đầy đủ chất dinh dưỡng, bớt chất béo, nhiều rau trái cây.
Kết luận. Chẳng may bị ung thư vú là một bất hạnh nhưng không phải là một bản án tử hình khó tránh. Mặc dù bệnh có thể gây tử vong cho một số người hoặc đưa đến những xúc động tâm lý xã hội xâu đậm, ảnh hưởng tới vai trò của người phụ nữ, nhưng Ung thư có thể trị dứt nếu khám phá ra sớm. Rất nhiều tỷ muội bị ung thư được điều trị tức thì đều vui sống yêu đời cả mấy chục năm với chồng con mà không bị tái phát. Cho nên tích cực trong đời sống hàng ngày, hiểu biết về các bệnh để phòng ngừa, áp dụng vài phương pháp tự khám, xét nghiệm là quý tỷ muội đã tránh được nguy cơ nan bệnh. Các cụ ta vẫn nói "Phòng bệnh hơn chữa bệnh" là vậy.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:27:09 GMT 9
Khắc phục chứng ợ chua
da dayTrong hoặc sau bữa cơm, bạn chưa kịp tận hưởng sự khoan khoái do các món ăn ngon đem lại thì đã phải nhăn mặt vì cảm giác đau rát như lửa đốt ở ngực và vị chua trong miệng. Đó là chứng ợ chua do bệnh trào ngược axit ở cuống thực quản gây nên.
Cảm giác đau và chua là do một dung dịch axit nhẹ trong dạ dày gây nên. Axit này có tác dụng giúp tiêu hoá thức ăn và tiêu diệt một số vi trùng lẫn lộn trong thực phẩm. Nó không làm tổn thương dạ dày vì bộ phận này có lớp màng ở mặt trong. Bình thường thức ăn cũng như axit được giữ trong dạ dày, không dội ngược lên nhờ chiếc van nằm ở cuối thực quản. Nhiều lúc chiếc van đó thư giãn hơi lâu khi ta nuốt thức ăn, chất chua lợi dụng cơ hội cửa mở, trào ngược lên thực quản.
- Có vài mẹo vặt mà ta có thể áp dụng để tránh ợ chua:
- Không đi nằm ngay sau khi ăn no mà nên chờ ít nhất 2 giờ.
- Khi nằm nên gối đầu hơi cao hoặc nằm nghiêng phía bên trái.
- Tránh ăn quá no một lần mà ăn nhiều bữa nhẹ, bớt ăn đồ nhiều mỡ và chất béo.
Thuốc làm bớt ợ chua:
- Thuốc trung hòa axit trong dạ dày (do chứa các chất nhôm, canxi, magiê, natri), làm bớt ợ chua, có tác dụng nhanh chóng nhưng công hiệu chỉ kéo dài vài giờ. Nên uống thuốc sau khi ăn vì nếu uống trước bữa ăn, thuốc sẽ bị thải khỏi dạ dày rất nhanh. Nếu dùng lâu có thể gây táo bón hoặc tiêu chảy.
- Thuốc chống sự tiết axit trong dạ dày (như tagamet, zantac, pepcid...). Tác dụng của thuốc bắt đầu độ nửa giờ sau khi uống và kéo dài 3-4 giờ, có thể làm bớt hay trị ợ chua. Nên uống trước khi ăn khoảng 1 giờ. Các loại thuốc này đắt tiền hơn thuốc trung hoà axit.
Những người bị bệnh ợ chua nặng thường phải uống thuốc hằng ngày, suốt đời. Để tránh sự bất tiện này, có thể dùng phương pháp giải phẫu. Các bác sĩ sẽ nâng phần trên của dạ dày lên, bao quanh cuống thực quản đủ chặt để có thể ngăn sự trào ngược axit.
Nếu bị chứng trào ngược axit kinh niên thì bạn phải tham khảo ý kiến bác sĩ ngay vì hiện tượng ợ chua mỗi ngày có thể là dấu hiệu của các bệnh khác trầm trọng hơn.
BS Nguyễn Ý Đức, SK&ĐS
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:29:58 GMT 9
Bệnh VẨY NẾN (Psoriasis)psoriasis_diffusa_mann_smallĐây là một bệnh ngoài da mãn tính, hay tái phát. Bệnh có những vẩy mầu bạc hồng ngứa, khô, rất gọn to nhỏ khác nhau trên khuỷu tay, cánh tay trước, đầu gối, chân, da đầu và các bộ phận khác trong cơ thể. Bệnh nặng nhẹ tùy theo số vết thương trên da có một vài cái hoặc lan rộng khắp cơ thể. Nguyên nhân gây ra bệnh chưa được biết rõ. Người da trắng thường mắc bệnh hơn người da mầu. Bệnh có ở bất cứ tuổi nào, nhưng thường là từ tuổi lên hai tới tuổi 40. Nhiều khi bệnh có trong nhiều người ở một gia đình. Ngoại trừ khi bệnh xâm nhập xương khớp hoặc nhiễm độc, chứ bệnh vẩy nến thường không gây ra ảnh hưởng xấu cho sức khỏe tổng quát, hoặc nếu có chỉ một chút ảnh hưởng tâm lý, buồn phiền vì da chẳng giống ai. Triệu chứng. Bệnh thường xuất hiện từ từ. Tiêu biểu nhất là khi bệnh xuất hiện một thời gian rồi thuyên giảm, sau đó tái phát. đặc biệt khi có chấn thương da, cháy nắng, viêm siêu, dị ứng thuốc . Bệnh đặc biệt có trên da đầu, sau vành tai, khuỷu tay, đầu gối, hông, vùng cơ quan sinh dục. Móng tay, lông mày, rốn, hậu môn cũng thường bị bệnh. Đôi khi bệnh lan khắp cơ thể. Vết da đặc biệt nhất thường có cạnh rất rõ rệt, rất ngứa, hình bầu dục hoặc tròn với mầu hồng phù trên với các vẩy mầu bạc , dầy, đục. Đặc biệt là khi vết thương lành, nó không để lại sẹo và ở trên đầu, tóc vẫn mọc như thườn. Trong 60% các trường hợp, móng tay móng chân cũng bị bệnh: móng chẻ, mất mầu dầy cộm nom như bị bệnh nấm. Bệnh chẩn đoán dễ dàng nhờ các đặc tính của vết đau trên da cũng như làm sinh thiết tế bào da. Tiên lượng bệnh tùy thuộc tầm mức lớn nhỏ của vẩy nến trên da và bệnh càng trầm trọng nếu càng xẩy ra ở tuổi còn nhỏ. Diều trị: Hiện nay không có trị liệu nào dứt được bệnh vẩy nến, mà chỉ làm dịu tạm thời. Phương thức trị liệu giản dị nhất là các loại thuốc nước hoạc pommade bôi trên da gồm chất nhờn mềm da, loại steroids, sinh tố D. Phơi nắng nhẹ cũng giúp phần nào nhưng đừng để cháy nắng. Một vài loại thuốc uống như Methotrexate, cyclosporine, cũng được nhiều bác sĩ cho dùng nhưng cần theo dõi kỹ vì tác dụng phụ. Thuốc nhờn như: dầu ăn, white petrolatum, salicyclic acid, crude oil tar, anthracin, thuốc bôi có steroid. Vẩy nến trên da đầu thường khó chữa . Tia tử ngoại cũng được nhiều bác sĩ dùng cho trường hợp vẩy nến lan rộng khắp cơ thể. BS Nguyen Y Duc
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:31:15 GMT 9
Bệnh ung thư vú BS Nguyen Y Duc
1-Có phải ung thư nhũ hoa là loại ung thư thường thấy nhất ở phụ nữ? Thống kê cho hay ung thư nhũ hoa là một trong những ung thư thường thấy nhất ở nữ giới. Đây là ung thư gây tử vong hạng nhì sau ung thư phổi. 2-Như vậy thì đàn ông có bị ung thư vú không? Ung thư vú ở đàn ông rất hiếm nhưng vẫn xẩy ra.. Bên Mỹ, có khoảng 1450 trường hợp ung thư vú mới được khám phá mỗi năm với khoảng 450 người sẽ thiệt mạng. 3-Xin cho biết những rủi ro đưa đến ung thư vú? Có nhiều nguy cơ khác nhau , nhưng rủi ro thường nhất, sau phái tính, là tuổi tác. Rủi ro tăng theo tuổi. Tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên là 77% và hầu như quá nửa người bị ung thư vú đều ở tuổi trên 65. 4-Các nguy cơ khác là gì? a-về di truyền: nếu mẹ hoặc chị của bạn gái bị ung thư vú thì bạn có nhiều nguy cơ hơn, nhất là trước ki mãn kinh. b-Có kinh nguyệt trước tuổi 12; chưa bao giờ có con hoặc có con sau tuổi 30; c- Đã điều trị các ung thư khác bàng phóng xạ hoặc đã dùng các kích tồ một thời gian khá lâu; d-Mập phì ; uống nhiều rượu, ăn thực phẩm có nhiều chất béo, ít ăn rau trái; e-Tiếp xúc với hóa chất diệt sâu bọ; g-Không vận động cơ thể; 5-Vậy bây giờ phải làm gì để giảm thiểu các nguy cơ vừa kể? Chúng ta không thay đổi được các rủi ro do di truyền hoặc gia đình, nhưng ta có thể thay đổi được nếp sống để giảm nguy cơ ung thư vú. Như là: a-Ngưng thuốc lá; b-Vận động cơ thể nhiều lần mỗi tuần; c-Không uống rượu quá 2 drinks mỗi ngày; d-Giới hạn thịt đỏ và các mỡ động vật vì chúng có thể chứa nhiều kích thích tố và thuốc trừ sâu bọ; e-Giảm ký nếu quá mập. 6-Xin kể các triệu chứng bệnh. Ung thư vú có thể có một số dấu hiệu như: thay đổi cấu trúc vú với u cục, sưng, da dầy lên, núm vú lẹm vào, da trên vú nhăn nhúm, có vẩy, lở loét, đau, núm vú chẩy nước. Khi chụp mammogram, sẽ thấy hình dạng của vú trở nên không đều. Khi khám ngực thì thấy có u cục, hạch nổi lên ở nách, cổ vì ung thư lan ra. 7- Mammogram là gì và công dụng ra sao? Mammogram là chụp X quang vú với phóng xạ rất thấp để tìm ra những thay đổi trong cấu trúc của vú mà khám tay không thấy được. Mammogram giúp ích khá nhiều nhưng cũng chỉ phát hiện ra khoảng 80-90% ung thư vú mà thôi. 8-Khi nào thì phụ nữ phải làm mammogram? Thường thường phụ nữ khỏe mạnh ngoài 30 tuổi cần làm mammogram mỗi năm một lần. Nếu có vấn đề sức khỏe nào đó thì cần thảo luận với bác sĩ để coi xem có cần làm các phương thức tìm kiếm nào khác không. 9-Chúng tôi có phải sửa soạn gì trước khi làm mammogram không? Khi quý bà có cặp nhũ hoa mẫn cảm và đang có kinh thì không nên làm mammogram một tuần trước khi có kinh; không nên thoa phấn, kem trên da để hình x quang khỏi bị lu mờ. 10-Khi chụp mammogram mà có dấu hiệu bất thường thì phải làm gì? Bác sĩ có thể làm siêu âm, chụp cắt lớp, sinh thiết tế bào vú. 11-Ngoài mamogram, còn phương thức tìm bệnh nào khác không? Còn siêu âm, chụp hình ngực cắt lớp. 12- Thế còn tự khám vú thì sao? Các chuyên gia ung thư đều khuyên quý bà nên tự khám nhũ hoa đều đặn để phát hiện bất thường trên vú. Khi thấy những dấu hiệu bất thương như đã kể ở trên thì cho bác sĩ hay ngay để theo dõi. 13- Khi đã xác định ung thư thì việc điều trị ra sao? Đa số trường hợp ung thư vú đều được chữa bằng giải phẫu. Tùy theo giai đoạn ung thư, có lan tràn không, mà người bệnh được chữa thêm bằng hóa chất, phóng xạ, kích thích tố... Giải phẫu có thể là mổ lấy cục ung thư với một số tế bào lân cận. Rồi được chữa thêm bằng phóng xạ ; cắt một phần vú rồi phóng xạ; lấy cả vú; cắt bỏ vú với hạch ở gần; cắt bỏ vú, các hạch lân cận và cơ thịt trên ngực.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:32:08 GMT 9
Bệnh tiểu đường và chăm sóc bàn chân
1-Bằng cách nào mà bệnh Tiểu Đường lại gây tổn thương cho cơ thể tôi được nhỉ? Trong bệnh tiểu đường, lượng đường trong máu lên cao hơn mức bình thường. Với thời gian, đường dư thừa sẽ tác dụng và gây tổn thương vào dây thần kinh, mạch máu. Khi dây thần kinh bị hư hao thì nơi đó sẽ tê dại hoặc có cảm giác đau cháy. Còn tổn thương động mạch hoặc tĩnh mạch thì nơi đó sẽ thiếu máu và chất dinh dưỡng. 2- Tại sao tôi phải lưu tâm tới bàn chân? Trong bệnh tiểu đường, bàn chân là nơi rất thường xẩy ra tổn thương. Vì dây thần kinh hư, ta sẽ không thấy cảm giác đau nên một vết cắt, một mụn nước xẩy ra mà ta không biết. Mà khi vết thương nhỏ này không được chăm sóc chu đáo thì nó sẽ thành nhiễm vi khuẩn, sinh ra tổn thương nặng hơn với vết lở loét. Thế là ta phải đi nhà thương để điều trị. Đôi khi nhiễm quá nặng, ngón chân thành khô cứng, hoại thư, bác sĩ phải cắt ngón chân đó đi. 3- Sợ quá nhỉ! vậy làm sao tôi tránh được hậu quả hiểm nguy này? Trước hết là ta phải duy trì đường trong máu ở mức bình thường bằng các phương thức mà bác sĩ sắp đặt cho ta. Đó là ăn uống đúng cách, vận động cơ thể đều đặn và uống thuốc theo lời dặn của bác sĩ. Rồi phải để ý chăm sóc bàn chân: a-Mỗi ngày rửa chân với nước ấm và sà bông; b- Lau khô bàn chân, nhất là các khe ngón chân. Dùng khăn mềm và đừng chà xát quá mạnh; c-Giữ da chân mềm bằng loại kem vaseline; d-Trước khi đi tất, rắc bột để bàn chân không bị ẩm; e-Mỗi ngày đều tự khám bàn chân coi có gì bất thường như vế thương trầy da...Nếu có dấu hiệu đau, sưng đỏ trên da thì phải cho bác sĩ hay ngay để được điều trị; g-Nếu ở bàn chân có vết chai cứng, mụn cóc thì nên đến bác sĩ khám chứ không tự cắt bỏ; h-Cắt móng chân bằng thẳng để tránh bị viêm độc góc móng chân. Trước khi cắt, nên ngâm chân trong nước ấm cho móng mềm, dễ cắt; i-Đừng để chân bị nóng quá hoặc lạnh quá; k- Đừng đi chân đất, dù ở trong nhà, tránh dẵm vào vật sắc bén; 4- Còn về dầy, vớ thì sao? Không nên đi giầy mà không mang tất để tránh cọ sát da-giầy gây tổn thương; không nên đi dép mũi hở, giầy cao gót, giầy có mũi nhọn hẹp . Không mang giầy quá chật để tránh cọ sát, trầy da; Mua giầy vào buổi chiều, khi chân hơi to hơn buổi sáng, như vậy giầy sẽ thoải mái hơn trong suốt ngày; Nên đi giầy mới vài giờ mỗi ngày cho da giầy mềm; Nên có hai đôi giầy để thay phiên mang trong ngày; Nhìn xem trong giầy có hạt sạn hoặc vật lạ thì vứt bỏ, tránh gây tổn thương cho chân; Tránh tất bằng nylom, tất quá co dãn, có vòng cao su ở trên ngăn cản máu lưu thông; Thay tất ngày hai lần để tránh hấp hơi.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:44:57 GMT 9
Cắt bao quy đầu, nên hay không nên?
Trong đạo Do Thái, các bé trai sơ sinh được cắt da quy đầu trong một lễ nghi cầu nguyện rất trang trọng. Hành động này được xem là sự thỏa hiệp giữa người nam đó với Thượng đế. Tuy nhiên, các bác sĩ lại cho rằng việc cắt bao quy đầu là không cần thiết đối với đa số bé trai.
Bao da quy đầu là một cấu trúc bọc bên ngoài cơ quan sinh dục nam. Đây là nếp gấp da trên phần cuối dương vật. Mặt trong lớp da này có những tuyến tiết ra chất nhờn mà khi tích tụ sẽ tạo ra một lớp bựa.
Một số nơi có phong tục circumcision (cắt bỏ lớp da quy đầu khiến cho đầu dương vật lộ ra) vì lý do tôn giáo hoặc vệ sinh (để cơ quan sinh dục được sạch sẽ, tránh bị hẹp bao quy đầu). Phẫu thuật này được thực hiện thường quy ở Mỹ từ năm 1940, nhưng ngày nay đã giảm đi vì quan niệm mới cho là không cần thiết. Hơn nữa, việc phẫu thuật nhiều khi gây đau đớn cho em bé, làm chảy máu, sưng nơi vết mổ cả mấy ngày. Nhiều người muốn giữ lại da quy đầu để đầu dương vật khỏi bị cọ xát, giữ độ nhạy cảm của nó.
Năm 1991, Hiệp hội các bác sĩ nhi Mỹ đã đồng ý rằng thường quy cắt bao quy đầu ở trẻ sơ sinh là không cần thiết vì không đem lại lợi ích y khoa quan trọng nào. Họ để các bậc cha mẹ tùy ý quyết định cắt hay không cắt cho con.
Những bác sĩ theo quan điểm giữ da quy đầu giải thích rằng, việc cắt bỏ sẽ dẫn đến một số vấn đề như đầu dương vật và âm thần mất sự che chở nên dễ nhiễm trùng, miệng ống tiểu dễ bị chít hẹp. Cắt da quy đầu cũng có nghĩa là cắt bỏ một số cơ thịt và dây thần kinh; vì vậy, dương vật thường ở vị thế nằm rũ khi không cương. Khoái cảm trong quan hệ tình dục cũng giảm bớt. Theo họ, chỉ nên cắt da quy đầu khi có vấn đề sức khỏe do nó gây ra, và khi người cắt tự nguyện.
Về phương diện thỏa mãn sinh lý, theo tạp chí British Journal of Urology số tháng 1/1999, phụ nữ thích giao hợp với nam giới còn nguyên bao quy đầu hơn là đã cắt. Lý do nêu ra là da quy đầu đem lại cho họ nhiều khoái cảm hơn, nam giới chậm xuất tinh, động tác của người nam nhẹ nhàng, bớt cọ sát và do đó nữ giới tiết nhiều âm dịch hơn.
Benjamen Spock, một người luôn chủ trương cắt da quy đầu cũng đã thay đổi ý kiến. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1989, ông cho biết mục đích của việc cắt da quy đầu vì lý do vệ sinh cơ quan sinh dục cũng giống như cắt mí mắt (với hy vọng mắt sạch hơn).
Nếu các bậc cha mẹ vẫn muốn con mình thực hiện phẫu thuật này, nên lưu ý:
- Yêu cầu em bé được cho thuốc giảm đau trước khi giải phẫu.
- Thay băng nhiều lần trong ngày để tránh nhiễm trùng.
- Vết mổ có thể rỉ máu vài ngày.
- Sau mổ, em bé có thể không tiểu tiện trong vòng 6-8 giờ.
- Cắt da quy đầu là một phẫu thuật đơn giản, có thể thực hiện ngay tại phòng mạch bác sĩ và vết thương sẽ lành sau vài tuần lễ.
Người trưởng thành đôi khi cũng cần cắt da quy đầu. Đó là các trường hợp sau:
- Thường xuyên bị nhiễm trùng cơ quan tiểu tiện, nhất là ở người mắc bệnh tiểu đường, vì đường trong nước tiểu dính dưới da quy đầu sẽ là môi trường thuận lợi cho vi trùng sinh sản.
- Khi da quy đầu quá co chặt gây khó khăn trong quan hệ tình dục.
- Sợ bị ung thư cơ quan sinh dục.
- Muốn mổ vì lý do thẩm mỹ.
BS Nguyễn Ý Đức, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:46:13 GMT 9
Cắt Bao Quy Đầu
Bao da quy đầu là một cấu trúc bọc bên ngoài của cơ quan sinh dục nam và nữ. Đây là nếp gấp da trên phần cuối dương vật và bao quanh âm vật. Mặt trong lớp da này có những tuyến tiết ra dung dịch chất nhờn mà khi tích tụ tạo ra một lớp bựa.
Thủ thuật circumcision là để cắt bỏ lớp da này đi khiến cho đầu dương vật hoặc âm vật lộ ra. Đây là giải phẫu duy nhất được nhắc đến trong Thánh Kinh.
Tại một số quốc gia, có phong tục cắt da quy đầu trẻ em để thích hợp với vài tiêu chuẩn trong xã hội. Thay vì coi da quy đầu như một cấu trúc bình thường thì các phong tục này lại coi da đó như một cái gì nguy hiểm, không tốt, cần cắt bỏ.
Với một vài tôn giáo (như Do Thái giáo), việc giải phẫu cắt bao quy đầu là một nghi thức bắt buộc sau khi bé trai sinh ra.
Người theo đạo Hindus không cắt mà một số theo đạo Muslim lại cắt. Người Ai Cập khi xưa cũng thường áp dụng phong tục này.
1. Những lý do để cắt bao quy đầu:
- Lý do tôn giáo: Trẻ sơ sinh theo Do Thái giáo sẽ được giải phẫu để cắt da quy đầu trong một lễ nghi có cầu nguyện rất trang trọng. Đây là một hành động được coi là có tính cách thỏa hiệp giữa người nam với Thượng Đế.
- Lý do vệ sinh: Cắt da để đầu cơ quan sinh dục được sạch sẽ cũng như tránh lâu lâu bị Hẹp Bao Quy đầu (Phimosis), da sưng không lộn ngược lên được. Có người tin là cắt da quy đầu có thể ngừa nhiễm trùng đường tiểu tiện, làm giảm nguy cơ ung thư dương vật và ung thư tử cung gây ra do chất cặn trắng đóng dưới da quy đầu.
- Cha mẹ thường có thói quen yêu cầu bác sĩ cắt da quy đầu cho con vì mọi người nam trong gia đình đều làm như vậy và vì muốn cho đứa bé không cảm thấy khác người nếu không giải phẫu.
2. Các quan điểm về cắt bao quy đầu
Giải phẫu này được thực hiện thường lệ ở Hoa Kỳ từ năm 1940, nhưng ngày nay giải phẫu giảm đi vì quan niệm của y giới không thuận lợi đối với kết quả của giải phẫu. Hơn nữa, giải phẫu nhiều khi gây đau đớn cho em bé, lại còn làm chẩy máu, sưng nơi vết mổ cả mấy ngày.
Có người lại muốn giữ da để che chở cho đầu dương vật khỏi bị cọ xát, và như vậy sẽ nhậy cảm hơn với kích thích.
Năm 1991, Hiệp Hội Các Bác Sĩ Tiểu Nhi Hoa Kỳ đã đồng ý việc tự động thường lệ cắt bao quy đầu ở trẻ sơ sinh là không cần thiết và không có lợi ích y khoa quan trọng nào. Họ để các bậc cha mẹ tùy ý quyết định cắt hay không cắt.
Quan điểm của y giới muốn giữ da quy đầu giải thích rằng việc cắt bỏ da đưa đến một số vấn đề như đầu dương vật và âm thần mất sự bao che của một lớp tế bào nên dễ nhiễm trùng, miệng ống đái dễ bị chít hẹp.
Khi cắt da quy đầu là đã cắt bỏ một số cơ thịt và dây thần kinh nên dương vật thường ở vị thế nằm rủ khi không cương đồng thời cảm giác bị mất nên khi giao hoan bớt cảm khoái. Theo họ, chỉ cắt da quy đầu khi có vấn đề sức khỏe do da quy dầu gây ra và chỉ nên cắt khi người nam trưởng thành, tự quyết định.
Nhiều người còn cho là cắt bỏ da quy đầu đã đưa tới sự thủ dâm, sự giao hoan hậu môn nhiều hơn. Về phương diện thỏa mãn sinh lý, theo British Journal of Urology số tháng 1, 1999, phụ nữ thích giao hợp với người nam còn nguyên vẹn hơn là cắt. Lý do nêu ra là da quy đầu cho họ nhiều khoái lạc, người nam chậm xuất tinh, động tác làm tình của người nam nhẹ nhàng, bớt cọ sát, và người nữ do đó tiết nhiều âm dịch hơn.
Benjamen Spock, người luôn luôn chủ trương cắt da quy đầu, cũng đổi ý. Trong một phỏng vấn vào năm 1989, ông ta nói cắt da quy đầu vì lý do vệ sinh cơ quan sinh dục thì có khác gì cắt mí mắt với hy vọng mắt sạch hơn.
Hiện nay hầu như chỉ có Hoa Kỳ là quốc gia kỹ nghệ còn áp dụng việc cắt da quy đầu và thường được thực hiện ở thôn quê nhiều hơn là ở thành thị.
3. Quyết định cắt bao quy đầu.
Nếu các bậc cha mẹ vẫn muốn con mình có giải phẫu này thì xin lưu ý mấy đều sau:
- Yêu cầu em bé được cho thuốc giảm đau trước khi giải phẫu;
- Thay băng nhiều lần trong ngày để tránh nhiễm trùng;
- Vết mổ có thể rỉ máu vài ngày;
- Sau giải phẫu, em bé có thể không tiểu tiện trong vòng từ 6-8 giờ.
- Cắt da quy đầu là một giải phẫu giản dị có thể thực hiện ngay tại phòng mạch bác sĩ và vết thương lành sau dăm tuần lễ.
Khi không giải phẫu thì ta nên hỏi bác sĩ cách thức giữ cơ quan sinh dục em bé cho sạch; không nên cố tình kéo để lộn ngược da này. Khi con lớn, nó sẽ học hỏi để tự giữ da sạch sẽ, vệ sinh.
4. Cắt bao quy đầu ở người lớn tuổi.
Người lớn đôi khi cũng cần giải phẫu cắt đa quy đầu trong các trường hợp sau:
- Nếu thường xuyên bị nhiễm trùng cơ quan tiểu tiện, nhất là người mắc bệnh tiểu đường, đường trong nước tiểu dính dưới da quy đầu là môi trường thuận lợi cho vi trùng sinh sản.
- Khi da quy đầu quá co chặt gây khó khăn trong việc sinh lý.
- Ngại bị ung thư cơ quan sinh dục.
- Hoặc muốn giải phẫu vì lý do thẩm mỹ, gợi tình.
5. Cắt bao quy đầu nữ giới
Về phía nữ giới, dân chúng một vài quốc gia ở Phi Châu, nhất là nước Somalia và một vài bộ lạc ở Á châu, còn giữ phong tục cắt da quy đầu âm vật, tiểu âm thần, thu hẹp cửa mình ở người nữ (female circumcision), ngay cả khi họ định cư trên nước Mỹ.
Họ tin là thủ tục này gìn giữ con người tinh khiết, trong sạch và là một cái đai bảo vệ sự trinh tiết trước khi lập gia đình. Ở Somalia, 95% người nữ đều qua thủ tục này trước khi lên năm tuổi.
Sự cắt bỏ gây đau đớn, băng huyết, nhiễm độc đôi khi chết người, vì được thực hiện bởi người không chuyên môn, không có dụng cụ giải phẫu.
Cơ quan Y Tế Thế Giới đã can thiệp và khuyến cáo chấm dứt sự hành xác người nữ như vậy. Tại nhiều quốc gia Tây phương, nghi thức này bị nghiêm cấm.
BS Nguyen Y Duc
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:47:44 GMT 9
Khập Khiễng Cách Hồi (Clauditation intermittent)
BS Nguyen Y Duc
Thưa cụ Đặng Nguyên Liệu Chị Minh Phượng có chuyển cho chúng tôi những lời cụ trình bày về bệnh tình của cụ. Chúng tôi thấy trong bệnh sử của cụ có những điểm nổi bật như sau:
1-Cụ nói là chỉ bước đi được khoảng 50 bước là phải nghỉ, vì đau nhức ở dưới gối và bàn chân bên phải. Sau khi nghỉ ít phút thì cơn đau hết đi và cụ lại có thể đi bộ tiếp, với cùng một diễn tiến: đi một lúc rồi nghỉ.
2-Bắp chân dưới bên phải nhỏ hơn bên trái 1 cm
3-Siêu âm doppler mầu có xơ mỡ động mạch chi , có atherom đùi trái
Thử nghiệm máu có kết quả tốt. Chất béo bình thường, đường không cao
Với các dấu hiệu đó, chúng tôi cho là cụ bị chứng Khập Khiễng Cách Hồi mà tiếng Anh gọi là Clauditation Intermittent.
Đây là bệnh trong đó bệnh nhân cảm thấy đau nhức, co rút cơ thịt khi vận động và giảm đi khi nghỉ ngơi.
Nguyên nhân là do sự cung cấp máu cho các cơ bắp đó không đầy đủ vì mảng vữa xơ, cục máu hoặc vật nghẽn mạch. Bệnh có thể kinh niên hoặc cấp tính. Các nguy cơ gây bệnh có thể là: cao huyết áp, cao cholesterol LDL, thấp cholesterrol HDL, bệnh tiểu đường, hút thuốc lá, mập phì, hoặc thân nhân có bệnh vữa xơ mạch máu. Bệnh thường xẩy ra ở nam giới nhiều hơn là nữ giới. Bệnh thường thấy ở cơ bắp chân và cẳng chân.
Cơn đau cấp tính thường đột ngột xẩy ra và rất đau đớn, phần dưới của chi lạnh, tê dại và tái nhợt. Mạch tim ở nơi đây không nhận thấy. Khi bệnh chuyển sang mãn tính, kinh niên thì có các dấu hiệu của khập khiễng cách hồi: đau nhức khi bước đi, nhất là khi cố gắng bước đi trên con đường dốc. Cơn đau giảm hẳn sau vài phút nghỉ ngơi. Đó là khi máu trở lại nuôi dưỡng cơ bắp. Khả năng đi xa mà không đau của bệnh nhân rút ngắn lần lần Khi sự thiếu máu kéo dài thời gian, bàn chân trở nên cứng lạnh, tê dại, da khô, đôi khi lở loét nhất là sau khi bị một chấn thương. Bắp thịt teo, như trong trường hợp của cụ. Nhiều người còn rơi vào tình trạng liệt dương, hay đúng hơn là bị loạn cương dương.
Bệnh được chẩn đoán bằng phương pháp siêu âm, ( như cụ đã được làm),rất chính xác và phổ thông . Phương pháp khác là chụp X quang mạch máu, sau khi chích chất cản quang vào động mạch, để ước định mức độ nghẽn tắc của mạch máu đó.
Trường hợp của cụ, chúng tối không biết là cụ có các nguy cơ gây bệnh như chúng tôi vừa kể, như là huyết áp cụ có cao không, có hút thuốc lá không. Nếu biết được các diễm này thì phần góp ý của chúng tôi sẽ hoàn hảo hơn. .
Đường và cholestrtol trong máu cụ bình thường. chúng tôi thắc mắc là có bao giờ đường và chất béo trong máu của cụ có bao giờ cao không? Vì siêu âm cho thấy có mảng vữa xơ ở mạch máu.
Hiện cụ đang dùng các thuốc như cụ kể và tôi đoán là cụ vẫn còn đau, nên mới vấn kế.
Chúng tôi đề nghị với cụ:
Hỏi lại bác sĩ coi có xác định được nguy cơ đã gây ra bệnh không. Xin bác sĩ thay đổi thuốc, nếu xác định được nguy cơ gây bệnh Nếu hút thuốc lá thì nên ngưng ngay Hỏi bác sĩ xem có thể dùng thuốc giãn mạch như loại Pentoxifylline ( 400 mg/tid with meals)X 2 tháng coi xem sao. Tập đi bộ: Đi cho tới khi cảm thấy đau, rồi nghỉ, rồi lại tiếp tục đi> tất cả từ 40 phút tới một giờ mỗi ngày. Mục đích là làm tăng sự tạo ra các mạch máu phụ chung quanh cỗ bị tắc. tất nhiên cụ phải tham khảo ý kiến bác sĩ gia đình trước khi thực hiện cách này, coi xem bệnh tình của cụ có thích nghi với sự tập luyện đó không. Cụ cũng cần để ý tới sự săn sóc bàn chân: Coi xem bàn chân có vết lở loét, nứt nẻ, hoặc chai sẹo.Rửa chân sạch mỗi ngày với nước ấm, xà bông nhẹ, rồi lau khô. Có thể rắc bột để tránh bàn chân bị ẩm. Thay tất mỗi ngày. Tranh dùng tất quá chặt với dâu cao su ở trên. Dầy mền vừa bàn chân, tránh cọ xát, gây trầy da. Móng chân dài cần được cắt ngang bằng, không quá gần sát da. Cũng đề nghị cụ thảo luận với bác sĩ chuyên khoa bên nhà coi xem có thể dùng phương pháp đưa mạng lưới kim loại mà tiếng Anh gọi là stents vào làm thông chỗ mạch máu bị nghẽn. Phương pháp này hiện đang được áp dụng khá phổ thông ở các quốc gia tây phương.
Kính chúc cụ mau lành bệnh để an hưởng tuổi vàng với con, chắu, chắt, ở giữa lòng quê hương thân yêu.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 3:07:39 GMT 9
Vô Minh và Khoa Học Não Bộ. Thái Minh Trung Vô minh là một danh từ phát xuất từ Phật giáo. Dân gian ai đi chùa thì ít ra cũng quen thuộc với khái niệm “tham, sân, si”. Si mê hay vô minh nói lên một tâm trạng thiếu sáng suốt đưa đến những hành động tội lỗi trái luân lý. Khi học đạo, người ta nghĩ rằng vô minh chỉ là một khái niệm có lẽ nghiêng về luân lý (ethics) nhiều hơn là khoa học. Gần đây, khi khoa học và tâm lý học phát triển, người ta mới bắt đầu hiểu rằng vô minh có cơ sở khoa học. Ở loài người, nguồn gốc của vô minh có thể giải thích qua sự phát triển của não bộ. Khi các nhà nhân chủng học (anthropologist) nghiên cứu sự phát triển não bộ của con người qua hàng triệu năm, bằng cách đo xương sọ từ đó suy ra dung tích của não bộ, thì nhận thấy rằng sự khác biệt giữa loài người có văn minh và loài khỉ là ở vỏ não (cortex). Não của loài người có 2 phần, phần nằm trong sâu gọi là hệ thống limbic (limbic system), phần này mọi sinh vật đều có, và phần vỏ não phát triển tột bực ở loài người. Hệ thống limbic là vùng não phát triển rất sớm, nghiêng về tình cảm và bản năng. Nhờ có bản năng nên con người nguyên thủy mới có thể sống sót và truyền giống nòi. Nói một cách khác, khi đứng trước thức ăn mà không thèm ăn, gặp người khác phái mà không có ham muốn tình dục và khi gặp kẻ thù ăn cắp thức ăn và bắt cóc vợ con mà không giận dữ thì loài người sẽ mất sự tồn tại trên thế gian và mất khả năng truyền gene lại cho thế hệ sau. Ở loài khỉ, con khỉ đực nào có nhiều testosterone (kích thích tố nam), chiến đấu chống lại những con khỉ đực khác (sân) thì sẽ có vị trí đầu đàn và có quyền giao hợp với nhiều khỉ cái (tham). Hiểu như thế, tham và sân là bản năng để con người tiền sử sống còn. Ở thế giới động vật bản năng tự nó điều chế. Thức ăn nhiều thì sanh sản nhiều, thức ăn ít thì ham muốn sinh dục ít đi và sinh sản bớt lại. Khi não bộ chưa phát triển và loài người tiền sử sống với sự điều khiển của bản năng thì chiều hướng của bản năng là bảo vệ sự sống còn của giống nòi. Tuy nhiên, trên đà tiến hóa của não bộ thì phần vỏ não (cerebral cortex) phát triển rất nhanh, nhờ đó tạo cơ hội cho sự phát triển của ngôn ngữ và ý thức (awareness). Ý thức được khoa học định nghĩa là sự nhận thức ra cá nhân và cá nhân đó khác biệt với người khác. Khi ta nhìn ta trong gương, ta nhận ra hình ảnh của chính mình, đó là ý thức cá nhân. Hình ảnh của người kế bên không phải là ta. Sự phân biệt so sánh này là nguồn gốc của cái “tôi”. Bản chất của cái tôi là ý muốn khác biệt và hơn trội người khác. Cái tôi gây ra rất nhiều vấn đề chúng ta sẽ đề cập ở phần sau. Cũng vào thời điểm này, những bộ lạc dần dần sống chung thành một xã hội. Nhờ vỏ não phát triển nên con người nguyên thủy có sự sáng tạo quy ước dùng một âm thanh để diễn tả ý nghĩ và tình cảm. Ngôn ngữ là âm thanh, phát ra rồi mất đi. Người ta chế ra chữ viết để lưu truyền ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, chữ viết và đời sống xã hội nên những phát minh mới và hiểu biết mới của một người được nhiều người áp dụng và biến chế tốt hơn. Đây là nền tảng của khoa học. Nhờ có chữ viết nên kiến thức được lưu lại sau khi con người qua đời. Nhờ vậy sự hiểu biết của loài người lưu truyền được và phát triển cực kỳ nhanh. Giả sử ta có một thần đồng sống biệt lập trong rừng thì những phát minh khoa học sẽ không có phương tiện phát triển thành sản phẩm khoa học. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của vỏ não và sản phẩm của nó là ngôn ngữ và khoa học kỹ thuật cũng có những cái hại của nó. Con người không biết tự điều hòa như thiên nhiên. Con người có sự ý thức để hiểu biết thiên nhiên, tuy nhiên sự phát triển vượt bực của ý thức không đi đôi với sự trưởng thành của tình cảm. Từ đó mà những sản phẩm của khoa học kỹ thuật có thể làm đảo lộn cái trật tự quân bình của thiên nhiên. Hồi xưa với cây búa rìu muốn đốn cây thì không đốn được bao nhiêu nên thiên nhiên được bảo tồn. Ngày nay với công cụ tối tân, người ta có thể đốn hết khu rừng trong nháy mắt. Đây mới là cái tham, sân, si mà tôn giáo đề cập đến và con người cần thay đổi. Cái phản ứng phụ của trí khôn là cái ý muốn sở hữu. Con người muốn sở hữu đồng loại và thiên nhiên. Ngay từ thời nguyên thủy, những bộ lạc thắng trận thường bắt những người thua trận làm nô lệ cho mình. Điều này xảy ra cho tới thế kỷ thứ 19 với người da đen làm nô lệ cho chủ đồn điền da trắng. Trong tình yêu ta muốn giữ người ta yêu cho riêng mình. Cha mẹ muốn con cái làm theo ý của mình. Nếu con cái không theo thì đôi khi cha mẹ từ con ra và gán cho con là cái tên hư hỏng. Trong tôn giáo kẻ không cùng tín ngưỡng là kẻ ngoại đạo. Ở thiên nhiên, cái sở hữu quá độ như đốn rừng hay lưới cá một cách cẩu thả ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh hóa. Ngoài ra, con người còn muốn sở hữu năng lượng (đất và nước) của quả địa cầu, chia ranh giới và gây ra tranh chấp. Đối lập và xung đột là sản phẩm của trí khôn và của cái tôi. Khi trí khôn phát triển, con người muốn mình khác với người khác vì đặc tính của trí khôn là sự sáng tạo. Nhưng sự sáng tạo này nằm trong một khuôn khổ cứng rắn. Khi ta gắng một tính từ đúng sai hay xấu tốt lên một người nào đó thì ta mất cái khả năng nhìn sự thật. Ta chỉ thấy trắng hay đen. Ta thương người theo mình (tham) và ghét bỏ người không theo mình (sân). Ta mất cái nhìn trung dung. Mất khả năng nhìn sự thật khách quan và muốn vũ trụ xoay quanh theo ý mình là nguồn gốc của vô minh và cũng là nền tảng của cái tôi. Một người có thể khôn xuất chúng nhưng vẫn có thể bị màng vô minh che đậy tâm trí. Sự nhận thức và bỏ theo quỹ đạo của cái tôi tạo ra vô số mâu thuẫn căng thẳng trong nhiều lãnh vực: gia đình, xã hội, chính trị và tôn giáo. Trong vô minh, con người có thể dùng trí khôn biện hộ cho hành động sai lầm thay vì dùng trí khôn giúp mình thay đổi để đáp ứng hoàn cảnh. Khi chưa được cái mình muốn con người sanh ra lòng tham và khi mất cái mình được thì sân hận. Đọc giả hãy thử phân tích hoàn cảnh này xem sao. Ông A di du lịch và làm quen được với ông B. Hai người nói chuyện trao đổi với nhau vui vẻ. Một ngày nào đó đất nước ông A và ông B trở thành thù nghịch. Hai người bị động viên. Khi khoác áo nhà binh lên người thì 2 người trở thành thù nghịch và sẵn sàng giết nhau mặc dù không có mối hận thù cá nhân riêng biệt. Như thế mới hiểu được cái tai hại khi chúng ta gán cho người khác cái nhãn hiệu mà không hiểu được sự thật. Chuyện như thế xảy ra rất nhiều và thịt rơi, máu đổ cũng vì hiểu lầm. Thời chiến tranh Việt Nam cũng thế, vô số người dân vô tội bị giết chết cũng vì bị gán cái tội theo “Việt cộng” hay theo “Mỹ ngụy”. Không những có những trường hợp thương tâm này ở Việt Nam mà khi ta nhìn lại lịch sử con người ta thấy những trường hợp như vậy xảy ra rất thường xuyên. Khi một chính phủ hay một cơ quan tôn giáo xác nhận một nhóm người khác là “kẻ thù” hay “ngoại đạo” rồi thì sự sát nhân hàng loạt xảy ra rất dễ dàng. Thời Trung cổ có tòa án dị giáo (inquisition tribunal) giết chết hàng loạt người không theo Thiên chúa giáo, rồi đến Thánh chiến (Crusade). Thời thực dân (colonial), người da trắng coi người da đen là dòng giống kém và đến châu Phi bắt cóc họ làm nô lệ cho các đồn điền. Vào đệ nhị thế chiến Hitler ra lệnh giết hàng loạt người Do Thái (holocaust). Gần đây hơn thì chế độ kỳ thị Apartheid ở Nam Phi vẫn không công nhận quyền lợi bình đẳng của người da đen. Sở dĩ vô minh xảy ra vì tư tưởng và trí khôn loài người chưa phát triển để đạt đến khả năng trực nhận thực tế (danh từ Phật giáo gọi là giác ngộ). Sự truyền đạt thông tin của tư tưởng rất hạn chế. Có lẽ vì thế con người thích có một khuôn mẫu hiểu biết có sẵn để nương theo. Ở những xã hội sơ đẳng (lúc đó chưa có những phương tiện truyền thông như TV và radio) thì ca dao tục ngữ là những công thức cho dân gian kém học thức nương nơi đó mà cư xử với nhau cho thích hợp. Ngoài ca dao tục ngữ thì có những chuyện cổ tích để cho người ta noi theo gương tốt. Những phương pháp truyền đạt kiến thức kể trên rất đơn sơ và chỉ thích hợp với một số nhỏ người hạn chế ở địa lý cư ngụ của những người đó. Thí dụ như ca dao về mùa màng ở miền nhiệt đới không thích hợp với dân miền ôn đới. Đọc giả nên phân biệt giữa hiểu biết và diễn đạt hiểu biết. Hiểu biết của ông thầy có thể diễn ra trong nháy mắt nhưng khi người thầy giáo dùng tư tưởng suy nghĩ để giải thích sự hiểu biết đó cho học sinh thì phải mất nhiều thời giờ hơn. Ngoài ra sự truyền đạt hiểu biết qua tư tưởng và lời nói không thể nào trung thực và đạt được 100% dữ kiện chứa trong cái trực hiểu của ông thầy. Tệ hơn đôi khi người nói một đường, kẻ hiểu một ngả. Càng cố chấp trên suy nghĩ thì sự hiểu lầm càng sâu hơn. Nếu người sở hữu kiến thức (trò) áp dụng một cách cứng rắn thì khả năng đáp ứng thực tế của họ càng kém hơn người (thầy) tạo ra kiến thức đó. Vì thế muốn xã hội tiến bộ thì trò phải hơn thầy. Nếu ông thầy sợ học trò hơn mình và không truyền đạt hết kiến thức, và người học trò không hiểu hơn thầy mình thì xã hội sẽ đi lùi. Hiểu như thế tinh thần vô ngã là thái độ cần có để xã hội phát triển. Các mạch thần kinh ở não bộ con người khác với mạch máu. Mạch máu có đường đi nhất định. Những mạch thần kinh có khả năng kết nối với nhau một cách uyển chuyển (plasticity of the nervous system). Những người bị tai biến mạch máu (stroke), mất hết một phần của não bộ nhưng vẫn có thể phục hồi một phần nào chức năng cơ thể vì các tế bào thần kinh ráp nối với nhau tạo ra mạch thần kinh mới để thông qua những tế bào thần kinh bị chết, từ đó bịnh nhân có thể sử dụng trở lại những bắp thịt bị tê liệt. Cũng như thế khi ta không cố chấp thì khả năng kết nối của hệ thống thần kinh ta dồi dào hơn. Khi sự kết nối nhiều thì khả năng hiểu nhiều khía cạnh của một sự kiện tăng theo. Khi chúng ta học hỏi và nhận thức một điều mới lạ thì những tế bào thần kinh sẽ liên kết với nhau nhiều hơn. Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi, chỉ thấy được một phần nhỏ của con voi và tranh chấp cãi lộn với những người khác thấy những phần khác của con voi. Vì thế ở kẻ mê tín dị đoan, não bộ của họ mất sự uyển chuyển kể trên. Chính đây là nền tảng cơ sở khoa học não bộ của vô minh. Cái khó khăn là người vô minh không bao giờ nhận ra tâm trạng đó. Cũng giống như người bị điên (psychosis), cho rằng kẻ khác bất bình thường, còn mình thì hoàn toàn bình thường. Làm sao ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của vô minh khi mà người vô minh không nhận ra họ bị vô minh. Rồi một nhóm người vô minh tranh cãi biện luận với nhau để giành phần đúng về mình. Họ tạo thành nhiều băng đảng chính trị, chủ nghĩa quốc gia hay niềm tin tôn giáo khác nhau. Suy nghĩ càng biệt lập và khác biệt thì lòng tin tưởng lẫn nhau giữa loài người suy giảm trầm trọng và lòng lo sợ, hận thù tăng hơn. Nếu sự lo sợ tăng đến nỗi người ta mất khả năng dùng lý trí để thay đổi nhận thức thì nó trở thành cực đoan và bịnh hoạn (paranoid delusion). Đây là những cách người ta bảo vệ cái chủ nghĩa tư tưởng mà họ cho là đúng. Nói tóm lại trong sự bảo vệ quá đáng đó họ thiếu lòng tin và sự suy nghĩ sáng suốt một cách trầm trọng. Hiểu như vậy thì không có gì lạ khi hai tôn giáo chính của thế giới đề cao lòng tin (Ki tô giáo) và suy nghĩ sáng suốt (Phật giáo). Chúa và Phật có thể được coi là những bậc thánh nhân và cũng là những bác sĩ tâm lý đại tài. Sở dĩ những ấn tượng trên tâm lý của hai đạo này tồn tại đến ngày nay, có lẽ vì các vị thánh nhân này đã thấu hiểu được căn bịnh về tâm lý của loài người và nói trúng tim đen của loài người. Những vị này muốn mở đường hướng dẫn nhân loại- nói theo khoa học não bộ ngày nay- xử dụng não bộ của họ một cách hữu hiệu để tránh loài người dùng trí khôn sáng tạo vũ khí tự tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt quả địa cầu. Khi trị được si mê thì tham và sân tự nó biến đi. Chính vì tham và sân là sự hiểu lầm do si mê gây ra. Có cách nào nhanh nhứt để trị cơn si mê, giấc mộng ngàn đời của nhân loại? Như ta thấy khi nào con người còn có suy nghĩ đúng sai thì lúc đó sự tranh chấp sẽ không dừng. Suy nghĩ có thể vẽ ra ngàn lối khác nhau. Một khi suy nghĩ vẽ ra rồi thì ít khi nó chịu rời bỏ sản phẩm của nó. Con người phải tập vượt qua cái ý nghĩ chấp đúng sai. Con người phải tập lắng nghe chính mình và lắng nghe người khác. Chấp đúng sai là vội khóa mình trong một kết luận nông cạn. Khi còn suy nghĩ đúng sai thì cái suy nghĩ đó sẽ làm nhiễm (contaminate) cảm nhận sự thật. Suy nghĩ là hình bóng chứa dữ kiện của một hiện tượng đã qua. Khi ta giữ cái hình bóng đó trong tâm thì sự đáp ứng tức thời và khả năng nhận ra sự thật bị giảm đi rất nhiều. Thí dụ như ông A vừa mới cãi lộn xong với vợ mình và bực bội lái xe ra khỏi nhà. Trong tâm trí ông còn những suy nghĩ lẩn quẩn về câu chuyện không vui vừa xảy ra. Tâm ông bị phân trí và suýt nữa ông vượt đèn đỏ gây ra tai nạn. Khi vào sở ông nạt nộ với nhân viên trong sở gây ra nhiều căng thẳng. Ở trường hợp trên, ông A vì suy nghĩ về chuyện quá khứ nên mất khả năng nhận ra hiện tại, như đèn đỏ và không đáp ứng với hoàn cảnh hiện tại trong sở (nhân viên không có lỗi lầm mà bị nạt). Ở mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, nếu ta làm chủ được những dòng tư tưởng suy nghĩ hiện ra trong đầu, không dùng những dữ kiện của quá khứ để đối phó với hiện tại hay phỏng đoán tương lai thì khả năng nhận thức tức thời tại thời điểm hiện tại (here and now) sẽ rất nhậy. Phát triển cái nhận thức tức thời không qua suy tư được gọi là thiền. Nghiên cứu cho thấy não bộ con người phản ứng với những hình bóng suy nghĩ dựng ra y như sự thật trước mặt. Rồi như thế chưa đủ, con người cố gắng diễn tả những hình bóng suy nghĩ đó bằng nghệ thuật điện ảnh. Khán giả thật sự vui buồn với cái ảo giác. Nếu ai cũng xem cái thực tế của phim ảnh là những hình bóng màu mè phản chiếu lên màn ảnh thì công nghiệp điện ảnh sẽ bị phá sản từ lâu rồi. Bây giờ độc giả hãy tưởng tượng rằng chỉ có một màn ảnh mà có đến nhiều người muốn đồng lượt chiếu phim của mình lên trên đó. Như thế những hình bóng trên màn ảnh rất rối loạn, chính sự rối loạn đó là vô minh. Ai cũng muốn la lớn là tôi hay, tôi đúng, mọi người nên theo tôi. Không ai nghe ai và không ai chịu khó tìm hiểu người khác. Đó là vô minh. Đây là thảm trạng của xã hội hiện giờ, sự thành công được đo bằng mình trội hơn người khác. Có ai biết tại sao sản phẩm tiện nghi của khoa học càng nhiều, nhưng ngược lại với dự đoán, stress và những bịnh do căng thẳng tinh thần xảy ra nhiều hơn chăng? Bây giờ muốn cho mọi người nhìn thấy ánh sáng thì chúng ta phải tắt hết phim lại. Tắt hết phim lại là để cho tâm tĩnh lặng. Khi tâm tĩnh lặng rồi thì người ta mới có cơ hội cùng nhìn về một hướng và hiểu một chuyện. Nếu tâm loạn động thì chỉ có hai người thôi mà xảy ra biết bao nhiêu chuyện phức tạp. Chỉ có một chuyện mà bị méo mó biến ra mười chuyện khác nhau. Cho nên để tâm tĩnh lặng thì màn vô minh bị mỏng dần và khả năng nhận định sự thật và thông cảm lẫn nhau tăng hơn. Khi vô minh mỏng dần thì tham biến thành trí tuệ thích hiểu biết và sân biến thành sự dũng cảm dám thay đổi tánh tình (tu). Khi vô minh mỏng dần thì não bộ sẽ có khả năng kết nối với những vùng mới lạ. Và từ đó đời sống tâm linh của nhân loại sẽ được phát triển và phong phú hơn. Tâm tĩnh lặng không phải là một cái gì trừu tượng mà hiện nay khoa học có thể dùng điện não đồ EEG để đo được. Khi ta thư giãn để tâm tĩnh lặng thì tần số rung động của não bộ giảm xuống khoảng 8- 10 Hz, tần số này gọi là tần số Alpha. Những nghiên cứu cho thấy não bộ hoạt động hữu hiệu nhứt ở tần số này. Đây cũng là cái tần số của tâm “vô ngã”. Đó là một tâm trạng sáng suốt với ý thức mở rộng để hiểu mình và hiểu người. Khi ta tập tâm tĩnh lặng ở tần số này, để mặt trời ý thức hiện ra thì những tư tưởng mây đen cố chấp của vô minh sẽ ít dần. Chúng ta rất may mắn sống ở thời điểm này. Với những kiến thức mới của khoa học não bộ, cái ranh giới giữa tôn giáo và khoa học sẽ mỏng dần. Hy vọng sẽ có một ngày người ta không còn giết lẫn nhau vì sự khác biệt tín ngưỡng. Ngày đó đa số con người sẽ sống với tần số Alpha và sẽ có tâm trạng “vô ngã”, biết lắng nghe và thông cảm lẫn nhau. Hòa bình thật sự chỉ có thể xây dựng được từ trong tâm mà thôi.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 10, 2010 4:01:18 GMT 9
Các bệnh do 'yêu'
Một người có thể bị bệnh này nhưng không hề biết, vì vậy các cặp bạn tình nên đi xét nghiệm.
Dưới đây là những thông tin chia sẻ của bác sĩ Quỳnh Lê, chuyên gia thuộc Tổ chức phi chính phủ của Mỹ về chăm sóc sức khỏe sinh sản (Pathfinder International) để giúp các bạn trẻ phòng, chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục:
Bệnh lây truyền qua đường tình dục là những bệnh có thể lây từ bạn tình, qua tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo. Một số bệnh phổ biến hoặc được nhiều người biết đến bào gồm HIV, Herpes và lậu. Nhiều bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể lây qua cả đường miệng, hậu môn và âm đạo nếu quan hệ tình dục qua những đường này.
Cách duy nhất có hiệu quả 100% để tránh lây là kiêng "chuyện ấy". Tuy nhiên, bao cao su cũng là một biện pháp rất tốt để bảo vệ khỏi hầu hết các bệnh này. Màng ngăn âm đạo cũng có thể bảo vệ hiệu quả. Các biện pháp tránh thai khác như thuốc, vòng tránh thai không có tác dụng phòng tránh bệnh.
Điều đáng lưu ý là một số người bị bệnh tình dục đang trong giai đoạn ủ bệnh có thể có kết quả xét nghiệm âm tính. Vì thế, đối với những người có hành vi nguy cơ như quan hệ tình dục không an toàn hoặc dùng chung bơm kim tiêm, nếu có xét nghiệm ban đầu âm tính thì nên xét nghiệm lại sau đó ít tuần.
Các loại bệnh lây truyền qua đường tình dục
Có nhiều loại bệnh lây truyền qua đường tình dục. Một số có thể điều trị được (như lậu, giang mai), một số không thể điều trị được và gây chết người (như HIV).
HIV
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người, gọi tắt là HIV là một trong những bệnh lây qua đường tình dục được biết đến nhiều nhất và dĩ nhiên là một trong những bệnh nguy hiểm nhất. HIV tấn công hệ thống miễn dịch của người, làm cho người bị mắc các bệnh nhiễm trùng khác.
Khi hệ thống miễn dịch của người bị phá hủy bởi HIV, người bệnh sẽ bị Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Có thể dùng thuốc để hạn chế sự nhân lên của HIV, tuy nhiên, người bệnh vẫn không tránh khỏi được tử vong về lâu dài.
HIV có thể được truyền qua quan hệ tình dục, tiếp xúc với máu bị nhiễm HIV hay những dịch thể của người có nhiễm HIV khác. HIV cũng có thể được truyền qua những con đường khác như sinh đẻ (mẹ bị nhiễm truyền cho con), hoặc dùng chung bơm kim tiêm.
HIV lần đầu tiên được phát hiện ở những người đồng tính nam, tuy nhiên, đến bây giờ sự lây truyền giữa người đồng giới và khác giới là tương đương. HIV lây qua quan hệ tình dục đường âm đạo hoặc hậu môn dễ dàng hơn lây qua đường miệng.
Dưới đây là một số thực tế về HIV:
- HIV hiện tại không thể chữa khỏi, nhưng có thể dùng thuốc để khống chế.
- Chưa có vắc xin để phòng HIV.
- HIV có thể lây nhiễm cho bất kỳ người nào, không kể chủng tộc, giới tính, tuổi hoặc xu hướng tình dục.
- Cứ một trong 4 người nhiễm HIV không biết là họ bị nhiễm.
- HIV gây ra AIDS.
- Nhiễm HIV không có triệu chứng (dấu hiệu). Không thể nói người nào đang nhiễm HIV nếu chỉ nhìn bề ngoài của họ.
- Có thể lây nhiễm HIV từ các dịch thể của người bị nhiễm. Tình dục không sử dụng biện pháp bảo vệ, dùng chung bơm kim tiêm hoặc các tiếp xúc khác.
- Những người quan hệ tình dục với nhiều người, những người thường xuyên quan hệ tình dục không sử dụng biện pháp bảo vệ có nguy cơ cao bị nhiễm và làm lan tràn HIV.
Nếu bạn nghi ngờ mình có thể đã phơi nhiễm với HIV và nếu bạn không chắc chắn, bạn nên đến bác sĩ để được khám và tư vấn ngay.
Herpes
Virus Herpes (HSV) cũng gây bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất. Giống như HIV, Herpes có thể lây truyền qua đường tình dục, máu và các tiếp xúc với dịch thể của người khác. Nhưng không như HIV, Hespes không gây chết người và không làm suy giảm hệ miễn dịch.
Herpes gây ra những mụn phỏng rộp trong trên da ở những vùng bị nhiễm. Những người bị Herpes có thể lây cho người khác khi những mụn này bị vỡ ra, nhưng cũng có thể lây ngay cả khi những mụn này chưa bị vỡ. Có thể dùng thuốc để điều trị Herpes nhưng không thể chữa khỏi.
11% phụ nữ và 23% đàn ông bị nhiễm HSV-2, là loại Herpes phổ biến gây mụn rộp sinh dục. Có đến 90% người xét nghiệm dương tính với HSV-1, là loại Herpes phổ biến nhất gây mụn rộp ở miệng. Vì Herpes rất phổ biến, hầu hết các bác sĩ không tiến hành xét nghiệm trừ khi bệnh nhân phàn nàn về mụn rộp bị vỡ (để chẩn đoán xác định) hoặc đưa ra đề nghị xét nghiệm.
HPV
HPV cũng là một loại virus. Có nhiều loại HPV. Một số loại gây ra những vết sùi trên bộ phận sinh dục. Một số khác gây ung thư cổ tử cung ở phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ đã quan hệ tình dục nên xét nghiệm Pap Smear (phiến đồ âm đạo) định kỳ để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung.
Trong khi hệ thống miễn dịch của người không bị ảnh hưởng, hiện tại chưa tìm ra cách điều trị HPV. Các bác sĩ có thể loại bỏ các vết sùi nếu chúng gây phiền hà.
Lậu và Chlamydia
Những nhiễm trùng vi khuẩn này lây truyền qua đường tình dục. Chúng cũng có thể gây ra nhiễm trùng ở những vị trí khác như mắt hoặc họng. Cũng như các bệnh nhiễm khuẩn khác, lậu và chlamydia được điều trị bằng kháng sinh.
Hầu hết những người bị nhiễm bệnh này không có triệu chứng, đặc biệt ở phụ nữ. Ở những người có triệu chứng, thì đi tiểu đau là một dấu hiệu phổ biến nhất. Ở phụ nữ, cả lậu và chlamydia đều có thể làm viêm nhiễm dạ con và ống dẫn trứng, gây ra viêm nhiễm tiểu khung. Viên nhiễm tiểu khung có thể dẫn đến vô sinh và tăng nguy cơ chửa ngoài dạ con.
Giang mai
Giang mai cũng là một loại vi khuẩn. Nhiễm giang mai có ba giai đoạn. Ban đầu, người bệnh sẽ có vết loét ở nơi họ bị nhiễm giang mai. Ở giai đoạn tiếp theo, người bị nhiễm có vết ban rất điển hình với đặc điểm rất đặc biệt là xuất hiện đối xứng, tức là nếu nó xuất hiện ở tay phải thì nó cũng xuất hiện ở tay trái. Nếu nó có ở mông phải, thì nó cũng xuất hiện ở mông trái.
Cả vết loét và ban sẽ tự biến mất. Trong khoảng thời gian từ một đến mười năm sau khi bị nhiễm, giang mai cấp ba sẽ bắt đầu xuất hiện. Ở giai đoạn này, các tổn thương giống u, tổn thương về thần kinh hoặc tim mạch sẽ xuất hiện.
Giang mai có thể điều trị bằng kháng sinh.
Rận mu
Rận mu là loại rận sống ở lông mu. Chúng không gây khó chịu nhiều như chấy hoặc ghẻ. Rận mu có thể được truyền trực tiếp bởi tiếp xúc qua da với người bị nhiễm, tiếp xúc với quần áo, giường chiếu... nhưng không thể truyền qua dịch thể hoặc máu.
Việc thảo luận với bạn tình về bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng rất quan trọng.
Nhiều người không biết họ bị nhiễm bệnh và một số biết mình bị nhiễm thì không nói điều đó trước khi quan hệ tình dục. Phụ nữ nên kiên định đề nghị nam giới dùng bao cao su trước khi quan hệ tình dục, và chính họ cũng nên biết cách mang bao cao su cho bạn tình.
Bác sĩ Quỳnh Lê
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 10, 2010 4:06:34 GMT 9
Khám phá bí ẩn quá trình nhuộm tócCác bạn trẻ nhuộm tóc để thể hiện vẻ đẹp và cá tính, tuổi trung niên nhuộm tóc để che đi những dấu vết của thời gian. Nhưng sợi tóc đã biến đổi thế nào trong quá trình nhuộm và những bí mật gì đằng sau một mái tóc nhuộm? Theo tính toán của các nhà khoa học, mỗi người thường xuyên có trên đầu từ 100.000 đến 150.000 sợi tóc. Lẽ tất nhiên đây là những người khỏe mạnh bình thường, không kể những người hói, mắc bệnh rụng tóc, đầu trọc lốc phải mang tóc giả. Về phương diện khoa học, chúng ta có thể biết được những thông tin về tình trạng sức khỏe khi phân tích tóc. Do trong quá trình phát triển của mình, sợi tóc tích lũy lại tất cả những chất do máu và bạch huyết mang đến. Về phương diện thẩm mỹ bí mật từ cấu trúc của sợi tóc là yếu tố tạo nên các công nghệ của màu nhuộm. Hiểu một cách đơn giản, sợi tóc bao gồm hai phần: Phần lõi tóc bao gồm các sợi keratin, nơi tập trung chất dinh dưỡng, nước, các hạt sắc tố melamine… nó quyết định hình dạng tóc là thẳng hoặc xoăn và các sắc tố bên trong phần này quyết định màu của mái tóc. Phần biểu bì bên ngoài được tạo thành từ 6 đến 10 lớp tế bào dài xếp chồng lên nhau. Mỗi tế bào một vẩy biểu bì dày khoảng 0,3 micromet, dài 100 micromet và rộng 10 micromet. Các vẩy biểu bì này nằm dọc trên bề mặt của tóc như hình mái ngói, đầu kia của nó hướng về phía ngọn tóc. Phần này bao bọc toàn bộ sợi tóc. Nhuộm tóc được hiểu là đưa các hạt màu vào phần lõi của sợi tóc đối với việc nhuộm de-mi permanence (bán vĩnh cửu) hoặc permanence (vĩnh cửu), hoặc làm cho các hạt màu bám lên phần biểu bì của tóc đối với việc nhuộm temporary (tạm thời)…. Với cấu trúc của sợi tóc như vậy, việc nhuộm tóc thường gồm ba giai đoạn: mở lớp biểu bì tóc, đưa các hạt màu vào thân tóc và đóng biểu bì tóc để giữ lại các hạt màu. Tuy nhiên biểu bì tóc là một cấu trúc tự nhiên cố định. Khi biểu bì bị kích thích mở ra thì việc đóng lại các biểu bì không được trọn vẹn như trước. Lúc này chất dinh dưỡng, độ ẩm qua các kẽ biểu bì mà thoát ra ngoài, điều này giải thích tại sao càng nhuộm tóc nhiều tóc càng trở nên khô và xơ. Để mở được lớp biểu bì bên ngoài sợi tóc, các hãng mỹ phẩm thường sử dụng các hóa chất mang tính kiềm, phổ biến nhất là ammoniac. Khi lớp này tiếp xúc với kiềm, các biểu bì xếp dạng vảy cá sẽ nở ra và tạo ra các khe hở giúp cho các hạt màu nhân tạo có thể thâm nhập vào bên trong lõi tóc. Sau đó chúng liên hết thành chuỗi và đọng lại trong lõi tóc thành màu mới. Các loại dầu gội sau nhuộm hoặc hấp mang tính axit thường được dùng để đóng các biểu bì lại. Việc sử dụng ammoniac thường gây ra mùi tương đối khó chịu khi nhuộm tóc. Vài năm gần đây, một vài hãng mỹ phẩm đã phát minh ra màu nhuộm không ammoniac, bằng cách sử dụng chất MEA (monoethanolamine một bán hoạt chất dùng phổ biến trong công nghiệp xà phòng, nhuộm công nghiệp và chất diệt tảo…) để tạo môi trường kiềm mở biểu bì tóc thay thế cho ammoniac. MEA không gây ra mùi khó chịu như ammoniac nhưng về tác hại đối với tóc thì vẫn còn đang là vấn đề tranh cãi. Như vậy để thấy rằng, có được một mái tóc màu sợi tóc cần phải trải qua một quá trình đầy phức tạp cùng những nhân tố làm tóc bị tổn thương. Chữa tăng tiết mồ hôi bằng BotoxVới phương pháp này bạn chỉ mất khoảng 20 phút, những liều Botox nhỏ được chích vào vị trí quanh các tuyến mồ hôi (ở nách hoặc bàn tay) tác động làm thư giản, giảm co rút, từ đó sẽ giảm việc tiết mồ hôi. Việc tăng tuyến mồ hôi ở nách hay ở bàn tay tuy không gây nguy hiểm, nhưng tình trạng này làm giảm đi chất lượng cuộc sống, ngại giao tiếp, sống thu mình và thậm chí có nhiều trường hợp bị rơi vào trầm cảm. Để điều trị, có thể phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực bằng nội soi, hoặc phẫu thuật cắt tuyến mồ hôi vùng nách... Nhưng với những người không thích phẫu thuật, có thể dùng một công nghệ khác, đó là việc tiêm chất Botox vào vị trí các tuyến mồ hôi, được thực hiện hiệu quả bởi những bác sĩ có kinh nghiệm. Trong thẩm mỹ, chất này được sử dụng để xóa nhăn, tạo dáng chân mày, làm thon gọn mặt, bắp chân, và kể cả việc làm cân bằng mặt bị liệt một bên… Với cách chữa này, thời gian chỉ khoảng 20 phút, những liều Botox nhỏ được chích vào vị trí quanh các tuyến mồ hôi (ở nách hoặc bàn tay) tác động làm thư giản, giảm co rút, từ đó sẽ giảm việc tiết mồ hôi. Ngay sau chích bệnh nhân có thể trở lại sinh hoạt bình thường. Chữa tăng tiết mồ hôi bằng Botox Chất này sẽ bắt đầu phát huy tác dụng sau chích khoảng 2-3 ngày (có thể giảm tiết mồ hôi, cùng với việc giảm mùi hôi sinh ra đến 90%), và phát huy tối đa tác dụng khoảng sau một tuần. Hiệu quả trị liệu mỗi đợt có thể kéo dài từ 6 đến 9 tháng hoặc có thể lâu hơn, tùy từng trường hợp. Khi mồ hôi tăng dần trở lại sẽ lại chích tiếp. Lưu ý là phương pháp này không chữa được tận gốc căn bệnh này nhưng có khả năng làm giảm cho đến ngưng tiết mồ hôi trong thời gian dài. Hiện nay, công nghệ này được nhiều bác sĩ và bệnh nhân sử dụng, thay vì phải phẫu thuật khá phức tạp, hoặc phải mất nhiều thời gian thường xuyên thoa và uống thuốc… Tẩy lông trước ngày cướiBên cạnh hàng núi công việc phải lo trước ngày cưới, thì nỗi băn khoăn về những sợi lông đen đậm màu có thể phá vỡ đi không khí lãng mãn của đêm tân hôn, trở thành một áp lực lớn đè nặng lên tâm lý của bạn gái. Khi lâm vào cảnh “rậm rạp” này, các bạn gái thường tìm mọi cách để “rũ bỏ” chúng như: dùng dao cạo, bôi kem tẩy… nhưng tất cả giải pháp đều không ăn thua. Hệt như nấm mọc sau mưa, chúng trở nên tươi tốt và rậm rạp hơn. Gần đây, sự xuất hiện công nghệ NewIPL như một giải pháp cứu nguy cho bạn gái trước khi bước vào cuộc sống vợ chồng. Phương pháp triệt lông vĩnh viễn NewIPL sử dụng dải ánh sáng (560nm-1200nm) chiếu thấu qua lớp chân bì và sản sinh ra xung động ánh sáng và bước sóng phù hợp. Hệ thống pha lê quang học của máy sẽ tự động điều chỉnh bước sóng phù hợp với độ dày mỏng của từng vùng lông, vì thế sẽ dẫn truyền năng lượng một cách phù hợp nhất đến nang lông và làm triệt tiêu sợi lông ngay từ mầm nhú, làm cho sợi lông mất khả năng nhận được thức ăn từ nang lông. Vì thế lông mất khả năng mọc lại. Sau một lịch trình kéo dài từ 4 đến 10 lần, 80-90% lượng lông đen và cứng trên cơ thể sẽ được triệt tiêu vĩnh viễn. Còn 10-20% lượng lông mọc lại sẽ trở nên mảnh, ngắn, nhạt màu như một lớp tơ mỏng để bảo vệ da và lỗ chân lông. Điểm hấp dẫn của công nghệ tẩy lông vĩnh viễn NewIPL là khả năng tác động 3 trong một, triệt tiêu được những sợi lông mảnh nhạt màu nhất, thu nhỏ lỗ chân lông vừa xử lý được bệnh viêm nang lông và tẩy thâm rất hiệu quả mà không làm tổn thương các mô lành xung quanh. Đặc biệt, nếu vùng nách của bạn bị thâm đen và các lỗ chân lông to, xù xì, thì công nghệ NewIPL sẽ giúp bạn xử lý tận gốc tình trạng này. Công nghệ này an toàn không tác dụng phụ vì đây là một phương pháp trong ngành y. Cơ quan quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ (FDA) xác nhận NewIPL là công nghệ tẩy lông vĩnh viễn an toàn và hiệu quả, phù hợp cho cả nam lẫn nữ và có thể triệt được tất cả các loại lông ở những vùng khác nhau như: mép, mặt, nách, tay, chân, lưng, ngực, bụng, bikini… mà không gây đau đớn hay bất cứ tổn thương nào. Tuy nhiên, các phụ nữ mang thai hoặc những người đang có vết thương hở miệng không nên sử dụng phương pháp này.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 10, 2010 4:14:52 GMT 9
Nâng ngực nội soi không để lại sẹoVới phương pháp này, các vấn đề khiếm khuyết của ngực như: lép, nhão xệ, đầu vú quá lớn, quầng vú bị to, thâm... sẽ được giải quyết cùng một lúc mà không hề thấy sẹo. Là phụ nữ, ai cũng muốn sở hữu bộ ngực đẹp với hai bầu vú tròn đầy cân đối, hài hòa với vóc dáng cơ thể, quầng vú, núm vú nhỏ nhắn hồng hào. Tuy nhiên, tạo hóa tạo ra không nhiều bộ ngực đẹp, vẫn còn rất nhiều bộ ngực không được “như ý” như: chảy xệ, núm vú quá to hay quá nhỏ hay bị biến dạng, quầng vú không hài hòa… Đặc biệt hiện tượng vú teo nhỏ hoặc chảy xệ sau khi sinh là hiện tượng rất phổ biến của phụ nữ Việt Nam. Nguyên nhân có lẽ do đặc điểm về hình thể nòi giống và điều kiện sống, làm việc chưa thuận lợi cho người phụ nữ Việt Nam trong việc giữ gìn, chăm sóc và bảo dưỡng sắc đẹp của bản thân. Giải phẫu thẩm mỹ chính là phương pháp hữu hiệu nhất để làm lớn ngực, tăng khối lượng bầu vú, mang lại cho vú một kích thước và hình dáng thẩm mỹ như ý muốn, giúp người phụ nữ thêm tự tin và hạnh phúc trong cuộc sống. Với phương pháp mổ trước đây đi theo: đường quầng vú, núm vú, hoặc chân vú vẫn thấy sẹo, những sẹo này “tố giác” ngực đã được can thiệp thẩm mỹ, điều mà phụ nữ đi làm đẹp hoàn toàn toàn không thích. Dưới đây là một ca ngực đặt túi bị hư, chảy xệ, xơ cứng, lộ túi và quầng vú quá to và thâm đen: Trước và sau khi làm phẫu thuật. Một tháng sau khi làm ứng dụng công nghệ mới: Phẫu thuật nội soi, không thấy sẹo. Các vấn đề khiếm khuyết của ngực được giải quyết trong cùng một lúc. Thẩm mỹ viện Ngọc Dung vừa cập nhật phương pháp nâng ngực nội soi của Mỹ không thấy sẹo, không cắt chỉ, không thấy đường may. (Công nghệ mới này được độc quyền tại đây.) Với phương pháp này, các vấn đề khiếm khuyết như: Ngực lép, nhão xệ, đầu vú quá lớn, quầng vú bị to, thâm có thể giải quyết cùng một lúc mà không hề thấy sẹo. Ngực không cân đối, phải làm sao?Tôi năm nay 22 tuổi, mà 2 bên ngực vẫn không đều nhau. Nhiều khi tôi mặc áo thun mà thấy không tự tin, thậm chí có lúc không dám mặc, sợ người khác nhìn thấy. Tôi chỉ mặc áo sơmi rộng. Kính mong các anh chị tư vấn giùm tôi. (Nguyễn Thị Nhỏ) Trả lời: Sự mất cân đối của ngực không chỉ do kích thước lớn, nhỏ mà còn có thể do vị trí cao, thấp khác nhau của vú. - Cách đơn giản nhất để khắc phục được nhược điểm của ngực là lựa chọn áo hoặc đồ lót phù hợp. - Nếu cách đó không làm bạn hài lòng, bạn có thể phẫu thuật đặt túi độn ngực để điều chỉnh. Túi độn ngực có nhiều loại kích thước. Thường trong phẫu thuật các bác sĩ sẽ đặt hai túi có kích cỡ khác nhau ở hai bên ngực, hoặc điều chỉnh vị trí túi ngực cao, thấp phù hợp để khắc phục tình trạng mất cân đối của ngực. Với quyết định trải qua một cuộc phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực, có thể mang lại cho bạn một kết quả tốt đẹp hơn. Bộ ngực được điều chỉnh cân đối giúp bạn dễ dàng lựa chọn quần áo, làm bạn cảm thấy thoải mái, tự tin hơn với dáng vóc của mình. Làm thế nào để to ngực?Tôi có 2 cháu, 8 tuổi và 3 tuổi, nay ngực ngày càng nhỏ dần đi, bụng thì to ra. Xin tư vấn có thể lấy mỡ bụng và mông độn lên ngực được không? (Nguyet) Trả lời: Để tăng kích thước ngực có thể sử dụng phương pháp bơm đầy ngực hoặc phẫu thuật đặt túi độn ngực - Nâng ngực bằng bơm đầy ngực: chỉ định tốt nhất cho phụ nữ trẻ với thể tích ngực không quá nhỏ, tổ chức dưới da tuyến vú săn chắc để tránh nguy cơ chảy xệ vú sau bơm ngực. Kỹ thuật thực hiện đơn giản, phục hồi nhanh, không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe. Có 2 loại chất liệu bơm ngực được tổ chức quản lý dược phẩm Mỹ (FDA) cho phép là mỡ tự thân của khách hàng và một số loại gel cao phân tử ít gây dị ứng như collagen, Hyaluronic acid (Macrolane)... Phương pháp bơm mỡ tự thân ngoài việc yêu cầu bạn có đủ mỡ để có thể bơm, thường phải thực hiện nhiều lần, mỗi lần bơm với một số lượng mỡ vừa phải (từ 50 ml đến 100 ml mỡ). Nếu bơm nhiều cũng một lúc thì sẽ không đủ máu nuôi mỡ mới, dẫn đến bị hoại tử một phần, phải phẫu thuật lấy ra. Kết quả thường giữ được khoảng một năm do mỡ khi đưa vào ngực sẽ tham gia chuyển hóa và biến đổi, nên nếu muốn giữ được kết quả tốt thường phải bơm bổ sung theo định kỳ khoảng một lần một năm. Ngoài ra, khi bơm mỡ vào ngực, có trường hợp mô mỡ bị tổ chức xơ bao bọc giống như những khối u nhỏ ở ngực, khó phân biệt với u tuyến vú. Do đó, cách đơn giản, an toàn và hiệu quả nhất hiện nay để làm ngực lớn lên là phẫu thuật đặt túi độn ngực. Chưa có gia đình ngực đã chảy xệ, phải làm sao?Tôi 24 tuổi và chưa lập gia đình. Ngực tôi khá to (86 cm) nhưng lại bị chảy xệ, không săn chắc. Tôi rất tự ti, mặc cảm về bộ phận này. Xin hỏi có phương pháp nào giúp ngực không chạy xệ, không để lại sẹo và không ảnh hưởng đến việc làm mẹ sau này. (Thu Thủy) Trả lời: Sa trễ (chảy xệ) là hiện tượng biến đổi hình thái ngực do phì đại tuyến vú hoặc sau thời kỳ sinh đẻ, cho con bú hay hiện tượng lão hóa da. Ngực sa trễ khi núm vú xuống thấp hơn so với vị trí ban đầu. Sa trễ độ I: núm vú xuống thấp 2-5cm, độ II: 5-10cm, độ III: >10cm. Muốn giải quyết tốt cần đánh giá chính xác tình trạng của ngực: nguyên nhân sa trễ, tuyến vú có phì đại hay không... từ đó mới lựa chọn phương pháp phẫu thuật tương ứng, có hiệu quả. - Nếu khắc phục ngực chảy xệ bằng cắt bỏ dải da hình tròn xung quanh đường quầng vú đơn thuần là cách dễ dàng nhất để loại bỏ phần da chùng, chuyển dịch núm vú lên trên nhưng do chưa giải quyết triệt để phần tuyến vú bị chảy xệ nên vết mổ sẽ bị căng, giãn hình thành sẹo lồi rộng, dúm dó. Ngoài ra phần quầng vú bị căng quá mức sẽ gây giãn, làm da ở đây giảm đàn hồi trở nên căng phẳng, rộng ra nhiều hơn. Kỹ thuật này chỉ nên thực hiện đối với những trường hợp sa trễ ít. - Phương pháp thông thường kết hợp cắt da quầng và ngoài vùng quầng vú chuyển dịch núm vú lên trên, giải quyết được triệt để hiện tượng chảy xệ nhưng thường để lại sẹo lộ liễu. Phẫu thuật thực hiện trong khoảng 90 phút, cắt chỉ sau 7 ngày. - Phương pháp mới khắc phục ngực chảy xệ bằng phẫu thuật nội soi: Trong khoảng 45 phút, dưới gây tê tại chỗ cùng với sự giúp đỡ của dụng cụ nội soi, bác sĩ sẽ dịch chuyển toàn bộ tuyến vú lên vị trí tự nhiên ban đầu. Kỹ thuật này giúp bạn tránh được sẹo và đặc biệt là sự căng giãn da quầng vú. Sau phẫu thuật bạn có thể tự đi về, sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là cần thời gian để phần da chùng tự đàn hồi trong khoảng 3 tháng. Ngoài ra, do kỹ thuật thuật này không cắt da, không cắt tuyến vú nên không ảnh hưởng đến việc có con và cho con bú sau này của bạn.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 22, 2010 8:19:26 GMT 9
Ung thư daVietsciences- RFA Ung thư da là kết quả của sự phát triển bất thường của các tế bào da, là một trong 10 căn bệnh ung thư hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Trước khi nói về cách phòng và trị chứng bệnh nguy hiểm này, Trà Mi mời quý vị hãy cùng tìm hiểu căn nguyên và các yếu tố nguy cơ gây nên ung thư da, trong phần trao đổi tiếp theo với bác sĩ Thọ. Nguyên nhân Ung thư da có thể khởi phát từ lớp ngoài cùng, nơi hình thành các tế bào sừng. Lớp bên trong có các tế bào đáy và tế bào hắc tố (melanocyte). Tế bào hắc tố sản xuất ra melanin (một sắc tố màu đen) tạo nên màu da. Khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, các tế bào hắc tố tạo ra nhiều melanin hơn làm cho da đen sạm. Khi các tế bào hắc tố tập trung thành cụm, chúng tạo ra một nốt ruồi. Bình thường các tế bào da phát triển theo một trình tự tổ chức rất chặt chẽ trong biểu bì. Những tế bào mới còn non đẩy những tế bào trưởng thành lên bề mặt da. Khi các tế bào lên đến lớp trên cùng, chúng chết đi và bị tróc ra. Ung thư da là kết quả của sự phát triển bất thường của các tế bào da. Nguyên nhân chính là do da bị tổn thương bởi tia cực tím. Đây là một loại sóng ánh sáng phát ra từ ánh sáng mặt trời và thường được sử dụng trong các kỹ thuật làm sạm da (giường tắm nắng nhân tạo,…). Tia cực tím có thể xuyên qua da và làm tổn thương các tế bào, chịu trách nhiệm cho phần lớn các trường hợp ung thư da cũng như các vết nhăn và nốt tàn nhang do tuổi tác. Có 2 loại tia cực tím là A (UVA) và B (UVB). Tia UVA xuyên qua da sâu hơn tia UVB, do vậy sau một thời gian phơi nhiễm tia này, khả năng chống ung thư của da bạn sẽ bị suy yếu. Tia UVB, do xuyên qua da kém hơn, nên thường gây bỏng nắng và chịu trách nhiệm cho các ung thư lớp nông – ung thư tế bào sừng hoặc tế bào đáy. Ung thư tế bào hắc tố cũng có liên quan với tia cực tím. Các chuyên gia nhận thấy rằng, những người thỉnh thoảng tiếp xúc với ánh nắng gắt trong một khoảng thời gian ngắn hạn (như những người làm việc trong văn phòng thỉnh thoảng đi tắm nắng trên bãi biển vào những ngày nghỉ) có nguy cơ bị ung thư tế bào hắc tố rất cao so với các nông dân, công nhân làm đường hoặc những người thường xuyên làm việc dưới ánh nắng mặt trời nhiều giờ mỗi ngày. Tuy nhiên sự phơi nhiễm với ánh sáng mặt trời thường xuyên không giải thích được một số trường hợp ung thư các vùng da ít tiếp xúc với ánh sáng, như lòng bàn chân chẳng hạn. Di truyền và gia đình cũng đóng một vai trò không nhỏ. Ngoài ra, đôi khi ung thư da còn do tiếp xúc quá thường xuyên với độc chất hoặc tia xạ. Hiện nay các trường hợp này cơ chế còn chưa được hiểu rõ. Yếu tố nguy cơ Các yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ ung thư da: • Da trắng. Da ít hắc tố (melanin) có khả năng bảo vệ chống tia cực tím thấp. Nếu bạn có mái tóc hoe vàng hoặc nâu đỏ, mắt sáng màu, da dễ bị tàng nhang hoặc dễ sạm nắng, nguy cơ ung thư da của bạn cao gấp 20-30 lần hơn so với những người có đặc điểm tương ứng sậm màu hơn. • Tiền sử da sạm nắng. Sạm nắng là một hiện tượng tự bảo vệ của da chống lại các tia mặt trời có hại. Cứ mỗi lần phơi nắng, chúng ta lại làm tăng nguy cơ ung thư da. Những người từng bị sạm nắng nặng một hoặc nhiều lần khi còn nhỏ có nguy cơ ung thư da tăng cao lúc trưởng thành. • Phơi nắng quá nhiều. Những người tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời, nhất là không dùng kem chống nắng hoặc quần áo, có nguy cơ cao bị ung thư da. Tắm nắng cũng có tác hại tương tự. • Khí hậu nhiệt đới hoặc vùng núi cao. Những người sống trong vùng nhiệt đới, nóng ấm và nhiều ánh sáng mặt trời có nguy cơ ung thư da cao hơn người ở xứ lạnh. Cũng tương tự cho người sống ở vùng cao, nơi ánh sáng mặt trời gay gắt hơn và chịu ảnh hưởng của tia cực tím nhiều hơn. • Nốt ruồi. Những người bị loạn sản nơ-vi có nguy cơ cao bị ung thư da. Những nốt ruồi này trông bất thường và lớn hơn những nốt ruồi thông thường. Nếu ta có những nốt ruồi loại này, nên theo dõi thường xuyên sự biến đổi của nó. Ngoài ra, những người có quá nhiều nốt ruồi có nguy cơ cao gấp 15-20 lần bình thường. • Các sang thương da tiền ung thư. Mắc một số sang thương da, như chứng dày sừng quang hóa, có thể tăng nguy cơ phát triển ung thư da. Chúng thường là những mảng gồ ghề, có vảy, màu nâu hoặc hồng sậm, thường thấy ở da mặt, cẳng tay, bàn tay của những người có nước da trắng bị sạm nắng thường xuyên. • Tiền sử gia đình có người bị ung thư da. Nguy cơ ung thư da tăng lên nếu ta có cha mẹ ruột hoặc anh chị em ruột đã bị bệnh này. • Tiền sử bản thân từng bị ung thư da, sẽ có nguy cơ cao tái phát. • Hệ miễn dịch bị suy yếu. Những bệnh nhân ghép cơ quan phải sử dụng các thuốc ức chế hệ miễn dịch, người mắc bệnh ung thư máu,… có nguy cơ cao ung thư da. • Da mỏng. Da bị mỏng do bỏng hoặc tổn thương bởi các bệnh lý khác, hoặc một số biện pháp điều trị bệnh vẩy nến,…có thể làm tăng nguy cơ ung thư da. • Tiếp xúc với những nguy hại của môi trường, như môi trường hóa chất, thuốc diệt cỏ,…cũng tăng nguy cơ ung thư da. Nói chung nguy cơ mắc ung thư da tăng lên theo tuổi, thường nhất là sau 50 tuổi. Tuy nhiên một số trường hợp vẫn thấy ung thư da ở người trẻ từ 20-40 tuổi. Các phương pháp điều trị Tiếp tục loạt bài nói về bệnh ung thư da, hôm nay, bác sĩ Đức Thọ, chuyên khoa da liễu tại Sài Gòn, sẽ giúp chúng ta tìm hiểu về các phương pháp điều trị đối với căn bệnh thuộc hàng top ten ung thư tại Việt Nam này. Ghi chú: A = lông (poil) , B= lỗ chân lông (pore) , C = tuyến bã nhờn (glande sébacée), D = cơ dựng lông (muscle horripilateur), E = tiểu động mạch (artériole) , F = tuyến mồ hôi (glande sudoripare), G = tế bào mỡ (cellules graisseuses), H = tiểu thể (corpuscules) , I = nang lông (follicule pileux), derme = lớp da trong, chân bì ; épiderme = biểu bì; hypoderme = hạ bì Các biện pháp điều trị ung thư da và sang thương tiền ung thư da thay đổi tùy theo kích thước, phân loại, độ ăn sâu và vị trí của một hoặc nhiều sang thương. Hầu hết đều dùng biện pháp vô cảm tại chỗ và điều trị ngoại trú, nhưng đôi khi chỉ thực hiện sinh thiết sang thương. Một số phương pháp thường dùng là: Đông lạnh. Người ta có thể phá hủy các tế bào dày sừng hoặc các ung thư nhỏ giai đoạn sớm bằng cách làm đông lạnh chúng với Nitơ lỏng. Mô chết sẽ bị tróc ra sau khi giải đông. Biện pháp này cũng có thể dùng để điều trị các vết sẹo trắng nhỏ. Phẫu thuật. Áp dụng cho tất cả các loại ung thư da. Bác sĩ cắt bỏ mô ung thư và bao phủ vùng bị cắt bởi mô da bình thường. Ung thư tế bào hắc tố thường phải khoét rộng hơn do mô ung thư ăn sâu hơn. Phẫu thuật viên cần phải có kinh nghiệm phục hình da để tránh sẹo xấu nhất là vùng da mặt. Điều trị bằng laser. Chùm sáng năng lượng cao và được điều khiển rất chính xác có thể ngăn chặn, phá hủy vùng mô bệnh và một khu vực nhỏ mô bao quanh với khả năng chảy máu, sưng tấy cũng như sẹo xấu rất thấp. Thường sử dụng biện pháp này cho các sang thương ung thư và tiền ung thư bề mặt, ngay cả ở môi. Phẫu thuật Moh. Dùng cho các sang thương ung thư da lớn hơn, tái phát hoặc khó điều trị, cho cả loại ung thư tế bào đáy và tế bào sừng. Phẫu thuật cắt bỏ từng lớp da bị ung thư, kiểm tra dần từng lớp bên dưới cho đến lớp tế bào lành. Không gây nhiều tổn thương cho vùng da bình thường xung quanh. Nạo và đông khô tế bào bằng xung điện. Xạ trị. Dùng tia phóng xạ điều trị mỗi ngày, thường kéo dài khoảng 1-4 tuần, có thể phá hủy các tế bào đáy hoặc sừng ung thư nếu không có chỉ định phẫu thuật. Hóa trị liệu. Trong phương pháp này, người ta dùng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây nguy hại cho tế bào bình thường. Thuốc có thể dùng thoa tại chỗ hoặc dùng đường uống, chích tĩnh mạch. Các phương pháp đang còn nghiên cứu Quang động học liệu pháp, • Liệu pháp sinh học (còn gọi là miễn dịch liệu pháp) Phòng ngừa Hầu hết các trường hợp ung thư da đều có thể phòng ngừa được. Chúng ta nên thực hiện theo một số biện pháp sau để duy trì sự khỏe mạnh của làn da: • Giảm thời gian phơi nắng. Tránh làm việc và tiếp xúc ánh nắng mặt trời quá lâu. Bỏng nắng, sạm nắng,…đều làm tăng nguy cơ ung thư da. Tránh để con bạn phơi nắng nhiều trên bãi biển, hồ bơi,…Tuyết, nước, băng,…đều phản xạ ánh nắng mặt trời. Tia cực tím thường mạnh nhất vào khoảng từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều mỗi ngày. Các đám mây chỉ hấp thụ và che chắn một phần nhỏ các tia nguy hại này. • Bảo vệ da trước ánh nắng Ung thư da thường xuất hiện trên những vùng da tiếp xúc nhiều với ánh nắng mặt trời - da đầu, mặt, môi, tai, cổ, ngực, cánh tay, bàn tay và cẳng chân ở phụ nữ. Tuy nhiên ung thư da vẫn có thể xuất hiện ở những vùng da còn lại, như lòng bàn tay, vùng gan ngón chân… Vì thế, bảo vệ làn da trước ánh nắng là cực kỳ quan trọng để phòng ung thư da. Nên đội mũ rộng vành che mặt, cổ và tai khi ra nắng, cần bôi kem chống nắng cho những vùng da hở. Nhiều người chỉ dùng kem chống nắng vào mùa hè, khi trời nắng gay gắt, còn mùa đông lại không dùng, đây là một sai lầm. Thời tiết mùa thu - đông, tuy nắng không gay gắt như mùa hè nhưng bức xạ mặt trời vẫn tác động mạnh đến da. Do vậy, vào mùa đông cũng cần dùng kem chống nắng nhưng với độ SPF nhẹ hơn. Độ SPF là gì? Sử dụng các sản phẩm chống nắng như thế nào cho đúng cách và có hiệu quả? Lợi-hại của các phương pháp làm đẹp như tắm trắng, tắm nâu, và lột da ra sao? Những điều gì cần lưu ý để có được làn da khỏe mạnh, ngăn ngừa, và phát hiện sớm bệnh ung thư da? Chương trình Sức khoẻ và Đời sống sẽ giải đáp những thắc mắc này của qúy vị trong buổi tái ngộ kỳ tới. Mời quý vị đón nghe.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 3:30:17 GMT 9
BENH GOUT (Thống Phong) Đại Cương Bệnh Gút là bệnh thấp khớp do rối loạn chuyển hoá Purin ở người , nguồn gốc từ việc tăng tiêu huỷ các axít nhân của tế bàohoặc giảm bài xuất acid uric qua thận . Gây tăng acid uric trong máu, mà hậu quả là các đợt viêm khớp cấp , gây các tophy, gây sỏi thận gây suy thận... Bệnh Gout có các đặc điểm lâm sàng khá đặc biệt , tương đối dễ nhận biết, nếu được quan sát kỹ ( đặc biệt ở những năm đầu của bệnh ) như : - Thường gặp ở nam giới ( trên 95% ) khoẻ mạnh mập mạp. -Thường bắt đầu vào tuổi 35 đến 45 . - Khởi bệnh đột ngột diễn biến từng đợt , giữa các đợt đau các khớp hoàn toàn khỏi (những năm đầu) -Vị trí bắt đầu thường là các khớp ở chi dưới, đặc biệt ngón 1 bàn chân ( 70%). - Tính chất sưng, nóng đỏ, đau dữ dội đột ngột ở 1 khớp , không đối xứng, xuất hiện các u cục ( tophy )ở nhiều nơi đặc biệt quanh khớp.Trong giai đoạn cấp có kèm các dấu hiệu toàn thân : Sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu hiệu màng não (cổ cứng ). cần ăn hạn chế các thức ăn chứa nhiều purin(chứa nhiều acid nhân tế bào ) như :Tim, gan, thận, óc, trứng lộn, cá chích, cá đối ..đây là loại thức ăn nhiều đạm. Y văn cổ không có ghi chứng gút nhưng có chứng "thống phong" là chỉ chứng thống tý lâu ngày khó khỏi. Cho nên bệnh thống phong có thể qui thuộc phạm trù chứng nhiệt tý trong đông y. Triệu chứng: Bệnh có 2 thể lâm sàng. l- Cấp tính: Cơn đau sưng tấy dữ dội đột ngột của khớp bàn chân, ngón cái, thường và0 ban đêm (cũng có thể ở các vị trí khác: ngón chân khác, cổ chân, gối...) khớp đỏ xẫm, ấn đau nhiều, khớp hoạt động hạn chế, kéo dài 2, 3 ngày hoặc 5, 6 ngày rồi khỏi không để lại di chứng nhưng rất dễ tái phát. 2. Mạn tính: Thường do bệnh cấp tính chuyển thành, biểu hiện viêm nhiều khớp mạn tính (khớp nhỏ, vừa và đối xứng) tái phát nhiều, thời gian ổn định rút ngắn, khớp bệnh đau nhiều kéo dài, tại khớp có thể sưng nóng đỏ không rõ nhưng thường có sốt, khớp dị dạng, co duỗi khó khăn, xuất hiện nốt u cục quanh khớp, dưới da, vành tai (hạt tôphi) mềm, không đau, trong chứa một chất trắng như phấn. Bệnh tiến triển lâu ngày gây tổn thương thận (viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, tiểu máu, suy thận cấp, mạn). Chẩn đoán và phân biệt: * Chẩn đoán chủ yếu dựa vào: - Triệu chứng lâm sàng (như trên) chú ý hạt Tôphi, sạn thận gút, khớp gút to, thường chủ yếu là xương bàn chân tay sưng đau không đối xứng. Acid uric huyết tăng rõ, cao hơn 7mg%. - Cần phân biệt với: + Viêm khớp dạng thấp (không có acid uric cao, khớp sưng đối xứng...) + Tăng acid uric huyết đơn thuần (khớp bình thường), tăng acid uric thứ phát (suy thận...). Điều trị Biện chứng luận trị cần chú ý đến giai đoạn phát triển của bệnh. đối với thể cấp tính chủ yếu dùng phép thanh nhiệt thông lạc khu phong trừ thấp, đối với thể mạn tính thường kèm theo đàm thấp, ứ huyết, hàn ngưng, nên tùy chứng mà dùng các phép hóa đàm, trừ thấp, hoạt huyết thông lạc, ôn kinh, tán hàn. Đồng thời chú ý đến mức độ hư tổn của âm dương, khí huyết, can thận mà bồi bổ thích hợp. 1. cấp tính: Triệu chứng: Biểu hiện chính là thể phong thấp nhiệt; đột ngột khớp ngón cái (thường gặp nhưng cũng có thể các khớp nhỏ khác) sưng nóng đỏ đau, không đụng vào được, kèm theo sốt, đau đầu, sợ lạnh hoặc bứt rứt, khát nước, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch Sác. Bạch Hổ Gia Quế Chi Thang Gia giảm Thạch cao 40-60 Tri mẫu 12 Quế chi 4-6 Bạch thược 12 Xích thược 12 Ngân diệp 20-30 Phòng kỷ 10 Mộc thông 10 Hải đồng bì 10 Cam thảo 5-10 Sắc uống ngày l thang, trong thời gian sưng đỏ nóng sốt. Trường hợp thấp nhiệt nặng (Sưng tấy đau nhiều gia thêm dây Kim ngân 40 - 50g, Thổ phục linh,Ý dĩ (tăng trừ thấp) hoặc gia thuốc hoạt huyết như Toàn Đương qui, Đan sâm, Trạch lan, Đào nhân, Hồng hoa, Tằm sa để hóa ứ chỉ thống, trường hợp có biểu chứng thêm thêm Quế chi, Độc hoạt, Tế tân để giải biểu, tán hàn chỉ thống. 2. mạn tính: Triệu chứng: nhiều khớp sưng to đau kéo dài, co duỗi khó, tại khớp không đỏ nóng rõ nhưng đau nhiều, dị dạng kèm theo tê dại, da tím sạm đen, chườm nóng dễ chịu, co duỗi khó khăn, xuất hiện nốt u cục quanh khớp, lâu ngày gây tổn thương thận (viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, tiểu ra máu, suy thận cấp, mạn).mạch Trầm Huyền hoặc Khẩn, lưỡi nhợt, rêu trắng là triệu chứng của hàn thấp ứ trệ. Pháp: Khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống Ô Đầu Tế Tân Thang (Hiện Đại Trung Y Nội Khoa Học): ô đầu (sắc trước) 5 Tế tân 5 ĐươNg qui 12 Xích thược 12 Uy linh tiên 10 Thổ phục 16 Tỳ giải 12 ý dĩ 20 Mộc thông 10 Quế chi 4-6 Trường hợp sưng đau nhiều khớp cứng, mạch Hoãn Hoạt, rêu lưỡi trắng bẩn dày là triệu chứng đàm trọc ứ trệ, thêm chích Cương tàm, Xuyên sơn giáp, Tạo giác thích, Hy thiêm thảo, Hải đồng bì, để tăng tác dụng hoạt lạc, trừ đàm. Đau nhiều do huyết ứ (đau như dao đâm, mạch sáp, lưỡi tím bầm) thêm Ngô công, Toàn yết, sao Diên hồ sách để hoạt huyết chỉ thống. Trường hợp thận dương hư (liệt dương, đau mỏi lưng gối, chân tay lạnh, sợ lạnh, lưỡi bệu, mạch Trầm, Hoãn vô lực thêm Bổ cốt chỉ, Nhục thung dung, Cốt toái bổ để bổ thận kiện cốt định thống, có triệu chứng khí huyết hư thêm Hoàng kỳ, Đương qui, Nhân sâm, Bạch truật... Trên lâm sàng thường gặp: + Thấp Nhiệt Uẩn Kết: Khớp sưng đỏ, đau, nóng. Phiền táo, khát, nước tiểu vàng, đỏ, đầu đau, sốt, sợ lạnh, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch Nhu, Sác. Điều trị: Tuyên thanh, lợi thấp nhiệt, thông lạc, chỉ thống. Dùng bài Niêm Thống Thang gia giảm: Đương quy, Bạch truật, Đảng sâm, Hoàng cầm đều 10g, Thương truật, Trư linh, Trạch tả, Phòng kỷ đều 12g, Long đởm thảo (sao), Khổ sâm, Tri mẫu, Thăng ma đều 6g, Ý dĩ nhân (sống), Xích tiểu đậu đều 15g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Chẩn Liệu Học). + Đờm Ngưng Trở Lạc: do nhiều đờm ẩm gây nên, các khớp nặng, cử động khó khăn, khớp mềm hoặc cứng, có khi sốt cao, đầu đau, lo sợ, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế, Sáp. Điều trị: Hòa doanh, khứ ứ, hóa đờm, thông lạc. Dùng bài Đào Hồng Tứ Vật Thang gia giảm: Đương quy, Xích thược, Đào nhân, Mộc qua đều 10g, Hồng hoa, Uy linh tiên, Xuyên khung đều 6g, Dã xích đậu, Triết bối mẫu đều 12g, Ty qua lạc, Tạo giác thích, Giáp châu đều 4,5g. Sắc uống (Bì Phu Bệnh Chẩn Liệu Học). + Phong Thấp Hàn, Huyết Ứ: Bệnh phát cấp, khớp đau cứng một chỗ, lạnh thì đau nhiều, gặp ấm, nóng dễ chịu hơn, có thể bị biến dạng khớp và cứng khớp, khó cử động. Dù sưng nhưng không thấy nóng, đỏ, lưỡi trắng mỏng, mạch Hoạt, Trầm, Huyền hoặc Nhu, Hoãn. Điều trị: khu phong, trừ thấp, ôn kinh hoạt lạc. Dùng bài Kê Huyết Phụ Tử Niêm Thống Thang: Kê huyết đằng, Nhẫn đông đằng đều 50g, Thương truật, Kinh giới tuệ Tham khảo thêm về bệnh Gout - Thống phong Ăn uống với người mắc bệnh Gout Kinh nghiệm dân gian chữa bệnh Goute Bệnh gout và vấn đề ăn uống Dâu tây chống ung thư và liều thuốc mới trị bệnh gout Uống nhiều nước ngọt dễ bị bệnh gout Thuốc chữa bệnh gout Bia dễ gây bệnh gout hơn rượu Bị bệnh gout có cần phải ăn chay? Cà phê giúp giảm nguy cơ bị Gout Tránh thực phẩm gây bệnh gout Những món người bệnh gout nên và không nên ăn Những thực phẩm tốt cho người bệnh gout Những thực phẩm tốt cho người bệnh gout Gout, cần điều trị sớm! Gout và giả gout Chữa gout theo cổ truyền
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 4:08:14 GMT 9
Kinh nghiệm dân gian chữa bệnh GouteGoute là bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa thường gặp. Bệnh có liên quan đến rối loạn chuyển hóa chất purin và tăng nồng độ acid uric máu. Tổn thương ngón chân cái trong bệnh goute Đông y mô tả bệnh goute trong phạm trù thống phong, chứng tý. Y học cổ truyền có nhiều bài thuốc điều trị bệnh rất khả quan tùy từng thể bệnh. Thể phong hàn thấp tý Tổn thương ngón chân cái trong bệnh goute. Phương pháp điều trị: khu phong tán hàn, trừ thấp thông kinh lạc. Bài 1: Khương hoạt, đương quy, khương hoàng, chích hoàng kỳ, xích thược, phòng phong đều 9g; chích cam thảo, gừng tươi đều 3g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. - Nếu khớp co duỗi không được gia tế tân 3g, phụ tử 6g. - Nếu chân tay nặng nề tê dại gia thương truật 9g, phòng kỷ 8g, ý dĩ nhân 12g. - Nếu các khớp sưng đỏ gia thạch cao 10g, tri mẫu 10g, quế chi 6g, phòng kỷ 9g. - Nếu đau ở chi trên gia tang chi 9g, uy linh tiên 12g. - Nếu đau chi dưới nhiều gia ngưu tất 15g, tục đoạn 15g. Bài 2: Khương hoạt 6g, cảo bản 3g, chích cam thảo 3g, mạn kinh tử 2g, độc hoạt 6g, phòng phong 3g, xuyên khung 3g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. - Nếu hàn nhiều gia xuyên thảo ô 10g, tế tân 1,5 - 3g. - Nếu thấp tà nhiều, các khớp sưng đau gia phòng kỷ 15g, thương truật 10g, ý dĩ nhân 15g, phục linh 15 - 30g, mộc qua 10g. Thể phong thấp nhiệt tý Phương pháp điều trị: Sơ phong thanh nhiệt. Bài thuốc: Thạch cao 30g, tri mẫu 9g, ngạnh mễ 9g, chích cam thảo 3g hợp với quế chi thang (gồm quế chi 9g, chích thảo 6g, thược dược 9g, sinh khương 9g, đại táo 5g). Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. Thể thấp trọc ứ Phương pháp điều trị: Lợi thấp tiết trọc, hóa đàm khứ ứ thông lạc. Bài thuốc: Đào nhân 8g, bạch thược 12g, hồng hoa 6g, xuyên khung 8g, đương quy 8g, trần bì 8g, bán hạ chế 12g, phục linh 12g, trúc nhự 12g, bạch giới tử 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. Thể tỳ hư ứ trọc: Phương pháp điều trị: Kiện tỳ, tiết trọc, khứ ứ thông lạc. Bài thuốc: Phòng kỷ 12g, hoàng kỳ 15g, bạch truật 12g, cam thảo 6g, gia độc hoạt 12g, ý dĩ nhân 12g, thương truật 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần. - Nếu sưng phù chân thì gia quế chi 8g, phục linh 12g. Ngoài thuốc sắc, dân gian còn nhiều cách chữa bệnh goute như sau: Thuốc uống trong Bài 1: Cành dâu 1kg, đường phèn 500g. Trước hết đem cành dâu sắc lấy nước, bỏ bã, thêm đường phèn vào làm thành cao, mỗi buổi sáng uống nửa thìa, hòa vào nước sôi, uống ấm. Bài 2: Lá vừng tươi 60g. Lá vừng rửa sạch, băm nhỏ, sắc nước uống, mỗi ngày 2 - 3 lần. Lưu ý: Về mùa đông không có lá vừng có thể thay bằng thân cây vừng. Đơn thuốc này có thể đề phòng viêm khớp tái phát. Bài 3: Cỏ hy thiêm 12g. Sắc nước uống, mỗi ngày 2-3 lần. Bài 4: Cỏ hy thiêm 90g, cam thảo 10g. Nghiền cả hai vị thành bột, mỗi lần uống 6g với nước sôi để ấm, ngày uống 3 lần. Bài 5: Kê huyết đằng (còn gọi là dây máu người) 10-15g. Sắc nước uống, mỗi ngày 2 - 3 lần. Bài 6: Đậu tương 50g, lá ngô 30g, đào nhân 15g. Sắc nước uống, mỗi ngày 2 - 3 lần. Đây là một nghiệm phương bí truyền trong dân gian, hiệu quả điều trị rất tốt. Bài 7: Lá vừng 30g, mộc qua 15g, bạch quả (còn gọi ngân hạnh, công tôn phụ Ginkgo biloba) 12g. Sắc nước uống, mỗi ngày 1 - 2 lần. Bài 8: Vỏ mướp 30g, ý dĩ nhân 30g, gừng khô 3g. Sắc nước uống, mỗi ngày 2 - 3 lần. Thuốc đắp ngoài Bài 1: Lá cây phù dung lượng vừa, phơi khô, nghiền thành bột, trộn với nước chè nguội, đắp vào chỗ đau, mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Bài 2: Bạch giới tử nghiền thành bột, trộn vào lòng trắng trứng gà, đắp vào chỗ đau, khoảng 3 giờ thì rửa đi. Bài 3: Xương bồ 120g, cốt toái bổ tươi 250g. Tất cả giã nát, sao nóng, đắp vào chỗ đau, lấy vải băng lại, mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Bài 4: Xuyên ô, thảo ô, thương truật mỗi vị 30g. Tất cả nghiền thành bột, trộn vào rượu đun nóng lên, đem đắp vào chỗ đau. Mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Bài 5: Củ hành ta 10g, lá ngải cứu sống 60g, cốt toái bổ tươi 15g, nửa chén nước gừng tươi. Tất cả giã nát, đắp vào chỗ đau, mỗi ngày thay thuốc 1 lần. Bài 6: Bột đại hoàng tẩm nước ấm đắp ở vùng khớp xương đau. Lưu ý: Người bệnh gout nên hạn chế ăn những loại thức ăn giàu purin như phủ tạng động vật (gan, thận, óc...), các loại đậu, thịt tươi đỏ. Bỏ hẳn đồ uống có cồn như rượu, bia, nước trái cây lên men... vì cồn làm giảm bài tiết acid uric qua thận, không nên uống nước ngọt có gas, trà, cà phê... Trong cơn đau tuyệt đối để khớp nghỉ ngơi vì sự vận động làm phóng thích nhiều hơn các tinh thể muối urat vào trong khớp. Không nên chườm nóng vì sẽ làm cơn đau tăng lên. BSCKII. Trần Lập Công Theo Sức khỏe&Đời sống ****************** Những thực phẩm tốt cho người bệnh gout Bệnh gout (thống phong) là bệnh viêm khớp gây ra bởi sự lắng đọng của tinh thể urat ở phần sụn khớp, gân, mô. Nguyên nhân là do ăn thừa chất đạm (purin) như ăn nhiều thịt, các loại cá như cá hồi, cá thu, tôm, cua, gan, tim, cật, lạp xưởng, đồ hộp... Ngoài dùng thuốc điều trị, việc sử dụng một số thực phẩm và thảo dược trong khẩu phần ăn mỗi ngày cũng rất cần thiết cho bệnh nhân gout. 1. Quả anh đào (cherries), loại quả chua chứa hàm lượng vitamin C cao (12%). Theo kết quả nghiên cứu của nhóm khoa học thuộc Trường đại học British Columbia ở Vancouver, Canada vừa công bố, vitamin C rất hiệu quả trong việc làm giảm lượng axit uric trong máu. Người bị gout mỗi ngày ăn tối thiểu nửa ký sẽ cảm thấy dễ chịu và bớt đau. Tuy nhiên giá loại quả này tương đối cao, vì vậy cũng có thể sử dụng quả sơri VN. 2. Quả dâu tây, một chén dâu tây tương đương 144 gam chỉ cung cấp 45 calories nhưng là một nguồn dinh dưỡng tuyệt vời về hàm lượng vitamin C (82mg) và flavonoids. Không chỉ làm đẹp da, chống lão hóa, vitamin C trong dâu tây giúp ngăn ngừa bệnh gout rất hiệu quả. 3. Quả kiwi có nhiều vitamin A, C, E giúp phòng chống nhiều bệnh. Là trái cây có nhiều dinh dưỡng, kiwi chứa nhiều kali và hàm lượng vitamin C cao hơn cam. Có thể ăn quả tươi, trái cây hỗn hợp, trộn xà lách... tốt cho người bị gout. (còn tiếp) DS Lê Kim Phụng/ Tuổi Trẻ
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 4:11:42 GMT 9
Hồng có ích cho sức khỏe Trái hồng đang được bày bán nhiều ở các chợ. Hồng giòn thường ăn lúc còn tươi chưa chín mềm, màu vàng, trái có hình hơi vuông; loại hồng mềm hay hồng đỏ chỉ nên ăn khi quả chín mềm như trái cà chua. Cách ăn hồng tốt nhất là ăn tươi - Ảnh: Tuổi trẻ Quả hồng ăn sống thường có màu vàng nâu sậm, bên ngoài có một lớp sáp và khi ăn thường có vị se chát vì chứa rất nhiều tanin. Khi quả chín sẽ trở nên ngọt hơn vì tanin đã biến mất. Cách ăn trái hồng tốt nhất là ăn tươi, hồng còn được sử dụng làm bánh kẹo, mứt, kem, tráng miệng hoặc chế biến thành lát mỏng dùng chung trong món xà lách trộn kem sữa chua. Thành phần và giá trị dinh dưỡng của thịt quả hồng rất cao, rất nhiều beta caroten và sinh tố A (10.080 I.U cho 1 kg hồng), sinh tố B (thiamin, riboflavin, niacin) và C. Ngoài ra, còn nhiều khoáng tố vi lượng như Ca, P, Fe, protein, nhiều chất xơ, đường. Hồng mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe: - Hồng được sử dụng như phương thuốc cổ truyền chữa nhiễm trùng phổi, trĩ và chữa bệnh suyễn. Thường dùng dạng hồng khô, ăn mỗi ngày khoảng một trái là tốt. Tính chất se chát của hồng còn giúp ngừng tiêu chảy, cầm mồ hôi và cầm máu. - Hồng còn giúp ngừa ung thư vì có hàm lượng beta caroten cao, các hợp chất như sibutol và axit betulinic được nghiên cứu có tác dụng kháng ung thư. Một nghiên cứu mới tại Nhật Bản đã chứng minh tác dụng chống lão hóa của hồng nhờ nhóm hợp chất proanthocyanidin có nhiều trong lớp vỏ, giúp bảo vệ tế bào không bị oxy hóa. Tính chất của hồng tươi và hồng khô khác nhau, hồng tươi có tính hơi hàn, có thể làm hạ huyết áp, không nên dùng cho người suy kiệt, huyết áp thấp, mệt mỏi kinh niên, phụ nữ sau khi sinh còn yếu. Hồng khô tính bình, dẻo, ngọt, được dùng chữa ngộ độc do ăn uống gây tiêu chảy, kiết lỵ lâu ngày không hết. Tuy tốt nhưng không nên ăn hồng tươi nhiều vào lúc bụng quá đói, không nên ăn cùng những loại quả có chứa nhiều chất axit vị chua hoặc protein, vì chất tanin trong hồng sẽ kết tủa với các nhóm chất trên làm tắc nghẽn đường tiêu hóa, gây khó tiêu và dễ bị kích ứng niêm mạc ruột. Hồng khô nhiều đường, ăn nhiều quá sẽ hại tì, không tốt cho răng miệng và dễ sinh nhiệt trong cơ thể, người tiểu đường cũng cần hạn chế sử dụng. Theo DS Lê Kim Phụng
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 30, 2010 4:42:37 GMT 9
Để ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt (TNO) Trong khi nhiều quý bà, quý cô khổ sở với căn bệnh ung thư vú thì không ít đấng nam nhi cũng nhức đầu với ung thư tuyến tiền liệt. Dù đó là loại ung thư phổ biến ở đàn ông, với mức độ gây tử vong chỉ sau ung thư phổi, oái ăm thay, nhiều quý ông lại hầu như không biết gì về căn bệnh này. Trang web Fox News dẫn các ý kiến chuyên gia về cách chữa trị và ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt. Tuyến tiền liệt nằm ở đâu, có nhiệm vụ gì? Nếu đưa câu hỏi này cho chính những chủ nhân sở hữu nó, bảo đảm không ít người lúng túng, dù tuyến tiền liệt là một đơn vị cực kỳ quan trọng trong “bộ tư lệnh” của quý ông. Xin thưa, đơn vị đó “đóng quân” ở ngay dưới cổ bàng quang, nơi bắt đầu của niệu đạo. Nó nặng khoảng 20 gam và góp phần sản sinh ra tinh dịch, “đưa đò” cho các chú nòng nọc bé xíu mau tới mục tiêu. Bông cải xanh có tác dụng ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt - Ảnh: Shutterstock Ung thư tuyến tiền liệt có chữa được không? Có, bằng nhiều phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào vào mức độ trầm trọng của bệnh, vào sức khỏe, tuổi tác và cả quan điểm của từng bệnh nhân… Hiện các biện pháp sau đây đang được sử dụng: 1. Theo dõi Bởi vì ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển rất chậm, nhiều người (nhất là người già và người đang mắc các bệnh hiểm nghèo khác) thường được bác sĩ khuyên không điều trị bệnh mà chỉ theo dõi chặt chẽ nó. Giải pháp này thường không được dùng với thanh niên cùng những người khỏe mạnh. 2. Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt Là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt cùng với một số mô xung quanh, với hi vọng chữa dứt căn bệnh này. Chỉ định phẫu thuật thường được đưa ra khi khối u chưa di căn ra ngoài tuyến tiền liệt. 3. Cắt đốt tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo (TURP) Được chỉ định để lấy đi một phần của khối u chèn lên ống dẫn tiểu, thường là để thông tiểu, giúp giảm nhẹ các triệu chứng do ung thư tuyến tiền liệt gây ra, chứ không nhằm chữa bệnh. Một ống mang kính hiển vi thu nhỏ sẽ được đưa vào tuyến tiền liệt thông qua dương vật. Dụng cụ cắt được gắn vào ống này sẽ gỡ bỏ khối u gây chèn ép. 4. Xạ trị Các tia xạ sẽ được dùng để giết chết tế bào ung thư. Thông thường, xạ trị được chỉ định với ung thư giai đoạn đầu hoặc khi khối u chỉ mới di căn sang các mô lân cận. 5. Phương pháp đông lạnh Là phương pháp điều trị bằng cách làm đông lạnh tuyến tiền liệt. 6. Điều trị nội tiết Có mục đích làm giảm nồng độ androgen, một loại hormone kích thích các tế bào tuyến tiền liệt phát triển, từ đó làm cho tuyến tiền liệt teo lại hoặc phát triển rất chậm trong quá trình điều trị. Các bác sĩ sẽ kê toa để cho bệnh nhân uống hoặc tiêm thuốc, hoặc dùng cả hai. Có thể ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt? Hoàn toàn có thể, thông qua 3 cách: dinh dưỡng hợp lý, sống lành mạnh và sử dụng dược phẩm khôn ngoan. 1. Dinh dưỡng Nên tránh các thức ăn có nhiều chất béo, nhất là chất béo bão hòa. Hạn chế thịt đỏ và các loại thịt đã qua chế biến, thay vào đó tăng cường các thức ăn giàu axit béo omega-3. Hạn chế uống rượu, bia. Ăn nhiều loại trái cây, rau củ và ngũ cốc. Ăn nhiều các loại thức ăn giàu lycopnes để tránh gây thương tổn DNA, chẳng hạn cà chua, dưa hấu… Ngoài ra, bông cải xanh, bông cải trắng, các sản phẩm từ đậu nành, nước quả lựu, nước trà xanh cũng có tác dụng ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt. Các loại vitamin bổ sung như vitamin E hoặc selen có thể hạ thấp nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt, nhưng tác dụng chưa được chứng minh rõ ràng cho lắm. Ngoài ra, việc sử dụng quá nhiều các loại vitamin này cũng có thể gây phản ứng ngược. 2. Lối sống Tăng cường chuyện phòng the có thể giúp quý ông ngừa ung thư tuyến tiền liệt - Ảnh minh họa: Shutterstock Tăng cường vận động và duy trì cân nặng hợp lý là 2 biện pháp chống ung thư hữu hiệu, trong đó có loại ung thư chỉ làm khổ quý ông. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng thường xuyên "tập thể dục" cho tuyến tiền liệt bằng những "bài tập" trong phòng the cũng sẽ giúp quý ông bảo vệ bản thân trước căn bệnh đáng ghét này. Hiệu quả bảo vệ được chứng minh ở mức cao nhất nếu quý ông siêng năng “ra trận”, ở mức từ 20 lần trở lên/tháng. 3. Thuốc men Finasteride có thể có tác dụng ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt nếu được uống hằng ngày trong một thời gian dài. Loại thuốc này ngăn ngừa cơ thể sản sinh androgen. Dù nó hạ thấp rủi ro mắc bệnh nhưng nếu người dùng đã bị bệnh, nó có thể làm bệnh nặng hơn. Ngoài ra, nó cũng ảnh hưởng tới chức năng sinh dục. Vì thế, cũng như bất kỳ một loại dược phẩm nào khác, cần phải có sự chỉ định của bác sĩ, mọi người mới nên dùng. Đoan Nhật
|
|