|
Post by Vĩnh Long on Oct 1, 2010 10:00:07 GMT 9
Thursday, September 16, 2010 Nhức nửa đầu - Migraine Hỏi: Cháu gái tôi năm nay 20 tuổi. Trong vài tháng nay, cháu bị bịnh nhức đầu, lúc nào cũng nhức nửa đầu, muốn ói, lúc nhức rất sợ ánh sáng và tiếng động. Có đi khám bác sĩ, thử máu kết quả tốt. Bác sĩ cho biết là bị bịnh Migraine, cho uống nhiều loại thuốc. Người quen lại nói là bị nhức đầu đông, và bịnh này không thể chữa dứt hẳn. Theo bác sĩ, cháu bị bịnh gì? Nguyên nhân từ đâu? Uống thuốc lâu ngày có biến chứng gì cho cơ thể và trí óc không? Có cách gì chữa dứt hẳn không? Ðáp: Theo lời kể bịnh, chắc đúng là cô cháu đã bị nhức đầu migraine, người Việt mình gọi là nhức đầu đông (không biết có phải vì hồi đó người ta hay bị vào mùa Ðông hay không? Hay hay xảy ra lúc đông người? Hay...?). Nhức đầu đông tương đối thường gặp. Theo các nghiên cứu khác nhau, có 12 hoặc 20 phần trăm hoặc hơn nữa của người Mỹ có lúc bị nhức đầu migraine trong cuộc đời của họ. Cơn migraine đầu tiên thường bắt đầu lúc còn thiếu niên hoặc trẻ tuổi. Trong số những người bị nhức đầu đông, phụ nữ chiếm khoảng hai phần ba; và ở phụ nữ các cơn nhức đầu này có thể liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt. Nếu trong gia đình, có người đã bị, nguy cơ bị bệnh này sẽ cao hơn. Nhức đầu đông thường lập đi lập lại và có thể tự nhiên khỏi hẳn vào lứa tuổi 50 đến 60. Một cách điển hình, người bị migraine (đọc là mai grên) thường bị nhức nửa đầu (cũng có khi cả hai bên đầu trong trường hợp không điển hình), kéo dài từ bốn tiếng đồng hồ đến mười hai tiếng, có khi ngắn hoặc dài hơn, có thể kéo dài đến vài ngày; có thể có lúc bên này, có lúc bên kia; nhức như có gì nhảy nhảy hay là mạch máu đập đập; đi kèm với buồn nôn hoặc ói mửa, có thể sợ ánh sáng hoặc tiếng động, khiến cho bệnh nhân thường muốn kiếm chỗ tối và yên lặng để nghỉ ngơi; hoạt động, làm việc có thể làm cho cơn nhức đầu nặng hơn. Trước cơn nhức đầu, bệnh nhân có thể có những dấu hiệu đi trước cơn nhức đầu (gọi là aura-tiền triệu). Các dấu hiệu này có thể là bị hoa mắt, nhìn thấy hình ảnh bị biến dạng hoặc các tia sáng nhảy nhót. Các thay đổi về thị giác này có thể kéo dài 15 đến 30 phút. Ðôi khi, các tiền triệu có thể ảnh hưởng thính giác, khứu giác hay vị giác. Chỉ có một số bệnh nhân có các tiền triệu này, và nhiều khi các triệu chứng này xảy ra nhưng không đi kèm với nhức đầu sau đó (hú hồn!). Hiếm hơn, nhức đầu đông cũng có thể gây ra các triệu chứng nặng hơn về thần kinh như chóng mặt, tạm mù, ngất xỉu, tê, yếu một hay nhiều phần cơ thể. Trong giai đoạn vài ngày trước khi bị nhức đầu, các bệnh nhân “có kinh nghiệm” có thể cảm thấy các triệu chứng cho biết “nó” (đợt nhức đầu) sắp đến, các triệu chứng trong giai đoạn này gọi là prodrome, có thể gồm các triệu chứng như cảm thấy uể oải, hay đói, hồi hộp. Sau đợt nhức đầu, các triệu chứng gọi là postdrome cũng có thể kéo dài vài ngày, bao gồm cảm giác bị kiệt sức, lần lần thuyên giảm. Cho tới nay, người ta vẫn chưa thật rõ nguyên nhân của nhức đầu đông. Cảm giác nhức là do sự sưng của các mạch máu và thần kinh xung quanh não. Sự sưng này có thể bị kích hoạt bởi các thay đổi của các hóa chất và các hoạt động điện trong não, trong số này có chất serotonin. Tuy nhiên cái gì gây ra các thay đổi này vẫn còn chưa được hiểu cặn kẽ. Dù sao điều may mắn là hiện nay có rất nhiều thuốc có thể giúp giảm và phòng được các đợt nhức đầu kinh khủng này. Nếu bị nhẹ, ta có thể dùng các thuốc mua không cần toa như Tylenol, Motrin, Aleve, (hoặc các thuốc bán không cần toa khác có chữ Migraine trong đó). Nếu bị nặng, bị nhiều lần, dùng các thuốc trên không đủ hiệu quả, và muốn phòng các cơn đau, cần đến bác sĩ để được khám và kê toa. Ngoài thuốc men, người bệnh có thể giảm thiểu các cơn nhức đầu bằng cách nhận diện và tránh các yếu tố kích hoạt các cơn nhức đầu này để tránh bị các cơn này hoặc giúp làm giảm bớt sự trầm trọng của nó. Các yếu tố kích hoạt của migraine gồm có: -Một số thức ăn, như phô mát, thịt để lâu, nước lên men, thức ăn ướp, rượu vang, bột ngọt, các chất có bỏ màu hoặc mùi hóa học. -Dùng nhiều caffeine quá hoặc cắt giảm lượng caffeine thường dùng một cách đột ngột. -Căng thẳng hoặc... giảm căng thẳng một cách đột ngột quá (mới thi xong, mới đám cưới xong...). -Thay đổi mức hormone trong máu (dùng thuốc ngừa thai, chu kỳ kinh nguyệt - cần dùng thuốc phòng nếu nhức đầu xảy ra mỗi chu kỳ). -Mất hay thay đổi giờ giấc ngủ. -Du lịch, thay đổi thời tiết. -Lạm dụng các thuốc giảm đau. Một số cách khác như xoa bóp, thể dục đều đặn, châm cứu, tập yoga cũng có thể giúp giảm bớt các cơn nhức đầu đông. Tóm lại, nhức đầu đông với các đặc điểm kể trên, là bệnh thường gặp. Nguyên nhân chưa rõ, nhưng bệnh này có thể phòng được hoặc giảm bớt các cơn đau được bằng cách tránh các yếu tố kích hoạt cơn nhức đầu kể trên. Nếu các biện pháp trên và các thuốc mua không cần toa không đủ hiệu quả, cần đến bác sĩ, vì có nhiều thuốc công hiệu hơn nhiều, nhưng cần phải khám và kê toa. Thuốc nào cũng có các tác dụng phụ cũng như tương tác với các thuốc khác. Do đó, khi điều trị lâu dài, cần đi khám đều đặn với một bác sĩ để theo dõi, phòng tránh và đối phó kịp thời với các tác dụng phụ của thuốc cũng như các biến chứng của bệnh. Nhức đầu có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó trừ các các trường hợp nhẹ và khỏi trong vòng vài ngày, nếu triệu chứng nặng hoặc kéo dài, nên đi bác sĩ sớm để được chẩn đoán và điều trị thích hợp. Thân mến Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 2, 2010 4:47:22 GMT 9
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư Vietsciences-Nguyễn Văn Tuấn
Hầu như ngày nào chúng ta cũng đều nghe qua một yếu tố nào đó có liên quan đến ung thư. Có tủ lạnh trong nhà, mặc soutien, tóc màu vàng, ở gần đường điện cao thế, sở hữu điện thoại di động, nghiện cà phê, ăn nhiều thịt nướng, v.v… đều từng được “tố cáo” là có liên quan đến ung thư. Thật ra, danh sách trên còn rất dài và nhiều đến độ chúng ta ăn bất cứ thực phẩm nào cũng đều dính dáng đến ung thư! Trong vụ nước tương đen mà công chúng quan tâm hiện nay, đã xuất hiện khá nhiều thông tin trái ngược nhau. Trả lời phỏng vấn của phóng viên, một bác sĩ chuyên về ung thư ở Thành phố Hồ Chí Minh cho biết “3-MCPD là chất có thể gây bệnh ung thư trên chuột như: ung thư tinh hoàn, ung thư vú, ung thư da bìu và ung thư thận.” Hai chữ “có thể” đó rất quan trọng, vì nó nói lên tình trạng bất định của kiến thức y khoa. Tuy nhiên, sự bất định của kiến thức y khoa lại mâu thuẫn câu trả lời mà bệnh nhân muốn biết về tác hại: có hay không. Chúng ta cần phải nhận thức rõ về tác hại của các hóa chất (không chỉ 3-MCPD) và nguy cơ ung thư để tránh những hiểu lầm có thể dẫn đến những hành động cảm tính không cần thiết. Hai chữ “ung thư” thường gieo vào công chúng một nỗi sợ hãi, bởi vì trong cách hiểu của nhiều người, đó là một căn bệnh kinh tởm. Ngay cả trong giới bác sĩ cũng sợ hãi ung thư. Tôi còn nhớ trong một seminar bàn về các bệnh nan y, diễn giả trình bày vấn đề bệnh tim mạch, loãng xương, đái tháo đường bằng những hình hoạt họa nhằm mục đích khuyến khích quần chúng thường xuyên tập thể dục, ăn uống điều độ, giảm lượng chất béo trong cơ thể để giảm nguy cơ bị bệnh tim. Có nhiều hình hoạt họa làm cho cử tọa cười thoải mái, và buổi giảng làm nhiều người hài lòng. Nhưng khi qua đến phần ung thư thì phòng họp im phăng phắc, chẳng thấy ai cười; ai cũng tỏ vẻ rất quan tâm. Trong chúng ta, ai cũng nghe qua bệnh ung thư hay biết một người nào đó bị ung thư. Một người dượng tôi qua đời vì bệnh ung thư phổi. Ba tôi bị ung thư tiền liệt tuyến nhưng ông qua đời vì bệnh tim mạch. Một người bạn tôi quen biết bị ung thư vú. Nhìn qua nhìn lại, chúng ta thấy có khá nhiều người là nạn nhân của ung thư, và có lẽ vì thế hai chữ “Ung thư” có một lực ngầm nào đó rất đặc biệt làm cho người ta phải ngán sợ. Đó là một bệnh có độ cảm tính rất cao. Người ta cho rằng đó không phải là một bệnh đáng đùa như bệnh tim được. Vì thế, cũng là tự nhiên thôi, khi chúng ta tìm mọi cách để tránh nó. Nguyên tắc “phòng bệnh hơn chữa bệnh” rất phù hợp với bệnh ung thư. Ung thư là bệnh có nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Nguyên nhân trực tiếp là qui trình sản xuất và tái sản xuất của tế bào bị rối loạn, dẫn đến một cơ phận trong cơ thể bị hư hỏng một cách tuyệt vọng. Tế bào phát triển nhanh nhưng “mất trật tự”, và lan sang các cơ phận khác trong cơ thể, và cuối cùng “ăn sống” cơ thể làm cho cơ thể phải chết. Hoạt động sản xuất và tái sản xuất của tế bào chịu sự điều khiển của gien. Cho đến nay, ngoài vài trường hợp ung thư vú và ung thư phổi, những bệnh mà giới khoa học đã tìm ra vài gien (như gien BRCA1, BRCA2 và vài gien mới phát hiện trong tháng qua), phần còn lại chúng ta vẫn không biết các gien này là gì và ở đâu. Một cách để “đo lường” mức độ ảnh hưởng của gien hay biết được tín hiệu của gien là xem xét trong gia đình có thân nhân nào từng bị ung thư hay không (giới y khoa gọi là “tiền sử gia đình”). Nhưng gien không hoạt động một mình, mà chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường và hormone. Nói cách khác, gien chỉ kích hoạt gây ung thư khi bị phơi nhiễm với một yếu tố môi trường nguy hiểm nào đó. Yếu tố môi trường ở đây bao gồm thói quen ăn uống, thuốc lá, bia rượu, vận động cơ thể, môi trường làm việc, mức độ phơi nhiễm với các hóa chất trong cuộc sống, v.v… Do đó, các nguyên nhân gián tiếp gây ra ung thư là các yếu tố môi trường và hormone. Có nghiên cứu ước tính rằng khoảng 95% các trường hợp ung thư mà bác sĩ điều trị là do các yếu tố môi trường gây ra, và gien là nguyên nhân gây ra khoảng 5% các trường hợp ung thư. Thật ra, ước tính như thế cũng quá đơn giản, vì khó mà qui bao nhiêu trường hợp ung thư do gien và bao nhiêu do môi trường, trong khi chúng ta chưa biết gien nào là “thủ phạm”. Tại sao những người có tiền sử gia đình ung thư nhưng lại không bao giờ mắc bệnh ung thư? Tại sao một số người không bao giờ hút thuốc lá lại bị ung thư? Chúng ta không có câu trả lời dứt khoát, mà chỉ có thể đặt giả thiết để giải thích vấn đề. Giả thiết đặt ra là do sự tương tác giữa gien và môi trường. Theo giả thiết này, người có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư (tức có khả năng người đó mang trong người gien có hại) nhưng vì môi trường sống có lợi, cho nên người đó không mắc ung thư. Một người không bao giờ hút thuốc lá có thể bị ung thư vì người đó mang trong người gien nguy hại hay bị phơi nhiễm một yếu tố nguy cơ khác. Theo giả thiết tương tác này, phần lớn ung thư chỉ xảy ra khi đối tượng hội đủ hai điều kiện có nhiều gien (không chỉ một gien) nguy hại và sống trong một môi trường với nhiều yếu tố (không phải chỉ một yếu tố) nguy hiểm. Tuy nhiên, mối ảnh hưởng tương tác giữa gien và môi trường đến ung thư là một câu hỏi lớn, một bí ẩn khoa học, mà cho đến nay, vẫn chưa có ai có giải đáp thỏa đáng. Chính vì sự bất định của khoa học như thế, nên không ai dám phát biểu dứt khoát rằng ăn nhiều nước tương đen chứa chất 3-MCPD, hay hút thuốc lá, hay uống rượu bia sẽ gây ung thư. Người nào nói như thế là thiếu thành thật tri thức, hay không biết mình nói gì. Nhưng chúng ta có thể nói rằng trong những người hút thuốc lá nhiều có nhiều người bị ung thư hơn trong nhóm người không hút thuốc lá. Nói cách khác, nguy cơ mắc bệnh ung thư ở những người hút thuốc lá cao hơn nguy cơ mắc bệnh ở những người không hút thuốc lá. “Nguy cơ” là cụm từ rất quan trọng trong phát biểu trên. Nguy cơ là chữ xuất phát từ thuật ngữ risk trong tiếng Anh. Nguy cơ là một khái niệm toán học có liên quan mật thiết đến xác suất. Có thể lấy một ví dụ sau đây để minh họa cho khái niệm nguy cơ trong y tế. Chẳng hạn như trong một cộng đồng cư dân gồm 1000 người, có 20 người bị bệnh ung thư. Chúng ta có hai cách phát biểu về qui mô này: cách thứ nhất là dùng con số phần trăm: Tỉ lệ bệnh ung thư trong cộng đồng là 2 phần trăm; cách thứ hai là dùng tỉ số khả dĩ (likelihood ratio) bằng cách lấy số người bị ung thư chia cho số người không bị ung thư: 20 / 980 = 0,082 (tỉ số khả dĩ bị ung thư là 0,082). Tỉ số khả dĩ càng cao, xác suất bị ung thư càng cao. (Chú ý: nếu tỉ số này là 1, điều đó có nghĩa là xác suất bị ung thư là 50%). Nói tóm lại, nguy cơ ở đây chính là xác suất, là tỉ lệ, là phần trăm. Như vậy, nguy cơ là tần số một sự kiện xảy ra. Chẳng hạn như nếu tôi nói “Nguy cơ mà bạn bị ung thư là 0,10 hay 10%” thì điều đó có nghĩa là trong 100 người như bạn, có 10 người bị ung thư, nhưng tôi không biết bạn có phải là một trong số 10 người đó hay không. Nói cách khác, nó là một con số áp dụng cho một quần thể, chứ không phải cho một cá nhân. Ấy thế mà câu phát biểu đó dùng cho một cá nhân! Do đó, có người cho rằng một phát biểu như thế hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì một cá nhân là chỉ 1 cá nhân, mà 1 cá nhân thì không có mẫu số. Cách hiểu về nguy cơ hay xác suất như vừa trình bày trên là cách hiểu theo trường phái xác suất dựa vào tần số (frequentist school of probability). Một định nghĩa xác suất thứ hai được đề xuất từ thế kỉ 17 là trường phái xác suất chủ quan (subjective probability). Theo trường phái này, xác suất là một diễn đạt cá nhân. Chúng ta sử dụng xác suất hàng ngày nhưng không để ý. Chúng ta vẫn thường nói “Hôm nay chắc trời mưa quá”, hay “Tôi thấy anh hình như bị cảm lạnh”. Đó là những cảm nhận cá nhân về một sự kiện, một tình trạng, nhưng là những cảm nhận bất định, không chắc chắn. Cách phát biểu như trên là một cách diễn đạt mối liên hệ của một cá nhân đối với một sự kiện, nó không phải là một đặc tính khách quan của sự kiện. Chính vì thế mà có người đề nghị chúng ta nên nói “xác suất về sự kiện” (probability for an event), chứ không nên nói “xác suất sự kiện” (probability of an event). Do đó, theo trường phái chủ quan này, xác suất, là một số đo về sự bất định (degree of uncertainty), hay một số đo về mức độ tin tưởng (degree of belief). Quay trở lại câu nói “Xác suất mà bạn bị ung thư là 10%”, theo cách hiểu này, là một cảm nhận chủ quan của cá nhân người phát biểu đến bệnh nhân. Không có cách gì để chứng minh câu phát biểu đó đúng hay sai (ngoại trừ xác suất là 0 hay 1). Christiaan Barnard là nhà giải phẫu đầu tiên ghép tim (heart transplantation) trên thế giới. Ông thuật lại một câu chuyện mà tôi thấy cần phải viết ra đây để bàn về nguy cơ và xác suất. Bệnh nhân thay tim đầu tiên trên thế giới của Barnard là Louis Washkansky. Khi được đưa vào phòng giải phẫu, Washkansky đang say mê đọc sách trên giường như không để ý gì đến một sự kiện lịch sử y khoa sắp xảy ra. Barnard vào phòng giải phẫu, tự giới thiệu với Washkansky, và giải thích tường tận rằng ông sẽ cắt bỏ trái tim bệnh của Washkansky và thay vào đó là một trái tim mới lành mạnh hơn. Barnard nói thêm: ông sẽ có cơ may bình phục (there is a chance that you can get back to normal life again). Washkansky không hỏi cái cơ may đó là bao nhiêu, không hỏi ông có thể sống bao lâu nữa, mà chỉ nói “tôi sẵn sàng” và quay lại tiếp tục đọc sách! Barnard cảm thấy rất lo âu và bối rối, bởi vì Washkansky rõ ràng không ý thức được rằng đây là một sự kiện quan trọng trong đời của chính ông mà còn là một sự kiện lịch sử trong y học. Nhưng bà vợ của Washkansky hỏi: “Cơ may mà bác sĩ nói là bao nhiêu?” Barnard trả lời: “80 phần trăm”. Mười tám ngày sau cuộc giải phẫu, Washkansky qua đời. Ở đây, con số 80% phản ánh một độ tin tưởng, một cảm nhận cá nhân của bác sĩ Barnard. Trong quan niệm chủ quan, những bất định chính là những nguy cơ (risk). Câu trả lời 80% thành công là một cách nói gián tiếp rằng nguy cơ thất bại là 20%. Nguy cơ 20% này chính là nguy cơ tử vong cho Washkansky. Quay lại mối liên hệ giữa nước tương đen có chứa chất 3-MCPD và ung thư, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có bằng chứng 3-MCPD trực tiếp gây ung thư, nhưng chúng ta có bằng chứng cho thấy chất 1,3-DCP (được hình thành từ chất 3-MCPD) làm đột biến gien trong chuột và gây ung thư. Nhưng không phải chuột nào ăn nhiều chất 3-MCPD đều bị ung thư. Thật ra, tỉ lệ mắc bệnh ung thư trong nhóm chuột ăn nhiều chất 3-MCPD cao hơn nhóm chuột không ăn chất 3-MCPD cao hơn chỉ 40%, và ngay cả con số này cũng còn nhiều bất định vì số lượng chuột sử dụng cho thí nghiệm chỉ trên dưới 10 con. Tuy có hạn chế về phương pháp, bằng chứng vẫn là bằng chứng. Vấn đề đặt ra là chúng ta nên hiểu và diễn dịch bằng chứng này như thế nào? Đây là một vấn đề mang tính triết lí khoa học và y đức. Chuột không phải là con người. Một loại thuốc có thể chứng minh là an toàn trên chuột không có nghĩa là nó sẽ an toàn trong con người, và ngược lại. Tương tự, nếu yếu tố nào đó gây ra ung thư trong chuột không có nghĩa là nó sẽ gây ra ung thư ở con người. Suy luận từ những kết quả thử nghiệm trên chuột cho con người là một suy luận nguy hiểm. Chính vì thế mà các nghiên cứu trên chuột hay trong ống nghiệm được y khoa đánh giá là những nghiên cứu có giá trị thấp nhất, vì độ tin cậy thấp nhất trong các nghiên cứu y học. Chúng ta không thể khái quát hóa những quan sát trên chuột sang con người. Nhưng trong thực tế, tiến hành thử nghiệm trên con người rất khó, có khi không thể làm được vì lí do y đức. Thử tưởng tượng xem: nếu chúng ta cho 1000 người ăn nửa lít nước tương có chứa chất 3-MCPD mỗi ngày trong suốt 50 năm, và theo dõi xem bao nhiêu người mắc bệnh ung thư. Không có ủy ban y đức nào cho phép chúng ta làm một nghiên cứu như thế, và chắc cũng không có một người nào có khả năng ăn nhiều nước tương như thế trong suốt 50 năm. Thành ra, chúng ta không có đạo đức nào khác hơn là đặt vấn đề về sức khỏe con người qua một nhóm chuột. Và chúng ta cũng không có đạo đức nào khác hơn là phòng ngừa. Phòng ngừa, đứng trên quan điểm của y tế công cộng, là làm giảm nguy cơ mắc bệnh, là không để cho một quần thể bị phơi nhiễm với những yếu tố nguy cơ có thể gây bệnh. Do đó, cho dù kết quả nghiên cứu trên chuột có phần hạn chế, chúng ta vẫn có lí do để khuyến cáo rằng chất 3-MCPD có thể có hại cho sức khỏe, và nên tối thiểu hóa phơi nhiễm chất này khi có thể. Vấn đề ở đây là nguy cơ là một đo lường cho cộng đồng có mẫu số, còn cá nhân thì không có mẫu số và do đó, khái niệm nguy cơ khó mà thuyết phục được bệnh nhân. Thật vậy, một người bệnh đơn giản muốn biết: tôi năm nay 60 tuổi, ăn nhiều nước tương chứa chất 3-MCPD, tôi hút thuốc lá, tôi hay uống bia, vậy tôi có bị ung thư không? Câu trả lời mà bệnh nhân muốn biết là “có” hay là “không”. Nhưng y khoa không thể nào trả lời rạch ròi như có hay không, trắng hay đen, mà chỉ có thể trả lời bằng ngôn ngữ “nguy cơ”. Câu trả lời cho bệnh nhân là “dựa vào bằng chứng nghiên cứu khoa học, cứ 100 người như anh (tức 60 tuổi, hút thuốc lá, uống bia, ăn nước tương hàm chứa chất 3-MCPD) thì có 3 người mắc bệnh ung thư trong vòng 20 năm, nhưng tôi không biết anh có nằm trong 3 trường hợp đó hay không. Tuy nhiên, vì anh đang phơi nhiễm các yếu tố dễ gây bệnh, tôi đề nghị anh bỏ hút thuốc lá, bớt rượu bia, và giảm lượng nước tương có chứa chất 3-MCPD đến mức thấp nhất”. Do đó, lần sau nếu bạn có đọc một bài báo hay một bản tin hay phát biểu của một “chuyên gia” rằng một yếu tố nào đó gây ra ung thư, bạn nên biết rằng đó là một phát biểu thiếu chính xác, nếu không muốn nói là sai. Không! Không bao giờ có một mối liên hệ xác định trong ung thư, không có một yếu tố đơn thuần nào gây ung thư, không có một gien nào có thể gây ung thư; các yếu tố môi trường hay/và gien tương tác với nhau làm gia tăng (hay giảm) nguy cơ ung thư, chứ không gây ra ung thư.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 8:13:35 GMT 9
Lại Nói Về Cúm Hàng năm, cứ vào cuối Hạ, sửa soạn vào Thu là y giới phòng bệnh Hoa Kỳ lại nhộn nhịp “mài gươm, chuốt kiếm” để chiến đấu ngăn chặn Ông Cúm Bà Co cũng như Cúm Heo Cúm Lợn. Mùa cúm thường bắt đầu vào tháng 11 hàng năm và kéo dài có khi tới tháng 5. Thực vậy, mới tháng 8 còn nóng nắng mà cơ quan Phòng Bệnh CDC Hoa Kỳ đã thông báo cho bà con là, thuốc chủng ngừa cho Cúm năm 2010 đã sẵn có và nhắc nhở bà con đi chích ngừa. Theo cơ quan này, chủng ngừa là phương pháp hữu hiệu nhất để tránh Cúm tới thăm viếng, hành hạ cơ thể đồng thời cũng tránh được các biến chứng của bệnh như viêm phổi, tai, xoang, khô nước hoặc làm cho các bệnh mãn tính suy tim, tiểu đường trầm trọng hơn. Theo CDC, tại Hoa Kỳ có từ 3000 tới 49,000 tử vong vì cúm, tùy theo loại virus. Nhớ lại là năm 2009 vừa qua bà con ta phải chích tới hai mũi thuốc mới phòng ngừa được Cúm Hàng Năm và Cúm Heo H1N1. Nhưng năm nay thuốc được chế biến hỗn hợp, cho nên chỉ cần một lần chích là hầu như bảo đảm an toàn với các virus H1N1, H3N2 và một phân loại virus cúm 1 B. Chúng tôi nói “hầu như” là vì theo các nhà chuyên môn, cũng có mươi mười lăm % trường hợp dù có chích ngừa mà vẫn bị cúm nhưng nhẹ hơn hoặc cúm vì một dạng virus cúm khác. Các dược phòng cũng như phòng mạch bác sĩ đều cho hay là họ sẵn sàng chích ngừa rồi. Bà con ở Việt Nam có thể chích ngừa ở Viện Pasteur, các Trung tâm Y tế Dự phòng hoặc phòng mạch bác sĩ. Vậy xin mời nam phụ lão ấu từ 6 tháng tuổi trở lên đi chích ngừa để cơ thể có đủ thì giờ tạo ra sức đề kháng với 3 loại virus của mùa cúm 2010-2011. Đặc biệt là với các cháu bé, bà mẹ mang bầu, lão nhân từ 65 tuổi sấp lên cũng như người đang có bệnh kinh niên như hen suyễn, tiểu đường, bệnh tim bệnh phổi. Các cháu dưới 6 tháng cũng dễ mắc bệnh cúm nhưng còn quá bé để nhận vaccin, cho nên người chăm sóc các cháu phải chích ngừa. Những ai chăm sóc người bệnh hoặc nhân viên y tế cũng cần chủng ngừa. Riêng các cháu dưới 9 tuổi mà chưa bao giờ chích ngừa cúm lại cần hai lần chích, cách nhau một tháng. Không chích ngừa nếu dị ứng với trứng gà, đã có phản ứng với vaccin cúm, trẻ em dưới 6 tháng tuổi. Ai đang bị nóng sốt, nên đợi sau khi hết sốt hãy chích ngừa. Ngoài chủng ngừa, mỗi cá nhân nên áp dụng sáu bước chống Flu sau đây: -Tránh tiếp xúc quá gần với bệnh nhân flu để khỏi hít virus từ họ -Khi bị cúm, nên nghỉ ở nhà cho tới 24 giờ sau khi hết sốt, vừa điều trị dưỡng sức vừa không truyền bệnh cho người khác. -Che mũi miệng với khăn giấy khi ho hoặc hắt hơi để virus khỏi tung bay trong không khí, truyền bệnh cho mọi người. Ném bỏ khăn giấy đã dùng vào thùng rác -Rửa tay thường xuyên với nước và xà phòng để loại bỏ virus gây bệnh bám trên tay -Đừng sờ mũi, miệng mắt để tránh lây nhiễm khi tay dính virus. -Sống khỏe mạnh, dinh dưỡng ngủ nghỉ đầy đủ, xả stress, uống nhiều nước. Nếu chẳng may bị xác định mắc Cúm thì cần uống thuốc vô hiệu hóa virus như như thuốc viên/ nước Tamiflu (generic: osaltamivir và zanamivir) hoặc thuốc bột xịt mũi Relenza mà bác sĩ đã cho toa. Các thuốc này khác với kháng sinh và có thể giúp giảm nhẹ triệu chứng bệnh hoặc rút ngắn thời gian bị bệnh. Điều cần nhớ là thuốc phải dùng sớm, trong vòng 2 ngày sau khi có dấu hiệu bệnh và dùng liên tục 5 ngày. An Toàn Ăn Trứng Theo CNN, từ giữa tháng 8, 2010 cho tới hôm nay, cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ đã yêu cầu một số trang trại thu hồi cả nửa tỷ quả trứng bị nhiễm với vi khuẩn Salmonella Enteritidis. Đây chỉ là 1/10 của cả 67 tỷ quả trứng được sản xuất hàng năm ở Hoa Kỳ. Trước đây đã có ý kiến cho rằng vi khuẩn xâm nhập trứng qua những lỗ nhỏ trên vỏ trứng. Nhưng bây giờ có nhiều bằng chứng cho hay trứng bị nhiễm từ khi được cấu tạo trong noãn sào gà mẹ và vi khuẩn thường nằm trong lòng trắng của trứng. Gà ăn chất phế thải có nhiễm trùng của loài gậm nhấm hoặc từ những con ruồi, bọ. Mới đây, khi thanh tra hai trại gà ở Hoa Kỳ, FDA tìm ra nhiều đống phân bên cạnh trại nuôi gà với ruồi bay. Có nơi lại rửa trứng với nước chứa Salmonella. Theo cơ quan FDA, hàng năm nông trại phân phối hơn 2 triệu trứng bị nhiễm Salmonella, và mỗi năm có khoảng 150,000 trường hợp ngộ độc thực phẩm vì trứng nhiễm. May mắn là 91% trường hợp đều tự khỏi trong vài ba ngày và chỉ có khoảng 1% cần điều trị tại bệnh viện. Ấy vậy mà đôi khi cũng ca trầm trọng, tử vong. Sau đây là vài phương thức để an toàn tiêu thụ trứng: -Khi chọn mua trứng, chỉ mua trứng còn nguyên vẹn, vỏ không nứt và sạch. -Nên để ý tới ngày trứng hết hạn được bán, và chỉ mua trứng được bầy trong ngăn tủ lạnh vì để ở ngoài không khí, nhiệt độ trong phòng làm cho trứng rất mau hư và dễ nhiễm độc. -Mang trứng về nhà, nên cất ngay vào tủ lạnh, xếp đầu nhọn xuống dưới, đầu to quay lên trên. Đầu to vỏ cứng hơn, khó vỡ, đồng thời cũng để cho lòng đỏ nằm gọn trong sự che chở của chất kháng sinh ở lòng trắng. Tốt hơn hết là giữ trứng trong hộp nguyên thủy từ tiệm hoặc trong hộp có nắp đậy. Giữ như vậy, trứng vẫn còn tốt, an toàn tới ba tuần lễ. Đôi khi nếu cất giữ ở nhiệt độ thấp và nơi khô ráo, trứng có thể vẫn còn tốt tới sáu tháng. -Tránh để trứng gần thực phẩm có mùi như hành, tỏi vì trứng dễ hút mùi của các thực phẩm này. -Không cần rửa trứng trước khi xếp vào tủ lạnh. Trên vỏ trứng, có một lớp màng mỏng tự nhiên hoặc do nông trại nhúng trứng vào một loại dầu không mùi, vô hại để che chở cho trứng khỏi bị vi khuẩn xâm nhập cũng như tránh thất thoát độ ẩm và khí carbon dioxide trong trứng. Vỏ trứng rất xốp để trứng có thể thở. Nhưng đây cũng là nhược điểm vì trứng cũ sẽ mất bớt carbon dioxide khiến hương vị trứng giảm bớt, khoảng không khí ở đầu quả trứng tăng, lòng trắng đổi sang vị kiềm. -Trứng còn tươi khi đập khỏi vỏ thì lòng đỏ tròn đầy với lòng trắng đặc quánh bao chung quanh. Trứng hư, lòng đỏ xẹp, lòng trắng vữa loãng. Trứng mới thì lòng trắng đục mờ như sữa, đôi khi còn dính vào vỏ khi ta đập trứng ra; trứng cũ thì lòng trắng nom trong hơn. -Trứng đã nứt vỏ rất mau hư nên cần nấu ngay. Ra khỏi vỏ, trứng có thể giữ trong hộp đậy kín, cất trong tủ lạnh vài ngày. Lòng trắng trứng có thể giữ được một tuần lễ trong tủ lạnh hoặc dăm tháng trong tủ đông lạnh, nhưng lòng đỏ thì chỉ giữ trong tủ lạnh độ vài ngày là hư. Nên thả lòng đỏ trong một bình nước lạnh đậy kín để giữ được lâu hơn. -Luộc trứng tới khi lòng đỏ và trắng chín hẳn. Trứng đánh cần nấu tới khi khô nước. -Rửa tay, dụng cụ bếp núc với nước và xà bông sau khi tiếp xúc với trứng sống. -Đừng để trứng ngoài tủ lạnh quá 2 giờ. -Không ăn trứng chưa nấu chín. -Trứng nấu rồi mà không ăn hết cần được cất ngay vào tủ lạnh. Các điều trên đây cần được áp dụng cho mọi người, đặc biệt là với các cháu bé, quý lão ông lão bà, người suy miễn dịch như là đang điều trị với thuốc steroid, bệnh HIV, tiểu đường, đang hóa trị ung thư… Tháng 9, tháng Hướng dẫn về Cholesterol Cao cholesterol vẫn là mối e ngại của mọi người vì hậu quả trầm trọng của tình trạng này. Do đó, y giới Hoa Kỳ đã dành trọn tháng 9 hàng năm là Tháng Hướng Dẫn Quốc Gia về Cholesterol (National Cholesterol Education Month). Xin cùng nhau cập nhật về chất béo này. Cholesterol là gì? Cholesterol là một loại chất béo mềm như sáp lưu hành trong dòng máu. Chất này có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể như là cấu tạo màng tế bào, tiền chất của nhiều hormon và muối mật. Cholesterol từ đâu mà ra? Có hai nguồn cung cấp cholesterol cho cơ thể, đó là gan và thực phẩm Gan và một số tế bào khác tổng hợp khoảng 75% cholesterol và 25% do thực phẩm động vật cung cấp. Thực phẩm chứa nhiều chất béo bão hòa như thịt mỡ, lòng đỏ trứng, tôm cua sò vẹm và sữa nguyên dạng là nguồn cholesterol. Có vai trò quan trọng, tại sao lại có hại? Dù cần thiết nhưng khi quá cao trong máu thì cholesterol lại là rủi ro gây ra các bệnh tim mạch với hậu quả là tai biến não, cơn đau tim. Mỗi ngày, tại Hoa Kỳ có khoảng 2300 tử vong vì bệnh tim mạch, nghĩa là cứ mỗi 38 giây đồng hồ là một người mãn phần. Thế nào là quá cao? Cholesterol toàn phần: Lý tưởng là dưới 200mg/dl; từ 240md/dl trở lên là cao. LDL (cholesterol xấu): dưới 100mg/dl là tốt nhất; trên 160mg/dl là cao. HDL(cholesterol Tốt): từ 60mg/dl là tốt mà dưới 40mg/dl là thấp Triglycerid: dưới 150mg/dl là bình thường mà trên 200 là cao. Sở dĩ LDL coi là “xấu” vì nếu có quá nhiều trong máu, chúng sẽ kết tụ thành những mảng vữa trong lòng động mạch, gây ra tắc nghẽn sự lưu thông của máu, lâu ngày sẽ gây bệnh tim. Còn HDL tốt vì chúng giúp đưa cholesterol cao từ máu về gan để loại ra ngoài. Các nhà y khoa học đề nghị mọi người từ 20 tuổi trở lên, nên đo cholesterol trong máu mỗi 5 năm. Làm sao để hạ cholesterol quá cao trong máu Chẳng may cholesterol lên cao thì nên nhờ bác sĩ gia đình hướng dẫn điều trị với dược phẩm, thay đổi nếp sống và áp dụng chế độ dinh dưỡng tốt cho tim mạch. -Dược phẩm gồm mấy loại chính như sau: Nhóm statin làm giảm sản xuất cholesterol ở gan như Lipitor, Pravachor, Zocort… Nhóm resins ngăn cản sự hấp thụ cholesterol ở ruột non như Questran, Colestid. Nhóm fibrates tăng HDL, giảm triglycerides, như Lopid Nhóm Niacin giảm LDL, cholesterol, tăng HDL như nicotinic acid. Bác sĩ sẽ lựa dược phẩm thích hợp cho mỗi bệnh nhân. -Dinh dưỡng lành mạnh với nhiều rau trái cây, các loại hạt nhiều chất xơ, thịt nạc, hai lần cá mỗi tuần lễ, sữa giảm chất béo. -Vận động cơ thể mỗi ngày 30 phút như đi bộ, đi xe đạp, bơi lội, khiêu vũ…tùy theo sở thích và sức khỏe cho phép. Một vài ngộ nhận: Tôi gầy thì cholesterol đâu có cao Gầy béo đều có thể bị cao cholesterol nhưng dân mập phì dễ bị cao hơn. Hơn nữa, người gầy lại thường ỷ y, ăn vung vít đủ các loại thịt chứa nhiều chất béo bão hòa, hoặc thực phẩm chiên rán với trans fat. Cho nên, dù gầy cũng cần thử cholesterol trong máu. Cholesterol là chuyện của liền ông chứ đâu có “ăn nhậu” gì với liền bà chúng tôi. Cao cholesterol là vấn đề của cả nam thanh nữ tú. Có điều là, khi đang còn ở tuổi sanh đẻ thì quý bà quý cô được sự che trở của hormon nữ estrogen, nâng cao HDL. Nhưng khi ở tuổi mãn kinh, estrogen giảm lần thì triglyceride và cholesterol lại có chiều hướng lên cao đấy. Bác sĩ cho tôi uống thuốc hạ cholesterol rồi thì đâu cần kiêng khem. Vẫn cần giới hạn chất béo bão hòa. Dược phẩm thường được chỉ định cho người bị cholesterol cao dù là đã áp dụng dinh dưỡng lành mạnh, vận động cơ thể mỗi ngày hoặc cho người có rủi ro bị bệnh tim mạch, tai biến não. Ngộ nhận còn nhiều. Xin hẹn kỳ tới Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 26, 2010 8:14:55 GMT 9
Mệt Mỏi Kinh Niên Vietsciences-Nguyễn Ý-Đức Hội chứng Mệt Mỏi Kinh Niên (Chronic Fatigue Syndrome) không phải là vấn đề mới lạ. Bệnh đã được mô tả từ thế kỷ thứ 19. Rồi trong thập niên 30 tới 50 của thế kỷ trước, có nhiều trường hợp bệnh xẩy ra tại các quốc gia trên thế giới. Vào năm 1980, sự lưu tâm tới hội chứng này tăng lên và đã có nhiều triệu người đi khám bác sĩ với than phiền luôn luôn mệt mỏi, không có sinh lực. Định nghĩa Hội chứng này được định nghĩa như tình trạng mệt mỏi kéo dài quá sáu tháng, gây ảnh hưởng xấu tới các sinh hoạt hàng ngày và không do một bệnh nào về thể xác gây ra. Đặc tính của tình trạng mệt mỏi là: a- Phải trầm trọng đến nỗi nghỉ và ngủ không làm thuyên giảm. b- Mệt mỏi không gây ra do làm việc hay tập dượt nặng nhọc. c- Mệt mỏi ảnh hưởng tới mọi công việc thường lệ. đ-Mệt mỏi phải là hiện trạng mới chứ không phải do một bệnh tật nào đó, và phải kéo dài liên tục. Hội chứng Mệt Mỏi Kinh Niên khá phổ thông nhất là tại các quốc gia kỹ nghệ cao. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu, hội chứng này vẫn được coi như là một bệnh kinh niên có nhiều điều chưa được sáng tỏ. Khác với các bệnh truyền nhiễm vì hội chứng không do một vi khuẩn rõ ràng nào gây ra. Không như bệnh tiểu đường, bệnh thiếu hồng cầu vì mệt mỏi kinh niên không thể đo lường. Lại chẳng như bệnh tim mạch vì phương thức trị liệu rất hiếm hoi. Bệnh có nhiều ở nữ giới hơn nam giới, trong khoảng tuổi từ 20 tới 50, thường thấy ở lớp người có kiến thức tương đối cao, khá hiểu biết về bệnh tật, có bảo hiểm sức khỏe và thường hay đi khám bác sĩ. Nữ giới có kinh kỳ bất thường bị chứng này nhiều hơn. Riêng đối với dân Mỹ, Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh cho hay cứ 100.000 người thì 3 người bị bệnh. Nguyên nhân Đã có nhiều thuyết được nêu ra để giải thích nguyên nhân của hội chứng này và các thuyết đều cho nó là tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau. Tuy vậy một số người trong y giới vẫn nghĩ rằng hội chứng chỉ là dấu hiệu của vài bệnh về tâm thần hay về thể xác, giống như sự thiếu hồng cầu, cao huyết áp trong một vài bệnh. Hầu như bất cứ một bệnh trạng kinh niên nào cũng gây ra mệt mỏi được như bệnh tiểu đường, u bướu giáp trạng, phong thấp khớp, viêm cơ tim, bệnh trầm cảm, lo âu. Sau đây là một số giải thích: 1- Thay đổi trong hệ thần kinh trung ương như viêm não, rối loạn sự điều hòa giấc ngủ, trung tâm kiểm soát căng thẳng, Cấu tạo dưới “đồi” (hypothalamus) bị xáo trộn; giảm chất cortisol hoặc hóa chất trung gian thần kinh. 2- Nhiễm độc đặc biệt là với các loại virus. 3- Suy yếu hệ thống miễn nhiễm phòng vệ cơ thể. 4- Ở một số người bị Mệt Mỏi Kinh Niên, huyết áp xuống thấp khi họ đứng lên. Nguyên do là có một thay đổi ở hệ thần kinh khiến nhịp tim chậm lại, huyết áp giảm, máu dồn xuống chân, gây ra chóng mặt, buồn nôn, ngất xỉu. 5- Sự suy yếu chung của các bắp thịt và hệ thống xương cốt cũng được nêu ra như một giải thích cho hội chứng. 6- Nhiều người đôi khi bị rối loạn hô hấp, hơi thở dồn dập, căng thẳng quá mức, có thể đưa đến ho suyễn, lo âu, tức ngực, tê đầu ngón chân tay vì mất thăng bằng giữa dưỡng khí và thán khí trong cơ thể. 7- Sau cuộc chiến vùng Vịnh năm 1990, nhiều cựu chiến binh Hoa Kỳ nhất là nữ giới bị hội chứng này. Sự việc được giải thích là sự căng thẳng cơ thể khiến máu lưu thông trên óc giảm, virus dễ xâm nhập và gây ra hội chứng. 8- Một số dược phẩm gây ra mệt mỏi như thuốc chữa bệnh cao huyết áp, đau nhức, thuốc tâm thần, thuốc trị dị ứng. Triệu chứng Việc chẩn đoán bệnh đều căn cứ vào lời khai của bệnh nhân về các dấu hiệu, y sử cá nhân, gia đình, các thuốc đang dùng. Ngoài sự mệt mỏi, hội chứng cần có ít nhất bốn hay nhiều hơn những dấu hiệu sau đây để được xác định bệnh: 1-Mất trí nhớ ngắn hạn, kém tập trung vào việc làm, sự học hay các sinh hoạt khác; 2- Đau cuống họng; 3- Nổi hạch ở nách và cổ; 4- Đau nhức các bắp thịt; 5- Một số khớp xương bị đau nhưng không sưng hay đỏ; 6- Nhức đầu trầm trọng; 7- Mệt mỏi rã rời suốt ngày sau bất cứ một gắng sức nào; 8- Ngủ không ngon giấc hoặc có nhiều nhu cầu ngủ hơn thường lệ. Ta cũng cần lưu ý là có nhiều bệnh có thể nhầm lẫn với hội chứng này như trầm cảm, nhiễm độc, mang thai, chứng mất ngủ, tâm thân thường xuyên căng thẳng, sử dụng sức lực quá đáng, tiếp xúc với hóa chất môi trường độc, nghiện rượu, ma túy và nhiều bệnh khác. Cho nên khi ta bị mệt mỏi kéo dài cả tháng không bớt thì cần đi tham khảo bác sĩ. Tương lai của người bị bệnh rất khó đoán. Có trường hợp trầm trọng khiến phải nằm liệt giường vì không còn sức di chuyển, sinh hoạt. Nhẹ hơn có người cũng nói là không hoàn tất chu đáo được công việc hàng ngày. Nhiều người than phiền làm việc mà tâm trí để ở đâu đâu hoặc không làm được việc có tính cách tỉ mỉ. Cũng có người cảm thấy tự cô lập, giảm sinh hoạt, rơi vào tình trạng trầm buồn, ưu phiền. Điều trị Điều đáng tiếc là cho tới nay chưa có phương thức điều trị nào được coi như hữu hiệu, đáng tin cậy để chữa hội chứng mệt mỏi mà chỉ có thể làm nhẹ bớt khó khăn ngõ hầu bệnh nhân có thể tiếp tục các sinh hoạt hàng ngày. Các lời khuyên về việc áp dụng một nếp sống lành mạnh với tập luyện cơ thể vừa phải, ăn uống cân bằng bổ dưỡng, giữ tâm thân an lạc, hoạt động vừa sức, tất cả đều có ích. Bác sĩ có thể cho dùng vài loại thuốc an thần, chống đau để làm bớt trầm cảm, đau đớn thể xác. Vài trung tâm điều trị khảo cứu có dùng mấy loại thuốc mới như Ritalin, Corticosteroid…Ta có thể xin bác sĩ gia đình giới thiệu tới các trung tâm này để dung thử. Ngoài ra, một số người bệnh còn tìm sự chữa trị ở các phương pháp khác như châm cứu, Đông y cổ truyền, thuốc ta. Có bệnh thì vái tứ phương là vậy. Nhưng nên đề phòng khi có người khoe khoang rằng họ có thuốc chữa dứt hội chứng,. Để khỏi rơi vào tình trạng tiền mất, tật mang. Chẳng hạn như là muốn khỏi bệnh chỉ nên dùng thuốc của họ. Rằng muốn hết mệt mỏi thì phải sinh hoạt thường xuyên với họ cũng như mua thuốc trực tiếp qua các cơ sở thương mại của họ, với giá tiền quá cao. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2011 5:27:03 GMT 9
Những Người Không Nên ăn Cay (Dân trí) - Với những fan của cay, món ăn hàng ngày chỉ cần thiếu vắng hoặc vị cay không được đậm đà là cảm thấy bữa ăn đó thật vô vị, tẻ nhạt. Họ có thể ăn cay “cháy cổ”, ăn đến “đỏ mặt, chảy nước mắt”…mà không mảy may chú ý đến nhu cầu sức khỏe. Do đó các nhà dinh dưỡng học khuyến nghị những trường hợp sau không nên ăn cay, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. 1.Những người mắc bệnh mạch máu não, cao huyết áp, viêm khí quản mãn tính, bệnh lao phổi. Những đối tượng này không nên ăn ớt hay bất kỳ chất cay nào. Bởi chất cay trong ớt sẽ kích thích tuần hoàn máu khiến tim đập nhanh. Nếu ăn quá nhiều chất cay trong một khoảng thời gian ngắn có thể làm tim hoạt động yếu hơn, thậm chí bị bầm dập do sức nóng trong chất cay tỏa ra, nếu không nguy hiểm đến tính mạng thì cũng làm bệnh tình ngày thêm trầm trọng, khó có thể điều trị tận gốc. 2. Những người mắc bệnh viêm dạ dày mãn tính, loét dạ dày, viêm thực quản. Do bề mặt dạ dày những người mắc bệnh bị thương tổn nặng vì tình trạng viêm nhiễm, lở loét nên khi ăn cay, dạ dày chịu sự kích thích đột ngột của chất cay sẽ co bóp dữ dội, gây ra hiện tượng đau bụng, đi ngoài… ảnh hưởng đến sự phục hồi chức năng tiêu hóa của dạ dày cũng như các cơ quan tiêu hóa khác. 3. Những người mắc bệnh viêm túi mật, sỏi mật, viêm tuyến tụy. Khi chịu kích thích của chất cay, dịch tiêu hóa trong dạ dày tiết ra ồ ạt, làm túi mật bị co thắt, miệng cơ vòng bị co giật mạnh dẫn đến dịch mật tiết ra gặp khó khăn từ đó gây ra viêm túi mật, sỏi mật, viêm tuyến tụy ảnh hưởng xấu cho sức khỏe. 4. Những người mắc bệnh trĩ Các tĩnh mạch quanh vùng trĩ (hậu môn) sẽ sưng tấy lên khi chịu kích thích từ các chất cay làm cho bệnh càng trở lên nghiêm trọng. Ngoài ra, ăn quá cay sẽ dẫn đến táo bón, lâu ngày sẽ mắc bệnh sỏi thận vô cùng nguy hại. 5. Những người mắc bệnh mắt đỏ, viêm giác mạc Cấm kị thức ăn cay đối với những đối tượng trên. Theo Đông y, hỏa lại thêm hỏa chẳng khác nào “đổ thêm dầu vào lửa”, làm bệnh tình càng trở lên trầm trọng. 6. Sản phụ, thai phụ Sản phụ và thai phụ không nên ăn ớt hay bất cứ loại chất cay nào để tránh hiện tượng miệng bị sưng dộp, táo bón, ảnh hưởng chất và lượng sữa cho bé. 7. Những người mắc các bệnh về thận Thận là “chiếc máy lọc” hữu hiệu của cơ thể, nhưng khi chiếc máy lọc này chịu sự tác động dữ dội của những chất cay có độ tàn phá lớn, những tế bào trong thận sẽ bị tổn thương nghiêm trọng, có thể làm suy yếu hoạt động và chức năng lọc của thận. Sẽ vô cùng nguy hại nếu thận hoạt động yếu, vì khi đó cơ thể sẽ không hấp thụ tốt các chất dinh dưỡng cũng như không thể “đào thải” những chất cặn bã ra khỏi cơ thể. 8. Người gầy Những người gầy thường mắc các chứng khô cổ họng, miệng đắng, phiền muộn, dễ nổi cáu… Ăn cay không những làm tăng các chứng bệnh trên mà còn dễ bị dị ứng, u nhọt… 9. Những người đang uống thuốc Cấm tuyệt đối ăn cay với những người đang dùng thuốc (Tây y cũng như Đông y) vì chất cay có thể làm giảm hiệu quả của thuốc cũng như gây ra những tác dụng phụ nguy hiểm. Khuyến cáo: ngay cả những người không mắc bệnh cũng không nên ăn quá cay. Theo điều tra, phần lớn những người mắc các bệnh: ung thư thực quản, ung thư dạ dày đều ăn cay quá nhiều trong một thời gian dài. Bạn có thể ăn cay nhưng ở mức độ vừa phải, chỉ là tô điểm cho bữa ăn của bạn mà thôi. Phạm Hằng
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 8:31:02 GMT 9
Câu chuyện thầy lang Bảo vệ sức khỏe trên du thuyền Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức Ngày 16 tháng 12, 2010 vừa qua Cơ Quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ CDC đã đưa ra một hướng dẫn về việc phòng chữa Cúm Hàng Năm cho du khách và thủy thủ đoàn trong các chuyến viễn du thăm viếng vùng đất lạ. Có bao nhiêu mầm bệnh theo mình lên thuyền này? (Hình minh họa: STR/AFP/Getty Images) Theo CDC, việc phòng chữa này là quan trọng, vì cơn dịch cúm thường xảy ra trong các chuyến hải hành. Phòng chữa vừa bảo vệ sức khỏe cho người có mặt trên tàu cũng như tránh việc mang bệnh tới các vùng mà những người này sẽ viếng thăm khi tàu cập bến. Trong những cuộc hải hành như vậy, sẽ có một số đông nhân sự thường xuyên chung sống với nhau trong một môi trường hầu như khép kín. Ðây là hoàn cảnh thuận lợi cho một số bệnh có thể dễ dàng lây lan như cảm cúm, bệnh đường hô hấp qua những giọt nước nội tiết nhỏ li ti chứa virus từ mấy người bệnh, lơ lửng bay trong không khí hoặc qua sự tiếp xúc trực tiếp giữa các cá nhân. Cũng lưu ý là cúm xẩy ra vào Mùa Ðông mà mỗi bán cầu có Mùa Ðông khác nhau. Cúm ở Bắc bán cầu thì Nam bán cầu bình an. Tuy nhiên trên du thuyền có thể có du khách từ bán cầu đang có cúm và mang virus gây bệnh. Trước khi khởi hành Ðể phòng ngừa bệnh cúm hàng năm, CDC nhắc nhở du khách và thủy thủ đoàn nên áp dụng các hướng dẫn như sau: 1. Chích ngừa cúm: Trẻ em từ 6 tháng tuổi cho tới người lớn đều cần chích ngừa vào 2 tuần lễ trước ngày khởi hành. 2. Nếu đang đau bệnh, nên hoãn chuyến hải hành để ở nhà điều trị và cũng để tránh lây lan bệnh cho người đồng hành trên tàu. 3. Áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình và người khác. Chăm sóc trên tàu Các dấu hiệu triệu chứng của bệnh cúm không có gì đặc biệt. Bệnh nhân có thể có vài dấu hiệu như nóng sốt với từng cơn ớn lạnh, đau nhức mình mẩy, sổ mũi hoặc nghẹt mũi, ho khan hoặc có đàm, đau họng, nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn, tiêu chảy... CDC đề nghị tìm hiểu tình trạng bệnh đối với mọi người lên tầu, từ thủy thủ đoàn tới du khách. Cá nhân nào bị nóng sốt hoặc dấu hiệu rối loạn hô hấp trong vòng 24 giờ đều được khuyến cáo là hoãn chuyến đi xa. Nếu vì hoàn cảnh nào đó mà vẫn muốn tham gia sẽ được nhân viên y tế để ý chăm sóc. Với thủy thủ, nếu có dấu hiệu cúm, họ phải báo cáo với cấp trên, tới bệnh xá khám bệnh, điều trị và sống riêng rẽ trong phòng cho tới khi hết bệnh. Khi trở lại với nhiệm vụ, họ vẫn cần áp dụng phương thức phòng tránh lây bệnh như là không tiếp xúc quá gần với du khách và đồng nghiệp, giữ gìn vệ sinh cá nhân, khi ho hoặc hắt hơi nên che mũi miệng với khăn lau hoặc cánh tay áo vì virus gây bệnh vẫn hiện diện trong cơ thể đến cả tuần lễ (nhiều nhất là ngày thứ 2 và thứ 3 của bệnh tình khi sốt cao nhất). CDC lưu ý thủy thủ mấy điểm sau đây khi chăm sóc du khách có dấu hiệu cúm: - Ðứng xa bệnh nhân ít nhất 6 feet (182 cm). - Thời gian tiếp xúc với bệnh nhân càng ngắn càng tốt. - Giới hạn số người khác tiếp xúc với người bệnh. - Không dụi tay lên mắt, mũi miệng để tránh virus xâm nhập cơ thể mình. - Rửa tay thường xuyên với xà bông, nước ấm sau khi chăm sóc người bệnh vì virus bị vô hiệu hóa inactivate bởi xà bông hoặc xoa rửa tay với dung dịch cồn (alcohol-based hand rubs). - Yêu cầu người bệnh mang khẩu trang. - Cung cấp khăn giấy cho bệnh nhân; hướng dẫn họ tới nơi có nước nóng, xà bông để rửa tay. Với du khách, các biện pháp tương tự cũng được áp dụng. Nếu nghi ngờ hoặc xác định bị cúm, bệnh nhân sẽ được cho dùng các loại thuốc chuyên biệt như oseltamivir hoặc zanamivir. Dược phẩm này cũng dùng để phòng tránh bệnh cúm đối với với các đối tượng có rủi ro mắc bệnh cúm như trẻ em dưới 2 tuổi, người lớn trên 65 tuổi hoặc người có bệnh tim, thận, hô hấp mãn tính. Nếu mới phục hồi hoặc đang điều trị một bệnh nào đó, nên liên lạc coi xem bệnh xá trên tàu có nhân viên và dụng cụ y khoa mà mình cần. - Nếu có khó khăn đi lại, nên thông báo cho ban điều hành tầu để được giúp đỡ khi lên xuống tàu. - Nếu đang dùng dược phẩm để trị bệnh, nên mang theo đầy đủ và thông báo cho bác sĩ trên tàu hay về tên thuốc và liều lượng. - Vì lý do an toàn, nhiều du thuyền không nhận trẻ em dưới 6 tháng và bà bầu ở thời gian cuối của thai kỳ. Xin lưu ý là trên nguyên tắc, mỗi du thuyền luôn luôn phải có: - Có một ban y tế với bác sĩ, nhân viên điều dưỡng có bằng hành nghề túc trực 24 giờ. - Một phòng cấp cứu. - Một giường bệnh cho mỗi 1,000 du khách và thủy thủ đoàn. - Một phòng cô lập dành cho bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm. - Trang bị đầy đủ dụng cụ cấp cứu, dược phẩm để chăm sóc bệnh nhân. - Phòng thí nghiệm nhỏ để làm các xét nghiệm căn bản như đếm tế bào máu, thử nước tiểu, phân tích hóa chất trong máu, chụp X-quang, tâm điện đồ. Các bệnh khác Ngoài bệnh cúm, một số bệnh khác cũng dễ dàng xuất hiện trong khối người khá đông và sống gần gũi nhau cả tuần lễ trong không gian nhỏ bé này như là: a. Bệnh tiêu chảy Còn gọi là cúm bao tử (stomach flu), bệnh tiêu chảy do tác nhân Norovirus gây ra với các triệu chứng chính là ói mửa và tiêu chảy, ngầm ngầm đau bụng, nóng sốt. Khi trầm trọng, bệnh có thể đưa tới khô nước, đặc biệt là ở người cao tuổi và trẻ em. May mắn là triệu chứng chấm dứt sau 2 hoặc 3 ngày. Bệnh lây lan qua việc phát tán virus trong không khí khi bệnh nhân hắt hơi, ho hoặc khi thực phẩm vì một sự bất cẩn nào đó, nhiễm phân người bệnh. Virus cũng có trên mặt bằng như bàn ghế, tay nắm cửa. Nếu ta sờ đụng vào các mặt bằng có virus đó rồi đưa tay dụi mắt, sờ mũi là lãnh bệnh. Cách phòng tránh hữu hiệu nhất vẫn là vệ sinh cá nhân: Rửa tay với xà bông và nước ấm hoặc dung dịch chứa alcohol; để ý giữ gìn vệ sinh ẩm thực. Nếu chẳng may mắc bệnh thì tới bệnh xá điều trị và tránh truyền bệnh cho người đồng hành. Lưu ý là bệnh vẫn còn khả năng gây lây lan 72 giờ sau khi hết bệnh. b. Bệnh ngoài da Viêm da và cháy nắng thường xảy ra khi đi cruise. Nên lau rửa vết trầy đứt trên da và dán band aid để tránh vi trùng xâm nhập. Tránh phơi trần quá lâu dưới ánh nắng, thoa kem chống nắng để tránh cháy da. Nhớ uống nước đầy đủ. c. Say sóng Say sóng hoặc say tàu bay, xe hơi là triệu chứng xảy ra ở một số người khi di chuyển bằng đường biển, đường bộ hoặc tàu bay. Ðây là hậu quả bất đồng phối hợp giữa các cơ quan trách nhiệm về sự chuyển động cơ thể như bộ phận giữ thăng bằng cơ thể ở tai trong, thị giác, thụ cảm thần kinh trên da thịt và não bộ. Dấu hiệu gồm có buồn nôn, ói, chóng mặt, đổ mồ hôi, da nhợt nhạt. Nhiều loại dược phẩm như các antihistamine giúp giảm thiểu các triệu chứng này mà ta có thể xin ở bệnh xá. Ngoài ra, có thể áp dụng các điều sau đây: - Ở vùng giữa hoặc đầu tàu vì nơi đây, tàu ít bị dao động do sóng nhồi. - Nằm hoặc ngồi ngả mình để giảm thiểu chuyển động của đầu và thân mình. - Giảm hoạt động thị giác, tránh đọc sách hoặc nhìn vào vật đang di động. Ngược lại, tập chung nhìn vào vật đang chuyển động. - Tránh ăn quá no và nên ăn làm nhiều bữa nhỏ. - Ngồi nơi thoáng khí, tập trung vào một trò chơi giải trí nào đó để không bị ám ảnh với sóng vỗ. Kết luận Trên đây là những rủi ro thấy rõ. Còn phải kể thêm một rủi ro cho sức khỏe có tiềm năng gây hại không kém phần xấu mà đa số khách lãng du xa chân lỡ bước dính vô. Ðó là tăng trưởng kích thước vùng mông vùng bụng với dăm bẩy kí lên cân, cơ thể trở nên bệ vệ, hồng hào phốp pháp. Số là trong mươi mười lăm ngày lênh đênh sóng nước, chúng ta sống bên cạnh một núi thực phẩm giàu năng lượng đủ loại. Nào là filet mignon, tôm hùm, cua mập, sườn heo, gà đùi béo ngậy. Lại còn ice cream, sữa tươi nhiều chất béo, bánh ngọt ê chề, pizza hấp dẫn. Mỗi ngày dăm bẩy lần vợ chồng bè bạn rủ nhau ghé qua nhà hàng nổi thưởng thức dăm ba ly cà phê sữa, một vài đĩa thực phẩm. Rồi về phòng gọi là thư giãn nghỉ ngơi thủ thỉ tâm sự. Nại cớ là để lấy sức, khi hết hải hành về kéo cầy trả nợ cruise. Thế là lên cân lên kí. Và tự nhủ tự hứa “chỉ ăn bữa nay, bữa mai cắt giảm”. Nhưng “no bụng đói con mắt”, ngày mai lại quên điều hứa hôm qua!!! Thôi thì để về nhà ta vận động thể thao, tiết chế ăn uống. Ở đây thực phẩm quá ngon. Không ăn cũng phí của trời!!! Bác Sĩ Nguyễn Ý Ðức M.D.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 2:56:29 GMT 9
Cách Dùng Insulin
Vietsciences-Nguyễn Ý Đức
Insulin giúp cơ thể chuyển đường thành năng lượng và đưa đường không dùng đến vào gan và bắp thịt để dự trữ. Khi insulin thiếu, không có, không công hiệu, thì đường sẽ tràn ngập trong máu, một số sẽ được thải ra ngoài theo nước tiểu. Insulin nguồn gốc động vật như từ tụy tạng của bò và heo. Tại Hoa Kỳ, insulin từ bò/ heo không còn được dùng. Thay vào đó là insulin đựơc sản xuất từ vi khuẩn, nấm qua kỹ thuật biến chế DNA. Các loại Insulin Có khoảng hơn 20 loại insulin, tùy theo tác dụng nhanh hay chậm, kéo dài hay tức thì. Năm loại thường dùng là: 1-Tác dụng mau (rapid onset-fast acting): Dung dịch trong, có tác dụng 15 phút sau khi chích, do đó phải ăn ngay sau khi dùng. Công hiệu kéo dài khoảng từ 3 đến 4 giờ. Thí dụ Humalog. insulin glulisine 2-Loại tác dụng ngắn hạn (Short acting): thuốc trong, có công hiệu độ nửa giờ sau khi chích, kéo dài từ 6 đến 8 giờ, cao nhất là giữa 2 và 4 giờ. Thường chích ½ giờ trước khi ăn. Thí dụ Actrapid, Humilin. 3- Tác dụng trung bình (intermediate-acting) mầu đục, có tác dụng từ 1 dến 3 giờ sau khi chích và kéo dài tới 10-14 giờ. Thuốc thường được cho thêm kẽm (zinc) hoặc Protamine để kéo dài công dụng. Thí dụ Humilin NPH, Protaphane Humulin I, Insulatard. 4- Tác dụng dài hạn (Long-acting). Sau khi chích, phải đợi tới 4- 6 giờ mới bắt đầu có tác dụng nhưng công hiệu kéo dài từ 20 tới 24 giờ. Công hiệu tối đa là lúc 6 tới 8 giờ sau khi chích. Thí dụ insulin zinc suspension, protamine zinc insulin 5-Hỗn hợp của insulin có tác dụng ngắn hạn hoặc tác dụng mau với insulin có tác dụng trung bình theo tỷ lệ 30/70 hoặc 50/50. Thí dụ NovoMix 30, Humulin M3. Khi dùng, nhớ lắc chai cho insulin hòa đều với mhau. Cách dùng insulin Trước khi dùng, cần đo nhiều lần và ghi mức độ đường trong máu để bác sĩ biết mà ra toa số lượng cần thiết. Thường thì người bệnh cần chích ít nhất hai lần một ngày, có người cần đến ba bốn lần chích mới đủ để kiểm soát đường trong máu. Sau đầy là một phương án: a-Ngày chích 2 lần với insulin có tác dụng ngắn hạn hoặc trung bình; trước điểm tâm và bữa cơm tối. Insulin ngắn hạn giúp kiểm soát đường vào buổi sáng và chiều tối. Insulin trung bình cho buổi chiều và qua đêm. b-Ngày chích 3 lần với insulin ngắn hạn cho buổi sáng và trước cơm chiều, insulin trung bình cho ban đêm. c-Ngày chích nhiều lần với insulin ngắn hạn trước bữa ăn chính và insulin trung bình trước khi đi ngủ. Hiện nay, có máy bơm insulin (infusion pump) được xử dụng rất phổ biến. Bơm liên tục đưa vào da một lượng insulin nhỏ đủ để duy trì đường huyết bình thường đồng thời có thể tự điều chỉnh để gia tăng insulin tùy theo nhu cầu, nhờ đó ta có thể ăn uống tự do hơn một chút. Ngoài ra insulin dạng hít (inhalation) cũng đang đựoc sử dụng và cũng khá công hiệu. Dùng insulin nhiều quá thì đường huyết sẽ xuống quá thấp, người bệnh bị phản ứng insulin mà triệu chứng là: nhức đầu, tim đập nhanh, người run rẩy, mệt mỏi, mất định hướng, đổ mồ hôi, buồn nôn, đói bụng, đôi khi bất tỉnh, làm kinh, hôn mê. Khi mới dùng insulin thì bác sĩ sẽ hướng dẫn bệnh nhân cách thay đổi liều lượng. Sau một thời gian, đã quen với tình trạng bệnh của mình thì bệnh nhân có thể tự tăng giảm thuốc. Thường thường thì gia tăng insulin ngằn hạn khi ăn nhiều hơn thường lệ và ít vận động; giảm insulin này khi ăn ít hơn và làm nhiều việc lao động chân tay. Kỹ thuật chích insulin Bệnh nhân sẽ được chuyên viên y tế hướng đẫn về cách thức sử dụng và kỹ thuật chích. Sau đây là ít điều cần nhớ: 1- Insulin có nhiều loại khác nhau với công dụng khác nhau. Không nên tự động thay đổi mà không tham khảo ý kiến bác sĩ trước. 2- Insulin giữ trong tủ lạnh sẽ dùng được lâu hơn đồng thời cũng tránh được nhiễm trùng. Khi đã dùng dở thì có thể để ngoài tủ lạnh được một tháng nhưng tránh chỗ nóng và có ánh nắng mặt trời. Không bao giờ cất insulin trong ngăn đá hoặc làm ấm trong microwave. 3- Kiểm soát nhãn hiệu trên lọ insulin cho đúng loại. Vứt bỏ insulin short-acting nếu nom thấy đục hoặc đặc sệt. Các insulin khác bình thường nom đều như sữa, không lợn cợn đóng hột. Trước khi hút thuốc vào ống chích, lăn chai thuốc trong lòng bàn tay cho dung dịch hòa đều, ngoại trừ với insulin short-acting. Đừng lắc lọ thuốc quá mạnh vì bọt khiến cho lượng thuốc hút vào không chính xác. 4- Trước khi lấy thuốc, kéo ống chích lên để không khí vào ống chích bằng với phân lượng insulin, cắm kim vào lọ, bơm không khí vào rồi hút thuốc. 5- Mua ống chích tùy theo loại insulin và phân lượng chích. Nên dùng ống chích của một nhà sản xuất để số lượng insulin mỗi lần rút ra được đồng đều. Mặc dù không được khuyến khích, nhưng khi dùng lại kim ống chích cũ thì nên chùi kim cho sạch với rượu cồn hoặc đun trong nước sôi độ dăm phút. Cũng không nên dùng đi dùng lại nhiều lần quá. 6- Nơi chích thuốc thường là trên bụng (hiệu lực mau nhất), mông, mặt trước của đùi (hiệu lực chậm nhất), mặt sau của tay (hiệu lực trung bình). Nói chung: insulin ngắn hạn ở bụng; insulin trung bình và dài hạn ở đùi; insulin hỗn hợp ở cả đùi lẫn bụng. Thay đổi chỗ chích để tránh tổn thương và sẹo dầy cho tế bào mỡ ở vùng đó, cản trở hấp thụ thuốc. 7- Trước khi chích, lau sạch da bằng cồn. Với hai ngón tay, kep nổi lên một nếp da. Kim chích nghiêng 90 độ, chích vảo nếp da. Trước khi bơm thuốc, kéo nhích piston coi có máu không. Nếu không có máu thì bơm thuốc vào, còn khi có máu thì chích lại. Sau khi chích, thoa nhẹ trên da chỗ chích để thuốc mau phân tán. Tránh chích nơi da bị nhiễm độc hoặc bị dị ứng, nổi ban đỏ. 8- Insulin có thể gây dị ứng với nhiều người bệnh hoặc nếu ai dị ứng với thịt bò, thịt heo thì không được dùng insulin từ súc vật này. 9- Vì là dược phẩm, cho nên insulin có tương tác với một số dược phẩm khác, vì thế cần cho bác sĩ rõ là mình đang dùng thuốc nào, để làm gì. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 19, 2011 2:58:31 GMT 9
Sớm Khám Phá Ung Thư Ruột Già
Vietsciences- Nguyễn Ý Đức
Từ năm 2000, tháng Ba mỗi năm đã được các tổ chức chống ung thư tại Hoa Kỳ chọn là tháng để bà con ”đề cao cảnh giác” với bệnh ung thư Ruột Già-Trực Tràng và nhớ yêu cầu bác sĩ làm các xét nghiệm để sớm tìm ra bệnh. Thống kê cho biết, năm 2008, có 139,000 người lớn tại Hoa Kỳ được chẩn đoán bị ung thư ruột già với hơn 50.000 tử vong. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, phân nửa số tử vong này có thể được cứu sống nếu mọi người hiểu rõ bề bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn. Các thử nghiệm sàng lọc này có thể sớm nhận diện bướu thịt (polyp) đáng ngại hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh hiểm nghèo. Vậy thì những thử nghiệm đó là gì và được thực hiện như thế nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu. 1-Khám hậu môn với ngón tay Thử nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn để coi mặt trong ruột có trơn tru, có cái u cái mụn nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào bao cao su. Với chiêu thức ngoáy tay, thầy thuốc cũng kiểm tra coi cái tuyến tiền liệt của các ông xem có sưng, có gồ ghề. Với vài giọt hóa chất, thầy thuốc thử phân coi có vết máu. Thử nghiệm này rất giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích thì “thần sầu”. Thần sầu vì có thể giúp ta sớm tìm ra những 10% nan bệnh, sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh. Do đó, ta nên làm mỗi năm. Nếu thử nghiệm thấy có máu thì thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào trong ruột 2-Tìm máu ẩn trong phân Trong điều kiện bình thường, phẩn không có máu và đàm. Phẩn có máu là dấu hiệu của một bệnh nào đó của ống tiêu hóa. Máu có thề đỏ tươi, bầm đen hoặc nâu sẫm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu môn. Gần (trực tràng, trĩ) thì đỏ, xa (ruột non, bao tử) thì bầm vì đã bị vi khuẩn biến thành hóa chất hematin có mầu đen. Máu đỏ tươi thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da chung quanh hậu môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng. Máu bầm đen trong các bệnh loét dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu. Số lượng máu có thể nhiều hoặc ít như trường hợp máu ẩn (occult blood). Máu ẩn có rất ít trong phẩn mà mắt thường không thấy và chỉ tìm ra được khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học. Nguồn gốc máu ẩn có thể từ loét viêm dạ dày, viêm đường ruột, trĩ, ung thư hoặc polyp trong ruột già. Để thử nghiệm, phẩn được lấy trong ba ngày liên tiếp và đựng trong hộp đặc biệt do phòng thí nghiệm cung cấp. Giao hộp phẩn cho phòng thí nghiệm để họ tìm máu. Ba ngày trước và trong thời gian lấy phẩn, bệnh nhân cần theo hướng dẫn như sau: -Tránh dùng vitamin C hoặc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa sinh tố này như chanh, cam vì sinh tố này cho kết quả dương tính sai. -Tránh ăn nhiều thịt đỏ có nhiều heme, thực phẩm có nhiều enzym peroxidase như nấm, broccoli, giá đậu, sú lơ, táo, cam, chuối, dưa cantaloupe, nho. Các chất này có thể làm cho kết quả thử nghiệm dương tính sai -Nên ăn thực phẩm có nhiều chất xơ như đậu, rau để khối phẩn mềm lớn. -Tránh thuốc kích thích dạ dày, ruột gây ra xuất huyết như thuốc chống acit, thuốc có chất steroid, thuốc chống viêm đau có chất aspirin, rượu. -Tránh uống sinh tố có chất sắt. Kiếm máu ẩn trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm. Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột. Thí dụ khi dùng thuốc aspirin, ibuprofen, trong bệnh loét dạ dày, viêm ruột…Đo đó, bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với phương pháp nội soi, quan sát đường ruột. Giới chức y tế đề nghị tìm máu ẩn trong phẩn mỗi năm một lần. 3-Nội soi ruột già Có người ví Nội soi ruột già là tiêu chuẩn vàng (golden standard) để sàng lọc ung thự ruột già-trực tràng. Đây là phương pháp khảo sát mặt trong của toàn thể trực tràng với một ống dây quang học bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy chụp hình. Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột và mao tôn cương: qua đèn, nhìn ruột rõ như ban ngày, nào là gồ ghề bướu thịt, loét lở thành ruột, bê bết máu tươi đều thấy hết, ngoại trừ bầy vi sinh vật lúc nhúc cộng sinh. Nhắc lại là trong trường hợp bình thường, lòng ruột già trơn mềm như mặt trong của má. Hình ảnh ruột được chiếu trên màn hình TV để phân tích và có thể lưu trữ. Nội soi được làm tại bệnh viện hoặc phòng nội soi ngoại chẩn, trung bình kéo dài từ 30-60 phút và do bác sĩ chuyên ruột-bao tử thực hiện. Bệnh nhân được cho dùng liều thuốc an thần để giảm lo âu, khó chịu, do đó cần người lái xe đưa về nhà sau khám nghiệm. Trước khi làm nội soi, bệnh nhân được cho thuốc tẩy rửa ruột sạch sẽ để bác sĩ dễ quan sát. Đây là điểm mà nhiều người e ngại vì phải uống một lọ thuốc xổ cộng thêm 3 lít nước để rồi tiêu chẩy soèn soẹt. Hiện nay có thuốc tẩy rửa dạng viên cho nên việc sửa soạn ít khó chịu hơn. Một ngày trước thử nghiệm, bệnh nhân không ăn thực phẩm mà chỉ uống nước trong không bã. Nếu thử nghiệm vào buổi sáng, không ăn uống gì sau nửa đêm. Nếu là buổi chiều thì uống thuốc tẩy xổ theo đúng hướng dẫn. Không nên uống aspirin hoặc thuốc chống viêm 5 ngày trước thử nghiệm để tránh nguy cơ xuất huyết khi polyp được cắt bỏ. Cho bác sĩ hay nếu có vấn đề dị ứng, uống thuốc loãng máu, đang bị bệnh tiểu đường, có thai, cho con bú sữa mẹ hoặc khó khăn chích tĩnh mạch. Sau thử nghiệm, bệnh nhân cảm thấy tưng tức ở bụng, nhưng hết sau vài giờ. Dăm giờ sau thử nghiệm, bệnh nhân có thể ăn lại như thường lệ. Mục đích của nội soi gồm có: -Đánh giá các u bướu, loét lở, thu hẹp lòng ruột già khi chụp hình X-quang ruột; -Chẩn đoán viêm ruột; -Tìm nguyên nhân gây ra tiêu chảy khi các thử nghiệm thông thường không thành công; -Tìm nguyên nhân xuất huyết đường tiêu hóa, đặc biệt trong bệnh thiếu máu do thiếu sắt; -Chẩn đoán ung thư ở người có thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt; -Cắt bỏ bướu thịt, chữa xuất huyết ruột hoặc lấy vật lạ trong ruột. Nội soi được áp dụng khi có một trong các bất thường như thay đổi thói quen đại tiện, máu trong phẩn, đau bụng liên tục, người từ 50 tuổi trở lên. Hội Ung Thư đề nghị những ai trên 50 tuổi nên làm nội soi ruột già mỗi 7-10 năm. Người có rủi ro ung thư ruột già cần thực hiện sàng lọc này gần hơn, tùy theo ý kiến của bác sĩ điều trị. Bình thường, phương pháp rất an toàn, hãn hữu lắm mới có khó khăn như lủng ruột. Nếu có u bướu, bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết (biopsy) để xác định tế bào ung thư, chụp x-quang xương, CT scan…rồi điều trị. Mặc dù nội soi ruột là phương thức sàng lọc hữu hiệu, nhưng số người thực hiện cũng khá khiêm nhường. Lý do là nhiều người ngại đau, ngại phải uống thuốc tẩy sổ để làm sạch ruột và lý do quan trọng hơn là chi phí nội soi khá cao. Nếu bảo hiểm không đài thọ thì bệnh nhân phải bỏ tiền túi ra trang trải. 4-Nội soi trực tràng Một dụng cụ đơn giản hơn máy nội soi ruột già là máy nội soi ruột sigma (sigmoidoscope) được dùng để quan sát phần dưới của ruột già và trực tràng. Khoảng 50% ung thư hoặc bướu thịt xuất hiện ở phần trên ruột già. Một ống mềm uốn cong, đầu có gắn máy thu hình nhỏ với đèn được đưa vào hậu môn. Qua thiết bị, bác sĩ quan sát phần dưới ruột già và trực tràng để tìm ra bất thường. Coi vậy ta thấy có nhiều cách để sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già, nhưng căn bản chỉ có hai loại được giới chức y tế khuyên cần làm theo định kỳ: Đó là tìm máu ẩn trong phẩn (Fecal occult blood test) và nội soi ruột già (Colonoscopy screening). Kết luận Theo bác sĩ Durado D. Brooks, Giám đốc khoa ung thư nhiếp tuyến và ruột già thuộc Hội Ung Thư Hoa Kỳ thì “Ung thư ruột già là một trong những ung thư duy nhất có thể phòng tránh qua khám nghiệm đều đặn”. Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng có cùng ý kiến. Ngoài ra nghiên cứu cho hay, 90% người được sàng lọc khám phá ra ung thư ruột già sớm có tỷ lệ sống sót 5 năm, trong khi đó nếu khám phá trễ số người sống sót còn có 10%. Do đó, các giới chức y tế đều nhắc nhở dân chúng để ý tới dấu hiệu báo động của bệnh, cấp kỳ thông báo cho bác sĩ và làm các thử nghiệm sẵn có đề truy tìm “ung tặc”, càng sớm càng tốt. Điều đáng ngại là, theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, chỉ có 30% người được khuyến khích làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh chịu thực hiện lời khuyên. Đó là điều đáng tiếc vậy.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 2:45:11 GMT 9
Cách chữa Ung Thư Phổi kết hợp giữa Tây Y, Đông Y và Khí Công BS.Do Duc Ngoc Hỏi: Chào Thầy, Con xin tự giới thiệu con tên là Trí sinh ngày 1979 – hiện ở tại thành phố Sài Gòn. Hiện tại ba con đang bị ung thư phổi giai đoạn 4, đã tiến hành phẫu thuật và đang đợi trị liệu hóa chất. Con rất lo lắng cho sức khỏe của ba, tình cờ con đã tìm được bài viết hướng dẫn của thầy qua Internet (phương pháp chữa bệnh ung thư phổi theo Tinh – Khí – Thần). Xin thầy cho con hỏi ba con có thể luyện tập theo phương pháp này được không ? Hay còn cách nào khác mong thầy giúp đỡ. Mong thư thầy! Trả lời: A-Nguyên nhân: Theo kinh nghiệm chữa bệnh của môn Khí Công Y Đạo, các loại ung thư có 3 đặc điểm: 1-Thuộc loại bệnh thiếu khí huyết mãn tính trầm trọng, khi đo áp huyết chính là đo khí và huyết trong cơ thể đủ hay thiếu theo tiêu chuẩn lứa tuổi như sau: 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi (5 tuổi-12 tuổi) 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi) 110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi) 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) Do đó khi ở tuổi càng lớn, áp huyết xuống thấp càng nhỏ chỉ đủ khí huyết nuôi một đứa trẻ, dĩ nhiên những tế bào trong cơ thể thiếu máu nuôi dưỡng sẽ bị hư hoại trở thành những tế bào ung thư, lúc đó đo áp huyết khoảng 80-90mmHg, nên xét nghiệm tế bào ung thư là những tế bào không mang vi trùng virus và không lây. 2-Nguyên nhân thiếu máu, do ăn uống kiêng khem, và không ăn những chất làm bổ máu, ngược lại còn ăn những chất phá hủy công thức máu đỏ là oxyde sắt tam Fe2O3 như các chất chua có acide như chanh cam, bưởi, dứa.., phân tử Hydro trong acide trung hòa với Oxy trong công thức máu trở thành nước, và công thức máu chỉ còn lại chất Sắt Fe2, do đó khi đo áp huyết sẽ bị tụt thấp, hoa mắt chóng mặt, loãng máu gây nên xuất huyết ở mũi và nội tạng ra máu bầm vì thiếu oxy, lúc đó Tây Y thử máu phát hiện ra bệnh ung thư. Do ăn những chất chua, hàn lạnh, nên không đủ nhiệt lượng 41 độ trong bao tử để nhồi bóp thức ăn cho chín nhừ và ở dạng lỏng để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, nó sẽ là chất sền sệt nên chuyển hóa thành đàm theo máu làm thành ung bướu đàm trong bao tử, ổ bụng, đường ruột… còn ung thư phổ là trong các xoang phổi bị ứ kết đàm thành khối khiến khó thở, ho khạc mà không được, khi chụp hình phổi sẽ thấy được những khối u này trở thành những tế bào ung thư. 3-Nguyên nhân do không vận động lười tập luyện thể dục thể thao, đánh cầu, bơi lội, võ thuật, cơ thể thiếu Oxy và nhiệt lượng, khiến chức năng hoạt động của cơ thể suy nhược. Như vậy là cơ thể vừa thiếu huyết do ăn uống, vừa thiếu khí Oxy để chuyển hóa và bảo vệ duy trì công thức máu và giúp máu thúc đẩy tuần hoàn đem máu đi nuôi đầy đủ các tế bào trong cơ thể, là nguyên nhân làm hủy hoại tế bào trở thành tế bào ung thư… B-Cách chữa theo Tây Y: Chữa bằng mổ, hóa trị xạ trị vào khối u, nhưng nguyên nhân gốc là cơ thể suy nhược không đủ máu nuôi dưỡng tế bào lành, tế bào nào thiếu máu nuôi dưỡng lại trở thành tế bào ung thư, nên diệt khối u này còn những khối u khác phát sinh do không nâng thể lực bệnh nhân như tăng khí tăng huyết. Tăng huyết thì Tây Y tiếp máu, nhưng Tây Y không nghĩ là cơ thể cần máu, chỉ tiêu diệt tế bào ung thư, giết tế bào là chính giết chủ nhân của nó là con người không chịu nổi trong tiến trình trị liệu thì sẽ chết. Còn Tây Y cũng biết tiêu diệt tế bào ung thư cần Oxy liệu pháp mới có kết qủa thì chưa tìm ra phương pháp, nên vẫn thất bại. Khi tái phát gọi là di căn là áp huyết chưa lên đủ 130, vẫn có ở mức thiếu khí huyết 100, điều này Tây Y không để ý. Vì khi so sánh lúc bệnh áp huyết 70-80, khi lên hơn 100 là có chiều hướng khỏi bệnh, còn dứt bệnh hoàn toàn như người khỏe mạnh không tái phát phải duy trì áp huyết ở mức 125-135 thưỡng trực. Còn khi đang chữa, áp huyết xuống thấp dần thì sự sống ngắn dần đến 70 thì thoi thóp tắt thở vì cơ thể không còn khí để tuần hoàn máu, cơ thể lạnh dần, lịm vào trong giấc ngủ sâu. B-Cách chữa bằng thuốc theo Đông Y: Chúng ta nghiên cứu kinh nghiệm của một bệnh nhân đã bị ung thư phổi sau khi trị liệu theo Tây Y, đổi sang Đông Y: Toa Thuốc Trị Bệnh Ung Thư Phổi của Ông Đỗ Văn Tám 1/ Bạch Hoa Xà Thảo 2 Lượng 2/ Linh Chi 2 L 3/ Quy Thân 2 Chỉ 4/ Đại Táo 3 Trái 5/ Nhãn Nhục 2 Chỉ 6/ Kỷ Tử 3 Chỉ 7/ Bạch Thược 3 Chỉ 8/ Xích Thược 2 Chỉ 9/ Cam Thảo 2 Chỉ Tôi bị bệnh đang điều trị tại bệnh viện Swedish, Seattle thời gian cũng khá lâu, gồm có Chemo (Hóa Trị) 5 lần chính thức và 4 lần phụ, ròng rã 7 tháng chạy điện xạ trị (Radiation). Nay Hóa Trị và Xạ Trị đã hoàn tất, đã ngưng. Các bác sĩ cho biết bệnh trạng của tôi rất tốt theo ý bác sĩ trị bệnh là 100%. Tôi xin nói với các bạn bị bệnh giống như tôi, tại sao đang trị Tây Y mà còn dùng Đông Y. Tôi đang làm Hóa Trị lần thứ 3, 4, 5 thì tôi bị kiệt sức bỏ ăn uống gần 1 tháng, mỗi ngày chỉ uống 4 chai sữa Ensure. Ở gia đình nấu thức ăn ngon lắm mà tôi ăn không được, đồ ăn vào miệng là muốn ói ra nên tôi bỏ các thức ăn vào thùng rác. Tất cả người thân từ Cali, Hawaii và bạn bè đến thăm, các bác sĩ cũng khuyên tôi ráng ăn uống, nhưng tôi nghĩ tôi không thoát được căn bệnh này. May mắn tôi có người Dì từ Hawaii đến thăm nói bên đó có 1 bà cũng bị ung thư phổi như tôi bị bác sĩ chê, chỉ chờ chết. Chị này không thấy cam lòng nên tìm về Việt Nam tìm thầy chữa bệnh, may thay chị gặp được thầy Đông Y trị cho hết bệnh, nên trước khi về lại Hawaii chị mua 10 thang, bà Dì tôi mua lại và mang sang cho tôi, tôi uống được 3 thang thì người tôi xổ ra những chất độc mầu đen ngừ như nhựa đường, sau đó tôi thấy đói bụng và thèm ăn, nhờ vậy tôi sống đến ngày hôm nay. Thuốc Đông Y với thuốc Tây uống chung KHÔNG bị công phạt (mỗi lần đi Chemo (Hóa Trị) và Radiation (Xạ Trị) tôi nấu thuốc Nam uống liền) Tôi đem gói thuốc Bắc nhờ phân chất, và tôi đã uống trên 60 thang. Hiện giờ bác sĩ tìm trong người tôi không còn vi trùng (tế bào) ung thư nữa. C-Cách chữa theo Khí Công Y Đạo: Chữa theo Tinh-Khí-Thần: Một nam bệnh nhân người Quebec 65 tuổi bị ung thư phổi, khó thở, đau tức nhói ngực, hàng tuần vẫn đi trị liệu định kỳ ở bệnh viện, bệnh càng ngày càng trở nặng cơ thể suy nhược, áp huyết thấp dần. Tinh: Theo cách chữa của Đông Y khí công khuyên bệnh nhân về ăn uống: Nên chọn những thức ăn làm cho cơ thể tăng áp huyết tăng nhiệt, như gừng, hạt tiêu, thức ăn uống bổ máu như thịt đỏ, cà rốt, củ dền đỏ, hành, tỏi, ba rô, xả, những thức uống tiêu đàm bướu như nước trà gừng, vỏ quýt khô, mật ong, uống sau bữa cơm thay trà. Tránh những thức ăn uống làm mất máu, thức ăn làm hạ nhiệt và tạo thêm đàm như kem, sữa, yaourt, nước đá, cam, chanh, dừa, Ensure… Cần uống thêm B12 dạng nước. Tất cả những thức ăn hàng ngày phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết ở hai bên tay trước và sau khi ăn 30 phút, xem những thức ăn hôm đó có làm tăng áp huyết không, nếu làm tăng áp huyết lên thì đúng, còn nếu làm hạ áp huyết dưới tiêu chuẩn càng xa thì món ăn hôm đó đã làm cơ thể không có đủ năng lượng lại còn mất thêm năng lượng làm bệnh nặng thêm. Khí: Đặc biệt môn Khí Công Y Đạo có cách trục những bướu trong phổi ra khỏi cơ thể nhanh hơn là Tây Y. Đó là bài thở Thông Cột Sống. Tôi cho bệnh nhân nằm úp, đầu ló ra ngoài đầu giường, cột sống cổ và lưng thẳng. Tôi cho cầm một khăn giấy lau tay lớn và bảo ông, khi tôi ấn đè bàn tay trên lưng và ép gót chân của ông vào mông, thì ông khạc mạnh đàm trong phổi ra theo từng nhịp ấn đè lưng của tôi. Tôi đứng trên bục kê cạnh giường cho cao hơn lưng của ông, một tay cầm cổ chân phải của ông, đầu gối dang hình con ếch, để khi ấn đè gót chân của ông vào mông không bị đau trật gân đầu gối, phần chính là bàn tay trái của tôi đặt trên lưng cùa ông vùng thận ngang thắt lưng. Tôi nói: Khạc đàm khi tôi ấn đè bàn tay trái cho lưng ông hơi lõm xuống rồi thả ra, để có thể thấy lưng ông xẹp xuống khi khạc ra, phồng lên khi khạc xong. Thay vì để bệnh nhân tự khạc, không ấn đè lưng thì bệnh nhân chỉ khạc được đàm ở nơi cổ họng, nhưng lúc đó thăn cơ ở lưng bụng ruột gồng cứng lại, khác với cách này ở chỗ, lợi dụng khi bệnh nhân đang há họng khạc thì ấn đè lưng tạo khí ép từ sâu trong bụng đẩy bướu đàm theo họng trong phổi ra ngoài, cứ mỗi chân ấn đè 36 lần bàn tay trái di chuyển dần dần lên phổi, chúng ta nghe được đàm khạc ra ở họng khò khè, xuất ra từng khối cục to, ông vất giấy đó đi, lấy tờ khăn giấy khác tiếp tục ấn đè cho đủ 36 lần, chúng ta nghe thấy hơi thở vào sâu trong bụng mà khi khạc ra không có tiếng đảm khò khè nữa. Cứ mỗi tuần ông đến, tôi lại dùng cách này lấy đàm ra. Sau khi lấy đàm ở sâu trong các xoang phổi ra, thì ông thấy thở khỏe, dễ dàng. Tôi dạy ông thở Đan Điền Thần khi áp huyết ông thấp, thở ở Đan Điền Tinh khi áp huyết của ông cao. Tôi đưa cho ông cây bút bảo ông cầm đề ấn đầu bút vào huyệt Trung Quản giữa bụng, trung điểm đoạn thẳng từ mỏm xương ức đến rốn, cuốn lưỡi ngậm miệng, nhắm mắt, thở bằng mũi tự nhiên, chỉ cần theo dõi khí huyết chuyển động dưới huyệt Trung Quản trong 30 phút, để tăng nhiệt tăng tính co bóp, hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất lỏng mà không biến thành đàm. Sau đó hướng dẫn ông tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần làm tăng thân nhiệt, áp huyết, khi ông bỏ 2 chân xuống nghỉ, miệng vẫn ngậm, bàn tay tôi bôi dầu Menthol pha Camphre đặt vào mũi của ông, lúc đó bụng ông đang thở như sóng nhồi khí, do sau khi tập Nạp Khí Trung Tiêu, khí chỉ thông theo mũi ra vào rất mạnh, ngửi phải mùi này, thông vào đến phổi để sát trùng đường phổi. Sau 2 tháng, người ông khỏe mạnh hồng hào, lên cân, thở dễ. Ông báo tin mừng, các xét nghiệm máu và chụp phổi thấy các bướu biến mất không còn dấu vết, nên được ngưng chữa trị theo Tây Y, và bây giờ ông vẫn tiếp tục tập khí công để tăng cường Oxy và hồng cầu giữ cho cơ thể lúc nào cũng đầy đủ khí huyết phòng chống bệnh tật. Thần: Mỗi tối trước khi đi ngủ 30 phút, nằm tập thở thiền ở Đan Điền Thân làm tăng thân nhiệt, Oxy, hồng cầu, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu mà không biến thành đàm, giúp thở dễ, an thần, ngủ ngon, theo đúng châm ngôn của cổ nhân, một cơ thể không bệnh tật thì phải đạt được những điều kiện: Ăn được ngủ được là tiên.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 10:43:58 GMT 9
Bạn biết gì huyệt Sinh Lý ? Huyệt Nội Quan Được giải oan tội hiếp dâm nhờ một huyệt đạo ở tai Nhờ kiểm tra một huyệt đạo ở tai, lương y Phạm Thị Hồng phát hiện một phạm nhân nam bị kết tội hiếp dâm thực ra vẫn còn "trinh". Được giải oan tội hiếp dâm nhờ một huyệt đạo ở tai Ngày 22-4-2002, ba thanh niên ở xã Yên Nghĩa, Hà Đông (Hà Nội) là Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Đình Tình phải nhận án tổng cộng 41 năm tù vì tội hiếp dâm, cướp tài sản dù các bị cáo đều một mực không nhận tội. Sau gần 10 năm lĩnh án, ba thanh niên này được minh oan bởi một phụ nữ kỳ lạ. Đó là lương y chuyên sâu Phạm Thị Hồng, công tác tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông (Hà Nội). Chị phát hiện ba chàng trai này chưa bao giờ có quan hệ tình dục với phụ nữ nhờ một huyệt đạo bí mật. Nói theo dân dã thì họ vẫn còn là trai tân. Từ một huyệt đạo mang tên Dương Minh Chị Hồng tự giới thiệu mình là người say mê những pho sách cổ, đặc biệt là các sách về Đông y. Chị thường say sưa nghiên cứu những huyệt đạo, quy luật âm - dương của cơ thể con người. Kiểu giáo trình này không có trong chương trình giảng dạy các trường, khoa Đông y. “Chỉ vì tò mò nên tôi đọc tất cả những cuốn sách cổ về y thuật nếu bắt gặp, thú vị vô cùng”, chị Hồng nói. Chị kể, vào năm 2006, trại giam Thanh Xuân có đưa đến một phạm nhân nam còn rất trẻ tên là Nguyễn Đình Lợi, nhập viện trong thể trạng suy yếu, gần như liệt nửa người. Sau khi bắt mạch, chị quyết định châm cứu để phục hồi chức năng cho Lợi. Khổ nỗi cậu ta là phạm nhân nên luôn bị xích ở cổ chân, mà nơi ấy là một huyệt quan trọng để châm cứu. Thấy vậy, chị đề nghị cán bộ trại giam tháo xích để. Vị cán bộ sợ sai nguyên tắc nên từ chối, chị đã phải thuyết phục rằng, phạm nhân này không thể chạy trốn vì anh ta đang bị liệt nửa người… Nói mãi, cán bộ trại giam mới tháo xích và giúp chị bê bệnh nhân lên giường để châm cứu. Cảm kích trước hành động của vị bác sĩ, phạm nhân Lợi bật khóc tức tưởi. Lợi mếu máo rằng, đã lâu lắm rồi chưa được ai quan tâm và chăm sóc tốt như thế. Chị Hồng cười rồi bảo: "Thanh niên gì mà khóc nhè thế, biết hối hận thì chăm chỉ cải tạo rồi ra thôi". Lần này, Lợi lại càng khóc to hơn, kêu rằng mình bị oan, nhất định muốn chết. Huyệt Dương Minh nằm dưới dái tai. Thấy lạ, chị Hồng quay sang hỏi cán bộ trại giam thì biết cậu ta mắc tội tày đình: hiếp dâm, cướp của, lĩnh 16 năm tù. "Cái tội hiếp dâm ai cũng ghét, tôi cũng thế nên thấy ghê tởm", chị Hồng nói. Thế nhưng khi nhìn vào khuôn mặt tái dại, đôi mắt trong sáng của phạm nhân này, bỗng nhiên chị cảm thấy điều gì đó bất thường. Chị bèn hỏi đùa: “Cậu quan hệ với phụ nữ bao nhiêu lần rồi?”. Phạm nhân Lợi giãy nảy rằng chưa. Chị Hồng bật cười rồi doạ: “Này, chị là lương y, chị biết nhìn trinh tiết đàn ông đàn bà đấy, đừng nói bừa”. Nghe vậy, phạm nhân Lợi vẫn kiên quyết khẳng định, mình là trai tân, chưa hề biết thế nào là phụ nữ, có chết cũng không dám nói bừa! Quá tò mò, chị quyết định bấm huyệt Dương Minh, nằm ở dưới dái tai Lợi. Theo giải thích của chị, những người đàn ông chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ thì cái huyệt ấy vẫn chưa đứt. Huyệt này chỉ đứt khi có khí âm hút vào. Với phụ nữ, huyệt xác định trinh tiết có tên là Khuyết Ấm, nằm ở vùng ức, nếu chưa có quan hệ tình dục thì cũng không đứt. Ngày xưa, khi tuyển cung phi cho vua chúa, các lương y thường xem huyệt này để kiểm tra trinh tiết… Lương y Hồng mô tả, huyệt này như sợi chỉ màu hồng rất đẹp. Nếu đúng ngày nó nổi lên, khi ấy cơ thể con người có một luồng khí rất mạnh, tươi mới tinh khôi, đàn ông sẽ trở nên mạnh mẽ, phụ nữ sẽ trở nên đẹp lạ lùng. Các lương y có nghề sẽ biết cách xem cái huyệt này. Và chị hoàn toàn bất ngờ khi thấy huyệt Dương Minh của phạm nhân Lợi còn nguyên vẹn: “Nói thật, lúc ấy tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì cậu ta nói thật nhưng lo nhất là sẽ chẳng ai tin chuyện này". Huyệt đạo này người theo học y thuật phương Đông đều biết, nhưng nhiều người không để ý vì nó chẳng mấy tác dụng trong việc chữa bệnh, ngoài chức năng chứng minh sự trinh tiết. Hơn nữa nó lại thuộc y học phương Đông, nếu đem ra làm chứng cứ thì rất khó thuyết phục nguời khác. Nhưng cứ nhìn đôi mắt oan ức của Lợi, trong chị lại dâng lên một quyết tâm lạ lùng: phải minh oan bằng được. "Dọa" tự thiêu để chứng minh sự thật Lương y Phạm Thị Hồng đi gặp giáo sư Nguyễn Tài Thu, một trong số ít người quan tâm đến cái huyệt đó. Giáo sư Thu sau khi nghe chị thuật lại sự việc cũng lắc đầu bảo, khó lắm con ạ (ông luôn gọi chị là con) chuyện này không đùa được, liên quan đến luật pháp, mà cái huyệt này chỉ những người rành y thuật phương Đông mới hiểu, khó làm chứng cứ minh oan lắm. Nói vậy nhưng giáo sư cũng rất thương phạm nhân Lợi. Chính ông đã móc ví lấy tất cả số tiền trong đó là 800.000 đồng gửi chị mua thuốc để tiêm cho Lợi, rồi động viên chị hãy bình tĩnh, làm từng bước cho chắc chắn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chị quyết định tìm đến nhà phạm nhân tìm tài liệu về vụ án, lên Viện kiểm sát xin đọc hồ sơ… Chị hết sức bất ngờ vì đó là một vụ án còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ, nó cũng củng cố thêm cho niềm tin của chị. “Tôi đã quyết định đứng tên viết đơn kêu oan, nhưng lẳng lặng làm, ai hỏi thì nói là tìm hiểu cho biết", chị Hồng nói. Chị đã đi tất cả 36 cơ quan, những nơi liên quan đến vụ việc này, viết vài trăm lá đơn, trình bày tất cả những hiểu biết của mình về y học để chứng minh rằng Lợi vô tội. Tất cả những lá đơn gửi đi đều bặt vô âm tín, nếu có trả lời thì cũng khẳng định rằng bản án đã được tuyên đúng người đúng tội, có cả bản tự thú của phạm nhân, cơ quan pháp luật không sai. Mệt mỏi, chán chường, thỉnh thoảng lại bị ai đó gọi điện hăm doạ, rồi cứ sểnh ra là chị mất xe máy (chị đã mất tới bốn cái xe máy trong quá trình đi kêu oan giúp). Nhiều người thân, bạn bè cũng khuyên can rằng việc khó lắm, lại là người dưng, chẳng quen biết gì, lao đầu vào như thế không may chuốc hoạ vào thân thì khổ. "Tôi không chịu, tôi vẫn quyết tâm vì tôi có lý do", chị Hồng vừa nói vừa lục ra một lá thư đã cũ, được ép nhựa cẩn thận. Đó là bức thư của ba chị, một chiến sĩ cách mạng hy sinh rất anh dũng, bạn hoạt động cùng thời với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người đã giao lại bức thư cho chị hồi còn bé. Trong đó có đoạn: "Con không được phản bội lại chính lương tâm mình với bất kỳ lý do nào. Cuộc sống của con phải lấy nhân nghĩa làm lẽ sống". Chị Hồng rơm rớm nước mắt kể, đời chị chưa bao giờ biết mặt ba. Lá thư này ba viết cho chị trước lúc địch mang ông ra trường bắn, không lâu sau má chị cũng bị chúng giết chết. Chị được gửi lại cho một gia đình nông dân ở huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cha mẹ nuôi của chị cũng tốt vô cùng, họ không bao giờ tiết lộ chị là con nuôi. Chỉ sau khi chị lớn, ba Sáu Dân (chị Hồng vẫn gọi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt như vậy) và một số bạn hữu của ba má đẻ chị tìm tới, giao lại lá thư, chị mới biết mình là con nuôi, người gốc Bến Tre. Ba má tập kết ra Bắc thì sinh chị, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, họ phải gửi chị lại để tiếp tục vào Nam chiến đấu. “Từ đó tôi lấy đuợc cái đức của ba má mà sống. Tôi không thể chịu đựng được khi thấy sự oan ức mà không hành động!”, chị Hồng khẳng định. Thế rồi đến năm 2008, một lần nữa Lợi được đưa ra bệnh viện điều trị. Lần này chị có cơ hội tiếp xúc lâu hơn với bệnh nhân. Chắp nối tất cả các dữ kiện, cùng những chứng cứ thu nhập được, chị quyết định tìm gặp các vị lãnh đạo cao cấp để minh oan. Thế nhưng mọi chuyện vẫn như vậy, họ vẫn giữ quan điểm ban đầu rằng họ không sai. Quá bức xúc, chị tuyên bố rằng sẽ tự thiêu để chứng minh nhận định của mình. Chị tin rằng, sau cái chết của mình, sẽ có người lật lại toàn bộ hồ sơ sự việc. Chị đã tính đến việc gửi lại hai đứa con của mình cho người thân nếu chị tự thiêu. Với sự lỳ lợm đến khó tin ấy, cuối cùng câu chuyện cũng đến được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Ông đề nghị VKSND tối cao xem xét lại bản báo cáo. Cuối năm 2009, các cơ quan tố tụng có công văn gửi các cấp lãnh đạo thừa nhận: “Quá trình điều tra và xét xử đã có những thiếu sót, cơ quan điều tra đã thiếu khách quan, không đầy đủ và triệt để, những chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ". Và kết quả là họ trả tự do cho ba thanh niên đó. Khi được hỏi: “Chị định tự thiêu là để làm thật hay doạ nếu họ không nghe?”, chị Hồng khẳng định: “Tôi không dọa, tôi chưa bao giờ đùa trong chuyện này. Ngày mới gặp Lợi, tôi hứa sẽ đi đến cùng để minh oan, và tôi đã làm như thế. Tôi là lương y, cứu người là nhiệm vụ, và chết vì người khác cũng không phải là cái gì đó ghê gớm!”. Lời bàn : Vì tiếng Bắc khi đọc nhanh rất khó viết cho đúng chính tả ngyên âm.... báo chí Việt Nam nói huyệt Khiếu Âm , huyệt xem về trinh tiết phụ nữ... Thật sự đó là huyệt Quyết Âm. Danh từ Khuyết Âm và Quyết âm đọc nhanh thì trùngq nhau , y như nhau. Nhưng trong sách Đông Y Hán- Nôm chỉ có huyệt Quyết Âm . Kỳ sau chúng tôi luận về 2 huyệt đạo nầy...Đồng thời huyệt Quyết Âm năm ở ngay giữa ngực phụ nữ , hay con gái rất khó mà " thọt tay " vào rờ xem cho dù người con gái ấy có chồng hay chưa có chồng cũng vậy. Trừ phi Vua hay Chủ điền nhiều uy quyền bắt con gái ấy cho phép Dông Y Sỉ rờ bắt huyệt đạo . Huyệt đạo nầy nằm giữa 2 gò bồng đảo của phái nữ . Họ phải xem " thủ cung sa " thì mới biết được . Thủ cung sa ngày nay thất truyền tại Trung quốc từ lâu. Muốn tạo thủ cung sa thì phải đợi đứa bé gái ấy 5 tuổi thì mới làm được . Huyệt Nội Quan là huyệt rất quan trọng. Khi mà địch nhập quan là kể như thành trì quan ải đó “ xong rồi “. Đông Y Sỉ khi học nghề thuốc và hành nghề cứu nhân độ thế thì huyệt nầy bắt buộc Y sỉ phải nằm lòng. Nội quan là huyệt có phạm vi sử dụng rất rộng rãi. nó là huyệt Lạc nối với kinh Tam tiêu, còn thông qua giao hội với mạch âm duy liên lạc với lục kinh ở vùng ngực. bụng. đặc biệt có quan hệ mật thiết với kinh Nhâm, Xung, Can, Phế. Theo "Giáp Ất kinh" nó cũng là một trong "Bát mạch giao hội huyệt". ( Nên nhớ ý nghĩa của chữ Hán là Kinh Giáp Ất là kinh quan trọng nhật . Như Giáp , Ât`, Bính Định , Mậu Kỷ , Canh Tân , Nhâm Quý ..Giáp Ất đứng đầu bảng . Đông Y Sỉ phài học thuộc nằm lòng Giáp Ất Kinh bí quyết nầy ) Bởi vậy, nó có tác dụng điều chỉnh hữu hiệu các rối loạn bệnh lý ở ngực, sườn, phổi, họng, thực quản, dạ dày tạo nên những công dụng đặc trưng của nó. 1.- Đối với bệnh lý Hô hấp . Nó trị được bệnh thuộc về hô hấp , như hen suyển , khó thở , nghẹt thở . 2.- Đối với hệ thống tim mạch , Nó trị được bệnh áp huyết cao , loạn nhịp tim , xây xẩm mặt mày . 3.- Đối với hệ thống tiêu hóa . Nó trị được hệ thống dạ dày , đường ruột , cầm được tiêu chảy . 4.- Đối với hệ thần kinh . Nó trấn áp được hệ thần kinh , làm cho bệnh nhân trở lại điều hòa . Điều đặc biệt là nó trấn áp được chứng xuất tinh sớm của những người “ vừa đi đến chợ thì đã hết tiền “… Dẩn giãi thêm : Tại sao gọi là “nội quan”? “nội” có nghĩa là bên trong, “quan” có nghĩa là cửa ải, huyệt này là nơi cửa ải quan trọng phía trong nơi kinh khí vào ra, cho nên gọi là nội quan (trái với huyệt ngoại quan). Nội quan là một huyệt vị rất thông dụng trong châm cứu, nằm trên đường kinh thủ quyết âm tâm bào, có công dụng ích tâm an thần, hòa vị giáng nghịch, khoan hung lý khí, trấn tĩnh chỉ thống, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như đau cẳng tay, viêm khớp cổ tay, viêm cơ tim, thiểu năng tuần hoàn động mạch vành tim, suy nhược thần kinh, liệt bại chi trên, viêm loét dạ dày tá tràng... và xuất tinh sớm (đông y gọi là tảo tiết). Vậy cách xác định vị trí của huyệt và phương thức tác động như thế nào? Nội quan nằm ở mặt trước cẳng tay, giữa hai gân cơ gan tay lớn và gan tay bé (gấp bàn tay vào cẳng tay và nghiêng bàn tay vào phía trong cho nổi rõ khe cơ), trên nếp gấp khớp cổ tay 2 thốn, mỗi bên một huyệt. Khi tác động, dùng ngón tay cái day bấm lần lượt từng bên, mỗi bên trong 2 phút với một lực tương đối mạnh sao cho đạt cảm giác căng tức, tê nặng lan xuống bàn tay là được. Mỗi ngày day bấm 2 lần, tốt nhất là vào buổi sáng khi ngủ dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Khi sinh hoạt vợ chồng, người vợ dùng hai ngón tay cái của mình đặt vào hai huyệt nội quan của người chồng và day bấm liên tục với một lực vừa phải. Mỗi khi người chồng có cảm giác như đang sắp xuất tinh thì người vợ lập tức bấm vào hai huyệt với một lực khá mạnh. Đương nhiên điều này đòi hỏi giữa hai người phải có sự phối hợp nhịp nhàng và kịp thời. Nếu hiệu quả đạt được chưa thật sự mĩ mãn thì hằng ngày có thể kết hợp day bấm thêm huyệt hội âm. Huyệt vị này nằm ở giữa bìu và hậu môn, là nơi hội tụ của các nếp da chạy từ hậu môn, phần sinh dục ngoài và hai bên háng tới, có công dụng bổ thận cố tinh, thanh lợi thấp nhiệt. Phương thức tác động: dùng ngón tay giữa day bấm huyệt với một lực vừa phải trong 2 phút. Trong lúc sinh hoạt vợ chồng, khi có cảm giác sắp xuất tinh, người chồng tự mình dùng ngón tay trỏ hoặc ngón tay giữa bấm huyệt vị này một lực thật mạnh thì hiệu quả sẽ chắc chắn hơn. **************** Có nhiều thầy thuốc Đông Y người Trung quốc sang đây để chữa bệnh cho những người Minh hương cư ngụ tại đất Việt từ xưa . Có thầy thuốc Đông Y người Việt , sang Trung quốc học hỏi , rồi đem về truyền nghề lại cho dân Việt . Đồng thời nước Việt có rất nhiều cây thuốc mà Đông Y Sỉ rất thích xử dụng. Chúng ta có nhiều sách vở viết về Đông Y , nhưng đa số đều dùng từ ngữ Hán-Nôm mà người ngoài đều không hiểu tường tận ra làm sao. Sau đây chúng tôi sai y lại danh từ Đông Y sang Việt ngữ ( một số thôi ) , ngỏ hầu chúng ta biết một tí ti về danh từ Đông Y ra sao. Kinh Tâm ( là đường kinh hướng về trái tim ) , gồm có 9 huyệt : KINH TÂM - có 9 huyệt 1 - CỰC TUYỀN : Cực = Nơi tận cùng. Tuyền = con suối (Hố nách) 2 - THANH LINH : Thanh = xanh. Linh = hiệu nghiệm 3 - THIẾU HẢI : Thiếu = chưa đủ, chưa lớn. Hải = hội tụ của các cửa sông. 4 - LINH ĐẠO : Hiệu nghiệm = LINH; nóng hay lạnh trong xương cốt, chính huyệt nầy > khi tác động sẽ giải tỏa (ĐẠO = dường dẫn) 5 - THÔNG LÝ : Liền với = THÔNG; bên trong, Tiểu trường = LÝ 6 - ÂM KHÍCH : Âm = mặt bên trong - thuộc âm. Khích = kích thích 7 - THẦN MÔN : Thần = Hồn = Tâm = Vía= Phách... Môn = cửa ra vô. 8 - THIẾU PHỦ : còn bé = THIẾU; nơi ở, nhà lớn = PHỦ. 9 - THIẾU XUNG : Huyệt cuối cùng của Thủ Thiếu Âm Kinh. Xung = nơi quan yếu. (Ở ngón tay út, phía tay quay, cách gốc móng tay 0,1 thốn. Trên đường tiếp giáp da gan tay - mu tay) Kinh Phế ( là đường Kinh hướng về Phổi ) , gồm có 11 huyệt KINH PHẾ - có 11 huyệt 1 - TRUNG PHỦ : Ở giữa;= TRUNG; Nơi hội tụ, cái nhà lớn = PHỦ. 2 - VÂN MÔN : Hơi nước, mây = VÂN; Cửa ra vào = MÔN - cửa ra vào của khí trời. 3 - THIÊN PHỦ : Khí tự nhiên, khí trời = THIÊN; nhà lớn = PHỦ. Nơi chứa khí trời. 4 - HIỆP BẠCH : Đến gần = HIỆP; BẠCH = Trắng; nơi gần chỗ của cơ nhị đầu cánh tay, chỗ thịt màu trắng. 5 - XÍCH TRẠCH : Đơn vị đo = XÍCH; Cái ao = TRẠCH.Nơi trũng cách lằn chỉ cổ tay 1 xích. 6 - KHỘNG TỐI : Cái mũi = KHỔNG; tới - lui = TỐI. Dẫn đến mũi, thông phế khí. 7 - LIỆT KHUYẾT : Tách ra = LIỆT (Liệt vị, trong bóng đá); Nơi lõm vào, chỗ trũng = KHUYẾT. Chỗ lõm trên mỏm xương quay. 8 - THÁI UYÊN : Quá, nhiều = THÁI; rất sâu, chỗ lõm = UYÊN (uyên bác = hiểu sâu). 9 - KINH CỪ : Đường lưu hành của khí = KINH; sự đau, khó chịu = CỪ (cừ rừ). 10 - NGƯ TẾ : Con cá = NGƯ; bày lên, bày ra nơi cao = TẾ (trong tế và lễ = dâng cúng). 11 - THIẾU THƯƠNG : Còn nhỏ, còn non = THIẾU; Âm - tiếng có trường độ cao - (cung thương là tiếng mẹ) = THƯƠNG. Nơi cuối của Kinh khí (Phế khí). Nhưng tựu trung có 2 Kinh vô cùng quan trọng là Kinh Nội Quan và Kinh Ngoại Quan . Nội quan là Nội = bên trong , Quan = là thành quách quan ải . Kinh nầy kích thích chất kích thích tố ( ta gọi là hormone ). Động đến kinh nầy sẽ kích thích cơ thể tiết ra nhiều hormone hơn bình thường. Tây Y rất quan trọng về chất kích thích tố nầy . Họ , Tây Y muốn tạo cho nhiều kích thích tố ( hormone ) thì họ dẩn chúng ta đến sự xử dụng Vitamins…Như Vitamin A, B,C , D, E….và những chất minerals . Thì Đông Y cũng vậy , thầy thuốc Đông Y hướng chúng ta ăn những món thực phẩm cần cho cơ thể…như dùng gà ác ( gà đen ) hoặc uống rể cây mà Đông Y sỉ biết dược liệu có thể tạo ra chất hormone vậy . Đó là Kinh Nội Quan là vậy. Sau đó có Kinh Ngoại Quan ( là bên ngoài thành quách , quan ải ) là chú trọng đến Kinh Huyệt bên ngoài mặt … Đông Y sỉ rất sợ bệnh nhân vướng một trong Tứ độc ( 4 độc ) , gồm có : 1.- Không nói được 2.- Không thấy được 3.- Không cử động được 4.- Không nghe được . Vì cướng vào Tứ độc thì Dông Y sỉ cứu chữa bệnh nhân rất cực khổ vô cùng. Tây Y và Đông Y đều chung quan niệm khi mới chớm bệnh thì nên đem bệnh nhân đến thầy thuốc lập tức , đừng để bệnh nhân quá thời hạn cứu chữa. Kỳ tới nói đến Huyệt Sinh Lý . Đông Y không có danh từ Sinh Lý , vì chúng tôi muốn gọi thêm cho dể hiểu mà thôi . Sinh Lý nơi đây là nói đến sự sinh lý , hoạt động liên quan đến tình dục giữa Nam và Nữ vậy . Đối với những người tu hành thì huyệt Sinh Lý cần phải dẹp bỏ , không thể kích thích huyệt sinh lý nầy được .
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 9:48:03 GMT 9
Lạm dụng trụ sinh gây ra nhiều bệnh hoạn Sunday, August 28, 2011 1:15:07 PM (LiveScience.com) -Bạn không hẳn là cô độc: Cơ thể con người chứa chấp và được bao phủ bằng một con số vi sinh vật nhiều không thể tưởng tượng được. Một số thuốc trụ sinh bày bán tại một tiệm thuốc ở Mumbai, Ấn Ðộ. Khoa học gia cho rằng lạm dụng trụ sinh có thể gây ra nhiều bệnh hoạn. (Hình minh họa: Sajjad Hussain/AFP/Getty Images) Nhưng khi diệt trừ chúng như chúng ta thường làm, vô tình hay cố ý, với việc sử dụng bừa bãi thuốc trụ sinh, sức khỏe của chúng ta có thể bị nguy hại, theo một khoa học gia nghiên cứu những bạn đồng hành li ti của chúng ta. “Việc lạm dụng thuốc trụ sinh có thể làm gia tăng đáng kể những bệnh như mập phì, tiểu đường loại 1, bệnh viêm ruột, những bệnh dị ứng và hen suyễn, đã gia tăng hơn gấp đôi ở nhiều dân số,” theo ông Martin Blaser, một giáo sư về vi sinh học và là chủ tịch ban y khoa tại Trung Tâm Y Khoa Ðại Học Langone ở New York. Con người đôi khi được gọi là các siêu sinh vật (meta-organisms), chỉ vì con số và khối lượng vi khuẩn chung sống trong cơ thể của chúng ta - trong đường ruột của chúng ta, trên da của chúng ta, ngay cả trong lỗ rốn. Bằng chứng ngày càng nhiều cho thấy các lợi ích mà cộng đồng vi khuẩn lành mạnh này cung cấp cho chúng ta. Chúng giúp chúng ta hấp thụ chất dinh dưỡng, như sinh tố K, và năng lượng từ các chất carbohydrates phức tạp. Chúng ngăn chặn những vụ nhiễm trùng nguy hiểm, và bằng chứng mới đây cho thấy chúng giúp chặn đứng bệnh xơ cứng (sclerosis) và các rối loạn tự miễn nhiễm khác. Thuốc trụ sinh không hẳn là những dược phẩm màu nhiệm, và chúng có công góp phần tăng tuổi thọ từ 63 đối với các công dân Mỹ sinh ra năm 1940 lên tới 78 đối với những người sinh ở Hoa Kỳ ngày hôm nay, ông Blaser ghi nhận trong bài bình luận của ông, được đăng tải trong tạp chí Nature số ra ngày 25 Tháng Tám. Một vấn nạn trong việc lạm dụng thuốc trụ sinh đã gây chú ý khá rộng rãi: Việc phát sinh những vi khuẩn kháng thuốc. Nhưng ông Blaser vạch ra một hậu quả ít người biết hơn: Những thứ thuốc này, cùng với những thay đổi về lối sống của chúng ta, đang thay đổi cộng đồng các vi khuẩn chung sống trong cơ thể của chúng ta. Thuốc trụ sinh, theo các nhà nghiên cứu, gây ra những thay đổi nhanh chóng và sâu xa trong dân số của vi khuẩn, khiến chúng không bao giờ trở lại hoàn toàn tình trạng nguyên thủy của chúng. Cuộc nghiên cứu khác đã cho thấy rằng những thay đổi do thuốc trụ sinh kích thích, kể cả sự xuất hiện các vi khuẩn kháng trụ sinh, có thể kéo dài ít nhất ba năm. Trong 26 năm, ông Blaser đã nghiên cứu loại vi khuẩn Helicobacter pylori, được khám phá vào năm 1982 bởi Robin Warren và Barry Marshall, người sau này chiếm một giải Nobel nhờ sự khám phá đó. Vi khuẩn được liên kết với bệnh viêm dạ dày, loét và ung thư bao tử. Tuy nhiên, theo thời gian, điều trở nên rõ rệt là vi khuẩn có một mối liên hệ lâu đời với con người và rằng nó đang biến mất khỏi đường ruột của chúng ta - vào lúc bước sang thế kỷ 21, chưa tới 6% trẻ em ở Hoa Kỳ, Thụy Ðiển và Ðức có mang vi khuẩn, theo ông Blaser. Không có gì đáng ngạc nhiên, bệnh ung thư và loét bao tử đã ít thấy hơn. Tuy nhiên, những bệnh về thực quản, kể cả ung thư thực quản và ợ acid, đồng thời đã gia tăng đáng kể, và cho thấy có một liên hệ nghịch đảo giữa những bệnh này và sự hiện diện của H. pylori, là loại vi khuẩn hình như bảo vệ thực quản. Và đối với những người thiếu vi khuẩn này, họ ngày càng dễ phát triển bệnh hen suyễn, sốt mùa khô (hay fever) hoặc dị ứng ngoài da, ông Blaser và các đồng sự của ông kết luận. Rõ ràng là các vi khuẩn thường trú trong cơ thể chúng ta đóng một vai trò trong sức khỏe của chúng ta, mặc dù các khoa học gia vẫn còn đang tìm hiểu tầm mức ảnh hưởng của chúng đối với các hệ thống sinh học, chẳng hạn như sự biến dưỡng và miễn dịch, theo ông Dennis Kasper, một giáo sư y khoa và vi khuẩn học và miễn dịch học tại trường y khoa Harvard. Hầu như ai cũng biết rằng thuốc trụ sinh có thể giúp loại vi khuẩn Clostridium difficile, vốn hiện diện ở vài người khỏe mạnh, gây ra những vụ nhiễm trùng ruột già bằng cách giết hại những vi khuẩn lành mạnh khác ở người, ông Kasper nói. Tuy nhiên, hầu hết bằng chứng cho tới nay phát xuất từ công cuộc nghiên cứu được thực hiện với tính cách thực nghiệm ở chuột và các súc vật khác. Cuộc nghiên cứu cho thấy rằng các vi khuẩn thường trú đóng một vai trò phức tạp trong việc duy trì sức khỏe cho chúng ta. Ông Blaser đề nghị một đường lối sử dụng trụ sinh sáng suốt hơn, cũng như phát triển các kỹ thuật để nhận diện một cách nhanh chóng mầm bệnh và các dược phẩm có hại, chỉ nhắm vào các mầm bệnh đặc biệt trong khi không làm hại các vi khuẩn khác. (n.n.)
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 4:30:30 GMT 9
Gia Vị Thực Phẩm Vietsciences-Nguyễn Ý-Đức 26/12/2011 Ngày nay, khi mua thức ăn, ít khi ta lựa được một món mà không có chất này hoặc chất khác được cho thêm vào. Đó là các chất gia vị tiếng Anh gọi là “food additive”. Gia vị là các chất có mùi vị khác nhau như cay, thơm, mặn ngọt... cho thêm vào thức ăn để tăng cảm vị của sự ăn uống, các chất thêm vào để tạo màu sắc đẹp, hấp dẫn, hoặc thường hơn nữa là các chất được thêm vào để cất giữ để dành thực phẩm. Một số những chất này lấy ra từ chính thực phẩm, một số khác được tổng hợp trong phòng thí nghiệm. Chỉ riêng ở Hoa kỳ, người ta ghi nhận có khoảng gần 3000 chất gia vị thực phẩm được chấp nhận sử dụng. Mục đích Có nhiều lý do để dùng chất phụ gia trong thực phẩm 1-Làm tăng giá trị dinh dưỡng Nhiều thực phẩm được thêm sinh tố, khoáng chất hoặc chất xơ không có hoặc đã bị tiêu hủy trong khi biến chế, với mục đích là để nâng cao giá trị dinh dưỡng của món ăn. Vào đầu thế kỷ trước, đã có nhiều bệnh gây ra chỉ vì thiếu chất dinh dưỡng như bướu tuyến giáp do thiếu iod cần thiết cho sự tạo ra kích thích tố của tuyến này; còi xương ở trẻ em vì thiếu sinh tố D, không hấp thụ được calci nên xương mềm và biến dạng; bệnh thiếu sinh tố C scurvy vì không ăn rau trái tươi, đưa đến sưng, chẩy máu nớu răng, lâu lành vết thương và có thể chết người nếu kéo dài. Ngày nay, nhờ các chất dinh dưỡng cần thiết này được bổ sung mà các bệnh này đã hiếm khi xẩy ra. Tăng thêm chất dinh dưỡng bằng này đã giúp tránh suy dinh dưỡng ở nhiều sắc dân chỉ quen dùng thực phẩm ít chất dinh dưỡng. Cũng có trường hợp thiếu dinh dưỡng vì lơ là, thất thường với việc ăn uống hoặc ăn vặt những món ăn tạp nhạp, ít dinh dưỡng; hoặc vì nghèo túng thiếu thức ăn; hoặc vì không ý thức được giá trị của dinh dưỡng; hoặc vì muốn giảm béo phì. Cho nên việc bổ sung chất dinh dưỡng là cần. 2- Giữ cho thực phẩm an toàn, tươi lâu hơn, Thực phẩm thường có một số vi khuẩn, nấm độc, mốc, men làm thực phẩm mau hư. Chất phụ gia có thể làm chậm hư thối, giữ được phẩm chất và tăng vẻ hấp dẫn của thực phẩm. Hiện nay các chất sau đây đang được dùng: a -Tocopherol (sinh tố E) giúp giữ tinh dầu thảo mộc và dầu xà lách khỏi trở mùi ôi và bảo vệ các sinh tố hòa tan trong mỡ như sinh tố A, D, E và K, các acid béo. b-Sinh tố C hoặc citric acid (có trong trái chanh) giúp tránh sự oxy hóa thực phẩm hoặc để bảo quản trái cây đóng hộp. c--Sulfit để duy trì mùi vị trái cây khô, ngăn chặn sự tăng trưởng của vi khuẩn trong rượu vang, trong nhiều món ăn bỏ lò, bánh kẹo. d-Sodium nitrit để bảo toàn thịt đùi heo nướng muối (ham), hot dogs khỏi bị các vi khuẩn có hại như Clostridium botulinum. e- Calci propionat được thêm vào để làm cho bánh mì, bánh nướng khỏi mốc meo. g-Chất chống oxy hóa giữ cho dầu mỡ không bị hư và duy trì mầu cho thịt đóng hộp và thịt hun khói. h-Acid acetic như giấm để muối dưa gang, làm sữa chua, pha chế dầu giấm và trong các sản phẩm từ cà chua. Nhờ các chất bảo quản mà thực phẩm không bị hư hỏng, phí bỏ và có thể giữ được lâu, gửi đi xa. 3- Làm thay đổi vẻ ngoài của thực phẩm Nói tới vẻ ngoài của thực phẩm là nói chung về mặt hình thể, cấu trúc vật chất, độ cứng hay độ mịn nhìn thấy hoặc cảm thấy khi sờ vào, giúp cho thực phẩm ngon hơn, hấp dẫn hơn. Có nhiều chất gia phụ cho các mục đích này. a-Chất làm món ăn có độ ẩm, không khô cứng, hơi phồng lên và gia vị không dính với nhau như chất nhũ hóa (emulsifiers) lecithin ở sữa, lòng đỏ trứng, đậu nành; glycerin giữ độ ẩm và các gia vị trong dầu giấm, bơ đậu phọng, nước xốt mayonaise trong thực phẩm không tách rời khỏi dầu. Glycerin cũng được cho thêm vào dừa cào xé nhỏ để dừa không bị khô. b-Chất chống khô cứng, đóng cục với nhau như calcium silicate, silicon dioxide. Các chất này ngăn bột, đường, muối hút nước rồi dính lại với nhau. c-Chất làm bột nở ra ( leavening agents), được dùng khi làm bánh nướng, bánh mì, bánh quế để làm cho bánh mềm xốp, nhẹ hơn. Đó là các chất như muối bicarbonat ( baking sodium ), natri phosphat hoặc vài loại men. d-Chất làm cho món ăn đồng đều, nhuyễn với nhau. Thí dụ như làm kem thì các hợp chất không đóng đá mà mịn vào với nhau. Chất gelatin lấy từ xương động vật hoặc pectin lấy từ thảo mộc đều có công dụng này. e-Chất thay đổi độ acid- kiềm của thực phẩm để thay đổi cấu trúc, hương vị cũng như tăng sự an toàn của món ăn. Đó là các chất potassium, acid tartrate, lactic acid, citric acid, sodium bicarbonate, phosphoric acid. 4-Làm tăng vẻ ngoài của thực phẩm. Một số chất màu có công dụng: -Làm cho thực phẩm có vẻ ngoài hấp dẫn hơn hoặc phục hồi mầu sắc nguyên thủy của thực phẩm; -Làm cho món ăn khác nhau có cùng mầu; -Duy trì hương vị và sinh tố dễ bị phân hủy vì ánh sáng; -Tạo cho thực phẩm vẻ đặc biệt, dễ nhận diện. Việc cho thêm chất màu cũng tạo ra nhiều ý kiến khác nhau. Các nhà dinh dưỡng bảo thủ thì cho rằng việc thêm chất màu vào thức ăn không làm tăng thêm giá trị dinh dưỡng mà không mang thêm dinh dưỡng mà có thể không tốt. Nhưng tâm lý chung khi nhìn thấy một món ăn có mầu sắc đẹp, vui mắt thì nhiều người cũng thích ăn hơn, nhất là với quý vị cao tuổi. Chắc là khi lựa một quả cam, quả táo nhiều người cũng lựa trái cam vàng óng ánh, trái táo có mầu tươi hơn là những trái lợt lạt. Và những trái vàng óng ánh đó thường là nhờ được phun lên một lớp chất mầu. Theo nhiều chuyên gia, hầu hết chất mầu đều khá an toàn. Chỉ có một vài loại khi thêm vào thực phẩm, đồ uống, dược phẩm có thể gây ra phản ứng nhẹ cho người dùng như nổi ngứa, chẩy nước mũi... Khi món ăn chứa chất mầu này thì nhà sản xuất phải ghi rõ trên nhãn hiệu. Chất mầu có thể là hóa chất tổng hợp hoặc chất mầu thiên nhiên lấy từ thực vật. Hiện nay có 32 chất mầu được sử dụng, trong đó chỉ có 7 chất là tổng hợp. Chất mầu thường dùng là nước củ cải đường, cà rốt, nghệ, bột đỏ làm từ loại ớt prapika. Các thực phẩm thường được pha thêm mầu là kem, thạch, margarin, pho mát, bánh, kẹo... Bột carotene làm pho mát và margarin có mầu vàng 5-Chất làm tăng mùi vị của thực phẩm Chất có mùi vị nho, dâu tây, va-ni được dùng trong kỹ nghệ nước giải khát, kẹo hoặc pha với dầu giấm, nước xốt đều được lấy từ thảo mộc hoặc do tổng hợp. Để có các chất này, các nhà khoa học phải nghiên cứu kỹ mùi vị tự nhiên của thực phẩm rồi dựa theo đó mà chế tạo chất tăng mùi. Gia vị nhân tạo thường thường có cùng cấu trúc hóa học nhưng thiếu một vài đặc thù của chất tự nhiên. 6- Chất làm tăng hương vị sẵn có của thực phẩm Có loại chất gia vị giúp làm nổi bật hương vị sẵn có trong thực phẩm. Bột ngọt (hay mì chính), với tên khoa học là Monosodium glutamate (MSG) được dùng thường xuyên trong việc nấu ăn, có thể xem là một ví dụ. Bột ngọt thường được cho thêm vào rau đóng hộp, nước xốt thịt, và thường được dùng để chế biến thịt, nấu nướng. 7-Chất làm ngọt Trong nhóm này có các loại đường như đường tinh chế (sucrose), đường tự nhiên trong trái cây fructose, dextrose. Đường cho vị ngọt, làm thực phẩm có mầu nâu cháy và cũng giữ thực phẩm khỏi hư. hỏng Dân La Mã xưa kia đã biết giữ trái cây khỏi hư bằng mật ong. Món ăn nướng, đồ hộp, trái cây hộp hoặc đông lạnh, nước trái cây uống, mứt , thạch, nước ngọt đều được cho thêm đường Kết luận Nói chung thì các gia vị thường dùng là đường, muối và mật ngô rồi đến citric acid, baking soda, chất màu từ rau, hạt tiêu, bột mù tạc và ớt với phân lượng rất ít Các chất phụ gia mới được sử dụng lần đầu đều phải được sự kiểm nghiệm và cho phép của cơ quan y tế. Chất đã dùng từ lâu cũng thường xuyên được theo dõi xem có an toàn không. Theo bác sĩ Virgil Wothingya của Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ thì, gia vị thực phẩm ít gây ra rủi ro hơn là vi khuẩn, nhiễm do môi trường, do chất độc thiên nhiên hoặc do các chất tạo ra trong khi sửa soạn, nấu nướng. Chẳng hạn như thịt nướng cháy trên than sinh ra một hóa chất có thể gây ung thư . Gia vị đã giúp chuyên trở thực phẩm tới các địa phương xa xôi và giúp duy trì đầy đủ thực phẩm để nuôi số dân chúng ngày một gia tăng. Ngoài ra, chúng cũng giúp cho thực phẩm trở nên hấp dẫn, tăng thêm hương vị và giá trị dinh dưỡng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có nhiều cuộc nghiên cứu đang được thực hiện để theo dõi các tác dụng tích lũy lâu năm cũng như hậu quả của việc sử dụng số lượng quá lớn các chất phụ gia. Các nghiên cứu này được thực hiện trên súc vật trong phòng thí nghiệm, cũng như qua thu thập các dữ kiện dịch tể. Trong khi chờ đợi, chúng ta vẫn có thể yên tâm tận hưởng thực phẩm có các chất gia vị mà không phải lo ngại nhiều, chỉ cần theo đúng nguyên tắc điều độ và vừa phải, cân bằng tốt các chất dinh dưỡng và hạn chế ở mức độ tối thiểu các chất phụ gia. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 7:44:32 GMT 9
Trí Nhớ
Vietsciences- Nguyễn Ý Đức
Theo định nghĩa, trí nhớ là một khả năng của trí tuệ để thu thập, tích trữ và lấy ra các sự kiện mà con người đã trải qua trong quá khứ.
Có trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài hạn. Ngắn hạn không tồn tại lâu và có thể chuyển sang dài hạn và lưu trữ mãi mãi
Hãy hình dung khung cảnh một buổi trưa hè, ta ngồi ở một nơi nào không phải là quê hương Hà Nội, mà nhớ lại cách đây trên dưới nửa thế kỷ, cùng bạn bè tắm sông, hái ổi trên Nghi Tàm, đạp xe vào chùa Láng, chùa Trầm. Rồi tưởng tượng như đâu đây phảng phất hương ngọc lan trên đường Quan Thánh, hay phượng vĩ đỏ ối chung quanh Hồ Tây.
Làm sao mà bất cứ lúc nào, nếu muốn, ta cũng như sống lại những gì của quá khứ? Làm sao mà não bộ, một cơ quan chỉ nặng chừng 1.5 kí lô có thể thực hiện được cái công việc đầy khó khăn đó? Ấy là chưa kể cả trăm công việc khác mà não bộ có thể đảm đương để duy trì sự sống của con người.
Riêng về trí nhớ, khoa học đã cố gắng giải đáp, nhưng sự hiểu biết mới chỉ có một phần.
Phát triển của não bộ
Khi mới sanh, não bộ nặng khoảng 50 gr, lúc trưởng thành nặng 1,5 kg.
Đó là một khối chất giống như bột mì nhão, mầu xám nhạt với cả tỷ tế bào và nhiều triệu dây nối tiếp giữa các tế bào.Tín hiệụ chuyển từ tế bào này sang tế bào khác ở chỗ nối tiếp và bằng hóa chất trung gian Acétylcholin.
Mỗi ngày có từ 60.000 tới 100.000 tế bào thần kinh bị hủy diệt và không được thay thế. Đây là một cuộc tàn sát lớn mà khi ta tới tuổi 65, có đến 1/10 tổng số tế bào thần kinh bị tiêu hủy.
May mắn thay là những tế bào còn lại có thể lãnh phần trách nhiệm của những tế bào xấu số. Chúng sẽ mọc ra nhiều nhánh xen kẽ vào khoảng trống để tiếp nhận tín hiệu thần kinh. Sự việc này cũng giống như trong khu rừng già, một cây chết đi thì cây kế cận vươn lên, sinh ra nhiều cành để điền khuyết.
Phần não có nhiệm vụ ghi trí nhớ nằm ở vùng vỏ não, hai bên thái dương, sau mắt.
Phần nhận và thanh lọc tín hiệu cho trí nhớ nằm sâu trong não, có hình chữ C, gọi là hải mã.
Sự liên hệ chức năng giữa hai vùng này rất cần thiết cho trí nhớ .
Ở tuổi già, khối lượng não nhỏ đi, tế bào thần kinh thay đổi hình dạng, sự truyền tín hiệu chậm lại, chất lipofuscin xuất hiện giữa tế bào, có thể gây rối loạn cho các cơ năng của não. Máu vào óc ít hơn, sự cung cấp dưỡng khí cũng giảm.
Hình chụp do X quang cho thấy các luống óc não nhỏ đi, rãnh giữa luống rộng ra. Từ tuổi 20 tới 90, não nhẹ bớt đi khoảng 5-10% và chứa nhiều chất lỏng hơn. Những thay đổi này có ảnh hưởng phần nào tới trí nhớ.
Trí nhớ được chia ra làm ba loại :
1-Trí nhớ ngắn hạn.
Đây là loại trí nhớ để phân tích những dữ kiện, sự việc cần tức thì và kéo dài trong chốc lát . Người Mỹ gọi nó là trí nhớ làm việc (working memory). Từ năm 1890, nhà tâm lý học Williams James gọi là trí nhớ căn bản (Primary memory).
Ta lấy một thí dụ: trí nhớ này giúp ta nhẩm trong đầu một số điện thoại trong khi quay máy. Chẳng hạn: bà vợ hỏi chồng số điện thoại của cô Cúc, em dâu, là bao nhiêu, chồng trả lời 8959.4762. Vợ nhẩm số đó và quay. Hai chị em thảo luận về quần áo, phấn son cả tiếng đồng hồ. Lần sau cần số điện thoại cô Cúc, nàng laị hỏi chàng. Thật là tiện, khỏi mất công nhớ. Mà nếu muốn nhớ, nàng phải dùng đi dùng lại nhiều lần, như là để củng cố, hợp nhất dữ kiện đó vào não.
Trí nhớ này bắt đầu có vào lúc 7 tuổi, thường thường không bị suy giảm với tuổi cao. Nó kéo dài khoảng vài chục giây tới một phút.
2- Trí nhớ trung hạn.
Những dữ kiện ghi trong trí nhớ này tồn taị từ nhiều phút tới vài năm. Một tín hiệu được nhắc đi nhắc laị, được sử dụng nhiều lần sẽ được ghi đậm sâu trong vỏ não. Khi cần đến, óc sẽ được kích thích để lấy ra dữ kiện này.
Còn bé đi học, có những bài học thuộc lòng trong Luân Lý Giáo Khoa Thư mà chắc bây giờ nhiều người trong chúng ta còn nhắm mắt ôn lại được.
Xin nói rõ là, để có chất liệu trong trí nhớ, ta phải đi qua ba giai đoạn :
a-Thu thập
Lấy dữ kiện bằng học hỏi, thảo luận, suy nghĩ, và bằng sự nhận của các giác quan.
b-Tồn trữ
Một dữ kiện, muốn được tồn trữ, phải qua sự thanh lọc của bộ phận hải mã, để coi nó có gây xúc động, hấp dẫn đáng ghi nhớ hay không.
Tên người yêu chắc chắn là phải cần ghi nhớ hơn là tên anh cảnh sát công lộ vừa mới biên phạt mình vì lái xe quá tốc độ.
Dữ kiện đó hoàn toàn mới hay có liên quan tới một kỷ niệm cũ. Thí dụ ta đã có một số ý niệm về một ca sỹ với tiếng hát vượt thời gian; rồi tháng sau có tin cô ấy lấy chồng, năm sau sinh đôi, thì bộ phận hải mã sẽ xếp những tín hiệu mới này vào hình ảnh cô ca sỹ nổi danh trên để được phong phú hơn.
c- Phục hồi kỷ niệm
Giống như máy vi tính, ta có thể phục hồi, lấy ra, bất cứ lúc nào, những dữ kiện có trong trí nhớ. Nghe tiếng hát cô ca sỹ kể trên trong CD là ta có thể hình dung ra cuộc đời ái tình sự nghiệp, gia cảnh cũng như hình dáng của cô ta .
Trí nhớ này bắt đầu có vào lúc 10 tuổi.
3- Trí nhớ dài hạn.
Trí nhớ này có thể tồn tại suốt đời người. Đây là kết quả tích tụ của nhiều năm với những kỷ niệm, kinh nghiệm, kiến thức học hỏi của người tuổi cao.
-Có những trí nhớ về kiến thức tổng quát mà ta thu góp, tàng trữ một cách tự nhiên, không cần biết nó xảy ra khi nào, ở đâu. Nói đến quê hương Việt Nam là ta hình dung ra một giang sơn có hình chữ S, có sông Hồng, núi Ngự, Cửu Long Giang. Khi nhắc tới Quang Trung, ta nhớ lại sử sách kể những trận đánh quân Tàu oai hùng của Người. Trí nhớ này tích tụ ngày một xúc tích, rất tự nhiên, đầy lúc nào ta không hay.
-Còn trí nhớ về những sự kiện cá nhân trong đời sống hàng ngày được ghi nhận với thời gian và không gian. Chẳng hạn trưa hôm qua ta ăn cơm Việt Nam ở quán Sải Gòn hoặc sinh nhật năm ngoái, ta nhận được chiếc đồng hồ mới do vợ con mua tặng. Đó là trí nhớ quá khứ.
-Sáng nay khi đi làm, ta tự nhủ là chiều nay tan sở trước khi về nhà, sẽ ghé siêu thị mua chai rượu vang vì tối nay vợ làm món cá bông lau hấp. Đây là trí nhớ vị lai.
-Có trí nhớ hành động thường nhật như ta tự hỏi, sáng nay có để thức ăn cho chú chó không, hoặc tuần trước ta cắt cỏ ngày thứ năm hay thứ sáu.
-Trong trí nhớ hồi tưởng, ta nghĩ và nói về dữ kiện của “ những ngày xưa thân ái ”, trí nhớ tự truyện nhắc đi nhắc lại chuyện về mình trong vài năm trước.
-Trí nhớ dung nhan khi “ Xin lỗi nom ông quen quen, mình đã gặp nhau, mà không sao nhớ được tên ông ”, trí nhớ “đã thấy” (déjà vu) mình đã ở nơi đó mà không nhớ bao giờ.
-Bà nội trợ, làm bếp cần mấy củ tỏi, nhưng nhà không còn. Bà ta nhẩm trong đầu là kỳ tới đi chợ thêm tỏi vào danh sách các thứ cần mua. Khi viết danh sách lại quên biên tỏi. Đi chợ, qua hàng rau quả, nhìn thây tỏi, bà ta lượm một túi, như vậy là trí nhớ thầm kín đã gợi bà mua tỏi.
Kết luận
Làm sao mà não, nói chung, các trung tâm trí nhớ, nói riêng, có thể hoàn tất công việc phức tạp đó một cách chu đáo và khoa học như vậy? Cho tới nay, chưa có một giải đáp thỏa đáng mà chỉ có những gơị ý, phỏng đoán.
Có người đã ví não bộ như cả ngàn hệ thống điện thọai mà mỗi hệ thống có thể cung cấp nhu cầu liên lạc cho tất cả dân chúng của thành phố Nữu Ước. Các trung tâm này liên tục nhận những tín hịêu thu lượm do ngũ quan đưa về, phân tích, xếp loại rồi tồn trữ.
Óc ghi nhận dữ kiện như một cái máy thu âm, bộ phận hải mã như là một cái nút kiểm soát. Bình thường, nút bấm này tắt, và chỉ mở để ghi khi nào dữ kiện được coi là quan trọng.
Một dữ kiện không quan trọng thường lởn vởn trong đầu một lúc rồi tan biến đi. Cho nên nếu ta có quên tên một người nào đó trong tiệc cưới cũng là chuyện bình thường, giống như là lâu lâu ta quên, không biết chìa khóa xe, chìa khóa nhà để ở đâu.
Nhưng lái xe đi làm mỗi ngày trên cùng con đường mà lạc lối; quên những hẹn quan trọng; kể đi kể lại cùng câu chuyện trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với bạn bè, thì là điều đáng ngại.
Những thắc mắc, lo âu, tự hỏi: Ta già rồi chăng? Hay ta đang mắc chứng não suy trầm trọng?
Liệu trí nhớ có bỏ ta ra đi như những con chuột tìm đường chạy trốn khỏi con tầu sắp chìm đắm dưới biển cả mênh mông!
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 18, 2012 5:07:03 GMT 9
Bệnh sợ giao tiếp xã hội (social anxiety disorder) (VienDongDaily.Com - 17/03/2012) BS. Nguyễn Thị Nhuận/Viễn Đông
Ai cũng có lúc hồi hộp lo sợ khi sắp phải ra trước đám đông nói chuyện hay sắp tham dự một cuộc phỏng vấn khi đi tìm việc. Nhưng đối với một số người, ngay cả những gặp gỡ thông thường trong xã hội như dự một buổi tiệc hay gặp một người lạ, cũng có thể khiến cho họ bị sợ hãi và cố tìm cách trốn tránh. Một số người khác còn sợ hãi đến mức không thể ngồi ăn với người quen hay viết một tấm check ở chợ. Khi đã đến mức độ này, có thể là họ đã mắc chứng bệnh tâm thần có tên là bệnh sợ giao tiếp. Người Á Đông chúng ta có lẽ bị bệnh này hơi nhiều, tuy có thể chỉ là dạng nhẹ hơn mà chúng ta thường gọi là “nhút nhát”. Chính tôi đã bị bệnh nhút nhát này suốt khoảng thời gian niên thiếu cho đến tuổi 30, 40. Bây giờ già đầu, tự nhiên bệnh của tôi hết hẳn.
Triệu chứng Bệnh sợ giao tiếp có những triệu chứng trong nhiều khía cạnh khác nhau: xúc cảm, cách cư xử, và thể xác. Triệu chứng về phương diện cảm xúc và cách cư xử gồm có: - Sợ hãi ghê gớm khi ở vào hoàn cảnh chung quanh toàn người xa lạ - Sợ ở vào hoàn cảnh có thể bị người khác xem xét, đánh giá - Lo lắng là mình có thể bị xấu hổ, ngượng ngùng - Sợ người khác thấy là mình đang lo lắng - Lo lắng sợ hãi đến không thể đi làm, đi học hay những làm những công việc thường ngày - Tránh làm nhiều chuyện hay tránh nói chuyện với người khác vì sợ bị xấu hổ - Tránh những hoàn cảnh họ có thể là tâm điểm cho sự chú ý của người khác Triệu chứng thể xác: - Đỏ mặt - Ra mồ hôi nhễ nhại - Tay chân hay người run rẩy - Buồn nôn - Bao tử khó chịu - Nói không ra lời - Nói lắp bắp - Bắp thịt căng cứng - Lẫn lộn - Hồi hộp, tim đập nhanh - Đi tiêu chảy - Tay lạnh ướt - Tránh nhìn mắt người khác Những tính chất khác: Tự ti mặc cảm, rụt rè không dám đòi hỏi quyền lợi, nghĩ những ý nghĩ tiêu cực, không chịu nổi lời người khác phê bình, không biết cách giao thiệp trong xã hội Tính chất đặc biệt: Người bệnh nhận ra rằng sự sợ hãi những hoàn cảnh như vậy là quá đáng. Nhưng họ quá lo là sẽ bị những triệu chứng kể trên, do đó họ cố tìm cách tránh né những trường hợp khiến họ bị như vậy. Chính sự sợ hãi này khiến tình trạng càng trở nên khó hơn.
Nguyên nhân Gồm 2 yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau: hoàn cảnh và di truyền. Những nguyên nhân sau đây đang được tìm hiểu: - Di truyền: Bệnh sợ giao tiếp thường xẩy ra cho nhiều người trong cùng một gia đình. Do đó, các nhà nghiên cứu đang cố tìm xem cái “gene” nào đã gây ra bệnh. Tuy nhiên, người ta cũng không biết có phải là họ cùng bệnh là do có cùng gene hay do bắt chước cách cư xử của nhau. - Sinh hóa học: Có thể những chất hóa học trong cơ thể chúng ta là nguyên nhân gây ra triệu chứng bệnh. Thí dụ: sự mất cân bằng của chất serotonin trong óc có thể là nguyên nhân. Serotonin là chất điều chỉnh cảm xúc của chúng ta. Người bệnh có thể quá nhậy cảm với chất này. - Phản ứng sợ: Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một bộ phận trong óc tên “amygdala” có thể ảnh hưởng lên phản ứng sợ hãi của chúng ta. Những người có bộ phận amygdala quá nhậy cảm sẽ dễ bị sợ hãi trong những hoàn cảnh xã hội thông thường.
Yếu tố ảnh hưởng Bệnh sợ giao tiếp là một bệnh tâm thần thông thường nhất. Ở thế giới Tây phương, có khoảng 13% dân chúng bị bệnh này vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời họ. Bệnh này thường bắt đầu từ tuổi “teen” (khoảng 11 tới 18), tuy có thể bắt đầu lúc nhỏ tuổi hơn hay ở tuổi đã trưởng thành. Một vài yếu tố sau đây có thể ảnh hưởng: - Phái tính: đàn bà dễ mắc bệnh hơn đàn ông. - Gia đình: bạn dễ bị bệnh nếu cha mẹ hay anh chị em bị. - Hoàn cảnh: bạn có thể bị bệnh nếu thường xuyên quan sát cách cư xử, thái độ của những người bệnh khác. Cha mẹ quá nghiêm khắc, bảo vệ con mình quá đáng cũng khiến con dễ bị bệnh. - Những kinh nghiệm tiêu cực: những trẻ em từng bị trêu ghẹo quá đáng, bị bắt nạt, bị từ bỏ, bị chế giễu... có thể dễ bị bệnh hơn. Những biến cố xẩy ra như chuyện gây gổ trong gia đình, bị lạm dụng tình dục... cũng có thể có ảnh hưởng. - Bản tính: một số người sinh ra với bản tính nhút nhát, thu rụt... có thể dễ bị bệnh. - Hoàn cảnh xã hội hay công việc mới: Những tình huống mới như phải gặp một người xa lạ quan trọng, phải lên nói trước đám đông... có thể khơi mào cho những triệu chứng lần đầu của bệnh giao tiếp xã hội. Tuy nhiên, những triệu chứng này thường bắt rễ từ thời tuổi trẻ.
Khi nào nên gặp bác sĩ? Hơi nhút nhát trong đám tiệc hay lo lắng khi phải nói chuyện trước đám đông không có nghĩa là bạn mắc bệnh sợ giao tiếp. Nếu có lo lắng hay sợ đôi chút nhưng bạn vẫn làm tròn nhiệm vụ, bạn không cần phải được chữa trị. Trái lại, nơi những người mắc bệnh, nỗi lo lắng sợ hãi nặng hơn nhiều và kéo dài lâu hơn khiến cuộc sống bị cản trở và tâm hồn bị xao động. Những việc thông thường sau đây có thể khiến người bệnh bị lo lắng sợ hãi quá độ: dùng nhà vệ sinh hay điện thoại công cộng, đem trả một món hàng không vừa ý, trao đổi câu chuyện với người lạ, viết trước mặt người khác, bước vào một căn phòng đã đầy người ngồi, kêu thức ăn trong nhà hàng, được giới thiệu với người lạ, bắt chuyện với người khác. Triệu chứng của bệnh có thể thay đổi với thời gian. Người bệnh có thể bị nặng hơn khi họ bị căng thẳng. Khi họ hoàn toàn tránh giao tiếp, họ sẽ không bị triệu chứng nào cả. Tránh không giao tiếp có thể làm bạn vui vẻ trong một thời gian ngắn nhưng bệnh của bạn sẽ không hết mà kéo dài mãi nếu bạn không tìm cách chữa trị. Nên gặp bác sĩ để tìm cách chữa nếu bạn có những triệu chứng như trên. Khi gặp bác sĩ, có thể bạn sẽ được khám nghiệm về cả thể xác lẫn tâm lý để tìm bệnh. Để định bệnh chính xác, bác sĩ thường dựa trên những tiêu chuẩn định bệnh trong cuốn sách y học DMS do Hội Bệnh Tâm Thần Hoa Kỳ soạn thảo. Tiêu chuẩn định bệnh sợ giao tiếp xã hội gồm có: - Một nỗi sợ hãi triền miên phải đối phó với những tình huống xã hội người bệnh nghĩ rằng có thể làm họ bị xấu hổ, mất mặt. - Những tình huống xã hội này gây ra cho người bệnh nỗi lo lắng to lớn. - Người bệnh nhận biết rằng nỗi lo lắng sợ hãi của mình là quá đáng. - Người bệnh tránh những hoàn cảnh xã hội có thể gây lo lắng cho họ. - Sự lo lắng sợ hãi làm cho cuộc sống hằng ngày của họ bị trở ngại.
Biến chứng Nếu không được chữa trị, bệnh sợ giao tiếp xã hội có thể đưa đến nhiều hậu quả tai hại. Sự lo lắng làm chủ đời bạn, ảnh hưởng không tốt đến việc làm, việc học, những mối liên hệ hay niềm vui sống của bạn. Mọi người có thể nghĩ là bạn ngu, không thể thành công, trong khi chính sự sợ hãi đã kềm hãm bạn. Trong trường hợp bệnh nặng, nó có thể làm bạn phải nghỉ việc, nghỉ học, mất bạn bè, người yêu... cũng như có thể đưa tới nghiện ngập ma túy, rượu chè, trầm cảm, muốn tự tử... Do đó, người bệnh nên tìm đếm bác sĩ để được chữa trị bằng tâm lý trị liệu và thuốc.
Tự giúp Ngoài việc được chữa trị bởi các bác sĩ chuyên môn, những cách sau đây cũng có thể giúp bạn bớt đi phần nào nỗi lo sợ triền miên. Bạn nên nhận ra những tình huống xã hội nào mình thường sợ và tránh né rồi áp dụng những cách này vào đó. Luyện tập những cách này thường xuyên. Có thể bắt đầu bằng những chuyện nho nhỏ, thí dụ như những lời chào hỏi thông thường hằng ngày. - Ngồi ăn nơi công cộng với người thân, bạn hay người quen. - Nhìn thẳng vào mắt và nói lời chào trả lại khi có người chào hỏi mình, hoặc làm người đầu tiên mở miệng chào hỏi. - Sửa soạn sẵn những chủ đề mình muốn nói tới. Đọc báo, đọc sách để tìm những đề tài thời sự để có chuyện nói. - Khen một người nào đó. Chú ý tìm chuyện đẹp, tốt của họ để khen một cách thành thật - Nhận biết những tánh tình đẹp của mình. - Chú ý tới người khác. Hỏi thăm họ về nhà cửa, con cái, chuyện du lịch, thú giải trí... của họ. - Hỏi đường đi từ một người lạ. - Không nghĩ những ý nghĩ tiêu cực về mình. - Tập thả lỏng cơ bắp, giữ tinh thần thư thái, tập kỹ thuật tránh căng thẳng. - Tiếp xúc thường xuyên với những người mà bạn cảm thấy thoải mái khi ở gần. - Gia nhập một nhóm hỗ trợ. - Ngủ đủ, ăn thức ăn tốt khỏe mạnh. - Đặt ra những mục tiêu nho nhỏ có thể thực hiện được
|
|