|
Post by Huu Le on Oct 13, 2007 9:07:14 GMT 9
Danh từ Cộng Hòa bắt nguồn từ đâu? Mạc Sum K26 -------------------------------------------------------------------------------- Chính thể không do một vị quân chủ cầu đầu gọi là chính phủ Cộng Hòa. Thê” chế Cộng Hòa (Republic) ngày này có nguồn gốc xa xưa từ Hy Lạp. Tuy nhiên danh từ “Cộng Hòa” mình dùng ngày nay lại bắt nguồn từ Trung Quốc! Năm 840 BC, Thiên Tử thứ 10 của nhà Chu là Lệ Vương, bạo tàn làm cua được 38 năm vì Thiên Tử tước đoạt những quyền lợi kinh tế của giới quý tộc, cộng thêm sự thống trị bạo tàn lâu năm, triều thần nổi loạn. Chu Lịch Vương bỏ chạy đi lưu vọng. Con của Lịch Vương là Tịnh sắp bị quần thần đêm ra giết hại, nhờ hai vị đại thần có uy tín là Chu Công và Chiêu Công ngăn cản. Chu Công và Chiêu Công cùng nhau quyết định việc nước, cho nên gọi là Cộng Hòa. Cộng Hòa có nghĩa là cùng chung sinh sống trong sự hòa hoản. Chu Công và Chiêu Công cai trị Nhà chu trong 14 năm, khi Lịch Vương chết thì trao quyền lại cho Tịnh. Tịnh thành Chu Tuyên Vương. Chu Tuyên Vương là cha của Vua Trụ. Vua Trụ là người mê Bao Tự, đốt phong hỏa để các chư hầu vội vả đến tiếp cứu, rồi chỉ thấy Vua Trụ và Bao Tự ngồi trên thành đàn ca, uống rượu và cười ha hả! Sau đó cha của Hoàng Hậu bị truất phế cùng quân Khuyển Nhung vào giết Vua Trụ, bắt cóc Bao Tự và đốt thành. Nhà Chu phải dời Thủ Ðô về phía Ðông. Chuyện Tàu xẩy ra sau đó được ghi trong truyện Ðông Chu Liệt Quốc! Trong 14 năm từ 840 BC đến 827 BC là thời kỳ Trung Quốc có chính thể Cộng Hòa đầu tiên. Danh từ Cộng Hòa bắt nguồn từ đó. Trong giai đoạn cầm quyền này, Chu Công và Chiêu Công để chứng tỏ họ không làm bậy, mướn người ghi lại tất cả lời nói, việc làm khi hai người lâm triều. Nó mở đầu cho cái lệ lời Thiên Tử nói đều được Thái Sử ghi chép cẩn thận. Nhờ vậy mà ngày nay Trung Quốc có một kho tàn lịch sử độc nhất vô nhị của nhân loại. Lịch sử được ghi chép cẩn thận hơn 2,800 năm trong đó chỉ có khoản thời gian 40, 50 năm là không có dữ kiện (sách, văn hiến) để kiểm chứng. Danh Từ Cộng Hòa Sau đây là đoạn văn trích từ Thế Gia số 9, Tấn Thế Gia, Quyển 39 của bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên viết vào thế Kỷ 2 BC. “Tịnh Hầu thập thất niên, Chu Lệ Vương mê hoạt bạo ngược, quốc nhân tác loạn, Lệ Vương xuất bôn ư Tri, đại thần hành chánh, cố viết Cộng Hòa.” Dịch nghĩa : Năm Tịnh Hầu thứ 17, Chu Lệ Vương mê hoạt bạo ngược, người trong nước nổi loạn, Lệ Vương trốn qua đất Tri, đại thần điều hành việc nước, nên gọi là Cộng Hòa. Từ câu trích trong bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên chứng tỏ danh từ “Cộng Hòa” đã có ít nhất từ thế kỷ thứ 2 BC. Dĩ nhiên danh từ Cộng Hòa không do Tư Mã Thiên phát minh ra, và cũng không do Khổng Tử vì bộ sử Xuân Thu do Khổng Tử soạn chỉ bao gồm giai đoạn 722 BC đến 481 BC!!!! Danh từ Cộng Hòa nguyên thủy là để dùng chỉ giai đoạn Chu Công và Triệu Công (không phải họ Triệu mà là Triệu như trong danh từ Triệu Tập) cùng nhau điều hành việc nước từ năm 840 BC (hay 841 BC) đến 827 BC. Khi dịch thể chế “Republic” của Tây Phương người Tàu dùng danh từ Cộng Hòa vì trong ngữ vựng Trung Hoa không có gì tương đương, và chữ gần nhất là Cộng Hòa! Chế độ “Cộng Hòa” sau khi Tôn Dật Tiên lật đổ nhà Thanh không gọi là “Công Hòa” mà gọi là Dân Quốc. Trung Hoa Dân Quốc chứ không phải Trung Hoa Cộng Hòa! Ðiều này chứng tỏ các nhà cách mạng Quốc Dân Ðảng khi lấy quốc hiệu họ hiểu rất rỏ rằng danh từ Cộng Hòa dịch cho Republic không được ổn lắm! Khi Trung Cộng thắng ở Ðại Lục, cái tên Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc do một người học giả không phải là đảng viên đảng Cộng Sản đề nghị vì cái tên Trung Hoa Dân Quốc (tên thích hợp nhất đã bị lấy trước!!!), Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai...toàn bộ cán bộ cao cấp lo lăn xăn tiếp thu chính phủ Trung Quốc! CSTQ không ngờ thắng nhanh như vậy, trước đó Trung Cộng không bao giờ bàn đến quốc hiệụ Quốc hiệu do Mao và những cán bộ cao cấp nghĩ đến trước, khi họ sắp ra tuyên bố thành lập chính phủ mới thấy không ổn (có lẽ những tay CSTQ cứ nghĩ sẽ lập Liên Bang Soviet Trung Hoa hay gì đó), mới có vụ bàn thảo và một giáo sư đại học nghĩ ra cái tên Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc! Và GS đó không phải là GS Sử !!!!! Từ câu chuyện lịch sử trên chúng ta thấy cái danh từ Cộng Hòa không có gì sát nghĩa với thể chế Republic của Tây Phương, không được những nhà cách mạng lật đổ chế độ quân chủ, lập chế độ “republic” dùng. Rồi CSTQ ấm a ấm ớ dùng nó làm quốc hiệu!!!! Ngày nay danh từ Cộng Hòa là danh từ để chỉ thể chế Republic, nhưng nguyên thủy nó chỉ để chỉ thể chế không có quân chủ cầm đầu, và do hai người điều hành quốc sự trong không khí hòa hoản.... Cộng Hòa!!! Chu Công và Triệu Công sau này bất đồng ý kiến với nhau, một người bảo rằng khi Chu Tuyên Vương cầm quyền mình nên rút vào bóng tối (hay về hưu), một người thấy không có gì không tốt trong việc tiếp tục phục vụ nhà Chu!!!! Hai đầu não Cộng Hòa “đầu tiên” của Trung Hoa kết cục “Bất Hòa”!!!! Ðó là cái thú nghiên cứu lịch sử! Chế độ nô lệ không ăn nhậu gì đến thể chế quốc gia! Nước Mỹ là nước “Cộng Hòa” từ khi lập quốc, Tổng Thống Mỹ thứ 16 là Abraham Lincoln mới đá động tới việc giải phóng nô lệ, và Nội Chiến bùng nổ!!! Tất cả nô lệ Mỹ được thật sự có tự do rất lâu sau nội chiến Mỹ! Một nước Cộng Hòa không có nghĩa là nó phải dân chủ tự do! Nó càng không có nghĩa là không được có nô lệ! Cộng Hòa, hay Republic chỉ có nghĩa là quyền hành không tập trung vào một người mà thôi! Liên Bang Soviet là liên bang 13 nước Cộng Hòa, dân trong các nước đó có hưởng sự bảo đảm về quyền tự do hay không? Mạc Sum K26 California, USA Theo tôi, danh từ “Cộng hoà” được người đương thời... gọi; rồi sử gia dựa theo mà đặt tên cho một giai đoạn, ở đó Chu Công (*) và Triệu Công chung nhau, cùng thoả thuận (”CỘNG HOÀ” ) nhiếp chính thay Lễ Vương bạo ngược bị dân chúng nổi loạn đánh đuổi trong thời khoản 14 năm đó mà thôi. Sử sách dùng nhóm chử “Chu Triệu Cộng Hoà” thay vì tên (vua) để đánh dấu thời khoản 2 khanh-tướng nhiếp chính; cũng giống như thời khoản liên hệ cuả các vua tiền nhiệm Vũ Vương, Thành Vương hay các vua kế nhiệm, Tuyên Vương, U Vương,.... trị vì. Theo tôi, sử khó co thể chính xác rằng “cộng hoà” là thể chế được...”Chu Triệu cộng hoà” áp dụng trong 14 năm triều đại 2 ông khi mà chế độ nô lệ vẫn tồn tại tuy không phát triển cực độ; và kế tiếp là chế độ phong kiến sắp thành hình.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:26:30 GMT 9
THẾ NÀO LÀ XE AN TOÀN ? Ks. Nguyễn Thanh Bình Xe hơi ngày nay khác hẳn với những xe hơi cách đây mấy chục năm về trước vì nó được chế tạo tối tân hơn, tốt hơn, chạy được lâu bền hơn, và được trang bị những hệ thống an toàn hơn, thêm vào đó, luật lệ trừng phạt những người uống rượu trong khi lái xe gắt gao hơn. Vì thế, lái xe ngày nay được cảm thấy an toàn hơn. Từ năm 1979 đến nay, số người chết vì tai nạn xe cộ trên xa lộ giảm đi 50%. Tuy nhiên, hàng năm, số người chết vì tai nạn xe cộ hiện nay khoảng 40,000 người và hầu hết là những người lái xe trẻ tuổi. Số người bị chết vì tai nạn xe hơi đứng đầu trong những nguyên do chết chóc với tuổi từ 6 đến 33 tuổi. Muốn cho xe được an toàn, không quên những yếu tố quan trọng như bánh xe (tires), hệ thống thắng (brakes), bao an toàn (air bags), giây nịt an toàn (seat belts). Những xe mới hiện nay được chế tạo rất tốt ít gặp trở ngại nên nhiều khi chúng ta quên để ý đến việc bảo trì thường xuyên. Sau đây là một vài chỉ dẫn để xe được an toàn: 1. Bánh xe (Tires): Nếu áp suất bánh xe không đúng theo chỉ dẫn, xe có thể gây tai nạn. Bánh xe mềm quá, khi xe chạy nhanh sẽ làm bánh xe cọ xát nhiều hơn làm bánh xe quá nóng có thể bị nổ bánh xe. Phần cao su bọc ngoài (tread) sẽ bị bung ra như trong trường hợp gần đây bánh xe của hãng Firestone. Áp suất từ 1 den 2 PSI (pressure per square inch) thấp hơn mức chỉ định cho mỗi bánh xe cũng có thể làm xe mất an toàn. Bánh xe cần phải thử hàng tháng. Muốn biết độ áp suất PSI của mỗi bánh xe, nên theo chỉ dẫn của hãng xe thay vì của hãng làm bánh xe. Thông thường, độ áp suất của bánh xe được viết xuống gần cửa xe bên trái hay bên trong ngăn chứa giấy tờ (glove compartment) hay trong sách chỉ dẫn (manual). Một vài loại xe tìm thấy độ áp suất viết bên trong nắp xăng. Muốn biết chính xác độ áp suất của bánh xe , nên mua riêng ở các tiệm bán đồ sửa xe một air gauge khoảng $5.00. Do doc áp suất tại các cây xăng không chính xác. Nếu áp suất quá cao cũng không an toàn, bánh xe có thể bị nổ, nhất là về mùa hè, nhiệt độ nóng làm cho không khí trong bánh xe nóng lên và áp suất sẽ tăng cao hơn, cần phải giảm bớt cho đúng. Khi đang lái xe ở xa lộ, nếu nghe những âm thanh lạ từ bánh xe, phải tìm cách dừng xe lại ngay để xem lại bánh xe. Nếu muốn biết bánh xe cần phải thay vì quá mòn, dùng đồng 1 xu để vào kẻ sau của tread. Nếu mặt ngoài bánh xe chưa đụng đến đầu của ông Tổng Thống Lincoln thì bánh xe quá mòn và nên thay bánh mới. Thông thường, bánh xe có thể chạy được từ 40,000 miles đến 80,000 miles tùy loại bánh xe, cách lái xe và bảo trì. Nếu tay lái hay lệch qua một bên, xe cần alignment, nếu không bánh xe sẽ mòn nhanh hơn và không đều. Loại bánh xe rated B trở lên AA thì tốt nhất nếu thường lái xe đi xa và nhanh. Có thể vào website của National Highway Safety Administration để biết thêm chi tiết: www.nhtsa.gov/cars/testing/tirerate2. Hệ thống thắng (Brakes): Thường, khi nghe bánh xe "makes squeaky noise” mỗi khi đạp thắng, “break pads” cần phải thay. Hiện nay, có nhiều xe được trang bị hệ thống “ABS” (Anti-lock Breaking System), hệ thống này sẽ tự động điều chỉnh độ thắng mỗi khi đạp thắng. Điều quan trọng là phải xem đèn báo hiệu trên "dashboard”. Khi đề máy xe, nếu đèn ABS hiện lên trong vài giây đồng hồ rồi tắt, hệ thống ABS hoạt động bình thường, còn nếu như đèn ABS sau đó vẫn không tắt, cần phải đem xe được đến chỗ sửa xe để xem lại vì hệ thống có thể bị trục trặc. Cách đạp thắng gấp khi xe bị "skid" khác nhau giữa xe có hệ thống ABS và xe không có. Khi cần thắng gấp, không giống như xe không có hệ thống ABS, xe có hệ thống ABS, chân chỉ cần đạp mạnh xuống và giữ nguyên, giữ tay lái cho thẳng theo hướng muốn đi, hệ thống ABS sẽ tự điều chỉnh độ thắng nhiều ít mà không làm xe trượt đi ngang. Nếu dùng chân nhấp nhiều lần sẽ làm hệ thống ABS mau hư và hệ thống này rất mắc tiền để sửa. Thông thường, hệ thống thắng cần được bảo trì mỗi 30,000 miles hoặc sớm hơn tùy điều kiện lái xe. Nên đem xe đến sửa tiệm sửa xe có dấu hiệu ASE (được chứng nhận của National Institute for Automotive Service Excellence). Muốn biết nơi nào có dấu hiệu ASE, vào website: www.asecert.org3. Bao an toàn (Air bags): Tất cả xe sản xuất từ năm 1998, hệ thống bao an toàn (Air bags) bắt buộc phải trang bị. Hệ thống airbags này hàng năm giảm số người chết gần 5,000 người. Tuy nhiên, air bags cho đến nay cũng làm chết trên 170 người. Trẻ em dưới 5 tuổi không nên để ngồi trong ghế trẻ em ở phía ghế trước xe. Người lớn ngồi phía trước phải cách xa air bags ít nhất 10 inches. Hệ thống airbags cũng giống như hệ thống ABS, mỗi lần đề máy xe, hệ thống tốt nếu đèn ABS hiện lên trong vài giây rồi tắt, nếu đèn còn sáng, xe cần phải đem đến chỗ sửa xe để xem lại. Nếu xe có trang bị air bags trên 10 năm, nên đem xe để thử lại mặc dầu thấy bình thường. Khi cần thay air bags, nên thay air bags mới do hãng chế tạo air bags đáng tin cậy như Breed Technologies hay TRW Inc... Thay air bags mới rất mắc tiền nên hiện nay có nhiều vụ air bags bị gỡ trộm để bán lại. Nếu mua những air bags cũ này tuy rẻ nhưng không bảo đảm nếu gặp tai nạn xảy ra, air bags có bung ra không. 3. Giây nịt an toàn (Seat belts): Seat belts nếu sử dụng đúng sẽ giảm số người chết đến 45%. Hầu hết, ai cũng nghĩ là seat belts đang dùng trong xe luôn luôn tốt, nhưng có một số trường hợp không đúng vậy. Làm sao biết nó còn tốt hay không? Khi kéo giây belts ra, giây belts chạy ra rất êm và dễ dàng, khi thả ra, nó trở lại bình thường. Có nhiều trường hợp đồ chơi của trẻ em có khi rớt vào kẽ chỗ dây seat belts ra vào làm cho giây bị kẹt, thỉnh thoảng cần xem xét không có vật gì làm vướng hệ thống seat belts. Nếu dây seat belts bị rách hay hư hại, cần nên thay giây mới. Nếu sử dụng bình thường, hệ thống seat belts không bao giờ bị hư. 4. Những loại xe an toàn nhất: Báo “Money” đã thử trên 100 loại xe nhỏ, trung, lớn, minivan, SUVs và pickups. Sau khi duyệt xem kết quả các cuộc thí nghiệm về độ hư hại (crash-test), sau đây là các loại xe an toàn nhất được 5 sao (stars). Không có xe pickup nào được 5 sao: - Small cars: Volkswagen New Beetle - Mid-Size Cars: Toyota Avalon, Toyota Camry, Volkswagen Passat, và Volvo S70 - Luxury Cars: BMW 540i, Lexus LS 400 - Minivans: Ford Windstar, Honda Odyssey và Toyota Sienna - SUVs: Toyota 4Runner Dai Chung 95
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 23, 2009 2:54:20 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 15, 2010 4:37:29 GMT 9
An toàn lái xe Lái xe hơi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống hàng ngày.
Tuy lão niên ta không còn đến sở đi làm như trước đây nhưng vẫn còn nhiều dịp phải dùng tới xe hơi. Lái xe đi chợ mua thực phẩm Việt Nam, đi lễ, đi thăm bạn bè, xuống phố uống cà phê buổi sáng với thân hữu, đến thăm các cháu, ra phi trường hay bến xe bus đón bạn hiền phương xa tới chơi.
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu, lái xe còn được coi như một biểu tượng của khả năng tự lo, tự liệu. Nếu vì nguyên nhân nào đó mà hết lái xe được thì ta coi như không có chân, tù cẳng lại còn mất đi dấu tích độc lập, niềm kiêu hãnh cuối.
Cho nên đã có so sánh, tuy hơi quá, là: với người cao tuổi, mất bằng lái xe là điều bất hạnh thứ nhì sau khi chẳng may mất người phối ngẫu.
Tuy nhiên tới một tuổi nào đó ta cũng cần xét lại xem mình lái xe còn an toàn không cũng như nếu tiếp tục lái, có những điều gì cần ghi nhớ để phương diện di chuyển này được hạnh thông.
Trong điều kiện bình thường, khi còn duy trì tất cả chức năng, thì người cao tuổi vẫn lái xe được cho tới tuổi 70, 80 và họ sẽ thích ứng thói quen lái xe với tuổi tác của mình.
Theo các hãng bảo hiểm thì quý vị ở tuổi 60, 70 ít gây ra tai nạn xe cộ hơn người ở lứa tuổi đôi mươi. Họ đã có kinh nghiệm lái an toàn từ nhiều năm; ý thức được rằng lái xe và rượu say không đi đôi với nhau; họ ít lái xe ban đêm, khi thời tiết xấu, hay vào thời điểm trong ngày có đông xe cộ lưu thông; họ ít gây ra tai nạn do lái xe quá nhanh, lái bất cẩn. Với họ, tai nạn thường xẩy ra khi họ không nhìn thấy dấu hiệu chỉ đường, không nhường tay mặt tay trái, đang lái ngưng lại bất thình lình, bất cẩn khi ra vào xa lộ
Yếu tố ảnh hưởng tới khả năng lái xe
1- Nhiều dược phẩm có ảnh hưởng tới khả năng lái xe tự động vì tác dụng làm buồn ngủ của thuốc, hoặc ảnh hưởng tới khả năng nhận thức. Đó là các loại thuốc an thần, thuốc chống dị ứng, thuốc ngủ, thuốc trị bệnh trầm cảm, thuốc trị đau nhức và thư giãn cơ bắp. Ảnh hưởng của say rượu vào sự lái xe thì quá rõ ràng.
Khi cho toa thuốc, bác sĩ đều lưu ý bệnh nhân là uống thuốc nào không nên hoặc không được lái xe. Đôi khi giờ uống thuốc cũng được thay đổi để khỏi trùng hợp với thời gian cần phải lái xe nhiều trong ngày.
2- Một vài bệnh ảnh hưởng tới sự an toàn lái xe: các bệnh về cơ bắp, khớp xương, giảm thính thị giác, sa sút trí tuệ, bệnh tâm thần, tai biến động mạch não, nghiền rượu ma túy, bệnh Parkinson, kinh phong, tiểu đường, bệnh tim.
Một nghiên cứu mới đây cho hay người mắc bệnh tiểu đường đang được điều trị bằng Insulin hay thuốc viên để hạ đường, dễ gây tai nạn vì đường trong máu giảm xuống bất thình lình, làm cho bệnh nhân mất định hướng.
3- Thay đổi chức năng theo tuổi cao- Những thay đổi về thính thị giác, về sự chú ý, khả năng xét đoán, phản ứng trước biến cố đều ảnh hưởng tới khả năng lái xe.
Về thị giác: Có nhiều nghiên cứu cho hay thị giác là yếu tố căn bản trong việc lái xe vì nó cung cấp tới 90% những dữ kiện cần thiết cho công việc này. Vì thế khi lấy bằng lái xe, ta được đo thị lực (visual acuity) và tầm nhìn (visual field) .
Hầu hết các quốc gia đòi hỏi một thị lực là 20/40 để có bằng lái không hạn chế; nếu thị lực kém hơn 20/40 thì người lái phải chịu một số hạn chế .
Còn về tầm nhìn, tức là khả năng nhìn thấy chung quanh khi mắt không cử động, thì cần một khẩu độ là 140 độ. Mắt bình thường có khẩu độ 160- 180 trong ánh sáng ban ngày. Một nghiên cứu của trường Đại Học Birmingham, Alabama, cho hay là, với người cao tuổi, tai nạn xe cộ thường xẩy ra ở ngã ba, ngã tư đường vì tầm nhìn hữu ích tổng quát bị thu hẹp lại, sự vật trước mắt không được nhận biết vì kém tập trung.
Trời tranh tối tranh sáng hay thời tiết xấu (mưa, bão tuyết), khẩu độ giảm đi nhiều, khiến người lái gặp khó khăn. Lái xe ban đêm, người cao tuổi dễ bị bối rối, chóa mắt khi xe ngược chiều để đèn rọi quá sáng.
Đồng thời người cao tuổi cũng có khuynh hướng ước lượng ít đi tốc độ của các xe khác nên khi vượt qua mặt, tai nạn dễ xẩy ra.
Thời gian phản ứng ở người cao tuổi chậm lại. Trước một biến cố, cần thắng xe thì họ cần thời gian lâu hơn để đạp chân thắng. Đôi khi vì gân cốt yếu, chân gas chân thắng đạp không đều, tay lái không phối hợp nhịp nhàng, trí nhớ không tập trung cũng là nguyên nhân đưa tới tai nạn.
Ngoài ra để cân bằng sự giảm khả năng lái vì thay đổi cơ thể khi về già, họ thường ngồi lái với vị thế cứng nhắc, ôm lấy tay lái, không nhận thức được biến chuyển xẩy ra ở chung quanh.
Một số điều cần lưu ý khi tiếp tục lái xe
Mặc dù có nhu cầu lái xe nhưng ta cũng cần để ý tới sự an toàn cho cá nhân mình và cho người khác. Khi thấy khả năng lái xe của mình không còn nhậy bén thì ta cũng cần cân nhắc có nên tiếp tục lái với nhiều cẩn thận hơn hay quyết định ngưng lái.
1- Nếu thính, thị giác kém, nên luôn luôn mang kính điều chỉnh, máy nghe.
2- Không nên lái xe khi trời mưa to hay có tuyết. Đang lái mà có mưa to, nên áp vào lề đường đợi mưa qua. Không lái xe khi có sương mù.
3-Khi đang lái mà cảm thấy buồn ngủ thì nên tạt vào nơi nghỉ chân hay vào lề đường để nghỉ, nhắm mắt mươi phút cho tỉnh táo rồi lái tiếp. Lái đường xa đôi khi thấy quá đều, buồn, nên sau vài giờ lái cũng nên dừng chân nghỉ cho thoải mái.
4- Tập trung vào việc điều khiển xe, tránh chia trí vì nói chuyện, nghe âm nhạc, nói chuyện trong điện thoại di động. Giữ cảm xúc bình thường, không để giận dữ, bực mình, sốt ruột ảnh hưởng tới tâm trí mình. Mới đây việc sử dụng điện thoại di động trong khi đang lái đã được cho là nguy cơ lớn gây tai nạn, vì thế người cao tuổi ta có lẽ không nên dùng. Đồng thời cũng nên tránh cảnh một người lái, một người ngồi bên điều khiển, ra lệnh, thắng gió.
5- Giữ khoảng cách giữa hai xe trong khoảng an toàn vì thời gian phản ứng của ta chậm lại khi cần thắng gấp. Khi từ xe mình mà ta có thể đọc được nhãn hiệu trên bảng số xe trước, là ta lái quá gần. Lái với tốc độ 30 dặm một giờ, ta cần 4 giây đồng hồ hay khoảng cách của năm xe để thắng an toàn.
6- Tại ngã tư đèn xanh đỏ, đợi khoảng 3 giây sau khi đèn đổi sang xanh hãy đi, vì nhiều người bên mặt trái đôi khi đèn vàng còn cố vượt qua. Cẩn thận tối đa khi đổi làn đường, ra vào xa lộ, quẹo mặt, quẹo trái.
7- Tránh lái trên trục lộ có nhiều xe cộ lưu thông. Chỉ nên lái khi trời còn sáng vì ban đêm, mắt chỉ nhìn được 1/6 khoảng đường phía trước so với ban ngày. Giới hạn sự lái xe cho nhu cầu quan trọng. Tránh lái về hướng mặt trời đang lặn vì mắt già không thích ứng được với tia nắng chói tỏa rộng.-
8- Tạo thói quen mang dây an toàn để tránh thương tích gây ra không những do hai xe đụng nhau mà phần lớn còn do cơ thể mình đập đụng vào các thành phần trong xe mình ngồi. Kể từ khi nịt an toàn được bắt buộc, số tử vong do tai nạn xe hơi giảm đi tới 45%. Từ năm 1990, túi không khí an toàn đã được gắn vào xe để bảo vệ người lái và người ngồi băng trước, nhưng túi này không phải là thay thế cho nịt an toàn.
Ngoài ra cũng nên năng kiểm soát xe coi có chạy tốt không; lau kính xe, đèn trước để tăng tầm nhìn; hiểu rõ cách sử dụng các đặc trưng của xe; điều chỉnh ghế ngồi cho thoải mái, điều chỉnh gương phản chiếu để nhìn rõ ràng chung quanh.
Ngưng lái xe
Thường thường người cao tuổi ngưng lái xe vì thị giác suy giảm trầm trọng, khi có hậu quả của thương tích gẫy xương, đau bệnh tim, sa sút trí tuệ.
Đôi khi gia đình cũng quan tâm tới việc lái xe của thân nhân vì phát hiện những thay đổi có nguy cơ gây ra tai nạn và cầu cứu bác sĩ gia đình can thiệp. Theo luật lệ hiện hành thì bác sĩ chỉ có thể góp ý kiến về khả năng lái xe, chứ không có quyền quyết định. Quyền này nằm trong phạm vi cơ quan cấp phát bằng lái xe.
Tại Hoa Kỳ, bằng lái xe có giá trị trên toàn quốc, nhưng luật lệ điều hành việc lái xe thay đổi tùy theo từng tiểu bang. Ở Nữu Ước, bệnh nhân có thể kiện bác sĩ khi họ mất bằng lái vì bác sĩ báo cho sở cấp phát bằng lái tình trạng bệnh của họ. Trái lại ở California, bác sĩ vi phạm luật nếu không thông báo cho cơ quan này về bệnh tật có thể ảnh hưởng tới điều khiển xe tự động của bệnh nhân.
Cho tới năm 1991, 46 tiểu bang Hoa Kỳ giới hạn lái xe đối với bệnh nhân bị bệnh kinh phong; 26 tiểu bang giới hạn người bị bệnh tiểu đường mà hay bị bất tỉnh; và 8 tiểu bang giới hạn người có nhịp tim loạn xạ không được lái xe.
Thích nghi với hết lái xe
Khi không còn lái xe được không có nghĩa là mất tự do, ngồi lỳ ở nhà, giảm hết các sinh hoạt, liên lạc với xã hội, sống thụ động. Ta có thể kiếm các phương tiện khác thay thế như đi taxi, xe chuyên chở công cộng, đi nhờ người nhà hay quá giang có trả tiền với lối xóm. Đồng thời cũng sẵn sàng đón nhận, thích ứng với một vài hậu quả của không lái xe như gia tăng buồn chán và giảm mức độ trong những sinh hoạt mà trước đây ta vẫn làm.
Một vấn đề rất tế nhị đang được bàn cãi là có nên trắc nghiệm người cao tuổi về khả năng lái xe mỗi khi họ đổi bằng lái ngoài việc kiểm tra thị lực. Có ý kiến cho trắc nghiệm như vậy là kỳ thị người già, không cần thiết vì đa số người già đều ý thức và kiểm soát được hành động của mình. Tuy vậy nhiều tiểu bang đã có những lớp ôn lại bài học căn bản về lái xe, luyện lại sự nhậy bén, phản ứng của cơ thể khi điều khiển xe tự động.
Nhiều vị cao tuổi vui vẻ tham dự để kiểm tra lại khả năng của mình. Đó là thái độ đáng khuyến khích để tránh tai nạn xẩy ra cho mình và cho người khác.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 9:13:27 GMT 9
Sở hữu trí tuệ là gì? Laurence R. Hefter và Robert D. Litowitz Những nước có các ngành công nghiệp sáng tạo hầu như bao giờ cũng có các đạo luật khuyến khích sáng tạo bằng cách quản lý việc sao chép các sáng chế, các biểu tượng định dạng và các hình thức sáng tạo khác. Các luật lệ này điều chỉnh bốn loại tài sản vô hình khác biệt là bằng phát minh sáng chế, thương hiệu, quyền tác giả và các bí mật thương mại, được gọi chung là "sở hữu trí tuệ" (intellectual property). Sở hữu trí tuệ có nhiều đặc điểm của bất động sản và tài sản cá nhân. Ví dụ, sở hữu trí tuệ là một tài sản có thể được mua, bán, cho phép sử dụng, trao đổi hoặc biếu tặng giống như bất kỳ loại hình tài sản nào khác. Ngoài ra, chủ sở hữu sở hữu trí tuệ còn có quyền ngăn cấm việc sử dụng hoặc mua bán trái phép tài sản của họ. Tuy nhiên, sự khác biệt đáng chú ý nhất giữa sở hữu trí tuệ và các loại sở hữu khác là tính vô hình của nó, tức là sở hữu trí tuệ không thể xác định được bằng các đặc điểm vật chất của chính nó. Nó phải được thể hiện bằng một cách thức cụ thể nào đó để có thể bảo vệ được. Tất cả bốn loại sở hữu trí tuệ được bảo vệ theo quy định ở từng quốc gia. Do đó, phạm vi bảo vệ và các yêu cầu để nhận được sự bảo vệ sẽ khác nhau giữa các nước. Tuy nhiên, luật pháp của các quốc gia trong lĩnh vực này cũng có nhiều sự tương đồng. Ngoài ra, xu hướng toàn cầu hiện nay là hướng tới sự hòa hợp luật pháp của các quốc gia. Bằng phát minh sáng chế: Khế ước của xã hội với các nhà phát minh Người ta có thể cho rằng bằng phát minh sáng chế là một hợp đồng giữa xã hội nói chung và cá nhân một nhà phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng xã hội này, nhà phát minh được độc quyền ngăn cấm những người khác không được sao chép, sử dụng và bán một phát minh đã được cấp bằng chứng nhận trong một khoảng thời gian nhất định đổi lại việc nhà phát minh sẽ công bố các chi tiết của phát minh cho công chúng biết. Do đó, hệ thống cấp bằng chứng nhận phát minh sáng chế khuyến khích việc công bố thông tin cho công chúng bằng việc dành phần thưởng cho những nỗ lực mà một nhà phát minh đã bỏ ra. Mặc dù từ "bằng phát minh sáng chế" (patent) có nguồn gốc từ các văn bản của vua Anh trong thời Trung cổ ban ra nhằm trao một đặc quyền, ngày nay từ này được coi là đồng nghĩa với độc quyền được trao cho nhà phát minh. Hiệp định về các Khía cạnh Liên quan đến Thương mại của Sở hữu Trí tuệ (TRIPs) trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) quy định tiêu chuẩn quốc tế về thời hạn độc quyền về phát minh sáng chế, cụ thể là 20 năm kể từ ngày nộp đơn xin cấp bằng. Sau khi được thực hiện từ ngày 1/1/2000, tất cả các thành viên của WTO sẽ có nghĩa vụ tuân thủ tiêu chuẩn này. Theo tất cả các hệ thống cấp bằng phát minh sáng chế, một khi khoảng thời gian này kết thúc thì người ta có quyền tự do sử dụng phát minh theo cách mà họ muốn. Lợi ích của một hệ thống cấp bằng phát minh sáng chế hiệu quả có thể được minh họa một phần như sau: * Một bằng phát minh sáng chế là phần thưởng cho sự đầu tư về thời gian, tiền của và những nỗ lực trong việc nghiên cứu. Nó kích thích việc tiếp tục nghiên cứu vì các đối thủ cạnh tranh muốn phát minh ra những giải pháp thay thế cho các phát minh đã được cấp bằng và nó khuyến khích sự cải tiến và đầu tư vào các phát minh được cấp bằng thông qua việc cho phép các công ty thu hồi các phí tổn về nghiên cứu và phát triển trong thời gian được hưởng độc quyền. * Thời hạn độc quyền của văn bằng cũng mang lại thêm lợi ích chung qua việc khuyến khích quá trình thương mại hóa nhanh chóng các phát minh, nhờ vậy xã hội được hưởng thành quả của các phát minh sớm hơn. Các bằng phát minh sáng chế cũng cho phép các nhóm nghiên cứu được trao đổi thông tin trong phạm vi rộng hơn, giúp tránh các nghiên cứu trùng lặp và quan trọng nhất là làm tăng kho tàng kiến thức chung của xã hội. Mặc dù quyền do bằng phát minh sáng chế mang lại là quyền ngăn cản những người khác sao chép, sử dụng hoặc bán một phát minh được cấp bằng trong thời gian còn hiệu lực của văn bằng, nhưng điều quan trọng cần phải hiểu là một bằng phát minh sáng chế không phải nhất thiết chỉ để cho phép người chủ sở hữu văn bằng đó có quyền được tự mình sao chép, sử dụng hoặc bán phát minh. Ví dụ, chủ sở hữu một bằng phát minh sáng chế về cải tiến phương pháp sản xuất một hợp chất hóa học sẽ không được tự do bán hợp chất đó được sản xuất ra do việc sử dụng phương pháp được cấp bằng nếu hợp chất đó đã được cấp bằng phát minh sáng chế bởi một người khác. Mặc dù các thành viên WTO đều phải tuân thủ các quy định về bằng phát minh sáng chế trong Hiệp định TRIPs, nhưng các bằng phát minh sáng chế được cấp theo luật quốc gia và do đó phạm vi các quyền cũng được quy định tuỳ theo từng quốc gia. Vì vậy, một bằng phát minh sáng chế của Hoa Kỳ chỉ có thể được sử dụng để chống lại hành vi vi phạm trong lãnh thổ nước Hoa Kỳ. Tại hầu hết các nước, các quyền này được thực thi bằng thủ tục tố tụng dân sự thay cho thủ tục hình sự. Do đó, việc thực thi các quyền này là của người chủ sở hữu văn bằng. Nói chung, bất kỳ hành vi nào nhằm sao chép, sử dụng hoặc bán phát minh đã được cấp bằng mà không được phép đều vi phạm luật pháp cho dù hành vi đó được thực hiện bởi nhà nước, một công ty hay một cá nhân. Bất kỳ hành vi vi phạm nào như vậy đều làm phát sinh trách nhiệm bất kể mục đích của người vi phạm hay thiếu hiểu biết về bằng phát minh. Các biện pháp giải quyết vi phạm có thể bao gồm trát gọi hầu toà, lệnh buộc phải giao nộp hoặc tiêu huỷ các hiện vật vi phạm và tiền bồi thường thiệt hại cho người được cấp bằng hoặc lợi nhuận mà người vi phạm thu được. Một bằng phát minh sáng chế vẫn có thể bị chứng minh là không có hiệu lực và cách biện hộ phổ biến của những người vi phạm là khẳng định rằng bằng phát minh sáng chế không có hiệu lực. Thông thường, văn bằng phát minh sáng chế bị nghi ngờ về hiệu lực trên căn cứ là phát minh đó đã được một người khác chứ không phải nhà phát minh có tên tìm ra hoặc phát minh đó không có gì lạ đối với những người có chuyên môn trong lĩnh vực công nghệ liên quan. Cái gì có thể được cấp bằng phát minh sáng chế? Ðiều 27 của Hiệp định TRIPs quy định rằng các thành viên WTO sẽ cấp bằng phát minh sáng chế cho bất kỳ phát minh nào, một sản phẩm hay một quy trình tạo ra sản phẩm nào "với điều kiện là chúng mới, đòi hỏi có tính phát kiến và có khả năng ứng dụng vào sản xuất". Nói cách khác, để có thể được cấp bằng, một phát minh phải mới, hữu ích và có tính phát kiến. Một điều kiện tiên quyết để được cấp bằng là phát minh phải có khả năng ứng dụng thực tiễn. Ðiều này nhấn mạnh tầm quan trọng mà hệ thống cấp bằng phát minh sáng chế đặt ra đối với tính hữu dụng. Mặc dù nguyên tắc này vẫn không thay đổi nhưng từ ngữ được sử dụng trong pháp luật của các nước có sự khác nhau; ví dụ, ở Hoa Kỳ, đối tượng có thể được cấp bằng phải "có ích" trong khi ở Anh nó phải có khả năng "ứng dụng vào sản xuất". Phát minh phải mới - có nghĩa là, đối tượng của phát minh không hoặc không thể bị suy đoán từ một phần của một đối tượng đã được biết. Ðiều này thường được gọi là yêu cầu "tính mới". Mới hay có tính mới trong ngữ cảnh này có nghĩa là "mới đối với công chúng". Do đó, điều gì đó đã được biết hay sử dụng trước đó nhưng chưa được công chúng biết (ví dụ, nếu nó được giữ bí mật) không thể là lý do ngăn cản việc cấp bằng phát minh sáng chế. Phát minh còn phải có tính phát kiến. Ðiều này ngăn cản người khác không được lợi dụng hệ thống cấp bằng và nhận được sự bảo hộ cho một đối tượng trên thực tế chỉ là sự mở rộng hoặc thay đổi chút ít của một điều gì đó đã được biết đến rộng rãi. Nói chung, việc kiểm tra tính phát kiến dựa trên việc một chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến phát minh, tại thời điểm phát minh, có coi đó là một phát kiến hay không. Hiệp định TRIPs quy định thời gian quá độ cho các nước đang phát triển hiện thời không bảo hộ bằng phát minh sáng chế cho sản phẩm trong lĩnh vực hóa chất nông nghiệp hoặc dược phẩm. Trên thực tế, hầu hết các nước đều thực hiện vì lợi ích phát triển đối với lĩnh vực công nghệ sinh học nếu được bảo hộ đầy đủ. Việc bảo hộ bằng phát minh sáng chế về quy trình không khuyến khích đầu tư vì khó khăn trong việc thực thi bảo hộ một quy trình. Việc này trở nên đặc biệt khó khăn khi trách nhiệm chứng minh có sự vi phạm lại thuộc về người chủ sở hữu văn bằng. Chủ sở hữu văn bằng phải chứng minh rằng một quy trình sản xuất nhất định (tức là quy trình được cấp bằng) đã được sử dụng để sản xuất ra hóa chất nhất định. Ðiều này khó có thể chỉ ra vì có rất nhiều các sai khác có thể có trong quy trình và có thể không tiếp cận được cơ sở sản xuất của người vi phạm. Trong thực tế, điều này được tiến hành bằng cách tìm kiếm các chất bẩn dây rớt có mang đặc điểm của quy trình sản xuất. Người ta có thể hình dung ra vấn đề này sẽ trở nên phức tạp như thế nào nếu, ví dụ, một bằng phát minh sáng chế bảo hộ một dược phẩm mà dược phẩm này được sản xuất ở một nước nơi không bảo hộ cho dược phẩm và sau đó được xuất khẩu sang nước thứ hai nơi chỉ thực hiện bảo hộ cho quy trình sản xuất. Trong 15 năm qua, nhiều nước đã chuyển từ cấp bằng phát minh sáng chế cho "quy trình" sang cấp bằng phát minh sáng chế cho "sản phẩm" và chúng ta hy vọng rằng các nước thành viên WTO sẽ nâng cấp hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này trong vài năm tới vì theo Hiệp định TRIPS của WTO, các nước thành viên phải bảo hộ đầy đủ cho bằng phát minh sáng chế về sản phẩm chậm nhất trước ngày 1/1/2005. Không chỉ có các khía cạnh hữu dụng của phát minh mới và có ích mới có thể được cấp bằng phát minh sáng chế mà nhiều nước còn mở rộng việc bảo hộ cho các kiểu dáng công nghiệp mới có tính chất làm đẹp. Tại Hoa Kỳ, hình thức bảo hộ này được gọi là bằng phát minh sáng chế về kiểu dáng trong khi ở nhiều nước châu Âu quyền sở hữu về kiểu dáng công nghiệp được gọi là mô hình kiểu dáng. Ngoài những đối tượng thường được bảo hộ theo văn bằng như các thiết bị, hợp chất hóa học và các quy trình, một số nước thực hiện bảo hộ văn bằng phát minh sáng chế đối với các vật thể sống. Ví dụ, các loài thực vật được nhân giống vô tính, trừ vi khuẩn, các loại cây cấy ghép và các loại cây phát triển từ củ, có thể được bảo hộ giống như các thực vật nhân giống hữu tính (bằng hạt), trừ vi khuẩn, nấm và giòng lai thứ nhất. Hiệp định TRIPS không yêu cầu bảo hộ đối với vật thể sống mới hoặc các loài thực vật nhưng các thành viên WTO có thể tham gia Liên Hợp Quốc tế vì sự bảo vệ các giống loài thực vật mới UPOV. Thương hiệu và nhãn hiệu dịch vụ: Xác định nguồn gốc Thương hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ được dùng chủ yếu là để cho biết nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ và để phân biệt các hàng hóa và dịch vụ với nhau. Chúng còn là biểu tượng cho chất lượng của hàng hóa hoặc dịch vụ. Hầu hết các thương hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ (gọi là "nhãn hiệu") là các từ ngữ, nhưng chúng gần như có thể là bất kỳ cái gì để phân biệt một sản phẩm hoặc dịch vụ này với một hàng hóa hoặc dịch vụ khác, như biểu tượng, biểu trưng, âm thanh, kiểu dáng, hay thậm chí các quy cách phi chức năng riêng biệt của sản phẩm. Hiệp định TRIPs mở rộng mức độ công nhận và bảo hộ đối với nhãn hiệu dịch vụ cũng giống như đối với thương hiệu hàng hóa (Ðiều 15 và 16 của Hiệp định TRIPS). Tại một số nước, việc đăng ký một nhãn hiệu có thể không bị bắt buộc để bảo hộ nhãn hiệu nhưng dù trong trường hợp nào các nước thành viên WTO đều có nghĩa vụ bảo hộ các nhãn hiệu hàng hóa hay dịch vụ nổi tiếng. Vì việc xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không trong một bộ phận công chúng dựa trên từng trường hợp nên các công ty có thể muốn đăng ký các nhãn hiệu nổi tiếng. Với các nhãn hiệu không nổi tiếng, các nước có thể yêu cầu chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký nhãn hiệu với cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia trước khi được bảo hộ ở nước đó. Thời hạn bảo hộ đối với một nhãn hiệu rất khác nhau ở từng quốc gia. Việc đăng ký bảo hộ được áp dụng trong những khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, vì mục đích căn bản của nhãn hiệu, tức là để tránh sự nhầm lẫn của công chúng, khuyến khích cạnh tranh và bảo hộ tài sản vô hình của chủ sở hữu nhãn hiệu, việc đăng ký có thể được thực hiện lại và do vậy kéo dài vô thời hạn chừng nào nhãn hiệu còn được sử dụng. Chủ sở hữu một nhãn hiệu có thể không cho người khác sử dụng nhãn hiệu tương tự nếu việc sử dụng đó có thể gây ra sự nhầm lẫn cho người mua hàng. Việc xác định hai nhãn hiệu liệu giống nhau đến mức có thể gây nhầm lẫn hay không thường đòi hỏi phải phân tích nhiều nhân tố như so sánh nhãn hiệu của các bên, hàng hóa hoặc dịch vụ của họ, kênh quảng cáo và thương mại của họ, ý định của bên bị khiếu nại khi chọn nhãn hiệu và việc có hay không sự nhầm lẫn trên thực tế. Những khác biệt trong bảo vệ thương hiệu và nhãn hiệu dịch vụ Cũng như trong các lĩnh vực khác của tài sản trí tuệ, luật pháp về thương hiệu và nhãn hiệu dịch vụ có nguồn từ luật quốc gia nhưng cũng phải tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPS. Một số quốc gia cấp quyền sở hữu cho người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu trong kinh doanh, trong khi các quốc gia khác cấp quyền sở hữu cho người đầu tiên đăng ký nhãn hiệu ở nước đó. Ở các nước theo nguyên tắc "người đầu tiên sử dụng", có thể có được các quyền sở hữu mà không cần phải đăng ký với cơ quan nhãn hiệu quốc gia. Tuy nhiên, việc đăng ký vẫn cần thiết vì đó là một bằng chứng hợp pháp về giá trị hiệu lực của nhãn hiệu và quyền sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu. Nó còn được ghi vào sổ đăng ký nhãn hiệu quốc gia, có tác dụng như một thông báo cho toàn thế giới biết về việc sử dụng nhãn hiệu và quyền sở hữu nhãn hiệu của chủ sở hữu. Theo TRIPS, việc thực sự sử dụng một thương hiệu sẽ không phải là điều kiện cho việc xin đăng ký một thương hiệu hay một nhãn hiệu dịch vụ. Tiếp theo việc sử dụng hoặc đăng ký một thương hiệu, chủ sở hữu phải sử dụng nhãn hiệu đó, nếu không nó có thể là mục tiêu tấn công của bất kỳ ai lấy cớ là chủ sở hữu đã từ bỏ nhãn hiệu đó. Ở mức độ tối thiểu, phần lớn các nước đều yêu cầu rằng nhãn hiệu phải có tính riêng biệt; có nghĩa là, nhãn hiệu đó có khả năng phân biệt các hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ sở hữu với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác. Một nhãn hiệu có thể bao gồm một tập hợp nguyên bản các chữ số, chữ hoặc biểu tượng, màu sắc, hoặc giai điệu. Ðể xác định xem nhãn hiệu có đạt các tiêu chuẩn này không thì phải xác định được điểm mạnh của nhãn hiệu. Ðiểm mạnh của nhãn hiệu thường được đánh giá một cách toàn diện. Phạm vi đánh giá này bao gồm từ hiệu quả thấp nhất đến cao nhất, các tiêu chí như tính tổng quát, tính biểu tượng, tính gợi nhớ, tính tùy ý và tính kỳ lạ. ít hiệu quả nhất là các chữ, các biểu tượng, các hình vẽ không có khả năng dùng để phân biệt hàng hóa vì chúng được dùng phổ biến để tự phân biệt bản thân các hàng hóa như sách vở, bàn hoặc ghế. Các đặc điểm đó thường được gọi là các đặc điểm chung và không thể được bảo vệ như các thương hiệu. Tiêu chí tiếp theo là các đặc điểm miêu tả. Một nhãn hiệu có tính miêu tả nếu nó diễn tả được mục đích mong muốn, chức năng, đặc tính vật chất, chất lượng tiêu biểu, hoặc công dụng chính của sản phẩm. Hàng loạt các ví dụ về các nhãn hiệu miêu tả bao gồm DAYBRITE của các thiết bị chiếu sáng, MICRO của các quả cân lăn có kích thước rất nhỏ và SUPPEME của các loại rượu có chất lượng thượng hạng. Vì chúng không có tính phân biệt vốn có nên một đặc điểm miêu tả không thể được bảo vệ như một nhãn hiệu đến khi, thông qua việc mở rộng bán hàng và quảng cáo, đặc điểm đó đã trở thành đặc điểm nhận dạng nguồn gốc của các hàng hóa mang nhãn hiệu. ở Hoa Kỳ, khi các nhãn hiệu miêu tả đạt được mức độ khác biệt, thì người ta nói rằng nó đã có được "ý nghĩa phụ". Ngược lại với các nhãn hiệu miêu tả, các nhãn hiệu có tính gợi ý không trực tiếp miêu tả hàng hóa mang nhãn hiệu đó; các nhãn hiệu đó thường yêu cầu phải suy nghĩ, tưởng tượng, hoặc phải có sự am hiểu để đưa ra kết luận về bản chất của hàng hoá. Các nhãn hiệu gợi ý được coi là có tính tự phân biệt và có thể được bảo vệ mà không cần phải có ý nghĩa phụ. Ví dụ về nhãn hiệu gợi ý có thể bao gồm HERO của bình cứu hỏa hoặc STRONGHOLD của đinh. Nhãn hiệu tùy ý là các từ, biểu tượng và hình vẽ thường được sử dụng nhưng khi sử dụng trên hàng hóa của chủ sở hữu thương hiệu thì nó không miêu tả hoặc gợi ý về chất lượng của hàng hóa đó. Các ví dụ của nhãn hiệu tuỳ ý bao gồm APPLE của máy tính và DOVE của xà phòng tắm. Cũng giống như nhãn hiệu gợi ý, nhãn hiệu tùy ý có tính phân biệt vốn có và không cần phải chứng minh có ý nghĩa phụ. Nhãn hiệu có tính phân biệt nhất là các nhãn hiệu độc đáo. Nhãn hiệu độc đáo là một từ được tạo ra hoặc biểu tượng được phát minh ra hoặc lựa chọn chỉ là để làm nhãn hiệu. Các ví dụ về nhãn hiệu độc đáo bao gồm EXXON của dầu lửa, KODAK của vật tư ảnh, XEROX của máy photocopy và PEPSI của đồ uống. Các nhãn hiệu độc đáo có truyền thống được bảo vệ trong phạm vi rộng nhất. Bản quyền: Sự thể hiện của tác giả Bản quyền là độc quyền được tái tạo một tác phẩm của tác giả bằng bất kỳ biểu hiện hữu hình nào, để xây dựng nên các tác phẩm phái sinh dựa trên tác phẩm ban đầu và để biểu diễn hay trình diễn tác phẩm trong lĩnh vực âm nhạc, kịch, múa ba lê và nghệ thuật điêu khắc. Bảo hộ bản quyền không bao gồm các ý tưởng, quy trình thủ tục, phương pháp, hệ thống, phương thức hoạt động, khái niệm, nguyên tắc, hoặc phát kiến, không tính đến các hình thức mà nó miêu tả, giải thích hoặc lồng ghép. Hơn thế nữa, bảo hộ bản quyền chỉ giới hạn trong sự diễn đạt đặc biệt của tác giả về một ý tưởng, phương pháp, khái niệm và giống như một phương tiện truyền đạt hữu hình. Bảo hộ bản quyền nghiễm nhiên có tác dụng đối với mọi tác phẩm có tác giả kể từ lúc bắt đầu hình thành. Hiệp định TRIPS quy định tiêu chuẩn tối thiểu đối với thời hạn bảo hộ bản quyền. Nếu là cá nhân, thì thời hạn đó là tuổi thọ của tác giả cộng thêm 50 năm nữa. Trong trường hợp là một công ty thì thời hạn đó là 50 năm tính từ cuối năm dương lịch của ấn phẩm được phép in ấn hoặc, nếu không có ấn phẩm thì tính từ cuối năm dương lịch tạo ra tác phẩm đó (điều 12 của TRIPS). Thời gian bảo hộ các cuộc biểu diễn nghệ thuật được tính là 50 năm đối với diễn viên và người sản xuất và là 20 năm đối với người phát sóng các cuộc biểu diễn này. Gần đây Hoa Kỳ đã nâng cao việc bảo hộ các tác phẩm có bản quyền của mình trở thành một phần của Ðạo luật Bản quyền Thiên niên kỷ Kỹ thuật số hay DMCA. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, bản quyền tác phẩm của cá nhân một tác giả tạo ra trước hoặc sau ngày 1 tháng 1 năm 1978 sẽ kéo dài bằng tuổi thọ của tác giả cộng thêm 70 năm sau ngày mất của tác giả. Tuy nhiên, nếu tác phẩm được tạo ra để cho thuê, thì bản quyền kéo dài 120 năm kể từ khi tạo ra tác phẩm hoặc 95 năm kể từ khi có ấn bản đầu tiên, tính theo thời gian nào ngắn hơn. Ðộc quyền được trao cho chủ sở hữu bản quyền sẽ không bao gồm quyền ngăn cản người khác sử dụng hợp lý tác phẩm của chủ sở hữu bản quyền. Việc sử dụng hợp lý có thể bao gồm các công việc nhằm mục đích phê bình, bình luận, đưa tin, dạy học, học tập hoặc nghiên cứu. Nội dung của tác phẩm, mức độ in ấn và tác động của việc sao chép đối với giá trị thương mại của ấn phẩm đều được xem xét để quyết định việc sử dụng không được phép có được coi là"sử dụng hợp lý" không. Nguyên bản là yếu tố then chốt đối với bản quyền Ðể đảm bảm việc bảo hộ bản quyền, tác phẩm được xem xét phải là tác phẩm nguyên bản của tác giả được thể hiện một cách hữu hình. Các tác phẩm có tác giả phù hợp với định nghĩa này có thể bao gồm: * Các tác phẩm chữ viết (bao gồm cả chương trình máy tính); * Tác phẩm âm nhạc cùng với lời; * Kịch và các lời thoại; * Kịch câm và múa ba lê; * Tranh, đồ họa và các tác phẩm điêu khắc; * Phim ảnh và các tác phẩm nghe nhìn khác; * Thu thanh. Một điểm quan trọng cần lưu ý là luật của nhiều nước không hạn chế thể loại hoặc hình thức của tác phẩm vì các tác giả vẫn tiếp tục sáng tác dưới nhiều hình thức khác nhau để thể hiện ý tưởng của bản thân. Việc kiểm tra tính nguyên bản của tác phẩm thường có hai khía cạnh. Trước hết, tác phẩm phải đúng là của tác giả, với ý nghĩa là nó phải được tác giả tạo ra một cách độc lập, không phải sao chép từ các tác phẩm khác. Tiếp đến, tác phẩm phải hàm chứa đầy đủ tính sáng tạo cao hơn mức độ thông thường. Ðể có thể có bản quyền, một tác phẩm phải "được ổn định một cách hữu hình". Một tác phẩm được ổn định khi việc biểu hiện của nó bằng cách thức hữu hình đó phải đủ lâu hoặc ổn định để cho phép người ta nhận thức được nó, tái tạo hoặc truyền đạt nó bằng cách khác trong một khoảng thời gian nhất định chứ không phải chớp nhoáng. Ðiều này có nghĩa là phương tiện, cách thức hoặc phương thức xác định không có ý nghĩa quyết định. Việc đăng ký bản quyền ở hầu hết các nước là tương đối nhanh và không tốn kém. Mặc dù việc bảo hộ bản quyền bắt đầu khi tác phẩm được xác định một cách hữu hình, nhưng việc đăng ký bản quyền mang lại thêm được một số lợi ích quan trọng ở một số nước. Tuy một số thành viên của WTO, bao gồm cả Hoa Kỳ, vẫn duy trì cơ chế đăng ký đối với các tác phẩm có bản quyền, nhưng Hiệp định TRIPS loại bỏ việc sử dụng các cơ chế như hệ thống đăng ký như là một điều kiện tiên quyết đối với công dân nước ngoài trước khi bắt đầu việc khiếu kiện nhằm ngăn chặn việc vi phạm bản quyền hoặc để thu hồi phí tổn, bao gồm cả chi phí luật sư của việc thực thi bản quyền. Do vậy, ví dụ, Hoa Kỳ có thể yêu cầu các công dân của mình, chứ không phải các tác giả nước ngoài, đăng ký tác phẩm với Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ. Ngoài ra, ở một số quốc gia, việc đăng ký bản quyền sẽ là bằng chứng đầu tiên về giá trị hiệu lực và quyền sở hữu của bản quyền. Bí mật thương mại: Lợi thế cạnh tranh Bí mật thương mại là các thông tin bí mật hoặc không được biết đến một cách rộng rãi trong một lĩnh vực có liên quan và tạo cho người sở hữu bí mật đó lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh. Việc bảo hộ bí mật thương mại tồn tại chừng nào mà bí mật đó còn cần được giữ bí mật hoặc bảo mật bởi người sở hữu nó và những người khác không có được bí mật đó một cách độc lập và hợp pháp. Ví dụ về bí mật thương mại có thể kể ra ở đây bao gồm các công thức, hình mẫu, phương pháp, chương trình, kỹ thuật, quy trình, hoặc biên tập thông tin nhằm mang lại tính cạnh tranh cho hoạt động kinh doanh. Người sở hữu bí mật thương mại có thể đòi bồi thường thiệt hại cho mình do việc người khác tiết lộ hoặc sử dụng bí mật thương mại của họ không hợp lý. Xác định khi nào một bí mật thương mại là bí mật Các bí mật thương mại không được đăng ký như các hình thức sở hữu trí tuệ khác và không phải là kết quả của luật pháp. Thay vào đó, hệ thống tư pháp của mỗi nước xác định các yêu cầu để có được sự bảo hộ bí mật thương mại. Bảo hộ bí mật thương mại được qui định trong Hiệp định TRIPS dưới tiêu đề "Bảo hộ Thông tin Bí mật" (Ðiều 39 TRIPS). Việc bảo hộ các thông số kiểm tra bí mật để được chấp nhận tiếp thị các dược phẩm là đặc biệt nhạy cảm và được qui định trong Ðiều 39 (3) của TRIPS. Một số yếu tố thường được xem xét bao gồm: * Mức độ mà thông tin đó được phép tiết lộ ra ngoài doanh nghiệp; * Mức độ mà thông tin đó được phép tiết lộ cho các nhân viên và những người khác có liên quan đến công việc kinh doanh của chủ sở hữu bí mật thương mại. * Qui mô của các biện pháp được dùng để bảo vệ bí mật thương mại. * Giá trị của thông tin đối với chủ sở hữu và đối thủ cạnh tranh. * Số tiền hoặc nỗ lực mà chủ sở hữu bí mật thương mại bỏ ra để phát triển bí mật đó; và * Nỗ lực của các bên khác để có được hoặc nhân bản thông tin (thông qua kỹ thuật sao chép ngược). Sự bí mật của các bí mật thương mại là nhân tố quan trọng nhất cần xem xét. Nếu thông tin được coi là bí mật thương mại mà lại có thể lấy được bằng bất kỳ phương thức hợp pháp nào thì thông tin đó không được coi là bí mật nữa và có thể không đủ điều kiện để được bảo hộ. Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu đã có một số biện pháp hợp lý để bảo vệ thông tin nhưng thông tin về bí mật thương mại đó bằng cách nào đó vẫn bị tiết lộ thì tòa án ở nhiều nước vẫn thực hiện bảo hộ. Các biện pháp hợp lý có thể bao gồm việc yêu cầu những người tiếp cận với thông tin do tham gia vào công việc kinh doanh phải ký vào các thỏa thuận bảo mật và chống tiết lộ. Lợi và hại Giống như với mọi hoạt động kinh doanh, yếu tố kinh tế đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định có nên bảo hộ sở hữu trí tuệ hay không. Các công ty phải đánh giá giá trị tiềm năng của quyền sở hữu trí tuệ so với khả năng về hiện thực hóa giá trị đó và các chi phí để bảo vệ, thực hiện và duy trì quyền đó. Không có các qui tắc chắc chắn và nhanh chóng để xác định giá trị tiềm năng của một quyền sở hữu trí tuệ nhất định. Một việc có thể có giá trị đối với một cá nhân hay một công ty này nhưng lại không có giá trị đối với cá nhân hoặc công ty khác. Có một số nhân tố chắc chắn đóng góp vào giá trị tiềm năng của tài sản trí tuệ, bao gồm giá trị tiềm năng của việc độc quyền hay các quyền khác, sự chuyển nhượng, hoặc giấy phép, giấy phép chéo, biện pháp chống lại việc vi phạm như biện pháp thế chấp để đảm bảo tài chính. Một thương hiệu hay một nhãn hiệu dịch vụ có thể là tài sản rất có giá trị. Ví dụ, có nhiều người tin rằng hãng sản xuất ô tô BMW của Ðức mua hãng sản xuất ô tô Rover của Anh chủ yếu để có được lợi ích từ các thương hiệu họ hằng muốn có bao gồm "Land Rover", "Range Rover", "Triumph", "Austin" và "MGB". Mặt khác, một thương hiệu sẽ không có giá trị gì nếu người tiêu dùng cho rằng nó gắn liền với chất lượng kém. usembassy.state.gov/posts/vn1/wwwhta67_1.htmlToàn văn bằng tiếng Anh có trên Internet tại: usinfo.state.gov/products/pubs/intelprp/homepage.htm
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 1, 2010 9:25:16 GMT 9
Khái niệm về một cuộc chiến có chính nghĩa
Đỗ Kim Thêm Monique Canto-Sperber; Đỗ Kim Thêm dịch Giới thiệu của người dịch: Hoạt động khủng bố ngày càng lan rộng, nó sẽ còn gây nhiều nguy hiểm cho nhân loại. Các chính quyền cũng như các tổ chức quốc tế và các tôn giáo dường như không đủ khả năng giải quyết vấn đề. Trước hiện tình quốc tế, có quan niệm bi quan cho rằng trong tuơng lai một thế giới đại đồng với một nền hoà bình vĩnh cửu sẽ không bao giờ đạt được và chiến tranh là tai họa không tránh khỏi. Nhưng làm sao chúng ta có thể tìm ra những phương sách chính trị, đạo đức và tri thức để đối phó vấn đề. Hơn bao giờ hết chúng ta cần bàn đến tương quan giữa đạo đức quốc tế và cuộc chiến tương lai. Đâu là cơ sở đạo lý cho cuộc chiến, thế nào là một cuộc chiến vì chính nghĩa là một đề tài đạo đức đang được thảo luận trong giới trí thức tại Pháp. Nhằm chống chiến tranh khủng bố hiện nay, Monique Canto-Sperber đã đề ra một lý thuyết mới về một cuộc chiến vì chính nghĩa trong tác phẩm Le Bien, La Guerre et la Terreur, Paris, Plon 2005. Monique Canto-Sperber là triết gia Pháp, chuyên gia nghiên cứu hiện làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Centre Nationale de la Recherche Scientifique). Bà cũng là thành viên trong Ủy ban Quốc Gia về Đạo đức (Comité National de l´Éthique). Các tác phẩm mới của bà là Les Règles de la Liberté, Paris, Plon, 2003 và Le Bien, La Guerre et la Terreur, Paris, Plon 2005. Bản dịch Việt ngữ sau đây một đoạn trích trong tác phẩm Le Bien, La Guerre et la Terreur, được tạp chí Esprit đăng lại trong số tháng hai 2005, từ trang 204 đến trang 212. Nội dung của bản dịch nhằm giới thiệu hai quan điểm của hai thuyết chủ hoà và chủ chiến trong quá khứ. Phái chủ hoà cho rằng chiến tranh là điều vô đạo đức, không thể chấp nhận được, trong khi phái chủ chiến nghĩ là không có chuyện đạo đức trong chiến tranh, tất cả mọi chuyện đều được phép. Nhưng cả thuyết chủ hoà lẫn chủ chiến sẽ không là những quan điểm thuyết phục dùng để suy luận về những giới hạn của bạo lực trong hoàn cảnh hiện nay. Vấn đề đạo lý chiến tranh đã được đặt ra từ thời thượng cổ và thường được đặt tên dưới dạng học thuyết chiến tranh có chính nghĩa. Khái niệm này từ lâu đã là nguồn cung cấp những lập luận để sử dụng vũ lực. Khi suy lý về căn gốc của vấn đề người ta tin rằng có thể thảo luận được ý niệm chính nghĩa trong hai khía cạnh: mục tiêu chiến tranh và phương tiện sử dụng. Khái niệm về chiến tranh vì chính nghĩa thường quan hệ chặt chẽ với một nền đạo lý khả chấp cho việc sử dụng bạo lực. Khái niệm này đưa ra hai vấn đề: một mặt, trong một vài trường hợp nào đó, có những lập luận cho rằng chiến tranh là chính đáng; chiến tranh, do đó, có thể biện minh được về mặt đạo đức (Jus ad bellum, quyền gây chiến); mặt khác, nó đưa ra một phương cách đúng đắn trong chiến tranh (jus in bello, quyền trong chiến tranh). Ý tưởng liên hệ đến suy tư về đạo lý của chiến tranh không hề coi chiến tranh như là chuyện đương nhiên. Trái lại, đối với những người bảo vệ cho lý tuởng của một cuộc chiến vì chính nghĩa thì chiến tranh là một điều ác, nhưng lại là điều ít ác hơn, thông thường người ta không tránh được và không thể kết án nó một cách dễ dàng. Chiến tranh vì chính nghĩa vừa là một điều ác, nhưng cũng vừa là một phương tiện để chữa trị điều ác. Nhưng tư duy về một cuộc chiến có chính nghĩa có thể giúp chúng ta giải quyết được sự căng thẳng giữa hai nghiã vụ: nghiã vụ thứ nhất có ý tiêu cực, đó là chúng ta không nên làm những điều ác với ý đồ, và nghiã vụ thứ hai có ý tích cực, đó là chúng ta cần phải hành động để tránh điều ác xảy ra hay có thể phát triển xấu hơn. Nó cũng giải quyết sự căng thẳng bằng cách đề ra những giới hạn về lập luận cổ vũ cho chiến tranh trong những mục tiêu kỳ lạ cũng như những phương tiện sử dụng: tại sao lại là lập luận này mà không phải là lập luận kia, thời điểm này mà không phải là thời điểm trước kia, bằng phương cách này mà không phải là một phương cách khác v.v. Trong lối diễn đạt „chiến tranh vì chính nghiã“ thì sự đề cập đến từ “chính nghiã” hàm chứa một đòi hỏi trước tiên về một điều phân biệt giữa những cách lập luận và tiến hành chiến tranh. Chiến tranh có chính nghĩa theo quan điểm phái chủ hoà Khái niệm về chiến tranh có chính nghĩa đề cập đến tính đạo đức giữa hai phái chủ hoà và chủ chiến. Phái chủ hoà luôn cho rằng chiến tranh là điều vô đạo, không thể chấp nhận được, trong khi phái chủ chiến tuyên bố rằng không có chuyện đạo đức trong chiến tranh, tất cả mọi chuyện đều được phép. Những người theo cả hai phái cùng gặp nhau trong trong một niềm tin chung: khi súng đạn lên tiếng thì không còn chính nghĩa. Nhưng họ đã rút hai hai kết luận đối nghịch nhau. Đối với phe chủ hoà thì tất cả mọi cuộc chiến tranh đều không có chính nghĩa, không bao giờ nên gây chiến, đối với phe chủ chiến thì không có một cuộc chiến nào là vì chính nghĩa hay phi chính nghĩa, chiến tranh là chiến tranh thế thôi. Khái niệm chính nghĩa gây sự đối kháng lẫn nhau. Những người ủng hộ cho chiến tranh vì chính nghĩa không phải là những người chủ hoà. Người chủ hoà thường xem chiến tranh không bao giờ là điều tốt đẹp, nói khác đi, chiến tranh là một điều ác cần từ bỏ trong tất cả mọi trường hợp. Theo họ, lời cảnh báo đơn thuần xem chiến tranh là gì cũng đủ biện minh cho việc kết án chiến tranh. Chiến tranh đồng nghiã với chết chóc và phá hoại. Người khác lại coi chiến tranh như một kẻ thù, vì bạo lực tràn lan khắp nơi với nhiều vi phạm đủ mọi hình thái[1]. Chiến tranh đưa tới những vi phạm buộc ta phải luôn giấu kín, cho dù ta muốn điều tốt đẹp đi nữa. Phe chủ hoà không chịu thảo luận về những lợi điểm cho chiến tranh mang lại hoặc so sánh những điều tệ hại do cuộc chiến gây ra và những tệ hại có thể tránh được. Do đó, những nhận xét về chính nghĩa hay tiết giảm các phương tiện gây chiến đối với họ có vẻ là vô vọng. Không hề có chính nghĩa cũng không hề có một phương cách đúng đắn nào trong việc gây chiến. Trên nguyên tắc, tất cả mọi cuộc chiến đều là xấu xa và gây tội ác. Chiến tranh có chính nghĩa cũng chỉ là một cuộc chiến tranh mà thôi. Lập luận thứ hai của phe chủ hoà đưa ra dựa trên một niềm tin cho là chiến tranh không hề cải thiện được tình hình thế giới. Bạo lực không đưa tới điều thiện, bởi vì bạo lực chỉ gây tác hại thêm những gì mà nó tạo ra. Những cuộc nội chiến đã để lại những bạo lực mang sắc thái địa phương qua những mặt nạ mang danh hoà giải như là một loại di sản. Những cuộc chiến nhằm bảo vệ dân chúng, cho dù có những hậu quả có lợi đi nữa, chỉ xây dựng bạo lực một cách lâu dài. Phe chủ hoà đưa ra một phán đoán về một giá trị (chiến tranh là một điều ác), dựa trên một niềm tin (chiến tranh chỉ gây ra điều ác) và một điều cấm đoán (không nên gây chiến). Họ thể hiện một trạng thái tâm linh đối diện với cuộc đời. Họ xác nhận rằng thế giới này là xấu xa, nhưng từ chối sử dụng bạo lực để cải thiện thế giới hoặc ngăn chận thế giới thành địa ngục. Một thái độ như thế không hẳn đưa tới một sự thụ động một cách tất yếu. Thái độ này có thể kết hợp với những phương thức hành động hữu hiệu như đã minh chứng qua vô số những phong trào động viên dân chúng chủ hoà[2]. Dù với những dấn thân đầy cao thượng, tuy vậy, phe chủ hoà có quan điểm sai lầm và thiếu mạch lạc. Họ sai lầm khi cho rằng chiến tranh luôn luôn là điều xấu xa nhất. Trong trường hợp bị tấn công hay những đe doạ nghiêm trọng tới sinh mạng của mình hay người khác, thì sự tự bảo vệ mình không phải là một điều xấu hơn là để bị giết chết, và nhất là người khác bị giết chết trước mặt mình. Trên nguyên tắc, lên án mọi hành vi bạo lực về mặt đạo đức, những hành vi có thể tiêu diệt hoặc tàn sát người khác, đó chính là việc thẩm định về giá trị đạo đức của con ngưòi trước một khả năng có nên từ bỏ bạo lực hay không. Nhưng nếu tôi bị giết chết rồi, thì tôi không còn cơ hội hành động về đạo đức nữa. Hậu quả của việc này là tôi không còn khả năng quyết định tự vệ nữa. Có phải chăng cái giá mà tôi phải trả cho một quan điểm đạo đức như thế mà người ta buộc tôi phải tuân thủ, chính là làm mất đi một phương tiện hành động nhằm tự bảo vệ, nó tương phản những điều người ta quy định. Nếu cho rằng thà mất tất cả những khả năng hành động trong tinh thần bất bạo động, vẫn hơn là hành động tự vệ bằng bạo lực, đây là một lập luận không thuyết phục. Mặt khác, lịch sử đã minh chứng một số trường hợp khác: một nền hoà bình dài lâu đạt được sau khi chiến tranh kết liễu, khi mà việc hoà giải có kết quả, ngay cả khi cần đến những cấu trúc giả tạo về mặt pháp lý và giải quyết được các vấn đề thuộc về hoài niệm quá khứ. Việc công bố đại xá tại Nhã Điển vào năm 403 trước Công nguyên nhằm chấm dứt nội chiến giữa hai phe độc tài và dân chủ là một thí dụ. Từ đó, người ta phải kể đến nhiều thí dụ khác về sự tái lập hoà bình[3]. Nếu chủ trương rằng chiến tranh luôn luôn chỉ gây thêm bạo lực và chết chóc, lập luận này không chính xác lắm. Sau rốt, phe chủ hoà dường như có một quan điểm miễn cưỡng trong tình hình thế giới hiện nay. Trên nguyên tắc, việc chống đối một cuộc chiến tranh xâm lược là một quan điểm dễ dãi về mặt đạo đức. Khi một cuộc chiến tranh như thế xảy ra, thì sự đồng thuận để kết án và trừng phạt khá phổ biến, như trong trường hợp Iraq tấn công Kuwait. Những cuộc chiến loại này không phải là một đề tài phức tạp về đạo đức, nhưng trong mọi trường hợp thì nó hầu như đã không còn nữa trong thế giới Tây phương. Nhưng bù lại, đã có những cuộc chiến đặt ra những trường hợp đáng nghi ngờ về mặt đạo đức. Đôi khi có những cuộc chiến mà động cơ thúc đẩy là nhằm cứu vãn trươc những thiên tai vì lý do nhân đạo. Đó là những cuộc chiến mà các nước này phải giết một phần dân chúng của mình, hoặc bị xâu xé vì nội chiến hay vì dung chứa các tên khủng bố. Trong các hình thái chiến tranh này, nếu ta không can thiệp hay từ bỏ tiến hành chiến tranh vì lý do chiến tranh là điều ác, thì rõ ràng ta để cái ác phát triển thêm và tình hình sẽ tồi tệ hơn, hoặc là chỉ làm cho thiện và ác lẫn lộn. Điều ác tạo ra một sự can thiệp, sự can thiệp này lại tạo ra tàn sát hay nội chiến, tất cả đều liên hệ nhau, vì luôn luôn có khổ đau và chết chóc. Phe chủ hoà hiện nay dù lập lờ trước mọi hình thái can thiệp có vũ trang, lại mặc thị chấp nhận điều này. Trong khi họ kêu gào: “Không được phép can thiệp, không dùng bạo lực thêm nữa trước bạo lực“ họ nghĩ rằng hai loại bạo lực này giống nhau. Với khẩu hiệu này họ giả đò không biết đến việc cầu cứu bạo lực khi cần có thể gây tác dụng làm giảm đi bạo lực lan tràn. Trong khi phê phán phe chủ hoà về mặt đạo đức, ta không thể tự giới hạn ca ngợi các nghị quyết về việc không vi phạm các bạo hành. Ta cũng cần phải nhận xét về những giá trị đạo đức của việc từ bỏ hành động, bỏ qua sự can thiệp và từ chối giúp đỡ. Khi người ta giết hại lẫn nhau, tôi sẽ không làm gì hết ngoài chuyện kết án điều này là ác. Ta cũng biết một câu nói nổi tiếng của Peguy về những người Công giáo: „Họ có những bàn tay tinh khiết, nhưng họ không có bàn tay.“ Có rất nhiều tình huống mà bất bạo động không phải là một sự chọn lựa đạo đức. Đó chính là lý do tại sao mà ngay cả giá trị đạo đức của phái chủ hoà là điều đáng tranh luận[4]. Thực ra, thuyết chủ hoà ở một vị thế không vững trong bối cảnh quốc tế. Thế giới đều đồng ý rằng chiến tranh là một điều ác và chỉ gây ra tai hoạ. Nhưng nếu xác quyết rằng chiến tranh luôn luôn là một điều ác cùng cực thì quả là một điều phi lý. Phần đông những người hiện nay tự cho mình là chủ hoà cũng chỉ là những người còn sót lại trong số những người chủ hoà theo quan điểm cổ truyền. Khi họ thú nhận ngoài môi rằng nếu chiến tranh là một điều không tránh được, thì nó là một điều ác lại có thể chấp nhận được. Họ chỉ uớc đoán rằng trong đa số tình hình thực tế có những điều kiện làm cho chiến tranh có thể chấp nhận được lại không hội đủ. Trong những biện pháp mà họ cân nhắc là không loại trừ trên nguyên tắc những điều kiện như thế xảy ra. Họ không là những người theo phái chủ hoà theo ý nghĩa nghiêm chỉnh nhất, đúng hơn, họ là môn đệ của một khái niệm rất giới hạn về một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa[5]. Còn những người tự nhận là chủ hoà vì họ cổ vũ các giải pháp bằng thương thuyết, bằng đường lối ngoại giao hoặc bằng cách cần phải thử nghiệm tất cả mọi phương thức cho phép tránh được chiến tranh, thì họ cũng chẳng phải là những người chủ hoà hơn những ngưòi khác Nhằm tránh chiến tranh, tất cả chúng ta ai cũng mong uớc đạt đến một giải pháp bằng hoà ước. Nhưng điểm khác là ở chỗ đối với một người chủ hoà chân chính thì phương cách ngoại giao nhằm tóm tắt những gì có thể thực thi được, trong khi một người không chủ hoà lại cho rằng giải pháp ngoại giao có hữu hiệu hay không, việc này còn tùy thuộc vào khả năng áp dụng bạo lực hay đe doạ dùng bạo lưc. Một người chủ hoà chân chính phải lo đối đầu toàn diện với một chính sách ngăn ngừa, nhưng thật ra phải hành động bằng cách đe doạ là sẽ gây chiến tranh như thật nhằm tránh chiến tranh. Lịch sử đã cho chúng ta nhiều thí dụ mà sự đe doạ chiến tranh là một phương thức duy nhất không gây ra chiến tranh. Vấn đề duy nhất nhằm phân biệt giữa người chủ hoà và ngưòi không chủ hoà là tìm hiểu xem họ phải làm gì trong khi giải pháp thương thuyết thất bại: tiếp tục thương thuyết khi không còn ai để đàm phán hay chỉ cầu cứu đến vũ lực? Cũng nên xem phe chủ hoà như biểu hiện lòng khoan dung. Khoan dung là một đức tính khi mà ta chấp nhận không hề kết án những gì mà ta không đồng ý. Nhưng tính khoan dung mất đi ý nghiã đạo đức trong khi khoan dung đưa tới phải chịu đựng những gì xấu xa. Người ta có nên chủ trương cần phải hành động đúng đắn trong khi lại phải chịu những điều thực ra là xấu xa ấy chăng? Thuyết chủ hoà chỉ có một thái độ đạo đức nhất quán cho đến khi nào nó tạo ra một chuyển hướng trong hành động. Trong khi thuyết này đưa ra quan điểm thuộc về nguyên tắc, thì thuyết này lại trở nên thiếu thuần nhất trong thực tế. Thuyết này coi việc không cần tới chiến tranh như luôn luôn là một việc ưu tiên, cho đến chừng nào mà điều này có thể đạt được. Nhưng khi từ chối chiến tranh trong mọi trưòng hợp một cách quyết liệt như vậy, đó chính là việc làm sụp đổ ngay đến những giá trị làm nền tảng cho sự từ chối đó. Có nên chủ trương hành động một cách khôn khéo trong khi người ta để cho bạo lực tự lộng hành chăng? Nguyên tắc của thuyết chủ hoà cho thấy rõ tính cách bất khả thi của những nguyên tắc tuyệt đối trong thế giới ngày nay. Chiến tranh có chính nghĩa theo quan điểm phái chủ chiến Khái niệm về chiến tranh có chính nghĩa luôn đối nghịch với tư tưởng thường được mệnh danh là chủ chiến, mà theo quan điểm này trong chiến tranh tất cả đều được phép. Phái chủ chiến dường như bảo vệ một quan điểm khá đơn giản: inter arma silent leges (khi súng đạn lên tiếng nói thì luật pháp phải im). Khi có chiến tranh thì không còn những luật lệ hay những tiêu chuẩn về công lý cho phép người ta xác định những lập luận hợp pháp để cầu viện đến chiến tranh và những phương tiện khả chấp để tiến hành chiến tranh. Tất cả đều có thể bị vi phạm và phải chịu đựng vì chiến tranh. Họ sử dụng bạo lực mà không hề nhìn thấy gì đạo đức, và đúng họ là đạo đức giả khi chủ trương gây một cuộc chiến vì chính nghĩa. Ngay từ thuở sơ khai của lịch sử nhân loại, trong phe chủ chiến có nhiều niềm tin khác nhau đã gợi ý cho họ gây chiến, cần nên phân biệt các luận điểm này. Quan điểm cực đoan nhất cho rằng chiến tranh tự nó tạo nên một hình thức của chính nghĩa. Chiến tranh là động lực của lịch sử. Nó tuyển lựa ra xem thành phố, dân tộc hay nền văn minh nào đáng được sinh tồn. Chiến tranh cũng tạo cơ hội cho cá nhân đem lại những thành tựu nhằm siêu việt hoá nhân loại. Chiến tranh cũng là những trường hợp chủ yếu nhằm quy tụ dân chúng lại làm thành một dân tộc. Khi đem những động cơ hay phương tiện làm thành những giới hạn nhằm áp đặt cho chiến tranh để ngăn cản những công trình tương tự của lịch sử, thì những cuộc chiến đó không có chính nghĩa. Người ta nhận ra quan điểm này trong lí thuyết của Hegel. Joseph de Maistre đã biện minh quan điểm này rất rõ nét[6]. Tuy thế, điểm yếu của lập luận này là dựa trên định đề về một ý nghiã tổng quất của lịch sử nhân loại. Một định đề như thế là một đề tài cần được tranh luận, bởi vì con người luôn có thể sai lầm, do những đặc tính giới hạn và bất định. Thật ra, đây cũng giống như những lợi điểm của một “lịch sử nhiều ồn ào và cuồng nộ do tên khờ kể lại“ hơn là về những thành tựu liên tục trong một ý nghĩa trừu tượng. Khi tách rời định đề này ra, thì ý niệm về chiến tranh như một công trình công lý của lịch sử và một biểu hiện nền đạo đức tối cao như là một yếu tính mất đi vẻ thật của nó. Một quan điểm khác lại cho rằng chiến tranh là một sự tất yếu tự nhiên nằm sẵn trong đức tính cơ bản của con người và đất nước. Chiến tranh bằt nguồn từ những tham vọng và quyền lợi của con người. Muốn giới hạn chiến tranh điều này giống như xin con rắn đừng chích nọc đọc. Khi bàn đến quy luật xung đột của con ngưòi là chuyện muôn đời, Thucydide đã lập luận như sau: „Người ta không hề có bất kỳ một do dự nào để thay đổi từ chiến tranh sang hoà bình. Đối với kẻ khôn ngoan thì hiển nhiên họ luôn giữ thái độ im lặng, khi mà ngưòi ta không gây thiệt hại gì cho họ. Nhưng đối với những kẻ có lòng, khi quyền lợi của họ bị thiệt hại, họ sẽ không chiụ hoà mà chấp nhận chiến tranh. Nhưng khi điều kiện thuận lợi thì họ từ bỏ chiến để chấp nhận hoà.“[7] Muốn áp đặt một nền đạo đức theo bản chất tự nhiên là một mơ ước vô nghĩa. Quy luật tự nhiên đặt ra ai có quy quyền tối cao là người đó chỉ huy, bất cần tới luật lệ. „Khi mà ta thống trị được kẻ khác theo quy luật tự nhiên của con người thì ta thường tự biểu lộ rằng mình có chính nghĩa hơn là chấp nhận một quyền lực mà ngưòi ta quy định... trong tận cùng thì cách lập luận này không hề có giá trị thuyết phục và đáng được ca ngợi.“[8] Hai trích dẫn trên rất cần thiết nhằm tránh những hiểu lầm quan điểm này. Không đặt vấn đề đạo đức cốt để sử dụng bạo lực chỉ có nghĩa là tuyệt nhiên không cân nhắc và phân biệt các phương sách trước khi cần cầu viện chiến tranh. Thuyết tự nhiên về chiến tranh thì không hề có chiến tranh nào là chính nghĩa hay không chính nghĩa, mà chỉ có chiến tranh ngu xuẩn và chiến tranh có cân nhắc. Sự cân nhắc hay những tính toán xác đáng về những quyền lợi lâu dài thường đưa tới những hành động hướng dẫn đạo đức. Nói rộng hơn, khi ta cho rằng chiến tranh không thể tránh được, sự thật này không ngăn cản được ta suy nghĩ tìm ra những phương tiện tốt hơn trong hành động, đặc biệt là giới hạn những tổn hại dân sự không cần thiết[9]. Thuyết tự nhiên cho là chiến tranh là hiển nhiên, mà người ta dùng nó khi cần để làm một luận đề kiểm chứng: chiến tranh là một điều không tránh được và người ta gây chiến khi người ta có thể thắng được. Khi lập luận này trở thành quy luật và cho rằng người ta phải tiến hành chiến tranh bằng mọi phương tiện, thì điều này cần đưọc bàn cãi. Ngay khi chấp nhận có những cuộc chiến không thể biện minh được hay biện minh mà không thuyết phục được, thì người ta cần phải đào sâu vào các phân tích giống như những tư duy về đạo đức, đây là chuyện không thể tránh được Những âu lo cân nhắc, đặc biệt về kinh tế, buộc người ta phải coi chiến tranh với tất cả mọi hình thái hoạt động là không có giá trị gì hết; chỉ một vài loại hoạt động nào đó là có thể được ưa chuộng hơn và những hình thái khác phải đưọc coi là ngoại lệ. Không, người ta không thể chỉ gây chiến vì những lo âu duy lý. Những cưỡng chế bắt nguồn từ những cân nhắc cẩn trọng không dựa trên những lập luận đạo đức, nhưng nó có những hậu quả tương tự tạo ra lo âu đạo đức của chiến tranh. Nhượng bộ về điểm này có nghĩa là từ bỏ quan điểm chiến tranh của thuyết tự nhiên, đối nghịch với ý tưởng về một cuộc chiến vì chính nghĩa. Trong một cuộc bàn cãi nổi tiếng về thân phận của những cư dân vùng Mytiliène, Thucydide nhắc lại những lập luận của Diodote. Ông biện hộ cho việc đại xá với những lập luận về sự cân nhắc cũng hàm chứa những lập luận khác của Cleon, người theo phái tiêu diệt. Khi Cleon phản đối sự trả thù dân Mytiliene không màng đến luật lệ, thì Diodode cho rằng không cần thiết phải thảo luận bằng lập luận về sự cân nhằc trong những quyết nghị. „Tôi có thể minh chứng rằng những cư dân của Mytiliène là hoàn toàn phạm tội mà không hề khiếu nại gì về cái chết cuả họ, điều này không phải là quan tâm của chúng tôi.“[10] Nỗi lo âu về sự cẩn trọng đưa tới sự phân biệt; điều này cũng giống như cân nhắc trong đạo đức giữa những hành vi có thể và không thể biện minh được. Trong một cuốn sách nhan đề là Le Nomos de la terre, phát hành năm 1950, Carl Schmitt định nghĩa một hình thức khác lạ về tính cách trung dung về mặt đạo đức của chiến tranh[11]. Theo ông, chiến tranh dựa trên một trật tự thế giới có cội rễ từ Châu Âu (Jus Publicum Europeanum). Bắt nguồn từ chủ quyền tối thượng của Âu châu, trật tự này thành hình trong không gian đích thực. Trật tự này do kết quả từ những chiếm đóng đất đai, nói khác đi, là những chia cắt không gian và lãnh thổ, mà nó tạo nên nguồn gốc của tình trạng thực tế Âu châu. Họ tự định nghĩa về chính nghĩa cho chiến tranh khi họ so với tự quyền đi chiếm đất đai của mình, cũng như họ cho rằng trong cuộc chiến tranh của hai phe đối nghịch, khi ai là kẻ chiếm đất đầu tiên thì người đó có chính nghĩa. Theo Schmitt, nếu với nội dung này để định nghĩa chính nghĩa thì chỉ là định danh cho một cuộc chiến nhằm tái lập một trật tư do Âu châu lập ra, cho dù cuộc chiến này nhằm chống lại một kẻ thù có chính danh và giải pháp của nó có ra sao đi nữa. Trong ý nghĩa này, chính nghĩa chiến tranh đặt ra một cưỡng chế thuần về mặt hình thức. Nó không tùy thuộc vào căn cơ của chính nghĩa. Ngay khi kẻ thù có chính danh, thì tất cả mọi lập luận để gây chiến đều tốt và bất cứ ai trong phe họ cũng không thể coi là kẻ thù vi phạm hình sự. Phân tích đạo đức về những cơ sở lập luận để gây chiến, những trường hợp gây chiến và những mục tiêu theo đuổi trong trưòng hợp này đều thiếu ý nghĩa của nó. Khái niệm chính nghĩa chiến tranh thuần về hình thức tạo nên hậu quả là đạo đức của chiến tranh mang tính trung dung. Cuộc chiến có chính nghĩa về mặt hình thức theo quan điểm cuả Schmitt đối nghịch với ý nghĩa chiến tranh có chính nghiã theo thời trung cổ, được phê phán theo quan điểm đạo đức của giáo hội đặt ra nhằm giải quyết vấn đề chính nghĩa. Nhưng quan điểm này đối nghịch với những cuộc chiến vì chính nghĩa của thế kỷ XX, khi mà luật quốc tế được sử dụng như là một „chủ thuyết thượng tôn luật pháp không biên giới“, tách rời khỏi mọi gốc rễ từ Châu Âu, điều này đem đến hậu quả là phân biệt giữa nguyên nhân chính đáng và sai lầm của cuộc chiến và hình sự hoá hành vi của kẻ thù. Schmitt cũng nhận ra trong các tổ chức quốc tế hình thành từ sau 1945 có một sự phục hồi quan điểm thần học về chiến tranh với những lập luận quanh co bằng những phương cách giả tạo nhân danh luật pháp. Chống lại hai quan điểm này, một của thời trung cổ và một theo chủ thuyết quốc tế về chính nghĩa cho chiến tranh, Schmitt muốn đề ra ý tưởng trung dung trong một cuộc chiến. Ông cho là vấn đề chiến tranh chỉ được biện minh bằng đạo đức, khi nào kết luận được rằng kẻ thù có chính danh hay không. Theo Schmitt, chiến tranh có chính nghĩa theo ý nghĩa cổ truyền có một cấu trúc hình thức hoàn toàn khác biệt[12]. Ở đây ta không thể phê bình chi tiết tất cả các quan điểm này. Tôi sẽ đề cập đến ba quan điểm mà đối với tôi dường như có thể thảo luận được. Về quan điểm lịch sử, hai ý niệm về chiến tranh có chính nghĩa mà Schmitt đề ra, một dựa trên thần học, một dựa trên thuần hình thức, cả hai liên tục tồn tại cho đến cuối thế kỷ XVIII. Ý tưởng về một học thuyết luật học của chiến tranh xuất hiện từ lúc khởi đầu thời trung cổ, không phải vào thế kỷ XVI. Về ý niệm về chiến tranh có chính nghĩa vào thời trung cổ, ý niệm này kéo dài đến trước thời kỳ Khai sáng[13]. Chiến tranh cách mạng vào cuối thế kỷ XVIII được tiến hành một phần bắt nguồn từ quan điểm coi đối phương như những kẻ phạm tội hình sự, mà Schmitt coi là chỉ thể hiện vào thế kỷ XX. Hơn nữa, trên bình diện ý niệm mà xét, một quan niệm về chiến tranh đứng trung dung về mặt đạo đức như thế liên hệ chặt chẽ đến nguyên tắc chủ quyền dựa trên sự chiếm đoạt đất đai. Hoặc là ngưòi ta thấy một quan điểm tương tự về một cuộc chiến trung dung được Thucyidide trình bày khá cặn kẽ, ngoại trừ quan niệm về Jus Publicum Europeanum. Đây là chỗ đáng nghi ngờ về ý tưởng tính trung dung của đạo đức trong cuộc chiến, điều mà Schmitt cố áp đặt là một luận đề liên hệ đến sự nảy sinh một trật tự chung cho Châu Âu và coi đây như là một loại trật tự độc quyền. Tóm lại, định nghĩa về chiến tranh vì chính nghĩa như thế bắt nguồn từ luật Châu Âu. Định nghĩa này quy định tất cả những quốc gia tham chiến đều có một nền văn hoá và luật lệ chung, ngay cả „công pháp Châu Âu“. Điều này cho thấy chiến tranh chỉ có thể trung dung về mặt đạo đức trong điều kiện minh thị rằng những quốc gia trước hết có những cam kết chung. Ngưòi ta xa rời hẳn quan điểm tính trung dung cực đoan theo Thucydide. Đặc điểm đáng tranh luận trong luận đề do Schmitt đưa ra là ông ta chỉ chú tâm đến những giới hạn đạo đức tạo nên giá trị cho chiến tranh, những giới hạn này chỉ có thể bắt nguồn từ quan điểm thần học mà giáo hội áp đặt lên trên nhà nước, hoặc là một loại luật quốc tế không còn lảnh thổ và hiển nhiên không bàn đến tính cách chính danh. Những giới hạn hay cưỡng chế này đề ra những quy cách áp dụng trong chiến tranh mà nó thường bắt nguồn từ những ý niệm về chủ quyền. Nó duy trì lý tưởng sống động về một chiến tranh có chính nghĩa trong lòng một hệ thống Châu Âu, một lý tưởng không chỉ tự giới hạn trong sự kiểm chứng về sự chính danh của kẻ thù. Ý tưởng về chiến tranh có chính nghĩa Nếu một nền hoà bình vĩnh cữu có thể được tạo lập, những suy lý về chiến tranh có chính nghĩa trở nên vô ích. Các quốc gia thuộc Liên hiệp Châu Âu dường như đang đi vào trong tình trạng quyết định cho hoà bình. Lí thuyết về chiến tranh có chính nghĩa tại Châu Âu có vẻ như được đặt ra nhằm quảng bá để trị liệu những điều ác mà nó không còn có nữa. Tuy thế, một mô thức của Châu Âu áp đặt lên những nơi khác trên thế giới là một điều khó có thể quan niệm được. Nhu cầu suy lý về tính đạo đức của chiến tranh vẫn còn đó. Hơn nữa, hy vọng rằng chiến tranh sẽ kết liễu tuyệt nhiên không loại trừ được khả năng chiến tranh không còn là một phương tiện dẫn tới hòa bình. Chiến tranh nuôi dưỡng hy vọng hoà bình và dần dần trở thành cần thiết, cũng như Kant đã xác nhận điều này, nó giải quyết các xung đột. Chính vì lập luận này, những suy lý về đạo đức của chiến tranh có thể đóng góp tạo nên những điều kiện mà chiến tranh sẽ trở thành vô ích. Sự hiện diện của luật quốc tế nhằm giới hạn đến việc cầu viện bằng chiến tranh và quy định trong trường hợp nào chiến tranh là hợp pháp tuyệt nhiên không hề xoá đi vấn đề chiến tranh vì chính nghĩa. Khi một tòa án quốc tế tuyên bố chiến tranh là hợp pháp hay phi pháp, sư kiện này không thể tránh khỏi việc tự hỏi về tính cách hợp pháp hay bất hợp pháp trong sự sử dụng vũ lực. Trong mối quan hệ với phê phán về mặt pháp lý thì tôi đã nhấn mạnh đến tính cách độc lập cao hơn của những phê phán về mặt đạo đức. Một cuộc chiến không được luật quốc tế cho phép cũng như không hội đủ điều kiện của luật quốc tế, có thể là một cuộc chiến có chính nghĩa, điều này có thể xảy ra, như trong trưòng hợp can thiệp tại Kosovo. Người ta không thể loại trừ được những trường hợp rất ít mà cuộc chiến có khả năng xảy ra, nhưng không có nghĩa là không thể có được nữa, cũng như trường hợp một cuộc chiến được quốc tế đồng tình, thì cũng không được coi nó là một cuộc chiến tranh có chính nghĩa. Sự hiện hữu của bạo lực trên thế giới không là một đề tài mà ngưòi ta sẽ tự do bảo vệ hay phản bác. Trước hết, nó là đối tượng cần kiểm nghiệm: Bạo lực đã có và sẽ còn mãi. Khi cho rằng cần né tránh chiến tranh, chủ thuyết chủ hoà không hề đưa tới sự xoá bỏ bạo lực, đúng hơn đây là nó chỉ nhắm vào một suy nghĩ bảo thủ. Còn về quan niệm chiến tranh theo phái tự nhiên tất nhiên cần đưa tới suy tưởng về mặt đạo lý. Cả thuyết chủ hoà lẫn chủ chiến không là những quan điểm dùng để suy luận về những giới hạn của bạo lực. Có như vậy sự suy lý về chiến tranh, đặc biệt là cân nhắc phân biệt giữa những lập luận hợp pháp phải làm, là điều không tránh được. Nguồn: Monique Canto-Sperber, La guerre juste, une notion impertinente? Esprit, Février, 2005, pp. 204-212. [1] W. B Galllie, Philosophers of War and Peace, Cambridge, Cambridge University Press, 1978; Jan Narveson, Pacifism: A Philosophical Analysis in. James Rachels, Moral Problems, New York, Harper and Row, 1979 pp. 408-425 [2] Nói chung, người ta liên tưởng niềm tin này với những dấn thân theo lý tưởng tôn giáo. Một số người cảm thấy nghịch lý khi có tôn giáo cho rằng chiến tranh đôi khi có thể biện minh đuợc. Quy chế pháp lý cho những người từ chối hành xử vì lý do lương tâm được lập ra tại Pháp vào năm 1963 và được chuẩn nhận vào năm 1983. Quy chế này coi như không còn nữa với việc hủy bỏ nghĩa vụ quân sự [3] Đã có nhiều sách vở bàn luận đến đề tài sự tái lập hoà bình và một nền công lý chuyển tiếp, xin xem Neil Fritz, Transitional Justice: How Emerging Democracies Reckon with Former Regimes, 3. Vol. Washington DC. United Startes Institute for Peace Press, 1995 [4] Hiển nhiên đây không phải là trưòng hợp khi mà ý muốn bất động nhằm kháng cự một cuộc chiến tranh phục hận [5] Hai tác giả đưọc coi như là tiêu biểu cho chủ thuyết chủ hoà là Robert Holmes: On War and Morality, Princeton, Princeton University Press 1989; Richard Norman, Ethics, Killing and War, Cambridge, Cambridge University Press, 1995; Martin Ceadel, Thinking about Pearce and War, Oxford, Oxford University Press, 1987 [6] Hegel, Lecon sur la philosophie de l`histoire, Paris, Vrin 1945; Article sur le droit naturel, Ed. Lasson, VÌI, p. 355-371 ; Phénomenologie de l´esprit, Paris, Aubier Montaigne, t. Ì 23 ; A. Korvège, Introdruction a la lecture de Hegel, Paris, Gallimard 1979, p. 52 ; André Gluckmann, le Discours de la guerre 1967, Paris, Grasset, p. 82 et p. 131-132; Joseph de Maistzre, Du Pape, Les Secirets de Saint Péterbourg, Paris, Pauvert, 1964, p. 71-83 [7] Thucydide, Guerre de Péloponnèse, Livre I, CXX 3. Tác giả là sử gia và Tư lệnh Hạm Đội Hải Quân Hy Lạp, sinh năm 460 truớc CN, mất năm 400 sau CN, năm 424 tham dự vào cuộc chiến Peloponnèse, đã trước tác nhiều bộ sử quan trọng (CTCND) [8] Thucydide, Guerre de Péloponnèse, Livre V, CV 2 ; Livre I XXV 3 ; Michael Walzer, Just and Unjust Wars, New York Basic B ook, 1977; Malham Walkin; War, Morality and Military Profession, Boulder Westview Book 1979 [9] Nhiều người chủ chiến không hề chấp nhận bất cứ một cuộc thảo luận đạo đức nào về nguyên nhân gây chiến, họ tự giới hạn vào những giới hạn của quyền trong chiến tranh (jus in bello) [10] Thucydide, Guerre du Péloponnèse, Livre ÌI,4 ; XLIV 4 [11] Carl Schmitt, le Nomos de la terre 195, Paris PUF 201. Tác giả (1888-1985) là giáo sư Luật quốc tế tại Đại học Bonn, Berlin và Münster, đã để lại nhiều danh tác có ảnh hưởng trong học giới (CTCND). [12] Carl Schmitt, le Nomos de la terre, op. Cit p. 120 [13] P. Haggenmacher, Grotius et la doctrine de la guerre juste, Paris 1983, p. 98-120 et p. 597-612
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 14, 2010 3:55:03 GMT 9
Oan khiên vì xác suất Nguyễn Văn Tuấn Con số thống kê có thể kết tội và bỏ tù một người, bất kể người đó thuộc thành phần xã hội nào. Trong những phiên tòa mà chứng cứ bằng hiện vật không đầy đủ, các công tố viên có khi sử dụng con số xác suất để như là một chứng cứ để tác động đến bồi thẩm đoàn rằng khả năng bị báo vô tội là rất thấp. Một khi công tố viên “chứng minh” khả năng vô tội quá thấp, thì việc kết tội bị cáo quá dễ dàng. Nhưng trong thực tế, rất ít công tố viên và bồi thẩm đoàn am hiểu xác suất, hoặc hiểu nhưng diễn giải sai. Ngay cả các chuyên gia làm chứng (expert witness) cũng có khi tính toán sai. Vì những sai lầm sơ đẳng về cách hiểu và tính toán, nhiều người vô tội đã bị kết án, và đôi khi hệ quả rất bi thảm cho người bị kết án sai. Trường hợp Sally Clark Một trong những kết cục bi thảm do hiểu sai thống kê và kết án sai là trường hợp của bà Sally Clark. Bà là một luật sư, xuất thân từ một gia đình trung lưu ở Anh. Bà hạ sinh hai người con trai, nhưng cả hai đều chết một cách đột ngột sau khi sinh. Đứa con đầu lòng chết lúc 11 tuần tuổi (1996). Đứa con thứ hai chết lúc 8 tuần sau khi sinh (1997). Cả hai đều không rõ nguyên nhân. Trong y văn, những trường hợp này được gọi là “hội chứng đột tử” (SIDS – sudden infant death syndrome). Ngay sau khi người con trai thứ hai chết, bà Clark bị cảnh sát bắt, hầu tòa, và bị kết tội giết con, bởi vì theo một chuyên gia y khoa, xác suất mà hai người con chết một cách ngẫu nhiên trong một gia đình trung lưu như thế là chỉ 1 trên 73 triệu. Nói cách khác, theo chuyên gia này, xác suất hai trẻ chết trong gia đình không do yếu tố ngẫu nhiên là rất cao (hàm ý cố sát) và do đó ông đã thuyết phục bồi thẩm đoàn kết án bà Clark. Con số xác suất (1/73 triệu) nổi tiếng đó là “tác phẩm” của ông Roy Meadow, người làm nhân chứng chuyên gia trong phiên tòa kết tội Sally Clark. Ông Roy Meadow là một giáo sư nhi khoa, một chuyên gia có nhiều công trình nghiên cứu về hội chứng đột tử, và cũng chính là cha đẻ của hội chứng “Munchausen syndrome by proxy” (có nghĩa là hội chứng tâm lí mà cha mẹ có ý gây tổn thương cho con cái để được chú ý). Ông còn là một người đấu tranh chống lạm dụng trẻ em, và là tác giả của cuốn sách “The ABC of Child Abuse”. Do đó, “bằng chứng” của ông mang tính thuyết phục khá cao đối với bồi thẩm đoàn. Bà Sally Clark Cho đến nay, nguyên nhân của đột tử vẫn chưa rõ ràng, nhưng yếu tố môi trường và di truyền được xem là quan trọng. Giới y tế biết được 3 yếu tố nguy cơ có thể làm tăng nguy cơ đột tử: (i) mẹ dưới 27 tuổi; (ii) có người hút thuốc lá trong nhà; và (iii) gia đình thuộc diện nghèo khó. Nếu gia đình không có bất cứ yếu tố nguy cơ nào thì xác suất đột tử là 1 trên 8543; gia đình có một yếu tố nguy cơ thì xác suất tăng lên 1/1616; 2 yếu tố nguy cơ: 1/596; và 3 yếu tố nguy cơ thì xác suất đột tử là 1/214. Gia đình của Sally Clark không có yếu tố nguy cơ nào. Do đó, Giáo sư Meadow lí giải rằng xác suất đột tử trong một gia đình trung lưu như Clark là khoảng 1 trên 8543. Ông lí giải tiếp rằng nếu 2 trẻ cùng chết trong một gia đình thì xác suất là 1/8543 x 1/8543 và kết quả là khoảng 1 trên 73 triệu. Nói cách khác, ông cho rằng xác suất mà Sally Clark có tội là 1 trừ cho 1/73.000.000 = 0.99999999999 (tức bằng 1 hay 100%). Khi tòa án hỏi gợi ý tư vấn một chuyên gia về thống kê, thì cả công tố viên và Giáo sư Meadow đều nói rằng đây không phải là “rocket science” (ý nói vấn đề đơn giản) nên không cần đến chuyên gia thống kê. Họ tự tin rằng họ thành thạo về thống kê và xác suất. Toà án kết án bà Sally Clark phạm tội giết người, và phạt tù chung thân. Khi sự việc được báo chí tường thuật, các nhà thống kê học bắt đầu chú ý, và họ chỉ ra hai sai lầm cực kì sơ đẳng nhưng rất tai hại trong lí giải của Gs Meadow. Sai lầm thứ nhất liên quan đến giả định đằng sau cách tính, và sai lầm thứ hai là sự nhầm lẫn về ý nghĩa của xác suất. Sai lầm thứ nhất là ông giả định rằng xác suất 2 trẻ em chết trong một gia đình độc lập với nhau (nên nhân 2 xác suất với nhau). Giả định này sai, vì đột tử có thể có nguyên nhân từ môi trường và di truyền, mà hai em là anh em, tức có thể có cùng gen và cùng mẹ (cùng môi trường) nên 2 hiện tượng không thể độc lập. Thật ra, nếu 1 trẻ bị đột tử thì xác suất trẻ thứ 2 chết bị đột tử rất cao. Theo phân tích của Giáo sư Ray Hill (một chuyên gia về thống kê), nếu gia đình đã có một bé đột tử, thì xác suất đột tử của bé thứ hai tăng 10 đến 22 lần. Nói tóm lại, cách tính của Giáo sư Meadow (nhân 2 xác suất) là hoàn toàn sai lầm. Sai lầm thứ hai là giáo sư Meadow lẫn lộn giữa xác suất bà Sally Clark giết con với xác suất trùng hợp về đột tử. Xác suất mà Gs Meadow tính toán là xác suất trùng hợp, tức là xác suất mà hai ca đột tử xảy ra một cách ngẫu nhiên. Nhưng câu trả lời mà người ta cần biết là với dữ liệu nghiên cứu có được, xác suất mà bà Clark sát hại con là bao nhiêu. Tiến sĩ Helen Joyce thì áp dụng Định lí Bayes với kết quả cho thấy xác suất đứa trẻ thứ 2 tử vong vì “nguyên nhân tự nhiên” (không phải cố sát) là 62.5%. Ngày 29/1/2003, sau khi luật sư bà Sally Clark kháng án, với nhân chứng mới từ một giáo sư thống kê học, tòa án tuyên bố Sally Clark vô tội. Tòa án cũng khiển trách Gs Meadow vì đưa bằng chứng sai. Hội đồng y khoa Anh kỉ luật giáo sư Meadow, tước chức danh, và cấm hành nghề thầy thuốc. Tuy nhiên, sau này, ông kháng án, và được cho hành nghề thầy thuốc, nhưng uy tín thì bị tổn hại nghiêm trọng. Phần bà Sally Clark, sau khi trả tự do vài năm, bà qua đời vào tháng 3 năm 2007, thọ 42 tuổi. Trường hợp Lucia de Berk Một trường hợp diễn giải sai lầm ý nghĩa của xác suất cũng dẫn đến án tù cho một y tá ở Hà Lan. Tháng 3/2003, Lucia de Berk bị cảnh sát Hà Lan truy tố ra tòa vì tội giết người và tội cố sát. Thoạt đầu, chứng cứ trình bày trước tòa có vẻ thuyết phục. Cảnh sát điều tra cho biết có 7 bệnh nhân trong bệnh viện Juliana đột ngột tử vong trong thời gian bà de Berk làm việc (1999-2001), và những trường hợp tử vong này xảy ra hoặc là gần, hoặc là ngay tại khu điều trị de Berk phục vụ. Ngoài ra, de Berk tại hiện trường trong hầu hết những trường hợp tử vong xảy ra. Tuy nhiên, ngoài bối cảnh câu chuyện, không có thêm chứng cứ bằng hiện vật nào chứng minh de Berk có liên can đến các trường hợp tử vong. Ngay cả khi bốc mộ để phân tích DNA, người ta cũng không thấy dấu vết nào liên quan đến de Berk. Tuy nhiên, dựa vào tính toán của luật sư và nhà thống kê tài tử, tòa tuyên kết án de Berk tôi giết người và cố sát, với án phạt tù chung thân. Henk Elffers là một giáo sư luật và cũng là một nhà thống kê học tài tử. Ông tính toán rằng xác suất mà de Berk hiện diện một cách ngẫu nhiên trong các trường hợp tử vong như thế là 1 trên 342 triệu. Kết quả này thật ra là một tích số của hai trị số P mà ông tính từ một phương pháp kiểm định thống kê Fisher (còn gọi là Fisher’s test, lấy tên của Ronald Fisher, một “cha đẻ” của thống kê học hiện đại và một chuyên gia di truyền học nổi tiếng người Anh). Dựa vào “chứng cứ” này, tòa án Hà Lan kết tội de Berk là giết người và cố sát, và phạt tù chung thân. De Berk bị dư luận công chúng và báo chí cho là một người giết người hàng loạt (serial killer). Riêng de Berk trước sau vẫn duy trì rằng bà bị oan. Nhưng nhà toán học Richard Gill cho rằng tòa án đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng. Con số 1/342 triệu là hoàn toàn sai, và chẳng liên quan gì đến trường hợp của de Berk. Vì dữ liệu tính toán Elffers thu thập là từ khu điều trị của bệnh viện mà de Berk phục vụ, chứ không thu thập thêm dữ liệu ở các bệnh viện khác để so sánh. Thêm vào đó, cách tính của Giáo sư Elffers là chẳng những cực kì vô lí, mà còn … hài hước; không một ai học thống kê mà nhân hai trị số P và đi đến một kết luận. Cách tính của Elffers cho thấy ông ta chẳng biết gì về thống kê và xác suất. Qua phân tích lại dữ liệu, Giáo sư Gill ước tính rằng “xác suất tình cờ” (trong trường hợp của de Berk xuất hiện tại hiện trường) là 1/48, thậm chí 1/5, chứ nhất định không thể nào 1 trên 342 triệu. Lucia de Berk Một sự kiện quan trọng khác mà tòa án không xem xét đến là trước khi de Berk về làm việc tại bệnh viện Juliana, đã có 7 trường hợp đột ngột tử vong cũng ngay hoặc gần khu điều trị mà der Berk làm việc. Trong thời gian de Berk làm việc (1999-2001) có thêm 7 ca tử vong. Sau khi bị các chuyên gia chỉ ra những sai lầm trong cách tính, một ủy ban đặc nhiệm đã được tòa án thành lập để thẩm định lại bản án. Các chuyên gia gồm các bác sĩ và các nhà thống kê học cũng vận động để kháng án cho de Berk. Đến năm 2008, bà được tạm trả tự do trong khi điều tra tiếp. Ngay 14/4/2010 vừa qua, một phiên tòa phúc thẩm đã xem xét lại bằng chứng và lí giải của các chuyên gia, tòa án bác bỏ bản án cũ, và tuyên bố bà de Berk vô tội. Công tố viện Hà Lan phải xin lỗi de Berk. Các luật sư của bà đang "bận rộn" đòi bồi thường cho thân chủ họ. Học xác suất ! (**) Hai lĩnh vực luật và thống kê có một số điểm tương đồng, nhưng cũng có điểm khác nhau quan trọng. Cả hai chuyên môn đều liên quan đến việc thu thập dữ liệu hay bằng chứng, xác định ý nghĩa của dữ liệu, và đi đến kết luận dựa vào dữ liệu và logic. Tuy cả hai nhà thống kê học và luật sư đều có nhiệm vụ cung cấp tư vấn cho khách hàng, nhưng nhà thống kê học trình bày thông tin một cách khách quan không thiên vị ai (theo nguyên tắc khoa học), còn luật sư còn có vai trò biện minh cho khách hàng của mình và do đó họ trình bày thông tin thiếu tính khách quan. Trong khi giới luật sư và tòa án đòi hỏi một câu trả lời "có" hoặc "không", "đúng" hay "sai", thì giới khoa học như nhà thống kê học không bao giờ phát biểu khẳng định. Đối với khoa học, phương pháp khoa học và thống kê chẳng chứng minh một giả thuyết nào cả; mà chỉ có dữ liệu có nhất quán với giả thuyết hay không mà thôi, và ngay cả kết luận nhất quán cũng kèm theo một số điều kiện và giả định. Thật vậy, bất cứ kết luận hay câu trả lời nào của giới khoa học thống kê cũng đều kèm theo điều kiện và giả định. Mà, trong thực tế, nhiều khi chúng ta không biết được giả định đúng hay sai. Do đó, tuy hai ngành nghề đều thu thập bằng chứng, nhưng cách trình bày và diễn giải bằng chứng thì rất khác nhau. Đối với khoa học thống kê, bất định là một qui luật hơn là một ngoại lệ, và đây chính là điểm mâu thuẫn với tòa án. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của xã hội, trong cái nhìn của khoa học đều có yếu tố bất định. Mỗi quyết định của con người, dù là chánh án tối cao, đều có khả năng sai lầm. Mỗi hành động dù được thực hiện với ý định tốt nhưng đều có khả năng gây tác hại. Ngược lại, đối với tòa án, bất định là điều khó chấp nhận, bởi vì phán quyết của tòa án là xác định. Chính vì do ảo tưởng xác định nên trong quá khứ tòa án và luật pháp đã phạm phải nhiều sai lầm, và sai lầm của họ dẫn đến nhiều tai họa cho nạn nhân, cho người vô tội. Nnhân vô thập toàn. Không ai có thể tránh sai lầm. Vấn đề đặt ra không phải là tránh sai lầm (vì điều này không thể), mà là làm sao tối thiểu hóa sai lầm và sống với bất định một cách sáng suốt. Tình trạng bất định được định lượng hóa bằng con số xác suất. Do đó, sống một cách sáng suốt với bất định chính là tối thiểu hóa xác suất sai lầm. Các phương pháp thống kê hiện đại giúp cho chúng ta hạn chế sai lầm đến mức thấp nhất về lâu về dài. Để hạn chế sai lầm, chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa của con số xác suất và nhất là giả định đằng sau cách tính. Về ý nghĩa của xác suất, có hai cách hiểu cơ bản. Cách hiểu thứ nhất là xác suất là một tần số về lâu về dài. Nói xác suất sai lầm 1% có thể hiểu rằng trong 100 quyết định tương tự về lâu về dài sẽ có 1 quyết định sai. Ở đây, cái mâu thuẫn cơ bản của việc ứng dụng xác suất trong luật pháp là xác suất là con số được ước tính từ một quần thể với tử số nhỏ hơn mẫu số, còn quyết định của tòa án thường cho một cá nhân. Một cá nhân thì không có mẫu số. Do đó, nhìn như thế để thấy cách hiểu về xác suất theo ý nghĩa tần số không có giá trị cho tòa án. Cách hiểu thứ hai về xác suất là một thước đo về khả năng, về mức độ tin cậy, hay một thước đo về tình trạng kiến thức. Nói xác suất ông Obama thắng cứ 90% có nghĩa là theo cảm nhận cá nhân rằng ông ấy có khả năng thắng cứ cao hơn là thất cử. Trong thực tế, chúng ta chẳng bao giờ chứng minh được điều gì 100% (xác định); chúng ta chỉ có thể thu thập chứng cứ, dữ liệu để tăng khả năng phán quyết đúng càng cao càng tốt. Nhưng như trường hợp của Lucia de Berk và Sally Clark cho thấy, vấn đề không phải là dữ liệu, mà là phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu sao cho phù hợp với nguyên lí khoa học và logic. Do đó, trong thế giới hiện đại (và luôn luôn bất định), công dân – kể cả các quan tòa và bồi thẩm đoán – chẳng những phải học chữ, mà còn phải học xác suất.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 19, 2010 8:15:21 GMT 9
Đạo văn trong hoạt động khoa học Vietsciences-Nguyễn Văn Tuấn Bài này đã được đăng từ tháng 2/2007, nhưng chúng tôi cho đăng lại, để nhắc nhở những tờ báo in lẫn báo điện tử hiểu rõ thế nào là đạo văn, ngõ hầu tránh những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra. Bởi không ít tác giả cộng tác viên Vietsciences than phiền với chúng tôi rằng nạn đạo văn hoành hành và bài của họ bị cắt mất tên tác giả, hoặc bị gán vô tên một người nào lạ hoắc, có khi hai bài của hai tác giả được ghép thành một, và vị "chủ mới" hãnh diện hiên ngang, không hiểu chữ "bản quyền tác giả" là gì. Họ quá ngây thơ tưởng rằng sẽ không bị phát hiện. Nhưng họ lầm, bởi vì chỉ cần lấy một câu trong bài để trong ngoặc kép và nhờ Google kiếm, sẽ thấy ngay tất cả những chủ trang web đạo bài, vi phạm bản quyền mặc dù Vietsciences có ghi Nội quy rõ ràng. Đau đớn hơn nữa, trong số đó có những người có học vị, có chức tước và những tờ báo có uy tín!
Vietsciences Đạo văn [1] được định nghĩa là sử dụng ý tưởng hay câu văn của người khác một cách không thích hợp (tức không ghi rõ nguồn gốc), đặc biệt là việc trình bày những ý tưởng và từ ngữ của người khác trước các diễn đàn khoa học và công cộng như là ý tưởng và từ ngữ của chính mình. Ở đây, “Ý tưởng và từ ngữ của người khác” có nghĩa là: sử dụng công trình hay tác phẩm của người khác, lấy ý tưởng của người khác, sao chép nguyên bản từ ngữ của người khác mà không ghi nguồn, sử dụng cấu trúc và cách lí giải của người khác mà không ghi nhận họ, và lấy những thông tin chuyên ngành mà không đề rõ nguồn gốc. Trong vài thập niên gần đây, một hình thức đạo văn khác xuất hiện được giới khoa học đặt tên là tự đạo văn (self plagiarism). Tự đạo văn có nghĩa là tác giả công bố một bài báo khoa học như là một công trình nghiên cứu mới, nhưng thực chất là “xào nấu” dữ liệu của nghiên cứu cũ của mình đã từng công bố trước đây [2]. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các nhà khoa học để được đề bạt và thu hút tài trợ cho nghiên cứu, nạn tự đạo văn đang đặt ra nhiều vấn đề đau đầu cho các nhà tài trợ và hội đồng khoa bảng xét duyện đơn đề bạt. Trong cuốn sách Words for the Taking: The Hunt for a Plagiarist (Nhà xuất bản W W Norton & Co, 1997), tác giả Neil Bowers (là một nhà thơ) mô tả chi tiết những trường hợp vặn vẹo số liệu và “đạo số” (thay vì đạo văn) trong các công trình nghiên cứu danh tiếng. Đạo văn hay tự đạo văn hay đạo số liệu được xem là một hành vi gian lận nghiêm trọng, một hành động không thể chấp nhận được trong hoạt động khoa học, vì nó làm giàm uy tín của khoa học và làm tổn hại đến sự liêm chính và khách quan của nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn như công trình nghiên cứu về thương vong trong cuộc chiến Iraq được công bố trên Tập san New England Journal of Medicine (tập san y học số một trên thế giới) vào ngày 24/10/2002 bị rút lại vì tác giả đã giả tạo số liệu và đạo văn [3]. Trong y học, hệ quả của đạo văn đôi khi rất nghiêm trọng đến tính mạng của bệnh nhân. Nhận thức được sự nghiêm trọng của vấn đề, cộng đồng khoa học còn lập riêng một tập san có tên là Plagiary, chuyên nghiên cứu về đạo văn các trường hợp đạo văn (www.plagiary.org). Chưa ai biết qui mô của nạn đạo văn trong khoa học như thế nào, nhưng một vài nghiên cứu gần đây cho thấy tình trạng này khá phổ biến. Theo tập san Nature, trong một số ngành khoa học, nạn đạo văn (kể cả tự đạo văn) có thể lên đến 20% trong các bài báo đã công bố [2]. Hai tác giả Schein và Paladugu truy tìm 660 bài báo đã công bố trên 3 tập san hàng đầu trong ngành phẫu thuật và phát hiện khoảng 12% bài báo có cấu trúc giống nhau, 3% sử dụng từ ngữ hoàn toàn giống nhau, và khoảng 8% sử dụng từ ngữ rất giống nhau. Hai tác giả còn phát hiện khoảng 14% các công trình nghiên cứu này thuộc vào loại “tự đạo văn” hay “tự đạo số liệu” [4]. Rất nhiều trường hợp đạo văn được kết cục một cách bi thảm, và trong nhiều trường hợp sự nghiệp của thủ phạm đều tiêu tan. Cách đây trên 20 năm, một vụ đạo văn làm tốn khá nhiều giấy mực của báo chí của Úc, vì thủ phạm là một giáo sư cấp cao thuộc Đại học La Trobe (Úc). Giáo sư Ron Wild là một nhà xã hội học, tác giả của nhiều cuốn sách và công trình khoa học, một nhân vật thuộc vào hàng “cây đa cây đề” trong chuyên ngành. Năm 1985 ông xuất bản một cuốn sách thuộc nhập môn xã hội học (“An Introduction to Sociological Perspectives”, Nhà xuất bản Allen & Unwin). Chỉ vài tuần sau khi xuất bản, nhiều nghiên cứu sinh của chính ông và các giáo sư khác phát hiện rằng có rất nhiều đoạn văn trong sách được lấy từ các bài báo khoa học của các tác giả khác nhưng ông không hề ghi nguồn hay ghi chú rõ ràng. Nhà xuất bản Allen & Unwin quyết định thu hồi cuốn sách, Đại học La Trobe mở cuộc điều tra và bắt buộc ông phải từ chức [5]. Ở Mĩ, các trường hợp đạo văn đều được công bố và điều tra nghiêm túc [6]. Năm 2004, một trường hợp đạo văn gây sự chú ý trong giới khoa bảng vì thủ phạm là một giáo sư thuộc một trường đại học danh giá nhất thế giới: Đại học Harvard. Sultan là một giáo sư miễn dịch học tại trường y thuộc Đại học Harvard đạo văn từ 4 bài báo của các nhà khoa học khác, và bị phát hiện khi bài báo của ông được bình duyệt. Sau khi điều tra, ông bị cấm làm phản biện và bình duyệt (reviewer) các báo cáo khoa học trong vòng 3 năm. Tất nhiên, sự việc cũng gây ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông. Một trường hợp gần đây nhất cũng làm xôn xao dư luận báo chí vì sự việc lại xảy ra tại Đại học Harvard. Kaavya Viswanathan là một sinh viên gốc Ấn Độ, 19 tuổi, có tài viết văn, và được xem là một ngôi sao đang lên với đầy triển vọng qua cuốn tiểu thuyết “How Opal Mehta Got Kissed, Got Wild, and Got a Life”. Nhưng ngay sau khi xuất bản, người ta phát hiện cuốn tiểu thuyết có nhiều đoạn “trùng hợp” hay lấy từ hai cuốn tiểu thuyết “Sloppy Firsts” (in năm 2001) cuốn “Second Helpings” (in năm 2003) của Nhà văn Megan F. McCafferty. Hệ quả là cô nhà văn trẻ tuổi này mất một hợp đồng 500.000 USD với một nhà xuất bản khác, và không cần phải nói thêm, sự nghiệp viết văn của cô coi như chấm dứt. Cũng có trường hợp kẻ đạo văn nổi tiếng hơn và giàu hơn sau những dư luận công chúng. Chẳng hạn như trường hợp Dan Brown, một tiểu thuyết gia nổi tiếng với cuốn “Da Vinci Code” cũng bị dư luận lên án vì ông có hành vi đạo văn. Dan Brown không lấy câu chữ từ người khác, nhưng một số ý tưởng và kết cấu của cuốn tiểu thuyết Da Vinci Code trùng hợp với cuốn “'Holy Blood, Holy Grail” của Michael Baigent, Richard Leigh và Henry Lincoln, một cuốn sách thuộc vào hạng “best seller” vào thập niên 1980. Sau khi ra hầu tòa về vụ này, Dan Brown có vẻ không hề hấn gì mà còn nổi tiếng hơn trước! Còn ở nước ta trong mấy năm gần đây, nạn đạo văn cũng được giới báo chí nhắc đến khá nhiều lần, nhưng phần lớn các trường hợp này thường xảy ra trong lĩnh vực văn học [7]. Trong nghiên cứu khoa học, nạn đạo văn có liên quan đến những giảng viên và giáo sư cũng được nhiều nghiên cứu sinh đồn đại qua lại, nhưng chưa có bằng chứng hiển nhiên. Tuy nhiên, một trường hợp đạo văn gần đây làm chấn động giới nghiên cứu khoa học Việt Nam, nhất là trong cộng đồng “cư dân” mạng. Trường hợp này khá hi hữu vì sự đạo văn cực kì trắng trợn và … thô. Năm 2000, hai tác giả nguyên là nghiên cứu sinh Việt Nam tại Nhật và một tác giả người Nhật công bố bài báo có tựa đề là “Ship’s optimal autopilot with a multivariate auto-regressive exogenous model” trong hội nghị về ứng dụng tối ưu hóa tại Nga. Đến năm 2004 bài báo đó được xuất hiện trong một hội nghị cũng về ứng dụng tối ưu hóa tại Nhật nhưng với một tựa đề na ná “An optimal ship autopilot using a multivariate auto-regressive exogenous model” với 10 tác giả từ Việt Nam! Điều khó tin là 99% câu chữ, 100% các số liệu, thậm chí hình ảnh con tàu Shioji Maru trong bài báo năm 2004 lấy nguyên vẹn từ bài báo năm 2000 [8]. Thật ra, trường hợp này đã vượt ra ngoài định nghĩa của đạo văn một mức. Có thể nói đây là một “scientific hijack” – tức là chiếm đoạt công trình khoa học. Khi tác giả bài báo gốc liên lạc với các tác giả bài báo năm 2004 để tìm hiểu thêm nguyên do và lời giải thích, thì sự việc rơi vào im lặng. Những trường hợp đạo văn phát hiện tại các trường đại học hay trung tâm nghiên cứu nước ngoài đều được giải quyết triệt để. Ở Mĩ có cơ quan Office of Research Integrity (ORI, tạm dịch: Nha liêm chính trong nghiên cứu) chuyên điều tra và giải quyết các vấn đề đạo văn và vi phạm khoa học. Ở nước ta hình như Nhà nước vẫn chưa có một chính sách để giải quyết các trường hợp đạo văn hay vi phạm đạo đức khoa học. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ nước ngoài cung cấp cho chúng ta một số bài học về cách thức giải quyết vấn đề cho các trường đại học ở nước ta. Thứ nhất, Bộ khoa học và Công nghệ cần phải có một đơn vị để đối phó và xử lí với các trường hợp gian lận trong khoa học. Trong mỗi trường đại học hay viện nghiên cứu cần phải có một ủy ban đạo đức khoa học (mà tiếng Anh hay gọi là Ethics Committee) để giải quyết bất cứ tố cáo nào liên quan đến các hành vi liên quan đến những sai lầm, ngụy tạo, gian trá và đạo văn trong khoa học. Theo kinh nghiệm từ nước ngoài, ủy ban này bao gồm các nhà khoa học từ nhiều ngành chuyên môn khác nhau và một số nhà khoa học từ các trường đại học bạn. Điều quan trọng là ủy ban đạo đức khoa học phải độc lập với ban lãnh đạo trường đại học. Thứ hai, cần phải lập tức giải quyết vấn đề, không chần chờ. Khi một trường hợp gian lận khoa học xảy ra, ủy ban đạo đức khoa học cần phải hành động ngay, tức là mở cuộc điều tra, lắng nghe ý kiến của tất cả các thành phần liên quan đến vấn đề, và giải quyết nhanh chóng. Không nên chờ hay kéo dài thời gian mà hậu quả là cả người tố cáo lẫn người bị tố cáo đều bị tổn hại uy tín, và trường cũng bị mang tai tiếng. Do đó, cần phải dứt khoát giải quyết vấn đề càng nhanh càng tốt để tất cả mọi bên có thể tiếp tục công việc của mình. Thứ ba, cần phải dạy cho học sinh, sinh viên phân biệt được đâu là đạo văn, và đâu là trích dẫn. Có nhiều trường hợp đạo văn xảy ra ở sinh viên Á châu, khi được hỏi thì họ thường nói là vì họ kính trọng tác giả nên mới trích dẫn! Đó là một cách biện minh không thể chấp nhận được. Do đó, chúng ta cần phải thêm vào phần đạo đức khoa học trong chương trình đào tạo sinh viên và nghiên cứu sinh. Thật ra, ngay cả học sinh tiểu học và trung học cũng phải được dạy rằng mượn ý tưởng và từ ngữ của người khác thì phải ghi rõ hay xin ghi ơn (acknowledgement), không có chuyện “xỏ nhầm giầy” được. Một yếu tố căn bản, bao quát để giải quyết tận gốc nạn đạo văn, hay rõ hơn là “đạo” tri thức ở nước ta, là cần cải tổ từ hệ thống giáo dục: từ cấp trên, đến tư liệu giảng dạy, đến hình thức giàng dạy ngay từ bậc tiểu học. Ví dụ, đại đa số, nếu không nói là tất cả sách giáo khoa giảng dạy ở Việt nam không hề có một tài liệu tham khảo nào, nhưng có nhóm tác giả. Không thể nói tri thức trong mỗi cuốn sách giáo khoa đó là tài sản trí tuệ của nhóm tác giả soạn sách được, và nếu không có trích dẫn tài liệu tham khảo, đó chính là đạo văn. Cách thức giảng dạy ở Việt nam trong nhiều năm qua vẫn chưa có thay đổi theo cách “thầy đọc, trò chép”, đây là một hình thức hướng dẫn đạo văn vô tình. Khi trò trả bài hoặc làm bài thi mà không viết đúng ý thầy hoặc nguyên văn lời thầy giảng, thì bài thi không đạt; ngược lại để đạt tức là đạo văn! Đạo văn cần phải được coi là một chuyên đề giảng dạy chính thức trong các trường học, mức độ nâng dần theo bậc học; nó được coi như là một bài học đạo đức chống lại hành vi ăn cắp, mà ở đây là ăn cắp ý tưởng, ăn cắp tri thức. Hành vi này cũng được xử lí không khác gì ăn cắp vật chất. Phải nói dứt khoát rằng bất cứ hình thức đạo văn nào cũng có thể xem là một tội phạm và cơ quan sẽ dứt khoát không dung túng. Trung thực và liêm chính là những đặc tính số một trong nghiên cứu khoa học, và công bố bài báo khoa học cũng như giảng dạy là raisons d'être, là lí do để tồn tại của nhà khoa học. Hơn 20 năm về trước, Al Gore, lúc đó còn là một thượng nghị sĩ (và sau này là phó tổng thống Mĩ) chủ trì một cuộc điều trần về gian lận trong khoa học, nhận xét: “Nền tảng của nghiên cứu khoa học dựa vào sự tín nhiệm của quần chúng và liêm chính trong hoạt động khoa học.” Câu phát biểu này có tính phổ quát, và có thể thích hợp cho bất cứ hoạt động nghiên cứu khoa học tại bất cứ nước nào, kể cả ở nước ta. Chú thích: [1] Tiếng Anh tương đương với khái niệm đạo văn là plagiarism, và chữ này xuất phát từ chữ Latin plagiarius có nghĩa là kẻ bắt cóc. [2] Xã luận trên Tập san Nature. Taking on the cheats. Nature 18 May 2005. [3] George A, Ricaurete. Retraction. Science 2003;302:1479. [4] Schein M, Paladugu R. Redundant surgical publications: tip of the iceberg? Surgery 2001 Jun;129(6):655-61. [5] Jane Howard, 'Dr. Ronald Wild takes college job in far northwest', Australian, 16 July 1986, p. 13; Anthony MacAdam, 'The professor is accused of cribbing', Bulletin, 1 October 1985, pp. 32-33. [6] Price AR. Cases of plagiarism handled by the United States Office of Research Integrity 1992-2005. Plagiary Volume 1, Number 1:1-11. www.plagiary.org. [7] Có thể xem bài “Sưu tầm, kế thừa và... đạo văn” của Nguyễn Hòa trên báo An ninh Thế giới do báo net Tin tức Online in lại vào ngày 3/5/2007. Có thể xem thêm bài “Nạn đạo văn: Sự xuống cấp của đạo đức trí thức” trên báo Tuổi Trẻ 20/3/2004. [8] Bài báo công bố vào năm 2004 trong kỉ yếu của hội nghị lần thứ 8 của IEEE Advanced Motion Control (Kawasaki, Nhật) có tựa đề là “An optimal ship autopilot using a multivariate auto-regressive exogenous model”, còn bài báo gốc công bố trong hội nghị về Control Applications of Optimization (CAO2000), St Petersburg, Russia, có tựa đề là “Ship’s optimal autopilot with a multivariate auto-regressive eXogenous model”. Bài báo gốc năm 2000 Bài báo năm 2004 Abstract: This paper presents a new application of the linear quadratic gaussian (LQG) control algorithm linked to the recursive least squares (RLS) algorithm applied to a multivariate auto-regressive exogenous (MARX) model of ship to construct an autopilot for steering ship. Simulation performed for training ship is described. As a first step of designing a tracking system, the optimal autopilot with the MARX model was used to keep and change the ship’s course during full-scale experiment aboard the training ship. It has been found that the autopilot has robustness and good performance for steering ship. Copyright © 2000 IFAC. Keywords: estimation and identification, ship steering dynamics, quadratic optimal control, control design. Abstract: Linear quadratic gaussian (LQG) control algorithm linked to recursive least squares (RLS) algorithm has been applied to a multivariate auto-regressive exogenous (MARX) model of ship to construct an autopilot for steering ship. It has been found from computer simulation and full-scale experiments aboard the training ship that the autopilot is robustness and has good features in both course keeping and course changing. Keywords: estimation and identification, quadratic optimal control, control design, ship steering dynamics. Table 1. Statistical values of estimated paramaters Para Mean Max Min Final a1 -1.0078 -0.9970 -1.0171 -1.0078 a2 -0.0019 -0.0017 -0.0776 -0.0121 a3 -0.0303 0.0365 -0.0044 0.0318 b0 -0.0533 -0.0256 -0.7091 -0.0443 Table 1. Statistical values of estimated paramaters Parameters Mean Max Min Final a1 -1.0078 -0.9970 -1.0171 -1.0078 a2 -0.0019 -0.0017 -0.0776 -0.0121 a3 -0.0303 0.0365 -0.0044 0.0318 b0 -0.0533 -0.0256 -0.7091 -0.0443 Đăng lần đầu 02/07/2007 Đọc trang nhà Gs Nguyễn Văn Tuấn
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 8:16:56 GMT 9
Bảo hiểm cho chủ nhà là gì?
Nếu căn nhà của bạn bị hư hay bị phá hủy do một lý do được bảo hiểm, căn nhà của bạn sẽ được sửa chữa hoặc thay thế.
Bảo hiểm dành cho chủ nhà bao gồm bảo hiểm cho vật dụng cá nhân, cho căn nhà, và cho cấu trúc trên bất động sản này. Căn nhà được bảo hiểm đồng nghĩa với việc hãng bảo hiểm chịu trách nhiệm chi trả cho thương tích cá nhân và hư hại tài sản.
Những gì sẽ được bảo hiểm?
Căn nhà của quý vị, và các cấu trúc rời, được bảo hiểm, đối với nhiều loại hư hại khác nhau. Có một số ngoại lệ thông thường: nhà bị mòn, bị sướt, động đất, lụt lội, hư hại do nước gây ra hay độc hại nguyên tử. Các cấu trúc riêng rẽ trên bất động sản của quý vị, ngoài những cấu trúc được sử dụng với mục đích thương mại (như nhà xe rời hay nhà kho), đều được bảo hiểm lên đến 10% của bảo hiểm căn nhà. Bảo hiểm có thể cao hơn với bảo phí phụ trội.
Tài sản cá nhân
Quý vị sẽ an tâm khi biết rằng, mọi vật dụng sở hữu cá nhân được bảo hiểm tại nhà hay tại bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Thiệt hại tài sản cá nhân
Trong lúc căn nhà của quý vị được bảo hiểm đối với đa số hư hại, bất động sản cá nhân được bảo hiểm khi các hư hại gây ra bởi:
Hỏa hoạn, sấm sét, gió bão hay mưa đá; Nổ; Nổi loạn hay bạo động dân sự; Máy bay hay xe cộ; Khói, nếu bất thình lình và có gây ra tai nạn; Phá hoại hay trộm cắp; Vật rơi từ không trung; Trọng lượng đá, tuyết hay rung chuyển; Hư hỏng hệ thống ống nước, điện, máy sưởi hay máy lạnh và máy móc gia dụng.
Cách thức tiết kiệm
Chủ nhà có thiết bị phòng chống trộm cắp, tai nạn và các thất khoát khác, thường được hưởng bảo phí thấp. Dưới đây là một số điều kiện (tùy theo hãng bảo hiểm):
Bảo vệ an toàn căn nhà bằng ổ khóa đôi và khóa cửa sổ; Gắn hệ thống báo động nối liền với cảnh sát và sở cứu hỏa địa phương; Gắn và bảo trì máy báo hiệu khói; Gắn hệ thống phun nước phòng hỏa hoạn; Giảm giá cho người không hút thuốc; Giữ gìn đường đi và phía vào nhà sạch khỏi tuyết và đá; Giảm giá đa sản phẩm nếu có bảo hiểm Xe và Nhân Thọ.
Thông tin được cung cấp bởi Leo Trương - Hãng bảo hiểm Farmers
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 11:15:59 GMT 9
Những Luật Mới Của Sở Thuế Vụ Liên Bang Irs Việt Báo Thứ Sáu, 10/22/2010 Những Luật Mới Của Sở Thuế Vụ Liên Bang IRS Sở thuế liên bang IRS yêu cầu tất cả các công ty dịch vụ thẻ tín dụng, trong đó có Bankcard Services, phải thông báo cho IRS biết tổng số tiền giao dịch hàng năm của khách hàng kể từ đầu năm 2012. Luật mới áp dụng cho mọi cơ sở thương mại có doanh thu trên 20,000 USD và trên 200 lần nhận thẻ trong năm. Số tiền được báo cáo với sở thuế được xem là thu nhập của doanh nghiệp. Kể từ ngày 1 tháng giêng năm 2011, tất cả các khoản thu bằng thẻ tín dụng phải được báo cáo để khấu trừ thuế vào năm 2012. Luật này là một phần của đạo luật The Housing and Economic Recovery Act năm 2008. Luật này yêu cầu mọi doanh nghiệp có trách nhiệm báo cáo tất cả doanh thu của mình với IRS. Áp dụng luật mới này Bankcard Services phải báo cáo thu nhập và xác định mã số thuế cùng địa chỉ của từng doanh nghiệp hay cơ sở thương mại, cung cấp thông tin theo yêu cầu của IRS. Bankcard Services đã chuẩn bị các bước để đáp ứng luật mới có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2011. Tóm tắt sơ lược về luật mới: Những yêu cầu của IRS đối với Bankcard Services: - Xác nhận mã số thuế và địa chỉ của doanh nghiệp. - Chịu trách nhiệm báo cáo tổng doanh thu qua thẻ tín dụng của doanh nghiệp và các cơ sở thương mại trong năm 2011 cho IRS - Đầu tháng 1 năm 2012 chúng tôi phải khai đơn 1099-K với IRS sau đó cung cấp bản sao cho từng khách hàng. - Năm 2012 nếu doanh nghiệp nào có tên và mã số thuế không khớp với dữ liệu của IRS thì doanh nghiệp đó sẽ bị IRS giữ lại 28% trên tổng doanh thu. Những yêu cầu của IRS đối với chủ cơ sở thương mại: - Doanh nghiệp phải đảm bảo mã số thuế và tên thương mại mà quý vị cung cấp cho Bankcard Services là đúng và khớp với các dữ liệu của sở Thuế. - Khi doanh nghiệp nhận được bản sao tờ khai cuối năm xin so sánh lại với dữ liệu của mình để xác nhận tính chính xác của bản khai. Xin chú ý: Nếu doanh nghiệp không cung cấp mã số thuế hoặc mã số thuế không đúng với tên doanh nghiệp đã đăng ký với IRS thì IRS giữ lại thu nhập của mình. Điều này được áp dụng và có hiệu lực từ 2012 không phải áp dụng từ 1 tháng 1 năm 2011 như đã thông báo. Bankcard Services đưa ra chương trình như sau: - 11/1/2010: Tất cả khách hàng sẽ được kiểm tra mã số thuế. - 10/1/2010- 12/31/2010: Chúng tôi sẽ gởi mã số thuế của quý khách cho IRS để kiểm tra. Doanh nghiệp nào có tên và mã số thuế không khớp với sở thuế sẽ nhận được thư báo, chúng tôi sẽ cố gắng liên lạc với khách hàng để điều chỉnh laị sự sai biệt này và cập nhật thông tin với IRS - 1/1/2011-12/31/2011: Bankcard Services sẽ báo cáo doanh thu qua thẻ tín dụng với sở thuế. - 01/2012: Dựa trên hoạt động giao dịch thẻ của năm 2011, chúng tôi sẽ in và gởi mẫu đơn 1099-K đến khách hàng. Sở thuế IRS hướng dẫn và giải thích chi tiết của điều luật mới này, bao gồm các số liệu báo cáo, quy trình tạm giữ doanh thu, hạng mục doanh thu…. Bankcard Services sẽ theo sát và tuân thủ các điều khoản và yêu cầu của điều luật này, chúng tôi sẽ thông báo trực tiếp và cập nhật những thông tin mới nhất cho khách hàng hay qua trang website của Bankcard Services. Thông báo này chỉ để doanh nghiệp biết về luật thuế mới, chúng tôi không hề có ý định công bố hợp pháp điều luật này cũng như tư vấn về thuế cho các doanh nghiệp. Công ty chúng tôi không chịu trách nhiệm hay đảm bảo về tính chính xác của thông tin này, doanh nghiệp nên hỏi thêm với luật sư hay nhà tư vấn về thuế của mình trước khi có hành động gì về điều luật mới này. Bài này viết bởi: Bankcard Services 8361 Westminster Blvd # 300 Westminster , CA 92683
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 6:51:01 GMT 9
Sao cho phải Đạo làm ăn ? Vietsciences- Nguyễn Thanh Lâm Nhiều người đang nói đến Đạo kinh doanh và đạo đức kinh doanh. Một lời thề kiểu Hippocrates vẫn chưa có. Từ Đông sang Tây,văn hóa doanh nghiệp được hiểu mỗi nơi một phách.Tuy nhiên,mọi con người tín thực và trọng danh dự đều luôn cố gắng trả lời một câu hỏi: sao cho phải Đạo làm ăn ? Tiếng Việt có hai chữ "làm ăn" nghe thật hay. Khác với từ business trong tiếng Anh là kinh doanh, thoát thai tự chữ busy là bận rộn. Làm ăn. Làm để ăn. Làm có ăn. Ăn để làm. Có ăn có làm. Có làm có ăn. Làm và ăn. Làm ăn không nhất thiết phải luôn bận rộn. Hai chữ làm ăn còn bao gồm mọi câu chuyện mưu sinh dù lớn dù nhỏ, khác với chữ kinh doanh có phần uy nghi,dao to và búa lớn. Thật ra,kinh doanh là một hoạt động bình thường và tất yếu của cuộc sống loài người. Nhưng tinh thần kinh doanh trong tiến hoá lịch sử đã nhiều lúc nhiễm màu sắc khác nhau,gây ra những hậu quả có khi vô cùng tàn ác và khốc liệt.Kinh doanh kiểu chiếm hữu nô lệ,lạm quyền,phong kiến,kiểu đế chế,kiểu Trung cổ,kiểu thuộc địa,kiểu tư bản lang sói hay mạo hiểm hay khoa học tinh vi. Cũng có cả những kiểu kinh doanh ngây ngô,duy ý chí,như những chứng bệnh ấu trĩ của một xã hội quờ quạng. Ông tổ của ngành xã hội học, Max Weber, đã nói đến những cách làm giàu phi lý tính, hoặc do đầu cơ, hoặc thiên về cách chiếm lĩnh bằng bạo lực, nhất là chiếm đoạt thông qua chiến tranh, hay dưới hình thức chiến lợi phẩm tài chính, nghĩa là thông qua việc bóc lột những người bị trị. Weber định nghĩa "hành vi kinh tế tư bản chủ nghĩa" là "hành vi dựa trên hy vọng đạt được lợi nhuận bằng cách tận dụng nhưng cơ hội trao đổi, nghĩa là dựa trên những cơ may chiếm hữu một cách hòa bình (vẻ mặt hình thức)" Sự ham muốn lợi nhuận,từ ngàn xưa,được kết hợp trong thời kỳ công nghiệp hoá, với tính kỷ luật, sự sáng tạo, óc khoa học kỹ thuật và lối tổ chức quản trị để làm nên diện mạo mới của các nền kinh tế kiểu mới, trong đó, nền luật pháp và bộ máy hành chính dựa trên tư duy lý tính (rationalism) dẫn đến những phương thức kinh doanh hiện đại và một tinh thần kinh doanh lành mạnh. Ấy cũng là nguyên tắc cơ bản của Đạo làm ăn ngày nay. Joseph Schumpeter cho rằng doanh nhân là người thực hiện những cách phối hợp mới mẻ thông qua 5 trường hợp sau : (1) tạo ra sản phẩm mới hay chất lượng mới cho sản phẩm hiện có; (2) tìm ra cách sản xuất, dạng dịch vụ hay cách bán hàng mới; (3) tìm ra thị trường mới; (4) chinh phục hay tạo ra được nguồn nguyên liệu mới: (5) lập ra doanh nghiệp mới. Chính Schumpeter trong tác phẩm " chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ" đã nhìn thấy : nhà công nghiệp hay thương nhân không giống như vị lãnh chúa thời Trung cổ. Họ đứng đầu một cơ ngơi, nhưng quyền chỉ huy chủ yếu về kinh tế này không thể so sánh với uy lực thống soái, quyền sinh sát của vị lãnh chúa. Đạo kinh doanh,như thế,dựa trên nền tảng nhân văn. Nói như Schumpeter "hoàn toàn không mang tính anh hùng theo kiểu hiệp sĩ quí tộc, vì ở đây không có chuyện giương kiếm và phi ngựa lao về phía kẻ thù. Quan niệm" thương trường là chiến trường" (câu nói từ phim "người Bắc Kinh ở New York") dần dần được thay thế bằng quan niệm "cùng thắng" (win-win) hay "đại dương xanh thay đại dương đỏ". "tối đa hoá lợi nhuận" được thay thế bằng "tối ưu hoá các lợi ích". Peter Drucker cho rằng lợi nhuận không phải là mục tiêu của doanh nghiệp (khác với cái nhìn phổ biến về hoạt động kinh doanh) mà là phương tiện để doanh nghiệp trường tồn và phát triển, hay điều kiện để doanh nghiệp tồn tại. Lợi nhuận là hệ quả của kinh doanh. Drucker nói" chỉ có một định nghĩa có giá trị về mục tiêu của doanh nghiệp, đó là tạo ra khách hàng. Như thế,Đạo làm ăn phải xử lý tốt đẹp các quan hệ con người, như một tổng hòa của các quan hệ xã hội. Sam Walton, ông chủ của mạng siêu thị lớn nhất toàn cầu Wal-Mart đã nói " thành công khi bạn mang lợi ích đến cho người khác" và " hãy cho khách hàng những gì họ muốn". Joma Ollila đã đưa Nokia từ vực sâu phá sản trở thành tập đoàn đóng góp một phần ba thị trường điện thoại di động thế giới, nhờ gắn liền sứ mệnh "kết nối mọi người" (connecting people) thông qua chiếc điện thoại không dây đầy đủ tiện ích, làm cho chúng ta gần nhau hơn, hiểu biết và yêu mến nhau hơn. Cũng với những triết lý đầy nhân văn nêu trên, Larry Page đã tạo ra Google đáp ứng gần 1 tỉ yêu cầu tìm kiếm thông tin vào năm 2006, cùng với Gmail và những dịch vụ khác. Từ thập niên 1970,chỉ có một vài đại học ở Mỹ dạy môn đạo đức kinh doanh (business ethics). Hình như giới học thuật cũng dị ứng với phạm trù đạo đức, xem như một mảng của thần học và là những khuôn phép bó buộc tự do và sự phát triển. Tựa như câu chuyện trong thần thoại Hy Lạp, khi chàng khổng lồ có bộ óc thủ cựu bé tí, đặt một cái giường dài đúng 1m6 và bắt những nạn nhân của mình nằm lên. Ai ngắn thì hắn kéo dài ra. Ai cao nhồng thì hắn chặt bớt chân. Môn đạo đức kinh doanh khảo sát từ thuyết duy lợi (utilitarism),thuyết thực dụng (pragmatism), lô gic thương mại,lô gic đạo đức v.v.. Một kinh tế gia người Mỹ rất nổi tiếng là Milton Friedman cổ vũ chủ trương phó mặc cho sự vận động của thị trường, tin rằng kinh tế thị trường luôn được tự điều tiết bằng một bàn tay vô hình. Thuyết "laissez-faire, lassez passe' " đã có ảnh hưởng khá sâu rộng trong mọi giáo trình kinh tế học, nhưng ở góc độ đạo đức quản trị (management ethics) lại buộc doanh nhân tự đặt mình trong những lan can,những con lươn chặn bớt các hành vi bất lương như lừa đảo, trốn thuế, buôn lậu, rửa tiền, buôn bán cái chết. .. vượt rào kiểm soát và xử lý của luật pháp. Quan điểm "kinh doanh là kinh doanh" (business is business) cũng là một cách biện hộ cho những chệch choạng đạo lý trong làm ăn. Triết gia Pháp Andre' Comte-Sponville cho rằng mục tiêu tối thượng và quan trọng nhất của doanh nghiệp là phục vụ cổ đông, chứ không phải xã hội. Thuật ngữ kinh bang tế thế (kinh tế),theo Comte-Sponville, bị đặt ra vùng ngoại vi hoạt động quản trị kinh doanh. Cho dù là như thế chăng nữa,trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (corporate social responsibility - CSR) ở thời đại ngày nay đã khác xưa. Những cam kết thành văn hay bất thành văn về việc không gây tổn hại tới cộng đồng,không gây ô nhiễm môi trường, không bắt trẻ em làm việc,không chặt cơ hội có chỗ làm cho người khuyết tật, thiểu năng...và đặc biệt không làm ảnh hưởng tới sức khoẻ và tính mạng của người tiêu dùng. Ý tưởng này dẫn đến việc thể chế hoá các hoạt động tòa án từ WTO đến quận huyện và các hiệp hội, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng. Nước tương có chứa độc tố 3-MCPD, nước mắm chứa phân bón Urea... là những thí dụ về tác hại của sự thiếu hiểu biết, hoặc thiếu lương tâm, thiếu cái Tâm cần có của đạo đức kinh doanh. Sao cho phải Đạo làm ăn ? Câu hỏi ấy được đặt ra ở phương Đông với những phạm trù tuy rộng lớn,trừu tượng nhưng có vẻ dễ hiểu hơn phương Tây. Ấy là Đạo đức kinh của Lão Tử, là triết lý Khổng Mạnh về Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Mà trong làm ăn thì chữ Tín lại đứng đầu. Giữa lô gic đạo đức và lô gic thương mại thì chẳng mấy ai đặt lô gic đạo đức lên trên hết, vì chẳng doanh nhân nào là người ngây ngô, trừ khi là một ông thánh, hay là người mặc khải được, ngộ được sự mệnh của mình. Lô gic thương mại phương Đông dựa trên 5 đức tính : trung thực, chăm chỉ, biết điều,không tham lam và sòng phẳng. Chữ Tín là yếu tố cơ bản hàng đầu trong Đạo kinh doanh và xây dựng giá trị vô hình,giá trị thương hiệu, uy tín nghề nghiệp của doanh nhân. Ở vùng Bắc Đức, mạn Bremen,Hamburg và vùng Hà Lan, cái đập tay của hai doanh nhân sau khi thương thảo là một bản hợp đồng của chữ Tín, của danh dự và không thể tuỳ tiện thay đổi gì nữa cả, dù giá buôn giá bán của thị trường có trồi sụt lên xuống. Đã hứa là phải làm đúng lời hứa. Chữ Tín ngày nầy còn được giữ với sự tận tâm tự giác theo phương thức kinh doanh hậu mãi. Giao hàng đúng hẹn dù nắng hay mua, dù xe hư hay kẹt xe. Tôm đông lạnh bị bơm nước vào cho nặng ký. Hàng áo gió lót bèo tây phơi khô thay vì lông thủy cầm. Hạt tiêu trộn hạt đu đủ. Làm quấy làm quá rồi ù xòe, xin thông cảm, xin nương tay. Cách làm ăn đó chẳng bao giờ phải Đạo. Phương Đông cũng giống như phương Tây thôi: kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. Việc gì mình không muốn thì đừng bắt người khác. Người làm ăn phải ăn ở cho đúng, biết lắng nghe các thông tin phản hồi và trân trọng những lời chỉ trích. Khách hàng khiếu nại là khách hàng chạy lại, không phải chạy đi. Làm ăn chân chỉnh đòi hỏi lòng tự trọng luôn được đặt vào mọi công việc và một quy tắc ứng xử phải Đạo. Hầu hết mọi cam kết đa phương của WTO chẳng hạn đều có bộ quy tắc ứng xử (conduct), dựa trên sự định hình của các nguyên tắc đồng thuận để tạo thành thói quen kinh doanh tương thích và văn minh. Làm giàu chính đáng là một ước mơ đẹp, rất đáng trân trọng, rất đáng khuyến khích. Cách đây gần một trăm năm, cụ Lương văn Can đã nói đến câu chuyện tựa như ước mơ internet " thế giới đi lại như một nhà" và viết cuốn sách đầu tiên dạy kinh doanh ở nước ta là "thương học phương châm", mà ngày nay, lần giỡ trước đèn, doanh nhân thời hiện đại vẫn còn cảm nhận tính thời sự nóng bỏng và ngộ ra nhiều điều hữu ích. Cụ Can lưu ý người làm ăn phải biết cách giao thiệp, biết trọng nghề, có lòng kiên tâm và biết giữ tín thực... Cụ nói trong thời còn "trọng nông ức thuong" và lời Cụ vẫn vững như đồng suốt quãng thời gian tiếng Việt có cái từ chụp mũ khá quái đản, là "gian thương". Người Trung quốc ngày xưa cũng đã tổng kết 3 lời khuyên : người kinh doanh không nên quên gia đình, bạn bè thân quyến, vẫn thu xếp dự đám cưới, đám ma và phải có giờ đọc sách. Đạo đức kinh doanh được định nghĩa như thế nào,sau những phần luận giải trên đây : Đó chính là sự tôn trọng các quy tắc ứng xử phải Đạo,không chỉ bao gồm những điều cấm đoán mà còn có những giá trị tích cực cần phát huy. Đạo đức kinh doanh là một vật tự thân (thuật ngữ "Ding an sich" mà các triết gia Đức ưa dùng) nằm trong bản chất, trong cốt lõi văn hóa và triển vọng của doanh nghiệp. Sống sao cho phải Đạo ? Câu trả lời nằm trong câu hỏi : người làm ăn, dù là đại gia hay người làm công, xét cho cùng, biết ăn ở và đối xử phải Đạo làm người là đạt Đạo.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 6:56:57 GMT 9
Giải pháp phát triển giáo dục Lớp Một thế kỷ XXI Vietsciences- Hồ Ngọc Đại Nền giáo dục thế kỷ XXI cần ổn định để tạo ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của chính mình, góp phần tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước. Nền giáo dục ổn định sớm ngày nào mừng ngày ấy. Nền giáo dục càng ổn định sớm thì càng có cơ hội phát triển sớm và có cơ hội sớm nhất đem lại lợi ích cơ bản cho mỗi em học sinh, cho từng gia đình, cho toàn xã hội. Mọi chuyên nên bắt đầu từ lớp Một và chỉ cần bắt đầu từ một môn Tiếng Việt lớp Một. Giải pháp nghiệp vụ cho việc này đã sẵn sàng, và sẵn sàng ở độ an toàn cao nhất, đảm bảo thành công đến 99%, miễn là có chủ trương của Nhà nước, rồi sau đó có sự hợp đồng giữa các Bộ phận thực thi: - Sự chỉ đạo của Bộ, các cơ quan chức năng - Sự thực thi của Trung tâm Công nghệ giáo dục - Sự hưởng ứng của Địa phương tiếp nhận. Nên bắt đầu triển khai diện hẹp, trong hoàn cảnh hoàn toàn kiểm soát được tình hình, đảm bảo việc thực thi phải an toàn tuyệt đối. Nhanh nhưng không vội. 1. Định hướng lý thuyết Năm 1987, tại Hội nghị toàn quốc các Giám đốc Sở, ở Vũng Tàu, tôi đưa ra khẩu hiệu Lớp Một – Cấp Một Linh hồn của khẩu hiệu ấy là coi trọng lớp Một như một cấp học, là sự mở đầu cho mọi sự mở đầu, mà sự thành bại của nó có sức mạnh quyết định đối với toàn bộ Cuộc đời mỗi cá nhân học sinh hiện đại. Nay, năm 2008, tôi nhắc lại khẩu hiệu ấy, với sự bảo lãnh của những cứ liệu khoa học vững chắc và đáng tin cậy về Trẻ em hiện đại. Thế giới “phát hiện” ra Trẻ em hiện đại từ những năm 50-60 thế kỷ trước. Còn ở Việt Nam, trong 30 năm liên tục, chúng tôi thu được nhiều cứ liệu khá ngỡ ngàng và khó tin đối với người không chuyên nghiệp. Ví dụ: Ở trường Thực nghiệm: Lớp Một: Học 1 năm, đọc thông viết thạo, nắm chắc luật chính tả, không thể tái mù. Còn ngỡ ngàng và khó tin hơn những cứ liệu về Môn Toán: Lớp Một: Dãy số tự nhiên trong các Hệ đếm. Phép toán đại số Sự thành công ở lớp Một có hai giá trị cơ bản, đặc trưng cho giáo dục hiện đại. Một, ngày nay cả 100% trẻ em đều đi học. Ngày tựu trường là một sự kiện trọng đại của “ba họ” nhà em. Rồi cả “ba họ” cùng khấp khởi theo rõi việc học của em ở trường. Hai, sự thành công ngay từ lớp Một tạo ra cho em Niềm tin, xoá bỏ mọi mặc cảm, tạo ra một nền tảng tâm lý an toàn, cho toàn bộ quá trình học tập. Chỉ sau một năm học, em đã đọc thông viết thạo, cái cũng đọc được, nghe gì cũng viết được. Thành tựu ấy nhanh chóng trở thành Phương tiện như một phép lạ, để học tất cả những gì còn lại. Đi học là hạnh phúc! Mỗi ngày đến trường náo nức một ngày vui. Nếu năm 1978 (năm khai giảng đầu tiên trường Thực nghiệm) còn là khẩu hiệu, thì đến năm 2008 thì đã là “chuyện tự nhiên”, tự nhiên như hít thở không khí. Một Lớp Một phải vững chắc, như nền móng vững chắc có thể xây lên ngôi nhà hiện đại với bất cứ tầm cỡ nào. Lớp Một, điểm xuất phát của toàn bộ quá trình phát triển đời người, ví như điểm xuất phát của mũi tên bắn ra, xác định hướng đi và lộ trình của toàn bộ hành trình tiếp theo. Sẽ là tối ưu, nếu hành trình ấy diễn ra tự nhiên, theo lôgic nội tại của nó. Một tiến trình phát triển tự nhiên trong giáo dục phải có “cốt lõi vật chất” là cái (quen gọi là nội dung chương trình) và quan trọng hơn, được đảm bảo bởi cách làm ra cái đó (quen gọi là phương pháp). Do đó, việc chọn đúng cái và tìm được cách là vấn đề cốt tuỷ của Nghiệp vụ sư phạm hiện đại. Trẻ em hiện đại sinh ra có đến 99,9% số gen giống nhau, thì không còn là câu chuyện về “bộ não” nữa. Thành bại của giáo dục do Nghiệp vụ sư phạm quyết định. Không đâu bằng Cấp Một, đặc biệt, không đâu bằng lớp Một, ở đó Nghiệp vụ sư phạm thuần khiết nhất, đậm đặc nhất, có sức mạnh quyết định nhất. Hy vọng nó sẽ là tối ưu, nếu tổ chức và kiểm soát được quá trình nhận thức, sự phát triển lý trí, tư duy: May sao, Tâm lý học trẻ em và sư phạm nửa sau thế kỷ XX phát hiện ra “bước nhảy sinh mệnh” từ lứa tuổi 6-12 theo hướng chủ đạo là phát triển tư duy, từ tư duy kinh nghiệm chủ nghĩa (ở nhà) sang tư duy khoa học (ở trường). Sự thành bài của Lớp Một tuy là có có tính “nhân tạo” nhưng lại có tính “định mệnh” đối với toàn bộ quá trình phát triển về sau đối với mỗi cá nhân. Còn về mặt xã hội, hằng năm, lớp Một trực tiếp tác động đến 2 triệu học sinh + 4 triệu cha mẹ + hàng triệu ông bà nội ngoại, chú bác cô dì cậu mợ + hàng triệu anh em ruột thịt, họ hàng + … Trong mấy chục năm nay, nền giáo dục phải thụ động đối phó với những diễn biến do cuộc sống thực đặt ra. Nay, việc cần làm đối với giáo dục là ổn định, tạo đà phát triển. Nếu ổn định từ đầu, phát triển từ đầu, từ lớp Một thì chỉ trong vòng 3-5 năm là đủ sức tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của giáo dục, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. 2. Xử lý thực tiễn Trong nền văn minh hiện đại, xử lý thực tiễn có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất là Giải pháp nghiệp vụ có tính chuyên nghiệp sâu. Giải pháp nghiệp vụ cho nền giáo dục hiện nay nếu bắt đầu từ việc ổn định, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững thì nên bắt đầu từ Tiểu học; trong Tiểu học, nên bắt đầu từ lớp Một; với lớp Một, nên bắt đầu từ việc học Tiếng Việt. 1. Nhiệm vụ bất khả kháng. Tất cả học sinh lớp Một, dù sinh sống ở bất cứ vùng đất nào của Tổ quốc, dù biết tiếng Kinh hay chưa, trước hết phải đọc thông viết thạo, không thể tái mù. Nhiệm vụ ấy là khả thi, nếu triển khai bằng Công nghệ giáo dục. 1. Năm học đầu tiên, ngay trong năm học, không dưới 90% học sinh bình thường đạt yêu cầu, nhưng sau hè, cả 100% đều có thể lên lớp Hai (nghỉ hè học sinh không quên, mà còn khá lên). 2. Năm học thứ hai, ngay trong năm học năm học, không dưới 95% đạt yêu cầu. 3. Năm thứ ba và từ đó trở đi, các cô giáo đã kịp làm thành thạo Công nghệ giáo dục, thì tất cả học sinh bình thường học gì được nấy, học đâu được đấy. 2. Nhiệm vụ phân hoá học sinh, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân học sinh phát triển hết cỡ. Nhiệm vụ ấy là khả thi. Yêu cầu không thể tái mù là tối thiểu và bắt buộc đối với cả 100% học sinh. Còn yêu cầu đọc thông viết thạo thì có thể tạo ra sự phân hoá lớn trong lớp, từ yêu cầu tối thiểu đến yêu cầu tối đa. Ví dụ, . Có em 1 phút đọc 60 chữ, có em 1 phút chỉ đọc được 20 chữ (nhưng phải học được bất cứ chữ nào). . Có em viết chính tả mỗi phút 5-10 chữ, có em chỉ viết được 1-2 chữ (nhưng chữ nào cũng phải viết được). Nghiệp vụ sư phạm hiện đại phải làm sao cho mỗi em có thể phát triển tối đa, không ai cản trở ai, cũng không bị ai cản trở. Công nghệ giáo dục xử lý việc này theo mối quan hệ Đồng loạt / Cá thể. Yêu cầu tối thiểu bắt buộc là Đồng loạt cho cả 100% học sinh. Với từng em, ai có sức đến đâu thì đi đến đó, Cá thể hoá triệt để. Cách xử lý thực tiễn : - Bản thiết kế chung cho cả lớp (Đồng loạt). - Từng em tự mình thi công, tự mình làm ra sản phẩm giáo dục cho chính mình (Cá thể). Cơ sở: Bản thiết kế là một Hệ thống thao tác, mà Thao tác nào cũng đơn giản, chuẩn xác, nên ai làm cũng được, ai làm cũng như ai. Các trình độ phân hoá có thể sắp xếp theo thứ tự: 1. Làm được. Bất cứ học sinh nào, cả 100% đều phải làm được. Điều quan trọng nhất, cơ bản nhất, bản chất nhất, là giáo viên phải xét xem em có thực hiện được bước nhảy từ bên này không biết sang bên kia làm được (bước nhảy từ không sang có). 2. Làm đúng. Đó là chứng cứ em đã “nhảy sang được”, tức là em đã có. Câu chuyện tiếp theo sẽ nhẹ nhàng hơn, từ có ít đến có nhiều hơn. 3. Làm đẹp. Từ sản phẩm làm đúng, em làm cho tinh xảo hơn. Trong thực tiễn sư phạm, nếu làm đúng theo thiết kế, thì ngay lần đầu tiên: - 100% học sinh làm được. - 80% học sinh làm đúng. - 50% học sinh làm đẹp. 4. Làm nhanh. Tuỳ việc mà khuyến khích. Cứ để tự nhiên, thời gian sẽ tạo ra sự phân hoá. Thầy giáo nên để cho em làm mọi việc một cách tự nhiên, bình thường, không nên thúc ép phải cố gắng. Trong 4 mức độ phân hoá thì yêu cầu nghiêm ngặt nhất là buộc mỗi em phải làm được. Muốn vậy, ngay từ lần đầu tiên em buộc phải làm tất cả các thao tác, nếu không bỏ qua thao tác nào thì thế nào em cũng làm được. Chẳng may không thể làm được ngay lần đầu thì em làm lại, làm cho bằng được. Gì thì gì, trước hết phải làm được đã! 3. Sách giáo khoa – Sách bài tập Tất cả những gì mấu chốt nhất đã nói ở hai mục trên, rút cục, phải thành “máu thịt” của Sách giáo khoa và Sách bài tập. Sách giáo khoa có tính tối thiểu, bắt buộc – chủ yếu có tính Đồng loạt. Sách bài tập – nhằm Phân hoá, Cá thể hoá quá trình giáo dục, cho các bậc cao dần lên, đến tối đa. . Có thể tách rời ra hai quyển, hoặc . Có thể tách ra hai phần trong một quyển : trang chẵn – trang lẻ. Sách giáo khoa biểu hiện sự sống và sức sống của những nguyên tắc cơ bản (Phát triển – Chuẩn mực – Tối thiểu) dùng để thiết kế. Nguyên tắc chuẩn mực: Tiếng Việt lớp Một thiết kế trên cơ sở cấu trúc ngữ âm của tiếng, mà giới ngôn ngữ học đã tổng kết (năm 1977- Đoàn Thiện Thuật). Nguyên tắc phát triển. Tiếng Việt lớp Một thiết kế theo tiến trình từ đơn giản đến phức tạp. - Tiếng nguyên khối - Tiếng có 3 bộ phận : Phần đầu – Phần vần – Thanh - Tiếng có 5 thành phần : Thanh - Âm đầu - Âm đệm - Âm chính - Âm cuối. Mỗi trang Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Một chỉ có những gì đã có và vừa mới có. Nguyên tắc tối thiểu. Mỗi trang sách đều có một cái mới, lần đầu tiên đến với em, dưới hình thức một – hai ví dụ làm mẫu. Những ví dụ này nên gần với đời sống hằng ngày, như các con vật, đồ vật, kèm theo tiếng nói thỏ thẻ, thân yêu. Sách giáo khoa phải là hình thái trực quan, cụ thể của một Đối tượng lĩnh hội. Đối tượng càng thuần khiết thì hiệu quả lĩnh hội càng cao. Đối tượng của môn học Tiếng Việt là cấu trúc ngữ âm của tiếng, nó sẽ thuần khiết nhất, nếu nó ở trong một “chân không” về Nghĩa. Thế nên, chính Trẻ em các dân tộc không biết tiếng Kinh thì mới có được “điều kiện lý tưởng” để có được “Đối tượng thuần khiết” về cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt. Chữ Việt là chữ ghi âm cho nên tự nhiên nhất là đặt tên chữ theo âm. a, bờ, cờ, chờ… và “đánh vần” theo âm: bờ – a – ba. Hiện nay, trên Đài truyền hình, người thì gọi b là “bê”, người thì gọi là “bi”, ít ai gọi là “bờ”, nhưng “r” thì gọi là “rờ”, “g” thì gọi là “gờ”: o – rờ – gờ (org). 4. Huấn luyện giáo viên Tất cả giáo viên hiện đang đứng lớp đều có thể thực thi Công nghệ giáo dục, với yêu cầu tối thiểu, bắt buộc đối với lần đầu tiên: làm được. Tất cả giáo viên bình thường đều có thể làm được theo Bản thiết kế. Kinh nghiệm của Trung tâm Công nghệ giáo dục tập huấn giáo viên trong hơn 20 năm qua đã khẳng định điều đó. Bản thân việc tập huấn này nay cũng đã trở thành Công nghệ. Chỉ cần 3-5 ngày cho một học kỳ. Đối với những giáo viên lần đầu tiếp nhận Công nghệ giáo dục, cần yêu cầu nghiêm ngặt là phải làm theo thiết kế (dù thiết kế chưa hoàn hảo), âu cũng là cách chọn cái ít tồi tệ hơn. Giáo viên đứng lớp làm theo Thiết kế giống như ca sĩ hát theo Bản nhạc của nhạc sĩ. Có thể ai đó hát chưa hay lắm, nhưng hát đúng, người ta nghe đúng bản nhạc ấy. Khoan vội khuyến khích sáng tạo! Qua một vài năm, giáo viên sẽ tự mình loại bỏ những thao tác thừa, nhưng vẫn đảm bảo cho tiến trình diễn ra tự nhiên, chắc chắn. Như vậy, giáo viên đứng lớp cũng nên đi theo trật tự tự nhiên: làm được – làm đúng – làm đẹp – làm nhanh. Năm đầu, hơi vất vả. Năm sau, nhẹ nhàng hơn. Năm thứ ba thì đã có nghề và từ đó, sẽ hành nghề nhẹ nhàng mà hiệu quả cao hơn nhiều. 5. Triển khai Ổn định giáo dục sớm được ngày nào mừng ngày ấy, không chờ đợi, không cầu toàn. Học sinh được hưởng thành tựu Công nghệ giáo dục sớm ngày nào, mừng ngày ấy. Thành tựu Công nghệ giáo dục là thành tựu của hơn 50 năm nghiên cứu cơ bản về lý thuyết và thực tiễn của Tâm lý học giáo dục trên thế giới và đã vào Việt Nam 30 năm nay. Nếu còn ngờ ngợ đối với nhiều chuyện khác, thì với môn Tiếng Việt lớp Một, tất cả đều đã quá hiển nhiên, không còn mảy may rủi ro, đạt đến độ an toàn, thậm chí tin cậy đến 99%. Tại Hội nghị Tổng kết 10 năm “Đưa Công nghệ giáo dục về địa phương”, năm 1995, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh nói tại Diễn đàn: Chỉ thành công một môn Tiếng Việt lớp Một không thôi cũng đã rất xứng đáng là Trung tâm Công nghệ giáo dục. 1. Ngay năm học 2008-2009 đã có thể triển khai trên cả ba vùng khó khăn nhất: Tây Bắc – Tây Nguyên – Tây Nam Bộ (Ba Tây). Với Tây Bắc. Mở rộng ở tỉnh Lao Cai. Mở lại ở các tỉnh đã có, theo diện hẹp, ở một số ít trường : Sơn La – Thái Nguyên. Với Tây Nguyên. Mở lại ở Đắc Lắc – Kon tum. Với Tây Nam Bộ. Mở lại ở Kiên Giang – An Giang - Đồng Tháp – Vĩnh Long – Tiền Giang – Long An. 2. Ngay năm học 2008-2009 đã có thể triển khai Phương án phát triển tối ưu về môn Tiếng Việt lớp Một cho các Thành phố đã từng mở rộng, thường là mở rộng đến 80%-100%, như Hải Phòng – Huế – Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Các điều kiện để triển khai: Điều kiện chủ quan của Trung tâm Công nghệ giáo dục: - Sách: đã có - Huấn luyện: đã có cán bộ và đã quen việc. - Thời gian : chỉ cần 2 tháng trước năm học. Thậm chí Cuối tháng Tám vẫn còn có thể tập huấn cho Năm học 2008-2009. Điều kiện khách quan: - ở Bộ: Vụ Tiểu học vào cuộc. - ở địa phương: Nếu có chủ trương rõ ràng, nhiều Địa phương sẽ hưởng ứng nhiệt liệt. Họ đã có sẵn cán bộ và kinh nghiệm. Sau mấy năm, dẫu ít nhiều đã quen với Chương trình hiện hành, nhưng nếu tính đến lợi ích lâu dài sau này thì họ có thể quay trở về với Công nghệ giáo dục. Dù nói ra thành lời hay không. trong hoàn cảnh hiện nay, ai cũng tin rằng duy nhất phương án Công nghệ giáo dục là có thể triệt để thực hiện được mục tiêu: Tất cả trẻ em 6-7 tuổi đều đọc thông viết thạo và không bao giờ tái mù, dù em sinh sống ở bất cứ vùng miền nào của Tổ quốc.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 6:59:56 GMT 9
Doanh nghiệp và tiến bộ khoa học Vietsciences- Nguyễn Lân Dũng So với xu thế chung thế giới thì doanh nghiệp Việt Nam còn tách rời khá xa đối với các tiến bộ khoa học. Điều này một phần do các nhà khoa học nước ta chưa tạo ra các tiến bộ đáng đưa vào sản xuất, mặt khác do thiếu sự cộng tác của doanh nghiệp cùng với sự đầu tư quá phân tán của Nhà nước khiến cho các nhà khoa học thiếu động lực và thiếu điều kiện để tạo ra các tiến bộ đích đáng có thể ứng dụng vào sản xuất. Tôi có điều kiện khảo sát tại nhiều nước về việc ứng dụng Công nghệ sinh học vào sản xuất và thấy rõ mối liên hệ mật thiết giữa các doanh nhân với các nhà khoa học. Với các ngành khoa học khác chắc cũng tương tự như vậy. Tại Trung Quốc, Viện vi sinh vật học Bắc Kinh có riêng hẳn một nhà máy tại Thiên Tân chuyên đưa các kết quả nghiên cứu vào ngay sản xuất. Tại Đại học Korea (Hàn Quốc) tôi thấy những tòa nhà lớn do Sam Sung, LG…xây dựng và trang bị hiện đại để dành cho các nhà khoa học và nghiên cứu sinh thực hiện các dự án khoa học do các công ty này tài trợ. Tại Viện nghiên cứu quốc gia NITE (Nhật Bản) dù nhà nước đã đầu tư rất lớn nhưng nhiều phòng thí nghiệm cũng đang thực hiện các dự án do các doanh nghiệp đặt hàng . Tại Munich (Đức) nhiều nhà máy lớn đang sản xuất dược phẩm mới từ các tế bào động vật mang gen tái tổ hợp. Tại Đại học Liège (Bỉ) nhiều giáo sư tự mở phân xưởng (quy mô rất nhỏ nhưng rất hiện đại) ngay trong trừong để trực tiếp đưa thành tựu nghiên cứu của chính mình vào sản xuất… Việc liên kết giữa doanh nghiệp với các nhà khoa học kích thích mạnh mẽ và hỗ trợ tích cực cho các nhà khoa học đi sâu vào các hướng nghiên cứu hiện đại nhưng có định hướng rất cụ thể và thiết thực. Các Viện nghiên cứu thường gắn liền với các trường Đại học để tận dụng trí tuệ của đội ngữ giáo sư và đông đảo các nghiên cứu sinh. Ở nước ta những mô hình này chưa nhiều. Nguyên nhân trước hết thuộc về các Viện , các Trung tâm nghiên cứu khoa học. So với khả năng tài chính thì chúng ta hiện đang có quá nhiều các Viện, các Trung tâm nghiên cứu khoa học, phần lớn tách rời với các trường Đại học. Chính vì vậy thiếu sức mạnh cả về kinh phí, thiết bị lẫn đội ngũ nghiên cứu.. Hàn Quốc cách đây không lâu đâu có khác biệt nhiều so với chúng ta vậy mà hiện nay các Trung tâm nghiên cứu , các Trường đại học lớn có trang bị rất hiện đại và đội ngũ giáo sư trẻ nhưng rất giỏi (phần lớn được đào tạo từ nước ngoài trở về). Chính vì vậy họ đủ sức đáp ứng cho các yêu cầu của doanh nghiệp và nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các doanh nghiệp. Tại Viện KRIBB (Hàn Quốc) tôi thấy có những dự án với sự tài trợ của cả nhà nước lẫn doanh nghiệp với kinh phí hàng năm lên tới 13 triệu USD. Tất nhiên kết quả nghiên cứu phải mở ra những khả năng sản xuất được các dược phẩm có giá trị kinh tế rất cao. Tôi có cảm tưởng như Nhà nước đang cấp kinh phí tràn lan để “nuôi” các Viện , các Trung tâm sống “thoi thóp” với các đề tài không đủ sức tạo ra tiến bộ khoa học nào thực sự. Tôi giật mình khi thấy sản phẩm viên nang của một doanh nghiệp kết hợp với nhà khoa học mang tên Đông trùng hạ thảo, vậy mà xem tờ hướng dẫn thì lại là sản xuất từ Nhộng trùng thảo (Cordyceps militaris) chứ đâu phai từ Đông trùng hạ thảo (Cordyceps sinensis). Rất nhiều loại phân bón mang tên Phân vi sinh, Phân hữu cơ- vi sinh mà thành phần và số lượng vi sinh vật khác rất xa so với tiêi chuẩn nhà nước (!). Một nước 86 triệu dân mà chưa làm ra nổi bất kỳ 1g chất kháng sinh hoặc vitamin nào (!) Một nước đứng thứ nhì về xuất khẩu lúa mà đến nay vẫn chưa có được giống lúa kháng bọ rầy, kháng nấm đạo ôn. Một nước mọi nông dân đều chăn nuôi mà không có đủ văcxin phòng chống bệnh cho gia súc, gia cầm. Nguyên liệu tinh bột từ sắn là vô cùng quý giá cho việc sản xuất các sản phẩm công nghiệp sinh học rất đắt tiền , nhưng toàn dành cho các doanh nghiệp nước ngoài với giá khi lên khi xuống và có cả khi ứ thừa…Các nhà doanh nghiệp có biết bao nhiêu cơ hội để sản xuất và kinh doanh các sản phẩm có tầm quan trọng quyết định đến nền kinh tế nước nhà. Nếu biết tin cậy các nhà khoa học đầu đàn trong từng lĩnh vực thì đâu đến nỗi lọt qua đấu thầu các đề tài thiếu chất lượng làm ảnh hưởng đến uy tín của sản phẩm các doanh nghiệp hoặc gây lãng phí một cách đáng tiếc cho ngân sách nhà nước. Ngay các Phòng nghiên cứu trọng điểm, Phòng nghiên cứu chuyên đề cũng chưa đủ sức hấp dẫn các nhà doanh nghiệp. Nguyên nhân có thể do nhiều khía cạnh khác nhau: Chưa chọn đúng các phòng thí nghiệm chìa khóa (key lap) cho từng lĩnh vực khoa học mũi nhọn , từng lĩnh vực kinh tế trọng điểm; đầu tư dù lớn nhưng vẫn chưa đủ tầm để có thể tạo ra các sáng chế, nhiều khi có thiết bị đắt tiền nhưng chưa kịp đào tạo người có thể sử dụng thành thạo, nhiều nơi đóng cửa không cho các nhà khoa học thuộc các đơn vị khác sử dụng, chưa giới thiệu năng lực giải quyết các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp để hấp dẫn sự liên kết… Tôi mong các nhà lãnh đạo chủ chốt các ngành và các doanh nhân hãy dành thời gian thực hiện nhiều khảo sát tỷ mỉ về các mô hình liến kết giữa doanh nghiệp và các nhà khoa học tại các nước phát triển và mới phát triển để rồi tiến hành bắt tay chặt chẽ hơn với các nhà khoa học, cùng với việc Nhà nước đầu tư đủ tầm hơn cho các trung tâm khoa học đã được lựa chọn một cách chính xác. Xin ghi nhớ một khẩu hiệu đang nổi tiếng tại nước ngoài Building the Science, Capitals of the Future- Gây dựng khoa học là vốn liếng của tương lai!
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:48:10 GMT 9
Tranh luận Vietsciences-Ngô khôn Trí Tranh luận là 1 phương tiện cần thiết để phân tích và thảo luận bằng trí tuệ ở 1 trình độ tốt nhất đối với những vấn đề quan trọng của thế giới ngày nay. Trong chính trị , trước những quyết định quan trọng, và nhất là khi phe nắm quyền lẫn phe đối lập đều có lý lẽ riêng của mình, không ai chịu nghe ai thì cuộc tranh luận trở nên gây cấn. Không thuyết phục được đối phương bằng lời lẽ, người thiếu trình độ tự làm mất đi tư cách của mình , dùng bạo lực để bắt kẻ khác phải phục tòng ý kiến của mình. Nhưng họ đã sai lầm, chính họ là người thua cuộc, chính họ là người phải phục tùng ý kiến của đa số và còn bị quần chúng đánh giá thấp. Thử nghĩ, nếu như những người này nắm quyền lực trong tay thì họ sẽ trở thành những kẻ độc tài và độc ác như thế nào ?. Tại Ukraina, ngày 27/4/2010 Các nghị sĩ ẩu đả trong phòng họp. Với 263/450 phiếu, Quốc hội Ukraina đã thông qua hiệp định kéo dài thời hạn cho Nga thuê một căn cứ tại cảng Sevastopol trên bán đảo Crimea của nước này, nơi Hạm đội Biển Đen của Nga đang đóng quân. Bản thỏa thuận đã được ký 1 tuần trước đó bởi Tổng thống Nga Dimitri Medevedev và người đồng nhiệm Ukraina Viktor Yanukovych. Sevastopol là căn cứ quan trọng của Hải quân Nga. Thỏa thuận mới cho phép Nga tiếp tục thuê căn cứ này thêm 25 năm, từ năm 2017 đến năm 2042. Đổi lại, Nga sẽ cung cấp khí đốt cho Ukraine với giá rẻ hơn giá hiện nay. Mặc dù thỏa thuận đã được thông qua nhưng phe đối lập Ukraina vẫn chưa đầu hàng. Những người có xu hướng dân tộc chủ nghĩa ở Ukraina cho rằng sự hiện diện của hạm đội Biển Đen Nga tại lãnh thổ nước họ chẳng khác gì một sự chiếm đóng quân sự nên họ thề quyết đấu tranh đến cùng. Bà Yulia Tymoshenko, cựu Thủ tướng, thủ lĩnh phe đối lập tuyên bố, ngày Quốc hội Ukraina thông qua thỏa thuận gia hạn cho Nga thuê căn cứ Sevastopol là “ngày đen tối trong lịch sử độc lập của Ukraina” và bà cho rằng Sevastopol là bước đầu, tiếp theo sẽ là Crimea. Bà còn buộc tội Quốc hội đã thông qua thỏa thuận này bằng biện pháp xảo trá. Rồi bà thề sẽ sớm thay đổi thỏa thuận một khi trở lại nắm quyền. Quyết định cho Nga thuê căn cứ Sevastopol đã làm gia tăng sự chia rẽ giữa cộng đồng người Ukraina nói tiếng Nga ở miền Đông và Nam với người Ukraina ở miền Tây. Nhà phân tích chính trị Vadym Karasiov khẳng định, có đến một nửa nước Ukraina chống lại thỏa thuận này và Ukraina đang đối diện với tình trạng chia rẽ sâu sắc nhất từ trước tới nay. Ukraina là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu. Có 47,5 triệu dân, 67.5 % dân số nói tiếng Ukraina và 29.6 % nói tiếng Nga. Đa số người dùng tiếng Ukraina như tiếng mẹ đẻ biết tiếng Nga như một ngôn ngữ thứ hai. Tại Đài Loan, ngày 18/01/2010 các nghị sĩ ẩu đả trong quốc hội . Tranh luận về những thay đổi trong Luật chính quyền địa phương giữa các nghị sĩ từ Quốc dân đảng (KMT) cầm quyền và đảng Dân Tiến (DPP) đối lập.Các nghị sĩ đã lao vào giằng co, đấm đá nhau và thậm chí còn trèo cả lên bàn để quyết đấu. 3 nghị sĩ của KMT cho hay họ đã bị thương trong cuộc ẩu đả và một thành viên của đảng cầm quyền nói ông này thậm chí còn bị một nghị sĩ đối lập cắn Luật chính quyền địa phương đã được thông qua sau vụ cãi lộn. Những cuộc tranh cãi như vậy không phải là chuyện hiếm gặp trong quốc hội Đài Loan . Dân số Đài Loan là 23 triệu người, Đài Loan thặng dư thương mại, và tiền dự trữ nước ngoài được xếp vào lọai lớn so với những nước phát triển. Đầu thập niên 1990, Đài Loan chuyển từ nhà nước độc đảng sang thể chế dân chủ. Thủ tướng và phó thủ tướng cầm đầu nội các. Các thành viên trong nội các không do dân bầu mà được chỉ định. Tất cả các đạo luật của Quốc hội phải được tổng thống ký thành luật. Ngoài ra, tổng thống là người có thẩm quyền chung quyết trong các vấn đề liên quan đến quân đội và an ninh quốc gia. Có 2 đảng phái trong chính trị Đài Loan : Một phái xem Đài Loan và Trung Quốc là 2 nước có cùng 1 dân tộc Trung Hoa. Phái khác xem Đài Loan và TQ là 2 nước khác nhau. Tại Hàn Quốc, nghị sĩ đánh nhau hôm 3/1/2009. Tại Mexico vài ngày trước khi tổng thống Felipe Calderon nhậm chức (11/2008) Tại Italy, Thượng viện ở Rome ( tháng 1/2008 ) Mọi người đều hiểu rằng tranh luận là dùng lý lẽ nhằm làm sáng tỏ 1 vấn đề, qua đó bổ sung phần thiếu xót hầu mong có 1 quyết định hoàn hảo hơn, chứ không phải là 1 cuộc chửi lộn, vì trong các cuộc chửi lộn, người ta không cần lý luận, người ta chỉ cần tung ra ào ạt các lời buộc tội, bất chấp có bằng chứng hay không, nhằm triệt hạ tư cách của người khác chính kiến với mình . Thế nhưng, tại sao có những cuộc tranh luận ngay tại quốc hội, là cơ quan đại diện tối cao của 1 nước, của các nước như Ukraina, Đài Loan, Đại Hàn, Mexico, Ý v.v.. đã biến thành những cuộc ẩu đả, trông kém văn minh, phản ánh trình độ văn hóa yếu kém của nhóm người đại diên cho dân của nước đó. Biết lắng nghe và biết tôn trọng ý kiến của người khác mặc dù ý kiến đó khác hay nghịch lại với ý mình là 1 điều không dễ tý nào. Nhưng đó là 1 trong những nguyên tắc cơ bản(tri thức và đạo đức) của văn hóa tranh luận. Tại sao ở những nước văn minh ít xảy ra cảnh ẩu đả khi tranh luận ? Bởi vì : Trình độ văn hóa của họ cao, họ đã được giáo dục từ trong gia đình đến trường học ngay khi còn bé, chính sách và pháp luật của xã hội được minh bạch và được mọi người dân tôn trọng. Trong 1 cuộc tranh luận, để giải quyết tranh cãi 1 cách êm thắm người ta cần đến người hướng dẫn (người điều phối) có kinh nghiệm và mọi thành viên phải tuân theo 1 số nguyên tắc cơ bản . Người hướng dẫn có nhiệm vụ lèo lái buổi họp sao cho đi đúng chủ đề, ngăn chận các hình thức ngụy biện, cảnh cáo những cách dùng từ ngữ hay trọng âm có tính cách công kích cá nhân, có quyền dùng biện pháp cứng rắn đối với những thành viên làm sai nguyên tắc. Mỗi thành viên tham dư cuộc tranh luận cần tôn trọng những nguyên tắc như sau : -Tuyệt đối nghe theo lời hướng dẫn của người điều phối. -Tránh dùng những ngôn ngữ kém lịch sự, lớn tiếng để công kích cá nhân. -Không dùng sáo ngữ nhằm mục đích lôi cuốn người nghe theo ý kiến chủ quan của mình -Không tiếp thu ý kiến 1 cách thụ động để không trở thành nô lệ với cảm tính, không trở thành những tín đồ cuồng tính của những người lãnh đạo chính trị hay tôn giáo. -Suy nghĩ nghiêm túc bằng cách phân tích và đánh giá những thông tin chính xác, hợp lý và công bình. -Tập trung vào chủ đề bàn luận chứ không đi lạc đề. -Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người khác. Có thể nói: «Văn hóa tranh luận là thước đo trình độ văn minh của 1 nước » Montréal ngày 25/05/2010 Ngô khôn Trí
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 20, 2011 13:32:21 GMT 9
Archive for the Literature CategoryDragons and Fairies: The Legend of the Hundred Việts Posted in Ancient History, Literature with tags Vietnamese Folklore, Vietnamese Legends, Vietnamese Myths on January 3, 2011 by Ian Pham The following is a myth that chronicles the origin of the Vietnamese people. It has been passed down from generations to generations, long preceding even the thousand years of Chinese occupation. It is a cornerstone of Vietnamese culture, a foundation that has safeguarded the identity of the Vietnamese for many thousands of years. This is a mythical tale, filled with magic and wonder, and should not be taken literally. It is meant to paint a picture in your mind, giving you something to think about. After this reading, you will understand why the Vietnamese people refer to themselves as the seeds of Dragons and the descendants of Fairies. It’s also kind of a love story, if you’re into that sorta thing? Happy Reading! The Legend of Lạc Long Quân Legend speaks of a man named Kinh Dương Vương (aka King Kinh Dương), a mythical figure that descended from a long line of dragons. Long Nu, a female descendent of another dragon clan, was married to Kinh Dương Vương and gave birth to a boy named Lạc Long Quân. As an immortal with the dragon lineage, Lạc Long Quân would be known as the Dragon Prince in Vietnamese history. As Lạc Long Quân matures, he meets a beautiful woman by the name of Âu Cơ, and falls deeply in love with her. The story of their first meeting happens when the Dragon Prince notices a demonic bird chasing after a defenseless white crane. Lạc Long Quân rushes to the crane’s defense, smashing the demon bird with a rock. The demonic bird was so furious that it morphed itself into a tiger and bitterly tried to maul the Dragon Prince. As a result, the Prince found himself tangled in a violent struggle against an adversary he did not know. Lạc Long Quân prevails in the end, killing the demon and succeeding in his protection of the vulnerable white crane. As the Dragon Prince would find out, things are not always as they seem. The white crane was actually the beautiful Âu Cơ in disguise, trying to get away from the predatory abomination that was pursuing her. Lạc Long Quân was pleasantly surprised to find this out and the two quickly become close. Âu Cơ was an angelic beauty, a descendent of the fairies, and an immortal like Lạc Long Quân himself. Together, the two would form a family, becoming the parents of one hundred sons. With his wife Âu Cơ, Lạc Long Quân would preside over the mountains and rivers of the land. Their children would carry the blood of the dragons and the charm of the fairies. Sadly, as time went on, Âu Cơ starts to long for her home in the sky, while Lạc Long Quân begins to miss his life at sea. As a result, the two lovers would separate. Princess Âu Cơ would take fifty of the children and depart to the mountains, Lạc Long Quân in-turn would bring the other fifty sons to the coastal regions close to the seas. These children, the seeds of the dragon clans, the descendants of the fairies, will inhabit the mountains and rivers of the south, becoming the originators of the Vietnamese people. Leave A Comment » Listening to the Rain Posted in Ancient History, Poetry on November 12, 2010 by Ian Pham A Poem by Nguyễn Trãi With all the tensions in the world, one should remember to take a break once in a while and ease the mind with a little poetry. This is “Listening to the Rain,” composed by Nguyễn Trãi, great poet and political genious of the 15th century. Translated by contemporaries, Do Nguyen and Paul Hoover. Jouissez! “Alone in a dark, silent room. Listening to the rain fall the whole night long. The somber sound is a shock to the pillow. Drop by drop falling melodiously, endlessly. The sound of bamboo tapping on the window And a ringing bell melt gently into my peaceful dream. Mumbled some poems but can’t fall asleep, Continually listening, drop by drop, until sunrise.” Hoover, Paul & Do Nguyen. Beyond the Court Gate: Selected Poems of Nguyễn Trãi. Denver, Colorado: Counterpath Press. 2010. 1 Comment » The Rebirth of Viet Culture Posted in Current Events, Editor's Note, Literature on October 6, 2010 by Ian Pham It’s pretty amazing how much progress has been made over the past decade regarding the world’s understanding of the Vietnamese people. Thanks to archeology, state of the art technology, DNA, and intricate research, numerous discoveries have been made about Vietnam’s past that have never been considered before. Who would have thought that the teachings of Confucius actually originated form the Bach Viet people? Who could have known that the chief architect of the Forbidden City was Vietnamese? Furthermore, who would ever have thought that the ancient writings of Viet-Nom preceded the writings of the Han? For centuries, all the way up to the 1990′s, the world knew very little about the origin of Vietnam. Over 90% of all the history books have claimed that Vietnam was just a derivative of the Chinese empire, unaware of how misleading these claims are. Even the history books in Vietnam, with very few exceptions, had accepted the idea that Vietnamese culture came from China. Some past theorists, such as Kim Dinh, have made suggestions about Vietnam’s antiquity, challenging conventional belief that Vietnam was just a mere copy of the Chinese. He was ridiculed by his colleagues in the past, discredited and labeled as a fanatic and ideologue. Today however, the story has become quite different. New generations of researchers have looked past the obscurity and outright lies of the older generations, disproving many old claims and making a few findings of their own. They are contemporaries of Kim Dinh, following up on his ideas, now regarding him as a pioneer and trailblazer of modern Viet studies. It is now verified that the teachings of Confucius came from Vietnam, and that the ancient Vietnamese (Bach Viet) people lived as farmers in the southern half of China long before the establishment of the Chinese state. Cultivation of rice, another important aspect of East Asian culture, was part of Vietnamese culture before reaching China in the far north. These new discoveries have only scratched the surface of Vietnamese culture, but have already defied the accepted beliefs of the old generation. It is no longer valid to suggest that the civilization of Vietnam branched off from the Chinese empire. Also false is the old claim that the Chinese taught Vietnam how to farm and cultivate. The Chinese historical accounts of Tich Quang and Nham Dien, coming from China and teaching us about culture, has been proven false. Also false is the national background of Shen Nong, a historical figure of China. New evidence now suggests that Shen Nong was a Vietnamese person as a opposed to a Chinese person, as stated in the, now dated, history books. With the help of archeology, DNA, and critical analysis of today’s current research, the world will better understand the origin of Vietnamese culture. In time, the findings will change the way people look at Vietnam. Fragments of Viet culture, such as Viet-Nho (aka Confucianism) will eventually re-emerge. Past accomplishments of Vietnamese individuals, like Nguyen An and the Forbidden City, will finally be recognized. Most important of all, the lost history, burned by the likes of the Qin, Han, and Ming dynasties, will be restored to its rightful place. Leave A Comment » The Origin of Nôm Writing Posted in Ancient History, Did You Know?, Literature on September 25, 2010 by Ian Pham In the late 18th century, the Tay Son Dynasty (1788-1802), under Nguyen Hue Quang Trung, switched the national writing system from Han-Nho (Chinese characters) to the more Vietnamese writing of Nôm (Vietnamese characters). As part of their sweeping educational reforms, many literature previously written in Chinese were translated into Nôm characters. What were Nôm characters, and where did they come from exactly? Primitive Nôm Writing of the Bach Viet (Bai Yue) civilization. The origin of Nôm writing stretches all the way back to the farmers of Bach Viet (Bai Yue), five thousand years ago. Back then, the writing was already known as Nôm, part of Viet-Nho, an ancient philosophy native to the people of the south. However, the nomadic tribes eventually picked up on these writings, altering it over time, and is what people know as Chinese writing today. Han-Nho writing adapted by the Chinese, is it derived from ancient Nôm? This fact has also been buried for a long period of time. Only recently, as part of a wider range of contemporary Viet studies, has these findings become more clear. To anyone who has studied Chinese history, you probably heard that the origin of Chinese writing came from the ancient Shang Dynasty. You’ve probably also been told that the Chinese writing simply came out of nowhere, possibly from dragon bones, and was quickly adapted by the Chinese. However, this is in-fact a myth that has finally been proven false. Modern or “restored” Nôm writing under the Tay Son Dynasty. 21st century research has clarified that the Shang Dynasty was actually a nomadic tribe that preceded the Zhou. They were not agricultural, nor were they in any way a settled people. During the Shang’s existence, the Viet were an independent people not under any type of control to the Chinese Shang. The Viet were an agricultural people with their own way of life, culture, and government. These agricultural people had their own philosophy and primitive writing system known as Viet-Nho and Nôm, respectively. Ancient Nôm is the parent of imperial China’s Han-Nho, as well as the Nôm of modern imperial Vietnam. Source: Đõ, Thành (2010). NGUỒN GỐC CHỮ NÔM. Retrieved from: www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=2135&Itemid=99999999Le Thanh Hoa, Du Mien. Vietnam: The Springhead of Eastern Cultural Civilization. Trans. Joseph M. Vo. San Jose: The Vietnam Library Publications, 2010. Wright, David. The History of China. Connecticut, London: Greenwood Press. 2001.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:43:05 GMT 9
Học vị tiến sĩ và học hàm ở các đại học Úc và Mĩ Vietsciences-Nguyễn Văn Tuấn Phần 1
Ngược dòng lịch sử Hệ thống bằng cấp đại học Hệ thống bằng cấp bậc cao đẳng và đại học Hệ thống bằng cấp bậc sau đại học - Graduate Diploma - Master – thạc sĩ - Doctorate – tiến sĩ - Tiến sĩ và Bác sĩ - Post-doctorate – “Hậu tiến sĩ”
Phần 2 Hệ thống học hàm Học hàm “kết hợp” Học vị và học hàm danh dự Vài chức vụ trong các hội đoàn chuyên môn Vài nhận xét chung Ghi chú* Bài góp ý của tác giả Nguyễn Xuân Thiện *********************** - Phần 1 Đối với sinh viên và giới khoa bảng, bằng cấp đại học hay học vị vừa là cứu cánh vừa là phương tiện. Là sinh viên đang miệt mài trong các trường đại học hay cao đẳng, mục tiêu và cũng là ước mơ thực tế nhất là được tốt nghiệp, được cấp mảnh giấy có ghi tên mình kèm theo một cụm từ phản ánh tầm cỡ học lực mà mình mới hoàn tất. Vì thế, bằng cấp là một phần thưởng cho sự học tập, một bằng chứng về khả năng chuyên môn. Bằng cấp, đặc biệt là ở bậc đại học, rất phức tạp và ... phong phú. Chỉ riêng ở Mĩ, các đại học Mĩ hàng năm cấp hơn 3000 loại bằng cấp khác nhau! Hàng năm, Mĩ cấp khoảng 1,14 triệu học vị cử nhân, 420 ngàn thạc sĩ và 18 ngàn tiến sĩ. Với một số lượng bằng cấp khổng lồ và đa dạng như thế, chẳng trách nhiều người trong chúng ta rất dễ bị nhầm lẫn về tên gọi của chúng. Cộng thêm vào đó là những quảng cáo của nhiều người trên các phương tiện đại chúng báo chí Việt ngữ, hoặc vô tình hoặc cố ý, làm cho học vị tiến sĩ chẳng khác gì một loại học vị vàng thau lẫn lộn. Bài viết này sẽ trình bày một cách khái quát hệ thống bằng cấp và chức vụ khoa bảng ở một vài nước Tây phương mà người viết đã có kinh nghiệm làm việc thực tế hay có tìm hiểu, với hi vọng là sẽ làm, hay góp phần làm, sáng tỏ được vài thắc mắc thầm kín mà tôi tin là nhiều sinh viên và học sinh đã và đang có. Cố nhiên, vì tôi được đào tạo hay làm việc khoa học trong hệ thống giáo dục Úc và Mĩ, những bằng cấp của các nước này sẽ được bàn kĩ hơn những bằng cấp ở các nước khác. Qua bài viết này, tôi hi vọng bạn đọc sẽ bổ sung thêm hệ thống bằng cấp ở các nước Âu châu cho hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Ngược dòng lịch sử Có thể nói phần lớn hệ thống tổ chức giáo dục đại học và hệ thống học vị đại học trên thế giới ngày nay được hình thành theo mô hình giáo dục đại học của bốn nước Đức, Pháp, Anh, và Mĩ. Các nước này có ảnh hưởng lớn đến nền giáo dục hiện đại ở các nước khác trên thế giới, kể cả Việt Nam, hoặc qua các chính phủ thuộc địa, chinh phục bằng quân sự và kinh tế, hoặc qua truyền giáo. Học vị tiến sĩ xuất phát từ hai trường Đại học Paris ở Pháp (thành lập vào năm 1170) và Đại học Bologna ở Ý (thành lập vào khoảng 1158), lúc đó hai trung tâm giáo dục hàng đầu ở Âu châu. Theo bộ luật La Mã (Roman Law), vào thời Trung cổ, mỗi ngành nghề có quyền thành lập một hiệp hội gọi là Collegium, và hiệp hội này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates (tạm dịch là Thầy). Vào thời kì này, người được nhận vào làm công việc phụ giảng được gọi là Bachalari. Vào cuối thế kỷ 13, Đại học Paris thay đổi học vị này thành Baccalauréat. Lúc bấy giờ, học vị Baccalaureate hay Bachelor là học vị duy nhất được cấp cho những thí sinh đã (i) thi đỗ một khóa thi do các các Thầy đặt ra; và (ii) đã hoàn tất một chương trình học 4 năm về ngữ pháp (grammar), tu từ học (rhetoric) và lôgíc học. Sau khi hoàn tất văn bằng Bachelor, thí sinh có thể theo học tiếp chương trình Master hay Doctor. Và sau khi đã xong chương trình học Master hay Doctor (khoảng 8 năm học), một hội đồng giám khảo sẽ duyệt xét thí sinh để kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of Doctors (1). Thành viên của tổ chức này cũng là một "chứng chỉ" được hành nghề giảng dạy đại học. Lúc bấy giờ, những chức danh như Master, Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương đương về giai cấp: hành nghề dạy học. Vào thế kỷ 13, những người dạy học tại Trường Đại học Bologna, lúc đó là trung tâm về luật pháp ở Âu châu, được gọi là Doctor. Trong khi đó, ở Đại học Paris, là trung tâm về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là Master. Do đó, các nhà khoa bảng thuộc các bộ môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là Master of Arts (M.A), trong khi các đồng nghiệp của họ trong các bộ môn triết lí, thần học, y học, và luật được gọi là Doctor of Philosophy (Ph.D). Vào cùng thời, Anh quốc thành lập hai đại học Oxford (thành lập vào khoảng 1249) và Cambridge (thành lập vào khoảng 1209). Tuy mô phỏng theo hệ thống tổ chức của đại học Paris, hai trường này xem học vị Doctor cao hơn Master. Ở Mĩ, Đại học Harvard được thành lập vào năm 1636, với cơ cấu tổ chức được mô phỏng hoàn toàn theo hệ thống đại học ở Anh và Đức. Lúc đó, văn bằng Baccalaureate là văn bằng duy nhất được cấp cho sinh viên tốt nghiệp. Sau đó vài năm, văn bằng Bachelor of Arts (B.A) được cấp cho những sinh viên đã hoàn tất 4 năm học và qua một kì thi tốt nghiệp. Năm 1851, Đại học Harvard cho mở thêm chương trình học Bachelor of Science (B.S). Một năm sau đó (1852), Đại học Yale cho ra đời chương trình học 3 năm dẫn đến học vị Bachelor of Philosophy (B. Phil). Đầu thế kỷ 19, bốn sinh viên của Mĩ là Edward Everett, George Ticknor, George Bancroft và Joseph Green Cogswell được cử sang học tại trường Đại học Gottingen (Đức), và sau khi trở về Mĩ họ trở thành giáo sư tại Đại học Harvard. Bốn người này đã có nhiều ảnh hưởng lớn trong việc hình thành một hệ thống giáo dục sau đại học tại Mĩ (và Everett sau này được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Đại học Harvard). Năm 1853, Đại học Michigan ra đời, với cơ cấu tổ chức theo mô hình của Đức, đã quyết định đưa vào chương trình Master of Arts (M.A). Sau đó 7 năm, Đại học Yale (thành lập năm 1701) bắt đầu cấp học vị Doctor of Philosophy. Nhưng hệ thống sau đại học thực sự mang tính “Mĩ” chỉ khởi đầu khi hai Đại học John Hopkins (thành lập vào năm 1876) và Chicago (thành lập vào năm 1890), với chủ trương chỉ dạy chương trình sau đại học. Ngày nay, ở nước ta sau một thời gian thảo luận, học vị Ph.D được dịch là tiến sĩ và học vị Masters là thạc sĩ. Tuy cách dịch này đôi khi cũng gây ra tranh cãi và nhầm lẫn, nhưng theo thời gian, có lẽ nhiều người đã chấp nhận với cách gọi hai học vị đó. Hệ thống bằng cấp đại học Nói một cách khái quát, sau 5 năm ở bậc tiểu học và 7 năm ở bậc trung học, học sinh có khả năng hay thích theo đuổi tiếp sự nghiệp học hành có thể ghi danh hay thi vào các trường cao đẳng hay đại học để học thêm. Dù có sự khác biệt về quy mô, tổ chức, quy định, và tiêu chuẩn giữa các quốc gia, nhưng nói chung hệ thống giáo dục cao đẳng và đại học có thể chia làm ba hình thức chính mà tôi tạm đặt tên là: cao đẳng, đại học, và sau đại học. Ở bậc "cao đẳng" (có khi được dịch là đại học cộng đồng) gồm các trường và cơ sở có chương trình huấn luyện thực tiễn, nhắm vào mục đích đào tạo thợ hay cán sự có tay nghề cao, hay chuyên viên kĩ thuật lành nghề. Các chương trình này thường kéo dài trong vòng 2 tới 3 năm. Chương trình dạy học ở các trường này đã bị nhiều nhà giáo dục chỉ trích gay gắt là quá thực tế và thiếu tiêu chuẩn khoa bảng. Tuy vậy, các trường này cũng được sự ủng hộ của nhiều người vì nó đem lại cơ hội cho những học sinh không đủ điều kiện hay khả năng hay theo đuổi các chương trình ở bậc đại học. Hệ thống giáo dục cao đẳng của Mĩ đã được một số nước như Úc, Gia Nã Đại, Nhật và Phi Luật Tân mô phỏng theo. Ở Mĩ, các trường đảm nhận các chương trình huấn luyện hệ cao đẳng thường được gọi là "Community College" (hay còn được gọi là "Junior College") (2), và ở Úc, các trường này thường được gọi là "Technical College". Cao hơn hệ cao đẳng là hệ thống giáo dục đại học (Undergraduate university education) nhằm mục tiêu đào tạo các chuyên viên có trình độ lí thuyết căn bản tương đối cao trong mọi lĩnh vực như công nghệ - kĩ thuật, y khoa, kinh tế, luật, nghệ thật, v.v. Tùy theo môn học, để theo học các chương trình này, học sinh thường phải tiêu ra từ 3 đến 6 năm. Sau cùng là chương trình giáo dục sau đại học nhắm vào mục tiêu đào tạo những nhà khoa học và kĩ thuật có trình độ chuyên môn vừa chuyên sâu vừa cao, và những giáo sư, những nhà nghiên cứu tương lai cho các trường đại học hay cơ sở nghiên cứu. Trong các chương trình sau đại học này, học sinh phải vừa học tập, vừa nghiên cứu từ 2 năm đến 10 năm, tùy theo ngành nghề chuyên môn. Ở đây cũng cần đề cập đến vấn đề tên gọi của các trung tâm đào tạo. Phần đông các trung tâm huấn luyện bậc đại học và sau đại học thường có tên University (đại học). Tuy nhiên, một số trường danh tiếng, do truyền thống và di sản lịch sử để lại, vẫn duy trì những tên gọi cũ như College (chẳng hạn như Darmouth College, Mĩ), Institute (như Massachusetts Institute of Technology, Mĩ), hay thậm chí School (như London School of Economics, Anh). Vấn đề tên gọi trở nên khá rắc rối khi chữ College được dùng để gọi một phân khoa trong đại học và thậm chí một trường trung học. Thật vậy, trong một số (không nhỏ) các trường đại học ở Mĩ, Anh và Úc, một số phân khoa được gọi là College (thay vì Faculty). Các trường đại học lớn và lâu đời như Oxford và Cambridge (Anh) có nhiều trường Colleges như là những phân khoa chuyên môn trong hệ thống tổ chức nội bộ. Ở Anh, một số trường tuy đào tạo chương trình đại học, nhưng không có quyền cấp bằng, được gọi là "University College" (2). Ở Anh và Úc, một số trường trung học tư thục (như Eton và Winchester) cũng có tên là College! Điều này đã gây ra một hiểu lầm sự khác biệt giữa College là một trường trung học và College là một trường đại học trên mặt báo gần đây ở trong nước (3). Càng phức tạp hơn, khi chữ College còn dùng để chỉ một số hội đoàn chuyên môn (phần lớn là y khoa), như College of Surgeons, College of Radiologists, College of Physicians, v.v... Tuy các hội đoàn này không chính thức cấp văn bằng, nhưng là những tổ chức đào tạo và chứng nhận trình độ kĩ năng nghề nghiệp. Những đoàn thể này hoàn toàn độc lập với các trường đại học, nhưng thí sinh muốn trở thành thành viên của các trường này đều phải trải qua một kì thi tuyển rất khó khăn và có tính cạnh tranh rất cao. Hệ thống bằng cấp bậc cao đẳng và đại học Ở mỗi bậc cao đẳng, đại học và sau đại học, có nhiều bằng cấp khác nhau được cấp cho các học sinh tốt nghiệp hay đã đạt được một số tiêu chuẩn được đề ra trong một số ngành nghề. Ở hệ thống cao đẳng ("Community College"), sau hai năm học và đủ điểm tốt nghiệp, học sinh được cấp văn bằng Associate (4), như Associate in Arts, Associate in Applied Science, Associate in Business Adminstration, v.v... Ở hệ thống đại học, văn bằng Bachelor (tức Cử nhân) thường được cấp cho học sinh sau khi đã hoàn tất chương trình học. Hai bằng Bachelor of Arts (B.A.) và Bachelor of Science (B.S. ở Mĩ hay B.Sc. ở Anh và Úc) vẫn là hai bằng cấp thông dụng nhất (5). Ngoài hai văn bằng chung này ra, còn có nhiều văn bằng với những tên rất cụ thể như Bachelor of Engineering (Cử nhân Kĩ thuật), Bachelor of Architecture (Cử nhân Kiến trúc), Bachelor of Medicine (Cử nhân Y khoa), Bachelor of Nursing (Cử nhân Điều dưỡng), Bachelor of Economics (Cử nhân Kinh tế), Bachelor of Jurisprudence (Cử nhân Luật học), v.v… Ngày nay, với đà tiến bộ về khoa học và kĩ thuật trong thời gian gần đây, đã có hơn 600 loại bằng cử nhân trong các môn học khác nhau được cấp bởi các trường đại học ở Mĩ! Hệ thống bằng cấp bậc sau đại học Ở hệ thống cao đẳng và đại học, hệ thống văn bằng khá đơn giản, nhưng ở bậc hậu đại học thì hệ thống văn bằng rất phức tạp và có sự khác nhau giữa các quốc gia, không những về tên gọi, danh xưng, mà còn ở tiêu chuẩn và phương cách đào tạo. • Graduate Diploma Đây là một loại văn bằng chỉ phổ biến ở các đại học Anh và Úc hay một số nước còn chịu ảnh hưởng hệ thống giáo dục của Anh. Như tên gọi của văn bằng ám chỉ (Diploma có gốc Hy Lạp, Diplous, có nghĩa là "gấp đôi"), Graduate Diploma (6) là một văn bằng học thêm. Thực vậy, Graduate Diploma thường dành cho (i) những người muốn theo học các môn học mà không cùng môn học ở bậc cử nhân mà họ đã có (chẳng hạn như sinh viên đã có bằng cử nhân về toán, nhưng muốn theo học hậu đại học nghành quản lí); và (ii) những người không đủ khả năng hay điều kiện học bậc Master. Thời gian học Graduate Diploma thường từ 1 tới 2 năm. Sinh viên không cần làm luận án tốt nghiệp. Ngày nay, với sự cạnh tranh giữa các trường đại học càng ngày càng gay gắt, số lượng sinh viên theo học Graduate Diploma ít đi dần, vì phần đông họ tìm cách học chương trình Master. Thật ra, khoảng phân nửa các môn học của chương trình Graduate Diploma là nằm trong chương trình học Master. • Master – thạc sĩ Danh từ Master có gốc từ tiếng Anh cổ, Maegester; và chữ này tự nó được vay mượn từ tiếng Pháp cổ, Maistre, có nghĩa là Thầy. Cũng như ở bậc cử nhân, hai văn bằng Master of Science (M.Sc. hay M.S.) và Master of Arts (M.A.) là hai văn bằng thông dụng nhất ở bậc hậu đại học. Tuy nhiên cũng có những văn bằng chuyên môn cho các ngành chuyên môn khác như kinh tế (Master of Economics), luật (Master of Law), kĩ thuật (Master of Engineering), v.v... Riêng tại Mĩ, có khoảng 500 văn bằng Masters khác nhau! Theo thống kê ở Mĩ, vào đầu thế kỷ 20, các trường đại học Mĩ đã cấp 1015 văn bằng master; cho đến năm 1960, con số này tăng lên khoảng 141 ngàn, và đến năm 1998, khoảng 420 ngàn. Chương trình học Master, cũng giống như chương trình Graduate Diploma, là nhằm vào mục tiêu đào tạo những chuyên viên kĩ thuật cho các cơ quan chính phủ và công ti kĩ nghệ. Sau khi tốt nghiệp, những người này phải có một khả năng chuyên môn vừa sâu, vừa vững vàng, có thể đáp ứng cho nhu cầu thực tế của một cơ quan hay công ti. Chương trình Master thường dành cho những sinh viên đã có bằng cử nhân cùng nghành. Tuy nhiên, tùy theo trường hợp cá nhân và kinh nghiệm, các sinh viên cũng có thể theo học các nghành chuyên môn khác với văn bằng căn bản cử nhân mà họ đã có. Ngày nay, sinh viên trong các nghành khoa học thuần túy cũng có thể được nhận vào học bên các nghành kinh tế hay xã hội học. Chương trình Master thường kéo dài từ 1 tới 2 năm. Nhưng cũng có trường dạy M.B.A. (Master of Business Administration) trong vòng 1 năm, với một chương trình học rất nặng và đòi hỏi sinh viên phải học ngày học đêm. • Doctorate – tiến sĩ Chương trình học Doctorate (7) là nhằm mục đích đào tạo những nhà khoa học chuyên nghiệp (professional scientists), những chuyên viên nghiên cứu cao cấp cho các công ti kĩ nghệ và các cơ quan nghiên cứu thuộc chính phủ. Những người này đóng vai trò then chốt cho nền khoa học của một nước và là nguồn cung cấp nhân lực giảng dạy cho các trường đại học. Thời gian học (thật ra nghiên cứu thì đúng hơn) thông thường từ 3 tới 6 năm. Trong thời gian nghiên cứu, sinh viên phải công bố ít nhất là 3 bài báo khoa học trên các tạp chí có peer-review (tức hệ thống bình duyệt) để có thể viết và bảo vệ luận án. Luận án thường được 3 giáo sư hay nhà khoa học có uy tín (trong đó ít nhất là 1 người phải từ nước ngoài) duyệt xét và phê chuẩn. Thời gian duyệt xét luận án có thể từ 6 tháng tới 1 năm. Nói chung ở các nước Tây phương như Mĩ, Canada, Úc, và Anh quốc, văn bằng tiến sĩ là văn bằng cao nhất trong hệ thống giáo dục hậu đại học. Tuy nhiên, có vài khác biệt về tên gọi các văn bằng doctorate này giữa các nước, và nếu không để ý, sẽ gây ra những hiểu lầm đáng tiếc. Ở các nước như Anh và Úc, có ba dạng tiến sĩ riêng biệt: Ph.D cho tất cả các nghành (kể cả y khoa), M.D (Doctor of Medicine) dành riêng cho y khoa, và D.Sc (Doctor of Science) cho tất cả các ngành khoa học. Ở các nước này, học vị D.Sc, trên lí thuyết, được xem cao hơn học vị Ph.D và M.D, vì một trong những điều kiện được theo học D.Sc là thí sinh phải có học vị Ph.D hay M.D ít nhất là 10 năm và đã có đóng góp lớn trong nghiên cứu khoa học trên trường quốc tế. Không nên nhầm lẫn giữa văn bằng D.Sc của Úc/Anh và của Mĩ. Ở Mĩ, văn bằng cao nhất là Ph.D hay tương đương. Những văn bằng tương đương Ph.D ở Mĩ thường gặp là D.Sc (còn được viết tắt là Sc.D), Ed.D. (Doctor of Education, Tiến sĩ Giáo dục), Dr.P.H (Doctor of Public Health, Tiến sĩ Y tế Công cộng), Dr.Eng (Doctor of Engineering, Tiến sĩ Kĩ thuật). Một số trường, chẳng hạn như Trường Đại học Harvard, học vị doctorate của nghành Y tế Công cộng (Public Health) là D.Sc., trong khi đó ở các trường khác lại gọi là Dr.P.H hay Ph.D. Tương tự, ở Trường Đại học Boston, những học sinh tốt nghiệp doctorate ngành sư phạm được gọi là Ed.D., nhưng phần lớn ở các trường khác thì lại được gọi là Ph.D. Văn bằng Ph.D. cũng được cấp cho các học sinh trong các ngành kĩ thuật, nhưng có trường ở Mĩ lại gọi là Dr.Eng! Vì thế văn bằng D.Sc của Mĩ không tương đương với bằng D.Sc của Úc hay Anh Quốc. • Tiến sĩ và Bác sĩ Tiếng Việt ta phân biệt Tiến sĩ và Bác sĩ; nhưng trong tiếng Anh, những người có học vị Ph.D, D.Sc và M.D đều được gọi là Doctor. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa văn bằng M.D của Úc/Anh và M.D của Mĩ. Không giống như ở Mĩ, nơi mà y khoa được dạy như một chương trình sau đại học ("Graduate study", tức sau khi sinh viên đã xong chương trình Cử nhân); ở Úc và Anh, các sinh viên học y khoa được tuyển thẳng từ các trường trung học, và do đó, chương trình y khoa được xem là bậc đại học ("Undergraduate"), mặc dù thời gian huấn luyện tương đương. Trong khi các sinh viên y khoa ở Mĩ ra trường với văn bằng M.D (Doctor of Medicine, Tiến sĩ Y khoa), các đồng nghiệp của họ ở Úc tốt nghiệp với hai bằng cử nhân M.B và B.S (Bachelor of Medicine và Bachelor of Surgery, Cử nhân Y khoa và Cử nhân Giải phẫu). Cần được nói thêm là mặc dù văn bằng là cử nhân, nhưng danh xưng của họ là Doctor (Bác sĩ). Ở Úc, các bác sĩ đã có văn bằng M.B và B.S có thể ghi danh theo học tiếp chương trình Ph.D hay M.D. Chương trình Ph.D có mục đích đào tạo các bác sĩ thành những nhà khoa học chuyên nghiệp, có khả năng nghiên cứu độc lập. Chương trình M.D có mục đích đào tạo các bác sĩ thành những chuyên gia lâm sàng (clinical science) hơn là khoa học cơ bản (basic science). Chương trình học M.D thông thường là 2 cho tới 3 năm (ngắn hạn hơn thời gian học Ph.D khoảng một hoặc hai năm). Do đó, văn bằng M.D của Úc và Anh không có cùng nghĩa với văn bằng M.D của Mĩ. • Post-doctorate – “Hậu tiến sĩ” Khi học sinh hoàn tất chương trình tiến sĩ, thí sinh còn phải trải qua một giai đoạn “thực tập” thông thường kéo dài khoảng 1 tới 5 năm. Người nghiên cứu trong giai đoạn này thường được gọi là “Post-doctoral fellow” (tạm dịch là “nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ”). Thực ra, trong giai đoạn này, thí sinh không được cấp văn bằng gì cả, vì đây là giai đoạn mà nghiên cứu sinh phải làm việc dưới sự hướng dẫn của một giáo sư kinh nghiệm, và qua đó dần dần tự mình phát triển một chương trình nghiên cứu của riêng mình. Đây cũng là thời gian mà nghiên cứu sinh có cơ hội để “trưởng thành” một nhà nghiên cứu độc lập. Vì thế, “Postdoctoral fellow” không phải là một văn bằng, và không nên hiểu như là một “tiến sĩ cao cấp” (8). Phần 2 Hệ thống học hàm Học vị là những văn bằng được cấp bởi các cơ sở giáo dục cho sinh viên sau khi đã hoàn tất một chương trình học. Học hàm là những chức vụ khoa bảng hoặc do các trường đại học đề bạt hoặc do chính phủ trao tặng cho những người giảng dạy hay nghiên cứu khoa học. Nói đến “Học hàm” ở đây là nói đến chức giáo sư (Professor), phó giáo sư (Associate Professor), giáo sư dự khuyết (Assistant Professor), giảng sư (Lecturer và Senior Lecturer), và các chức danh trong các viện nghiên cứu khoa học như Fellow, Senior Fellow, Principal Fellow và Scientist. Trong các trường đại học Tây phương, người ta phân biệt ba cấp nhân viên giảng dạy mà tôi tạm gọi [theo chức năng và trình độ] là: tập sự, trung cấp, và cao cấp. Ở bậc tập sự gồm các chức vụ như Teaching Assistant, Tutor. Proctor, v.v... Những nhân viên này có trách nhiệm làm phụ giảng, chấm bài thi, giám thị trong phòng thí nghiệm, v.v… Ở bậc trung cấp gồm những nhân viên khoa bảng mang học hàm như Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre Assistant (Pháp) và Assistant Professor (Mĩ) (9). Những nhân viên này là những người đang ở bước đầu trong nấc thang sự nghiệp khoa bảng, có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy sinh viên và làm nghiên cứu hoặc độc lập, hoặc dưới sự chỉ đạo của các giáo sư thâm niên. Trên trung cấp một bậc là những nhân viên khoa bảng mang học hàm Reader, Fellow hay Senior Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre de Conférence (Pháp) và Associate Professor (Úc và Mĩ) (10). Những người này là những nhà khoa bảng đang ở trong thời kỳ "quá độ" để chuẩn bị được đề bạt lên một chức vụ khoa bảng cao nhất trong hệ thống học hàm đại học. Trong đại đa số, họ cũng là những nhà nghiên cứu độc lập và có ít nhiều uy tín trong chuyên môn. Sau cùng là các chức danh khoa bảng cao cấp nhất như Professor (ở Mĩ, Anh, và Úc, Pháp) hay Senior Fellow (Anh và Úc) (11). Họ là những nhà khoa bảng kinh nghiệm lâu năm và quá trình nghiên cứu có uy tín trên trường quốc tế. Tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức vụ này thường dựa vào ba cống hiến chính: nghiên cứu, giảng dạy, và phục vụ cộng đồng. Về nghiên cứu, mức độ cống hiến cho kiến thức nhân loại được "đo lường" bằng số lượng và chất lượng các bằng sáng chế (patents) hay các bài báo khoa học (papers) được công bố trong các tạp chí khoa học chuyên môn (12). Tùy theo trường đại học, một Assistant Professor phải có ít nhất là 5 bài báo khoa học; một Associate Professor thường phải có tối thiểu là 30 bài báo khoa học; và một Professor phải có tối thiểu là 50 (thường là 100) bài báo khoa học. Học hàm “kết hợp” Ngoài các học hàm được phong hay đề bạt một cách nghiêm chỉnh dựa trên thành thích hoạt động khoa học và giảng dạy, trong một số ngành như y khoa, kinh tế, và kĩ thuật, một số học hàm được trao tặng dựa vào sự quan hệ của người được trao và trường đại học. Trong các bệnh viện, một số bác sĩ chuyên khoa cao cấp, tuy không làm nghiên cứu khoa học và chưa từng công bố công trình khoa học nào, có thể được bổ nhiệm chức vụ Lecturer, Assistant Professor, Associate Professor hay thậm chí Professor trong các trường Y. Tương tự, một số chuyên viên nghiên cứu khoa học trong các công ti kĩ nghệ, tuy không giảng dạy, nhưng cũng được trao tặng các chức vụ khoa bảng trên. Những “nhà khoa bảng” này không được trường đại học trả lương, và không phải là nhân viên chính thức của trường. Nhưng khi họ công bố các bài báo khoa học thì trường có quyền kể những bài báo đó như tài sản tri thức của nhà trường! Tuy nhiên, bù lại, họ được phép dùng những danh xưng khoa bảng của trường trong các văn bản liên quan đến hoạt động khoa học. Những học hàm này thường có chữ “Conjoint” hay “Adjunct” phía trước danh xưng “Professor” hay “Associate Professor” để phân biệt với những học hàm “thật”. Việc dùng những danh xưng này, trên lí thuyết, thường được các trường đại học kiểm tra rất gắt gao; nhưng trong thực tế, nhiều người được trao những học hàm này thường lờ đi! Học vị và học hàm danh dự Hầu như tất cả các trường đại học ở các nước Tây phương đều có những kế hoạch để biểu dương tên tuổi và danh tiếng của trường mình đến với thế giới bên ngoài. Để đạt được mục tiêu này, các trường đại học thường dùng chính sách cấp học vị và học hàm danh dự cho những nhân vật quan trọng trong cộng đồng. Những học vị và học hàm danh dự được trao tặng thường là những văn bằng và chức vụ cao nhất trong đại học: “Tiến sĩ” (Honorary Doctor) hay “Giáo sư” (Honorary Professor). Người được trao tặng không nhất thiết phải là cựu sinh viên hay cựu nhân viên của trường, cũng không cần phải có quá trình học vấn nào, mà có thể là một nhà hoạt động chính trị, nhà hoạt động xã hội, một nghệ sĩ, nhà báo, công chức … có tiếng tăm. Ở Úc, cựu Thủ tướng Paul J. Keating, người có trình độ học vấn cấp phổ thông trung học, sau khi rời chính trường, được Trường Đại học New South Wales trao tặng học hàm “Honorary Professor”, để ghi nhận đóng góp của ông trong nỗ lực đem tên tuổi nước Úc vào thị trường kinh tế Á châu. Những học vị và học hàm danh dự, vì thế, có tính ngoại giao, “hữu nghị”, hơn là những chứng chỉ khoa bảng. Do đó, trong thực tế, phần đông những người Tây phương được trao học vị và học hàm danh dự ít khi nào dùng nó như là một thành tích hoạt động khoa bảng hay trình độ học vấn; tuy nhiên, một số đồng hương người Việt lại hay thích ký tên mình kèm theo những danh xưng danh dự nơi công cộng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:44:12 GMT 9
Ngoài các học hàm "hữu nghị" này, nhiều trường đại học còn phong chức "Emeritus Professor" (cựu giáo sư) cho các giáo sư đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn gắn bó với trường đại học. Danh hiệu này thường được trao tặng cho các giáo sư có đóng góp lớn cho khoa học, cho trường và đã làm việc tại trường trong một thời gian dài. Vài chức vụ trong các hội đoàn chuyên môn Một số ngành nghề chuyên môn như y khoa và kĩ thuật thường được tổ chức khá chặt chẽ, mà trong đó trình độ chuyên môn và đẳng cấp thâm niên được phân chia tương đối rõ ràng. Theo cơ cấu tổ chức này, những người hành nghề phải là hội viên của một hiệp hội chuyên ngành. Hiệp hội này có chức năng đề ra những tiêu chuẩn và qui tắc hành nghề, kiểm tra trình độ chuyên môn của hội viên, và quản lí nhân sự trong tổ chức. Theo định kì, thường là hàng năm, các hiệp hội chuyên môn này tổ chức một kì thi tuyển để kết nạp hội viên. Chẳng hạn như ở Úc và Anh, các bác sĩ muốn hành nghề chuyên khoa, ngoài việc thực tập một thời gian (khoảng 5 năm), còn phải qua một kì thi tuyển vào một hội đoàn chuyên môn như "Royal College of Surgeons" (dành cho các bác sĩ giải phẫu), "Royal College of Radiologists" (dành cho các bác sĩ chuyên khoa quang tuyến học), v.v... Sau khi thi đỗ, thí sinh sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề. Những chứng chỉ này thường có chữ "Fellow" phía trước, như "Fellow of the Royal College of Surgeons" hay (FRCS). Tuy mang danh hiệu Fellow, nhưng cấp bậc thì không tương đương với các chức danh khoa bảng trong các viện nghiên cứu. Giới kĩ sư ở Mĩ cũng có những hiệp hội tương tự như trong ngành y khoa, nhưng cách thức thu nạp hội viên và tên gọi của họ khác ngành y khoa. Tuy nhiên, trong các ngành nghề khác, có rất nhiều hiệp hội chuyên môn hoạt động một cách bán thương mại, và hình thức tổ chức không chặt chẽ như trong ngành y khoa và kĩ thuật. Phần đông những hiệp hội này mở cửa đón nhận tất cả các hội viên, không phân biệt trình độ học vấn và khả năng chuyên môn, ngay cả sinh viên cũng có thể gia nhập, và không phải qua một kì thi tuyển nào. Hội viên phải đóng hội phí mỗi năm. Hội viên thường được gọi là "Member", thay vì "Fellow" như các hiệp hội nghiêm túc. Do đó, là hội viên của những hội này không có nghĩa là một bằng chứng về khả năng chuyên môn hay thành tích hoạt động khoa học. Ngoài các hiệp hội chuyên môn, còn có những hội đoàn bách khoa, mà trong đó thành viên là tất cả các nhà khoa học hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau. Những hiệp hội này thường có tên "Academy", chẳng hạn như "The National Academy of Sciences of the United States of America" (tức Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ). Không giống như Liên Xô cũ (nơi mà Viện Hàn Lâm Khoa Học Moscow là một trung tâm nghiên cứu), ở các nước Tây phương như Mĩ, Anh và Úc, viện hàn lâm không phải là một viện nghiên cứu, cũng không phải là tập hợp các viện nghiên cứu, mà là một đoàn thể hay tổ chức tư nhân bất vụ lợi, có chức năng chính là: (i) cố vấn cho chính phủ các chính sách liên quan tới khoa học và kĩ thuật; và (ii) giáo dục và cổ động quần chúng về khoa học và vai trò của khoa học trong xã hội. Đối với phần đông quần chúng, cụm từ "viện hàn lâm" đồng nghĩa với nơi tập trung của những bộ óc siêu việt, những con người thông thái nhất của một quốc gia. Nhưng trong thực tế ở các nước có nền khoa học tiến bộ cao như Mĩ thì điều này chỉ đúng một phần, vì như nói trên, Viện Hàn lâm Khoa học chỉ là một đoàn thể, là một cơ quan đại diện [có thể là cao nhất] cho các nhà khoa học. Hội viên của hàn lâm viện thường do đồng nghiệp tiến cử và bình bầu. Do đó, có nhiều nhà khoa học có thực tài, nhưng không được tiến cử, nên không bao giờ là thành viên của hàn lâm viện! Trong số khoảng 350 nhà khoa học và xã hội Mĩ đoạt giải Nobel, chỉ có 170 người là thành viên của Viện này. Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kì có khoảng 1900 thành viên; trong đó có khoảng 300 là người mang quốc tịch và ở nước ngoài [Mĩ]. Theo tiêu chuẩn chung, họ phải là những nhà khoa học ưu tú trong lĩnh vực chuyên môn, nhưng do tính cách bình bầu, nên nó cũng lộ ra vài vấn đề liên quan đến việc thiên vị và bè phái. Đã có nhiều người cho rằng Viện này là một câu lạc bộ kín ("close club"), nơi mà chỉ có các nhà khoa học quen biết với nhau qua giao thiệp xã giao, hơn là một cơ quan đại diện chân chính cho các nhà khoa học. Điểm qua danh sách của 1900 thành viên thuộc Viện này, người ta có thể tìm thấy tên của nhiều nhà khoa học thường hay xuất hiện trên các hệ thống truyền thông đại chúng hay có nhiều hoạt động xã hội và chính trị như Albert Einstein, James Watson, v.v. Thành ra, nhiều nhà khoa học lớn, những người tự coi họ là làm khoa học loại "thứ thiệt", những người không thích hư danh hay ồn ào trên các hệ thống truyền thông, thì không thích có mặt trong Viện này. Nhà vật lí học lừng danh Richard Feynman, cũng như nhiều nhà khoa học danh tiếng khác, không phải là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kì. Chưa có một khoa học Việt Nam hay gốc Việt nào có chân trong Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Hoa Kì. Vài nhận xét chung Người không quen với hệ thống khoa bảng và bằng cấp có thể sẽ thấy chóng mặt với những tên gọi những học vị và học hàm trên đây, và sẽ đặt câu hỏi là người được cấp những văn bằng này phải đạt những tiêu chuẩn gì. Thực ra, đứng trên bình diện quốc gia, không có tiêu chuẩn nhất quán giữa các trường đại học trong việc cấp những văn bằng này. Mỗi trường đại học có những tiêu chuẩn riêng. Có khi mỗi thí sinh cũng được xét theo từng trường hợp riêng biệt. Có sinh viên ra trường tiến sĩ chỉ trong vòng sau 3 hay thậm chí 2 năm theo học, nhưng cũng có sinh viên phải miệt mài cả tám năm để lấy mảnh bằng Tiến sĩ. Cũng có những trường hợp hiếm hoi khi sinh viên theo học chương trình Tiến sĩ, nhưng khi ra trường chỉ được thẩm định và cấp bằng Cao học. Lại có người nghiên cứu cả mười năm, nhưng chẳng viết được luận án gì! Đôi khi, tự những học vị Ph.D, M.S, B.S nó bao hàm một nội dung rộng đến mức ... chẳng có nghĩa gì cụ thể. Trên lí thuyết, văn bằng Ph.D là học vị cao nhất ở Mĩ và Úc; tuy nhiên, cũng có nhiều "loại" Ph.D với nhiều chất lượng khác nhau. Có nhiều người có văn bằng Ph.D, nhưng độ hiểu sâu và kiến thức chưa chắc đã hơn một người có học vị Cử nhân, thậm chí Tú tài, thời Pháp thuộc ở Việt Nam. Ngoài ra, ở Mĩ còn có tệ nạn "nhà máy văn bằng" (diploma mills) hoạt động hoặc dưới hình thức dạy học hàm thụ, hoặc qua hệ thống dạy học từ xa với sự trợ giúp của máy vi tính và mạng internet. Phần lớn những trường này thực chất chỉ là những văn phòng nhỏ tại nhà, thậm chí chỉ là nhà để xe hay nhà bếp, nhưng họ lại tự gắn cho họ những cái tên "lập lờ đánh lận con đen" (mà nếu công chúng không để ý kĩ có thể lẫn lộn với những trường danh tiếng của Mĩ) như "Harbard University", "Universitas Harvardiana", "Atlanta Southern University", v.v. Mục đích duy nhất của các sơ sở thương mại này là bán bằng cấp với giá từ 3000 tới 5000 đô-la Mĩ. Có "trường" còn bán tới 500 bằng tiến sĩ hàng tháng! Do đó, một học vị, nếu không "đi kèm" với một trường đại học nghiêm chỉnh được công nhận, cũng có thể không có giá trị khoa bảng gì. Tiêu chuẩn và phẩm chất học hàm thường mang tính địa phương; tức là cũng có sự khác nhau giữa các thời điểm, giữa các nước, và thậm chí giữa các trường đại học trong cùng một nước. Một vị Professor ở Mĩ có thể chỉ được xem tương đương với một Associate Professor ở Pháp hay Anh, và ngược lại. Tương tự, một Assistant Professor ở một trường danh tiếng tại Mĩ có thể trở thành Professor ở Nhật, Hồng Kông hay Singapore. Thời điểm cũng là một yếu tố quan trọng. Vài mươi năm trước đây, ở các nước như Anh, Úc, Pháp, Đức và Nga, mỗi Ban chuyên môn (Department) trong một trường đại học chỉ có một người duy nhất mang học hàm "Professor", những người còn lại chỉ là "Associate Professor" hay "Lecturer". Những vị người mang hàm "Professor" thời đó được phép dùng danh hiệu này suốt đời, dù họ chuyển từ trường đại học này sang trường đại học khác. Học hàm "Professor", do đó, cực kì cao quí ở các nước này trong thời gian trước đây. Nhưng ở một góc độ khác, có thể nói vấn-đề-một-Professor này cũng là nguyên nhân làm cho nhiều nhà khoa bảng ở các nước trên chuyển sang Mĩ nghiên cứu và giảng dạy, vì ở Mĩ, một Ban có thể có nhiều (thậm chí hàng trăm) người mang hàm "Professor". Các nhà khoa bảng trẻ ở Mĩ không phải chờ đến lúc lục tuần để được phong hàm "Professor"! Tuy nhiên, để chống lại dòng "chảy chất sám" này, ngày nay, ở các nước như Anh, Đức và Úc, học hàm "Professor" đã được "Mĩ hoá", và mỗi Ban có thể có nhiều người mang học hàm "Professor". Các nhà khoa bảng trẻ do đó có cơ hội mang học hàm này hơn trước. Vì học hàm "Professor" bị Mĩ hóa, ngày nay, có quá nhiều Professor và phân biệt ai giỏi, ai dở là một việc làm cực kì khó khăn vì trong nhiều trường hợp, học hàm này không còn phản ảnh trung thực khả năng chuyên môn của nhà khoa bảng nữa. Thực vậy, nhiều giáo sư ở các trường đại học lớn ở Mĩ và Úc cũng có thể "dốt" (huống hồ chi là học trò Ph.D!) Ngược lại, cũng có vô số người không có học hàm "Giáo sư" nhưng lại cực kì giỏi. Cũng có nhiều nhà khoa bảng có hàng trăm bài báo khoa học và trên phương diện chuyên môn, còn danh tiếng hơn nhiều Professors khác, nhưng họ chỉ giữ chức Assistant Professor, thậm chí không có học hàm nào! Thành ra, trong hoạt động khoa học, bằng cấp và danh xưng là những điều không được đặt nặng. Thực ra, đối với phần lớn các nhà khoa học chân chính, những học hàm và danh xưng hoàn toàn vô nghĩa, ngoài việc gây ấn tượng và "lấy le" với những người dân thường hay những nhà chính trị thiếu hiểu biết về hoạt động khoa học. Xuất phát từ truyền thống lâu đời, người Việt Nam ta trọng giới khoa bảng và những người có bằng cấp cao. Nhưng sự trọng bằng cấp của số đông dân chúng đã sinh ra tệ nạn khệnh khạng bằng cấp trong giới có học hay có chút chữ nghĩa. Ngày nay, chỉ cần mở một tờ báo Việt, người ta sẽ phải chóng mặt về những bằng cấp và danh xưng của các vị cử nhân, luật sư, kĩ sư, tiến sĩ, giáo sư, này nọ. Cố nhiên, một số bằng cấp và học hàm này là thật, do chính đương sự đạt được trong quá trình học tập và nghiên cứu, nhưng cũng có một số không ít là những bằng cấp được chuyển ngữ một cách bịp bợm, nhằm lòe đồng hương, hay thậm chí một số học vị và học hàm "dỏm". Thực vậy, có lẽ do nhu cầu kinh tế hay môt lí do nào đó, người có bằng cấp, do vô tình hay cố ý, cũng đã đôi khi lạm dụng bằng cấp của mình và danh xưng. Nhiều trường hợp, người ta quảng cáo là "Giáo sư" một đại học nào đó, nhưng lại cố tình lờ đi thực chất học hàm đó chỉ là một chức "Conjoint" hay danh dự. Có trường hợp người ta quảng cáo là "Fellow" của một đoàn thể chuyên môn về giải phẫu, nhưng trên thực tế họ chỉ là "Member"! Cuối cùng, một điều khá phổ biến trong những người có bằng cấp là họ thường hay nghĩ rằng học vị và học hàm của họ là ưu việt hơn bằng cấp của người khác, trường đại học hay cao đẳng và các giáo sư mà họ theo học là danh tiếng hơn, tốt hơn, giỏi hơn, v.v... những nơi khác và giáo sư khác. Điều này không những chỉ thấy ở giữa cá nhân, mà còn giữa các quốc gia. Dù không nói ra cụ thể, nhưng chất lượng bằng cấp thường được đánh giá một cách chung chung dựa vào nền khoa học kĩ thuật của một nước hơn là dựa vào khả năng của người có bằng cấp. Chính vì thế mà những nước đã phát triển như Mĩ, Anh, Úc, Pháp, v.v… không chịu công nhận bằng cấp từ các nước nghèo hơn như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, v.v… Lí do không công nhận bằng cấp nước ngoài thường được núp dưới danh nghĩa “tiêu chuẩn”, tức là theo họ, những chuyên viên được đào tạo trong các nước đang phát triển có tiêu chuẩn thấp hay không đạt tiêu chuẩn mà họ đưa ra. Thật là khôi hài và ấu trĩ nếu người Úc cho rằng kĩ sư của họ tài giỏi hơn kĩ sư người Đức, hay bác sĩ của họ được đào tạo kĩ hơn các bác sĩ người Mĩ hay Pháp, hay các nhà toán học của Úc khá hơn các nhà toán học Việt Nam hay Ấn Độ. Ấy thế mà đó là những nguyên nhân mà họ đưa ra để không chịu công nhận bằng cấp của các nước ngoài Úc! Nhưng xét cho cùng, ngoài một vài lí do chính đáng, sự không-công-nhận bằng cấp nước ngoài cũng là một cách phô trương thanh thế của họ, những nước giàu có, và bảo vệ thị trường lao động cho sinh viên người bản xứ, chứ chẳng liên quan gì đến tiêu chuẩn và phẩm chất đào tạo. Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau giồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp và chức vụ khoa bảng không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối. Bằng cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một bước đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó không nói lên được khả năng chuyên môn của nhà khoa học. Tương tự, một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng. Ghi chú: [1] Thực ra, Universitas of Doctors chỉ là một hiệp hội (Guild) của những "Thầy". Theo tiếng Latin, chữ Doctorem cũng có nghĩa là "Thầy". [2] Tuy nhiên, trong những năm gần đây các trường này đều trở thành đại học chính thức. Chẳng hạn như trường "University College of Bristol" tuy thành lập từ năm 1876, nhưng mãi đến năm 1909 mới được công nhận là "The University of Bristol"! [3] Ở Việt Nam còn xảy ra một sự ngộ nhận hết sức "tai hại" trên báo chí về một em học sinh người Việt Nam, 17 tuổi, đỗ đầu ở một trường trung học tư thục ở Anh; nhưng có lẽ vì nhầm lẫn trường "college" mà em theo học là "đại học", nên nhà báo đã vội viết bài ca ngợi em là một "thần đồng tốt nghiệp đại học năm 17 tuổi"! [4] Tôi không biết tiếng Việt ta có danh từ nào để dịch văn bằng "Associate". Có người đề nghị dùng "Chứng chỉ" để dịch chữ này; tuy nhiên "Chứng chỉ" có lẽ chính xác hơn với "Certificate". Tôi đề nghị dùng cụm từ "Cử nhân dự khuyết" cho văn bằng "Associate". [5] Hai văn bằng Bachelor of Science (B.Sc. hay B.S.) và Bachelor of Arts (B.A.) thường được dịch là "Cử nhân Khoa học" và "Cử nhân Văn chương". Tuy nhiên, hai văn bằng này rất bao quát. Một sinh viên theo học môn Tâm lí học (Psychology) có thể tốt nghiệp với văn bằng B.A. nếu bộ môn này chịu sự quản lí của phân khoa Văn chương (Faculty of Arts), hoặc B.Sc. nếu bộ môn Tâm lí học chịu sự quản lí của phân khoa Khoa học (Faculty of Science). [6] Dựa vào tính cách đào tạo và chương trình học, tôi đề nghị dùng cụm từ "Cao học dự khuyết" cho văn bằng "Graduate Diploma". [7] "Doctorate" là một danh từ chung dùng để chỉ học vị "Tiến sĩ". Chữ “Tiến sĩ” có lẽ được xuất phát từ chữ Hán mà tiếng Anh phiên âm là “Chin-shih” (và tiếng Anh dịch là “Doctor”). Hình như văn bằng này được cấp lần đầu tiên vào năm 1313 (dưới triều đại nhà Tống); vào năm này, một cuộc thi tuyển đặt dưới sự chủ tọa của vua được tổ chức. Qua kết quả của kỳ thi này, có 300 thí sinh được cấp danh hiệu Chin-shih; trong số này, có 75 người gốc Mông Cổ, 75 người quê quán ở miền Nam Trung Quốc, 75 người quê quán ở miền Bắc Trung Quốc, và 75 người có quốc tịch ngoại quốc. [8] Trong một bài báo gần đây ở trong nước, một nhà giáo dục đề nghị dùng cụm từ "Tiến sĩ cao cấp" để gọi các thí sinh này! [9] Trong các đại học Anh và Úc, không có chức vụ Assistant Professor, và những chức vụ như Lecturer và Senior Lecturer được xem là tương đương hay cao hơn với Assistant Professor của Mĩ. Tuy được gọi là "Assistant Professor", nhưng những giáo sư này không phải là phụ tá (assistant) cho các giáo sư cao hơn, mà là một giáo sư hoàn toàn độc lập. Vì thế, các học hàm ở bậc này có lẽ nên dịch sang tiếng Việt là "Giảng sư". [10] Trong một vài trường đại học theo hệ thống của Anh Quốc, học hàm "Reader" được xem là tương đương với "Associate Professor". Ở trong nước, Associate Professor được dịch là "Phó Giáo sư". [11] Học hàm "Professor" thường được dịch là "Giáo sư". Đây là một học hàm cao nhất trong đại học. Tuy nhiên, cũng có trường đại học ở Mĩ phong học hàm "University Professor" (thường được xem là cao hơn cả "Professor") cho các giáo sư có thành tích nghiên cứu khoa học xuất sắc và có đóng góp lớn cho trường. [12] Các bài báo này thường phải qua một giai đoạn "kiểm duyệt" tương đối gắt gao (thường từ 6 tháng đến một năm) trước khi được chấp nhận cho xuất bản. Người kiểm duyệt thường là đồng nghiệp làm cùng ngành, nhưng đương sự (người có bài báo được duyệt xét) không biết họ là ai. Các tạp chí có chất lượng cao chỉ nhận công bố khoảng 1 tới 20% các bài báo khoa học được gửi tới tòa soạn. Vì thế, nhá khoa học nào có nhiều công trình được công bố trên các tờ tạp chí có uy tín thường để nể trọng trong ngành nghề của mình, và có cơ hội được thăng tiến trong nấc thang khoa bảng Nguồn nguyenvantuan.chuyenluan.net Bài góp ý của tác giả Nguyễn Xuân Thiện Người Việt Nam thường gọi "doctor" là "bác sĩ" để chỉ thầy thuốc, hoặc "tiến sĩ" để chỉ một học vị cao nhất ở đại học. "Bác sĩ" là một nghề nghiệp, trong khi đó "tiến sĩ" là một học vị. Trong tiếng Anh cũng vậy, câu nói "I am a doctor" có ý nghĩa hoàn toàn khác với "I have a doctor's degree". Ở Mỹ chữ "Ph.D." (viết tắt của “Doctor of Philosophy”), có nghĩa tương đương với chữ "tiến sĩ" của Việt Nam, là học vị cao nhất ở đại học. Một vài tiêu chuẩn tối thiểu của nó là phải có công trình nghiên cứu mang tính cách học thuật, có tính cách độc sáng (originality), thể hiện dưới hình thức một luận án trước khi đưọc cấp học vị này. Loại "doctor" này ở Mỹ gọi là "academic doctorate degree" để phân biệt với các loại "doctor" trong "doctor of medicine", "doctor of pharmacy" v.v... thuộc nhóm "first professional degree" ("học vị chuyên nghiệp cấp một"). Nói một cách chi tiết hơn, "first professional degree" ở Mỹ chủ yếu gồm có: - Doctor of Audiology (Au.D.) - Doctor of Chiropractic ( D.C.) - Doctor of Dental Surgery (D.D.S.), Doctor of Dental Medicine (D.M.D) - Doctor of Medicine (M.D.) - Doctor of Occupational Therapy (D.O.T.) - Doctor of Optometry (O.D.) - Doctor of Osteopathic Medicine (D.O.) - Pharmacy Doctor (Pharm.D.) - Doctor of Physical Therapy (D.P.T.) - Doctor of Podiatric Medicine (D.P.M.) - Doctor of Veterinary Medicine (D.V.M.) - Juris Doctor (J.D.) Đăc điểm của loại "doctor" trong "first professional degree" là: - phần lớn liên hệ đến nghề y và một cái bên luật - không đào tạo trực tiếp ngay sau cấp trung học (như ở nhiều nước khác), mà là phải học qua từ 2 đến 4 năm (ngành gì cũng được ) ở đại học. Sau đó học 3, 4 năm (thông thường là 4 năm) ở trường chuyên nghiệp (professional school) - không cần có luận án có tính cách nghiên cứu độc sáng để được cấp "doctor". Hiểu như vậy những chữ "doctor of medicine", "pharmacy doctor" ở Mỹ nên dịch là "y sư", "dược sư" thì đúng hơn dịch là "tiến sĩ y khoa", "tiến sĩ dược khoa". Ở đây chữ "doctor" nên hiểu theo nghĩa của tiếng Latin, nghĩa là "thầy" (tiếng Hán gọi là "sư", như trong chữ "giáo sư"). Ở Việt Nam ngày xưa người ta cũng quen dùng chữ thầy”, tỷ dụ “thầy giáo”, “thầy thuốc”, "thầy kiện" để chỉ những người làm trong một số nghề mà người ta kính trọng. Nhân tiện để tham khảo xin đưa thêm thí dụ về trường hợp ngành y ở Nhật. Ở Nhật, người ta vào thẳng trường y sau khi học xong trung học. Sau 6 năm thì được tốt nghiệp với văn bằng cử nhân y khoa (igakushi) do các đại học cấp. Tuy vậy, để có tư cách hành nghề bác sĩ (license) thì phải qua kỳ thi của nhà nước, gọi là "kokka ishi shiken" (thi bằng “y sư quốc gia”). Muốn có học vị tiến sĩ y khoa thì lại khác: phải tiếp tục nghiên cứu thêm 4 năm nữa ở đại học. Ở Nhật, người ta phân biệt rất rõ chữ "bác sĩ" (ishi) - một loại nghề nghiệp, với chữ "tiến sĩ" (hakase) - một loại học vị-, chứ không dùng chung một chữ ”doctor” như ở nhiều nước khác.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 23, 2011 5:46:06 GMT 9
Về học vị tiến sĩ Vietsciences-Nguyễn Văn Tuấn Trong một bài viết trước, tôi có viết rằng học vị tiến sĩ (Doctor of Philosophy, thường viết tắt là Ph.D) là một văn bằng cao nhất trong hệ thống văn bằng đại học. Xã hội kính trọng những người có học vị tiến sĩ và gọi họ bằng danh xưng “Doctor”. Ở nước ta ngày xưa, họ là những “ông nghè” được xã hội rất trân trọng. Ngày nay ở nước ta, có nhiều sinh viên có ý định theo học chương trình tiến sĩ. Đó là một phát triển đáng mừng, vì các vị tiến sĩ là những người đóng vai trò rường cột cho nền khoa học nước nhà, và là một lực lượng giảng dạy tương lai. Thế nhưng có vài dấu hiệu cho thấy động cơ của việc theo học tiến sĩ hình như không phải để đi tìm sự thật khoa học hay mở mang trí tuệ, mà chỉ để có cái danh “tiến sĩ” trước tên mình. Một số khác thì vì lí do thăng quan tiến chức nên tìm mọi cách theo học và “lấy cho được” học vị tiến sĩ. Thiết tưởng đây là những ngộ nhận nguy hiểm về học vị tiến sĩ cần phải được giải thông. Trong bài viết này tôi sẽ nêu ra một số câu hỏi để thí sinh trả lời xem mình có phải là người thích hợp và xứng đáng để theo học tiến sĩ hay không. Những câu hỏi thí sinh cần hỏi trước khi đệ đơn xin học tiến sĩ Thứ nhất, mình có muốn theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học không? Trước khi đệ đơn xin theo học chương trình tiến sĩ, thí sinh nên cẩn thận cân nhắc mục tiêu lâu dài của mình. Bởi vì để có được học vị tiến sĩ thí sinh phải làm nghiên cứu; do đó, thí sinh phải tự hỏi: nghiên cứu khoa học có phải là sự nghiệp mình muốn dấn thân hay không? Nếu câu trả lời là “muốn” thì học vị tiến sĩ là một “giấy thông hành” cho con đường tiến thân. Cố nhiên cũng có một số người tham gia nghiên cứu khoa học dù họ không có học vị tiến sĩ, nhưng đây là những trường hợp ngoại lệ. Nếu câu trả lời là “không”, thì học vị tiến sĩ không phải dành cho thí sinh. Thứ hai, mình có muốn theo đuổi sự nghiệp khoa bảng hay không? Học vị tiến sĩ là một cái “chứng từ” để bước vào hay được “kết nạp” vào sự nghiệp khoa bảng (academic career). “Khoa bảng” ở đây được hiểu là giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Cố nhiên, vẫn có người có thể trở thành giáo sư dù không có học vị tiến sĩ, nhưng cơ hội tiến thân trong các nấc thang khoa bảng ngày nay cho những cá nhân như thế không mấy cao. Nhiều trường đại học lớn trên thế giới đòi hỏi các giảng viên và giáo sư hay các nhà nghiên cứu phải có học vị tiến sĩ. Tại sao? Tại vì họ muốn đảm bảo trường đại học có đầy đủ chuyên gia để giảng dạy các môn học cấp cao và bắt buộc các chuyên gia này phải làm nghiên cứu khoa học. Phần lớn giáo sư đại học có học vị tiến sĩ, nhưng không phải ai có bằng tiến sĩ đều có thể trở thành giáo sư. Nếu mục tiêu của thí sinh là dấn thân vào quản trị thương trường, kĩ nghệ và khoa học (như muốn làm giám đốc doanh nghiệp, giám đốc các cơ sở khoa học) hay các chức vụ hành chính, hay các chức vụ mang tính quản lí trong hệ thống chính phủ thì thí sinh không nên theo học chương trình tiến sĩ (mà nên theo học chương trình thạc sĩ quản trị kinh doanh hay quản trị hành chính, MBA – Master of Business Administration), bởi vì cốt lõi của học vị tiến sĩ (và cũng là khía cạnh dùng để phân biệt học vị tiến sĩ với các học vị đại học khác) là nghiên cứu khoa học, không phải quản trị. Tôi biết ngày nay có đại học đưa ra chương trình huấn luyện Tiến sĩ quản trị hành chính (Doctor of Business Administration), nhưng mục tiêu vẫn là đào tạo nhà nghiên cứu và giáo sư. Tự đánh giá mình: có hội đủ điều kiện để trở thành tiến sĩ hay không? Thật là khó tự đánh giá khả năng của mình, nhưng những đề mục sau đây có thể giúp cho thí sinh tự hỏi và trả lời: · Khả năng học vấn. Trong khi theo học chương trình cử nhân, thí sinh thường hay đạt điểm cao hay thường đứng đầu lớp hay đứng sau cùng trong lớp? Kì thi trung học thí sinh đạt bao nhiêu điểm? Ở các đại học Úc, thí sinh theo học tiến sĩ thường có bằng cử nhân hạng danh dự (honours) hay có bằng thạc sĩ. · Thời gian. Thí sinh có sẵn sàng giải quyết một dự án nghiên cứu hay một vấn đề khó khăn mà mình chưa bao giờ làm trước đây hay không? Chương trình học tiến sĩ thường kéo dài nhiều năm (tối thiểu là 3 năm, thường là 4-6 năm) với lao động cật lực. Thí sinh có sẵn sàng hi sinh và bỏ qua các hoạt động và sinh hoạt thường ngày khác để theo đuổi nghiên cứu khoa học hay không? · Sáng tạo. Khám phá trong nghiên cứu khoa học thường xảy ra khi (i) nhà nghiên cứu nghĩ ra một vấn đề mới; hay (ii) nhà nghiên cứu thẩm định một vấn đề cũ bằng một phương pháp mới. Vì thế trước khi theo học tiến sĩ thí sinh nên tự xét mình có cảm hứng giải quyết vấn đề (problem solving) hay không? Thí sinh đã chuẩn bị cho những kì “nặn óc”, động não và những suy nghĩ trừu tượng hay không? Thí sinh có thích học toán học cao cấp không? · Tính tò mò cao độ. Nghiên cứu đòi hỏi tính tò mò, nghi ngờ, và chất vấn. Có khi nào thí sinh cảm thấy như bị cưỡng bách để tìm hiểu cho được thế giới chung quanh và tìm hiểu sự việc hoạt động hay xảy ra như thế nào? Tính tò mò làm cho nghiên cứu khoa học dễ dàng hơn. Thí sinh có đáp ứng được những tò mò riêng tư của mình hay không? · Thích ứng. Kinh nghiệm người viết bài này cho thấy rất ít thí sinh sẵn sàng chuẩn bị cho một chương trình học tiến sĩ. Họ cảm thấy chương trình học hoàn toàn khác biệt với các chương trình cử nhân và thạc sĩ. Phần lớn thí sinh cảm thấy như mình bước vào một thế giới mới, một thế giới mà cái gì cũng có vẻ bất định, và hình như chẳng ai biết được câu trả lời. Vì thế, câu hỏi thí sinh cần phải tự trả lời là: mình có khả năng thích ứng với một môi trường như thế hay không? Thí sinh có chịu đựng nỗi tình huống mà hành trình đi tìm lời giải đáp cho vấn đề dù không ai biết chắc câu hỏi chính xác là gì hay không? · Năng động. Đến lúc thí sinh xong chương trình cử nhân hay thạc sĩ, thí sinh thường quen với hệ thống thang điểm trong mỗi kì học hay kì thi. Trong một chương trình huấn luyện tiến sĩ, thí sinh không có thi cử như thời cử nhân, việc nghiên cứu cũng ít khi nào được phân chia một cách rành rọt, giáo sư hướng dẫn không phải lúc nào cũng bên cạnh để chỉ bảo từng việc, và thí sinh không nhận điểm gì cả. Thí sinh có năng động để tự mình làm việc với sự hướng dẫn và giám thị tối thiểu của giáo sư hay không? · Cạnh tranh. Khi theo học tiến sĩ, thí sinh phải chấp nhận cạnh tranh cùng các thí sinh khác, không những tại trường mình đang nghiên cứu, mà còn cạnh tranh với các thí sinh khác trên thế giới. Cạnh tranh để hoàn tất nghiên cứu trước, để được giải thưởng, để được công bố nghiên cứu trước … Một luận án mà không có một giải thưởng nào hay không có một bài báo nào trên tập san khoa học thế giới là một luận án tầm thường. Thí sinh có sẵn sàng tham dự vào một cuộc thi đua như thế hay không? Trong vài ngành thực nghiệm, vì cạnh tranh, thí sinh phải làm việc ngày và đêm trong phòng thí nghiệm hay trong phòng máy tính (có khi đến 12 giờ khuya) để hoàn tất nghiên cứu trước “đối phương”. Thí sinh có sẵn sàng cho một cuộc chạy đua như thế không? · Tính chín chắn. So với chương trình cử nhân và thạc sĩ, chương trình tiến sĩ là một chương trình không có cấu trúc chặt chẽ. Thí sinh có tự do để theo đuổi mục tiêu nghiên cứu của mình đề ra, tự do hoạch định việc làm hàng ngày cho chính mình, và tự do theo đuổi các ý tưởng khác (nhưng không thể bỏ qua mục tiêu của mình). Thí sinh có sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm cho chính mình hay không? Sự thành công hay thất bại trong việc theo học tiến sĩ tùy thuộc một phần lớn vào thí sinh. Một vài cảnh báo Một số thí sinh theo học tiến sĩ vì những lí do và động cơ sai lầm. Điều này dẫn đến hiện tượng thí sinh cảm thấy thất vọng sau một thời gian theo học, vì yêu cầu lớn quá. Do đó, trước khi dấn thân vào chương trình học tiến sĩ, thí sinh cần phải nhận thức rõ ràng rằng: · Học vị tiến sĩ không có nghĩa là sẽ tự động đem lại thanh thế hay uy danh cho cá nhân. Hầu hết các thí sinh đã đạt được văn bằng tiến sĩ đều cảm thấy tự hào về nỗ lực và kết quả của việc phấn đấu trong học hành nghiên cứu. Tuy nhiên, thí sinh phải hiểu rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có thể làm việc với nhiều nhà khoa học khác cũng có bằng tiến sĩ. Học vị tiến sĩ mới chỉ là bước đầu vào nghiên cứu khoa học, nó chẳng đem lại uy danh cho người có học vị nếu người đó không có công trình nghiên cứu nào có giá trị. · Học vị tiến sĩ không tự động nâng giá trị ý kiến của thí sinh. Nhiều người tin rằng một khi họ có văn bằng tiến sĩ trong tay, công chúng sẽ tự nhiên kính trọng ý kiến của họ. Niềm tin này hoàn toàn sai. Nhiều người có học vị tiến sĩ có thể am hiểu và uyên bác về một lĩnh vực chuyên môn hẹp nào đó, nhưng không phải là chuyên gia của mọi vấn đề khác. Sự kính trọng phải được chứng minh qua hành động và bản lĩnh của người phát biểu, chứ không tự động mà có được qua danh xưng “tiến sĩ”. · Học vị tiến sĩ không phải là mục tiêu sau cùng trong học hành, nghiên cứu. Học vị tiến sĩ chuẩn bị thí sinh vào sự nghiệp nghiên cứu. Nếu thí sinh chỉ muốn có mảnh giấy để treo trên tường thì không nên theo đuổi học vị tiến sĩ. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ, thí sinh có cơ hội để so sánh thành quả của mình với các nhà khoa học khác. Thí sinh sẽ nhận thức rằng cái được “tính sổ” không phải là danh xưng hay học vị tiến sĩ, mà là nghiên cứu khoa học do chính thí sinh tiến hành và hoàn tất. · Học vị tiến sĩ không bảo đảm thí sinh sẽ có công ăn việc làm ngay. Có khi ngược lại: sinh viên tốt nghiệp tiến sĩ có thể khó tìm việc làm hơn là sinh viên tốt nghiệp cửa nhân hay thạc sĩ, bởi vì như nói trên tiến sĩ là những nhà nghiên cứu. Một số công ti không muốn và không thích mướn những người với văn bằng tiến sĩ cho những việc không dính dáng vào nghiên cứu. Thêm vào đó là một khi nền kinh tế bị suy yếu, tất cả thành viên trong xã hội đều chịu chung số phận. Thật vậy, một số công ti giảm thiểu nghiên cứu trước khi giảm thiểu sản xuất, và tình trạng này có thể là một mối nguy cơ cho những người có văn bằng tiến sĩ. · Học vị tiến sĩ không phải để gây ấn tượng trong gia đình hay bạn bè. Người thân trong gia đình và bạn bè thí sinh có lẽ rất hồ hởi và tự hào khi thí sinh vào học chương trình tiến sĩ, bởi vì họ nghĩ thí sinh sẽ trở thành một ông nghè, một “doctor” trong tương lai. Nhưng văn bằng tiến sĩ chỉ là giấy thông hành cho nghiên cứu, chứ không phải để lấy le với người thân, bạn bè hay với xã hội. Không phải lúc nào cũng đòi người khác phải gọi mình là ông / bà “tiến sĩ”. · Học vị tiến sĩ không phải là cái cớ để thí sinh thử xem mình thông minh cỡ nào. Có một vài thí sinh nghĩ rằng học tiến sĩ là một thách thức và họ muốn chơi trò thách thức xem xem tri thức của mình cỡ nào. Rất tiếc, quan điểm này sai, bởi vì chương trình huấn luyện tiến sĩ không phải để thí sinh cân não hay để thử khả năng tri thức. Ngoại trừ thí sinh dành trọn thì giờ và dấn thân vào học hành để đỗ đạt, thí sinh sẽ không thể nào có được văn bằng tiến sĩ chỉ vì mình “thông minh”. Như nói trên, thí sinh phải làm việc nhiều giờ trong ngày, phải có khi thức đêm trong phòng thí nghiệm hay thư viện, phải chuẩn bị đương đầu với những thất bại, phải chuẩn bị động não để học cái mới và suy nghĩ cái mới. · Học vị tiến sĩ không phải để kiếm nhiều tiền. Thí sinh tốt nghiệp tiến sĩ thực ra không có lương bổng cao hơn các thí sinh với bằng cử nhân hay người công nhân bình thường trong hãng xưởng. Xin nhắc lại: học tiến sĩ là để trở thành nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và cái quan tâm đầu tiên của nhà khoa học là sự thật, chứ không phải sự giàu có về tiền bạc. Tất nhiên, có nhiều khi sự thật và khám phá cũng đem lại một nguồn tài chính lớn cho nhà nghiên cứu. Nhưng nói chung, đó không phải là mục tiêu để theo học tiến sĩ. · Học vị tiến sĩ không có nghĩa là một lựa chọn tốt nhất trong đời. Cống hiến cho xã hội có nhiều cách và cuộc đời có nhiều lựa chọn, và học vị tiến sĩ chỉ là một trong số hàng trăm lựa chọn. Có lẽ thí sinh sẽ ngạc nhiên khi đọc câu phát biểu này, nhưng đó là một thực tế. Thật vậy, đối với nhiều thí sinh, học vị tiến sĩ có thể là một sự nguyền rủa! Thí sinh phải tự hỏi mình muốn làm người lãnh đạo trong những người có văn bằng thạc sĩ, hay là làm một nhà nghiên cứu tầm thường. Thí sinh phải biết và quyết định mình muốn gì, và nghề nghiệp nào sẽ kích khích mình nhiều nhất hay đem lại hạnh phúc cho mình nhất. Vài điều tích cực về tiến sĩ Mặc dù những cảnh báo trên là hoàn toàn sự thật và có thể xảy ra cho thí sinh, nhưng tôi phải công bằng mà nói rằng cũng có một vài “an ủi” cho thí sinh nào cảm thấy mình có đủ khả năng và đức tính để theo học tiến sĩ. Thứ nhất, thí sinh có thể tự hào rằng mình đã hoàn tất chương trình học, hoàn tất nghiên cứu, và được trao văn bằng tiến sĩ. Nếu thí sinh có khả năng và đam mê, sự nghiệp nghiên cứu khoa học có thể đem lại cho thí sinh nhiều phần thưởng vật chất và tinh thần có giá mà các ngành nghề khác không có được. Thứ hai, trong khi theo học tiến sĩ hay sau khi tốt nghiệp, thí sinh có thể sẽ gặp gỡ và làm việc với những người thông minh nhất trên hành tinh này. Thí sinh sẽ tiếp cận và tiến dần đến những lí tưởng và ý tưởng không nằm trong tầm tay của mình, và để làm việc đó, thí sinh sẽ cảm thấy tri thức mình trưởng thành thêm. Thí sinh sẽ giải quyết nhiều vấn đề mình chưa bao giờ gặp trước đó. Thí sinh sẽ khám phá các khái niệm chưa bao giờ được nghe đến. Thí sinh sẽ phát hiện những nguyên lí có thể làm thay đổi xã hội và con người. Thứ ba là lí tưởng sống của người làm nghiên cứu khoa học rất có ý nghĩa. (Tôi có thể nói lại câu này mà không sợ bị chê là “nói ngoa”.) Nói về niềm hân hoan trong nghiên cứu, có một “chân lí” mà có lẽ bất cứ nhà khoa học nào cũng đồng ý: trong các hoạt động của con người nghiên cứu khoa học là lẽ sống có ý nghĩa nhất. Tại sao nhà khoa học phải tiêu ra nhiều giờ trong phòng nghiên cứu, mài mò sách vở, bận tâm với từng con số, quan tâm đến từng biểu đồ, trong khi họ có thể tiêu thì giờ với gia đình để làm cỏ trong vườn, hay tiêu ra thì giờ với bè bạn trong quán cà phê, quán nhậu ?! Đúng là nhà khoa học cũng có thể có một cuộc sống gia đình như hàng triệu triệu người khác, tức là làm những việc trong gia đình như bao nhiêu người khác trên thế giới này, nhưng cái khác nhau là thay vì làm những việc đó, nhà khoa học có thể làm việc trong một phòng thí nghiệm, trong phòng máy tính, trong thư viện, bên giường bệnh với bệnh nhân, hay thậm chí trong chuồng … chuột, v.v… nơi mà họ có thể khám phá những điều thú vị nhất trên đời mà chưa có người nào biết đến. Có thể nói nghiên cứu khoa học là một niềm vui tuyệt đối. Còn gì vui hơn khi khám phá của mình đem lại lợi ích cho hàng triệu người trên thế giới, như khám phá vi khuẩn H. pylori của giáo sư Marshall, người vừa được giải Nobel y học vừa qua. Mục đích thực và chính của việc học hành là để mở mang trí tuệ, trau dồi kiến thức, rèn luyện nhân cách, và làm người hữu ích cho xã hội. Bằng cấp không phải dùng để đo những kết quả trên, mà chỉ là những phân chia đẳng cấp khoa bảng rất tương đối. Bằng cấp, dù là học vị cao nhất như tiến sĩ, chỉ là một bước đầu trong hoạt động khoa học, và tự nó chưa nói đủ về khả năng chuyên môn của nhà khoa học. Tương tự, một học hàm cao nhất như giáo sư cũng không phản ánh chính xác được mức độ đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại. Người trí thức chân chính chỉ nghĩ đến những đóng góp có giá trị nhằm đem lại phúc lợi thực sự cho nhân loại, và không bao giờ phụ thuộc vào học vị, học hàm hay các danh xưng phù phiếm để gây ảnh hưởng trong cộng đồng.
|
|
|
Post by NhiHa on May 3, 2011 13:04:49 GMT 9
"Ưu điểm của Đại học Nghiên-cứu-tập-trung - Đại học của thế kỷ 21" Vietsciences- Trương Văn Tân Gerhard Casper (1937 -) (Hiệu trưởng thứ chín của Đại học Stanford 1992 - 2000) Lời giới thiệu:
Nhân ngày kỷ niệm 100 năm của trường Đại học Bắc kinh (1998), giáo sư Gerhard Casper, Hiệu trưởng trường Đại học Stanford, đã đọc bài diễn văn này tại Đại học Bắc kinh. Đây không phải là một bài diễn văn ngoại giao thông thường, mà là một bài phân tích và nhận xét về vai trò của một "đại học nghiên-cứu-tập-trung" (research-intensive university) dựa trên tinh thần Humboldt. Theo ông, giá trị của tinh thần Humboldt đặt trên căn bản của tự do hàn lâm và sự tương tác giữa nghiên cứu và giảng dạy vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay và cho cả thế kỷ 21. Ông trình bày những kinh nghiệm nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Stanford và giải thích các nguyên nhân đưa đến sự thành công vượt bậc của sự hợp tác khoa học và công nghệ giữa Stanford và Thung lũng Silicon như là một áp dụng thành công của tinh thần Humboldt . Mười hai năm sau đến ngày hôm nay (2010), bài diễn văn hơn bao giờ hết càng làm sáng tỏ vai trò của đại học như một định chế của sự "trác việt hàn lâm" và nguồn đóng góp tri thức và phúc lợi cho xã hội, và cũng là những lời nhắn nhủ đến những người có trách nhiệm trước dấu hiệu suy thoái gây ra bởi việc "doanh nghiệp hóa" và tiêu cực trong giáo dục đại học.
Người chuyển ngữ*** Kỷ niệm 100 năm của Cải cách 1898 tại Trung Quốc và của Đại học Bắc kinh là một sự kiện đặc biệt. Nó xứng đáng để có một cuộc tụ họp của các hiệu trưởng đại học từ khắp nơi trên thế giới. Sự thành lập của trường đại học này đã đánh dấu sự cam kết của Trung Quốc tạo ra một đại học phục vụ cho quốc gia cũng như cho thế giới và thỏa mãn những tiêu chuẩn quốc tế của tính trác việt hàn lâm (scholarly excellence). Nhiều thành quả của Đại học Bắc kinh của thời gian qua – cũng như những năm tháng tuyệt vọng của nó – đều được mọi người biết đến trên toàn thế giới. Ở buổi bình minh của một thế kỷ mới, những ý tưởng ban đầu được đề ra bởi các bậc lãnh đạo tiền bối giờ đây đang ở trong tầm tay. Tôi tự tin điều đó: rằng tất cả sẽ mang đến nhiều lợi ích vì Đại học Bắc kinh đang thu hút những tài năng kiệt xuất của đất nước này để trở thành một trung tâm hàng đầu của sự sáng tạo và đổi mới ở thế kỷ 21. Nhưng, cũng như đại học của tôi và các đại học khác trên toàn thế giới, Đại học Bắc kinh đang đối mặt với một câu hỏi lớn: Những phẩm chất nào cần thiết để phục vụ xã hội bằng sự ưu việt? Đây là đề tài của bài nói chuyện của tôi. Tôi thường xuyên được người ta yêu cầu giải thích về những "bí mật" tạo nên của sự liên hệ giữa Đại học Stanford và Thung lũng Silicon. Thung lũng Silicon đã trở thành một ẩn dụ cho một sự liên hệ hiệu quả giữa một đại học và vùng phụ cận. Và những quan khách thăm viếng Stanford mong muốn được biết những nguyên nhân của sự thành công đó. Câu trả lời không phải nằm ở những bí mật mà Stanford đã khám phá, mà nó nằm ở sự tôn trọng triệt để một số mục đích căn bản nhưng bao quát và những đặc điểm của một Đại học Nghiên-cứu-tập-trung. Trong việc sử dụng cụm từ "Đại học Nghiên-cứu-tập-trung", tôi hiểu một cái gì rất đặc trưng. Những hệ thống của giáo dục đại học đã trở nên cực kỳ đa dạng và đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, nhất là các nhu cầu xã hội về một lực lượng lao động kỹ năng. Những định chế xuất hiện để chấp nhận những thách thức này thường được gọi là "đại học". Không có gì sai về việc này ngoài sự lẫn lộn định nghĩa. Nhưng cái định chế mà tôi nghĩ trong đầu cần phải thỏa mãn ba tiêu chuẩn: tuyển chọn sinh viên; sự chuyên tâm vào việc tìm kiếm tri thức và biểu hiện một tinh thần khảo cứu với óc phê phán (critical inquiry). Một cách đơn giản, tôi gọi đây là một "đại học nghiên-cứu-tập-trung". Tôi không dùng cách gọi "đại học nghiên cứu" như thông thường trong tiếng Mỹ là vì, cũng như sẽ nói rõ hơn ở phần sau, tôi không nghĩ đại học là một cơ sở nghiên cứu, nhưng là một định chế mà trong đó cường độ của việc nghiên cứu là một phần khắng khít của các chức năng truyền thống giáo huấn và học hỏi của đại học. Việc mà đại học nghiên-cứu-tập-trung cần ngay bây giờ, trong khi thế kỷ 21 đang dần dần tiến đến, là suy nghĩ vắt óc hơn về các yếu tố phân biệt nó như một định chế với các định chế xã hội khác liên quan đến việc giảng dạy nhằm làm nổi bật lên đâu là nhiệm vụ độc đáo và lâu dài đối với bản thân đại học và cho xã hội xung quanh. Và cùng lúc với những suy tư liên quan đến những "bật mí" mà tôi đề cập hôm nay, mục đích cốt lõi hơn của tôi là làm sáng tỏ vai trò của đại học cho thế kỷ sắp tới đã được phát họa rõ nét nhất gần 200 năm trước. Để bắt đầu, tôi muốn trở lại thập niên cuối cùng của thế kỷ 19, thời kỳ khi hai truờng Đại học Bắc kinh và Stanford cùng được thành lập. Chỉ tại Mỹ không thôi, ba trường đại học lớn đã được thành lập gần như cùng lúc là: Johns Hopkins, Stanford và Đại học Chicago. Như chúng ta biết, Đại học Bắc kinh là kết quả của cuộc Cải cách Một Trăm Ngày vào năm 1898 và đã được xem là đỉnh cao của một hệ thống giáo dục đa tầng với mục đích hiện đại hóa nền giáo dục và đào tạo quan chức [1]. Hiệu trưởng của một trường đại học Mỹ đến thăm viếng Bắc kinh vào năm 1910 đã quan sát một cách phê phán rằng trường Đại học Bắc kinh ở thời điểm đó "không phải là một kế hoạch quy củ được cảm hứng từ một mục đích cao quý, mà cũng không phải là một mục đích tầm cao được hỗ trợ từ kế hoạch quy củ. Đúng hơn nó là một tiến trình, một cái gì đang thành hình, một thứ gì đó ra đời, mà thứ gì thì cũng rất khó định nghĩa." [2] Đương nhiên, lúc nào cũng đúng đối với tất cả đại học, rằng đại học là một sự "đang thành hình mới", hay như tôi thường thích nói, mọi ngày ở đại học đều là những ngày "đầu tiên". Trong trường hợp của trường Đại học Bắc kinh, người ta thấy rõ từ năm 1917 tiến trình phát triển đã có một định hướng. Ở tại thời điểm này, những nét tương tự giữa Đại học Bắc kinh và Đại học Stanford xuất hiện. Việc bổ nhiệm ông Thái Nguyên Bồi (Cai Yuanpei) vào chức vụ Hiệu trưởng Đại học Bắc kinh đã khiến ông trở nên một người sáng lập thật sự của một đại học đúng với ý nghĩa của nó, một đại học nhanh chóng trở nên trung tâm tri thức hàng đầu của đất nước [3]. Được ảnh hưởng sâu sắc bởi hai lần sống trên đất Pháp và Đức (tại Berlin và Leipzig) với số thời gian tổng cộng gần mười năm, Hiệu trưởng Thái đi tìm một sự tổng hợp những nhân tố châu Âu và Trung Quốc cho nền giáo dục đại học. Chủ trương của ông Thái về tự trị đại học và tự do hàn lâm phản ánh ảnh hưởng trực tiếp của mô hình Đức quốc lên ông [4]. Mô hình này cũng đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc thành lập trường Stanford cũng như Johns Hopkins và Chicago. David Starr Jordan, Hiệu trưởng đầu tiên của Stanford, là một nhà ngư loại học thông triệt tiếng Đức, được thôi thúc bởi tinh thần khảo cứu khoa học (scientific inquiry) như đã được thể hiện bởi Louis Agassiz, một nhân vật gương mẫu của ông. Agassiz lại là “đệ tử” của Alexander von Humboldt. Bức tượng của Alexander von Humboldt và Louis Agassiz hiện vẫn còn đặt trong sân chính của trường Stanford. Còn một mối liên hệ khác, Alexander là người em nổi tiếng của Wilhelm von Humboldt, người đã đảm nhận trách nhiệm tư duy lại các trường đại học Phổ ở đầu thế kỷ 19 và triển khai một mô hình được biết đến là mô hình Humboldt. Cả hai ông Thái và Jordan không những cùng chia sẻ một di sản tri thức trong tư duy về đại học và sự cam kết của họ cho những giá trị của cách tư duy phân tích theo lý tính và tính hiệu quả của phương pháp khoa học [5], mà còn có một thái độ, thoạt nghe như không thật, khá giống nhau về những nhiệm vụ hàn lâm của cá nhân. Như Louis Lubot đã từng viết, xét về tính khí và giáo dục ông Thái là một nhà đạo đức. Ông đã thường nhấn mạnh tác động của các giá trị tân Khổng giáo, như sự tự vấn và tự tu dưỡng, lên cuộc đời của ông [6]. Tương tự, các giá trị của sự tự vấn và tự tu dưỡng cũng đã dược David Starr Jordan nhấn mạnh liên tục. Ông xem chúng như thuộc về những mục đích chính của nền giáo dục đại học, dù rằng, trong trường hợp của ông, những giá trị này hiển nhiên không phải bắt nguồn từ Khổng học, mà từ tư tưởng thế tục của đạo Tin lành với sự nhấn mạnh tầm quan trọng về sự độc lập của cá nhân. Tôi đang nói về những nguồn cội chung đã được chia sẻ, bởi lẽ câu chuyện Stanford (và vì vậy cuối cùng dẫn đến sự liên hệ giữa Stanford và Thung lũng Silicon) không phải là câu chuyện của một đại học rắp tâm muốn trở thành đầu tàu cho sự thay đổi kinh tế trong một vùng hay cả nước. Mà là câu chuyện của một đại học, nhất là trong khoảng thời gian sau Thế chiến thứ 2, đã được xây dựng trên sự cam kết và sự cam kết được tăng cường cho việc giảng dạy và nghiên cứu với chất lưọng cao nhất, và sự theo đuổi đổi mới. Yếu tố thứ nhất của sự "bật mí" liên quan đến mối quan hệ hữu ích giữa Stanford và Thung lũng Silicon là sự cam kết cơ bản của trường trong việc xây dựng một "tháp chuông uyên bác của sự trác việt" cho nghiên cứu, học hỏi và giảng dạy, nhưng không cho việc đào tạo, tự nó, các kỹ sư hay quản lý kinh doanh. Sự cam kết này có thể được truy nguyên đến một cội nguồn cùng được chia sẻ bởi Đại học Bắc kinh và Stanford – đó là Wilhelm von Hunboldt và các trường đại học của Đức ở thế kỷ 19. Năm 1810, Humboldt đã viết một bản ghi nhớ có nhan đề "Về tinh thần và cơ cấu tổ chức của định chế tri thức tại Berlin" đưa đến việc thành lập trường Đại học Berlin. Bản ghi nhớ chỉ dài mười trang giấy, nhưng chứa đựng những suy nghĩ thật hàm súc dường như chưa bao giờ được nói về đại học như là một định chế. Những suy tư này nhất định không bao giờ mất đi ý nghĩa thích đáng của nó, mặc dù từ đó đến nay đã có nhiều thay đổi về quan điểm học thuật cũng như những vấn đề mà đại học đã phải trải nghiệm trong hai thế kỷ qua. Ngược lại, trước tình trạng các trường đại học dường như đang cực kỳ bối rối về sứ mạng của mình trước khi bước vào thế kỷ 21, thật là một việc khẩn cấp khiến chúng ta phải nhìn lại nhiệm vụ cốt lõi của đại học và không bị lệch hướng bởi những người muốn biến đại học trở thành mọi thứ cho tất cả mọi người. Để tiếp tục, tôi xin phép qúy vị cho tôi trích dẫn Humboldt về các vấn đề này. Yếu tố thứ hai của cái bật mí Stanford là mặc dù có vô số những cám dỗ, trường vẫn duy trì một định chế bảo đảm sự kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu, những gì mà nhà trường vốn xem là chủ yếu. Đó cũng là lợi thế của trường. Trung thành với những khái niệm của Humboldt cùng chia sẻ với Đại học Bắc kinh trong giai đoạn thành lập, Stanford đã triển khai một đặc tính định chế bền vững và bất biến ở phần cốt lõi. Humboldt nhận thức rõ rệt quan hệ biện chứng của giữa nghiên cứu và giảng dạy. Ông trình bày quan hệ này bằng một sự diễn tả thẳng thừng như sau: Giảng viên đại học không hiện hữu chỉ vì lợi ích của sinh viên. Cả thầy và trò đều có những lý do chính đáng trong việc cùng truy tìm tri thức. Thành tựu của thầy tùy thuộc vào sự hiện diện và quan tâm của trò – không có điều này thì khoa học và sự uyên bác sẽ không nẩy mầm. Nếu trò không tự nguyện tập hợp nghe bài giảng, thì người thầy phải tìm cách để thu hút trò trong quá trình truy tìm tri thức. Mục tiêu của khoa học và sự uyên bác chỉ được phát huy hiệu quả khi có sự tổng hợp đồng điệu giữa thầy và trò. Trí tuệ của người thầy có phần trưởng thành hơn nhưng cũng có phần phiến diện trong quá trình phát triển; ngược lại, trí tuệ của trò tuy kém khả năng hơn, ít tận tụy hơn nhưng nó lại mở rộng và nhạy cảm trước mọi khả năng [7]. Dù Humboldt đã bỏ ra nhiều công sức để củng cố việc định chế hóa giữa nghiên cứu và giảng dạy trong đại học và nối kết hai khía cạnh này trở thành điều thiết yếu của đại học, nhưng việc nối kết giữa hai lĩnh vực này không thể thực hiện được ở nhiều đại học trên toàn thế giới [8]. Trong những đại học khác, hai việc này đã bị chia cách bởi sự giảm thiểu tài trợ không thương tiếc hay bởi việc di dời bộ phận nghiên cứu đến các tổ chức không phải là đại học (như trong trường hợp của Liên Xô cũ). Sự nối kết cũng tan biến khi việc giảng dạy ở đại học phần lớn được đảm nhận bởi những người không có mối liên hệ trực tiếp đến nghiên cứu. Sinh viên không những được hưởng lợi ích khi được giảng dạy bởi các học giả dấn thân vào niềm đam mê khám phá, mà sự uyên bác học thuật còn được làm giàu thêm khi thế hệ trẻ biết đặt câu hỏi cho nó một cách có ý thức hay thậm chí một cách thật thà. Điều này đương nhiên đòi hỏi phải có những cuộc thảo luận với sự nhiệt tâm trong các buổi học, xemina hay phòng thí nghiệm. Theo tôi, dường như tại các đại học bị tràn ngập bởi chỉ số lượng của sinh viên hay bởi cấu trúc tôn ti, hay tại các quốc gia ở đó việc nghiên cứu bị tách rời toàn bộ hay một phần ra khỏi việc giảng dạy, các động lực sáng tạo tại đó hầu như trở nên hoang phế. Quan điểm Humboldt của tôi về vấn đề này xem chừng có phần triệt để hơn. Việc giảng dạy đại học được đặt trên cơ sở của nghiên cứu đại học – là điều mà mọi nguời đã biết; quan điểm của tôi còn xem việc nghiên cứu đại học hưởng được lợi ích từ công tác giảng dạy, không những từ việc giảng dạy nghiên cứu sinh mà còn cả các sinh viên năm thứ nhất nữa. Phương thức chuyển giao tri thức và công nghệ thành công nhất của đại học nằm ở việc giáo dục những sinh viên ưu tú, những người tự họ dấn thân vào sự truy tìm tri thức – để sau này sẽ nắm giữ những vị trí lãnh đạo trong công nghiệp và kinh doanh. Có thể nói những sinh viên được đào tạo với những trải nghiệm nghiên cứu xuất phát từ nền tảng đại học chắc chắn sẽ tác động lên nền kinh tế hữu hiệu hơn cả những phát minh đáng giá như bằng sáng chế của các nhà khoa học. Vì vậy, thu hút và tương tác với các sinh viên tài năng bằng phong cách không tôn ti là yếu tố quyết định của sự thành công. Về phương diện này, tôi muốn trích dẫn ra đây câu nói của nguyên Trưởng khoa của Khoa Công nghệ Đại học Stanford, Giáo sư James Gibbons. Theo ông, những gì mà sinh viên học hỏi qua việc tham gia nghiên cứu trong quá trình giáo dục đại học, chẳng qua chỉ là "cái năng lực suy nghĩ biết dùng những nguyên tắc cơ bản, và bằng cách đó, sản xuất ra những thành quả mang tính sáng tạo." Quả thật, qua việc tham gia tập trung vào công việc nghiên cứu đại học các nghiên cứu sinh phát triển được phong cách phóng khoáng và tính hiếu kỳ, điều khiến cho họ sau này có khả năng biến những kiến thức mới nhất thành những sản phẩm đầy sáng tạo. Những sinh viên được đào tạo một cách xuất sắc là một cống hiến mang nhiều ý nghĩa nhất mà nghiên cứu đại học có thể làm được cho việc chuyển giao công nghệ. Tôi sẽ trở lại đề tài này trong giây lát. Trong khung cảnh này, khía cạnh quan trọng thứ ba của sự bật mí Stanford cần phải đề cập đến là: quyền tự do của đại học trong việc đề ra chương trình hành động. Tự do hàn lâm là điều kiện tuyệt đối, sine qua non, của đại học. Cũng như Humboldt đã nhận xét một cách tinh tế: "Nét độc đáo của những định chế tri thức cao cấp là quan niệm khoa học và sự uyên bác như là một nhiệm vụ vô cùng tận: điều này có nghĩa các định chế dấn thân vào một quá trình tìm tòi không ngừng nghỉ" [9]. Liên quan đến chính phủ, ông viết: "Nhà nước phải hiểu rằng các công việc tri thức sẽ diễn ra mãi mãi tốt đẹp hơn mà không cần sự hiện diện của nó" [10]. Tuy nhiên, câu nói này rõ ràng không đề cập gì đến tài chính [11]. Tự do hàn lâm có ý nghĩa, trên tất cả, là sự tự do khỏi các ràng buộc chính trị. Và cũng trong ý nghĩa rằng đó cũng là sự tự do khỏi ảnh hưởng của chính trị gia, thì nhìn chung, tình huống này ngày hôm nay đã khá hơn ở thế kỷ 19. Chắn chắn là nhà nước và bộ máy quan liêu của nó ở bất cứ nơi nào cũng sẵn sàng bóp nghẹt mọi sáng kiến và xua đuổi những luồng không khí tươi mát thổi vào. Tự do hàn lâm cũng còn mang ý nghĩa là sự tự do khỏi cái áp lực phải tuân theo của chính bản thân trường đại học. Ngay Humboldt cũng đã từng nhấn mạnh: "Tự do trí tuệ không những có thể bị đe dọa từ chính quyền mà còn từ chính bản thân các định chế trí tuệ vốn tự tạo cho nó một quan điểm nhât định vừa lúc hình thành, rồi sẳn sàng bóp nghẹt sự xuất hiện của các quan điểm khác" [12]. Tuy nhiên, cũng hoàn toàn vô lý nếu tự do hàn lâm được giải thích theo chiều hướng rằng không ai có quyền hoặc bổn phận bắt các giáo sư phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết trong công tác giảng dạy. Thật ra đây là trách nhiệm của chính bản thân trường đại học. Đại học phải liên tục quan tâm đến việc cải thiện chất lượng của trường. Đây là một công việc khó khăn, nhiều lúc cũng không phải thú vị nhưng nó cần đến các nỗ lực của con người, nếu không thì sự toàn thiện sẽ không bao giờ có thể đạt tới. Chúng ta nên mở đầu với ý niệm toàn thiện. Có quá nhiều đại học trên thế giới dường như đã từ bỏ ý tưởng làm việc để tiến đến sự toàn thiện. Trong ý nghĩa này, đại học và các chính trị gia phải quan ngại về sự mất cân bằng tồn tại khắp thế giới giữa năng lực của các đại học nghiên-cứu-tập-trung và số lượng sinh viên. Chất lượng và qui mô có một quan hệ phức tạp. Chắc chắn là việc đem quan điểm về giáo dục như là một hình thức tự học cũng như một hình thức thông hiểu đến đại đa số quần chúng trở nên càng lúc càng cấp bách. Đối với một người của hành động, năng lực tiếp tục đeo đuổi học tập quan trọng hơn việc tích lũy các dữ kiện chỉ để cho việc tham khảo tương lai. Duy chỉ có vấn đề, đại học không phải lúc nào cũng là một định chế hữu hiệu nhất để hoàn thành tất cả mọi thứ này. Cuối cùng, xã hội sẽ bị thiệt hại bởi khi một đại học nghiên-cứu-tập-trung có quá nhiều sinh viên, việc đầu tư vào cái mà các nhà kinh tế gọi là vốn con người rất khó có thể được xem là tối ưu. Gánh nặng số lượng thường làm giảm đi khả năng đại học nâng đở các sinh viên ưu tú và như vậy cản trở việc đòi hỏi khả năng cao nhất từ họ. Đồng thời, đại học xao lãng việc đào tạo những người kém năng khiếu hơn vì đại học không được chuẩn bị gì cho việc này, hay không muốn chuẩn bị nó. Như thế, môi trường văn hóa của sự trác tuyệt không thể xuất hiện một khi đại học bị quá tải. Humboldt cũng chủ trương rằng đại học cần phải có một không gian tĩnh mịch (solitude). Edward Shils, nhà xã hội học vĩ đại của giáo dục đại học, định nghĩa "sự tĩnh mịch" mà Humboldt đã đề xướng là "sự tự do khỏi sự lôi kéo" (freedom from distraction) [13]. Trong thế giới hiện đại, giáo sư, sinh viên và cả trường đại học thường xuyên bị lôi kéo, tự để mình bị lôi kéo, và thậm chí còn đi tìm những cái lôi kéo. Cám dỗ là vô cùng tận. Đại học và những người cộng tác được kỳ vọng thực hiện việc nghiên cứu, giáo dục, hướng dẫn, đóng góp cho xã hội, cống hiến chuyên môn cho doanh nghiệp, tăng tốc sự sáng tạo, trở thành đầu máy của kinh tế, tham gia vào việc cải thiện những điều kiện xã hội dân sinh, đóng góp vào một cuộc sống chất lượng cao hơn và tìm kiếm nguồn tài trợ từ bên ngoài cho nghiên cứu. Cho nên không có gì phải ngạc nhiên, rằng đại học đã trở thành một định chế đáng nghi vấn cao độ. Tình trạng hiện nay không phải chỉ là hệ quả của những yêu sách bên ngoài được áp đặt lên trên đại học. Mà thực ra, thường là những trường hợp đại học bị lôi kéo bởi cám dỗ để rồi đầu hàng nó. Đối với nhiều giáo sư, với trường đại học và thỉnh thoảng với cả sinh viên, nhượng bộ trước cám dỗ sẽ đem lại tên tuổi hay lợi lộc, hoặc cả hai. Điều này thật dễ hiểu. Thí dụ, nếu số phận của một nước – và đứng trước sự toàn cầu hóa ta có thể nói là số phận của bất kỳ nước nào – tùy thuộc vào sự phán xét chuyên môn được thù lao hậu hĩnh của một giáo sư , thì giờ tiếp sinh viên của ông tại văn phòng sẽ chấm dứt, và đấy là cái giá mà chúng ta phải chuẩn bị để trả. Nếu chúng ta không đặt ra giới hạn cho việc này, thậm chí còn chờ đợi nó, thì chúng ta cũng đừng phàn nàn rằng đại học đang mất đi những đặc tính định chế hay rằng nó xao lãng những nhiệm vụ chủ yếu. Những "cám dỗ" là một hiện tượng toàn cầu. Lĩnh vực chuyển giao công nghệ là một trong những nguồn (thu nhập) chủ yếu (của đại học). Hiện có một nhu cầu mang tính toàn cầu là sự nối kết chặt chẽ hơn và sự hợp tác đối tác to lớn hơn giữa đại học và công nghiệp. Như tôi đã đề cập ngay từ đầu, Đại học Stanford và Thung lũng Silicon được xem là mô hình cho những sự hợp tác này. Không có gì phải tranh cãi khi nói đến sự phát triển miền Bắc California là nhờ rất nhiều vào sự hiện diện của các trường đại học, kể cả trường Đại học California vĩ đại, và thiện chí hợp tác của các trường với giới công nghiệp. Thí dụ như việc quen biết giữa Đại học Stanford và doanh nghiệp vào những năm 1950 đã được thực hiện dễ dàng hơn nhờ việc thành lập Công viên Nghiên cứu Stanford nằm cạnh khuôn viên của trường. Chúng tôi đã làm việc tích cực để đăng ký cũng như cho thuê các phát minh. Chỉ riêng những công ty công nghệ cao tại Thung lũng Silicon cũng đã có doanh thu 85 tỉ đô la trong năm 1995, và theo một ước lượng thì 62% doanh thu này có nguồn gốc từ các công ty mà các nhà sáng lập có mối liên hệ với Stanford. Chúng đã tạo ra hàng trăm ngàn công ăn việc làm cho người dân [14]. Ở đây tôi chưa nói đến các doanh nghiệp trên toàn nước Mỹ hay toàn thế giới nơi mà những người tốt nghiệp tại Stanford hay tại các đại học nghiên-cứu-tập-trung khác đã và đang đóng góp. Với các đơn vị như Trung tâm-hệ-thống-tích-hợp Stanford, chúng tôi đã tạo ra sự hợp tác chớp nhoáng giữa đại học và công nghiệp. Tuy nhiên, việc hợp tác theo thể loại này đòi hỏi việc đầu tư tương đối lớn về tiền bạc lẫn thời gian. Trung tâm-hệ-thống-tích-hợp là cơ sở thuộc về đại học Stanford và sở hữu hệ thống các tòa nhà trong khuôn viên đại học, có nhiệm vụ tích hợp lại phần cứng và phần mềm. Trung tâm có 40 giáo sư 200 sinh viên (phần lớn nghiên cứu sinh Tiến sĩ) và có khoảng 10 lĩnh vực hàn lâm và cả 15 công ty thuộc ngành công nghiệp điện tử thế giới có mặt tại đây. Những ưu tiên nghiên cứu của Trung tâm đuợc triển khai từ những buổi họp giữa các nhà nghiên cứu của đại học và công nghiệp: các nhà nghiên cứu của công nghiệp thu thập được những hiểu biết sâu trong thời gian làm việc tại Trung tâm, và ngược lại các nghiên cứu sinh Tiến sĩ hoàn tất quá trình thực tập tại các công ty đối tác. Loại hợp tác đối tác này không phải là cái "cám dỗ" nhưng là sự phong phú hóa, bởi lẽ đại học có cơ hội học hỏi từ các đối tác công nghiệp – và do đó nó tạo thành yếu tố căn bản thứ tư của sự bật mí Stanford. Những cuộc tiếp xúc như thế đã củng cố tinh thần doanh thương và sự hiểu biết sâu rằng công việc chuyển giao công nghệ là một bộ môn "thể thao tiếp xúc thân thể", có nghĩa là, nó biểu hiện thiện chí tương tác cá nhân. Sự trao đổi không mang tính tôn ti là một bộ phận rất tiêu biểu của văn hóa Stanford. Trong một bài thẩm định thú vị về Thung lũng Silicon, Annalee Saxenian, giáo sư trường Đại học California tại Berkeley, đã có một nhận xét tổng quát về điểm này. Tôi xin được trích dẫn như sau: Thung lũng Silicon có một hệ thống mạng lưới công nghiệp vùng khuếch trương việc học hỏi tập thể và sự điều chỉnh linh hoạt giữa các các nhà sản xuất chuyên nghiệp của một liên hợp của những ngành công nghệ liên đới. Những mạng lưới xã hội dày đặc trong vùng và các thị trường lao động mở kích thích việc thử nghiệm và tinh thần doanh nghiệp. Các công ty cạnh tranh gay gắt nhưng đồng thời lại học hỏi lẫn nhau về các thị trường và công nghệ hay biến động qua những cuộc trao đổi không chính thức và những sự cộng tác chung. Ngoài ra, cấu trúc liên kết lỏng lẻo của các tổ làm việc khuyến khích sự trao đổi hàng ngang giữa các đơn vị trong công ty, hoặc với các công ty cung cấp bên ngoài hay khách hàng. Lằn ranh hoạt động trong một công ty như những bức tường mỏng xốp dễ giao lưu của một hệ thống mạng, cũng giống như các lằn ranh giữa các công ty và tổ chức địa phương như hiệp hội thương mại hay đại học [15]. Tuy vậy, ta cũng phải cảnh giác trước những kỳ vọng đơn giản hóa. Trong khi những lằn ranh trong thế giới thương mại phải là những bức tường mỏng xốp, thì lợi điểm của một đại học nghiên-cứu-tập-trung trong việc bồi dưỡng sự sáng tạo nằm trong cái khả năng tạo ra một chương trình hành động và lúc nào cũng cởi mở trước những cơ hội và cơ may khám phá trong nghiên cứu. Stanford liên tục cầu tiến để duy trì sự cởi mở này, và tôi tin các thành quả của việc này chính là yếu tố thứ năm của sự bật mí Stanford. Nếu một đại học nghiên-cứu-tập-trung phải lệ thuộc vào các mệnh lệnh của sự triển khai các thương phẩm hay vào chính sách công nghiệp của nhà nước, thì nó sẽ đánh mất lợi thế đã giành được từ sự cam kết cho quá trình khảo cứu bất tận và truy tìm tri thức (the search to know). Chúng ta cũng nên ghi nhớ rằng sự hỗ trợ từ công nghiệp có một tầm quan trọng to lớn, nhưng, khi tính các phí tổn liên quan, thì nó không thể nào thay thế nguồn tài trợ nghiên cứu của chính phủ. Nghiên cứu cơ bản là một lợi ích công mà giới doanh thương, do định hướng lợi nhuận của nó, chỉ có thể đóng góp một số lượng ít ỏi với phương tiện riêng của mình. Đây là một điều hiển nhiên nhưng tiếc rằng chính phủ thường xuyên lãng quên, nhất là vào các thời kỳ khủng hoảng tài chính. Stanford sẽ không có vị thế như hôm nay nếu không có những tài trợ của chính phủ từ thời kỳ Thế chiến thứ hai đến nay. Ở thời điểm khởi đầu của thế kỷ 21, để có thể đóng góp vào phúc lợi xã hội, đại học nghiên-cứu-tập-trung vẫn cần phải cố gắng tái tạo hình ảnh gần cái mô hình lý tưởng được định nghĩa vào những năm đầu của thế kỷ 19. Tuy nhiên, đại học như là một định chế đang bị ảnh hưởng sâu đậm bởi nền công nghệ tin học. Nền công nghệ này đang định lại vai trò của đại học và mối liên hệ giữa đại học và xã hội vượt qua những gì mà Humboldt và những nhà sáng lập Đại học Standfod và Bắc kinh có thể tưởng tượng. Công nghệ tin học đang tiến triển quá nhanh đến nỗi tôi không thể xem sự tinh thông trong lãnh vực này như là một trong những yếu tố bật mí của Stanford. Tuy vậy, tôi có thể nói rằng khả năng của chúng tôi giải quyết thành công những vấn đề nổi cộm được đặt ra sẽ là yếu tố quan trọng cho tưong lai của trường, tương đương như bất cứ một trong năm yếu tố bật mí cho sự phát triển mà tôi đã trình bày ngày hôm nay. Tôi muốn tập trung đặc biệt vào bốn lĩnh vực. Thứ nhất, Mạng-lưới-toàn-cầu (World Wide Web) là một nguồn thông tin bách khoa, một thư viện và cũng là kho lưu trữ. Ngày nay, ngân hàng dữ liệu với những thông tin khoa học, nhân khẩu, kinh tế và chính trị có thể tiếp cận được khắp nơi trên thế giới, kể cả những quyết định luật pháp cũng như cả báo chí. Các nhà nghiên cứu có thể tìm bản liệt kê mục lục thư tịch của nhiều thư viện đại học mà không cần phải thực hiện cuộc hành trình đi đến thư viện đó. Toàn bộ nguyên bản của văn học thế giới có thể sử dụng được trực tuyến càng lúc càng nhiều, cũng như các tạp chí học thuật và những bài báo cáo chuyên ngành. Toàn thể kho lưu trữ cũng được tạo ra khắp thế giới: tư liệu chính phủ có thể tìm thấy trọn vẹn, hình ảnh có thể tái tạo, phim hoặc tài liệu ghi âm có thể được tải xuống. Vì các cơ sở dữ liệu này có thể tìm được trên mạng với những chi tiết đặc trưng cao độ, và cũng vì những nối kết với những mạng và tài liệu quan trọng đều dễ tìm, nó đã mang lại nhiều khả năng nghiên cứu mà cách đây không lâu ta chỉ nhìn thấy trong mơ. Mạng-lưới quả thật tuyệt vời, vô hạn, mạnh mẽ và rộng mở. Nhìn từ quan điểm của đại học, cái quan trọng là Mạng-lưới-toàn-cầu, đuợc sử dụng như một nguồn thông tin, một thư viện và kho lưu trữ, không cần đến một địa điểm cụ thể trong đại học, cho nên chức năng của đại học như là một người xếp đặt các kiến thức và thông tin hầu như phải chấm dứt sứ mệnh của nó. Thứ hai, lĩnh vực giảng dạy gần đây đang chuyển mình theo những thay đổi gây ra bởi những phương pháp và các phương thức truyền thông mới. Trong một tương lai gần, "bài giảng" trên bục sẽ được thay thế bằng lối "trình bày" tương tác trong một "giảng đường" ảo được thực hiện tại lớp học hay một địa điểm khác. Khía cạnh thứ ba là quan trọng nhất. Nó vừa giải phóng và cùng lúc đe dọa sự tồn tại của đại học nghiên-cứu-tập-trung. Vì những hạn chế về thời gian và không gian không còn là chướng ngại, những gì gắn liền với việc giảng dạy đại học bởi những hạn chế này cũng biến mất. Giảng dạy trực tuyến đang bắt đầu trở thành hiện thực chứ không còn phải là những ức đoán nữa. Thí dụ như tại Stanford, chúng tôi giảng dạy toán cao cấp cho các học sinh trung học năng khiếu trên toàn thế giới học tại các trường không cung cấp bộ môn này. Số lượng tài liệu giảng dạy trên Mạng-lưới-toàn-cầu tiếp tục gia tăng. Mỗi sinh viên sống tại bất kỳ quốc gia nào, nếu họ có thể trả học phí thì có thể được nhận vào học tại đại học với lối "giảng dạy ảo" (cyber instruction). Sự cạnh tranh quốc tế sẽ dẫn đến một cơn hồng thủy mà Sự cạnh tranh quốc tế sẽ dẫn đến một cơn hồng thủy mà sự độc quyền (tự) thẩm định, trắc nghiệm và cấp bằng không thể nào bị ngăn chặn nổi. Đặt trong một bối cảnh về những gì tôi đã nói ở phần trên về tầm quan trọng của việc nối kết giữa nghiên cứu và giảng dạy, chúng ta phải rất thận trọng trước khi chúng ta chấp nhận diễn biến này như có giá trị tương đương với một đại học với trường sở hẳn hoi hay không. Cuối cùng, khía cạnh thứ tư là các nối kết điện tử giữa học giả và sinh viên trên toàn thế giới đã cho phép sự truyền đạt tức thời những giả thuyết trong nghiên cứu cũng như kiểm sai (falsification) và bác bỏ tức khắc, hay xemina được thực hiện ở nhiều địa điểm khác nhau. Như vậy, những bức tường của tất cả đại học càng lúc càng trở nên mỏng xốp. Tôi hoan nghênh sự phát triển này vì nó đang bắt đầu hiện thức hóa cái giấc mơ cổ đại: nền "cộng hoà kiến thức" (“nền cộng hòa uyên bác”) toàn thế giới và một cộng đồng học giả toàn cầu.
|
|
|
Post by NhiHa on May 3, 2011 13:06:19 GMT 9
Khi tất cả mọi việc đã được bàn luận và thực hiện, sự đo lường cuối cùng của đại học vẫn là sự cống hiến của những thành quả nghiên cứu vào phúc lợi con người. Trên phương diên này, đại học của thế kỷ 21 cần phải được cân đo bằng những mẫu mực (tiêu chuẩn) truyền thống. Năm 1954, cựu tổng thống Hoa Kỳ Herbert Hoover, một cựu sinh viên Stanford, bằng những lời lẽ hùng hồn đã khơi dậy những đặc điểm của đại học và những gì chúng có thể đóng góp. Dịp phát biểu đó là lúc ông được truy tặng học vị danh dự của trường Đại học Tübingen (Đức), được thành lập năm 1477. Ông nói: Bằng sự giao lưu tự do của những ý tưởng giữa các đại học, chúng ta dệt được những tấm thảm vĩ đại của tri thức. Truyền thống học thuật của chúng ta đã phát triển đuợc một hệ thống đặc biệt hữu hiệu trong việc phát hiện những tài năng đặc biệt và cho họ hoạt động trong một môi trường nuôi dưỡng tư duy độc đáo và sáng tạo. Phần lớn những khám phá vĩ đại tìm ra định luật tự nhiên là thành quả chung của nhiều phân khoa và phòng thí nghiệm đã cùng tạo nên môi trường thích hợp dành cho việc nghiên cứu khoa học trừu tượng. Những ứng dụng của các khám phá này được thấy qua phát minh và sản xuất là công lao của kỹ sư và kỹ thuật viên mà chúng ta đã đào tạo. Khoa học ứng dụng sẽ nhanh chóng cạn kiệt nếu chúng ta không duy trì được những nguồn khám phá của khoa học thuần túy. Từ những hoạt động song đôi của các nhà khoa học và kỹ thuật gia, một dòng suối phúc lành vĩ đại của sức khỏe, tiện nghi và của cuộc sống tốt và thoải mái đang chảy đến tất cả dân tộc [16]. Hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh để giải thích tại sao Stanford, một phần của dòng chảy vĩ đại đó, không một chút gì bí ẩn nhưng lại rất nhiều gắn bó với những đặc tính và mục tiêu căn bản của một trường đại học nghiên-cứu-tập-trung. Cam kết xây dựng "tháp chuông trác tuyệt" trong nghiên cứu, học hỏi và giảng dạy; đề cao sự kết hợp giữa giảng dạy và nghiên cứu như chúng ta đang làm mặc cho vô vàn cám dỗ; có tự do trong việc sắp đặt chương trình hành động; tìm đối tác công nghiệp không phải như sự phân tâm mà để làm phong phú cho quá trình nghiên cứu; duy trì những lằn ranh thông thoáng để giao lưu; và biết mở rộng lòng trước những cơ hội và cơ may trong nghiên cứu – đó là những cái bật mí của Stanford. Nguồn của chúng chính là dòng suối chung mà từ đó Đại học Stanford và Đại học Bắc đã cùng hình thành, và cũng từ đó bao phúc lành vẫn tiếp tục tràn ngập đến hai đất nước của chúng ta và cả toàn thể nhân loại, trong thế kỷ 21. Xin cám ơn qúy vị. Trương Văn Tân và Nguyễn Xuân Xanh chuyển ngữ (Trích từ "Kỷ yếu đại học Humboldt 200 năm – Kinh nghiệm Thế giới & Việt Nam")
Tài liệu tham khảo
1. Ruth Hayhoe, China's Universities and Western Academic Models, in Philip G. Altbach and Viswanathan Selvaratnam (eds.), From Dependence to Autonomy: The Development of Asian Universities, Kluwer Academic Publishers (1989), 37.
2. Charles F. Thwing, The Imperial University of Peking, The Independent 69 (September 1910), 573.
3. Eugene Lubot, Peking University Fifty-Five Years Ago: Perspectives on Higher Education in China Today, Comparative Education Review 17 (vol. 1), 48-49.
4. Ruth Hayhoe, China's Universities 1895-1995: A Century of Cultural Conflict, Garland Publishing, Inc. (1996), 45.
5. As to Cai, see Lubot, 46.
6. Lubot, 45.
7. Wilhelm von Humboldt, On the Spirit and the Organisational Framework of Intellectual Institutions in Berlin, Minerva VIII: 2 (April 1970), 243f.
8. See Edward Shils, The Idea of the University: Obstacles and Opportunities in Contemporary Societies, Minerva XXX: 2 (Summer 1992), 301.
9. Humboldt, 243.
10. op cit., 244.
11. ibid.
12. op cit., 246, with some changes for clarity.
13. Shils, 309.
14. Joan Hamilton, Circuits of Knowledge, Stanford (May/June 1996), 48.
15. Annalee Saxenian, Regional Advantage: Culture and Competition in Silicon Valley and Route 128, Harvard University Press (1996), 2-3.
16. Herbert Hoover, Addresses Upon The American Road 1950-1955, Stanford University Press (1955), 95.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 5:22:16 GMT 9
Nghĩa vụ làm bồi thẩm ai ơi ! Trịnh Thanh Thủy Tôi sắp đi nghỉ hè bỗng dưng nhận được giấy gọi đi làm bồi thẩm viên, mà ngày phải trình diện chỉ trước đó hai tuần. Thật không gì phiền phức hơn, nỗi bực dọc như đá đeo ngàn cân canh cánh bên lòng. Nhân lúc trò chuyện cùng một nhóm bạn bè trên mạng, thế là tôi tuôn ra dòng tâm sự. Không ngờ bạn bè ào ào phản hồi lại rôm rả còn hơn pháo nổ ngày tết. Người này chỉ cách giả vờ không nói tiếng Anh thạo để xin miễn trừ. Người kia chỉ cách cáo bệnh với giấy bác sĩ để khỏi phải đi. Người nọ bảo, nên xin trì hoãn rồi sẽ đi sau vì ấy là nghĩa vụ. Người thú thật, "Gặp em, em cứ quăng vào thùng rác, nếu họ bắt thì nói là không nhận được. Em làm 5, 6 năm nay rồi có sao đâu, họ tưởng là em không còn ở địa chỉ đó. Máy tính nó lựa mà chị, chị không đi nó bắt người khác đi, còn biết bao người. Vả lại nếu toà án muốn bắt đi, nó phải cho cảnh sát đem trát toà tới tận nhà, nó không rảnh làm chuyện đó đâu". Điện thư cứ bay tới bay lui rối mù cả lên. Ngẩm nghĩ kỹ lại, trong đời sống một người công dân Hoa Kỳ, tôi thấy hình như ai cũng đã từng có lần né tránh nghĩa vụ đi làm bồi thẩm. Theo một cuộc khảo cứu lần đầu của National Center for The state Courts vào tháng tư 2007, ở Hoa Kỳ chỉ có khoảng 46 % công dân Mỹ trình diện khi bị gọi đi làm nghĩa vụ bồi thẩm đoàn. Phần còn lại thì không đi, xin miễn trừ hay bị loại trừ vì nhiều lý do như bệnh hoạn, gặp khó khăn tài chánh, sở làm không chịu trả chi phí cho việc đi làm bồi thẩm, quân nhân, cảnh sát, lính cứu hoả hay thơ đi lạc..v..v... Ở Washington DC, tòa án cho giấy gọi những người không trình diện ra toà, bắt giải thích tại sao, lý do không hợp lý sẽ bị bỏ tù 7 ngày và phạt 300 đô. Ở quận Tulare, Cali, cảnh sát tới từng nhà người không trình diện, đưa trát ra hầu toà và bắt cắt nghĩa lý do tại sao không đi. Tổng Thống cũng bị gọi đi làm bồi thẩm như bất cứ ai khác, nhưng vì công vụ ông ta có thể được trì hoãn hay miễn trừ. Ở Úc, số người tránh né làm nghĩa vụ này không thua Hoa Kỳ chút nào, khiến bộ trưởng tư pháp Bob Debus phải yêu cầu Ủy Ban Cải Cách Luật Pháp Úc xem xét lại các lựa chọn để gia tăng lực lượng dự trữ các bồi thẩm viên. Ông muốn giảm bớt danh sách các sự miễn trừ và xét lại đạo luật Jury Act vì bổn phận làm bồi thẩm đoàn là trách nhiệm của tất cả công dân Úc. Những người trong danh sách loại là những người không đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong hội thẩm đoàn gồm các thành viên của lưỡng viện quốc hội, các viên chức tòa án và các luật sư. Những người có quyền để xin miễn trừ gồm giới tăng lữ, những người hành nghề chữa bệnh, các nha sĩ, dược sĩ, tù nhân và những người trên 70 tuổi..v..v.. Là công dân một nước dân chủ, người dân được hưởng và đòi hỏi các quyền hạn nhưng cũng phải thực thi những trách nhiệm. Bản chất của hành động dân chủ là sự tham gia của công dân vào đời sống chính trị của cộng đồng và đất nước họ một cách tự do, chủ động và hòa bình. Tham gia vào bồi thẩm đoàn tại các tòa án dân sự, người dân sẽ dự phần vào những vấn đề quan trọng mà xã hội đang phải đối mặt. Chỉ có vậy họ mới có thể biểu quyết một cách sáng suốt. Người Việt hải ngoại ở Hoa Kỳ thì sao? Tôi trộm nghĩ, từ khi được định cư và trở thành công dân Mỹ chắc con số người né tránh nghĩa vụ này phải là cao lắm. Không kể những đứa bé sinh ra ở Mỹ, phần lớn những người đã nhập tịch phải đối đầu với vấn đề Anh ngữ khi nghĩ đến việc đi làm bổn phận này. Không đơn giản giống như đi bầu, làm "jury duty" nó đòi hỏi người công dân không những thành thạo tiếng Anh, dồi dào kinh nghiệm sống trên đất Mỹ, mà nó còn đòi hỏi người tham dự hiểu biết không ít thì nhiều những kiến thức căn bản về luật pháp. Một công dân sinh ra tại Mỹ, lớn lên được giáo dục dưới mái trường của một quốc gia dân chủ, người này được thụ hưởng nếp sống văn hoá dùng Anh Ngữ như tiếng mẹ đẻ sẽ không gặp trở ngại khi ngồi trong một phiên toà để nghe và hiểu mọi tình huống xảy ra chung quanh mình. Một người Việt vừa nhập tịch với mớ tiếng Anh giới hạn, sẽ cảm thấy khó khăn lắm khi phải góp phần ý kiến của mình vào những bản án quyết định sự có tội hay vô tội của một bị cáo. Các sắc dân mới nhập tịch khác cũng vậy. Khi đi làm bồi thẩm viên ở Cali, tôi thấy những người xin miễn trừ với lý do không thạo Anh Ngữ thường là người Á Đông hay Mễ Tây Cơ. Nhưng ngày nay, lý do xin miễn trừ vì kém tiếng Anh rất khó được chấp nhận. Ngoài ra những lý do tránh né khác cũng bị duyệt xét gắt gao. Tôi có một cô bạn được phỏng vấn để lựa chọn làm bồi thẩm cho một vụ án hình sự của một phụ nữ giết chồng. Cô không muốn lọt vào vụ này vì những vụ hình sự thường kéo dài, có vụ dài tới một, hai năm. Cô nói với quan tòa khi luật sư của bên bị cáo phỏng vấn để chọn Jurors, "Tôi đến từ một xứ suốt chiều dài lịch sử hầu như đều là chiến tranh, nên tôi rất ghét bạo hành, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không vô tư". Cô yên chí là thoát. Nhưng khi ra khỏi phòng phỏng vấn cô mới hay họ bắt cô phải đi ngay đến một toà khác để nhập vào một vụ phạm luật gì đó. Thế là cô phải ngồi chầu chực chờ gọi tên. Cô than thầm "Biết vậy ở lại cho rồi, vụ hình sự còn được nghe những tình tiết éo le đỡ chán hơn" . Từ đó cô không tránh né nữa. Trông vào cái cảnh người mình, ai cũng sợ đi làm bồi thẩm, một người bạn tôi ở Canada tỏ ra không tin tưởng mấy vào việc xử án theo hệ thống (hay chế độ) bồi thẩm đoàn. Anh cho rằng, phương thức bồi thẩm đoàn có nhiều khuyết điểm và lỗi thời. Theo anh, nó có nhiều yếu điêm như sau: 1) Việc xử án dựa trên phán quyết của bồi thẩm đoàn là không công bằng. Một bị cáo bị kết tội hay được tha bổng bởi mười hai bồi thẩm viên (jurors), mà những người này hoàn toàn không có kiến thức căn bản về pháp luật là một việc bất xứng giống như giao việc chuyên môn cho một người không chuyên vậy. Vì thế khi một vị quan toà trong diễn trình chọn, giải thích và hướng dẫn bồi thẩm đoàn, khó có thể thực hiện được toàn hảo vì những người bồi thẩm không chuyên môn. Họ lớn lên trong những môi trường khác nhau và có những lý lịch, kiến thức, quan niệm sống hoàn toàn khác nhau. Cái nhìn của các bồi thẩm viên lại không đồng nhất nên trong việc nghị án, chính họ thường phải đấu trí để thuyết phục lẫn nhau, nếu không sẽ bị bế tắc. Kết luận của bồi thẩm đoàn phải là đồng thanh thỏa thuận (100% phải đồng ý, unanimous verdict), nếu có một người trong 12 người nhất định không theo kết luận của đa số cũng không được. Quan tòa sẽ (phải, buộc) tuyên bố vụ án vô kết quả, người bị kiện có thể ra về. 2) Khi có các vụ án gay go tạo nên nhiều tranh luận trong dân chúng, thì các viên chức tư pháp liên hệ có thể "trốn tránh trách nhiệm" bằng cách dàn xếp thoả thuận với nhau về một nhóm bồi thẩm đoàn nào đó mà cách xét xử của họ ta có thể đoán trước được. Giống như trong vụ án O.J. Simpson để tránh phiền toái gây náo loạn, người ta dàn xếp cho 9 trong số 12 bồi thẩm là phụ nữ da đen, số còn lại là một Latino và hai da trắng. Và như vậy khỏi cần xử, ta cũng có thể đoán biết kết quả. Tôi thấy các bồi thẩm viên này bất xứng. 3) Ở Canada, trong "Hiến Chương nhân quyền" người dân có quyền chọn xử bench trial(chỉ có một vị quan toà, công tố và luật sư) hay jury trial(với bồi thẩm đoàn). Trong các vụ hình sự, nếu bị cáo bị buộc tội phải tù ở 5 năm trở lên có quyền chọn hệ thống bồi thẩm đoàn. Ở Mỹ tất cả các vụ án hình sự bị quy tội ở tù từ 6 tháng trở lên có thể đòi hỏi sự tham dự của bồi thẩm đoàn. Việc triệu tập các bồi thẩm và đợi các ý kiến của họ để tuyên án làm mất thì giờ và hay bị trì trệ.(đôi khi họ mắc bệnh giữa chừng, phải có người dự khuyết thay thế) 4) Anh, Mỹ và Canada là các quốc gia áp dụng hệ thống Common Law tức Thông Luật hay Luật Tục, đặt căn bản trên án lệ, tiền lệ hay các tập quán, tập tục. Trong khi Civil Law( Luật dân sự hay dân luật) được áp dụng ở Âu châu là hệ thống dựa trên những bộ luật mà trong đó đề ra các nguyên tắc chính để hướng dẫn chung về luật. Khác biệt chủ yếu thường được đưa ra giữa hai hệ thống này là ở chỗ Thông Luật đề ra các quy tắc trừu tượng từ các vụ việc cụ thể, trong khi dân luật bắt đầu từ các quy tắc trừu tượng để sau đó các quan tòa hay trọng tài phải áp dụng các quy tắc đó cho các vụ việc cụ thể. Khi các bồi thẩm đoàn ở Mỹ phải xét xử dựa theo Thông Luật thường gặp khó khăn vì hệ thống này rất coi trọng các nguyên tắc tiền lệ mà các nguyên tắc này rất khó áp dụng. Anh bạn tôi đưa ra một câu hỏi "Nếu bạn phạm tội, bạn sẽ yên lòng khi giao số mạng mình cho một vị quan toà thạo luật định đoạt hay cho 12 người bồi thẩm viên không chuyên?". Anh thêm, nếu là 3 vị quan toà thì hay hơn vì sẽ công bằng và nhất quán hơn. Ý kiến của anh bạn sống ở Canada, bị ý kiến của những người ở Mỹ, từng đi làm nghĩa vụ bồi thẩm phản kháng và tôi ghi nhận được trong cuộc tranh luận như sau: 1) Bạn ở đâu sẽ bị chi phối với hệ thống luật pháp xứ đó. Phương pháp dùng bồi thẩm đoàn để xử kiện được hình thành và áp dụng ở Mỹ, Anh, Úc, Canada và một vài xứ khác. Hệ thống này tồn tại từ xưa đến nay và luật pháp Mỹ chưa bao giờ đặt vấn đề bỏ jury duty. Chuyện dân Mỹ bị gọi đi làm nghĩa vụ bồi thẩm thì la làng hay tìm cách trốn lánh chỉ vì họ bị đảo lộn trật tự cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên khi đi trình diện thì họ làm đến nơi đến chốn vì trình độ dân trí và ý thức về trách nhiệm của họ cao. Kiến thức về luật pháp của họ rất khá không phải họ không biết gì về luật pháp đâu. Trình độ học vấn thông thường một công dân Mỹ là xong bậc Trung Học. Ở học đường họ được giáo dục về những điều căn bản của luật pháp. Đời sống thường hằng của họ cũng phải đối đầu với toà án rất thường. Từ những vi phạm về giao thông phải ra toà, hoặc các vụ ly dị gia đình, các kiện tụng cá nhân vặt vãnh nho nhỏ đến các vụ làm ăn va chạm phải mang nhau ra cửa công, người Mỹ còn được dự kiến những phiên toà được xử trên Ti Vi như những phương cách giáo dục luật pháp công cộng. Do đó nếu bảo họ không biết gì là sai. Họ không được chuyên nghiệp thì điều đó đúng. Vì vậy vai trò của người chánh án là giải thích, điều khiển, và điều hành phần thủ tục pháp lý trong phiên tòa. Tỷ như nhân chứng nào được ra làm chứng, luật sư có quyền hỏi những câu gì, và không được hỏi những gì. Nhiều vị quan toà đã tỏ ra rất lịch sự và khích lệ tinh thần mọi người bằng những câu chuyện đại khái như "Có một quyển sách viết về hệ thống luật pháp kể rằng: Các quan toà, cảnh sát, luật sư, công tố viên làm quá lâu trong phòng xử, ngày nào cũng như ngày ấy, nói, thấy, làm cùng một việc, họ trở nên chán ngấy. Bồi thẩm đoàn là những người ở khắp nơi, đến từ mọi tầng lớp xã hội giúp họ thấy được sự khác biệt, mang sự tươi mát đến cho họ. Đó là lý do tại sao jurors được mời vào phòng xử, hy vọng các jurors có thể dùng sự thông minh hiểu biết giúp cho họ giải quyết những vấn đề bị bế tắc". Những lời khôn khéo nâng cao giá trị con người này, ai nghe mà không cảm thấy mình quan trọng hẳn lên chứ. Khi người juror đã chấp nhận công tác bồi thẩm, thì đến phiên luật sư 2 bên thẩm vấn bồi thẩm để bảo đảm tính trung thực & vô tư. Họ thường đặt những câu hỏi rất khéo léo và chọn những người biết suy nghĩ, chứ không phải những người có thiên kiến. Luật sư có quyền không chấp nhận một người nếu cảm thấy họ không khách quan và có thể bất lợi cho phe của mình. Hai bên thay nhau thẩm vấn, cho đến khi nào cùng thống nhất về một bồi thẩm đoàn. Họ còn có bổn phận phải trình bày sao cho bồi thẩm đoàn hiểu về vụ kiện của mình, bao gồm cả việc "dạy" họ về những khái niệm chuyên môn. Thông thường tòa tiểu bang có 6 người, và tòa liên bang có 12 người. Vai trò của bồi thẩm đoàn là nghe, phân tích & đánh giá về vấn đề trung tâm của vụ án. 2) Nói đến việc kinh nghiệm và kiến thức của 12 bồi thẩm viên khác nhau khó cho một quyết định đồng nhất. Nó có thể là yếu điểm nhưng lại là ưu điểm của họ. Vì thế tinh thần dân chủ của một nước tự do mới được thực thi. Nó còn tập cho bồi thẩm đoàn tinh thần đồng đội và trách nhiệm mà lúc nào người Mỹ cũng áp dụng trong công sở hay học đường. Mười hai công dân, đại diện cho 12 ý kiến đến từ các tầng lớp xã hội, các trình độ giáo dục cao thấp riêng rẽ, có màu sắc khác biệt của từng sắc tộc, đó mới chính là cái hay của hệ thống bồi thẩm đoàn. Nếu chỉ có một vị quan toà biết luật có quyền phán quyết, dễ dẫn tới sự chuyên quyền. Quyết định của một người không bằng quyết định của nhiều người. Nếu bạn giao sinh mạng của mình vào tay những người này đôi khi bạn còn được xử theo tình cảm chứ nếu bạn để cho một hay ba vị quan toà chuyên nghiệp rành rẽ luật pháp xử, bạn có nhiều cơ hội bị xử thẳng tay. Xui hơn nữa, bạn gặp phải những quan tòa thích áp dụng luật lệ một cách gay gắt, nặng đầu óc kỳ thị giới tính, sắc tộc hay có mầm mống lạm quyền hoặc tham nhũng, bản án sẽ không còn ở mực độ công minh. Cái hay trong cách xử này của Mỹ nghiêm về "lý" nhưng lại bị "tình" quyết định. Có những vụ án về lý sai hoàn toàn nhưng lại hợp tình. Nếu là Thẩm Phán những người am hiểu về pháp luật, họ sẽ xử nặng về lý hơn và phán có tội, nhưng nếu là Bồi Thẩm viên họ không chuyên về pháp luật, thấy sai về lý nhưng hợp tình họ có thể phán vô tội. Do đó Bồi Thẩm đoàn thể hiện bản chất "nhân đạo" trong hệ thống luật pháp của Mỹ. Còn việc diễn tiến vụ án bị trì trệ hay chậm chạp vì bồi thẩm đoàn thì thà chậm còn hơn xử gấp gáp rồi bị cáo bị xử oan. Thực ra không có hệ thống luật pháp nào toàn hảo nhưng thà có những bồi thẩm đoàn bất xứng còn hơn các vị quan toà bất xứng. Cuối cùng những người bạn tôi kết luận, nếu bạn không thích đi làm nghĩa vụ bồi thẩm thì khi người thân bạn hay bạn bè bạn hay chính bản thân bạn khi có việc xảy ra phải đứng trước vành móng ngựa sẽ thấy hiệu quả của việc này. Nghĩa là những bồi thẩm viên xử bạn ngồi ở phiên toà có đủ mọi sắc dân, đủ mọi trình độ mà không có người nào đại diện cho sắc dân của bạn. Sự kỳ thị nếu có, thì bạn ráng chịu, hay người thân, bạn bè bạn ráng chịu bởi không có ai gióng lên tiếng chuông, nói lên tiếng nói bảo vệ, thông cảm cho hành vi phạm tội của bạn nếu bạn bị oan. Trịnh Thanh Thủy
|
|
|
Post by Can Tho on May 26, 2011 3:34:44 GMT 9
Nên cẩn thận với thuốc generic
Vietsciences-Võ Ngọc Phước Trong ngành Âu dược, thông thường một bằng sáng chế thuốc chỉ có hiệu lực 20 năm. Cho nên sau khi một loại thuốc gốc mà bằng sáng chế đã hết hiệu lực, chính quyền sở tại ở một nước có quyền cho phép các nhà bào chế thuốc trong nước sản xuất loại thuốc đó, nhưng phải dựa trên công thức, thành phần nguyên liệu có hoạt tính trị liệu căn nguyên bệnh và qui trình chế tạo như đã qui định trong bằng sáng chế thuốc gốc, Trên nguyên tắc căn bản, thuốc phải có công hiệu trị liệu tương đương với thuốc gốc. Loại thuốc được chế tạo hợp pháp như thế này gọi chung là thuốc generic. Vì không phải mất các phí tổn vô cùng to lớn đầu tư ban đầu cho đội ngũ nhân viên nghiên cứu và thiết bị trong công trình nghiên cứu, thí nghiệm, kiểm nghiệm lập đi lập lại nhiều lần để đạt được thành công cuối cùng, cho đến các thủ tục hành chính để có được phép chính thức đưa ra lưu hành trên thị trường cho một loại thuốc gốc mới ( thông thường tất cả thời gian phải mất là khoảng 5 đến 10 năm ), thuốc generic, vì vậy, có gíá thành chế tạo cũng như giá bán rẻ hơn thuốc gốc rất nhuều. Phải biết là do các phí tổn cao đầu tư ở công trình nghiẽn cứu nên một số thuốc gốc để điều trị các bệnh hiểm nghèo hay bệnh khó điều trị thường có giá bán cao. Mỗi viên thuốc gốc loại này thường được bán trên thị trường trên dưới 10 dollar Mỹ, trong khi nếu là thuốc generic thì giá bán sẽ rẻ hơn rất nhiều so với gíá thuốc gốc. Cũng phải nói là nhờ sự sản xuất thuốc generic mà bệnh nhân cũng như các cơ quan y tế ở các nước không có thu nhập cao đã có cơ hội để chữa trị các bệnh hiểm nghèo hay khó điều tri, mà trước đây không thể sử dụng được vì gíá phải mua quá cao. Cũng nhân cơ hội này, các nước đã có cơ sở sản xuât dược phẩm, nhất là các nước ở Á Phi, châu Mỹ La Tinh cũng có dịp để sản xuất hợp pháp thuốc generic sau khi được phép của chính quyền sở tại để vừa cung cấp cho thị trường trong nước, lại vừa có thể bán ra thị trường các nước khác. Như vậy trên nguyên tắc, thuốc generic không phải là thuốc giả, vì thuốc giả là thuốc đuợc làm ra từ các cơ sở sản xuất bất hợp pháp, dù có hình thức bên ngoài giống như thuốc gốc nhưng không có thành phần nguyên liệu hoạt tính hay qui trình bào chế tuân theo bằng sáng chế thuốc gốc qui định; ngoại trừ trường hợp thuốc generic có sự giả mạo việc ghi chú trên nhãn hiệu về cơ sở hay quốc gia sản xuất, chẳng hạn như đã sản xuất tại nước A mà ghi là nước B. Về công hiệu điều trị thì thuốc giả, ngoài việc không có công hiệu điều trị, còn có thể tạo ra các tác hạị nguy hiểm cho người sử dụng.vì các thành phần nguyên liệu trong thuốc giả. Cho nên chính quyền sở tại của mỗi nước cần phải có mọi biện pháp pháp luật triêt để để chận đứng một cách hiệu quả việc lưu hành thuốc giả để bảo đảm an toàn sức khoẻ cho người dân, như việc triệt để không cho phép buôn bán thuốc ở tất cả các nơi không phải là nhà thuốc được nhà nước cho phép hoạt động. Về thuốc generic, tuy trên nguyên tắc nói là có công hiệu như thuốc gốc, nhưng trên thực tế thì không phải thuốc generic nào cũng có công hiệu tương đương như thuốc gốc. Dù căn bản là thuốc generic được bào chế dựa trên qui định của bằng sáng chế thuốc gốc, nhưng ở mỗi nước có sự khác biệt về cơ sở, thiết bị để bào chế thuốc, cũng như phẩm chất của nguyên vật liệu sử dụng, trình độ kỹ thuật của đội ngũ công nhân viên, trình độ quản lý sản xuất, kỹ thuật bảo quản nguyên liệu, chế phẩm…, nên phẩm chất của cùng loại thuốc generic khó có thể giống nhau được. Người ta thường nhận thấy tuy cùng một loại thuốc generic, nhưng khi được chế tạo tại một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm ở một nước Tây Âu, vì căn bản phải chịu sự quản lý kỹ càng của cơ quan chính quyền sở tại và có kinh nghiệm cũng như trình độ kỹ thuật sản xuất cao, nên phẩm chất của thành phẩm có phần bảo đảm hơn cùng loại thuốc generic được chế tạo tại một cơ sở dược phẩm địa phương của các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém, nhất là khi không có sự hướng dẫn kỹ thuật chế tạo và sự quản trị sản xuất của một cơ sở dược phẩm có kinh nghiệm.trên thế giới.. Để hướng dẫn việc bào chế thuốc generic được bảo đảm, FDA, cơ quan quản trị dược phẩm và thực phẩm của Mỹ, đã có các yêu cầu căn bản mà cơ sở bào chế thuốc generic cần phải tuân thủ như sau: 1. Phải sử dung các nguyên liệu như thuốc gốc 2. Phải có cùng công hiệu, liều lượng sử dụng và cách thức sử dụng như thuốc gốc 3. Phải có cùng các qui định sử dụng như thuốc gốc 4. Phải được bào chế dưới qui trình sản xuất nghiêm ngặt GMP ( Good Manufacturing Production ) Với các qui định sản xuất như vậy, FDA còn đòi hỏi thuốc generic cần phải đạt được các tiêu chuẩn căn bản sau đây: 1. Có sức công hiệu như thuốc gốc 2. Có cùng tính chất, độ tinh khiết và công hiệu như thuốc gốc 3. Có cùng thời gian sử dụng công hiệu như thuốc gốc 4. Giá bán phải rẻ hơn thuóc gốc 5. Phải được sản xuất theo qui định GMP 6. Phải có hình thức bên ngoài khác với thuốc gốc ( vì hình thức bên ngoài của thuốc gốc thường đã được cầu chứng nên không được làm giống hình thức của thuốc gốc) Tuy nhiên, như đã nói phía trên, ở cơ sở sản xuất dược phẩm ở mỗi nước đều có sự khác biệt về cơ sở sản xuất, hệ thống thiết bị cũng như phẩm chất nguyên liệu sử dụng, trình độ kỹ thuật công nhân viên, hệ thống quản trị sản xuất, cho nên ở các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém khó có thể sản xuất được thuốc generic đạt được các tiêu chuẩn trên của FDA, ngoại trừ chịu sự quản trị chặt chẽ của một cơ sở Âu dược có kinh nghiệm trên thế giới. Vì vậy, do những khác biệt căn bản về sản xuất như đã ghi trên, người ta thường nhận thấy độ tinh khiết cũng như sức công hiệu và thời gian sử dụng công hiệu của thuốc generic thường có phần kém hơn thuốc gốc khi không phải được sản xuất bởi cơ sở có sự quản trị của nhà thuốc gốc, và, hơn nữa, sức công hiệu cũng như thời gian sử dụng công hiệu của một thuốc generic do nhà sản xuất này khác với cùng loại thuốc generic của một nhà sản xuất khác. Nhưng việc cho phép sản xuất thuốc generic, cũng như kiểm soát qui trình bào chế, sản xuất và kiểm nghiệm thành phẩm là ở trách nhiệm của chính quyền sở tại của mỗi nước. Cho nên, nếu chính quyền sở tại “ lơ là “ trong việc kiểm soát qui trình sản xuất và kiểm nghiệm công hiệu sinh học, thì thành phẩm ngoài việc khó có thể có được công hiệu sinh học tương đương với thuốc gốc, mà còn có thể tạo sinh ra các phản ứng phụ như trong trường hợp có sự lẫn lộn các nguyên liệu ngoài qui định, tác hại nguy hiểm đến người sử dụng.. Một mặt khác cần phải nói đến là gíá thành phẩm sản xuất của thuốc generic là tùy thuộc chính yếu vào gíá nguyên liệu sử dụng, chi phí công nhân viên và hệ thống quản trị, giá chiết khấu sử dụng cơ sở, thiết bị sản xuất và nhiên liệu, điện nước, xử lý nước thải khi sản xuất; thuế khoá cao nên sự sản xuất thuốc generic ở các nước Âu Mỹ sẽ phải chịu nhiều phí tổn cao hơn rất nhiều so với việc sản xuất ở các nươc Á Phi hay Châu Mỹ La Tinh. Chính vì lợi điểm này nên hiện nay đang có khuynh hướng sản xuất các loại thuốc generic tại các nước Á Phi hay Châu Mỹ La Tinh, nhất là ở những nơi có nguồn cung cấp các nguyên liệu thành phần hoạt tính của thuốc. Như vậy, thuốc generic khi được sản xuất ở một số nước Á Phi hay Châu Mỹ La tinh sẽ có lợi thế về gíá thành sản phẩm thấp, nhưng trường hợp cơ sở, thiết bị yếu kém, nguyên liệu sử dụng không có phẩm lượng đúng qui định, trình độ kỹ thuật của công nhân viên và trình độ quản trị sản xuất kém thì sức công hiệu cũng như thời gian sử dụng công hiệu của thuốc generic được sản xuất có thể sẽ bị yếu kém hơn thuốc generic được sản xuất tại các nước có trình độ sản xuất Âu dược cao. Vào năm 2008, FDA đã phải cho phát lệnh cấm nhập và bán trên 30 loại thuốc generic sản xuất bởi một viện bào chế dược phẩm lớn nhất của Ấn Độ, sau khi các chuyên viên của FDA khi đến kiểm soát tại chổ cơ sở sản xuất nhận thấy có quá nhiều yếu kém trong việc sản xuất Âu dược, chẳng hạn ngoài những viêc nhỏ như việc trang bị không phù hợp vệ sinh cho công nhân viên trong cơ xưởng điều chế thuốc…., cho đến việc nghiêm trọng là bột thuốc từ một khu vực bào chế loại thuốc này “ có thể bay qua đươc “ khu vực sản xuất của các loại thuốc khác. Hơn nữa FDA còn đã phát giàc các thành tích kiểm nghiệm công hiệu sinh học ghi giả mạo trên các chứng từ của cơ sở sản xuất dược phẩm này khi nộp cho FDA để xin nhập bán các thuốc generic vào thị trường Mỹ. Dù Ấn Độ đã có phản bác Mỹ về các việc này nhưng sau đó có cho biết sẽ cải thiện.các khiếm khuyết được đề cập trên. Trong một bối cảnh như trên, việc kiểm nghiệm thuôc generic trước khi cho nhập bán trên thị trường、nhất là thuốc generic được sản xuất tại các nước có trình độ kỹ thuật sản xuất Âu dược còn kém, cần phải được thực thi một cách nghiêm ngặt để bảo đảm sự sử dụng an toàn cho người dân.. Tuy nhiên, để thực hiện việc kiểm nghiệm này một cách qui mô và có hiệu quả, chính quyền có thể sử dung các cơ sở kiểm nghiệm đang có hay phải đầu tư vào cơ sở, thiết bị mới, huấn luyện công nhân viên, chưa nói đến việc các kết quả kiểm nghiệm phải không bị chi phối bởi các áp lực bên ngoài và, trên nguyên tắc, các cơ sở dược phẩm xin nhập bán vào thị trường nội địa các loại thuốc generic này phải chi trả các phí tổn kiểm nghiệm dù chưa biết có được phép nhập bán vào thị trường nội địa hay không. VNP
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 3:12:45 GMT 9
NAPCA (National Asian Pacific Center on Aging): Tiền Quả Phụ và Tiền Hưu (06/07/2011) Chúng tôi là một trung tâm bảo vệ quyền lợi của những người cao niên Châu-Á ở nước Mỹ, về sức khỏe để cho sinh hoạt phẩm chất tốt hơn. Mỗi hai tuần chúng tôi có đăng một mục trên báo, để quý vị hiểu nhiều hơn những quyền lợi về bảo hiểm sức khỏe, và lợi ích. Chúng tôi sẽ trả lời qúy vị những câu hỏi miễn phí. Xin quý vị gửi cái địa chỉ sau đây (qúy vị không cần kèm theo một bao thơ có tem, nhưng cần ghi rõ cái địa chỉ của qúy vị, để chúng tôi gửi thư trả lời): Ask NAPCA Mục Riêng Biệt, 1511 Third Ave, Suite 914, Seattle, WA 98101-1667 Câu hỏi: Tôi có quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm 1946. Tôi làm việc trên 10 năm tại Hoa Kỳ và có đủ 40 tín chỉ. Khi chồng tôi mất, tôi được hưởng tiền quả phụ lúc 60 tuổi, và tôi vẫn tiếp tục đi làm cho đến cuối năm 2008. Tôi có mấy câu hỏi sau đây: (1) khi tôi tới tuổi 66 hưu toàn phần, tôi có thể không lấy hưu của tôi mà vẫn giữ hưu quả phụ không? Theo sở An Sinh Xã Hội cho biết hưu quả phụ là $1,100 một tháng, còn hưu của tôi chỉ có $550 một tháng. (2) Tôi tính xin Medicare vào Tháng 9 này (3 tháng trước sinh nhật thứ 65 tuổi của tôi). Tôi có phải xin hưu cùng lúc hoặc đợi đến tuổi hưu toàn phần mới xin Medicare? (3) Tôi chỉ có hưu quả phụ là lợi tức và tiền để dành trong ngân hàng dưới $2000. Tôi có đủ điều kiện xin hưởng MediCal không? Giới hạn lợi tức để xin MediCal là bao nhiêu? (Độc giả ở Tiểu Bang California). Trả lời: Cám ơn lá thư của qúy vị. Chúng tôi sẽ trả lời như sau đây: (1) Thể theo luật hiện hành, nếu số tiền hưu quả phụ cao hơn tiền hưu của bà ở tuổi hưu toàn phần, bà có thể vẫn tiếp tục hưởng hưu qủa phụ và hoãn xin hưởng hưu của bà, bà có thể tiếp tục đi làm tới 70 tuổi, đế lúc đó số tiền hưu ít hơn tiền qủa phụ, thì bà cứ lấy tiền qủa phụ. Vì luật lệ thay đổi luôn, nên đến lúc đó nên gọi sở An Sinh Xã Hội số 1-800-772-1213, hoặc liên lạc với văn phòng địa phương về trường hợp của bà. Nếu cần có thể xin một thông dịch viên miễn phí giúp. (2) Khi hội đủ điều kiện, bà phải xin Medicare khi lúc 65 tuổi để tránh khỏi bị phạt vì ghi danh trễ, bà không cần xin hưởng hưu với xin Medicare cùng một lúc, bà không nên chờ đến tuổi hưu toàn phần (66 tuổi). Tuy nhiên trong trường hợp này bà đang hưởng hưu quả phụ, bà sẽ tự động nhận được thẻ Medicare khi gần đến ngày sinh nhật thứ 65 tuổi, không phải đích thân đến xin. Nếu không nhận được thẻ Medicare, bà nên liên lạc với văn phòng An Sinh Xã Hội. Trong khi đã có 40 tín chỉ bà được hưởng Medicare Phần A (bảo hiểm bệnh viện) miễn lệ phí, nhưng vẫn phải đóng lệ phí hàng tháng cho Phần B (bảo hiểm y tế). Trong năm 2011 lệ phí trung bình hàng tháng là $115.40. Thường thì họ trừ thẳng vào tiền hưu quả phụ hàng tháng. (3) Để biết thêm chi tiết về MediCal, xin gọi văn phòng State Mecical Assitance ở số (916) 636-1980. Lời ghi chú: Nếu qúy vị là người thu nhập thấp (low income) và tài sản ít, đã hưởng bảo hiểm y-tế (Medicare), thì cũng có thể xin được tiền phụ thêm (Low Income Subsidy) của chính phủ tiểu bang, họ giúp đỡ cho một số tiền về mua thuốc theo toa. Nếu qúy vị nào đã đủ tư cách mà chưa xin bảo hiểm y-tế Phần D (bảo hiểm mua thuốc theo toa), nếu qúy vị đã được chấp nhận thì sẽ không bị phạt. Đồng thời qúy vị đã có Medicare và Medicaid, trong trừơng hợp cần thì qúy vị có thể thay đổi chương trình khác, mỗi tháng chỉ được đổi một lần. Nếu qúy vị có gì thắc mắc, cứ xin vui lòng gọi cho NAPCA số điện thọa nói tiếng Việt miễn phí này: 1-800-582-4336 để được hướng dẫn và giúp đỡ. (NAPCA xin trả lời qúy vị)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 1, 2011 2:57:18 GMT 9
Xe tôi bị dến một cái 'Snitch Ticket' Phạm Ðình Nhân lá thư của một độc giả hỏi về những rắc rối xảy ra trên đường xe lăn bánh, chúng ta sẽ dành bài viết hôm nay để góp ý với bạn ấy, cũng như với những người sẽ có vấn đề tương tự. Cảnh báo “Snitch Ticket.” Trước tiên, xin mời các bạn đọc lá thư của bạn đó: Hỏi: Thưa anh Ðình, tôi đọc bài báo nói về vụ Snitch Ticket. Tôi đang gặp trường hợp như vậy, tôi phải làm sao? Tôi là chủ xe, một người khác dùng xe của tôi đã vượt đèn đỏ, bị chụp hình. Và tôi nhận được giấy của cảnh sát Arizona yêu cầu tôi phải báo ai là người lái xe đó. Tôi sợ sau này DMV sẽ suspend bằng lái của tôi. Xin vui lòng cho một vài chỉ dẫn. Cám ơn. Ðáp: Câu hỏi của bạn có 2 ý, thứ nhất là Snitch Ticket, thứ hai là phải làm sao đối phó Snitch Ticket. Ðể câu chuyện có trước có sau, giúp các bạn khác dễ dàng theo dõi câu chuyện, chúng ta sẽ dành đôi dòng nhắc lại Snitch Ticket là gì trước khi bàn đến vấn đề thứ hai, phải ứng phó ra sao. I. Snitch Ticket là gì? Ticket ở đây phải hiểu là tấm giấy nhìn thấy ai cũng “méo mặt” vì sắp bị móc túi, chứ không được vui mừng như những tấm ticket vào cửa rạp hát, ticket đi coi phim, ticket đi coi đại nhạc hội. Ticket đây là những tấm giấy phạt vi cảnh, do cơ quan “bạn dân” tặng cho sau khi bạn phạm luật giao thông, như vượt đèn đỏ, chạy quá tốc độ được phép, vượt stop sign, vòng chữ U trái phép. Sự vi phạm có thể bị một giới chức cảnh sát bắt quả tang, và người vi phạm nhận một giấy phạt tại chỗ; Hoặc do hệ thống Photo Radar chụp được, thì người vi phạm nhận được giấy phạt gửi đến tận nhà với đầy đủ hình ảnh chứng minh. Trong cả 2 trường hợp ấy, người cảnh sát phải gửi hồ sơ về tòa án, để nơi đây thẩm định mức tiền phạt rồi gửi ra cho khổ chủ biết mà nộp tiền hoặc ra tòa để khiếu nại. Bị như vậy còn là ít, California còn nặng tay hơn nhiều! Snitch Ticket chỉ xảy ra với trường hợp thứ hai, tức là những vụ vi cảnh do máy Radar chụp được. Máy chụp xong, đưa hình về sở cảnh sát cho nhân viên đối chiếu với hồ sơ lưu trữ tại DMV, và gửi thông báo về cho khổ chủ. Tuy nhiên, có thể hình chụp không được rõ mặt, vì đang lúc chụp thì tài xế quay ngang nói chuyện với người ngồi bên cạnh, hoặc có mấy lọn tóc lòa xòa hay cái nón vô tình úp xuống, che kín nửa mặt. Cũng có thể hình chụp rõ ràng, nhưng lại không đúng mặt người chủ xe trên bằng lái lưu trữ tại DMV. Những bức hình chụp như vậy, lẽ ra người cảnh sát nên bỏ đi vì không xác minh được đích danh thủ phạm. Nhất là tại California và Arizona, nơi mà hình phạt vi cảnh vốn nổi tiếng “nghiêm” nhất nước - tại California, người vượt đèn đỏ chẳng những phải trả tiền phạt rất cao ($500) mà bằng lái còn bị trừ một điểm - thì việc xác minh thủ phạm lại càng bắt buộc. Gặp những tấm hình không rõ mặt, hoặc người lái không phải là chủ xe, thì người cảnh sát bỏ sang một bên, không xét tới cũng được. Nhưng thực tế, ít có vị nào chịu bỏ qua, cũng như ít có ai thấy tiền mà không chộp. Bởi vì, đa số các giấy phạt gửi ra đều có đồng tiền đi vào: Dân lái xe phần vì muốn yên thân, phần vì không hiểu rõ luật pháp, nên phải trái gì cũng bỏ ra mấy trăm đóng phạt cho xong. Trong trường hợp viên cảnh sát thấy rõ gương mặt người vi phạm mà Radar chụp được hoàn toàn không phải là chủ xe (như trường hợp của bạn), thì đương sự rơi vào trạng thái phân vân: Phạt không được, mà bỏ đi thì uổng. Cảnh sát mới gửi đại ra một tấm giấy “thông báo vi phạm” cho bạn, có kèm theo phần khai báo với lời dẫn dụ, “Nếu bạn không phải là người vi phạm, thì xin cho biết đó là ai?” Bởi vì đây là một tờ giấy để dẫn dụ khai báo, nên nó được gọi là “Snitch Ticket.” Nhiều chuyên gia luật pháp còn gọi nó là “fake ticket” (giấy phạt giả). Snitch Ticket không được gửi về tòa án: Nó không có một giá trị pháp lý gì cả, và tòa án cũng không gửi tới bạn một thông báo hầu tòa. Nhưng Snitch Ticket phải làm ra vẻ như một Ticket thật, để buộc bạn chấp hành. Sau đây là những dấu hiệu cho phép bạn nghi ngờ rằng tấm giấy trên tay bạn chỉ là Snitch Ticket mà thôi: -Về ngôn từ, không bao giờ tờ giấy ấy ghi là “Notice to Appear” (thông báo hầu tòa). Thay vào đó, nó có thể dùng những chữ nghe rất “kêu,” như “traffic violation notice,” hoặc “notice of traffic violation” (thông báo vi phạm giao thông). Bằng này cái máy chĩa vào thì chạy đâu cho thoát? -Không có địa chỉ tòa án. -Và lại có hàng chữ nhỏ ghi ở mặt sau “Xin đừng tiếp xúc với tòa án” (Don't contact the court) hoặc “đây không phải là giấy triệu tập” (This is not a summons). Thường bạn sẽ gặp cả 3 dấu hiệu này trên cùng một Snitch Ticket. Trong khi đó, một Ticket thực sự có thể không ghi đầy đủ địa chỉ tòa án, nhưng không bao giờ nói với bạn “Ðừng tiếp xúc tòa án” cả. Tiện đây, xin nhắc với các bạn rằng, cho dù người lái xe vi phạm là người khác, chứ không phải chính bạn (người chủ xe), thì bạn cũng có thể nhận được một “Notice of Appear,” một ticket thực sự. Khi đó, bạn phải chấp hành đúng thủ tục: Trình diện tại tòa theo thời hạn qui định để khiếu nại, hay để nộp phạt cho xong. Nhưng đó là một đề tài khác, chúng ta hy vọng có dịp đề cập về sau. Trở lại câu hỏi trên đây, Phạm Ðình cho rằng bạn đã biết chắc đó là Snitch Ticket rồi. Vậy xin mời bạn đọc tiếp phần sau: II. Phải làm gì khi nhận được Snitch Ticket? Bạn có thể làm một trong 2 điều: 1. Khai báo danh tính người lái xe vi phạm: Ðây là điều dễ nhất và nhiều khi rất cần thiết. Dễ là vì chỉ việc điền tên của cái người mượn xe bạn hôm đó. Dĩ nhiên, bạn biết tên đương sự chứ gì? Sau nữa, nó có thể cần thiết, bởi vì biết đâu đó sẽ là biện pháp giáo dục có hiệu quả. Nếu đương sự là con, cháu, hoặc một friend nào đó, hơn ai hết bạn hiểu rõ tính khí những người này. Cổ nhân mình có câu: “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!” để mô tả những người bướng bỉnh, cố chấp, không chịu tôn trọng qui luật chung bao giờ. Rất tiếc, đó lại là một người thân mà bạn đã hết tình uốn nắn nhưng không hiệu quả. Ngày xưa, có những người vợ đã phải nói nhỏ với nhà chức trách để họ đưa ông chồng hút xách nghiện ngập của mình vào trại cai nghiện, bởi vì ở nhà “ổng quậy quá, không để cho ai làm ăn gì được.” Trên đường phố cũng vậy, một người lái xe cẩu thả, bất chấp luật lệ giao thông là một nguy cơ cho chính mình và rủi ro cho nhiều người khác. Một cái Ticket và có thể trừ thêm một điểm trên bằng lái, biết đâu sẽ là một bài học, đắt giá thật nhưng cũng đắt lời nữa, bởi vì nó có thể giúp đương sự cải sửa tính tình về sau. Như vậy không tốt lắm sao? Còn làm thế nào để khai báo mà không gây ra rạn nứt giữa bạn và đương sự? Chuyện đó tùy thuộc hoàn cảnh cá nhân, có pha chút tâm lý “chính trị” Phạm Ðình không dám lạm bàn... 2. Về phương diện luật pháp, Snitch Ticket chẳng có chút giá trị pháp lý nào cả. Theo tác giả trang mạng www.highwayrobbery.net thì bạn có thể lờ đi, không cần trả lời. Chuyện treo bằng lái, hay không cho tái đăng bộ để lấy sticker hằng năm thì không có đâu. Luật Sư Christine C Mccall cũng đồng ý như vậy. Nữ Luật Sư Susan Kayler, còn nêu lên rằng, luật Arizona đòi hỏi, giấy hầu tòa vì vi phạm giao thông, cũng phải được tống đạt (served) trực tiếp cho bị cáo, chứ không thể gửi khơi khơi qua bưu điện mà có giá trị được, huống hồ là một cái Snitch Ticket. Bà Kayler cho rằng mặc dầu người công dân tốt luôn luôn hợp tác với chính quyền, nhưng chúng ta cũng có bổn phận buộc chính quyền thực thi đúng vai trò của mình theo luật pháp, cụ thể là người tài xế không nên dễ dãi, từ bỏ cái quyền đòi hỏi chính quyền phải tống đạt trực tiếp giấy phạt cho mình. Trưng dẫn lời ông Benjamin Franklin, nhà khoa học trứ danh đồng thời cũng là một trong những “tổ phụ khai sáng” của nước Mỹ, rằng: “Những người dễ dàng từ bỏ sự tự do căn bản của mình để đổi lấy một chút bình yên tạm thời, thì chẳng đáng hưởng gì, cả tự do lẫn bình yên cũng không có,” Luật Sư Kayler muốn nhắc nhở chúng ta hãy đứng thẳng người lên, và khẳng định tư thế của mình trước luật pháp. Phạm Ðình
|
|