|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 7:46:49 GMT 9
ĐỌC BÁO DÙM CÁC BẠN Ký Điệu phụ trách Quyển sách của cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn cao Kỳ "Buddha’s Child" – My Fight to Save Việt Nam vừa tung ra thì có sóng gió liền. Từ Âu Châu và Hoa Kỳ. Dĩ nhiên tại Hoa Kỳ nhiều Việt kiều phản ứng nhiều nhất. Chê nhiều hơn khen. Quyển này in ra và được viết bằng Anh Ngữ viết chung với Marvin J. Wolf dầy 376 trang do côngty in ấn St.Martin’s Press vào tháng 5 năm 2002. Bạn cầm quyển sách này, hình Nguyễn cao Kỳ mặc đồ complet đen ghi những dòng là "Former Prime Minister of South Việt Nam " (nghĩa là Thũ tướng) chúng ta suy nghĩ điều gì? Chức vụ Thủ tướng đối với người ngoại quốc là chức vụ không quan trọng gì lắm nếu chính phủ đó còn có Tổng thống cao hơn, còn nếu ở chế độ có Vua như bên Anh thì chức vụ Thủ tướng mới là quan trọng, như Thủ tướng Churchill hay Tony Blair gần đây. Họ dịch hay để danh từ Thủ tướng như vậy không đúng lắm. Chức vụ cao nhất và cuối cùng của Nguyễn cao Kỳ là Phó Tổng thống VNCH người cao hơn là Nguyễn văn Thiệu với chức vụ Tổng thống VNCH. Sau đây là mộït phần trích dịch từ báo Thời Luận số ra ngày July 14,2002. Người viết là Vũ thụy Hoàng. Vũ thụy Hoàng viết 2 quyển sách "Saigon tuyết trắng: Việt Nam tháng 4,1975 và Quê hương thương ghét: Nỗi lòng người Việt hải ngoại". Cựu Thủ tướng Nguyễn cao Kỳ, người hùng từng chế ngự sân khấu chính trị Miền Nam Việt Nam giữa thập niên 1960, tự nhận đã phạm một lỗi lầm lớn nhất trong đời "mà tới nay ngày nào cũng hối tiếc. Lỗi lầm ấy là vào năm 1967 ông đã rút lui không ứng cử Tổng thống và sau đó đứng Phó Tổng thống trong liên danh ứng cử với Trung tướng Nguyễn văn Thiệu. Theo ông Kỳ vào năm 1965-1967 với chức vụ Thủ tướng, ông đã nắm giữ hết quyền bính trong tay, điều hành guồng máy chính phủ, quyết định các vụ bổ nhiệm và thuyên chuyển, còn ông Thiệu là nguyên thủ quốc gia mà chẳng có quyền hành gì, chỉ có hư vị mà thôi. "Quốc trưởng Thiệu, một Trung tướng đã thi hành lệnh của tôi". Thiếu tướng Kỳ viết khi kể lại vụ ông quyết định cách chức Tổng trưởng Quốc Phòng của Trung tướng Nguyễn hữu Có rồi bảo ông Thiệu làm. Năm 1967 ông Kỳ có ý định ứng cử Tổng thống với tư cách đại diện quân đội và tin chắc ông sẽ thắng. Ông ngạc nhiên khi thấy Ông Thiệu loan báo cũng tranh cử. Thấy nguy cơ thất bại nếu quân đội có hai ứng cử viên đối địch nhau, một số tướng lãnh đã gặp riêng ông Thiệu để yêu cầu ông Thiệu đừng ra tranh cử. Trung tướng Nguyễn đức Thắng, người ủng hộ ông Kỳ đã gặp Trung tướng Thiệu để ngăn cản và hai người to tiếng “suýt đánh nhau” (theo sách viết). Ông Kỳ và nhiều tướng lãnh trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia lúc đó họp bàn và quyết định cho tướng Thiệu giải ngũ, đưa đại tướng Cao văn Viên lên chức Quốc trưởng. Khi quyết định này sắp sửa được loan báo và thấy ông Thiệu "sắp khóc" ông Kỳ đột nhiên nói "Tôi sẽ trở về Không Quân. Các ông có thể cử Trung tướng Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống." Lời nói bất chợt trong khoảng "một phần mười ngàn giây đồng hồ, nhanh hơn nháy mắt" và đến nay vẫn còn là một bí hiểm đối với tôi theo lời thuật của Kỳ. Ông cũng không hiểu tại sao ông lại quyết định như vậy. Ông giải thích có lẽ thấy ông Thiệu khóc và vì lòng từ tâm của con nhà Phật mũi lòng thương hại mà ông quyết định như vậy. Ông cho rằng nếu lúc đó ông ngậm miệng thì thế giới đã đổi khác. Sau khi ông Kỳ cho biết không ra ứng cử, một số tướng lãnh đã yêu cầu ông đứng chung liên danh với ông Thiệu. Trung tướng Hoàng xuân Lãm đã bóc lon ra, nếu ông Kỳ không chịu đứng chung liên danh với ông Thiệu. Ông Kỳ rút cục đồng ý. “Đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời tôi. Từ năm 1975 đến nay không một ngày nào mà tôi không hối tiếc". Vụ ông Kỳ đứng Phó cho ông Thiệu làm nhiều người lúc đó ngạc nhiên. Sách báo hồi ấy như sau này thường cho rằng Mỹ thích ông Thiệu hơn Kỳ nên đã ngầm vận động để ép hai Tuống Thiệu Kỳ đứng chung với nhau. Tướng Kỳ phủ nhận điều này. Ông Kỳ cũng tự trách mình ngốc biết bao khi ông còn bỏ qua cơ hội khác vào lúc chót để ngăn chặn ông Thiệu làm Tổng thống. Ông kể lại khi liên danh Thiệu Kỳ đắc cử với 35% số phiếu bầu, việc hợp thức hóa cuộc bầu cử tại Quốc Hội. Mật Ước: Cuốn sách cũng tiết lộ rằng Ông Thiệu sau khi được ông Kỳ đứng chung liên danh, đã bị buộc phải ký một "mật ước" với nhóm tướng lãnh thuộc một Hội Đồng mà không phải Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia mà cũng không phải Hội Đồng Quân Lực. Chỉ tướng nào ký tên mới biết có mật ước và có Hội Đồng. Mật Ước định rõ hội đồng được chọn lựa úng cử viên ra tranh cử và ứng cử viên khi đắc cử rồi phải luôn luôn tuân hành đường lối của Hội đồng. Giữ chức chủ tịch của hội đồng bí mật này, ông Kỳ cho rằng ông có quyền hơn ông Thiệu. Hẳn vì có mật ước này má quyền hành và thế mạnh của ông Kỳ vẫn tồn tại nhiều tháng sau khi ông Thiệu đắc cử Tổng thống. Nội các đầu tiên dưới thời Tổng thống Thiệu do Thủ tướng Nguyễn văn Lộc cầm đầu, cũng như những chức vụ then chốt trong guồng máy chánh quyền, đều chịu ảnh hưởng của ông Kỳ. Nhưng mật ước về sau không còn hiệu lực. Khi đắc cử rồi, ông Thiệu có Hiến Pháp hậu thuẫn, đã dần dần không đếm xỉa gì đến mặt. Ông Kỳ và nhóm tướng lãnh trong hội đồng bí mật mật ước không dám đem ra tiết lộ vì đi ngược quyền lợi Hiến Pháp, phản dân chủ làm trò cười cho thiên hạ và Mỹ bất bình. Ở đây ông Kỳ nhìn nhận thua mưu ông Thiệu. Ông Kỳ cũng hối tiếc cả vụ ông không ra tranh cử với ông Thiệu năm 1971. Năm đó ông Kỳ bị Tối cao pháp Viện loại ở vòng niêm yết lần đầu vì không hội đủ chữ ký của các địa diện dân cử theo luật bầu cử, chỉ có hai ứng viên đối đầu là đương kim Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và Đại tướng Dương văn Minh. Nhưng ông Minh sau đó rút lui vì cho rằng ông Thiệu đã bố trí sẵn bộ máy gian lận bầu cử. Tối cao Pháp Viện được Thiệu vận động để tránh nạn độc diễn nên để lại tên ông Kỳ ứng viên Tổng thống. Nhưng ông Kỳ cũng rút lui mặc dầu được đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker đề nghị góp hai triệu mỹ kim vào quỹ tranh cử. Ông Kỳ cũng nói rằng nếu ông ra tranh cử thì ông cũng có cơ may thắng cử vì ông được lòng dân chúng và ông Thiệu không dám gian lận. Ông cũng viết ông Thiệu thắng cử năm 1971 đã định đoạt số phận của Việt Nam. Cuốn sách nhiều trang đã mô tả ông Thiệu là người xảo quyệt, một chính trị gia một tay mưu mẹo nhưng không phải là một tay chiến đấu. Theo ông Kỳ, ông Thiệu sợ ông cũng như sợ Mỹ vì biết tôi có thể đảo chánh và bắn ông ta nếu ông ta làm nguy hại quốc gia. Ông tố ông Thiệu là tay tham nhũng và bổ nhiệm tay chân vào những chức vụ kiếm nhiều tiền. Cuốn sách ra đời 7 tháng sau ông Thiệu từ trần, nên độc giả không có dịp nghe lời đáp của ông Thiệu. Bay bướm: Là tự truyện, cuốn sách đã trình bày ông Kỳ là con người can đảm, dám làm dám nói, thích đương đầu với khó khăn, giỏi đối đáp với các tay chống đối, những người viễu tình. Ông phi bác những từ gọi ông là đồ tể, giết trẻ con, hại phụ nữ. Ông nhận mình là "người không suy nghĩ nhiều, thay vì bàn luận và tham khảo tôi hành động". Theo lời Kỳ thì nhiều lãnh tụ quốc gia như quốc vươngTháilan, thủ tướng Úc đại Lợi, Tổng thống Tưởng giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, Tổng thống Đại hàn Phác chính Hy cho tới Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, Richard Nixon, cả nghĩ sĩ William Fullbright nổi tiếng chống đối chiến tranh Việt Nam và Ngoại trưởng Henry Kissinger người đi thương thuyết đi tới hòa ước Paris năm 1973. Ông Kỳ kể lại vụ ông cách chức Trung tướng Nguyễn chánh Thi, Tư Lệnh Quân Khu I và vụ ông đích thân chỉ huy cuộc hành quân chớp nhoáng để dẹp lực lượng chống đối Phật Giáo ở miền Trung năm 1966. Vì một số binh sỉ Mỹ không được thông báo nên suýt xảy ra cuộc đụng độ. Quân hai bên đã hờm súng sẵn và máy bay Việt-Mỹ đã quần thảo nhau trên trời. Đại tướng Lewis Walt tư lệnh Mỹ ở quân Khu I vội vã xin gặp Kỳ ở phi trường Đà Nẵng. Tướng Kỳ đã làm bẻ mặt tướng Walt bằng lời giảng giải về hệ thống chỉ huy khiến tướng Walt đổ mồ hôi hột. Tướng Kỳ tự coi là: "lãnh tụ Việt Nam đầu tiên không tham nhũng, không làm giàu cho bạn bè hoặc gia đình, không nhận hối lộ, không buôn lậu". Ông lập luận rằng ông được toàn quyền sử dụng quỹ đen tương đương với 46 triệu Mỹ kim, cần gì phải buôn lậu. Ông kể các phi công Việt Nam thường mua hàng hóa như radio, đồng hồ về bán kiếm lời, nhưng có lần qua Singapore ông chỉ mua cho mẹ một chiếc radio mà thôi. Ông cũng kể việc cách chức một Tổng Giám Đốc Hõa Xa của người anh họ vì những bê bối tại Hỏa Xa, còn việc không bổ nhiệm một người bà con làm Đại sứ vì người đó không đủ khã năng. Qua cuốn sách người đọc được biết tướng Kỳ là một phi công ưu tú và tài ba, từng đỗ đầu khóa học tại Marakech, từng tham gia những phi vụ nguy hiểm thả biệt kích ra miền Bắc Việt Nam thời Tổng thống Diệm. Ông đã trỗ tài lái máy bay để tránh Radar của Bắc Việt bằng cách bay sà sà mặt biển khiến trùm tình báo Mỹ ở Việt Nam hồi đó là William Colby xanh mặt. Lúc phi cơ đáp xuống, Colby bảo ông Kỳ “lần sau đi với Kỳ, tôi phải mang theo cần câu”. Trong sách này viết cho biết Kỳ là tay mê gái, một tay ăn chơi hào hoa bay bướm. Hồi đi học lái máy bay ở Avord bên Pháp, ông thường cùng bạn bè đến Paris vào cuối tuần, lai vãng các hộp đêm, ăn xài rộng rãi nên được các tiệm gọi là "Hoàng Tử". Một lần ông dành dụm được 200 ngàn quan Pháp, định mua xe citroen. Lúc đến hộp đêm được xếp ngồi hàng đầu sát sân khấu, thấy cô ca sỉ mới và xinh đẹp, ông liền chạy ngay đến tiệm kim hoàn mua chuỗi hột xoàn về tặng cô. Nhìn cô ca sỉ lên sân khấu đeo chuỗi hột xoàn, ông liền gọi champagne đãi hết mọi người trong tiệm. Sau đó ông dẫn cô đi chơi mấy nơi khác. Đến khi ông về, bạn bè mới hỏi xe thì ông nói uống hết tiền xe rồi. Tại Việt Nam ông rủ cô chiêu đãi viên Hàng không Việt Nam đi chơi, nhưng cô mắc bận phải làm trên chuyến bay đi Đàlạt. Ông liền lấy khu trục cơ skyraider mà ông chưa hề lái thử bao giờ để theo chuyến bay Hàng Không Việt Nam đó, để phi cơ bay sát chiếc kia, hai cánh chỉ cách nhau vài phân khoảng 10 phút cho tới khi khuôn mặt xinh đẹp của cô chiêu đãi viên hiện ra cửa sổ phi cơ thì ông mới chịu bay về. Lần khác ông lái trực thăng xà thấp ở khu đường Lê Lợi, quạt tung bụi và lá làm giao thông tắc nghẽn chỉ cốt cho cô bồ biết là ông đến trễ hẹn. Sáng sau Thủ tướng Nguyễn Khánh gọi ông Kỳ vào la lối và bảo tìm xem tên phi công nào gây náo loạn Trung tâm Saigon tống cổ nó ra khỏi Không Quân và nhốt tù nó. Khi nghe ông Kỳ trả lời "chính tôi mà", tướng Khánh liền đổi giọng "lại anh nữa! Anh làm gì ở đó vậy?" Tại Mỹ, John Sununu Tham Mưu Trưởng Tòa Bạch Ốc thời Goerge W. Bush bị mất chức vì dùng phi cơ của Tòa Bạch Ốc về thăm gia đình. Tổng Giám Đốc FBI William S. Sessions bị xa thải vì dùng công xa chở vợ đi mua sắm (năm 1993). Cuốn sách "Buddha’s Child" còn vài tiết lộ khác. Nhóm Tướng Lãnh Trẻ sau khi bị Đại Sứ Maxwell Taylor xài xể về vụ giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia vào tháng 12 năm 1964 đã định cùng tướng Khánh mở cuộc họp báo để trục xuất tướng Taylor về nước. Cuộc họp báo chừng 10 phút thì Tòa Đại Sứ Mỹ tại Saigon liền năn nỉ Đại tướng Khánh đừng đuổi Đại sứ Taylor đi. Vợ Ngoại trưởng Trần bửu Kiếm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị bắt giam về tội gián điệp. Colby CIA Mỹ liền đến năn nỉ Kỳ nói rằng bà ta bằng lòng làm gián điệp hàng hai. Tướng Kỳ trong cuốn sách cho rằng ông được nhiều người yêu mến cả trong lẫn ngoài nước và ngay trong cả Cộng Đồng Việt Nam. Kỳ hy vọng "một ngày nào đó Việt Nam sẽ lại cần tôi". Ông cũng mong có một ngày được trở về nước để giúp kiến thiết quốc gia và xây dựng lại quê hương. Ông cho hay "sức khỏe rất tốt, năng lực còn cao, ăn uống vẫn như trẻ và cân nặng như hồi còn làm Tư Lệnh Không Quân." Ông hiện làm công việc tham vấn và thích chơi golf. Vài sự sai lầm: 1.- “Tướng Nguyễn Khánh cầm quyền được 9 ngày thị bị phe Dương văn Minh đẩy đi. Khánh trốn khỏi Saigon và năm tuần sau trở lại nắm chánh quyền "Thật sự là sau khi hạ bệ Dương văn Minh, thì 9 ngày sau Nguyễn Khánh lập Nội Các, đặt Ông Minh làm Quốc Trưởng cho hư vị mà thôi. Bảy tháng sau tướng Khánh bỏ lên Đàlạt viện cớ dưỡng bệnh, sau những cuộc biểu tình xuống đường của sinh viên Phật Giáo, Công Giáo tiếp theo vụ Hiến Chương Vũng Tàu. Nguyễn xuân Oánh được cử làm Thủ tướng. Nhưng một tuần sau Tướng Khánh từ Đàlạt trở xuống Saigon nắm lại quyền, giải tán Tam Đầu Chế gồm có Dương văn Minh, Nguyễn Khánh và Trần thiện Khiêm được thành lập trước đó một tháng. 2.- Tướng Kỳ cứu tướng Khánh trong vụ đảo chánh chống tướng Khánh Khi tướng Khánh bị xe tăng đuổi ở Tân sơn Nhứt, tướng Kỳ đã kéo tướng Khánh lên máy bay chạy thoát trong gang tất trong lúc xe tăng đậu cản ở phi đạo. Đây là sự sai lầm. Xe tăng đậu cản ở phi đạo là do tướng Lâm văn Phát và Phạm ngọc Thảo vào năm 1965 tháng 2, chớ không phải cuộc đảo chánh của tướng Dương văn Đức vào tháng 9 năm 1964. 3.- Ông Trần văn Hương làm Thủ tướng tháng 12 năm 1964. Ông Hương được Thượng Hội Đồng cử làm Thủ tướng tháng 10 năm 1964, nhưng tướng Khánh và nhóm tướng Trẻ giải tán Thượng Hội Đồng thì bị Đại sứ Taylor kêu lên hết mà khiển trách, lúc đó không tướng nào nói tiếng Anh sõi ngoại trừ Nguyễn cao Kỳ. 4.- Tướng Cảnh Sát Nguyễn ngọc Loan bị thương vài ngày sau trận Mậu Thân. Thật sự tướng Loan bị thương khi Việt Cộng tấn công đợt 2 vào Saigon vào tháng 5 năm Mậu Thân. 5.- Tướng Kỳ lập trường Y khoa đầu tiên tại Việt Nam. Thật sự nơi này Kỳ nói xạo vì ai ai cũng biết trường Y khoa lập đầu tiên tại HàNội và có từ thời Pháp. 6.- Quyển sách này nói đến bà Nhu Trần lệ Xuân mà Kỳ cho tên họ mới là Chương xuân Lệ (Trần văn Chương là cha ruột của Trần lệ Xuân) 7.- Ngoại trưởng Trần văn Đôn thật sự là Ngoại trưởng Trần văn Đỗ. 8.- Trưởng phái đoàn Việt Nam hòa đàm tại Paris là Phạm đăng Lâm chớ không phải Lâm văn Phát, Lâm văn Phát là tướng đảo chánh năm 1964. Điều kỳ lạ là hai tháng trước khi sách của Nguyễn cao Kỳ tung ra "Buddha’s Child" thì Hà Nội tung ra sách về Nguyễn cao Kỳ với nhan đề là "Tướng Râu Kẽm" dầy 423 trang, pha trộn óc tưởng tượng vào số sự kiện có thực của bối cảnh chiến tranh. Sách này viết theo nửa hư nửa thật nên không có sự giá trị nào về tài liệu. Sách này nói Ông Kỳ là một anh hùng hão hán, ngổ ngáo, hiếu chiến, ăn nói trịch thượng và có duyên và gọi Ông Kỳ là "giặc nhà Trời."
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 7:47:35 GMT 9
Trong phần giới thiệu, cuốn sách này (sách Tướng Râu Kẽm) nói bao quát về tướng Kỳ có đoạn tướng Kỳ thổ lộ với bạn bè là "muốn trở về Việtnam sống những ngày cuối đời trên mãnh đất quê hương." Trong phần kết luận của cuốn sách viết "Tội phản bội Tổ quốc, phản bội dân tộc là tội bất lương nhất, ô nhục nhất và bị đời đời nguyền rủa”. Hà Nội cho in cuốn sách này là do trùng hợp hay chủ ý?
Như nhiều cuốn tự truyện khác hay Hồi ký khác, cuốn "Buddha’s Child" ngoài việc trình bày thân thế, sự nghiệp, tư tưởng và suy nghĩ của tác giả, đã cho người đọc biết thêm nhiều về cá tính của Tướng Kỳ, đồng thời rọi thêm ánh sáng vào vài khía cạnh một số biến cố ở ViệtNam khoảng giữa thập niên 1960. (Vũ thụy Hoàng)
Sau đây là lời bình luận của Người Thứ Năm của Tuần báo Đại Chúng mà Ký Điệu ghi lại cho bạn đọc rõ:
1.- Nguyễn cao Kỳ lúc làm Thủ tướng tuổi rất trẻ nếu so với lịch sử Thế Giới thì người trẻ nhất là Alexandre the Great, người kế là Nguyễn cao Kỳ của Miền Nam ViệtNam.
Tuổi quá trẻ mà quyền nghiêng thiên hạ của Nguyễn cao Kỳ không phải là do sự tài giỏi mà do nhiều sự may mắn phi thường của lá số Nguyễn cao Kỳ hay là vận số Miền Nam cần phải như vậy mới có kết cuộc thê thảm như vậy hay chăng?
2.- Nguyễn cao Kỳ thật sự giống như Lữ Bố thời Tam quốc vậy. Lữ Bố cũng do sự phản phúc cha nuôi mà thành danh trên thiên hạ vào thời đó, Nguyễn cao Kỳ cũng không tránh khỏi chuyện này, Kỳ phản Nguyễn Khánh và rất nhiều bạn chiến đấu nhưng khác màu áo, nhưng kết cuộc Kỳ không bị rơi đầu như Lữ Bố. Tào Tháo bắt được Lữ Bố và nói với tả hữu "hắn giỏi nhưng là tên phản thần, không dung mạng được". Như trường hợp Ngụy Diên cũng vì phản mà bị chặt mất đầu bởi cận tướng.
Nguyễn văn Thiệu không đủ khả năng như Tào Tháo nên để yên Kỳ và Kỳ làm nhiều chuyện bất lường hậu quả.
3.- Nguyễn cao Kỳ có hạnh kiểm và đạo đức thấp kém mà những danh tướng không bao giờ nên bắt chước chuyện này. Lúc đắc thời thì xua đuổi bà vợ gốc nghề "Cave" mà Kỳ tường lấy tiền tiêu xài không biết sót. Hai đứa con Kỳ học tại trường Taberd Saigon, rất phách lối, hàng ngày giờ ra chơi thường lấy "walky talky" (máy vô tuyến như CB hiện giờ) mà các Thày dòng rất bất bình, nhưng sau cùng cũng bị "sortie" vì học lực quá kém, y như con cưng của Huỳnh văn Cao vậy.
4.- Bà vợ mới sau khi lên thì chồng đã có uy quyền hiển hách làm nghề chiêu đãi viên, đã có đời chồng nhưng Kỳ đoạt mất. Rồi khi qua Hoa Kỳ thì bà này ở tại Santa Ana, California và lấy một tay tài xế của Kỳ và mở cây săng Arco, tên Trung sĩ này ăn chơi nên bà chiêu đãi viên này phải bán luôn.
5.- Kỳ lấy vợ bạn thân khi làm nghề đánh cá tại Texas rồi sau đó hình như bà này mở một quán ăn tại Rosemead, California lấy tên là "Miss Saigon". Sau đó bán nốt vì Kỳ đánh bài rất dữ tại Casino Las Vegas. Rồi khai phá sản cũng vì vụ này mà ra.
6.- Kỳ khi lên ngôi Thủ tướng, quyền nghiêng thiên hạ thì Kỳ muốn sa thải tất cả những công chức mà Kỳ cho là trên 45 tuổi cần phải thay hết vì già nua, chậm chạp. Nên Kỳ không có một bộ óc lão thành mà hướng dẫn, và như vậy đám Kỳ phải thân bại danh liệt.
7.- Cùng một tuổi trẻ mà quyền nghiêng thiên hạ là Alexandre the Great và Kỳ. Alexandre the Great có tôn sùng một vị hiền triết làm Thầy chỉ hướng và tư tưởng đó là Aristote, còn Kỳ thì không có một ông Thầy nào chỉ dẫn tư tưởng của Kỳ nên Kỳ bị thân bại danh liệt.
8.- Lúc Kỳ bị Thiệu đá văng khỏi dinh Độc Lập, thì Kỳ lui về chốn hang Hùm là Căn cứ Phi Long gần phi trường Tân sơn Nhứt. Thiệu không làm hại được, nhưng Thiệu cần phải đề phòng mọi chuyện của Kỳ, nên Thiệu nhờ Phó Tổng thống Trần văn Hương vào Phi Long nằm nhờ chữa bệnh mắt, lúc đó có bệnh xá Hoa Kỳ rất nổi tiếng về mắt. Trần văn Hương vào căn cứ Phi Long của Nguyễn cao Kỳ và mật báo đến gắn dụng cụ nghe lén từ tư dinh Kỳ bằng đường điện thoại. Nên mọi chuyện gì Kỳ nói thì Thiệu đều nghe hết. Nhờ Nguyễn cao Kỳ chia trí thông minh của Nguyễn văn Thiệu nên Nguyễn văn Thiệu đã thiếu trí tuệ cứu nước nay bị chia thêm trí nên không còn đủ sáng suốt mà suy nghĩ mọi đường đi nước bước của Việt Cộng và CSBV HàNội. Đáng lý Hà Nội nên đề cao Kỳ với sự ăn nói ẩu tả và việc làm bất ngờ nên Thiệu không còn lý trí mà tính ván bài của Hà Nội tung ra.
9.- Nguyễn cao Kỳ nói qua Phi Châu học tại trường huấn luyện không quân và đỗ đầu thủ khoa khóa phi công. Nhưng Kỳ không cho biết khóa đó dạy lái máy bay loại gì?
Chớ Người Thứ Năm biết đời Phi Công mà dân lái máy bay rất khâm phục là "Năm Con Phượng Hoàng của VN về Phi Công". Năm con Phượng Hoàng đó là "Phan phụng Tiên, Lưu kim Cương, Lê bá Định..." mà không có tên Kỳ. Năm Phụng Hoàng này tốt nghiệp rất cao điểm về loại Skyraider (Đại tá Lê bá Định có lần đóng trên Pleiku. Phi trường Cù Hanh). Kỳ lái Skyraider lần đầu tiên để cua “hostess de l’air” suýt đụng với phi cơ Hàng Không Dân Sự Air Việt Nam và kéo theo nhiều cái chết vô tội của hành khách trên đó. Nên chắc chắn Kỳ qua Phi Châu học trường dạy lái phi cơ tại Marakech chắc chắn không phải học lái phi cơ Skyraider và bảo đảm không có loại phản lực cơ A-37 hay F-5 được. Có thể học lái loại phi cơ Cessna gọi là máy bay "Bà già" mà ta thường thấy bay rề rề trên bầu trời Miền Nam VN.
10.- Một người lính chiến đấu ngoài biên ải, áo quân chua lè so với một vị tướng Thành Đô áo quần bảnh bao, hoa hòe hoa sói, lưng đeo khẩu súng ngắn nòng rulô và cổ choàng khăn phula màu tím, bay xong một phi vụ thì vào khiêu vũ trường mà nhảy đầm canh thâu suốt sáng. Không hiểu chúng ta nên kính trọng người nào đây? Tướng Kỳ nên nhớ đất nước chiến tranh đời trai bắt buộc phải thi hành nghĩa vụ quân sự mà cứu quê hương, cho nên mầu áo binh chủng nào cũng nghĩa vụ nặng như nhau. Một anh lính nghĩa quân mà tuân hành nhiệm vụ canh gác hay đánh trả sự tấn công của quân địch đáng khâm phục hơn một tướng lãnh áo quân bảnh bao hay đánh quần vợt tennis trong lúc quân sĩ của mình đang đánh những trận nguy hiểm tại HạLào hay đã chận được sự chiếm đóng Kontum của địch quân mà vị tướng cẫu trệ khác đang nhảy đầm với vũ nữ từ Saigon lên ăn khao tại Vũ trường Phượng Hoàng Pleiku năm nào (xin hỏi lại tướng Lý tòng Bá thì rõ tên tướng cẫu trệ này). Tướng Kỳ thuộc loại tướng kiêu binh kiêu tướng. Như ngày xưa có một vị tướng rất trẻ tài cao như Kỳ vậy họ là Lâm, phó nguyên soái Quốc dân Đảng, vì hùng khí ngu muội của mình mà bắt giam Tướng Tưởng giới Thạch đang đánh Mao trạch Đông gần tàn hơi, nên quân Mao từ thua chuyển thành thắng. Chính tên tướng này làm thay đổi lịch sự Trung Hoa từ tốt sang xấu.
11.- Tướng Kỳ ít đọc sách nên không thấy những bức hình lịch sử Trung Hoa. Nhìn tướng Tưởng giới Thạch, áo quần bảnh bao, uy dũng hào khí ngất trời, giầy ống đen rất đẹp cưỡi con ngựa trắng và áo choàng màu nâu xám hào khí ngất trời. Còn một bên là một đám lính khố rách áo ôm, y như đám người homeless vô gia cư của Mao Trạch Đông, điều đáng buồn chính đám lính khố rách áo ôm này rượt vị tướng áo quần bảnh bao cưỡi ngựa trắng là Tưởng giới Thạch chạy gần chết đuối qua eo biển Bạch Mã Đài Loan. Đám lính khố rách áo ôm này họ có một lòng kỷ luật và tuân hành thượng cấp, còn tướng Kỳ thì không. Tướng Kỳ đúng là một mẫu tướng kiêu hãnh tự cao tự đại và bất tuân quân phong quân kỷ và mệnh lệnh của Thượng Cấp. Lúc đó Kỳ nắm quyền tư lệnh Không quân VNCH và Hoa Kỳ không có trang bị loại vũ khí phòng không nên Kỳ mặt sức tự cao tự đại với huynh đệ chi binh của mình và Đồng Minh, nhưng gặp bên địch với đầy đủ vũ khí phòng không và tên lửa thì khác.
12.- Lúc Kỳ còn làm Phó Tổng thống và được chia cơ ngơi tại Dinh Độc Lập nên Kỳ thường dùng trực thăng riêng của mình mà gầm rú động cơ khác thường chọc giận Bà Thiệu nên ngày kia bị Thiệu đá cho ra rìa, nếu lúc đó Kỳ suy nghĩ với cương vị của mình làm cách nào mà chống được địch thủ bên phương Bắc thì khác.
13.- Khi Nguyễn cao Kỳ được giao trách nhiệm qua Paris làm trưởng đoàn đàm phán thì vợ chồng Kỳ ăn mặc rất đắt tiền, nào là mua cho vợ một bộ áo ngự hàn bằng lông chồn trắng, thật sự Miền Nam VN khí hậu rất nóng về mùa Hè và mùa Đông cũng không đến nổi phải dùng áo lạnh da chồn trắng làm chi. Và báo chí Tây Phương mỉa mai là "liệu lương của Phó Tổng thống không biết bao nhiêu tháng mới đủ mua cái áo đắt tiền này cho vợ”. Lúc đó Kỳ chế ra một bộ áo một loại áo riêng cho mình gọi là "áo lãnh tụ". Loại áo bắt chước hoàn toàn loại áo của Chu ân Lai vẽ kiểu ra, là cổ ngắn, màu đen, có 4 túi. Trong khi đó nhóm Bà Bình và tên Lê đức Thọ thì ăn mặc giản dị, Bà Bình mặc áo dài, vải rất tầm thường và khi rãnh thì nhóm này đánh cờ tướng với nhau còn nhóm Kỳ thì đang trượt trên sàn nhảy Dancing Paris sang trọng. Mặc dầu biết nhóm Bà Bình và nhóm Lê đức Thọ đang giả hình. Nhưng những người có đầu óc thương nước thì không khỏi đau lòng Sỉ Diện Quốc Gia bị tên tướng Kỳ và bà vợ Hostess de l’air tàn phá sạch bách. Mặc dầu kế của Nguyễn văn Thiệu đẩy Nguyễn cao Kỳ sang Paris cho nhục cặp vợ chồng này, nhưng Thiệu cũng nên nghĩ đừng nên đem Quốc Thể VN mà giao cho tên này làm dơ bẩn được. Hàm huyết phún nhân tiên ô tự khẩu.
14.- Nguyễn cao Kỳ trong quyển sách tự thuật là không tham nhũng, không buôn lậu chuyện này Kỳ nói cho con nít tin mà thôi. Người Thứ Năm có một người Bác họ quen. Vị này làm trong Kiểm Hải Quan Thuế Toàn Quốc lúc đó đang làm việc tại Cảng Tân sơn Nhứt, nhóm Quan Thuế này được mật tin là có một cuộc chuyển hàng "á phiện 60 kg từ Lào về Tân sơn Nhứt". Vị này đón phi cơ hàng không dân sự Air ViệtNam từ Vạn tượng về, nhưng không có phi vụ ngày này. Và đúng 6 giờ chiều thì có một chuyến phi cơ từ Vạn Tượng về Tân sơn Nhứt và có đem 60 kg Á Phiện nhưng phi cơ này là phi cơ quân sự nên không đáp tại Tân sơn Nhứt mà đáp vào phi trường quân sự Phi Long kế bên. Và cũng chính vị này khui ra vụ Dân biểu VNCH đi công tác đem lịch ở truồng về VN. Tên dân biểu này là Nhữ văn Úy mà ngày xưa tướng Đỗ cao Trí đòi đấu súng bắn nhau như bên Tây Phương ngày xưa khi danh dự bị xúc phạm.
15.- Cô con gái Kỳ tốt nghiệp Đại học Hoa Kỳ chắc chắn học xong lớp Politic-Science (mà University bắt buộc phải có). Một cảnh tượng tướng Nguyễn ngọc Loan dùng súng lục rulô ngắn nòng mà bắn một tù binh Việt Cộng đang bị còng tay quặt sau lưng... sách vở có in hình này và tất cả phim Hoa Kỳ nói về chiến tranh Việt Nam đều có chạy hình ảnh này. Tướng Loan đáng lẽ phải ra Tòa Án Quân Sự hay Tòa Đại Hình Liên Hiệp Quốc về tội bắn tù binh trong tay, trái với Hiệp Ước Geneve về Tù Binh. Lúc đó chúng tôi đang học lớp này thì những người bạn học cùng lớp khác màu da hỏi như sao "Anh thấy hình ảnh này nói điều gì?" Cứng họng không trả lời được, Danh dự Quốc Gia và niềm hãnh diện của người lính chiến VNCH bị tên tướng Loan này chà đạp. Tướng Loan với chức vụ Cảnh Sát Quốc Gia VNCH có muôn ngàn cách thủ tiêu tên này, nhưng đừng để hình ảnh mọi rợ này in mãi mãi trên sách vỡ và Video trên toàn Thế giới. Cô con gái Kỳ nên biết tướng Loan này là cộng sự viên đắc lực nhất của tướng Kỳ. Chủ sao thì tớ vậy, làm mọi chuyện nhục quốc thể trước khi suy nghĩ cho kỹ mọi hậu sự ra sao.
16.- Quyển sách tự thuật của Tướng Kỳ mang tên là "Buddha’s Child" là sai hoàn toàn từ nghĩa bóng đến nghĩa đen. Danh từ chung “Con Cầu Tự” là dành cho gia đình khá giả giàu có theo Đạo Phật ngoài Bắc thì nhiều hơn. Gia đình khá giả hay giàu có sợ không con nối dõi mà hưởng của giàu có này, nên thường lên Chùa khấn vái Phật mà xin được có con trai nối dõi. Còn gia đình nghèo, cơm không đủ ăn, nghe nói bà vợ có thai thì hoảng hồn lo sợ hơn là vui mừng nên gia đình nghèo không có chuyện lên Chùa xin con nối dõi Nguyễn cao Kỳ không thuộc diện giàu có cần con nối dõi. Người Tây Phương họ trực tánh khi đọc chữ "Buddha’s Child" là họ nghĩ ngay là "Con của Phật". Thật sự Thích Ca Mâu Ni khi mang danh hiệu Phật thì Ngài không có con, vì Ngài đã đoạn Dục, còn trước khi đi tu Ngài là Hoàng Tử thì Ngải có đứa con độc nhất. Sau đó đứa con trai độc nhất này đi tu theo Cha và mất sớm khi vào tuổi thanh niên. Đứa con đó tên là "La hầu La" (Lahura /sách Anh) Nhưng trong lúc tu hành Đức Phật thường gọi tên chớ không gọi là con. Như trường hợp em trai Đức Phật là Anan, Đức Phật thường nói: "Nầy! Ananta nghe người ta thường nói như vầy". Còn nghĩa thứ hai là sự hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma là từ thế kỷ 14, một vị chân tu Tây Tạng sau khi nối ngôi của Tống Cáp Ba (Tsongkhapa) tên là Gendun Drup. Vị này lập ra học thuyết: "luật tái sanh" của Đạt Lai Lạt Ma theo đó khi chết thì linh hồn vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ nhập vào đứa bé trai sơ sanh như là một hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm (Bodhisatva Avalokitsera) nên người Tây Phương sẽ nghĩ là Đạt Lai Lạt Ma đầu thai hay là con của Phật. Thật sự tại Việt Nam người ta ít gọi cậu bé "Cầu Tự" này là con của Phật hết. Người ta thường nói "Bộ mầy là con của Trời cháu của Phật phải không?". Cụm từ Con Cầu Tự không thể ghi là "Buddha’s Child" được hết. Xem lại Tự điển Anh Việt và Việt Anh. Tướng Kỳ bảo đảm không thuộc về diện này theo nghĩa bóng hay nghĩa đen vì lý do đơn giản Kỳ không phải là người theo Đạo Phật nếu kể từ cấp trên của Kỳ.
17.- Trong quyển “Buddha’s Child” tướng Kỳ mong được về quê hương VN mà giúp đỡ. Thật sự hiện nay Việtnam có chương trình TOKTEN (Transfer of Knowledge Through Expatriate Nationals) do Liên hiệp Quốc đề xướng và tại Hà Nội có văn phòng tại đường Bà Triệu, cách xa không bao nhiêu Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường do Bộ trưởng Chu tuấn Nhạ cai quản. Chương trình TOKTEN này hiện nay không cần lắm cho những kỹ sư thuộc về Công Nghệ Thông Tin vì hiện nay Công ty Microsoft và Côngty Oracle đang tranh dành ảnh hưởng tại đây và trình độ Công Nghệ Thông Tin của VN rất khá cao hơn Đài Loan nếu so về Internet/ Web Sites. Và Kỳ không thuộc diện Knowledge này. Kỳ có thể bớt đánh bài tại Las Vegas mà dành tiền giúp chương trình của nữ nghệ sĩ Kiều Chinh và cựu Đại Sứ Petersen là "Một ngôi trường cho trẻ em nghèo tại Vùng khô cằn sõi đá Miền Trung" hiện nay chương trình này đang xây xong ngôi trường thứ 61 cho em nghèo tại Miền Trung. Người sáng lập chương trình này là một anh lính chiến thương phế binh Hoa Kỳ, anh bị mất đôi chân tại chiến trận Miền Trung. Anh không giận nước Việt Nam, và anh mong mõi xây được một ngôi trường nhỏ cho em nghèo VN. Anh qua đời và chương trình này được Kiều Chinh tiếp nối. Hiện nay cơ quan này đặt tại Florida/USA. Nhưng người Thứ Năm quả quyết Nguyễn cao Kỳ không thuộc diện này kể cả chương trình TOKTEN và Chương Trình Một Ngôi Trường cho Trẻ Em Nghèo tại VN.
18.- Chúng tôi cũng hy vọng ngày tàn của CSVN nếu Kỳ được mời về nước giúp ý kiến. Một lời nói có thể: “Hưng Vong và Táng Quốc". Kỳ có thể về giúp Hà Nội và nói vài lời Táng Quốc thì chế độ CSVN tại Hà Nội sẽ táng theo lời nói của Kỳ và chúng ta "Tết này sẽ gặp nhau tại VN" như người Israel nói "Năm này ta sẽ gặp nhau tại Jerusalem". Chúng tôi còn nhớ lời Kỳ nói tại Hố Nai/ Saigon "Tôi không qua Mỹ vì không quen uống sữa, uống sữa sẽ đau bụng. Tôi thích ăn mắm tôm thôi.”
19.- Quyển "Buddha’s Child" nên mượn tại Thư Viện Hoa Kỳ còn nếu mua để làm của riêng và nghiên cứu thì nên mua Bộ Tam Quốc Chí có đoạn “Lữ Bố hí Điêu Thuyền" thì hay hơn.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 7:51:33 GMT 9
ĐỌC “NHẬT KÝ AN LỘC” CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN QUÝ
Đặng Trần Huân
Nhật Ký An Lộc của bác sĩ Nguyễn Văn Quý mới ra mắt thật sự là một cuốn nhật ký vì được viết từ 30 năm trước, ngay chính những ngày tác giả có mặt trong thời gian tử chiến 1972 ở Bình Long.
Nguyễn Văn Quý cho biết ông chỉ có ý định viết cho mẹ, các em ông và nếu có con để chúng biết về những gian khổ của ông tại Bình Long trong thời gian chiến cuộc đỏ lửa 1972 trên chiến trường Nam Việt Nam (trang 342). Nhật Ký An Lộc tuy không ghi từng ngày, tháng nhưng đầy đủ diễn tiến ba tháng tỉnh lỵ An Lộc bị bao vây, bị cô lập nhưng đã cầm cự quyết liệt và cuối cùng chiến thắng.
Nếu cuốn sách chỉ thuần túy là một cuốn nhật ký về đời riêng của mình từ lúc ấu thơ cho tới hiện tại thì cũng chả có gì đáng nói vì một bác sĩ tuy là một khuôn mặt cộng đồng nhưng Nguyễn Văn Quý không phải là một danh ca hay một siêu sao điện ảnh có đời tư sôi nổi, có những cuộc tình bốc cháy mà mà những người ái mộ tò mò muốn biết.
Mở trang đầu Nhật Ký An Lộc ta có thể tưởng như đang đi vào cuộc đời tác giả từ thuở ấu thơ. Nhưng phần này chi vỏn vẻn có vài dòng mà thôi. Sau đó nội dung sách cuốn hút ta từ khi lúc sinh viên Nguyễn Văn Quý tuy đã tốt nghiệp bác sĩ và đủ điều kiện nhưng không xin miễn dịch mà xin nhập ngũ Khóa 10 Y Sĩ Trưng Tập. Ông nhận công tác tại bệnh viện tiểu khu Bình Long ở tỉnh lỵ An Lộc ngày 13. 4. 71 và đúng ngày đó một năm sau Việt cộng tấn công Bình Long mà ông cho là với ông đó là một trùng hợp lạ lùng.
Nhật Ký An Lộc được viết với giọng văn rất thành thực, chân tình và nội dung bao chùm nhiều chi tiết khi anh hùng, khi bi thảm, đau thương trong mặt trận An Lộc mà trước nay chưa nghe ai kể.
Trong vòng vây, bác sĩ Quý tậân tình cứu chữa các chiến hữu với những điều kiện ngặt nghèo về phương tiện, có lúc ông đã phải dùng dây ny lông cột miệng bao cát để làm chỉ may vết thương sau giải phẫu và đại úy Nghi là người đầu tiên chịu sự thí nghiệm này, rồi tới các trường hợp sau nữa đều an toàn (tr. 288). Những đoạn mô tả sự tận tâm của người y tá Biệt Động Quân với đồng đội thương binh từ đơn vị xa tới (tr.115), điều ki?n làm việc trong bệnh viện khi không đèn, không điện thoại là những cảnh rất xúc động. Hãy nghe ông kể về một trường hợp thương tâm trong hàng trăm tường hợp:
Một người lính mặt mũi đầy cát bụi tới kéo áo tôi lại gần một chiếc cáng. Anh ta có vẻ xúc động lắm, nước mắt quanh tròng.
- Bác sĩ cứu giùm thiếu úy đại đội trưởng của em... Tụi nó còn nằm như rạ ngoài kia.
Tôi quỳ xuống bên băng ca. Một người nằm thiêm thiếp, mặt mũi tái xanh chắc chắn bị kích xúc rất nặng. Tôi thấy hai cẳng chân bị thương nát tới đầu gối. Vết thương đầy bùn đất. Cẳng chân trái chỉ còn là một đống thịt xương vụn nát dính vào đầu gối bằng mấy sợi gân trắng hếu. Nhìn nét mặt người thương binh thấy hơi quen quen. Tôi ngó xuống bảng tên: UY. Tôi ngửng phắt lên nắm vai anh lính:
- Có phải thiếu úy đại đội trưởng 212 không?
- Dạ phải.
Thôi rồi, tôi thấy lạnh buốt trong lòng. Một niềm thương cảm xót xa làm tôi thấy cay ở mắt. Tháng trước gặp Uy lần đầu tiên, ăn nhậu với Uy. Uy nói tôi và Uy có họ với nhau. Uy là em họ tôi ... Trong bữa tiệc tôi không tiện hỏi kỹ. Tôi nghĩ bao giờ về Sài Gòn hỏi lại người nhà cho chắc chắn (tr. 141, 143)
Thế rồi dù tận tình cứu chữa tác giả cũng đành phải cắt một phầân ba trên cẳng ngừơi em họ gặp lại ở chiến trường.
Trong hoàn cảnh bề bộn với những ca mổ, vị bác sĩ tuy mang trách nhiệm nặng nề nhưng có lúc lo sợ như ai, một tình cảm của thất tình.
Và hãy nghe tác giả dí dỏm nói tới cái sợ của người nữõ tù binh cộng sản về đạn của đồng chí của cô:
Những hôm bị pháo kích tôi đi ngang qua phòng cô ta thấy cô ta mặt mũi xanh rờn vì sợ, chui xuống gầm giường bệnh, một cánh tay vẫn bị khóa chặt vào thành giường, khiến mọi cử động của cô rất khó khăn. Tôi nghĩ bụng thì ra cô cũng sợ pháo của các đồng chí của cô (tr.157).
Trước ngày An Lộc bị bao vây, Ban An Ninh tỉnh giải tới bệnh việân tiểu khu hai tù binh bị thương có một nữ tuổi trạc 20. Tác giả đã mổ cho họ,ï săn sóc họ như người dân không phân biệt bạn, thù. Sau khi mổ họ được đưa ra phòng hậu giải phẫu.
Người nữ tù binh tỏ vẻ hoài nghi những người bắt giữ mình nhưng dần dần rồi hiểu và khi giải trở lại an ninh tỉnh cô đươc gỡ còng và đi lại tự do như mọi người thì cô vui vẻ trở lại.
Trong những trường hợp khác bộ đội Việt cộng bị còng nhưng chắc là các cấp chỉ huy của họ nói là "tự nguyện". Một hôm lợi dụng pháo kích lắng dịu, bác sĩ Quý và bác sĩ Diệm đi lên hướng Lộc Ninh quan sát chiến trường. Sau khi đi qua một dẫy mộ của chiến sĩ Biệt Cách Dù, ông chú ý tới những xác xe tăng địch gần đó.
Tôi chợt thấy một xe tăng tương đối còn mới dù đã qua gần một tháng trời mưa nắng... Tôi nhảy xuống xe, tiến về chiếc xe tăng. Vì chiếc xe bị bom thả trúng, chúi mũi xuống hố bom cũng khá sâu. Tôi thấy pháo tháp hơi bật ra về phía bên trái. Tôi và ông Diệm trèo lên nhìn vào bên trong chiếc xe tăng. Tôi thấy một bộ xương người ngay chỗ của tài xếâ. Chiếc xương sọ gục xuống bên tay lái. Cổ xương chân trái có một sợ dây xích cột vào cần lái xe (tr. 367, 368).
Thử hỏi giá dụ anh chàng lái xe tăng đó vào được An Lộc trong chiến thắng liệu cấp chỉ huy của anh trong cơn lửa đạn đã quăng mất tiêu chùm chìa khóa thì ai mở "cái còng tự nguyện" cho anh để ăn mừng?
Trong tình trạng bị bao vây đường tiếp tế duy nhất là thả dù, có những lần đồâ tiếp tế rơi vào vùng địch, đồ tiếp tế quá nặng đè chiến sĩ ta chết bẹp, hoặc đang thiếu lương thực quân sĩ reo mừng ùa ra tìm thực phẩm trong cái dù vừa rớt xuống khi mở ra lại thấy toàn là đạn và lựu đạn (tr.162).
Bên cạnh những nấm mồ chiến sĩ biệt kích đươc đồng đội không ngại hiểm nguy chôn trang trọng bên lề đường thì có những xác khác cả người lớn, trẻ em, quan, lính dồn về nhà xác của bệnh việân. Mới đầu ở nhà quàn, rồi sang tới nhà xe, rồi tới sân sau bệnh viện và ngang hông phòng y tế. Xác để lâu ngày xình thối và lên tới con số 300. Cuối cùng đành phải giải quyết bằng cách cho xe ủi đất đào hai hố lớn, mang nhữõng xác chết lên xe rồi hất xuống những hố đó. Đấy là ở tiểu khu. "Ngoài ngã ba Xa Cam dọc theo vườn cao su, trung đội chung sự tiểu khu còn đào thêm một hố chôn tập thể ... nghe nói hố đó chứa chừng gần một ngàn xác" (tr. 209).
Thấy những thương vong của quân dân ta như vậy ai cũng phải đau lòng mặc dù công trường 9 của địch bao vây An Lộc đã bị B. 52, phi pháo và viện binh ta tiêu diệt chỉ còn hơn một tiểu đoàn (tr. 313).
oOo
Miệt mài làm không kịp những việc chuyên môn của mình, nhưng lúc thảnh thơi, lúc nghỉ ngơi tác giả cũng có nhiều nhận xét tinh tếâ về sự việc quanh mình. Ông phục tổng thống Thiệu có trí nhớ khá tốt khi tác giả trả lời là đã phục vụ tại bệnh viện tiểu khu Bình Long thời gian tác giả làm trưởng đoàn chiến sĩ xuất sắc năm 1972 trong dịp kỷ niệm cách mạng 1 tháng 11. Tổng thống ngạc nhiên nói với tác giả "Tôi cũng lên đó, hình như tôi không gặp bác sĩ ". Ông Thiệu nói đúng, khi ông thăm mặt trận An Lộc tháng 7. 72 là tuần lễ Nguyễn Văn Quý được đi phép (tr. 420). N?u tác giả phục ông Thiệu có trí nhớ tốt trong cuộc tiếp tân này, thì trong dịp đó Nguyễn Văn Quý cũng nhậân thấy trong phái đoàn nữ sinh đón chiến sĩ có cả “nữ sinh lớn” là nghệ sĩ Mộng Tuyền mà tổng thống soắn suýt, cười nói hơi lâu (tr.422).
Lần trung tướng Nguyễn Văn Minh tư lệnh phó quân khu tới ủy lạo chiến sĩ, ông chỉ bắt tay bác sĩ Quý mà không nói một tiếng nào. Tác giả cho là rất lạ nhưng vẫn phải mời vị chỉ huy sang thăm phòng mổ của mình. Khi gõ cửa bên trong có tiếng xột xoạt lạ tai. Khi cửa mở thì trước mắt phái đoàn là:
Căn phòng mà tôi cứ yên chí là đã dọn dẹp sạch sẽ ngăn nắp và không có ai thì ngay trước mắt mọi người là một cái võng mắc xéo qua phòng trên cái bàn mổ dã chiến, vợ anh Sáu Xòm mà cái bụng chửa sắp đến này sanh to vượt ngực đang ngồi trên võng nhìn ra cửa tỉnh bơ (tr. 344).
Tác giả chỉ còn biết xin lỗi trung tướng và đã hiểu sự lạnh lùng của ông. Bác sĩ Quý biết là không thể và không đủ thì giờ để thanh minh nỗi oan Thị Kính của mình. Giá trong một cuốn hồi ký của một tác giả khác chắc chẳng ai dại gì mà kể những chuyện vô ý đó trên mặt giấy.
Là một cuốn sách đầu tiên, đã viết đã từ 30 năm tất nhiên không thể tránh được những câu trùng lặp hay những đoạn không rõ ràng gây thắc mắc.
Xin dẫn chứng một ví dụ: Khi nói tới trung tá Nguyễn Đức Liên, Nguyễn Văn Quý viết:
Nhìn năm ngôi sao đỏ chót thẳng hàng trên túi áo của anh tôi phục lắm. Trên túi áo tôi chỉ có một ngôi sao (tr. 409).
Chính tôi đã sững sờ nghĩ thầm sinh viên y khoa Nguyễn Văn Quý chỉ mới tương đương cấp thiếu úy mà sao lại đeo sao. Và trong ngành y QLVNCH đã có ông trung tướng nào đâu mà ông Nguyễn Đức Liên đeo tới 5 sao thống tướng. Tôi bày tỏ thắc mắc này với một vài anh bạn trong ngành quân y mới biết là khi học y khoa các sinh viên đeo sao theo năm học: năm thứ nhất một sao, năm thư hai hai sao v . v ... Như vậy tránh làm sao cho độc giả dân sự hoặc ngay cả sĩ quan quân đội nhưng không rõ về ngành quân y khỏi thắc mắc. Đúng là một cuốn nhật ký của riêng mình nên Nguyễn Văn Quý đã coi đó là chuyện bình thường ai cũng phải biết, ai cũng phải nhớ nội quy của Trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, thời Việt Nam Cộng Hòa.
Về chính tả cũng còn sót nhiều lỗi chẳng hạn như: nước mắt đoanh tròng (tr. 141), bụng chữa (tr. 344), Leon Tolstoil (tr. 343) ... Nên viết nước mắt lưng tròng hay quanh tròng, bụng chửa với dấu hỏi (?). Về tên Tolstoi có trở ngại khi viết bằng tiếng Pháp với hai chấm trên chữ "I", đề nghị nên thống nhất dùng tiếng Anh Leo Tolstoy như khi viết về các tác giả ngoại quốc khác. Nhưng cái lỗi ấn loát có thể khiến tác giả buồn là tất cả các trang trong sách đều viết đúng tên NguyễnVăn Quý với chữ Y dài thì chình ình ở ngoài bìa tên tác giả viết thành Quí với I ngắn. (Ở Việt Nam Bộ Giáo Dục cộâng sản từ lâu rồi đã ra hẳn một văn bản quy định trừ một số ít từ còn đa s? Y dài bắt buộc phải thay bằng I ngắn).
Bỏ qua những lỗi lầm nho nhỏ, Nhật Ký An Lộc không còn là một cuốn hồi ký riêng tư mà chính là một phóng sự sống ba tháng trong địa ngục An Lộc. Đọc Nhật Ký An Lộc ta không gập những chuyện khô khan, chuyện đao to búa lớn của chiến lược, chiến thuật mà bị lôi cuốn vào những chuyện nhỏ hàng ngày bằng một giọng kể rất thành thực và chân tình.
Trong mười năm qua tôi đã đọc vài chục hồi ký bằng Việt ngữ viết về cuộc chiến Việt Nam nhưng chưa cuốn nào khiến tôi thích thú như Nhật Ký An Lộc mặc dù hành văn đôi lúc khiến ta phải chau mày nhưng nội dung phong phú, chân thật, không giấu diếm, không phô trương, mà chỉ là sự thật, những sự thật rất mộc mạc, không trang điểm, không cường điệu.
Nhật Ký An Lộc dày 470 trang kể cả 22 trang hình màu và đen trắng chụp ngay tại chiến trường hồi đó. Giá bán tại Mỹ: 24 mỹ kim. Liên lạc Nhà xuất bản Văn Nghệ, Westminster, CA, Hoa Kỳ. Phôn: (714) 934 - 8574.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:09:56 GMT 9
TỪ CUỘC TRANH LUẬN VỀ “CON MÈO CỦA SCHRODINGER” ĐẾN NHỮNG PHẢN ỨNG CỦA MỘT SỐ NGƯỜI V.N. ĐỐI VỚI ÔNG NG. CAO KỲ
- ĐẶNG VĂN NHÂM -
GIÓ ĐÃ XOAY CHIỀU!
Hôm nay ngồi viết những giòng chữ này, tôi nghĩ có lẽ ông Kỳ đã rời khỏi quê hương yêu dấu của ông và của cả mọi người Việt Nam chúng ta.
Theo tin tức báo chí HK và Việt Nam, tôi được biết ông Kỳ đã về thăm quê hương và nơi chôn nhau cắt rốn của ông từ ngày 14. 01. 04. Khi biết tin này, tôi cũng như đại đa số người Việt Nam tị nạn ở hải ngoại từ năm 1975 đến nay cứ đinh ninh thế nào ông Kỳ cũng sẽ phải hứng chịu những trận cuồng phong bão táp dữ dội của các nhóm chống Cộng cực đoan ở hải ngoại, chí ít cũng sẽ xảy ra sôi nổi và bạo tàn bằng các cuộc biểu tình, và những cuộc quyên góp tiền bạc tấp nập lập quỹ chống Ng. Cao Kỳ chẳng khác nào vụ Trần Trường... Nhưng chẳng dè phản ứng đối với ông Kỳ và những lời tuyên bố công khai rộng rãi trên khắp báo chí trong và ngoài nước của ông đã chỉ rộï lên lác đác trong giây lát rồi chìm nghỉm trong yên lặng của cả một sự trầm tư mặc tưởng sâu xa của cộng đồng. Trong biển suy tư này, người phân tách thời cuộc cảm thấy dường như làn sóng dư luận phản đối việc“ ông Kỳ về thăm Việt Nam” đã bị suy yếu đáng kể, chỉ bởi hành động về nước của ông Kỳ đã phản ánh một thứ tình cảm thiêng liêng nhất của con người là : tình tự dân tộc và lòng yêu quê hương tổ quốc. Đây là một mẫu số chung của nhân loại, không phân biệt chủng tộc hay chính kiến hoặc tín ngưỡng. Theo tôi, dù là người CS giáo điều hay người QG cực đoan, trong chỗ sâu kín nhất của tâm hồn họ lúc nào cũng tiềm ẩn thứ tình cảm thiêng liêng ấy. Bởi thế tuyệt đại đa số quần chúng trong nước đều đã đón nhận tin ông Kỳ về thăm quê hương bằng một nụ cười thông cảm.
Còn giới Việt Kiều tị nạn ở hải ngọai, tự nhận là QG chống Cộng thì sao? Tâm trạng của cộng đồng này khá phức tạp, chẳng những đầy rẫy mâu thuẫn, lại còn luôn luôn được che đậy khá kín đáo dưới chiêu bài chống Cộng. Ngót 30 năm qua cái chiêu bài “chống Cộng” ấy vốn chẳng khác nào cái “nhà xí công cộng”, bất kỳ ai, kể cả giới nằm vùng, số người cầm bút và số giới giặc thầy chùa khi cần che đậy những tội phạm đại giới cấm, hay hiếp dâm nữ PT vị thành niên, cẩu hợp với vợ con của các hàng PT thuần thành... vẫn có quyền sử dụng thoải mái, tạo nên cả một phong trào chụp nón cối tưng bừng ngót 30 năm qua.
Tuy nhiên, trong khoảng 5 năm gần đây, vì chính quyền CS Việt Nam đã bãi bỏ chính sách kỳ thị, gây khó khăn, và trấn lột ra mặt đối với Việt Kiều, nên không ít Việt Kiều khắp nơi đã dám về thăm quê hương.
Đối với tập thể đông đảo đồng bào này, hành động về thăm quê hương muộn màng của ông Kỳ chẳng qua chỉ là chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Giả thiết, nếu trước đây 10 năm mà ông Kỳ về “ thăm quê hương” như thế này, thì nơi ông cư ngụ chắc đã trở thành tro bụi, và khi ông trở lại vùng Nam Cali, nơi gió tanh mưa máu, thủ phủ của người Việt tị nạn, với Mặt Trân Kháng Chiến bịp HCM và đủ mọi loại đoàn thể chống Cộng “ giờ thứ 25” dữ dằn nhất thế giới, làm sao ông tránh khỏi tai họa “dập liễu vùi hoa”?! Bây giờ, ngọn gió đã xoay chiều, lòng người Việt ở hải ngoại cũng đã theo chiều gió mà đổi thay. Vì thế, kiểm điểm những cuộc chống đối ông Kỳ về nước, ta thấy chỉ còn lác đác vài ba khuôn mặt vang bóng một thời xa xưa như: Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Bá Cẩn, Lê Văn Tư v.v...
KHÍA CẠNH THIẾT THỰC
Kiểm điểm những nét đặc thù trong làn sóng phản đối hành động về nước của ông Kỳ, người quan sát thời cuộc nhận thấy: trên bình diện truyền thông, không kể mấy tờ báo chợ, và mấy đài phát thanh hàng tôm hàng cá, một số báo chí Việt Ngữ đứng đắn cũng như các loại báo chí ngoại văn khắp thế giới, đều chỉ loan tin trung thực, tránh việc phê bình, nhất là sự công kích chửi bới bừa bãi. Vì với trình độ kiến văn rộng rãi và kinh nghiệm nghề nghiệp vững chắc, họ cảm nhận được ngay bên trong chuyến về thăm quê hương đầu tiên này của ông Kỳ còn chứa nhiều ẩn số, đòi hỏi phải tốn thêm một ít thời gian nữa để tổng hợp dữ kiện, rồi phân tách tỉ mỉ và sáng suốt, hầu khám tìm ra nguyên nhân cốt lõi của sự việc. Trong số này, đáng chú ý có bài viết bằng Anh Ngữ của Jane Perlez, ấn hành ngày 26. 1. 04, đã hé lộ cho người đọc nhìn ra một vài khía cạnh thực tế và ích lợi của vấn đề, tức là mặt thiết thực (positif), xuyên qua câu sau đây:” Hanoi goverment, which wants to improve relations with the United States, particularly as a balance against China, Vietnam’s neighbor and onetime occupier” (chính phủ Hà Nội muốn phát triển bang giao với HK, đặc biệt là để quân bình với Trung Quốc, vốn là một lân bang đã từng xâm chíếm Việt Nam).
Tuy cuộc viếng thăm Việt Nam của ông Kỳ chỉ có tính cách không chính thức, nhưng trong hậu trường chính trị, dường như có sự khích lệ của chính phủ Bush. Năm ngoái một viên chức HK đã đề nghị với chính phủ nên dùng Ng. Cao Kỳ để mở đường cho Việt Nam phát triển sự hiện diện ở HK. Trên chiều hướng tiến hành ý kiến đó , vào mùa xuân năm ngoái, thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Đình Bin của Việt Nam -hiện nay đang là đại sứ Việt Nam tại Paris- đã đến San Francisco gặp ông Kỳ, để thương lượng chuyến hồi hương này của ông.
Để biện chứng cho sự nhận xét ấy, Jane Perlez đã nêu lên một số sự kiện đáng chú ý như: một chiếc quân hạm của HK đã cập bến cảng Sài Gòn hồi tháng 11 vừa qua. Đây là lần thứ ba trong khoảng 30 năm qua. Chuyến viếng thăm Ngũ Giác Đài và cuộc tiếp xúc với tổng trưởng quốc phòng HK, Donald H. Rumsfeld, của đại tướng, tổng trưởng quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà , vào mùa thu vừa qua. Ngoài ra, phó thủ tướng Vũ Khoan còn tiếp xúc với ngoại trưởng HK Colin L. Powell về chuyện xin gia nhập vào tổ chức quốc tế ” World Trade Organization” vào năm 2005.
Mặt khác, trong bài này tác giả Jane Perlez còn tường thuật trung thực lời tuyên bố của ông Kỳ đại ý như sau:” Người Việt Nam muốn cân bằng mối tương quan với TQ bằng cách cải thiện liên hệ với HK.... Trung Quốc càng trở nên hùng mạnh trong vùng Á Châu, thì Việt Nam càng thêm lo ngại, mặc dù cả hai nước đều cùng theo đuổi chủ nghĩa Cộng Sản...Về mặt kinh tế, Trung Quốc có thể triệt hạ Việt Nam , và chính phủ Việt Nam đã biết rõ điều đó... Việtnam có thể trở nên một quận, huyện của TQ lần nữa!...”
Theo tôi, chẳng cứ gì ông Kỳ, bất kỳ một người Việt Nam nào có lòng yêu nước, dù đang mang một thứ quốc tịch nào trên thế giới, và am tường phần nào lịch sử dân tộc dưới các thời kỳ cai trị của TQ, đều không khỏi giật mình kinh hãi khi nghĩ đến hiểm họa xâm lăng của TQ trong tương lai. Còn những ai đã từng về Việt Nam trong mấy năm gần đây, đã có dịp tham quan vùng giới tuyến miền Bắc, giáp ranh TQ, đã quan sát và điều nghiên sinh hoạt kinh tế, thương mãi giữa hai nước Việt -Trung đều không khỏi đau lòng sót dạ vô cùng. Nhất là về mặt văn hóa, giáo dục và truyền thông, hằng ngày, mới bảnh mắt ra mỗi buổi sáng, bật màn ảnh truyền hình lên, đều chỉ thấy toàn những phim truyện TQ... và TQ cho đến khi tắt máy đi ngủ, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng Trung Quốc và hình ảønh TQ!!!
Nếu bạn nào có dịp tiếp cận hơn nữa với quần chúng trong nước sẽ càng thêm sót sa khi chợt nhận ra một phần không nhỏ trẻ em Việt Nam ngày nay đã biết và thuộc lịch sử TQ hơn lịch sử và văn học Việt Nam. Trong phạm vi này, người ta còn có thể nhận thấy ảnh hưởng TQ đã bám sâu và rộng rãi trong cuộc sống hằng ngày của người dân miền Bắc nhiều hơn dân miền Nam. Trên tuyến đường xuôi nam, từ cửa khẩu Lao Kay, chợ Cốc Lếu vào đến chợ Rạch Giá, nếu bạn dùng đường bộ hay hỏa xa, bạn sẽ nhận ra điều tôi nói trên đây là xác thực và là một hiểm họa đáng lo ngại trước mắt cho đất nước và dân tộc. Từ mối lo đó, bạn sẽ nhận ra thực chất của vấn đề: nếu nhà nước này không sớm phát triển mạnh về kinh tế, sẽ không dẹp nổi thảm họa tham nhũng, và tất sẽ không ngăn ngừa nổi sự xâm lăng tràn ngập của TQ về các mặt văn hóa, kinh tế, thương mãi, kỹ nghệ... Hiện nay phần lớn sản phẩm tiêu dùng ở Việt Nam đều nhập cảng lậu, trực tiếp từ các chợ trời trong vùng biên giới hai nước Trung-Việt. Nói đến việc buôn bán ở biên giới TQ và Việt Nam, nơi đây tôi chỉ cần nêu lên một sự kiện nhỏ nhặt này để bạn đọc bốn phương hải ngoại hình dung ra sự “chơi cha” của TQ và sự thua thiệt của dân tộc ta đau đớn đến mức nào. Tại miền Bắc có hai cửa khẩu giao thương giữa TQ và Việt Nam: một ở Lạng Sơn, và một ở Lao Kay. Con đường giao thương ở Lao Kay gần và tiện ích, TQ không cho hàng hóa của Việt Nam chuyển vào nước của họ bằng cách đánh thuế thật nặng và tạo đủ cớ rắc rối. TQ chỉ cho phép Việt Nam dùng cửa khẩu Lạng Sơn , đường vòng rất xa xôi, hiểm trở, chi phí tốn kém nhiều, để trao đổi thương mãi với họ. Kết quả hàng hóa TQ tràn vào Việt Nam bằng cửa khẩu Lao Kay và Lạng Sơn nhiều gấp trăm, gấp ngàn lần hàng Việt Nam chuyển sang TQ!...
Trước chính sách chèn ép đủ mọi mặt, cùng với hiểm họa xâm lăng đáng sợ trước mắt cho cả một dân tộc, lời của ông Kỳ tuyên bố như thế xét ra có phần thiết thực, cần phải được bình tĩnh tìm hiểu rõ ràng hơn.
NOI GƯƠNG TRUNG QUỐC VÀ ẤN ĐỘ?
Sự tìm hiểu nghiêm chỉnh ấy sẽ giúp chúng ta phát hiện ra những nguyên nhân cốt lõi nào khiến nhà nước CS Việt Nam trong mấy năm gần đây đã phải thực hiện cấp kỳ chính sách đãi ngộ tử tế với Việt Kiều. Chính sách này ra đời chẳng phải do sự chèn ép nói trên của ông bạn láng giềng khổng lồ, mà thực ra chỉ bởi các nhà cầm quyền Việt Nam muốn noi gương Trung Quốc, và Ấn Độ.
Như nhiều người đã biết, ngót hai mươi năm nay, nền kinh tế của Trung Cộng (TC) đã phát triển rộ lên một cách đáng kể. Nhưng theo các chỉ dẫn thống kê, người ta được biết tiềm năng phát triển kinh tế của TC chẳng phải nằm trong nội địa hay Hồng Kông, và không hoàn toàn do năng lực của trên một tỷ quần chúng, mà lại đích thực nhờ vào bàn tay đóng góp mạnh mẽ của cộng đồng người Hoa ở hải ngoại, trong các nước: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Hòa Lan, Úc châu, các nước Bắc Âu, và Singapore, Mã Lai, Đài Loan, Nam Dương... Đứng đầu về mặt giàu có và đóng góp quan trọng đáng kể cho TQ gồm có những nhà tỷ phú như: Liem Sioe Liong, Robert Kuok, Dhanin Chearavanont v.v...
Chính vì thế, ngay sau khi vừa lên nhậm chức, chủ tịch nhà nước TQ Hồ Cẩm Đào đã ban hành pháp lệnh mở cửa “Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh” để đón rước các nhân vật Hoa Kiều xuất sắc thuộc các lãnh vực trí thức văn học, khoa học, kinh tế, thương mãi, kỹ nghệ ... về nước đóng góp công sức xây dựng quê hương. Theo Charles Zhang, tốt nghiệp khoa vật lý viện công nghệ Massachusetts, HK,:” Nếu hôm nay chúng ta nhìn lại 100 năm phát triển qua, chúng ta có thể thấy thời kỳ này tương tợ như thời kỳ Phục Hưng ở Âu Châu, hay Minh Trị ở Nhật Bản!”...
Mặt khác, nhìn về phía các quốc gia không CS, như Ấn Độ, nhà nước CS Việt Nam chắc chắn đã nhận thấy cộng đồng Ấn Kiều khắp nơi trên thế giới cũng đã đóng góp rất lớn cho công cuộc phát triển kinh tế, kỹ nghệ của nước Ấn nghèo đói, đông dân vào hàng thứ nhì thế giới. Trong một hội nghị năm 2003, trước 2600 Ấn Kiều thành công lớn trên thế giới, thủ tướng Vajpayee đã tuyên bố thành lập một “ gia đình Ấn toàn cầu”. Hiện nay, theo con số thống kê, đã có tới 20 triệu người Ấn cư ngụ trên 110 quốc gia với số thu nhập hằng năm tới 160 tỷ MK, tức bằng 1 phần 3 tổng số thu nhập của nước Ấn...
Trước những gương sáng đó của các nước lân bang, dù muốn dù không, nhà cầm quyền Việt Nam, nếu muốn thực sự “ xóa đói giảm nghèo”, và lột xác con thằn lằn để mau chóng hóa thân thành một con rồng kinh tế, phải cấp tốc bãi bỏ chính sách kỳ thị và trấn lột Việt Kiều. Tuy nhà nước Việt Nam đã thực hiện chính sách đãi ngộ công bằng và hợp lý đối với Việt Kiều từ mấy năm rồi, nhưng hiệu quả vẫn chưa đáng kể, vì lòng người Việt Nam tị nạn ở hải ngoại vẫn còn nghi ngại và nhất là chưa quên nổi những kinh nghiệm bản thân hay những vết thương kỳ thị , bạc đãi và trấn lột kệch cỡm trong thời gian qua. Do đó, nhà nước Việt Nam đã phải đẩy mạnh thêm chiến dịch hô hào xóa bỏ dĩ vãng, quên hận thù, thôi bạc đãi và trấn lột Việt Kiều, để cho sự đóng góp của cộng đồng Việt Nam tị nạn hải ngoại về mặt kinh tế được dồi dào hơn. Tho con số thống kê của nhà nước Việt Nam, trong 2 năm 2001 và 2002 , lượng tiền của Việt Kiều chuyển về nước đạt từ 1,75 tỷ MK lên đến 2,15 tỷ MK. Riêng năm 2003 vừa qua con số ấy đã tăng lên đến gần 3 tỷ MK và có triển vọng sẽ lên đến 3,5 MK. Theo tôi nhận xét, chắc chắn trên thực tế, số tiền Việt Kiều đã chuyển về nước không qua hệ thống ngân hàng đã vượt xa con số 3,5 tỷ MK. Tuy những con số vừa kể không to lớn lắm so với các cộng đồng di dân hải ngoại khác, nhưng sự tăng tiến nhanh chóng và đều đặn của những con số ấy đã nói lên kết quả tốt đẹp của chính sách đãi ngộ mới đối với Việt Kiều. Bởi thế , ta không lấy làm lạ khi thấy trong thời gian gần đây baó chí trong nước đã nhất loạt đề cao vai trò đóng góp lợi ích quan trọng của giới Việt Kiều hải ngoại. Đặc biệt nhất là trong dịp ông Kỳ về Việt Nam, các báo đều loan tin chủ tịch nhà nước Trần Đức Lương đã lên tiếng công khai đánh giá cao sự đóng góp thiết thực, quan trọng của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đối với sự nghiệp phát triển của đất nước,bằng câu nguyên văn sau đây:” Tôi hoan nghênh nhiều trí thức, kiều bào thành đạt ở nước ngoài đã và đang sẵn sàng về nước làm việc, cùng chia sẻ trách nhiệm với các đồng nghiệp trong nước vì mục tiêu công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước. Tôi cũng đánh giá cao quyết tâm và tình cảm của các kiều bào đã chọn chính quê hương mình làm địa chỉ đầu tư, kinh doanh, buôn bán lâu dài”... (trích báo Tuổi Trẻ, ngày16 .1. 2004).
Lời tuyên bố này đã khác hẳn với lời chửi rủa cay nghiệt, chất ngất hận thù đối với Việt Kiều của Phạm Văn Đồng và Lê Duẫn trước kia. Như vậy, chuyến về thăm quê hương lần này của ông Kỳ chẳng qua cũng chỉ nằm trong chiến dịch mới của nhà nước Việt Nam. Theo tôi biết, cùng một lượt hay trước hoặc sau ông Kỳ, còn có các cựu tướng như Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Toàn đã xin về Việt Nam. Hai vị này đã được nhà nước Việt Nam cho phép, nhưng không hiểu vì lý do gì mà chưa về. Ông Toàn có thể vì trở ngại của chứng ung thư. Còn ông Khánh? À ông này là người nhiều mưu mô, thủ đoạn vặt, nên cần phải tìm hiểu kỹ càng hơn, nhất là phải cân nhắc những lời tuyên bố của ông trong cuộc hội thoại truyền hình ở san José, HK, ngày 20. 2. 04 vừa qua!
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:14:11 GMT 9
KHI ÔNG TƯỚNG NÓI CHUYỆN YÊU NƯỚC - An Xuyên -
Ông Tướng nói chuyện yêu nước là chuyện hiển nhiên vì nếu không yêu nước, làm sao leo lên được cấp Tướng, ngoại trừ những ông Tướng mua quan bán chức, chuyên chộp thời cơ, nâng bi thượng cấp thì chẳng cần yêu nước cũng để đời vài ba Sao. Những ông Tướng loại này không phải là không có dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, duy có điều ngày nay các ông khôn ngoan ngậm miệng ăn tiền thì cũng chẳng có gì để nói. Chỉ những ông không biết thân, tưởng mình là Tướng ngon thứ thiệt, cũng ba hoa chuyện nước chuyện non như Nguyễn Cao Kỳ thì thiệt là dại chứ chẳng phải khôn.
Nguyễn Cao Kỳ lên Tướng nhờ vào tài bốc đồng, bốc phét hơn là vào chiến công oanh liệt như những ông Tướng bình thường. Trước năm 1975, Nguyễn Cao Kỳ nổi tiếng như cồn nhờ huênh hoang chống Cộng, hùng hổ đòi Bắc tiến, hiên ngang kêu gọi tử thủ vào những ngày cuối cùng của miền Nam. Bao nhiêu chiến sĩ đã vì nghe theo sự kêu gọi của Nguyễn Cao Kỳ mà ở lại để rồi sau đó, bị Cộng Sản Bắc Việt giam cầm đến chết hoặc thân tàn ma dại nơi rừng sâu nước độc. Những lời kêu gọi tưởng như tâm huyết của Nguyễn Cao Kỳ thực ra chỉ là những lời vô trách nhiệm, nói để mà chơi, những bốc đồng, bốc phét cố hữu. Dường như Nguyễn Cao Kỳ và Cộng Sản có chung một đặc điểm: khoác lác và lỳ lợm. Nói tới Nguyễn Cao Kỳ là nói tới cơn giận tràn hông của một người bạn bị bất ngờ đâm sau lưng, của một người cha vô phước có đứa con cầu tự cố thây, của một người vợ có ông chồng bướm hoa trơ trẽn.
Xét lại, cả cuộc đời, đàn bà lúc nào cũng là gánh nặng trên vai Nguyễn Cao Kỳ. Nước non chỉ là cái áo khoác. Ngày xưa, Nguyễn Cao Kỳ đã từng ngồi trên máy bay quân sự rượt đuổi đàn bà trên máy bay dân sự, không buồn đếm xỉa đến hàng trăm sinh mạng hành khách của chiếc máy bay dân sự đáng thương đó. Nguyễn Cao Kỳ còn xử dụng phi cơ quân sự để đưa nàng đi ăn trưa, ăn tối ở những nước láng giềng trong thời chiến. Ngày nay, đã hơn 70 tròm trèm miệng hố, vẫn bén gót theo đàn bà, dù người đàn bà ấy có quan hệ mật thiết với kẻ đại thù của dân tộc. Vì đàn bà, Nguyễn Cao Kỳ tiếp tục bốc phét, bốc láo làm trò cười cho Cộng Sản Bắc Việt.
Nhiều cuộc phỏng vấn đã cho Nguyễn Cao Kỳ cơ hội bằợng vàng để bốc phét. Những lời yêu nước thương dân của Nguyễn Cao Kỳ nghe qua tưởng là thiệt nhưng nhìn về quá khứ, mới thấy toàn những lời láo khoét để bốc thơm cá nhân. Đối với Cộng Sản Bắc Việt, giá trị của Nguyễn Cao Kỳ không hơn gì giá trị của con chốt Trần Trường, loại xài xong rồi bỏ. Sự lỳ lợm, mày trơ trán bóng của Nguyễn Cao Kỳ đã được Cộng Sản Bắc Việt sử dụng tối đa, tưởng để làm chao đảo người Việt quốc gia nhưng trái lại, cũng giống như viên đá dò đường Trần Trường, Nguyễn Cao Kỳ đã làm người Việt quốc gia kết hợp chặt chẽ hơn lên nữa.Đối với cộng đồng người Việt, giá trị của Nguyễn Cao Kỳ còn thua Trần Trường bởi vì Nguyễn Cao Kỳ dơ bẩn hơn Trần Trường. Trần Trường dù sao chỉ là một tên vô lại. Nguyễn Cao Kỳ đã từng là giai cấp lãnh đạo của miền Nam, ngày nay lại ngang nhiên xoay chiều, đổi gió, lạy lục, hoan hô những kẻ Kỳ đã không chấp nhận trước đây, những kẻ Kỳ đã muốn tiêu diệt thì thực là một phản bội lớn lao cho quân dân miền Nam và là một sỉ nhục ngàn kiếp không rửa sạch cho gia tông của Kỳ.
Đây không phải lần đầu tiên Nguyễn Cao Kỳ phản bội đồng bào, phản bội anh em. Kỳ đã lợi dụng lòng vị tha, dễ quên của người Việt quốc gia để bốc phét nhiều lần mà không cần biết hậu quả. Cộng Sản Bắc Việt đã thấy và đã nắm đúng những khuyết điểm của Kỳ để dàn dựng một canh bài lừa bịp thế giới và những kẻ còn mơ ngủ. Chỉ những kẻ đang ngủ mới không nhận thức được sự xảo trá của Cộng Sản Bắc Việt và Nguyễn Cao Kỳ. Vả chăng, đã là người Việt Nam, có ai tin tưởng một con người đầu óc đi vắng, nông nổi, hoang tưởng như Nguyễn Cao Kỳ. Muốn thuyết phục đối phương mà tung ra con chốt Kỳ thì quả thật vô ích.
Cộng Sản Bắc Việt đã dùng lòng yêu nước để lường gạt dân, Nguyễn Cao Kỳ cũng bốc phét chuyện yêu nước dễ dàng như ăn cơm để lường gạt cộng đồng người Việt. Đối với Nguyễn Cao Kỳ, chỉ cần nhắm mắt quên đi quá khứ, chạy về Việt Nam, ngày ngày rong chơi, xách vợt đi đấu với lũ cán ngố là yêu nước, thương dân, là xây dựng đất nước, là đưa Việt Nam ra khỏi đói nghèo. Đây là kiểu yêu nước của một kẻ phản bội ngu muội. Từ Hải nghe lời Kiều nhưng đã chết đứng khi biết mình bị lường gạt. Nguyễn Cao Kỳ nghe lời đàn bà nhưng lại u mê, không tỉnh ngộ mà còn trơ trẽn làm tay sai tuyên vận cho bạo quyền, đi ngược lại lòng dân và thực tế. Nguyễn Cao Kỳ đã chôn vùi tên tuổi vào lỗ chân trâu cũng chỉ vì tham vọng cá nhân và đàn bà. Nguyễn Cao Kỳ ca ngợi đảng Cộng Sản và sẵn sàng hô to “Đảng Cộng Sản muôn năm” vì Nguyễn Cao Kỳ chưa bao giờ gọi là thực sự “sống” dưới chế độ Cộng Sản. Cũng như bao nhiêu người đang “sống” ở Việt Nam bằng tiền đô của Mỹ sẽ không bao giờ biết chế độ Cộng Sản là gì. Có đi làm, có vật lộn với cuộc sống và với guồng máy tham quan ô lại của bạo quyền Cộng Sản mới hiểu thế nào là độc tài, là vô thần, là bất nhân của cái chế độ khát máu đang bị cả thế giới lên án. Nguyễn Cao Kỳ được Cộng Sản Bắc Việt sử dụng như một tay sai tuyên vận nên quanh quẩn trong tháp ngà của Cộng Sản xảo trá, cố tình xóa bỏ lương tâm, làm ngơ trước những thảm họa đau thương của dân tộc. Biết bao cô gái Việt Nam đang bị âm thầm bán ra ngoại quốc làm đĩ điếm hàng ngày. Trẻ em Việt Nam lang thang đường phố mà tương lai sẽ là ma cô đưa mối cho những kẻ vô lương tâm về Việt Nam tìm vui. Nguyễn Cao Kỳ cũng không dời chân đến những con hẻm nghèo đói, nơi ăn mày lê la đầy vỉa hè để mà phỉ nhổ vào chính những lời nói vô trách nhiệm, làm điếm nhục gia phong của mình.
Trong lúc Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố vung vãi, vô tội vạ về yêu nước với Cộng Sản, cho rằng chế độ độc tài, độc đảng là một chế độ cần thiết ở Việt Nam và cộng đồng hải ngoại là những người hoang tưởng về sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản và thì có biết bao nhiêu nạn nhân đang bị Cộng Sản trù dập, hành hạ, giam hãm trong tù chỉ vì dám nói lên tiếng nói kêu gọi dân chủ và tự do cho đất nước như Nguyễn Vũ Bình, Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn, Trần Dũng Tiến, Lê Chí Quang. Gần đây nhất, Nhà sư Thích Chơn Hỷ đã châm lửa tự thiêu để đòi hỏi tự do tín ngưỡng, tự do dân chủ cho toàn dân và sự nguyên vẹn của lãnh thổ. Đã gần 30 năm hậu chiến, Cộng Sản Bắc Việt vẫn phải sử dụng độc tài, độc đảng để cai trị dân ắt không phải chuyện bình thường như Nguyễn Cao Kỳ đã u mê nói. Đất nước nếu thực sự thanh bình, người dân thực sự cơm no, áo ấm, hà cớ gì phải đàn áp tôn giáo, bịt miệng dân? Có phải đảng Cộng Sản dư biết chế độ Cộng Sản là một thể chế sai lầm, nếu không tiếp tục độc tài, độc đảng sẽ bị hạ bệ nên phải tàn bạo để nắm giữ quyền lực? Không phải chỉ riêng cộng đồng hải ngoại chống Cộng mà ngay cả dân trong nước và những người đang nằm trong guồng máy Cộng Sản cũng kết án cái thể chế bất nhân đã cướp đi mọi quyền tự do căn bản cần thiết của một con người. Chế độ Cộng Sản đã quá lỗi thời ở thế kỷ thứ 21, sớm muộn gì cũng phải chuyển mình để hòa nhập vào thế giới tự do, mà Nguyễn Cao Kỳ là kẻ cuối cùng ca tụng một thể chế đang lung lay tận gốc rễ, một thể chế Nguyễn Cao Kỳ đã trốn chạy gần 30 năm. Đây là điều sỉ nhục không thể tha thứ cho những người đã từng bảo vệ chính nghĩa quốc gia dưới thời của Nguyễn Cao Kỳ trước đây.
Nguyễn Cao Kỳ là một tội đồ của dân tộc vì đã phản bội và sỉ nhục tất cả những hy sinh xương máu của toàn dân trong cuộc chiến chống lại xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và tất cả những hy sinh sáng ngời trong công cuộc đấu tranh đòi hỏi nhân quyền cho Việt Nam của những nhà đấu tranh chân chính. Nguyễn Cao Kỳ sẽ phải trả một giá rất đắt trước tòa án lương tâm của chính mình trong những ngày tàn tạ của cuối cuộc đời khi bị mọi người khinh khi, nhờm tởm.
An Xuyên
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:46:01 GMT 9
Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang - Nguyên Nguyên -
Câu chuyện "nét người nở nang" bắt đầu qua chuyến viễn du miệt dưới của maestro Phạm Duy trong khoảng thượng tuần tháng 9 năm nay. Ðầu tháng Chín là khởi điểm của mùa Xuân ở Nam Bán Cầu. Người ta thích ra ngoài, đi hí viện, xem ca nhạc kịch, xem chớp bóng, đi ăn uống, hơn lúc những tháng trước của mùa Ðông lạnh lẽo.
Chuyến đi "nhìn lại quảng đời" đã qua của Phạm Duy cũng là dịp giới thiệu nhạc Kiều - người nhạc sĩ lão thành đã dày công sáng tác trong những năm gần đây. Rất tiếc người viết tự nhiên quên bẵng đi một cơ hội hiếm có và chỉ biết được sau khi phái đoàn du ca của Phạm Duy đã rời Sydney đến trình diễn ở Melbourne. Biết được qua i-meo của một ông Anh đồng môn (Senior Lê Quý) qua diễn đàn mitchong trên mạng internet. Ðại khái anh Lê viết trên mitchong anh ấy hơi thất vọng vì buổi ca nhạc đó đã bỏ sót rất nhiều bản nhạc "tiền chiến" của Phạm Duy.
Senior Lê - một trong những người mê say truyện Kiều rất nồng nhiệt ở miệt dưới - cũng bày tỏ sửng sốt khi anh nghe một nữ sĩ ngâm câu thơ quen thuộc của Tiên Ðiền Nguyễn Du mô tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang
‘Nét người nở nang’ thay vì "nét ngài nở nang’. Và anh hứa mai mốt anh sẽ biên i-meo cho maestro Phạm Duy nhắc nhở maestro nhớ sửa chữa "nét người" trở lại thành "nét ngài" cho nó đúng. Ðúng với những gì chúng ta đã được đọc, học được trong suốt quảng đời đã qua. Người viết tự thú không thích Kiều bằng Chinh Phụ Ngâm, và thường không để ý đến những cuộc tranh cãi về Kiều. Mặc dù đã đọc qua vài vụ ‘bút chiến’ nhất là cuộc ‘xung đột’ vào thời tiền chiến (1924) giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh, rồi những đả kích gs Nguyễn Văn Trung hồi những năm đầu thập niên 1970, sau khi ông Trung cho một buổi nói chuyện về cuộc xung đột giữa Ngô và Phạm [1]. Và mặc dù cũng có đọc qua vài ba quyển sách về Chữ Nôm và vài trang Kiều viết bằng chữ Nôm đây đó, với sự hỗ trợ của một hai quyển tự điển chữ Nôm.
Thế nhưng, người viết không hiểu vì sao - có thể trong trí nhớ mơ hồ đã đọc ở đâu đó - lập tức viết vài dòng i-meo nhắn với senior Lê: có thể từ Người ngày xưa ở nước An-Nam được đọc là Ngài. Do đó "nét ngài nở nang" chính ra Nguyễn Du có thể mang ý: "nét người nở nang" y như Phạm Duy đã táo bạo ‘cải cách’. Trong khi "nét ngài nở nang" đã được hàng ngàn các sách vở giải thích rằng "nét lông mày / nét nga-my … nở nang", "nét người nở nang" có thể được hiểu "thân hình đẹp / dáng người nở nang, . . . có da có thịt’ và dịch nôm na sang tiếng Anh "beautiful body". Rất dễ hiểu, có thể được chấp nhận ở cú pháp, ở văn phạm, ở vân vân, với điều kiện …Nếu. Nếu ‘ngài’ chính là từ dùng để chỉ ‘người’ ngày xưa, và nếu … ‘ngài’ mang nghĩa ‘người’đặt để vào chỗ đó hợp tình, hợp lý, hợp nghĩa, hợp cách mô tả ‘nôm na’ của những nhà thi văn ngày xưa.
Thế rồi anh Lê liên lạc i-meo với Bố Già, và Phạm nhạc sư đã nhanh chóng hồi âm, xác nhận những điểm sau:
Ca sĩ đã không hát lầm "nét ngài’ ra ‘nét người’.
Phạm Duy cũng không giống như những người yêu truyện Kiều, thường ưa ngoan ngoãn phổ những câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Du mà không có ý kiến riêng của mình.
Theo Phạm Duy, nếu chấp nhận ‘nét ngài’ như mọi người từng quen thuộc, Nguyễn Du đã tả lông mi của Thúy Vân vừa to vừa dài như hàng lông mi giả của các mỹ nữ ngày nay.
Ngoài ra, Phạm Duy cho biết người gốc Nghệ Tĩnh (như Nguyễn Du) thường đọc chữ ‘người’ là ‘ngài’. Ở đó có câu châm ngôn: tốt con ngài hơn dài tấm áo…
Thêm vào đó, nhà nhạc sĩ lão thành cho biết trong một chuyến du lịch Trung Quốc, khi tới thăm hồ tắm Dương Quý Phi, ông được thấy pho tượng của Dương Quý Phi có vóc dáng của một người hết sức nở nang … Và từ đó nhạc sư suy luận có thể vì ngày xưa, theo con mắt mỹ thuật, người đàn bà đẹp phải là người đàn bà có da có thịt, đẫy đà, … và có thể hơi béo so với tiêu chuẩn ngày nay.
Dựa vào những nhận xét kể trên, và qua một dịp nhận định về Truyện Kiều cùng với nhà văn Vũ Hạnh, Phạm Duy, trong lúc phổ Nhạc Kiều, đã cố tình sửa hai câu lục bát giới thiệu Thuý Vân, thành ra:
Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét người nở nang
Câu chuyện của bài viết này bắt đầu ở chỗ đó. Ở chỗ ‘nét người’ được ‘táo bạo’ dùng thay cho ‘nét ngài’.
Nhưng trước hết, xin mạn phép tường trình, một phần nào đó của bài này chính là thành quả tốt đẹp của một thí nghiệm mới. Một thí nghiệm trên internet. Cũng như bài ‘Da trắng vỗ bì bạch’ trước đây khoảng một năm, việc xử dụng ý kiến trao đổi trên mạng - giữa một nhóm bạn bè thân thuộc - đã gợi ý người viết nhìn thêm vào các khía cạnh khác của vấn đề, thông thường rất có thể dễ quên sót. So với ‘Da trắng vỗ bì bạch’, ý kiến trao đổi về đề tài ‘nét ngài’ có vẻ ‘găng hơn’ và khó hơn. Găng hơn vì nó liên hệ kho tàng văn hoá của truyện ‘Đoạn Trường Tân Thanh’, liên hệ đến chữ Nho, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, đến vấn đề chữ nghĩa, vân vân. Dễ lôi cuốn nhiều người nhảy vào . . . vòng chiến. Khó hơn vì điểm cốt lõi của vấn đề ‘nét người’ có thể được phô trương, thể hiện qua hai khía cạnh, đều khó ngang nhau.
i). Nguyễn Du đã viết ‘Ngài’ ra sao? Có phải viết như ‘Người’ trong tương đương ở chữ quốc ngữ không?
ii). Nếu đúng vậy, ‘nét người’ viết chung với nhau, rồi viết luôn ra ‘nét người nở nang’, có thật hợp lý hợp tình, và hợp nghĩa hay không. Hợp với cái ‘gu’, hay gần đúng với ý định của thi hào Nguyễn Du hay chăng.
Thoạt tiên nhiều người không muốn tham gia, viện dẫn lý do không biết gì về chữ Nôm. Nhưng rất may, có một hai người trong nhóm mitchong trên internet - tự nhận biết chút ít về Nôm na, Hán rộng kiểu quan thoại, và Nho chùm - kêu gọi anh chị em trong mạng hãy mạnh dạn tham gia. Bởi nói về thông thạo chữ Nôm, hiện nay trên thế giới, có thể đếm không quá 100 vị. Đa số những vị này đều đã về hưu, hoặc đã qua đi lứa tuổi tích cực nghiên cứu những vấn đề nhức đầu về Nôm học. Ở mặt khác, những nhà nôm-na mới trên mạng Mitchong được hơn một lợi điểm. Họ là những nhà internet guru, nói và viết được tiếng Việt, đã học và đọc qua truyện Kiều, và nhất là truy cập tài liệu trên mạng rất nhanh. Nhanh hơn các nhà Nôm-học chân chính gấp cả ngàn lần. Và họ có đầy mình . . . lòng yêu mến thi ca Việt Nam, và nhất là tinh thần khoa học Tây Phương.
Vấn đề Ngài hay Người trong ‘Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang’ khảo sát trong bài này - sẽ được phân tích trên những góc cạnh khác nhau, nhưng không nằm ngoài phạm trù hỗ tương liên hệ với nhau. Với kiến thức về Nôm và quốc ngữ trong thế kỷ 21, nhất là dựa trên những cuộc nghiên cứu mới về quốc ngữ, về tiếng Mường tại Việt Nam, người ta tự nhiên sẽ thấy vấn đề sẽ không còn giản đơn như thường thấy từ trước đến nay. Người đọc lẫn người viết đều trở nên khó tính, đều mong mỏi một cái gì mới lạ. Nhìn xuôi nhìn ngược. Và nếu được, phải tổng hợp giải quyết thoả đáng những điểm gút mắt của Nôm, quốc ngữ, Kiều và cũng đồng thời dựa vào chất xám của tinh thần khoa học phương Tây.
Trước hết xin sơ lược về nguyên ủy của hàng ngàn cuộc tranh cãi về truyện Kiều, cũng như về những sự bất đồng ý giữa nhiều nhà học giả về Kiều, về những áng thi văn bất hủ của tiền nhân viết bằng chữ Nôm rồi được chuyển ngữ sang chữ quốc ngữ, bắt đầu vào khoảng giữa đến cuối thế kỷ 19. Rồi sau đó thử xem có phải ngày xưa ‘người’ được phát âm như ‘ngài’ hay không. Và nếu vậy, ‘người’ thay thế cho ‘ngài’, đặt vào cụm từ ‘nét người nở nang’ có ổn chăng?
1. Thử tìm hiểu sơ lược về Chữ Nôm
Tiếng nói của người Việt trước khoảng thế kỷ thứ 18 (năm 1700-1800) chính là tiếng Nôm. Nôm nói trại từ NAM. Tiếng Nôm là tiếng của người nước Nam. Tiếng Nôm có phát âm gần giống nhưng không giống y như tiếng Việt ngày nay. Tiếng Nôm có chữ viết gọi Chữ Nôm.
Chữ Nôm và phát âm tiếng Nôm chính nó cũng biến chuyển qua nhiều thế kỷ. Cũng biến chuyển như tiếng Hán, hay bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới. Hiện nay các học giả Việt vẫn chưa xác nhận được chữ Nôm xuất hiện vào thời kỳ nào. Người ta chỉ biết chắc vài ba điểm quan trọng như sau:
i). Chữ Nôm xuất hiện sau khi nước Nam Việt bị nhà Hán xâm chiếm và đô hộ. Có lẽ xuất hiện trong khoảng từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 8. Giả thuyết chữ Nôm ra đời ở thế kỷ thứ 3 cho rằng chữ Nôm do thái thú Sĩ Nhiếp sáng chế ra khi được nhà Hán bổ nhiệm sang cai trị nước Nam (187-226). Giả thuyết chữ Nôm xuất hiện ở thế kỷ thứ 8 nối liền chữ Nôm với danh xưng Bố Cái Đại Vương dành cho Phùng Hưng (năm 791). [Xem ghi chú [2]]
ii). Trước khi chữ Nôm xuất hiện, dân nước Nam có lối chữ viết thường gọi ‘chữ nòng nọc’ - bao gồm những nét nguấy nguấy giống hình con nòng nọc. Loại chữ này y như chữ người Mường còn giữ lại cho đến vài thế kỷ gần đây. Và có lẽ cùng gốc gác với thứ chữ viết của người Thái Lan. Trong các nhóm ngôn ngữ từ thời cổ đại của tất cả các khối dân tộc cư ngụ ở nước An-Nam, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường là nhóm lớn nhất.
iii). Trong khi tiếng Nôm là tiếng nói của người nước Nam, số người biết đọc và biết viết chữ Nôm qua nhiều thế kỷ không bao giờ hơn quá 10 phần trăm của tổng dân số. Trong chốn quan trường, hành chánh và khoa bảng, chữ Hán qua cách phát âm gọi nôm-na là tiếng Hán Việt, mới là ngôn ngữ chính thức của cả nước Nam. Chữ Nôm qua nhiều thời đại lúc nào cũng mang địa vị của một phó thường dân. Không được ‘điển chế’. Không chiếm được vị trí của một cơ viện. Nên chữ Nôm bị thả lỏng, một từ mang nhiều cách viết. Ai muốn viết kiểu nào thì viết! Chữ Nôm có ba đặc tính cơ bản. Thứ nhất bởi ở vị trí phó thường dân, Nôm thường bị các nhà Nho, nhà quan khinh thị. ‘Nôm na là cha mách qué’ là câu nói tiêu biểu cho việc hạ cấp chữ Nôm đó. Cũng ở lý do này, rất nhiều nhà Nho sáng tác những bản thi văn chữ Nôm rất hay nhưng thường lại thích ẩn danh không để lộ tên thật. ‘Chinh Phụ Ngâm’ không biết do Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích phiên dịch từ chữ Hán sang Nôm, là một trường hợp điển hình. Hoặc có giả thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương có thể chỉ một bút danh do nhiều nhà Nho phái nam thích sáng tác thơ tả chân nhưng không dám lộ diện bởi nó vừa nôm na vừa .. . tục nên gán cho một nữ sĩ mang tên Hồ Xuân Hương [1], [7]. Thứ hai, chữ Nôm có rất nhiều từ mang tính đồng âm dị nghĩa. Thí dụ: ‘ngài’ cùng một phát âm, nhưng mang rất nhiều nghĩa: nghĩa con tằm, nghĩa ‘ngài’ để xưng hô người có chức, . . . ‘Đàng’ mang nghĩa ‘hướng’, ‘vùng’ (đàng Trong / đàng Ngoài), mang nghĩa ‘Đường’ (lên đàng / lên đường). Đá có nghĩa ‘đá bằng chân’ và cũng mang nghĩa ‘Hòn đá’. Loi thoi= từ rất cổ mang nghĩa ‘lẻ loi’ [8], rất dễ nhầm với ‘lôi thôi / lếch thếch’. Vài - phát âm cổ của Vời (tuyệt vời) - trùng âm: ‘một vài bông hoa’. Thứ ba, bởi không được triều đình nhìn nhận và hệ thống hoá, chữ Nôm mang đặc tính tai hại mạnh ai nấy viết. Một từ thông thường có ít lắm 3-4 cách viết khác nhau và có thể biến đổi theo thời đại, nhất là sau khi chữ quốc ngữ bắt đầu được thịnh hành và thay thế dần dần chữ Nôm.
iv). Bởi mang nhiều yếu điểm, và muôn phần phức tạp, chỉ trong vòng trên dưới 200 năm (từ khoảng 1651 đến 1850) chữ Nôm bị chữ quốc ngữ hoàn toàn thay thế. Điểm cần nhấn mạnh, trong quá trình chữ Nôm thay thế bằng quốc ngữ có rất nhiều từ phải biến đổi cách đọc - có lẽ để giải quyết cảnh đồng âm dị nghĩa đầy dẫy trong tiếng Nôm. Và cũng trong quá trình thay thế đó, theo thiển ý, có rất nhiều điểm biến chuyển, ngành ngôn ngữ học Việt Nam hiện vẫn chưa giải đáp thoả đáng. Sẽ trở lại vấn đề này ở phía dưới.
v). Một điểm khác cũng đáng để ý: Việc học hỏi chữ Nôm trong thế kỷ 20 vừa qua vẫn còn mang nặng tập tục ‘lão sư với đồ đệ’ như xưa. Thầy dạy sao học trò học y như vậy. Việc truyền tụng chữ Nôm trong khung cảnh riêng tư đó, thường thiếu thốn kiểm chứng, và lý luận theo tinh thần khoa học Tây Phương. Nhiều sai nhầm được truyền tụng từ đời này sang đời kia - và những sai nhầm đó vẫn được tưởng rằng chứa đầy tính xác thực. Thí dụ: Vũ mang nghĩa ‘lông chim’ phải được ký âm ‘Yũ’ mới đúng với cách yiết, cách phát âm chữ Nôm, chữ Tàu. ‘Việt’ trong Việt Nam chắc chắn đã được tiền nhân đọc Yiệt - mới phù hợp với cách phát âm người Mường, người Quảng Đông, Bắc Kinh, Nhật Bản, và cách viết của chữ Nôm [11].
Chữ Nôm thông thường được viết bằng cách vay mượn một từ thẳng từ chữ Hán - hoặc phối hợp hai hoặc ba từ chữ Hán viết ‘chùm’ với nhau. THÍ DỤ:
Một Nôm mượn Một Hán:
Vườn mượn từ Yiên (Hán), xuất phát từ Yuan của quan thoại
Mùa từ Vụ (Hán)
Chìm từ Zhầm (Hán, viết theo quốc ngữ: Trầm)
Chè từ Chà (Hán, theo quốc ngữ: Trà)
Tìm mượn từ chữ viết Tầm (Hán)
Đánh vay từ Đả
Việc vay từ Yịch
Bán (bán buôn) vay từ Bán (phân nửa)
Và vay từ Ba
Là viết tắt từ Hán tự ‘La’
Một Nôm mượn hai Hán tự viết chùm với nhau:
Tháng= Nguyệt + Thượng (Nguyệt tiếng Hán chỉ tháng, trăng + Thượng (thạng) dùng để mượn âm / xin xem phía sau: Thượng ngày trước đọc Thạng hay Shạng)
Bốn= Tứ + Bổn (Bản: gốc)
Voi= Khuyển + Uy (mượn âm) / tiếng Mường= Woi
Chó= Khuyển + Chú (âm quốc ngữ: Trú)
Trăng= Ba + Lăng (ngày trước đọc: Blăng)
Trái= Ba + Lại (ngày xưa: Blái)
Trăm (100)= Khẩu + Lâm (xưa: Klăm)
Trọn= Cự + Lòn (xưa đọc Klọn)
Năm (5)= Nam + Ngũ (5)
Năm (year)= Nam + Niên
Vua= Bố + Vương = Bố + Tư (ngày trước đọc: Bua)
Ngài (con ngài)= Trùng (chỉ loài côn trùng) + ½ Ngại
Từ nào của chữ Nôm thường có ít lắm 3 lối viết khác nhau:
Nét= giả tá từ chữ Niết = Thổ + Niết = Khẩu + Niết {ghi chú [5]}
Nang= Âm Hán của NaN = Hoả + Nan
Nở= Thảo + Nữ = Khẩu + Thảo + Nữ
Đầy= giả tá âm Đài = Thủy + Đài = Sung + Đài = Thủ + Đài = Mãn + Đài
Đặn= mượn âm của Đạn = Doanh + Đạn
2. Truyện Kiều và chữ Nôm
Khi thẩm định vị trí của chữ Nôm trong văn hoá nước Nam, hầu hết các Nôm gia đều đồng ý với nhau rằng:
i). Chữ Nôm quá phức tạp và lâm vào tình cảnh hỗn độn tạp pín lù. Thiếu thốn điển chế, và không đến được với đa số quần chúng. Mặc dù tiếng nói của dân gian từ ngàn xưa vẫn là tiếng Nôm.
ii). Thế nhưng, nhờ ở chữ Nôm, các nhà Nho đã có phương tiện để sáng tác và ghi lại các tác phẩm thi ca bất hủ, gầy dựng nên kho tàng văn hoá dân tộc - tồn tại mãi đến ngày nay.
Truyện Kiều và hàng trăm tác phẩm thi ca khác như Chinh Phụ Ngâm, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục Súc Tranh Công, Lục vân Tiên, cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, v.v. đều được ghi lại và để đời bằng chữ Nôm.
Tuy nhiên, cũng bởi ở mặc cảm ‘nôm na là cha mách qué’ rất ít khi những bài thơ phú của các thi hào ngày xưa được ghi lại đàng hoàng và in ấn trong lúc tác giả còn sống. Trước hết những tác phẩm đó được truyền tụng qua dân gian. Đầu tiên, chắc chắn qua những bạn bè họ hàng thân thuộc. Bởi tác giả lúc nào cũng ở trong trạng thái . . . nơm nớp dè dặt, do ở việc chữ Nôm bị dán vào một nhãn hiệu tầm thường, lô-can! Nếu thấy hay, tác phẩm sẽ được truyền rộng hơn, và xa hơn. Đến lúc tác phẩm được hàng ngàn hay hàng triệu người biết đến, qua truyền khẩu, một hoặc vài vị Nho gia sẽ bỏ công nhớ và ghi chép lại ‘toàn bộ’ tác phẩm đó. Một vài tác phẩm sẽ được in ấn thêm chừng vài trăm bản. In bằng những bản khắc bằng gỗ, khó giữ được lâu.
Người ta sẽ dễ dàng suy luận ra những điểm đặc trưng sau đây của các ấn bản chữ Nôm nguyên thủy đó:
i). Trước hết, ở thời thế kỷ 18-19 dân chúng chưa có nhiều phương tiện giải trí. Chưa có sách vở, báo chí, radio, chớp bóng, ca kịch, Tivi và internet. Giải trí thông thường và duy nhất có lẽ việc truyền miệng, việc kể chuyện, việc ngâm nga cho nhau những truyện cổ tích, những bài thơ, chuyện thơ hay ho.
ii). Những di cảo viết bằng chữ Nôm chỉ xuất hiện sau khi tác phẩm được truyền kể, lan tràn mạnh mẽ trong chốn dân gian. Thông thường ít lắm cũng vài chục năm sau khi chính tác giả đã qua đời.
iii). Những bản này sẽ không bao giờ giống y như bản gốc do chính tác giả ngâm nga và sáng tác ra. Nó sẽ mang ảnh hưởng của sức lan truyền đến khu vực địa phương mà chính người ghi chú đang sinh sống. (Thí dụ Lục vân Tiên có vài ‘ghi bản’ sai biệt nhau đến hàng trăm chữ và vài chục vế).
iv). Điểm phức tạp hình như chưa được học giả nào nghiên cứu sâu rộng: Lúc tác giả bắt đầu sáng tác áng thi văn chữ Nôm, chữ quốc ngữ chưa phát triển. Đến lúc có người bắt đầu ghi lại áng thi văn đó bằng chữ Nôm, chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm. Và chữ quốc ngữ đã vô hình chung biến đổi một số khá nhiều cách phát âm của các từ Nôm ngày trước. Có khi rất nhiều người hiệu đính, hoặc ghi lại các bản chữ Nôm đầu tiên, đã được học chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ - nhất là từ khoảng năm 1850 trở về sau. Như vậy thứ chữ Nôm người đời sau ghi lại - ít lắm chừng năm bảy chục năm sau khi chính tác giả đã qua đời như trường hợp truyện Kiều, nếu không nói hàng trăm năm nếu kể đến những áng văn cổ như Ức Trai Thi Tập - so với thứ chữ Nôm tác giả đã dùng trong lúc sáng tác, có thể khác nhau rất nhiều.
Nếu nhớ lại ngày xưa người ta thường nói ‘tam sao thất bổn" (chỉ cần sao chép lại chừng 3 lần nguyên bản đã bị biến đổi rồi) - ta có thể thấy rất rõ việc ghi lại chữ Nôm các bản thi ca cổ xưa, như truyện Kiều chẳng hạn, là chuyện ‘tam thiên sao thất bổn’. Tức ghi chép lại một tác phẩm đã từng truyền khẩu qua ít lắm cũng trên 3 ngàn người. Thí dụ điển hình nhất phải kể Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu. Khi sáng tác Lục Vân Tiên, Đồ Chiểu đã lâm cảnh mù loà. Ông chỉ ngâm nga và đọc cho đám đồ đệ chép lại. Ngay công chuyện đó, cũng có thể hôm nay Nguyễn Đình Chiểu ngâm thế này, ngày mai ông có thể ngâm cách khác. Rồi mỗi người đồ đệ đi truyền lại cho nhiều người khác - truyền mãi cho đến vài mươi năm sau người ta thấy xuất hiện hai ba bản nổi tiếng của những học giả không phải đồ đệ, hay họ hàng gì với Đồ Chiểu hết. Bản thứ nhất của Abel des Michels, bản thứ hai của Petrus Trương Vĩnh Ký (1883) và bản thứ ba của Duy Minh Thị. Bản Abel des Michels có tất cả 2088 vế và bản Petrus Ký, 2076 vế!
Còn truyện Kiều thì sao? Theo nhiều tài liệu, ngoài những bản ra đời vào giữa thế kỷ 20, truyện Kiều có tất cả 5 bản chữ Nôm khác nhau: (i) bản của Phạm Quý Thích - bạn thân của Nguyễn Du - sửa đổi và hiệu đính ‘bản gốc’ của Tiên Điền, thường được gọi bản Phường, thất lạc từ lâu; (ii) bản của Quán văn Đường và bản của Phúc văn Đường, dựa vào bản Phường; (iii) bản Kinh do gia đình của Nguyễn Du gởi vào Kinh - sau đó vua Tự Đức và nhóm triều thần đã ‘hiệu đính’; (iv) bản của Duy Minh Thị (1872) - tức xuất hiện 52 năm sau khi Nguyễn Du qua đời (1820); Và (v) bản của Kiều Oánh Mậu (1902).
Trong 5 bản chữ Nôm xưa cổ đó, tuyệt nhiên không có bản nào được gọi bản gốc do chính Nguyễn Du đề bút hết! Bản gần với bản gốc nhất chính là bản đã được Phạm Quý Thích sửa chữa và tuyệt tích giang hồ từ nhiều, nhiều năm. Chưa học giả nào ở thế kỷ 20 đã từng đọc qua nó hết. Tức không bao giờ người ta có thể xác nhận đoạn này hay vế này Nguyễn Du ‘chắc chắn’ viết thế này viết thế kia. Tất cả những thảo luận về Kiều ngay trong chính bản viết bằng chữ Nôm, và hoàn toàn chưa kể đến các bản quốc ngữ, có thể nói mang nhiều hình thức khoa bảng, ‘mua vui cũng được một vài trống canh’ mà thôi.
3. Truyện Kiều và chữ quốc ngữ
Chữ quốc ngữ, ngày nay thường gọi Việt ngữ hay tiếng Việt, đầu tiên được các giáo sĩ người Âu Châu, nhất là Bồ Đào Nha, đặt ra để ký âm tiếng Nôm bằng các mẫu tự La Tinh (tức alphabet hay A, B, C). Mục đích chính ban đầu là để truyền giáo, giảng đạo. Nó xuất hiện từ lúc nước Nam còn ở thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Quyển tự điển quốc ngữ đầu tiên, do giáo sĩ thuộc dòng Tên Alexandre de Rhodes soạn, được ra đời vào năm 1651 - chính là quyển tự điển AnNam-Bồ-LaTinh. Sau đó chữ quốc ngữ được nhiều giáo sĩ và học giả uyên bác tiếp tục phát triển [8], và chuỗi trình quốc ngữ thay thế chữ Nôm được xem như hoàn tất vào khoảng năm 1865 khi tờ Gia Định Báo xuất hiện ở Nam Kỳ. Huỳnh Ái Tông qua website của Đời Tỵ Nạn [8] đã cho một sơ lược về lịch sử thành lập chữ quốc ngữ.
Những điểm đặc trưng sau đây của chữ quốc ngữ chúng ta cần biết đến trước khi phân tích về ‘nét ngài nở nang’:
i). Tuy mang tiếng ký âm tiếng Nôm nhưng chữ quốc ngữ có rất nhiều phát âm hoàn toàn không giống phát âm ngày xưa của chữ Nôm. Thí dụ:
Vua: trước thời quốc ngữ hoàn chỉnh, đọc Bua (hay byua) - y như tự điển tiếng Mường [10] / và như tự điển năm 1651 của Alexandre de Rhodes.
Vương (như Vương Thúy Kiều) = đọc là Uuan, tức Wang, y hệt như pinyin tiếng quan thoại ngày nay. Như trong thư của Alexandre de Rhodes viết khoảng năm 1644 [8].
Về (đi về): đọc Wìa [11] (V thay cho W)
Thượng đế= đọc Xán Tí [8], gần giống với quan thoại Shang Tí
Đông= đọc Tung, y như phiên âm Wade-Giles: Mao Tse Tung (Mao Trạch Đông)
Trẻ= tlẽ [8] (quốc ngữ đã cho TR thay thế TL)
Tre= Tle [8] (TR thay TL)
Vui= Bui hoặc Bôi [11] {V thay cho B}
Văn= đọc Uuan [8] (tức Wan như quan thoại, V thay cho W)
Vũ (vũ khí)= đọc Uu (giống Hán ngữ: Wu)
Ở khía cạnh này ta có thể kiểm chứng qua bất cứ tự điển chữ Nôm nào. Tức những cách phát âm do đánh vần quốc ngữ vào thời thế kỷ 17-18 đều có lối đánh vần tương đương ở chữ Nôm.
Thí dụ: Vui = xưa đọc Bôi hay Bui / tự điển chữ Nôm viết Vui= Bôi + Tâm
Trẻ= quốc ngữ cổ viết Tlẽ / tự điển Nôm viết Trẻ= Lễ + Tiểu (vần T + Lễ)
Văn= quốc ngữ cổ Uuan / tự điển Nôm: Văn= Wen theo âm Hán Ngữ . . .
Điểm quan trọng này người ta ít thấy các nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập đến. Có lẽ bởi những nhà nghiên cứu Việt Nam khi tìm tòi khảo cứu chữ Nôm và quốc ngữ cổ đều dựa đơn thuần trên Việt ngữ hiện đại và . . . tiếng Hán Việt. Và có lẽ thường không để ý rằng tiếng Hán Việt cũng lại là một dạng của Việt ngữ ngày nay. Chữ quốc ngữ biến đổi ra sao thì tiếng Hán Việt thay đổi rập khuôn như vậy! Tìm hiểu phát âm chữ Nôm hoặc quốc ngữ cổ xuyên qua Việt ngữ hiện đại hoặc Hán Việt của thế kỷ 20 chắc chắn không khỏi vướng phải nhầm lẫn.
Cũng ở biến đổi phát âm, ta để ý cho dù các tác giả quốc ngữ tạo đánh vần xa hơn cách chữ Nôm, nhưng nếu đối chiếu với quan thoại, cách phát âm tại Việt Nam theo từng khu vẫn giữ như xưa. Đây cũng là một điểm quan trọng các nhà ngữ học Việt Nam - có lẽ gần như dưới định kiến Hán Việt phải khác tiếng Tàu - đã thường nhanh chóng lướt qua. Thí dụ: Lưu: người phía Nam phát âm LƯU là LưU hay LƯu / nhưng người phía Bắc phát âm LIU giống y như tiếng quan thoại: Liu (họ Lưu). Ưu tiên= phía Nam đọc Ưu tiên / nhưng phía Bắc: Iu tiên. Iu rất gần với yIU của phát âm Quảng Đông. (Góp ý của PQ Tuấn thuộc diễn đàn mitchong {mc}). TRung quốc: phía Nam, thường phát âm TR theo kiểu tiếng Tây / nhưng người phía Bắc lại đọc như Tzchung quốc, gần với quan thoại ‘Zhong guo’ hơn. Trang Tử, phía Bắc đọc gần với quan thoại Zhang Zi hơn. ‘Viết lách’: phía Bắc phát âm đơn thuần V như Tây phương / phía Nam đọc ‘byiết’ gần với quan thoại và quảng đông hơn: Yuế và Yuết (Chữ Nôm cũng đánh vần tương tự:
Viết= Bút + Yiết chữ Hán, tức byiết). [12]
ii). Chữ Việt ngày nay đã đánh mất khá nhiều các từ Nôm và Hán Việt cổ. Xem chương sách về "Chuyện Ỷ Lan và Nôm Lục Bát của Trương Thị Ngọc Trong soạn năm 1759’ trong quyển ‘Hồ Xuân Hương - thiên tình sử’ của gs Hoàng Xuân Hãn [7] ta thấy hầu như bất cứ đoạn nào cũng có những từ Nôm và Hán Yiệt tối cổ, ngày nay người Việt rất khó nhận ra. Thí dụ:
loi thoi= lẻ loi
luống= gần như vô ích
bua= vua
bừng tưng= tờ mờ sáng
chợ= kinh kỳ (Kẻ Chợ= Thăng Long)
Đoài= phía Tây
khắn khắn= kiên trì
nắm nắm= nơm nớp, kinh sợ
sau xưa= trước sau
tây= riêng tư
iii). Việc biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ tuyệt nhiên không phải hoàn toàn là một biến đổi 1-sang-1. Biến đổi đó có thể 1-sang-2, 1-sang-3, hoặc 2-sang-1, v.v.. Biến đổi đó mang nhiều lý do, nhưng đáng kể nhất, có lẽ: lớ giọng, không tránh được, của các Thầy quốc ngữ gốc Tây phương, và việc thay đổi cách phát âm, cách đánh vần để giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa, để các Thầy phát âm dễ hơn. Nhưng trong việc giải toả cảnh đồng âm dị nghĩa đó, chữ quốc ngữ tạo ra thêm một loạt đồng âm dị nghĩa khác, bởi trong chữ Tàu, chữ Nôm, hai ba từ có thể đồng âm nhưng ‘viết’ ra khác nhau. Nhưng trong pinyin hoặc quốc ngữ, lại phải đánh vần như nhau.
Thí dụ biến đổi 1 Nôm qua 1 quốc ngữ:
- Cưa (âm Nôm: Cư) => Cưa (quốc ngữ) / Đuổi (âm Nôm: đối) => Đuổi (qn)
Thí dụ về biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ, không phải 1-qua-1:
Tây= tư và Tây= phương Tây có 2 chữ Nôm khác / nhưng 1 quốc ngữ: Tây.
Blăng chuyển sang Tlăng, rồi thành Trăng : 1 sang 2
Ngài= con ngài / Ngài= thưa Ngài: ít lắm 2 sang 1 (2 lối Nôm/ 1 quốc ngữ)
Yũ= lông chim/chuyển sang Vũ - đọc Vũ (phía Bắc) /đọc Byũ (Nam): 1 sang 2
Yang= Dương (Yang Quí Phi) / đọc Dzương (Bắc) / Yương (Nam): 1 qua 2
(xem ghi chú [21])
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:46:45 GMT 9
Hai biến đổi đặc trưng sau sẽ cho thấy quốc ngữ biến đổi Nôm rất nhiều:
Biến đổi B & W của âm Nôm, cả hai gộp lại thành V:
Như đã thấy, thời thế kỷ 17 các giáo sĩ đã viết Bua cho Vua, và Uuan (tức Wang) cho Vương. Rất nhiều âm Nôm B (bốn= vốn / bùng= vùng) và W (con Woi= con voi / con we= con ve) đều được thay thế bởi V. Âm Hán Y như công yiên (gong yuan), Mã Yiện (Ma Yuan), và W như Wang Yu, wu zhi cũng đều ký âm lại thành V: công viên, Mã Viện, Vương Vũ, vô tri. Số lượng V thay thế B (hoặc Y), và V thay thế W gần như bằng nhau 50:50 [11]. Bây giờ người Việt chỉ biết có vần V: Vua và Vương. Mặc dù lối phát âm phía Nam thiên về B (ông byua / đi byề / Byương Byũ) và phiá Bắc hoàn toàn ngả sang V (ông Vua / đi về / Vương Vũ) {Xem chi tiết và phân tích trong [11]}.
Biến đổi BL (blời), KL (klọn), và âm Tàu ZH (zhong) tất cả sang TR:
Biến đổi BL (blời) => TRời, KL (klọn) => TRọn / đều là những biến đổi rất quen thuộc. Nhưng biến đổi từ ZH của các từ Hán Việt sang TR chỉ được tình cờ phát hiện ra trong lúc viết bài này!
Cũng y như biến đổi 2 sang 1 của B & W qua V, biến đổi TR là một biến đổi ‘ngoại giới’ của những người không sinh trưởng tại xứ nói tiếng Nôm. Các vần (KL / TL và Hán ZH) phải biến đổi sang TR đều là những vần không có trong tiếng Pháp hay tiếng Bồ Đào Nha. Cũng giống như W và By, cả hai bị biến đổi sang V. Và cách gộp lại thành 1 TR cho mọi thứ (BL, KL, TL và ZH) đã gặp sức đối kháng của thói quen từng ‘miền’ y như B & W sang V.
Ở phía Bắc, y hệt như B & W qua V, người ta có khuynh hướng giữ cách phát âm Tzch cho âm TR từ ảnh hưởng tiếng Hán:
Trà thường gọi Chè, tương ứng với Chà tiếng Tàu.
Trần (họ Trần): đọc Tchần, gần giống Chan (HK) và Chen (Trungquốc)
Trọng đọc Tzchong, rất gần quan thoại Zhong
Vô Tri phát âm Vô Tzchi - gần gũi với Hán: Wu Zhi
Trân (Trân châu cảng) đọc Tzchân, y hệt quan thoại Zhen
Trưng (hai bà Trưng) đọc Zhưng, rất gần quan thoại Zheng
Rồi tuốt luôn cho các từ ‘thuần Nôm’ chính ra không phải ZH và cũng không phải TR: Trời ơi => Tzchời ơi => Giời ơi. Bởi TRời ơi là một ‘phát minh mới’ và ngày xưa chỉ có Blời ơi. Trọn vẹn => Tchọn vẹn.
Ở phía Nam, giới cải lương và dân thành thị, thấy TR thường đọc như kiểu Tây phương, nên đọc tuốt luôn cho thuần Nôm lẫn Hán Việt: Trương Ánh Nguyệt / Trần Hưng Đạo / cá trê / cá tra. Tuy nhiên, giới nông thôn, có vẻ vẫn giữ thói quen ngàn đời xưa cũ: Ở chần ở chuồng / ông Chần Chừng (Trần Trừng) / Chời ơi đất hỡi.
Bây giờ xin trở lại truyện Kiều và chữ quốc ngữ. Ta lại phải để ý một vài điểm quan trọng như sau:
i). Có rất nhiều bản truyện Kiều viết bằng quốc ngữ. Nhưng đa số dùng từ rất tân, rất hiện đại, so với truyện thơ lục bát chữ Nôm của Trương Phu Nhân [7], gần như cách vài ba câu là có một hai từ tối cổ. Mặc dù bài của Trương Phu Nhân về ‘Ỷ Lan hoàng hậu’ xuất hiện trước khi Nguyễn Du chào đời (1765) chỉ vài năm. Điểm khác cũng cần để ý: Một trong những bản quốc ngữ Kiều đầu tiên đã do Petrus Trương Vĩnh Ký soạn lục, ra đời ít lắm cũng trên dưới 50 năm sau khi Nguyễn Du hạ bút viết ra Kiều. Điều này có nghĩa tất cả các bản Nôm về sau đều rất có thể dựa trên những truyền khẩu dân gian và các ấn bản, qua môi trường của chữ quốc ngữ, chứ không phải tiếng Nôm. Và như phía trên đã phân tích, từ khoảng năm 1850 tức giữa thế kỉ 19, chữ quốc ngữ đã hoàn toàn phát triển, và biến đổi khác với chữ Nôm rất nhiều. Biến đổi ở các từ Nôm xưa, và cách phát âm của rất nhiều từ.
ii). Hiện nay, chưa có một cuộc nghiên cứu nào sâu rộng về biến đổi phát âm từ Nôm qua quốc ngữ, nhất là đối với truyện Kiều. Nhiều điểm gây tranh cãi sôi nỗi cũng đều phát xuất ở chỗ hiện nay chưa có một tiếng nói thẩm quyền nào xác định về lối phát âm của hàng ngàn, hàng chục ngàn từ - trong tiến trình biến dạng từ Nôm sang quốc ngữ. Thí dụ:
Vung và Vùng có cách viết Nôm giống nhau và phát âm như Bung / Bùng: ‘Một vÙng như thể cây quỳnh cành dao’ thường là đề tài tranh cãi sôi nỗi với ‘Một vUng như thể cây quỳnh cành dao’.
Câu hỏi cần được đặt ra: Thế Nguyễn Du tiên sinh, khi ngâm nga chính thơ Kiều, đã ngâm như ngày nay ta đọc Kiều hay không? Có lẽ KHÔNG! Như đã trình bày ở trên, thời gian biến chuyển mạnh mẽ nhất - từ Nôm sang quốc ngữ - theo thiển ý nằm vào khoảng từ 1750 đến 1850. Cuộc đời của Tiên Điền (1765-1820) nằm trọn trong thời gian biến chuyển đó. Nhưng có một điểm ta có thể phỏng đoán với xác suất đúng rất cao: Tiên Điền chưa học qua chữ quốc ngữ. Như vậy Tiên Điền lúc ngâm nga truyện Kiều đã ngâm nga theo phát âm ... chữ Nôm. Thí dụ:
Nguyễn Du rất có thể đã phát âm Wang Shuí Kiều thay vì Vương Thúy Kiều.
Tiên Điền và thế hệ của Ông đọc Wang ShuÍ Wân thay vì Vương Thúy Vân.
‘Khuông Blăng đài đạn niết ngài nữ nan’ (chiết lược từ [5]) thay vì
‘Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang’ như ta đọc ngày nay,
Có tất cả chừng 5 bản Kiều bằng chữ quốc ngữ thường được kể đến trong các sách tài liệu về truyện Kiều:
b). Bản của Trương Vĩnh Ký: bản đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, có trước ngay cả các bản chữ Nôm nổi tiếng.
b). Bản của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim: khoảng 90 năm sau bản Trương Vĩnh Ký và 40-70 năm sau các bản chữ Nôm của Kiều Oánh Mậu và Duy Minh Thị.
c). Bản của Lê Văn Hoè, của Bùi Khánh Diễn, của Nguyễn Văn Vĩnh, v.v.
Do ở tính chất truyền khẩu và chép lại hàng ngàn lần, không bản Kiều nào giống bản Kiều nào. Các từ dùng đều rất tân, và chải chuốt. Tất cả người Việt với căn bản Việt ngữ hiện đại đều có thể đọc và hiểu được toàn truyện! Nhưng các bản này có rất nhiều từ khác hẳn nhau và nhiều đoạn khác biệt với nhau.
Ta có thể rút tỉa ra một kết luận tất yếu và hiển nhiên: Truyện Kiều trong bản chữ Nôm lẫn quốc ngữ đã bị sửa chữa thay đổi rất nhiều. Và thay đổi sau khi chữ quốc ngữ đã thay thế chữ Nôm. Nhắc lại, chữ quốc ngữ biến chuyển rất nhiều trong khoảng 1750-1850, truyện Kiều phát triển mạnh mẽ, in ấn rầm rầm trong khoảng 1850-1950.
4. Ngài chính là phát âm cổ xưa của Người
Bây giờ chúng ta hãy thử chứng minh bằng nhiều cách khác nhau rằng NGÀI chính là cách phát âm tiếng Nôm cho NGƯỜI dùng để chỉ người ta, như trong câu:
Trăm năm trong cõi người ta
(Phát âm Nôm đoán theo [5] và [9]: Blâm nam tlong gũi ngài ta)
Kiểm chứng này rất thiết yếu trong thẩm định việc Phạm Duy thay đổi ‘ngài’ ra ‘người’ có cơ sở lí luận nào hay không. Bởi nếu ‘ngài’ chính là lối phát âm Nôm cho một từ nào đó dùng để chỉ ‘người’, ‘Trăm năm trong cõi người ta’ đã được tác giả Kiều viết mang theo phát âm: ‘Trăm năm trong cõi ngài ta’. Và ‘ngài’ trong ‘nét ngài nở nang’ bởi mang phát âm ‘ngài’ nên cũng rất có thể, qua cảnh đồng âm dị nghĩa, đã được tác giả Kiều mang hàm ý ‘người’. Và những soạn giả Nôm lẫn quốc ngữ ‘hậu bối’ đã ghi lại … sai. Đáng nhẽ phải ghi ‘nét người nở nang’ nhưng lại ghi ‘nét ngài nở nang’ do ở lầm lẫn biến chuyển qua lại giữa ‘ngài’ và ‘người’, và trong tình huống của đồng âm dị nghĩa.
i). Kiểm chứng qua lối đánh vần trong chữ Nôm
Theo Tự Điển chữ Nôm [5] và tất cả bản Nôm của Kiều:
‘Người’ như trong ‘trăm năm trong cõi người ta’ được viết= Nhân + ½ Ngại, tức đọc NGÀI, có cách viết y như ‘Ngài’ để chỉ những người có chức, có địa vị.
‘Ngài’ trong ‘nét ngài’ chỉ con tằm, chỉ lông mày (nga-mi) được viết theo = Trùng+1/2 Ngại. Trùng để ‘hội ý’ chỉ côn trùng. Phân nửa chữ Ngại để hài thanh âm cho NGÀI.
Như vậy Ngài và Người có cách phát âm giống y như nhau theo cách viết chữ Nôm.
ii). Kiểm chứng qua tiếng Mường và ngôn ngữ của các dân tộc ít người
Tự điển tiếng Mường [10] có ghi:
Ngài= ngài. Tôi xin chào ngài= tôi xin chào ngài
Ngài= người ta. Con pẫu con ngài= Con nhà người ta
Ngài= nhộng (ong). Con ngài nì rang băng điênh ăn lẳm= Nhộng ong này rang măng chua thì ngon lắm.
Ta thấy rõ tiếng Mường vẫn chưa thu nhập chữ ‘Người’ và vẫn giữ ‘Ngài’ để chỉ ‘người’.
Người Mường là ai? Đại khái họ là bà con họ hàng rất, rất gần với Việt tộc ở đồng bằng Bắc Việt từ thời Văn Lang xa xưa. Có nhiều giả thuyết lại nói họ chính là những bộ tộc Lạc Việt thuần tuý. Có lẽ không thấy thoải mái sống dưới ách đô hộ của Tàu, trong vài thế kỷ sau Công Nguyên, người Mường di dân vào những miền sơn cước và sống biệt lập với ngươi Kinh mãi cho đến thế kỷ hai mươi. Ngôn ngữ của họ trong thời cổ đại y hệt như ngôn ngữ của người Kinh. Theo một thống kê vào năm 1946 của bà Jeanne Cuisinier (tác giả quyển: Les Mường - Géographie humaine et sociologie) vào thời đó dân số người Mường có độ 300000, sống tập trung tại các khu vực Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn Tây và Thanh Nghệ Tĩnh. (Góp ý của anh LB Hồng - thuộc diễn đàn mitchong {mc}- qua quyển Non Nước Việt Nam anh sưu tầm trong chuyến lữ du Sa-Pa: Nhóm Việt-Mường bao gồm 4 sắc tộc - Kinh (chiếm 90% dân số), Mường, Thổ, và Chứt - là nhóm lớn nhất trong 54 nhóm sắc tộc và 8 nhóm ngôn ngữ tại Việt Nam.)
Tuy nhiên nếu dùng tiếng Mường đem ra đối chiếu ta cần phải thận trọng, hết sức thận trọng. Bởi tiếng Mường theo các sách xuất bản trong vòng, và nhất là cuối, thế kỷ 20 đều đã bị ‘nhuốm’ nặng ảnh hưởng của quốc ngữ. Tiếng Mường ở dạng ta đọc được ngày nay đều ‘bị’ Latinh hoá, y như quốc ngữ đã Latinh hoá chữ Nôm. Đáng để ý nhất là những từ bắt đầu bằng V (xin xem ghi chú [15]). Tuy nhiên, tiếng Mường viết theo a-b-c vẫn không đến nỗi cải biến nhiều như quốc ngữ. Ta thấy nhiều từ bắt đầu bằng B & W vẫn còn giữ phân biệt như xưa, chứ không bị tống hết vào V như quốc ngữ. Thí dụ:
Wan nài (M)= Van nài (V) / Wan nghênh (M)= Hoan nghênh (V)
Wàn hồn (M)= Hoàn hồn / Wàng lá (M)= Vàng lá (V) / Wành đỏn (M)= vành nón (V)
Wòng cung (M)= Vòng cung (V) / Wy thể (M)= Uy thế (V)
Wa= Hoa (wa: để ý giống phát âm Nam Bộ) / Wà hơp= Hoà hợp / Wè= con ve
(Còn nhớ: ‘nghe vè nghe ve, nghe vè …’ chắc chắn xuất phát từ Mường, Wè= Ve)
Bua (M)= Vua (V) / Biết (M)= Viết (V) (y như tiếng Hán: Yuết) /Bút lông= bút lông
Bỡi lãi (M)= Với lại (V) / bài tlừ (M)= bài trừ / bải (M)= vái (V) (vái chào)
Bất mãn= bất mãn / bất tlĩ (M)= bất trị / bất ngờ= bất ngờ.
Cho dù rằng tiếng Mường có thay đổi ít nhiều, nhưng từ dùng để chỉ ‘người’ của tiếng Mường chỉ có 1: NGÀI - dùng luôn cho 2 nghĩa, ngài cho người, và ngài như trong ‘thưa Ngài’.
Thế ngôn ngữ của các dân tộc ít người khác thì sao? Từ thiết yếu để chỉ NGƯỜi của các ngôn ngữ đó là gì? Xin ghi lại bản đối chiếu các từ chỉ NGƯỜI trích trong quyển sách về ngôn ngữ của Trần Trí Dõi [3]:
tiếng Nguồn: ngàj - tiếng Sách: ngàj
tiếng Mày: ngàj - tiếng Rục: ngàj
tiếng Xơ Đăng: mơngê - tiếng Kơ Tua: moi ngàj
tiếng Dêh: ngaj - tiếng Triêng: ngaj
tiếng Ba Na: ngaj (mơ-ngaj) - tiếng Hrê: ma ngaj
tiếng Gié Triêng: ma ngaj - tiếng Việt: người, ngài
Điểm đáng để ý, ghi chú [3] hoàn toàn không xác định ‘ngài’ chính là từ cổ của ‘người’ trước khi quốc ngữ thay thế Nôm.
iii. Biến chuyển từ âm A sang ƯƠ qua tác động của quốc ngữ
Biến chuyển từ Ngài sang Người thật ra chỉ là 1 trong hàng chục biến chuyển khác từ nguyên âm A sang nhị âm ƯƠ - trong lúc chữ Nôm rút vào bóng tối và nhường chỗ cho quốc ngữ. Đó là biến chuyển:
Lên đàng => lên đường / tlàng học => tràng học => trường học
Nàng => nường
Nhà Thang => nhà Thương / Yang gui Fei => Yương quí Phi
Mài => Mười (10) / Đài ai => đười ươi / Tai cài => tươi cười
Trang (họ) => Trương (họ) {viết tiếng Tàu y như nhau}
NGÀI biến sang NGƯỜI hoàn toàn nằm trong quy lệ này
Kiểm chứng: Lật một quyển tự điển chữ Nôm ta thấy lối đánh vần của các âm ngày nay đọc ƯƠ (thí dụ: Mười - 10) luôn luôn dựa trên âm A (thí dụ: mÀi), và không có âm ƯƠ để tạo âm cốt yếu, hỗ trợ cho phát âm ƯƠ. Thí dụ:
Ươn (cá ươn)= tử + An (viết theo chữ Nôm) => ươn xưa đọc: An
Mường= Nhân + MAng = Di + mAng => Mường xưa đọc Màng
Mượn= tâm + mẠn => ‘mượn’ thời Nôm đọc mẠn
Mười (10)= Mại + Thập (Hán tự chỉ 10) => Mười = Mài
Nườm= Thủy + nAm / Nượp= Khẩu +nẠp => nườm nượp= nàm nạp
Tươi= Nhục + tAi / tưới (tưới cây)= thủy + tái. Tươi đọc Tai / tưới đọc tái
Chỉ trừ các từ xuất phát từ tiếng Hán: thí dụ, ‘nương’ hài thanh từ chữ Hán ‘niang’ / ‘tưởng’ từ Hán ‘xiang’, đa số các từ Nôm có âm ƯƠ thường xuất phát từ âm A. Cách viết chữ Nôm âm ƯƠ hoàn toàn độc lập và dựa trên âm A như các thí dụ phía trên đã minh chứng.
Quyển ‘Tiếng Việt Tuyệt Vời’ của gs Đỗ Quang Vinh [13] có trích dẫn bản liệt kê các từ còn dùng trong thời gian gần đây ở khu Bắc Trung Bộ - thường dễ nhầm lẫn với phương ngữ - của Bs Lê Văn Lân. Trong đó có:
hấng nÁc= hứng nước
cho thấy rõ ràng ‘nƯỚc’ với âm ‘ươ’ tương đương với ‘nÁc’ (y hệt như phát âm theo đánh vần chữ Nôm: Nước= giả tá âm chữ Hán: NẶC), một cách phát âm thời cổ còn lưu lại, mà ta có thể lầm tưởng như phương ngữ.
Biến chuyển từ A sang ƯƠ cũng được nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn [4] đề cập đến. Nhưng công trình [4] không xác nhận biến chuyển này phát sinh sau khi quốc ngữ đang và đã thay thế chữ Nôm theo như giả thuyết ở đây - dựa trên phân tích đánh vần chữ Nôm.
Do đó ‘ngÀi’ biến sang ‘ngƯỜi’ cũng chỉ một trường hợp trong vòng biến chuyển âm A sang ƯƠ, lúc Nôm bắt đầu thoái vị, nhường chỗ cho quốc ngữ mà thôi.
iv. Một vài điểm dễ nhầm
Qua ba lối chứng minh trên ta có thể xác định chắc chắn:
Ngày trước, ‘Người’ dùng để chỉ ‘con người, người ta’ được phát âm trên khắp nước An-Nam là NGÀI.
Nhân tiện xin khảo sát một vài điểm dễ nhầm trong việc nghiên cứu Kiều và chữ Nôm, chữ quốc ngữ nói chung: Dễ nhầm ở chỗ khi ta phát hiện một phát âm hoặc một lối đánh vần hơi lạ của một từ, ta thường cho đó là phương ngữ, là cách phát âm địa phương. Thí dụ: Ngài là một phương ngữ miền Nghệ Tĩnh cho Người. Nác là phương ngữ của Bắc Trung Bộ cho Nước. Có vài khu vực Bắc Bộ người ta lẫn lộn âm L và N với nhau: chim hót níu no (thay vì líu lo) / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. L thay N lẫn nhau là nhầm lẫn qui về phát âm ‘địa phương’.
Những điểm dễ nhầm đó - qua phát hiện khi viết bài này - đều có thể được minh chứng rằng không phải phương ngữ, hay phát âm đơn thuần địa phương, mà chính cũng do tác động của quốc ngữ, của những Thầy quốc ngữ đầu tiên. Bằng cách truy về cội nguồn của phát âm chữ Nôm, hay chữ Mường - trước khi người Tây phương mang chữ cái alphabet đến nước Nam, và bày ra chữ quốc ngữ thay thế chữ Nôm.
Khi bắt đầu cuộc trao đổi ý kiến về đề tài này trên mạng, Lê Quý {mc}, theo đường hướng Phạm Duy, đưa ra một câu ca dao anh ấy nhớ từng nghe ở Nghệ An trong những năm 1946-1952:
Hà Tĩnh gạo trắng nước troong
Em về Hà Tĩnh thong dong con ngài {mang ý: con người}
và đồng ý với Phạm Duy rằng người Nghệ Tĩnh, ít ra trong thời 1945, vẫn còn dùng Ngài cho Người - như một phương ngữ. Nhiều bằng hữu mitchong gốc Nghệ An, như NĐ Nam, biên thư i-meo cho biết anh ấy đã kiểm chứng với các Cụ ở nhà và các Cụ nhớ chưa bao giờ nghe Ngài dùng thay cho Người ở Nghệ An.
TQ Dương {mc} nói lên thắc mắc, một nhà thơ lớn như Nguyễn Du khi hạ bút viết ra Kiều không lẽ lại cứ dùng các phương ngữ Nghệ An. Và thật ra như đã thấy ‘Ngài’ hoàn toàn không phải là một phương ngữ, nhưng chính cách phát âm của tất cả người An-Nam vào trước thế kỷ 18-19 cho một từ Nôm dùng để chỉ ‘Người’. Thế tại sao có cái mốt lạ đời này. Theo thiển ý mốt này do chính cố gs Hoàng Xuân Hãn bày ra! Người ta thấy nó được viện dẫn cho có vẻ thẩm quyền trong nhiều quyển sách phân tích và nghiên cứu về Kiều (thí dụ [14]). Theo ghi chú [6], Gs Hoàng Xuân Hãn cho rằng bản Kiều đầu tiên của Nguyễn Du đã ‘được’ một người bạn thân, Phạm Quý Thích tiên sinh sửa chữa, nhất là những từ mang phương ngữ Nghệ An, cho hợp với ngôn ngữ … Nôm của cả nước. Ý kiến này, theo thiển ý, thiếu sót rất nhiều các bằng chứng cụ thể, nhất là về Nôm học và ngôn ngữ học. Bởi chính Hoàng giáo sư hồi sinh thời cũng chưa hề trông thấy bản sửa chữa của Phạm Quý Thích hay nguyên bản gốc của Tiên Điền. Điểm ‘dễ nhầm’ đó (xin tạm dịch từ fallacy) của nhiều tác giả và của chính học giả Hoàng Xuân Hãn hiện ra rất rõ qua phần chứng minh Ngài= Người ở trên, và qua chính sơ suất của cố học giả họ Hoàng trong tác phẩm về Hồ Xuân Hưong của Ông [7]. Thật ra đó là một mâu thuẫn rất nhỏ. Trong [7], có một chương về tác phẩm lục bát của Trương phu nhân, học giả nhấn mạnh nhiều chỗ, người gốc Kinh Bắc, tức Bắc Ninh ngày nay. Thế nhưng trong một trang chú thích (tr 154) các từ cổ, tác giả ghi: NGAY: Biến âm của NGÀY. Vùng Nghệ Tĩnh nguyên chỉ có từ NGAY mà thôi. Xin nhắc lại Trương Phu Nhân người gốc Kinh Bắc, chứ không phải Nghệ An.
Thật ra điểm dễ nhầm này có thể xuất phát từ việc những từ cổ vẫn thường được nghe ở khu vực Thanh Nghệ Tĩnh, chẳng hạn. Có lẽ nghe từ những người Mường địa phương bởi vùng Thanh Nghệ Tĩnh là một trong những địa bàn chính của người Mường. Hoặc bởi những vị Thầy quốc ngữ trong những khu vực đó không có thói quen ‘táy máy’ biến chuyển cách viết, cách phát âm, hay sáng tác các từ mới. Hay cách phát âm mới, biến chuyển của từ đã đến hơi chậm, hoặc không đồng đều với khối dân số của khu vực.
Qua việc tìm tài liệu và kiểm chứng để viết ra bài này, người viết chợt phát hiện rất nhiều điểm fallacy, điểm dễ nhầm mà rất nhiều người, kể cả rất nhiều vị tiền bối với kiến thức sâu rộng đáng bậc thầy, đã vướng phải. Trong đó có phát âm lẫn lộn L và N. Trong thí dụ sau, người ta thường nhầm đó là phát âm địa phương:
Chim hót níu no / Ở Hà Lội người ta lói lăng khéo nắm. THAY VÌ:
Chim hót líu lo / Ở Hà nội người ta nói năng khéo lắm.
Cũng lại một hiện tượng biến đổi từ Nôm sang quốc ngữ!
Dẫn chứng thứ 1: Hỏi một người Hongkong hoặc Quảng Đông làm ơn phát âm tên nước Việt Nam? Đa số họ sẽ nói ngay: Yuệt Lam / L (Lam) thay vì N (Nam). Một số khác cũng có thể phát âm: Yuệt Nam.
Dẫn chứng thứ 2: Xin thử phát âm LAM và NAM. Ta để ý vị trí lưỡi, họng và môi trong lúc phát âm Lam và Nam: gần như y hệt nhau!
Dẫn chứng thứ 3: lật quyển tự điển chữ Nôm, ta có thể tìm thấy:
Nương (nương tựa)= Thủ + Lương (âm N viết theo L)
Lom (lom khom)= Thân + Nam (âm L viết theo N)
Dẫn chứng thứ 4: Phát âm giữa L và N rất khó phân biệt trong tiếng Nôm đến nỗi một vài biến chuyển qua lại trở nên ‘bình thường’ qua cách kèm thêm chữ H:
Nhầm lẫn => Lầm lẫn
Lạt lẽo => Nhạt nhẽo. Nhưng: Lạnh không thể=> Nhạnh, bởi Lạnh: Hán từ, Lậng
Nhác => Lác [7]
Lớn => Nhớn (người nhớn)
So chữ Nôm:
Lầm= Ngộ + Nhâm (âm L dựa trên Nh) / Nhầm= Khẩu + Lâm (đọc Lầm)
Nhạt= Thủy + Lạt (Nh dựa L) / Nhanh= âm Hán: Linh (tức đọc Lanh)
Xem kỹ các dẫn chứng trên, và đặc biệt để ý trước khi có quốc ngữ, người An-Nam không thể phân biệt L và N, bởi họ chưa biết a-b-c. Họ chỉ đưa vị trí lưỡi và môi vào những chỗ nào đó và phát âm lên, thí dụ Nói và Lói. Sự lẫn lộn giữa L và N hoàn toàn không có trong môi trường tiếng Nôm. Nó chỉ xuất hiện bởi các giáo sĩ không biết ký âm đó bằng L hoặc bằng N, cách nào mới đúng. Hậu quả: người ở vài khu vực phía Bắc vẫn bị lộn xộn bởi quốc ngữ, khi phát âm các từ ký âm bắt đầu bằng L hay N.
Điểm dễ nhầm còn được phát hiện trên rất nhiều khía cạnh của tiếng Việt trong dịp sửa soạn ‘nét ngài’.
Chẳng hạn: cách phát âm TR (thí dụ: Trọng lượng, Trần Trung) - như Tzchọng lượng, Tzchần Tzchung, của người phía Bắc, hoặc thỉnh thoảng như Chọng lượng, Chần Chung theo phía Nam - từ trước đến giờ vẫn là một chuyện khó hiểu. Thật ra, cách phát âm không giống TR quốc tế này xem lại rất gần với phát âm Hán ngữ ngày xưa và nay: Zhong liang, Chen Zhung, v.v.
Chẳng hạn: cách phát âm TH như Thăng Long / Thượng Đế, v.v. Trong thời chữ Nôm, âm TH đã được phát âm y như quan thoại SH ngày nay: Sheng Long / Shang Tí. Bằng chứng: Trong văn bản năm 1626 của giáo sĩ Francisco Buzomi Thượng Đế viết bằng quốc ngữ ‘Xán Tí’ gần như tiếng Hán: Shang Tí. Quyển ‘Tiếng Việt Tuyệt Vời’ [13] có ghi nhận một vài khu vực ở phía Bắc, người ta phát âm lẫn lộn TH với S như: ‘mưa như xế mà ra thân xì xế nào cũng cảm mất xôi’ => ‘mưa như thế mà ra sân thì thế nào cũng cảm mất thôi’. Ta cũng dễ nhầm rằng phát âm TH qua lại với SH hay X sai. Thật ra đó cũng là lối phát âm cổ còn sót lại. Tuy nhiên ta có thể để ý SH biến sang TH ít gây xáo trộn và đảo lộn bất thường như BL, KL, TL và ZH chuyển sang TR, hay B & W bị tống hết vào V.
Nhưng vì khuôn khổ bài viết có hạn nên xin hẹn dịp khác.
5. Nét Người nở nang?
Bây giờ xin quan sát nguyên mệnh đề: nét ngài nở nang và nét người nở nang.
Ai cũng biết ‘nét ngài nở nang’ đã thành một tiêu chuẩn, và dính chặt trong đầu óc của bất cứ người Việt nào biết qua truyện Kiều. Bác bỏ ‘nét ngài’, và thay vào bằng ‘nét người’, là một việc làm hết sức táo bạo, và … động ‘blời’. Bởi nó va chạm đến một thói quen, một quán tính của người Việt khắp nơi. Cho đến đây, chúng ta đã cố gắng thiết lập một vài điểm cơ bản để thẩm định việc làm táo bạo của Phạm Duy có cơ sở lí luận vững chắc hay không. Xin tóm lược:
Thảo luận về nguyên bản Kiều có phải thế này hoặc thế kia hay không là một việc mang nhiều tính chất khoa bảng. Bởi Kiều bị biến đổi quá nhiều qua ba đợt: Đợt truyền khẩu (trên 1000 người); Đợt ghi lại bằng chữ Nôm (chừng 5-6 bản); và Đợt dịch sang quốc ngữ (chừng trên 10 bản). Mỗi đợt cách nhau chừng vài chục năm.
Một điểm mấu chốt được xác nhận: Tại nước An-Nam, trước khoảng chuyển tiếp thế kỷ 18-19, người ta phát âm NGÀI cho từ dùng để chỉ ‘con tằm, con nhộng (ong)’, và luôn cả ‘con người’, và những người ở địa vị trên trước (thưa Ngài). Tác giả Kiều rất có thể đã phát âm Người và Ngài bằng một tiếng mà thôi: NGÀI.
Trước hết xin hãy xem những giải thích hỗ trợ ‘nét ngài’, thường có thể tìm thấy trong tất cả sách vở viết về Kiều có từ trước đến nay, qua đóng góp của các bằng hữu xa gần trên mạng internet, đặc biệt nhóm mitchong {mc}.
5.1 Nét NGÀI
Rất nhiều, nếu không nói gần như tất cả, bằng hữu ở diễn đàn mitchong giữ vững lập trường ‘nét ngài’. Chị ND Ngôn nhũ danh Mai Chi {mc} từ California, trích lược giải thích của Nguyễn Xuân Nghĩa về nét ngài như sau.
Theo các điển tích Trung Hoa, nét đẹp của Thúy Vân được tả trên 2 lãnh vực, thẩm mỹ và tướng pháp. ‘Trang trọng’: Trang nói về tính tình lộ ra cử chỉ, trọng tả về tầm vóc thân hình. Khuôn trăng đầy đặn: Khuôn mặt tròn, bầu bĩnh. Nét ngài nở nang: Đôi lông mày dài, cong cong cân xứng với khuôn mặt tròn. Mày ngài: dịch từ tiếng Tàu: Nga Mi. Con ngài là loài bướm vừa chui ra khỏi cái kén, đầu có 2 râu nhỏ, dài và cong. Người ta hay ví lông mày dài có nét bán nguyệt, với râu con ngài nên thường gọi Nga-Mi.
Mai Chi {mc} phát biểu một quán tính khó thay đổi, bởi xưa nay chỉ nghe tả NGÀI ở trong phần giới thiệu nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân, nên thích ‘nét ngài’ hơn. Lúc nói về Thúy Vân có khuôn mặt đẹp, có hậu, cuộc đời không bị lận đận, long đong, chứ không được đẹp, sắc xảo như Thúy Kiều, bị cảnh hồng nhan đa truân.
Nhà thơ Bùi Tiến Hoàng {mc} từ Canada, góp ý dựa trên bản quốc ngữ của Ưu Thiên Bùi Kỷ và Lệ Thần Trần Trọng Kim [16]: Theo tướng thư, diện như mãn nguyệt, my nhược ngoạ tàm. Mặt như mặt trăng tròn mà lông my như con tằm nằm ngang. Anh Hoàng cũng cho một khôi hài ý nhị, để ứng đáp với anh NĐ Nam {mc}, qua dẫn chứng bản của Quán Vân Đường, phải chăng thật ra tác giả Kiều có thể đã viết: ‘Khuôn lưng đầy đặn, nét người hở hang’?
Howard Nguyen {mc} từ Sydney, cho rằng nét ngài hợp lý hơn bởi người xưa thường thán phục vẻ đẹp thiên về cảm xúc lãng mạn hơn là những cảm hứng xếch-xi. Người ta thường nhìn người phụ nữ ở khuôn mặt hơn là thân thể.
TQ Dương {mc} từ Wellington - Tân Tây Lan, với chuyên khoa ngôn ngữ học, cho một i-meo dài về nét ngài, xin tạm dịch sang quốc ngữ như sau: Nếu dùng ‘nét người nở nang’ người ta sẽ có thể hỏi tại sao một văn hào đạo mạo như Nguyễn Du lại có thể mô tả nét đẹp phụ nữ một cách quá lộ liễu trắng trợn như vậy. Trong khi người ta vẫn có thể dễ dàng chấp nhận và thông hiểu các lý do khiến nhạc sĩ lão thành Phạm Duy đã thay đổi ‘nét ngài’ thành ‘nét người’ trong vế 20 của Kiều.
Thế nhưng, trên phương diện ngôn ngữ học, bất cứ một từ nào cũng có những phụ từ mang tính tương thanh hưởng ý (collocations). Thí dụ: người ta nói strong wind and heavy rain (gió mạnh và mưa nặng hạt) chứ không ai nói, heavy wind and strong rain (gió nặng và mưa mạnh). Trong tiếng Việt, lông mày dù giống hình con ngài thường đi đôi với ‘bán nguyệt’ hoặc ‘thanh tú’ hay ‘rậm rạp’. Có cái gì bất ổn khi nói: ‘lông mày nở nang’.
Senior TQ Dương viết tiếp: Theo quyển ‘Thúy Kiều Truyện Thường Chú’ do Chiêm Vân Thị chú đính và Trúc Viên Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú (ấn bản thứ nhất 1965, do Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản), nét ngài xuất phát từ ’ngọa tàm’. Trên khuôn mặt người ta, ngọa tàm nằm ngay dưới ‘khoé mắt’. Quyển Sách Tướng Kinh có viết: Phụ nhân ngọa tàm vi nhược phong mãn, bất thâm hãm, vượng phu ích tử’ nghĩa là: Một ngài đàn bà có ngoạ tàm phát triển đầy đặn và trong sáng sẽ đem lại phú quý cho chồng và phúc lộc cho con cái. Thành ra có thể tác giả Kiều khi dùng ngài trong nét ngài nở nang có thể mang hàm ý ngoạ tàm tức nét tướng phía dưới đôi mắt. Thế có thể tác giả Kiều biến đổi ‘tàm’ ra ‘ngài’ để phù hợp âm điệu (niêm luật) với ‘khác vời’ ở vế phía trước hay chăng? [17]. Chắc là không. Nhưng tra cứu một quyển tự điển Hán Việt sẽ cho thấy, tàm tiếng Hán chính là con tằm, con ngài ở tiếng Nôm. Và do đó, TQ Dương {mc} kết luận, nét ngài trong vế đó mang nghĩa ngọa tàm, giống như con ngài nằm dưới khoé mắt. Chỉ có nét ngọa tàm nở nang mới đem lại phú quý, phúc lộc cho chồng con. Nét ngài, chứ không phải nét người.
NP Hưng {mc} và NL Bình {mc} từ miền Texas Hoa Kỳ cho i-meo khơi lại một chuyện thiếu sót trong chương trình giáo dục tại Việt Nam. Trong suốt mười mấy năm cắp sách đến trường, không một học sinh nào được Thầy Cô giảng dạy về chữ Nôm quá hơn 5-7 phút. NP Hưng đề cập đến một điểm dễ nhầm: tiếng Nôm trong cách nói, luôn luôn như vậy từ ngàn xưa, độc lập với chữ Nôm và quốc ngữ. Và anh Bình kêu gọi ai rành một tí về vấn đề này xin viết 1 bài cho dân chúng nhờ.
NĐ Nam {mc} từ Canada đưa ra hai bản khác:
Một của Quán Vân Đường: Khuôn lưng đầy đặn, nét ngài nở nang
Một của Duy Minh Thị: Tư phong đầy đặn, nét ngài nở nang
Và cho rằng nếu theo hai bản này, NGÀI mang nghĩa NGƯỜI có thể được chấp nhận dễ dàng bởi nó đối xứng với ‘Khuôn lưng’ và ‘Tư phong’.
Thế nhưng NĐ Nam tìm ra một đoạn khác cũng dùng nét ngài, lúc Tú Bà chỉ cho Kiều những ngón nghề để câu khách:
Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
Khi khoé hạnh, khi nét NGÀI,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
Và cho rằng ‘nét ngài’ ở đây chắc chắn đề cập đến lông mày phía trên khoé hạnh, tức khoé mắt.
Senior Lê Quý {mc} từ Melbourne, góp ý với suy luận của Phạm Duy qua việc ngắm tượng Dương Quí Phi ở Trung quốc: Trong tiếng Việt, ‘nở nang’ đi đôi với thân thể con người, xưa nay không bao giờ mang nghĩa ‘đẹp’. ‘Nở nang’ muốn tả ‘đẹp’ phải được ghép vào những bộ phận nào khác của cơ thể con người. Thêm vào đó, bởi vế trên tâng bốc vẻ đẹp thanh tao của Thúy Vân: ‘Vân xem trang trọng khác vời’ nên vế dưới rất khó lòng ‘nét người nở nang’ nhất là nếu nét người bị ghép vào những bộ phận khác, chứ không phải toàn diện thân thể con người. Ngoài ra, so sánh Dương Quí Phi với Thúy Vân cũng có thể không được chính xác, bởi Dương Quí Phi là một người đàn bà đã phát triển tột bực, trong khi Thúy Vân chỉ mới chừng 15.
NV Ưu {mc} góp ý cần nghiên cứu kỹ hơn bởi Dương Quí Phi lúc được tuyển vào cung có thể chỉ chừng 18 tuổi và Thúy Vân, ngày ấy có thể cũng đã 17.
Anh Quý bàn thêm: Mô tả nét người nở nang có thể rất thiếu tự nhiên bởi ngày xưa ở giai cấp trung liu, người phụ nữ thường ăn mặc quần áo xiêm y hơi rộng, chứ không bó chặt như ngày nay. Nếu vậy, các thi sĩ rất khó biết thân hình các cô, và do đó khó lòng mô tả đến nét người, đến thân thể . . . nở nang.
PQ Tuấn {mc} cho ý kiến: Cho dù Thúy Vân có lông mày phát triển… nở nang như Margot Hemingway hay thân hình đẹp, có da có thịt, như Marilyn Monroe, ta cũng khó lòng biết được thật sự ý định của Nguyễn Du. Thật ra, trong toàn bộ 38 vế vào đề của truyện Kiều, chẳng có câu nào đáng chúng ta phân tích tỉ mỉ cả, bởi mục đích chính của những vế đó là giới thiệu tổng quát các nhân vật và những góc nhìn nghệ sĩ và triết lý của tác giả cho toàn câu chuyện. Nguyễn Du có thể viết rất nhanh đoạn đầu. Đoạn này có thể được … vứt đi mà không ảnh hưỏng mấy đến giá trị tổng thể của truyện Kiều. Và thật ra chỉ đến vế thứ 39 ta mới thấy chất thơ bắt đầu lai láng:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Bây giờ chúng ta hãy quan sát những quan điểm hỗ trợ Phạm Duy qua ‘nét người nở nang’. Nhưng trước hết, xin hãy lược qua, trong khuôn khổ hạn hẹp của bài này, nét đẹp phụ nữ theo những quan niệm xưa cổ.
5.2 Phụ nữ đẹp theo người xưa
Bác sĩ Hồ Đắc Duy từ Việt Nam, cũng thấy hứng khởi trong việc tham gia góp ý vào cuộc thảo luận ‘ngài’ với ‘người’. Rất may, anh Duy có để ý ‘nét đẹp phụ nữ’ từ trước, như mọi ngài đàn ông, và đã viết một hai bài về đề tài này đăng trên báo chí khắp nơi, có thể tìm thấy trên trang mạng riêng của Anh [18].
Trước hết xin tóm tắt vài điểm liên hệ đến lông mày, dựa trên tài liệu của Bs Duy:
i). Theo trích dẫn từ một hai trang trong quyển sách về tướng học phụ nữ của Vũ Tài Lục [20], do bs HĐ Duy rà và gửi sang Sydney qua email:
Những người con mắt lá răm
Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền
Nói mắt tất phải nói kèm theo luôn đôi mày, vì mắt mà thiếu mày như nhà không có nóc. Tục ngữ Tây Phương có câu: ‘Nếu anh cho một người mù đôi mắt, người đó sẽ xin luôn đôi mày’ (On donna des yeux à un aveugle, et il se mit à demander des sourcils).
Người Tây phương cho thế là quá đáng, nhưng theo tướng lý thì sự đòi hỏi ấy rất phải vì có mắt mà không có mày thời cuộc đời sẽ chẳng ra làm sao.
Mi là đôi lọng che của mắt, cũng là nghi biểu của mặt con người ta nữa, vì vậy mới có câu nói: ‘mặt mày lem luốc, mặt mũi sáng sủa’.
Trước hết chữ MI theo Hán nghĩa là lông mày chứ không phải lông mi (hay lông nheo)….
ii). Cũng theo ghi chú [20], sách Liễu Trang có chép:
‘Đàn bà lông mày không dài quá mắt thì nghèo, mày như muốn chùm xuống mắt thì khốn cùng, mày lúc nào cũng chau lại: cô độc, mày thô là ngu’.
Một sách tướng số khác, cũng trích dẫn từ ghi chú [20] cho biết 5 cách xem tướng về lông mày:
a. nhiều tóc mà mày thưa; (b) quyền (gò má) cao mà mày nhạt;
b. tóc dày cứng mà thiếu lông mày; (d) mặt lớn mà vô mi;
(e) mũi cao mà vô mi
đều là những tướng dễ bị đẩy vào hoàn cảnh cô độc.
Kim Tỏa Phú có câu:
Đàn bà có lông mày thẳng một vệt như chữ nhất, không thấy nét cong, tất mình hại phu tử.
iii). Thế nhưng, theo một ca dao cổ Trung Hoa [18]:
Nữ nhân đào hoa nhãn
Tư phòng liễu diệp mi
Vô môi năng tự giá
Nguyệt hạ nữ nhân kỳ
(người đàn bà có đôi mắt hào hoa, lại thêm lông mày như lá liễu là loại trăng hoa đáo để....)
iv). Theo trích dẫn từ một quyển tướng số [18]:
Vĩnh Lạc là hoàng đế đời nhà Minh có lần mời tướng sư Viên Liễu Trang
vào để đàm thoại về Tướng học. Hoàng đế Vĩnh Lạc hỏi: "Trong cung của Trẫm không có phi tần nào mặt vuông vắn, Trẫm muốn tìm một khuôn mặt như thế để lấy làm vợ, ngài nghĩ sao?"
Viên Liễu Trang trả lời: "Đàn bà sang quí ở mi, vai, lưng và mắt, đường con cái ở bụng, vú và rốn. Mặt vuông gọi là hổ diện tất phạm vào sát tinh làm sao có thể vào cung để làm quí nhân. Người đàn bà hình thể như con phượng mới thực là đại quí, phương thì mạt tròn dài, mi như cánh cung, mắt nhỏ thuôn dài, nhiếu tú khí, cổ tròn dài, vai lưng bằng phẳng đầy đặn. Chân quí ở chổ đó, nếu không được làm vương phi thì cũng là phu nhân".
Trong quyển ‘Hồ Xuân Hương - thiên tình sử’ của Gs Hoàng Xuân Hãn [7], tại chương về truyện thơ lục bát của Trương Thị Ngọc Trong (bà Cung Tần của Chúa Trịnh), ngay ở đoạn đầu mô tả Ỷ Lan lúc còn ở tuổi dậy thì:
Hoài thai đã đủ mười trăng
Đốc sinh một gái xem bằng tiên nga
Phương phi mày liễu, mặt hoa
Má đào, môi hạnh, da ngà, lưng ong
Quỳnh tư, dao chất lạ lùng
Thốt cười, muôn tía nghìn hồng nở ra
Học giả Hoàng đã chú thích đoạn thơ này như sau:
Mang thai đủ mười tháng; bèn sinh ra một gái trông đẹp như cô tiên.
Xinh xắn với mày cong, mặt tươi, má hồng, môi thắm, da trắng, thân eo. Thể chất trời cho trong sáng khác thường. Khi nói cười, nét mặt trông tươi như muôn nghìn đoá hoa màu sắc cùng nở.
Qua các trích dẫn này ta nhận thấy:
Lông mày, xuất phát từ tướng số, đã từng là một đặc điểm ‘ắt có’ trong việc thẩm định và mô tả nét đẹp và phú quý của người nữ.
Chú ý đến lông mày có lẽ dính liền đến đôi mắt. Loài người, Đông cũng như Tây, dùng cặp mắt để phát biểu cảm xúc, tình cảm, giận dữ, chán chường, hỉ nộ ái ố: ‘Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn’.
Ở Trung hoa cũng như ở nước Nam, lúc mô tả vẻ đẹp phụ nữ, nhất là vào thời xưa, luôn luôn ta thấy người ta đề cập đến MI, tiếng Hán mang nghĩa lông mày. Nga-my theo tự điển Đào Duy Anh: ‘Râu con ngài (một thứ sâu hình như con bướm mà to hơn, râu nó nhỏ và dài như tơ) - Nghĩa bóng: Lông mày con gái đẹp như râu con ngài. Nga-my nguyệt: Mặt trăng non hình như râu con ngài.’
Ngày nay, mặc dù có những đặc điểm khác trong phương cách nhận chân sắc đẹp phụ nữ, lông mày vẫn giữ vai trò quan trọng. Bằng chứng có nhiều bà nhiều cô vẫn đi thẩm mỹ viện để được kẻ hoặc xâm lông mày cho được rõ và đậm. DV Tuyết {mc} có nhắc đến Trương Vô Kỵ trong tiểu thuyết kiếm hiệp Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, lúc từ giã vũ khí, đã hưá với Triệu Minh y sẽ dành quảng đời còn lại chỉ để hàng ngày kẻ lông mày cho Triệu Minh mà thôi.
Trong tiếng Việt thuần Nôm, ‘mặt’ thường đi đôi với ‘mày’: mặt mày nở nang / nở mặt nở mày (mang nghĩa: hãnh diện, tươi vui).Trong Kiều: ‘Nở nang mày mặt mẹ cha’.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 8:47:22 GMT 9
5.3 Nét Người Trở lại với ‘nét người nở nang’ của maestro Phạm Duy. Những luận cứ thiên về Phạm Duy thường nhận ra có cái gì hơi lấn cấn trong việc kèm ‘nét ngài’ với ‘nở nang’. Nét ngài, nếu hiểu theo nghĩa lông mày, nga-my, rất khó tự nó được mô tả bằng hình dung từ ‘nở nang’. Thường, như đã thấy trong truyện thơ của Trương phu nhân, hay rất nhiều chỗ trong thi văn Việt, lông mày được mô tả ‘cong’, hay ‘cong như lá liễu’ mới đúng tông. ‘Nét ngài liễu cong’ mới có vẻ đúng điệu. NĐ Nam {mc} và Bs Duy có ‘trích ra’ những vế dùng ‘ngài’ trong Kiều: Khi tả Từ Hải (vế 2167): Râu hùm cằm én mày ngài, Vai năm tấc rộng thân mười thước cao. Để ý nếu muốn tả lông mày, tác giả Kiều đã dùng rõ rệt ‘mày’ và ‘mày có hình giống con ngài (mày ngài)’ chứ hoàn toàn không trực tiếp dùng ‘ngài’ thay cho ‘mày’ như trong ‘nét ngài’. Một vài vế khác: Vế 927: Bên thì mấy ả mày ngài Vế 2273-74: Rỡ mình lạ vẻ cân đài Vẫn còn hàm én mày ngài như xưa Cũng đều chứng tỏ ‘ngài’ vẫn thường được dùng như một ‘hình dung từ’ mô tả lông mày hơn là một từ thay thế luôn cho ‘mày’. Tuy nhiên có một vế khác, cũng dùng ‘nét ngài’ đơn độc không đi với ‘mày’ như ở vế 20 ‘nét ngài nở nang’: Vế 1213: Khi khoé hạnh, lúc nét ngài Nếu hiểu ‘khoé hạnh’ như khoé mắt (NĐ Nam {mc}) - nét ngài ở vế 1213 bắt buộc phải hiểu như ‘nét lông mày’ mới đối xứng. Thế nhưng, trong truyện thơ Ỷ Lan của Trương phu nhân, ta thấy: Phương phi mày liễu, mặt hoa Má đào, môi hạnh, da ngà, lưng ong Và môi được mô tả bằng môi hạnh. Như vậy, ‘khoé hạnh’ trong vế 1213, vẫn có thể mang ý nghĩa ‘khoé môi’, vành môi, giống hình trái hạnh đào? Nếu như thế ‘nét ngài’ trong vế 1213 có thể mang một nghĩa khác với ‘lông mày’. Và từ đó, phe ‘nét người’ có thể suy diễn: ‘Khi khoé hạnh, lúc nét ngài’ vẫn có thể chứa ‘ngài’ mang nghĩa ‘người’, như trong ‘nét người nở nang’. NV Ưu {mc} - gốc kỹ sư giống như đa số các bằng hữu khác trên diễn đàn mitchong, nêu lên một khía cạnh khác, nhắm vào tính không xuôi tai, không đồng thuận giữa ‘nét ngài’ với ‘nở nang’. Cũng giông giống với nhận xét của anh TQ Dương phía trên, NV Ưu đưa ra nhận xét ‘nét ngài’ chỉ một sự vật thuộc không gian 1-Chiều, thí dụ như sợi chỉ, một đường thẳng. Trong khi ‘nở nang’ là một hình dung từ thường dùng để mô tả trạng thái nở nang của một sự vật thuộc không gian 3-Chiều, như chiếc bong bóng, chiếc thùng phi, hoặc … thân con người. Do đó ‘nét người nở nang’ có vẻ hợp với môn… hình học không gian hơn! Ngoài ra, người Việt trong lúc nói chuyện thông thường về một bạn gái của con cháu trong nhà, ưa nói: ‘Con nhỏ đó có nét lắm’. Nét ở đây liên quan đến nét người nói chung chung, hay nét mặt đẹp. ‘Nét’ có thể chỉ sự vật 1-Chiều đến 3-chiều. Nhưng ‘nét ngài’ có lẽ bị giới hạn ở không gian 1-chiều mà thôi. Anh NL Bình {mc} từ California, cũng thấy chuyện đem hình học không gian vào Kiều có chút ít cơ sở luận lý, và đề nghị nếu xem ‘nét ngài’ như thuộc không gian hai chiều, thì ‘nét ngài nở nang’ có chỗ đứng hay không. Hoặc giả có thể nào tác giả Kiều đã dùng những từ như ‘vóc dáng’ để tả nở nang hay không? Một nôm-na gia khác góp ý chưa thấy ấn bản nào viết: ‘Khuôn trăng đầy đặn dáng ngài nở nang’ hết và chữ Nôm của ‘dáng’ hay ‘vóc’, được viết khác xa với ‘nét’. Hơn nữa ‘dáng người’ xem ra có vẻ một thứ từ rất tân, nhiều khi có thể ra đời trong khoảng thế kỷ 20. ‘Vóc dáng’ thời xưa có lẽ chính là ‘tư phong’ như trong bản của Duy Minh Thị. Điểm này cũng một điểm ít người chú tâm đến. Những ai từng hành nghề thông dịch viên đều có thể xác nhận khi phiên dịch hầu như bất cứ văn bản nào từ tiếng Anh, người dịch thường hay gặp phải những từ không có tương đương trong tiếng Việt. Hoặc có thể, có một từ cũ tra ở tự điển ra nhưng không hoàn toàn thích hợp với từ tiếng Anh trong hoàn cảnh mới, trong hoà hợp với ý chính của bản văn. Thí dụ hình dung từ ‘cool’ (với nghĩa nguyên thủy: mát mẻ) ở tiếng Anh trong vài mươi năm nay dùng để chỉ một cái gì ‘tốt đẹp’, hay ho, ‘hết xẩy’, hoăc rất ‘tuyệt chiêu’! Thế hệ babyboom của những người sinh ra đời rầm rộ sau thế chiến thứ hai, dịch ra làm sao, ngoài cách phải tự … sáng tác ra từ mới, như thế hệ ‘sinh sung’ chẳng hạn. Impeachment tổng thống Hoa Kỳ dịch ra ‘đàn hặc’ có êm không? Người ta biết chắc chắn lúc quốc ngữ được phát triển, cũng là lúc xã hội Việt giao tác ầm ầm với văn minh phương Tây. Và do đó, những người góp công vào việc phát triển quốc ngữ - từ nhóm Petrus Ký, đến Đông Kinh Nghĩa Thục rồi Nam Phong, và về sau Tự Lực Văn Đoàn - chắc chắn đã phải sáng tác rất nhiều từ, nhiều lối nói, dựa vào kiến thức Hán Nôm và Tây học, cho những sự vật, ý niệm mới từ phương Tây, như xe hơi (ô-tô), xe máy (xe đạp), tự do, dân chủ, v.v. NV Iu {mc} từ Sydney, nhắc lại quan niệm đẹp ngay ở phương Tây cũng biến đổi rất nhiều trong vòng 50 năm qua. Thời Greta Garbo, người ta chú ý đến khuôn mặt, đến mắt, đến mí mắt đến lông mày hơn bộ ngực và những bộ phận cơ thể khác. Đến lúc Marilyn Monroe, ‘ngài’ ta bắt đầu để ý đến bộ ngực, mông, eo, và cặp chân. Cyd Charise lại cho biết cái lưng đẹp cũng đáng đồng tiền. Phim nào của Angie thingyinson khán giả cũng đều được dịp ngắm nghía cặp chân đẹp của tài tử ấy. Jennifer Lopez (J. Lo) nghe nói đã bảo hiểm cặp giò đến 1 tỷ đô la. Đến thời Twiggy (khoảng 1965) rồi kéo đến Calista Flockhart (Ally McBeal), Lara Flynn Boyle (hiện đại) người ta thấy gầy ốm cũng đẹp và hấp dẫn như thường. Và đến thời hiện đại, nét đẹp thường đi đôi với phát triển của ngành giải phẫu thẩm mỹ, đặc biệt tập trung vào đôi mắt, lông mày, làn da, sóng mũi, bô ngực, và đôi môi (bơm). Y như Phạm Duy đã nhận xét, nét đẹp người xưa, không đến nỗi xưa như Dương Quý Phi mà ngay ở thời Marilyn Monroe, thông thường không khắt khe chuyện thân thể không được thon thả. Có da có thịt cũng tốt thôi, nhưng đừng quá mập là được rồi. Đối với xã hội Á Đông xưa cũ, anh NL Bình góp ý, người đàn bà phải có da có thịt mới đẹp, bởi như vậy mới có sức khoẻ sinh con đẻ cái, tiếp nối dòng giống cho phu quân. Tuy nhiên, những tản mạn về nét đẹp của người phụ nữ, tiếp tay cho Phạm Duy như trên vẫn không đánh thẳng được vào vấn đề mấu chốt: Nét ngài nở nang / Nét người nở nang: Cả hai lối mô tả, đều có cái gì lấn cấn. Nhất là khi đi theo: Khuôn trăng đầy đặn. Mặc dù rằng ta chấp nhận Ngài có thể được viết trong một bản xưa cũ nào đó như Ngài mang nghĩa Người. 6. Mua vui cũng được một vài trống canh Như đã trình bày phía trên, phân tích một đoạn hay một câu, một vế của truyện Kiều với nhiệm vụ lý giải rất khó đi đến sự thật. Bởi thật ra chỉ có một sự thật duy nhất: tất cả những bản Kiều người ta biết đến đều là những bản ghi lại theo trí nhớ của … truyền khẩu dân gian. Những bản-ghi-lại đó được thực hiện sau những năm tiếng nói và chữ viết của người nước Nam được biến chuyển thay đổi dữ dội [19]. Do đó, mục đích của bài này không bao giờ có một tham vọng nào khác hơn việc ‘mua vui cũng được một vài trống canh’ hay mua vui cũng được một hai tách càfê espresso, mà thôi. Trước khi đi đến việc cố gắng giải toả vấn đề xin tóm tắt những điểm khó khăn và các lấn cấn trong việc chấp nhận ‘nét ngài’ hoặc ‘nét người’. i). Nếu chấp nhận ‘nét ngài’ Nét ngài nở nang vẫn nghe hơi kỳ kỳ, lông mày làm sao nở nang được. Ngay đến khi giận dữ, trừ những người như Trương Phi, ít khi lông mày bị dựng ngược, nở nang được! So với những vế như: ‘Râu hùm hàm én mày ngài’ ta thấy ‘ngài’ đơn thuần một hình dung từ cho ‘lông mày’: Mày trông giống râu con ngài cong cong. ‘Ngài’ viết chung với ‘mày’. Trong ‘Nét ngài nở nang’, ngài lại đứng solo, đứng chổng một mình. Có cái gì là lạ. Nhưng ‘nét ngài’ là một lối viết rất quen thuộc và trong hầu hết các bản chữ Nôm NGÀI được viết với ‘con trùng’ nguây nguẩy phía bên, chứng tỏ đó là ‘con tằm’, là con nhộng, chứ không phải NGƯỜI. Mặc dù hai âm Người và Ngài thật ra chỉ một (Ngài) trong thời chữ Nôm. Nét lông mày là một trong những mô tả chính khi đề cập đến sắc đẹp của người nữ thời xưa. Nên ‘khuôn trăng đầy đặn’ sánh đôi với ‘nét ngài nở nang’ / nét ngài= râu con ngài= nga-my, hoàn toàn hợp nghĩa hợp lý. ii. Nếu chấp nhận ‘nét người’ Qua dẫn chứng phía trên, người An Nam ngày xưa phát âm ‘Ngài’ khi muốn nói ‘Người’ bởi trước thời quốc ngữ hoàn toàn thay thế chữ Nôm, từ ‘Người’ theo âm đọc ngày nay, chưa xuất hiện. Do đó trong bản Kiều bất cứ từ nào viết theo quốc ngữ ‘Người’ đều có thể đọc như ‘Ngài’, và những từ ngày nay viết ‘Ngài’ đều có thể đã bị viết sai thành ‘ngài’ với nghĩa con nhộng ong, nghĩa bóng ‘nga-mi’ hay lông mày - trong khi ở nguyên bản có thể tác giả mang hàm ý Người. Nếu xem hai bản Nôm trứ danh: Một của Quán Văn Đường (QVĐ): Khuôn lưng đầy đặn, nét ngài nở nang Một của Duy Minh Thị (DMT): Tư phong đầy đặn, nét ngài nở nang Cả hai đều được đánh giá cao: Bản QVĐ từng được xem ghi lại từ bản Phường, tức gần bản nguyên thủy của Nguyễn Du. Bản DMT đã được học giả Hoàng Xuân Hãn đánh giá gần bản gốc Nguyễn Du nhất. Trong cả hai bản này ‘nét ngài’ chắc hẳn phải được viết như ‘nét người’ mới hợp lý. ‘Khuôn lưng’ đi với ‘nét người’. Hoặc ‘Tư phong’ cũng có thể dùng song song với ‘nét người’ mà không bị chói tai, không bị tương phản ý tứ. (Tư-phong thật ra là chữ dùng để chỉ ‘dáng dấp’ hay ‘vóc dáng’ như thường dùng ngày nay). Do đó: QVĐ: Khuôn lưng đầy đặn, nét người nở nang DMT: Tư phong đầy đặn, nét người nở nang Thế nhưng, nếu thay phần sau vế 20, trong các bản thường gặp: ‘Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang’ bằng ‘nét người nở nang’ (như Phạm Duy vừa làm) người ta vẫn thấy lổng chổng như thường: Thứ nhất, ước mơ của một thiếu nữ đẹp thời xưa khi được thiên hạ chung quanh cho mình đẹp, theo senior Lê Quý như đã đề cập phía trên, không thể đơn thuần ở tiêu chuẩn thân hình… nở nang. Thân hình nở nang để làm gì khi không có nét phú quý, thanh tao của một mệnh phụ phu nhân? Dù rằng nó nở nang, phốt phát, có da có thịt như Dương Quý Phi. Thứ hai, xem qua nhiều thi ca cùng thời, ta không thể hoặc rất khó tìm ra một áng thi văn khác mô tả thân thể hay toàn thân hình một phụ nữ đẹp. Với phụ nữ quá lắm người ta chỉ mô tả đến… lưng ong. Với nam nhi, thường người ta đề cập đến những nét oai vệ, ‘người hùng’ của con nhà tướng, hoặc nét thư sinh của những bậc quân tử đại nho. Thứ ba, theo rất nhiều ‘ngài’ thuộc diễn đàn mitchong, ‘nét người … nở nang’ nghe không được thanh tao, chải chuốt, lai láng hồn thơ cho mấy. Như vậy ‘nét người nở nang’ rất khó có chỗ đứng trong một bản Kiều ô-ri-gin, hay bất cứ bản nào bắt đầu vế 20 bằng: ‘Khuôn trăng đầy đặn…’. iii. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Việc gì có loanh quanh thế mấy cũng phải đi đến một chung cuộc. Đến đây ta có thể tạm chấp nhận ‘nét người nở nang’ thay vào phần sau vế 20 của các bản Duy Minh Thị và Quán Vân Đường mang rất nhiều điểm lô-gích khả tín, tuy không được hoàn toàn thanh tao, hồn thơ lai láng cho lắm. Nhưng ta thấy ‘Khuôn trăng đầy đặn ‘nét ngài/ nét người’ nở nang’ vẫn còn một vài điểm lấn cấn cần được giải tỏa. Bây giờ xin xem kỹ vế sau đây ở phần cuối truyện Kiều: Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha Hoặc: Nghe tin nở mặt nở mày Ta thấy rõ, ‘Nở nang’ đi với ‘mặt mày’. Y như cách nói ngày nay. Khi cha mẹ hãnh diện vì con cái thành đạt: Cha mẹ nở mày nở mặt. Khi người vợ vừa mới được lên chức, vai vế ở trên người chồng: Cả hai vợ chồng đều hớn hở, mặt mày nở nang. ‘Nở nang’ ít ra ở thời xưa, là một thứ ‘thuận thanh tương ý’ với cụm từ ‘mặt mày’. Vấn đề ta có thể thấy thật ra chỉ một loại ‘collocation’ như anh TQ Dương {mc} đã đề cập phía trên qua ví dụ ‘strong wind gió mạnh và heavy rain mưa nặng hạt’. Nếu thử nhờ một người nào đó ở thế kỷ 21 viết một đoạn văn xuôi mô tả vẻ đẹp Thúy Vân theo kiểu ‘thời bây giờ’, có thể sẽ viết theo kiểu sau: Thúy Vân xem ra mang rất nhiều nét đoan trang và quý trọng, tuyệt vời. Có lẽ giống như nét của Audrey Hepburn. Chỉ có điều cô ấy có khuôn mặt tròn hơn Audrey Hepburn một chút, giống như vành trăng tròn, đầy đặn, và có vẻ gần với Kate Winslet hay Gong Li hơn. Không phải chỉ ở sắc đẹp, nếu xem theo quý tướng, Thúy Vân không sót chút nào: Ngoài khuôn mặt tròn phúc hậu, lông mày cô ấy cong cong trông đẹp như râu tơ con ngài, theo kiểu Greta Garbo hay Margaux Hemingway. Và quan trọng hơn hết, mặt mày của cô ấy lúc nào cũng nở nang, và tươi thắm. Nếu chấp nhận đoạn văn xuôi tân thời cải biến như trên ta thấy gì? Ta sẽ thấy: Khuôn trăng đầy đặn vừa tả khuôn MẶT đầy đặn như vành trăng tròn / nhưng không cần dùng chữ MẶT vì … thiếu thốn chỗ trong một câu lục bát chỉ chứa 8 từ, mà lại dùng lối ẩn dụ bằng Khuôn trăng. Ta cũng thấy ngay: Nét ngài nở nang vừa tả lông MÀY có nét đẹp giống như râu con ngài, mà hoàn toàn không cần dùng đến chữ MÀY hay LÔNG MÀY. Hình dung từ NỞ NANG ở sau cùng chính là một hình dung từ chung cho hai chủ từ MẶT và MÀY hoàn toàn ẩn bóng trong toàn vế tuyệt chiêu, chỉ có 8 từ đó: MẶT MÀY NỞ NANG như tiếng Nôm tiếng Việt từ ngàn đời vẫn thường xử dụng. Nói một cách khác, nếu chỉ lược ý chính: Khuôn trăng đầy đặn= MẶT Nét ngài= MÀY nở nang= NỞ NANG Nguyên vế đó mang ý chính: Mặt mày nở nang. Và kèm theo mô tả theo lối ẩn dụ, mặt đẹp thế nào và mày đẹp làm sao. Thật tuyệt vời. Bởi Kiều là một áng văn do thi hào số 1 của nước Nam sáng tác nó phải thật cô đọng và súc tích kèm theo ý thơ lai láng. Chỉ 1 vế 8 từ Nguyễn Du đã gói ghém vào đó những gì một người viết văn xuôi phải viết tương đương với ít lắm ba bốn hàng chữ trên giấy A4, như thí dụ ở trên. Quan trọng hơn hết, Tiên Điền đã không dùng đến MẶT MÀY mà vẫn tả được, qua lối ẩn dụ, những điểm ‘đặc trưng’ đẹp đẽ của Mặt và Mày. Và ai cũng hiểu được, vế đó chuyên về Mặt và Mày. Khéo léo ở chỗ dùng những gì người xưa thường ví với Mặt / Mày (Trăng / Ngài) để mô tả Mặt Mày, nhưng lại khỏi phải dùng đến Mặt Mày, choán chỗ vô ích. Ta cũng để ý: ‘Khuôn’ trong ‘khuôn trăng’ gợi lên ‘Khuôn mặt’. ‘Trăng’ thế chỗ mặt, và hàm ý mặt tròn như trăng tròn. ‘Nét’ trong ‘nét ngài’ gợi ý ‘nét mày’ bởi ‘ngài’ thường được ví với ‘mày’. Lông mày đẹp như râu con ngài. ‘Nở nang’ đi đôi với cả Mặt lẫn Mày, chứ không phải chỉ có ‘nét ngài’ mà thôi. Như vậy Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang rất khó sửa lại thành Khuôn trăng đầy đặn, nét người nở nang bởi những lý do chính sau đây: ‘Nở nang’ vào thời đó chỉ ưa đi kèm với ‘mặt mày’, chưa biết đi đêm với ‘thân thể’, với ‘nét người’. Nguyên vế 20 mang một nghĩa chính: Mặt mày nở nang. Rút ‘mày’ ra và thay thế bằng ‘người’ sẽ làm ‘khuôn mặt’ bị bẽ bàng: Mặt và thân người => nở nang? Lối dùng ‘nét người’ là một lối dùng mới đây thôi. Ngay cả ‘dáng người’ cũng có vẻ mới. Ngày trước, hình như chỉ có ‘tư phong’ để chỉ ‘dáng người, nét người’như trong bản Duy Minh Thị. 7. Đôi lời kết Câu chuyện mua vui cũng được vài tách cappuccino này bắt nguồn từ việc nhạc sĩ Phạm Duy, qua những tư duy sẵn có và lý luận của ông, đã thay đổi ‘Ngài’ ra ‘Người’ trong vế 20 của truyện Kiều bất hủ của thi hào Tiên Điền Nguyễn Du. Qua trên 20 trang giấy, 20 tài liệu tra cứu, và góp ý của khoảng 10 chuyên gia thuộc các ngành nghề khác nhau, trong đó có một hai vị chuyên về ngôn ngữ học, Kiều học, và Nôm-na học, qua môi trường thời thượng internet, chúng ta rất may mắn đi đến một vài nhận xét có thể tạm kết thúc bài này như sau: i). Như đã trình bày, việc lý giải phân tích các từ các vế của truyện Kiều, để xem thứ nào chính Tiên Điền đã viết, hoặc nhạc sĩ lão thành Phạm Duy có đúng không khi ông thay thế ‘Ngài’ ở vế 20 - hoàn toàn công chuyện đội đá vá trời. Bởi ngay từ thời xa xưa, chưa bao giờ có ai xem được bản di cảo gốc của Nguyễn Du. Và cũng bởi những bản Nôm, bản quốc ngữ của truyện Kiều đều xuất phát từ những bản ghi lại, thu thập được qua truyền khẩu dân gian, năm bảy chục năm sau khi Nguyễn Du qua đời. ii). Trong khoảng thời gian từ lúc Nguyễn Du trước tác truyện Kiều theo thể lục bát đặc trưng của dân Việt, đến lúc những bản truyện Kiều ra đời, tiếng nói và chữ viết của người nước Nam biến chuyển dữ dội. Chữ Nôm thoái lui và nhường chỗ cho quốc ngữ. iii). Việc thay NGÀI bằng NGƯỜi ở vế 20, do nhạc sĩ Phạm Duy ‘đề xuất’, bắt đầu có cơ sở khá vững chắc khi chứng minh được ngày trước ở nước An Nam, người ta phát âm và dùng NGÀI để chỉ ‘người’, người ta, con người. iv). Quan sát kỹ qua nhiều khía cạnh, ta thấy NGƯỜi có thể chen chân vào vế 20 của các bản Duy Minh Thị và Quán Văn Đường, mà không va chạm nhiều đến lô-gích và toàn ý của vế. v). Nhưng Người rất khó thay thế Ngài ở bất kỳ bản nào có vế 20 bắt đầu bằng: ‘Khuôn trăng đầy đặn’ bởi Ngài ở vế đó viết như NÉT NGÀI là một điều kiện ắt có và đủ cho vế đó mang ‘klọn’ nghĩa ‘Mặt mày nở nang’. Trong lúc viết bài này, một số điểm lổng chổng khác trong tiếng Việt, cũng được tình cờ phát hiện. Đó là những cách nói, cách phát âm không phù hợp với quy luật đánh vần, từ lâu vẫn thường dễ nhầm với phương ngữ hay cách phát âm địa phương. Rất nhiều cách phát âm lầm tưởng địa phương đó, được quy lại ở lối phát âm xưa cũ tại môi trường tiếng Nôm trên toàn cõi nước An Nam trước đầu thế kỷ 19. Viết tức là học. Điều đó, học giả Nguyễn Hiến Lê đã ghi nhận từ lâu. Trung tuần tháng 10/ 2003 N.N. GHI CHÚ 1). Nguyễn Văn Trung (1990) Vụ Án Truyện Kiều. Nxb Xuân Thu tái bản 2). Lê Nguyễn Lưu (2002) Từ Chữ Hán đến Chữ Nôm. Nxb Thuận Hoá 3). Trần Trí Dõi (2001) Ngôn ngữ và sự phát triển Văn Hoá Xã Hội. Nxb Văn Hoá Thông Tin 4). Nguyễn Tài Cẩn (1997) Giáo trình Lịch Sử Ngữ Âm Tiếng Việt. Nxb Giáo Dục. 5). Vũ Văn Kính (2002) Đại Tự Điển Chữ Nôm. Nhà Xuất Bản Văn Nghệ TP. 6). Nguyễn Văn Trung (1990) Lược Khảo Văn Học. Quyển 3: Nghiên Cứu và Phê Bình Văn Học. Nxb Xuân Thu 7). Hoàng Xuân Hãn (2002) Hồ Xuân Hương - thiên tình sử. Nxb Văn Học. 8). Huỳnh Ái Tông (2003) Nguồn gốc chữ quốc ngữ: Báo mạng Đời Tỵ Nạn: doitynan.com/bienkhao.pdf/vanhoa/nguongocchuquocngu.pdf9). Website Văn Học Việt Nam: www.vhvn.com/Kieu/khaodi-tk.html trình bày bản chữ Nôm do Vũ Văn Kính soạn lục và Bùi Hữu Sũng nhuận chính, tổng hợp từ các bản của Kiều Oánh Mậu, Duy Minh Thị và Quán Văn Đường, và bản quốc ngữ của Nguyễn Quảng Tuân. 10). Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ - Hoàng Văn Hành (2002) Từ điển Mường-Việt. Nxb Văn Hoá Dân Tộc 11). Nguyên Nguyên (2003) Từ Vương Vũ đến Wương Thuý Kiều: Vài bí mật của chữ Nôm và quốc ngữ. Trên mạng: www.aihuucongchanh.com hoặc perso.wanadoo.fr/charite hay www.thuvienvietnam.com, hoặc www.talawas.org12). Đào Duy Anh (1973) Chữ Nôm: Nguồn Gốc - Cấu Tạo - Diễn Biến. Nxb Đông Nam Á. 13). Đỗ Quang Vinh (2000) Tiếng Việt Tuyệt Vời. (In lần thứ hai - tác giả xuất bản).Địachỉ:www.geocities.com/doquangvinhvenguon 14). Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung, Đặng Quốc Cơ (1998) Truyện Kiều và Tuổi Trẻ. Nxb Làng Văn. 15). Thí dụ về tiếng Mường thay đổi trong thế kỷ 20 vì bị Latinh hoá: Vợ (wife) ngày trước Nôm đọc Bợ, bởi theo tự điển, Vợ= Nữ + Bị (âm B). Mường đọc ‘Bơ’ theo tài liệu xuất bản năm 1904, trích dẫn trong quyển ‘Tiếng Việt Tuyệt Vời’ [13]: Bơ nã mê ti lê ksú tế nã lấp ksông= Vợ nó mới đi lấy đá để nó lấp sông. Thế nhưng qua 1 thế kỷ giao tác với người Việt trong môi trường quốc ngữ, người Mường biến đổi lối đọc nhiều từ xưa bắt đầu bằng B theo kiểu người Việt thành ra V. Tự điển Mường [10] xuất bản năm 2002 ghi tiếng Mường: Vợ = Vợ, tiếng Việt. 16). Bản Kiều Nôm và quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim soạn có đăng trên báo mạng Charité: perso.wanadoo.fr/charite17). Theo trình bày phía trên: Vời trong thời chữ Nôm được viết theo Nôm như VÀI. Đó cũng một thứ biến đổi từ A sang âm ƯƠ hay Ơ. ‘Tuyệt vài’ hợp niêm vận với ‘nét ngài’ phiá vế sau. 18). Trang mạng của Bs Hồ Đắc Duy: www.angelfire.com/ks/hodacduy19). Chữ quốc ngữ hoàn toàn phát triển sau khi Nguyễn Du qua đời (1820). Đánh dấu bằng: quyển tự điển Latin-Annam & Annam-Latin của Taberd xuất bản năm 1838, và Gia Định Báo của nhóm Petrus Ký năm 1865. Trong quyển tự điển Taberd, âm BL, KL, TL hoàn toàn bị biến mất: Blõ=> trờ / tlẽi => trẩy / mlòy=>lời {ghi chú [8] phía trên}. 20). Vũ Tài Lục: ‘Người đàn bà trong Tướng Mệnh Học’. Nxb Ngân Hà Thư Xã 21). Nguyên Nguyên (2003) Năm Mùi thử tìm hiểu âm chữ D và Dz. Xem các mạng www.aihuucongchanh.com hoăc perso.wanadoo.fr/charite hay www.thuvienvietnam.com hay www.talawas.org
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:28:20 GMT 9
Hồi ký 20 năm thăng trầm Bóng bàn Việt Nam Ðinh Văn Ngọc
NHỮNG NIỀM VUI KHÔN TẢ
Mặt trời vừa xế bóng, chuyến bay Air France đưa đoàn tuyển thủ và chúng tôi về đến phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngay tại phòng đợi chúng tôi đã được sự tiếp đón nồng hậu của đại diện các giới, nhất là giới hâm mộ bóng bàn. Bên ngoài phi trường đông đảo đồng bào vì "vinh danh cho tổ quốc" tập trung từ hồi giữa trưa, giương cao biểu ngữ cùng cất tiếng hoan hô vang dậy rập ràng. Trước hình ảnh đó, tất cả cho không khỏi bàng hoàng xúc động.
Năm 1958 - năm được xem là nền bóng bàn Việt Nam đạt đến nấc thang tuyệt đỉnh. Thật ra chẳng phải chỉ năm này đoàn tuyển thủ ta mới đem lại sự hãnh diệnvề cho đất nước, mà ánh hào quang đó, đã nhen nhúm từ năm 1957, một năm sau khi tôi đắc cử vào chức vụ Chủ Tịch Tổng Cuộc Bóng bàn Việt Nam. Ðây là một TỔng Cuộc đầu tiên sau ngày tôi tiếp thu "Liên Ðoàn Bóng bàn Việt Nam" từ tay cụ Rigaud Tiền, và ngày sau đó tôi đã đề nghị cải đổi lại thành Tổng Cuộc nâng Liên Ðoàn lên hàng quốc gia.
Ban chấp hành đầu tiên của Tổng Cuộc gồm có Trung Tá Trần Văn Trung (về sau là Trung Tướng Ðặc trách Tâm Lý Chiến), Trung tá Phạm Ðăng Lan và Thẩm phán Hà Như Vinh, đồng phó chủ tịch. Về mặt hành chánh có anh Mai Văn Chất - bào huynh của cây vợt khét tiếng Mai Văn Hòa, đảm nhiệm vai trò Tổng Thư Ký và anh Nguyễn Tùng Phó Tổng Thư Ký, Chủ tịch Danh dự là Thiếu Tướng Trần Văn Ðôn. Có thể nói đây là một ban chấp hành sáng giá và có tinh thần tích cực nhất. Tôi hoạt động ngày đêm không biết mệt đảm cả tâm trí dồn vào cho bộ môn thể thao này quên cả vấn đề sinh hoạt cho việc làm ăn riêng tư của mình.
Ngày mới tiếp thu Liên Ðoàng Bóng bàn từ tay cụ Tigaud Tiên thì chỉ là những tập sổ sách "rối nùi" với những con số thiếu mạch lạc. Hay nói đúng hơn, đó chỉ là những cuốn vở với những con số không: không trụ sở (chỉ tạm mượn), không bàn ghế, cũng không có nơi để cho các tay tập dượt. có nghĩa là tôi tiếp thu với một gia tài trống trơn rách rưới!
Ðứng trước "cơ nghiệp" này tôi bằng lòng xuất cả của lẫn công sức để xây dựng lại từ việc thuê mướn "Tổ Ðình", mua bàn mua vợt và luôn cả bóng để những người yêu chuộng bóng bàn có nơi tập dượt. Tôi tự bỏ ra một khoản tiền để làm "Quỹ". Và cũng để có nơi hội họp khang trang tôi cũng xuất tiền quỹ để mua bàn ghế và tất cả những vật dụng linh tinh cần thiết. Tóm lại, tôi xem "Tổ Ðình" bóng bàn chẳng khác như mái ấm khác của mình. Tôi làm lại tất cả từ đầu. Tôi sẵn sàng chi cho mọi tổn phí, nếu Tổng Cuộc không đủ khả năng tự đài thọ. Như trường hợp mời các danh thủ khét tiếng trên thế giới sang Sài Gòn đấu giao hữu với mục đích đẻ các tay vợt trong nước có dịp học hỏi thêm tài nghệ và rút tỉa kinh nghiệm khi lâm trận. Nhờ vậy mà giới hâm mộ bóng bàn Sài Gòn chứng kiến được tài năng của các tay vợt quốc tế thế giới như Leach của Anh Quốc, Haguenauer và Amouretti của Pháp, Lưu Quốc Phương, Lý Quốc Ðịnh, Châu Lang Trung của Ðài Loan, Tiết Thủy Sơ của Hongkong, Rheissman, Cartlad, Bukiett của Mỹ, Fugie của Nhật Bản.
Chính những trận đấu giao hữu quốc tế như vậy, giúp cho các cây vợt của ta rất nhiều. Nhất là Lê Văn Tiết, Huỳnh Văn Ngọc là những đấu thủ mầm non vừa mới nổi lên đã thu thập được các tinh hoa của những cây vợt lừng danh trên, cộng với tài nghệ vốn đã điêu luyện của mình nên đã trở thành hai con Phượng Hoàng châu Á.
Tại giải vô địch bóng bàn thế giới ở Stockhom thủ đổ Thụy Ðiển, con Phượng Hoàng Huỳnh Văn Ngọc chứng minh được điều này. Ngay lúc lâm trận, Ngọc tuổi đầu tròn 18, đã làm cho mọi người lưu ý trước lối đánh cả công lẫn thủ và lối chận banh đặc biệt giữa bàn của em, tỏ ra là cây vợt thuộc hạng tài ba lỗi lạc. Quả thật, tài không dợi tuổi, Ngọc đã đánh bại Ogimura - đương kim vô địch thế giới với tỷ số 3-2, khiến toàn thể giới mộ điệu phải sững sờ. Thế là con Phượng Hoàng Huỳnh Văn Ngọc trở thành mục tiêu cho các cuộc phỏng vấn của các báo chí, cũng như các đài truyền thanh, truyền hình trên khắp thế giới.
Trong năm 1956 được sự liên lạc của tôi với Cơ Quan Từ Thiện của Giáo Hội Phi, đã sắp xếp cho Tổng Cuộc Bóng bàn Phi Luật Tân mời đoàn bóng bàn Việt Nam sang đấu giao hữu do cơ quan này đài thọ tiền vé máy bay, còn lại mọi chi phí khác do tôi đài thọ. Tôi đã hướng dẫn một đoàn bóng bàn gồm có Tiết, Hòa, Hằng, Ðược qua Phi. Xuất quân đầu tay đoàn này đã đè bẹp đoàn đại biểu Phi với tỷ số 5/1.
Một thắng lợi kế tiếp trong năm 1957 Việt Nam đã chính thức tham dự giải vô địch Á Châu, cũng đã tổ chức tại Manila - thủ đô của Phi. Tôi đã dìu dắt đoàn bóng bàn gồm có thủ quân Chu Văn Sáng, tuyển thủ gồm có Mai Văn Hòa, Trần Văn Liễu, Nguyễn Kim Hằng, Trần Cảnh Ðược và Huỳnh Văn Ngọc. Và để cho các tay vợt nữ được quen trận mạc, hai nữ đấu thủ Trần Thị Kim Ngôn và Hoàng Mộng Ðiệp cũng được tháp tùng. Ðoàn tuyển thủ nam đã đoạt huy chương vàng trong giải toàn đội và Hòa Ðức đã lập lại chiến thắng trong giải đôi nam. Tiếc thay lần này Mai Văn Hòa không còn giữ được ngôi vị vô địch đơn nam như hai năm liền 1955 và 1956. Ngày chiến thắng đó lại nhằm ngày Tết Nguyên Ðán của ta. Ôi! Tôi làm sao mà quên được cái ngày vui tuyệt vời đó? Và đó cũng là lần đầu tiên, kể từ ngày tôi đã xả thân vào nghiệp làm "bầu" chính thức thân hành đưa các tuyển thủ mang chuông đi đánh xứ người, trong một giải quốc tế chính thức. Ðem lại sự vẻ vang cho đất nước.
Tôi vô cùng xúc động khi nhìn thấy lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, hiên ngang đứng giữa hai quốc kỳ Philippine và Iran sừng sững trước khán đài danh dự, từ từ được kéo lên theo tiếng nhạc quân hành "Này thanh niên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi ." đầy hùng tráng oai nghiêm, khiến tôi không thể nào cầm được giòng lệ! Tiền bạc không thể nào mua được những giờ phút cao quý này. Cũng như K. Ibsen nói: "tiền cho ta những phút vui, nhưng không cho ta hạnh phúc". Tuy nhiên với tôi thì hạnh phúc cho ta những phút giây êm đềm nhất, song le không thể so sánh được với niềm vui vô cùng của "Tuổi Trẻ" khi họ mang lại sự vẻ vang về cho đất nước.
Năm ấy, tôi ăn một cái Tết tha hương, xa vợ con, bạn bè, nhưng lòng tôi vẫn cảm thấy lâng lên một niềm vui khôn tả. Tôi "lì xì" cho anh em tuyển thủ để lấy hên ngày đầu năm nơi đất khách, chuc nhau một cái Tết thật vui (dĩ nhiên) thật thắng lợi, rồi đưa nhau đi thăm viếng các nơi danh lam thắng cảnh. Tôi tìm đến công viên Rizal. Ðây là một công viên mới lập, nên có lối kiến trúc tân kỳ. Bên trong, trồng đủ các loại kỳ hoa dị thảo. Tôi cũng đến viếng công viên Lutena, trông có vẻ trang nhã, nơi dành cho mọi sinh hoạt chính trị hơn là cho các cuộc mua vui giải trí.
Phong cảnh Philippine trông tương tợ Việt Nam, cũng có hàng dừa tươi xanh chạy dài ven bờ bể, cũng như hàng tre uốn mình đong đưa trước gió, cùng cánh bướm nhởn nhơ bay và những cánh hải âu lượn giữa vòm trời xanh biếc, bay sà xuống cỡi đầu cơn sóng cả.
Tôi được hướng dẫn đến thăm Laguna, một thành phố du lịch đầy thơ mộng nằm trên dãi đất trù phú, thuộc miền Nam Phi Luật Tân, nơi đây đem lại cho du khách nhiều ấn tượng đẹp. Laguna có một bầu không khí trong lành, một không gian mênh mông thực sự, không ô nhiễm và những làn mây bềnh bồng trắng xóa, kết lại như những chùm hoa tuyết.
Nơi đây có những quả lê Tàu xanh xanh màu ngọc bích bày bên cạnh các chùm "chôm chôm" rực màu đỏ ối. Những quả hồng láng bóng đặt kế bên các chúm "nhãn lồng" ngọt lịm. được bày bán ven các nẻo đường.
Tôi có đến viếng viện bảo tàng, được nhìn xem nhiều kỷ vật cổ xưa được sắp đặt thứ tự hteo thời đại. Tiếc thay tôi không đủ thì giờ để tham khảo.
Phi Luật Tân có rất nhiều loại mật ong nguyên chất. Người bạn hướng dẫn sành tiếng Pháp, khuyên tôi hãy xem chừng đừng uốn gqúa nhiều sẽ bị phát phì ngay, trông xấu lắm. Bệnh mập thường xảy ra ở các nước giàu có như Hoa Kỳ chẳng hạn. Cài từ "diet" xuất phát ra cũng chỉ vì lý do "cai" bớt cái mập phì xấu xí kia.
Tôi được đến thăm suối nước Los Banos - giòng suối nổi tiếng nằm bên cạnh ngọn núi Makilling. Trước khi đến nơi đây, người bạn mới này cẩn thận dặn dò tôi: "Khi đến gần ngọn núi này, ông chủ tịch phải xin phép "Nữ Thần Sắc Ðẹp" là vị thần linh có nhiệm vụ cai quản canh giữ ngọn núi này". Nhưng có lẽ vì sợ tôi lo ngại người bạn tốt bụng vội nói lên lời trấn an.
_ Ông bạn hãy an lòng! "Nữ Thần Sắc Ðẹp" bao giờ cũng hiền lành. Bà cũng còn là bạn của muôn loài muôn thú. Không bao giờ bà muốn hại ai!
Tôi cũng được đưa đến thăm Trung Tâm Kỹ Thuật Makilling thuộc trường đại học Philippine ngay trên đỉnh núi, lúc nào cũng tràn ngập gió từ biển cả thổi vào. Tôi cũng đến tham quan Viện Nghiên Cứu về Lúa (Rice Research Institute). Vì tôi không hiểu nhiều về nghiệp nhà nông nên cũng chẳng thể nào đào sâu thêm được gì về cái cảnh "Trâu ơi, ta bảo trâu này. Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta" nên yêu cầu ông bạn hướng dẫn đi tham quan Sở Thú Mini cũng nằm ngay cạnh trung tâm này.
Tôi đi thăm thành phố San Pablo có dáng dấp đồng quê, gồm có bảy cái hồ xinh đẹp. Ðứng xa xa nhìn đến, trong như một bộ hài cốt, nhất là những buổi sương mù người yếu bóng vía nhìn thấy không khỏi rùng mình kinh hãi.
Người ta còn gọi San Pablo là phố "Bảy Hồ" (Seven Lakes). Ða số dân trong cùng sống bằng nghề đánh cá. Theo họ đây là nghề lý tưởng.
Lần này tôi được đưa đến Liliw. Quả danh bất hư truyền. Ðây là thành phố đầy htơ mộng. Mấy con suối ôm quanh sườn núi trông như thân con rồng đang trầm mình dưới nước.
Sau khi đắc cử Chủ Tịch Tổng Cuộc Bóng Bàn Á Châu thay thế cho ông Goto Nhật Bản, vì vị Chủ Tịch tiền nhiệm này có hành động thiên vị truất bỏ Ðài Loan để thay thế Trung Cộng vào trong Tổng Cuộc Bóng Bàn Á Châu, tôi lại viếng thăm Philippine lần thứ ba với danh nghĩa chủ tịch cơ quan nói trên.
Nhằm mùa nước lũ người bạn đưa tôi đến thăm vùng Nagcarlan, nơi đây có nhiều hầm mỏ bí mật do vị thừa sai San Franciscain thiết kế từ hơn nửa thế kỷ. Sau đó, tôi đến Pagsanjan để nhìn cảnh "thác đổ". Có nhiều trò chơi do dân địa phương tổ chức. Trong đó nguy hiểm nhất là ngồi bè thả từ đầu ngọn thác cao xuống dòng suối tận bên dưới chân núi đá. Tôi không ngán cùng người bạn thuê chiếc bè rồi cùng nhau ngồi lên thả trôi theo dòng thác. Thú thật, bây giờ tôi mới biết thật dại dột. Nếu rủi ro bị sảy tay đụng vào các tảng đá nhọn thì còn gì mạng sống?
Ðêm hôm ấy tôi ở lại khách sạn Pagsankan. Ðây cũng chính là hàng ăn nổi tiếng dành cho giới biết chi tiền thật sạp.
Trong dịp này tôi cũng đến viếng thành phố bé nhỏ có tên Lumban - trung tâm tổ chức các cuộc triển lãm nghệ thuật. Họa sĩ lừng danh Deng lacbay xuất thân tại nơi nầy, vơi 1những họa phẩm tuyệt vời trong đó có bức tranh "Thành Manila" được xem là một kiệt tác. Bức tranh quý giá này từng được mang đi trưng bày ở Paris, ở Ý Ðại Lợi, ở Hong Kong, Gia Nã Ðại. Ðặc biệt dân chúng nơi đây hầu hết là những nhà làm nghệ thuật.
Tôi có đi lễ nhà thờ Pacte. Ðây là một ngôi nhà thờ cổ kính có lối kiến trúc rập khuôn La Mã được xây cách đây hơn 300 năm. Ðặc biệt là các pho tượng gỗ được điêu khắc có thể nói là xuất thần.
Trước khi rời khỏi Phi Luật Tân tôi được đưa đến một buông của người thiểu số. Ðời sống của họ cũng tương tự với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nhà nào cũng có vài ba cái ché dùng để uống ruợu cần, nhưng ché cũng là vật gia bảo để chứng minh về sự giàu có của họ.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một cái ché Klan hoặc gọi là Wenh. Ché này của người thiểu số Lào. Tuy nhiên điều làm tôi sửng sốt là họ cũng có một cái ché giống hệt của tôi đã mua ở Gia Lai Kontum vào năm 1956. Ðó là ché có tên Hotok Rang Pia. Ché nầy tôi đã nhờ một người bạn ở ty Nông Lâm Súc trả giá mua, họ ngả giá năm trâu. Ché cao lối 3 gang tay tức là 90cm, có sáu tai, họng rộng tuyệt đẹp. Sở dĩ tôi bỏ tiền mua nó ngoài cái đẹp còn có lý do khác. Theo như huyền thoại, thì ché Hotok Rang Pia Pua ngoài tác dụng chứa ruợu nó còn có nhiệm vụ giữ nhà hệt như chuyện "ma xó" ở miền Thuợng du Bắc Việt ngày xưa. Chẳng những vậy nó còn có buên phận bảo vệ chủ mình bằng cách "Dự báo" những điều bất trắc có thể xảy ra. Tôi nghĩ đó có thể là câu chuyện phản khoa học. Nhưng mặc kệ cứ tin đại. Biết đâu? Nếu có thật thì sao?
TÔI LÀM BÁO
Ðộng cơ chính đưa tôi vào nghiệp dĩ "làm báo" chỉ vì muốn tìm một phương tiện để cổ xúy cho phong trào thể thao trong nước càng ngày càng thêm phát triển. Ngoài ra tuyệt đối không hề có một tham vọng nào khác.
Năm 1958 - sau khi chiến thắng Á Vận Hội Ðông Kinh, tôi đã cùng với các anh Võ Văn Hải, Nguyễn Văn Ðạt, Nguyễn Lâu và Ngô Khắc Tỉnh là đồng môn của Ðức cha Ngô Ðình Thục, hùn vốn mở tờ nhật báo lấy tên là "Tin Mới" (Xin lưu ý tờ Tin Mới này không liên quan gì đến tờ Tin Mới của anh Trần Văn Quí năm 1942 ở Hà Nội mà tôi và Thinh Quang đã cộng tác chuyên về thể thao dưới thời Ducoroy). Toàn thể anh em đã đề cử và giao cho anh Nguyễn Văn Ðạt đứng tên Chủ Nhiệm, Chủ Bút, còn tôi với tư cách Giám Ðốc Trị Sự và Ðiều hành tờ báo. Dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa vấn đề báo chí bị kiểm soát gắt gao, đòi hỏi nhiều yếu tốc cần thiết về mặt tư tưởng chính trị. Chúng tôi tất nhiên hội đủ các yếu tố đó và trở thành là tờ báo thức 12 để rồi sau đó cùng các bạn đồng nghiệp chịu cảnh trên đe dưới búa.
Ðể có đất dụng võ cho phong trào thể thao, tôi mở ra một phụ trang và mời các anh Phan Như Mỹ, Tô Yến Châu, Thinh Quang và Nguyễn Ang Ca là những cây bút bình luận nổi tiếng về thể thao lúc bấy giờ phụ trách. Như vậy với riêng cá nhân tôi và anh Nguyễn Văn Ðạt có lằn ranh phân định rõ ràn không thể dẫm chân lên nhau. Anh Ðạt lãnh trách nhiệm về mặt chính trị, còn tôi về mặt thể thao.
Xin nói rõ trong số các cổ động của tờ báo, có anh Võ Văn Hải là Chánh Văn Phòng của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, anh Nguyễn Lâu Chủ Nhiệm tờ Daily News (Hiện anh còn ở tại Sài Gòn) còn anh Ngô Khắc Tỉnh về sau là Tổng Trưởng Giáo Dục đặc trách thể thao.
Viết đến đây tôi không khỏi bùi ngùi thương tiếc khi nhắc đến anh Võ Văn Hải - con người chân thành và thanh liêm hiếm hoi đó đã ra đi vĩnh viễn tại ngay trại tù cải tạo một cách vô cùng ẩn ức. Cái chết của anh chỉ vì lòng cảm mến của một người bạn Mỹ (xin miễn nêu tên) đã tặng một chi phiếu 10,000 Mỹ kim kèm một bức thư ca tụng đức tính hiếm hoi và lòng trung thực trong suốt thời gian phục vụ dưới chính thể của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa. Tật vậy, ngay trong trong thời kỳ làm chánh văn phòng cho Tổng Thống Diệm anh đã tỏ ra được lòng liêm khiết của mình. Cộng sản thì không nhìn anh với nhãn quan như vậy. Ðức độ của người quốc gia không phải là đạo đức của người cộng sản. Chi phiếu 10,000 mỹ kim của một người bạn Hoa Kỳ trao tặng kia, chỉ vì tình cảm giữa cá nhân và cá nhân "vô tội vô vạ". Nhưng với cộng sản thì nó ngược lại. Dưới mắt của những người duy vật thì đó là vấn đề đổi chác. Luật pháp đối với họ tùy hứng. Ðiều dễ hiểu bởi con mắt của họ quá bé, mà đồng đô la kia thì quá lớn. Lòng tham lam, sự thù nghịch và đầu óc hẹp hòi thường đem lại cho họ những hành động mù quáng nhiều khi đến man rợ.
Tôi cũng muốn nhắc đến anh Nguyễn văn Ðạt, con người am tường về thời cuộc. Anh đún glà một nhà chính trị sâu sắc có những bài nhận định khá chính xác và một tinh thần quốc gia cao độ. Anh đã mạnh dạn nói lên tình trạng ung thối của những kẻ "vây quanh ông Cố" Ngô Ðình Nhu và đồng thời chỉ trích đối với những kẻ tự xưng mình là "con cháu cụ" để tác oai tác quái. Bởi những lý do đó mà chúng tôi nhiều lần bị gặp khó dễ, nếu không có sự che chở của anh Võ Văn Hải thì tờ báo đã bị đóng cửa từ lâu rồi.
Riêng phụ trang thể thao, tôi đã viết các bài phê bình về đường lối lãnh đạo thanh niên có tính "mị" cấp trên (!) xem thường các nhà dìu dắt xũng như các vận động viên là những người mộ điệu vô vụ lợi. Trước những lời lẽ chỉ trích (với tinh thần xây dựng đó) nhà lãnh đạo thanh niên đã chẳng tiếp nhận thì thôi, mà còn lấy đó làm điều, họ đã lập những bản báo cáo lên Tổng Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành và bác sĩ Trần Kim Tuyến (mật vụ) cố tình loại bỏ tờ báo và luôn cả tôi bằng mọi cách.
Về điểm này anh Huyền Vũ cũng là một nạn nhân, bởi anh đã cả gan dám nói lên về sự lạm dụng quyền hành của người lãnh đạo thanh niên can thiệp vào nội bộ của các bộ môn thể thao bằng cách bứng những kẻ không phải vai vế và cấy vào đó đám "gia nô" của mình để dễ bề chỉ giáo. Như trường hợp anh Nguyễn Hữu Lượng khi tái đắc cử chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Bóng Tròn đã bị ngay cấp lãnh đạo thanh niên ra lệnh cấp thời "bứng gốc" bỏ đi vì lý do "chính trị"! Ở điểm này anh Huyền Vũ đã viết trong tập hồi ký "Tôi làm Ký Giả Thể thao" nơi trang 91 có đọa "Ðến phiên bầu chức vị Tổng thư Ký, anh Lượng đắc cử. Như chỉ chờ có thế, ông Vỹ lên tiếng can thiệp ngay, phản đối việc đắc cử của anh Lượng ở trong Ban Chấp Hành của Tổng Cuộc Túc Cầu nữa" và không chờ đợi câu hỏi - nếu có chỉ là phía của báo chí - ông Vỹ nêu nguyên nhân: Vì lý do chính trị! Vẻ ngạc nhiên và chán nản hiện rõ trên mặt mọi người không ai có một lời nào chống lại vì ai cũng biết thời ấy đụng đầu vào đá - chỉ có mang họa vào thân.
Cũng nơi trang này Huyền Vũ nói ngay về cái cảnh đụng đầu vào đá của mình đã khiến cho cấp lãnh đạo Thanh Niên có phản ứng mạnh như sau: "Hôm ấy là Chúa Nhật. Buổi tối có chương trình thể thao hằng tuần của chúng tôi trên đài. Trong phần tin tức chúng tôi đã trung thực loan tin anh Lượng bị ông Vỹ loại khỏi Tổng Cuộc Túc Cầu vì lý do "chính trị"!
Lời báo tin trung thực ấy - đúng theo lương tâm chức nghiệp của một ký giả - không ngờ đã tạo công phẫn cho cấp lãnh đạo Thanh Niên. Thế rồi cấp lãnh đạo Thanh Niên áp lực ông Bửu Thọ lúc bấy giờ làm Tổng Giám Ðốc đài phát thanh Sài Gòn, phải gửi hàng tuần mục quan điểm thể thao sang cho nhà lãnh đạo đầy quyền uy này xét duyệt trước (!)
Chẳng những riêng bên Tổng Cuộc Túc Cầu mà cả Tổng Cuộc Bóng bàn chúng tôi cũng bị Tổng Nha Thanh Niên chen vào nội bộ dùng áp lực điều khiển theo ý mình. Như trường hợp Mai Văn Hòa không có tên được đưa đi tham dự Á Vận Hội Ðông Kinh kỳ 3, vì sau khi so tài trong cuộc đánh tuyển trong nước, Hòa không đạt được thành tích theo chương trình đánh tuyển. Vì Hòa không đạt được thành tích theo chương trình đánh tuyển trogn khi đó Hằng lại được sắp hạng trên Hòa nên không thể bỏ Hằng ra khỏi danh sách chính thức đại diện Việt Nam tham dự giải Á Vận Hội.
Không ngờ Tổng Nha Thanh Niên có phản ứng mạnh, ra lệnh cho Tổng Cuộc Bóng bàn phải ghi tên Hòa vào bản danh sách được tuyển chọn. Tất nhiên trước sự dùng uy quyền của cơ quan, tôi cực lực bác bỏ. Thế là sóng gió bùng lên. Bên Tổng Nha tìm mọi cách ngăn cản để đoàn tuyển thủ bóng bàn không được lên đường nếu không có Hòa.
Cuối cùng để tránh sự đổ vỡ, tôi khuyến cáo anh em trong ban chấp hành tạm thời nên nhượng bộ, tuy nhiên với danh nghĩa "vớt thêm" chứ không là "tuyển chọn".
Khi sang đến Tokyo nghỉ ngơi có một ngày, tôi duyệt lại thêm một lần nữa trước khi xuất quân. Tôi cân nhắc từng cá nhân từ tài ba đến kinh nghiệm cũng như sự ăn ý khi cùng đứng đánh đôi, . và nhất là về mặt tâm lý - chính điểm này mới là yêu tố cần thiết. Tài ba không chưa đủ mà còn phải có kinh nghiệm mới giúp ta tránh được những lầm lẫn. Tuy nhiên tâm lý vẫn là yếu tố cho sự quyết định làm suy sụp tinh thần của đối phương. Nguyễn Kim Hằng tuy nhiên là trên chân trong các cuộc thi tuyển trong nước, nhưng về kinh nghiệm vẫn là sàn em so với Mai Văn Hòa. Nhiều khi con cọp giấy cũng đuổi được chú nai tơ, huống hồ là Hòa từng làm nghiêng trời lệch đất trên khắp đấu trường quốc tế! Tên tuổi Hòa đã làm cho các cây vợt trên thế giới nể hơn là Hằng. Thế là tôi bàn với Sáng - Thủ quân của đoàn - thay vì sự sắp xếp trước là Hằng đứng chung với Ðược đổi lại cho Hòa.
Quyết định này đã bị Hằng phản ứng mạnh tỏ vẽ bất mãn. Vì danh dự cho đất nước nên tôi vẫn giữ nguyên quyết định mặc dù có đôi ba anh em khuyên can nên để Hằng.
Quả đúng như nhận định của tôi. Ðoàn tuyển thủ Việt Nam chiếm được vô dịch đồng đội Nam, mà Hòa đã góp phần lớn. Nhất là trong trận so tài cuối cùng và là trận quyết định, Hòa đã làm cho Tanaka đương kim vô địch thế giới - đã phải buông vợt chạy lại bên mẹ khóc ròng ngay nơi phòng đấu.
Sự thay đổi chiến lược chiến thuật của tôi, được hầu hết đoàn tuyển thủ cũng như anh em báo chí và đài truyền thanh ghi nhận là đúng như sự lượng định, để đạt được chiến thắng vẻ vang cho đất nước chứ không phải do Tổng Nha Thanh Niên - một cơ cấu chuyên môn mà vị lãnh đạo không am hiểu một tí gì về ?các bộ môn thể thao" cả.
Nắm 1958 đúng là năm nền Bóng bàn Việt Nam làm rạng danh đất nước. Tổ Quốc Việt Nam ơi! Nét vàng son ấy giờ đây đâu còn nữa? Nếu có chăng thì âu chỉ là "Vang bóng một thời"!
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:32:16 GMT 9
Hồi ký 20 năm thăng trầm
Ðinh Văn Ngọc
(tiếp theo kỳ trước)
NHỮNG CON PHƯỢNG HOÀNG ÐẤT VIỆT
Sau bốn năm trường kể từ ngày đất nước bị phân chia, miền Bắc cộng sản chiếm cứ, còn miền Nam giao lại cho Cựu Hoàng Bảo Ðại. Tuy tiếng là nhà vua, nhưng thực tế đều nằm trong tay của thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Ông Diệm phải đương đầu với những khó khăn trên mọi phương diện. Nhất là hai vấn đề chính trị và kinh tế. Tất nhiên ông Diệm biết trước bởi ảnh hưởng của Pháp vẫn còn trên bán đảo thuộc địa này. Mặc dù là một nước thắng trong chiến bại, Pháp cũng không chịu từ bỏ mộng thống trị và để nó lọt vào vòng ảnh hưởng của Hoa Kỳ, nên đã hậu thuẫn cho các lực lượng chống lại ông Diệm ngay từ lúc đầu. Trung tướng Nguyễn Văn Hinh cùng một nhóm sĩ quan cao cấp khác nằm trong tầm ảnh hưởng của Pháp ngấm ngầm tổ chức đảng phái kịch liệt chống đối ông Diệm ra mặt. Cứ như thế mà đất nước luôn luôn bị khuấy động. Vốn đã rách rưới bởi cuộc thế chiến lại liên miên chìm đắm trong cuộc chiến chống cộng, giờ tuy gọi là thanh bình, đất nước chia đôi "ai lo phần nấy" nhưng sự thật nhân dân hai miền vẫn khốn khổ trăm bề. Miền Bắc thì cộng sản phát động phong trào giai cấp đấu tranh, địa chủ, phong kiến bị giết chóc, tài sản bị cướp đoạt hoàn toàn. Miền Nam tuy mảnh đất tự do còn lại nhưng loạn sứ quân dấy lên tứ phía, nhân dân càng lâm cảnh khốn cùng.
Mãi đến cuộc họp tại Ðà lạt vào ngày 8-11-54, hai tướng J. Lawton Collins - Ðặc sứ Toàn Quyền của Hoa Kỳ và Ðại Tướng Ely của Pháp chấm dứt sự tranh chấp giữa những người trước kia của Pháp và Thủ tướng Ngô Ðình Diệm.
Hết loạn sứ quân lại phải đương đầu với hiểm họa cộng sản, ông Diệm phần lo cho xong việc định cư hơn một triệu đồng bào từ miền Bắc di cư vào, phần lo sắp xếp nền hành chánh và thiết lập một quân đội có đầy đủ khả năng đương đầu với kẻ địch.
Tất cả bấy nhiêu đó với một cái kho trống rỗng, tất nhiên ông phải nhận sự viện trợ của Hoa Kỳ, người bạn đồng minh cùng lý tưởng, giàu có hùng mạnh. Từ đó các sư đoàn, quân đoàn có tính quy mô được hình thành. Hoa Kỳ lúc bấy giờ đã phái tướng Samuel T. Williams đến góp ý kiến với Bộ Quốc Phòng Việt Nam. Nhưng tiếc thay tướng Samuel tuy tài giỏi thật, nhiệt tâm thật, nhưng lại chỉ quen với lối đánh trận địa chiến hay nói rõ là cuộc chiến quy ước. Theo tướng Samuel ước lượng cộng sản sẽ tung ra hàng sư đoàn tràn qua vĩ tuyến 17 ngy sông Bến Hải hoặc theo ngõ Hạ Lào hoặc đổ quân lên các miền Duyên Hải thuộc các tỉnh miền Trung.
Kỳ thật, tướng Samuel từng có cơ hội đương đầu với chiến lược du kích chiến của họ Mao nên không lượng định được cái thế "Tàm thực" mà cộng sản thường áp dụng. Võ Nguyên Giáp lén lút đổ khí giới lương thực đến các mật khu và luôn cả các cố vấn Trung Cộng vẫn nằm vùng huấn luyện cờ thời phát động cuộc chiến thôn tính nốt miền Nam. Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ chỉ làm có mỗi việc đó, còn sự no ấm của nhân dân thì nhân dân phải tự mình lo chu toàn lấy. Thật sự cộng sản miền Bắc cũng không thể xoay sở được. Vì vậy mà nền kinh tế kiệt huệ hẳn.
Trong khi đó nền kinh tế miền Nam Việt Nam bắt đầu vươn lên cới chính sách năm năm kế hoạch. Ông Diệm thành ocng bước đầu về mức sản xuất nông nghiệp. Song song là kế hoạch đầu tư xí nghiệp công cũng như tư. Ðường xe lửa xuyên Việt các sông ngòi đều được khai thông cho tàu bè ra vào, nhất là hai con kinh đào Ðông Tiến và Ðòn Giông dài suốt 50 cây số giúp nông dân nhiều thuận lợi. Họ được hưởng chế độ tư hữu. "Người cày có ruộng" các điền chủ cắt bớt đất đai theo luật định ban 1lại cho nông dân với giá thật nhẹ và được hưởng cộng đồng trả góp dần.
Mắt khác nền công kỹ nghệ cũng nhịp nhàng tiến triển. Các nhà máy đệt, mày làm giấy, máy sản xuất đường, nhà máy xi măng Hà Tiên và luôn cả đập Ða Nhim cũng được thiết lập, v.v. nhờ vậy mà dân chúng miền Nam lúc bấy giờ có được đời sống rất cao.
Nhờ có đời sống sung mãn mà nên thể thao thể dục phát triển thật sự. Từ bóng bàn đến bóng tròn, cũng như các môn điền kinh, bơi lội, . trãi ra cùng khắp không phải riêng gì thị thành mà luôn cả các miền thôn dã.
Năm 1956 mơi 1là năm tôi chính thức thân hành đưa đoàn tuyển thủ gồm Hòa, Hằng, Tiết, Ðức, cùng nữ đấu thủ Trần Thị Kim Ngôn sang Tokyo dự giải Vô Ðịch thế giới kỳ ba. Tuy không đạt được thành công theo ý muốn song cũng gặt hái được lắm khích lệ.
Trong khi đó miền Bắc lâm cảnh nghèo nàn èo uột. Tinh thần luôn luôn bị căng thẳng trước phong trào đấu tranh giai cấp. Còn đời sống hàng ngày chạy miếng ăn đến chảy máu mắt cũng không đủ thì làm sao có được sự góp mặt về phần thể lực với thế giới bên ngoài.
TRANH GIẢI VÔ ÐỊCH THẾ GIỚI STOCKHOLM
Năm 1957, tôi lại thân hành đưa đoàn tuyển thủ bóng bàn Mai Văn Hòa, Trần Văn Liều, Trần Cảnh Ðược, Nguyễn Kim Hằng, và Huỳnh Văn Ngọc đi tham dự giải vô địch thế giới tại Stockholm, Thụy Ðiển.
Trong trận tranh giải này Huỳn Văn Ngọc - một ngôi sao vừa ló dạng mới 18 tuổi đầu đã làm cho cả thế giới phải sững sờ. Thật vậy, Ngọc đã oanh liệt chiến thắng trước tay vô địch thế giới Ogimura với tỷ số 3/2 trong cuộc tranh giải đồng đội nam và giải này ta được xếp hạng 5 thế giới. Tưởng cũng nên nhắc lại năm 1957 là năm đồng đội Nam của ta đoạt huy chương vàng và đôi nam, Tiết - Liễu chiếm được huy chương đồng trong giải vô địch Á Châu.
Suốt thời gian lưu lại xứ sở này, chúng tôi đưa nhau đi chiêm ngưỡng các khu phố của thủ đô Stockholm, mặc dù lúc bấy giờ trời lạnh 20 độ dưới không.
Dân chúng Thụy Ðiển rất hiếu khách, mỗi lần thấy bóng dáng chúng tôi đi qua, họ chạy xồ ra hoặc để tò mò nhìn hoặc để xin chữ ký lưu niệm. Cũng may, mấy ngày sau trời trở lại nắng ấm. Tôi lang thang đến ven sông Kungsholm đứng lặng nhìn những luồng sóng lăn tăn uốn khúc trông như muôn ngàn con rắn bạc. Dõi mắt nhìn quanh những cái chóp của ngôi nhà thờ Norrmalm một màu xanh như da của những con rắn lục ẩn hiện dưới mái ngói phong rêu. Các ống khói liền nhau từ nhà này sang nhà khác, cao nghều nghệu, trông như tuồng lúc nào cũng nhả khói đen sì sì, bám chặt giữa vòm trời chiều một màu xanh lặc lìa chập choạng. Tôi sững sờ ngắm ãi không biết chán. Nước vẫn lạnh lùng trôi, lặng lẽ như thời gian từng giây qua từng giây không tiếng động. Trên vòm trời những vì sao nhấp nháy. Tiếng đàn vĩ cầm của ai đâu đó vọng lại. Có lẽ nhờ ở đây yên lặng quá nên tôi nghe rõ cả cái nả nớt, cái véo von, cái cao vút, cái trầm trầm của nó len lỏi tận tâm hồn mình.
Ven bên đường đi những cây dương có màu lá rực rỡ đỏ rụng đầy mặt đất hệt như một tấm thảm già nua loang lổ. Tôi lại qua khu Ostermalm nghèo nàn, đường xá lỏm chỏm, hũng hiu cả ổ gà.
Thủ đô Stockholm vừa quý phái vừa cổ kính. Stockholm trông có vẻ sang trọng, xen lẫn với nghèo nàn. Tôi thật khó hiểu người dân Thụy Ðược(iển chẳng biết họ nghĩ gì. Họ sống một cách trầm lặng hơn là se sua làm tôi có cảm giác quanh năm chỉ vui với mây trắng với cây xanh với lửa đỏ với nắng hanh mà không có một chút rạo rực nào với nhạc Rock với những bài bản "cha cha cha" vui nhộn cả.
Chiếc Constellation thường gọi là DC 6 của hãng hàng không Pháp dọc đường đáp xuống nhiều cảng, chẳng phải là cho chúng tôi những chuyến du lịch "bỏ túi" mà đế lấy thêm nhiên liệu. Trong chuyến đi này tôi được làm quen với những cô gái Tây phương có mái tóc bạch kim óng ánh, tuổi trạc 25 hay 26. Nàng tự giới thiệu là một nữ tiếp viên gốc Ðức làm việc cho hãng hàng không Pháp, nhân dịp nghỉ hè đi Singapore chơi, nay trở về quê ở Dortmund (Tây Ðức) thăm cha mẹ. Nàng cho biết trước kia từng là một đấu thủ bóng bàn cấp vùng ở Tây Bá Linh, nên khi biết chúng tôi là phái đoàn bóng bàn Việt Nam đi dự tranh giải vô địch thế giới, nàng lộ hẳn vẻ hân hoan trên mặt. Nàng nói hết chuyện này sang chuyện khác và đề cập đến nhiều hãng hàng không quốc tế. Hàng năm nàng thường đi Singapore, vì nơi này có rất nhiều "Singapore Girls" là danh từ gọi chung cho các nữ tiếp viên. Ðược biết ngành hàng không ở đảo quốc này rất khắt khe trong việc tuyển chọn. Cứ một ngàn cô gái dự thi thì chỉ chọn được một người. Họ phải trải qua ba lần phỏng vấn như vậy và bị "interview" đến cả mờ mắt, nhiều lúc muốn khùng luôn, tuy nhiên điều kiện tiên quyết vẫn là "cái đẹp". Người tiếp viên phải biết giao tiếp với khách. Lúc nào cũng phải biểu lộ sư vui vẻ đầy nhiệt tình. Ngoài ra còn đòi hỏi họ có những hành động thật nhậm lẹ, chính xác đáp ứng đúng như cầu của hành khách. Chiều cao của nữ tiếp viên tối thiểu phải là 1m58 và phải thông thạo Anh ngữ.
Tôi được biết nàng tên là Maria, tốt nghiệp đại học ở Mỹ, sau đó tu nghiệp thêm ở Pháp. Vì vậy nàng nói tiếng Pháp rất sành sõi. Du khách ngày nay thích hãng Thái Airways hơn các hãng khác. Theo nàng nói có lẽc cô gái Thái có nụ cười rất đẹp. Mà thật vậy. Có lẽ tạo hóa ban riêng cho họ diễm phúc đó. Hàng năm hãng Thái Airways đều có những cuộc tuyển lựa nữ tiếp viên. Thường có đến hàng 3000 đơn ứng thi. Họ gặp lắm sóng gió. Trong số 3000 cô dự tuyển thì chỉ còn lại lối . 200. Ðặc biệt là các hãng hàng không lớn của xứ Hoa Anh Ðào. Các hãng lớn của họ như Japan Airlines (JAL), hãng Japan Airways Systems (JAS) và hãng Air Nippon Airways (ANA) tuyển chọn rất khắc khe. Các ngài "Interview" không bao giờ nương tay. Họ có luật phỏng vấn hai cô ứng cử viên cùng một lúc. Mục đích để dễ bề so sánh. Nếu trúng tuyển lương được trả rất cao 270,000 Yen một tháng và sau ba năm được tăng lương 8,000,000 cho mỗi năm. Nói chư ahết câu chuyện thì máy bay đã đáp xuống cảng Frankfort. Trước khi chia tay nàng hẹn gặp lại tại đấu trường quốc tế ở Dortmund. Tôi quyết định cho anh em ở lại chơi Paris vài ngày trước khi đến Dortmund tranh giải. Chiếc xe "ca" đặc biệt đưa tôi cùng phái đoàn về ngủ tại một khách sạn ngay trung tâm thủ đô. Tuy bên ngoài có vẻ cũ kỷ nhưng khi vào bên trong sạch sẽ và tươm tất lắm. Phòng có kích thước vừa vặn khá đẹp mắt. Tường phòng dựng bằng loại ván quí. Thậm chí lò sưởi cũng được chạm trổ công phu toàn những hình hoa quả. Sàn để trần nhưng nhẵn nhụi, bóng nhoáng. Bàn ghế toàn kiểu cọ rườm rà. Có thể đó là cái mode của đầu thế kỷ 20. Một cái giường đôi kiểu Anh Cát Lợi có bốn trụ đồng bóng lộn cùng mấy tấm rèm xanh màu nước biển lôi ra kéo vào được dùng để bao quanh lại khi cần xử dụng. Cái tủ lớn quần áo được đạt sát bờ tường. Hai chiếc ghế bành bằng da kê hai đầu của cái bàn nhỏ, diện tích vừa đủ chỗ cho khách để dăm ba thứ vặt vạnh lỉnh kỉnh.
Trước mặt phòng là cái balcon, đứng nơi đây vọng mắt nhìn tứ phía thấy rực rỡ cả ánh đèn màu. Quả thật là thủ đô ánh sáng. Ðường xá như mắc cửi đầy ấp cả xe cộ và người bộ hành.
Ăn bữa tối xong tôi đánh một giấc dài đến sáng. Dậy sớm nhưng mãi đến 10 giờ sáng mới rủ nhau ra khỏi cửa. Người gặp đầu tiên là một người đàn bà đứng tuổi có thân hình tròn trịa như cái hạt mít bước lại phía chúng tôi. Bà nhoẻn nụ cười thật tươi rồi gật đầu chào thay vì cho lời nói.
Chúng tôi đưa nhau ra bờ sông Seine. Thật tuyệt vời. Tôi sũng sờ nhìn, trông chẳng khác nào bức tranh sơn dầu khổng lồ giăng ngang qua giữa kinh thành ánh sáng. Thỉnh thoảng lượn lên vài lọn sóng lăn tăn tỏa ra một cách yếu ớt, rồi tan hẳn vào bên trong mặt nước phẳng phiu như một mảnh pha lê trong suốt.
Bên kia dòng sông Seine, lúc bấy giờ toàn bộ một màu xám xịt, lờ mờ hình ảnh một tàn cây đen sì rủ xuống như muốn đè bẹp cái mái gỗ thấp lè tè của một sạp bán sách báo, đã ngả màu đen đỉu bởi bụi rậm, cáu bẩn và cũng bởi thời gian tạo cho nó có một bộ mặt thê lương, buồn thảm.
Chúng tôi kéo nhau đến tháo Eiffel, tháp này là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Tháp được kiến trúc bằng sắt làm từ năm 1887 và hoàn thành vào năm 1889. Chiều cao lúc đầu 300 mét. Về sau cơi thêm 20 mét nữa nâng lên thành 320 mét. Tháp gồm ba tầng và phải lên bằng thang máy. Mỗi tầng đều có bán quà kỷ niệm. Ðứng trên đỉnh đáp nhìn ra tứ hướng mênh mông trời đất một màu. Vọng mắt nhìn xuống bên dưới, những tưởng mình đang đứng giữa khoảng không gian nhìn về cảnh địa giới rực lên cả muôn màu muôn sắc. Tháp được kiến trúc bởi viên kỹ sư người Pháp và mang tên học ông ta Gustave Eiffel (2)
Ðáp phi cơ Frankfort và từ nơi này đi đến Dortmund bằng tàu lắc lư như người say rượu. Thỉnh thoảng tiếng còi hú lên cũng dài lê thê như thân con tàu khi sắp ngang qua các cổng hoặc đến một nhà ga nào đó. Chẳng mấy chốc mà người nào cũng như người nấy đều ngủ gà ngủ gật bất chấp cả thời gian và không gian, cứ phó mặc để cho hồn mình chập chờn trong cơn nửa say nửa tỉnh.
Dọc đường đi đến Dortmund còn ngổn ngang dấu vết của cuộc thế chiến thứ hai lưu lại, mặc dù hòa bình đã đến với mọi người từ 14 năm rồi.
Dortmund là thành phố kỹ nghệ bị dội bom nặng nề nhất trong cuộc thế chiến thứ hai. Nhưng chính là địa phương đã phục hồi nhanh chóng nhất. Thành phố kỹ nghệ này có đến hơn nửa triệu thị dân mà đa phần sống nhờ vào đồng lương đổi bằng sức lao động của mình.
Con kinh đào Dortmund Ems dài 280 cây số nối liền giữa Rhur đến tận Bắc Hải. Sau cuộc thế chiến nước Ðức bị chia cắt thành hai vùng. Một bên chịu ảnh hưởng của Mỹ và một bên chịu ảnh hưởng của Liên Sô cũ.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thinh, tùy viên báo chí của sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại Ðức đợi sẵn và đưa chúng tôi về nghỉ tại khách sạn. Anh Nguyễn Văn Thinh đúng là "tip" của con nhà văn hóa, hòa nhã, lịch sự và rất sành về tâm lý. Trông thấy tôi săn sóc từng ly từng tí cho các đấu thủ bóng bàn, anh nửa đùa nửa thật bảo tôi là hình ảnh của một bà từ mẫu. Tôi còn nhớ mãi câu nói ví von mà anh đã lặp lại của Bersot: "Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt xảo nhất vẫn là quả tim của một người mẹ".
Thú thật khi đưa các tuyển thủ vào hội trường, tim tôi đập mạnh, niềm hãnh diện sau cuộc chiến thắng Á Vận Hội Ðông Kinh vẫn còn nguyên vẹn đó. Hình ảnh lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ hiên ngang phất phời trước kỳ đài danh dự tại vận động trường Tokyo đã in sâu vào tiềm thức của tôi. Ôi! Vinh dự làm sao! Tôi không muốn nó bị chìm đi trước cuộc so tài quốc tế mà trong đó các đấu thủ cộng sản mặc dầu thể thao đã đặt ra ngoài vòng chính trị.
Là một quốc gia trực tiếp đối đầu với cộng sản, một kẻ thù không đợi chờ chung, tôi luôn luôn có quan niệm cho rằng thể thao cũng là một trận tuyến. Nó không chiến đấu bằng súng đạn mà bằng nghệ thuật, bằng tài năng và cả trí óc của mình. Tôi đã từng ưu tư rằng "với người bên kia, khi vào cuộc, ta sẵn sàng nhận bóng của họ giao đến, nhưng phải trả ngay lại họ bằng vợt chứ không bằng tay."
Có lẽ Liễu không hiểu được cái tinh thần phi chính trị (apolitique) của hai kẻ thù nhau, trong cuộc chiến "phi chính trị" mà thật ra nó la một chiến lược mới của những con người tuổi trẻ đi làm chính trị, nên mới có chuyện thù tạc giao hảo với các tuyển thủ Trung Cộng lúc bấy giờ. Huyền Vũ đã viết:
"Còn non một ngày nữa mới đến ngày khai mạc giải vô địch, mỗi hôm các tuyển thủ Việt Nam đều có chương trình thao dợt. Với tư cách trưởng đoàn một quốc gia chống cộng, anh Ngọc khuyên các tuyển thủ nhà không nên có cử chỉ thân mật với các nước cộng sản, kể cả thao dượt chung với họ. Nhưng chỉ vài hôm sau, người bất chấp khuyến cáo ấy là Trần Văn Liễu thường có tánh ương ngạnh. Liễu đã thao dượt với một đấu thủ Trung Cộng. Sau lần bị cảnh cáo Liễu vẫn tái phạm (dường như Liễu đánh cá về kết quả thao dượt, nên phái đoàn có phiên họp đặc biệt và đã đi đến quyết định, nếu tái phạm, Liễu sẽ lập tức bị trả về Việt Nam, theo biện pháp kỷ luật. Và Liễu đã chịu vào khuôn khổ."
Cũng theo Huyền Vũ ghi hẳn một vài trục trặc về chuyện quốc kỳ. Vốn là một quốc gia vừa nặng tinh thần yêu nước, vừa nặng về "khuôn phép" hình thức để giới thiệu sự hiện diện quốc gia mình trước thế giới qua lá quốc kỳ. Nhưng trước kỳ đài lại thấy vắng bóng nó, trong lúc đoàn tuyển thủ bóng bàn Việt Nam Cộng Hòa có sự hiện diện đầy khí thế hào hùng. Thế là tôi đã cùng tiến sĩ Nguyễn Văn Thinh đến ban tổ chức để phản đối.
Lại cũng chuyện lá cờ. Lần này có phần quan trọng hơn. Trên mặt bàn hội nghị, thay vì nơi phái đoàn nào ngồi ở đó có đặt một lá cờ nhỏ tiêu biểu cho thành phần quốc gia họ ở đó. Lẽ ra ban tổ chức phải đặt lá cờ vàng ba sọc đỏ, họ lại đặt vào đó lá cờ đỏ sao vàng. Tôi lại cùng tiến sĩ Thinh đi can thiệp. Khi nghe chúng tôi nói, họ sững sờ và xin lỗi vì không phân biệt được cờ nào Cộng, cờ nào Quốc Gia.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:39:58 GMT 9
CHÔN SỐNG VNCHHồi ký KissingersBản dịch của Phụng HồngNhưng sự trợ giúp được đạt đến mức nào? Khuyến cáo của tôi là đề nghị theo nhu cầu của Nam Việt hiện tại. Ngày 28/1 chúng tôi yêu cầu được giúp thêm một ngân khoản phụ là 300 triệu mà TSN John Stennis đã hứa. Ngay cả sự yêu cầu này không liên quan gì đến nhu cầu, nhưng ít ra, Việt Nam cũng đã yên tâm một phần nào và tương đối được trấn an. Số tiền này không còn đủ nữa để giải quyết những sự thiệt hại chung quanh chúng ta. Ford đồng ý và phải Tướng Fred C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục Quân, đã từng chỉ huy Sư Đoàn I Không Kî ở Việt Nam, đến Sài Gòn để nghiên cứu lượng định vấn đề thực tế hơn. Xuyên qua những mâu thuẫn này, Ford trở nên cứng rắn hơn; rất giản đơn ông hoàn toàn không thể tưởng tượng hình dung được sự bỏ rơi những người đã hy sinh liều lĩnh tính mạng họ qua hàng chục năm vì cpng tác với 5 đời Tổng Thống Mỹ của lưỡng đảng Hoa Kỳ đã tuyên bố là sự thiết yếu của nền an ninh cho thế giới tự do. Tôi đã cố làm hết sức mình để bảo đảm người can đảm và ưu tú này sẽ có một tầm lựa chọn rộng lớn và giúp cho Ford một lối thoát. Ngày 27/3, trong khi sự sụp đổ về quân sự hầu như sắp xảy ra, tại văn phòng lầu bầu dục, tôi đã kết luận trong bài diễn văn ngắn về yêu cầu quân sự của Sài Gòn như sau: “Tôi nói điều này với con tim rướm máu – nhưng có lẽ anh phải bỏ lại Việt Nam sau anh và đừng làm tổn thương thành nhiều mảnh quốc gia này một lần nữa. Những thỏa thuận về Việt Nam đã căn cứ trên hai điều: sự đe dọa về can thiệp quân sự của chúng ta và sự tiếp tục viện trợ. Trong tháng 7/73, chúng ta đã ngưng yểm trợ, và chúng ta cũng cắt giảm viện trợ dưới mức tối thiểu của yêu cầu. Bây giờ chúng ta đang đứng trước một tình trạng tuyệt vọng.” Ford không nghe thấy bởi vì, ông ta nói, nó sẽ đi “ngược lại với ý tôi”. Câu trả lời của ông ta cũng như thế trong ngày 3/4 khi tôi nhắc ông là ông không còn cơ hội để làm một cái gì nữa. Ngày 9/4, ngay trước khi Ford yêu cầu được tăng viện cho Việt Nam, tôi lưu ý ông ta về quan điểm của Ron Nessen là Tổng Thống sẽ đưa nước Mỹ ra khỏi Việt Nam chứ không phải can thiệp vào. Ford trả lời: “Đó không phải là con đường tôi đi ... tôi không thể làm như vậy được.” Trong buổi họp báo ngày 3/4 , Ford vẫn giữ lập trường yêu cầu viện trợ cả về kinh tế lẫn quân sự cho Nam Việt. Ông ta lên án CSBV vi phạm thỏa uớc Ba lê, phê bình Quốc Hội đã cắt giảm yêu cầu của chúng tôi về viện trợ cho Nam Việt , và ra lệnh một cuộc không vận khẩn cấp 2000 trẻ em mồ côi. Ford tránh né mũi dùi của các phóng viên đòi làm áp lực Thiệu vì “Tôi không tin rằng đó là yêu sách của tôi buộc tội một vị nguyên thủ quốc gia được dân bầu phải rời khỏi chức vụ ra đi.” “Chúng ta sẽ sát cánh với bạn đồng minh của chúng ta , và tôi đặc biệt cảnh cáo mọi kẻ thù, chúng sẽ không thể, dưới bất cứ một trường hợp nào nghĩ rằng thảm kịch Việt Nam là một bằng cớ nhân dân Mỹ đã mất truyền thống hay tham vọng của họ để đứng vững bảo vệ tự do ở bất cứ một nơi nào trên thế giới.” Đó là những sự kiện rất bất thường và Ford đã tiến hành một cách thầm lặng, hầu như tế nhị, như không có gì dính líu tới quyền lợi của quốc gia nữa. Phản ứng của dư luận đã được tiên đoán. Ford bị tờ Nữu Ước Thời Báo chỉ trích là lầm lẫn, và tờ Washington Post thì cáo buộc là chơi trò gian lận. Nhân đạo hơn một chút, tờ Los Angeles Times thì đòi hỏi một “chiều hướng mới”, được định nghĩa là chấm dứt viện trợ quân sự cho Đông Dương. Khi tôi lập lại những lời tranh luận của Ford ở cuộc họp báo ngày 5/4, tôi đã lĩnh hội cùng một đối xử và câu hỏi như: Làm sao chúng ta có thể trông đợi sự hợp tác của Quốc Hội trong khi chúng ta vẫn công kích Quốc Hội những gì đã xảy ra? Cái gì làm cho chúng ta nghĩ rằng nếu có nhiều tiền hơn thì sẽ làm được nhiều điều tốt hơn chăng? Có phải tất cả không phải là lỗi tại ông Thiệu chăng? Làm sao chúng ta đã ký thỏa ước Ba Lê rồi bây giờ mong đợi một lối thoát khác? Và thực tiễn hơn hết là tính chất của hành động chúng ta tại Nam Việt là gì? Tôi trình bày lại những gì tôi đã nói những tháng trước. Yêu sách của chúng tôi dựa trên căn bản của một sự ràng buộc về tinh thần, chứ không phải pháp lý: “ Đó là một vấn đề trách nhiệm tinh thần rất quan trọng của Hoa Kỳ đối với những người với những sự khuyến khích của Mỹ, đã tranh đấu sau bao nhiêu năm sẽ được Hoa Kỳ xác nhận vào thời khắc cuối đời rằng trong lúc họ muốn tiếp tục tranh đấu thì Hoa Kỳ không muốn giúp đỡ họ nữa.” Tôi kết luận với lời kêu gọi này: “ Nhiều người trong các anh đã nghe tôi trình bày về vấn đề này bây giờ từ 6 năm qua, và không ai trong các anh, tôi nghĩ vậy, đã nghe tôi thắc mắc về sự làm việc và quan tâm của những người chống đối lại chiến tranh. Điều chúng ta có thể hỏi là những người trong các bạn đã từng đau khổ vẫn nhớ trong trí rằng đã có một tấn thảm kịch lớn của nhân loại mà những người trong chính quyền đã duyệg xét và họ đã cố gắng giải quyết vấn đề trong chiều hướng thuận lợi nhất cho Hoa Kỳ và trong quyền lợi tối đa của nền hòa bình thế giới.” Hết đường trông cậy giúp đỡ được nữa rồi. Thật là quá tiếc khi TNS Henry Jackson một lần nữa lại liên kết với phe chống đối. Mặc dù chúng tôi bất đồng ý kiến về đường lối Đông Tây nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục xem ông ta như là một bạn đồng minh trong cục diện đối đầu với cộng sản. Nhưng đến ngày 8/4 ông ta lặp lại sự phản đối trước đó về viện trợ thêm cho Việt Nam trên cơ sở yêu cầu thỏa hiệp ngầm, đồng ý, hiểu biết trên giấy trắng mực đen mà ông ta nhấn mạnh Ford đã hứa hẹn với ông vài điều. Điều cáo buộc này thật sự sai lầm. Đằng sau vấn đề nông nỗi này đã thấy xuất hiện những xáo trộn của sự chống đối trong toàn quốc bắt đầu lan rộng. Đề nghị một ông Ngoại trưởng nên dấu thỏa hiệp ngầm không cho Tổng thống biết là một điều bất ổn như ngu xuẩn và đánh dấu một mức thấp kém trong sự mẫu thuẫn nội bộ. Sự kêu gọi của Ford và tôi không bao giờ căn cứ trên những hành động trình diễn hình thức. Tất cả những gì chúng tôi phàn nàn, yêu cầu để giúp Việt Nam khi bị tấn công là vì trách nhiệm tinh thần mà thôi. Cái chết khắc khoải của Việt Nam cũng ít ra khôi hài như những kẻ từng bị đả kích trên chính trường lại đòi danh dự và trách nhiệm tinh thần trong lúc những điều chỉ trích của họ vô trách nhiệm và họ hành động như những luật sư tìm những sơ hở trong một khế ước. Tướng Weyand đã báo cáo với tổng thống Ford ở Palm Springs ngày 5/4. Ông nói tình trạng quân sự đã kiệt quệ và ông mô tả những lựa chọn trước chúng tôi như sau: 300 triệu mỹ kim phụ trội chỉ để thay thế một phần những vật dụng tiêu thụ mà tôi. Nó không thể tài trợ cho sự hao hụt to lớn về chiến cụ đã thiệt hại trong vài tuần qua. Đã thế, QLVNCH lại không được nhận trang bị thay thế trong vòng 2 năm tới. Do đó, Weyand tranh luận sự trợ giúp lúc đầu đã không được đầy đủ. Thêm vào đó, ông ta đệ trình một danh sách liệt kê những nhu cầu cần thiết để tái lập những đơn vị đã bị tiêu diệt mới đây ở chiến trường. Tổng số tối thiểu có thể chấp thuận là 722 triệu đồng. Nhìn trên một khía cạnh khác, điều này thật là nghịch lý. Việt Nam sẽ bị sụp đổ trước khi mọi chiến cụ sẽ được chở đến. Cùng lúc đó, nếu chúng tôi có đưa ra một đề nghị nào, chúng tôi sẽ có một chương trình chấp thuận với một căn bản hiểu biết nào đó. Đó là một ngân khoản tối thiểu được dành dụm để giúp thêm Nam Việt một cánh tay tranh thủ thời gian để di tản. Và nếu Việt Nam sụp đổ trước khi mọi viện trợ đổ vào, thì ít ra chúng ta đã trút được một trách nhiệm tinh thần. Ford đã chấp thuận đề nghị ngân khoản của Weyand. Diễn biến buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia ngày 9/4 cũng cùng trong tinh thần hiểu biết đó. Ford được đệ trình 3 dự thảo: không xin một ngân khoản nào nữa, chấp thuận 300 triệu cho 3 tháng như đã dự trù, ủng hộ lời khuyến cáo của Weyand 722 triệu. Sự bàn cải theo chiều hướng đã vạch sẵn. Mọi người đều đồng ý cúp viện trợ toàn bộ, sẽ chấm dứt mọi ảnh hưởng về chiến cuộc. Schlesinger khuyên nên sử dụng 300 triệu để nếu chẳng may QLVNCH tan rã, thì sẽ khỏi phải bàn cãi với quốc hội về sự khác biệt. Tôi thuận theo đề nghị của Weyand vì vơi 300 triệu so với tình hình trầm trọng trong những tháng dần đây sẽ không đủ gì cả như ném vài cọng rác vào một giẻ lau. Giúp cho Nam Việt một sự sụp đổ từ từ sẽ không có một sự khác biệt nào như đề nghị đã chọn. Bất luận từ ý chúng tôi sẽ suy tư như thế nào về thái độ của chúng tôi sau đó. Ford công bố quyết định trước HĐANQG sau buổi họp với những lời giải thích thật dài và rất hùng hồn hơn thường lệ: “Tôi sẽ xin ngân khoản 722 triệu, vì chúng ta sẽ có lý do chính đáng. Ít ra vấn đề sẽ rõ ràng trắng đen. Tôi sẽ yêu cầu được thi hành trong một ngày chắc chắn, có lẽ là 1/5 mặc dầu chúng tôi vẫn còn chưa quyết định rõ.” “Tôi sẽ xin viện trợ nhân đạo nhưng không qua LHQ. Lý do thứ 3 là tôi sẽ xin được toàn quyền mà tôi nghĩ là cần thiết, để di tản Mỹ Kiều và những người khác mà chúng ta có trách nhiệm bảo vệ.” “Tôi không loại trừ quan điểm để cho Bắc Việt biết rằng mọi sự can thiệp do cố gắng nhân đạo của chúng ta sẽ gặp nhiều biện pháp mạnh. Đó là lý do tại sao tôi uyển chuyển vu vi.” “Đây là những lời lẽ cứng rắn của riêng tôi, có lẽ không phải là của Church Ill. Đây không phải là lời kêu gào.” “Tôi yêu cầu Jim Schlesinger nên dè dặt. Nhưng đây là một chỉ thị. Đó là một nhóm người độc nhất phải biết. Tôi đã bỏ ra nhiều thì giờ để nghiên cứu nó, bây giờ và về trước phải lùi lại đến 1952. Tôi nghĩ rằng đường lối của chúng ta đi ngược lại thời điểm tổng thống Truman và Eisenhower là một đường lối chính xác. Chúng ta đã không luôn luôn thực thi đúng và chúng ta đã vi phạm lỗi lầm. Nhưng đó là một đường lối đúng đắn...” Qua ngày 10/4 tổng thống đọc diễn văn trước lưỡng viện với một bài diễn văn cứng rắn và không nhượng bộ, ông đã ủng hộ chủ đích đã làm cho các vị tiền nhiệm đưa Hoa Kỳ can thiệp vào Đông Dương, hướng dẫn diễn tiến hòa đàm Ba lê và chỉ trích Hoa Kỳ đã không tiếp vận đầy đủ cho bạn đồng minh và bắt buộc thi hành đúng hiệp định Ba lê. Ford kết luận bằng cảnh cáo QH về vài điều khoản dụng chạm đến chính sách đối ngoại của chúng ta: “Rằng quyền lợi qg của Hoa Kỳ và lý do của nền anh ninh thế giới buộc chúng ta tiếp tục viện trợ cả hai mặt quân sự và nhân đạo cho Nam Việt... Chúng ta trong lúc này không thể bỏ rơi những người bạn của chúng ta trong lúc kẻ thù chúng ta yểm trợ và khuyến khích bạn đồng minh của chúng. Chúng ta không thể giải giới sự tự về, đường lối ngoại giao hoặc khả năng tình báo của chúng ta trong lúc những kẻ khác gia tăng và cũng cố lực lượng chúng ta.” Ngày hôm sau, tôi tổng kết lại quan điểm của tôi về những yếu điểm trong một buổi thảo luận với ban tham mưu chính ở Bộ Ngoại Giao: “Đêm qua nếu tổng thống đã nói những gì mà các dân biểu cho là ông phải nói – như là “Chúng ta đã làm đầy đủ, chúng ta không thể viện trợ quân sự thêm” – tôi nghĩ Phil Habid (phụ tá ngoại trưởng đặc trách Đông Á sẽ đồng ý có sự không kiểm soát toàn diện, sụp đổ kinh hoàng ở Sài Gòn bắt đầu từ sáng hôm nay. Một khi mà tổng thống đã quyết định ông sẽ không làm gì nữa, ông cũng có thể hỏi có những cái gì đúng trong vấn đề này bởi vì sự chống đối của QH không liên quan đến hình thức mà là nguyên tắc... “Sự kiện này bây giờ đang diễn tiến hợp lý như đã tiên đoán. Và những gì chúng ta đang cố gắng lalm là thực thi nó trong danh dự và dự trù một cản bản theo đó chúng ta có thể áp dụng đường lối đối ngoại mà toàn dân có thể tin tưởng nơi chúng ta... “Chúng ta sẽ không buộc tội bất kỳ ai đã sai lầm. Tôi không có dự tính khi biến chuyển này chấm dứt sẽ rắp tâm trả thù và đi chu du khắp nước. Tôi nghĩ rằng toàn dân sẽ thất vọng khi mọi việc chấm dứt. Tôi không nghĩ rằng sẽ có nhiều anh hùng trong cuộc. Nhưng Bộ này sẽ giữ vững lập trường về những điều phải. Chúng ta không còn chọn lựa nào khác trên thế giới.” I. TRANH LUẬN VỀ KẾ HOẠCH DI TẢN Đây là những điều rất xa sự khôn ngoan hiểu biết thường lệ ở cả Quốc Hội lẫn quần chúng. Phần đông đểu đỏi hỏi chúng tôi nên thi ân đối với một qg mà chúng ta đã gắn bó trên 2 thập niên. Đối với chính quyền, bài diễn văn của tổng thống đã chuyển những sự mâu thuẫn từ yêu cầu tăng viện đến làm sao để đối đầu với sự gia tăng sụp đổ của Nam Việt. trên thực tế, nó rút gọn lại còn vấn đề là làm sao di tản nhanh chóng và với sự quan tâm mức độ nào về số phận những người Việt đã từng làm việc với chúng ta. Ngũ giác đài muốn di tản nhanh chừng nào hay chừng nấy. Như ở Cambốt, vận sự diễn tiến với vận tốc điển hình, cũng vừa đủa thì giờ để di tản một số người Việt lâu dài hơn mà không làm chậm trễ việc di tản Mỹ kiều ở một mức độ càng nhanh càng tốt. Ngũ giác đài thấy không có tổn thương nhân mạng, những yêu sách của Quốc Hội, hay những tai sảnh do sự di tản kéo dài. Có kinhh nghiệm về giấy tờ trên chiến trường, ngũ giác đài đã thiết lập một hồ sơ để chứng minh rằng với lý do hoàn toàn chính trị, những Mỹ kiều không được di tản với nhịp độ mà khả năng không vận đã được chấp thuận. Không vận bằng Các 141 rời khỏi Sài Gòn hàng ngày với nhiều ghế trống để chứng minh rằng, nếu có bất kỳ một thương vong nào, thì đó là lỗi ở một người khác – ông đại sứ Martin hay là tôi. Graham martin đứng ở đầu mút kia. Điều hành cuộc di tản thường là truyền thống trách nhiệm của Bộ Ngoại Giao, với sự điều động của vị Đại sứ như là một viên tư lệnh. Martin được sinh ra để làm tướng – hoạt động ở nước ngoài tương dương với Douglas MacArthur. Ông ta có quan điểm dứt khoát riêng về tốc độ di tản rất lạc quan mà không đi xa đường hướng của Hoa Thịnh Đốn. Rất quan tâm đến những người sớm bị bỏ rơi, Martin thấy có bổn phận kéo dài sự di tản Mỹ kiều trong một thời gian dài nhất ngõ hầu duy trì vừa đủ sự hiện diện của Mỹ kiều để có lý do chính đáng mà cứu vớt người Việt. Tin tưởng như thế, trong một thời gian ngắn, sự kinh hoàng ở ssg là một mối lo âu lớn hơn cả khả năng của Hà Nội, Martin làm trì trệ các di tản thật chậm hơn cả Ford, Scowcroft hay tôi – những con “diều hâu” của chính quyền – đã tiên liệu hợp lý. Ông ta đánh điện tới tấp kể báo cáo về chúng tôi mà nội dung chính là để dọa tôi sẽ là người chịu trách nhiệm nếu có nhiều người tị nạn bị bỏ lại một cách oan uổng. Bộ Ngoại giao đã bị tấn công hai mặt: một bên là Ngũ giác đài chỉ trích là di tản chậm, còn một bên là Martin đã đổ lỗi cho chúng tôi là đã bỏ đi quá mau, nên chúng tôi đã bị tai tiếng hơn là phần thưởng sáng giá. Tuy vậy, quan niệm của tôi thiên về Martin nhiều hơn là ngũ giác đài. Tôi đứng về phe Martin là cốt giữ lời hứa giúp tương lai Nam Việt được sống sót – kể từ khi thời gian di tản được ban hành. Ngay cả sau khi triệt thoái Cao nguyên, Martin đã biến cải một sinh lộ có thể được thiết lập chung quanh Nha Trang, Sài Gòn hoặc vùng Châu Thổ Tam giác – một đề nghị được bàn cãi bởi Phil Habib, một người không đủ sức quán xuyến mọi vấn đề. Khi sự sụp đổ của Sài Gòn đã trở nên quá rõ ràng, Martin cãi lại rằng chúng ta có thể giải quyết vấn đề bàn giao chính quyền ở Sài Gòn bởi một chính phủ hòa hợp vừa đủ để duy trì cuộc không vận dân tị nạn trong nhiều tuần nữa hơn là tối đa dự trữ. Đã từng ngồi đối diện với Lê Đức Thọ torng nhiều năm, tôi đoan chắc rằng ông ta không bao giờ chấp thuận sự chuyển tiếp ôn hòa chính quyền hoặc bất cứ một hình thức chính trị tự trị nào khác ở Sài Gòn, tuy nhiên tạm thời – chứ không phải tự trị, dù ngay cả chỉ có cộng sản một mình. Hà Nội sẽ không để cho chủ nghĩa Tito xuất hiện ở Nam Việt. Tôi đồng ý với đối tượng của Martin, chính sách của chúng ta phải căn cứ trên sự gia tăng diễn tiến của tình báo để Nam Việt có thể chỉ tồn tại trong vài tuần. Với sự chấp thuận của tổng thống vì thế cho nên tôi đã chấp thuận kế hoạch sau đây: Thứ nhất, chúng tôi quyết định trực thăng vận trong một ngày phải có khả năng bốc đi khoảng 1250 người. Trên căn bản đó, trong ngày 18 (tuần sau bài diễn văn của tổng thống) tôi ra lệnh cho martin giảm bớt nhân viên Mỹ đến mức độ đó đến ngày 22/4. Nhóm mỹ kiều cuối cùng này, với những nhân viên người Việt còn lại nhiều chừng nào tốt chừng đó, sẽ được di tản từ sân tòa Đại sứ trong trường hợp phi trường Sài Gòn bị đe dọa. Trong thời gian can thiệp này, một cố gắng tối đa sẽ được thực hiện để di tản người Việt, dành ưu tiên cho những ai tự trình diện thẳng với người đại diện của chúng ta. Áp lực từ phía Thượng Viện phải rút quân khỏi Việt Nam đã tăng hàng ngày. Ngày 14/4 toàn thể Ủy ban giao tế hải ngoại kêu gọi tổng thống tại văn phòng của ông, đây là lần đầu tiên xảy ra kể từ đời tổng thống Woodrow Wilson. Schlesinger và tôi đã trình bày gần giống nhau về tình hình quân sự và viễn tượng của Sài Gòn. Mấy thượng nghị sĩ danh tiếng trả lời rằng họ không phải đến đẻ bàn cãi về chiến lược của Việt Nam mà là để gia tăng tốc độ di tản Mỹ kiều và để bảo đảm chúng ta không trì hoãn nó để cứu người Việt Nam. Họ cho rằng ưu tiên cứu người Việt sẽ làm cho chúng ta phải trở lại dùng biện pháp quân sự để can thiệp. Ford kể lại sự việc này trong hồi ký của ông ta: “Thông điệp đã rõ ràng: rút khỏi nhanh chóng. Tôi sẽ cho anh một ngân khoản lớn để di tản”, Jacob Javits thuộc đơn vị New York nói, “nhưng sẽ không có một đồng xu nào cho viện trợ quân sự cả.” “Frank Church thuộc Idaho thấy vấn đề trầm trọng hơn, có thể lôi kéo chúng ta vào một cuộc chiến lan rộng, nếu chúng ta toan tính di tản hết những người Việt trung thành với chúng ta. Joseph Biden thuộc Delaware cũng nói với một luận điệu như thế, “Tôi sẽ bỏ phiếu thuận bất cứ một ngân khoản nào để bốc người Mỹ đi, ông nói, tôi không muốn lẫn lộn với việc bốc người Việt đi.” Tổng thống đã trả lời lễ phép nhưng cứng rắn không nhượng bộ: “Hãy tin tôi đi, chúng ta muốn câu giờ, dù chỉ vài ngày. Cám ơn quý vị đã đến đây. Chúng ta đã có một cuộc tranh luận hữu íhc nhưng QUYẾT ĐỊNH LÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TÔI VÀ TÔI SẼ SAN SÀNG NHẬN LẤY MỌI HẬU QUẢ. II. ĐI TÌM MỘT GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ Những nhà phê bình và Quốc Hội lẽ dĩ nhiên đã có những tương giao khác: “giải pháp chính trị lạc quan của họ”. Những khía cạnh đối đầu hoàn toàn với sự thất bại không có gì để đề nghị với phe địch và sự liều lĩnh nguy hiểm hơn có thể xảy ra đối với những người trung gian. Pháp đã tỏ ra muốn trục lợi nên có vẻ hăng hái. Nhưng ngay cả trong khi chúng tôi đã suy luận ôn hòa về những biện pháp khác nhau của Pháp đưa ra hầu chi đôi Nam Việt, chúng tôi đã suy luận chủ mưu của Pháp – như ở Cam Bốt – là có vẻ còn cay cú đã mất ảnh hưởng thuộc địa từ lâu hơn là có thiện chí hành động cụ thể để giải quyết chung cuộc thảm trạng Việt Nam. Còn lại một giải pháp “chính trị” độc nhất mà chúng tôi nghĩ đến là sát cánh với Mạc Tư Khoa, mà mặc dù có sự rạn nứt về hiệp ước thương mãi, vẫn tiếp tục còn mối liên lạc thân hữu với Mỹ. Breznhev vẫn còn vững tin sau buổi hội thượng đỉnh về vấn đề an ninh châu Âu mà ông ta đã đeo đuổi trong ba năm nay và bây giờ muốn sắp xếp được tái họp trong cuối tháng 7 này. Tôi nói trong buổi họp hàng ngày với các giới chức cao cấp Bộ ngoại giao ngày 18/4 rằng chúng ta phải kết chặt với Nga sô mặc dầu tôi đã lượng định cái may mắn họ có thể làm một nguy ngốn bấp bênh mà sử gia Anh Edward Gibbon đã nhận định: sự tin tưởng đó là nguồn gốc của sự yếu đuối thất bại và sự yếu đuối ít khi được tin cẩn. Chính những điều làm cho chúng tôi yếu vì lựa chọn chứ không phải bởi sự cần thiết đã làm cho tình trạng của chúng tôi đặc biệt rối ren, phức tạp. Qua ngày 19/4, tôi đã gửi một lời nhắn của Ford đến Brazhnev qua Dobrynin (Một lời nhắn là một tài liệu viêt tay có cùng nghĩa như một cuộc đàm thoại nhưng được viết lại chính xác và rõ ràng hơn) thông điệp đó nói rằng “một cuộc ngưng bắn ở Việt Nam rất cần thiết cho sự di tản Mỹ kiều và những người Việt ở miền Nam mà chúng tôi có sự ràng buộc trực tiếp và đặc biệt”. Chúng tôi đã liên kết chặt chẽ với mạc Tư Khoa, chúng tôi nói với những lời rắn rỏi đe dọa, bởi vì đó là những quyền lợi chung lâu dài mà tình hình được đem lại cho sự kết thúc trong chiều hướng không làm thiệt hại mối bang giao Nga Mỹ hay làm tổn thương thái độ của nhân dân Hoa Kỳ đến những vấn đề quốc tế khác.” Để cho vấn đề trở nên thực tế hơn về lời kêu gọi thiết yếu này, chúng tôi đã tỏ thiện chí bàn luận đến những trường hợp chính trị đặc biệt có thể làm cho sự ngưng bắn hiẹu lực, nói khác đi, một sự thay đổi về thể chế ở Sài Gòn. Chúng tôi đã tiên liệu và lo lắng những hậu quả nguy hiểm của một cuộc tấn công vào phi đạo và phi cơ dân sự – mặc dầu một quan sát viên chuyên môn của Quốc Hội Mỹ khước từ cũng như Dobrynin không cho rằng sự đe dọa đó quá trầm trọng. Trong lúc chờ đợi Nga sô trả lời, ngày 20/4 Martin đề nghị tổng thống Thiệu nên từ chức. Martin nói trong khả năng cá nhân của ông ta, mặc dầu diễn tiến sự việc đã được Ford chấp thuận và điều hợp với văn phòng của tôi tại tòa Bạch Ốc. Tôi không có một ảo tưởng nào về sự đáp ứng của bắc Việt đối với bước đầu này, nhưng tôi nuôi niềm hy vọng thiện chí chúng tôi có thể đưa đến một cuộc thương thuyết, cho chúng tôi thêm vài ngày nữa để di tản những người bạn của chúng tôi. Với một sự lạnh nhạt hơn bao giờ hết, Thiệu đã trả lời Martin rằng ông ra sẽ làm điều tốt nhất cho xứ sở ông. Martin kết thúc bản báo cáo về Hoa Thịnh Đốn với lời ghi đanh đá: “Tôi trở về nhà, đọc bản tin hàng ngày từ Hoa Thịnh Đốn, tắm rửa, chà cọ rất mạnh thân hình với xà phòng thơm nhất chưa từng thấy mà không hiệu nghiệm gì cả!” Ford, Scowcroft và tôi cũng cảm thấy như vậy. Sự nôn nóng di tản tối đa cấp tốc số người Việt không ràng buộc với bộ tư pháp là cơ quan đã từ chối miễn trừ cấp chiếu khán. Hình như đó là điều kỳ lạ đối với những ai chưa quen với Hoa Thịnh Đốn về việc một tổng thống có thể ở vào một vị thế buộc phải đấu tranh cam go với nhân viên văn phòng mình về ý muốn “gia hạn thường trú” – một danh từ chuyên môn ám chỉ việc miễn trừ chiếu khán – vì đó là quyền của hành pháp. Sau cùng, ngày 22/4, Bộ Tư pháp – với sự chấp thuận của Ủy ban Tư pháp Thượng Viện – đồng ý miễn trừ hạn chế cho 130 ngàn dân tị nạn từ Đông Dương đến, kể cả 50 ngàn người thụộc diện tối nguy hiểm. Ngoại lệ cuối cùng giống như thế đã được thực thi năm 1960 đối với dân tị nạn CuBa. Trong lúc những giới chức cao cấp Hoa Thịnh Đốn đang cố gắng dàn xếp những bất đồng hai Tham Vụ ngoại giao – Lionel Rosenblatt và Craig Johnstone – đã từng phục vụ ở Việt Nam từ trước đã làm một cái gì theo khả năng để giảm bớt không khí căng thẳng. Ngày 20/4, họ từ chức vụ ở Hoa Thịnh Đốn không có sự chấp thuận. Bay qua Sài Gòn bằng tiền túi và với thông hành dân sự (không phải ngoại giao), họ giúp vài người bạn Việt đã từng cộng tác với họ lo di tản. Đó là một hành động vi phạm và xé rào kỷ luật của Sở ngoại vụ và biết bao nhiêu lề lối khác của bộ ngoại giao. Văn phòng bộ ngoại giao rất bất mãn và được khuyến cáo trừng phát từ giải nhiệm đến khiển trách nặng nề, điều này có thể nguy hại lớn đến nghề nghiệp của Rosenblatt và Johnstone. Khi họ trở lại Hoa Thịnh Đốn hai tuần sau đó, tôi nói với Larry Eagleburger rồi sau đó với phụ tá ngoại trưởng đặc trách hành chánh đọc cho họ nghe các điều khoản trừng phạt và dẫn họ vào văn phòng tôi. Sau khi nói lớn tiếng khiển trách như thường lệ, tôi phán “có vài chuuyện nhỏ chúng ta có thể tự hào trong tầng cuối cùng này. Nhưng các anh đã đem lại điều tốt đẹp cho xứ sở và cho sở ngoại giao. Sẽ không có sự trừng phạt nào cũng như không có biện pháp kỷ luật. Một năm sau, tôi chứng kiến một người được lãnh giải thưởng tối danh dự của Bộ ngoại giao. Johnstone được giữ lại ở sở Ngoại giao về sau trở thành Đại sứ ở Algieria còn Rosenblatt đã dành đời mình và tay nghề để phục vụ trong một hội tư để giúp dân tị nạn. Đến đêm 21/4, Nguyễn Văn Thiệu từ chức với một bài diễn văn chua chát tố cáo Hoa Kỳ thất bại trong việc ép buộc thực thi hòa đàm Balê và nuốt lời hứa giúp đỡ vật chất cho Nam Việt. Quần chúng lạnh nhạt thờ ơ trước sự ra đi của ông. Hai tờ Washington Post và New York Times đã cho rằng một “thỏa thuận thương lượng” về hòa đàm Ba lê cuối cùng, bây giờ có thể có được, vì Thiệu là một chướng ngại vật cho việc thương thuyết. Những điều than phiền của Thiệu đã bị bỏ qua như là “điều đã làm chính giới Việt Nam bất lợi và điên đầu”, mặt khác người dân phe cấp tiến rất vui mừng bênh vực chính quyền. Thiệu có đủ mọi lý do để bực mình với thái độ của Hoa Kỳ. Mặc dầu ông ta ghét tôi như một số người khác vì tôi giữ trách nhiệm torng việc thương thuyết để chấm dứt vai trò quân sự của Mỹ, tôi vẫn giữ trách nhiệm trong việc thương thuyết để chấm dứt vai trò quân sự của Mỹ, tôi vẫn kính trọng ông ta như là một người yêu nước, một nhà ái quốc đã phục vụ đất nước ông với can đảm và danh dự. Thiệu không bao giờ là chướng ngại vật của hòa bình như một số phản chiến phê bình buộc tội. Cả hai ông ta và đất nước ông xứng đáng có một số phận tốt hơn. Nếu tôi nghĩ rằng sau cùng Quốc Hội có thể cúp viện trợ cho một người bạn đồng minh khốn khổ, tôi sẽ không làm áp lực như tôi đã làm trong lần thương thuyết cuối cùng vào năm 1972. Những hy vọng về một giải pháp chính trị cho thấy rất là mong manh như kinh nghiệm chúng tôi từng chứng minh. Đài Hà Nội tấn công nhân vật kế vị Thiệu, Trần Văn Hương, rất thậm tệ như đã chửi sự ra đi của Thiệu. Chẳng bao lâu sau khi Thiệu rời khỏi nước, Hà Nội đã leo thang mọi đòi hỏi của chúng, nhấn mạnh đến mọi Mỹ kiều dân sự và quân sự phải rời khỏi nước ngay tức khắc. Hai mươi năm hy vọng, giận hờn, bất đồng về Việt Nam bây giờ rút gọn lại vào một mục tiêu đơn thuần: cứu vớt tối đa người Việt Nam nạn nhân của hậu quả Mỹ bỏ rơi. Chúng tôi ở tại tòa Bạch Ốc theo dõi mỗi chuyến bay của dân tị nạn như là có một cái gì đền đáp lại những nỗi khổ của cuộc chiến với Hoa Kỳ. Bắt đầu ngày 21/4 cuộc không tản 24 giờ từ Sài Gòn được bắt đầu với Các 141 bay ban ngày và Các 130 ban đêm. 10 ngày sau, công việc này đã di tản được 50 ngàn người Việt (80 ngàn người khác trốn thoát bằng phương tiện khác). Chỉ còn một cuộc tranh luận nữa với chính phủ chúng tôi là trong bao lâu nữa cầu không vận mới chấm dứt? Thiện chí của cộng sản cho chúng tôi thời gian giảm bớt khi bộ tham mưu tòa Bạch Ốc công bố một sự thắng lợi điển hình: họ lồng vào bài diễn văn của tổng thống đọc tại đại học Tulane tại New Orleans một câu liên quan đến ảnh hưởng cho rằng cuộc chiến đã thực sự chấm dứt như Ford đã từng quan tâm. Đoạn văn đó như sau: “Ngày hôm nay, Mỹ quốc có thể lấy lại niềm tự hào đã có trước Việt Nam. Nhưng nó không thể được hoàn tất bằng cách tái đấu một cuộc chiến đã kết thúc theo như Hoa Kỳ từng quan tâm. Như tôi đã thấy rõ vấn đề thời gian đã đến để nhìn tới một chương trình cho tương lai để thống nhất, hàn gắn vết thương của quốc gia và phục hồi sức khỏe và niềm tin lạc quan.” Kiểm soát lại vấn đề, bộ tham mưu tòa Bạch Ốc xác quyết rằng không phải Scowcroft hay tôi đã được tham khảo về lời văn trên và mô tả bài diễn văn như là bản tuyên ngôn độc lập của tổng thống do ngoại trưởng soạn ra. Điều mà kẻ lạc quan nhìn vào đoạn chú ý trên không thể hiểu rõ là chiến tranhh đẵ chấm dứt, phần còn lại chỉ là có bao nhiêu người Việt chúng ta có thể cứu vớt và chuyện chúng ta được phép cưu mang hoạt động nhân đạo này sẽ được tồn tại đến bao lâu nữa? Có vài ngộ nhận mơ hồ về chuyện chúng tôi có thể tiến được bao xa để hoàn tất mục tiêu vạch sẵn. Tôi trình bày chiến lược này trước Ủy ban định chế hạ viện ngày 21/4. “Những khó khăn của chúng ta, vấn đề của chúng ta trong 10 ngày qua đã dẫn chúng ta đến chiều hướng chúng ta có thể cứu vớt tối đa tổng số nhân mạng mà cùng lúc đã không gây ra kinh hoàng có thể ngăn ngừa sự độ sinh. Nếu quý vị thông cảm đây là nguyên tắc căn bản của đường lối chúng ta trong 10 ngày qua, thì nó là điểm then chốt chìa khóa để biết nhiều vấn đề đã được thi hành”. Trên thực tế, bài diễn văn ở Tulane không làm thiệt hai đến thái độ của Ford đối với vấn đề. Hết ngày đó, ông ta chỉ thị Ron Nessen thông báo cho toàn dân biết là ông vẫn giữ yêu cầu 722 triệu viện trợ cho Việt Nam. Giữa những xáo trộn tình cảm chung quanh chúng tôi, tôi thấy không có điểm nào cần tranh luận về bài diễn văn với tổng thống cả. Tôi không bao giờ nêu vấn đề và Ford cũng không bao giờ muốn giải thích. Bề ngoài hình như ông ta không xem bài diễn văn đọc tại Tulane có ý nghĩa như vài người thân cận nghĩ, vì ông ta không ghi lại trong hồi ký của ông. (còn tiếp) Phụng Hồng
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:46:37 GMT 9
III – DI TẢN
Vài ngày sau bài diễn văn ở Tulane, tình hình yên tĩnh, mặc dầu bọn cộng sản đã tiến quân với trọng pháo gần tới phi trường Tân Sơn Nhất. Có phải chúng tái phối trí để xung phong lần cuối cùng? Hoặc chúng mở một lối thoát cho cuộc di tản?
Hiện tại chúng đang tiến hành cả hai. Ngày 24/4, Dobrynin gọi điện thoại lúc 4 giờ chiều và đọc cho tôi nghe thư trả lời của Nga Sô về ý kiến chúng tôi ngày 19/4. Nó có nghĩa như lời giải thích bật đèn xanh đê di tản Mỹ kiều và nó xác quyết Hà Nội sẽ tìm một giải pháp chính trị dựa theo Hòa đàm Ba Lê. Bắc Việt xác nhận với Mạc Tư Khoa rằng chúng “không có ý định làm tổn thương đến danh dự của Hoa Kỳ”. Điều này làm cho Brezhnev không sợ khi cố gắng giới hạn sự phiêu lưu không có người Mỹ hiện diện bằng cách bày tỏ mối hy vọng rằng chúng tôi sẽ không hành động “với mối đe dọa làm trầm trọng thêm tình thế hiện tại của Đông Dương”.
Nêu ý kiến Nga Sô có nghĩa là hình như xác nhận như thế, thì có nhiều điều dễ thở cho công cuộc di tản. Mặc dầu ý kiến đó chú trọng đến sự di tản Mỹ kiều, nhưng ảnh hưởng thực tế vẫn giúp di tản người Việt, kể từ khi chúng ta di tản cả hai nhóm cùng một lúc và cùng trên một chuyến bay. Và nếu Hà Nội thực sự có ý định đem lại thay đổi chính trị bằng những phương thức dự trù trong thỏa hiệp Ba Lê thì chúng ta sẽ có nhiều thì giờ hơn nữa.
Dĩ nhiên, giải pháp vẫn giống nhau: cộng quân sẽ thôn tính toàn bộ, điều mà chúng ta đã kháng cự gian khổ suốt 2 thập niên. Vì vậy, với mục đích giải cứu nhiều nhân mạng người Việt chúng tôi đã sẵn sàng sửa soạn để ứng phó. Ý muốn của Brezhnev tôn trọng hội nghị về Anh Ninh Âu Châu đã cho chúng tôi một chút tin tưởng – mặc dầu mọi điều trần trước Quốc Hội đã phá tan mối đe dọa cuối cùng mà chúng tôi có thể bị lại trong phút chót.
Buổi họp tham mưu ở bộ Ngoại giao để cứu xét thông điệp của Brezhnev đều đồng ý chúng tôi sẽ dùng nó để được thêm thì giờ mặc dầu Bill Hyland, giám dốc văn phòng tình báo và sưu tầm, đã ước lượng “chút xíu” chỉ còn gần một tuần nữa thôi. Bởi vậy nên tôi chỉ thị Martin giảm bớt số lượng Mỹ kiều xuống dưới 800 (con số có thể không vận trong 2 tiếng rưỡi đồng hồ theo sự ước lượng của Tham Mưu trưởng (Liên Quân), và sau đó “thi hành chính sách nhỏ giọt” số còn lại ngõ hầu sự không vận có thể tiến hành để bốc tối đa những người Việt.
Chiều ngày 24/4, Ford triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia để duyệt lại kế hoạch di tản. Schlesinger tiếp tục khuyến cáo di tản tức khắc số Mỹ kiều còn lại và lẽ dĩ nhiên sẽ chấm dứt luôn cả việc bốc người Việt. Ford đã kết luận buổi họp này như đã tuyên bố trong ngày 9/4:
Ford: “Tôi hiểu sự nguy hiểm liều lĩnh. Đó là phần của tôi và tôi sẽ làm. Nhưng hãy cố tin chắc chúng ta thi hành lệnh.”
Rockefeller: “Ông không thể bảo đảm quyền lợi của Mỹ quốc mà không liều lĩnh d.”
Ford: “Với sự trợ giúp của Thượng Đế”
Nắm vững mọi triển hạn có thể có trong giờ chót, chúng tôi trả lời Nga sô lúc 8giờ 25 tối ngày 24/4. Trong thông điệp của chúng tôi, chúng tôi đặt một số câu hỏi với hy vọng cuộc không vận dân tị nạn có thể tiếp tục trong lúc Nga sô sửa soạn câu trả lời. Trong thông điệp chúng tôi ghi rằng, xét về sự trả lời xây dựng (Nga sô)... phía Mỹ đang tiến hành cuộc di tản Mỹ kiều với điều kiện thuận tiện. Chúng ta yêu cầu Hà Nội cho ý kiến làm sao thực thi những điều cam kết ghi ở thỏa ước Ba Lê có liên quan đến giải pháp thi hành một sự thiết lập chính trị. Tổng thống lại trấn an brezhnev rằng chúng tôi ngưng thi hành những điều mà Quốc Hội trong mọi tình huống đã ngăn cấm. Từ lâu đã không có sự can thiệp nào trong việc di tản, chúng tôi ghi tiếp, Hoa Kỳ sẽ không có một bước tiến nào khả dĩ làm cho tình hình thêm căng thẳng.
Đó chỉ là những hạt kê nhỏ trong chén súp, nhưng nhu tơi đã nói trong buổi họp tham mưu ở bộ Ngoại Giao, bây giờ vấn đề còn lại là sự căng thẳng thần kinh. Tuy nhiên, có một giới hạn có thể chu toan bằng phương tiện ngoại giao, đặc biệt là khi đối thoại với những cặp mắt cú vọ của những máy tinh từ phía Hà Nội.
Trong đêm 28/4, giờ Hoa Thịnh Đốn (29/4 ở Việt Nam) sự sụp đổ cuối cùng của Sài Gòn bắt đầu với mưa pháo tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất. 8 ngàn người Việt có tính mạng bị đe dọa và 400 Mỹ kiều được tập trung ở đó để các chuyến bay di tản tuần tự bốc mà không bị đình trệ.
Mặc dầu cuộc pháo kích sớm chấm dứt, đám dân tị nạn xấu bắt đầu nổi loạn. Kinh hoàng, hoảng hốt, họ ào ra giữa phi đạo và cản trở sự không vận. 10 giờ 45 tới (giờ Hoa Thịnh Đốn) ngày 28/4 Ford rất do dự khi ra lệnh cuộc di tản cuối cùng. Trước đó một lát, chúng tôi đã hội đàm không phải nghĩa của danh từ đao to búa lớn mà theo đó cơ hội có thể xuất hiện trong những sách lịch sử sau này. Mà với cảm nghĩ tưởng niệm những nạn nhân xấu số mà chúng tôi đã bỏ rơi lại đằng sau:
Kissinger: “Họ có đủ thẩm quyền gởi yêu cầu không vận khẩn cấp bất cứ lúc nào trong đêm nay, đêm của chúng ta – và họ phải yêu cầu trước khi ngày chấm dứt ở bên đó.”
Ford: “Cuối ngày ở bên đó hay sáng mai ở đây?”
Kissinger: “Sáng ngày hôm sau ở đây nếu C -I 30 không cất cánh được thì trực thăng vận sẽ đảm trách.”
Ford: “Đó là một điều nhục nhã thực sự, 24 giờ nữa hay 12 giờ nữa?”
Kissinger: “12 giờ nữa và chúng ta sẽ cứu vớt được 8000 nhân mạng.”
Ford: “Ông Henry ơi, chúng ta đã làm hết sức mình có thể.”
Kissinger: “Thưa tổng thống, ngài một mình chủ động vấn đề chống lại mọi lời khuyến cáo và chúng ta đã đùa giỡn từ lâu như trò chơi.”
Ford: “Ừ, tôi hy vọng tướng Smith và Graham Martin bây giờ sẽ hiểu chúng ta đang ở đâu và sẽ không do dự để hành động.”
Kissinger: “Ờ, chúng ta cần hỏi lại Martin coi. Tôi đã nói chuyện với ông ta 15 phút trước đây. Tôi không thể nói rằng ông ta muốn làm vậy nhưng ông sẽ làm như vậy. Ông ta muốn ở lại với 2 người để lo cho những người Mỹ có thể xuất hiện vào giờ chót. Nhưng tôi không nghĩ là chúng ta có thể thanh minh được.”
Ford: “Tôi cũng không nghĩ vậy, Henry ạ.”
Kissinger: “Chúng ta không thể cho chúng nó bất cứ con tin nào.”
Để có một ý niệm rõ rệt hơn về sự ô hợp lạ lùng của tình trạng chán nản và buồn thảm của những giờ phút cuối cùng này tôi xin kèm theo đây những cuộc đối thoại nổi bật trong sổ nhật ký.
11 giờ tối, tôi gọi điện cho Martin và nói với ông ta hãy xả láng: mọi Mỹ kiều phải cùng lượt ra đi với nhiều người Việt chừng nào tốt chừng đó được chở trên những trực thăng đầy ắp trong cái gọi là ngày cuối cùng của không vận. Martin đồng ý về di tản nhưng đề nghị ở lại với 2 người tình nguyện để giám sát sự chuyển tiếp trật tự đã xác nhận sự nghi ngờ của tôi rằng ông ta dự tính tự tử như tướng George “Chinese” Gordon – vị tư lệnh lừng danh của Anh đã bị quân Mahdi giết ở Khartoum năm 1885 sau khi ông ta từ chối ra đi. Chúng tôi cần ít sự kiện hơn là để cho ông Đại Sứ của chúng tôi ở Sài Gòn bị bắt làm con tin bởi Bắc Việt trong ngày mà mọi nổ lực của chúng tôi ở đó bị thất bại. Vì thế tôi ra lệnnh Martin phải ra đi: “chúng tôi muốn những người anh hùng của chúng tôi phải trở về Hoa Thịnh Đốn, họ không có nhiều ở đây.”
Mọi ghi nhận không được rõ rệt về sự kiện Hà Nội gia tăng tấn công vào Sài Gòn ở lúc chót hoặc chúng đang theo một kế hoạch theo đó sự trả lời của chúng với Nga sô là điều thất vọng cuối cùng. Trong lúc này, tôi tin rằng bài diễn văn của Ford ở Tulane đã dục Hà Nội đi tới thời điểm, bởi vì kết quả là nó đã xóa bỏ sự nguy hiểm cuối cùng của sự tái can thiệp của Mỹ – mặc dầu hiện tại thực sự cần phải có một mức độ phi thường về hoài nghi phi lý của bắc Việt để quan tâm kỹ đến sự đe dọa này. Hồi ký của tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh, không nhắc đến bài diễn văn của Ford, như người ta đã làm trong hầu hết những dẫn chứng khác trong các cuộc tranh luận ở quốc nội Hoa Kỳ. Theo Dũng, tuy nhiều, điều thúc dục Hà Nội có quyêt định nhanh là “Kế hoạch ngoại giao khôn khéo” của Mỹ và bù nhìn của họ.
“Những kế hoạch ngoại giao khôn khéo của Mỹ-ngụy dồn dập tới, kèm theo những sự đe dọa nhắm vào chúng ta, có mục đích ngăn chận quan ta tổng tấn công Sài Gòn, và làm cho ta càng phải đánh gấp hơn, tấn công mau hơn, và tranh thủ từng giờ, từng phút để dành thắng lợi hoàn toàn.”
Ý kiến của Hà Nội về “những kế hoạch ngoại giao khôn khéo” là Sài Gòn có thực hiện tốt từng bước mà phong trào phản chiến Mỹ đã đòi hỏi từ thập niên qua: Thiệu pahỉ từ chức và nới rộng chính phủ. Thiệu đã ra đi và trong ngày 24/4, người kế vị là tổng thống Trần Văn Hương, đã nới rộng chính phủ bằng cách mời tướng Dương Văn Minh giữ chức Thủ Tướng. “Minh cồ”, như tên hiệu của ông ta, là nguồn hy vọng lớn của những nhóm chống đối Việt Nam từ năm 1967 khi ông thất bại trong cuộc tranh cử gay go với Thiệu. Làm người trung lập, Minh cồ có thể được Việt cộng chấp thuận, mặc dầu Lê Đức Thọ đã bày tỏ với tôi sự chống đối hoàn toàn.
Trong sự đấu tranh cuối cùng để chọn ai là thuyền trưởng của con tàu sắp chìm, Minh từ chối chức Thủ tướng vì ông cho rằng sự đề nghị do chính quyền cũ mà nay đã bị lật đổ. Thay vào đó, ông ta dòi Quốc Hội chỉ định ông làm tổng thống với trách vụ chấm dứt chiến tranh và thành lập một chính quyền chuyển tiếp. Hai ngày qua để hoàn tất thủ tục đề nghị này, và “Minh cồ” các cuối cùng được phong tổng thống ngày 27/4. Ông chỉ được tại chức trong 72 giờ, chỉ vừa đủ để làm hai việc: ông ta yêu cầu Hà Nội ngưng bắn và mở cuộc thương thuyết chính trị và đã bị bác khước. Và ngày 29/4 ông ra lệnh mọi Mỹ kiều phải rơì khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Vì điều này trùng hợp với kế hoạch rút lui của chúng tôi nên nó đã giúp chúng tôi ra đi mà tránh được lời cáo buộc chúng tôi đã bỏ rơi đồng minh, bạn hữu. Đồng thời, văn phòng ngoại giao Pháp dự tính thiết lập sự tiếp xúc ngoại giao giữa người đại diện Mặt trận giải phóng ở Ba Lê và những nhà ngoại giao Mỹ – mà phía mặt trận rất nôn nóng cần gặp.
Nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội không phải đã chiến đấu trong 3 thập niên để rồi bây giờ chấp nhận một chính phủ chuyển tiếp tại Sài Gòn, không được độc lập ngay cả nếu là cộng sản chăng nữa. Ngược lại, sự tấn phong Minh có thể làm cho Hà Nội đánh mau hơn. Hình như đã chuẩn bị trước sẵn sàng cho Thiệu một thời gian sửa soạn hơn là đám người kế vị có nhiều thất vọng.
Chế độ Thiệu đã sụp đổ và vài ngày nữa cũng không thể làm sống lại d. nhưng nếu một chính phủ được quốc tế thừa nhận xuất hiện tại Sài Gòn có thể phụ trách việc ngưng bắn và nói chuyện với Hoa Kỳ thì nó có thể đưa đến sự độc lập cho nam Việt – mặc dầu là một thể chế cộng sản. Hà Nội sẽ không chấp nhận điều này. Vậy trận chiến cuối cùng của Hà Nội tại Sài Gòn có thể xảy ra với người người cộng sản tại Việt Nam mà phong trào đấu tranh của nhóm phiến loạn đã khởi đầu tấn thảm kịch toàn diện từ nhiều năm trước đây.
Cũng không ngạc nhiên gì, sự tiếp xúc với mặt trận ở Ba lê không bao giờ thực hiện được.
IV. NGÀY CUỐI CÙNG
Sau khi yêu sách tòa Bạch Ốc trong 3 tuần lễ để tiến hành nhanh chóng cuộc di tản, kế hoạch của Ngũ Giác Đài để hoàn tất đã xảy ra đúng kỳ hạn. Đã có vài sơ hở trong sự điều hợp giữa đoàn trực thăng trên các hàng không mẫu hạm và chiến thuật không vận để yểm trợ tại căn cứ Thái Lan, đưa đến sư bất đồng giữa các vị tư lệnh về vấn đề cuộc hành quân sẽ được khởi sự vào lúc náo, vào giờ quốc tế Greenwich hay giờ địa phương. Một thời khóa biểu đã phải thiết lập và cuộc hành quân đã khởi diễn chậm vài giờ.
Trong khi những Mỹ kiều được bốc đi từ mái nhà tòa Đại Sứ Mỹ trong sáng 29/4 (giờ Hoa Kỳ), Ford, Schlesinger cà tôi thuyết trình trước các nhà lãnh đạo Quốc Hội. Tiếp tục giữ lập trường như ngày hôm qua, các nhà lập pháp cố tìm một giải pháp chính trị cho thấy sự di tản mà chúng tôi đang thực hiện sẽ kết thúc khả năng của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến hậu quả chính trị.
Sau đó, mọi người im lặng. Tôi ngồi cô đơn nơi góc phòng của cố vấn an ninh quốc gia ở cánh trái của tòa Bạch Ốc bao trùm bởi một sự hiu quạnh thỉnh thoảng đợi chờ những biến cố mới có thể xảy ra. Văn phòng Cố Vấn An Ninh Quốc Gia là trung tâm chỉ huy của Hoa Thịnh Đốn để điều hành cuộc di tản tại Việt Nam mặc dầu hành quân không vận được điều động bời Ngũ Giác Đài. Kế hoạch được Ngũ Giác Đài soạn thảo kỹ càng dựa theo yêu cầu khẩn thiết phải gia tăng tốc độ di tản đã bảo đãm cho Ford và tôi tin tưởng hoàn toàn sẽ có thể bị trục trặc vào giờ chót chăng? Nói một cách khác, Ford hay tôi cũng không thể còn ảnh hưởng đến thành quả được nữa, chúng tôi chỉ còn là khách bàng quan của hành động cuối cùng . Vì vậy chúng tôi ngồi trong văn phòng cảm thấy thảnh thơi, không còn trách nhiệm nữa đối với bi kịch đang xảy ra, với sự bình an hiếm có trong văn phòng thượng đỉnh này.
Thực ra đó chỉ là một bộ chỉ huy mà không có chi để làm. Ford và tôi nhận những báo cáo đều dặn về tiến trình cuộc di tản. Phụ tá của tôi là Brent Scrowcroft theo dõi kỹ từng chi tiết ; mà không có ý kiến riêng hay đề nghị gì, chúng tôi không bao giờ có một cuộc rút lui danh dự, nếu cuộc rút lui trong những điều kiện này có thể được mô tả là danh dự Robert C. “Bud” Mcfarlane, người cố vấn An Ninh Quốc Gia cho tổng thống Reagan sau này, chịu trách nhiệm về quản trị hành chánh văn phòng tôi. Ông đã phục vụ ở Việt Nam và bây giờ với nước mắt đoanh tròng, đã phải chấp nhận mọi cơ chế của sự sụp đổ. Rất nhiều bạn TQLC của ông ta đã tử trận ở Việt Nam để làm cho thảm trạng này đừng xảy ra. Bud vô cùng xúc động, mặc dù ông ta đã là một cố gắng hào hùng và gần như thành công để tránh ràng buộc những người còn lại của chúng tôi vào nỗi đau đớn này.
Trong nỗi trầm kha huyền bí này, hình ảnh Việt Nam đã diễn lại trong trí tôi một quá khứ trôi qua chậm chạp, tôi cảm thấy khó khăn để phân tích những quyết định khác nhau đưa đến niềm hy vọng lúc này. Nếu tôi nghĩ vậy, có thể tôi đã kết luận rằng như tôi vẫn tin tưởng rằng thực sự không có điều nào khác ngoài chuyện giấu hàng ngày chiến lược chúng tôi đang theo đuổi. Những điều làm tôi đau khổ trong những giờ phút này là vai trò của tôi trong hành động cuối cùng sắp tới: thương thuyết gấp với Lê Đức Thọ đã bị bỏ dỡ về đề nghị ngày 8/10/1972. Không còn nghi ngờ gì nữa, Bắc Việt đã công bố cho toàn thế giới rõ sớm hơn chúng tôi làm. Thiệu cũng cố đào sâu vấn đề không kém; hậu quả ngoại giao nếu có) sẽ không được khả quan cho lắm. Quốc Hội sẽ bắt buộc kết thúc bằng một quyết định cúp viện trợ. Điều làm cho tôi đau khổ chưa bao giờ thấy là hoặc giả kết quả đó không được tốt đẹp hơn. Có phải là sự mất tinh thần của chế độ Sài Gòn đưa đến sự sụp đổ vào năm 1975 đã bắt đầu với những buổi hội đàm mà chúng tôi đặt ra từ 1972? Có phải là Nixon và tôi đã yêu sách quá nhiều khi chúng tôi cố tình bao quát vấn đề cân nhắc quan niệm về danh dự quốc gia? Có một căn bản tự hào lạc quan nào về cuộc thương thuyết của phái đoàn tôi và tôi ngày 8/10/1972, khi Lê Đức Thọ, thực ra muốn chấp nhận thời hạn của chúng tôi, và chúng tôi tự nghĩ về cả hai điều mong muốn cùng một lúc: chấm dứt chiến tranh trong danh dự và sự hòa hợp quốc gia?
Các đồng nghiệp của tôi và tôi tin rằng nhiệm vụ của chúng tôi là tranh đấu cho một giải pháp khác hơn là tái lập chủ quyền. Những người chống đối có thể tranh đấu cho Việt Nam có một xã hội phồn vinh, nhưng khi các đồng nghiệp của tôi và tôi nghĩ về Việt Nam thì vấn đề là tri ân hai giới nam nữ – những chiến sĩ và sĩ quan phục phụ hải ngoại – đã từng chiến đấu và đau khổ ở đây và những người bạn Việt của cta bây giờ phải đương đầu với một số phận bấp bênh và chắc chắn là khổ sở. Những người Mỹ này đã tin tưởng lương thiện rằng họ đã bảo vệ tự do chống lại kẻ thù bạo tàn trong rừng rậm và trên những cánh đồng lúa rộng lớn. Bị quần chúng khinh bỉ đánh giá thấp, Quốc Hội mạt sát, phong trào phản chiến mĩa mai, họ đã giữ vững truyền thống lý tưởng của Mỹ quốc, liều chết và dấn thân tuổi trẻ vào một cuộc chiến mà một nhóm nhà lãnh đạo Mỹ đã khởi xướng rồi vứt bỏ và cuối cùng khước từ. Chính họ chứ không phải một thiểu số xấu, mục đích của họ chứ không phải sự htất bại tối hậu, trách nhiệm của Hoa Kỳ đối với nền an ninh thế giới tự do chứ không phải sự tức giận liên hệ đến những điều trên đã tạo nên tư tưởng của tôi khi tôi ngồi tại bàn giấy và Việt Nam đã bị sụp đổ.
Giấc mơ của tôi đã bị cắt ngang bởi một cú điện thoại gọi cho biết ngày hôm đó một chuyện không dính líu gì đến vụ trực thăng vận. Mà là của Lew Wasserman, nguyên chủ tịch MCA, một công ty viễn thông Hồ-Ly-Vọng và là một bạn thân: “mục đích của cuộc điện đàm này là để báo cho ông rõ là mọi vấn đề ông đang giải quyết ở đó đã có một số bạn của ông ở đây lo cho ông.” Rồi ông ta gác máy trước khi tôi có dịp trả lời. Lew Wasserman là một đảng viên dân chủ, một người chuyên môn chỉ trích đường lối của chúng tôi về Việt Nam, và tôi không thể nhờ vậy gì được nơi các dịch vụ của ông ta. Đó là một cử chỉ ưu ái và tôi không bao giờ quên ơn ông ta.
Rồi bên bờ vực thẩm của tử thần Việt Nam đã đưa tôi về với buồn giận và bi đát. Bây giờ là xế chiều ở Hoa Thịnh Đốn, và sau nửa đêm ở Sài Gòn, mặc dầu có sự chấp thuận từ đầu chấm dứt không vận lúc chạng vạng ở Việt Nam, Ford đã ra lệnh vẫn tiếp tục suốt đêm ngõ hầu một số lớn người Việt có thể được cứu vớt bốc đi – nhất là những người còn kẹt lại trong sân tòa đại sứ. Khoảng 2 giờ chiều tôi được báo cáo còn 760 người ở đó và với bất cứ lý do nào chỉ co 1 trực thăng đáp xuống 2 giờ trước đó. Tôi gọi Schlesinger để bàn tính làm sao chúng tôi có thể di tản nhóm người này và cùng một lúc thiết lập một kỳ hạn chót buộc cuộc di tản phải hoàn thất. Thật rõ ràng là Bắc Việt sẽ chắc chắn chiếm Sài Gòn lúc rạng đông. Ngay lúc này Schlesinger và tôi hành động rât ăn khớp. Chúng tôi dự trù 13 trực thăng sẽ đột xuất. Nhưng muốn bảo đảm chắc ăn, chúng tôi đồng ý sẽ phải sử dựng đến 19 chiếc. Martin sẽ là người cuối cùng trên chiếc trực thăng chót.
Cuộc đàm thoại giữa Schlesinger và tôi trong thời gian ban bố quyết định này đã đạt kết quả và làm cho bầu không khí của giờ phút này dễ chịu hơn bất cứ một cuộc hội thoại nào:
Kissinger: “Ông Jim.”
Schlesinger: “Dạ chào ông Henry. Chúng ta đã gửi một thông điệp cho họ vì những loại trực thăng 46 cũng như 53 – tổng số là 19 chiếc sẽ di tản 760 người còn lại – là tất cả tàu mà ông ta (Martin) có, và chúng ta mong họ- ông ta – sẽ ra đi trên chiếc thứ 19 là chuyến sau cùng để kết thúc luôn vào khoảng 3g 30 sáng”.
Kissinger: “Bây giờ ông nói với ông ta, ông Jim ơi, nếu ông không thêm đây là lệnh của tổng thống thì ông ta sẽ không thi hành đâu.”
Schlesinger: “Đúng lắn,một chúng tôi sẽ thi hành.”
Kissinger: “Đó là điều mà tôi muốn chắc ông sẽ nói thêm như vậy.”
Schlesinger: “Tôi sẽ làm đúng y như vậy. Ông ta là một nhân vật với một sứ mạng.”
Kissinger: “Ồ, ông ta có một người con trai tử trận tại đó.”
Schlesinger: “Vâng, ông nên thán phục ông ta.”
Kissinger: “Hãy nhìn kỹ những suy tư của ông ta đã đi đúng chiều hướng.”
Schlesinger: “Đúng như vậy. Tưởng nhớ và nghị lực.”
Kissinger: “Và tôi nghĩ...”
Schlesinger: “Ông khóc...”
Kissinger: “Tôi nghĩ ông và tôi sẽ rất sung sướng làm điều này.”
Tôi ghi lại giai doạn nầy bởi vì 20 năm sau tôi đã xem một chương trình vô tuyến truyền hình kể lại một ông đại tá quá xúc động kể nỗi khổ tâm của ông ta khi nói có 400 người bạn Việt của Hoa Kỳ bị bỏ lại bên trong tòa đại sứ là nơi mà ông ta đã điều hành cuộc di tản. Tôi đã bùi ngùi và đi tìm gặp ông đại tá đó ở trường đại học chiến tranh lục quân và xác nhận lời tuyên bố của ông ta trong chương trình đó. Không ai nói với tôi điều đó cả, cũng như không có một hồ sơ lưu trữ nào về sự bỏ rơi trong nhiều buổi họp tham mưu chung quanh biến cố này cả.
Tôi vẫn còn chưa hiểu những gì đang xảy ra. Tôi biết 19 chiếc trực thăng đã rời khỏi tòa đại sứ – vì tôi đã được báo cáo sau mỗi chuyến cất cánh và martin đã bay trên chuyến cuối cùng. Tôi không có một giải thích nào tại sao có người bị bỏ sót lại ngoại trừ cổng sắt tòa đại sứ đã được mở lại để được đón thêm một nhóm khác sau con số nguyên thủy 760
Không lâu sau 4 giờ chiều tôi đã trấn an George Meany, chủ tịch AFL-CIO rằng những nhà lãnh đạo nghiệp đoàn lao động đã được bốc đi. Lời yêu cầu của ông ta là một trong nhiều yêu cầu gửi đến chúng tôi để di tản một số người Việt có nhiều liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ. Đến 4g 58 giờ Hoa Thịnh Đốn (4g 58 sáng hôm sau ở Sài Gòn) Martin rời khỏi tòa đại sứ ra đi trên chuyến trực thăng thứ 19 hay sau chót hay cái mà chúng tôi nghĩ là cuối cùng. Ông ta đã thi hành một công tác phi thường. Chỉ huy quán xuyến, nhiều khi ương ngạch cứng đầu; ông ta là một người tận tâm can đảm như ông ta từng là người cẩn thận chu đáo. Trong một thời gian 2 tuần lễ martin đã điều hợp nhịp nhàng cuộc đi tản trên 50 ngàn người Việt và 6000 Mỹ kiều mà chỉ có 4 người bị thương. Ông ta đã giữ cho tình thế được yên tĩnh bình thường để có thể di tản 80 ngàn người tị nạn khác. Câu văn phụ thêm tôi gửi cho ông ta trên chiếc tàu cứu nạn đã xuất phát từ trái tim tôi.
Tôi chắc rằng ông biết tôi nhận cảm sâu xa đến chừng nào về công tác ông thực hiện trong những điều kiện ngặt nghèo, xin ông hãy nhận lời tri ân sâu xa tự tim tôi và những lời thán phục nồng hậu.
Brent Scowcroft, người đã từng trao đổi hầu như hàng ngày với Martin đã thêm vào phần tái bút: “Gramham ông là thần diệu. Ký tên: Brent”. Đối với Brent đây là điều tương đương với sự tuyên dương ôcng trạng Martin với huy chương danh dự Scowcroft.
Ngay sau khi tôi nghĩ là chuyến trực thăng cuối cùng đã cất cánh tôi băng ngang qua khoảng trắng giữa tòa Bạch Ốc và tòa nhà văn phòng điều hành quản trị cũ để họp báo. Tóm tắt các biến cố torng ngày, tôi giải đáp các câu hỏi, niềm tin tưởng thúc đẩy dồn dập là buộc tôi xác nhận quan điểm có sẵn của các phóng viên là một việc đã xảy ra là một lỗi lầm không thể tha thứ được. Bực bội về những thảm trạng xảy ra cùng lúc trên thế giới, tôi đã từ chối trách nhiệm:
“Tôi nghĩ rằng đây không phải là một cơ hội, khi người Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Sài Gòn, để đánh giá 1 thập niên rưỡi của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, bởi vì cũng rât công bình mà nói rằng nếu năm thời chính quyền đảm nhiệm, sau hết tất cả bởi những con người phục vụ cho quyền lợi của mẫu quốc họ đã đưa đến những kết luận có thể có những trục trặc trong vấn đề đánh giá của họ ngay cả nếu co những lý do khác biệt làm cho mọi cố gắng không thể thành công được.
Như tôi đã đề cập tời, có những yếu tố đặc biệt quyết định trong những năm gần đây. Nhưng tôi nghĩ rằng những cái gì mà chúng ta bây giờ cần ở quốc gia này, ít ra là vài tuần lễ và hy vọng trong vài tháng tới là hàn gắn vết thương và thông qua vấn đề Việt Nam và chỉ chú tâm vào những vấn đề trong tương lai mà thôi.
“Trở lại văn phòng tôi, tôi vẫn nhận thấy rằng Việt Nam vẫn còn khó bỏ qua được dễ dàng.”
Trong khi Graham Martin và những cộng sự viên còn lại của tòa địa sứ đã ra đi thực sự lúc 4g 58 sáng giờ Sài Gòn những đơn vị của lũ đoàn 9 thủy bộ bảo vệ cuộc di tản – gồm có 129 TQLC đã bị bỏ rơi lại vì vài lý do khó hiểu, không giải thích được. Những điều đáng tin cậy được nhen nhúm quanh sự việc này, nhưng những người trong chúng tôi ở phòng hội tòa Bạch Ốc không có thì giờ để nghĩ đến dư luận bên ngoài. Trực thăng vận đã hoàn tất. Đã 7g 53 tối giờ Hoa Thịnh Đốn và (đã thực sự là ban ngày ở Sài Gòn) khi chuyến trực thăng bốc người lính TQLC cuối cùng rời khỏi mái nhà tòa đại sứ.
Hai giờ sau đó đoàn xe tăng Bắc Việt lăn bánh vào Sài Gòn, một chiếc trong bọn ủi xập cổng chính của dinh độc lập. Không có sự bàn giao chính quyền bởi vì như thế sẽ áp đặt một sự độc lập hiện hữu hay ít ra là tự trị, Nam Việt Nam. Thay vì như vậy Minh cồ và toàn thể văn phòng nội các ông ta đã bị quản thúc và biến mât khỏi dư luận công cộng.
Chính phủ cách mạng lâm thời thoát thai từ mật trận giải phóng gây ấn tượng torng chính giới tây phương từ thập niên qua như là một chính phủ liên kết mọi thành phần ở Nam việt – cũng biến mất với Minh cồ. Trong vòng một năm cả hai Việt Nam được thống nhất theo truyền thống của cộng sản. Không phải là nền tự trị áp dặt cho miền Nam. Hàng trăm ngàn người ở miền Nam, kể cả những người ở trong chính quyền hay quân đội đều bị tập trung vào những cái gọi là “trại tù học tập cải tạo” – một danh từ hoa mỹ của các trại tập trung mà họ sẽ bị giam giữ hàng chục năm. Hàng chục ngàn người vượt biển làm thuyền nhân, nhưng nhà sư phật giáo đã từng đòi hỏi tự trị nơi nhà cầm quyền Sài Gòn đã góp phần với chính quyền Kenndy để lật đổ cố tổng thống Ngô Đình Diêm ở Nam Việt và chính phủ của ông ta đều bị bắt cầm tù trong những điều kiện hết sức dã man tàn bạo.
Ở Hoa Thịnh Đốn, không có gì thay đổi quan trọng do thảm cảnh Việt Nam cả. Ngày 1/5/75, một ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ, hạ viện đã bác bỏ yêu cây của Ford về ngân khoản 327 triệu để tài trợ và di trú dân tị nạn đông dương. Những nhà lãnh đạo hạ viện trong nhiều tuần họp đã tranh cải chống lại cố gắng cứu trợ người Việt, và bây giờ hạ viện lại bác bỏ ngân sách tị nạn cho những người đã được cứu vớt. Những ý kiến thứ hai rất ít và rất mập mờ.
Cuối cùng trong chiều hướng thuận lợi để được yên ổn tâm hồn dài hạn, nay mai đây, chúng ta phải duyệt lại vấn đề tại sao những người tâm huyết của cả mọi phía đều không tìm được lối thoát để tránh khỏi sự tàn phá và tại sao tấn bi kịch nội bộ đã làm chúng ta tê liệt nội bộ đầu tiên rồi làm chuyện chúng ta phải bó tay? Như trong ngày chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi mái nhà tòa đại sứ thì chỉ có cảm giác trống vắng bỏ không tồn tại mà thôi. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu trên trận tuyến để tránh sự thiệt hại cuối cùng đều rất am hiểu thảm trạng để ôn lại lịch sử của sự can thiệp của Hoa Kỳ trong 20 năm. Và bây giờ thì đã quá chậm để thay đổi cục diện mọi tình huống.
“The End of Việt Nam", trích từ “Years of Renewal” – 1999 của Henry Kissinger, Ph.D. Phụng Hồng phỏng dịch.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 9:55:26 GMT 9
NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN NÓI VỀ CHA LÝ
NHÂN BUỔI RA MẮT TẬP “HỎA LÒ”
Arlington, VA, 25-6-2001 (QGTTX).- Khoảng 150 người yêu văn nghệ đã có mặt hôm Chủ nhật vừa qua, 24-6, tại phòng họp lầu 3 Trường Luật George Mason (Arlington, VA) để dự buổi nói chuyện của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện về một đề tài thời sự nóng bỏng, “Cha Nguyễn Văn Lý, bạn tù của tôi,” và buổi ra mắt tập truyện ngắn Hỏa Lò mà ông vừa hoàn tất, Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ in ra.
Đại diện Ban Tổ chức, nữ sĩ Trương Anh Thụy lên cám ơn Trời đã cho một ngày thật đẹp và cám ơn người mà bà cho là còn “đẹp hơn” nữa, đã đến với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện sau thời gian ông vắng mặt ở trong vùng gần 2 năm. Người giới thiệu tác giả tập Hỏa Lò là ông Nguyễn Ngọc Bích. Ông trình bầy về những việc làm của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và những người yêu thơ ông trong vòng hơn 5 năm qua, từ khi ông sang Mỹ đến giờ. Thơ ông giờ đây đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, mới nhất là một tập trong tiếng Pháp, Fleurs de l’Enfer, và sự nghiệp thơ của ông cũng được ghi nhận trong cuốn Who’s Who is Twentieth-century World Poetry xuất bản ở Anh vào cuối năm ngoái.
Như đã được thông báo trước, khi lên diễn đàn, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã không chọn nói về mình mà lại tập trung vào đề tài “Linh mục Nguyễn Văn Lý, bạn tù của tôi.” Ông cho biết, ông đã gặp cha Lý ở trại Ba Sao ở miền Bắc, và “tôi nằm ở giường dưới, cha Lý nằm giường trên.” Vì ở trong tù cùng buồng nên cái gì cũng làm chung, từ ăn uống, chuyện trò đến cả đi tắm, đi cầu (diễn giả xin lỗi khi nói câu này) nên bao nhiêu cá tính của nhau đều rõ cả. Sau khi tả dáng dấp của Cha Lý, nhà thơ cho biết nét nổi bật ở cha Lý là sự hiền từ và đức độ. Không có cái gì Cha có mà Cha không chia xẻ cho những người thiếu thốn, kém may mắn hơn, Cha một mực tốt với hết mọi người nên đã thu phục được cả những người lúc mới vào không có mấy cảm tình với Cha và còn tìm cách hại Cha, gây chuyện để đánh Cha. Ngược lại, Cha rất thẳng thắn đối với những tên cai tù quản giáo hay chấp pháp mà hành hung người tù. Cha mắng thẳng: “Người với người không thể dã man như thế được. Nếu người ta làm sai thì dạy dỗ, khuyên nhủ người ta. Nếu người ta phạm tội thì đưa ra tòa xét xử chứ không được làm con người ta mất nhân phẩm.” Hiển nhiên, chúng rất ghét Cha và tìm cách cùm kẹp Cha sau đó nhưng Cha vẫn ngẩng mặt chấp nhận hình phạt. Khi ra tù, theo nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, Cha Lý nói là Cha sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh sau một thời gian cần bỏ ra để chuẩn bị là dăm ba năm, và Cha Lý đã làm đúng như Cha nói. Cái đặc biệt đáng ngưỡng phục ở Cha Lý là Cha không phân biệt lương hay giáo khi đi cứu trợ, giúp đỡ, cũng không chỉ tranh đấu cho một mình tôn giáo của Cha là Giáo hội Công giáo mà còn liên kết tranh đấu cho cả những tôn giáo khác vì Cha ý thức đây là một cuộc tranh đấu chung. Để kết, diễn giả cho rằng đã là Cha Lý thì những chuyện như tiền nong (cứu trợ chẳng hạn) là không thể suy suyển được dù chỉ là một cắc hay một xu.
Đến đây có một màn bất ngờ, họa sĩ Vũ Hối xin được tặng diễn giả một bức thư họa trên lụa ghi lại hai câu thơ kết nổi tiếng của Nguyễn Chí Thiện trong bài “Cuộc chiến đấu này”: “Ta muốn nói với loài dã thú / Khúc hát khải hoàn ta sẽ hát thiên thu.” Nhận bức tranh, Nguyễn Chí Thiện nói là khi nào Việt Nam có tự do, dân chủ thì tất cả người Việt chúng ta sẽ có cơ hội “hát thiên thu.”
Chuyển mục sang phần Văn nghệ phụ diễn, có hai màn: Bạch Mai được yêu cầu ngâm thơ và chị lên đọc hai bài thơ Nguyễn Chí Thiện trong một giọng ngâm thật điêu luyện và xuất sắc, “Vì ấu trĩ” và “Tôi là bạn.” Tiếp theo đó là đôi uyên ương Việt Long và Minh Hòa cũng xuất sắc không kém nhưng lại trong nhạc, với Minh Hòa hát bài “Hai hàng cây so đũa” (thơ tù của Nguyên Huy, Nguyễn Thành Trọng phổ nhạc) làm không biết bao nhiêu người sụt sùi rơi lệ: bài hát tả cảnh một người vợ trẻ dẫn hai con lên trại “cải tạo” để xin phép chồng dẫn con đi vượt biên. Kết thúc phần văn nghệ là anh Việt Long với bài “Tôi vẫn mơ hoài một giấc mơ,” thơ NCT mà anh mới phổ nhạc.
Phần 2 chương trình mới thực sự đi vào chủ đích là ra mắt cuốn truyện mới của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Nhà văn quân đội Phan Nhật Nam đã từ Minnesota bay về nói thật là hùng hồn và cảm động về những ưu điểm mà anh nhận xét thấy trong tập truyện Hỏa Lò, gồm 6 truyện ngắn và một truyện vừa, “Sương buồn ôm kín non sông.” Anh kể lại, trong tám năm trời bị kiên giam ở trại tù Thanh Cẩm (Thanh Hóa, nơi mà Đoàn Viết Hoạt cũng bị giam cầm nhiều năm trước khi được thả ra), anh có lần được nghe như một huyền thoại về một người tù làm thơ và vẫn kiên trì khảng khái hiên ngang trước sự bạo ngược của CS. Rồi anh cũng nói, ngày 28 tháng 4-75, trong sự tuyệt vọng của những ngày cuối trước khi miền Nam mất, anh tự hỏi, có ai thông cảm với nhân dân miền Nam không? Thì ra ở tận ngoài Bắc xa xôi, trong tù đày, vẫn có một Nguyễn Chí Thiện nói thẳng: “Khi Mỹ chạy, bỏ miền Nam cho CS...” và than: “Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan / Ta sống vạn ngàn cơn thác loạn.”
Sau Phan Nhật Nam đến lượt cựu Đại tá Quân pháp Nguyễn Cao Quyền, một cựu tù nhân chính trị. Ông Quyền nói: “Trong hơn 10 năm tù, đi hết từ Nam ra Bắc, tôi đã tự nhủ là ngày nào ra được với tự do, tôi nhất quyết phải kể lại kinh nghiệm của tôi cho hậu thế vì nó khủng khiếp quá. Làm sao con người có thể đối xử tàn tệ với con người như vậy được?” Nhưng rồi thời gian đã trôi qua, nhiều chuyện khác đã trở thành ưu tiên và ông đã không giữ được lời hứa như ông muốn. Khi được đọc tập truyện của Nguyễn Chí Thiện thì ông đã cảm thấy là nhà thơ làm hộ công việc đó, một cách thật xuất sắc. Đây là một cáo trạng đanh thép hơn tất cả các cáo trạng từ trước đến giờ về chế độ tù ngục Cộng sản, và điểm đáng nói là cáo trạng được vẽ lên bằng một bút pháp cao cường, sắc bén, nghệ thuật.
Buổi ra mắt đã kết thúc vào lúc 5g30 cùng ngày trong sự tiếc nuối của mọi người là không thể bàn thêm được nhiều hơn nữa về cuốn sách và những vấn đề được nêu ra. Điều khiển chương trình cả buổi một cách thật uyển chuyển là cựu sĩ quan Không quân và là một trưởng trong Gia Đình Phật Tử Vĩnh Nghiêm, Đào Hiếu Thảo. Một điều đáng nói nữa nhân dịp này là chưa bao giờ có một buổi ra mắt sách mà có sự tham dự đầy đủ đến như lần này của giới báo chí và truyền thanh. Trong các báo Việt ngữ người ta thấy có sự tham dự của các ông Nguyễn Minh Nữu (báo Văn Nghệ), Nguyễn Hữu Bình (Gió Mới), Phạm Bá Vinh (Sóng Thần), Trần Viết Tân (Đời Nay), Hoài Thanh (Đại Chúng), Giang Hữu Tuyên (HTĐVB) v.v. Hai đài VOA và ACTD cũng cho người đến làm tin, như trường hợp VOA làcó các ông Thiên Ân, Phạm Trần và Lê Văn.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:12:28 GMT 9
ĐỌC "VIỆT NAM NHÂN CHỨNG" CỦA TRẦN VĂN ĐÔN Phụng Hồng Năm 1966, sau khi xuất bản cuốn "Vietnam Witness 1953 - 66" (Việt Nam Nhân Chứng 1953 - 66) (2) tác giả là Bernard B. Fall đã bị nhiều người chỉ trích và phê bình khắc khe là đã có cái nhìn thiển cận và thiếu trung thực về những sự kiện lịch sử mà ông đã làm "nhân chứng". Oâng đã không chịu nghiên cứu sâu xa vấn đề. Ông đã nhận định chủ quan và đề cao sai lạc những hành động "hiếp dâm" lịch sử, phản bội dân tộc, bán nước buôn dân, gây tang tóc cho đất nước Việt Nam của tên Việt gian Hồ Chí Minh. Ngược lại ông đã cố tình dìm sâu những thành công rực rỡ cũng như những thành quả vẻ vang của miền nam dưới sự lãnh đạo của cố tổng thống (TT) Ngô Đình Diệm. Cuốn sách vì thế đã không gây được một tiếng vang nào trong giới trí thức chân chính thời đó. Đó là một sự thật hiển nhiên mà lý trí thông thường từng xác nhận. Bởi vì Bernard B. Fall chỉ là một người ngoại quốc, một người ngoại cuộc thì làm sao thấu rõ vấn đề bằng những người Việt Nam trong cuộc được? Vì vậy người ta đang trông chờ những cuốn sách đứng đắn do chính những người tên tuổi viết ra với những sự thật xác đáng để làm tài liệu khảo cứu cho hậu thế. Nói cách khác, người ta đang đợi để đọc những "nhân chứng" khách quan trung thực. Tôi nhận thấy cần phải mở một dấu ngoặc ở đây để minh xác rằng tôi không muốn nhắc lại đây cuốn "hồi ký chính trị" "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" của Đỗ Mậu. Là vì Đỗ Mậu đã lợi dụng nhan đề cuốn sách để bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, bội lọ cá nhân (3), nhận định sai lầm cũng như chạy tội và ngụy biện về hành động lừa thầy phản bạn của mình, đối với cái chết của anh em cố TT Diệm và ngày đảo chánh (chứ không phải Cách mạng, xin nói lại cho rõ) 1.11.1963. Nói cách khác, Đỗ Mậu đã tự đề cao mình quá đáng như những nhân vật "địa linh Quảng Bình" và chối bỏ trách nhiệm torng cái chết của hai vị nói trên. Đỗ Mậu đã có một quan niệm lệch lạc về sử quan cho đến những nỗi LS Nguyễn Văn Chức đã phải mất công viết một cuốn sách khác dày cộm không kém nhan đề "Việt Nam Chính Sử" (4) mà mục đích duy nhất là chỉ cốt để "đính chính" những sai lầm của Đỗ Mậu mà thôi! Thật là một chuyện hi hữu có một không hai vậy! Bây giờ lại đến lượt ông Trần Văn Đôn, một cựu Trung Tướng, Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu, Phó Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng ..... cho ra đời cuốn "Việt Nam Nhân Chứng" (VNNC), một loại hồi ký kể lại sự việc từ lúc ông ra chào đời mãi cho đến 7giờ 30-4-1975 tối ngày 29.4.75 lúc ông cùng gia đình từ giã phủ thủ tướng ở đại lộ Thống Nhất để phủi tay ra đi sống cuộc đời lưu vong trên một chuyến trực thăng của TQLC Đệ Nhất Hạm Đội Mỹ. Cuốn VNNC dày 562 trang gồm 15 chương, không kể phần lời nói đầu và phụ lục: 1. Từ tuổi trẻ vào thế chiến II, 2. Tình hình biến chuyển 1945 - 1946; 3. Tình hình biến chuyển 1946 - 1954; 4. Ngô Đình Diệm, thủ trưởng toàn quyền; 5. Đệ Nhất Cộng Hòa 1955 - 1963; 6. Tôi và Cuộc Cách mạng 1.11.1963; 7. Cuộc chỉnh lý 30-4-1975.1.1964; 8. Những xáo trộn liên tục; 9. Biến động miền trung; 10. Hòa Đàm ba Cộng Hòa; 11. Những Năm Chót Của Nguyễn Văn Thiệu; 12. Những tháng chót của Việt Nam Cộng Hòa; 13. Những điều nghe biết sau 30-4; 14. Bảo Đại; 15. Phần Kết: tương lai nước Việt . Cuốn sách kết thúc bằng những trang in lại các phóng ảnh chi phiếu công quỹ mà ông đạ sử dụng như để làm sáng tỏ lòng ngay thẳng "chí công vô tư" và sự sòng phẳng lúc còn đương nhiệm của ông. Vậy qua cuốn VNNC người đọc đã thấy gì? Phải thành thật mà nói, tác giả là một người chủ chốt của các biến cố lịch sử hiện đại qua hai triều Đệ I và Đệ II Cộng Hòa. Oâng là một vị tướng có học thức cao, kiến thức rộng so với các tướng khác trong hàng tướng lãnh của QLVNCH. Oâng lại xuất thân trong một gia đình quý phái quốc tịch Pháp, thừa hưởng những tinh hoa quý báu của thân phụ (là 1 y khoa bác sĩ đầu tiên tốt nghiệp trường thuốc Hà Nội và Pháp (tr.16 - 18) và từng lảm đại sứ Việt Nam tại La Mã dưới thời TT Diệm (trang 246 - 247). Nhận xét về tư cách và học thức của ông Đôn, LM Cao Văn Luận, nguyên Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, đã viết trong cuốn hồi ký "Bên Giòng Lịch Sử" như sau: "...Ông Lodge hỏi rõ ràng hơn: "_ Chắc là cha có biết nhiều về tướng Trần Văn Đôn? " ...Lúc đó tướng Trần Văn Đôn không còn giữ một chức vụ gì quan trọng trong chính phủ Nguyễn Khánh cho nên nghe ông hỏi đến tướng Đôn tôi hơi ngạc nhiên: "_ Tôi quen biết trong thời kỳ ông ta làm tư lệnh tại vùng này (tức vùng ICT - ghi chú thêm của người viết). Tôi thường gặp ông trong các dịp lễ lạc, nhưng cũng không thân tình lắm, hay biết về ông nhiều, tuy nhiên, tôi nghe nhiều người nói rằng ông Đôn là một tướng lãnh có trình độ văn hóa cao, đối xử với các quân nhân tử tế, nên được nhiều người trọng nể mến phục. Về chính kiến của ông thì tôi không dám bình phẩm chi hết ..." (trang 403 - 404) (5) Từ lâu, người ta - kể cả người viết bài này - tuy đã đọc nhiều tin tức, tường thuật của báo chí về những biến cố lịch sử trong 1/3 thế kỷ trở lại đây từ hồi còn ở quê nhà cho đến nay nhưng những sự thật và những bí ẩn vẫn chưa được tiết lộ đầy đủ bởi những người trong cuộc. Người ta vẫn chưa được hài lòng qua những tài liệu được đưa ra một cách và víu, sao lại, thậm chí có người đã bịa đặt, thêu dệt thêm cho có phần "lâm li bi đát" để câu độc giả. Với lòng náo nức đó, tôi đã đọc VNNC trong suốt 2 ngày 2 đêm liền và tôi đã thất vọng. Có những sự thật chưa được bổ túc. Còn nhiều bí ẩn quanh cái chết của anh em cố TT Diệm vẫn chưa được phanh phui, điều mà tôi nghĩ là mọi giới hằng lưu tâm đến thời cuộc nước nhà đều nức lòng muốn được nghe trực tiếo từ chính tác giả là người chủ động sẽ nói rõ "trắng đen tỏ tường". Aáy thế mà chính ông Đôn đã né tránh khi ông viết: "Bởi vậy người chịu trách nhiệm trực tiếp về cái chết của hai ông Diệm Nhu cho tới bây giờ vẫn còn trong vòng bí mật." (tr. 250). Đó là một điều không thể chấp nhận được. Ông Đôn là người quan trọng thứ hai sau Dương Văn Minh đứng lên chủ trương lật đổ TT Diệm, thế mà ông không biết AI RA LỆNH GIẾT TT DIỆM và ông cố vấn (CV) Nhu thì không thể nào quan niệm được! Hay ông muốn chạy tội vì sợ lịch sử kết tội chăng? Hay ông muốn trốn tránh trách nhiệm chăng? Hay ông sợ hậu thế phỉ nhổ là lũ người "lừa thầy phản bạn, ăn cháo đái bát" như người ta đã từng công kích và chê bai không tiếc lời Đỗ Mậu chăng? Cho đến ngày nay, vụ thảm sát anh em cố TT Diệm đã bị công luận và thế giới, nhất là chính giới Mỹ, kể cả "vua đảo chánh Cabot Lodge" cho đó là một hành động quá sai lầm và lên án nặng nề! Ông Đôn và "tập đoàn đảo chánh" ngày 1.11.63 phải biết rõ điều đó và phải nhận tội trước lịch sử. Sáng 2.11 lúc 8 giờ 30-4-1975 có một buổi họp thu hẹp giữa một số tướng lãnh từng chịu ơn mưa móc của cố TT Diệm tại bộ TTM duớ quyền chủ tọa của Trung Tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Các Tướng Lãnh (lúc này chưa có danh xưng Hội Đồng Quân Nhân Cách mạng, đến trưa đài Quân Đội mới đổi lại) Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ đã nói: " Nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc". Lời nói bóng gió này muốn ám chỉ gì? Lúc đó thì ông Đôn ở đâu? Ông về nhàngủ chăng? Thật là phi lý và quá mâu thuẫn! Và lúc Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân , người đã từng ra mật lệnh ám sát cố trung tướng Trình Minh Thế tại cầu Tân Thuận nam 1955 (6), đi đón cố TT Diệm và ông CV Nhu tại nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn, đã ra mật hiệu cho đại úy Nhung bằng hao ngón tay bàn tay trái đưa lên trời và ngón trỏ bàn tay phải co vào duỗi ra nhiều lần là muốn ngụ ý gì? Phải chăng là bắn chết cả hai người? Oâng Xuân tự động làm hay thừa lệnh ai? Tại sao ông Xuân đã báo cáo với ông Minh là "mission accomplie" (tr.231)? Như vậy là đã có xếp đặt trước? Vì vậy đọc đến trang 249, ông Đôn viết: "....tôi (tức ông Đôn) quả quyết rằng: _ Không có lời phát biểu công khai nào của tướng tá lúc đó đòi ohải xử tử hai ông Diệm và Nhu..." người ta không khỏi phì cười và chê là lý luận quá ngây thơ (không "công khai" tức làp hải hiểu "bí mật" chăng?) Để làm sáng tỏ vấn đề hơn, về điểm này, LM Cao Văn Luận đã viết như sau: "Khi xác chết anh em ông Diệm được đưa vào nhà thương Saint-Paul thì giây trói quật cánh khuỷu hai người vẫn còn nguyên. "Trên ngực ông Nhu có nhiều vết thương do dao đâm vào và một vết đạn súng lục trên đầu. Trên thân thể ông Diệm chỉ có một vết thương ở đầu. "Một người lính thiết giáp kể rằng ông Nhung (thiếu tá) (lúc đang nói ở đây ông Nhung chưa được thăng thiếu tá - lời ghi chú thêm của người viết) vốn có một người bà con theo đảng Đại Việt bị bắt và xử tử hay thủ tiêu trong thời kỳ cực thịnh của chế độ họ Ngô, đã cãi vả mắng chửi ông Nhu. "Ông Nhu nhìn ông Nhung cách lạnh lùng, khinh bỉ, và nói vài tiếng tỏ vẻ khinh miệt. "Ông Nhung đã giật súng có gắn lưỡi lê của một người lính thiết giáp đâm ông Nhu nhiều lát sau lưng, rồi ông Nhu ngã gục, nhưng vẫn chưa chết ngay, thì ông Nhung bắn một phát đạn súng lục vào đầu. Các cuộc khám nghiệm sau đó, và các phóng ảnh cho thấy ông Nhu bị nhiều vết thương do vật bén nhọn đâm từ lưng chổ ra bụng, và một vết đạn ở đầu. "Sau khi ông Nhu bị đâm nhiều lát, ông Nhung đã bắn một phát súng lục vào đầu ông Diệm, và phát đạn này kết liễu cuộc đời ông Diệm ngay lập tức (những tấm hình này, trong cuộc họp báo ngày 5.11.63 tại bộ TTM, Đỗ Mậu đã trưng ra như một bằng chứng cụ thể xác nhận anh em cố TT Diệm đã chết thật, vì lúc đó còn rất nhiều người hoài nghi hai ông chưa chết. (lời ghi chú thêm của người viết). " Một người khác kể thêm rằng, khi bắt được hai anh em ông Diệm trói quật cánh khuỷu, dẫn từ nhà thờ ra xe thiết giáp, tướng Mai Hữu Xuân đã đánh điện về các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu chỉ huy cuộc đảo chánh xin chỉ thị, sau một lúc bàn cãi, các tướng lãnh đã bỏ phiếu với đa số quyết định phải thủ tiêu ông Diệm gấp, vì lo sợ nếu để ông Diệm sống sót, thì một số đơn vị quân đội có thể ủng hộ ông chốn lại phe đảo chánh" (7) Trích dẫn đoạn trên của cha Luận (cũng là một nhân chứng!), tôi muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng vụ mưu sát hai anh em cố TT Diệm là một dự mưu đã được tính toán trước bởi một số tướng lãnh phản bội toa rập với để nghị của ngoại bang (vì nếu không thỏa mãn yêu cầu của họ thì họ không ủng hộ cuộc đảo chánh thì sức mấy mà thành công!). Tiếc thay, ông Đông đã cố tình miêu tả một cách hời hợt, như ngầm đổ lỗi cho đại úy Nhung, sĩ quan cận vệ tay chân của ông Minh, tự ý giết (trang 238), và mình không có trách nhiệm gì. Tuy nhiên, ta vẫn thấy ở một trang khác, tác giả đã để lộ ý định cho rằng giết TT Diệm là đúng (tr. 250). Chính trong cuốn "Our Endless War" (8), ông Đôn đã viết chương "Diem Must Go" và đã biện minh cho việc giết TT Diệm là hợp lý. Đọc đến đây, người ta băn khoăn tự hỏi nếu ông Đôn chối bỏ hành động cố sát TT Diệm thì tại sao lại ngụy biện vậy? Thật là mâu thuẫn không thể hiểu được! Đó là một sai lầm lớn. Trước khi đi qua phần phê bình khác, tôi muốn mời bạn đọc tìm hiểu thêm một ý kiến khách quan của một người ngoại cuộc, ông Von Wenland, Đại Sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức tại Việt Nam. Oâng này đã tâm tìn với cha Luận rất lâu sau ngày đảo chánh. Cha Luận đã viết: "Trước hết tôi đến gặp Đại Sứ Đức là ông Von Wenland. Oâng này phàn nàn về cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Tuy nhiên ông biết ông Diệm và chế độ của ông không tránh khỏi một vài tiếng khiếm khuyết nhưng không ai có thể phủ nhận những thiện chí của ông Diệm đối với Quốc Gia. "Cái chết của ông Diệm làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Tôi còn nhớ một đoạn trong câu chuyện của ông Đại Sứ Đức: "Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đây linh hồn ông Diệm sẽ phản phất nơi đây và sẽ gieo nhiều tai họa cho xứ sở mình. "Mặt ông đượm buồn, và giọng ông hết sức chua chát. Oâng cho biết ông đã đệ đơn từ chức và sẽ rời Việt Nam trong ít lâu." (9) Và sự thật cũng đã chứng minh một ách hùng hồn như chúng ta đã từng là Nhân Chứng từ 1975 đến nay. Vậy ta có thể kết luậnm cách đau lòng rằng "Cuộc Đảo Chánh 1.11.63 đã làm cho Việt Nam mất vào tay giặc cộng sản Bắc Việt" Bạn có đồng ý với tôi không? Nếu bạn không đồng ý, xin mời bạn hãy đọc tiếp đoạn này: "....Cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay trở lại có cảm tình với ông Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế ông Diệm cũng dần dần hiện rõ và người Mỹ thấy bộ mặt đó chẳng đẹp đẽ gì hơn. "Những người Mỹ trong đó có cựu đại sứ Nolting, tướng Harkins, ông Richardson, giám đốc trung ương Tình Báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1.11 chẳng những sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt quân sự, Quân Đội Việt Nam mãi lai canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho Việt cộng." (10) (sự bãi bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược mà Việt cộng từng ghê sợ nhất, là một thí dụ điển hình-lời ghi chú thêm của người viết). Đây là một bằng chứng hùng hồn nhất, một bài học lịch sử đau đớn nhất cho những ai từng tự vỗ ngực huênh hoang cho mình là "người hùng cách mạng", và tự đeo lon to nhất để suy gẫm lấy. Và tôi cũng muốn những người đã "bái lạy tướng to lon" để mưu đồ đảo chánh, phản bội chủ mình hãy tự kiểm điểm lại hành động mình mà ăn năn hối lỗi. Nhưng chậm quá rồi! Lịch sử và những vượt biên trên biển cả, những hồn thiêng trong Tết Mậu Thân, trong "lò luộc người cải tạo" chắc chắn không bao giờ tha thứ bọn người này! Đó là một sự thật cay đắng mà ai nấy đều đã thấm thía khi phải "tha phương cầu thực". Và sau cùng, tôi muốn nhân dịp này nhắc lại câu nói để đời của William Colby, cựu Giám Đốc Trung Ương Tình Báo đã từng hoạt động nhiều năm tại Việt Nam, và là người am hiểu tình hình chính trị Sài Gòn hơn ai hết, khi hối tiếc về cái chết của TT Diệm trong cuốn sách mới nhất của ông (11): "Nếu ông Diệm còn, chưa chắc miền Nam mất." *** Đến đây, người đọc vô cùng thắc mắc và tự hỏi không biết nguyên động lực nào đã thúc đẩy ông Đôn liên kết vài tướng khác để mưu đồ đảo chánh TT Diệm, người mà ông từng có liên hệ mật thiết từ cá nhân đến gia đình (trang 101 và 107). Vì những yêu sách torng bản điều trần không được TT Diệm chấp thuận cải tổ chăng? Vì vụ "tranh đấu Phận Giáo" chăng? Vì lòng dân không muốn chính quyền Ngô Đình Diệm tồn tại nữa chăng? Tôi không tin là đúng và tôi chắc còn có nhiều nguyên nhân sâu xa khác. Tôi nghĩ là ở một khía cạnh nào đó ta phải đề cập đến nguyên tắc "thay ngựa giựa giòng" của ngoại bang để dễ bề thao túng, một khi mà mọi sinh hoạt trong nước đều lệ thuộc vào đồng tiền của họ. Đó là một chính sách vô cùng lầm lẫn và tai hại mà bây giờ mọi người mới thấy rõ. Hai điểm son nổi bật nhất nơi con người ông Đôn là: (dưới thời chính phủ Diệm) _ Một sĩ quan ngay thẳng, tự trọng và cương trực _ Có một quyết định sáng suốt khi ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh (1954 - 55) Ông Đôn rất khác những tướng lãnh khác khi trình diện TT Diệm, ông CV Nhu hay ông Cẩn thường hay nịnh bợ, luồn cuối hoặc thường hay xưng "con". Trái lại lúc nào ông Đôn cũng giữ một niềm tôn kính đúng quân kỷ. Oâng không bao giờ xưng "con" với TT Diệm hoặc với ông CV Ngô Đình Cẩn trong suốt thời gian ông giữ chức Tư Lệnh QDI/VICT tại Huế và Đà Nẵng. Oâng không bao giờ tự hạ mình, khiếp nhược, hoặc khúm núm như những người công thần thời đó là thời kỳ thịnh nhất của nhà Ngô. Oâng không xu nịnh gia đình nhà Ngô để "kiếm điểm lập công" hoặc "báo cáo vu khống" người khác để lên lon như một số người đã làm. Vì thế chính gia đình nhà Ngô đã kính nể ông. Điều này, tác giả đã có nêu ra trong VNNC (tr.103, 109, 110 và 111) Đã có lần LM Cao Văn Luận nói với tôi rằng: _ Phải công nhận trong hàng tướng tá , bộ trưởng, chánh sở .... thì ông Đôn là người đứng đắn nhất. Tôi không bao giờ thấy ông ta xưng "con" với TT hay với "ông Cậu". Trong những lúc nói chuyện, ông đều gọi "Tổng Thống, ông Cậu" và xưng "tôi" đàng hoàng. Oâng không tỏ vẻ sợ sệt, đúng việc là làm, và bất cần những lời dèm pha của bọn tôi tớ. Điều đó cũng dễ hiểu vì ông ta có một căn bản hoc vấn tốt, một nền giáo dục gia đình vững. Những người khác ít học nên đã có những cử chỉ nịnh bợ quá mức... Những ai thực sự ở Sài Gòn trong những ngày dầu sôi lửa bỏng, u ám nhất của lịch sử 1954 - 1955 chắc còn nhớ sau khi ông Diệm về nước, tình hình rất lộn xộn. Một bên thì loạn Bình Xuyên với Lai Hữu Sang, Lai Hữu Tài lộng hành lấn quyền hầu như vô kỷ luật, vô chính phủ. Một bên là quân đội giáo phái tập quyền hống hách một bùng, hùng cứ một cõi tự trị. Một phía khác thì Nguyễn Văn Hinh và thuộc hạ thân Pháp và Bảo Đại bất hợp tác và tự quyền, âm mưu phá hoại. Tôi còn nhớ hồi đó Nguyễn Văn Hinh đã thao túng đài quân đội và ra lệnh cho TS Văn Thiệt (người có giọng nói khét rẹc, cộc cằn), xướng ngôn viên, luôn luôn đọc những bài vu khống, mạ lị, công kích cá nhân ông Diệm. Nguyễn Văn Hinh còn thành lập một tổ chức gọi là "Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia" quy tụ Bảy Viễn Cao Đài, Hòa Hảo và một số tướng tá khác bất tài, ngu dốt nhưng bất mãn vì không được thủ tướng Diệm trọng dụng. Oâng Hinh đã đích thân hướng dẫn đoàn đến dinh Độc Lập để yêu sách ông Diệm từ chức! Trong thời gian này, ông Diệm đang cô thế, chưa nắm vững quân đội, ít người ủng hộ ông. Nhân tâm ly tán. Trước tình thế bi đát tuyệt vọng này, chỉ có hai đại tá là Trần Văn Đôn và Trần Văn Minh đứng ngoài cuộc tranh chấp và ủng hộ ông Diệm. Tiếp đến khi Bảo Đại triệu ông Hinh qua Pháp vì áp lực cố vấn Mỹ, Bình Xuyên gây hấn ở Đô Thành, pháo kích vào Bộ TTM ở đường Trần Hưng Đạo, dinh Độc Lập và đốt nhà khi Thành Thái (Nancy cũ), ông Đôn đã sáng suốt nhận định con đường phải theo và tuyên bố ủng hộ ông Diệm. Ông đã tứ bỏ quốc tịch Pháp để được vinh thăng Thiếu Tướng cùng với Đại tá Trần Văn Minh (điều này không thấy ông nhắc đến VNNC, mà chỉ nói ông Diệm và ông Nhu muốn cho ông lên tướng để đảm nhiệm chức Tổng Tham Mưu Trưởng (trang 119, 123, 125). (còn tiếp) Phụng Hồng
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:13:19 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo kỳ trước)
Ta hãy nghe ông Đôn kể lại chi tiết để biết rõ lòng dạ ông lúc đó:
"Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1955, Nguyễn Văn Vỹ hấp tấp mời ký giả đến tuyên bố rằng quân đội cũng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh Ngô Đình Diệm bị nhóm Nguyễn Bảo Toàn, Nhị Lang, Trình Minh Thế lấn quyền. Báo chí và đài phát thanh cũng loan tin này. Tôi phân vân lo lắng. Một bên là Bình Xuyên đang nổ súng, có Bảo Đại và Pháp đang che chở, một bên là Ngô Đình Diệm sắp bị khống chế, bây giờ quân đội lại tính đảo chánh. Sự lộn xộn này chắc chắn sẽ dẫn đến những tệ hại khôn lường cho quốc gia. Tôi điện thoại mời Lê Văn Tỵ lại cùng với Nguyễn Hữu Có và Dương Văn Đức. Đến nơi, Lê Văn tỵ hỏi:
_ Các anh đang làm gì đó?
Nguyễn Văn Vỹ trả lời:
_ Tôi đảo chánh.
_ Anh lấy gì để đảo chánh?
_ Quân đội.
Ông Tỵ lột sao của mình bỏ xuống bàn:
_ Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi không theo anh đâu! (trang 129).
Rồi tiếp theo, tác giả trình bày ý định của mình ở những trang sau:
" Tôi quyết định phải dẹp loạn Bình Xuyên. Tôi đã ra lịnh chiến đấu với quân Bình Xuyên từ mấy ngày nay. Tôi không thể tiếp tay bất kỳ ai lật đổ Ngô Đình Diệm, thay bằng tướng cướp Bảy Viễn để đoàn quân vô kỷ luật ấy lộng hành. Tôi quyết định chọn con đường tôi tính mấy ngày nay nên cùng với Lê Văn Tỵ tuyên bố ủng hộ Ngô Đình Diệm. Đài phát thanh loan đi lời tuyên bố của chúng tôi. Các anh em tướng tá đang thảo kế hoạch đảo chánh nghe, họ đang đợi tôi về để hỏi lại cho rõ ràng.
"Họp xong tôi trở về tư dinh Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi vô gặp các anh em đang ăn cơm trưa, nhiều người tức giận tôi nhưng tôi giải thích rằng nếu đảo chánh sẽ rối loạn thêm, nhất là tình thế đang sôi động với Bình Xuyên. Tôi ra đi, anh em giải tán. Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó bay qua Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong.
“Tôi ra lịh tiểu đoàn Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của đại úy Lâm Quang Thơ xoay sang đi đánh Bình Xuyên bên kia cầu chữ Y" (trang 130).
Người đọc phải công nhận đây là một hành động sáng suốt và hợp lý của đại tá Trần Văn Đôn lúc bấy giờ. Thử hỏi lúc đó, với tư cách làm tham mưu trưởng, chỉ cần một mình ông Đôn thôi ngả về phe đảo chánh Nguyễn Văn Vỹ thì tình hình sẽ biến chuyển trầm trọng đến mức độ nào? Có lợi cho ai? Tương lai miền Nam đi về đâu? Nguyễn Văn Vỹ nếu thành công thì sẽ làm được gì ích quốc lợi dân? Tương lai những người trẻ chúng tôi chẳng lẽ lại giao phó trong tay tên tướng bất tài này ư? Đâu có được! Tôi còn nhớ đêm 29.4.55, Bình Xuyên nổ súng vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và khu Pétrus Ký, Thiếu Tướng Trình Minh Thế đã tổ chức buổi họp báo sáng hôm sau tại bản doanh ở đường Trương Minh Giảng (Eyriaud des Vergnes cũ) để minh xác lập trường ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Báo chí đã tường thuật và nhắc đến một câu chí lý của ông Thái Lân tức Nhị Lang, cố vấn chính trị kiêm phát ngôn viên của tướng Thế: "Cuộc gây hấn đêm qua chỉ có lợi cho cộng sản!"
Tuy nhiên muốn hiểu rành mạch căn nguyên của biến cố trọng đại này, tôi xin trích vài đoạn tường thuật khác của tác giả mà tôi không đồng ý (có lẽ vì tác giả không đi vào chi tiết hay không nắm vững tình hình dinh Độc Lập trước đó).
" Vào Dinh Độc Lập cùng với Lê Văn Tỵ, Trần Văn Minh, Nguyễn Văn Vỹ, tôi đã thấy Nhị Lang, Trình Minh Thế và nhiều người khác đang họp. Tôi đoán họ đang họp để xác định việc ủng hộ Ngô Đình Diệm và truất quyền Bảo Đại. Chắc họ đã nghe biết tin Bảo Đại đưa Nguyễn Văn Vỹ nắm tổng tham mưu trưởng, gọi Ngô Đình Diệm qua Pháp...
" ... Trần Trung Dung vội vàng bước vô nói:
“ _ Cụ! Cụ! Chúng nó đang định bắt giết ông Vỹ!
“ Lúc đó bên ngoài Nhị Lang chĩa súng vào Nguyễn Văn Vỹ và đang lột sao của Vỹ. Ngô Đình Diệm vội kéo Nguyễn Văn Vỹ vào phòng ngồi với chúng tôi. Ngô Đình Nhu ngưng họp đi ra đi vô can gián:
“ _ Thôi đừng nóng, mấy ông tướng đang họp bàn chuyện với cụ." (trang 125)
Giữa tình thế giằng co gây cấn này, ông Đôn sợ nguy hiểm đến tánh mạng mình, vì phỏng đoán nếu hành động phi thường của ông Nhị Lang thanh toán xong ông Vỹ thì cũng có thể quay qua uy hiếp luôn cả mình, nên ông Đôn bèn điện thoại kêu cứu Đỗ Cao Trí lúc đó đang chỉ huy tiểu đoàn Nhảy Dù phục ở Chợ Lớn chưa ra mặt ủng hộ ông Diệm công khai và đang còn lưng chừng, đem quân “bao vây” dinh Độc Lập để làm hậu thuẫn, bảo vệ an ninh cho cá nhân mình (?). Ông viết tiếp:
“ Ngô Đình Diệm bực mình vì khó xử, đòi bỏ ra ngoài ngủ với những người lính gác. Ngô Đình Nhu cũng tỏ vẻ không bằng lòng. Tôi biết giờ phút đó, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đứng giữa, một bên thì tiêu biểu cho Ủy Ban Cách mạng, vừa được đại hội các đoàn thể bầu ra để ủng hộ mình, một bên là các tướng tá đang có quân đội trong tay. Chỉ vì hành động quá khích của Nhị Lang và Hồ Hán Sơn mà tình thế trở nên rối rắm." (trang 126)
Tôi không đồng ý với lối lập luận này của tác giả. Tôi cho là hành động phi thường, lanh trí quyết định chớp nhoáng của ông Nhị Lang “chỉa súng lột lon tướng Vỹ” hôm đó là rất hợp lý, hợp tình. Bởi bì nếu không có mũi colt 45 của Nhị Lang thì chắc là tướng Vỹ đã thành công áp đảo thủ tướng Diệm từ chức, đưa Bảy Viễn lên làm thủ tướng, thì lúc đó chắc là "tình thế" sẽ trở nên vô cùng hỗn độn, rối rắm bội phần hơn là ông Đôn tưởng! (kế hoạch của Bảo Đại, trang 124).
Tiếp theo tác giả viết:
“Quyết định truất phế Bảo Đại của Đại Hội không có sự hiện diện của Ngô Đình Diệm, lại thêm chuyện chĩa súng đòi bắn và lột lon Nguyễn Văn Vỹ ngay trong Dinh Độc Lập, rõ ràng là họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm.
"Việc anh em tướng tá chúng tôi tình cờ vào dinh giúp nhiều cho Ngô Đình Diệm trong việc lấy lại quyền hành. Khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ mới nghe lời Ngô Đình Diệm, hết còn hống hách." (trang 128).
" .... Chuyện không ngờ là Đại hội quyết định quá mạnh mẽ và ông Nhị Lang lại có hành động làm tổn thương đến tự ái của các tướng tá. Chính ông quyết định này và hành động chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay.
" Trước tình thế này, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bối rối phải can gián giàn xếp cho được lòng cả hai bên. Đến 11 giờ, họ – những nhân vật trọng yếu trong Liên Minh của Trình Minh Thế và của các giáo phái võ trang như Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Nhị Lang. Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ, Nguyễn Thành Phương – mới đồng ý để chúng tôi ra về sau khi dùng cơm với họ." (trang 128).
Chính vì lập trường chưa được rõ rệt trong giờ phút đó nên ông Đôn đã bị Liên Minh hiểu lầm là về ohe tướng Vỹ, và cũng bị Liên Minh "tạm giữ" tại dinh cùng với số phận tướng Vỹ. Nhưng ông Đôn lý luận rằng "họ không nể nang gì Ngô Đình Diệm", khi biết quân nhảy dù của Đỗ Cao Trí đang bao vây Dinh Độc Lập, họ hết còn hống hách" và ông Đôn còn cho rằng quyết định của Hội Đồng Nhân Dân Cách mạng mà ông Nhị Lang làm tổng thư ký, cùng việc "chĩa súng làm cho Ngô Đình Diệm lo ngại cho quyền uy của mình đang lung lay" là sai lạc và không thực tế. Ông Đôn quên rằng lúc đó tướng Thế và tướng Phương cũng đã điều động mấy tiểu đoàn quân trực thuộc cơ hữu và bọc hậu phía sau dinh Độc Lập tại đường Trần Quý Cáp (Testard cũ) chăng? Chính sự cuơng quyết của ông Nhị Lang và của hai vị tướng này mới làm cho Đỗ Cao Trí dịu lại và tình thế bớt cang thẳng, khi Trí thấy ông Diệm đã có hậu thuẫn quân sự, gây đổ máu cũng không ích gì mà còn thiệt lấy thân. Kết quả là Đỗ Cao Trí sau đó được vinh thăng Trung Tá chỉ huy thực thụ liên đoàn Nhảy Dù có trung tá Nguyễn Chánh Thi phụ tá! Ngoài ra như trên đã nói, quyết định của Đại Hội là hợp lý và hành động hy hữu của ông Nhị Lang chính là hau yếu tố cần thiết để cứu ông Diệm ra khỏi cơn ngặt nghèo và nâng cao uy tín của ông Diệm đồng thời củng cố thêm quyền hành của ông. Thủ tướng Diệm sau đó nghiễm nhiên trở nên hợp pháp đại diện cho nhân dân miền nam vì lý do quyết định của Đại Hội Đồng (chứ không còn dính líu gì đến quyết định của Bảo Đại như lúc trước nữa; mà Đại Hội Đồng là ai? Chính là do toàn dân bầu ra trong một phiên họp khoáng tại Tòa Đô Chánh một ngày trước đó, để thay mặt nhân dân mà quyết định vận mệnh đất nước vậy). Ông Đông chắc không thấu rõ khía cạnh căn bản pháp lý đó mà chỉ đứng về “tự ái cá nhân” nên đã có những nhận xét hời hợt một chiều. Tôi còn nhớ những ngày Trưng Cầu Dân Ý 23.10.55, một ký giả Pháp của nhật báo JEO (Journal d' Extreme Orient – Viễn Đông Nhật Báo, xuất bản tại Sài Gòn) đã hỏi ông Diệm nghĩ gì về sắc lệnh của phế chế Bảo Đại, do Nguyễn Đệ đánh điện về cách chức – thủ tướng của ông đã do ông ta bổ nhiệm? Ông Diệm đã điềm nhiên trả lời: " Ca c' est du passé" (Điều đó thuộc về quá khứ). Nhiều người cho đó là một câu trả lời ý vị và tuyệt diệu!
Để chứng minh cho lời giải thích trên tôi muốn trích dẫn lại đây lời diễn dịch của chính người trong cuộc, “tác giả chủ động” cuộc chĩa súng kia. Đó là nhà văn, nhà cách mạng lão thành Nhị Lang đã mô tả tỉ mỉ sự việc diễn tiến trong pho lịch sử ký sự giá trị "Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế" (12):
" Khi tôi tới nơi vào khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi bắt gặp một số đông sĩ quan Quân Đội Quốc Gia ước chừng 50 người đang ngồi chật cả phòng khách ở từng dưới dinh Độc Lập. Trên lầu, chúng tôi lại thấy thiếu tướng Lê Văn Tỵ đang ngồi trong một phòng khách nhỏ với một tướng lĩnh khác mà tôi không biết tên. Thấy hơi lạ, tôi bèn nhờ đại úy tùy viên Tạ Thành Long kín đáo đi dò xét tình hình xem tại sao thủ tướng Diệm lại định tiếp kiến một lúc quá nhiều sĩ quan như vậy. Tạ Thành Long tìm hiểu được lý do, vội vàng hốt hoảng trở lại cho hay là Tướng Nguyễn Văn Vỹ (người cùng ngồi với tướng Tỵ) đã thừa lệnh Bảo Đại cướp đoạt quyền binh trong tay tướng Tỵ từ lúc chiều, và được tướng Tỵ cùng các sĩ quan kia hộ tống vào dinh Độc Lập để cướp đoạt nốt quyền lãnh đạo chính phủ trong tay thủ tướng Diệm! Như thế có nghĩa là số người này hoàn toàn đồng lõa với tướng Vỹ, kéo nhau vào đây tuy không gươm dao, nhưng rõ ràng là muốn lấy số đông gây áp lực bao vây thủ tướng Diệm như bao vây một con chim nhỏ để bắt buộc ông đằng nào cũng phải nhượng bộ, rời khỏi chính quyền. Cần nhắc lại rằng, Bảo Đại không những triệu thỉnh thủ tuớng Diệm sang Pháp, mà còn đòi cả tướng Lê Văn Tỵ cũng phải bỏ cả nhiệm vụ đi theo. Mặt khác, Bảo Đại đặc phong cho tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Quốc Gia, một điều mà các tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ và Nguyễn Thành Phương đã công khai phản đối bằng một quyết nghị chung. Hành động như trên, quả thực Bảo Đại đã vượt ra ngoài phạm vi thể chế buổi đương thời. Vì một chế độ với Quốc Trưởng, với thủ tướng, thì chức tổng tư lệnh phải thuộc về tay Quốc Trưởng, còn người cầm đầu quân đội chỉ có thể là tổng tham mưu trưởng mà thôi. Gia chi dĩ, thủ tướng Ngô Đình Diệm khi lãnh đạo chính quyền với điều kiện “thừa lệnh Đức Quốc Trưởng” tức là mặc nhiên đã là người thay mặt quốc trưởng một cách hợp pháp, và mặc nhiên nắm quyền tổng tư lệnh tối cao. Vậy tại sao Bảo Đại còn phong chức tổng tư lệnh cho tướng Nguyễn Văn Vỹ nữa?
Phụng Hồng
(còn tiếp)
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:14:24 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo kỳ trước)
“Khi nghe biết được biến cố trọng đại như trên, ai nấy bàng hoàng sửng sốt. Biết được người đeo lon thiếu tướng lạ mặt kia là Nguyễn Văn Vỹ, tôi liền nảy ra ý kiến bắt ông ta tại chỗ. Tôi chỉ kịp bàn qua vài câu với các tướng Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương, và cả hai ông đồng ý gật đầu cho tôi ra tay. Thế là tôi lặng lẽ tiến ra hành lang phía sau dinh Độc Lập, khi tới chỗ phòng khách nơi ông Vỹ đang ngồi tư lự, tôi nhanh nhẹn rút khẩu súng colt 45 trong chiếcc cặp ra, chĩa thẳng vào người tướng Vỹ, ra lệnh: "Giơ tay lên! Không tôi bắn"
tướng Tỵ trông thấy trước, vội đứng ngay lên và tướng Vỹ cũng hoảng hốt đứng lên theo, hai tau giơ cao khỏi đầu. Tướng Tỵ liền liều mạng chạy lại ôm lấy tôi, năn nỉ can thiệp để cứu Vỹ. Nhưng tôi sợ ông ta thừa cơ đoạt súng, nên đưa tay trái gạt ông ra và bảo: "Việc này không liên hệ tời thiếu tướng, xin đừng làm trở ngại!" Mặt khác tôi gọi Hồ Hán Sơn và bảo: "Hãy bốc hộ ga lông của ông này cho tôi!"
“Thủ tướng Diệm liền được báo tin. Oâng tất tả chạy vào ôm lấy tôi ngay trước mũi súng, và hổn hển nói: "Tôi xin ngài! Tôi xin ngài đừng làm đổ máu tại đây! Việc gì còn có tôi đây giải quyết, xin ngài đừng nóng giận!" ...
" ...Tướng Thế và tướng Phương dùng điện thoại liên lạc về hành dinh, ra lệnh cho các đơn vị võ trang sẵn sàng ứng chiến ..." (trang 306 – 307)
Tại sao thủ tướng Diệm lại đi che chở và bênh vực kẻ thù toan "đảo chánh" ông? Ta hãy nghe Nhị Lang giải thích tiếp:
"Chẳng qua thủ tướng thấy rõ ngay trong chốc lát rằng khi mà tướng Vỹ đã phải giơ tay đầu hàng trước mũi súng của tôi, thì ắt là thế lực và uy tín cá nhân của ông ta chẳng còn gi. Bộ hạ của ông ta không dám làm càn, bởi không muốn ông ta bị hạ sát ngay. Do đó mà thủ tướng tạm đóng vai quân tử đối với kẻ thù, để có thì giờ tìm một giải pháp êm đẹp, không gây đổ máu tại Dinh Độc Lập. Trong lúc ngồi điều đình tôi thấy thủ tướng luôn luôn ngả theo các ý kiến của tôi, và cứ trông đợi nơi tôi một thái độ ít cứng rắn hơn. Thủ tướng cũng không thể không nhận chân sự phản bội trắng trợn của tướng Lê Văn Tỵ ..." (trang 312 – 313)
Qua những dòng diễn tả trên, người đọc đã nhận chân được cung cách xử sự quân tử của TT Diệm, thái độ của kẻ sĩ thời loạn luôn luôn bao dung đối với cấp dư?i và hành động chẳng đặng đừng của ông Nhị Lang. Ta lại còn thấy rõ bộ mặt thật và lòng dạ bất chính của "Người anh cả trong QLVNCH" sau này.
Kết thúc chương này, Nhị Lang còn viết thêm về những khuôn mặt phản trắc thời đó như muốn hé mở cho ta thấy:
" ... Về phía quân đội, tôi nhận ra nhiều khuôn mặt đã theo tướng Vỹ chiều hôm qua, và tôi tự hỏi không biết họ sẽ "trung thành" với thủ tướng Diệm tới mức độ nào?" (trang 315)
Tôi cũng lại tự hỏi không biết lúc đó có mặt tướng Trần Văn Đôn không. Nếu có, không biết ông Nhị Lang có ám chỉ ông này không? Nếu quả thật đúng như vậy thì ta sẽ không lấy làm lạ gì sau này, ông Đôn lại đi móc nối bè lũ để tạo ra trang sử nhơ nhuốc này ngày 1.11.63! Ôi thế thái nhân tình là thế đó! Hỡi ôi!!!
Như trên đã nói, tôi hoàn toàn bác bỏ ý kiến và nhận định thiếu khách quan của ông Đôn cho rằng hành động chỉa súng của ông Nhị Lang là “quá khích”. Để vấn đề được minh bạch hơn, xin mời độc giả đọc tiếp lập trường của ông Nhị Lang lúc đó:
" ... Người Liên Minh chúng tôi sống 5 năm trong rừng núi, quen với cuộc đời đầu đội trời chân đạp đất, dù rằng gian nan chồng chất. Khi về thành, trông thấy bọn chân tay cũ của Pháp tung hoành, chúng tôi không tài nào chịu nỗi. Tới lúc nghe thấy tướng Vỹ toan làm chuyện đảo điên đất nước, lại thêm một tướng lĩnh quân đội quốc gia như Lê Văn Tỵ đầu hàng đối phương vô điều kiện, riêng lòng tôi thật lấy làm căm giận ... Thoáng trong giây phút, tôi tự hỏi mình, nếu Nguyễn Văn Vỹ đã cướp quyền trong tay Lê Văn Tỵ, và nếu lát nữa đây, Vỹ lại cướp luôn quyền lãnh đạo chính phủ của thủ tướng Diệm, thì số phận đoàn quân Liên Minh của chúng tôi sẽ như thế nào đây?
"Chúng tôi chỉ vì cảm phục thủ tướng Diệm, vì động lòng trước mối tình tri ngộ thắm thiết của ông, mà lìa bỏ chiến khu về thành. Nếu bây giờ thủ tướng Diệm bị đối phương áp đảo phải nhượng quyền, rồi hoặc chết, hoặc ra đi với hai bàn tay trắng, thì anh em chúng tôi quả thật là những kẻ khờ dại, bỗng không biến thành "đứa con côi", bị ném vào giữa một đám người xa lạ đầy mưu cơ xảo quyệt, sớm muộn chúng tôi cũng sẽ chết. Việc ấy không thể xảy ra được. Cần phải ra tay trước. Hơn nữa, xét theo hoàn cảnh buổi đương thời, đem một Ngô Đình Diệm ra để so sánh với những Bảo Đại đầy tội lỗi với nước non, thử hỏi tôi nên chọn ai đây? Ngô Đình Diệm không làm tay sai cho Pháp, chưa hề phạm tội với giống nòi. Người ấy đang có sứ mạng đương đầu với hiểm họa cộng sản, đang lo định cư hàng triệu đồng bào Bắc Việt thì có lẽ nào chúng tôi lại nỡ bỏ ông để xu phụ phe đối nghịch? Chúng tôi sở dĩ liều mình ủng hộ Ngô Đình Diệm là ủng hộ con người đạo đức ấy ...” (trang 316 – 317)
Rồi Nhị Lang kết luận với lời nhận xét như là một bản án kết tội những kẻ đã lật đổ ám hại “con người đạo đức ấy”; đã đặt quyền lợi cá nhân mình trên quyền lợi tối thượng của quốc gia dân tộc; đã cam tâm cúi đầu làm tay sai cho ngoại bang mà không có một đường lối, chính sách rõ rệt sau ngày đảo chánh:
" ... Thí dụ ông Diệm là người không xứng đáng khiến các anh chủ trương lật đổ, thì mai đây chẳng những các anh không tìm được “Minh quân thánh đế”, mà trái lại, các anh sẽ bắt gặp hàng chục "Ông Diệm" khác ghê gớm hơn! Nhưng tôi cam quyết với các anh, chỉ trong vòng 5 năm trở lại đây thôi, hoặc chậm nhất là 10 năm, ông Diệm sẽ lại được suy tôn là anh hùng dân tộc! ....
"Quả nhiên, tôi nào có nói sai? Chưa đầy 4 năm sau cái chết của ông Diệm, khi tên quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu – một đồng lõa đắc lực của bọn Dương Văn Minh trong cuộc hạ sát Diệm Nhu – chiếm ghế chủ tịch của cái gọi là "Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia" thì ngay giữa lòng thủ đô Sài Gòn đã phát sinh phong trào "Phục hồi danh dự cho cố tổng thống Diệm". Khắp nơi tổ chức truy điệu, cầu hồn cho ông. Nhục nhã thay, chính bản thân tên Thiệu chẳng những không dám ra tay đàn áp phong trào ấy, mà hắn còn lén lút cho vợ hắn đi ngả sau, tham dự lễ cầu hồn ông Diệm, người mà hắn phản bội mấy năm trước." (trang 318)
Trích dẫn dài dòng những đoạn trên, cũng một "nhân chứng" thứ hai mà cũng là của một nhân vật quan trọng buổi đương thời đã xoay chuyển tình thế góp công không nhỏ vào sự tạo dựng nền Đệ Nhất Cộng Hòa, tôi muốn để độc giả có thêm tài liệu lịch sử đối chiếu trong một tinh thần khách quan nhận xét và phê phán lịch sử. Và tôi cũng muốn chứng minh rằng, ông Đôn đã lý luận sai lầm khi nghĩ rằng "mình vào dinh Độc Lập là để giúp đỡ ông Diệm l?y lại quyền hành" như ông đã viết. Và cũng không lần nữa, tôi muốn xác định lại quan điểm của người viết là cuộc đảo chánh 1.11.63 là một lỗi lầm to lớn đưa đến thảm họa lưu vong ngày nay để đánh đổ những luận điệu đề cao xuyên tạc từ trước đến nay.
Về cái chết lịch sử của cố trung tướng Trình Minh Thế, thay vì cần phải mô tả tỉ mỉ thì trái lại ông Đôn đã có ý kiến sơ sài, không đúng sự thật. Tác giả viết:
“Trong cuộc lễ, Ngô Đình Diệm trao cờ quốc gia cho Trình Minh Thế. Khi Trình Minh Thế cầm lá cờ không hiểu sao lá cờ bị rớt. Tôi lo ngại cho điềm bất thường. Chỉ mấy tháng sau, Trình Minh Thế tử trận trong lúc đánh Bình Xuyên trên cầu Bình Lợi.
"Sau cuộc qui thuận của Trình Minh Thế, Ngô Đình Nhu và lansdale không ngừng vận động các giáo phái võ trang trở về yểm trợ cho Ngô Đình Diệm ..." (trang 122)
“Gần hai tháng chiến đấu quân đội Quốc Gia mới đẩy lui được quân Bình Xuyên ra khỏi Sài Gòn Chợ Lớn. Lửa đạn làm thiệt hại một số nhà cửa của đồng bào và một số chiến binh quốc gia tử thương, trong đó có thiếu tướng Trình Minh Thế tử trận vào ngày 3 tháng 5 năm 1955.
"Có giả thuyết cho rằng Trình Minh Thế bị ám hại. Theo tôi dựa trên nhận xét và quan sát chiến trường, điều đó không đúng. Hỏa lực Bình Xuyên bên kia cầu bắn qua khá mạnh, quân đội bên này cầu không có ai tiến tới, Trình Minh Thế là tướng du kích chiến, không quen đánh xáp lá cà, xung phong tiến trước để quân lính tiến theo, nên bị bắn khi tiến lên cầu.
"Tôi tổ chức quốc táng cho Trình Minh Thế, đưa về Tây Ninh có Ngô Đình Nhu tiễn đưa linh c?u tới nơi mai táng." (trang 130 – 131)
Trước hết có một điểm sai lầm cần đính chính ngay là chiến trường lúc đó xảy ra tại cầu Tân Thuận trên đường đi xuống Nhà Bè về miệt Bình Đông và Bình Quới. Cầu này bắt ngang một nhánh sông của sông Sài Gòn chảy qua vùng Bình Xuyên cầu chữ Y là nơi Bảy Viễn làm sào huyệt. (chính nhờ con sông nhỏ này mà khi bị ta bao vây, Bảy Viễn đã thừa lúc đêm tối dùng thuyền nhỏ trốn về rừng Sát cùng với "Cố Vấn Chính Trị" như Trần Văn Ân, Hồ Hữu Thường ... Ngoại trừ Viễn trốn thoát qua Pháp nhờ tàu chiến Pháp vớt khi ra sông Lòng Tão, toàn bộ tham mưu của Viễn đã bị bắt sống trong chiến dịch "tảo thanh tiễu trừ phiến loạn" Hoàng Diệu do đại tá Dương Văn Minh làm tư lệnh. Sau chiến dịch, đại tá Minh được TT Diệm vinh thăng thiếu tuớng trong lễ quốc khánh 26.10.1955, sở dĩ có chiến dịch này là vì khi về Rừng Sát, tàn quân Bình Xuyên đã chận cướp của thuơng thuyền Nam Việt 7000 lít dầu khi tàu này di chuyển trên sông Lòng Tão ngang qua Rừng Sát trên đường tiếp liệu ra Đà Nẵng). Khi trốn được lên tàu Pháp, Viễn đã nói với một phóng viên (13) tờ Paris Match, người đã viết một bài xuyên tạc trước đó với tựa đề giựt gân “Sài Gòn attend d' heures en heures la chute du gouvernment Diệm" (Sài Gòn đợi chờ từng giờ sự sụp đổ của chính phủ Diệm): "Diệm peut me chercher dans 10 ans sans me trouver!" (Diệm có thể truy lùng tôi 10 năm mà không tìm thấy tôi). Và tướng Thế đã tử trận ngay bên này cầu, khi đang ló đầu lên pháo tháp của một chiếc thiết giáp để quan sát chiến trường trước khi cho lệnh tiến qua cầu. Còn cầu Bình Lợi là cầu bắc qua sông Đồng Nai trên hướng đi liên tỉnh lên Biên Hòa và Thủ Dầu Một (Bình Dương).
Điểm thứ hai mà tôi muốn đề cập tới là danh từ "qui thuận" mà tác giả dùng trong trường hợp này đã làm mất tính cách thiêng liêng và ý nghĩa của buổi quốc lễ ngày hôm đó. Thực vậy, hai chữ “qui thuận” có ý nghĩa đầu hàng vô điều kiện. Nó hàm chứa một ý nghĩa xấu xa, thất bại của kẻ thù trước sức mạnh của đối phương. Vì thế theo tôi ở đây ta nên dùng chữ "hợp tác" thì đúng hơn, như một số người đã dùng để tránh lầm lẫn đáng tiếc. Trong danh từ “hợp tác” đã bao hàm ý nghĩa bình đẳng, tương quan cán cân lực lượng, khi nhận nhau là bạn thì sẵn sàng đến với nhau để cùng nhau hợp lực hoàn thành đại sự, cùng nắm tay nhau khi hữu sự, v.v... Hơn thế nữa, hai chữ “hợp tác” đã nói lên tình bạn, đồng đội cùng đi một đường, cùng chung một chí hướng. Vậy theo tôi nghĩ, danh từ "hợp tác" xử dụng trong trường hợp này mới đúng nghĩa.
Nhưng điều này cũng dễ hiểu thôi, vì ông Đôn từng là dân Tây nên ít thông hiểu rành mạch về ý nghĩa sâu sắc của Việt ngữ nên đã dùng sai nghĩa, đúng như trong lời nói đầu ông đã cẩn thận thanh minh: "Tôi không phải là nhà văn chuyên nghiệp ... nên quyển sách này chắc chắn có những câu vụng về." (trang 12)
Tuy nhiên, nghĩ cho cùng dầu sao chăng nữa, sự hiện diện của hai chữ trên chắc chắn sẽ gây nhiều ngộ nhận đáng tiếc về sau, nhất là ở một cuốn "hồi ký lịch sử" do chính một ông tướng nguyên tổng tham mưu trưởng QLVNCH viết, nghĩa là người đã từng có trách nhiệm trực tiếp trong việc “quốc gia hóa” đoàn quân liên minh đã từng tạo lập nhiều chiến công hiển hách "bài phong, đả thực” một thời. Đó là một điều đáng buồn. Người chết khuất mặt đã đành. Nhưng còn người sống, nhất là ông Nhị Lang sẽ nghĩ gì khi đọc đến chương này của VNNC? Sở dĩ tôi muốn dài dòng ở đây là vì tôi muốn nhấn mạnh đến sự thận trọng trong lúc dùng danh từ thích hợp theo hoàn cảnh. Tôi còn nhớ hồi đó báo chí Sài Gòn và ngay cả Phủ Thủ Tướng chỉ dùng danh từ "cộng tác" thay vì "hợp tác" thôi, thế mà, ông Nhị Lang đã phải mất nhiều thì giờ đính chính. Ta hãy nghe ông Nhị Lang giải thích rõ ràng hơn:
"Tôi luôn luôn nhấn mạnh tới hai chữ "hợp tác" chứ không phải "cộng tác" như báo chí Sài Gòn ngộ nhận khi mới biết tin ... Sở dĩ chúng tôi tranh đấu tới cả một danh từ nhỏ nhặt, cũng vì chúng tôi không muốn cho đời ngộ nhận chúng tôi "chạy theo bã lợi danh" bỗng không mà bỏ cả cuộc đời độc lập thênh thang đi làm tay chân cho một thế lực khác. Mà chúng tôi không muốn chứng tỏ với thủ tướng Diệm, với ông cố vấn Nhu, rằng chúng tôi nhận lời mời trên cương vị một "đồng minh" ngang hàng trên tình hiểu biết và tương kính nhau. Có thế thì việc trở về của chúng tôi mới có ý nghĩa, mới giúp chính quyền tăng thêm uy thế! (14)
Rất tiếc một vấn đề tế nhị như thế mà tác giả đã không quan tâm đến.
Tiếp theo khi đề cập đến cái chết của tướng Trình Minh Thế, ông Đôn đã không tin là có ám hại. Hồi đó chính người viết cũng đã nghe rất nhiều giả thuyết, nhiều nguồn tin mâu thuẫn đối nghịch nhau chỉ muốn quan trọng hóa vấn đề mà đưa ra những lời bình luận vô căn cứ theo nhãn quan của mình. Tôi nghĩ rằng bây giờ chỉ có ông Nhị Lang, người đã từng chiến đấu bên cạnh tướng Trình Minh Thế trong bao nhiêu năm trời mới đủ thẩm quyền nói lên nguyên nhân cái chết đó. Oâng Nhị Lang đã lý luận rằng, một viên đạn Carbine duy nhất bắn vào lỗ tai bên phải xuyên thẳng qua mắt trái, tròng mắt bay mất. Oâng viết: " ... Cứ theo vị trí kể trên, thì viên đạn đi xéo từ bên phải ở phía sau, trúng ngay lỗ tai, mà người bắn ra viên đạn ấy không thể cách xa hơn 10 thước, và ắt đã núp dưới chân cầu, sau lưng mục tiêu. Tướng Thế chết gục tức khắc, không kịp thốt ra một lời nào ..." (15)
Như vậy, giả thuyết ông Đôn cho rằng tướng Thế tử trận là vì "hỏa lực Bình Xuyên quá mạnh" không còn đứng vững được nữa.
Những kẻ bắn ra viên đạn quái ác kia là ai? Ta hãy nghe tiếp Nhị Lang vén màn bí mật:
"Thủ phạm chính thi hành vụ ám sát kia là cựu tướng M.H.X người mà 8 năm sau đã thay mặt bọn Dương Văn Minh hạ sát cả hai anh em Diệm Nhu buổi sáng ngày mồng 2 tháng 1 năm 1963, trước rạp hát Kim Chung ở đường Hồng Thập Tự ...
" M.H.X. là một nhân viên tình báo nổi tiếng phục vụ cho quyền lợi Pháp ở Việt Nam. Tên này chưa hề ra trận mạc bao giờ, mà vẫn lên tới cấp tướng của Pháp đủ biết hắn ta được lòng tin cậy của Pháp như thế nào ... M.H.X sai bộ hạ phục sẵn dưới cầu, thừa lúc chiến sự đang sôi nổi hỗn loạn, bắn ngay một phát súng Carbine từ đằng sau tới, rồi biến vào nhà dân gần đó. (16)
Như vậy là trắng đen đã rõ như ban ngày. Người đọc lại rất lấy làm tiếc là hình như ông Đôn không muốn phanh phui sự thật (hay không dám?) cố tình che giấu tội lỗi sát nhân tày trời của một người bạn đồng đội (?). Với trách nhiệm của ông Đôn thời bấy giờ, ông không thể chối cãi rằng ông "không biết rõ" hay quy tội cho Bình Xuyên được.
(còn tiếp)
Phụng Hồng
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:14:58 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN Phụng Hồng (tiếp theo kỳ trước) Ngoài những sai lầm trầm trọng về lập luận kể trên, tác giả còn phạm vào những lỗi lầm khác mà tôi nghĩ là ông đã thiếu thận trọng kiểm chứng trong lúc viết một cách vội vã. Điều này đã làm giảm giá trị cuốn sách không ít. Trước hết người đọc đã bắt gặp lác đác đó đây những câu văn què (phrases boiteuses) sai văn phạm, thí dụ như: “Năm 1947, tôi đang làm việc Sở Nghiên Cứu Lịch Sư û(Service des Études Historiques của Pháp.” (trang 52). “Năm 1965 lúc chúng tôi bị bắt buộc phải ở Đà Lạt vì những vụ chỉnh lý, biểu dương lực lượng ở Sài Gòn.” (trang 390) ... chứng tỏ tác giả ít chú trọng đến cách hành văn cho đúng quy luật. Vài lỗi chính tả thông thường, nhầm lẫn giữa hai danh từ “đảo chánh” với “cách mạng”, những lời chú thích sơ sài, không sát với thực tế ở những bức hình lịch sử mà tác giả từng là một nhân chứng quan trọng, làm cho người đọc thêm ngỡ ngàng. Nhiều tên họ viết sai như: Phan Hòa Hiệp chứ không phải “Phạm” (trang 235), đại tá Tôn Thất Khiên, chứ không phải “Khiêm” (trang 386) (ông này sau ngày Sài Gòn thất thủ, bị kẹt lại và bị Việt cộng bắt đi cải tạo tại làng Cô Nhi Long Thành (15 NV), 2 tháng sau đó bị giải đi một nơi bí mật khác và bị kết án tù 30-4-1975 năm khổ sai ...), đại tá Hoàng Trọng Trị chứ không phải “Trí” (trang 456). Về vụ “chính biến Nhảy Dù” của đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh, ông Đôn đã có hai nhận định sai lầm: ông cho rằng, đại tá Trần Thiệm Khiêm đem quân về “dàn sau lưng quân Nhảy Dù. Thấy quân Nhảy Dù không còn hăng say, lưng chừng và mất tinh thần, đại tá Trần Thiện Khiêm liên lạc với Nguyễn Khánh, rồi ngã theo ông Diệm nổ súng vào quân đảo chánh.” (trang 154). Sự thật không đúng như vậy. Ngược dòng thời gian, ta nhớ lại rằng cuộc đảo chánh khởi sự lúc 3 giờ sáng ngày 11.11.60. Đến 10 giờ, TT Diệm kêu cứu trên đài đặc biệt của Phủ Tổng Thống qua tần số riêng cho các Tư Lệnh Quân Khu và nêu đích danh “đại tá Trần Thiện Khiêm đem quân về Phú Lâm chờ lệnh ...” (Đại tá Khiêm lúc này đang làm Tư Lệnh Quân Khu V Cần Thơ và được TT Diệm tin dùng). Trên đường tiến về thủ đô, khi đi ngang qua Cai Lậy để chờ qua phà Mỹ Thuận, đại tá Khiêm đã liên lạc với thiếu tá trung đoàn trưởng TR/Đ BB T.V.K., thuộc SĐ 2 BB (nguyên đồn trú tại Sơn Chà Đà Nẵng) đang hành quân tại đây. Do một sự tình cờ, máy truyền tin trung đoàn cũng bắt được mật lệnh này. Vì cũng là người Công Giáo, lại đảng viên Cần Lao, nên thiếu tá K. đã sẵn sàng. Do đó đã điều động ăn nhịp với cánh quân của Đ.tá Khiêm mà không gặp trở ngại nào. Lúc đó tôi là y sĩ trưởng của đơn vị nên đã theo sát cuộc hành quân chớp nhoáng này. Hơn nữa, Đ.tá Khiêm vốn ghét ông Thi nên thay vì “chờ lệnh ở Phú Lâm”, bèn đi thẳng lên Sài Gòn, phục tại vườn hoa Tao Đàn, sau lưng Dinh Độc Lập! Dọc đường lại “móc nối” thêm Chiến Đoàn Thiết Giáp của Thiếu Tá Lâm Quang Thơ ở Mỹ Tho. Oâng này lại quá hăng, tuyên bố một câu “xanh rờn” sẽ cho xe tăng mình nghiền nát “những thằng rằn ri” (ám chỉ quân phục Nhảy Dù). 6 giờ chiều hôm đó chúng tôi đã có mặt tại Sài Gòn, đóng rải rác dọc theo đường Hồng Thập Tự và Lê Thánh Tôn yểm trợ, cho Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ. Chính vì sự có mặt đông đảo và mau lẹ như thế mới làm cho quân Nhảy Dù “mất tinh thần”, vì trước đó họ đã được cho biết đem quân đi “cứu TT Diệm đang bị lâm nguy”. Sau này họ mới biết mình đã bị phỉnh gạt. Nói tóm lại mục đích chúng tôi về “cứu TT Diệm” đã được quyết định ngay từ đầu, trước khi xuất quân. Điểm thứ hai ông Đôn cho rằng đã bị hàm oan trong âm mưu đảo chánh này, vì sự có mặt của mình tại Sài Gòn thời gian đó là tình cờ về họp hàng tháng mà lại do Đại Tá Dương Ngọc Lắm, tư lệnh SĐ 2, thuộc quân đoàn I (nghĩa là thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của ông) báo cáo với TT Diệm để lập công. Điều này cũng không đúng vì lúc đó Đại tá Lắm đang tham dự với Trung Đoàn 4 để chống đảo chánh và đã được TT Diệm trọng thưởng rồi thì hà tất ông Lắm còn cần chi phải lập công nữa? Vả chăng khi đã biết vậy, và khi đã được “giải oan” rồi, tại sao ông Đôn không dùng quyền hạn Tư Lệnh của mình mà cách chức ông Lắm? (3 năm sau ông này mới rời chức TL/SĐ 2 để về làm Tổng Giám Đốc ĐPQ&NQ). Đây là một nghi vấn (trang 156). Trang 228, ông Đôn viết: “Lúc tối tôi có dặn thiếu tướng Lê văn Kim cho mời các Bộ trưởng Chánh Phủ đương kiêm vô trình diện tại bộ tổng tham mưu, nhưng gần sáng mà chưa thấy ông nào tới ...”. Thực ra lúc quá khuya hôm đó, đài phát thanh đã loan tin “đã có một số quý vị bộ truởng như Trần Đình Đệ, bộ trưởng hiện có mặt tại bộ TTM ... Bộ trưởng phụ tá quốc phòng và phủ TT Nguyễn Đình Thuần có mặt sớm nhất! Cũng cần nói thêm là trong suốt chương trình này (Tôi và cuộc Cách mạng 1963), tác giả không hề ghi lại nguyên văn những bài kêu gọi và tuyên bố của Hội Đồng Tướng Lãnh ngỏ cùng đồng bào, bài kêu gọi TT Diệm từ chức ... và nhất là bài cùng đồng bào toàn quốc nói rõ lý do tại sao quân đội đứng lên đảo chánh ... (Nếu tôi không lầm thì bản tuyên cáo đó có đoạn: “... Hôm nay là ngày toàn thể quân đội thể theo nguyên vọng của toàn dân đứng lên lật đổ chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm, ngày mà đồng bào mong đợi đã đến ...”) Đó là một thiếu sót vô cùng quan trọng để lưu lại cho hậu thế tìm hiểu thực chất cuộc đảo chánh. Muốn làm một nhân chứng vọ tư tất phải biết điều căn bản tối thiểu đó. Trang 230: “Vào lối 7giờ rưỡi trong lúc tôi gắn cấp bậc thiếu tướng cho đại tá Nguyễn Văn Thiệu ...” người đọc cần đánh dấu hỏi ở chỗ này, vì năm 1967, ông Tôn Thất Đính, chủ nhiệm nhật báo Công Luận đã viết một bài nhan đề “một bản án dành cho những người làm cách mạng” đã in một tấm hình chụp rõ ông đang gắn cấp bực thiếu tướng cho Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó đang làm chủ tịch UBLĐQG, hình như ông Đính muốn trưng tấm hình này ra là để trêu tức ông Thiệu, tại dinh Gia Long sáng ngày 2.11.63 (vì lúc đó ông này đang chỉ huy 1 cánh quân của SĐ 5 tiến chiếm Dinh Gia Long), với lkờ chú thích dưới tấm ảnh đề cao ông Đính xem ông Thiệu như đàn em! Về vụ “Biến Động Phật Giáo Miền Trung” năm 1966, trang 372, có nhiều chi tiết quan trọng mà tác giả không đề cập tới. Phải thành thật mà công nhận rằng lúc đó ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Quang đang lên cao, mà trung tướng Nguyễn Chánh Thi đương kiêm tư lệnh QĐ1?VICT lại là người có uy tín của phe Phật Giáo. Đó là cái gai của CIA cần phải nhổ đi (vì nghề của chàng là không bao giờ chịu có một cái gì uy tín quá mạnh ở một nước chư hầu cả, vì thế sẽ khó thao túng, khó bảo ...) vì thế đã bật đèn xanh cho Nguyễn Cao Kỳ làm. CIA lại biết rõ trước việc hạ bệ tướng Thi gây ra bất mãn trong đại đa số quân nhân Phật tử tại Huế và Đà Nẵng. Vì thế đó cũng là một cái cớ để đàn áp phong trào Phật Giáo luôn. Ông Kỳ đã tuyên bố một câu rất thất nhân tâm: “Chúng tôi coi như Đà Nẵng đã bị cộng sản chiếm và chúng tôi cần phải giải phóng!” trước một số đông ký giả trong và ngoài nước. Trong lúc đó Viện Hóa Đạo lại tổ chức biểu tình làm tình hình thêm căng thẳng. Binh sĩ không còn lo gì đến việc chống cộng nữa mà “vác súng vô chùa” tử thủ, oái oăm tuân lệnh “mấy thầy”! Câu nói của ông Kỳ như “lửa cháy thêm dầu”, rút cục chỉ có thằng cộng sản là trục lợi thôi. Vì một người dù ngu dốt đến đâu cũng không thể hiểu rằng vùng ICT đang có hai sư đoàn B (1&2), một liên đoàn BĐQ, cộng thêm những tiểu đoàn cơ động biệt lập khác trấn giữ lại bị cộng sản chiếm được. Đó là một điều hết sức vô lý là một ông chủ tịch UBHPTU thông minh không bao giờ nói. Khi thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra thế tướng Tôn Thất Đính làm tư lệnh trong một cuộc thị sát tại Mang Cá Huế (Bản doanh bộ TL/SĐ1), ông Cao đã suýt bị Th/U Nguyễn Đại Thức liều lĩnh bắn chết, nếu không có viên phi công trực thăng Mỹ cạnh đó bắn chết Th/U Thức trước (vì thế sau này SĐ1 đã lập “chiến đoàn Nguyễn Đại Thức gồm những quân nhân Phật tử ly khai). Kết quả là tiềm năng chống cộng không còn, một số đơn vị trưởng không phải là công giáo bị thuyên chuyển ra khỏi vùng. (chỉ có quân nhân công giáo là được ở lại mà thôi). Tướng Thi bị cách chức vĩnh viễn. Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, TL/SĐ1 Huế bị giáng cách xuống Đại Tá. Một điều đau lòng nhất là sau đó trên đường ra hành quân diệt cộng tại Mỹ Chánh, thiếu tướng Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng TĐ4 TQLC là đơn vị đã hăng say đàn áp ở Đà Nẵng, đã bị một quân nhân Phật tử thuộc SĐ1 bắn chết (ông này đã có công trong cuộc tấn công dinh Gia Long ngày đảo chánh). Ở Đà Nẵng những ngày sau đó còn có tin đồn sẽ có những ban cảm tử hăm dọa giết trung tá TQLC Nguyễn Thành Yên, tư lệnh chiến đoàn B/TQLC kiêm quân trấn trưởng Đà Nẵng, người đã cho lệnh bắn nát các chùa tỉnh hội Đà Nẵng. Như vậy, đàn áp Phật Giáo trong vụ này có lợi gì? Người ta đã thắc mắc quá nhiều với câu hỏi: TT Diệm chỉ mới động đến lá cờ Phật Giáo mà phải trả 1 giá quá đắt. Ngược lại, tập đoàn Thiệu-Kỳ tấn công chùa là nơi thờ tự tôn nghiêm của đạo giáo, lại còn huênh hoang tuyên bố sẽ ‘cho xe tăng cày nát Viện Hóa Đạo, nếu mấy thầy cứ tiếp tục nhịn ăn” (! ) thì lại vẫn cứ phây phây tại chức, thế là nghĩa làm sao? Người đọc rất lấy làm buồn mà không thấy nhân chứng Trần Văn Đôn lên tiếng. Phải chăng đã có một bàn tay “lông lá” che chở? Trang 392: Cần bổ khuyết thêm: Tướng Thi thả Phạm Văn Huyên (Thú y sĩ) và Tôn Thất Dương Kỵ (nguyên giáo sư dạy quốc văn , Sử Địa tại trường trung học Khải Định Huế. Sau ngày 30-4-1975 ông này xuất hiện tại Sài Gòn với chức vụ Tổng Thư Ký Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình của tên Trịnh Đình Thảo) qua cầu Hiền Lương vì tội thân cộng. Trang 394: cần phải nói rõ Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội đã không đem lại kết quả khả quan cho đời sống binh sĩ, mặc dù họ phải đóng mỗi tháng 100 đồng khấu trừ vào tiền lương. Tham nhũng lem nhem, giấy tờ không phân minh, lại bị mất mát một số tiền khá lớn, đến nỗi Nguyễn Văn Thiệu phải ngưng chức đương kim tổng trưởng quốc phòng là Nguyễn Văn Vỹ (chủ tịch) để giao cho tướng Nguyễn Văn Hiếu đang làm tư lệnh phó QĐIII/V3CT điều tra. Ông này đã bị tướng Nguyễn Văn Toàn toa rập hạ sát tại văn phòng vì toan tố cáo đích danh tập đoàn tham nhũng này (chi tiết này do chính cụ Nguyễn Văn D, thân sinh tướng Hiếu tiết lộ với người viết khi vào trại cải tạo Long Thành). Trang 455: Người đọc đã không tài nào hiểu nỗi thái độ của ông Đôn lúc bấy giờ. Tình thế đã vô cùng khẩn trương, mấy sư đoàn thiện chiến đã tan rã, quân nhân các cấp lạc ngũ. Vùng 1 và 2 đã mất, với cương vị ông Đôn lúc bấy giờ, nếu ông là người ái quốc chân chính, người ta đang chờ đợi ở ông những hành động thiết thực hơn. Tại sao ông không xách đầu mấy thằng tư lệnh vùng như Ngô Quang Trưởng, sư đoàn trưởng như Nguyễn Đức Khánh, Nguyễn Duy Hinh, tham mưu trưởng như Hoàng Mạnh Đáng ... ra pháp trường mà xử tử có hơn không? Thay vì làm như vậy, ông lại giao cho tên tướng bất tài, bợ đỡ là Lê Nguyên Khang “điều tra tại sao vùng I thất thủ !!” Chao ôi giặc cộng đã tràn vào Ngã Ba Chú Ía rồi, mà còn điều tra nỗi gì? Ông Đôn đâu có làm nhân chứng cho vụ thương bệnh binh nổi loạn ngày 29.3.75 tại Tổng Y Viện Duy Tân, khi Ngô Quang Trưởng tối hôm trước còn hứa hẹn đủ điều với chỉ huy trưởng, nhưng khuya lại đã chuồn lẹ ra tàu Hải Quân rồi! Còn thằng tham mưu trưởng QĐI là Hoàng Mạnh Đáng thì bỏ máy điện thoại ra ngoài để khỏi bị quấy rầy. Đánh đá kiểu gì kỳ vậy? Chúng nó bây giờ còn đủ can đảm để ngắm chân dung đức Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ không? Than ôi! Tiền nhân xưa đã dạy: “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh!” Nhưng ngày nay giặc đến nhà thì tướng tá lo “điều tra” rồi tà tà ra tàu .... Hanthingy!!! Dĩ đào di thượng sách mà! Con cháu bà Trưng, bà Triệu như thế ư? Trang 468: Cần thêm một chi tiết khá hấp dẫn về chuyện quân cảnh TQLC Mỹ đã hộ tống Thiệu và Khiêm lên Tân Sơn Nhất để đáp phi cơ đặc biệt qua Đài Loan có mang theo 16 tấn vàng (bản tin đài BBC tối 25.4.75). Ba ngày trước đó vợ Thiệu và vợ Khiêm đã qua trước. Trang 474: có nhiều chi tiết ông Đôn thuật lại không đúng và không rõ về vụ “có ba ohi cơ của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa làm phản ... sau mới biết máy bay đó của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa còn lại ở Đà Nẵng ...” Thực ra có đến 6 chiếc Skyraider A37 của ta bỏ lại ở phi trường Phan Rang, do Nguyễn Thành Trung (phi công phản loạn dội bom Dinh Độc Lập sáng 9/4 rồi bay về Phan Rang lúc đó đã thất thủ. Trung được Việt cộng thăng đại úy nhưng sau này vẫn bị ra rìa) hướng dẫn bay vào dội bom phi trường TSN. Trung lái một chiếc đi đầu, còn những chiếc kia do phi công Bắc Việt đã từng lái Mig 17 điều khiển. Trong lúc đó, ông Minh đang nhận bàn giao từ ông Hương (4 giờ 15 chiều 28/4). Tại phi trường Phan Rang, ta đã bỏ lại hầu như nguyên vẹn không cụ, vũ khí, đạn dược và phi cơ phản lực chiến đấu ... Việt cộng đã triệt để khai thác nguồn tiếp liệu này. Chúng đã xử dụng nơi đây như là bàn đạp để tấn công Sài Gòn, chứ không phải Đà Nẵng, vì Phan Rang chỉ cách Sài Gòn 20 phút bay. Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh SĐ6 KQ cũng bị bắt tại đây cùng với Tr/tướng Nguyễn Vĩnh Nghi (không thấy ông Đôn nhắc đến tên ông Sang. Hai ông này liền sau đó bị Việt cộng giải ra Hà Nội trình diện trong một cuộc họp báo quốc tế). Trang 484: người ta được biết tối 29.4, trung tướng Vĩnh Lộc với tư cách là tân tổng tham mưu trường QLVNCH đã lên đài truyền hình đọc một bài nhật lệnh rất dài, chửi Thiệu và Cao Văn Viên cùng các tướng tá khác mà ông cho là nhát gan, hèn yếu đã bỏ chạy và kêu gọi quân nhân các cấp còn lại giữ vững tinh thần chiến đấu đến hơi thở cuối cùng (!?). Nhiều người bỗng dưng lên lại tinh thần cao độ, kể cả người viết bài này. Không dè một sĩ quan thân cận hôm sau đã cho tôi hay là nửa đêm hôm đó, ông Lộc cho lệnh khóa chặt cổng chính bộ TMM, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Thế rồi ông chuồn mất! Mãi 9 giờ sáng 30-4, ông Minh mới được báo cáo, liền đề cử chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (vô danh tiểu tốt) lên thay thế. 9 giờ 30, ông này lên đaì Sài Gòn kêu gọi các đơn vị QLVNCH trên toàn lãnh thổ miền Nam “hãy giữ nguyên vị trí cũ và không được nổ súng”. Trang 485: Cần nhấn mạnh một điểm ở đây là ở chương này “Những điều nghe biết sau 30-4-1975”, ông Đôn chỉ nghe kể lại một chiều nên đã thiếu sót và sai lạc. (Ông Hạnh được miễn cải tạo và về đạp xe lam bán rau cải chợ Cầu Ông Lãnh. 10 giờ 30 sáng 30-4 trở đi, ông Minn lên đài đọc đi đọc lại nhiều lần lời kêu gọi “bên kia” về “nhận bàn giao chính quyền” (!) Tiếp theo người ta còn nghe những lời kêu gọi của những tên chính khách xu thời yêu cầu mọi người ra trình diện, kể cả tên Hoàng Châu, chủ nhiệm Nhật Báo Độc Lập, đại diện nghiệp đoàn ký giả. 11 giờ đoàn xe tăng Nga PT76 (loại chiến xa chúng đã xử dụng trong chiến dịch Hạ Lào Nam Sơn 719 (1972) và trong trận đánh Ban Mê Thuộc) do đại úy VC Bùi Quang Thận (tên này là em Đ/U VC Bùi Quang Tùng trong trận Điện Biên Phủ) húc đổ cổng sắt chính Dinh Độc Lập, tiến sâu vào sân cỏ húc đổ luôn cả cột cờ đang phất phới lá cờ vàng 3 sọc đỏ. Tôi và anh phóng viên hãng AP G. Esper không nén được xúc động, cầm được nước mắt. Lúc này tại phòng khánh tiết, ông Minh và các thuộc hạ trong “tân chính phủ” đã tề tựu đông đủ để “bàn giao chính quyền” như Lý Quý Chung (bộ trưởng Thông Tin), Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan (tu xuất), DB Lê Bình Duyên, nhiều dân biểu TNS thuộc phe Ấn Quang cùng những bộ mặt quen thuộc cũ muốn ở lại “hòa hợp hòa giải” để kiếm chút “cơm thừa canh cặn”. Không khí vô cùng buồn tẻ và hiu hắt như trong một nghĩa địa lúc hoàng hôn! Tên Đại Đội Trưởng Thận, với thái độ hung hăng của giặc cuớ rừng rú chưa từng thấy, một tay cầm khẩu AK47, xông ra trước bao lơn treo lá cờ MTGP, bắn chỉ thiên một tràng đạn rồi quay vào xấc xược hỏi: _ Dương Văn Minh đâu? Ông Minh tiến lên: _ Chính tôi đây. Các ông đừng vội vã. Chúng tôi đã mở sẵn cổng để đón các ông vào bàn giao chính quyền thì cần gì phải phá gãy cửa sắt. Chúng tôi đang chờ các ông ... Tên chính trị viên tiểu đoàn cướp lời: _ Các anh còn gì nữa mà bàn giao? Các anh phải đầu hàng. Chúng tôi đã tiến 2000 cs rồi. bây giờ từ Lộc Ninh về đây chỉ còn 300 cs nữa thôi thì không có lý do gì chúng tôi dừng lại để thương thuyết! Mọi người hiện diện đều tái xanh mặt. Lúc đó là 11g 30 đúng trên chiếc đồng hồ của tôi. 4 giờ chiều, ông Minh đọc bản tuyên bố đầu hàng “quân đội giải phóng” “vô điều kiện”. Giọng ông run run, thê lương như ai điếu. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc lời kêu gọi mọi người hãy “hân hoan đón chào quân đội cách mạng...!” Đến đây tôi thấy cần phải cực lực bác bỏ hai quan niệm sai lầm của ông Đôn p trang 486 và 487. Oâng Đôn đã viết: “Ai cứu dân chúng Sài Gòn khỏi đổ máu? Không phải Kissinger. Không phải đại sứ Mỹ. Không phải đại sứ Pháp. “Sài Gòn không đổ máu là nhờ Dương Văn Minh” (trang 486). (còn tiếp)
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:15:42 GMT 9
ĐỌC “VIỆT NAM NHÂN CHỨNG” CỦA TRẦN VĂN ĐÔN
Phụng Hồng
(tiếp theo và hết)
Tôi hoàn toàn không đồng ý. Nên nhớ rằng người ta trao quyền hành cho ông là không phải để ông “lo đưa vợ con trốn ra ngoại quốc theo tàu hải Quân cùng bạn bè thân thuộc (tr.483 – 484) rồi tuyên bố đầu hàng cho được việc. Anh em chúng tôi đã bỏ lại tất cả tài sản mồ hôi nước mắt cùng vợ con từ các vùng chiến thuật về Sài Gòn không phải để ngồi khoanh tay chấp nhận đầu hàng giặc, hoặc thương thuyết với giặc. Ngay cả bây giờ và mãi mãi về sau cũng thế. Đó là một sự thật hiển nhiên. Còn bảo rằng nếu không đầu hàng, Sài Gòn sẽ bị pháo kích nặng và dân chúng chết nhiều. Điều này lại càng không đúng và không đứng vững được. Xưa nay trong binh pháp và quan niệm chiến trường, không bao giờ người ta nói đến điều này và vẫn chấp nhận, vì quyền lợi thiêng liêng của tổ quốc là tối thượng. Vì sống dưới chế độ cộng sản, người dân vẫn mất tài sản và vẫn bị đổ máu chết chóc như thường. Một bằng chứng hùng hồn nhất mà VNNC không ghi lại (rất tiếc) là sáng 30-4 tại ngã tư Bảy Hiền, mấy Tiểu Đoàn Dù còn lại đã đơn độc anh dung đẩy lui nhiều đợt tấn công của Việt cộng khi chúng tiến về đường Lê Văn Duyệt. Đến khi hết đạn, một số sĩ quan đã tự tử, một số khác bỏ về miền Tây .... cứ để cho chúng pháo kích bừa bãi như chúng đã từng làm – mà chắc gì chúng dám làm? – để cho những thằng đã từng nằm vùng che giấu những tên đặc công ám sát tại Đô Thành trong vụ Mậu Thân (như tiệm phở Bình Ngọc Hiền, thượng úy tình báo Việt cộng, anh cựu trung tá Dân Biểu Trần Ngọc Châu, nguyên tỉnh trưởng Kiến Hòa và thị trưởng Đà Nẵng) mở trắng con mắt ra. Và đến lúc đó chính nhân dân sẽ nổi dậy quật nguợc lại bọn chúng và phần thắng lợi cuối cùng sẽ đến với chính nghĩa. Tiếc rằng ông Minh đã không thấu hiểu được điều căn bản đó. Đấy là chưa kể ỏ khắp các nơi vẫn còn nhiều đơn vị ưu tú chống cự đến những ngày hôm sau. Chúng tôi không cần có “tổng tham mưu trưởng” hay “tổng tư lệnh” mới chiến đấu được. Chúng tôi đã tự lực chỉ huy đương đầu với giặc trong bao nhiêu năm trời trong lúc các ngài vơ vét đầy túi tham ở trung ương. Xin các ngài hãy nhớ kỹ điều đó mỗi khi mở miệng nói đến “trung lập hòa đàm”!
Tiếp theo ông Đôn lại viết: “Năm 1955 ở Bangdoung lúc có hội nghị Phi Liên Kết Á Phi, ông Nerhu thủ tướng Ấn Độ dự định tổ chức một bữa tiệc thân mật khoản đãi hai phái đoàn Nam và Bắc Việt Nam. Trước ngày đi dự, tướng Trình Minh Thế, một nhân viên phái đoàn bảo ông Nguyễn Văn Thoại trưởng phái đoàn hủy bỏ buổi tiệc đó. Oâng Thoại không đồng ý thì tướng Thế rút súng lục ra để trên bàn dọa bắn. Buổi tiệc gặp gỡ thân hữu đó phải hủy bỏ .... Tôi không cho rằng sau buổi tiệc đó thì hai miền Nam Bắc sẽ hòa thuận, nhưng thái độ hung hăng của tướng Thế xuất phát từ sự xúi biểu của phe phái muốn chủ động trong cuộc chiến cũng như chủ động trong Hòa Bình ở Việt Nam.” (trang 487)
Người đọc có cảm tưởng rằng ông Đôn muốn đổ lỗi cho tướng Thế vì “hung hăng quá khích” (?) mà “hai phe thù nghịch cùng một nước” đã mất cơ hội “tốt đẹp” để gặp nhau “hòa hợp, hòa giải”, như lời con gái thủ tướng Nerhu nhận định sau hội nghị chăng?
Để trả lời cho lối lẫp luận này cũng như lời đổ lỗi vô trách nhiệm kia đối với vị anh hùng suốt đới chống cộng đã khuất mặt chốn dạ đài, tôi chỉ xin nhắc lại đây lời khẳng định của một tên cán bộ cao cấp Viện Sử Học Hà Nội khi nói đến chuyện tại trại cải tạo Long Thành năm 1976: “Những phong trào yêu nước cổ võ hòa bình, đòi quyền sống, hòa hợp hòa giải ... tại Sài Gòn trước đây đều được nghiên cứu chỉ đạo kỹ bởi Bác và Đảng. Đó chẳng qua là một hình thức trá hình để thêm vây cánh trong lòng địch mà thôi ...”
Như vậy hành động và ý chì cương quyết của Tướng Thế cản trở ông Thoại là vô cùng xác đáng và hợp lý vậy.
Trang 490: tưởng cũng nên nói lại cho rõ: trong ngày 30-4, chuẩn tướng Lý Tòng Bá là tư lệnh sư đoàn 25BB đóng ở Gò Dầu Hạ, trên đường lên Tây Ninh (quốc lộ 22). Oâng này đã bị bắt sáng hôm đó. Còn tướng Lê Minh Đảo là tư lệnh SĐ 9. Tháng 6.75, sau khi chúng tôi vô trại cải tạo rồi thì được người ngoài đưa tin mật vào cho hay phu nhân tướng Đảo đã làm một chuyện phi thường: cầm đầu một phái đoàn hùng hậu gồm vợ con các sĩ quan bị đi cải tạo đã “quá một tháng tiền ăn” mà chưa thấy về, đến chất vấn tên Võ Văn Kiệt lúc đó làm “Chủ Tịch Uûy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh”. Anh em trong tù rất phấn khởi vì nhận thấy sự chống đối đã bắt đầu.
Trang 492: tướng quân y là y sĩ chuẩn tướng Phạm Hà Thạnh (chứ không phải Nguyễn), nguyên cục trưởng Cục Quân Y cuối cùng. Bác sĩ Thanh này đã từ trần vì bệnh hoạn và kiệt lực trong thời gian cải tạo.
***
Ở đây tôi không muốn bàn sâu về thuyết “Dân Tộc Tự Tồn” mà ông Đôn, người khai sinh ra nó đã tự hào lả rất hợp thời từ sau Tết Mậu Thân 68 để biến miền Nam trung lập, không liên kết với ai (!?), vì sợ lạc đề. Chỉ xin được nói một lời là đã có một số người am hiểu tình hình hồi đó khi nghe tin này đã bỉu môi phì cười mỉa mai cho rằng ông Đôn đang còn non nớt, chưa hiểu tí ti gì về cộng sản cả. Một số người thức giả khác lại nghiêm khắc lên án ông Đôn đã phản bội đồng đội đã hy sinh cho ông lên tướng. Vì ông không có thân nhân chết trong vụ Mậu Thân nên ông đã không căm thù cộng sản.
Một điều thắc mắc của người đọc nữa là không hiểu sao ở phần cuối sách, tác giả lại cổ xúy cho “giải pháp Bảo Đại”, một giải pháp đã quá lỗi thời, đối với một phế chế đã không mấy tốt đẹp, với một dĩ vãng tàn tệ đã để lại ấn tượng xấu xa trong lòng người dân Việt suốt hơn một phần ba thế kỷ! Người ta đã không hiểu ông Đôn muốn gì khi tổ chức tiếp đón ông Bảo Đại tại Mỹ, cuộc tiếp đón đã gây ra nhiều trah giành ảnh hưởng, lủng củng nội bộ xuýt đi đến xô xat đổ vỡ trong nhiều cộng đồng. Thật là một chuyện cuời ra nước mắt. Hơn nữa, vua Bảo Đại là người mà 35 năm trước đây, ông Đôn đã theo giòng lịch sử làm tròn nhiệm vụ trung thành với đường lối TT Diệm bằng cách áp dụng câu vè “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ thùng” (tức là phiếu màu lục in hình Bảo Đại thì vất vào sọt rác, còn phiếu màu đỏ in hình ông Diệm thì bỏ vào thùng phiếu) trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23.10 năm 1955 (Bảo Đại là vua ăn chơi lãng tử, nhu nhược (trang 73 – 48) Trong thời gian làm tư lệnh quân khu 2 ở Huế cũng như làm tư lệnh QĐI/VICT tại Đà Nẵng, ông Đôn đã bị nhiều tai tiếng về lối giao du thân mật với nhiều vợ sĩ quan cũng như nữ nhân viên thuộc quyền. Bởi ông Đôn là người bặt thiệp, xã giao rộng lại đẹp trai nhất trong hàng tướng lãnh nên ông đã thành công chinh phục nữ phái. Tôi đã cố gắng tìm hiểu và được biết người ta than phiền nhiều ông Đôn có khi xao lãng các cuộc diễn tiến hành quân và thường hay tổ chức “picnic”, ăn chơi nhảy đầm lén lút tại CLB sĩ quan Đà Nẵng để đi đến những vụ “ái tình lẻ vụng trộm” (vì thế sau ngày 1.11.63, chính ông Đôn đã ký nghị định cho phép khiêu vũ trở lại và lý luận rằng đây là một lối thể thao kiểu lành mạnh (!?), đã bị cấm bằng một dự luật của bà Nhu).
Sau ngày chỉnh lý, tướng Khanh có đưa ra một danh sách “nhân tình cũ” của ông Đôn đã làm cho người tinh ý liên tưởng tới cô M. ở nhà sách Nam San Quảng Ngãi, bà TM, vợ bác sĩ Phạm DĐ, ái nữ Đ/U Th., quản lý CLB, bà Ng. ở Khu Tu Bổ, các cô Th., H., NPT/QĐI, bà H. Ng., vợ Tr./U Tr. (ông này sau được thăng đến Đại tá làm chánh văn phòng, còn bà H.Ng thì làm bí thư (trang 456).
***
Truớc khi gấp cuốn VNNC lại với trang cuối cùng để cất vào một góc nào đó trong chồng sách cũ vì tôi không muốn đọc lại lần thứ hai nữa, tôi muốn được nói thêm đôi cảm nghĩ chót. VNNC là một cuốn sách tầm thường, tầm thường như cuộc đời làm tướng của tác giả nó. Nó đã không đáp ứng được lòng mong đợi của người đọc bấy lâu. Nó còn có nhiều khuyết điểm. Có nhiều chương lại không nói lên hết sự thật. Người đọc có cảm tưởng tác giả muốn tránh né trách nhiệm ở những khúc quanh lịch sử quan trọng.
Ta có thể trách cứ ông Đôn đã không biết thi hành sứ mạng, chu toàn nhiệm vụ một tướng lãnh khi vận nước nổi trôi, đi vào thời điểm quyết định với kẻ thù. Thay vì hô hào chiến đấu diệt giặc, ông lại đi cổ võ trung lập, thương thuyết với kẻ thù. Chưa hết, ông còn giết thì giờ vàng ngọc trong một tình thế cấp bách nhất bằng cách vận động với người ngoại quốc (Brochand, Chirac, Martin ...) để ủng hộ, hậu thuẫn cho giải pháp điều đình. Chính sự kiện này đã làm cho tên tuổi của ông lu mờ và phần đông uất ức bất mãn trước ngày mất nước. (Một số sĩ quan cũ từng phục vụ ở BTL/QĐI đã gợi ý với tôi tìm cách giết ông Đôn ngày 26/4 cũng như một số thương bệnh binh ở TYV/DT đã áp lực cầm chân tôi ngày 29/3 đòi giết cho được tướng Ngô Quang Trưởng, khi biết ông này đã bỏ đi từ khuya, họ mới thả tôi ra. Và tôi cũng không biết nhờ một phép lạ nào mà thoát được?)
Tại sao ta lại cứ đi cầu hòa với giặc, trong lúc giặc cứ tiến lần về Sài Gòn? Một tên cán bộ Hà Nội vào năm 1977 đã tiết lộ: “Ông Diệm chết đi là xem như chúng tôi đã lấy được miền Nam rồi.”
Tại sao cứ hô hào “trung lập hóa miền Nam” như ý tưởng ngu xuẩn của De Gaulle mà không trung lập hóa miền Bắc? Tại sao chúng nó đòi ông Thiệu từ chức mà ta không đặt điều kiện Phạm Văn Đồng phải từ chức? Tại sao chunùg nó cứ hỗn xược đòi phải có ông Minh mới thương thuyết? (nhưng mỉa mai thay, tối 28/4, sau khi ông Hương làm lễ bàn giao xong, tên Nguyễn Văn Hiếu, trưởng phái bộ hòa đàm La Celle St Cloude lại nói: “Bây giờ đã quá muộn, và ông Minh cũng chỉ là người của Mỹ!), mà ta lại cứ ngồi câm không đòi Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng giải ngũ? Tại sao và tại sao?
Xin được nhắc lại một lần chót nữa ở đây là Vận mệnh nước Việt Nam phải cho chính những người Việt Nam quốc gia chân chính, không cộng sản mới đủ thảm quyền định đoạt, chứ không phải do một tên De Gaulle, Brochand, Chirac, Martin ... nào đó bàn hội được!
Chúng ta đã bị đầu cơ lãnh đạo bởi những tên bất tài vô tướng, ăn cháo đái bát, lừa thầy phản bạn, vì quá dốt nát nên đã ngây thơ tin tưởng sự “tử tế” của kẻ thù. Chính trường miền Nam trước 1975 như một canh bạc bịp mà chủ sòng lưu manh đang giở mọi trò gian xảo bỉ ổi nhất để lường gạt thế mà thảm thương thayn con bạc ngây thơ cứ lao đầu vào tưởng bở tổ xả láng để rồi cuối cùng nuốt hận lưu vong chua cay, làm trò hề cho địch thủ đắc chí.
Như vậy, qua VNNC chúng ta đã thấy gì? Chỉ toàn những hành động hèn nhát, trung lập, mưu toan bắt tay với kẻ thù. Oâng Đôn không phải là một tướng anh hùng, giữ đúng tiết tháo, liêm sĩ con nhà võ. Vì nếu có, ông đã tuẫn tiết khi bị hạ nhục trong đêm chỉnh lý để giữ vẹn toàn tiếng thơm. Trái lại ông chỉ có những hành động tiêu cực kêu than buồn thảm mà thôi (trang 290 – 291 – 293 – 294).
Những vấn đề mấu chốt vẫn chưa có kết luận. Những nghi vấn vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng. Oâng Đôn luôn luôn tự nhận mình có công với đất nước, và phủ nhận những hành động tội lỗi của mình. Thử hỏi trong lúc chính quyền Ngô Đình Diệm đang trên đà chiến thắng cộng sản Bắc Việt với quốc sách Ấp Chiến Luợv, kế hoạch đinh điền, chiến dịch hành quân đại quy mô ..., thì những người tự nhận mình là “lãnh tụ tranh đấu”, những tướng nhưng ông Đôn đã làm được gì? Ông đã từng nói sợ đảo chánh, cân nhắc lợi hại để rồi cuối cùng ‘chọn đảo chánh để cứu nước” nhưng rốt cuộc nước vẫn mất vào tay giặc. Bên công bên tội, bên nào nặng hơn? (trang 186 – 187)
Sau ngày đảo chánh, một người bạn phe Ấn Quang biết tôi cũng là một Phật tử thuần thành, đã nói: “Nếu ông Diệm còn, miền Nam sẽ theo Công Giáo hết!” Thay vì phụ họa luận điệu đó, tôi đã quắc mắt hỏi lạilàm anh ta ngạc nhiên: “Giữa công giáo và cộng sản, anh chọn bên nào?”
Ngày nay khi đã “thấm mệt” trên bước đường lưu vong, chắc người bạn kia đã thấy rõ nhận xét nông nỗi của mình. Tôn giáo nào cũng khuyên răn tín đồ làm lành. Chỉ có cộng sản mới khuyến khích bạo lực, đâm chém, biểu tình để gây đổ máu huynh đệ tương tàn.
TT Diệm đã nằm xuống. Chiếc thiết vận xa M113 định mệnh và 3 tấc đất hẻo lánh trong Bộ TTM đã quá đủ để lịch sử phê phán công minh ai phải ai trái.
Ngày nay ông Đông cũng đã nằm xuống. Tôi muốn ông an nghỉ để lắng nghe chiếc áo quan luận định cuộc đời binh nghiệp và chính trị của mình.
Phụng Hồng
(Winter Park, Florida)
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:16:52 GMT 9
TỪ “ĐƯỢC ĂN ĐƯỢC NÓI, ĐƯỢC GÓI ĐEM VỀ” ĐẾN “GỌNG KÌM LỊCH SỬ"
Trần Nguyên Sơn
Cổ nhân có câu người gìa sống với quá khứ, tuổi trẻ nhìn về tương lai thành ra nhiều nhân vật lãnh đạo ở tuổi cổ lai hy; nhìn lại qúa khứ vàng son không những bồi hồi xúc động còn cảm thấy tiếc nuối. Họ đều viết nhật ký, hồi ký hay tự sự ghi lại "một thời hiển hách." Có người khôi hài nói là, Hải ngoại được “được mùa hồi ký.” Ông Tướng Tôn Thất Đính cũng vội vàng hối tiếc việc làm; ông Đỗ Mậu muốn đi xa hơn thế nữa “sinh vi tướng tử vi thần.” Đến ông Tướng Lý Tòng Bá được ông Tướng Huỳnh Văn Cao khen là danh tướng! (Bá :19) của VNCH. Nhưng ngược "Danh Tuớng Bá" lại chê Tướng Nguyễn Bá Liên "Một con người như vậy mà cũng lên Tướng được!" (Bá :103) Nhờ vậy thiên hạ mới được chiêm ngưỡng "bí sử." Chưa từng thấy một người nào phác họa được chân dung "như thật" từ ngày cha sinh mẹ đẻ; hay còn là "bố cu mẹ đĩ." Ai cũng hào hùng, sáng chưng như mặt phải của tấm huy chương. Tuy nhiên dù nói thế nào đi chăng nữa, tất cả những hồi ký của các nhân vật lãnh đạo, tướng lãnh; mỗi người nhìn theo một lăng kính riêng; có những dị biệt ít nhiều đóng góp vào công việc chung. Phục hồi mục đích cao đẹp chiến đấu cho Tự Do Dân Chủ củả VNCH. Mặc dù một đôi lần bị bức hiếp làm mất cả ý nghĩa.
Vào cuối tháng 3-2001, một nhà ngoại giao của TT Thiệu; ông Đại Sứ Bùi Diễm đến Seattle WA ra mắt cuốn Hồi Ký Chính Trị với nhan đề “Gọng Kìm Lịch Sử.” Sách đẹp in trang nhã đề giá bán 25 Mỹ kim; do nhà xuất bản Phạm Quang Khai ở Paris phát hành năm 2000 dầy khoảng trên 500 trang.
Với tên tuổi của ông, người ủng hộ cũng như tò mò tới tham dự mua sách đông đảo. Cuộc ra mắt sách được coi thành công đối với một nhân vật chính trị VNCH, so với nhiều người khác. Đây là một niềm an ủi lớn cho những người “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay."
I - Khái Lược Gia Thế của ông Đại Sứ:
Về gia thế ông Bùi Diễm thuộc "con dòng cháu giống;" Thân phụ là cụ Bùi Kỷ; cháu của cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim. Xem qua thân thích liên quan toàn với những nhân vật lịch VN từ năm 1945 cho tới ngày tàn cuộc chiến năm 1975. Bản thân ông cũng giữ chức vụ quan trọng nhiều chính phủ từ Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ đến Nguyễn Văn Thiệu. Hơn thế nữa, ông còn đảng viên một đảng chính trị quan trọng Đại Việt, cùng phái với cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát; mà những người đương thời thường gọi là "Đại Việt Quan Lại" Một khuynh hướng xuất hiện dưới thời Pháp thuộc ở BV. Còn tại Nam Kỳ một thành phần mới dưới xã hội Thuộc Địa tương đương, gọi là “Đốc Phủ Sứ.”
Trong nhiều đoạn ký, với kỹ sảo, ông kể thêm về gia thế; là cháu của một sứ giả triều đình VN sang Trung Hoa. Nhân vụ TT Johnson "thật thân thiết" ghé vào tai ông trong kỳ họp ở Guam Bùi Diễm có phải cháu của Bùi Viện hay không? Nhà nho Bùi Viện là Sứ giả đầu tiên của VN tới Mỹ. Mặc dù cùng họ Bùi nhưng dĩ nhiên không có liên quan gì tới Bùi Diễm. Trong sự kiện này, một dịp nữa ông Bùi Kỷ nói "Đại Gia họ Bùi" đã có 2 người cùng đỗ “Phó Bảng Đồng Khoa” vào năm 1865; và tiện dịp ông chép luôn câu đối ca tụng họ Bùi; "Bùi thị đồng khoa, song Phó Bảng; Châu Cầu nhất nhật lưỡng vinh quy." (:314). Và trong số "Bùi Thị" này cũng có người đi sứ; do đó, dù không phải là hậu duệ của Bùi Viện; nhưng họ hàng Bùi Diễm cũng vẫn thuộc dòng dõi "Sứ thần." Cho nên con cháu làm Đại sứ cũng không có gì trở ngại!
Nói về Bùi Viện: Vào 8-1873 (7-Qúi Dậu) Bùi Viện xuống thuyền ra cửa Thuận An, tiến về phía Bắc. Mang theo trọng mệnh của Triều đình Huế, tìm mối ngoại giao Tây Phương khác, hóa giải thế lực của Thực Dân Pháp đang gia tăng tại VN. Đến 10-1873 Bùi Viện tới Hương Cảng, sau 2 tháng lênh đênh trên biển cả. Hương Cảng là đất nhượng địa của Trung Hoa, cho người Anh Cát Lợi từ năm 1842. Bùi Viện dừng chân tại Hương Cảng nỗ lực tìm hiểu tình hình thế giới. Ông làm quen với nhiều hạng người; đặc biệt trong số đó có Lãnh sự Mỹ tại Hương Cảng. Vốn mẹ là người Trung Hoa, thông thạo Hán học, cho nên việc giao hảo giữa Bùi Viện và vị Lãnh sự nọ dễ dàng. Bùi Viện thực lòng trình bày tất cả uẩn khúc về VN cho vị Lãnh sự Mỹ và yêu cầu được giúp đỡ.
Viên Lãnh sự Mỹ thuận theo lời yêu cầu, viết một bức thư cho bạn đang làm việc bên cạnh TT Mỹ, cũng như giúp đỡ Bùi Viện sang Mỹ. Ông qua Hoàng Tân (Nhật), từ đó đổi tàu thủy đi San Francisco (Cựu Kim Sơn). Dừng chân tại đây, ông đổi xe lửa tới Washington DC. (Hoa Thịnh Đốn). Sau thời gian chờ đợi cả năm trời ông được TT Mỹ, Grant tiếp kiến. Bùi Viện trình bày tình hình VN và xin với TT Ulysses S. Grant (1822-1885), giúp đỡ chống Thực dân Pháp. (Một điều may mắn trong thời gian này giữa Mỹ và Pháp đang có tranh chấp tại Mexico. Mỹ đang muốn bành trướng thế lực của mình tại Á Châu; cạnh tranh cùng cường quốc Tây Phương khác. Nhiệm kỳ của TT Ulysses S. Grant trong khoảng thời gian 1869-1877. Một điều không may xẩy ra, Mỹ không thể ký kết gì với VN; lý do đơn giản là không có Quốc thư ủy nhiệm của Hoàng Đế Đại Việt. Cuối cùng, không thể làm gì hơn; Bùi Viện đành phải quay về VN lấy Quốc thư. Ông đi theo lộ trình cũ, nhờ tàu của Mỹ về Hoàng Tân, sang Hương Cảng, đổi thuyền buồm về tới Hải Phòng. Sau đó vội vã nhập Kinh theo đường bộ; trình bày với Vua Tự Đức về việc Quốc thư. Khi nhận được giấy ủy nhiệm, quốc thư của Triều đình Huế; ông vội vã quay sang Hoa Kỳ tiếp tục sứ mạng ngoại giao. Theo chúng tôi dự đoán ông tới Hoa Kỳ vào khoảng cuối năm 1873; khi trở về VN để lấy quốc thu vào khoảng tháng 8-1874. Mãi tới 1875 ông tới Hoa Kỳ, nhưng mọi việc quá trễ, tất cả đều đã thay đổi. Giữa Pháp và Mỹ đã bình thường hóa. TT Hoa Kỳ Grant từ chối ký Hiệp định như đã hứa hẹn trước đó. Cuộc liên lạc Ngoại giao Mỹ-Việt diễn ra lần đầu tiên như vậy.
Sự khác biệt giữa hai Bùi Viện và Bùi Diễm rất xa về thời đại, con người và hoàn cảnh. Bùi Viện trong đất nước bi đát tìm một quốc gia ủng hộ. Trong khi đó Bùi Diễm vì những động cơ chính trị, liên minh trong nội bộ VNCH được chỉ định vào chức vụ Ngoại giao. Mãi mãi Bùi Viện là một danh nhân của VN mặc dù mục đích không thành. Tuy nhiên sự kiện Bùi Viện có hay không hiện vẫn chưa được nhiều người đồng ý.
Điều ngạc nhiên nhất giữa các Tiểu sử của miền Nam và miền Bắc là đối phương thường mạo nhận họ là con cái của những nông dân nghèo nàn, ít học, thậm chí còn thất học; nhưng rồi sau khi chết mới vỡ lẽ ra họ đều thuộc giai cấp Địa Chủ, Tiểu Tư Sản hay Quan lại chẳng hạn như Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng là "cậu ấm con quan Thượng thư thứ thiệt." Chẳng một chút gì liên quan tới Giai cấp vô sản. Rồi ông Bùi Tín cũng con quan Thượng Thư ...
(Sau khi đã hoàn tất bài này; vào trung tuần tháng 5-2001 chúng tôi có dịp thăm Huston TX, trong một dịp nói chuyện với ông Chánh Đạo về sự kiện Bùi Viện. Nhà nghiên cứu, Sử Gia Chánh đạo đã cho sự kiện này là không có thật. Ông dẫn chứng một cuốn sách tác gỉa Mỹ ghi chú sự kiện Bùi Viện. Tác giả đó viết mặc dù ông đã nỗ lực tìm kiếm trong nhiều thư khố Mỹ nhưng vẫn không thấy ghi lại sự kiện trên; chúng tôi đọc đoạn chú thích ngay trong nhà sách Văn Hóa của ông ở Huston. Riêng ý kiến của ông Chánh Đạo đồng ý với chú thích trên cho rằng "sự kiện Bùi Viện hoàn toàn là tượng tượng của..." Đây là một tiếng nói của phía các nhà nghiên cứu Mỹ. Còn riêng phía các học giả VN chúng tôi biết ít nhất 03 tác giả viết về sự kiện này. Thứ nhất là tác giả Phan Trần Mỹ (?) viết sớm nhất vào khoảng năm 1948 (?) Tác giả thứ ha là ông Thái Văn Kiểm; người cuối cùng mà chúng tôi được biết đó là ông Mai Lân mới đây, viết trong cuốn sách nói về Hà Nội sau ngày 30-4-1975 chúng tôi được đọc một lần trên tờ Thời Báo phát hành tại San José. Riêng thiển ý cho rằng; việc này tạm thời đặt vào trường hợp "tồn nghi" phải chờ thời gian để kiếm thêm các chứng cứ; mới có thể trả lời dứt khoát có hoặc không. Ngoài ra ông Vũ Ngự Chiêu có nói tới một văn kiện đã được Ngũ Giác Đài giải mật liên quan tới Đại Sứ Bùi Diễm; nhưng chúng tôi vì bận không thể trở lại Houston để lấy bản sao. Do đó những liên quan đó không được nêu ra trong bài này. Dù sao cũng xin cảm tạ thiện ý của ông Vũ Ngự Chiêu. TNS)
II - Lịch sử là một sinh vật ngo ngoe:
Tên tựa tập hồi ký của ông Bùi Diễm là "Gọng Kìm Lịch Sử," như con cua, con bọ cạp với cặp càng. Phải chăng ông Đại Sứ cho rằng Lịch sử có một đời sống? biết mưu mô hại người lương thiện hoặc kẻ gian nịnh. Cho nên mới có gọng kìm hả rộng nhai trọng con người.
Đối với nhiều người quan niệm lịch sử tự nó diễn tiến; như một chiếc đồng hồ mỗi một giây trôi qua là một giây lịch sử. Người ta không thể thay đổi được lịch sử; ngày đó giờ đó một hành động phản nghịch xẩy; ra hay ngày đó giờ đó ông Nguyễn Văn Thiệu bỏ VN sang Đài Loan chạy trốn. Ngày đó giờ đó ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vv...; các ông Đại sứ VNCH ở ngoại quốc rong chơi tiệc tùng ngoại giao; bỏ nhiệm sở. Hai Tướng Pham Văn Phú, và Ngô Quang Trưởng được lệnh Nguyễn Văn Thiệu bỏ Vùng I và IỊ Ông Đại Sứ dùng chữ "Gọng Kìm Lịch Sử" chỉ là lối nhìn theo một chiều hướng nhất định; mà chúng tôi tạm gọi là chính trị. Thực tế đó là biện chứng; thấp hơn gọi là cảm tính. Lịch sử tự nói lên sự thật. Nó sẽ bị thay đổi, nhuộm mầu xanh đỏ chỉ vì những cặp kiếng mầu. Thời đại chúng ta nhiều người nhìn lịch sử bằng biện chứng; nhất là đảng Cộng Sản VN, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngay cả cái bóng của chính mình. “Chính khách, chính trị gia” VNCH; bằng con đường biện chứng dễ gây ra xung đột và chia rẽ. Sở kiến đứng về phương diện triết học chỉ là một anh mù rờ voi không hơn không kém. Nhưng đôi khi sở kiến giúp cho ích việc khám phá chân lý? Con đường chính danh của lịch sử VN là nhìn dưới ánh sáng lợi ích dân tộc. Cho nên tất cả những cái gì liên quan tới ngoại bang, lệ thuộc ngoại bang, phục vụ cho ngoại bang đều bị kết án.
III - Bắt đầu bằng năm 1945 - 09 Chương Đầu:
Với một lối văn ngoại giao trang nhã; sáng sủa trong vòng đầu chín chương; kể cả lời tựa (:1-118); Tác giả phục hoạt sinh hoạt chính trị của giai đoạn sôi động nhất năm 1945. Có chi tiết khá đặc biệt mà ông là nhân chứng như cảnh, Hồ Chí Minh bị SV sỏ ngọt trong cư xá SV Đại Học Hà Nội. Xuất hiện trước "Ngài chủ tịch HCM mình trần như nhộng." Và phản ứng nhanh nhẹn của một lãnh tụ Quốc Tế chữa nghịch cảnh thiếu nghiêm trang "Các chú thì lúc nào cũng đùa nghịch được." (:68). Tuy nhiên phần lớn là những nét khá đại cương; chỉ vì khoảng thời gian này Bùi Diệm mới 22 tuổi!
Vì là đảng viên Đại Việt của Trương Tử Anh, một số chi tiết được ông Bùi Diễm ghi lại nằm trong khuynh hướng Đại Việt. Trước đây, qua một số tác phẩm nói về “Anh cả Phương” nhân vật nửa hiện thực nửa dường như huyền tho?i; ông Bùi Diễm tự đặt mình vào một vị trí thân cận hết sức mật thiết với Trương Tử Anh! Các đảng chính trị VN thích xây dựng nhân vật lãnh tụ thiếu hiện thực để đến nỗi xẩy ra tình trạng mà tôi cho đó là chân lý, "Tuy nhiên cũng như trong trường hợp nhiều đảng phái Quốc Gia khác ngoài mục đích tối hậu để tranh đấu dành lại độc lập, người ta không thấy trình bày rõ ràng những quan niệm xây dựng xã hội hoặc những chủ trương chính trị và kinh tế nhằm thực hiện công bằng xã hội và tự do dân chủ." Ngay lập tức ông Đại sứ đã chia sẻ sai lầm này cho các đoàn thể khác để làm nhẹ gánh "của nợ" thay vì chỉ ĐV gánh. Điều đó cũng chẳng sao, vì bánh xe lịch sử đã quay rồi; người chép sử cũng đã nhìn thấy cái hay cái dở của từng chính đảng. Nhưng hành động của ông một lãnh tụ ĐV dưới thời Nguyễn Khánh nắm ghế Bộ Trưởng Nội Vụ lập tức thả tù kiếm tiền, không biết ông Đại sứ sẽ chia xẻ cay đắng với ai? Một lãnh tụ già nua khác, đi không nổi vẫn còn bám ghế Chủ Tịch Đảng không rõ phải biện minh là sao nữa. Rồi nhiều người khác nữa lập trường lủng củng thả nổi theo quyền lợi, chức vụ cộng tác hết với chính phủ này tới chính phủ khác; không biết họ là ai nữa! Thời đại chúng ta lúng túng, mệt mỏi bào chữa nếu nhận họ vào hàng ngũ Quốc Gia. Trường hợp với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhiều người công kích dùng đủ mọi danh từ khi nói về ông thậm chí mới đây một loại bài đăng tải tại Seattle nhân dịp nói về cuộc Di tản Vùng II có người còn gọi "TT Nguyễn Văn Thiệu là cán bộ CS." [?!] Người ta lại quên đi người thứ 2, là ông PTT Trần Văn Hương mà lại chỉ nhè ông Đại Tướng Trần Thiện Khiêm để công kích. Rõ ràng đã để cảm tính đi xa hơn suy nghĩ. Đây là một sự thiếu công bằng trông thấy. Tại sao có những trường hợp khác biệt đầy cảm tính như vậy? Thời đại hiện nay cần phải định nghĩa lại nhiều vấn đề; phân biệt rõ từng khuynh hướng, tránh đồng nghĩa danh từ Quốc gia trở thành mẫu số chung cho người "không cộng sản."
09 chương đầu, với cách nhìn tổng quát; tác giả đã đưa ra hình ảnh xác thực về "Phong trào Quốc gia hoạt động trong giai đoạn 1945-1946” khuynh hướng rõ ràng của "Người Không Cộng Sản." Sở dĩ chúng tôi phải dùng chữ Non-Communist với nỗ lực định nghĩa chữ Chủ Nghĩa Quốc Gia (Nationalism); vì từ xưa tới giờ đã gây rất nhiều ngộ nhận về chữ Quốc gia. Trên nửa thế kỷ ngộ nhận, gần như dẫn tới tình trạng nhố nhăng. Nhiều chính khách hoạt động tự do (Liberal), Hợp tác, Quân Chủ, Độc Tài cũng là người Quốc gia. Thành ra chữ Quốc gia mất hết cả ý nghiã cao đẹp vốn có của nó. Chúng tôi chờ đợi với tư cách một nhà hoạt động chính trị của 3 thời kỳ VNCH II; ông Đại Sứ Bùi Diễm sẽ đưa ra một định nghĩa chính xác về hai chữ Quốc gia; nhưng vẫn đối diện với bức tường. Chữ Quốc gia đã trở thành mẫu số chung của những người không CS. Chúng tôi thất vọng không thấy; ông đưa ra một định nghĩa nào trước vấn đề trọng đại; làm sáng tỏ ý nghĩa Phong trào Quốc Gia vốn có. Để lật ngửa cho bàn dân thiên hạ xem tấm mặt trái của tấm huy chương; "Ai là kẻ hợp tác, ai là người Quốc gia." Nền chính trị học Khổng Tử, mặc dù có một số người chê trách là bảo thủ chậm tiến; nhưng còn đưa ra được quan điểm chính danh. Môn đệ của Khổng Tử định nghĩa rất rõ về vấn đề này. Phong Trào Quốc Gia hiện diện trong dòng lịch sử; nhưng vẫn đứng ngoài lãnh đạo. Tại sao vậy?
Chính vì không thể đưa ra một ý nghĩa xác đáng về Chủ Nghĩa Quốc Gia cho nên tất cả những hoạt động của nhóm hợp tác, tay sai như ông Bùi Diễm nhận xét,
“Tôi đã từng sống trong vùng VM, họ biết tổ chức ra sao và hiểu rõ khả năng của những người như Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp. Ngoài ra tôi cũng thấy họ được sự ủng hộ của quần chúng vì họ chống ngoại xâm, trong khi đó thì những "thành phần Quốc Gia" lại có "nhược điểm vì bị nghi ngờ là hợp tác với Pháp." Trong hoàn cảnh đó, phần thắng của "phe Quốc gia sau Genève thật là mỏng manh, nếu không có một chính phủ đoàn kết, được sự ủng hộ của tất cả các thành phần không Cộng Sản." (:143)
Chỉ trong một đoạn ngắn, Bùi Diệm đã phần nào nhìn ra vấn đề, nhưng còn trong trạng thái phân vân. Mặc dù ông đã nỗ lực đưa ra các từ ngữ "thành phần Quốc gia," "phe Quốc gia," "hợp tác với Pháp," rồi "thành phần không Cộng sản." Đáng tiếc ông chỉ dừng lại tại chỗ; không đưa ra một lời kết luận định nghĩa rõ hơn nhóm từ ngữ này. Tuy nhiên, bằng ngôn ngữ ngoại giao ông đã bóng gió cho việc cộng tác với Pháp, hay nói chung với ngoại bang là một điều không được toàn dân chấp nhận; ngoài ra thành phần không Cộng Sản không có nghĩa là thành phần Quốc gia. Nếu chúng ta đã có danh từ Tay sai Chủ nghĩa Thực dân Pháp, con đẻ chủ nghĩa Cộng Sản Nga Hoa; tay sai của Cộng Sản Quốc Tế ngay từ thời chiến tranh 1945-1954; tại sao ông Đại Sứ ngần ngại không kiếm một danh từ chỉ những thành phần hợp tác với Mỹ sau Thế chiến IỊ Nước Pháp chả từng ca tụng Thống chế Pétain anh hùng nước Pháp Thế chiến I; những cũng từng đưa tên phản quốc Pétain ra tòa vì tội hợp tác với Quân Đội Đức; bất chấp lời biện minh tội danh để cứu nước Pháp khỏi sự tàn phá; Uông Tinh Vệ người Trung Hoa chỉ đứng ra lập Chính phủ hợp tác với Nhật trong cuộc chiến tranh Trung Nhật đã bị cả hai phe Quốc Cộng kết án là Phản Quốc. Chữ hợp tác được dùng trong trường hợp phản nghĩa phân biệt sáng tỏ thêm hai từ ngữ Quốc Gia; có nghĩa là không lệ thuộc. Điểm định nghiã dĩ nhiên đánh tan một số thiên kiến, suy luận trước đây của Tây Phương cho rằng "Hồ Chí Minh chủ trương Quốc Gia Cực Đoan giống như Tito, Mao Trạch Đông.” Chế độ CSBV ít nhất liên minh với hai Quốc gia CS Trung Hoa và Nga Sô thực hiện chủ nghĩa Quốc Tế vô sản; hợp tác với ngoại bang nên không thể, và không bao giờ Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Phong trào Quốc Gia. Cũng như các lãnh tụ hợp tác trong cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ là những nhà lãnh đạo liên minh, hợp tác với Tây Phương không thể là những lãnh tụ của Phong Trào Quốc Gia. Ông Phan Huy Quát, Bùi Diễm, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu đều nằm trong truờng hợp này. Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản VN cũng chỉ là một khuynh hướng liên minh Quốc Tế Cộng Sản đối nghịch với khuynh hướng Liên Minh Tây Phương khác.
Một thực tế dễ nhận trong số những thành phần "Không Cộng Sản" hoạt động hết sức tự do. Điển hình như ông Phan Huy Quát, mà Đại Sứ Bùi Diễm phải dành rất nhiều trang bàn tới thái độ chính trị, tinh thần yêu nước của Vị Thủ Tướng này. Nhưng ngược lại xét lại quá trình hoạt động của ông Quát; người ta thấy tương tự như những chính khách, chính trị gia đuơng thời; và ngay cả ông Đại Sứ Bùi Diễm là người có mặt tại nhiều nơi, nhiều chỗ và nhiều thời kỳ. Khiến không ai có thể xác định được lập trường chính xác nhất của những nhà lãnh đạo "không Cộng Sản" hay "chống Cộng Sản."
Riêng ông Bùi Diễm phục vụ trong Chính Phủ Bảo Đại, Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ, tiếp đến là Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu . Trong các chính phủ ông đều là nhân vật quan trọng. Cuối cùng ông Bùi Diễm đóng vai Đại Sứ Hoa Kỳ, một quốc gia quan trọng đối với VNCH. Cả 3 chính phủ sau mầu sắc chính trị nhiều khi chống đối lẫn nhau?! Trong cuốn sách của ông Bùi Diệm không hề thấy giải thích tại sao. Bản thân ông hợp tác với cả 3 chính phủ; tuy nhiên vẫn không hơn được ông Quát tới 6 lần hợp tác lớn nhỏ. Trong đó có một lần hợp tác với Chính Phủ Nguyễn Văn Tâm. Riêng thành tích của ông Nguyễn Văn Tâm đã bị châm biếm “Đại Điểm Quần Thần;” Thành ra nếu có cộng tác với Nguyễn Văn Tâm cũng chẳng lấy gì làm vinh dự lắm. Nếu như ngồi chung với ông Lê Văn Hoạch; cũng tương tự hợp tác với BS Nguyễn Văn Thinh trong Chính Phủ Nam Kỳ Tự trị mà thôi. Thời đại chúng ta sau nhiều thất bại đau đớn; các thế lực, Quốc Tế cả Tự do và CS đều không dành cho Phong trào Quốc gia VN chỗ đứng. Một lãnh tụ lớn của Hoa kỳ đã cho rằng học thuyết Quốc Gia (Nationalism) không khác chủ nghĩa CS về mục tiêu đấu tranh đều là Độc lập Dân Tộc; chỉ khác nhau khi xây dựng hệ thống chính trị, kinh tế; biện pháp thực hiện đôi khi giống nhau về cực đoan chẳng hạn như xử dụng biện pháp quốc hữu hóa các tài sản của ngoại quốc. Cho nên để chọn người liên minh, Hoa Kỳ khó có thể cộng tác những nhà hoạt động Phong trào Quốc gia!
IV - Một nhà chính trị Quốc Gia hay là một chánh khách thời đại
Từ chương thứ 10 trở đi, chính khách Bùi Diễm mở ra một số vấn đề. Bằng ngôn ngữ ngoại giao ông đã né tránh tất cả quan điểm có thể cho người đọc xác nhận được lập trường của ông rõ nét nhất. Chẳng hạn như; để nhận xét về TT Ngô Đình Diệm ông Bùi Diệm dẫn chứng bằng lời của Cựu Hoàng Bảo Đại, "... và về phương diện này thì ông (Bảo Đại) cho là ông Diệm được Hoa Kỳ tin cậy hơn ông Quát. Theo ông (Bảo Đại) thì ông Diệm đúng là người của giai đoạn hậu Genève.” (:146); người ta chờ đợi ông Bùi Diễm, thì lại là ý kiến của Quốc Trưởng Bảo Đại. Nhưng vô tình ông đã xác nhận ông Phan Huy Quát cũng chỉ là người theo đuổi chủ trương hợp tác; nhưng chưa được Hoa Kỳ tín nhiệm.
Ai cũng biết ông Bùi Diễm đã nhận là đảng viên Đại Việt với Phan Huy Quát. Việc này thể hiện qua Thủ Tướng Quát bổ nhiệm Bùi Diễm vào chức vụ quan trọng nhất trong chính phủ, Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng. Dưới sự phân tích của ông Bùi Diễm
"Bác sĩ Quát là một chính khách có nhiều kinh nghiệm và óc tổ chức, với một nhân phẩm ngay thẳng trong sạch không ai phủ nhận ... ông vốn có hoài bảo và nhiệt tâm kiến thiết một quốc gia tân tiến."
Về thành tích "Đổng Lý văn Phòng của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, 04 lần giữ chức Tổng Trưởng (Giáo Dục, Quốc Phòng hai lần, và sau chót là Ngoại giao)" (:211); như vậy việc chọn lựa một nhân vật thân cận như ông Bùi Diểm chắc hẳn ông Quát không còn lầm lẫn gì cả. Điều mà ông Bùi Diểm không nói tới ông Phan Huy Quát 04 lần Tổng Trưởng trong hoàn cảnh nào. "Dĩ nhiên ai cũng thấy đó là Chính phủ nằm trong kiểm soát của Thực Dân Pháp." Riêng việc Ông Quát làm Đổng Lý Văn Phòng chính phủ Trần Trọng Kim chính ông Bùi Diễm cũng đã tinh tế nhận ra. Sau khi nhà sử gia Trần Trọng Kim chết đưa về Hà Nội, "Đám táng của cụ được cử hành trọng thể tại Hà Nội với một đặc điểm là những bài điếu văn đều nói tới cụ như một học giả, một sử gia, một người yêu nước nhiều hơn là một người làm chính trị, và sách vở của cụ được nhắc nhở đến nhiều hơn thời gian ngắn ngủi cụ làm Thủ Tướng.” (:136-137); điều này ông Bùi Diễm đã tự trả lời tiêu chuẩn Tổng Trưởng Bộ Trưởng và ngay cả Thủ Tướng, Nguyên Thủ chưa đủ để tránh lời đàm tiếu việc làm lúc sinh thời. "Một vài sử gia sau này có viết là khi làm Thủ Tướng, cụ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội." Do đó qua nhận xét của chính ông Bùi Diễm, chức vụ Thủ Tướng của cụ Trần Trọng Kim chỉ là một điểm đen; thành ra chức Đổng lý Văn Phòng của ông Quát cũng vì thế chẳng thêm giá trị gì mấy. 4 lần tham chánh dưới thời Thực Dân:
1.-Ngày 1-7-1949 Làm Bộ trưởng Giáo Dục Bảo Đại.
2.-Tháng 1-1950 Làm Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính Phủ Nguyễn Phan Long. (3 tháng)
3.-Ngày 1-6-1953 Làm Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính phủ Nguyễn Văn Tâm.
4.-11-1-1954 Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính Phủ Bửu Lộc.
V - Ai là người trách nhiệm việc quân đội Mỹ vào miền Nam VN.
Ông Bùi Diệm là người trợ thủ đắc lực của Thủ Tướng. Việc ông nỗ lực biện minh sự kiện đưa “Quân Đội Mỹ vào miền Nam bằng cách nào và trách nhiệm vấn đề này của ai?" Nhiều người trước đây chỉ trích sự hiện diện quân đội Mỹ đã làm hại cuộc chiến đấu cho tự do dân chủ Miền Nam; ngay cả sử gia người Mỹ. Theo cách viết của ông nhà ngoại giao Bùi Diễm dường như người ta thấy rằng chẳng ai có trách nhiệm; do người Mỹ cả?!
Ngay thời gian khủng hoảng chính trị Thượng Hội Đồng dưới thời Tướng Nguyễn Khánh ông Bùi Diệm lý luận, "vì nhà vô chủ, vì nội bộ lủng củng, thì hoàn cảnh đặc biệt này càng khiến Hoa Kỳ tự ý quyết định hoặc chỉ hỏi lấy lệ vào giờ phút chót vài tướng lãnh." (:220) Cho nên Hoa Kỳ có quyết định đơn phương. Riêng Chính Phủ Phan Huy Quát mà ông Bùi Diễm là một thành viên quan trọng ghi nhận, "Mặc dầu tin tức về cuộc dội bom BV được đăng tải ... không hề được nêu lên trong các hội đồng nội các... hay trong những buổi họp cao cấp Việt Mỹ.” Trách nhiệm về ai ông Diễm đặt ra rồi tự trả lời “tôi nghĩ rằng lúc đó Tướng Khánh không nói lại cho chính phủ mới (Quát).” Thành ra không có trách nhiệm; điểm thứ 2 để bào chữa Chính Phủ Quát không có trách nhiệm, "Chính phủ VN còn đang ngụp lặn và cố ngoi đầu khỏi mặt nước, thế là các giới chức Quân sự Mỹ và Việt đương nhiên tự do hành động.” (:221) Từ chỗ không quy kết được ai, Chính phủ Quát hoàn toàn vô trách nhiệm; do Mỹ tự ý quyết định đến cho các giới chức quân sự Mỹ và Việt tự do hành động. Nhưng ông vẫn không nói rõ được "giới quân sự Việt là ai Nguyễn Cao Kỳ hay Nguyễn Văn Thiệu?” Một lập luận khá đơn giản và khôi hài được ông Bùi Diễm đưa ra, chỉ vì không được nêu trong phiên họp Hội đồng Nội các thành ra không ai bàn tới! Còn ai là giới chức cao nhất để đưa ra, ngoài ông Bùi Diễm Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng và TT Phán Huy Quát, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng Tướng Thiệu. Vậy thì trách nhiệm buộc phải quy kết cho Thủ Tướng Quát, Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng Bùi Diễm của Bộ Quốc Phòng Nguyễn Văn Thiệu và vv ... Không ai khác bộ ba gồm các ông Phan Huy Quát - Nguyễn Văn Thiệu - Bùi Diễm rộng hơn nữa Trần Văn Đỗ - Trần Văn Tuyên và toàn Chính phủ Phan Huy Quát, Hội Đồng Tướng Lãnh.
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:17:22 GMT 9
Đến ngày 8-3-1965, 02 Tiểu đoàn TQLC Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng; sau khi chính phủ Quát đã thành lập được 22 ngày. Về ý nghĩa sự kiện nhà ngoại giao Bùi Diễm đưa ra hoàn toàn phù hợp với nhiều ý kiến:
1.-Một quyết định ném lao mà ông gọi là "point of no return."
2.-Đối với dân chúng miền Nam “tái hiện của quân ngoại quốc trên mảnh đất quê hương. (:221)
Ngay buổi sáng của ngày 8-3-1965 ông Bùi Diễm trình bày, được Thủ Tướng Quát gọi đến tư gia để nhấn mạnh đến vi?c "Chính phủ Quát không hay biết gì về việc TQLC đổ bộ.” Sứ thần Manfull đang có mặt và ông yêu cầu ông Đổng Lý Văn Phòng Bùi Diễm soạn thông cáo chung về việc này, "Cố làm sao càng ngắn càng hay, trình bày sự kiện như đã xẩy ra và xác nhận sự đồng ý của chính phủ VN.” Sự thân thiết của ông Diễm đến độ “Tôi kéo BS Quát sang phòng khác và hỏi ông "có gì đặc biệt về quân sự mà chúng ta không được biết, đến độ họ phải hành động một cách vội vàng như vậy?õ" BS Quát cố giữ bình tĩnh ... hơi gắt gỏng, "Lúc này họ đang đổ bộ lên Đà Nẵng, anh sẽ làm xong bản thông cáo chung rồi chúng ta sẽ bàn sau." (:222-223)
Điều mà mọi người chỉ có thể đồng ý với ông Bùi Diễm “đây chính là một sự kiện chính thức thay đổi bộ mặt Chiến tranh VN.”
Nhưng qua đoạn văn “hồi ký" của ông Bùi Diễm người thấy rõ ràng rõ ràng ông Quát ra lệnh cho Bùi Diểm xác nhận "Việc quân dội Mỹ đổ xuống Đà Nẵng” có sự đồng ý của Chính Phủ VNCH. Tuy nhiên đoạn văn với cách diễn giải ngoại giao của ông Bùi Diễm vẫn thấy rằng ông Quát không hay biết. Đang bị đẩy vào tình thế đã rồi để bảo vệ cho Chính Phủ Quát và ngay cả Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ do chính ông Bùi Diễm đứng đầu. Để ủng hộ cho quan điểm của tác giả, ông đưa ra một câu nói của Thủ Tướng Quát sau khi Manfull rời tư gia của Thủ Tướng Chính Phủ, "Tôi nghĩ rằng chính ông Taylor cũng ngạc nhiên về quyết định mau lẹ của Hoa Thịnh Đốn ...” (:223) Đến ông Taylor còn không biết huống gì ông Quát và Bộ Trưởng Bùi Diễm?! Trong trang 233 ông Diễm đưa ra một ý kiến tổng quát; ông viết, "Bác sĩ Quát chỉ thấy là qua áp lực này đến áp lực khác, Hoa Kỳ gửi thêm quân sang VN." Dường như với ngôn ngữ ngoại giao ông Bùi Diểm muốn nói tới "không còn có cách nào khác là chấp thuận."(?!)
VI - Đâu là sự thực việc Mỹ đổ quân vào VN
Một thành viên quan trọng Chính Phủ Quát; ông Bùi Diễm trình bày sự kiện Mỹ đổ quân vào VN có phần đơn giản đến độ không ai có thể tưởng tượng nổi. Việc quốc gia đại sự có tính chất quyết định lịch sử lại diễn ra khôi hài đến độ như ông Bùi Diễm viết trong cuốn Hồi Ký. Tuy nhiên sự thực vụ đổ quân Mỹ vào VN ra sao? Dĩ nhiên còn nhiều bí ẩn; nhưng một cách tương đối đã được phơi bầy trước đó hàng tháng trời. Đủ thời gian giúp cho ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng Bùi Diễm suy nghĩ chín chắn,cân nhắc lợi hại về quân Mỹ đổ vão VN:
* Vào ngày 22-2-1965, Tướng Westmoreland điện về Washington yêu cầu tăng cường 2 Tiểu đoàn TQLC tới bảo vệ phi trường Đà Nẵng. Đại sứ Taylor đã biết trước kế hoạch của Westy điện về Washington phản đối và cảnh cáo TT Johnson rằng, thực hiện kế hoạch này có nghĩa là VNCH "trút đi được một số trách nhiệm lớn.” Bộ Tham Mưu Liên Quân Mỷ ủng hộ quyết định của Tướng Westy yêu cầu; Từ năm 1963 đến năm 1965 vai trò quân sự trong chính phủ Mỹ mạnh so với ngoại giao và chính trị. Giới quân sự đóng vai trò quyết định chiến trường VN mà người ta hay gọi bằng Diều Hâu.
* Thực sự đây là một sự kiện đáng để ý; Vào ngày 22-2-1965 một toán thanh tra Quân đội Mỹ do Trung Tướng John L. Throckmorton, phụ tá Tướng Tư Lệnh MAVC hướng dẫn tới xem xét tình hình căn cứ không quân Đà Nẵng. Sau khi trở về Saigon với một số đề nghị trình lên Westmoreland. Ngay lập tức Tướng Tư Lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN yêu cầu cơ quan CINCPAC tăng 3 tiểu đoàn TQLC/HK quân viện, bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Một căn cứ quan trọng của quân đội HK nhằm tung ra những đợt oanh tạc miền Bắc VN. Theo bản phúc trình điều tra của Trung Tướng John L. Throckmorton lấy lý do,
“Quân Đoàn I QLVNCH dưới quyền chỉ huy của Tướng Nguyễn Chánh Thi đã bị phân tán mỏng bảo vệ lãnh thổ quá lớn; không đủ sức bảo vệ an ninh cho căn cứ Đà Nẵng. Điều này phù hợp với Westy nghi ngờ khả năng của QĐI/QLVNCH; ngay lập tức 2 TĐ/TQLC/HK được gửi tới ngay, còn tiểu đoàn thứ 3 sẽ tới sau. Đô Đốc Sharp đồng ý cho rằng phải gửi ngay TQLC/HK tới Đà Nẵng trước khi xẩy ra thảm họa."
* Đại Sứ Taylor tại Saigon “từ trước tới giờ vẫn là một nhân vật chủ trương chống lại Bộ Binh Mỹ tham chiến trên chiến trường VN." Trong giờ phút này cũng phải miễn cưỡng chấp nhận việc gửi TQLC tới bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Tuy nhiên ông dự đoán, Chính phủ VNCH sẽ phản ứng về sự hiện diện quân đội HK, vì lý do họ phải nhường quyền quản trị lãnh thổ cho Mỹ. Đối với Đại Sứ Taylor việc tăng quân đồng nghĩa với “leo thang” chiến tranh. Ngoài ra, đối với ông “lính da trắng, với trang bị quân trang quân dụng như vậy sẽ không phù hợp với cuộc chiến tranh du kích tại VN" chiến đấu trong rừng rú. Người Pháp trước đây đã nỗ lực cải thiện lực lượng quân đội viễn chinh; cho phù hợp với điều kiện chiến trường nhưng họ đã thất bại. Tuy nhiên ông vẫn hy vọng quân lực Mỹ sẽ thực hiện tốt hơn. Điều lo lắng của Taylor bằng thừa. Chính phủ Phan Huy Quát và B.TTM/QLVNCH, các Tướng lãnh QLVNCH, chẳng những không phản đối mà ông Đại sứ Bùi Diễm được chỉ thị soạn thảo văn bản hợp thức hóa việc Mỹ đổ quân.
* Đại Sứ Taylor nhận đuợc chỉ thị của Chính phủ Mỹ thuyết phục Chính phủ VNCH chấp thuận việc "leo thang" mới. Việc này dĩ nhiên không khó khăn với Đại Sứ Taylor. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Trung Tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) tỏ vẻ lo ngại xẩy ra bạo loạn tại Đà Nẵng. Cho nên đã yêu cầu TQLC Mỹ đổ bộ, “brought ashore in the most inconspicuous way possible.” Với cách giải quyết của những nhân vật trọng trách đối với quốc gia VN như vậy (!); đã tiết lộ vai trò người Mỹ quan trọng ở miền Nam tới bực nào. (!) Họ chẳng những không chống đối quân đội Mỹ tham chiến tại VN. Mà còn ủng hộ, mở cửa lớn đón rước linh đinh. Sự hiện diện của quân đội Mỹ càng khiến chiến thắng CS trở thành xa vời, thiếu thực tế. Mỹ đã rơi vào bánh xe đổ của Thực Dân Pháp tại Đông Dương. Trái với những điều ông Bùi Diễm viết.
* Để đón chào TQLC Mỹ đổ bộ Đà Nẵng bảo vệ căn cứ; Chính phủ VNCH và BTM/QLVNCH ngay lập tức hạ lệnh tổ chức đón rất long trọng; (dĩ nhiên việc này do Phó Thủ Tướng Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu mau mắn, tránh chống đối bạo loạn của dân chúng; có lẽ đề phòng Phật Giáo chống leo thang chiến tranh.)
* Thiếu Tướng Frederick J. Karch, một cựu chiến binh Thế Chiến II tại hai mặt trận nổi tiếng Saipan và Iwo Jima chịu trách nhiệm cuộc đổ bộ; chỉ huy Lữ Đoàn này. Vào cuối tháng 2-1965 sau nhiều cuộc họp bàn thảo quyết định về việc quân Mỹ đổ bộ tại Đà Nẵng với rất nhiều ý kiến lãnh đạo của quân đội Việt Mỹ. Tướng Karch tường thuật lại cuộc họp, trong đó một ý kiến do một Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng BĐQ/QLVCNH đưa ra, khiến Karch không khỏi sững sờ. Vị Thiếu Tá này đề nghị, bằng trực thăng tiểu đoàn của ông ta sẽ quét sạch một làng VN gần khu vực đổ bộ ...?! Sau đó Tướng Karch đi thăm bãi biển Nam Ô chuẩn bị cho cuộc đổ bộ vào ngày 7-3-1965.
* Đến ngày 26-2-1965 Washington điện cho Westmoreland và Taylor báo, TT Johnson chấp thuận theo yêu cầu của Westy, 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ sẽ được vận chuyển tới Đà Nẵng. Nhiệm vụ của Taylor là phải bảo đảm việc Chính phủ VNCH chấp thuận. (Hiện tại, Hoa Kỳ vẫn còn e ngại phía VNCH không chấp thuận sự hiện diện của Quân đội Mỹ trên chiến trường. Điều này chỉ là điều lo ngại xa. Thực tế Thủ Tướng Phan Huy Quát, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã yên lặng, chấp thuận mọi yêu cầu của Mỹ. Họ không thấy được tai họa cho phép quân đội Ngoại quốc có mặt trên VN. (Những gương Lê Chiêu Thống, Nguyễn Gia Long trong lịch sử há họ không thấy?)
* Ngay cả Tướng Westmoreland sau này cũng chối trách nhiệm giải thích, không cho việc yêu cầu tăng viện của ông như là "bước đầu tiên phát triển những cam kết của Hoa Kỳ tại VN." Dù rằng Taylor tiên đoán khả năng này; nhưng ông không đặt thành vấn đề trước công luận.
* Đến khoảng thời gian 1/4-3-1965 Đại sứ Taylor thông báo cho Thủ Tướng Phan Huy Quát; Hoa Kỳ đang chuẩn bị gửi 3.500 TQLC tới VN. Trong thời gian 3 ngày sau, một yêu cầu chính thức (formal request) khác được Tòa Đại sứ Hoa Kỳ Saigon đưa ra, muốn chính phủ VNCH “mời (invite) Hoa Kỳ gửi quân TQLC Mỹ.” Đây là chỉ là những thủ đoạn chính trị người Mỹ đang áp dụng của Miền Nam dưới các hình thức thường được áp dụng, “Mời, áp lực bằng viện trợ." Một quốc gia chỉ thoát khỏi bàn tay chi phối của Hoa Kỳ khi thẳng thắng khước từ những hình thức này.
* Bỗng dưng ngày 1-3-1965 sau lời yêu cầu của Taylor phía VNCH, Thủ Tướng Phan Huy Quát tuyên bố, chiến tranh VN "rõ rệt là một trường hợp tự vệ." Không thể có hòa bình cho tới khi, "CS chấm dứt chiến tranh họ gây ra và chấm dứt xâm nhập." Điều này phải có một căn nguyên Chính phủ VNCH Phan Huy Quát đang chuẩn bị dư luận cho Quân đội Mỹ vào chiến trường VN.
* Sau đó đến ngày 2-3-1965 Chính phủ VNCH Phan Huy Quát khẩn cấp họp Hội Đồng An Ninh Quốc gia (Thực sự tới tháng 6-1965 Nguyễn Cao Kỳ mới ký Sắc lệnh thành lập HĐANQG) với sự tham dự của nhiều thành viên cao cấp trong chính phủ đương thời; Thủ Tướng Phan Huy Quát, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực. Cuối cùng Thủ Tướng Quát chấp thuận vì "cho là điều kiện thực tế." Tướng Thiệu cũng chấp thuận nhưng thêm chi tiết yêu cầu các đơn vị TQLC Mỹ, "brought ashore in the most inconspicuous way feasible." ("The Vietnam War: Analmanac." Johns. Bowman. New York, A Scripps-Howard Co. 1985 :107) "Hoàn toàn giữ kín đáo như có thể được, khi dổ bộ.” Sự thực chứng minh không thể nào giữ “bí mật” như Tướng Thiệu đề nghị. Một đạo binh không phải một món hàng để có thể cất trong kho kín đáo.
Đây là sự kiện trọng đại quốc gia, dù trong hoàn cảnh lệ thuộc ít nhiều vào người Mỹ. Các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự VNCH đã nhượng bộ hoàn toàn, khiến không ai có thể hiểu nổi. Họ "buông trắng tay". Đến nỗi không có một văn bản, dù là sơ bộ được ký kết giữa VNCH và Hoa Kỳ. Quy định việc quân đội Mỹ vào VNCH và rút ra khỏi như thế nào. Họ hoàn toàn tự do, không trách nhiệm. Lịch sử phán xét sự kiện, quy trách cho hai nhân vật Thủ Tướng Phan Huy Quát và Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đã đưa quân đội Mỹ vào miền Nam vô điều kiện; Chính phủ VNCH hoàn toàn không cân nhắc, hậu qủa. Quân đội Mỹ có mặt trên chiến trường trực tiếp tham chiến đã biến mất chính nghĩa cuộc chiến đấu bảo vệ tự do chống lại chủ nghĩa CS. Do đó việc ông Diễm trình bày là sai với thực tế lịch sử. Hoàn toàn không có vấn đề chính phủ Quát không hay biết việc đổ quân.
* Chính vì sự kiện này cho nên có dư luận cho rằng, sau chính biến năm 1963 Mỹ cố tình dùng Nguyễn Khánh tạo ra khủng hoảng lãnh đạo. Đưa lên những người ủng hộ chính sách quân đội Mỹ vào VN, chẳng hạn như Tướng Nguyễn Cao Kỳ và sau là Thiệu. Tướng Thiệu, "cao kiến" né trách nhiệm, tuyên bố chiếu lệ "Hoàn toàn giữ kín đáo như có thể được, khi dổ bộ.” Chính vì vậy, chỉ một hai năm sau Mỹ mau chóng ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tay Nguyễn Cao Kỳ. Làm sao có thể giữ bí mật trước một sự kiện trọng đại như vậy? Việc đưa quân đội Mỹ vào VN, "Chính Phủ, TT Quát, Tướng Thiệu" phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Ngay trong cuốn Hồi ký của ông Bùi Diễm, ít nhất cũng tìm được nhiều đoạn Đại Sứ Mỹ Taylor cũng biết vin vào phản ứng bất lợi của chính phủ VNCH để chống việc gửi quân sang, “ngoài ra không dễ gì thuyết phục và có được sự thỏa thuận của chính phủ Việt Nam ..." (:223). Nhưng Chính phủ Quát không liên minh với Taylor, chống lại quyết định của Washington. Bên cạnh đó với vai trò Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng, ông Bùi Diễm dĩ nhiên cũng nhận lãnh "trách nhiệm đồng lõa." Không khuyến cáo tai họa việc đưa quân đội Mỹ vào VN mặc dù ông biết. Tệ hại hơn nữa, Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng không soạn thảo văn kiện ký kết nào về việc này. Từ một VNCH có chủ quyền, biến thành một VNCH vô chủ chỉ xẩy ra dưới thời hai ông Quát-Thiệu.
* Sau yêu cầu của Tòa Đại sứ Mỹ và quyết định của Thủ Tướng Phan Huy Quát, Tướng Nguyễn Văn Thiệu nhiều tin đổ quân Mỹ lan nhanh tại Saigon. Nhưng cả hai giới chức Việt-Mỹ đã không đưa ra một lời tuyên bố nào hết về sự kiện này.
Cuộc đổ quân trì hoãn mãi cho tới 08:00 ngày 8-3-1965 mới được thực hiện.
Các chiến hạm USS Henrico, Union, và Vancouver vận chuyển Lữ đoàn 9 TQLC. Chuẩn Tướng Frederick J Karch đang lênh đênh trên chiến hạm USS Mount McKinley treo lá cờ của đơn vị “Naval Amphibious Task Force 76” điều khiển cuộc đổ quân. Từ ngoài khơi bãi biển Nam Ô (khu vực người Mỹ gọi là “Red Beach”) khoảng 1,3km (4.000 yards) phía Bắc tỉnh Đà Nẵng quân đội Mỹ sẵn sàng. Tuy nhiên tình hình thời tiết, biển động mạnh không thuận lợi cuộc đổ bộ. Cuộc hành quân trì hoãn cho tới 09G00. Đến 09G03 người đầu tiên nhẩy xuống Thủy Xa (Amphibian tractor) đổ bộ là Trung Sĩ Gary Powers
Đơn vị đổ bộ đầu tiên thuộc Tiểu Đoàn 3/9 (Battalion Landing Team 3/9); Tiểu Đoàn 2/9 trừ bị trên tàu. Tiểu đoàn 3/9 tới bờ vào hồi 09:18 giờ địa phương. Với quân phục tác chiến vũ khí M-16. Đơn vị TQLC Mỹ đổ bộ gặp gỡ người đi xem, các viên chức và sĩ quan QLVNCH, những cô gái cằm vòng hoa vàng, đỏ (yellow dahlias and red gladioli); đúng ra là hoa "Lay Ơn" (Leis), cùng với 4 quân nhân Hoa Kỳ giăng một biểu ngữ lớn "Welcome to the Gallant Marines." (trong trường hợp này chữ gallant có nghĩa là dũng cảm thành ra biểu ngữ có nghiã, "Hân hoan chào đón các chiến sĩ TQLC dũng cảm.”). Tướng Frederick J Karch rời chiến hạm USS Mount McKinley, chỉ huy cuộc đổ quân bằng trực thăng. Phía VN, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi và Thị Trưởng Đà Nẵng có mặt đón tiếp đoàn quân Hoa Kỳ. Trong khi đó trực thăng võ trang bay vần vũ kiểm soát an ninh các nơi. Hai nhân vật cao cấp, một quân sự một hành chánh chính trị đại diện VNCH đã trả lời ông Đại sứ Bùi Diễm biện hộ việc chính phủ Quát "không hay biết."
Trong lúc này đã có một báo cáo Tướng Westmoreland bị "xúc động." Chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ sau, khoảng 13G00, lực lượng thuộc Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Mỹ không vận từ Okinawa tới phi trường Đà Nẵng. Tiểu đoàn 1/3 (Battalion Landing Team 1/3) đổ bộ xuống căn cứ Không quân Đà Nẵng.
Cuộc đón tiếp 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ tại bãi Nam Ô mau chóng qua đi. TQLC/HK được các GMC chuyển vận về căn cứ Đà Nẵng. Trên đường đi Chính phủ VNCH cho treo biểu ngữ nhấn mạnh tới VN là "Free World Outpost;" (Tiền đồn chống Cộng) Trong khi đó một Đại Đội thuộc lực lượng đổ bổ xuống những loại vũ khí nặng như Đại Bác 105mm Howitzers; chiến xa M48 cỡ trung lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường, tăng cường sức mạnh bộ binh tác chiến thuộc ĐĐA/3d Tank/9MEB (Marine Expeditionary Brigade); Đại bác không giật 106mm. Lực lượng tác chiến của Mỹ đương nhiên biến thành lực lượng canh gác phòng thủ phi trường Đà Nẵng. Trong tập ghi chép của Trung Tá Philip Capto than phiền, "I scanned the countryside with my binoculars ... but the only sighs of war were our own Phantoms, roaring northward with their bomb racks full." (Tôi nhìn nông thôn qua ống nhòm ... chỉ thấy hình ảnh chiến tranh là máy bay Phantoms của chúng tôi chất đầy bom đạn, gầm thét bay về hướng bắc)
Công cuộc tổ chức phòng thủ căn cứ được thực hiện ngay sau đó. Một ĐĐ/TQLC lên trấn giữ đồi 327 “Hungry I” là tên của Night Club nổi tiếng tại San Francisco. Nhiệm vụ của họ là bảo vệ an ninh khu vực về phía Tây của phi trường; đỉnh Đồi 327 là nơi thiết trí hỏa tiển Hawk. Nhiệm vụ tuần tiễn chống lại sự xâm nhập phá hoại của du kích & đặc công, bảo vệ phi trường Đà Nẵng. Toàn bộ lực lượng Mỹ được đỗ bộ vào khoảng 3.500 người.
Quân đội tác chiến Mỹ thực sự đã có mặt tại VN. Lời yêu cầu giữ bí mật của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 2-3-1965 trong phiên họp Hội đồng An Ninh Quốc Gia "brought ashore in the most inconspicuous way feasible." "Hoàn toàn giữ kín đáo như có thể được, khi đổ bộ,” bỗng nhiên thành câu nói bi hài.
Thực ra đây không phải là những chiến binh Mỹ đầu tiên có mặt trên chiến trường VN; họ đã có mặt tại chiến trường Đông Dương từ chiến tranh Đông Dương I (1945-1954), việc đổ những đơn vị này chỉ là tiếp nổi sự hiện diện của Mỹ từ trước năm 1954. Vào năm 1962 đơn vị trực thăng “Shu-Fly” của SĐ/TQLC/HK đã tham dự vào cuộc hành quân của QLVNCH. Song song với hoạt động Không Quân Mỹ, BTL Quân sự Mỹ đã bí mật phái đến lực lượng người Nhái (SEALs) điều tra tình hình bờ biển VN gồm các tỉnh Quảng Trị, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Vịnh Cam Ranh, Vũng Tàu. Các hoạt động này khởi sự ngày 4-1-1962 do BTL Hạm Đội Thái Bình Dương chỉ huy (CINPAC). Tầu Cook được phái tới thực hiện cùng với toán người Nhái của Mỹ. Điều tra thủy triều, độ dốc bải biển những địa hình địa vật dưới mặt biển vv ... những dữ kiện tối cần thiết chuẩn bị cho hoạt động Hải Quân. Kể hoạch này chấm dứt vào ngày 27-1-1962. Hiện thời Quân Đội Mỹ chưa chính thức tham chiến tại VN; do đó mọi hoạt động còn trong bí mật. Ngay sau đó Mỹ tiến hành huấn luyện lực lượng SEAL/VNCH sau này trở thành Biệt Hải xử dụng cho kế hoạch OPLAN mở rộng chiến tranh VN.
Sự kiện ngày 26-2-1965 chỉ là một dấu mốc lịch sử chứng minh cho chính sách can thiệp quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á rõ ràng hơn. Theo tài liệu của Mỹ trước ngày 7-4-1965, Đại Sứ Taylor thảo luận với Thủ Tướng Phan Huy Quát về việc tăng thêm TQLC và đơn vị tiếp vận sang VN. Thủ Tướng Quát đã ủng hộ việc này. Trong khi đó Taylor cũng đặt vấn đề phản ứng nguy hiểm của những nhân vật quốc gia hiện tại; mà ông không nói rõ là ai.
* 7-5-1965 Hội Đồng Quân Lực chính phủ VNCH giải tán ngày 5-5-1965; tới 7-5-1965 do có nhiều lời đồn đại, nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố, “sự kiện đã chứng tỏ Chính phủ Dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát thành lập đã có khả năng điều hành được đất nước; không cần sự hổ trợ của cơ cấu Lập pháp 20 người (HĐQL); ngoài các, nhà lãnh đạo quân sự HĐQL chứng minh không có tham vọng chính trị.”
(còn tiếp)
Trần Nguyên Sơn
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:18:14 GMT 9
Từ “được ăn, được nói, được gói đem về” đến “GỌNG KÌM LỊCH SỬ"
Trần Nguyên Sơn
(tiếp theo kỳ trước)
VII - Lời bào chữa yếu ớt của nhà Ngoại Giao Bùi Diễm
Để giải thích cho tất cả những diễn biến trên ông Bùi Diểm viết,
“Cũng như Đại Sứ Taylor, Thủ Tướng Quát bị đặt vào một tình trạng khó xử. Trong hoàn cảnh lúc ấy, liệu ông có thể ngăn cản hoặc trì hoãn được việc Hoa Kỳ mang quân vào VN không?" Ông Diễm tự trả lời
"Trước hết chính phủ của ông mới thành lập chưa được hai tuần, chưa có căn bản vững chắc; ngoài ra chiến tranh càng ngày càng rộng càng leo thang nên không dễ gì gạt bỏ ý kiến của những quân nhân VN và Hoa Kỳ, lúc nào cũng chỉ chú trọng đến khía cạnh quân sự và tính cách cấp bách của vấn đề tăng quân, nhiều hơn là đến hậu qủa chính trị lâu dài. Hơn thế nữa, Đại sứ Taylor lại đến để trình bày với ông là sự có mặt của một số TQLC chỉ có tính cách hạn chế và tạm thời. Vì vậy mà giá ông có muốn đi ngược lại chủ trương tăng cường phòng thủ VN, thì điều đó chắc chắn không phải dễ dàng." (:226)
Ngày 18-2-1965 Chính Phủ Quát ra mắt giữa nhiều biến động Mỹ đỗ quân vào VN. Có thể cuộc đổ quân đầu tiên ông Quát cùng nội các chưa kịp chuẩn bị tư tưởng đối phó. Nhưng tới đầu tháng 3-1965, Taylor lại thông báo cho ông Quát biết việc Mỹ đổ quân cuộc thông báo kéo dài từ ngày 1/4-3-1965; nghĩa là nửa tháng sau. Nhưng tới ngày 8-3-1965 cuộc đổ quân Mỹ lên Đà Nẵng tiến hành. Thủ Tướng Quát có một khoảng thời gian ít nhất là 1/2 tháng để quyết định việc này. Hơn thế nữa vào ngày 2-3-1965 Hội Đồng An Ninh Quốc Gia VNCH họp với đầy đủ các khuôn mặt. Dĩ nhiên trong đó có cả ông Bùi Diễm giữ một trọng trách rất lớn cạnh Thủ Tướng Phan Huy Quát. Hồi Ký của nhà ngoại giao Bùi Diễm đã không đưa ra sự kiện ngày 2-3-1965. Cả hai nhân vật trọng trách Thủ Tuớng và Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng người thì cho là "Điều kiện thực tế," người thì cho "cần giữ kín!" Không một thành viên nào bàn đến, “Điều kiện cho quân đội Mỹ vào" mặc dù theo tài liệu của Hoa Kỳ Tòa Đại sứ Hoa Kỳ Saigon đưa ra, muốn chính phủ VNCH “mời (invite) Hoa Kỳ gửi quân TQLC Mỹ.” Chính Phủ Quát đã không thực hiện lời yêu cầu này có vẻ mất thể diện qúa! Cho nên đành lặng yên; mặc dù mọi người đều biết sự hiện diện quân đội Mỹ ở miền Nam sẽ ảnh hưởng tới Chính nghĩa chống Cộng của VNCH. Ai cũng biết điều kiện và hoàn cảnh chính phủ Phan Huy Quát khó chống lại cuộc đổ quân; nhưng ít nhất buộc Mỹ phải tôn trọng một số nguyên tắc bằng thỏa hiệp tham chiến điều kiện ra vào vào VN. Thậm chí không một thành viên nào trong Chính phủ hoặc Hội Đồng An Ninh Quốc Gia xem xét lại “Văn bản ký kết An Ninh Hổ Tương Việt Mỹ ký kết dưới thời Đệ I Cộng Hòa.” Do không có thỏa hiệp; hậu qủa, Mỹ đã đơn phương rút quân sau khi thỏa hiệp với CSBV.
IIX - Sự yên lặng hay là đồng lõa?
Chính phủ Phan Huy Quát mặc dù được khai sinh trong giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử VN. Nhưng không phải là không có vai trò của riêng nó. "Lịch sử VN vốn dĩ không phải là gọng kìm" như cách gọi của ông Bùi Diễm. Mà gồm tất cả ghi chép và đặt vấn đề cho hậu thế của những người đương thời, nằm trong số đông đảo vô danh; dân tộc VN. Ý kiến ghi chép này sẽ không phải là của Dinh Độc Lập hay Phủ Chủ Tịch CSBV Hà Nội.
Cuộc đổ quân Mỹ trùng trình mãi cho tới 08:00 ngày 8-3-1965 mới được thực hiện. Chính Phủ Quát đã hiện diện vào khoảng 20 ngày. Dĩ nhiên đây là thời gian quá ngắn để thi hành một chánh sách. Nhưng đủ tập trung đối phó với một vấn đề trọng đại. Đủ cho chính phủ Phan Huy Quát và ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng Bùi Diễm cũng Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thảo luận về vấn đề pháp lý căn bản trong cuộc đổ quân. Ông Dương Văn Minh chỉ cần 48 tiếng làm TT/VNCH cũng đủ để lịch sử kết tội đầu hàng, huống chi một Thủ Tướng và một chính phủ có thời gian 20 ngày chỉ để sắp xếp việc mang tính chất chiến lược thành bại của một quốc gia. Trong khi đó ông và những người đồng thời đều biết tai hại của nó, “Thủ Tướng Quát bị đặt trong hoàn cảnh khó xử, liệu ông có thể ngăn cản hoặc trì hoãn được việc Hoa Kỳ mang quân vào VN hay không?" (:226) Để rồi ông giải thích thái độ và việc đổ quân của Hoa Kỳ.
1.- "Trước hết, chính phủ của ông mới thành lập đuợc 2 tuần, chưa có căn bản vững chắc.” Đây không phải là một nguyên nhân để đến nỗi không soạn thảo được một văn bản ký kết.
2.- "Ngoài ra chiến tranh càng ngày càng lan rộng và leo thang, nên không dễ gì gạt bỏ được ý kiến của giới quân nhân VN và Hoa Kỳ, lúc nào cũng chỉ chú trọng đến khía cạnh quân sự vả tính cách cấp bách của vấn đề tăng quân, nhiều hơn đến hậu qủa chính trị lâu dài ... muốn đi ngược lại chủ trương ... chắc chắn không phải dễ dàng." (:226).
Điều quan trọng không phải là ngăn cản, mà Chính phủ Quát đã thiếu chuẩn bị đối phó, việc đổ quân kế tiếp của Hoa Kỳ vào Miền Nam. Ra vào của Quân đội Mỹ tự tung tự tác. Chính phủ Quát và ông Bùi Diệm, Nguyễn Văn Thiệu đã không thiết lập được một văn kiện căn bản xác định điều kiện giữa hai chính phủ; thời hạn và trách nhiệm. Chính sách bất túc, kéo dài mãi cho tới hai thời kỳ cuối cùng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu; cũng chẳng ai thèm nhắc tới. Sự sai lầm của Thủ Tướng Phan Huy Quát tạo ra khúc quanh lịch sử Chiến tranh VN. Quyết định sự thành bại chiến trường quân sự và chính trị VN. Quân đội Mỹ ào ạt tràn vào VN như nước vỡ bờ. VNCH như cái chợ chiến tranh. Gây ra biết bao nhiêu tai họa, phương hại chính nghĩa mong manh của VNCH. Quân đội Mỹ ra đi cũng tự do, khi vào không một điều kiện. Cũng chỉ vì thiếu thỏa hiệp, văn kiện căn bản mà ông Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng đã "cố ý không nói tới."
Thủ Tướng Quát và Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng Bùi Diễm có thể làm được; bất chấp thế lực hay "ý kiến của giới quân nhân VN và Hoa Kỳ, lúc nào cũng chỉ chú trọng đến khía cạnh quân sự vả tính cách cấp bách của vấn đề tăng quân, nhiều hơn đến hậu qủa chính trị lâu dài ... muốn đi ngược lại chủ trương ... chắc chắn không phải dễ dàng.” (:226). Điều mà ông Quát có thể làm được, như ông đã làm khi giữa Quốc Trưởng Sửu và Thủ Tướng Quát mâu thuẫn không giải quyết được. Ông từ chức chống lại Phan Khắc Sửu, chính quyền lọt vào tay giới quân nhân VN trên bước đường mộng du của các tướng lãnh. Nếu không ngăn cản được quân đội Mỹ tham chiến tại VN, “cuộc từ chức của Phan Huy Quát diễn ra vào giai đoạn đổ quân biết đâu sẽ làm thay đổi lịch sử VN!?” Và có thể chỉ trong tháng 3-1965 ông Phan Huy Quát đã trở thành nhân vật khác và ông Bùi Diễm đã không cần phải đợi ông Đỗ Văn viết trong lời giới thiệu cho “Đi vào lịch sử VN."
IX - Ông Đại Sứ và Tướng Nguyễn Cao Kỳ
Sau khi ông Chính phủ Phan Huy Quát sụp đổ; đường danh vọng của Đại Sứ Bùi Diễm lên cao hơn nữa. Ông được Tướng Kỳ tín nhiệm trở thành Ủy Viên Ngoại Giao trong Nội Các chiến tranh; ngoài ra còn giữ thêm 2 chức nữa là Phụ Tá Đặc Nhiệm của Tổng Ủy Viên Ngoại Giao; cũng như là một chức Phó Bộ Trưởng Ngoại Giao. Trong giai đoạn này qua những trang bút ký; người ta nhận rõ khôn ngoan của Ông Đại Sứ trong mọi trường hợp. Tuy nhiên cũng không thể dấu diếm được sự tự đề cao mình qua vai trò Đại sứ bằng những tiểu tiết như, "Tờ Washington Post ... New York Times ... bài đăng ở trang nhất nói về việc tôi tới nhậm chức ... người đã từng có một vai trò quan trọng trong việc hoạch định đường lối đối nội và đối ngoại của VN.” “Đài truyền hình mời tôi lên," (:297); "TT Johnson đón tiếp tôi thận niềm nở rồi đưa tôi ra giới thiệu ... báo chí Hoa Kỳ và Quốc Tế tại tòa Bạch ốc." (:297). Rồi chuyện phó hội Honolulu chuyến trở về Mỹ đi trên chuyến Air Force One của Johnson ông trân trọng một vinh dự ghi vào lịch sử "... ngày hôm sau Tòa Bạch ốc cho đưa tới tòa Đại Sứ một tấm bằng, ghi rằng ngày 21 tháng 3 1967 Đại sứ Bùi Diễm đã bay qua Thái Bình Dương trên chiếc máy bay Air Force One của TT Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson." (:318).
Để cái huyền thoại này lớn hơn nữa. Trong bút ký ông ghi lại hồi ức của nhiều năm trước “Trong khoảng khắc tôi nhớ lại hình ảnh xa xưa, ngày tôi đứng chờ gặp mặt Thiếu Tá Patti (Trưởng Toán Dear) và Thiếu Tuớng Gallagher ở Hà Nội hai mươi năm trước tại Hội Thân Hữu Việt Mỹ." Rất nhiều hình ảnh, huyền thoại khác được ông vẽ lên. Sự thực trong buổi tiếp xúc với báo chí mà "ông gọi là Quốc Tế" đó ông lại không trình bày nội dung các câu vấn đáp có ích lợi gì cho dân tộc; mà chỉ chú trọng tới các hình thức bên ngoài "đón tiếp, tiếp tân, lễ nghi." Thực chất và Huyền Thoại luôn luôn mâu thuẫn nếu không có chức vụ Đại Sứ được nhị vị Thiệu Kỳ phong; liệu ông có thể hưởng những nghi lễ đón rước như huyền thoại kia không? Hay cũng như hình ảnh 20 năm về trước chờ đón Patti và Gallagher! Bản lai diện mục và sự chân thật yêu nước vượt ranh giới huyền thoại; khiến người ta thực tế hơn khi phải đối diện với lịch sử và trách nhiệm.
Trước đây khá lâu khoảng trên 30 năm một Giáo sư Triết, ông Nguyễn Văn Trung viết cuốn “Thực Chất và Huyền Thoại" và một loạt Nhận Định, can đảm phá tan ảo tưởng mà người ta thường dùng nó để xây dựng huyền thoại cho mỗi cá nhân. Thói quen đó, đã đẩy đất nước VN lùi lại nhiều thế kỷ ngụp lặn trong biển huyền thoại. Thời đại của chúng ta chiến đấu cho lý tưởng Tự do Dân chủ; ai cũng có một cơ hội để tiến thân trong Xã hội Dân chủ. Tất cả đều chỉ làm nhiệm vụ với tinh thần cao nhất. Những thói quen tâng bốc; tự tô điểm huyền thoại đã phạm một lỗi nặng. Nhiều người VN sau năm 1975, đã biết về Hoa Kỳ, từng sinh hoạt Xã hội Dân chủ Mỹ. Có lẽ lối xây dựng huyền thoại cũ kỹ không còn hữu dụng nữa. Nó chỉ là một thứ trang sức rẻ tiền, thời thượng của xã hội chậm tiến. Chúng ta chống CS vì những lý do đó. Một ông Đại sứ thư lại cũng có thể làm những việc muôn thủa như; tiếp xúc, quen biết chính giới, tham dự lễ nghi; thông báo kịp thời cho Chính phủ những quyết định của nước bạn vv ... Huyền thoại hóa con người chỉ được xử dụng nhiều ở các quốc gia chậm tiến, ấu trĩ v? tư tưởng chính trị. VNCH bất hạnh có qúa nhiều người tiến thân bằng quen biết, thế lực; thay vì dùng tài năng, lòng yêu nước. Một ông Đại sứ với lòng yêu nước sẽ làm việc nhiều hơn một ông Đại sứ thư lại. Qua cách thức trình bày người ta thấy ông Bùi Diễm dường như đứng ngoài cuộc một con thoi giữa chính phủ Mỹ và TT Nguyễn Văn Thiệu.
Những hình ảnh ngộ nghĩnh đó, khiến người ta nhớ lại thời Quân Chủ chung quanh Vua với đầy huyền thoại. Một sĩ phu thời đại, ông Phan Khôi đã ví hình ảnh của ông Hồ Chí Minh là "bình vôi càng ngày càng bé miệng." Người ta tưởng rằng, hình ảnh ông bình vôi sẽ biến lần đi. Trở thành một "thời thượng" khi cọ sát với tư tưởng Dân chủ. Nào ngờ thảm hại hơn ông Bình vôi càng ngày càng nhiều, để cho người Mỹ mặc tình thao túng VNCH.
Vai trò Đại Sứ VNCH tại Mỹ khác hẳn với những vị Đại Sứ ở các quốc gia khác... Phần lớn sự tồn tại của miền Nam VN, từ một viên đạn tới những thứ lớn hơn đều lệ thuộc vào người Mỹ. Điều dễ hiểu; ông Bùi Diễm nhận định “Tuy người Mỹ không hống hách như người Pháp thời VN còn là thuộc địa, nhưng họ vẫn tự hỏi làm thế nào để giữ được chủ quyền, nếu người Mỹ lúc nào cũng đứng đằng sau nắm giữ mọi việc từ cách soạn thảo các chương trình phát triển kinh tế đến việc điều động chiến tranh.” Sự thực dưới thời ông Thiệu đã diễn ra như vậy, với nhiều sai lầm của các nhà hợp tác.
X - Tòa Đại Sứ VN tại Hoa Kỳ đã làm được những gì cho dân tộc lầm than?
Đến 12-1966 sau Giáng Sinh 1966 Bùi Diễm nhậm chức Đại Sứ. Thay thế cho Cựu Đại Sứ Kỹ sư Vũ Văn Thái. Chính thức ông đã nhận chức từ 1967-1972 Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ dưới thời Chính Phủ Nguyễn Văn Thiệu. Đến 1968 Quan sát viên đặc biệt của Chính Phủ VNCH tại Hòa Đàm Paris. Sau cùng 1973-1975 Đại Sứ lưu động VNCH.
Qua trang bút ký của Đại Sứ Bùi Diệm, nhiều kinh nghiệm lão luyện, đã lường trước được câu hỏi của độc giả tập bút ký ông giải thích tình hình Hoa Kỳ,
"Vào hồi đó, nói chuyện hay thuyết trình tại các trường Đại Học không phải là việc dễ dàng. Tôi còn nhớ vào một ngày cuối thu năm ấy (?) tôi được mời nói chuyện tại một trường Đại Học nhỏ ở Worcester, phía Tây thành phố Boston ... Tình trạng này không trở lại với tôi nữa, vì những năm về sau phong trào Phản Chiến lên cao, không còn cho ai một cơ hội để lý luận phải trái." (:345-1946)
Đây là lần duy nhất trong tập bút ký của Bùi Diễm có thể ghi ra được. Đặc tính của buổi nói chuyện là Toà Đại Sứ VN được mời. Hoàn toàn không phải chủ động thực hiện các buổi nói chuyện. Suốt trong 05 năm trời với tình hình dầu sôi lửa bỏng; lập trường của VNCH không được trình bày trước dư luận Hoa Kỳ. Trách nhiệm đó về ai? Dĩ nhiên không về ông Đại Sứ, vì ông Đại sứ còn mãi miết thu thập tin tức để chuyển về cho Tướng Thiệu và Bộ Tham Mưu của ông theo dõi thái độ của Mỹ để chuyển đổi kế hoạch VNCH thích hợp với ý của người Mỹ; như ông đã từng trình bày rõ nhiệm vụ của Đại Sứ VNCH tại Mỹ.
Dưới trang bút ký, ông Đại sứ dường như đã cố lẫn trốn hoặc bằng cách này hay cách khác; qua ngòi bút dùng nhiều sự kiện tiếp xúc với những ông TNS này bà Dân biểu kia tránh trường hợp phải trình bày đối diện với thực tế nước Mỹ. Bằng cách nêu lên dư luận phản chiến, chống đối cuộc chiến tranh của các ký giả Mỹ Pete, Browne, Halbertam vv ... rồi thái độ của báo chí quay lưng lại cuộc Chiến tranh VN làm môt khối áp lực đến nỗi ông Đại Sứ không làm gì được dù chỉ nói chuyện giải thích lập trường của Chính Phủ VNCH. Những người VN hiện nay chỉ còn biết một dư luận cho rằng "chính phủ Mỹ đã không cho phép TĐS Việt Nam làm những công việc này."
Tuy nhiên, ông Đại Sứ Bùi Diễm không bao giờ nhắc tới, dù chỉ một dòng chữ trên 596 trang giấy việc khối dân chúng Hoa Kỳ biểu tình ủng hộ VNCH. Đây thật là điều đáng tiếc, một khuyết điểm lớn lao trong toàn bộ tác phẩm. Nó chứng tỏ tính cách phiến diện sao chép sự kiện. Nhận xét theo quan điểm của Chính phủ Hoa Kỳ đương thời; hơn là bàn thảo, vai trò chính sách được chính phủ VNCH giao phó trách nhiệm Đại diện cho VNCH tại ngay quốc gia quan trọng. Ông tự biến mình thành người ngoại cuộc, "Tôi như một nhân chứng được dịp tận mắt chứng kiến những gì xẩy ra." (:239) Dĩ nhiên ông Bùi Diễm không bao giờ là một "nhân chứng thông thường" như người khác, các sử gia. Là người trong cuộc thực hiện nhiệm vụ; nhưng ông ngược lại muốn đóng vai trò sử gia biết chọn lựa, rồi lại muốn đóng vai trò nhân chứng; là người ngoại cuộc vô trách nhiệm. Lòng tham trong mỗi con người không biết đâu để đo lường “Muốn được ăn, được nói, được gói đem về.” Biết sung sướng tuyệt đỉnh với những “vinh dự hàm” khi được nhân vật Lãnh tụ Đệ Nhất Siêu cường ban cho vinh dự đại loại như đi máy bay Air Force One, yến tiệc trong Tòa Bạch ốc, nhận chỉ thị từ các nhà lãnh đạo Mỹ chuyển cho các nhà lãnh đạo VNCH. Nhiều vinh dự khác mà người dân bình thường VN không thấy được “như được Tổng Thống Mỹ mời ông và gia đình dự lễ." Như câu chuyện tiếu lâm, tấm áo mới cần phải cho người ta biết. Người dân Việt nhỏ nhoi chỉ biết đặt câu hỏi, “nếu không là Đại sứ liệu ông Bùi Diễm có được họ mời hay không?” Dĩ nhiên không! Hãy bỏ những huyền thoại để trở về với con người thực Việt Nam trong cuộc chiến tranh thảm hại và đau khổ; nếu muốn trở thành một nhà hoạt động Quốc gia. Hãy xác định lại vai trò Phong Trào Quốc Gia thực sự hiện diện trong lịch sử VN; nhưng đều bị khuynh hướng hợp tác Quốc Tế Tư Bản Cộng Sản, những "Liên minh Ma quỷ" đè bẹp. Họ không có chỗ vươn ra ánh sáng chính trị. Cũng một nhà hợp tác khác, ông HVL, được nhiều người thán phục, kính trọng sự thành thật hiếm có; ông ví thân phận kẻ hợp tác "có cái gì quan trọng đâu;" chỉ là một con ruồi bay từ miệng người này qua lỗ tai người khác.
XI - Tòa Đại Sứ VN và Phong trào Ủng hộ & Phản Chiến tại Hoa Kỳ:
Cuộc Chiến tranh Việt Nam, sau cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân 1968 đã đẩy CSBV & VC vào thế thụ động trên khắp các mặt trận. QLVNCH trưởng thành trên chiến trường với sự hổ trợ của Đồng Minh. Nhưng ngay sau đó, do sự sai lầm của giới quân sự Mỹ Việt không ngừng gia tăng quân số Mỹ tăng viện trên chiến trường miền Nam. Tạo ra một không khí hoảng hốt trong giới thanh niên Mỹ đến tuổi nhập ngũ. Hơn thế nữa sự phí phạm cố ý, tài nguyên chiến tranh của giới quân sự Mỹ dưới sự thúc đẩy của nhiều tài phiệt Mỹ qua Đại diện McNamara; càng tiêu thụ giới tài phiệt càng có lợi. Cán cân kinh tế của Mỹ mất quân bình. Thuế má gia tăng để đáp ứng nhu cầu quân sự phí phạm chiến trường Đông Dương. Đồng Đô La tiếp tục mất giá trên thị trường quốc tế. Đây chính là những nguyên nhân tạo ra phong trào phản đối chiến tranh VN; là khúc quanh lịch sử. Để đền đáp lại việc làm, ngay sau khi McNamara từ chức Bộ Trưởng QP Mỹ được giới tư bản Mỹ mời ngay vào chức vụ Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới. Từ một Chủ tịch chi nhánh hãng Ford qua chiếc cầu Bộ Trưởng QP, thiết kế chiến lược Chiến tranh VN; McNamara trở thành một nhân vật trong giới tài phiệt Quốc Tế.
Một cuộc biểu tình chống chiến tranh lần đầu tiên tại Hoa kỳ đã được các chiến binh tổ chức và lãnh đạo diễn ra vào khoảng 11-10-1968. Gồm 7.000 người trong đó có 200 quân nhân, 700 cựu chiến binh và 100 người trong hạng trừ bị quân sự đã diễn hành qua trung tâm thành phố San Francisco. Sau đó tiếp tục diễn ra các biểu tình trên nhiều tiểu bang.
Phong trào chống chiến tranh càng ngày càng cao; tới ngày 6-5-1970 Hơn 100 trường Colleges và Đại Học trên khắp nước Mỹ bãi khóa, hàng ngàn sinh viên tham gia vào phong trào chống đối mang tính chất quốc gia. Thống Đốc Ronald Reagan (Sau này trở thành TT Hoa Kỳ, cũng là một người chống lại CS quyết liệt, tiếp tục duy trì chiến lược chạy đua võ trang, "Chiến tranh Vũ Trụ." Chiến lược của ông đóng góp một phần làm xụp đổ chế độ CS Nga Sô) đã đóng cửa toàn bộ hệ thống trường Đại Học và Colleges tại Tiểu bang Cali cho tới ngày 11-5-1970 vì có khoảng 280.000 sinh viên của 28 viện đại học tham gia vào chống đối. Tại Tiểu Bang Pennsylvania 18 trường Đại học chống đối cũng phải đóng cửa trong giai đoạn này. Một phát ngôn viên của Hiệp hội Sinh viên Quốc gia cho biết, cuộc đấu tranh của họ gồm 300 Viện Đại Học trên toàn quốc. Điều trớ trêu nhất là dư luận VNCH không hay biết; biết rất ít, hoặc chủ quan đánh giá thấp sự kiện nội bộ Hoa Kỳ liên quan tới chiến trường VN. Nhưng, ngược lại phía CSBV lại nhìn rất rõ sự kiện, coi như hậu thuẫn chính trị cho cuộc chiến đấu của họ. Chính Phủ Nixon đối phó với Phong trào hoàn toàn bất ngờ của Sinh Viên trong nội bộ Hoa Kỳ
Đến ngày 8-5-1970 công nhân kiến trúc ủng hộ chính sách của Hoa Kỳ tại VN đã đụng độ với một toán SV biểu tình chống chiến tranh tại Wall Street; New York. Hai lực lượng đã hỗn chiến, kết qủa 70 người bị thương. Nội bộ Hoa Kỳ đã xẩy ra nhiều sáo trộn ngay khi TT Nixon đưa ra quyết định đưa lực lượng Hoa kỳ tham chiến tại Campuchia.
Ngay lập tức 9-5-1970 vào khoảng từ 75.000 tới 100.000 thanh niên Hoa Kỳ, từ các trường Đại Học và Colleges đã biểu tình trong yên lặng tại Washington DC., bên ngoài hàng rào bảo vệ Toà Bạch ốc. Họ đòi hỏi triệt thoái quân đội Mỹ ra khỏi VN và các quốc gia khác tại Đông Nam Á. Sau đó hàng trăm người “cuồng loạn” tung ra khắp các ngã đường chung quanh đập phá. Cảnh sát đã phải xử dụng hơi cay để giải tán đoàn biểu tình. Sở dĩ phong trào phản chiến tại đây cao vì họ được sự ủng hộ của Thị Trưởng John Lindsay. Đây là kết qủa của việc đàn áp biểu tình tại Kent State làm chết một số SV.
Vào 20-5-1970 khoảng 100.000 công nhân xây dựng, công trường, quản trị hành chánh đã tổ chức một cuộc tuần hành rầm rộ ủng hộ chính sách của TT Nixon; tấn công Thị Trưởng John Lindsay và những lực lượng phản chiến khác trong cuộc chiến tranh VN.
Rồi đến ngày 26-9-1970 PTT Nguyễn Cao Kỳ quyết định không tham dự vào cuộc tập trung ủng hộ chiến tranh được dự trù tổ chức vào ngày 3-10-1970 tại Washington DC. Trước đó khi được thông báo; PTT Kỳ đã tuyên bố ông sẽ tham dự vào cuộc biểu tình. Tuy nhiên trong cuộc sắp xếp gặp gỡ giữa Tướng Kỳ và Henry Kisssinger; chính phủ Hoa Kỳ đã thuyết phục được PTT Nguyễn Cao Kỳ không tham dự vào tổ chức ủng hộ chiến tranh được tổ chức tại Washington DC dự trù vào ngày 3-10-1970. Đây là cuộc biểu tình do một thanh niên Việt Nam tên là Trần Khoa Học cùng 20.000 người Hoa Kỳ tập trung tại Đài Tưởng niệm cầu cho chiến thắng tại Việt Nam. Họ đọc lời kêu gọi Chính phủ Hoa kỳ và thế giới tiếp tục ủng hộ Chính phủ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống Cộng Sản. Trong buổi Meeting một bức thư được chuyển giao cho Phó Tổng Thống VNCH, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Khoảng thời gian này ông Đại Sứ Bùi Diễm tại chức. Tuy nhiên trong Hồi Ký không thấy ghi chi tiết; do đó tạm thời kết luận hai điều; một là ông Đại sứ quá bận không tham dự; Hai nữa là không hay biết.
Chúng ta hãy tạm thời cho rằng vì lý do "an ninh bản thân" (?!) nên ông Đại sứ không đến các vụ biểu tình chống phản chiến. Nhưng nếu đó là cuộc biểu tình ủng hộ VNCH, vì lẽ gì cũng không xuất hiện tham dự. Hay ông chỉ muốn đóng vai sử gia, nhân chứng trong cuộc chiến vì những lời đe dọa của Hoa Kỳ mà không dấn thân?
|
|
|
Post by Huu Le on Jun 23, 2010 10:18:48 GMT 9
XII - Chức vụ Đại sứ việc tư hay việc riêng:
Ngạn ngữ VN còn truyền tụng "Việc nhà ra việc nước" nhưng không có câu ngược lại; mà chỉ câu "Việc nước trước việc nhà." Điều khó khăn của các nhà lãnh đạo xưa nay phân biệt được thế nào là việc nhà và thế nào là việc nước. Trong hồi ký dĩ nhiên cá nhân Đại Sứ Bùi Diễm có quyền trình bày những việc riêng. Không nêu là Hồi Ký chính trị và chức vụ cũng chẳng ai bắt lỗi bắt phải gì. Nếu đã nhân danh chức vụ Chính phủ cuốn hồi ký lập tức trở thành một tài liệu công, phải chịu búa rìu dư luận. Vì hành xử của ông, những điều ông viết có ảnh hưởng nhiều hơn một người. Đây là câu trả lời của chúng tôi đối với các thân hữu khi cho rằng hồi ký cá nhân; cho nên người ta “có quyền tô bóng cái tôi đáng chán” lộng lẫy hơn. Bình phẩm không có nghĩa là đập phá mà chỉ có nghĩa khám phá ý nghĩa chân thực lịch sử. Lột bỏ hoa hòe hoa xói nhìn rõ hơn sự thành bại; quy trách nhiệm vụ lịch sử.
1.-Dân Chủ Hay Cộng Hòa? Ông Đại sứ Bùi Diễm viết,
"Ông Hamphrey và những nhân vật trong đảng Dân Chủ khiến tôi thất vọng, vì chính những người này trước đây ủng hộ chính sách can thiệp vào VN bao nhiêu, thì nay lại tìm cách lảng ra bấy nhiêu. Bởi thể mà một phản ứng tự nhiên của tôi là bắt đầu ngả về phía đảng Cộng Hòa, rồi từ đó cũng gặp nhiều hơn những bạn trong đảng Cộng Hòa. Lúc này bà bạn Anna Chennault với tư cách là người đứng đầu Ủy Ban gây qũy cho Đảng Cộng Hòa, thường tổ chức những buổi tiếp tân trên căn lầu sang trọng của bà tại cao ốc Watergate, tôi chỉ cần tới đó là gặp đủ các khuôn mặt Cộng Hòa tại Hoa Thịnh Đốn ..." (:389)
Qua sự kiện người ta thấy rằng với cá tính riêng, ông Bùi Diễm đã đặt vận mệnh VNCH vào tay Đảng Cộng Hòa. Ai cũng biết thế lực chính trị Hoa Kỳ gồm hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa. Hành xử của ông Đại sứ VNCH đã mất đi một nửa thế mạnh, chỉ vì cảm nghĩ của ông Đại sứ và sở kiến cá nhân. Điều này ông Nguyễn Cao Kỳ đã một lần vi phạm vào lỗi ngoại giao không thể tha thứ; khi nói về một ứng cử viên bồ Câu McGovern với những lời lẽ khiếm nhã; đã bị chính ngay Chính Phủ Mỹ, dư luận báo chí Mỹ phản đối. Có lẽ một phần ông Kỳ bị mất ảnh hưởng cũng bắt nguồn từ đây. Mặc dù Ứng cử viên bồ câu đó thất cử.
Không rõ hậu quả việc ông Đại sứ Bùi Diệm công khai ủng hộ Nixon, thân cận với đảng Cộng Hòa ra sao. Tuy nhiên với chủ quan, ông cho rằng, "do việc này mà Nixon đắc cử." (?!) Sự việc ông Bùi Diễm làm chắc chắn phải công khai! Vì căn cứ vào đoạn văn ông Bùi Diễm viết, "Về những gì đã xẩy ra trong giai đoạn này, cho đến nay đã có gần 10 cuốn sách viết về vai trò của Bà Chennault và cá nhân Tôi trong việc tạo ra điều kiện cho ông Nixon đắc cử ...” (:386) Lợi hại cho đất nước ra sao không cần biết, những thỏa mãn được cái “Tôi ngạo nghễ.” Để có những bức hình chụp chung với TT một nhiệm kỳ George Bush vv ... Tuy nhiên bất chấp Nixon đắc cử. Chính quyền Mỹ trong tay đảng Cộng Hòa, phe Dân Chủ lại là người nắm ngân sách. Thành ra chính Dân chủ là người bắt bí đảng Cộng Hòa phải thực hiện chủ trương của họ; như rút quân, trao đổi tù binh, ký thỏa hiệp. Rồi cuối cùng cắt viện trợ, dẫn đến VNCH xụp đổ. Nếu VNCH được cả hai đảng Cộng Hòa & Dân Chủ ủng hộ sự việc sẽ ra sao? Qua cách trình bày, độc giả cũng có thể hiểu; nếu không giữ chức vụ Đại Sứ và có quốc tịch Mỹ; thành công của Nixon, sẽ đưa ông Bùi Diễm một chức vụ cao khác trong chính phủ Hoa Kỳ. Vì là nhân vật đóng góp rất lớn trong sự thành công của Đảng Cộng Hòa và riêng TT Nixon! Ai cũng biết thực tế cuộc bầu cử TT Mỹ ảnh hưởng lớn tới cục diện thế giới; hiếm có quốc gia nào dại dột đến độ công khai ủng hộ một phía. Nếu có, cũng chỉ thực hiện hoàn toàn bí mật qua các nhân vật trung gian hợp lý. Họ không dại gì mua thù chuốc oán với vị Tân Tổng Thống Mỹ vì thái độ ủng hộ hay chống đối. Chỉ riêng Đại sứ Bùi Diễm đủ can đảm làm chuyện đó trên cương vị một nhà ngoại giao!
2. - Làm thân hay không làm thân với McNamara thái độ nào đúng?
Ông Đại sứ Bùi Diễm viết, “Đối với riêng tôi, thì giữa ông (McNamara) và Tôi chỉ có quan hệ thông thường, giữa một Đại sứ và một Bộ Trưởng trong chính phủ Hoa Kỳ. Tôi vẫn biết ông giữ một vai trò quan trọng nhất trong việc điều khiển chiến cuộc ở VN, vì vậy mà nếu cần, tôi vẫn đến gặp ông. Nhưng ngay từ lúc là cộng sự viên của ông Kỳ, tôi đã được dịp dự những buổi họp giữa hai chính phủ. Khi ông sang thăm VN hồi tháng 7-1965, tôi đã có ấn tượng ông là người lạnh lùng nên ý tưởng làm thân không bao giờ đến với tôi. Để tìm hiểu những gì xẩy ra ở Ngũ Giác Đài, tôi thường tìm cách gần gũi với một vài người làm việc với ông (như ông Cyrus Vance về sau này làm Ngoại Trưởng dưới thời Tổng Thống Carter) và một số tướng lãnh phụ trách những khu vực đặc biệt. Tôi có cảm tưởng là ông không muốn tìm hiểu quan điểm của người VN, và trong bài toán VN của ông, con người không đáng kể, tất cả chỉ là thống kê" và "điều hành." Rồi lại nhớ tới mẩu chuyện mà tướng Lê Văn Kim kể lại. Ông McNamara tới gặp một số tướng lãnh Việt Nam ngay sau vụ đảo chánh lật đổ ông Diệm. Vừa tới nơi, chưa ai kịp nói gì, với cặp mắt lạnh lùng ông hỏi ngay, "Ai là người cầm đầu ở đây?” (Who is the boss here?”). Tự ái dân tộc không cho phép tôi làm thân với con người vô tình, cao ngạo ấy. (:351).
Điều mà ông Bùi Diễm muốn nói tới người mà ông thường xuyên liên lạc là Cyrus Vance đã lên nắm chính sách Mỹ trong chính phủ Carter; nhưng thưa ông, VNCH đã xụp đổ trước đó.
Qua đoạn văn trình bày của ông Đại sứ Bùi Diễm; dường như đã sẵn thành kiến McNamara cao ngạo; rồi lại thêm câu chuyện Tướng Lê Văn Kim kể; ông đã đi đến một kết luận. “Tự ái dân tộc không cho phép tôi làm thân với con người vô tình, cao ngạo ấy." ông Đại sứ đã kết luận quá vội vàng nếu không muốn nói là thiếu suy xét, thiển cận. Mặc dù ông đã dùng chức vụ Đại sứ biết nhiều chính giới đảng Cộng Hòa như tường thuật.
Với trường hợp của McNamara, ông Bùi Diễm thứ nhất đã để cảm tính chi phối hành động chính trị và ngoại giao; thứ hai lẫn lộn giữa tự ái dân tộc và cá nhân; Điểm thứ 3 Tướng Kim đã nói sai ông McNamara không phải sang ngay sau khi đảo chánh, mà tới 19/20-11-1963 Bộ Trưởng QP/HK McNamara dẫn dầu một phái đoàn sang tìm hiểu tình hình VN sau đảo chánh 1963; với nhiều mặc cảm trước việc các Tướng Lãnh VNCH sát hại TT Ngô Đình Diệm làm mất sự ổn định mà chính giới Mỹ đang cần; sau khi hàng loạt báo cáo chiến sự do nhân viên Hoa Kỳ tại VN báo về Washington DC cho rằng "Cơ hội để chiến thắng CS với điều kiện Tân Chính phủ VNCH tạo ra điều kiện chiến đấu hữu hiệu.” Trở về Mỹ McNamara báo cáo, “Trong giai đoạn khủng hoảng chính trị vừa qua VC đã tạo được nhiều thành công.” Chính phủ Mỹ đã hủy bỏ kế hoạch trước đây cho rằng họ sẽ triệt thoát tất cả những nhân viên vào cuối năm 1965; có nghĩa là rút ra khỏi VN. Trên thực tế người Mỹ đã triệt thoái 220 quân nhân ngày 3-12-1963; đây là một phần trong số 1.000 quân nhân dự trù triệt thoái hoàn tất ngày 25-12-1963 theo kế hoạch rút quân của Mỹ ra khỏi VN. Trong cuộc thuyết trình, Bộ Trưởng QP/HK McNamara công bố một thực trạng, "Sau khi lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm VC đã tràn ngập chiếm nhiều Ấp Chiến Lược.” Chính phủ Dương Văn Minh và các Tướng lãnh lật đổ TT Ngô Đình Diệm đã không hoàn tất được vai trò lịch sử. Dưới con mắt của người Mỹ nhìn việc làm của Tướng Dương Văn Minh trong giai đoạn tháng 11-1963; căn cứ vào báo cáo của McNamara cho TT Johnson vào tháng 12-1963 như sau, "there is no organized government in South Vietnam." ("The Real War: The Classic Reporting On The Vietnam War With New Essay." Jonathan Schell. New York; Pantheon Book; 1987 :15). Họ đã đánh giá rất thấp về chính phủ Dương Văn Minh và Hội Đồng Tướng Lãnh.
Sự yêu ghét chỉ là dấu hiệu mặc cảm tự tôn thái qúa, biến thành tự ty để che lấp nhược điểm không thể có được so với đối tượng. Đây là một thái độ của ông thanh niên Hoàng Đức Nhã dựa vào thế của TT Thiệu; sau khi du học về được bổ nhậm vào chức vụ lớn bên cạnh Thiệu; đã có những hành động trịch thượng đối với nhiều người. Xét qúa trình hoạt động của ông Bùi Diễm xuất thân trong giai tầng thượng lưu xã hội thuộc địa; ngay từ thời còn trẻ do ảnh hưởng gia đình đã đạt được một số quen biết giai cấp lãnh đạo trong Chính phủ Trần Trọng Kim; tiếp nối làm Phó Đổng Lý cho Tổng Trưởng Phan Huy Quát vào năm 1953; Rồi đưa vợ qua Pháp chữa bệnh. Sự tiếp xúc hoặc quen biết với McNamara của ông Bùi Diễm năm 1965, dĩ nhiên không ảnh hưởng gì tới cá nhân McNamara. Cuộc Chiến tranh VN vẫn cứ thế diễn tiến kiểu MacNamara, nhưng thực sự bất lợi đối với QLVNCH. Ông Bùi Diễm đã quên câu "Qua sông phải lụy đò." Người phụ nữ VN còn có cầu "Vì chồng thiếp phải qua cầu đắng cay.” Sự khác biệt về văn hóa, dẫn đến suy nghĩ khác nhau; trong cuộc hành quân LS-719 đã diễn ra bao nhiêu sai lầm tai hại về ngộ nhận ngôn ngữ, đến thái độ giữa hai lực lượng Việt Mỹ đã ghi trong cuốn "Into Laos: The Story of Dewey Canyon II/Lam Sơn 719 Vietnam 1971." (Keith William Nolan. New York; Dell Publishing Co.; 1986) Đến nỗi một vị Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng LĐ1/ Thiết Kÿ QLVNCH Nguyễn Trọng Luật mang tai họa, bị ngay Tướng Mỹ Sutherland Tư Lệnh Quân Đoàn 24 Mỹ tham dự cuộc hành quân LS-719 trù ếm cũng do mặc cảm.
3. - Tiếng Việt hay Tiếng Mỹ: Trước ông Bùi Diễm, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng viết sách bằng tiếng Mỹ "Twenty Years And Twenty Days." (Nguyễn Cao Kỳ. New York; Stein And Day; 1976); chúng tôi không rõ có bản dịch hay không. Dường như né tránh dư luận người Việt. Tuy nhiên Tướng Kỳ cũng tự hào với câu khen của TT Johnson về tài ăn nói tiếng Anh giỏi của ông. Cuốn sách của ông Kỳ có khả năng là một trong cuốn sách sớm nhất viết bằng tiếng Mỹ sau ngày 30-4-1975 của cựu Lãnh đạo VNCH.
Mãi năm 1987; ông Bùi Diễm viết một cuốn sách khác bằng tiếng Anh “In The Jaw of History.” Sau đó rồi ông Đỗ Văn lược dịch sang tiếng Việt; tiếp theo ông Phan Lê Dũng và những người khác; cuốn hồi ký trở thành cuốn Trong Gọng Kìm Lịch sử (:IV); hay sau này xuất bản vào năm 2000, gọi là Gọng Kìm Lịch sử. Sự sai biệt thời gian 13 năm. Hai cuốn có dị biệt, vì không có bản tiếng Mỹ nên cũng chẳng hiểu khác ra sao. Người ta "thấy ngay một lối hành xử nhất bên trọng nhất bên khinh." Những lời lẽ tán dương của ông Đỗ Văn đài BBC cho rằng; ngay năm 1988 đài BBC đã liên tiếp lược dịch phát thanh 40 tuần lễ cuốn Hồi Ký của ông Bùi Diễm. Vô tình đã chứng tỏ khối độc giả nào quan trọng Mỹ hay Việt đối với cuốn hồi ký chính trị của ông. Cuốn sách ít nhất phải được xuất bản hai thứ tiếng cùng lúc để chứng tỏ lòng tôn trọng tiếng mẹ đẻ; tránh tiếng vọng ngoại.
4. - Một sai lầm dễ nhận ra: Ông cho rằng vụ Herbert Marcovich hay là Operation Pensylvania được coi là tối mật cho tới năm 1983. Điềù này sai; nó không mật gì cả vì trong cuốn sách xuất bản năm 1968. Ngay thời gian chiến tranh VN, khi ông Bùi Diễm nhận chức Đại sứ. Vụ Herbert Marcovich hay Operation Pensylvania đã được hai tác giả Harry S. Ashmore, William C. Baggs and Elaine H. Burnell phổ biến công khai trong cuốn “Mission To Hanoi.” New-York; G.P. Putnamõs Sons; 1968. Có điều tại ta không đọc tới mà thôi.
Nội vụ diễn ra như sau; vào ngày 16/18-6-1967, chiến trường miền Nam đang diễn ra khốc liệt chưa phân thắng bại, nhưng người Mỹ vẫn bí mật liên lạc với giới cầm quyền CSBV, không cho bạn đồng minh VNCH biết. Kissinger trong bóng tối đã nhờ những tổ chức, cá nhân quen biết Pháp, Mỹ, Canada, Ba Lan thiết lập đường dây liên lạc bí mật với Hồ Chí Minh tiến hành đàm phán. Một tổ chức trên danh nghĩa chống Chiến tranh gọi là Pugwash. Tổ chức này hoạt động được qũy do một nhà công nghiệp người Mỹ tài trợ. Hội viên bao gồm khoa học gia, trí thức tên tuổi trên thế giới. Mục tiêu "tổ chức chống chiến tranh hạch nhân," Pugwash đã chọn lựa một nhân vật quen biết với Hồ Chí Minh trước kia khi còn sống tại Paris, ông DõAstier de la Vigerie để bắt mối liên lạc với Hồ Chí Minh. Nhưng cuối cùng sức khỏe của de la Vigerie không cho phép thực hiện sứ mạng. Kissinger đành phải chọn lựa người khác. Kissinger nhờ cậy Raymond Aubrac; quen biết với Hồ Chí Minh trong thời gian tham dự hội nghị Fontainebleau, đã trú ngụ tại nhà Aubrac. Ngoài ra, con gái Aubrac là con đỡ đầu của Hồ Chí Minh. Với tình thân đó, trở thành sợi dây liên lạc để Kissinger nối nhịp cầu. Nhân vật thứ hai, ông Herbert Marcovich, người Pháp, Giáo sư của Viện Pasteur Paris, Tổng Thư Ký hội Pugwash. Kể ra thì Kissinger cũng rất tâm lý. Người Pháp đô hộ nước ta gần 100 năm, cho nên thường ít nhiều nhìn và nể phục Pháp; nước Việt ảnh hưởng văn minh Pháp khá nhiều. Mặc dù trong giai đoạn này nước Pháp về sức mạnh chỉ là một trong những quốc gia loại 2; tài nguyên không lớn hơn Tiểu bang Cali, một Tiểu bang của Hoa Kỳ. Tuy nhiên CS dùng hình ảnh Pháp tuyên truyền dân chúng là một cường quốc có ảnh hưởng quốc tế. Nhiều người không rõ vai trò Pháp sau Thế chiến II đã khác nhiều, so với đầu Thế kỷ 20. Ngay cả đảng CSVN cũng sai lầm về việc này. Mặc dù vậy, trong cuộc chiến tranh VN De Gaulle đã bắt bí được Mỹ nhiều lần.
Theo kế hoạch của Kissinger, muốn cuộc tiếp xúc của sứ giả Hoa Kỳ nằm trong bí mật. Họ tạo ra hai lý do, hổ trợ hai nhân vật Raymond Aubrac và Herbert Marcovich có thể đến Hà nội công khai dưới danh nghĩa một chuyên viên, giáo sư viện Pasteur Paris; tham dự hội nghị y tế phòng bịnh tại viện Pasteur Nam Vang; do viện Pasteur Paris bảo trợ. Rồi từ đó đến Hà Nội qua danh nghĩa hợp tác với Cơ quan Vệ sinh Phòng bịnh & Vi trùng của Hà Nội. Nghĩa là gián tiếp đến Hà Nội để tránh dư luận. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng cuộc tiếp xúc này diễn ra sau khi có những cuộc tiếp xúc khác diễn ra từ 6-1965 qua các nhân vật như Harry S. Ashmore và William C. Baggs. Những chi tiết này được ghi trong cuốn "Mission To Hanoi." Harry S. Ashmore, William C. Baggs and Elaine H. Burnell. New-York; G.P. Putnamõs Sons; 1968.
XII - Kết luận
Biên tập viên Việt Ngữ đài phát Thanh BBC, trong lời dẫn ông Đỗ Văn cho “là một cuốn sách rất có giá trị vì đề cập tới một số chi tiết liên quan tới một thời gian có một không hai." (Giới thiệu :II) Rồi ông Đỗ Văn kết luận “tên tuổi ông sẽ vĩnh viễn đi vào lịch sử” (Ibid. :V). Lời của ông Đỗ Văn cũng không có gì quá đáng vì giữa ông Đỗ Văn và ông Đại Sứ Bùi Diễm là bạn, "Tới nay, trong hơn 30 năm kể từ khi quen biết nhau...” Ông Đỗ Văn đã không tiếc lời, nhưng có phần cường điệu thí dụ như cho rằng đây là “ngôn ngữ đầu đời;” có nghĩa là chân thật (?). Chính xác phải nói là ngôn ngữ của những nhà ngoại giao biết chọn lựa những điều cần nói; và chỉ nói những điều đã suy nghĩ.
Tuy nhiên cuốn "Gọng kìm lịch sử" do vô tình đã giúp ích cho các nhà nghiên cứu sau này thấy được sự vô trách nhiệm của hàng loạt nhân vật lãnh đạo. Tình trạng "thủ khẩu như bình;" họ là biểu tượng của ông bình vôi trước mọi diễn biến thời cuộc. Họ chuộng huyền thoại hơn là thực chất. Gần như đứng bên lề của cuộc tranh đấu sống còn của dân tộc của lý tưởng tự do dân chủ đã được đề ra trong suốt cuộc đấu tranh của dân tộc từ 1954-1975.
Trần Nguyên Sơn
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2010 11:19:13 GMT 9
Nói về anh Liêm ( T.S Nguyen Thanh Liem)Mai Thanh Truyet www.vietthuc.org/?p=6351June 1, 20100 Bình Luận Việt Hải trong Văn đàn Đồng Tâm có điện thư cho tôi như sau:” Anh Truyết, cùng là nhà giáo, cùng là học trò LPK (Lycée Petrus Ký) mà sao VH chưa bao giờ thấy anh nói hay viết về GS Nguyễn Thanh Liêm hết?” Xin thưa, hôm nay, nhân gần đến ngày lễ thượng thọ cho anh Liêm do Văn đàn Đồng Tâm tổ chức, tôi cũng xin góp vài lời viết về anh Liêm của tôi. Trước hết, sở dĩ tôi gọi bằng anh Liêm, vì giữa tôi và anh Liêm có nhiều kỷ niệm với nhau trong suốt thời gian sinh hoạt cộng đồng ở tại đất nước Hoa Kỳ. Tôi gặp lại anh Liêm vào khoảng cuối năm 1989 tại San Jose, lúc anh còn làm việc cho Health Department của thành phố nầy. Tôi gặp anh tại nhà của một người bạn cũng là một giáo chức “mất dạy” sau khi cộng sản chiếm đóng miền Nam năm 1975. Tại đây, anh Liêm của tôi không là một nhà giáo, không là một tiến sĩ giáo dục…mà là một nhà chiêm tinh. Và dĩ nhiên, câu chuyện ngày hôm đó không là câu chuyện trao đổi giữa những người đã “tháo giày” mà là câu chuyện …tử vi. Tôi không còn nhớ anh đã nói gì về tôi, nhưng trong hơn 10 năm gặp lại nhau tại chốn “gió tanh mưa máu” Bolsa, anh và tôi nhiều lần sinh hoạt gần gũi nhau qua suốt thời gian vận nước nổi trôi trên bước đường lưu vong nầy. Anh Liêm của tôi rất đa dạng. Nơi đây tôi xin miễn nói những nét đa tình của anh Liêm trong thời gian ở Việt Nam (xin chị Phương yên chí). Cảm giác đầu tiên của tôi khi gặp lại anh ở San Jose là anh tương đối nhanh nhẹn hơn, không bệ vệ, trang nghiêm, đứng đắn quá mức khi còn tại chức ở Việt Nam. Cho đến bây giờ anh vẫn còn cái phong cách trang nhã của một nhà giáo đúng nghĩa, nhưng không vì đó mà làm cho anh mất tính hòa đồng với những người anh đã tiếp xúc. Tính khiêm cung của một nhà giáo “chân chánh” luôn là kim chỉ nam trong giao tiếp nơi anh, cho nên, dù cho ở giữa khung trời binh lửa rừng rực như “thủ đô tị nạn” Bolsa, anh vẫn được nhiều người “ưa” hơn “ghét”. Nhưng nếu có ghét, thì cũng chỉ là những bất đồng về cung cách hành xử, không đồng ý vì những hoạt động hết sức đa dạng của anh. Thêm nữa cũng có thể vì những ghen tị thường tình của con người. Nhưng rốt ráo lại, anh Liêm không hề phản biện hay đối chất trước những thách thức đôi khi mang tính “giang hồ” ở xứ sở trong đó tu chính án thứ nhứt đã được tôn trọng hầu như tuyệt đối. Con đường anh đang đi rất rõ ràng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2010 11:20:11 GMT 9
Đó là văn hóa và dân tộc
Văn hóa là vì anh đã và đang sống với văn hóa miền Nam. Anh khơi mở những sắc thái đặc thù của người miền Nam từ khi “tạo thiên lập địa” hay “lập quốc” (thời khai phóng miền đất phía Nam của nhà Nguyễn) cho đến những tập tục chỉ có ở miền Nam như Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt. Anh điều hành và phát triển Lăng Ông từ một căn phòng nhỏ hẹp thành một nơi đồng hương có thể đến thăm viếng và cúng bái, cũng như các Hội đoàn có thể mượn nơi đây làm nơi sinh hoạt hay hội họp với sức chứa trên dưới 100 chỗ ngồi. Anh không ngừng nơi đây, và vẫn tiếp tục khai triển miền đất nước thân yêu qua những bài khảo cứu trên Đặc san Đống Nai, sau đó Đồng Nai Cửu Long.
Nét đặc trưng của mỗi vùng cũng được anh và các bạn trong nhóm trình bày khá chi tiết, nhiều khi làm cho người dân địa phương của những vùng được nói đến cũng chưa biết qua.
Còn dân tộc là vì anh cũng tham gia vào những sinh hoạt thời sự cùng với cộng đồng, cùng tranh đấu ngõ hầu rút ngắn tiến trình mang lại tự do dân chủ cho Việt Nam.
Ngày hôm nay, bước lần vào tuổi “bát thập cổ lai hi”, nhưng tôi vẫn thấy anh Liêm chưa chịu dừng bước. Anh càng năng động hơn nữa. Dù anh đã về hưu, nhưng thời gian anh sinh hoạt trong các hội đoàn, phụ trách các chương trình truyền hình, truyền thanh có thể nói chiếm hơn 8 giờ vàng ngọc như trong lúc đi làm việc. Không kể thời gian dành cho đọc sách, tìm tòi và viết lách, anh có sức làm việc của một nhà tranh đấu không ngừng nghĩ.
Xin lỗi anh, tôi đã nói anh viết lách. Nhưng anh Liêm của tôi viết mà không lách. Anh viết những gì anh nghĩ đúng. Anh trang trãi những gì anh muốn trang trãi cho thế hệ tiếp nối mà không e dè, không cần thận trọng vo tròn bài viết để làm vừa lòng thêm nhiều người khác nữa..
Mặc dù tuổi đời đã cao, nhưng anh vẫn còn hăng say, chắc chắn không phải vì để chạy theo thời gian còn lại quá ngắn, mà chính vì bầu nhiệt huyết trong anh khiến anh làm việc không ngừng nghĩ. Đây cũng là một bài học lớn cho những người đòi “rữa tay gác kiếm” khi tuổi đời chưa tới 60!
Mặc dù có nhiều người bạn thân quen hay không thân phê phán anh Liêm là ôm đồm, tham gia quá nhiều việc không cần thiết và cũng không nằm trong sở trường của anh, nhưng anh vẫn từ tốn ghi nhận những lời phê bình không thiện cảm đó và cũng không có lời biện giải nào cả dù là trực tiếp hay gián tiếp tiếp nhận. Đây cũng là một đức tính của người thầy giáo chân chánh.
Được khen, hay bị phê bình tiêu cực, đường anh, anh vẫn đi. Nói theo kiểu của Nguyễn Phương Hùng, một phóng viên độc lập nhưng cũng là một người gây nhiều tranh cãi trong cộng đồng là “sugar me, me go, sugar you, you go”. Do đó, anh vẫn chiếm được nhiều thiện cảm của cộng đồng. Nói anh là nhân sĩ cũng không phải là phóng đại vậy!
Một kỷ niệm lý thú nhứt vừa xảy ra tối ngày 25 tháng 5, 2010 là trong chương trình Người Đẹp Việc Đẹp trên VHN, anh đã phỏng vấn 2 “show” liên tục một người khác là một bà cụ trên 89 tuổi (gần 90 tuổi, tính theo tuổi Tây). Đó là bà BS Nguyễnn Tôn Hoàn, nhủ danh Phan Thị Bình.
Trong cuộc phỏng vấn, Bà đã kể lại con đường tranh đấu cùng với BS Nguyễn Tôn Hoàn trong thời gian còn là sinh viên ở Hà Nội. Bà học trường Nữ Hộ sinh quốc gia và BS Hoàn học trường Y khoa Hà Nội. Và cũng chính Bà cho biết là bài Quốc ca Việt Nam đã được Bà hát lần đầu tiên ngày 15/3/1942 tại giàng đường chánh của trường dưới tựa đề “Sinh viên hành khúc” do Lưu Hữu Phước đặt nhạc và lời Việt và Pháp do Đặng Ngọc Tốt, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên.
Ý của bài tiếng Pháp là kêu gọi sinh viên học, và phục vụ ‘Mẫu quốc” (Đại học Hà Nội gồm cả sinh viên Việt, Miên và Lào). Còn lời Việt thì kích thích sinh viên đứng lên tranh đấu chống thực dân:
Nầy sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi.
Đồng lòng cùng đi, đi đi mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên
Cùng nhau ta kết đoàn…
Và để kết thúc buổi phỏng vấn, Bà Bs Hoàn, anh Liêm, và người viết cùng đồng ca bài Thanh niên Hành khúc lời nguyên thủy bằng tiếng Pháp. Xin được ghi lại đây để kỷ niệm buổi phòng vấn đặc biệt một nữ lưu gần 90 do người phụ trách là một thanh niên gần 80.
Marche des étudiants
Etudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort retentit dans l’espace.
Du Côté d’Annam aux ruines d’Angkor,
A travers les monts du Sud jusqu’au Nord,
Une voix monte ravie
Servir la chère Patrie
Toujours sans reproche et sans peur
Pour render l’avenir meilleur
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses
Te servir chère Indochine
Avec coeur et discipline
C’est notre but c’est notre joie
Que rien n’ébrante notre foi.
Xin cám ơn chị Tư Hoàn và cũng xin cám ơn Anh Liêm của tôi.
Chúc anh không chồn chân và tiếp tục giữ gìn sức khỏe để tiến bước trên con đường phụng sự đồng hương và dân tộc.
Mai Thanh Truyết Fountain Valley 25-5-2010
Related posts:
Giới Thiệu Tuyển Tập Nguyễn Đức Liêm VIỆT THỨC CHUYỂN MỜI ...
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2010 11:23:34 GMT 9
“Paris by Night” to close downKaviti April 1, 20100 Bình Luận To Van Lai owner of Thuy Nga holding a pirate copy of Thuy Nga Paris by Night aside the original product. Thuy Nga Paris by Night after many years providing entertainment to Vietnamese abroad and at home has spoken out about the problem with piracy and it is forcing Thu Nga to the close down. Regretably, Thuy Nga said that piracy is eating into the company’s profit and they can no longer continue to operate with losses. To prevent Thuy Nga from this predicament, I urge all Vietnamese who have enjoyed Thuy Nga productions in the last 25 years to support it by buying original DVD. “After 27 years as one of the top Viet entertainment companies, Thuy Nga Paris, the producer of the widely popular ‘Paris by Night’ variety show, may be closing down as soon as this summer, said the man who founded the company and whose daughter still runs it. To Van Lai, 73, told Viet Bao Daily News here that video piracy is eating so badly into the Thuy Nga’s income, it can only try to reach the landmark 100th show, then go out of business. In fact, today, Thuy Nga had a rehearsal for its 99th show, so we’re talking about only one more show. According to the paper, To revealed that while one Thuy Nga show – an elaborate music, dance, and comedy show, mostly featuring artists lip-synching to their own soundtracks – can cost $1.9 million to make, but ticket sales only add up to $700,000. Any shortfall must be made up by DVD sale, and piracy kills that. Viet entertainment companies rely heavily on sale of videos of their shows for the majority of their revenue. With Viets dispersed throughout the country, with not single community with more than 300,000 people, live shows don’t have a large enough audience. (Think what happens if no town in the U.S. is larger than Boise, Idaho.) DVD sales are a must, but if DVDs can be copied and ripped and posted online, sales suffer. The online piracies are not too discrete either – the Bolsavik found this site with just one Google search. That’s true of all Viet entertainment companies. The more people want their DVDs, the more they hurt, and the shows people want the most are Thuy Nga’s. To estimated that 30 million people worldwide, a huge chunk of whom are in Vietnam, watch Thuy Nga DVD’s but only 50,000 buy genuine copies. The silver lining, though, is that Thuy Nga is practically guaranteed to sell out its last show, scheduled for July 4 in Las Vegas. Like a dead artist’s paintings to go up in value, nothing sells tickets like a farewell show. In fact, there are singers in Vietnam who went on farewell show after farewell show after farewell show, all heavily attended. Ông Tô Văn Lai và DVD thúy nga thật và giả – Sau 27 năm làm một trong những công ty giải trí hàng đầu của người Việt, Thúy Nga Paris, nhà sản xuất chương trình giải trí “Paris by Night”, có thể sẽ phải đóng cửa vào mùa hè tới, người sáng lập ra công ty, và có con gái đang điều hành công ty này, cho biết. Tô Văn Lai, 73 tuổi, nói với tờ Việt Báo rằng nạn sao chép video đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới thu nhập của Thúy Nga, và nó chỉ có thể cố gắng thực hiện nốt show diễn lần thứ 100 của mình, trước khi đóng cửa. Trên thực tế, ngày hôm nay, Thúy Nga đang tiến hành tập dượt show diễn thứ 99, và chúng ta đang nói đến chỉ còn một show nữa mà thôi. Theo tờ Việt Báo, ông Tô cho biết trong khi một show diễn của Thúy Nga – một chương trình âm nhạc, vũ đạo và hài kịch phức tạp, đa số trong đó các nghệ sĩ hát nhép theo những bài hát của chính họ – có thể cần tới 1,9 triệu USD để thực hiện, nhưng vé bán chỉ có thể thu về 700 ngàn USD. Phần còn thiếu chính là lấy từ doanh thu bán DVD, nhưng nạn sao chép lậu video đã giết chết nó. Băng Paris By Night 98 thực hiện tại Las Vegas chi hết khoảng 1 triệu 900 ngàn Dollars, tiền bán vé thu được $700 ngàn Dollars còn lại $1 triệu 200 ngàn sau đó bán được một số DVD vừa phát hành thì DVD lậu đã bày bán khắp nơi với giá chỉ $ 5 dollars. Mặt khác trên Internet cũng đã post lên tràn ngập để mọi người download chuyền tay nhau xem, như vậy cuối cùng một chương trình phải lỗ mất ít nhất $ 500 ngàn dollars. Ông nói hiện tại có khoảng 30 triệu người trên khắp thế giới kể cả trong nước xem DVD Paris By Night mà tính số lượng chỉ có 50 ngàn gia đình là mua băng gốc, sau đó là DVD sao chép vi phạm tác quyền khắp nơi. Trong dịp nầy ông cũng cho biết có những việc làm mà mình khó bỏ vì những đam mê lý tưởng do đó nên Thúy Nga Paris sẽ cố gắng thực hiện một chương trình cuối cùng để kỷ niệm Thúy Nga Paris 100, chương trình nầy sẽ được thực hiện tại Las Vegas vào July 4 năm 2010, đây sẽ là cuốn băng cuối cùng trước khi đóng cửa.” KAVITI [Credit: Vinashowbiz] Related posts: Longing for the East from a Parisian window: Paris Lòng Buốt From the painter of this painting: Artist and Audience: Creativity... Paris: Một tấm hình cách đây 35 năm Gởi đến các bạn một tấm hình cách đây 35... PARIS KHĂN TRẮNG thân tặng Sinh viên Paris & Bruxelles để tang trong lòng... Bức hình 35 năm ở Paris Bức hình nầy tôi nhận từ ngày hôm qua, do...
|
|