|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 4:24:44 GMT 9
Hoàng Dung
SAU BỨC MÀN ĐỎ VỀ TÁC PHẨM & TÁC GIẢ “Cộng sản sống bằng dối trá, giả hình, nhưng cái sai lầm của nó là đặt sự tàn bạo vào những dáng vẻ bề ngoài hư ảo để giải thích theo ý mình và dùng để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là kẻ thù” Luật sư NGUYỄN MẠNH TƯỜNG (trong Un Excommuníé) Khi nhìn lại thực trạng Việt Nam, gần như hết thẩy mọi người đều khó tránh đối diện với một thắc mắc: Tại sao? Cuộc chiến chấm dứt đã hơn 30 năm mà một đất nước không thiếu tiềm năng, không thiếu nhân lực, không thiếu tinh thần chịu đựng, không thiếu ý chí vươn lên vẫn phải tiếp tục quật quã giữa vũng lầy nghèo khó, tụt hậu nhất thế giới. Tại sao? Nhiều giải đáp đã được nêu với hàng loạt dẫn chứng từ mọi hướng nhìn. Hậu quả chiến tranh, chủ trương bao vây kinh tế của Hoa Kỳ, tình trạng đạo đức suy đồi nơi hàng ngũ quan chức, sự hư hèn của tầng lớp trí thức, trình độ dân trí thấp kém, tâm cảnh não nề sau nhiều năm bị lường gạt đoạ đày khiến đại đa số đã thản nhiên quay lưng trước các yêu cầu chung… đều được kể như trở lực chủ yếu ngăn cản mọi nỗ lực xây dựng và thăng tiến đời sống đất nước. SAU BỨC MÀN ĐỎ góp thêm lời giải đáp qua cái nhìn từ mối tương quan nhân quả giữa những chủ trương, chính sách của guồng máy lãnh đạo quốc gia với thực tế xã hội. Tính tất yếu của mối tương quan này là điều không thể phủ nhận. Cũng không thể phủ nhận mọi chính quyền — kể cả các chính quyền độc tài, thối nát — vẫn phải luôn luôn tìm đạt thành quả tốt đẹp trong công việc của mình. Tại Việt Nam, chính quyền chỉ là một bộ phận tuân hành sự chỉ đạo của đảng CSVN nên guồng máy lãnh đạo quốc gia thực sự chính là đảng CSVN. Bởi thế, nội dung tác phẩm bao gồm diễn tiến sinh hoạt chủ yếu của đảng CSVN từ 1976 tới nay qua 7 kỳ đại hội toàn đảng vào các năm 1976, 1981, 1986, 1991, 1997, 2001 và 2006. Mỗi kỳ đại hội toàn đảng là thời điểm kết thúc một đoạn đường để mở ra một đoạn đường mới trong tiến trình xây dựng và thăng tiến cho đất nước theo lối của cộng sản! SAU BỨC MÀN ĐỎ trình bày nhiều khía cạnh thực tế từ nhân sự tới bối cảnh chung với tác động thúc đẩy hình thành các chủ trương chính sách mà hệ quả tất yếu là thực tế xã hội. Những sự kiện được trình bày — kết quả của nỗ lực sưu tầm, tra cứu thận trọng dựa trên nhiều nguồn tư liệu chắt lọc — vẽ thành bức chân dung toàn cảnh về guồng máy lãnh đạo từ ngoại hình tới nội phủ và động cơ, ý hướng vận động… Chính bức chân dung này đã cất lên lời giải đáp cho thắc mắc về lý do chủ yếu triền miên giam hãm đất nước trong vòng tối tăm khốn khó hơn ba mươi năm nay. Không thiên chấp do vị thế đối kháng, không nương theo định kiến nặng cảm tính, lời giải đáp cất lên từ các sự kiện đã đẩy hết thẩy lý do từng được nêu trở lui đúng vị thế thứ yếu trong tác động cản phá ý hướng vươn lên. Hậu quả chiến tranh kéo dài, quan chức suy đồi đạo đức, thức giả ươn hèn, dân trí thấp kém, tâm lý vị kỷ tới tàn ác và thậm chí cả thái độ thù nghịch của Hoa Kỳ — nếu tồn tại — đều chỉ là hệ quả tất yếu từ tình trạng hỗn loạn, u mê của guồng máy lãnh đạo. Nếu tình trạng này chấm dứt, mọi lý do trên khó tìm nổi điều kiện lan tràn thành hoạ hoạn và còn có thể không hiện hình. Nhưng hỗn loạn, u mê vẫn tiếp tục, dù guồng máy lãnh đạo đã có 7 dịp long trọng họp bàn tìm phương cách đưa đất nước thoát khỏi cảnh giam hãm giữa "vũng lầy triệt tiêu mọi điều kiện xây dựng" cuộc sống bình thường của con người. Đam mê quyền năng, tham vọng bè phái, trình độ thoái hoá… khiến guồng máy lãnh đạo luôn nằm giữa vòng chi phối của động cơ thúc đẩy các bước đi ngược dòng. Diễn trình tiến hóa thế giới đã đi vào kỷ nguyên liên lập hoà triển từ nhiều thập kỷ và diễn trình sinh hoá xã hội cũng qua nhiều thập kỷ xác định tầm mức tối thượng của mục tiêu bảo toàn quyền sống con người theo tinh thần nhân chủ điều hợp. Đế quyền vô thượng của các đấng con trời chỉ còn là dấu tích thuở trí tuệ thiếu mở mang, trong khi cuồng vọng bá quyền của các tập đoàn nhân danh chân lý tuyệt đối vận dụng bạo lực buộc nhân loại cúi đầu tuân hành mọi chỉ thị đã chìm sâu vào quên lãng. Các chủ nghĩa thực dân, quốc xã, phát xít, cộng sản sau nhiều tháng ngày thét gió gào mưa đã hiện nguyên hình là các tập đoàn tội ác vì theo đuổi những chủ trương huỷ hoại cuộc sống an bình của con người. Trí năng thời đại đã khẳng định con người có mặt không để hoá thân thành công cụ cho bất kỳ ý thức hệ nào, thần tượng nào mà chỉ để sống tròn cuộc sống bản thân với các ước vọng chính đáng. Vị thế chủ thể của con người là vĩnh cửu nên quyền sống con người là mục tiêu duy nhất cho mọi nỗ lực phụng sự. Nhưng tầm nhìn của guồng máy lãnh đạo Việt Nam cho tới lúc này vẫn đóng khung trong giới hạn tầm nhìn của đầu thế kỷ trước, thậm chí còn lùi xa về cuối thế kỷ 19 với đòi hỏi tuyệt đối quy phục đế quyền và chính sách “bế quan toả cảng” dưới triều Tự Đức. Chủ nghĩa Cộng Sản - đã được kể như cội nguồn tội ác đối với nhân loại- vẫn là ánh sáng chỉ đường, đồng thời tượng hình Lenin — một kẻ ngàn trùng xa lạ với đất nước Việt Nam — tiếp tục ngự trị trên bệ thờ, dù cả thập kỷ qua, chính người dân Nga đã xô đổ và còn đang đòi vứt thi hài nhân vật này xuống biển. Qua các hình ảnh cụ thể, bảy lần họp mặt để tìm đường cứu nguy đất nước của tập đoàn lãnh đạo Việt Nam chỉ là bảy lần họp mặt dâng hương bái ngưỡng các hung thần. Thực tế được ghi nhận còn thảm hại hơn khi ý kiến được nêu của nhân vật lãnh đạo tối cao, tổng bí thư Đỗ Mười, lại chỉ là một lời phát biểu khó thể tin là có thực: “Nó muốn đá tao, tao đá nó”. Giữa thực cảnh bi hài này, thắc mắc “tại sao” đã trở nên vô hình như toàn bộ thực trạng đất nước và cuộc sống người dân đã tiếp tục vô hình. Do lời khuyến dụ của những con tim khô cạn nhân tình, nhiều thế hệ đã nối nhau bị hối thúc tự nguyện biến thành những kẻ sát nhân, đồng thời cũng biến thành nạn nhân của bom đạn. Hàng trăm ngàn mạng đồng loại trôi giạt trên biển khơi liên tục hai thập kỷ gồm không biết bao nhiêu trẻ thơ vô tội chưa khơi gợi nổi một xúc động nhỏ nhoi. Hàng trăm ngàn thiếu nữ khắp nước phải bước vào nẻo đường tủi nhục biến thân xác mình thành món hàng rao bán cho thiên hạ chưa bao giờ là vấn đề cần suy nghĩ. Tiếng kêu uất ức vì bị ngược đãi của hàng chục ngàn hàng trăm ngàn dân quê kéo dài nhiều năm tháng vẫn là tiếng kêu vô vọng trên sa mạc mênh mông… Nhìn lại thực tế đời sống Việt Nam cho tới nay khó thể ghi hết mọi oan khiên nhức nhối, mọi thảm cảnh huỷ hoại tan hoang cuộc sống an lành của người dân nhỏ bé. Toàn bộ thực tế này không nằm trong hướng nhìn của tập đoàn lãnh đạo. Hướng nhìn đó luôn gắn chặt vào chỉ một chủ điểm mà một nhân vật lãnh đạo vừa lập lại cuối tháng 9-2006 vừa qua: “Chính quyền kiên định tiến lên xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng đa nguyên chính trị, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập nào”. Từ đây, mối ưu tư hàng đầu của tập đoàn lãnh đạo đã hiển hiện như xác định tại một điều khoản của sắc luật 96/CP do Võ Văn Kiệt ban hành: “Phải đặc biệt chú trọng đến những quốc gia, những tổ chức hay cá nhân trong nước cũng như ngoài nước đang âm mưu hay tham gia vào những hoạt động nhằm chống lại đảng cộng sản hay nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Cho nên, hoàn toàn không còn gì để ngạc nhiên trước lời tuyên bố về quan điểm đối ngoại phổ biến trên tờ Sài Gòn Giải Phóng: “Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà còn là người thày tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi…” Dù các từ “tổ quốc, quê hương” luôn được viện dẫn, đất nước đã thực sự trở nên vô hình trước tầm mức vĩ đại của Đảng, nếu không muốn kết luận đất nước chỉ còn là một công cụ tận lực phụng sự quyền năng của Đảng. Đảng với lý tưởng của riêng mình — xã hội chủ nghĩa — đã độc chiếm không gian và khai thác mọi tiềm năng đất nước cho mục tiêu trường tồn mãi mãi theo thời gian. Đất nước đã bị xoá nhoà dưới hình bóng của lý tưởng tới mức chủ quyền lãnh thổ không còn thành vấn đề phải coi trọng thì con người hiển nhiên khó thoát khỏi cảnh ngộ mà Tạ Duy Anh đã vẽ lại trong tác phẩm Đi Tìm Nhân Vật qua lời tâm sự của một người anh từng trải nói với người em: “Phải biết sợ mới thành người được, chú ạ. Có cả ngàn thứ đáng sợ: Tai mắt ở đời toàn loại tai mắt rắn độc cả đấy? Kinh khủng lắm, chú ơi! Rồi còn mật vụ, cảnh sát, guồng máy quyền lực luôn luôn đói khát. Nó có thể nghiền nát tôi và chú thành một thứ bùn, rồi nếu cần, nặn lại thành chó, thành chuột, thành bọ chét, thành giun dế... Chú có ở cạnh con quái vật ấy đâu mà biết nó đáng sợ như thế nào. Chúng ta chỉ là bánh xe, là đinh ốc thôi, bất cứ lúc nào cũng có thể ra sọt rác hoặc vào lò nung để đúc lưỡi cày, đúc nòng súng” … Nói một cách đơn giản thì con người cũng trở thành vô hình. Nghĩa đồng bào, tình ruột thịt…nếu được nhắc nhở không ngoài ý hướng đáp ứng yêu cầu của mối ưu tư trường tồn cho lý tưởng mà Đảng tôn thờ và cho quyền lực mà Đảng sở hữu. Vì thế, hàng loạt thảm cảnh khiến khắp thế giới phải bàng hoàng đã không tạo nổi một tác động nhỏ nhoi nơi con tim của những người cùng chung huyết mạch — những con tim hiến dâng hoàn toàn cho Đảng, theo cách nói của một nhà văn Nga Xô trước đây. Lời giải đáp cho thắc mắc “tại sao” từng có về vấn đề Việt Nam đã thu lại trong một câu vắn gọn: “Trách nhiệm duy nhất và lớn lao mà đảng CSVN tự nguyện gánh vác là triển dương ý hệ xã hội chủ nghĩa chứ không phải sự ổn định và thăng hoá đời sống xã hội Việt Nam”. Đó là lời giải đáp cất lên từ những diễn biến trong hậu trường chính trị Việt Nam đã lộ hình khi bức màn đỏ được cuốn lên. ***** SAU BỨC MÀN ĐỎ là tác phẩm thứ ba của Hoàng Dung, sau CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG III và ĐI VÀO CÕI VÔ CÙNG. Tác giả không chuyên nghiệp cầm bút mà là một bác sĩ y khoa. Với tư cách này, tác giả đã có mặt bên cạnh những chiến binh miền Nam trước 30-4-1975 và có mặt trong nhiều trại tù cải tạo sau 30-4-1975, trải nghiệm không ít cảnh huống thực tế mà hầu hết người dân Việt Nam từng gánh chịu, sau đó, còn trải nghiệm các bất trắc khó lường của hành động vượt biên và chia xẻ nhiều tháng ngày lạc lõng của kiếp sống lưu vong… Các trải nghiệm này đã thúc đẩy nỗi khát khao nhìn rõ những bước đường mà đất nước phải qua và đi xa hơn đã thúc đẩy cả nỗi khát khao nhìn rõ cuộc sống con người. Chính vì thế, tác phẩm CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG III đã xuất hiện và tiếp theo là sự xuất hiện của tác phẩm ĐI VÀO CÕI VÔ CÙNG với những bước phiêu du vào vũ trụ bao la bí hiểm cùng trăng sao... Nhưng, con tim luôn quặn thắt trước cảnh sống oan khiên của đồng loại đã không ngừng đặt tác giả ở vị thế liên tục đối diện với những thăng trầm của đất nước trong đó in hằn hình bóng cả người đã nằm xuống lẫn người đang vùng vẫy giữa trăm ngàn thử thách gian nan ở quê nhà. SAU BỨC MÀN ĐỎ, vì thế, hình thành không chỉ để góp thêm lời giải đáp cho một thắc mắc đã kéo quá dài về vấn đề Việt Nam mà còn biểu hiện sự tưởng niệm những người đã nằm xuống, đồng thời là sự bày tỏ lời cảm ơn và cảm phục những người đang chấp nhận mọi gian nguy để mưu tìm một cuộc đổi đời cho dân tộc — như lời Bạt đã ghi. Tủ sách TIẾNG QUÊ HƯƠNG Mọi chi tiết xin liên lạc: hoangdung452000@yahoo.com
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 4:35:24 GMT 9
CHƯƠNG I SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ IV (1976-1982)Tháng tám năm 1976, tại hội nghị thượng đỉnh các quốc gia không liên kết ở Tích Lan, một người da ngăm đen, miệng luôn mỉm cười bước lên diễn đàn đọc diễn văn. Những lãnh tụ của khối trung lập vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt vì ông ta là thủ tướng của một nước Việt Nam vừa chiến thắng và thống nhất. Tuy nhiên, chỉ vài phút sau, những lời lẽ trong bài diễn văn của con người có bề ngoài hòa nhã này đã gây kinh ngạc và tức giận cho tất cả các nhà lãnh đạo quốc gia trong vùng. Ông tuyên bố Việt Nam vẫn coi hết thẩy quốc gia ASEAN lân bang như công cụ của đế quốc và sẽ không bao giờ quên là những quốc gia này đã giúp Hoa Kỳ trong những năm chiến tranh. Ông còn nói tiếp là Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân những quốc gia này đạt được một nền “độc lập thật sự” (1) Bài diễn văn hàm ý đe dọa và ngạo mạn của Phạm Văn Đồng tại đại hội thượng đỉnh kể trên biểu hiện cái khí thế đang lên của những nhà lãnh đạo CSVN nói riêng và phong trào cộng sản nói chung lúc đó. Chiến thắng 1975 của Bắc Việt Nam đã được coi như một minh chứng cho tính ưu việt của chủ nghĩa Marx và sự suy yếu của phe tư bản. Vì thế, theo họ, đường lối xã hội chủ nghĩa là một đường lối sáng suốt, đúng đắn, tiên tiến và Việt Nam sẽ cương quyết đi theo con đường đó, về đối nội cũng như đối ngoại. Cho tới năm cuối của thập niên 70, quyền cai trị Việt Nam vẫn nằm trong tay các ủy viên Bộ Chính Trị già nua được bầu từ đại hội Đảng lần thứ ba năm 1960. Ủy viên được bầu năm đó gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ và Lê Thanh Nghị. Trong số những người này, Hồ Chí Minh, Nguyễn Chí Thanh đã chết, Hoàng Văn Hoan bị cô lập vì chủ trương thân Trung Quốc quá lộ liễu. Võ Nguyên Giáp luôn bị Lê Duẩn chèn ép, nên sau cái chết của Hồ Chí Minh, dần dần bị mất uy thế. Trường Chinh mất chức sau Cải Cách Ruộng Đất, xuống vị trí thứ 2 phải nhẫn nhịn để yên phận. Thực quyền lãnh đạo đảng CSVN nằm trong tay Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Sự liên kết giữa Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã có từ nhiều năm.Lê Duẩn là cán bộ kỳ cựu hoạt động tại miền Nam cùng thời với Lê Hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…và đã bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Năm 1945, khi phong trào kháng chiến nổi lên chiếm chính quyền tại Sài Gòn, những người trong Ủy ban Hành Chính Kháng Chiến Nam Bộ đã không cho người ra đón Lê Duẩn ngay mà phải chờ tới mấy tuần sau. Được đón về Sài Gòn, Lê Duẩn vẫn bị bỏ quên, không được trọng dụng cho đến khi Lê Đức Thọ vào Nam. Sau hiệp định Genève, Lê Duẩn tập kết ra Hà Nội và khi Trường Chinh bị mất chức tổng bí thư, Lê Duẩn được cất nhắc lên làm bí thư thứ nhất. Thời gian đó, nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ, uy tín Võ Nguyên Giáp rất cao, nhưng Hồ Chí Minh chọn Lê Duẩn có lẽ vì đảng cộng sản đang mưu toan xâm nhập và khởi sự gây loạn ở miền Nam. Lê Duẩn tuy sinh đẻ tại miền Trung nhưng đã hoạt động lâu năm tại miền Nam. Đề cử Lê Duẩn làm bí thư thứ nhất là một biện pháp lấy lòng nhân dân miền Nam, chứng tỏ họ vẫn coi nước Việt Nam là một. Một lý do khác là có thể Hồ Chí Minh cũng e ngại uy tín của Võ Nguyên Giáp sau trận Điện Biên Phủ. Đồng thời với sự thăng tiến của Lê Duẩn năm 1956, Lê Đức Thọ cũng được cử thay Lê Văn Lương giữ trọng trách trưởng ban tổ chức đảng. Mới từ miền Nam ra, không có hậu thuẫn mạnh trong đảng cũng như uy tín đối với nhân dân miền Bắc, Lê Duẩn phải dựa vào Lê Đức Thọ, để mặc cho Lê Đức Thọ thao túng về nhân sự của đảng và nhà nước. Suốt hơn hai chục năm sau 1960, vì lý do chiến tranh, không có đại hội đảng nào được triệu tập nên Lê Đức Thọ với cương vị trưởng ban tổ chức được toàn quyền sắp xếp và thay đổi nhân sự trong đảng cũng như trong chính phủ. Dưới tay Lê Đức Thọ có Nguyễn Đức Tâm giữ ban chỉ đạo trung ương, Trần Quyết trưởng ban kiểm tra, Hoàng Thao trưởng ban nội chính, Nguyễn Đình Hưởng ban bảo vệ chính trị, Nguyễn Trung Thành ban bảo vệ đảng. Những người này cùng Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng công an, tạo nên một bộ máy hữu hiệu kiểm soát tất cả sinh hoạt của nhân dân cũng như cán bộ.(2) Người được coi như cái gai trước mắt Lê Duẩn là Võ Nguyên Giáp. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, uy tín của Võ Nguyên Giáp đối với thế giới bên ngoài rất lớn, ngang với Hồ Chí Minh nên giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đã có sự ghen ghét. Dù Lê Duẩn được cử làm bí thư thứ nhất, nhưng Hồ Chí Minh vẫn để Võ Nguyên Giáp làm bí thư quân ủy còn Lê Duẩn, dù là bí thư thứ nhất của đảng, chỉ được làm phó bí thư cho Võ Nguyên Giáp trong quân ủy. Vì thế, Lê Duẩn luôn tìm cách nâng đỡ Nguyễn Chí Thanh (3), lúc đó là chủ nhiệm tổng cục Chính trị quân đội, giúp cho Nguyễn Chí Thanh có một uy thế ngang ngửa với Võ Nguyên Giáp trong quân đội. Trong thời gian Khrushchev cầm quyền ở Nga Xô, chủ trương xét lại và mâu thuẫn với Trung Quốc, lập trường của Lê Duẩn nghiêng về Trung Quốc. Trước thái độ của Lê Duẩn và biết được sự bất hòa giữa Duẩn - Giáp, Khrushchev đã gửi một thư riêng cho Võ Nguyên Giáp. Nhưng Võ Nguyên Giáp, biết mình đang bị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ rình rập, đã trình ngay lá thư đó cho Hồ Chí Minh. Việc này khiến Lê Duẩn và Lê Đức Thọ không yên tâm, sợ Võ Nguyên Giáp có thể dựa vào uy thế Nga Xô để lật lại mình nên vào năm 1967, sau khi Kruschchev đã bị hạ bệ, cả hai tạo ra “vụ án xét lại”, bắt giữ hàng trăm người gồm đủ mọi thành phần có quan hệ hoặc có khuynh hướng thân Nga Xô hay có dính líu với Võ Nguyên Giáp. Tuy Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh che chở nên yên thân nhưng một số người thân tín dưới quyền đã bị bắt và Võ Nguyên Giáp cũng không dám lên tiếng bênh vực. Dù Võ Nguyên Giáp vẫn còn là bộ trưởng Quốc phòng và tổng tham mưu trưởng quân đội, Lê Duẩn vẫn thường công khai chê trách tài cầm quân của Võ Nguyên Giáp.(4) Sau khi Võ Nguyên Giáp bị mất vây cánh và bị cô lập, quyền lực của Hồ Chí Minh cũng dần dần yếu đi, bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lấn lướt, đành an phận đứng Ngoài những tranh chấp để còn được giữ nguyên hình tượng “bác”. Sau khi Hồ Chí Minh chết, không còn chỗ dựa, Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ hạ tầng công tác và cuối cùng mất hết chức vụ. Năm 1975, sau khi chiếm miền Nam, đảng CSVN tổ chức đại hội đảng lần thứ tư từ ngày 14 đến 20-12-1976 để thích ứng với tình hình mới. Vì mới thống nhất, số ủy viên trung ương đảng được tăng từ 77 lên 133 người, số ủy viên bộ Chính Trị cũng tăng từ 11 lên 14 người cùng với 3 ủy viên dự khuyết, xếp theo thứ tự gồm có: 1. Lê Duẩn, cải danh bí thư thứ nhất lên tổng bí thư. 2. Trường Chinh, kiêm nhiệm chủ tịch Quốc Hội. 3. Phạm Văn Đồng, thủ tướng. 4. Phạm Hùng, phó thủ tướng. 5. Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức T.Ư đảng. 6. Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc Phòng. 7. Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng Ngoại Giao. 8. Lê Thanh Nghị, chủ nhiệm UB Kế Hoạch Nhà Nước. 9. Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Công An. 10. Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội. 11. Lê Văn Lương, bí thư thành ủy Hà Nội. 12. Nguyễn Văn Linh, bí thư thành ủy TP.HCM. 13. Võ Chí Công, kiêm bộ trưởng bộ Hải Sản. 14. Chu Huy Mân, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị thay Song Hào. Song Hào mất chức vì trong cuộc chiến 1972, quân cộng sản chết quá nhiều ở Quảng Trị và theo Nhật Ký Trần Quỳnh, Song Hào đã đổ lỗi lầm này cho Lê Duẩn. Tuy nhiên, lý do chính có lẽ là Song Hào từng chiến đấu và gần gũi với Võ Nguyên Giáp. Người thay Song Hào là Chu Huy Mân, trước 1954 là một trung đoàn trưởng tham dự trận Đông Khê, sau vào Nam đóng ở mật khu An Lão, vùng Bình Định, từng tham dự trận Ia Drang. Sự lên chức mau lẹ của Chu Huy Mân vượt qua khỏi nhiều tướng lãnh có chức vụ cao và thâm niên hơn như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo…cho thấy quyết tâm của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn loại trừ những người từng phục vụ lâu năm dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp để dùng những người thân tín. Ba ủy viên dự khuyết trong bộ Chính Trị lần này là Tố Hữu, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười. Sau chiến thắng 1975, không còn cần che giấu, đại hội đảng lần này cũng quyết định bỏ tên đảng Lao Động và lấy lại tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Để chứng tỏ quyết tâm theo đuổi chủ nghĩa cộng sản, tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tạp chí Học Tập, tạp chí chính thức của đảng cũng trở nên tạp chí Cộng Sản. Tôn Đức Thắng tiếp tục giữ chức chủ tịch nước.(5) Hai phó chủ tịch là Nguyễn Lương Bằng và Nguyễn Hữu Thọ. Trong thành phần bộ Chính Trị được bầu lần này, Hoàng Văn Hoan bị loại, sau đó trốn sang Trung Quốc. Võ Nguyên Giáp còn được giữ lại do uy tín trong quân đội nhưng bị đẩy xuống đứng sau Lê Đức Thọ. Tuy bộ Chính Trị có thêm một số nhân vật từ miền Nam ra như Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công... nhưng thực quyền vẫn nằm trong tay những ủy viên cao cấp đã nắm quyền suốt hơn hai chục năm qua, nhất là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Vì thế, đường lối chính sách của đảng CSVN không có gì thay đổi. Trong những ủy viên cao cấp bộ Chính Trị lúc đó, Phạm Văn Đồng luôn luôn thủ phận để được yên vị ở chức thủ tướng, Trường Chinh dù là cán bộ lão thành nhưng uy tín bị suy giảm sau vụ Cải Cách Ruộng Đất cũng được yên thân vì sau khi mất chức tổng bí thư năm 1956, đã không bao giờ tỏ ra bất mãn hay đối nghịch với Lê Duẩn. Thêm nữa, Trường Chinh là người miền Bắc duy nhất trong số lãnh tụ cao cấp của bộ Chính Trị. (trong đảng, ba người thứ tự cao cấp nhất của bộ Chính Trị thường từ ba miền Bắc, Trung, Nam — Lê Duẩn người miền Trung, Phạm Hùng, miền Nam). Vì thế phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ trong bộ Chính Trị sau đại hội đảng lần thứ tư được thêm vào Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân lại càng được củng cố... Những người thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ có Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình được cho giữ những chức vụ không có quyền hành, còn những người khác như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết, Trương Như Tảng…bị gạt ra ngoài.(6) Các nhân vật thân cộng như Ngô Công Đức, Lý Quí Chung, Lý Chánh Trung, Trần Thúc Linh, Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ (7) … phải học một lớp học chính trị mà người dạy là Vũ Khiêu, xuất thân là một giáo viên ở Lạng Sơn. Bài “thu hoạch” của họ, nội dung chỉ là phản tỉnh và cong lưng qui thuận được đăng lại trên báo Đại Đoàn Kết để làm công cụ tuyên truyền. Nghị quyết của đại hội đảng cộng sản lần thứ tư sau 1975 xác định phương hướng của chính quyền cộng sản là “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa..” Dĩ nhiên, việc “nắm vững chuyên chính vô sản” để kiểm soát toàn bộ nhân dân kể cả về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng là quan trọng nhất. Bộ máy công an được thiết lập rất chặt chẽ, nhân dân bị kiểm soát từ khu vực, phường, quận, tỉnh… đến trung ương và được sự hỗ trợ của những tổ dân phố, các đoàn thể phụ nữ, thiếu nhi, công đoàn…. Ngoài ra những biện pháp như sổ hộ khẩu, giấy thông hành (đi sang một tỉnh lân cận là phải xin giấy thông hành) sổ tạm trú (ngủ ở nhà người khác dù một đêm cũng phải khai báo), sổ lương thực (chỉ tạm đủ ăn cho mỗi nhân khẩu, mỗi căn hộ) đã giúp cho sự kiểm soát của công an rất hữu hiệu. Nhưng biện pháp kiểm soát hữu hiệu nhất của chế độ là tạo nên bầu không khí trong đó những người thân thuộc dù là anh em hay bạn bè… bị đe dọa, hoặc vì tị hiềm, hoặc để lập công, hoặc bị khuyến dụ, dễ dàng tố cáo lẫn nhau. Tố cáo lẫn nhau được coi như một biểu hiện tốt trong quá trình phấn đấu bản thân, là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng phẩm chất “đạo đức cách mạng”. Những phần tử khả nghi dễ dàng bị thanh lọc, bắt bớ hay giam cầm không cần tòa xét xử. Giống như ở các nước cộng sản khác, để bảo vệ chế độ, tất cả những người thuộc “thành phần khả nghi” đều bị bắt giữ, tù đày. Ngoài hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam bị giam trong nhiều trại tù rải rác khắp nước, các văn nghệ sĩ, các tu sĩ như hoà thượng Huyền Quang (8), hoà thượng Quảng Độ (9), giám mục Nguyễn Văn Thuận (10)… Người từng chống đối chế độ cũ ở miền Nam như Trương Đình Dzu cũng bị bắt. Trương Đình Dzu bị chính quyền VNCH giam và sau 30-4-1975 được thả ra lại bị cộng sản bắt lại ngay vì bị nghi có thể thuộc nhóm người muốn xây dựng một đoàn thể đối lập. Vì ông ở tù, con trai là David Trương (Trương Đình Hùng) đang ở Hoa Kỳ, mưu toan cùng một viên chức ngoại giao Mỹ làm gián điệp cho Việt Nam để lập công. Vụ này vỡ lở, Trương Đình Hùng bị bắt, đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc là Đinh Bá Thi bị trục xuất. Do vụ án gián điệp này, cuộc hội đàm để thiết lập bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ của Phan Hiền và Holbrook vào thời gian đó bị trở ngại (11) Ngoài hai hoà thượng Huyền Quang và Quảng Độ, hai học giả Phật học uyên thâm là Trí Siêu và Tuệ Sĩ (12) bị lên án tử hình vì tội “âm mưu lật đổ chính phủ”. Nhiều tu sĩ Phật giáo khác, trong đó có ni sư Trí Hải, người đã dịch cuốn Catcher in the Rye của Salinger (Bắt Trẻ Đồng Xanh) dưới bút hiệu Phùng Khánh cũng bị bắt và bỏ tù nhiều năm. Năm 1978, chính quyền bắt giam bác sĩ Nguyễn Đan Quế cùng 47 người khác vì đã thành lập phong trào đòi nhân quyền. Những người này bị giam giữ, tra tấn, cấm cố, biệt giam nhiều năm, sau đó thả ra rồi bắt lại bằng những “biện pháp hành chánh”, không cần xét xử. Một số người khác như Trần Văn Bá, con của cụ Trần Văn Văn, đang dạy học bên Pháp lén trở về Việt Nam năm 1980 tổ chức một phong trào nổi dậy, nhưng bị bắt và bị xử tử vào tháng 1-1985 cùng hai đồng chí khác của ông là Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch. (13) Người phụ trách tìm bắt ông là Cao Đăng Chiếm, Nguyễn Khánh Toàn…Có nguồn tin Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó đang ở Kiên Giang, có thể cũng tham dự đợt bắt giữ này. Ngoài Trần Văn Bá, ông Võ Đại Tôn (14) từ bên Úc trở về mưu vận động chống lại chế độ nhưng cũng bị bắt. Ông bị bỏ tù vài năm sau đó được thả về Úc. Một người khác, cựu phó đề đốc Hoàng Cơ Minh (15) của quân đội VNCH, cũng thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam và lập mật khu tại biên giới Thái. Năm 1987, khi ông và các đồng chí trên đường về nước thì bị phục kích bên Lào và tử trận. Về thông tin báo chí, dĩ nhiên tất cả đều do đảng cộng sản hoàn toàn kiểm soát (16) Những tổng biên tập nhật báo hay tạp chí nhà nước này đều phải là đảng viên. Hai tờ báo trước kia ngầm hỗ trợ Cộng Sản là Tin Sáng và Đứng Dậy, sau 1975 được phép tồn tại với điều kiện trong tòa soạn phải có đảng viên cộng sản làm “cố vấn chính trị” nhưng cũng lần lượt bị dẹp bỏ. Tờ Tin Sáng của Ngô Công Đức, dù đã hết sức nịnh bợ chính quyền mới (17) cuối cùng cũng phải tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ”(?) vào ngày 30-6-1980, còn tờ Đứng Dậy của linh mục Chân Tín thì “từ biệt độc giả” vào tháng 12-1978. Việc làm báo ở Việt Nam khuôn mẫu đến nỗi mỗi năm, ngày 26-12, đều có tin về đức tổng giám mục Nguyễn Văn Bình làm lễ tối Giáng Sinh. Đến năm 1992, đức tổng giám mục bị bệnh, giám mục Phạm Văn Nam thay thế, nhưng tất cả các báo nhà nước đều vẫn đăng tin tổng giám mục Nguyễn Văn Bình làm chủ lễ và sau đó cũng không có báo nào đính chính. Về đối ngoại, chiến thắng quân sự của CSVN năm 1975 đã làm bộc lộ nhiều mâu thuẫn giữa các quốc gia cộng sản từng âm ỉ trong những năm chiến tranh. Lúc đó, cả Nga Xô và Trung Quốc đều viện trợ dồi dào cho Việt Nam để tỏ cho các nước cộng sản đàn em khác thấy thái độ tích cực chống đế quốc, đồng thời cũng để lôi kéo Việt Nam về phe mình. Cộng sản Bắc Việt cũng cố gắng giữ vị thế quân bình để chiều lòng cả hai nước. Trong nỗ lực tiếp tục chính sách đu dây để hưởng lợi như những năm trước, cuối tháng 9-1975, Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị sang Trung Quốc xin viện trợ. Nhưng cục diện đã đổi thay, Trung Quốc sau khi kết thân được với Hoa Kỳ đang coi Nga Xô là kẻ thù số một, và muốn Việt Nam phải nằm hẳn trong ảnh hưởng của mình để chống lại Nga Xô. Ngoài ra, Trung Quốc cũng không muốn Việt Nam liên minh chặt chẽ với Ai Lao và Campuchia để tạo nên một thế lực có thể thách đố hay làm nguy hại tới an ninh và quyền lợi của họ. Vì thế, Đặng Tiểu Bình trong buổi tiếp tân phái đoàn đã đề cập đến chủ nghĩa bá quyền (ám chỉ Nga Xô) và khuyến cáo Việt Nam nên đứng hẳn về phía Trung Quốc để chống lại Nga Xô. Tuy nhiên, khi đáp từ, Lê Duẩn không nói gì đến bá quyền mà còn ngỏ lời cám ơn tất cả các nước xã hội chủ nghĩa (trong đó có cả Trung Quốc lẫn Nga Xô) trong công cuộc đấu tranh chống đế quốc. Kết quả là Trung Quốc từ chối viện trợ và Lê Duẩn từ chối thảo thông cáo chung, hủy bỏ tiệc liên hoan đáp lễ. Kể từ đó, quan hệ giữa hai nước bắt đầu rạn nứt. Ba tháng sau, Lê Duẩn bay sang Nga Xô. Tại đây, khác với khi ở Trung Quốc, Việt Nam công khai cho thấy lập trường của họ đã thiên về Nga Xô khi Lê Duẩn cùng Brezhnev ký một thông cáo chung trong đó Việt Nam nhất trí với Nga Xô trong vấn đề đối ngoại. Sau khi Lê Duẩn về nước, những cán bộ cao cấp có khuynh hướng thân Trung Quốc đều lần lượt bị loại, trong đó có Hoàng Văn Hoan (18), ủy viên bộ Chính Trị), Chu Văn Tấn (19), bộ trưởng Quốc Phòng năm 1945), Lý Ban (thứ trưởng Ngoại Thương), Lê Quảng Ba (phó chủ tịch quốc hội)…. Tuy nhiên, do tình trạng bang giao với Campuchia ngày càng căng thẳng, chính quyền CSVN đã cố gắng có vài biện pháp tỏ ra còn độc lập với Nga Xô để khỏi phải trực tiếp đương đầu với Trung Quốc. Họ từ chối không gia nhập liên minh kinh tế COMECON của đế quốc Nga Xô, không cho Nga Xô đặt tòa lãnh sự ở thành phố HCM, sau đó họ còn gửi nhiều phái đoàn thiện chí khác sang Trung Quốc cầu hòa. Trước hết, vào ngày 21-4-1977, Lê Duẩn trở lại Trung Quốc. Lần này, Lê Duẩn không còn có thái độ đương đầu với Trung Quốc như lần trước mà phải xuống giọng với Hoa Quốc Phong “chúng tôi như những đứa em nhỏ, luôn luôn sát cánh bên những người anh” (20). Dù vậy, chuyến đi không đem lại kết quả nào. Chuyến đi thứ hai vào tháng 6-1977 do Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng quốc phòng lúc đó làm trưởng phái đoàn còn tệ hại hơn. Nhân vật tương đương của Trung Quốc là Diệp Kiếm Anh không ra phi trường tiếp đón, cũng không tham dự những cuộc hội đàm. Mấy ngày sau, một phái đoàn khác của Phạm Văn Đồng từ Nga Xô trở về cũng ghé ngang Bắc Kinh. Lần này Phạm Văn Đồng được thủ tướng Trung Quốc là Lý Tiên Niệm tiếp. Nhưng trong buổi họp, Phạm Văn Đồng chưa kịp lên tiếng thì Lý Tiên Niệm đã lên tiếng phản kháng về chính sách đối với người Hoa và việc Việt Nam tiếp quản những đảo nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa trong khi năm 1958, Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo đó. Phạm Văn Đồng chỉ có thể trả lời gượng gạo rồi trở về tay không. Trước viễn ảnh không thể hòa giải với Trung Quốc, Việt Nam bắt đầu những biện pháp phòng ngừa Trung Quốc trả đũa. Trước hết, họ bắt tất cả cư dân người Hoa nhập Việt tịch, nếu không sẽ mất quyền lợi mua lương thực. Sau đó, ngày 24-3-1978, chính phủ Việt Nam mở đợt đánh tư sản mại bản đầu tiên (ám số là kế họach X1), nhắm vào khối người Hoa để tịch thu gia sản của họ, đồng thời cũng ép buộc và khuyến dụ những người này rời Việt Nam để một mặt, tránh hiểm họa đạo quân thứ năm, mặt khác tịch thu thêm vàng bạc. Từ đó, phong trào thuyền nhân ra đời. Nhiều người đến được những trại tỵ nạn rải rác ở Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hồng Kông, Nhật Bản…, nhưng cũng có hàng trăm ngàn người khác phải bỏ mình ngoài biển khơi hay làm nạn nhân cho hải tặc.(21) Dĩ nhiên, chính quyền Trung Quốc phản kháng, gọi những Hoa Kiều ở Việt Nam là “nạn kiều” và ngưng mọi dự án Trung Quốc đang viện trợ cho Việt Nam, rút hết chuyên viên về nước. Sự tranh chấp giữa hai nước trở nên mãnh liệt đến nỗi nghị quyết số 9 của trung ương đảng năm 1978 đã ghi rõ Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất (trong khi Hoa Kỳ được coi như kẻ thù cơ bản và lâu dài). Điều này đến 1982 còn được ghi vào hiến pháp. Sau cuộc chiến với Campuchia và Trung Quốc, năm 1981, nghị quyết 39 của bộ Chính Trị ghi là CSVN sẽ “đấu tranh chống chủ nghĩa Mao trên mọi hình thái.”. Điều này khác hẳn với lời mở đầu trong điều lệ đảng năm 1951 “đảng Lao Động Việt Nam lấy học thuyết Mác, Ăng ghen, Lê nin và tư tưởng Mao trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng”.(22) Đồng thời với những bất đồng nghiêm trọng với Trung Quốc, những mâu thuẫn giữa hai phong trào CSVN và Campuchia sau 1975 càng trầm trọng hơn. Thật ra sự mâu thuẫn này đã có từ lâu. Tuy đảng cộng sản Campuchia được thành lập và đỡ đầu bởi đảng CSVN, nhưng cũng chính vì điều này, cộng thêm bản chất tự tôn của những người cộng sản tự coi mình thuộc giai cấp tiên tiến, đang mang nghĩa vụ giải phóng toàn thể nhân loại, khiến cho những cán bộ Việt Nam mặc nhiên tự coi như giữ vai trò lãnh đạo, đàn anh đối với hai nước Lào và Campuchia. Do mối thù hận bị mất đất và bị cai trị khắc nghiệt trong lịch sử, cộng thêm mối nghi kỵ sẽ bị sát nhập với Việt Nam thành một “Liên bang Đông Dương”, các lãnh tụ cộng sản Campuchia, vốn đã cuồng tín, càng trở nên đa nghi hơn và kết quả là hai bên đã phải giải quyết những mâu thuẫn bằng vũ lực trong một trận chiến cộng sản tương tàn. (23) Ngay trong tháng tư 1975, sau khi cướp được chính quyền, quân Khmer Đỏ đã tấn công các đảo Thổ Châu, Hòn Trọc (Wai) và Phú Quốc của Việt Nam, mở đầu những đợt xung đột võ trang dọc theo biên giới hai nước. Những xung đột bùng nổ dữ dội vào hai năm sau. Đúng đêm 30-4-1977, quân Khmer Đỏ tấn công qui mô nhiều làng xã thuộc tỉnh An Giang, tàn sát nhiều người vô tội. Tháng 9-1977, đến lượt vùng biên giới Tây Ninh bị đánh. Chịu trách nhiệm phòng thủ Tây Ninh là Trần Văn Trà, tư lệnh quân khu VII. Trần Văn Trà đang dự định hành quân qui mô để trả đũa thì bị mất chức và kéo về trung ương, để Lê Đức Anh đang làm tư lệnh quân khu IX lên thay.(24) Trần Văn Trà mất chức giữa giai đoạn nghiêm trọng này với lý do sơ hở về phòng thủ, không bảo vệ được dân chúng, nhưng lý do chính là sau 1975, những cán bộ người miền Nam trong MTGPMN không còn được tin dùng và dần dần bị tước đoạt hết quyền lực. Điều này đã gây ra bất mãn và chính quyền trung ương không thể để cho một người cốt cán của Mặt Trận nắm binh quyền ở một quân khu quan trọng. Ngoài ra, Trần Văn Trà cũng làm mất lòng Văn Tiến Dũng và Lê Đức Thọ khi viết hồi ký nhận phần lớn công trạng là của mình trong chiến thắng 1975. Do thay đổi chỉ huy, phải chờ mấy tháng sau, cuối 1977, quân Việt Nam mới tràn qua biên giới phản công. Bị quân Việt Nam tràn ngập, hai sư đoàn 3 và 4 của Khmer Đỏ coi như bị tiêu diệt. Campuchia lên tiếng tố cáo Việt Nam xâm lăng và chính thức cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Để tránh dư luận quốc tế, quân Việt Nam phải rút về nước. Thất bại do không thể chận đứng được cuộc tấn công của quân Việt Nam, Pol Pot đổ lỗi cho quân khu Đông ở sát biên giới Việt Nam và mở một cuộc thanh trừng đẫm máu. Cuộc thanh trừng này một mặt làm suy yếu lực lượng quân đội Campuchia, mặt khác đẩy một số cán bộ lãnh đạo Khmer Đỏ như Heng Samrin, Hun Sen trốn sang Việt Nam, tạo cơ hội cho Việt Nam thành lập một Mặt Trận Giải Phóng bù nhìn để xâm lăng. Không thể để cho Khmer Đỏ tiếp tục gây rối, chính quyền CSVN cần giải quyết dứt khoát, nhưng lại sợ phản ứng của Trung Quốc nên phải đi tìm một hậu thuẫn vững mạnh. Cuối cùng, Việt Nam chính thức đứng vào quĩ đạo Nga Xô.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 4:38:20 GMT 9
Ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Điều 6 của hiệp ước này nói rõ nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Nga Xô hết lòng viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ mỹ kim. Bù lại, Việt Nam để cho Nga Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Đà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kềm chế Trung Quốc và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng Thái Bình Dương.(25) Hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam - Nga Xô đã gây ra một phản ứng mạnh mẽ tại các nước ASEAN và Hoa Kỳ, đem lại kết quả thuận lợi cho Trung Quốc. Trước đó hai tháng, Việt Nam đã cử Phạm Văn Đồng sang Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba để ve vãn những nước này. Tại Thái Lan, Phạm Văn Đồng hứa chấm dứt yểm trợ đảng cộng sản Thái. Tại Mã Lai, Phạm Văn Đồng đến đặt vòng hoa tại đài chiến sĩ tưởng niệm những binh sĩ đã bỏ mình trong cuộc chiến tranh chống Mã cộng. Riêng đối với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thiết lập bang giao nhưng khi cần đến thì quá trễ. Sự chậm trễ thiết lập bang giao với Hoa Kỳ bắt nguồn từ thái độ kiêu căng của các lãnh tụ CSVN sau chiến thắng. Năm 1976, khi tổng thống Carter được bầu lên, ông muốn lật trang sử đã qua nên đã cử một phái đoàn thiện chí sang Hà Nội thăm dò về việc thiết lập bang giao. Thiện chí này càng làm giới lãnh đạo Việt Nam thêm phần cao ngạo. Họ nhất định đòi có được ba tỷ mỹ kim tiền bồi thường chiến tranh như một điều kiện tiên quyết. Những cuộc hội đàm ở Hà Nội và Paris giữa thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền với Woodthingy và Holbrook lần lượt tan vỡ. Tháng 9-1978, khi Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là thứ trưởng, gặp Holbrook và bằng lòng bỏ đi điều kiện đòi số tiền ba tỷ thì lúc đó, Hoa Kỳ đã bắt đầu thương thuyết với Trung Quốc. Phải lựa chọn giữa hai nước đang đối nghịch nhau, Carter chọn bang giao với Trung Quốc trước và từ đó, do việc Việt Nam đứng vào khối Nga Xô rồi xâm lăng Campuchia, bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã chậm đi mất gần 20 năm. Sau khi ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác, tin tưởng vào hậu thuẫn và sức mạnh của Nga Xô, bất chấp mọi phản ứng từ Trung Quốc và thế giới, ngay sau đêm Giáng Sinh năm 1978, dưới quyền chỉ huy tổng quát của Lê Trọng Tấn (26), quân đội Việt Nam ồ ạt mở một cuộc tổng tấn công toàn diện vào lãnh thổ Campuchia. Chỉ trong vòng hơn một tuần, quân Việt Nam đã lấy được Nam Vang và khoảng bốn tháng sau, coi như làm chủ toàn lãnh thổ Campuchia. Lê Đức Anh được cử làm tư lệnh đội quân chiếm đóng. Nhưng cũng từ đó, Việt Nam bắt đầu phải gánh chịu một cuộc chiến tranh tiêu hao nặng nề cả về sinh mạng lẫn kinh tế, ngoại giao. Cuộc xâm lăng Campuchia kể trên là một xúc phạm nặng nề cho uy tín nước lớn và lòng tự tôn Đại Hán của Trung Quốc cho nên Đặng Tiểu Bình cần phải có biện pháp trả đũa. Một mặt, ông ta tiếp xúc với Thái Lan để tiếp tục giúp đỡ Khmer Đỏ chống lại Việt Nam. Mặt khác, ông ta không còn khó khăn với Hoa Kỳ về vấn đề Hoa Kỳ tiếp tục bán võ khí cho Đài Loan nữa mà bằng lòng thiết lập bang giao chính thức một cách gấp rút vào ngày 15-12-1978. Hai tháng sau, Đặng Tiểu Bình lên đường sang thăm Hoa Kỳ, chuẩn bị dư luận cho cuộc tấn công Việt Nam. Khi Đặng Tiểu Bình cho biết về cuộc tấn công, tổng thống Carter không tán thành cũng không phản đối. Ngày 17-2-1979, quân đội Trung Quốc bắt đầu tấn công vào những tỉnh biên giới Việt Hoa, dọc theo chiều dài hơn 1000 cây số của biên giới Việt-Hoa từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Dù sao Trung Quốc cũng e sợ phản ứng của Nga Xô nên cuộc chiến tranh này đã được Trung Quốc gián tiếp thông báo trước giới hạn về qui mô thời gian và không gian. Tuy trận đánh chỉ kéo dài có hơn một tháng, sự tổn hại nhân mạng mỗi bên (cả hai bên đều dấu kín, khi loan báo chính thức đều giảm thiểu tổn thất của mình và thổi phồng tổn thất của địch) cũng phải lên tới nhiều chục ngàn và hầu hết những thị xã của Việt Nam dọc biên giới đều bị tàn phá. Nhìn vào cuộc chiến, quân đội Việt Nam chứng tỏ khả năng phòng thủ bền bỉ và khả năng chiến đấu cao hơn, trong khi quân đội Trung Quốc bộc lộ nhiều nhược điểm và đã phải trả giá khá đắt cho “bài học” mà họ muốn dạy. Tuy nhiên, theo thời gian, Việt Nam đã phải gánh chịu một hậu quả tai hại hơn. Về chính trị, kinh tế, quân sự gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Nga Xô, về ngoại giao thì bị cô lập… Nhưng thời gian đó là thời gian mà đế quốc Nga Xô đang hồi cực thịnh. Trên bề mặt, đế quốc đó đang bành trướng không những ở Á Châu mà còn ở Phi Châu và Nam Mỹ. Việt Nam, theo như Lê Duẩn nói với Brezhnev khi ký thỏa ước hợp tác và hữu nghị, đã chấp nhận “nghĩa vụ quốc tế cao cả”, làm người lính tiên phong cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản, đúng hơn là cho đế quốc Nga Xô ở Á Châu. Việc xâm lăng Campuchia thực ra chỉ là một bài học mà cộng sản Việt Nam học từ Nga Xô để áp dụng chủ thuyết Brezhnev, theo đó, một nước cộng sản có quyền đem quân vào một nước cộng sản khác, như Nga Xô từng đem quân vào Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc hay Afghanistan. Ngoài ra, giống như ở Nga Xô, các lãnh tụ cộng đảng Việt Nam cũng muốn duy trì tình trạng “giữ nguyên trạng” (các cán bộ lãnh đạo cứ giữ nguyên địa vị cho đến lúc chết nếu không bị thanh trừng vì chống đối hay tranh giành quyền lực với những lãnh tụ đương thời). Nếu những ủy viên bộ Chính Trị của Nga Xô như Brezhnev (tổng bí thư), Gromyko (ngoại giao), Ustinov (quốc phòng), Suslov (lý thuyết gia), và Andropov (công an)… đều đã ở lì chức vụ lãnh đạo trên dưới hai mươi năm thì ở Việt Nam, lãnh đạo đảng cộng sản từ hơn ba mươi năm trước vẫn là những khuôn mặt Duẩn, Chinh, Đồng, Thọ, Giáp…. Ở ngoài mặt, đế quốc Nga Xô đang phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới nhưng điều này đã che dấu sự mục nát từ hạ tầng cơ sở của chế độ xã hội chủ nghĩa và của cơ chế kinh tế chỉ huy khiến cho những lãnh tụ CSVN vẫn tin tưởng rằng đường lối kinh tế đó là một đường lối siêu việt và họ vẫn nhất tâm theo đuổi. Vì đất nước bị chia đôi năm 1954 nên từ 1954 đến 1975, họ chỉ có thể thi hành chính sách kinh tế chỉ huy ở miền Bắc. Tất cả những hình thức kinh doanh tư nhân bị xóa bỏ. Những ngành sản xuất hay thương mại đều được điều hành bởi nhà nước. Chính sách kinh tế tập trung này đều lấy theo khuôn mẫu Nga Xô, theo đó, cơ quan quan trọng nhất để điều hành kinh tế quốc gia là ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước mà công việc bao trùm lên tất cả các bộ có liên quan đến kinh tế hay sản xuất. Ủy ban đặt một kế hoạch toàn bộ từ trên xuống dưới cho tất cả những ngành trực thuộc, tính toán tiền bạc, vật dụng được phân phối, sản lượng xuất cảng, nhập cảng… Dựa theo kế hoạch chung đó, ủy ban Vật Giá định giá cả hàng hóa, bộ Tài Chánh phân phối ngân sách, các bộ Nội Thương, Ngoại Thương, Lương Thực thu nhập hay phân phối sản phẩm từ trung ương tới địa phương. Các bộ Kỹ Nghệ hay Nông Nghiệp có trách nhiệm sản xuất đúng chỉ tiêu trong kế hoạch. Ngân sách chi thu của những bộ không liên quan đến kinh tế như Y Tế, Quốc Phòng hay Giáo Dục cũng phải dựa theo kế hoạch chung của ủy ban Kế Hoạch. Vì thế, chủ tịch ủy ban Kế Hoạch thường là một phó thủ tướng kiêm ủy viên bộ Chính Trị đứng đầu một ủy ban trên 10 người thuộc hàng bộ trưởng hay thứ trưởng. Thường thì kế hoạch hàng năm được soạn thảo xong vào tháng 9 để đưa cho thủ tướng và bộ Chính Trị duyệt xét cho năm sau. Vì những nước cộng sản giao thương mật thiết với nhau, kế hoạch của những nước này phải liên quan mật thiết với những nước trong khối cộng sản, chẳng hạn số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam phải ăn khớp với nhu cầu nhập khẩu của những nước khác. Nước đứng đầu khối cộng là Nga Xô phải nghiên cứu khả năng của những nước đàn em, hoạch định một kế hoạch chính cho cả khối rồi Nga Xô và những nước Đông Âu theo đó mà đặt kế hoạch của mình. So với các nước cộng sản khác, kế hoạch kinh tế của nhà nước CSVN trước năm 1975 tương đối giản dị, vì ngoài nông nghiệp và các mỏ than, mỏ sắt thì mức sản xuất rất giới hạn. Kinh tế và ngân sách của Việt Nam lúc đó phần lớn nhờ vào ngoại viện. Mỗi năm, họ làm một danh sách những vật dụng kể cả võ khí, bom đạn hay tiền bạc cần thiết và cử Lê Thanh Nghị, chủ tịch ủy ban Kế hoạch Nhà nước sang Nga Xô, Trung Quốc hay các nước Đông Âu để xin. Lê Thanh Nghị giữ chức vụ này nhiều năm, trở nên một chuyên viên xin viện trợ vì ông ta có thể nhẫn nhịn chịu đựng được khi bị các nước viện trợ bày tỏ những thái độ hay lời lẽ khinh thường, nhất là những nước Đông Âu. Những nước này dù nhiều năm gặp khó khăn cũng vẫn phải viện trợ cho Việt Nam do áp lực của Nga Xô. Còn Trung Quốc thì tệ hơn, Mao Trạch Đông từng có lúc gọi Lê Thanh Nghị là “tên ăn mày, lúc nào cũng ngửa bát đòi xin thêm”. (27) Từ 1954, việc xây dựng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Bắc Việt bắt đầu bằng một kế hoạch ngũ niên từ 1960 đến 1965, gọi là kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất để quốc hữu hóa tất cả các hãng, xưởng, công ty tư nhân và bắt tất cả nông dân vào hợp tác. Trước đó, những tư nhân tương đối có ít nhiều của cải hay ruộng vườn đã bị đấu tố tàn nhẫn. Dù vào cuối năm 1956, đảng đã hạ tầng công tác của Trường Chinh và Lê Văn Lương, cho Võ Nguyên Giáp công khai xin lỗi về những lỗi lầm, nhưng nhiều người hoặc đã chết, hoặc bị tù đày oan uổng. Sau kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất này, tất cả các ngành kinh tế tại miền Bắc đều được tập trung, chỉ huy và qui hoạch bởi chính phủ. Dù hệ thống kinh tế đó chẳng sản xuất được bao nhiêu, luôn phải nhờ vào ngoại viện và nhân dân luôn luôn nghèo đói, họ đổ thừa thất bại đó là do chiến tranh và do đế quốc phá hoại. Sau năm 1975, những biện pháp tập thể hóa các ngành kinh tế kể trên lại được áp dụng tại miền Nam(28) gọi là kế hoạch ngũ niên thứ hai (từ 1976 đến 1980), là một giai đoạn chuyển tiếp để “cải tạo” công nghiệp nông nghiệp miền Nam vào chiều hướng xã hội chủ nghĩa ngõ hầu kết hợp được với kinh tế miền Bắc. Do chính sách “Người Cày Có Ruộng” của chính phủ Cộng Hòa trước 1975, lúc đó tại miền Nam hầu như không còn giai cấp địa chủ, những cảnh đấu tố hai mươi năm trước đã không xảy ra, nhưng những thương gia thì qua các đợt đánh “tư sản mại bản” nếu không khéo chạy chọt, đút lót đều bị trắng tay. Kế hoạch ngũ niên lần thứ hai này được đề ra và chấp thuận trong đại hội đảng lần thứ tư. Vì mục tiêu của kinh tế xã hội chủ nghĩa đặt ưu tiên vào kỹ nghệ nặng. Lý luận của các kinh tế gia CSVN là kỹ nghệ nặng sẽ hỗ trợ để nông nghiệp tăng gia sản xuất. Một khi mức sản xuất nông nghiệp gia tăng sẽ hỗ trợ ngược lại để phát triển kỹ nghệ. Tuy nghị quyết ghi như thế, nhưng thật ra những lãnh tụ CSVN đã chủ định rằng trong thời gian đầu sẽ chỉ nhờ vào sức sản xuất của vựa lúa đồng bằng Cửu Long để hỗ trợ cho kỹ nghệ. Họ nghĩ rằng sau khi tập thể hóa, biến miền đồng bằng Cửu Long thành những nông trường hay những tập thể hợp tác, mức sản xuất của nông nghiệp sẽ tăng gia gấp bội. Trong tính toán chủ quan, họ đã đặt ra những chỉ tiêu rất cao, chẳng hạn kỹ nghệ sẽ phát triển 16 đến 18% mỗi năm, nông nghiệp phát triển từ 8 đến 10%, lợi tức bình quân người dân tăng lên từ 13 đến 14%. Người đầu tiên được giao trọng trách cải tạo kinh tế miền Nam để theo kịp khuôn mẫu kinh tế xã hội chủ nghĩa giống như ở miền Bắc là Nguyễn Văn Linh, sau đó chuyển qua Đỗ Mười, cùng với sự trợ giúp của quân đội (do Trần Văn Danh, tư lệnh phó quân khu VII) và công an (do Cao Đăng Chiếm chỉ huy). Hiển nhiên là tiến trình tập thể hóa đó đã đưa đến thất bại. Những chỉ tiêu phát triển kinh tế nêu trên đều không thực hiện được. Về nông nghiệp, trong khi những tập thể và hợp tác nông nghiệp tại miền Bắc vẫn chỉ sản xuất tạm vừa đủ ăn thì tại miền Nam, nông dân, phần lớn đều đã có ruộng đất nên không ai muốn vào tập thể. Mới đầu, chính quyền còn khuyến dụ để nông dân tự ý xung phong vào hợp tác, nhưng vì không có kết quả nên đã dùng các biện pháp cưỡng bách. Cán bộ được quyền truất hữu ruộng đất, tịch thu máy cày, máy bơm nước, trâu bò… Kết quả là nông dân giết trâu bò gia súc trước khi bị tịch thu, và khi phải vào hợp tác đã không chịu làm tích cực việc cho nên lương thực vào những năm 1978 và 1979 bị thiếu hụt. Theo thống kê chính thức của chính phủ, tổng sản lượng lúa gạo sản xuất năm 1976 là 11.83 triệu tấn, năm 1977 còn 10.60 triệu tấn, năm 1978 là 9.79 triệu tấn. Đại đa số nhân dân phải ăn độn cơm với khoai hay bo bo (được nhà nước gọi là cao lương). Nhiều nơi gần như bị nạn đói. Mức sản xuất giảm sút trầm trọng đến nỗi hội nghị trung ương đảng vào tháng 8-1979 đã phải tạm thời nới lỏng việc tập thể hóa, theo đó, miền Bắc sẽ cho phép ngoài hệ thống kinh tế nhà nước, còn có một phần nhỏ kinh tế cá thể. Riêng miền Nam, còn cho phép kinh tế tư doanh cỡ nhỏ, tạo điều kiện gia tăng sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Một số tỉnh miền Nam như An Giang, Long An đã làm lơ trong việc bắt nông dân vào hợp tác.( 29) Về công nghiệp, những năm đầu sau chiến tranh, mức sản xuất có tăng đôi chút, vì các hãng xưởng ở miền Bắc không còn bị sơ tán và ở miền Nam, việc kiểm soát của chính quyền chưa chặt chẽ lắm. Tuy nhiên, sau 1977, khi chính quyền đẩy mạnh “cải tạo công thương nghiệp”, mức sản xuất sa sút hẳn. Tổng sản lượng sản xuất công nghiệp năm 1980 so với 1976 thấp hơn 3%. Nhằm tiêu diệt giai cấp tư sản, chính quyền mở hai đợt đánh tư sản mại bản được gọi theo ám số là X1 và X2. Ba mươi năm sau, trùm công an Mai Chí Thọ hồi đó đã thú nhận: “Đợt X1 còn tạm được, nhưng đến đợt X2, xét lại gần 2000 đối tượng thì chỉ đúng có 3 đối tượng, còn ngoài ra, tiêu diệt hết nhà giàu đồng thời xóa đi hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có của Hòn Ngọc Viễn Đông. Những tài sản của các đối tượng X1, X2 đem về đổ dồn chất đống đầy các kho... sau một thời gian ngắn, những tài sản này từ từ biến mất... Từ một thành phố hưởng thụ, một trung tâm công nghiệp lớn nhất, vậy mà chỉ mấy năm sau khi chiến dịch X1, X2 đi qua, tòan bộ nền sản xuất công nghiệp của thành phố bị tê liệt đến cạn cùng”.( 30) Không những công nghiệp miền Nam bị chính quyền tiêu diệt, kỹ nghệ nặng miền Bắc cũng bị tổn hại sau khi quân Trung Quốc tấn công và tàn phá những tỉnh biên giới phía Bắc. Vì nạn thất nghiệp gia tăng, Việt Nam phải gửi hàng trăm ngàn nhân công đi lao động tại Nga Xô và các nước Đông Âu. Khi đặt chỉ tiêu phát triển kinh tế thật cao, CSVN cũng lạc quan trông đợi vào sự giúp đỡ của những cường quốc. Tuy nhiên, số tiền ngoại viện đã không được như ý muốn. Tiền bồi thường chiến tranh 3 tỷ mỹ kim của Mỹ không có, các nước Tây phương chỉ viện trợ nhỏ giọt, viện trợ của Trung Quốc nửa chừng bị cắt. Sau khi Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị với Nga Xô và gia nhập khối kinh tế COMECON của khối cộng sản do Nga Xô chủ xướng, Việt Nam chỉ nhận được viện trợ của Nga Xô và các nước Đông Âu, nhưng số viện trợ này không đủ bù đắp vào những khuyết điểm của một hệ thống kinh tế cứng nhắc, thiếu sáng kiến. Ngoài ra, sự viện trợ của những nước cộng sản anh em (khoảng trên dưới ba tỷ mỹ kim mỗi năm) không phải không có điều kiện. Việt Nam phải đứng hẳn vào phe Nga Xô để chống lại Trung Quốc và phải để cho Nga Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và Đà Nẵng. Ngay sau trận chiến biên giới Việt-Hoa, những chiến hạm trang bị dụng cụ điện tử để thu thập tin tức tình báo của Nga Xô bắt đầu cập bến Đà Nẵng. Sau đó, ngày 27-3-1979, một chiến hạm, một hộ tống hạm, một tàu vớt mìn Nga Xô tiến vào trú đóng tại cảng Cam Ranh. Số chiến hạm này tăng dần tới năm 1986 thì có tất cả 25 chiến hạm, kể cả tàu ngầm. Cùng với khoảng 16 oanh tạc cơ Badger, một phi đội Mig 23 và những phi cơ chuyên chở và quan sát tầm xa, Nga Xô đã có một đầu cầu quân sự quan trọng đe dọa Trung Quốc cũng như toàn vùng nam Thái Bình Dương. (31) Cũng sau cuộc chiến trên vùng biên giới, để đối phó với sự đe dọa liên tục của Trung Quốc và để có đủ quân số bình định Campuchia, ngày 5-3-1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên, tăng quân số từ nửa triệu lên hơn 1 triệu, biên chế thành 51 sư đoàn, trong đó có 38 sư đoàn bộ binh (19 sư đoàn đóng ở Campuchia, 16 sư đoàn ở Việt Nam, 3 sư đoàn ở Lào). Số quân đoàn chính qui (mỗi quân đoàn có 3 hay 4 sư đoàn dùng như những lực lượng tổng trừ bị) cũng tăng từ 4 lên 6 rồi 8 (32). Sự bành trướng quân đội này được thực hiện nhờ sự trợ giúp lớn lao của Nga Xô. Trước 1975, Nga Xô chỉ cung cấp khoảng 75% trang bị và tiếp liệu của quân đội CSVN, số còn lại là của Trung Quốc và những nước Đông Âu giúp đỡ. Sau 1975, tỷ số này tăng lên 97%. Mỗi năm, Nga Xô gửi khoảng 15 ngàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Trị giá viện trợ quân sự Nga Xô cho Việt Nam được ước khoảng 1 tỷ rưỡi mỹ kim mỗi năm. Đó là cái giá cần thiết trong mục tiêu chiến lược của Nga Xô để một mặt, dùng Việt Nam cầm chân và bao vây Trung Quốc và mặt khác, có được một đầu cầu chiến lược đối đầu với Hoa Kỳ tại vùng biển Thái Bình Dương, đe dọa Nam Dương và Úc Châu. Dù được Nga Xô và các nước Đông Âu viện trợ dồi dào như thế, do gánh nặng của cuộc chiến Campuchia và vì phải đề phòng “bài học thứ hai” từ Trung Quốc, ngân sách của Việt Nam bị thiếu hụt trầm trọng. Riêng chiến phí quân sự tại Campuchia đã chiếm hơn 40% ngân sách. Ngoài ra, trong thời gian đó, Trung Quốc vẫn cố gắng phát động một cuộc “chiến tranh phá hoại đa diện” khiến cho nền kinh tế Việt Nam càng thêm cùng quẫn. So với Việt Nam, Trung Quốc không thua về kiên nhẫn và thủ đoạn. Họ giúp đỡ Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến tranh phá hoại, thường xuyên gây rối ở biên giới, đe dọa về “bài học thứ hai”, ve vãn những chính khách thất sủng như Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng của Việt Nam, Khong Le của Ai Lao…thành lập những “Mặt Trận Giải Phóng “ chống lại Việt Nam. Họ áp lực và mua chuộc để những công ty ở Hồng Kông, Thái Lan, Mã Lai hay Tân Gia Ba không mua hàng hóa của Việt Nam… Những điều này đã khiến kinh tế Việt Nam càng thêm sa sút. Dù căn bản đưa tới sự sa sút kinh tế này là do việc tập thể hóa nông nghiệp và “cải tạo công thương nghiệp” miền Nam, nhưng nhóm cầm quyền vẫn một lòng trung thành với chủ nghĩa Mác, vẫn cho chính sách kinh tế tập trung là siêu việt, và b ện giải về những thất bại là do các lý do khách quan như bị những thế lực thù địch phá hoại, do “tàn dư Mỹ Ngụy” hay do cán bộ quản lý yếu kém. Vì thế, năm 1980, đảng cộng sản cầm quyền cải tổ chính phủ để thay đổi nhân sự điều hành: - Thủ tướng vẫn là Phạm Văn Đồng.(33) - Tố Hữu được cử làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Tố Hữu tên thật Nguyễn Kim Thành, bí danh Lành, sinh tại Huế năm 1920, xuất thân là một nhà thơ, nổi tiếng với bài thơ ca tụng Stalin trong đó có những câu “Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương ông (Staline) thương mười”. Tố Hữu suốt mấy chục năm trước thường công tác trong đảng với các nhiệm vụ văn hóa hay tuyên huấn, đã được chỉ định đặc trách kinh tế vì tỏ ra rất trung kiên về ý thức hệ, rất tôn phục Nga Xô, và trong giai đoạn này, bộ Chính Trị quyết tâm xã hội chủ nghĩa hóa kinh tế theo khuôn mẫu Nga Xô một cách cứng rắn. Tố Hữu còn được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nâng đỡ, nên hai năm sau, được đưa vào bộ Chính Trị, dự trù để thay Phạm Văn Đồng làm thủ tướng khi ông này về hưu. Dù ở chức vụ cao, nhiều quyền hành, thơ được chính quyền bắt học sinh học nhiều nhất, nhưng Tố Hữu và đảng Cộng sản sau này cũng biết tự chế để không bao giờ in lại hay phổ biến bài thơ thương mến Staline gấp mười cha mẹ của ông. - Phạm Hùng thay Trần Quốc Hoàn làm bộ trưởng Công An. Phạm Hùng, bí danh Bảy Cường, người Bến Tre. Sau hiệp định Genève, đóng vai đại tá phục vụ trong phái đoàn Bắc Việt tại Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, sau đó trốn vào bưng làm chủ tịch Trung Ương Cục miền Nam, là ủy viên bộ Chính Trị duy nhất phục vụ tại miền Nam. - Nguyễn Cơ Thạch thay Nguyễn Duy Trinh ở chức vụ bộ trưởng Ngoại Giao. Nguyễn Cơ Thạch là nhà ngoại giao giỏi tiếng Anh, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc tương đối cởi mở, được cử lên thay Nguyễn Duy Trinh trong thời gian Việt Nam bị cô lập sau khi đem quân chiếm đóng Campuchia - Văn Tiến Dũng thay Võ Nguyên Giáp làm bộ trưởng Quốc Phòng. Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn đố kỵ đã bị chèn ép và mất dần uy thế. Năm 1973, nhân thất bại của trận chiến 1972, Lê Duẩn gạt Võ Nguyên Giáp ra khỏi chức tổng tham mưu trưởng quân đội. Năm 1980, Võ Nguyên Giáp mất luôn chức ủy viên bộ Chính Trị và bộ trưởng bộ Quốc Phòng nên từ đó, chỉ còn được giao cho những chức vụ không quan trọng như chủ nhiệm ủy ban Khoa Học hay chủ nhiệm ủy ban Phòng Ngừa Sinh Sản. - Nguyễn Lâm thay Lê Thanh Nghị làm chủ nhiệm ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước. Khả năng chính của Lê Thanh Nghị là trong thời gian chiến tranh, mỗi năm cầm danh sách những vật dụng hay quân dụng cần thiết sang Trung Quốc xin viện trợ. Sau 1975, Trung Quốc đã trở nên thù nghịch nên Lê Thanh Nghị không còn cần thiết - Đinh Đức Thiện (em trai Lê Đức Thọ) (34) thay Phan Trọng Tuệ làm bộ trưởng bộ Giao Thông Vận Tải. Phan Trọng Tuệ từng là chính ủy quân khu IX ở miền Nam trước 1954. Con rể Phan Trọng Tuệ là Nguyễn Khánh Toàn, sau này là thứ trưởng công an. Vào những năm cuối thập niên 1940, phòng chính trị của quân khu IX dưới quyền Phan Trọng Tuệ đã ký thông tư đặc biệt cho phép các cán bộ xa nhà trên 300 km được lấy thêm vợ, hợp thức hóa tình trạng đa thê của Phan Trọng Tuệ, Lê Đức Thọ và Lê Duẩn. - Trần Hữu Dực thay Vũ Tuân giữ chức bộ trưởng bộ Công Nghiệp Nhẹ. Ngoài ra, các bộ khác cũng có thay đổi như: - Xây Dựng: Đồng Sĩ Nguyên thay Đỗ Mười từ 1977 để Đỗ Mười vào Nam, chỉ đạo phụ trách việc cải tạo công thương nghiệp. - Lương Thực: Hồ Viết Thắng (35) thay Ngô Minh Loan từ 1979. - Nội Thương: Trần Phương (từng là trợ lý của Lê Duẩn) thay Hoàng Quốc Việt từ 1981. - Thông Tin Văn Hóa: Nguyễn Văn Hiếu (Trần Độ là thứ trưởng (36) kiêm nhiệm bí thư đảng ủy) - Thương Binh Xã Hội: Dương Quốc Chính, từng là bộ trưởng nông nghiệp trước 1965 và là 1 trong 11 người được phong tướng đầu tiên, dưới tên Lê Hiến Mai.(37) - Huỳnh Tấn Phát của MTGPMN cũ được làm chủ nhiệm ủy ban Xây Dựng Cơ Bản Nhà Nước. Nội các này gần như không thay đổi cho đến đại hội đảng lần thứ V. Đại hội IV được cử hành trong khí thế đang lên sau chiến thắng 1975, cùng một lúc với sự bành trướng thế lực của Nga Xô trên toàn thế giới. Vì thế, những nhà lãnh đạo CSVN lúc đó hoàn toàn tin tưởng rằng chủ nghĩa Mác-xít — Lê-nin-nít bách chiến bách thắng, sức mạnh của “ba dòng thác cách mạng” dưới sự lãnh đạo của Nga Xô là một “sức mạnh long trời lở đất” đang trên đường nhuộm đỏ toàn cầu. Tin tưởng vào hậu thuẫn Nga Xô, họ đe dọa các nước lân bang, đặt điều kiện khi Hoa Kỳ ngỏ ý muốn bang giao, coi thường dư luận thế giới để chiếm đóng Campuchia và ngang nhiên thách đố, đương đầu với Trung Quốc. Tất cả những chính sách đó đã đưa kinh tế Việt Nam vào một tình trạng thảm hại, đời sống nhân dân khốn khó, nhưng chính quyền Việt Nam vẫn cuồng tín tin rằng khó khăn chỉ là tạm thời, thuận lợi là chủ yếu và với tinh thần cương quyết xây dựng xã hội chủ nghĩa, đảng CSVN chuẩn bị họp đại hội đảng lần thứ V.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 4:39:38 GMT 9
CHÚ THÍCH CHƯƠNG I
________________________
(1)— Thái độ tự cao của Phạm Văn Đồng khi dự hội nghị Tích Lan: trích trong bài Passing Of An Area của Seah Chiang Nee (2)— Bộ máy cai trị của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ: tài liệu của Trần Nhu, một nhà sử học ở Hà Nội hiện định cư tại Hoa Kỳ (trích website Vietnamexodus). Trưởng ban trong trung ương đảng ăn lương bậc 9, cấp bậc ngang bộ trưởng nhưng quyền thế nhiều khi lớn hơn bộ trưởng, chẳng hạn trưởng ban thông tin văn hóa đảng quyền thế hơn bộ trưởng thông tin văn hóa. Trong số những người phụ tá cho Lê Đức Thọ lúc đó, ông Nguyễn Trung Thành trong những năm 1960 đã cùng đại tá Kinh Chi thuộc cục bảo vệ quân đội, đại tá Dương Thông (sau là trung tướng) thuộc bộ công an theo lệnh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bắt bớ, giam hãm nhiều người trong vụ án xét lại. Dương Thông là em vợ của Lê Duẩn. Về chi tiết vụ án xét lại, xin đọc Mặt Thật (Thành Tín), Đêm Giữa Ban Ngày (Vũ Thư Hiên), Tử Tù Tự Xử Lý (Trần Thư) . (3)— Nguyễn Chí Thanh từng là xứ ủy Trung kỳ. Tới 1948 được cử làm chủ nhiệm tổng cục Chính trị quân đội, rất thân cận với Lê Duẩn và Tố Hữu. Vào Nam chỉ đạo chiến tranh từ 1964 đến 1967 thì chết sau khi về Bắc. Có lẽ trong hồ sơ lý lịch xét sau năm 1975, cho thấy Nguyễn Chí Thanh khi bị Pháp bắt thời trước 1945 đã cung khai ra đồng bọn nên sau này Nguyễn Chí Thanh không được vinh danh rầm rộ như những người khác. (Chỉ có 1 con đường ở Sài Gòn ngay sau 1975 lỡ đặt tên Nguyễn Chí Thanh được giữ lại). (4)— Sự ganh ghét giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp, theo tác phẩm Mặt Thật của Bùi Tín thì Lê Duẩn có lần chê Võ Nguyên Giáp “nhát như thỏ đế”. Không những đè đầu và hạ nhục Võ Nguyên Giáp, Duẩn và Thọ còn coi thường cả Hồ Chí Minh. Nhật ký của Nguyễn Văn Trấn, ủy viên trung ương đảng, kể lại lời Bùi Công Trừng nói là trong một hội nghị, Hồ Chí Minh muốn có ý kiến đều bị Lê Đức Thọ gạt đi “bác hãy để cho anh em người ta nói đã mà”. Ung Văn Khiêm, cựu bộ trưởng ngoại giao, vì ký thông cáo chung với Novotny của Tiệp Khắc thiên về lập trường Nga Xô nên bị phê bình đã phân trần là trước đó Hồ Chí Minh chẳng những đồng ý với ông ta mà còn viết thêm lời bàn trên bản thảo. Ung Văn Khiêm nói với Bùi Công Trừng “tao nghĩ bản thảo ấy đưa ra không phân bua được gì cho tao, mà chỉ làm thớt cho Sáu Thọ băm ông cụ”. Nhà văn Vũ Thư Hiên cũng kể lại là Lê Liêm, cựu chủ nhiệm tổng cục chính trị, có lần dự định đề ra một kế hoạch, hỏi ý Hồ Chí Minh và được đồng ý. Hồ Chí Minh còn nhắc cứ đưa ra hội nghị, ông ta sẽ hỗ trợ, nhưng khi Lê Liêm đưa ra, bị nhóm Duẩn-Thọ chỉ trích thì Hồ Chí Minh làm lơ, ngó qua chỗ khác. Với danh vị của Hồ Chí Minh, chắc ban tổ chức của Lê Đức Thọ đã nắm được điều gì trong lý lịch (có thể là vụ cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt, những lăng nhăng tình ái...) khiến Hồ Chí Minh phải ngồi yên để nhóm Duẩn, Thọ thao túng. (5)— Tôn Đức Thắng nhờ tuổi tác và không tham vọng nên được làm chủ tịch Nhà Nước sau khi Hồ Chí Minh chết. Xuất thân công nhân, trong thế chiến I làm thủy thủ trên một tảu chiến Pháp, được đảng CSVN mô tả là người “giản dị, vĩ đại”. Sử gia Christoph Giebal khi viết về Tôn Đức Thắng công nhận ông là một người giản dị, không tham vọng, nhưng chưa chắc vĩ đại, vì mỗi ngày bộ máy tuyên truyền càng tạo thêm chi tiết về tiểu sử của ông. Mới đầu, đảng CSVN nói ông tham dự cuộc nổi loạn ở Hắc Hải (năm 1907, Tôn Đức Thắng ở trên một tàu chiến Pháp, tàu này đã từ chối không chịu nghe lệnh cấp trên để trợ giúp đàn áp phong trào công nhân nổi loạn ở Nga Xô). Những năm 1950, thì đảng nói thêm rằng ông là người đã cắm cờ cộng sản trên con tàu đó, bây giờ đảng lại đôn ông lên làm một người lãnh đạo nổi loạn trên tàu. Suốt mấy chục năm, nhiều phóng viên Nga Xô đã nhiều lần hỏi ông về các chi tiết trong vụ này nhưng ông đều trả lời là ông không nhớ. (6)— Mai Chí Thọ, sau 1975 là trùm công an ở miền Nam, chiếm hữu một biệt thự lớn ở Sài Gòn (tòa đại sứ Thụy Sĩ trước kia). Đến 2006, khi không còn quyền hành, mới viết thư góp ý trong dịp chuẩn bị đại hội đảng lần thứ X là những người trong Liên Minh Dân Chủ “khi cần chúng ta lấy ra dùng, khi không cần, chúng ta gạt ra”. Thật ra những người này, khi chính quyền tịch thu nhà của những người di tản hay bị đuổi đi kinh tế mới đều được cấp cho mỗi người một căn nhà khang trang hơn, kể cả đám Vũ Hạnh, Lữ Phương, Thái Bạch.... (7)— Hơn 10 năm sau, Lý Qúi Chung có viết một bài báo, kể lại chuyện học tập chính trị. Khi làm bài, Lý Qúi Chung gò lưng so sánh Mác với người này người kia để cuối cùng kết luận Mác là số 1, nhưng kết quả điểm lúc nào cũng hạng chót. Lý Qúi Chung hỏi mấy cô sinh viên làm bài ra sao, mấy cô cười phá lên và nói là tài liệu đưa ra sao, mấy cô chép y trang lại là được điểm hoàn toàn. Giọng văn của Lý Qúi Chung trong bài này là để phân trần thiện chí học tập của mình chứ không phải chê trách lối giảng dạy. Cựu đại tá Dương Hiếu Nghĩa kể lại là mấy ngày sau 30-4-1975, ông đến nhà Ngô Công Đức, đúng lúc công an đến bắt Ngô Công Đức vì tội “phải làm lớn với Mỹ Ngụy nên trong nhà mới có đài (điện thoại)”. Nhờ người nhà chạy chọt nên Đức được thả ra. (8)— Thích Huyền Quang, tên thật Lê Đình Nhân sinh năm 1919. Bị bắt năm 1977 vì phản đối chính sách đàn áp tôn giáo và chống việc sát nhập Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất vào giáo hội nhà nước. Năm 1982 bị đày ra chùa Hội Phước, Quảng Ngãi. Năm 1992, được hòa thượng Thích Đôn Hậu viết chúc thư công nhận là Tăng Thống Viện Hóa Đạo nhưng công an vào chùa tịch thu và giấu chúc thư. Mấy năm trước, Phan Văn Khải, và mới đây, Lê Hồng Anh có ghé thăm Hòa Thượng Huyền Quang mà theo nhận định chung là nhằm mục đích tuyên truyền và tìm cách ly gián với Hòa Thượng Quảng Độ. (9)— Thích Quảng Độ, tên thật Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1928 là tổng thư ký Viện Hóa Đạo, bị bắt lần đầu ngày 6-7-1977, Lúc đó, Mặt Trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên họp và tổng giám mục Nguyễn Kim Điền lên tiếng than phiền về chính sách đàn áp tôn giáo, linh mục Nguyễn Văn Lý phổ biến lời chỉ trích đó đã bị bắt tù 1 năm. Năm 1982, hòa thượng bị đày ra Thái Bình, quản chế tại ngôi chùa Long Khánh. Ông tự ý trở lại Sài Gòn năm 1992, tiếp tục đòi tự do tôn giáo và lại bị kết án tù 5 năm. Trong đêm đầu tiên ở chùa Long Khánh, hòa thượng đã làm mấy câu thơ: Dưới án quyển kinh sâu cuốn tổ Trên tòa tượng Phật nhện giăng tơ Câu đối mối xông mùn đắp kín Hoành phi mọt đục bụi che mờ Thày của ông là thượng tọa Thích Đức Hải bị cộng sản bắt và xử tử năm 1946 vì bị nghi là Quốc Dân Đảng. (10)— Nguyễn Văn Thuận là cháu của tổng thống Ngô Đình Diệm, trước 1975 phụ tá tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, sau đó bị đưa ra Bắc và ở tù 12 năm. Khi giám mục qua La Mã công tác, chính quyền không cho ông trở về. Tòa thánh giữ ông lại, sau đó được thăng Hồng Y trước khi ông mất. (11)— Vụ David Trương làm gián điệp chỉ ăn cắp được những tài liệu không quan trọng và vì không quan trọng nên có thể công khai đưa ra tòa làm bằng chứng. Sau khi bị kết tội, David Trương sang định cư ở Hòa Lan. Một người giúp vào việc phá vỡ ổ gián điệp này là bà Yung Krall (Đặng Mỹ Dung), tác giả tập hồi ký A Thousand tears falling. Đại sứ Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc là Đinh Bá Thi bị triệu hồi và sau đó chết một cách ám muội ở VN. (12)— Thích Trí Siêu, tên thật Lê Mạnh Thát, đi tu năm 15 tuổi. Đỗ tiến sĩ triết học tại đại học Wisconsin, trở về dạy đại học Vạn Hạnh, cùng Thích Tuệ Sĩ soạn cuốn Tự Điển Phật Giáo Việt Nam. Bị bắt giam ở Chí Hòa từ 1984 đến 1988 mới ra tòa và bị lên án tử hình. Nhờ quốc tế can thiệp, án giảm còn 20 năm tù, bị giam ở Z30A, mấy năm sau được thả ra nhưng bị quản thúc, theo dõi. Thích Tuệ Sĩ, tên thật Phạm Văn Thương, đi tu từ nhỏ, tốt nghiệp đại học Vạn Hạnh năm 1965. Rất giỏi tiếng Pháp, Anh, Hán, Đức, Phạn. Tác giả những cuốn: Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng, Đại Cương Về Thiền Quán… Cùng với Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị bắt năm 1984 và bị kết án tử hình năm 1988 với tội danh mưu toan lật đổ chính phủ. Do áp lực quốc tế, án được giảm xuống 20 năm tù và bị giam tại trại A, Phú Yên. Tuệ Sĩ là một tấm gương kiên cường. Tháng 8-1998, chính quyền bảo ông xin ân xá. Ông trả lời “Không ai có quyền xét xử tôi. Không ai có quyền ân xá tôi”. Hãy đọc những lời thơ xanh mướt của ông: Tang thương một giải tóc huyền Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu Gửi thân gió cuốn sa mủ Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng
Đến khi ở trong tù thì thơ của ông đầy cảm khái: Phụng thử ngục tù phạn Cúng dường Tối Thắng Tôn Thế gian trường huyết hận Bình bát lệ vô ngôn
(13)— Theo báo Công An, nhóm của ông Trần văn Bá bị nội tuyến nên sự di chuyển của nhóm đều bị công an biết rõ và chận bắt hết. Người duy nhất được tha trở về Pháp là ông Mai Văn Hạnh, nhờ là bạn học của thủ tướng Pháp lúc đó. (14)— Võ Đại Tôn, cựu đại tá VNCH, sau năm 1975 định cư bên Úc, khoảng 1980 cùng một số đồng chí vượt biên trở về Việt Nam và bị bắt. Ông giả bộ hợp tác và được chính quyền cộng sản đem ra trình diện báo chí. Nhưng trong cuộc họp báo, ông lớn tiếng tố cáo chế độ độc tài và đàn áp nhân dân. Thứ trưởng nội vụ Lê Thanh Công và trung tướng công an Dương Thông phải vội vàng kết thúc ngay cuộc họp báo. (15)— Hoàng Cơ Minh, cựu phó đề đốc, trước 1975 là tư lệnh vùng II duyên hải. Sau khi di tản, năm 1981 thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, đặt mật khu ở biên giới Thái Lan. Tháng 7 năm 1987, khi cùng chiến hữu trên đường xâm nhập vào Việt Nam thì bị chận đánh ở biên giới Việt Lào. Trong trận đánh, bộ đội CSVN huy động cả pháo binh và phi cơ. Ông Hoàng Cơ Minh bị tử trận cùng một số chiến hữu. (16)— Hiện tại, ở VN có khoảng 600 tờ báo, đều do chính quyền kiểm soát. Tổng biên tập phải là đảng viên. Hai tờ báo chính của chính quyền là Nhân Dân, chỉ đăng các nghị quyết, thông cáo hay tuyên bố của các lãnh tụ, và tờ Quân Đội Nhân Dân, đăng tin quốc tế quốc nội nhưng chỉ nhấn mạnh về quân sự. Tờ Học Tập, sau 1976 đổi tên là Tạp Chí Cộng Sản ra hàng tháng là tiếng nói của đảng. Một số báo ngoại ngữ Anh, Pháp, Hoa…như Vietnam Courrier về chính trị, văn hóa, Vietnam Foreign Trade về thương mại. Ngoài ra là báo của đoàn thể (Phụ Nữ, Công Đoàn), địa phương hoặc ngành nghề. Tờ báo tương đối mạnh dạn là tờ Tuổi Trẻ. Tờ báo có nhiều độc giả là tờ Công An nhờ khai thác và ly kỳ hóa những vụ án tống tiền, lường gạt, hiếp dâm… Tờ báo bán ế nhất là Nhân Dân dù các cơ quan đoàn thể đều bị buộc phải mua và trong thời kỳ khan hiếm giấy, người dân mua chỉ để gói hàng hay vệ sinh cá nhân (theo cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan trong Shadows and Wind của Robert Templer). (17)— Khi tác giả còn ở VN thì tờ Tin Sáng ca tụng mọi việc chính quyền làm, từ cải tạo công thương nghiệp đến xây nhà vệ sinh. Cả đến đề tài khoa học về khoai lang, khoai mì, rau muống… cũng được giáo sư Phạm Hoàng Hộ ca tụng là bổ dưỡng vô song. Các tác giả thi nhau bợ đỡ chính quyền, chẳng hạn ông Trần Kim Thạch, trước 1975, khi các hãng dầu bắt đầu tìm kiếm dầu ở ngoài khơi biển Đông, có viết một bài nói là về phương diện địa chất không thể có dầu ở biển Đông. Dĩ nhiên các hãng dầu không biết về bài “khảo cứu” này và đã tìm ra 2 giếng dầu Thanh Long và Bạch Hổ. Sau này, trên báo Tin Sáng, ông phân trần là ông biết rõ ngoài biển Đông có dầu nhưng phải viết vậy để “đế quốc Mỹ không khai thác”. (18)— Hoàng Văn Hoan vào tháng 7 năm 1979, đã mất chức ủy viên bộ Chính Trị nhưng còn chức phó chủ tịch quốc hội, viện cớ sang Đông Đức chữa bệnh, khi máy bay tạm ngừng ở Karachi, Hồi Quốc, bỏ trốn sang Trung Quốc, được Trung Quốc giúp thành lập một “Mặt Trận Giải Phóng” chống lại Lê Duẩn. Viết cuốn hồi ký Giọt Nước Trong Biển Cả. Sau đó chết vì ung thư phổi. (19) - Chu Văn Tấn, gốc Tầy, bộ trưởng quốc phòng một thời gian trước Võ Nguyên Giáp. Sau bị bắt và tự tử chết trong tù. (20) - Thái độ khúm núm của Lê Duẩn (nhận làm em nhỏ đối với Trung Quốc, khom lưng cúi đầu chào Brezhnev hai lần): Brother Enemy, Nayan Chanda. (21) - Chính sách trục xuất người Hoa và tổ chức vượt biên lấy vàng được gọi là “phương án 2”. Trong số thuyền nhân có Trương Như Tảng, cựu bộ trưởng tư pháp của MTGPMN và Nguyễn Công Hoan, một dân biểu nằm vùng trước 1975, sau 1975 cũng được chính quyền cộng sản cho ra làm đại biểu quốc hội một nhiệm kỳ. (22) - Tài liệu về hội nghị đảng CSVN năm 1951 được ghi nhận trong cuốn Việt Nam Máu Lửa của Nghiêm Kế Tổ in trong thập niên 1950. Nghiêm Kế Tổ là một đảng viên Quốc Dân Đảng rất có uy tín với Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Tuy ông đã giúp đỡ nhiều cán bộ cộng sản (kể cả Hồ Chí Minh) để được tha khỏi tù, nhưng vẫn bị gán tội “phản động” và bị Hoàng Văn Hoan gọi là “đặc vụ của Tưởng Giới Thạch”. Khác hẳn với người Cộng Sản, khi viết về các nhân vật đối nghịch, ông vẫn có một thái độ khách quan và vô tư. (23) - Về chi tiết trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (Hoa Việt) và Tây Nam (với Cămpuchia), xin đọc Chiến Tranh Đông Dương III của cùng tác giả, nhà xuất bản Văn Nghệ, California. (24) - Về phương diện quân sự, Việt Nam được chia làm tám quân khu: quân khu I vùng Cao Bằng, Thái Nguyên, quân khu II vùng Lai Châu, Lào Kay, quân khu III vùng châu thổ sông Hồng, quân khu IV vùng Nghệ Tĩnh, Huế, Quân khu V vùng cao nguyên và duyên hải Nha Trang, quân khu VII vùng Sài Gòn, quân khu IX vùng châu thổ Cửu Long. Ngoài ra còn có những đặc khu thủ đô, đặc khu thành phố HCM, đặc khu Quảng Ninh (25)— Việc Việt Nam để Nga Xô sử dụng căn cứ Cam Ranh đã gián tiếp giúp Trung Quốc kỹ thuật để canh tân hải quân. Do cảm thấy bị đe dọa vì sự hiện diện của Nga Xô ở Cam Ranh, Úc đã bằng lòng bán cho Trung Quốc hàng không mẫu hạm HMAS Melbourne đã phế thải. Trung Quốc, vì không có đủ kỹ thuật chế tạo hàng không mẫu hạm, hiện nay đang tháo rời các cơ phận của mẫu hạm này để nghiên cứu và bắt chước, trong khi sàn mẫu hạm thì được dùng để huấn luyện sẵn phi công cho hải quân. (26)— Theo Nayan Chanda, trong chiến tranh với Căm Pu Chia, Lê Trọng Tấn là tổng tham mưu phó quân đội, đóng bộ tư lệnh ở MACV cũ trong Tân Sơn Nhất, giám sát cuộc hành quân, nhưng theo ông Lê Tùng Minh (website Hưng Việt), tư lệnh là Lê Đức Thọ, Phạm Hùng chính ủy, Trần Xuân Bách phó chính ủy, Lê Đức Anh là tham mưu trưởng, Chu Huy Mân tư lệnh phó. Có lẽ Lê Đức Thọ giám sát cả về chính trị lẫn quân sự, còn Lê Trọng Tấn là tư lệnh về quân sự một thời gian ngắn. Khi Trung Quốc tấn công VN, cả Tấn lẫn Mân đều trở về Bắc, giao trách nhiệm cho Lê Đức Anh. Thời gian này, Đỗ Mười cũng phụ tá cho Lê Đức Thọ. (27)— Việc Cộng Sản Bắc Việt cho Lê Thanh Nghị mỗi năm muối mặt đi xin viện trợ và bị coi thường: Nayan Chanda trong Brother Enemy. (28)— Tuy Nguyễn Văn Linh được giao trách nhiệm cải tạo kinh tế miền Nam, nhưng Lê Đức Thọ còn gửi thêm em ruột là Đinh Đức Thiện vào giám sát. Theo giáo sư Nguyễn Như Cương, Đinh Đức Thiện đã lập một ban tư vấn kinh tế gồm những giáo sư đại học miền Nam như Vũ Quốc Thúc, Lê Văn Sĩ, Châu Tiến Khương, Dương Kích Nhưỡng… Nhưng cũng như hội Trí Thức Yêu Nước, ban này chỉ để tỏ ra nhà nước coi trọng trí thức, và những người tham dự, thật ra cũng chỉ để kiếm “ô dù” che thân. Nguyễn Văn Hảo không tham dự những nhóm này, vì kiếm được một ô dù khác. Sau đó vài tháng, Thiện được triệu hồi về Hà Nội làm bộ trưởng Giao Thông (29)—Hơn hai chục năm sau, chính cựu chủ tịch tỉnh An Giang là Nguyễn Minh Nhị mới thú nhận là dù biết nhiều huyện, xã báo cáo láo trong việc hợp tác hóa nhưng vẫn nhắm mắt làm như không biết mà còn gửi giấy khen là đã đạt được chỉ tiêu (trong lọat bài Đêm Trước Đổi Mới của báo Tiền Phong. (30)— Trích trong loạt bài Những Nhân Chứng Của Cuộc Xé Rào Lịch Sử, báo Tiền Phong từ 19-6-2006 đến 25-6-2006. (31)— Căn cứ Nga Xô ở Cam Ranh, theo Nayan Chanda. (32)— Vietnam People Army của Douglas Pike. (33)— Phạm Văn Đồng là thủ tướng lâu nhất thế giới tuy tự biết không làm được việc gì và nhiều lúc đã nói là thấy “xấu hổ”, nhưng vẫn ngồi lỳ ở chức vụ đến nỗi một cán bộ cộng sản lâu năm là Trần Văn Giàu đã mai mỉa “cái đít nó biết nhớ cái ghế”. (34)— Đinh Đức Thiện (tên thật Phan Đình Dinh) là em ruột Lê Đức Thọ, sau chết vì súng bị cướp cò khi đang đi săn nhưng cũng có tin là bị con trai bắn chết (người con trai này hồi nhỏ bị ông ta đánh đập tàn nhẫn nên bị hư mắt và tâm thần). Tin chính thức thì nói bộ trưởng giao thông này chết vì tai nạn “giao thông”. (35)— Hồ Viết Thắng là đại diện Tổng Bộ Việt Minh trong Nam trước 1954, bị hạ tầng công tác cùng với Trường Chinh trong Cải Cách Ruộng Đất. Dù thuộc phe Trường Chinh, sau này được phục hồi làm bộ trưởng lương thực vì có con gái là Hồ Thị Nghĩa, một bác sĩ, đã tằng tịu và có con với Lê Duẩn. (36)— Trần Độ, tên thật Tạ Ngọc Phách, trước 1954 làm chính ủy trung đoàn Sông Lô, rồi sư đoàn 312, sau 1954 là chính ủy quân khu hữu ngạn sông Hồng trước khi vào Nam. (37)— Bí danh Lê Hiến Mai của Dương Quốc Chính rất lý thú. Tác giả Vy Thanh, cựu đảng viên CS, trong cuốn Lớn Lên Với Đất Nước, kể là tại một buổi họp ở quân khu IX miền Nam, dưới sự chủ tọa của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, Dương Quốc Chính muốn có một bí danh họ Lê cho giống hai người nên đã nhờ một người ngồi bên cạnh đặt dùm. Người này nhìn thấy bộ răng của Dương Quốc Chính mới đặt cho cái bí danh Lê Hiến Mai. Nhiều năm sau, Dương Quốc Chính mới biết thâm ý của người kia nên đã từ bỏ bí danh này. Lê Hiến Mai là một trong 11 cán bộ quân sự được phong tướng đầu tiên.
by Lê Tùng Châu
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 4:57:08 GMT 9
CHƯƠNG II
SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ V (1982-1986)
Đại hội đảng lần thứ V của đảng CSVN được tổ chức từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 để đưa ra những biện pháp đối phó với tình trạng khó khăn đang gặp phải trên tất cả mọi phương diện: chính trị, ngoại giao, kinh tế… Thật ra đại hội này được triệu tập chỉ nhằm củng cố thêm quyền hành của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.
Lúc đó là những năm cuối của chiến tranh lạnh. Cục diện thế giới trên thực tế chỉ có hai phe, Cộng Sản và Tư Bản. Trung Quốc lúc đó vẫn mò mẫm trong chính sách mở cửa. Các lãnh tụ CSVN lúc đó còn chói ngợp với thành tựu bề ngoài của Nga Xô nên vẫn kiên định đứng hẳn về phía Nga Xô và nhất tâm học tập theo mô thức Nga Xô để tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Về nhân sự lãnh đạo, đại hội đảng CSVN lần thứ V năm 1982 bầu ra một Bộ Chính Trị mới gồm 13 ủy viên, chính thức xếp theo thứ tự:
1. Lê Duẩn, tổng bí thư.
2. Trường Chinh, kiêm chủ tịch quốc hội.
3. Phạm Văn Đồng, thủ tướng.
4. Phạm Hùng, phó thủ tướng.
5. Lê Đức Thọ, ban tổ chức đảng.
6. Văn Tiến Dũng, bộ trưởng quốc phòng.
7. Võ Chí Công, phó thủ tướng đặc trách nông nghiệp
8. Chu Huy Mân, chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đội.
9. Tố Hữu, phó thủ tướng đặc trách kinh tế (1)
10. Võ Văn Kiệt, chủ nhiệm Uỷ Ban KHNN.
11. Đỗ Mười, phó thủ tướng.
12. Lê Đức Anh, tư lệnh “quân tình nguyện” ở Campuchia.
13. Nguyễn Đức Tâm, phó ban tổ chức đảng.
Hai ủy viên dự khuyết là Nguyễn Cơ Thạch và Đồng Sĩ Nguyên.
Trong số 13 người của bộ Chính Trị, có 5 người mới, nhưng ba người là Tố Hữu, Lê Đức Anh và Nguyễn Đức Tâm từng là thân cận của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Ở kỳ đại hội này, có một nhân vật đặc biệt là Trần Xuân Bách, tuy không được vào bộ Chính Trị nhưng được cử vào ban bí thư, có lẽ nhờ Lê Đức Thọ biết khả năng khi cùng làm việc ở Campuchia. Võ Nguyên Giáp đã bị loại khỏi bộ máy chính quyền sau khi mất chức ủy viên bộ Chính Trị và phải nhường chức bộ trưởng Quốc Phòng cho Văn Tiến Dũng.
Trong những ủy viên mới, chỉ có Võ Văn Kiệt tương đối có đầu óc cấp tiến, còn tất cả đều rập khuôn theo quan niệm giáo điều của Lê Duẩn và xa xôi hơn là của Brezhnev bên Nga Xô. Năm ủy viên bộ Chính Trị bị loại gồm Võ Nguyên Giáp (2), Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh.
Trong số năm người không còn ở trong bộ Chính Trị, chỉ có Nguyễn Văn Linh là tự ý xin ra. Vì đã họat động nhiều năm trong Nam cho nên khi được đề cử vào bộ Chính Trị năm 1976, Nguyễn Văn Linh được giao trách nhiệm cải tạo kinh tế miền Nam. Vì không thi hành những biện pháp cải tạo khắt khe như những ủy viên bảo thủ thuộc phe cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ mong muốn nên chỉ một thời gian ngắn sau đó, Nguyễn Văn Linh bị Đỗ Mười thay thế, và bị chuyển qua làm những công tác không quan trọng như ban dân vận rồi công đoàn, sau cùng là ban kiểm tra trung ương. Đến cuối năm 1982, gần đến ngày đại hội đảng lần thứ V, chịu đựng không nổi sự chèn ép, Nguyễn Văn Linh xin được rút ra khỏi bộ Chính Trị, trở về thành phố HCM làm bí thư thành ủy, thay thế cho Võ Văn Kiệt về trung ương. Ba mươi năm sau, Võ Trần Chí, bí thư thành ủy năm 1986, có hỏi Nguyễn Văn Linh về việc này thì Nguyễn Văn Linh trả lời là “ Mấy anh ấy không muốn thấy mình ở đó”.
Khác với Nguyễn Văn Linh, một ủy viên khác là Võ Nguyên Giáp, dù không muốn từ chức nhưng lại bị ép phải rút lui. Trong một bài phát biểu tại hội nghị trung ương đảng gần mười năm sau (ngày 27-5-1991), ông ta đã tiết lộ là dù trong năm 1982, ông được đa số đại biểu đề cử để ở lại bộ Chính Trị, nhưng bị Lê Đức Thọ ép phải rút lui cùng bốn ủy viên già nua khác, lấy cớ là phải nhường chỗ cho lớp người trẻ. Võ Nguyên Giáp đã phải chờ đến khi Lê Đức Thọ chết mới dám công khai bày tỏ những oan ức nhục nhằn phải gánh chịu trong nhiều năm là vì Lê Đức Thọ, với cương vị trưởng ban tổ chức đảng nắm giữ hồ sơ của tất cả đảng viên, đã biết được nhiều yếu điểm trong lý lịch Võ Nguyên Giáp, chẳng hạn như hồi nhỏ, Võ Nguyên Giáp từng được Marty, chánh mật thám Pháp ở Hà Nội coi như con nuôi, việc Võ Nguyên Giáp viết một lá đơn xin Pháp cho đi du học với lời lẽ thành khẩn qụi lụy...
Ngoài việc quyết định thành phần nhân sự, đại hội đảng lần thứ V năm 1982 cũng thông qua một bản hiến pháp, được soạn thảo từ năm 1980, gần giống hệt như hiến pháp của Nga Xô.
Quyết tâm theo khuôn mẫu Nga Xô, năm 1985, cộng sản Việt Nam dựng tượng Lê Nin cao khoảng 5 thước tại Hà Nội, không biết rằng những tượng như vậy chỉ mấy năm sau đã bị lật đổ ở khắp nơi kể cả Đông Âu lẫn Nga Xô (3). Cách tổ chức chính quyền cũng theo Nga Xô lập ra Hội Đồng Nhà Nước, giống như Chủ Tịch Đoàn Tối Cao Xô Viết và chức Thủ Tướng được thay bằng chức Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng. Câu “học tập tư tưởng Mao Trạch Đông...” trong lời mở đầu của Hiến Pháp trước bị loại bỏ. Thay vào đó, lời mở đầu của Hiến Pháp và cuốn Điều Lệ Đảng được thêm vào câu “Trung Quốc là kẻ thù lâu đời và nguy hiểm nhất”. Bản tu chính Hiến Pháp còn ghi rõ “Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hòa bình để xây dựng tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia”.
Điều 67 của Hiến Pháp ghi là bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp…nhưng, những quyền này hoàn toàn bị chi phối bởi câu “không ai có thể lạm dụng những quyền này để vi phạm quyền lợi của nhân dân và nhà nước”. Suy diễn về “vi phạm quyền lợi của nhân dân và nhà nước” rất tùy nghi và độc đoán nên một cá nhân bị một tội rất nhẹ cũng có thể bị qui thành những tội chính trị và ở tù rất lâu. Ngoài ra, về đối ngoại, CSVN gọi quan hệ với Nga Xô là “hòn đá tảng” và việc chiếm đóng Campuchia là một điều “không thể đảo ngược”.
Vì tàn binh của Khmer Đỏ được Trung Quốc viện trợ vẫn có thể tiếp tục một cuộc chiến tranh du kích và phá hoại, Việt Nam đã phải đồn trú tại Campuchia một quân số khoảng gần 200 ngàn quân, lấy từ những quân khu miền Nam (4) nhằm ngăn chận sự xâm nhập, Lê Đức Anh cho lập một phòng tuyến gồm những bãi mìn, hầm chông dọc theo biên giới Thái gọi là khóa “K5” (5).
Trong khi đó, tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc tiếp tục gây ra cuộc chiến phá hoại đa diện (6) thường xuyên cho binh lính xâm nhập quấy rối biên giới, phá hoại đường xá, cầu cống, pháo kích các thị xã làng mạc, khiến Việt Nam phải duy trì khoảng 500 ngàn quân, thành lập một “thành lũy thép” dọc theo biên giới.(7)
Khi công nhiên dựa vào Nga Xô và trực tiếp thách đố Trung Quốc, Việt Nam đã không để ý đến những nhu cầu và dấu hiệu mà hai nước cộng sản đàn anh này cần phải hòa hoãn với nhau. Cả hai nước cộng sản đối nghịch nhau này đều muốn kết thân với Hoa Kỳ nhưng Trung Quốc sau một thời gian ngắn thân thiết với Hoa Kỳ, đã rất bất bình vì Hoa Kỳ vẫn muốn tiếp tục bán võ khí cho Đài Loan. Còn Nga Xô, một mặt không muốn vì Việt Nam mà lơ là với một khối kinh tế năng động đang phát triển mạnh mẽ là những nước ASEAN, mặt khác, Nga Xô đang gặp khó khăn khi phải chạy đua võ trang với Hoa Kỳ trong thời kỳ của tổng thống Reagan, cũng muốn trở lại kết thân với Trung Quốc. Vì thế, khi phó thủ tướng Lý Tiên Niệm của Trung Quốc tuyên bố vào cuối năm 1981 là Trung Quốc sẵn sàng trở lại đàm phán để có quan hệ bình thường với Nga Xô thì ngày 24-3-1982, Brezhnev cũng kêu gọi phải cải thiện ngoại giao giữa hai nước. Ông nhắc lại là Nga Xô chưa bao giờ chấp nhận có “hai nước Trung Quốc” (lục địa và Đài Loan) và cũng chưa bao giờ nói là “không có xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc”. Những giao dịch kinh tế, thương mại, văn hóa giữa hai nước đã bắt đầu ngày một cải thiện, dù Nga Xô chưa đáp ứng việc giải quyết ba trở ngại cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước do Trung Quốc nêu ra.
“Ba trở ngại” này gồm có:
1. Nga Xô phải rút quân ra khỏi Afghanistan
2. Chấm dứt khiêu khích ở biên giới Trung - Xô
3. Giải quyết dứt khoát vấn đề Campuchia.
Khi Brezhnev chết, Trung Quốc cũng cử ngoại trưởng Hoàng Hoa sang dự đám tang. Hai năm sau, sau nhiều năm không có những tiếp xúc chính thức, tháng 12 năm 1984, phó thủ tướng Nga Xô Ivan Arkhipov lần đầu sang thăm Bắc Kinh và mấy tháng sau, phó thủ tướng Trung Quốc Diêu Nghĩa Lâm (Yao Yilin) sang Mạc Tư Khoa đáp lễ. (8)
Để thiết lập một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chính quyền CSVN dự tính thực hiện qua ba giai đoạn:
1. Giai đoạn thứ nhất, 1976-1980, hay kế hoạch ngũ niên lần thứ hai, để hòa hợp kinh tế miền Nam vào giống như hệ thống kinh tế miền Bắc.
2. Giai đoạn thứ hai, 1981-2005 gọi là “kỹ nghệ hóa xã hội chủ nghĩa” dự trù gồm có 2 đợt, đợt đầu từ 1981 đến 1990 và đợt hai từ 1991 đến 2005 để thực hiện nền móng vật chất cho xã hội chủ nghĩa.
3. Giai đoạn thứ ba, 2006-2010, dự trù là giai đoạn “hoàn chỉnh thời kỳ chuyển tiếp”.
Tuy nhiên, vì kế hoạch ngũ niên thứ hai từ 1976-1980 để cải tạo công thương nghiệp miền Nam đã làm cho kinh tế cả nước sa sút trầm trọng, đảng cộng sản đã phải sửa đổi lại kế hoạch ban đầu. Đại hội đảng lần thứ V đặt ra kế hoạch ngũ niên lần thứ ba (1981-1985) nhấn mạnh nông nghiệp là ưu tiên hàng đầu, sau đó là sản xuất hàng tiêu dùng, và công nghiệp chủ yếu là để hỗ trợ cho hai mục tiêu kể trên.
Để khuyến khích sản xuất, từ 1981, nông dân được phép canh tác trên ruộng đất của tập thể, nhưng phải ký hợp đồng trả lại cho nhà nước một số lúa gạo qui định nào đó. Số lúa gạo thặng dư, nông dân có thể bán ra thị trường tự do hay bán lại cho nhà nước. Biện pháp “làm khóan” này từng được bí thư tỉnh Vĩnh Phú là Kim Ngọc áp dụng gần hai mươi năm trước, nhưng Kim Ngọc đã bị trung ương đảng khiển trách và trừng phạt vì biện pháp này bị coi như sai lầm về chính trị.
Các công ty công tư hợp doanh nhỏ cũng được cho phép hoạt động tại miền Nam để sản xuất hàng tiêu dùng và xuất cảng, nhưng những hãng xưởng qui mô lớn, những ngành kỹ nghệ quan trọng như sắt thép, dầu hỏa, xi măng, hóa chất v..v.. đều bị nhà nước quốc hữu hóa hay cưỡng ép trở nên những “công ty hợp doanh”.
Thêm vào đó, Việt Nam còn phải đối đầu với nhiều vấn đề: cô lập về ngoại giao, lệnh cấm vận của chính phủ Hoa Kỳ và nhất là cuộc chiến “trường kỳ và đa diện” của Trung Quốc cho nên tình hình kinh tế ngày càng suy sụp.
Trước tình trạng khó khăn đó, tại miền Nam, nhất là tại thành phố HCM, Võ Văn Kiệt rồi Nguyễn Văn Linh đã nhắm mắt để cho một số doanh thương “xé rào”, bất chấp cái cơ chế qui hoạch và tập trung mà chính quyền trung ương Hà Nội đề ra. Một số doanh thương được thành ủy TP/HCM cho phép cùng chính quyền địa phương lập ra những công ty hợp doanh để làm ăn theo lối kinh tế thị trường. Công ty đầu tiên do Phan Chánh Dưỡng, một nhà kinh doanh gốc Hoa được Võ Văn Kiệt cho phép thành lập là công ty Cholimex, mua nông phẩm của dân theo giá thị trường (chẳng hạn mua sắn của dân Pleiku với giá 4$50, thay vì 2$ như nhà nước qui định) đem sang Hồng Kông bán rồi mua bột ngọt, tơ sợi, máy móc về bán theo giá thị trường. Với cách làm ăn này, công ty Cholimex cũng như công ty dệt của Bùi Văn Long làm ăn rất phát đạt, giúp nông dân và công nhân tăng gia sản xuất, đồng thời cũng kiếm lời cho nhà nước hàng triệu mỹ kim.
Những công ty này hoạt động chưa được một năm thì bị nhóm lãnh đạo ở trung ương chỉ trích vì đường lối kinh doanh đã đi trật đường hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 14-9-82, bộ Chính Trị ra nghị quyết 01/NQ-TW phê bình đảng bộ TP/HCM “có phần buông lơi chuyên chính vô sản trên mặt trận phân phối lưu thông...”.
Bùi Văn Long về sau kể lại “ Tôi đã nhẩm tính cặn kẽ, không dưới 26 đoàn thanh tra, kiểm tra quần tới bến những đơn vị trong thành phố do tôi quản lý. Họ hoạnh họe, hạch sách chúng tôi đủ điều... Tất tần tật, chỉ thiếu mỗi một điều là chưa dùng tới còng số 8 để “nói chuyện” với cấp dưới của tôi...” Một giám đốc viết thư lên thành ủy: “Thú thật, chúng tôi không dám tìm tòi làm theo cách mới nữa. Trên bảo sao, làm vậy cho yên. Nếu làm khác, may thì bị thanh tra phê bình lập trường quan điểm. Nặng, có thể vào tù vì tội cố ý làm trái...”. Ngay cả Mai Chí Thọ, khi đó là chủ tịch ủy ban Nhân dân thành phố, vì ủng hộ cởi mở kinh tế đang bị bệnh cũng bị bộ Chính Trị bắt đi họp để hỏi tội.
Khoảng thời gian đó, trong khi tại những nước lân bang vùng Đông Nam Á, nền kinh tế tự do và năng động đã tạo nên những thành quả nhảy vọt thì chính sách kinh tế nhà nước chỉ huy của Việt Nam suốt hai kế hoạch ngũ niên vẫn tiếp tục đưa đến những kết quả thảm hại.
Năm 1985, phó thủ tướng đặc trách kinh tế Tố Hữu cho đổi tiền. Nhân dân biết là đồng tiền mất giá nên giá cả hàng hóa tăng vọt. Lạm phát năm 1986 lên tới 700%. Hậu quả tai hại của nhà thơ làm kinh tế này được ghi nhận trong bản báo cáo chính trị của đại hội VI: “Sai lầm về cuộc tổng điều chỉnh giá – lương tiền cuối năm 1985 đã làm cho nền kinh tế xã hội Việt Nam lún sâu vào khủng hoảng, phân phối càng thêm rối ren căng thẳng, vật giá tăng nhanh, ngân sách thâm hụt lớn, lạm phát phi mã, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp…”.
Vì thế, tháng 6-1986, Việt Nam phải cải tổ chính phủ. Tố Hữu cùng các bộ trưởng liên quan đều bị mất chức, trong đó có bộ trưởng tài chánh Chu Tam Thức (Vũ Tuân thay thế), bộ trưởng nội thương Lê Đức Thịnh (Hoàng Minh Thắng thay thế), bộ trưởng ngoại thương Lê Khắc (Đoàn Duy Thành thay thế), tổng giám đốc ngân hàng Nguyễn Duy Giá (Lữ Minh Châu thay thế), bộ trưởng mỏ than Nguyễn Chân đều bị mất chức.(9)
Những thụt lùi về kinh tế của Việt Nam so với các nước lân bang như Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai…có lẽ sẽ còn kéo dài và CSVN sẽ vẫn tiếp tục chính sách kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa nếu không có những thay đổi chính trị ở Nga Xô, một nước mà những lãnh tụ CSVN luôn sùng bái và học tập theo khuôn mẫu.
Những năm đó, nền kinh tế thiếu sinh động của Nga Xô đã đến giai đoạn quá trì trệ và cái chết của Brezhnev năm 1982 đánh dấu một sự suy sụp toàn diện. Hai lãnh tụ kế tiếp là Andropov và Chernenko vì bệnh tật và tuổi tác chỉ cầm quyền một thời gian ngắn nên đã không đưa ra một biện pháp cải thiện nào cho đến khi Gorbachev lên cầm quyền vào tháng 3 năm 1985.
Trước những khó khăn về kinh tế và xã hội của Nga Xô, Gorbachev phải đưa ra những biện pháp cách mạng. Về đối nội, Gorbachev phát động chính sách “cởi mở” (glasnov) để bài trừ tham nhũng và “tái cấu trúc” (perestroika) để cải tổ lại kinh tế. Về đối ngoại, ông chủ trương hòa hoãn với Hoa Kỳ và Trung Quốc để dồn hết mọi nỗ lực vào việc phục hưng kinh tế. Những thay đổi này đã được thông báo cho Việt Nam nên đảng CSVN cũng phải từ từ chuyển hướng.
Nguyễn Văn Linh, bị loại khỏi bộ Chính Trị năm 1982 đến năm 1986 lại được gọi trở lại bộ Chính Trị và dựa theo tình trạng perestroika ở Nga Xô, dần dần thăng lên thứ bậc thứ hai trong đảng.
Tháng 7-1986, bộ Chính Trị đưa ra nghị quyết 32, không còn nhắc đến tình trạng “không thể đảo ngược” nữa mà bắt đầu ám chỉ đến một giải pháp chính trị cho Campuchia.
Tháng sau, ngày 13-8-1986 nhật báo Nhân Dân đăng bài ca ngợi sự hợp tác toàn diện Việt-Xô nhưng cũng nhấn mạnh Việt Nam và Nga Xô sẵn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.
Cuối tháng 8-1986, trong bản thông cáo chung của các bộ trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương, Hà Nội tuyên bố sẽ rút hết quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia, và muốn khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc và Thái Lan.
Ngày 30-9-1986, trong dịp quốc khánh Trung Quốc, sau nhiều năm đả kích lẫn nhau, Trường Chinh đã gửi điện văn chúc mừng cho Lý Tiên Niệm.
Tuy nhiên, suốt thời gian sau trận chiến 1979, Trung Quốc vẫn tiếp tục nhiều hành động khiêu khích và lấn chiếm biên giới.
Ngày 28-4-1984, nói là quân Việt Nam khiêu khích ở biên giới, trung đoàn 14/SĐ-40/QĐ-14 của Trung Quốc đánh chiếm Núi Đất (Trung Quốc gọi là Lão Sơn) hay cứ điểm 1509 thuộc xã Thanh Thủy, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Theo nguồn tin Trung Quốc, năm 1981, họ cũng đã lấn chiếm núi Faka của Việt Nam.(10)
Trong thời gian mà Nga Xô đề ra chính sách cởi mở và tái cấu trúc, sự thay đổi về đường lối đối ngoại nhất là đối với Trung Quốc cũng trùng hợp với cái chết của tổng bí thư Lê Duẩn của Việt Nam.(11)
Lê Duẩn sinh năm 1908 tại quận Triệu Phong, Quảng Trị, xuất thân là một thư ký nhà ga, từng là bí thư thứ nhất và tổng bí thư hơn hai mươi năm. (12)
Được sự giúp đỡ của Lê Đức Thọ, Lê Duẩn gần như nắm toàn quyền lãnh đạo và quyết định đường lối hướng dẫn đảng CSVN trong nhiều năm. Đường lối này không dựa trên một chiều hướng ý thức hệ nào mà mang nặng tính thực dụng nhằm giữ vững quyền lực. Khi Khrushchev cầm quyền, chủ trương hòa hoãn với Tây phương và tố cáo tội ác của Stalin, Lê Duẩn nghiêng về phía Trung Quốc và thanh trừng những người bị nghi ngờ thân Nga Xô như Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Vịnh…Võ Nguyên Giáp cũng bị gán cho tội “xét lại” trong thời gian này.
Đến thập niên 1970, khi Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, Lê Duẩn lại dựa hẳn vào Nga Xô và khai trừ Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn, Lý Ban…
Sau khi Lê Duẩn chết, dù thế lực của Lê Đức Thọ trong đảng rất mạnh, nhưng do nhu cầu cấp bách cần thân cận với Trung Quốc nên nhân vật số hai của bộ Chính Trị là Trường Chinh được cử lên tạm thay. Đồng thời, Nguyễn Văn Linh từng bị loại khỏi bộ Chính Trị năm 1982, sau khi được đưa vào ban bí thư, lại trở lại bộ Chính Trị và dần dần được nâng lên hàng thứ hai.
Trường Chinh, tên thật Đặng Xuân Khu, bí danh là Nhân hoặc là Thận, từng bị mất chức tổng bí thư năm 1956 sau Cải Cách Ruộng Đất, đã nhẫn nhịn suốt ba mươi năm dưới thế lực của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, được tạm thời đưa lên giữ chức tổng bí thư. Với bí danh Trường Chinh hàm ý tôn phục MaoTrạch Đông và từng dịch các tác phẩm Trì Cửu Chiến, Tân Dân Chủ Luận của Mao, Trường Chinh có nhiều điều kiện thuận lợi để CSVN dễ dàng cầu hòa trở lại với Trung Quốc.
Thật ra, chiều hướng Việt Nam hòa giải với Trung Quốc trong giai đoạn này vẫn chỉ là một bước trong chính sách đối ngoại của Nga Xô và nhằm phục vụ cho quyền lợi của Nga Xô nhiều hơn. Trong đám tang Lê Duẩn, Trường Chinh được gặp Tikhonov, ủy viên bộ Chính Trị Nga Xô và được khuyến cáo về sự cần thiết phải thay đổi chính sách, đối nội cũng như đối ngoại.
Theo thông lệ và nghi thức của một nước cộng sản nhỏ đối với một nước cộng sản đàn anh, Trường Chinh mới nhận chức ngày 14-7-1986 thì ngày 26-7-1986 đã bay qua Nga Xô để thỉnh thị ý kiến của Gorbachev. Nhưng Gorbachev không tiếp Trường Chinh ngay mà lại bay sang Vladivostok để thông báo cho thế giới, quan trọng nhất là nhắm vào Trung Quốc, về chính sách ngoại giao mới của Nga Xô trong vùng Thái Bình Dương, rồi chờ đến ngày 12-8-1986 tức cả nửa tháng sau mới tiếp Trường Chinh. Từ Nga Xô trở về, Trường Chinh họp bộ Chính Trị và những thay đổi đường lối của đảng CSVN bắt đầu từ đó. Lý thuyết gia từng được coi là bảo thủ và giáo điều nhất — theo Trần Quỳnh, thật ra là người ba phải và đón gió nhất — của đảng CSVN đã quay sang “đổi mới” và đưa ra khẩu hiệu “đổi mới hay là chết”.
Trường Chinh triệu tập những cán bộ cao cấp và ra chỉ thị sửa đổi lại các văn kiện sẽ được trình bày ở đại hội VI sắp tới. Cuộc họp diễn ra ở Đồ Sơn được Hà Đăng, tổng biên tập báo Nhân Dân, gọi là “hội nghị ba quan điểm” (13) gồm có:
- Về kinh tế, hội nghị công nhận lỗi lầm đã coi trọng công nghiệp nặng, khiến vốn liếng nhà nước đổ hầu hết vào một số công ty quốc doanh lớn như công ty cơ khí Hà Nội, công ty than Cẩm Phả, công ty xi măng,.. nhưng những công ty này luôn luôn kinh doanh lỗ lã. Hội nghị đề nghị thay đổi bằng cách thay vì ra sức phát triển kỹ nghệ thì nên tập trung phát triển lương thực và hàng tiêu dùng.
- Về việc cải tạo xã hội chủ nghĩa (do Đỗ Mười phụ trách), hội nghị thấy đã bị thi hành một cách quá triệt để và toàn diện, xóa bỏ hết tư hữu khiến mọi ham muốn làm ăn, buôn bán bị triệt tiêu.
- Về cơ chế quản lý tập trung, quá quan liêu, bao cấp, mọi kế hoạch đều dựa vào ý muốn chủ quan, duy ý chí chứ không dựa vào thị trường.
Từ hội nghị này, nền móng của đổi mới kinh tế được thiết lập, nhưng từ ngữ “kinh tế thị trường” vẫn chưa được dùng. Văn kiện chỉ nói đường lối đó là “hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa”.
Trong thời gian này, đảng cộng sản đang chuẩn bị tổ chức đại hội lần thứ VI, dự định vào cuối tháng 12-1986, nhiều vận động về nhân sự đã xảy ra.
Lê Đức Thọ, người có nhiều thế lực và vây cánh nhất trong đảng cộng sản và bộ Chính Trị không chịu ngồi yên. Khi Lê Duẩn bị bệnh nặng, ông ta đòi Lê Duẩn viết chúc thư truyền chức tổng bí thư cho mình nhưng Lê Duẩn không chịu.(14)
Sau khi Lê Duẩn chết, thời gian mà Trường Chinh tạm thời lên thay để chờ đại hội đảng lần thứ VI bầu tổng bí thư mới, Lê Đức Thọ đã đi khắp nơi để vận động.
Trong bộ Chính Trị, Lê Đức Thọ trông cậy nhiều vào Nguyễn Đức Tâm, Tố Hữu, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Anh, Chu Huy Mân, Đỗ Mười và Phạm Hùng. Tuy nhiên, trong số những người Lê Đức Thọ trông cậy thì Tố Hữu đã bị loại vì phạm lỗi lầm khi làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế, Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân không được quân đội bầu làm đại biểu tham dự đại hội đảng vì tham nhũng, Phạm Hùng ủng hộ Nguyễn Văn Linh vì được hứa sẽ làm thủ tướng, Đỗ Mười và Lê Đức Anh cũng theo thời thế mà chuyển sang phe đổi mới để được tiến thân.
Trước viễn tượng bị thua phiếu Trường Chinh khi tranh chức tổng bí thư và còn được Lê Đức Anh cho biết là trong quân đội, đang có dư luận vận động để Võ Nguyên Giáp được cử làm thủ tướng, Trường Chinh tổng bí thư, Phạm Văn Đồng chủ tịch nhà nước, nên Lê Đức Thọ cảm thấy bất an.
Tuy Trường Chinh nhờ là người miền Bắc và luôn luôn thuận theo ý kiến Lê Duẩn nên đã được giữ lại ở bộ Chính Trị, nhưng dù ở vị trí số hai, suốt ba mươi năm Trường Chinh đã bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ gạt ra ngoài như một kẻ đứng bên lề, không có một chút thực quyền. Trong khi đó, Võ Nguyên Giáp còn bị đối xử tàn tệ hơn, năm 1982 đã bị Lê Đức Thọ hoàn toàn loại trừ nên chắc chắn sẽ không để Lê Đức Thọ yên nếu được phục hồi quyền chức.
Thấy không thể tranh với Trường Chinh và không thể để Võ Nguyên Giáp nhờ Trường Chinh mà có cơ hội trở lại, Lê Đức Thọ một mặt tìm cách bảo vệ và nâng đỡ những người thân cận như Nguyễn Đức Tâm, Lê Đức Anh, sắp xếp để cho em ruột của mình là Mai Chí Thọ, đang là bí thư thành ủy thành phố HCM, và cháu rể là Nguyễn Thanh Bình, vào bộ Chính Trị.
Mặt khác, Lê Đức Thọ viết thư cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, đề nghị cả ba Chinh, Đồng, Thọ vì tuổi già nên từ chức nhường chỗ cho thế hệ sau. Lá thư này do Nguyễn Khánh, chánh văn phòng ban bí thư, đích thân đưa cho hai người. Lê Đức Thọ cũng dọa sẽ làm rối loạn đại hội đảng nếu hai người này không chịu.
Trước hoàn cảnh đó, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng sợ mang tiếng tham quyền cố vị nên đành chịu rút lui và Võ Nguyên Giáp cũng mất luôn cơ hội được trở lại quyền vị. Nguyễn Văn Linh, người có thành tích cởi mở nhất, gần gũi với đường lối mới của Nga Xô nhất, được Lê Đức Thọ ủng hộ lên chức tổng bí thư.
Theo một tài liệu, chính Lê Đức Thọ đã gọi Nguyễn Văn Linh đến và bảo: “Kỳ đại hội này sẽ sắp xếp để cho đồng chí làm tổng bí thư”. Vì đã nắm quyền ở ban tổ chức trên 20 năm, nên dù từ chức, Lê Đức Thọ vẫn còn có ảnh hưởng lâu dài trong trung ương đảng cho đến lúc chết.
Ngoài Nguyễn Văn Linh, năm 1986 cũng là một năm may mắn cho Lê Đức Anh. Được Lê Đức Thọ nâng đỡ, trong năm 1982 Lê Đức Anh đã được vào bộ Chính Trị trong khi thượng cấp của Lê Đức Anh là Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu trưởng quân đội vẫn không được vào. Khi Văn Tiến Dũng sắp bị mất chức bộ trưởng quốc phòng, hai người được chỉ định thay là Hoàng Văn Thái rồi Lê Trọng Tấn lần lượt đột ngột qua đời. Cái chết bất ngờ của hai người cùng với việc tướng Phan Bình, từng đặc trách tình báo quân đội (Cục C2), tự tử trong thời gian các phe phái đang tranh giành quyền lực đã nêu lên nhiều nghi vấn, vì vợ của Phan Bình vẫn cho là Phan Bình bị bắn chết và vài ngày sau, con trai lớn của Phan Bình cũng bị hạ sát (15).
Người ta ngờ cái chết của Phan Bình có liên quan đến cục C2, và những người thay Phan Bình làm cục trưởng C2 là Như Văn sau đó là Đặng Vũ Chính đều là người từng làm việc với Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh ở Campuchia. Trong khi đó, Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn là người thân cận với Võ Nguyên Giáp.
Sau cái chết của hai viên tướng này, đại diện quân đội tại bộ Chính Trị không còn là những tướng lãnh kỳ cựu ở bộ tổng tham mưu hay bộ quốc phòng được đôn lên mà lấy từ những quân khu miền Nam (như Lê Đức Anh) hay miền Trung (như Đoàn Khuê).
Nếu mấy năm trước, nhờ lầm lỗi của Trần Văn Trà mà Lê Đức Anh được chỉ huy mặt trận Campuchia thì năm 1986, nhờ cái chết bất ngờ của Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn mà Lê Đức Anh được lên làm tổng tham mưu trưởng và mấy tháng sau, nắm bộ quốc phòng rồi sau đó làm chủ tịch nhà nước. Dù cho có những lời tố cáo về việc khai gian lý lịch và những hành động sai trái trong quá khứ, Lê Đức Anh vẫn có thể tiến thân nhờ được Lê Đức Thọ che chở và từ đó cho tới nhiều năm sau, Lê Đức Anh trở nên một người có nhiều quyền lực và phe cánh của ông ta cũng được cất nhắc.
Bốn năm trước, đại hội đảng lần thứ V của đảng CSVN được họp trong khí thế đang lên của phong trào cộng sản toàn cầu. Vì thế, những lãnh tụ của đảng này đã nhận lãnh vai trò làm người lính tiền phong cho đế quốc Nga Xô tại vùng Nam Thái Bình Dương và quyết tâm xã hội chủ nghĩa hóa Việt Nam một cách triệt để. Rủi thay, sự bành trướng của phong trào cộng sản đó chỉ như một ngọn lửa cháy bùng trước khi tàn rụi.
Bốn năm sau, sự suy sụp của đế quốc Nga Xô đã đưa Việt Nam vào hoàn cảnh ý thức hệ bị lung lay, ngọai giao bị cô lập, quân sự bị sa lầy. Đồng thời, những biện pháp cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa đã khiến kinh tế Việt Nam sa sút trầm trọng, gần như khánh tận. Trong hòan cảnh khó khăn đó, đảng CSVN chuẩn bị họp đại hội lần thứ VI để họp bàn những biện pháp thay đổi để sống còn. Nhưng những biện pháp “đổi mới hay là chết” này thật ra chỉ nhằm để cứu sống giai cấp thống trị mà thôi.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 5:01:42 GMT 9
CHÚ THÍCH CHƯƠNG II
___________________________________
(1)— Tố Hữu, bí danh Lành, thường chỉ phụ trách tuyên huấn, vì ở cùng quê, nên rất thân thiết với Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Quỳnh... Được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cất nhắc chuẩn bị thay Phạm Văn Đồng. Với bài thơ ca tụng Staline, Tố Hữu dĩ nhiên được Nga Xô tin tưởng, nâng đỡ khi Việt Nam chủ trương kết thân với Nga Xô. Vì ở cùng phe với Lê Duẩn, Tố Hữu đã không ưa Võ Nguyên Giáp. Theo ông Hoàng Tiến, trong bài Sự Thật Ở Đâu, khi Tố Hữu làm phó thủ tướng đi nước ngoài về, có nhiều người ra phi trường đón trong số có Võ Nguyên Giáp, lúc đó chỉ là chủ nhiệm một ủy ban (khoa học hay ngừa thai). Tố Hữu đã bắt tay từng người. Khi đến lượt Võ Nguyên Giáp, ông ta quay ngoắt đi chỗ khác. Hình ảnh này được chiếu trên truyền hình. (2)— Việc Võ Nguyên Giáp bị ép rút lui: thư của Võ Nguyên Giáp gửi cho trung ương đảng năm 1991 (3)— Tượng của Lê Nin được người dân Hà Nội gọi là tượng “chống kẻ cắp”, vì một tay ông để trong túi (giữ chặt ví tiền), tay kia chỉ về phía trước (hướng tên ăn cắp chạy). (Shadows and Wind — Robert Templer). (4)— Về những chi tiết của cuộc chiến ở Campuchia trong thời gian này, xin xem phần Phụ Lục. (5)— K. có lẽ là viết tắt chữ Khóa, 5 là vùng chiến trường thứ 5 trong quan niệm chiến thuật của Việt Nam lúc đó, chia Đông Dương ra làm 5 vùng chiến trường: Bắc (1), Trung (2), Nam Việt Nam (3), Lào (4) và Căm Pu Chia (5). Khóa K5 lập nên nhằm ngăn chận sự xâm nhập của những lực lượng chống đối từ biên giới Thái Lan tràn qua là một hành lang mìn, chông, những trạm gác… (6)— Ngoài các vụ pháo kích, bắn quấy rối, Trung Quốc còn có những võ tiểu xảo như :“thả nhiều quả mìn nhỏ, bọc nhựa màu xanh, một số lớn mang ký hiệu 652A trên các dòng sông bắt nguồn từ Trung Quốc chảy vào Việt Nam, gây ra nhiều vụ nổ…” (Tài liệu từ Việt Nam, Năm Thứ 12 của Chánh Đạo) (7)— “Thành lũy thép” (Vietnam People Army, Douglas Pike) (8)— Tài liệu trong Brother Enemy, Nayan Chanda. (9)— Về hậu quả chính sách kinh tế của Tố Hữu, trích Giáo trình Lịch Sử Đảng CSVN, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. (10)— Trận chiến Việt Hoa năm 1981 và 1984 ở Faka và Núi Đất: bài của Bách Việt Nhân trong Vietnamexodus, lấy tài liệu và hình ảnh từ quân đội Trung Quốc. (11)— Năm 1986, ngoài cái chết của Lê Duẩn, còn có nhiều cán bộ kỳ cựu khác cũng chết như Lê Thiết Hùng, cựu tư lệnh liên khu Tư và chỉ huy trưởng Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Hoàn, tên thật Nguyễn Trọng Cảnh, từng là bộ trưởng bộ Công An, Hoàng Văn Thái, thứ trưởng Quốc Phòng, Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu trưởng quân đội, Tạ Quang Bửu, cũng một thời là thứ trưởng Quốc Phòng… (12)— Theo Hứa Hoành, thuở sinh thời, Lê Duẩn có ba vợ, bà vợ chính tên Cao Thị Khê ở Quảng Trị cưới khi Duẩn 20 tuổi, có em là Cao Xuân Diệm, sau này trở nên trung tướng công an Dương Thông phụ trách đàn áp văn nghệ sĩ. Bà thứ hai là Đỗ Thị Sảnh. Năm 1942, khi hoạt động trong Nam, Lê Duẩn dùng thủ đoạn cưới thêm bà Thụy Nga cháu gọi ông Đỗ Hữu Vị (đại úy phi công Việt Nam đầu tiên trong quân đội Pháp) bằng chú. Sau 1954, vì bị bà Khê đánh ghen, Lê Duẩn phải gửi bà Nga sang Thiên Tân lánh nạn một thời gian. Ngoài ba bà vợ, Lê Duẩn cũng đã lăng nhăng với nhiều người khác. Theo nhà văn Xuân Vũ, bà Thụy Nga đã có người yêu nhưng bị Lê Đức Thọ dàn xếp lừa bà vào một căn lều vắng để Lê Duẩn đến cưỡng hiếp khiến bà phải chịu làm vợ ba. Trong bài báo Người Vợ Miền Nam (để phân biệt với hai bà miền Trung) trên báo Tiền Phong ngày 25/6/06, câu chuyện được tình tiết hóa là vì người yêu của bà Thụy Nga họat động tình báo nội thành nên đảng không cho phép cưới. Ngay sau hôm đảng cho bà biết quyết định này, Lê Duẩn “tình cờ” đi ngang gặp bà và ngay buổi chiều, đã nói với Lê Đức Thọ dàn xếp cưới bà Thụy Nga làm vợ ba và bà này cũng bằng lòng ngay ngày hôm sau. Câu chuyện của báo Tiền Phong kể lại tuy phi lý là bà Nga đã thay lòng đổi dạ chỉ trong vòng một đêm, nhưng có lẽ đúng sự thật, chỉ trừ bài báo đã không dám đăng chuyện “cái đêm hôm ấy đêm gì” như nhà văn Xuân Vũ kể lại. Trong Lớn Lên Với Đất Nước, tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên kể lại là Lê Đức Thọ cũng đã nhiều lần dùng thủ đọan “ván đã đóng thuyền” này. (13)— Cuộc họp “ba quan điểm” của trung ương đảng do Trường Chinh triệu tập ở Đồ Sơn để sửa soạn đổi mới, trích từ bài “Đêm Trước Đổi Mới” đăng trong website Thanh Niên. (14)— Việc Lê Đức Thọ xin Lê Duẩn giúp để làm tổng bí thư: theo cuốn Làm Người Khó, Làm Người Xã Hội Chủ Nghĩa Còn Khó Hơn của Đoàn Duy Thành. Trong cuốn sách, Đoàn Duy Thành kể lại là sau khi Lê Duẩn chết, các con của Lê Duẩn rất lo sợ là cả gia đình sẽ bị Lê Đức Thọ thanh toán. Do vây cánh Lê Đức Thọ còn mạnh, con cái Lê Duẩn mấy năm sau đó đã không được nâng đỡ về chính trị. Nhờ có tiền của cha me và quan hệ, một người con là Lê Kiên Thành mở công ty Thiên Minh, kinh doanh rất phát đạt. Sau khi có tiền, năm 2007 tự ra ứng cử quốc hội.Không ở trong danh sách được đảng chọn lựa, dĩ nhiên Thành thất cử (15)— Vợ Phan Bình kể lại, khi đưa xác Phan Bình về nhà ở Hà Nội làm tang lễ, người con lớn kêu khóc “Bố bị người ta bắn chết”. Anh ta bị công an đem vào bệnh viện tâm thần rồi mấy ngày sau chết ở đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 5:02:47 GMT 9
CHƯƠNG III
SAU ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VI (1986-1991)
Năm 1986, sự suy kiệt về kinh tế, sự cô lập về ngoại giao, đe dọa và gây hấn thường xuyên của Trung Quốc cùng biến chuyển tình hình thế giới, nhất là của Nga Xô đã đẩy CSVN vào một bước ngoặt quan trọng trên đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Những thay đổi về đối nội, đối ngoại của Nga Xô đã tạo một cơn khủng hoảng ý thức hệ cho đảng CSVN và gây hoang mang giao động cho giới lãnh đạo. Đang lệ thuộc Nga Xô về tất cả mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao.., nên khi Nga Xô đã đề ra glasnov (cởi mở) và perestroika (tái cấu trúc), CSVN không còn cách lựa chọn nào khác cũng phải đưa ra chính sách “đổi mới”.
Những nguyên nhân của “đổi mới tư duy” về đối nội cũng như đối ngoại của CSVN coi như chính thức bắt đầu sau bài diễn văn của Gorbachev tại Vladivostok (Hải Sâm Uy) ngày 28-7-1986, trong đó Nga Xô công bố chính sách Á Châu và Thái Bình Dương mới mà mục tiêu chủ yếu là tái lập quan hệ ngoại giao bình thường với Trung Quốc. Để đạt mục đích, Gorbachev tuyên bố sẽ giải quyết cả “ba trở ngại” mà Trung Quốc đòi hỏi. Gorbachev còn nói thêm “vấn đề Campuchia phải được giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa”.
Chính sách thay đổi của Nga Xô đặt Việt Nam vào thế bất ngờ và nguy hiểm. Nga Xô là cường quốc, có thể công khai nhượng bộ Trung Quốc và Hoa Kỳ mà không mất uy thế.. Hơn nữa, làm thế, họ còn được cảm tình của Hoa Kỳ và Tây Âu, sẵn sàng được giúp đỡ để giải quyết những khó khăn kinh tế. Trong khi đó, Việt Nam là nước nhỏ, lại là gánh nặng bòn rút tài nguyên đang kiệt quệ của Nga Xô nên Nga Xô có thể hy sinh Việt Nam để cầu thân với Trung Quốc, Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á. Trước viễn ảnh bị Nga Xô bỏ rơi để kết thân với kẻ thù của mình là Trung Quốc, Việt Nam buộc phải thay đổi toàn diện chính sách đối nội đối ngoại. Vì thế, đại hội đảng lần VI cuối năm 1986 đã tạo một khúc quanh quan trọng trong lịch sử đảng CSVN.
Sau mấy tháng chuẩn bị, đại hội VI được triệu tập từ 15 đến 18-12-1986 gồm có 1129 đại biểu tham dự.
Khách tới dự đại hội này có Ligachev, nhân vật số 2 của đảng cộng sản Nga Xô, Kaysone Phomvihane của Ai Lao, Heng Samrin của Campuchia cùng vài đại diện các đảng cộng sản Đông Đức, Cuba… Đại hội đảng kỳ này biểu quyết chấp thuận 124 ủy viên trung ương đảng cùng 49 ủy viên dự khuyết mà đại hội trung ương đảng trước đó đưa ra. Sau đó họ bầu ủy viên bộ Chính Trị là những người có quyền lực nhất của đảng và chính phủ.
Tại đại hội đảng, trước ngày bầu ra những ủy viên bộ Chính Trị, Phạm Hùng tuyên đọc bức thư xin rút lui của bộ ba Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Cả ba người sau đó được cử làm “cố vấn tối cao”.
Bộ Chính Trị mới được bầu năm 1986 gồm có:
1. Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư, tên thật Nguyễn Văn Cúc, bí danh Mười Cúc, sinh tại miền Bắc nhưng phần lớn cuộc đời hoạt động tại miền Nam. Từ 1940, đã nhiều lần làm bí thư thành ủy Sài Gòn. Trong chiến tranh Đông Dương II, từng là phó bí thư trung ương Cục miền Nam, phụ tá cho Phạm Hùng. Được vào trung ương đảng năm 1960 và bộ Chính Trị năm 1976. Năm 1982, khi Brezhnev còn cầm quyền tại Nga Xô, tập đoàn lãnh đạo cứng rắn của Hà Nội loại bỏ Nguyễn Văn Linh. Sau khi Gorbachev lên, Linh lại được gọi trở về, và nương theo đà đổi mới bên Nga Xô, Nguyễn Văn Linh dần dần thăng chức.
2. Phạm Hùng, thay Phạm Văn Đồng làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng vào tháng 6 năm 1987 nhưng được mấy tháng thì bị bệnh chết vào tháng 3 năm 1988. Phạm Hùng sinh năm 1912 tại miền Nam và là ủy viên bộ Chính Trị duy nhất hoạt động tại miền Nam trong chiến tranh Đông Dương II (sau khi Nguyễn Chí Thanh chết)..
3. Võ Chí Công, tên thật Võ Toàn, sau khi Trường Chinh từ chức, lên thay chức chủ tịch nhà nước tháng 6-1987. Trước từng hoạt động trong trung ương cục miền Nam rồi làm chính ủy quân khu V.
4. Đỗ Mười, sinh năm 1917, thay Phạm Hùng làm thủ tướng từ tháng 6-1988. Đỗ Mười sau năm 1954 là bí thư thành ủy Hải Phòng, rồi tham gia cải tạo công thương nghiệp miền Bắc. Năm 1976 là bộ trưởng bộ Xây dựng, năm sau được cử vào Nam, phụ trách “cải tạo công thương nghiệp” thay Nguyễn Văn Linh để tập thể hóa kinh tế miền Nam một cách triệt để hơn.
5. Võ Văn Kiệt, phó thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban Kế Hoạch Nhà Nước. Võ Văn Kiệt, sinh năm 1922, sinh trưởng và hoạt động ở miền Nam, được cử làm ủy viên trung ương cùng với Nguyễn Văn Linh năm 1960. Năm 1976, Kiệt được thăng ủy viên dự khuyết bộ Chính Trị trung ương đảng và thay Nguyễn Văn Linh làm bí thư thành ủy Sài Gòn. Võ Văn Kiệt được coi như người cởi mở, thực dụng, cổ võ cho đổi mới kinh tế, và tản quyền quản lý cho các địa phương. Sau khi Phạm Hùng mất, Võ Văn Kiệt được cử lên thay nhưng vài tháng sau thì bị đảng gạt ra để cho Đỗ Mười làm thủ tướng.
6.Lê Đức Anh, từ thứ 12 lên thứ 6. Thay Lê Trọng Tấn làm tổng tham mưu trưởng năm 1986, rồi thay Văn Tiến Dũng làm bộ trưởng quốc phòng năm 1987. Từng là cai phu đồn điền cao su. Trong chiến tranh Đông Dương II, hoạt động ở vùng đồng bằng Cửu Long. Sau 1975 làm tư lệnh quân khu IX. Khi Trần Văn Trà bị mất chức trước năm 1979, Lê Đức Anh lên thay làm tư lệnh quân khu VII, một quân khu quan trọng hơn, để từ đó chỉ huy công cuộc đánh chiếm Campuchia. Nhờ thân cận với Lê Đức Thọ ở Campuchia, Lê Đức Anh được cất nhắc vào bộ Chính Trị năm 1982.
7. Nguyễn Đức Tâm, thay Lê Đức Thọ làm trưởng ban tổ chức T.Ư Đảng. Từng là bí thư tỉnh Quảng Ninh, rồi phó ban tổ chức cho Lê Đức Thọ trong nhiều năm.
8. Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng Ngoại Giao, tên thật là Phạm Văn Thương, sinh quán Nam Định, ủy viên dự khuyết bộ Chính Trị từ năm 1982.
9. Đồng Sĩ Nguyên, tên thật Nguyễn Sĩ Đồng, trong chiến tranh Đông Dương II phụ trách bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh sau đó làm bộ trưởng bộ Giao Thông Vận Tải.
10. Trần Xuân Bách, kiêm nhiệm trưởng ban đối ngoại trung ương
11. Nguyễn Thanh Bình, là cục trưởng Cục Hậu Cần sau đó làm bộ trưởng Nội Thương rồi bí thư thành ủy Hà Nội, được nâng đỡ vì là cháu rể của Lê Đức Thọ.
12. Đoàn Khuê, cựu tư lệnh Quân khu V, năm 1987, được cử thay Lê Đức Anh làm tổng tham mưu trưởng quân đội, được thăng đại tướng năm 1990. Tới 1991 thay Lê Đức Anh làm bộ trưởng Quốc phòng.
13. Mai Chí Thọ, em của Lê Đức Thọ. Từng hoạt động ở miền Nam. Sau 1975, có lúc làm chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố HCM, kiêm nhiệm luôn vấn đề an ninh toàn miền Nam. Trước khi vào bộ Chính Trị, là chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố HCM. Sau đó, năm 1987 được cử làm bộ trưởng bộ Nội Vụ. (1)
Một ủy viên dự khuyết là Đào Duy Tùng. Trước đó, năm 1977, Tùng là tổng biên tập Tạp Chí Cộng Sản tới năm 1982, chuyển qua làm giám đốc Việt Tấn Xã, sau đó được cử làm trưởng ban tuyên huấn đảng. Năm 1988, Đào Duy Tùng được thăng ủy viên thực thụ bộ Chính Trị. Là một người tham vọng, mấy năm sau Tùng mưu toan tranh chức tổng bí thư nhưng thất bại.
Trong thành phần bộ Chính Trị, Trần Xuân Bách có tư tưởng cấp tiến, chấp nhận đa đảng. Tên thật Vũ Thiện Tuấn, sinh tại Nam Định năm 1924, từng làm bí thư tỉnh ủy tại nhiều tỉnh miền Bắc. Năm 1981, khi Lê Đức Thọ về nước sửa soạn đại hội đảng, Trần Xuân Bách được cử lên thay làm trưởng đoàn B.68 phụ trách cai trị Campuchia. Năm 1985, ông về nước, làm chánh văn phòng ban bí thư trung ương đảng trước khi được cử làm ủy viên bộ Chính Trị. Theo ông, “đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị. Phải đi bằng hai chân, không thể đi khập khiễng bằng một chân”.( 2)
Ngoài Trần Xuân Bách, ba ủy viên Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và Nguyễn Cơ Thạch tương đối cởi mở, số còn lại phần lớn là cơ hội. Đã được khuyến dụ và rèn luyện để trở thành đảng viên cộng sản, họ không thể một sớm một chiều chấp nhận những sai lầm hay yếu kém của chủ nghĩa đó. Vả lại, khi trở thành đảng viên, họ và gia đình đã bước vào một giai cấp mới, được hưởng đặc quyền đặc lợi không chỉ mãn đời mà còn đến đời con, đời cháu. Cho nên nếu có sự sửa đổi, sự sửa đổi này cũng chỉ miễn cưỡng và nửa vời. Hơn thế nữa, với ảnh hưởng của Lê Đức Thọ, một số người cộng sản thủ cựu vẫn được cử vào bộ Chính Trị như Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ, Đào Duy Tùng, Lê Đức Anh...
Giữa hai ủy viên cởi mở từ miền Nam là Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt cũng có bất hòa. Nguyễn Văn Linh thường hay tố cáo Phan Thanh Nam, tổng giám đốc công ty quốc doanh Tradico tham nhũng và là con rơi của Võ Văn Kiệt.(3) Vì thế, sự đổi mới của CSVN đã không được thực hiện triệt để. Hai năm sau, với sự tan vỡ của khối cộng sản Đông Âu và vụ sinh viên biểu tình ở Thiên An Môn, đa số đảng viên từ cấp nhỏ đến cấp lãnh đạo, kể cả Nguyễn Văn Linh, cảm thấy nguy cơ đảng bị tan rã, đảng viên mất hết ưu quyền nên đã tái áp dụng chính sách cứng rắn và đàn áp về chính trị, dù vẫn phải duy trì cởi mở về kinh tế, vì đây là cách duy nhất để đời sống của nhân dân, nhất là của chính họ khá hơn. Họ gọi chính sách này là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính sách này không học tập từ Nga Xô nữa mà rập khuôn theo đường lối của “kẻ thù lâu đời và nguy hiểm” cũ là Trung Quốc. Kể từ 1986, CSVN đã cố gắng bằng mọi cách, kể cả nhường đất đai, để cầu thân với Trung Quốc.
Người may mắn nhất trong đại hội đảng lần này là Lê Đức Anh. Bất ngờ lên chức bộ trưởng quốc phòng sau khi Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn chết một cách đột ngột, Lê Đức Anh đã làm lại lý lịch. Trong lý lịch cũ, năm 1976, Lê Đức Anh khai thành phần bản thân là viên chức, vào đảng từ tháng 7-1945, nhưng khi lên bộ trưởng quốc phòng, Lê Đức Anh khai bản thân là công nhân và vào đảng từ năm 1938.
Những đảng viên CS lâu năm như Phạm Văn Xô (từng là xứ ủy Nam Bộ), Đồng Văn Cống, Năm Thi (chủ nhiệm hậu cần Cục R) đều biết rõ lý lịch Lê Đức Anh và đã báo cáo với Nguyễn Đức Tâm, vụ trưởng vụ tổ chức. Hơn mười năm sau, sau khi đã mất chức và được hỏi về việc này, Nguyễn Đức Tâm trả lời là năm 1986, có báo cáo với Lê Đức Thọ, nhưng Lê Đức Thọ nói xếp lại. Sau đó, Nguyễn Văn Linh cũng được báo cáo, nhưng “không có ý kiến”. Đến thời Đỗ Mười thì Lê Đức Anh đã được làm chủ tịch nước nên bỏ qua luôn. Mấy năm sau, trong những đại hội đảng lần thứ VIII, IX và X, đều có thư tố cáo Lê Đức Anh khai man lý lịch nhưng những lúc sau này, thế lực Lê Đức Anh đã rất mạnh nên nội vụ luôn luôn được xử chìm xuồng.(4)
Ngoài những ủy viên bộ Chính Trị phụ trách quyết định đường lối chính sách của quốc gia, những ủy viên trung ương đảng còn bầu ra một ban bí thư để phụ trách điều hành nội bộ đảng. Ban bí thư này ngoài bốn ủy viên bộ Chính Trị là Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đào Duy Tùng còn có:
- Trần Kiên, tên thật Nguyễn Tuấn Tài từng là bí thư tỉnh Hải Phòng, Gia Lai, Đắc Lắc và Nghĩa Bình. Từ 1979 đến 1981 là bộ trưởng bộ Lâm Nghiệp. Tới 1982, được đề cử vào ban bí thư và chủ nhiệm Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng.
- Lê Phước Thọ, trưởng ban Nông Nghiệp Đảng.
- Nguyễn Quyết, trung tướng, từng là tư lệnh đặc khu thủ đô và quân khu III. Năm 1986 là tổng cục phó Tổng Cục Chính Trị. Mấy tháng sau, thay Chu Huy Mân làm tổng cục trưởng.
- Đàm Quang Trung, gốc người Tầy, năm 1979 là thiếu tướng tư lệnh quân khu I thay Chu Văn Tấn sau khi Chu Văn Tấn bị thanh trừng, năm 1982 được thăng trung tướng rồi phó chủ tịch quốc hội.
- Vũ Oanh, trước 1975, hoạt động tuyên vận ở miền Nam, từng phụ tá cho Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách trong đoàn B.68 ở Campuchia. Năm 1991 được đề cử vào bộ Chính Trị
- Nguyễn Khánh, chánh văn phòng T.Ư đảng thay Trần Xuân Bách. Nguyễn Khánh là người phụ trách đưa thư khuyến dụ từ chức của Lê Đức Thọ cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng. Năm 1987, ra làm phó thủ tướng kiêm tổng thư ký hội đồng bộ trưởng.
- Trần Quyết, trung tướng công an, từng là thứ trưởng Nội Vụ
- Trần Quốc Hương, năm 1982 trong ban thường vụ đảng ủy thành phố HCM. Năm 1983, phó bí thư thành ủy Hà Nội. 1986 làm tổng cục trưởng tổng cục du lịch. Cùng với Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hương là người ra lệnh phá bỏ nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn.
- Phạm Thế Duyệt, người Thái Bình, từng là phó rồi chủ tịch công đoàn, sau cũng được vào bộ Chính Trị.
Sau khi Nguyễn Văn Linh lên làm tổng bí thư, Trần Độ được tái bổ nhiệm trưởng ban Văn Nghệ Trung Ương Đảng, nhưng khi làn sóng đổi mới văn hóa bắt đầu nổi lên, ảnh hưởng đến uy quyền tuỵệt đối của đảng thì những đảng viên cao cấp bị giao động, bộ Chính Trị sát nhập ban này vào Ban Tư Tưởng Văn Hóa do Trần Trọng Tân làm trưởng ban.
Tới 1988, Nguyễn Văn Linh thay đổi đường lối, Trần Độ lại bị mất chức và sau đó, bị khai trừ khỏi đảng cùng lúc với nhà văn Nguyên Ngọc, bí thư đảng đoàn của hội nhà văn cũng bị mất chức vì trong bản “Đề Dẫn” đọc ở hội nhà văn đã viết câu “người viết vẫn cứ viết mà không thật tin ở những điều mình viết ra”.
Việc “đổi mới tư duy” đầu tiên của đại hội lần VI là quyết định bỏ câu “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” trong lời mở đầu Điều Lệ Đảng, đánh dấu thay đổi quan trọng về đường lối đối ngoại.
Vài ngày sau đại hội đảng, vào tháng 1-1987, ban chấp hành trung ương đảng lại họp hội nghị và đề cử nhân viên chính phủ. Lần này, Võ Chí Công được cử làm chủ tịch nhà nước, Phạm Hùng được cử làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng thay Phạm Văn Đồng.
Nội các Phạm Hùng gồm có 32 bộ trưởng, trong đó những bộ trưởng chính gồm có:
- Phó CT kiêm tổng thư ký HĐBT: Nguyễn Khánh
- Phó CT.HĐBT kiêm bộ trưởng Ngoại Thương: Đoàn Duy Thành. Trước là tỉnh ủy Hải Phòng, sau làm chủ tịch phòng Thương Mại. Năm 2006 viết cuốn hồi ký “Làm Người Là Khó, Làm Người Xã Hội Chủ Nghĩa Càng Khó Hơn” mà mục đích chính là chỉ trích Đỗ Mười, người đã chèn ép ông. Trong cuốn sách, Đoàn Duy Thành kể lại ông ta là người được Lê Duẩn cứu xét để cho làm tổng bí thư. Cuốn sách bị những người trong phe bảo thủ chỉ trích và giám đốc nhà xuất bản bị bộ Thông Tin Văn Hóa khiển trách.
- Bộ trưởng Quốc Phòng: Lê Đức Anh.
- Bộ trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Cơ Thạch.
- Bộ trưởng Nội Vụ: Mai Chí Thọ.
- Chủ nhiệm UB Kế Hoạch Nhà Nước: Võ Văn Kiệt, phụ tá là Đậu Ngọc Xuân.
- Chủ nhiệm UB Hợp Tác Kinh Tế Văn Hóa với Ai Lao và Campuchia: Đặng Thí.(5)
- Chủ nhiệm UB Vật Giá: Phạm Văn Tiệm.
- Bộ trưởng Tài Chánh: Hoàng Quy.
-Tổng giám đốc Ngân Hàng NN: Lữ Minh Châu
- Bộ trưởng Vật Tư: Hoàng Đức Nghi.
- Bộ trưởng Xây Dựng: Phan ngọc Tường.
- Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải: Bùi Danh Lưu.
- Bộ trưởng Công Nghiệp Nhẹ: Vũ Tuấn.
- Bộ trưởng Văn Hóa: Trần Văn Phác.
- Bộ trưởng Thông Tin: Trần Hoàn (từng là trưởng ty văn hóa Huế sau 1975, tác giả bài Sơn Nữ Ca).
- Bộ trưởng Tư Pháp: Phan Hiền, từng là thứ trưởng ngoại giao.
- Bộ trưởng Y Tế: Đặng Hồi Xuân (vài năm sau, Đặng Hồi Xuân tử nạn máy bay khi sang Vọng Các họp một hội nghị về y tế).
- Đoàn Khuê được cử thay Lê Đức Anh làm tổng tham mưu trưởng.
- Nguyễn Quyết thay Chu Huy Mân làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Đội.
Tháng tư 1987, Việt Nam cho bầu cử quốc hội khóa 8 và sau khi Trần Độ từ chối, Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban tổ chức đảng xếp đặt cho Lê Quang Đạo làm chủ tịch. Kỳ bầu cử này, ngoài cán bộ được chỉ định, đảng cộng sản cho vào quốc hội một số nhỏ những nhân vật cơ hội không phải đảng viên như Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Lý Chánh Trung, bà Ngô Bá Thành, Nguyễn Xuân Oánh…
Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa được mời ứng cử nhưng từ chối. Sau 1975, dù được cử làm thứ trưởng y tế, bà đã nhiều lần, kể cả khi gặp Phạm Văn Đồng, xin ra khỏi đảng nhưng năm 1979 mới được chấp thuận với điều kiện bà chỉ được tiết lộ việc ra đảng vào 10 năm sau. Sau này, khi được hỏi về biến cố lịch sử nào trọng đại nhất trong 50 năm qua, bà trả lời là sự sụp đổ của bức tường Bá Linh, vì biến cố đó đã chấm dứt một “đại ảo tưởng” (chồng bà Hoa là Huỳnh Văn Nghi, đảng viên Cộng Sản Pháp nhưng không gia nhập đảng CSVN).
Ngoài bà Dương Quỳnh Hoa, những người thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũ như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Định... được sắp xếp cho làm phó chủ tịch nhà nước. Chức vụ này chỉ có hư danh, dành cho những người sắp bị loại. Bà Hoa đã từng nói thẳng với Nguyễn Hữu Thọ rằng họ chỉ là “hình nộm, mặt nạ hay vài món trang sức rẻ tiền” của chế độ.
Trong thời gian đầu đổi mới, CSVN chỉ có một chỗ dựa duy nhất là Nga Xô. Khi sắp xếp xong nội các, ngày 17-5-1987, Nguyễn Văn Linh bay sang Nga Xô để gặp Gorbachev. Gorbachev vạch rõ những kinh nghiệp về sự trì trệ của kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự cần thiết phải giao thương với các nước tư bản và khuyến cáo Việt Nam nên giải quyết sớm vấn đề Campuchia ngõ hầu hòa hoãn được với Trung Quốc. Vì thế, từ Nga Xô trở về, ngày 23-5-1987, Nguyễn Văn Linh đã viết ngay loạt bài “Những việc cần làm ngay” đăng trên báo Nhân Dân hô hào “đổi mới tư duy”. Ngày 26-5-1987, Linh họp Bộ Chính Trị thông báo về những khuyến cáo của Nga Xô.(6) Thời gian đó, trong bước đầu lấy lòng Trung Quốc, bộ ngoại giao đã làm tờ trình lên bộ Chính Trị xin bỏ câu nói “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” trong lời mở đầu của hiến pháp.
Sau phái đoàn của đảng do Nguyễn Văn Linh cầm đầu sang gặp Gorbachev, các phái đoàn chính phủ và quân đội lần lượt bay sang Nga Xô để học kinh nghiệm và xin ý kiến. Phái đoàn chính phủ do Phạm Hùng hướng dẫn sang Mạc Tư Khoa ngày 12-6-1987 và phái đoàn quân đội do Nguyễn Quyết, chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đội, sang ngày 19-6-1987. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi sau đại hội VI, Việt Nam lại học tập khuôn mẫu của Nga Xô để thực hiện sự thay đổi.
Từ Nga Xô về, Nguyễn Văn Linh bắt đầu thi hành hàng loạt những biện pháp “đổi mới”. Trước hết về kinh tế, được thấy rõ bản chất thiếu năng động và sự trì trệ của nền kinh tế Nga Xô, được thông báo về kết quả thảm hại của nó sau hơn sáu chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, và được chứng kiến sự phát triển kinh tế nhảy vọt của những nước lân bang, CSVN đành chấp nhận sự thất bại của hệ thống kinh tế tập trung và bắt đầu đưa ra những phương cách sửa đổi lại.
Dù cho những biện pháp tư nhân hóa và tản quyền kinh tế như vậy đi ngược lại với giáo điều Mác xít, họ vẫn muốn giữ ưu quyền độc tôn của đảng để gọi chính sách kinh tế của họ là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tuy Nguyễn Văn Linh được coi như người đã khai sinh ra đổi mới, nhưng người tương đối dám thi hành những biện pháp cải cách táo bạo là Võ Văn Kiệt. Ông ta đã làm “ô dù” và chịu khó nghe theo ý kiến của những chuyên gia kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa trước kia còn ở lại như Nguyễn Xuân Oánh (7), Nguyễn Văn Hảo (8), Lâm Võ Hoàng, Phan Tường Vân... Loạt bài “Đêm Trước Đổi Mới” trên báo Thanh Niên đã viết về một số chuyên gia này như sau: “Ở TP.HCM cũng có một nhóm chuyên gia kinh tế như vậy thường được nhắc đến với cái tên nhóm “Thứ Sáu”... thành phần chủ yếu là các chuyên gia có hạng của miền Nam trước 1975. Người từ trại cải tạo về, người không thuộc diện cải tạo thì sống cảnh nửa thất nghiệp bên lề xã hội. Thế mà họ... đã được bí thư thành ủy TP.HCM Võ Trần Chí lúc ấy trọng dụng như những “quân sư kinh tế”. (9)
Dù mấy năm trước, Trường Chinh đã cho thành lập ở Hà Nội một nhóm tư vấn gồm những học giả Mác xít như Lê Xuân Tùng, Đào Xuân Sâm, Võ Đại Lược, Lê Văn Viện... để nghiên cứu đường lối cải cách kinh tế, nhưng khi tình trạng lạm phát 700% năm 1985 gây ra bởi tài năng kinh tế của Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, khi đó là chủ nhiệm ủy ban Kế họach, đã phải triệu đám chuyên gia kinh tế miền Nam ra hỏi ý kiến. Chính báo Tuổi Trẻ cũng phải công nhận sự phá sản của lý thuyết kinh tế Mác xít : “Khi nền kinh tế và đời sống nhân dân đi đến chỗ cùng cực thì những quan điểm giáo điều, tả khuynh mới bộc lộ tính bất lực của nó”. Trong loạt bài Đêm Trước Đổi Mới, tác giả kể lại là khi được hỏi ý kiến, nhóm chuyên gia này thẳng thắn phê bình chính sách kinh tế tập trung “chính sách tiền tệ của các nước kế họach hóa tập trung, trong đó có Việt Nam, là chống lạm phát bằng cách hạn chế đưa tiền ra lưu thông và chỉ tạo ra suy thoái kinh tế, làm kiệt quệ các lực lượng sản xuất. Thời ấy mà nói thế là to gan lắm nếu không có những cái “ô” trên đầu”... Nhóm chuyên gia đã đề nghị chính phủ tức khắc bãi bỏ các trạm kiểm soát kinh tế trên các trục lộ giao thông, thay vì ép hạ giá hàng hóa bán ra theo nhà nước qui định thì cho tăng giá hàng để khuyến khích sản xuất, cải tổ lại hệ thống ngân hàng và điều quan trọng là công bố cho dân biết chính phủ không bao giờ đổi tiền nữa. Do những khuyến cáo này, nhiều biện pháp cởi mở kinh tế được chính thức đưa ra, gồm có:
- Giải trừ tập thể hóa nông nghiệp
- Để cho các công ty quốc doanh được độc lập hơn
- Bãi bỏ các trạm thuế quan từ địa phương này sang địa phương khác
- Hoàn chỉnh luật đầu tư để các công ty ngoại quốc dễ dàng đem vốn vào Việt Nam đầu tư.
- Bãi bỏ độc quyền của nhà nước trong việc buôn bán với nước ngoài.
- Cho phép các công ty tư nhân thuê dùng mười nhân công trở xuống.
- Giải thể bớt những cơ quan và bộ máy hành chánh hoạch định kế hoạch kinh tế trung ương.
- Bớt đi 15 % nhân viên nhà nước.
- Trả lại một số những xí nghiệp ở miền Nam đã bị nhà nước tịch thu sau 1975 .
- Bỏ chế độ “bao cấp”, theo đó công nhân viên ngoài lương bổng, tùy chức vụ được lãnh một số nhất định nhu yếu phẩm như gạo, đường, thịt, thuốc lá…
Nhờ có những biện pháp cởi mở, tình trạng lạm phát phi mã chấm dứt. Từ đó, nhiều người trong nhóm đã được mời vào tổ tư vấn cải cách kinh tế của Võ Văn Kiệt. (10) Ngoài ra, nhóm chuyên gia này cũng giúp ý kiến về cải tổ ngân hàng, thành lập những khu chế xuất, cải cách giá cả, lương tiền... Nhờ đó, trong những năm sau, công tác đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã đạt được một số thành quả nhất định. Nhưng những góp ý đổi mới này không phải không gặp khó khăn với nhiều lãnh tụ trung ương khác ở Ngoài Hà Nội. Chẳng hạn khi họ đề nghị cải tổ ngân hàng và đặt ra chức thống đốc ngân hàng cho giống những nước khác thì cái tên đó bị chê là phong kiến. Một người trong nhóm “Thứ Sáu”, Huỳnh Bửu Sơn kể lại với Henry Kamm trong cuốn Dragon Ascending về những cán bộ lãnh đạo Cộng sản “Họ bắt đầu từ một thế giới khác, khép kín. Con người chỉ được giáo dục theo một đường lối. Họ nói cùng ngôn ngữ, chia xẻ cùng lối suy nghĩ, và không biết được ở bên Ngoài, thế giới sinh họat ra sao. Họ nhìn thế giới đó với đôi mắt nghi ngờ và không có đủ kiến thức để phân tích nó một cách đúng đắn”.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 5:03:45 GMT 9
Sau khi đổi mới kinh tế, trong vòng 2, 3 năm sau, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu hồi phục và phát triển. Nông dân không còn bị bó buộc lao động trong tập thể và phải bán gạo cho nhà nước với giá rẻ mạt nên đã gia tăng sản xuất. Vì thế, chỉ mấy năm sau, Việt Nam đã bắt đầu xuất cảng lúa gạo. Những cơ xưởng kỹ nghệ nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng cũng bộc phát. Nhờ vị trí thiên nhiên thuận lợi, dân trí cao, nhân công được tiếng là cần cù siêng năng nên dù có phần nào bị gò bó do cấm vận, những nhà đầu tư ngoại quốc bắt đầu đổ tiền vào đầu tư. Ngoài ra, những giếng dầu hỏa ngoài khơi đã khai thác được đồng thời với nhu cầu về dầu hỏa trên thế giới tăng lên nhanh chóng. Thêm vào đó, tiền bạc của người Việt hải ngoại gửi về mỗi năm hàng tỷ mỹ kim đã giúp cho kinh tế Việt Nam kể từ 1991 đã phát triển đều đặn từ 6 đến 8% mỗi năm trong liên tiếp 6, 7 năm.
Nhiều đảng viên cũng nhảy ra kinh doanh để làm giàu như Dương Văn Đầy, cựu sinh viên y khoa Sàigòn đang làm bí thư quận ủy quận I ra mở công ty du lịch, đầu tư trong những dịch vụ khách sạn, quán ăn, phòng trà, Nguyễn Hữu Định phó chủ tịch quận Phú Nhuận mở công ty nữ trang… Những cán bộ cao cấp hơn thì cho người nhà kinh doanh để mình đứng sau làm ô dù.
Tuy nông nghiệp và những xí nghiệp tư doanh đã đóng góp lớn lao cho việc hồi phục kinh tế, chính quyền cộng sản lúc nào cũng nhắm ưu tiên cho việc phát triển những công ty quốc doanh, dù đa số trong khoảng 6000 công ty quốc doanh này bị lỗ vốn.
Do việc phát triển nền kinh tế thị trường, một số luật lệ kinh doanh cần đặt ra. Đại hội VI của đảng cộng sản bắt đầu nhấn mạnh đến quan niệm “nhà nước pháp quyền” để điều hành kinh tế theo luật pháp, nhưng đại hội cũng vẫn xác nhận lại cái “pháp chế xã hội chủ nghĩa” có nghĩa là “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm bảo vệ quyền lợi của Đảng.
Trước năm 1986, trong 8914 văn kiện luật pháp, chỉ có 62 đạo luật do quốc hội biểu quyết, số còn lại hoặc là chỉ thị, hoặc thông tư, hoặc nghị quyết do đảng hay chính phủ đưa ra. Họ giải thích luật pháp của họ như sau:“Luật pháp của chúng ta khác với luật pháp tư sản. Luật của chúng ta nhằm phát triển đất nước chúng ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi luật của các quốc gia tư sản là nhằm bảo vệ cho bọn tư bản”.
Do sự mơ hồ của luật lệ, nếu có tranh chấp giữa xí nghiệp tư nhân và nhà nước, chắc chắn phía nhà nước sẽ thắng. Ngoài ra, nếu một xí nghiệp tư nhân làm mất lòng hay dám cạnh tranh với một công ty nhà nước, họ không những có thể bị truy tố về những vi phạm kinh tế mà còn có thể bị suy diễn sang thành tội chính trị, phá hoại quốc gia. Để chắc ăn, những công ty tư nhân thường phải dựa dẫm vào một vài cán bộ cao cấp nào đó làm “ô dù”. Từ đó tham nhũng nảy sinh. Hệ thống cho vay tiền ngân hàng cũng thế. Một thư giới thiệu của cán bộ hay ủy viên cao cấp sẽ giúp cho việc vay tiền được dễ dàng.
Điển hình của việc đầu tư làm ăn ở Việt Nam là Nguyễn Trung Trực, một Việt kiều ở Úc về thành lập công ty Peregrine. Công ty này bắt đầu kinh doanh nhập cảng thuốc tây từ năm 1990. Vì có một công ty của nhà nước không chịu trả tiền, ông ta nhờ người quen bên vợ là bộ trưởng bộ công an Bùi Thiện Ngộ và vợ của phó thủ tướng Trần Đức Lương làm “ô dù” để can thiệp. Từ đó, trong thời gian Bùi Thiện Ngộ làm bộ trưởng, công ty của Nguyễn Trung Trực làm ăn rất phát đạt, được báo chí Nhà nước ca tụng là “một tư nhân nước Ngoài đầu tư thành công”, nhưng đến năm 1996, khi Bùi Thiện Ngộ (phe của đảng) bị lọai ra khỏi bộ Chính Trị, thì Nguyễn Trung Trực bị “phe chính phủ” (của Võ Văn Kiệt ) đưa ra tòa về tội trốn thuế, mục đích chính là để Trần Đức Lương cũng bị mang tiếng (thật ra tất cả đều lả đảng viên, nhưng gọi là phe của đảng là những phần tử bảo thủ thường nắm các bộ Công an, Thông tin Văn hóa và Quốc phòng trong chính phủ).
Về phương diện văn hóa tư tưởng, mấy tháng sau ngày đại hội đảng, không khí đổi mới còn tưng bừng nhộn nhịp, trong hai ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987, trưởng ban văn hóa Trần Độ đã tổ chức để cho Nguyễn Văn Linh gặp gỡ khoảng gần 100 văn nghệ sĩ gồm có Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, Nguyễn Khắc Viện… Trong buổi họp mặt, những văn nghệ sĩ đã phát biểu trung thực cảm nghĩ của họ và Nguyễn Văn Linh cũng tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ, đồng thời cũng nhắc nhở văn nghệ sĩ “đừng bao giờ uốn cong ngòi bút”. Nghị quyết số 5 của bộ Chính Trị tháng 12 năm 1988 cũng đề ra những mục tiêu cởi mở tích cực: “Văn học, nghệ thuật góp phần tích cực cho cuộc đấu tranh để mở rộng và làm sâu sắc thêm qúa trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống đất nước, cổ vũ nhiệt tình cho công cuộc đổi mới, tích cực tham gia giải quyết việc giải phóng những tiềm năng của đất nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nghị quyết của đại hội VI của Đảng đề ra”. Dù giới văn nghệ nhân dịp này đã đưa ra những lời phê bình hay chỉ trích, Nguyễn Văn Linh vẫn vui vẻ bắt tay Nguyễn Khắc Viện, đón nhận bài tham luận của Dương Thu Hương.
Được nới lỏng sự kiểm soát, văn nghệ sĩ bắt đầu viết về những tệ nạn của xã hội và ngay cả của đảng, của chính quyền một cách táo bạo hơn.
Điển hình nhất là tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ. Tháng 9 năm 1988, dưới bút hiệu Hà Sĩ Phu, đưa ra bài tham luận “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ”, nêu lên những sai lầm của chủ nghĩa cộng sản. Ông Nguyễn Xuân Tụ có bằng tiến sĩ sinh học, từng du học ở Tiệp Khắc và làm viện phó học viện khoa học Đà Lạt. Vì không chịu vào đảng, ông bị ép phải về hưu sớm. Trong bài tham luận, ông viết: “Ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước thì cứu nước mưu hạnh phúc cho dân là mục đích chính, chủ nghĩa Mác Lê chỉ là phương tiện. Nhưng rồi dần dần lại phát sinh cái tín ngưỡng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”. Lạ như vậy đấy, chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện thì nó là cái để ta dùng chứ sao lại là cái để ta thờ”.
Từ đó, Hà Sĩ Phu liên tiếp bị bắt giữ, tra xét nhà cửa, tịch thu máy vi tính hay tài liệu.(11) Ngoài Hà Sĩ Phu có những đảng viên khác như Bùi Minh Quốc, từng là tổng biên tập báo Lang Bian cũng bất mãn. Năm 1988, ông đi một vòng khắp nước kêu gọi văn nghệ sĩ và trí thức đòi hỏi đảng cộng sản mở rộng tự do dân chủ và báo chí.(12) Trở về, ông bị mất chức và bị trục xuất khỏi đảng, sau đó liên tiếp bị bắt giữ. Một nhà văn khác là Vũ Huy Cương, từng bị ở tù nhiều năm, sau khi ra tù viết thư ủng hộ Trần Độ cũng bị công an bắt giữ.(13)
Cũng thời gian đó, một số cán bộ miền Nam bất mãn trước những biện pháp đàn áp nhân dân của chế độ nên đã cùng Nguyễn Hộ lập ra Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ. Sở dĩ gọi là Câu Lạc Bộ vì cộng sản không cho lập đảng hay hội đoàn không thuộc nhà nước.(14) Đảng Dân Chủ được đảng Cộng sản cử ông Hoàng Minh Chính đứng ra thành lập ngày 30-6-1944 để làm bù nhìn, dù đã an phận chịu sự kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc cũng bị giải tán năm 1988, tổng thư ký của đảng này là Nghiêm Xuân Yêm tuyên bố là “đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử”.
Nguyễn Hộ từng là đảng viên cộng sản từ 1937, phụ trách công tác địch vận từ năm 1964 đến 1975. Sau 1975 đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong vùng Sài Gòn. Tuy mới đầu, những đảng viên cựu cán bộ này chỉ muốn cải thiện đường lối cai trị của đảng cùng phẩm chất cán bộ, nhưng vì không một chính quyền cộng sản nào muốn có một đảng hay hiệp hội nào dù non yếu tồn tại song song với mình, nhất là trước cái gương của Công Đoàn Đoàn Kết bên Ba Lan, đã từng phát triển và rồi lấn át được đảng cộng sản, cho nên Câu Lạc Bộ của Nguyễn Hộ mới đầu còn bị cảnh cáo, sau đó bị gán cho là phản động, nhận tiền đế quốc. Tờ nội san Truyền Thống Kháng Chiến sau ba số thì bị đóng cửa.
Đồng thời đảng cho thành lập một hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam để cạnh tranh và phân hóa Câu Lạc Bộ. Những cán bộ tên tuổi của Câu Lạc Bộ bị mua chuộc, lôi kéo, trong đó, có Trần Văn Giàu, một trong những sáng lập viên của Câu Lạc Bộ, sau khi bỏ sang hội Cựu Chiến Sĩ được cho sang Pháp rong chơi nhiều tháng. Trần Văn Trà thì được thông gia là Võ Chí Công dụ sang cho làm phó chủ tịch của hội, còn Trần Bạch Đằng hy vọng sẽ được Nguyễn Văn Linh nâng đỡ cho làm chánh văn phòng nên cũng trở mặt. Cũng như các hội đoàn khác của nhà nước, hội cựu chiến sĩ này được đặt dưới quyền giám sát của Mặt Trận Tổ Quốc.
Những người đứng đầu Câu Lạc Bộ không chịu khuất phục như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu bị bắt giữ. Tạ Bá Tòng trước phụ trách trí vận dưới quyền Nguyễn Hộ, từng khuyến dụ thú y sĩ Phạm Văn Huyến và con gái của ông là Phạm Thị Thanh Vân (tức bà Ngô Bá Thành) vào MTGPMN... Thất vọng với chủ nghĩa cộng sản, Nguyễn Hộ đã viết “Tôi phải thú nhận là chúng tôi đã chọn lầm lý tưởng chủ nghĩa Cộng Sản. Bởi vì, trong suốt 60 năm cách mạng cộng sản, nhân dân VN đã phải gánh chịu biết bao hy sinh để chẳng được cái gì: đất nước vẫn nghèo, nhân dân vẫn không đủ ăn đủ mặc, không có tự do, không có dân chủ”.
Tương tự như thế, chính quyền Việt Nam cũng lập ra một giáo hội Phật Giáo Việt Nam thuộc nhà nước, cạnh tranh với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đồng thời tìm cớ bắt giam hai vị cao tăng của giáo hội này là hai hòa thượng Huyền Quang và Quảng Độ. Để bịt miệng hòa thượng Quảng Độ, đã có lần Mai Chí Thọ dụ dỗ hòa thượng về trụ trì chùa Quán Sứ ở Hà Nội nhưng hòa thượng từ chối. Ngoài ra, họ cũng bắt luôn hai nhà Phật học thông thái là thượng tọa Trí Siêu và thượng tọa Tuệ Sĩ ở chùa Già Lam, rồi lên án tử hình ngày 30-9-1988 về tội “âm mưu lật đổ chính phủ”. Trước sự phản đối của quốc tế, án tử hình sau đó giảm xuống còn 20 năm tù. Nhiều đại diện tôn gíáo khác như linh mục Nguyễn Văn Lý, ông Lê Quang Liêm (Hòa Hảo), Phạm Công Trí (Cao Đài) cũng bị bắt giữ.
Với Công Giáo, sự kiểm soát cũng rất ngặt nghèo. Các tu sĩ cao cấp khi họp Hội Đồng Giám Mục đều phải xin phép và báo cáo trước về nội dung buổi họp, ngoài ra còn phải đến chào các giới chức địa phương. Tại Sài Gòn, tổng giám mục Nguyễn Văn Bình bị những linh mục nằm vùng như Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh... bao vây chặt chẽ nên đã im lặng nhẫn nhịn nhiều năm. Thái độ thụ động này khác hẳn với tổng giám mục địa phận Huế là Nguyễn Kim Điền. Khi chính quyền bắt giữ các hòa thượng Quảng Độ, Huyền Quang.., tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Vì thế, khi ông bị bệnh qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy, thi hài được chuyển qua tòa tổng giám mục Sài Gòn để chờ an táng thì người đến viếng đều đau lòng khi thấy thi hài ông chỉ được nằm trên một cái cáng đặt dưới đất (15)
Ngoài những đàn áp tôn giáo, bác sĩ Nguyễn Đan Quế (16), từng bị bắt năm 1978 và bị tù 10 năm, lại bị bắt lại vì thành lập Cao Trào Nhân Bản. Bị đưa ra tòa ngày 29-4-1991, ông điềm tĩnh nói với chánh án là họ không có tư cách để xét xử ông. Khi công tố viên đọc bằng chứng là Tuyên Ngôn của Cao Trào, nhiều đoạn chỉ trích chính quyền bị sửa đổi, bác sĩ Quế đã liên tiếp chỉnh lại “Anh phải đọc cho đúng những gì tôi viết”. Ông bị tòa nhanh chóng tuyên án 20 năm tù.
Hòa thượng Quảng Độ, bị đày ra ngoài Bắc từ 1982, mười năm sau, ông tự ý trở về Sài Gòn và liên tiếp bị xách nhiễu hoặc quản thúc tại gia.
Mấy năm sau, hòa thượng Thích Đôn Hậu, người được quân Bắc Việt đem ra Bắc năm 1968 làm dụng cụ tuyên truyền, viên tịch. Trước khi chết, hoà thượng Đôn Hậu gửi thư thông báo là đã công nhận hoà thượng Huyền Quang lên thay làm tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và không công nhận hội Phật Giáo nhà nước. Chính quyền tịch thu bức thư, nói đó là giả, không cho hòa thượng Huyền Quang dự đám tang. Thượng tọa Thích Trí Tựu, trụ trì ở chùa Linh Mụ, xác nhận thư đó là thật cũng bị chính quyền bắt và cùng các hòa thượng Hải Thanh, Hải Chánh ở tù tại Phủ Lý.
Có lẽ để gây khó khăn cho phe đổi mới, trong dịp này, công an bắt giữ thương gia Mỹ Michael Morrow, gán cho tội gián điệp rồi hai tháng sau trục xuất.
Về thông tin báo chí, sau một thời gian “cởi trói” ngắn ngủi, trước những biến cố bất lợi xảy ra ở Nga Xô và Đông Âu, đồng thời ở trong nước, có những dấu hiệu phản kháng và xúc phạm vào quyền uy tối thượng của đảng và các đảng viên cao cấp, Chẳng hạn bài phóng sự “Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì” của ký giả Phùng gia Lộc, viết về những hành động tàn ác thiếu tình người của những cán bộ tỉnh Thanh Hóa khi đi thu thuế dân nghèo. Bài báo đăng trên báo Văn Nghệ, đã được quần chúng hưởng ứng đến nỗi bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa là Hà Trường Hoa bị mất chức năm 1988. Vì thế, các nhà lãnh đạo, kể cả người hô hào cởi trói là Nguyễn Văn Linh, lại bắt đầu tìm cách trở lại chính sách “trói buộc”.
Hơn nữa, một tháng sau khi Nguyễn Văn Linh đi Đông Âu gặp chủ tịch Lỗ Ma Ni Ceaucescu và tổng bí thư Đông Đức Honecker, vào khoảng cuối 1989, hai người này một người bị xử tử, một người bị bắt ngồi tù. Vì thế, đa số đảng viên cộng sản cao cấp, từ những ủy viên bộ Chính Trị đến những ủy viên trung ương đảng, sợ bị mất quyền lực và có thể bị truy tố nên tìm cách quay về con đường chuyên chính cũ, phục hồi những biện pháp đàn áp. Ngay cả Nguyễn Văn Linh, mới hai năm trước, còn niềm nở bắt tay Nguyễn Khắc Viện, nhận tham luận của Dương Thu Hương thì giờ đây, ông ta nói về Nguyễn Khắc Viện một cách khinh miệt “Con nhà địa chủ dám lên mặt dậy đời” hay về Dương Thu Hương “Con mẹ ranh muốn làm tổng thống”.(17)
Trong một buổi họp của trung ương đảng, những biện pháp đổi mới bị phê bình là hữu khuynh. Thủ tướng lúc đó là Võ Văn Kiệt vừa mới tạm thời thay Phạm Hùng được vài tháng thì bị Nguyễn Văn Linh cùng trung ương đảng cộng sản buộc phải nhường chức cho một nhân vật bảo thủ hơn là Đỗ Mười.
Theo bà Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi), một đại biểu quốc hội của thành phố Hồ Chí Minh, khi quốc hội bầu lại thủ tướng, chủ tọa đoàn của quốc hội đã ép các đảng viên phải bầu Đỗ Mười lên thay Phạm Hùng nhưng một phần ba đảng viên cãi lệnh mà bầu cho Võ Văn Kiệt. Bà Thi từng là giám đốc công ty Lương Thực TP.HCM. Trong những năm 1979, 1980, thành phố bị thiếu lương thực vì nông dân không chịu bán gạo với giá thu mua rẻ mạt của nhà nước, chính bà Thi đã dám “xé rào”, cãi lệnh trung ương, xuống những tỉnh miền Tây mua gạo rồi về bán lại theo giá thị trường.
Trong nội bộ đảng, Trần Trọng Tân, một người từng theo Lê Đức Thọ phụ trách về tuyên huấn ở Campuchia được cử lên làm trưởng ban văn hóa tư tưởng của đảng để giám sát Trần Độ. Tại ủy ban trung ương đảng, Trần Độ là một trong số người hiếm hoi dám đưa ra những biện pháp cải cách. Cuối năm 1989, trong bản “Phác thảo cương lĩnh văn hóa Việt Nam những năm 1990”, Trần Độ đưa ra những điểm rất tiến bộ như: “Văn hóa phải dựa trên cơ sở quan niệm đúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương tri và đạo đức cho xã hội. Thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo, tự do phê bình”.
Thấy được những quan điểm này “chệch đường lối”, một số phần tử bảo thủ và cơ hội như Hà Xuân Trường báo cáo ngay lên cho Lê Đức Thọ. Trần Độ sau đó bị phê bình, mất chức. Hà Xuân Trường, người tố cáo, được cử lên thay.
Cũng trong tháng 12 năm 1989, đại hội các nhà văn được tổ chức tại Hà Nội. Tuy là đại hội của các nhà văn, nhưng đại hội lại được tổ chức dưới sự chỉ đạo của Trần Trọng Tân, Nguyễn Đức Tâm và Đào Duy Tùng. Ngoài ra, còn có sự hiện diện của Đỗ Mười, Lê Đức Thọ (lúc đó là cố vấn bộ Chính Trị) và trung tướng công an Dương Thông. Dương Thông đến để tố cáo có một số nhà văn nhận tiền để làm tay sai cho nước ngoài nhưng đã không nói rõ được là ai khi bị chất vấn. Tuy trong 330 nhà văn đảng viên, có 180 người (đa số là những nhà văn miền Nam, trừ những người như Trần Bạch Đằng), bỏ phiếu để bầu trực tiếp Nguyễn Quang Sáng làm chủ tịch Hội Nhà Văn, nhưng cũng có đến 150 người theo lệnh đảng mà muốn ban quản trị bầu một người mà đảng đã chọn lựa là Anh Đức. Tỷ số này cho thấy ngay trong giới cầm bút, một giới tương đối đầu óc phóng khóang, cũng có một số không ít những phần tử thủ cựu và sợ oai của đảng.
Nguyễn Quang Sáng đắc cử chủ tịch, nhưng ban quản trị Hội Nhà Văn vẫn gồm đa số là những người có trong danh sách đảng chỉ định. Đó có lẽ cũng là một thắng lợi chót của Hội Nhà Văn.
Những năm sau, chính quyền lại siết chặt quyền kiểm soát thông tin và văn nghệ. Các nhà văn như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc…bị kiểm soát chặt chẽ hay bị bỏ tù. Dương Thu Hương là người đã viết về những nhũng lạm của chính quyền cộng sản một cách trực tiếp và can đảm nhất. Cuốn tiểu thuyết Những Thiên Đường Mù xuất bản năm 1988 mô tả một giai cấp mới, nhờ ưu quyền mà làm giàu qua tham nhũng hay biển thủ của công.(18)
Song song với những biện pháp cải tổ hệ thống kinh tế, sau đại hội VI, CSVN cũng phải bắt buộc thay đổi đường lối ngoại giao. Tháng 7-1987, hội nghị trung ương đảng họp và ra nghị quyết số 2 về ngoại giao gồm những điểm chính:
- tránh đụng chạm với quân đội Trung Quốc ở vùng biên giới và ở ngoài biển Đông.
- đặt kế hoạch rút quân ra khỏi Campuchia. Việt Nam đã thực hiện việc rút quân từ năm 1986, và cuộc rút quân dự trù hoàn tất vào cuối năm 1989. Song song với việc Việt Nam rút quân, Campuchia cũng chuyển hướng, đổi tên nước, sửa hiến pháp, tuyên bố là một nước trung lập và Phật giáo là quốc giáo. Đồng thời, Việt Nam chấm dứt việc gọi quan hệ ngoại giao với Ai Lao và Campuchia là những “quan hệ đặc biệt “…
- giảm bớt quân số để tiết kiệm ngân sách.
- bớt ngân sách quốc phòng.
Nghị quyết này dù đã từng bước thực hiện nhưng được giữ kín cho tới ngày 28-1-1990 thì báo Nhân Dân mới tiết lộ. Thi hành tinh thần của nghị quyết, bộ ngoại giao dưới quyền điều khiển của Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, Phan Doãn Nam…đã hoàn thành một dự thảo về chính sách ngoại giao mới, được trình bày trong buổi họp bộ Chính Trị tháng 5-1988. Trong những bộ phận chính phủ, ngành ngoại giao là một ngành gồm những người có học, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc cấp tiến hơn. Trước kia, chiều hướng ngoại giao của CSVN là chỉ thân thiện với những nước cộng sản và thế giới theo quan niệm chật hẹp của họ cũng chỉ có hai phe, Cộng Sản hay Tư Bản theo mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn”. Cộng sản là bạn, tư bản là địch. Bộ ngoại giao, dưới sự hướng dẫn của bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã đổi mới “tư duy đối ngoại” bằng chủ trương “đa phương hóa và đa dạng hóa” đường lối ngoại giao để “phá thế bao vây” trong tình trạng cô lập do sự chiếm đóng Campuchia.
Khác với những ủy viên bộ Chính Trị khác, trong tập san “Quan Hệ Ngoại Giao” năm 1990, Nguyễn Cơ Thạch thẳng thắn công nhận đóng góp quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong hai thế kỷ qua, xác nhận sự cần thiết phải hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới và nhất là, công nhận sự sụp đổ của những nước xã hội chủ nghĩa khởi từ những nguyên nhân nội tại chứ không phải do âm mưu phá hoại của đế quốc.(19)
Vì bản dự thảo mà Nguyễn Cơ Thạch trình bày trong cuộc thảo luận của bộ Chính Trị tháng 5-1988 có nhiều điểm mới lạ nên đã gặp nhiều chống đối. Cuối cùng, sau những thảo luận gay gắt, bản dự thảo được thông qua ngày 20-5-1988, trở thành nghị quyết 13 của bộ Chính Trị về ngoại giao, trong đó đề ra chính sách đối với những đối tượng khác nhau:
- Nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia.
- Phấn đấu sớm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
- Bình thường hóa và cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.
- Khôi phục quan hệ với các nước phương Tây.
- Tranh thủ Mỹ đi vào bình thường hóa quan hệ.
- Củng cố, tăng cường quan hệ đồng minh, bạn bè.
Theo tinh thần nghị quyết do Nguyễn Cơ Thạch đưa ra, Việt Nam sẽ giải quyết dứt vấn đề Campuchia và hòa giải với Trung Quốc, nhưng đồng thời, phải có một quan hệ ngoại giao quân bình với các nước Asean, Hoa Kỳ và Tây Âu để không bị Trung Quốc chèn ép.
Trong chiều hướng này, song song với việc “cởi trói” văn nghệ, đổi mới kinh tế, và để lấy lòng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, năm 1988, chính quyền Việt Nam công bố trả tự do cho 2474 tù nhân chính trị, giảm án hai tu sĩ Tuệ Sĩ và Trí Siêu từ tử hình xuống 20 năm tù. Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận cũng được trả tự do sau 13 năm tù đầy (tổng giám mục Thuận sau đó qua La Mã và được thăng chức Hồng Y). Hai năm 1987 và 1988 cũng là năm mà tổng thống Reagan của Hoa Kỳ lần đầu tiên gửi một sứ giả đặc biệt là tướng Versey sang Việt Nam hai lần để bàn thảo sơ bộ về những vấn đề giúp đỡ nhân đạo.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên do, sự thiết lập bang giao với Hoa Kỳ của Việt Nam đã bị chậm trễ thêm mấy năm. Dù nguyên nhân chính khiến ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị loại là vì áp lực của Trung Quốc, nhưng những phần tử bảo thủ trong bộ Chính Trị cũng qui lỗi cho Nguyễn Cơ Thạch là đã thất bại không thuyết phục được Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận dù cho Việt Nam đã rút hết quân đội ra khỏi Campuchia.
Hai năm đầu sau đại hội đảng lần thứ VI, khi sự đổi mới kinh tế còn đang được từ từ phát động, hậu quả của những biện pháp kinh tế cũ vẫn tồn tại nên nền kinh tế Việt Nam tiếp tục gặp khó khăn, trong khi tiền viện trợ của Nga Xô và Đông Âu bị cắt giảm, mức sản xuất lương thực trì trệ, nạn thất nghiệp gia tăng, một phần do biện pháp cắt giảm quân số. Kinh tế càng khó khăn, tham nhũng càng phát triển, cùng lúc với sự lung lay của hệ thống xã hội chủ nghĩa toàn thế giới khiến những phần tử bảo thủ áp lực để sau khi Phạm Hùng chết năm 1988, Võ Văn Kiệt chỉ tạm thời nắm quyền thủ tướng được có mấy tháng thì trung ương đảng đã đề cử Đỗ Mười lên thay.
Trong giai đoạn khốn khó đó, Trung Quốc lại tăng thêm áp lực, khiêu khích ở vùng biển tranh chấp Trường Sa (ngày 14 và 16-3-1988), chiếm nhóm đảo Fiery Cross (Đá Chữ Thập) ở Trường Sa, đánh chìm hai tàu tuần của Việt Nam, 77 thủy thủ bị tử trận. Không một phản ứng quốc tế nào, (kể cả của Nga Xô, một nước từng ký hiệp ước liên minh quân sự với Việt Nam) ủng hộ Việt Nam trước biến cố đó và điều này càng cho thấy sự cô lập của Việt Nam.
Sau hai năm từng bước dò dẫm phát triển đổi mới trên mọi địa hạt, tình hình thế giới đã xảy ra nhiều biến cố khiến cho tiến trình đổi mới chính trị và xã hội tại Việt Nam bị ngưng trệ và đôi khi thoái bộ.
Trước hết, phong trào “đổi mới” Nga Xô không thuận lợi. Trong những phụ tá của Gorbachev, ngoại trừ ngoại trưởng Shevadnardze, những người khác không nhiệt tình lắm để cải tổ toàn diện kinh tế Nga Xô. Trong khi Ryzhkov được giao trọng trách cải tổ nông nghiệp còn làm được một số cải cách nhỏ thì đến phiên Ligachev, ông ta giữ nguyên tình trạng của những nông trường quốc doanh và mưu định hợp tác với phe bảo thủ để giành chức tổng bí thư với Gorbachev. Muốn loại trừ ảnh hưởng của Ligachev, Gorbachev chấn chỉnh và thu hẹp bớt trung ương đảng, đặt Medvedev thay Ligachev đặc trách ban tư tưởng đảng và nâng cao tầm quan trọng của quốc hội. Do đó, uy thế của đảng cộng sản yếu dần. Đồng thời, trong nội bộ đảng, một nhân vật cải cách triệt để hơn là Yeltsin, đang là bí thư thành ủy Moscow, xuất hiện khiến cho nội bộ đảng cộng sản Nga Xô càng thêm phân hóa. Cuộc bầu cử quốc hội tương đối tự do đầu tiên của Nga Xô được tổ chức vào tháng 3-1989 đưa đến kết quả thảm hại cho đảng cộng sản. Có đến 38 bí thư tỉnh ủy, trong đó có một ủy viên bộ Chính Trị không được bầu vào quốc hội là một đòn nặng cho đảng cộng sản Nga Xô và cũng là lý do chính cho những đảng viên CSVN, khiến họ sợ chế độ đa đảng và e ngại những phương cách bầu cử dân chủ.
Sự thoái bộ của đế quốc cộng sản Nga Xô không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng ở Đông Âu, Afghanistan, Việt Nam mà còn trên toàn thế giới, chẳng hạn như ở Angola, Phi Châu. Trong cuộc nội chiến Angola, tuy Nga Xô không trực tiếp can thiệp, nhưng đã để cho Cuba, một nước cộng sản cực đoan khiến cho kinh tế gần như số không đang phải sống nhờ vào viện trợ dồi dào của Nga Xô, gửi quân sang giúp đỡ quân chính phủ. Đầu năm 1989, sau khi Gorbachev cắt giảm viện trợ cho Cuba, nước này phải rút quân về nước và hiện tại, thỉnh thoảng vẫn được Việt Nam gửi gạo sang cho.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 5:18:27 GMT 9
Mấy tháng sau, tại Trung Quốc, ngày 3 và 4-6-1989, sinh viên nổi lên biểu tình đòi dân chủ tại Thiên An Môn, Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc đàn áp biểu tình một cách thô bạo, gây nhiều người chết, tạo nên căng thẳng ngoại giao với Hoa Kỳ và các nước Tây Âu. Sự tham gia đông đảo của mấy trăm ngàn sinh viên cùng sự ủng hộ của dân chúng đã khiến đảng CSVN lo sợ nên thấy phải ngưng chính sách “cởi trói” và thiết lập lại những biện pháp đàn áp chính trị. Tuy nhiên cũng nhờ sự lẻ loi của Trung Quốc sau biến cố Thiên An Môn mà Trung Quốc đã bớt khó khăn với Việt Nam và để cho CSVN cơ hội cầu hòa.
Những tháng cuối năm 1989 là những tháng ngày đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của đế quốc cộng sản Nga Xô tại Đông Âu. Cùng ngày với biến cố Thiên An Môn ở Trung Quốc, tại Ba Lan, Công Đoàn Đoàn Kết do Lech Walesa lãnh đạo thắng cử vẻ vang. Lần đầu tiên sau 44 năm, một chính phủ Ba Lan không cộng sản được bầu lên cầm quyền một cách dân chủ. Theo một cựu viên chức bộ ngoại giao Hà Nội, ngày Lech Walesa tiếp nhận chính quyền vào tháng 9-1989 “ta định tổ chức các đoàn đại biểu nhân dân tới sứ quán Ba Lan ở Hà Nội để biểu thị đòi Ba Lan giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa. Khi bộ ngoại giao kiến nghị không nên thì có sự chỉ đạo để báo Nhân Dân có bài bình luận với đầu đề “Một Cuộc Đảo Chính Phản Cách Mạng”. Bài báo này do Trần Trọng Tân, trưởng ban thông tin văn hóa đảng, viết. Tòa đại sứ Ba Lan cực lực phản đối chuyện này vì đã xâm phạm vào nội bộ nước họ. Sau đó Nguyễn Văn Linh phải xin lỗi với lý do “vì không nắm được tình hình Ba Lan”.
Dù đã loan tin thất thiệt và làm trò cười cho dư luận thế giới, Trần Trọng Tân đã không bị sự trừng phạt hay khiển trách nào. Một chuyện tương tự lại tái diễn ba năm sau, vào ngày 19-8-1991, khi phe bảo thủ ở Nga Xô mưu toan đảo chánh, Thái Ninh, phó ban tư tưởng và văn hóa trung ương đảng vội vã loan báo với báo chí cho đó là một tin mừng cho phong trào cộng sản toàn thế giới. Chỉ ba ngày sau, cuộc đảo chánh thất bại. Cũng trong năm 1989, đảng cộng sản Hung đổi tên, Hung Gia Lợi không còn là quốc gia xã hội chủ nghĩa thuộc khối Đông Âu nữa mà trở nên một nước dân chủ, gia nhập khối Thị Trường Chung Âu Châu. Ngày 9-11-1989, bức tường Bá Linh bị sập đổ, nước Đức thống nhất, lãnh tụ Honecker bị bắt. Những chính phủ Husack của Tiệp Khắc, Ceauscescu của Lỗ Ma Ni sau đó cũng tiêu tan.
Những biến cố kể trên đã gây chấn động cho đảng CSVN. Nhất là sự kiện Honecker bị bắt, Ceauscescu bị xử tử khiến các lãnh tụ CSVN càng lo sợ và gây ra những tranh cãi gay gắt trong bộ Chính Trị. Một bên cho đó là do những mưu toan của chủ nghĩa đế quốc. Bên kia, do Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch chủ xướng, cho rằng nguyên nhân sự sụp đổ của khối cộng Đông Âu là do quản lý yếu kém và tư tưởng giáo điều gắn liền với một mô hình chủ nghĩa xã hội sai lầm. Người đứng đầu phe bảo thủ, trở lại quan niệm “hai phe, bốn mâu thuẫn” lại chính là Nguyễn Văn Linh.
Trong bản báo cáo đọc trước hội nghị trung ương đảng lần thứ 7 (khóa VI) vào tháng 8-1989, Nguyễn Văn Linh đã bắt đầu tìm cách trở lại uy quyền của chuyên chính vô sản: “Chừng nào chủ nghĩa đê quốc còn tồn tại, chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa thắng lợi trên phạm vi trên toàn thế giới, thì chừng đó học thuyết của chủ nghĩa Lê nin vẫn giữ nguyên giá trị của nó”.
Do sự chống đối của Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, nghị quyết của hội nghị trên một mặt công nhận sự sụp đổ của khối cộng là do sai lầm chủ quan, duy ý chí của những nhà lãnh đạo, mặt khác vẫn đổ thừa cho sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc.
Tuy nhiên, phe cấp tiến để cải cách về ngoại giao và chính trị trong bộ Chính Trị chỉ có Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, còn Võ Văn Kiệt chỉ hướng về đổi mới kinh tế. Do nguy cơ đảng có thể bị tan rã, đảng viên bị mất đi quyền lực, các đảng viên cao cấp có thể bị truy tố, đa số đảng viên đều nghiêng về khuynh hướng bảo thủ, nhất là những ủy viên bộ Chính Trị.
Từ đầu năm 1990, họ lại bắt đầu bắt giữ những phần tử khả nghi chống đối. Những người bị bắt ngoài nhóm thuộc Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu còn có bác sĩ Nguyễn Đan Quế và nhà văn Dương Thu Hương vì tội “chuyển tài liệu chống phá nhà nước Việt Nam và những tin tức thuộc bí mật quốc gia ra nước ngoài” (20). Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, sau khi đã ở tù 12 năm, thành lập Diễn Đàn Tự Do vào tháng 6-1989 cũng bị bắt và bị kết án cùng với những nhà thơ Vương Đức Lệ, Mai Trung Tĩnh (21), nhà báo Châu Sơn...Cùng bị bắt và kết án về những tội tương tự, còn có những ông Phạm Đức Khâm, Đoàn Thanh Liêm… Riêng bác sĩ Trần Thanh Thức bị kết tội gián điệp. Một nhà báo Campuchia tên Ly Thara viết báo ở Nam Vang chỉ trích chính quyền Hà Nội bị Campuchia bắt rồi giao cho Việt Nam để bị bỏ tù. Nhà văn Dương Thu Hương năm 1991 cũng bị ở tù 7 tháng.
Ngoài việc đàn áp các phong trào nhân dân, đảng cộng sản cũng thanh lọc những phần tử tiến bộ trong hàng ngũ lãnh đạo. Trong nội bộ đảng, những ủy viên bảo thủ như Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan với sự đồng tình của Đỗ Mười, Lê Đức Anh, đã cực lực lên án và cuối cùng loại Trần Xuân Bách ra khỏi bộ Chính Trị.
Trước đó, trong các ủy viên bộ Chính Trị, ngoại trừ Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách đã là người thấy cần phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách triệt để hơn về chính trị. Sau khi bị khai trừ khỏi bộ Chính Trị và trung ương đảng, Trần Xuân Bách được Nguyễn Cơ Thạch kéo về làm cố vấn một thời gian ngắn cho đến khi Nguyễn Cơ Thạch cũng bị loại.
Từ 1990, trước nguy cơ bị sụp đổ sau những biến chuyển chính trị quan trọng tại Đông Âu, Trung Quốc và Nga Xô, bộ Chính Trị Cộng đảng Việt Nam họp ngày 10-4-1990 để thảo luận về tình hình thế giới và tìm đường lối đối phó.
Trong buổi họp, chỉ Nguyễn Cơ Thạch thấy sự sụp đổ của các chính phủ Đông Âu là do nguyên nhân tự phát, còn các ủy viên khác như Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên … đều cho đó là do “âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ” bằng những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” (học tập từ từ ngữ he ping yan bian mà Trung Hoa dùng sau vụ Thiên An Môn) và nhấn mạnh về nhu cầu cấp bách liên kết với Trung Quốc bằng mọi giá để bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Tuy Võ Chí Công đã khuyến cáo trong buổi họp bộ Chính Trị ngày 19-6-1990 là “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Không nên ảo tưởng” và theo báo cáo của bộ ngoại giao ngày 30-1-1991 thì “việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trong mấy năm qua mang lại ít kết quả vì việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nằm trong những tính toán chiến lược của Trung Quốc trong quan hệ của Trung Quốc với Mỹ, phương Tây, với ASEAN và trong việc giải quyết vấn đề Campuchia”, nhưng theo Nguyễn Văn Linh, Trung Quốc dù “bành trướng” hay “bá quyền”, vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa, và Việt Nam cần tìm cách hàn gắn lại tình đoàn kết thắm thiết với Trung Quốc nhằm hy vọng có ngày sẽ khôi phục lại phong trào cộng sản thế giới.
Quan điểm này được đa số ủy viên bộ Chính Trị như Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Phạm Hùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Đức Bình đồng tình.
Dù đã phải đối đầu trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 và sau đó ở Trường Sa năm 1988, quân đội CSVN dưới quyền Lê Đức Anh đã là một khối bảo thủ mong muốn kết thân với Trung Quốc nhất và tuy chưa chính thức tái lập ngoại giao, quân đội đã vội vã xuất bản ngay cuốn tự điển Việt Hoa.
Trong tập san Quốc Phòng Toàn Dân, tướng Nguyễn Huy Hiệu, tư lệnh binh đoàn Quyết Thắng, nhấn mạnh việc quân đội hướng về một kẻ thù mới: “Bản chất của đế quốc không bao giờ thay đổi.…Chúng âm mưu sử dụng “diễn biến hòa bình” trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, trong khi vẫn duy trì sức mạnh quân sự để đe dọa…”.
Trong thời gian tranh cãi về quan niệm ngoại giao giữa hai phe trước đại hội VII, Việt Nam đã rút hết quân đội khỏi Campuchia, thực hiện bước đầu tiên trong tiến trình cầu hòa với Trung Quốc và tỏ thiện chí với cộng đồng thế giới.
Nghĩ rằng với tình trạng cô lập của Trung Quốc sau biến cố Thiên An Môn, Trung Quốc sẽ vì ý thức hệ mà đoàn kết với những quốc gia và thành phần cộng sản lẻ loi còn lại trên thế giới, trong đó dĩ nhiên có Việt Nam. Nhất là sau khi chính quyền cộng sản Nga Xô sụp đổ, Trung Quốc sẽ mặc nhiên được tiếp nhận vai trò đàn anh và lãnh đạo phong trào cộng sản để giương cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa.
Ngày 20-5-1990, trong cuộc họp của tổng bí thư ba nước CSVN, Ai Lao, Campuchia, Nguyễn Văn Linh tiết lộ một “kế hoạch đỏ” để làm căn bản cho giải pháp chính trị ở Campuchia. Kế hoạch này nhằm thành lập một chính phủ Campuchia chỉ gồm hai thành phần cộng sản, một là của Hun Sen do Việt Nam ủng hộ, thứ hai là của Khmer đỏ do Trung Quốc đỡ đầu, gạt ra ngoài hai thành phần không cộng sản — Sihanouk và Son Sann. Việt Nam tin rằng Trung Quốc trên căn bản “vô sản quốc tế đoàn kết” sẽ rất bằng lòng với kế hoạch này.
Trước đó, khi thứ trưởng ngoại giao Đinh Nho Liêm của Việt Nam sang Bắc Kinh tham dự một cuộc “trao đổi ý kiến không chính thức” với Trung Quốc, ngoại trưởng Tiền Kỳ Sâm của Trung Quốc cho biết sẽ cử trợ lý của ông ta là Từ Đôn Tín sang Việt Nam vào đầu tháng 6.
Các lãnh tụ đảng CSVN rất phấn khởi về tin này vì đây là lần đầu tiên mà Trung Quốc tỏ ý muốn hội đàm một cách chính thức và nghiêm chỉnh. Đa số ủy viên bộ Chính Trị đều hy vọng Trung Quốc sẽ thay Nga Xô đứng đầu phong trào cộng sản thế giới và đỡ đầu cho họ để bảo vệ những chế độ độc đảng. Vì thế, trước khi Từ Đôn Tín sang, Nguyễn Văn Linh đã gặp và nói chuyện với Trương Đức Duy, đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Ngày hôm sau, Lê Đức Anh, bộ trưởng quốc phòng, lại mời Trương Đức Duy ăn cơm. Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh, đều mong mỏi có sự hợp tác với Trung Quốc để “bảo vệ xã hội chủ nghĩa” và cũng nêu ra đề nghị “giải pháp đỏ” cho Campuchia. Đồng thời, tướng Vũ Xuân Vinh, cục trưởng cục đối ngoại của bộ quốc phòng Việt Nam cũng nói với Triệu Quốc Nhuệ, tùy viên quân sự của tòa đại sứ Trung Quốc là Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín. (22)
Dù Từ Đôn Tín chỉ là một viên chức ngoại giao hạng trung, nhưng được cả chủ tịch đảng lẫn chủ tịch nước tiếp đón là một sự kiện vượt quá nghi thức ngoại giao bình thường. Ngoài ra, sự tiếp đón này không thông qua bộ ngoại giao đã khiến cho Trung Quốc thấy ngay sự khép nép cầu cạnh của nhóm lãnh đạo CSVN và sự bất đồng ý kiến giữa bộ Chính Trị của đảng và bộ ngoại giao của chính phủ. Vì thế, trong buổi gặp mặt chính thức với bộ ngoại giao ngày 13-6-1990, Từ Đôn Tín đã cư xử như một sứ giả thiên triều, mở đầu buổi hội đàm bằng câu:“Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu là gặp các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của những đồng chí…”.
Thái độ dựa vào bộ Chính Trị của Việt Nam để át giọng bộ ngoại giao đã khiến Nguyễn Cơ Thạch nổi giận, to tiếng với Từ Đôn Tín, đưa đến kết quả là mấy tháng sau, Nguyễn Cơ Thạch bị mất chức. (23)
Trước hai phản ứng trái ngược, một là nhượng bộ vừa phải (của bộ Ngoại Giao Việt Nam) và hai là nhượng bộ tối đa đến như cầu cạnh (của bộ Chính Trị cộng đảng), Trung Quốc mấy tháng về sau chỉ nói chuyện thẳng với bộ Chính Trị, bỏ lơ bộ Ngoại giao và không đếm xỉa gì đến đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh. Vì những phần tử bảo thủ trong đảng CSVN như Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đỗ Mười… thấy cần đến sự hỗ trợ của cộng sản Trung Quốc một cách gần như tuyệt vọng, họ đã thông báo cho Trung Quốc là nên nói chuyện thẳng với ban đối ngoại trung ương đảng do Hồng Hà (khác với Lê Hồng Hà của bộ công an, đã về hưu), cùng phe với Lê Đức Anh phụ trách, mà không cần thông qua bộ Ngoại giao.
Năm sau, 1991, trong đại hội đảng lần VII, do áp lực của Trung Quốc, Nguyễn Cơ Thạch bị loại khỏi bộ Chính Trị và mất luôn chức bộ trưởng bộ Ngoại Giao.
Do sự đối kháng của bộ Ngoại Giao, cuộc gặp gỡ sơ khởi với Từ Đôn Tín đã không đem lại kết quả nào. Để tạo thêm áp lực, Trung Quốc còn công khai hóa đề nghị “hợp tác để bảo vệ chủ nghĩa xã hội” và “giải pháp đỏ” loại bỏ Sihanouk và Son Sann, của Việt Nam để làm lợi thế ngoại giao, khiến Tây phương, Hoa Kỳ và các nước ASEAN không còn tin vào thiện chí của Việt Nam trong chính sách “đổi mới” hay trong vấn đề Campuchia.
Tuy nhiên, thời gian đó, Trung Quốc cũng gặp khó khăn. Sau vụ Thiên An Môn, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu đã thi hành biện pháp cấm vận kinh tế với Trung Quốc, gây trở ngại cho “bốn hiện đại” của họ, đồng thời chuyến đi thăm các nước ASEAN của Lý Bằng cũng không thuận lợi. Những nước này vẫn kiêng dè sức mạnh và tham vọng của Trung Quốc và họ muốn lôi kéo Việt Nam vào khối của họ để quân bình. Ở Campuchia, Hoa Kỳ đã không còn cùng Trung Quốc ủng hộ liên minh của Pol Pot, Son Sann và Sihanouk để chống Việt Nam nữa. Ngoài ra, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nga Xô mỗi ngày một thân thiết hơn cho nên Trung Quốc thấy cần dễ dãi hơn với CSVN.
Ngày 29-8-1990, họ khảo nghiệm tầm mức qui phục của nhóm lãnh đạo CSVN bằng cách mời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cùng thủ tướng Đỗ Mười sang Thành Đô bí mật gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng ngày 3-9-1990. Sự kiện Trung Quốc chỉ mời những lãnh tụ của một nước trước có mấy ngày, bắt tổng bí thư đảng và thủ tướng chính phủ đi ngay trong ngày Quốc Khánh 2-9 của Việt Nam và cho gặp một cách lén lút tại thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên mà không phải thủ đô, đồng thời cũng không cho ngoại trưởng đi theo cho thấy thái độ trịch thượng của Trung Quốc, chèn ép Việt Nam trong tất cả ba phạm vi thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Chưa thỏa mãn, họ cho mời luôn “cố vấn tối cao” của chính phủ là Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng cũng đi theo phái đoàn, hy vọng là đúng theo nghi thức ngoại giao, Phạm Văn Đồng sẽ được gặp một nhân vật tương đương của Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình (Đặng Tiểu Bình đã chính thức rời mọi chức vụ năm 1989 sau vụ Thiên An Môn và cũng đang là cố vấn chính phủ). Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình đã không đến, không gọi điện thoại nói chuyện, cũng không thèm đá động gì đến chuyến đi của phái đoàn Việt Nam.
Ngay sau khi được Trung Quốc mời, bộ Chính Trị đảng CSVN họp để chuẩn bị. Các ủy viên cao cấp như Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh... rất phấn khởi vì đều mong muốn có quan hệ tốt với Trung Quốc để bảo vệ xã hội chủ nghĩa và tất cả đều chủ trương nên hòa giải với Trung Quốc để giải quyết cho xong vấn đề Campuchia. Chỉ có Nguyễn Cơ Thạch khuyến cáo là nên đề phòng thái độ của Trung Quốc vì Trung Quốc sẽ đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của xã hội chủ nghĩa.
Dù Nguyễn Cơ Thạch đã khuyến cáo, nhưng khi tới Thành Đô, Nguyễn Văn Linh vẫn đưa ra vấn đề hợp tác của các nước xã hội chủ nghĩa và bị Giang Trạch Dân trả lời thẳng thừng:“Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc xã hội chủ nghĩa đều do đảng cộng sản lãnh đạo, họp với nhau bàn cái gì đây? Vì vậy, chúng tôi giữ kín chuyện này. Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta”.
Trung Quốc đã không thể vì sự đoàn kết xã hội chủ nghĩa mà làm sứt mẻ mối quan hệ của họ với Hoa Kỳ và các nước ASEAN.
Khi bàn về vấn đề Campuchia và sau khi đề nghị “giải pháp đỏ” bị Trung Quốc bác bỏ, Việt Nam dễ dàng chấp nhận hết những đề nghị của Trung Quốc để thành lập Hội Đồng Nhân Dân Tối Cao Campuchia.
Đề nghị của Trung Quốc là công thức 6+2+2+2+1 có nghĩa hội đồng này gồm 13 người trong đó 6 người thuộc phe Hunsen, 2 người thuộc phe Ranaridhh (con của Sihanouk), 2 người thuộc phe Son Sann, 2 người thuộc phe Pol Pot, 1 là Sihanouk sẽ làm quốc trưởng.
Trước đó, Việt Nam đã đồng ý với phe Hun Sen về công thức 6+2+2+2, có nghĩa hội đồng chỉ gồm 12 người và Sihanouk sẽ là một người của phe Ranaridhh.
Giờ đây, vì quyền lợi sống còn của mình để kết thân với Trung Quốc, CSVN đành bỏ rơi quyền lợi của đồng minh Campuchia. Trong hội đàm Thành Đô, Trung Quốc không đả động đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao, và dù đòi hỏi Việt Nam phải giữ bí mật về cuộc hội đàm, một lần nữa, họ lại công khai hóa những điểm mà Việt Nam đã đưa ra ở Thành Đô cho các nước ASEAN, Tây phương và Hoa Kỳ thấy chủ ý chính của Việt Nam vẫn là mưu định bành trướng chủ nghĩa cộng sản.
Người bị mất mặt nhất trong cuộc hội đàm này là Phạm Văn Đồng. Đặng Tiểu Bình đã không đến gặp ông ta, cũng không thèm gửi lời giải thích hay chào mừng. Khi tham dự cuộc hội đàm, Phạm Văn Đồng cũng đồng tình với sự nhượng bộ của Nguyễn Văn Linh. Sau khi họp hội nghị trở về, trong buổi họp bộ Chính Trị để báo cáo và đánh giá về cuộc gặp mặt ở Thành Đô, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Văn Linh đổ lỗi cho nhau. Sau đó, Phạm Văn Đồng nói là bị Trung Quốc đánh lừa và than thở là đã “hớ và dại”.
Tuy than như vậy, chính ông vào năm 1958 đã là người ký văn kiện chấp nhận biên giới lãnh hải của Trung Quốc bao gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa. Năm 1977, khi bị chất vấn về chuyện này, ông không nhận lỗi mà còn bào chữa:”Lúc đó trong thời chiến tranh nên tôi phải nói thế”.
Phạm Văn Đồng cũng từng than không có quyền hành nhưng vẫn ở lì chức vụ thủ tướng mấy chục năm. Chuyện “ngậm miệng ăn tiền” của Phạm Văn Đồng không chỉ có thế. Trong cuốn Nhật Ký Trần Quỳnh, cựu trợ lý của Lê Duẩn kể lại là năm 1974, sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn sang Trung Quốc gồm có Nguyễn Duy Trinh và Trần Quỳnh xin viện trợ. Phái đoàn phải đi nhờ một máy bay của Trung Quốc. Trung Quốc đã dàn xếp để tờ Nhân Dân Nhật Báo của Trung Quốc ngày hôm đó đăng bài ca tụng chiến thắng Hoàng Sa của họ và cố ý để tờ báo này trên máy bay cho phái đoàn Việt Nam đọc. Hôm sau, gần đến giờ hai bên gặp nhau, Chu Ân Lai thông báo cho Việt Nam biết là ông ta hoãn cuộc tiếp kiến một giờ đồng hồ và khuyến cáo phái đoàn Việt Nam trong khi chờ đợi nên xem truyền hình.
Trong một giờ hoãn lại để phái đoàn Việt Nam ngồi chờ đó, truyền hình Trung Quốc chiếu cảnh một cô gái Trung Quốc ngâm thơ ca tụng chiến thắng Hoàng Sa của Trung Quốc. Chương trình đặc biệt này được thực hiện không phải để cho gần một tỷ khán giả Trung Quốc mà chỉ để dành riêng cho gần chục người của phái đoàn Bắc Việt, nhất là Phạm Văn Đồng, coi. Dù vậy, trong buổi họp chính thức với Trung Quốc chiều hôm đó, phái đoàn Phạm Văn Đồng đã không dám đá động gì đến vấn đề này. Thái độ này khác hẳn với lập trường của Tưởng Kinh Quốc ở Đài Loan, đã đặt quyền lợi quốc gia lên trên, nói là Trung Quốc (lục địa) hay Đài Loan chiếm Hoàng Sa thì vẫn là đất của Trung Quốc.
Một chuyện khác, người trợ lý nhiều năm của Phạm Văn Đồng là nhà thơ Việt Phương, sau khi theo Lê Thanh Nghị sang Âu Châu năm 1972, trở về làm tập thơ Cửa Mở và gọi xã hội ông đang sống là một “địa ngục khổng lồ không cửa sổ”. Dù chỉ tự đánh máy tập thơ sao ra mấy chục bản gửi cho những người thân, Việt Phương vẫn bị một “bạn thân” tố cáo và bị bắt vào tù. Phạm Văn Đồng sợ liên lụy đã không dám can thiệp(24).
Mấy tháng sau cuộc gặp mặt ở Thành Đô, Việt Nam được Trung Quốc mời tham dự Á Vận Hội Bắc Kinh vào tháng 9-1990. Vì lúc đó Trung Quốc đang bị chỉ trích sau vụ đàn áp Thiên An Môn nên đã muốn tổ chức Á Vận Hội cho thật rầm rộ. Tòa đại sứ Trung Quốc cho người đề nghị với cục thể thao là sắp xếp để phái đoàn Việt Nam đi thật đông và Trung Quốc sẽ giúp phương tiện bằng cách thu xếp cho phái đoàn di chuyển bằng xe lửa. Do biết thái độ thân Trung Quốc của Lê Đức Anh nên Dương Nghiệp Chi, cục trưởng cục thể thao, không chuyển đề nghị này lên chính phủ cứu xét mà qua tay Nguyễn Chí Vịnh, đưa thẳng lên cho Lê Đức Anh để được hoan hỉ chấp thuận. Trên đường đi, Trung Quốc đã cho người ăn cắp tài liệu về an ninh của phái đoàn, nhưng phái đoàn không dám có lời phản kháng.(25) Người phụ trách an ninh cho phái đoàn là Khổng Minh Du, sau này trở nên cục trưởng cục A25 của bộ công an phụ trách kiểm soát báo chí.(26) Nguyễn Chí Vịnh nhờ thế lực Lê Đức Anh sau này cũng thăng chức, trở nên tổng cục trưởng tổng cục 2 tình báo.
Dịp tổ chức Á Vận Hội lại là một dịp mất mặt nữa cho Võ Nguyên Giáp. Đồng thời với phái đoàn thể thao, Trung Quốc mời một phái đoàn chính phủ sang tham quan. Lúc đó giữa hai nước chưa có quan hệ chính thức, thái độ thù hận vẫn chưa nguôi, cho nên người được Lê Đức Thọ cử đi Bắc Kinh trong công tác khó khăn này là Võ Nguyên Giáp. Khi tới Bắc Kinh, ông ta ngỏ ý muốn được gặp Dương Đắc Chí, người chỉ huy quân Trung Quốc trong trận chiến biên giới Việt - Hoa năm 1979 như một thiện chí hòa giải. Dương Đắc Chí đã từ chối một cách khinh miệt, công khai nói là mồ của binh sĩ Trung Quốc chết ở biên giới Việt - Hoa vẫn chưa xanh cỏ, ông ta không thể nào gặp những người lật lọng.
Theo tác giả Trần Nhu, Võ Nguyên Giáp bắt buộc phải nhận công tác mất mặt này vì bị Lê Đức Thọ dọa sẽ gây khó dễ hay nguy hiểm cho 3 người con đang du học ở nước ngoài (Võ Điện Biên ở Đông Đức, Võ Thị Hòa Bình ở Ba Lan, Võ Thị Hồng Anh ở Nga Xô).(27)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 8, 2010 5:19:40 GMT 9
Sau khi từ Trung Quốc trở về, trong thời gian đảng Cộng sản chuẩn bị cho đại hội đảng lần thứ VII, Võ Nguyên Giáp lại bị một phe cánh của Lê Đức Thọ là Lê Đức Anh dùng cục 2 tình báo quân đội gài đặt trong vụ án được gọi là “vụ Sáu Sứ” khiến ảnh hưởng của Võ Nguyên Giáp trong quân đội kể từ lúc đó tiêu tan. Ông bị loại khỏi trung ương đảng và tham vọng muốn trở lại nắm quyền bị hoàn toàn dẹp bỏ.
Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ sáu năm 1986 được coi như đánh dấu một sự “đổi mới”. Nếu phong trào cộng sản của Việt Nam bắt nguồn từ buổi “bình minh của nhân lọai”, lúc Lê Nin lên cầm quyền ở Nga Xô năm 1917 thì gần 70 năm sau, buổi “hoàng hôn” của phong trào đó cũng bắt đầu xảy ra từ Nga Xô với Gorbachev. Nhờ có Gorbachev, Việt Nam mới phải “đổi mới hay là chết”. Nhờ có Gorbachev, Nguyễn Văn Linh mới được làm tổng bí thư. Đổi mới chỉ là góp nhặt từ cởi mở và tái cấu trúc, còn đa phương và đa dạng hóa ngoại giao chỉ là hậu quả tất yếu của chính sách ngoại giao Thái Bình Dương mới của Nga Xô.
Nhờ giải trừ bớt những biện pháp cứng nhắc của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu khá hơn. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Nga Xô và Đông Âu đã khiến Nguyễn Văn Linh cùng đa số đảng viên cầm quyền Việt Nam lo sợ, chùn bước.
Hình như những nhà lãnh đạo CSVN lúc nào cũng cần có một hậu thuẫn ngoại bang nào đó để học tập nếu không muốn nói là sùng bái. Mất đi cái nôi của cách mạng tháng mười, họ quay về Đông phương hồng vì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa, đúng ra là độc đảng. Kể từ 1989, về đối ngoại, họ muốn được kết thân với Trung Quốc bằng mọi giá để làm một chỗ dựa thay Nga Xô. Về đối nội, họ cóp nhặt mô hình cai trị của đảng cộng sản Trung Quốc, đàn áp dân chủ nhưng mở cửa kinh tế. Kết thúc khóa VI, đảng CSVN họp đại hội đảng lần thứ VII và sẽ loại bỏ Nguyễn Cơ Thạch, bầu lên Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt để thực hiện những điều này.
CHÚ THÍCH CHƯƠNG III
____________________________________
(1)— Mai Chí Thọ, tên thật Phan Đình Đồng, bí danh Năm Xuân, là em ruột của Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải) và Đinh Đức Thiện (Phan Đình Dinh). Vấn đề giữ gìn dòng họ tổ tiên của cán bộ cộng sản Việt Nam hình như không được coi trọng, vì thế con của Lê Đức Thọ vẫn có tên là Lê Nam Tiến (sau này làm thứ trưởng bộ Bưu Điện). (2)— Tài liệu về Trần Xuân Bách và B.68 là do ông Dương Văn Thương, một cán bộ từng phục vụ ở Campuchia cùng với Trần Xuân Bách. Ông Thương sau này tỵ nạn ở Đức. (3)— Nguyễn Văn Linh thường nói muốn diệt tham nhũng “phải bắt hai vợ chồng nhà đó trước” (Võ Văn Kiệt và vợ là Phan Lương Cẩm). Một trong những vụ tham nhũng mà Võ Văn Kiệt bị tố cáo là đã thông đồng với bộ trưởng năng lượng Vũ Ngọc Hải trong công tác xây dựng đường cao tốc Bắc Nam. Vũ Ngọc Hải bị kết án 3 năm tù. Nhờ nhận hết tội trạng và không khai đồng bọn, khi Vũ Ngọc Hải ở trong tù, mỗi khi tết đến Võ Văn Kiệt đều vào thăm. (4)— Vụ khai gian lý lịch của Lê Đức Anh: theo thư của Phạm Văn Xô gửi trung ương đảng. Lê Đức Anh khai gian để tăng tuổi đảng, vào đảng trước 1945 sẽ trở thành “lão thành cách mạng” và tự đặt mình vào giai cấp “công nhân”, tiên tiến hơn là làm cai phu. Ngoài ra, Lê Đức Anh cũng bị tố lấy cớ vợ mình là con địa chủ nên bỏ để đi lấy con gái của chính ủy quân khu V dễ tiến thân hơn. (5)— Đặng Thí, sau 1954, làm việc ở quân khu IV. Trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, theo chỉ thị của phái đoàn cố vấn Trung Quốc, cứ một tỉnh phải đạt chỉ tiêu là xử tử hai địa chủ. Nhưng tỉnh mà Đặng Thí phụ trách nghèo qúa, không có địa chủ, cấp dưới phải đôn 2 trung nông lên thành địa chủ trình cho Đặng Thí. Đặng Thí lúc đó đang đi ngoài đường, không cần cứu xét, ký giấy chấp thuận khai tử 2 người này ngay trên ghi đông xe đạp (tài liệu của cựu đại tá Bùi Tín). (6)— Trong một bài Những việc cần làm ngay, Nguyễn Văn Linh có lần công kích những tòa đại sứ Việt Nam đã không chịu mua xe Nga Xô mà lại mua nhiều xe Toyota, Honda của Nhật khiến Nguyễn Cơ Thạch phải giải thích là ở các nước khác, việc bảo trì xe Nga Xô rất tốn kém và nhiều khi không có cơ phận thay thế. Nguyễn Văn Linh ký tắt là NVL (Nói và Làm) bắt chước Hồ Chí Minh ngày xưa ký XYZ. (7)— Nguyễn Xuân Oánh, hồi nhỏ được phong trào Đông Du đưa qua Nhật, sau sang Hoa Kỳ, tốt nghiệp đại học Harvard. Về nước trước 1975, làm phó thủ tướng, rồi quyền thủ tướng một thời gian ngắn, quay sang làm ngân hàng. Sau 1975, ông ở tù khoảng 8 tháng. Nhà văn Uyên Thao, ở tù cùng nơi với ông, cho biết ông là người tù duy nhất có vợ là Thẩm Thúy Hằng được vào thăm. Có lẽ Thẩm Thúy Hằng có họ hàng với Võ Văn Kiệt nên Nguyễn Xuân Oánh được lãnh ra và làm tư vấn kinh tế cho Võ Văn Kiệt. Sau này, trước khi chết, ông mở một công ty tư vấn cho những công ty ngoại quốc muốn kinh doanh tại Việt Nam (N.X.Oanh Associates). Người hùn hạp với ông là Colby, cựu giám đốc CIA (tài liệu trong cuốn Dragon Ascending). Là cố vấn cho Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt, Nguyễn Xuân Oánh đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc “đổi mới”, nhưng dĩ nhiên, vai trò của ông không được đem ra tuyên dương. (8)— Nguyễn Văn Hảo, cựu phó thủ tướng đặc trách kinh tế trước 1975. Sau 1975, ông ở lại. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa ngân hàng Việt Nam trước 1975 viết trên báo Thanh Niên, khi quân cộng sản chiếm dinh Độc Lập, bắt tất cả mọi người tập trung ở đó. Lúc Trần Văn Trà cho gọi Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đi “làm việc” thì Nguyễn Văn Hảo năn nỉ xin đi theo, khoe là có công giữ được 16 tấn vàng. Có lẽ nhờ vậy Nguyễn Văn Hảo đã được dùng một thời gian. Tuy nhiên, thấy không được trọng dụng, ông ta xin xuất ngoại sang Thụy Sĩ. Với thái độ như thế, mấy năm đầu, Nguyễn Văn Hảo đã gặp khó khăn với chính phủ Mỹ khi muốn xin đoàn tụ với gia đình đang sống ở Texas. Những lãnh tụ cao cấp đảng CSVN đã làm gì với 16 tấn vàng kể trên không được ai biết đến. (8)— Nhóm “Thứ Sáu”, vì thường gặp mặt nhau vào ngày thứ sáu, gồm những người như Lâm Võ Hoàng (nguyên tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín), Phan Tường Vân (tốt nghiệp kinh tế ở Thụy Sĩ), Huỳnh Bửu Sơn (người giữ chìa khóa kho vàng ngân hàng quốc gia trước 1975), Phan Chánh Dưỡng... Phan Tường Vân về sau bị tố cáo tham nhũng nhưng được Phan Văn Khải che chở (theo David Lan Pham) còn Phan Chánh Dưỡng cùng Đậu Ngọc Xuân thành lập công ty xây dựng Tân Thuận làm giàu. Huỳnh Bửu Sơn được cử làm phó giám đốc ngân hàng Kỹ Thương rồi quay sang làm cho hãng Pepsi Cola. Võ Trần Chí, thay Nguyễn Văn Linh làm bí thư thành ủy năm 1986, tuy không tự mình kiếm tiền nhưng giúp người anh ruột làm giám đốc công ty đông lạnh Hùng Vương. (10)— Đậu Ngọc Xuân, sau này rời chức vụ, với thế lực và quan hệ khi làm chủ nhiệm ủy ban đầu tư ngoại quốc, làm tổng giám đốc công ty xây dựng Tân Thuận, hợp tác với nhà tỷ phú Đài Loan Lawrence Ting trong những dự án lớn hàng tỷ mỹ kim như mở khu chế xuất Tân Thuận, xây khu đô thị Phú Mỹ Hưng và dĩ nhiên, kiếm được rất nhiều tiền. Lawrence Ting rất được nhà cầm quyển Việt Nam coi trọng, nhưng sau này ông ta đã nhảy lầu tự tử ở Đài Loan vì bị tố cao gian lận thuế. Sau khi ông chết, ở Việt Nam lập qũi học bổng Lawrence Ting. (11)— Ngoài tài viết khảo luận chính trị, Hà Sĩ Phu cũng làm thơ:
Nhân danh An ninh khu vực Yêu cầu các tâm hồn Hãy mở cửa ra Cho kiểm tra Hành chính Còn tim đen người kiểm tra thì được quyền đóng kín Tối như bưng chẳng khai báo bao giờ.
(12)— Bùi Minh Quốc, một thi sĩ, từng là tổng biên tập tạp chí Lang Biang, sau đó bị khai trừ ra khỏi đảng và mất chức tổng biên tập. Sau khi mất chức, ông đi xe gắn máy khắp nước Việt Nam, nhất là đi kiểm tra việc Việt Nam nhường đất vùng biên giới. Trên đường đi, ông làm những câu thơ:
Một xe “81” với yên cương Một áo blouson đẫm bụi đường Rong ruổi với trời thu Việt Bắc Bồi hồi mỗi dặm mỗi yêu thương.
(13)— Nhà làm phim Vũ Huy Cương, bạn của Vũ Thư Hiên, đã bị tù vì vụ án “xét lại”. Xem Đêm Giữa Ban Ngày. Năm 1996, ông bị bắt lần nữa vì tội “photocopy” bức thư của Võ Văn Kiệt gửi trung ương đảng. (14)— Ngay cả hai mươi năm sau, năm 2004, trước khi diễn đàn nhân dân Á Âu (Asia Europe People’s Forum) họp tại Hà Nội, theo thông lệ, phái đoàn của các đoàn thể phi chính quyền (NGO) đến họp trước. Họ ngạc nhiên không thấy có một đoàn thể phi chính quyền nào ở Việt Nam. Những hội đoàn vô tội như hội Hướng Đạo (mà các cựu đoàn viên đều là đảng viên cao cấp như Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu), không được tái thành lập. Do tình trạng giáo dục tồi tệ ở Việt Nam, Hội Khuyến Học được dự định thành lập nhưng chi nhánh ở TP.HCM do ngay cả cựu đại tướng công an Mai Chí Thọ đứng đầu xin phép mấy năm vẫn chưa được cấp giấy phép. (15)— Trích thư của linh mục Nguyễn Văn Lý. (16)— Nguyễn Đan Quế là một bác sĩ từng du học ở Bỉ về chuyên khoa bệnh nội tiết, làm việc ở bệnh viện Chợ Rẫy. Sau 1975, ông thành lập Cao Trào Nhân Bản, bị tù nhiều năm và khi được thả, luôn luôn bị làm khó dễ đủ chuyện nhưng ông vẫn bền gan tranh đấu. Nhà cầm quyền khuyến khích ông ra nước ngoài nhưng ông từ chối. (17)— Trích Đổi Mới, Niềm Vui Chưa Trọn của Trần Độ. (18)— Dương Thu Hương, tác giả những cuốn Những Thiên Đường Mù, Bên Kia Bờ Ảo Vọng …, từng theo bộ đội vào Nam chiến đấu trước 1975. Bà là người bị cả một hệ thống thông tin văn hóa kết hợp với công an bỏ tù, làm khó dễ, bôi đen, lăng mạ, kể cả người phê bình văn học của nhà nước là Phan Cự Đệ. Tuy nhiên, bà vẫn giữ thái độ kiên cường, bất khuất. Sau này, bà sang định cư ở Pháp. (19)— Trích Vietnam after 7th Party Congress của Tadashi Mio, phân khoa Quan Hệ Quốc Tế đại học Daito Bumka, Nhật. (20)— Dương Thu Hương bị tố đưa“tài liệu”, có lẽ là tác phẩm bị cấm in, cho bác sĩ Bùi Duy Tâm đem về Mỹ xuất bản. Bác sĩ Tâm bị bắt giữ rồi bị trục xuất về Mỹ. Bà Dương Thu Hương kể lại bác sĩ Tâm đã chi rất nhiều tiền cho Dương Thông. (21)— Nhà thơ Vương Đức Lệ, kể lại ông bị bắt chỉ vì vô tình gặp ông Hoạt và ông Hoạt đưa cho ông một số tài liệu thì ông đọc, nhưng “vậy mà chúng nó nói tôi không phải tù chính trị. Vậy chúng nó bắt tôi vì tội gì?”.Ông cũng nói nhà thơ Mai Trung Tĩnh, hoàn toàn không biết gì về việc của ông Đoàn Viết Hoạt hay tài liệu mà ông Vương Đức Lệ đọc, cũng bị bắt ở tù thêm mấy năm vì một tội khác, cái tội “là bạn thân” của Vương Đức Lệ, nhà nước bắt cho chắc ăn. (22)— Hầu hết tài liệu về việc tái lập bang giao Việt - Hoa đều lấy trong cuốn Hồi Ức của cựu thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ. Để kiểm soát lẫn nhau, cán bộ cộng sản nào tiếp xúc với người nước ngoài cũng đều phải có một người khác bên cạnh (tốt hơn hết là công an) để có gì còn báo cáo. Việc Lê Đức Anh gặp riêng Trương Đức Duy là trái với thông lệ (không có thông ngôn vì Trương Đức Duy nói rành tiếng Việt). Dù về sau có người phê bình nhưng đảng cộng sản cũng làm lơ. (23)— Thái độ coi thường Việt Nam của Trung Quốc không phải ít xảy ra. Trong Đêm Giữa Ban Ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại là khi Trần Huy Liệu sang thăm Trung Quốc và được gặp Mao Trạch Đông, báo Trung Quốc đã đăng hình Trần Huy Liệu với ghi chú “Chủ tịch Mao trạch Đông cho Trần Huy Liệu được bắt tay”. Ngoài ra, trong thời kỳ tranh chấp Nga - Hoa, khi Hồ Chí Minh trên đường đi Nga, ghé qua Bắc Kinh, Mao Trạch Đông cũng để Hồ Chí Minh chờ vài tiếng đồng hồ mới tíếp. (24)— Nhà thơ Việt Phương từng là vụ trưởng vụ tổng hợp phủ thủ tướng, rất thân cận với Phạm Văn Đồng. Đầu thập niên 1970, ông theo Lê Thanh Nghị sang Âu Châu, về nhà làm tập thơ Mở Cửa, trong đó có những câu:
Ta nhất quyết đồng hồ Nga Xô tốt hơn đồng hồ của Mỹ Hình như đây là ý chí, niềm tin và tự hào Mường tượng rằng trăng Trung Quốc đẹp hơn trăng nước Mỹ Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời nhưng ngờ nghệch làm sao Năm xưa ta vô tình tô thắm cuộc đời để mà tin Nay đã tin mà không cần tô thắm gì nữa cả Quen thuộc rồi mối bất ngờ kỳ lạ Ta đã trả giá rất đau và đã học nhìn.
Thật ra không riêng Phạm Văn Đồng ngậm miệng thủ thân. Trước thế lực của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp cũng ngậm miệng khi làm bộ trưởng quốc phòng mà các thuộc cấp (như cục trưởng tác chiến, quân báo…) bị bắt oan. Ngay cả Hồ Chí Minh, khi bí thư cũ của ông là Vũ Đình Huỳnh bị bỏ tù oan ức trong vụ án xét lại, ông ta vẫn làm lơ, không can thiệp (25)— Trích trong hồi ký của Dương Nghiệp Chi đăng trên báo Khánh Hòa (www.timtatca.com, key word: Nguyen Chi Vinh) (26)— Khổng Minh Du, sau lên thiếu tướng, cục trưởng cục cảnh sát A25 phụ trách kiểm soát báo chí, cũng đã in thơ. Cuốn thơ được giải nhất văn nghệ của…Bộ Công An, trong đó có những câu: “Có một thời như thế. Xếp hàng mua bia hơi. Đổ vào chai ngâm bể. Chờ đón bạn xa về”. (27)— Con gái Lê Duẩn là Lê Vũ Anh du học Nga, cãi lời cha ở lại lấy ông thày người Nga tên Marlov, sau đó bị tai nạn xe cộ. Người ta đồn cái chết này do Lê Đức Thọ ra lệnh để giữ uy tín cho lãnh tụ, giống như Lê Đức Thọ đã cho giết Nông Thị Xuân. byLê Tùng Châu
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:15:43 GMT 9
Nội tình cuộc gặp gỡ Thành Đô của các nhà lãnh đạo Trung - Việt: Nguyễn Văn Linh bỏ qua Nguyễn Cơ Thạch gặp Giang Trạch Dân Lý Nguyên dịch Bài viết này cho biết một số chi tiết dẫn đến bước ngoặt trong quan hệ Việt – Trung nửa cuối thập niên 80, sau hơn một thập kỉ đối đầu. Đây là cái nhìn từ phía Trung Quốc, công bố trên báo chí Trung Quốc. Chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả như một luồng thông tin tham khảo. talawas Sau khi hai nước Trung - Việt đối lập 13 năm, một cuộc gặp gỡ có tính lịch sử - cuộc gặp gỡ Thành Đô - đã phá vỡ tảng băng cứng ngoại giao, tiến một bước chắc chắn thực hiện bình thường hóa quan hệ hai nước. Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung - Việt xuất hiện ánh bình minh Năm 1975, sau khi chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, Lê Duẩn và một số người lãnh đạo Việt Nam lúc đó không kịp thời chữa chạy vết thương do chiến tranh mang lại mà đã triệt để xa rời đường lối của Hồ Chí Minh; đối nội cưỡng bức thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa quá tả tại miền Nam, đối ngoại cậy vào sự giúp đỡ của Liên Xô, thực hiện chủ nghĩa bá quyền khu vực. Dưới dự dẫn dắt của đường lối đó, một mặt Việt Nam chống Trung Quốc, một mặt tăng cường khống chế Lào rồi phát động xâm lược vũ trang Cămpuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam đến bên bờ của sự tan vỡ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa bao giờ có. Tháng 7 năm 1986, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) lâm bệnh qua đời. Tháng 12 cùng năm, Nguyễn Văn Linh được Đại hội lần thứ sáu ĐCSVN bầu làm Tổng Bí thư. Trong những năm 60 thời kỳ chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam, Nguyễn Văn Linh là thành viên của Trung ương Cục miền Nam của ĐCSVN, đã từng nhiều lần bí mật sang thăm Trung Quốc; Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cho rằng ông là người kế thừa có hy vọng nhất của Việt Nam. Sau khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành đường lối đối nội, đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo lúc đó, đã từng bị chèn ép. Khi giữ chức Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Linh nhanh chóng uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng, đối với Việt Nam, hai nhiệm vụ cấp bách đương thời là phải rút quân đội khỏi Cămpuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng do thân tín của Tổng Bí thư khóa trước, ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch nắm quyền tại Bộ Ngoại giao, tiếp tục làm việc theo tư duy của Lê Duẩn, trăm phương ngàn kế quấy rối và ngăn cản bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Còn Nguyễn Văn Linh với tư cách là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, trong tầng nấc quyết sách trung ương còn chưa có gốc rễ sâu chắc, một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hắc búa và đau đầu mà lại cần phải giải quyết. Kaysone thăm dò đường, Nguyễn Văn Linh gặp Trương Đức Duy Tháng 10 năm 1989, Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Cách mạng Nhân dân Lào kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào thăm Trung Quốc. Trước yêu cầu nhiều lần của ông, Trung Quốc bàn luận quyết định mời Đặng Tiểu Bình hội kiến ngắn, có tính lễ tân. Không ngờ hai nhà lãnh đạo đã có cuộc nói chuyện dài bốn mươi phút, hơn nữa còn bàn tới những vấn đề thực chất vô cùng quan trọng. Kaysone thành khẩn thừa nhận, hơn mười năm qua quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường, là do chịu “ảnh hưởng bên ngoài”, lần thăm Trung Quốc này là tiêu chí hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai đảng, hai nước. Đồng thời Kaysone còn chuyển lời hỏi thăm Đặng Tiểu Bình của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng mời ông thăm Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình cũng nhờ Kaysone chuyển lời hỏi thăm của ông tới Nguyễn Văn Linh đồng thời nói, hy vọng trước khi ông nghỉ hưu hoặc nghỉ hưu không lâu vấn đề Cămpuchia có thể được giải quyết, quan hệ Trung - Việt được khôi phục bình thường. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh, Việt Nam phải rút hết, rút triệt để quân đội khỏi Cămpuchia. Ông đề nghi Kaysone chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu xa: “Nguyễn Cơ Thạch, con người này thích giở trò vặt.” Trên đường về nước Kaysone dừng lại thời gian ngắn tại Việt Nam, chuyển tới Nguyễn Văn Linh những lời của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh càng có thể hội thiết thân về việc “giở trò vặt” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông ý thức được, dù Đặng Tiểu Bình chỉ chuyển lời, nhưng vẫn chưa đưa ra lời mời ông thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm thế nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông phải giải quyết gấp. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, dưới sự cố gắng của nhiều phía, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, tại phòng khách Trung ương ĐCSVN. Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn không giống luận điệu cũ chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. Dự đoán dụng ý để Nguyễn Cơ Thạch tháp tùng hội kiến rất có khả năng là để ông ta trực tiếp nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư đã nói những gì, cũng có thể lúc đó đối với ông ta vẫn còn một tia hy vọng, để cho ông ta có một cơ hội thay đổi cách làm. Tuy nhiên do có mặt Nguyễn Cơ Thạch nên Nguyễn Văn Linh cũng không nói hết ý. Sau khi kết thúc hội kiến, Trương Đức Duy lập tức báo cáo tỉ mỉ nội dung nói chuyện của Nguyễn Văn Linh về Trung Quốc, nhanh chóng nhận được trả lời, vẫn là yêu cầu Việt Nam phải nhanh chóng rút quân khỏi Cămpuchia, đồng thời giải quyết tốt vấn đề liên hiệp sau khi rút quân, hai bên đối lập Cămpuchia, tức chính quyền Phnom Penh với lực lượng ba phái chống đối, sau đó sẽ dần dần từng bước và sắp xếp rõ ràng rành mạch cuộc gặp gỡ người lãnh đạo hai nước. Nhân sĩ bí mật xuất hiện trước sứ quán đưa mật thư Sáng ngày 16 tháng 8 năm 1990, một quan chức Viện Khoa học Xã hội Việt Nam họ Hoàng (con trai Hoàng Văn Hoan) đến Đại sứ quán Trung Quốc gặp Trương Đức Duy và đưa một mật thư, rồi tiện thể nhắn thư miệng của Nguyễn Văn Linh: ông quyết bỏ qua Nguyễn Cơ Thạch, trực tiếp gặp người lãnh đạo Trung Quốc. Tối ngày 19 tháng 8, sứ quán nhận được trả lời từ trong nước. Trong nước chỉ thị Trương Đức Duy tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người đáng tin cậy bên cạnh Nguyễn Văn Linh, đề xuất đại sứ muốn một ngày gần đây một mình gặp Nguyễn Văn Linh để trực tiếp hiểu được ý đồ chân thực của Nguyễn, lập tức báo cáo kết quả về Bộ. Thế là Trương Đức Duy quyết định thông qua kênh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Lê Đức Anh thử xem sao. 8 giờ sáng ngày 21, Trương Đức Duy ngồi trên một chiếc ôtô du lịch không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Trương Đức Duy đi thẳng vào vấn đề, nói vắn tắt những điểm chính lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mà hôm kia Hoàng Nhật Tân đã chuyển tới ông ta, biểu thị bản thân mình rất muốn trực tiếp nghe ý kiến của Tổng Bí thư, mong Lê Đức Anh giúp đỡ liên hệ. Lê biểu thị sẽ lập tức làm ngay. Ngay chiều hôm đó, Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng Cục đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam khẩn cấp nói với tùy viên quân sự Trung Quốc tại Việt Nam là Triệu Nhuệ rằng: 7 giờ rưỡi sáng ngày 22, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Trương Đức Duy tại Nhà khách Bộ Quốc phong, cả hai bên đều không mang phiên dịch, kiến nghị Trương Đức Duy đổi ngồi một xe khác, không cắm quốc kỳ. Sau khi trở về sứ quán, tùy viên quân sự Triệu lập tức báo cáo với Trương Đức Duy. Cuộc gặp gỡ bí mật Thành Đô Sau khi biết được ý đồ chân thực của Nguyễn Văn Linh, Trương Đức Duy lập tức báo cáo nội dung nói chuyện của ông về trong nước. Chiều ngày 28 tháng 8, sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Trương Đức Duy chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9 năm 1990, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng cùng đi. Do Á vận Hội sắp cử hành ở Bắc Kinh, để tiện bảo mật, nên sắp xếp địa điểm hội đàm tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Qua sự sắp xếp của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều ngày 29, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã hội kiến Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trương Đức Duy chuyển lời mời thăm nội bộ Trung Quốc của Giang Trạch Dân và Lý Bằng tới Nguyễn và Đỗ. Nguyễn và Đỗ biểu thị tiếp nhận lời mời, đồng ý thời gian và địa điểm do phía Trung Quốc đề xuất, đồng thời nói sẽ báo ngay với Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định họ tên những người cùng đi, bắt tay chuẩn bị công việc. Ngày 30, Trung Quốc thông báo cho đại sứ quán sắp xếp đại thể chương trình làm việc, tức sáng ngày 3 tháng 9 chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ chiều đến Thành Đô, buổi chiều người lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mời tiệc. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Qua thỉnh thị và được đồng ý, Trương Đức Duy sẽ tháp tùng chuyên cơ Việt Nam đến Thành Đô, tham dự hội đàm. Sau khi từ Thành Đô trở về, Trương Đức Duy nói, lãnh đạo hai nước trong gặp gỡ chủ yếu thảo luận vấn đề giải quyết chính trị xung đột Cămpuchia như thế nào và vấn đề khôi phục quan hệ bình thường Trung - Việt. Về vấn đề Cămpuchia, hai bên chú trọng bàn sau khi Việt Nam rút quân, tổ chức thành lập Ủy ban Tối cao Quyền lực Lâm thời Cămpuchia, tức phương án phân phối quyền lực. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này do 13 đại biểu tổ thành, ngoài hoàng thân Sihanouk ra, chính quyền Phnom Penh có 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối do Dân chủ Cămpuchia (Khmer Đỏ), Rananit và Son Sann, ba phái mỗi phái hai đại biểu, cộng là 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh biểu thị có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân hoàng thân Sihanouk cũng thuộc về lực lượng chống đối, như thế là tỷ lệ đại biểu hai bên là 6 trên 7, lực lượng chống đối nhiều hơn một ghế, dự đoán phía Phnom Penh tiếp nhận sẽ có khó khăn; Phạm Văn Đồng nói phương án của phía Trung Quốc vừa không công bằng cũng vừa không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý theo phương án do phía Trung Quốc đề xuất làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. Về quan hệ Trung - Việt, hai bên đều giữ thái độ hướng về phía trước, không lật lại nợ cũ. Sau khi kết thúc gặp gỡ, những người lãnh đạo hai nước ký “Kỷ yếu hội đàm”. Với suy nghĩ sâu xa, Giang Trạch Dân trích dẫn hai câu thơ của nhà thơ Giang Vĩnh đời nhà Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại; tương kiến nhất tiếu mân ân cừu” (dịch nghĩa: qua hết sóng gió anh em vẫn còn; gặp nhau cười một cái [là] quên ân oán). Tối hôm đó Nguyễn Văn Linh cũng xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền; oán hận khoảnh khắc hóa vân yên; tái tương phùng thời tiếu nhan khai; thiên tải tình nghị hựu trùng kiến” (tạm dịch nghĩa -vì không có nguyên bản: anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ, trong khoảnh khắc oán hận biến thành mây khói; gặp lại nhau cười rạng rỡ, tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại). Một năm sau gặp gỡ Thành Đô, tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư mới của ĐCSVN Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mới Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Người lãnh đạo hai nước công bố tuyên bố chung, tuyên bố quan hệ Trung - Việt bình thường hóa. Tháng 2 năm 1999, người lãnh đạo Trung Việt công bố “Tuyên bố chung”, xác định khuôn khổ phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói ngắn gọn là 16 chữ “ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu hảo, hợp tác toàn diện”.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:23:01 GMT 9
Lê Xuân Khoa Thông điệp chính trị Võ Văn Kiệt Võ Văn Kiệt, nguyên (nay là cố) Thủ tướng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã từ biệt cõi trần được tròn một tháng. Những lời bình luận sôi nổi, tích cực hay tiêu cực, về con người và sự nghiệp của ông, cũng đã thưa dần và lắng đọng. Như vậy, công việc “cái quan luận định” từ nay có thể được tiếp nối một cách bình thản và khách quan hơn về một nhân vật đã đóng những vai trò quan trọng trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc có nhiều biến cố và nhiều thách thức nhất. Qua dư luận trong và ngoài nước, kể cả Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc và một số chính khách quốc tế, ông Võ Văn Kiệt đã được đánh giá là người cộng sản đổi mới tư duy sớm nhất khi còn là Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, là kiến trúc sư của tiến trình thay đổi từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, và là một trong những người chủ trương và thực hiện việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và các nước Tây phương, cũng như việc Việt Nam gia nhập Hiệp hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN). Từ ngày về hưu, ông Kiệt đã không ngừng thúc giục chính quyền ban hành những biện pháp cởi mở về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. “Thái độ trung thực và có trách nhiệm, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” mà ông dùng làm phương châm [1] đã gây cho ông nhiều trở ngại sau này trong việc phổ biến thông tin và thực hiện dự án cụ thể. Võ Văn Kiệt là người lãnh đạo cộng sản đầu tiên thực hiện hòa giải dân tộc qua việc mời trí thức, chuyên gia của chế độ cũ (Việt Nam Cộng hòa) hợp tác tư vấn về kinh tế ngay từ những năm cuối thập kỷ 1970. Trong thời gian gần đây, ông đã nhận định về kết quả cuộc chiến tranh khốc liệt hai mươi năm là “có hàng triệu người vui nhưng cũng làm cho hàng triệu người buồn”. Ông mạnh dạn lên tiếng xác nhận lòng yêu nước của những người không cộng sản và sự cần thiết “đối thoại sòng phẳng” với những người bất đồng chính kiến. Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận những chính sách sai lầm của Nhà nước sau ngày đất nước thống nhất về cải tạo công thương nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp, về cải tạo sĩ quan và công chức miền Nam, cưỡng bức dân đi kinh tế mới, và về hiện tượng thuyền nhân như là “những vết thương trên cơ thể đất nước, để lại những di chứng trong tâm hồn của không ít đồng bào ta”. [2] Về mặt tiêu cực, ông bị chỉ trích là người chịu trách nhiệm, ít nhất là một phần, về những quyết định sai lầm, những chính sách độc đoán, phản dân chủ của Đảng và Nhà nước cộng sản. Cụ thể là trong thời gian ông làm Thủ tướng đã có những bản án bất công và nặng nề dành cho những trí thức tranh đấu ôn hòa cho nhân quyền và dân chủ như Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Luật sư Đoàn Thanh Liêm, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Giáo sư Nguyễn Đình Huy. Hành động phản dân chủ được nhắc đến nhiều nhất là việc ông Kiệt đã ký Nghị định 31/CP vào tháng Tư năm 1997 ban hành biện pháp quản chế hành chánh, thực tế là giam giữ tại gia, không xét xử, nhằm ngăn chặn hoạt động của những người tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ. Tất cả những lời khen và chê trên đây đều là những nhận định có cơ sở đã được nhiều người nói đến với dẫn chứng cụ thể, không cần phải lặp lại ở đây. Lời chê trách được nói đến nhiều nhất là ông Kiệt đã chỉ dám nói lên sự thật và đưa ra những đòi hỏi chính đáng khi ông không còn nắm giữ quyền hành. Tuy nhiên điều này cũng dễ giải thích vì dưới chế độ đôc tài cộng sản, trừ những “siêu lãnh tụ” như Stalin, Mao Trạch Đông hay Kim Nhật Thành, không có một nhân vật lãnh đạo nào có toàn quyền quyết định về mọi vấn đề của đất nước. Ngay cả Hồ Chí Minh, vì đã không tự xây dựng cho mình thành một lãnh tụ độc đoán trong bộ máy Đảng và Nhà nước, cũng đã mất dần ảnh hưởng vào những năm cuối của cuộc đời. Sau Lê Duẩn và Trường Chinh, không có một Tổng Bí thư nào có đủ uy tín và đảm lược để xác định một hướng đi mới cho Việt Nam ngang tầm với Đặng Tiểu Bình hay ngay cả Giang Trạch Dân ở Trung Quốc. Trong cơ chế lãnh đạo tập thể ở Việt Nam từ những năm 1980, bất cứ một cấp lãnh đạo nào không thể hay không chịu thích ứng với những quyết định của tập thể, chắc chắn sẽ sớm bị loại ra ngoài vòng ảnh hưởng. Trường hợp Trần Xuân Bách năm 1990 và Nguyễn Cơ Thạch năm 1991 là những thí dụ cụ thể. Bởi vậy, một số biện pháp cục bộ có tính cách “xé rào” về đổi mới kinh tế của Võ Văn Kiệt trong vai trò Bí thư Thành ủy TP HCM hay một văn kiện như “Thư gửi Bộ Chính trị” năm 1995 để chuẩn bị Đại hội VIII giữa lúc ông đang làm Thủ tướng, đều đáng được coi là những hành động can đảm. Trong “Thư gửi Bộ Chính trị”, ông Kiệt đã nhấn mạnh đến nhu cầu “phải vươn ra thế giới bên ngoài để tồn tại và phát triển, để lấy lại thời cơ đã mất và đuổi kịp các nước chung quanh”. Ông nói thẳng là “(nếu) rụt rè bỏ lỡ cơ hội này, sẽ là thảm họa cho đất nước”. Về phát triển kinh tế, ông chống lại chủ trương để cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo vì “điều này hoàn toàn không đúng”. Ông nhấn mạnh đến “một vấn đề không thể tránh né là chúng ta phải thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh”. Ông phản biện lời cảnh báo về “nguy cơ chệch hướng”, khẳng định rằng nguy cơ này thật ra “đang ẩn náu trong nhiều hiện tượng kinh tế xã hội… Đó là tình trạng làm ăn trái pháp luật, tham nhũng, tiêu cực đang trở thành ‘quốc nạn’”. Về nhu cầu cải tổ hành chánh để quản lý đất nước có hiệu lực, ông Kiệt nêu ra một loạt những vấn đề đáng lo ngại do “buông lỏng quản lý nhà nước” bao gồm “tình trạng tham nhũng, tình trạng buôn lậu, trốn thuế, tình trạng móc ngoặc ở trong nước hoặc với nước ngoài trong kinh tế, tình trạng chồng chéo ách tắc trong điều hành và quản lý đất nước, rừng núi tài nguyên bị tàn phá trong thời bình, môi trường tự nhiên đang bị xâm phạm nghiêm trọng, cơ sở hạ tầng nhiều nơi không được gìn giữ, tình trạng dân kêu oan khiếu nại...” Ông đặt nặng yêu cầu “phải đoạn tuyệt với cơ chế ‘chủ quản’ và… phải làm đúng chức năng quản lý nhà nước”. Muốn vậy, “cần tăng cường quyền lực và khả năng hoạt động hữu hiệu của các cơ quan dân cử bao gồm Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp với nội dung: chú trọng tăng cường khả năng và quyền lực lập pháp của Quốc hội; tăng cường quyền lực và khả năng giám sát của hội đồng nhân dân. Không nên nhầm lẫn coi hội đồng nhân dân là những cơ quan lập pháp địa phương dưới Quốc hội”. Từ những yêu cầu phải thừa nhận thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, cải tổ bộ máy quản lý đất nước, tăng cường quyền lực của quốc hội cũng như của các hội đồng nhân dân, ông Kiệt nói rõ thêm là “phải vận dụng cơ chế kinh tế thị trường, phát huy mọi thành phần kinh tế trong xã hội và mở rộng kinh tế đối ngoại…” và thúc giục “phải tích cực phát triển hệ thống các luật pháp trong đó gấp rút nhất là Luật dân sự và Luật thương mại” . Cuối cùng, đề cập đến vấn đề xây dựng Đảng, trong cương vị của một đảng viên cộng sản nòng cốt và kỳ cựu, ông Kiệt đã nêu lên sự cần thiết phải “đặc biệt quan tâm nâng cao dân trí, giáo dục, phát huy và bảo vệ quyền công dân để phát huy sức mạnh của cả nước”. Đặc biệt là lời phát biểu khá táo bạo: “Chúng ta thảo luận nhiều về nguyên tắc ‘dân chủ tập trung’ hoặc ‘tập trung dân chủ.’ Tôi đề nghị bỏ cách suy nghĩ rất công thức như vậy.” Chỉ riêng mấy điểm trên đây cũng đủ cho thấy là ông Kiệt đã dám nói sự thật và đòi hỏi chính đáng trong khi ông đang làm Thủ tướng. Ông không có quyền tự ý quyết định nhưng đã dám đụng tới những “vùng cấm” của cơ chế và rõ ràng là ông đã đặt vấn đề trách nhiệm với tập thể lãnh đạo chứ không phải là tuyên bố mị dân do mệnh lệnh hay sự đồng tình của Bộ Chính trị. Rút kinh nghiệm từ những bài học Trần Xuân Bách và Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn Kiệt đã khôn khéo nhấn mạnh vào ý muốn cứu Đảng và Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa trước những thách thức mới của phát triển quốc gia và quan hệ quốc tế. Nhưng khi tình trạng trì trệ đã kéo dài quá lâu đòi hỏi phải tranh thủ thực hiện những biện pháp đổi mới thực sự thì “con người của hành động” cũng bắt buộc phải rời bỏ các chức vụ chính thức để chỉ còn được giao cho vai trò “cố vấn” hữu danh vô thực. Mặc dù vậy, Võ Văn Kiệt đã tuyên bố “chỉ rời nhiệm sở chứ không rời trách nhiệm” và tiếp tục công khai hóa những suy tư và đề nghị cải cách về kinh tế, chính trị và xã hội mỗi ngày một mạnh mẽ hơn. Bản “Báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi nãm đổi mới” do Trung ương Đảng soạn thảo để chuẩn bị đưa ra Đại hội X của Đảng năm 2006 đã cho ông Kiệt cơ hội gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh và khẳng định tầm nhìn chiến lược và những chiến thuật cụ thể trước “sứ mệnh rất nặng nề” của các nhà lãnh đạo là “lái con thuyền Việt Nam như thế nào trong dòng chảy lớn của sự phát triển thế giới trước mắt”. Ông nhấn mạnh: “Bây giờ chúng ta không thể chỉ đặt ra vấn đề của Việt Nam như chuyện trong nhà mà là chuyện ganh đua với thế giới để tồn tại và phát triển.” Trong phạm vi bài này, tôi sẽ không đi vào chi tiết trong bài “Đóng góp ý kiến” dài 28 trang của ông Kiệt vì chỉ tóm luợc những điểm then chốt trong tài liệu đã được phổ biến công khai đó. Tất cả những từ hay câu trong dấu ngoặc kép đều được lấy ra từ nguyên bản. Tư duy lạc hậu và xu hướng tả khuynh Trước hết, ông Kiệt đặt vấn đề cần phải “đổi mới trong tư duy” của lãnh đạo về một số khái niệm đã lỗi thời mà trong bản Báo cáo của Trung ương Đảng “những khái niệm đó được coi như chuyện đương nhiên, không được phân tích, phê phán, không làm sáng tỏ thêm nội hàm, mà hầu như giữ nguyên như cũ cách nhìn, cách định hình đã có trước đây rồi đưa vào hệ thống quan niệm hiện nay”. Theo ông, có một loạt khái niệm cần phải được “rà soát lại nội dung” mà điển hình là: Chủ nghĩa Mác-Lênin: cần “nghiên cứu, phân tích xem trong chủ nghĩa Mác-Lênin điều gì trước đây đúng và đến nay vẫn đúng, điều gì trước đây đúng nhưng nay không còn phù hợp nữa, điều gì ngay từ trước đã có sai sót…” Ông Kiệt nhận xét là không có đảng cộng sản nào nói rằng không đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin… nhưng mỗi đảng đi theo một con đường khác nhau, đảng này lại còn phê phán đảng kia là làm sai những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.” Tư tưởng Hồ Chí Minh: ông Kiệt không đặt vấn đề xét lại tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng nhấn mạnh rằng “thực tế ở rất nhiều nơi và đã rất nhiều lúc chúng ta vi phạm nghiêm trọng tư tưởng của Bác Hồ: đối với công thương gia, đối với trí thức, với các thân hào nhân sĩ, đối với các công chức lưu dụng, đối với việc tôn trọng quyền tự nguyện của nông dân, đối với việc phê và tự phê trong Đảng, đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc…” Về giai cấp công nhân, “chúng ta thường nói như một công thức rằng Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân.. . (Nhưng) giai cấp công nhân trong thực tế không biết và không có quyền được biết đội tiền phong của mình đang làm gì.” “Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay vẫn được nhắc lại như cũ. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi lại sẽ phạm vào những sai lầm trong việc bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến cái công thức kể trên như một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy.” Về khái niệm “tránh chệch hướng,” ông Kiệt phê phán “thói quen độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết.” Ông đưa ra một số thí dụ để chứng minh sự chệch hướng của con đường từng được Nhà nước coi là “duy nhất đúng hướng.” Ông châm biếm: “Sau một thời gian dài, phải trả giá rất nhiều, sự đúng hướng đó đi vào ngõ cụt đến mức không có khả năng đi tiếp theo cái “đúng hướng” đó nữa thì mới tỉnh ngộ ra và mới thừa nhận rằng những điều tưởng rằng đúng hướng lại là chệch, và cái tưởng chệch lại là đúng, mà hiện nay chúng ta đang đi theo.” Về nguy cơ “diễn biến hòa bình”, ông Kiệt cũng chỉ rõ tính cách lỗi thời của khái niệm này: “Cho đến nay, tình hình thế giới thay đổi rất nhiều. Những nước phương Tây điều chỉnh chủ trương, chính sách và biện pháp của nó hàng tháng, hàng năm. Không nên dùng một khái niệm chung chung, trừu tượng như thế để lượng định những nguy cơ từ những nước phương Tây.” Ông xác tín như thế sau khi đã “trao đổi với những người bạn quốc tế, đặc biệt là một vài người bạn có lúc ở cùng cảnh ngộ với ta trong khối ASEAN, đã hoặc đang ở trên những cương vị lãnh đạo cho phép họ nhìn nhận vấn đề một cách tỉnh táo và khách quan xuất phát từ bài học kinh nghiệm của chính họ và dân tộc họ đã trải qua, trao đổi với nhiều anh chị em trí thức trong nước và ở nước ngoài có hiểu biết và nhất là có sự tha thiết muốn góp phần vào sự phát triển đất nước.” Ông khuyến cáo: “Chúng ta phải thật tỉnh táo nhìn nhận lại vấn đề này, nhất là khi chúng ta đã dõng dạc tuyên bố với thế giới: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, muốn là đối tác tin cậy của tất cả mọi người.” Về quan hệ giữa các thành phần kinh tế, ông Kiệt chỉ trích thái độ “luôn luôn qui định kinh tế nhà nước phải là chủ đạo” vì nó mâu thuẫn với lời nói “xóa bỏ mọi sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế.” Ông nhận xét rằng “kinh tế nhà nước hiện nay rất yếu kém, nhiều khuyết tật. Một nền kinh tế nhiều thành phần mà thành phần nhiều khuyết tật nhất, kém hiệu quả nhất lại là chủ đạo.” Một lần nữa, ông chỉ trích việc “nhắc lại công thức như một thói quen để làm hài lòng những tư duy đường mòn bảo thủ, vừa muốn giữ lại cái cũ làm chỗ dựa, vừa bất lực trong việc giúp cho nền kinh tế được phát triển tối ưu.” Về những căn bệnh cố hữu là tham nhũng, quan liêu, phẩm chất sa sút của Đảng viên, ông Kiệt cảnh báo: “Đó quả là một nguy cơ lớn. Nhiều Đảng đã tan rã vì căn bệnh này.” Sau khi mổ xẻ những nguyên nhân sâu xa của căn bệnh, ông qui kết gốc rễ của nó là sự “thiếu dân chủ” trong quá trình tuyển lựa, sắp xếp nhân sự cho bộ máy của Đảng ở các cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, vì “sự chọn lọc, tuyển lựa cán bộ để đưa vào các cấp ủy không công khai, minh bạch trong quá trình dân chủ thảo luận của đại hội các cấp. Vì thiếu dân chủ cho nên sự tập trung đã trở thành tập trung quan liêu, dẫn tới sự chuyên quyền, độc đoán của một số tập thể nhỏ.” Ông mô tả hệ quả của tệ nạn này là “sự bị động tùy thuộc của cấp dưới tuân theo mọi quyết đoán từ bên trên, tạo ra tâm lý lựa gió xoay chiều cốt cho được việc theo ý của trên. Sự dối trá cũng khởi nguồn từ đây. Căn bệnh hình thức phô trương, bệnh thành tích phát triển từ đây. Sự tha hoá, biến chất của không ít cán bộ, đảng viên dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng, đánh mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng.” Sau vấn đề đổi mới tư duy là nhu cầu thay đổi “phương pháp tư duy ‘tả khuynh’, chủ quan, duy ý chí đã từng giữ vai trò chủ đạo. Chỉ khi nào phương pháp tư duy đó vấp phải những khó khăn, thất bại thì nó mới tạm thời rút lui, để luồng tư duy khách quan, giàu trí tuệ đóng vai trò chỉ đạo, sửa chữa sai lầm và khắc phục hậu quả.” Ông Kiệt chứng minh vòng lẩn quẩn sai, sửa sai, rồi lại sai từ thời mới thành lập Đảng cho đến nay, nhấn mạnh vào những kinh nghiệm đau thương thời cải cách ruộng đất ở miền Bắc, những chính sách đối xử tàn tệ với mọi thành phần dân chúng miền Nam trong nhiều năm sau ngày chiến thắng, và sự phục hồi của xu hướng giáo điều “tả khuynh” chỉ ba năm sau khi bị phê phán gay gắt và bị dẹp bỏ tại Đại hội VI năm 1986. Ông kịch liệt chỉ trích những lời phát biểu như “coi chừng chệch hướng”, “đổi mới nhưng không đổi màu” và tố cáo những hành động cản trở tiến trình phát triển, thậm chí “đã xuất hiện quan điểm lo ngại Việt Nam tham gia vào ASEAN, bảo lưu ý kiến không tham gia năm 1995” rồi sau này lại “không ký hiệp ước thương mại với Mỹ tại New Zealand, không vào WTO trước Trung Quốc.” Ông Kiệt kêu gọi Trung ương Đảng hãy “dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, phải chỉ ra được nguyên nhân và tác hại của phương pháp tư tưởng ‘tả khuynh’, giáo điều nói trên, tìm cách khắc phục nó. Đó phải là công việc không thể lẩn tránh của công tác tổng kết và lý luận.” Tới đây, ông Kiệt nêu ra một nghịch lý trong việc hành xử của thành phần bảo thủ và đổi mới. Nhiều người bảo thủ đã mắc phải những sai lầm tả khuynh nghiêm trọng, nhưng không bị phê bình, không bị kỷ luật và vẫn giữ được quyền uy bởi vì được đánh giá là “kiên định lập trường cách mạng.” Ngược lại, những người mạnh dạn đổi mới để phát triển thì lại “rất dễ bị chụp mũ là mất lập trường, chệch hướng, xa rời chủ nghĩa xã hội, ăn phải bả của tư bản. Ai bị quy kết như vậy thường khó chống đỡ hơn, thậm chí ảnh hưởng đến cả sinh mệnh chính tri. Do đó, xu hướng chung của đại đa số hiện nay là một mặt thì tuy đã nhận thức được con đường phải đi, mặt khác lại lo ngại những quy kết chệch hướng. Đó là lý do làm cho khuynh hướng bảo thủ tuy không nhiều nhưng sức hù dọa còn có ảnh hưởng. Bộ phận đổi mới, cải cách tuy chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng đông hơn, nhưng không đủ sức thu hút được đại đa số trước những sự hù dọa chệch hướng, mất Đảng, mất Chủ nghĩa xã hội.” Mặc dầu vậy, ông mong muốn Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Trung ương có được tính chất độc lập cao hơn nữa trong việc lựa chọn, phân tích và quyết định các vấn đề. “Trong sự lựa chọn này, sự can đảm, sự dũng cảm, thẳng thắn và kiên định là rất cần thiết.” Trong những trang kế tiếp, ông Kiệt thảo luận về những vấn đề và những thách đố trên địa hạt phát triển kinh tế. Rốt cuộc ông vẫn thấy tình trạng yếu kém, trì trệ và những khuyết tật trong sinh họat kinh tế tài chánh của Việt Nam đều phát sinh từ nguyên nhân cơ bản là tư duy và cơ chế lỗi thời, bất cập. “Có thể nói cả bộ máy quản lý, bộ máy hoạch định chiến lược và bộ máy tham mưu của chúng ta vẫn không thay đổi bao nhiêu, vẫn rất già cỗi về mặt cơ chế và về phương pháp tư duy. Đã có nhiều cán bộ tâm huyết lo âu đặt tên cho tình trạng đó là tình trạng ‘nhũn não.’ Đó là một nguy cơ lớn của đất nước.” Và ông Kiệt lại nhắc đến những sự hù dọa chệch hướng của chính những người đã thực sự chệch hướng vì không định hướng đúng. “Trong nguy cơ ‘nhũn não’ này, có vấn đề quan hệ giữa chính trị và khoa học. Các nhà nghiên cứu của ta hiện nay vẫn bị ám ảnh bởi thân phận không mấy tốt đẹp trước đây của những người có tư duy độc lập. Cách đối xử của lãnh đạo đối với khoa học vẫn chưa khắc phục hết tình trạng đặt hàng, viết theo những ý kiến chỉ đạo trước. Mối quan hệ đó hạn chế khả năng tìm tòi, khai phá, mà rút cuộc là có hại cho Đảng.”
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:24:17 GMT 9
Những đề nghị cụ thể về chiến lược phát triển
Trong một mục ở phần cuối của bản góp ý, ông Kiệt đưa ra ba ý kiến mà ông gọi là “gợi mở” về chiến lược phát triển bền vững gồm có: thay đổi phương thức tình báo kinh tế, hình thành một mạng lưới lobby, (có một đoạn nói về Việt kiều như một chỗ dựa quan trọng), và dọn dẹp môi trường kinh tế trong nước. Về điểm này, ông nói đến “một số hiện tượng gây ô nhiễm môi trường kinh tế, trong đó không chỉ có tình trạng tham nhũng mà còn có những trục trặc về thể chế, về luật pháp, về tập tục.
Sau hết là “Một số gợi ý về chủ trương để tham khảo” (thực chất là các đề nghị cụ thể) về các lãnh vực chính trị đối nội, đối ngoại và phát triển kinh tế. Ở đây, tôi chú trọng nhiều hơn đến lãnh vực chính trị.
Về đối nội, ông chỉ có một đề nghị duy nhất, rõ ràng nhưng ngắn gọn: Phải rèn tập cho xã hội Việt Nam thói quen của đời sống dân chủ. Có lẽ vì tình hình còn phức tạp và vấn đề còn quá nhạy cảm với những đầu óc lãnh đạo bảo thủ, ông chỉ khai triển ý “gợi mở” này trong một đoạn: “Trong đó (đời sống dân chủ) quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu… cần được mở rộng hơn nữa. Hiện nay, có nhiều vấn đề thực ra không còn đáng coi là húy kỵ nữa, nhưng vẫn là nghiêm cấm đối với giới nghiên cứu. Tại sao ở Trung Quốc có thể làm phim về thời Cách mạng văn hóa mà ở Việt Nam không thể viết chuyện, làm phim về thời kỳ cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản. Văn kiện công khai của Đảng đã phê phán những sai lầm đó. Sự kiêng kị này sẽ có tác hại giống như một con người không quen với sương gió, bị giam kín lâu ngày trong nhà, khi đi ra đường rất dễ bị cảm cúm. Chúng ta phải từng bước tháo gỡ những kiêng kị. Phải làm sao để cho xã hội Việt Nam có sức đề kháng cao với việc phê phán tất cả những sai trái. Những húy kị hiện nay tưởng là cách bảo vệ tốt cho hệ thống chính trị của chúng ta, thực ra nó là một cách giữ gìn có tính cách bị động, không tháo gỡ ra mà chỉ che dấu sự thật, tạo thêm ra những ung nhọt trong nội bộ.”
Về quan hệ quốc tế, có hai đề nghị trực tiếp liên quan đến vấn đề được thảo luận khá sâu và cũng được đề cập cả trong những đề nghị chiến lược về phát triển kinh tế. Trước hết là: Thay đổi chỗ dựa quốc tế, nói đúng hơn là thay đổi cách dựa trong quan hệ quốc tế. Ông Kiệt nhắc đến chỗ dựa của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp là Liên Xô và Trung Quốc. Trong chiến tranh chống Mỹ, ngoài phe xã hội chủ nghĩa, Việt Nam còn có thêm chỗ dựa là phong trào giải phóng dân tộc và một chỗ dựa quan trọng bất ngờ là phong trào phản chiến ở ngay các nước tư bản chủ nghĩa. Nhưng tình thế ngày nay đã đổi khác. Ông viết, “Ngày nay, khi thế giới hai cực không còn nữa thì Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác khó còn có thể tìm được một chỗ dựa cụ thể ở một nước nào, một phe nào. Chỗ dựa và cách dựa bây giờ khác đi. Bây giờ không phải đi tìm một cường quốc nào đó, mà là cài đặt những lực lượng khác nhau vào một thế thuận lợi cho Việt Nam. Cách đó nhiều nước đã làm.” Ông kể ra trường hợp Nhật Bản, Trung Quốc và Tây Âu. Ông đề nghị tìm cho Việt Nam một cái thế quốc tế tối ưu cho mình, thí dụ tìm cách lôi kéo một số đại công ty ở phương Tây có tầm ảnh hưởng lớn đến chính sách đối nội cũng như đối ngoại của những nước mà công ty mang quốc tịch. Nhưng muốn làm được những chuyện như vậy, “cần phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi, có tri thức rất tốt về tình hình quốc tế, biết tính toán rất kỹ các phương án.”
Đề nghị thứ nhì là: Rất cần chú ý tới mối liên kết chặt chẽ với các nước khối ASEAN, vì Việt Nam chỉ có ASEAN là chỗ dựa trực tiếp. Ngoài quan hệ kinh tế, cần tạo ra lợi ích trong các quan hệ văn hóa và chính trị. Ông cho rằng khi cần Việt Nam có thể chịu thiệt một phần nào lợi ích kinh tế để kiếm những cái lợi lớn hơn. Có lẽ ông muốn nói đến những lợi ích về chủ quyền lãnh thổ, về hợp tác quân sự, an ninh trong khu vực…
Một gợi ý khác khá đặc biệt của ông Kiệt là Khai thác tiềm lực có sẵn với cách nhìn mới. Ông nói đến một nguồn tài nguyên, một “tiềm lực” rất to lớn đã có sẵn nhưng đang bị tham nhũng chiếm đoạt, cần phải “giành lại ngay cho đất nước, cho nhân dân, cho nền kinh tế, cho xã hội.” Nguồn tài nguyên này là những giá trị trí tuệ đang “bị đánh cắp một cách phi pháp.” Khác với loại tham nhũng của cải vật chất, đây là loại tham nhũng về danh tước, về những địa vị cao bằng cách chạy vạy, mua bán. Đã có rất nhiều danh vị tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ dỏm chiếm được những địa vị có ảnh hưởng. “Đưa những con người như thế vào các vị trí điều hành đất nước, điều hành những cơ quan ở cấp đầu não của quốc gia thì thật là nguy hiểm.”
Sau bài Đóng góp ý kiến gửi cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiều tháng trước Đại hội X năm 2006, cho đến trước khi ông mất, Võ Văn Kiệt còn viết và trả lời phỏng vấn về nhiều vấn đề bức xúc và nhạy cảm khác, hầu hết đều khai triển rộng rãi, cụ thể và táo bạo hơn những ý kiến đã phát biểu trong bài Góp ý nói trên và trong Thư gửi Bộ Chính trị mười năm trước đó. Mặc dù tuổi đã cao, ông vẫn chịu khó đi nhiều nơi, từ Nam ra Bắc, tiếp xúc với đủ mọi thành phần dân chúng, từ trí thức cho đến công nhân, nông dân, và nói lên những yêu cầu chính đáng của số đông thầm lặng. Mặc dù không còn ở trong chính quyền, ông đã được sự ngưỡng mộ của số đông và đã đem lại cho họ niềm hi vọng. Ông đã trở thành một điểm tựa và nguồn cảm hứng cho mọi người, đặc biệt là giới trẻ, quan tâm đến vận mệnh tương lai của dân tộc. Bởi vậy, sự ra đi vĩnh viễn của ông đã là một mất mát rất lớn cho những nỗ lực xây dựng dân chủ và hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”
*
Tôi đã chú ý đến Võ Văn Kiệt và có những suy nghĩ khác nhau về ông từ đầu thập kỷ 1980 khi tôi còn đang làm công việc vận động cho đồng bào tị nạn cho đến thời gian rất gần đây, trước khi ông mất. Trong những năm đầu, tôi đã coi ông Kiệt là một lãnh tụ cộng sản đã phạm phải những sai lầm độc hại về chính trị và kinh tế đối với các bộ phận dân chúng miền Nam, đày đọa hàng trăm ngàn người trong các trại tù cải tạo, hàng chục ngàn gia đình trong những vùng kinh tế mới, gây nên thảm họa thuyền nhân biển Đông kéo dài gần hai mươi năm. Sau này được biết ông sớm có tư duy đổi mới, dám sử dụng trí thức chuyên gia của chế độ cũ làm tư vấn và mở đường cho những cuộc “xé rào” trong sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, phân phối lưu thông để cứu vãn phần nào tình trạng kiệt quệ về kinh tế lúc bấy giờ, tôi vẫn thấy là ông phải chia sẻ trách nhiệm với lãnh đạo trung ương về những sai lầm tai hại của Đảng và Nhà nước từ ngày đất nước thống nhất cho đến khi bắt đầu thời kỳ đổi mới năm 1986.
Trong mười sáu năm tham dự vào bộ máy quyền lực tối cao từ 1982 đến 1997, lần lượt giữ những chức vụ Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Thủ tướng và Thủ tướng Chính phủ, ông Kiệt đã lập được thành tích quan trọng là ổn định đời sống kinh tế trong nước khi nạn lạm phát đã tăng tới 774 phần trăm sau cuộc chiến tranh với Trung Quốc và những biến động làm sụp đổ chế độ ở các nước Đông Âu và Liên Xô, nguồn ngoại viện duy nhất của chế độ. Về mặt đối ngoại, ông cũng đóng góp rất thành công vào việc tái lập quan hệ bình thường với Trung Quốc, vận động Mỹ bỏ cấm vận, gia nhập khối ASEAN và thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Những thành tích to lớn ấy sở dĩ đạt được là do tư duy đổi mới của ông Kiệt, nhưng ông vẫn chỉ chú trọng vào đổi mới kinh tế trong khi còn nhẹ nhàng chậm chạp về đổi mới chính trị. Mặc dù từ năm 1995, trong “Thư gửi Bộ Chính trị”, ông đã kêu gọi xây dựng “nhà nước pháp quyền” để mọi người có thể “sống và làm việc theo pháp luật” với sự tăng cường quyền lực lập pháp của Quốc hội và quyền lực giám sát của hội đồng nhân dân, bãi bỏ cơ chế “chủ quản” ở các ngành, ông vẫn chưa đề cập đến dân chủ đa nguyên, đa đảng. Ngay cả những quyền tự do căn bản của nhân dân, cũng phải đến thời gian gần đây mới được ông lên tiếng, như yêu cầu mở rộng quyền tự do báo chí, tự do ứng cử, đối thoại với những người bất đồng chính kiến (để tiến tới chấp nhận đảng đối lập?).
Từ sau khi rời bỏ chính quyền, ông Kiệt đã thực hiện lời nói “chỉ rời nhiệm sở chứ không rời trách nhiệm.” Ông tiếp tục tham khảo, luận bàn với các trí thức cũ, mới, trong và ngoài nước để có thể cố vấn cho Đảng và Nhà nước về những chính sách và chương trình phát triển, “đi thực tế” các nơi để tìm hiểu các vấn đề và nguyện vọng của dân chúng địa phương, khuyến khích và hỗ trợ cho những dự án có lợi ích cho xã hội. Trước những thời cơ và thách thức mới về phát triển và hội nhập toàn cầu, ông càng nóng ruột và lo âu về tình trạng suy đồi trầm trọng của Đảng cả về tổ chức lẫn khả năng và phẩm chất của đảng viên các cấp, nhất là tình trạng tham nhũng, cửa quyền đã quá sâu rộng và trở thành quốc nạn. Do đó, tiếng nói của ông càng mạnh bạo và thúc bách hơn như đã thấy rõ trong bài “Góp ý” trước Đại hội X và những bài viết hay trả lời phỏng vấn trong những thời gian gần đây. Có những dấu hiệu cho thấy ông đã bị phe “tả khuynh” tìm cách hạn chế việc phổ biến các bài viết và lời phát biểu của ông, ngăn cản việc thực thi những đề án có tính đột phá vì lợi ích lâu dài cho đất nước. Những biện pháp mạnh tay của Nhà nước đối với những công dân đòi hỏi công bằng xã hội, tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền, và ngay cả chống tham nhũng, đã đi ngược lại những khuyến cáo “trung thực và có trách nhiệm” của ông. Một nhà báo ở trong nước, nhận xét về bài viết của ông Kiệt vài tháng trước đây về tình cảnh bị bóc lột của công nhân và nông dân lao động, đã phát biểu: “Tôi nghĩ rằng đó là con chim báo bão mà trong hoàn cảnh nào đó người ta có thể qui chụp ông Võ văn Kiệt theo chủ nghĩa xét lại.” Có người còn lo ngại rằng nếu ông cứ tiến tới với thái độ “dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” thì có thể ông sẽ không tránh khỏi bị đối xử như các ông Trần Độ hay Hoàng Minh Chính.
Tổng kết nhận định về sự nghiệp của Võ Văn Kiệt, chúng ta thấy ông đã có những thành tích to lớn trong tiến trình đổi mới kinh tế và hội nhập với cộng đồng thế giới. Ông không chịu ngủ yên trên thành tích mà vẫn tích cực theo đuổi mục tiêu phát triển đất nước. Ông cũng đã có những nỗ lực, dù còn khiêm tốn, thúc đẩy tiến trình xây dựng dân chủ, mở rộng những quyền tự do căn bản cho người dân, nhưng ông đã vấp phải những trở ngại to lớn trên địa hạt này. Dù sao, ông sẽ không bao giờ bỏ cuộc và kiên quyết tìm cách vượt qua những trở ngại đó. Đúng như nhận định của ông Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam: “Anh Kiệt là con người năng động, luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi và làm việc hết sức mình. Có thể nói anh Kiệt là người dám nghĩ, dám quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám tư phê bình.” [3]
Rất tiếc là định mệnh đã không để cho ông tiếp tục phục vụ đất nước và dân tộc. Ông Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, cũng phát biểu rất thẳng thắn khi nghe tin ông Kiệt đã mất: “Việc ra đi của ông là một sự mất mát lớn. Ông Kiệt còn sống thì còn giúp nhiều cho đất nước bởi ông là người có kinh nghiệm, lại nhiều suy nghĩ trăn trở với tình hình đất nước, luôn thẳng thắn và không sợ ai.” [4]
Võ Văn Kiệt đã để lại một công trình dang dở. Công trình dang dở ấy của một chính tri gia giàu kinh nghiệm và nhiều trăn trở với tình hình đất nước, lại có tới năm cái “dám” trong suy nghĩ và hành động như được ca ngợi trên đây bởi hai nhà lãnh đạo cao cấp nhất không còn giữ quyền lực nhưng vẫn còn quyền uy. đòi hỏi những người đang nắm giữ vận mệnh đất nước phải lãnh nhận và tiếp tục thực hiện để cho quốc gia Việt Nam sớm đuổi kịp các con rồng con cọp trong khu vực, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Hơn sáu mươi năm qua, đất nước và dân tộc Việt Nam đã phải chịu quá nhiều nỗi tang thương, do những ý đồ ác độc của ngoại bang nhưng cũng do nhiều chính sách sai lầm của lãnh đạo, nhà cầm quyền hiện nay không thể tiếp tục bị chi phối bởi những tư duy đường mòn bảo thủ, hoặc bởi chủ nghĩa cơ hội của những thế lực bất chính. Đó là bức thông điệp chính trị không thành lời do Võ Văn Kiệt gửi cho tất cả những người Việt Nam có lương tâm và trách nhiệm, dù ở trong hay ngoài chính quyền. Có mấy câu thơ trong bài điếu ông Kiệt của nhà thơ Trần Việt Phương ở trong nước mà tôi cảm thấy là tác giả cũng đang chuyển thông điệp này cho thế hệ trẻ Việt Nam:
Người còn đây trong tiến trình dân tộc Những mầm non giàu sức bật vươn lên Những công trình dở dang cần hoàn tất
Trước lịch sử, nhà cách mạng cộng sản Sáu Dân Võ Văn Kiệt phải chịu phần trách nhiệm không nhỏ về những chính sách và biện pháp sai lầm của Đảng và Nhà nước, nhất là ở miền Nam, sau khi thống nhất đất nước. Nhưng lịch sử cũng ghi nhận ông là một người yêu nước, một lãnh tụ cộng sản sớm giác ngộ nhất, có tầm nhìn chiến lược và những bước chiến thuật rất thực tế trong những giới hạn của cơ chế độc tài toàn trị vào một thời điểm nhất định trong lịch sử.
Thật ra, trong thông điệp chính trị Võ Văn Kiệt còn bao gồm một sứ mệnh quan trọng khác mà ông đã có nhiều cố gắng thực hiện nhưng chưa thành. Đó là sứ mệnh hòa giải và đoàn kết dân tộc mà tôi có nhắc đến nhưng chưa khai triển trong bài viết này. Đây là một vấn đề mà tôi đã suy nghĩ từ hai mươi năm trước để đóng góp với các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ và quốc tế về giải pháp nhân đạo cho vấn đề tị nạn và vai trò của người Việt hải ngoại trong tiến trình đổi mới kinh tế, văn hóa giáo dục và chính trị ở Việt Nam. Tôi đã viết khá nhiều về những đề tài này, nhấn mạnh đến những cơ hội và việc làm thích hợp để thực hiện mục tiêu. Tôi đã đựơc sự đồng tình và hợp tác của nhiều thân hữu thuộc mọi lớp tuổi và cũng đã giải tỏa được nhiều ngộ nhận trong số những vị đã từng chỉ trích tôi trong cộng đồng, nhất là từ ngày về hưu mười mấy năm nay.
Trong thời gian gần đây, tôi lại có nhìều cuộc trao đổi trực tiếp với ông Kiệt trong tinh thần thẳng thắn và xây dựng. Có lẽ giữa hai người có một điểm tương đồng khiến chúng tôi dễ hiểu biết và tin tưởng nhau hơn. Về phần ông Kiệt, ai cũng thấy rõ là ở tuổi 85, ông không còn có ý muốn hay cơ hội trở lại chính quyền mà chỉ muốn góp ý kiến cho những người đang cầm quyền và đôn đốc công cuộc đổi mới cần thiết về mọi mặt. Ước vọng của ông là để lại những dấu ấn tốt đẹp được lịch sử ghi nhận trong sự nghiệp chính trị của ông. Về cá nhân tôi, dù còn kém tuổi ông Kiệt, cũng rõ ràng là tôi không còn có nhu cầu kiếm việc hay hoạt động kinh doanh, dù ở Mỹ hay Việt Nam. Trong tư cách của một người dạy học, làm việc nghiên cứu và hoạt động tình nguyện trong những năm cuối của cuộc đời, tôi chỉ ước mong rằng những ý kiến của tôi được nhìn nhận là những đóng góp hữu ích cho việc gia tăng sức mạnh của cộng đồng người Việt ở Mỹ và cho tiến trình xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ.
Những buổi thảo luận với ông Kiệt và trí thức trong nước về vấn đề hòa giải, phát triển, và về những dự án có thể thực hiện ở Việt Nam với sự tham gia của trí thức và chuyên gia hải ngoại sẽ được đưa vào phần cuối của cuốn sách về lịch sử tị nạn và cộng đồng hải ngoại mà tôi đang biên soạn.
Viết xong ngày 11 tháng 7 năm 2008
[1]“Đóng góp ý kiến vào Báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới”, chuẩn bị Đại hội X của Đảng CSVN năm 2006, trang mở đầu. [2]Như trên, mục II. [3]Nhật báo Nhân Dân, 14.6.2008 [4]VietNamNet, 13.6.2008
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2011 3:31:15 GMT 9
Nguyễn Hữu Liêm
Ông Võ Văn Kiệt và một lời tạ lỗi với dân Sài Gòn Trong tang lễ của ông Võ Văn Kiệt, trên tình cảm giữa con người với nhau, tôi cũng như bao nhiêu người Việt Nam khác, xin chia buồn cùng tang quyến và nguyện cầu hương linh của ông được sớm siêu thoát. Trên vấn đề chung của đất nước, thì ông Kiệt, nguyên bí thư thành uỷ Sài Gòn ở những năm sau 1975, vẫn còn đang mắc nợ với dân chúng Sài Gòn một lời tạ lỗi chính thức về những chính sách ác độc vô lương tâm mà chính quyền của ông đã thi hành đối với nhân dân thời đó. Từ chính sách đánh tư sản, lùa dân đi các khu kinh tế mới, tống xuất Hoa kiều ra biển, đến các chính sách đàn áp tôn giáo, văn nghệ sĩ, trí thức - tất cả đều có sự tham dự, nhiều hay ít, của ông. Tuy vậy, ông Kiệt cũng mang một khuôn mặt khác của con người cộng sản tiến bộ. Đó là vai trò và chính sách đổi mới mà ông, với tư cách Thủ tướng, đã thúc đẩy và thực thi, nhờ đó mà Việt Nam đã được cứu sống trước bờ vực của sự phá sản toàn diện. Cách đây ba năm, trong một bữa ăn tối ở Sài Gòn, tôi có nêu vấn đề trách nhiệm lịch sử đó và yêu cầu ông Kiệt lên tiếng xin lỗi dân Sài Gòn. Ông Kiệt đã bức xúc đứng dậy giữa bàn tiệc, tay cầm ly rượu, nói những lời gần như vậy: "Anh Liêm phải biết rằng, ở những năm 1978-80, khi tôi là bí thư thành uỷ Sài Gòn, có những đêm, hai ba giờ sáng, tôi phải lái xe jeep một mình từ Sài Gòn ra Long Thành để can thiệp giúp những người mà tôi quen biết đang bị bắt về tội vượt biên. Tôi không thể làm gì được hơn trong hoàn cảnh với những chính sách của cơ chế thời đại. Vâng, tôi chịu trách nhiệm chứ! Tôi có lỗi chứ!" Hôm nay, khi nghe tin ông Kiệt vừa qua đời, tôi nghĩ rằng, dù chưa có lần nào chính thức, ông Kiệt chắc phải đã có lần tự chính mình tạ lỗi với dân tộc và nhân dân Sài Gòn về trách nhiệm của ông cho một quá khứ hãi hùng đó. ***************************** Nguyễn Tôn Hiệt Khi cựu Thủ tướng cộng sản Việt Nam nhận lỗi với Việt kiều Mĩ Đọc cái ý kiến ngày 13.6.2008 của ông Nguyễn Hữu Liêm, tôi thấy có mấy chuyện rất hay. Trước hết, tôi xin ghi lại đây để mọi người cùng tiếp tục ngẫm nghĩ. Cách đây ba năm, trong một bữa ăn tối ở Sài Gòn, ông Việt kiều Mĩ Nguyễn Hữu Liêm có nói thẳng với ông cựu Thủ tướng cộng sản Việt Nam Võ Văn Kiệt về vấn đề “ông Kiệt, nguyên bí thư thành uỷ Sài Gòn ở những năm sau 1975, vẫn còn đang mắc nợ với dân chúng Sài Gòn một lời tạ lỗi chính thức về những chính sách ác độc vô lương tâm mà chính quyền của ông đã thi hành đối với nhân dân thời đó. Từ chính sách đánh tư sản, lùa dân đi các khu kinh tế mới, tống xuất Hoa kiều ra biển, đến các chính sách đàn áp tôn giáo, văn nghệ sĩ, trí thức - tất cả đều có sự tham dự, nhiều hay ít, của ông.” (Nguyên văn của ông Liêm) Ông Võ Văn Kiệt chưa bao giờ nhận lỗi với nhân dân Sài Gòn về những việc đó, nhưng ông ta lại đi nhận lỗi riêng với ông Việt kiều Nguyễn Hữu Liêm trước một bàn nhậu. Ông Võ Văn Kiệt đã đứng dậy giữa bàn nhậu để nhận lỗi với ông Liêm (trong khi ông Liêm vẫn ngồi). Ông Kiệt nói như thế này: “Anh Liêm phải biết rằng, ở những năm 1978-80, khi tôi là bí thư thành uỷ Sài Gòn, có những đêm, hai ba giờ sáng, tôi phải lái xe jeep một mình từ Sài Gòn ra Long Thành để can thiệp giúp những người mà tôi quen biết đang bị bắt về tội vượt biên. Tôi không thể làm gì được hơn trong hoàn cảnh với những chính sách của cơ chế thời đại. Vâng, tôi chịu trách nhiệm chứ! Tôi có lỗi chứ!” (Nguyên văn của ông Liêm) Ông Kiệt tự cảm thấy có lỗi về những chuyện to tát ghê gớm đó, nên ông đã đích thân lái xe jeep một mình từ Sài Gòn ra Long Thành để can thiệp giúp những người mà ông quen biết đang bị bắt về tội vượt biên. Ông Kiệt tự cảm thấy có lỗi về những chuyện to tát ghê gớm đó, nhưng ông chỉ làm được cái chuyện nho nhỏ như thế, vì ông “không thể làm gì được hơn trong hoàn cảnh với những chính sách của cơ chế thời đại.” (Nguyên văn của ông Liêm) * Đọc xong mấy chuyện rất hay đó, tôi có vài suy nghĩ vẩn vơ: Ông Việt kiều Mĩ Nguyễn Hữu Liêm là một nhân vật có uy thế vô cùng đặc biệt đối với ông cựu Thủ tướng cộng sản Việt Nam Võ Văn Kiệt. Vì thế, ông Liêm đã thẳng tay nói với ông Kiệt về cái trách nhiệm tày trời của ông Kiệt, và ông Kiệt đã đứng dậy giữa bàn nhậu để nhận lỗi với ông Liêm. Bàn nhậu có lẽ chỉ có 2 người là ông Liêm và ông Kiệt. Bây giờ ông Kiệt đã mất, thì chỉ còn ông Liêm ghi lại sự kiện đó. Ông Kiệt đã quen biết bao nhiêu người bị bắt về tội vượt biên? Và ông Kiệt đã đích thân nửa đêm lái xe đi can thiệp như vậy bao nhiêu lần? Những lần đó, có lẽ công an bắt được những người đi vượt biên ở Long Thành lúc nửa đêm và, bằng một phương cách đặc biệt nào đó, họ biết những người bị bắt là những người quen của ông Kiệt. Thế rồi công an huyện Long Thành gọi điện thoại đánh thức ông Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh để báo tin rằng: “Kính thưa đồng chí Bí thư Thành uỷ, chúng tôi vừa bắt được một nhóm người quen biết của đồng chí, đồng chí hãy lái xe jeep xuống Long Thành để can thiệp cho họ gấp. Nếu đồng chí không xuống kịp bây giờ, thì hết thuốc cứu...” Nếu không phải vậy, thì có lẽ ông Kiệt, do thần giao cách cảm, lúc quá nửa đêm, nằm chiêm bao thấy người quen biết bị bắt ở Long Thành, bèn giật mình tỉnh dậy, hớt hải lái xe jeep lúc hai, ba giờ khuya để đi can thiệp. Công an huyện Long Thành không cho phép ông Kiệt can thiệp qua điện thoại, mà bắt ông Kiệt phải đích thân lái xe xuống tận nơi. Từ Sài Gòn xuống Long Thành mất một tiếng đồng hồ. Đường sá thời đó (thời cuối 1970, đầu 1980) chưa có điện đóm gì, nên ông Kiệt lái xe vô cùng vất vả. Đến nơi thì đã gần bốn giờ sáng, đồn công an huyện đã đóng cổng từ lâu. Ông Kiệt kêu cổng, “Tôi là Võ Văn Kiệt...” — “Ai đó? Kiệt nào?” — v.v... Thật tội nghiệp! Ông Kiệt là Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu muốn cứu một người bạn bị bắt ở Long Thành (thuộc tỉnh Bà Rịa) thì phải liên lạc với ông Bí thư Tỉnh uỷ hoặc Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa. Nhưng chẳng lẽ ông Kiệt đến đập cửa những người này vào lúc 3, 4 giờ khuya? Tại sao ông Kiệt không điện thoại để nhờ những người ấy giúp thả người quen mình ra? Người quen bị bắt vì tội vượt biên, chứ đâu phải bị mang ra pháp trường vào sáng sớm mà ông Kiệt phải hấp tấp đi trong đêm khuya như vậy? Cùng chuyện tương tự, ông Nguyễn Công Khế, Tổng biên tập báo Thanh Niên, đã viết trong bài "Tính cách của người 'Nam Kỳ khởi nghĩa'" (viết năm 2003, lúc ông Kiệt còn sống), với những chi tiết coi bộ hợp lý hơn, kể rằng ông Kiệt thả một người quen bị công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt vì tội vượt biên (tại Thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải tại Long Thành!) Trích từ bài của Nguyễn Công Khế: "Tôi biết ông học hành thực sự ở trường lớp không nhiều như những thế hệ chúng tôi sau này nhưng ông có những suy nghĩ, kiến thức, lòng tin vào một niềm hy vọng vào con người một cách kỳ lạ. Hồi thành phố mới giải phóng, có một kỹ sư hóa chuyên nghiên cứu để sản xuất ra thuốc nhuộm và một chuyên gia quản lý ngành dệt Sài Gòn. Người trí thức này rất say sưa đối với ngành dệt, ông ở lại hy vọng sẽ góp phần cho sản xuất mà ông am hiểu nhưng không vào nổi cơ chế của ta lúc bấy giờ. Ông vượt biên, bị bắt lại. Ông Võ Văn Kiệt thả về, ông trốn lần thứ hai, ông Võ Văn Kiệt đến Sở Công an thành phố gặp và dặn dò đừng trốn nữa nguy hiểm, tiếp tục giúp cho ngành dệt, nếu thấy không góp ý gì được xin đi ra ngoài ông sẽ giúp cho đi. Sau đó, người kỹ sư ấy báo cáo thật: ‘Anh Sáu à, tôi đã cố gắng lắm, tin vào sự chân thành và tâm huyết của anh, của cách mạng, mà thực tâm qua cách làm việc, tôi thấy nhiều khó khăn vướng mắc quá’. Thế là người kỹ sư ấy được ra đi hợp pháp. Nhiều trí thức như vậy đã ở lại với ông, ở lại với cách mạng và đóng góp cho cách mạng. Có người lúc ấy đã ra đi, nhưng nay lại về đóng góp cùng đất nước. Ông thường nói với tôi: mỗi người đều có những hoàn cảnh khác nhau, những người ra đi, nhất là sau giải phóng miền Nam, không phải ai cũng là người không yêu nước." (Báo Thanh Niên 21/9/2003, đăng lại trên Thanh Niên Online 12/6/2008) Ông Liêm nằm trong bụng ông Kiệt nên mới hiểu ông Kiệt rõ đến độ, khi nghe tin ông Kiệt vừa qua đời, ông Liêm nghĩ rằng “dù chưa có lần nào chính thức, ông Kiệt chắc phải đã có lần tự chính mình tạ lỗi với dân tộc và nhân dân Sài Gòn về trách nhiệm của ông cho một quá khứ hãi hùng đó.” (Nguyên văn của ông Liêm) * Nghĩ vẩn vơ xong, tôi mạo muội xin ông Việt kiều Nguyễn Hữu Liêm rộng lượng ban cho một điều: Khi nào các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng và các ông quan trọng khác từ giã cõi trần để đi gặp ông Kiệt, thì xin ông Liêm vui lòng bỏ chút thì giờ quí báu, lên talawas kể lại những cuộc ăn nhậu và thú tội của các ông ấy với ông Liêm, cho bà con gần xa được thưởng thức và cảm thông cho các ông ấy. Ông Liêm nhé. Vô cùng cảm ơn ông.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2011 5:41:03 GMT 9
Kỷ niệm 50 năm ngày xây bức tường BerlinVOA Vào ngày 13 tháng 8 năm 1961, cửa sổ trong “Bức màn sắt” bị đóng lại. Trong chỉ một đêm, biên giới giữa hai phần Berlin bị đóng. Hàng ngàn người bị tách rời khỏi gia đình, công việc và nhà cửa. Bức tường Berlin đứng vững suốt 20.315 ngày. Trong 28 năm, bức tường chia thành phố ra thành Tây Berlin và Đông Berlin. Quan trọng hơn nữa, bức tường chia cách thế giới. Hình: AP 1 phần còn lại của bức tường Berlin, 11/8/2011 Trong một thời gian dài, bức tường không những chia cách Đông và Tây Berlin, mà còn là biểu tượng của hai thế giới: một thế giới tự do và một thế giới sau “Bức màn Sắt”. Nhưng làm thế nào bức tường xuất hiện? Berlin bị chia đôi sau Thế chiến Thứ hai. Vào năm 1949, Đông Berlin-khu vực do Sô Viết chiếm đóng-trở thành thủ đô của nước Cộng hòa Dân chủ Đức vừa mới thành lập. Tây Berlin do Hoa Kỳ, Anh và Pháp kiểm soát. Điều thông thường lúc bấy giờ là người dân Berlin sống tại miền Đông nhưng làm việc ở miền Tây và ngược lại. Mỗi ngày có nửa triệu người tự do đi từ vùng xã hội chủ nghĩa sang vùng tư bản chủ nghĩa và trở về lại. Tất cả sinh hoạt này chấm dứt vào ngày 13 tháng 8 năm 1961. Trong một đêm, biên giới giữa hai phần Berlin bị đóng lại. Sáng hôm sau hàng ngàn người không thể di chuyển trong thành phố. Đường bị chặn bằng hàng rào dây kẽm gai, đường phố bị đào xới, quân đội có mặt ngoài đường. Tuy nhiên điều khác biệt ngạc nhiên nhất là một bức tường dài chia cắt phần bên này và bên kia Berlin. Tại sao việc này xảy ra?... … Đó là vì Tây Berlin làm cho Liên bang Xô Viết và Đông Đức nhức đầu. Con người và tài nguyên rời bỏ phía cộng sản thông qua biên giới không bị cản trở; ý thức hệ thị trường tự do xâm nhập từ Tây sang Đông. Đối với Đông Đức, đây là một yếu tố làm mất ổn định sâu sắc. Sau khi tham khảo với Moscow, chính phủ Đông Đức quyết định đóng cửa biên giới. Thoạt đầu, dân chúng tụ tập đông đảo cả hai bên đường chia cách. Tuy nhiên bất cứ âm mưu nào vượt qua biên giới đều bị quân đội và cảnh sát Đông Đức chặn đứng. Phương Tây bất bình. Căng thẳng trong thành phố dâng cao. Hậu quả đã xảy ra “Cuộc khủng hoảng Berlin,” một trong những cuộc đối đầu nghiêm trọng giữa Liên bang Xô Viết và Hoa Kỳ. Vào ngày 28 tháng 10, xe Jeep, xe ủi đất và chiến xa của quân đội Hoa Kỳ bắt đầu di chuyển từ khu vực phía Tây đến cổng Brandenburg, dự trù phá hủy những rào cản. Tuy nhiên chiến xa của Xô Viết trờ tới. Cuộc khủng hoảng ở mức cao điểm. Suốt đêm, các chiến xa nằm đối diện nhau. Vào buổi sáng, các xe cơ giới rút lui, và ngay tức thì cuộc khủng hoảng chấm dứt. Nhưng rõ ràng là bức tường vẫn còn đó. Bức tường Berlin trở thành biểu tượng của Chiến tranh Lạnh. Đầu tiên chỉ gồm có hàng rào kẽm gai. Đường phân cách nằm xuyên qua các quảng trường, cầu cống, đường phố, kể cả những tòa nhà. Năm 1962, một bức tường song song được dựng lên-cùng với “vùng chán ghét”—sau đó được biết dưới danh hiệu “là giải đất tử thần”—đầy rẫy những giao thông hào, mìn bẫy và những công sự phòng thủ khác. Vào năm 1975, một bức tường mới được xây lên, sử dụng 45 ngàn khối xi măng. Bức tường đứng vững suốt 20.315 ngày. Hàng trăm người chết khi từ Đông Berlin cố vượt bức tường để sang phía Tây. Vào năm 1987, cũng tại Berlin, thế giới được nghe một bài diễn văn nổi tiếng khi Tổng thống Mỹ Ronald Reagan kêu gọi nhà lãnh đạo Sô Viết Mikhail Gorbachev. Tổng thống Reagan nói: “Ngài Gorbachev, hãy mở cổng này.” Vào năm 1989, bức tường sụp đổ khi chính phủ Đông Đức thình lình mở lại biên giới. This speech by President Ronald Reagan to the people of West Berlin contains one of the most memorable lines spoken during his presidency. The Berlin Wall, referred to by the President, was built by Communists in August 1961 to keep Germans from escaping Communist-dominated East Berlin into Democratic West Berlin. The twelve-foot concrete wall extended for a hundred miles, surrounding West Berlin, and included electrified fences and guard posts. The wall stood as a stark symbol of the decades-old Cold War between the United States and Soviet Russia in which the two politically opposed superpowers continually wrestled for dominance, stopping just short of actual warfare. Chancellor Kohl, Governing Mayor Diepgen, ladies and gentlemen: Twenty-four years ago, President John F. Kennedy visited Berlin, speaking to the people of this city and the world at the City Hall. Well, since then two other presidents have come, each in his turn, to Berlin. And today I, myself, make my second visit to your city. We come to Berlin, we American presidents, because it's our duty to speak, in this place, of freedom. But I must confess, we're drawn here by other things as well: by the feeling of history in this city, more than 500 years older than our own nation; by the beauty of the Grunewald and the Tiergarten; most of all, by your courage and determination. Perhaps the composer Paul Lincke understood something about American presidents. You see, like so many presidents before me, I come here today because wherever I go, whatever I do: Ich hab noch einen Koffer in Berlin.
Our gathering today is being broadcast throughout Western Europe and North America. I understand that it is being seen and heard as well in the East. To those listening throughout Eastern Europe, a special word: Although I cannot be with you, I address my remarks to you just as surely as to those standing here before me. For I join you, as I join your fellow countrymen in the West, in this firm, this unalterable belief: Es gibt nur ein Berlin. [There is only one Berlin.]
Behind me stands a wall that encircles the free sectors of this city, part of a vast system of barriers that divides the entire continent of Europe. From the Baltic, south, those barriers cut across Germany in a gash of barbed wire, concrete, dog runs, and guard towers. Farther south, there may be no visible, no obvious wall. But there remain armed guards and checkpoints all the same--still a restriction on the right to travel, still an instrument to impose upon ordinary men and women the will of a totalitarian state. Yet it is here in Berlin where the wall emerges most clearly; here, cutting across your city, where the news photo and the television screen have imprinted this brutal division of a continent upon the mind of the world. Standing before the Brandenburg Gate, every man is a German, separated from his fellow men. Every man is a Berliner, forced to look upon a scar.
President von Weizsacker has said, "The German question is open as long as the Brandenburg Gate is closed." Today I say: As long as the gate is closed, as long as this scar of a wall is permitted to stand, it is not the German question alone that remains open, but the question of freedom for all mankind. Yet I do not come here to lament. For I find in Berlin a message of hope, even in the shadow of this wall, a message of triumph.
In this season of spring in 1945, the people of Berlin emerged from their air-raid shelters to find devastation. Thousands of miles away, the people of the United States reached out to help. And in 1947 Secretary of State--as you've been told--George Marshall announced the creation of what would become known as the Marshall Plan. Speaking precisely 40 years ago this month, he said: "Our policy is directed not against any country or doctrine, but against hunger, poverty, desperation, and chaos."
In the Reichstag a few moments ago, I saw a display commemorating this 40th anniversary of the Marshall Plan. I was struck by the sign on a burnt-out, gutted structure that was being rebuilt. I understand that Berliners of my own generation can remember seeing signs like it dotted throughout the western sectors of the city. The sign read simply: "The Marshall Plan is helping here to strengthen the free world." A strong, free world in the West, that dream became real. Japan rose from ruin to become an economic giant. Italy, France, Belgium--virtually every nation in Western Europe saw political and economic rebirth; the European Community was founded.
In West Germany and here in Berlin, there took place an economic miracle, the Wirtschaftswunder. Adenauer, Erhard, Reuter, and other leaders understood the practical importance of liberty--that just as truth can flourish only when the journalist is given freedom of speech, so prosperity can come about only when the farmer and businessman enjoy economic freedom. The German leaders reduced tariffs, expanded free trade, lowered taxes. From 1950 to 1960 alone, the standard of living in West Germany and Berlin doubled.
Where four decades ago there was rubble, today in West Berlin there is the greatest industrial output of any city in Germany--busy office blocks, fine homes and apartments, proud avenues, and the spreading lawns of parkland. Where a city's culture seemed to have been destroyed, today there are two great universities, orchestras and an opera, countless theaters, and museums. Where there was want, today there's abundance--food, clothing, automobiles--the wonderful goods of the Ku'damm. From devastation, from utter ruin, you Berliners have, in freedom, rebuilt a city that once again ranks as one of the greatest on earth. The Soviets may have had other plans. But my friends, there were a few things the Soviets didn't count on--Berliner Herz, Berliner Humor, ja, und Berliner Schnauze. [Berliner heart, Berliner humor, yes, and a Berliner Schnauze.]
In the 1950s, Khrushchev predicted: "We will bury you." But in the West today, we see a free world that has achieved a level of prosperity and well-being unprecedented in all human history. In the Communist world, we see failure, technological backwardness, declining standards of health, even want of the most basic kind--too little food. Even today, the Soviet Union still cannot feed itself. After these four decades, then, there stands before the entire world one great and inescapable conclusion: Freedom leads to prosperity. Freedom replaces the ancient hatreds among the nations with comity and peace. Freedom is the victor.
And now the Soviets themselves may, in a limited way, be coming to understand the importance of freedom. We hear much from Moscow about a new policy of reform and openness. Some political prisoners have been released. Certain foreign news broadcasts are no longer being jammed. Some economic enterprises have been permitted to operate with greater freedom from state control.
Are these the beginnings of profound changes in the Soviet state? Or are they token gestures, intended to raise false hopes in the West, or to strengthen the Soviet system without changing it? We welcome change and openness; for we believe that freedom and security go together, that the advance of human liberty can only strengthen the cause of world peace. There is one sign the Soviets can make that would be unmistakable, that would advance dramatically the cause of freedom and peace.
General Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization: Come here to this gate! Mr. Gorbachev, open this gate! Mr. Gorbachev, tear down this wall!
I understand the fear of war and the pain of division that afflict this continent-- and I pledge to you my country's efforts to help overcome these burdens. To be sure, we in the West must resist Soviet expansion. So we must maintain defenses of unassailable strength. Yet we seek peace; so we must strive to reduce arms on both sides.
Beginning 10 years ago, the Soviets challenged the Western alliance with a grave new threat, hundreds of new and more deadly SS-20 nuclear missiles, capable of striking every capital in Europe. The Western alliance responded by committing itself to a counter-deployment unless the Soviets agreed to negotiate a better solution; namely, the elimination of such weapons on both sides. For many months, the Soviets refused to bargain in earnestness. As the alliance, in turn, prepared to go forward with its counter-deployment, there were difficult days--days of protests like those during my 1982 visit to this city--and the Soviets later walked away from the table.
But through it all, the alliance held firm. And I invite those who protested then-- I invite those who protest today--to mark this fact: Because we remained strong, the Soviets came back to the table. And because we remained strong, today we have within reach the possibility, not merely of limiting the growth of arms, but of eliminating, for the first time, an entire class of nuclear weapons from the face of the earth.
As I speak, NATO ministers are meeting in Iceland to review the progress of our proposals for eliminating these weapons. At the talks in Geneva, we have also proposed deep cuts in strategic offensive weapons. And the Western allies have likewise made far-reaching proposals to reduce the danger of conventional war and to place a total ban on chemical weapons.
While we pursue these arms reductions, I pledge to you that we will maintain the capacity to deter Soviet aggression at any level at which it might occur. And in cooperation with many of our allies, the United States is pursuing the Strategic Defense Initiative--research to base deterrence not on the threat of offensive retaliation, but on defenses that truly defend; on systems, in short, that will not target populations, but shield them. By these means we seek to increase the safety of Europe and all the world. But we must remember a crucial fact: East and West do not mistrust each other because we are armed; we are armed because we mistrust each other. And our differences are not about weapons but about liberty. When President Kennedy spoke at the City Hall those 24 years ago, freedom was encircled, Berlin was under siege. And today, despite all the pressures upon this city, Berlin stands secure in its liberty. And freedom itself is transforming the globe.
In the Philippines, in South and Central America, democracy has been given a rebirth. Throughout the Pacific, free markets are working miracle after miracle of economic growth. In the industrialized nations, a technological revolution is taking place--a revolution marked by rapid, dramatic advances in computers and telecommunications.
In Europe, only one nation and those it controls refuse to join the community of freedom. Yet in this age of redoubled economic growth, of information and innovation, the Soviet Union faces a choice: It must make fundamental changes, or it will become obsolete.
Today thus represents a moment of hope. We in the West stand ready to cooperate with the East to promote true openness, to break down barriers that separate people, to create a safe, freer world. And surely there is no better place than Berlin, the meeting place of East and West, to make a start. Free people of Berlin: Today, as in the past, the United States stands for the strict observance and full implementation of all parts of the Four Power Agreement of 1971. Let us use this occasion, the 750th anniversary of this city, to usher in a new era, to seek a still fuller, richer life for the Berlin of the future. Together, let us maintain and develop the ties between the Federal Republic and the Western sectors of Berlin, which is permitted by the 1971 agreement.
And I invite Mr. Gorbachev: Let us work to bring the Eastern and Western parts of the city closer together, so that all the inhabitants of all Berlin can enjoy the benefits that come with life in one of the great cities of the world.
To open Berlin still further to all Europe, East and West, let us expand the vital air access to this city, finding ways of making commercial air service to Berlin more convenient, more comfortable, and more economical. We look to the day when West Berlin can become one of the chief aviation hubs in all central Europe.
With our French and British partners, the United States is prepared to help bring international meetings to Berlin. It would be only fitting for Berlin to serve as the site of United Nations meetings, or world conferences on human rights and arms control or other issues that call for international cooperation.
There is no better way to establish hope for the future than to enlighten young minds, and we would be honored to sponsor summer youth exchanges, cultural events, and other programs for young Berliners from the East. Our French and British friends, I'm certain, will do the same. And it's my hope that an authority can be found in East Berlin to sponsor visits from young people of the Western sectors.
One final proposal, one close to my heart: Sport represents a source of enjoyment and ennoblement, and you may have noted that the Republic of Korea--South Korea--has offered to permit certain events of the 1988 Olympics to take place in the North. International sports competitions of all kinds could take place in both parts of this city. And what better way to demonstrate to the world the openness of this city than to offer in some future year to hold the Olympic games here in Berlin, East and West? In these four decades, as I have said, you Berliners have built a great city. You've done so in spite of threats--the Soviet attempts to impose the East-mark, the blockade. Today the city thrives in spite of the challenges implicit in the very presence of this wall. What keeps you here? Certainly there's a great deal to be said for your fortitude, for your defiant courage. But I believe there's something deeper, something that involves Berlin's whole look and feel and way of life--not mere sentiment. No one could live long in Berlin without being completely disabused of illusions. Something instead, that has seen the difficulties of life in Berlin but chose to accept them, that continues to build this good and proud city in contrast to a surrounding totalitarian presence that refuses to release human energies or aspirations. Something that speaks with a powerful voice of affirmation, that says yes to this city, yes to the future, yes to freedom. In a word, I would submit that what keeps you in Berlin is love--love both profound and abiding.
Perhaps this gets to the root of the matter, to the most fundamental distinction of all between East and West. The totalitarian world produces backwardness because it does such violence to the spirit, thwarting the human impulse to create, to enjoy, to worship. The totalitarian world finds even symbols of love and of worship an affront. Years ago, before the East Germans began rebuilding their churches, they erected a secular structure: the television tower at Alexander Platz. Virtually ever since, the authorities have been working to correct what they view as the tower's one major flaw, treating the glass sphere at the top with paints and chemicals of every kind. Yet even today when the sun strikes that sphere--that sphere that towers over all Berlin--the light makes the sign of the cross. There in Berlin, like the city itself, symbols of love, symbols of worship, cannot be suppressed.
As I looked out a moment ago from the Reichstag, that embodiment of German unity, I noticed words crudely spray-painted upon the wall, perhaps by a young Berliner: "This wall will fall. Beliefs become reality." Yes, across Europe, this wall will fall. For it cannot withstand faith; it cannot withstand truth. The wall cannot withstand freedom.
And I would like, before I close, to say one word. I have read, and I have been questioned since I've been here about certain demonstrations against my coming. And I would like to say just one thing, and to those who demonstrate so. I wonder if they have ever asked themselves that if they should have the kind of government they apparently seek, no one would ever be able to do what they're doing again.
Thank you and God bless you all.
President Ronald Reagan - June 12, 1987
Post-note: Two years later, in November 1989, East Germans issued a decree for the wall to be opened, allowing people to travel freely into West Berlin. In some cases, families that had been separated for decades were finally reunited. The wall was torn down altogether by the end of 1990 upon the collapse of Communism in Eastern Europe and in Soviet Russia itself, marking the end of the Cold War era.
www.voanews.com/vietnamese/news/europe/berlin-wall-remembered-08-12-11-127622533.html
www.historyplace.com/speeches/reagan-tear-down.htm
|
|