|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:09:39 GMT 9
Vông vang, hoa tình tuổi trẻVõ Quang Yến Ơi hoa vông vang, Nở bên bờ suối, Có nhớ mẹ nhớ cha, Có nhớ bản xa ? Sau bản mùa đông đã tàn, Trước bản mùa xuân đang tới. Bài hát sắc tộc (Ngô Tự Lập) "Thôi thế cũng đủ làm Đẩu sung sướng đến rưng rưng nước mắt. Tay vẫn cầm lá thư, lơ đãng, chàng lững thững đưa bước ra phía đồi sau nhà. Trời mát ! Tóc thoảng nhẹ bay phất phơ trên trán… Bâng khuâng vô tình đứng trông mấy bông vông vang phất phơ bên bụi cỏ đương kín đáo cúp lại trong gió chiều êm đềm, Đẩu lại thấy lòng bỗng tràn đầy tin tưởng như buổi mới,… và man mác hy vọng…" (1) Trong những năm thập niên 40, hầu hết các học sinh Việt Nam đều có đọc Hoa vông vang của Đỗ Tốn, được giải Tự Lực Văn Đoàn, và ít nhiều đều có mơ mộng với mối tình đầu của mình. Tác giả đã khéo tả tâm trạng của chàng thiếu niên yêu đương tha thiết mà chẳng dám thổ lộ với người mình yêu, cho đến lúc nàng lên xe hoa về nhà chồng. Truyện tác động vào trái tim tuổi trẻ khi đã một lần yêu trộm nhớ thầm ! Vậy mà hồi ấy tôi không biết và cũng không tìm hiểu bông vông vang thơm đẹp như thế nào. Có lẽ vì ở Huế không có cây ấy. Gần đây thôi, hơn một nửa thế kỷ sau, bên phương trời Tây, khi dọn nhà, nhân mân mê cuốn sách cũ trước khi sắp vào kệ, tôi như bị lôi cuốn lần giở đọc lại những dòng xưa đã từng làm mình bâng khuâng, hồi hộp thuở còn ngây thơ. Ừ nhỉ, vông vang là cây gì, hoa màu sắc, hương thơm ra sao ? Tìm tòi trong sách thì mới biết cây vông vang có nguồn gốc từ Ấn Độ nhưng mọc hoang dại khá phổ biến ở vùng trung du, trong vườn, trên nương rẫy, ven đường khắp nước ta (**), gặp nhiều ở Tiền Giang, Bến Tre, Hậu Giang,…(***) cũng còn thấy ở Mã Lai, Trung Quốc, Philippines (*). Nó là cây thân cỏ cao khoảng 1m, phía gốc hơi thành gỗ, thân hơi có lông, lá hình tim, hoa màu vàng, quả thuôn trên phủ đầy lông trắng nhạt, trên mặt có những đường nhăn đồng tâm xung quanh rốn hạt. Đỗ Tốn còn xác định thêm : "Hằng năm, cứ về dạo cuối xuân sang hạ, mà có khi tới cả mùa thu, nếu bạn đi chơi về vùng quê, bạn có thấy những bông hoa lớn bằng hoa râm bụt nở vàng tươi lẫn trong bờ cây bụi cỏ thì đúng là hoa vông vang đó… Hoa vông vang rất đẹp, tuy nhiên cánh hoa cũng rất mỏng manh, chỉ một làn gió mạnh cũng đủ làm cho cánh yếu rập nát bơ sờ". Cây vông vang còn gọi bông vang, bụp vang, bụp vàng, mang tên khoa học Hibiscus abelmoschus L. hay Abelmoschus moschatus (hay moscheutos) Moench hay (L.) Medic, thuộc họ Bụp hay Bông Malvaceae. Người Ấn Độ gọi nó muskdana, Âu Mỹ thì có nhiều tên : Ketnie musquée, musk mallow, ambrette. Cây chứa nhiều chất sterol : campesterol, sitosterol, stigmasterol, ergosterol (11) , farnesol (9). Sitosterol dưới thể bêta tìm ra được cả trong lá, cánh hoa tươi lẫn trái khô (8), myrcetin và dẫn xuất glucosid cùng cyanidinglucosid chỉ trong cánh hoa tươi (6,8). Trong nhị và nhụy hoa đã được tìm ra những dẫn xuất của flavon và aspartic acid bên cạnh sitosterol, ikshusterol, methy linolenat, quercimeritrin, rutin,… (14) Hột cây được khảo cứu nhiều nhất. Ngoài farnesol (5,15), sitosterol (3) đã thấy trong các bộ phận khác của cây, hột còn chứa terpen, ambrettolid (5,12), farnesylacetat, oxacyclononadecenon (12), ambrettolid acid lacton (9), những phospholipid như cephalin, phosphadityl serin, phosphadityl cholin plasmalogen (7), methinin sulfoxyd (4), epoxyoleic acid, sterculic acid cùng những acid dãy dài từ C10 đến C18 bên cạnh protein trong tinh dầu (10) gần đây được khảo cứu tường tận (16). .........Là cây mọc hoang, vông vang cũng được trồng để dùng trong kỹ nghệ làm thuốc. Hột, còn gọi hột xạ, lấy ở trái chín vào mùa hạ hay mùa thu, cho chiết xuất tinh dầu, màu vàng nhạt ở nhiệt độ thường, mùi thơm có tác dụng làm dậy mùi và bền mùi, giá rất đắt. Đem phân tích, hột chứa đựng (%) tinh dầu (19,5), protein (36) (10), sợi thô (31,46), tinh bột (13,35), tro (5,3), độ ẩm (11,4) (2). Tinh dầu có chỉ số khúc xạ nD20 1.4720, chỉ số xà phòng hóa 214 và chỉ số iod 87,25, trong suốt nếu chiết xuất với ether dầu hỏa, đục hơn với ether hoặc cồn (2). Dùng sắc ký khí / phối ký GC/MS cùng phổ kế 13C-NMR phân tích, đã được tìm ra tetra, hexa, octa decenolid bên cạnh farnesen, decyl và dodecyl acetat cùng những dẫn xuất của chúng (15,17,18). Tinh dầu được dùng làm hương liệu, đặc biệt trong nước hoa hay thuốc tránh sâu mọt. Người Ấn Độ chế tạo những bã thơm hương xạ (196g từ 10kg hột, 134g từ 700g dầu) (5). Người ta cũng dùng chất nhầy chiết từ rễ cây làm hồ giấy hay tinh chế tinh bột. Về mặt dược liệu, cả lá, rễ lẫn hột cây đều có công dụng. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô, có vị nhạt, nhiều nhớt, tính mát. Nó có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, hoạt thai, dùng trị táo bón, thủy thũng, thúc đẻ, tan ung độc. Trong lá đã được chiết xuất một chất nhầy là một peptidoglycan, trọng lượng phân tử khoảng 1.8000.000, có hoạt động giảm đường trong máu khi thử trên chuột (13). Rễ có vị ngọt nhạt, cũng nhiều nhớt, tính mát, có tác dụng tiêu độc, sát trùng, thư cân, giải cơ, trừ thấp, dùng trị nhức mỏi chân tay, các khớp sưng nóng đỏ đau, co quắp, mụn nhọt, viêm dạ dày hành tá tràng (***), có khi được dùng làm thuốc bổ, thuốc mát thay sâm bổ chính (*). Hột cây có tính chất chống co thắt, kích thích lợi tiểu, được dùng uống trị đái dầm, sắc uống làm thuốc kích thích ruột và thận, cũng còn được dùng làm thuốc trấn kinh, chữa di tinh, thông tiểu, dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột. Một tính chất quan trọng của hột nữa là trị rắn cắn. Trong dân gian, người ta thường nhai nuốc nước, lấy bã đắp (***). Người Mexico gọi hột vông vang là hột rắn. Hột không chứa đựng alcaloid ở thể tự do hay ở thể glucosid, nhưng thí nghiệm cho thấy nó có khả năng hấp thu than hoạt hóa. Nó có tác dụng tương tự như nhũ tương phân tán để giải thể tính độc của nọc rắn mang bành (2). Có nơi khai thác một cây hơi giống vông vang là sâm bổ chính Abelmoschus sagittifolius ( L.) Merr., mọc ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hòa Bình, vùng Tây Bắc, hoa sắc đỏ. Riêng cây sâm bố chính hay sâm báo H. sagittifolius, cũng cùng họ Bông Malvaceae, thì lại có hoa màu vàng như hoa vông vang (*). Những tên cây nầy tưởng nên được xác định lại rõ ràng. Nếu hột vông vang được dùng thông dụng, hoa vông vang chỉ nên để ngắm. Trong bản in lại, Đỗ Tốn có dặn thêm : "Nếu bạn thấy hoa, bạn nên để mặc cho hoa phơ phất giữa cây cỏ thiên nhiên, như vậy thì hoa rất đẹp, chứ vì mến hoa mà bạn vội hái để định đem về thì thực là một điều đáng tiếc : hoa vông vang chỉ ưa cuộc sống giữa tự do và hoang dại - điều mà tự đáy tâm hồn ai nấy chúng ta đều mơ ước - chứ nằm ở trong tay bạn thì chỉ một giờ thôi cũng đủ cho cả hoa lá phải héo rũ… " Một hôm, nhân đi dạo trong rừng vùng núi lửa miền trung nước Pháp, tôi có gặp ở chỗ ẩm ướt, dưới bóng cây, một loài hoa rất giống hoa vông vang mà tôi chỉ biết qua sách vở, cũng màu vàng, cũng héo rũ nếu bị cắt hái. Hỏi thì được trả lời tên nó là cây impatiens hay impatiente (hoa móc tai) thuộc họ Móc tai Balsaminaceae, người Pháp thường gọi hoa "đừng đụng tôi", tương tự như cách gọi hoa tai chuột myosotis, thuộc họ Vòi voi Boraginaceae, là hoa "đừng quên tôi" (forget-me-not) mà một bài hát đã làm náo động lòng thanh niên thiếu nữ cả một thời. Đi vào quần chúng cùng các loại hoa nầy, vông vang thật là hoa tình tuổi trẻ với tất cả tư thế e lệ, tình cảm cao nhã của thời niên thiếu, ngây thơ. Nghiên cứu và Phát triển 1(35) (2002) 57-60 có bổ túc (*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1996) 556 (**) Trần Hợp, Cây cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, TpHồ Chí Minh (1993) 318 (***) Võ Văn Chi, Những cây thuốc thông thường, nxb Đồng Tháp, Sa Đéc (1987) 312 Tham khảo 1- Đỗ Tốn, Hoa vông vang trong Hoa vông vang, nxb Đời Nay, Hà Nội (1942) 77 2- V. Bachster, Notes on Mexican drugs, plants, and foods. V. Viper seed, a drug used against snake bite, Ciencia (Mex.) 7 (1946) 307 ; Chem. Abs. 42 (1948) 3912a 3- G. Misra, V.N. Sharma, K.N. Kaul, The constitution of ambrette seed, Soap, Perfumer and Cosmetics 34 (1961) 761 ; Chemù. Abs. 55 (1961) 23939c 4- L. Peyron, Precursors of certain sulfur compounds encountered with essential oils, Bull. Soc. France Physiol. Vegetale 7 (1961) 46 ; Chem. Abs. 56 (1962) 12014b 5- G. Misra, V.N. Sharma, C.R. Mitra, K.N. Kaul, Aromatic principles from Abelmoschus moschatus [Hibiscus abelmoschus] seeds, Indian 72.408 ; Chem. Abs. 58 (1963) 4384f 6- A.G.R. Nair, S. Nagarajan, S. Subramanian, Flavonoids of the flowers of Hibiscus abelmoschus and Althaea rosea, Current Sci. (India) 38 (14) (1964) 431 ; Chem. Abs 61 (1964) 11005a 7- K.C. Srivastava, S.C. Rastogi, Phospholipids from the seeds of Hibiscus abelmoschus, Planta Med. 17 (2) (1969) 189 ; Chem. Abs.71 (1969) 27896z 8- G. Misra, S.K. Nigam, C.R. Mitra, Chemical examination of Abelmoschus moschatus [Hibiscus abelmoschus] leaf, flower, and fruit, Acta Phytother.18 (7) (1971) 134 ; Chem. Abs. 76 (1972) 12000g. 9- C.A. Paredes, Aromatic plant species of Ecuador, Politecnica 3 (1) (1971) 134 ; Chem. Abs. 84 (1976) 102302b 10- M. Hashmi, M. Khan, M.S. Ahmad, S. Osman, Abelmoschus moschatus seed oils : a reinvestigation, J. Oil Technol. Assoc. India 14 (2) (1982) 64 ; Chem. Abs. 98 (1983) 86284d 11- U.K. Chauhan, Sterols of some malvaceous plants with particular emphasis on cholesterol occurrence, Proc. Natl. Acad. Sci., Ind. Sect. B 54 (3) (1984 236 ; Chem.Abs. 103 (1985) 157419m 12- T.Y. Nee, S. Cartt, M.R. Pollard, Seed coat components of Hibiscus abelmoschus, Phytochem. 25 (9) (1986) 2157 ; Chem. Abs. 105 (1986) 222739y 13- M. Tomoda, R. Gonda, N. Shimizu, S. Nakanishi, H. Hikino, Plant mucilages. Part XLI. A mucilage from Hibiscus abelmoschus leaves, Phytochem. 26 (8) (1987) 2297 ; Chem. Abs. 107 (1987) 233080u 14 T. Ohmoto, K. Yamaguchi, K. Ikeda, Constituents of Abelmoschus moscheutos L., Chem. Phar. Bull. 36 (2) (1988) 578 ; Chem. Abs. 109 (1988) 20257m 15- Y. Tang, T. Zhou, J. Ding, H. Sun, The chemical constituents of the essential oil from ambrette seeds, Yunnan Zhiwu Yanjiu 12 (1) (1990) 113 16- L. Cravo, F. Perineau, J.M. Bessiere, Study of the chemical composition of the essential oil, oleoresin andnits volatile product obtained from ambrette (Abelmoschus moscheutos Moench) seeds, Flavour Fragrance J. 7 (2) (1992) 65 17- Nguyen Xuan Dung, Pham Van Khien, Do Duc Nhuan, Tran Minh Hoi, Ninh Khac Ban, P.A. Leclercq, A. Museli, A. Bihelli, J. Casanova, Composition of the seed oil of Hibiscus abelmoschus L. (Malvaceae) growing in VietNam, J. Essent. Oil Res. 11 (4) (1999) 447 18- P.K Rout, Y.R. Rao, K.S. Jena, D. Sahoo, B.C. Mishra, Extraction and composition of the essential oil of ambrette (Abelmoschus moschatus) seeds, J. Essent. Oil. Res.16 (1) (2004) 35
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:16:57 GMT 9
Đỗ Quyên hoa thắm Võ Quang Yến Quân vương tuyệt tận ở Giang Đông Tiện thiếp làm sao nhập Hán phòng. Máu xanh hóa có bên sông lạnh, Như đóa đỗ quyên nở cánh hồng. Ngu Mỹ Nhân - Hứa Thị, Văn Phạm dịch Rhododendron indicum (ảnh Võ Quang Yến) "… Thuở ấy, có hai vợ chồng trẻ sống dưới động Truồi. Họ rất yêu nhau. Thế rồi tự nhiên chàng trai trở bệnh, thuốc thang không khỏi mà ngày càng nặng thêm. Có người mách bảo lên động Bạch Mã tìm loại cây thuốc giống như cây kim giao toàn thân màu trắng, uống vào sẽ cải tử hoàn sinh. Người vợ đã lên đường tìm linh dược cho chồng nhưng qua mấy ngày lặn lội trong rừng, cô chẳng tìm ra thuốc. Đói lạnh làm cô kiệt sức, cô ngã xuống bên một dòng suối, đầu va vào tảng đá. Máu cô hòa vào dòng suối, chảy đến đâu liền xuất hiện đến đó một loài cây cỏ thân gầy guộc, có màu hoa đỏ như máu gọi là đỗ quyên… Loại hoa nầy chỉ sống trọn vẹn trong mùa xuân, vươn mình lên kẽ đá và soi mình đỏ rực xuống dòng suối…" (1) Thật ra, hoa đỗ quyên Rhododendron, còn có tên đỗ quyên ấn, hồng thụ ấn (*), thạch nam (**), thuộc họ cùng tên Đỗ quyên Ericaceae, ngày nay với kỹ thuật hợp lai phổ biến rộng rãi, không chỉ toàn một màu đỏ thắm mà tùy nơi còn mang nhiều sắc trắng, tím, tía, son qua hồng nhiệt, đỏ thẫm, đỏ gạch, đỏ hồng, đỏ xanh, đỏ cam, đỏ vàng,… Nguồn gốc núi cao châu Á nhiệt đới (Nhật Bản, Myanmar, Nepal) ngày nay nó mọc hoang và được trồng khắp nơi, ở châu Á (Nhật Bản, Myanmar, Nepal), cũng như ở châu Âu, châu Mỹ. Là một cây trang trí rất được ưa thích, nó đã được pha giống thành hằng trăm loại đủ cở lớn, nhỏ, đủ màu sắc lộng lẫy. Hoa R. simsii Planch. (tức R. indicum Sweet var. simsii Maxim, hay var. ignescens Sweet, hay Azalea indica Sims. non Linn) màu đỏ hồng, R. kaempferi Planch. màu đỏ cam tươi, R. obtusum Planch. màu trắng, đỏ gạch, đỏ tía, đều thuộc chủng của R. indicum Sweet (*). Môn phân tích hóa học giúp ta biết được nguyên do màu đỏ ở hoa đỗ quyên là các chất sắc anthocyanin. Hai chất chính cyanidin glucosid và cyanidin diglucosid thường gặp bên cạnh peonidin diglucosid. Hoa màu tía chứa đựng malvidin diglucosid, màu tím là do myricetin methyl ether mà ra, còn quercetin, azaleatin, methoxy kaempferol chuyển màu đỏ xanh. Lượng các cyanidin hay flavonol, mà nhiều nhất là azaleatin rhamnosyl gucosid, làm thay đổi màu hoa từ đỏ thẫm, đỏ xanh qua hồng nhiệt, đỏ cam, đỏ vàng. Càng ít cyanidin glucosid, màu đỏ càng chuyển qua xanh. Cyanidin còn hiện ra dưới các thể galactosid, arabinosid, galactosid glucosid, araginosid. Trong số các flavon khác, đã xác định được những pelargonidin, delphinidin, petunidin, còn flavonol glycosid thì có quercetin galactosid, rhamnosid, azaleatin galactosid, malvidin glucosid, delphinidin glucosid. Hai chất sau nầy nhuộm hoa màu tía (3), còn caroten hiến màu vàng trong hoa R. japonicum f. flavum (21). Song song với hoa, thân, lá , rễ cây đỗ quyên R. simsii cũng được khảo cứu. Rễ cây chứa đựng những flavon như quercetin, kaempferol, hyperin cùng sitosterol. Bên cạnh amin acid, những kim loại Zn, Fe, Cu, Co, Se, Mn và Cr đã được xác định (mg/100g) trong thân cây : 7,09, 21,37, 1,14, 0,31, 0,03, 6,62, 0,02 và trong rễ cây : 7,42, 28,69, 1,29, 0,32, 0,01, 0,99, 0,02. Trong lá cây, cùng với triterpen, flavonon glycosid và chất phản oxy hóa "matteucinol", những flavonoid aglycon như quercetin, kaempferol đã được trích chiết làm rượu thuốc Jinjuan (2). Về mặt ứng dụng, lá cây đỗ quyên chứa đựng vitamin C. Lượng sinh tố có nhiều về mùa hè so với mùa đông, có nhiều ở chỗ nóng so với trong bóng râm, tăng lên trước khi mặt trời mọc rồi giảm dần (7,8). Phần chiết chứa đựng nhiều flavonoid ở liều lưọng 300 mg/kg chữa bệnh viêm phế quản mạn tính rất hiệu nghiệm (4). Nước chiết từ cây cống hiến một chất thuốc có khả năng ức chế trùng VSH-II (6). Những flavon glucosid ở lá cây R. anthopogonoid, cấu chất của anthorhododendrin, có tác dụng long đờm trên chuột. Đằng khác, nó gây co thắt các mạch máu ở chân ếch và tai thỏ đồng thời làm duỗi khí quản heo cùng các bắp thịt cánh chậu trơn nhẵn. Nó rất hiệu nghiệm trong cuộc trị liệu viêm phế quản nhưng nên ghi nhận LD50 ở chuột là 0,40 g/kg (12). Phần chiết nhiều cây đỗ quyên khác cũng có tính chất long đờm (5) nhờ những chất farrerol, astragalin, kaempferol, scopoletin, hay ngừa ho nhờ hyperin và quercetin (13). Chất quercetin nầy còn có khả năng ức chế những hoại tử khối u ở đại thực bào (20). Dầu lá cây R. dauricum chứa đựng flavon được dùng chữa ho hen và bệnh suyễn (15). Dùng methanol chiết lá thì được một chất thuốc làm giảm đau, hiệu nghiệm 40% với 50 mg/kg nhưng cũng trở nên độc trên 150 mg/kg (14). Chiết với ethanol 95%, cây R. cephaluntum cống hiến một chất chromen có khả năng ức chế hoạt động của 5-lipoxygenase và được dùng chống viêm, dị ứng, hen suyễn (19). Ở vùng núi miền Hắc hải bên Turkey cũng như ở Nhật Bản, Nepal, Brazyl, và ngay ở châu Âu và châu Mỹ, các loại hoa đỗ quyên R. ponticum, R.luteum chứa một chất độc, grayantoxin, được ong hút về cùng nhựa hoa làm mật, ăn vào có thể bị nôn mửa, hôn mê, vú nứt (22) hay huyết áp giảm xuống, nhịp chim chậm lại (11,16,17). Chất độc nầy tác động lên cuộc gián phân bạch huyết bào con người (18). Mang tên andromedotoxin, được phát hiện ở R. hunnewellianum (9) hay acetylandromedol (11) ở R. chrysanthum, R. campylocarpum và các hoa đỗ quyên khác cùng họ Đỗ quyên Ericaceae, đồng thời tác dụng lên tim, nó còn kích thích da cùng các màng nhầy (10). Trong Đông y, đỗ quyên vị đắng tính bình, hơi độc vào can thận, có tác dụng dưỡng thận khí, bổ thận khu phong, trị âm suy liệt dương, chân yếu lưng mỏi, di tinh, phối hợp với các vị khác. Chữa tiết tinh, lạnh tinh, liệt dương : lá thạch nam, ba kích, nhục thung dung, tỏa dương , sơn thù, mỗi vị 12-20g, sắc uống, hòa thêm 10 g cao ban long càng tốt. Chữa can thận hư, phong hàn thấp, chân tê yếu : thạch nam, tật lê, hà thủ ô, ba kích, ngũ gia bì, thỏ ty tử (quả hạt tơ hồng), uy linh tiên, mỗi vị 12-20 g, sắc uống (**). Khóm đỗ quyên trên sườn đồi núi Alpes (ảnh Võ Quang Yến) Tôi đã có dịp lên Bạch Mã nhưng không may mắn gặp được mùa đỗ quyên trỗ hoa. Nghe nói đẹp lắm. "Khi mặt trời rọi những tia nắng ấm xuống Bạch Mã, dòng suối đã mang hết nước về xuôi, hoa đỗ quyên rực rỡ một vùng. Sắc đỗ quyên đỏ thắm như máu, nồng nàn như mời gọi mà không rực rỡ, xót xa như phượng vĩ…" (1) Tuy nhiên, tôi lại được đi dạo ở miền núi Alpes bên Pháp, một chiều đầu hè, mặt trời tuy cao nhưng hết còn nóng, gió nhẹ thổi vương chút nắng tàn, hoa đỗ quyên cũng đỏ thắm huy hoàng cả một triền núi xanh thấp thoáng dưới bầu trời lửng lơ mây trắng.. Tôi cảm thấy khoan khoái, dễ chịu do khí trời mát mẻ, không khí trong sạch đã đành, mà cũng có lẽ vì nhẹ bước giữa những khóm đỏ quyên tươi thắm như hân hoan đón rước kẻ đi dạo rừng. Khó mà so sánh với Bạch Mã, tuy ở đây cũng có chim nhưng không phải chim đỗ quyên, cũng có thác nhưng không phải thác Đỗ Quyên. Thôi thì tạm vui nơi phong cảnh xứ người, có khi may mắn được nghe giọng hát ví von của ca sĩ Đỗ Quyên khuây khỏa thời gian chờ đợi về tắm ao ta. Nghiên cứu và Phát triển 2(45) (2004) 68-72 có bổ túc (*) Trần Hợp, Cây cảnh, hoa Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội, TPHồChíMinh (1993) 342 (**) Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội (1997) 1097 Tham khảo 1- Nguyễn Hương, Bạch Mã, mùa hoa đỗ quyên nở, Nhớ Huế - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TPHồChíMinh (2000) 42-45 Rhododendron simsii, R. indicum, Azalea indica 2- R. De Loose, Qualitative investigation on the flower pigments of Belgian hybrids of Rhododendron simsii, Meded. Vlaam. Chem. Ver. 30(4) (1968) 99-123 3- R. De Loose, Azalea indica flower color as related to the parameters pH, anthocyanins and flavonol co-pigments, Sci. Hortic. (Amsterdam) 9(3) (1978) 285-90 4- Y.F. Zhang, J.X. Tan, Y.F. Zhou, Change of action potentials in vagus nerve (efferent) of chronic bronchitic rats and the effect of treatment with flavonols of Rhododendron simsii, Yao Hsueh Tung Pao 16(5) (1981) 4-6 5- J. Xie, L. Wang, C. Liu, D. Ge, Synthesis of expectorant principle of natural flavanone, «matteucinol», Zhongguo Yixue Kexueyuan Xuebao 8(2) (1986) 84-7 6- M.S. Zheng, An experimental study of the anti-HSV-II action of 500 herbal drugs, J. Trad. Chin. Med. 9(2) (1989) 113-6 Rhododendron spp 7- R. Wasicky, Vitamin C cycle in the plant, Anais fac.farm.e odontol.univ.,Sao Paulo 15 (1958) 87-109 8- R. Wasicky, Extraction of vitamin C from the above ground portions of plants by the rain, Sci. Pharm. Brazyl 26 (1958) 100-3 9- H.P. Chu, G.K. How, The toxic principle (andromedotoxin) from Nao-Yang-Hua, Rhododendron hunnewellianum. I. The effect on circulation and respiration, Chinese J. Physiol. 5 (1962) 115-24 10- H. Schindler, Acetylandromedol (andromedotoxin) in various Ericaceae species, especially in Rhododendron, and ist approximate determination, Planta Med. 10 (1962) 232-7 11- F. Zymalkpwski, P. Pachaly, S. Auf dem Keller, Determination of acetylandromedol (grayanotoxin I) in Rhododendron ponticum extracts, Planta Med. 17(1) (1969) 8-13 12- Lanchow Med. Coll., Pharmacologic action and toxicity of anthorhododendrin, Chung-Hua Hsueh Tsa Chih 54(5) (1974) 279-83 13- Lab. Med. Plants, Correlation between phylogeny, chemical constituents and pharmaceutical aspects of plants and their applications in drug research, Chih Wu Hsueh Pao 19(4) (1977) 257-62 14- H. Tamura, H. Kuwahara, T. Inui, S. Terada, M. Yokota, A. Hasebe, Use of Rhododendron. I. Drugs and perfumes, Shizuoka-ken Kogyo Gijutsu Senta Kenkyu Hokoku (33) (1988) 61-5 15- F. Cong, F. Xiao, Z. Jiang, H. Yan, L. Meng, L. Cheng, Rhododendron dauricum leaf extracts containing flavones for treatment of cough and asthma, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 86108317 (1988) 4 tr. 16- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Site of action of grayanotoxins in mad honey in rats, J. Appl. Toxic. 11(3) (1991) 199-201 17- F. Onat, B.C. Yegen, R. Lawrance, A. Oktay, S. Oktay, Mad honey poisoning in man and rat, Rev. Envir. Healt 9(1) (1991) 3-9 18- M. Ascioglu, N. Cucer, A. Ekecik, Effect of grayanotoxin II on in vitro mitotic activity of human lymphocytes, J. Inter. Med. Res. 26(3) (1998) 140-3 19- A. Tokuta, T. Kawanabe, K. Tokuta, Y. Toue, A. Satoshi, The new chromene derivatives as 5-lipoxygenase inhibitors, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10251246 (1998) 5 tr. 20- K.R. Manjeet, B. Ghosh, Quercetin inhibits LPS-induced nitric oxide and tumor necrosis factor-alpha production in murine macrophages, Int. J. Immunopharm. 21(7) (1999) 435-43 21- I. Miyajima, K. Ureshino, N. Kobayashi, M. Akabane, Flower color and pigments of intersubgeneric hybrid between white-flowered evergreen and yellow-flowered deciduous azaleas, J. Jap. Soc. Hort. Sci. 69(3) (2000) 280-282 22- B. Puschner, D.M. Holstege, N. Lamberski, T. Le, Grayanotoxin poisoning in the three goats, J. Amer. Vet. Med. Ass. 219(4) (2001) 573-5
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:21:05 GMT 9
Trinh nữ thẹn thùng
Võ Quang Yến Sáng nay vô số lá vàng rơi Người gái trinh kia đã chết rồi ! Nguyễn Bính Ngày xưa có một cô tên Trinh, con nhà nghèo khó, nhưng là một cô gái rất đẹp, vóc người mảnh mai, dáng đi yểu điệu, đặc biệt có đôi mắt đen huyền ẩn sau đôi hàng lông mi vừa dài, vừa rậm. Trong xóm có cậu công tử tên Xinh đem lòng yêu mến cô Trinh. Nhuốm bệnh tương tư, một hôm thừa lúc vô ý, cậu chạy lại nắm tay cô. - Cậu đừng làm vậy mà thất giáo. Tôi đây thà chết chớ không bao giờ để hoen ố… Ông bá hộ, cha của cậu, thấy cậu đã lớn tuổi, tìm nơi môn đăng hộ đối để định gia thất cho con. Sống với người vợ không vừa ý, cậu Xinh vô cùng phẫn chí, đi tới đi lui như người không hồn. Sau một thời gian đi xa, cậu Xinh trở về làng cũ, thẫn thờ ra sau vườn gần mé sông, hình ảnh cô Trinh vẫn còn ghi trong tâm trí của cậu. “ Bổng nhiên, từ trong bụi rậm, cô Trinh bước ra. Cậu đứng nhìn, kìa cô Trinh cất giọng hát, giọng trong trẻo, mê ly lạ thường. Chợt thấy cậu, cô Trinh run rẩy, quay người toan chạy trốn. Cậu Xinh vội nắm tay cô rồi ôm vóc ngọc vào lòng. Rõ ràng là đôi mắt đen huyền đang khuất sau hai hàng mi dày rậm. Cậu cúi mặt để hôn. Nhưng hỡi ôi nàng đã tắt thở. Cậu giật mình, mới biết nãy giờ mình đang cúi xuống đất mà hôn một đóa hoa màu hồng, xung quanh đầy lá nhỏ mịn, thứ lá xếp lại như hàng mi khép khi có hơi gió hoặc hơi thở nào động tới. Hỏi ra mới biết, vì có kẻ tham quan ô lại toan dùng quyền lực cưỡng bức nên cô Trinh đã tự tử từ hai năm nay. Cho hay, chữ trinh giá đáng nghìn vàng. Dẫu chết xuống âm cảnh, người thiếu nữ vẫn giữ sự trong sạch của tâm hồn mình ” (4). Daphné và Apollon Chuyện cô Trinh nhắc ta nhớ đến một sự tích trong thần thoại Hy Lạp. Nữ thần Daphné, một tay thiện xạ, muốn sống độc thân như cô trinh nữ Artémis, thần săn bắn. Một hôm, nhân từ chối những lời ngon ngọt của thần Apollon và bị chàng si tình rượt đuổi trong rừng, nàng cầu cứu vua cha, thần sông nước Pénée và được vua cha (hay Thượng đế Zeus) biến hóa ra thành một cây hương mang lá không rụng, có hoa trắng thơm, cây thắng dapné (theo tiếng Hy Lạp), tiếng Pháp gọi laurier, tiếng Anh laurel, tên khoa học Laurus nobilis, thuộc họ Long não Lauraceae. Apollon chỉ còn biết hái lá cây trang trí cho cây đàn lia và chiếc cung của mình, nhưng đồng thời cũng tôn phong là cây thiêng liêng nên sau nầy thi sĩ, tướng tá hay vua chúa thường hay mang vòng lá thắng (couronne de laurier). Đặc biệt những nghệ sĩ hay nhà bác học thường được thưởng một vòng mang quả mọng cây thắng (bacca laurea) nên sau nầy tiếng Pháp có danh từ baccalauréat để chỉ bằng tú tài. Đóa hoa màu hồng kia là hoa cây trinh nữ còn gọi là cây thẹn, cây mắc cỡ, cây hỗ ngươi hay hàm tu thảo, ojigi-so bên Nhật, lajwanti bên Ấn Độ, lajjabati bên Bangladesh, tức là cây sensitive của Anh, Pháp, mang tên khoa học Mimosa pudica L. từ hai tiếng La Tinh mimus (điệu bô) và pudicus (trong trắng, tiết hạnh) mà ra. Thuộc họ Trinh nữ Mimosaceae, nó là một cây nhỏ, thường cao 30-40 cm hay cao hơn, cũng có thể bò sát đất, mọc hoang khắp nơi trong nước ta, lóa xóa ở hàng rào, ven đường cái, bải cỏ rộng, thân có gai hình móc. Lá kép chân vịt, cuống lá gầy có nhiều lông, mang bốn nhánh lá chét hình lông chim, phiến lá chét nhỏ gồm 15-20 đôi gần như không cuống, khi ta đụng phải thì là cụp lại. Hoa màu tím đỏ, tụ thành hình đầu trái xoan. Quả đậu có lông cứng ở mép và thu lại giữa các hạt hình trái xoan (1,2) . Cây cỏ có rễ bám vào đất thì không di chuyển từ chỗ nầy qua nơi khác được nhưng không phải vì vậy mà chúng luôn ở thể tĩnh. Tính nhận cảm của chúng biểu lộ ở mỗi thay đổi khí hậu, ánh sáng, độ ẩm cũng như sự hiện diện những hóa chất trong môi trường xung quanh. Thường cử động của cây cỏ được sắp thành ba loại : loại tính hướng tropism ( cử động hướng theo tác nhân kích thích), loại tính ứng nasty (cử động không có liên lạc với tác nhân kích thích) và loại tính theo taxis ( cử động hướng theo hay không tác nhân kích thích). Cây trinh nữ thuộc loại tính ứng. Như ở nhiều loại cây đậu, đặc biệt ở các loại cây keo Acacia karroo, cây me Oxalis strica, động tác là mở ban ngày, khép ban đêm hay khi bị đụng tới ở cây trinh nữ đã được để ý đến trước cả Công nguyên. Hình như vào thời kỳ Đại đế Alexandre đã thấy có ghi chép hiện tượng nầy. Chuyển động tuần hoàn tương đối chậm (khoảng 24 tiếng đồng hồ) của lá cây gọi là tính ứng đêm nyctinastic, thao diễn như được một chiếc đồng hồ sinh vật học điều khiển. Thật vậy, khái niệm tính ứng đêm chỉ ra đời sau khi khái niệm đồng hồ sinh vật học được nêu ra. Đầu thế kỷ 18, Du Fay, một nhà hoá học kiêm vật lý học người Pháp, quản đốc ngự uyển, phát giác ra tính ứng đêm (lá mở ngày khép đêm) luôn thao diễn dù ở trong bóng tối. Hiện tượng lạ lùng khó giải thích nầy thúc đẩy các nhà khảo cứu, hóa học, nông học cũng như sinh vật học, kiếm cách tìm hiểu cơ chế không những tinh ứng đêm tức cử động chậm mà còn cả tính ứng tiếp xúc thigmonastic còn gọi tính ứng chấn động seismonastic tức là phản ứng lanh của cây cỏ. Năm 1882, nhà vạn vật học có tiếng Charles Darwin, tác giả cuốn sách độc đáo “ Nguồn gốc chủng loại ”, cùng với con trai Francis rút kinh nghiệm khảo cứu trên hơn một trăm loại cây, cho xuất bản bộ sách quan trọng “ Khả năng vận động của cây cỏ ” trong ấy tính ứng đêm đã được đề cập đến. Những thí nghiệm khéo léo của hai ông về sự đổi màu ngoài sáng đã đưa đến cuộc phát minh chất auxin là hormon cây cỏ đầu tiên trong số sáu hormon được biết nhiều nhất : auxin ethylen, gibberillin, cytokinin, abscisis acid và brassinolid. Ngày nay, người ta giải thích cử động của lá cây là do các luồng ion, đặc biệt các ion K+, gây ra một cuộc di chuyển nước trong hay quanh những tế bào sắp đặt trên và dưới các tổ chức mạch trung tâm. Những tế bào nầy khi co thắt thì mất ion K+, khi phồng trướng thì lấy lại các ion ấy, gây ra cuộc chuyển động (49). Bên lề cơ chế, những nhà khảo cứu muốn tìm cho ra những hoạt chất đã kích thích hoạt động của lá cây. Thoạt tiên, được nghĩ đến trước tiên là những amin acid, đặc biệt L-glutamic acid, alfa-alanin hỗn hợp với D,L-serin, hay glutamic acid với bêta-alanin (10), nhưng thực nghiệm không chứng minh được rõ ràng. Sau đó, phương pháp điện sinh lý học dẫn đường đến chất natri glutamat (36). Cùng lúc, những chất như mimosin (17), tubulin (20,32,33), jasmonic acid (27), acetylcholin (25), indol acetic acic (31), hay một enzym, apyrase (48) cũng được đề nghị làm chất điều hòa chuyển động tuần hoàn trong lá. Năm 1983, Schildneckt và Binder ở Viện Đại học Heidelberg bên Đức chiết xuất và xác định được từ nhiều cây, đặc biệt từ cây trinh nữ, các loại cây keo, cây me, những chất turgorin (28,29,34) gồm có trong phân tử nhóm acid SO3H, mà họ cho là một loại mới phytohormon chỉ đạo cuộc chuyển động kia. Sau cùng, Yamamura và Ueda, hai giáo sư ở Viện Đại học Keio tại Yokohama bên Nhật, khám ra một hỗn hợp gồm có ba chất : kali L-malat, magnê t-aconitat và dimethyl ammonium và theo hai ông chính là chất kích thích cây trinh nữ vì lá đã phản ứng với liều lượng 10-3 – 10-9 M. Đằng khác, hai tác giả nầy còn phân biệt : hỗn hợp ba chất kia chịu trách nhiệm tinh ứng lanh, còn cử động chậm tinh ứng đêm thì là do cặp hai chất kali glucopyranosyl gentisat (khép lá ban đêm) và mimopudin (48) (mở lá ban ngày) dao động thăng bằng với nhau mà nhờ thay đổi cách chiết xuất họ đã phân biệt được. Thật ra, những crocetin glucosid với Benerji (8), phenolic glycosid với Umrath (23), chính xác hơn những dihydroxy benzoic acid – glucorinid (22) hay – glucosid sulfat (21) hay – glucosid disulfat (19) hay glucopyranosyl sulfat gallic acid (30,39) cũng đã từng được Chamberland và nhất là Schildneckt nói đến. Song song với cây trinh nữ, khảo cứu trên nhiều cây như loại đơn châu Lespedeza cuneata, vọng giang nam Cassia mimosoides, diệp hạ châu Phyllanthus urianata, Yamamura và Ueda nhận thấy một trong hai chất của cặp đôi nầy luôn là một glucosid do một enzym là bêta-glucosidase hoạt hóa theo chiếc đồng hồ sinh vật học trong những những điều kiện sinh lý học. Phân biệt được hai tinh ứng, hai ông hy vọng kết thúc một cuộc tranh luận bắt đầu từ hơn 80 năm nay (49) . Bên phần Phòng thí nghiệm Sinh lý Thực vật ở Viện Đại học Poitiers bên Pháp thì khám phá ra được trong những tế bào vận động lá cây, hai protein myosin và actin co bóp như ở các bắp thịt con người (3) . Còn cần phải giải thích quan hệ giữa các protein nầy với các hóa chất kích thích trong một cơ chế phức tạp. Bên cạnh những chất dính dáng đến động tác của lá, nhiều hóa chất khác cũng đã được tìm ra trong cây trinh nữ. Mimosin được nói đến nhiều nhất là một alcaloid (5,18) đã được nhân tạo tổng hợp (9). Nó cũng được chiết xuất từ cây keo giậu Leucaena leucocephala (còn gọi cây keo, bọ chét, bình linh) (11,26) và rất giống chất leucenol (hay leucenin) chiết xuất từ cây keo đậu L.glauca (còn gọi cây muồng , táo nhân, bồ kết dại) (7).Tổng số alcaloid chiết xuất được trong cây là 0,4 mg/mL (13). Lá và hoa chứa đựng rutin (3,97 và 3,11 %) (41). Trong hột cây có acid, nhiều nhất là những (%) linolenic (0,4), linoleic (51), oleic (31), palmitic (8,7) và stearic acid (8,9) (6). Trong dầu hột cây, những acid nầy cũng được tìm ra với 5,7% behenic acid (15). Ngoài ra cũng đã được phát giác trong cây D-pinitol (14), norepinephrin (12), propyl tetracosanyl phenol trong lá (46), và một số glycosidic flavonoid : mimosid (mimosin glucosid) (11), cardenolid (52), bufadienolid trong hột (51), rhamnosyl –orientin, -isoorientin (38) , hydroxy maysin, cassia occidentalin (55) là những glycosyl flavon trong phần cây ngoài trời. Để xác định selenium trong cây trinh nữ cũng như trong nước, đất, thức ăn, những nhà hóa học Việt Nam sử dụng trioxy azobenzen cho hỗn hợp với Se (45) và tìm ra được selenium (mg/kg) trong thân cây (30,7-104,3), lá (40,5-201,4) và hoa (80,0-153,5) trên những mẫu hái ở bốn vùng khác nhau (24). Trong rễ cây trinh nữ còn có L-djenkolic acid, một amin acid độc nhất không phải là một protein và chứa lưu huỳnh, được một enzym là S-alkyl cystein lyase thủy phân thành pyruvat, ammoniac và nhất là methylen thiol hay carbon disulfid CS2, đặc biệt khi rễ cây bị tổn thương (37), có tính chất diệt nấm, diệt giun, diệt sâu, kìm vi khuẩn (44), có khả năng ngăn cản sự sinh truởng những vi khuẩn trong đất (155ng/mL) (35). Bột rễ cây đem thử lên chuột cái Rattus norvegicus thấy ức chế được hoạt động estrogen, ngăn chận tử cung phồng lớn khi cho tác dụng estradiol monobenzoat (50,57). Phần rễ chiết với nước hay rượu thì ngăn cản được tác dụng của nọc rắn mang bành Naja kaouthia (54). Tính chất khử vi trùng của cây đã được chứng minh trên trùng Vibrio cholerae (40). Nước chiết lá khô có tính chất chống suy nhược trên chuột nên được dùng để làm thuyên giảm suy sút sinh lực (47) , có thể là nhờ những alcaloid (13). Phần chiết lá với rượu đem thử trên chuột thì có tác dụng làm tăng máu (250mg/kg) (56). Mimosin còn có khả năng ngăn cản tóc mọc (10). Trong kỹ nghệ, cây trinh nữ được dùng trong mỹ phẩm, có tính chất cố định hương thơm, không làm hỏng da lại làm láng tóc nên được trộn với sáp hoa cam và dung dịch hữu cơ thành thuốc phun tóc (43, chữa những chứng ngoài da như bệnh cứng bì (scleroderma), bệnh sẹo lồi (keloid) (53). Phần chiết cây cũng được dùng để phòng ngừa hay chữa những bệnh do vi khuẩn hay độc trùng gây ra ở các giống vật sống dưới nước như tôm hùm (58). Passiflora foetida Trong Đông y, cây trinh nữ có vị ngọt chát, tính mát, trấn tĩnh an thần. Nó được dùng trong nhân dân chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ. Chữa thần kinh suy nhược, nhức đầu, ù tai, khó ngủ : lá cây trinh nữ, dây lạc tiên Passiflora foetida (còn gọi nhãn lòng, mác mát), củ tóc tiên Ophiopogon japonicus (còn gọi mạch môn, củ cỏ lan, cây lan tiên), hột muồng ngủ Cassia tora (còn gọi muồng muồng, muồng lạc, đậu ma, thảo quyết minh, quyết minh tử), hoài sơn Dioscorea persimilis (còn gọi củ mài, khoai mài, sơn dược), mỗi vị 20g sắc uống. Chữa phong thấp nhức xương : rễ cây trinh nữ sao, bưởi bung Acronychia pedunculata (còn gọi bái bài, bí bái cái) sao, dây đau xương Tinospora sinensis (còn gọi khoan cân đằng, tục cân đằng), kê huyết đằng Sargentodoxa cuneuta (còn gọi đại huyết đằng, dây máu gà), mỗi vị 20g sắc uống hoặc ngâm rượu uống (1,2) . Acacia seyal Delille.">Viết xong bài báo, tôi muốn tìm chụp một cái hình cây trinh nữ để minh họa. Nó là một cây xứ nóng, rất khó kiếm ở Pháp, nhất là ở Paris. Người ta khuyên tôi nên đi tìm một nhà kính là nơi nhiệt độ luôn giữ được cao. Nhà kính ở Jardin des Plantes không có trồng cây trinh nữ. Người ta hướng tôi về nhà kính Serres d’Auteuil. May quá, ở đây có trồng cây nầy, lại vào đầu hè, hoa nở tím hồng thật xinh. Thấy tôi mê mẩn ngắm cây hoa thời tuổi trẻ ở đồng quê của tôi, cô gái phục vụ kéo tôi đi xem một cây khác, giống hệt cây trinh nữ nhưng lá không ghép lại khi đụng tay vào, hoa lại vô cùng sực sỡ, hình dạng khác thường, hai màu vàng, đỏ nổi bật trên nền lá xanh. Nó được gọi là cây mimosa có gai, mang tên khoa học Acacia seyal Delille. Bất giác tôi thốt ra : “ Qu’elle est belle ! ” (Sao mà đẹp thế ! ) Elle có thể hiểu là hoa cây hay hoa người, làm cô nàng đứng cạnh hoa, trong hướng mắt của tôi, đỏ mặt thẹn thùng. May mắn thay, ở thời buổi nay, bên phương trời tây, còn bắt gặp được một cô gái biết e lệ cúi đầu không khác gì cây trinh nữ ghép lá ẩn mình ! Nghiên cứu và Phát triển 4-5 (52-53) (2005) 71 Tài liệu Đại cương 1- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 790-1 2- Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông nghiệp, Hà Nội (1997) 913-4 3- Jean-Michel Le Corfec, Le langage du corps du pudique mimosa, Sciences et Avenir 2(1998) 54 4- Sơn Nam – Tô Nguyệt Đình, Cây mắc cở trong Chuyện xưa tích cũ, nxb Phụ nữ, Hà Nội – Tp Hồ Chí Minh (2001) 6-8 Khảo cứu 5- J. Renz, Mimosin, Z. physiol. Chem. 244 (1936) 153-8 6- J.S. Aggarwal, D. Karimullah, Chemical examination of the seeds of Mimosa pudica Linn. I- Analysis of fatty oil, J. Sci. Ind. Res. (India) 4 (1945) 80-2 7- J.P. Wibaut, The structure of leucenol (leucenine) from Leucaena glauca Benth., Helv. Chim. Acta, 29 (1946) 1669-75 8- B. Banerji, G. Bhattacharya, D.M. Bose, Chemical nature of the substances which are (1) effective in the transmission of excitation in Mimosa pudica and (2) active in the contraction of its pulvinus, Trans. Bose Res. Inst. Calcutta 16 (1944-1946) 155-76 9- I.D. Spenser, A.D. Notation, A synthesis of mimosine, Can. J. Chem. 40 (1962) 1374-9 10- R.G. Crounse, J.D. Maxwell, H. Blank, Inhibition of growth of hair by mimosine, Nature 194 (1962) 694-5 11- I. Murakoshi, S. Ohmiya, J. Haginiwa, Mimoside. Glucosidic metabolite of mimosine in Mimosa pudica anh Leucaena leucocephala, Chem. Pharm. Bull. 19(12) (1971) 2655-7 12- P.B. Applewhite, Serotonin and norepinephrine in plant tissues, Phytochem. 12(1) (1973) 191-2 13- Q. Abdul, M. Khondaker, H. Quamrul, Study of the actions of the total alkaloid extract of Mimosa pudica Linn. (Lajjabati) and atropine sulfate on the isolated duodenum of rabbits, Bangladesh Veter. J. 8(1-4) (1974) 27-32 14- H. Schildknecht, D.S.P. Iyengar, Biological chemistry of Mimosaceae. I- D-Pinitol from Mimosa pudica, Naturwissens. 62(1) (1975) 533-4 15- R.C. Badami, K.B. Patil, S.C. Shivamurthy, Minor seed oils. XIII- Examination of seed oils rich in linoleic acid, J. Food Sci. Techn. 14(3) (1977) 126-8 16- H. Schildknecht, B. Tauscher, M. Pesh-Imam, W. Beltle, P. Kunzelmann, D. Schneider, Plant defense substances. X- The biological chemistry of Mimosaceae. II- Amino acids as « leaf movement factors », Naturwissens. 65(3) (1978) 125-9 17- S.I. Baskin, G.S. Cooper, Mechanisms of movement in Mimosa pudica - a pharmacological approach, Gen. Pharm. 11(1) (1980) 135-9 18- B. Tangendjaja, R.B.H. Wills, Analysis of mimosine and 3-hydroxy-4(1H)-pyrolidone by high-performance liquid chromatography, J. Chrom. 202(2) (1980) 317-8 19- H. Schildknecht, K. Schumacher, Plant protection agents. XVII- Biochemistry of Mimosaceae. VIII- An additional leaf movement factor from Acacia karroo, Chem. Z. 106(12) (1982) 421-4 20- J. Mukherjee, S. Biswas, Tubulin from Mimosa pudica and its involvement in leaf movement, Phytochem. 21(8) (1982) 1881-4 21- H. Schildknecht, W. Bender, Plant protection agents. XVIII- Biochemistry of Mimosaceae. IX- Chemonastically active leaf movement factors from Mimosa pudica L., Chem. Z. 107(4) (1983) 111-4 22- H. Schildknecht, W. Bender, Plant protection agents. XIX- A new phytohormone M-LMF 5 from Mimosa pudica L., Angew. Chem. 95(8) (1983) 634-5 23- W. Bielenberg, H. Esterbauer, M. Hayn, K. Umrath, The excitatory substance of the Mimosaceae, Phyton (Horn, Austria) 24(1) (1984) 1-10 24- Dang Hong Thuy, Dam Trung Bao, Study of selenium content in Mimosa pudica L., Rev. Pharm. (Hanoi, Vietnam) (1984) 12-7 25- S. Suda, Is acetylcholine involved in the movement of Mimosa pudica ? Shokubutsu no Kagaku Chosetsu 19(2) (1984) 116-22 26- A. Mathews, P.V. Rai, Mimosine content of Leucaena leucocephala and the sensitivity of Rhizobium to mimosine, J. Plant Physiol. 117(4) (1985) 377-82 27- S. Tsurumi, Y. Asahi, Identification of jasmonic acid in Mimosa pudica and its inhibitory effect on auxin- and light-induced opening of the pulvinules, Physiol. Plantarum 64(2) (1985) 207-11 28- Y. Shizuri, E. Miyoshi, S. Nishiyama, H. Toshima, K. Nagasawa, S. Yamamura, Some stimulating substances to leaf movement of Mimosa pudica and related plants, Tennen Yuki Kagobutsu Toronkai Koen Yoshishu 27th (1985) 664-71 29- H. Schildknecht, A chemical power of movement in higher plants, Nat. Prod. Chem., Int. Symp. Pak.-U.S. Binatl, Workshop, 1st (1986) (Meeting Date 1984) 358-82 30- H. Schildknecht, R. Milde, From radioactive coniferin to labeled turgorin, Carb. Res. 164 (1987) 23-31 31- M. Rody, P.S. Basu, Production of 3-indoleacetic acid by a Rhizobium sp. from Mimosa pudica, Folia Microbiol. (Prague, Czech Republic) 34(2) (1989) 120-6 32- M. Pal, A. Roychaudhury, A. Pal, S. Biswas, A novel tubulin from Mimosa pudica. Purification and characterization, Eur. J. Biochem. 192(2) (1990) 329-35 33- A. Roychaudhury, S. Biswas, Sulfhydryl groups of Mimosa pudica tubulin implicated in colchichine binding and polymerization in vitro, Arch. Biochem. Biophys. 294(2) (1992) 353-60 34- G. Schaller, H. Schildknecht, A new separation process for isolating turgorins, J. Prak. Chem./ Chem. Z. 334(4) (1992) 358-60 35- P.G. Hartel, B.L. Haines, Effects of potential plant CS2 emissions on bacterial growth in the rhisosphere, Soil Biol. Biochem. 24(3) (1992) 219-24 36- S. Nakajima, C. Aoki, M. Okamoto, N. Baba, J. Iwasa, Electrical pulse generation from Mimosa pudica by administering other plant extract, Biosc.Biotech. Biochem. 57(11) (1993) 1976-7 37- P.G. Hartel, R.E. Reeder, Effects of drought and root injury on plant-generated carbon disulfide emissions in soil, Plant Soil 148(2) (1993) 271-6 38- J. Englert, Y. Jiang, P. Cabalion, A. Oulad, R. Anton, C-glycosylflavones from aerial parts of Mimosa pudica, Planta Med. 60(2) (1994) 194 39- H. Chamberland, J. Lafontaine, F. Marsolais, M. Richard, L. Varin, Characterization of tissue-specific, sulfotransferase-like protein in Mimosa pudica, Colloques INRA (1995) 69 (Polyphenols 94) 347-8 40- K.A. Akinsinde, D.K. Olukoya, Vibriocidal activities of some local herbs, J. Diarrhoeal Diseases Res. 13(2) (1995) 127-9 41- G. Toker, S. Turkoz, B. Sener, The determination of rutin in some plants by ultra violet spectroscopy, Fac. Phar. Gazi Univ. (Ankara, Turk) 14(1) (1997) 51-4 42- R. Ghosh, S. Biswas, S. Roy, An apyrase from Mimosa pudica contains N5,N10-methenyl tetrahydrofolate and is stimulated by light, Eur. J. Biochem. 258(3) (1998) 1009-13 43- T. Kripp, B. Krause, G. Lang, W. Maurer, I. Toeche-Mittler, Cosmetic compositions containing flowwer wax, Ger.Offen. DE 19641992 A1 19980416 (1998) 10 tr. 44- J. Piluk, P.G. Hartel, B.L. Haines, Production of carbon disulfide (CS2) from L- djenkolic acid in th roots of Mimosa pudica L., Plant Soil 200(1) (1998) 27-32 45- Thu Lam Ngoc, Tan Le Van, The complex formation of Se(VI) with trioxyazobenzene and its application, Proc. Nat. Cent. Sci. Tech. Vietnam 10(2) (1998) 51-5 46- B. Josewin, M. Ramachandrapai, M.S. Suseelan, A new phenolic ketone from the leaves of Mimosa pudica Linn., Indian J. Chem. Org. Chem. Med. Chem. 38B(2) (1999) 251-3 47- M. Molina, C.M. Contreras, P. Tellez-Alcantara, Mimosa pudica may possess antidepressant actions in the rat, Phytomed. 6(5) (1999) 319-23 48- M. Ueda, S. Yamamura, Leaf-opening substance of Mimosa pudica L. ; chemical studies on the other leaf movement of mimosa, Tetr. Lett. 40(2) (1999) 353-6 49- Hai giáo sư Shosuke Yamamura, Minoru Ueda và cộng tác viên, ngoài những bản báo cáo khảo cứu, còn có cho đăng một loạt bài tổng kiểm lần lượt trình bày kết quả chung của đề tài. Sau đây chỉ xin dẫn ba bài tiêu biểu nhất : The chemistry of leaf-movement in Mimosa pudica L., Tetrahedron 55(36) (1999) 10937-48 ; The diversity of chemical substances controlling the nyctinastic leaf-movement in plants, Phytochem. 53(1) (2000) 39-44 ; Chemistry and biology of plant leaf movement, Angew. Chem. Int. Ed. 39(8) (2000) 1400-14 50- S.V. Alsala, Estrogenic and anti-estrogenic activities of Mimosa pudica on Rattus norvegicus, J. Ecotox. Envir. Monitoring 10(1) (2000) 25-9 51- R.N. Yadava, S. Saroj, A novel bufadienolide from the seeds of Mimosa pudica Linn., Asian J. Chem. 13(3) (2001) 1157-60 52- R.N. Yadava, S. Yadav, A new cardenolide from seeds of Mimosa pudica Linn., J. Inst. Chem. (India) 73(5) (2001) 182-4 53- J. Anderson, L. Declercq, D.F. Collins, T. Mammone, H.A.L. Corstjens, Compositions containing mimosa phenolic compounds USXXAM US 6290993 B1 20010918 (2001) 4 tr. ; PCT Int. Appl. PIXXD2 WO 0107008 A1 20010201 (2001) 13 tr. 54- M. Mahanta, A.K. Mukherjee, Neutralisation of lethality, myotoxicity and toxic enzymes of Naja kaouthia venom by Mimosa pudica root extracts, J. Ethnopharm. 75(1) (2001) 55-60 55- A. Lobstein, B. Weniger, B.H. Um, M. Steinmetz, L. Declercq, R. Anton, 4’’-Hydroxymaysin and cassiaoccidentalin B, two unsual C-glycosylflavones from Mimosa pudica (Mimosaceae), Biochem. Syst. Ecol. 30(4) (2002) 375-7 56- T. Amalraj, S. Ignacimuthu, Hyperglycemic effect of leaves of Mimosa pudica Linn., Fitoter. 73(4) (2002) 351-2 57- S. Valsala, P.R. Karpagaganapathy, Effect of Mimosa pudica root powder on oestrous cycle and ovulation in cycling female albino rat, Rattus norvegicus, Phytother. Res. 16(2) (2002) 190-2 58- U.M. Desai, C.T. Achuthankutty, R.A. Sreepada, Composition for treating wssv infected tiger shrimp, PCT Int. Appl. PIXXD2 WO 0272121 A1 20020919 (2002)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:23:47 GMT 9
Canh chua me đất Võ Quang Yến Canh rau cũng thể canh rau, Để ai cậy thế ỷ giàu mặc ai. Ca dao Trong bữa cơm của ta, bát canh rau không những ngon miệng mà còn là cần thiết. Mùa hè trời nóng, món canh chua lại càng được chờ đợi, thưởng thức. Trong Nam, thường bạc hà được dùng để thêm vị chua. Ở Huế, me đất là rau vừa dễ tìm vừa đem lại khẩu vị thích hợp. Cũng như mọi nhà nội trợ đảm đang khác, vào mùa xuân cũng như mùa hè, khi gấp gáp, đi ra vườn vài phút là mạ tôi hái đủ lá me để dùng. Cô Hoàng thị Kim Cúc đề nghị món canh – cá cơm nấu me đất vào thực đơn mùa xuân : "Cá cơm rửa sạch, xé hai con cá, lấy tay tước xương và đầu vứt đi, rửa lại nước muối cho cá cứng, vớt ra, dầm cá vào hành giã nhỏ, tiêu, nước mắm, ớt trộn lại để đó. Nấu nửa soong nước sôi, đổ cá vào nấu, nếu có tôm xào thêm càng ngon. Sôi vài lần cá chín, nhắc xuống bỏ me đất lặt rửa sạch vào, thêm lá hành ngò xắt nhỏ". Cô cũng chỉ cách nấu me đất với tép : "Đổ mỡ quánh để nóng ; bỏ hành giã nhỏ xào chín, cho tép, ớt, tiêu, muối, nước mắm vào xào. Tép thấm, đổ một bát nước nấu sôi, nếm vừa, nhắc xuống, bỏ me đất lặt rửa sạch vào, trộn me cho chín đều". Ấn tượng bát canh me đất tồn tại lâu dài trong trí óc người Huế sống xa quê. "Chan nước canh me chua vào cơm, bỏ thêm một nhúm rau sống tươi xanh, và vào miệng, chưa chi các hạch nước miếng đều đổ ra, có thể mọi sự phiền não, chán nản trên đời đều tan biết trên bát canh độc đáo đó" (1). Làm sao quên được cảnh tượng gia đình cả thời tuổi trẻ : Đứa nào cũng thử chan vào cơm và húp canh. Lũ nhỏ thì chê chua đắng. Tôi lớn hơn mấy tuổi, bắt đầu biết thưởng thức mấy món cay nên thấy hay hay. Chan thêm canh và rắc thêm một ít khuyết lùa cơm vào miệng. Ôi thấm thía ! ….Có lần mẹ tôi đố các con : Xăm xăm cầm búa nhìn quanh Thợ rèn thợ bạc thảy đành ngồi không. Là cây gì ? – Cây me đất (vì mất đe là me đất) " (2) . Me đất thường dùng là chua me đất hoa vàng hay tím lạt, thường gặp ở những nơi ẩm ướt, bờ ruộng, đồng cỏ hoang. Nó là một loại cỏ mọc lan bò trên mặt đất, thân đỏ nhạt, lá cuống dài, gồm ba lá chét, mỗi lá chét có một vết hõm trên đầu thành hình tim ngược. Hoa mọc thành tán, cuống gầy, nhị hai vòng, nở vào các tháng 5-7. Tên khoa học của nó là Oxalis corniculata L. hay O. repens Thunb., thuộc họ Chua me đất Oxalidaceae như cây khế. Tên thông thường là me đất, chua me đất, chua me hoa vàng, trong Nam có tên chua me ba chìa, người Tày gọi sỏm hèn, người Thái co kham lin (***), người Nam Dương semanggi. Từ Trung Hoa có thêm những tên thố tương thảo, toan tương thảo, tạc tương thảo, toan vị thảo, toan vị vị, tam diệp toan. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ (**) phân biệt me đất nhỏ O. corniculata L. còn me đất hường là O. corymbosa D.C. Cây me còn mang tên O. martiana Zucc., một loại cỏ không có thân, lá ở gốc, hoa màu hồng nên còn được gọi hồng hoa tạc tương thảo. Cũng có hoa cùng màu hồng là cây chua me đất đỏ O. deppei Sw., còn gọi rau bợ, thân ngầm, lá chét hình tím ngược, hoa năm cánh, nhị hai vành, mọc hoang dại. Ngoài ra có một loại cỏ mọc ở vùng khí hậu mát như Sapa, Hoàng Liên Sơn gọi là chua me núi O. acetosella L. hay sơn tạc tương thảo, không có thân, lá kép, hoa trắng hay hồng. Có bản báo cáo ghi tên chua me đất nầy là wood sorrel (15). Ở báo chí khoa học, cây rau sorrel (hay surelle, oseille, rau chút chít) thường được khảo cứu về dung lượng kim loại trong cuộc tìm hiểu và đo lường ô nhiễm môi trường. Giáo sư Đỗ Tất Lợi (*) còn có ghi cây chua me lá me O. sensitivia Lour ., cũng cùng họ Chua me đất, thân cao hơn, nhiều lá dài, hoa màu vàng, có vị chua mát, thường được nấu với rau muống. Rau có vị chua vì thân và lá chứa đựng vài acid hữu cơ. Sắc ký giấy cho phát hiện tartric acid và chút ít citric acid trong lá me đất (4), ascorbic acid tức vitamin C bên cạnh dehydroascorbic, pyruvic và glyoxalic acid trong me núi (6). Số lượng ascorbic acid được xác định qua phép so màu là 183mg/100g trong me núi tươi (14). Trong toàn thân cây me đất có một chất bảo vệ ascorbic acid khỏi bị oxi hóa (3). Chất phylloquinon tức vitamin K1 đã được phát hiện qua phép đo độ nhạy cảm so với 2,4-dichloro phenoxy acetic acid (15). Một phần oxalic acid trong me đất (7,0%) hiện diện ở thể hòa tan (4,0%) (5). Những flavonoid như vitexin, isovitexin có mặt trong me đất (8). Dùng hexan chiết xuất, người ta đã phát hiện được octacosanal và b-sitosterol (12) trong toàn thân cây. Trong số 17 hoá chất tách từ me đất, 2-heptanal, 2-pentylfuran, t-phytol-3,7,11,15- tetramethyl-2-hexadecenol đã được xác định (9). t-Phytol có tác dụng ức chế enzym lipoxygenase đậu nành với chỉ số IC50 ở nồng độ 0,22µM (11). Những lipid (1,47%) chiết xuất từ lá me đất với một hỗn hợp CHCl3-MeOH phân tích qua cột sắc ký silicagel cho thấy gồm có phần lớn lipid trung hòa cạnh những glycolipid và phospholipid (10). Về mặt kim loại và khoáng chất, me núi chứ đựng Ca, Mg, Na (16), còn vỏ tế bào me đất qua kính hiển vi điện tử cho thấy khối ferritin là nguồn sắt ở phôi cây (7). Theo Đông y, chua me có tính chất chua (toan), lạnh (hàn), thường được dùng làm thuốc thanh nhiệt, khát nước, mát máu, an thần, điều kinh, giảm huyết áp, thông tiểu tiện, chữa sốt lỵ, cảm ho, viêm gan, viêm ruột, viêm niệu đạo, xích bạch đới, suy nhược thần kinh, bệnh đường tiết niệu. Thường khi khát nước, người ta lấy một nắm giã nát chế nước nguội vào vắt lấy nước cốt uống. Chữa đại tiểu tiện không thông thì hòa thêm một thìa đường vào nước cốt. Để chữa hậu môn sưng đau hay lở nẻ, cho giã nhỏ me đất với rau săm, bồ kết, nấu nước ngâm rửa. Bong gân sưng đau thì giã me đất chưng nóng xoa bóp hay giã vắt lấy nước dội vào. Ở Ấn Độ, Philippines, nhân dân dùng nó chữa bệnh scorbut nhờ có ascorbic acid. Một phấn chiết me đất có tính chất chống tăng đường huyết và chống tăng huyết áp, được đề nghị cho vào thức ăn (13). Đằng khác, một hỗn hợp gồm có oxalic acid rất hiệu nghiệm khi đem khử các trùng Escherichia coli và Staphylococcus aureus (20). Oxalic acid là một phân tử diacid (hai acid) nhỏ nhất HOCO-COOH (chỉ có hai nguyên tố carbon), có phần độc, được nhà hóa học kiêm dược sư Carl Wilhelm Scheele (1742-1786) người Thụy Điển khám phá ra năm 1776. Nó hiện diện trong thiên nhiên ở thể muối. Ở Pháp, kali oxalat được gọi là "muối chút chít" (sel d’oseille). Còn calci oxalat không tan hòa trong nước thì cấu thành những thể kết trong cây cỏ, những sỏi sạn trong cơ thể. Vì vậy người có sỏi sạn trong bàng quang không nên dùng me đất. Để chữa chứng thiếu máu vì thiếu sắt, người ta dùng muối ferreux oxalat. Trong cơ thể sinh vật, khi oxalat -OCO-COO- được enzym biến hóa ra format HOCO- để cấu thành khí CO2 thì phát ra năng lượng cần thiết cho những phản ứng khác. Trong kỹ nghệ, dựa lên tính chất có khả năng di chuyển những ion kim loại và kiềm thổ (cấu thành oxalat), người ta dùng oxalic acid để xử lý mặt kim loại, đánh sạch và mài nhẵn cẩm thạch, tẩy trắng bột giấy, sợi vải, da thuộc, làm thuốc cắn màu trong ngành nhuộm lông len. Nó cũng được dùng trong việc chế tạo các chất trùng hợp hay các chất dẻo. Trước kia, ở Âu châu, oxalic acid được chiết xuất từ me núi. Ngày nay, nó được nhân tạo tổng hợp bằng phương pháp oxi hóa với nitric acid những carbohydrat lấy từ bắp (Hoa Kỳ), đường (Ấn Độ), sắn (Brazyl) hay những olefin như propylen (Pháp), ethylen glycol (Nhật Bản). Trong dân gian, lá me đất thường được dùng để đánh bóng đồ đồng. Ở kỹ nghệ, lá me đất hay phần chiết được pha lẫn với nhiều chất khác chiết xuất từ thực vật như nhựa thông, hạt dẻ hay nguồn gốc khoáng vật như monmorilonit, vermiculit để tẩm thấm những lớp nền xốp màng lọc có khả năng ngăn chặn methylamin, methanthiol (17), hay những chất có mùi đạm như ammoniac, ngay cả mùi khói thuốc lá (19). Nói chung vận dụng áp suất thấm lọc một màng lọc tẩm me đất, người ta có thể phân ly nhiều chất lỏng hay hơi khí như ammoniac, đạm khí từ khí trời, hay khinh khí từ hỗn hợp khí phát xuất trong phản ứng khử lưu huỳnh (18) . Loại màng lọc nầy rất hiện đại và rồi đây sẽ phát triển mạnh. Nhân đi dạo miền nam nước Pháp, một hôm lang thang trên một sườn núi vùng Haute Provence, tôi gặp một cụ già lom khom đi tìm nhặt một cây rau có ba lá chét hình tim ngược như me đất, gọi là anémone hépatique, không phải để nấu canh chua vì trong thực đơn Pháp không có canh. Trả lời câu hỏi của tôi, ông bảo mỗi buổi sáng, thay vì uống cà phê, ông sắc uống rau nầy thì thấy con người thư thái ra. Tuy nhiên cây rau nầy không được phổ biến rộng rãi như me đất của ta. Trong ký ức người Huế, me đất là cả một kỷ niệm êm đềm. Vừa là món ăn quen thuộc, nó lại hiến một cảnh tượng quê nhà khó quên : "Lá me đất màu xanh lục gồm có ba cánh hình trái tim, xếp châu đuôi lại với nhau rất đều đặn. Tôi nhớ hồi còn bé, chúng tôi nhổ những cọng rau me đất nầy, cầm trong hai ngón tay, xoay xoay như những chiếc dù xanh tí hon. Bây giờ tôi lại phát hiện thêm hoa me đất rất đẹp. Màu hoa hồng tươi năm cánh, ở giữa là nhị vàng cam. Hoa nở rộ lên khi ánh nắng chan hòa trong vườn . Búp hoa hình bình hoa, máu trắng ngà, khi hàm tiếu chúm chím mà tím hồng ở giữa và khi nở ra, màu tím hồng tươi của hoa xen lẫn giữa những đám lá màu xanh lục trông thật đẹp (1). Trích Nghiên cứu và Phát triển 3(37) (2002) 3-7 Tham khảo (*) Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 253-4 (**) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Montréal (1992) 365-7 (***) Lê Trấn Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông Nghiệp, Hà Nội (1997) 144-5 1- Phong Sơn, Bát canh me đất, trong Hương Sen Huế - Nhớ Huế 6, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 67-68 2- Trương Văn Ngọc, Bát canh me đất, trong Người Huế - Nhớ Huế 7, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 126-127 Oxalis corniculata. Ảnh Võ Quang Yến 3- K. Ishimaru, Distribution of scorbic acid oxidase in plants, Shokuyô no Kagaku 1 (1946) 77-8 4- V.S. Govindarajan, M. Sreenivasaya, Papyrographic micromethod for the study of organic acids in plants, Current Sci. (India) 20 (1951) 43-4 5- R.H. Mathams, A.K. Sutherland , The oxalat content of some Queensland pasture plants, Queensland J. Agr. Sci. 9 (1952) 317-34 6- K.K. Patnaik, N. Samal, Identification of keto acids in three different species of Oxalis, Pharmazie 30(3) (1975) 194 7- Ferritin in the integumentary cells of Oxalis corniculata, P.Gori, J. Ultrastrut. Res. 60(1) (1977) 95-8 8- R. Gunasegaran, Flavonoids and anthocyanins of three Oxalidaceae, Fitoterapia 63(1) (1992) 89-90 9- B.B. Lin, Y.S. Lin, K.J. Chen, F.C. Chen, Constituents of Oxalis corniculata L., Zhonghua Yaoxue Zazhi 44(3) (1992) 265-7 10- R. Sridhar, G. Lakshminarayana, Lipid classes, fatty acids, and tocopherols of leaves of six edible plant species, J. Agric. Food Chem. 41(1) (1993) 61-3 11- B.B. Lin, Y.S. Lin, Selective inhibition activity on 15-lipoxygenase of trans-phytol isolated from Oxalis corniculata L., Chem. Express 8(1) (1993) 21-4 12- M.U. Ahmad, M.A. Hai, M. Sayeduzzaman, T.W. Sam, Chemical constituents of Oxalis corniculata Linn., J. Bangladesh Chem. Soc. 9(1) (1996) 13-7 13- Y. Kamata, T. Toyokawa, M. Teruya, T. Ichiba, K. Kuniyoshi, Antihyperglycemia and antihypertensive agents containing Okinawan plant products, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 200220821 (2004) 19tr. Oxalis acetosella Ảnh Võ Quang Yến 14- E. Jorma, The colorimetric determination of vitamin C with 2,6-dichlorophenolindophenol, Suomen Kemistilehti 19A (1946) 21-5 15- O.Jansson, Phylloquinone (vitamin K1) levels in leaves plant species differing in susceptibility to 2,4-dichlorophenoxyacetic acid, Physiol. Plant. 31(4) (1974) 323-5 16- J. Bednarova, V. Bednar, Calcium, magnesium and sodium levels in the above ground biomass of some plant populations from the Tatra National Park, Acta Univ. Palacki Normuc. Fac. Rerum Nat. 63(Biol.19) (1979) 71-80 Công dụng 17- M. Mizobuchi, Y. Saihara, H. Date, Deodorants for air conditioning, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 88 42857 (1989) 5tr. 18- M.J. Campbell, Process for flow control using permeable wood sorrel membranes, Braz. Pedido PI BR 88 04,223 (1980) 30tr. 19- Y.Saihara, H. Date, T. Yamauchi, Deodorizing filters, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 62 45312 (1987) 4tr. 20- M.A. Chernyavskaya, A.S. Belova, Antibacterial mechanism of hydrogen peroxide preparations, Z. Gesamte Hyg. Ihre Grenzgeb. 36(2) (1990) 86-8
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:26:30 GMT 9
Cà cuống Võ Quang Yến Bên nước ta có nhiều loại cà. Trừ cà kheo, cà mèn, cà rá, cà ròn, cà sa, cà vạt, …những cà bát, cà dái, cà dại, cà dừa, cà độc dược, cà gai, cà hoang, cà hôi, cà lào, cà na, cà ổi, cà pháo, cà quánh, cà quinh, cà tím, ngay cả cà rốt, cà phê… nhập khẩu thuộc loài thảo mộc, còn những cà ghim, cà kếu, cà niễng, cà tong,… thì lại thuộc loài động vật. Trong số nầy, cà cuống là một côn trùng được nói đến nhiều nhất. Trước ở miền Bắc, nay phổ biến khắp nơi, dầu cà cuống hương mùi độc đáo, có người cho cay đắng, nhưng nhỏ một vài giọt vào bát phở, tô bún thì lại nâng cao mùi vị của món ăn. Ở Á châu, cà cuống thường được dùng toàn cơ thể làm thức ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar qua Trung Hoa, Singapore, Indonesia (13). Người Tàu ăn cà cuống luộc thêm một chút muối ở Quảng Châu hay xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore, fwai fa shim im là một món cà cuống rất được ưa thích (3) . Người Thái Lan gọi cà cuống là mangda. Họ trộn nhuyễn toàn cơ thể, có khi vứt bỏ mắt, cánh và những bộ phận xơ cứng, với hành, kiệu, ớt, đường, thêm vào nước chanh, nước mắm thành một thứ bột nhão gọi là nam prik mangda để ăn với cơm hay rau (13) . Ở ngoài Bắc, cà cuống được loại chân, cánh, đuôi phụ rồi hấp cách thủy trong một cái chõ hay nướng trên lò than để ăn ; cũng có khi để nguyên con còn cả vỏ chitin đem thái nhỏ rồi xào mỡ để ăn ngay hay ướp muối để tích trữ. Người biết thưởng thức không sao quên được hương vị cà cuống thịt. “Bỏ cánh đi rồi, anh nhần nhần sáu cái chân nó, lấy cái đầu, xé ra nhấm nhót cái ức trước rồi cái đuôi sau, anh sẽ thấy nó có một vị ngon khác hẳn các món ăn ngon nào khác : nó nhận nhận, bùi bùi, beo béo mà lại thanh thanh, một người tục có thể ăn cả trăm con mà không biết ngán” (16). Cà cuống sinh trưởng ở dưới nước, tại các ruộng sâu, hồ ao, sông lạch, sống bằng trứng cá và các loài nhuyễn thể. Mùa cà cuống vào tháng 10 âm lịch, sau vụ gặt lúa mùa ở các đồng ruộng, ao hồ. Tháng 7-8, ban đêm cà cuống thường bay vào các nơi đèn sáng (16). Trứng cà cuống lượm trên các thân cỏ dưới nước. Con trẻ thường thích ăn trứng cà cuống sống hay nướng. Để bắt cà cuống, người ta thường dùng những dụng cụ đánh cá như lờ, đó, rưu, dậm. Ở Thái Lan và Việt Nam, cách dùng đặc biệt cà cuống cay là chiết xuất tinh dầu của nó để làm tăng hương vị món ăn, cuốn, thang, bánh chưng, nước mắm (1). Thạch Lam, thời tiền chiến, đã thi vị hóa món ăn : “Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm ngát, lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như một nghi ngờ” (2). Vũ Bằng, một nhà văn quê ngoài Bắc vào sống trong Nam, luôn nhớ đến cà cuống và cho nó là một gia vị quý hơn cả bát trân. Ông kể trong cuốn Thương nhớ mười hai : “ Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ lùng, ông ta gửi dâng vua Hán một mớ và gọi là quế đố nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người một con. Bất ngờ, trong đám có một ông lắm chuyện lại tâu rằng : “Đó không phải là con sâu sống trong cây quế, mà chỉ là một con sâu sống dưới nước, thủy đồ ”. Vua mới phán rằng : “ Thử nãi Đà chi cuống dã ” nghĩa : đó là lời nói láo của Đà. Từ đó cà cuống thành ra đà cuống. Nó còn có một tên nữa là long sắt nghĩa là "rận rồng ” (16) . Trước đó hơn một nửa thế kỷ, sự tích nầy đã được cụ Nguyễn Công Tiểu, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp và Lâm nghiệp Đông Dương, cán sự Sở Công nghiệp, kể lại trong Tạp chí Kinh tế Đông Dương (1) với lời phán của vua Tàu có phần khác : “Nam Việt hà nhân quế đố, anh hùng vị tất bất khi nhân ” vẫn cùng hàm ý chế nhạo. Cà cuống là một loại côn trùng Belostomatidae sống dưới nước thuộc họ Cryptocerate, bộ cánh khác Heteroptera, lớp cánh nửa Hemiptera. Nó mang tên khoa học Belostoma indica Vitalis hay Lethocerus indicus Lep. et Serv. Khi non giống như con dán, mình dài 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng. Khi mổ cà cuống, ta thấy nó có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Nếu lấy tay rút mạnh hai ngòi nầy thì cả bộ tiêu hóa của cà cuống có thể bị lôi ra ngoài. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến nầy phát triển (11) Muốn lấy dầu cà cuống, người ta áp bụng cà cuống xuống phía dưới, để phía lưng lên, lấy một que tre đầu vót nhọn, đem rạch ngang lưng nơi tiếp giáp với ngực, nghĩa là ở vị trí đôi chân thứ ba, sau đó gấp bụng cà cuống xuống, tức khắc hai cái bọng dầu cà cuống sẽ lòi lên phía trên. Lấy đầu tre nhọn khều hai cái bọng này ra, dùng ngón tay khẻ bỏ bọng vào bát hay chén. Khi được nhiều bọng, chích bọng cho dầu thoát ra khỏi bọng. Vỏ bọng được loại bỏ đi, nếu không, để lâu dầu cà cuống sẽ có mùi hôi. Tinh dầu cà cuống là một chất lỏng trong như nước lọc. Để ngoài không khí rất dễ bay hơi do đó dầu cà cuống cần đựng trong lọ nhỏ, nút kín. Tùy theo con to, nhỏ mà tinh dầu có nhiều hay ít. Trung bình một con cho 0,02mL, 1.000 con đực mới thu được chừng 20mL (11) . Dầu cà cuống, nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt giông giống như mùi quế. Ông Trịnh Văn Hợi, kỹ sư hóa học ở Phòng Thí nghiệm Nông học ở Hà Nội, không có phương tiên phân tích, đoán chất dầu có thể là amyl valerianat (1) . Năm 1957, nhân được Ban Khoa học Kỹ thuật và Văn hóa Tòa Đại sứ Pháp cấp học bổng, kỹ sư Nguyễn Đăng Tâm, nay đã qua đời, qua Đức dự thảo luận án tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của giáo sư Adolf Butenandt tại Viện Sinh vật học Max-Planck ở Tubingen-München. Vào hồi đó, giáo sư Butenandt và các cộng sự viên đã khảo cứu nhiều về các chất hấp dẫn tính phái pheromon, đặc biệt của bướm tằm hay bạch cương tàm Bombyx mori L. Bắt đầu từ 2-hexenol, họ thấy càng tăng gia dãy carbon và các dấu nối đôi như trong các chất 2,4-hexadienol hay 2,4,6-octatrienol, sức hấp dẫn lại càng lớn. Nhiều văn bằng sáng chế mang tên ông và các nhà cộng sự đã đề nghị dùng, hoặc một mình, hoặc trộn lẫn với các chất diệt trùng, những chất hấp dẫn tính phái như tetradecadienol, pentadecadienol, hexadecadienol, … (6). Đến phiên anh Tâm lấy tinh dầu cà cuống làm nguyên liệu. Sử dụng những phương pháp phân tích mới mẻ nhất hồi ấy, anh phát hiện được thành phần chính của dầu là phân tử (E)-2-hexenol acetat (E hay trans là một trong hai thể của dấu nối đôi giữa hai carbon 2 và 3, dạng kia là Z hay cis). Để hoàn thành luận án, anh còn đề nghị một phương pháp nhân tạo tổng hợp phân tử ấy từ butyraldehyd và ethyl malonat trong môi trường pyridin (9). Hexenol acetat chế tạo ra, độ sôi 168-170°, chỉ số khúc xạ n25D = 1,4160, cũng có dạng E như chất thiên nhiên (4). Nhưng chất anh Tâm tìm ra được không phải độc nhất trong dầu cà cuống mà chỉ là thành phần lớn nhất. Bảy năm sau, ở Hà Lan, nhờ máy sắc ký khí tinh xảo hơn, V. Devakul và H. Maarse khám phá ra dầu cà cuống chứa đựng cả một chục chất khi khảo sát sắc khí phổ. Ngoài hexenol acetat, họ xác định được một thành phần khác, tương đối ít hơn, là 2-hexenol butyrat cũng ở dạng E (5). Ngoài ra, môt số amin acid như alanin, arginin, glutamic acid, methionin, phenylalanin, tryptophan, tyrosin, valin,… đã được tìm ra trong nhiều bộ phận của cà cuống trưởng thành : bắp thịt lồng ngực, màng treo dạ dày, máu và bạch huyết, buồng trứng (7). Người ta cũng nhận thấy chất prolin liên quan đến sự cầm giữ và bảo quản nước thì lại vắng mặt trong máu và bạch huyết (8). Bên cạnh (E)-2-hexenol acetat, chất đồng vị (Z)-3-hexenol acetat đã được phát hiện trong tế bào trái một loại táo (13), trong thân một cây mùi tây Anthriscus nitida (1), trong lá loại đậu nành Davis (14), trong trái nho Vitis vinifera (17), trong dầu ô liu (10), hay trong số các chất dễ bốc hơi của cây đậu Vigna unguiculata (15). Những phân tử nầy cống hiến mùi hương (19) có tính chất hấp dẫn sâu bọ (14) và đã được hòa trộn với nhiều chất khác làm thơm thuốc thoa da hay thuốc đánh răng (20). Đáng để ý là song song với hexenol acetat, hexenol butyrat , những chất hấp dẫn tính phái tương tự như (E)-2-octenyl acetat, (E)-2-decenyl acetat,… đã được phát hiện trong những loại sâu như Rhoecocoris sulciventris, Biprorulus bibax (6). Cũng nên biết là cis-hexenol có mặt trong cây cỏ nên thường được gọi là “rượu của lá ” còn trans-hexenal hiến mùi lá nên mang tên “aldehyd của lá ” (5). Người ta nghĩ đến mùa sinh nở, cà cuống đực tiết tinh dầu làm cho cà cuống cái ngửi thấy ngoi theo và đôi cà cuống đực cái tìm nơi yên ổn mà giao phối. Ngoài chức năng tính phái nấy, dầu cà cuống còn có phận sự săn mồi, bảo vệ. Khi kiếm mồi gặp cá lớn, cà cuống lao mình bám lấy, tìm chỗ huyệt châm ngòi chích tinh dầu vào, tức thì con mồi bị tê liệt, lăn kềnh ra, cà cuống cứ việc bám vào mà hút máu ; hoặc khi cà cuống bị con vật khác đuổi thì phun chất tinh dầu nầy, làm cho kẻ địch ngửi thấy mùi phải rút lui. Trên thực nghiệm, dùng với liều nhỏ thì tinh dầu cà cuống có tác dụng kích thích thần kinh và hưng phấn bộ phận sinh dục, nhưng dùng với liều cao thí có thể gây ngộ độc (11). Hồi còn công tác ở Viện Hóa Học các Chất Thiên Nhiên ở Gif-sur-Yvette (Pháp), trong phòng thí nghiệm của giáo sư Bửu Hội, tiến sĩ Nguyễn Đạt Xường và cộng sự viên có chương trình khảo cứu những chất tương tự. Non 50 hexanyl, hexenyl, hexynyl, cyclohexanyl, cyclohexenyl ester (acetat, butyrat, propionat, hexanoat, decanoat, valerianat, benzoat, ethoxalat, theonat, furoat, nocotinat,) đã được nhân tạo tổng hợp dựa lên phản ứng ester hóa các phân tử rượu với một acid chlorid. Những kết quả không đăng báo nầy không được khai thác về mặt ứng dụng có lẽ các chất nhân tạo nầy thoạt xem không thấy có hương vị thơm cay, ngon lành như dầu thiên nhiên. Thật ra, ngay cả chất hexenol acetat nhân tạo mà người Thái Lan đã khai thác trên thương trường, hoàn toàn ròng sạch, cũng không làm vừa ý người dùng. Phải chăng dầu cà cuống thơm ngon vì nó có hương vị của một hỗn hợp nhiều chất mà ngoài hexenol acetat và hexenol butyrat, ta chưa xác định được cấu tạo các thành phần khác, tuy số lượng không bao lăm nhưng góp phấn tích cực vào hương vị dầu. Đây cũng là một đề tài khảo cứu hữu dụng cho các phòng sinh vật học. Một cảnh tượng quê hương mỗi lần gợi lên biết bao thương nhớ ở người sống xa xứ : “… những người đàn bà bán cà cuống ấy sở dĩ không cần rao vì họ đã có khách quen cả rồi : có hàng thì cứ tự nhiên đem vào bán, mà đã vào thì các bà nội trợ cứ tự nhiên mua. Người bán và người mua cùng ngồi nhễ bọng cà cuống cho vào một cái đĩa nhỏ, đến khi xong cả thì mới trút vào trong một cái ve nhỏ bằng ve dầu Vạn Ứng, đậy thật kín, lấy giấy bóng bao ngoài cái nút rồi lấy giấy quấn chặt cho không bay hơi đi mất ” (16) . Tài liệu 1-Nguyễn Công Tiễu, Notes sur les insectes comestibles du Tonkin, Bulletin économique de l’Indochine, 31ème année, Nouvelle série, VIII 198 (1928) 735-794 2- Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, nxb Đời nay, Hà Nội (1943) 42 3- F.S. Bodenheimer, Insect as human food, W. Junk Publishers, The Hague (1951) 266, 272 4- A. Butenandt, Nguyen Dang Tam, Uber eines geschlechsspezifischen Duftstoff Belostoma indica Vitalis (Lethocerus indicus Lep.), Hoppe-Seyler’s Zeitschrift fur Physiologische Chemie (1)308 (1957) 277-83 5- V. Devakul, H. Maarse, A second compound in the odorous gland liquid of the giant water bug Lethocerus indicus (Lep. and Serv.), Analytical Biochemistry (3) 7 (1964) 269-74 6- M. Jacobson, Insect sex attractants, Interscience Publishers NewYork-London-Sydney (1965) 39, 46, 84, 103 7- A.P. Saxena, Free amino-acids in the tissues of Belostoma indica (Hemiptera : Belostomidae), Current Science (13) 40 (1971) 355-6 8- J. Singh, Proline metabolism in heteroptera from different environment, Biochem. Exper.Biol. (2) 14 (1978) 181-3 9- K. Mori, Synthetic chemistry of insect pheromones and juvenile hormones, Akadémiai Kiadó, Budapest (1979) 39 10- M.C. D.Gracia, J.M. Olias, R.G. Gonzales-Quijano, Volatile components in the aroma of virgin olive-oil. III. Reproductibility of the method used for its isolation, concentration, and separation, Grasas y Aceites (Sevilla, Spain) (5) 31 (1980) 317-21 11- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 993-4 12- R.G. Berger, A. Kler, F. Drawert, C6-aldehyde formation from linolenic acid in fruiy cells cultured in vitro, Plant Cell, Tissue and Organ culture (2) 8 (1987) 147-51 13- R. W. Pemberton, The use of the Thai giant waterbug Lethocerus indicus (Hemiptera : Belostomatidae) as human food in California, Pan-Pacific Entomologist (1) 64 (1988) 81-2 14- S.H. Liu, D.M. Norris, P. Lyne, Volatiles from the foliage of soybean, Glycine max, and lima bean, Phaseolus lunatus : their behavioral effects on the insects Trichoplusia ni and Epilachna varivestis, J. Agric. Food Chem. (2) 37 (1989) 496-501 15- W. Lwande, P.G. McDowell, H. Amiani, P. Amoke, Analysis of airborne volatiles of cowpea, Phytochem., (2) 28 (1989) 421-3 16- Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, nxb Văn học, Tp Hồ Chí Minh (1989) 205-10 17- C. De La Presa-Owens, R.M. Lamuela-Raventos, S. Buxaderas, C. De La Torre-Boronat, Characterization of Macabeo, Xarel, and Paredella white wines frol the Penedes region. II., Amer. J. Enol. Vitic. (4) 46 (1995) 529-41 18- B. Muckensturm, F. Diyani, J.P. Reduron, Grilactone and other terpenoids from Anthriscus nitida, Biochem. Syst. Ecol. (7/8) 23 (1995) 875-6 19- X. Wan, J. Tang, X. Ding, Q. He, Free and glucosidically bound volatile flavor compounds in hawthorn, Shipin Yu Fajiao Gongye, (2) 24 (1998) 20-6 20- H.D. Kim, Y.H. Kim, S.Y. Yoon, Perfume composition for reducing irritation of skin whitening agent and improving flavor in toothpaste composition which uses peroxide and sodium bicarbonate as whitening agent, Repub. Korean Kongkae Taeho Kongbo KRXXA7 KR 2002045226 A 20020619 (2000) (Đã đăng trong Nghiên cứu và Phát triển số 4 (34) 2000, có sửa lại và bổ túc tài liệu)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:29:33 GMT 9
Sầu riêng thơm nồng Võ Quang Yến Sầu riêng ai khéo đặt tên. Ai sầu không biết, riêng em không sầu. Ca dao Tục truyền ngày xưa ở miền Đồng Nai, Bến Nghé có một chàng trai bỏ xứ ra đi kiếm cách sinh sống nơi xa chốn lạ. Lần lữa qua đến vùng Chùa Tháp, Cao Mên, tình cờ chàng gặp một cô gái đang lên cơn sốt. Nhờ biết vài ba lá thuốc, chàng chữa cô nàng lành bệnh. Nấn ná lâu ngày ở quê người đẹp, chàng cùng nàng thành vợ nên chồng. Nhưng rủi ro cho cặp uyên ương, không hưởng hạnh phúc được bao lâu thì nàng lại mắc bệnh, lần nầy cây lá chàng biết chẳng còn công hiệu, nàng từ bỏ cỏi trần. Nặng trong tim một mối tình tuyệt vọng, chàng trở về làng cũ, đem theo hạt “tu ren” của quê nàng, trồng lên thành cây để tưởng nhớ người yêu. Đến mùa trái chín, ăn thấy ngon ngọt, chàng mời láng giềng thưởng thức. Ngào ngạt hương thơm, lại thêm mùi vị độc đáo, ai nấy đều ưa thích. Tuy vậy nỗi đau buồn của chàng vẫn không nguôi ngoai và hết mùa trái chín thì chàng cũng lìa trần theo dấu vợ hiền. Dân làng cảm kích cuộc tình duyên sâu đậm, lại thương mến chàng trai chung thủy nên đặt tên “sầu riêng” cho trái cây nầy. Trong Nam có câu hát chọc ghẹo anh học trò đi qua Lái Thiêu Ghe anh nhỏ mũi tráng lườn Ở trên Gia định xuống vườn thăm em. Cùng em ăn trái sầu riêng Ăn rồi cảm thấy một niềm vui chung. Ngày nay trái sầu riêng rất được ưa chuộng ở miền Nam nước ta. Trái cây béo bở, nghe nói người ham mê thì như nghiện ngập, mất bao nhiêu tiền cũng mua cho được. Thật ra sầu riêng không chỉ có ở nước ta. Được quốc tế gọi durian, từ danh từ djoerian bên quần đảo Indonesia, với tên khoa học Durio zibethinus Murr., thuộc họ Gạo Bombacaceae, nó mọc khắp vùng Đông Nam Á và được trồng từ Thái Lan qua Mã Lai, từ Việt Nam xuống quần đảo Nam Dương. Ngoài vị ngọt bùi, đặc diểm của sầu riêng là mùi hương của nó : người thích bảo thơm, kẻ không quen thì cho nồng. Trước một chuyến bay cất cánh từ Tân Sơn Nhất cách đây mấy năm, một hành khách người Việt có mang theo một, hai trái, gói ghém cẩn thận, bao bọc kỹ lưỡng, vậy mà hương bay nồng nặc, người ngoại quốc bịt mũi phàn nàn và rút cuộc gói sầu riêng phải đưa xuống gầm máy bay. Gần đây hơn, trong bầu không khí chiến tranh sinh vật học, chuyến bay Brisbane-Adelaide bên Úc trễ mất 4 tiếng đồng hồ vì cảnh sát mất công tìm kiếm nguồn gốc một mùi hôi và tìm hiểu chất thuốc trắng rải trên ghế, thật ra chỉ là bột hương để át mùi sầu riêng. Hôm ghé qua Jakarta, vợ chồng chúng tôi trầm ngâm trước bản căn dặn khách hàng ở khách sạn chớ đem sầu riêng vào phòng ! Một anh bạn Pháp đã từng sống ở Sài Gòn bảo mùi sầu riêng nhắc anh nhớ tới mùi phó mát Camembert để chảy lâu ngày, vấn vương đôi chút các mùi hành, tỏi,… Lẽ tất nhiên, người châu Á, đặc biệt người Đông Nam Á, cần thiết hơn là những phòng thí nghiệm Âu Á, không thể thản nhiên trước trái cây độc đáo nầy. Công trình khảo cứu nghiêm chỉnh, sâu sắc trước nhất về cấu tạo trái sầu riêng được thực hiện ở Viện Đại học Sains Malaysia tại Minden, Penang bên Mã Lai. Dùng dichloromethan chiết xuất những thành phần dễ bốc hơi (66-69mg/kg) từ tử y ba mẫu cấy mô mọc ở Penang rồi đem phân tích qua phép sắc ký khí kết hợp với máy lượng phổ ký GC-MS, hai nhà khảo cứu K.C. Wong và D.Y. Tie xác định được 63 cấu chất gồm có những hoá chất không có lưu huỳnh (ester, alcool, ceton, aldehyd, hydrocarbon) và những hoá chất có lưu huỳnh (ester, thioalcool, hydrocarbon và đặc biệt hydrosulfid) (16). Ở Trung tâm Sinh học Công nghệ Thức ăn ở Singapore, các hóa sư xác định được đến 108 cấu chất (19). Các ester chiếm tỷ số lớn nhất thành phần bốc hơi (49,23-57,88%) trong ấy phần lớn là ethylpropanoat và ethylbutanoat (16) được xem là hóa chất nặng mùi nhất trong số những chất không chứa lưu hỳnh (18). Có 7 ester không bảo hoà là ethyl (E)-but-2-enoat, ethyl (E)-2-methylbut-2-enoat (16) và những chất hiếm thấy : ethyl (Z,Z)-, (E,Z)-, (E,E)- deca-2,4 dienoat, ethyl (3Z,6Z)-decadienoat và ethyl (E,E,Z)-decatrionat (17). Mùi hương đậm đà, ngào ngạt của sầu riêng phát xuất từ các ester ấy. Các chất số lượng đứng hạng nhì thuộc loại hydroxy ceton, nhiều nhất là 3-hydroxy butan-2-on (20). Còn có 2 chất số lượng ít hơn nữa, 2-hydroxy pentan-3-on và 2-hydroxy pentan-2-on (16), là cấu chất của hương thơm cà phê, da ua, phó mát Gruyère và gan heo nấu chín Nguyên do mùi nồng sầu riêng là những chất có lưu huỳnh, 4 ester : S-ethyl thioacetat, S-propyl thioacetat, S-propyl thiopropionat và ethyl (methylthio) acetat ; 4 thioalcool : methan thiol, ethan thiol, propan thiol và 1-(ethylthio) ethan thiol ; 3 hydrocarbon : cis và trans-3,5-dimethyl-1,2,4-trithiolan và 2,4,6-trimethyl-1,3,5-trithian ; 10 sulfid : dimethyl, diethyl, ethylpropyl sulfid, methylethyl, methylpropyl, ethylhydro disulfid, diethyl, methylethyl, ethylpropyl trisulphid và diethyltetrasulfid (8,16). Hai tác giả Wong và Tie bảo không xác định được những chất methan thiol, diethyl và dimethyl disulfid, triethyltrisulfid đã được J. Baldry, J. Dougan, G.E. Howard ở Viện Nhiệt đới London bên Anh (3) tìm ra trong sầu riêng Singapore và Kuala Lumpur, cũng như ethyl methyl disulfid, diethyl tetrasulphid và ethyl hydrodisulfid mà R. Moser, D. Düvel, R. Greve ở các Viện Khoa học, Kỹ thuật và Thực vật Ứng dụng Hamburg bên Đức (8) đã phát hiện trong sầu riêng hái ở Chandburi (vụ mùa xuân) và Prajeen Rayong (vụ mùa hè) bên Thái Lan. Cũng theo Wong và Tie (16), các mùi hành, kiệu, tỏi tây trong sầu riêng phát xuất từ các chất có lưu huỳnh ấy vì chúng cũng được tìm ra trong kiệu, hành, tỏi tây. Đặc biệt mùi tỏi là do các thioglycosid phân tán (1) . Ngoại trừ ethyl hydro disulfid, các chất hydro sulfid và thiol không có hay có ít trong trái còn xanh, tăng gia với độ chín của trái và không có chút nào trong hột và vỏ trái cây (8). Ngoài các chất dễ bốc hơi, một số các acid mỡ có vòng cyclopropen trong hột được khảo sát vì dầu chiết xuất ra (65,4%) có khả năng ngăn gây vô sinh (1) hay hỗn loạn sinh lý ở thú vật (1,7), bắt nguồn từ sự chuyển hóa các acid mỡ, như tăng lớn gan, phồng bóng đái. Giả thuyết được đưa ra là tính độc do vòng cyclopropen liên kết với sulfydryl của protein tạo nên (1). Về mặt amin acid, dầu sầu riêng chứa nhiều nhất (%) steraric (45,84), sau đó những là palmitic (26,75) và ít hơn là những oleic (14,95) và linolenic (12,46) acid (21. Đặc biệt arachidic acid có nhiều trong vỏ trái hái mùa hè (8). Trong tử y và hột trái thì (%) sterculic acid (38,53) có nhiều nhất, nhiều hơn malvalic acid (15,72), còn dihydro sterculic acid (2,52) thì chỉ có chút ít. Số lượng các acid nầy giảm sụt khi đem nấu hột (6). Trong một công trình khảo cứu trên 4 mẫu cấy mô, S.K. Berry nhận thấy hễ tỷ lệ lipid càng lớn so với acid mỡ không bảo hòa thì số điểm gây cảm giác càng lớn, cũng như khi tỷ lệ palmitic acid so với palmitoleic acid càng nhỏ (9). Nên biết thêm là trong trái sầu riêng còn có vitamin (8), flavanol, caffeic acid (1) đồng thời những nhân tố antihistamin bền nhiệt cũng đã được tìm ra (5). Một số thành phần bốc hơi trái cây sầu riêng (a) Alcool : Methanol (b) Ethanol (b) Propanol 2-Methylbutanol Butanol 2-Methylbutanol 3-Methybutanol Heptanol Dodecanol Nerolidol Butan-2,3-diol Các chất có lưu huỳnh : S-Ethylthioacetat S-Propylthioacetat Ethyl(methylthio)acetat S-Propylthiopropionat Methanthiol (b) Ethanthiol Propanthiol 1-(Ethylthio)ethanthiol 2,4,6-Trimethyl-1,3,5-trithian E-3,5-Dimethyl-1,2,4-trithiolan Z-3,5-Dimethyl-1,2,4-trithiolan Dimethylsulfid (b) Diethylsulfid (b) Methylethyldisulfid Methylpropyl disulphid Ethylpropylsulphid Ethylhydrodisulfid (c) Diethyltrisulfid Methylethyltrisulfid (c) Ethylpropyltrisulfid Diethyltetrasulfid (c) Hydrocarbon Ethylbenzen Hexadecan Ester : Diethycarbonat Methyl acetat (b) Methyl propanoat Methyl butanoat Methyl 2-methylbutanoat Methyl 3-hydroxybutanoat Methyl hexanoat Methyl octanoat Ethyl acetat Ethyl propanoat Ethyl methacrylat (b) Ethyl 2-methylpropanoat Ethyl 2-hydroxypropanoat Ethyl butanoat Ethyl 2-methylbutanoat 3-methybutanoat 3-hydroxybutanoat Ethyl E-but-2-enoat Ethyl E-2-methylbut-2-enoat Ethyl pentanoat Ethyl heptanoat Ethyl octanoat Propyl propanoat Propyl 2-methylpropanoat Propyl butanoat Butyl acetat Butyl propanoat Ceton : Butadion 4-Hydroxyhexan-3-on 2-Hydroxybutan-2-on 3-Hydroxybutan-2-on 2-Hydroxypentan-2-on 2-Hydroxypentan-3-on Aldehyd : Acetaldehyd (b) Propionaldehyd (b) 2-Methylbut-2-enal Ether : 1,1-Diethoxyethan (c) (a) theo Wong ,Tie (16) (b) theo Baldry, Dougan, Howard (3) (c) theo Moser, Düvel, Greve (8) Một vài công tác nhắm tìm quan hệ giữa tính độc giả định của sầu riêng và rượu. Trong một cơ thể chuột đã tẩm ethanol, sầu riêng có khả năng thức tỉnh con thú, rút ngắn thời gian ngủ (12), đồng thời giảm hạ sức gây chết của rượu (4). Sự đối vận sầu riêng với rượu có thể là do có hiện tượng giao thoa với sự hấp thu rượu vào ruột hay với sự xâm nhập rượu vào các tế bào mục tiêu (4). Có nhiều tác giả không tin rượu trở nên độc khi cùng dùng với sầu riêng (2). Khảo sát nhiều tổ chức sầu riêng, từ lá cây qua vỏ trái, từ tử y qua lá mầm, người ta đã dùng hiện tượng điện chuyển để xác định cấu tạo các amin acid. Một phản ứng giao phôi với kháng huyết thanh dấy lên chống nhiều loại hột đã biết đem lại một sự tích lũy dinh dưỡng protein, từ đấy có thể lập thành phương pháp bảo trợ hột (13). Trái sầu riêng cũng đã được xem xét về mặt chín mở. Độ ẩm tương đối nhỏ và ethylen tăng gia độ mở. Cho rải 100ppm gibberellic acid lên trái thì độ mở bị hãm lại nhưng quá trình trái chín vẫn tiếp tục. Một acid mỡ liên kết với sucrose bao phủ trái kềm hảm cả độ mở lẫn trái chín. Tác dụng của ethylen lên độ mở luôn quang trọng hơn sự hao hụt trọng lượng (14). Về mặt tính chất sinh vật học, đã được phát giác những polysaccharide (23,24) chiết xuất từ vỏ trái có khả năng ức chế hoạt động của hai chủng vi khuẩn Staphylococcus aureus, Escherichia coli và hai chủng nấm men Candida albicans, Saccharomyces cerevisiae (22). Người ta cũng có theo dõi quá trình phát triển của cây sầu riêng ở Serdang bên Mã Lai. Cây lớn lên rất mau đến năm thứ bảy, khi sản xuất chất khô đạt đến mức tối cao. Vào lúc ấy, rễ cây chiếm 30% và cây 70%. Các khoáng chất N, P, K, Ca và Mg trong cây tăng cường song song với chất khô nhưng có rất ít trong trái những năm đầu. Để thúc đẩy phát triển cây và sớm sản xuất trái, một loại thuốc Oxisol đã được dùng và kết quả rất khả quan (10). Để bảo vệ cây và rễ chống trùng Phytophthora palmivora có thể dùng thuốc metalaxyl hay gốc cây có sức chịu đựng (11). Sau cùng, nhiều mẫu sầu riêng, măng cụt, lê tàu cho tác dụng trong một cuộc nhiễm trùng giao phối với nhóm di truyền Colletotrichum gloeosporioides, phát hiện chúng đều có rDNA giống nhau và các liên kết trong mtDNA cũng rất tương tự, chứng minh chúng phát xuất từ một gốc chung nhưng khác nhau ở chỗ phải thích nghi vào môi trường mỗi nơi (15). Đến nay, so với các cây quả khác, thấy như các tính chất dược học của sầu riêng chưa được tận dụng hoàn toàn. Ngoài hương vị đặc biệt đưa sầu riêng lên thành một món ăn đắt tiền, bên cạnh khả năng đã thấy giảm hạ sức gây chết của rượu, thức tỉnh khi bị rượu làm cho buồn ngủ (4,12), còn có những tính chất khác chưa được khảo cứu cặn kẽ như ngăn cản sinh đẻ (7), đặc tính kích dục (8),…Sầu riêng có thể trở thành một loại trái còn quí báu hơn. Xô thành một đêm nhớ nhung Ethylpropanoat Ethylbutanoat gibberellic acidGibberellic acid Tài liệu 1- W.R. Stanton, The chemical composition of some tropical food plants, Trop Sci. (1)8 (1966) 6-10 2- C.W. Ogle, Y.F. Tey, Alleged toxicity of durian and alcohol, Far. East. Med. J. (9)7 (1971) 297 3- J. Baldry, J. Dougan, G.E. Howard, Volatile flavoring constituents of durian, Phytochem. (6)11 (1972) 2081-7 4- S. Techapaitoon, M.K. Sim, Alleged toxicity of durian and alcohol, Asian J. Med. (5)9 (1973) 158-9 5- V. Rattanapanone, Antithiamin factors in fruits, mushrooms and spices, Chiang Mai Med. Bull. (1)18 (1979) 9-16 6- S.K. Berry, Cyclopropene fatty acids in some Malaysian edible seeds and nuts. I. Durian (Durio zibethinus, Murr.), Lipids (6)15 (1980) 452-5 7- S.K. Berry, Cyclopreponoid fatty acids in some Malaysian edible seeds and nuts, J. Food Sci.Technol. (5)17 (1980) 224-7 8- R. Moser, D. Düvel, R. Greve, Volatile constituents and fatty acid composition of lipids in Durio zibethinus, Phytochem. 19 (1980) 79-81 9- S.K. Berry, Fatty acid composition and organoleptic quality of four clones of durion (Durio zibethinus, Murr.), J. Am. Oil. Chem. Soc. (6)58 (1981) 716-7 10- O. Yaacob, The growth pattern and nutrient uptake of durian (Durio zibethinus, Murr.) on an Oxisol, Commun. Soil. Sci. Plant Anal.(8)14 (1983) 689-98 11- U. Pupipat, Control of some soilborne diseases in Thailand, FFTC Book. Ser. 26 (Soilborne Crop Dis. Asia) (1984) 49-58 12- N. Nilvises, C. Saengsirinavin, Effet of durian on sleep in alcohol preteated animals, Varasarn Paesachasarthara (3)13 (1986) 67-75 13- M.R. Charbonneau, M.J. Brown, J.S. Greenwood, Examination of recalcitrant seed proteins of Durio zibethinus, Pertanika (2)14 (1991) 125-32 14- S. Sriyook, S. Siriatiwat, S. Siriphanich, Durian fruit dehiscence-water status and ethylene, HortScience (10)29 (1994) 1195-8 15- P.W. Alahakoon, A.E. Brown, S. Sreenivasaprasad, Cross-infection potential of genetic groups of Colletotrichum gloeosporioides on tropical fruits, Physiol. Mol. Plant Pathol. (2)44 (1994) 93-103 16- K.C. Wong, D.Y. Tie, Volatile constituents of durian (Durio zibethinus Murr.), Flavour Fragrance J. (2)10 (1995) 79-83 17- R. Naef, A. Velluz, Sulfur compounds and some uncommon esters in durian (Durio zibethinus Murr.), Flavour Frangrance J. (5) 11 (1996) 295-303 18- H. Weenen, W.E. Koolhaas, A. Apriyantono, Sulfur-containing volatiles of durian fruits (Durio ziberthinus Murr.), J. Agric. Food Chem.(10) 44 (1996) 3291-3 19- J. Jiang, S.Y. Choo, N. Omar, N. Ahamad, GC-MS analysis of volatile compounds in durian (Durio zibethinus Murr.), Dev. Food Sci.40 (1998) 345-52 20- Q. Liu, J. Zhou, Z. Mandan, Y. Zhu, W. Wenyi, Component analysis of aroma from durian, Fenxi Ceshi Xuebao (2) 18 (1999) 58-60 21- S.R. Eni, Summarno, Fatty acid content in durian (Durio zibethinus Murr.) seed, Majalah Farmasi Indonesia (2) 12 (2001) 66-72 22- V. Lipipun, N. Nantawanit, S. Pongsamart, Antimicrobial activity (in vitro) of polysaccaride gel from durian fruit-hulls, Songklanakarin J. Sci. Techn .(1)24 (2002) 31-8 23- S. Pongsamart, Polysaccharide products from durian : process for isolation and purification and their applications, U.S. Pat. Appl. Publ.US 2003166608 A1 20030904 (2003) 4 tr. 24- S. Pongsamart et all., Water-soluble polysaccharides with pharmaceutical importance from durian rinds (Durio Ziberthinus Murr.) UK Carbohydrate Polymers (4) 56 (2004) 471-81 (trích Thông tin Khoa học và Công nghệ số 2-1996, có sửa lại và bổ túc tài liệu ngày 01/05/2007)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:33:00 GMT 9
Măng cụt Võ Quang Yến “Mùa đông về dằng dặc trong tiếng động nghìn trùng của mưa trên lá. Tưởng không còn gì để trông ngóng ở khu vườn trước lúc sang xuân, thì đến tháng mười một, măng cụt chín, như một quả vui đột xuất cuối năm. Đây là mùa thu hoạch chính của những khu vườn vùng Kim Long. Quả măng cụt, người Huế còn gọi là trái giáng châu, lúc chín màu tím sẫm, ở rốn quả nổi lên một hình hoa nhỏ, nhìn hoa có bao nhiêu cánh thì biết bên trong có bao nhiêu múi. Hình như nó chẳng có tác dụng gì cả ngoài việc khiến người ta ưa nhìn đến nó, giống như hạt cúc giả trên áo phụ nữ, vì thế bà Lan Hữu tạm giải thích rằng đó là cái bản năng tự trang sức của thiên nhiên ở nơi cây măng cụt” (5). Cây măng cụt người Tàu gọi là sơn trúc tử tuy nó không mọc bên Trung Quốc, người Huế gọi gọn nhẹ cây măng, mang tên khoa học Garcinia mangostana L., thuộc họ Bứa Guttiferae. Người Pháp gọi nó mangoustanier, Anh Mỹ mangosteen, có khi manggis. Cách gọi nầy của người nước ngoài có ảnh hưởng gì đến tên của ta không vì phần lớn các cây Garcinia khác đều mang tên bứa : bứa lửa, bứa nhà, bứa mọi, bứa núi ? (1). Còn tên gọi đài các ở Huế là giáng châu, như ngọc trên trời ban xuống, thì có lẽ từ cung đình mà ra. “Thiết nghĩ cây măng cụt sống được trên đất Kim Long phải có từ lâu, có lẽ từ thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần khi mở đất tới xứ Đồng Nai, nếu không cũng phải thời Gia Long lên ngôi nhận sản vật hai miền cung tiến ra kinh đô. Bởi tương truyền giống măng cụt do bà Từ Dũ đem từ trong Nam ra...” (6). Giáng cũng còn có nghĩa đỏ tía, châu chỉ định một cây có lòng đỏ, một màu đỏ thắm như trong châu sa, châu tử, châu thần thì cách lấy tên nầy đặt cho măng cụt cũng dễ hiểu thôi. Cây măng cụt nguồn gốc Mã Lai, Nam Dương, từ Malacca qua Moluku, ngày nay bắt gặp khắp Đông Nam Á, ở Ấn Độ, Myanmar cũng như ở Sri Lanka, Philippines, được các nhà truyến giáo đạo Gia tô di thực vào miền Nam nước ta (2), rồi trồng nhiều ở các tỉnh Tây Ninh, Gia Định, Thủ Dầu Một. Ở đây khí hậu cũng nóng ấm nên cây dễ mọc, nhưng nó không tiến được xa lên miền Bắc lạnh lẽo, xa lắm là đến tận Huế. Có người đã từng ngạc nhiên : “Cây măng cụt chẳng hạn, từ miền Đông Nam Bộ nó nhảy qua suốt một dải miền Trung rồi xuất hiện trở lại ở những khu vườn Huế” rồi thắc mắc “Riêng tôi vẫn thấy một điều lạ chưa giải đáp được về cây măng cụt ở Huế, sao chịu về đây để chín bằng mưa dầm gió bấc, sao chín được bằng sức đông lạnh của Huế ? Dầu sao, nhờ có mùa măng, vườn An Hiên vẫn giữ được phong độ qua buổi vạn vật tàn phai” (5). Cách thức thích ứng nầy của cây măng cụt với thời tiết đã gây ra một hiện tượng khá lạ. “Mùa măng cụt ở Huế lại so le với mùa măng cụt ở Nam Bộ. Vì vậy khi măng cụt miền Nam hút trái, giống trái cây nầy được nhiều người ưa chuộng, măng cụt Huế đang mùa trổ quả lại được buôn ngược vào trong Nam. Riêng người Huế thì ăn được cả hai mùa trái cây của hai miền đất nước. Có được điều đó hẳn do phong thổ ở Huế khác hơn. Hiện nay vườn măng cụt ở Huế sai quả nhất Kim Long phải kể đến vườn ông Lê Tự Thái, mỗi gốc cây có tuổi đời già hơn tuổi của mấy đời chủ nhân... Măng cụt Nguyệt Biều trồng nhiều song người Huế vẫn chuộng trái của vườn Kim Long ” (6). Măng cụt là một loại cây to, có thể cao tới 20-25m. Lá dày, dai, màu lục sẫm, hình thuôn dài. Hoa đực cụm 3-9 hoa có lá bắc. Hoa lưỡng tính có cuống có đốt. Quả hình cầu, to bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ tím dày cứng, trong đỏ tươi như rượu vang, dày xốp, phía dưới có lá dài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả có từ 6 đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt trắng, ăn ngọt thơm ngon (2,4). Như các loại quả khác, măng cụt ngọt nhờ có nhiều chất đường : sucrose, fructose, glucose và có thể cả maltose (8). Nó thơm nhờ một số lớn các chất dễ bốc hơi. Phổ sắc ký lỏng tinh dầu chiết xuất phát hiện khoảng 50 hóa chất hữu cơ, trong số ấy hơn 30 chất đã được xác định (19). Nhiều nhất là (%) hexenol (27,27), tương đối ít hơn là octan (14,76) đứng trước hexyl acetat (7,87), a-copaen (7,28), aceton (5,65), furfural (4,89), hexanol (4,38), methyl butenon (4,34), toluen (2,80). Những chất khác đều dưới 2% nhưng góp phần với các chất trên cấu thành hương vị của măng cụt. Ngoài hexyl acetat và hexenyl acetat đặc biệt của măng cụt, mùi trái cây là do các chất hexenal, hexanol, a-bisabolen mà ra, thêm vào mùi xoài với a-copaen, mùi hoa lài với furfuryl methylceton, mùi huệ dạ hương với phenyl acetaldehyd, mùi cỏ với hexenol, hexanal, mùi cỏ héo với pyridin, mùi lá ướt với xylen, mùi hoa khô với benzaldehyd, mùi hồ đào với d-cadinen. Aceton, ethyl cyclohexan đóng góp tính chất dịu ngọt trong lúc toluen, a-terpinol đem lại mùi đường thắng, methyl butenol, guaien mùi dầu, valencen đặc biệt mùi mứt cam. Đáng để ý là nếu furfurl methylceton cống hiến hương thơm dễ chịu thì furfural lại cho thoáng vào một mùi hôi khó ngửi. Qua ví dụ một trái măng cụt, ta thấy hương vị thiên nhiên quả là phức tạp. Áo hạt măng cụt không thấy được khảo cứu. Phần lớn các công tác đều hướng về vỏ quả. Thành phần chính đã được xác định là một loạt xanthon mà những chất chính là mangostin (8,9,10), a-mangostin (32,33,34), b-mangostin (8,9,10), g-mangostin (9,32,35), những isomangostin (26), normangostin (10) bên cạnh trioxyxanthon (18,27), pyranoxanthon (28), dihydroxy methyl butenyl xanthon (34), trihydroxy methyl butenyl xanthon (32), pyrano xanthenon (15). Những garcinon A (17,20), B (17,20,32), C (17,20) , D (24), E (32,34), mangostinon (34), garcimangoson A,B,C (49), gartanin (10,11,25) , egonol (32), epicatechin, procyanidin từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam (33), benzophenon glucosid (14) tuy số lượng ít cũng đã được tìm ra. Cũng có một vài bản báo cáo trình bày thành phần hóa học của lá măng cụt. Bên cạnh protein (7,8%), tanin (11,2%), đã được xác định những trihydroxy methoxy methyl butenyl xanthon (25), ethyl methyl maleimid glucopyranosid (37), cùng những triterpenoid như cycloartenol, friedlin, b-sitosterol, betulin, mangiferadiol, mangiferolic acid, cyclolanostendiol (30), hydroxy cyclolanostenon (31). Từ ruột thân cây, tetrahydroxy xanthon và dẫn xuất O-glucosid của nó cùng pentahydroxy xanthon, maclurin, cũng đã được tìm ra (12). Còn tử y thì chứa đựng mangostin, những calaba xanthon, dihydroxy và trihydroxy dimethyl allyl xanthon (26). Trái măng cụt thơm ngon cũng còn cống hiến nhiều môn thuốc. Từ lâu, ở Á châu, bên Ấn Độ, hệ thống khoa học đời sống ayurvedic đã kê nó vào nhiều thang thuốc cổ truyền, đặc biệt chống viêm, chữa tiêu chảy, ức chế dị ứng, làm giản phế quản trong cuộc điều trị hen suyển (27). Nó cũng được xem như là những thuốc chống dịch tả, bệnh lỵ (15), kháng vi khuẩn, kháng vi sinh vật, chống suy giảm miễn dịch (31). Người Thái dùng nó để chữa vết thương ngoài da (31). Người Mã Lai, Phi Luật Tân dùng nước sắc vỏ chữa lỵ, đau bụng, đi tiêu lỏng, bệnh vàng da (2). Theo Đông y, vỏ quả măng cụt có vị chua chát, tính bình, đi vào hai kinh phế và đại tràng, có công năng thu liễn, sáp trường, chi huyết, dùng trị tiêu chảy, ngộ độc chất ăn, khi bệnh thuyên giảm thì thôi, dùng lâu sinh táo bón (3). Cách thức dùng tương đối dễ : bỏ vỏ quả măng cụt khô (60g) vào nước (1.200 ml), có thể thêm hạt mùi (5g), hạt thìa lìa (5g), rồi đun sôi, sắc kỹ cho cạn chừng một nữa, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 120 ml. Nếu là người lớn, đau bụng, có thể thêm thuốc phiện (2). Những công tác khảo cứu mới cho biết những tính chất của vỏ trái : nhờ chất epicatechin, nó chống oxi hoá (55) ; nhờ những flavonoid, nó ức chế hoạt động sản xuất acid của trùng Streptococcus mutans GS-5 (56) . Bên phân garcinon E thì có tính chất độc hại cho các tế bào gan, phổi, dạ dày (51) . Trong số các xanthon, hoạt chất được khảo cứu sâu rộng nhất là những mangostin. Chúng có tác dụng mạnh lên các vi khuẩn Staphylococcus aureus ở nồng độ 7,8µg/ml (21,23) , lên các nấm Fusarium oxysporum vasinfectum, Alternaria tenuis, Dreschlera oryzae (42), Trichophyton mentagrophytes, Microsporum gypseum (22,23), Epidermophyton floccosum ở nồng độ 1µg/ml (22), Mycobacterium tuberculosis ở nồng độ 6,25 µg/mL (52) . Đem thử trên heo và chuột, nó có khả năng ức chế hệ thống phân vệ tế bào bám dính miễn dịch (16). Đặc biệt a-mangostin ức chế Bacillus subtilis ở nồng độ 3,13µg/ml, Staphylococcus aureus NIHJ 209p chịu đựng methicillin ở nồng độ 1,57µg/ml, tác dụng tăng cường nếu cho thêm vào vannomycin (36). g-mangostin thì chống sự oxi hóa lipid (40), ức chế sự sản xuất nitrit từ lipopolysaccharid do các tế bào đại thực gây ra (54) . Cả hai a- và g-mangostin đều có tính chất chống dị ứng ; thuốc viên rất hiệu nghiệm trên các bệnh nhân bị chứng sổ mũi mùa (43). Cả hai ức chế sự co của động mạch chủ trên ngực thỏ đã bị histamin và serotonin tác động (39). Nói chung, cả hai đều là những chất đối kháng thiên nhiên tác dụng của histamin, tức là những tác nhân điều trị đác lực những bệnh biến dị ứng (44). Hai chất nấy, chiết xuất từ măng cụt nguồn gốc Việt Nam, lại có khả năng khử gốc, kháng oxi hóa (33). Một phần chiết măng cụt gồm có mangostin và g-mangostin ức chế HIV-1 protease (IC50=5,12 và 4,81µM) (35) . Đứng về mặt ứng dụng, măng cụt được dùng trong thuốc tẩy, thuốc đánh răng, mỹ phẩm có tính chất kháng vi sinh vật (53) . Một chất xanthon trộn lẫn với gartanin hay ergonol ức chế Helicobacter pylori đã được dùng để chữa ung thư, loét hay viêm dạ dày. a-mangostin có công hiệu trên Helicobacter pylori ở nồng độ 1,56µg/ml (38). a- và g-mangostin ức chế glucosyl transferase phát xuất từ trùng sâu răng Streptococcus sobrinus và collagenase do vi khuẩn viêm lợi Porphyromonas gingivalis gây chảy mũi nên được dùng trong thuốc đánh răng (50) , có khả năng ngừa chặn sâu răng và mảng răng (47). Mangosten được trộn với nhiều hóa chất khác như cetyl alcool, cetyl phosphat, dimethicon, eicosen, disodium, magnesium stearat, dipropylen glycol, triethanolamin,… để làm một loại thuốc bảo vệ chống ánh nắng mặt trời (45). Nhờ tính chất ức chế hoạt động phosphodiesterase, ở nồng độ 50µg/ml trong một dung dịch 5% dimethyl sulfoxyd, nó được dùng để làm thuốc kích thích tiêu mỡ (48). Sau cùng, cũng nên biết để trái măng cụt tránh bị rám nâu khi tích trữ trong tủ lạnh, nó cần phải được lắc lay một phút trong một dung dịch 0,25% calcim chlorid + 0,5% citric acid (29). Một cô gái Huế sống tha hương bên chân trời Đức băng giá, không có cây măng cụt trong vườn và chắc cũng không có nhiều quả măng cụt trong tủ lạnh, một lần về thăm thành phố quê nhà đã đặc biệt rung cảm thưởng thức trái cây với tị triết lý : “Hãy lắng nghe tiếng động của quả Giáng Châu đang rơi trong vườn, để đừng hất hủi không về với Huế nghèo nàn trong buổi cuối đông. Giáng châu trên cành dù cho chín tới vẫn chưa phải là giáng châu, phải đợi một thời điểm nống ấm vừa tầm – như tiếng nhắc nhở của nắng sớm qua hương hoa mộc – giáng châu rơi xuống, chạm đất - phải “rơi và chạm” như một nghi lễ hành thâm, như sự cúi xuống của giọt nắng đầu tiên – đó là bí mật vị ngọt thanh khiết vô song của những múi giáng châu trinh nguyên, hái trên cành không chạm đất giáng châu vẫn còn giữ một vị chua chưa đủ xứng danh là viên ngọc của trời riêng tặng cho đất… Nếu chín trong lòng nắng không ấm không nồng làm sao giáng châu trở thành một giáng tiên trong mùa đông ở Huế ?” (7) . Trong giấc mơ nơi đất khách nghe tiếng giáng châu “rơi và chạm” vào đất, giật mình thức giấc, thế nào cô gái kia không nhớ được về vườn nhà sai quả êm dịu trong ánh nắng mùa thu ! Xô thành, mùa giáng châu vườn Huế Trích Nghiên cứu và Phát triển số 4(38) 2002 (có bổ túc tài liệu cho Vietsciences) Tài liệu Đại cương 1- Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ miền nam Việt Nam, Bộ Giáo Dục, Trung tâm Học liệu, Sài Gòn (1970) 267 2- Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 442 3- Bùi Kim Tùng, Món ăn bài thuốc II, Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh Bà Rịa–VũngTàu (1996) 40 4- Lê Trần Đức, Cây thuốc Việt Nam, nxb Nông nghiệp, Hà Nôi (1997) 718 5- Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoa trái quanh tôi trong Huế, Di tích và con người, nxb Thuận Hóa, Huế (1995) 6- Nguyễn Hoài Hương, Kim Long - Vườn xanh xứ Huế, Nhớ Huế 8 - Huế mùa xuân, nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh (2000) 131 7-Thái Kim Lan, Nắng Phú Xuân, Diễn Đàn forum, Paris (2) (2002) 43 Khảo cứu 8- G.S. Siddappa, B.S. Bhatia, The identification of sugars in fruits by paper chromatography, Indian J. Hort. 11 (1954) 19-23 9- A. Jefferson, A.J. Quillinan, F. Scheinmann, K.Y. Sim, Isolation of g-mangostin from Garcinia mangostana, and preparation of the natural mangostins by selective demethylation, Aust. J.Chem. 23(12) (1970) 2539-53 10- T.R. Govindachari, P.S. Kalyanaraman, N. Muthukumaraswamy, B.R. Pai, Isolation of three new xanthones from Garcinia mangostana, Indian J.Chem. 9(5) (1971) 505-6 11- T.R. Govindachari, P.S. Kalyanaraman, N. Muthukumaraswamy, B.R. Pai, Xanthones of Garcinia mangostana, Tetrahedron 27(16) (1971) 3919-26 12- D.M. Holloway, F. Scheinmann, Phenolic compounds from the heartwood of Garcinia mangostana, Phytochemistry 14(11) (1975) 2517-8 13- C.S. James, C.T. Thomas, N. Kunjikutty, A note of the chemical composition and tannic acid content of the locally available tree leaves, Kerala J. Vet. Sci. 8(2) (1977) 247-9 14- C.T. Du, F.J. Francis, Anthocyanins of mangosteen, Garcinia mangostana, J. Food. Sci. 42(6) (1977) 1667-8 15- A.K..Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, R. Uusvuori, T.A. Hase, A xanthone from Garcinia mangostana, Phytochemistry 19(10) (1980) 2223-5 16- C. Gopalakrishnan, D. Shankaranarayanan, L. Kameswaran, S.K. Nazimudeen, Effect of mangostin, a xanthone from Garcinia mangostana Linn, in immunopathological and inflammatory reactions, Indian. J. Exp. Biol. 18(8) (1980) 843-6 17- A.K.. Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, Isolation of tree new minor xanthones from Garcinia mangostana Linn., Indian J. Chem., Sect. B 19B (11) (1980) 1008 18- A.K.. Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, Minor xanthones of Garcinia mangostana, Phytochemistry 20(1) (1981) 183-5 19- A.J. MacLeod, N.M. Pieris, Volatile flavor components of mangosteen, Garcinia mangostana, Phytochemistry 21(1) (1982) 117-9 20- A.K..Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, R. Uusvuori, T.A. Hase, The structure of garcinones A, B, and C : three new xanthones from Garcinia mangostana, Phytochemistry 21(7) (1982) 1747-50 21- W. Mahabusarakam, S. Phongpaichit, C. Jansakul, P. Wiriyachitra, Screening of antibacterial activity of chemicals from Garcinia mangostana, Warasan Songkhla Nakkharin 5(4) (1983) 337-9 22- W. Mahabusarakam, S. Phongpaichit, P. Wiriyachitra, Screening of antifungal activity of chemicals from Garcinia mangostana, Warasan Songkhla Nakkharin 5(4) (1983) 341-2 23- W. Mahabusarakam, P. Wiriyachitra, S. Phongpaichit, Antimicrobial activities of chemical constituents from Garcinia mangostana Linn., J. Sci. Soc. Thailand, 12(4) (1986) 239-43 24- A.K..Sen, K.K. Sarkar, P.C. Mazumder, N. Banerji, Garcinone D, a new xanthone from Garcinia mangostana Linn., Indian J. Chem., Sect. B 25B (11) (1986) 1157-8 25- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, A new isoprenylated xanthone from Garcinia mangostana Linn., Chem. Ind. (London) (12) (1987) 418 26- W. Mahabusarakam, P. Wiriyachitra, W.C. Taylor, Chemical constituents of Garcinia mangostana, J. Nat. Prod. 50(3) (1987) 474-8 27- K. Balasubramanian, K. Rajagopalan, Novel xanthones from Garcinia mangostana, structures of BR-xanthone-A and BR-xanthone-B, Phytochemistry 27(5) (1988) 1552-4 28- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, Two xanthones from Garcinia mangostana, Phytochemistry 27(11) (1988) 3694-6 29- P. Sophanodora, C. Sripongpunkul, Prevention of browning in frozen mangosteen, Warasan Songkhla Nakkharin 12(3) (1990) 289-94 30- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, B. Achari, P.K. Dutta, Tritexpenoids from Garcinia mangostana, Fitoterapia 61(1) (1990) 86-7 31- M. Parveen, N. Ud-Din Khan, B. Achari, P.K. Dutta, A triterpene from Garcinia mangostana, Phytochemistry 30(1) (1991) 361-2 32- S. Sakai, M. Katsura, H. Takayama, N. Aimi, N. Chokethaworn, M. Suttajit, The structure of garcinone E, Chem. Pharm. Bull. 41(5) (1993) 958-60 33- M. Yoshikawa, E. Harada, A. Miki, K. Tsukamoto, Antioxidant constituents from the fruit hulls of mangosteen (Garcinia mangostana) originating in Vietnam, Yakugaku Zasshi 114(2) (1994) 129-33 34- F. Asai, H. Tosa, T. Tanaka, M. Iinuma, A xanthone from pericarps of Garcinia mangostana, Phytochemistry 39(4) (1995) 943-4 35- S.X. Chen, M. Wan, B.N. Loh, Active constituents against HIV-1 protease from Garcinia mangostana, Planta Med. 62(4) (1996) 381-2 36- M. Iinuma, H. Tosa, T. Tanaka, F. Asai, Y. Kobayashi, R. Shimano, K.I. Miyauchi, Antibacterial activity of xanthones from guttiferaeous plants against methicillin-resistant Staphylococcus aureus, J. Pharm. Pharmacol. 48(8) (1996, 861-5 37- D. Krajewski, G. Toth, P. Schreier, 2-Ethyl-3-methylmaleimide N-β -D-glucopyranoside from the leaves of mangosteen (Garcinia mangostana), Phytochemistry 43(1) (1996) 141-3 38- H. Hasegawa, S. Sakai, N. Aimi, H. Takayama, T. Koyano, Helicibacter pylori inhibitors containing xanthones from Garcinia mangostana, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08231396 A2 19960910 Heisei (1996) 5tr. 39- N. Chairungsrilerd, K.I. Furukawa, T. Ohta, S.Nozoe, Y. Ohizumi, Histaminergic and serotonergic receptor blocking substances from the medical plant Garcinia mangostana, Planta Med. 62(5) (1996) 471-2 40- M. Yoshikawa, T. Yoshizumi, Natural antioxidant g-mangostin isolation from mangosteen, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 08225783 (1996) 6tr. 41- M. Iinuma, M. Yamada, Antibacterial agents containing xanthones for Gram-negative bacteria, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 09110688 A2 19970428 Heisei (1997) 5tr. 42- G. Gopalakrishnan, B. Banumathi, G. Suresh, Evaluation of the antifungal activity of natural xanthones from Garcinia mangostana and their synthetic derivatives, J. Nat. Prod. 60(5) (1997) 519-24 43- K. Oizumi, K. Furukawa, , N. Chiranshilart, T. Ota, S. Nozoe, Antiallergic agents containing extracts of Garcinia mangostana pericap or magostin, and antiallergic foods containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 10072357 A2 19980317 Heisei (1998) 6tr. 44- Y. Ohizumi, Search for receptor blocking substances from natural resources and their pharmacological studies, Int. Congr. Ser. (1998) 1157 (Towards Natural Medecine Rexsearch in the 21st Century) 103-112 45- J. Gedouin, R. Vallee, Sunscreen composition containing mangostin, Fr. Demande FR 2754447 A1 19980417 (1998) 12tr. 46- S. Wahyuono, P. Astuti, W.T. Artama, Characterization of bioactive substance, a-mangosten, isolated from the hull of Garcinia mangostana L., Maj. Farm. Indones 10(3) (1999) 127-34 47- K. Oshima, T. Mitsunaga, Glucosyl transferase inhibitors from plant extracts for dentifrice, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 11343247 A2 19991214 (1999) 9tr. 48- J. Gedouin, R. Vallee, Use of cosmetic compositions containing a substance with a pyrone group, Fr. Demande FR 2 7774 905 (1999) 18tr. 49- Y.L. Huang, C.C. Chen, Y.J. Chen, R.L. Huang, B.J. Shieh, Three xanthones and a benzophenone from Garcinia mangostana, J. Nat. Prod. 64(7) (2001) 903-6 50- K. Miyazaki, K. Osawa, Food and dentifrice containing anticaries and anti-pyorrhea agents, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2001247469 A2 2660911 (2001) 8tr. 51- C.K. Ho, Y.L. Huang, C.C. Chen, Garcinone E, a xanthone derivative, has potent cytotoxic effect against hepatocellular carcinoma cell lines, Planta Medica 68(11) (2002) 975-9 52 - S. Suksamrarn et all., Antimycobacterial activity of prenylated xanthones from the fruits of Garcinia mangostana, Chem. Pharm. Bull.(Bangkok) 51(7) (2003) 857-9 53-Y. Kato, S. Hosoda, Mangosteen extracts, their preparation, and antimicrobial deodorant agents containing them, Jpn. Kokai Tokkyo Koho JP 2003231607 A2 20030819 (2003) 9tr 54- C.C. Wang, L.G. Chan, I.H. Lin, L.L. Yang, Inducible nitric oxide synthase inhibitors of Chinese herbs IV : Garcinia mangostana, Abstracts of Papers, 228th ACS National Meeting, Philadelphia, PA, USA, August 22-26 (2004) 55- J. Feng, T. Yamakuni, E. Katoh, S. Hosoda, Y. Ohizumi, Potent oxidative activity of unripe fruits of Garcinia mangostana L., Nat. med. (Tokyo) 58(4) (2004) 156-9 56- Nguyen Thi Mai Huong, Phan Tuan Nghia, Nguyen Thi Ngoc Dao, Do Ngoc Lien, Polyphenolic component of fruit skin of Garcinia mangostana L. and inhibitory effect on acid production by Streptococcus mutans GS-5, Tap Chi Duoc Hoc 44(6) (2004) 18-21
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:41:11 GMT 9
Giới thiệu cuốn sách Cây nhà lá vườn (*) Võ Quang Yến Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy Năm 1986, về thăm quê hương lần thứ nhất sau 37 năm xa cách, nhận thấy nền khoa học đất nước cần phải phát triển và phát triển mạnh mới mong rút kịp các nước láng diềng đang hùng hổ trở thành những rồng con, tôi cảm thấy mình lâu năm đi học ở nước ngoài, không thể dửng dưng đứng nhìn như người ngoài cuộc. Hôm chia tay, bà Nguyễn Đình Chi nắm chặt tay tôi, dặn đi dặn lại : Huế tội nghiệp lắm, phải làm một cái chi cho Huế nhé ! Làm sao quên được mấy lời tâm huyết đó. Nhưng suốt đời đi làm khảo cứu khoa học thuần túy, trừ chuyện dạy học, tôi có biết làm gì ngoài phòng thí nghiệm ! Hồi ấy ở Huế cũng như ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, đi đâu cũng nghe nói đến rong câu chỉ vàng, chiết xuất agar. Không phải là một kỹ nghệ hoàn toàn hóa học là ngành khảo cứu của tôi, có lẽ đây là một lối ra có khả năng giúp Huế. Về lại Pháp, tôi chạy vạy kiếm và tìm ra được một phòng thí nghiệm chuyên về rong rau. Hơn nữa, nhà khảo cứu đã học hỏi về rong câu chỉ vàng lại đang mở ra một công ty chiết xuất agar. Nghĩ là dịp hiếm có, gặp đúng lúc, một cơ hội cần phải nắm lấy, tôi điều đình để anh ta đồng ý về Việt Nam với tôi xem xét tại chỗ. Sau nhiều lần tiếp xúc với Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Thanh Hóa, công ty của anh ta ở Pháp và các viện đại học, các xí nghiệp nuôi trồng rau câu, chế biến agar ở trong nước thấy có khả năng đi đến một cuộc hợp tác có lợi cho đôi bên. Sau chuyến qua Pháp thực tập của những giáo viên Huế, tôi mừng thầm thấy đồ án có hy vọng thành công. Nhưng đáng buồn thay, chuyện không thành, có lẽ thời cơ chưa đến, mục tiêu không rõ, hay nơi làm không đúng,… Năm năm sau, viện Biển ở Nha Trang đưa ra đề tài lấy máu sam làm thuốc thử nội độc tố. Cũng chẳng phải là một đề tài hóa học, tôi lại chạy kiếm và may mắn như lần trước tìm ra được một công ty ở Pháp chịu đưa hai anh tổng giám đốc và giám đốc kỹ thuật về Nha Trang với tôi xem xét điều kiện khả thi. Về nhân lực, phòng thí nghiệm ở viện Biển thấy có đủ khả năng thi hành công tác. Bây giờ công ty Pháp chỉ còn đem về máy móc và kỹ thuật là có thể dựng lên đơn vị chiết rút máu sam. Điều kiện còn lại cần thiết là một phòng thí nghiệm vô trùng, xây dựng có phần tốn kém. Chúng tôi liền ra Hà Nội tiếp xúc viện Khoa học, được viện ưng thuận ủng hộ xây phòng và luôn tiện đở đầu dự án. Mọi việc trong bước đầu rất khả quan và khi lên máy bay trở về lại Pháp, hai nhà kỹ nghệ lạc quan hứa hẹn tiếp tục. Thế nhưng sau nhiều tháng thư từ qua lại, có những trở ngại gì đây, họ cho tôi biết khó lòng làm việc ở Việt Nam. Vẫn biết thuốc thử nội độc tố là một chất thuốc chiến lược, hiện nay còn nằm trọn vẹn trong tay Hoa Kỳ, nước ta hồi ấy lại đang còn bị cấm vận, khó khăn có thể từ đấy mà ra. Đằng khác, như với dự án rong câu chỉ vàng, một công ty cở nhỏ hay vừa không có quyền thất bại, nghĩa là họ chỉ dám bắt tay vào khi chắc chắn thành công. Tôi rất tiếc ta không nắm ngay cơ hội, nhất là tôi chỉ tìm ra được một công ty độc nhất ấy chịu nhận ý nghĩ chuyện làm thuốc ở Việt Nam. Đứng làm trung gian trong một chuyện xây dựng kỹ nghệ ở nước ta thấy ra không dễ ! Tôi đã từng đắn đo : mình không phải là nhà kinh doanh, nếu từ Pháp đưa được kỹ nghệ gia về Việt Nam xây dựng công ty, nhà máy trên những nguyên liệu có sẵn trong nước là việc làm đúng với tình hình đất nước và nằm trong vòng khả năng của mình. Về dạy học cũng là việc có thể làm trong khuôn khổ đóng góp chất xám, nhưng trong nước đâu có thiếu giáo sư : người ta thường bảo Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có nhiều bằng cấp đại học nhất. Mặc dầu hai thí nghiệm kỹ nghệ không đưa đến kết quả hoàn toàn mong muốn, tôi không nản lòng nhưng cũng không dám tiến thêm một bước, nhất là không tìm ra được đề tài trong lãnh vực của mình. Về nước thấy Đông y đang chuyển mình nhưng trong dân gian còn đang dùng nhiều cây lá đem sắc uống như ông cha ta đã từng làm từ xưa. Khi sắc thuốc tức là chiết xuất mọi hoạt chất trong cây lá, chất thuốc có mà chất độc cũng nhiều. Trong Tây dược trái lại, mỗi một cây thuốc được đem phân tích tìm cho ra hoạt chất có tính chất dược liệu, khảo cứu về mặt sinh học trước khi đem thử trên sinh vật, con người, sau đó mới tính chuyện cho ra thành thuốc. Nhiều nhà khảo cứu bên nhà đã ý thức vấn đề nầy và tôi nhận lời đi tìm tài liệu cây thuốc cho họ. Âu cũng là một cách đóng góp chất xám nằm trong tầm tay của mình Công việc tôi muốn giúp tương đối không khó cho một người đã từng làm khảo cứu ở Pháp. Tôi biết ở thư viện nào có sách báo hóa học, có thì giờ ngồi tìm đọc, có khả năng hiểu những bài báo, có chí tiêu hóa những tài liệu lượm lặt được để đúc kết thành những bài mà tôi gọi là tổng luận, loại review hay mise au point quốc tế, miễn là có thiện chí muốn làm… Lúc đầu, tôi chỉ sao chụp những bài báo và gởi cho những nhà khảo cứu nhưng nhiều lần về nước thấy những bài báo được sắp trong các ngăn kéo, không mấy ai đọc được, nên ý nghĩ đến với tôi là chịu khó viết và cho đăng những bài tổng luận ấy lên báo cho mọi người được hưởng. Tuy phải chịu khó và bỏ công vào, vượt qua những chướng ngại danh từ, thuật ngữ, đặc biệt cho một kẻ sống tha hương hơn một nửa thế kỷ, vận dụng hàng ngày toàn ngoại ngữ, viết bài khoa học bằng tiếng Việt, sau nhiều năm cố gắng tập dượt, đối với tôi hết còn là một chuyện khó. Tôi nhớ lại từ những năm thập niên 60 đã từng viết những bài khoa học phổ thông đăng trong các báo Bách Khoa, Phổ Thông bên nhà : các bạn tôi khen tôi đã có công thầm kín kích thích tinh thần khoa học trong số các bạn đọc trẻ, một bước đầu có khả năng ảnh hưởng lên nền giáo dục nếu được áp dụng đại trà. Bây giờ đây, hướng về những khảo cứu viên, bài tổng luận cần phải được bàn bạc sâu rộng hơn với đầy đủ tài liệu, nghĩa là với một tinh thần khác các bài phổ thông. Cái khó sau khi viết bài là tìm cho ra tờ báo chịu đăng. Bên nhà hiện có nhiều báo phổ thông khoa học, giá trị không đồng đều, nhưng đều không đáp ứng nhu cầu của tôi. May về Huế, tôi gặp anh Lê Phước Thúy (nay đã mất), hồi ấy làm Tổng biên tập tờ Thông tin Khoa học và Công nghệ của sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh Thừa Thiên Huế. Anh Thúy khuyến khích tôi viết và hứa đăng toàn vẹn, không sửa đổi, không cắt xén, dù bản tài liệu tham khảo dài dòng vì, theo anh, cái quý là số tài liệu. Trong tinh thần ấy, tôi đã dẫn không những tên tác giả, tên báo, số báo, trang báo mà còn cả tựa đề bài báo để độc giả có ngay một ý niệm. Tôi đã dựa nhiều lên tập Chemicals Abstracts qua các bản báo cáo hóa học, sinh vật học, các văn bằng sáng chế để kiếm những tài liệu ấy. Thắc mắc của tôi là nếu đi thẳng vào khoa học, kê khai thành phần cấu tạo cây lá rồi bước qua tính chất dược liệu, ứng dụng thuốc men sợ được xem như là một danh mục, một loại catalô, thì ai mà chịu mó tới. Tìm kiếm mãi đoạn vào đầu, tôi đạt đến những chuyện cổ tích, lịch sử mà tôi tin là hấp dẫn, sử dụng như ly nước giúp nuốt viên thuốc đắng, đồng thời góp phần vào ngành dân tộc thảo mộc học. Nếu có những bạn đọc không quen khoa học, chỉ muốn có một ý niệm sơ sài về cây thuốc và vị thuốc, tôi mời đọc đoạn đầu, đoạn cuối và lướt qua đoạn giữa mới xem thấy như khô khan. Nhưng tưởng các bạn cũng nên cần thêm vào một chút cố gắng như khi bạn có trước mắt một bài viết về triết lý, thiên văn hay ngôn ngữ, kinh tế với những danh từ ít thấy trong đời sống hằng ngày, có vẻ rắc rối, hoang dã không kém gì những tên hóa chất. Lúc ban đầu tôi hy vọng viết và cho đăng được mươi bài, dần dần con số vượt quá sức mong đợi : 20, rồi 30, nay lên quá 40… Có những bạn, nhất là ở nước ngoài, than phiền tờ Thông tin Khoa học và Công nghệ, nay đổi thành Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, không phổ biến rộng rãi nên ngoài những bản sao tôi gởi tặng, họ không biết tìm đọc ở đâu. Vì vậy ý nghĩ gom góp các bài cho in thành sách gieo mầm trong trí óc tôi và nay có cuốn Cây nhà lá vườn nầy. Hè vừa qua, nhân gặp ban Biên tập Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tôi được biết phần tài liệu được cho là dài. Vì vậy trong cuốn sách nầy, tôi đã rút ngắn số tài liệu lại, thường chỉ giới hạn trong phần ứng dụng, đồng thời bổ túc thêm tài liệu mới. Những sách tham khảo quen thuộc, tôi cũng rút ra khỏi phần tài liệu mỗi bài mà xếp lại trong một mục đằng sau. Tuy nước ta sử dụng tiếng Việt khoa học từ lâu, thấy như danh từ và danh pháp chưa được hoàn toàn thống nhất, nhất là với những bài viết gởi từ nước ngoài về. Thêm nữa, một số danh từ đã được thông dụng nhưng tưởng như cần phải được xét lại. Trong lúc chờ đợi kết quả của một Viện Hàn Lâm gồm có các nhà văn học, ngôn ngữ học cũng như khoa học đủ các ngành, tôi tạm dựa lên danh từ và danh pháp quốc tế. Tên cây thuốc lắm lúc cũng cần được xác định. Tôi tin tưởng ở công tác của viện Khoa học nước ta. Trong lúc chờ đợi, thay vì những báo chí thường hay đăng bài của tôi, tôi may mắn được nhà xuất bản Đà Nẵng chịu nhận cho in toàn tập, một cử chỉ mà tôi hết lòng cám ơn. Những bài viết Hắc Ký Ni Sơn 1995 - Xô thành 2007 (*) Nhà xuất bản Đà Nẵng 2008-2009 Trích trang đầu : Vài lời giải thích không được in vào sách
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:43:57 GMT 9
Jacalin hột mít ngăn chận trùng SIDAVõ Quang Yến Ai về nhắn với họ ngưồn Mít non cho xuống cá chuồn cho lên. Ca dao Bệnh SIDA (Syndrome d’ImmuniDeficiency Acquise, hay theo danh pháp Anh Mỹ AIDS, Acquired Immmune Deficiency Syndrome) như tên gọi, là toàn bộ những bệnh lý mà mẫu số chung là sự suy nhược hệ thống miễn dịch của con người. Do đấy, cơ thể rất dễ bị mọi vi trùng phá phách, hoành hành. Từ những thập niên 80, 90, trùng gây bệnh được tìm ra là một độc trùng hay virus mang tên VIH (Virus de l’Immunodeficience Humaine hay HIV). Vài năm sau, người ta còn phân biệt được hai thứ VIH1 và VIH2, con thứ nhất dễ bắt gặp hơn. Cả hai đều là những trùng ghê gớm nhờ khả năng ngẫu biến dễ dàng khiến chúng có phương tiện thay hình đổi dạng lanh chóng để lẫn tránh thuốc men. Cơ chế truyền nhiễm Những trùng VIH thuộc loại retrovirus, nghĩa là những virus sinh sản đâm chồi trên mặt tế bào. Cấu tạo chúng là những ARN (Acide RiboNucléique hay RNA) bao quanh ở ngoài một lớp glycoprotein gp (gp41 và gp120 ở VIH1). Những gp nầy đóng một vai trò cốt yếu trong việc truyền nhiễm. Khi VIH xâm nhập cơ thể sinh vật, nó đặc biệt tấn công vào những lymphocyt T4, tức là những bạch huyết bào chủ chốt trong cuộc bảo vệ chống nguyên lực nhiễm bệnh. Trên mặt hưyết bào có một lớp protein gọi là CD4. Công việc đầu tiên của VIH là cho gắn liến gp của mình vào CD4 (hay CD26) của huyết bào qua sự hỗ trợ của một dư phân tử như phân tử fusin hay cơ quan nhận cảm CCR5 để cho nó lọt được vào lòng huyết bào. Bệnh tình càng tiến thì số lượng bạch huyết bào T4 càng sụt. Thường trong máu người có khoảng 1000 T4 mỗi mililit. Khi số lượng nầy sụt xuống dưới 200 thì cơ thể hết còn chống lại được các vi trùng gây bệnh, ngay cả những loại thường được cho là yếu ớt. Đột nhập được vào lòng huyết bào rồi thì VIH tổ chức chuyện sinh sôi nảy nở. Bản chất di truyền của nó là ARN như đã thấy, nhưng bộ máy tế bào của huyết cầu không biết trực tiếp chế biến ARN. Nó sử dụng một giếu tố có sẵn trong cơ thể người là ETI (Enzym Transcriptase Inverse) để cho tế bào thực hiện công việc sản xuất các trùng con. Ngày nay, kinh nghiệm lâm sàng cho biết chứng bệnh SIDA diễn biến theo 4 giai đoạn : - Trong giai đoạn thứ nhất, thời kỳ sơ nhiễm (từ 3 tuần đến 3 tháng), tức là đợt tấn công của VIH tương đương với một hoạt động virus tuy khá quan trọng mà ít có triệu chứng rõ rệt. Thỉnh thoảng thấy bệnh nhân lên cơn sốt trong khoảng 1 tháng, trong mình khó chịu, chán ăn, nhức đầu, đau xương, bắp thịt rã rời, mụt mọc đầy da. Bệnh tương đối nặng hơn trong các trường hợp nầy. Tuy nhiên, những thử nghiệm dò tìm ít đem lại kết quả vì mục đích là tìm kiếm kháng thể do cuộc phòng thủ miễn dịch phát ra nhưng chúng đang còn quá ít. - Qua giai đoạn thứ nhì, lúc huyết bào chế biến trùng con là lúc cuộc phòng thủ miễn dịch hoạt động mãnh liệt, cũng là lúc huyết bào mới được sản xuất tối đa để bù lại các huyết bào bị hư hỏng. Mỗi ngày khoảng chừng 1 tỷ trùng con và tế bào đuợc chế biến và phá huỷ. Khả năng phòng thủ miễn dịch sụt dần xuống. Tuy là một giai đoạn kéo khá dài, trung bình 1 năm, vẫn ít thấy có tín hiệu huyết thanh dương tính phát hiện nên gọi là thời kỳ vô triệu chứng. - Giai đoạn thứ ba, dài khoảng 2 năm, tức là thời kỳ tiền SIDA, tương đương với hội chứng u hạch bạch huyết dai dẳng. Những hạch phồng lên, trung bình 30 tháng sau khi bệnh bộc khởi. - Khi cuộc phòng thủ miễn dịch hết còn hữu hiệu, số bạch huyết bào T4 sụt xuống dưới 200 mỗi mililit, bệnh nhân bước qua giai đoạn thứ tư tức là giai đoạn cuối cùng, thời kỳ SIDA công khai. Vào lúc nầy, mọi vi khuẩn, vi trùng gây bệnh, tế bào ung thư,… đua nhau nảy nở, dần đưa bệnh nhân vào tay tử thần. Phòng ngừa chống chỏi Bên lề cuộc tìm kiếm khó khăn một vaccin để vô hiệu hóa virus, việc bài trừ SIDA hiện nay dựa lên khoa liệu pháp hóa học, dùng hóa chất ngăn chận trùng VIH xâm nhập bạch huyết bào hay chế biến trùng con. Biết chắc VIH phải vào cho được lòng huyết bào, những công tác khảo cứu đầu tiên tìm kiếm cách phá hủy tác động giữa gp120 vỏ trùng và protein CD4 huyết bào. CD4 là một phân tử không hoà tan. Qua nhiều phản ứng hóa học, người ta có thể chế biến nó thành hoà tan, đem pha loãng rồi dùng dung dịch che chở huyết bào. Kết quả rõ ràng tích cực nhưng lâu ngày có những phản ứng phụ không tốt. Nhiều khảo cứu viên muốn xoay qua dùng những bạch huyết bào T4 tương ứng với vùng tác động của virus, tương đối dễ chế tạo hơn và cũng ít phản ứng phụ hơn. Mặt khác, những hóa chất có điện tích âm như loại polyanionic (những polysulfat như heparin, dextran sulfat, pentosan polysulphat, mannan sulfat, curdlan sulfat, polyvinylic alcool sulfat, những polycarboxylat như aurin tricarboxylic acid ) cũng làm cản trở không ít tác động giữa VIH và T4. Trong lãnh vực nầy, những polymer sulfat cũng tỏ ra rất hiệu nghiệm và nhiều phòng thí nghiệm đang đầu tư vào cuộc chế tạo các sulfat nầy. Không ngăn ngừa được trùng SIDA đột nhập huyết bào thì phải kiếm cách đừng cho nó phát triển trong ấy. Trong lúc chờ đợi một vaccin nan giải, người ta đã nghĩ cách ghép vào huyết bào một gen mới để nó tự chống lại virus. Hiện giờ, mục tiêu dễ thấy là enzym ETI đã biến hoá ARN của trùng ra ADN. Những chất ức chế ETI được dùng trước nhất là những 2’,3’-didesoxynucleosid : hãng Wellcome cho ra AZT (3’-azido-2’,3’-didesoxythymidin), hãng Hoffmann-Laroche thực hiện DDC (2’,3’-dideoxycytidin), hãng Bristol-Meyers Squibb chế tạo DDI, hãng Glaxo phát hành 3TC,… Tác dụng ức chế các thuốc nầy là hoặc giành chỗ ARN hoặc sát nhập vào các ADN đang thành hình. Có điều ETI cũng là enzym tổng hợp ADN cho người, phá phách nó tất nhiên có hại cho cơ thể. Đằng khác, VIH lại có khả năng ngẫu biến để thích nghi với những điều kiện của môi trường mới lại làm cho cuộc điều trị rắc rối hơn. Những chất như acyclic phosphonat nucleosid PMEA, rất ổn định trong tế bào, có tác dụng lâu dài, dẫn xuất FPMPA của nó cũng có tác dụng đáng kể nhưng đều mắc phải nhược điểm nói trên. Trước những khó khăn đó, cần phải tìm cho ra nhũng chất ức chế đặc thù. Từ 1989, ra đời những chất acyclouridin HEPT (Mitsubishi Kasei Corporation), benzodiazepin TIBO (Janssen-Johnson và Johnson) và, một vài năm sau, những phân tử thuộc các loại dipyridodiazepinon (Boehringer Ingelheim), pyridinon (Merk, Sherp và Dohme), bis-heteroaryl piperazin (Upjohn) đặc biệt chỉ phá hoại ETI phục vụ VIH mà không đả động đến các enzym ADN polymerase khác của cơ thể. Vài năm trước đây, một chiến lược mới bài trừ VIH đã được thực hiện và kết quả rất khả quan. Thay vì chỉ dùng một chất thuốc độc nhất, người ta áp dụng cùng một lúc nhiều chất, trừ khử luôn một lần nhiều dạng của trùng đang ngẫu biến. Lúc đầu, từng cặp đôi thuốc đã đuợc kết hợp : AZT và DDC, AZT và DDI, AZT và 3T. Những cặp đôi nầy rõ ràng có hiệu lực hơn khi thuốc được dùng một mình. Sau đó, kết quả thật mỹ mãn khi các cặp thuốc kia được kết hợp thêm với một trong những thuốc mới như Saquinavir (Roche), Ritonavir (Abbott), Indinavir (Merck), ngay cả lúc số bạch huyết bào T4 của bệnh nhân sụt xuống gần 200 mỗi mililit máu. Các chuyên gia tiên đoán sẽ rồi còn đuợc hoàn thiện hơn nếu các bệnh nhân được dùng thuốc ngay từ giai đoạn thứ nhất, nhất là khi bắt đầu thấy có triệu chứng. Hơn nữa, họ còn đề nghị đồng thời với 3 cặp thuốc kia, nên điều trị bệnh nhân thêm với những thuốc phục chế hệ miễn dịch, thuốc chống oxi hóa để tránh xung động và thuốc kháng sinh phổ rộng để giảm hạ hiệu ứng các du nhân tử sinh bệnh. Những nguồn tin mới nhất cho biết giữa năm 2008 sẽ có bán ở 27 nước Âu châu viên thuốc hồng Atripla đã được Cơ quan Y tế Thế giới OMS chuẩn y và Cơ quan Lương thực Hoa Kỳ FDA công nhận từ 2006. Viên thuốc nầy là một hỗn hợp ba thuốc Efavirenz, Emtricitabine và Tenofovir, đã đuợc bán riêng rẻ từ nhiếu năm nay qua ba hảng Bristol-Myers Squibb, Gilead Sciences và Merck. Cả ba đều là những chức ức chế giếu tố transcriptase inverse là một enzym ngăn cản virus sinh sản trong tế bào nhưng tác động khác nhau nên cuộc liên hợp hy vọng sẽ đem lại hiệu lực tối cao trong một áp dụng sinh vật hóa học cực kỳ phức tạp. Cũng nên biết thêm là thuốc sẽ bán với giá rất rẻ ở các nước đệ tam thế giới. Lectin hột mít Tìm ra được lúc đầu trong thảo mộc (thân, rễ, lá, củ), về sau cả trong nấm, vi khuẩn, động vật hạ cấp (như ốc, sên) hay động vật có xương sống (như gà, chuột, lươn), lectin là những protein có khả năng tác động với sacccharid để gây ra sự ngưng kết các tế bào động vật. Sau nhiều tên : agglutinin, hemaglutinin, phytohemaglutinin, cuối cùng nó được gọi lectin (từ động từ La Tinh legere có nghĩa chọn lựa) vì nó có khả năng phân biệt các loại máu. Lectin đầu tiên được khám phá ra là ricin (từ hột thầu dầu) năm 1888, rất độc vì làm ngưng kết các hồng huyết bào. Ricin và sau nầy một chất tương tự, albrin (từ hột cam thảo dây) đã được dùng để chứng minh nhiều nguyên tắc căn bản trong ngành huyết học. Concanavalin, lectin đầu tiên chiết xuất ròng sạch từ một loại đậu năm 1916, lại có tính chất làm kết tủa huyết bào vì nó ngưng kết với glycogen, những carbohydrat, tức là đường tích trử trong cơ thể. Người ta còn biết cứ cho thêm đường như glucose thì tránh được huyết bào bị concanavalin kết tủa, vì concanavalin liên kết với glucose dễ hơn với đường trong huyết bào. Dần dần, các lectin trở thành những dụng cụ quý báu để khảo sát những thay đổi ở mặt ngoài tế bào trong thời gian ung thư hoá đồng thời cho phát triển những tính chất đặc thù của những tế bào u khối. Lectin phát xuất từ hột mít (tiếng Pháp : jacque hay jaque, tiếng Anh : jackfruit) mang tên jacalin (hay jacali, jacalon, jacaline, jacalini, jacalino, jacalinon,… tùy theo nước). Nó được chiết xuất với một dung dịch đệm phosphat rồi phân đoạn protein qua sắc ký ái lực hay sắc phân lỏng cao áp. Người ta làm tinh khiết nó trên một cột N-acetyl-D-galactosamin, Sepharoche, Sephadex hay G100. Jacalin tinh thể trụ góc đứng hệ thoi xem xét cặn kẽ cho thấy một dạng tetramer. Gần đây, từ A. integrifolia đã được phát giác một dạng tetramer có cấu tạo tương tự gọi là artocarpin, ít được học hỏi (24). Gần đây, jacalin đã được khảo sát vế mặt cấu tạo tinh thể (25) và qua tia X (26). Mít thường được dùng để khảo cứu thuộc loại Artocarpus heterophyllus Lamk. hay A. integrifolia Linn., A. integer Mer., có khi A. integre, A. incisa, A. communis, A. lingnamensis, A. champeden, A. tonkinensis, A. hirsuta, A. hypargyreus, A. altilis, A. lakoocha cùng một số mít hoang dại ở Việt Nam thuộc họ Dâu tằm Moraceae. Jacalin là một glycoprotein mang 4 polypeptid, chứa 3% carbohydrat mà cấu tạo đã được phân tích. Lớn chừng 50kDa, nó gồm có một dãy alfa liên kết 133 amin acid bất cộng hóa, một dãy 15kDa mang glycogen, một dãy 12kDa không mang glycogen và một dãy bêta ngắn với 20 mảnh. Dãy nầy có một trọng lượng phân tử 2090, tương đối nhỏ so với dãy kia, 16.200. Hai dãy 15kDa và 12kDa có thành phần amin acid tương tự . Đem phân giải protein với Staphyloccocus areus proteinase thì chúng hiến thêm một peptid nhỏ hơn 4kDa. Phần chiết thô còn chứa những polypeptid khác. Hai dãy bêta và 15kDa đã được phân tích qua sác phân lỏng cao áp và dãy 17kDa qua phương pháp điện chuyển. Dãy bêta trong 3 loại A. integrifolia , A. champeden và A. tonkinensis có phần khác nhau, đặc biệt jacalin của A. champenden có hai dãy bêta (17) Nghiên cứu trên 2 loại mít hoang ở Việt Nam, các tác giả tìm ra một dãy alfa thứ nhì ở jacalin A. asparulus và một dãy bêta thứ nhì ở jacalin của A. masticata (20). Ngoài ra, một số mít khác mọc ở Việt Nam như A. heterophyllus, A. malinoxylus, A. parva, A. petelotii cũng đã được khảo cứu và cho thấy các loại mít không có cấu tạo hoàn toàn giống nhau (20). Một cuộc nghiên cứu cấy mô jacalin cDNA (isolectin) phát hiện những chuỗi amin acid đã được tổng hợp qua một prepropeptid với cấu tạo : N-tín hiệu (21 mảnh) - propeptid (39 mảnh) - bêta peptid (20 mảnh) – vùng liên kết (4 mảnh) – alfa peptid (133 mảnh). Cũng như agglutinin của một loại dâu cam Maclura pomifera, ngoài O-glycan và N-acetylgalactosamin, jacalin có ái lực với methyl D-galactosid chứ không phải galactose ở thể tự do cũng như có khả năng ngưng kết với tinh dịch của người và chuột. Những công tác khảo cứu nhiệt động học về liên quan của các diosid cho thấy jacalin tác động ưu tiên với GalD(1-3)DGalNAc, một disaccharid thường có trong các glycoprotein. Từ 20 năm nay, người ta biết jacalin phản ứng với dãy carbohydrat alkali bền hay ít bền loại galactosyl acetyl galactosamin thuộc nhóm Thomson-Friendenreich (22). Tính chất jacalin làm kết tủa các glycoprotein IgA, IgD được chứng minh (2,3). Hơn nữa, IgA lại được chỉ định là IgA1. Mặt khác, jacalin còn ngưng kết ít nhiều với cả IgA2 (4,6), IgM (4,5), IgG (19), IgE (4), hiện tượng phần nào mâu thuẩn với vài công tác khác. Người ta suy đoán những tính chất liên kết khác nhau với Ig (9) vì phương cách chiết xuất không hoàn toàn giống nhau, từ những cây mít không mọc cùng vùng đất, xa nhau hàng nghìn dặm (từ Brazyl qua Philippines, từ La Réunion qua Okinawa, từ Hawai qua Ấn Độ). Ngay cả tên cây mít cũng có khi lẫn lộn (11). Ứng dụng jacalin Ngoài tính chất kết tủa các immunoglobulin, lectin còn có khả năng ngưng kết nhiều loại tế bào như hồng huyết cầu erythrocyt, bạch huyết cầu leucocyt, u khối, vi khuẩn virus. Riêng jacalin có một tác động đặc biệt với những chất đuờng, những O-glycan (28) . Nó đã trở thành một dụng cụ cần yếu trong ngành huyết học (1,2,11) nhờ tính chất giáng phân các bạch huyết bào. Nó được chứng minh đã kích thích những chức năng các tế bào T và B con người, đặc biệt kích thích bạch huyết bào T phát tiết immunoglobulin. Người ta dùng nó để chiết xuất IgA, IgA1, ước tính số lượng IgA1, phân tách IgA1 và IgA2 (23), loại bỏ IgG trong cuộc chế biến gamma globulin, làm ròng polysaccharid (29), dò tìm galactoglucomannan trong thực phẩm, phát sinh sản xuất gamma interferon trong bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi và trong môi cấy lymphocyt T con người, khảo cứu liên quan protein-carbohydrat trong thời gian di chuyển bạch cầu trung tính, khảo cứu các loại ung thư lành tính cũng như ác tính. Ngoài ra, quan trọng nhất là tính chất gián phân của jacalin chính xác lên màng bạch huyết bào CD4 T (11,13). Nó kích thích sự phospho hóa những enzym ERK và JNK trong huyết bào nầy (27). Tính chất rất quan trọng khi ta biết có một tương quan rõ rệt giữa số lượng tế bào T của màng CD4 và tiến triển của chứng bệnh SIDA. Một cuộc hợp tác giữa 12 khảo cứu viên đủ ngành ở nhiều trường Đại học, viện Sinh học, trường Y khoa, bệnh viện ở Pháp và Hoa Kỳ đã đi sâu vào việc dùng jacalin ức chế VIH (16). Đặc biệt Ts Nathalie Pineau là một kỹ sư khảo cứu về dị ứng trên da ở công ty Oreal. Trong phòng thí nghiệm, in vitro, các tác giả nhận thấy jacalin rõ ràng ức chế cuộc nhiễm trùng của VIH1 lên những bạch huyết bào con người, đặc biệt các tế bào đơn nhân máu ngoại vi và các tuyến tủy bào bạch cầu đơn nhân to. Như trên đã thấy, khi VIH lọt vào máu, màng gp120 vỏ trùng tác động với protein CD4 bạch huyết bào. Jacalin làm giảm hạ tác động ấy nhưng không phải vì đã thay thế CD4 liên kết với gp120. Jacalin tác động với bạch huyết bào T và rất có thể đã phá VIH qua cuộc liên kết với các phân tử màng tế bào, nhất là CD4. Mặt khác, các tác giả còn tìm ra trong jacalin một dãy alfa gồm có 14 amin acid giống hệt một khúc trong gp120. Một peptid nhân tạo tổng hợp tương đương với dãy alfa nầy cũng có khả năng ức chế VIH, in vitro (14). Nước ta có ít nhất một chục loại mít trong số khoảng 50 loại trên thế giới. Lectin và jacalin đã được khảo cứu ở các trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh. Vài năm trước đây đã thấy phát hành một bản lectin chiết xuất từ mít, muồng, chay, sen, mướp đắng, dâu tằm, sam, ốc, trạch, diệp ngọc (Gs Nguyễn Quốc Khang). Ngoài ra, nhiều tên khảo cứu viên Việt Nam đã thấy ký trong các bản báo cáo sau một thời gian thực tập ở Pháp : B.P. Thuân, lectin sam Tachypleus tridentatus (7) ; Nguyễn Quốc Khang, jacalin chay A. tonkinensis (8), muồng Crotalaria striata (12); Đỗ Ngọc Liên, jacalin chay A. tonkinensis, mít dại A. integrifolia, mít tố nữ A. champeden (15,17), A. asperulus, A. masticata (18), A. heterophyllus, A. melinoxylus, A. parva, A. petelotii (20). Các jacalin nầy đều có tính chất gián phân bạch huyết cầu và kích thích mỗi thứ một khác cuộc tăng sinh các tế bào đơn nhân máu ngoại vi. Rõ ràng, Việt Nam không thiếu tay nghề cũng như nguyên liệu. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần nghỉ học về quê là thích ra vườn tìm mít chín. Mùi mít ngon ngọt, khẩu vị khác nhau tùy loại mít ráo, mít ướt, mít mật, mít gai, hột mít nấu chín cũng béo bở lại ngạt ngào hương thơm khi đem nướng. Sau nầy ở Paris, ở cửa trước vườn Luxembourg, những hôm vào thu trời lành lạnh, mua nắm trong tay những hột dẻ vừa mới nướng nóng bỏng, tôi lại tưởng nhớ đến những hột mít mạ tôi nướng trên lò than thơm phức thời xưa, trong lòng mang máng một chuyện cổ tích đã được Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc kể trong sách. Có người cháu gái đến thăm nhà cô, lại thích ăn mít vườn cô. Người cô không muốn cho ăn mít, bảo nấu cơm cho cháu ăn. Người cháu biết ý, lanh miệng "Thôi cô ạ, đừng cơm cơm mít mít chi nữa cho nó phiền" thay vì cơm cơm nước nước. Bất đắc dĩ, cô phải ra vườn hái mít cho cháu nhưng cô chọn một trái vừa nhỏ, vừa sâu, đem bổ cho cháu ăn. Tuy khó nuốt trôi miệng, người cháu cũng khéo miệng "Có gì mà cô ! Có lô gốc mít !". Câu nầy trở thành tục ngữ giễu bà cô keo kiệt. Cả người cháu lẫn bà cô không dè hột mít có khả năng cống hiến chất thuốc chữa trị chứng bệnh hiểm nghèo nhất vào những thế kỷ 20,21 nầy. Thông tin Khoa học và Công nghệ (3) (1997) 18-29 có bổ túc Mít miền Nam Mít miền Trung Tham khảo - Encyclopaedia Universalis 10, 266 ; 13, 561 ; 19, 977 ; 20, 1034 - La Recherche 241 (1992) 288 ; 261 (1994) 90 ; 268 (1994) 946 ; 291 (1996) 30 - Le Nouvel Observateur 2265 (3-9 tháng 4 năm 2008) 126 1- P.S. Appukuttan, D. Basu, Four identical subnits in jack fruit seed agglutinin offer only two saccharide binding sites, FEBS Let.r (2)180 (1985) 331-4 2- M.C. Roque-Barreira, A. Campos-Neto, Jacalin : an IgA-binding lectin, J. Immunol. (3)134 (1985) 1740-3 3- P. Aucouturier, E. Mihaesco, C. Mihaesco, J.L. Preud’homme, Characterization of jacalin, the human IgA and IgD binding lectin from jackfruit, Mol. Immunol. (5)24 (1987) 503-11 4- H. Kondoh, K. Kobayashi, H. Hagiwara, A simple procedure for the isolation of human secretory IgA of IgA1 and IgA2 subclass by a jackfruit lectin, jacalin, affinity chromatography, Mol. Immunol. (11)24 (1987) 1219-22 5- H. Hagiwara, D. Collet-Cassart, K. Kobayashi, J.P. Vaerman, Jacalin : isolation, caracterization, and influence of various factors on its interaction with human IgA1, as assessed by precipitation and latex agglutination, Mol. Immunol. (1)25 (1988) 69-83 6- P. Aucouturier, F. Duarte, E. Mihaescao, N. Pineau, J.L. Preud’homme, Jacalin, the human IgA1 and IgD precipitation lectin, also binds IgA2 of both allotypes, J. Immunol. Methods (2)113 (1988) 185-91 7- B.P. Thuan, A.D. Strosberg, J.Hoebeke, Purification and structural properties of the lectins from Tachypleus tridentatus, Lectins-Biol. Biochem, Clin. Biochem. (6) (1988) 405-10 8- N.Q. Khang, A.D. Strosberg, J. Hoebeke, Purification and characterization of the Artocarpus tonkinensis lectin, Lectins-Biol. Biochem., Clin. Biochem. (6) (1988) 341-8 9- K. Kobayashi, H. Kondoh, K. Hagiwara, J.P. Vaerman, Jacalin : chaos in its immmunoglobulin-binding specificity, Mol. Immunol. (10)25 (1988) 1037-8 10- N. Pineau, J.C. Brugier, J.P. Breux, B. Becq-Giraudon, J.M. Descamps, P. Aucouturier, J.L. Preud’homme, Stimulation of peripheral blood lymphocytes of HIV infected patients by jacalin, a lectin mitogenic for human CD4+ lymphocytes, AIDS 3 (1989) 659-63 11- P. Aucouturier, N. Pineau, J.C. Brugier, E. Mihaesco, F. Duarte, F. Skvaril, J.L. Prud’homme, Jacalin : a new labaratiry tool in immunochemistry and cellular immunology, J. Clin. Labor. Anal. (4)3 (1989) 244-51 12- N.Q. Khang, J.L. Guillaume, J. Hoebeke, A blood group A specific lectin from the seed of Crotalaria striata, Biochem. Biophys. Acta 1033 (1990) 210-1 13- N. Pineau, P. Aucouturier, J.C. Brugier, J.L. Preud’homme, Jacalin : a lectin mitogenic for human CD4 T lymphocytes, Clin. Exp. Immmunol. 80 (1990) 420-5 14- J. Favero, J. Dornand, P. Corbeau, C. Devaux, M. Nicolas, J.P. Liautard, Medicinal use of jacalin and fragments thereof in particular for treating HIV virus-related diseases, PCT Int. Appl. WO 92 22,574 (1992) 27 tr. 15- D.N. Lien, I.M. Cesari, I. Bouty, D. Bout, J. Hoebeke, Immunocapture assay for quantification of human IgA antibodies to parasite antigenic enzymes. Application with the alkaline phosphatase of Shistosoma mansoni, J. Immunoassay (4)13 (1992) 521-36 16- J. Favero, P. Corbeau, M. Nicolas, M. Benkirane, G. Travé, J.F.P. Dixon, P. Aucouturier, S. Rasheed ; J.W. Parker, J.P. Liautard, C. Devaux, J. Dornand, Inhibition of human immunodefiency virus infection by the lectin jacalin and by a derived peptide showing a sequence similarly with gp120, Eur. J. Immunol. 23 (1993) 179-85 17- D.N. Lien, M. Brillard, J. Hoebeke, The a- and b-subnits of the jacalins are cleavage products from a 17-kDa precursor, Biochem. Biophs. Acta 1156 (1993) 219-22 18- D.N. Lien, M. Brillard, J. Hoebeke, P. Aucouturier, A new a chain of jacalin from jack-fruit seeds of two wild species, C.R. Acad. Sci.III (2)318 (1995) 167-72 19- Y. Wu, D. Zhou, Research on Artocarpus lingnanensis binding proteins of human serum or colostrum, Miannyixue Zazhi (4)11 (1995) 235-7 20- F. Blasco, D. N. Lien, P. Aucouturier, J.L. Preud’homme, A. Barra, Mitogenic activity of new lectins from seeds of wild Artocarpus species from Vietnam, C.R. Acad. Sci.III 319 (1996) 405-9 21- S. Suresh, P. Rani, P. Geetha, J. Pratap, J. Venkatesh, R. Sankaranarayanan, A. Surolia, M. Vijayan, Homology between jacalin and artocarpin from jackfruit (Artocarpus integrifolia) seeds. Partial sequence and preliminary crystallographic studies of artocarpin, Acta Cryst.D Biol. Cryst. (4)D53 (1997) 469-71 22- S. Kabir, Jacalin : a jackfruit (Artocarpus heterophyllus) seed-derivated lectin of versatile applications in immunobiological research, J. Immunol. Methods (2)212 (1998) 193-211 23- A.M. Kerr, L.M. Loomes, B.C. Bonner, A.M. Hutchings, B.W. Bernard, Purification and characterization of human serum secretory IgA1 and IgA2 using jacalin, Methods Mol. Med. 9 (1998) 265-78 24- J.V. Pratap, A.A. Jeyaprakash, P.G. Rani, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Crystal structures of artocarpin, a Moraceae lectin with mannose specificity, and its complex with methy-a-D-mannose : implications to the generation of carbohydrate specificity, J. Mol. Biol. (2)317 (2002) 237-47 25- A.A. Jeyaprakash, P.G. Rani, G.B. Reddy, S. Banumathi, C. Betzel, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Crystal structure of the jacalin-T-antigen complex and a comparative study of lectin-T-antigen compexes, J. Mol. Biol. (4) 321 (2002) 467-45 26- A.A. Jeyaprakash, S. Katiyar, C.P. Swaminathan, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Structural basis of the carbohydrate specificities of jacalin : an X-ray and medeling study, J. Mol. Biol. (1) 332 (2003) 217-28 27- S.M. Lakshmi Tamma, V.S. Kalyanaraman, S. Pahwa, P. Dominguez, R.R. Modesto, The lectin jacalin induces phosphorylation of ERK and JNK in CD4+T cells, J. Leucocyte Biol.73 (2003) 682-8 28- A.A. Jeyaprakash, G. jayashree, S.K. Mahanta, C.P. Swaminathan, K. Sekar, A. Surolia, M. Vijayan, Structural basis for the energetics of jacalin-sugar interactions : promiscuity versus specificity, J. Mol. Biol. (1) 347 (2005) 181-8
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:47:08 GMT 9
Huyền điểu, yến sàoVõ Quang Yến Yến làm tổ mà không đặng ở, Ong làm mật mà chẳng đặng ăn. Ca dao www.konrad-wothe.de Copyright Konrad Wothe Trong các thức ăn hiếm và quý của Viễn Đông từ hàng trăm năm nay, yến sào đứng hàng đầu bản bát trân : yến sào (tổ chim yến), hải sâm (sâm biển), bào ngư (nhím biển), hàu xì (sò huyết), lộc cân (gân hươu), cửu khổng (hàu chín lỗ), tê bì (da tê giác), hùng chưởng (tay gấu). Sách Thần nông bản thảo kinh kê nó trong số ba đặc sản nổi tiếng : trầm hương, tê giác, yến sào. Vì sống ở hang động các đảo ngoài biển nên chim yến còn được gọi hải yến, chim biển hay chim én biển. Nó cũng còn mang tên Việt yến (chim yến đất Việt), Nam yến (chim yến miền Nam), Hồ yến (chim yến xứ Hồ). Sách Đại Nam nhất thống chí dẫn Bản thảo cương mục đưa tên ất điểu (vì đường bay của chim), huyền điểu (vì màu sắc của lông), chí điểu, ý nhi, du ba, thiên nữ oa (3). Ngoài ra có những tên ít được dùng : yến oa, yến thái, quan yến, kim ty yến, gợi ý nhất là du hà ưu điểu (chim bay trên sóng nước) (ĐTL). Người Anh có những tên enso, swiftlet, có khi swallow (chim én) và người Pháp salangane, một danh từ thông dụng ở Manille (1). Chưa thấy chim nào có nhiều tên như thế. Ở Hang Trống hòn Ngoại thuộc tỉnh Khánh Hòa có bài thơ khắc trên vách đá : …Dịch tâm sào dựng tử Mỹ phú kiện nhân sinh. nghĩa là rút ruột nuôi con làm tổ, vừa làm cho con người khỏe mạnh vừa làm đep non sông (18). Không phải tình cờ mà vua Minh Mạng cho chạm hình chim yến, tổ yến và hai chữ yến oa vào Tuyên đỉnh trong Đại nội Huế, tượng trưng cho một sản phẩm của đất nước, một tấm gương cho dân gian. Chim yến - Ảnh Hoàng Duy, TTO Khắp miền Đông Nam Á, chim yến sống rải rác trong hang ở những hải đảo từ Trung Hoa qua Việt Nam xuống Nam Dương, Phi Luật Tân. Ở nước ta, ngoài vài đảo ở Thanh Hóa (Hòn Mê), Quảng Bình (Hòn La, Vùng Chùa), chim sống nhiều nhất suốt bờ biển từ Quảng Nam (Cù lao Chàm), Quảng Ngãi (mũi Sa Huỳnh), Bình Định (hòn Ông Căn, bán đảo Phước Mai, Cù lao Ré), Khánh Hòa (những hòn Đôi, Hố, Đun, Tre, Mun, Ngọc, Nội, Ngoại, Nhàn, Chà Là) qua Cù lao Thu (ngoài khơi Thuận Hải), hòn Bông Lau, hòn Côn Sơn, đến Kiên Giang (các hòn Nhạn, Rái, Thổ Chu, Nam Du, An Thái). Những hang có tiếng nhất là Hang Khô (Thương đảo), Hang Cả (Thiên đảo), Hang Tây (Tây đảo), Hang Vò vỏ (Ca đảo) (1). Ở những nơi chim yến có nhiều thì người ta lấy tên chim đặt cho chỗ đó như núi Mũi Yến là núi bán đảo Phước Mai, Yến Dư là mũi của Nhĩ Dư tức hòn Tai trong dãy Cù lao Chàm,… và gần Hội An có một làng mang tên Yến Xã hay Làng Én. Hòn Tre thật ra là một quần đảo gồm có 11 hòn, nơi cống hiến mỗi năm hơn hai tấn yến sào, nghĩa là hơn 80% tổng sản lượng toàn quốc. Công ty Yến sào Khánh Hòa quản lý vùng khai thác nầy hy vọng những năm tới số chim yến sẽ tăng gấp ba, gấp bốn thì sản lượng yến sào sẽ tăng lên chừng ấy. Chỉ có khoảng 30 loài chim yến nhưng cuộc phân loài và đặt tên không giản dị (21). Giản lược có thể chia họ chim yến Apodidae thành hai chi Chaeturinae và Apodinae. Chi Apodinae gồm có hai giống Apodini, còn gọi Collocalia (hay Collocalini) và Aerodramus (hay Aerodramini). Ở nước ta, những chim khảo sát ở miền Quảng Bình, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Khánh Hòa, Côn Đảo được phân biệt thành hai loại : chim yến núi C. brevirostris innominata Hume và chim yến hàng C. fuciphaga germani Oust. (13), cơ thể tương đối nhỏ hơn nhóm kia. Nếu chim yến núi đã đuợc thống nhất về mặt danh pháp, chim yến hàng còn có nhiều tên gọi khác nhau : C. francica, C. germani, C. inexpectata, C. fuciphaga. Chim yến núi C. brevirostris innominata mà tổ gồm có nước bọt và lông cơ thể, không ăn được, thật ra gồm có C. brevirostris innominata và C. brevirostris inopina tùy theo giò có lông hay không có lông. Còn chim yến hàng C. fuciphaga germani, tổ hoàn toàn bằng nước bọt, ăn được, thì được phân loài ra yến biến dị màu lông (thân, lưng, đỉnh đầu) và yến biến dị tổ (tổ có pha rác và phân, tổ yến máu) (13) Cấu tạo tổ yến Tổ chim yến - Ảnh Hoàng Duy, TTO Chim yến làm tổ trên các hóc đá hang động rộng lớn, có ít nhiều ánh sáng, có loại tìm chỗ yên tĩnh, có loại thích vách trơn, gió lộng, cheo leo giữa nơi có tiếng sóng vỗ rầm rập ngày đêm như thách thức khó khăn để thi thố tài năng của mình. Nhỏ con (8-12g), cánh dài, chim yến bay hằng ngày nhiều chục, có khi nhiều trăm, cây số để kiếm ăn. Người ta thường tin nó có khả năng bay xa đến 500 cây số. Nó đớp côn trùng bay trong khí quyển, thường ít ăn sâu bọ đậu trên cành cây, dưới đất. Chân mảnh nhưng nhờ có vuốt sắc, nó dễ bấu vào thành đá để làm tổ. Tổ làm sát nhau trong hang, vào mùa sinh nở, mỗi tổ một cặp, không khi nào chim lầm tổ. Nếu tổ bị người lấy mất, nó bỏ công làm lại một lần thứ hai, có khi một lần thứ ba nhưng hiếm có, dù sao tổ làm lại không tốt bằng tổ thứ nhất. Bên phần chim vận dụng nhiều mánh lới để xây tổ, người đi "hái yến" cũng cần phải lanh lợi, tháo vát, kiên nhẫn, dũng cảm. Lắm kẻ không thận trọng hay rủi ro gặp tai nạn đã rơi chết. Hàng trăm nấm mồ người "tử ư nghệ" ở các đảo Hòn Tre luôn còn đấy để chứng minh những nguy hiểm của nghề gỡ tổ chim yến. Nghe kể ở Chiêm địa trước kia, tức là các đảo từ Quảng Nam đến Khánh Hòa, có ông nuôi khỉ đi gỡ tỗ cho mình (1) . Thường người chuyên nghiệp dùng nhiều thang tre nối nhau, hoặc từ dưới dựng lên, hoặc từ trên thả xuống. Mỗi cử động tuy nhỏ nhưng bất thường có thể nguy cho tính mệnh người trèo và nhiều khi phá hỏng cả một loạt tổ. Đó là chưa nói dến những chim chóc khác lại phá tổ. Ảnh Hoàng Duy, TTO Thời kỳ gỡ tổ cũng rất quan trọng. Thường có hai mùa thu hoạch . Đợt thứ nhất mươi ngày sau khi chim đẻ, khoảng tháng tư, lấy cả tổ lẫn trứng. Chim phải làm lại tổ. Đợt thứ nhì, khoảng một, hai tháng sau, lần nầy chim mệt, tổ nhỏ hơn, khoảng một nửa hay hai phần ba tổ trước và chất lượng cũng kém hơn. Thường chỉ lấy tổ và đợi cho chim con bay đi để bảo tồn giống chim. Nếu ham lấy trứng thì chim có thể tiệt nòi. Lúc trước thỉnh thoảng thấy có đợt thứ ba, khoảng tháng bảy, nhưng lần nầy tổ vô cùng mảnh khảnh, đầy lông, có khi nhuốm máu vì chim qua cố gắng, kiệt lực vì vậy nay không còn mấy thực hiện. Tổ thu lượm về, dù ở đợt nào, cũng không hoàn toàn sạch để có thể dùng ngay. Trong tổ, ngoài chim chết, còn có rác, lông, phẩn, mảnh trứng cần phải thải ra, lần đầu tại chỗ, sau đó tại nhà, với những dụng cụ như kim, móc tre hay bằng kim loại, vận dụng cẩn thận để khỏi mất mát dù chút ít chất hàng quí báu vì mỗi tổ yến chỉ cân nặng 7-15g. Sau cùng ở nhà bếp, tổ yến thường được xử lý trong nước và đầu bếp phải rất khéo tay mới lấy ra được những mảnh lông bé tý con tồn tại. Một câu hỏi mà từ lâu nhiều người tò mò muốn biết là với vật liệu gì chim yến đã làm tổ. Sách vở Trung Quốc từ nhiều thế kỷ trước đã có đặt vấn đề. Sách Tùng tân bảo chim yến ở các biển Chương Tuyền, Duyên Hải bắt cá để làm tổ. Sách Mân tiểu ký rõ ràng hơn, xác định chim tô thịt cá lên hóc đá. Sách Nam Châu thì cho chim ăn cá rồi mửa ra những sợi dây làm tổ dự phòng ngày đông tháng rét. Bên nước ta, sách Tra phố tập vấn cũng nói đến chim dùng cá làm tổ, còn sách Lãnh Nam tạp ký lặp lại quan điểm phổ biến bên Nhật Bản kể chim ăn rêu meo, rong biển và chính những chất không tiêu đã được ựa ra. Sách Việt lục cũng có ý kiến tương tự : thức ăn của chim yến là rêu móc ở các hóc đá. Chi tiết lạ lùng nhất nhưng cũng dẫn đường đến một kiến thức mới được trích từ cuốn Tuyền Nam tạp chí xuất bản thời Vạn Lịch nhà Minh : chim ăn ốc sò mà các loại nầy mang trên lưng vỏ những gân cứng có đặc điểm bổ dưỡng, tăng lực, chống lao. Những gân nầy lại khó tiêu và chim mửa ra trộn lẫn với nước bọt để làm tổ. Sách Quảng Đông tôn ngữ nói chim yến mổ ăn loại thạch phần ở bờ biển rồi mửa ra làm tổ (3). Những nhận định nầy được các du khách đem từ Viễn Đông về châu Âu và được các nhà vạn vật học để ý. Người nói đến đầu tiên là một bác sĩ người Hòa Lan, Jacques Bontius, sống ở Batavia vào giữa thế kỷ 17. Theo ông, chim yến đã lấy chất dẻo từ bọt biển, có thể là mỡ cá nhà táng hay trứng cá mà làm tổ. Trứng cá cũng là quan điểm của ông Pierre Poivre, một người Pháp miền Lyon. Bác sĩ Georges-Everard Rumpf tức Rumphius, một nhà thực vật học người Đức, thì cho chim đã ăn một loại cây mềm, dẻo, vừa trắng, vừa đỏ ở bờ biển và tổ được cấu tạo với chất ngoại tiết. Đấy cũng là ý kiến sau nầy của Thomas Stamford Raffles, nguyên Thống đốc Mã Lai và cũng là một nhà vạn vật học người Anh. Theo Engelbert Kaempfer, một bác sĩ vừa là một nhà vạn vật học khác người Đức, thì tổ yến gồm có những tàn tích của một con mực phủ đã được chim chế biến. Vào những thế kỷ 17, 18, các nhà truyền giáo đi lại ngang dọc châu Á cũng lượm lặt nhiều nhận xét trong dân gian. Cha Cristofoto Borri, người Ý, tả chim yến tương tự như con chim nhạn arondelle (có lẽ vì vậy sau nầy có tên hirondelle cho chim én và chim yến) và cho tổ yến là một chất lấy từ bọt biển trộn với thủy dịch ở dạ dày. Theo cố Alexandre de Rhodes, người có công nhiều cho chữ quốc ngữ ta, thì chim yến đã hút nhựa cây trầm hương hòa với bọt biển để làm tổ. Cuối thế kỷ 18, cha Richard, người Pháp, cũng lặp lại ấy trong cuốn Histoire civile et politique du Tonkin : ông giải thích bọt biển và nhựa trầm hương trộn lẫn với nhau, khô cứng thì biến ra một chất trong suốt, trắng khi còn tươi, trở thành vàng xanh khi khô hơn. Ông đồng ý với các giáo sĩ dòng Tên, những người đã xem xét cặn kẽ tổ chim, là nhựa trầm hương đã chuyển qua tổ yến những tính chất cùng khẩu vị ngon lành, mùi vị êm dịu. Qua thế kỷ 19, lý giải thức ăn của chim có phần thay đổi trong kiến thức các học giả. R.P. Lesson lặp lại nhận xét của Wurmb đã khảo sát ở Java, nhất trí là chim ăn sâu bọ, côn trùng, nhưng khi cần làm tổ thì lượm lặt vật liệu trên mặt biển rồi vận dụng nội tạng thanh lọc, trộn nhào với với nước nhầy thành một chất dẻo. Home là người đầu tiên giải phẩu cơ thể chim yến nhưng rủi ro đi đến kết luận sai là những tuyến bao tử đã cho phát tiết chất dẻo. Bernstein nhận thấy những tuyến dưới lưỡi phát triển phồng to nhanh chóng và phát hiện chúng có khả năng phát tiết một thứ nước nhầy để khô giống hệt vật liệu tổ chim. Ông tả cách làm tổ của chim rất tường tận. Các tuyến cho dồn vào phần trước mỏ chim chất nhầy vừa nhớt vừa chảy thành dây. Khi muốn xây tổ, chim lấy đầu lưỡi cho rải vào hốc đá đã chọn một lớp nước bọt, lặp đi lặp lại mươi, hai mươi lần, vẽ thành một hình móng ngựa. Chất nhầy khô rất mau. Trong lúc vận dụng quanh tổ, thế nào cũng có một vài sợi lông dính vào. Các tuyến phồng lớn gây ít nhiều kích thích và chim vừa ép vừa cọ để dốc hết chất nhầy ra ngoài. Nếu có thương tổn, vài giọt máu trộn vào nước bọt nhuộm đỏ tổ chim (1) . Thành phần tổ yến Tuy nước bọt là nguyên liệu chính của tổ chim, thức ăn của chim cũng rất quan trọng trong chất lượng của tổ. Rong tảo như Alga coralloides, Fucus edulis, Gelidium đã được Rumph rồi Dorvault nhắc đến. Tuy vậy, nhận xét không có vật liệu thực vật trong tổ đã được nhiều nhà khảo cứu xác nhận. Mudler phân tích ra được 90% vật liệu động vật. Tollens, nhân khảo sát những carbohydrat, phát hiện một chất đường kết tinh được, lên men được, rất giống glucose mà Green đã thành công chiết xuất. Payen cho chất nầy là cubilose (từ cubile có nghĩa là tổ), một chất albuminoid trung hòa phát tiết trong thời gian tình ái, phân phối không đồng đều trong các tổ. Người ta chỉ thấy nó có nhiều hơn trong các tổ trắng và chắc chắn nó không phải mượn từ rong tảo vì có tính chất hoàn toàn khác với gelose là chất dẻo thực vật. Ngày nay, khảo sát tuờng tận tổ chim yến, các nhà vạn vật học nhận ra một hệ thống chằng chịt những dây sợi tương tự như một chất dẻo đóng cứng sắp đặt thành từng lớp mỏng đồng tâm có thể tách rời khi để ngâm lâu. Những sợi dây nầy chính là nước bọt của chim đóng cứng. Màu sắc của nó trăng trắng, nhưng thường thì ít nhiều nhuộm màu vàng lạt thêm chút màu sắt rỉ. Loại "chim yến tổ trắng" Aerodramus fuciphagus germani sống ven miền biển Việt Nam làm tổ từ cuối đông đến suốt mùa xuân, đẻ trứng giữa tháng 3 và tháng 5 trong một thời gian 10-15 ngày và ấp trứng trên dưới 25 ngày, trung bình 2 trứng một tổ (15). Khi tổ và trứng bị lấy mất thì nó lại làm lại tổ một lần thứ nhì. Lần nầy người ta để chim nở ra trước khi lấy tổ. Một bản báo cáo công bố khảo cứu được thực hiện ở vùng Khánh Hòa trên một nửa triệu chim cho biết nặng 7-10g, dài 9-10cm, con cái to hơn con đực, chim thường bay kiếm thức ăn cách hang tổ chừng 200 km, ở cao độ 800 m, trừ mùa nuôi chim con thì không xa quá 80 km, có khi ở cao độ 50 m và ngay ở bầu trời trên hang tổ. Để khảo sát thức ăn của chim, có hai phương cách : một đằng là mổ bụng chim, đằng kia tìm kiếm trong tổ những đồ chim đã mang về cho con trong cái bọc dưới lưỡi. Chim chỉ bắt ăn côn trùng khi đang bay, có khi sát bụi để bắt nhện chẳng hạn trong mạng, nhiều nhất là những sâu bọ cánh màng Hymenoptere (trừ thời gian mối bay có nhiều), ít hơn là sâu bọ hai cánh Diptere, cùng một số sâu bọ lặt vặt khác như sâu bọ cánh giống Homoptere hay sâu bọ cánh đều Isoptere. Số sâu bọ nầy có phần lớn trong thức ăn đem về cho con, 2 lần mỗi ngày, tỷ lệ khác nhau tùy mùa, số lượng (0,3-1g) tùy tuổi chim con. Nhận xét nầy cho thấy chim yến biết chọn lựa côn trùng bắt ăn. Mặt khác, một con trong tổ thì ăn nhiều hơn hai con (3-4 lần mỗi ngày) từ đấy lớn lên mau hơn và cũng ít chết hơn. Khảo sát một số ít "chim yến tổ đen" A. maximus cũng ở Khánh Hòa cho thấy nó ăn sâu bọ cánh màng nhiều hơn, thêm nữa vì lớn con hơn , nó bắt những mồi lớn hơn như ong hoang, kiến bay. Có loại chim én Hirundo rustica thì chỉ săn mồi dưới cao độ 30 m, gần mặt nước ao, hồ, đồng ruộng… (22). Mặc dầu là một món ăn bổ dưỡng quý báu biết đã lâu ngày, cuộc khảo cứu sâu xa thành phần tổ yến chỉ được thực hiện những năm gần đây. Phần hữu cơ gốm có 45% protein và 24% carbohydrat kể cả các chất đường (11). Dùng nước chiết xuất, ly tâm rồi cho đông khô thì được 10 amin acid và, sau khi cho tác dụng với HCl, hexoamin cùng đường : những glycoprotein có tính chất ức chế cuộc chế tạo cuộc kết dính máu do myxovirus gây ra và cũng là một chất nền cho enzym mang tên neuromidase (2,4). Đem glycoprotein nầy cho cảm ứng vào Anthrobacter sialophilum nuôi trồng thì sản xuất được neuromidase (7). Dùng phưong pháp điện chuyển thanh lọc glycoprotein, một công trình khảo cứu khác cặn kẽ hơn phát hiện được 17 amin acid, theo thứ tự nhiều ít : (30,4 - 0,4 microM/100g) serin, prolin, glutamic acid, threonin, aspartic acid, valine, glycin, leucin, arginin, alanin, phenylalanin, isoleucin, lysin, tyrosin, histidin, ½ cystein, methionin (4,6). Phần glucidic gồm có galactose, mannose, glucosamin, galactosamin và sialic acid. Acid nầy hoàn toàn được phóng thích khi xử lý với neuromidase của Clostridium perfringens hay Diplococcus pneumoniae (6). Đem thanh lọc phần nước chiết tổ chim C. fuciphaga ở Mã lai qua Sephadex thì xác định được một trọng lượng phân tử khoảng 100.000 – 500.000, gồm có 18,5% saccharid và 45% protein. Xử lý với H2SO4, saccharid tách ra (%) fucose, mannose (8,9) và galactose (63,7). Xử lý với HCl, một số amin acid đã được xác định, nhiều nhất là (%) : aspartic acid (11,7), serin (10,7), valin (10,2) và threonin (10,1)(8). Trước đây, tác giả nầy dùng NaI cắt đường đã đạt được 24% agarose và 76% agaropectin (5). Trong khoảng 20 năm gần đây, nhiều nhà khảo cứu muốn biết cặn kẽ hơn các oligosaccharid, đặc biệt những liên kết O và N-glycosidic của glycoprotein nước bọt chim yến, một nguồn vật liệu giàu carbohydrat (12). Dùng phương pháp sắc phân đông băng, họ tìm ra những cấu chất của phần carbohydrat (ít nhất cũng 35% trọng lượng) trong chất dẻo sialomucin là L-fucose, N-acetylneuraminic acid, galactose, mannose, N-aceyl galactosamin và N-acetyl glucosamin theo tỷ lệ 1:17:29:3:17:13. Những liên kết O và N-glycosidic giống hệt với các cấu tạo ở glycophorin của bò, mucin cuốn phổi và mucin dạ dày của người hay của chó, ngựa, cừu, globulin miễn dịch của người hay k-casein của sữa non (9,14). Nhận thấy yến sào thường được dùng vào các thang thuốc chống khối u dạ dày, nôn mửa ra máu, suy nhược hay bồi dưỡng cho con trẻ gầy gò ốm yếu, nhiều nhà khảo cứu chú trọng về nhân tố sinh trưởng biểu bì EGF (Epidermal Growth Factor). Là một peptid có trọng lượng phân tử khoảng 6.000-8.000, EGF kích thích việc tăng sinh các mô, tế bào biểu bì và biểu mô, kích thích thymidin và những amin acid sáp nhập những nguyên bào sợi tơ con người gây sinh cuộc phân chia tế bào. EGF đã đuợc tìm ra trong nhiều mô động vật như chó, mèo, khỉ, bò, cừu, chồn, thỏ, heo, chuột gà, ếch, nhái, ở đây các tác giả chứng minh có EGF ở chim chóc, từ đấy lần đầu tiên tin là có thể dự kiến hợp lý việc dùng tổ chim yến làm thuốc chữa bệnh (11). Glycoprotein yến sào còn có khả năng tăng cường cuộc kích thích phân bào ở bạch cầu máu ngoại vi với concanavalin A hay phytohemaglotinin A. Như vậy, yến sào có thể tác động lên nhiều yếu tố sinh lý học để trở thành một môn thuốc hiệu nghiệm (10). Tuy vậy, cũng nên biết trong yến sào còn có một chất ức chế serin protease có thể gây phân vệ nơi con trẻ đưa đến dị ứng (20). Công dụng yến sào Yến sào được dùng trong nhiều thang thuốc. Theo tục truyền, tính chất quý của nó là kích dục, vì vậy một số đông người Trung Quốc dùng nó trong mục đích nầy. Ở bên nước ấy, những người hút thuốc phiện ăn nó buổi sáng để lấy lại sức. Họ tin là yến sào củng cố lưu thông, nuôi dưỡng huyết tương, làm ẩm bộ máy hô hấp cũng như da thịt, tiếp tế năng lực đời sống, bồi dưỡng sức khỏe, giúp ích chuyển hóa, hấp thu thức ăn của cơ thể. Tụ kết khí âm dương trong vũ trụ mà thành, được gọi là tâm dịch, huyền tương, ngọc dịch, nó có tác dụng điều hòa khí huyết, bồi bổ lục phủ ngũ tạng, tăng dinh dưỡng toàn diện cơ thể, làm cho trí não minh mẫn, thân thể cường tráng, mặt sáng, tai thông,…thật là một vị thuốc cải lão hoàn đồng, hồi xuân cường lực (18). Thật vậy, trong Bản thảo cương mục thập di (1765) đã có ghi tính chất của yến sào là vị ngọt, tính bình, vào hai kinh phế và vị. Tác dụng của nó là nuôi phế âm, tiêu đờm, hết ho, nên thường dùng chữa hư hao, ho lao, hen suyển, thổ huyết, sốt từng cơn (ĐTL). Sách Đạt nguyên giải thích tổ yến là hải phẩn từ khí trong và gió mát mà ra : như vậy nó tăng cường kim tương ứng với phế và thủy liên hệ với thận. Những sách Hứa cẩn trai, Tùng tân, Việt lục đều có nêu lên những đức tính ấy của tổ yến. Những sách Hương tổ bút, Hoàn du bút ký nhấn mạnh về những tổ chim đỏ, yến huyết sào, vì có máu của chim, rất hiếm. Ngày nay còn lại nhiều thang thuốc bổ duỡng như Truyền thi lao trái hoàn : yến huyết sào (5 lượng), tử hà xa (tức là nhau người, 2 cái), ngưu hoàng (sỏi mật bò, 1 lượng) và cáp giới (thằn lằn bay, 2 con) nghiền thành bột rồi trộn với mật ong, nhồi thành viên lớn cỡ hạt sen, ăn mỗi tối 20 viên trong luông 10 ngày (1). Người ta còn bảo yến sào có tính chất chống già, gia hạn đời sống. Những nhà hàng Hồng Kông quảng cáo nó có khả năng chữa bệnh lao phổi, ung thư, SIDA và giúp bệnh nhân đã được chữa bằng bức xạ mau phục hồi (16). Bên nước ta, yến sào thường được dùng dưới dạng thuốc sắc, 6-12g mỗi ngày : cho vào túi vải, thêm nước đun sôi, để lắng mà uống (ĐTL). Nhưng chim yến không chỉ có thành phần cấu tạo tổ là quý. Bên cạnh còn có những tạp chất cũng được dùng làm thuốc. Yến nhục thảo là mốc meo mọc trong tổ bị ẩm ướt. Lương y Tàng Khí trong sách Trung Việt dược kê nó có khả năng ngừa đái ban đêm. Lương y Lý Thời Trân dùng nó trong thang thuốc Thiên kim phương để chữa chứng đái đường. Yến phẩn, tức là cứt chim, có tính chất giải độc. Người ta nghiền nó với hành thành viên to bằng hột bắp, uống mỗi ngày 3 viên, gây ra bài tiết nước tiểu đưa luôn chất độc ra ngoài. Sào yến nội tử là chim yến chết trong tổ, có đặc tính chữa ho lao, phổi kiệt. Xác chim sạch lông được đốt với tổ rồi nghiền thành viên để dùng (1). Tuy được dùng làm thuốc, độc đáo của tổ yến vẫn là món ăn. Điều cần thiết trước tiên là phải thanh lọc tổ. Như trên đã thấy, dùng kim, móc đãi rác, phẩn lông chưa đủ ; ở nhà bếp thường phải ngâm nó trong một thể tích nước lớn gấp mười thể tích tổ, khoảng một, hai tiếng đồng hồ cho đến khi sợi yến tơi ra. Thời gian nầy phụ thuộc độ keo dính của sợi, từ đấy chỉ định luôn chất lượng của tổ. Sau đấy phải nhào trộn sợi yến với dầu phụng để tách những lông tơ cuối cùng, rồi dùng nước rửa nhiều lần dầu ấy. Nếu cần, phải lặp lại nhiều lần cách rửa nầy. Khi đã sạch hết lông, yến sào mới được đem đi nấu ăn. Có nhiều cách ăn yến sào, phần lớn món nào cũng nấu chưng cách thủy. Người ta thường nấu cháo yến với thịt gà hay thịt bò. Có thể nấu bồ câu non với yến sào gọi là bì câu tân yến sào : bồ câu phải hầm chín rồi mới cho thêm tiêu, muối, gia vị và yến sào, mỗi con chim một tô. Ai thích ăn ngọt thì nấu chè yến : cứ 750 ml nước bỏ vào hai tổ yến, nếu có nên dùng đường phèn. Cũng có thể nấu chè yến với hột sen : cứ một tổ dùng khoảng 30 hột sen, đường cân bằng nửa hột sen, nước thể tích bằng 7-8 lần hột sen. Một chất thuốc độc đáo, một món ăn ngon bổ như vậy, tất nhiên yến sào là một món hàng quý báu, đắt tiền. Từ xưa, trong sách vở Trung Quốc, người ta đã xếp yến sào tùy theo màu của tổ : đen, trắng và đỏ. Cả ba đều ăn được nhưng tổ trắng quý hơn tổ đen, tổ đỏ còn quý hơn thì dành để làm thuốc. Cả một thời, yến sào Hội An đã nổi tiếng không những ở nước ta mà còn qua cả Trung Quốc là nơi tiêu thụ nhiều. Nó được xếp làm ba hạng : quan yến sào, hay quan tự yến sào tức là tổ yến quan, màu trắng ngà, dày, lớn, hạng nhất ; thiên tự yến sào tức là tổ yến trời, màu xanh da trời, ít dày hơn, hạng nhì ; địa tự yến sào tức là tổ yến đất, màu vàng hay đen, mỏng và nhỏ hơn, hạng ba. Thường người ta cho tổ gỡ lúc chim còn ở, quý hơn tổ trống vì các tổ nầy đã nhuốm màu vàng lại thêm chứa đựng đủ thứ tạp chất như rác, lông, phẩn,… Ngoài ra còn có các loại bài tự yến sào hay yến bài là tổ chưa làm xong, mao yến là tổ vừa mới làm xong và yến huyết sào là tổ có tẩm máu vì, như đã thấy, được chim làm vào lúc vô cùng mệt mỏi, phải nổ lực đến quỵ sức. Loại tổ sau nầy hiếm nên được cho là có giá trị, nhất là người ta tin chúng có những đức tính y học như chữa bệnh lao phổi và những chứng suy sút tinh thần (1). Trên thế giới ngày nay, nhiều nước tiêu thụ và nhập cảng yến sào ; năm 1991 : (kg), Canada (395), Đài Loan (2.095), Nhật Bản (2.811) và chiếm kỷ lục là Hồng Kông (124.093). Nơi vừa nhập cảng vừa xuất cảng, Hồng Kông là ngã ba thị trường. Trong khoảng 30 năm, số nhập cảng đã tăng 30 lần và năm 1988 đạt mức tối cao 161.000 kg. Tính số tổ thì Hồng Kông nhập cảng 19,9 triệu cái năm 1989, sụt xuống 18,7 triệu năm 1990 và chỉ còn 17,5 triệu năm 1991. Những con số nầy xem gần như là số hàng lưu động toàn thế giới, ngoại trừ số tiêu thụ nội địa. Giá tiền mua thay đổi tùy xứ, lẽ tất nhiên phụ thuộc chất lượng tố yến, chẳng hạn như giá yến của các nước tại Hồng Kông năm 1991 : (USD/kg) Mã Lai (216,77), Tân Gia Ba (224,14), Thái Lan (472,39), Nam Dương (573,88), Miến Điện (A1.010,18) và đắt nhất là Việt Nam (1.333 ,04) vì yến nước ta được xem thuộc loại "trắng", hảo hạng. Giá yến ngày càng tăng vì ở nhiều nước sản xuất, chim dần dần bị tiệt nòi : tăng gấp 20 lần từ 1975 đến 1991 và trong những năm gần đây ước lượng tăng gấp 10 lần chỉ số lạm phát (16). Vào đầu thế kỷ 21, giá mỗi kilô đã đạt đến 5000 USD. Vài con số, tuy tương đối cũ, cũng nói lên phần nào thị trường quan trọng của yến sào và đánh một tiếng chuông báo động cho nòi giống chim yến. Liệu rồi những "trại nuôi chim yến bán thuần dưỡng" đặc biệt ở Pak Phanang bên Thái Lan, có bù đắp được gì không ? Và Quy ước Thương mãi về những loài Động vật và Thực vật Hoang dã (Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora CITES) sẽ bảo vệ được phần nào chim yến ? Nhu cầu tăng nhiều, tổ chim ít lại, giá cả mặc sức leo thang. Chính những nhà buôn bán yến sào cũng muốn có một cuộc hợp tác quốc tế để bảo đảm một mức độ thương mãi vừa phải hòng tồn tại lâu dài một nguồn lợi thiên nhiên quý báu. Đằng khác, những người sinh sống nhờ yến sào, những người vui thú thưởng thức hương vị tô cháo, chén chè tổ yến, có nghĩ đến chăng khi người "hái yến" lại gỡ tổ, cướp bóc tàn phá hang yến là gây khổ đau cho những sinh vật sống chung thủy hiếm có với nhau trong tình nghĩa vợ chồng giữa thiên nhiên, suốt đời tận tụy làm tổ nuôi con, không hề lại gây phiền hà, phá phách, tuyên chiến với con người ? "… nếu một trong hai vợ chồng chết trước thì con chim còn lại không bao giờ đi tìm một bạn tình khác, nó cứ sống vậy cho đến khi lìa bỏ cõi đời hoặc lao đầu vào vách đá chết cùng nhau. Trong bầy đàn yến không bao giờ bay vượt lên đầu những con khác và yến chỉ có duy nhất một quê hương. Dù có đưa yến đi bất cứ đâu xa ngàn trùng cuối cùng nó cũng quay về nơi cũ. Đấy mới là điều làm chúng ta cảm phục và trân trọng" (17). Cuốn phim tài liệu "Yến và người" của nhà đạo diễn Văn Lê đã đề cao những đức tính của chim yến cần phải được phổ biến, xem như là góp phần vào việc giáo dục con người. Trích Thông tin Khoa học và Công nghệ 3(21) (1998) 112-120 Có bổ túc tài liệu. Tham khảo (ĐTL) - Đỗ tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội (1986) 944 1- A. Sallet, Les nids d’hirondelles, Bull. Amis Vieux Hué (1) 17 (1930) 1-79 2- C. Howe, L.T. Lee, H.M. Rose, Collocalia mucoid : a substrate for myxovirus neuraminidase, , Arc. Biochem. Biophys. 95 (1961) 512-20 3- Đại Nam nhất thống chí Thừa Thiên Phủ, dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, tập hạ (12) (1962) 83 4- R.H. Kathan, D.I. Weeks, Structure studies of Collocalia mucoid. I. Carbohydrate and amino acid composition, Arc. Biochem. Biophys. 134 (1969) 572-6 5- M. Oda, Biochemical studies on mucilages. I. Separation and chemical characteristics of enso, Nagasaki Igakkai Zasshi (4) 48 (1973) 233-40 6- N. Houdret, M. Lhermitte, P. Degand, P. Roussel, Purification et étude chimique d’une glycoproteine de Collocalia, Bioch.57 (1975) 603-8 7- M. Flashner, S.W. Tanenbaum, Neuraminidase, Ger. Offen. US. 2,651,200 (1978) 26 tr. 8- M. Oda, Saccharides and amino acids of the mucoid in an edible bird’s nest, Nippon Shokuhin Kogyo Gakkaishi (4) 30 (1983) 221-7 9- F.G. Hanish, G. Uhlenbruck, Structural studies on O-and N-glycosidicaly linked carbohydrate chains on Collocalia mucin, Hoppe-Seyler’s Z. Physio. Chem. 365 (1984) 119-28 10- M.H. NG, K.H. Chan, Y.C. Kong, Potentiation of mitogenic response by extracts of the swiftlet’s (Collocalia) nest, Biochem. Int. (3) 13 (1966) 521-31 11- Y.C. Kong, W.M. Keung, T.T. Yip, K.M. Ko, S.W. Tsao, M.H. Ng, Evidence that epidermal growth factor is present in swiftlet’s (Collocalia) nest, Comp. Biochem. Physiol. (2) 87B (1987) 221-6 12- J.M. Wieruszeski, J.C. Michalski, J. Montreuil, G. Strecker, Structure of the monosialyl oligosaccharides derived from salivary gland mucin glycopreteins of the Chinese swiftlet (genus Collocalia), J. Biol. Chem.(14) 262 (1987) 6650-7 13- Nguyễn Quang Phách, Về giống Collocalia (Apodidae) ở Việt Nam, Tạp chí Sinh học (10) (1991) 33-6 14- G. Strecker, J.M. Wieruszeski, O. Cuvillier, J.C. Michalski, J. Montreuil, 1H and 13C-NMR assignements for sialyated oligosaccharide-alditols related to mucins. Study of thirteen components from hen ovomicin and swallow nest mucin, Biochem.74 (1992) 39-52 15- Nguyen Quang Phach, The breeding biology of the edible-nest swiftlet Collocalia fuciphaga germani Oustalet 1878 in Viêtnam, L’oiseau et R.F.O. (2) 62 (1992) 149-61 16- S.M. Lau, D.S. Melville, International trade in swiftlet nests with special reference to Hong Kong, Traffic International, A traffic network report (1994) 35 tr. 17- Thanh Huyền, Yến và người, Điện ảnh Kịch trường 49 (1997) 13 18- Vũ Hữu Sự, Yến sào - Nghề và nghiệp trong Chuyện đời thường mà không thường, nxb Công an nhân dân, Hà Nội (1998) 210-7 19- M. Oda, S. Ohta, T. Suga, T. Aoki, Study on food components : the structure of N-linked asialo carbohydrate from the edible bird’s nest built by Collocalia fuciphaga, J. Agric. Food Chem. (8) 46 (1998) 3047-53 20- K. Ou, T.K. Seow, R.C.M.Y. Liang, B.W. Bee, D.L.M. Goh, K.Y. Chua, M.C.M. Chung, Identification of a serine protesase inhibitor homologue in bird’s nest by an integrated proteomics approch, Electrophoresis (16) 22 (2001) 3589-95 21- Nguyen Quang Phach, Vo Quang Yen, J.F. Voisin, The white-nest swiftlet and the black-nest swiftlet, Ed. Boubée, Paris (2002) 297 tr. 22- J.F. Voisin, Vo Quang Yen, Nguyen Quang Phach, L’alimentation de la salangane à nid blanc Aerodramus fuciphagus germani au Viêt Nam, 28ème Colloque francophone d’ornithologie, Namur 28-30 nov. 2003.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 4:49:10 GMT 9
Chim yến tổ trắng và chim yến tổ đen (*)Võ Quang Yến Điểm sách Giới thiệu một cuốn sách về chim yến: Chim yến tổ trắng và chim yến tổ đen Cuốn sách nầy ra đời từ một cuộc hợp tác giữa Ts Nguyễn Quang Phách lúc còn phục vụ ở Viện Biển Nha Trang, nguời chịu trách nhiệm khoa học ở Công ty Yến sào Khánh Hoà, và Ts Jean François Voisin, Giảng sư ở Phân khoa Chim chóc thuộc Viện Quốc gia Vạn vật học Paris. Tôi còn nhớ một hôm chị Cao Phương Dung, cán bộ nghiên cứu ở Viện Biển Nha Trang, lúc ấy đi thực tập ở Viện Hóa học các Chất Thiên nhiên tại Gif-sur-Yvette, nhân lại thăm vợ chồng chúng tôi, hỏi tôi có biết ai ở Pháp khảo cứu về chim chóc, đặc biệt về chim yến để hợp tác làm việc. Tôi không ở trong ngành nên chẳng biết ai, tuy vậy tôi cũng chịu khó lên hỏi ở Viện Quốc gia Vạn vật học Paris. Ông Voisin ân cần tiếp tôi rồi dẫn tôi đến thư viện của Phân khoa tìm kiếm. Qua nhiều bài báo, chúng tôi luôn thấy dính liền với chim yến một tên Nguyễn Quang Phách, người đã khởi xướng một chương trình khảo cứu từ năm 1981 và cũng đã bảo vệ một luận án về chim yến tổ trắng Collocalia fuciphaga germani ở Hà Nội năm 1993. Tôi tức khắc gọi điện thoại cho chị Dung, bảo chuyên gia về chim yến có ngay bên Việt Nam, khỏi cần tìm kiếm đâu ở bên Pháp xa xăm. Chị Dung cười trả lời : Anh Phách là chồng em đó ! Ở bên ta, đàn bà khi lấy chồng vẫn giữ tên con gái nên khó đoán biêt. Thế là sau đó tôi đưa chị đi thăm ông Voisin, đem theo làm quà biếu một tổ yến sào nhỏ, vàng, quí báu mà cả ông Voisin lẫn tôi chưa bao giờ thấy. Ông Voisin không chuyên về chim yến nhưng sẵn sàng cộng tác. Ông tranh thủ với Viện Quốc gia Vạn vật học gởi ông đi về Nha Trang nhiều lần cùng khảo sát với anh Phách. Công trình khảo cứu của anh Phách đã đồ sộ, thêm vào tài liệu chung thu lượm được trong những chuyến về Việt Nam của ông Voisin, lẽ tất nhiên một cuốn sách gom góp những kết quả đã đạt trong hơn 20 năm cần phải được ra đời. Chính trong thời gian dự thảo cuốn sách mà ông Voisin mời tôi tham dự về mặt hóa học vì nói đến chim yến thì phải biết về tổ yến mà hiểu cách làm tổ chưa đủ, còn cần phải biết thành phần cấu tạo của nó. Thành thử, không phải chuyên gia về chim chóc, tôi được vinh hạnh ký tên vào một cuốn sách về chim yến. Báo chí trong ngành chim chóc đã có đánh giá về cuốn sách nầy. Trước hết là có sự ngạc nhiên một nhà xuất bản Pháp cho ra một cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu toàn bộ bằng tiếng Anh có tầm cỡ quốc tế trên một loài chim rất độc đáo. Đây là một dịp để các tác giả tổng hợp tất cả những bài báo hiếm có đến nay đã được đăng trên cùng đề tài. Vì ít được khảo cứu ở các nước khác, những tài liệu đưa ra phần lớn là từ Việt Nam, nơi có nhiều chim yến tổ trắng hơn chim yến tổ đen. Ngoài một cuốn sách về chim ở Borneo, cuốn sách nầy là độc nhất bàn cải về chim yến (J.M.T., Alauda 3 71 2003). Đây là một cuốn sách bao trùm mọi khía cạnh về sinh vật học và dân số động lực học của một loài chim quý báu cống hiến yến hàng vừa là một món ăn bổ ích, vừa là một môn thuốc thần diệu : chỗ xây tổ trong hóc thường ở các đảo ngoài biển, chỗ kiếm mồi trên đất liền bắt chim hằng ngày phải bay hằng trăm cây số, phương cách xây tổ, chế độ thức ăn cho chim con và chim lớn nói lên một sự chọn lựa chưa thấu hiểu, sự sinh trưởng từ chim con đến khi sinh sản, chết chóc,…Tất cả các chi tiết đều được trình bày tỷ mỷ, cặn kẽ. Những nhận xét và kết quả trên thực địa đều được đem so sánh với những tài liệu trong sách vở, trước khi chỉ định một vị trí cho những chim yến Việt Nam trong khuôn khổ Bộ Chim én Apodiforme (Chr. Jouanin, Revue d’Ecologie 2 58 2003). Sách đã được viết với những kết quả khảo cứu tường tận. Những chương về tiến hóa, phân loại, hình thái hang hóc, cấu tạo tổ yến, lịch sử thương mãi không những chỉ dựa lên thực tế mà còn nêu ra nhiều phát hiện. Như nhiều nhà khảo cứu khác về hệ thống chim, các tác giả không chống lại được cám dỗ đề nghị quan điểm của mình tất nhiên có nhiều khác biệt với phép phân loại ở những công tác khác (Phil Chantler, Oriental Bird Club Bull. 37 2003). Thị trường tổ yến ngày nay được tổ chức quanh Hồng Kông trên hơn 170 tấn tương đương với hai triệu tổ. Không trực tiếp nuôi được chim yến, người ta chỉ biết soạn sửa cho chúng phát triển đều đặn vì khi ta lấy tổ thì chim mất dịp đẻ trứng, nuôi con và sinh trưởng. Một cuốn sách khảo cứu loại nầy rất cần thiết để hiểu biết thêm về chim yến từ đấy hiệu chính cách bảo vệ chúng, tất là bảo vệ môi trường đồng thời bảo đảm nền thương mãi một nguồn lợi thiên nhiên quý báu. (*)The White-Nest Swiftlet and the Black-Nest Swiftlet A Monograph, with Special Reference to Vietnamese Populations Phach NGUYEN QUANG, Yen VO QUANG và Jean-François VOISIN NXB N. Boubée, 9 rue de Savoie, 75006 Paris (2002), 297 trang, ISBN : 2-85004-103-3
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 3:40:31 GMT 9
Món Cá quê hương Vietsciences-Nguyễn Ý-Đức Ngày xưa, những món cá quê hương lưới bắt bắt được từ đầm, ao, sông lạch của quê hương ta rất nhiều mà cũng rất hấp dẫn. Cá kho nhừ trong nồi đất, chả cá Lã Vọng, Sơn Hải, cá nấu giấm, nấu canh chua, lẩu cá, gỏi cá lá mơ, cá lẩu, cá rút xương, canh chua, cá kho tộ ...là những món ăn đặc biệt ngon lành, bổ dưỡng, dễ tiêu mà giá cả phải chăng. Hiếm hoi hơn còn có các món cá chình, cá anh vũ , cá song, cá măng, bông lau, cá vượt... Ngày nay, người ta còn chế ra nhiều món ăn từ cá rất hấp dẫn, nhưng đôi khi chỉ hợp khẩu vị một số người... “ Có cá đổ vạ cho cơm”, các cụ ta vẫn thường nói vậy vì với món cá ngon, cơm ăn bao nhiêu cũng hết, nhất là với gạo tám xoan Hải Hậu thơm phức hoặc gạo ba giăng tháng 10 mềm dẻo. Miền Nam có cá lóc chà bông, cá chạch kho nghệ, cá chẽm chưng tương hột hoặc chiên giòn, cá chốt kho, cá bống sao kho sả ớt, cá bống dừa Gò Công kho tiêu... Miệt sông rạch Gò Công, Tiền Giang có loại cá bống dừa, sống trong rừng dừa nước, to bằng cổ tay, thịt dẻo và ngọt. Cá này mà kho sả ớt, kho tiêu, nấu canh với lá bồ ngót, mướp hương thì ăn một lần cầm chắc khó quên. Cũng họ cá bống, còn cá bống mú, bống vượng, bống cát, bống trứng, bống xèo, bống nhẩy cũng đều rất ngon. Món bún cá lóc đồng Kiên Giang rất nổi tiếng. Đặc sản miền Trung như cá sứt mũi sông Chu Bái Thượng nấu với dưa cải sen núi Mục hoặc canh chua thập cẩm với cúc tần, cần trắng, cà chua, khế, tiêu; cá chép gói lá chuối lùi trấu nóng; cá chép nấu hoa cúc đại; cá ngứa chiên giòn; cá vượt nấu canh chua... Cố đô Huế còn nổi tiếng với năm món canh cá: thác lác nấu hành lá, rau mùi; cá thệ nấu dứa; cá ngạnh nấu măng chua; cá tràu nấu với mít và cá lúi nấu khế; cá sứt mũi sông Chu nấu canh chua với dưa cải sen núi Mục của miền Trung. Miền Bắc cũng có nhiều món cá như hai miền kia nhưng nổi tiếng là cá rô Đầm Sét ở ngoại thành Hà Nội rán chìm trong mỡ; cá chắm đen kho ngũ vị, gừng ở Nam Định; cháo cá quả Hà Nội. Cá rô Đầm Sét đã đi vào văn hóa dân gian với câu: “ Vải Quang, Húng Láng, Ngổ Đầm; cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây” . Ngoài ra còn có “cá rô làng Cháy, cá gáy làng Chờ” cũng được văn học dân gian ghi nhận. Cá rô mùa gặt lúa mà mang vùi chín trong đống lửa trấu hay rán mỡ sôi rồi ăn với cơm gạo mới thì bao nhiêu cơm cũng thiếu! Nhà văn Văn Quang đã tả món cháo ám gia truyền với cá lóc, cá quả mà chỉ nghe thôi đã thấy thèm thèm. Tiết trời lành lạnh Hà Nội mà ăn bát bún cá quả nấu với rau cần tháng Giêng thì chẳng ai chịu ngưng ở một bát. Cũng không quên những con cá được ướp khô để dành từ mùa này sang mùa khác. Vào một tối mùa Đông, ngoài trời gió lạnh, quây quần bên bếp lửa than hồng mà nướng những con khô mực, khô ổi, khô kèo… nhâm nhi với nước mắm me thêm vài nhánh tỏi, lát ớt thì tưởng như chuyện xưa kể mãi không chán. Cá đi vào văn học dân gian. Là một thực phẩm phổ thông, ưa thích nên cá đã đi vào thi ca dân gian mình với những câu trữ tình, lãng mạn, mang đậm bản sắc, tình tự quê hương. Phận làm dâu làm vợ thì: Chai rượu miếng trầu em hầu Tía, Má Nấu tô bún cá đặng lấy lòng anh. Hoặc: “Đốt than nướng cá cho vàng; Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi” “Cá chọn nơi sâu, người tìm chỗ tốt ”, Ý nói trong đời sống ai cũng chọn nơi có điều kiện thuận tiện để sống. “Cá chuối đắm đuối vì con” Ý nói cha mẹ chịu nhiều khổ đau, vất vả để gây dựng cho con cái. “Cá đối bằng đầu” Nhắc nhở con người phải biết cư xử phân biệt, thích hợp với vai vế trong gia đình, xã hội, phải biết kính trên nhường dưới, đừng “cá mè một lứa”, xem ai cũng như ai. “ Cá nhẩy, ốc cũng nhẩy”, hay: “Voi đú, chó đú chuột chù cũng nhẩy”. Ý nói không nên đua đòi theo kẻ khác mà đi ngược với bản chất hoặc vượt quá khả năng hiện có của mình. “Cá ngoi mặt nước là trời sắp mưa” Đây là kinh nghiệm quan sát thời tiết của dân gian, khi sắp mưa khí trời thường oi bức, dưỡng khí trong nước giảm, cá phải ngoi lên để đớp không khí. “ Cá vàng, bụng bọ” Ý nói bề ngoài hào nhoáng bên trong xấu xa, và không nên đánh giá con người hay sự vật qua vẻ bên ngoài. Khác chi câu nói của một anh sĩ diện hão: “Ra ngoài bộ mặt vênh vang Về nhà hỏi vợ cám rang đâu mình” “Cá vào tay ai nấy bắt”, Ý nói mối lợi ngẫu nhiên đến với ai thì người đó chiếm giữ. Cá cháy vàm Trà Ôn đã được ghép chung với hai món ăn ngon quý của người phong lưu: “ Sáng ngày bồ dục chấm chanh, Trưa gỏi cá Cháy, tối canh cá Chầy” Và dưới đây là một số câu ca dao về các món cá trong dân gian, hoặc đôi khi mượn hình tượng con cá để truyền lại kinh nghiệm, ví von hay câu răn đời: “Cá nục nấu với dưa hồng; Lờ đờ có kẻ mất chồng như chơi” “Canh bún mà nấu cá Rô; Bà xơi hết thẩy mấy tô hỡi bà”! “ Con cá cơm thơm hơn con cá bẹ; Bởi mê nước mắm Hòn, em bỏ mẹ theo anh” “Chim mía Xuân Phổ; Cá bống Sông Trà”. “Đập con cá lóc nướng trui; Làm mâm rượu trắng, đãi người phương xa” “Đắt cá còn hơn rẻ thịt” “Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm” “Điên điển mà đem muối dưa; Ăn cặp cá nướng, đến vua cũng thèm” “Kèo nèo mà lại làm chua; Ăn với cá rán chẳng thua món nào” “Một con cá trích cắn ngang; Mắm tôm quệt ngược, tan hoang cửa nhà” “ Mùa Hè cá sông, mùa Đông cá ao” “Rau đắng nấu với cá trê; Ai đi Lục Tỉnh thì mê không về” Ai về Rạch Giá, Kiên Giang Ăn tô bún cá chứa chan tình người. Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 6, 2010 7:41:04 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 8:05:00 GMT 9
Cau ơi! Cát Hoàng Đêm mất ngủ, đi dọc hiên nhà bắt gặp dáng cau sừng sững, chợt nổi niềm chuyện xưa - nay: Nắng đẹp nhất là nắng hàng cau quê ngoại (nội). Hoa đẹp nhất là hoa cau rụng trắng đêm hè. Ổ chim sáo trên ngọn cau có sức cám dỗ mãnh liệt đối với con trẻ. Và còn biết bao câu chuyện cổ tích, ca dao, thơ, nhạc,...say đắm liên quan đến...cau ơi! Có hôm bạn đến chơi nhà, nhìn hàng cau bìa vườn, thảng thốt: Giữa cây cau và cây tre chưa biết cây nào gắn bó với làng quê mình hơn ông à? Cây cau sẳn làm rui me lợp nhà ở khi ta sống. Khi người ta nằm xuống, cây cau sẳn làm đòn khiêng đưa ta về về nơi an nghỉ cuối cùng nhen! Nhà cha mẹ tôi ở đất giồng cát có dáng cau sau hè. Nhà vợ chồng tôi ở đất vườn cũng có dáng cau quanh nhà. Đằng đẵng nửa thế kỷ trôi qua trong đời, hình bóng cây cau trở nên thân quen đến độ chừng mình vô ý chẳng đoái hoài đến. Nay bạn nhắc nhớ, bụng ngẫm đầu suy: Nếu mai nầy không cau sao ta? "Xẽo Sâu cau tốt ai bì" - Câu ca dao Bến Tre nầy đã đặc tả một vùng đất xưa nổi danh nhờ cau (Xẽo Sâu thuộc xã Lương Phú, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). Ở đây tôi có người bạn tên Yến Nga, một lần anh em về Xẽo Sâu chơi bằng ghe đi đêm, em bảo: Anh Hoàng nhìn kìa - có nơi nào đẹp bằng quê mình, nép dưới tán cau ven sông cả rặng bần dài lập loè sáng đèn đom đóm. Nga ví von là "Thành phố quanh sông". Vậy mà sự đời ai học được chữ ngờ! Sáu mùa đom đóm sau, lần thứ hai cùng Yến Nga về Xẽo Sâu cũng là lần vĩnh biệt. Phút cuối trả em về với cát bụi bằng tấu nhạc kèn bài hát Lòng Mẹ (Theo ước nguyện trăn trối của em). Đâu ai biết tôi đã lẻn riêng ra ôm gốc cau mà khóc (Khóc mà tức ấm a ấm ách vì em bệnh nhẹ hều mà để đến chết - Chết do chứng bệnh nặng oằn vốn dĩ mắc cở của trinh nữ, dấu đến độ bạn gái thân nhất của em cũng không được biết "cái chủm cau" của em bị bệnh). Có chuyện buồn ắt có chuyện vui tiếu lâm về ông hàng xóm giận ông hàng xóm không mời ăn đám giỗ, đốn cau vườn mình cho ngả sang vườn hàng xóm...buộc ông hàng xóm vô thế bí chẳng đặng đừng mà bụng tức như...cau đổ buồng. Có chuyện thật kể nghe như chuyện tiếu lâm là tôi có ông cậu rán mắc trần đời. Cậu mê con gái chủ vườn cau quá mạng nên quyết chí học nghề trèo cau. Học xong nghề thành thạo cậu liền đến nhà nàng xin bẻ cau mướn (Ở quê trèo cau bằng nài dây chuối, trèo một lần lên đến đọt cau, bẻ cau xong sau đó đánh võng từ đọt cau nầy sang đọt cau khác liền kề để bẻ cau tiếp). Người leo cau mặc quần xà lỏn ở trên nhìn xuống, người hứng buồng cau ở dưới ngước lên, vừa mắt liếc môi cười vừa "khoe của", nàng nào chịu thấu mà chẳng trở thành mợ tui mới lạ (Cái nầy tui nói lén, ai học nấy chịu hà!). Đến những năm thập kỷ 70, 80 thế kỷ 20, nghề chế biến cau vẫn còn nhiều điểm ở xung quanh thị xã Bến Tre (Thường bổ cau ruột hoặc vỏ cau tước bỏ vỏ xanh - phơi khô). Người bổ cau cần con dao nhíp thật sắc, mà phải chăng thành ngữ "mắt sắc dao cau" xuất phát vì lẽ nầy. Nhà tôi trọ học ở chung xóm làm cau, lúc rảnh rổi học tập thỉnh thoảng lân la sang phụ tách vỏ cau, nói chuyện trên trời dưới đất với mấy cô gái cho vui và khi về thế nào cũng xin vài cái vỏ cau để dành chà răng cho sạch đẹp hết chỗ chê. Có một độ mê chơi quá trớn tôi và một thằng bạn độ nhật hai buổi bằng "hủ tíu không người lái" (Hủ tíu nấu suông với nước bột ngọt và giá sống, không thịt) suốt cả tuần, hai thằng nuổn quá nằm vùi, cũng may nhờ có chị làm cau thương tình ra tay cứu độ đi chợ nấu cho một ngày cơm, nếu không thì dám...chết hụt như chơi. Nay, Nhà nước cấm đốt pháo, bà con bớt ăn trầu, cau thương phẩm bớt giá nhưng không thể mất giá, bởi phẩm nhuộm vẫn cần trái cau làm nguyên liệu; bởi gì thì gì chớ việc cưới hỏi mà thiếu buồng cau, ốp trầu là vô duyên trơ trẽn - Nhất thiết phải trầu nguyên cuống vẹn đuôi, cau buồng nguyên liền mép và không được khuyết trái. Trở lại vấn đề tâm thức giữa cây tre và cây cau - Hai cây đều có cổ tích, có ca dao, thơ, nhạc,... tự bao đời vốn dĩ đã trở thành truyền thống - bản sắc văn hoá của đất nước - dân tộc Việt Nam - Chẳng cần bàn cãi cây nào hơn cây nào. Chỉ tội nghiệp cây viết phải động đậy bởi đêm mất ngủ đi dọc hiên nhà, vẳng nghe tiếng chim đảo trứng trên đọt cau, nghĩ mà mừng cho sự sinh sôi...sẵn sàng sống./.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 18, 2011 18:30:54 GMT 9
Thương Nhớ Hoàng Lan Trần Thùy Mai Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng ,sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: - Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót? Nghe xong chuyện đời của cha tôi, thầy bảo: - Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi. Sau này lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi vốn mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu, đầu để chỏm, người đã nổi tiếng là thông minh, mười lăm tuổi đã chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, nên được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: - Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ? Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh, rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa cho riêng mình . Nếu đã không bỏ đời theo đạo được, thì nay ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: - Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H. Rồi bà cười ha hả: - Đi tu mà chẳng theo cho đến trót đời, thì như làm thân con ếch để cho người lột da. Mẹ tôi mau nước mắt,nghe xong cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc về tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo , năn nỉ mãi cha tôi tội gì lại không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói dè bỉu làm sao chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người vốn không tranh giành với ai thế mà như có phép thần thông, khi làm gì ,chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của cha tôi càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra , thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng nổi lên rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm... Cô ruột tôi giận lắm, bảo: - Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng. Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói *Đừng*. Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào thì cha mới đến được bến bờ Tây Phương? Cơ sở làm hương của ông từ đó đành phó mặc cho cô tôi lo. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn để trông sáng sủa hơn. Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà cha tôi lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá đời ông cho đến như thế ni. Tôi đã dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan đi , cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Nhớ ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã ra đi, hoa giờ cũng không còn ... Năm tôi mười tuổi, có một vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: - Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu? Tôi chỉ lắc đầu... Nơi chùa thầy tôi ẩn tu gọi là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh chỉ dạy tôi chăm sóc hoa, và tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều tôi đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi ,tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: - Bạch thầy, Đăng Ninh thường trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột của Ninh nhờ làm hương nên giàu có, và đã cúng dường nhiều tiền cho chùa, nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác. Tôi ức lắm ,nhưng lầm lì không nói gì, thầy tôi cũng không quở trách gì tôi . Tính thầy tôi rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời người răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy lại đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: - Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: - Tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu được là đời đục mà tránh? Thầy hỏi: - Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong. Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì. Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng. Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: - Này, đừng nghịch. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: - Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: - Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bộ không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử? Tôi cự: - Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ. Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu: - Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi. Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: - Không can gì. Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa? Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó. Tôi động lòng, hỏi: - Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong. Thầy cười: - Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín tầng mây. Tôi vái thầy mà thưa: - Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa. Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. Anh không thích phong lan nữa sao?. Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: - Thích ghê, em chưa thấy bao giờ. Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương... Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng. Tôi hãi hồn, vội nói: - Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây. Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: - Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa. Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt... Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà. Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó. Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: - Khó tin. Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn. Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: - Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi. Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: - Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.... Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: - Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi. Quay sang Lan, tôi nạt: - Đi về! Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi... Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: - Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không? Tôi cau mặt: - Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn? Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến. Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn. Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không? Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa... Em có thích nghe chuyện cổ tích không? Thích. Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: - Sao có người làm được như thế? Tôi gật đầu: Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: - Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc? Tôi bảo: - Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con. Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. Thôi, về đi em. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật... Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: - Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu. Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tao mà gặp con ma nữ đó, tao tước từ dưới tước lên. Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: - Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao? Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về. Con ma nữ đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: - Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con. Tôi cuống quýt: - Bác bảo con làm sao được? Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: - Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng. Tôi thở dài: Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi... Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: - Sao con bỏ học? Tôi nói: - Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng. Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: - Bạch thầy. Thầy tôi bảo: - Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn. Tôi nói: - Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An. Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: - Tâm không an, có cầu cũng vô ích. Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn? Thầy nhìn vào mắt tôi: - Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình. Tôi lắc đầu: - Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi. Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian. Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: - Chú Ninh! Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. Bác lên chùa cầu cho em đi bình an... Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt. Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan: Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan... Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi... Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. Cứ khóc đi con - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ. Tôi nức nở: - Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không? Thầy bảo: - Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung? Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống. Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian. Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ. Trần Thùy Mai Hoàng lan hay ngọc lan tây, ylang-ylang hoặc Ylang công chúa (danh pháp khoa học: Cananga odorata), là một loài cây thân gỗ trong Chi Công chúa (Cananga). Loài cây này có thể có độ cao trung bình khoảng 12 m, phát triển tối đa khi được trồng tại nơi có nhiều nắng, và nó ưa thích các loại đất chua tại khu vực nguồn gốc của nó là các rừng mưa. Vỏ cây màu xám trắng; nhánh ngang hay thòng, mang lá song đính, không lông. Lá của nó dài, trơn và bóng loáng. Hoa có màu vàng ánh lục hoặc hồng, quăn như sao biển, và có tinh dầu có mùi thơm rất mạnh, nở từ tháng 11 đến tháng 12. Mỗi hoa cho ra một chùm quả, mỗi chùm quả chứa 10 - 12 hạt, giống như hạt na. Tên gọi ylang-ylang có nguồn gốc từ tiếng Tagalog ilang-ilang, có nghĩa là "hoa của các loài hoa" mà không phải là để nói bóng gió tới mùi thơm dễ chịu của hoa hoàng lan. Mùi thơm của hoa hoàng lan vừa nồng và đậm với các dấu vết của hoa cây cao su và món sữa trứng, đồng thời lại rực rõ với dấu vết của của hoa nhài và tinh dầu cam đắng (Citrus aurantium thứ amara hay Bigaradia). Tinh dầu hoa hoàng lan thu được bằng cách chưng cất nhờ hơi nước và tách ra thành các cấp khác nhau (extra; 1; 2; 3) tương ứng với việc chưng cất vào khi nào. Thành phần chính tạo ra mùi thơm của hoàng lan là mêtyl anthranilat. Tinh dầu hoàng lan được dùng trong điều trị bằng xoa bóp dầu thơm, người ta tin rằng nó có thể làm giảm huyết áp cao, điều tiết các chất bã nhờn đối với các vấn đề về da, và cho rằng nó có tác dụng kích thích tình dục. Tinh dầu hoàng lan cũng được dùng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước hoa theo phong cách phương Đông. Mùi hoàng lan pha trộn khá tốt với phần lớn các loại mùi cây cỏ, hoa quả và gỗ. Tại Indonesia, hoa hoàng lan được rải trên giường cưới của các đôi tân hôn. Tinh dầu hoàng lan chiếm tới 29% xuất khẩu hàng năm của Comoros (số liệu năm 1998).
|
|