|
Du Lich
Aug 15, 2013 18:54:00 GMT 9
Post by NhiHa on Aug 15, 2013 18:54:00 GMT 9
Nước Mỹ, tháng năm Tạp bút Nguyễn Thị Hậu
Gặp bạn nơi xa
Khi đi làm visa du lịch Mỹ tôi đã lường trước tình huống “nếu bà không được chấp nhận cấp visa thì sao” – “Thì coi như tôi chưa có duyên được gặp nước Mỹ”. Nhưng rồi mọi việc thuận tiện và nhanh chóng không ngờ. Một chuyến đi không chờ đợi, thậm chí không tính trước, nhưng may mắn đã đi.
Đến LAX lúc 15.30 nhưng xong các thủ tục đã hơn 17g, băn khoăn vì hẹn bạn đón nên chắc bạn chờ khá lâu. Lúc ra đến phòng chờ còn đang ngơ ngác tìm thì bạn đến gần: chị Hậu phải không? A, chào Giao. Hai chị em thân thiết nắm tay nhau, tôi và Giao mới biết nhau và đây là lần đầu tiên gặp mặt. Giao đưa tôi về nhà Thúy Hà, một người bạn – của – bạn và cũng là bạn trên mạng từ lâu của tôi.
Ngay sáng hôm sau đã có một buổi café welcome, các bạn gần như có mặt đông đủ nơi quán Gypsy ở Little Sài Gòn. Bước tới không gian này tưởng như đang ở một tiệm nước nào đó ở SG khoảng những năm 1975 – 1980. Có gì đó như ngưng đọng ở đây: những giọng nói, ngôn từ, những gương mặt… không xa lạ nhưng từ lâu rồi ít còn gặp ở Sài Gòn, kể cả một vài ánh mắt không mấy thiện cảm khi nghe thấy cái giọng Bắc kỳ - 75 của tôi.
Bạn bè lần đầu gặp nhau nhưng đã thấy thật gần gũi.
Thời tiết cũng như lòng người. Mới mấy bữa trước còn lạnh, mưa gió sụt sùi, ngày mình tới Cali sáng tối hơi se lạnh như ngày thì nắng ấm, người Cali còn coi là nóng khi nhiệt độ ngoài trời khoảng 24 - 25 độ C. Câu chuyện giữa những người bạn – trên - mạng giờ đây là bạn – ngoài – đời cũng ấm áp như thế. Tôi đi qua đây chỉ có một valy nhưng trong đó một nửa là sách mang theo tặng bạn. Sách của mình, sách của vài tác giả nổi tiếng mà bạn thích. Rất vui là các bạn thích món quà nho nhỏ này. Vui hơn là nhiều bạn đọc còn nhắn qua facebook mời café và… để ký tặng sách các bạn đã có (nhờ mua từ Việt Nam). Với một người viết hết sức nghiệp dư như tôi có lẽ đây là niềm vui và điều bất ngờ lớn. Điều bất ngờ thứ hai là cuốn truyện cực ngắn “101 truyện 100 chữ” được nhiều người bên này biết đến, do đọc trên blog của tôi và từ việc một vài tờ báo tại đây trích in lại. Viết ngắn có lợi đấy chứ, khi mà những cái mẩu ngăn ngắn của mình có thể len lỏi vào bất cứ khoảng thời gian rảnh rỗi nào, vào bất kỳ khoảng không gian nhỏ bé nào trong tâm trí người đọc, ở lại đó và cùng chia sẻ với nhau ý tưởng, câu chuyện cũng như cảm xúc khi mình viết ra.
Còn chuyện gì mà không nói đến trong những buổi café như vậy? Chuyện cũ quê nhà, chuyện bạn bè chung, chuyện làm ăn, gia đình của bạn nơi đây, những sinh hoạt văn hóa, những câu chuyện văn chương… Thấp thoáng sau tất cả là nỗi lòng của những người nặng tình với đất nước, dù bây giờ như tạm coi là thuộc “bên này hay bên kia” hay không là bên nào cả. Có lẽ vì vậy mà nói chuyện với nhau rất chân tình, thoải mái và thẳng thắn. Gặp nhau ở ý tưởng nào cũng quý, mà chưa gần nhau, thậm chí khác nhau về suy nghĩ nào cũng vẫn tôn trọng nhau, bởi mỗi người một hoàn cảnh một quá khứ… Hình dung giống nhau về một tương lai tốt đẹp hơn cho đất nước mình, đó mới là điều quan trọng.
Nhưng có một điều mà bạn bè “chúng khẩu đồng từ” nói với tôi là “chị trẻ hơn nhiều so với những tấm hình trên facebook”. A, với một phụ nữ U 60 điều đó hơn mọi liều thuốc bổ, nhờ vậy tôi (sẽ) đủ sức rong chơi (và “đấu khẩu”) trong những ngày sắp tới trên đất cờ hoa.
Một tuần ở quận Cam
Tháng Năm. Cali như đã bước vào mùa hạ. Khắp nơi là hoa: phượng tím trên những con đường, hoa hồng trước hiên nhà, trong vườn, muôn loài hoa khác rực rỡ trong công viên, ven tường nhà, ở mỗi giao lộ. Và đúng với tên gọi “quận Cam”, có thể nhìn thấy khắp nơi những cây cam trĩu quả vàng tươi … Chỉ một tuần ở đây cũng đủ để cảm nhận cái không khí chuyển mùa làm người ta bâng khuâng, dường như mình đang đánh mất gì đó không sao nhớ ra được.
Mất gì nhỉ? Thời gian, tất nhiên rồi... mỗi ngày mỗi tuần mỗi tháng mỗi năm... thời gian là vô tận nhưng với mỗi người, nó là hữu hạn, cái giới hạn cuối cùng ngày một rõ ở phía tương lai. Nhưng chẳng phải ai cũng đủ tinh tế để hiểu rằng, với mình với người, mọi cái cũng là hữu hạn. Sợi giây mong manh giữa những con người dễ dàng bền chặt mà cũng dễ dàng biến mất, đôi khi chỉ vì sự vô tình.
Ở quận Cam những ngày này đầy ắp niềm vui nhưng sao trong đầu cứ lãng đãng giai điệu bài “Để quên con tim”. Tôi từ biệt Cali với lời nhắn “ngày rời Cali có người đã để lại chút nâu giòn ấm áp…”
Nước Mỹ, tháng Năm…
Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có một ngày mình đến nước Mỹ chỉ để rong chơi, với tôi điều đó chỉ là một mơ ước. Vậy mà, như người xưa đã nói, có duyên thì sẽ gặp, và tôi đã gặp nước Mỹ lần đầu vào những ngày tháng Năm.
Ba tuần ở nước Mỹ trôi qua thật nhanh, tôi đã kịp đi đến một số thành phố lớn nhờ sự sắp xếp đón tiếp chu đáo của bạn bè. Thật ra mục đích chuyến đi này chưa và không phải là tham quan mà là “thăm dân” – gặp gỡ những người bạn facebook thân quen đã lâu nhưng tôi chưa có dịp offline. Và tôi đã đạt được mục đích thậm chí còn vượt cả mong đợi vì đã gặp được thêm nhiều người bạn khác, trong đó có những người đã luôn tâm đắc chia sẻ với những trang viết của tôi.
Từ biệt nước Mỹ sau ba tuần “chạy sô” từ Tây sang Đông rồi lại “khứ hồi” về Tây, chưa kể tạt lên Bắc xuống Nam vài giờ xe chạy. Tôi sẽ nhớ mãi Quận Cam ấm áp thân tình của những người bạn mới mà như thân quen tự thời thơ ấu, nhớ mãi Boston bình yên một nỗi buồn dịu dàng sau sự cố đánh bom một tháng trước, nhớ NewYork hiện đại và sôi động đến choáng ngợp, nhớ nỗi cô đơn sợ hãi thoáng qua khi một mình trong đêm trên chuyến xe bus đến Philadelphia, nhớ mãi những khoảnh khắc ngắn ngủi đầy yêu thương ở Washington DC, nhớ mãi San Francisco với chuyến rong chơi vui vẻ như không muốn dừng lại, và không thể quên sự cố nhỏ ngày về để hiểu ra rằng mình rất may mắn khi có những người bạn quý mến mình đến thế…
Từ biệt nước Mỹ, từ biệt những ngày trời đẹp như ưu đãi người lần đầu đến đây, từ biệt những con đường vun vút xe chạy, xa ngát xanh thẳm đưa tôi đến những nơi cần đến. Từ biệt những người bạn, chúc các bạn của tôi luôn bình an và hạnh phúc ở nơi mà họ đã tin tưởng lựa chọn là quê hương.
Tháng Năm đã qua…Tôi biết, một ngày gặp lại còn xa lắm…
Khoảng cách
Những ngày ở Mỹ, bất giác tôi hay tự hỏi: nước Mỹ, thật ra, rộng hay hẹp? Một câu hỏi ngớ ngẩn, phải không?
Có lần tôi đã chiêm nghiệm về tình cảm giữa những con người, nó có thể mang người ta đến gần nhau hay làm người ta xa nhau hơn, bất chấp mọi khoảng cách của không – thời gian vật lý. Đó là “chiều thứ 3 của khoảng cách”. Khi đến nước Mỹ điều này lại càng rõ ràng. Bạn hỏi: qua đây được bao lâu? – Ba tuần. - Ít vậy, làm sao đi chơi hết được? – Nước Mỹ rộng thế, các bạn ở đây cả đời còn chưa đi hết nữa là mình. Mấy tuần ở đó tôi đã đi nhiều. Từ thành phố này đến thành phố khác là vượt qua vài múi giờ, gọi điện thoại cho nhau phải nhớ xem tiểu bang đó bây giờ là đêm hay ngày… mới thấy nước Mỹ thật rộng lớn. Nhờ những cuộc gọi, tin nhắn, lịch trình những lần gặp gỡ với bạn bè đã làm cho tôi thấy nước Mỹ thật gần gũi, ấm áp. Nửa vòng trái đất đến với nước Mỹ đâu có gì là quá xa xôi?
Nhưng vào cái ngày từ biệt nước Mỹ, tôi bỗng nhận ra giữa tôi và nước Mỹ còn có những khoảng cách rất hẹp đến nỗi không thể len vào dù chỉ là một ý nghĩ. Khoảng hẹp này khiến có lúc trái tim nghẹn lại… Mọi giấc mơ dù đẹp đến đâu rồi cũng có lúc tan biến… Tôi từ biệt nước Mỹ như từ biệt một ảo mộng. Nước Mỹ rộng hay hẹp với tôi giờ không còn quan trọng nữa.
Chuyến bay về dài theo những câu thơ buồn của Olga Bergol “Tránh đừng đụng vào cây mùa lá rụng…”
(7.5.2013 – 27.6.2013)
Những điều bình thường ở nước Mỹ
Tạp bút
Nguyễn Thị Hậu
Bạn hỏi: sao đi Mỹ về im lặng thế, không thấy viết gì?
Thật ra từ đầu năm tới giờ hình như tôi chưa viết được gì ưng ý… Quá nhiều điều phải suy nghĩ, phải liên tưởng, phải hiểu, bạc tóc mà vẫn thấy mình ngơ ngác… Tôi đi Mỹ trong một tâm trạng nhạy cảm đến mức gần như căng thẳng. Nhờ vậy, tất cả những gì mắt thấy tai nghe tim cảm nhận đã làm rung lên trong tôi những cung bậc cảm xúc không dễ gì phai nhạt, tuy chỉ là những điều rất đỗi bình thường.
Có lẽ những gì tôi muốn kể về nước Mỹ chính là những điều bình thường!
Nước Mỹ đến với tôi đầu tiên từ những sân bay. Rộng lớn hiện đại an ninh chặt chẽ, nhưng vẫn mang lại cảm giác thân thiện, nghiêm ngắn và sự yên tâm. Chuyến bay quốc tế hay quốc nội thì thủ tục cũng như nhau, nhanh nhẹn và chu đáo, các nhân viên kiên nhẫn giải thích giải đáp những câu hỏi thắc mắc khiếu nại của hành khách với thái độ nhã nhặn và nghiêm túc mà không cần phải có “nụ cười thường trực trên môi” như phong trào văn minh công sở ở nước ta (Người Việt mình thích cười, ngay trong giao tiếp quan hệ làm việc cũng phải cười với nhau… hình như trong giờ làm việc không thể có gương mặt bình thường nghiêm túc nhã nhặn được, khi không cười thì chỉ có sự cáu kỉnh lạnh nhạt khó ưa?). Trong chuyến bay từ DC về SF một vali hành lý của tôi bị kiểm tra mà tôi không hề biết. Hai ngày sau cần đến mới mở ra thì thấy khóa bị cắt, bên trong đồ đạc có dấu xáo trộn nhưng không mất gì cả (trong vali có iPad mini mua cho con gái, đồng hồ mua cho ông xã và một số mỹ phẩm làm quà cho bạn). Ngay trên đồ đạc là một tờ giấy in sẵn Thông báo về việc kiểm tra hành lý, và cuối cùng xin lỗi đã làm phiền hành khách. Thật ra nếu bay nội địa thì chẳng ai khóa vali hành lý gửi cả, nhưng vì tôi bay về VN qua một chặng chuyển tiếp nên phải lấy của bạn một cái khóa khác để khóa vali.
Ra khỏi sân bay nước Mỹ đến với tôi bằng những con đường cao tốc 8 làn xe chạy vun vút. Quanh những thành phố bao giờ cũng có làn đường dành cho xe chở 2 hoặc 3 người, khuyến khích đi chung xe, đỡ tắc đường giảm ô nhiễm môi trường. Vậy nhưng làn đường này ngay cả giờ cao điểm cũng không nhiều xe chạy. Người Mỹ thích độc lập tự do ngay cả trong việc sử dụng phương tiện giao thông, mặc dù ở nhiều thành phố có hệ thống giao thông công cộng hoàn hảo.
Đường tốt, xe nào chạy làn đường đó, giờ cao điểm chịu khó nhích từng chút. Có mệt mỏi thì nhìn ra hai bên đường: cây xanh, thảm cỏ, bụi hoa… đều là loại hoang dại nhưng được chăm chút cẩn thận mà trông vẫn tự nhiên. Những con đường bê tông dài hàng trăm ngàn cây số khắp nơi tôi qua gần như đều song hành với màu xanh của cây cỏ. Kể cả trên hoang mạc Nevada cũng dày đặc những bụi xương rồng trổ bông nhiều màu sắc, trên những ngọn đồi bát úp chồng lên nhau suốt vùng California đã phủ lớp cỏ đầu xuân mới nhú. Đất đai rộng lớn, thiên nhiên hiện diện khắp nơi càng cho ta cảm giác mênh mông của trời của đất. Tầm mắt hun hút theo con đường, tầm mắt ngút ngàn hoang mạc, bờ biển, bình nguyên, trung du… Tự do phóng tầm mắt khắp nơi thấy mình to lớn hơn, tự do hơn, và tự chủ hơn.
Các thành phố Mỹ tôi đến mang lại ấn tượng về quy hoạch đô thị thật khoa học, chính vì vậy mà nó đẹp, cái đẹp của sự giản dị và hợp lý. Những con đường trong thành phố đều có bảng tên đường, bảng hướng dẫn làn đường treo ở độ cao phù hợp cho người ngồi trên xe hơi nhìn thấy, đủ lớn để từ xa đã đọc được, đủ khoảng cách để hướng dẫn xe quẹo phải trái hay quay đầu xe, ở các giao lộ đều có làn đường cho xe quẹo phải. Đèn giao thông vẫn còn nhiều cái cổ lỗ, cột điện vẫn bằng gỗ với hàng dây điện đen chăng dọc suốt đường (ngay ở Mỹ cũng đâu đã “ngầm hoá” hết được đường điện). Nhưng tất cả sạch sẽ gọn gàng, dù cũ kỹ nhưng vẫn được chăm nom bảo quản. Lòng đường sạch sẽ, lề đường và những bức tường phủ kín hoa lá, cây xanh, cứ vài con đường lại thấy một công viên nhỏ hay vườn hoa, bãi cỏ, ngày nắng ấm luôn có những bà mẹ đẩy xe đưa con đến chơi, trẻ em ở trường học gần đấy mỗi khi tan học cũng được bố mẹ cho ra đây chạy nhảy vui chơi trước khi về nhà. Bộ mặt đô thị mang lại cảm giác cuộc sống nơi đây quá đỗi bình yên.
Có lẽ tôi thích nhất là những ngôi nhà trong thành phố. Ngoài New York là với vô vàn toà nhà kính nhiều màu cao chọc trời, Las Vegas cả ngày lẫn đêm rực rỡ ánh đèn và sắc màu của những trò chơi đen đỏ… Các thành phố tôi qua dường như có một quy định ngầm: Ở mỗi khu vực kiến trúc nhà cửa thường cùng một kiểu: giống nhau cả hình dáng, chất liệu xây dựng và bố trí mặt tiền. Mới nhìn cảnh quan khu phố có vẻ đơn điệu vì hầu hết các kiểu nhà hình thức và quy mô trông khiêm tốn, một trệt một lầu hoặc có thêm tầng lửng. Nhà nào cũng có vườn trồng hoa, vài cây cao, đặt ghế xích đu hoặc trồng cột chơi bóng rổ cho trẻ em. Không nhà nào bề ngoài trông nổi bật hơn so với xung quanh, dù có thể nội thất sang trọng. Nhìn những ngôi nhà này đã thấy sự bình đẳng trong cộng đồng và tôn trọng con người. Trong những ngôi nhà tôi có dịp đến, khác với cấu trúc nhà ở Việt Nam, nhà Mỹ thường nhỏ so với diện tích đất, trong nhà phòng khách lớn nhất vì còn là nơi sinh hoạt của gia đình, kế đến bếp đồng thời là phòng ăn, các phòng ngủ nhỏ, nhà vệ sinh cũng nhỏ vừa đủ dùng. Tính thực tế của người Mỹ khá rõ, không phô trương ở những nơi không cần thiết. Mỗi ngôi nhà tính theo số phòng ngủ để biết lớn hay nhỏ, có thể định giá trị ngôi nhà. Tất nhiên, những khu nhà của các triệu phú tỷ phú Mỹ thì khác, rất khác. Khác thế nào thì tôi… không thể nói được, vì chưa tận mắt nhìn thấy chưa bước vào, ngoài việc nhìn thấy trên phim ảnh, như nhiều người khác.
Boston là thành phố tôi thích nhất. Cảnh quan như một thành phố Tây Âu thời cận đại, những khối nhà vuông vắn gạch đỏ đằm thắm, những ngôi nhà 1, 2 lầu với bậc tam cấp bên cạnh những khung cửa sổ sơn trắng êm đềm. Hoa mùa xuân nở khắp nơi, sắc hồng thắm trắng tinh khôi giữa xanh ngát lá. Boston còn là một thành phố trẻ bởi hàng trăm ngàn sinh viên của nhiều quốc gia đang học ở đây. Bước chân ra đường là cảm nhận được sức sống mới mỗi ngày từ những bước chân sinh viên nối nhau trên đường, trên xe bus, trong metro… Ngày tôi đến Boston đang chuẩn bị cho dịp Lễ tốt nghiệp của các trường đại học nổi tiếng ở đây. Hàng chục ngàn phụ huynh sẽ đến đây tham dự buổi Lễ long trọng này.
Ở nước Mỹ có thể nhìn thấy người xếp hàng khắp nơi: đi taxi, mua hàng, lên xe bus, làm thủ tục sân bay, đi ăn trưa ăn chiều ăn tối xếp hàng chờ có chỗ trống, mua cà phê và đồ ăn nhanh “to go”, kể cả đi vệ sinh nếu quá “bức xúc” cũng đừng mong chen ngang. Ai bảo chỉ có xã hội chủ nghĩa mới Xếp Hàng Cả Ngày? Qua nước Mỹ bạn phải làm quen và “chịu đựng” việc xếp hàng trật tự thôi, vì chỉ cần bạn chen ngang là lập tức có người nhắc nhở bạn ngay. Nếu bạn không biết đọc tiếng Anh thì đã có ký hiệu chỉ dẫn rõ ràng. Bạn không tuân thủ thì ý thức bạn quá kém, và như vậy bạn không xứng đáng nhận được ánh mắt tôn trọng của mọi người. Ai cũng có công việc cần, quỹ thời gian ai cũng như ai, xếp hàng là tôn trọng mình và tôn trọng người khác, đơn giản là như vậy.
Khi tôi đến nước Mỹ vào xuân. Phía Tây đã có những ngày nắng nóng. Mọi người trút bỏ quần áo mùa đông để khoác lên mình trang phục mùa hè, giản đơn, tiện dụng. Ngoài phố các cô gái khoe chân trần vai trần phơi nắng ấm. Dép kẹp, giày thể thao là hai loại phổ biến. Trang phục đơn giản có vẻ “bụi” và thực dụng. Trong các trường đại học cũng vậy, sinh viên ăn mặc nghiêm túc có, “bụi đời” cũng có luôn. Nhưng phong thái ai cũng tự tin, thoải mái. Giống như Sài Gòn, ít ai để ý đến quần áo của bạn nhưng ngày thường đi trên phố không khéo thì mớ quần áo giày dép đắt tiền sẽ làm cho bạn mất đi sự tự tin vì sự “chỉn chu” của mình.
Các thành phố Mỹ cũng gặp vấn nạn về nơi đậu xe, tuy không quá khó khăn nhưng vào giờ cao điểm hay ở những nơi công cộng, trung tâm mua sắm vào ngày cuối tuần thì tìm được một chỗ đậu xe thật sự là một kỳ công. Nhưng không một người bình thường nào đậu xe vào chỗ dành cho người khuyết tật, dù chỗ đó để trống rất lâu, dù phải đi vòng vèo mấy tầng hầm cũng chưa tìm được chỗ. Những cách hành xử theo quy tắc chung của xã hội, của cộng đồng như vậy được duy trì như là đạo đức, vì được củng cố bằng luật pháp, quy định và xử phạt nghiêm minh. Việc bị cảnh sát phạt cũng… bình thường, không phải bình thường vì vi phạm thường xuyên mà ai cũng hiểu mình đã phạm luật thì bị phạt là đương nhiên, mất tiền, mất thời gian đi nộp phạt… để lần sau nhớ đừng tái phạm. Không thấy ai tức tối hay ấm ức vì bị phạt (ở mình, bị phạt nhiều khi ấm ức tức tối vì sĩ diện, vì mất tiền cho người phạt, chứ không phải vì bị oan). Lại nói, ngoài đường, nơi công cộng hầu như ít thấy bóng dáng cảnh sát, nhưng có việc gì bất thường xảy ra là thấy mấy ảnh xuất hiện liền, giải quyết một cách tự tin, nhanh chóng và chuyên nghiệp. Mỗi người là một cá nhân nhưng cũng là một phần hữu cơ của xã hội. Luật pháp và những quy tắc dành cho tất cả nhưng cũng vì một con người cụ thể. Do đó mọi người đều yên tâm và tin rằng, khi cần mình sẽ nhận được giúp đỡ tận tâm của người có chức trách và sự chia sẻ của cộng đồng.
Hai tháng đã qua từ ngày tôi đặt chân xuống phi trường LAX, nước Mỹ vốn rất xa lạ với tôi trở nên gần gũi hơn chỉ sau ba tuần vội vã lướt qua.Và cái gì còn lại trong tôi nhiều nhất? Không phải là những sôi động hiện đại làm choáng ngợp của một nước Mỹ giàu có mà là cuộc sống bình yên từ tất cả những điều bình thường và giản dị. Nhưng khi đi trên đường phố Boston nơi đã xảy ra vụ đánh bom khủng khiếp một tháng trước, tôi không thể không tự hỏi, tại sao nước Mỹ vẫn xảy ra những vụ xả súng đánh bom điên cuồng vào những người vô tội? Vì sao phim Mỹ hay miêu tả những tội ác khủng khiếp, thảm hoạ khôn lường? Vẫn biết ở các thành phố lớn đằng sau những tòa nhà chọc trời, đằng sau sang trọng xa hoa, đằng sau cuộc sống bình thản đang diễn ra trước mắt… luôn là những khu ổ chuột, xóm “nhà lá”, những đường phố tệ nạn và tội ác diễn ra hàng ngày. Sự phân hoá xã hội như một quy luật bù trừ, khoảng cách giàu nghèo ở nước Mỹ nằm ở hai cực cách xa nhau, chúng ta chỉ mới nhìn thấy một phần nhỏ của khoảng giữa. Còn có nhiều “cuộc sống” khác nữa của nước Mỹ mà người chỉ “đi qua” như tôi khó có thể biết hết.
Tôi không biết “khen – chê” nước Mỹ như nhiều người (lần đầu đi Mỹ về) đã viết, bởi vì ở đâu chẳng có điều tốt và cái xấu. Tất cả những gì làm tôi có cái nhìn mới hơn, khác hơn về nước Mỹ là từ những điều bình dị hàng ngày. Như những ngôi nhà có hàng rào thấp sơn trắng mà tôi đã nhìn thấy khắp nơi, như góc phố hiên nhà đầy hoa lá, như con đường chạy giữa hai hàng cây xanh phía trên là bầu trời xanh thắm, giữa ruộng nho bạt ngàn lấp lánh ánh mặt trời buổi bình minh hay giữa hoang mạc trong mặt trời đỏ ối buổi chiều tà… Cuộc sống mà tôi thấy ở nước Mỹ là gương mặt bình yên trong muôn mặt đời thường ở xứ sở mà nhiều người đã ước mơ một lần được đến, được sống, như ước mơ di trú đến chốn Thiên đường sau ngày giã từ cõi tạm.
Nhưng ngay cả Thiên đường cũng luôn có Địa ngục song hành, nếu không, mấy ai biết giá trị của hạnh phúc nơi Thiên đường?
Sài Gòn, hai tháng sau ngày đến nước Mỹ, 7/5 – 7/7/2013
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 4, 2013 5:25:38 GMT 9
Ký sự Myanmar 2013 (1) Vài nét về kinh tế chính trị MYANMARVũ Quang Việt
Sau Hội thảo Hè ở Singapore (12&13 tháng 8.2013), một số anh chị em chúng tôi bay sang Yangon, bắt đầu cuộc hành trình 12 ngày đưa chúng tôi đi thăm mấy vùng đất Myanmar : Bagan, Mandalay, Hồ Inle... Trừ anh Vũ Quang Việt đã tới đây nhiều lần với cương vị tư vấn của chính quyền Miến Điện về xây dựng hệ thống thống kê kinh tế theo tiêu chuẩn LHQ, chúng tôi đặt chân tới xứ sở của "vạn tháp" lần đầu tiên. Một cuộc "phi ngựa xem hoa", cốt để ngắm những ngôi chùa đồ sộ, nguy nga, làm quen với một dân tộc đa dạng, hiếu khách, những cảnh quan kỳ vĩ, hít thở bầu không khí của một nước đang bước đầu dân chủ hóa sau mấy chục năm độc tài, đàn áp...
Việc Miến Điện cải cách theo hướng dân chủ hóa đã đi được đoạn đầu tốt đẹp. Quyết định hợp tác hòa bình của Bà Suu Kyi, lãnh tụ đối lập bị giam tại gia 20 năm sau khi thắng cử với hơn 80% phiếu, bỏ qua việc Hiến pháp cải cách năm 2008 vẫn dành 1/3 ghế nghị viện cho quân đội đã tạo ra bước ngoặt trong chính trị Miến Điện. Các nước phương Tây đã nhanh chóng mở cửa tiếp nhận Miến vì nhu cầu ngăn cản ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy vậy tính ổn định chính trị và từ đó ổn định kinh tế của Miến cũng vẫn còn là vấn đề đáng quan tâm.Chính trị Miến Điện Miến Điện có 62 triệu dân. Đây thật ra chỉ là con số ước lượng thống kê vì hơn 30 năm nay Miến Điện đã không có một cuộc điều tra dân số nào. Miến Điện chia làm 7 bang (state) của người thiểu số và 7 khu (region) có đa số dân là người Miến (coi Hình 1 ở dưới). Theo điều tra mới nhất trong chương trình trợ giúp Miến Điện của LHQ, bảy khu vực người Miến chiếm 76 % dân số, trong khi các thống kê khác cho thấy số dân gốc Miến chiếm 68 % dân số. Như thế so với nhiều nước lân bang, người thiểu số chiếm tới 32 % dân số và khu vực địa lý người thiểu số chiếm đa số chiếm 23,5 % dân số. Sắc tộc là vấn đề lớn ở Miến Điện vì tỷ lệ dân thiểu số lớn hơn ở Việt Nam nhiều (VN chỉ có 14% và không có dân tộc nào chiếm tỷ trọng lớn). Không những thế có tộc người có tỷ lệ và số dân rất lớn như người Shan có dân số 5,6 triệu, người Karen 4,3 triệu, có chủng tộc đã từng là vương quốc và lại có quá trình vận động độc lập bằng bạo lực ngay từ khi Miến Điện được Anh trao trả độc lập năm 1948. Trước khi độc lập, Aung San (thân phụ bà Suu Kyi) đã cố gắng thiết lập một đất nước thống nhất bằng hiệp ước công nhận quyền tự trị về hành chính, lập pháp và tư pháp của các dân tộc thiểu số như Chin, Kachin, Shan trong một liên bang kiểu Mỹ nhưng sau đó Aung San bị ám sát, ý tưởng liên bang bị xóa bỏ và Burma trải qua nội chiến 50 năm, cho đến nay những vùng ở phía bắc và phía đông khu vực đồng bằng (Mandalay, Inle, Bagan) vẫn là những vùng bất an, muốn đến phải có giấy phép của chính phủ. U Nu khi lên cầm quyền còn tuyên bố Miến Điện là một nước Chủ nghĩa xã hội Phật giáo, coi Phật giáo là quốc giáo. Đến năm 2009 chiến tranh với người Shan và Kachin đã đẩy cả trăm ngàn người chạy sang Vân Nam. Mới đây việc người theo đạo Phật ở bang Rakhine (người dân tộc ở đây được gọi là Arakane) bạo loạn do vụ việc một người Hồi hiếp một người đàn bà theo đạo Phật đã làm chết 78 người Hồi và đưa đến gần 90 ngàn người Hồi Rohingya bỏ xứ chạy nạn, rồi sau đó một nhà sư có uy tín cũng kêu gọi bài người Hồi, gây bạo loạn ở ngay Yangon. Chính việc bà Suu Kyi không lên tiếng kịp thời lên án bạo động đã làm cho giới quan sát quốc tế nghi ngờ về khả năng ổn định chính trị ở Miến Điện. Chỉ cần hỏi qua chuyện với người Miến bình thường cũng thấy vấn đề xung đột dân tộc như nồi nước sôi âm ỉ. Người gốc Miến vẫn bị ám ảnh bởi truyền thống một đất nước, một tiếng nói, một ngôn ngữ, một tôn giáo (Phật giáo) của thời U Nu và sau đó là của tướng Ne Win. Hiện nay, ở phía bắc giáp TQ là bang Kachin vẫn có Quân đội giải phóng Kachin, tuy vậy dân tộc này theo đạo Thiên chúa giáo nên không rơi vào tầm kiểm soát của Trung Quốc. Ở phía Đông giáp Thái Lan là bang Shan (nói tiếng Thái) chiếm 7.7% dân số hiện vẫn còn mặt trận giải phóng dân tộc. Cũng ở phía Đông, giáp Thái về phía Nam là bang Kayin có dân đa số là gốc Karen đã chống đối người Miến đòi độc lập từ năm 1949. Còn ở phía tây có bang Rakhine, có dân số lên đến 6.1% dân Miến Điện, chỉ đứng sau bang Shan, có lúc đã là một vương quốc, từng bao gồm cả tỉnh lớn Chittagong của Bangladesh, theo đạo Phật, nhưng dân số theo đạo Hồi gọi là Rohingya ngày càng tăng hiện chiếm tới 40 % dân số, và là nguyên nhân đưa người theo đạo Phật bạo loạn đã nói ở trên. Điều may mắn cho Miến Điện là các nước lân bang như TQ hay Thái Lan đã không thể hay không muốn dùng vấn đề xung đột dân tộc để hưởng lợi. Dù sao ý tưởng cơ sở để thống nhất dân tộc đã có từ thời ông Aung San, thậm chí Hiến pháp mới ra năm 2008 đã chấp nhận sự hiện diện của các bang tự trị nhưng nội dung như thế nào còn là điều bàn cãi. Kinh tế Miến Điện Kinh tế Miến Điện có tiềm lực lớn. Diện tích gấp đôi Việt Nam, với diện tích đất nông nghiệp lớn có khả năng dẫn đầu về nông nghiệp ở Đông Nam Á trong tương lai nếu như được đầu tư thủy lợi, nhưng hiện nay dù đất sử dụng trồng lúa đã nhỉnh hơn Việt Nam một chút, nhưng sản lượng lúa chỉ bằng một nửa Việt Nam, vì năng suất thấp hơn 30 %. Tài nguyên rừng còn phong phú chưa được khai thác vì nội chiến. BP ước tính là Miến có trữ lượng khí đốt có thể khai thác là 7.8 tỉ cubic feet (1,4 tỉ thùng barril). Ngoài ra còn có dầu lửa chưa được thăm dò kỹ. Hiện Miến sản xuất 90 % ngọc bích (jade) của thế giới và đứng đầu về sản xuất hồng ngọc (rubies) và lam ngọc (sapphires). Tuy nhiên lợi thế lớn nhất của Miến Điện so với Việt Nam là khả năng nói tiếng Anh và trình độ học vấn cao của những người lãnh đạo và nhiều công chức đã từng qua các trường lớp theo tiêu chuẩn của Anh. Chỗ bắt đầu của Miến cũng không thấp nếu so với Việt Nam năm 1989. GDP đầu người năm 2012 là 1013 USD (theo nguyên tắc tính của LHQ mà người viết thực hiện), không phải là nhỏ so với Việt Nam hiện nay là 1.755 USD. Kể từ khi viết lại Hiến pháp năm 2008 nhằm cải cách chính trị và kinh tế, kinh tế đã ổn định trở lại và có phần khởi sắc. Lạm phát giảm hẳn, từ 22% năm 2008 xuống 4-5% rồi 1,5% năm 2012. Đồng kyats lên giá, USD từ 1057 năm 2009 xuống 820 năm 2012. Tuy nhiên vào năm 2013 do thiếu hụt cán cân thanh toán tăng giá USD lên trở lại ở mức 970. GDP từ năm 2004-2008 tăng khoảng 4.5% (theo tính toán của tác giả do yêu cầu của chính phủ Miến và khắc hẳn số liệu chính thức của chính phủ cũng như của các tổ chức quốc tế) nhưng đã tăng tốc sau đó và đạt trên 7% năm 2012. Có thể khẳng định trước khi quyết định cải cách với Hiến pháp mới năm 2008, Miến Điện đã không lệ thuộc Trung Quốc về mặt kinh tế. Điều này ngược lại với những đánh giá cho đến mới đây của báo giới phương Tây không hiểu biết gì về Miến Điện. Trước năm 2008, tổng đầu tư của TQ vào Miến chỉ có 1 tỷ USD. Đầu tư này tăng vọt lên 13 tỷ USD vào năm 2011 bởi hai đầu tư lớn là đường ống dẫn dầu và khí từ vịnh Bengal lên Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) (coi hình 2). Cho đến nay tổng đầu tư của TQ vào Miến lên đến 14 tỷ USD, cũng chỉ bằng 35% tổng đầu tư nước ngoài vào Miến. Nước đầu tư lớn thứ hai là Thái Lan (10 tỷ USD) và thứ ba là Hồng Kông (6.4 tỷ USD). Thái Lan là nước mua đến 75 % khí đốt của Miến nhưng trong tương lai có thể khác vì nhu cầu của TQ. Đầu tư của TQ vào Miến hiện đang gặp khó khăn. Chính sách đi gần phương Tây của Miến Điện đã đưa đến quyết định năm 2010 tạm dừng dự án thủy điện Myitsone cho đến hết nhiệm kỳ của Tổng thống Thein Sein. Dự án này có ảnh hưởng lớn đến môi trường và đòi hỏi di dời số dân lớn nhưng chỉ với mục đích duy nhất là cung cấp điện cho TQ. Hiện nay đầu tư của TQ vào mỏ đồng Monywa cũng đang gặp khó khăn vì sự chống đối của dân địa phương vì tranh chấp về đền bù giải tỏa. Mới đây, năm 2103, TQ cũng đã phải rút lui trong cuộc chạy đua đấu thầu vào điên thoại di động vì thái độ không mặn mà của chính phủ Miến Điện. Dự án đường sắt nối liền Côn Minh TQ với cảng ở vịnh Bengal coi như xếp xó (coi hình 3). Tất nhiên chính phủ Miến vẫn khuyến khích đầu tư của TQ vào Miến Điện nhưng thái độ của TQ chỉ cần đi đêm với giới lãnh đạo trung ương, bất chấp quyền lợi của dân chúng địa phương đã đưa đến việc bài Hoa ở Phi châu và rồi ở Miến Điện. Dư luận nói chung ở Miến từ vài năm nay đang rộ lên tin tức về việc người Hoa ồ ạt sang Mandalay làm ăn, mua thẻ căn cước mất khoảng 1000 USD để thành người Miến, rồi sau khi nói được tiếng Miến thì chuyển đi nơi khác. Ở Miến, chỉ cần tấm thẻ căn cước là có thể thành người Miến mà không cần chứng minh sinh đẻ ở đó. Không biết sau này tình hình sẽ ra sao nhưng đó là thông tin mà anh Zaw Hein, một người Miến hướng dẫn du lịch, đã kể cho chúng tôi. Yangon & New York Vũ Quang Việt ****************************************************************************************** Miến Điện Huyền Bí Bagan, Madalay, Inle Lake, Naypyidaw, YangonLê Thị Hàn Myanmar hay Miến Điện, là một quốc gia thuộc môi trường Đông Nam Á, bao quanh bởi Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc, Lào và Thái Lan. Trong lịch sử hiện đại, Myanmar bị cô lập với thế giới khi chính quyền quân phiệt nắm giữ quyền lực tuyệt đối cai trị đất nước, khiến cho quốc gia này phải đối mặt với sự lên án của quốc tế nhân quyền.Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề xảy ra, Myanmar vẫn sở hữu một quá khứ hùng mạnh và một hệ thống các di sản phong phú. Myanmar được biết đến như là đất nước Phật giáo với hàng vạn ngôi đền, chùa tháp, với những nhà sư áo nâu, áo vàng và ni cô mặc áo hồng đi chân không trên đất. Họ khoan thai, chậm rãi, tay bưng bình bát, khuôn mặt thư thả như không có chuyện gì xảy ra quanh mình. Myanmar có một bề dày lịch sử và văn hóa truyền thống được bảo tồn và lưu giữ nguyên vẹn. Có thể nói, Myanmar không chỉ là vùng đất hành hương linh thiêng của những đệ tử nhà Phật mà còn ẩn chứa rất nhiều điều lý thú chờ đợi những ai đam mê du lịch khám phá. Tôi thích sự khác lạ nhưng lại còn hoài cổ, tôi choáng váng với viễn tượng phiêu lưu nhưng ngại ngùng trước những gì quá bí ẩn. Đến với Myanmar lúc này như đi vào chính giấc mơ của mình. Trước mắt tôi Myanmar đang còn huyền bí quá, 12 ngày trong nắng chói chang, leo bậc thang gập ghềnh, ghé thăm từ chùa này sang chùa khác. Đi xe ngựa dạo quanh thành phố, ngắm hoàng hôn trên đỉnh Mandalay hoặc đón bình minh bên hồ Inle với một nhóm bạn thân thương. Cái gì cũng làm mình ngỡ ngàng, thích thú trong vẻ đẹp bình yên mộc mạc của một đất nước xinh đẹp chưa có nhà cao tầng che lấp stupa (chùa tháp kiểu Myanmar), chưa có quá nhiều xe gắn máy, xe hơi ào ào phun khói ô nhiễm vào thành phố. Có ai đó hỏi sao bình minh và hoàng hôn ở Miến lại đẹp đến thế? Tôi sẽ trả lời: Vì bạn được ngắm ông mặt trời dần dần hiện lên trên bầu trời trong xanh không bị phá bởi những ngôi nhà cao tầng, những dây điện chằng chịt hay khói bụi ô nhiễm. Vì bạn được ngắm những tia nắng tắt dần yên lặng đưa bạn vào bóng tối trong một không gian tĩnh lặng và thanh bình đến lạ – không còi xe, không tiếng quát tháo (do kẹt đường) không có sự hiện hữu của một cuộc sống đô thị bận rộn. Và vì bạn được ngắm mặt trời với tâm hồn luôn thanh thản trong tiếng chuông chùa ngân vang qua những ngôi chùa êm ấm. Nhưng khi tất cả những cảm giác khoan khoái đó lắng xuống thì lòng lại lâng lâng buồn vì một đất nước đẹp, một dân tộc hiền từ, một xứ tài nguyên không thiếu mà dân chúng chung quanh lại rất nghèo. Đời sống còn khó khăn, vệ sinh chưa đủ tiêu chuẩn, xã hội còn rất sai biệt. Trang phục truyền thống của nam giới là Longchy (một loại quần váy rộng may kín quần vào chính giữa) với áo sơ mi hoặc áo Taipon (áo truyền thống). Nữ giới mặc Thummy, gần giống với váy Lào hoặc Thái. Dân Myanmar không cầu kỳ trong cách ăn mặc cũng như cuộc sống hàng ngày. Phụ nữ Myanmar rất ít trang điểm, chỉ dùng bột chống nắng thanakha. Họ không se sua, lòe loẹt, không ăn mặc hở hang vì rất sùng đạo và vẫn thường đi lễ chùa trong ngày. Khi tới đây, bạn dễ bắt gặp hình ảnh các thầy tu ngồi tụng kinh hoặc những gia đình ngồi cầu an hàng giờ. Nhiều du khách đến chùa, ngồi ở hành lang quan sát truyền thống thờ cúng. Chùa cho phép mang theo đồ ăn nhẹ và thức uống. Một điểm nên nhớ là khi đến chùa, mọi người đều phải để giày dép ngay từ ngoài cổng chùa và đi bộ vào chánh điện, có khi rất xa, đường đá nhầy nhụa, gặp mưa lại có cát ướt có khi thấy cả những con rít nhỏ nhìn theo bước chân mình. Có thể những con sâu nhỏ cũng có lòng từ bi của Phật hay sao mà không nghe ai than phiền bị cắn phá. Có bạn còn hỏi, lạ nhỉ sao chó ở đây cũng hiền nữa. Thật là như thế, không biết sao chùa cũng nuôi chó và những con chó không sủa bậy chút nào. Myanmar có rất nhiều chùa, 3 ngôi chùa nổi tiếng nhất mà du khách nào khi đến Myanmar cũng tìm đến chiêm bái và tham quan: Chùa vàng Shwedagon: ở Yangon; Chùa vàng Mahamuni: ở Mandalay: Chùa vàng Kyaiktiyo: ở Kyaiktiyo. BaganĐiểm đến đầu tiên trong hành trình của chúng tôi là cố đô Old Bagan, có diện tích 42km², nằm trên bờ của dòng sông Ayeyarwaddy ở trung tâm của Myanamar. Cố đô Old Bagan là nơi hội tụ những công trình kiến trúc đền chùa độc đáo nhất Đông Nam Á với hơn 3,000 đền, chùa cổ – một bằng chứng cho thời kỳ lịch sử huy hoàng của Myanmar. Bagan bao gồm 3 thị trấn: Nyuang U, Old Bagan và New Bagan. Riêng ở cố đô Bagan, có khoảng 4.000 ngôi chùa lớn nhỏ, bao gồm cả những chùa mới được tu bổ lại sau trận động đất 6.8 độ richter vào năm 2012.Bagan chứa nhiều giá trị văn hóa, tín ngưỡng Phật giáo đặc sắc, luôn biết cách chinh phục du khách. Sau khi thăm viếng Tu viện Shwenandaw, nổi tiếng với nghệ thuật điêu khắc trên gỗ, và chùa Kuthawdaw với thư viện bằng 739 bia đá, bạn có thể đến chân đồi Mandalay Hill, lên đỉnh núi chiêm ngưỡng toàn cảnh của cố đô Miến Điện và ngắm hoàng hôn trên giòng sông huyền thoại Irrawaddy. Nằm phía đông bắc thành phố, đồi Mandalay là một ngọn đồi linh thiêng được vua Mindon của Myanmar chọn xây thành phố Mandalay từ năm 1857. Xung quanh ngọn đồi có hàng loạt ngôi chùa nổi tiếng của Myanamar như Kuthodaw, Sandamuni. MandalayBuổi chiều, xe tấp nập chạy về hướng ngọn đồi. Thang máy cuốn chạy một chiều đưa khách lên để có thể chọn một chỗ tốt nhất mà tận hưởng những khoảnh khắc cuối cùng trong ngày. Không bị những nhà cao tầng che khuất nên người dân tại đất nước này cũng như bất cứ ai đến đây cũng đều có cơ hội nhìn ngắm mặt trời vào thời khắc mà mắt thường có thể nhìn trực diện, bình minh cũng như hoàng hôn. Theo dõi và chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên hùng vĩ là một trong những đặc sản của Myanmar. Trên đỉnh đồi Mandalay có ngôi chùa Sutaungpyi, độc đáo với là hệ thống gạch gương lát trên tường phản chiếu ánh sáng khiến chùa trở nên vàng rực rỡ và lấp lánh giữa ngọn đồi mỗi khi được mặt trời chiếu rọi. Tất nhiên, giống như những nơi linh thiêng khác, du khách phải ăn mặc kín đáo và đi chân trần lên đồi, vào chùa không kể thời tiết nóng hay lạnh. Một lần ngắm hoàng hôn trên đỉnh đồi Mandalay, bạn sẽ không thể quên Mandalay giữa thiên nhiên kỳ diệu. Hình ảnh thành phố với đền tháp tua tủa vút lên chuyển dần từ màu vàng nhạt sang màu tím rồi đỏ thẫm theo từng bước màu của hoàng hôn. Khi mặt trời chìm xuống phía bên kia dòng Irrawaddy, làn sương mờ từ từ nhuộm trắng thành phố sẽ là kinh nghiệm độc nhất vô nhị trong nhật ký du lịch. Khác xa với sự yên bình tại Old Bagan, Mandalay, với bề ngoài hiện đại và đầy bụi bặm, ồn ào hơn, xe cộ và tàu bè tấp nập trên sông nhưng bên trong Mandalay vẫn in đậm những dấu ấn cuối cùng của lịch sử. Cách thành phố Yagoon 716km về phía Bắc là trung tâm của nền văn hóa thời kỳ vương quốc Kohbaun. Chính vì vậy, nơi đây hấp dẫn nhiều du khách nhất ở Myanmar. Nếu bạn không lên đồi Mandalay kịp bạn có thể tìm đến cầu gỗ teak Ubein -một trong những nơi ngắm hoàng hôn đẹp nhất thế giới. Cầu gỗ Ubein nằm ở ngoại ô Mandalay, vùng châu thổ ven sông Taungthamna. Do lòng sông rất rộng, để nối hai bờ sông, người dân Myanmar đã xây cây cầu gỗ dài và lâu đời nhất trên thế giới,1.2 km. Bên kia cầu là làng cổ Inwa đã hơn 400 tuổi. Chúng tôi ngồi lênh đênh trên thuyền nhìn cây cầu huyền thoại soi bóng nước, những con sóng nhỏ lăn tăn theo mái chèo chở những vệt nắng màu cam rực lửa đi đi về về, lung linh, giữa buổi chiều tà. Cảnh đất trời nơi đây thật tuyệt vời. Đền AnandaViên ngọc quý của kiến trúc Miến Điện và là một trong những địa điểm chính của cuộc hành hương Miến Điện. Ananda là ngôi đền tôn kính ở Bagan, được xây dựng dựa trên ý kiến của 8 nhà sư từ đền Nandamula ở dãy núi Himalaya. Thời bấy giờ, nhà vua đã yêu cầu các nhà sư xây dựng ngôi đền ở giữa vùng đồng bằng Bagan để mô tả lại cho giống bản gốc. Tuy nhiên, theo chuyện xưa kể lại, sau khi hoàn thành việc xây dựng, nhà vua đã ra lệnh giết các nhà sư để đảm bảo sự độc đáo của ngôi đền không bị lập lại ở bất cứ nơi đâu. Ananda được mệnh danh là ngôi đền đẹp nhất ở Bagan có 4 tượng Phật lớn bằng vàng đặt ở 4 hướng. Trong đó tượng Đức Phật ở phía nam (Phật Ca Diếp) miệng mỉm cười khi bạn tiến đến Đức Phật để cầu nguyện, nên hãy luôn mỉm cười để lòng được thanh thản. Bốn Đức Phật dựng ở bốn hướng là những Đức Phật đã đạt được cõi Niết bàn. Sulamani là ngôi đền được vua Narapatisithu xây dựng năm 1183. Sulamani được trang trí rất đẹp ở các bức tường phía bên ngoài đền, nhưng Sulamani khác biệt với những ngôi đền khác ở những bức tranh rất tinh xảo được trang trí trên tường, trên trần phía bên trong ngôi đền. Khi bạn bước chân vào ngôi đền ngàn năm tuổi này, sẽ có cảm giác như bỏ lại những bụi trần phía bên ngoài cổng, tạm quên đi mọi thế sự nhân gian. Đền Dhammayangyi là ngôi đền có diện tích lớn nhất Bagan hình khối kim tự tháp. Đặc biệt đền không có chóp như những ngôi đền khác. Năm 1167 sau khi giết vua cha của mình, vua Narathu (Kalagya Min) chiếm ngai vàng và xây đền bằng gạch nung không hề có mạch vữa. Tương truyền rằng ngôi đền xây nhưng không hoàn thành được vì những nhân quả mà Narathu gây ra, việc đó cũng giải thích vì sao đền này không có chóp. Là ngôi đền cao nhất ở vùng đất đầy gió bụi, đền gây ấn tượng bởi những mảng gạch được thời gian sơn màu rêu phong cổ kính. Từ phía xa, ngôi đền kiêu hãnh vươn mình nổi bật giữa bình nguyên vùng đất cổ Bagan. Du khách đến đây thường ngồi ở một góc đền để nhìn về phía chân trời, chờ đón tia nắng ngày mới trong yên bình. Đi thuyền ra giữa dòng sông Ayeyyarwardy nhìn về ngôi chùa Bupaya bạn sẽ có một góc nhìn khác về Bagan cổ kính. Bupaya được phục chế sau trận động đất lớn năm 1975. Chùa Nochanthar gần đền Ananda theo lối kiến trúc đặc trưng của Myanmar, được thiết kế hài hòa giữa gạch nung, mái gỗ và những gam màu đầy rêu phong thời gian. Nochanthar nép mình dưới những hàng thốt nốt xanh tạo nên một khung cảnh yên bình đến lạ. Chùa vàng Shwezigon là nguyên bản của chùa vàng Shwedagon ở Yangon. Khác với Shwedagon tráng lệ nguy nga thì Shwezigon lại mang đến cảm giác thanh bình dù rất rộng lớn. Tương truyền có đến hơn 30 tấn vàng được dát lên và hàng ngàn viên đá quý được gắn trên đỉnh chùa. Thần NatTrong nhân gian, Phật Giáo Miến Điện mang nhiều sắc thái mê tín. Dân chúng dù rất nghèo cũng cố gắng cúng dường vàng bạc để xây chùa. Họ không chỉ tin vào Đức Phật mà còn sùng bái các vị thần linh (Nats). Tu viện Phật giáo Taung Kalat, một trong những điểm tới tâm linh đặc trưng nhất Miến Điện tôn thờ 37 vị thần huyền thoại với những câu chuyện bi tráng về con đường thành thần. Taung Kalat được xây trên đỉnh núi, phảileo lên 777 bậc thang mới đến tu viện. Ngoài việc là một điểm du lịch, tu viện còn là nơi hành hương. Người ta tin rằng Taung Kalat là nơi sinh sống của những vị thần Nat. Theo đức tin từ Phật giáo Miến Điện, Nat là một nhóm những vị thần đóng vai trò bảo hộ cho con người và là vong hồn của núi rừng. Các thần Nat được phụng dưỡng ngay cả trước lúc Phật giáo nhập vào Miến Điện, mặc dù đức tin này đã được sáp nhập vào giáo lý Phật giáo vào thế kỷ 3 TCN. Cũng có lẽ vì thế mà người dân đôi khi sùng bái đạo Phật một cách cuồng tín. Vào những ngày lễ hội họ còn có người nhập đồng và họ lên đồng với áo quần sặc sở, múa may quay cuồng tin tưởng vào linh hồn người đã mất. 37 vị thần Nat đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ tạo lập sơn hà chùa tháp. Hầu hết các thần Nat lúc sinh thời là người thường đã bị chết một cách tàn bạo. Các câu chuyện về cuộc đời của các Nat là những huyền thoại. Mặc dù 37 vị thần Nat được thờ trên Taung Ma-gyi, nhưng chỉ có 4 thần còn lại nơi này. Đó là Maung Tint Dai, Saw Me Yar, Byatta và Mai Wunna. Mỗi vị thần có một câu chuyện riêng thuật lại con đường họ trở nên thần Nat. Huyền thoại từ ngọn núi Popa vẫn còn dài và là một phần trong văn hóa Miến Điện. Sự phổ thông trong phong tục thờ cúng trên đỉnh Popa cho ta thấy rằng truyền thống cổ xưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống hằng ngày của dân chúng và trở nên nét đặc trưng cho nền văn hóa Miến Điện. Mỗi năm vô số khách hành hương đến đây vào dịp trăng tròn Nayon (tháng 5/tháng 6) hay Nadaw (tháng 11/ tháng 12). Đường lên núi rất nên thơ. Xung quanh đây có thể thăm các hang động. Bạn đã có bao giờ thấy hơn 8,000 tượng Phật lớn nhỏ khác nhau nằm trong cùng một hang động chưa? Đến Pindaya sẽ cảm thấy mình đang đi trong một làng xóm mà ai cũng là Phật. Sẽ thấy mất hút trong những bức tượng Phật lớn nhỏ đủ cỡ, hoa cả mắt. Chúng tôi như đi lạc vào một rừng Phật mà không biết lối ra. Chùa Đá Vàng KyaikhtiyoGolden Rock Có lẽ đi thăm chùa Đá Vàng Golden Rock là chuyến đi không thể quên được. Xe băng qua miền Nam Myanmar đến vùng Kyaikhtiyo, cách Yangon khoảng 210 km để thăm chùa Đá Vàng Kyaikhtiyo Golden Rock, một trong những thắng cảnh tiêu biểu nhất của Myanmar. Theo truyền thuyết trong lần đức Phật đến đây truyền đạo, ông đưa cho tu sĩ Taik Tha một sợi tóc. Sợi tóc của đức Phật được cất vào hòn đá và ngôi chùa nhỏ đã được xây dựng lên mang tên Kyaikhtiyo.Phật tử Miến Điện tin rằng khi đến đây quỳ lạy cầu nguyện và ôm lấy hòn đá họ sẽ được phước lành. Du khách chiêm ngưỡng hòn đá và ngôi chùa được phủ bằng vàng lá nằm cheo leo là một thử thách thú vị. Sau khi xe đến bến, chúng tôi trèo sang một chiếc xe bán tải không trần để cùng đi xuyên qua các khu rừng núi rậm rạp. Ngồi trên xe vừa nắng vừa gió vừa bụi, ai cũng lắc lư khi xe gầm rú leo lên các con dốc quanh co dài 11 km. Chúng tôi như đang tham dự trò chơi thử cảm giác mạnh trong gần một tiếng đồng hồ. Xe băng qua những con đường dốc, mỗi khúc quành đều nghe tiếng rít, tiếng rú mang theo khói mịt mù. Xe lao nhanh qua dốc quanh co làm mọi người dù tay đã bám chặt vào bệ ghế cũng hết nhào sang bên phải lại nhào sang bên trái. Lúc đầu có người còn thích thú reo cười. Qua những khúc quanh càng lúc càng nguy hiểm hơn chúng tôi bắt đầu sợ, bắt đầu bám chặt lấy nhau như có một sự thông cảm không lời. Rồi cùng nhau hát, mỗi lúc một lớn tiếng hơn như cố át tiếng gió bụi. Hát những bản hùng ca, những bản nhi đồng ca chưa nghe bao giờ. Cứ như thế chúng tôi đã cùng nhau trấn át được sự sợ hãi trong chuyến đi hành hương đầy thử thách này. Đến Kimpun lại phải xuống xe đi bộ đến chùa Đá Vàng. Chỉ có 1,2 km nhưng đây là những dốc đứng, quanh co như cùi chỏ, không xe nào lên được, chỉ có thể đến bằng đôi chân người. Nếu bạn biết sức mình không đi được thì có thể ngồi trên kiệu, thuê người khiêng. Trước đây nhiều Phật tử đã phải bỏ cả tuần, có khi cả tháng mới hành hương lên đến chùa. Đường đi khó khăn như thế nên khi đến nơi nhìn được ngôi chùa, chạm tay vào hòn đá thiêng liêng đó cái cảm giác đã chinh phục được rất thỏa thích. Nhất là sau khi lắng nghe tiếng chuông chùa, tiếng người rì rầm cầu nguyện làm mình càng cảm thấy êm ấm và bình yên làm sao!!! Trong bóng chiều, Golden Rock trở nên lung linh và huyền ảo. Hồ InleCách thành phố Yangon khoảng 600 km, Inle là một hồ nước ngọt nằm trên núi. Người dân chủ yếu sống trên hồ “nơi đánh cá bằng chân và trồng cây trên nước”. Người Inthar trồng cà chua trên hồ Inle và hình ảnh những người đàn ông chèo thuyền độc mộc bằng một chân đã trở thành một nét văn hóa sinh hoạt đặc trưng của vùng hồ. Khi chúng tôi đến đây, mặt trời sắp lặn. Một vầng ánh sáng màu cam đỏ dần dần lặn xuống, sáng rực rỡ cả mặt hồ. Khung cảnh xung quanh trở nên huyền ảo, thanh bình và thơ mộng. Chúng tôi thay phiên nhau chụp hình, ngắm nhìn để có thể giữ lại những giây phút rực rỡ đó. Hôm sau được dạo thuyền trên những dòng nước, hai bên bờ trồng cà chua xanh, xa xa ẩn hiện bao nhiêu là ngôi chùa nhỏ. Ngắm nhìn cảnh đẹp từ du thuyền, trời nắng chang chang, gió thổi lồng lộng trong một không gian rộng lớn chỉ có nước mát và trời xanh thật là thú vị. Inle từng được tạp chí du lịch uy tín thế giới Condé Nast Traveler chọn là 1 trong 5 điểm đến mới của châu Á mà du khách 5 châu nên khám phá. Inle là một điểm du lịch hấp dẫn mà mọi người thường rỉ tai nhau chưa đến đây coi như chưa đến Myanmar. Khi đến hồ Inle chuyển đến bến tàu Nyuang Shwe, xuống thuyền máy piroque dài và hẹp để đến thăm làng Sar Kone Kyay và chiêm ngưỡng vẻ đẹp quanh hồ.Inle có nghĩa là “hồ lớn”, nằm ở độ cao khoảng 889 m so với mực nước biển, được bao quanh bởi núi cao và rộng 220 km2. Nếu đã đi khắp các ngõ ngách của hồ Inle, bạn không thể nào bỏ lỡ dịp ngắm mặt trời lặn. Một vầng sáng cam dần dần lặn xuống, làm sáng rực rỡ cả một góc trời, khung cảnh trở nên lung linh huyền ảo, chìm đắm trước không gian thanh bình và thơ mộng. Hãy mang chút đồ ăn với những bản nhạc, tận hưởng những giây phút rực rỡ đó. Cây cà chua trồng trên hồ Inle là một đặc sản của nơi này. Người dân Myanmar thường truyền miệng câu “đến Inle mà chưa ăn salad cà chua ở đây coi như chưa từng đến”. Khi con gái đến tuổi lấy chồng, cha mẹ thường cắt cho một vài bè nổi để con gái làm của hồi môn. Sống ở đâu thì đẩy bè đến đó mà canh tác trồng trọt, sinh nhai. Chiếc thuyền len lỏi đưa chúng tôi qua những bè cà chua nổi mọc cao trên một mét, thỉnh thoảng lại bắt gặp những mảng hoa cúc trắng, hồng, tím trồng thành một vạt dài. Người dân ở đây trồng hoa để thờ cúng. Đằng sau mảng bè hoa là căn chòi lợp lá, khiến cảnh sắc thêm phần lãng mạn, yên bình giữa một vùng trời nước xanh bao la. Ngoài trồng trọt, người Inthar còn sống vào nguồn thủy sản đánh bắt được trong hồ. Lác đác trong ánh bình minh phía Đông, bóng những người đánh cá tung lưới trên hồ đẹp như trong tranh. Vùng hồ Inle còn có một tiểu công nghệ rấ lạ và đặc sắc. Chúng tôi đi thăm xưởng dệt của làng Inpawkone sử dụng sợi hoa sen đẻ dệt những tấm khăn đủ màu sắc lạ chưa từng thấy. Chúng tôi đã đi thăm không biết bao nhiêu đền chùa mà cũng còn dừng chân ở Tu viện Nga Phe Kyaung nơi có nhiều bức tượng Phật tuyệt đẹp làm bằng tre sơn mài và gỗ ép. NaypyidawTừ một nơi tuyệt đẹp và lãng mạn như Inle, để thay đổi không khí chúng tôi đi Naypyitaw. Naypyidaw có vị trí trung tâm và chiến lược hơn so với Yangon và đồng thời cũng là một trung tâm giao thông nằm tiếp giáp với các bang Shan, Kayah và Kayin. Vào tháng 11/2005, Naypyidaw đã vinh dự được chọn là thủ đô mới của đất nước chùa tháp Myanmar. Naypyidaw cũng là nơi đã chính thức diễn ra các hoạt động lớn của SEA Games 27 – đại hội thể thao lớn nhất Đông Nam Á. Nếu có điều kiện, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội ghé thăm NayPyidaw – thủ đô mới của Myanmar nhé! Được xây dựng mới hoàn toàn trên nền những cánh đồng quê Pyinmana với tổng diện tích 7,054.37 km2, nằm giữa hai dãy núi Bago Yoma và Shan Yoma, thủ đô mới của Myanmar được quy hoạch theo nhiều khu gồm dinh thự làm việc của Quốc hội, Chính phủ, khu dân cư, khách sạn cao cấp, khu mua sắm…và là 1 trong 10 thành phố có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới năm 2011. NayPyidaw theo tiếng Myanmar có nghĩa là “thành phố hoàng gia”, “nơi những vị vua ở”. Có lẽ vậy, chưa được 10 năm kể từ khi được chọn là thủ đô của đất nước, vùng đất này đã “biến hình” thành thành phố có cơ sở hạ tầng hiếm có trong khu vực Á Châu và thế giới. Chắc hẳn ai đến NayPyidaw cũng sẽ choáng ngợp trước quy mô của các tòa nhà công quyền, đặc biệt là Tòa nhà Quốc hội nguy nga như một cung điện khổng lồ. Xét về sự đồ sộ thì Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở NayPyidaw khó có “đối thủ” trên thế giới. Thủ đô mới của Myanmar cũng có hàng trăm khách sạn với quy mô khiến nhiều người ngỡ ngàng bởi chúng được thiết kế rộng rãi như tiêu chuẩn của những khu nghỉ dưỡng cao cấp ở các nước khác. Sân bay Quốc tế NayPyidaw được xây dựng để sẵn sàng đón 10 triệu lượt khách mỗi năm. Với những gì đất nước Myanmar đang nỗ lực gây dựng, trong thời điểm này, đứng ở đây có cảm tưởng như nhà cầm quyền quá hoang phí hay kỳ vọng quá cao vào tương lai. Trở thành thủ đô đã hơn 10 năm nay mà thành phố vẫn chưa đủ dân cư để có thể sử dụng được những phương tiện tân thời, những tiện nghi thượng hạng, trong lúc dân chúng ở các thành phố chúng tôi đã đi qua còn sống rất nghèo khổ. Nhà cửa xây dựng rất căn bản, có khi chỉ là vài mái phên mỏng trong lúc thời tiết xứ này khắc nghiệt hơn xứ sở miền Nam nhiều. Chung quanh đây ngoài những thành phố lớn, người ta có cảm tưởng xứ chùa tháp có nhiều đền chùa hơn là nhà ở. Hy vọng trong thời gian ngắn, với nổ lực của chính phủ chúng ta sẽ thấy một Myanmar mới, mạnh mẽ hoà nhập với thế giớihơn. Naypyidaw, thủ đô mới sẽ không còn là một thị trấn độc đáo với đại lộ vắng người. Các khu phố và các tòa nhà hành chánh không ai qua lại bây giờ sẽ trở nên tấp nập hơn. Thành phố YangonThành phố Yangon vẫn còn hấp dẫn với những con đường rộng, và những hàng cây bên hồ. Yangon có đền Shwedagon, một trong những kỳ quan thế giới, cao 98 mét, rực sáng như ngọn đèn vàng nằm giữa thành phố. Bạn có thể nhìn thấy ngôi đền ở bất kỳ nơi nào trong thành phố. Ước tính, chùa Shwedagon được dát tới 60 tấn vàng do dân chúng Myanmar đồng tâm đóng góp. Mỗi người dân dù nghèo khổ cũng dành dụm tiền, mua những lá vàng mỏng tiến vào nhà chùa. Họ tin tưởng là được đến Shwedagon một lần trong đời là một diễm phúc. Có duyên để cúng dường xây dựng chùa là một ân huệ của Đức Phật. Dưới ánh nắng mặt trời ban ngày hay dưới ánh đèn rực sáng ban đêm, toàn bộ khuôn viên chùa và đặc biệt là Tháp Vàng luôn bật lên một thứ ánh sáng uy nghi, rực rỡ. Mặc dù có 3,5 triệu cư dân, Yangon vẫn chưa bị căng thẳng về giao thông như các thành phố lớn của châu Á. Đường phố rộng ngợp bóng cây, các tòa nhà Victoria thời thuộc địa và nhiều di tích tôn giáo đã làm cho Yangon trở nên duyên dáng. Chùa vàng Shwedagon ở YangonShwedagon là ngôi chùa vàng thiêng liêng nhất của Myanmar, có ngọn tháp dát vàng ròng trên đỉnh gắn hàng nghìn viên kim cương và hồng ngọc. Theo truyền thuyết, hai anh em thương gia người Myanmar là Taphussa và Bhallika sang Ấn Độ buôn bán và được giác ngộ đạo Phật. Khi trở về quê hương, họ mang theo bảo vật là 8 sợi tóc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Với sự giúp đỡ của vị vua thời bấy giờ là Okkalapa, hai anh em đã xây ngôi chùa Shwedagon để lưu giữ những sợi tóc của Đức Phật. Bảo tháp trên đỉnh mái vòm chính của ngôi đền có một chiếc vương miện nạm hơn 7.000 viên kim cương và đá quý. Lớn nhất là viên kim cương 74 carat. Chùa Shwedagon là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo nổi tiếng nhất trên thế giới. Hiện chưa biết chính xác ngôi chùa này có từ bao giờ nhưng theo sử sách ghi chép chùa Shwedagon có lịch sử khoảng hơn 2.500 năm (trước khi Phật qua đời), các nhà khảo cổ cho rằng chùa được xây dựng trong khoảng thế kỷ thứ VI đến thế kỷ X. Tòa tháp được dát một lớp vàng lá ròng 20 x 20cm. Theo thống kê, nửa dưới của ngọn tháp được dát 8,688 lá vàng, còn nửa trên là 13,153 lá vàng. Đỉnh tháp có vương miện nạm 5,448 viên kim cương, 2,317 viên ruby, sapphire và các loại đá quý khác, cùng 1,065 chuông nhỏ bằng vàng. Trên lá cờ ở đỉnh tháp, có gắn một viên kim cương nặng tới 76 carat (15g). Chùa Shwedagon được trùng tu nhiều lần sau ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt khi chùa chịu ảnh hưởng của ít nhất 8 trận động đất vào thế kỷ 17. Hình dáng chùa hiện nay được xây lại sau cơn địa chấn năm 1786 từng khiến nửa trên của chùa sụp xuống. Ước tính, chùa Shwedagon được dát tới 60 tấn vàng do dân chúng Myanmar đồng tâm đóng góp. Mỗi người dân dù nghèo khổ cũng dành dụm tiền, mua những lá vàng mỏng tiến vào nhà chùa. Họ tin tưởng được đến Shwedagon một lần trong đời là một diễm phúc. Có duyên để cúng dường xây dựng chùa là một ân huệ của Đức Phật. Dưới ánh nắng mặt trời ban ngày hay dưới ánh đèn rực sáng ban đêm, toàn bộ khuôn viên chùa và đặc biệt là Tháp Vàng luôn bật lên một thứ ánh sáng uy nghi, rực rỡ. Tuy nhiên, thời điểm chiêm ngưỡng Shwedagon tuyệt nhất có lẽ là vào buổi chiều khi cả ngọn tháp vàng rực nổi bật trên nên trời xanh thẫm. Đi suốt chiều dài, chiều ngang của Myanmar, chúng ta thấy vịtrí địa lý chiến lược của Miến Điện và Việt Nam đối với Trung cộng khá giống nhau. Từ năm 1965 Mao Trạch Đông đã từng nói: “Chúng ta nhất định phải giành lấy Đông Nam Á, kể cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một khu vực như Đông Nam Á rất giàu có, ở đó có nhiều khoáng sản, nó hoàn toàn đáng bỏ công của ra để giành lấy nó. Trong tương lai, nó sẽ rất có lợi để phát triển công nghiệp Trung Quốc. Như vậy, sẽ có thể bù đắp toàn bộ những thiệt hại. Sau khi chúng ta giành được Đông Nam Á, ở khu vực này sẽ có thể tăng cường các lực lượng của chúng ta …” Sau tuyên bố “Cân bằng chiến lược và xoay trục sang châu Á” của Hoa kỳ thì vị trí chiến lược của Miến Điện đối với Trung cộng càng trở nên quan trọng. Vì Trung cộng có thể giải tỏa bớt áp lực của Hoa kỳ (khi chiến tranh hoặc căng thẳng xảy ra) tại eo biển Malacca bằng cách vận chuyển dầu từ Trung đông qua lãnh thổ Miến điện, hơn nữa Miến lại là nước giầu tài nguyên, có cả quặng mỏ và khí đốt. Trước dã tâm đó, giới lãnh đạo Miến Điện đã sáng suốt tìm cách thoát ly và giảm ảnh hưởng từ Trung cộng. Chính quyền Miến đã mạnh dạn dùng quân đội chận đứng dã tâm cho quân lính trà trộn vào dân để tràn vào những vùng biên giới thì ngược lại cả ban lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam ký mật ước bán đất, nhượng biển cho Trung cộng. Miến ra sắc lệnh cấm bán gỗ cho tỉnh Vân Nam thì Việt Nam cho Trung cộng mướn đất, phá rừng. Vì các cuộc biểu tình chống đối của người dân, chính phủ Miến đã đình chỉ dự án xây đập Myitsone nhằm cung cấp điện cho tỉnh Vân Nam, trong khi đó trước những cuộc biểu tình của nhân dân, trước những kiến nghị, can ngăn của mọi thành phần trong xã hội, vì lợi ích cá nhân, Việt Nam vẫn thản nhiên ký sắc lệnh cho Trung cộng khai thác Bô xít tại Trung nguyên, vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa chiếm mất vị trí chiến lược hiểm yếu của đất nước. Sự khác biệt quan trọng ở đây là Mynmar có bà Aung San Suu Kyi, và những nhà yêu nước dám dấn thân ở trong nước và ngoài nước. Bà Aung San Suu Kyi là con gái của tướng Aung San, người đã có công thành lập quân đội Miến Điện hiện đại và cũng có công giành lại độc lập cho đất nước từ đế quốc Anh và Nhật. Cha bà bị mất trong một cuộc ám sát của phe đối lập, từ đó bà sống với mẹ. Từ năm 1960 bà theo mẹ đến sống tại Ấn Độ khi mẹ bà, bà Khin Kyi, được bổ nhiệm làm đại sứ Miến Điện ở Delhi. Sau khi học xong trung học, bà sang Anh theo học tại Đại học Oxford về triết học, chính trị và kinh tế. Nơi đây, bà lập gia đình với ông Michael Aris, một học giả nghiên cứu về Tây Tạng và có 2 người con. Năm 1988 bà trở về Miến Điện để chăm sóc người mẹ bị bệnh nặng. Lúc này Miến Điện đang trong cơn biến động chính trị lớn. Hàng chục nghìn sinh viên, nhân viên văn phòng và nhà sư đã xuống đường biểu tình đòi cải cách dân chủ. Bà đã tận mắt thấy cảnh tượng những người biểu tình bị chính quyền đàn áp dã man hàng ngày. Trong một buổi nói chuyện tại Yangon (lúc đó còn là thủ đô của Miến Điện) bà tuyên bố: “Với tư cách là con gái của cha tôi, tôi không thể làm ngơ trước những gì đang diễn ra” và bà tham gia, dẫn đầu phong trào biểu tình chống lại tướng Ne Win, kẻ độc tài nắm quyền vào thời đó. Ngày 27.09.1988 Liên Minh Quốc Gia vì Dân Chủ (National League for Democracy (NLD)) được thành lập và bà được bầu làm chủ tịch Liên Minh. Cuộc đấu tranh bị đàn áp tàn bạo, bà bị quản thúc tại gia và nhiều nhân vật nồng cốt trong Liên minh bị bỏ tù. Tháng 5.1990, chính quyền quân sự tổ chức cuộc bầu cử quốc gia, đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi chiến thắng trên 80% số phiếu, tuy nhiên, chính quyền quân phiệt không công nhận kết qủa cuộc bầu cử và tiếp tục đàn áp các phong trào tranh đấu của sinh viên. Bà được trao giải Nobel Hòa bình năm 1991, con trai đã thay mặt bà đến nhận. Chủ tịch ủy ban trao giải tuyên dương bà là “Một điển hình về sức mạnh của những người không có quyền hành”. Trong thời gian bị giam, bà Suu Kyi nghiên cứu và tập luyện thể lực để vượt qua khó khăn và sự sợ hãi. Bà ngồi thiền, trau dồi thêm ngoại ngữ và chơi đàn dương cầm. Chính quyền quân phiệt Miến có lúc đã cho phép bà đến Anh để thăm chồng khi ông bị bệnh nặng, nhưng bà phải từ chối vì sợ sẽ không được phép quay trở lại đất nước. Giai đoạn bị quản thúc cuối cùng của bà kết thúc vào tháng 11.2010. Đất nước Miến Điện sau 50 năm dưới sự cầm quyền của chính quyền quân phiệt, từ một nước tương đối phát triển tại Đông nam Á, giầu tài nguyên trở thành một quốc gia nghèo đói, tụt hậu, bị Hoa Kỳ và Âu châu cấm vận. Lúc đầu giới lãnh đạo Miến còn dựa vào Trung cộng và nguồn đầu tư của vài nước Á châu như Thái Lan, Nam Hàn nhưng sau đất nước càng lúc càng bi đát, trong thì bị nhân dân chống đối, ngoài thì Trung cộng chèn ép, cho dân lấn đất, khai thác tài nguyên, gây ô nhiễm môi sinh, đầu dây mối nhợ của mọi nguồn tham nhũng, nguyên nhân của mọi tai họa. Trước thách thức sống còn của đất nước, giới lãnh đạo quân sự của Miến Điện không còn lược chọn nào khác, là cứu nước và tự cứu mình, đã phải chấp nhận con đường cải cách, tiến đến Dân chủ và cộng tác với đảng NLD của bà Suu Kyi.Đầu tháng 2.2011, quốc hội Miến Điện đã bầu ông Thein Sein làm tổng thống dân sự. Sau đó, bà Suu Kyi chấp nhận ứng cử vào quốc hội trong cuộc bầu cử phụ vào tháng 4.2012. Bà và đảng NLD thắng 43 trong số 45 ghế được tranh cử. Vài tuần sau, bà Suu Kyi tuyên thệ tại quốc hội và trở thành lãnh đạo của phe đối lập. Tháng 5 năm đó, bà lần đầu tiên rời khỏi Miến Điện sau 24 năm. Bà đi khắp thế giới, từ Á sang Âu để biểu dương triển quan Dân chủ và kêu gọi thế giới bỏ cấm vận, đầu tư và ủng hộ đất nước của bà. Ngày 6.11.2015 vừa qua, hàng ngàn người đã kéo đến trụ sở của Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) ở Yangon để ăn mừng chiến thắng, cũng có thể nói chính xác là chiến thắng của bà Aung San Suu Kyi, chủ tịch Đảng NLD trong cuộc bầu cử. Đây được xem là một bước tiến tới dân chủ của đất nước Miến Điện. Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (LND), do bà Suu Kyi, dẫn dắt, đã chiến thắng, giành 348 ghế tại thượng viện và hạ viện, cao hơn mức cần thiết để chiếm thế đa số 19 ghế. Qua kết quả trên, chúng ta thấy quả thật bà Aung San Suu Kyi đã giữ một vai trò rất quan trọng. Đối với dân Miến Điện bà đã trở thành biểu tượng của Hy Vọng, biểu tượng của Bà Mẹ Miến Điện, chứa đựng những đức tính nhân bản của một dân tộc theo đạo Phật. Trong những năm tháng bị quản thúc bà đã từng ngồi thiền hàng ngày, luyện tinh thần, tập kiên nhẫn và mở lòng bao dung. Trong đấu tranh bà chủ trương bất bạo động và không được trả thù những người trong quân đội đã từng hành hạ, cầm tù bà và những người đấu tranh. Từng bước một, nhẫn nhục và kiên trì, bà đã đi vào lòng người dân, ngay tại Naypyidaw, thủ đô mới của Miến Điện, được dựng lên bởi các lãnh đạo quân sự, là nơi tập trung nhiều binh sĩ, cảnh sát và nhân viên công chức nhất trong nước. Nhưng ngay cả ở đây, nơi mà hầu hết người dân đều làm việc cho chính phủ, lá phiếu của họ trong cuộc tổng tuyển cử vừa diễn ra không dành cho những ứng viên của đảng cầm quyền Liên minh Đoàn kết và Phát triển (USDP) mà lại cho đảng NLD của bà. Dù đảng NLD đã giành quyền kiểm soát Quốc hội và có quyền thành lập chính phủ mới, hiến pháp do các tướng lĩnh soạn ra quy định các cơ quan quyền lực nhất trong chính quyền vẫn nằm dưới quyền điều hành trực tiếp của quân đội, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Biên giới và Bộ Nội vụ. Ngoài ra sau 50 năm cầm quyền hầu như guồng máy hành chính và kinh tế vẫn còn nằm trong tay quân đội. Khi bà Suu Kyi đến thăm Bắc Kinh hồi tháng 6, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hỏi bà rằng ở Miến Điện, quân đội hay đảng NLD mạnh hơn. “Quân đội”, bà đã không ngần ngại trả lời. Kyaw-Kyaw-Winn_cattle-temples_Bagan-Myanmar Song song chúng ta thấy rõ là tại Miến Điện, ngay con cháu, gia đình, thân nhân của giới cầm quyền tại Naypyidaw cũng chán ngán chế độ và bỏ phiếu cho đảng của bà Aung San Suu Kyi. Ngày 30 tháng 3 năm 2016, bà được giữ hai chức vụ ngoại trưởng và bộ trưởng Văn phòng Tổng thống Miến Điện. Ngày 2 tháng 4 năm 2016, bà chính thức trở thành cố vấn quốc gia Miến Điện, một chức vụ được tạo ra riêng cho bà. Các đại biểu quốc hội thuộc quân đội đã phản đối chức này cho đó là phi hiến pháp và tẩy chay bỏ phiếu. Sự kết hợp nhiều công việc có nghĩa là bà sẽ giám sát cơ quan tổng thống, quyết định chính sách đối ngoại và phối hợp những quyết định giữa ngành hành pháp và các lãnh tụ quốc hội. Tuần trước bà đã được phong làm bộ trưởng bộ giáo dục và bộ nhiên liệu nhưng sau đó đã từ bỏ 2 chức vụ này. Vì vị trí địa lý về ranh giới của Myanmar khá phức tạp, việc đụng độ quyền lợi của các dân tộc thiểu số không thế nào tránh khỏi. Aung San Suu Kyi bị chỉ trích vì sự im lặng và thiếu hành động của mình đối với vấn đề người Hồi giáo thiểu số ở Myanmar, cũng như không ngăn chặn việc vi phạm nhân quyền của quân đội đối với nhóm này. Khi bị báo chí phỏng vấn bà đã đáp trả: "Hãy chỉ cho tôi một quốc gia không có vấn đề nào về nhân quyền." Tháng 8 năm 2017, Aung San Suu Kyi bênh vực hành động của chính phủ, nói rằng chính phủ Myanmar "đã bắt đầu cố gắng bảo vệ tất cả mọi người ở Rakhine và yêu cầu truyền thông (phương tây) không nên đưa ra các thông tin sai lệch. Phản ứng của bà sau đó đã bị chỉ trích vì truyền thông cho rằng: "bạo lực ở Rakhine đã đạt đến mức tán tận lương tâm không còn thể biện minh cho sự thụ động liên tục nữa." Mặc dù bà không được phép trở thành tổng thống do một hạn chế hiến pháp ngăn cản các ứng cử viên với vợ/ chồng hoặc con cái nước ngoài, bà Suu Kyi trở thành nhà lãnh đạo thực tế vào năm 2016, trong vai trò "cố vấn nhà nước". Một số khu vực có tiến bộ, nhưng quân đội vẫn tiếp tục nắm giữ một phần tư ghế quốc hội và kiểm soát các bộ chủ chốt bao gồm quốc phòng, nội vụ và các vấn đề biên giới. Chuyển đổi dân chủ của Myanmar vì thế đã bị đình trệ. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã nói với lãnh đạo Myanmar rằng một cuộc điều tra đáng tin cậy về cáo buộc vi phạm nhân quyền chống lại người Hồi giáo Rohingya là chìa khóa để giải quyết cuộc khủng hoảng. Aung San Suu Kyi cũng đã hứa hẹn một cuộc điều tra “chính xác và phù hợp”. Bà cho rằng ban điều hành của chính phủ làm việc miễn phí và hiệu quả, do các thành viên một từ Nhật Bản và Philippines và hai chuyên gia về nhân quyền và các vấn đề quốc tếngười Myanma.Trong bài phát biểu với doanh nhân Nhật Bản, bà Aung San Suu Kyi cũng đã cam kết “minh bạch” về việc chính phủ xử lý cuộc khủng hoảng Rohingya. Bà nói thêm: “Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng chúng tôi có những thách thức đối mặt đặc biệt đối với Rakhine và với những cuộc đấu tranh mà chúng tôi có trên mặt trận hòa bình”. Thật ra Aung San Suu Kyi đang ở một thế rất khó xử vì dù có chống đối sự đàn áp tổ chức của bà cũng không đủ thực lực để chống lại chính phủ quân phiệt. Hơn thế nữa chính người dân Myanmar cũng không công nhận,không mấy cảm thông với người Rohingya. Phần đông dân chúng Myanmar đồng tình với quan điểm chính thức của nhà nước rằng người Rohingya không phải là công dân nước này, mà là người nhập cư trái phép từ Bangladesh. Ở đây chúng ta cũng học được một bài học đáng suy gẫm của bà và dân Miến Điện là chế độ độc tài, dù là cộng sản hay quân phiệt, chỉ thay đổi khi đứng trước những khó khăn và dưới những áp lực mạnh mẽ của những tổ chức Dân chủ, và nhất là khi lòng Dân đã đổi. Đây là một chiến thắng lớn, không những cho dân tộc Miến Điện mà còn cho cả vùng Đông Nam Á. Qua những kết qủa đáng mừng, dân tộc Miến Điện cũng mới chỉ vượt qua được những khó khăn, trở ngại tất yếu để bước đến tiến trình đầu tiên của Dân chủ. Hy vọng với tài trí, với những đức tính tuyệt vời của bà Aung San Suu Kyi, đảng NLD sẽ sớm đưa dân và nước Miến Điện thoát khỏi độc tài, nghèo đói, sánh kịp những nước Dân chủ và phát triển trên thế giới. Lê Thị Hàn - Nữu Ước, tháng 11, 2018
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 20, 2014 9:35:50 GMT 9
Ra thăm Côn Đảo và suy ngẫm về cuốn Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc KhángVĨNH SÍNH Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy Nam nhi hà phạ sự Côn Lôn !Phan Châu Trinh Ðất nước chơi vơi nòi giống khổ Thân trai nào sá chuyện Côn Lôn !V.S. dịch Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng đã gom góp những bài thơ và chuyện của anh em bạn tù chính trị phạm và cùng tội trong 13 năm (1908-1921) bị đày ở Côn Đảo để viết nên cuốn Thi tù tùng thoại 詩囚叢話. Có thể gọi nôm na tên cuốn sách là Những bài thơ và những chuyện trong nhà tù Côn Đảo. Chính thiên tù sử này là lý do chúng tôi ra viếng thăm Côn Ðảo vào cuối tháng bảy năm 2002. Mấy ngày trước khi ra lên đường, chúng tôi đã nghiền ngẫm từng bài thơ cùng những lời giải thích súc tích của Mính Viên. Sau khi ra đảo viếng thăm tận mắt những nhà giam, nơi tù nhân đập đá ngày trước, v.v. rồi chiều tối về ngồi đọc lại từng chương, chúng tôi mới thấm thía ý nghĩa của cuốn sách. Thi tù tùng thoại quả là một tư liệu văn học và lịch sử hiếm có ! Thi tù tùng thoại đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng biên soạn bằng Hán văn và do chính tay tác giả dịch ra chữ quốc ngữ — một hiện tượng quá ư độc đáo. Nguyên tác Thi tù tùng thoại đã bị tịch thu và thiêu hủy khi cụ Huỳnh được trả tự do về lại đất liền năm 1921. Sau đó, trong thời kỳ làm báo Tiếng Dân ở Huế, cụ đã dựa theo ký ức viết lại cũng bằng chữ Hán, rồi tự mình dịch ra quốc ngữ. Theo cụ, bản dịch sang tiếng Việt “ tinh thần ý tứ không bằng nguyên văn, nhứt là về thi văn thì dịch mười phần không được năm, sáu; song không mất bản ý ”.1 Trước hết, chúng tôi xin trình bày về chuyến đi. * Chúng tôi ra thăm Côn Ðảo trong một chuyến đi hai đêm ba ngày do công ty Saigon Tourist tổ chức. Vào mùa đó vì sóng biển hãy còn lớn nên đường giao thông ra đảo bằng tàu thủy phải tạm ngưng. Phương tiện duy nhất là đi bằng máy bay trực thăng từ Vũng Tàu, mỗi tuần có một chuyến và mỗi chuyến chỉ đủ chỗ vỏn vẹn cho 25 người. Bởi vậy, du khách phải đặt mua vé trước cả tháng mới mong kiếm ra chỗ. Chuyến đi do Saigon Tourist phụ trách chính thức khởi hành từ sân bay Vũng Tàu và cũng chấm dứt tại đó. Hành khách tự lo phương tiện chuyên chở đến Vũng Tàu và tụ họp ở sân bay vào 7 giờ rưỡi sáng. Ðể kịp máy bay, hôm khởi hành, từ Sàigòn chúng tôi lấy chuyến tàu cao tốc cánh ngầm đi Vũng Tàu sớm nhất lúc 6 giờ 15. Sau khi tàu cập bến, tất tả tìm xe ôm, đến sân bay thì hành khách đã bắt đầu làm thủ tục kiểm tra và chúng tôi là người khách lên máy bay cuối cùng. Ngồi vào chỗ và thắt dây an toàn xong xuôi tôi mới thấy hú vía : suýt chút nữa thì tôi đã trễ giờ, bỏ mất chuyến đi mà chúng tôi hằng mong đợi bấy lâu nay ! Ðúng 8 giờ, máy bay cất cánh. Quạt máy bay đánh bình bịch. Vài khách yếu bóng vía đưa mắt nhìn nhau như có vẻ lo ngại. “ Ối giời ! Phi công ta lái ngon lắm ! ”, người khách trung niên ngồi ở hàng ghế trước nói như để trấn an những hành khách mới đi máy bay trực thăng lần đầu, trong đó có chúng tôi. Mà quả đúng như thế, người phi công đã lái rất đằm và vững vàng trong suốt chuyến bay, ngay cả khi lên xuống. Từ máy bay nhìn xuống đất liền trông rất rõ. Những cánh đồng xanh mướt, những dòng sông con nước — chi nhánh của sông Tiền và của quê miền Ðông đất đỏ — hiện ra mồn một. Lẫn trong tiếng quạt bình bịch liên hồi, từ dưới đất liền dường như đang vọng lên những lời ca rạo rực mà từ lâu đã lắng sâu trong ký ức của chúng tôi : Cây lúa non chờ từng cơn mưa nhỏ Cây lúa trổ chờ nước đổ trên nguồn ... Con nước trong về miền Ðông con nước đỏ Sông nước đỏ dào dạt vỗ quanh bờ... Trần Long Ẩn, “ Tình đất đỏ miền Đông ” Một giây phút trộn lẫn hư và thực, giữa quá khứ với hiện tại — một thoáng tình quê “ miền Ðông đất đỏ ” đậm đà ! * Chiếc trực thăng bay trên đất liền từ Vũng Tàu cho đến Trà Vinh, sau đó mới quay ra biển theo hướng Ðông-Nam. Khoảng 9 giờ 15, máy bay đáp xuống sân bay Cỏ Ống trên Côn Ðảo. Từ sân bay về đến khách sạn Saigon Tourist (khách sạn độc nhất trên đảo lúc bấy giờ) khoảng chừng 12 cây số. Chiếc xe ra đón đưa chúng tôi đi qua những con đường đất đỏ ven biển xanh. Côn Ðảo, nói chính xác, là một quần đảo gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ có tổng diện tích là 76 km vuông, đảo lớn nhất ngày xưa gọi là Côn Lôn nhưng ngày nay cũng mang tên là Côn Ðảo. Từ năm 1991, quần đảo được gọi chung là huyện Côn Ðảo, thuộc tỉnh Bà Rịa — Vũng Tàu. Dân số trên đảo hiện nay có khoảng 3.200 người. Khách sạn ở vào khoảng giữa bờ biển vịnh Ðông Nam (tức vịnh Côn Ðảo). Bãi tắm nằm ngay bên kia đường trước khách sạn cát mịn và không có đá ngầm. Về đêm thủy triều xuống rất nhanh, nước rút cạn khỏi bờ đến mấy trăm mét, để lại đây đó trên bãi cát còn ủng nước những con cá, con mực không kịp bơi theo nước thủy triều. Cầu lịch sử 914 Ðứng từ bờ biển ban đêm nhìn cảnh trăng lên, hay nhìn cảnh mặt trời ló dạng trên biển ở chân trời vào lúc tảng sáng phải nói là đẹp tuyệt vời. Một vùng trời nước mênh mông, không hổ danh là quần đảo tiền tiêu ở Ðông Nam của đất nước, “ nguy nga đứng trấn giữa biển Ðông ” (Ðại Nam nhất thống chí).2 Thật khó tưởng tượng là ngay bên cạnh bãi tắm thanh bình ấy là chiếc “ Cầu tàu lịch sử 914 ”, tương truyền nơi đây 914 tù nhân lao động khổ sai đã bỏ mình trong quá trình đập đá xây cầu vào cuối thế kỷ XIX. Ðến giờ ăn chúng tôi mới hay là trong số 25 hành khách đến Côn Ðảo lần này, ngoài chúng tôi ra chỉ có hai người khác là du khách, còn lại là công nhân viên đi công tác và những người tháp tùng bà Tổng Lãnh sự Cuba ở Sài Thành ra thăm đảo. Nhằm tiện việc dọn ăn 3 bữa mỗi ngày, nhà bếp khách sạn “ chủ động ” xếp 3 du khách chúng tôi thành một “ đoàn ” — ăn một lần và ngồi cùng bàn. Hai người du khách khác là hai bố con. Ông cụ người Nghệ, hồi còn trẻ “ vô ” Huế học trường nhà dòng Pellerin, năm 17 tuổi theo tiếng gọi của “ Mùa Thu rồi ngày hăm ba ” đi bộ đội, đánh Tây rồi sau đó đánh Mỹ trên nhiều chiến trường, nay đã nghỉ hưu. Cô ái nữ, sinh và lớn lên ở Hà Nội, theo cơ quan vào Nam công tác đã lâu nhưng vẫn giữ giọng nói và cung cách của cô gái Hà Thành. Tuy đã có gia đình nhưng vì chữ hiếu nên cô mới “ tranh thủ dàn xếp thời giờ đưa bố đi chơi để bố vui trong tuổi già ”. Nghe lời giải thích của cô, bất chợt chúng tôi thấy ấm lòng. Cô con gái đúng là biết chiều bố tối đa : trước bữa cơm trưa và cơm chiều, cô đặt trước với nhà bếp những món đặc sản để bố thưởng thức cho biết — nào cá hàm hương, nào bào ngư, nào ốc tai tượng, v.v. Cô có đặt cả món yến sào và vích nhưng những thứ này hình như nay thuộc dạng không được phục vụ. Món nào đắt hơn giá Saigon Tourist quy định cho bữa ăn của đoàn, dĩ nhiên chúng tôi trả thêm phụ thâu. Thức ăn toàn là đồ hải sản và rau ráng trồng trên đảo, ngoài món miến gà phục vụ buổi sáng thì hầu như không có thịt thà — đúng y chang tiêu chuẩn mốt dinh dưỡng trên thế giới bây giờ ! Điều khá kỳ thú thì những đặc sản ngày nay cũng na ná những sản vật của Côn Ðảo mà người xưa miêu tả trong Ðại Nam nhất thống chí : “ Ðảo ấy sản xuất yến sào, đồi mồi, vích, quế, cá hàm hương, trai [ốc] tai tượng, các thức đồ ăn, tuyệt không có gì khác ”.3 Ðầu bếp nghe nói tốt nghiệp lớp nấu ăn phục vụ du lịch ở Sàigòn nên cách bày biện thức ăn cũng rất mực trang nhã. Chương trình tham quan trên đảo cũng do Saigon Tourist xếp đặt, và 3 du khách chúng tôi đi thành một đoàn riêng. Ðịa điểm tham quan trước tiên của chúng tôi là “ địa ngục trần gian ” — những trại giam từ thời Pháp thuộc cho đến năm 1975. Hệ thống trại giam thời Pháp gồm có Banh (bagne) I, Banh II, Banh III, Banh III Phụ, “ Chuồng cọp ” (được gọi như vậy vì trên trần không có song sắt giống như chuồng cọp), và “ Biệt lập (cellule solitaire) chuồng bò ” có phòng giam thông với hầm phân bò. Nhà giam thời chính quyền miền Nam có các trại mang số từ 5 đến 9, Trại 7 còn gọi là trại Phú Bình hay “ Chuồng cọp kiểu Mỹ ”. Hệ thống nhà tù Côn Ðảo qua hai thời kỳ có tất cả 127 phòng giam, 42 xà lim, và 504 phòng “ biệt lập chuồng cọp ”. Sau khi tham quan khu trại giam, chúng tôi viếng thăm “cầu Ma Thiên Lãnh” ở dốc đèo Ông Ðụng trên núi Chúa — ngọn núi cao nhất trên đảo. Cùng với “Cầu tàu lịch sử 941”, “cầu Ma Thiên Lãnh” là nơi nghe nói hàng trăm tù nhân đã ngã mình. Ma Thiên Lãnh lấy từ tên một ngọn núi nổi tiếng ma thiêng nước độc, hiểm ác ở Triều Tiên trong truyện Tàu Tiết Nhơn Quí chinh Ðông. Nghĩa trang Hàng Dương, với diện tích chừng 20 ha, là nơi yên nghỉ của không biết bao nhiêu chí sĩ đã bỏ mình trên Côn Ðảo trong suốt hơn 110 năm tính từ lúc Pháp bắt đầu xây nhà tù trên đảo vào năm 1862. Nghĩa trang được chia làm 4 khu A, B, C, D; những phần mộ có hai loại: mộ có tên và mộ khuyết danh. Lần theo lối đi trong nghĩa trang, du khách bắt gặp bia mộ mang những tên quen thuộc như Nguyễn An Ninh, Lê Hồng Phong (khu A), hay Võ Thị Sáu (khu B). Mộ “ chị ” (ra Côn Ðảo ai cũng gọi như vậy) Võ Thị Sáu khói hương nghi ngút, người đến viếng đặt cúng dưới bia mộ chị rất nhiều gương và lược. Hỏi ra mới biết là khi bị bắt ở Bà Rịa chị chỉ có 17 tuổi, chính quyền thuộc địa đợi chị đến tuổi thành niên mới mang ra Côn Ðảo để hành quyết. Chị nổi tiếng linh thiêng. Trong dân gian trên đảo và hình như khắp miền Bà Rịa — Vũng Tàu quê chị, có nhiều chuyện kể về sự hiển linh của chị. Cô hướng dẫn viên cho biết là trước phần mộ chị nguyên có trồng cây dương, khi lớn lên thân cây đâm thành hai nhánh, một nhánh ngả về Nam một nhánh nghiêng về Bắc; nhưng đến năm 1976 cây dương đột nhiên khô héo có lẽ vì giấc mơ thống nhất Nam Bắc của dân tộc đã trở thành hiện thực. Ở gốc cây dương ngày trước, nay là cây lê-ki-ma đầy cành lá xanh tươi. Trong nghĩa trang có một loài hoa dại rất đẹp, sắc vàng và hồng rực rỡ, mọc khắp đó đây. Ðược biết hoa có tên là “ nữ hoàng ” vì hoa giống hệt như chiếc vương miện của các nữ hoàng. Ðiều lạ là hoa nữ hoàng chỉ thấy trong nghĩa trang Hàng Dương chứ không thấy ở nơi nào khác. Ngày thứ hai trên đảo, chúng tôi đi xem cảng Bến Ðầm nằm về phía Tây Nam của đảo. Trong cảng có trạm thu mua những hải sản mới đánh về để ngư dân khỏi mất công vào Vũng Tàu. Trò chuyện với một hai ngư dân đang ngồi nghỉ trên cầu tàu, được biết phần đông ngư dân là người Bình Thuận — một chi tiết khá lý thú vì 225 năm trước đây, khi viết về đường lối kinh doanh của chúa Nguyễn đối với các đảo ở biên thùy phương Nam, nhà bác học Lê Quý Ðôn cũng đã đưa ra nhận xét tương tự trong Phủ biên tạp lục : “ Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định số người, hoặc là người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương [Ròn], có ai tình nguyện thì cấp giấy sai đi, ... cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các cù lao ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu [đắm] và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm ...”.4 Miếu An Sơn thờ bà hoàng phi Yến, thứ phi của vua Gia Long, cũng là nơi nổi tiếng linh thiêng đối với dân chúng địa phương. Theo lời thuyết minh của cô hướng dẫn, “ ngày xưa vua Gia Long phải bôn ba trong những ngày ‘tẩu quốc’, để bà hoàng phi cùng ông hoàng Cải ở trên đảo. Ông hoàng Cải chẳng may bị bệnh đậu mùa mất sớm, bà hoàng phi bị người đời trách móc. Bởi vậy mới có câu ca dao là : Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.” “ Cây cải ” là vì ông hoàng tên Cải, còn “ rau răm ” là gi ̀? Quên hỏi cô hướng dẫn, chúng tôi tự hỏi “ Hay bà hoàng phi có tên cúng cơm là Răm ? ” Bà hoàng phi Yến và chị Võ Thị Sáu là hai nhân vật được dân gian sùng bái nhất trên đảo. Xa xa là sở rẫy An Hải, nơi ngày xưa nhà chí sĩ Phan Châu Trinh ở non 3 năm. Cụ Phan “khi mới ra giam tạm ở khám trong banh... tham biện cho ra ở ngoài làng An Hải”. Phan “chính là một người đầu tiên trong bộ sử Côn Lôn quốc sự tù!”5 sau vụ Dân biến ở miền Trung (1908). Ở làng An Hải, cụ được “tự do..., mỗi tuần lễ, ngày chủ nhật, tới nhà giấy gardien-chef trình diện một lần mà thôi.”6 Sau Phan Tây Hồ tiên sinh, các cụ Ngô Ðức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Ðặng Nguyên Cẩn cùng hàng chục thân sĩ khắp ba miền Bắc Trung Nam bị kết án chính trị đày ra đảo và giam ở Banh I. Hình của các nhà chí sĩ duy tân bị đày trong đợt này nay được trưng bày chung trong Nhà Bảo tàng lịch sử Côn Ðảo. Vì nghe tên tuổi của các vị tiền bối này từ ngày mới cắp sách đến trường và đọc thơ văn họ đã có mấy mươi năm nay, khi nhìn hình phóng đại của họ trên tường, chúng tôi không khỏi xúc động và có ảo giác như gặp người quen biết từ lâu. * Trong Thi tù tùng thoại, Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng cho biết là ngay buổi chiều ngày cụ cùng bảy thân sĩ khác mới bị đày ra tới Côn Ðảo, cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh đã tìm cách động viên bằng cách cho người ném lá thư buộc vào viên gạch qua khung cửa sổ nhỏ lưới sắt. Lá thư có nội dung như sau : “ Thoạt nghe tin anh em ra đây, dậm chân vang trời một tiếng ! Ðoạn, tự nghĩ rằng anh em vì quốc dân mà hy sinh đến phải ra đây, chắc là có trăm điều vui mà không chút gì buồn. Ðây là một trường học thiên nhiên, mùi cay đắng trong ấy, làm trai giữa thế kỷ XX này không thể nào không nếm cho biết...”.7 Ðiều đáng chú ý là vào khoảng thời gian cụ Huỳnh viết lại tác phẩm Thi tù tùng thoại nhằm đăng tải thành từng tiết trên báo Tiếng Dân, Sào Nam Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở Huế cũng đã dựa trên ký ức để viết Phan Bội Châu niên biểu (tức Tự phán) — có lẽ cũng do gợi ý của Mính Viên chứ không ai khác. Trong bài tựa viết cho cuốn tự truyện của Sào Nam, cụ Huỳnh cũng đã nhận xét : “ Tập này cụ [Sào Nam] viết nguyên văn chữ Hán và tự dịch [miệng] ra quốc văn, tinh thần Hán văn mười phần thì bản quốc văn được độ năm phần (vì cụ không sở trường quốc văn và không thì giờ mà chữa, nên không được trơn), song chính ý thì không sai ”.8 Giỏi chữ quốc ngữ như cụ Huỳnh mà còn than là bản dịch quốc ngữ do chính tay cụ dịch về “ tinh thần ý tứ không bằng nguyên văn ”, huống hồ là cụ Sào Nam sống ở hải ngoại gần hai mươi năm trong thời kỳ chữ quốc ngữ vừa mới bắt đầu truyền bá trong nước, thì việc chênh lệch về văn chương giữa hai bản Phan Bội Châu niên biểu chữ Hán và chữ Việt cũng là chuyện dễ hiểu. Ðiều cần thấy rõ là đối với thế hệ của các cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), Phan Châu Trinh (1872-1926), hay Phan Bội Châu (1867-1942), v.v. khi viết thơ văn — viết bằng văn xuôi hoặc văn vần —, Hán văn vẫn là ngôn ngữ các cụ quen dùng lâu ngày khi viết lách nên dễ diễn đạt hơn quốc văn. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà phần lớn thơ văn trong Thi tù tùng thoại đã được sáng tác bằng Hán văn. Hiện tượng tương tự cũng đã xảy ra vào đời Minh Trị ở Nhật Bản. Tuy ở nước Nhật ngày nay tương đối ít người viết sách bằng tiếng Anh các sách khoa học nhân văn và xã hội, nhưng vào thời Minh Trị có một lớp trí thức người Nhật viết tiếng Anh giỏi hơn tiếng Nhật về loại này. Nhân vật điển hình là Okakura Kakuzô (岡倉角三 Cương-Thương Giác-Tam ; 1862-1913), bút hiệu là Tenshin (天心Thiên-Tâm) và tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như The Ideals of the East (Lý tưởng Ðông phương ; 1903), The Book of Tea (Cuốn sách về trà ; 1906), v.v... Tenshin cũng đã viết những trước tác nổi tiếng của mình bằng tiếng Anh, có điều là những trước tác này do người khác dịch sang tiếng Nhật chứ không phải do chính tay Tenshin. Vì Thi tù tùng thoại do chính tay Huỳnh Thúc Kháng — vừa là một túc nho và cũng là một kiện tướng trên luận đàn chữ quốc ngữ — dịch từ Hán văn ra quốc văn, ngoài khía cạnh văn học và lịch sử, đối chiếu và phân tích nguyên bản với bản dịch cũng là một đề tài nghiên cứu ngữ văn lý thú nhằm tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa Hán văn và chữ quốc ngữ trong buổi giao thời. Thứ đến, Thi tù tùng thoại là tác phẩm đầu tiên ở Việt Nam về văn học sáng tác trong tù ngục. Cụ Huỳnh giải thích : “ Ở Âu Mỹ không nói, nói riêng về phương Ðông như sử duy tân khẳng khái của Nhật Bản, cách mạng sử của Trung Hoa sau cuộc Mậu Tuất chánh biến, ở trong có chép nhiều thi của bọn tù, không sao kể hết. Nước ta sau cuộc dân biến năm 1908 về sau có nhiều thi của tù, chính là theo lệ chung đời mới nói trên ”.9 Trong Thi tù tùng thoại, Mính Viên đã ghi chép rất mực khách quan và có lớp lang, thơ văn cùng những mẩu chuyện “ tai nghe mắt thấy toàn là chuyện thiệt, khởi đầu năm 1908 đến năm 1921 ”, của một số bạn chính trị phạm (ngày trước gọi là “ quốc sự phạm ”).10 Cách đây hơn 30 năm, bàn về ý nghĩa của Thi tù tùng thoại, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân đã đưa ra nhận xét là độc giả “ chỉ cần đọc qua tập này, cũng có thể biết các diễn tiến cách mạng Việt Nam cũng như suy tư và tình cảm của các nhà cách mạng thời ấy, đặc biệt là của nhóm Duy Tân ”.11 Quả đúng như vậy, ý chí bất khuất, tinh thần lạc quan cũng như những thao thức tình cảm của các nhà nho yêu nước vào đầu thế kỷ XX được biểu lộ đậm nét qua thơ văn sưu tập trong sách. Phan Châu Trinh có lẽ là chí sĩ có tiếng nói dõng dạc nhất — trong đời thường cũng như qua thơ văn. Sau phong trào Dân biến miền Trung, cụ Tây Hồ bị bắt ở Hà Nội và đưa về giam ở Hộ Thành, Huế, vì bị tình nghi chủ xướng phong trào và tư thông với “ người bội quốc là Phan Bội Châu ”. Một hôm, người ta dẫn cụ ra khỏi nhà giam, đến cửa Thượng Tứ cụ mới biết là mình bị kêu án đày ra Côn Ðảo! Ngay trong giây phút đó, Tây Hồ tiên sinh đã khẩu chiếm bài thơ với lời lẽ khẳng khái hiên ngang như sau : Luy luy già tỏa xuất Ðô môn Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy Nam nhi hà phạ sự Côn Lôn ! Gông xiềng lẻng kẻng biệt Ðô môn, Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn, Ðất nước chơi vơi nòi giống khổ Thân trai nào sá chuyện Côn Lôn ! V.S. dịch Cụ Mính Viên căn tính ôn hòa điềm đạm, nhưng cũng khẳng khái, bất khuất (theo phong cách riêng của cụ) không kém một ai. Mặc dầu sống trong cảnh cá chậu chim lồng, cụ lấy thơ văn làm bạn lữ, lập một “ thi đàn ” nhằm biến lao tù thành một “ trường học thiên nhiên ” cho chính mình và cho bạn tù. Cụ viết : “ Ðến như cảnh tù, trăm đều tự do không còn một chút gì, đến cái xu xác cũng không phải của mình, chỉ lưa12 có một chút tự chủ về tinh thần mà muốn an ủy cho tinh thần thì ‘thi văn’ lại là món tu dưỡng rất thích hợp. Vậy tôi dám nói : ‘Ở tù mà dùng thi văn làm món di dưỡng tinh thần, không phòng hại gì mà sự bổ ích rất rõ ràng’. Trong trường học thiên nhiên 13 năm... cả bọn đồng thời với tôi, cả thân sĩ cho đến người dân, kẻ chết không nói, người còn mà được tha về, vẫn giữ được tấm lòng không thay đổi. Biết đâu không nhờ món nuôi tinh thần đầm thấm đó mà không tự biết ”.13 Cũng cần nói thêm là trước khi bị đày, cụ Huỳnh vì theo lối học cử nghiệp ngày trước nên không biết tiếng Pháp. Khi ra đảo, cụ “ mang theo một quyển Pháp Việt từ điển của Trương Vĩnh Ký, một quyển Lecture–langage, và một quyển mẹo (Grammaire)... Sau lại mua thêm một ít sách Lecture và sách mẹo, cùng một bản “ L’histoire nationale française ” cùng nhau nghiên cứu ”. Các cụ “ học bằng con mắt với cái não, nên nghe và nói tiếng Tây hay sai vận và không được lanh lẹ ; song đọc sách hiểu nghĩa, đặt câu và phiên dịch, biết được đại khái ”.14 Khả kính thay chí tiến thủ, tinh thần hiếu học, và thái độ lạc quan yêu đời của Huỳnh Thúc Kháng cùng các nhà nho duy tân vào đầu thế kỷ XX ! Về mặt tình cảm, Thi tù tùng thoại cũng có nhiều bài thơ khóc bạn, hoặc những bài nói lên lòng thương cha nhớ mẹ, quyến luyến vợ con rất cảm động. Cụ Huỳnh viết : “ Sanh ly đã khổ, lại dồn cái buồn tử biệt, người không phải cây đá, huống bạn chúng tôi là hạng người đa tình ”.15 “ Ða tình ” ở đây dĩ nhiên có nghĩa là “ nhiều tình cảm ”, chứ không phải là có nhiều quan hệ yêu đương. Lấy ví dụ, cụ Tập Xuyên Ngô Ðức Kế quê Hà Tĩnh, ở nhà còn ông bà cụ già, nhân có cai tù nhờ làm thơ gửi biếu cha già, cụ đã ký thác tâm sự của mình qua bài thơ có những giòng xúc động như sau : Vân hàm trân trọng ký diêu thiên, Vân thị giai âm đạt phụ tiền, Ngã diệc thần hôn tâm thái cấp, Vi quân đề bãi bội san nhiên. Tờ mây trân trọng gởi thăm nhà, Rằng chữ bình yên kính chúc cha, Chiều sớm ta cùng lòng mến ấy, Viết xong giọt lệ chứa chan sa !16 Bài thơ trên đây khiến chúng tôi liên tưởng đến những vần thơ tuyệt mệnh viết trong ngục Noyama (野山 Dã-Sơn) của Yoshida Shôin (吉田松陰 Cát-Điền Tùng-Âm ; 1830-59) — người đi đầu trong vận động lật đổ Tokugawa bakufu mà kết quả là nước Nhật đã hồi sinh qua sự nghiệp Minh Trị Duy tân. Tựa như thi đàn của Huỳnh Thúc Kháng cùng các bạn tù trên Côn Ðảo, trong ngục Noyama tù nhân cũng tổ chức một thi đàn do nhà thơ Yoshimura Zensaku (吉村善作 Kiết-Thôn Thiện-Tác) hướng dẫn. Shôin có bài thơ waka (和歌 Hòa-ca, tức thơ Nhật) gửi phụ thân nổi tiếng như sau : Oya omou Kokoro ni masaru Oya-gokoro Kyô no oto-zure Nan to kikuran Lòng thương nhớ cha mẹ Còn hơn thế nữa Là lòng cha mẹ thương con Tin dữ hôm nay [Cha mẹ tôi] sẽ đón nhận ra sao ? Dịch thơ : Tấm lòng con nhớ song thân, Làm sao sánh được tình thâm nghĩa dày, Khi nghe tin dữ hôm nay, Song thân sẽ nghĩ sao đây bây giờ ? V.S. dịch So với những giòng thơ của cụ Tập Xuyên Ngô Ðức Kế, ngôn ngữ diễn tả tình cảm trong bài thơ trên đây có vẻ tỉnh táo và hơi bị kiềm chế. Lý do là Shôin xuất thân trong một gia đình samurai (võ sĩ) nền nếp, đã quen kiềm chế những xúc động tình cảm. Người ta kể rằng hồi bé có lúc Shôin đang ngồi học, vói tay gãi chỗ ngứa sau lưng, bị bố cho ăn đòn một trận và quở trách vì “ đã là samurai thì mấy việc nho nhỏ như vậy phải tập chịu đựng cho quen ! ” Sở dĩ Shôin chỉ viết “ Song thân sẽ nghĩ sao đây bây giờ ? ” khi nghe tin mình bị hành quyết trong bài thơ tuyệt mệnh, chứ không nói “ Song thân chắc sẽ đau buồn lắm ”, v.v. chính là vì vậy. Tuy nhiên, lòng thương nhớ và lo lắng cho cha mẹ, gia đình, hay cho vận nước của những người tù quốc sự ở ngục Noyama hay ở Côn Ðảo thì chắc chắn là trên căn bản không có gì khác nhau. Ngoài ra, dẫu cách làm thơ tuy có khác, nhưng chắc hẳn thi đàn ở ngục Noyama cũng giống như thi đàn trong nhà ngục trên Côn Ðảo, nhắm mục đích là tu dưỡng tinh thần và ý chí của tù nhân. * Chuyến ra thăm Côn Đảo tuy chỉ có ba ngày, nhưng đã để lại trong chúng tôi không biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên. Ra đảo, chúng tôi mới thấm thía ý nghĩa của Thi tù tùng thoại. Quả là một cuốn sách hiếm có ở nước ta ! Viết lại xong vào thượng tuần tháng 11 năm 2010 Vĩnh Sính 1 Xem Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng,Thi tù tùng thoại (Saigon: Nxb Nam Cường, 1951), trang 8 [phần đầu trong sách không đánh số trang].
2 Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Ðại Nam nhất thống chí, nguời dịch Phạm Trọng Ðiềm, người hiệu đính Ðào Duy Anh (Huế: Nxb Thuận Hóa, 1992), tập 5, trang 154-155.
3 Như trên, trang 155.
4 Phủ biên tạp lục, quyển 2, in lại trong Lê Quý Ðôn toàn tập, tập I (Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1977), trang 120.
5 Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây-Hô ̀Tiên-sinh lịch sử (Huế: Nxb Anh Minh, 1959), trang 24.
6 Như trên.
7 Xem Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng,Thi tù tùng thoại, trang 42.
8 “Bài tựa của cụ Huỳnh Thúc Kháng”, trong Tự phán – Lịch sử cách mạng của Phan Sào Nam do tay cụ tự viết (Huế: Nxb Anh Minh, 1956), trang x. 9 Xem Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, Thi tù tùng thoại, trang 10 [phần đầu trong sách không đánh số trang].
10 Như trên, trang 7.
11 Nguyễn Văn Xuân, “ Văn học miền Trung ”, tạp chí Tân Văn (Sàigòn), tháng 5-6 (1968). 12 Phương ngữ miền Trung, có nghĩa là “còn”.
13 Huỳnh Thúc Kháng, “Bài tựa sau”, Thi tù tùng thoại, trang 272.
14 Như trên, trang 143-144.
15 Như trên, trang 81.
16 Như trên, trang 69-70.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 20, 2014 9:39:03 GMT 9
Thái độ của Nhật Bản đối với Trung Quốc: Kính nể hoặc phủ nhận văn hoá Trung Hoa Vĩnh Sính
Nhìn về diện tích, Nhật Bản chỉ lớn hơn Việt Nam đôi chút. Điểm khác biệt quan trọng giữa Nhật Bản và Việt Nam trong quan hệ đối với Trung Hoa là vị trí địa lý: không như Việt Nam nằm sát ngay Trung Quốc, Nhật Bản nằm cách đại lục Trung Hoa bởi một eo biển vừa đủ gần để Nhật có thể tiếp thu văn hoá Trung Hoa trước thời cận đại nhưng cũng vừa đủ xa để khỏi bị Trung Quốc xâm lấn. Bởi vậy, mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc từ những tiếp xúc ban đầu cho đến thế kỷ XIX chỉ giới hạn trên lãnh vực văn hoá, và trong thái độ của Nhật Bản đối với văn hoá Trung Hoa có hai khuynh hướng khá rõ rệt: kính phục và phủ nhận.
Từ khi tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, người Nhật thường biểu lộ lòng hâm mộ và kính phục đối với nền văn hoá đại lục. Khác với Việt Nam, nơi những yếu tố của văn hoá Trung Hoa lúc đầu được đưa vào qua chính sách đồng hoá của Trung Quốc bất chấp ý muốn của người Việt Nam qua gần một ngàn năm Bắc thuộc; văn hoá Trung Hoa được truyền sang Nhật Bản trong khoảng thế kỷ VI-VII chủ yếu theo ý nguyện của người Nhật. Triều đình Nhật Bản lúc bấy giờ chọn lựa những người tài giỏi và gửi họ sang Trung Quốc thành nhiều phái bộ (mỗi phái bộ thường có đến 500 người) để học hỏi và tiếp thu nền văn hoá tiên tiến Trung Hoa dưới hai đời Tuỳ-Đường.
Họ học đủ mọi ngành: Nho giáo, Phật giáo, cơ chế chính trị, hình luật, kỹ thuật canh nông, mỹ thuật, v.v... Những người này sau khi trở về Nhật đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền bá những yếu tố tiên tiến của văn minh Trung Hoa. Chữ karamono 唐 物 ( Đường-vật: những vật đem từ nhà Đường, hàm ý Trung Quốc) là danh từ tượng trưng cho những cái gì tao nhã, quý giá lúc bấy giờ.
Đi ngược lại với khuynh hướng hâm mộ văn hoá Trung Quốc là ý thức dân tộc của người Nhật, xuất phát từ nhận thức Nhật Bản là một nước nhỏ bé và chậm tiến nằm trên ngoại vi của văn minh Trung Hoa. Nếu Lý Thường Kiệt của Việt Nam đã viết nên bài thơ “Nam quốc sơn hà” nhằm khẳng định vị trí “nước Nam” của người Việt đối với Trung Quốc ở phương Bắc, Thái tử Shôtoku (Thánh-đức) ngay từ đầu thế kỷ VII khi viết thư gửi Tuỳ Dạng Đế thay cho thiên hoàng Nhật đã xác định chủ quyền của Nhật Bản về phía Đông của Trung Quốc như sau: “Thư này do thiên tử của xứ mặt trời mọc (phương Đông) gửi cho thiên tử của xứ mặt trời lặn (phương Tây)”1. Tục truyền Tuỳ Dạng Đế khi đọc lá thư đã nổi trận lôi đình, cho rằng kẻ viết thư đã quá ngạo mạn, không biết nghi lễ trên dưới. Có hai điểm khác biệt cần lưu ý giữa bài thơ của Lý Thường Kiệt và bức thư của Thái tử Shôtoku. Trước hết Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ này để khích lệ quân sĩ, chứ không phải để gửi cho vua Tống. Còn Thái tử Shôtoku, trong bức thư gửi hoàng đế nhà Tuỳ, không những gọi hoàng đế của Trung Quốc bằng “thiên tử” (con trời) mà còn dùng danh xưng này để gọi thiên hoàng của Nhật. Theo quan niệm của Trung Quốc, trong thiên hạ (dưới cõi trời) chỉ có một thiên tử “độc nhất vô nhị”, đó chính là hoàng đế Trung Quốc. Tuỳ Dạng Đế nổi giận chính vì bức thư của Nhật Bản đã ý thức hay vô ý thức bất chấp khái niệm căn bản này của trật tự thế giới Trung Hoa. Điểm khác biệt này, như ta đã thấy xuất phát từ điều kiện địa lý: khác với Việt Nam, Nhật Bản không chịu áp lực quân sự của Trung Quốc nên không bị ràng buộc bởi thể chế triều cống với Trung Quốc là trung tâm. Ashikaga Yoshimitsu (1358-1408), tướng quân thứ ba của dòng họ Ashikaga, là nhân vật duy nhất trong lịch sử Nhật thừa nhận tước phong “quốc vương Nhật Bản” của hoàng đế Trung Quốc ban cho và do đó đã đặt Nhật Bản vào thế triều cống của Trung Quốc trong thời kỳ ông nắm quyền. Do sự kiện này, Yoshimitsu đã bị các sử gia đời sau phê phán là đã làm nhục quốc thể của Nhật Bản.
Từ cuối thế kỷ IX, ở Trung Quốc loạn lạc nổi lên khắp nơi, Nhật Bản đình chỉ việc gửi người sang Trường An du học và thay vào đó tìm cách biến cải những yếu tố văn hoá Trung Hoa mà Nhật đã tiếp thu từ mấy trăm năm trước cho thích ứng với môi trường văn hoá và xã hội của Nhật Bản. Như đã đề cập ở trên, mô hình tiếp thu văn hoá Trung Hoa của Nhật Bản là wakon kansai (Hoà-hồn Hán-tài), tương truyền do Sugawara-no-Michizane đề xướng. Vào thời kỳ này “văn học nữ lưu” viết bằng tiếng kana rất mực thịnh hành, có nhiều tác phẩm văn học vẫn còn nổi tiếng cho đến ngày nay, tiêu biểu là cuốn trường thiên tiểu thuyết Genji monogatari (Truyện Genji) do nữ sĩ Murasaki Shikibu sáng tác vào đầu thế kỷ XI. Sự vùng dậy của ý thức dân tộc Nhật Bản còn thể hiện qua các tranh vẽ theo lối Nhật yamato-e (Đại-hoà hội), và sự xuất hiện của danh từ yamato-damashii (hồn Đại-hoà), tức là tinh thần Nhật Bản – dùng ngụ ý để phân biệt với tinh thần Trung Hoa.
Như trên đã nói, Nhật Bản đã tiếp thu và hấp thụ nhiều yếu tố của văn hoá Trung Hoa nhưng nói một cách tổng quát, Nhật Bản không có liên hệ triều cống với Trung Quốc và không chấp nhận – hay nói đúng hơn, ở ngoài – trật tự thế giới của Trung Quốc. Ngoài ra, Nhật Bản cũng không thực thi chế độ khoa cử (và không áp dụng chế độ hoạn quan) như Trung Quốc. Kết quả là mặc dầu người Nhật vay mượn nhiều yếu tố của văn hoá Trung Hoa, nhưng có tư duy độc lập, không nhất thiết suy nghĩ theo những khuôn mẫu của văn hoá Trung Hoa. Ta hãy lấy một vài thí dụ để minh hoạ.
Trước hết chúng ta thử xem người Nhật đã áp dụng chữ Hán và chữ kana như thế nào trong quyển Kojiki (Cổ-sự-kỷ; 712 sau CN), một trong những cuốn sử đầu tiên ở Nhật Bản. Tiếng Nhật trong sách Kojoki tổng hợp cách đọc kundoku và chữ viết kana. Phần chữ Hán trong sách viết theo một biến thể của kambun (Hán-văn), và đọc theo lối kundoku 訓 讀 (huấn-độc, tức là cách đọc chữ Hán theo âm Nhật, bất chấp âm chữ Hán và thứ tự của câu văn bằng chữ Hán, chẳng khác gì trong tiếng Anh hiện đại những từ đi từ tiếng La-tinh như i.e. thì đọc là “that is” (tức là...), hoặc e.g. đọc là “ for example” (ví dụ...). Nếu kundoku là cách đọc bất chấp âm chữ Hán, ngược lại những chữ kana 假 名 (giả-danh) trong sách lại là cách viết chỉ mượn âm của chữ Hán nhưng bất chấp nghĩa của chữ Hán. Ví dụ: mượn chữ “ an” trong chữ Hán để viết thành vần “a” trong tiếng Nhật, chữ “ dĩ” trong chữ Hán để viết vần “i”, chữ “gia” của chữ Hán để viết vần “ka”, v.v... và tuyệt nhiên không để ý đến nghĩa của những chữ “ an”, “dĩ” hay “gia”. Vì hai yếu tố âm (phonetic) và nghĩa (semantic) của một chữ Hán là linh hồn của chữ Hán đó, nếu tách rời hai yếu tố âm và nghĩa – như trong trường hợp kundoku và kana trong Kojiki, có thể nói là chữ Hán không còn là chữ Hán như ở trong tiếng Tàu nữa. Bởi vậy, có thể nói người Nhật, ý thức hay vô ý thức, ngay từ buổi ban đầu đã “hoá giải” tiếng Tàu thành hai yếu tố riêng rẽ. Trên cơ sở của kundoku và kana, tiếng Nhật đã được cải tiến và phát triển cho đến ngày nay. Tóm lại người Nhật vay mượn chữ Tàu trong quá trình hình thành chữ viết của họ, nhưng khi dùng chữ Tàu họ không suy nghĩ như người Tàu, không nhất thiết phải rập khuôn theo những lối mòn của văn hoá Trung Hoa.
Mặt khác, thái độ “kính phục” và “phủ nhận” của người Nhật đối với văn hoá Trung Hoa thể hiện rõ nhất qua lối nhìn của họ đối với nhà thơ Trung Quốc Bạch Lạc Thiên và học thuyết Nho giáo. Trước hết, ta hãy xem vị trí của Bạch Lạc Thiên trong văn học Nhật Bản. Như chúng ta đều biết, Bạch Lạc Thiên, tên thật là Bạch Cư Dị (772-846 sau CN), là một thi hào đời Đường. Không hiểu do một sự tình cờ nào đó tên tuổi của Bạch Lạc Thiên ở Nhật lại còn nổi tiếng hơn cả Lý Bạch và Đỗ Phủ, hai nhà thơ được mến chuộng nhất ở Trung Quốc. Trải qua bao thế kỷ, người Nhật Bản nào muốn làm thơ chữ Hán trước hết cũng phải nghiền ngẫm thơ Bạch Lạc Thiên, vì đối với họ, họ Bạch là vị “thánh thơ chữ Hán”.
Nhưng nhà thơ tiêu biểu cho thi đàn Trung Quốc ở Nhật này có lúc cũng bị phủ nhận. Đó là trường hợp tuồng Haku Rakuten (Bạch Lạc Thiên), một trong những vở tuồng Nô nổi tiếng của Zeami vào thế kỷ XIV. Trên thực tế, Bạch Lạc Thiên thuở sinh tiền không hề đặt chân lên đất Nhật Bản. Tuy nhiên theo cốt truyện của vở tuồng này, một hôm nọ hoàng đế Trung Quốc phái Bạch Lạc Thiên sang Nhật để cho người Nhật thấy tận mắt tài làm thơ thần sầu quỷ khốc của người Tàu. Khi thuyền cập bến ở Nhật, họ Bạch gặp hai ngư ông. Bạch Lạc Thiên trổ tài làm thơ, nào ngờ trong hai ngư ông Nhật Bản lại có người làm thơ còn giỏi hơn cả họ Bạch nữa. Kết cuộc, trong cuộc đấu thơ này, Bạch Lạc Thiên bị hạ sát ván. Ngư ông đó hoá ra là Sumiyoshi-no-kami , “vị thần làm thơ” (uta no kami) của người Nhật. Thuyền của Bạch Lạc Thiên bị bão đánh giạt về Trung Quốc, và vở tuồng chấm dứt ở đó. Nội dung của vở tuồng trên, đối với người Việt Nam, nghe có vẻ “trái tai”. Bởi lẽ cho dầu Việt Nam có triệt để chống đối xâm lăng quân sự của Trung Quốc đến đâu chăng nữa, Bạch Lạc Thiên (cũng như các thi hào hay các nhân vật văn hoá khác của Trung Quốc) vẫn được người Việt kính trọng; không có mâu thuẫn về văn hoá giữa nhà thơ Bạch Lạc thiên và người Việt.
Nay ta thử xem thái độ “kính nể / phủ nhận” của người Nhật đối với Nho giáo. Tokugawa Ieyasu (Đức-xuyên Gia-khang), người sáng lập chính quyền Tokugawa (1600-1868), đã áp dụng học thuyết Tống Nho của Chu Hy để củng cố chính quyền bakufu (mạc phủ). Tống học nhờ vậy trên lý thuyết trở thành học phái chính thống. Nhưng trên thực tế, dưới thời Tokugawa có nhiều Nho gia như Yamaga Sokô (Sơn-lộc Tố-hành; 1622-1685) và Yamazaki Ansai (Sơn-kỳ Ám-tế; 1618-1682) phủ nhận cơ chế Nho giáo của Trung Quốc và cho rằng về cả ba mặt nhân, trí, dũng, Nho giáo Nhật Bản hơn hẳn Trung Quốc. Ngay đối với Khổng Tử, cách đặt vấn đề của Ansai cũng khác hẳn các nhà Nho ở Trung Quốc và Việt Nam.
Sách Sentetsu sôdan (Tiên-triết Tùng-đàm) biên soạn cuối thời Tokugawa có ghi lại đoạn vấn đáp sau đây giữa Ansai và các môn đệ. Ansai một hôm vấn nạn các môn đệ:
“Nếu bây giờ Trung Quốc cử Khổng Tử làm đại tướng và Mạnh Tử làm phó tướng dẫn vài vạn kỵ binh sang tấn công nước ta, với tư cách là người theo học đạo của Khổng Mạnh, các trò thử nghĩ chúng ta phải ứng xử như thế nào?”
Thấy các môn đệ lúng túng, Ansai tự đáp: “Nếu điều bất hạnh này xảy ra, thì chúng ta chỉ có cách là mặc giáp mang kiếm, ra trận bắt sống Khổng Mạnh đặng báo ơn nước. Đây chính là điều Khổng Mạnh dạy chúng ta” 2
Chắc hẳn đối với các Nho gia Việt Nam, phản ứng đầu tiên khi nghe đoạn vấn đáp này là: “Đối với các bậc thánh hiền ai lại đặt câu hỏi kỳ cục như thế?”. Cách vấn nạn của Ansai chắc hẳn đã lạ lùng, khó nghe, mà câu trả lời của Ansai cũng không kém bất ngờ, đường đột. Phải là một “Nho gia” không bị chi phối bởi thế giới quan Nho giáo của Trung Hoa mới có đủ tính khách quan để đặt vấn đề trực tiếp và tận gốc như vậy.
Vị trí lãnh đạo về văn hoá của Trung Quốc cũng bị các học phái Kokugaku (Quốc-học) và Rangaku (Lan-học) phủ nhận tận gốc. Motoori Norinaga (Bản-cư Tuyên-trường; 1730-1801) và các học giả của học phái Kokugaku khởi đầu nghiên cứu Hán học, nhưng sau đó chủ trương chối bỏ triệt để “đầu óc Trung Hoa” (karagokoro) thể hiện qua những lý lẽ gò bó và nhân tạo của Nho giáo, sự sai lạc và tính chất quá khích của thuyết “thiên mệnh” 3. Theo Norinaga, trước khi văn minh Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, tâm hồn người Nhật thuần phác và bộc trực, được thể hiện qua những thơ ca trong tuyển tập thơ đầu tiên của người Nhật là Man’yôshu (Vạn-diệp-tập; biên soạn xong năm 760 sau CN). Học phái Kokugaku đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống dậy tinh thần dân tộc của người Nhật vào thế kỷ XIX.
Rangaku, học phái nghiên cứu khoa học và kỹ thuật Tây phương qua những sách bằng tiếng Hà Lan vào cuối thế kỷ XVIII cũng có đóng góp không ít vào việc phủ nhận vị trí độc tôn của văn hoá Trung Hoa. Y học là ngành nghiên cứu nổi tiếng nhất của các học giả Rangaku. Vào năm 1711, khi hai học giả Rangaku là Sugita Gempaku (Sâm-điền Huyền-bạch; 1733-1817) và Maeno Ryôtaku (Tiên-dã Lương-trạch; 1723-1803) quan sát cuộc giải phẫu tử thi ở nhà tù, họ cho rằng những gì họ quan sát hoàn toàn phù hợp với quyển sách Tabulae Anatomicae bằng tiếng Hà Lan 4 và từ đó họ thấy rằng những lý thuyết y học Trung Quốc du nhập vào Nhật trước đó là hoàn toàn sai lạc. Bản dịch của sách này nhan đề là Kaitai shinsho (Giải-thể tân-thư) được hoàn thành vào năm 1774. Công trình nghiên cứu và dịch thuật của Sugita có ảnh hưởng vượt khỏi ngành y học, báo hiệu giờ phút cáo chung của vai trò lãnh đạo văn hoá của Trung Quốc trong đời sống tư tưởng và học thuật ở Nhật đã bắt đầu.
Nhờ những thách thức đối với sự độc tôn văn hoá của Trung Quốc qua các học phái Nho giáo, Kokugaku và Rangaku, Nhật Bản đã có những chuẩn bị tư tưởng cần thiết để nhận chân ý nghĩa vì sao sau đó Trung Quốc lại bị nước Anh đánh bại trong chiến tranh Nha phiến; chính nhờ đó người Nhật đã phản ứng kịp thời sau khi hạm đội Mỹ đến đòi Nhật mở cửa vào giữa thế kỷ XIX.
Vĩnh Sính
1 “Oa nhân truyện”, Tuỳ thư, trích lại từ Shibata Minoru và các người cộng tác, Nihonshi (Lịch sử Nhật Bản), Tokyo: Bun’eido, 1982, tr. 51.
2 Trích lại từ “Jiji shôgen” (Thời-sự tiểu-ngôn), Fukuzawa Yukichi zenshu (Fukuzawa Yukichi toàn tập), 'I'okyo: Iwanami Shoten, 1958, quyển 5, tr. 211.
3 Theo thuyết thiên mệnh (mệnh Trời, Mandate of Heaven), thiên tử (con Trời) nhận lãnh mệnh trời để cai trị thiên hạ. Nếu người cầm quyền mất lòng Trời thì người dân có quyền lật đổ. Người ta tin rằng Trời báo hiệu cho dân chúng biết người cầm quyền đã mất mệnh Trời qua các thiên tai như bão lụt, động đất, mất mùa, v.v...
4 Nguyên tác của sách này do Johan A. Kulmus người Đức viết, người Hà Lan dịch lại và xuất bản năm 1734.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 20, 2014 9:41:30 GMT 9
TỪ THÚ THƯỞNG THỨC TRẦM HƯƠNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH KÔDÔ (HƯƠNG ĐẠO) Ở NHẬT BẢN Vĩnh Sính Thưởng thức trầm hương Mai sau dầu có bao giờ, Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Kiều Dó lâu năm dó cũng thành kỳ, Đá kia lăn lóc có khi thành vàng. Ca dao Các chất liệu có hương thơm (香料 hương liệu) nói chung thường lấy từ thực vật (hoa, trái cây, rễ cây, lá cây, hay nhựa cây), động vật hay khoáng vật. Từ trước tới nay, loại hương liệu được yêu chuộng nhất vẫn là các thứ gỗ thơm (香木 hương mộc). Quế (cinnamon) và trầm (aloeswood hay agalloch) là hai loại gỗ thơm tiêu biểu của Việt Nam. Theo cố học giả Phạm Hoàng Hộ, loại trầm thường thấy ở Việt Nam là do cây dó bầu (aquilaria crassna) bị sâu ăn, tiết ra nhựa, đông cứng lại rồi lâu năm mà biến thành. Gỗ mang bộng nhựa của cây dó có tỷ trọng lớn, thả vào nước sẽ “chìm”. “Trầm” 沈 chữ Hán có nghĩa là chìm, và tên “trầm” bắt nguồn từ đó. “Trầm hương” (沈香 jinkô, “sinking fragrance”), theo định nghĩa của từ điển Kôjien, là “hương liệu thiên nhiên lấy từ loại cây cao ‘thường lục’. Cây thuộc vùng nhiệt đới Á châu, cao độ chừng 10 mét, thân cứng và chìm dưới nước. Hoa màu trắng. Chôn cây dưới đất, hoặc làm thối ra, cây sẽ thành ‘già la’ 伽羅 có màu đen mướt, mùi thơm ưu việt và giá rất đắt”.1 Cây cao ở đây đúng là cây dó bầu mọc trong những cánh rừng già. “Trầm hương” chính là phần thân cây chứa nhiều nhựa thơm. Dó bầu sống lâu trở nên to lớn và thành đại thụ.2 Ca dao có nói: “Dó lâu năm dó cũng thành kỳ”, nhưng ta cần nói thêm là không phải cây dó nào cũng thành trầm, may lắm mới có được. 3 “Kỳ nam” được coi là loại trầm tốt nhất. Trầm không có ở Nhật Bản và Trung Quốc mà chỉ có ở Đông Nam Á. “Kỳ nam” đặc biệt chỉ có ở miền Trung Việt Nam từ Thanh Hóa vào đến Khánh Hòa – mảnh đất có cái tên hấp dẫn, nhưng đúng với sự thật, là “Xứ trầm hương”! * Trầm ở các tỉnh ở miền Trung nổi tiếng khắp thế giới với hương thơm tao nhã, thoát tục. Tài liệu xưa nhất về trầm hương của Nhật Bản là Nihon Shoki (日本書 紀 Nhật Bản thư kỷ; soạn xong năm 720 sau CN). Theo sách này, vào năm 595 sau CN có “khúc trầm trôi dạt vào đảo Awaji-shima [Đạm-lộ đảo]”, gần thành phố Kobe hiện nay. “Khúc trầm này có chu vi là 1 mét 80. Cư dân trên đảo không biết đó là trầm, đem ra đốt để nấu ăn. Hơi khói xông lên thơm ngào ngạt và mùi hương tỏa ra xa. Dân lấy làm lạ [nhưng đoán biết là quý], đem dâng lên Thiên hoàng [lúc này là Thiên hoàng Suiko]”.4 Khi đó, có Thái tử Shôtoku5 biết ngay là đó trầm hương (jinkô). Chúng ta có thể phỏng đoán khúc trầm này đi từ miền Trung (vào thế kỷ VI thuộc Chămpa) và theo dòng nước ấm Kuroshio trôi dạt lên phía Bắc để rồi tạt vào Nhật Bản. Cần nói thêm là dòng hải lưu Kuroshio này cũng bắt nguồn từ miền Trung Việt Nam. Đốt trầm ở chùa Tôdaiji, Nara, Nhật Bản Khi mới du nhập vào ở Nhật Bản, trầm được dùng trong các tế lễ Thần đạo (Shinto/Shintoism) và Phật giáo. Sau đó, trầm hương ngày càng đóng vai trò trọng yếu trong các buổi lễ Phật giáo. Bước sang thời Nara (710-794 sau CN), nghi thức này được trở thành buổi lễ có tính cách quốc gia và còn tiếp tục mãi cho đến Minh Trị Duy Tân (1868). Điều ít người chú ý là vai trò quan trọng của trầm hương trong lịch sử giao lưu giữa Việt Nam và Nhật Bản. Kỳ nam được xem là đi từ vùng đất nay là Việt Nam, thường được người Nhật gọi là kyara 伽羅. Theo Nakata Kyôzaburô thuộc công ty Baieidô (Mai-Vinh Đường), sáng lập từ năm 1657, tên “kỳ nam” nguyên là tiếng Chămpa bởi Chămpa là những người đi buôn “kỳ nam” từ lúc ban đầu. Tên “kỳ nam” là tổng hợp của tiếng Phạn (Sanskrit) “kara” nghĩa là màu “đen”, và chữ “bak” tiếng Tàu nghĩa là “cây, gỗ” (木 mộc).6 Với sự tổng hợp của hai ngôn ngữ, chúng ta có từ “kalambak”, rồi dần dà từ này được rút ngắn lại để trở thành “kỳ nam”, tức là “gỗ đen”,7 như chúng ta có ngày nay. Cũng cần nói thêm là không phải ngẫu nhiên mà loại trầm đặc biệt này có gốc từ tiếng Phạn, bởi lẽ con đường tơ lụa trên biển (Sea Silk Road) cũng chính là con đường truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ, và trầm kỳ nam đã đi theo con đường đó cùng với Phật giáo. Chămpa thuở ấy cũng chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, thay vì văn minh Trung Hoa như Việt Nam. Có khá nhiều giai thoại về sự đam mê trầm kỳ nam của các nhân vật lịch sử ở Nhật Bản. Ở Shôsôin (正倉院 – Chính Thương Viện) – nhà lưu trữ các bảo vật và kinh điển Phật giáo toạ lạc trong khuôn viên chùa Tôdaiji (東大寺 Đông Đại Tự) ở Nara – có một khúc trầm kỳ nam gọi là Ranjatai (蘭奢待 Lan xa đãi) dài chừng 1 mét rưỡi. Cả ba nhân vật góp phần vào công cuộc nhất thống Nhật Bản vào cuối thế kỷ XVI là Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu đã từng lăm le dòm ngó khúc trầm được xếp vào hàng “linh bảo” này. Chắc hẳn bảo vật này được xem là một biểu tượng của uy quyền. Tương truyền Nobunaga cho người đẽo hai miếng, mỗi miếng dài chừng 40 phân; một miếng dâng thiên hoàng, một miếng dùng để xông lên trong những buổi uống trà đạo. Hideyoshi hình như cũng bắt chước Nobunaga cho người đến đẽo vì nhà thiên tài quân sự này cũng thích giao du với các trà nhân. Người ta tin rằng khúc Ranjatai này đã do Thiên hoàng cúng cho chùa Tôdaiji vào năm 756. Hiện nay, Ranjatai có thể xem cứ mỗi 10 hay 15 năm qua triển lãm của Shôsôin ở Viện Bảo tàng Quốc gia tại thành phố Nara. Khúc Ranjatai này theo Yoneda Kaisuke, một chuyên gia về trầm hương thuộc Viện Bảo tàng Osaka, đoán định là đã đi từ Lào hoặc Việt Nam.8 Riêng về Tokugawa Ieyasu – vị shôgun (tướng quân) đầu tiên của chính quyền Tokugawa – tuy người ta biết chắc là Ieyasu có sai người vào xem khúc trầm Ranjatai, nhưng không ai biết rõ là ông ta có cho đẽo đem về hay không. Tuy nhiên, qua những văn thư mà hiện nay còn lưu lại, chúng ta biết rõ là Ieyasu rất mê thích trầm và đã từng gửi thư cho quốc vương Chămpa và chúa Nguyễn xin gửi trầm kỳ nam. Thư của Tokugawa Ieyasu gửi quốc vương Chămpa năm 1606 có ghi rõ : “Chúng tôi muốn có trầm loại thượng hảo hạng. Những loại có phẩm chất vừa vừa hay dưới trung bình thì xin đừng gửi vì chúng tôi đã có nhiều lắm rồi”.9 Qua văn thư, chúng ta cũng biết rằng ít nhất trong hai năm 1605 và 1606, chúa Nguyễn Hoàng đã gửi một số tặng vật đáp lễ cho Tokugawa Ieyasu, mỗi lần gồm 1 miếng trầm kỳ nam, cả hai lần mỗi lần một cân. Trước đó, vào đời Genroku (Nguyên Lục), tức là từ 1592 đến 1595, chúa Nguyễn đã gửi tặng Nagasaki Bugyô (một chức giống như Trấn thủ) nửa cân kỳ lam và những tặng phẩm khác. Một chi tiết thú vị và có ý nghĩa là trong danh sách các tặng phẩm giữa các nước Đông Á, trầm luôn luôn được liệt kê đầu tiên và trầm thường được xem là một vật tặng quý giá trong quan hệ ngoại giao với Nhật Bản và Trung Hoa.10 Sau khi Ieyasu mất, nghe nói trong các di vật của ông có đến hơn 100 kilô trầm kỳ nam và hơn 180 kilô các loại trầm khác. Điều này cho ta thấy Ieyasu đã thích thú thưởng thức trầm hương đến mức độ nào. Theo nghiên cứu của Ogura Sadao, trầm là mặt hàng Nhật Bản nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á (Việt Nam, Cămpuchia, Siam [nay là Thái Lan], Borneo, v.v.) trong thời kỳ giao thương bằng “thuyền buôn có giấy phép châu ấn” (Shuinsen 朱印船) vào cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII mà hiện nay Nhật Bản vẫn còn tiếp tục nhập khẩu. Theo Ogura, lượng trầm Nhật Bản nhập khẩu từ Việt Nam chiếm 70% tổng số lượng trầm Nhật Bản nhập khẩu vào thời châu ấn, và cho đến năm 1987, lượng trầm Nhật Bản từ Việt Nam là 16 tấn, vẫn chiếm khoảng 50% tổng số lượng trầm Nhật Bản nhập khẩu (khoảng 32 tấn). Tuy trong quá khứ, Việt Nam và In-đô-nê-xi-a đóng vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu trầm sang Nhật, hiện nay vai trò đó được thay thế bởi Hong Kong, Singapore, và Thái Lan. * So với các nghệ thuật nổi tiếng của người Nhật như trà đạo (sadô), thư đạo (shodô; tức nghệ thuật viết chữ Hán), kiếm đạo (kendô), võ sĩ đạo (bushidô) hoặc nhu đạo (judô), kôdô (香道 hương đạo) ít được người nước ta biết đến. Một điều thú vị là ngay ở Nhật Bản cũng không mấy ai biết là lịch sử Kôdô còn ghi dấu mối giao lưu giữa mảnh đất miền Trung với Nhật Bản từ thuở xa xưa. Kôdô (Way of incense / Voie de l’encens) là nghệ thuật thưởng thức trầm hương, nói nôm na là nghệ thuật “ngửi” mùi trầm hương – một nghệ thuật độc đáo chỉ thấy ở Nhật Bản chứ không có ở các nước khác. Mặc dầu đến thế kỷ XV Kôdô mới được định hình, nhưng trên thực tế thú thưởng thức tao nhã này đã bắt nguồn từ khi Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ khoảng thế kỷ VI. Trong những buổi lễ Phật giáo, lễ quan trọng nhất thường được dâng bằng trầm hương. Từ 1500 năm trước, dâng trầm hương là lễ cúng dường để lau sạch các tượng Phật, hoặc khi các sư tăng tụng kinh. Dần dà, mùi hương trầm thanh nhã ngày càng được người Nhật yêu chuộng, giới quý tộc ở Kyoto thời Heian (794-1185) thích đốt trầm trong nhà cho “thơm nhà thơm cửa” và thơm y trang. Theo đà phát triển của thú chơi đốt trầm này (người Nhật gọi là sora-dakimono 空 炊 きもの), các cuộc thi đấu trầm – giống như thi làm thơ hay thi cắm hoa – được tổ chức để định loại trầm nào có mùi hương tao nhã nhất. Những chất liệu dùng làm sora-dakimono là các vật liệu còn tươi tắn của y học truyền thống. Thú đốt trầm dần dà không những phổ biến trong giới quý tộc mà người thường cũng đua nhau phỏng đoán loại nào thơm nhất và những điểm đặc biệt giữa các loại trầm hương. Với sự ra đời của chính quyền của giai cấp võ sĩ (samurai) vào cuối thế kỷ XII, ảnh hưởng của Thiền đối với văn hóa người Nhật ngày càng đậm nét. Do ảnh hưởng của thú trầm hương đời Tống (Trung Quốc), người Nhật Bản chuyển sang nerikô (煉り香) với cách thức trộn lẫn trầm hương với nhau giống như jinkô lúc ban đầu. Với cách thức này, nghệ thuật thưởng thức bằng cách “ngửi mùi” trầm hương (聞香 bunkô hay monkô, tức “văn hương”) tiến thêm một bước nữa để rồi được định hình dưới dạng Kôdô (hương đạo) vào đời Muromachi (1336-1573). Từ lúc này, thú chơi đốt trầm sora-dakimono ít nhiều mang vẻ hào nhoáng, được thay thế bằng cách thưởng thức hương trầm trong không khí u huyền tĩnh mịch – phù hợp với đời sống tinh thần hướng nội và ý thức mỹ học thấm đượm Thiền vị của người võ sĩ. Theo Kôdô, mùi trầm hương từ đó được phân loại thành “ngũ vị lục quốc” (五味六国, tức là “năm mùi vị và sáu nước”) . Năm mùi vị là ngọt, chua, cay, mặn, và đắn. “Sáu nước” nói nôm na là sáu nơi sản xuất trầm hương; đó là Kyara, Rakoku, Manaban, Manaka, Sasora and Sumatora. Theo cách phân chia của những người sành điệu trầm hương do Shôgun Ashikaga Yoshimasa (1436-1490) bổ nhiệm, “sáu nước” đó là : Kyara (伽羅 Già la) Như đã nói ở trên, chữ kara có gốc là tiếng Phạn, nghĩa là “đen”. Loại tốt nhất trong trầm hương, có mùi hương tao nhã. Chỉ có ở Việt Nam. Rakoku (羅国 La Quốc) Mùi hăng vị đắng, mặn và cay. Chỉ có ở Thái. Manaban (真南蛮 Chân Nam Man) Có nhiều hương và nhựa, vị gần như ngọt, nhưng không có vẻ “điểm trang”. Có ở miền Đông của Ấn Độ, hoặc giữa Mã Lai và Ấn Độ. Manaka (真那伽 Chân Na Già) Trong những hương thơm, đây có lẽ mùi hương nhạt nhất. Có ở Malacca (Malaysia). Sasora (佐曾羅 Tá Tăng La) Có mùi hương nhẹ. Với một loại sasora tốt, người ta dễ tưởng lầm là kyara, đặc biệt khi mới đốt. Có ở miền Tây Ấn Độ. Sumatora (寸聞多羅 Thốn Văn Đa La) Rất nhiều nhựa và có vị chua. Có nhiều ở Sumatra (In-đô-nê-xi-a).11 Trầm hương Rikkoku (“Sáu nước”) Dưới đời Muromachi, nghệ thuật thưởng thức trầm hương bắt đầu phát triển song song với nghệ thuật uống trà. Nhiều loại thi đấu có nội dung và hình thức khác nhau đua nhau ra đời. Trước hết là các cuộc “đấu trà” (tôcha 闘茶) đòi hỏi người tham dự đoán định phẩm chất các loại trà. Sau đó người ta tổ chức các buổi thi đấu cả trà lẫn trầm nhằm xem ai có thể phân biệt được 10 loại trà và 10 loại trầm khác nhau. Trong các buổi thi phân định hương trầm, người tham dự được chia làm hai nhóm, thi nhau đoán xuất xứ, lai lịch, đặc tính của từng loại trầm nổi tiếng, chẳng hạn như mùi hương, làn khói bốc lên có hình dạng như thế nào, v.v... Dần dà, ngoài khả năng thưởng thức hương trầm, người thi đấu còn phải có kiến thức văn hoá và khả năng cảm thụ mỹ học – nói nôm na là khả năng cảm nhận những cái gì đẹp. Trước mặt người đến xem, trầm sẽ được xông lên từ loại này đến loại khác, giống như những vế khác nhau trong một bài thơ renga (連 歌 liên ca). Mỗi lần trầm được xông lên, người dự thi phải làm một vế thơ tán thưởng mùi hương đồng thời phải nhắc đúng tên loại trầm vừa đốt. Cuối cùng, người ta sẽ có một bài thơ renga nhiều vế về các mùi hương trầm trong cuộc thi. Sự kết hợp giữa thú thưởng thức trầm hương với khuynh hướng truy cầu những cái gì đẹp, gọi chung là bi (美 mỹ) hay bigaku (美学 mỹ học), trong truyền thống văn học Nhật Bản có thể nói là nhân tố quyết định sự hình thành của Kôdô. Kôdô vừa phản ánh chiều sâu văn hoá của người thưởng thức, vừa thể hiện vẻ đẹp u nhã của hương trầm, mà cũng vừa có thể diễn tả nhiều chủ đề văn học khác nhau. Chính vì thế, Kôdô được xem là một nghệ thuật độc đáo của Nhật Bản. Vĩnh Sính Đầu tháng 4, 2010 1 Shinmura Izuru, Kôjien (Quảng từ uyển) (Tokyo: Iwanami Shoten, 1993), trang 1328.
2 Xem Khanh Hoa Aquilaria Company, www.tramhuongkhanhhoa.com.vn/index.php/tramhuong/tramhuonglagi.
3 Ngoài ra còn có cây “chiên đàn 栴檀, chữ ‘chiên’ cũng có thể viết chữ Hán bằng bộ ‘phương’ 方” thay vì bộ ‘mộc’ 木. Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh giải thích “chiên đàn” là “Một loại gỗ thơm”. “Chiên đàn” tiếng Phạn gọi là “Candana”, là “một loại cây có mùi hương ở Ấn Độ” (Daijigen, Tokyo: Kadokawa Shoten, 1992, trang 797). Từ̀ điển này có cho biết thêm xuất xứ là Ấn Độ; bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà trong kinh Phật, chúng ta thấy thường xuất hiện chữ “chiên đàn”.
Hoàng thân Miên Thẩm, tức thi nhân Tùng Thiện Vương cũng có bài thơ chữ Hán về cây chiên đàn (“Chiên đàn thụ”) như sau: Tuyệt hảo chiên đàn thụ / Phồn hương quýnh bất quần / Hận cừ thiên tính biệt / Chỉ tại nghịch phong văn. Nguyễn Sĩ Đại dịch quốc văn ra là: Cây chiên đàn tốt tuyệt / Hương sâu vượt bọn bầy / Tinh đặc thù, đáng tiếc / Ngược gió thì mới hay ! Có lẽ cây mà Hoàng thân Miên Thẩm muốn nói ở đây chính là “cây dó bầu”, nhưng vì chữ Hán không dùng chữ nôm na như vậy, mà “già la” hay “kỳ nam” (là chữ Hán) thì thời đó còn xa lạ quá với người Việt !
4 Xem bản dịch tiếng Anh : Nihongi: Chronicles of Japan from Earliest Times to A.D. 697 (Nhật Bản kỷ [hay Nhật Bản thư kỷ] từ thời nguyên thủy đến năm 697 sau CN), translated from the original Chinese and Japanese by W. G. Aston. Tokyo: Charles E. Tuttle Company, 1980, II, 123.
5 Tương truyền là một chính trị gia lỗi lạc của Nhật Bản. Thái tử Shôtoku đã đóng vai trò trọng yếu trong việc củng cố vị trí của thiên hoàng và tiếp thu Phật giáo.
6 Tiếng Bắc Kinh (pinyin) “mộc” đọc là “mu”, trong trường hợp này người ta phát âm theo giọng miền Nam mới đọc là bak.
7 Xem Baieido Ltd, www.japanese-incense.com/aloeswood.htm.
8 Như trên.
9 Trích lại từ Okura Tadao, Shuinsen jidai no Nihonjin (Người Nhật Bản thời thuyền châu ấn). Tokyo: Chûô Kôron Shinsho, 1989, trang 174.
10 Như trên, trang 174-175.
11 Xem Kaori no techô (Sổ tay về hương thơm). Shôeidô Kabushiki Kaisha, 1991.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 3, 2014 5:03:16 GMT 9
Quán Bên Đường 2 Nam Hàn 28/03/2014 Ngô Văn Thu Tác giả: Ngô Văn Thu Bài số 4172-14-29582vb5032714 Bài viết là một du ký độc đáo về cuộc hành hương chùa cổ tại Nam Hàn. “Quán Bên Đường” là tựa đề một trong những bài Viết Về Nước Mỹ của tác giả từ 2012. Ông sinh năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang. Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị bắt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư tại Houston, Texas. * * * Tôi có cơ duyên theo đoàn hành hương cuả chùa ở Houston Texas đến Nam Hàn và Nhật Bản hai tuần lễ, nhân “mùa thu lá bay”cây cảnh chuyển màu xinh đẹp. Được biết thầy Thích. N. Đ. phối hợp cùng cô M. L. tổ chức chuyến hành hương nầy, hai vị trên đã có kinh nghiệm vì đã từng gắn bó với đất nước “Thái Dương Thần Nữ” cũng như xứ sở ”Kim Chi” từ lâu, do đó Thầy Thích N. Đ kiêm luôn trưỏng đoàn. Ngoài ra còn có sư cô Thích tâm T trụ trì ở chùa Nisshinkusu – Tokyo đồng làm tours guider tại Nhật. Theo chương trình đoàn sẽ đến chiêm bái các chùa ở Nam Hàn (Toàn bộ đất nước nầy trước đây gọi là: Tiều Tiên rồi Cao Ly, rồi Đại Hàn. Nay chỉ còn một nữa phía Nam gọi là Nam Hàn, hay Hàn Quốc, phía Bắc gọi là Bắc Hàn hay Bắc Triều Tiên) bảy ngày, Nhật Bản bảy ngày từ 24/10/2013 đến 07/11/2013 rồi trở lại Mỹ. Đoàn khởi đi lúc 7:00PM từ chùa ở Houston Taxas. Sau khi lễ Phật cầu gia hộ, đoàn lên xe bus ra phi trường quốc tế Goerge Bush (IAH). Check in lúc 9:00PM. Mặc dù đoàn 47 người nhưng qua thủ tục an ninh ở phi trừơng không gặp trở ngại vì mọi người gọn gàng, đơn giản theo lời hướng dẫn trước của Thượng toạ trưởng Đoàn. Sau một ngày đêm bay vùi trong mưa lạnh, với hai bữa cơm tầu bay tối và sáng nhạt nhẽo, phi cơ hạ cánh xuống phi trường quốc tế Bắc Kinh lúc 4:30 sáng (múi giờ Á Châu). Đây chỉ là trạm trung chuyển, để đổi chuyến bay, mà sao đã thấy không khí trầm uất, nhân viên phi cảng nghiêm và buồn giống như tượng đất. Sau hơn hai giờ bay, máy bay đã đáp xuống phi trường quốc tế Incheon Seoul. Một phi trường tân tiến bậc nhất của Nam Hàn không thua các nước Âu-Mỹ. Quang cảnh rộn rịp, tấp nập nơi đây cho thấy một đất nước đang bừng sống từng phút từng giây trong cảnh tự do, thanh bình. Khác với vài giờ trước đây tại Bắc Kinh không khí người ngợm thấy khó chịu. Hai chiếc xe bus rời phi trường chở đoàn chạy dọc theo bờ sông Hàn để đến chiêm bái chùa Beopheungsa, nơi có vị Phật lớn đứng đội kinh ngoài trời. Theo chữ Tàu: Hàn có nghĩa là lạnh, là băng giá, nhưngqua hình ảnh tả hửu của sông Hàn. Phía Bắc thành phố củ. Phía Nam thành phố mới xây, cảnh sinh hoạt thật rộn ràng náo nhiệt. Xa xa hình ảnh cầu sắt vắt mình qua sông Hàn trông thật nghệ thuật và nên thơ. Đó là nét đẹp tiêu biểu đập vào mắt của du khách khi viếng thăm đất nước nầy. Người Nam Hàn tin vào Đức Phật Văn Thù Sư là vị Phật mang lại sự sáng suốt thông minh đĩnh đạc cho họ, nên từ cổng vào chùa Beopheungsa, từng bồn hoa tươi được trồng tỉa tỉ mỉ, công phu rất nghệ thuật trông rất đẹp mắt. Lác đác trong bồn hoa còn có những thẻ bằng giấy kẹp tên tuổi người viếng chùa với lòng tri ơn dâng lên chư Phật đã độ trì cho con cháu họ đạt được sở nguyện. Rời chùa, xe đưa đoàn đến phố Dongdaemun, vì chiều thứ bảy cuối tuần nên giao thông bị trì trệ, phố xá đông nghẹt người. Phố nơi đây được bày bán công khai ngoài mặt lộ, từ áo quần, giày dép, bánh kẹo làm ngay tại chổ. Mùi thơm của gia vị, của bột đường quyện lẩn vào nhau nóng bỏng bốc hương vị ngạt ngào, khiến khách phải móc ví chi tiền. Điểm thú vị tại đây: nhiều“quán bên đường” được dựng lên bằng chòi vải sát bờ tường. Quán không bày bán gì ngoài chiếc bàn nhỏ, trên có vài cuốn sách. Hỏi ra được biết: “quán bên đường” nầy dựng lên để “‘chuyển tải chữ nghĩa thánh hiền”! Nơi các “bốc sư”trổ tài thuyết phục khách qua đường xem xăm bói tướng cho những người hiếu kỳ muốn biết chuyện tình duyên gia đạo, chuyện “nóng, lạnh” âm dương” của nam nữ thế nào. Mỗi quẻ 100yên=85cents. Nam Hàn, nay là một đất nước có nền văn minh khá chói lọi trên thế giới, thế mà vẫn cho duy trì tập tục bói toán siêu hình kiểu dân gian nầy. Quả là đất nước có nền dân chủ, tự do, nên mọi người được quyền bày tỏ niềm tin riêng của mình. Vì phố xá đông nghẹt khiến người hướng dẩn đoàn phải vất vã ngược xuôi để đôn đốc kiểm soát. Cuối cùng đoàn đến được một tiệm ăn chay dưới hầm nhà (basement) trong hẻm nhỏ để ăn tối. Bữa cơm chay buffet đầu tiên trên xứ”Kim Chi”thật đáng nhớ. (Ăn chay suốt 2 tuần trong chuyến đi) Mọi người hăm hở sắp hàng lấy thức ăn. Quầy đặt thức ăn chật hẹp trưng bày mấy món ăn trông xa lạ nên chả biết chọn món nào, tất cả đều khác lạ với Việt nam ta. Những món ăn chay thuần túy của ta như tàu hủ kho, rau muống luộc, tương chao xì dầu, đã biến mất nơi đây, chỉ còn lại những món ăn không biết tên gọi, món nào cũng phảng phất mùi “kim chi” nên không cảm nhận được hương vị mà nhà hàng đã cố công cống hiến cho khách du lịch thưởng thức. Sự khác biệt văn hoá ẩm thực của hai nước khiến chưa đồng cảm với nhau trong mâm ăn. Đó là dấu ấn ngày đầu trên xứ “Kim Chi” Hàn Quốc. * Chủ nhật ngày 27/10/. 13--. 6:AM đánh thức theo chương trình. Mọi thủ tục vệ sinh cá nhân xong, điểm tâm tại nhà hàng của khách sạn. Bửa ăn sáng có ý nghĩa với các món ăn quen thuộc ở Mỹ. Mọi người hã hê vì đã được bù đắp lại bửa ăn đêm qua. Xe đưa đoàn đến ngôi chùa cổ Bongeunsa ngay tại thủ đô Hán Thành(Seoul). Tuy chùa có khoảng không gian nhỏ hẹp nhưng mang tính cổ truyền nên còn lưu giử đến ngày nay. Chùa vẩn thờ ba vị Phật:Bổn Sư Thích Ca, A Di Đà Phật, Địa Tạng Vương. Đặc biệt chùa có ngoại cảnh rất đẹp. Từng chùm hoa tươi kết thành nụ rất tỉ mỹ, công phu, khoe muôn màu muôn sắc trông thật mỹ thuật, khiến khách thưởng ngoạn khó ai không bấm máy ghi hình các tác phẩm nghệ thuật nầy để lưu niệm. Rời chùa, đoàn viếng thăm khu lăng tẩm (Bleu House)của các triều đại vua chúa Hán Thành được xây từ năm 1349. Toàn cảnh cũng thành quách cổ xưa như bao vua chúa khác trên thế giới. Nhưng tiếc thay! tại đây, nay đã bị hưng phế theo quy luật của thời gian và thời đại nên chỉ còn lại cảnh u-tịch và chuyện buồn mà thôi. Ngày ấy, có vị con vua sau cùng 1910. Thời Nhật đô hộ Hàn Quốc, vị vua nầy bị đưa về Nhật sinh sống (một cách lưu đày), lớn lên lấy vợ Nhật, sinh được người con. Năm 1946 chiến tranh thứ hai bùng nổ. Mỹ chiến thắng Nhật, đưa người con đó về Mỹ sinh sống và, nếp sống sinh động của Mỹ đã cuốn hút vị “hoàng tử”sau cùng nầy đi biền biệt…thế là từ đó xứ Hàn Quốc, chế độ quân chủ bị phế đế cho đến ngày nay… Qua các cơn binh lửa, một đất nước nhỏ bé như Hàn Quốc bị hai gọng kềm hết Tàu rồi Nhật thay nhau đô hộ cả ngàn năm. Khiến nay khi nhắc đến chuyện xưa, giọng ho (người hướng dẫn) bỗng chùng xuống không dấu được nỗi oán hờn kẻ đã gây tang thương đổ nát cho dân tộc và đất nước họ! Thế rồi…sau cơn bỉ cực đến hồi thới lai. Nam Hàn ngày nay đang ngẩng cao đầu cùng với thế giới khiến mọi người phải bái phục. Họ đã chế tạo được hàng điện tử cao cấp cạnh tranh với các nước tiên tiến trên thế giới, sản xuất xe hơi, máy bay chiến đấu, chiến hạm để xuất cảng qua các nước Đông Nam Á v. v… Riêng phần phim ảnh của họ, nay đã luồn sâu vào mọi gia đình khắp cả thế giới. Đến xem phim trường Holywood Korea của họ mới thấy nể phục. Dấu tay của các tài tử còn in xuống mặt đường nhựa khi họ về dự Festival-day tại đây. Ngẫm người rồi nghĩ đến ta. Ngày trước 1975, Nam Hàn đứng nhìn Việt Nam Cộng Hoà trong e-dè trọng nể. Thế mà nay, cái nhìn ấy ra sao? Chiều cùng ngày, đoàn được tự do đi shopping tại Dongdaemun và tối về ngủ tại Maremons hotel. Rất cám ơn ban tổ chức đã tìm được chổ ngả lưng yên ấm, lịch sự, tiện nghi, không dễ có tại xứ vật giá đắc đỏ như Hàn Quốc. Hôm nay thứ hai ngày 28/10/2013, đoàn sẽ đi thăm chùa Sinheunsa(Tây hưng tự)nơi có tượng đức Phật Thích Ca to lớn ngoài trời, nặng 48 tấn có niên đại trên 800 năm. Đoàn phải rời khách sạn trước 7 giờ sáng để tránh kẹt xe. Qủa vậy, sau hai giờ di chuyển, đoàn đã có mặt tại chân núi của chùa, nhưng nơi đây đã thấy xe cộ tấp nập, khách hành hương lũ lược lên dốc núi. Quang cảnh ban mai giữa chốn núi rừng trông nhẹ nhàng thanh thoát, các loại lá rừng đều chuyển màu khoe sắc, tạo thành bức tranh với nhiều nét chấm phá lung linh huyền diệu tuyệt đẹp. Khi đoàn đến được nơi tôn tượng Thích Ca thì đã thấy hương khói nghi ngút phủ quanh lư đồng đặt thờ trước tượng. Phật tử hành hương đều qùy lạy tõ lòng cung kính khấn nguyện. Riêng đoàn được thầy trưởng đoàn chủ trì tụng kinh yết bái với Phật có chúng con từ phương xa đến đảnh lễ Ngài. Đoàn rời tôn tượng tiếp tục hành trình lên dốc viếng chùa. Chùa mẹ ở độ cao 550 mét, quanh chùa mẹ còn có chín chùa con trong mấy ngọn núi nầy. Phải xếp hàng đi cáp treo lên chùa cao, khách thập phương đã rồng rắn chờ đợi. Ước tính phải mất từ 1 đến hai giờ mới thăm được, nên chương trình phải đổi hướng qua chùa con lưng chừng núi. Trước cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ, trước vẻ đẹp muôn màu, muôn sắc, lòng người như được an tịnh theo từng bước đi, theo từng hơi thỡ. Chả bao lâu đoàn đến được sân chùa. Thật bất ngờ thấy được một bức tranh khác cũng rực rỡ trong nắng sớm được tạo bởi các vị tăng khoác y vàng đứng ngồi phơi nắng trước chánh điện chờ giờ hành lễ, trên bầu trời cao từng cụm mây trắng như ngừng trôi đang “‘tịnh thiền”t rên đó, tạo một thoáng nhẹ nhàng thanh khiết len vào tâm tư của người hành hương đến chốn thiền môn nầy. Lễ Phật xong, rời chùa xuống núi, đi ngược dòng người đi lên, phải lách mình xen kẽ nhau trong rộn ràng náo nhiệt của ngay hội lớn. Sau đó đòan dừng lại một “quán bên đường” của chùa lập nên để gây quỹ Độc đáo quán chỉ bán toàn ngói lợp chùa có màu xanh đen. Mỗi viên 10.000yên = 10dollars. Đa số Phật tử đều phát tâm cúng dường. Khi tiền đã trao cho người phụ trách bỏ vào thùng phước sương, thí chủ được phát một cây viết highlight màu trắng để tùy thí chủ viết lời nguyện cầu của mình vào miếng ngói đó. Ngày mai đây chùa được xây thêm, miếng ngói của mình cúng dường sẽ nằm trên mái chùa đâu đó quanh vùng rừng núi của Vương Quốc Phật Giáo nầy. Chắc chắn tâm bồ đề của mình sẽ được chói sáng dưới ánh mặt trời, và ánh đạo vàng, âu đó cũng là niềm hạnh phúc của thí chủ. Vì vậy không ai bỏ qua cơ hội thi ân hiếm có nầy. Tiếp tục xuống núi, trời đã tỏ rạng hơn, sương mù đã tan, nơi đây có hằng hà “quán bên đường”bày bán các loại sản phẩm địa phương cũng như các qùa kỷ niệm cho khách qua đường (luá thóc đi đâu bồ câu theo đó). Trong đó có món hàng bắp luộc(nấu), sản phẩm cây nhà lá vườn chính hiệu. Mọi người đua nhau mua sạch trong nháy mắt khiến người bán ngẩn ngơ, vì đã mấy ngày qua không ăn được món ăn nào đúng khẩu vị của Việt nam nên bắp bây giờ là “cứu cánh”. Thế mới hay, đừng xem thường mọi vật quanh ta dù bé nhỏ như bắp. Bắp đã cứu đói bao người trong lao tù sộng sản ở Việt nam năm nào…bắp lúc đó như sơn hào hãi vị chứ chẳng vừa. Thứ ba ngày 29/10/2013, đoàn đi thăm chùa Bulgapsa (Bul=Buđa–gap=First– Sa=Temple). Có nghĩa: Ngôi chùa đầu tiên trên đất nước Đại-Hàn. Được xây dựng từ năm đầu của niên đại vua Chimryu Baekje (384 trước công nguyên), do vị thiền sư nỗi tiếng Malananda từ xứ Gandara Ấn-độ sáng lập. Ngài từ phương Nam của Ấn Độ đến trụ tại phương Đông của Trung Hoa trong suốt triều đại của vua Koryo 1349. Cũng theo nhật ký của đại sư Seosan. Chùa được xây huy hoàng tráng lệ là vậy, nhưng đã bị phá huỷ hoàn toàn vì tay quân Nhật qua xâm lược và đô hộ đất nước Đại Hàn năn 1592. Sau đó chùa được tái thiết xây dựng lại bởi các đại sư Byukam, soyo, Ingye, BackamBeobhon và Youngdam, và cứ thế tái cấu trúc với đại sư Gogan từ 1975 và lần hồi hoàn thành suốt từ đó cho đến nay. Đã có hơn 1000 sư sải đến tu học thiền ở trong 500 phòng của ngôi chùa nầy. (theo bia đá ghi tại chùa). Ngày nay khi du khách viếng chùa đều thấy những kiến trúc đồ sộ quanh mấy ngọn núi. Theo sơ đồ chỉ dẫn: muốn đi thăm thú hết toàn cảnh Phật Quốc nầy phải mất mấy ngày. Càng lên dốc cao cảnh trí càng đẹp đẽ rực rỡ với muôn màu sắc của cây lá chuyển màu óng ánh. Đặc biệt chùa còn có một quảng trường rộng lớn, nơi diển ra các cuộc lễ hội của Phật tử hằng năm. Đoàn xuống núi đúng ngọ nên được dùng cơm chay tại một ‘”quán bên đường”cạnh chân núi. Cũng mấy món ăn xa lạ với khẩu vị Việt nam, chỉ ngon miệng nhờ món kem khoai môn tím độc đáo và ly sữa đậu nành thơm đặc sản của vùng núi cao khí lạnh nầy. Chưa thấy hương vị nào ở Mỹ, ỏ Việt nam ngon bằng. Trong suốt chiều dài của đất nước Hàn Quốc đoàn có dịp đi qua, đây là ngôi chùa mang âm hưởng “Thiền” đậm nét nhất, vì cảnh trí trong cũng như ngoài chùa đều thanh tịnh, êm ả, thoát tục, có sức thu hút bước chân “giang hồ” của khách dừng lại, rũ bỏ “nợ đời” khi viếng cảnh. Cùng ngày, sau hai giờ đong đưa trên xe băng rừng, đoàn đến viếng chùa Songgwangga temple, đây là tu viện mà ngày trước đã có 16 vị đại sư, tầm cỡ Quốc Sư thay nhau trụ trì. Chùa nổi bật sừng sững trên ngọn núi có cây lá vàng, đỏ làm phông trông như bức tranh vẽ thật đẹp. Đoàn rời chùa, núi lặng mình nhìn theo! Tối về đoàn được đưa tới một con tầu kgổng lồ gần bờ biển và được giới thiệu đây là con tàu du lịch “Freedom” lớn nhất của Mỹ, cao 105m, dài 350m, ngang 225m, vận hành bằng năng lượng mặt trời và sóng biển, trên tàu có sân bay, nhiều khu mua sắm, triển lãm. Xem ra tàu nầy lớn gấp ba lần tàu Qeen Mary II cuả Anh. Sau khi tàu ghé bến Hanwha Resort để đón đoàn du lịch người Mỹ gốc Việt qua Nam Hàn hành hương, tàu sẽ đi qua vùng biển Australia, đến Đông Nam Á, đến Thái bình Dương rồi kết thúc cuộc hành trình trên bờ biển Bắc Mỹ và “ai về nhà nấy”. Tối đó ai cũng có cảm giác mình đang lắc lư trên ngọn sóng của biển cả ngoài đại dương. Bất chợt điện thoại báo thức, mới sực tỉnh và rồi biết mình đang nằm mơ (giấc mơ tuyệt đẹp, vì nơi mình ngủ đêm qua chỉ là một khách sạn trên núi. Các nhà thiết kế đã gọt đẽo biến ngọn núi nằm cạnh bờ biển thành dáng con tàu đang neo tại bến. Từ xa nhìn vào mấy ai biết được đây là ngọn núi. Trông thật tài tình và nghệ thuật. Khen các nghệ nhân đã khéo léo ”đánh lừa” được hàng vạn du khách qua đây với tác phẩm độc đáo nầy. Mọi người ngẩn tò te mang hành lý xuống núi, tiếp tục hành trình. Thú vị của du lịch là sự bất ngờ! Thứ tư 30/10/2013, đoàn viếng thăm chùa Haeinsa temple, nơi tôn thờ và gìn giữ tam tạng kinh điển của đức Phật, được khắc trên gỗ qúy. Chùa xây trên núi cao, phải lên từng bậc cấp dốc đứng khiến người yếu sức phải có người trợ lực mới theo kịp. Được biết kho tàng của chùa đang lưu trữ 81.258 miếng gỗ qúy, mỗi miếng dài 70cm ngang 24cm và nặng 3.25kg. Được khắc chữ bằng tay trên hai mặt gỗ. Đây là công trình gía trị có một không hai ở Hàn Quốc, đã được UNESCO của Liên Hiệp Quốc công nhận tháng 12 năm 1955 là di sản văn hoá của thế giới. Toàn bộ kinh điển được lưu trữ trong ngôi nhà gỗ xây đặc biệt, có hệ thống cách nhiệt, cách ẩm và cách ly với người (du khách) vì sợ khi người vào thăm mang theo thân nhiệt, mang theo sinh vật bám vào quần áo cùng với thán khí, lâu ngày sẽ tác động khiến gỗ bị hư hại, vì vậy khách chỉ được nhìn từ ngoài vào và nhìn qua phóng ảnh to treo trên tường mà thôi. Qủa thật không tận mắt nhìn thấy làm sao biết được nơi đây, giữa chốn rừng núi thâm u cùng cốc nầy laị có một báu vật được bảo tồn công phu và cẩn trọng đến thế. Đoàn xuống núi, núi lại ngẩn ngơ nhìn theo! Tác giả trước tượng Phật. Thứ năm ngày 31/10/2013, đoàn đi chiêm bái chùa Bulgulsa (Phật quốc Tự); Thăm thánh địa Seokkuram Grotto nỗi tiếng có tượng Phật khắc trong động đá độc nhất tại Hàn Quốc vào thế kỷ thứ 6. Đường lên chùa rộng rãi, dốc cao thoai thoải, đi mãi đi mãi xen lẫn tiếng suối reo bên tai, tiếng gió lùa qua khe lá xào xạc, tiếng cười đùa râm rang của các học sinh mọi cấp của Hàn Quốc cùng lên. Tìm hiểu được biết: nền giáo dục của đất nước nầy lấy tâm linh làm nền tảng cho việc đào tạo con nguời. Do đó hàng tuần các trường trung tiểu học của họ đều có lịch trình đưa nhau đến chùa chiền, miếu mạo học lịch sử, học văn hoá nước mình tại mỗi địa danh sống thực để từ đó gieo vào lòng các em hạt giống bồ đề tâm, cùng niềm tự hào về dân tộc để khi vào đời họ tận tâm phục vụ đất nước, đưa đất nước đi lên như ngày nay. Khi đòan đã tiếp cận được tôn tượng trong hang, mà luật ở đây chỉ cho phép khách hành hương vừa nhìn vừa di chuyển để tránh đoàn người phía sau ùn ùn tiến lên. Thật khó nói hết lòng khâm phục các nghệ nhân ngàn năm trước, làm cách nào họ có thể tạc được tượng trong điều kiện chật hẹp, tối tăm thiếu thốn mọi phương tiện không như ngày nay. Chiều ve, đoàn đi thăm bảo tàng viện Gyeonju National Meseum của đất nước Nam Hàn. Khi đoàn tiến vào bên trong, đã thấy rất đông học sinh các trường đổ các em xuống đây thăm viếng. Gặp một tốp học sinh tiểu học thấy các em ai nấy đều cầm máy Iphone xin quay phim chụp hình làm kỷ niệm. Các em như những con chim nhỏ, líu lo vô tư như các cháu nhà mình. Khi được biết đoàn từ Mỹ qua, chúng mong sẽ có ngày qua Mỹ học. Cầu mong sao các em đạt được ước nguyện trong đời!. Giã từ các em lên xe đến thăm khu lăng tẩm các vị vua Đại Hàn gần đó. Tại đây đoàn cũng phải len lỏi theo rừng người vào thăm lăng tẩm CHEƠNMACHONG (Heavenly horse Tomb). Điều dễ đập vào mắt là thấy được dể dàng từng ngôi mộ của các vị vua cùng một khu rộng lớn. Không như các lăng tẩm kiểu cọ, chạm khắc rồng bay phượng mùa của vua chúa nhà Nguyễn tại Huế. Mộ của các vua Đại Hàn thật đơn sơ, chỉ là những nấm mồ cao 12. 7m, vòng mộ 157m, trên trồng cỏ như bao ngôi mộ khác của dân gian trông bình dị, dễ gây sự gần gủi, kính trọng đối với quần chúng. Mộ được xây vào thế kỷ thứ 5, 6. Có khoảng 11. 500 vật khảo cổ được khai quật. Chúng gồm có: Vương miện, cành vàng, yên ngựa và vô số vòng vàng mã não, cung kiếm, ly chén, bình đựng rượu, cùng nhiều vật nhu cầu khác trong đời sống thường nhật của vua, đều được trưng bày thật mỹ thuật và trang trọng cho người xem. Đoàn hành hương tới chùa cổ Nam Hàn. Khách viếng mộ sắp hàng lần lượt vào bên trong, vừa di chuyển vừa nhìn (cưỡi ngựa xem hoa) mà thôi, sau lưng đoàn người rồng rắn theo sát, đa số là học sinh các trường. “Quán bên đường” tại đây chỉ bán hàng lưu niệm và hoa tươi để khách viếng mộ mua dâng lên bệ thờ tõ bày lóng kính cẩn với tiền nhân. Tối về đoàn ngủ tại khách sạn Gyeongju Daemyung Resort Hotel. Thật cám ơn ban tổ chức đã tinh ý chọn được những nơi ngả lưng êm ã cho đoàn sau một ngày leo núi, băng rừng mệt nhọc để còn sức ngày mai ra đi… Sáng hôm sau thứ sáu ngày 1/11/2013 đoàn chuyển đến thành phố Busa phía cực nam của Nam Hàn. Từ thủ đô Seoul về đây đã trải qua sáu ngày. Busa có diện tích rộng lớn đứng hàng thứ hai sau thủ đô Seoul và là hải cảng chính của Nam Hàn. Theo lịch trình đoàn sẽ thăm chùa Beomosa Temple có niên đại 1300 lịch sử, nhưng thời gian không cho phép vì di chuyển qúa xa nên thì giờ còn lại chỉ đủ viếng chợ đồ biển Lagalchi của thành phố nầy Chợ bày bán tất cả các loại hãi sản như chợ Việt nam. Chỉ khác xa bên ta, vì được tổ chức nề nếp, sạch sẽ, văn minh hơn. Không nghe mùi tanh của cá vì tự chủ quầy hàng luôn xịt nước tẩy rữa thường xuyên. Đặc biệt họ trình bày hàng trên sạp trông đẹp mắt, rất hấp dẫn người mua. Có những loại hãi sản rất xa lạ với ta chưa thấy lần nào. Xem người để biết mình. Ngay tại chợ Bến Thành Sài Gòn cũng chưa có phong cách, vóc dáng một ngôi chợ cá lịch sự như chợ cá Lagalchi của thành phố Busa nầy. Ngoài chợ, các “quán bên đường” bày bán đủ thứ linh tinh, cá cơm khô, cá hố khô, mực khô, tôm khô v. v.. thấy không phong phú bằng Việt-nam. Tối đoàn về khách sạn Busan Paradise Hotel nghỉ. Kết thúc ngày cuối tại Nam Hàn. Dọc theo hành trình từ Bắc chí Nam của Nam Hàn để luồn sâu vào các chùa trên núi, nên có dịp thấy được đất nước nầy đang tiến bộ. Thán phục hệ thống hạ tầng cơ sở của họ. Từ thôn quê đến thành thị nơi đâu đường sá cũng tráng nhựa phẳng phiu đẹp mắt, chưa hề gặp “ổ gà” nào khi xe đi qua. Người nông dân cày ruộng bằng máy cày công nghiệp. Họ đậu xe riêng bên bờ ruộng, cày ruộng xong lái về nhà. Được biết đời sống người nông thôn được nâng lên gấp ba lần kể từ 1968 đến nay và sẽ còn lên cao hơn nữa với kế hoạch mới của vị nữ tổng thống bây giờ. Không còn cảnh nhà tranh hoặc tôn vách ván lụp xụp nghèo nàn, tất cả đều là nhà xây tường mái ngói khang trang. Trên đường qua vùng nông thôn trù phú này, mừng cho người dân quê Nam Hàn nhưng lại không tránh khỏi thương tủi cho thân phận người phụ nữ Việt phải đành đọan “lấy chồng xa” tồi lưu lạc như trường hợp cô gái Việt nam sau đây. Đoàn dừng chân ở quán bên đườngcủa một bà mẹ trẻ. Nếu không có tiếng “quát” bé trai 5 tuổi vì quậy phá quán hàng của mẹ bằng tiếng Việt, thì khó ai nhận ra người đàn bà nầy là người Việt nam. Do trời lạnh mọi người đều trùm kín thân mình, đầu cổ bằng áo quần chống lạnh. Tôi tìm đến vờ mua hàng và hỏi chuyện. Được biết cô tên Hân, quê ở Tiền Giang Mỹ Tho, vì cuộc sống quá khó khăn, cha mẹ già đau ốm, đàn em năm đứa còn nhỏ, không kế sinh nhai đành ngã theo tiếng gạ gẫm của người môi giới “đi lấy chồng xa” hầu cứu vãn gia đình. Hân kết hôn (kết hôn chứ không kết duyên, đâu có tình yêu trước mà duyên nợ) với người chồng già người Hàn, theo thoả thuận một ngàn Mỹ kim để về làm vợ ở xứ người. Ngày ra đi theo tính toán đủ mọi chi phí của người môi giới. Chúng cướp mất của Hân 700 đô. Gia đình Hân chỉ còn nhận được ba trăm đô mà thôi. Cái giá của người con gái phải đánh đổi đời mình quá bọt bèo! Thế rồi Hân trôi nổi trên xứ người. Hân có được đứa con trai 4 tuổi, sau đó người chồng bệnh chết, hết chỗ nương tựa, gia đình chồng trở mặt bắt Hân làm thân gái phục vụ tình dục cho họ hàng nhà chồng nếu không bị đánh đập tàn nhẫn. Chịu đựng cảnh đắng cay ê chề trên một năm, cuối cùng tự mình phải giải thoát cho mình. Hân trốn nhà ôm con ra đi, lang thang đến khu Munmak Service Area Center quá xa nơi cô cư ngụ, cải trang để che dấu tông tích vì sợ bị bắt lại. Tại đây những ngày đầu tiên quả là gian nan. Phải nhận việc làm thấp nhất trong nấc thang xã hội, lau chùi cầu tiêu công cộng, lau chùi cống rảnh các trại gia cầm để kiếm sống nuôi con. Dành dụm, tiến dần lên một”quán bên đường” bán đồ lưu niệm cho khách qua đường vào trạm nghỉ ngơi rồi đi… Hỏi sao Hân không về Việt nam cùng với cha mẹ. Hân nói trong ngấn lệ. Hân rất nhớ Việt nam, nhớ quê hương nhưng không dám về vì sợ nhìn thấy cảnh đói nghèo ngày trước, thà ở đây thui thủi làm ăn giúp gia đình còn hơn về để chết chùm với nhau. Một thoáng xúc động dậy lên trong tâm khiến tôi bùi ngùi thương cảm cho đời người con gái bất hạnh nầy. Mua món hàng nhỏ tượng trưng, kèm chút tiền làm quà như phía “bên ngoại” của Việt nam cho cháu bé thơ ngây, chơ vơ giữa dòng đời vô định của ngày mai… Đoàn hành hương tới chùa cổ Nam Hàn. Chắc rằng sẽ còn biết bao mảnh đời con gái khác đang rơi rụng khắp đó đây trong vùng Đông nam Á nầy như trường hợp của Hân, nào ai hay biết! Nhân nói đến thân phận những người Việt nam, vì bạo quyền đàn áp phải bỏ nước ra đi, trôi dạt đó đây để lánh nạn, xin nhắc lại chuyện người Việt cũng trôi dạt vào đất nước Hàn Quốc nầy 788 năm trước, nhưng khác với nghịch cảnh trớ trêu của các cô gái “lấy chồng xa” khốn khổ ngày nay. Ông ta được vua Đại Hàn đón tiếp rất trọng thể, được hưởng mọi ưu đãi dành cho ông và gia tộc. Người Việt đó chính là Thái Tử Lý Long Tường. Ông sinh năm 1174, là người con thứ 7 của Hoàng Đế Lý Anh Tông và Hiền Phi là Lê Mỹ Nga. Ông đã được vua Trần Thái Tông phong chức:Thái sư Thượng trụ Quốc Năn 1225, Trần Thủ Độ lật đổ triều đại nhà Lý, đưa cháu trai Trần Cảnh lên nhiếp chánh vào hầu Lý Chiêu Hoàng, dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và buộc Lý Chiêu Hoàng phải thoái vị, nhường ngôi để lập ra triều đại nhà Trần. Sau đó Trần thủ Độ tiến hành cuộc tàn sát con cháu nhà Lý, buộc con cháu nhà Lý phải đổi qua họ Nguyễn, rồi đày con cháu nhà Lý lên vùng núi non, rừng thiêng nước độc hiểm trở phía Bắc để sinh sống. (Cộng sản Việt nam học thuộc bài học nầy, nên khi tiếp thu miền Bắc năm 1954 cũng như khi chiếm được miền Nam sau 1975 họ cũng đày ải người dân Hà Nội rồi Sài gòn lên các vùng rừng núi làm kinh tế mới.) Năm 1226, để bảo toàn tính mạng và lo việc thờ cúng tổ tiên, Lý Long Tường đã mang đồ thờ cúng, Vương Miện, áo Long Bào và Thanh Thượng Phương Bảo Kiếm, truyền từ đời Vua Lý Thái Tổ cùng 6000 gia thuộc thoát ra cửa Thần Phù, nay là tỉnh Thanh Hoá chạy ra biển bằng ba chiến thuyền lớn. Sau một tháng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền gặp bão phải ghé vào Đài Loan (Taiwan). Khi Lý Long Tường quyết định đi tiếp thì con trai là Lý Long Hiển ốm nặng nên phải để lại 200 gia thuộc để chăm sóc cho con và ông đi tiếp. Đoàn thuyền lại bị bão đánh dạt vào Trấn Sơn, trên bờ biển Cao Ly. Tương truyền rằng:trước đó vua Cao Ly nằm mộng thấy một con Phương Hoàng cực lớn bay từ phương Nam đến, vì vậy ông truyền lệnh cho chính quyền điạ phương trải thảm đỏ tiếp đón theo nghi lễ trang trọng, ân cần và đồng ý cho Lỳ Long Tường ở lại dung thân luôn trên đất nước Đại Hàn từ Đó. Tại đây. Lý Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc trồng trọt. đánh cá, chăn nuôi. Ông còn cho mở Độc Thủ Đường dạy văn (thi phú lễ nhạc, tế tự) và Giảng vỏ Đường dạy binh pháp, vỏ thuật. Học trò học rất đông. Lý Long Tường là ông tổ họ Lý gốc Việt tại Hàn Quốc và Triều Tiên. Hiện nay hậu duệ họ Lý dòng dỏi Lý Long Tường có khoảng 600 người. (Ông cũng chính là ông tổ của thuyền nhân vượt biển - Boat people.. của người Việt nam chúng ta ngày nay- lời ngưới viết). Khi mất, ông đươc chôn cất tại chân núi Di-Ất, gần Bàn Môn Điếm (vùng phi quân sự giữa hai miền Nam-Bắc).. Năm1232. Đại Hán Oa Khoát Đài, đem quân tiến đánh Cao Ly, nhưng đã bị Lý Long Tường lảnh đạo tướng sĩ, gia thuộc và quân dân điạ phương đánh bại. Năm 1253. Đại Hán Mông Ca tiến đánh Cao Ly lần thứ hai, sau 5 tháng chiến đấu cũng bị Lý Long Tường đánh bại. Sau các chiến công hiển hách trên, vua Cao ly đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn. Phong Lý Long Tường là Hoa Sơn tướng quân. Nơi quân Nguyên Mông đầu hàng gọi là: Thụ hàng môn và vua Cao ly lập bia tại đây ghi công (di tích nầy hiện nay vẫn còn, theo Wikipedia). Thời gian ở Hoa Sơn, Lý Long Tường thường lên đỉnh núi ngồi trông về phương Nam mà khóc vì nhớ về cố Quốc. Nơi ấy gọi là Vọng Quốc Đàn. Có bài viết đâu đó kể rằng ngày 06 tháng 01 năm 1958. Tổng thống Đại Hàn Lý Thừa Vản thời đó viếng thăm nước Việt Nam Cộng Hoà, tuyên bố với Tổng Thống Ngô đình Diệm rằng: Tổ tiên ông là người Việt Nam. Ông là cháu hậu duệ đời thứ 25 của Lý Long Tường. Chuyện họ Lý Việt Nam tại đất Hàn từ thời phong kiến cách đây 788 năm (2014 – 1226 = 788), dù là cảnh thuyền nhân, lưu vong, nhưng vẫn cho thấy niềm tự hào lịch sử. Ngược lại, trường hợp cô gái Mỹ Tho lưu lạc trên đất Hàn, không khỏi làm người viết ngậm ngùi khi nghĩ tới hoàn cảnh của hàng chục ngàn, trăm ngàn cô gái Việt thời xã hội chủ nghĩa, bị đẩy vào cảnh phải đi “lấy chồng xa.” * Nam Hàn ngày nay đã trở thành một đất nước văn minh, tân tiến, nhưng mọi di tích lịch sử tôn giáo, dù trong rừng sâu núi thẳm vẫn được bảo trì trân trọng. Những ngôi chùa cổ ở đây vẫn dựa lưng vào núi đứng sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt. Đạo nhiệm mầu vẫn lan truyền như dòng suối mát, là chổ dựa tâm linh cho quần sanh khi vào đời. Sau bẩy ngày hành hương chùa cổ tại Nam Hàn, sáng 02/11/13 đoàn rời Busan bay qua Nhật. Xin hẹn gặp lại bạn đọc ở “quán bên đường 3 khi hành hương tại Nhật Bản. Ngô Văn Thu
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 5, 2014 7:23:23 GMT 9
10 ngày khám phá Myanmar Bài 1- Phép màu “open government”Anh Kiệt Chỉ sau hơn 2 năm mở cửa, diện mạo, sinh hoạt đời sống xã hội của Myanmar đã có những thay đổi kỳ diệu, nhiều tuyến đường đã được sửa sang, sóng wifi, điện thoại di động đã về đến các vùng nông thôn tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/553719/myanmar-dat-nuoc-hi-vong-ky-1-phe%CC%81p-mau-open-government.html#ad-image-0 Mang ấn tượng về một đất nước Myanmar đóng cửa, bị cấm vận, nghèo nàn lạc hậu…. chúng tôi chuẩn bị tinh thần đến với Myanmar như một cuộc hành hương về Việt Nam thời bao cấp và chấp nhận chịu đựng những khó khăn thiếu thốn nhất. Thế nhưng, 10 ngày trải nghiệm ở đây chúng tôi đã gặp hết bất ngờ này đến bất ngờ khác về những thay đổi ở đây.Xe secondhand Nhật đang tràn ngập Điều nhiều người ca thán và cũng được xem là hình ảnh đặc trưng của Myanmar là xe cộ cổ lổ, đường xá xuống cấp, việc thanh toán bằng tiền USD rất khó khăn. Nhưng ngay khi bước ra khỏi sân bay Yangoon chúng tôi đã gặp những dảy xe taxi đời mới bóng lộn nối nhau chờ khách và sốt sắng chào mời bằng tiền đô. Nghi ngại có “âm mưu” nào đó chúng tôi chọn một chiếc xe cũ thời thập kỷ 70-80 cho cả đoàn 7 người với giá 15 USD. Và trên đường từ sân bay vào trung tâm thành phố chúng tôi bắt đầu nhận ra những thông tin của mình đã lạc hậu. Yangoon vẫn còn đó những chiếc xe tải lở chen chúc hành khách đứng ngồi đu deo, vẫn còn đó những chiếc trishaw (công dụng giống như xích lô đạp của ta nhưng hình dáng rất đặc trưng chở hai khách) nhưng đường phố đã tràn ngập xe ô tô, xe bus đời mới. Trên đường đi, Chang tài xế xe liếng thoắng chào mời chúng tôi một ngày city tour Yangoon với giá 150 USD và hai ngày đi Golden Rock (Hòn đá vàng) với giá 250 USD bằng xe đời mới cho cả đoàn. Không chỉ vậy, tiền phòng khách sạn , mua hàng mỹ nghệ ở chợ và thậm chí cả trong quán ăn bình dân việc thanh toán bằng USD đều thuận lợi dễ dàng. Chừng như sau mở cửa, việc thanh toán bằng đồng đô la ở Myanmar còn dễ hơn ở Thái. Những ngày sau đó chúng tôi yên tâm bắt taxi xe đời mới đi thăm thú Yangoon với giá rẻ bèo 2 USD mỗi cuốc. DynDyn, người đưa chúng tôi đến GoldenRock nguyên là thủy thủ đã từng đến Việt Nam, Dyn cởi mở giải thích 99% xe đời mới đang lưu hành là xe secondhand tay lái nghịch mặc dù luật đi đường của Myanmar là theo tay phải. Chính phủ cho nhập xe secondhand với thuế suất 20% nhờ vậy, nhiều người đã mua được xe. Chiếc Toyota cá mập đời 2008 của Dyn chỉ có 8.000 USD bao gồm cả thuế. Nhìn bảng hiệu, hầu hết là xe Nhật, chỉ có một ít là xe Hàn Quốc. Tôi hỏi sao không thấy xe Mỹ, Dyn mỉm cười: cấm vận mà, rồi sẽ có, chính phủ mở cửa mà. Dyn và cả Chang thường nhắc đến từ goverment open với niềm vui rạng rở. Hóa ra, thủ tướng Nhật Abe đến Myanmar chậm hơn Obamar hơn 5 tháng nhưng xe Nhật đã vào đây sớm hơn Mỹ đến hai năm. Không chỉ ô tô loại nhỏ, các xe bus đời mới nội thất tiện nghi của Nhật cũng đang thịnh hành ở đây. Đi lại tăng tốc và chất lượng cao Tiến bộ giao thông ở Myanmar không chỉ ở xe mà còn ở đường. Goden Rock hòn đá phủ vàng có ngôi chùa trên 2000 năm là thắng cảnh nỗi tiếng ở Myanmar. Nhiều người rất muốn nhưng không dám đến vì con đường lên núi quá kinh hoàng. Phải vượt 25 km bằng xe tải trên đường đèo dốc hiểm trở và sau đó phải leo núi hơn 1,2 km vì đoạn đường này không có một phương tiện nào đi được ngoài bàn chân người. Nếu không đi nổi phải thuê kiệu với giá 8USD. Chuẩn bị cho chuyến leo núi đầy thử thách này, chúng tôi đã liều gởi hành lý trong xe của Dyn, chỉ mang theo mỗi người một túi nhỏ thật gọn nhẹ. Nhưng tại trạm xe lên núi, người ta chào giá 2 loại xe, 1500 kyat phải leo núi, tốn thêm 1000 kyat (hơn 1 USD) sẽ đi xe lên đến tận đỉnh. Hóa ra chủ xe đã hùn tiền sửa sang đoạn đường 1,2 km thử thách này và độc quyền khai thác. Theo thông tin trên mạng cập nhật năm 2011, từ Yangoon đi cố đô Bagan dài (431 dặm) mất 11 ½ giờ bằng xe hơi hoặc 12 ½ giờ bằng phương tiện giao thông công cộng. Chúng tôi bắt xe bus giá 17 USD một người đi từ 7 giờ chiều và dự đoán sẽ đến Bagan vào 8 giờ sáng hôm sau nhưng thật bất ngờ mới 4 giờ khuya xe đã tới nơi. Bối rối trong cảnh tranh tối tranh sáng đất khách quê người, chúng tôi phải vào một quán cà phê ở bến xe để hỏi thăm thông tin và tìm đường vào khách sạn. Con đường từ Hồ Inle đến thành phố Manladay được du khách ta thán là con đường kinh hoàng giằn xóc, chỉ dài 200 dặm nhưng xe ô tô phải chạy đến 9 giờ. Một phượt thủ Hà Lan đã rên rỉ chưa từng đi cung đường nào khốn khổ đến mức đó, đã vậy, từ Nyaungshwe du khách phải thuê xe ra quốc lộ để chờ đón. Nhưng khi hôm nay tình hình đã khác. Ngay tại làng đã có bến xe mini đi ba tuyến Bagan, Yangoon, và Manladay. Tuyến Manladay có hai loại xe: loại thường giá 10.000 kyat/ người, loại VIP giá 15.000 Kyat/người, xe đón tại khách sạn, thời gian đi đã rút ngắn chỉ còn 6 giờ. Chúng tôi đã uổng công chuẩn bị đối phó với những trận giằn xóc vì đường rất tốt xe chạy rất êm và ghế nệm mềm mại đến cả bệ để chân cũng được bọc nhung. Đổi lại ở hầu hết các tuyến đường chúng tôi đều gặp những trạm thu phí, dấu hiệu cho thấy những con đường vừa được tu bổ bằng hình thức đầu tư BOT. Wifi đã phủ ở nhiều nơi Những thông tin trên mạng xem việc gọi điện thoại ngay cả gọi nội địa ở đây đã là việc khó khăn, tìm nơi kết nối mạng càng cực kỳ nhọc nhằn, chúng tôi không mang theo laptop vì nghĩ nó vô dụng. Tuy nhiên điều đó đã xưa rồi, đến nay hầu hết các khách sạn, quán ăn của Myanmar đều có Free Wifi. Ngay cả các cửa hàng giới thiệu sản phẩm mỷ nghệ cũng có bảng giới thiệu có wifi. Các cửa hàng điện thoại, tiệm nét, game mọc nhan nhản khắp nơi. Điện thoại di động đã trở thành phương tiện sinh hoạt phổ biến cho mọi người ngay cả những người lái xe ôm, xe tuktuk. Cước điện thoại có lẻ vẫn còn cao, khi chúng tôi gọi nhờ điện thoại của khách sạn cho Chang chỉ hơn 5 phút, bị tính cước 1000 kyat (khoảng 23.000 VND) nhưng trên hành trình đi Godend Rock chúng tôi vẫn thấy Dyn hồn nhiên “nấu cháo” điện thoại với ai đó. Công nghệ thông tin đã phổ cập đến mức một nhóm tài xế xe tuktuk ngồi giải trí bằng lapop trong khi chờ khách dưới chân đồi Sagiang. Từ phát hiện này, khi về đến Việt Nam tôi đã mua một cái Ipad vì có lẽ nơi cuối cùng của thế giới đã phủ sóng Wifi. Leg: Xe trishaw chở ba chạy giửa dòng xe hơi đời mới. Những chiếc xe chở khách nhồi nhét đeo đu chạy song hành với các xe ô tô. Một salon otô vừa khai trương ở yangoon Một trạm thu phí mới xây xong một phần đã đi vào hoạt động Ảnh cho box: báo chí thương mại, thể thao đã xuất hiện. Tài xế xe tuktuk mang điện thoại di động bên hông, chơi laptop trong khi chờ khách Box: Truyền thông cởi mở nhưng chưa đa dạng Dù một thời gian dài sống trong chế độ độc tài nhưng hiện nay, trên đường phố, nơi công cộng ở Myanmar không thấy chân dung lãnh tụ hay các khẩu hiệu tuyên truyền chính trị. Trên các nhật báo của chính phủ màu sắc, thông tin đơn điệu, hình ảnh Thensen vẫn thường ngự trị trên trang nhất. Nhưng trên các quầy báo đã xuất hiện một số tờ báo anh ngữ, song ngữ, báo thương mại thể thao đa dạng. Truyền hình cáp trong các khách sạn có 11 kênh, trong đó có kênh chiếu phim HBO, kênh thể thao châu Á, còn lại là các kênh thông tin địa phương. Chất lượng đường truyền chưa tốt. Trong câu chuyện với Chang, Dyn, và những người Myanmar khác người ta nhắc tới tổng thống Thensen với sự kính trọng và nhắc đến bà Aung San Suu Kyi với tình thương yêu. Anh Yar Man, người xà ích xe ngựa chở tôi đi thăm thú Bagan hào hứng kể về chuyện bà đã từng về thăm Bagan như một niềm tự hào. ài 2- Lối sống hồn hậu làm ra đặc sản Bản sắc văn hóa Myanmar còn nổi bật trong lối sống hồn hậu, thân thiện, trong sinh hoạt, những tập tục độc đáo trong đời sống của người dân tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/553902/myanmar-dat-nuoc-hi-vong-ky-2-%C2%A0xu-so-than-thien.html#ad-image-0Đến bến xe Mandalay chỉ mới 2 giờ sáng, đoàn chúng tôi bắt taxi đi vào trung tâm thành phố giá chỉ 10 usd nhưng anh tài xế hứa sẽ bao trọn gói đến khi nào chúng tôi tìm được khách sạn ưng ý. Trước vẻ nhiệt tình ấy chúng tôi lại lo lắng, liệu có bị lừa? Liệu có bị cò bán cho khách sạn?… Thân thiện mọi lúc, mọi nơi Chạy một đoạn trên đường chính, chưa vào đến trung tâm xe lại đột ngột rẻ vào đường nhánh làm tôi càng băn khoăn căng mắt theo dõi. Cuối cùng xe dừng lại trước cổng một ngôi chùa (sau này tôi mới biết đó là ngôi chùa thiêng Mahabohdi). Em bé chạy đến trao cho anh tài xế một vòng hoa nhỏ, anh thành kính cầm vòng hoa lên chắp tay xá ngôi chùa ba xá rồi lui xe chạy tiếp. Hóa ra anh đi cúng chùa. Nỗi lo nhẹ hửng đi với một phật tử thành tâm như thế thì chắc không làm điều xấu. Quả nhiên anh đưa chúng tôi đi lần lượt gỏ cửa ba khách sạn đến khi tìm được chổ ở thích hợp mà không kỳ kèo vòi vĩnh thêm tiền. Sự thân thiện đến bất ngờ của khách sạn ở Myanmar là họ nhiệt tình giới thiệu cho khách những cơ sở khác phù hợp nhu cầu của khách. Ở Yangoon, chúng tôi chọn Three Seasons Hotel, đây là tòa nhà bằng gỗ khá xinh xắn, nhưng rất tiếc không đủ phòng cho cả đoàn. Tiếp tân ở đây cung cấp thông tin giá cả, phòng ốc và gọi điện cho khách sạn Hninn Si Budget Inn ở gần đó cho xe đến rước chúng tôi. Ở Mandalay, dầu bị đập cửa dựng dậy lúc nủa đêm rồi bị chê giá cao, phòng không máy lạnh nhưng tiếp tân Royal Guesthouse không phiền hà, vẫn nhiệt tình giới thiệu cho chúng tôi khách sạn Grand Royal gần đó với giá cả phải chăng, đủ tiện nghi. Sự thân thiện đó không phải cá biệt mà trở thành lối sống của người dân Myanmar. Ở Golden Rock, khách sạn Moutain Top đã hết phòng, tiếp tân khách sạn này dẫn chúng tôi đi hàng trăm mét đến khách sạn khác ở sau chùa chỉ còn lại một phòng duy nhất. Nước uống miễn phí khắp nơi Hình ảnh quen thuộc hiện diện tất cả mọi nơi công cộng ở Myanmar là những chum nước miễn phí. Từ đồn cảnh sát, các ngôi chùa, các cửa hàng, ngoài khu chợ, trên đường đi đâu cũng có những chum sành đặt trên bệ, giá đở, có nắp đậy hình nón lá. Bên trong là một mâm đậy bằng innox và một ca innox. Trên đất nước nóng bức, khô hạn, một năm chỉ có ba tháng mưa này thì những chum nước uống miễn phí là món quà tuyệt vời. Thông thường, những chum nước ấy được đặt trong chỗ râm mát, chứa bằng chậu sành nên dù giửa trưa nước luôn mát lạnh. Ở những điểm di tích có thu phí như chùa vàng Shwe Dagon thì nước uống còn sang trọng hơn, là nước lọc đóng chai đặt trên bình nóng lạnh.. Ngay nhà người dân, chum nước để dùng cho gia đình cũng thường đặt ở trước của nhà. Trong thời gian chờ xe bus từ Yangoon lên Bagan, chúng tôi ghé nhà người tài xế taxi Dyn Dyn để tắm rửa và cũng nhìn thấy một chum nước trước nhà như vậy. Hỏi sinh hoạt này có từ khi nào, DynDyn lắc đầu không biết, vì nó đã có từ bao đời, trước khi anh sinh ra đã là như vậy. Phải chăng đây là đạo lý hoan hỉ bố thí của Phật giáo đã tạo thành một nếp sống cho người dân? Cúng dường thay cho mua vé Hình ảnh đầy màu sắc thường gặp ở Myanmar là các nhà sư mặc áo nâu sậm của phật giáo Nam Tông đi khất thực. Có khi họ đi lẻ một hai người nhưng có khi đi cả tăng đoàn. Không gò bó, chậm chạp như ở Việt Nam, họ đi thong dong, nhanh nhẹn thậm chí những chú sadi tuổi thiếu niên mang y, cầm bát đi khất thực cũng tung tăng chạy nhảy như trẻ con đi dạo. Với người dân, việc cúng dường cho các tăng sĩ chừng như là niềm hạnh phúc, họ cung kính hiến dâng với tất cả chân thành, có người cúng hiến bằng thực phẩm nhưng đa số hiến bằng tiền. Ở các điểm di tích nổi tiếng, khách nước ngoài đều phải mua vé với giá khá cao nhưng với người Myanmar thì hoàn toàn miễn phí thay vào đó là việc cúng dường tự nguyện. Hai bên đường vào cổng di tích có hai hàng người cầm ô bằng bạc lắc những đồng ken loảng xoảng và nói bằng tiếng địa phương kêu gọi cúng dường. Trên đoạn đường leo núi lên Goden Rock có ba trạm dừng để các xe lên xuống núi tránh nhau, cũng có ba nhóm người cầm ô bạc mời gọi cúng dường. Trong cái tư duy “quản lý tài chánh” kiểu Việt Nam tôi cứ thắc mắc số tiền này sẽ được đăng nộp, thu chi quản lý ra sao? Phải chăng ở đây đức tin đã thành một sức mạnh thay cho công cụ quản lý? Nhưng dù sao đi nữa thì cung cách này cũng tạo ra phong thái sắc màu riêng biệt Myanmar. Màu sắc Longhi và Tanakhan Nước ta từng có trang phục riêng và từ bỏ nó theo âu phục để rồi bây giờ loay hoai đi tìm quốc phục. Người Myanmar ngày nay vẫn trung thành với trang phục cổ truyền, nam nữ đều mặc váy là một khúc vải được may thành ống và thắt quanh người gọi là longhi. Chính cách ăn mặc này đã tạo ra bức tranh sinh hoạt xã hội của Myanmar hết sức đặc thù, đầy màu sắc. Cách vận longhi của phụ nữ rất gọn gàng, nhưng với phái nam mỗi người mỗi kiểu. Có người thắt thành cục to trước bụng, có người cột lại như cái nơ. Việc tụt, sửa longhi giửa đường nơi công cộng là chuyện bình thường. Longhi chừng như không gây cản trở cho sinh hoạt nghề nghiệp nên từ người lái tàu, lái xe, khuân vác đều vận longhi. Một tập quán đặc sắc khác của Myanmar là thoa tanakhan lên mặt. Tanakhan là một loại bột làm từ vỏ cây mài trên một bàn mài bằng đá hòa tan với nước và thoa lên mặt. Hầu hết trẻ em và phụ nữ đều thoa Tanakhan. Có người thoa thành bệt tự nhiên nhưng nhiều cô gái đã tận dụng nó để thành một phương cách trang điểm thoa thành hình trái tim, thoa viền hai má… Về công dụng của nó thì vợ DynDyn cho biết là nhằm làm mát, mịn da. Người Myanmar sẽ rất vui sướng khi khách nước ngoài nhờ thoa tanakhan, họ sẽ không ngại thời giờ mài cây thật mịn, thoa thật đẹp cho du khách. Không biết công dụng về dinh dưởng da của tanakhan ra sao nhưng với tập quán này thì gương mặt những cô gái Myanmar không thể lẩn với những thiếu nữ của các quốc gia khác trong vùng đông nam á. Những quày hàng tanakhan nhan nhản khắp nơi cũng góp phần tạo ra sắc thái riêng cho phố chợ Myanmar. Box: Bị đóng cửa nhưng vẫn phổ cập được Anh ngữ Suốt 10 ngày ở Myanmar chúng tôi ít khi gặp khó khăn về giao tiếp. Không kể tiếp tân khách sạn hay lái xe du lịch như Dyndyn là những người thường xuyên giao tiếp với du khách, trong các hàng quán ăn dành cho người dân địa phương vẫn có người nói được tiếng Anh. Tuy chưa phải là thứ tiếng anh hàn lâm đạt chuẩn nhưng chí ít vẫn đủ để hiểu nhau. Cộng đồng Phượt Việt Nam thường thông tin ca ngợi anh MinThu là một trong rất ít tài xế xe ngựa ở Bagan biết nói tiếng anh và nhiệt tình giúp đở khách. Chúng tôi cũng hỏi thăm và được biết MinThu đã được giới xe ngựa phong là “Guide quốc tế” và chỉ làm dịch vụ môi giới chứ không còn lái xe nữa. Một thanh niên trẻ tự giới thiệu là Min Tuyn, nói tiếng anh khá tốt đã chào hàng chúng tôi giá phục vụ rẻ hơn giá của MinThu và tất cả tài xế xe ngựa nhóm của anh đều biết tiếng anh và có kiến thức về văn hóa lịch sử Bagan đáp ứng cho du khách. Ngày cuối cùng ở Mandalay, vì quá mê cây cầu Ubien, tôi tách đoàn thuê một chiếc xe honda ôm quay trở lại cầu này, hóa ra Don Yar, anh tài xế xe ôm theo đạo Islam của tôi cũng biết vỏ vẻ tiếng anh. Bốn lần đi ngang qua một văn phòng trung tâm du lịch nhỏ ở bờ Hồ Inle vào lúc sáng sớm lẩn chiều tối, tôi đều nghe tiếng phát âm đồng thanh của lớp học tiếng anh. Rỏ ràng, trong khó khăn, thiếu thốn của sự đóng cửa, cấm vận, người dân Myanmar đã có những cố gắng vượt bật để thu hẹp khoản cách với thế giới hiện đại. Chú thích ảnh: Một tăng đoàn đang khất thực ở Bagan Hai cô gái bán trầu thoa tanakhan trên má Những bình nước miễn phí ở chùa Shwe Dagon Những chum nước miễn phí ven đường, có giá để và mái che Những phu khiêng kiệu mặc Longhi Nhũng tài xế xe ôm mặc longghi thắt lưng đủ kiểu Những khúc Tanakhan nguyên liệu, bên dưới là bàn mài bằng đá. Bài 3- Di sản vô giá của tiền nhân Anh Kiệt Myanmar không có những thắng cảnh thiên nhiên được bình chọn di sản thế giới như vịnh Hạ Long, nhưng những thế hệ tiền nhân Myanmar đã để lại cho đất nước những ngôi chùa vàng và di sản văn hóa lịch sử quý hơn vàng. Ngay trong thời ngoài cấm vận, trong đóng cửa, thiếu thốn mọi tiện nghi, sinh hoạt bị gò ép nhưng du khách quốc tế vẫn đổ về Myanmar vì đất nước này có những di sản mang bản sắc riêng không đất nước nào có được. Myanmar có nhiều ngôi chùa được dát vàng. Người ta tính nếu chia tổng số vàng được dát ở các chùa của Myanmar cho tổng số dân thì mỗi người có đến ba ký lô vàng. Chùa vàng, đá vàng…và tấm lòng vàng Tuy nhiên giá trị của những thắng cảnh, di tích ở Myanmar không chỉ nằm trong giá trị vàng ấy mà còn là sự tích tụ của lịch sử, văn hóa, kiến trúc trong từng ngôi đền, thắng cảnh. Với Shwe Dagon, quý hơn vàng là 2600 năm lịch sử. Bản thân nó chứa hơn 1000 công trình, tích tụ bao đường nét kiến trúc của nhiều triều đại. Choáng váng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của ngôi chùa dưới ánh sáng rực rở của mặt trời, chúng tôi quay lại chùa để nhìn ngắm nó trong ánh sáng lung linh lúc về đêm và phát hiện ra không chỉ chúng tôi mà hàng ngàn du khách cũng đội mưa tìm đến, hàng ngàn phật tử vẫn dồn về chiêm bái, có người ngồi hẳn giửa trời mưa cầu nguyện. Ở Thái Lan, Campuchia cũng có chùa vàng, tượng phật bằng vàng khối nhưng đó là những khối vàng cố định. Tượng phật, chùa vàng ở Myanmar lại cứ lớn dần thêm, to ra thêm với sự vun đắp lòng tin của phật tử. Goden Rock, hòn đá được dát vàng, hơn 2100 năm qua và đến nay vẫn còn tiếp tục, người dân Myanmar ngày đêm thành kính dát nhửng miếng vàng mỏng hơn một lớp bụi, phủ lên đá thành những lớp dày. Ngôi chùa Mahabodhi nỗi tiếng ở Mandalay có pho tượng phật vàng khổng lồ cũng ngày đêm được dát thêm vàng. Nhưng người Myanmar không chỉ đến chùa vát vàng, cúng dường mà tìm đến đây như tìm đến không gian sống lý tưởng. Không lệ thuộc vào nghi thức, kinh kệ, giờ giấc, người ta đến chùa bất cứ khi nào có thể và mỗi người có một cách, một chỗ riêng để cầu nguyện, hành thiền hay niệm chú…Từ trong chánh điện của chùa hay các tượng phật bên ngoài, ở những góc tường rào, nơi nào cũng có người ngồi cúng vái, thiền định. Tôi đã thức gần trọn đêm ở Goden Rock, trên độ cao 1100 mét, gió lồng lộng thổi, trời rất lạnh nhưng trên khoảng sân rộng vẫn lúp xúp những dáng người ngồi trầm tư. Không gian đêm vẫn ấm nồng hương trầm và tiếng rì rầm kinh kệ. Không chỉ ở những ngôi chùa lớn nỗi tiếng linh thiêng mà ở các ngôi chùa nhỏ ở địa phương cũng vậy. Tại làng Nyaungshwe ven hồ Inle, chúng tôi đã tình cờ làm quen với Siu, một cô giáo cấp 2 vừa tan trường sau buổi học chiều. Cứ tưởng rằng cô sẽ về nhà nghĩ ngơi nhưng bất ngờ Siu rẻ vào ngôi chùa gần đó để tỉnh tâm, sau đó mới về nhà. Hóa ra, khác với Việt Nam, người Myanmar không tìm đến chùa để cầu tài, cầu lộc, xin ấn … mà tìm đến một điểm tựa tâm linh thanh thản. Các ngôi chùa ở Myanmar luôn sống động những tấm lòng vàng mộ đạo và từ đó tạo ra bản sắc độc đáo của Myanmar là nếp sống thong dong, nhẹ nhỏm. Thời gian, lịch sử phủ vàng lên gạch đá Bagan, đế đô của vương triều Myanmar từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 13 với hơn 4000 đền tháp trải trên diện tích gần 40 km2 không có cái nào giống với cái nào. Những đền tháp ở đây không để thể hiện sức mạnh vương quyền như Vạn lý trường thành hay ý chí của đại đế như Taj Mahal mà vì mục đích kết nối cuộc sống trần gian và thế giới tâm linh. Anh xà ích Yar Man đã giải thích với tôi cách phân biệt hai khái niệm pagoda và temple theo nghĩa riêng ở Bagan. Pagoda là tháp chôn người là những khối đặt ruột, không đi vào trong được. Temple là những đền chùa thờ phật có thể đi vào trong cúng viếng. Năm 1998, chính phủ quyết định di dời toàn bộ dân cư ra khỏi khu di sản Bagan để bảo tồn. Toàn bộ khu vực di sản rộng mênh mông chỉ còn một vài ngôi đền tháp có nhà sư hương khói. Vẻ hoang vắng và những cánh rừng thưa hoang dã lô nhô khóm cây thốt nốt chen những đỉnh tháp cao càng tôn vinh sự cổ kính. Khối nên đất cát và khí hậu lục địa nắng khô đã sản sinh ở đây nhiều loài cây lạ. Những khóm xương rồng cao hai ba thước, rộng bằng cả gian nhà, những thân cây có vỏ màu đen kịn như vừa lấy ra từ một lò than nhưng tàn cây xanh mướt. Đi xe ngựa lang thang trên những con đường đất cát khô cằn trong khu Bagan cổ như lạc vào một vùng cổ tích. Tôi say sưa với những góc hình lạ mắt, cứ đòi dừng xe để chụp hình thì anh xà ích Yar Man cứ kín đáo nhìn đồng hồ. Tôi cứ ngở anh ta muốn nhắc khéo tôi kết thúc hành trình nhưng không. Khi mặt trời đã nghiêng bóng nắng anh thúc chú ngựa non chạy nhanh hơn và nói với tôi “Phải đến tháp Shwesandaw ngắm mặt trời chiều”. Quả nhiên, khi đến Shwesandaw nhiều chiếc xe ngựa và xe bus đã tập trung ở đó. Leo hơn 30 mét trên những bậc tam cấp dựng đứng lên đến đỉnh ngọn tháp cổ 900 năm tuổi không phải là trò chơi của người đứng tuổi, nhưng khi đến nơi tôi thật sự được đền bù. Trong bóng nắng chiều, những ngôi đền tháp bằng gạch nung vàng lên rực rở. Tạp chí Conde Nast Traveler đã bình chọn Bagan là một trong 5 điểm cần đến du lịch của Châu Á là hoàn toàn xứng đáng. Cùng thời với một Thăng Long rực rở hùng mạnh của Lý, Trần nhưng Bagan vẫn còn đây gần như nguyên vẹn còn Thăng Long xưa, ngay đến những “Đền cũ lâu đài nét tịch dương” nay cũng đã khuất bóng mất rồi. Nhưng người dân Bagan không chỉ thừa kế tổ tiên những đền đài thành quách mà còn kế thừa những nghề thủ công truyền thống đặc biệt là sơn mài mỷ nghệ. Tôi đến thăm xưởng có cái tên kiêu hảnh Ever Stand. Những cái cốc đựng nước thanh mảnh, những cái hộp, cái đĩa bóng loáng quý phái đến những cái bàn tròn hai mặt trên một trục xoay đường kính hơn hai mét được trang trí họa tiết cầu kỳ. Tất cả đều rất nhẹ và rất đắt tiền, vật nhỏ nhất cũng trên 10 USD . Khi nghe cô con gái ông chủ, nói thông thạo cả tiếng Anh, tiếng Pháp giới thiệu chất liệu chúng tôi mới giật mình. Ly làm bằng lông ngựa, tất cả các sản phẩm còn lại được làm bằng ruột tre. Cô đưa chúng tôi xuống xưởng sản xuất ở phía sau. Hàng trăm người thợ thủ công đang ngồi ghép những lát ruột tre mỏng như tờ giấy kết nối thành đủ thứ đồ vật. … Tài hoa và sự kiên trì họ đã biến những nguyên liệu rẻ tiền nhất thành những sản phẩm mỹ nghệ cao cấp và tăng thêm sức quyến rủ cho Bagan. Những làng nghề nổi – công trình của nhiều thế hệ Hồ Inle từng được tạp chí Condé Nast Traveler chọn là 1 trong 5 điểm đến mới của châu Á, rộng 250km2, cao khoảng 800m so với mặt biển. Hồ chỉ là một vùng ngập nước hoang vu lao sậy nhưng chính bàn tay kiến tạo và sinh hoạt cuộc sống của cư dân ở những làng cổ, làng nổi tạo ra sức hút vô cùng hấp dẫn. Làng nghề ở đây là những dảy nhà sàn gổ cao lừng lửng trên mặt nước, rộng hàng ngàn mét vuông, nhà này nối với nhà khác bằng những cây cầu gổ. Chỉ riêng cảnh quan của ngôi làng đã là nét đẹp kỳ vĩ. Ở làng dệt lotus (sen), người ta dệt ra vải sợi từ những ngó sen tươi. Người Việt chỉ biết ngâm Kiều “Đã lìa ngó ý còn vương tơ lòng”, người Myanmar đã tỷ mẩn rút những sợi tơ từ ngó sen, xe thành sợi để dệt nên những tấm vải sắc màu độc đáo. Ở một số nước, những làng nghề du lịch thường chỉ là nơi trưng bày, biểu diển, còn hầu hết sản phẩm đều là hàng công nghiệp sản xuất theo kiểu dáng mẩu mả cổ truyền nhưng ở đây thì không. Sau gian trưng bày, bán hàng là những xưởng dệt thủ công với những khung dệt bằng gổ sần sùi thô kệch và hàng chục người thợ đang cắm cúi, đầm đìa mồ hôi sản xuất. Ấn tượng mạnh mẻ nhất ở hồ Inle là cánh đồng cà chua rộng hàng trăm mẩu trồng trên bãi bồi. Để chịu lực cho cây cà đứng thẳng, người ta cặm cọc tre nên nhìn từ xa giống như một rừng tre khô phía dưới là một thảm xanh rờn mênh mông và tất cả soi bóng dưới dòng nước trong leo lẻo in bóng mây trời. Người Myanmar có cách chèo thuyền thật độc đáo, một chân đứng trụ, chân còn lại co lên lấy đoạn khuyủ ống chân làm điểm tựa cho cột chèo. Thỉnh thoảng, ở các đầu luống cà có bảng cảnh báo bằng tiếng anh “Xin đừng dùng phân hóa học và hóa chất”, đó có thể chỉ nhằm quảng cáo với du khách. Nhưng hình ảnh những chiếc xuồng đầy rong, lục bình ẩn hiện trong vườn và màu xanhh mát của cây đủ để du khách tin rằng, đây là khu vườn xanh và sạch. Box: Ubien – cây cầu ghổ xưa nhất và dài nhất. Ubien được các tạp chí du lịch bình chọn là một trong 10 địa điểm ngắm hoàng hôn đẹp nhất trên thế giới. Cây cầu dài hơn 1,2 km bắc qua hồ Taungthaman làm bằng gổ Tek (cây giá tị) có trên 200 năm tuổi. Đây là cây cầy gổ dài nhất và cổ xưa nhất thế giới còn sót lại. Thời gian in dấu nhăn nheo nứt nẻ trên 1000 cây cột gổ cao vòi vọi in bóng xuống mặt hồ. Rất tiếc khi chúng tôi đến cơn bảo đầu mùa đã ập vào Myanmar nên không được nhìn ngắm cảnh hoàng hôn cháy trên cầu nhưng bù lại được hưởng một chiều lộng gió run run đi trên cây cầu không thanh chắn, hít thở không gian Myanmar đậm đặc khói sương. Leg: Những nhà sư trên cầu gổ Ubien Đền tháp Bagan vàng rực trong nắng chiều. Chùa vàng Shwe Dagon lung linh trong đêm Tượng phật bằng vàng ròng ở chùa Mahabodhi đang được phật tử đắp thêm vàng . Nhà sàn trên hồ Inle soi bóng nước. Vườn cà chua trên hồ Inle.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 8, 2016 2:35:08 GMT 9
Diệu Thủ Thư Sinh 2016
Lời người viết: Ðề tài “Diệu Thủ Thư Sinh” được tôi viết cách đây khá lâu, nhưng không vì thế mà thời-gian-tính làm suy yếu đi các chiêu thức mà các cao thủ trong giới giang hồ “pickpocket” ra tay sử dụng tại địa bàn các đất nước Âu Châu. Ngược lại, võ công của các cao thủ này càng ngày càng cao cường hơn, tinh vi hơn và dĩ nhiên điêu luyện hơn. Thậm chí các tay “diệu thủ” đang dần có khuynh hướng mạnh bạo hơn, chuyển sang các chiêu “cướp giựt” công khai. Vì thế, với mục đích giúp du khách người Việt cần biết thêm ít nhiều về chiêu thức “lăng ba vi bộ,” nhằm tránh thoát các hư chiêu của các tay lão luyện diệu thủ Âu Châu được họ tung ra nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của du khách để họ ung dung móc túi lấy trộm ví tiền hoặc các món đồ quí giá của bạn. Bất cứ sự mất mát nào cũng làm bạn mất vui cho một chuyến nghỉ hè vacation. “Diệu Thủ Thư sinh 2016” được update như là một món quà gởi tặng đến những ai chuẩn bị cho một chuyến du ngoạn mùa hè Âu Châu 2016.
(ATNT Tours & Travel) Âu Châu, địa bàn hoạt động của “Diệu Thủ Thư Sinh.” (Hình: Người Việt cung cấp) Những ai đã từng thích thú đọc truyện Anh Hùng Xạ Ðiêu thì đều nhớ trong phần đầu bộ chuyện, Kim Dung có viết hư cấu về một nhóm bảy người được mệnh danh là Giang Nam Thất Quái. Nổi tiếng nhất là thủ lãnh Phi Thiên Biển Bức Kha Trấn Ác chuyên ném phi tiêu và sử dụng cây quải trượng và là đại sư phụ của Quách Tỉnh. Kế đến là Diệu Thủ Thư Sinh Chu Thông, người tinh thông sách vở và nhiều mưu mô. Giang Nam nhị quái Chu Thông thường ăn mặc như là một người thư sinh nghèo, dùng quạt làm vũ khí và chân tay quyền biến rất nhanh, lấy đồ trong túi người khác mau lẹ đến nỗi mà người mất không hề hay biết. Vì thế, giới võ lâm gán cho Chu Thông biệt danh là “Diệu Thủ Thư Sinh.” Không biết tuyệt chiêu của Diệu Thủ Thư Sinh cao cường đến đâu qua ngòi viết của Kim Dung, nhưng những độc chiêu của chiêu thức “diệu thủ” ngày nay chúng ta không thể coi thường được. Môn võ công này có nhiều môn phái khác nhau tùy theo từng châu lục (Âu Châu, Á Châu, Mỹ Châu) nên các chiêu thức cũng khác nhau, nhưng chúng đều vô cùng lợi hại. Âu Châu là một khu vực bao gồm các đất nước giàu nghèo nằm san sát nhau. Nước giàu thì có thể kể ra như Anh, Pháp, Ðức, Thụy Sĩ, Áo, Hà lan, Bỉ. Nghèo thì có các nước Cộng Sản Ðông Âu cũ. Còn nợ nần ngập đầu thì có Spain, Portugal, Italy, v.v... Nhưng dù ở bất cứ đất nước nào, những nơi mà du khách đổ xô đến du ngoạn thì các nơi đó đều có rất nhiều môn đệ của Giang Nam nhị quái Chu Thông làm việc cật lực ngày đêm. Du khách đến Âu Châu mà không biết sử dụng môn “lăng ba vi bộ” để tránh né thì rất dễ dàng trúng độc chiêu “diệu thủ” của họ. Các “diệu thủ thư sinh” gồm nhiều quốc tịch khác nhau và thường tụ tập thành từng nhóm, ít nhất từ 2 người đến 5-6 người. Mục đích là họ bảo vệ và tạo ra thế liên hoàn tương trợ lẫn nhau, tạo ra các “hư chiêu” để đánh lừa du khách. Khi họ tung chiêu ra, thường thường du khách không mất tiền thì cũng mất passport, máy camera, máy quay phim, đồng hồ, v.v... Sự mất mát giấy tờ tiền bạc làm du khách bực tức, nổi nóng cáu giận. Ngoài ra, bạn mất rất nhiều thì giờ để làm Police report, tốn kém tiền bạc lo toan cho các phí tổn chung quanh sự mất mát. Ðể đề phòng cách thức “ra tay” của các “diệu thủ thư sinh,” tốt nhất là bạn phải hiểu và biết lo bảo vệ cho chính bạn khi rong ruổi du ngoạn Âu Châu. Âu Châu với các không gian hình ảnh đẹp đẽ của phố, di tích lịch sử nhà thờ, viện bảo tàng, sự sầm uất của quảng trường thường thu hút hấp dẫn lôi cuốn làm ngẩn ngơ người xem. Ðến đây, du khách ai cũng mải mê chụp hình, quay video, hay lo nói chuyện thưởng ngoạn và mua bán hàng kỷ niệm mà không còn chú tâm đến mọi việc chung quanh. Ðây chính là lúc các “diệu thủ thư sinh” ra tay rất nhanh, mượn đỡ tiền bạc tài sản của bạn để tiêu xài. Ðể tránh phiền phức mất mát, bạn luôn nên để ý xem có người lạ lân la đến đứng gần bạn hay không! Bất kể người đó ăn mặc như thế nào, họ ăn mặc thật sang trọng hay thật nghèo hèn cũng không khác gì nhau. Càng bảnh trai, càng xinh gái bao nhiêu thì bạn càng nên phải đề cao cảnh giác nhiều hơn. Sau đây là những hiểu biết góp nhặt chia sẻ đến độc giả những điều cần chú ý. Trước khi ra độc chiêu “chôm chỉa,” các “diệu thủ thư sinh” thường thường tung ra các hư chiêu để đánh lừa du khách. Các hư chiêu này thường tỏ ra hữu hiệu khi nó được lồng vào trong các mưu kế như mỹ-nhân-kế, khổ-nhục-kế, giúp-đỡ-kế, công-an-kế vì đây là những mưu kế làm mủi lòng (như khổ-nhục-kế) hay áp đảo (như công-an-kế) tinh thần đối thủ trước khi các diệu thủ ra “thực chiêu” để lấy tiền bạc và đồ đạc của du khách. -Khi bạn ngồi trong lobby hotel hay trong các tiệm ăn, nếu bạn thấy một cô xinh đẹp mà lởn vởn quanh mình, cô ta đi tay không và không đeo ví thì bạn nên cẩn thận vì cô ta có thể “mượn và đeo” ví của bạn rất nhanh mà không bị ai nghi ngờ gì cả. -Ngắm cảnh đẹp, bạn mải mê rảo bước chân đi tìm chỗ đứng chụp hình quay phim, bạn thấy có ai đụng chạm nhẹ bạn phía sau. Quay lại bạn gặp một anh chàng bảnh bao, ăn mặc tử tế chải chuốt, trông rất thư sinh và nói câu xin lỗi. Bạn đừng vội nói: “It's ok hay no problem”! Mà ngay lập tức bạn nên kiểm soát lại bóp ví, tiền bạc trong túi quần sau, tôi tin chắc 90% khuy nút túi sau của bạn đã bị mở hoặc bóp ví bạn đã ra đi. -Bạn đang nắm tay đi dung dăng dung dẻ nói chuyện với vợ trên con đường rộng rãi, đọc thơ Tình Già của Phan Khôi mùi mẫn nói chuyện ngày xưa. Bỗng ngược chiều, một nhóm 3-4 người, con trai có con gái có, cười nói đùa nghịch và làm như muốn đâm sầm vào bạn. Bạn nên lùi tránh ra xa và sẵn sàng hét lên vì chính là chúng rồi. Thường khi bạn lùi tránh ra là chúng biết bạn đã biết đề phòng nên chúng có thể bỏ đi. Còn bạn không biết lùi tránh và cũng không biết hét thì bạn sẽ ngậm ngùi hát bài “Tình cầm nhầm: nếu ông còn trẻ như năm cũ, quyết đánh cả làng của chúng bây...” -Bạn đang ngồi chờ bạn bè ở Lobby hotel 5 sao đẹp và sang trọng. Bỗng có người trông rất chỉnh tề lân la đến làm quen. Nói đủ thứ chuyện và khen bạn, khen nước Mỹ bạn đang ở, khen ông tổng thống nước bạn đang ở rất giỏi. Cuối cùng anh/cô ta muốn bạn cho anh/cô ta mượn xem một đồng tiền dollar Mỹ mà anh/cô ta chưa bao giờ được thấy. Bạn cũng tỏ ra lịch sự (vì đã được khen quá rồi) nên tôi chắc bạn sẽ không ngần ngại móc tiền trong bóp ví đưa cho anh/cô ta xem ngay. Sau khi từ giã người bạn mới, bạn đi lên phòng thì mới biết tiền và nữ trang trong ví bóp không cánh mà bay hết. Ðây là một tuyệt chiêu trong “diệu thủ pháp.” Bạn không nên quá thân thiện với người lạ và luôn luôn có một khoảng cách. Bạn không làm sao hiểu được bằng cách nào tay “diệu thủ” đã lấy được tiền của bạn. -Bạn thường rất kỹ nên lúc nào cũng cất tiền trong cặp táp với hai ba lần túi ngăn, khi cần tiền mua quà hay ăn trưa bạn mới lấy tiền từ trong cặp ra. Ðến chiều khi ngồi nghỉ, lấy tiền để mua nước uống thì mới biết là tiền trong ngăn cặp táp không còn nữa. Ðây là một tuyệt chiêu khác! Tuyệt đối bạn không nên hớ hênh để lộ tiền bạc cho người khác nhìn thấy trong lúc du ngoạn. -Nếu bạn đi xe metro, thường thì đi trong đường hầm metro các “diệu thủ” chưa làm việc vội. Họ sẽ đứng cạnh bạn đợi xe điện, xe vừa ngừng lại mở cửa là họ tung chiêu ngay. Họ làm bộ cúi xuống để cột lại dây giầy, đồng thời ôm cả hai chân bạn. Bạn sẽ ngã chúi về phía trước và đã có người đứng sẵn đó đỡ bạn. Lúc bạn đứng thẳng người lên được thì mọi sự đã xong xuôi. Chiêu thức này thường thì chỉ áp dụng cho phái mày râu. Còn phái đẹp thì các diệu thủ lịch sự hơn nên làm bộ chen lấn vào xe và họ dùng chiêu thức đôi tay rất nhanh mở ví bóp các bà các cô, ít ai thấy kịp. Khi họ “làm bộ cúi xuống,” “làm bộ chen lấn” hay “ ngã nghiêng vào người bạn,” đây chỉ là các hư chiêu đánh lạc hướng chú tâm của bạn. Chỉ có thế thôi và bạn sẽ ngâm thơ “ngậm ngùi” của Huy Cận suốt trên con đường hành trình còn lại. -Bạn hay đeo packbag sau lưng và mỗi khi nghỉ chân ăn uống thì thường hay bỏ xuống cạnh mình, tưởng thế là an toàn. Nhưng nếu có một hai cặp tình nhân đi gần vào chỗ bạn ngồi thì bạn phải chú ý ngay bàn tay của họ. Họ dùng 1 ngón tay móc vào quai packbag và đi tỉnh bơ. Nếu bạn thấy kịp và phản ứng thì cô tình nhân sẽ làm như người vô tình “chận đường” bạn, anh tình nhân sẽ buông ngón tay ra bỏ lại packbag và họ vẫn “âu yếm” dìu nhau đi trên phố vắng như đã không có chuyện gì xảy ra! -Bạn đang dạo chơi thưởng ngoạn một thắng cảnh nào đó, bất chợt có những cô bé/phụ nữ chạy đến tìm cách nói chuyện, xin chữ ký thì bạn hãy nên cẩn thận vì lòng thương người của bạn là nằm đúng trong thế “hư chiêu” của họ. Trong lúc bạn “ký tên” là họ ra tuyệt chiêu ngay. Trong trường hợp này bạn chính là người hại bạn. -Bạn check-in khách sạn và nhớ tuyệt đối không cất tiền bạc nữ trang trong safety box (tủ an toàn) trong phòng bạn. Hotel lúc nào cũng có ghi chú điều này. Safety box chỉ dùng để cất giữ giấy tờ chứ không phải là tủ cất giữ tiền bạc nữ trang. Bạn có mất thì đành ngậm đắng nuốt cay thôi vì không có khách sạn nào đền cho bạn. Dĩ nhiên là phải có bàn tay của “diệu thủ thư sinh” nhưng tuyệt chiêu như thế nào thì ngay cả khách sạn họ cũng không biết. -Ðang đi dạo cùng với vợ/người yêu ở một chỗ hơi vắng vẻ, bỗng dưng có một người nhờ bạn chụp hình cho họ. Bạn vừa cầm camera của người đó, chưa kịp chụp hình giúp, thì... Ngay lúc đó xuất hiện ra một hay hai gã “công an/cảnh sát” chận người kia lại, tay rút ra một tấm thẻ như là “ID của công an/cảnh sát” dí vào mặt và yêu cầu người kia cho xem passport và tiền mặt vì khu vực đó có nhiều tay buôn bán ma túy. Sau đó thì các gã công an/cảnh sát này quay sang hỏi giấy tờ và tiền bạc của bạn. Ðây là một hư chiêu được trình diễn thành một màn kịch tinh vi, chúng dùng hư chiêu “công-an-kế” để dọa nạt tinh thần bạn ngay lúc đó. Nếu bạn đưa giấy tờ và tiền bạn cho chúng xem! Thế là xong. Tiền bạc của bạn chia tay với bạn ngay lúc đó! Những tên đó là “công an/cảnh sát giả” và là một bọn với tên nhờ bạn chụp hình. Tốt nhất trong mọi trường hợp, bạn nên từ chối hay lơ đi khi có người lạ nhờ giúp đỡ, nếu bạn sốt sắng giúp ngay thì bạn có thể rơi vào hư chiêu “giúp đỡ kế” và “công an kế” của họ. Lòng giúp đỡ của bạn hết sức tai hại và nguy hiểm cho chính bạn mà không lường trước được. -Bạn không nên đưa máy hình camera của mình cho người khác chụp hình cho bạn. Nếu bạn làm như thế, tôi tin là bạn có một cái tâm thật tốt, thích giúp đỡ “người nghèo”! Vì thế, nếu bạn có mất máy camera hay tiền bạc thì cũng không nên tự trách mình. -Bạn cùng bạn bè đang dạo phố, bỗng thấy một “xe gắn máy” cứ loanh quanh gần bạn làm như “xe gắn máy của họ đang có vấn đề.” Ðó là nghi kế cho chiêu thức “cướp giựt” sắp sửa được tung ra. Ngay lập tức bạn phải lùi tránh xa ngay, đi sát vào trong vỉa hè và tung chiêu “thôi miên” nhìn thẳng vào mặt đối thủ và chuẩn bị “tiếng hét” cho thật lớn. -Nếu là phái nữ, khi đi dạo phố bạn nên luôn luôn đi vào phía bên trong vỉa hè. Bạn chớ quá tự tin, ung dung dạo bước giữa đường phố Âu Châu, nhất là ở Italy tình trạng cướp giựt càng ngày càng nhiều hơn. Nếu phải kể ra hết những chiêu thức của các tay “Diệu Thủ Thư Sinh” thì tôi chịu thua vì các chiêu thức này biến hóa khôn lường. Các môn đệ của Giang Nam nhị quái giỏi hơn sư phụ của họ nhiều. Họ không xấu hổ, không sợ bị bắt và cũng không sợ bị đánh. Họ làm vì nhu cầu để sống, họ không học hành, họ không có việc làm! Có những diệu thủ lấy hết tiền của đối phương và họ gửi trả lại giấy tờ cho người bị mất. Thế mới biết cũng có những tay “diệu thủ” làm việc vẫn có “lương tâm diệu thủ”! Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, có biết bao nhiêu người quyền cao chức trọng nhưng bản chất “diệu thủ” về trộm cắp của công cũng không khác lắm, nhưng họ dùng các chiêu thức khác. Hư chiêu của họ là bề ngoài giàu có, quyền thế, giả vờ đóng vai đạo đức lo cho dân và vì dân! Một xã hội nào có quá nhiều trộm cắp hối lộ tham nhũng thì tôi nghĩ lỗi của họ một phần mà tội lỗi của cả một tập thể lãnh đạo ở xã hội đó mới là điều chính yếu vì tập thể lãnh đạo đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Khổng Tử, Mạnh Tử trong một chiều hướng nào đó đã cố tạo ra một cái “Lễ” để buộc con người vào cái thiện, vào cái trật tự có trên có dưới của gia đình nhằm để giảm bớt đi nạn trộm cắp trong xã hội. Tóm lại, sự thiên vị đẳng cấp, giai cấp và những nghèo khó bất công trong xã hội đã góp phần không nhỏ vào sự hình thành ra một đội ngũ môn đệ của Giang Nam nhị quái Chu Thông vô cùng rộng lớn trên khắp địa cầu này. Võ công của sư tổ Chu Thông “Phân Cân Thác Cốt Thủ” dù ông đã luyện thành rất cao nhưng ngày nay chỉ là một hạt cát trong kho tàng võ công của các đệ tử ông. Trong vòng hai năm nay, xã hội Âu Châu đang có nhiều vấn đề phải đối phó với nền kinh tế suy thoái và di dân chiến tranh khiến sư tổ Chu Thông thâu nhận thêm rất nhiều đệ tử. Tuy nhiên, nếu bạn biết cảnh giác và tránh được những hư chiêu quỷ kế của họ thì chuyến du ngoạn Âu Châu vẫn là một vùng đất tuyệt vời thưởng ngoạn. Sau 20 năm làm việc trong ngành du lịch, tôi tự luyện tập môn “ thoái nhất bộ” (lùi một bước) để khống chế “diệu thủ pháp” của các cao thủ môn đệ Chu Thông. Chiêu thức này cần nhất sự bình tĩnh. Khi đã nghi ngờ thì luôn luôn lùi xa ra một chút và sẵn sàng sử dụng tiếp chiêu “Sư Tử Hống” một tuyệt chiêu của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn để đối thủ e dè lùi xa ra. Tôi tránh không để ai chen lấn đến gần, nhìn thẳng vào mặt và quan sát hành động đối phương. Tôi không bao giờ đưa trình giấy tờ và tiền bạc cho bất cứ ai công an cảnh sát nào ngoài đường, ngoại trừ ở hotel hay bót cảnh sát. Thường thì tôi thành công đến 95% nhưng 5% còn lại, khi gặp tay đại-cao-thủ thì mình phải ngả nón bái phục và vô cùng ngưỡng mộ phép hư chiêu và võ công diệu-thủ-pháp tuyệt đỉnh của họ. “Thoái Nhất Bộ” hay “Lăng Ba Vi Bộ” hay “Sư Tử Hống” của bạn dù có giỏi đến đâu đi chăng nữa, nhưng nếu bạn vẫn “còn lòng thương người đặt không đúng chỗ” thì độc chiêu của Diệu Thủ Thư Sinh vẫn đánh gục bạn ngay trên bước đường du ngoạn Âu Châu! Tôi cũng là người đã hai lần từng “bị đánh gục” ở trời Âu. Nhưng mấy năm nay, khôn thêm ra nên chưa bị gục thêm lần nào! Trần Nguyên Thắng
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 7, 2022 17:08:32 GMT 9
Trở lại đảo xưa Nguyễn Công Khanh
Mãi tới năm 2010, hơn 45 năm sau, kể từ năm 1965, ngày rời nhiệm sở, chúng tôi mới có dịp quay lại Dương Đông, Phú Quốc. Chuyến bay hôm đó, ngồi trong một máy bay cánh quạt của Nga, gần giống như máy bay DC3 thời xưa của Air Vietnam, nhưng xập xệ hơn nhiều. Bầu trời vẫn xanh, nắng vẫn rực rỡ, những đám mây vẫn trắng tinh. Phía dưới những thị trấn nhỏ mới mọc lên bên các nhánh Cửu Long Giang. Ruộng đồng xanh mát không còn những hố bom đạn loang lổ như ngày xưa.
Phi cơ bay thẳng từ Saigon ra Phú Quốc, không ghé phi trường Rạch Sỏi để đón thêm khách như ngày trước. Nhìn xuống, biển vẫn xanh, sóng bạc đầu vẫn vỗ trắng vào ven đảo. Phi trường nay là một tòa nhà hai tầng, có đường chuyển hành lý tự động ngắn. Phòng đợi trên lầu có máy lạnh và tấng dưới là những quầy hàng, bán những đặc sản địa phương.
Xe chở đoàn du lịch vào thị trấn Dương Đông và ra thẳng ngôi đền thờ Dinh Cậu, nơi mà ngày trước, khi mới đến đảo nhận việc tôi được nhân viên đưa đến trình diện Cậu để được ban phước lành. Khi ra ngoài đứng trên bao lan nhìn quanh, biển vẫn rộng, xanh mát như ngày xưa, chỗ cửa sông có lần tôi đã bơi ra xa đến chỗ cọc mốc mà một ông lão đã bảo cho tôi phải coi chừng cá mập. Mỏm đá hình cá sấu vẫn nguyên vẹn hướng về cuối đảo. Nhìn sang phía xóm Cồn mà tôi đã để cho ngư dân Bình Định tránh chiến tranh di cư vào tạm trú ở cuối cồn, nay nhà cửa chen lấn ngổn ngang. Cái tên Bình Định mà tôi đặt tên cho cái xóm đó, đến nay họ vẫn giữ. Chỉ tiếc cái cồn cát dài trắng xóa nên thơ đó không còn nữa.
Tôi bước xuống khỏi dinh, nhìn quanh tìm căn của nhà sàn cửa biển của cô Mười ở đầu cửa sông chẳng thấy đâu, thay vào đó là một trạm hải quan. Tượng Đức Mẹ mà quận trưởng Thanh cho người dựng gần dinh Cậu, đầu cửa biển đã làm mất lòng dân địa phương, nay đã bị rời đi đâu chỉ còn trơ lại bệ xi măng. Tôi đi dọc biển, bãi cát không còn mịn như xưa, đá sạn, vỏ chai ốc và rác không còn là bãi tắm. Tôi hướng về phía phía quận cũ, khu nhà nhân viên không còn nữa, cả đến những ngôi mộ cũ mấy trăm năm của các nhà truyền giáo cũng không còn dấu tích để các khách du lịch ngoại quốc sau này có cơ hội đến xem.
Tôi nghĩ đến ngôi giáo đường cổ nhỏ mất mái, chỉ còn trơ bốn bức tường rêu phong mà có những lần tôi cùng một nhóm giáo dân ngồi nghe tiếng giảng lẫn trong gió của một vị linh mục từ một làng đạo di cư Ba Làng phía nam đảo An Thới, dù tôi không theo đạo Thiên Chúa. Tôi chắc ngôi giáo đường cũng bị san bằng. Nay cả khu tôi đang đứng chỉ thấy cỏ hoang và rác rưởi. Sở Khí Tượng cũ đã bị phá bỏ, thay vào một cơ sở mới được xây cạnh đó. Không hiểu hai vợ chồng Trưởng Ty Khí tượng một thời họ ở mãi tận Hoàng Sa đổi về đây, nay đã trôi dạt về đâu.
Hàng dừa mà vợ chồng tôi đứng chụp trong những ngày ra thăm lại đảo năm 1965 vẫn còn, nhưng nay thân cao gầy còm cong lại, vì đã phải chống trả và chịu đựng với những cơn gió biển trong bao năm qua.
Sau đó, họ đưa về một resort sát biển gần đó để nghỉ. Phòng ốc khá khang trang, các bữa ăn hải sản thịnh soạn và tiêu chuẩn. Tối hôm đó không có mục gì, trong đoàn du lịch có một đôi vợ chồng trẻ ở Cali rủ chúng tôi xuống nghe hát karaoke. Cùng đến đó có mấy thanh niên nam nữ, họ lần lượt chia nhau hát. Hai vợ chồng này toàn chọn nhạc vàng lãng mạn trước 75, còn nhóm trẻ thì hát các bài ca cách mạng đặc mùi Mác Xít. Tôi cười thầm trong bụng, nghe thấy trớ trêu. Một lúc sau thấy họ rời phòng, chắc nghĩ mình không giống ai, đi du lịch mà vẫn mang theo những bài đó, chắc là phải theo ý trưởng đoàn.
* "Đêm đó, tôi nằm nhớ lại thời gian dài đã ở đảo. Tôi ra trường Quốc Gia Hành Chánh, khóa 6 đầu năm 1962, tưởng rằng sẽ được ở Saigon kéo dài cuộc đời ký cóp trong các bộ phủ như các khóa trước. Lúc đó Cộng Sản đã mở các cuộc phá hoại dồn dập ở nhiều nơi. Trường QGHC những năm đó trực thuộc Phủ Tổng Thống, và Tổng Thống Diệm đã thay đổi ý định xử dụng khóa của tôi. Khóa tôi chỉ có 36 sinh viên tốt nghiệp, ông đưa nửa khóa vào Trung Ương Tình Báo, còn một nửa khóa trong đó có tôi đưa ra quân trường Đồng Đế, Nha Trang, do tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy để dự khóa 3 Chuẩn Úy Hiện Dịch. Theo tướng Trí, một người lính bộ binh giỏi là một người đi bộ giỏi. Thành thử chúng tôi đi di hành theo tốc độ ngày đêm mút mùa gần như hàng tuần. Tổng Thống Diệm quan niệm rằng một người chỉ huy ở địa phương phải được huấn luyện về cả hành chánh và quân sự mới phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh. Khi rời quân trường, tôi cầm nghị định bổ nhiệm đi Rạch Giá, Kiên Giang, nhưng đến đó mới biết nhiệm sở cuối cùng là đảo Phú Quốc. Phó Tỉnh Trưởng, một người học trên tôi, khóa 1 trao sự vụ lệnh nói với tôi như an ủi:
-Em cứ ở tỉnh ít lâu, ngoài Tết đi cũng được. Có gì cho "qua" biết.
Những ngày ở lại, tôi được ông hậu đãi vào hàng quý khách của tỉnh. Ở khách sạn lớn trong tỉnh, hàng ngày tiệm ăn Tầu có tiếng đem thức ăn đến tận phòng, ngày ba bữa. Tôi phải thực sự cám ơn người đàn anh.
Nhớ lại hình ảnh thư sinh mới ra trường, một mình tay xách chiếc va li đến đảo, lãng mạn tưởng như đang sống lại một phần đời của Gauguin đang đi tìm lại một thiên đường lỡ dở trong các họa phẩm vẽ cảnh rừng dừa ven biển, với các chàng trai lực lưỡng đang đánh những tiếng trống bập bùng, với những cô gái mình trần đa tình đang cầm vòng hoa đón khách lạ. Thấy lại hình ảnh lang thang của mình như một Gary Cooper sau những ngày phiêu bạt trở lại đảo như trong phim Retour au Paradis. Thấy lại hình ảnh của mình ngồi trên mũi thuyền những ngày rong ruổi trên biển, nghe sóng vỗ và nhìn vào dọc đảo xanh để đến những ấp lạ như sống trong phim của thời Seven Samurais...
Khi tôi ra đảo, các đường bộ đều bị cắt đứt, chỉ còn bốn ấp ven biển có hàng rào chiến lược , nếu muốn đến phải dùng thuyền hay nhờ các ghe của Hải Thuyền. Mấy xã, ấp trong lòng đảo đã bị xóa sổ từ trước. Dân số trên đảo khoảng 8,000 người, tập trung trong các ấp còn lại, một số sống rải rác trong các vườn tiêu trên đảo. Phú Quốc gồm nhiều ty, sở thuộc trung ương như một tỉnh nhỏ. Nhưngmột số công chức làm việc trên đảo thường coi như bị đi đầy. Họ đếm từng ngày một để chóng được trở về đất liền. Buồn nhất là nghe những người lính, bao nhiêu năm không được về lại đất liền, bao nhiêu năm không được trở về quê hương thăm cha mẹ, họ hàng thân thuộc. Những em nhỏ, nói đến Sài Gòn như nghe chuyện một giấc mơ, hay ở một thế giới khác, mà nghĩ rằng cả đời mình chắc khó có ngày đến đó được. Những cụ già từ xóm xa, khi đến quận gặp tôi,vẫn chắp tay vái và gọi tôi bằng "Quan". Dặn mấy ông cụ bao nhiêu lần là chỉ cần gọi bằng "ông", nhưng vừa được câu trước, đến câu sau, các cụ lại quen miệng gọi là quan như thường. Đã sang đến thập niên 60 mà khi hỏi các cụ, ai là người đứng đầu nước Việt Nam bây giờ,các cụ vẫn trả lời là "Vua Bảo Đại".
Tổng Thống Diệm, lúc đó đang cố đẩy mạnh chương trình lập ấp chiến lược, tin tưởng rằng sẽ tách rời được Cộng Sản ra khỏi dân quê và phát triển được các phương diện kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế và an ninh trong các xã ấp mà dân quê từ bao nhiêu năm đã không được hưởng. Tôi cũng thường theo các cuộc hành quân để lập ấp, tổ chức định cư, thành lập ấp cũng như lập các dự án tự túc để giúp dân phát triển các phương diện kể trên. Nhưng có những ấp vừa thành lập chẳng bao lâu lại phải bỏ, vì quá cô lập, mà quân số thì ít và không dám dàn mỏng. Tôi đã đến các ấp nhỏ trên đảo, có ấp chỉ có khoảng hơn một trăm dân, hàng rào gần ngay trước mặt, lớ ngớ rất dễ bị Việt Cộng bắn sẻ.
Tôi cũng đã đến một số các đảo nhỏ lân cận, có dịp lặn dưới biển bơi cùng các đàn cá mầu trong các rặng san hô. Tôi ở đảo, không bao lâu thành một dân "chịu chơi". Cùng ăn nhậu với lính, với ngư dân và dự những buổi ăn uống đình đám trong xã. Họ uống rượu rất dữ, tôi cũng phải cố theo mà trước kia chưa bao giờ uống đến nửa chai bia.
Một lần, biển động đến hơn tháng trời, ghe thuyền không ra khơi mà cũng không đến được đảo. Gió thổi mạnh mà mưa thì mù trời, máy bay mỗi tuần có một chuyến không thễ hạ cánh. Chẳng biết làm gì cho qua những ngày bão biển, không có chuyện gì làm, ngồi hút thuốc lá đến đen cả mấy ngón tay. Tôi vào trong kho lục trong đống văn khố xem có gì đáng đọc hay không, tôi mang ra từng chồng sách xuất bản từ Hà Nội đã tịch thu được trong cuộc hành quân trên vùng Bắc đảo năm trước. Những sách khảo cứu về dược thảo Việt Nam, chắc để cho du kích dùng mỗi khi thiếu thuốc bào chế. Những sách về khảo cổ, lịch sử và văn học viết theo quan điểm Mác-Xít, mị giai cấp công nông, đọc không nổi.
Tôi tìm được một quyển Địa Phương Chí của đảo, đã khiến tôi nghiền ngẫm đến mấy ngày liền và là một cái cớ khởi đầu để tôi có dịp đi gặp các cụ già trên đảo tìm hiểu thêm về các sử liệu, các dấu vết cổ xưa, kể cả các truyện truyền kỳ, huyền thoại. Tôi mở rộng tấm bản đồ với đầy đủ các hòn đảo của Việt Nam trong vịnh Thái Lan. Những cái tên nghe mường tượng như từ một thời cổ xưa lập địa với những Hòn Đồi Mồi, Hòn Kiến Vàng, Hòn Khoai, Hòn Thơm, Hòn Nước, Hòn Rùa, Hòn Tre, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ, Hòn Thổ Châu và Hòn Hải Tặc... mà nhiều hòn trong suốt thời gian ở đó tôi không có dịp đặt chân đến.
Tôi đọc tới những trang sau, những truyện có thật mà tưởng như truyền kỳ của một hòn đảo thường được gọi là xứ của 99 ngọn núi, ý nói có nhiều núi lắm. Những chứng tích còn lại, như những bí mật của Chùa Sư Muôn. Những câu sấm của ông Đốc Phủ Chiêu với chùa Cao Đài trên núi, mộ của những ông cố đạo ngoại quốc không hiểu từ đâu đến truyền giáo, có những cái tên lạ hoắc được chôn ở bãi biển sau quận từ thế kỷ trước mà những buổi chiều hè, lúc tôi tắm biển xong thường ngồi nghỉ trên những tấm mộ này nhìn ra biển ngắm cảnh hoàng hôn. Cái Giếng Tiên bên bờ sông Dương Đông nước mặn mà nước giếng vẫn ngọt. Các đền thờ Cá Ông rải rác trên đảo, nhưng khi tôi có dịp đến thăm thì đã chẳng được ngư dân thờ phụng như trước nửa, chỉ còn chỏng chơ vài cái xương cá voi khổng lồ cũ kỹ...
Trong phần lịch sử của đảo, tôi thấy có những đoạn viết về đoàn thuyền của Nguyễn Huệ lùng đuổi Nguyễn Ánh, sau đó cả hai đều kế tiếp mang mạng đế vương. Có trang nhắc đến Nguyễn Trung Trực chạy ra đảo để tránh cuộc vây bắt của giặc Pháp. Hai sự kiện đặc biệt trong cuốn Địa Phương Chí mà không thấy một sách vở hay tài liệu nào khác nói tới là: Quân Nhật đem hàng trăm tù binh san bằng đất làm phi trường ở Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ Hai để tấn công Tân Gia Ba. Tôi đã cố đi tìm chứng tích, nhưng vì trong lòng đảo, chỉ gặp được một hai người còn nhớ ít câu tiếng Nhật nhờ làm thông ngôn cho họ. Sự kiện thứ hai là cả một sư đoàn tàn quân Quốc Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông vượt sông Dương Tử xua họ ra khỏi Trung Hoa, qua biên giới Việt Nam khiến người Pháp phải đưa họ ra đảo lánh nạn. Họ ở lại cho đến khi Tướng Tưởng Giới Thạch về Đài Loan. Tôi đã đến thăm nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ minh trên đảo tại cuối phi trường. Sau này, trong một chuyến bay du hành quan sát từ Đài Bắc ra thăm hai đảo Kim môn và Mã Tổ sát đất liền Trung Cộng, tôi ngồi cạnh một vị Đại Tá Đài Loan. Ông hỏi tôi, đã làm việc ở những đâu, tôi có nói đến Phú Quốc, ông mừng rỡ kêu lên và cho biết ông thuộc sư đoàn tạm trú trên đảo trong mấy năm đó. Ông đã kể lại rành mạch cho tôi tên những địa danh trên đảo.
Nhưng có một hình ảnh mà tôi đã hình dung ra và đã theo tôi mãi trong những ngày ở trên đảo và cả sau này nữa, đó là đàn trâu mấy chục con của bà Kim Giao. Tính ra những con trâu này đã được mang ra đảo vào khoảng mấy trămnăm trước, hiền lành chỉ biết cần cù, ra sức cầy bừa. Công cuộc khai khẩn thất bại. Sau khi bà mất, đàn trâu này trở thành một lũ trâu rừng lang thang... Tôi có dịp nói chuyện với một số dân trong rẫy, ở ngoài vòng ấp chiến lược, họ cho biết đàn trâu chỉ còn lại hai con. Năm trước một con đã bị bắn chết. Nghe đến đó tự nhiên tôi thấy buồn rầu như đã đánh mất một vật gì quí báu mà không thể nào tìm lại được. Bây giờ một con đã bị bắn chết, còn một con lủi thủi cô độc, trong một vùng hoang đảo mênh mông. Tôi không muốn tưởng tượng ra thêm nữa về tình cảnh của một con trâu rừng cuối cùng trên đảo. Nhưng như thế cũng đủ làm cho lòng dạ tôi bồn chồn, lo lắng về số phận của nó. Tôi đã nghĩ đó là một hình ảnh, một huyền thoại cuối cùng của hòn đảo, của một thiên đường đã mất mà tôiđang sống, mà tôi đang đi tìm từ ngày đến đảo. Nhưng sao tôi thấy cái huyền thoại đó quá mong manh và không hiểu nó sẽ kết thúc vào lúc nào và như thế nào. Mặc dầu tôi đã cẩn thận dặn dò các người lính và dân trên đảo là không nên săn đuổi con trâu nữa...
Lúc Tướng Nguyễn Khánh lên cầm quyền, ông muốn thực hiện ý định tổ chức Phú Quốc thành một trung tâm giải trí cho lính Mỹ đi nghỉ phép để thu ngoại tệ, thay vì để họ đi Hồng Kông, Bangkok hay các nơi khác vung tiền. Tôi được lệnh thảo một dự án thành lập tỉnh Phú Quốc, việc này không khó khăn lắm vì đã sẵn có một số ty sở thuộc trung ương, chỉ cần tăng cường một số cơ sở liên hệ đến dự án. Tôi tưởng tượng ra một trung tâm giải trí du lịch cho lính Mỹ gồm khách sạn, nhà hàng, ca nhạc, casino, sân golf, thể thao trên biển và nhiều thứ hấp dẫn khác ngang ngửa với các nơi khác ... Tôi không hiểu ông lấy ngân sách ở đâu hay đã có sự hứa hẹn của một nhà tài phiệt nào. Nhưng vấn đề an ninh phải được bảo đảm một trăm phần trăm, nếu không sẽ bị hủy hoại bất cứ lúc nào. Ông cho biết sẽ đem một tiểu đoàn Nùng và 3,000 dân Nùng ra diệt trừ hết du kích. Tôi đã đón tiếp các phái đoàn Nùng và dùng tàu đưa họ xem vòng quanh đảo, cũng như phân tích những điểm trọng yếu trên đảo…
Sau đó ít lâu, tôi lại phải sang Hàm Ninh, phía Đông của đảo để giúp hội đồng xã tổ chức lại một số vấn đề hành chánh, tài chánh và nhất là định lại thuế má. Xã quá nhỏ, hơn trăm dân, thuế thâu rất là khó khăn, chỉ đủ trả lương cho một mình xã trưởng. Ông ta là một ông già, có chút chữ nghĩa, biết tính toán, hàng ngày lại phải kiêm luôn chức giáo làng dậy một đám trẻ nhỏ. Giáo viên cử đến tháng trước thì tháng sau lấy cớ đau ốm về đất liền rồi ở luôn không thấy ra nữa. Nếu tăng thuế để đủ chi phí điều hành xã thì chắc dân sẽ bỏ đi hết, chỉ còn le que ít lính trong đồn, rồi chẳng bao lâu đồn sẽ bị triệt hạ vì lý do này hay lý do khác và quận sẽ mất thêm một xã nữa. Thành thử, mọi chuyện cứ để lết bết như cũ.
Không còn chuyện gì làm, tôi gọi về quận để cho thuyền đến đón, thì trời nổi gió, mây đen ngùn ngụt phủ đầy trời. Ngoài kia, biển chợt sẫm lại và sóng đánh vào mấy chiếc ghe cắm đàng xa, dập vùi như muốn nhận chìm xuống đáy biển. Thời tiết này thì ít nhất cũng phải một tuần nữa mới có thể trở về quận được. Mấy quyển sách đem theo cũng vừa đọc hết, tôi lang thang đi từng nhà, nói chuyện với các ông già bà cả. Họ kể lại những chuyện nghe như chuyện ngày xưa tự thuở bán khai. Nói chuyện với các trẻ thơ, thấy chúng vô tội, và thấy thương vô vàn khi nghĩ đến tương lai của chúng. Có lúc, tôi trầm ngâm ngồi nhìn và nghe chuyện giữa một cô gái đảo đương thì và một anh lính trẻ trong đồn, tôi chưa tưởng tượng được giấc mơ của họ như thế nào ở chốn tận cùng của trời đất này.
Một buổi trưa, đang nằm lơ mơ trên võng sau nhà của một người thợ săn, tôi bỗng choàng dậy vì thấy một cái gì ẩn hiện trên đống cát gần hàng rào thưa. Tôi vội chạy đến, lấy tay gạt cát và kéo lên một cái sọ trâu trắng hếu với cặp sừng cùn sơ mà cái nào cũng chỉ còn một nửa. Tôi lệ khệ bê cái sọ trâu vào trong nhà. Họ cho biết, hơn tháng trước Thiếu Úy Bình cùng mấy người trong ấp đi săn, đột nhiên gặp con trâu rừng này. Lúc nó trông thấy Thiếu Úy Bình thì chỉ còn cách xa vào khoảng ba chục thước, nó đứng yên, hai chân cào đất lấy thế tấn công. Mọi người thấy thế dãn ra, chỉ còn Thiếu Úy Bình quỳ xuống sẵn sàng nạp đạn. Sau một lúc nghênh nhau, con trâu rừng bỗng lao về phía Thiếu Úy Bình, mấy viên đạn nổ vang theo đà con trâu ngã gục ...
Tôi không còn muốn nghe thêm gì nữa, vội chạy lên đồn để gây sự, thì lính trong đồn cho biết Thiếu Úy Bình đi săn bị ngã từ trên cây xuống, gẫy xương sống, đã phải đưa vào bệnh viện tỉnh tuần trước rồi.
Tôi thẫn thờ đi ra khỏi đồn, tưởng tượng đến phút cuối cùng của con trâu rừng trên đảo đã gục ngã. Tưởng tượng đến cả đám trâu rừng của bà Kim Giao đem ra hơn hai trăm năm trước nay không còn nữa. Tưởng tượng đến cái dấu vết cuối cùng của một thiên đường hoang tưởng đã mất mà tôi đang tìm, như bỗng chốc không bao giờ còn tìm thấy lại. Tôi trở về nhìn lại cái sọ trâu với cặp sừng, lấy tay phủi cát trong cặp mắt sâu hoắm, tưởng như bao nhiêu huyền thoại vẫn còn chứa chất trong đó. Tôi nhớ lại từng trang trong cuốn Địa Phương Chí của đảo mà tôi đã đọc trong những ngày biển động. Tôi thấy đoàn thuyền của Nguyễn Huệ đang lùng đuổi Nguyễn Ánh, thấy con cá voi đang cố sức đỡ thuyền cho Nguyễn Ánh khỏi bị lật trong cơn giông bão, thấy một đàn cá lạ đến dâng mình cho Nguyễn Ánh trong cơn đói lả. Thấy hình ảnh của nhà truyền giáo từ một xứ xa lạ nào đó đang nằm thở những hơi cuối cùng trong ngôi giáo đường ven biển, chờ Chúa đến đón. Thấy Nguyễn Trung Trực đang treo đứa con nhỏ của mình trên nhành cây cho dân trong trong ấp nuôi để cố thoát khỏi cuộc vây bắt của giặc Pháp. Thấy cả đám tù binh gầy guộc đang lê lết san bằng đất làm phi trường Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ Hai, thấy lại từng đoàn máy bay Nhật lên xuống bụi mù cả một vùng, thấy đám lính Nhật bắn súng vang trời ăn mừng khi Tân Gia Ba thất thủ. Thấy lại cả đám tàn quân Quốc Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông vượt sông Dương Tử xua họ ra khỏi Trung Hoa và tràn qua biên giới Việt Nam khiến người Pháp phải đưa ra họ ra đảo lánh nạn, đang mình trần chặt cây dựng lều tạm trú trên đảo. Thấy hình ảnh nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ mình trên đảo mà mắt vẫn trông về cố quốc.
Khi trở về quận, trong đống công văn, tôi nhận được sự vụ lệnh về tỉnh nhận một chức vụ mới. Tôi đã sống ở đảo ba năm, không có ý định xin đổi đi đâu. Chắc không có chuyện này tôi còn ở lâu hơn nữa. Tỉnh trưởng là Thiếu Tá Đặng Đình Thụy gọi cho tôi nói như an ủi, không nên ở đó quá lâu họ sẽ quên mình. Sau đó tôi hiểu ngay lý do về tỉnh để nhường chức vụ Phó Tỉnh cho một người khóa sau có cổ cánh trên bộ. Ông để tôi giữ chức Trưởng Ty Kinh Tế và kiêm Tỉnh Đoàn Xã Hội. Sẵn xe của tỉnh đoàn, tôi lái xe đi loanh quanh, không thiết làm việc.
Một tuần sau, Tỉnh Trưởng gọi tôi, giao cho tôi một trăm ngàn bảo tôi ra lại đảo tiếp phái đoàn Tướng Nguyễn Khánh và Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên ra duyệt xét lần chót trước khi ký sắc lệnh thành lập tỉnh Phú Quốc. Hôm phái đoàn đến bằng hai máy bay, tùy tùng khá đông, có thêm một tướng ngành Công Binh. Bên dân sự ngoài Thủ Tướng Viên có một hai Thứ Trưởng.
Sau khi hội họp tại quận, duyệt xét kế hoạch lập tỉnh lần chót, phái đoàn dân sự đi thị sát các cơ sở hiện hữu, sau đó sẽ ra máy bay về Saigon. Riêng phái đoàn các tướng lãnh ra chiến hạm xuống đảo Hòn Thơm để quan sát phía nam đảo.Tôi được chỉ thị tháp tùng họ. Lúc đứng trên boong tàu, nhìn lá cờ vàng ba sọc và lá cờ tướng ba sao trên đỉnh chiến hạm, nền trời xanh, mây trắng lững lờ trôi, mặt biển lặng, nước trong và gió nhẹ hây hây, thật là một ngày quá đẹp. Tôi nhìn vào đảo, tưởng tượng đến một ngày nào đó hòn đảo sẽ trở thành trù phú sinh động như trong sự mơ ước của mình.
Khi đến Hòn Thơm, hai ghe chủ lực đã chờ sẵn sàng ở đó để đưa mọi người vào đảo. Tôi đã đến Hòn Thơm vài lần. Trên đảo cây cối xanh tươi, những bãi biển cát vàng lóng lánh, những ghềnh đá sóng vỗ tung bọt trắng, đêm trăng ở đó thật là huyền ảo. Ven biển là những rừng san hô, cá nhiệt đới đủ màu lập lờ bơi dưới nước.
Lúc mọi người đang dùng bữa trưa, thì một tin khẩn cấp từ chiến hạm báo cáo qua máy truyền tin là Việt Cộng dùng súng cối 81 pháo vào phi trường, định phá máy bay và tấn công vào phái đoàn dân sự đang chờ tại trạm hàng không. Tướng Khánh yêu cầu mọi người trở lại ngay chiến hạm và ra lệnh tàu quay về Dương Đông. Khi chiến hạm vừa nằm trên đường ngang với phi trường, hàng loạt trọng pháo được phóng ra nã vào sâu trong đảo. Tiếng nổ vang vọng lại, một vài cột khói bốc cao, tôi có cảm tưởng như đang đứng trước giờ đổ bộ Normandy trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai.
Báo cáo của lực lượng địa phương cho biết đã đẩy lui được Việt Cộng ra ngoài hàng rào phi trường. Máy bay bị một số đạn nhỏ, không biết hư hại ra sao. Phía ta, hai địa phương quân bị thương nhẹ và một nghĩa quân bị thương nặng.
Tôi cùng với một bác sĩ quân y được ghe ra đón vào đảo để săn sóc mấy binh sĩ bị thương. Sau khi băng bó và cho thuốc xong, bác sĩ liên lạc với tướng Khánh, cho biết cần phải di chuyển nghĩa quân về bệnh viện tỉnh để giải phẫu gấp, nếu chậm sẽ không qua khỏi đêm nay. Trời tối dần, tiếng súng đã ngưng, nhưng tình hình vẫn còn hồi hộp căng thẳng. Vị bác sĩ phải trở lại chiến hạm và đưa cho tôi chiếc máy truyền tin nhỏ để liên lạc. Tôi tiễn ông ta ra ghe rồi trở về bệnh xá thăm lại mấy binh sĩ bị thương. Bà mẹ anh nghĩa quân vừa thấy tôi, ôm choàng lấy tôi khóc nức nở, van nài cố cứu sống đứa con. Tôi không biết làm gì hơn, cố đứng yên lấy tay vỗ về bà ta an ủi để cơn đau đớn nguôi dần. Chợt có tín hiệu từ máy truyền tin, tôi liền mở máy, từ chiến hạm báo cho anh chuẩn bị bãi đáp cho trực thăng tải thương. Tôi nghe vọng qua máy, tiếng tướng Khánh gọi về Cần Thơ, "Mặt Trời đây, Mặt Trời đây! Cho chuồn chuồn ra đón mấy đứa con tôi bị thương về tỉnh ngay!" Tôi liền bảo mọi người đem đến một số đèn để làm dấu cho bãi đáp. Nghĩ đến tướng Khánh, lo cho binh lính của mình, ra lệnh bất chấp các điều kiện mà thấy thương ông. Trời tối mà biển thì rộng, "chuồn chuồn" nào mà dám mò ra. Quá nửa đêm, tôi nghe tiếng khóc gào lên từ trong bệnh xá. Lại một thằng con của ông vừa hi sinh...
Đêm đó, tôi ngồi ở sân trước bệnh xá, không ngủ, nhìn lên trời máy bay thả hỏa châu liên tiếp sáng rực để bảo vệ hai chiếc máy bay còn lại ở phi trường. Tôi được biết tướng Kỳ cũng có mặt trong những chuyến bay đó để liên lạc với tướng Khánh phía dưới. Sáng sớm hôm sau, một đại đội Dù được thả xuống truy lùng Việt Cộng, nhưng chúng đã trốn lủi vào một xó xỉnh nào đó từ lâu rồi. Tôi chợt nhớ đến ít lâu nay, tình báo cho biết Việt Cộng trên đảo có súng cối 81, nhưng thám báo cố tìm mà không ra. Chúng đã dùng đúng lúc, dù không nhằm được đúng mục tiêu, nhưng đã làm tiêu tan dự án của tướng Khánh cho hòn đảo.
Sau đó ít lâu về lại Rạch Giá, tôi bị một trận sốt rét kéo dài hơn hai tháng trời, phải về Saigon chữa. Lúc trở về, nghe tin con chó Tino thân yêu của tôi gửi Thiếu Úy Mạo mang theo hành quân đi lạc mất, càng thấy buồn thêm ....Tiếp theo, tôi lại nhận được lệnh động viên. Vận hạn xẩy ra liên tiếp. Tôi lên đường nhập ngũ, bỏ lại đảo xưa, bỏ lại miền Tây, bỏ lại quốc lộ 4 mà gần như hàng tuần tôi ngồi xe qua những đồng lúa xanh rờn mênh mông và dọc theo các kinh lạch chạy dài bên lộ. Bỏ lại những buổi trưa chờ phà qua Bắc Mỹ Thuận, ngồi trong quán ăn những đĩa cơm với chim sẻ chiên giòn hay những con tôm rim đỏ ngậy. Những sạp mãng cầu xanh tươi mơn mởn, những cần-xé đầy vú sữa tròn bóng tưởng như tất cả mầu mỡ của phù sa đồng bằng Cửu Long chan hòa trong đó. Nhớ nhất là những buổi chiều mưa, qua Bắc Vàm Cống, nhìn những giọt mưa rơi trên dòng sông rộng mịt mờ, nhìn những đám lục bình trôi trên giòng nước trong mùa nước lũ, tưởng như những cuộc đời long đong đang bị giòng đời cuốn đi…
Tôi mang giấy nhập ngũ về Saigon, bạn bè đi gần hết. Một hôm tôi đi ngang qua Việt Tấn Xã, mà anh Nguyễn Ngọc Linh đang làm giám đốc ở đó, nhớ tới lúc gặp anh trong phái đoàn tướng Nguyễn Khánh ra đảo để thành lập tỉnh vừa rồi và lời anh dặn: Khi nào về Saigon nhớ đến gặp anh. Tôi vào chào anh trước khi đi trình diện. Tôi nhớ lúc đó chính phủ đang lập nội các mới nên các bộ trưởng cần những nhân viên có khả năng thích hợp. Anh giới thiệu tôi đến Bộ Y Tế để nhận một chức vụ có tính cách chính trị và được hoãn dịch. Tôi làm việc cho hai đời Tổng Trưởng, sau này được gửi đi học và trở về bộ phục vụ cho đến khi rời nước ra đi.
Anh Linh đã giúp tôi một khúc quanh khá ngoạn mục. Nhớ đến những ngày tôi theo anh hoạt động và sau này mỗi khi anh đến thành phố tôi ở Mỹ, anh đều gọi tôi đến gặp anh. Lần cuối cùng, anh đã yếu nhiều, thấy thương anh, người anh hùng đã thấm mệt. Anh đã mất trước đây mấy năm. Không biết nói gì thêm để cám ơn anh."
* Trở lại chuyến thăm Phú Quốc. Sáng sau chúng tôi ra khỏi phòng đến nơi ăn điểm tâm, trên đường gặp hầu hết là người ngoại quốc. Theo thói quen ở Mỹ, tôi chào "Hi", họ không trả lời và thản nhiên bước đi. Chắc hẳn họ là người Nga hay Đông Âu gì đó. Bữa ăn sáng theo cách continental, nhiều món khá ngon hơn ở khách sạn các nơi. Tôi thấy có một quầy phở, đến gọi ăn thêm. Cô gái mặc áo lụa giọng Bắc Kỳ tiếp tôi, chúng tôi trao đổi một vài câu. Tôi có nói hơn bốn mươi năm tôi mới trở lại đây, cô hỏi lại: "Hồi đó chắc chú là cán bộ đi công tác?". Tôi lắc đầu, cô chợt nhận ra điều gì và không nói nữa… Sau đó, họ đưa đoàn du lịch của chúng tôi đi thăm An Thới, phía Nam đảo. Dọc đường, xe dừng lại một tiệm bán ngọc trai, họ nói nay Phú Quốc cũng đang nuôi hạt trai. Tôi đã đến Nhật và vịnh Hạ Long, được xem họ lặn xuống mò trai và biểu diễn mở trai lấy ngọc, nên ra ngoài đi xung quanh và ra phía biển sát cạnh đó. Tôi nhớ đây là bãi Trường, bãi dài hơn mười cây số, vẫn còn hoang vu chưa khai thác. Tôi đứng đó, nhìn theo chiều dài của bãi và nhìn ra biển rộng, nhớ lại đã nhiều lần lênh đênh vượt sóng ngoài xa. Tôi thắc mắc không hiểu họ sẽ thiết kế cái bãi Trường này ra sao…
Tôi quay lại vào một cửa tiệm bên cạnh, nhìn thấy một đàn chó nhỏ, đàn chó Phú Quốc. Chúng đến quấn bên chân, tôi xoa đầu chúng và chạnh nhớ đến con chó Tino của tôi hồi đó. Con chó Tino là giống chó Phú Quốc, lông đen sát mình, có một đường xoáy chạy dài dọc sống lưng, rất khôn và săn rất giỏi. Nghe nói chó Phú Quốc đã được ghi trong một cuốn tự điển quốc tế.
Nhớ hồi đó khi tôi rời chỗ ở ra trụ sở quận mới, một người dân đem tặng con chó nhỏ vì ở đó canh gác quá sơ xài. Việt Cộng có thể đột kích từ ngã biển lên vì không có đồn canh ở phía đó. Sau này tôi còn nuôi thêm một bầy ngỗng, cả hơn chục con mua từ Rạch Gíá về. Ngỗng rất thính, thấy động là la quàng quạc, và thường hay tấn công người lạ. Sau khi tôi rời đảo, quận bị xâm nhập từ ngả đó hai lần, có lần một quận trưởng bị tử thương.
Con Tino lúc nào cũng theo sát tôi, ngồi ở đâu là nó nằm ngay dưới chân. Khi tôi ngủ, nó nằm sát cạnh giường, không lúc nào rời. Lần nào ra quán ăn hủ tíu, chủ quán Cù Đe cũng cho nó một tô xương với bạc nhạc đầy ụ. Ai mà lạ, đi đứng lấm lét là nó gầm gừ xua ra xa. Dân đến quận không đi bằng cửa chính, cứ thập thò ở cửa, nó đuổi cho kỳ được ra khỏi quận, nếu không có ai la cản. Mỗi lần Cha Cung từ An Thới lên, áo linh mục lòe xòe, đến thăm quận là thư ký cứ phải canh chừng vì sợ nó cắn rách áo của cha.
Có những lần đi máy bay về Saigon, tôi đã lên ngồi ở máy bay chờ cất cánh, không hiểu con Tino tìm cách nào nhẩy lọt được lên, khiến mấy cô Tiếp viên hàng không la oai oái, tôi lại phải đi xuống để nó theo, nên tôi thường là người lên sau chót. Đường bay Saigon-Phú Quốc hồi đó có hai nữ tiếp viên khá đẹp là cô Mai và cô Thoại. Các cô hay gọi đường bay này là Air Nước Mắm. Không biết đã có lần, cô nào đã gặp phải tai nạn nước mắm bị bể trong chuyến bay?.
Những ngày vắng tôi, con Tino hay xục xạo đi tìm những nơi mà tôi thường đến. Lúc nó chạy ngang qua quán Cù Đe, ông ta đem tô xương ra, nó cũng chẳng thèm ăn và bỏ đi. Khi tôi di chuyển vào Rạch Giá, tôi đem nó theo. Một lần về Sài Gòn công tác, nhờ Thiếu Úy Mạo trông dùm và đem nó đi theo hành quân, con Tino đã bị lạc mất. Tôi trở lại tỉnh, mất nó, buồn thẫn thờ mất bao nhiêu tháng trời...
Trước khi vào thị trấn nhỏ An Thới, xe dừng lại trước phòng triển lãm tù binh Bắc Việt. Tuy biết là những hình ảnh và mô hình đều ngụy tạo, tôi cũng bước vào xem họ giả trá đến mức nào. Cộng Sản có nghề lừa mọi người. Tôi đã có dịp đến thăm trại tù binh này khoảng năm 1970 trong một dịp du hành quan sát khi tôi theo học trường Cao Đẳng Quốc Phòng, trước một hai năm có cuộc trao đổi tù binh giữa Mỹ và miền Bắc. Trại lúc đó có khoảng 30,000 tù binh và cần đến 5 tiểu đoàn quân cảnh giữ trật tự. Có bác sĩ và một bệnh xá khá khang trang. Tiền của Mỹ nuôi ăn, tù binh biết chắc ngày về, không phải lao động, nên yên trí hưởng gió biển, không thấy cảnh trốn trại hay làm loạn. Lần thăm đó, họ đưa tôi đến một căn phòng để có dịp nói chuyện với một tù binh, anh ta cũng trạc tuổi tôi, cấp bậc Thượng Úy, bị bắt trong một trận đánh vùng cao nguyên. Tôi hỏi anh ta nguyên quán ở đâu, thì anh cũng sanh ở Hà Nội như tôi. Khi rời căn phòng, tôi bắt tay anh, chúc anh bình an và sớm trở về với gia đình. Tôi đã được đọc đến hàng trăm chưa nói đến ngàn câu truyện liên hệ đến những năm tháng của các sĩ quan miền Nam trong các trại tù cải tạo miền Bắc, cưỡng bức lao động, cực hình dã man, không biết được ngày về, nhưng chưa bao giờ đọc được một truyện, một hồi ký nào của các cựu tù binh miền Bắc trong các trại giam miền Nam, chính họ cũng đã bị cải tạo rồi, nên không ai dám viết lại…
Xe tiếp tục đưa chúng tôi vào An Thới, ngày trước đứng ở đâu tôi cũng nhìn thấy biển, nay chỉ thấy nhà cửa ngổn ngang. Chỗ tôi đang đứng có lẽ là Bộ chỉ huy Duyên Khu vùng 4 hay trên một sân bay dã chiến bằng các vỉ sắt. Tự nhiên tôi nhớ đến các sĩ quan Hải quân cùng thời ở đó, họ lớn tuổi hơn tôi, tư cách, được huấn luyện từ thời Pháp, lại được tu nghiệp tại Mỹ. Đại Úy Nguyễn Quốc Thanh, Thiếu Tá Trần Thanh Châu họ là quận trưởng. Đại Úy Hoàng Cơ Minh lúc đó chỉ huy một chiến hạm, sau các chuyến hải hành hay lên chỗ tôi, nằm nghỉ và đọc những cuốn Livres de poche mà tôi mang từ Saigon ra. Có lần Đại úy Minh tâm sự với tôi: "Ông Diệm, ông ấy cứ cho an ninh theo rõi "moi", chỉ sợ "moi" mang tầu sang Cam Bốt". Vì Đại úy có họ hàng với BS. Hoàng Cơ Bình thuộc đảng đối lập. Sau này cả ba người trên đều thành Đề Đốc giữ những chức vụ quan trọng trong Hải Quân. Nhớ đến Đại úy Ái, TQLC, quận trưởng cuối cùng mà tôi làm việc. Nhớ đến cả Đại úy Trần Như Hùng, chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân trên đảo, và là anh một người bạn thân của tôi là Trần Như Tráng. Trong mấy năm ở đó, tôi thường theo sát Đại Úy Hùng đi lập các ấp chiến lược cũng như đến các ấp xa thị sát. Đại uý Hùng có nhiều kinh nghiệm về du kích chiến, vì có những năm trấn đóng các đồn tại vùng châu thổ sông Hồng. Có lần cùng toán thám báo đã bắt được tên Huyện Ủy của đảo, trong lúc giam để chuyển lên tỉnh, thì đêm đó hắn đã tự sát.
Nhớ đến Trung úy Dương Hồng Võ, cũng xuất thân trường Chu văn An. Hôm Tổng Thống Diệm bị thảm sát, cả trung đội Dân Vệ tại An Thới, bảo vệ ấp và luôn cả Duyên Khu Vùng 4, họ bỏ súng vì quân đội đã giết vị lãnh đạo của họ. Quận Trưởng Thanh vì có liên hệ họ hàng với Tổng Thống nên bị triệu hồi về Saigon, Duyên Khu Trưởng cũng rời nhiệm sở về nhận một chức vụ quan trọng hơn. Trên đảo không có ai là Trưởng, chỉ còn tôi với Võ là Phó. Cái lo của Võ là không có một lực lượng nào bảo vệ, nếu Việt cộng tấn công, thì ấp vỡ mà bộ chỉ huy duyên khu cũng nát. Võ đã vội vàng dùng ghe chủ lực lên quận yêu cầu tôi cùng xuống An Thới nói với cha xứ Cung để Dân vệ cầm súng lại. Cha Cung với tôi cũng thân nhau, và cũng dễ hiểu trong một lúc phẫn nộ, mất niềm tin họ hành động như thế, chỉ cần có cha nói mấy câu phủ dụ để họ cầm súng lại. Dân Ba Làng tại đây, vượt biển sau năm 54 là những thành phần chống Cộng có hạng, du kích địa phương chưa bao giờ dám đến trêu chọc…
Một lần nữa, khoảng đầu năm 1975, tôi lại ở trong đoàn của BS. Văn Văn Của bay ra An Thới để tổ chức trại tiếp nhận những đồng bào tị nạn trên các xà lan từ miền Trung không được phép vào bến Saigon.
* Hôm sau nữa họ đưa thăm phía Đông của đảo, xe chạy trên một con đường cắt ngang đảo từ Dương Đông sang Hàm Ninh. Dọc đường họ dừng lại cho xem một vườn tiêu. Trong thời gian tôi còn ở đảo tôi đã làm một thống kê, mỗi năm Phú quốc sản xuất hơn 300 tấn, đứng đầu cả nước, theo sau là Bà Rịa. Trong lúc đứng nói chuyện với chủ vườn tiêu, anh ta biết tôi đã ở đây và cho biết có người anh là lính thám báo đã bị chết trên đồi phía bên kia… Sau đó, xe dừng để thăm chùa Sư Muôn, tôi nhớ là chùa này là một ổ Việt Cộng trong vùng bất an, quận vẫn để yên không muốn khuấy động vì tình hình tôn giáo thời đó, nhưng thỉnh thoảng vẫn mời sư trụ trì lên hỏi thăm. Đặc biệt sư trụ trì là nam giới, mà đệ tử thì toàn là ni cô. Ni cô thì được gửi từ một chùa sư nữ ở Gia Định; chùa này cũng bị đặt trong tình trạng nghi ngờ. Một hôm tình cờ tôi sang thăm trạm Viễn Thông của đảo, tôi nhìn thấy một bức điện tín, nội dung báo tin một ni cô tại chùa này tự tử. Tôi báo về tỉnh để điều tra, nhưng không hề nhận được trả lời.
Hàm Ninh vẫn còn là một bến vắng tuy rằng đã có một dẫy hàng bán hải sản khô và một vài căn nhà gạch, nhưng không được như các nơi khác. Họ xây một cái cầu xi măng dài chạy ra biển, vì biển phía Đông của đảo rất nông, thuyền nhỏ cũng khó vào. Tôi đứng ở đầu cầu nhìn ra biển rộng, bao nhiêu nỗi nhớ tràn đến. Tôi đã đến đây vài lần, có lần phải ở lại hơn một tuần vì bão biển, ăn toàn ghẹ đỏ, như ở một chốn tận cùng trái đất. Nhớ nhất là hình ảnh tôi ôm cái sọ trắng của con trâu rừng cuối trên đảo đã bị bắn chết, tưởng như cái thiên đường lỡ dở mà mình đang đi tìm nay đã mất hẳn rồi ...
Trên đường về, họ dừng xe ghé thăm một tiệm bán rượu Sim đặc sản và một nhà thùng nước mắm, sản xuất theo lối cổ truyền, đóng chai thủ công. Cuối ngày họ để chúng tôi đi thăm khu chợ bên bờ sông Dương Đông, thuyền đánh cá đậu đầy, nước sông đổi mầu, bùn hai bên bờ lóng lánh ánh dầu và rác rưởi. Cũng không thể tránh được vì bao nhiêu thuyền đều đậu trong sông, xả dầu nhớt và rác vô tội vạ.
Mới đây, tôi có được xem một tấm hình chụp một dòng nước đen chảy thẳng ra biển dài trên một cây số từ cửa sông này, và nhớ lại có một họa đồ của người Pháp để lại dự định làm một kè đá dài ngoài biển để chặn sóng xô cát vào cửa sông, đồng thời làm nơi cho thuyền bè đậu tránh sóng…
* Ngày thứ ba có thời giờ tự do, tôi muốn đi tìm thăm một số người quen cũ. Hơn 40 năm rồi chắc cũng chẳng còn ai. Người đầu tiên tôi định thăm là ông Hồng Đại, chủ một nhà thùng nước mắm lớn, hồi xưa thân với tôi vì hay đi ăn nhậu với nhau. Nhưng ông Hồng Đại không còn ở đó, và họ chỉ đến cửa hàng thời trang của con gái ông. Cô này cho biết cha cô về Saigon dưỡng bệnh đã lâu. Nói lại chuyện xưa, thì mới biết là khi tôi rời đảo thì cô chưa sinh ra, nhưng nay thì cô đã có gia đình và con gái đầu lòng đã lên Saigon học đại học. Buổi chiều hôm cuối cùng, lúc đợi máy bay về Saigon trong phòng đợi vắng người, nhìn những dự án tương lai của hòn đảo Phú Quốc vẽ lớn trên tường, hình ảnh những cao ốc hoành tráng ven biển, và một khu kỹ nghệ ở Bắc đảo với những cột khóí cao. Tôi nghĩ đó là khát vọng tự nhiên của một dân tộc vừa thoát khỏi cảnh cấm vận lầm than, bất chấp các hậu quả về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường sống sẽ đến như thế nào. Từ khi rời hòn đảo năm 1965, cho tới nay đã ở hải ngoại bao nhiêu năm, tôi thường đọc tin khắp nơi nếu có bài nào về hòn đảo tôi không thể bỏ qua. Bạn bè ở nơi xa có bài nào đặc biệt liên hệ đều gửi cho tôi, có người vẫn quen gọi đùa tôi là "Chúa đảo", tuy tôi không phải "Xếp" của hòn đảo. Tôi nghĩ, Hà Nội là nơi tôi sanh ra, Saigon nơi tôi sống hơn hai mươi năm ở đó, nhớ thì nhớ nhưng mà vẫn ngần ngại. Còn Phú Quốc thì lúc nào cũng thấy băn khoăn.
Tôi đọc những bài viết và những hình ảnh quảng cáo cho hòn đảo, thì đó là một nơi du lịch lý tưởng. Bên cạnh đó lại có những bài báo nêu ra nhiều tệ trạng phát triển của Phú Quốc. Chính quyền và doanh nhân toa rập với nhau phá nát hòn đảo để thu lợi nhuận cấp thời. Họ dùng các chữ như: Băm nát hòn đảo, chia nát rừng chia lô bán, bê tông hóa hòn đảo, xây dựng lấn biển, tàn hại môi trường cũng như bao nhiêu tệ trạng xã hội đã xẩy ra… Xem phía dưới các bài viết thì nhiều lời bình luận nặng nề như: Nào là nhếch nhác, nhem nhuốc, rác rưởi, sẽ không trở lại…
Cũng không ngạc nhiên lắm. Khi tôi ở đó năm 1965, dân số chỉ khoảng 8,000 người, sống trong điều kiện của thiên nhiên cung cấp. Nay dân số lên đến gần 190,000 người, cộng với 4 triệu du khách theo thống kê năm 2019. Họ dự kiến sẽ tăng số du khách lên 7 triệu, nghe mà tội nghiệp cho hòn đảo. Không hiểu họ sẽ dành ra bao nhiêu phần trăm lợi nhuận để đối phó với những vấn đề cấp bách về môi trường. Hòn đảo không những cần về hạ tầng cơ sở mà còn dựa vào kiến thức xây dựng, đạo đức của người cầm quyền và trình độ ý thức công dân của dân chúng. Bao nhiêu viên chức bị kỷ luật và khiển trách. Cũng không ngạc nhiên, khi có những hình ảnh ngập lụt ngang người trong các khu phố trên đảo năm vừa qua, vì các kênh rạch thiên nhiên đã bị lấp để dựng nhà và các con lộ chạy dọc biển đã chắn ngang nước lũ chảy ra biển…
Tôi đã có dịp đi thăm các hòn đảo trong vịnh Caribbean, Trung Mỹ cũng như dọc Thái Bình Dương của Mỹ, Canada…hay những thành phố du lịch biển của Mexico, của Âu châu dọc theo Địa Trung Hải như Saint Tropez, Canne, Nice của Pháp. Hay Portofino, Cinq Terres, Sorriento của Ý … Và nhớ lại các bãi biển Vũng Tầu, Nha Trang, Đà Nẵng, Sầm Sơn, Đồ Sơn tại miền Bắc do người Pháp để lại. Tất cả họ đều tôn trọng biển và bãi biển. Biển là báu vật mà thiên nhiên tặng cho con người.Cách thiết kế của các đường vòng bên bãi biển Phú Quốc đã khác hẳn của họ.
Thấy buồn cho hòn đảo. Buồn cho cả đất nước. Vừa có tin Phú Quốc được nâng lên hàng "Thành phố", mong rằng lần này lớp chính quyền mới sẽ làm được những điều tốt đẹp hơn.
Tôi ngồi trầm ngâm, rồi tự nhiên viết thành một bài thơ. Đọc lại thì nghe như một bài ca và tưởng như có tiếng đàn lục huyền cầm phụ theo. Lời ca như là những điệp khúc ballad, nhạc kể chuyện. Kể lại câu chuyện của một hòn đảo sáu mươi năm cũ…
Điệp Khúc Nhớ Đảo
Ngày Mai Trở Lại Đảo. Biển có còn xanh. Rừng có còn hoang. Trời có còn nhiều mây trắng. Ngày mai trở lại đảo. Cỏ may có còn vờn nhau tới mãi cuối đồi.
Ngày mai trở lại đảo. Con sấu già đêm có còn quẫy, Trong lạch sâu Cửa Cạn. Bãi Bổn, sao biển năm cánh có còn, nằm soải dài dưới rặng dừa thưa.
Ngày mai trở lại đảo. Có còn ghẹ xanh ghẹ đỏ, Trên bến vắng Hàm Ninh
Ngày mai trở lại đảo. Bầy cá voi có còn nằm phun nước, Mỗi mùa ruốc đến rủ nhau về. Lũ cá heo có còn chờ, Rỡn cùng thuyền trên sóng.
Ngày mai trở lại đảo. Có còn chim biển bay ngược gió, Đưa ta về những đảo mờ xa.
Ngày mai trở lại đảo. Có đêm nào còn trong, Đèn lập lờ trên đỉnh Bokor, Dẫn lối về tránh Vũng Trâu Nằm.
Ngày mai trở lại đảo. Mưa lũ có còn đổ, Sóng ngập tràn bờ nước Dương Đông.
Ngày mai trở lại đảo. Xuôi thuyền về An Thới. Thăm xóm đạo Ba Làng. Đừng qua Mũi Ông Đội, Đã sẵn mồi Biên Mai.
Ngày mai trở lại đảo. Nhớ ghé qua Hòn Thơm, Xem lại bầy cá nhỏ, Có còn trong dãy san hô.
Ngày mai trở lại đảo. Tiếng súng không còn nữa. Anh dân vệ trong làng, Chú du kích bên sông, Bắn bâng quơ cho có lệ, Sợ vỡ mất thiên đường.
Ngày mai trở lại đảo. Nhớ con chó Phú Quốc quá. Năm tháng bạn cùng ta, Trong quận nhỏ đìu hiu, Đi lạc đâu mất rồi, Lòng buồn thương vô hạn.
Ngày mai trở lại đảo. Con trâu rừng cuối cùng đã chết . Con trâu rừng cuối cùng đã chết. Huyền thoại ngày xưa đã vỡ rồi. Huyền thoại ngày xưa đã vỡ rồi. Vỡ thật rồi...
Ngày mai trở lại đảo. Nhớ tìm về Dinh Cậu, Cồn cát bên sông chắc có còn. Những nấm mộ đạo trăm năm cổ, Chúa có đến kịp mang về Thiên quốc không .
Ngày mai trở lại đảo. Nghĩa trang Quốc quân tha hương ngoài phi đạo, Có còn mỏi mắt vọng cố hương.
Ngày mai trở lại đảo. Có còn căn nhà sàn cửa biển. Có còn hàng dừa xanh rợp mát. Cô gái năm xưa chắc chẳng chờ.
Ngày mai trở lại đảo. Câu chuyện sáu mươi năm cũ, Thôi đành để lại gửi thiên thu. Thôi đành để lại gửi thiên thu...
7/2020
|
|