|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 16:16:20 GMT 9
Cùng với tín ngưỡng thờ dân gian khác, tín ngưỡng thờ đá trong cộng đồng người Việt dải khắp đất nước là một trong những biểu hiện của đời sống đậm nét văn hóa của cư dân bản địa. Xuất phát từ nhận thức cảm giác về đá là một vật thể cứng, rắn chắc, có thể dùng để đập nát nhiều vật khác, mà họ đã phú cho đá những sức mạnh linh hồn vô biên. Thờ đá là một trong những cách làm gây thiện cảm với thần linh, để thần sẽ không dùng sức mạnh của mình gieo rắc tai họa cho cuộc sống của họ; trái lại, bằng sức mạnh thần lực rắn chắc của mình, thần sẽ đè bẹp mọi thần lực gây hại, bảo vệ sự tồn tại yên bình cho mỗi con người và cộng đồng của họ. Mọi sự cầu xin thờ cúng của người xưa đều nhằm mục đích tương tự như vậy. Người xưa cho rằng các công cụ bằng đá không chỉ đơn thuần là công cụ lao động, mà chúng còn có ý nghĩa ma thuật luôn được họ mang theo bên mình để trừ tà hoặc tránh ma quỷ không làm hại. Ý nghĩa của tục thờ đá Tượng An Kỳ Sinh trên núi Yên Tử Có thể nói rằng, đá là chất liệu đầu tiên, gắn với bước chân chập chững của con người từ xã hội nguyên thủy sang xã hội văn minh. Sự gắn bó của con người với đá trong xã hội nguyên thủy, khi thuyết vật linh tồn tại phổ biến thì người ta thấy rằng: giữa đá và linh hồn con người có mối liên quan chặt chẽ. Đá cũng là sự sống, cũng có phần hồn, phần xác như con người và đá có thể là nơi trú ngụ cho linh hồn con người, cũng như trong thực tế, thân xác con người sống trong đá (hang), và chết có khi cũng nằm trong đá (chum đá của các dân tộc ở Lào, quan tài chèn đá của người Mường…). Quan niệm đó được huyền thoại hoá thành các câu chuyện ở nhiều dân tộc. “Trong truyền thuyết, đá chiếm một vị trí trang trọng. Giữa linh hồn con người và đá có mối liên quan chặt chẽ. Theo huyền thoại về Prômêtê, ông tổ loài người, có các loại đá vẫn giữ được hơi người”. Đặc điểm cơ bản của đá là cứng rắn và con người có thể lợi dụng, tạo ra hiệu quả trong lao động. Từ đó, con người thấy rằng mình có thể dựa vào tính cứng rắn của đá. Tính cứng rắn được hiểu là có một vị thần ở trong đá tạo ra. Vị thần Đá phản ánh nhận thức của con người về sự vật luôn có tính hai mặt là vật chất và linh hồn. Trong đó linh hồn mới là cái bất diệt, và chính nó tạo ra sự cứng rắn của đá. Cho nên, đối với người xưa, các công cụ bằng đá không chỉ đơn thuần là công cụ lao động, mà chúng còn có ý nghĩa ma thuật. Những công cụ bằng đá mà họ luôn mang bên mình là vật để trừ tà, để tránh ma quỷ không làm hại. Mặt khác, đá lại là đặc trưng cơ bản của núi (núi đá), mà núi là chốn linh thiêng, là nơi thông linh giữa trời và đất. Cho nên, đá có thể là phương tiện để truyền đạt mong muốn của con người với các thế lực siêu nhiên khác. Con người đã biết dùng đá vào các hành động mang tính chất ma thuật của họ để đạt được mục đích cầu mùa, mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi và gia đình sung túc… Hiện nay, trên thế giới, hình thức thờ Đá đã bị biến thái, nhiều nơi không còn giữ được tục thờ này nữa. Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) là một trong ít vùng còn bảo lưu được một số phong tục, tín ngưỡng gắn với thờ Đá. Khi phân tích tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Hinh cho rằng thần điện nguyên thủy của người Việt là Cây đa – Hòn đá thiêng. Thờ Đá, cũng như thờ Cây là tín ngưỡng mang tính phổ biến của nhân loại, nhưng hình thức kết hợp đó mang màu sắc Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng, thờ Đá là một trong những hình thức tín ngưỡng dân gian sớm nhất xuất hiện ở Việt Nam và tham gia vào nhiều các hình thức thờ phụng khác của người Việt. Nhưng ở Việt Nam, thờ Đá cũng đã biến đổi, bị (được ) kết nạp vào những hình thức tín ngưỡng, tông giáo khác như: tín ngưỡngnông nghiệp, Phật giáo, Bàlamôn… Tín ngưỡng thờ trong cộng đồng dân tộc Việt Tín ngưỡng thờ đá xuất hiện nhiều nơi trên khắp đất nước ta. Như đá được chôn quanh mộ người chết của người Việt cổ, nay còn thấy dấu vết ở các mộ người Mường. Một số địa phương còn có tục giữ tại nơi thờ cúng một vật bằng đá làm vật thiêng phù trì cho xóm làng. Như ở làng Gióng (Gia Lâm) có thờ tảng đá sau này được giải thích là giường của Gióng. Cạnh giường còn có một hòn đá hình liềm. Sau này bảo đó là liềm mà mẹ Gióng dùng cắt nhau khi sinh chàng. Đó chính là tín ngưỡng thờ đá. Hay như tượng nàng Mỵ Châu ở Cổ Loa kỳ thực cũng là khối đá cuội kết. Một loại đá trầm tích có hình dáng giống như một thân người. Trong một số truyện kể dân gian, ta thường thấy một đường dây liên hệ: Đá – Nước – Phụ nữ. Tất cả đều thuộc tính âm, nên chúng dễ xâm nhập vào nhau, có thể đồng nhất với nhau. Người phụ nữ sinh ra tảng đá, ở trong tảng đá, đá ở dưới nước. Hay như truyện Tiếng hát của người Đá của dân tộc Raglai mang hạt nhân hóa, nhập người với đá (hay núi). Biểu tượng này chắc có nguồn gốc sâu xa trong tục thờ thần núi, một tín ngưỡng bán khai của nhân loại. Trong kho tàng truyện kể dân gian Nam Đảo, hình tượng Đá được khắc họa thật phong phú dưới những dạng thức biểu hiện/những biến thể thắm đượm những yếu tố tôn giáo nguyên thủy như: thần núi, đá thiêng, bụt mọc, tinh đá, sinh đẻ thần kỳ từ đá, đá hình người, đá hình người hóa thành người, người hóa đá, người bị chém chết hóa thành đá, xương chằn tinh hóa đá, loài vật hóa đá, đá kêu, đàn đá, mã la đá, đá nuốt người… Đá thiêng “nuốt người” thường được xem là những tảng đá nguy hiểm đôi khi làm chết người là do có một ảnh hưởng siêu nhiên tác động đến, được ghi lại trong các truyền thuyết như. “Thấy có nước dâng tràn khắp nơi, bà Mau - hòn đá màu xanh đen cao lớn như quả đồi dưới lòng hồ Lắk, mượn sức nước đi về hướng biển tới vùng núi đá hùng vĩ. Bà nuốt chân cô gái để bắt giữ cô mặc cho dân làng làm lễ cúng vẫn không buông tha khiến từ đó họ không dám phơi lúa trên thân bà nữa. Họ tôn kính bà và đặt tên buôn là buôn Giang Tao (Truyền thuyết về đá thần Mau Giang Tao – Êđê). “Nhờ thần núi há miệng cười ra vàng mà người em trở nên giàu có, người anh bắt chước bị thần núi ngậm tay, sau thoát được về chửi em” (truyện Núi cười/Cađốp và Cađoéc – Chăm). Con người tin rằng sự kết hợp giữa đá và các đối tượng thờ cúng sẽ tạo ra một sức mạnh cộng hưởng, có thể đem lại hiệu quả, tạo ra sự sinh sôi nảy nở. Bản chất sự sống ở trong đá sẽ tiếp thêm sinh lực cho những biểu tượng về sự sinh sản, để đáp ứng nguyện vọng của con người về sự sinh sôi của cây cối, vật nuôi và cả con người. Bởi thế hầu hết các đồ thờ, bệ thờ đều được làm bằng đá. “Những tảng đá dựng đứng, ở dạng tượng dương vật (linga) của Ấn Độ là một biểu tượng phổ biến. Ở Ấn Độ, những phụ nữ vô sinh tới đó cầu khẩn được chữa khỏi bệnh. Ý nghĩa này của đá dựng rất gần với ý nghĩa của các cây đại thụ linh thiêng cũng mang tính cách dương vật”. Người Chăm chịu ảnh hưởng của Bàlamôn giáo. Họ thờ thần Đá trong dạng biểu tượng về thần Shiva – những sinh thực khí như Mukhalinga (thần-vua Pô Klaung Garai có nhiều công tích với nước Chămpa được tạc tượng thờ dưới dạng Mukhalinga mang thần chủ). Nhiều nơi thờ tự của người Chăm có những linh tượng, linh phù dạng sinh thực khí bằng đá. Bản chất của đá là “sự sống và khả năng tái sinh” nên nó dễ kết hợp với tín ngưỡng thờ thần Shiva, vị thần tối cao, đem lại sự sống. Tục thờ nữ thần Pô Yang Jri ở người Chăm là một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực. Tượng của nữ thần này là một khối đá dựng đứng có vẽ một vạch ngang bằng vôi thể hiện cái miệng của thần. Thế nhưng để tượng trưng cho nữ thần này thì chỉ cần một vật gì giúp cho người ta liên tưởng đến bộ phận sinh dục của phái nữ như kẽ nứt của cây, đường nẻ của đá… Khi có việc cầu xin nữ thần giúp cho việc chữa bệnh hoặc việc hiếm muộn con cái người Chăm thường đến chỗ đó khấn vái, đổ rượu lên khúc cây hình trụ có dạng bộ phận sinh dục của nam rồi làm động tác như lúc nam và nữ giao hợp. Người ta tin rằng làm như thế là thần sẽ giúp cho họ khỏi bệnh hoặc sẽ thỏa sự mong muốn về việc con cái. Dân tộc Chăm vốn là những cư dân biển tiến. Dấu ấn văn hóa biển còn đậm nét trong đời sống của họ. Trên biển, họ thường thờ những tảng đá ngầm, để cầu mong sự bình yên cho những lần ra khơi. Vì thế, tục thờ Đá đã xuyên thấm vào truyện cổ dân gian tạo thành một nhóm truyện độc đáo của vùng Thuận Hóa. Hình thức thờ cúng ở đây là sự kết hợp giữa tục thờ Đá và thờ nữ thần Biển. Cadière đã lí giải hiện tượng thờ cúng đó xuất phát từ tâm lí e sợ nguy hiểm mà những tảng đá ngầm đó có thể gây ra. Sự thờ cúng đó chính là sự sợ hãi đối với chính bản thân các sự vật. Các nơi có địa hình hiểm trở thường được người ta thờ. “Những vị thần ấy, vị thần cư ngụ ở đó, chẳng qua là đặc thù hiểm trở thiên nhiên của địa điểm, ảnh hưởng tai họa của nơi được nhân cách hóa. Giữa thần và địa điểm có một sự gắn bó mật thiết, thần chính là thần của địa điểm”.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 16:17:05 GMT 9
Về đời sống tâm linh: Đặc điểm chung nổi bật trong đời sống tâm linh của các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam là tín ngưỡng đa thần, trong đó khá thống nhất về những lễ nghi nông nghiệp và rất điển hình về tín ngưỡng Đá. Điều này nói chung cũng gần gũi với đặc điểm của văn hóa Nam Á cổ đại. Tuy nhiên, từng tộc người Nam Đảo ở Việt Nam đều có phương cách riêng của mình để duy trì tin ngưỡng đa thần trong tiến trình lịch sử, mà người Raglai là một điển hình về sự kiên trì, nhẫn nại… Đồng thời, tín ngưỡng đá của người Raglai cũng đã phát triển theo một hướng riêng so với tín ngưỡng đá của các tộc người Nam Đảo khác ở Việt Nam. Đối với người Raglai, đá rất gần gũi mà cũng rất linh thiêng, đặc biệt là đá kêu (đá riolit pocphia, là loại đá vốn có tại một số khu vực trên lãnh thổ ban đầu của tộc người này) được tìm thấy trong các truyện tiêu biểu như Tiếng hát của người Đá. Sự tích đàn đá Bác Ái, Sự tích mã lá đá. Người Raglai sử dụng đá kêu một cách khá thuần thục, như: thiết lập giàn đá kêu tự động để giữ rẫy, sử dụng đàn đá như những mã la (sar, nhạc khí làm bằng đồng – một trong nhiều loại hình của những bộ chiêng không núm) trong các lễ hội, v.v… Từ ngàn xưa, người Raglai có thái độ tôn trọng đặc biệt đối với đàn đá. Ở đây, nếu như mã la đã từng được xem là một trong những tài sản có giá trị thật sự lâu bền và quý giá nhất trong một thời kì lịch sử dài : “Các thần trả công xử kiện bằng bộ mã la đá có nội dung bên trong quí hơn ché đá” (truyện Sự tích mã la đá); “Mã la chôn theo người hóa thành đá” (truyện Sự tích núi Đá Nhảy và ba ngọn núi ở Khánh Sơn); thì đàn đá còn có giá trị cao hơn thế, với tên gọi thiêng liêng như “mã la của tổ tiên”, “mã la của ông bà” (sar mukay) : “Theo lời chim Palí, một cụ bà được thần thác thu nhận – cống mạng, nên đàn đá được đưa về sử dụng từ đấy” (truyện Sự tích đàn đá Bác Ái); “Tiếng tung teng của đá kêu ngày càng quen thuộc với bầy dã nhân. Sau khi ăn uống no nê, chúng thi nhau vừa gõ vừa nô đìa thỏa thích… Người già Raglai cho rằng : việc dùng những đàn đá kêu bằng sức nước trên dòng suối vừa để đuổi chim thú vừa làm vui tai người già, trẻ nhỏ hiện nay đã có nguồn gốc từ thuở xa xưa đó” (Truyện hòn đá lăn);… Có thể nói, đàn đá đã đi theo dòng chảy lịch sử hàng nghìn năm lao động và đấu tranh của các thế hệ người Raglai; đàn đá hiện diện trong đời sống của người Raglai như biểu tượng của sự kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần, quá khứ và hiện tại…; đàn đá đã góp phần hun đúc tâm hồn – khí phách và truyền thống của người Raglai, trở thành một trong những sức mạnh văn hóa và góp mặt vào bản sắc văn hóa dân tộc cổ truyền Raglai. Trên tiểu vùng Bắc, tại miền rừng núi phía nam huyện Khánh Sơn (Khánh Hòa) và phía bắc huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), trong hai năm (1979-1980), Bộ Văn hóa kết hợp với chính quyền địa phương đã sưu tầm được hơn 90 thanh nhạc cụ bằng đá do người Raglai cất giữ từ lâu đời. Hội đồng đàn đá Việt Nam đã gọi những nhạc cụ bằng đá này là “Đàn đá Khánh Sơn”, “Đàn đá Bác Ai” và xác định : nguyên liệu để chế tác nhạc cụ này là đá riôlít có sẵn trên địa bàn, người Raglai là chủ nhân thừa kế lâu đời của chúng. Trong nội dung của truyện cổ các dân tộc Nam Đảo, có nhiểu phần đề cập đến những tập tục, nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng nguyên thủy về tục thờ thần đá do đã ăn sâu trong tiềm thức từ rất lâu đời. Rải rác suốt dọc miền Trung Trung bộ ngày nay vẫn còn những nơi còn thờ thần đá, tinh đá là các “thần lành” - những vị thần dùng sức mạnh và uy lực của mình để đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống con người, có thể xem đấy là những “bụt mọc”. Ngăt kabau Yang Pơtao (lễ chém trâu cúng chằn – có nguồn gốc từ tục hiến tế mạng người từ thời nguyên thủy) được giải thích trong dân gian Chăm bằng câu chuyện truyền thuyết : Vào thời kỳ sau triều đại vua Pô Klong Garai có một ông vua tên là Kabăl lên trị vì. Trong thời gian đó có con chằn tinh phá hoại cuộc sống an lành của nhân dân và bắt nhà vua mỗi năm phải cống một đồng nam. Sau bảy năm cống nạp như thế nhà vua muốn thế mạng người bằng trâu trắng nhưng chằn tinh không chịu. Vua cầu xin Thượng đế phù hộ và đã giết chết chằn tinh : “Chằn tinh chết được chôn cất, xương hóa thành núi Đá Trắng”(truyện Sự tích núi Đá Trắng – Chăm). Sau khi chằn tinh chết theo lệ cứ bảy năm một lần, vào ngày 10 tháng 7 lịch Chăm, người Chăm lại cúng trâu trắng cho chằn tinh để nó không quấy phá và phù hộ cho mùa màng tốt đẹp. Ngoài ra, trước đây trong mối quan hệ về nhiều mặt giữa người Chăm và người Raglai- tộc người cộng cư gần gũi nhất với người Chăm xưa kia cũng như ngày nay, trên khía cạnh tín ngưỡng, có thể thấy một biểu hiện khá thống nhất giữa họ với nhau đối với tín ngưỡng đá và thấy được ảnh hưởng khá mạnh của người Chăm đối với người Raglai trong việc người Raglai cũng tôn thờ các vị vua Chăm và nữ thần Pô Nưgar của người Chăm. Anh hưởng ấy còn được thấy ở hiện tượng các Bumông của người Raglai trong tục thờ đá và thờ các vua Chăm. Người Raglai nói chung không lập đền thờ thần, tuy nhiên tại một số nơi có những trụ đá hay tảng đá linh thiêng, họ cũng lập những nơi để hiến tế, những nơi ấy được gọi là “bumông” và chỉ thấy ở nhóm Raglai Nam. Tại xã Ma Nới thuộc huyện Ninh Sơn tỉnh Ninh Thuận, trên núi Prôh (được gọi là núi Thần – Chơq Yak), có hai tảng đá to, linh thiêng. Theo một truyền thuyết thì đó là do một vị thần và một thanh niên họ Ta-ing (ta-ing có nghĩa là đi lang thang mãi) biến thành đá trên đường đến gặp vua Chăm sau khi bắt được con voi thần có cặp ngà rất đẹp. Nơi này được gọi là “bumông patâu yak” mà người Raglai và cả người Chăm thường đến cúng bái. Hiện tượng đá thiêng như hòn đá vọng phu (núi mẹ bồng con) ở địa phận giữa hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên trên Đèo Cả vốn được dân gian nơi đây ví như là hình ảnh người vợ bồng con đứng trên núi cao nhìn ra biển chờ chồng và hóa đá, trở thành vị thần bản địa. Người Chăm có truyện Nai Krao Chao Phò – Chăm – kể về sự tích núi đá cùng tên ở cửa biển Cà Ná vùng Nam Ninh Thuận, thuộc loại truyện về đá vọng phu hay loại truyện có đề tài anh em ruột lấy nhầm phải nhau có cốt truyện giống hệt các truyện của người Việt (Sự tích đá vọng phu, Tô thị vọng phu, Sự tích đá Bà Rầu) được phổ biến ở các địa phương như Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định. Cốt truyện của típ truyện này được tóm tắt như sau: Người anh đánh em gái rồi bỏ nhà ra đi, khi lấy vợ lại lấy đúng người em gái năm xưa, nay đã lưu lạc làm con nhà khác; biết chuyện người chồng im lặng bỏ nhà ra đi, người vợ ở nhà ngày ngày bồng con ra biển ngóng chồng, đến lúc kiệt quệ hơi sức nàng gục xuống chết; thân nàng biến thành pho tượng đá trắng tinh mãi mãi đứng bên bờ biển chờ chồng. Truyện Chăm có hai chi tiết khác là người anh không phải vô tình làm văng dao vào đầu em gái trong khi chặt mía mà là hữu ý đánh vào đầu em về việc giành nhau miếng bánh; và hai vợ chồng là dân buôn không phải dân chài. Bên bờ biển Cà Ná ngày nay người ta vẫn còn thấy hai hòn đá một lớn một nhỏ đứng bên nhau và người Chăm bảo đó chính là tượng Nai Krao Chao Phò thuở trước và lập đền thờ nàng. Những người dân trong vùng trên những đèo xuôi ngược, hoặc trên biển khơi đều có những câu khấn vái “Bà” để mong Bà cho cuộc hành trình làm ăn của mình có nhiều thuận lợi, may mắn. Câu ca dao của ngư phủ Khánh Hòa thường hát như: “Lạy Bà, bà cả gió Nồm; Chồng Bà ở Quảng dong buồm theo vô”. Các tình tiết chủ yếu của típ truyện Đá vọng phu này tập trung ở việc kể về chuyện hai anh em lấy nhầm phải nhau thành vợ chồng. Chi tiết hôn nhân vô tình này trong dân gian Việt Nam lưu truyền khá nhiều. Ở các cốt truyện khác của người Việt như Sự tích trầu cau, Sự tích sao hôm sao mai, Sự tích ba ông đầu râu, và của người Chăm như Thần lửa, Sự tích táo quân, và Vua bếp chi tiết này đã chuyển thành việc nói về hôn nhân giữa em chồng và chị dâu, giữa vợ và chồng cũ, chồng mới. Nguồn gốc sâu xa của chi tiết này là phản ánh một quan niệm về hôn nhân trong xã hội cổ, phản ánh những bi kịch gia đình khi chế độ hôn nhân đã chuyển từ hôn nhân nội tộc sang hôn nhân ngoại tộc và từ chế độ quần hôn sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Tình tiết rất cơ bản nữa là việc kể về người vợ đứng ngóng trông chồng, chờ chồng với ky vọng người chồng sau những năm tháng đi xa sẽ trở về để gia đình được đoàn tụ hạnh phúc. Người chồng đã không về và người vợ đã hóa thành đá vì chờ đợi. Ở các cốt truyện chi tiết này cho thấy có thể người chồng vì việc kiếm sống, vì mục đích kinh tế, hay vì một lý do nào đó đã phải xa nhà và họ đã không bao giờ trở về nữa. Người phụ nữ với sự chung thủy, đã âm thầm, đơn lẻ sống mỏi mòn để chờ đợi. Nỗi đau, lòng tuyệt vọng đã hóa chị thành đá. Bi kịch này nói lên thân phận của người phụ nữ – người chịu thiệt thòi, hy sinh nhiều nhất trong xã hội. Qua chi tiết này, tác giả dân gian hai dân tộc Chăm và Việt đã sáng tạo hình tượng người phụ nữ với sự cảm thông sâu sắc nhất. Nỗi đau, nỗi mong chờ của phụ nữ thấu đến tận trời xanh, tạc vào cuộc sống của con người, nỗi đau ấy lạnh như đá, lâu bền như đá. Bi kịch này thường xuyên xảy ra với phụ nữ nói chung và họ phải cam chịu chỉ vì họ là người phụ nữ. Hòn đá là biểu tượng về sự bền vững, chống chọi lại được với những nghiệt ngã của thời gian. Hình ảnh người phụ nữ hóa đá đã trở thành “biểu tượng nhân văn cao cả” trường tồn mãi mãi trong văn học và trong nhân dân. Môtip đá vọng phu trong những cốt truyện này là một yếu tố sáng tạo độc đáo xuất phát từ sự bệnh vực, đề cao người phụ nữ của dân gian Chăm – Việt. Về môtip người hóa đá: Người Chăm vùng Phù Mỹ tỉnh Bình Định còn có truyện Sự tích núi Bà Chằng, và ở Khánh Hòa đồng bào Êđê có truyện Sự tích núi Mẹ và Con/Núi Vọng Phu có nội dung khác với sự tích của hai truyện vọng phu Chăm và Việt, không có các môtíp vết sẹo nhận biết và hôn nhân anh em ruột. “Vợ tên cướp –đã bị giết, tìm chồng mãi không gặp, đứng trên mỏm núi hóa đá” (Sự tích núi Bà Chằng). Trong truyện Êđê, thông qua môtip người bị chém chết hóa thành đá, ta thấy nhân vật chính Giang-mia vì ghen tuông với tình địch gian phu mà giết kẻ thù biến thành đá và hóa đá cả vợ con cùng bạn bè và bà đỡ (thành cụm núi Mẹ và con): “Vì ghen tuông, người chồng giết kẻ ngoại tình hóa thành đá, giết và hóa phép thành đá tất cả những giúp vợ sinh con; biến lợn lòi bị bắn chết cũng thành đá” (truyện Sự tích núi Mẹ và Con, Đá đẻ con). Có cùng môtip này, truyện Êđê Truyền thuyết về tháp Yang Prong được lan truyền trong vùng người Êđê, Mnông và Giarai, kể về sự tích của ngôi tháp cổ Chămpa duy nhất hiện còn ở Tây Nguyên. Tháp nằm trong khu vực Bản Đôn thuộc huyện Êa Súp (cách huyện lỵ Êa Súp 20 km), tỉnh Đắc Lắc. Yang Prong là tên mà ba dân tộc trong vùng gọi ngôi tháp theo nghĩa Yang là thần, Prong là vĩ đại, lớn, và là cái tên do họ dịch nghĩa từ tiếng Chăm tên thần Siva ra tiếng địa phương : Mahadeva chuyển thành Yang Prong đều có nghĩa là “vị thần vĩ đại”. Điều này được các nhà khảo cổ lý giải từ các chứng tích sau : một là, di chỉ khảo cổ – hiện vật duy nhất còn lại trong tháp là một đồ thờ bằng đá dưới dạng mukhalinga – hình linga / dương vật có khắc hình mặt người của thần Siva, dựng trong một “chậu tắm” dưới dạng yoni / âm vật; hai là, các nguồn tài liệu lịch sử như những dấu tích vật chất – chủ yếu lá các phế tích kiến trúc, mộ táng và các tác phẩm điêu khắc đá, đã chứng tỏ, từ đầu thế kỷ 13, người Chăm đã có mặt ở Tây Nguyên và khuất phục được các dân tộc ở đây theo mình; ba là, truyền thuyết có kể rằng xưa kia ở khu vực Yang Prong có một làng người Chăm – điều này phần nào giúp cho các nhà khảo cổ đoán định được vị trí của tháp Yang Prong trên đất Tây Nguyên. Ngoài ra, không chỉ đối với tháp Yang Prong, những phế tích hay những hiện vật cổ khác của người Chăm trên vùng Tây Nguyên phần lớn được đồng bào các dân tộc nơi đây thờ phụng và gắn cho những câu chuyện truyền thuyết ly kỳ, hấp dẫn với môtip phổ biến là môtip người bị chém chết hóa thành đá. Trong nhiều truyện của tộc người Raglai đề cập đến hình tượng “đá” dưới nhiều dạng thức phong phú như: thần núi, đá thiêng, bụt mọc, tinh đá, sinh đẻ thần kỳ từ đá, đá hình người, đá hình người hóa thành người, người hóa đá, đá kêu, đàn đá, mã la đá, … Những câu chuyện truyền thuyết về hình tượng đá ấy đã góp phần làm linh thiêng hóa địa bàn cư trú vùng rừng núi lâu đời (phía tây của các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận) cùng những “giàn đá đá kêu giữ rẫy” (patâu tulẽng) và nhạc cụ đàn đá truyền thống của dân tộc Raglai. Mặt khác, người Raglai còn có những truyền thuyết kể về những ngọn núi lớn nhằm giải thích những đặc điểm tự nhiên, đồng thời lý giải về sự linh thiêng của các vị thần ngự trị trên các ngọn núi như Thần núi “Bà Râu” (Chơq Yak Barâu), Thần núi Hòn Gầm (Chơq Chakrăm), …; thậm chí phần lớn các palay Raglai cũng mang tên của ngọn núi tại nơi họ ở, … và các palay canh tác rẫy ở ngọn núi nào thì người của palay ấy trực tiếp thờ vị thần của núi đó.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 16:18:29 GMT 9
Tục thờ đá trong mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian khác Tín ngưỡng thờ Đá và tín ngưỡng thờ Mẫu Thờ Mẫu là một hình thức thờ cúng đặc trưng của các cư dân nông nghiệp. Đó là sự thể hiện lòng kính trọng đối với quyền năng sinh sản, lòng biết ơn tổ tiên. Có một số nơi thờ mẫu thuần tuý là các phủ (Phủ Giầy, Phủ Sòng, phủ Tây Hồ…), còn lại, thờ Mẫu thường gắn các loại hình tín ngưỡng khác. Điện thờ Mẫu thường nằm bên cạnh hoặc đằng sau điện thờ Phật, thờ các vị anh hùng… Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có mối quan hệ và nhiều khi đồng nhất với tín ngưỡng thờ Đá. Hiện tượng thờ Đá có liên quan đến tục thờ Mẫu tiêu biểu là hình thức thờ “Kì Thạch Phu Nhân” của nhân dân vùng Nam Trung Bộ. Có thể thấy rõ tại làng Thanh Phước, xã Hương Phong, huyện Hương Trà - Huế, nơi có miếu thờ Kì Thạch phu nhân. Dân làng hàng năm tổ chức cúng vái, cứ ba năm một lần tổ chức đua trải. Huyền thoại kể lại: Có một ngư dân thường chài lưới bên sông. Một lần kéo lưới lên thấy nặng, bèn lặn xuống nước xem, biết là đá vướng lưới, liền dời đi chỗ khác bủa lưới. Đến đêm, người đó mộng thấy người đàn bà hiện lên, bảo rằng: “Ta đây là thần, nếu đem được ta lên bờ, ta sẽ phù hộ”. Ngày hôm sau, người đó tập hợp những người cùng nghề, lặn xuống sông khiêng đá lên bờ. Từ khi thờ thần đá, dân làng cầu nguyện việc gì cũng linh ứng. Dân làng khác thấy vậy, đến tranh đá mang về thờ nhưng không được. Dân làng thường gọi là tượng Bà Đá. Triều Nguyễn phong là “Kì Thạch phu nhân chi thần”. Thời Tự Đức, vào năm mất mùa hạn hán, vua cử quan về đây cầu đảo hơn mười ngày không được. Sau phải dời tảng đá đến cạnh bờ sông, đêm hôm đó mới có mưa. Huyền thoại và hình thức thờ cúng như trên là một hiện tượng phổ biến ở các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Nhân dân Huế còn biết đến một Thai Dương phu nhân ở làng Thai Dương, xã Thuận An, huyện Phú Vang. Sự tích về Bà đều được ghi lại trong Ô châu cận lục và Đại Nam nhất thống chí. Trong đó còn ghi lại việc tảng đá trừng trị thuyền buôn Nhật Bản. Nữ thần đã giúp đỡ rất nhiều cho dân làng. Đi nghề không bao giờ về không, ghe thuyền hầu như không gặp bão tố nữa. Trước khi giong buồm đi xa, người ta thường đến kêu cầu Thai Dương phu nhân phù hộ. Bà đã nhiều lần được sắc phong của nhà Nguyễn. Hàng năm lễ hội tổ chức rất lớn (ngày 23 tháng Chạp là hội chính). Trong các truyện đó ta thường thấy một đường dây liên hệ : Đá- Nước – Phụ nữ. Tất cả những cái đó đều thuộc tính âm, nên chúng dễ xâm nhập vào nhau, có thể đồng nhất với nhau. Người phụ nữ sinh ra tảng đá, ở trong tảng đá, đá ở dưới nước… Hiện tượng thờ cúng này đã lắng đọng nhiều lớp văn hoá, tín ngưỡng trong sự giao lưu giữa hai dân tộc Việt – Chăm. Đó là sự tổng hoà của tín ngưỡng thờ Đá, thờ thần Biển và tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong đó, nữ Thần Biển vốn là một vị thần của dân tộc Chăm, một dân tộc gắn với đời sống sông nước, gắn với biển. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện rất rõ ở sự tôn kính của cả nhân đân và nhà nước. Triều đình nhà Nguyễn đã rất nhiều lần cầu đảo ở đền các phu nhân. Tục thờ Mẫu của người Việt đã gặp gỡ và bắt rễ sâu sắc với tục thờ nữ Thần Biển của người Chăm, trên con đường nam tiến của mình. Hình thức thờ nữ thần đó lại kết hợp với tục thờ Đá, tạo nên phong tục thờ cúng đặc biệt ở nơi đây. Việc hai hình thức tín ngưỡng dân gian (thờ Mẫu và thờ Đá) dung hoà với nhau biểu hiện một cách phong phú và đa dạng qua những huyền thoại và nghi lễ thờ cúng của nhân dân. Đó là sự kết hợp giữa đá và người, được nhân dân thờ phụng: nàng Mị Châu hoá thành đá, báo mộng cho dân làng đem về thờ; Hai Bà Trưng sau khi chết, linh hồn kết thành đá, trôi theo dòng đến Thăng Long, được dân làng Đồng Nhân vớt lên thờ; tượng Phật bà được đào thấy ở chùa Bà Đá… Những tín ngưỡng này đã lắng đọng trong các truyện cổ dân gian, khiến cho hầu hết các nhân vật hoá đá đều là nữ. Những hình thức thờ phụng, nghi lễ dân gian trong cuộc sống cùng với những bằng chứng đọng lại trong các tác phẩm VHDG, cho phép chúng ta nhận định về mối liên hệ có tính phổ biến giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Đá trong tâm thức dân gian. Tín ngưỡng thờ Đá và tín ngưỡng phồn thực Trong cuộc sống, rất nhiều những điều mong muốn của con người không trở thành hiện thực. Khi đó, người ta sẽ cầu viện đến những thế lực siêu nhiên, có quyền năng vô hạn. Những hình thức nghi lễ để cầu mong sự sung túc, no đủ như thế được gọi là nghi lễ phồn thực. Thông thường, người ta tác động đến tự nhiên bằng hai hình thức là thờ cúng vật thiêng và ma thuật mô phỏng. Dưới đây là một số nghi lễ phồn thực có liên quan đến tục thờ Đá. Tục thờ sinh thực khí: Đây là tục thờ những vật tượng trưng cho sinh thực khí của đàn ông và đàn bà. Tục thờ này gắn bó chặt chẽ với tục thờ Đá trong hình thức thờ cúng các vật thiêng. Rất nhiều các cột đá dựng đứng được xem là biểu tượng của dương vật. Về biểu hiện này, “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” đã nêu ra những hiện tượng thờ linga trên thế giới “Đá gắn bó với biểu tượng dương vật; vì vậy, tại một số miền, đặc biệt là ở vùng Bretagne, các tảng đá dựng đứng này là nơi cử hành những nghi lễ truy hoan. Tập tục của người Mãn Châu, trồng những cây đại thụ và những cột đá đã thâu tóm nét phân biệt giữa hai mẫu gốc của sự sống: mặt tĩnh và mặt động”. Quan niệm về đá - dương vật cũng gần với quan niệm cây – dương vật, do cả đá và cây đều có ý nghĩa tái sinh, có liên hệ với linh hồn con người. Ở Việt Nam, cũng có một số cột đá thiêng mang ý nghĩa biểu trưng như thế. Có thể thấy qua hệ thống đền chùa, các nghi lễ thờ cúng, tế rước ở vùng Dâu. Đây là một nơi tập trung một hệ thống các tín ngưỡng, phong tục dân gian rất cổ xưa, như thờ thần mây, thần mưa, thần chớp, thần sấm”. Đồng thời, nơi đây cũng thể hiện sự tiếp biến văn hoá hết sức uyển chuyển, linh hoạt. Đó là sự hỗn dung văn hoá giữa văn hoá Việt và văn hoá Ấn, giữa tôn giáo ngoại lai và tín ngưỡng bản địa. Việc thờ Tứ Pháp vừa có cội nguồn trong tín ngưỡng nông nghiệp, vừa có mặt trong Bàlamôn giáo (hình tượng thần Indra). Ở đó còn có sự hoà đồng giữa Phật giáo, Bàlamôn giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa mà yếu tố bản địa vẫn trội hơn, tuy rằng nằm ở phần sâu hơn trong các lớp văn hoá. Cội nguồn là tục thờ Đá, thờ Cây được gắn vào đó ý nghĩa phồn thực (mang hình dáng một linga), sau cùng là lớp Phật giáo. Đó là “kết quả giao hợp thiêng của yếu tố Mẹ bản địa với yếu tố cha ngoại lai, là giao hợp thiêng của tín ngưỡng phồn thực người Việt với tôn giáo ngoại lai của người Ấn Độ. Việc khối đá được nhân dân vớt lên từ dòng sông lại phản ánh sự gặp gỡ giao lưu giữa tín ngưỡng thờ Đá và thờ Nước. Cho nên, các tượng Phật đều phải qua lễ Mộc dục trước khi vào lễ hội, đó là nghi lễ mở đầu của các lễ hội. Biểu tượng thờ đá của người Việt còn được thấy tại cột đá trên đỉnh Yên Tử. Gần chùa Vân Tiêu trên Yên Tử, có một tượng đá trông giống hình nhà sư đứng chắp tay cung kính, áo dài thướt tha, tà áo bay trong gió. Đó là tượng đá An Kì Sinh. Tượng cao hai mét, trừ phần bệ. ở bên bệ tượng có ban thờ. Yên Tử được coi là ngọn núi thiêng, là nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Nơi đây đã hấp thu được tinh lực của trời đất, cho nên, mỗi cây cối, mỗi con vật đều có những truyền thuyết gắn với những công dụng kì diệu. Ngọn núi này cũng là nơi các vua Trần chọn để tu hành, là nơi phát tích một tông phái đạo Phật – Trúc Lâm Yên Tử. Người dân hành hương đến Yên Tử cầu mong sự no ấm hạnh phúc, quan trọng hơn là sức khoẻ và sự trường sinh. Không ai là không đặt tay lên tượng An Kì Sinh với một niềm tin rằng: tảng đá hút được linh khí của trời đất đó có thể ban cho mình sức khoẻ, an lành. Hành động đó mang tính chất ma thuật, cũng không khác gì hành động những người phụ nữ sờ tay vào tảng đá để cầu tự. Đứng trên núi cao, tượng An Kì Sinh được coi như vật nối liền trời và đất và cũng là vật trung gian để con người giao tiếp với đất trời. Qua đó, chúng ta thấy được, ẩn sau màn sương mờ của Phật giáo và Đạo giáo, mẫu gốc của hình tượng An Kì Sinh chính là thần Núi, thần Đá. Bước chuyển quá mạnh mẽ của tôn giáo ngoại lai đã xoá mờ đi lớp tín ngưỡng dân gian bản địa là tục thờ Đá - Núi. Cũng trên Yên Tử, tại Tháp Tổ, cũng có một cột đá mô phỏng hình dáng của linga. Như vậy, trên đỉnh thiêng Yên Tử, tồn tại hình thức thờ sinh thực khí, tín ngưỡng này đã hoà đồng với tín ngưỡng thờ Đá. Trong đó, thờ Đá là hình thức tín ngưỡng nguyên thủy, sau đó, nội dung phồn thực, Phật giáo, Đạo giáo… dần dần được thu nhận vào. Lớp tín ngưỡng sớm thì bị mờ dần, lớp bề mặt nổi bật hơn cả (Phật giáo), thể hiện đúng quá trình xâm thực của những tôn giáo lớn với tín ngưỡng dân gian bản địa, cũng thể hiện một thái độ ứng xử văn hoá hết sức linh hoạt trong tư duy của người Việt. Các hình thức tôn giáo ngoại lai sẽ tìm được sự đồng cảm nếu phù hợp với tâm lí, truyền thống của nhân dân. Hiện tượng thờ Đá - sinh thực khí cũng xuất hiện ở cụm di tích Tháp Bà - Nha Trang. Làng Đồng Kị, Bắc Ninh có cột đá Thái Bạch, đó cũng là một biểu tượng Linga. Khu vực ven sông Đà, nhân dân thờ ông Đùng, bà Đà như những người anh hùng văn hoá có công chinh phục dòng sông hung dữ, tạo lập địa bàn sinh sống cho người dân. Dân gian có nhiều huyền thoại xung quanh công trạng cũng như cái chết của đôi vợ chồng này. Nhiều truyền kể rằng, ông bà đã hoá thân thành những ngọn núi, mỏm đá… để ngăn dòng nước đang cuồn cuộn chảy. Bên bờ sông Đà, thuộc ngoại vi thị xã Hoà Bình có núi Đứng (một cách phát âm của Đùng). Núi có hình dáng một cột đá dựng ngược lên trời (linga). Dưới chân núi có xóm Đứng, ở xóm này, hầu hết các gia đình đều sinh con trai: mỗi nhà có đến 2, 3, 4 con trai là chuyện thường. Có thể tên gọi ngọn núi này liên quan đến nhân vật ông Đùng - nhân vật huyền thoại Mường gánh đá, chặn lũ sông Đà (hình ảnh nguyên thủy Mường của Sơn Tinh). Cũng có thể tên núi được đặt do hình thù linga của nó (dựng đứng), lại vì xóm Đứng có nhiều con trai. Làng Đông An huyện Châu Giang- Hưng Yên, có thờ tượng đá ông Đùng bà Đà ở hậu cung của đình làng. Hai tượng đá này mang hình dáng những sinh thực khí, được dân làng rước và tiến hành nghi lễ giao hợp trong những ngày lễ hội. Có thể nói rằng, có rất nhiều các biểu tượng sinh thực khí được tạo nên bởi đá. Việc thờ Đá đã được cụ thể hoá bằng một vị thần, đại diện cho một nhu cầu nào đó của con người. Không phải bất kì các vật được thờ được làm bằng chất liệu đá, đều liên quan đến tục thờ Đá. Người ta chỉ có thể móc nối vào tục thờ Đá những hình thức tín ngưỡng khác nếu như những tục thờ đó có liên quan đến đặc tính nào đó của đá, mà những chất liệu khác thì không phù hợp. Đá liên quan đến tín ngưỡng phồn thực ở một nét biểu trưng của đá là “sự sống và có khả năng đem lại sự sống”. Con người tin rằng sự kết hợp giữa đá và các đối tượng thờ cúng sẽ tạo ra một sức mạnh cộng hưởng, có thể đem lại hiệu quả, tạo ra sự sinh sôi, nảy nở. Bản chất sự sống ở trong đá sẽ tiếp thêm sinh lực cho những biểu tượng về sự sinh sản, để đáp ứng nguyện vọng của con người về sự sinh sôi của cây cối, vật nuôi và cả con người. Bởi thế, hầu hết các đò thờ, bệ thờ đều được làm bằng đá. “Dù những đồ thờ bằng đá này được sử dụng cho những tín ngưỡng khác, song sự tồn tại của chúng đã chứng minh cho một sự thật rõ ràng của sự nối tiếp tín ngưỡng về đá của người Việt”. Cầu tự là nghi lễ để mong có được nhiều người, đặc biệt là đối với các gia đình hiếm muộn. Người ta có thể cầu tự tại nhà nhưng phổ biến hơn là ở chùa. Đối với người đi cầu tự, điều quan trọng là họ phải thành tâm, tin tưởng, do đó sự lựa chọn thường là chùa - không gian thiêng. Nơi cầu tự thường là các đình chùa thiêng. Miền Bắc có những địa điểm như chùa Hương, chùa Thầy (Hà Tây), chùa Bổ Đà (Bắc Ninh)… Trong nghi lễ cầu tự, ngoài lễ vật, các hình thức lễ bái, thì người ta còn phải làm những động tác ma thuật. Những động tác đó liên quan đến các vật thiêng, thường là hòn đá thiêng. Những hành động của con người tạo ra sự cảm ứng của thiên nhiên, giúp con người đạt được nguyện vọng. Ở Chùa Hương có núi Cô, núi Cậu, hòn Sữa Mẹ, hòn Đụn Gạo… để cho người đời cầu xin những thứ mình cần. Những người cầu tự, sau khi lễ xong, ai muốn sinh con trai thì xoa tay vào hòn Núi Cậu, ai muốn sinh con gái thì xoa tay vào hòn Núi Cô. Sau đó, họ phải ngắm nhìn, để ghi vào tâm khảm, thì mới có linh nghiệm (10/301). Đây là hình thức ma thuật tiếp xúc. Dân gian cho rằng, sự tiếp xúc giữa con người với các vật thiêng có thể đem lại sự thay đổi cho con người. Khả năng sinh nở của con người không theo quy luật là do một trở lực nào đó. Cho nên, việc cầu tự chẳng qua là để xoá bỏ những trở lực đó cho con người. Và họ đã cầu viện đến những tảng đá thiêng. Đá có thể truyền đạt lời thỉnh cầu của con người đến Trời, Đất, các vị thần, khiến cho các thế lực đó cảm động và trợ giúp con người. Ngoài ra, con người sẽ nhận được sinh khí của thiên nhiên thông qua hành động tiếp xúc đó. Trong kiến trúc của các ngôi chùa cổ, các bậc đi lên chùa bao giờ cũng bằng đá. Người đi lễ (ngày xưa) thường đi chân đất. Đó là cách tốt nhất để có được sự giao tiếp giữa con người với Trời Đất (thông qua đá). Bởi vì, những bậc đá đó ngày ngày được hấp thu linh khí của Trời Đất. Những hòn đá trong các hang động thể hiện mối giao hoà Âm – Dương, Trời - Đất. Hang động biểu tượng cho sinh thực khí của người phụ nữ (yoni), biểu hiện khả năng sinh nở; còn những hòn đá biểu trưng cho sinh thực khí nam (linga). Những hòn đá “mọc” lên trong hang động mang ý nghĩa về sự hoà hợp, sinh sôi nảy nở. Sự hoà hợp của thiên nhiên sẽ dẫn đến sự hoà hợp và sinh nở của con người. Hành động xoa tay vào đá có tính chất tiếp xúc, giao cảm giữa con người và thiên nhiên là hiện tượng có tính chất phổ biến toàn thế giới: “Những cặp vợ chồng mới cưới cầu khẩn các tảng đá để có con, những phụ nữ cọ mình vào đá để được thụ thai, có thể bởi tổ tiên - đá tình yêu”. Hòn núi Cô, núi Cậu ở chùa Hương, cũng như ở chùa Thầy đều mang ý nghĩa biểu trưng như vậy.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 11, 2010 16:21:33 GMT 9
Các hình thức khác liên quan đến nghi lễ nông nghiệpNgoài những biểu tượng của nghi lễ phồn thực, các cư dân nông nghiệp cũng có nhiều hình thức tín ngưỡng khác có liên quan đến tục thờ Đá. Người ta lấy đá là biểu tượng để truyền tải niềm tin không lí giải được và lòng mong muốn cha Trời hoà thuận với mẹ Đất để cho sinh lực khí trời đất hoà thuận với nhau, để muôn vật có thể sinh sôi nảy nở. Tục truyền ngày xưa ở khu vực chùa Hương, đến ngày mồng 3 Tết, nhân dân lại tổ chức lễ "động thổ”, với ý nghĩa đánh thức trời đất sang một năm mới, chuẩn bị bắt tay vào sản xuất. Người ta lên núi, chọn lấy những hòn đá, đem làm lễ cúng tế. Sau đó, họ cầm những hòn đá đó ném ra bốn xung quanh, vào núi, đất, sông... Động tác ném đá đó mang tính chất ma thuật mô phỏng, sự chuyển động của đá tác động vào đất, sẽ đánh động được đất. Hiện tượng này được diễn ra ở chùa Hương, nằm trên một đỉnh núi thiêng, nên sẽ được trời đất thấu hiểu và đáp ứng. Hiện nay, tục này không còn nữa, có lẽ nó đã chuyển hoá thành hình thức cúng lễ thông thường vào dịp năm mới. Tương truyền: đền Thượng trong khu di tích đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh và đền Thượng trên núi Tản đều có một tảng đá hình vỏ trấu, chiều dài lên tới 2m. Hiện nay, tảng đá đó không còn nữa. Tảng đá thiêng đó là hình thức thờ cúng Mẹ Lúa của cư dân nông nghiệp. Sự tồn tại của tảng đá hình hạt thóc ở hai nơi (núi thiêng) như thế chứng tỏ sự tồn tại của một quan niệm mang tính phổ biến của dân gian. Đó là sự cầu mong mùa màng tươi tốt dựa vào sự thờ cúng vật thiêng. Đặc biệt đá được sử dụng nhiều trong nghi lễ cúng hồn lúa ở một số dân tộc. Lễ cúng hồn lúa của người Kháng được miêu tả như sau: Người mẹ lúa “mạ lặm” cầm hòn đá thiêng chủ trì buổi lễ. Bà tắm rửa sạch sẽ, ra nương sớm. Bà vơ lấy 9 khóm lúa gần nhau, vít trĩu xuống lòng một chiếc mẹt, chặn hòn đá lên, vừa làm vừa lẩm bẩm: “Hồn lúa nhập vào đây, ở lại đây không được đi đâu”. Bà lại cắt sao cho được 9 cụm để trên mẹt dưới hòn đá thiêng. Lúc về, bà lượm một hòn đá trên nương thay cho “xêng lặm”. Hồn lúa được coi như đã thu vào trong một hòn đá thiêng “xêng lặm”, có tác động làm cho lúa sinh sôi nảy nở, giữ lại được ở trong nương không bay đi và tác dụng đến mùa sau. Một chức năng vô cùng quan trọng của những hòn đá thiêng với sản xuất nông nghiệp là chúng tham gia vào những hoạt động cầu mưa. Nguyên tắc mô phỏng cũng ngự trị trong ma thuật thời tiết. Ví dụ, muốn tạo ra thời tiết nắng ráo, người ta lấy ít đất đỏ bôi lên viên đá lớn dựng đứng tựa hồ viên đá ấy mang trong nó một ma lực. Nhiều dân tộc sử dụng những hòn đá có nguồn gốc hoặc hình thù kì lạ để thực hành nghi lễ cầu mưa. Đá thiêng thường là vật bất li thân của các thầy cúng, pháp sư. Người ta tin rằng, những hòn đá đó có thể thấu hiểu những lời cầu cúng của các thầy pháp và mang lời khẩn cầu đó đến với các vị thần. Đồng thời, đá cũng thực hiện chức năng truyền những lời phán dạy của thần linh qua thầy pháp tới con người (ví dụ như “túi khót” của thầy Mo Mường, có chứa các hòn đá đặc biệt khi làm lễ; Hay trong “túi thiêng” của các dân tộc vùng Tây Nguyên. Trong đó người ta thường đựng các hòn đá nhặt được ở những vị trí đặc biệt. Trong lễ đâm trâu, túi thiêng đó được rước ra ngoài sân để làm lễ). Truyền thuyết vùng Dâu kể rằng, muốn cầu mưa được linh nghiệm, thì người ta phải rước tượng Tứ Pháp từ bốn chùa đến cạnh nhau và cuối cùng không thể thiếu Thạch Quang Phật. Nếu như Tứ Pháp tượng trưng cho bốn hiện tượng thiên nhiên, liên quan đến mưa, thì Thạch Quang Phật mang ý nghĩa thông linh giữa trời và đất. Cho nên, tượng Thạch Quang Phật tuy nhỏ nhưng lại hết sức quan trọng trong lễ hội và trong tâm thức dân gian. Hay trong nghi lễ cầu đảo ở đền Kì Thạch phu nhân (ở Huế), chỉ khi nào tượng đá được đưa ra gần bờ sông, thì mới linh ứng. Thờ Đá và tín ngưỡng thờ thành hoàngThờ cúng thành hoàng là một hình thức thờ phụng Việt Nam vay mượn của Trung Hoa (với ý nghĩa là thần bảo trợ thành trì). Nhưng ở Việt Nam, hình thức thờ thành hoàng đã thay đổi. Thành hoàng ở ta mang ý nghĩa là vị thần bảo trợ cho làng xóm, nên còn được gọi là Thành Hoàng làng. Tín ngưỡng này tuy bó hẹp trong phạm vi địa lí nhất định (“Chuông làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ” là câu ca nói về hiện tượng thờ cúng này). Nhưng nó lại có khả năng bao trùm lên mọi tín ngưỡng dân gian khác. Bởi vì, Thành hoàng có thể được phong cho mọi vị thần, từ cao đến thấp, từ cao quý đến dân dã, từ thần đến người… miễn là đối tượng đó có công với làng. Vì Thành hoàng có ý nghĩa là thần bảo trợ cho một làng, nên nhiều khi thần Đá cũng được phong tặng là Thành hoàng. Bản chất cứng rắn và kiên định của đá là điều kiện để đá trở thành thần bảo trợ cho một làng, một vùng nào đó. Tượng đá Đống Bính là một ví dụ Ở vùng Bạch Hạc, “đá Thành hoàng” thể hiện dưới dạng Thạch Khanh và Thổ Lệnh. Thạch là đá. Khanh là chức quan sớm nhất. Mệnh danh là Thạch Khanh đã tỏ lòng tôn trọng với vị thần Đá bản địa lâu đời. Theo truyền thuyến kể lại, Thạch Khanh và Thổ Lệnh thi tài với nhau. Thổ Lệnh thắng. Thổ Lệnh vốn là thần đất, nhưng ở một số thần tích, người ta lại miêu tả là đá. Hai vị thần này đã được thần tích của nhiều địa phương ghi chép lại (ở An Tịnh - Sơn Tây, An Phú - Thái Bình, Bạch Hạc - Vĩnh Phú…). Mỗi địa phương khi kể lại huyền thoại về Thạch Khanh và Thổ Lệnh, đều thêm chi tiết hai thần kéo nhau đến tận vùng đó để thi tài. Do đó, nhân dân mới lập đền thờ. Các câu chuyện đó đã gán cho hai vị thần một lí lịch trần thế, sự di chuyển của thần linh cũng được huyền thoại hoá. Thần tích này được chép trong “Việt điện u linh”. Quá trình văn bản hoá thần tích đó sớm như vậy, đã “chứng minh hai vị thần này đã tồn tại khá sớm, thuộc truyền thống thờ Đá cổ kính”. Đồng thời, các bản thần tích còn cho thấy, sự hỗn hợp tôn giáo, tín ngưỡng của tục thờ Đá, thờ Rắn, thờ Núi (liên quan tới Tản Viên ), Phật giáo… ở hiện tượng này. Cũng có một số truyền thuyết khác thì cho rằng Thạch Khanh ở đây là chức danh phong cho Cao Lỗ, vị tướng tài của An Dương Vương. Cao Lỗ, còn được gọi là Đô Lỗ hay Thạch Thần, xem việc mùa màng và đánh giặc. Triều Trần đã phong ông là “Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Chính Thần đại vương”. Truyện về Cao Lỗ có khi đứng riêng thành một nhóm, có khi lại kết hợp vào nhóm truyện về An Dương Vương. Qua “Thiên Nam vân lục liệt truyện” (thế kỉ XVI), chúng ta biết truyện về ông đã ghi lại trong sách “Sử kí” của Đỗ Thiện, và cho biết “Tục thường gọi ông là Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần”. Hầu hết các sách vở đều thống nhất rằng ông là tướng của An Dương Vương, là một đô vật và là một Thạch thần. Trần Quốc Vượng và Nguyễn Từ Chi (trong bài Vua chủ) đã cho rằng Cao Lỗ cầm tinh con rồng đá, và thuộc loại Thạch thần. Ngay cái tên Cao Lỗ cũng không phải là họ Cao, mà do gắn với đá thạch, núi đá. Có rất nhiều các vị thần thời kì này có nguồn gốc, gắn với đá núi. Sự hoá thân của vị thần Đá (núi) thành một vị tướng quân được hình thành trong quá trình truyền thuyết hoá những thần thoại. Hiện nay, có sáu nơi thờ Cao Lỗ ở Bắc Ninh, tương truyền là quê hương ông. Điều đó chứng tỏ, Cao Lỗ là một vị thần địa phương – thần Đá oai linh đã được thu phục trong quá trình tiến xuống miền đồng bằng của An Dương Vương, trở thành một vị tướng của nhà vua. Sau này, khi chết, ông còn trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc… Như vậy, tín ngưỡng thờ Đá đã được gắn thêm một lớp văn hoá nữa, là tục thờ thành hoàng. Hai loại hình tín ngưỡng dân gian đó cũng dễ dàng hoà nhập với nhau.. Nhân dân đều thờ những đối tượng đó là những thần “lành”, bảo trợ cho cộng đồng, làng xóm. Trong sự kết hợp đó, nội dung thờ Đá dần dần bị mờ đi, chỉ còn lớp bề mặt, là hình thức thờ thành hoàng hiện diện. Thờ đá trong mối quan hệ Việt – ChămTượng linga-yoni ở tháp Bánh Ít (Bình Định) Quá trình Nam tiến của người Việt không chỉ chứng kiến sự mở mang bờ cõi, mà còn cho thấy sự thay đổi lớn về đời sống chính trị - xã hội, đặc biệt là đời sống văn hoá. Cuộc giao lưu văn hoá Việt – Chăm đã diễn ra một cách tương đối hoà bình, bởi hai nền văn hoá này có những nét tương đồng, dễ dàng tiếp thu, tiếp nhận những giá trị của nhau, để làm giàu cho vốn văn hoá của mình. Một trong những biểu hiện của sự giao lưu, tiếp biến văn hoá đó sự chuyển hoá diễn ra trong tục thờ Đá. Người Chăm chịu ảnh hưởng của Bà la môn giáo. Họ thờ thần Đá trong dạng biểu tượng về thần Shiva - những sinh thực khí. Nhiều nơi thờ tự của người Chăm có những linh tượng, linh phù dạng sinh thực khí bằng đá. Bản chất của đá là “sự sống và có khả năng tái sinh”, nên nó dễ kết hợp với tín ngưỡng thờ thần Shiva, vị thần tối cao, đem lại sự sống. Những hiện tượng thờ cúng ở Tháp Bà - Nha Trang mà chúng tôi đã nói đến, rất tiêu biểu cho tục thờ này. Dân tộc Chăm vốn là những cư dân biển tiến. Dấu ấn văn hoá biển vẫn còn đậm nét trong đời sống của họ. Trên biển, họ thường thờ những tảng đá ngầm, để cầu mong sự bình yên cho những lần ra khơi. Hiện tượng thờ cúng này đã được tác giả Hồ Quốc Hùng miêu tả, phân tích khá kĩ lưỡng. Tác giả cho thấy, tục thờ Đá đã xuyên thấm vào truyện cổ dân gian, tạo thành một nhóm truyện độc dáo của vùng Thuận Hoá. Hình thức thờ cúng ở đây là sự kết hợp giữa tục thờ Đá và thờ nữ thần Biển mà chúng tôi đã đề cập. Tín ngưỡng thờ Đá của các cư dân ven biển miền Trung đã được Cardière miêu tả trong những bài báo của ông về tín ngưỡng thực hành của người Việt. Đó là việc sử dụng các “phản ngữ” của ngư dân ở Đồng Hới, Quảng Bình.Cadière đã lí giải hiện tượng thờ cúng đó xuất phát từ tâm lí e sợ nguy hiểm mà những tảng đá ngầm đó có thể gây ra. Sự thờ cúng đó chính là sự sợ hãi đối với chính bản thân các sự vật. Các nơi có địa hình hiểm trở thường được người ta thờ. “Những vị thần ấy, vị thần cư ngụ ở đó,chẳng qua là đặc thù hiểm trở thiên nhiên của địa điểm, ảnh hưởng tai hoạ của nơi được nhân cách hoá. Giữa thần và địa điểm có một sự gắn bó mật thiết, thần là chính thần của địa điểm”. Người Việt Nam thờ những ghềnh đá đáng sợ vốn là những chướng ngại vật cho việc đi lại trên sông, có nghĩa là họ cầu xin những thần có thái độ thù địch, coi như trú tại những khối đá này đừng làm hại họ. Họ tin rằng một số tảng đá nào đó là nơi ngự trị của một vị thần. Thường đó là một tảng đá khác biệt rõ ràng do tính chất kì dị hiếm có hoặc do một sự cấu tạo, do hình thù hay nguồn gốc nhưng thông thường là những tảng đá có tính chất thô thiển, hoàn toàn tự nhiên. Các hình thức thờ đá khác trong cộng đồng ViệtTục thờ Đá có biểu hiện vô cùng phong phú, nó hiện diện trong rất nhiều nghi lễ thờ cúng. Đá là một trong những biểu tượng được nhiều bộ phận dân cư dùng để thờ phụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Trên đất nước ta, có nhiều biểu tượng có ý niệm phồn thực. Đó là hòn Trống Mái ở Sầm Sơn – Thanh Hoá, ở Hạ Long; hòn Vợ - hòn Chồng ở Khánh Hoà… Những nơi đó, hiện nay vẫn còn hình hai tảng đá xếp chồng lên nhau. Mỗi khi gió biển thổi, chúng lại phát ra những âm thanh rất lạ, như muốn kể lại cho mọi người về cây chuyện tình thắm thiết. Những tảng đá đó không có biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực nhưng lại có biểu hiện của “ý niệm phồn thực”. Hai tảng đá cặp đôi chồng lên nhau biểu hiện cho sự hoà hợp, sự gắn kết không thể chia lìa của đôi trai gái. Địa hình tự nhiên của các vùng ven biển thường tạo ra những hình thù độc đáo và ở mỗi nơi đều lưu truyền những câu chuyện dân gian đầy xúc động. Tại Làng Giáp Ba, thôn Bà, xã Nam Giang, Nam Ninh, Nam Định có một lăng thờ thần “cốt đá”. Tương truyền, ông Đoàn Hữu Hậu (được phong là Thị quận công), là người làng, cho xây dựng lăng bằng đá. Bốn cột đá được phong là lực sĩ Trung Dũng bá và lực sĩ Tín Nghĩa , Hữu Hiệu bá và Soạn Pháp bá. Huyền thoại kể về bốn lực sĩ đá rất thiêng, kẻ nào đánh bắt trộm cá ban đêm thường quanh quẩn dưới ao đến sáng vẫn không lên được. Kẻ nào vào lăng mộ nghịch đều có ứng tức thì. Những câu chuyện hiển linh và trừng phạt đó nhằm tăng thêm sự huyền bí của những “cốt đá”, là quá trình Thiêng hoá những cái phàm trần. Mục đích của công việc đó là tạo ra lớp bảo vệ thần kì cho lăng mộ, để chống lại sự phá hoại của người khác. Bốn cột đá đó ngày nay vẫn còn nguyên vị trí. Xóm có cột đá mang tên là xóm Đá, hai cột đá này đêm đêm thường có người thắp hương dâng lễ ở chân cột đá xin phù. Đối với người Khơ Mú, họ tin rằng đá là vật có khả năng trừ tà, ngăn ngừa không cho ma quỷ làm ốm đau. Họ thường dùng các vật kị ma hay bùa phép bằng đá. Chiếc “taleo”cắm ở đầu bản hay ở cầu thang là vật ngăn chặn không cho các loại ma vào bản vào nhà. Đó là các vật kị ma có tác dụng làm tất cả các loại ma đều phải sợ… Các công cụ sản xuất bằng đá, bằng đồng cổ xưa, đồng tiền bằng con ốc, các vật lạ, hiếm nhặt được trong một trường hợp tình cờ do sự run rủi của lực lượng siêu nhiên… đều có công dụng kị từng loại ma nhất định. Ai có nhiều vật đó đều có thể làm thày cúng. Trẻ con đeo các thứ đó (vòng vía..) bớt ốm đau; người lớn đeo vật kị ma đỡ gặp nguy hiểm đến tính mệnh khi chiến đấu hoặc đi xa. Nhóm người Mãng ở Tây Bắc Việt Nam lại có quan niệm đặc biệt về đá. Đá có khả năng ngăn chặn các linh hồn trở về cõi trần. Thần thoại của họ kể lại: Khi người đàn bà chết, chồng bà đưa cho bà cầm một khúc cây, khúc cây mục, bà lại trở về, hôi thối không chịu được. Ai Hễng (con trai của trời) bảo: Khi người chết ra đi, hãy đưa cho họ một hòn đá. Hòn đá không mục, người chết không về nữa. Vì thế ngày nay, khi chôn người chết, người Mãng cắm hai hòn đá, một ở chân mộ, một ở đầu mộ, để ma khỏi về. Quan niệm này bắt nguồn từ thuộc tính rắn chắc của đá. Sức mạnh của đá có thể điều khiển linh hồn con người, ngăn không cho hồn ma về làm hại con người. Một số dân tộc khác trên thế giới cũng có những hành động ma thuật, bộc lộ niềm tin về đá như thế. Trong các đám ma, khi đưa tiễn người chết, người ta thường ném lại phía sau những hòn đá, để ngăn không cho linh hồn người chết quay trở về được nữa. Hai cột đá ở đầu và cuối mộ là ranh giới để ngăn cõi Sống và cõi Chết, không cho linh hồn người chết vượt qua đi đến thế giới người sống. “Cột mốc - đá” mở rộng ý nghĩa trong cả thế giới hiện tại và thế giới tâm linh, chứng tỏ những phẩm chất đặc biệt của Đá. Tục thờ Đá vẫn hiện diện trong đời sống hàng ngày của con người, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số. Trong các mường, dân chúng vẫn thường tưởng tượng từ những hòn đá, mầm đá, nhũ đá có hình dị lạ kì thành các vật thần có khả năng diệt trừ cái ác, củng cố điều thiện, mang điều tốt lành đến cho con người. Trong sinh hoạt tinh thần ở một số vùng miền quê của người Việt hiện nay vẫn phổ biến hiện tượng thờ cúng những tảng đá có hình thù đặc biệt (giống hình người, hình con vật, hay đồ vật sinh hoạt…) nằm ở những chỗ đặc biệt (như trên ngọn núi,trong hang động,hay dưới gốc cây cổ thụ…). Dân gian thường gọi hiện tượng này là thờ “đá bụt mọc”. Trong tâm thức của người Việt, sở dĩ những tảng đá có hình thù đặc biệt như vậy là bởi chúng được các vị thần linh tạo ra để trú ngụ. Vì thế, thờ cúng những tảng đá ấy chính là thờ cúng các vị thần ẩn náu trong đó, để nhận sự bảo trợ từ họ. Thường thần Đá đều là các “thần lành”, tức những vị thần dùng sức mạnh và uy lực của mình để đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống con người, nên dân gian mới gọi những vị ấy là “bụt mọc. Tục thờ Đá có biểu hiện vô cùng phong phú và luôn hiện diện trong đời sống tâm linh của người Việt trong đời sống hôm nay. Cinet tổng hợp (Theo Wikipedia, vanchuongviet)
|
|