Biến đồng muối Uyuni (Bolivia) - Một địa điểm du lịch độc đáo
Những đồng muối cũng có thể là địa điểm du lịch, nếu biết cách khai thác thế mạnh của nó. Chính phủ Bolivia vừa phát động một chiến dịch biến những đồng muối Uyuni nổi tiếng là bằng phẳng nhất thế giới thành một thắng cảnh hàng đầu của quốc gia.Trong ngày đầu phát động chiến dịch quảng bá du lịch đồng muối, những nhóm nhạc đồng quê của Bolivia đã tới đây biểu diễn. 20 khinh khí cầu từ các quốc gia trên thế giới đã thả ở độ cao hơn 4,400m. Điều khiển khinh khí cầu là tượng trưng cho một môn thể thao đang được ưa thích trên thế giới. Anh Sean Ben - một vận động viên chơi khinh khí cầu nói: "Địa thế ở đây rất cao, tạo nhiều thuận lợi cho môn khí cầu. Ở những địa điểm khác, khi muốn xuất phát ở độ cao như độ cao ở đây thì vận động viên và khí cầu phải được chuẩn bị rất đặc biệt". Khi đồng muối Uyuni trở thành khu du lịch, thể thao, các đội chơi khí cầu quyết định sẽ tổ chức cuộc đua tại đây vào mỗi năm để có thể tận dụng điều kiện thiên nhiên thuận lợi và được sống trong những khách sạn đặc biệt xây dựng bằng muối, với bàn, ghế và giường ngủ cũng bằng muối. Cũng tại đây, các tay golf chuyên nghiệp đã lần đầu tiên thử sức trên một sân golf bao la. Trong màu trắng tinh của muối, họ phải sử dụng những quả bóng nhiều màu sắc rực rỡ. Anh Ramiro Olmos - một vận động viên chơi golf nói: "Không thể tưởng tượng được. Tôi đang ở trên độ cao 4.000m so với mực nước biển. Với những điều kiện khí hậu ở đây tôi có thể đạt phong độ như những tay golf hàng đầu thế giới". Bên cạnh khinh khí cầu và golf, môn ván trượt cũng sẽ có một sân chơi lý tưởng tại đây. Uyuni là một đồng muối tự nhiên được hình thành do sự vận động của vỏ trái đất. Trong những tháng mùa đông, khu vực này hoàn toàn khô ráo. Tuy nhiên, khi hè đến, cánh đồng lại luôn ngập nước biến nó thành tấm gương khổng lồ mà Neil Amstrong đã nhìn thấy từ mặt trăng vào năm 1969.
Maramures - Thắng cảnh cổ của đất nước RoumanieNằm ẩn kín trong một góc của thị trấn Carpathians về hướng Nam, những ngôi nhà thờ bằng gỗ Maramures từ lâu đã trở thành một trong những kho tàng bí ẩn nhất của đất nước Roumanie. Những tháp nhà thờ này được UNESCO công nhận là khu di sản thế giới vào năm 1999 vì nét đẹp cổ kính và các giá trị tinh hoa nghệ thuật tuyệt mỹ của chúng. Đã có một thời gian dài, những tháp nhà thờ Maramures hầu như kín cửa với thế giới bên ngoài do điều kiện cơ sở vật chất. Gần đây được sự hỗ trợ của liên minh châu Âu, mọi thứ ở đây bắt đầu thay đổi. Những “nàng công chúa đang ngủ” này sẽ được đánh thức để mời gọi du khách đến với một vùng đất hẻo lánh xa xôi nhưng vô cùng quyến rũ của quốc gia Balkan vốn rất nổi tiếng là quê hương của Vlad the Impaler (hay còn gọi là Vlad Dracul, con trai của thủ lĩnh quân sự Vlad II dưới thời vua Sigismund). Ông là nguồn cảm hứng cho những bộ phim và tiểu thuyết nổi tiếng về Dracular của nhà văn Bram Stocker (1879). Nhà thờ Surdesti, được công nhận là tòa nhà làm bằng gỗ sồi cao nhất thế giới (cao 72 m). Nó được xây dựng vào năm 1767 và là một trong những tòa nhà cổ kính đẹp nhất của vùng. Maramures cũng giống như một viện bảo tàng tự nhiên ngoài trời rất sống động, nơi thể hiện khá rõ nét cuộc sống người dân vùng Balkan cách nay nhiều thế kỷ. Người dân trong những ngôi làng cổ này vẫn mặc những trang phục truyền thống, dùng gia súc và nông cụ bằng gỗ để làm việc đồng áng, vẫn đan áo bằng tay và làm những đồ chạm khắc gỗ rất nổi tiếng. Họ sống xung quanh những cánh rừng gần kề.
Quan trọng nhất là những ngôi nhà thờ làm bằng gỗ có niên đại từ đầu những năm 1600. Các kiến trúc cổ này vươn cao bên trên những ngôi làng và những cánh đồng. Chúng ôm lấy đỉnh những công trình xây dựng nhỏ hơn được thiết kế theo phong cách kết hợp giữa truyền thống Orthodox của người Roumanie và các yếu tố Gothic để tạo nên kết cấu kiến trúc mang tính độc nhất. Rogoz, ngôi nhà thờ cổ được xây dựng từ năm 1663 nằm trong một ngôi làng thanh bình yên tĩnh. Có thể do ít khi tiếp đón khách tham quan nên nhà thờ Rogoz thường xuyên đóng cửa. Muốn vào bên trong, du khách phải tìm một linh mục trong làng để nhờ mở cửa. Khi vào được bên trong, du khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng một cách thán phục các bức tranh trên tường nhiều màu sắc được vẽ từ mấy trăm năm về trước. Trong khu vườn nhà thờ, nơi có những ngôi mộ cổ, nhiều loài chim sinh sống khiến du khách có cảm giác hoàn toàn thoát khỏi sự ưu phiền của đời sống phồn náo đô thị. Dù chỉ mới 10 năm tuổi nhưng công trình này trông rất cổ kính và đã thu hút được nhiều du khách đến tham quan. Ngoài ra, còn có một số tòa nhà bằng gỗ mới được xây dựng trên nền một nhà thờ Trung cổ, nổi lên đây đó trong những khu vườn còn rất tự nhiên và tinh khiết, được bao quanh bởi những ngọn đồi xanh và các vườn cây ăn trái. Maramures rồi đây sẽ thức dậy với vẻ đẹp tinh k
hiết và nguyên thủy của mình để chào đón du khách.
Brussels – Quê hương lễ hội trang trí thảm hoaDiện tích: 161 km2; Dân số: 992.000 người.Brussels là thành phố hơn 1000 năm tuổi, là sự kết tụ của 19 công xã để tạo nên một trong 3 liên bang và là thủ đô của Vương Quốc Bỉ. Brussels được coi là thủ đô của Châu Âu, nơi được dùng làm trụ sở của các tổ chức quốc tế như EC và EU.
Đây là thủ đô song ngữ của Vương Quốc Bỉ vì cả tiếng Pháp và tiếng Hà Lan đều là ngôn ngữ chính thống của vương quốc này. Tên đường phố và các biển hiệu giao thông luôn được viết bằng hai ngôn ngữ nói trên.
Tính đa dạng và tương phản của thành phố có thể tìm thấy trong những nét kiến trúc khác nhau. Mannaken Pis là bức tượng một chú bé đang đi tiểu nổi tiếng thế giới, đặt ở góc Stoofstraat gần Grand Place. Nhà hát múa rối Toone nổi tiếng được mở của từ những năm 1696. Những con rối xinh đẹp sẽ trình diễn những bản nhạc opera nổi tiếng hoặc biểu diễn những màn kịch có nội dung xuất phát từ các câu chuyện dân gian của Bỉ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Nơi đây còn được biết đến là thành phố bia, là nơi xuất phát của những loại bia ngon nhất thế giới. Vì thế, khi đến đây, du khách không thể bỏ việc ghé thăm một quán rượu hay một quán bia nào đó. Brussels cũng là trung tâm mua sắm lớn của Châu Âu. Chủ nhật là ngày mua sắm ở đây. Về ẩm thực, nếu bạn thích ăn hải sản thì mời bạn đến đây thưởng thức những món hải sản đặc biệt. Đây không chỉ là thủ đô của Châu Âu mà còn là trung tâm của những người sành ăn. Người Bỉ thích đi dạo ở những nơi có các món ăn ngon như ở siêu thị cá Sainte-Catherine.
Một trong các lễ hội nổi bật nhất là lễ hội kết thảm hoa kì lạ. Cứ hai năm một lần, trong suốt tuần thứ 3 của tháng 8, những người nông dân trồng củ cải đường lại thi nhau kết những tấm thảm hoa rất đẹp. Thảm hoa đẹp nhất có thể cần tới 800.000 bông hoa củ cải đường đẹp nhất.
Bonn - Thành phố quê hương BeethovenChỉ với diện tích gần 14,22 km2 và số dân là 302247, Bonn nổi tiếng bởi thành phố này là nơi sinh ra của nhạc sỹ thiên tài Beethoven. Bonn cũng còn có sức lôi cuốn du khách từ khắp nơi trên thế giới bởi những bảo tàng cổ kính, giá trị vốn được xây dựng và giữ gìn lâu đời.
Một trong những bảo tàng mà du khách có thể khám phá và tìm hiểu văn hoá Đức là bảo tàng Kunst-unt Ausstellungshalle. Nơi đây đã được tiếp đón nhiều du khách, khoảng 1 tỉ lượt người trong riêng năm 2001.
Bảo tàng thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm đa dạng và phong phú, với các chương trình văn hoá đặc sắc chứa đựng nhiều sự kiện quan trọng, giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn hoá Đức và châu Âu. Bonn cũng có hẳn một bảo tàng dành cho trẻ em mang tên Haus de Geschichte der Bundesrepublik. Tại đây bọn trẻ có thể tìm hiểu được cuộc sống của thế hệ cha ông của mình. Bảo tàng này có nhiệm vụ lưu giữ những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của thế kỉ 20.
Trung tâm thu hút khách chính là bảo tàng “August Macke and the Rhenish Expression” và “German art after 1945”. Bonn còn có sức hấp dẫn du khách quốc tế bởi Beethoven house (Ngôi nhà Beethoven). Đây là nơi thiên tài soạn nhạc người Đức này chào đời vào tháng 12/1770, vẫn giữ được những nét nguyên sơ cổ kính.
Từ năm 1893 ngôi nhà này được coi là bảo tàng lưu giữ bộ sưu tập lớn nhất về Beethoven và hiện là trung tâm thu hút khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế giới. Bộ sưu tập có hơn 1000 hiện vật, giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của nhà soạn nhạc Beethoven. Bảo tàng cũng còn nhiều hiện vật về cuộc sống hàng ngày của ông. Ngoài ra du khách còn có dịp chiêm ngưỡng nhiều bức chân dung rất sống động về Beethoven.
Lễ hội Beethoven được tổ chức vào tháng chín và tháng mười hàng năm cũng khiến cho Bonn trở nên quyến rũ và sôi động. Đối với người yêu nhạc trên toàn thế giới, đây là sự kiện âm nhạc quan trọng nhằm tưởng nhớ và tôn vinh nhạc sĩ thiên tài Beethoven.
Thành phố bảy ngọn đồi -Lisbon , điểm dừng chân hấp dẫn
Đã qua lâu rồi cái thời Lisbon được người ta nhắc đến với hàm ý đầy tiếc nuối khi nó phải là thủ đô của Bồ Đào Nha, một "gã nhà nghèo ở châu Âu". Giờ đây, lượng khách du lịch đến Bồ Đào Nha tăng vọt và với họ, thủ đô Lisbon chắc chắn là điểm dừng chân hấp dẫn nhất. Thế kỉ 15, 16, "Thời đại của các nhà thám hiểm", Bồ Đào Nha đã từng là một vương quốc hùng mạnh với hàng trăm thuộc điạ trải rộng trên toàn cầu. Những con thuyền lớn mang trên mình các nhà thám hiểm gan dạ lần lượt vẫy tay chào Lisbon, họ chẳng hề băn khoăn chuyện có thể trở về trong vinh quang như Christopher Columbus hay vĩnh viễn nằm lại ở một miền đất hoang vu nào đó. Chứng tích của một vương quốc hùng mạnh Những tàn tích của giai đoạn vàng son này vẫn còn nằm rải rác ở trung tâm thành phố và xa hơn, ở khu Belem, nơi du khách có thể thoải mái đắm mình vào quá khứ hào hùng của một đế quốc từng có tham vọng làm bá chủ thế giới.
Nằm trên ngọn đồi cao nhất ở Lisbon là lâu đài St.George, cho đến cuối thế kỷ 15 vẫn còn là cung điện của hoàng tộc, nay đã trở thành nơi định cư của dân thường. Đến đây, bạn sẽ bắt gặp từng đàn ngỗng, vịt đi dạo quanh khu vườn chính của toà lâu đài, những ông già ngồi chơi cờ thỏ cáo dưới bóng cây râm mát. Đừng bỏ lỡ dịp trèo lên các tháp canh cao chót vót rồi dạo bước trên tường thành, trước mắt bạn, Lisbon và dòng sông Tagus sẽ hiện ra hoành tráng và kì vĩ đến bất ngờ. Để tới được lâu đài St. George, bạn cần phải đi trên toa xe điện số 28. Bản thân toa xe màu nho này đã là một điểm du lịch cực kỳ thú vị. Nó vẫn ngày ngày chạy qua những con phố náo nhiệt, đưa bạn đi từ điểm thấp nhất tới điểm cao nhất của Lisbon. Một cơ hội tốt để khám phá thêm cuộc sống muôn mặt ở những khu vực du khách ít khi đặt chân tới. Chỉ có một điều, hãy cảnh giác với đám móc túi chuyên nghiệp trên xe, cho tới nay họ vẫn là những kẻ làm đau đầu giới chức trách ở Lisbon trong việc mang lại những hình ảnh đẹp đẽ nhất về thành phố tới khách du lịch thập phương.
Không khó để nhận ra Lisbon, còn được gọi bằng cái tên đáng yêu "Thành phố bảy ngọn đồi" ngày nay là sự pha trộn giữa cũ và mới, bập bềnh giữa làm và chơi, nghiêm túc và cẩu thả, kiểu cách và buông tuồng. Hãy thử ghé qua Alfama, khu phố cổ nhất, quyến rũ nhất và mang nhiều nét đặc trưng nhất, bạn sẽ cảm nhận được sức sống mãnh liệt của Lisbon. Kiến trúc đặc trưng ở Alfama là sự kết hợp hài hoà giữa 2 trường phái Roman và A Rập, cũng là 2 nền văn hoá có ảnh hưởng nhất ở Lisbon trong quá khứ. Alfama từng là khu ổ chuột dành cho dân nghèo, dân nhập cư, sống trong những căn nhà làm bằng "sự lo âu, tình hoài hương và cả những giấc mộng tan vỡ". Alfama mang bóng dáng của sự cô đơn, của những im lặng bị tổn thương và những nỗi buồn không tên. Sau trận động đất năm 1755, Alfama được xây dựng lại và tồn tại cho đến ngày nay, như một cuốn sách lịch sử sống, nơi quá khứ vẫn hoà nhịp cùng hiện tại trên những con phố hẹp và dài hun hút, nơi có những bà cụ già kiên nhẫn mời khách qua đường mua các sản phẩm thủ công tinh xảo. Tưởng chừng như thời gian ở đây đã ngừng trôi, nhịp sống chậm rãi, buồn tẻ của thế kỉ 15 cũ kĩ vẫn đồng hành với sự sôi động, náo nhiệt của thế kỉ 21 ngoài kia. Cách Alfama không xa lắm là Rossio, một trong những quảng trường đẹp nhất Lisbon, trước kia mang tên Dom Pedro IV. Hàng ngày, dòng người cứ vội vã kéo nhau qua đây, hối hả với công việc, chẳng ai chịu bớt chút thời gian để dừng lại thưởng thức cảnh quan tuyệt vời cùng bầu không khí trong lành của buổi sớm mai. Kia là nhà hát D.Maria II, nơi nhà vua và hoàng hậu thường xuyên đến thưởng thức những buổi biểu diễn lớn. Cạnh vòi phun nước là khoảng đất rộng mênh mông, xưa kia, cứ vào đầu tháng 10 hàng năm, người ta lại tiến hành nghi lễ rửa tội cho các chàng trai được vào học ở trường dòng. Xung quanh Rossio là những quán cafe danh tiếng của người Bồ Đào Nha mà tiêu biểu nhất là Cafe Nicolas, mở ra từ năm 1929 và vâng, còn nữa, đó là những tiệm nhỏ bán hạt rẻ rang, cũng đã tồn tại hàng chục năm qua. Sừng sững giữa quảng trường là tượng vua Pedro IV đứng trên bệ cao, dưới chân ông là tượng 4 vị nữ thần tượng trưng cho sự công bằng, trí tuệ, sức mạnh và sự khiêm tốn, cũng là những phẩm chất tốt đẹp của vị vua này.
Praha - thành phố trăm tháp vàngTừ xưa, du khách các nước đến thăm Praha, đã đặt tên cho thành phố này là “thành phố trăm thác vàng”. Praha còn giữ nguyên vẹn đến ngày nay hàng trăm cung điện, lâu đài, với những vòm tháp vàng nguy nga, tạo cho du khách cảm giác như lạc vào một cung điện thành cổ trong các câu chuyện thời xa xưa. Đây là những công trình kiến trúc tuyệt vời nói lên sức lao động sáng tạo của nhân dân Sec trong hàng chục thế kỷ qua. Nếu đi xem cho hết những tòa lâu đài, hay những “bài thơ” bằng đá này, phải mất nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần lễ. Bởi vì một chủ trương lâu đài, nhà thờ, công trình kiến trúc cổ...đều là những tác phẩm nghệ thuật hết sức đặc sắc. Từ lâu đài Praha, nhà thờ Praha, tu viện thánh Gio óc, tháp tòa Thánh Vít trong dinh tổng thống, nơi có hầm mộ quốc vương Renesasni, tháp chuông cổ Oóclôi, đến cung điện Mùa hè Hoàng Gia...tất cả đều cuốn hút du khách say mê chiêm ngưỡng. Nhiều du khách đã nói, đến Cộng hòa Sec mà không tham quan những “báu vật” này hay ít nhất không xem tháp chuông cổ Oóclôi thì coi như chưa biết Cộng hòa Sec. Chính nhờ kho báu này cùng các danh lam thắng cảnh khác được bảo tồn, trùng tu nguyên vẹn.
Lâu đài Praha
Nằm trên một quả đồi nhỏ, nơi diễn ra những cuộc tế lễ thời cổ, cung điện của các nhà vua và các hoàng tử Bohemian bao quát cả thành phố, lâu đài có tên là Praha (có lẽ do tính từ Vyprahly: khô cằn) được xây trên đồi này, về sau tên Praha được dùng để gọi toàn bộ thị trấn bao quanh lâu đài.
Pháo đài (lâu đài) Praha là một quần thể gồm nhiều lâu đài chiếm 45 ha, với nhiều công thự và cơ sở tôn giáo, nhiều hoa viên, tất cả có tường bao bọc. Trên ngọn tường thành có nhiều tháp. Các ngôi nhà được xây dựng qua nhiều đời. Năm 1759 đời nữ hoàng Maria Theresa (1759 – 1769), kiến trúc cung đình là ông Nicolo Pacassi tu chỉnh thành một quần thể kiến trúc duy nhất, từ quảng trường Hradcanska có cổng lớn dẫn vào lâu đài. Đây là nơi diễn ra các nghi thức tiếp đón các phái đoàn cấp nhà nước. Nếu đi từ cổng Matthias (xây năm 1614) ta sẽ đến cung điện vua Rudolph II, ngày nay được dùng làm phòng hòa nhạc, tiếp tân.
Nội thất các cung điện cũng như các hoa viên trong khu lâu đài Praha năm 1920 được trùng tu lại toàn bột heo lề lối hiện đại, nhưng vẫn giữ được những nét phong vị cổ.
Phần cổ kính nhất trong khu lâu đài Praha là cung điện thứ ba. Các nhà khảo cổ đã phát hiện tại đây một quần thể cung điện có từ thế kỷ 9. Cung vua thì chỉ là một cấu trúc bằng gỗ, nhưng các tòa nhà tôn giáo được xây bằng đá từ thế kỷ 10. Đó là nhà thờ thánh Vitus và tu viện thánh George, và nhà thờ Đức Bà. Theo dòng lịch sử, các thành lũy ngày càng được nới rộng, củng cố, các cung điện ngày càng nguy nga để xứng đáng với thủ đô của một vương quốc Tiệp thống nhất (từ năm 995), và một thủ phủ tôn giáo với tòa tổng giám mục (từ năm 975). Năm 1344, kiến trúc sư Matthias Arras đã xây dựng nhà thờ chính tòa, công trình được ông Peter Parler, một tài năng lớn, tiếp tục hoàn thành. Di hài hai ông hiện vẫn còn an nghỉ tại ngôi giáo đường tuyệt vời này.
Nhà thờ chính tòa Praha từ khi xây dựng đã trở nên biểu tượng của quốc gia Tiệp Khắc. Vương miện của vua Tiệp được cất giữ tại nhà nguyện thánh Wencaslas (nằm bên trong nhà thờ chính tòa). Nhà thờ cũng là nơi an nghỉ của các vua Tiệp và các vị giáo chủ.
Mặc dù nhà thờ chính tòa Praha có ý nghĩa quan trọng như vậy đối với quốc gia Tiệp, nhà thờ mới chỉ có dạng hoàn chỉnh như hiện nay từ năm 1929, năm kỷ niệm 1000 năm ngày sinh thánh Wencaslas.
Không kể các cơ sở tôn giáo, thì hoàng cung chiếm một diện tích rộng nhất trong khu lâu đài Praha thời trung cổ (dài 62m, rộng 16m, cao 13m). Hoàng cung được xây dựng đời vua Vladislay Jagellon từ năm 1492 đến 1502, thường là nơi tổ chức những nghi lễ chính thức của nhà nước, thời phong kiến cũng như thời hiện đại. Tổng thống nước Cộng hòa Sec được bầu cử và tấn phong tại đây.
Những tòa nhà quan trọng khác trong khu lâu đài Praha là nhà thờ chư thánh (công trình của kiến trúc sư Peter Parler) và đặc biệt là nhà thờ thánh George với tu viện ở bên cạnh. Đây là nơi chôn cất các vua Tiệp và nơi để di hài thánh Ludmila.
Tu viện của các nữ tu Benadictine là một trong những tu viện được thành lập sớm nhất, vào khoảng giữa thế kỷ 10. Nữ tu viện trưởng có quyền đội vương miện cho các nữ hoàng Bohemia. Tu viện bị bãi bỏ vào cuối thế kỷ 18 và hiện nay là viện bảo tàng hội họa quốc gia.
Dãy Alps - con rồng lớn châu ÂuAlps là dãy núi cao nhất châu Âu, phía tây bắt đầu từ Nice đi qua biển Bắc Italy, miền nam Thụy Sĩ, Liechtenstein, miền nam Đức và dừng lại ở thung lũng Wien của Áo. Tổng chiều dài là 1.200km. Thế núi hùng vĩ, chiều ngang dài 120 - 200km, có nơi 300km. Độ cao so với mặt nước biển là 3.000m.
Đoạn giáp biên giới Thuỵ Sĩ và Áo có những ngọn núi cao nhất, là nơi tập trung khoảng 10 ngọn núi cao chừng 4.000m, trong đó đỉnh Matterhorn là đỉnh cao nhất. Đỉnh núi này đứng sừng sững so với các đỉnh núi khác, bốn bề là vách núi dựng đứng, mỏm núi cao ngất chọc lên trời xanh, được mệnh danh là "Ngọn núi Chúa". Nằm giữa biên giới Pháp - Italy là ngọn Blanc, một trong những ngọn núi cao nhất trong dãy Alps, có độ cao 4.807m so với mặt nước biển. Nơi đây, bất kể mùa hè hay mùa đông, đỉnh núi quanh năm tuyết phủ trắng xoá. Trong ngôn ngữ tiếng Pháp và Italy, Blanc có nghĩa là Trắng.
Dãy Alps ngoài nhánh chính chạy từ tây sang đông, còn có bốn nhánh phụ chạy ngang theo hướng trung nam châu Âu. Một nhánh vươn vào bán đảo Iberia, gọi là dãy Pirineos, một nhánh nữa cũng là nhánh quan trọng hình thành bán đảo Italy, gọi là dãy Appennino. Nhánh núi chạy về phái đông nam vắt ngang mặt tây của bán đảo Bangan đi vào Địa Trung Hải, đi qua đảo Kriti và Cyprus, đến thẳng bán đảo Asia Minor được gọi là nhánh Dinalic Alps. Còn nhánh núi chạy về phía tây tạo thành hình vòng cung gọi là nhánh Carpathian.
Hồ Alps ở Thụy SĩAlps có những hồ nước tuyệt đẹp. Do vài chục nghìn năm trở lại đây, châu Âu trải qua nhiều lần đóng băng, dãy Alps bị đóng dưới những lớp băng dày. Nơi đây tạo nên những chiếc hồ băng tuyệt đẹp. Cả dãy Alps có hơn 1.200 dòng sông băng với tổng diện tích 3.600km2. Những dòng sông băng lớn khi di chuyển về vùng hạ lưu mang theo những tảng lớn. Băng tan khiến những vật thể bị đóng băng chìm xuống, gây tắc nghẽn dòng chảy, tạo nên những chiếc hồ tự nhiên tuyệt đẹp như hồ Lemam, hồ Sulisi.
Về mặt địa lý, Alps nằm giữa khu vực ôn đới và á nhiệt đới. Khí hậu hai đầu bắc nam khác nhau rõ rệt. Có thể coi đây là ranh giới phân tuyến khí hậu vùng Trung Âu ẩm ướt và Nam Âu khô hanh. Do độ cao so với mặt nước biển rất cao, càng lên cao nhiệt độ càng giảm. Từ chân núi lên đến đỉnh núi khí hậu có sự thay đổi rõ rệt. Cảnh vật, thiên nhiên cũng biến đổi theo. Miền Nam Alps có độ cao so với mặt biển dưới 800m. Thực vật chủ yếu thuộc rừng cây lá to của vùng á nhiệt, cao hơn nữa là thực vật lá kim và trên đỉnh núi là nơi băng giá phủ quanh năm.
Dãy Alps là hệ núi nằm vắt ngang châu Âu theo hướng đông - tây nên gây trở ngại cho giao thông nam - bắc. Alps có nhiều thung lũng và triền đồi để làm nơi giao thông chủ yếu của bắc và nam, như khe núi Saint Gotthard có độ cao 2.112m, khe núi Simdon có độ cao 2.009m...
Cinet tổng hợp