|
Post by Huu Le on Sept 22, 2007 5:27:11 GMT 9
www.thoughtco.com/the-iran-iraq-war-1980-1988-195531 Licj Su Trung Dong Kênh đào Suez Phạm Văn Tuấn & Võ Thị Diệu Hằng 1: Địa Trung Hải (Mediterranean Sea); 2: Hải cảng Saïd; 3: Hồ Al-Manzala; 4: Hồ Timsah; 5: Biển Đỏ (Red Sea) 1: Địa Trung Hải (Mediterranean Sea); 2: Hải cảng Saïd; 3: Hồ Al-Manzala; 4: Hồ Timsah; 5: Biển Đỏ (Red Sea); 6: Sông Nil; 7: Kênh đào Suez 1/ Kênh Đào Suez. Từ 4000 năm về trước, người Ai Cập đã có ước mơ mở một kênh đào trên dải đất Suez khi Vua Pharaoh cho đào một con kênh đầu tiên nối giòng sông Nile với hồ lớn Bitter. Cũng vì chưa có kênh đào Suez nên trong nhiều thế kỷ, việc thương mại của miền Trung Đông với châu Âu phải đi qua phần đất liền của châu Á rồi sau đó, các con tầu biển chở hàng hóa từ Hồng Hải đã phải dương buồm qua mỏm cực nam của châu Phi để đi tới biển Địa Trung Hải. Vì kênh đào chỉ có thể dùng cho các tàu chạy bằng máy mà tới năm 1860 chỉ có 5% thuyền chạy bằng nơi nước nên việc xây kênh xem như một cá cuộc. Nhưng thập niên tiếp theo thì những tàu buôn được tăng lên hàng loạt Kênh đào Suez dài 163 cây số, gấp hai lần chiều dài của kênh đào Panama, với 123 cây số hai bên bờ được xây tường thành bằng đá và xi măng để tránh bị sụp lở và chỉ có 39 cây số giòng kênh đi qua các hồ nước được nạo vét dưới đáy. Giòng kênh Suez có chiều sâu 20 mét và chiều ngang di chuyển được giữa các phao nổi là 180 mét. Tầu thuyền có thể di chuyển hai chiều tại 4 đoạn kênh dài hơn 67 cây số. Các con tầu biển thật lớn với độ chìm (draught) tới 16 mét đều có thể đi qua kênh đào Suez. Chỉ các tầu thật lớn khi di chuyển trên kênh đào mới cần tới tầu kéo và thời gian mất từ 12 tới 18 giờ. Để tránh các tai nạn có thể xẩy ra, các tầu thuyền phải di chuyển với tốc độ cố định, cách khoảng trước sau và hai bên cố định. Các đoàn tầu được tính toán cẩn thận để chạy ngược chiều nhau trên hồ lớn Bitter. Mỗi ngày, trên kênh đào có hai đoàn tầu đi từ phía nam lên mạn bắc và một đoàn tầu đi từ phía bắc xuống, với tổng số tầu bè qua lại vào khoảng 80 chiếc. Hàng năm, có vào khoảng 20,000 con tầu chuyên chở từ 300 tới 400 triệu tấn hàng, với một nửa là tầu chở dầu và chở hàng hóa. Tầu đi lên mạn bắc chở theo dầu lửa từ Vịnh Ba Tư để tới các nước Tây Âu, còn xuôi về nam là các con tầu chở sản phẩm kỹ nghệ và ngũ cốc, từ châu Âu và Bắc Mỹ, để đi tới miền nam châu Á và Viễn Đông. Ngoài ra còn có các con tầu chiến và tầu du lịch viễn duyên. Nhờ có kênh đào Suez, con đường biển từ thành phố London, nước Anh, tới thành phố Bombay, Ấn Độ, đã tiết kiệm được 11,670 cây số so với hải lộ qua Mũi Hảo Vọng của Nam Phi. Kênh đào Suez dài gấp hai lần kênh đào Panama nhưng lại dễ thực hiện hơn nhiều vì đi qua một miền đất bằng phẳng, ngang với mặt nước biển nên không cần loại cửa cống khóa nước (lock). 2/ Lịch sử: Thế kỷ thứ 13 trước Công nguyên: Một kênh đào được xây giữa châu thổ sông Nile và biển Đò (Red Sea) . Những thế kỷ tiếp theo, chỉ một phần của kênh được coi ngó. Tk 8 TCN: kênh không còn được giữ gìn và tàu bè không còn qua lại được 1854: Saïd Pasha, một phó vương Ai Cập, quyết định thi hành dự án đào kênh, nối Địa Trung hải (Mediterranée) tới Hồng hải (Mer Rouge) Tới năm 1858, một viên kỹ sư người Pháp tên là Ferdinand de Lesseps, nhờ là bạn của Phó Vương Ai Cập Saïd Pasha, nên đã giành được quyền tổ chức một công ty có mục đích đào một con kênh nhân tạo. Đó là công ty La Compagnie Universelle du Canal Maritime de Suez. Công ty này là của cả hai bên, Pháp và Ai Cập, cả hai phải xây dựng và được quyền quản lý trong 99 năm. Sau thời gian này, quyền sỡ hữu sẽ thuộc về chính phủ Ai Cập Saïd pacha, 1859. Hoàng tử Toussoun, con của du phó vương Saïd pacha. 25/04/1859 : Bắt đầu công trình: hãng Ferdinand de Lesseps xây dựng kênh từ 1859 đến 1869. Cuối công trình, Ai Cập được 44% và 21 000 người Pháp đồng làm chủ. Người ta phỏng đoán rằng khoảng 1,5 triệu người Ai Cập tham dự vào công trình xây cất kênh và 125000 người thiệt mạng, thường là do bệnh thổ tả (choléra) . Có những máy móc đặc biệt làm ra để giúp họ. 17/02/1867: chiếc tàu đầu tiên chạy trên kênh, nhưng phải đợi tới ngày 17/11/1869 kênh đào Suez mới được khánh thành dưới sự hiện diện của hoàng hậu Eugénie, vợ vua Napoléon III tại hải cảng đầu tiên ở phía bắc là Hải Cảng Saïd (Port Saïd), được đặt bằng tên của Phó Vương Saïd Pasha. Kích thước như sau: sâu 8 mét, bề rộng nơi mặt đáy 22 mét, chiều rộng trên bề mặt 58 mét 1875: Vì mắc nợ các nước ngoài, nên Ai Cập bó buộc phải bán cổ phần cho nước Anh 1882: Quân đội Anh đóng quân ở hai bờ kênh để bảo vệ và thay thế đế quốc Ottoman, đỡ đầu cho nước 1888: Do sự thỏa thuận quốc tế, kênh được mở cho tàu bè mọi nước Trong thời kỳ Thế giới đại chiến lần I, người Anh điều đình để ký bản thỏa thuận Sykes-Picot giữa Anh và Pháp để chia Trung đông nhằm đẩy xa ảnh hưởng của Pháp trên kênh Suez Giá trị cỗ phần tăng lên gấp bội 1936: Thông qua một hiệp ước người Anh được quyền đóng quân ở vùng kênh đào 1948: Nhà cầm quyền Ai Cập điều chỉnh chống không cho tàu dùng kênh Suez để tới hải cảng Israël 1954: Thỏa hiệp giữa Ai Cập và Anh quốc phải rút quân sau 7 năm Tháng 6, 1956: Khi quân đội Anh rút đi, quân đội Ai Cập đến đóng 26/07/56: Nasser, thủ tướng Ai Cập quốc hữu hóa kênh Suez. Điều này làm mất quyền lợi của Pháp và Anh nên họ cùng với Israël định lấy lại chủ quyền. Nhưng dưới áp lực của Liên bang Xô viết, hăm dọa sẽ cho nổ bom nguyên tử, trong lúc hậu thuẫn Hoa kỳ của họ không tới, nên họ bó buộc phải cho quân đội rút lui. Chiến thắng này đưa Nasser lên hàng anh hùng của người A Rập. 31/10/56: Pháp và Anh tấn công Ai Cập viện cớ là họ muốn mở kênh cho mọi tàu be qua lại. Ai Cập trả lời bằng việc đắm chìm 40 chiếc tàu hiện diện trong kênh vào thời điểm đó. 3/1957 : Mở cửa kênh trở lại 1962: Những người có cỗ phần được thanh toán 5/6/1967: Chung với cuộc chiến 6 ngày (Six-Day War), Ai Cập đóng cửa Kênh cho tới 1975, một lực lượng an ninh của Liên Hiệp Quốc ở tại chỗ cho tới năm 1974 5/6/1975 : Mở cửa trở lại cho phép tàu bè chở hàng hoá từ Israël qua lại kênh 1979: Ai Cập thỏa thuận Israël cho tàu bè qua lại không hạn chế , hòa bình giữa hai dân tộc
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 3:23:38 GMT 9
Quan hệ Mỹ-Do thái-Palestine và giải pháp hai nhà nướcVietsciences- Nguyễn Trường Trong kỷ nguyên Obama, tính khả tín của Hoa Kỳ trên toàn cầu đang trên đà suy giảm . Thực vậy, bằng chứng rõ ràng nhất là cách ứng xử của Netanyahu nhân cuộc viếng thăm Do Thái của Phó Tổng Thống Joe Biden hồi đầu năm. Biden đến với mục đích kích hoạt quá trình hòa bình; Do Thái lại loan báo chương trình xây dựng định cư mới ở Đông Jerusalem. Tin nầy tự nó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Việc xây dựng những khu định cư trong lãnh thổ chiếm đóng luôn là thực tế liên tục trong chính sách Do Thái từ nhiều năm nay. Điều đáng ngạc nhiên là thời điểm loan báo và phương cách ứng xử của cấp lãnh đạo một xứ đang lệ thuộc sâu xa vào quyền lực và tiền bạc của Hoa Kỳ. Netanyahu rõ ràng đã không ngần ngại làm mất uy tín nhân vật số hai của Mỹ. QUAN HỆ MỸ-DO THÁI Âu lo trước cảnh công khai đối đầu giữa chính quyền Obama và chính phủ Do Thái, Nghị sĩ Connecticut , Joe Lieberman - đại diện cho quyền lợi của Đảng Lukid của thủ tướng Benjamin Netanyahu và kỹ nghệ bảo hiểm y tế trước Quốc Hội - đã lên tiếng kêu gọi chấm dứt cãi vã. Lieberman nói: "Chúng ta hãy chấm dứt cảnh xô xát, thù nghịch trong gia đình. Đó là điều không cần thiết; đó là điều tai hại đối với quyền lợi quốc gia chung giữa chúng ta. Đã đến lúc phải xuống giọng, phải bỏ qua thù nghịch gia đình giữa Hoa Kỳ và Do Thái. Nó không có lợi ích cho ai ngoài kẻ thù của chúng ta"[1]. Ý tưởng - Hoa Kỳ và Do Thái là gia đình với quyền lợi quốc gia chung - là một hư cấu tiện lợi Lieberman và phe ủng hộ Do Thái đã không ngừng cổ súy và khai triển ở Hoa Thịnh Đốn trong hai thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên, nếu liên hệ thực sự mang tính gia đình, sự xô xát hồi đầu năm giữa Hoa Thịnh Đốn và chính quyền Netanyahu rất có thể phải được xem như một trong những thù nghịch, dù bộc lộ trong lúc nóng giận, cũng đã đặt thành vấn đề phải tái thẩm định những chuẩn mực chi phối mối tương quan. Sự thật đó không dễ dàng che đậy sau khi hòa khí đã được vãn hồi. Vết rạn nứt tức thời đã loại hẳn khả năng đơn thuần trở lại "tình trạng trước va chạm". Trong thực tế, việc tái thương thảo các điều kiện chi phối mối quan hệ một cách nào đó đã được đưa lên nghị trình. Đã hẳn, hai chính quyền Obama và Netanyahu hiện đang ráo riết tìm kiếm một phương thức ra khỏi tình trạng khó xử, bắt đầu với sự kiện người Do Thái đã phục kích Phó Tổng Thống Joe Biden khi loan báo các kế hoạch xây cất 1.600 căn hộ định cư ở Đông Jerusalem đang bị chiếm đóng. Biden đến Do Thái với mục tiêu kích hoạt các nỗ lực của chính quyền Obama, tái khởi động thương nghị về thỏa ước hòa bình hai nhà nước, một mục tiêu luôn bị Do thái cản trở qua chính sách liên tục bành trướng định cư trên lãnh thổ chiếm đóng kể từ 1967. Cũng như khi Obama đòi hỏi chính quyền Netanyahu phải ngưng hẳn toàn bộ chương trình định cư trong năm 2009, người Do Thái một lần nữa sẽ chống lại mọi yêu cầu đảo ngược hoàn toàn các kế hoạch xây cất mới nhất. Thay vào đó, họ đề nghị một cách trơ trẽn sẽ tiếp tục các hoạt động định cư trên căn bản "không-hỏi-không-nói", tuy bề ngoài tuyên bố ủng hộ giải pháp hai nhà nước để trấn an người Mỹ, ngay cả khi họ vẫn tiếp tục bào mòn viễn ảnh giải pháp nầy trong thực tế. Như nguyên ngoại trưởng James Baker đã ghi nhận, không thiếu gì những việc làm táo tợn như thế trong chính phủ Netanyahu. Trong cuộc phỏng vấn gần đây, Baker đã nói: "Người chịu thuế Hoa Kỳ đã giúp Do Thái 3 tỉ USD mỗi năm, khoảng 1.000 USD cho mỗi công dân Do Thái, trong lúc kinh tế chúng tôi đang gặp nhiều khó khăn, và nhiều người Mỹ cũng sẽ biết ơn một sự trợ giúp như thế từ chính quyền của chính họ. Trước thực tế đó, thật chẳng có gì quá đáng khi chúng tôi đòi hỏi cấp lãnh đạo Do Thái phải tôn trọng chính sách định cư của Hoa Kỳ."[2] TƯỚNG LÃNH VÀO CUỘC Không sớm thì muộn, mớ bòng bong hiện nay rồi cũng đi vào quên lãng. Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn chắc rồi cũng phải xét lại túi khôn ước lệ của lập trường hậu thuẫn vô điều kiện cho Do Thái, và đưa ra ánh sáng công luận phương cách các chính quyền Hoa Kỳ kế tiếp trong hai thập kỷ qua đã tiếp tay cho Do Thái liên tục bành trướng chế độ chiếm đóng, và liệu chính sách nầy có phù hợp với quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ ở Trung Đông. Năm 2006, hai nhà tư tưởng thực tiễn về chính sách đối ngoại, John Mearhimer và Stephen Walt, đã gây ra một bão tố lố lăng và đầy thiên kiến khi gợi ý trong tác phẩm Vận Động Hành Lang Do Thái và Chính Sách Đối Ngoại Hoa Kỳ [The Israel Lobby and U.S. Foreign Policy]: các mục tiêu hai bên theo đuổi, trong thực tế, không hề trùng hợp và luôn trái ngược, và phe thân Do Thái đã cực lực vận động hành lang nhằm ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ có lợi cho Do Thái. Phe ủng hộ Do Thái cũng dèm pha sự gợi ý của Nhóm Nghiên Cứu Iraq do T T George W. Bush thành lập: Hoa Kỳ sẽ không thể thành đạt được các mục tiêu của mình ở Trung Đông nếu không giải quyết trước cuộc xung đột Do Thái-Palestine. Phản ứng đối với lời nhắc - cách ứng xử của Do Thái có thể phương hại đến quyền lợi của Hoa Kỳ - lần nầy có vẻ êm dịu khác thường. Lý do chỉ vì sự nhắc nhở đã đến từ Tướng David Petraeus, tư lệnh U.S.Central Command (Centcom), chịu trách nhiệm điều hành hai cuộc chiến đang tiếp diễn hiện nay. Petraeus là vị tướng được các đồng đội cùng thế hệ ca ngợi, và cũng là vị tướng được phe thân Do Thái, phái tân bảo thủ, sùng bái. Petraeus đã nói với các Nghị Sĩ Thượng Viện: "tình trạng thù nghịch dai dẳng giữa Do Thái và các xứ láng giềng đã là nguyên nhân đưa đến các thử thách rõ ràng đối với khả năng xúc tiến quyền lợi của chúng ta trong khu vực trách nhiệm [Centcom's Area of Responsibily - AOR]. Sự xung đột đã gây ra cảm nghĩ chống Mỹ xuất phát từ nhận thức lập trường thiên vị Do Thái của Hoa Kỳ. Thái độ căm tức của người Á Rập về vấn đề Palestine đang giới hạn sức mạnh và chiều sâu các đối tác giữa Hoa kỳ và chính quyền và nhân dân trong vùng trách nhiệm [AOR], và làm suy yếu tính chính đáng của các chế độ ôn hòa trong thế giới Á Rập. Trong khi đó, al-Qaeda và các nhóm kháng chiến khác đang lợi dụng thái độ căm giận nầy để huy động yểm trợ. Tình trạng xung đột cũng giúp Iran tăng cường ảnh hưởng trong thế giới Á Rập qua các tổ chức tay chân như Hezbollah ở Lebanon và Hamas. Tiến bộ trong quá trình giải quyết các xung đột chính trị trong vùng Levant [Đông địa trung hải], nhất là xung đột Á Rập-Do Thái, là mối ưu tư lớn lao đối với Centcom."[3] Thông thường, bất cứ ai liên kết sự xung đột Do Thái-Palestine với làn sóng chống Mỹ trong thế giới Hồi Giáo đều bị phái tân bảo thủ và phe thân Do Thái chỉ trích. Điển hình, họ sẽ nhạo báng những ai lập luận theo kiểu "liên kết Patraeus" là ngây thơ, tin tưởng al-Qaeda sẽ từ bỏ thánh chiến [jihad] nếu người Do Thái và người Palestine làm hòa với nhau. Vả chăng, đó chỉ là một luận cứ hù dọa rởm: Hoa Kỳ tự mình đã làm nhiều điều gây căm thù trong thế giới Hồi giáo, và chấm dứt xung đột Do Thái-Palestine tự nó sẽ chẳng giải quyết được mối thù nghịch nầy. Điều quan trọng chính là một giải pháp công bình cho vấn đề xung đột Do Thái-Palestine là điều kiện cần, nếu chưa đủ, để cải thiện quan hệ giữa Hoa Kỳ và quần chúng trong nhiều xứ Hồi giáo. Abe Foxman, lãnh đạo Liên Minh Chống Mạ Lỵ [Anti-Defamation League] - chuyên trách phủ nhận dị biệt giữa "chống-Do-Thái" [anti-Semitism] và "phê bình hay thù nghịch đối với Do Thái" [criticism or hostility to Israel] - đã ướm thử, để thăm dò dư luận, khi nói "Tướng Petraeus đã đơn thuần sai lầm khi liên kết những thách thức, Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đang đối diện trong khu vực, với một giải pháp cho vấn đề xung đột Do Thái-Á Rập, và quy trách các hoạt động cực đoan là do sự thiếu vắng hòa bình và nhận thức lập trường thiên vị của Hoa Kỳ đối với Do Thái. Một liên kết như vậy thật sự nguy hiểm và phản tác dụng".[4] Trong thực tế, người ta có thể cảm nhận được nỗi đau trong lời thú nhận của Foxman: "mối âu lo càng lớn lao hơn khi đến từ một nhân vật ái quốc và anh hùng Mỹ".[5] Khi Petraeus đã chọn công khai nói ra những quan ngại của mình - vào lúc cao điểm của vụ va chạm giữa Do Thái và Hoa Kỳ, và ngay ở Capitol Hill, nơi các nhà lập pháp hình như chưa minh định được câu trả lời - đã là một chỉ dấu tính nghiêm chỉnh của giới quân sự khi nhấn mạnh vấn đề. Mark Perry, một nhà phân tích quân sự và tình báo lâu năm ở Hoa Thịnh Đốn, đã nắm bắt được ý nghĩa đặc biệt của vấn đề trong website Chính Sách Đối Ngoại [Foreign Policy's website]: "Ở Hoa Kỳ có nhiều nhóm vận động hành lang quan trọng và đầy thế lực: NRA, AMA, các luật sư... và vận đồng hành lang Do Thái. Nhưng không có nhóm vận động hành lang nào quan trọng và nhiều thế lực như giới quân sự Mỹ".[6] Perry cũng đã ghi nhận trong cuộc điều trần của Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Đề Đốc Michael Mullen, vào tháng 1-2010: Petraeus rõ ràng đã gợi ý các vùng lãnh thổ của Palestine - liên tục dưới quyền kiểm soát quân sự tối cao của Do Thái - phải được đặt trong AOR, một viễn ảnh có thể khiến cấp lãnh đạo Do Thái đứng tim . Điều nầy không có nghĩa tướng Petraeus đặc biệt ghét bỏ hay yêu thương gì nhà nước Do Thái. Vấn đề là: trong vai trò tư lệnh của hàng trăm nghìn quân nhân Mỹ đồn trú trong khu vực được các chiến lược gia ở Hoa Thịnh Đốn gọi là "vòng cung bất ổn" [arc of instability], Petraeus rất lo ngại trước thái độ ngày một gia tăng thù nghịch đối với Hoa Kỳ. Ý niệm - Hoa Thịnh Đốn cần kiềm chế chính sách bành trướng của Do Thái và áp đặt một giải pháp chính trị cho mối xung đột Do Thái-Palestine - không có gì mới mẻ đối với giới quân nhân Mỹ, những người không mấy quan tâm đến khía cạnh tình cảm. Nguyên Ngoại Trưởng Colin Powell và nguyên Đặc Sứ Trung Đông của Mỹ , Tướng Anthony Zinni, những người đã trải nghiệm quá trình trưởng thành trong khu vực, cũng chia sẻ những quan ngại hiện nay của Petraeus. Tướng Keith Dayton - người chịu trách nhiệm: thành lập và huấn luyện lực lượng an ninh giúp Nhà Cầm Quyền Palestine, lực lượng đã dẹp các kháng chiến quân ở West Bank, và kiềm hãm không cho phép lực lượng nầy tấn công Do Thái trong mấy năm vừa qua - cũng chẳng dè dặt gì hơn Petraeus trong bài nói chuyện ở Hoa Thịnh Đốn trong năm rồi. Ông đã nhấn mạnh tiền đề khi thành lập lực lượng dưới quyền và đã chịu mọi chỉ trích ngay bên trong cộng đồng xem đây chỉ là đội quân cảnh của Do Thái: những quân nhân trong lực lượng nầy tin họ là hạt nhân của quân đội của nhà nước tương lai Palestine. Ông còn cảnh cáo, không nên xem lòng trung thành của những binh sĩ dưới quyền là đương nhiên: "có lẽ có hai năm chờ đợi khi được cho biết quý vị đang thành lập một nhà nước , trong khi quý vị không làm như vậy"[7]. Báo chí Do Thái cũng trích đăng: bên sau các cánh cữa khép kín, Phó Tổng Thống Biden đã quở trách Netanyahu về những kế hoạch bành trướng định cư, cảnh cáo việc làm nầy sẽ làm gia tăng bất trắc và hiểm nguy đối với sinh mạng của các viên chức Hoa Kỳ ở Iraq, Afghanistan và Pakistan. HIỆN TRẠNG VÀ VAI TRÒ CỦA HOA KỲ Trước công chúng, đã hẳn, Biden cũng nói không mấy khác Lieberman: "Theo kinh nghiệm của tôi, điều kiện tiên quyết cho tiến bộ [ở Trung Đông], như cả thế giới đều biết, là không có khoảng cách giữa Hoa Kỳ và Do Thái khi nói đến an ninh, không có. Chính những lúc đó tiến bộ đã được thực hiện"[8]. Trong thực tế, lịch sử xung đột Do Thái-Palestine cho thấy sự thật hoàn toàn trái ngược . Nguyên ủy quá trình hòa bình, chính quyền Obama nay đang tìm cách phục sinh, không hề liên hệ đến một hậu thuẫn vô điều kiện của Hoa Kỳ dành cho Do Thái. Ngược lại, nguyên ủy đó đã nằm trong quyền lợi quốc gia cơ sở trên một sự yểm trợ đứng đắn, hay như người Mỹ thường nói - tough love, của chính quyền George H.W. Bush. Phát sinh từ một quan niệm thực tiển về quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ ở Trung Đông - vào lúc chiến dịch quân sự, nhằm đẩy lùi các lực lượng Iraq của Saddam Hussein ra khỏi Kuwait, đã dàn trải hàng trăm nghìn binh sĩ Mỹ trong vùng - chính quyền Bush I đã nhận diện nhu cầu quân bình quyền lợi phải chăng của Do Thái với quyền lợi của các quốc gia Á Rập láng giềng. Chính vì vậy, năm 1991, người Mỹ đã kéo lê chính quyền diều hâu Likud của Yitzhak Shamir tới hội nghị Madrid, do đó, đã phá vỡ điều cấm kỵ trong địa hạt an ninh của Do Thái: trực tiếp thương nghị với Tổ Chức Giải Phóng Palestine - PLO của Yasir Arafat. Chính quyền Bush I cũng đã nêu rõ: Do Thái sẽ chịu hậu quả tức thì và đau đớn nếu tiếp tục chương trình định cư trên phần lãnh thổ xâm thực trong cuộc chiến 1967, những xây cất lúc đó được gọi không những "vô bổ" [unhelpful] - một mỹ từ các tổng thống Bill Clinton, George W. Bush, và nay Barack Obama ưa chuộng - mà còn "bất hợp pháp" [illegal]. Theo lệnh của Bush I và ngoại trưởng Jim Baker, Hoa Thịnh Đốn đã đe dọa rút lại cam kết bảo đảm 10 tỉ tiền vay nếu Do Thái tiếp tục xâm thực lãnh thổ Palestine. Trong cuộc khủng hoảng chính trị sau đó, người Do Thái, hiểu rõ tình trạng lệ thuộc vào sự hậu thuẫn mang tính quyết định của Hoa Kỳ, đã phải bầu chọn Yitzak Rabin thay thế Shamir trong chức vụ thủ tướng. Rabin sau đó đã được ca ngợi như một lãnh tụ can đảm khi quyết định đổi hướng trước sư chống đối kịch liệt trong nội bộ. Tuy nhiên, muốn hiểu rõ tình hình thực tế, chúng ta cũng cần đọc kỹ lại lịch sử. Chỉ ba năm trước đó, chính Rabin đã ra lệnh cho quân đội Do Thái dùng dùi cui đánh gãy tay gảy chân các thiếu niên ném đá, hy vọng chận đứng được phong trào nổi dậy hay intifada của người Palestine. Đã hẳn Rabin đã không vồ vập quá trình hòa bình Oslo với PLO vì một thức tỉnh bất chợt của lương tâm đạo đức nào đó. Rabin chỉ quyết định đổi hướng sau khi bình tĩnh tính toán và tái thẩm định vị trí chiến lược của mình. Trong cùng thời điểm, Hoa kỳ nhận thấy nhiều lợi điểm trong việc tạo dựng một Pax Americana trong vùng, một quyết định đòi hỏi sự hậu thuẫn của thế giới Á Rập. Với chiến tranh lạnh đã chấm dứt, giá trị của Do Thái như một đồng minh đang suy giảm. Cùng lúc, các chính sách bành trướng đối nghịch với công luận trong các xứ Á Rập và đặt chính quyền các xứ nầy vào vị thế khó khăn và dễ thương tổn trong vai trò đồng minh của Hoa Kỳ, một quốc gia hậu thuẫn cho Do Thái, Hoa Thịnh Đốn nhận thấy Do Thái ngày một trở thành một món nợ nặng gánh hơn. Vì vậy, Rabin đã có lý do để tin hậu thuẫn của Hoa Kỳ, dành cho Do Thái phương hại đến quyền lợi các xứ Á Rập láng giềng, không thể vô điều kiện hay vĩnh cữu. Trong lúc đó, PLO cũng đã suy yếu nhiều sau nhiều năm tấn công quân sự của Do Thái và sau quyết định "sai lầm" ủng hộ Saddam Hussein trong cuộc chiến Vùng Vịnh I. Và Rabin kết luận, thời cơ đã đến để thương thảo với Palestine một giải pháp chính trị trong những điều kiện thuận lợi lúc đó, bằng cách đổi West Bank và Gaza lấy hòa bình. DUY TRÌ HIỆN TRẠNG, PHÍ TỔN VÀ LỢI ÍCH Thực vậy, Rabin đã hành động vì hiểu được hậu quả duy trì hiện trạng [status quo] hình như lúc một bất lợi hơn. Tuy nhiên, đây vẫn là một hành động can đảm. Người ta cũng có thể nói như thế về Tổng Thống da trắng cuối cùng của Nam Phi - F.W. de Klerk. Klerk đã chọn lựa thương thuyết chấm dứt chính sách phân biệt chủng tộc với đảng ANC của Nelson Mandela bởi lẽ sự tan rã của Liên Bang Xô Viết đã lấy mất lý do khá thuyết phục khi Hoa Kỳ và các cường quốc Tây Phương hậu thuẫn cho chế độ cầm quyền da trắng của ông. Cùng một luận lý, có lẽ hệ thống chính trị Xô Viết đã không đưa Mikhail Gorbachev lên cầm quyền nếu KGB, trước đó, đã không quyết định những đổi thay tối quan trọng là thực sự cần thiết để ngăn ngừa Mạc Tư Khoa khỏi bị lu mờ trong vị thế một siêu cường trước các tiến bộ kỹ thuật và kinh tế của Tây phương. Nếu áp lực của Hoa Kỳ cũng như viễn tượng cô lập và ô nhục đã là nguyên nhân Do Thái phải chấp nhận giải pháp hai nhà nước, sự buông lỏng áp lực và sáng tạo một ý niệm "gia đình" trong quan hệ Hoa Kỳ-Do Thái cũng đã trùng hợp với một sự chuyển dịch liên tục xa dần quá trình hòa bình. Ngay cả vào thời điểm cao độ của kỷ nguyên Oslo, người Do Thái, được Clinton chiều chuộng, đã tiếp tục bành trướng các chương trình định cư phương hại cho viễn ảnh địa lý của một nhà nước Palestine. Ariel Sharon và Netanyahu đã tìm cách chứng minh Rabin đã sai lầm. Cả hai tin có thể duy trì sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ mà không phải nhượng bộ về một nhà nước Palestine, qua việc kiên trì vận động hành lang Tòa Bạch Ốc, Capitol Hill, và công luận. Sharon và Netanyahu đã thắng thế khi "chiến lược nổ bom cảm tử", được intifada II của Palestine sử dụng, và "biến cố 11-9", đã thúc đẩy chính quyền Bush tái quan niệm chính trị thế giới trên căn bản "Cuộc Chiến Chống Khủng Bố Toàn Cầu" [Global War on Terror]. Trong bối cảnh đó, giới chính trị Hoa Thịnh Đốn giờ đây chấp nhận Do Thái không chỉ như một đồng minh trong cuộc chiến, mà còn như một mô hình lãnh đạo chiến tranh. Trong những năm George W. Bush, quá trình hòa bình với giải pháp hai nhà nước, vì vậy, đã trở thành những chiêu bài trống rỗng, đầu môi chót lưỡi, của cấp lãnh đạo Do Thái và phe ủng hộ ở Hoa Thịnh Đốn, trong lúc họ vẫn tiếp tục chính sách nghiền nát phong trào quốc gia Palestine và bành trướng định cư. Trong thực tế, lộ trình hòa bình - chuổi những động thái tương tác được thiết kế với mục đích xây dựng lòng tin, nhằm hoàn thành các cuộc thương nghị về quy chế cuối cùng và thực thi giải pháp hai nhà nước - cũng đã mai một ngay sau khi Ariel Sharon lên cầm quyền vào tháng 2-2001. Ngay cả cuộc triệt thoái dân định cư Do Thái khỏi Gaza năm 2005 cũng chưa bao giờ được quan niệm theo hướng lộ trình hòa bình; và cũng chẳng được thương thảo hay phối trí với Nhà Cầm Quyền Palestine. Thực ra, Sharon đã quan niệm cuộc triệt thoái đơn phương của ông như một biện pháp thay thế cho thỏa ước hòa bình. Cuộc triệt thoái đã thiết kế, như Dov Weissglass đã giải thích," như một liều thuốc bảo quản cần thiết hầu tránh lộ trình chính trị với người Palestine"[9]. Mặc dù người Á Rập lúc một căm giận, chính quyền Bush vẫn không sẵn sàng gây áp lực buộc người Do Thái phải hoàn tất lộ trình hòa bình. Với áp lực bên ngoài, nhất là từ Hoa Kỳ, không còn đáng lo ngại, áp lực chính trị từ bên trong Do Thái cũng sụp đổ. Dân Palestine giờ đây bị vây hãm và cô lập bên trong bức tường thành ngăn cách xuyên vùng West Bank và quanh giải Gaza. Hoàn cảnh bi đát của họ, một lần nữa, không còn phơi bày trước mắt nhiều người Do Thái. 40% dân Do Thái không còn quan tâm đến lộ trình hòa bình; và chỉ 20% tin lộ trình giờ đây rất ít hy vọng đem lại kết quả. Gideon Levy, nhà bình luận chính trị Do Thái đã viết trên báo Haaretz hồi đầu tháng 3-2010: "Do thái không có ý định từ bỏ các lãnh thổ [chiếm đóng] hay cho phép dân Palestine hành xử quyền hạn của họ. Do Thái không thực sự muốn theo đuổi hòa bình, bởi lẽ đời sống ở đây hình như khá tốt ngay trong hiện trạng. Tiếp tục chính sách chiếm đóng không những nguy hiểm cho tương lai Do Thái, mà gây bất trắc lớn lao cho hòa bình thế giới, tạo cớ cho nhiều kẻ thù tối nguy hiểm của chính Do Thái. Dù sao, khó có gì thay đổi trong một Do Thái tự mãn, hiếu chiến và kiêu ngạo hiện nay"[10]. Chính quyền Obama không thể nuôi ảo tưởng về vấn đề nầy. Obama buộc lòng phải đối diện vì một loại áp lực khác. Cuộc Chiến Chống Khủng Bố đầy phiêu lưu của Bush đã đến lúc phải tính sổ. Những ai chịu trách nhiệm duy trì địa vị đế quốc Hoa Kỳ trong thế giới Hồi giáo nay đang dương cao cờ cảnh báo: cái giá phải trả cho chính sách tiếp tục cho phép Do Thái lẫn tránh trách nhiệm tìm kiếm một giải pháp công bình đối với người Palestine có thể sẽ rất cao - và, tệ hơn nữa, không cần thiết. Các nhà lãnh đạo và cử tri Do Thái đã chứng tỏ đầy đủ, tự họ, họ sẽ không tự nguyện buông quyền kiểm soát lãnh thổ Palestine, chừng nào họ không phải trả giá cho các hậu quả của chính sách duy trì "hiện trạng". Đã hẳn, quý vị có thể bảo người Do Thái hiện trạng không thể duy trì, nhưng lịch sử Do Thái từ thập kỷ 1920s luôn chứng tỏ niềm tin có thể chuyển hóa "điều không thể" thành "điều không thể tránh" bằng cách thay đổi các sự kiện thực tế. Xây dựng những khu định cư trên lãnh thổ chiếm đóng vi phạm luật quốc tế sau năm 1967 hình như là "điều không có thể" vào thời điểm đó; ngày nay, chính phủ Hoa Kỳ lại trấn an người Do Thái là họ "sẽ giữ lại" hầu hết các khu định cư quan trọng trong giải pháp hai nhà nước. Rõ ràng, đúng theo lối luận lý ngẩu hứng nầy, Sharon đã tính toán ông ta có thể duy trì các khu định cư ở West Bank nếu chịu từ bỏ những khu định cư ở Gaza. Cùng một luận lý cho phép Netanyahu nói đến cụm từ "hai nhà nước cho hai dân tộc" trong khi luôn ngầm báo cho cử tri Do Thái ông không hề có ý định cho phép điều nầy xẩy ra. Lộ trình hòa bình đòi hỏi Do Thái và người Palestine phải thành đạt một đồng thuận song phương về phân phối đất đai và quyền hạn, dưới sự thúc giục của các trung gian Hoa Kỳ, là một lộ trình yểu tử - và vì vậy, khó thể đưa đến mục tiêu ngày một khẩn thiết trong quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ. Người ta có thể lập luận với người Do Thái, đây là điều ngày một quan trọng hơn đối với chính họ, bởi lẽ hiện trạng đã bào mòn viễn ảnh một giải pháp hai nhà nước đến mức cả hai bên có thể phải sống trong một tình trạng xung đột mang tính tai họa lâu dài hơn, và chua cay hơn. Vì vậy, có lẽ cần phải nhắc nhở Phó Tổng Thống Biden: tiến bộ ở Trung Đông sẽ không thể thành đạt cho đến lúc Hoa Kỳ thành công đem lại một thay đổi trong phương pháp phân tích phí tổn-lợi ích hay cost-benefit analysis của chính sách duy trì "hiện trạng" của Do Thái. Lãnh tụ Do Thái duy nhất có đủ khả năng chấp nhận các thông số của một nền hòa bình hai nhà nước với Palestine, như đã được nhiều người biết đến, là người có thể chứng minh cho các cử tri Do Thái thấu hiểu: các giải pháp thay thế sẽ tồi tệ hơn gấp nhiều lần. Hiện nay, thiếu áp lực thực sự từ phía Hoa Kỳ, không hiểu rõ thực giá phải trả, chẳng có gì ngoài lời nói suông, đơn thuần ít ai thấy khía cạnh tiêu cực của "hiện trạng" đối với Do Thái. Cho đến khi hiểu rõ cái giá rất đắt phải trả, hiện trạng sẽ không thay đổi, dù cho nguy cơ đối với quân đội Mỹ trong vùng Trung Đông ngày một gia tăng. KHỦNG HOẢNG KHẢ TÍN Với vụ xô xát giữa Biden và Netanyahu, hay theo ngôn từ của Lieberman, vụ xung đột hay thù nghịch trong "gia đình Hoa Kỳ-Do Thái", với hai cuộc chiến tốn kém tiêu hao đang diễn tiến, và với vô vàn khó khăn phải đối phó trong quốc nội, Hoa Thịnh Đốn ngày một khó lòng duy trì hình ảnh khả tín ở hải ngoại. Nhiều quan sát viên đã thảo luận về hành động gây kinh ngạc của Do Thái, nhất là trong bối cảnh chính trị Trung Đông. Năm mươi năm trước đây, các nhà tư tưởng chiến lược Hoa Kỳ luôn tìm cách truyền bá và phát huy hình ảnh một siêu cường Hoa Kỳ với sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị vô song và một ý chí không lay chuyển sử dụng uy lực của mình trong sinh hoạt chính trị thế giới. Với sự ra đời của cái mà Jonathan Schell gọi là "chủ thuyết khả tín", siêu cường Hoa Kỳ đã trao cho các quốc gia khác quyền phán xét. Ngày nay, các phán xét đang dồn dập được công khai hóa. Từ Bắc Kinh, người ta đã chứng kiến phản ứng tiêu cực của Trung Quốc trước lời phàn nàn của Hoa Kỳ về giá trị đồng nhân dân tệ; từ Mạc Tư Khoa, giới lãnh đạo Điện Cẩm Linh cũng đã hành động không mấy khác, ngay trong thời gian Ngoại Trưởng Hillary Clinton đang thăm viếng, khi cho biết họ sẽ khai trương nhà máy năng lượng hạt nhân đầu tiên của Iran ở Bushehr - một hành động gây ngạc nhiên về thời điểm hơn là chất lượng. Jay Salomon và Peter Spiegal của báo The Wall Street Journal cũng đã nêu rõ: vẫn còn nhiều sự kiện tương tự trong trong những ngày gần đây. Chẳng hạn, Tổng Thống Brazil, Lula da Silva, cũng trong thời gian Clinton đang chính thức thăm viếng, đã tuyên bố sẽ chống lại các biện pháp chế tài Iran do Mỹ áp đặt; Tổng Thống Syria, Bashar Assad, vẫn sẵn sàng sát cánh với T T Mahmoud Ahmadinejad và lãnh đạo Hezbollah, như một thách thức đối với lời kêu gọi của Mỹ: cô lập Iran và các tổ chức kháng chiến. Khi người Do Thái, người Iran, người Nga, người Trung Quốc..., và nhất là người Âu châu bắt đầu nói "không", và tuyên bố nhiều điều bất lợi cho Mỹ, trong khi các viên chức Hoa Kỳ đang thăm viếng, chúng ta hiểu được uy thế của Hoa Kỳ đang trên đà tuột dốc và chúng ta cũng đang sống trong một thế giới mới đã đổi thay. © GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 12-9-2010 [1] Let's cut the family fighting, the family feud. It's unnecessary; it's destructive of our shared national interest. It's time to lower voices, to get over the family feud between the U.S. and Israel. It just doesn't serve anybody's interests but our ennemies. [2] United States taxpayers are giving Israel roughly $3 billion each year, which amounts to something like $1.000 for every Israeli citizen, at a time when our own economy is in bad shape and a lot of Americans would appreciate that kind of helping hand from their own government. Given that fact, it is not unreasonable to ask the Israeli leadership to respect U.S. policy on settlements. [3] The enduring hostilities between Israel and some of its neighbors present distinct challenges to our ability to advance our interests in [Centcom's] AOR [Area of Responsibility]. The conflict foments anti-American sentiment, due to a perception of U.S. favoritism for Israel. Arab anger over the Palestinian question limits the strength and depth of U.S. partnerships with governments and peoples in the AOR and weakens the legitimacy of moderate regimes in the Arab world. Meanwhile, al-Qaeda and other militant groups exploit that anger to mobilize support. The conflict also gives Iran influence in the Arab world through its clients, Lebanese Hezbollah and Hamas. Progress toward resolving the political disputes in the Levant, particularly the Arab-Israeli conflict, is a major concern for Centcom. [4] Gen. Petraeus has simply erred in linking the challenges faced by The U.S. and coalition forces in the region to a solution of the Israeli-Arab conflict, and blaming extremist activities on the absence of peace and the perceived U.S. favoritism for Israel. This linkage is dangerous and counterproductive. [5] It is that much more of a concern to hear this coming from such a great American patriot and hero. [6] There are important and powerful lobbies in America: The NRA, The American Medical Asociation, the lawyers...and the Israel lobby. But no lobby is as important, or as powerful, as the U.S. military. [7] There is perhaps a two-year shelf life on being told that you're creating a state, when you're not. [8] From my experience, the one precondition for progress [in the Middle East] is that the rest of the world knows this - there is no space between the US and Israel when it comes to security, none. That's the only time that progress has been made. [9] ...as a dose of formaldehyde that's necessary so that there will not be a political process with the Palestinians. [10] Israel has no real intention of quitting the territories or allowing the Palestinian people to exercise their rights. Israel does not truly intend to pursue peace, because life here seems to be good even without it. The continuation of the occupation doesn't just endanger Israel's future, it also poses the greatest risk to world peace, serving as a pretext for Israel's most dangerous enemies. No change will come to pass in the complacent, belligerent and condescending Israel of today.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:23:01 GMT 9
Áo choàng hay không áo choàng?Vietsciences- Trần thị Vĩnh-Tường Ngay sau vụ 9-11, một bài viết trên tuần báo Time nêu lên cùng một câu hỏi của hai thanh niên 17 tuổi, một Mỹ và một Middle East. Câu hỏi đầy ngạc nhiên và sợ hãi “Tại sao họ ghét chúng ta”, ”Why they hate us?” Sau đó, người Mỹ đổ xô tìm hiểu về miền Middle East, nơi họ tin vừa gửi đến cho họ một quà tặng đẫm máu: vụ 9-11-2001. Tiếng Việt dùng chung chữ “Hồi” cho nhiều ý niệm: Hồi giáo/Islam, người Hồi/Muslim hay Hồi quốc/Pakistan. Theo tiếng Trung Hoa, ý niệm Hồi Hột, Hồi Hồi ám chỉ mạn bắc của Trung Hoa từ năm 616 đến 840, lúc bước chân người Hoa chưa ra khỏi Ngọc Môn Quan và Nhạn Môn Quan. Về sau, ám chỉ luôn cả người và khu vực Trung Á/Central Asia. Do đó, Hồi Hồi này không là “Hồi Hồi” ở miền Trung Đông/Middle East. Middle East là một vùng đất khác, cực kỳ đa dạng về ngôn ngữ, sắc tộc, niềm tin, văn hoá, mỹ thuật… Không phải người ở vùng Middle East đều theo Islam, hoặc người Pakistan đều là Muslim, hoặc tất cả người Muslim đều là.… khủng bố. Theo tiếng Arabic, “Islam”để chỉ tôn giáo, “Muslim”để chỉ người theo Islam. Trước 1975 ở Saigon có một thánh đường Islam ở khu Chợ Cũ. Từ Phan Rang đến Châu Đốc đều có cộng đồng người Chăm Muslim. Theo cựu tổng thống Jimmy Carter/Nobel Hòa Bình 2002, lịch sử chứng minh những thế lực đối chọi ở Trung Đông luôn cần đến trung gian, Hoa Kỳ chính là thế lực này. Mới đây, ngày 22 tháng sáu, tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã khơi dậy sự bực tức và tò mò nơi thế giới Islam và không-Islam bằng lời phát biểu của ông đọc trước quốc hội Pháp. Ông không chấp nhận tấm khăn choàng burqa của phụ nữ Muslim, coi đó như giam cầm trói buộc họ. Cả hai suy nghĩ trên rập theo thói quen của người da trắng quen định đoạt số mệnh của người khác dù có hay không đuợc yêu cầu. Ông Sarkozy quên rằng chính người Anh/Pháp phải chịu trách nhiêm trực tiếp băm vằm miền Middle East theo quyền lợi chia chác của họ sau Thế Chiến I. Sự sát nhập/thành lập một số miền - Iraq, Kuwait, Palestine, Israel- bất kể sự khác biệt sâu xa cả ngàn năm về tôn giáo, sắc tộc, văn hoá và lịch sử, gây bao đau thuơng và là mầm mống cho sự giận dữ gây nên bất ổn cho toàn vùng mãi đến bây giờ. Lãnh đạo quốc gia, ông Sarkozy có thể không chấp nhận tấm burqa về phương diện an ninh, nhưng không đuợc quyền quyết định một điều chỉ người phụ nữ Muslim mới có: “khăn choàng có giam cầm trói buộc phụ nữ Muslim” không. Không ai có thể trả lời thay cho họ vì mỗi sắc dân có những tư duy văn hoá riêng. Ví dụ những bức ảnh trên người không một manh vải cuả phu nhân tổng thống Sarkozy, khi còn là một người mẫu đang chạy tứ tung trên internet không hề gây khó chịu nơi người Pháp, tuy điều này chắc chắn không thể chấp nhận ở nước Mỹ. Trong cuốn The Middle East, tạp chí Time ấn hành năm 2006, phụ nữ Muslim cho rằng chính niềm tin tôn giáo đã giải phóng họ. Tấm áo choàng che kín mặt mũi họ chính là biểu tượng của tự do, che chở họ khỏi dục vọng của đàn ông, và là niềm hãnh diện Islam. Tổng thống Sarkozy cũng có thể từ chối người Muslim nhập cảnh. Nhưng nếu nhận sự có mặt và phần đóng góp của họ vào nước Pháp, tại sao kỳ thị y phục của họ? Bộ áo không làm nên thầy tu, bộ áo cũng không làm nên khủng bố. Cấm burqa không có nghĩa là tiêu diệt hết nguyên nhân sâu xa của khủng bố, bất ổn. Câu trả lời nằm trong câu hỏi của Hugo Grotius, cha đẻ môn Luật Quốc Tế “Không biết loài người nằm trong tay khoảng một trăm người, hay một trăm người này thuộc về loài người”. Ông nghiêng về ý kiến thứ nhất: loài người như những bầy thú vật đựơc một ông chủ cao quí chăn dắt, ngả thịt khi cần. Một thoáng lịch sử Tấm khăn choàng không phải chỉ độc quyền nơi người Muslim. Phụ nữ Hy Lạp thời cổ đều đội khăn. Ở châu Âu, mãi đến năm 1175, phụ nữ có gia đình đều đội khăn che kín tóc và cổ. Mãi đến thời Tudor (1485-1603) mới chế ra mũ, gọi là hood, chùm đầu và cổ. Cô dâu thời La Mã đội khăn màu cam, màu của lửa che chở cô dâu khỏi ma quỉ. Ngày xưa các trinh nữ châu Âu để tóc dài. Cô nào kém tóc, thay thế bằng tấm khăn dài đến lưng. Chú rể là người mở khăn cô dâu, như chứng nhận sự trinh tuyền và hứa hẹn trước mặt gia đình sẽ yêu thuơng và bảo bọc cô đến trọn đời. Đám cưới Queen Victoria với Prince Albert ngày 10/02/1840 . Tranh của Sir Georges HayterNữ Hoàng Victoria (1837-1901) mặc áo cưới trắng, choàng khăn trắng làm cả châu Âu bắt chước “white wedding”. Sau khi hoàng tế Albert mất, nữ hoàng Victoria không trang điểm. Khi cần phải xuất hiện, bà đội một chiếc mũ vải khiêm nhường. Đó là chiếc bonnet, khai sinh ra nhũng chiếc mũ vải xinh xắn sau này. Bà Ngô Đình Nhu Ở Spain, cô dâu choàng mantilla ren trắng từ đầu đến chân không khác burqa của Muslim. Phụ nữ đi nhà thờ phải choàng mantilla đen. Tờ Life lưu giữ ảnh Bà Ngô Đình Nhu đang đọc kinh, đẹp quí phái dưới tấm mantilla đen dài đến lưng. Khắp thế giới, khăn voan trắng hay voan đen đều bắt nguồn từ ý niệm Islam. Ngay cả mảnh áo dài hững hờ may bằng hàng mousseline mỏng như giọt mưa một thời bay lượn phố phường Saigon, cũng từ Islam. Mosul, thành phố lớn thứ nhì sau Baghdad, nổi tiếng về nghệ thuật dệt những chiếc khăn lụa mỏng che mặt cho giói quí tộc Muslim. Khăn lụa Mosul nổi tiếng trong thế giới Ả Rập với truyện Ngàn Lẻ Một Đêm. Mỗi đêm, người đẹp dở khăn lụa Mosul viền vàng, hai mắt to đen hình trái olive, môi ngọt như trái chà là kể cho vua nghe một câu chuyện huyền bí theo phong cách Ả Rập sâu sắc, ly kỳ, mà tới giờ vẫn không chuyện cổ tích nào có thể thay thế đuợc. Từ 1600, Âu châu du nhập khăn Musol. Tiếng Pháp: mousseline, tiếng Ý: mussolino, tiếng Tây Ban Nha: muselina, đều có gốc từ chữ Mosul. Mosul ở Âu châu dệt bằng bông vải, về sau rayon mỏng hơn nhưng không bao giờ đạt đuợc vẻ mềm mại bóng bẩy của khăn lụa Mosul. Mosul bây giờ chỉ còn là đống gạch vụn thê thảm đầy bom đạn, kể từ năm 2003 khi tổng thống Bush thừa lệnh phó tổng thống thingy Cheney mang quân chiếm Irak tìm “vũ khí tàn sát tập thể”. Hoàng hậu Marie Antoinette (1755-1793)Thế kỷ 18, ở Pháp, khăn choàng và mũ không còn ý nghĩa che chắn hay bảo vệ nữa. Madame de Pompadour (1721-1764), người tình của vua Louis XV, chỉ quấn một khăn hoa cùng màu với bộ váy. Hoàng hậu Marie Antoinette (1755-1793) gắn trên đầu những chiếc mũ diêm dúa cắm đầy đăng ten hoa lá lông chim đuôi chồn trông như một sở thú nho nhỏ. Kinh thành Paris rộn ràng vui dưới lớp váy xoè sột soạt và mũ đủ mầu đủ kiểu. Ở châu Phi, cuộc sống du mục ruổi rong qua sa mạc đầy gió cát, đàn ông đàn bà đều khoác áo choàng rộng phủ từ đầu đến chân. Một phim tài liệu chiếu cảnh nhà gái đưa dâu trên lưng ngựa băng ngang qua cồn cát. Ai nấy phủ kín mít giống nhau đề phòng cô dâu bị phục kích bắt cóc giữa đàng. Ngày nay, tổng thống Obama tuy di chuyển trên trời, nhưng cũng áp dụng chiến thuật này: cả hai chiếc Air Force I và Air Force II đều bay một lượt. Phụ nữ miền Central Asia có nơi không choàng khăn, nhưng quấn nhiều tấm vải đủ mầu với nhau trên đầu như một turban. Ở Việt Nam, mỗi sắc tộc đều có khăn đội đầu. Đơn sơ nhất là khăn mỏ quạ của dân tộc Kinh đồng bằng: khăn vuông gấp chéo, màu đen nhuộm bằng bùn. Đẹp nhất là khăn Piêu của sắc tộc Thái miền núi. Các noọng dệt Piêu, thêu chỉ đỏ chỉ hồng cho ngày hội tung còn. Ở miền Trung, hình như các bà các cô ít đội khăn, ngoại trừ trời lạnh. Đàn ông đàn bà người Chăm đều đội khăn. Ở trong Nam, các bà phong lưu khoác khăn lụa có in bông lớn gấp chéo choàng sau lưng thắt nút trước ngực trông rất sang. Người bình dân dùng khăn rằn che nắng, kéo chùi quết trầu hay xuống sông tắm quấn ngang ngực đặng tôm cá khỏi giựt mình. Theo Cựu ước của Do Thái, Rebekah, cháu gái của Abraham - ông tổ chung của ba tôn giáo Do Thái/Muslim/Ki Tô - đi gặp vị hôn phu Isaac, nàng không che mặt. Lúc Isaac lại gần nàng kéo khăn che kín. Sau khi đuợc tu sĩ chúc phúc, Isaac mới mở khăn ra. Tấm khăn như một khoảng cách cần thiết bảo vệ cô gái cho đến khi thuộc hẳn về chồng. Cựu ước cũng ghi Jacob gặp Rachael đang chăn cừu liền xin cưới nàng. Ông bố Labab ra điều kiện Jacob phải làm việc cho ông 7 năm. Ngày cưới, ông Labab đánh tráo cô chị Leah, lớn tuổi hơn cô em Rachael. Leah chùm khăn kín mít nên Jacob không hay. Sau đó, ông nhạc Labah rủ rê nếu Jacob chịu làm không công thêm 7 năm nữa, ông sẽ gả nốt Rachael. Jacob đồng ý, nhưng lần này cẩn thận giở khăn che mặt, kẻo không có thể lại bị ông già xí gạt uổng đời trai chăn cừu thêm 7 năm nữa không chừng. Từ đó mới có tục chú rể mở khăn che mặt. Có lẽ người Do Thái buôn bán khôn ngoan và giỏi chính trị nhờ kinh nghiệm bố vợ truyền từ Cựu Ứơc. Ai bảo chăn cừu là khổ? Riêng tại Middle East Tấm khăn choàng là truyền thống, không phải định chế tôn giáo. Với người Muslim, đàn ông phải có râu đàn bà phải có khăn. Khăn choàng đã có từ thời Assryria với nền văn minh Lưỡng Hà. Tương truyền, vì hoàng hậu quá đẹp nên trước khi ra trận, vua buộc bà và nguyên một dàn cung nữ phải đội khăn che kín mặt. Từ đó, chỉ hoàng gia mới đuợc che mặt. Về sau, dân dã mới bắt chước. Ngoài những lý do khác, phụ nữ Muslim lưu giữ tấm khăn choàng có thể vì hãnh diện với huyền thoại này. Theo một huyền thoại khác, thời tiền-Islam, trước khi chiến binh ra trận, phụ nữ khuyến khích họ bằng cách để ngực trần. Sau Islam, hệ thống tâm linh thay đổi, phụ nữ choàng khăn kín đáo. Duy có nơi vẫn để ngực trần, như một số bộ tộc ở châu Phi. Khăn chứng tỏ vưong quyền nhất là khăn của những vị vua Ai Cập đã có từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Khăn kết bằng đá quí, vàng bạc tỏ sự giàu sang hay quyền uy chói lọi, trên trán có hai con rắn tuợng trưng cho lửa. Khăn của Cleopatre, nữ hoàng Ai Cập cuối cùng (69- 30 BC), đính đầy đá quí emerald. Elizabeth Taylor đóng vai Cleopatre, là nguòi Do Thái 100%. Trước khi có Islam, giá trị phụ nữ Middle East còn kém gia súc. Vào thế kỷ thứ bẩy, kể từ khi thiên sứ Muhammed rao giảng Islam, thân phận phụ nữ thay đổi sâu xa. Islam đình chỉ việc coi họ là món hàng của dục tình, cho phụ nữ đuợc quyền thừa kế, cấm không đuợc chôn sống bé gái và coi nền giáo dục cho các em gái là một điều thiêng liêng. Theo tác giả Từ Công Nhượng, người Muslim dâng tặng ông là “thiên sứ Muhammed”, tiếng Việt trước đây gọi ông là “thánh Muhammed” hay “tiên tri Muhammed” không hợp với vai trò của ông, vốn là sứ giả của thượng đế, đấng Allah. Hijab tiếng Arabic có nghĩa tấm màn, che chắn, trú ẩn. Theo nghĩa Muslim có nghĩa “khăn che đầu và áo phụ nữ.” Hijab là khăn vuông đủ mầu, che tóc và cổ, cho cả nam lẫn nữ. Kinh Qur’an không hề qui định phải choàng khăn. Duy có lần thánh Gabriel mặc khải với thiên sứ Mahammed “Vợ ngươi cần phải y phục đoan trang”. Cũng cần nói thiên sứ Muhammad có năm vợ từ nhiều bộ tộc nên y phục có thể khác nhau. Sự nhắc nhở trên có thể chỉ nhằm riêng cho vợ của Mohammed vì bà phải làm gương trước. Theo giáo sư Sushila Singh/Banaras Hindu University ở Varanasi, Ấn Độ, Hijab là phẩm giá cao trọng cuả phụ nữ, tấm khăn Purdah che chở phẩm giá ấy. Phụ nữ Ấn đuợc chọn lựa có choàng hay không, choàng khăn trên đâù hay chỉ khoác hững hờ qua vai Khăn niqab che kín đầu cổ và mặt, chỉ hở mắt, ông Jack Straw, Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp nước Anh không muốn phụ nữ Muslim dùng khăn này. Khăn burka là loại kín mít che từ đầu đến chân, chỉ để hở một mạng lưới nhỏ ở mắt, thường thấy ở vùng Bắc Afghanistan. Loại thông dụng nhất là al-amira gồm 1 mũ và một khăn quấn cổ, Khăn shayla là một miếng vải dài hinh chữ nhật quấn quanh đầu và chung quanh vai. Phụ nữ vùng Vịnh thích loại này Khăn khimar gồm một khăn dài che tóc, cổ và vai, để lộ mặt; và áo rộng dài tới chân. Người phụ nữ Middle East nổi tiếng phủ khimar chính là Đức Mẹ Maria. Áo dòng của Ki Tô giáo thuộc cả hai giáo hội Phương Đông (Hy Lạp) và Phương Tây (La Mã) từa tụa như khimar, màu đen, trắng, nâu, xanh da trời. Khăn chador phủ toàn thể thân hình, phụ nữ Iran thường khoác khi đi ra ngoài. Những bức tuợng Iran xưa hàng ngàn năm cho thấy có người đội khăn có người không. Sau cuôc biểu tình đẫm máu ở Iran hai tuần trước, Neda ngã xuống, cổ họng phun máu con mắt mở lớn kinh hoàng. “Họ đã giết Neda, nhưng không diệt đuợc tiếng nói của cô, Neda là chị em, là con gái của mọi người, là tiếng nói khát vọng của tự do”. Ngày 22-6 “Reza Pahlavi, hoàng thái tử của triều đại Iran cuối cùng, nói với phóng viên AFP ở Washington “Neda sẽ là con gái tôi. Neda sẽ luôn ở cùng chúng tôi”. Trong ví tay, ông giữ tấm ảnh Neda choàng khăn trong cùng ngăn với hình ảnh vợ con ông. 70 năm trứơc, phụ nữ Muslim tranh đấu để bỏ tấm khăn choàng. Ngày nay, khi Islam ngày càng quay lại với truyền thống ngàn xưa, liệu phụ nữ Muslim sẽ vùng vẫy như phụ nữ phương Tây, hay sẽ vĩnh viễn dấu mình dưới tấm khăn choàng ấy? Ước vọng Muslim năm 2009 sẽ đơn thuần chỉ là việc giữ lại hay bãi bỏ tấm khăn choàng? Hay khát vọng cháy bỏng đòi hỏi quyền được làm người tự do “sẽ cất cánh vượt lên tận cõi thiêng liêng vươn xa hơn cả tấm mạng che phủ đất trời”(2) ? trần thị vĩnh tường, 25 tháng Sáu, 2009 ----------------------------------------------------- (1) Âm Duơng Trong Islam - Từ Công Nhuợng- Tủ Sách Tìm Hiểu Islam/California 2004 (2) The Veil - Farid al-Din 'Attar (1142-1221), thầy thuốc, lý thuyết gia, nhà thần học, thi sĩ lớn nhất của xứ Iran. Khi người Mông Cổ xâm lăng Iran, ông bị họ chặt đầu vì nhạo báng họ. Ông đuợc chôn trong ngôi nhà mồ tuyệt đẹp cẩn đá turquoise ở Nishapur, Iran
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 10, 2010 4:27:28 GMT 9
Về Đâu Cô Em Trung Á ? Vietsciences-Trần Thị Vĩnh Tường Chỉ bao giờ trăng thôi là nguyệt thì phụ nữ mới ngưng làm đẹp. Mà đã đẹp thì dù tuổi tác nào trông cũng vẫn xuân thì.. Từ nữ hoàng Cléopâtre đến Từ Hi thái hậu, từ công chúa Diana đến cô gái nhỏ Hậu giang, những viên đá lấp lánh muôn đời là một nỗi say mê không bao giờ cạn, là một bí ẩn như truyện Ngàn Lẻ Một Đêm, và cũng là một cơn.... ác mộng cho phe có mày và có râu. Nhưng cũng có phe mày rậm râu dài lại không lấy điều này làm cơn ác mộng, xuân thì ạ. Bởi vì họ còn điểm dáng không kém. Đàn ông đeo ruby, crystal rậm rạp không kém bộ râu của họ. Còn kim cương thì dát đầy cả turban quấn đầu, lấp lánh như một cầu vòng đầy sao. Họ ở một vùng có những cái tên rất bí mật mà chúng ta cũng chỉ mới biết đây thôi, như Kazakhstan , Ubekistan, Tajikistan, Kyrgyztan, Turmenistan.... Đó là vùng Turkestan hay còn gọi là Central Asia. Turkestan, một vùng đất đầy mâu thuẫn, khi thì hết sức huyền ảo thiên thai, khi thì đắng cay khắc nghiệt, bất kể dù phơi mình giữa sa mạc mênh mông hay ẩn kín trong núi cao dốc thẳm. Trước Marco Polo đã có những thương vụ buôn bán trao đổi giữa Á và Âu, xuyên qua Turkestan. Những đoàn lữ hành chất đầy lụa Trung Hoa, hương liệu và đá quí từ Ấn Độ, đồ bạc từ Iran, đồ gốm Ả Rập, lam ngọc (lapis lazurite) từ Afghanistan, Byzantine, nô lệ từ Turkey....Những bến bờ mới lạ mở ra, Con Đường Tơ Lụa- Silk Road, Con đường Ngọc Bích - Nephrite Road, Con Đường Lam Ngọc - Lazurite Route..... dọc ngang, dâng hiến biết bao nhiêu những trái ngọt nặng chĩu trên thân thể, sự giàu sang tuyệt vời của nữ trang và sắc đẹp rạng ngời của kiến thức. Năm 1271 cậu Marco Polo mười bẩy tuổi bắt đầu chuyến viễn chinh đầu tiên từ quê nhà Venice vượt qua sa mạc, đồi núi, rừng rậm, sông dài, lên cả đỉnh núi Pamir, thường được gọi là "nóc nhà của thế giới"...., đến China, Mongolia. Hai mươi bốn năm sau Marco Polo trở lại quê nhà Venice với một gia tài đồ sộ, gồm rất nhiều vàng bạc và quí kim, giầu hơn bất cứ công tước, tử tước của triều đình lúc ấy. Ông viết một cuốn sách noí về cuộc viễn chinh, về sự giầu có ở phương Đông huyền bí mà cả châu Âu không sao có được. Tiết lộ này làm cả châu Âu xôn xao náo nức trước những mời gọi vô cùng quyến rũ ấy. Marco Polo mất tại Venice năm ông bẩy mươi tuổi (1324). Ông cho khắc trên mộ chí câu bất hủ "Tôi chỉ có thể kể lại được phân nửa những gì tôi thấy". Chỉ cần một nửa thôi!!!! Cũng đã đủ làm cả châu Âu mất ngủ. Thế là hàng ngàn đòan lữ hành ruổi ngựa lên đường hướng về phương Đông huyền bí. Vì nằm trên những con đường huyết mạch nối lìên Âu Á, Turkestan biến thành trạm dừng chân của hàng trăm ngàn chuyến lữ hành qua nhiều thế kỷ, Turkestan không bao giờ là một vùng thuần chủng. Tất cả những bộ lạc du mục ở Turkestan đều lai giống. Trên bước lữ hành qua Trung Hoa, Mông Cổ, Tibet, Afghanistan, Iran, Irak..... biết bao mối tình, lãng mạn hay sấm sét, thuận lòng hay ép uổng, đã xẩy ra. Bao nhiêu vàng bạc quí kim đã chảy ra để vui lòng mỹ nữ. Những tràn trề hoan lạc rốt cuộc đã sản sinh ra những nhan sắc Trung Á vô cùng diễm lệ, chẳng hạn như bà hoàng sầu muộn Soraya, hay như cô thôn nữ vô danh trong ảnh, một nhan sắc mà các công nương mệnh phụ của các hoàng tộc châu Âu cắn răng ao ước mà cũng chẳng thể nào có được bờ môi mọng, sóng mũi thon, làn da màu mật ong và cặp mắt bâng khuâng như nàng. Cứ nhìn ảnh truyền thần nữ hoàng Victoria của nước Anh thì rõ: trán dô, mũi khoằm, môi mỏng như một sợi chỉ, mặt trắng bệch như sáp, lông mày lông miếc nhạt nhách, thì mới thấy người đẹp Trung Á đậm đà biết là chừng nào. Nhan sắc cô nàng Trung Á đã là một viên ngọc, nữ trang còn làm cho họ huy hoàng hơn nữa. Dù họ cũng theo Hồi Giáo, phụ nữ Trung Á không đeo khăn trùm người kín mít. Mà họ chỉ che mặt bằng nhũng khăn thêu tay đính hạt châu lóng lánh để ngăn nắng, cát và gió sa mạc. Cô thôn nữ Việt Nam đơn sơ phải đợi anh nông dân đa tình giúp cho "đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo". Còn em bé Trung Á ngay từ mới lọt lòng đã được bà nội, bà ngoại, họ hàng mỗi người tặng cho em một đôi bông tai. Từ lúc đó cho đến ngày chết, hễ ra khỏi nhà cô đều mang nữ trang cứ như ngày lễ hội. Nào là yếm, áo choàng, bông tai, vòng cổ, bím tóc cũng được quấn hạt trai. Khi nàng bước đi, chuông bạc reo vui thánh thót dưới chân vừa để trang điểm vừa xua đuổi tà ma. Nhưng chớ có chàng trai nào dại dột đến gần buông lời, bởi vì cô nào cô nấy cũng thủ trong thắt lưng một con dao sắc cán bằng ngọc thạch. Nàng mà rút dao ra tử chiến thì không kém gì nam nhi cả. Khi còn con gái, nàng thắt bốn bím tóc, hai cái đằng trước, hai cái đằng sau như trong ảnh. Khi lập gia đình, nàng chỉ còn thắt hai bím thôi. Ngày về nhà chồng, gia đình bộ lạc tiễn đưa nàng bằng những rương nữ trang ngất ngưởng trên lưng lạc đà. Những món này gồm mão gắn ruby , vòng cổ san hô (coral), bông tai dài 15 cm, yếm che ngực nạm ngọc trai, turquoise và amber, dây kim cương viền theo tóc rủ dài trên trán, dây lưng ngọc bích, hài cong gắn ngọc bích và san hô, những hộp đựng kinh sách nạm ruby và topaz, vòng bụng toòng teeng nhũng viên topaz lả tả ngay rốn..... Và giời ạ, cả một cái "thong" tam giác bằng bạc nạm ruby, chờ bàn tay chú rể ... gỡ rối tơ lòng. Cái "thong" ngày nay của Victoria Secret - đâu có lấy gì làm bí mật - chính là lấy cảm hứng từ miếng tam giác mướt êm của cô em Trung Á. Bên chú rể đón nàng cũng với nhưng rương nữ trang như thế. Mà những món ấy, thì những đại gia như Cartier, Christian Dior, Verdura hay các designer như De Vroomen, Stephen Dweck hay David Yurman cũng ngả mũ chào thua. Những đại gia này bây giờ cũng khó lòng làm cho được cái mão cô dâu trong ảnh, kết bằng bạc nạm ruby, carnelian, onyx... Xứ Trung Á sản xuất ra những người làm nữ trang đầu tiên trên thế giới. Họ vưà là thợ, là nghệ sĩ, là nhà toán học.... Từ ngàn xưa họ đã tỉ mỉ chạm khắc những hình kỷ hà đối xứng, chim chóc, hoa lá, mặt trăng mặt trời, các vị thần thánh....Cho tới ngày nay, họ vẫn hãnh diện duy trì truyền thống làm nữ trang bằng tay và cố giữ cho không mai một. Tuy tiếp xúc với văn hóa Turkestan từ ngàn năm nay, những người thợ Nga cũng không sao bắt chước được mảy may nào design của miền Turkestan. Cô nàng Trung Á cũng tự vẽ lấy kiểu và đặt thợ làm nữ trang cho gia đình. Từ hộp đựng kinh sách, cán gươm, roi ngựa, chiến hài, áo giáp, áo khoác, yên cương, thảm, ly tách... cho chồng, đến vòng cổ, lá bùa bằng bạc độn chỉ trăm mầu cho cậu bé trai, những vòng tay, hài thêu cho bé gái, rồi khăn quàng, vòng cổ, kiềng, nhíp, dao .... cho các cô gái lớn. Tất cả những nữ trang này đều làm bằng bạc. Họ tin tưởng bạc mang lại điều may mắn. Họ không thích vàng cho lắm. Vàng xếp hàng thứ bẩy, trong khi bạc xếp hạng nhất. Khuynh hướng ưa bạc hơn vàng ngày nay vẫn còn đậm nét nơi phụ nữ châu Âu, đó là do nguồn gốc ấy. Một tuần lễ trước biến cố 9-11-2001 World Trade Center, một bản tin rất ngắn trên internet cho biết một cô bé mười lăm tuổi, được cha và anh dẫn theo đoàn tám con lạc đà chất đầy nữ trang, của cải, từ một bộ lạc rất xa, đến bản doanh của .... Osama bin Ladin, xin được gá nghĩa mà không cần duyên phận. Bản tin không nói bin Ladin có từ chối hay không. Từ đấy đến nay... !!! Ô này cô em Trung Á, bím tóc thanh tân, giọt mắt long lanh, nụ môi tươi thắm, lá nõn đầu mùa, đùi nghiêng dợn sóng, tam giác nạm bạc, tứ giác dát vàng.... Em nay đã về đâu sau cơn gió cuồng bay của mùa chiến chinh năm ấy Ơi các xuân thì, đêm đã hầu tàn và tim đèn sắp cạn. Đợi mãi chưa thấy "Aladdin và cây đèn dầu" vù vù bay đến cho mượn đỡ tí dầu chong đèn viết tiếp hầu các xuân thì.. Xin tạm biệt ở đây, hẹn gặp lần sau.
|
|
|
Post by Can Tho on May 11, 2011 10:51:11 GMT 9
Biến động Bắc Phi-Trung Đông và năng lượng thế giới Vietsciences- Nguyễn Trường Giá dầu lửa chao đảo đã từng gây xáo trộn chính trị kinh tế thế giới, và Trung Đông thường là mồi lửa khởi đầu. Cấm vận dầu lửa Á Rập 1973, cách mạng Iran 1978-79, và cuộc chiến xâm lăng Kuwait của Saddam Hussein năm 1990 luôn nhắc nhở những tác động tai hại và đau đớn của một hỗn hợp địa kinh tế chính trị vùng Trung Đông. Với những biến động dồn dập trong vùng Bắc Phi-Trung Đông hiện nay, phải chăng thế giới đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng toàn diện? Có rất nhiều lý do để lo ngại. Bắc Phi và Trung Đông sản xuất hơn một phần ba số dầu thế giới. Những biến động ở Libya một lần nữa chứng tỏ vai trò thiết yếu của các nguồn cung dầu lửa ổn định. Trong khi Muammar Qaddafi cố bám víu quyền lực và các cường quốc Tây phương đang chung sức tìm một giải pháp, sản lượng dầu của Libya đã sụt giảm phân nửa, công nhân các nước ngoài hồi hương, và Libya phơi bày nguy cơ nội chiến. Các biến động lan rộng trong vùng Bắc Phi và Trung Đông đang đe dọa đem lại những xáo trộn khó lường. KHỦNG HOẢNG NĂNG LƯỢNG Cho đến nay, phản ứng của thị trường còn từ tốn đáng ngạc nhiên. Giá dầu thô Brent tăng 15% khi biến động mới bắt đầu ở Libya, lên 120 USD một barrel (thùng) ngày 24-2-2011. Tuy vậy, lời hứa tăng thêm ngạch số sản xuất của Saudi Arabia đã giúp đẩy mức giá xuống thấp chút ít. Ngày 2-3-2011, giá dầu sụt xuống 116 USD - 20% cao hơn hồi đầu năm, nhưng vẫn thấp hơn đỉnh điểm trong năm 2008. Hầu hết các kinh tế gia vẫn lạc quan: tăng trưởng toàn cầu có thể giảm thiểu khoảng trên dưới 0,5%, chưa đủ làm thui chột khả năng phục hồi kinh tế của thế giới giàu. Tuy nhiên, nhận định của các kinh tế gia đã bỏ quên hai bất trắc lớn: (1) Tình trạng bất ổn định trong nguồn cung , hay nỗi âu lo một viễn ảnh như thế, có thể đẩy giá dầu lên cao; (2) Với giá dầu tăng vọt, hiểm họa lạm phát và các biện pháp thắt chặt tiền tệ có thể phương hại đến khả năng hồi phục kinh tế. Mọi việc vẫn còn tùy thuộc ở sự khôn khéo của các ngân hàng trung ương. Cho đến nay, cơn sốc trong số cung vẫn chưa mấy quan trọng. Biến động ở Libya chỉ làm sản lượng dầu sụt giảm 1%. Năm 1973, số sụt giảm lên đến 7,5%. Thị trường dầu hiện nay còn có nhiều yếu tố giảm sốc. Thực vậy, khác với năm 1973, ngày nay chính quyền trong nhiều nước còn có nhiều kho dầu dự trữ, vốn đã dồi dào hơn khi giá dầu lên cao năm 2008. Trên phương diện kỹ thuật, Saudi Arabia - tương tự như ngân hàng trung ương trên thị trường dầu lửa - có đủ khả năng thặng dư để bù đắp vào số sụt giảm từ Libya, Algeria, và nhiều quốc gia sản xuất dầu cỡ nhỏ. Saudi Arabia cũng đã hứa sẵn sàng bơm thêm dầu. Tuy nhiên, khả năng xáo trộn còn nhiều và không thể loại bỏ. Kỹ nghệ dầu lửa cực kỳ phức tạp: tìm được đúng loại dầu ở đúng địa điểm và đúng lúc là điều cốt yếu. Và ngay chính Saudi Arabia cũng mang nhiều nét đặc trưng từng gây biến động ở nhiều nơi khác, kể cả một tầng lớp trẻ đã mất niềm tin. Mặc dù đã chi tiêu 36 tỉ USD nhằm xoa dịu những thành phần bất mãn, một chế độ toàn trị vẫn đang đối mặt với làn sóng đòi cải cách. Một thoáng bất ổn cũng có khả năng phát động một làn sóng âu lo trên thị trường dầu khí. Ngay cả khi chưa có xáo trộn trong các nguồn cung, giá năng lượng cũng đã chịu sức ép từ khả năng thặng dư tiệm giảm. Với kinh tế thế giới tăng trưởng, số cầu dầu khí vượt xa mọi gia tăng trong số cung. Do đó, biến động từ Trung Đông càng làm tăng tốc nhịp gia tăng giá cả. Câu hỏi cần được đặt ra: hậu quả sẽ ra sao? Cũng may, kinh tế thế giới hiện ít bị đe dọa bởi giá dầu gia tăng so với thập kỷ 1970. Tăng trưởng toàn cầu không quá lệ thuộc vào năng lượng. Tỉ suất lạm phát còn thấp và mức công xá có lẽ sẽ không leo thang theo giá năng lượng gia tăng. Do đó, các ngân hàng trung ương chưa cần phải có nhiều biện pháp mạnh mẽ. Tuy nhiên, khó bị tổn thương không có nghĩa đã được miễn nhiễm. Dầu giá đắt vẫn hàm ngụ một chuyển dịch mãi lực từ giới tiêu thụ qua giới sản xuất. Và vì giới sản xuất thường có khuynh hướng tiết kiệm cao, số cầu toàn cầu sẽ sụt giảm. Một nguyên tắc thông thường là 10% gia tăng trong giá dầu sẽ đưa đến khoảng 2,5% sụt giảm trong tỉ suất tăng trưởng. Với kinh tế thế giới hiện tăng trưởng 4,5% , điều nầy có nghĩa giá dầu phải tăng vượt mức đỉnh điểm 150 USD trong năm 2008 trước khi phục hồi kinh tế bị ảnh hưởng đáng ngại. Tuy vậy, một gia tăng nhỏ hơn cũng có thể triệt tiêu tăng trưởng và nâng cao lạm phát. DẦU LỬA RẺ TIỀN CHẤM DỨT Dù hậu quả của làn sóng phản đối và trỗi dậy hiện đang diễn tiến ở Bắc Phi và Trung Đông ra sao, chúng ta cũng đã biết chắc một điều: trật tự năng lượng thế giới cũng sẽ vĩnh viễn biến dạng. Những gì đang xảy ra chỉ là chấn động đầu tiên trong chuổi địa chấn sẽ làm rung chuyển thế giới năng lượng. Một thế kỷ từ khi dầu lửa được khám phá trong vùng Tây Nam Vịnh Ba Tư trước Đệ Nhất Thế Chiến, các cường quốc Tây phương đã nhiều lần can thiệp vào Trung Đông nhằm yểm trợ các chính quyền độc tài toàn trị luôn sẵn sàng nâng cao mức sản xuất. Thiếu vắng các động thái can thiệp vừa nói, sự bành trướng của các nền kinh tế Tây phương sau Thế Chiến II và sự trù phú của các xã hội kỹ nghệ hóa hiện nay đã không thể diễn tiến như đã thấy. Tuy nhiên, sau đây là tin tức đáng được đưa lên trang đầu các báo khắp nơi trên thế giới: Trật tự năng lượng cũ đang dẫy chết, và chúng ta đang chứng kiến dứt điểm vĩnh viễn của dầu lửa rẻ tiền. Muốn hiểu rõ, chúng ta cần lượng định những gì đang lâm nguy trong tình hình thế giới biến động hiện nay. Để bắt đầu, thật khó lòng đánh giá đúng mức vai trò thiết yếu của dầu khí Trung Đông trong phương trình năng lượng thế giới. Mặc dù than đá rẻ tiền đã là nhiên liệu giữ vai trò chính trong cuộc cách mạng kỹ nghệ, vận chuyển hỏa xa, tàu chạy bằng hơi nước, và sự ra đời của các đại công xưởng, dầu lửa rẻ tiền đã giữ vai trò mở đầu kỷ nguyên xe hơi, kỹ nghệ hàng không, đời sống ngoại ô, cơ giới hóa nông nghiệp, và sự bùng nổ của toàn cầu hóa kinh tế. Trong khi một vài khu vực sản xuất dầu lửa chính yếu đã khởi động Kỷ Nguyên Dầu Khí - Hoa Kỳ, Mexico, Venezuela, Romania, khu vực chung quanh Baku (trước đây thuộc đế quốc Nga Hoàng), và East Indies thuộc Hà Lan - , chỉ vùng Trung Đông mới đủ khả năng thỏa mãn nạn khát dầu của thế giới kể từ Đệ Nhị Thế Chiến. Năm 2009, năm mới nhất có đủ dữ kiện, BP đã phúc trình: Trung Đông và Bắc Phi đã sản xuất 29 triệu barrels mỗi ngày, hay 36% tổng số cung dầu lửa thế giới. Ngay cả con số nầy cũng chưa đủ để khẳng định tầm quan trọng của toàn vùng trong nền kinh tế dầu lửa. Hơn bất cứ khu vực nào khác, Trung Đông đã dồn hết sản ngạch vào thị trường xuất khẩu để đáp ứng nạn khát dầu của các cường quốc như Hoa Kỳ, Trung Quốc (TQ), Nhật, và Liên Hiệp Âu châu (EU). Chúng ta đang nói đến con số 20 triệu barrels rót vào các thị trường xuất khẩu mỗi ngày. So sánh con số nầy với sản ngạch của Liên Bang Nga, nước sản xuất hàng đầu thế giới, với 7 triệu barrels dầu xuất khẩu, lục địa Phi châu 6 triệu, và Nam Mỹ vỏn vẹn 1 triệu. Trong thực tế, Trung Đông sẽ còn quan trọng hơn nhiều trong những năm sắp tới với một trữ lượng chưa khai thác lên đến 2/3 trữ lượng toàn thế giới. Theo dự phóng gần đây của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ, Trung Đông và Bắc Phi sẽ cung cấp khoảng 43% dầu thô thế giới vào năm 2035 (so với 37% năm 2007), và sẽ sản xuất một bách phân còn lớn hơn trong tổng số dầu xuất khẩu trên thế giới. Nói một cách thẳng thắn: kinh tế thế giới đòi hỏi một số cung dầu khí ngày một gia tăng với giá có thể chấp nhận được. Riêng Trung Đông cũng đã đủ khả năng cung cấp con số nầy. Chính vì lẽ đó, chính quyền các quốc gia Tây phương từ lâu đã luôn hậu thuẩn các chế độ độc tài toàn trị "ổn định" trong vùng, qua chính sách tiếp vận và huấn luyện các lực lượng an ninh các nước sở quan. Ngày nay, trật tự nầy đã mất hiệu quả, tê liệt, và đang trên đường tan rã. Không ai còn tin vào một trật tự mới đủ sức cung ứng dầu rẻ tiền nhằm duy trì Kỷ Nguyên Dầu Lửa. Để hiểu rõ, chúng ta cần ôn lại một bài học lịch sử. DẦU KHÍ IRAN Sau ngày công ty Anglo-Persian Oil Company (APOC) tìm được dầu ở Iran (lúc đó được biết dưới tên Persia) năm 1908, chính quyền Anh đã tìm cách hành xử quyền kiểm soát của một đế quốc đối với nhà nước Persia. Người chủ trương không ai khác hơn [First Lord of the Admiralty] Winston Churchill. Sau khi ra lệnh cải hoán các tàu chiến chạy bằng than qua dầu lửa trước Đệ Nhất Thế Chiến và quyết định đặt dầu khí Iran dưới quyền kiểm soát của Luân Đôn, Churchill đã sắp xếp việc quốc hữu hóa APOC vào năm 1914. Trước ngày Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ, Churchill, trong vai trò thủ tướng, đã giàn dựng việc truất phế Shah Reza Pahlavi, lãnh đạo Persia thân Đức, và tấn phong con trai 21 tuổi Mohammed Reza Pahlavi lên thay thế. Mặc dù luôn ca ngợi dây liên hệ thần bí với đế quốc Persia trước đó, Mohammed Reza Pahlavi luôn sẵn sàng làm tay sai cho người Anh. Tuy nhiên, thần dân của Mohammed đã tỏ ra không mấy ưa thích phục tùng các chủ nhân đế quốc ở Luân Đôn. Năm 1951, Thủ Tướng dân cử Mohammed Mossadeq đã dành được hậu thuẩn của quốc hội để quốc hữu hóa APOC, lúc đó đã được đổi tên thành Anglo-Iranian Oil Company (AIOC). Năm 1953, cấp lãnh đạo Anh quốc, toa rập với chính quyền của TT Dwight Eisenhower ở Hoa Thịnh Đốn và CIA, đã tổ chức đảo chánh lật đổ Mossadeq và phục hồi Shah Pahlavi đang sống lưu vong ở Rome, một câu chuyện đã được Stephen Kinzer kể lại trong cuốn All the Shah's Men. Cho đến lúc bị lật đổ vào năm 1979, Shah Pahlavi đã ngự trị Iran như một lãnh đạo chuyên chế, một phần nhờ ở viện trợ quân sự và cảnh sát tình báo của Hoa Kỳ. Trước hết, Pahlavi đã nghiền nát các thành phần thế tục tả phái đồng minh của Mossadeq, kế đến phe đối lập tôn giáo do lãnh tụ lưu vong Ayatollah Khomeini lãnh đạo. Trước sự đàn áp tàn bạo của cảnh sát và chế độ lao tù do Mỹ giật dây, phe đối lập ghét cay ghét đắng hoàng gia Pahlavi và Hoa Thịnh Đốn. Năm 1979, dân Iran đã xuống đường, Shah Pahlavi bị lật đổ, và lãnh tụ tôn giáo Khomeini lên cầm quyền. Chúng ta có thể rút tỉa nhiều bài học từ những biến cố đưa đến tình trạng bế tắc hiện nay trong quan hệ Hoa Kỳ-Iran. Tuy nhiên, điều then chốt cần tìm hiểu là sản ngạch dầu khí Iran chưa bao giờ hồi phục từ cuộc cách mạng 1979-1980. Từ 1973 đến 1979, Iran đã đạt mức sản xuất gần 6 triệu barrels mỗi ngày, một trong những mức cao nhất của thế giới. Sau cách mạng, AIOC (sau được đổi tên thành British Petroleum, hay về sau chỉ gọn ghẽ BP) được quốc hữu hóa lần thứ hai, và các vị quản lý người Iran một lần nữa đã giành lại quyền vận hành công ty. Để trừng phạt những nhà lãnh đạo mới, Hoa Thịnh Đốn đã áp đặt các biện pháp chế tài thương mãi khắt khe, gây trở ngại cho các nỗ lực du nhập kỹ thuật và viện trợ từ các nước ngoài. Mức sản xuất dầu sụt xuống 2 triệu barrels mỗi ngày, và ngay cả sau 3 thập kỷ, cũng chỉ tăng lên trên 4 triệu barrels mỗi ngày, mặc dù Iran sở hữu một trữ lượng lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Saudi Arabia. DẦU KHÍ IRAQ Iraq cũng đã đi theo con đường tương tự. Dưới thời Saddam Hussein, công ty quốc doanh Iraq Petroleum Company (IPC) sản xuất khoảng 2,8 triệu barrels mỗi ngày. Năm 1991, Chiến Tranh Vùng Vịnh I và các biện pháp chế tài do Hoa Kỳ áp đặt sau đó đã làm sản lượng sụt xuống còn 500.000 barrels. Mặc dù vào năm 2001, ngạch số sản xuất đã tăng lên gần 2,5 triệu barrels, nhưng chưa bao giờ trở lại mức trước 1991. Tuy nhiên, khi Ngũ Giác Đài ráo riết chuẩn bị cuộc tiến chiếm Iraq vào cuối năm 2002, chính quyền Bush và số người Iraq lưu vong thân cận đã mơ ước kỷ nguyên vàng son sắp tới khi các công ty dầu ngoại quốc được mời trở lại Iraq, IPC sẽ được tư hữu hóa, và ngạch số sản xuất sẽ lên mức chưa bao giờ thấy trước đây. Không ai có thể quên nỗ lực của chính quyền Bush và các quan chức Mỹ ở Baghdad muốn biến giấc mơ thành sự thật. Xét cho cùng, những binh sĩ Mỹ đầu tiên đến thủ đô Iraq cũng đã bảo vệ chặt chẽ trụ sở Bộ Dầu Khí, và chẳng quan tâm gì đến bọn người hôi của tung hoành khắp nơi trong thành phố. Viên toàn quyền L. Paul Bremer III, do TT Bush lựa chọn sau đó với nhiệm vụ thiết kế một Iraq mới, đã đem theo một đội chuyên gia dầu khí cao cấp Mỹ để giám sát công tác tư hữu hóa kỹ nghệ dầu khí Iraq. Tháng 5- 2003, Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ đã vững tin số dầu do Iraq sản xuất sẽ tăng lên 3,4 triệu barrels năm 2005, 4,1 triệu năm 2010, và 5,6 triệu năm 2020. Đã hẳn, những tiên liệu đó đã không xảy ra. Đối với đa số dân Iraq, quyết định của Hoa Kỳ nhanh chóng tiếp cận để bảo vệ Bộ Năng Lượng là điểm ngoặt: tức thời biến đổi sự ủng hộ khả dĩ của quần chúng trong việc lật đổ một nhà độc tài thành căm hận và thù nghịch. Nỗ lực tư hữu hóa công ty dầu quốc gia của Bremer cũng có hậu quả tương tự, kích động một phản ứng đối nghịch mang tinh thần quốc gia mạnh mẽ trong số kỹ sư dầu khí Iraq, và chính các kỹ sư nầy đã nhận chìm kế hoạch Bremer. Chẳng bao lâu, một sự chống đối của toàn bộ phái Sunni bùng nổ. Sản ngạch dầu khí sụp đổ nhanh chóng, chỉ trung bình 2 triệu barrels mỗi ngày từ 2003 đến 2009. Năm 2010, số dầu sản xuất có tăng đôi chút, lên khoảng 2,5 triệu barrels - vẫn còn rất xa mức sản xuất mơ ước: 4,1 triệu. Chúng ta có thể kết luận: những nỗ lực từ bên ngoài nhằm kiểm soát trật tự năng lượng ở Trung Đông với mục đích tăng gia số dầu sản xuất thường khó tránh gây ra một áp lực ngược chiều, đưa đến một sản lượng giảm sút. Hoa Kỳ và các cường quốc Tây phương, nay đang chứng kiến những biến động lan tràn khắp Bắc Phi và Trung Đông, cần phải cảnh giác: bất cứ ước muốn chính trị, tôn giáo của mình là gì, quần chúng sở tại luôn tỏ thái độ thù nghịch mãnh liệt đối với sự khống chế của ngoại bang và luôn lựa chọn độc lập và tự do trên cả sản lượng dầu lửa. DẦU KHÍ SAUDI ARABIA Kinh nghiệm của Iran và Iraq, thường khó thể so sánh với kinh nghiệm của Algeria, Bahrain, Egypt, Jordan, Libya, Oman, Morocco, Saudi Arabia, Sudan, Tunisia, và Yemen. Tuy nhiên, tất cả các xứ nầy, cũng như nhiều xứ khác chịu ảnh hưởng của các biến động hiện nay, đang phơi bày một vài yếu tố của khuôn mẫu chính trị độc tài và đều kết nối với trật tự dầu khí cũ. Algeria, Egypt, Iraq, Libya, Oman, và Sudan đều là những xứ sản xuất dầu khí; Egypt và Jordan giữ an toàn cho các tuyến dẫn dầu, và trong trường hợp Egypt, một kênh đào then chốt trong việc chuyển vận dầu; Bahrain và Yemen cũng như Oman với vị trí địa lý chiến lược dọc theo các tuyến đường hàng hải quan trọng. Tất cả đều nhận nhiều viện trợ quân sự của Hoa Kỳ và là nước chủ nhà của nhiều căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ. Trong tất cả các xứ nầy, người dân đều đã đứng lên đòi hỏi: "phải thay đổi chế độ". Hai trong số các chế độ nầy đã sụp đổ, ba đang lung lay, và các xứ còn lại đang trong tình trạng lâm nguy. Tác động của giá dầu toàn cầu rất thúc bách và phủ phàng: vào ngày 9-3-2011, giá dầu thô North Brent giao động chung quanh 115 USD một barrel, mức cao nhất kể từ suy thoái kinh tế toàn cầu tháng 10-2008. West Texas Intermediate cũng vượt mức thềm 100 USD. Cho đến nay, xứ sản xuất dầu quan trọng nhất Trung Đông, Saudi Arabia, chưa có dấu hiệu lâm nguy, nếu không, giá dầu có lẽ đã còn lên cao hơn nữa. Tuy nhiên, vương quốc Bahrain láng giềng cũng đã gặp nhiều rắc rối. Hàng chục nghìn người - hơn 20% dân số khoảng nửa triệu - đã nhiều lần xuống đường, mặc dù cảnh sát đe dọa và cũng đã sử dụng đạn thật để giải tán, trong phong trào đòi bải bỏ chính quyền độc tài của Quốc Vương Hamad ibn Isa al-Khalifa, thay thế bằng một chế độ thực sự do dân, vì dân, và của dân. Những biến động hiện nay ở Bắc Phi và Trung Đông thật sự rất đáng lo ngại đối với cấp lãnh đạo Saudi vì phong trào đòi thay đổi ở Bahrain xuất phát từ sắc dân Shiite từ lâu bị sắc dân Sunni thiểu số cầm quyền áp bức. Ở Saudi Arabia, sắc dân Shiite cũng chiếm đa số, tuy không bằng Bahrain, cũng bị kỳ thị bởi sắc dân thiểu số Sunni thống trị. Riyadh cũng lo ngại phong trào chống đối ở Bahrain có thể lan qua Tỉnh Miền Đông kế cận của Saudi Arabia - một khu vực của vương quốc nơi dân Sunni chiếm đa số và là một khu vực luôn thách thức chế độ Saudi. Nhằm chận đứng sự nổi dậy của lớp thanh niên trẻ tuổi, Quốc Vương Abdullah vừa mới hứa hẹn dành 10 trong số 36 tỉ USD để tài trợ các biện pháp cải cách nhằm giúp các công dân Saudi trẻ tuổi lập gia đình và tậu mãi nhà cửa. Ngay cả khi phong trào chống đối không lan qua Saudi Arabia, trật tự dầu khí Trung Đông trước đây cũng không thể tái lập. Kết quả chắc chắn sẽ là một sự suy giảm dài hạn trong số dầu xuất khẩu tương lai. Ba phần tư trong số 1,7 barrels dầu sản xuất hàng ngày đã biến khỏi thị trường từ khi biến động lan đến Libya. Phần lớn số dầu Libya chưa thể trở lại thị trường xuất khẩu trong một thời gian khó thể tiên liệu. Người ta có thể chờ đợi Egypt và Tunisia phục hồi mức sản xuất, tuy khiêm tốn trong cả hai quốc gia, trở lại thời kỳ tiền biến động. Tuy nhiên, hình thức hợp doanh với các đại xí nghiệp ngoại quốc để đẩy mạnh số dầu sản xuất, đồng thời giảm bớt quyền kiểm soát của các đối tác địa phương, rất khó lòng xảy ra. Iraq, với nhà máy lọc dầu lớn nhất vừa bị lực lượng đối nghịch phá hoại nặng nề trong tuần lễ cuối tháng 2-2011; và Iran không có dấu hiệu có thể tăng cường sản xuất đáng kể trong nhiều năm sắp tới. Chỉ còn Saudi Arabia, xứ giữ vai trò then chốt, cũng vừa mới nâng mức sản xuất để bù vào số dầu mất mát của Libya trên thị trường toàn cầu. Tuy vậy, không ai có thể chờ đợi tình trạng nầy có thể kéo dài. Giả thiết hoàng gia Saudi có thể vượt qua sóng gió hiện nay, Saudi Arabia cũng phải dành một phần ngày một lớn trong số dầu sản xuất để thỏa mãn nhu cầu quốc nội ngày một gia tăng, kể cả các kỹ nghệ dầu-khí-hóa-học đem lại việc làm với thù đáp cao cho người dân đang bất bình. Trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2009, Saudi Arabia đã phải dành 2,3 triệu barrels mỗi ngày cho tiêu thụ quốc nội, và 8,3 triệu barrels để xuất khẩu. Chỉ khi Saudi Arabia tiếp tục cung ứng ít ra con số dầu xuất khẩu nói trên, thế giới mới có thể có đủ số dầu thỏa mãn nhu cầu tối thiểu. Điều nầy rất khó xảy ra. Hoàng gia Saudi đã tỏ ra ái ngại khi tăng số sản xuất lên trên 10 triệu barrels mỗi ngày, âu lo sẽ làm suy giảm lợi tức của các thế hệ mai sau. Cùng lúc, số cầu nội địa ngày một gia tăng. Tháng 4-2010, lãnh đạo công ty quốc doanh Saudi Aramco, Khalid al-Falih, đã tiên đoán: tiêu thụ quốc nội có thể lên đến 8,3 triệu barrels mỗi ngày vào năm 2028, do đó, dầu thặng dư để xuất khẩu chỉ còn vỏn vẹn vài triệu barrels. Vì vậy, nếu thế giới không chuyển hướng qua các nguồn năng lượng thay thế khác, chúng ta sẽ phải đối diện với hiện tượng đói dầu. Nói một cách khác, nếu dự phóng căn cứ trên tình hình hiện nay ở Trung Đông, viễn ảnh đã rất u ám. Không một khu vực nào trên thế giới có đủ khả năng thay thế Trung Đông như vùng xuất khẩu dầu số 1. Nền kinh tế dựa trên dầu sẽ suy yếu, và kinh tế toàn cầu cũng gặp khó khăn theo. Dịp tăng giá dầu gần đây mới chỉ là chấn động đầu tiên báo hiệu một khủng hoảng năng lượng lớn lao sắp đến. Dầu lửa sẽ không biến khỏi thị trường thế giới, nhưng trong những thập kỷ tới, sản lượng dầu sẽ không bao giờ đạt mức cần thiết đủ thỏa mãn số cầu dự phóng. Điều nầy có nghĩa không sớm thì muộn, khan hiếm sẽ là sự thật phủ phàng trên thị trường. Chỉ một sự triễn khai nhanh chóng các nguồn năng lượng thay thế và một sự sụt giảm đáng kể trong mức cầu dầu khí mới có thể giúp thế giới tránh khỏi những tác động kinh tế nghiêm trọng. NHỮNG VIỆC CẦN LÀM Ở Hoa Kỳ, sự lựa chọn của Cục Dự Trữ Liên Bang tương đối dễ dàng. Kinh tế Hoa Kỳ khó bị tổn thương nhiều hơn, nhờ ở bệnh ghiền dầu từ trước và thuế đánh vào dầu khí còn thấp. Lạm phát chưa đáng quan ngại, và kinh tế còn nhiều khả năng thặng dư. Do đó, ngân hàng trung ương ít bị áp lực của giá dầu tăng bất ngờ. Ở Âu châu, thuế suất cao, hậu quả của giá dầu đắt tương đối ít. Tuy vậy, các ngân hàng trung ương âu lo nhiều hơn khi giá dầu tăng cao. Và người dân e sợ phản ứng quá đáng của các ngân hàng trung ương có thể đẩy các nền kinh tế còn dễ tổn thương rơi trở vào suy thoái. Mặt khác, nguy cơ lớn nhất trong thế giới đang phát triển là bất động. Giá dầu tăng đưa đến lạm phát, nhất là qua giá thực phẩm lên cao, vì thực phẩm vẫn còn chiếm một phần khá lớn trong ngân sách gia đình trong những xứ như TQ, Brazil, và Ấn Độ. Thực vậy, các ngân hàng trung ương đã nâng cao lãi suất, nhưng thường quá trể, chính sách tiền tệ còn quá lỏng lẻo, và lạm phát lên cao. Thật không may, quá nhiều chính quyền trong các quốc gia đang phát triển đã tìm cách chế ngự lạm phát và sự giận dữ của quần chúng qua các biện pháp trợ giá thực phẩm và nhiên liệu. Các biện pháp nầy không những khiến giới tiêu thụ không còn quan tâm nhiều đến vật giá gia tăng, mà còn rất tốn kém đối với các chính quyền liên hệ. Chẳng hạn, ngân sách mới và lạc quan của Ấn Độ khó tránh khỏi áp lực và rất dễ trở nên mất quân bình và khuy khiếm. Nhưng nguy cơ lớn nhất vẫn là Trung Đông, nơi các biện pháp trợ giá thực phẩm và nhiên liệu rất phổ thông và các chính trị gia còn tăng thêm trợ cấp để dập tắt các biến động. Các xứ nhập khẩu nhiên liệu, như Ai Cập, đang đối diện với vòng xoáy trôn ốc giá dầu ngày một cao và trợ cấp ngày một lớn, dẫn đến nguy cơ phá sản. Giải pháp là cần dẹp bỏ trợ cấp và tập trung khả năng vào việc giúp đỡ giới nghèo. Tuy nhiên, hiện nay không một nhà lãnh đạo Á Rập nào sẵn sàng đề nghị những cải cách tương tự. Nguy cơ tệ hại nhất là tác động h ỗ tương giữa giá dầu ngày một đắt và bất trắc chính trị trong một vòng lẫn quẩn. Ngay cả khi tránh được điều nầy, viễn ảnh ngắn hạn vẫn là bất ổn định lúc một trầm trọng trong kinh tế thế giới . Tuy nhiên, vẫn còn hiện hữu một tia hy vọng: phần thế giới còn lại cuối cùng cũng có thể đối phó với nguy cơ dễ thương tổn đối với giá dầu tăng cao và Trung Đông bất ổn. Danh sách những việc cần làm đã được biết rõ, từ việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở xe hơi chạy bằng điện đến phương cách ổn định giá dầu. Cuộc khủng hoảng dầu hỏa trong thập kỷ 1970 đã biến đổi kinh tế thế giới. Có lẽ cú sốc dầu khí 2011 cũng sẽ có kết quả tương tự. TƯƠNG QUAN HỖ THUỘC GIỮA GIÁ DẦU VÀ GIÁ THỰC PHẨM Khi các sử gia tương lai truy nguyên các biến động ở Trung Đông, họ sẽ tìm thấy một trong những cuộc trỗi dậy đầu tiên đã xảy ra ở Algeria là do giá thực phẩm tăng cao. Ngày 5-01-2011, quần chúng xuống đường ở Algiers, Oran, và nhiều thành phố khác đã ngăn chặn giao thông, tấn công các trụ sở cảnh sát, đốt phá các cửa hiệu trong các cuộc biểu tình chống giá-thực-phẩm-ngày-một-đắt-đỏ. Đã hẳn, tỉ suất thất nghiệp cao, tham nhũng tràn lan, khan hiếm gia cư cũng là những quan ngại gây bức xúc, nhưng giá thực phẩm tăng cao là nguyên do đầu tiên. Khi tâm điểm phản đối của giới trẻ lan đến Tunisia, Ai Cập..., giá thực phẩm đã nhường chỗ cho các đòi hỏi chính trị, nhưng không bao giờ biến mất. Thực vậy, giá thực phẩm đắt luôn là đề tài quan trọng trong các cuộc biểu tình chống chính quyền ở Jordan, Sudan, và Yemen. Với giá thực phẩm các loại tiếp tục tăng cao - một phần do hậu quả của giá dầu gia tăng song hành - nhiều cuộc chống đối tương tự chắc chắn sẽ xảy ra trong nhiều nơi khác. Giá thực phẩm liên tục gia tăng giữ một vai trò quan trọng trong nhiều xứ đang phát triển vì đại đa số dân chúng chưa bao giờ được chia sẻ sự thịnh vượng trù phú với thân thuộc và tay chân của giới cầm quyền chuyên chế trong nhiều năm, và vì thực phẩm đã chiếm một phần lớn trong ngân sách gia đình của họ. Trong nhiều tháng qua, giá thực phẩm gia tăng nhanh chóng - khoảng 50% đối với vài loại thực phẩm - nhiều gia đình nghèo đã lâm vào cảnh túng thiếu và khủng hoảng. Một người trẻ tham gia phản đối ở Algiers đã nói: "chính quyền đang làm nhục chúng tôi. Họ tăng giá đường. Chúng tôi phải trả tiền thuê nhà, tiền điện, tiền nước, tiền đường, tiền dầu. Tất cả chúng tôi đều nghèo".[1] Điều oái oăm là với giá dầu tăng vọt gần đây, phần lớn các xứ Trung Đông đều giàu tài nguyên năng lượng, do đó, đã thụ hưởng một sự gia tăng đáng kể trong lợi tức quốc gia. Tạm thời gác qua một bên vấn đề phân phối lợi tức, nhất là số thu nhập từ dầu lửa - thường đã được giới thống trị gửi vào các trương mục ngân hàng ngoại quốc - trong thực tế, giá dầu gia tăng đã làm số phận các công dân bình thường thêm phần cơ cực vì giá dầu tăng luôn kéo theo một sự gia tăng tương ứng trong giá các thực phẩm căn bản. Đã hẳn, quan hệ chặt chẽ giữa giá dầu và giá thực phẩm bắt nguồn từ nhiều nguyên do. Trong nỗ lực tăng gia canh tác để nuôi sống dân số thế giới ngày một đông, nông dân đã phải sử dụng dầu khí ngày một nhiều trong nhiều khâu sản xuất. Khuynh hướng nầy đã bắt đầu với nhu cầu cơ giới hóa nông nghiệp từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, với cuộc Cách Mạng Xanh trong hai thập kỷ 1960 và 1970, và được nối tiếp bởi sự du nhập các hệ sinh vật thay đổi "gen" cũng như sự phổ biến các nông trại kinh doanh theo hình thức nhà máy bởi các đại công ty. Dầu lửa cung cấp nhiên liệu cần thiết cho nông cơ cũng như các phương tiện chuyên chở nông sản đến thị trường, đôi khi cách xa hàng nghìn dặm. Dầu lửa cũng được dùng trong kỹ nghệ hóa sinh tiên phong hay "feedstocks" để sản xuất thuốc trừ sâu, diệt cỏ, và phân bón hóa học trong nông nghiệp kỹ thuật cao. Vì vậy, một sự gia tăng trong giá dầu luôn đưa đến gia tăng trong phí tổn sản xuất thực phẩm. Liên hệ hỗ tương trở nên đặc biệt rõ ràng từ đại suy thoái 2008, khi giá dầu và thực phẩm tăng lên mức kỷ lục. Từ tháng 7-2007 đến tháng 6-2008, giá dầu thô đã gia tăng 87%, từ 75 lên đến 140 USD mỗi thùng. Trong cùng thời gian, giá thực phẩm căn bản cũng tăng vọt từ 160 lên 225 USD, so với giá trung bình 100 USD năm 2002-04, theo Chỉ Số Giá Thực Phẩm (Food Price Index) của Cơ Quan Lương Nông Quốc Tế (UNFAO). Thực vậy, như Ngân Hàng Thế đã kết luận trong năm 2009, giá năng lượng và thực phẩm tăng cùng chiều là một điều không có gì đáng ngạc nhiên, bởi lẽ "sản xuất nông nghiệp đã lệ thuộc khá nhiều vào năng lượng. Giá dầu gia tăng đã làm tăng giá nhiên liệu sử dụng trong các hệ thống nông cơ và dẫn thủy nhập điền; nó cũng làm tăng giá phân bón và các hóa chất khác cần năng lượng để sản xuất"[2]. Mọi việc càng khó khăn hơn khi, trong nỗ lực đối phó với hiện tượng thay đổi khí hậu, giá dầu gia tăng đã thúc đẩy việc trồng tỉa các loại thảo mộc cần thiết cho việc sản xuất nhiên liệu sinh học thay vì thực phẩm, vì vậy, càng làm tăng giá thực phẩm. Theo WB, khi giá dầu lên trên 50 USD mỗi thùng, cứ 1% gia tăng sẽ đưa đến 0,9% gia tăng trong giá bắp, "bởi lẽ mỗi USD gia tăng trong giá dầu sẽ tăng lợi nhuận của ethanol và vì vậy, số cầu nhiên liệu sinh học đối với ngô bắp"[3]. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi 2/3 số gia tăng trong số bắp sản xuất trên thế giới kể từ 2004 đã được sử dụng để thỏa mãn số cầu nhiên liệu sinh học của Hoa Kỳ, chỉ còn lại một lượng rất nhỏ để thỏa mãn nhu cầu thực phẩm và thức ăn gia súc, cũng ngày một tăng. Giá thực phẩm tăng vọt trong năm 2008 đã đưa đến sự nổi loạn trong nhiều xứ , kể cả Ai Cập, Haiti, và Pakistan. Trong nỗ lực tránh rối loạn, nhóm G-8 của các quốc gia giàu có, trong cuộc họp ở L'Aquila, Ý, đã hứa dành 20 tỉ USD ba năm liên tiếp để phát triển nông nghiệp trong thế giới đang phát triển. Tuy nhiên, mãi đến 2011, chưa đến 1/20 con số nầy đã thực sự được đóng góp, và rất ít tiến bộ trong chương trình tăng gia sản lượng thực phẩm toàn cầu được ghi nhận. Ngày nay, với giá dầu một lần nữa tăng cao, giá thực phẩm rất có thể vượt quá mức kỷ lục, gây thêm nhiều rối loạn trên thế giới. Thực vậy, những gì chúng ta đang chứng kiến là một vòng lẫn quẩn giá dầu gia tăng đưa đến giá thực phẩm tăng cao, đưa đến bạo loạn chính trị trong các xứ sản xuất dầu, khiến giá dầu tăng vọt, rồi giá thực phẩm lại gia tăng, và cứ thế tiếp tục. Chu kỳ nguy hiểm vừa nói còn gia tăng bởi những hậu quả tăng tốc của hiện tượng thay đổi khí hậu. Trong khi khó thể quy trách một biến cố thời tiết đặc biệt nào đó cho hiện tượng thay đổi khí hậu, tần số và cường độ gia tăng của các sự cố nghiêm trọng như nạn hạn hán ở Nga và Ukraine mùa hè năm ngoái, những trận lụt gần đây ở Úc, và hạn hán ở Bắc TQ, trùng hợp với các mô hình thay đổi khí hậu. Tất cả những thiên tai vừa nói đều đã xảy ra trong những khu vực sản xuất lúa mì then chốt, đã nhen nhúm nổi e sợ số cung thực phẩm bất cập trước mắt và là nguyên nhân khiến giá thực phẩm gia tăng. Cơn thịnh nộ do giá thực phẩm tăng cao rất có thể đã nhường bước cho các âu lo chính trị trước các biến động gần đây ở Bắc Phi và Trung Đông, tuy vậy, vẫn còn hiện hữu. Giá thực phẩm toàn cầu ngày nay vẫn ở mức cao hơn bất cứ lúc nào kể từ khi FAO bắt đầu thu thập Chỉ Số Giá Thực Phẩm cách đây hai thập kỷ, và chắc còn tăng cao khi giá dầu lửa gia tăng. Điều nầy xác nhận những cam kết của Nhóm G-8 trong năm 2009 nâng cao mức sản xuất nông nghiệp trong thế giới đang phát triển vẫn cấp thiết hơn bất cứ thời điểm nào, nhằm tăng gia lượng thực phẩm khả dụng với giá phải chăng. Tóm lại, mọi thứ cuối cùng đều tùy thuộc ở dầu khí. Thế giới cần phải giảm thiểu tối đa mức tiêu thụ năng lượng để hạ thấp giá thực phẩm và nhiên liệu, giảm tốc độ hiện tượng thay đổi khí hậu. Và Hoa Kỳ cũng phải vĩnh viễn chấm dứt chính sách yểm trợ các nhà lãnh đạo độc tài trong các xứ giàu tài nguyên dầu khí. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 13-4-2011 [1] The government is humiliating us. They are raising the price of sugar. We have to pay the rent, the electricity, water, sugar, and oil. We are all poor. [2] ...'agricultural production is fairly energy intensive'. Rising oil price 'raised the price of fuels to power machinery and irrigation systems; it also raisede the price of fertilizer and other chemicals that are energy intensive to produce'. [3] ...because every dollar increase in the price of oil increases the profitability of ethanol and hence biofuel demand for maize.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 4:45:55 GMT 9
Obama-Netanyahu và giải pháp hai nhà nướcVietsciences-Nguyễn Trường Bàn về bài nói chuyện của Tổng Thống Barack Obama thứ năm tuần trước, David Bromwich viết: "Obama luôn ưa thích quyền uy tượng trưng của cách phát biểu hơn là quyền uy thực sự của một sách lược được đạo diễn tốt - một chính sách với đầy đủ chi tiết, cẩn trọng theo đuổi, và mang dấu ấn ý định của chính mình."[1] Thực vậy, sau một tuần lễ theo dõi đấu quyền Anh tưởng tượng giữa T T Obama và Thủ Tướng Netanyahu chẳng đem lại một tiến bộ cụ thể nào trong nỗ lực tìm kiếm hòa bình cho xung đột Do Thái-Palestine, thiết tưởng Tổng Thống cần từ bỏ những chiêu bài, những mỹ từ chính trị, thay vào đó, nên chú tâm vào sự thật đơn thuần. Thực vậy, đây là một nhu cầu thiết yếu. XUNG ĐỘT DOTHÁI-PALESTINE Tìm chân lý luôn khó khăn và thiếu thoải mái. Lời kêu gọi với những rào đón cẩn thận của T T Obama về giải pháp hai nhà nước cơ sở trên các đường biên 1967 quả thực có thể là một bước tiến mới. Đề xuất cũng rất có thể trở thành một phần trong kế hoạch dài hạn nào đó có cơ may thành tựu. Tuy nhiên, điều quan trọng là cho đến nay Obama vẫn chưa cho thấy khả năng hậu thuẩn lời nói của mình với quyền lực chính quyền Hoa Kỳ có thể đang nắm giữ. Trong lúc chờ đợi, diễn văn của Tổng Thống sẽ khó lòng đem lại bất cứ một thay đổi nào trong tình trạng áp đảo của Do Thái đối với người Palestine. Và Sever Plocker, một nhà bình luận Do Thái có thẩm quyền, còn nêu ra một vấn đề sâu xa hơn: "Tổng Thống Hoa Kỳ rõ ràng đã chấp nhận cốt lõi của tự truyện Israeli-Zionist."[2] Plocker cũng đã có thể nói như vậy đối với các lãnh đạo chính trị gộc và các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ. Chuyện kể của người Mỹ về vấn đề xung đột Do Thái-Palestine cũng giống hệt tự truyện của chính người Do Thái. THỰC TẾ HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC Chúng ta cần phải trung thực. Truyện kể của người Do Thái không những bóp méo sự thật, mà còn hoàn toàn xuyên tạc chân lý. Điều éo le là những gì người Do Thái nói về người Palestine là một mô tả trung thực về chính người Do Thái. Người Do Thái cũng có thể nhìn chính họ trong gương và nói về chính họ khi nói những điều như "chúng là kẻ xâm lăng; chúng tôi là nạn nhân chỉ tự vệ." [3] Đó là một phần trong chuyện kể hoang đường về an ninh do người Do Thái đã tự tạo với tiền đề: Do Thái đang đối diện với mọi nguy cơ trong cuộc xung đột với người Palestine. Obama đã cả tin chuyện kể hoang đường vừa nói trong bài nói chuyện "Mùa Xuân A Rập" khi ông kêu gọi một sự trao đổi cân bằng: người Palestine có thể có được một nhà nước và người Do Thái có thể có được an ninh, tựa hồ như người Do Thái với lực lượng áp đảo là nạn nhân của tình trạng mất an ninh. Trong những ngày kế tiếp, Obama đã lặp lại cùng lời rao giảng quen thuộc "Cam kết của chúng tôi đối với vấn đề an ninh của Do Thái là không thể lay chuyển," và còn đưa ra lời cảnh cáo mập mờ "kỷ thuật sẽ làm cho Do Thái khó tự bảo vệ hơn."[4] Có lẽ đây là mật mã ám chỉ một ngày nào đó một xứ Trung Đông nào đó có thể có được vũ khí nguyên tử, tựa như bất cứ xứ Trung Đông nào cũng có thể đe dọa Do Thái, một xứ đã sở hữu khoảng 200 vũ khí nguyên tử và luôn có thể sản xuất thêm. Obama cũng đã nhắc đến điều ông gọi là "giả thiết về an ninh của người Palestine."[5] Đó là cách người Do Thái diễn tả hy vọng lâu nay: cảnh sát Palestine sẽ trở thành điều Netanyahu có lần đã gọi là những "nhà thầu phụ của Do Thái - Israel's sub-contractors," thay thế quân đội Do Thái dẹp mọi kháng chiến chống lại Do Thái và chính sách của Do Thái. Một lần nữa, tiền đề là Do Thái phải gánh chịu mọi nguy cơ. Tuy nhiên, trong thực tế, người Palestine luôn chịu nguy cơ bất an ninh hơn người Do Thái. Cũng như các nạn nhân của thực dân chiếm đóng quân sự khác, người Palestine luôn chịu thương vong và tàn phá không báo trước, tùy sở thích của giới quân sự và dân định cư Do Thái. Trong hơn một phần tư thế kỷ vừa qua, cứ mỗi người Do Thái thương vong, 11 người Palestine đã bị tử thương trong cuộc xung đột. Và không một ai trong chúng ta đã có thể chờ đợi một câu như sau trong diễn văn của một chính trị gia Hoa Kỳ: "Cam kết của chúng tôi đối với an ninh Palestine là không thể lay chuyển."[6] Obama đã từng tuyên bố mọi quốc gia đều có quyền tự vệ. Tuy nhiên, liền sau đó, Obama lại nhấn mạnh: nhà nước Palestine mới sẽ không được quyền có quân đội. Liệu có quốc gia nào có thể chấp nhận điều kiện đó, nhất là khi xứ láng giềng kế cận đang có lực lượng quân sự mạnh nhất trong khu vực, và trong nhiều năm đã luôn giữ vai trò áp đảo và tấn công ? Tuy vậy, ý niệm một nhà nước Palestine phi quân sự là một điều đương nhiên đối với Hoa Kỳ và Do Thái, tuồng như mối đe dọa duy nhất trong tương lai chỉ có thể đến từ người bị chiếm đóng, không phải từ người đi xâm chiếm. Tình trạng bất quân bình quyền lực lớn lao giữa người xâm chiếm và người bị chiếm đóng đưa đến một sự thật méo mó xuyên tạc bởi "tác dụng gương soi" chi phối mọi diễn đàn của người Mỹ về đề tài Do Thái-Palestine: ý niệm phi lý hai bên có thể thương thuyết bình đẳng, khi kẻ yếu trong hai bên từ trước đã phải từ bỏ khoảng 78% lãnh thổ, nay còn phải nhượng bộ nhiều hơn, để rồi phải sinh hoạt như một quốc gia hoàn toàn yếu kém và thất thế. Trong một cuộc gặp mặt riêng với các lãnh đạo Do Thái, Obama được biết đã nói ông thực sự hiểu rõ tình hình: "Do Thái là phía mạnh hơn hiện nay... Và DoThái cần phải tạo môi trường để thể hiện [hòa bình]."[7] Nhưng chừng nào những lời tuyên bố công khai của ông còn tăng cường câu chuyện hoang đường thiếu an ninh của Do Thái, người Do Thái còn có thể an toàn đề kháng mọi đòi hỏi phải thay đổi. HÃY NHÌN VÀO GƯƠNG SOI Người Do Thái biện minh cho lập trường bất di dịch của mình với một hình ảnh gương soi méo mó khác: "Chúng tôi muốn hòa bình hơn bất cứ gì, nhưng họ [người Palestine] không thích hòa bình."[8] Người Do Thái luôn thích lặp lại một sáo ngữ sáng tạo cách đây nhiều thập kỷ bởi nguyên ngoại trưởng Abba Eban của họ khi nói về các lãnh đạo A Rập: "Họ không bao giờ bỏ qua một cơ hội để bỏ qua một cơ hội hòa bình."[9] Trong thực tế, chính người Palestine là phía phải nói lên lời than phiền đó với người Do Thái. "Cánh hữu Do Thái cần chiến tranh triền miên" là phương cách tóm tắt tình hình của một trí thức Do Thái lừng danh, Zeev Sternhell. Netanyahu, cũng như tất cả các lãnh đạo cánh hữu Do Thái, trong thực tế, đã xây dựng sự nghiệp của ông trên hình ảnh một chính trị gia diều hâu cực đoan khi nói đến người Palestine. Với các cử tri Do Thái ngày một thiên hữu nhiều hơn trong thế kỷ 21, hình ảnh đó đã rất hữu ích cho Netanyahu hơn bất cứ lúc nào. Vì vậy, ngay cả khi Netanyahu lên tiếng biện hộ cho sự nghiệp hòa bình, ông ta luôn tỏ rõ không thiết tha chút nào trong việc mưu cầu chấm dứt xung đột thực sự - và chương trình liên tục xây dựng các khu định cư ở Đông Jerusalem và khu chiếm đóng West Bank luôn bảo đảm xung đột sẽ tiếp diễn. Tuy nhiên, như sự việc đang diễn tiến, nhu cầu một kẻ thù, và do đó, một xung đột tiếp diễn, không chỉ hạn chế riêng trong phe chính trị cánh hữu hay các người chủ trương bành trướng chương trình định cư. Như Theodore Herzl đã viết trong văn kiện sáng lập chủ nghĩa phục quốc Zionism, "Kẻ thù của chúng tôi đã giúp chúng tôi hợp nhất, và, vì vậy, đoàn kết, chúng tôi đột nhiên khám phá sức mạnh của chúng tôi, 'Quốc Gia Do Thái'."[10] Và các nhà bình luận DoThái nhạy cảm trong nhiều năm đã đặt câu hỏi điều gì đã có thể giúp kết hợp giữa các người Do Thái nếu họ không có kẻ thù A Rập hay Palestine chung. Theo Awraham Burg, nguyên chủ tịch Quốc Hội Do Thái, đó vẫn là câu hỏi định hình tất cả các người Do Thái: "Có thể nào chúng ta tiếp tục tồn tại nếu không có kẻ đối nghịch truyền kiếp, nếu không là nạn nhân luôn bị ngược đãi?"[11] Một sự thật đáng buồn! Đối với hầu hết các người Do Thái, câu trả lời hình như là: không. Một nhà bình luận Do Thái nổi tiếng của tờ Jerusalem Post đã có câu trả lời hay nhất: "Người Do Thái sẽ nổi giận khi anh bảo họ chúng ta không cần phải tiếp tục theo đuổi chiến tranh, chúng ta đủ hùng mạnh để làm nản lòng kẻ thù của chúng ta ... Họ không muốn nghe gì về khả năng hòa bình...Tất cả những gì họ muốn nghe là ein breira, chúng tôi không có sự lựa chọn, hoặc chiến đấu hoặc chết."[12] Theo lời các biên tập viên tờ báo uy tín nhất của Do Thái, Haaretz, đời sống chính trị của Do Thái luôn mang dấu ấn một ám ảnh thực sự, "một ý thức chúng tôi luôn bị tấn công... một ý nghĩ điên rồ bị ngược đãi."[13] Đã hẳn, đó là câu chuyện xưa cũ. Một bài bình luận trên tờ Haaretz đã ghi nhận: "Lập trường của Do Thái ngày nay cũng tương tự như lập trường sau các cuộc chiến tranh 1948 và 1967. Tiềm năng thương thuyết có đấy, nhưng cái giá [chính trị] phải trả được xem như quá cao. Ngày nay, cũng vậy, duy trì hiện trạng hình như được xem có lợi hơn là thay đổi người Do Thái luôn cảm nhận như nguy hiểm, ngay cả khi thay đổi không nhất thiết đem lại hiểm nguy thực sự."[14] Sự giải hòa gần đây giữa Hamas và Fatah đã khiến người Do Thái cảm nhận như một nguy cơ tưởng tượng mới để thêm âu lo. Tin tức về sự nhất trí giữa người Palestine đã phát động một đợt sóng thần trong công luận Do Thái, một làn sóng cảnh cáo một hệ ý thức thần quyền cực hữu có thể dễ dàng kiểm soát nhà nước Palestine. T T Obama đã thêm dầu vào lửa khi nói "Hamas đã và hiện đang là một tổ chức từng sử dụng khủng bố; đã từ chối công nhận quyền hiện hữu của Do Thái. Hamas không phải là một đối tác trong quá trình hòa bình thực tiển và có ý nghĩa."[15] Netanyahu đáp lời: "Do Thái rõ ràng không thể bị đòi hỏi phải thương thuyết với một chính quyền được hậu thuẩn bởi một hình thái al Qaeda của Palestine."[16] Đây cũng là một trường hợp khác người Do Thái đang tự thấy mình trong gương. Trong thực tế, Hamas đã liên tục chuyển đổi qua hình thức: chủ nghĩa quốc gia thế quyền ngày một ôn hòa hơn về chính trị. Nhà cầm quyền Hamas ở giải Gaza luôn bận rộn đối phó với các đe dọa và khinh rẽ từ những phần tử thần quyền Hồi giáo cánh hữu. Những đợt tấn công bằng tên lửa hiếm hoi vào Do Thái hiện nay chỉ là phản ứng trả đũa sau các cuộc tấn công của Do Thái. Lãnh tụ Hamas Khaled Meshaal trong nhiều năm nay đã luôn nói rõ: ông và đảng Hamas muốn tuyệt đối chấp nhận giải pháp hai nhà nước - mặc nhiên chấp nhận sự hiện hữu thường trực của Do Thái - chừng nào đa số người Palestine chấp thuận. Meshaal nay còn nói đến "hòa bình" thay vì "đình chiến" và xem hiến chương Hamas, kêu gọi tiêu diệt Do Thái, không còn thích hợp. Riêng đối với vấn đề công nhận tối quan trọng, chính Do Thái đang từ chối công nhận Hamas như một chính đảng hay quyền của người Palestine lựa chọn một nhà nước dân chủ và chính quyền riêng của mình. Trong lúc đó, chính quyền Do Thái đã làm chính những điều họ lên án Hamas - mở rộng cánh cữa đón nhận các luật lệ ngày một mang tính thần quyền, phản động, phân biệt chủng tộc. "Các cuộc thăm dò công luận cho thấy khuynh hướng ngày một cực đoan, gần như phân biệt chủng tộc, trong thiên kiến của dân Do Thái đối với người A Rập, như tờ Haaretz đã ghi nhận, vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi không có áp lực quần chúng buộc chính quyền phải thúc đẩy quá trình hòa bình."[17] Hiện thế giới đang chờ đợi, vào tháng 9 sắp tới, Đại Hội Đồng LHQ sẽ bỏ phiếu chấp thuận ban quy chế một quốc gia với đầy đủ chủ quyền cho Palestine. Trong bài nói chuyện trước Quốc hội, Obama đã lặp lại như một âm vang giọng điệu của Israel: "hành động thúc đẩy LHQ công nhận Palestine như một quốc gia thành viên mới sẽ phương hại cơ may mang lại hòa bình." Trong thực tế, cuộc biểu quyết có thể phát huy tiến trình hòa bình qua áp lực dồn đẩy Do Thái luôn giữ lập trường phủ định đến gần điều Do Thái hiện đang âu lo nhất: cuối cùng rồi tiếng nói bất khả đề kháng của thế giới buộc phải thương nghị hòa bình thay vì trở thành một quốc gia ngoài vòng pháp luật hay bị bỏ rơi. Một điểm sau cùng Obama và chính quyền Hoa Kỳ tuyệt đối đang đi ngược chiều lịch sử: ý niệm bạn của Do Thái có nghĩa phải tán đồng tự truyện hoang tưởng của người Do Thái. Bạn thân không có quyền giúp bạn mình đi vào con đường tự diệt. Bạn tốt không thể để bạn mình say sưa một câu chuyện hoang đường, một ảo tưởng, đến độ không còn biết ăn năn hối tiếc khi tiếp tục lèo lái tiến trình hòa bình xuống vực thẳm. Hoa Kỳ có đủ quyền lực để đẩy Do Thái ra xa vực thẳm và đổi qua một hướng đi mới. Câu nói đùa phổ thông của người Do Thái cũng mang một sự thật: Hoa Kỳ là "con voi tám tấn có thể ngồi xuống nơi nào nó muốn."[18] Vâng, Obama có thể ngồi xuống bất cứ nơi nào ông ta muốn. Và Do Thái rất có thể phải rời khỏi thế giới gương soi và phải chấp thuận bắt đầu thương nghị hòa bình một cách nghiêm túc. THAY LỜI KẾT LUẬN Trong vòng một tuần lễ trong tháng 5-2011, T T Obama và Thủ Tướng Do Thái Netanyahu mỗi người đã có dịp nói về cùng một câu chuyện ít nhất hai lần. Ngày 17-5, T T Obama đã có bài nói chuyện về - Mùa Xuân A Rập - Arab Spring, sau một cuộc điện đàm sôi nổi giữa Netanyahu và ngoại trưởng Hillary Clinton. Trong bài diễn văn, Tổng Thống đã nói: "Chúng tôi tin biên giới của Do Thái và Palestine cần được cơ sở trên những đường phân ranh 1967 với ít nhiều trao đổi tương thuận, ngõ hầu thiết lập biên giới an toàn và được công nhận cho cả hai nhà nước."[19] Và một bảo tố bình luận bùng nổ. Mặc dù, người ta tin, đây là một lập trường đã được đồng thuận riêng tư từ lâu của tổng thống Hoa Kỳ, nhưng chưa bao giờ được công bố bởi một tổng thống (hay có lẽ bất cứ một quan chức cao cấp Hoa Kỳ nào). Báo chí cho biết Netanyahu đã phản ứng giận dữ, và ngay ngày hôm sau, 18-5-2011, được biết đã lớn tiếng - với một Obama lễ độ nhưng lộ vẻ thiếu thoải mái trước ống kính trong Tòa Bạch Ốc - thuyết giảng về tính bất khả tự vệ của các đường phân ranh 1967. Tuy nhiên, vào ngày chủ nhật, 20-5, Obama đã xuất hiện trước AIPAC - nhóm vận động hành lang ồn ào thân Do Thái - với một bài nói chuyện lặp lại lập trường đối với các đường biên giới 1967, nhưng cũng với ít nhiều dè dặt. Ngày thứ hai tiếp theo ((21-5), Netanyahu cũng xuất hiện, và được hoan hô nhiệt liệt, trước cùng nhóm vận động hành lang, để lặp lại lập trường của mình về tính-bất-khả-bảo-vệ của đường biên giới. Ngày thứ ba (22-5), do sáng kiến khởi động bởi các lãnh đạo Cộng Hòa Hạ Viện, Netanyahu lại được mời xuất hiện trước Lưỡng Viện Quốc Hội, rõ ràng là để làm bẻ mặt và gây bối rối cho Tổng Thống Obama. Một lần nữa, Netanyahu, dĩ nhiên, đã được dành 29 đợt tung hô, tán thưởng - standing ovations. Đây là vụ va chạm giữa hai khổng lồ về một dị biệt, cơ bản đến độ, vào tháng 11-2010, cả hai chính phủ trên lý thuyết đã nhất trí. Chris Nelson, chủ biên bản tin Hoa Thịnh Đốn The Nelson Report, vừa mới tìm thấy một tuyên bố chung - joint statement - được đồng ý và công bố sau khi Netanyahu gặp mặt ngoại trưởng Hillary Clinton tháng 11-2010, trong đó có câu: "Thủ Tướng và Ngoại Trưởng nhất trí về tầm quan trọng tiếp tục thương nghị trực tiếp để thành đạt các mục tiêu của chúng ta. Ngoại Trưởng đã lặp lại Hoa Kỳ tin tưởng qua các cuộc thương nghị với thiện chí, các bên có thể đồng ý trên kết quả chấm dứt xung đột và hòa đồng mục tiêu của Do Thái về một nhà nước độc lập và khả tồn, trên cơ sở các ranh giới 1967, với những trao đổi được đồng thuận, và mục tiêu của Do Thái về một nhà nước Do Thái với biên giới an toàn và được công nhận, phản ảnh những triển khai kế tiếp và thỏa mãn các đòi hỏi an ninh của Do Thái."[20] Không la ó. Không than phiền. Không lớn tiếng. Không gì hết. Ồn ào, lớn tiếng, giận dữ rất có thể chẳng có ý nghĩa gì. Không phải chỉ những gì Tổng Thống nói, mà những gì Tổng Thống làm mới đáng kể. Và khi nói đến việc làm, với George Mitchell, đặc phái viên Trung Đông của Obama (bổ nhiệm vào ngày thứ hai sau khi bắt đầu nhiệm kỳ), đột nhiên từ nhiệm - vì bức xúc, vì thất vọng, hay vì ghê tởm, chúng ta không hề biết. Cũng chẳng có dấu hiệu tổng thống sẽ làm bất cứ điều gì liên quan đến các đường biên giới 1967, ít ra trước cuộc bầu cử 2012. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 02-6-2011 [1] Obama has always preferred the symbolic authority of the grand utterance to the actual authority of a directed policy - a policy fought for in particulars, carefully sustained, and traceable to his own intentions. [2] The American president has unequivocally adopted the essence of the Israeli-Zionist narrative. [3] They are the aggressors; we're the victims just defending ourselves. [4]"Our commitment to Israel's security is unshakeable" and offered a vague warning that "technology will make it harder for Israel to defend themselves." [5] The assumption of Palestinian security. [6] Our commitment to Palestine's security is unshakeable. [7] Israel is the stronger party here... And Israel needs to create the context for[peace] to happen. [8] We want peace more than anything, but they have no interest in peace. [9] Abba Eban: "They never miss a chance to miss a chance for peace." [10] Our enemies have made us one, and, thus united, we suddenly discover our strength,"The Jews State". [11] Can we continue to exist without a perennial adversary, without being victims of persecution? [12] Israelis get mad when you tell them we don't have to keep going to war, that we're strong enough to deter our enemies... People don't want to hear anything about possibilities for peace... All they want to hear is ein breira, we have no choice, it's either fight or die. [13] ...a sense that we are constantly under attack...an insanity of persecution. [14] Israel's position taday is similar to its position after the wars of 1948 and of 1967. The potential for negotiations was there, but the [political ] cost was considered too high. Now, too, maintaining the status quo appears to be preferable to making change that Israelis perceive as threatening, even if they do not necessarily pose a genuine danger. [15] President Obama: "Hamas has been and is an organization that has resorted to terror; that has refused to acknowledge Israel's right to exist. It is not a partner for a significant , realistic peace process." [16] Netanyahu: "Israel obviously cannot be asked to negotiate with a government that is backed by the Palestinian version of al Qaeda." [17] Public opinion polls point to increasing extremism, bordering on racism, in Jews' opinion of Arabs, so it's no wonder there is no public pressure on the government to advance the peace process. [18] The U.S. is the eight-ton elephant that can sit down anywhere it wishes. [19] We believe the borders of Israel and Palestine should be based on the 1967 lines with mutually agreed swaps, so that secure and recognized borders are established for both states. [20] The Prime Minister and the Secretary agreed on the importance of continuing direct negotiations to achieve our goals. The Secretary reiterated that the United States believes that through good faith negotiations, the parties can mutually agree on an outcome which ends the conflict and reconciles the Palestinian goal of an independent and viable state, based on the 1967 lines, with agreed swaps, and the Israeli goal of a Jewish state with secure and recognized borders that reflect subsequent developments and meet Israeli security requirements
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 16, 2013 4:43:34 GMT 9
Tình hình Ai Cập phân rẽ thế giới (VienDongDaily.Com - 05/07/2013) Hoài Mỹ
CAIRO - Sáng Thứ Năm, 04-07-2013, ban lãnh đạo quân đội Ai Cập xác nhận đã cầm giữ Tổng Thống Mohamed Morsi. Hiện người ta không rõ liệu ông Morsi mai này có thể được phép đi đâu theo ý muốn hay không. Phát ngôn viên của Huynh Đệ Hồi Giáo (Muslim Brotherhood), Gehad El-Haddad cho biết, “Ông Morsi và toàn thể cộng sự viên thân cận của ông hiện bị quản thúc tại gia.” Ông Morsi nhấn mạnh rằng ông vẫn tiếp tục là Tổng Thống của Ai Cập. Trong một cuốn phim video được đưa lên mạng TouTube, ông tuyên bố, “Tôi vẫn là Tổng Thống được bầu cử của Ai Cập. Nhân dân nay đòi hỏi việc bảo vệ sự hợp pháp này vốn phù hợp với Hiến Pháp.” Theo các cơ quan truyền thông Ai Cập, hai cộng sự viên thân tín nhất của ông Morsi đã bị lực lượng an ninh bắt giữ vào rạng sáng Thứ Năm - và ít nhất 10 người đã bị thiệt mạng trong các vụ đụng độ mới sau khi Tổng Thống bị bãi chức.
Các lãnh tụ tối cao của Huynh Đệ Hồi Giáo bị bắt Theo nguồn trong quân đôi và cơ quan tư pháp, Biện Lý Cuộc Ai Cập đã ban hành lệnh bắt giam lãnh tụ tối cao Mohamed Badie và phó lãnh tụ Khairat al-Shater của Huynh Đệ Hồi Giáo. Được biết Khairat al-Shater đã từng được phong trào Huynh Đệ Hồi Giáo đề cử đầu tiên làm ứng cử viên Tổng Thống trước cuộc bầu cử năm 2012, nhưng đương sự đã bị Hội Đồng Bầu Cử loại ra vì không đủ tư cách. Thương gia hàng đầu này vốn được xem là chiến lược gia chính trị tiên tiến của Huynh Đệ Hồi Giáo, thế nhưng cuối cùng vẫn phải nhượng bộ cương vị ứng cử viên cho Mohamed Morsi. Ngoài hai lãnh tụ kể trên, thêm hai lãnh tụ khác nữa cũng bị chung số phận. Đó là Saad al-Katatni, người điều khiển đảng Tự Do và Công Lý, chi nhánh chính trị của Huynh Đệ, và Rashad Bayoumi, phó lãnh tụ của phong trào Hồi Giáo.
300 lệnh bắt giam Vẫn theo các cơ quan truyền thông Ai Cập, đồng thời lệnh bắt giam cũng được ban hành đối với 300 thành viên của tổ chức Huynh Đệ. Chính quyền tư pháp Ai Cập đã quyết định khởi sự cuộc điều tra vị Tổng Thống bị truất phế Mohamed Morsi và 15 lãnh tụ khác của Huynh Đệ Hồi Giáo. Theo Chánh Thẩm cuộc điều tra, Tharwat Hammad, nguyên nhân khởi tố nói trên là bởi các đương sự đã xúc phạm hệ thống tư pháp Ai Cập. Đồng thời vị Chánh Thẩm này cũng đã áp đặt lệnh cấm xuất ngoại đối với các nghi can. Đây là lần thứ hai ông Morsi bị chính thức cấm rời khỏi đất nước sau khi quân đội Ai Cập hôm Thứ Tư đã cất chức Tổng Thống của đương sự. Một lãnh tụ khác của Huynh Đệ Hồi Giáo, Gamal Hesmat, nói với thông tấn xã Reuters rằng Huynh Đệ Hồi Giáo không muốn dùng đến bạo lực sau khi ông Mohamed Morsi vị truất phế, “Tuyệt đối không có khuynh hướng sử dụng bạo lực. Huynh Đệ không xây dựng trên việc lạm dụng bạo lực. Chủ đích của chúng tôi là hòa bình, thật sự là bảo vệ mọi quyền lợi của chúng ta; điều này vốn mạnh mẽ hơn là một cuộc đảo chánh quân sự.” Hàng ngàn người dân Ai Cập đã reo mừng khi quân đội truất phế ông Mohamed Morsi khỏi chức vị Tổng Thống, tuy nhiên hiện tình trên đất nước này rất căng thẳng và các hành động bạo lực vẫn tiếp tục. Tân Tổng Thống lâm thời: Adly Mansour Luật gia Adly Mansour (67 tuổi) đã tuyên thệ làm Tổng Thống lâm thời của Ai Cập. Buổi lễ đã được trực tuyến trên hệ thống truyền hình Ai Cập vào sáng Thứ Năm. Ông Mansour vốn tốt nghiệp trường danh tiếng École Natiomale dAdministration của Pháp, trước đó đã nắm giữ trách nhiệm lãnh đạo tòa án tối cao (Hiến Pháp) của Ai Cập, nay điều hành trong một giai đoạn chuyển tiếp một quốc gia đông dân số nhất (trên 84 triệu người) trong thế giới Ả Rập. Lời thề hứa của ông Mansour, theo Macrobutton đài Al Jazeera, rất ngắn, “Nhân danh Thượng Đế vĩ đại, tôi tuyên thệ tôn trọng hiến pháp và luật pháp.” Giầu kinh nghiệm: Ông Adly Mansour mới chỉ ngồi ghế lãnh đạo tòa án Hiến Pháp được hai ngày mà thôi thì đã được quân đội đề cử giữ chức vị nguyên thủ quốc gia. Ông là một luật gia rất giầu kinh nghiệm. Nay ông phải lãnh đạo dân chúng Ai Cập vượt qua một giai đoạn đầy bất chắc sau khi vị nguyên thủ quốc gia do dân bầu, Mohamed Morsi, bị cách chức. Quân đội hy vọng là ông Mansour có thể hành động như một bung xung (figure head) trung lập. Fatwas: Ông Mansour đã phục vụ trong các tòa án tôn giáo vốn đã ban hành những “fatwas” - những quyết định về các vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên ông cũng đã làm việc về các vụ hình sự và án hộ. Vào cuối tháng 6 vừa rồi, ông được đề bạt làm Chánh Thẩm tòa án Hiến Pháp, cơ quan tư pháp tối cao của Ai Cập. Việc đề cử này, theo Hoa Xã (Xinhua) của Trung Cộng, là một mấu chốt trong tiến trình củng cố mạnh mẽ hơn nữa sự độc lập của tòa án đối với quyền lực của Tổng Thống. Tuy đã từ lâu ông Mansour đã nắm giữ một vai trò quan trọng trong hậu trường nhưng ông không phải là một chính trị gia được biết đến nhiều ở Ai Cập. Không được chú ý: Đài Al Jazeera viết, “Có thể ông Mansour đã có mặt, tuy không được chú ý, trong một cuộc biểu tình đông đảo hôm Chủ Nhật vừa rồi. Đó chính là những hành động chống đối vốn đưa đến kết quả quân đội truất phế ông Morsi.” Trái với lãnh tụ Mohamed ElBaradei, cựu Chủ Tịch Liên Hiệp Ả Rập - Adly Mansour không phải là một tên tuổi quen thuộc trên các cơ quan truyền thông. Do đó điều ấy có thể đã củng cố vị thế của ông trong ánh mắt của quân đội. Khuôn mặt của ông Mansour cũng không thấy trên các biểu ngữ mà những người biếu tình mang theo trong cuộc phản đối sự tiếm đoạt quyền lực của Huynh Đệ Hồi Giáo trong suốt 12 tháng ông Morsi làm Tổng Thống. Thế nhưng trong thời gian sắp tới, người Ai Cập sẽ được biết thêm về nhân vật này hiện lèo lài đất nước.
Hiện tình ở Ai Cập phân rẽ thế giới Những phản ứng quốc tế về cuộc “đảo chính quân sự” ở Ai Cập rất khác biệt, từ kết án đến chúc mừng. Tới nay đã hơn một ngày Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Ai Cập, tướng Abdel Fattah al-Sidi, đã quyết định việc cất chức Tổng Thống Mohamed Morsi. Việc này xẩy đến sau nhiều ngày diễn ra các cuộc biểu tình đông đảo trên các đường phố của Ai Cập. Và như trên đã tường thuật, sau những ngày giờ bi thảm, luật gia Adly Mansour đã được quân đội đề cử làm Tổng Thống lâm thời. Mặc dù việc thay đổi quyền hành xẩy ra sau nhiều ngày với các cuộc biểu tình, việc tiếp quản này vẫn “được” nói đến như một vụ đảo chánh quân sự. Những phản ứng rất dị biệt: Cả Kuwait lẫn United Arab Emirates đều đã chúc mừng việc đề cử ông Mansour. Saudi-Arabia cũng vậy qua một bản tuyên cáo của quốc vương Abdullah, “Nhân danh nhân dân ở Saudi-Arabia và cá nhân tôi, chúng tôi khen ngợi sự lãnh đạo ở Ai Cập trong giai đoạn nguy kịch trong lịch sử của đất nước này.” Qatar, quốc gia vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với chính phủ-Morsi và đã từng chuyển hàng nhiều tỉ đô la cho Ai Cập, nay vẫn chưa bầy tỏ ý kiến gì về cuộc đảo chánh quân sự. Theo lời bình luận hiếm hoi của bộ Nội Vụ, “Qatar vẫn tiếp tục tôn trọng Ai Cập và ý muốn của dân chúng.” “Băn khoăn sâu đậm”: Tuy nhiên, tất cả mọi sự đều không thuận lợi. Trong lời bình luận đầu tiên về tình hình sau cuộc truất phế ông Morsi, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố rằng ông “băn khoăn sâu đậm” trước tình hình ở Ai Cập. Trong một bản văn, Tổng Thống đồng thời kêu gọi tất cả các phe phái chứng tỏ sự thận trọng của mình và không theo đuổi bạo lực. Ông Obama còn nói rằng ông đã yêu cầu tất cả chính quyền liên hệ hãy cứu xét các ý nghĩa của việc truất phế ông Morsi của quân đội nhằm xác định các hệ quả của việc viện trợ của Hoa Kỳ cho Ai cập. Thế nhưng Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn đề cập đến việc tiếp quản quyền lực này là một “vụ đảo chánh.” Nguyên nhân có thể là biến cố ấy sẽ gây nên những hệ quả đối với việc yểm trợ kinh tế mà Hoa Kỳ hàng năm vẫn chuyển sang Ai Cập. Theo thông tấn xã Reuters, việc yểm trợ này lên tới 1,5 tỉ Mỹ Kim mỗi năm. Nếu việc yểm trợ này bị hủy bỏ thì sẽ tạo nên những ảnh hưởng lớn lao cho quân đội Ai Cập vì quân đội vẫn nhận lãnh những phần lớn lao của chương trình viện trợ ấy. “Sự thất bại lớn lao”: Trong khi đó, Ngoại Trưởng Đức bằng một giọng nói cứng rắn đã gọi việc can thiệp của quân đội là “một sự thất bại lớn lao của nền dân chủ ở Ai Cập.” Theo thông tấn xã NTB, ông Westerwelle đã tuyên bố, “Nay thật gấp rút mà Ai Cập càng phải nhanh chóng quay trở lại với một hệ thống mang tính hiến pháp. Nguy cơ thực tiễn là việc chuyển tiếp dân chủ ở Ai Cập đã bị thiệt hại nghiêm trọng.” Và Thổ Nhĩ Kỳ cũng nghi ngại. Ngoại Trưởng Ahmet Davutoglu phát biểu, “Không thể chấp thuận được rằng một chính phủ vốn lên cầm quyền bằng cuộc bầu cử dân chủ, lại bị lật đổ bởi một vụ đảo chánh quân sự.” Liên Hiệp Phi Châu cũng đã phản ứng mạnh mẽ đồng thời tuyên bố Ai Cập sẽ có thể bị gạt ra khỏi mọi hoạt động.
Nhà độc tài Assad nói về Ai Cập: Đó là sự chấm dứt chính trị Hồi Giáo Mặc dù chính nhà độc tài Bashar al-Assad là nguyên nhân chính yếu của cuộc nội chiến ở Syria sau khi dân chúng xuống đường đòi ông ta từ chức. Đã trên 100,000 người bị thiệt mạng. Vậy mà Assad vẫn “quan tâm” đến quốc gia Ai Cập lân bang, nơi Huynh Đệ Hồi Giáo hiện bị áp lực mạnh mẽ. Trong một cuộc phỏng vấn dành một nhật báo do nhà nước quản lý, Assad đưa ra nhận xét, “Sau trọn một năm, những sự thực tế đã sa sút nơi dân chúng Ai Cập. Phương cách hành động của Huynh Đệ Hồi Giáo đã giúp cho dân chúng nhìn thấy những sự dối trá vốn được sử dụng ngay từ đầu bởi cuộc cách mạng ở Ai Cập.” Phong trào Huynh Đệ này từ lâu vẫn là kẻ thù của chế độ độc đoán, thế tục của Syria. Trong số những người nổi dậy ở Syria đã có nhiều nhóm tôn giáo; trong đó một số nhóm vẫn có sự quan hệ chặt chẽ với Hồi Giáo cực đoan. Nay Assad quả quyết là các sức mạnh Hồi Giáo đang trên đường tháo lui, “Trên khắp thế giới này, những kẻ sử dụng tôn giáo để mong đạt được mục tiêu chính trị hoặc muốn ủng hộ người này chứ không phải người khác, sẽ bị sụp đổ.” Nhà độc tài này kết luận, “Sự cố xẩy ra ở Ai Cập tự nó là một sự thất bại của cái gọi là Hồi Giáo chính trị.”
Mohamed ElBaradei được quân đội ủng hộ Thứ Năm vừa rồi, Chánh Thẩm của tòa án tối cao của Ai Cập, Adly Mansour, đã được đề cử làm Tổng Thống lâm thời. Ông có thể chỉ là một hình tượng của cuộc chuyển tiếp mà thôi. Vậy ai sẽ điều khiển đất nước này sau cuộc bầu cử tân Tổng thống, thì đó là một câu hỏi hoàn toàn công khai và nóng bỏng. Khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình Mohamed ElBaradei, cựu Giám Đốc cơ quan Năng Lực và Nguyên Tử Quốc Tế (IAEA/International Atomic Energy Agency), hiện điều hành liên minh đối lập và là một trong những kiến trúc sư phía sau cho lộ đồ mà nay sẽ sửa soạn cho một cuộc bầu cử mới ở Ai Cập. Một nguồn ẩn danh trong bộ chỉ huy quân đội nay đã ấn loát hình ảnh ông ElBaradei trên ngực mình làm ứng cử viên hàng đầu vốn sẽ điều hành chính phủ chuyển tiếp hầu được ổn định vững vàng. Nguồn này phát biểu, “Ông ElBaradei là sự chọn lựa đầu tiên của chúng tôi. Ông là một khuôn mặt quốc tế, phổ biến giữa giới trẻ và tin tưởng vào một nền dân chủ vốn bao gồm tất cả ý lực chính trị. Ông cũng được mến chuộng trong các nhóm Hồi Giáo.” Ông ElBaradei hiện cộng tác với quân đội. Điều này có nghĩa là một sự hoàn toàn đảo ngược của khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình. Còn nhớ tháng 11 năm 2011, ông Mohamed ElBaradei đã cùng hàng chục ngàn người Ai Cập xuống đường chống lại quân đội. Thông điệp lúc đó rất minh bạch: Ai Cập phải quay trở lại hệ thống dân sự, và quân đội phải trao lại quyền kiểm soát cho một chính phủ liên hiệp! Jon Nordenson, chuyên gia về Trung Đông, nhận xét; “Có nhiều nhà hoạt động ngạc nhiên trước việc nay có một dân số vốn ca tụng cùng thứ mà họ đã cố gắng dứt bỏ. Thế nhưng xem ra đại đa số hiện ủng hộ quân đội.” Ông Nordenson kết luận, “Người ta hiện không biết phe đối lập muốn gì. Đó là bởi dân chúng không có một đường hướng chính trị chung. Các ông ElBaradei và Amr Moussa nằm bên cánh hữu trong chính trường Ai Cập, trong khi ông Hamdeen Sabbahi là một người theo chủ nghĩa xã hội.” Hơn nữa hiện cũng chưa rõ rệt việc ông ElBaradei có những tham vọng chính trị nào. Ông đã từ chối tham dự cuộc tranh cử Tổng Thống, thời điểm mà Mohamed Morsi đắc cử vào năm ngoái. Hoa Kỳ đã mong đợi ông Mohamed ElBaradei chấp nhận ghế Thủ Tướng cho ông Mohamed Morsi, nhưng ý muốn ấy đã bị bác bỏ.... (hm) Hoài Mỹ
Tại sao cả hai phe ở Ai Cập đều thù ghét Hoa Kỳ? (VienDongDaily.Com - 15/07/2013) Hoài Mỹ/Viễn Đông
CAIRO - Bà Đại Sứ Mỹ Anne W. Patterson ở Ai Cập đã trở thành đối tượng thù ghét của những người Ai Cập cấp tiến bởi sự ủng hộ mà bà đã dành cho phong trào Huynh Đệ Hồi Giáo. Ngược lại, các thành viên của Huynh Đệ vẫn bất đồng với Hoa Kỳ vì Hoa Thịnh Đốn đã không lên án việc quân đội tiếp quản quyền lực. Bởi vậy xem ra hiện nay Hoa Kỳ đang tự làm mất bạn hữu ở Ai Cập. Tại công trường Tahrir, nơi những người ủng hộ quân đội hiện chiếm ưu thế, tiếp sau sự phát triển của việc tiếp quản quyền lực bằng các biểu ngữ nhằm phác họa nữ Đại Sứ Patterson. Trên khuôn mặt của bà Đại Sứ là hai gạch chéo màu đỏ - một sự biểu lộ rõ rệt về những gì người ta cảm nghĩ về vị sứ giả của Hoa Kỳ ở đất nước này. Điều mà những người biểu tình ở quảng trường Tahrir này vẫn không quên là sự đề xướng của bà Đại Sứ vào chiều ngày 28- 6. Bà tuyên bố, “Một số người quả quyết là các chiến dịch ở đường phố sẽ đưa đến những kết quả tốt đẹp hơn là những kết quả mà chúng ta đã thâu đạt được trong các cuộc tổ chức bầu cử tự do. Thành thật mà nói, cả chính phủ Obama và cá nhân tôi đều nghi ngờ sâu xa đối với quan điểm như vậy.” Lời phát biểu ấy đã được diễn tả là một sự cảnh báo chống lại việc can thiệp của quân đội và là một sự ủng hộ chế độ đương quyền do Huynh Đệ Hồi Giáo chiếm ưu thế. Hai tuần sau, quân đội Ai Cập đã đáp lại những sự thách thức của những phần tử chống đối của phong trào Huynh Đệ. Mohamed Morsi bị bứng khỏi quyền hành bất chấp việc cảnh báo của Đại Sứ Patterson.
Không ai muốn quên Trong khi Hoa Kỳ vẫn bị xem là một ủng hộ viên của Huynh Đệ Hồi Giáo vì Hoa Kỳ cho rằng phong trào này đã có sự hợp pháp dân chủ, thì chính phủ Obama sau ngày 2-7, đã xác quyết bất đồng với việc tiếp quản quyền lực của quân đội, đặc biệt là đã diễn tả việc tiếp quản quyền lực này là một vụ đảo chánh quân sự. Hệ quả là các ủng hộ viên của Huynh Đệ Hồi Giáo bèn kết án Hoa Kỳ. Thế nhưng thái độ của chính phủ Obama sau cuộc tiếp quản quyền lực, đã không đủ để các kẻ thù của Huynh Đệ tha thứ cho Hoa Kỳ. Họ quả quyết rằng Huynh Đệ một cách có hệ thống đã nỗ lực đẩy tất cả - trừ người của họ - ra khỏi vị thế quyền hành trong xã hội Ai Cập. Và chế độ này ngay từ khởi điểm đã được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, vì thế nhiều người đã đề cập đến sự phản bội của Hoa Kỳ đối với những giá trị dân chủ và thế tục đích thực. Tệ nhất trong các hành vi sai trái mà Đại Sứ Hoa Kỳ đã vấp phải, ngoài câu tuyên bố vào ngày 18-6 như vừa kể trên, là - theo những người chống đối Huynh Đệ Hồi Giáo - bà Pattserson đã gặp gỡ Mohamed Badie, lãnh tụ của Huynh Đệ Hồi Giáo, vào mùa Xuân năm ngoái. Theo bài tường thuật về buổi gặp gỡ nói trên do Huynh Đệ Hồi Giáo phổ biến, khi Huynh Đệ đắc thắng cuộc bầu cử tân quốc hội Ai Cập, trong cuộc gặp gỡ, bà Anne Patterson đã chúc mừng Badie việc thắng cử này và bà hứa hẹn một sự cộng tác gần gũi hơn với chế độ mà nhân dân Ai Cập đã bầu lên. Bà Patterson thú nhận trước Mohamed Badie là Hoa Kỳ trước đây đã có lỗi trong việc mà bà gọi là “một số bước sai lầm”, nhưng bà hứa sự kiện như vậy sẽ không bị lập lại trong tương lai. Hơn nữa cũng trong buổi gặp gỡ này, Mohamed Badie đã quả quyết rằng giáo luật Hồi Giáo - Sjaria - phải là nền tảng cho tất cả đạo luật. Badie đã minh xác rằng giáo luật Sjaria bảo đảm các quyền tự do công cộng lẫn riêng tư. Nay thì Mohamed Badie đang bị chính quyền Ai Cập truy nã và sẽ bị câu lưu ngay sau khi đương sự bị “vồ.”
Nên xếp dọn va-li Ý lực chống đối bà Anne W. Patterson đã trở nên mạnh mẽ khiến nhiều người Ai Cập cho rằng bà nên ra khỏi đất nước này. Thứ Tư vừa qua, tờ The Washington Post đã trích dẫn lời phát biểu của thương gia Ai Cập Bolis Victor mà nhật báo này “đánh giá” là tiêu biểu, “Bà ấy nên thu dọn đồ đạc của bà. Quả thật cần thiết là bà phải hồi hương. Chúng tôi thù ghét bà ấy hơn là thù ghét Morsi!” Nhật báo Ai Cập Al Ahram vốn là “ống loa” của chế độ dưới thời Mubarak, cũng đã viết nhiều bài công kích nặng nề bà Patterson. Cuộc tranh luận về bà Anne Patterson và hình dáng của bà trong chính sách của Hoa Kỳ ở Ai Cập, diễn ra đồng thời với việc Hoa Kỳ hôm Thứ Năm vừa rồi đã trao 4 chiến đấu cơ loại F-16 cho bộ Quốc Phòng Ai Cập. Các nguồn ở tòa Bạch Ốc lẫn Pentagon (hay Ngũ Giác Đài hoặc bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) đếu nói với The Washington Post rằng bởi các quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ mà không có việc cắt đứt viện trợ cho Ai Cập, kể cả việc trợ giúp trực tiếp cho quân đội Ai Cập.
Lối nói nước đôi Trang nhật báo điện tử của đài truyền hình Al Jazeera ở Qatar hôm Thứ Năm đã quả quyết là Hoa Kỳ xuyên qua một thời gian dài đã chính thức ủng hộ chế độ Morsi đồng thời cũng vẫn yểm trợ kinh tế cho các nhà hoạt động (đối lập) mà những người điều hành đài Al Jazeera mô tà là “nuôi dưỡng ngầm cuộc hỗn loạn ở Ai Cập.” Theo Al Jazeera, các nhà hoạt động vẫn nhận được tiền bạc xuyên qua các chương trình đặc biệt của chính phủ vốn nhằm gia tăng sự yểm trợ các sức mạnh thân Hoa Kỳ ở Trung Đông. Đài Al Jazeera quả quyết, trong số các nhân vật được nêu danh vốn đã đặc trách các kế hoạch loại bỏ chế độ Morsi bằng bạo lực, đã được phân chia các quỹ yểm trợ xuyên qua điển hình là viện National Endowment for Democracy. Những lời khẳng định kể trên của đài Al Jazeera tới nay vẫn chưa được bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bình luận.
Tổng Thống thất sủng Mohamed Morsi hiện ở đâu? Cựu Tổng Thống của Ai Cập đã bị cách chức trong một cuộc đảo chánh quân sự sau một năm cầm quyền. Một tuần lễ sau cuộc đảo chánh này, không ai muốn trả lời câu hỏi ông Mohamed Morsi hiện ở đâu. Trong tuần lễ vừa qua, Ai Cập đã bị ngập tràn những cuộc biểu tình và những vụ đụng độ giữa những người chống các nhóm-Morsi và những người ủng hộ vị Tổng Thống thất sủng này. Vào ngày Thứ Hai, trên 50 người đã bị thiệt mạng trong các cuộc biểu tình ở thủ đô Cairo; trong đó phần nhiều là những người Hồi Giáo vốn ủng hộ ông Mohamed Morsi và Huynh Đệ Hồi Giáo. Chính quyền ở đất nước này đã thực hiện nhiều cuộc tấn công vào các nhân vật trung ương của Huynh Đệ Hồi Giáo, trong đó có lãnh tụ tối cao Mohamed Badie, và ban lãnh đạo gồm các ông Safwat Hegazi, Mohammad al-Beltagi và Essam al-Erian. Tuy nhiên câu hỏi mà Ai Cập và cộng đồng thế giới vẫn tiếp tục đặt ra là: Ông Morsi nay ở đâu? Vị Tổng Thống bị cất chức này được nhìn thấy lần sau cùng là vào Thứ Năm tuần trước khi ông đọc một bài diễn văn, trong đó ông yêu cầu những người ủng hộ hãy trung tín. Sau đó ông đã bị lực lượng của quân đội Ai Cập bắt giữ và không ai biết sau đó ông đã bị dẫn đi đâu. -Nhiều suy đoán: Điều chắc chắn là ông vẫn nằm trong sự giam giữ của quân đội ở một nơi nào đó. Một sự suy đoán cho rằng ông hiện bị quản thúc tại gia thuộc bộ tham mưu của lữ đoàn Bảo Vệ Cộng Hòa ở Cairo. Tại địa điểm này ông cũng đã từng cư ngụ trước ngày ông bị bãi chức và cũng chính nơi đây những người ủng hộ ông đã chọn làm địa điểm biểu tình với các cuộc xô xát mãnh liệt vào hôm thứ Hai vừa rồi. Một suy đoán khác cho rằng hiện ông bị cầm tù trong bộ Quốc Phòng. Những tin tức đầu tiên sau khi ông đọc diễn văn hôm Thứ Năm tuần trước, đã giải đoán là ông đã được chở đến đây. Tuy nhiên vẫn không có sự xác quyết nào. -Được đối xử tử tế: Hôm qua chính quyền đã phải đối đầu trực tiếp với các vấn nạn, trong số đó là nữ phóng viên Christiane Amanpour của đài CNN. Mohammed Kamel Amr, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng, đã trả lời CNN, “Ông ấy không thể di chuyển tự do, nhưng ông vẫn được đối xử rất tốt đẹp” - rồi ông Amr nói thêm, “Và cô hiểu là điều này cũng bởi sự an toàn của riêng ông ấy.” -Một năm nắm quyền lực: Mohamed Morsi đã làm Tổng Thống trong 368 ngày cho đến khi tướng Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng Abdel Fattah al-Sisi tuyên bố hôm Thứ Tư tuần trước là ông bị bãi chức. Tuy nhiên, sự sụp đổ của ông đã khởi sự từ nhiều tháng trước rồi. Vào thời gian sau cùng, ông Morsi đã tự làm mất uy tín ở hầu hết cơ quan quan trọng trong nước, kể cả nơi các tu sĩ Hồi Giáo lẫn Thiên Chúa Giáo, trong hệ thống tư pháp, quốc phòng, cảnh sát và tình báo. Những người chống đối ông quả quyết rằng ông đã “nhường” quá nhiều quyền hành cho chính đảng của ông, tức Huynh Đệ Hồi Giáo, và ông đã không đủ khả năng giải quyết các vấn đề kinh tế của đất nước. Theo Associated Press, mối quan hệ giữa ông Morsi và các tổ chức an ninh cuối cùng đã trở nên tồi tệ đến độ họ đã giữ lại các tin tức quan trọng vào những tháng sau cùng.
Nhóm Hồi Giáo hy vọng làm ngư ông thủ lợi Trong khi Huynh Đệ Hồi Giáo phẫn nộ vì bị hất cẳng khỏi quyền lực ở Ai Cập thì đảng bảo thủ cực đoan Nour hy vọng “bắt” được nhiều cử tri của phong trào Huynh Đệ. Tuy nhiên lãnh tụ của Hizb al-Nour (đảng Ánh Sáng) không muốn biểu lộ niềm hồ hởi trước sự thụt lùi của đối thủ. Đảng trưởng Younes Makhyoun tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn dành cho thông tấn xã Reuters, “Chắc chắn là phong trào Hồi Giáo này, nói tổng quát, đã mất mát nhiều bởi nguyên nhân Huynh Đệ đã thất bại trong việc điều hành đất nước trong thời kỳ vừa qua.” Ông Makhyoun lo sợ là các đảng Hồi Giáo ở Ai Cập sẽ không thể tái chiếm các vị thế mà họ đã chiếm được trước ngày cử tri năm ngoái đã đưa Huynh Đệ vào các văn phòng chính phủ. -Tân chính phủ: Các lãnh tụ của đảng Nour đồng thời cũng cố gắng tối đa khai thác sự mất mát nhục nhã quyền lực chính phủ của “đại ca” (Huynh Đệ Hồi Giáo). Sau khi Tổng Thống Mohamed Morsi của Huynh Đệ Hồi Giáo bị quân đội bãi chức, phong trào này đã từ chối tham dự vào việc thành lập tân chính phủ. Nour cũng chống đối tiến trình này nhưng không rút lui hoàn toàn. Khi kinh tế gia Hazem el-Beblawi được đề cử làm Thủ Tướng, chính Nour đã bác bỏ việc hai chính khách cấp tiến trước đó đã được đề nghị nhận chức vị ấy (Thủ Tướng). -Những kẻ phản bội: Bởi vì Nour là đảng Hồi Giáo duy nhất đã không rút lui khỏi công việc thành lập tân chính phủ nên quân đội đã đáp ứng rộng rãi các đòi hỏi của đảng này. Một nguồn quân đội ẩn danh tiết lộ, “Chúng tôi đánh giá cao vị thế của Nour và nhắm vào một tương lai cho chính đảng này ở Ai Cập..” Thế nhưng chiến thuật của Nour có tính phiêu lưu và những người Hồi Giáo khác cáo buộc đảng này hợp tác với kẻ thù. Những lời cáo buộc này đã trở nên mãnh liệt hơn nữa sau khi trên 50 người đã bị thiệt mạng trong cuộc đụng độ giữa quân nhân và các ủng hộ viên của cựu Tổng Thống Mohamed Morsi như đã kể trên đây. Assem Abdel Maged, một đồng minh của Huynh Đệ Hồi Giáo, gọi các lãnh tụ của Nour là những kẻ phản bội vốn phải cầu xin Thượng Đế tha tội. Nour được thành lập vào cuối năm 2011 sau khi cuộc nổi dậy của nhân dân Ai Cập đã triệt hạ Hosni Mibarak khỏi quyền lực. Đảng này nỗ lực đề xướng một sự thay đổi mang tính thanh giáo cho Hồi Giáo và đã có nguồn gốc từ phong trào tôn giáo Dawa Salafia vốn thưở ban đầu ít quan tâm đến quyền lực chính trị. (hm) Hoài Mỹ
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 9:07:40 GMT 9
Chiến tranh sáu ngày năm 1967 đã định hình lại Trung ĐôngXung đột giữa Israel và hàng xóm Ả Rập www.thoughtco.com/1967-six-day-war-4783414Bởi Robert Mc Namara Cập nhật ngày 21 tháng 2 năm 2020 Cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967 giữa Israel và các nước láng giềng Ả Rập đã gây chấn động thế giới và dẫn đến chiến thắng của Israel tạo ra ranh giới của Trung Đông hiện đại . Cuộc chiến diễn ra sau nhiều tuần bị chế giễu bởi nhà lãnh đạo Ai Cập , Gamal Abdel Nasser, rằng quốc gia của ông, cùng với Syria , Jordan và Iraq , sẽ phá hủy Israel.
Nguồn gốc của cuộc chiến năm 1967 bắt nguồn từ gần hai thập kỷ, kể từ khi thành lập Israel năm 1948, cuộc chiến chống lại các nước láng giềng Ả Rập ngay sau đó và tình trạng chiến sự lâu năm tồn tại trong khu vực.
Sự kiện nhanh: Cuộc chiến sáu ngày Tháng 6 năm 1967 chiến tranh giữa Israel và các nước láng giềng Ả Rập đã thay đổi bản đồ Trung Đông và biến đổi khu vực trong nhiều thập kỷ. Nhà lãnh đạo Ai Cập, Nasser, tuyên bố sẽ tiêu diệt Israel vào tháng 5 năm 1967. Các quốc gia Ả Rập kết hợp đã tập hợp quân đội để tấn công Israel. Israel tấn công đầu tiên với các cuộc không kích tàn khốc. Thỏa thuận ngừng bắn kết thúc sau sáu ngày chiến đấu căng thẳng. Israel giành được lãnh thổ và xác định lại Trung Đông. Thương vong: Israel: khoảng 900 người thiệt mạng, 4.500 người bị thương. Ai Cập: khoảng 10.000 người thiệt mạng, không rõ số bị thương (số chính thức không bao giờ được công bố). Syria: khoảng 2.000 người thiệt mạng, không rõ số bị thương (số chính thức không bao giờ được công bố). Khi Chiến tranh Sáu ngày kết thúc bằng lệnh ngừng bắn, biên giới của Trung Đông đã được vẽ lại một cách hiệu quả. Thành phố Jerusalem bị chia cắt trước đây nằm dưới sự kiểm soát của Israel, cũng như Bờ Tây, Cao nguyên Golan và Sinai.
Bối cảnh của cuộc chiến sáu ngày Chiến tranh bùng nổ vào mùa hè năm 1967 sau một thập kỷ biến động và thay đổi trong thế giới Ả Rập. Một hằng số là sự đối kháng đối với Israel. Ngoài ra, một dự án chuyển hướng vùng biển của sông Jordan khỏi Israel gần như dẫn đến chiến tranh mở.
Trong những năm đầu thập niên 1960, Ai Cập, vốn là đối thủ lâu năm của Israel, đã ở trong tình trạng hòa bình tương đối với nước láng giềng, một phần là kết quả của các đội quân gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc được đặt trên biên giới chung của họ.
Ở những nơi khác trên biên giới Israel, các cuộc xâm lược lẻ tẻ của du kích Palestine đã trở thành một vấn đề dai dẳng. Căng thẳng gia tăng do một cuộc không kích của Israel vào một ngôi làng Jordan được sử dụng để tiến hành các cuộc tấn công chống lại Israel và bởi một trận chiến trên không với các máy bay phản lực Syria vào tháng 4 năm 1967. Nasser của Ai Cập, người từ lâu đã ủng hộ Pan Arabism, một phong trào chính trị thúc giục các quốc gia Ả Rập tham gia cùng nhau, bắt đầu lên kế hoạch chiến tranh chống lại Israel.
Ai Cập bắt đầu chuyển quân đến Sinai, sát biên giới với Israel. Nasser cũng đã đóng cửa Eo biển Tiran cho tàu Israel và tuyên bố công khai vào ngày 26 tháng 5 năm 1967 rằng ông có ý định tiêu diệt Israel.
Vào ngày 30 tháng 5 năm 1967, Vua Hussein của Jordan đã đến Cairo, Ai Cập và ký một hiệp ước đặt quân đội của Jordan dưới quyền kiểm soát của Ai Cập. Iraq sớm làm điều tương tự. Các quốc gia Ả Rập đã chuẩn bị cho chiến tranh và không nỗ lực che giấu ý định của họ. Báo chí Mỹ đã báo cáo cuộc khủng hoảng đang gia tăng ở Trung Đông như tin tức trên trang nhất vào những ngày đầu tháng 6 năm 1967. Trong toàn khu vực, bao gồm cả ở Israel, Nasser có thể được nghe trên đài phát thanh đe dọa Israel.
Máy bay phản lực Ai Cập bị phá hủy trên đường băng của chúng trong Cuộc chiến sáu ngày. Máy bay phản lực Ai Cập bị bom trên đường băng của họ trong Cuộc chiến sáu ngày. GPO qua Getty Images Bắt đầu chiến đấu Cuộc chiến sáu ngày bắt đầu vào sáng ngày 5 tháng 6 năm 1967, khi các lực lượng Israel và Ai Cập đụng độ dọc biên giới phía nam của Israel ở khu vực Sinai . Cuộc tấn công đầu tiên là một cuộc tấn công trên không của Israel, trong đó các máy bay phản lực, bay thấp để tránh radar, tấn công các máy bay chiến đấu Ả Rập khi chúng ngồi trên đường băng. Người ta ước tính rằng 391 máy bay Ả Rập đã bị phá hủy trên mặt đất và 60 chiếc khác bị bắn hạ trong trận chiến trên không. Người Israel mất 19 máy bay, với một số phi công bị bắt làm tù binh.
Với lực lượng không quân Ả Rập về cơ bản được đưa ra khỏi cuộc chiến ngay từ đầu, người Israel đã chiếm ưu thế trên không. Không quân Israel có thể hỗ trợ lực lượng mặt đất của mình trong cuộc chiến ngay sau đó.
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 5 tháng 6 năm 1967, lực lượng mặt đất của Israel đã tiến vào lực lượng Ai Cập đã tập trung dọc biên giới với Sinai. Người Israel đã chiến đấu chống lại bảy lữ đoàn Ai Cập được hỗ trợ bởi khoảng 1.000 xe tăng. Giao tranh dữ dội kéo dài suốt cả ngày, khi các cột Israel tiến lên bị tấn công dữ dội. Trận chiến tiếp tục vào đêm và đến sáng ngày 6 tháng 6, quân đội Israel đã tiến xa vào các vị trí của Ai Cập.
Đến đêm ngày 6 tháng 6, Israel đã chiếm được Dải Gaza và các lực lượng của nó ở Sinai, dẫn đầu bởi các sư đoàn bọc thép, đang lái xe về phía Kênh đào Suez. Các lực lượng Ai Cập, vốn không thể rút lui kịp thời, đã bị bao vây và phá hủy.
Khi quân đội Ai Cập đang bị đánh đập, các chỉ huy Ai Cập đã ra lệnh rút lui khỏi Bán đảo Sinai và băng qua Kênh đào Suez. Trong vòng 48 giờ sau khi quân đội Israel bắt đầu chiến dịch, họ đã đến Kênh đào Suez và kiểm soát hiệu quả toàn bộ Bán đảo Sinai.
Jordan và Bờ Tây Vào sáng ngày 5 tháng 6 năm 1967, Israel đã gửi một thông điệp thông qua một đại sứ Liên Hợp Quốc rằng Israel không có ý định chiến đấu chống lại Jordan. Nhưng vua Hussein của Jordan, tôn vinh hiệp ước của ông với Nasser, đã khiến các lực lượng của ông bắt đầu pháo kích các vị trí của Israel dọc biên giới. Các vị trí của Israel ở thành phố Jerusalem đã bị pháo tấn công và có nhiều thương vong. (Thành phố cổ đã bị chia cắt kể từ khi ngừng bắn vào cuối cuộc chiến năm 1948. Phần phía tây của thành phố nằm dưới sự kiểm soát của Israel, với phần phía đông, bao gồm thành phố cổ, dưới sự kiểm soát của Jordan.)
Để đối phó với pháo kích của Jordan, quân đội Israel đã di chuyển vào Bờ Tây và tấn công Đông Jerusalem.
Những người lính Israel tại Bức tường phía Tây ở Jerusalem, ngày 11 tháng 6 năm 1967. Dan Porges / Getty Images Chiến đấu trong và xung quanh thành phố Jerusalem tiếp tục trong hai ngày. Vào sáng ngày 7 tháng 6 năm 1967, quân đội Israel đã vào Thành phố cổ Jerusalem, nơi nằm dưới sự kiểm soát của người Ả Rập từ năm 1948. Khu vực cổ xưa được bảo vệ và vào lúc 10:15 sáng, lá cờ của Israel được treo trên Núi Đền. Địa điểm linh thiêng nhất trong đạo Do Thái, Bức tường phía Tây (còn được gọi là Bức tường than khóc) thuộc sở hữu của Israel. Quân đội Israel ăn mừng bằng cách cầu nguyện tại bức tường.
Các lực lượng Israel đã chiếm một số thị trấn và làng mạc khác, bao gồm Bethlehem, Jericho và Ramallah.
Tiêu đề báo chí tại Liên Hợp Quốc trong Chiến tranh sáu ngày. Hình ảnh Bettmann / Getty Syria và Cao nguyên Golan Trong những ngày đầu tiên của hành động chiến tranh chỉ là lẻ tẻ dọc theo mặt trận với Syria. Người Syria dường như tin rằng người Ai Cập đã chiến thắng trong cuộc xung đột chống lại Israel và thực hiện các cuộc tấn công mã thông báo chống lại các vị trí của Israel.
Khi tình hình ổn định trên các mặt trận với Ai Cập và Jordan, Liên Hợp Quốc kêu gọi ngừng bắn. Vào ngày 7 tháng 6, Israel đã đồng ý ngừng bắn, cũng như Jordan. Ai Cập đã từ chối lệnh ngừng bắn lúc đầu, nhưng đã đồng ý vào ngày hôm sau.
Syria từ chối lệnh ngừng bắn và tiếp tục bao bọc các ngôi làng của Israel dọc biên giới. Người Israel quyết định hành động và di chuyển chống lại các vị trí của Syria trên Cao nguyên Golan được củng cố nghiêm ngặt. Bộ trưởng Quốc phòng Israel, Moshe Dayan, đã ra lệnh bắt đầu cuộc tấn công trước khi lệnh ngừng bắn có thể kết thúc cuộc chiến.
Vào sáng ngày 9 tháng 6 năm 1967, người Israel bắt đầu chiến dịch chống lại Cao nguyên Golan. Quân đội Syria đã được đào sâu vào các vị trí kiên cố, và cuộc giao tranh trở nên khốc liệt khi xe tăng và xe tăng Syria cơ động để giành lợi thế trong địa hình rất khó khăn. Vào ngày 10 tháng 6, quân đội Syria đã rút lui và Israel chiếm giữ các vị trí chiến lược trên Cao nguyên Golan. Syria chấp nhận ngừng bắn ngày hôm đó.
Hậu quả của cuộc chiến sáu ngày Cuộc chiến ngắn ngủi nhưng dữ dội là một chiến thắng tuyệt vời của người Israel. Mặc dù đông hơn, người Israel đã gây thương vong nặng nề cho kẻ thù Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, chiến tranh đang làm mất tinh thần. Gamal Abdel Nasser, người đã tự hào về kế hoạch tiêu diệt Israel của mình, tuyên bố sẽ từ chức lãnh đạo quốc gia cho đến khi các cuộc biểu tình lớn thúc giục ông ở lại.
Đối với Israel, những chiến thắng trên chiến trường đã chứng minh rằng đó là lực lượng quân sự thống trị trong khu vực, và nó xác nhận chính sách tự vệ kiên cường của mình. Cuộc chiến cũng bắt đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử Israel, khi nó đưa hơn một triệu người Palestine vào các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng dưới sự cai trị của Israel.Nguồn: Cha mẹ, Chaim. "Chiến tranh sáu ngày." Bách khoa toàn thư Judaica , do Michael Berenbaum và Fred Skolnik biên soạn, tái bản lần 2, tập. 18, Tài liệu tham khảo Macmillan Hoa Kỳ, 2007, trang 648-655. Sách điện tử Gale . "Tổng quan về cuộc chiến sáu ngày Ả Rập-Israel." Cuộc chiến sáu ngày Ả Rập - Israel , do Jeff Hay, Greenhaven Press biên soạn, 2013, trang 13-18. Quan điểm về lịch sử thế giới hiện đại. Sách điện tử Gale . "Chiến tranh sáu ngày Ả Rập-Israel, 1967." Thập kỷ Mỹ , được chỉnh sửa bởi Judith S. Baughman và cộng sự, tập. 7: 1960-1969, Gale, 2001. Sách điện tử Gale . "Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1967." Từ điển bách khoa quốc tế về khoa học xã hội , do William A. Darity, Jr., tái bản lần 2, tập. 1, Tài liệu tham khảo Macmillan Hoa Kỳ, 2008, trang 156-159. Sách điện tử Gale .
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 9:17:56 GMT 9
Cuộc chiến Yom Kippur năm 1973Các cuộc tấn công bất ngờ từ Ai Cập và Syria đã khiến Israel chiến đấu để sinh tồn Xe tăng của Israel trên Cao nguyên Golan, tháng 10/1973. trong Chiến tranh Yom Kippur. Bởi Robert Mc Namara Cập nhật ngày 21 tháng 2 năm 2020 Chiến tranh Yom Kippur đã diễn ra giữa Israel và các nước Ả Rập do Ai Cập và Syria lãnh đạo vào tháng 10 năm 1973, lấy cảm hứng từ mong muốn của người Ả Rập để giành lại các lãnh thổ do Israel chiếm giữ trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.
Cuộc chiến bắt đầu với các cuộc tấn công có nghĩa là hoàn toàn bất ngờ đối với Israel, vào ngày linh thiêng nhất trong năm của người Do Thái. Một chiến dịch lừa dối che dấu ý định của các quốc gia Ả Rập, và người ta tin rằng họ chưa sẵn sàng chiến đấu trong một cuộc chiến lớn.
Thông tin nhanh: Cuộc chiến Yom Kippur Chiến tranh năm 1973 được lên kế hoạch là cuộc tấn công bất ngờ vào Israel của Ai Cập và Syria. Israel đã có thể huy động nhanh chóng và gặp mối đe dọa. Trận chiến dữ dội xảy ra trên cả hai mặt trận Sinai và Syria.
Israel đã được Hoa Kỳ giup và Syria duoc Liên Xô tiep tế. Thương vong: Israel: khoảng 2.800 người thiệt mạng, 8.000 người bị thương. Kết hợp Ai Cập và Syria: khoảng 15.000 người thiệt mạng, 30.000 người bị thương (số liệu chính thức không được công bố và ước tính khác nhau). Cuộc xung đột kéo dài trong ba tuần, diễn ra dữ dội, với các trận chiến giữa các đội hình xe tăng hạng nặng, chiến đấu trên không đầy kịch tính và thương vong nặng nề kéo dài trong những cuộc chạm trán cực kỳ dữ dội. Thậm chí có một nỗi sợ hãi đôi khi rằng cuộc xung đột có thể lan rộng ra ngoài Trung Đông đến các siêu cường, những người ủng hộ các phe chiến tranh.
Chiến tranh cuối cùng đã dẫn đến Hiệp định David Camp năm 1978 , cuối cùng đã mang lại một hiệp ước hòa bình giữa Ai Cập và Israel .
Bối cảnh của cuộc chiến năm 1973 Vào tháng 9 năm 1973, tình báo Israel bắt đầu quan sát các hoạt động quân sự đáng chú ý ở Ai Cập và Syria. Quân đội đã được di chuyển gần biên giới với Israel, nhưng các phong trào dường như là các cuộc tập trận định kỳ được tổ chức dọc theo biên giới.
Bộ chỉ huy cấp cao của Israel vẫn thấy hoạt động này đủ khả nghi để nhân đôi số lượng đơn vị bọc thép đóng quân gần biên giới với Ai Cập và Syria.
Trong tuần trước Yom Kippur, người Israel đã hoảng hốt hơn nữa khi tình báo chỉ ra rằng các gia đình Liên Xô đã rời khỏi Ai Cập và Syria. Cả hai quốc gia đều được liên kết với Liên Xô, và sự ra đi của thường dân đồng minh có vẻ đáng ngại, một dấu hiệu cho thấy các quốc gia đang tiến hành chiến tranh.
Vào đầu giờ sáng ngày 6 tháng 10 năm 1973, ngày của Yom Kippur, tình báo Israel đã bị thuyết phục rằng chiến tranh sắp xảy ra. Các nhà lãnh đạo hàng đầu của quốc gia đã họp trước bình minh và lúc 10 giờ sáng, tổng số huy động quân đội của đất nước đã được lệnh.
Các nguồn tin tình báo tiếp tục chỉ ra rằng các cuộc tấn công vào Israel sẽ bắt đầu lúc 6:00 chiều. Tuy nhiên, cả Ai Cập và Syria đã tấn công các vị trí của Israel có hiệu lực vào lúc 2:00 chiều Trung Đông đã bất ngờ lao vào một cuộc chiến lớn.
Tấn công ban đầu Các cuộc tấn công đầu tiên của Ai Cập đã diễn ra tại kênh đào Suez. Những người lính Ai Cập, được hỗ trợ bởi máy bay trực thăng, đã băng qua kênh đào và bắt đầu chiến đấu với quân đội Israel (người đã chiếm bán đảo Sinai kể từ Đường Sáu Ngày 1967).
Ở phía bắc, quân đội Syria đã tấn công người Israel trên Cao nguyên Golan, một lãnh thổ khác đã bị Israel chiếm giữ trong cuộc chiến năm 1967.
Bắt đầu cuộc tấn công vào Yom Kippur, ngày linh thiêng nhất của Do Thái giáo, dường như là một chiến lược thông minh về mặt tiểu đường của người Ai Cập và Syria, nhưng nó đã chứng tỏ là lợi thế cho người Israel, vì quốc gia về cơ bản đã đóng cửa vào ngày đó. Khi cuộc gọi khẩn cấp ra ngoài để các đơn vị quân đội dự bị báo cáo cho nhiệm vụ, phần lớn nhân lực đã ở nhà hoặc tại nhà hội và có thể báo cáo nhanh chóng. Người ta ước tính rằng giờ quý giá đã được lưu trong quá trình huy động cho trận chiến.
Mặt trận Israel-Syria
Phá hủy đoàn xe Syria trên Cao nguyên Golan, năm 1973. AFP / AFP qua Getty Images Cuộc tấn công từ Syria bắt đầu ở Cao nguyên Golan, một cao nguyên ở biên giới giữa Israel và Syria mà lực lượng Israel đã chiếm giữ trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967. Người Syria đã mở đầu cuộc xung đột bằng các cuộc tấn công trên không và bắn phá dữ dội vào các vị trí tiền phương của Israel.
Ba sư đoàn bộ binh Syria thực hiện cuộc tấn công, được hỗ trợ bởi hàng trăm xe tăng Syria. Hầu hết các vị trí của Israel, ngoại trừ các tiền đồn trên núi Hermon, được tổ chức. Các chỉ huy Israel đã hồi phục sau cú sốc của các cuộc tấn công Syria ban đầu. Các đơn vị thiết giáp, được bố trí gần đó, đã được đưa vào trận chiến.
Ở phía nam của mặt trận Golan, các cột Syria đã có thể vượt qua. Vào Chủ nhật, ngày 7 tháng 10 năm 1973, cuộc chiến đấu dọc theo mặt trận diễn ra căng thẳng. Cả hai bên đều chịu tổn thất nặng nề.
Người Israel đã chiến đấu dũng cảm chống lại những tiến bộ của Syria, với những trận chiến xe tăng nổ ra. Một trận chiến nặng nề liên quan đến xe tăng của Israel và Syria đã diễn ra vào thứ Hai, ngày 8 tháng 10 năm 1973 và vào ngày hôm sau. Đến thứ Tư, ngày 10 tháng 10 năm 1973, người Israel đã tìm cách đẩy người Syria trở lại đường dây ngừng bắn năm 1967.
Vào ngày 11 tháng 10 năm 1973, người Israel đã tổ chức một cuộc phản công. Sau một số cuộc tranh luận giữa các nhà lãnh đạo quốc gia, nó đã quyết định chiến đấu vượt ra khỏi đường dây ngừng bắn cũ và xâm chiếm Syria.
Khi người Israel lăn qua lãnh thổ Syria, một lực lượng xe tăng Iraq, đã đến để chiến đấu bên cạnh người Syria, đã đến hiện trường. Một chỉ huy người Israel đã nhìn thấy người Iraq di chuyển qua một đồng bằng và dụ họ vào một cuộc tấn công. Người Iraq bị xe tăng Israel vùi dập và buộc phải rút, mất khoảng 80 xe tăng.
Các trận chiến xe tăng dữ dội cũng xảy ra giữa các đơn vị bọc thép của Israel và Syria. Israel củng cố vị trí của mình trong Syria, chiếm một số ngọn đồi cao. Và núi Hermon, mà người Syria đã chiếm được trong cuộc tấn công ban đầu, đã bị chiếm lại. Trận chiến Golan cuối cùng đã kết thúc với việc Israel nắm giữ vùng đất cao, điều đó có nghĩa là pháo binh tầm xa của nó có thể vươn ra ngoại ô thủ đô Damascus của Syria.
Bộ chỉ huy Syria đã đồng ý ngừng bắn do Liên Hợp Quốc làm trung gian vào ngày 22/10/1973.
Mặt trận Israel-Ai Cập
Xe tăng của Israel tại một kho cung cấp ở Sinai, tháng 10 năm 1973. Harry Dempster / Getty Images Cuộc tấn công vào Israel từ quân đội Ai Cập bắt đầu vào chiều thứ Bảy ngày 6 tháng 10 năm 1973. Cuộc tấn công bắt đầu bằng cuộc không kích chống lại các vị trí của Israel ở Sinai. Người Israel đã xây dựng những bức tường cát lớn để đẩy lùi mọi cuộc xâm lược từ Ai Cập, và người Ai Cập đã sử dụng một kỹ thuật mới: pháo nước mua ở châu Âu được gắn trên xe bọc thép và dùng để bắn các lỗ trên tường cát, cho phép các cột xe tăng di chuyển qua. Thiết bị bắc cầu thu được từ Liên Xô cho phép người Ai Cập di chuyển nhanh qua Kênh đào Suez.
Không quân Israel gặp phải vấn đề nghiêm trọng khi cố gắng tấn công lực lượng Ai Cập. Một hệ thống tên lửa đất đối không tinh vi có nghĩa là các phi công Israel phải bay thấp để tránh các tên lửa, đưa chúng vào tầm bắn của máy bay phòng không thông thường. Tổn thất nặng nề đã gây ra cho các phi công Israel.
Người Israel đã cố gắng phản công chống lại người Ai Cập, và lần thử đầu tiên đã thất bại. Trong một thời gian, có vẻ như người Israel đang gặp rắc rối nghiêm trọng và sẽ không thể kìm hãm các cuộc tấn công của Ai Cập. Tình hình đủ tuyệt vọng đến mức Hoa Kỳ, dẫn đầu vào thời điểm đó bởi Richard Nixon , đã có động lực để gửi giúp đỡ cho Israel. Cố vấn chính sách đối ngoại chính của Nixon, Henry Kissinger , đã tham gia rất nhiều vào những diễn biến sau chiến tranh, và theo hướng của Nixon, một lực lượng thiết bị quân sự khổng lồ bắt đầu chảy từ Mỹ sang Israel.
Chiến đấu dọc theo mặt trận xâm lược tiếp tục trong tuần đầu tiên của cuộc chiến. Người Israel đang mong đợi một cuộc tấn công lớn từ người Ai Cập, xảy ra dưới hình thức một cuộc tấn công bọc thép lớn vào Chủ nhật, ngày 14 tháng 10. Một trận chiến xe tăng hạng nặng đã được chiến đấu và người Ai Cập đã mất khoảng 200 xe tăng mà không có tiến triển gì.
Vào thứ Hai, ngày 15 tháng 10 năm 1973, người Israel đã phát động một cuộc phản công bằng cách vượt qua Kênh đào Suez ở phía nam và chiến đấu về phía bắc. Trong cuộc chiến đấu sau đó, Quân đội thứ ba của Ai Cập đã bị cắt khỏi các lực lượng Ai Cập khác và bị bao vây bởi người Israel.
Liên Hợp Quốc đã cố gắng sắp xếp một lệnh ngừng bắn, cuối cùng có hiệu lực vào ngày 22 tháng 10 năm 1973. Việc chấm dứt chiến sự đã cứu người Ai Cập, những người đã bị bao vây và sẽ bị xóa sổ nếu cuộc chiến vẫn tiếp diễn.
Siêu năng lực bên lề Một khía cạnh nguy hiểm tiềm tàng đối với Chiến tranh Yom Kippur là, theo một cách nào đó, cuộc xung đột là một ủy quyền cho Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Người Israel thường liên kết với Mỹ và Liên Xô ủng hộ cả Ai Cập và Syria.
Được biết, Israel sở hữu vũ khí hạt nhân (mặc dù chính sách của họ không bao giờ thừa nhận điều đó). Và có một nỗi sợ rằng Israel, nếu bị đẩy đến mức, có thể sử dụng chúng. Chiến tranh Yom Kippur, dữ dội như nó vốn vẫn là phi hạt nhân.
Di sản của cuộc chiến Yom Kippur Sau chiến tranh, chiến thắng của Israel đã được giảm bớt bởi những tổn thất nặng nề kéo dài trong cuộc chiến. Và các nhà lãnh đạo Israel đã được đặt câu hỏi về sự thiếu chuẩn bị rõ ràng cho phép lực lượng Ai Cập và Syria tấn công.
Mặc dù Ai Cập về cơ bản đã bị đánh bại, những thành công ban đầu trong cuộc chiến đã nâng cao tầm vóc của Tổng thống Anwar Sadat. Trong một vài năm, Sadat sẽ đến thăm Israel trong nỗ lực hòa bình, và cuối cùng sẽ gặp các nhà lãnh đạo Israel và Tổng thống Jimmy Carter tại Trại David để đưa ra Hiệp định Trại David .Nguồn: Cha mẹ, Chaim. "Chiến tranh Yom Kippur." Bách khoa toàn thư Judaica , do Michael Berenbaum và Fred Skolnik biên soạn, tái bản lần 2, tập. 21, Macmillan Reference USA, 2007, trang 383-391. Sách điện tử Gale . "Xung đột Ả Rập-Israel." Worldmark Modern Xung đột và Ngoại giao , do Elizabeth P. Manar biên soạn, tập. 1: 9/11 tới Xung đột giữa Israel và Palestine, Gale, 2014, trang 40-48. Sách điện tử Gale . Benson, Sonia G. "Xung đột Ả Rập-Israel: 1948 đến 1973." Xung đột Trung Đông , tái bản lần 2, tập. 1: Niên giám, UXL, 2012, trang 113-135. Sách điện tử Gale .
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 9:26:45 GMT 9
Chính sách của Hoa Kỳ tại Trung Đông: từ năm 1945 đến 2008Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush www.thoughtco.com/us-and-middle-east-since-1945-2353681Bởi Pierre Tristam Cập nhật ngày 30 tháng 7 năm 2019 Lần đầu tiên một cường quốc phương Tây chìm đắm trong chính trị dầu mỏ ở Trung Đông là vào cuối năm 1914, khi những người lính Anh đổ bộ vào Basra, miền nam Iraq, để bảo vệ nguồn cung cấp dầu từ Ba Tư láng giềng. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ ít quan tâm đến dầu Trung Đông hoặc trong bất kỳ thiết kế chính trị nào trong khu vực. Tham vọng ở nước ngoài của nó tập trung vào phía nam đối với Mỹ Latinh và Caribê, và phía tây đối với Đông Á và Thái Bình Dương. Khi Anh đề nghị chia sẻ chiến lợi phẩm của Đế chế Ottoman không còn tồn tại sau Thế chiến I , Tổng thống Woodrow Wilson đã từ chối. Sự tham gia leo thang của Hoa Kỳ ở Trung Đông bắt đầu sau đó, trong thời kỳ chính quyền Truman, và tiếp tục trong suốt thế kỷ 21.
Quản trị Truman: 1945 Vang1952 Trong Thế chiến II, quân đội Mỹ đã đóng quân ở Iran để giúp chuyển các nguồn cung cấp quân sự cho Liên Xô và bảo vệ dầu của Iran. Quân đội Anh và Liên Xô cũng đóng quân trên đất Iran. Sau chiến tranh, nhà lãnh đạo Nga Joseph Stalin đã rút quân chỉ sau khi Tổng thống Harry Truman phản đối sự hiện diện liên tục của họ và đe dọa sẽ đuổi họ ra ngoài.
Trong khi chống lại ảnh hưởng của Liên Xô ở Iran, Truman đã củng cố mối quan hệ của Mỹ với Mohammed Reza Shah Pahlavi, Shah của Iran và đưa Thổ Nhĩ Kỳ vào Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), nói rõ với Liên Xô rằng Trung Đông sẽ bị cảm lạnh Chiến tranh vùng nóng.
Truman chấp nhận kế hoạch phân chia của Liên Hợp Quốc năm 1947 ở Palestine, trao 57% đất đai cho Israel và 43% cho Palestine, và cá nhân vận động cho thành công của nó. Kế hoạch đã mất sự hỗ trợ từ các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, đặc biệt là sự thù địch giữa người Do Thái và người Palestine được nhân lên vào năm 1948 và người Ả Rập mất nhiều đất hoặc bỏ trốn. Truman công nhận Nhà nước Israel 11 phút sau khi thành lập, vào ngày 14 tháng 5 năm 1948.
Quản trị Eisenhower: 1953 Từ1960 Ba sự kiện chính xác định chính sách Trung Đông của Dwight Eisenhower. Năm 1953, Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã ra lệnh cho CIA phế truất Mohammed Mossadegh, nhà lãnh đạo dân cử, nổi tiếng của quốc hội Iran và một người theo chủ nghĩa dân tộc hăng hái chống lại ảnh hưởng của Anh và Mỹ ở Iran. Cuộc đảo chính đã làm mờ nhạt danh tiếng của nước Mỹ trong số những người Iran, những người đã mất niềm tin vào các yêu sách của Mỹ về bảo vệ nền dân chủ.
Năm 1956, khi Israel, Anh và Pháp tấn công Ai Cập sau khi Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez, một Eisenhower giận dữ không chỉ từ chối tham gia chiến sự, ông đã chấm dứt chiến tranh.
Hai năm sau, khi các lực lượng quốc gia đã làm rung chuyển Trung Đông và đe dọa lật đổ chính phủ do Kitô giáo lãnh đạo Lebanon, Eisenhower đã ra lệnh cho cuộc đổ bộ đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ vào Beirut để bảo vệ chế độ. Việc triển khai, chỉ kéo dài ba tháng, đã kết thúc một cuộc nội chiến ngắn ngủi ở Lebanon.
Chính quyền Kennedy: 1961 Từ1963 Tổng thống John F. Kennedy , theo một số nhà sử học, không liên quan nhiều đến Trung Đông. Nhưng như Warren Bass đã chỉ ra trong hỗ trợ của bất kỳ người bạn nào: Trung Đông của Kennedy và Liên minh Hoa Kỳ - Israel, ông Kennedy Kennedy đã cố gắng phát triển mối quan hệ đặc biệt với Israel trong khi khuếch tán tác động của các chính sách Chiến tranh Lạnh của người tiền nhiệm đối với chế độ Ả Rập.
Kennedy đã tăng viện trợ kinh tế cho khu vực và làm việc để giảm sự phân cực giữa các lĩnh vực của Liên Xô và Mỹ. Trong khi liên minh của Mỹ với Israel được củng cố trong nhiệm kỳ của mình, chính quyền viết tắt của Kennedy, trong khi truyền cảm hứng ngắn gọn cho công chúng Ả Rập, phần lớn đã thất bại trong việc làm dịu các nhà lãnh đạo Ả Rập.
Quản trị Johnson: 1963 Từ1968 Tổng thống Lyndon Johnson tập trung phần lớn năng lượng của mình vào các chương trình Xã hội vĩ đại của ông ở nhà và Chiến tranh Việt Nam ở nước ngoài. Trung Đông đã quay trở lại với radar chính sách đối ngoại của Mỹ với Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, khi Israel, sau khi căng thẳng và các mối đe dọa từ mọi phía gia tăng, đã đánh bại những gì nó đặc trưng như một cuộc tấn công sắp xảy ra từ Ai Cập, Syria và Jordan.
Israel chiếm Dải Gaza, Bán đảo Sinai của Ai Cập, Bờ Tây và Golan Heights của Syria đe dọa sẽ tiến xa hơn. Liên Xô đe dọa một cuộc tấn công vũ trang nếu nó xảy ra. Johnson đưa Hạm đội Địa Trung Hải thứ sáu của Hải quân Hoa Kỳ vào tình trạng báo động nhưng cũng buộc Israel phải đồng ý ngừng bắn vào ngày 10 tháng 6 năm 1967.
Chính quyền Nixon-Ford: 1969 Công191976 Bị làm nhục bởi Chiến tranh Sáu ngày, Ai Cập, Syria và Jordan đã cố gắng giành lại lãnh thổ đã mất bằng cách tấn công Israel trong ngày lễ Yom Kippur của người Do Thái vào năm 1973. Ai Cập giành lại được một số đất, nhưng Quân đội thứ ba của nó cuối cùng đã bị quân đội Israel bao vây. bởi Ariel Sharon (người sau này trở thành thủ tướng).
Liên Xô đề nghị ngừng bắn, thất bại mà họ đe dọa sẽ hành động đơn phương. Lần thứ hai trong sáu năm, Hoa Kỳ phải đối mặt với cuộc đối đầu hạt nhân lớn và tiềm năng thứ hai với Liên Xô trên Trung Đông. Sau những gì nhà báo Elizabeth Drew mô tả là Ngày Strangelove, hồi khi chính quyền của Tổng thống Richard Nixon đưa lực lượng Mỹ vào tình trạng báo động cao nhất, chính quyền đã thuyết phục Israel chấp nhận ngừng bắn.
Người Mỹ cảm nhận được tác động của cuộc chiến đó thông qua lệnh cấm vận dầu mỏ Ả Rập năm 1973, trong đó giá dầu tăng vọt, góp phần vào suy thoái một năm sau đó.
Vào năm 1974 và 1975, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã đàm phán cái gọi là thỏa thuận thảnh thơi, đầu tiên là giữa Israel và Syria và sau đó là giữa Israel và Ai Cập, chính thức chấm dứt chiến sự bắt đầu vào năm 1973 và trả lại một số vùng đất mà Israel đã chiếm giữ từ hai nước. Tuy nhiên, đây không phải là những thỏa thuận hòa bình và họ đã khiến tình hình Palestine không được giải quyết. Trong khi đó, một người mạnh về quân sự có tên Saddam Hussein đang vươn lên qua hàng ngũ ở Iraq.
Quản trị Carter: 1977 lồng1981 Tổng thống của ông Carter Carter, được đánh dấu bằng chiến thắng lớn nhất của chính sách Trung Đông Hoa Kỳ và mất mát lớn nhất kể từ Thế chiến II. Về phía chiến thắng, hòa giải của Carter đã dẫn đến Hiệp định David Camp năm 1978 và hiệp ước hòa bình năm 1979 giữa Ai Cập và Israel, trong đó bao gồm một sự gia tăng lớn trong viện trợ của Hoa Kỳ cho Israel và Ai Cập. Hiệp ước đã khiến Israel trả lại Bán đảo Sinai cho Ai Cập. Các hiệp định đã diễn ra, đáng chú ý, nhiều tháng sau khi Israel xâm chiếm Lebanon lần đầu tiên, rõ ràng là để đẩy lùi các cuộc tấn công kinh niên từ Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) ở miền nam Lebanon.
Về phía thua cuộc, Cách mạng Hồi giáo Iran lên đến đỉnh điểm vào năm 1978 với các cuộc biểu tình chống lại chế độ của Shah Mohammad Reza Pahlavi. Cuộc cách mạng đã dẫn đến việc thành lập một Cộng hòa Hồi giáo, dưới thời Lãnh tụ tối cao Ayatollah Ruhollah Khomeini, vào ngày 1 tháng 4 năm 1979.
Vào ngày 4 tháng 11 năm 1979, các sinh viên Iran được hậu thuẫn bởi chế độ mới đã bắt 63 người Mỹ tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở con tin Tehran. Họ đã giữ tới 52 người trong số họ trong 444 ngày, giải phóng họ vào ngày Ronald Reagan được nhậm chức tổng thống. Cuộc khủng hoảng con tin, bao gồm một nỗ lực giải cứu quân sự thất bại đã cướp đi sinh mạng của tám quân nhân Mỹ, làm mất chức tổng thống Carter và thiết lập lại chính sách của Mỹ trong khu vực trong nhiều năm: Sự trỗi dậy của quyền lực Shiite ở Trung Đông đã bắt đầu.
Quản trị Reagan: 1981 Vang1989 Bất cứ tiến bộ nào, chính quyền Carter đạt được trên mặt trận Israel-Palestine bị đình trệ trong thập kỷ tới. Khi cuộc nội chiến ở Lebanon nổ ra, Israel đã xâm chiếm Lebanon lần thứ hai, vào tháng 6 năm 1982. Họ đã tiến xa đến tận Beirut, thành phố thủ đô của Lebanon, trước khi Reagan, người đã từ bỏ cuộc xâm lược, đã can thiệp để yêu cầu ngừng bắn.
Quân đội Mỹ, Ý và Pháp đã đổ bộ vào Beirut vào mùa hè năm đó để làm trung gian cho sự ra đi của 6.000 chiến binh PLO. Quân đội sau đó rút lui, chỉ trở về sau vụ ám sát Tổng thống đắc cử Lebanon Bashir Gemayel và vụ thảm sát trả thù, bởi các dân quân Kitô giáo do Israel hậu thuẫn, lên tới 3.000 người Palestine ở các trại tị nạn Sabra và Shatila, phía nam Beirut.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1983, một quả bom xe tải đã phá hủy Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Beirut, khiến 63 người thiệt mạng. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1983, các vụ đánh bom đã giết chết 241 lính Mỹ và 57 lính nhảy dù Pháp trong doanh trại ở Beirut của họ. Lực lượng Mỹ rút lui ngay sau đó. Chính quyền Reagan sau đó phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng khi tổ chức Shiite Lebanon do Iran hậu thuẫn được biết đến là Hezbollah bắt một số con tin người Mỹ ở Lebanon.
Vụ Iran-Contra năm 1986 tiết lộ rằng chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan đã bí mật đàm phán các thỏa thuận vũ trang cho con tin với Iran, làm mất uy tín của Reagan rằng ông sẽ không đàm phán với những kẻ khủng bố. Mãi đến tháng 12 năm 1991, con tin cuối cùng, cựu phóng viên của Associated Press Terry Anderson, mới được thả ra.
Trong suốt những năm 1980, chính quyền Reagan ủng hộ việc mở rộng các khu định cư Do Thái của Israel tại các vùng bị chiếm đóng. Chính quyền cũng ủng hộ Saddam Hussein trong Chiến tranh Iran-Iraq năm 1980. Chính quyền đã hỗ trợ hậu cần và tình báo, tin sai rằng Saddam có thể gây bất ổn cho chế độ Iran và đánh bại Cách mạng Hồi giáo.
Quản trị George HW Bush: 1989 1801993 Sau khi được hưởng lợi từ một thập kỷ hỗ trợ từ Hoa Kỳ và nhận được tín hiệu mâu thuẫn ngay trước khi xâm chiếm Kuwait, Saddam Hussein đã xâm chiếm đất nước nhỏ bé này về phía đông nam vào ngày 2 tháng 8 năm 1990. Tổng thống George HW Bush đã phát động Chiến dịch Sa mạc Sa mạc, ngay lập tức triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Ả Rập Saudi để bảo vệ chống lại một cuộc xâm lược có thể của Iraq.
Khiên sa mạc đã trở thành Chiến dịch Bão táp Sa mạc khi Bush chuyển chiến lược từ việc bảo vệ Ả Rập Xê Út sang đẩy lùi Iraq khỏi Kuwait, rõ ràng là vì Saddam có thể, Bush tuyên bố, đang phát triển vũ khí hạt nhân. Một liên minh gồm 30 quốc gia đã gia nhập lực lượng Mỹ trong một chiến dịch quân sự với số lượng hơn nửa triệu quân. Thêm 18 quốc gia cung cấp viện trợ kinh tế và nhân đạo.
Sau chiến dịch trên không 38 ngày và chiến tranh mặt đất kéo dài 100 giờ, Kuwait đã được giải phóng. Bush đã ngăn chặn cuộc tấn công ngắn của một cuộc xâm lược Iraq, vì sợ thingy Cheney, bộ trưởng quốc phòng của ông, sẽ gọi một vũng lầy. Bush đã thành lập các khu vực cấm bay ở phía nam và phía bắc của đất nước, nhưng những khu vực này không ngăn Saddam khỏi tàn sát người Shiite sau một cuộc nổi dậy đã cố gắng ở miền Nam, nơi mà Bush đã khuyến khích.
Ở Israel và các vùng lãnh thổ của người Palestine, Bush phần lớn không hiệu quả và không được giải quyết khi intifada của người Palestine đầu tiên hoạt động trong bốn năm.
Trong năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống, Bush đã phát động một hoạt động quân sự ở Somalia kết hợp với một hoạt động nhân đạo của Liên Hợp Quốc . Chiến dịch Khôi phục Hy vọng, liên quan đến 25.000 lính Mỹ, được thiết kế để giúp ngăn chặn nạn đói lan rộng do cuộc nội chiến ở Somalia.
Các hoạt động đã hạn chế thành công. Một nỗ lực năm 1993 để bắt Mohamed Farah Aidid, thủ lĩnh của một dân quân Somalia tàn bạo, đã kết thúc trong thảm họa, với 18 lính Mỹ và tới 1.500 binh sĩ dân quân Somalia và thường dân thiệt mạng. Aidid không bị bắt.
Trong số các kiến trúc sư của các cuộc tấn công vào người Mỹ ở Somalia có một người Ả Rập lưu vong sau đó sống ở Sudan và phần lớn không được biết đến ở Hoa Kỳ: Osama bin Laden .
Chính quyền Clinton: 1993 Vang2001 Bên cạnh việc hòa giải hiệp ước hòa bình năm 1994 giữa Israel và Jordan, sự tham gia của Tổng thống Bill Clinton vào Trung Đông đã bị đóng khung bởi sự thành công ngắn ngủi của Hiệp định Oslo vào tháng 8 năm 1993 và sự sụp đổ của Hội nghị thượng đỉnh Camp David vào tháng 12 năm 2000.
Các hiệp định đã chấm dứt intifada đầu tiên, thiết lập quyền tự quyết của người Palestine ở Gaza và Bờ Tây và thành lập Chính quyền Palestine. Hiệp định cũng kêu gọi Israel rút khỏi các lãnh thổ bị chiếm đóng.
Nhưng Oslo đã không giải quyết các vấn đề cơ bản như quyền của người tị nạn Palestine trở về Israel, số phận của Đông Jerusalem hoặc phải làm gì về việc tiếp tục mở rộng các khu định cư của Israel ở các vùng lãnh thổ.
Những vấn đề đó, vẫn chưa được giải quyết vào năm 2000, đã khiến bà Clinton triệu tập một hội nghị thượng đỉnh với nhà lãnh đạo Palestine Yasser Arafat và nhà lãnh đạo Israel Ehud Barak tại Trại David vào tháng 12 năm đó. Hội nghị thượng đỉnh thất bại, và intifada thứ hai bùng nổ.
Quản trị George W. Bush: 2001 Vang2008 Sau khi thực hiện các hoạt động liên quan đến quân đội Hoa Kỳ trong cái mà ông gọi là xây dựng quốc gia, ông George W. Bush đã biến, sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, trở thành người xây dựng quốc gia đầy tham vọng nhất kể từ thời Bộ trưởng Ngoại giao George Marshall , người đã giúp xây dựng lại châu Âu sau Thế chiến II. Nhưng những nỗ lực của Bush tập trung vào Trung Đông, không thành công lắm.
Bush đã ủng hộ thế giới khi ông lãnh đạo một cuộc tấn công vào Afghanistan vào tháng 10 năm 2001 để lật đổ chế độ Taliban, nơi đã trao thánh cho al-Qaeda, nhóm khủng bố chịu trách nhiệm về vụ tấn công 11/9. Tuy nhiên, việc Bush mở rộng cuộc chiến chống khủng bố thành Hồi giáo vào tháng 3 năm 2003 của Bush. Bush đã xem việc lật đổ Saddam Hussein là bước đầu tiên trong sự ra đời của nền dân chủ giống như domino ở Trung Đông.
Nhưng trong khi Bush nói về dân chủ liên quan đến Iraq và Afghanistan, ông vẫn tiếp tục ủng hộ các chế độ đàn áp, phi dân chủ ở Ai Cập, Ả Rập Saudi, Jordan và một số quốc gia ở Bắc Phi. Sự tín nhiệm của chiến dịch dân chủ của ông là ngắn ngủi. Đến năm 2006, khi Iraq lao vào cuộc nội chiến, Hamas giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Dải Gaza và Hezbollah giành được sự nổi tiếng to lớn sau cuộc chiến mùa hè với Israel, chiến dịch dân chủ của Bush đã chết. Quân đội Hoa Kỳ đã tăng quân vào Iraq năm 2007, nhưng sau đó, phần lớn người dân Mỹ và nhiều quan chức chính phủ đã hoài nghi rộng rãi về các động lực cho cuộc xâm lược.
Trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí New York Times năm 2008, vào cuối nhiệm kỳ tổng thống của ông, Bush Bush đã chạm vào những gì ông hy vọng di sản Trung Đông của mình sẽ nói:
"Tôi nghĩ rằng lịch sử sẽ nói rằng George Bush đã thấy rõ các mối đe dọa khiến Trung Đông rối loạn và sẵn sàng làm điều gì đó, sẵn sàng lãnh đạo và có niềm tin lớn vào khả năng của các nền dân chủ và niềm tin lớn vào khả năng của mọi người để quyết định số phận của đất nước họ và rằng phong trào dân chủ đã thúc đẩy và có được phong trào ở Trung Đông. "'Nguồn Bass, Warren. "Ủng hộ bất kỳ người bạn nào: Trung Đông của Kennedy và sự thành lập Liên minh Mỹ-Israel." Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2004, Oxford, New York. Baker, Peter. "Những ngày cuối cùng của Tổng thống George W. Bush," Tạp chí New York Times, ngày 31 tháng 8 năm 2008.
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 9:32:25 GMT 9
Chiến tranh Iran-Iraq, 1980 đến 1988Saddam Hussein ngay trước khi ông phát động Chiến tranh Iran-Iraq, sẽ kéo dài 8 năm. Bởi Kallie Szczepanski Cập nhật ngày 18 tháng 11 năm 2019 Chiến tranh Iran-Iraq từ 1980 đến 1988 là một cuộc xung đột gay gắt, đẫm máu và cuối cùng là hoàn toàn vô nghĩa. Nó được châm ngòi bởi cuộc Cách mạng Iran , do Ayatollah Ruhollah Khomeini lãnh đạo, đã lật đổ Shah Pahlavi vào những năm 1978-79. Tổng thống Iraq Saddam Hussein, người coi thường Shah, hoan nghênh sự thay đổi này, nhưng niềm vui của ông đã chuyển sang báo động khi Ayatollah bắt đầu kêu gọi một cuộc cách mạng Shi'a ở Iraq để lật đổ chế độ thế tục / Sunni của Saddam.
Sự khiêu khích của người Ayatollah đã gây ra chứng hoang tưởng Saddam Hussein và ông sớm bắt đầu kêu gọi một trận Qadisiyyah mới , ám chỉ đến trận chiến thế kỷ thứ 7, trong đó người Ả Rập mới theo đạo Hồi đã đánh bại quân Ba Tư. Khomeini trả đũa bằng cách gọi chế độ Ba'athist là "con rối của Satan".
Vào tháng 4 năm 1980, Bộ trưởng Ngoại giao Iraq Tariq Aziz sống sót sau một vụ ám sát, mà Saddam đổ lỗi cho người Iran. Khi Shi'as Iraq bắt đầu đáp lại lời kêu gọi nổi dậy của Ayatollah Khomeini, Saddam đã đàn áp mạnh mẽ, thậm chí treo cổ Shi'a Ayatollah, Mohammad Baqir al-Sadr của Iraq, vào tháng Tư năm 1980. mùa hè, mặc dù Iran hoàn toàn không chuẩn bị cho chiến tranh.
Iraq xâm chiếm Iran Vào ngày 22 tháng 9 năm 1980, Iraq đã phát động một cuộc xâm lược toàn diện vào Iran. Nó bắt đầu bằng cuộc không kích chống lại Không quân Iran, sau đó là cuộc xâm lược ba mặt đất của sáu sư đoàn quân đội Iraq dọc theo một mặt trận dài 400 dặm ở tỉnh Khuzestan của Iran. Saddam Hussein dự kiến người Ả Rập dân tộc ở Khuzestan sẽ nổi lên để ủng hộ cuộc xâm lược, nhưng họ đã không làm vậy, có lẽ vì họ chủ yếu là người Shi'ite. Quân đội Iran chưa chuẩn bị đã được Vệ binh Cách mạng tham gia trong nỗ lực chống lại quân xâm lược Iraq. Đến tháng 11, một đội quân gồm khoảng 200.000 "tình nguyện viên Hồi giáo" (thường dân Iran không được huấn luyện) cũng đã tự ném mình chống lại các lực lượng xâm lược.
Cuộc chiến đã đi vào bế tắc trong suốt phần lớn năm 1981. Đến năm 1982, Iran đã tập hợp lực lượng và thực hiện thành công cuộc phản công, sử dụng "sóng người" của các tình nguyện viên Basij để đẩy lùi người Iraq từ Khorramshahr. Vào tháng Tư, Saddam Hussein đã rút lực lượng khỏi lãnh thổ Iran. Tuy nhiên, Iran kêu gọi chấm dứt chế độ quân chủ ở Trung Đông đã thuyết phục Kuwait và Ả Rập Xê Út miễn cưỡng bắt đầu gửi hàng tỷ đô la viện trợ cho Iraq; không một cường quốc Sunni nào muốn thấy cuộc cách mạng Shi'a kiểu Iran lan rộng về phía nam.
Vào ngày 20 tháng 6 năm 1982, Saddam Hussein kêu gọi ngừng bắn sẽ trả lại mọi thứ cho hiện trạng trước chiến tranh. Tuy nhiên, Ayatollah Khomeini đã từ chối hòa bình được trao quyền, kêu gọi Saddam Hussein rời khỏi quyền lực. Chính phủ giáo sĩ Iran bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược Iraq, qua sự phản đối của các sĩ quan quân đội còn sống sót.
Iran xâm chiếm Iraq Vào ngày 13 tháng 7 năm 1982, các lực lượng Iran đã xâm nhập vào Iraq, hướng tới thành phố Basra. Người Iraq, tuy nhiên, đã được chuẩn bị; họ đã có một loạt các chiến hào và hầm ngầm được đào sâu vào lòng đất, và Iran đã sớm thiếu đạn dược. Ngoài ra, lực lượng của Saddam đã triển khai vũ khí hóa học chống lại các đối thủ của họ. Quân đội của ayatollah đã nhanh chóng giảm xuống hoàn toàn phụ thuộc vào các cuộc tấn công tự sát bằng sóng người. Trẻ em được cử đi chạy qua các mỏ khai thác, dọn mìn trước khi những người lính Iran trưởng thành có thể đánh chúng, và ngay lập tức trở thành liệt sĩ trong quá trình này.
Báo động trước viễn cảnh các cuộc cách mạng Hồi giáo tiếp theo, Tổng thống Ronald Reagan tuyên bố rằng Mỹ sẽ "làm bất cứ điều gì cần thiết để ngăn chặn Iraq thua cuộc chiến với Iran". Thật thú vị, Liên Xô và Pháp cũng đã đến viện trợ Saddam Hussein, trong khi Trung Quốc , Bắc Triều Tiên và Libya đang cung cấp cho người Iran.
Trong suốt năm 1983, người Iran đã phát động năm cuộc tấn công lớn chống lại các đường dây của Iraq, nhưng sóng người dưới vũ trang của họ không thể vượt qua các cố thủ của Iraq. Để trả thù, Saddam Hussein đã gửi các cuộc tấn công tên lửa vào mười một thành phố của Iran. Cú hích của Iran thông qua các đầm lầy đã kết thúc với họ đạt được một vị trí từ Basra chỉ 40 dặm, nhưng Iraq tổ chức chúng ở đó.
"Cuộc chiến tàu chở dầu" Vào mùa xuân năm 1984, Chiến tranh Iran-Iraq bước vào giai đoạn hàng hải mới khi Iraq tấn công các tàu chở dầu của Iran ở Vịnh Ba Tư. Iran đã đáp trả bằng cách tấn công các tàu chở dầu của cả Iraq và các đồng minh Ả Rập. Báo động, Mỹ đe dọa sẽ tham gia cuộc chiến nếu nguồn cung cấp dầu bị cắt đứt. Những chiếc F-15 của Saudi đã trả đũa các cuộc tấn công chống lại sự vận chuyển của vương quốc bằng cách bắn hạ một máy bay Iran vào tháng 6 năm 1984.
"Cuộc chiến tàu chở dầu" tiếp tục đến năm 1987. Trong năm đó, các tàu hải quân của Mỹ và Liên Xô đã đưa ra hộ tống cho các tàu chở dầu để ngăn chặn chúng không bị kẻ thù nhắm vào. Tổng cộng có 546 tàu dân sự đã bị tấn công và 430 thủy thủ bị giết trong cuộc chiến tàu chở dầu.
Bế tắc đẫm máu Trên đất liền, những năm 1985 đến 1987 đã chứng kiến Iran và Iraq buôn bán vi phạm và phản biện, mà không bên nào giành được nhiều lãnh thổ. Cuộc giao tranh diễn ra vô cùng đẫm máu, thường có hàng chục ngàn người thiệt mạng ở mỗi bên trong vài ngày.
Vào tháng 2 năm 1988, Saddam đã thực hiện cuộc tấn công tên lửa thứ năm và nguy hiểm nhất vào các thành phố của Iran. Đồng thời, Iraq bắt đầu chuẩn bị một cuộc tấn công lớn để đẩy người Iran ra khỏi lãnh thổ Iraq. Bị suy giảm sau tám năm chiến đấu và số lượng người cực kỳ cao trong cuộc sống, chính phủ cách mạng của Iran bắt đầu xem xét chấp nhận thỏa thuận hòa bình. Vào ngày 20 tháng 7 năm 1988, chính phủ Iran tuyên bố sẽ chấp nhận lệnh ngừng bắn do Liên Hợp Quốc làm trung gian, mặc dù Ayatollah Khomeini đã ví nó uống rượu từ "chén thuốc độc". Saddam Hussein yêu cầu Ayatollah hủy bỏ lời kêu gọi loại bỏ Saddam trước khi ký hợp đồng. Tuy nhiên, các quốc gia vùng Vịnh dựa vào Saddam, người cuối cùng đã chấp nhận lệnh ngừng bắn khi nó đứng.
Cuối cùng, Iran đã chấp nhận các điều khoản hòa bình tương tự mà Ayatollah đã từ chối vào năm 1982. Sau tám năm chiến đấu, Iran và Iraq đã quay trở lại hiện trạng chống sốt rét - không có gì thay đổi, về mặt địa chính trị. Điều đã thay đổi là ước tính 500.000 đến 1.000.000 người Iran đã chết, cùng với hơn 300.000 người Iraq. Ngoài ra, Iraq đã chứng kiến những tác động tàn phá của vũ khí hóa học, sau này được triển khai chống lại dân số người Kurd cũng như Marsh Arabs.
Cuộc chiến tranh Iran-Iraq 1980-88 là một trong những cuộc chiến dài nhất trong thời hiện đại, và nó đã kết thúc với kết quả hòa. Có lẽ điểm quan trọng nhất được rút ra từ đó là sự nguy hiểm khi cho phép sự cuồng tín tôn giáo ở một bên đụng độ với megalomania của một người lãnh đạo ở phía bên kia.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 12, 2023 1:54:53 GMT 9
ISRAEL, PALESTINE VÀ JERUSALEM (bài viết dài nhưng rất đáng để đọc. Sưu tầm được trên không gian mạng)
Câu chuyện hôm nay được viết lại từ sự kiện khi Israel – Palestine đối diện khả năng bùng nổ chiến tranh toàn diện. Bắt đầu bằng việc chính quyền Israel đuổi 6 gia đình Palestine sinh sống tại khu vực Sheikh Jarrah thuộc Đông Jerusalem, thổi bùng lên ngọn lửa giận dữ của người Palestine. Cảnh sát được gọi đến và đụng độ đẫm máu xảy ra. Hamas, tổ chức vũ trang của người Palestine ở Dải Gaza tuyên bố đứng về phía người dân Palestine bị lấy đất. Cùng thời điểm đó, hàng chục ngàn người Palestine biểu tình bên ngoài đền thờ Al-Aqsa, địa điểm linh thiêng thứ ba của người Hồi giáo. Đền thờ nằm tại khu thành cổ Jerusalem và sát với Bức tường than khóc - địa điểm linh thiêng bậc nhất với người theo Do Thái giáo. Chưa hết, hàng ngàn người Do Thái cũng đổ về khu thành cổ để kỷ niệm ngày Israel chiếm được Đông Jerusalem. Tính từ khuya (ngày 10/05/2021), đã có hơn 1.000 quả rốc két được bắn về phía Israel. Lá chắn bảo vệ Israel mang tên “vòm sắt” đã được kích hoạt với một hình ảnh đẹp kinh khủng trên bầu trời, nhưng là một hình ảnh đẹp đáng sợ của chiến tranh. Quân đội Israel cũng không để yên, đáp trả bằng hàng trăm cuộc không kích. Câu hỏi: - Tại sao lại có chuyện thù hận này? - Tại sao từ ngày chúng ta biết đọc tin tức và đọc thời sự, đã luôn nghe về việc này? - Và tại sao Jerusalem lại quan trọng đến thế? - Tại sao họ lại cùng giành nhau một địa điểm linh thiêng? “Hãy đi tìm lịch sử, bởi chỉ có lịch sử mới đi kể cho bạn về nguồn gốc của vấn đề”.
A. Tôn giáo – sự ra đời của mâu thuẫn Thiên chúa giáo, Hồi giáo, vì sao mà sinh ra? Lý do vì sao xuất hiện các cuộc thập tự chinh? Lý do vì sao Israel lại là cái gai trong mắt của cộng đồng Ả Rập. Đầu tiên là một sự thật gây bất ngờ cho tất cả: Do Thái giáo, Kito giáo (Thiên Chúa Giáo theo cách gọi của tiếng Việt) và Hồi giáo – 3 tôn giáo đang đánh nhau chí chóe ở khu vực Trung Đông ... đều có cùng chung một gốc. Đấy được gọi là các tôn giáo độc thần mà nguồn gốc chung của chúng đến từ một nhân vật sống vào đầu thiên niên kỷ 2 TCN (tức cách đây 4000 năm), gọi là Abraham. Và địa điểm mà người cha ấy sinh ra các tôn giáo đó chính chỗ bom đạn đang nổ ầm ầm: Trung Đông và Jerusalem. 3000 năm về trước, tộc người Do Thái đến định cư ở phía tây bán đảo Ả Rập. Vị vua của người Do Thái tên là vua David (người đã đánh bại tên khổng lồ Goliath) mà nhiều người vẫn dùng thành ngữ. Thủ đô và trung tâm của người Do Thái bạn có biết là tên gì không? Nó tên là … Jerusalem. Và trên quê hương với những vùng đất được định hình này, Do Thái giáo đã được sinh ra từ gốc khởi nguồn của Abraham. 1/ Do Thái giáo của người Israel đã xuất hiện từ rất lâu, và còn xuất hiện đầu tiên. 2/ Vùng đất mà họ đang sinh sống của hôm nay, là nơi mà tổ tiên họ đã ở đó từ 3000 năm trước. Nắm kỹ được 2 điều đó, chúng ta mới hiểu để đi đến phần sau của câu chuyện. Người Do Thái lập nước được một thời gian thì bị đô hộ bởi đế quốc Babylon (Iran, Iraq) ngày nay. Sau đó đến lượt đế chế La Mã thống trị họ. Đây là quốc gia mất nước hơn 1000 năm. 1000 năm sau khi bị mất nước, và dân tộc vẫn đang nằm dưới chế độ cai trị của người La Mã, thì có một người Do Thái được lịch sử giao cho vận mệnh đã xuất hiện. Người đàn ông này và sự vĩ đại của ông ta sẽ thay đổi lịch sử thế giới. Tên ông là … Jesus. Ông tiến vào thành Jerusalem trên lưng một con lừa.Vì KINH CỰU ƯỚC của người Do Thái ghi rõ “Vị vua của Israel ở tương lai sẽ tiến vào Jerusalem trên lưng một con lừa” nên người Do Thái đã vây lấy ông, nghe ông nói chuyện, đợi ngày ông giải phóng dân tộc khỏi đế chế La Mã. Nhưng không, chỉ một tuần sau, đế chế La Mã biết tin, và người đàn ông ấy đã bị đóng đinh câu rút. Một bộ phận người Do Thái tin rằng chúa Jesus đã chết. Nhưng một bộ phận khác thì không, họ tin rằng chúa sẽ phục sinh và đưa họ ra khỏi dòng khổ ải trầm luân. Bộ phận này tách thành một giáo lý riêng gọi là KINH TÂN ƯỚC, với lễ Giáng Sinh (Chúa ra đời), và Lễ phục sinh (Chúa sống lại), đấy chính là Đạo Thiên Chúa (Kito giáo) của phương Tây. Những người này vì muốn cho tất cả biết rằng Chúa đã phục sinh, nên đã đi khắp nơi để giảng đạo. Lúc này, vì đế chế đang nằm trong quyền cai trị của La Mã, ngôn ngữ chữ viết La Tinh cũng thống nhất, nên vô tình giúp cho việc giảng đạo được dễ dàng hơn nhờ vào hành chính, giao thông thuận lợi. Câu nói “Đường nào cũng về La Mã” là có ý nói về sự ưu việt về đế chế này. Đến năm 312, một sự kiện lớn xảy ra để Kito giáo trở thành tôn giáo lớn nhất đế chế. Đấy là việc Hoàng đế Constantine nhận được điềm báo Thập tự giá. Cùng thời điểm đấy, ông giành được chiến thắng Maxentius ở trận Cầu Milvian và thâu tóm quyền lực Đông và Tây. Tin rằng được phù hộ (vì nhận điềm báo thập tự giá mà) nên đến năm 313, hoàng đế ra chỉ dụ Milano cho phép người Kitô giáo được tự do hành đạo. Đến năm 380, Theodosius I chính thức công nhận Kitô giáo là quốc giáo của đế chế La Mã. À, đến đây có lẽ bạn đã biết vì sao Roma, Vatican là kinh đô Kito giáo rồi. Lưu ý có dòng chảy như sau: 3000 năm trước, Do Thái giáo ra đời. 2000 năm trước, Thiên Chúa giáo ra đời. Vậy Hồi Giáo? 1400 năm trước, đến lượt Hồi Giáo xuất hiện. Vẫn là trên bán đảo Ả Rập đầy huyền bí đó. Một chàng trai trẻ khác tên là Muhammad (Mô ha mét), đã đến và vẫn là lấy gốc từ chính Abraham để tạo nên Hồi Giáo. Các bạn chú ý, Hồi Giáo thừa nhận hết những con người như Jesus, như Moise, như Abraham. Tuy nhiên, có 1 điểm khác biệt cốt lõi, chính điểm này đã sinh ra mâu thuẫn, và gián tiếp sinh ra đau thương. Bao gồm 2 điểm chính: a/ Muhammad chỉ tự nhận mình là “Nhà tiên tri”, là sứ giả của thượng đế, là người phát ngôn của Thượng đế xuống truyền đạt đúng y lời của thượng đế. Chứ chưa bao giờ ông nói mình là “Chúa”. b/ Muhammad nói rằng KINH KORAN là quyển kinh gốc mà thượng đế ban cho, là quyển kinh “Nguyên sơ nhất”, “Trọn vẹn nhất”. Trong khi Kinh Cựu Ước của người Do Thái và Kinh Tân Ước của người Thiên Chúa đã bị bóp méo đi rồi. Người theo Do Thái đương nhiên không tin, người theo Thiên Chúa cũng chẳng tin. Nhưng người Hồi Giáo thì tin. Vậy là mâu thuẫn xảy ra khi người Hồi Giáo với niềm tin sắt đá đã xem những kẻ kia là dị giáo. Còn những người kia thì gọi bên kia là “Cực đoan”. Trong cuộc sống này, suy nghĩ “Ta là số 1, ta là đúng nhất, còn ngươi mới sai” có thể đơn giản chỉ là nghỉ chơi với nhau, thỉnh thoảng nói xấu nhau cho vui miệng (nói xấu quanh năm suốt tháng thì hơi bệnh). Nhưng với vấn đề tôn giáo, khi có sự va đụng về quyền lợi, về vùng đất, thì cái đem lại chính là máu đổ, là chiến tranh. Như đã nói ở trên, người Do Thái mới lập nước chưa được bao lâu thì bị tấn công và đô hộ (giống y như Việt Nam đấy). Các đế quốc hùng mạnh lần lượt tấn công họ và đặt họ vào trong thế vong quốc suốt 2000 năm lần lượt là đế chế Babylon, đế chế La Mã, và cuối cùng là đế chế Ottoman. Sang thế kỷ 20, đế chế Ottoman tan rã thì người Do Thái lại đối mặt với họa diệt chủng từ phía Phát Xít Đức. Nhưng 2000 năm đau thương và bơ vơ đó, người Do Thái chưa bao giờ ngừng phản kháng, chưa bao giờ chịu đầu hàng, và chưa bao giờ quên đi tổ tiên của mình. Đế chế La Mã vì quá bực mình trước cái chuyện người Israel luôn phản kháng. Họ đã làm một việc mang tính đồng hóa, đấy là sau khi đập Israel một quả nổ đom đóm mắt. Người La Mã đã nhét tất cả 3 tôn giáo tôi kể trên kia vào một vùng đất, với mục đích triệt tiêu sự tồn tại của người Do Thái, một vùng Ả Rập rộng lớn được hình thành, và tên của vùng đất hỗn tạp đó là … Palestine ! B. Đế chế Ottoman. Palestine nằm trong lòng đế chế Ottoman. Đấy không đơn thuần là Thổ Nhĩ Kỳ, nước Thổ chỉ là cái gốc sơ khởi để Ottoman đi ra thế giới. Những vị vua giỏi nhất lên nắm quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ và bắt đầu con đường chinh phục của họ, chẳng hạn vua Selim I, người đánh bại Ba Tư, tiêu diệt Ai Cập và đến đại đế Suleiman lấy luôn cả Trung Đông sát nhập vào Ottoman. Người Thổ Nhĩ Kỳ hôm nay vẫn nói về Ottoman như người Mông Cổ nói về thời đại Thành Cát Tư Hãn. Và đế chế đó … theo HỒI GIÁO. Đấy là một trong những đế quốc rộng lớn nhất lịch sử nhân loại, đã từng “phủ” lên cả ba châu lục Á, Âu, Phi, với đội quân khát máu nhất cùng một đế chế thịnh vượng. Có nghĩa, đã có giai đoạn mà Hồi giáo đè bẹp cả Châu Âu. Trong lòng đế quốc Ottoman thời kỳ thịnh trị nhất, đế chế này đã bao gồm cả Hy Lạp, Bulgaria, Romania, Nam Tư (rồi lại tan rã làm 5 nước độc lập khác chẳng hạn Croatia, Serbia…), Hungary, Albania, Syria, Liban, Jordan, Israel, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algérie, Síp, Armenia, Gruzia, Ukraina và một phần nước Nga. Tức là có tới 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của Đế quốc Ottoman. Bạn có thể nhận ra những cái tên quen thuộc của mùa xuân Ả Rập ở trong ấy: Tunisia, Algeria, Ai Cập, Yemen, Syria, Iraq, Libya. Thiên Chúa Giáo ở Châu Âu lại bị đế chế Ottoman đe dọa. Nhưng trước khi Ottoman ra đời và làm nên kỳ công trên, thì giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo, giữa người Ả Rập và người Châu Âu đã tồn tại mâu thuẫn không thể hàn gắn. Tất cả liên quan đến một vùng đất thánh tên gọi là Jerusalem. Ở phần A của bài viết này. Các bạn đều biết sự ra đời của 3 tôn giáo đều ở vùng đất Ả Rập, và 3 người truyền bá. Trêu ngươi thay cả 3 đều xem Jerusalem là vùng đất thánh minh của mình. Vua David chọn Jerusalem là kinh đô, chúa Jesus xuất hiện ở Jerusalem, và nhà tiên tri Muhammad đã bay lên thiên đường từ …Thánh Đường Đá ở Jerusalem. Vậy là Jerusalem trở thành điểm hành hương, và cũng điểm tranh giành của 3 tôn giáo, đồng nghĩa là điểm tranh giành của cả thiên hạ. Bây giờ có lẽ bạn đã hiểu vì sao Trung Đông lại nóng đến như thế rồi? Vì sao sự kiện chính quyền Israel đuổi 6 gia đình Palestine sinh sống tại khu vực Sheikh Jarrah thuộc Đông Jerusalem cách đây một tuần lại có thể xảy ra chiến tranh. Những giáo hoàng Châu Âu, nơi truyền bá Thiên Chúa Giáo, cũng có niềm tin về chúa Giêsu, và vì muốn bảo vệ cũng như tranh giành Jerusalem, họ đã phát động một cuộc chiến tranh kéo dài từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 13. Tên của cuộc chiến đó có lẽ các bạn đã đoán ra: THẬP TỰ CHINH. Đấy là một cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Kitô giáo và Hồi Giáo trên ngọn cờ hiệu “Giải phóng vùng Đất Thánh và vùng đất thiêng Jerusalem khỏi người Hồi giáo, giải phóng những tín đồ Công giáo khỏi sự thống trị của Hồi giáo." Đoàn quân “Thập tự chinh” đầu tiên đánh vào Jerusalem và tàn sát quân hồi giáo chính là…PHÁP. Và Pháp chính là quốc gia chủ đạo với những “hiệp sĩ dòng Đền” trong các cuộc tấn công vào Ả Rập 8 lần tiếp theo, trong các cuộc chinh chiến này thì Anh, Bồ đều tham gia, và cả gì bạn biết không: thập tự quân Bắc Âu. Thế đấy, cho nên màn báo thù mà các bạn thấy được hồi mấy năm trước mà facebook loạn lên dòng chữ “Pray for Paris” ở Paris hay ở Đan Mạch, Na Uy đều có ý nghĩa lịch sử cả. Những vụ khủng bố tại Pháp và Châu Âu hôm nay không phải là “trên trời rơi xuống”, cũng không phải vì IS hay những cuộc tấn công của Pháp tại Syria hay Lybia, đó là những mâu thuẫn có từ rất lâu rồi. Cuộc thập tư chinh, Châu Âu giành được những thắng lợi bước đầu trước khi bị quân Ottoman đánh bại. Cuộc thập tự chinh lần cuối kết thúc vào năm 1272. Đến năm 1517, đế quốc Ottoman thâu tóm cả Trung Đông, Ả Rập, 20 năm tiếp theo, họ lấy luôn Hy Lạp và Hungary. Cả Châu Âu bị Ottoman đe dọa. Ottoman chính là đế quốc đường đường chính chính nhất thế giới Hồi Giáo thách thức thế lực phương tây và thậm chí còn đe dọa nuốt luôn họ. Châu Âu luôn phải lập nên các liên minh thần thánh để bảo vệ thế giới Kitô giáo trước các cuộc xâm lăng nay. Israel lúc này ở đâu? Đang bị đè bẹp trong cái vùng đất Palestine (giờ do Ottoman cai trị), và vẫn hành hương đi khắp nơi, không quên nhắc nhau về nguồn gốc và tôn giáo Do Thái của mình. Thế rồi, vào cuối thế kỉ 19, một phóng viên, nhà văn tên là Theodor Herzl đã quyết định vươn cao hơn tất cả. Bằng ngòi bút của mình, ông kích thích dân tộc, ông gợi lại lịch sử, ông nhắc nhở cho người Do Thái biết mình ở đâu, mình đến từ nơi nào. Ông gọi lại cái tên “Miền đất hứa”, để những người dân Do Thái trở về Palestine để phục hưng lại vương quốc. Theodor Herzl xuất bản cuốn sách “Nhà nước Do Thái” vào năm 1896 và lý luận rằng Vấn đề của người Do Thái chỉ có thể được giải quyết bằng cách thiết lập một nhà nước Do Thái ở Palestine. Những người Do Thái tha hương bắt đầu trở về Palestine, nơi có Jerusalem 3000 năm trước chính là thủ đô của nước Do Thái do vua David đứng đầu. Họ đợi đến ngày “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” sẽ trả lại cho họ vùng đất của 3000 năm trước. Những ước vọng này đã được thổi bùng lên bắt đầu từ một nhà báo viết lịch sử dân tộc. Lúc này, Ottoman theo thời gian đã suy yếu dần, các lãnh thổ dần dần bị mất, nhiều nơi vùng lên đòi quyền tự trị để thành quốc gia tách biệt với Ottoman. Điều gì đến cũng đã đến, năm 1914-1918 khi chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra. Đế chế Ottoman đã yếu còn chọn sai phe. Họ chọn Đức-Áo-Hung. Kết quả các cường quốc đồng minh Anh – Pháp - Nga đã giành thắng lợi. Khi thế chiến 1 kết thúc, Ottoman trong vai trò kẻ thua cuộc nên bị những người Châu Âu đập cho tan rã lãnh thổ to lớn của Ottoman – một đế chế đã đe dọa Châu Âu suốt 7 thế kỷ. Trước đó (vào năm 1916), đế quốc này cũng bị xé lẻ ra ra bằng thỏa thuận Sykes-Picot với việc Pháp có vùng phía bắc của Ottoman ( bao gồm Syria, với sau này là Liban), Anh có vùng phía Nam của Ottoman (Jordan, Iraq và sau này, Palestine). Khi Thổ Nhĩ Kỳ cũng tuyên bố độc lập, Ottoman chính thức sụp đổ. Nhưng Phương Tây luôn mang một tiềm thức sợ hãi đế chế Ottoman, đế chế đe dọa sự tồn vong của phương Tây và từng bao vây Viên, xâm lược Hungary, lấy Hy Lạp, … sẽ một ngày trở lại. Và các cuộc thập tư chinh mâu thuẫn tôn giáo luôn là thứ im sẵn trong lòng của phương Tây. “Chúa của mình mới là ưu việt nhất, còn Hồi giáo là không”. Bởi vì “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.” Người Anh và Pháp quyết định phân chia lại biên giới của một loạt các quốc gia như Tunisia, Ai Cập, Yemen, Syria, Iraq, Libya …. Vâng, thưa các bạn, tất cả các quốc gia này (bao gồm cả Syria đang bắn phá ầm ầm), đã được sinh ra bằng một cuộc họp và một tấm bản đồ trải ra đó. Hồi Giáo đã thua cuộc chính ở đây. Bây giờ xin nói tiếp về sự ra đời Israel. Lý do vì sao họ bị căm ghét. Bên cạnh sự phân chia đất đai cho những quốc gia hồi giáo, thì Israel chính thức được đền bù sau 3000 năm đau khổ. Câu chuyện diễn ra sau thế chiến II, khi những đau thương mà Israel phải chịu đựng dưới thời Đức Quốc Xã, khi những người Do Thái ưu tú nhất đã vận động hành lang, khi những người Do Thái giàu có nhất đang tích cực mua bất động sản ở Palestine. Tất cả đã khiến cho Anh,Pháp và Mỹ phải đền bù cho Israel. Thế là, một quốc gia đã trở lại sau 3000 năm. Với 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu trắng, đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã chia phía Đông Palestine thành hai nhà nước: một phần đất là của người Palestine theo đạo Hồi, phần còn lại là người Palestine theo đạo Do Thái (tức nước Israel) còn Jerusalem thành đặc khu được LHQ bảo vệ. Đấy là câu chuyện về một mảnh đất 3000 năm trước thuộc về anh A, 300 năm trước thuộc về anh B, rồi giờ anh A trở lại và chia đất, chia biên giới lãnh thổ với anh B. Tuy nhiên, khác với việc vẽ ra bản đồ cho những Jordan hay Ai Cập, Syria (đều cùng theo đạo Hồi). Palestine lúc này có 1 điểm khác: sự va chạm giữa 2 tôn giáo: Do Thái và Hồi Giáo. Bị ảnh hưởng bởi phong trào chủ nghĩa dân tộc, của tôn giáo mình thờ phụng, những người Ả Rập (tức anh B ) không để yên việc này, họ ngăn chặn việc thành lập quốc gia cho người Do Thái ở Palestine. Đấy chính là khởi nguồn của Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948. Liên quân Ả Rập bao gồm Ai Cập, Syria, Jordan, Liban, Iraq, Ả Rập Saudi, Yemen và Palestine đã sát cánh cùng nhau quyết tâm đập chết quốc gia Israel. Kết quả không ngờ được đã xảy ra, Israel mới thành lập nước đã đập tan tác cả 5, 6 quốc gia kia. Người Do Thái gọi cuộc chiến tranh này là “Giải phóng dân tộc”, còn người Palestine hồi giáo gọi đó là “Thảm họa.” Đây là cuộc xung đột từ tôn giáo đến lãnh thổ, từ lịch sử đến biên giới. Đến năm 1967, có một cuộc chiến tranh gọi là “Chiến tranh 6 ngày”, Israel thêm một lần nữa chiến thắng. Nhưng lần này khủng khiếp hơn, họ chiếm luôn Jerusalem, khiến cho các nước Ả Rập phải cầu hòa. Hồi năm 2017 có một sự kiện khá thú vị, đấy là anh Donald Trump không sợ trời, không sợ đất đã tuyên bố chính thức công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và sẽ chuyển Đại sứ quán Mỹ về thành phố này một khi công tác chuẩn bị hoàn tất. Khiến cho các quốc gia hồi giáo phản ứng mãnh liệt. Israel đã được đứng vững, và người phóng viên Theodor Herzl năm nào đã ngậm cười nơi chín suối. Để tôn vinh ông, người bằng ngòi bút đã thay đổi cả số phận dân tộc. Tuyên ngôn độc lập của Israel khi được đọc lên, thì cái tên Theodor Herzl đã được gọi là người cha tinh thần của đất nước. Người Israel đặt ra 1 ngày gọi là Ngày Herzl, là ngày lễ quốc gia hàng năm. Israel, một quốc gia có lịch sử đau thương và đẫm máu (mất nước 3000 năm và đối mặt với họa diệt chủng), người dân nam cũng như nữ luôn sống trong tư thế của những con người cầm chắc tay súng để bảo vệ vùng đất của tổ tiên mà họ chỉ có lại được sau thế chiến II, và luôn ám ảnh cảnh bị mất nước và xóa tên trên bản đồ thế giới. 60 năm qua, đây là đất nước luôn bị những đất nước vây xung quanh đòi đầu. Và để chống lại điều này, Israel cũng không nhượng bộ, không thỏa hiệp, tiếng súng vì vậy không bao giờ ngưng ở Jerusalem. Không có quốc gia nào, mà cơ quan tình báo (Mossad), lại được xem như là văn hóa, là thần tượng của người dân, là cột chống bão giông, và là điểm tựa bảo vệ cuối cùng cho quốc gia mỗi ngày như Mossad của Israel. Mâu thuẫn giữa Trung Đông Hồi Giáo, Israel Do Thái giáo và Phương Tây Thiên Chúa Giáo là một mâu thuẫn tính bằng thiên niên kỷ. Vì sao Trung Đông luôn là cái lò lửa, là lâu lâu xuất hiện trên báo chí và bản tin thời sự về những màn báo thù và tiếng súng nổ. Vì xung đột Palestine-Israel là xung đột tính bằng thiên niên kỷ và bao trùm mọi mặt của đời sống. Trong cuộc chiến này vì vậy không có xấu có tốt, không có đúng có sai, tất cả những người trong cuộc đều giữ một niềm tin bất diệt về dân tộc của họ. Đúng hay sai phụ thuộc vào lăng kính bên này hay bên kia. Còn tôi, tôi chỉ là người kể lại lịch sử, để bạn biết về căn nguyên vấn đề vì sao có súng nổ, chứ không phải để phán xét.
|
|