|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:05:04 GMT 9
MAO TRẠCH ĐÔNG và CÁC HUYNH ĐỆ TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG HOA
Người Thứ Chín biên soạn
Đây thuộc loại Đông Cung Bí Sử của Triều Mao Trạch Đông. Một vị Hoàng Đế được dân chúng Trung Hoa tôn thờ nhất hơn tất cả các Hoàng đế của Trung Hoa từ trước tới nay. Hàng ngàn năm trôi qua, hàng trăm hàng ngàn vua chúa, lần lượt lên ngôi cửu ngũ cai trị nước của con Trời không một ai có thể sánh được ngôi vị của Hoàng đế Mao trạch Đông này.
Nhưng Mao trạch Đông có thật sự được hưởng vọng niệm sùng bái của một bậc Hoàng Đế lớn như vậy không?
Sách vở hay tín điều hiện nay ghi lại: “Ngài là một người cứu tinh, đem dân tộc Trung Hoa đến một cường quốc, nhà nhà an vui, người người hạnh phúc. Dân chúng an lạc ca khúc khải hoàn, thái bình thịnh trị, dân không còn lo sợ bị đói triền miên nữa vv.vv..." Thật là một vì vua vô tiền khoáng hậu mà lịch sử của nước Trung Hoa chưa bao giờ có được như Ngài Mao trạch Đông vậy.
Nhưng nếu có người thắc mắc thì những người ca tụng Hoàng Đế Đỏ sẽ không cách gì mà nói được.Thắc mắc như sau:
1.- Tại sao những huynh đệ đồng cam khổ với Hoàng đế Mao đều bị Mao giết sạch? Vâng giết sạch không chừa một người nào ngoài Chu-ân-Lai?
2.- Tại sao một người trình độ chưa đạt tới Trung Học mà có nhiều tư tưởng và lý thuyết vượt quá mọi người suy nghĩ? Thật sự những bài viết, những lý thuyết của Mao có phải do Mao chính tay viết ra hay không?
Nên nhớ tay lý thuyết gia viết bài vở rất đặc sắc mà Tưởng giới Thạch khâm phục chính là Chu ân Lai và Lưu thiếu Kỳ chớ không phải Mao trạch Đông. Năm 1956 Lưu thiếu Kỳ và toàn Ban Chính Trị hủy bỏ hay sửa đổi điều lệ Đảng, hủy bỏ câu: “lấy tư tưởng Mao trạch Đông làm tư tưởng chỉ đạo trong toàn đảng Cộng sản Trung Hoa". Lý do tư tưởng của Mao rất thiếu thực tế và sống trên mây. Như chuyện Mao trạch Đông, một người chưa bao giớ xuất ngoại ra khỏi nước Trung Hoa để thăm viếng những nước tiền tiến Tây Phương thế mà Hoàng đế Mao muốn Trung Hoa phải hơn nước Anh mới được. Nhưng hơn cách nào? Anh quốc sản xuất rất nhiều sắt thép thế là Mao Hoàng đế ra lệnh: "Toàn thể nước Trung Hoa phải sản xuất sắt thép hơn Anh quốc mới được. Thế là tất cả hàng chục triệu người hay hơn nữa ào ào khí thế mà dựng lòm lửa để tạo ra sắt thép. Hầu hết những khu rừng cây bị biến mất để làm cũi đun lò. Hoàng đế Mao trạch Đông đi xe lửa xuyên đại lục, Ngài nhìn hàng ngàn ánh lửa rừng rực của hàng ngan lò đốt nơi xa, Ngài hài lòng. Kết quả rừng cây biến mất, thiếu cũi thì người dân phải lấy cả giường ngủ, cửa sổ, cửa chính, cột rèo. Ngay cả những chùa chiền đền đài miếu mạo cũng được khui ra lấy cây làm củi lửa đốt lò. Thiếu sắt thép ư? Lấy dao kéo trong nhà, lấy cả chốt cửa sắt vv.vv... Chỉ thị trên ban xuống là mỗi làng, mỗi xã, mỗi quận, mỗi tỉnh phải đạt chỉ tiêu như vậy. Vì hàng chục triệu người lo đốt lò lấy thép dâng Mao Chủ tịch nên ruộng vườn không có người cày, cây trái bị chặt hết. Rồi dân chết đói hàng trăm người, đến hàng chục ngàn người rồi hàng triệu người. Người dân Trung Hoa lúc thời kỳ lấy sắt Thép dâng Mao Chủ tịch là thời kỳ nghèo nhất kể từ thuở khai thiên lập địa vậy. Mao Hoàng đế đã có chiếu chỉ là phải có đến 700 triệu tấn gang Thép cho hơn Mỹ và Anh mới được. Than ôi! Học thức của một anh học trò chưa khỏi Trung Học quả là một đại hồng phúc cho dân Trung Hoa vậy.
3.- Một người chưa bao giờ đụng trận, hay chỉ huy một trận đánh nào mà lịch sử ghi lại được. Những danh tướng như: Cao Cương (người sáng lập chiến khu Thiểm Bắc cự nỗi với quân Tưởng), Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Hoành, Trần Vân, Dương thượng Côn, La vinh Hoàn, Bành đức Hoài (người đem quân đánh trận Triều Tiên với quân đội Hoa Kỳ với lý thuyết là: Biển người) đều bị Mao giết sạch lần lượt không sót một người nào, ngay cả Lâm Bưu người sáng tác ra quyển sách Đỏ bõ túi: “Những điều chỉ dạy của Mao Chủ tịch”. Người ta huyền hoặc rằng khi nào đau bệnh thập tử nhất sinh nếu đem kinh sách này ra đọc thì mọi chuyện giảm đau hết mươi phần. Quyển này được in ấn nhiều hơn tất cả kinh Thánh của Tây Phương góp lại. Lâm Buu cũng không tránh được sự hạ độc thủ của Mao trạch Đông. Tất cả chết sạch không còn một người nào.
Những người thuộc quan văn như: Lưu thiếu Kỳ, Chu ân Lai, Đặng tiểu Bình, Trần vân, Bành Chân, đều bị hạ thủ hết.
Năm 1961 lúc đó ngôi sao đang lên của Lưu thiếu Kỳ, chủ trì hội nghị thường vụ giải quyết những vấn đề liên quan đến “dục vọng” của Mao trạch Đông và nữ hộ lý Đinh tuệ Phân (được 19 tuổi). Tuệ Phấn mang thai sắp sinh, Đảng Cộng sản Trung Hoa muốn giữ sỉ diện cho Mao trạch Đông nên Lưu thiếu Kỳ ra mật lệnh: “Văn phòng sẽ tìm cách đưa Đinh tuệ Phấn về Bệnh Viện Quân Khu Thành Đô, miền Tây Nam để lo liệu và cách ly y thị." Thời gian sau Ban Quản lý Bệnh Viện này báo là y thị tự vận chết. Nhưng thật sự là do ban Hành Động của Lưu thiếu Kỳ cho người xuống bóp cổ Đinh Tuệ Phấn rồi treo xác lên bằng cột vải khăn trải giường. Thân nhân của cô gái không được phép nhận xác về chôn, vì mọi chuyện có Đảng lo liệu hết. Nhưng Mao chứng nào tật ấy không sửa được, nên Mao đành phải tự thú riêng với nhóm Ủy ban bốn người gồm Lưu thiếu Kỳ, Chu ân Lai, Chu Đức và Mao trạch Đông... là “Mao bị bệnh bẩm sinh không có đàn bà một ngày thì cơ thể rất đau đớn, tinh thần bạc nhược.” Lưu thiếu Kỳ có ghi như sau: “Đồng chí Nhuận Chi (tên chữ của Mao) đã gây nhiều ảnh hưởng rất lớn cho đại cuộc, tổn hại đến hình tượng lãnh tụ nhân dân", còn riêng Chu Đức: “Đồng chí Nhuận Chi không tự kiềm chế được bản thân của mình". Còn Trần Văn ghi như sau: “Nhuận Chi trị được thiên hạ mà không trị được bản tính xấu của mình". Còn Chu ân Lai thì mềm mỏng hơn ghi như sau: "Đồng chí Nhuận Chi có phút yếu lòng, hy vọng Người sẽ thoát được".
Kết quả những lời phê như vậy và với sự trở cờ của Chu ân Lai nên chức vị của Mao trạch Đông không bị suy suyễn. Và tất cả trừ Chu ân Lai sau này 15 năm tất cả đều bị sát hại hết. Tất cả đều chết thê thảm bởi nhóm Hồng Vệ Binh do Giang Thanh dựng lên và Mao trach Đông lập kế. Ngày 12 tháng 11 năm 1969 lúc 6 giờ 45 phút, Lưu thiếu Kỳ, Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa qua đời tại nhà lao Khai Phong, tỉnh Hà Nam. Lưu thiếu Kỳ sống trong nhà lao này, hàng ngày bò lết mà ra đến khung cửa sắt nhà giam mà nhận một nắm cơm trộn bột mì cứng. Hai chân bị nhóm Hồng vệ Binh đánh gãy lìa từ lâu, và bị ung thối có ròi vì lệnh trên cấm y tá dùng thuốc cứu trị bệnh nhân, cánh tay mặt bị bẻ lọi lúc nhóm Hồng vệ Binh hỏi cung tại nhà riêng ở Trung nam Hải sát bên nhà của Mao trạch Đông trong khu vực của các lãnh tụ Đảng. Ngày 18 tháng 3 năm 1966 Đại tướng La thụy Khanh, Tổng tham Mưu Trưởng Quân Đội Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa nhân lúc nửa đêm khuya, nhảy lầu cao nhất của nhà giam, nhưng không chết bị gãy lìa xương đùi trái, đưa vào bệnh viện và bị cưa đứt luôn. Đại tướng La thụy Khanh bị tàn phế và cấp trên không cho dùng nạng của nhà thương nhân dân, nên La thụy Khanh dùng cành cây gãy lượm được ngoài nhà xí mà dùng nạng, mỗi lần di chuyển thì đau nhức khôn cùng. Vì vết thương đã bắt đầu mọc xương đâm nhú vào thịt mà nhà thương cố tình không cưa nhẵn và mài đều, nên miếng xương nhọn mọc đâm ra miếng thịt. Hàng đêm La thụy Khanh la hét vì vết thương hành bằng những tiếng la kinh người, rợn tóc gáy. Rồi 7 tuần lễ sau, nhóm Hồng Vệ Binh đã nhét ông vào giỏ càng-xé (lọt giỏ đan bằng tre rất lớn, dùng đựng thịt hay heo vừa được mổ xẻ khỏi lò sát sinh), nhóm này kéo Ông ra ngoài vận động trường mà đấu tố và họ treo nguyên giỏ tre lên cành cây lớn. Nạn nhân bất tỉnh từ lâu, nơi vết thương cưa cụt thì có miếng xương đùi đâm mọc ra nhọn như cây tâm xỉa ra). Đại tướng La thụy Khanh chết vài giờ đồng hồ sau, quanh giỏ tre dán toàn giấy đỏ: “Đồ phản quốc”, “Đồ con heo”. Còn Đặng Thác người phụ tá đắc lực, như Thư ký riêng của Bành Chân dùng dao rọc giấy tự cắt ngang cuống họng chết trên bàn giấy. Người trí thức tài năng này đã đi theo Đảng Cộng sản trung Hoa trên 36 năm, nào ngờ phải chọn lấy bước đường cùng tự sát tại văn phòng trước khi bị Mao trạch Đông cho người đi đấu tố.
Sau Đặng Thác đến Điền gia Anh, là Phó chủ nhiệm Văn Phòng Trung Ương Đảng, thuộc phe của Lưu thiếu Kỳ. Điền gia Anh làm việc bên cạnh Mao trạch Đông từ năm 1948, tài giỏi nên được Mao trọng dụng. Tất cả những điều mà Mao viết, Mao nói, Mao nghĩ trong tập tuyển luận những điều của Mao đều do ngòi bút viết của Điền gia Anh viết hết toàn bộ. Vì học lực của Điền gia Anh cao ngang với Lưu thiếu Kỳ và Chu ân Lai. Năm 1959 Điền gia Anh vì bất mãn Mao trạch Đông đã ám hạo Bành đức Hoài, nên Điền gia Anh xin Mao cho về quê nhà nơi gần Hồ Nam. Mao không cho, nhưng Mao đã để tâm thù Điền gia Anh. Cho dù Điền gia Anh không xin về hưu thì Mao cũng tìm cách giết chết vì Điền gia Anh là người biết quá nhiều về bài vở của mình viết ra sao và Điền gia Anh sửa chữa ra sao. Đêmkhuya ngày 4 tháng 6 năm 1966 Điền gia Anh treo cổ tự vẫn tại lầu riêng trong khu vực Trung nam Hải.
Riêng đứa con của Đặng tiểu Bình lúc đó đang làm giảng viên đại học bắc Kinh thì nhóm vệ binh Đỏ xông vào phòng học, vừa đánh vừa đá xuống thang lầu, sau cùng có tên bồng con của Đặng tiểu Bình liệng trên lầu xuống. Không chết nhưng bị gãy xương sống tật nguyền trọn đời.
Sở dĩ nhóm đông không thắng nổi Mao là nhóm nhỏ vì có sự phản bội ngầm của Chu ân Lai. Nhóm đông tin tưởng sự mềm dẽo của Chu ân lai, nhưng khi đi họp biểu quyết thì Chu trở cờ, khi nhóm đông thằng thế thì Chu khoan nhượng cho Mao thành thử người ta không lầm Mao trạch Đông nhưng người ta lầm Chu ân Lai. Rồi tất cả đều bị giết chết hết, riêng Chu ân Lai Mao vẫn cho ngồi yên tại vị.
Ngục Trần Thành là nơi giam Bành đức Hoài, ngày kia Bành chết thì nơi phòng giam này đêm khuya vẫn còn nghe tiếng tru tréo dữ dội tiếng la của Bành. Lưu thiếu Kỳ bị giam lỏng trong cung viên Trung Nam Hải của mình. Hàng ngày nhóm côn đồ tự xưng là học trò, thật sự là Hồng vệ Binh đứng ngoài hàng rào mà la ó ngày đêm. Sau cùng được lệnh Giang Thanh chúng xông vào nhà lúc cả nhà đang ăn cơm, kéo con trai yêu quý nhất của Lưu thiếu Kỳ rồi dùng xẻng xúc đất đánh tét đầu con trai Lưu tên là Lưu doãn Nhược. Không cho nạn nhân ra khỏi nhà đi bệnh viện nên Lưu doãn Nhược đêm sau bị nóng sốt và vi trùng phong đòn gánh từ xẻng xúc phân đi vào máu, nên Lưu doạn Nhược động kinh la kinh hồn, cứng người và chết 2 ngày hôm sau.
Ngày 18 táng 7 năm 1967 toàn thể gia cư của Lưu thiếu Kỳ bị cúp điện nước, không cho ai ra vào đi chợ mua thực phẩm vì nhóm cảnh vệ ngăn cản, nên gia đình Lưu rất cùng quẫn, nước không có vì không có giếng nước, nên toàn thể gia đình 16 người đi múc từng gáo nước những cống rãnh quanh tư dinh mà đem về uống. Có 4 nhân viên làm bếp tự vận chết. Vương quang Mỹ vợ Lưu thiếu Kỳ hôm qua bị nhóm này kéo lên trường học mà đấu tố và mỗi tên nghe lời Bà Giang Thanh mà vã một cái. Tất cả là 126 Hồng Vệ Binh, nên gương mặt của Vương quang Mỹ bị sưng hết nửa mặt và không thuốc trụ sinh, nên răng bà bị làm mũ xanh.
Còn Lâm Bưu người gây dựng Mao Trạch Đông thành một thánh nhân như viết lại lịch sử của Người, những lời nói của Người không môt ai qua được vv.vv... ngày kia bị rượt đuổi trên con đường trốn chạy khỏi Tân Cương, phi cơ bị bắn hạ và toàn quốc xem Lâm Bưu là tên phản lại Mao trạch Đông.
Người có công đầu với mao trạch Đông trong lúc tranh dành quyền lực và hạ sát bạn đồng ngũ của Mao trạch Đông là Lưu thiếu Kỳ. Lưu thiếu Kỳ không con nối dõi và khi về già hối hận những hành vi hai mặt của mình mà tiếp tay Mao trạch Đông để mao hạ sát hết người này người kia. Chu ân Lai chết xin hỏa táng để tro tàn trôi theo dòng nước và không để lại xác cho hậu thế nguyền rủa. Còn mao trạch Đông thì hiện nay xác được ướp kỷ để làm gì? 10 năm, 20 năm? 30 năm? 40 năm? 50 năm, 100 năm? Đến ngày đó người ta mới đến chiêm ngưỡng sao nhân loại còn một loại người mà thánh nhân loài người không tài nào suy nghĩ được.
Tập quán sinh hoạt của Mao trạch Đông rất khác thường, mà người đời gọi là ngày ngủ đêm làm ma quỷ. Y như Stalin bên Nga vậy. Stalin ngủ ban ngày, chiều thức dậy và làm việc tới khuya trong lúc đó thiên hạ đi ngủ thì Stalin ký lệnh bắt giam giết chết. Lệnh ký ra lúc 3 giờ khuya và 5 giờ sáng thì được Ban Mật Vụ thi hành, 6 giờ sáng gõ cửa nạn nhân đang còn ngủ hay đang rửa mặt đánh răng.
Còn mao trạch Đông cũng như vậy:
Mao thức dậy lúc 3 giờ chiều hay 4 giờ chiều, rồi Mao ăn điểm tâm, rồi Mao đi bơi lội. Đến 8 giờ tối nghe tin tức Truyền thanh báo chí, đến 9 giờ khuya thì ăn cơm trưa. Đến 10 giờ khuya thì đi nhảy đầm mà gọi là giao tế. Lúc này nhóm cận vệ cung cấp những thiếu nữ tình nguyện đến trò truyện Mao chủ Tịch. Khuya 12 giờ thì Mạo trạch Đông ăn cơm chiều. Đến 1 giờ khuya thì Mao xem xét công văn. Đến 2 giờ khuya hay 3 giờ khuya thì Mao cho người gọi đến những người mà Mao muốn hỏi, dĩ nhiên những người muốn hỏi được gọi vào giờ ngủ đâu còn tỉnh táo để mà biện luận với Mao được. Cho nên Mao hoàn toàn nắm hết quyền lực trong tay. Hitler cũng thế. Nghĩa là những người làm việc kiểu ma quỷ thì con người làm sao mà quang minh chánh đại được.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 18, 2010 18:33:03 GMT 9
Vua Ai Lao
Vua VN Bao Dai
VietNam xua
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 2:34:44 GMT 9
Laos Ryal Army
General Vang Pao
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 15, 2011 7:37:09 GMT 9
Mahatma Gandhi Lê Bích Sơn Mahatma Gandhi (1859 - 1948) Linh hồn vĩ đại Nhân ngày cả nước Ấn Độ và Đảng Quốc Đại Ấn Độ tổ chức kỷ niệm sinh nhật lần thứ 134 của Thánh Gandhi (ngày 2 tháng 10 năm 2003), xin gởi đến quý độc giả gần xa đôi nét sơ lược về cuộc đời Thánh Gandhi. Thánh Gandhi tên thật là MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI, chào đời vào sáng ngày 2 tháng 10 năm 1869 trong một căn nhà nhỏ tại Porbandar thuộc vùng Kathiawad - một vùng biển phía Tây Ấn Độ - thuộc Bombay. Thân phụ Mohandas Karamchand Gandhi tên Karamchand Gandhi, thân mẫu là bà Putlibai, gia đình Gandhi thuộc giai cấp thương gia (Vaishya, đẳng cấp thứ 3 theo đạo Hindu). Sử sách còn ghi lại: Ông nội của Mohandas Karamchand Gandhi là Uttamchand Gandhi, một thương gia nổi tiếng của vùng Porbandar. Mohandas Karamchand Gandhi là con út trong gia đình có sáu người con, song thân thường gọi cận bé trai út này là “MONIYA” (cục cưng) thể hiện sự triều mến nhất trong sáu đứa con của mình. Năm Mohandas Karamchand Gandhi lên Bảy (7 tuổi) gia đình chuyển đến vùng Rajkot. Tại Rajkot, Mohandas K. Gandhi được gởi đến học tại một trường tiểu học trong vùng cùng với anh trai của mình. Mohandas K. Gandhi vốn xuất thân từ một gia đình thuộc gia cấp thương gia, nên những đứa trẻ cùng lớp đều tìm cách xa lánh và cắt đứt mọi tiếp xúc, dù rằng Mohandas K. Gandhi là một hoc sinh rất khá và sáng giá của trường. Một ngày kia, trông thấy Aku - một người bạn cùng lớp – đi ngang qua nhà, Mohandas K. Gandhi bảo Aku đợi và chạy vào bếp lấy một ít bánh ngọt tặng Aku với mong muốn được làm quen với người bạn thuộc diện “khó tiếp xúc” (untouchable) này. Niềm vui như bị tan biến khi Mohandas K. Gandhi đối diện với sự thật, “Cậu không nên đến gần tớ” Aku van xin, Mohandas K. Gandhi liền hỏi “Tại sao không? Tại sao con người không thể đến gần con người?”, “Bởi vì tớ là một người giai cấp thấp, con của một gia đình ở đợ” Aku buồn bã trả lời. Mohandas K. Gandhi chụp tay Aku và đặt những miếng bánh ngọt vào đó, Aku không nói lời nào quay mặt vụt chạy. Bà Putlibai từ cửa sổ chứng kiến sự việc, nhẹ nhàng gọi Mohandas K. Gandhi vào phòng bảo: “… Những người thuộc giai cấp cao theo đạo Hindu (high-caste Hindu) không nên tiếp xúc, va chạm đến những kẻ cùng đinh”, tất nhiên là Mohandas K. Gandhi không chấp nhận điều này, bởi vì “… không có gì khác nhau giữa con và Aku”. Bà Putlibai đáp lại bằng sự im lặng và bảo Mohandas K. Gandhi đi tắm. Rất nhiều những người cầm bút đồng ý rằng sự im lặng của bà Putlibai là thái độ của sự đồng ý… Thời đó, tục lệ tảo hôn vẫn còn duy trì ở Ấn Độ, gia đình buộc Mohandas K. Gandhi phải lấy vợ ở tuổi 13. Người bạn đời của Mohandas K. Gandhi được chọn bởi dòng họ Gandhi là cô Kasturbai tại Porbandar, cũng ở tuổi 13… Một tiệc cưới linh đình diễn ra với nhiều người tham dự, người ta chúc mừng cặp “Tân lang tân giai nhân” này rất nhiều hoa thơm và lá chuối… Ông Karamchand Gandhi tạ thế ba năm sau ngày cưới của đứa con út Mohandas K. Gandhi (tức năm Gahdhi 16 tuổi). Sau khi tốt nghiệp chương trình Trung học, Mohandas K. Gandhi được trúng tuyển vào Đại học Samaldas (Samaldas College) tại Bhavgagar. Sau một học kỳ tại Đại học Samaldas, Mohandas K. Gandhi gặp một số khó khăn, Mohandas K. Gandhi quyết định thôi học trở về nhà làm việc phụ giúp gia đình. Thân mẫu và bào huynh của Gandhi không chấp thuận điều đó, họ đã khuyên nhũ, động viên Gandhi phải đi lên bằng con đường học vấn và tạo mọi điều kiện để Gandhi có thể sang Anh Quốc du học. Ngày 4 tháng 9 năm 1888, Mohandas K. Gandhi rời Bombay sang Anh Quốc trên một chuyến thuyền buôn trong trang phục của một người Tây phương. Tại Luân-Đôn (London), Mohandas K. Gandhi được Tiến sĩ P.J.Mehta - một người bạn của cha mình - tận tình giúp đỡ. Tiến sĩ P.J.Mehta đã ân cần hướng dẫn Mohandas K. Gandhi mọi sinh hoạt và cách thức thích ứng với “phong cách Tây âu” (European manners). Mohandas K. Gandhi bắt đầu học thêm tiếng Pháp với quyết tâm theo học ngành Luật của Đại học tổng hợp Luân Đôn. Lần thi tuyển đầu tiên, Mohandas K. Gandhi vượt qua các môn Pháp ngữ, Anh ngữ, Hoá học nhưng lại bị “kẹt chân” ở môn La-Tinh (Latin), tình thế “kẹt chân” này được cứu vãn ở “kỳ thi vớt” sau đó. Tháng 11 năm 1888, Mohandas K. Gandhi chính thức trở thành sinh viên Luật khoa của Đại học tổng hợp Luân Đôn. Mohandas K. Gandhi kết thúc khoá học và chính thức nhận văn bằng tốt nghiệp vào ngày 10 tháng 6 năm 1891, với bảng điểm xếp hạng khá. Sau đó hai ngày, Mohandas K. Gandhi lại theo thuyền buôn trở về Ấn Độ. Trong thời gian ba năm lưu trú tại Luân Đôn, Mohandas K. Gandhi tham gia Hội người ăn chay Luân Đôn (London Vegetarian Society), và người ta thấy nhiều bài báo dưới bút danh Mohandas K. Gandhi được đăng tải trên tạp chí Vegetarian (Người Ăn chay). Thuyền cập vào cảng Bombay, Mohandas K. Gandhi thấy những người thân trong gia đình đang chờ mình ở đó, nhưng Mohandas không nhìn thấy hình ảnh kính yêu mà Mohandas K. Gandhi mong đợi nhất, bà Putlibai vừa từ trần vài tuần trước đó, những người thân trong gia đình giấu kín tin này vì sợ ảnh hưởng đến kỳ thi tốt nghiệp của Mohandas K. Gandhi. Trở về cố hương tại Rajkot, Mohandas K. Gandhi hành nghề luật sư (barrister), nhưng những thành kiến và sự bất đồng trong bộ phận những người hành nghề Luật tại Rajkot đã phần nào làm Mohandas K. Gandhi lâm vào tình thế khó khăn. Công ty Dada, Abdulla & Co., - chủ công ty là một người Ấn ở Nam Phi – nhìn sự khó khăn của Mohandas K. Gandhi như một vận hội tốt đến với mình, bèn ngõ lời mời Mohandas K. Gandhi làm luật sư đại diện chính thức với mức lương vô cùng hấp dẫn, Mohandas K. Gandhi nhận lời mời không chút đắn đo. Giới kinh doanh thời đó nhận định rằng: Ông chủ công ty Dada, Abdulla & Co. thừa thông minh để hiểu Mohandas K. Gandhi nói tiếng Anh rất lưu loát, học và hiểu rõ những luật lệ Anh quốc, hơn thế nữa Mohandas K. Gandhi là một “cây bút bén và đa năng”. Tháng 4 năm 1893, Mohandas K. Gandhi rời Bombay đến với phương trời mới Nam Phi (South Africa). Cuối tháng 5 năm 1893, Mohandas K. Gandhi đặt chân đến Durban – Nam Phi sau một chuyến hải hành đầy gian khổ. Từ đó, Mohandas K. Gandhi bắt đầu công việc của mình trong cái nhìn không mấy thiện cảm của những người dân Nam Phi. Tại Nam Phi, nạn kỳ thị chủng tộc đã làm phần đời Mohandas K. Gandhi vốn đã gặp nhiều bất trắc lại càng trở nên khốn khổ. Chuyện kể rằng, trên một chuyến tàu từ Durban đi Pretoria, Mohandas K. Gandhi mua một vé tàu hạng nhất (first-class ticket), nhưng khi lên đến tàu người phục vụ hành khách (conductor) lại dùng những lời mạ lỵ và quyết không cho Mohandas K. Gandhi vào toa tàu như trong vé đã ghi: “Này, thằng luật sư cu-li (làm mướn), mày không được vào trong ngồi chung với những hành khách da trắng” (Hey, you barrister coolie, you can’t sit inside with the white passengers). Tất nhiên là chuyện phiền phức kéo theo sau đó, Mohandas K. Gandhi bị bỏ lại ga xe lửa trong một đêm dài tối tăm. Mohandas K. Gandhi viết một tờ đơn gởi đến các cấp lãnh đạo, và tất nhiên không bao giờ ông nhận được bất kỳ câu trả lời nào. Những sự kiện dồn dập, ông nhận ra sự bất công trong nạn kỳ thị chủng tộc, ông đã viết nhiều thư, đơn, các bài viết gởi đến các cơ quan công quyền, các tờ báo xuất bản ở Nam Phi, nhưng thái độ duy nhất mà Mohandas K. Gandhi nhận được từ các nơi ông gởi đến là sự ngó lơ, lạnh lùng… Tác giả bên tượng Mahatma Gandhi tại Bảo Tàng Gandhi - New Delhi Năm 1896, Mohandas K. Gandhi xin được trở lại Ấn Độ trong vòng sáu tháng để lo thủ tục bảo lãnh vợ con sang đoàn tụ. Gandhi đặt chân đến Calcutta vào một ngày giữa năm 1896, sau 24 ngày đêm lênh đênh trên đại dương. Từ Calcutta về Rajkot ông đi bằng đường bộ. Gia đình Mohandas K. Gandhi đoàn tụ, bà Kasturbai và hai người con trai của Gandhi hết sức vui mừng trong cuộc đoàn viên này. Cùng năm này, nhiều thuận duyên liên tục đến “gõ cửa” Mohandas K. Gandhi, ông đã gặp gỡ, tiếp xúc khá nhiều các nhà lãnh đạo Ấn Độ, giới truyền thông, như Lokamanya B.G.Tilak của Maharashtra, Gopal Krishna Gokhale, .v.v. những quan điểm của Mohandas K. Gandhi được tìm thấy trên vô số các tờ báo, người ta cũng thấy sự ca tụng và ủng hộ những ý kiến của Mohandas K. Gandhi. Gandhi đã thực sự tạo ra một “diễn đàn Gandhi” sôi nổi trong giới báo chí thời bấy giờ. Tháng 11 năm 1896, Mohandas K. Gandhi nhận được một thư khẩn, đề nghị ông khẩn cấp sang Nam Phi vì những vấn đề nghiêm trọng của công ty. Mohandas K. Gandhi nhanh chóng rời Ấn Độ mang theo vợ, hai con và một cháu trai (con của một người chị). Trở lại Nam Phi (18-12-1896), Mohandas K. Gandhi bắt đầu được những người Tây âu lưu trú lại Nam Phi hết sức quan tâm. Gandhi đến với các hội thảo do những người Tây âu tổ chức như một “khách mời đặc biệt”. Vợ, con, cháu của Mohandas K. Gandhi được gởi đến sống với gia đình Rustomji; sau đó chuyển đến ở chung với gia đình ông Laughton, cố vấn công ty Dada, Abdulla & Co. Cũng từ đó, Mohandas K. Gandhi bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp chính trị tại Nam Phi, Ông gặp gỡ và trao đổi với báo giới về những quan điểm của mình, Mohandas K. Gandhi thành lập các hội bảo vệ người Ấn tại Nam Phi, và một trong những điều đặc biệt được ghi lại về Mohandas K. Gandhi trong thời gian này là ông bắt đầu ăn thức ăn chay không cần phải qua nấu nướng (uncooked food). Năm 1901, Mohandas K. Gandhi quyết định hồi hương. Sau khi về đến Ấn Độ, Mohandas K. Gandhi quyết định thực hiện chuyến tham quan toàn Ấn Độ. Ông đến Calcutta, gặp lúc Đảng Quốc Đại Ấn Độ (Indian National Congress) tổ chức cuộc mít-tinh cho năm đó, Mohandas K. Gandhi được người chủ tịch – ông Dinshaw Wacha - mời làm khách mời danh dự. Chính cuộc mít-tinh này là cơ hội tốt để Mohandas K. Gandhi tiếp xúc các giới chức lãnh đạo cao cấp trong đảng Quốc Đại, như: Pherozeshah Mehta, Lokamanya B.L. Tilak, G.K.Gokhale,.v.v. Sau những cuộc gặp gỡ này, Mohandas K. Gandhi tiếp tục thực hiện cuộc hành trình đi khắp Ấn Độ của mình. Sau cuộc hành trình này, Mohandas K. Gandhi tiếp tục công việc của một luật sư tại Bombay. Tháng 12 năm 1902, Mohandas K. Gandhi nhận được bức điện tín gởi từ Nam Phi báo tin Joseph Chamberlain, Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc (Colonial Secretary) sẽ đến thăm Natal và Transvaal (thuộc địa của Anh ở Nam Phi). Đảng quốc đại Ấn Độ tại Natal cũng ngõ lời thỉnh cầu Mohandas K. Gandhi là nhân vật đại diện cho cuộc tiếp xúc đó. Mohandas K. Gandhi lên đường đến Natal kịp thời và bị viên Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc tiếp đãi lạnh nhạt. Sau cuộc tiếp xúc với giữa Mohandas K. Gandhi và Joseph Chamberlain đã làm cho những người Ấn ở đó vô cùng thất vọng. Joseph Chamberlain tiếp tục lên đường đến Transvaal, những người Ấn này một lần nữa mong cầu Mohandas K. Gandhi đại diện cộng đồng người Ấn trình bày những nguyện vọng và sự bất bình của họ trước viên Bộ trưởng thuộc địa Anh Quốc Joseph Chamberlain. Tuy nhiên, khi đến Transvaal, bộ luật di trú đã có những thay đổi, Mohandas K. Gandhi quyết định ở lại Transvaal trong một thời gian. Tại Johannesgurg, Mohandas K. Gandhi nộp đơn xin toà án tối cao mở một văn phòng luật sư, điều đó được chấp thuận. Văn phòng luật sư của Mohandas K. Gandhi được ra đời tại Johannesgurg. Vào năm 1904, Madanjit tìm đến Mohandas K. Gandhi bàn về những dự kiến cho ra đời tờ tuần báo “Indian Opinion” (Quan điểm người Ấn). Mohandas K. Gandhi đồng ý và xúc tiến mọi thủ tục. Tờ tuần báo “Indian Opinion” song ngữ: Gujarati và Anh ngữ nhanh chóng đến với bạn đọc, chủ bút là Mansukhlal Naaza, Mohandas K. Gandhi giữ vai trò trị sự, xuất bản và phụ trách cột xã luận (editorial column). Tờ “Indian Opinion” được độc giả và công chúng ủng hộ nhiệt liệt, vì ở đó người ta thấy được bức tranh sống động, chân thực của những người Tây âu bóc lột các nước thuộc địa, tiếng nói và những khó khăn của nhân dân thuộc địa được công khai trên mặt báo, đặc biệt là những tâm tư, nguyện vọng của những người Ấn lưu vong trên xứ sở Nam Phi trong cảnh “nước mất nhà tan”…. Cùng năm đó, Mohandas K. Gandhi gặp gỡ H.S.L.Polar, trợ lý tổng biên tập của tờ “The Critic” (bình phẩm, phê bình), và cả hai người cùng nhận ra nhau họ có chung một hướng đi… Với những trợ giúp của H.S.L.Polar, tuần báo “Indian Opinion” thực sự trở thành diễn đàn, thành cuốn “cẩm nang” cho công chúng, những đóng góp của “Indian Opinion” không những dừng lại ở lĩnh vực chính trị mà con mang trong nó nhiều sắc thái khác nhau (ví dụ: mục đồng án đã làm người dân có cái nhìn mới về thữa ruộng mình đang có”… Tờ “Indian Opinion” dời trụ sở về Phoenix gần Durban, tại đây “Indian Opinion” thực sự trở thành một cơ sở độc lập, với đầy đủ các trang thiết bị cho một cơ sở báo chí thời đó. Điều tất nhiên là Mohandas K. Gandhi phải “gồng mình” với cả hai vai trò cùng một lúc: nhà báo và luật sư. Ông quyết định đưa gia đình sang Nam Phi lần nữa… Chính vì những công việc căng thẳng của Mohandas K. Gandhi, bà Kasturbai đã âm thầm chứng kiến cảnh chồng bà mỗi ngày dùng một nhiều trà và cà phê, trong khi đó “thức ăn” chính của Mohandas K. Gandhi chỉ toàn là nước lã… Tháng 8 năm 1906, chính quyền Transvaal ra thông báo: Tất cả những người Ấn Độ tại Transvaal phải đến khai báo các chi tiết cá nhân, sau đó chính quyền sẽ cấp một giấy chứng nhận, tờ chứng nhận này phải được mang theo người mọi lúc mọi nơi, phải xuất trình khi các nhân viên chính quyền tra hỏi. Nếu không có giấy chứng nhận đó, người Ấn sẽ bị bỏ tù hoặc trục xuất. Cảnh sát có quyền đến nhà kiểm tra bất kỳ khi nào “cảm thấy cần”… Đứng trước thông báo này, Mohandas K. Gandhi cho đó là một điều sỉ nhục, một sự kỳ thị chủng tộc dã man, Ông kêu gọi mọi người Ấn Độ lưu vong chống lại thông báo đó. Và sau đó mọi người nhìn thấy Mohandas K. Gandhi “nghỉ mát” trong một nhà tù ở Transvaal, vì lý do không có “giấy hộ thân”. Sau đó Mohandas K. Gandhi được gởi đến Pretoria gặp tướng Smuts. Ông Tướng này tỏ thái độ mềm mỏng hơn với lời giải thích: “Không phải tôi không thích người Ấn Độ, tôi chỉ muốn người Ấn sống và tuân theo pháp luật”, rồi ra lệnh thả Mohandas K. Gandhi. Ra tù, Gandhi cổ vũ một số người Ấn đến gặp các quan chức địa phương để giải thích và đưa lên những kiến nghị. Một hôm, trên đường đến công sở, Mir Alam dùng gậy bất ngờ đánh mạnh liên tiếp vào Gandhi cho đến khi bất tỉnh, rồi lôi thân thể Gandhi đặt vào nhà một người Anh rất thân với Gandhi… Thời gian này người ta ghi nhận rằng Mohandas K. Gandhi vào nhà giam Transvaal “ngồi bóc lịch” đến ba lần. Lần thứ ba sau khi ra khỏi nhà giam, Mohandas K. Gandhi đã tổ chức cuộc mít-tinh và gởi kháng thư đến chính quyền Anh, thư được hồi âm, Seth Haji Habid va Mohandas K. Gandhi được mời sang Luân Đôn để trình bày những nguyện vọng và phàn nàn của cộng đồng người Ấn tại Nam Phi. Kết quả lại thất bại… Tháng 10 năm 1913, Mohandas K. Gandhi lãnh đạo hơn 6000 công nhân người Ấn đình công chống lại sự bóc lột và thuế quan của chính quyền Transvaal tại vùng mỏ Natal. Mohandas K. Gandhi và vô số công nhân bị bắt và bỏ tù cho vụ này. Lại một lần nữa các quan chức cấp dưới lại cầu xin sự chiếu xét của tướng Smuts. Sự việc được chuyển đến tướng Smuts vào tháng 12 năm 1913. Tuy nhiên trước đó, các nhân viên người Tây Âu ngành đường sắt cũng đứng dậy biểu tình, đình công liên tục. Các vụ việc này làm các cấp chính quyền “rối óc”, vụ việc Mohandas K. Gandhi cũng được chính quyền “cho qua”… Mohandas K. Gandhi quyết định cùng gia đình trở về Ấn Độ sau hai mươi mốt (21) năm đóng góp sức mình cho lợi ích cộng đồng người Ấn tại Nam Phi. Trong khi chuẩn bị hành lý thì Gandhi nhận được bức điện tín của Gokhale gởi từ Luân Đôn, Gokhale nói rằng ông muốn gặp Gandhi tại Luân Đôn trước khi trở về Ấn Độ. Ngày 18 tháng 7 năm 1914, Mohandas K. Gandhi cùng bà Kasturbai lên đường sang Anh Quốc. Hai ngày trước khi Gandhi đến Luân Đôn, ngày 4 tháng 8 năm 1914 chiến tranh thế giới bùng nổ. Khi đến Luân Đôn, Gandhi nghe tin Gokhale đã sang Paris vì lý do sức khoẻ, thông tin liên lạc giữa Luân Đôn – Paris lại bị cắt đứt vì lý do chiến tranh. Gandhi thất vọng vì ước nguyện đơn giản gặp gỡ Gokhale vẫn chưa thực hiện được, Ông ngồi ở Luân Đôn đợi Gokhale. Trong lúc nhàn rỗi, Mohandas K. Gandhi tập họp những sinh viên Ấn đang lưu học tại Luân Đôn thảo luận về phương pháp đấu tranh giành độc lập Ấn Độ. Một trong những ý kiến khiến Gandhi hết sức lưu tâm là: “Cuộc chiến này có thể là một vận hội mới cho nền độc lập Ấn Độ”… Vài hôm sau ông Gokhale cũng về đến Luân Đôn, Mohandas K. Gandhi đã đến thăm hỏi và thảo luận với Gokhale về vấn đề độc lập Ấn Độ… Trong một lần quá vui, Gandhi tự nhiên ngã bất tỉnh, các bác sĩ khám và cho biết Mohandas K. Gandhi bị viêm màng phổi (pleurisy) khá nặng. Bác sĩ Jivraj Mehta tận tâm chữa trị. Gokhale rời Luân Đôn trong lúc Gandhi đang được các bác sĩ điều trị. Bệnh ngày một trầm trọng, họ khuyên Gandhi nên trở về Ấn Độ càng sớm càng tốt. Gandhi đồng ý và cùng vợ lên tàu về lại Ấn Độ. Thuyền cập cảng Bombay, dân chúng đón mừng Mohandas K. Gandhi như một người hùng, vì tiếng thơm của Gandhi đã bay đến Ấn Độ trước đó. Sau 12 năm tha hương, ông muốn trở lại thăm ngôi nhà cũ, nhưng hay tin Gokhale đang trong cơn “thập tử nhất sinh”, Mohandas K. Gandhi cùng bà Kasturbai tức tốc đến thingya (Pune) thăm Gokhale. Gokhale cầm tay Gandhi không ngăn được dòng nước mắt, Gokhale nhắn nhủ: “Đừng quên chúng ta là những người đang đấu tranh cho nền lập Ấn Độ, đừng bỏ quên ý chí đó”. Từ giã Gokhale, Gandhi về Rajkot và Porbandar thăm lại bà con thân thích, thăm lại ngôi nhà xưa, tìm về chốn kỷ niệm… Rồi đến Santiniketan thăm lại ngôi trường cũ, nơi đó giáo viên và học sinh của trường tiếp đón Mohandas K. Gandhi như một niềm vinh hạnh. Cũng tại Santiniketan, Gandhi lần đầu tiên được Tagore và C.F.Andrews tiếp đón nồng nhiệt… Và cũng tại Santiniketan vài ngày sau đó, Mohandas K. Gandhi ngậm ngùi khi hay tin Gokhale đã trút hơi thở cuối cùng… Sau khi làm lễ hoả táng Gokhale, Mohandas K. Gandhi đến gặp các vị lãnh đạo cao cấp của tổ chức những người cùng đinh Ấn Độ (the Servants of India Society) và được mời vào tổ chức, vì tổ chức này hết sức kính trọng Gokhale, tuy nhiên phần đông thành viên trong hội này không mấy tỏ ra thân thiện với Mohandas K Gandhi. Ít lâu sau Mohandas K. Gandhi được mời đến tham quan thủ đô Rangoon - Miến Điện… Tháng 2 năm 1916, Mohandas K. Gandhi được mời làm chủ toạ một cuộc mít-tinh tại Đại học Banaras Hindu (Banaras Hindu University, viết tắt là BSU, tại Varanasi). Và người ta còn thấy Gandhi xuất hiện trên rất nhiều hội nghị của các đảng phái chính trị, như: hội nghị về quản trị nhà đất của Tilak và Besant giữa cuối năm 1916, họp mặt và hội thảo thường niên của Đảng Quốc đại tổ chức tại Lucknow tháng 12 năm 1916,.v.v. Hơn hai năm trời, Gandhi đã đi nhiều nơi, diễn thuyết khá nhiều địa phương, công chúng đến với Gandhi ngày một nhiều.... Và tất nhiên Mohandas K. Gandhi phải đối diện với muôn vàn khó khăn, phức tạp với một xã hội nhiều màu sắc như Ấn Độ, các cuộc bất đồng giữa các tôn giáo, sự bất bình đẳng trong xã hội như nghèo – giàu, cùng đinh – quý tộc, trí thức – dân đen… Cùng năm 1916, tại quận Champaran thuộc tiểu bang Bihar nông dân gặp phải những khó khăn trong chính sách của những người Anh về nông nghiệp. Rajkumar Shukla, một nông dân cố tìm diện kiến Mohandas K. Gandhi, mời Gandhi về Champaran để chứng kiến sự lầm thang của người dân trong vùng và lên tiếng dùm họ. Tuy nhiên, lúc bấy giờ Mohandas K. Gandhi phải tham dự cuộc mít-tinh của Đảng Quốc đại tổ chức tại Lucknow (thủ phủ tiểu bang Uttar Pradesh ngày nay), nên hẹn dịp khác. Dù vậy, Rajkumar Shukla vẫn cố theo nài nỉ, cuối cùng Gandhi hứa sẽ đến Champaran sau khi về đến Calcutta. Rajkumar Shukla theo chân Gandhi như một cái bóng, nơi nào có Gandhi thì phía sau có Rajkumar Shukla. Khi Mohandas K. Gandhi vừa đến Calcutta thì Rajkumar Shukla đã đợi sẵn ở đó, hai người cùng đón tàu về Bihar. Gandhi thăm quận Champaran vào đầu năm 1917. Khi vừa đến nơi Mohandas K. Gandhi thấy trên những ngả đường giăng câu khẩu hiệu: “Gandhi không được lưu lại lâu ngày ở Champaran. Hãy rời khỏi đây như đoàn tàu đã chuyển bánh rời Champaran”. Tất nhiên, Gandhi không tuân theo những câu khẩu hiệu đó, Gandhi chỉ đón nhận sự hân hoan chào đón của những người dân cùng khổ trong làng. Gandhi đã đi từ làng này qua xóm nọ thăm hỏi hơn 8000 nông dân (cultivator), quan tâm đến sự giáo dục của từng đứa trẻ, thăm hỏi, bắt tay từng cụ già… những hình ảnh đó tạo ra sự an ủi, thanh thản trong lòng mọi người… Mohandas K. Gandhi không thể kéo dài thời gian ở Bihar, những nơi khác lần lượt đến và xin Mohandas K. Gandhi chiếu cố đến thăm thôn xóm của họ. Người làng Ahmadabah đến sau người làng Champaran, nên từ giã Champaran Mohandas K. Gandhi đến Ahmadabah… Gandhi vận động nông dân chống lại những món thuế phi lý và sự bóc lột của chính phủ Anh tại Ấn. Điều này được vô số người dân ủng hộ, kể các các quan chức, những người cầm đầu nhiều công hội cũng hết sức tán thành, điển hình như các quan chức tại Gujarat: Vallabhbhai Patel, Shankarlal Banker, Mahadev Desai, v.v. Mùa xuân năm 1917, Ngài Chelmsford, phó quốc trưởng Ấn Độ (the Viceroy of India), mở cuộc hội thảo bàn về những diễn biến về cuộc chiến thế giới, khách mời là tất cả các nhà lãnh đạo cao cấp tại Ấn Độ, tất nhiên Mohandas K. Gandhi cũng nằm trong số đó. Cùng năm này sức khoẻ Mohandas K. Gandhi bắt đầu xuống cấp, ông từ chối mọi thuốc men và mọi lời khuyên về sức khoẻ, dấu hiệu xuống dốc của cơ thể ngày một rõ rệt, nhưng Mohandas K. Gandhi vẫn quả quyết rằng tinh thần sẽ chiến thắng tất cả. Sức khoẻ ông chưa bình phục, thì tin mừng được toan tải trên toàn cầu “Chiến tranh kết thúc”. Mohandas K. Gandhi đi Matheran, từ Matheran ông đến thingya. Tại thingya một bác sĩ tốt bụng lại phát tâm khám và khuyên Gandhi nên dùng ít sữa và tiêm ít thuốc. Gandhi đồng ý cho vị bác sĩ đó tiêm ít thuốc, nhưng từ chối việc dùng sữa. Bà Kasturbai đứng cạnh đó lên tiếng: “Ông không thể dùng được sữa bò, sữa trâu, nhưng sữa dê (goat’s milk) cũng không dùng nữa sao!”, “Ừ đúng đấy, sữa dê cũng có hàm lượng sinh tố cao, giúp người bệnh chóng phục hồi, ông uống thử chút đi!” ông bác sĩ “đệm” vào, Gandhi khẽ gật đầu… Sức khoẻ tạm thời bình phục, Mohandas K. Gandhi trở lại Ahmedabad. Tại Ahmedabad, Gandhi nhận được thư mời đến Madras. Tại Madras, Gandhi đã gặp gỡ C.Rajagopalachari, một nhân vật lãnh đạo mà Gandhi rất ngưỡng mộ, và cuộc hội thảo các nhân vật lãnh đạo cao cấp diễn ra ở đó. Báo giới và các sử gia đánh giá cuộc hội thảo này là tiếng chuông đầu tiêng đánh thức người dân Ân Độ đứng lên giành lại độc lập. Rời Madras, Mohandas K. Gandhi trở lại Bombay tham gia phong trào “đóng cửa tiệm” vào ngày 6 tháng 4 năm 1919. Trong khi đó tại Delhi, Lahore, Amrissar người ta đã bắt đầu phong trào “đóng cửa tiệm” từ ngày 30 tháng 3, cảnh sát Delhi đã thực hiện lệnh giới nghiêm trong cả thành phố vào ngày này. Một thư mời Mohandas K. Gandhi trở về Delhi, nhưng ông đáp lại rằng: ông sẽ đến Delhi sau khi thực hiện xong phong trào “đóng cửa tiệm” ở Bombay. Phong trào này thành công rực rỡ, ngày đó người ta thấy không một cửa tiệm nào trong thành phố Bombay mở cửa, không thấy bóng dáng bất kỳ chiếc xe nào chuyển bánh trên đường… Và toàn Ấn Độ ngày đó, ngày 6 tháng 4 năm 1919, đồng loạt đứng lên chống đối chính quyền Anh tại Ấn Độ cùng một tư thế, không ồn ào, không giết chóc, không đạn bom, tất cả im lặng, một sự “im lặng sấm sét” trong các sách Thiền, một sự “im lặng đến rợn người” trong các bộ sử thi Ấn Độ… tất cả đã được Mohandas K. Gandhi âm thầm vận động. Những nơi Mohandas K. Gandhi đã đi qua đều lưu lại ở xứ sở đó những làn gió của tinh thần “bất bạo động” (Ahimsa, Non-violence). Mohandas K. Gandhi bị bắt tại Palwal trên đường đi đến Punjab, và bị cưỡng bức trở lại Bombay. Các tin tức Mohandas K. Gandhi bị bắt đăng tải đầy các tờ báo, dán khắp nơi ở Bombay. Vô số đám đông tụ tập trên các nẻo đường Bombay để chờ đón Mohandas K. Gandhi, nhưng khi ông vừa đến ga, một viên cảnh sát chờ sẵn ở đó “mời” ông về thẳng đồn cảnh sát. Sau cuộc “vấn an sức khoẻ” của các cảnh sát, Gandhi hứa sẽ dùng “giải pháp mềm dẻo hơn” và đề nghị cảnh sát tổ chức một cuộc mít-tinh cộng đồng để ông “sửa lỗi”. Cuộc mít-tinh được tổ chức tại Sabarmati Ashrama, dưới sự giám sát của hàng ngàn cảnh sát thường phục có, cảnh phục có. Mohandas K. Gandhi bắt đầu buổi diễn thuyết bằng câu: “I have made a Himalayan miscalculation”, công chúng cười “ồ” một tràng nhạo nhễ, những người bạn thân tỏ vẻ thất vọng và điên tiết, chỉ vì họ chỉ nghĩ “nghĩa đen” của câu nói trên. Gandhi bắt đầu bài nói chuyện của mình, không gian và thời gian dường như chết lặng, người ta không dám thở mạnh để có thể chú tâm lắng nghe những lời nói của Gandhi… Cùng năm này, tiểu bang Punjab xảy ra vụ đụng độ kinh hoàng giữa người dân và chính quyền: 379 người bị giết, 200 người bị thương trong cuộc đàn áp đẫm máu tại Jallianwala Bagh (ngày nay người dân Punjab dùng từ “Jallianwala Bagh” để ám chỉ “sự tàn sát dã man”). C.F.Andrews bấy giờ đang ở đó, ông viết bức thư gởi đến Gandhi với nội dung: chỉ có Mohandas K. Gandhi mới làm dịu đi cơn phẫn nộ của dân chúng. Gandhi hồi âm rằng ông sẽ không trở lại vùng đất ông đã bị trục xuất khi chưa có một quyết định nào của chính phủ. Tháng 10 năm đó, Phó quốc trưởng Ấn Độ ký quyết định đồng ý cho Mohandas K. Gandhi tự do đi lại trong vùng đất Punjab. Gandhi quyết định đến Punjab, tại đây ông được người dân vô cùng kính trọng, quây quần bên ông tỏ lòng kính ngưỡng. Cảnh “dầu sôi lửa bỏng” ở Punjab lắng dần. Cũng tại Punjab, Mohandas K. Gandhi đã gặp Jawaharla Nehru. Gandhi trở thành người đứng đầu đảng Quốc đại vào năm 1920. Từ đó Ông được dân chúng tôn vinh là người lãnh đạo mọi phong trào giành độc lập Ấn Độ. Mohandas K. Gandhi cũng bắt đầu chuyển hướng đảng Quốc đại vốn chủ yếu của giai cấp trí thức và tư sản thành một tổ chức của quần chúng, thu nhận cả nông dân, giai cấp trung lưu.v.v. Mohandas K. Gandhi kịch liệt chống lại chủ nghĩa đấu trang bạo động, khủng bố, phương châm hành động của ông chủ yếu dựa trên những phương pháp hoà bình. Phương pháp chính yếu của Gandhi dựa trên hai nguyên tắc: Satyagraha (nguyên tắc chân lý) và Ahimsa (bất bạo động). Tình hình chính trị Ấn Độ ngày càng trở nên tồi tệ, điều này khiến chính phủ Ấn “nát óc”, tình trạng căng thẳng xảy ra khắp nơi. Ngày 1 tháng 8 năm 1920, trong một bức thư gởi đến Phó quốc trưởng Chelmsford, Gandhi bày tỏ thái độ không hợp tác chiến dịch do Phó quốc trưởng đề ra. Gandhi xin trả lại huy chương vàng “Kaiser-i-Hind” nhận được năm 1915. Và trong một cột báo của tờ “Young India” (tuổi trẻ Ấn Độ) Gandhi cho đăng các quan điểm nhằm bảo vệ quyết định “không cộng tác” (Non-co-operation) và “bất bạo động” (non-violent) của mình. Ngày 26 tháng 12 năm 1920, tại cuộc họp thường niên của đảng Quốc đại, Mohandas K. Gandhi được thắng cử với phần đông người tán thành. Ngày 17 tháng 11 năm 1921, Hoàng tử xứ Wales đến thăm Bombay, lúc đó Mohandas K. Gandhi cũng đang ở Bombay. Hôm sau, Hoàng tử xứ Wales đến thăm một thành phố lân cận, hốt hoảng khi nhìn thấy cảnh “đường không người, phố không xe”. Tác giả của “màn kịch” “đường không người, phố không xe” kia không ai khác ngoài Motilal Nehru và Jawaharlal Nehru, tất nhiên là họ cùng một số người liên can đến vụ việc được đưa vào “nhà đá” để “đào tạo”. Chính phủ Anh tại Ấn thời bấy giờ nghi ngờ Mohandas K. Gandhi chính là “đạo diễn” vụ nầy, và quyết định “tặng” Gandhi bản án sáu năm tù giam tại nhà tù Yeravda ở thingya. Năm 1924, bệnh tình Gandhi tái phát, kéo theo chứng bệnh mới viêm ruột thừa cấp tính. Một cuộc giải phẫu dưới sự giám sát của chính phủ hoàn toàn thành công, nhưng sự bình phục diễn ra rất chậm. Chính phủ quyết định thả tự do cho Gandhi. Ông đến Juhu một địa danh gần Bombay để dưỡng bệnh. Gandhi quyết định rời bỏ chính trường để tập trung tâm hồn mình vào những tiến triển tâm linh. Người ta nhận thấy rằng sáu năm kể từ ngày ra tù, Mohandas K. Gandhi không bao giờ bàn đến việc chính trị. Người ta chỉ thấy ông đến các tu viện, đền thờ bàn luận giáo lý với các nhà sư, người ta tìm thấy trên đầu giường của ông Kinh Phật và cả các bộ Thánh điển Hindu nữa… Năm 1928, Phó quốc trưởng ngỏ ý mời Mohandas K. Gandhi đến thăm hỏi, Gandhi nhận lời và một cuộc gặp gỡ không nồng ấm kéo theo. Ngày 31 tháng 12 năm 1929, Jawaharlal Nehru được bầu làm chủ tịch Đảng Quốc đại, người ta hy vọng đất nước Ấn Độ sẽ hoàn toàn độc lập sau cuộc bầu cử này. Nhưng khi Đảng Quốc đại chưa làm được điều đó, thì giá muối và thuế muối gia tăng, thậm chí chính phủ còn đánh thuế vào những người dân nghèo thu nhặt muối tự nhiên trên biển. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1930, Mohandas K. Gandhi viết một bức thư rất dài gởi ông Tân Phó quốc trưởng Irwin than phiền về những khó khăn trong những chính sách của người Anh tại Ấn và đề xuất một cuộc gặp mặt để thảo luận, nhưng ông Tân Phó quốc trưởng trả lời thông qua một vị thư ký với nội dung “trách ngầm” Gandhi là một người “phá bỏ luật lệ”. Toàn dân Ấn Độ quyết định ủng hộ quan điểm của Gandhi, bắt đầu từ 6:30 sáng ngày 12 tháng 3 năm 1930, hàng vạn người chứng kiến và hô hào ủng hộ “chiến dịch” Mohandas K. Gandhi cùng 78 người dân Ấn từ những giai cấp khác nhau “thầm lặng chống đối” trên quãng đường dài 241 dặm từ nhà Gandhi đến bờ biển Dandi, khẩu hiệu cho cuộc chống đối này là “Vứt đi Luật muối” (Salt law would be broken). Sau 24 ngày, cuối cùng “đôi mắt” của chính quyền Ấn Độ và ống kính báo chí thế giới bắt đầu dõi theo Gandhi. Chính phủ Ấn Độ hoàn toàn “bó tay” trước chiến dịch này, vì họ nhận thấy rằng mỗi ngày con số tham gia vào chiến dịch “vứt đi Luật muối” tăng lên vùn vụt, từ số trăm lến đến số ngàn, người già, phụ nữ, trẻ em lần lượt xuất hiện gia tăng vào chiến dịch… Chiến dịch kết thúc vào ngày 5 tháng 4 năm 1930 khi đoàn đến bờ biển Dandi. Vài ngày sau đó Mohandas K. Gandhi lại bị cảnh sát bắt và đưa đến nhà tù Yeravda. Trong tù Gandhi hoàn toàn im lặng và tự tại. Trong khi đó, khắp mọi miền Ấn Độ người dân lần lượt đứng lên học theo phong trào “vứt đi Luật muối” của Gandhi, chính quyền hoàn toàn ngỡ ngàng, không thể nào “dập tắt” phong trào “vứt đi Luật muối”. Rồi chuyện cũng “lọt vào tai” Thủ tướng Anh, Ông ra lệnh phóng thích Gandhi và bàn chuyện trả hoà bình cho Ấn Độ. Gandhi được phóng thích năm 1931, sau khi ra khỏi nhà tù ông yêu cầu Phó quốc trưởng Irwin cho ông một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn được đáp ứng ngay sau đó, tất nhiên khi đối diện cả hai đều nhận ra họ đến từ hai thế giới khác nhau. Cùng lúc đó, tại Luân Đôn nội các Anh đang trong một hội nghị bàn tròn bàn xoay quanh vấn đề tương lai của Ấn Độ. Tháng 8 năm 1931, Gandhi lên tàu sang Luân Đôn sau một buổi tiệc nhỏ. Mohandas K. Gandhi trải qua 84 ngày ở Anh Quốc, hầu hết thời gian này ông dành cho các cuộc họp mặt và hội thảo. Churchill từ chối gặp gỡ Gandhi, tuy nhiên người đàn ông Ấn Độ này đã làm “quyến rũ” mọi người bởi phong cách đặc biệt của mình. Ngay cả đức Vua và Hoàng hậu cũng phải mời Mohandas K. Gandhi ngồi chung một buổi tiệc trà. Một phóng viên phỏng vấn Gandhi: “Ông có nghĩ rằng trang phục ông đang mặc đủ tiêu chuẩn để tham dự một tiệc trà như thế này chăng?”, “Tôi nghĩ chiếc áo mà đức vua đang mặc đủ cho cả hai người” Gandhi mỉm cười trả lời, tất nhiên là phóng viên kia chết điếng người trong câu trả lời “nửa vời” mà thâm thuý đó.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 15, 2011 7:38:41 GMT 9
Mohandas K. Gandhi (Tiep Theo ) Tại hội nghị bàn tròn người ta hoàn toàn không hề đả động gì đến vấn đề độc lập Ấn Độ, người Anh đã “đánh lạc hướng” qua đề tài “những khác biệt giữa Ấn giáo và Hồi giáo”, để rồi cuối cùng kết luận một cách vu vơ rằng: những cuộc nổi dậy ở Ấn Độ hoàn toàn chỉ vì lý do tôn giáo. Gandhi trở về Ấn Độ không mang theo bất kỳ tin tức mới mẻ nào. Niềm hy vọng người Ấn như vụt tắt. Đầu năm 1932, Mohandas K. Gandhi muốn diện kiến vị Tân Phó quốc trưởng, Willingdon; Tuy nhiên Willingdon trả lời rằng thời gian đàm phán đã chấm dứt. Gandhi thông báo với các cơ quan chức năng là ông sẽ tiếp tục tổ chức một chiến dịch chống đối. Tân Phó quốc trưởng Willingdon cho đó là một sự hăm doạ, bèn ra lệnh nhốt Gandhi vào nhà tù Yeravda. Tháng 3 năm 1932, Gandhi tuyên bố ông sẽ tuyệt thực cho đến chết. Tin này được lan rộng một cách nhanh chóng, các bản tin chép tay được dán khắp nơi. Các nhà lãnh đạo hoàn toàn sửng sốt trước quyết định này của Gandhi, nhiều người từ các giai cấp khác nhau kéo đến nhà tù Yeravda xin thế mạng cho Gandhi, hoặc tuyệt thực bên ngoài, hoặc đòi phá ngục vào trong. Tagore gởi đến Gandhi bức điện tín với nội dung khuyên nhủ và chia sẻ, Tiến sĩ B.R.Ambebkar hứa hẹn sẽ tìm mọi cách cứu thoát Gandhi. Gandhi bắt đầu tuyệt thực vào ngày 20 tháng 9 năm 1932, đến ngày thứ ba thì Gandhi ngã quỵ, lính gác xốc ông vào nhà tắm tạt nước, hồi lâu Gandhi tỉnh dậy với giọng nói thều thào và ngày một yếu dần, huyết áp tăng cao… Người cai tù hoảng sợ cho phép bà Kasturbai và những người thân vào bên trong. Tagore đến thăm Gandhi vào ngày tuyệt thực thứ năm. Sau đó, tin tức về cái chết gần kề của Gandhi cũng đến tai chính phủ, và ông được trả tự do vào một ngày đầu năm 1933. Bảy năm kể từ ngày được phóng thích, Gandhi đã tiếp tục nỗ lực, dùng hết sức mình đấu tranh và đóng góp cho các mối quan hệ xã hội và cho công cuộc giành độc lập Ấn Độ, Ông cũng khuyến khích người dân Ấn Độ không quên việc phát triển tâm linh và tinh thần đoàn kết tôn giáo mà Ấn Độ vốn đã có từ ngàn đời. Tất nhiên, nhiều nhà lãnh đạo Ấn Độ thời bấy giờ không chấp nhận quan điểm, chính sách (bất bạo động) của Gandhi, kể cả Jawaharlal Nehru. Tháng 10 năm 1934, Gandhi cắt đứt quan hệ thành viên chính thức với đảng Quốc đại, vì ông không tán đồng các khuynh hướng bạo động của những người đang đứng đầu trong đảng này. Gandhi về Sevagram ở Maharashtra tĩnh dưỡng trong một căn phòng nhỏ. Tuy vậy, Gandhi vẫn đóng vai trò cố vấn cho đảng Quốc đại trong một thời gian khá dài. Năm 1939, Đệ nhị thế chiến bùng nổ, chính phủ Anh tại Ấn quyết định gia nhập quân đội Ấn Độ vào phe đồng minh (allies’ side). Đảng Quốc đại hứa sẽ hết sức ủng hộ quân Anh khi Ấn Độ hoàn toàn tự do, độc lập, nhưng ông Churchill và chính phủ Anh phớt lờ điều đó, họ từ chối hợp tác với Đảng Quốc đại. Từ đó, người ta ghi nhận rằng các nhà lãnh đạo tối cao của Đảng Quốc đại liên tục xuất hiện trong căn phòng nhỏ ở Sevagram của Gandhi để bàn thảo về những chương trình hành động… Tháng 9 năm 1940, cuộc mít-tinh toàn quốc của đảng Quốc đại diễn ra tại Bombay, tất cả tán thành cho một cuộc chống lại chính quyền thuộc địa, và họ cũng quyết định mở một cuộc mít-tinh nhằm vào chiến dịch chống lại chủ nghĩa đế quốc mà người Anh đang thực hiện, tất nhiên cuộc mít-tinh này bị cấm. Nehru bị bắt và vài tháng sau đó con số thành viên đảng Quốc đại bị bỏ tù lên đến hơn 30000 người. Không hiểu vì sao Gandhi vẫn tại ngoại?! Tháng 12 năm 1941, chính phủ phóng thích tất cả các tù nhân hoạt động theo khuynh hướng Gandhi. Năm 1942, quân đội Nhật vượt Thái bình dương, xuyên qua Malaya và Miến Điện, và quân đội Nhật có thể xâm lược Ấn Độ, người Anh bắt đầu nghĩ đến việc dàn xếp cho Ấn Độ. Trước sự đe doạ xâm lăng của Nhật Bản, Gandhi đề xuất việc thành lập một chính phủ lâm thời nhằm chống lại quân xâm lược, nhưng đề kiến đó bị phớt lờ. Tháng 3 năm 1942, Churchill tuyên bố nội các đồng ý về một chương trình dành cho Ấn Độ, và ông Stafford Cripps đã thoả thuận việc đến Ấn Độ tìm kiếm những nhà lãnh đạo Ấn Độ có khả năng tiếp nhận chương trình đó. Ngày 22 tháng 3 năm 1942, Stafford Cripps đến Delhi gặp mặt Gandhi, Nehru, Azad, Jinnah và các nhân vật lãnh đạo tối cao nhiều đảng phái khác. Stafford Cripps hứa hẹn sẽ trao trả tự do hoàn toàn cho Ấn Độ sau cuộc chiến, tuy nhiên các thành viên đảng Quốc đại không đồng ý, vì họ không tin vào những lời hứa hẹn đó, người Anh đã cố tình nuốt lời và lừa bịp nhân dân Ấn Độ nhiều lần trước đó… Tháng 8 năm 1942, cuộc mít-tinh toàn quốc của đảng Quốc đại lại tổ chức tại Bombay, ông Maulana Abul Kalam Azad làm chủ toạ, thành lập một chính phủ lâm thời. Mohandas K. Gandhi dõng dạc tuyên bố: “Đây là thời điểm người Anh phải ra đi” (the time has come for the English to go). Đêm đó Gandhi và vô số thành viên đảng Quốc đại bị bắt, người ta nhốt ông tại điện Aga Khan ở thingya (Pune). Mahadev Desai, Kasturbai, Naidu, Mirabehn và rất nhiều người của đảng Quốc đại cũng bị nhốt ở đó. Trong khi đó, bên ngoài dân chúng đã đứng lên nổi dậy khắp nơi, một cuộc hỗn chiến diễn ra trên đất Ấn, nhân dân Ấn Độ đã phá đổ tất cả các cơ sở, các toà nhà của chính phủ, người ta gọi cuộc nổi dậy này là biểu tượng của sự “đạp đổ chủ nghĩa bành trướng đế quốc Anh tại Ấn Độ”… Đình công, biểu tình, và hỗn loạn nổi dậy khắp mọi nơi trên toàn đất Ấn. Phó quốc trưởng Linlithgow quy cho Gandhi là người “xúi giục dân chúng tạo phản”. Trong những bức thư dài nhiều kỳ Phó quốc trưởng Linlithgow gởi đến Gandhi, Linlithgow đã cố gắng thuyết phục Gandhi từ bỏ cuộc “xúi giục dân chúng tạo phản”. Tháng 2 năm 1943, Gandhi lại tuyệt thực nhằm chống lại các loại thuế, các chi phí bất công mà người dân Ấn Độ phải gánh chịu, lần tuyệt thực này như một tiếng chuông hướng vào toà án tối cao Ấn Độ. Gandhi ngã quỵ sau 21 ngày tuyệt thực, một thử thách tưởng không thể vượt qua, nhưng ông vẫn tiếp tục sống. Bà Kasturbai chăm sóc ông, nhưng khi Gandhi bình phục chính là lúc sức khoẻ bà Kasturbai tuột dốc. Mohandas K. Gandhi cố gắng mọi cách cứu nguy và chữa trị, nhưng tất cả đều vô hiệu. Ngày kia, bà Kasturbai lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay Gandhi. Gandhi lặng thinh, mọi người xung quanh đều khóc. Vài tuần sau ngày bà Kasturbai qua đời, Gandhi cũng bị rơi vào tình thế hiểm nguy của bệnh sốt rét. Dân chúng lại lên án chính quyền, biểu tình đòi thả tự do cho Mohandas K. Gandhi diễn ra khắp nơi, chính quyền cũng tin rằng Gandhi đang đến gần cửa tử và ra lệnh phóng thích ông. Như một phép lạ, Gandhi dần bình phục và trở lại bình thường. Người dân Ấn Độ tin rằng cơ thể Gandhi ví như linh hồn xứ Ấn đang hồi sinh. Và họ hy vọng. Tháng 5 năm 1945, hai tháng sau ngày Đức đầu hàng. Đảng Lao động dưới sự điều khiển của Nội các Anh, Attlee giữ chức Thủ tướng. Vài tháng sau ngày Nhật Bản thất bại thảm hại, người Anh đã chính thức tuyên bố “buông tay” và hứa trả lại Ấn Độ cho những người chủ thực sự của nó. Cuộc đấu tranh giành độc lập Ấn Độ đang tiến đến đỉnh thành công. Chính quyền Anh tại Ấn tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội cho Ấn Độ. Đảng Quốc trại “thắng lớn” trong cuộc bầu cử này. Sau cuộc bầu cử một số thành viên thuộc Hồi giáo đặt vấn đề chia cắt Pakistan, Mohandas K. Gandhi trả lời trong tiếng khóc: “Bạn có thể cắt tôi làm hai, nhưng xin đừng làm điều đó với Ấn Độ” (Cut me in two, but do not cut India in two). Tháng 2 năm 1946, chính phủ Anh cử phái đoàn Đặc sứ nội các đến Ấn Độ, gồm: Pethick-Lawrence, Stafford Cripps, A.V.Alexander. Sau chuyến viếng thăm và điều tra này, phái đoàn Đặc sứ nội các Anh tuyên bố sẽ rút các cơ quan quyền lực của Anh khỏi Ấn Độ. Ngày 24 tháng 8 năm 1946, Jawaharlal Nehru chính thức nhậm chức Phó Tổng thống chính phủ Ấn Độ lâm thời. Sau ngày chính phủ lâm thời Ấn Độ được thành lập, Gandhi ước ao được về tĩnh dưỡng tại Sevagram, tuy nhiên những người đứng đầu đảng Quốc đại xin Ông ở lại Delhi để giúp họ cố vấn mọi vấn đề. Gandhi quyết định ở lại Delhi. Nhân ngày 15 tháng 10 năm 1946, tập đoàn Hồi giáo quyết định gia nhập vào chính phủ lâm thời, Gandhi cho rằng đây là thời gian tốt nhất để ông có thể về thăm Sevagram. Khi vừa rời Delhi, Gandhi nghe tin các nhóm Hồi giáo đang nổi loạn ở Bengal, nhiều vụ án thảm khốc xảy ra ở đó. Gandhi quyết định dời bỏ ý định về Sevagram, ông đến thẳng quận Noakhali thuộc đông Bengal, với hy vọng sẽ mang lại an bình cho nơi đó. Tại Bihar hàng ngàn người bị giết chết, mấy ngàn người bị thương, Gandhi chết lặng trước thảm cảnh đó, ông khuyên mọi người hãy bình tâm và khuyên rằng “người Ấn đừng nên tiếp tục sát hại người Ấn”. Gandhi bắt đầu đi từ làng này sang làng khác, từ nhà này đến nhà nọ, nơi nào ông đến nơi đó được mang theo thông điệp của bình an. Nơi nào những làn sóng phản đối nổi dậy, nơi đó Mohandas K. Gandhi đến và mọi bạo động đều tan biến… Ngày 3 tháng 6 năm 1947, Thủ tướng Anh – Attlee – tuyên bố phân chia Ấn Độ, Đảng quốc đại và tập đoàn Hồi giáo đồng ý ký vào văn bản. Phó quốc trưởng cuối cùng của Anh tại Ấn Độ – Mountbatten – băn khoăn và không muốn kéo dài thêm tình trạng cai trị người Anh trên đất Ấn. Ông quyết định thu ngắn để nhân dân Ấn Độ sớm đón ngày vui mừng. Cuộc họp bàn giữa hai chính phủ quyết định chọn ngày 15 tháng 8 năm 1947 là ngày trao trả độc lập cho Ấn Độ. Nhân dân Ấn Độ như “mở cờ trong bụng” khi nghe tin này loan tải. Ông Mountbatten – Phó quốc trưởng Ấn Độ – tôn vinh Mohandas K. Gandhi là “Kiến trúc sư xây dựng ngôi nhà tự do Ấn Độ thông qua những viên gạch bất bạo động” (the architech of India’s freedom through non-violence). Ngày 13 tháng 1 năm 1948, Mohandas K. Gandhi bắt đầu tuyệt thực nhằm chống đối lại việc làm của những kẻ Hồi giáo cuồng tín tạo nên một “hình ảnh Gandhi phản bội” trong mắt của vô số tín đồ Hindu quá khích. Người dân Ấn vô cùng xót xa trước hình ảnh một Gandhi ở tuổi 78 tuyệt thực và lên tiếng, và phản đối. Vụ việc được giải quyết sáng tỏ, Mohandas K. Gandhi thôi tuyệt thực và được đưa về an dưỡng tại Birla House. Ngày 20 tháng 1 cùng năm, trong một buổi lễ cầu nguyện, một vụ nổ mìn nhằm ám sát Gandhi, may thay mục tiêu bị lệch, quả mìn nổ gần chỗ Gandhi cầu nguyện, người bên cạnh la lớn: “Babuji, mìn đang nổ bên cạnh ngài đó”, Gandhi quay lại hỏi: “Có người dân nghèo nào bị thương không? Hãy lo cho họ” và tiếp tục cầu nguyện như không có chuyện gì xảy ra. Ngày 30 tháng 1 năm 1948, Mohandas K. Gandhi bị một tín đồ Hindu quá khích ám hại bằng súng ngắn khi Gandhi đang dạo vườn cùng hai cháu gái tên Manu và Abha. Tên sát nhân lúng túng tìm cách thoát thân, Gandhi chỉ tay hướng theo lối rào sau, ra lệnh mọi người đừng đuổi theo và thầm khấn “Rama, Rama”. Linh hồn vĩ đại của người Ấn ra đi trong sự thanh thản lúc 5 giờ 46 phút chiều cùng ngày. Lễ hoả tán thi hài Mohandas K. Gandhi được tiến hành ngày sau đó trên một khu đất lớn, ngày nay người Ấn gọi khu đất này là Shanti Bagh có nghĩa là “cõi bình an”, “cõi vĩnh hằng”. Sau khi hoả thiêu xong, người Ấn đã đem số tro của thi hài Mohandas K. Gandhi rải trên toàn cõi Ấn Độ, rải xuống sông Ấn, sông Hằng, sông Yamuna và những con sông lớn trên khắp Ấn Độ. Những lớp tro được rải lên giải đất Ấn Độ hoá thành linh hồn hoà nhập vào “đại thể” che chở người Ấn, và người Ấn tưởng tượng rằng “Thánh Gandhi đang ôm lấy Ấn Độ trong đôi tay khổ hạnh nhưng ấm áp tình người”. Ngày nay nhân dân Ấn Độ gọi Mohandas K. Gandhi bằng những tên gọi thể hiện tấm lòng tôn kính, trìu mến như: Babuji (Cha kính yêu), Mahatma Gandhi (Linh hồn vĩ đại, siêu thánh / Great soul), hoặc Vị cha già dân tộc (the Father of the Nation). Delhi, ngày 2 tháng 10 năm 2003 (14:24) Tài liệu tham khảo: THE STORY OF GANDHI by Rajkumari Shanker, New Delhi 2002. MAHATMA – LIFE OF MOHANDAS KARAMCHAND GANDHI (VCD, English version, 2 Vols), Gandhi Films Foundation, 2003 THE TIMES OF INDIA, New Delhi Oct 2nd 2003 DELHI TIMES, New Delhi Oct 2nd 2003
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 24, 2011 4:48:48 GMT 9
Chuyện Tình LÝ QUANG DIỆUNguyễn Thị Thục Nhiều người trên thế giới biết đến ông Lý Quang Diệu như một chính khách, một bộ óc kinh tế lỗi lạc. Nữ văn sĩ, nhà phê bình tiếng tăm của Singapore Catherine Lim từng miêu tả ông Lý như một người độc đoán, khô cằn. Ít ai biết rằng, hằng đêm ông Lý đến ngồi bên người vợ nằm liệt từ hơn 2 năm qua, kể chuyện và đọc thơ cho bà nghe. Lý Quang Diệu và Kha Ngọc Chi Chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi 12.5.2008 là một ngày tôi nhớ mãi. Ngày đó, cha con cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu và đương kim Thủ tướng Lý Hiển Long sẽ ra tòa án đối chất với chủ tịch Đảng Dân chủ Singapore đối lập, tiến sĩ Chee Soon Juan, trong vụ kiện xúc phạm danh dự mà cha con ông Lý là nguyên đơn. Đây là một sự kiện cột mốc trong lịch sử Singapore. Cánh phóng viên nước ngoài như tôi thì háo hức lắm, có mặt tại phiên tòa từ sáng sớm. Nhưng đến 6 giờ chiều cha con ông Lý vẫn không đến. Về sau mới có tin, hôm đó vợ ông Lý, bà Kha Ngọc Chi, bị một loạt cơn đột quỵ gây xuất huyết não. Kể từ đó, bà nằm liệt giường, không nói được, dù vẫn còn tri giác. Tôi đồ rằng sự biến đó đã khiến cha con ông Lý không đến tòa theo kế hoạch. Ông bà Lý Quang Diệu mừng sinh nhật thứ 80 của ông vào ngày 16.9.2003. Không lâu sau đó, bà bị đột quỵ khi đang cùng ông công du Anh quốc, nhưng bình phục được và yếu đi. Tuổi già nước mắt như sương Con gái ông Lý, bác sĩ Lý Vỹ Linh trong bài xã luận có tựa đề “My dear Mama” (Người mẹ yêu quý của tôi) đăng trên báo Straits Times hôm 29.8 vừa qua có đoạn viết: “Nhưng tôi không thể làm được gì để giúp mẹ tôi trở lại như trước khi bà bị cơn đột quỵ khủng khiếp quật ngã vào ngày 12.5.2008. Từ đó đến nay, bà vật vã liệt giường. Ba tôi cũng vật vã không kém”. Bà Linh cũng thừa nhận rằng trong đại gia đình họ Lý, cha bà là người đau khổ nhất trước tình cảnh của bà Chi: “Người đau khổ nhất và lặng lẽ chịu đựng mỗi ngày chính là ba tôi”. Hồi năm 2009, bà Linh cũng viết một bài khác kể rằng, khi mẹ bà lâm cảnh “chân mỏi tay run”, mỗi bữa cơm ông Lý ngồi bên cạnh, nhặt từng hạt cơm bà đánh rơi, bỏ vào chén mình, ăn ngon lành. Trong cuộc phỏng vấn hồi đầu tháng 9 năm nay với nhà báo Seth Mydans của tờ New York Times, ông Lý lần đầu tiên kể về tình trạng hiện tại của người vợ nay gần bước sang tuổi 90: “Bà ấy nằm tại nhà và được các y tá chăm sóc. Trước đây, chúng tôi ở chung phòng, nay thì tôi chuyển sang phòng kế bên. Tôi đã quen với âm thanh khò khè và tiếng rên mỗi khi cổ họng bà ấy bị khô và người ta phải bơm chất Biothene vào để hút đàm ra. Bà ấy không thể ngồi dậy, nên thở rất khó khăn. Thỉnh thoảng các y tá đỡ bà ngồi lên, đập đập vào lưng cho bà dễ chịu”. “Thật là đau đớn”, ông Lý buồn bã. Chọn cho bà một sự ra đi nhẹ nhàng hay cứ tồn tại trong đớn đau là điều dằn vặt ông: “Tôi có thể đuổi hết các y tá đi. Khi đó những người giúp việc không biết cách làm cho bà ấy thở được, khiến bà sưng phổi, và kết thúc mọi đau đớn”. Nhưng, “một bác sỹ nói với tôi: Có thế ông nghĩ rằng ông sẽ thấy nhẹ nhàng hơn khi bà ấy ra đi, nhưng rồi ông sẽ buồn và cảm thấy trống vắng. Vì ít ra, bà vẫn là một con người ở đây, một người mà hằng ngày ông có thể trò chuyện cùng và hiểu được những gì ông nói”. Ông Lý đồng tình với lời khuyên đó: “Đã 2 năm, rồi tháng 5, tháng 6, tháng 7, tháng 8, tháng 9, tổng cộng là 2 năm 4 tháng. Điều đó đã trở thành một phần trong cuộc sống của tôi”. Và ông nói rằng ông chỉ có thể làm những gì tốt nhất cho bà cảm thấy dễ chịu mà thôi, như là tìm những y tá giỏi, biết cách đỡ bà ngồi và xoa bóp cho bà; trang bị giường bệnh viện có túi hơi, để lưng bà không bị lở. Vẫn đẹp như ngày đầu Nhưng ông Lý không để nỗi đau vì người phụ nữ mà ông yêu thương nhất quật ngã mình: “Tôi phải làm gì? Tôi không thể ngã quỵ. Cuộc sống phải tiếp diễn. Tôi cố làm cho mình bận rộn suốt ngày”. Dù ở tuổi 87, ông Lý vẫn giữ chức Bộ trưởng Cố vấn trong nội các với lịch làm việc dày đặc các chuyến công du, đón tiếp chính khách, học giả nước ngoài, nói chuyện trước công chúng Singapore và doanh nhân, chính khách trên thế giới. Bình phục sau cơn đột quỵ năm 2003, bà tiếp tục sánh bước cùng ông Và hằng đêm, ông đến bên giường nói chuyện với bà: “Tôi kể cho bà ấy nghe công việc tôi làm trong ngày và đọc những bài thơ mà bà ấy yêu thích. Bà ấy hiểu và cố thức để nghe tôi”. Kiêu hãnh và Định kiến, Lý trí và Tình cảm của Jane Austen, truyện thơ The Canterbury Tales của Geoffrey Chaucer, Kim của Rudyard Kipling, thơ Shakespeare… là những tác phẩm và tác giả mà ông Lý chọn trong tủ sách của vợ và đọc cho bà nghe. Thời trẻ, bà Chi học chuyên văn và đặc biệt yêu thích văn chương Anh. “Thi thoảng trong những khoảnh khắc lặng yên, ký ức những ngày đẹp đẽ mà chúng tôi bên nhau lại trở về”, ông Lý tâm sự với Seth Mydans. “Có phải mỗi khi ông đến thăm bà thì ký ức ngày xưa quay trở lại?”, Seth hỏi. “Ồ không, không phải lúc đó đâu. Con gái tôi vừa tìm được hàng chục bức ảnh cũ và ảnh kỹ thuật số lưu trữ tại tập đoàn báo chí Singapore Press Holdings. Khi tôi nhìn lại chúng, tôi nghĩ tôi may mắn làm sao. Tôi đã có 61 năm hạnh phúc bên bà ấy. Chúng tôi rồi sẽ phải ra đi. Tôi không chắc ai sẽ ra đi trước, bà ấy hay là tôi. Vì vậy tôi nói với bà ấy, rằng tôi đang nhẩm lại lời nguyền lứa đôi của tín đồ Cơ đốc giáo. Tôi nhớ nó thế này: Hãy yêu, gìn giữ và vun đắp, trong đau ốm hay khỏe vui, lúc thuận lợi, khi khó khăn, chỉ có cái chết mới chia lìa chúng ta”. Thuở ban đầu Lý Quang Diệu chỉ có một cuộc tình duy nhất, cuộc tình với Kha Ngọc Chi, nữ sinh con nhà giàu học giỏi nhất trường Đại học Raffles cách đây 2/3 thế kỷ. Tiểu thư con nhà giàu học giỏi Tiểu thơ con gái nhà ai? Năm 1940, khi Thế chiến thứ 2 đã tràn lan khắp châu Âu, ước mơ sang Anh quốc du học của các học sinh thuộc địa như Lý Quang Diệu tạm gián đoạn. Quang Diệu nhận học bổng Anderson danh giá nhất trong nước và học luật tại Đại học Raffles. Cuối học kì đầu tiên của năm nhất, Quang Diệu xếp đầu trường về môn toán. “Nhưng tôi bàng hoàng nhận ra rằng tôi không chiếm vị trí số 1 cả môn tiếng Anh lẫn môn kinh tế. Tôi xếp sau một cô tên Kha Ngọc Chi. Tôi thất vọng và cảm thấy khó chịu”, Quang Diệu kể trong Hồi ký Câu chuyện Singapore: 1923 – 1965 xuất bản năm 1998. Quang Diệu thất vọng vì sợ không lấy được học bổng Nữ hoàng để du học ở Anh. “Tôi đã gặp cô Kha này hồi năm 1939. Khi ấy cô ta là nữ sinh duy nhất ở trường Trung học Raffles toàn là con trai. Cô ta được hiệu trưởng mời phát phần thưởng cuối năm cho các học sinh giỏi. Lần đó, tôi nhận được từ tay cô ta 3 quyển sách”, Quang Diệu viết trong Hồi ký. Rồi cuộc chiếm đóng của người Nhật ở Singapore ập đến vào đầu năm 1942. Trường lớp đóng cửa. Ngọc Chi về nhà phụ giúp gia đình. Quang Diệu, con trai cả trong một gia đình có 4 trai 1 gái, đi làm công, rồi lao ra chợ đen kinh doanh để giúp đỡ gia đình. Rượu ngoại, thuốc lá, nữ trang… thứ gì có lời là anh buôn tất. Ở chợ đen, anh gặp Yong Nyuk Lin, một cựu sinh viên ở Đại học Raffles khi đó đang làm việc tại một công ty bảo hiểm quốc tế. Ngày nọ có một công ty kinh doanh văn phòng phẩm hỏi Quang Diệu tìm nguồn cung cấp hồ dán. Quang Diệu trao đổi với Nyuk Lin, rồi cả hai mở xưởng sản xuất hồ, một cái đặt ở nhà Quang Diệu, một cái đặt ở nhà Nyuk Lin do vợ và em vợ anh ta trông coi. Em vợ Nyuk Lin chính là cô Kha Ngọc Chi một thời lừng lẫy ở Đại học Raffles! Chính thương vụ hồ dán mà Quang Diệu gặp lại Ngọc Chi vào lần đầu tiên anh đến nhà Nyuk Lin ở khu Tiong Bahru trên chiếc xe đạp cà tàng. Lúc đó, Ngọc Chi đang ngồi nơi mái hiên bên hè nhà. “Khi tôi hỏi Nyuk Lin đâu, cô ta mỉm cười và chỉ chiếc cầu thang ngay góc nhà. Giờ đây, tôi gặp cô ta trong một bối cảnh khác. Cô ta đang ở nhà, ăn mặc thoải mái, tự tay làm việc nhà vì không còn người giúp việc nữa”, Quang Diệu kể. Tình cảm đầu đời giữa họ đã nảy sinh từ đó. “Tháng 9.1944, chúng tôi đã trở nên đủ gần gũi để tôi mời Nyuk Lin, vợ anh ta và Ngọc Chi (từ nay tôi gọi là Chi thôi) đi dự sinh nhật thứ 21 của tôi tại một nhà hàng Tàu ở khu Great World. Đó là lần đầu tiên tôi mời nàng ra ngoài”, Quang Diệu kể. Vào thời đó ở Singapore, một cô gái chấp nhận ra ngoài cùng một chàng trai, dẫu là có anh chị của cô đi cùng, thì điều đó không thể không mang một thông điệp nhất định! Thương nhau cởi áo cho nhau Môn đăng hộ đối Cuối năm 1945, cuộc chiếm đóng của người Nhật đã chấm dứt, Ngọc Chi đi làm thủ thư ở Thư viện Raffles. Ngày ngày, Quang Diệu cuốc bộ đưa cô về nhà. Có lần, anh chở Chi về bằng xe gắn máy của mình, khiến mẹ cô nổi giận. Gia đình cô vốn giàu có, cha làm ngân hàng, ở nhà biệt thự và có xe hơi đưa rước đến trường hằng ngày. Vì thế, ngồi sau xe gắn máy của một người đàn ông là điều không thể chấp nhận đối với một tiểu thư như cô. “Thiên hạ sẽ nghĩ sao? Ai mà dám lấy con chứ!”, mẹ cô đay nghiến. Đêm Giao thừa năm 1946, Quang Diệu thổ lộ với Ngọc Chi rằng anh không có ý định quay lại Đại học Raffles để hoàn thành chương trình cử nhân luật của mình mà sẽ đi Anh du học, và hỏi cô có thể chờ đợi anh quay lại sau 3 năm. “Chi hỏi tôi có biết Chi lớn hơn tôi hai tuổi rưỡi. Tôi nói rằng tôi biết và đã cân nhắc kỹ điều này. Rằng tôi đã đủ chín chắn. Hơn nữa tôi muốn làm bạn với một người bằng vai phải lứa và khó lòng tìm được một người khác có cùng hoài bão với tôi như Chi. Chi nói sẽ chờ đợi tôi”, Quang Diệu viết trong Hồi ký. Nhưng họ quyết định không nói với cha mẹ hai bên, bởi “quá khó để các bậc cha mẹ đồng ý một sự hứa hẹn dài đăng đẳng như vậy”. Khi biết con có ý định du học, mẹ Quang Diệu muốn anh hứa hôn với một cô gái gốc Hoa, để chắc rằng sau khi học xong và về nước, anh không dẫn theo một cô mắt xanh tóc vàng. Đã có nhiều sinh viên đi du học, lấy vợ Anh, khi về nước thì ly hôn hoặc phải chuyển về Anh sống vì cô vợ không thích nghi được với văn hóa xứ thuộc địa. Vì thế, mẹ anh đã lần lượt dẫn về ra mắt anh 3 cô gái gốc Hoa, dung nhan tươi thắm, gia đình tử tế, khá giả. “Nhưng tôi chẳng có chút rung động nào. Tôi thấy hạnh phúc với Chi”, Quang Diệu kể. Và để mẹ đỡ lo, Quang Diệu quyết định thổ lộ với mẹ về Ngọc Chi. Gia đình Chi và gia đình Quang Diệu có nhiều nét tương đồng: cha họ đều là người Hoa sinh ra trên đảo Java của Indonesia; mẹ họ cũng là những người gốc Hoa sinh ra quanh eo biển Singapore. Từng gặp Ngọc Chi trong thương vụ hồ dán và từng nghe chuyện cô nữ sinh đứng đầu Đại học Raffles, mẹ Quang Diệu ưng bụng lắm. “Cử chỉ của bà đối với Chi chuyển sang hướng thân thiện trong tâm thế một mẹ chồng tương lai”, Quang Diệu ghi nhận. Đám cưới bí mật ở Anh quốc Giáng sinh năm 1947, Lý Quang Diệu và Kha Ngọc Chi bí mật kết hôn tại thị trấn Stratford-on-Avon, quê hương đại văn hào William Shakespeare, khi cả hai đang là du học sinh. Hạnh phúc có nhau ở đất khách Mấy núi cũng trèo Hồi ký Câu chuyện Singapore: 1923-1965 kể rằng: Đúng vào sinh nhật thứ 23 của mình, ngày 16.9.1946, Quang Diệu bước lên con tàu Britannic, rời Singapore sang Anh du học. Ngọc Chi đứng trên bến cảng, nước mắt chảy dài, vẫy tay tạm biệt người yêu. Chàng trai Quang Diệu cũng không cầm được nước mắt. Họ chẳng biết bao giờ mới được gặp lại nhau. Vài tháng trước đó, họ đã quấn quýt bên nhau thật nhiều. Họ đã có những bức ảnh chung do một người em họ chụp giùm, để làm kỷ niệm khi xa nhau. Quang Diệu đi du học bằng chính tiền dành dụm và nữ trang của mẹ, cùng với tiền tự kiếm được nhờ kinh doanh ngoài chợ đen. Nếu không có cuộc chiếm đóng kéo dài gần 4 năm của người Nhật trên đảo sư tử, cả Quang Diệu và Ngọc Chi đã có thể liên tục chương trình cử nhân luật của họ ở Đại học Raffles, và giành những suất học bổng danh giá của Nữ Hoàng để sang Anh học. Giờ đây, Quang Diệu đi du học tự túc vì không muốn mất thêm thời gian chờ đợi ở Đại học Raffles nữa, thì Ngọc Chi cũng quyết tâm trở lại trường học tiếp và sẽ giành lấy học bổng để sang Anh cùng người yêu. Cuối tháng 7.1947, một cú điện báo từ Singapore cho biết Ngọc Chi đã dành được học bổng của Nữ hoàng. Quang Diệu vui mừng khôn xiết trước viễn cảnh cùng người yêu ở Cambridge. Nhưng lúc ấy đã quá muộn để Ngọc Chi có thể tìm được trường vì đầu tháng 10 năm học mới đã bắt đầu. Thay vì chấp nhận chờ một năm nữa, Quang Diệu vắt giò lên cổ chạy khắp Đại học Cambridge nhờ vả. Vì tài thuyết phục và lòng nhiệt thành của Quang Diệu, cộng với thành tích học tập sáng chói của Ngọc Chi từ thập niên 1930 mà Hội đồng khảo thí Anh quốc còn lưu giữ, hiệu trưởng trường Girton đã chấp nhận dành cho Ngọc Chi chiếc ghế dự phòng cho những trường hợp đặc biệt ở khoa luật. Trong vòng một tháng, Ngọc Chi đã thu xếp xong và theo tàu chở binh lính Anh rời Singapore vào cuối tháng 8. Đầu tháng 10, Ngọc Chi đến Liverpool, Quang Diệu đã chờ sẵn ở bến cảng tự bao giờ. Họ lên xe lửa về London, chơi ở đó 5 ngày, rồi xuôi về Cambridge. Vượt qua lễ giáo Có Ngọc Chi, hạnh phúc cũng đi kèm với rắc rối. Chi học trường Girton phía bắc thành phố Cambridge. Quang Diệu học trường Fitzwilliam và được phân cho một căn phòng ở phía nam thành phố. Nỗ lực tìm một căn phòng gần chỗ người yêu không thành, Quang Diệu phản ánh lên giám thị nhà trường, vốn là người đã hết lòng giúp trong việc xin được một chỗ học cho Ngọc Chi. Dù vậy, không những bị nghi ngờ về tinh thần “xả thân” cho người yêu, Quang Diệu còn “được” vị giám thị nhắc nhở rằng trường Girton sẽ không ủng hộ chuyện sinh viên nhận học bổng kết hôn ngay khi đang học. Thế nhưng Quang Diệu và Ngọc Chi vẫn quyết tâm kết hôn vào tháng 12 năm ấy. “Chúng tôi quyết định lặng lẽ kết hôn vào dịp nghỉ lễ Giáng sinh, và giữ điều đó bí mật. Ba mẹ Ngọc Chi sẽ vô cùng thất vọng nếu chúng tôi xin phép họ. Trường Girton có thể sẽ phản đối như lời khuyến cáo của ngài giám thị. Hội đồng quản trị học bổng Nữ Hoàng có thể sẽ gây khó khăn”, Quang Diệu viết trong Hồi ký. Một người bạn đã chỉ cho họ một khách sạn nhỏ ở Stratford-on-Avon để họ nghỉ lễ và tham quan nhà hát Shakespeare. Tại đó, họ đã bí mật kết hôn sau khi thông báo cho nhân viên hộ tịch địa phương. “Trên đường từ Cambridge đến Stratford-on-Avon, chúng tôi ghé London, tôi mua cho Chi một chiếc nhẫn bạch kim ở phố Regent. Sau 2 tuần ở Stratford-on-Avon, chúng tôi trở về Cambrigde, Chi tháo nhẫn ở ngón tay và treo vào sợi dây chuyền đeo ở cổ”, Quang Diệu kể. Mặc dù đã cưới nhau, hai người vẫn “ai ở nhà nấy”, vẫn học hành chăm chỉ và “có hệ thống”. “Vào cuối tuần và một vài buổi tối khác, tôi đạp xe lên trường Girton. Ngọc Chi nấu cho tôi những món ăn Singapore bằng cái bếp gas ở đầu hè”, Quang Diệu viết. Và họ mời những người bạn Singapore đoạt học bổng Nữ hoàng đến ăn chung. Phần thịt tiêu chuẩn cả tuần của Quang Diệu sẽ được nấu thành cà ri, hoặc Ngọc Chi sẽ làm món phở xào truyền thống với những nguyên liệu “không giống ai”: mì spaghetti sợi mảnh thay cho sợi phở, thịt gà thay vì thịt heo, ớt ngọt thay cho ớt hiểm… Tốt nghiệp hạng ưu. Thầy giám thị Thatcher đứng giữa Họ tiếp tục như thế cho đến kì thi cuối cùng vào tháng 5.1949. Khi kết quả được thông báo vào tháng 6, Quang Diệu xếp hạng nhất, đoạt được ngôi sao danh dự duy nhất cho những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc của khóa học. Ngọc Chi cũng đạt hạng nhất. Họ gọi điện về Singapore báo cáo thành tích học tập cho gia đình, nhưng chuyện kết hôn thì vẫn giấu biệt. Trong một cuộc đối thoại với các doanh nhân năm 2009, ông Lý kể rằng đó là cuộc điện thoại duy nhất mà ông gọi về Singapore trong suốt mấy năm ở Anh, tốn 5 bảng Anh, giá trị bằng 100 bảng bây giờ. Đẹp duyên cưỡi rồng Khi ông Lý Quang Diệu chọn con đường chính trị và trở thành người đứng đầu đất nước, bà Kha Ngọc Chi trở thành một nội tướng thâm hậu. Đám cưới chính thức tại khách sạn Raffles ngày 30.9.1950 Tháng 8.1950, sau khi hoàn thành khóa huấn luyện hành nghề luật sư tại trường Middle Temple, Quang Diệu và Ngọc Chi trở về nước trước sự cổ vũ của báo chí. Tìm việc làm xong, Quang Diệu đến nhà Ngọc Chi xin phép làm đám cưới. Cha Ngọc Chi đùng đùng nổi giận. Ông chờ đợi thân phụ của Quang Diệu đến ngỏ lời xin phép chứ không phải là một cậu thanh niên 27 tuổi. Nhưng cuối cùng, đám cưới chính thức của họ cũng diễn ra tốt đẹp tại khách sạn Raffles vào ngày 30.9.1950. Ngọc Chi về làm dâu nhà họ Lý ở số 38 phố Oxley. Hai vợ chồng cùng đi làm cho công ty luật Laythingy & Ong. “Con rồng vinh hiển” đem lại niềm hạnh phúc vô biên Ngày 10.2.1952, đứa con đầu lòng của họ ra đời. Lý Quang Diệu tham vấn một chuyên gia phiên dịch tại Tòa án tối cao Singapore để tìm cái tên hay nhất cho con. Vị chuyên gia phán rằng đứa bé ra đời vào ngày mầu nhiệm nhất trong năm theo lịch Trung Hoa - ngày thứ 15 của nguyệt kỳ đầu tiên trong năm con rồng. “Vì thế chúng tôi quyết định đặt tên con là Hiển Long, tức con rồng vinh hiển. Thằng bé rất dài, trông gầy guộc nhưng nặng hơn 8 cân Anh. Nó đem lại cho chúng tôi niềm hạnh phúc vô biên”, ông Lý viết trong Hồi ký. Sau đó, họ sinh thêm con gái Vỹ Linh (1955) và con trai út Hiển Dương (1957). Cả 3 đều học rất giỏi và thành đạt. Hiển Long nay là đương kim thủ tướng Singapore, Vỹ Linh là bác sỹ thần kinh nhi nổi tiếng, còn Hiển Dương là một doanh nhân giỏi. Hiển Long, Vỹ Linh, Hiển Dương đều thông minh và học giỏi Tháng 9.1955, Lý Quang Diệu cùng vợ và em trai kế Lý Kim Diệu thành lập công ty luật Lee & Lee do ông đứng đầu. Trước đó, cuối năm 1954, ông cùng các cựu du học sinh tại Anh quốc thành lập Đảng Hành động Nhân dân (PAP), ra tranh cử nghị viên và chính thức bước vào con đường chính trị mà ông đã có tham vọng khi còn rất trẻ. Tháng 6.1959, ông thắng cử và trở thành thủ tướng Singapore, trao quyền điều hành công ty luật Lee & Lee lại cho vợ và em trai. Hơn 6 thập niên qua, Lee & Lee không ngừng lớn mạnh và là một công ty tầm cỡ ở Singapore hiện nay. Nội tướng Trong chương áp cuối với chủ đề “Gia đình tôi” của tập hồi ký thứ hai Từ Thế giới thứ ba lên Thế giới thứ nhất – Câu chuyện Singapore: 1965-2000 xuất bản năm 2000, ông Lý viết: “Những người (Không dùng từ này) khiến tôi có ấn tượng bởi sự quan trọng mà họ đặt vào người phụ nữ sẽ gắn bó với một cán bộ triển vọng. Họ biết người vợ có ảnh hưởng lớn như thế nào đến sự dấn thân vì lý tưởng của người chồng… Tôi thật sự may mắn. Chi chưa bao giờ nghi ngờ hay do dự về lý tưởng chiến đấu của tôi, bất chấp kết cục thế nào”. Sát cánh bên chồng Với ông Lý, bà Chi là chỗ dựa của gia đình: “Bởi tôi biết Chi có công việc của một luật sư, và nếu cần bà ấy có thể tự lo cho mình và các con, nên tôi không phải lo lắng về tương lai của bọn trẻ”. Điều đó giúp ông toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp chính trị của bản thân và tương lai của đất nước. Với các con, bà Kha là một người mẹ mẫu mực, tuyệt vời. Thủ tướng Lý Hiển Long từng kể trong nhiều cuộc nói chuyện trước công chúng: “Khi chúng tôi còn nhỏ, mẹ tôi là một luật sư bận rộn. Nhưng thay vì ăn trưa với khách hàng, hôm nào bà cũng về nhà ăn cơm với chúng tôi, chăm sóc và bảo ban anh em tôi chu đáo”. Người mẹ mẫu mực Trong sự nghiệp chính trị của mình, ông Lý thừa nhận bà Kha là “một tòa tháp sức mạnh”. Suốt 31 năm ông làm thủ tướng (1959 – 1990), bà lặng lẽ làm người hỗ trợ đắc lực trong quan hệ đối nội lẫn đối ngoại của ông: “Bà ấy giúp tôi hàng đống công việc, giúp tôi tiết kiệm được rất nhiều thời gian, như sửa bản thảo các bài diễn văn mà tôi sắp phát biểu, sửa đề cương tôi sẽ trình trước Quốc hội hoặc trả lời phỏng vấn. Bà ấy quen thuộc với ngôn ngữ của tôi nên dễ dàng đoán ra từ ngữ tôi dùng mà các nhân viên tốc ký của tôi không thể lần ra được”. Trong các chuyến công cán cùng chồng, bà Chi tiếp xúc với phu nhân của các chính khách mà ông Lý gặp gỡ. Sau đó, bà đưa ra nhận định khá chính xác về vị chính khách thông qua cách hành xử và giao tiếp của vợ ông ta. “Bà ấy có một trực giác rất tinh anh khi đánh giá một con người. Trong khi tôi đưa kết luận dựa trên phân tích và lý lẽ, thì bà ấy lại dựa vào cảm giác mà bà cảm nhận được đằng sau nụ cười, những lời nói thân tình, nét mặt, và ngôn ngữ cơ thể của người đối diện”, ông Lý viết. Trong những lần thăm Trung Quốc, sau một ngày làm việc bận rộn, ông bà trở về phòng khách sạn và đem những cuốn băng ghi âm các cuộc tiếp xúc ra nghe lại. Khi đó, bà Kha giảng giải cho chồng hàm ý trong từng từ ngữ, từng cử chỉ mà các lãnh đạo Trung Quốc thể hiện, bởi bà rất giỏi tiếng Hoa và hiểu sâu sắc văn hóa Trung Quốc. Nội tướng thâm hậu Ông Lý cũng tiết lộ rằng, khi ông đàm phán để sát nhập Singapore với Malaysia vào năm 1962, bà Kha đã dự cảm được một kết cục không như mong muốn, nhưng ông không nghe theo. Thực tế đã chứng minh bà đúng: Sau 2 năm nhập chung, ngày 9.8.1965, Singapore buộc phải tách khỏi Malaysia… Bóng tà Tôi gặp bà Kha Ngọc Chi lần duy nhất vào ngày 11.1.2008 tại Trung tâm hội nghị Suntec. Ở tuổi 87 và từng trải qua bao cơn bạo bệnh, bà vẫn theo chồng đến dự buổi đối thoại về tuổi già. Khi đó bà đã yếu rồi, bước đi phải có người dìu đỡ. Ông Lý cũng yếu, dù không cần người dìu, nhưng mỗi bước ông đi, 2-3 cận vệ luôn kèm sát. Ngồi ở hàng ghế cử tọa, bà nhìn ông ở trên sân khấu và móm mém cười mỗi khi ông nhắc đến chuyện nhà. Đó có lẽ là lần cuối cùng bà xuất hiện trước công chúng, trước khi ngã bệnh liệt giường sau đó đúng 4 tháng. Ba thế hệ quây quần đêm giao thừa thiên niên kỷ Trong cuộc đối thoại ngày 11.1.2008, ông Lý nói rằng: “Mẹ tôi mất ở tuổi 74 vì đột quỵ. Ba tôi mất ở tuổi 94. Vì vậy, tôi tính toán mình có thể ra đi trong khoảng 74 đến 94 tuổi. Nhưng tôi đã nhỡ mất cái hạn 74 rồi! Hạn tiếp theo sẽ là 87, ba tôi ngã bệnh ở tuổi đó”. Ông Lý vừa bước sang tuổi 87 được nửa tháng. Lý Quang Diệu – Kha Ngọc Chi rồi sẽ ra đi, nhưng câu chuyện tình đẹp đẽ của họ sẽ mãi mãi được ghi nhớ. Thủ tướng Lý Quang Diệu Biệt ly Tôi viết xong và gửi về Việt Nam loạt bài 4 kỳ này vào sáng thứ Bảy 2.10.2010. Chiều đó, bà Kha Ngọc Chi đã vĩnh viễn ra đi. Tôi lại đến với bà đây! 29.9, ngay trước kỷ niệm 60 năm ngày cưới chính thức, ông Lý phải nhập viện vì bị viêm phổi. 5 giờ 40 phút chiều 2.10, bà Kha Ngọc Chi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng tại nhà bên cạnh con gái Vỹ Linh. Lúc đó, ông Lý Quang Diệu vẫn nằm trong bệnh viện; con trai út Hiển Dương đến thăm mẹ buổi sáng và đã ra về; con trai cả, Thủ tướng Lý Hiển Long, vừa đến thành phố Antwerp, Vương quốc Bỉ, để dự Hội nghị Á-Âu (ASEM8). Thủ tướng Lý đã bay về nước ngay trong đêm. Khoảng 15,000 người đã đến viếng linh cữu bà Kha quàn tại biệt thự Sri Temasek - vốn dành cho gia đình thủ tướng nhưng không ai ở - nằm ngay trong dinh thự Istana trong hai ngày 4-5.10. Đêm 4.10, sau khi khách đã ra về hết, ông Lý bước từng bước chậm chạp đến bên bà. Gần như bất động, ông đứng nhìn vào bức ảnh đặt ở chân quan tài trong vòng chừng 1 phút, rồi quay đi. Trông ông yếu hơn hẳn hôm 1.10 khi tiếp Tổng giám đốc Hiệp hội hàng không quốc tế Giovanni Bisignani ngay tại Bệnh viện đa khoa Singapore. Người ta đang lo lắng cho sức khỏe của ông Lý sau sự mất mát này. Chiều 6.10, linh cữu bà Kha Ngọc Chi được đưa về nhà hỏa táng Mandai bằng quân xa dành cho lãnh đạo cao cấp, dù đám tang bà không được theo chế độ quốc tang. Ông Lý Quang Diệu, 3 người con, con gái đầu của Lý Hiển Long – Lý Tú Kỳ, con trai trưởng của Lý Hiển Dương – Lý Sinh Vũ lần lượt đọc điếu văn ngợi ca và tiễn biệt người vợ, người mẹ, người bà của họ. Ông Lý kết thúc điếu văn bằng một câu mà không ai cầm được nước mắt: “Tôi thấy an ủi rằng bà ấy đã sống một cuộc đời 89 năm đầy ý nghĩa. Nhưng trong giây phút biệt ly cuối cùng này, trái tim tôi nặng trĩu buồn đau”. Người ta không thấy nước mắt ở người đàn ông 87 tuổi này. Hãy đợi tôi ở Suối Vàng! Các con sẽ hòa chung tro cốt của chúng ta Trước khi nắp quan tài được đóng lại để đưa lên giàn hỏa táng, ông Lý nhoài người đặt lên ngực vợ một bông hồng đỏ, và bước thêm mấy bước đến gần hơn, tay trái bấu vào thành quan tài, tay phải đặt lên môi, rồi rướn người đặt các đầu ngón tay lên trán bà. Ông lặp lại nụ hôn biểu tượng đó thêm một lần nữa rồi khó nhọc đứng thẳng dậy, quay người đi. Thục Minh Singapore đầu tháng 10.2010
|
|
|
Post by Can Tho on May 28, 2011 9:15:19 GMT 9
Tôn Dật TiênBách khoa toàn thư mở Wikipedia (đổi hướng từ Tôn Trung Sơn) Tôn Dật Tiên 孫文 / 孫中山 / 孫逸仙 (Sun Yat-sen) Nhiệm kỳ 1 tháng 1 năm 1912 – 1 tháng 4 năm 1912 Tiền nhiệm Phổ Nghi (hoàng đế Trung Hoa) Kế nhiệm Viên Thế Khải (Tổng thống thứ nhất) Nhiệm kỳ 10 tháng 10 năm 1919 – 2 tháng 3 năm 1925 Tiền nhiệm (không) Kế nhiệm (không) Đảng Bản mẫu:KMT (KMT) Sinh 12 tháng 11, 1866 Trung Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc Mất 12 tháng 3, 1925 (58 tuổi) Bắc Kinh, Trung Quốc Học trường Cao đẳng Đông y Hồng Kông dành cho người Trung Quốc Nghề nghiệp Thầy thuốc, Nhà chính trị, Nhà cách mạng, Nhà văn Tôn giáo Kitô giáo Vợ hay chồng Lư Mộ Trinh (1885-1915) Tống Khánh Linh (1915-1925) Tôn Dật Tiên (chữ Hán: 孫逸仙), còn gọi là Tôn Văn hay Tôn Trung Sơn (孫中山), (12 tháng 11 năm 1866 – 12 tháng 3 năm 1925) là nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai sinh nước Trung Hoa dân quốc. Ông được người Trung Hoa gọi yêu mến là "Quốc phụ Trung Hoa". Cuộc đời Ông sinh ở tỉnh Quảng Đông trong một gia đình nông dân khá giả. Năm 13 tuổi, ông đến học ở Honolulu (Hawaii) vì có người anh buôn bán ở đây, ở đây ông học các trường tiểu học và trung học nên chịu ảnh hưởng rất lớn của phương Tây. Năm 1883, ông trở về nước, theo học trường Đại học Y khoa Hương Cảng và trở thành bác sĩ. Tuy nhiên sau đó thấy tình cảnh đất nước bị các đế quốc xâu xé, ông bỏ nghề y theo con đường chính trị. Năm 1894, Tôn Trung Sơn sang Hawaii tập hợp Hoa kiều cùng chí hướng thành lập Hưng Trung hội với tôn chỉ đánh đổ phong kiến Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa. Ông bị người anh đưa về Trung Quốc vì sợ ông theo Công giáo nhưng ông đã trở lại Hawaii ít nhất hai lần vào 1900 và 1901.[1] Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức trong nước lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của hội, ông đã công bố chủ nghĩa Tam dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Từ 1905 đến năm 1911 Trung Quốc Đồng minh hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miển Nam nhưng không thành công. Ngày 10 tháng 10 năm 1911, Đồng minh hội vận động được binh sĩ ở Vũ Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành được thắng lợi mở đầu cho Cách mạng Tân Hợi. Phong trào này nhanh chóng bùng nổ ở nhiều tỉnh khác. Ngày 24 tháng 12 năm 1911, Tôn Trung sơn về nước, được đại hội đại biểu các tỉnh họp ở Nam Kinh đề cử làm tổng thống lâm thời. Tôn Văn (ngồi bên phải) gặp các viên chức Pháp tại Hà Nội, 1902 Ngày 1 tháng 1 năm 1912, ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh. Nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho Viên Thế Khải với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa nhưng Viên Thế Khải đã phản bội, đàn áp lực lượng dân chủ cộng hòa. Ông là một nhà triết học, ông lấy triết học để chỉ đạo cách mạng tư sản. Sau khi từ chức ông nghiên cứu triết học và có sáng tác tác phẩm Học thuyết Tôn Văn với trọng tâm là "biết thì khó, làm thì dễ". Vợ thứ hai của ông là Tống Khánh Linh, sau này cũng làm Chủ tịch danh dự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Con trai ông (với người vợ đầu Lô Mộ Trinh hay Lư Mộ Trinh (盧慕貞) là Tôn Khoa (孫科; Bính âm: Sūn Kē) sau này làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc. Ngoài hai vợ trên, theo Trung Quốc sử thoại, ông còn quan hệ gắn bó với "bà Nam Dương" Trần Túy Phần, sau đổi tên là Trần Tứ.[2] Ông đã nêu ra chủ thuyết "Tam dân" (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc). Ông được dân chúng Trung Quốc gọi là "Quốc phụ" (người cha của đất nước). Chủ thuyết "Tam dân" của ông (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh giành độc lập ở Việt Nam, đặc biệt là Quốc Dân Đảng Việt Nam và tầng lớp trí thức yêu nước Việt Nam trong những năm 1920-1930. Ngay cả sau đó, Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh hội) cũng được tổ chức theo khuôn mẫu của Trung Quốc Đồng minh hội do Bác Sĩ Tôn Dật Tiên sáng lập tại Trung Quốc năm 1905. Thuyết tam dân cũng được chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào bản tuyên ngôn độc lập mà Cụ đã đọc vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Ông Tôn Dật Tiên được thờ trong đạo Cao Đài ở Việt Nam như là một trong Tam Thánh sáng lập. Ngày nay khách du lịch có dịp tham quan thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh, khi vừa tiến gần chính điện sẽ thấy bức tranh Tam Thánh được treo ngay chỗ trang trọng nhất Cao Đài Tam Thánh. Từ trái sang phải: Tôn Dật Tiên, Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh Khiêm Tên ông cũng được đặt cho một con đường ở quận 7, thành phố Hồ SG VN Khai sinh: Tôn Đức Minh (孫德明) Thời niên thiếu: Tôn Đế Tượng (孫帝象) Đi học: Tôn Văn (孫文) Lịch sự: Tôn Đại Chi (孫載之) Hiệu: Nhật Tân (日新); Dật Tiên (逸仙) Bí danh: Trung Sơn (中山) Bí danh ở Nhật Bản: Nakayama Sho (中山樵) Danh xưng: Quốc phụ (國父) Tham khảo ^ Brannon, John (16 tháng 8 năm 2007). “Chinatown park, statue honor Sun Yat-sen”. Honolulu Star-Bulletin. Truy cập 17 tháng 8 năm 2007. trích dẫn: During a 1900 visit, Sun told The Advertiser […] He said in a 1901 interview here that "This is my Hawai'i. ^ "Bà Nam Dương" của Tôn Trung Sơn ******************* Tống Khánh Linh (giản thể: 宋庆龄; phồn thể: 宋慶齡; bính âm: Sòng Qìnglíng; Wade-Giles: Sung Ch'ing-ling) (ngày 27 tháng 1, 1893 – ngày 29 tháng 5, 1981) là một trong ba chị em họ Tống-ba chị em có 3 người chồng là một trong những nhân vật chính trị nổi bật nhất Trung Quốc của đầu thế kỷ 20. Tống Khánh Linh là phu nhân của Tôn Dật Tiên, tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi người cộng sản toàn thắng trên Trung Hoa lục địa năm 1949, bà ở lại Trung Quốc và trở thành Phó Chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bà còn có tên tiếng Anh là Rosamond. Bà được sinh ra trong gia đình một nhà kinh doanh và mục sư giàu có Tống Gia Thụ tại quận Hoàng Phố, Thượng Hải, theo học trường Motyeire dành cho nữ sinh ở Thượng Hải, và tốt nghiệp từ Wesleyan College ở Macon, Georgia, Hoa Kỳ. Tống Khánh Linh và Tôn Dật Tiên trong ngày cưới 1915 Bà kết hôn với Tôn Dật Tiên ở Nhật Bản vào ngày tháng 10 năm 1915 nhưng Tôn Dật Tiên trước đó đã kết hôn với Lô Mộ Trinh. Bố mẹ Tống Khánh Linh kịch liệt phản đối cuộc hôn nhân này do Tôn Dật Tiên lớn hơn Tống Khánh Linh 26 tuổi. Sau khi Tôn Dật Tiên mất năm 1925, bà đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Trung Hoa Quốc Dân Đảng năm 1926. Tuy nhiên, bà tự lưu vong ở Moskva sau khi Quốc Dân Đảng thanh lọc, đàn áp, giết hại những người thân cộng, thiên tả trong đảng này năm 1927. Dù Tống Khánh Linh hòa giải với Quốc dân Đảng trong Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945), bà đã đứng về phe Cộng sản trong Nội chiến Trung Quốc. Bà đã không vào Đảng Cộng sản Trung Quốc mà lập ra Ủy ban cách mạng Quốc Dân Đảng Trung Quốc, một phần của Mặt trận thống nhất (hiện nay Ủy ban cách mạng Quốc Dân Đảng Trung Quốc vẫn tồn tại ở Trung Quốc, là chính đảng đứng thứ hai sau Đảng Cộng sản). Năm 1939 bà đã thành lập Liên đoàn Phòng vệ Trung Hoa (China Defense League), sau này trở thành Viện Phúc lợi Trung Hoa (China Welfare Institute). Ủy ban của viện hoạt động chủ yếu về các vấn đề sức khỏe bà mẹ và trẻ em, giáo dục mầm non, và các hoạt động liên quan đến trẻ em. Đầu thập niên 1950, bà đã thiết lập tạp chí China Reconstructs, nay có tên China Today, với sự trợ giúp của Israel Epstein. Tạp chí này được xuất bản hành tháng (nguyệt san) bằng 6 thứ tiếng (tiếng Hoa, tiếng Anh tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ả rập, tiếng Tây Ban Nha). Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bà đã trở thành Phó chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Hội Hữu nghị Trung-Xô kiêm Chủ tịch danh dự của Liên đoàn Phụ nữ toàn Trung Hoa. Năm 1951 bà đã được trao Giải thưởng Hòa bình Stalin, (Giải thưởng Hòa bình Lenin sau khi Stalin bị phủ định), và vào năm 1953 một bộ sưu tập các bài viết của bà, Đấu tranh cho nước Trung Hoa mới, đã được xuất bản. Từ 1968 đến 1972 bà đã giữ chức đồng nguyên thủ quốc gia với Đổng Tất Vũ (董必武). Ngày 16 tháng 5 năm 1981, hai tuần trước khi mất, bà đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã được ban danh hiệu Chủ tịch danh dự Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà là người duy nhất được ban danh hiệu này. Trong khi tất cả các anh chị em trong gia đình bà đều theo phe Trung Hoa Quốc dân Đảng, chẳng hạn cô em Tống Mỹ Linh, người đứng về phe chồng là Tưởng Giới Thạch và chạy ra Đài Loan cùng với chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng, hoặc bà chị là Tống Ái Linh lấy chồng là Khổng Tường Hy theo phe Quốc Dân Đảng, duy nhất Tống Khánh Linh ở lại Trung Quốc đại lục theo Đảng Cộng sản Trung Quốc và là một hình ảnh được yêu quý ở Trung Hoa Đại lục. Em trai bà là Tống Tử Văn từng làm Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Tài chính và Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 29, 2011 15:47:26 GMT 9
Người tù đặc biệt của trại tù Suối Máu: Tỷ phú Nguyễn Đình Quát
Tỷ phú Nguyễn Đình Quát là nhân vật nổi tiếng trong kinh doanh và chính trị tại miền Nam Việt Nam khoảng đầu thập niên 1960. Thời Đệ II VNCH không nghe thấy tên ông, nhưng sau 30-4-1975, ông vẫn bị VC bắt vào tù… cải tạo bởi quá khứ “bóc lột” nhân dân và… chống Cộng của ông. Thật sự cựu Tỷ phú Nguyễn Đình Quát ở tù Chí Hòa, chứ không ở tù Suối Máu, nhưng vài tháng gần cuối năm 1980, không rõ lý do gì VC chuyển ông về nằm Trạm Xá trại Suối Máu cùng gần một chục người khác, trong đó có Nhạc sĩ Đại tá Nguyễn Văn Đông. Tôi hân hạnh gặp ông Nguyễn Đình Quát tại đây một thời gian tạm đủ để nghe ông kể chuyện đời và thấy cách sống của ông trong hoàn cảnh của một kẻ sa cơ mà vẫn giữ tròn tiết tháo! Cựu Tỷ phú Nguyễn Đình Quát sinh trưởng ở Quảng Bình, có nhân dạng như cố TT/VNCH Ngô Đình Diệm, nhưng xuất thân từ gia đình nghèo khó. Năm 1935, ở độ tuổi thanh niên ông cùng với một người bạn đồng trang lứa rủ nhau mua vé xe lửa vào Saigon tìm đường mưu sinh. Nguyễn Tất Thành (tục danh của Hồ Chí Minh) cũng cùng hoàn cảnh nhưng dùng ngụy danh viết sách lếu láo tự đề cao (đồng nghĩa… tự sướng) rằng “Bác Hồ thời thanh niên vào Saigon tìm đường… cứu nước”, thật ra đến Saigon anh ta làm bồi trên chiếc tàu viễn dương của Tây! Đặt chân chốn Saigon phồn hoa đô hội, hai chàng thanh niên người Quảng Bình như lạc vào mê hồn trận, không biết cách nào để đùm bọc nhau nên đành chia tay để mà sống, thay vì… đoàn kết sẽ dễ chết! Anh bạn đi đường anh bạn, Nguyễn Đình Quát quyết định phiêu lưu ra… Cap Saint Jacque (tức Vũng Tàu) không có chủ đích gì rõ ràng là ngoạn cảnh hay tìm việc làm. Nhưng lần đầu tiên ra biển Vũng Tàu lại là lần quyết định cuộc đời của ông một cách kỳ lạ. Vừa đến Vũng Tàu, anh thanh niên Nguyễn Đình Quát đi ngay ra bãi trước, lang thang ngắm cảnh mà không để ý, suýt chạm phải một phụ nữ Pháp hãy còn trẻ đang dắt tay một đứa bé gái. Anh vội xin lỗi và buột miệng khen đứa bé gái “ Elle est très belle fille”. Người phụ nữ Pháp rất vui và ngạc nhiên nghe giọng nói tiếng Pháp rất chuẩn của anh thanh niên Việt Nam, bèn hỏi và trả lời anh vài điều nữa. Qua cuộc đối đáp, anh Quát mới vỡ lẽ mình vừa chạm mặt một phu nhân của viên Thiếu tá Quân Trấn Trưởng Vũng Tàu và rất sung sướng nhận lời bà, vào ngày hôm sau giã từ nhà trọ, đến nhà bà Thiếu tá phu nhân làm gia sư cho đứa bé gái chính là con của bà! Nhưng không đầy một tháng sau, anh Quát được lịnh viên Thiếu tá Pháp phải rời khỏi Vũng Tàu trong vòng… 24 giờ mà sau đó theo tiết lộ của bà Thiếu tá phu nhân vì… ghen bóng ghen gió và đồng thời không muốn chứa một thanh niên bản xứ lạ mặt ngay trong nhà, suốt ngày gần gũi vợ đẹp con ngoan của mình! May cho anh, bà nầy động lòng trắc ẩn viết một thư tay, giới thiệu anh Quát với một người bạn Pháp đang làm Trưởng Công Trường Xây Dựng bên núi Nhỏ Vũng Tàu. Tại đây, anh Quát được thâu nhận làm công nhân, rồi nhờ tiếng Pháp khá giỏi của anh, cộng với bản chất thông minh, cần mẫn, anh vừa làm vừa học nghề xây dựng. Anh Quát leo dần lên nấc thang nghề nghiệp, mấy năm sau anh trở thành nhà thầu khoán, mở đầu sự nghiệp tại Saigon, rồi lan ra khắp Đông Dương lúc đó là thuộc địa của Pháp. Đến năm 1942, anh Quát giờ là ông Triệu phú Nguyễn Đình Quát, dần dần là Tỷ phú vào những năm đầu của nền Đệ I VNCH. Ông tham gia chính trường: 1/ Vào Quốc Hội, ông Nguyễn Đình Quát từng lãnh đạo Phái Đoàn Quốc Hội VNCH công du Anh Quốc, được Nữ Hoàng Anh tiếp đón trọng thể. 2/ Ứng cử chức vụ Tổng Thống VNCH ngày 9-4-1961 gồm 3 liên danh: . Ngô Đình Diệm/Nguyễn Ngọc Thơ, . Nguyễn Đình Quát/Nguyễn Thành Phương, . Hồ Nhựt Tân/ Nguyễn Thế Truyền. Sau 30-4-1975, ông Quát bị VC bắt đi tù… “cải tạo” vì quá khứ tỷ phú và… “ngụy quyền”. Ông từ chối sự bảo lãnh có điều kiện của các thân nhân ruột thịt đang là cán bộ cao cấp trong guồng máy nhà nước CS Hà Nội. Họ ra điều kiện ông phải viết bản “nhận có tội với nhân dân để xin cách mạng khoan hồng”! Ông thà vào tù, bỏ lại sản nghiệp, trong đó có một tòa nhà đồ sộ 27 phòng ở đường Trương Minh Giảng. Việt Cộng giam ông tại Khám Chí Hòa và vì ông bịnh (!?), nên chúng đưa ông đến Trạm Xá của Trại Suối Máu. Dù đang ở tù, nhưng vốn giầu có, ba bà vợ (trong đó có bà thứ ba ở bên Tây) chăm sóc ông đầy đủ bằng mấy gánh đồ thăm nuôi nặng kình kịch được bạn tù phụ giúp mang vào cho ông. Các bạn tù tha hồ tiếp sức ông tiêu thụ những món ngon, bổ béo dành cho người tù gốc… tỷ phú. Một hôm, ông ra phía sau Trạm Xá chợt thấy một bầy vịt của cán bộ VC mập tròn, lông trắng phau. Ông nhờ anh Cựu Thiếu tá Dương X. (hiện ở Seattle) mua giùm và làm thịt cho ông ăn bất kể ông vừa chứng kiến tận mắt bầy vịt đó đang rỉa những con… giòi trắng hếu mà anh tù chăn vịt vừa vớt lên từ thùng phân, rửa sạch và còn cựa quậy! Ông chỉ gắp vài miếng thịt vịt tượng trưng, còn lại đãi hết cho anh em. Một hôm, anh em bỗng dưng nghe ông ngâm Truyện Kiều của Nguyễn Du từng đoạn này sang đoạn kia. Nghĩ rằng ông có trí nhớ rất tốt, anh em bày ra trò đọc thơ Kiều để thử tài. Một anh đọc một đoạn thơ Kiều tự chọn, ông liền đọc đoạn trước và đoạn sau, cứ như thế tới lượt anh em khác. Cuối cùng, anh em cũng vô cùng ngạc nhiên bái phục một nhà kinh doanh Tỷ phú như ông Nguyễn Đình Quát lại thuộc vanh vách toàn bộ Truyện Kiều gồm trên ba ngàn câu đến như thế! Độ hai năm sau khi tôi ra trại về nhà thì nghe tin cựu Tỷ phú Nguyễn Đình Quát đã từ trần tại Bịnh Viện Đồng Nai (Biên Hòa) do mắc chứng bịnh nặng gì đó từ Trạm Xá Suối Máu chuyển sang. Bịnh viện Đồng Nai không nhận kịp thời thuốc men và phương tiện chữa trị tối tân của thân nhân ông từ bên Pháp gởi về, nên đành bó tay. Một số ít anh em cựu tù Suối Máu biết đến cựu Tỷ phú Nguyễn Đình Quát và với lòng ngưỡng mộ một kẻ sĩ thà vào tù để chịu khổ và chết, cương quyết không ký tên cái gọi là “bản nhận tội” của VC áp đặt như là một điều kiện làm sỉ nhục ông nói riêng và các kẻ sĩ VNCH nói chung! Tự hào thay một cựu tù Suối Máu Nguyễn Đình Quát giữ vững tiết tháo cho đến cuối đời mình. Người H.O. Già. ******************************************************** Luật sư Trương Đình Dzu,
Luật sư Trương Đình Dzu, 55 tuổi, là ứng cử viên Tổng Thống VNCH trong kỳ bầu cử tháng 9/1967. Là "ứng cử viên hoà bình", ông chủ trương thành lập chính phủ hoà hợp với Cộng sản. Ông về nhì trong cuộc tranh cử, sau Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau cuộc bầu ông bị bắt, bị kết tội “có những hành động làm suy yếu tinh thần diệt Cộng sản của nhân dân” và sau đó bị kết án 5 năm tù giam. Đọc Hoàng Hải Thủy (aka Công Tử Hà Đông) viết về luật sư Trương Đìng Dzu trong: Sài Gòn Vang Bóng Posted on January 21, 2008 by hoanghaithuy hoanghaithuy.wordpress.com/2008/01/21/sai-gon -vang-bong/ Ngày xưa..
Như mới toanh đấy thôi mà thời gian đã qua một thế kỷ, nôm na là một trăm năm.. Những năm 1900, ở thành phố Nam Định, một tên khác là Đất Vị Xuyên, xứ Bắc Kỳ, Nhà Thơ Lớn Tú Xương làm bài Thơ Tứ Tuyệt: Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái nào, hay cái ấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà. Sáng nay, buổi sáng 100 năm sau ngày ông Nhà Thơ làm bốn câu Thơ trên đây về ba cái ông gọi là ”ba cái lăng nhăng” nó quấy ông, kẻ lưu vong biêt xứ u buồn là tôi sống ở Kỳ Hoa Đất Trích, ngồi với ly trà và tờ nhật báo Mỹ, bỗng nhớ ông và bài thơ của ông. Nhà Thơ Lớn đất Vị Xuyên qua đời sớm, ông làm bài thơ trên khi tuổi đời ông khoảng Ba Bó, nếu ông sống đến năm ông Bẩy Bó - như tôi bây giờ - rất có thể ông sẽ làm bài thơ thứ hai về “Ba cái lăng nhăng.” Lời thơ có thể sẽ như vầy; Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái nào, hay cái ấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà. Thơ ấy Thơ ta khi ta trẻ, Chẳng phải Thơ ta lúc tuổi già. Ta già ba cái ta không bỏ, Ba cái lăng nhăng nó bỏ ta. May lắm ta còn trà với rượu, Bỏ ta trước nhất là đàn bà. Tôi không thích lắm trà với rượu, đàn bà đẹp, đa tình thì tất nhiên là tôi thích, nhưng chỉ thích lơ mơ, thích trong vòng pháp luật như cả tỉ anh đàn ông sống cùng thời với tôi trên trái đất này. Tôi nhớ và tôi kể bài Thơ Ba Cái Lăng Nhăng của Nhà Thơ Tú Xương vì tôi thấy khi đi vào tuổi già, ta không cần phải bỏ cái gì cả, nhiều cái sẽ bỏ ta. Tôi không còn thích rượu nữa, cà phê tôi cũng bỏ luôn, buổi sáng, ngồi nhìn ra Rừng Phong nắng vàng hay tuyết trắng, tôi nhâm nhi ly trà nóng. Với tôi bây giờ, buổi sáng có ly trà nóng là đủ. Và tôi đọc tờ nhật báo The Washington Post. Mỗi sáng có người mang tờ báo này đến tận cửa phòng tôi. Mười mấy trang báo không có qua một tin gì liên can đến tôi, không có chuyện gì tôi cần biết, nhưng theo thói quen mỗi sáng tôi vẫn đọc báo, dù chỉ là đọc sơ qua. Tuy vậy lâu lâu cũng có một vài tin trên báo làm tôi chú ý, xúc động, vui, buồn. Như mấy hôm nay, những ngày đầu Tháng Giêng Mỹ năm 2008, có tin một người đàn ông Việt Nam, tên là Lâm Lương, hành nghề bắt tôm biển, ở một thị trấn bang Alabama, chở 4 đứa con nhỏ của ông ta trong xe ô tô, trong số có em gái mới ra đời có 4 tháng, lên cây cầu quăng 4 em xuống sông. Cũng mới đây báo đăng chuyện xẩy ra ở gần Rừng Phong, Virginia, cảnh sát vào một nhà kia thi hành án lệnh trục xuất người ngụ trong nhà, vì không trả tiền mướn nhà. Cảnh sát tìm thấy trong nhà 4 xác em nhỏ chết từ cả mấy tháng trước. Bốn em là con người đàn bà Mỹ Đen chủ nhà. Bà này, chắc là bị điên, khai bốn đứa con bà tự nhiên chết. Cảnh sát thấy bằng chứng cả bốn em đều bị giết. Bánh xe lãng tử đến Mỹ hơn 10 năm, năm nay, 2008, tôi mới chú ý đến cuộc tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Có hai người ra tranh cử tôi có cảm tình là bà Hillary Clinton, ông John McCain. Sau hôm bị thua phiếu bầu ở Iowa, tuần trước, trên báo, trên TiVi, tôi thấy Nữ ứng cử viên Hillary Clinton mặt buồn so, nước mắt lưng tròng, nghẹn ngào muốn khóc. Thế rồi qua cuộc bầu sau đó hai ngày ở New Hampshire, Hillary Clinton thắng phiếu Obama, tôi thấy bà Hillary tươi như hoa, tôi thấy Ứng cử viên Obama, mới mấy hôm trước thắng cử mặt tươi rói, chỉ sau mấy ngày và một đêm, như già đi cả mười tuổi. Việc Ứng cử viên John McCain thắng phiếu làm tôi vui. Nhìn ông cười - có vẻ hiền hậu - trên màn ảnh TiVi, dáng người, khổ người ông, tuổi tác của ông, làm tôi nhớ đến Luật Sư Trương Đình Dzu, một ứng cử viên Tổng Thống của nước tôi 50 năm trước. Dòng thời gian dài một ánh bay.. Những ngày như lá, tháng như mây.. Như mới hôm qua đây thôi mà năm tháng đã dài một nửa thế kỷ. Nhiều người Việt, ở nước ngoài, ở trong nước, năm nay tuổi đời Bốn Bó, Năm Bó, chẳng biết nhân vật Trương Đình Dzu là ai, từng làm gì. Nhưng tôi, một người Việt Bẩy Bó tuổi đời, từng sống 40 năm trong thành phố Sài Gòn, tôi biết. Tôi đang soạn tập SÀI GÒN VANG BÓNG, ghi lại nhửng sự việc đã xẩy ra ở Sài Gòn, những nhân vật đã sống ở Sài Gòn những năm từ 1950 đến 1975, như những nhà Kim Chung, Đại Thế Giới, Nhà Bình Khang, Xổ Đề, Xổ Số Quốc Gia, Khám Lớn Sài Gòn đường Gia Long, Nhà Tù Chí Hòa, Photo Stop đường Catinat, Cháo Cá Chợ Cũ, Phở Hòa Pasteur, tiệm Cơm Bà Cả Đọi, Phở Minh Casino, đường Xe Điện Sài Gòn - Chợ Lớn, Bà Trần Lệ Xuân, Ông Đạo Dừa, ông Ba Cụt, Cô Quách Thị Trang, cô Hồ Thị Qườn đốt chồng, Em Khuy Nút Thị Gần, Thầy Tướng Số Khánh Sơn, Vũ Nữ Cẩm Nhung bị tạt át-xít, Nữ nghệ sĩ Bích Hợp, Nghệ sĩ Huỳnh Thái, Phong Trần Tiến, Phúc Lai, Tư Vững, Hoàng Vĩnh Lộc, Dương Hà, Chú Tư Cầu Lê Xuyên, Kim Vá v..v.. Luật Sư Trương Đình Dzu là một người trong số những người được kể trong SÀI GÒN VANG BÓNG. Những năm 1960 trời đất Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa yên bình, Sài Gòn an ninh, có hai hội quốc tế, một hội là Hội Lyons - Lyons Club - hội thứ hai là Hội Rotary - Rotary Club - Luật Sư Trương Đình Dzu là Hội Trưởng Hội Rotary Việt Nam. Có thời ông là Thống Đốc Hội Rotary Đông Nam Á. Ông ra ứng cử chức vụ Tổng Thống hai lần. Lần thứ nhất ông tranh cử với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lần thứ hai ông tranh cử với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Lần tranh cử thứ hai, liên danh của ông về nhì, ông bị Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bắt, cho đi tù ít ngày. Những năm 1960 chừng hai, ba tháng Rotary Club có một cuộc họp, hay làm một công việc gì đó, tin này được đăng trên tờ nhật báo Pháp Le Journal d’Extrêm Orient. Bà Bút Trà, chủ nhiệm nhật báo Sàigònmới, là thân chủ của Luật Sư Trương Đình Dzu. Mỗi lần nhật báo Le Journal d’Extrêm Orient đăng tin về hoạt động của Rotaty Club, ông Trương Đình Dzu thường gọi phone nhắc bà Bút Trà cho đăng tin ấy, bà Bút Trà bảo tôi dịch tin ấy trên báo Pháp, đăng trên báo Sàigònmới. Một hôm bà Bút Trà bảo tôi ông Luật sư Trương Đình Dzu muốn gặp tôi. Tôi hỏi bà; - Ông ấy cần gặp tôi có việc gì ạ? Ông ấy cần tôi làm gì, ông ấy cứ nói với bà, bà bảo tôi làm là xong. Thấy tôi có vẻ không muốn đến gặp, bà Bút Trà nói gần như năn nỉ: - Ông ấy nhờ anh làm việc gi đấy. Anh chịu khó đến gặp ổng đi mà. Văn phòng Luật Sư Trương Đình Dzu ở đường Pellerin, xế cửa rạp xi-nê Casino de Saigon. Từ tòa soạn báo Sàigònmới đường Phạm Ngũ Lão đi bộ đến văn phòng Luật sư Trương Đình Dzu đường Pellerin chỉ mất chứa đầy 5 phút. Lúc 11 giờ một buổi trưa, tôi vào văn phòng ông Luật sư Trương Đình Dzu. Văn phòng kiểu Pháp, tường gắn gỗ nâu, bàn tủ toàn đồ gỗ nâu gụ, đặc biệt phòng trải thảm dầy, đèn vàng, máy lạnh. Luật sư Trương Đình Dzu com-lê xanh đậm, nói lời cám ơn tôi về những bản tin Rotary Club tôi dịch, đăng trên báo Sàigònmới, ông đưa cho tôi tập tài liệu: - Tôi nhờ ông Thủy dịch dùm tôi. Tôi xem qua tài liệu. Đó là bản Nội Quy, Điều Lệ Rotary Club bằng tiếng Anh, bản sơ lược tiểu sử Hội bằng tiếng Pháp. Tôn chỉ của Hội, những điều kiện để làm hội viên, thời gian họp đại hội, thể lệ bầu cử, ứng cử..v..v.. Không có gì khó dịch. Tôi dịch hai tài liệu ấy trong khoảng hai tiếng đồng hồ. Khi làm việc ấy tôi nghĩ: “Dzễ ợt. Người thư ký của Hội cũng làm được việc này. Bộ Rotary Club hay văn phòng ông ấy không có thư ký nào biết tiếng Anh, tiếng Pháp hay sao mà ông ấy phải nhờ đến mình?” Tuần sau tôi trở lại văn phòng trải thảm dầy của Luật Sư Trương Đình Dzu, nộp ông hai bản dịch. Ông mở xem qua rồi hỏi tôi: - Ông Thủy cho tôi biết tôi phải đưa ông bao nhiêu? Tôi nói: - Thưa ông.. Ông làm giúp cho bà chủ tôi nhiều việc, tôi là người làm công của bà chủ tôi, ông cho tôi bao nhiêu cũng được. Ông nói: - Đâu được. Công khó của ông Thủy, tôi phải đền bù xứng đáng công khó của ông. Tôi vốn không được thông minh, kiêm không nhanh trí, có thể nói là ngu đần, nhưng có lẽ vì hiền lương nên đôi khi tôi được Thánh cho ăn lộc. Khi nghe ông Luật sư Trương Đình Dzu nói như thế, bỗng dzưng tôi nghĩ: “À thì ra ông ta muốn cho mình số tiền trả công mình dịch tin Rotary, nhưng ông ta lịch sự, không đưa thẳng tiền cho mình mà bầy ra chuyện nhờ mình làm để chi cho mình.” Tôi nói: - Thưa ông, nếu ông nói thế, ông cho tôi 10 ngàn. 10 ngàn đồng Việt Nam năm 1960 là 2 cây vàng. Một đôi giày Trinh Shoes đường Tự Do, đắt nhất Sài Gòn, 500 đồng: một chỉ vàng. Ông Trương Đình Dzu kéo ngăn kéo bàn, lấy tiền, cho vào phong bì, đưa cho tôi. Tôi nhắc lại: 10.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa năm 1960 là 2 cây vàng. Công tôi dịch hai tập tài liệu mỏng dzính nếu được chi 1.000 là tôi bằng lòng. Ông Trương Đình Dzu có thể gọi tôi đến văn phòng ông, đưa cho tôi vài nghìn đồng, không cần cho tiền vào phong bì, nói ông cám ơn tôi, ông chi tôi ít tiền sài chơi, tôi cầm tiền không chút mặc cảm. Tôi là người làm công, tôi sống bằng việc làm của tôi, người ta trả tiền công tôi làm việc cho người ta. Tôi biết ơn ông Luật Sư Trương Đình Dzu vì ông đã đối xử với tôi thật tốt. Số tiền cho là quí nhưng quí hơn là cách cho tiền người nghèo, cho tiền người làm giúp việc mình việc gì. Hành động nhỏ thôi nhưng người ta phải có lòng quí trọng người, phải mất công, việc nhỏ mà ít người chịu làm hay làm được. Trong cuộc đời làm công của tôi, tôi nhận tiền trả công từ nhiều người, rất ít người làm tôi ấm lòng như Luật sư Trương Đình Dzu. Rất tiếc tôi không tìm được ảnh Luật Sư Trương Đình Dzu. Đây là một tài liệu về ông tôi tìm được trên Internet: During last September’s elections in South Viet Nam, Truong Dinh Dzu was a “peace candidate” for President, and he advocated a coalition government with the Communists. He came in second, after President Nguyen Van Thieu. Later he was arrested, charged with “actions which weakened the will of the people to fight against the Communists,” and last month was sentenced to five years in prison. Last week Dzu’s lovely daughter Monique Dinh Dzu, 22, a teaching aide at U.C.L.A., arrived in Chicago with an appeal for the Democratic Convention to condemn that action. In a press conference at Senator Eugene McCarthy’s headquarters, she presented a petition urging the Democrats to write a platform plank demanding her father’s release. First signer: Senator McCarthy. (http://www.time.com/time/magazine/article/0, 9171,844584-2,00.html) Dịch đại khái: Trong cuộc bầu cử Tổng Thống Tháng Chín ở Nam Việt Nam, Trương Đình Dzu là - ứng cử viên hoà bình - Ông chủ trương thành lập chính phủ hoà hợp với Cộng sản. Ông về nhì trong cuộc tranh cử, sau Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau cuộc bầu ông bị bắt, bị kết tội “có những hành động làm suy yếu tinh thần diệt Cộng sản của nhân dân”. Tháng vừa qua ông bị kết án 5 năm tù giam. Tuần trước, Monique Đình Dzu, cô con khả ái của ông, 22 tuổi, một phụ giảng viên U.C.L.A, đến Đại Hội Đảng Democrat ở Chicago, đưa ra lời phản đối việc ông thân của cô bị bắt giam. Cô yêu cầu Đại Hội lên án việc làm đó. Trong cuộc hội báo ở Trụ sở của Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthy, cô đưa lời kêu gọi những người Đảng Democrat lên tiếng đòi trả tự do cho ông thân của cô. Thượng Nghị Sĩ McCarthy là người đầu tiên ký vào bản yêu sách ấy. Chuyện đã qua. Không những đã qua mà còn là qua lâu rồi. Chỉ còn vang bóng và vang tiếng. Tôi kể lại thế thôi. Khoảng chín, mười tháng sau Tháng Tư 1975, một buổi sáng tôi thấy ông bà Trương Đình Dzu, đi trên chiếc xe hơi Honda 500, đến Nhà Bưu Điện Sài Gòn. Ông bà đến đó nghe điện thoại từ nước ngoài gọi về. Tôi chờ bên cửa khi ông bà ra về để chào ông. Biết ông không nhớ tôi là ai, tôi nói ngay: - Thưa ông Luật sư, tôi là ký giả nhà báo Sàigònmới năm 1960 có đến văn phòng ông. Tên tôi là.. .. Ông cười, bắt tay tôi: - Ông Thủy, ông vẫn được bình an? - Thưa vâng. Chỉ thế thôi. Chúng tôi không có gì để nói với nhau nhiều. Ông chúc tôi bình an, tôi chúc ông bà bình an. Chúng tôi bắt tay nhau từ biệt và vĩnh biệt. Từ ấy tôi không bao giờ gặp lại ông nữa. Nghe nói ông bà bị đưa về Bắc, ông qua đời trong yên lặng và trong quên lãng ở Hà Nội. Như vậy là Luật sư Trương Đình Dzu trước năm 1975 có hai người con ở Hoa Kỳ: anh David Trương Đình Hùng, người dính trong vụ gián điệp VC Đinh Bá Thi, và cô Monique Trương Đình Dzu. Một buổi chiều năm 1967, Ứng cử viên Tổng Thống Trương Đình Dzu họp báo ở Khách sạn Continental. Tôi đến dự. Tôi từng khó chịu khi thấy những ông ứng cử viên Tổng Thống ăn không nên đọi, nói không nên lời, trả lời mấy câu hỏi vẩn vương của ký giả Việt thôi mà đã ngắc ngứ. Tôi thán phục tài hùng biện của Ứng cử viên Trương Đình Dzu khi tôi thấy ông trả lời bọn phóng viên Pháp Mỹ; ông nói thao thao, đường hoàng, nói tiếng Anh xong, ông chuyển sang nói tiếng Pháp. Tôi có cảm tưởng ông nói, mà không cần nói, với bọn nhà báo Pháp, Mỹ: “Các anh hỏi tôi một, tôi nói thêm cho các anh biết hai, ba chuyện nữa. Rỏng tai lên mà nghe này.” Rõ ràng ông áp đảo thiên hạ. Buổi chiều ấy, trong phòng khách Continental, tôi đứng nghe, nhìn ông nói mà thấy tôi kiêu hãnh. Năm ấy tôi 35 tuổi, Luật Sư Trương Đình Dzu khoảng 55 tuổi. Nói theo các nữ ca sĩ Phòng Trà Sài Gòn 1960: “Đến đây để thay đổi không khí..” Tôi nói: - Đến đây để thay đổi không khí bài Viết ở Rừng Phong, tôi kể sang chuyện khác. Tuần này Đại Hội Tennis Australia Open đang tranh giải, tôi thích xem thiên hạ đánh tennis, Nữ đấu thủ tôi ái mộ là Maria Sharapova. Nếu tôi còn trẻ như năm cũ, viết rõ hơn là nếu năm nay, 2008, tôi 30 tuổi, và tôi giầu như Bill Gates, tôi sẽ trang trọng mời Maria Sharapova cộng tác với tôi để làm một việc hấp dzẫn. Tất cả những việc quí vị nghĩ tôi sẽ làm với Maria Sharapova đều không đúng. Tôi sẽ làm với Nàng việc này: tôi sẽ nói với Nàng tiền của tôi là tiền của Nàng, tôi muốn Nàng nghỉ dự những trận tranh giải để chỉ đánh tennis theo ý thích và theo ngày giờ của tôi, tôi đưa Nàng đi khắp nơi trên thế giới, tôi sẽ tổ chức những cuộc đánh tennis cho Nàng biểu diễn, Nàng trổ tài. Tôi sẽ mời người đến coi, mỗi người đến xem khi vô cửa tôi tặng tờ giấy 100 US Dollars có hàng chữ In God We Trust. Ai muốn có 2 tờ chỉ việc dzơ lên 2 ngón tay, sẽ có ngay 2 tờ. Tôi treo giải nữ đấu thủ nào thắng Maria Sharapova 3-0 tôi sẽ chi 1 triệu USD, tức 1 triệu Đô-la Mỹ. Thua Nàng tôi tặng 500,000 USD. Chi tiền mặt, tên khác là tiền tươi, ngay tại sân tennis. Và tôi sẽ nói với khán giả khắp thế giới: - Nếu bọn Nga Cộng còn thống trị nước Nga, Maria Sharapova sẽ không bao giờ có thể là Maria Sharapova tuyệt vời hôm nay. Năm 1990 dân Nga kéo tượng Lenin, Stalin cho ra nằm ở bãi rác, nụ hoa Nữ công dân Nga Maria Sharapova bừng nở trong ánh nắng tự do, nước mát dân chủ. Maria Sharapova là hình ảnh bằng thịt, bằng dza, bằng tóc của nước Nga không Cộng sản. Muốn dân tộc quí vị có Maria Sharapova Thơm như Múi Mít, quí vị hãy thẳng tay tiêu dzịệt bọn sâu bọ tàn dzư Cộng sản. Nếu tôi còn trẻ như năm tôi 30 đang xoan, nếu tôi có 250 tỷ đô Mỹ như Bill Gates, tôi sẽ mời Maria Sharapova làm với tôi công cuộc dziệt Cộng đó; Maria Sharapova Thơm như Múi Mít và tôi mà làm việc đó, bọn tàn dzư Cộng Sản Sâu Bọ trên thế giới chỉ có nước từ chết đến chết. Đến đây tạm chấm dzứt Chương Trình Văn Nghệ Tạp Lục của Ban Tùm Lum.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 29, 2011 15:48:40 GMT 9
Truong Dinh DzuFrom Wikipedia, the free encyclopedia en.wikipedia.org/wiki/Truong_Dinh_Dzu Trương Đình Dzu (1917–mid-1980s) was a Vietnamese lawyer and politician who unsuccessfully ran as a candidate for the presidency in the 1967 elections against Nguyen Van Thieu.[1] He won 17% of the vote on a platform of negotiating with the communist Viet Cong and was arrested after the election.[2] Dzu had declared his intention to stand as a candidate for the 1961 South Vietnamese presidential election against President Ngo Dinh Diem, but he was intimidated into withdrawing after being accused of having engaged in illegal fund transfers out of the country.[1] Dzu had also earned negative attention when he once put up his wife as collateral for a loan.[2] Under the political laws of the time, political activity that promoted negotiations with the communist Viet Cong insurgents that were attempting to take over South Vietnam with the assistance of their ideological allies in North Vietnam, was forbidden. There had been previous instances where politicians that had advocated a ceasefire were disqualified from running.[3] As a little-known politician, he remained silent until his candidacy was approved before exhibiting his policies. After this was done, he campaigned with the dove as his emblem, urging negotiations. With 17% of the vote, he came second behind the ticket of General Nguyen Van Thieu, hitherto the figurehead chief of state, and Air Marshal Nguyen Cao Ky, the Prime Minister.[2] Along with two other failed presidential candidates, Phan Khac Suu and Hoang Co Binh, Dzu held a media conference accusing Thieu and Ky of engaging in election fraud.[1] Dzu's performance was regarded to be a sign of the public discontent with the military rule of the Army of the Republic of Vietnam officers, rather than an endorsement of his policies. Nevertheless, Thieu was embarrassed by the results and had him arrested for illicit currency transactions.[2] Dzu was accused of illegally opening a bank account in San Francisco and was put under police surveillance.[1] Dzu was arrested and brought before a Special Military Court on July 26, 1968 and sentenced to five years of hard labour, but due to public pressure in South Vietnam and abroad, he was released after only five months.[1] After the fall of Saigon in 1975, the victorious communists sent Dzu to a reeducation camp.[1] He died in the mid-1980s.[1] VIETNAM History in Pictures (1964-1967) (30 months ago) More on Truong Dinh Dzu in Declassified CIA Documents on Vietnam War "Vietnam Station Report No. 46/67 (8/26-9/3/67) on the voting for President in South Vietnam" library2.usask.ca/vietnam/index.php?state=vie w&id=1001 VIETNAM History in Pictures (1964-1967) (30 months ago) Vụ người con trai của ông Trương Đình.Dzu ở Hoa Kỳ, anh David Trương Đình Hùng dính trong vụ gián điệp VC Đinh Bá Thi: www.iisg.nl/archives/nl/files/t/10949689.phpTruong David H.D. Papers Period 1976-1987 Total size 5.37 m. Consultation Closed Biography David H.D. Truong, earlier known as Truong Dinh Hung, born c. 1945; son of Truong Dinh Dzu, who ran for president in southern Vietnam's 1967 election and afterwards was jailed and tried by the Thieu regime; Truong left Vietnam 1965 for the United States to register as a student at Stanford University; Truong was involved in Vietnam-related activities in the US; following the end of the Vietnamese war Truong helped to form the Vietnamese-American Reconciliation Center; the charge upon Truong was convicted involved the receipt and transmission of classified information to the Vietnamese Ambassador in Paris; he was arrested in January 1978 and the triail against Truong and his companion Ronald Humphrey started in May 1978; both got a sentence of 15 years; after his conviction his case was brought finally to the U.S. Supreme Court. Content Documents on the trial of Truong Dinh Hung and his stay in prison 1976-1987; correspondence of Truong with his wife Carolyn L. Gates and other personal correspondence 1980-1986.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 31, 2011 3:42:54 GMT 9
Lá thư hè Singapore Vietsciences- Nguyễn Xuân Xanh 30/07/2011 Chuyện Tình Lý Quang Diệu Singapore, vì sao hấp dẫn du khách? Singapore-Saigon-Hong Kong: Quan hệ thương mại người Hoa từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 Singapore chỉ là một chấm nhỏ xíu trên bản đồ thế giới Tháng 7, 2011 Thưa các Anh Chị, Đầu tháng 7 vừa qua tôi (và gia đình) đi chơi ở Singapore một tuần nhân con chúng tôi nghĩ hè. Đây là lần đến thăm Singapore sau hơn 10 năm. Chúng tôi được gặp các anh Vũ Minh Khương và Giáp Văn Dương tại nhà riêng trong một buổi cơm tối và trò chuyện thân mật. Những ngày còn lại cả gia đình đi “ta bà” để tham quan, đi đến rã cả chân. Singapore không mất đi vẻ thu hút mãnh liệt đối với tôi. Tôi xin ghi lại vài ấn tượng và suy nghĩ hời hợt gửi đến Anh Chị, và cũng như từ góc độ Singapore tìm hiểu xem tại sao TQ như thế mà VN không như thế, câu hỏi quan trọng mà các Anh Chị trên diễn đàn Humboldt đang thảo luận. (I) Chắc nhiều Anh Chị ít nhiều đã đến Singapore. Một người bạn tôi từ Canada bảo những năm đầu 80 anh ấy đến Singapore vì công việc, mỗi lần đến đó thì tâm hồn “tan nát” khi nghĩ đến hoàn cảnh Việt Nam. Singapore chỉ cách Sài gòn 1.45 giờ bay, giống như Hà nội. Thế mà sao sự khác biệt lại kinh khủng thế? Ai xây thành phố nhà nước này? Singapore có nhiều chủng tộc chủ yếu Hoa, Malaysia và Ấn. Nhưng cả thành phố không hề có vẻ châu Á chút nào, mà nó “Tây” một trăm phần trăm, trừ những khu Tàu, khu Ấn nhỏ truyền thống vẫn còn tiếp tục hoạt động. Cái cảm giá đầu tiên là đường phố rất rộng, mật độ đường phố rất lớn, trong khi diện tích của đảo quốc rất nhỏ, chỉ 694km2, xe cộ chạy liên tục không kẹt lúc nào (có lẽ cũng kẹt đôi chút vào những giờ cao điểm), rất thông thoáng, không hề nghe tiếng còi xe inh tai như ở VN. Trong khi đó TP HCM có diện tích 2,095 km2 gấp hơn 3 lần Singapore, đường sá lại rất chật hẹp, mật độ đường lại quá nhỏ. Ô tô ở Singapore chạy vù vù như mắc cưởi, giống như trong roller coaster, rất nhanh, đến 80 miles/ giờ trong trung tâm, 100 miles ngoài trung tâm. Ai chưa quen tốc độ sẽ sợ hãi; nhưng một hồi rồi thấy mọi người đều lái rất đúng luật, chính xác và an toàn. Hệ thống đường giao thông của Singapore là 3D, trong khi hệ thống đường giao thông ở VN chỉ là 2D, hay bị tắc nghẽn nặng nề vào những giờ cao điểm. Tôi cho ai thiết kế hệ thống đường giao thông của Singapore là rất thông minh, và không phải dễ thiết kế được hệ thống đường sá như thế. Hệ thống đường giao thông giống như hệ thống các mạch máu chằng chịt lan tỏa khắp nơi để đưa máu nhanh chóng đến tất các bộ phận cơ thể. Chưa nói đến hệ thống tàu điện ngầm MRT, hệ thống xe búyt của Singapore rất hữu dụng. Không có một hệ thống giao thông thông minh như thế, thì không thể có được thành phố hiện đại, trung tâm tài chính, thương mại. So với cơ sở hạ tầng của Singapore, thì cơ sở hạ tầng của Việt Nam quả là còn primitive. Cảm giác thứ hai là toàn bộ thành phố đều được phủ xanh một cách rất thông minh và khoa học. Không có một tấc đất nào của Singapore mà không có sự chăm sóc của bàn tay con người; không có khái niệm “đất hoang” ở đây. Họ có rất nhiều chủng loại cây thích hợp cho thành phố, và họ trồng cây xanh nhiều tầng như rừng nhiệt đới, tạo nên mảng thiên nhiên dầy đặc khắp nơi. Cây đẹp, tàn to tạo bóng mát, nhưng không quá cao gây nguy hiểm như các loại cây sao Pháp đã trồng lâu đời ở VN. Người ta có ngay cảm tưởng dễ chịu khi ra khỏi phi trường, rằng mình đang sống trong thành phố công viên tươi mát có bàn tay thiết kế và chăm bón tuyệt diệu của con người. Phần lớn các nước châu Á không để ý đến cây xanh. Lý Quang Diệu (Lee Kwan-Yew, sinh ngày 16/09/1923) ngay từ đầu đã có kế hoạch làm xanh cả đất nước như một chương trình lớn. Ông mời chuyên gia cây cỏ nước ngoài đến nghiên cứu thổ nhưỡng và biện pháp, gửi người đi tìm khắp những nơi có khí hậu gần giống Singapore để mang về những giống cây làm giàu cho thảm thực vật họ. 8000 giống lạ được mang về Singapore và 2000 trong đó đã sống được. Singapore cũng giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí rất tốt. Công viên chim, Bird Park, rất ấn tượng, được đặt ngay bên cạnh trung tâm công nghiệp lớn Jurong, nếu không xử lý khí thải thì mấy con chim kia chắc sẽ không sống được lâu. Cuộc xanh hóa của Singapore đã được lãnh đạo các nước lân bang “bắt chước”: Mahathir xanh hóa Kuala Lumpur, Suharto Jakarta, Marcos Manila, Thanin Bangkok, tất cả vào những năm cuối 70. Các công trình văn hóa ấn tượng của Singapore không chỉ là dành cho du khách để kiếm tiền, mà còn để giáo dục con người Singapore. Chẳng hạn như những công trình Công viên chim, Sở thú, Safari đêm, Vườn Bách thảo, Trung tâm khoa học (Science Center), Lịch sử Singapore (Images of Singapore, một công trình rất ấn tượng tại khu vui chơi Sentosa) đều có tính giáo dục rất cao…. Học sinh và thầy cô VN muốn học hỏi về khoa học, cây cỏ, sinh vật, lịch sử chỉ có nước qua Singapore, chứ không nơi nào ở VN có những công trình giáo dục cụ thể và qui mô như thế. Đó là những công trình ấn tượng mà du khách có thể tham quan cả ngày, cả tuần. Thật thấy thương học sinh VN. Vì sao với một đảo quốc nhỏ, khi tách khỏi Malaysia vào năm 1965 chỉ có 2 triệu dân (và hiện nay khoảng 3.2 dân, cộng với người nước ngoài đến làm việc là 5.1 triệu), mà Ông Lý Quang Diệu đã làm nên lịch sử? Thời thế tạo anh hùng, hay anh hùng tạo thời thế? Tại sao trong khoảng 2 thập kỷ thôi, Ông LQD đã thay đổi hẳn những tật xấu cổ truyền của các dân tộc sống trên đó như khạc nhổ, xả rác, gây tiếng ồn, tính thô bạo trong cư xử, làm ăn gian dối… để biến họ thành những người văn minh, đối xử ân cần và lịch sự với nhau? Ông đã từng bước dẹp nạn taxi dù và tệ bán hàng rong trên hè phố, đặc biệt trước các cổng trường, tệ dắt bò đi ăn vào thành phố gây tai nạn chết người, tệ đốt pháo vào ngày tết cổ truyền TQ gây thiệt hại về con người và tài sản. Xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố mới dễ hơn nhiều thay đổi thói quen cố hữu của người dân. Nhưng ông đã khôn ngoan làm được. LQD kể lại tệ khạc nhổ của người TQ. Đó là trong chuyến thăm TQ đầu tiên của ông tại Đại sảnh đường nhân dân (Great Hall of the People) năm 1976 tại Bắc Kinh, ông nhận thấy có các ống nhổ được đặt tại các phòng họp nơi tiếp ông. Một số vị lãnh đạo đã sử dụng các ống nhổ này. Khi Đặng Tiểu Bình đến thăm Singapore năm 1978, phía Singapore đặt một ống nhổ màu trắng xanh thời nhà Minh cạnh ghế ông trong phòng họp cho ông sử dụng. Nhưng ông không sử dụng, có lẽ ông đã nhận ra rằng người Hoa ở Singapore đã không còn khạc nhổ nữa. Đến lần thăm tiếp của ông tại Bắc Kinh năm 1980, tức bốn năm sau, ông không còn thấy các ống nhổ đặt tại các phòng họp nữa. Vài năm sau ông tiếp một chính khách khác của TQ đặc trách kinh tế tại Singapore, LQD nhắc lại việc các lãnh đạo TQ không còn sử dụng ống nhổ nữa như một điều tốt. Nhưng vị khách này tiết lộ với ông, đó chỉ là hình thức thôi, chứ các vị lãnh đạo vẫn còn tiếp tục sử dụng ống nhổ trong phòng làm việc của họ! Singapore vừa là trung tâm tài chánh, vừa là một điểm du lịch hấp dẫn (chưa nói đến các chức năng khác như giáo dục, công nghệ, cảng trung chuyển vùng). Người ta chờ đợi Singapore sắp tới sẽ trở thành trung tâm quản lý tài chánh lớn nhất thế giới vượt cả Thụy Sĩ. Với số dân khiêm tốn 3.2 triệu dân, Singapore có đến gần 12 triệu khách du lịch, gấp 4 lần số khách du lịch đến VN (Việt Nam dân số trên 85 triệu, có số khách du lịch chỉ khoảng 3 triệu). Người ta bảo rằng 4 (hay 5) người khách du lịch đủ nuôi sống 1 người Singapore. Khách sạn mới xây Marina Bay Sands, có kiến trúc chiếc tàu ở phía trên, giống như stonehenge ở Anh. Vé đi lên chiếc tàu này là S$20/ người chỉ để ngắm cảnh thôi! Giá ngủ một đêm ở đây khỏang 1.000 USD. Ngay từ đầu lập quốc, Ông Lý Quang Diệu đã quyết tâm làm cho Singapore khác biệt các nước thế giới thứ ba một cách triệt để và nhanh chóng, và có tham vọng phải tiến lên thế giới thứ nhất. “Một nhánh của chiến lược tôi là biến Singapore thành một oasis của Đông Nam Á, bởi vì nếu chúng ta có các tiêu chuẩn của thế giới thứ nhất, thì doanh nhân và khách du lịch sẽ sử dụng đất nước chúng ta thành một bàn đạp cho hoạt động kinh doanh và các tour du lịch trong khu vực.” Tiếp đến là phải thay đổi hẳn thói quen cổ truyền cản trở của hai triệu dân, thông qua giáo dục họ, giáo dục con cái họ trong nhà trường để có tác dụng lên cha mẹ, và thông qua luật pháp. Để đạt được First World standards trong một vùng của thế giới thứ ba, LQD quyết định biến đất nước thành một thành phố-vườn-nhiệt đới, và phải làm cho nó “sạch và xanh” theo đúng nghĩa. Với xanh và sạch, Singapore đã nhanh chóng gây được ấn tượng tốt mạnh mẽ cho thế giới. Không những giữ cho cảnh quang xanh, sạch, mà ông còn giữ cho chính quyền Singapore trong sạch. Trong cái bể của tham nhũng nẳng nề của châu Á thì Singapore nổi lên như một hòn đảo ít tham nhũng nhất, sạch nhất. Singapore lại thể hiện một lần nữa tinh thần “thoát Á nhập Âu” mà Nhật Bản thời Minh Trị đã đi tiên phong. Việc chuyển đổi một đất nước từ thế giới thứ ba sang đất nước có tiêu chuẩn thế giới thứ nhất là không dễ. Những ý tưởng của LQD lúc đầu bị xem là không tưởng. Các phóng viên nước ngoài cười chế nhạo những chiến dịch “làm tốt” của Singapore. Nhưng LQD tin rằng “chúng ta sẽ là những người cười sau cùng. Chúng ta sẽ phải cam chịu trở thành một xã hội thô tục hơn, khiếm nhã hơn, thô bạo hơn nếu chúng ta không làm những nỗ lực này để thay đổi cách sống. Chúng ta chưa đạt tới mức một xã hội có giáo dục và văn minh, và chúng ta không xấu hổ ra sức trở thành một dân tộc như thế trong một thời gian ngắn nhất có thể.” (II) Bây giờ đến câu hỏi: Vì sao TQ làm được những kỳ tích mà VN thì không? Thực tế, cuộc thăm viếng lần đầu tiên năm 1978 của Đặng Tiểu Bình tại Singapore là cái mốc lịch sử hết sức quan trọng cho cuộc chuyển đổi TQ. Ông đã tận mắt nhìn những thành quả ấn tượng của mấy triệu dân Singapore cần cù, thông minh này và đã hết lời khen ngợi ông LQD. Cuối chuyến đi, ĐTB nói: “Phải chi tôi chỉ có Thượng Hải thôi (dân số gấp ba hay bốn lần dân số Singapore), thì tôi sẽ có thể biến đổi nó nhanh chóng (như ông đã biến đổi Singapore). Nhưng tôi có cả một đất nước Trung Hoa!” Trong chuyến đi này ĐTB đã nghe LQD “giảng bài” về lợi hại của chủ nghĩa: “Chủ nghĩa CS chỉ thành công nếu ông tin rằng tất cả mọi người hy sinh mình cho đồng loại chứ không cho gia đình hay chính bản thân mình. Còn tôi, tôi hoạt động trên cơ sở rằng con người, trai cũng như gái, trước nhất lao động cho chính bản thân và gia đìng họ, và chỉ trên cơ sở đó họ mới chia sẻ một phần thành quả lao động của họ cho những người đồng loại ít may mắn hơn. Đấy là nên tảng hoạt động của tôi.” Ông Lý cho rằng các nhà lãnh đạo kỳ cựu của cuộc Trường Chinh của TQ không hiểu gì cả về kinh tế thị trường cả, tuy cũng có thể đã đọc Adam Smith. Lý Quang Diệu nói: “Nếu Đặng Tiểu Bình không đến đây (trong những năm 70) và thấy các tập đoàn đa quốc gia phương Tây tại Singapore tạo ra sự phồn vinh cho chúng tôi, đào tạo người của chúng tôi để rồi chúng tôi có khả năng xây dựng một xã hội phồn vinh, thì ông ấy sẽ không bao giờ (dám) mở cửa…mở cửa các Đặc khu kinh tế miền ven biển, điều cuối cùng dẫn đến việc cả nước Trung Hoa mở cửa và đi vào WTO.” Sự thành công của Singapore là thí dụ “bảo chứng” cho quyết định mở cửa của ĐTB. Ảnh hưởng của Singapore và của cá nhân ông Lý Quang Diệu lên các nhà lãnh đạo làm chính sách của TQ là rất to lớn chưa thể đánh giá hết được. Thực tế, các TP mới của TQ là hình ảnh “cảm ứng” của mô hình Singapore của LQD, dĩ nhiên theo cách làm riêng của TQ. Hạt giống Singapore đã được đem về trồng trên đất TQ. Singapore giúp đào tạo cán bộ, chuyên viên cao cho TQ trong cuộc chuyển đổi này. Hằng năm TQ gửi 110 – 120 thị trưởng, hay các viên chức cùng cấp, từ các thành phố của họ đến học tập một khóa từ tám đến chín tháng về quản lý công và quản lý thành thị. Họ được dạy bằng ngay tiếng Hoa. Còn gì hay bằng! Sau đó họ đi thực địa và nghiên cứu tại chỗ, và khi về nước, họ viết lại những kinh nghiệm học tập tại Singapore. Singapore cũng có những liên doanh xây dựng một số thành phố kiểu mẫu, trong đó có thành phố sinh thái Thiên tân. Hai bên có một ủy ban hỗn hợp họp thường niên, cấp phó thủ tướng. Kể ra những chi tiết trên là để minh họa phần nào sự dấn thân của Singapore và Ông LQD vào TQ thế nào để giúp lãnh đạo TQ thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế và xây dựng đất nước. Lý Quang Diệu được xem là Tutor cho giới lãnh đạo TQ, và có quan hệ rất mật thiết, hiểu biết TQ rất sâu sắc. Nhiều Tổng Thống Mỹ đã gặp LQD trước, để nghe ý kiến của ông về TQ, rồi mới đến thăm TQ sau. Đối với TQ, sự hợp tác với Singapore là mưu đem lại lòng tin đối với thế giới cho công cuộc đổi mới của TQ. Còn đối với Singapore, ông LQD giúp TQ là nhắm có được một chân trên chuyến xe tốc hành TQ vào thế kỷ 21 mà ông bảo sẽ là thế kỷ TQ. Và ông đã thú nhận đã đạt được điều đó. Thế còn chân thứ hai của Singapore ông để ở đâu? Ở Hoa Kỳ: “Số phận của chúng tôi không chỉ tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Johor hay Indonesia hay ở ASEAN. Nó tùy thuộc vào điều gì xảy ra ở Mỹ trong trật tự mới ngày hôm nay này.” Đi một mình với TQ ông sợ có ngày bị cọp ăn thịt mất. Còn về cách tuyển chọn nhân sự ở TQ, ông LQD nhận xét rằng, sau cuộc cách mạng văn hóa, Đảng CS TQ trở lại mô hình tuyển dụng của vua chúa thuở xưa: chọn lựa qua tài năng, qua học lực, sát hạch. Mỗi thí sinh đều có hồ sơ học lực từ đầu. Và sự xét duyệt để bổ nhiệm dựa trên hồ sơ đó. Cho nên thế hệ lãnh đạo sau đều được học cao hơn thế hệ trước. Bây giờ có cả những thị trưởng có bằng Ph.D, và một số trong họ có bằng MBA của các trường đại học Mỹ. TQ làm được những kỳ tích là vì lực lượng của Đặng Tiểu Bình là lực lượng đổi mới, sau khi Mao qua đời và “bọn bốn người” bị xử, lực lượng mao-ít đã cáo chung. Các nhà lãnh đạo mới của TQ muốn đoạn tuyệt với quá khứ của cách mạng văn hóa đã gây quá nhiều đau khổ. Đặng là người đã dám đoạn tuyệt với chủ nghĩa CS, theo lời LQD; và đó chính là một bước đại nhảy vọt của lãnh đạo TQ về mặt tư tưởng. Họ có kỳ vọng đưa đất nước tiến lên khỏi sự lạc hậu để thiết lập lại đẳng cấp của dân tộc đã bị mất đi hàng thế kỷ. Đằng sau họ là đống tro tàn không có gì để luyến tiếc. Trong kế hoạch đổi mới, TQ có Singapore làm mô hình để học hỏi cụ thể, và có Lý Quang Diệu làm người hướng đạo bên cạnh cho cuộc hành trình. Còn Việt Nam, đặc thù tình hình đã khiến không có một lực lượng đổi mới rõ ràng nào cả. Những người cũ hôm qua tiến hành cuộc đổi mới hôm nay. Không có một sự đoạn tuyệt về tư tưởng và một sự ‘thay ca’ về nhân sự như ở TQ; quá khứ cứ mãi là ‘thiêng liêng’ và trở thành ‘điệp khúc chính trị’ thay cho nhận thức mới trong thời kỳ cần thiết có những thay đổi sâu sắc và triệt để; thiếu vắng ý chí vươn lên thật mạnh mẽ để mở đường. Cho nên đổi mới là không triệt để, nếu không muốn nói là nửa vời. Đổi mới ở Việt Nam không vì đổi mới nhằm ‘lột xác’ thực sự để đóng lại chương cũ của quá khứ và mở ra một chương mới trước tình hình mới của thế giới. Mà Đổi mới của Việt Nam nhằm bảo vệ cái cũ nhiều hơn. Các nhà lãnh đạo VN có thể học ở Singapore, có thể được Lý Quang Diệu giúp đỡ nhiều hơn, nhưng họ không có động cơ mạnh mẽ, vẫn còn nhìn lại phía sau để luyến tiếc. Họ không học mô hình Singapore ở ngay trước mắt và kho tàng tri thức của Lý Quang Diệu như lãnh đạo TQ đã làm. LQD cho rằng, những người lãnh đạo Việt Nam có thói quen cố hữu của ‘chiến tranh du kích’, không ai nghe ai, không tập trung, chính quy, thiếu một lãnh đạo mạnh, và họ rất nghi ngờ người nước ngoài. TT Phạm Văn Đồng, do thời cuộc bấy giờ, chưa phải là người cầu thị, ông đến Singapore sau 1975 với tư thế của người chiến thắng và người cộng sản tự hào, ông chưa thấy cái to lớn của Singapore và nhu cầu học hỏi, cái lạc hậu của khối xã hội chủ nghĩa, ông vẫn còn ảo tưởng về Chủ nghĩa xã hội trước khi đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sắp đến. Cuộc gặp gở đó không để lại những ấn tượng đẹp ở Lý Quang Diệu, như cuộc gặp gở với Đặng Tiểu Bình đã làm, chưa nói làm mích lòng chủ nhà là khác. Phải đợi mười năm sau, khi VN bị cô lập, khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, TT Võ Văn Kiệt mới là người đến với LQD với tư thế thật sự cầu thị. Và cũng chỉ lúc đó ông LQD mới có cảm tình với lãnh đạo VN. TBT Đổ Mười, tuy không phải là người hăm hở đổi mới, nhưng cũng đã có ý muốn áp dụng một số ý tưởng của mô hình Singapore nhưng rồi người ta bàn bạc cho nó tan biến đi; chính ông đã cho dịch các bài phát biểu của LQD và phổ biến đầu tiên tại VN. Người Singapore và nước ngoài vào làm ăn gặp phải những khó khăn không đáng có. Việt Nam không muốn học hỏi cái mới thật sự, mà chỉ muốn tự biên tự diễn và tự hào về mình là chính, loại bỏ tất cả những gì mình không ưa, bị giới hạn trong tầm nhìn, khác với tinh thần đổi mới, cầu thị và sự nhìn xa của TQ. Thái độ đó tự hại mình, tự che mắt mình, giống như thái độ tự cao tự đại của vua quan VN xưa khi nhìn người nước ngoài đến muốn làm ăn với VN. Cái đuôi sam kia vẫn chưa bị xén, và vẫn cứ mọc dài ra vào thế kỷ 21 này. Chính sách tuyển chọn nhân sự của VN cũng không dựa trên tài năng, học lực, mà chỉ dựa trên quan hệ, vây cánh, ‘tính truyền thống’, óc vâng lệnh phục tùng để chìu lòng cấp trên, và cấp trên chỉ muốn nghe những gì mình thích từ cấp dưới, hay dựa trên sự ‘mua quan bán chức’. Trong khi phần lớn các thị trưởng, tỉnh trưởng ở TQ đều là những người trẻ tuổi, học hết cấp ba, thì ở VN giới này là những người cầm quân trước đây trong quân đội. Ông LQD đề nghị với TT Kiệt và bộ sậu của ông là nên bổ nhiệm các chiến sĩ lão thành vào các chức vụ tư vấn và đưa những người trẻ, nhất là những người trẻ có khuynh hướng mở cửa kinh tế sang phương Tây lên đảm trách công việc hàng ngày. Ông LQD cho rằng, VN cần cởi bỏ ‘chiếc áo chật cộng sản’, thì họ mới tiến nhanh và linh động đến thắng lợi. LQD nhìn thấy tiềm năng của người VN qua cuộc chiến tranh gian khổ, và sự thành đạt của Việt Kiều ở Mỹ và Pháp, đó phải là những điều nhắc nhở rằng dân tộc này là dân tộc có những phẩm chất tuyệt vời. Không có quyết tâm đổi mới để đưa đất nước nhanh chóng hóa rồng thì cũng sẽ không có chính sách nhân sự đúng đắn, trong sáng và phù hợp với nhu cầu. Nhân tài bị bốc hơi, bị loại khỏi sân chơi và không được lắng nghe. Ngựa giỏi đã hết trong chuồng. Người TQ đã xóa được những hậu quả của cuộc cách mạng văn hóa, của bức tranh mà Mao Trạch Đông đã muốn vẽ áp đặt lên lịch sử 5.000 năm của Trung Hoa, phục hồi lại DNA của dân tộc. Còn Việt Nam, chẳng biết DNA bốn nghìn năm văn hiến có còn nguyên vẹn hay không trước sự băng hoại nghiêm trọng và kéo dài hiện nay của xã hội? (III) Sau cùng tôi xin nói thêm đôi lời về Lý Quang Diệu. Ông là một con người không phải không có tranh cãi. Nhiều người dân chủ không chia sẻ một số quan điểm của ông. Ông xem cuộc xây dựng Singapore là một “cuộc cách mạng xã hội bằng những biện pháp hoà bình”, và không bao giờ đi chệch khỏi mục tiêu đó. Ông tự nhận mình là người theo Khổng giáo: “Tôi không bị ràng buộc bởi lý thuyết, nhưng sự giáo dục của tôi trong một gia đình kéo dài ba thế hệ làm cho tôi trở thành một người theo Khổng giáo không ý thức. Niềm tin Khổng giáo thâm nhập vào tôi, rằng xã hội chỉ hoạt động tốt khi mọi người đều nhắm trở thành người quân tử.” Ông tin vào đạo ‘ngũ thường’ của Khổng tử. Từ thế giới quan này, ông đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, đặt nặng vai trò của một nhà nước mạnh và ưu việt để gìn giữ trật tự. Nhưng thành quả mới là sự biện minh cho nhà nước đó. Người ta có thể biện minh sự kiểm soát tối đa của nhà nước và sự loại bỏ đa nguyên chính trị cần thiết, vì ổn định và phát triển. Nhưng rồi người ta phải chứng minh bằng thành quả của hành động. Không có thành quả tương ứng, anh chỉ là kẻ tham quyền vô độ. Nếu quyền lực chỉ vì quyền lực, đất nước dễ rơi vào chủ nghĩa ích kỷ, bè phái, tham nhũng và lũng đoạn. LQD không xem mình là ‘soft authoritarian’ như một số người ở phương Tây xem ông, bởi vì ông có kết quả để biện minh, và kết quả là rất thuyết phục; và các chính sách của ông cứ bốn đến năm đều được cử tri chấp thuận lại với một đa số không dưới 60 phần trăm. Với quan niệm Khổng giáo, ông đặt nặng trách nhiệm của những người lãnh đạo: “Chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta, những tinh hoa được giáo dục theo hệ thống giáo dục Anh, chỉ xứng đáng với vị trí chúng ta bao lâu chúng ta có năng lực phục vụ xã hội.” Trước khi rời đại học Frizwilliam, Cambridge, Anh, nơi ông đã học 4 năm ngành luật và đã tốt nghiệp với hạng Double Starred First Class Honours để trở lại Singapore hoạt động, LQD trong một bài diễn văn đã khẳng định quyết tâm sắt đá của mình: “Chúng ta phải đạp đổ niềm tin rằng chúng ta là thấp kém và sẽ luôn mãi thấp kém so với người châu Âu.” Ông đã học được sự sống chung hoà bình của các chủng tộc khác nhau từ không quốc gia nào khác hơn là Thụy Sĩ để làm mô hình sống chung cho các sắc tộc của Singapore sau này. Ông tự ý thức việc làm phục vụ cho sự nghiệp của nhân dân Singapore mặc cho những lời chỉ trích: “Điều mà giới đọc giả thế giới phương tây không hiểu là cuối cùng tôi không quan tâm họ đánh giá tôi thế nào. Tôi chỉ quan tâm nhân dân mà tôi lãnh đạo đánh giá tôi thế nào.” Triều đại LQD có thể cũng sẽ không vĩnh viễn. Ông nói: “Mỗi hệ thống cần được xét lại theo thời gian. Không hệ thống nào tồn tại vĩnh viễn. Các điều kiện thay đổi, những thiếu sót trong hệ thống phát triển quá mức, lúc đó người ta cần phải xem xét lại. Anh không thể nói đó là một nguyên lý phổ quát có giá trị vĩnh cửu.” và “Đó là nhiệm vụ của thế hệ hiện tại và tương lai của giai tầng lãnh đạo có nhiệm vụ thay đổi và tu chỉnh hệ thống khi xã hội và công nghệ thay đổi.” Dù sao LQD cũng sẽ đi vào lịch sử như một “người cha lập quốc” bất tử của Singapore. Ông không tin vào Thượng đế, mà tin vào thuyết tiến hóa của Darwin. Singapore có lẽ là sự minh họa hùng hồn cho thuyết tiến hóa này: thích nghi để tồn tại, một cách thông minh. Ông không làm nô lệ cho một ý tưởng giáo điều nào. Ý tưởng nào không phù hợp, ông vứt nó đi và tìm ý tưởng khác. Ông là một người thực dụng. “Tôi đuổi bắt các ý tưởng, miễn là chúng đem lại kết quả. Nếu không, tôi nói, xem này, ý tưởng này có thể nghe hay đấy, nhưng thôi chúng ta hãy đi tìm cái gì khác hoạt động có hiệu quả đi”. Đầu ông là một ‘vườn ươm ý tưởng’. Có người lý tưởng hóa ông khi nói rằng, tại miếng đất Khổng tử của ông, Plato và Machiavelli gặp gỡ nhau, và LQD chính là một ‘Machiavelli châu Á’. Về sự thành công của LQD: ông có lẽ thành công là vì Singapore là mảnh đất nhỏ, dân số lúc độc lập chỉ 2 triệu người; nhưng ông chắc sẽ gặp khó khăn hơn với một đất nước dân số đông vài chục triệu người. Lực lượng đối lập và bảo thủ sẽ đông đảo và sẽ có thể loại ông ra khỏi cuộc chơi. Cũng may mắn cho ông. Trong chừng mực này, thời cơ đã tạo anh hùng. Dĩ nhiên điều ngược lại cũng đúng. Thưa các Anh Chị, bức tranh trên nói về Singapore, LQD, ĐTB, TQ, VN nhìn từ góc độ Singapore chắc chắn cần có sự điều chỉnh, tôi mong những anh chị am hiểu tình hình Singapore hơn tôi, những anh chị đã từng sống ở đó, anh Võ Tá Hân và các bạn của anh chẳng hạn có thêm ý kiến, hay các anh Việt, Long, Dũng từ góc độ Mỹ, và nhiều anh chị khác có nghiên cứu những vấn đề này. (IV) Cuối thư, xin mách thêm: các Anh Chị nào muốn thấy được “ngọc xá lợi Phật” có thể đến thăm “Chùa răng Phật”, vì họ có lưu trữ một chiếc răng Phật và nhiều xá lợi Phật khác. Ngôi chùa 5 tầng này cũng rất hiện đại như chính Singapore vậy. Chùa đã góp nhặt nhiều di tích Phật giáo châu Á quý báu. Còn ai muốn ăn chay thì xin đến khu Mustafa, ở đó có rất nhiều nhà hàng chay Ấn độ và Đài Loan. Còn ai muốn thưởng lãm đồ ăn Thụy Sĩ, xin hãy đến nhà hàng “Marché” tại Sommerset 313, Orchard Road, rất ấm cúng và thanh lịch, trang trí bằng toàn gỗ từ và theo kiểu Thụy Sĩ. Singapore có nhiều nhà sách lớn tuyệt vời để thỏa mãn những người yêu sách: Borders (Mỹ), Kinokuniya (Nhật, nằm ngay trong đại siêu thị Takashimaya, Orchard Road), hay một nhà sách lớn khác (PAGEONE) ở khu mua sắm Vivo gần khu vui chơi Sentosa. Người mua vô ra nườm nượp, phản ảnh trình độ văn hóa cao của người dân Singapore. Sách vở bày bán có thể còn nhiều hơn ở Mỹ, đủ tất cả các chủng lọai tri thức trên đời. Thư đã khá dài. Xin tạm ngừng bút. Cám ơn các Anh Chị. Thân ái, NXXanh Tài liệu tham khảo: [1] Alex Josey, Lee Kwan Yew, The Crucial Years. Times Books International. Singapore, Luala Lumpur, 1986; reprint 1994. [2] Lee Kwan Yew, Memoirs. From Third World to First. The Singapore Story: 1965-2000.Marshall Cavendish Editions 2000; reprint 2011. [3] Tome Plate, Conversations with Lee Kwan Yew. How To Build A Nation. Marshall Cavendish Editions 2010. Đã đăng ở Diễn Đàn
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 15, 2013 7:05:06 GMT 9
Tam Dân chủ nghĩa: Ai là thừa kế nhân của Tôn Trung Sơn?Tôn Dật Tiên (1866-1925) Tôn Văn, tự Trung Sơn, khi ở Nhật lấy hiệu là Dật Tiên, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1866 tại làng Thanh Hưng thuộc huyện Hương Sơn, khoảng giữa Quảng Châu và Ma Cao, thuộc tỉnh Quảng Đông , trong một gia đình nông dân nghèo khó. Cuộc đời của họ Tôn thay đổi nhờ những chuyến xuất ngoại lúc ở tuổi rất trẻ. Tôn Văn có người anh cả đi làm công thợ (nghề nông) ở Hawai (Hoa Kỳ). Khi trở về quê hương, ông này kể lại nhiều chuyện kỳ thú tại nơi làm việc, gây sự tò mò nơi người em nhỏ. Năm 1879, tức chỉ là một cậu bé 13 tuổi, đã một mình[ii]phiêu lưu theo thuyền chở những di dân để sang Honolulu (Hawai, Hoa Kỳ) gặp anh mình bên đó. Ở đây ông theo học 3 năm trong một trường thuộc một hội thánh Tin Lành (ông làm lễ Báp Têm tại Quảng Châu năm 1884). Sau cuộc du hành lần thứ hai sang Honolulu, ông trở về học ngành y khoa tại Quảng Châu (1886) với vị giáo sưlà Dr John A. Kerr, một vị mục sư kiêm nhà giải phẩu, người Mỹ. Tại đây, do những hoạt động “phản Thanh”, ông bị chính quyền truy nã, phải bỏ trốn sang Hồng Kông (vì nơi đây là nhượng địa của Anh). Nhờ sự giúp đỡ của hội thánh, ông vào học trường Y Khoa Hồng Kông trong vòng năm năm (1887-1892). Khoảng thời gian này ông có giao du với các hội kín chống Thanh triều, trong đó có hội Tam Điểm. Ông trở thành một « trưởng lão » của hội này. Đồng thời ông cũng làm quen nhiều nhân vật có ảnh hưởng trong xã hội Tây phương thời đó nhưGiáo sư kiêm giám đốc James Cantlee, người Anh, cũng là một mục sư. Nhờ uy tín và thế lực của những người này mà ông thoát nhiều cuộc bắt bớ, như lần ở Luân Đôn năm 1896. Tôn Văn hành nghề bác sĩ giải phẩu tại Ma Cao và Quảng Châu. Ông cho rằng môi trường học đường rất thuận lợi để ông tuyên truyền lý tưởng “lật đổ nhà Thanh, xây dựng một nền cộng hòa dân quốc”. Về việc hành nghề bác sĩ thì nó đã giúp ông “phương tiện đi ra thế giới”. Nhưng khoảng thời gian sinh sống và học hỏi tại Hawai lúc còn trẻ đã gầy dựng cho ông một vốn liếng về ngôn ngữ cần thiết cho những lúc bôn ba hoạt động cách mạng sau này nơi nước ngoài. Những ấn tượng, những khái niệm cơ bản về một xã hội dân chủ văn minh, ý thức về những quyền con người, về tiến bộ khoa học kỹ thuật… cũng đã hằn dấu trong đầu óc mới mẻ của Tôn Văn. Các chủ thuyết của ông về Dân Tộc, Dân Chủ, Dân Sinh, tức Tam Dân chủ nghĩa, thành hình sau này đã bắt nguồn từ những cảm nhận ban đầu đó. Tư tưởng chính trị của ông được kết tinh từ sự học hỏi, tìm tòi trong sách vở, nhưng phần lớn do cặp mắt biết quan sát, phân tích, phê bình và tổng hợp của một người làm khoa học. Ông quan sát những mô hình chính trị, văn hóa và xã hội của các nước mà ông đã từng đi qua, đọc và nghiềm ngẫm những tác phẩm của các nhà tư tưởng xã hội Tây Phương, phân tích và so sánh chúng với văn minh và xã hội Trung Hoa qua các thời kỳ. Từ đó ông rút ra những ý kiến mà ông cho là tinh túy, phù hợp với con người và văn minh Hán, tổng hợp lập thành 3 chủ nghĩa, còn gọi là Tam Dân chủ nghĩa. Trong đời ông cũng đã từng lập ra ít nhất là 5 tổ chức chính trị (thực ra là dưới dạng hội kín). Gần cuối đời, ông thường đi diễn thuyết ở các nơi. Tìm hiểu ý nghĩa về tư tưởng Tam Dân chủ nghĩa của ông là tìm lại các ý tưởng của ông, từ thuở ban đầu lúc mới kết tinh, cho đến lúc chín chắn về già. Các tư tưởng này có thể tìm thấy ở các bài diễn văn, các bài tiểu luận, bài báo… đăng tải trên các báo hay qua các buổi diễn thuyết, xuyên qua các thời kỳ hoạt động. Tư tưởng của Tôn Văn, thể hiện trên thực tế qua Tam Dân chủ nghĩa, thành công hay thất bại ra sao, đều được thể hiện, qua các tổ chức (hội kín), hay đảng cách mạng (Quốc Dân Đảng), trải qua các thời kỳ tiền cách mạng, giai đoạn hậu cách mạng, các quá trình xây dựng nền cộng hòa hiến định và giai đoạn phát triển đất nước (Trung Hoa lục địa và Đài Loan). Phương pháp đấu tranh cách mạng, thông qua một đảng cách mạng, nhằm lật đổ đế chế Mãn Thanh của Tôn Văn hoàn toàn tương phản với lối tranh đấu ôn hòa “duy tân” của các nhà tranh đấu cùng thời là Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu … Hai vị Khang, Lương chủ trương hợp tác với Thanh triều để canh tân nước nhà, hiện đại hóa đất nước, theo mô hình của Anh, tức xây dựng một nền “quân chủ lập hiến”. Hai vị này cũng thấm nhuần các tư tưởng về tự do, dân chủ… của Phương Tây. Họ lựa chọn phương pháp đấu tranh ôn hòa đểvừa canh tân đất nước, vừa thay đổi chế độ. Họ nhận thức rằng dân trí của người dân trong nước cần phải nâng cao, qua các việc thay đổi lề lối học hành thi cử, kiến thức khoa học cần được đưa vào học trình theo Tây Phương. Hai vị Lương, Khang e ngại một cuộc cách mạng sẽ gây nhiều đổ vỡ như đã thấy qua kinh nghiệm của cuộc cách mạng của Pháp 1789. Ý tưởng canh tân của hai vị này được vua Quang Tự ủng hộ, sau khi thua nhực nhã Nhật phải ký hiệp ước Mã Quan (Simonoseki) năm 1895, thể hiện qua cuộc “cách mạng canh tân 100 ngày”. Cuộc cách mạng bị thất bại do sự cản trở của phe thủ cựu, đầu đàn là Từ Hi Thái Hậu. Ý tưởng tranh đấu ôn hòa của Tôn Văn cũng đã có từ trước năm 1892, có thể cùng thời với Khang Hữu Vi. Nhưng quyết định dứt khoát của ông về lựa chọn con đường cách mạng có lẽ do sự thất bại của ông lúc đi đến Thiên Tân tìm gặp Lý Hồng Chương để dâng bản điều trần năm 1892, nội dung gồm 4 điểm, nhằm giúp triều đình thoát khỏi những khó khăn. Đó là : tổ chức nhà nước hiện đại, trọng dụng nhân tài, khai thác tối đa tài nguyên đất đai và cho tự do thông lưu hàng hóa. Việc làm này thất bại. (Nhưng nội dung các đề nghị sau này được thực hiện qua việc vua Quang Tự trọng dụng Khang Hữu Vi cũng như các động tác nhằm hiện đại hóa đất nước và cải cách kinh tế. Cuộc “cách mạng 100 ngày” thất bại do thế lực thủ cựu thắng thế so với thế lực duy tân. Nguyên nhân là do Khang Hữu Vi chỉ là một nhà trí thức yêu nước mà không phải là một nhà chính trị lão luyện để thừa cơ được Quang Tự trọng dụng trong triều mà gạt đi những thành phần thủ cựu ra ngoài). Hai trường phái tư tưởng – duy tân theo lối Khang Hữu Vi, cách mạng theo lối Tôn Văn – ảnh hưởng khá sâu đậm lên các tầng lớp yêu nước Việt Nam. Ta thấy Phan Châu Trinh theo khuynh hướng duy tân, tranh đấu ôn hòa, nương vào thực dân Pháp để nâng cao dân trí và phát triển (hạ tầng cơ sở) đất nước, tức ảnh hưởng lý thuyết của Khang Hữu Vi. Trong khi Phan Bội Châu thì chủ trương làm cách mạng, đấu tranh bạo động, tức phần nào theo khuynh hướng của Tôn Văn (nhưng cũng không hoàn toàn vì Phan Bội Châu chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp đồng thời ủng hộ một nền quân chủ, tương tự mô hình của Nhật). Thất bại hay thành công của hai nhân vật lịch sử này không luận bàn ở đây vì hoàn cảnh hai nước Việt-Trung khác nhau khá nhiều. Nguồn gốc về Tam Dân chủ nghĩa có lẽ đã đến với Tôn Văn từ lúc những năm còn trẻ, lúc ở Hoa Kỳ, với câu nói bất hủ của Tổng thống A. Lincoln: nhà nước của dân, do dân và vì dân. Câu nói tóm gọn ý nghĩa nền tảng nhà nước dân chủ Hoa Kỳ. Các tư tưởng này ngày càng thêm rõ nét, nhất là sau cuộc chiến Nhật-Trung 1895. Tôn Văn đã ý thức được sự quan trọng của các công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước đã được áp dụng tại Nhật trước đó. Ông nhận thức rằng sự phú cường của các nước Châu Âu, mà Nhật cũng đã đạt được nhờ học hỏi, thì người Hoa có thể làm khá hơn nếu dân tộc này giải quyết được các vấn đề “chủng tộc”, cùng với các việc xây dựng một nền chính trịdân chủ và cải thiện đời sống của người dân. Các “vấn đềchủng tộc” từ đó qua nhiều suy tư và chứng nghiệm trên thực tế, trở thành Dân Tộc chủ nghĩa ; việc xây dựng một “nền chính trị dân chủ” trở thành Dân Quyền chủ nghĩa và việc “cải thiện đời sống của người dân” trở thành Dân Sinh chủ nghĩa. Tất cả gọi chung là Tam Dân chủ nghĩa. Nhưng ý nghĩa thực sự của các chủ nghĩa này như thế nào ? đã được áp dụng trên thực tế ra sao? Ta phải biết nó tường tận để có thể so sánh với các chế độ hiện hành, từ đó mới có thể kết luận ai là thừa kế nhân của Tôn Văn nhưchủ đề bài viết đã đặt ra. 1/ Dân tộc chủ nghĩa : hay Dân tộc đấu tranh (la lutte des races) là phần tiền cách mạng Tân Hợi. Phần này chỉ nói giản lược vì nội dung chính đã được trình bày qua bài viết có tựa đề: “Chủ nghĩa dân tộc của Trung Hoa lục địa”, sẽ được công bố gần đây. Đây là phần (tiền cách mạng) cực kỳ quan trọng vì nó đã quyết định thành công hay thất bại cho cuộc cách mạng lật đổ Thanh triều và xây dựng nền cộng hòa dân quốc. Tức nó là cẩm nang của tất cả các hội kín, của các thành phần yêu nước theo ảnh hưởng của Tôn Văn. Chính nhờ nội dung “dân tộc chủ nghĩa” của Tôn Văn được loan truyền rộng rãi mà cuộc cách mạng Tân Hợi ngày 10-10-2011 mới xảy ra, được hưởng ứng rộng rãi và thành công. Trong khi đó hai chủ nghĩa về dân quyền và dân sinh là các lý thuyết nền tảng để xây dựng thể chế và định hướng phát triển đất nước sau này. Ý nghĩa của Dân tộc chủ nghĩa thời tiền cách mạng được phổ biến qua bài tiểu luận “Giải pháp thực sự cho vấn đề Trung Hoa” năm 1904, trong đó đặt nặng vấn đề chủng tộc và lên án nặng nề nhà Thanh là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra trên đất Trung Hoa cũng như các đế quốc đã cưỡng ép Trung Hoa qua các hiệp ước bất bình đẳng. Quan niệm về một “đảng cách mạng” của Tôn Văn cũng nhờ bài tiểu luận này người ta cũng biết đến. Năm 1905 Tôn Văn tổ chứcĐồng Minh Hội tại Tokyo. Lời tuyên thệ của các hội viên là : thề nguyện tranh đấu lật đổ bọn Thát Đát, dành lại nước Trung Hoa cho người Hoa, xây dựng một nền Cộng hòa, phân bổ ruộng đất đồng đều cho mọi người. Tức là, trong chừng mực, Tôn Văn khai thác tinh thần tự tôn của dân tộc để vực dân tộc Hán đứng dậy đánh đuổi triều đình cai trị thuộc giống “Thát Đát”, là một dân tộc thấp kém so với người Hán. Ông so sánh dân tộc Hán như những hạt cát rời rã, do đó không tạo được sức mạnh để thực hiện một việc to lớn. Ông cho rằng chủ nghĩa Dân Tộc của ông có giá trị như một chất keo để làm gắn bó những hạt cát đó lại với nhau. Năm 1907, Tôn Văn có diễn thuyết ở Tokyo, nhân ngày kỹ niệm thành lập tờ Dân Báo. Bài diễn văn này cũng đậm đà tư tưởng “chủnghĩa Dân tộc”, thể hiện gồm 10 điều lên án triều đình Mãn Thanh và dân tộc Mãn Châu. Dịp này ông cũng hô hào thiết lập một nền cộng hòa trên nền tảng “quốc tế hòa bình” và “tình hữu nghị”. Sau cuộc diễn thuyết tại Tokyo năm 1907, ông bị nhà cầm quyền trục xuất phải bôn ba đi nhiều nước, trong đó có thời gian ở Việt Nam. Vào mùa thu năm 1911, lúc ông đang ở Denver, thì nhận được tin tức qua báo chí cuộc cách mạng đã bùng nổ. Thay vì tức tốc trở về nước, Tôn Văn cho rằng việc quan trọng hơn là đi tìm sự ủng hộ của các cường quốc cho chính quyền cách mạng.Điều này cho thấy Tôn Văn có năng khiếu về chính trị, sắc bén về ngoại giao. 2/ Dân quyền chủ nghĩa: tức Dân quyền độc lập (le peuple souverain). Cũng như hai chủ nghĩa Dân Tộc và Dân sinh, toàn bộ ý nghĩa của Tam Dân chủ nghĩa đã được Tôn Văn trình bày rõ rệt qua 16 lần diễn thuyết, từ ngày 27 tháng giêng đến ngày 24 tháng 8 năm 1924. Tôn Văn có nhắc đến các lý thuyết của các vị như: Saint Thomas d’Aquin, Bacon, Bakounine, Bismarck, Cromwell, Darwin, Henry George, Karl Marx, Stuart Mill, Monroe, Newton, Pasteur, Platon, Proudhon, George Washington, Lincoln và Wilson. Sau các cuộc diễn thuyết dành cho Dân tộc chủ nghĩa, sáu cuộc diễn thuyết kế tiếp là nói về các vấn đề về nhà nước, về chính trị và vấnđề dân chủ, tức các vấn đề thuộc Dân quyền chủ nghĩa. Tôn Văn cho rằng người Hoa cần phải bắt chước người phương Tây trên nền văn minh vật chất chứ không thể bắt chước các khía cạnh về chính trị và xã hội. Bởi vì, theo ông, đất nước Trung Hoa đã có quan niệm rất dở về sựtự do vì nó luôn bị đàn áp. Việc bắt buộc, không phải là tự do cho cá nhân, vì cá nhân chỉ lạm dụng tự do nên phải cần hạn chế, mà là sự tự do cho dân tộc. Theo Tôn Văn, con người có thể chia ra thành 3 thứ bậc, tùy theo trí thông minh, kiến thức : lớp người tiền quán triệt (pré-voyants), lớp người hậu quán triệt (post-voyants) và lớp người không quán triệt (non-voyants). Thí dụ : lớp người “tiền quán triệt” là những kiến trúc sư ; lớp “hậu quán triệt” là những nhà thầu giúp kiến trúc sư thực hiện ngôi nhà; lớp “không quán triệt” là lớp người không thể học hỏi gì, chỉ có thể sử dụng vào việc thừa hành. Họ là những người thợ khuân vác vật liệu để xây dựng ngôi nhà. Theo Tôn Văn, dân chúng đa phần thuộc lớp “không quán triệt”, họ phải lựa chọn một số người “tiền quán triệt” có khả năng để điều khiển bộ máy. Nền cộng hòa là một nhà máy mà tổng thống là viên quản đốc. Người dân là những cổ đông viên (actionnaires). Hoặc nền cộng hòa là một cổ xe mà người chủ chính là toàn dân. Những viên chức nhà nước là những viên tài xế. Nhưng để cho nhà máy – nền cộng hòa – vận hành, bắt buộc phải tách rời quyền hành (pouvoir) ra khỏi quyền lực (puissance). Tất cả quyền lực được tập trung vào dân chúng, người dân giao một phần quyền lực dước dạng quyền hành cho nhà nước. Một cổ máy có năng suất 100 ngàn mã lực, trong đó người ta phải đổ than đá và nước cần thiết, thì dân chúng là người tạo ra năng lực tương ứng trong khi người cầm quyền là kỹ sư điều khiển cỗ máy. Như thế, ngoài chủ trương giới hạn quyền tự do của cá nhân, Tôn Văn cũng không chấp nhận quyền bình đẳng của mọi người dân trong xã hội, mà chia ra thành ba tầng lớp riêng biệt. Việc này tạo cho người cầm quyền những lý cớ để tiếp tục cầm quyền, dựa trên bản chất “tinh túy” của giai cấp (trí thức), hay bản chất “tiên phong” của đảng cầm quyền. Sau phần định nghĩa về dân chúng, nhà nước, quyền lực và quyền hành, Tôn Văn nói đến “quyền” của dân. Phần này ảnh hưởng nhiều ở cách thức dân chủ trực tiếp ở Thụy Sĩ và phần nào của Hoa Kỳ. Người dân có 4 quyền (droits): 1/ Quyền bầu cử. 2/ Quyền bãi miễn. Người dân có quyền truất quyền các công chức đã không làm đúng bổn phận. 3/ Quyền đề khởi. Nhờ quyền này người dân có quyền đề nghị bãi bỏ một điều luật không phù hợp hay có tác hại. 4/ Quyền trưng cầu dân ý. Về quyền hành nhà nước thì thì được chia làm 5 quyền (pouvoirs) : quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền hành pháp, quyền khảo sát và quyền phê bình. Người dân sở hữu 4 quyền (droits) nhằm kiểm soát nhà nước. Về 5 quyền (pouvoirs) của nhà nước, 3 quyền ta thường thấy trong các nền dân chủ. Hai quyền sau chỉ thấy trong tập quán của nước Trung Hoa thời cổ. Các quyền tư pháp, hành pháp, lập pháp ta có thể đọc trong “Pháp lý tinh hoa – l’Esprit des lois” của Montesquieu. Quyền khảo sát nhằm để lựa chọn công nhân viên nhà nước, quyền phê bình nhằm tố cáo những người không xứng đáng. Về chủ trương xây dựng nền cộng hòa, Tôn Văn đề nghị thành lập qua ba thời kỳ : thời kỳ quân phiệt, thời kỳ chuyển tiếp và thời kỳ hiến định. 3/ Dân sinh chủ nghĩa: Thực tế là vấn đề “xã hội chủ nghĩa”, tức phần nói về các chính sách kinh tế. Phần này bị gián đoạn, chỉ có 4 cuộc diễn thuyết, vì cái chết của Tôn Văn 12-3-1925. Về kinh tế, Tôn Văn chủ trương một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đây là chủ trương đến từ những cố vấn của Tôn Văn, người Liên Xô. Những người này góp ý kiến cho Tôn Văn trong chính sách “Tam đại chiến lược” trong Mặt trận thống nhất năm 1924, gồm các việc: 1/ liên minh với Liên Xô, 2/ hợp tác với cộng sản Trung Hoa, 3/ ủng hộ các phong trào công nhân và nông dân. Tuy vậy Tôn Văn phản bác Mác xít, cho rằng ông này chỉ có vài mươi năm khảo sát vấn đề xã hội và lấy kinh nghiệm từ quá khứ, như vậy ông ta không thể dự đoánđược tương lai. Không phải Mác từng tiên đoán sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản hay sao? Nhưng 200 năm qua, quan sát những sự kiện xảy ra ở các nước Âu, Mỹ… ta thấy thực tế khác hẵn với những gì Mác đã tiên đoán. Một ngày làm việc 8 giờ đã bị Mác cho là chuyện hảo huyền thì đã được áp dụng tại Anh và Hoa Kỳ cũng nhưnhiều nước khác. Tôn Văn cho rằng: “Việc tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề của đời sống là quy luật của sự tiến hóa xã hội, và do đó là trung tâm hấp dẫn của lịch sử. Chủ nghĩa duy vật của Marx không thể khám phá ra luật của sựtiến hóa xã hội nên không phải là trung tâm hấp dẫn của lịch sử”. Như thế Tôn Văn bác bỏ giải pháp Mác xít. Trong tác phẩm đang soạn thảo, Tôn Văn cho biết nhiều chính sách về kinh tế : Về điền địa, ông chủ trương cân bằng thuế. Về kinh tế, chủ trương hạn chế nguồn vốn tư nhân và phát triển vốn nhà nước. Về vấn đề cơm ăn áo mặc, làm thế nào để giải quyết vấn đề thiếu thốn thực phẩm. Bảo vệ nông dân chống lại những bất công của chủ đất. Cải thiện sản xuất nông nghiệp qua việc sử dụng máy móc, phân bón. Xây dựng đường xá, xây dựng đê, đập, trồng rừng trên các ngọn đồi… Kết luận: Như thế, trái với sự hiểu biết của nhiều người (Việt Nam) hiện nay, Tôn Văn chủ trương một nhà nước độc lập, theo đó hạn chế các quyền tự do của cá nhân, chủ trương phân loại chủng tộc cũng như phân loại con người, thể hiện một nhà nước độc tài toàn trị. Về kinh tế, Tôn Văn chủ trương một nền kinh tế có sự can thiệp của nhà nước, tức xã hội chủ nghĩa. Thể hiện điển hình của chủ nghĩa này là chế độ độc tài của Tưởng Giới Thạch đã được áp dụng trong nhiều thập niên tại Đài Loan. Đó là chưa nói đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khai thác lòng tự tôn và khinh bỉ các giống dân (không Hán). Như thế ai là thừa kế nhân của Tôn Văn? Là Tưởng Giới Thạch? Dĩ nhiên là Tưởng Giới Thạch, nhưng không toàn vẹn vì chính sách kinh tế. Ông này lãnh đạo Quốc Dân đảng do Tôn Văn gầy dựng, thành lập nước Cộng hòa Dân Quốc, sau đó thua Mao Trạch Đông phải di tản ra Đài Loan. Tại đây họ Tưởng áp dụng một nền độc tài sắt máu, hoàn toàn phù hợp với Tam Dân chủ nghĩa. Riêng về chủ trương kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhà nước can thiệp vào sinh hoạt kinh tế và sử dụng đất như là tài sản của quốc gia để điều hòa ngân sách nhà nước. Chủ trương này suýt làm cho Đài Loan bị phá sản. Sau, nhờ có Hoa Kỳ khuyến cáo, Đài Loan thay đổi chính sách về kinh tế, cho cải cách điền địa, cho phát triển tư bản tư nhân, hạn chế đầu tư nhà nước vào kinh tế, do đó mới cất cánh lên thành rồng thành hổ vào thập niên 80. Việc dân chủ hóa Đài Loan không hề đến từ phía Quốc Dân đảng như có người đã nói mà do áp lực của thành phần trí thức bản địa cũng như sự dũng cảm của các đảng đối lập, nhất là đảng Dân Tiến. Sự việc Mã Anh Cửu và Quốc Dân Đảng trở lại nắm quyền Đài Loan hiện nay đã gieo những hoang mang nơi trí thức Đài Loan, vì những hành động của đảng này, trong chừng mực, hướng tới việc tóm thâu quyền hành và đưa Đài Loan trở về thời động tài đảng trị. Là Đặng Tiểu Bình? hay các lãnh đạo cộng sản tại lục địa hiện nay? Chỉ có phần nào vì Bắc Kinh luôn muốn sử dụng Tôn Văn như là một nhà cách mạng tiên phong, nếu không gọi như Đài Loan là Quốc phụ (cha già dân tộc!), để lấy được tính chính thống cho nền cộng hòa nhân dân. Tại lục địa, từ khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền tại lục địa, Tôn Văn được đề cao, nhiều tác phẩm nghiên cứu về nhân vật này được công bố. Tại quê hương của Tôn Văn, hàng năm đều tổ chức nhiều buổi lễ tưởng niệm. Gần nhất là việc tổ chức rầm rộ 100 năm ngày cách mạng Tân Hợi, được tổ chức đồng lúc tại hai bên bờ eo biển Đài Loan. Hai bên đều muốn dành lấy hào quang của Tôn Văn để được kế thừa nền Cộng Hòa Trung hoa đầu tiên do Tôn Văn làm tổng thống. Nhưng cũng không trọn vẹn, mặc dầu chính sách kinh tế có điều tiết của nhà nước nhưng hoàn toàn khác với chủ trương của Tôn Văn là bài ngoại, không chấp nhận tư bản nước ngoài đầu tư. Chính sách “mèo trắng mèo đen” thực tiễn của Đặng Tiểu Bình, tiếp nhận tư bản cũng như khoa học kỹ thuật của Tây phương xem ra mâu thuẫn rất lớn với chủ trương “dân tộc chủ nghĩa” cũng như chủ trương “kinh tế xã hội chủ nghĩa” của Tôn Văn. Riêng về “dân tộc” và “dân quyền”, nhà cầm quyền Bắc Kinh dường như áp dụng 100°/° chủ nghĩa của Tôn Văn. Quyền tự do của người dân bị thu lại, đến không còn quyền nào. Đảng Cộng Sản là nơi quần tụ những người “tiên phong”, tinh túy của dân tộc Hán, phù hợp với lớp người mà Tôn Văn gọi là “tiền quán triệt”. Các quyền bầu cử của dân chỉ là quyền bầu cho những người “tiền quán triệt”, tức là đảng viên. Trong khi đó quyền tự do cá nhân, đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng lập lại lý luận của Tôn Văn: cần phải hạn chế các quyền tự do cá nhân của người dân Trung Hoa. Về chủ nghĩa “dân tộc”, hiện nay tại lục địa đã nổi dậy phong trào dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, theo đó đề cao văn hóa và văn minh của người Hán, khinh bỉ những giống dân thấp kém, khơi lại nỗi nhục của Trung Hoa dưới triều nhà Thanh, với các hiệp ước bất bình đẳng ký với các cường quốc, để khơi lại lòng căm thù thế giới Tây Phương đồng thời khẳng định những đòi hỏi về lãnh thổ mà theo họ thuộc về người Hán từ xưa. Điều này phản ảnh hoàn toàn “dân tộc chủ nghĩa” của Tôn Văn. Và còn những ai? Tại Việt Nam từ thời đổi mới đến nay, từ cách tổ chức nhà nước cho đển các chính sách kinh tế, đều âm hưởng rất sâu đậm Tam Dân chủ nghĩa, với « giai cấp tiên phong » tương ứng với giai cấp « tiền quán triệt », qua tấm bình phong « tư tưởng Hồ Chí Minh ». Điều không thể phản biện, nhân vật Hồ Chí Minh không phải là một nhà tư tưởng, có tầm nhìn xa hiểu rộng như Tôn Văn để có thể lập thuyết như ông này, mà chỉ là một người làm chính trị gặp nhiều thời cơ thuận tiện. Tư tưởng (tạp nham) của ông Hồ chỉ là một bản cóp py rất mờ nhạt của Tôn Văn, vì ông không có điều gì rõ rệt trong bất kỳ một chính sách, chủ trương, hay lý thuyết làm nền tảng để xây dựng và phát triển đất nước. Vì thế, nếu nói rằng xây dựng đất nước trên nền tảng tư tưởng của Hồ Chí Minh thì đó là một sự xảo ngôn ở tầm quốc gia, mà điều nguy cơ là quyết định này có thể dẫn đất nước vào một cuộc phiêu lưu vô định. Hiện nay, ta có thể cho rằng Nguyễn Tấn Dũng có thể là người kế thừa của Tôn Văn, ít ra về chủ trương kinh tế: xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này lấy quốc doanh chủ đạo, lấy quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước để điều tiết ngân sách quốc gia. Hiện nay, tại Trung quốc, ngân sách của một số tỉnh, một tỉ lệ rất lớn (khoảng 30%) lấy từ việc giải tư đất đai. Tại Việt Nam con số này cũng rất lớn. Kinh tế càng khủng hoảng, nguồn thu gặp khó khăn, thì tỉ lệ ngân sách lấy từ nguồn đất đai có thể lên hơn 40%. Đây là chính sách kinh tế đã gặp sự thất bại cay đắng của Quốc Dân đảng tại Đài loan từ thập niên 60. Ở Việt Nam (và Trung quốc) việc này đã tạo ra một tầng lớp dân chúng mới : dân oan, những người đã bị nhà nước tước đoạt quyền sở hữu đất. Sự thất bại của Đài Loan suýt làm cho nền Cộng hòa dân quốc sụp đổ, (nếu không có sự viện trợ của Hoa Kỳ). Xem ra Nguyễn Tấn Dũng đã thực thi chủ trương kinh tế (của Tôn Văn) rất tốt: Việt Nam đang trên bờ vực thẳm. Ông Lê Đăng Doanh mới đây lên tiếng báo động (đại khái): Việt Nam chưa bao giờ đối diện với những nguy cơ như thế này từ năm 1992. Trương Nhân Tuấn
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 11, 2013 7:01:44 GMT 9
H T Thích Minh Châu là ai? CÁN BỘ CỘNG SẢN CAO CẤP CỦA HÀ NỘI ĐINH VĂN NAM ĐƯỢC GÀI VÀO HOẠT ĐỘNG TẠI MIỀN NAM TỪ 1964 CHÍNH LÀ: THƯỢNG TỌA THÍCH MINH CHÂU VIỆN TRƯỞNG ĐẠI HỌC VẠN HẠNH, KIÊM VIỆN TRƯỞNG HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT TẠI SÀIGON. __________________________________ Đây là một nhân vật có hành tung rất bí mật, một tên cán bộ tình báo của chính phủ Cộng sản Hà Nội được đưa vào miền nam Việt Nam qua tuyến đường Ấn Độ tương tự như Thích Quảng Độ cũng đi vào miền nam bằng tuyến đường quốc gia Ấn Độ nầy. Nhiệm vụ chính của Thích Minh Châu là điều khiển một trung tâm giáo dục tại Thủ đô miền nam với tên là Viện đại học Vạn Hạnh. Đây là tên vỏ bọc và ngụy thức của một trung tâm đào tạo cán bộ trí thức vận và dấy loạn cho cộng sản Hà Nội tại Sàigon, thủ đô của Chính Phủ VNCH. Tại Trung Tâm dấy loạn nầy, Chính phủ Cộng sản Hà Nội đã tung ra những cuộc biến loạn dưới hình thức các cuộc đấu tranh, bạo loạn của quần chúng tại đô thị, đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho nhiều chính phủ của nền đệ II Việt Nam Cộng Hòa. Và cuối cùng cũng tại nơi đây vào sau ngày 30/4/1975, Đại Học Vạn Hạnh là trung tâm của Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh dành cho Dân, Quân, Cán Chính VNCH trình diện để đi vào các trại tù cải tạo do tên Nguyễn Trực là một phụ tá đắc lực của Thích Minh Châu và Thích Trí Quang làm trưởng ban tiếp nhận. Thích Minh Châu tên thật là Đinh văn Nam. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918. Mất ngày 1 tháng 9 năm 2012, tại Sàigon, thọ 94 tuổi. Chánh quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, Huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An. Sinh quán tại làng Kim Thành, tỉnh Quảng Nam. Cha là Đinh Văn Chấp đậu Tiến sĩ dưới triều nhà Nguyễn Mẹ là Lê Thị Đạt. Đinh văn Nam là con thứ 3 trong một gia đình có 8 anh em: Anh trưởng là Đinh văn Kinh, Đinh văn Quang, Đinh văn Nam (tức Hòa Thượng Thích Minh Châu), Đinh văn Linh, Đinh văn Phong, Đinh thị Kim Hoài, Đinh Thị Kim Thai, và Đinh Thị Khang. Học sinh trường Khải Định, Huế, tức trường Quốc Học sau nầy. Năm 1940 Đinh văn Nam đậu tú tài toàn phần. Cũng năm đó Đinh văn Nam lập gia đình với cô Lê Thị Bé, con cụ Lê Văn Miến cùng làng. Vợ chồng Đinh văn Nam sinh hạ được 2 con, người con trai đầu lòng tên là Đinh Văn Sương, và người con gái là Đinh Thị Phương. Năm 1943 Đinh văn Nam trở lại Huế và làm thư ký (thừa phái) cho tòa Khâm Sứ của Pháp ở Huế. Theo hồ sơ văn khố của Pháp để lại tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế thì Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An Nam Phật Học tại Huế, gia nhập đảng Cộng Sản vào năm 1941. Đinh văn Nam và Võ Đình Cường gia nhập vào đảng Cộng sản vào năm 1943. Như vậy cho thấy Đinh văn Nam gia nhập đảng Cộng sản tại Huế chứ không phải thời gian ở với vợ tại Nghệ An. Vào tháng 8/1945, Việt Minh cướp chính quyền, ông Đinh văn Chất thân phụ của Đinh văn Nam được Việt Minh mời giữ chức vụ Chủ Tịch Liên Việt Tỉnh Nghệ An. Như chúng ta đã biết cơ sở đầu tiên của Cộng Sản Đông Dương được thiết lập là tại hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc tỉnh Nghệ An, giới sĩ phu theo đảng Cộng sản rất đông trong đó có Đinh văn Nam. Ngoài ra em ruột của Đinh văn Nam tức Thích Minh Châu là Đinh văn Linh là Đại Tá trong Bộ đội Cộng sản Bắc Việt. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đinh văn Linh là một trong những người được Cộng sản gởi vào tiếp thu Sàigon. Tóm lại, Thích Minh Châu tức Đinh văn Nam đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh từ đầu thập niên 1940 và trở thành đảng viên Cộng sản vào năm 1943. Như chúng ta đã biết, vào khoảng gần cuối thập niên 1930, giới sĩ phu tại Bắc, Nam, Trung kỳ gia nhập Việt Nam Quang Phục Hội của Hoàng Thân Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nổi lên chống đối thực dân Pháp khắp nơi đã đẩy chính quyền bảo hộ Pháp vào tình trạng hết sức khó khăn và nguy hiểm chọ bọn thực dân Pháp trong việc đô hộ ba nước Việt, Miên, Lào. Toàn Quyền Pháp bấy giờ là Pasquier đã đưa ra một chính sách “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” và dùng phong trào nầy để để vô hiệu hóa các cuộc nổi dậy chống Pháp của giới Sĩ phu đương thời, đồng thời dùng họ để chống lại quân đội Nhật. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi các nhân vật trụ cột, đảng viên của đảng Cộng sản Đông Dương không bị chính quyền bảo hộ Pháp bắt bớ, thanh toán, mà ngược lại còn được Toàn Quyền Pháp Pasquier nâng đỡ, khuyến khích nhóm “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” của Bác Sĩ Lê Đình Thám, Thích Trí Độ, Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu, Võ Đình Cường, Lê Dư, Trần Nguyên Chấn v.v… Nắm được yếu điểm nầy của Toàn Quyền Pháp Pasquier, và qua các nhân vật đảng viên Cộng sản Đông Dương kể trên, đảng Cộng sản Đông Dương đã dùng Phật Giáo để phát triển và xây dựng cơ sở đảng. Hồ sơ của sở Liên Phóng Pháp cho thấy Bác sĩ Lê Đình Thám là đảng viên cao cấp của Cộng sản Đông Dương nhưng đồng thời cũng là tình báo viên của sở Liên Phóng Pháp, và được Sở Liên Phóng Pháp giao nhiệm vụ nằm vùng trong Phật Giáo tại Trung Kỳ. Cũng theo tài liệu của Sở Liên Phóng Pháp, Bác Sĩ Lê Đình Thám sinh ngày 1 tháng 1 năm 1897 tại Tỉnh Quảng Nam, tốt nghiệp trường Cao đẵng Y Khoa Đông Dương tại Hà Nội. Ông thành lập hội An Nam Phật Học tại Huế, văn phòng đặt tại chùa Trúc Lâm. An Nam Phật Học Hội bề nổi truyền bá Phật Giáo, bề chìm là hoạt động cho đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng cần nói thêm chùa Trúc Lâm nằm về phía tây thành phố Huế. Từ dưới phố Huế đi lên chúng ta phải qua khỏi Chùa Từ Đàm, qua khỏi Đàn Nam Giao (nơi các vị vua nhà Nguyễn làm lễ tế trời), đi qua khỏi cầu Lim chừng 200met, thì rẽ tay trái cuối con đường nầy là Chùa Trúc Lâm. Mặt tiền của Chùa Trúc Lâm nhìn sang là mộ của ông Hồ Đắc Trung và dòng tu Công giáo Thiên An. Chùa Trúc Lâm sau nầy là căn cứ vùng ráp ranh của cơ quan Thành ủy Việt Cộng Huế, đây cũng là trạm giao liên và nơi hội họp của đám cơ sở nội tuyến hoạt động tại thành phố Huế mà lực lượng tình báo, an ninh của Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Thừa Thiên Huế đã phá vở và bắt giữ một số cán bộ quan trọng của Thành ủy Huế như tên Trung tá điệp viên Cộng sản Hoàng Kim Loan, Đoàn Công Lập (Cựu trưởng ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế), bác sĩ Hoàng Bá, Thích Thiện Siêu trụ trì chùa Từ Đàm v.v… Cũng xin nói rõ, Võ Đình Cường và Đinh văn Nam tức Thích Minh Châu là hai đệ tử ruột, là cánh tay mặt, tay trái của Bác sĩ Lê Đình Thám. Trong thời gian nầy Đinh văn Nam đảm nhận chức vụ Chánh Thư Ký của Hội An Nam Phật Học. Vào năm 1940, Bác sĩ Lê Đình Thám cho thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học, giao cho Phạm Hữu Bình làm đoàn trưởng, và Đinh văn Nam tức Thích Minh Châu làm đoàn phó. Cuối năm 1947 Hội An Nam Phật Học hoạt động trở lại sau một thời gian vì chiến cuộc và đặt trụ sở tại 1B, đường Nguyễn Hoàng, Huế. Ngày 18/1/1948 theo chỉ thị của đảng Cộng sản, Võ Đình Cường ra mắt tổ chức mới gọi là “Gia Đình Phật Hóa Phổ” tại chùa Từ Đàm, có sự hiện diện của Đinh văn Nam, Tống Hồ Cầm, Hoàng Thị Cúc, Cao Chánh Hựu, và Văn Đình Hy. Năm 1948, theo sự phân chia công tác hoạt động đảng của Bác sĩ Lê Đình Thám, Võ Đình Cường hoạt động trong giới Phật Tử, còn Đinh văn Nam hoạt động trong giới tăng sĩ, năm dó Đinh văn Nam đã 30 tuổi. Đinh văn Nam xin nhận Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, trụ trì Chùa Tường Vân, làm sư phụ. Năm 1949 Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết cho Đinh văn Nam thọ giới tại giới đàn Hộ Quốc tại chùa Bảo Quốc với Pháp tự là Minh Châu. Năm 1952, Thích Minh Châu được cho đi Sri-Lanka rồi qua Ấn Độ học tại Đại Học Bihar. Ông đậu Tiến sĩ Phật Học vào năm 1961. Thời chính Phủ Nguyễn Khánh, Viện Hóa Đạo của Ấn Quang bằng một văn thư chính thức yêu cầu chính phủ Nguyễn Khánh cho ông Thích Minh Châu về Sàigon để giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh sắp được thành lập. Văn thư chính thức nầy Viện Hóa Đạo Phật Giáo Ấn Quang gởi cho Tướng Khánh vào năm 1964. Tướng Khánh cho lệnh cơ quan an ninh điều tra lý lịch Đinh văn Nam tức Hòa Thượng Thích Minh Châu và sau đó cơ quan an ninh đã phúc trình với Tướng Khánh như sau: Đinh văn Nam tức Thích Minh Châu đã vào đảng Cộng sản từ năm 1943. Đinh văn Nam có vợ và hai con đang ở miền Bắc, đồng thời tòa Đại Sứ của VNCH ở Ấn Độ đã phúc trình rằng: Thời gian ở Ấn Độ Thích Minh Châu đã và đang hoạt động cho Cộng sản Hà Nội, họ đưa ra hai bằng chứng: 1) Năm 1952, Trung Cộng mở hội nghị quốc tế gọi là Hội Nghị Hòa Bình Châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh, đảng Cộng sản Hà Nội gởi một phái đoàn sang tham dự, trưởng phái đoàn là Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường. Thích Minh Châu từ Ấn Độ qua Bắc Kinh tham gia với phái đoàn. 2) Ngày 10 tháng 2 năm 1958 Hồ Chí Minh qua Ấn Độ vận động tổng tuyển cử và thống nhất Việt Nam, Thích Minh Châu là trưởng ban tiếp đón Hồ Chí Minh và là thông dịch viên chính của Hồ Chí Minh. Tướng Khánh đã thông báo mọi sự kiện nầy cho Viện Hóa Đạo PGVNTN biết, và kết luận rằng: “Rất tiếc chính phủ không để cho Thích Minh Châu về nước được vì ông ta đang làm việc cho chính phủ Cộng Sản Hà Nội”. Ảnh 2011 Thế nhưng Viện Hóa Đạo và Thích Trí Quang không chịu và đe dọa nếu Thích Minh Châu không được chấp thuận về nước để giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh thì Phật Giáo sẽ “Hành động”. Tướng Nguyễn Khánh và chính phủ của ông ta buộc lòng phải chấp thuận rước Việt Cộng vào ngay trung tâm đầu não của chính phủ VNCH và thảm họa tất nhiên là ngày 30/4/1975. Liên Thành Ngày 19 tháng 9 năm 2012 ongvove.wordpress.com/2019/07/10/phong-trao-pha%cc%a3t-giao-va-sinh-vien-ho%cc%a3c-sinh-trong-giai-doa%cc%a3n-xao-tro%cc%a3n-1964-1967/
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 14, 2013 11:49:32 GMT 9
“ Chỉ có tôn giáo là đáng kể ở Việt Nam ” : Thích Trí Quang và Chiến tranh Việt NamJAMES McALLISTER Trần Ngọc Cư dịch ongvove.wordpress.com/2019/07/10/phong-trao-pha%cc%a3t-giao-va-sinh-vien-ho%cc%a3c-sinh-trong-giai-doa%cc%a3n-xao-tro%cc%a3n-1964-1967/Tóm tắt Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Quốc. Yếu tố chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson là việc Trí Quang quả quyết rằng các chế độ quân sự tiếp theo Ngô Đình Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi.Khó có thể xem nhẹ vai trò quan trọng của Thích Trí Quang trong việc tìm hiểu quá trình diễn biến của Chiến tranh Việt Nam. Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm dùng bạo lực đàn áp các cuộc biểu tình phản kháng của Phật giáo tháng Năm 1963, Trí Quang đã đóng một vai chủ yếu trong việc sách động và duy trì cuộc khủng hoảng chính trị lâu dài, một cuộc khủng hoảng cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của Diệm vào tháng Mười Một 1963. Không chịu trở về với vị trí bên lề của trường chính trị sau khi Diệm và người em là Ngô Đình Nhu bị giết, Trí Quang tiếp tục vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình lên sinh mệnh chính trị của Miền Nam bằng cách ban bố hay từ chối hậu thuẫn của mình cho nhiều chế độ quân nhân khác nhau, những chế độ đã điều hành quốc gia từ 1964 đến 1966. Với khả năng hiển nhiên, bằng cách huy động cả Phật tử lẫn sinh viên tranh đấu, Trí Quang có thể đưa Miền Nam vào tình trạng vô chính phủ, chính quyền Johnson và chính phủ Miền Nam không còn lựa chọn nào khác hơn là nhìn nhận quyền lực và ảnh hưởng đáng sợ của ông. Được công nhận rộng rãi là lực tác động tinh thần và trí thức chủ yếu đằng sau phong trào tranh đấu Phật giáo, Trí Quang đã châm ngòi một loạt phản kháng mãnh liệt, một cao trào đã thực sự giành quyền kiểm soát vài thành thị miền Nam vào mùa xuân 1966. Mặc dù cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo rộng lớn không trụ được như một thế lực chính trị hùng hậu sau cuộc khủng hoảng 1966, nhưng ít, nếu có, cá nhân nào ở Miền Nam có được ảnh hưởng to lớn hơn ông trên diễn biến của cuộc chiến Việt Nam trong thời kì từ 1963 đến 1966. Đáng tiếc là, các sử gia đương thời vẫn chỉ biết được rất ít ỏi về những mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang trong giai đoạn nghiêm trọng này của Chiến tranh Việt Nam. Cũng như nhiều yếu nhân khác ở Miền Nam, những nhân vật chính trị và tôn giáo như Trí Quang rõ ràng là ít được giới sử gia về quan hệ đối ngoại của Mĩ quan tâm; những sử gia này vẫn tiếp tục dành sự chú ý ưu tiên cho tiến trình hoạch định chính sách tại Washington, chiến lược quân sự hay những nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt chiến tranh qua các cuộc đàm phán. Như George Herring đã nhận xét từ lâu : “Sự tương tác giữa người Mĩ và người Miền Nam Việt Nam là một trong những lãnh vực ít triển khai nhất trong kho tư liệu ngày một nở rộ về Chiến tranh Việt Nam. Người ta càng viết nhiều về cuộc chiến bao nhiêu, thì người Miền Nam càng nổi cộm vì sự vắng mặt của họ trong các sử sách bấy nhiêu, và cho đến nay hầu như vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về những quan hệ của họ với Hoa Kì ” (1). Sự thiếu quan tâm của giới học giả dành cho Trí Quang và cho mối quan hệ của ông với các giới chức Mĩ là điều đặc biệt đáng tiếc bởi vì chắc chắn không thiếu gì các nguồn tư liệu trực tiếp (primary sources) để các sử gia nghiên cứu. Các giới chức Mĩ thường xuyên gặp gỡ Trí Quang suốt những năm 1964 – 1966 ; những cuộc đàm thoại này đủ cung ứng một cái nhìn toàn diện về những tín lí của ông đối với hàng loạt vấn đề. Mặc dù Trí Quang trên một số mặt nào đó vẫn còn là một nhân vật mà giới sử gia khó nắm bắt, nhưng những tương tác giữa ông và giới chức Mĩ có thể cung ứng một nguồn tư liệu không thể thiếu và chưa được sử dụng đúng mức cho việc tìm hiểu cả phong trào Phật giáo lẫn sự thất bại chính trị to lớn của Mĩ tại Miền Nam (2). Trí Quang là một nhân vật gây nhiều tranh cãi vào thời cao điểm của Chiến tranh Việt Nam, và hơn 40 năm sau ông vẫn còn như thế. Gần đây, một số sử gia đã duyệt xét lại nhân vật Trí Quang và phong trào Phật giáo và đã đi đến những kết luận rất khác nhau về mục tiêu và động lực của nhà sư này. Trong một bài viết khá sôi nổi công bố năm 2004, Mark Moyar cho rằng Trí Quang “ hoặc đã liên minh với Cộng sản, hoặc nếu không thì cũng nuôi hoang tưởng ông có thể chặn đứng Cộng sản mà không cần đến một chính quyền mạnh, thân Mĩ ” (3). Luận điểm đầu [tức Trí Quang liên minh với Cộng sản] rõ ràng là điều mà Moyar tin là gần với sự thật hơn. Trong cáo buộc cho rằng Trí Quang là tay sai Cộng sản, Moyar viết : “ Nhìn chung, chứng liệu (evidence) đã yểm trợ cho quan điểm này, mặc dù không có bằng chứng tuyệt đối (absolute proof) ” (4). Khi đưa ra luận điểm này, mặc dù với một hồ sơ tài liệu có thực chất hơn, Moyar cũng chưa hẳn đã khai mở được điều gì mới lạ cho sử học bởi vì các kí giả trong trong thời Chiến tranh Việt Nam như Marguerite Higgins, Richard Critchfield và Robert Shaplen cũng từng đưa ra luận điểm này khi họ viết về cuộc chiến (5). Tuy nhiên, như chính Moyar cũng nhìn nhận, các quan chức của chính phủ Mĩ, những người có đủ mọi lí do tự lợi (self-interested) để kết luận Trí Quang là Cộng sản, lại trước sau như một đã bác bỏ cách đánh giá này. Như các nhà phân tích của CIA đã kết luận tháng Chín 1964 : “ Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Trí Quang, những kẻ chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông, hay thậm chí những kẻ hoài nghi về động lực chính trị của ông, có thể đưa ra bằng chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào hiện có giữa ông và Cộng sản (6) ”. Giới tình báo Mĩ và Sứ quán Mĩ ở Sài gòn không bao giờ do dự trong cách đánh giá của họ về những động lực chính trị của Trí Quang, ngay cả vào thời cao điểm của cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966, mặc dù các viên chức quan trọng như Henry Cabot Lodge và Maxwell Taylor về sau này lại chấp nhận luận điểm của Moyar một cách trễ tràng và thiếu bằng chứng. Vào thời đó và cả ngay bây giờ, người ta vẫn có nhiều lí lẽ rất thuyết phục để phản bác luận cứ cho rằng Trí Quang cố tình làm tay sai cho Cộng sản hay thậm chí trên bình diện trí thức đã có thiện cảm với chương trình chính trị của MTDTGPMN. Sự thể về sau này Trí Quang bị chế độ Cộng sản hành hạ và phải sống trong tình trạng quản thúc ở Việt Nam thời hậu chiến chỉ là một trong nhiều lí do để hoài nghi luận điểm của Higgins/Moyar (7). Quan điểm phê phán Trí Quang của Moyar bị chi phối bởi sự hậu thuẫn mạnh mẽ mà ông ta dành cho những người Miền Nam quyết tâm chống Cộng và chống MTDTGPMN. Một hình ảnh anh hùng và khả ái hơn nhiều của Trí Quang có thể được tìm thấy trong cuốn sách của Robert Topmiller, The Lotus Unleashed : The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966 (Hoa sen tự do : Phong trào Hoà bình Phật giáo ở Miền Nam Việt Nam, 1964-1966). Vốn có nhiều thiện cảm với Trí Quang và thường chỉ trích gay gắt việc Mĩ can thiệp vào nội bộ Việt Nam, Topmiller tin rằng mục tiêu chính của cánh Trí Quang trong phong trào Phật giáo là “ thành lập một chính phủ dân sự bằng các cuộc tuyển cử tự do với ý định mời MTDTGPMN tham gia một chính phủ trung lập ” (8). Theo cách mô tả của Topmiller, sự va chạm giữa chính quyền Johnson và Trí Quang phần lớn có gốc rễ trong những viễn kiến và thế giới quan xung khắc nhau. Phía Phật giáo và Trí Quang quyết theo đuổi hoà bình, dân chủ và muốn thương thuyết để tức thời chấm dứt cuộc chiến. Vì chính quyền Johnson chống lại quan điểm của phe Phật giáo về cuộc chiến, theo Topmiller, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Trí Quang và người Mĩ rốt cuộc đã không đội trời chung. Mặc dù chắc chắn có nhiều điều đáng tiếp thu từ cách tường thuật của Topmiller về phong trào Phật giáo, nhưng tiểu sử Thích Trí Quang và mối quan hệ giữa ông và Hoa Kì còn nhiều chỗ phức tạp hơn những điều sử gia này muốn nói. Đặc biệt ở phần bàn về Thích Trí Quang trong thời gian trước khủng hoảng 1966, Topmiller hoàn toàn không đếm xỉa đến những chứng liệu (documentary evidence) đi ngược luận điểm của ông (9). Từ tường thuật của Topmiller, người ta không thể ngờ được rằng Trí Quang thường rất thân Mỹ và chống Cộng gay gắt, hoàn toàn không quan tâm đến những nguyên tắc phổ quát về dân chủ và tự do ngôn luận, và cực kì hiếu chiến trong quan điểm về phương sách điều hành cuộc chiến. Mặc dù hẳn nhiên là có một phong trào Phật giáo đối kháng quan trọng ở Miền Nam, nhưng người ta lại hoàn toàn sai lạc khi cho rằng “hoà bình” là một trong những mục tiêu hàng đầu của Trí Quang. Trí Quang hiếm khi có luận điệu bênh vực cho một Miền Nam trung lập hay cổ vũ cho việc theo đuổi bất cứ một cuộc đàm phán nào với MTDTGPMN trước khi Hoa Kì và VNCH nắm được thế thắng trên chiến trường. Chắc chắn là, cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo nói chung đôi khi có bày tỏ thái độ chống Mĩ và/hoặc hậu thuẫn một giải pháp trung lập rất mơ hồ cho cuộc chiến ở Việt Nam. Tuy nhiên, cái hình ảnh quá giản lược về Trí Quang như một nhà dân chủ, dấn thân cho hoà bình với quyết tâm chấm dứt cuộc chiến càng sớm càng hay, là luận cứ không thể đứng vững cũng như cái hình ảnh một Trí Quang tay sai của Cộng sản vậy. Trí Quang chẳng phải là một người Cộng sản, mà cũng chẳng phải là một người tranh đấu vì dân chủ và hoà bình. Ông là một nhân vật bị chính trị hoá cao độ, một người nhìn hầu hết mọi vụ việc ở Miền Nam Việt Nam qua lăng kính của một cuộc xung đột cơ bản tôn giáo giữa Phật giáo và Công giáo. Trí Quang cho rằng: “Ngay cả người Công giáo tốt cũng khó được lòng dân” (10). Dù đúng dù sai, Trí Quang đã chống lại nhiều chính phủ liên tiếp ở Miền Nam vì những lí do ít liên quan hoặc chẳng liên quan gì đến việc cố tình phá hoại nỗ lực chiến tranh, như giả thuyết của Moyar, hay liên quan đến việc chấm dứt chiến tranh và thiết lập một chế độ dân chủ dân sự, như luận cứ của Topmiller. Trong khi các quan chức Mĩ muốn có một chính phủ ổn định ở Miền Nam trên hết và trước hết, thì Trí Quang lại muốn thấy một chế độ “cách mạng”, một chế độ mà ông định nghĩa là thực sự không còn ảnh hưởng của người Công giáo, tàn dư của Diệm hay Cần Lao. Tất nhiên, vấn đề chính ở đây là, Trí Quang thường hàm ý chỉ có một mình ông mới có thẩm quyền quyết định tính chính đáng (legitimacy) của các chế độ ở Miền Nam, cũng như quyền giải nhiệm những chế độ này nếu chúng không thoả mãn những đòi hỏi cuả ông. Xung đột giữa Trí Quang và chính quyền Johnson một phần lớn là vì Trí Quang muốn trở thành một nhân vật duy nhất có quyền lựa chọn lãnh đạo cho chính trường Miền Nam, chứ không phải vì quan hệ với Cộng sản, hay vì có khuynh hướng trung lập hay vì thiếu nhiệt tình chống cộng, như một số người đã gán ghép cho ông. Thích Trí Quang và hậu quả cuả việc lật đổ T Th Diệm Những người hoạch định chính sách Mĩ ít khi bận tâm về vai trò chính trị của Phật giáo ở Miền Nam trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tháng Năm 1963, cuộc khủng hoảng rốt cuộc đã đưa đến việc lật đổ T Th Ngô Đình Diệm vào cuối năm đó. Mặc dù các quan chức Mĩ không nghĩ rằng Phật giáo sẽ lặng lẽ trở về với vai trò phi chính trị mà Phật giáo đã giữ dưới chế độ T Th Diệm, nhưng ít có dấu hiệu gì chứng tỏ người Mĩ quan ngại về khả năng xung đột với phong trào Phật giáo trong tương lai. Việc chính bản thân ten Trí Quang lãnh đạo một phong trào hầu như là nổi dậy chống chính quyền Miền Nam chưa đầy ba năm sau khi ông ta được phép tị nạn trong Toà Đại sứ Hoa Kì ở Sài gòn là điều người Mĩ không thể tưởng tượng nỗi. Dù sao đi nữa, bất chấp những lí do tự lợi khi cho Trí Quang tị nạn, chính quyền Kennedy và Đại sứ Henry Cabot Lodge Jr. cũng đã tự mình đứng hẳn về phiá Phật giáo trong cuộc tranh đấu của họ chống lại chế độ Diệm. Chính bản thân Trí Quang đã rõ ràng bày tỏ sự biết ơn của ông đối với hậu thuẫn của Mĩ. Trong thư riêng gửi cho Lodge để xin tị nạn trong sứ quán Mĩ, Trí Quang viết ông hi vọng “ đất nước của tự do ” sẽ không giao nộp ông cho chính phủ Diệm, “ nhất là khi Hoa Kỳ đang giúp nhân dân chúng tôi gìn giữ tự do ” (11). Chỉ ba tuần lễ sau cuộc đảo chánh thành công, ông hoan nghênh việc người Mĩ tiếp tục can thiệp vào nội tình Miền Nam với tất cả hăng say, không một chút e dè. Trong khi phân ưu về cái chết của Tổng thống Kennedy, Trí Quang nói với một viên chức Toà Đại sứ Mĩ rằng Hoa Kì “phải tiếp tục sử dụng và gia tăng ảnh hưởng tốt đẹp của mình để ngăn ngừa khả năng có thêm đảo chánh hay chế độ T Th Diệm hồi sinh và để, nếu cần, bảo vệ nhân dân Việt Nam khỏi những lạm quyền của chính phủ họ ( CS) ”. Khi được giải thích một phát biểu như thế có thể dấy lên nỗi sợ hãi chính đáng về chủ nghĩa thực dân Mĩ, Trí Quang cho rằng Hoa Kì không nên lo sợ những luận điệu như thế bởi vì “ nhân dân sẽ thực sự cảm thấy an ninh hơn khi biết Hoa Kì hành động như một người bảo hộ ” (12). Mặc dù Trí Quang không lo ngại gì về Mĩ vào tháng Mười Một 1963, nhưng từ đầu ông đã bận tâm về bản chất của chế độ Miền Nam, cái chế độ vừa thay chế độ T Th Diệm. Thật ra, tất cả nguyên nhân căng thẳng trong tương lai giữa Trí Quang và chính phủ Mĩ đã có sẵn từ ban đầu. Chính quyền Johnson kì vọng rằng cuộc đảo chánh lật đổ T Th Diệm sẽ dẫn đến sự đoàn kết quốc gia rộng rãi hơn và mang lại một chính phủ ổn định có khả năng theo đuổi cuộc chiến hữu hiệu hơn trước. Chỉ nội cái việc nghiêm khắc duyệt xét bản chất của chế độ T Th Diệm, đừng nói chi đến việc thanh lọc bộ máy hành chính và quân sự, trên cơ bản sẽ mâu thuẫn với mục tiêu ổn định bởi vì hầu như mọi viên chức trong chính phủ và quân đội Miền Nam trong một cách nào đó đều có thể mang nhãn hiệu là của T Th Diệm (a former Diemist). Hoặc vì xác tín hoặc vì nhu cầu chiến thuật, chính quyền Johnson bác bỏ ý kiến cho rằng chính phủ Miền Nam cần được cải tổ triệt để hoặc cần phải thanh lọc nhân viên. Nhưng, Trí Quang không bao giờ chấp nhận quan niệm cho rằng cuộc xung đột tôn giáo và điều ông cho là cuộc đàn áp Phật giáo bởi bàn tay của người Công giáo là một vấn đề được giải quyết dứt khoát bằng việc lật đổ T Th Diệm . Mặc dù tuyên bố rằng ông sẽ thẩm định chính phủ mới trên cơ sở thành thích hoạt động, nhưng Trí Quang lo ngại rằng bản thân nhiều thành viên trong nhóm âm mưu đảo chánh vốn là người của T Th Diệm. Ông lí giải rằng sở dĩ họ tham gia đảo chánh “ bởi vì họ sợ T Th Diệm và Nhu làm mất lòng Hoa Kì hơn là vì chính bản thân họ tin rằng chế độ cũ cơ bản là sai trái ” (13). Khoảng tháng Mười Hai 1963, Trí Quang đã bày tỏ với một số viên chức Hoa Kì rằng ông sẽ hoan nghênh một cuộc đảo chính nữa nếu biến cố này có thể lật đổ Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, một nhân vật quan trọng trong chế độ T Th Diệm (14). Không có gì chứng tỏ rằng Trí Quang đã đóng bất cứ một vai trò nào trong cuộc đảo chánh lật đổ Dương Văn Minh vào tháng Giêng 1964. Một số sử gia, như George McT. Kahin và Robert Topmiller, lí luận rằng ten Minh bị lật đổ bởi vì Minh có những mưu toan chấm dứt chiến tranh và có ý định sẵn sàng chấp nhận một Miền Nam trung lập hoá. Cả Kahin lẫn Topmiller tin rằng chí ít Minh cũng nhận được hậu thuẫn ngấm ngầm của giới lãnh đạo Phật giáo trong việc tìm một lối ra khỏi cuộc chiến ngày một lan rộng tại Việt Nam (15). Quan điểm này có vài mức độ khả tín vì người đứng đầu cuộc đảo chính, Tướng Nguyễn Khánh, lúc bấy giờ đã tuyên bố rằng ông thực hiện cuộc đảo chánh chính vì ông lo ngại ten Minh và một số tướng lãnh khác có thái độ thân Pháp và nghiêng về chủ trương một Việt Nam trung lập. Tuy nhiên, lối lí giải này có vấn đề là, ít ai tưởng tượng được rằng Minh đã tích cực theo đuổi một giải pháp trung lập để chấm dứt cuộc chiến. Như David Kaiser đã nhận xét đúng đắn, cho đến nay người ta vẫn chưa thấy xuất hiện chứng liệu vững chắc hậu thuẫn cho những lí lẽ mà Nguyễn Khánh đưa ra, rằng Minh đang liên minh với Pháp để tiến tới một giải pháp trung lập cho Việt Nam (16). Mặc dù cái gọi là cuộc xung đột giữa Tướng Khánh diều hâu và ten Minh ,1 Phật tử chủ hòa rất có thể chỉ là một cuộc xung đột có tính huyền thoại, nhưng vào đầu năm 1964, quan điểm của cá nhân Trí Quang về bản chất cuộc chiến tại Việt Nam thì gần gũi với quan điểm được công bố của Tướng Khánh hơn là gần gũi với quan điểm trung lập được rêu rao là của Minh. Trong các cuộc đàm luận với một số viên chức Mĩ vào đầu năm 1964, Trí Quang quan tâm nhiều về việc điều hành cuộc chiến có hiệu quả hơn là quan tâm đến việc chấm dứt chiến tranh. Mặc dù thoạt đầu ông chống lại quan niệm cho rằng cần phải có các vị tuyên úy trong quân đội Miền Nam, nhưng vào thời điểm này Trí Quang lại nghĩ rằng quân đội cần đến các tuyên úy Phật giáo và Công giáo để nâng cao “tinh thần chống Cộng” của binh lính (17). Cũng như Khánh và những tướng lãnh chủ chiến thân cận với Khánh, Trí Quang rất quan ngại về những nỗ lực được cho là của nước Pháp muốn tái khẳng định quyền lực ở trong vùng. Thật vậy, không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào trước sau như một bày tỏ sự thù nghịch đối với ảnh hưởng của Pháp mãnh liệt như Trí Quang. Ông nói với các viên chức Mĩ, nếu Pháp trở lại Việt Nam, điều này sẽ dẫn đến “cái chết của chính cá nhân ông cũng như dẫn đến sự trỗi dậy của Công giáo, gây phương hại cho Phật giáo Việt Nam” (18). Sau cùng, bất chấp ý nghĩa quan trọng hiển nhiên của tinh thần bất bạo động trong tín lí Phật giáo, Trí Quang ủng hộ một đường lối quân sự mạnh mẽ. Trong một buổi đàm luận với J.D. Rosenthal của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài gòn vào tháng Tư 1964, “Trí Quang chủ động nói rằng ông sẽ chấp nhận ý kiến cho quân vượt qua biên giới, tiến vào lãnh thổ Lào để cắt đứt đường tiếp tế của Việt Cộng, và ông cũng rất hồ hởi về trận dội bom ban đêm đầu tiên của Không quân Việt Nam nhắm vào các căn cứ VC. Tôi hỏi ông nghĩ gì về khả năng tấn công Bắc Việt, thì ông nói ông ủng hộ việc đó nếu cuộc tấn công có thể được thực hiện mà không lôi kéo Nga hay Trung Cộng vào cuộc chiến ” (19). Cũng dễ hiểu là các giới chức Hoa Kì lo ngại về nhiều khía cạnh của tình hình Việt Nam vào đầu năm 1964, nhưng họ không mảy may lo ngại khả năng phong trào Phật giáo có thể chuyển qua một chiều hướng thiên cộng chống Mĩ. Trong một phân tích quan trọng về tình hình Phật giáo từ khi chế độ T Th Diệm sụp đổ, Đại sứ quán Mĩ kết luận rằng tất cả các lãnh đạo Phật giáo cấp cao đều có khuynh hướng thân Mĩ và rằng dù đến một lúc nào đó phong trào có bị giới lãnh đạo “cơ hội chủ nghĩa” chi phối, thì những mục tiêu của phe Phật giáo và của Hoa Kì vẫn còn tương hợp vì cả hai phía đều sợ trung lập và sợ sự thống trị của cộng sản Trung Hoa(20). Dấu hiệu đầu tiên về sự xung đột giữa Trí Quang và Hoa Kì loé lên là do các vụ án xử Ong Ngô Đình Cẩn, em trai của T Th Diệm, người đã diet cong o Miền Trung bằng bàn tay sắt, và Thiếu tá Đặng Sỹ, một sĩ quan quân đội VNCH " đã ra lệnh nổ súng vào các Phật tử biểu tình tháng Năm 1963" ( ). Vì sợ rằng người Công giáo Mĩ và dư luận thế giới phản đối chế độ mới nếu chế độ này có vẻ như đang tiến hành cùng một dạng thức đàn áp tôn giáo mà T Th Diệm đã thực hiện trước đó, Lodge muốn Khánh phải tự kiềm chế và xoa dịu những cuồng nộ chừng nào hay chừng ấy. Chẳng lạ gì, chính phủ Khánh cũng sợ mang tiếng là quá dung túng người cua T Th Diệm và không chịu lắng nghe những kêu đòi tra thu cuả phe Phật giáo. Rõ ràng là, chính vì sự kiện cả ong Cẩn và Thiếu tá Đặng Sỹ đã bi cho la gây tội ác o Miền Trung của ông và ở thành phố Huế mà Trí Quang đã ra lenh cho tên tướng Minh ( quốc trưởng ) bác bỏ bản án khoan hồng cho ông Cẩn. Khi khuyến cáo Lodge uy tín của ông đại sứ sẽ bị tổn thương nếu dân chúng biết được ông chống đối việc xử tử Cẩn, Trí Quang cho rằng việc xử tử Cẩn là điều cần thiết để chứng tỏ rằng “đám người cũ của Diệm” không còn quyền lực. Trong một cuộc gặp gỡ Lodge vào tháng Tư 1964, Trí Quang cảnh báo rằng cuộc chiến đấu chống cộng và hậu thuẫn của Phật giáo dành cho Hoa Kì sẽ bị suy giảm nếu Cẩn không bị hành quyết (21). Giới chức Mĩ rất quan ngại về việc Trí Quang chống đối chế độ Khánh, nhưng họ để ngoài tai những báo cáo cho rằng hành động chống đối này phát xuất từ những móc nối mờ ám với cộng sản. Tháng Năm 1964, Lodge gửi về Washington một báo cáo từ một nguồn tin cho rằng phong trào Phật giáo đang bị cộng sản lợi dụng nhằm kích động tình cảm chống Mĩ trên khắp Miền Nam. Mặc dù ca ngợi nguồn tin của mình là một người trong quá khứ đã từng đưa tin “cực kì chính xác”, nhưng Lodge vẫn thận trọng ghi lại ý kiến riêng là ông cảm thấy bản báo cáo này đã “nói quá đáng” (22). Lodge và nhiều viên chức khác e ngại rằng Trí Quang “có tiềm năng của một người gây rối loạn” (a potential troublemaker) và lo lắng khi thấy Trí Quang tỏ ra chống Công giáo hăng say hơn chống cộng ( đẩy mạnh chia rẻ tôn giáo, phân hóa miền Nam tạo điều kiện cho miền Bắc thắng lợi sau này ); nhưng điều này chưa hẳn có nghĩa là những bất đồng với Trí Quang tiêu biểu cho những vấn đề có tầm mức nghiêm trọng (23). Lodge rất lạc quan về quan hệ của Mĩ với phe Phật giáo sau một bữa ăn rất thân mật với Trí Quang và các chức sắc hàng đầu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) vào cuối tháng Năm 1964. Mặc dù Trí Quang vẫn là một nhân vật chính trị có tiềm năng nguy hiểm, nhưng Lodge nghĩ rằng Trí Quang vẫn còn biết ơn Hoa Kì đã cứu mạng và còn chấp nhận ảnh hưởng của Mĩ , bảo trợ cho Cẩn( đây là một sai lầm rất lớn của tên Lodge này , khi ai củng nhớ lại chính Trí Quang và nhóm đệ tử "tu sĩ" là kẻ đã thọ ơn ông Cẩn rất nhiều , nay lại là người trở mặt với Cẩn ). Trong một cách thế gần như là một nỗ lực nhằm trấn an viên đại sứ Mĩ, một cách thế mà một chính trị gia lão luyện như Lodge chắc phải biết, Trí Quang và các lãnh đạo khác của Phật giáo nói rõ rằng mặc dù quan điểm thân Mĩ của họ là thành thật, nhưng “người Mĩ đừng kì vọng họ có thể bộc lộ công khai, vì làm như thế có nghĩa là làm hỏng vai trò tôn giáo cuả họ” (24). NÊN NHỚ SAU NÀY VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA THANG 4 1975 ,TRÍ QUANG CỦNG ĐÃ GIẢ VỜ ỦNG HỘ MINH ,CẦM CHÂN QUÂN ĐỘI MIỀN NAM ,CHỜ MINH ĐỌC LỆNH ĐẦU HÀNG . Thật vậy, Trí Quang lí giải với một số viên chức Mĩ vào cuối tháng Năm 1964 rằng việc một vài phần tử trong báo giới nước ngoài chụp mũ ông cộng sản là một điều có lợi, vì nó giúp ông “ hoạt động hữu hiệu hơn trong nỗ lực âm thầm chống lại ảnh hưởng của Việt Cộng trong giới tín đồ đã biết rất rõ bản thân ông không phải là cộng sản ” (25). Trí Quang vẫn không chịu làm hoà với chính phủ Nguyễn Khánh, một chính phủ mà ông cho là chưa thật sự cách mạng vì nó không chịu mạnh tay tận diệt đối với chế độ T Th Diệm. Nhưng mặt khác, Trí Quang lại rất thoải mái với giọng điệu ngày một hiếu chiến về một cuộc “bắc tiến” mà Khánh và các tướng lãnh hô hào vào mùa hè 1964. Dù nhìn nhận rằng một nhà lãnh đạo Phật giáo mà cổ vũ bạo lực là điều bất thường, nhưng Trí Quang vẫn bênh vực “ những biện pháp quân sự mạnh mẽ ” vì ông cho rằng “ nếu chiến tranh tiếp tục kéo dài ở mức độ hiện nay con số tổn thất nhân mạng sẽ cao hơn so với sự thiệt hại do một trận đánh chớp nhoáng hơn dù trong khoảnh khắc có thể đẫm máu hơn ” (26=. Khi Mỹ cho máy bay tấn công Miền Bắc tháng Tám 1964, Trí Quang nói với một viên chức Toà Đại sứ rằng hàng lãnh đạo Phật giáo cũng như nhân dân VN đều tán thành những cuộc tấn công đó vì sử dụng biện pháp quân sự mạnh mẽ có nghĩa là biểu lộ quyết tâm của chúng ta hòng làm chùng bước sự bành trướng tàn ác của bọn CS (27). Dù ông ủng hộ hành động quân sự chống lại Bắc Việt xâm nhập, nhưng chẳng bao lâu Trí Quang trở thành chướng ngại lớn nhất cho chính quyền Johnson trên bước đường tiến tới việc điều hành cuộc chiến quyết liệt hơn. Ngay sau đợt Mĩ dội bom Miền Bắc, Tướng Khánh tuyên bố tình trạng khẩn trương trên toàn lãnh thổ, một sắc lệnh cho phép chính phủ ông dùng cảnh sát để kiểm soát toàn diện mọi sinh hoạt chính trị. Phản ứng ban đầu của Trí Quang đối với sắc lệnh này là ủng hộ, nhưng ông lại sợ Khánh “ không đủ khôn ngoan hoặc đủ mạnh để thực thi sắc lệnh mới một cách hữu hiệu ”. Theo ý ông, dân chúng chỉ ủng hộ quyền hành mới của Khánh nếu viên tướng này chịu sử dụng nó để nhiên hậu thực thi “cuộc cách mạng” và tận diệt toàn bộ đảng Cần Lao và dân chúng thân cận T Th Diệm (28). Liền sau khi Khánh ban hành bản hiến pháp mới, gọi là Hiến chương Vũng Tàu, Trí Quang đi đến kết luận dứt khoát là Khánh không muốn thực hiện cuộc “cách mạng”. Nếu Khánh không chịu tự nguyện làm điều phải làm, Trí Quang thông báo cho Toà Đại sứ Mĩ biết, Phật tử không còn con đường nào khác hơn là lao mình vào một cuộc vận động “bất hợp tác”, điều này có nghĩa là buộc Khánh phải lựa chọn dứt khoát giữa một bên là giới Phật tử và bên kia các sĩ quan quân đội mà Trí Quang cho là đảng viên Cần Lao hoặc Đại Việt. Bởi vì nhìn từ bên ngoài không có sự khác biệt giữa bị cộng sản hay bị Cần Lao đàn áp, Trí Quang cảnh báo, đồng bào Phật tử sẽ rút lui khỏi cuộc chiến đấu chống cộng và phó mặc cho người Mĩ và người Công giáo đánh giặc một mình nếu Khánh không thanh lọc chính phủ của ông ta (29). Nếu những nhà hoạch định chính sách Hoa Kì có mối hoài nghi nào về sức mạnh của Trí Quang trong việc khuynh loát tình hình chính trị Miền Nam, thì những hoài nghi đó chắc chắn bị xua tan bởi những cuộc phản kháng và biểu tình bạo động bộc phát trong nhiều thành thị Việt Nam vào cuối tháng Tám 1964. Ảnh hưởng của Trí Quang lên nội dung của những cuộc phản kháng này thật là rõ nét bởi vì một trong những mối bất bình chính được những người biểu tình bày tỏ là, họ nhận thấy có quá nhiều người thân cận với Diệm trước đây trong chính phủ hiện tại. Giới chức Mĩ muốn Khánh hành động quyết liệt để vãn hồi trật tự ở Sài Gòn và nhiều thành phố khác, nhưng thay vì như vậy Khánh lại quyết định gần như đặt tương lai của chế độ ông vào trong tay Trí Quang và phe Phật giáo. Trước sự vô cùng sửng sốt của Toà Đại sứ Mĩ và giới lãnh đạo quân sự Miền Nam, Khánh không muốn liều lĩnh đương đầu một mất một còn với Trí Quang. Theo quan điểm của Trung tướng Trần Thiện Khiêm, những đòi hỏi của Trí Quang được dân chúng tin theo quá nhiều khiến Khánh không thể làm ngơ : “ Khánh cảm thấy không còn lựa chọn nào hơn là phải chấp nhận, vì thanh thế của Trí Quang lớn đến nỗi ông không những có thể sách động dân chúng chống chính phủ mà còn tác động lên hiệu năng của toàn quân ” (30). Các giới chức Hoa Kỳ thường xuyên tiếp xúc với Trí Quang suốt thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng chính trị và nhiều lần cố gắng một cách vô ích nhằm thuyết phục ông ta từ bỏ cuộc đối đầu công khai. Khác với lúc xảy ra cuộc khủng hoảng 1963, bây giờ các quan chức Hoa Kì nhận ra rằng gần như hoàn toàn không có bằng chứng cụ thể nào đủ để bênh vực những ta thán của Trí Quang là họ bị chính phủ Khánh đàn áp. Đợt phản kháng và biểu tình tái diễn chẳng bao lâu sau vụ Mĩ dội bom Bắc Việt, điều mà chính Trí Quang đã cổ vũ trước đây, bị nhiều giới chức Mĩ coi như thiển cận và là một hành vi phản bội. Các giới chức Mĩ cho rằng tình hình Miền Nam nguy ngập đến nỗi mọi bất đồng giữa Phật giáo và Công giáo cần phải đặt dưới ưu tiên của cuộc chiến đấu chống lại “kẻ thù chung” là Bắc Việt và Trung Quốc. Ngược lại, Trí Quang cho rằng giai đoạn đầu tiên và cần thiết của cuộc chiến đấu đòi hỏi phải thanh lọc triệt để Chính phủ VNCH trước khi có thể đạt được bất cứ tiến bộ nào trong nỗ lực chống lại cộng sản và những người ủng hộ CS. Mặc dù Trí Quang không đạt được mục tiêu thanh lọc hoàn toàn và triệt để mọi phần tử bị cho là người của T Th Diệm ra khỏi Chính phủ VNCH, nhưng chính quyền Khánh bị tê liệt vì Trí Quang đến nỗi không còn biết rõ ai là kẻ đang thực sự kiểm soát công việc chính phủ ở Sài Gòn. Quá bối rối trước tình hình hỗn loạn ở Miền Nam, các nhà phân tích CIA bèn khởi động một nỗ lực nghiêm túc nhất nhằm xác định thực chất các mục tiêu và ý định của Trí Quang. Khỏi cần phải nói, việc đánh giá lại những động lực chính trị của Trí Quang không làm cho người Mĩ yên tâm lắm. Trong hai bản tường trình rất dài, Trí Quang được mô tả là một kẻ mị dân, cực kì chống Công giáo, một người theo chủ nghĩa cuồng tín, và một kẻ vĩ cuồng (megalomaniac) với mục tiêu tối hậu là thành lập ở Miền Nam một chế độ thần quyền Phật giáo kiểu của ông ta(31). Nhân viên CIA còn tin rằng cuối cùng Trí Quang sẽ đòi trục xuất các lực lượng Mĩ ra khỏi Việt Nam và rằng ông ủng hộ một dạng thức trung lập nào đó mà tương lai là giải phóng tfn thể đất nước cho CS, mặc dù họ nói thêm rằng quan niệm trung lập của ông khác xa với chủ nghĩa trung lập của De Gaulle. Mặc dù những báo cáo này có vẻ báo động và những đánh giá của CIA chắc chắn có gia tăng mối quan tâm minh bạch và nghiêm túc về Trí Quang, nhưng những nhà phân tích này vẫn không dám gợi ý cho rằng Trí Quang hoặc là một cán bộ cộng sản hoặc là có thiện cảm với cuộc chống phá Miền Nam của CS. Sau khi đánh giá kĩ lưỡng các bằng chứng do nhiều người chỉ trích Trí Quang đưa ra, CIA kết luận rằng không có bất cứ bằng chứng vững chắc nào để xác nhận giá trị của những luận cứ cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng của cộng sản. Nhìn vào bản chất cá tính của thầy tu Trí Quang, nhân viên CIA kết luận: “ Khó mà tưởng tượng được Trí Quang chịu làm 'tay sai' cho bất cứ ai, dù đó là Hà Nội, Bắc Kinh hay Mạc Tư Khoa ” (32). Vì bất cứ một nỗ lực nào nhằm triệt hạ Trí Quang khỏi sân khấu chính trị Việt Nam sẽ gặp thất bại thảm hại, CIA kết luận rằng ông ta là một “thực tế” không thể bỏ qua được vì “ bất cứ một chế độ chống cộng nào ở Miền Nam muốn có cơ may tồn tại đều phải được Trí Quang ủng hộ hay chí ít, chấp nhận ” (33). Sau khi cuộc khủng hoảng chính trị tháng Tám 1964 lắng dịu, Trí Quang đã làm một ngoại lệ là trấn an các viên chức Toà Đại sứ rằng ông không chống đối việc Mĩ tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ Miền Nam. Fredrik Logevall cho rằng : “ [Trí] Quang và các phần tử tranh đấu Phật giáo khác cũng phản đối sự gia tăng liên tục ảnh hưởng của Mĩ ở Miền Nam và họ càng ngày càng công khai chống lại việc đó trong nửa năm sau của 1964 ” (34). Nhưng, một nhận xét như vậy về Trí Quang lại tương phản với quan điểm ông ta luôn luôn bày tỏ với nhiều viên chức Toà Đại sứ trong thời gian từ tháng Chín đến tháng Mười Một 1964. Theo Trí Quang, việc đả kích Chính phủ VNCH là hoàn toàn chính đáng, nhưng ông cho rằng các đoàn thể Phật tử phải tránh chỉ trích Hoa Kì “ bởi vì viện trợ Mĩ tuyệt đối cần thiết cho cuộc chiến đấu chống cộng ” (35). Khi một thanh niên Phật giáo bị bắt vì phân phát tài liệu chống Mĩ vào đầu tháng Chín, Trí Quang bèn cố gắng thuyết phục người Mĩ không nên quảng diễn sai lầm về hành vi đó. Trí Quang lí giải : “ Tín đồ Phật giáo nhất định là không chống Mĩ; trái lại, họ rất tin tưởng thành tâm thiện chí của người Mĩ ở Việt Nam, nếu đem so sánh với sự ngờ vực sâu xa của họ đối với người Pháp và người Anh, và họ hoàn toàn nhận chân được sự cần thiết phải duy trì hậu thuẫn của Mĩ ở nơi đây ” (36). Trí Quang cũng thanh minh với giới chức Mĩ rằng họ không nên quan tâm về một loạt bài bình luận trên tạp chí Hải Triều Âm của Phật giáo, những bình luận mang luận điệu cổ vũ một đường lối trung lập đặt MTDTGPMN ngang hàng với Chính phủ VNCH. Theo lời Trí Quang, tác giả loạt bài bình luận sau đó đã bị giải nhiệm vì bài viết thiếu chất lượng của ông đã khiến phong trào Phật giáo bị hiểu lầm là đi theo trung lập CS (37). Trí Quang bày tỏ quan điểm với viên chức Mĩ về vấn đề “trung lập” vào tháng Chín 1964, và theo giả thuyết của CIA, quan điểm của ông khác hẳn chế độ trung lập do Pháp đưa ra. Trí Quang tin rằng “ thuần tuý trung lập tự thân không nhất thiết là xấu ” nhưng ông chống lại bất cứ chế độ trung lập nào cho phép ảnh hưởng của Pháp trở lại trên đất nước Việt Nam (38). Hơn nữa, ông cho rằng các giới chức Mĩ cần phải nhìn nhận có nhiều loại trung lập khác nhau. Chế độ trung lập yếu ớt của Căm-pu-chia là tệ hại vì nó bị cộng sản lợi dụng, trong khi chế độ trung lập tại Ai Cập lại “ thẳng tay dập tắt đám cộng sản địa phương ” (39). Trí Quang cũng nhấn mạnh ông không ủng hộ những lời kêu gọi trung lập hiện nay của một số Phật tử. Khi người Mĩ bày tỏ mối bất bình với bản dự thảo do Đại đức Thích Quảng Liên đưa ra, kêu gọi các lực lượng Mĩ lẫn Việt Cộng phải rút khỏi Miền Nam, Trí Quang bèn trấn an họ rằng Quảng Liên đã được chỉ thị huỷ bỏ dự án đó và rằng ông ta có nguy cơ mất luôn chức vị trong phong trào nếu ông không chịu (40). Chắc chắn các sử gia Chiến tranh Việt Nam thường bị cám dỗ coi sự trỗi dậy trở lại của phong trào Phật giáo vào tháng Tám – tháng Chín năm 1964 như là một phong trào hoà bình mới được khai sinh để phản đối chiến tranh và vai trò của Mĩ ở Miền Nam. Tuy nhiên, người viết sử cũng nên chống lại cám dỗ này, đặc biệt là nếu quan điểm của Trí Quang được trình bày để làm chỗ dựa chính cho luận điểm này. Kể từ khi Trí Quang ra khỏi Toà Đại sứ Mĩ tháng Mười Một 1963, mục tiêu đả kích chủ yếu của ông, trước sau như một,do sự xây dựng guồng máy chống cộng vững chắc và duy nhất của chế độ Miền Nam của ông Diệm ,là vai trò quá nổi bật của người chế độ T Th Diệm trong Chính phủ VNCH và sự thiếu quyết tâm của chế độ mới trong việc thanh lọc những phần tử nguy hiểm cho CS này. Mũi tập trung vào các vấn đề quốc nội này cũng tiếp tục nổi bật trong những bài diễn văn hiếm hoi của ông trước công chúng. Trong một diễn từ tại Chùa Từ Đàm vào ngày 1 tháng Mười, cũng như trong một thư ngỏ gửi Phật tử đăng tải hôm sau trên báo Lập Trường, Trí Quang thậm chí không hề nhắc đến cuộc chiến đang xảy ra (41). Nếu có một người nào đọc bài diễn văn và bức thư ngỏ của Trí Quang mà không mảy may hay biết gì về Chiến tranh Việt Nam, người đó sẽ kết luận chắc nịch rằng cuộc xung đột đang xảy ra chỉ là một cuộc nội chiến giữa một bên là tín đồ Phật giáo và bên kia được gọi là bọn Cần Lao áp bức. Người Mĩ, Việt Cộng và Bắc Việt thậm chí không giữ được những vai phụ biên (peripheral players) trong các phát biểu quan điểm công khai của Trí Quang , với Trí Quang chỉ có con đường duy nhất làm suy yếu miền Nam để giành chiến thắng, và cai trị miền Nam cho ông là phải tiêu diệt , phân hóa miền Nam, chia rẻ tôn giáo. Khi Trí Quang bàn chuyện với các giới chức Hoa Kì trong giai đoạn này về chiến tranh và tình hình quốc tế, quan điểm trước sau như một của ông vẫn là chống cộng và thân Mĩ. Trong một phát biểu mà chắc nhiều người phản chiến cũng biểu đồng tình, Trí Quang đã trấn an giới chức Hoa Kì rằng bản thân ông và tín đồ Phật giáo không bao giờ bài Mĩ, “ mặc dù đôi khi họ phản đối một số chính sách nhất định nếu xét thấy những chính sách đó sai lầm hay thiếu khôn ngoan ” (42). Tháng Mười 1964, Trí Quang cam đoan với giới chức Hoa Kì rằng bản thân ông và phong trào Phật giáo từ nay sẽ dồn hết tâm trí vào sự nghiệp chống cộng. Với viễn cảnh đầy hứa hẹn về một chính phủ dân chủ hơn và sự thất bại của Hiến chương Vũng Tàu của Khánh, Trí Quang tin rằng Phật tử từ nay có thể “ hướng nỗ lực chính vào việc chống cộng ” (43). Mối quan ngại của Trí Quang về chủ nghĩa cộng sản vượt cả ra ngoài biên giới Việt Nam. Sau khi Trung Quốc có bom nguyên tử, Trí Quang nghĩ rằng tín đồ Phật giáo cần phải “ hoạt động trên trường quốc tế nhằm hỗ trợ cho việc tạo sức đề kháng của Phật giáo chống lại sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á ” (44). Theo ông, khả năng về vũ khí hạt nhân của Trung Quốc đòi hỏi phải “ tăng cường gấp bội khả năng chiến tranh quy ước của Mĩ cũng như gia tăng sức mạnh tự vệ của chính các nước châu Á nhằm chống lại sự bành trướng và xâm nhập của Trung Quốc ”. Đối với Trí Quang, mối quan tâm về Trung Quốc nghiêm trọng đến nỗi ông muốn xuất ngoại để nói với Phật tử các nước khác về “ sự cần thiết phải duy trì sự hiện diện của Mĩ ở châu Á ” (45). Không có gì đáng ngạc nhiên nếu như khoảng tháng Mười Một năm 1964, giới chức Hoa Kì vẫn rất hài lòng với tư duy và ý kiến chính trị của phong trào Phật giáo : “ thái độ của giới Phật tử Trí Quang khá thuận lợi và sự cần thiết của sự hiện diện của Mĩ ở Việt Nam và ở những nước châu Á khác được họ nhìn nhận ” (46). Trí Quang giở trò đánh hỏa mù để che dấu mục tiêu cao cả của mình là phân hóa miền Nam , dọn đường cho CS : Tuy nhiên, sự đằm thắm tương đối trong quan hệ của Mĩ đối với Trí Quang sau cuộc khủng hoảng tháng Tám chỉ là một sự lắng dịu tạm thời trước khi nổ ra một cơn bão tố thậm chí mãnh liệt hơn. Bề ngoài, Trí Quang và phong trào Phật giáo tỏ vẻ hoan nghênh sự chuyển tiếp sang một chế độ dân sự mới, nhưng chẳng mấy chốc sự thể trở nên hiển nhiên là, một số phần tử trong phong trào Phật giáo quay ra phản đối vị thủ tướng mới, Trần Văn Hương. Sự xuất hiện nhanh chóng phong trào chống đối Hương làm cho người Mĩ tưng hửng vì trong quá khứ ông Hương là người đã sớm lớn tiếng chỉ trích chế độ T Th Diệm. Vào ngày 30 tháng Mười chính Trí Quang cũng đã bày tỏ với người Mĩ sự hậu thuẩn của ông dành cho Hương, nhưng chưa được một ngày sau đó ông thay đổi ý kiến, nói rằng bây giờ ông lại đồng ý với những kẻ cho rằng Hương “ quá già nua, thiếu khả năng, không có chương trình hành động rõ ràng và bị bọn chính khách xôi thịt vây quanh ”(47). Việc ông Hương nhấn mạnh các trọng điểm như đoàn kết , vãn hồi trật tự xã hội và đặt tôn giáo ra ngoài chính trị và học đường, cũng đổ thêm dầu vào ngọn lửa đấu tranh của Phật giáo nhắm vào chế độ ông. Vào cuối tháng Mười Một 1964, phong trào Phật giáo Trí Quang ở Sài Gòn cổ vũ những cuộc biểu tình nhằm buộc ông Hương từ chức thủ tướng. Phong trào Phật giáo thường được các sử gia coi như là bị phân hóa giữa một cánh ôn hoà do Thích Tâm Châu lãnh đạo và một cánh triệt để hơn do Trí Quang cầm đầu. Tuy nhiên, cuộc tranh đấu chống chế độ ông Hương cho thấy rõ rằng phân loại như thế là sai trật. Trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, chính Tâm Châu là người đóng vai trò tiên phong trong việc sách động sinh viên và tín đồ chống lại ông Hương. Trong khi các cuộc biểu tình diễn ra sôi sục ở Sài Gòn, địa bàn nằm dưới ảnh hưởng của Tâm Châu, thì chẳng có cuộc xuống đường nào diễn ra trên cứ địa của Trí Quang tại Huế. Trí Quang giải thích rõ với giới chức Hoa Kì là ông không ủng hộ hành động chống ông Hương công khai vào giai đoạn này. Hơn một lần Trí Quang cũng nói rằng Tâm Châu đã sai lầm khi tự để những thế lực bên ngoài giật dây trong việc kêu gọi dân chúng biểu tình (48). Thật vậy, suốt trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, giới chức Hoa Kì vẫn cứ tiếp tục tin tưởng Trí Quang thật sự không muốn đẩy thêm một cuộc khủng hoảng chính phủ nữa và họ có phần hi vọng ông sẽ đóng vai một lực tiết chế đối với Tâm Châu và phong trào Phật giáo nói chung (49). Tuy nhiên, giữa Trí Quang và Tâm Châu dù có bất cứ dị biệt nào vào lúc khởi đầu của cuộc vận động chống ông Hương đi nữa, những dị biệt này cũng chưa đủ lớn để giới chức Mĩ có thể li gián hai nhà sư. Cương quyết đòi hỏi ông Hương phải từ chức, Trí Quang và Tâm Châu bắt đầu một cuộc tuyệt thực chung ngày 12 tháng Chạp. Những người hoạch định chính sách Mĩ ủng hộ Hương hết mình trong cuộc đối đầu với phe Phật giáo. Đại sứ Maxwell Taylor không tin rằng phe Phật giáo đưa ra được kêu nài nào chính đáng nhắm vào chính phủ Hương và ông ta nghĩ rằng điều rất quan trọng là chính phủ Nam Việt Nam phải có lập trường cứng rắn đối với những nhóm phản đối “ thiểu số nhưng to tiếng ” (50). Mặc dù trong thực tế cả Trí Quang và Tâm Châu đều bày tỏ ý muốn thương thuyết để giải quyết những bất đồng với chế độ Hương cũng như muốn nhờ Hoa Kì làm trung gian để giải quyết cuộc xung đột, nhưng Taylor không muốn gặp hai nhà sư này hay làm trung gian hoà giải giữa phe Phật giáo và chế độ Hương. Taylor còn phản bác ý kiến nhờ Lodge gửi một lá thư cho Trí Quang hay đưa ra hứa hẹn Mĩ sẽ viện trợ kinh tế rồi giao cho phe Phật giáo kiểm soát (51). Lập trường không khoan nhượng của Taylor nhắm vào Trí Quang và phong trào Phật giáo chắc chắn là một lập trường có thể thuyết phục được, nhưng nó cũng chắc chắn sẽ làm cho cuộc khủng hoảng kéo dài thêm. Phe Phật giáo và Taylor có một kẻ thù chung [là Tướng Khánh] sau khi Khánh bãi bỏ Thượng Hội Đồng vào ngày 20 tháng Chạp 1964, nhưng Taylor không thiết tha theo đuổi một đường lối có lẽ đã khai thác được mối ngờ vực lâu ngày của Trí Quang đối với Khánh (52). Loại chế độ chính trị nào mà Trí Quang muốn thấy cầm quyền ở Miền Nam thì cũng không rõ ràng cho lắm. Có khi, ông ỡm ờ gợi ý chỉ cần thay Hương bằng một nhân vật có thiện cảm hơn với Phật giáo như Phan Huy Quát chẳng hạn thì phong trào Phật giáo sẽ chấm dứt những cuộc chống đối. Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ với giới chức Hoa Kì rằng ông sẵn sàng ủng hộ một chính phủ thậm chí độc tài hơn miễn là chính phủ đó “ thật sự cách mạng kiểu Trí Quang” (53). Nếu một chế độ như thế chịu đặt Đảng Cần Lao (?) đã giải thể và bỏ tù ra ngoài vòng pháp luật, Trí Quang sẵn sàng chấp nhận việc chế độ ấy có đủ toàn quyền cấm chỉ đình công, giới hạn tự do ngôn luận và tiết chế các đảng phái chính trị, những đảng mà theo ông phải có “ mục tiêu chống cộng triệt để và lí tưởng chống trung lập rõ ràng dứt khoát ” (54). Mặc dù Trí Quang hiển nhiên không thu hút đủ hậu thuẫn để thay đổi sâu rộng Chính phủ VNCH, nhưng ông đã có thể vận động kết liễu chính phủ Hương vào cuối tháng Giêng bằng cách dành hậu thuẫn Phật giáo cho Khánh. Những người làm chính sách Mĩ đã bị sốc khi thấy rằng lại một lần nữa thầy tu Trí Quang có thể đóng vai một kẻ toàn quyền thế tục để chọn lựa lãnh tụ (kingmaker) cho sân khấu chính trị Miền Nam. Vì đã hoàn toàn gắn chặt uy tín của Hoa Kì vào việc phải duy trì một chính phủ dân sự, các nhà phân tích CIA ngày càng quan ngại về tương lai của việc điều hành quốc gia ở Miền Nam. Đòn bẩy chính trị của Mĩ đã bị yếu đi nhiều lắm rồi, và CIA kết luận phe Phật giáoTrí Quang “ đủ mạnh để vô hiệu hoá bất cứ dàn xếp chính trị nào mà lãnh đạo của họ quyết tâm chống đối ” (55). Sau vụ đảo chánh, cũng dễ hiểu thôi, các nhà phân tích của Mĩ lại trở về với câu hỏi, liệu những nỗ lực của Trí Quang có bị thúc đẩy do cảm tình hay móc nối với cộng sản hay không ? Sử gia Moyar cho rằng Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn ngày càng nghiêng về luận cứ rõ ràng hơn lá bài Trí Quang về cái gọi là phong trào Phật giáo là hoàn toàn do cộng sản xúi giục : Viên chức Toà Đại sứ vẫn tin tưởng rằng hầu hết các vị lãnh đạo chóp bu của Phật giáo đều có tinh thần chống cộng, nhưng càng ngày càng có thêm nhiều viên chức tin rằng rằng Trí Quang đang lộ ra là người cộng tác với Cộng sản. Các chuyên gia Toà Đại sứ nhất trí rằng những lãnh đạo Phật giáo , đặc biệt là những người thân cận với Trí Quang, đang liên minh chặt chẻ với Cộng Sản(56). Để chứng minh cho sự đánh giá này, Moyar viện dẫn một chứng liệu duy nhất, tiếc rằng tư liệu ấy lại không phải như vậy. Đó là điện văn ngày 31 tháng giêng, đánh đi từ Toà Đại sứ, do nhân viên Toà Đại sứ và những viên chức tình báo – những người thường xuyên tiếp xúc với Trí Quang và phong trào Phật giáo – cùng biên soạn, nhưng chính Taylor đích thân chuẩn y bức điện bằng cách nói rằng nó cũng phản ánh quan điểm của các viên chức cấp cao. Sau khi nhìn nhận mọi cách thế theo đó các hoạt động của phong trào Phật giáo đã làm tổn hại nghiêm trọng cho sự nghiệp chống cộng, các viên chức Toà Đại sứ nhấn mạnh dứt khoát rằng vào lúc này họ “ không chia sẻ quan điểm cho rằng các lãnh đạo Phật giáo cố tình đứng về phe Cộng sản hay rằng những mục tiêu của họ bao gồm việc cố tình tạo ra một tình thế trong đó cộng sản sẽ giành được quyền kiểm soát chính trị ở Miền Nam Việt Nam… Nói tóm lại, giả thuyết các lãnh đạo của GHPGVNTN hoạt động trực tiếp cho cộng sản không đáng tin bằng cách lí giải thích rằng họ hoạt động cho chính họ, sử dụng những phương tiện vô trách nhiệm nhằm theo đuổi mục đích của mình, và điều này là cùng mục tiêu mong muốn của CS và bị Cộng sản khai thác lợi dụng ” (57). Tuy rất lo ngại về chiến thuật và ý tưởng của vài người trong đám thân cận với Trí Quang và Tâm Châu, các viên chức toà đại sứ nhất định chưa “ đồng ý ” rằng điều này có nghĩa là họ đang liên minh với Việt Cộng. Chắc chắn Toà Đại sứ Mĩ ở Sài gòn thực sự nghĩ rằng cộng sản đang gia tăng nỗ lực xâm nhập hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo, nhưng điểm quan trọng họ nêu ra ở đây là chưa một tin đồn nào về việc móc nối VC được coi là có bằng chứng cụ thể, và toà đại sứ lặp lại kết luận là cộng sản chưa chi phối hoàn toàn được chính sách của GHPGVNTN (58). Sau cùng, điều khá lí thú về quan điểm của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn là chính Toà Đại sứ lại lo lắng về một chính phủ có nhiều nhân vật thân cận với Tâm Châu, vị sư thường được coi là chống cộng hơn [Trí Quang], hơn là lo lắng về một chính phủ mà thành viên là người thân cận với Trí Quang. Quan chức Bộ Ngoại giao Mĩ ở Washington hoàn toàn chuẩn y quan điểm của Toà Đại sứ ở Sài gòn. Khi kí giả Marguerite Higgins đăng một bài trên báo The Washington Star cảnh báo rằng chính quyền Johnson cần phải thức tỉnh đối với Trí Quang và điều mà nhà báo gọi là những âm mưu của ông ta với các lảnh tụ cộng sản, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk chỉ thị người đứng đầu Đoàn Công tác Việt Nam (the Vietnam Working Group / VWG) trả lời riêng với Higgins. Thomas Corcoran, Giám đốc VWG, nhận định nghiêm chỉnh rằng không có chuyện các nhân viên tình báo biết chắc Trí Quang có móc nối Cộng sản và cũng không có chuyện dữ liệu này phần nào đang bị những người làm chính sách ở Washington ém nhẹm. Đích xác dựa vào ý kiến của các nhân viên nói tiếng Việt của toà đại sứ, Corcoran lí luận rằng không ai có thể đưa ra bất cứ một nhận xét tối hậu hay dứt khoát nào về mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang. Mặc dù một số lời nói và việc làm của phong trào Phật giáo có thể làm lợi cho cộng sản, Corcoran ghi nhận rằng “ họ cũng làm được nhiều việc nhằm chống lại và chặn đứng âm mưu của cộng sản nhằm nới rộng quyền kiểm soát lên đầu dân chúng Việt Nam ” (59). Sau khi ông Hương mất ghế thủ tướng chính phủ, Trí Quang tìm cách trấn an Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn rằng những nỗ lực của ông không phản ánh của một tinh thần cơ bản chống Mĩ. Trả lời phỏng vấn của những tờ báo tiếng Anh ở Sài Gòn, Trí Quang nhìn nhận có sự phẩn uất của phía Phật giáo đối với Đại sứ Taylor và đối với sự hậu thuẫn mà Mĩ dành cho ông Hương, nhưng ông cũng biện luận rằng người Phật tử không thể có tinh thần bài Mĩ : “ Không có chuyện chống Mĩ. Người ta chỉ có thể chống Mĩ nếu người ta theo Cộng sản hay theo chủ nghĩa sô-vanh. Vì Phật giáo không phải là cộng sản và cũng không phải là sô-vanh, nên không có chủ trương chống Mĩ ” (60). Trong các đàm đạo riêng tư với nhiều viên chức toà đại sứ, Trí Quang cố truyền đạt đại ý rằng ông vẫn còn là một đồng minh vững chắc của chính phủ Hoa Kì và rằng ông rất buồn phiền vì hành động cực đoan của vài người cộng sự trong phong trào Phật giáo. Mặc dù, cũng dễ hiểu là, người Mĩ đang thất vọng về tình hình Việt Nam, nhưng Trí Quang không tin là Hoa Kì có thể hay phải chấp nhận khả năng thất bại. Trong khi lặp lại một ý kiến trước đây của ông rằng có loại trung lập chấp nhận được và có loại trung lập không thể chấp nhận được cho Việt Nam, Trí Quang lí giải với các viên chức Mĩ rằng “ Sự hiện diện của Hoa Kì vẫn còn rất cần thiết ở Việt Nam nhằm chặn đứng một cuộc xâm chiếm của cộng sản. Vẫn còn hi vọng chiến thắng ; Hoa Kì không được nản lòng và bỏ cuộc. Nhưng Hoa Kì phải có tư tưởng của kẻ chiến thắng và chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm của mình trong nỗ lực chiến tranh ” (61). Nhưng, điều mà Trí Quang coi là trách nhiệm của chính bản thân ông trong nỗ lực chiến tranh là gì thì vẫn rất khó nhận ra. Vào đầu tháng Hai 1965, theo tường trình của CIA, Trí Quang đã nói rằng “ ông sẽ lấy làm rất sung sướng để hoạt động trong những chương trình chống cộng có phạm vi rộng lớn… quân đội và người Mĩ có thể chiến đấu trên chiến trường nhưng người Phật tử sẽ theo đuổi chiến tranh tâm lí, trận chiến mà ông cho là quan trọng hơn quân sự rất nhiều ” (62). Mặc dù có nhiều lí do để thắc mắc Trí Quang đã chân thật đến mức độ nào khi diễn tả nhiệt tình chống cộng, nhưng những nhà hoạch định chính sách Mĩ hình như không bao giờ quan tâm khai thác năng lực phong phú của Trí Quang theo chiều hướng này. Sự thiếu quan tâm này được giải thích phần nào là do sự thiếu tin tưởng mà giới chức Hoa Kì dành cho Trí Quang và do mối lo sợ rằng những chương trình chống cộng của ông có thể gây trở ngại cho các mục tiêu của Hoa Kì hay Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Tuy nhiên, rõ ràng là các viên chức Mĩ đã chấp nhận quan điểm cho rằng những nỗ lực chống cộng của Trí Quang có thể thành công cao độ nếu ông không bị coi như một kẻ hoàn toàn liên minh với chính phủ Hoa Kì. Việc Trí Quang bày tỏ ước muốn hoạt động độc lập đằng sau hậu trường cũng có thể là một cách hợp lí hoá qua loa cho sự không hoạt động gì cả, nhưng thực tình mà nói, ông cũng đã ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Mĩ vào mùa xuân năm 1965. Vào khoảng tháng Hai 1965 giới chức Hoa Kì tỏ ra rất lo ngại rằng phong trào Phật giáo sẽ công khai chấp nhận đề nghị chấm dứt chiến tranh thông qua một sự dàn xếp bằng đàm phán với MTDTGPMN. Những lo ngại này bỗng trở thành hiện thực vào cuối tháng khi Thích Quảng Liên công bố một tuyên ngôn kêu gọi các lực lượng của MTDTGPMN và Mĩ cùng rút ra khỏi Miền Nam. Quảng Liên, một nhà sư nổi tiếng từng học ở Đại học Yale, đã đưa vào trong bản tuyên ngôn những lời tri ân về viện trợ Mĩ trong quá khứ, nhưng những tuyên bố như thế không thế nào thay đổi sự báo động của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn về một lời kêu gọi mà họ cho là ngây thơ và nguy hiểm (63). Liền sau khi bắt đầu chiến dịch dội bom Rolling Thunder (Sấm Động) đánh vào Miền Bắc, giới chức Mĩ lo ngại rằng lời kêu gọi một cuộc dàn xếp bằng đàm phán của phong trào Phật giáo sẽ gây trở ngại cho khả năng điều hành cuộc chiến. Trí Quang hoàn toàn chia sẻ mối quan ngại của toà đại sứ về những hoạt động của phong trào hoà bình Thích Quảng Liên. Điều có ý nghĩa là, khi được một viên chức toà đại sứ hỏi là liệu đề xuất của ông có được hậu thuẫn của giới lãnh đạo Phật giáo hay không, Quảng Liên chỉ trả lời bản tuyên ngôn được sự ủng hộ của Tâm Châu, nhà sư thường được cho là “ôn hoà”. Quảng Liên không nói rõ là nó có được sự hậu thuẫn của nhà sư “cực đoan” Trí Quang hay không và Quảng Liên phát biểu như thế cũng phải thôi vì Trí Quang cực lực phản đối một lời kêu gọi đàm phán tức khắc (64). Thực vậy, Trí Quang ủng hộ hết mình chiến dịch Rolling Thunder và hơn thế nữa còn cổ vũ nới rộng phạm vi chiến dịch. Theo quan điểm của ông, “ Chúng ta phải tiếp tục những vụ oanh kích trên Miền Bắc như một phần cần thiết của cuộc tấn công quân sự - ngoại giao. Những cuộc oanh kích này không nhất thiết chỉ giới hạn trong việc trả đũa những vụ VC tấn công vào căn cứ và nhân viên của Mĩ, vì nếu chỉ làm như thế thì sẽ có hại cho tinh thần chiến đấu của người Việt Nam, những cuộc oanh kích này phải được sử dụng để trả đũa chiến dịch chung của VC nhằm chống phá Miền Nam và chống phá chính nhân dân ” (65). Nếu những hành động quân sự của Mĩ có đáng phê phán chăng, Trí Quang chỉ nhận thấy chúng có vấn đề ở chỗ là không đi tới nơi tới chốn. Dùng một loại ngôn từ và lí luận mà các nhà chiến lược Mĩ có thể hiểu trọn vẹn, Trí Quang cho rằng chiến dịch dội bom lên Miền Bắc phải “ được tập trung trong một thời gian ngắn và với cường độ gia tăng nhanh chóng để buộc Bắc Việt có phản ứng càng sớm càng tốt và để tránh việc cho cộng sản có đủ thời gian chuẩn bị về mặt tâm lí và quân sự ” (66). J. D. Rosenthal, viên chức toà đại sứ Mĩ gần gũi nhất với Trí Quang trong suốt giai đoạn này, vô cùng ngạc nhiên về việc ông đã có thể dẹp qua một bên bất cứ nỗi dằn vặt nào trong đức tin liên quan tới chiến dịch Rolling Thunder. Thật vậy, theo Rosenthal, “ Chẳng những không có một e ngại luân lí và đức lí nào về những trận dội bom của Mĩ, ông lại tỏ vẻ lo lắng rằng cơ hội do những vụ oanh tạc này mang lại sẽ bị lãng phí vì chúng không đạt đến mức độ ác liệt cần thiết ” (67). Việc Trí Quang công khai tán thành chiến dịch Rolling Thunder lẽ ra có thể chống đỡ phần nào cho lập trường của Mĩ vào thời điểm nó bị chỉ trích gay gắt bởi một quần chúng quá lo ngại về những hệ quả của một chiến dịch dội bom rộng lớn trên Miền Bắc. Bộ Ngoại giao Mĩ cho rằng nếu toà đại sứ có thể yêu cầu Trí Quang công bố lập trường của ông cho đông đảo quần chúng, đó sẽ là một điều “ rất đáng mong ước ” (68). Tuy nhiên, vấn đề là, cả Trí Quang lẫn Toà Đại sứ Mĩ đều không chia sẻ quan điểm cho rằng nếu ông công khai ủng hộ các cuộc oanh tạc thì đó hiển nhiên là điều rất đáng mong ước. Như Trí Quang lí giải với nhiều viên chức ở toà đại sứ, không ai có thể kì vọng một vị lãnh đạo tinh thần lại công khai hậu thuẫn tiến trình bạo lực của một hành động quân sự. Sau khi nghe Trí Quang giải thích lập trường của mình, Rosenthal không phản đối quyết định của ông và “ trấn an ông chúng ta thông cảm lập trường ấy ” (69). Việc Trí Quang không chịu công khai ủng hộ chiến dịch Rolling Thunder chắc chắn không có nghĩa là lập trường của ông không phù hợp hay không có ích cho nỗ lực của Mĩ tại Việt Nam. Hoạt động trong hậu trường, Trí Quang đã góp phần đảm bảo rằng tuyên ngôn hoà bình của Thích Quảng Liên sẽ không có ảnh hưởng rộng lớn. Chưa được ba tuần sau khi Quảng Liên công bố lời kêu gọi hoà bình, phong trào của ông phải chấm dứt, một phần do chính quyền đàn áp và một phần vì những nỗ lực của Trí Quang nhằm đảm bảo lời kêu gọi đó không được phong trào Phật giáo tán thành. Chính Trí Quang không có một ngần ngại nào về việc dùng bàn tay đàn áp của chính quyền để bẻ gãy phong trào hoà bình. Khi chính phủ VNCH đề nghị trục xuất ba thành viên của phong trào hoà bình ra Miền Bắc như một cách trừng phạt họ, ông cho rằng đó là một ý kiến “ tuyệt vời ” (70). Trong một cuộc đàm luận một tháng sau đó với Thủ tướng Phan Huy Quát, theo tin tiết lộ, Trí Quang đã nói với vị thủ tướng rằng lẽ ra Quảng Liên phải bị bắt giữ và phong trào hoà bình của ông ấy phải bị xử lí nghiêm khắc như tất cả các phong trào hoà bình khác (71). Quan hệ của Mĩ với phong trào Phật giáo chưa bao giờ tích cực như trong mùa Xuân 1965. Trí Quang và một số Phật tử khác từ lâu đã tiến cử Phan Huy Quát vào một vai trò lãnh đạo trong chính phủ và việc bổ nhiệm ông vào chức vụ thủ tướng đã thực sự chấm dứt sự chống đối của Phật giáo nhắm vào chính phủ. Rất hài lòng với thành phần chính phủ VNCH, Trí Quang cuối cùng đã quay sang chiến dịch chống cộng mà ông mãi hứa hẹn từ lâu. Vì lí do VC gia tăng hoạt động ở Miền Trung, phe Phật giáo phải tăng cường những biện pháp chống lại sự xâm nhập của cộng sản vào hàng ngũ của họ và tránh tham dự các cuộc biểu tình do Việt Cộng đỡ đầu (72). Nhiều viên chức Toà Đại sứ có ấn tượng sâu sắc với tinh thần chống cộng được biểu dương bởi các sinh viên trong Đoàn Sinh viên Phật tử (73). Theo tường trình của các phân tích gia CIA, “ nhiều nhà lãnh đạo Phật giáo đã từng bước âm thầm bày tỏ một thái độ chống cộng cứng rắn hơn ”(74). Cái tâm trạng não nề về sức mạnh Phật giáo đã trùm lên các nhà hoạch định chính sách Mĩ vào tháng Giêng giờ đây được thay thế bằng một thái độ lạc quan dè dặt về khả năng cộng tác với giới Phật giáo. Trong khi nhìn nhận rằng việc cộng tác với Phật giáo trong một cuộc vận động chống cộng có thể đặt ra một số rủi ro nhất định, Phó Giám đốc Kế hoạch của CIA, Richard Helms, đề nghị rằng Hoa Kì phải chơi một “ ván bài vừa phải ” và âm thầm hậu thuẫn phe Phật giáo nhiều hơn nữa(75). Sự hợp tác mật thiết hơn nữa giữa Hoa Kì và Trí Quang mà Helms mường tượng trong trí đã không thành tựu. Trí Quang tiếp tục phát biểu càng ngày càng nhiều tư tưởng diều hâu về cuộc chiến trong các cuộc gặp riêng với giới chức Hoa Kì, nhưng những hiểm hoạ trong khả năng cộng tác chặt chẽ hơn nữa với ông được phơi bày rõ nét trong một lá thư ông gửi cho Henry Cabot Lodge vào tháng Năm 1965. Trí Quang ít khi liên hệ với giới chức Mĩ qua thư từ chính thức và rõ ràng là lá thư này tiêu biểu cho một nỗ lực diễn đạt những tâm tư sâu kín nhất của ông về tình hình Việt Nam. Điều đáng tiếc là, những suy nghĩ được diễn tả trong thư tiết lộ rằng cuộc xung đột tôn giáo ở Việt Nam vẫn là quan tâm hàng đầu của Tri Quang. Theo cách nhìn của ông, người Công giáo không phải là những người thực tâm chống cộng trong khi người Phật giáo thì cho rằng chính sách của Mĩ có khuynh hướng ưu đãi đạo Công giáo. Người Mĩ bị dân chúng coi là không khác gì người Pháp trong việc “ dùng người Công giáo để tiêu diệt Phật tử ”. Nếu Hoa Kì muốn khỏi bại trận, họ không còn cách nào khác hơn là phải đảo ngược chính sách của mình và chủ trương một chính sách cách mạng, một chính sách mà nội dung cơ bản, theo Trí Quang, là “ các phần tử Công giáo Cần Lao ác ôn và bè lũ Đại Việt phản động phải bị loại trừ ” (76). Khỏi cần phải nói, những người hoạch định chính sách Hoa Kì lấy làm kinh hoàng trước những cảm nghĩ mà Trí Quang biểu lộ trong thư. Như vậy, chẳng bao giờ có được một cơ may dù mong manh nhất để Hoa Kì thoả thuận với Trí Quang và theo đuổi một chiến lược chính trị đặt cơ sở trên ưu tiên hàng đầu là bài trừ Công giáo ở Miền Nam. Vì không nhất trí về bản chất đích thực của cuộc xung đột ở Miền Nam, cả hai bên gặp phải những giới hạn thực tế trên mức độ có thể hợp tác với nhau. Quyết định của các tướng lãnh Miền Nam trong việc giải nhiệm Thủ tướng Quát năm 1965 đã đưa đến một sự thay đổi đáng lưu ý trong mối quan hệ của Trí Quang với Hoa Kì. Sự thay đổi này gần như không có gì liên quan đến việc chống đối những kế hoạch leo thang chiến tranh của Mĩ hay chống đối trên nguyên tắc sự chấm dứt chính phủ dân sự ở Sài Gòn. Cũng như bản thân của các tướng lãnh, Trí Quang thường chỉ trích Quát về việc ông ta điều hành cuộc chiến thiếu hăng say (77). Thật vậy, Trí Quang tiếp tục cổ vũ những đường lối quân sự nằm quá tầm dự kiến của những người làm chính sách Hoa Kì. Mãi đến tận tháng Bảy 1965, Trí Quang còn nói với các giới chức Hoa Kì rằng ông ủng hộ một cuộc đổ bộ liên quân [Việt-Mĩ] lên Miền Bắc và ông còn nghĩ rằng chính quyền Johnson cần phải triệt hạ khả năng hạt nhân của Trung Quốc (78). Sau khi tiếp xúc với các người Mĩ vận động hoà bình trong Tổ chức Hoà giải (Fellowship of Reconciliation), Trí Quang nói với các viên chức toà đại sứ rằng ông thấy những người ấy “ tuyệt đối chẳng biết gì ” và ông đã cho họ biết chiến tranh ở thời điểm này là cần thiết cho nhân dân Việt Nam(79). Trí Quang cũng không mấy bận tâm về việc làm trái nguyên tắc chính quyền dân sự. Như đã từng phát biểu trong quá khứ, Trí Quang tin rằng một chế độ quân nhân có thể dễ thực thi những biện pháp cách mạng và dễ áp dụng kỹ luật cần thiết cho việc điều hành cuộc chiến hiệu quả hơn (80). Những chỉ trích của Trí Quang nhắm vào tân chính phủ đặt cơ sở trên một yếu tố đơn giản, một yếu tố dễ tiên đoán nếu người ta chịu nghiên cứu quá khứ của ông, đó là việc chỉ định Nguyễn Văn Thiệu làm Quốc trưởng [Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, ND]. Thiệu, một tín đồ Công giáo, từ lâu đối với Trí Quang đã là biểu tượng chính cho sự ngoan cố của chính phủ VNCH không chịu dứt khoát với chế độ Công giáo trị của thời Diệm. Trước đó, Trí Quang đã nuôi hi vọng Tướng Nguyễn Chánh Thi, một người nổi tiếng thân Phật giáo, sẽ được chọn vào chức vụ mà Thiệu vừa nắm giữ. Sau khi kể hết những điều mà ông cho là tội ác chống Phật giáo của Thiệu trong quá khứ, Trí Quang nói với các viên chức Hoa Kì rằng ông tin rằng Thiệu là tay sai của CIA được dựng lên “ nhằm đảm bảo một chính phủ sẵn sàng đáp ứng mọi tham vọng của Mĩ một khi chúng ta đã gửi đến nửa triệu quân sang đây ” (81). Tuy vậy, mặc dù giọng điệu chống đối chế độ mới của Trí Quang rất giống với giọng điệu ông sử dụng trong quá khứ, hành động của ông bây giờ được tự chế hơn nhiều. Thật vậy, giai đoạn từ tháng Sáu 1965 cho đến cuộc khủng hoảng Phật giáo tháng Ba 1966 rõ ràng là thời gian ổn định nhất trong thời kì tiếp theo sau chế độ Diệm. Cuộc khủng hoảng Phật giáo 1966 và sự thất bại của Mĩ tại Việt Nam Nếu Trí Quang là một điệp viên cộng sản trong Chiến tranh Việt Nam, thì thật chẳng cường điệu chút nào khi cho rằng Bắc Việt đã thực hiện được “ một trong những kì công vận dụng tài tình nhất và hiệu quả nhất hoạt động bí mật trong lịch sử ” (82). Các nhà phân tích tình báo Mĩ ở Sài Gòn và Washington đã nhiều lần xem xét khả năng này để rồi luôn luôn phải kết luận rằng chứng liệu tìm thấy không biện hộ cho lời cáo buộc. Các nhà phân tích này không hề nhắm mắt làm ngơ đối với những sai lầm của Trí Quang cũng như đối với những cản trở ông tạo ra trên con đường dẫn đến một chính phủ VNCH ổn định có khả năng điều hành cuộc chiến hữu hiệu. Mặc dù người ta không bao giờ có đủ chứng cớ để phản bác luận cứ cho rằng Trí Quang chỉ lừa bịp các nhà phân tích Mĩ bằng những tư tưởng chống cộng diều hâu của ông, nhưng cũng nên nhớ rằng các đối tượng nghe ông nói không phải là những người chủ hoà cả tin hay các trí thức hàn lâm đầy lí tưởng, nhưng là những nhà phân tích tình báo dày dạn với quyết tâm giành thắng lợi trong chiến cuộc Việt Nam như John Negroponte và George Carver. Như Carver ghi nhận, ý kiến cho rằng Trí Quang chỉ đưa ra những tư tưởng chống cộng và chủ chiến để lấy lòng các viên chức Mĩ “ không có khả năng thuyết phục chút nào đối với bất cứ ai đã trực tiếp thảo luận những vấn đề ấy với ông ” (83). Đương nhiên là, những nỗ lực của Trí Quang cũng chẳng đóng góp được gì cho sự nghiệp chống cộng và, bất chấp mọi ý định của ông, những can thiệp của ông vào sinh hoạt chính trị Miền Nam thường thường rốt cuộc chỉ có lợi cho những mục tiêu của cộng sản và MTDTGPMN. Các nhà phân tích Mĩ nhiều lần nhìn nhận thực tế phũ phàng này, nhưng họ coi vấn đề này như một sai lầm trí tuệ về phía Trí Quang, một sai lầm có gốc rễ trong cá tính, hơn là một mưu đồ có ý thức. Những can thiệp thường xuyên vào chính sự và những lời kêu gọi đòi hỏi một “ cuộc cách mạng xã hội ” mơ hồ của ông vốn đã không phù hợp với mục tiêu của Mĩ về ổn định chính trị và xã hội. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích tình báo Mĩ chắc chắn đã nhìn nhận rằng luận cứ của ông không hẳn là thiếu chính đáng hay sai lầm ; nghĩa là, Mĩ và VNCH không thể thắng được cuộc chiến trừ phi chính phủ Miền Nam phản ánh được nguyện vọng của nhân dân và quy tụ được quần chúng để chống lại MTDTGPMN. Trí Quang chắc chắn không đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, hay thậm chí đa số Phật tử, nhưng rõ ràng là ông đại diện cho một lực lượng chính trị hùng hậu và có tổ chức. Ngay trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo, các nhà phân tích tình báo Mĩ vẫn chưa tìm được cách chuyển hướng hành động của Trí Quang đi theo những đường lối xây dựng hơn, nhưng họ cũng loại bỏ ý kiến cho rằng Trí Quang hay phong trào Phật giáo do ông lãnh đạo cần phải cho qua một bên, không cần đếm xỉa đến. Bẽ bàng là, chính Henry Cabot Lodge lại là người lãnh trách nhiệm chính trong việc thay đổi đường lối của Mĩ đối với Trí Quang trong cuộc khủng hoảng Phật giáo 1966. Với vai trò là kẻ bao che Trí Quang khỏi bàn tay của Diệm trong cuộc khủng hoảng 1963, Lodge được Phật tử coi là một nhân vật thân Phật giáo, cũng dễ hiểu thôi. Lodge bắt đầu phê phán gay gắt những sách động bài Công giáo của Trí Quang trong các vụ án xử Thiếu tá Đặng Sĩ và Ngô Đình Cẩn, nhưng mãi đến tận tháng Ba 1965, ông vẫn khuyên chính quyền Johnson đừng từ bỏ khối tín đồ Phật giáo vì họ có vai trò rất quan trọng ở Miền Nam (84). Tuy vậy, trong suốt cuộc khủng hoảng Phật giáo 1966, Lodge lại quay ra ủng hộ lập trường của Chính phủ VNCH cương quyết đối đầu với phong trào tranh đấu Phật giáo. Lodge hoàn toàn ủng hộ quyết định của Kỳ cách chức tư lệnh Vùng I của Tướng Nguyễn Chánh Thi mặc dù Thi được coi là rất được lòng quần chúng Phật tử. Trong khi nhìn nhận ông không thể trưng ra chứng cớ, Lodge vẫn chấp nhận ý kiến cho rằng Trí Quang và một số nhân vật Phật giáo khác đang cố tình phục vụ những mục tiêu của cộng sản và MTDTGPMN (85). Trong suốt cuộc khủng hoảng lần này, Lodge nhất mực chủ chiến và ủng hộ nỗ lực của Chính phủ VNCH nhằm đè bẹp phe Phật tử tranh đấu. Chắc chắn là, Lodge nhận được một số hậu thuẫn ở Washington dành cho lập trường cứng rắn của ông đối với Trí Quang. Maxwell Taylor, người mà nhiệm kì đại sứ tại Sài Gòn bị đánh dấu nhiều lần bởi các cuộc khủng hoảng chính phủ do phe Phật giáo gây ra, cho rằng Lodge cần phải chuyển đến các nhà lãnh đạo Chính phủ VNCH “ nhận thức của chúng ta về tầm quan trọng phải triệt hạ Trí Quang như một thế lực chính trị ”. Taylor đã từng bác bỏ ý kiến cho rằng Trí Quang là người của Cộng sản trong thời gian ông ta còn là đại sứ ở Miền Nam, nhưng bây giờ ông ta cho rằng Lodge và Chính phủ VNCH “ phải triển khai một kế hoạch nhằm vạch trần Trí Quang trước công luận Việt Nam và cộng đồng quốc tế như là một tên phiến loạn được cộng sản hậu thuẫn với chủ tâm tiêu diệt chính phủ không - cộng sản tại Sài Gòn nhằm phục vụ lợi ích của VC và Hà Nội ” (86). Mặc dù chính sách của Hoa Kì trước cuộc khủng hoảng Phật giáo đặt cơ sở trên quan niệm cho rằng Trí Quang là kẻ gây rối nhưng không phải là Cộng sản, nhưng bây giờ Lodge lại đặt hẳn chính sách ngoại giao Mĩ trên ý kiến cho rằng Trí Quang gần như là một bộ phận khắng khít trong nỗ lực phá hoại của cộng sản. Quan điểm chính trị của Trí Quang trong suốt cuộc khủng hoảng cơ bản không có gì thay đổi so với quan điểm ông vốn có trước đó, nhưng Lodge dứt khoát không còn coi ông như một nhà hoạt động chính trị chính đáng. Trong một điện văn gửi Washington tháng Tư 1966, ông nói “ Chúng ta phải ý thức rõ ràng rằng giới lãnh đạo Phật giáo là những kẻ thù nghịch của chúng ta ” (87). Thảm kịch của chính sách Mĩ trong vụ khủng hoảng Phật giáo là nhiều viên chức trong chính quyền Johnson đã phản bác chính lập trường mà Lodge cổ vũ, nhưng không có hiệu quả bao nhiêu. Bộ Ngoại giao nhiều lần đặt nghi vấn về những quyết định và giả định của Lodge suốt cuộc khủng hoảng này. Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk đích thân yêu cầu Lodge đừng chuẩn y những luận điệu quy kết những nhà lãnh đạo Phật giáo là cộng sản bởi vì những luận điệu này vẫn không đưa ra được bằng chứng về sự móc nối và bởi vì một đường lối như vậy sẽ gặp phải sự phẫn nộ của nhiều lãnh đạo Phật giáo, những người có thể được chứng minh là không cộng sản (88). Sau khi nghe Cy Sulzberger của báo New York Times nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Cộng trong nỗ lực điều khiển phong trào tranh đấu Phật giáo, Robert Komer đã nói Sulzberger rằng ông “ thấy rất ít bằng chứng vững chắc khẳng định VC đã thực sự điều khiển vụ binh biến Huế-Đà Nẵng. Chắc chắn là, có nhiều báo cáo ở các cấp thấp nói về những nỗ lực xâm nhập hàng ngũ tranh đấu của cộng sản và mọi người đều tin VC đã cố gắng làm việc đó, nhưng tôi không thể đưa ra cho ông ấy bằng chứng vững chắc nếu bằng chứng ấy không hề hiện hữu ” (89). Komer lấy làm tiếc là Lodge đã đưa ra cho Sulzberger và nhiều kí giả khác một lối giải thích về cuộc khủng hoảng Phật giáo hoàn toàn sai lạc và không được nhiều quan chức khác tán thành. Theo quan điểm riêng của Komer, chính quyền Johnson cần phải đặt vụ khủng hoảng Phật giáo trong một tầm nhìn xa rộng và cần phải “trấn an những người hoảng hốt ” : “ Trí Quang và nhiều người khác nhất định là không cố tình làm cho người Mĩ phải rời bỏ Việt Nam. Chúng tôi cũng không hề thấy những Phật tử bất đồng chính kiến cũng là những người chủ trương trung lập, hay muốn thương thuyết với VC. Họ biết như chính phủ VNCH đang biết, làm như thế tức là phó thác sinh mạng của mình cho VC. Nói đúng ra, cái điều mà những người bất đồng chính kiến này theo đuổi (và họ nhiều lần nói cho chúng tôi biết) bằng cách biểu tình, bằng biểu ngữ chống Mĩ và thậm chí bằng tự thiêu, là tạo sức ép và gây lúng túng khiến Hoa Kì phải ủng hộ họ thay vì hậu thuẫn cho Kỳ ” (90). Bản đánh giá tình hình của Komer nhận được sự đồng ý rộng rãi trong giới chức chính quyền Johnson. Thomas Hughes, Giám đốc Phòng Tình báo và Nghiên cứu của Bộ Ngoại giao (INR), gửi đi một bản phân tích dài dòng về tình trạng bế tắc giữa phe Phật giáo và Chính phủ VNCH trong tháng Ba, trong đó thậm chí ông không hề ám chỉ dù gián tiếp là phe Phật giáo bị chi phối bởi tinh thần chống Mĩ, bởi ý muốn trung lập, hay chấm dứt chiến tranh bằng bất cứ mọi giá. Cội nguồn của cuộc khủng hoảng, theo lí luận của Hughes, được tìm thấy trong những “ mối bất bình đối với tập đoàn lãnh đạo Thiệu-Kỳ, một chế độ mà phe Phật giáo cho là chuyển động quá chậm chạp và miễn cưỡng trong việc hợp pháp hoá tình trạng của nó, như tổ chức tuyển cử quốc gia, và giao quyền điều khiển chính phủ lại cho giới chức dân cử--nói chung, chế độ này đã đi ngược chứ không đẩy mạnh cuộc cách mạng 1963 ” (91). Đường lối cơ bản để đối phó cuộc khủng hoảng Phật giáo do CIA đề xuất rất phù hợp với đường lối mà Phòng Tình báo và Nghiên cứu (INR) đưa ra. Trong nhiều tham luận dài dòng nhưng sâu sắc, George Carver bác bỏ toàn bộ quan niệm cho rằng người Mĩ nhất định sẽ thất bại trong cuộc chiến nếu phe Phật giáo tranh đấu lên nắm chính quyền tại Miền Nam. Mặc dù nhìn nhận sẽ có những vấn đề ngắn hạn do một chiến thắng của phe Phật giáo đặt ra cho nỗ lực chiến tranh hiện nay, Carver tin rằng sự tương hợp của các mục tiêu của Mĩ và của phe Phật giáo vẫn còn tồn tại. Carver không hề nghĩ là nên trao quyền bính cho Trí Quang hay những Phật tử đấu tranh khác, nhưng ông cho rằng không có sự ủng hộ tích cực của giới Phật giáo thì chính sách của Mĩ không thể nào thành công được. Thật vậy, Carver mạnh dạn hàm ý rằng quyền lợi của Mĩ có thể được phục vụ tốt hơn nhờ một chiến thắng của phe Phật giáo vì “ một chính phủ trong đó quần chúng Phật tử có một tiếng nói ưu thế sẽ tạo được điểm hội tụ cho chủ nghĩa quốc gia đang vươn dậy, một chủ nghĩa nhiên hậu có thể cung ứng cho toàn bộ cơ chế quốc gia chủ nghĩa và phi cộng sản một nền móng vững chắc hơn cơ chế hiện nay đang có được ” (92). Lí luận cơ bản của Carver không có gì độc đáo ; từ lâu Trí Quang vẫn lập luận rằng Chính phủ VNCH không thể nào chiến thắng MTDTGPMN và Bắc Việt trừ phi nó có một nền móng vững chải hơn và được lòng dân hơn. Một liên minh gồm Bộ Ngọai giao, CIA, và Robert Komer có bề ngoài rất hùng hậu, nhưng chính Lodge mới thật là người đạo diễn “cuộc hí trường” vì ông là nhân vật duy nhất gặp gỡ và thảo luận thường xuyên với Kỳ và Thiệu. Tuy thỉnh thoảng Lodge cũng lắng nghe những quan ngại của Bộ Ngoại giao về cách ông đối phó cuộc khủng hoảng, nhưng ông chỉ tiếp thu một cách khiên cưỡng. Sau mỗi cuộc khủng hoảng do Trí Quang châm ngòi trước đây, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kì luôn tìm cách tái lập quan hệ tốt đẹp với Phật giáo vì lí do hiển nhiên là phe Phật giáo không thể bị triệt tiêu khỏi bài toán đi tìm phương cách xây dựng một xã hội không - cộng sản khả dĩ đứng vững ở Miền Nam. Tuy nhiên, đối với Lodge, không còn con đường hoà giải với Trí Quang hay phe Phật giáo tranh đấu thậm chí sau khi họ đã bị quân Chính phủ VNCH đè bẹp tháng Sáu 1966. Khi Bộ Ngoại giao bày tỏ niềm thất vọng vì không có ứng viên nào từ phong trào tranh đấu Phật giáo ra tranh cử Quốc hội Lập hiến mới, mà việc triệu tập của nó vốn là một nhượng bộ quan trọng do lực lượng đối lập giành được, Lodge trả lời rằng phe Phật giáo tranh đấu không phải là một “ tổ chức đối lập trung trực ” và rằng ông chống lại mọi nỗ lực có mục đích khuyến khích họ tham dự sinh hoạt chính trị (93). Hầu như Trí Quang và phe Phật giáo tranh đấu đứng ngoài sinh hoạt chính trị Miền Nam cho đến ngày VNCH không còn tồn tại. Mark Moyar tin rằng việc Chính phủ VNCH dùng vũ lực vào mùa Xuân 1966 đã chứng minh rằng “ phe Phật giáo tranh đấu có thể bị dẹp bỏ mà không hề phương hại đến nỗ lực điều hành cuộc chiến ” (94). Có lẽ là thế, nhưng vẫn còn một lối lí giải khác là, cuộc khủng hoảng chỉ chứng minh được rằng phe Phật giáo có thể bị chính phủ dùng quân lực để đánh bại, điều này cơ bản không có ai ngờ vực. Còn liệu chính quyền Johnson và Trí Quang lẽ ra có thể đã xây dựng được một mối quan hệ phong phú, một quan hệ khả dĩ vận dụng được sức mạnh của phong trào Phật giáo để chống lại Bắc Việt và MTDTGPMN, thì điều này vẫn không rõ ràng, và chắc chắn có nhiều lí do để hoài nghi rằng một quan hệ đối tác như thế hoặc là có thể xảy ra hoặc là đáng mong muốn. Tuy nhiên, có một điều hình như ít ai đem ra tranh luận là việc triệt tiêu Trí Quang và phong trào Phật giáo năm 1966 đã giảm thiểu hơn nữa những viễn ảnh vốn đã mong manh về một chế độ không - cộng sản được lòng dân xuất hiện ở Miền Nam. JAMES McALLISTER Nguyên tác tiếng Anh : "Only Religions Count in Vietnam : Thich Tri Quang and the Vietnam War," tạp chí Modern Asian Studies 42, 4 (2008), pp. 751–782 (có thể đọc trên viet-studies) (1) George Herring, “ ‘Peoples Quite Apart’: Americans, South Vietnamese, and the War in Vietnam,” Diplomatic History, 14 (1990), p. 1. [“‘Hai dân tộc cách vời’: người Mĩ, người Nam Việt Nam, và Chiến tranh Việt Nam,” Lịch sử Ngoại giao, 14 (1990), tr.1.] (2) Tôi ngờ rằng một phần lí do các sử gia chưa quan tâm đến Trí Quang và phe Phật giáo nhiều hơn là vì bộ sưu tập [các văn thư của Bộ Ngoại giao] Foreign Relations of the United States (FRUS) / Quan hệ Đối ngoại của Hoa Kì chỉ chứa đựng một vài cuộc đàm thoại giữa Trí Quang và Toà Đại sứ ở Sài Gòn, trong đó không có một bản đánh giá nào của CIA về mục tiêu và động lực của ông. Người ta không bao giờ biết được có bao nhiêu tư liệu hiện hữu trong các văn khố Hoa Kì nếu chỉ dựa vào chút quan tâm ít ỏi dành cho Trí Quang và phong trào Phật giáo trong bộ FRUS. (3) Mark Moyar, Political Monks : The Militant Buddhist Movement During the Vietnam War [“ Sư chính trị : Phong trào Phật giáo Tranh đấu trong Chiến tranh Việt Nam”], Modern Asian Studies, 38 (2004), tr. 749–784. (4) Moyar, Political Monks, tr. 756. Moyar cũng đưa ra những luận cứ này trong một cuốn sách vừa xuất bản Triumph Forsaken : The Vietnam War, 1954–1965 [Chiến thắng bỏ đi: Chiến tranh Việt Nam, 1954-1965] (New York : Cambridge University Press, 2006), tr. 216–218. Mặc dù tôi có nhiều bất đồng với Moyar liên quan đến Trí Quang, tất cả những nhà nghiên cứu về cuộc chiến cần phải nghiêm túc nắm bắt công trình nghiên cứu rộng rãi và việc đánh giá có tính xét lại về nhiều yếu tố của Chiến tranh Việt Nam của ông. (5) Marguerite Higgins là người cổ xuý mạnh mẽ nhất luận điểm cho rằng Trí Quang là một công cụ của Cộng sản. Xem Our Vietnam Nightmare [Cơn ác mộng Việt Nam của chúng ta] (New York : Harper & Row, 1965). Xem thêm Richard Critchfield, The Long Crusade: Political Subversion in the Vietnam War [Thánh chiến Trường kì: Phá hoại chính trị trong Chiến tranh Việt Nam] (New York: Harcourt, Brace & World, 1968); và Robert Shaplen, The Lost Revolution [Cuộc cách mạng thất bại] (New York: Harper & Row, 1965). Mặc dù Moyar trích một số bằng chứng từ các sử liệu miền Bắc về cuộc chiến, những sử liệu cho rằng cộng sản đã xâm nhập được phong trào Phật giáo, nhưng không có dấu hiệu gì để quy kết trực tiếp hoặc gián tiếp Trí Quang làm tay sai cho Cộng sản. Những bằng chứng như thế cũng chẳng làm cho giới chức Mĩ thời bấy giờ bị sốc, vì họ vốn đã nhìn nhận cộng sản mưu toan xâm nhập và tạo ảnh hưởng lên phong trào PG. Xem Moyar, Triumph Forsaken, tr. 217. (6) Bản ghi nhớ của CIA : CIA Memorandum, “ Tri Quang and the Buddhist Catholic Discord in South Vietnam [Trí Quang và mối bất hoà Phật giáo - Công giáo ở Miền Nam Việt Nam], September 19, 1964, Lyndon B. Johnson Library (từ đây về sau viết tắt là LBJL), National Security Files (từ đây về sau NSF), Vietnam Country Files (từ đây về sau VNCF), box 9,vol. 18; và Saigon Embassy to State Department [Toà ĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao], January 31, 1965, National Archives II (từ đây về sau NA II), RG 59, Central Files, POL 13–6, box 2931. (7) Sau khi Sài Gòn thất thủ, số phận Trí Quang không được rõ cho lắm, nhưng những gì người ta nghe biết thì không hậu thuẫn cho luận điểm của Moyar. Moyar cho rằng sau chiến thiến thắng của Bắc Việt Trí Quang được cộng sản ban thưởng vì âm mưu lật đổ VNCH : “ Khi Cộng sản chiếm được Miền Nam năm 1975, họ cho ông một công việc ở Huế và ông không hề lên tiếng phản đối chế độ mới, trong khi họ đưa đi tù những nhiều nhà sư khác, những nhà sư có một thành tích hoạt động chính trị ”. Có nhiều vấn đề nghiêm trọng khi chấp nhận lối đánh giá này. Một là, Moyar nói xuất xứ nguồn tin này là tờ Washington Post, ngày 2-11-1983, nhưng trong thực tế không có bài nào liên quan đến Trí Quang trong báo này vào ngày ấy. Rât có thể, Moyar muốn trích dẫn một ý kiến của H. Joachim Maitre trong bài “When Washington Ditched Diem” xuất hiện trên Wall Street Journal cùng ngày. Ý kiến cho rằng Trí Quang được Cộng sản tưởng thưởng nhờ vai trò của ông trong thập niên 1960 không có sức thuyết phục cho lắm vì chính Maitre đã viết : “ Trí Quang được bổ về làm việc ở Sở Vệ sinh thành phố Huế ”. Một chức vụ ở sở vệ sinh Huế chắc chắn có vẻ là một hình phạt hơn là một tưởng thưởng, nhất là khi ta xét về vai trò rất quan trọng mà Moyar và Maitre cho rằng Trí Quang đã đóng trong chiến thắng của cộng sản. Như Moyar nhận xét trong Triumph Forsaken, sau chiến tranh chế độ Bắc Việt đã phục chức cho nhiều cán bộ nằm vùng, nhưng chế độ không bao giờ nhìn nhận Trí Quang là cán bộ của họ. Hầu hết tất cả tin tức khác tường trình về số phận của Trí Quang đều vẽ ra một chân dung ảm đạm. Chẳng hạn, trong một chuyện đăng năm 1979 trên New York Times, James Sterba tường trình một trong những đệ tử của Trí Quang kể lại rằng ông “ đã trở thành một người tàn phế da bọc xương trong một năm rưỡi biệt giam tại khám Chí Hoà ”. Xin đọc James Sterba, “ Ordeal of a Famed Buddhist in Ho Chi Minh City Related / Sự đọa đày của một nhà sư nổi tiếng, được kể lại,” New York Times, ngày 14-7-1979, A2. Sau cùng, Robert Topmiller, một sử gia từng đi Việt Nam nhiều lần để phỏng vấn một số Phật tử trong thập niên 1990, tường thuật rằng ngay cả hiện nay Trí Quang vẫn còn bị quản thúc ở chùa Ấn Quang tại Thành phố Hồ Chí Minh. Xin đọc Robert Topmiller, “Vietnamese Buddhism in the 1990’s / Phật giáo Việt Nam trong thập niên 1990,” Trang nhà Quảng Đức. Nhiều chứng liệu tương tự đưa đến một kết luận giản dị hơn : Thích Trí Quang chắc không phải là một cán bộ cộng sản và Hà Nội đã coi ông như một nhân vật độc lập, một nhân vật có tiềm năng đe doạ quyền thống trị của họ như ông từng là mối nguy cho giới cai trị Miền Nam trong thập niên 1960. (8) Robert Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam,1964–1966 [Hoa sen tự do: Phong trào Phật giáo Hoà Bình ở Miền Nam Việt Nam, 1964-1966](Lexington, KY: The University of Kentucky Press, 2002,) tr. viii. (9) Chẳng hạn, không một cuộc đàm thoại nào giữa Trí Quang và Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn trích dẫn trong bài này xuất hiện trong sách của Topmiller. Hình như Topmiller đã không hề tham khảo bất cứ tài liệu nào ở Hồ sơ Chính (Central Files) tại Văn khố Quốc gia II (NAII), tại đây hầu hết các cuộc đàm thoại đó được lưu giữ. Mặc dù các cuộc phỏng vấn mà Topmiller thực hiện với giới trí thức đại học và giới Phật tử là vô giá, nhưng rất đáng tiếc là nhiều luận điểm quan trọng mà ông đưa ra chỉ được hỗ trợ bằng các cuộc phỏng vấn có tính lịch sử truyền khẩu hơn là có văn kiện hẳn hoi. (10) Toà ĐS Mĩ Sài Gòn gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, April 6, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2925. Câu tóm tắt đặc sắc nhất về nguyên tắc chủ đạo của Trí Quang có thể tìm thấy trong một bài phỏng vấn ông dành cho kí giả Robert Shaplen năm 1969. “ Đảng phái chính trị như thế không có nghĩa lí gì cả…Chỉ có tôn giáo mới thật đáng kể ở Việt Nam, và Tổng thống Nixon phải thích nghi với nhận thức này ”. Robert Shaplen, The Road From War [Con đường ra khỏi Chiến tranh] (New York: Harper & Row, 1970) tr. 271. (11) Thư của ông có thể được tìm thấy trong hồ sơ Toà Đại sứ Mĩ Sài Gòn gửi Bộ trưởng Ngoại giao hiện nằm tại Thư Viện John F. Kennedy : Saigon to Secretary, September 2, 1963, John F. Kennedy Library (từ đây về sau JFKL), National Security File (NSF), box 199, State cables 9/1/1963–9/10/1963. Điều đáng để ý là, Thích Trí Quang không muốn đi tị nạn chính trị ở Ấn Độ vì “ tính cách trung lập của nước này ”. (12) TĐS Mĩ Sài Gòn gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, November 27, 1963, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 1; và Saigon to State Department [TĐS Mĩ Sài Gòn gửi Bộ Ngoại giao], NAII, RG59, POL13–6, box 2931. Paul Kattenburg, Giám đốc Đoàn Công tác Việt Nam (VWG) và là người gặp Trí Quang liền sau cuộc đảo chánh 1963, nói rằng ông đặc biệt ngạc nhiên khi Trí Quang nhấn mạnh Hoa Kì phải dùng quyền lực của mình đối với Chính phủ Miền Nam : Paul Kattenburg to Melvin Manfull, December 31, 1963, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 1, ORG 1. (13) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, November 11, 1963, JFKL, NSF, box 202, State Cables 11/6/1963–11/15/1963. (14) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, December 17, 1963, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 2. (15) Xem George McT. Kahin, Intervention : How America Became Involved in Vietnam [Can thiệp: Con đường Mĩ dính líu tới Việt Nam] (New York: Anchor Books, 1987), tr. 182–202; và Topmiller, The Lotus Unleashed, tr. 15–16. (16) Xem David Kaiser, American Tragedy : Kennedy, Johnson, and the Origins of the War [Thảm kịch của Mĩ: Kennedy, Johnson và Nguồn gốc Chiến tranh] (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2000), tr. 297–298. Nhiều viên chức Hoa Kì liên tục yêu cầu Khánh trưng bằng chứng về những cáo buộc mà ông dành cho Minh, nhưng họ không bao giờ nhận được một mảy may chứng cớ hậu thuẫn cho những cáo buộc ấy. (17) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, January 17, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 2. (18) Toà lãnh sự Mĩ ở Huế gửi Toà đại sứ ở Sài Gòn : Hue to Saigon, February 19, 1964, NA II, RG 59, POL VIET S, box 2924. (19) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 6, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2925. (20) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, “Recent Buddhist Developments,” [Những diễn biến mới đây của Phong trào Phật giáo], March 26, 1964, LBJL. (21) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3, vol. 7. (22) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, May 7, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4, vol. 8. CIA cũng báo cáo rằng những tin tức về điều gọi là liên can của Trí Quang với trung lập và cộng sản ‘vẫn không được chứng minh”, theo Bản ghi nhớ Tình báo của CIA, “ Đánh giá vấn đề tôn giáo ở Miền Nam Việt Nam ” : CIA Intelligence Memorandum, “An Assessment of the Religious Problem in South Vietnam,” LBJL, NSF, VNCF, box 4, vol. 9. (23) Theo Bản ghi nhớ của một Phiên họp : Memorandum of a Meeting, May 11, 1964, Foreign Relations of the United States (từ đây về sau FRUS), 1964–1968, vol. 1, tr. 305. (24) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, May 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 5, vol. 10. (25) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, June 1, 1964, NA II, RG 59, POL 6 VIET S, box 2929. (26) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, June 11, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926. (27) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, August 10, 1964, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2945. (28) Như trên. (29) Bạn đọc có thể theo dõi vụ việc Trí Quang phản đối Khánh ghi lại trong văn thư của TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, August 23, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16 ; Saigon to Secretary, August 23, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16 ; và trong một loạt các cuộc đàm thoại ghi lại trong văn thư Toà ĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, August 26, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933. (30) Hội thoại trực tuyến với Tướng Westmoreland : Telecon with General Westmoreland, August 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16. (31) Điện văn tin tình báo của CIA, “Bản phân tích về khả năng liên hệ với Cộng sản, về cá tính và mục tiêu chính trị của Trí Quang” : CIA Intelligence Information Cable, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality, and Goals,” August 28, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16 ; và Bản ghi nhớ của CIA, “ Trí Quang và mối bất hoà Phật giáo - Công giáo ở Miền Nam Việt Nam ”: CIA Memorandum, “ Tri Quang and the Buddhist Catholic Discord in South Vietnam,” September 19, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9, vol. 18. (32) “Bản Phân tích về Trí Quang”: “Analysis of Tri Quang,” August 28, 1964. Bản Phân tích ngày 19 tháng Chín không mạnh mẽ bằng bản phân tích trước đó vì nó chỉ lí luận rằng Trí Quang “chắc không phải là cán bộ cộng sản”. Mặc dù ghi nhận rằng CIA bác bỏ những đánh giá [cho rằng Trí Quang có quan hệ cộng sản], nhưng Moyar lại viết: “Một số viên chức cấp cao Mĩ giờ đây lại nằm trong số người cho rằng Trí Quang là cán bộ cộng sản”. Bản báo cáo ngày 19 tháng Chín có nói rằng một số “quan sát viên Mĩ thạo tin nghiêng về quan điểm này”, nhưng tôi không tìm ra bất cứ một chứng liệu nào cho biết chính xác “ai là viên chức cấp cao” chia sẻ quan điểm này. Xem Moyar, “Political Monks” (Những nhà sư Chính trị), tr.760. (33) “Trí Quang và mối bất hoà Phật giáo - Công giáo”: “Tri Quang and Buddhist Catholic Discord,” September 19, 1964. (34) Fredrik Logevall, Choosing War : The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam [Chọn lấy chiến tranh : cơ may hòa bình đã mất và việc leo thang chiến tranh tại Việt Nam] (Berkeley: University of California Press, 1999), tr. 240. (35) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, September 2, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926. (36) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, September 9, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933. (37) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 16, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926. (38) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 9, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933. (39) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 16, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926. (40) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, September 28, 1964, NA II, RG 59, POL 15–7 VIET S, box 2937. (41) Cả bài diễn văn lẫn lá thư có thể được tìm thấy trong văn thư của TĐS Mĩ ở Sài Gòn gửi về Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, October 16, 1964, NA II, RG 59, POL VIET S, box 2924. (42) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, September 28, 1964, NA II, RG 59, POL 15–7 VIET S, box 2937. (43) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, October 23, 1964, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2948. (44) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, November 2, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 293. (45) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, November 5, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926. (46) “Bản đánh giá hiện nay về tình hình chính trị ở Miền Nam Việt Nam” của Toán Công tác Việt Nam : “Current Estimate of Political Situation in South Vietnam”, November 25, 1964, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 5, POL 1: Vietnam/Other Areas. (47) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, November 2, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 293. (48) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, November 17, 1964, NA II, RG 59, POL1 US VIET S, box 2878; and Saigon to State Department, November 27, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933. (49) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, December 1, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10, vol. 23. Cách tường thuật của Moyar trong Triumph Forsaken [Chiến thắng bỏ đi] hàm ý Trí Quang từ ban đầu đã ủng hộ việc chống đối Hương, nhưng đây không phải là quan điểm của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn. Xem Moyar, Triumph Forsaken, tr.334. (50) Bản ghi nhớ sơ thảo cuộc đàm thoại giữa Taylor và Đại sứ Trần Thiện Khiêm : Draft Memorandum of Conversation between Taylor and Ambassador Khiem, December 2, 1964, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 5, POL-1, Memoranda of Conversation. (51) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, December 16, 1964, FRUS, 1964–68, vol. 1, tr. 1000–1009. (52) Trí Quang bày tỏ với nhiều viên chức Hoa Kì rằng ông sẵn sàng vận động chống lại Khánh nếu Hương thỏa mãn những điều kiện của phía Phật giáo. Xem văn thư của TĐS Mĩ gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, December 24, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11, vol. 24. (53) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, January 5, 1965, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2927. (54) Điện văn tin tình báo CIA : CIA Intelligence Information cable, January 10, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12, vol. 26. (55) CIA, “SNIE 53–65: Short-Term Prospects in South Vietnam [Dự kiến ngắn hạn tại Miền Nam Việt Nam],” February 4, 1965, Estimative Products on Vietnam 1948–1975 [Kết quả đánh giá về tình hình Việt Nam 1948-1975] (Washington, DC: GPO, 2005). (56) Moyar, Political Monks, [“Sư chính trị”] tr. 773. (57) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, January 31, 1965, NA II, RG 59, POL 13–6 VIET S, box 2931. (58) Theo nguồn tư liệu ở trên. Chính Trí Quang cũng nhìn nhận Việt Cộng chắc có xâm nhập các cấp thấp của tổ chức [GHPGVNTN], nhưng ông vạch rõ VC cũng xâm nhập mọi tổ chức khác trên khắp cả nước. Xem TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, February 4, 1965, POL 2 VIET S, box 2927. (59) Corcoran gửi Higgins : Corcoran to Higgins, February 18, 1965, NA II, RG 59, POL 13–6 VIET S, box 2931. (60) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to Department of State, “Interview by Tri Quang in English-Language Dailies” [Trí Quang trả lời phỏng vấn trên những nhật báo tiếng Anh], February 3, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13, vol. 27. Hẳn nhiên, người đọc không thể hiểu lời phát biểu của Trí Quang theo nghĩa đen bởi vì đôi khi phong trào Phật giáo cũng có xiển dương tinh thần chống Mĩ. Nội dung mà chắc hẳn ông muốn chuyên chở là, những biểu lộ cảm tính này chỉ có ý nghĩa chiến thuật chứ không phải là lối diễn đạt cơ bản bày tỏ quan điểm của Phật giáo đối với Hoa Kì. (61) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, February 4, 1965, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2927. (62) Điện văn tin tình báo CIA: CIA Intelligence Cable, February 2, 1965, Declassified Documents Reference System, [Hệ tham khảo các Hồ sơ Giải mật],1976070100060. (63) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, March 4, 1965, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2953. (64) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, March 1, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14, vol. 30. (65) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, March 3, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14, vol. 30. (66) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, March 22, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15, vol. 31. (67) Theo tư liệu đã dẫn ở trên. Dù ghi nhận lời kêu gọi oanh kích của Trí Quang, nhưng Moyar lí luận trong Political Monks (Sư Chính trị) rằng “có bằng chứng trực tiếp nói rằng lời cố vấn này chỉ là một công cụ nhằm duy trì ân huệ của Hoa Kì để cho phe Phật giáo tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động phá hoại của họ” (tr. 779). Đáng tiếc là, bằng chứng trực tiếp ấy chỉ là một câu trích từ chuyên gia chống nổi dậy người Anh Robert Thompson: “Trí Quang nói với Tướng Taylor rằng ông ủng hộ việc dội bom Miền Bắc, rồi sau đó ông đến thẳng với người Pháp để phân bua rằng ông làm vậy chỉ để ru ngủ những ngờ vực của Taylor nhằm rảnh tay đẩy mạnh chiến dịch bí mật đòi hoà bình bằng mọi giá—hay nói đúng ra, bằng cái giá mà cộng sản đưa ra.” Xuất xứ của lời trích dẫn này chắc chắn là rất mù mờ; Moyar trích dẫn từ cuốn The Long Charade (Trò vờ vĩnh lâu dài) của Critchfield, nhưng nó cũng xuất hiện trong một cuốn sách xuất bản năm 1965 của Higgins, Our Vietnam Nightmare (Cơn ác mộng Việt Nam của chúng ta), tr. 285-286. Cả Higgins lẫn Critchfield đều không cho biết Thompson đã đưa ra phát biểu này ở đâu và vào lúc nào. Nội cái ý kiến cho rằng Trí Quang chịu tiết lộ một quan điểm như thế tự nó là một điều đáng nghi ngờ, nhưng ý kiến cho rằng ông chịu chọn mặt gửi vàng mà tiết lộ quan điểm của mình với “người Pháp” là điều ít ai tin được vì trước sau như một Trí Quang luôn giữ lập trường cực kì chống Pháp. Tóm lại, không cách chi có thể coi trích dẫn Thompson như một bằng chứng nghiêm túc liên quan đến động lực chính trị của Trí Quang. (68) Bộ ngoại giao gửi Toà Đại sứ ở Sài Gòn : State Department to Saigon, March 2, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14, vol. 30. (69) Như trên. (70) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, March 19, 1965, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2927. (71) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao : Saigon to State Department, May 6, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17, vol. 34. (72) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 7, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 16, vol. 32. (73) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Saigon to Secretary, April 12, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 16, vol. 32. (74) CIA, “Tình hình Miền Nam Việt Nam” : CIA, “The Situation in South Vietnam,” April 7, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 16, vol. 32. (75) Bản ghi nhớ gửi Giám đốc Tình báo Trung ương : Memorandum for Director of Central Intelligence, “CIA Proposals for Limited Covert Civilian Political Action in Vietnam,” [Đề xuất hoạt động dân sự vụ bí mật và có giới hạn ở Việt Nam], March 31, 1965, LBJL, McCone’s 12 Points, box 194. (76) Thư Trí Quang gửi Lodge : Tri Quang to Lodge, May 13, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17, vol. 34. (77) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, May 6, 1965, LBJL, NSF, VN CF, box 17, vol. 34. (78) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, July 21, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20, vol. 37. (79) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ Ngoại giao: Saigon to State Department, July 10, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20, vol. 37. (80) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, June 12, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18, vol. 35. (81) TĐS Mĩ Saigon gửi Bộ trưởng Ngoại giao: Saigon to Secretary, June 22, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19, vol. 36. (82) Moyar, Triumph Forsaken, tr. 218. (83) Carver gửi McNaughton : Carver to McNaughton, “Consequences of a Buddhist Political Victory in South Vietnam,” [Những hệ quả do một thắng lợi chính trị của phe Phật giáo ở Miền Nam] VN LBJL, NSF, VNCF, box 63, 1 EE (4) Post-Tet Political Activity [Sinh hoạt chính trị sau Tết Mậu Thân]. (84) Bản ghi nhớ của Lodge : Memorandum by Lodge, “Recommendations Regarding Vietnam,” [Những đề xuất liên quan Việt Nam] March 8, 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, pp. 415–420. (85) Lodge, Điện tín hàng tuần : Lodge Weekly Telegram, March 23, 1966, FRUS, 1964–1968, vol. 4, pp. 225–229. (86) Maxwell Taylor, “Comments on the Present Situation in South Vietnam,” [Bình luận về tình hình hiện nay tại Miền Nam Việt Nam] April 8, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 29, vol. 50. (87) Lodge gửi Bộ trưởng Ngoại giao : Lodge to Secretary, April 8, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 29, vol. 50. (88) Rusk gửi Lodge: Rusk to Lodge, April 6, 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 46, NODIS, vol. 3. (89) Bản ghi nhớ của Komer gửi Bill Moyers : Komer Memorandum to Bill Moyers, June 3, 1966, LBJL, Files of Robert Komer, box 4, Moyer/Christian Folder. Như Komer đã nhận xét một cách tiếc rẻ, Sulzberger chắc đã tiếp thu những quan điểm này từ [Đại sứ] Lodge và Phó Đại sứ William Porter. (90) Komer gửi Bill Moyers : Komer to Bill Moyers, June 2, 1966, LBJL, Files of Robert Komer, box 3, White House Chronological Folder March–December 1966. Phần nhấn mạnh là của nguyên bản. (91) Hughes gửi Rusk : Hughes to Rusk, March 19, 1966, “GVN Crisis Hardening But Compromise Seems Possible,” [Cuộc khủng hoảng CPVNCH ngày càng gay gắt nhưng có vẻ có khả năng đi tới tương nhượng] FRUS, 1964–1968, vol. 4, pp. 292–293. (92) Carver, “Những hệ quả do một chiến thắng chính trị của Phật giáo ở Miền Nam Việt Nam” và Bản ghi nhớ tình báo của CIA, “Thích Trí Quang và những mục tiêu chính trị của Phật giáo tại Miền Nam Việt Nam”, LBJL, NSF, VNCF, box 30, vol. 51. Trích dẫn lấy từ tài liệu thứ hai. Carver không được ghi là tác giả tài liệu này, nhưng rõ ràng là ông ta đã đóng góp những ý chính. (93) Lodge gửi William Bundy : Lodge to William Bundy, July 26, 1966, LBJL, NSF, VNCF, box 34, vol. 56. (94) Moyar, Political Monks, [Sư chính trị], tr. 784.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 18, 2014 10:45:36 GMT 9
Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Trần Văn Hương Monday, May 21, 2012 5:54:55 PM Huy Phương/Người Việt Nhân cuộc phỏng vấn tác giả Trần Văn nhân cuốn sách viết về cựu Trung Tướng Ðặng Văn Quang trên đài SBTN, chúng tôi đã nhận được điện thoại của ông Trần Văn Ðính, thứ nam của Cựu Tổng Thống Trần văn Hương, nhờ chúng tôi viết lại nhiều thông tin trên báo chí chưa rõ hay nói sai, kể lại những ngày cuối cùng của Cụ Trần Văn Hương tại Saigon cũng như câu chuyện liên quan đến Tướng Ðặng Văn Quang. Ông Trần Văn Ðính năm nay đã 87 tuổi, hiện sống tại Nam California, đã là phụ tá đặc biệt cho thân phụ ông trong nhiều năm, từ 1965-1975. Cụ Trần văn Hương và cháu nội Trần Thủy Vân (1967- 1997) con gái ông bà Trần Văn Ðính. (Hình gia đình chụp năm 1968) Hai người con, hai chí hướng Theo sự trình bày của ông Trần Văn Ðính, ông bà Trần Văn Hương chỉ có hai người con trai. 1. Người con lớn là Trần Văn Dõi, sinh năm 1924 (nhiều người như các ông Hứa Hoành, Huỳnh Văn Lang đã ghi lầm là Trần văn Giỏi - vì Cụ Hương đã có một người em ruột tên Giỏi (1), và nhiều bài khảo cứu dựa theo tài liệu của Mỹ lại không bỏ dấu, mà chỉ ghi là Doi). Khi phong trào kháng chiến nổi lên, đang theo học tại trường “College de Can Tho.” ông Dõi bỏ học theo Việt Minh. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp dự Hội Nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Dõi theo ra Bắc. Năm 1948, ông được gửi theo học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn và đổi tên là Lưu Vĩnh Châu (lấy họ mẹ), sau này tham gia trận Ðiện Biên Phủ với cấp bậc đại úy Công Binh, là đảng viên cộng sản. Theo tài liệu, ông Dõi sau khi biết thân phụ mình là phó tổng thống VNCH, đã trình sự việc lên ông Ung Văn Khiêm là tổng trưởng Nội Vụ miền Bắc thời đó. Về phần Cụ Hương cũng đã xác nhận với tình báo Hoa Kỳ về chuyện cụ có một đứa con trai bên kia giới tuyến. Một thời gian lâu sau khi CS vào Saigon, ông mới được phép đem gia đình (vợ tập kết và hai con, một trai một gái) vào gặp cha, và ít lâu sau dọn về ở với Cụ Trần Văn Hương tại số nhà 216 Phan Thanh Giản (sau này đổi lại Ðiện Biên Phủ). Con trai ông Dõi hiện làm việc tại Saigon và cô con gái hiện sống ở Hungary. Sau khi Cụ Trần Văn Hương qua đời năm 1982, ngôi nhà này được chính quyền “cho phép” bán, chia cho gia đình em gái út Cụ Hương và gia đình ông Dõi. Ông Trần Văn Dõi đã qua đời năm 2011 tại quận Tân Bình, Saigon. 2. Người con thứ nhì, là Trần Văn Ðính, sinh năm 1925, chính là người sống với Cụ Trần Văn Hương, làm phụ tá đặc biệt cho Cụ từ năm 1965 cho đến trước ngày bàn giao chức vụ tổng thống cho ông Dương Văn Minh vào ngày 28 tháng 4, 1975. Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, năm 1955, trước khi Cụ Trần văn Hương theo lời mời của TT Ngô Ðình Diệm ra làm Ðô Trưởng Saigon-Chợ Lớn thì ông Trần Văn Ðính đã tự túc xuất ngoại sang Anh Quốc. Ông đã học và làm việc tại Londre 3 năm, Paris (Pháp) 2 năm và Francfurt (Tây Ðức) 5 năm. Cuối năm 1964, khi Cụ Trần Văn Hương lên làm thủ tướng lần thứ nhất, ông đã được gọi về, như một người thân tín, sống gần gũi, giúp thân phụ làm phụ tá đặc biệt. Ông lập gia đình tại Saigon với một người mà ông đã từng gặp tại Paris 6 năm về trước, ông bà có hai người con, trai là Trần Bảo Danh hiện sống tại Oregon và gái là Trần Thủy Vân trong tấm hình chụp với ông nội trên trang báo này. Ngày 21 tháng 4, 1975, sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu bàn giao chức vụ tổng thống lại cho Cụ Trần Văn Hương, trước tình hình căng thẳng tại Saigon, Ông Trần Văn Ðính muốn thu xếp cho vợ con rời Việt Nam và ở lại bên cạnh cha, nhưng cuối cùng Cụ Hương không đồng ý đã hối thúc con trai rời Việt Nam cùng với gia đình. Năm 2005, ông Trần Văn Ðính có về Việt Nam và có gặp anh là Trần Văn Dõi, nhưng ông cho biết anh em xa nhau đã lâu ngày, lại khác chí hướng, không mấy hứng thú để trò chuyện. Hiện nay ông bà Trần Văn Ðính đều đã già, đang sống cô đơn trong một khu mobil home thuộc thành phố Huntington Beach, vì con trai ở xa và cô con gái đã mất năm 1997 vì chứng ung thư máu. Ông Trần Văn Ðính, 87 tuổi, thứ nam Cụ Trần văn Hương, chụp tại nhà riêng ở Huntington Beach, California. (Hình: Huy Phương) Túng quẫn nhưng giữ trọn chí khí Trong tiểu sử của Cựu Tổng Thống Trần văn Hương, không ai nghe nói đến cụ bà đệ nhất phu nhân cũng như trong suốt thời gian Cụ Hương làm việc trong chính phủ VNCH, không ai biết đến bà Trần Văn Hương làm gì ở đâu? Ông Trần Văn Ðính cho chúng tôi biết hai ông bà sống riêng đã nhiều năm một cách tự nhiên, vì không hợp tính, và phần Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không muốn có đàn bà xen vào việc nước. Chỉ trong thời gian cuối cùng ốm đau, bà Trần Văn Hương mới dọn về ở đường Công Lý và mất vào đầu năm 1975. Chúng ta cũng đã biết trong những ngày cuối cùng của VNCH, trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản, Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và mời tổng thống rời khỏi nước, nhưng Tổng Thống Trần Văn Hương đã khẳng khái trả lời: “Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với dân chúng một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước.” Cụ Trần Văn Hương đã lui về căn nhà 216 đường Phan Thanh Giản, tại đây cụ sống với vợ chồng người em gái út cho đến lúc qua đời. Theo ông Trần Văn Ðính, đây là căn nhà mà năm 1969, khi rời chức thủ tướng để trao chức vụ này cho ông Trần Thiện Khiêm, không có nhà ở, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã cấp cho ông. Tuy mang số 216, đây là một căn nhà nhỏ hẹp, nằm sâu trong hẻm, sau lưng nhà của ông Trần Ngọc Liễng, loại nhà cấp cho các bộ trưởng nhưng vì nhà đã lâu năm, cũ kỹ, xuống cấp, không ở mặt tiền, bị mọi người chê nên mới còn lại. Chính Cụ Hương đã từ chối lời đề nghị cho sửa sang lại vì sợ tốn công quỹ, do đó, ngôi nhà còn yên, sau 1975, không bị CS chiếm như nhưng căn khác, nhưng báo chí CS cho rằng vì lý do nhân đạo nên ngôi nhà này không bị tịch thu. Theo nguồn tin của CS thì sau năm 1975, Cụ Trần Văn Hương được trợ cấp tem phiếu hạng E dành cho một “cựu tổng thống Ngụy,” nhưng theo lời ông Trần Văn Ðính thì Cụ Hương không có hộ khẩu vì không làm đơn xin “phục hồi” quyền công dân như cụ đã nói: “Chừng nào những người tập trung ‘cải tạo’ được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi!” Chính vì thái độ này, mà Cụ bị CS quản chế, không hộ khẩu, làm sao có tem phiếu, ông Ðính nói. Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không bao giờ ra khỏi nhà, ốm đau, không những sống đạm bạc mà còn thiếu thốn. Người chăm sóc tận tình cho Cụ chính là người em rể sống với Cụ. Theo lời một người cháu Cụ kể chuyện với nhà văn Hứa Hoành, đã có lúc Cụ giao cho bà em ra chợ bán một củ sâm Ðại Hàn Cụ còn cất giữ và những bộ đồ vest để lấy tiền mua thức ăn cho cả gia đình. Cụ qua đời vào ngày 27 tháng 1, 1982 (nhằm ngày mồng Ba Tết), hưởng thọ 80 tuổi, hài cốt được hỏa thiêu. Cụ Trần Văn Hương và một con người khí tiết, yêu nước đã hai lần làm Thủ tướng, phó tổng rồi tổng thống VNCH, đã mất đi trong một hoàn cảnh, gần như bị quên lãng. *Kỳ Sau: Trần Văn Hương vs. Ðặng Văn Quang Chú thích: (1) Người em thứ sáu của Cụ Trần Văn Hương mang họ Lâm, là Lâm Văn Giỏi. Theo lời ông Trần Văn Ðính thì “ông chú này không có khai sinh, nên ông nội lấy khai sinh của người khác cho chú Giỏi đi học.”
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2014 14:33:02 GMT 9
Tổng bí thư (1) Tháng Tư 28, 2011 — Lê Mai Tổng bí thư được coi là nhân vật có quyền lực nhất trong thiết chế chính trị của các nước XHCN trước đây và một số rất ít nước – có thể đếm trên đầu ngón tay, hiện còn lại trên thế giới, trong đó có VN.
Thoạt tiên, vai trò của Tổng bí thư không phải là quan trọng nhất mà chỉ có ý nghĩa như người đứng đầu văn phòng của Đảng, chủ yếu giải quyết các công việc hành chính. Khi Lênin chưa mất, Trotsky ở vị trí thứ hai thì vai trò của Xtalin với tư cách Tổng bí thư là như vậy. Sau cái chết của Lênin, Trotsky phạm sai lầm chiến lược lớn, không trở về từ Xukhumi để dự lễ tang Lênin, Xtalin thay mặt Đảng Bônsêvích đọc bài vĩnh biệt, sau này đi vào lịch sử với tên gọi “các lời thề của Đảng”. Uy tín của Xtalin tăng rất nhanh. Với nhãn quan chiến lược và sự tinh tế trong hành động, mặc dù có sự phê phán của Lênin, Xtalin vẫn được bầu làm Tổng bí thư và thực sự đứng đầu ban lãnh đạo đất nước.
Đặng Tiểu Bình cũng đã từng giữ chức Tổng bí thư ĐCS TQ, song quyền lực tối cao nằm trong tay Chủ tịch đảng Mao Trạch Đông. Tương tự, ở VN, Chủ tịch đảng Hồ Chí Minh mới là người nắm quyền lực cao nhất. Có thể dễ dàng nhận thấy, chức Chủ tịch đảng chỉ dành riêng cho Hồ Chí Minh.
Cùng với sự lớn mạnh của phe XHCN và “ba dòng thác cách mạng” đang ở thế tiến công trên khắp thế giới, tên tuổi các “đồng chí Tổng bí thư” trở nên quen thuộc đối với người VN chúng ta. Đây, Liên Xô – quê hương cách mạng là đồng chí Lê-ô-nít Brêgiơnép, CHDC Đức: đồng chí Ê-rích Hô-nếch-cơ, Rumani: đồng chí Xê-au-xê-xcu, Bulgaria: đồng chí Tô-đo Gíp-cốp, Tiệp khắc: đồng chí Guxtáp Hu-xắc, Mông Cổ: đồng chí Xê-đen-ban…Các cuộc thăm viếng lẫn nhau, các hội nghị hay các cuộc gặp thượng đỉnh ở Matxcơva làm tên tuổi các “đồng chí Tổng bí thư” vang dội trên toàn thế giới! Những tiếng vỗ tay của các “đồng chí Tổng bí thư” dường như làm rung chuyển Nhà trắng. Có vẻ các Tổng thống phương Tây không được hưởng nhiều vinh quang như các “đồng chí Tổng bí thư” kính mến của chúng ta. Song, lịch sử cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ bằng việc ca ngợi lẫn nhau, hệ thống XHCH đã đi đến đâu!
Trở lại lịch sử ĐCS VN, Trần Phú là Tổng bí thư đầu tiên, nổi tiếng với Luận cương chính trị năm 1930, bác bỏ Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất, thành lập ĐCS VN. Hà Huy Tập, người đã từng báo cáo phê phán Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế CS, chỉ trích Nguyễn Ái Quốc là người theo chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cải lương. Và Nguyễn Văn Cừ nổi tiếng với tác phẩm Tự chỉ trích.
Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước khi hoa mơ và hoa kim anh nở trắng trên biên giới Việt – Trung:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41. Trắng rừng biên giới nở hoa mơ. Bác về…Im lặng…Con chim hót. Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ” (Tố Hữu). “Nở trắng hoa kim anh trên biên giới Bác về. Xa nước ba mươi năm một câu Kiều người vẫn nhớ. Mái tóc Bác đã phai màu quá nửa. Lòng son ngời như buổi mới ra đi” (Chế Lan Viên).
Lòng vẫn son ngời, song vì nhiều lý do, Hồ Chí Minh từ chối và Hội nghị TW đã bầu Trường Chính làm Tổng bí thư. Sau năm 1945, ĐCS tuyên bố tự giải tán – một nước cờ chiến thuật rất cao của Hồ Chí Minh, tới Đại hội II, năm 1951, Trường Chính tiếp tục làm Tổng bí thư. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa tên tuổi Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp vang dội trên khắp thế giới và tên tuổi của người anh Cả Trường Chinh cũng chói sáng. Đùng một cái, xẩy ra sai lầm cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh buộc phải từ chức Tổng bí thư. Đến năm 1986, sau khi Lê Duẩn mất, ông trở lại làm Tổng bí thư và các nhà nghiên cứu cho rằng, ông là tác giả chính của công cuộc “đổi mới” ở VN. Một người cực kỳ giáo điều, kinh viện, lại dám rẽ ngoặt trong tư duy vào cuối đời, đó là bản lĩnh rất lớn của ông. Mấy nhà lãnh đạo – Tổng bí thư đã làm được điều đó?
Cách mạng tháng Tám, kháng chiến, đổi mới là những cống hiến nổi bật của Trường Chinh. Đó là đánh giá của Võ Nguyên Giáp. Còn Hoàng Tùng, từng là Bí thư TW Đảng cho rằng, nếu không có Trường Chinh trong những giờ phút hiểm nghèo trước và sau năm 1945, sẽ không có ngày nay đâu!
Trường Chinh rất am hiểu văn hoá, văn nghệ. Ông đã từng trình bày bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hoá VN làm giới trí thức hết sức nể phục. Văn chính luận của Trường Chinh trong sáng, đầy cuốn hút mà không kém phần hùng biện. Phong cách của Trường Chinh bao giờ cũng từ tốn, cẩn thận, nghiêm trang, đúng mực. Khi phát biểu ở Bộ Chính trị, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ hay nói chen ngang, khi đó ông im lặng, không nói gì và từ từ ngồi xuống. Khác với Lê Thanh Nghị, khi phát biểu, xung quanh ai nói gì cũng mặc, ông cứ nói cho hết ý mình. Còn Nguyễn Văn Trân thì tự hào rằng phát biểu của mình hết sức chặt chẽ, Lê Duẩn không thể xen ngang được và khi ông ta xen vào nói thì “tôi đã phát biểu xong rồi”.
Nhớ lại năm 1956, sau khi Trường Chinh từ chức Tổng bí thư, Hồ Chí Minh là Chủ tịch đảng kiêm Tổng bí thư một thời gian, với hai trợ lý giúp việc là Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Duy Trinh. Năm 1957, Hồ Chí Minh gọi Lê Duẩn ra Bắc và Đại hội III ĐCS VN, Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH TW. Ông giữ chức Bí thư thứ nhất cho đến năm 1976, Đại hội IV ĐCS VN mới chính thức bầu Lê Duẩn làm Tổng bí thư. Cần lưu ý, năm 1976, Lê Duẩn mới giữ chức Tổng bí thư, trước đó – Bí thư thứ nhất. Không ít những cuốn hồi ký, những cuốn sử hay những phim truyện về lịch sử nhầm lẫn như vậy. Song, không nghi ngờ gì nữa, quyền lực của Tổng bí thư Lê Duẩn thật sự bao trùm tất cả.
Những năm kháng chiến chống Pháp, Lê Duẩn làm Bí thư xứ uỷ Nam Bộ và phải thừa nhận ông là một nhà lãnh đạo giỏi. Dù ở xa TW, ông thực hiện nhiều chính sách phù hợp với thực tiễn và rất được lòng dân. Xử lý vụ Bảy Viễn (một tướng cướp giang hồ Bình Xuyên khét tiếng theo kháng chiến) về thành đầu Tây là một ví dụ. Trung tướng Nguyễn Bình, Ủy viên quân sự Nam Bộ, sau khi nắm rõ hoạt động “đi đêm” của Bảy Viễn với Pháp, quyết định bắt Bảy Viễn để đưa ra tòa án tối cao xét xử. Nhiều người đồng ý với Nguyễn Bình, song ý kiến Lê Duẩn lại khác. Ông đề nghị cứ để Bảy Viễn tự do đưa quân về Rừng Sác. Nếu ông ta kéo quân về thành đầu Tây là ông ta tự ký bản án kết thúc sinh mạng chính trị của ông ta. Lâu nay ông ta theo cách mạng thì nhân dân kính trọng. Nay đột nhiên ông ta bỏ về thành là tự ông ta vạch trần cái mặt nạ ông ta đeo trong ba năm qua. Tôi nghĩ, bản án tử hình đã do chính Bảy Viễn tự ký, chúng ta không phải bận tâm đưa ông ta ra xử cho rắc rối – Lê Duẩn giải thích.
Cuộc biểu quyết đã nghiêng về ý kiến Lê Duẩn. Là một nhà chính trị, phải nói viễn kiến của Lê Duẩn trong việc giải quyết vấn đề này rất sâu rộng.
Một cuộc hội nghị khác của Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ chủ trương in giấy bạc giả để phá hoại kinh tế của địch, có nhiều người đồng ý. Song, Lê Duẩn không nhất trí và phân tích, ai sẽ chịu nhiều thiệt hại nhất về chủ trương đó? Chính là số đông quần chúng lao động – không thể làm điều gì thiệt hại đến họ.
Tuy vậy, với sự xuống dốc thê thảm của VN sau năm 1975 đã gây nên rất nhiều tranh cãi về tài năng lãnh đạo của Lê Duẩn trong giai đoạn này.
Cùng thời với Lê Duẩn, đó là Lê-ô-nít Brêgiơnép, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô. Ông ta được ngồi ghế Tổng bí thư như là một giải pháp dung hoà, tạm thời của ban lãnh đạo ĐCS Liên Xô, bởi vì ông không phải là người xuất sắc nhất. Không ngờ, khi đã nắm quyền lực, ông ta trở nên không ngoan hơn và rốt cuộc, ông ta ngồi ghế Tổng bí thư khá dài – gần 20 năm.
Thời kỳ Brêgiơnép cầm quyền, trừ thời gian đầu, có thể nói là thời kỳ đỉnh cao trì trệ của Liên Xô. Người ta biết thừa rằng, vào những năm cuối đời, Brêgiơnép không thể lãnh đạo Đảng và điều hành đất nước được nữa. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị, Brêgiơnép ngồi như người mất hồn, không hiểu ngồi ở đâu và mọi người tụ tập ở đây làm gì. Ông ta đọc lẫn lộn các văn bản chữ rất to được các trợ lý chuẩn bị sẵn, đôi lúc nhận ra sự bất lực của mình, ông giương cặp mắt đầy thương hại nhìn mọi người. Do không ý thức được hết tình trạng của mình, ông vẫn thủ vai Tổng bí thư. Đúng hơn, những người xung quanh ông thủ vai của chính ông. Chúng ta thấy điều đó nguy hiểm cho đất nước như thế nào.
Thế rồi, ngày 10.11.1982, ông lặng lẽ chết trên giường. Sau đó, Iu.V. Anđrôpốp được bầu làm Tổng bí thư, chỉ cầm quyền được 15 tháng. Tiếp đó là C.U. Chécnencô nắm chức Tổng bí thư cho đến tháng 3.1985 thì qua đời.
Quảng trường Đỏ liên tục lặng đi trong niềm tang tóc, vĩnh biệt các Tổng bí thư. Hàng loạt đại bác tiễn biệt vang lên làm hoảng loạn lũ bồ câu trên tháp chuông nhà thờ thánh Ivan Đại đế. Những vị khách phương Tây co ro run rẩy trong làn áo mỏng giữa những ngày mùa Đông nước Nga.
Một cái tên sắp xuất hiện làm thay đổi thế giới: M.X. Goócbachốp.
Và vì vậy, câu chuyện về Tổng bí thư của chúng ta cũng chưa thể kết thúc…
Tổng bí thư (2) Tháng Năm 4, 2011 — Lê Mai Tin về sự ra đi của C.U.Chécnencô đến với Goócbachốp khi ông ta đang đi dạo cùng với vợ – Raixa Macximốpna. Ngay lúc đó, ông ta đã nói với bà rằng, ông sẽ phải nhận về mình sứ mạng một nguyên thủ và chịu toàn bộ trách nhiệm về số phận của đất nước. Lập tức, Goócbachốp yêu cầu Văn phòng thông báo cho tất cả các Ủy viên chính thức và dự khuyết BCT, các Bí thư TW Đảng quay về Kremlin.
Một lần nữa, Quảng trường Đỏ tràn ngập cả biển người nhưng hình như lần này mọi người đến đây không phải để cố làm ra vẻ đau buồn. Trên lễ đài xuất hiện quan khách từ các nước cộng hòa và cả các vị khách nước ngoài. Một lần nữa, Magaret Thatcher lập cập khua đôi giày thời thượng đi lên vì chưa quen với thời tiết băng giá của Liên Xô.
Sự ra đi của Chécnencô không phải là một điều bất ngờ, song các nhà lãnh đạo Liên Xô chưa chuẩn bị cho việc bầu chọn một lãnh tụ mới. Các Ủy viên BCT tập trung trong căn phòng gỗ hồ đào và Hội nghị BCT ngày 10.3.1985 đã không giải quyết được việc tìm người thay thế Chécnencô. Goócbachốp hiểu rằng, tiếng nói của Grômưcô – Bộ trưởng ngoại giao có uy tín, một nhà hoạt động quốc tế, có ý nghĩa quyết định. Nếu ông ấy nói Goócbachốp là Tổng bí thư thì tất cả sẽ biểu quyết mà không ai dám phát biểu khác, vì có thể gây nguy cơ chia rẽ BCT. Một phái viên bí mật của Goócbachốp đã đến chỗ Grômưcô và rất nhanh chóng nhận được câu trả lời.
Một ngày sau đó, Hội nghị toàn thể Ủy ban TW đầy lo lắng đã tới. Grômưcô tiến ra lễ đài bằng những bước đi chắc chắn, đầu ngẩng cao, nói bằng giọng buồn tẻ, không cần nhìn vào bài viết:
- Tôi được giao phó trình Hội nghị toàn thể Ủy ban TW về vấn đề ứng cử Tổng bí thư Ủy ban TW ĐCS Liên Xô. BCT thống nhất đề cử M.X.Goócbachốp làm Tổng bí thư Ủy ban TW Đảng.
Với những hình dung từ bất ngờ, đầy hình tượng, những lý lẽ không mang tính truyền thống, những kết thúc lôgíc, Grômưcô khẳng định rằng Goócbachốp xứng đáng được bầu vào vị trí này. Goócbachốp là một nhà lãnh đạo có tài năng không thể đánh giá hết, có tính nguyên tắc, quyết đoán, nắm vững nguyên lý lêninnit, làm chủ được nghệ thuật phân tích.
Goócbachốp phát biểu, hứa phục vụ đất nước một cách tận tâm, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của Đảng và Lênin.
Chiến lược tăng tốc, cải tổ bắt đầu. Tại Liên Xô dấy lên một không khí hào hứng chưa từng có. Các nước XHCN cũng hòa vào làn sóng cải tổ đó – dĩ nhiên, ở VN cũng không ngoại lệ.
Nhớ lại năm 1986, sau khi Lê Duẩn qua đời, trong Hội nghị bất thường BCH TW ĐCS VN, Phạm Văn Đồng đứng lên giới thiệu Trường Chinh làm Tổng bí thư, được Hội nghị hoàn toàn nhất trí.
Trước đó, Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội VI đã được chuẩn bị do Lê Duẩn trực tiếp chỉ đạo, với các cây bút cự phách như Tố Hữu, Trần Quỳnh, Trần Việt Phương…Nhưng sau khi nghiên cứu tình hình, tìm hiểu thực tế, Trường Chinh đã chỉ đạo một nhóm 10 người khác viết lại Báo cáo Chính trị với những quan điểm đối mới trình Đại hội VI thông qua. Dĩ nhiên, những tư tưởng “cải tổ” của Liên Xô có ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoạch định chính sách mới của VN.
Có quan điểm cho rằng, người VN chỉ biết bắt chước, nói theo, làm theo; bắt chước, nói theo, làm theo Tàu, theo Tây, theo Nga; không có sáng tạo gì đặc sắc của mình. Xưa thì “Tử viết”, sau này là “Lênin nói”! Giáo sư Trần Văn Giàu, trong tác phẩm Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh phản bác lại quan điểm này, đại ý: Phải, người VN có tinh thần phóng khoáng, giỏi tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, lấy của người làm của mình. Nhưng cũng đã tỏ khả năng sáng tạo. Người Tống thuộc binh thư Tôn Tử, binh thư Mạnh Đức, Ngô Khởi hơn ta mà Tống Hoa Hạ mất về tay Nguyên Du Mục, còn Đại Việt thì thì thắng Nguyên đến ba lần, ắt không phải vì cơ may mà vì chiến lược, chiến thuật giỏi, sao dám bảo quân tướng nhà Trần dốt binh thư, chỉ biết học lỏm mà không sáng tạo?
Cho nên, “Đổi mới” ở VN có những điểm giống nhưng cũng có những điểm khác với “cải tổ” của Liên Xô. “Đổi mới” được thực hiện từng bước, một cách vững chắc, có tính kế thừa và ưu tiên đổi mới kinh tế trước.
Những tư tưởng “cải tổ” của Goócbachốp tiếp tục lan rộng. Người ta đang mong chờ VN sẽ xuất hiện một “Goócbachốp mới”. Và Đại hội VI ĐCS VN, Nguyễn Văn Linh đã được bầu làm Tổng bí thư, nhanh chóng đưa đến một làn gió mới.
Nhà cách mạng lão thành, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng kể lại, vào năm 1979, Nguyễn Văn Linh là Ủy viên BCT, phụ trách công tác dân vận, trong một chuyến công tác, sau khi làm việc xong ở Hậu Giang, tiếp tục đi An Giang. Ông không biết tỉnh Hậu Giang cho xe con đi theo hộ tống. Phát hiện ra việc này, ông rất tức giận, hỏi Phó ty Công an Hậu Giang, ai bày ra chuyện “còi hụ” này? Ông này hoảng quá, bèn trả lời là làm theo nghi thức đã quy định.
- Không có nghi thức gì cả! Đi làm việc mà tiền hô hậu ủng thế này xấu hổ lắm. Đồng chí về Cần Thơ đi, chúng tôi đi một xe là đủ. Ông Linh nói.
Ông Phó ty lại báo cáo, An Giang cử một xe đón đoàn ở phía trước. Ông Linh càng tức giận:
- Đoàn gì? Cán bộ đi công tác mà kêu là đoàn. Còn xe cảnh sát An Giang, tôi vô nhà đồng bào nghỉ!
Ông Trần Bạch Đằng xen vào, nói với ông Phó ty: đồng chí gặp ngay xe cảnh sát An Giang, bảo họ về Long Xuyên, còn đồng chí quay lại, về Cần Thơ…
Tại An Giang, thái độ nghiêm khắc của ông trong xử lý công việc đã làm cả Thường vụ tỉnh ủy phát khóc. Dạo đó, Pôn Pốt hay vượt biên giới đánh sang VN, An Giang lại có đông đồng bào Khơme nên một tay “quân sư quạt mo” của ta đề xuất với Bộ Chính trị cho di tản số đồng bào Khơme xuống Sóc Trăng. Đọc báo cáo của tay “quân sư quạt mo”, ông Linh kêu bằng “quân sư quạt máy” và thêm bức điện của một Ủy viên BCT, ông Linh nổi sùng.
Ông nói với Trần Bạch Đằng:
- Anh thảo một bức điện, gửi anh Ba Duẩn, tôi ký tên; nói thật, thà Pôn Pốt hốt dân về bên đó tôi chịu hơn là ta đuổi dân ra khỏi nơi họ lập nghiệp hằng bao nhiêu thế kỷ. Tại sao ta không tăng cường lực lượng quân đội giữ biên giới?
Phong cách đó của Nguyễn Văn Linh thật ấn tượng và tôi chợt nhớ đến những chuyến đi thăm, làm việc với địa phương của lãnh đạo hiện nay. Với cương vị Tổng bí thư, ông tiếp tục tạo được những ấn tượng rất tốt như loạt bài báo ký tên N.V.L, cuộc gặp gỡ nổi tiếng với văn nghệ sỹ…
Trở lại với Liên Xô và Goócbachốp. Hình như một số tai họa đã báo trước chiều hướng xấu đối với Tổng bí thư.
Trước tiên là thảm họa Trécnôbưn, diễn ra đêm 26.4.1986 (cách đây 25 năm). Vào thời điểm ấy, hậu quả của thảm họa đã không được đánh giá đầy đủ. Nỗi lo lắng của các nhà lãnh đạo Liên Xô không lớn lắm. Trong khi đó, phương Tây đặc biệt lo ngại và đã lên tiếng rất nhiều lần. Goócbachốp không đi đến tận nơi xẩy ra sự cố trong những ngày khó khăn đó, cũng không hề đi thăm những vùng nóng bỏng khác trong nước.
Rồi vụ một chiếc máy bay thể thao Đức hạ cánh dễ dàng ở Quảng trường đỏ được cả Liên Xô xem như một tiếng sét đánh giữa ban ngày. Giải thích của các nhà quân sự không thuyết phục được Goócbachốp. Kết cục, Bộ trưởng quốc phòng phải từ chức, nhiều người khác bị cắt chức, một số bị đưa ra tòa.
Sự choáng ngợp ban đầu của “cải tổ” đã lùi xa. Trong một cuộc gặp, có mặt cả Reagan, Bush (cha) hỏi Goócbachốp về cơ may thành công của cải tổ. “Đến Chúa cũng không thể trả lời nổi câu hỏi ấy” – Goócbachốp đáp. Thời gian mà lịch sử dành cho một Tổng bí thư sắp kết thúc! “Họ chỉ biết huyênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng, về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc thực tế cụ thể nào cho ra hồn” – Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
“dưới ngòi bút dẫu có nghìn lời, trọng bụng không được một mẹo” – Khổng Minh Gia Cát Lượng.
Cho đến nay, VN đã có ba nhân vật nắm chức Tổng bí thư từng làm Chủ tịch Quốc hội, cũng tức là từ chỗ nắm “cơ quan quyền lực cao nhất” trên danh nghĩa tiến đến nắm “cơ quan quyền lực cao nhất” trên thực tế. Hơn một thập kỷ gần đây, liên tiếp có hai người từ Chủ tịch Quốc hội lên làm Tổng bí thư. Hai người đó là ai, chúng ta đều đã rõ.
Một người lúc nào tóc cũng chải rất mượt, miệng cười rất tươi khoe hàm răng trắng bóng, chắc khỏe, mọi lời nói, động tác, cử chỉ của ông ta chẳng khác gì một diễn viên điện ảnh trước ống kính. Ông ta đã nghỉ hưu, nghe nói vừa tục huyền ở cái tuổi “xưa nay hiếm”.
Đó là tình nhà, vậy còn nợ nước?
Có một câu chuyện rất kỳ lạ. Một hôm, Tổng bí thư Hà Huy Tập nhận được một bức thư của vợ – lời kể của nhà cách mạng lão thành Trần Văn Giàu trong những ngày bị cầm cố, biệt giam với Tổng bí thư. Mọi người nhận thấy Tổng bí thư đột nhiên bị khủng hoảng tinh thần, Ông đi đi lại lại trên sân giếng, nện gót chân, thỉnh thoảng tay đấm vào không khí. Sáng, chiều lúc nào cũng như vậy. Uống bao nhiêu thuốc ngủ cũng không ngủ được. Ông Giàu hỏi nhỏ nhiều lần, Tổng bí thư mới nói là vợ đã quyết định ly dị để lấy người bạn thân của chính ông. Từ đó, Tổng bí thư càng không ăn, không ngủ được, người đã gầy còm càng gầy còm thêm. Phải đưa Tổng bí thư đi nhà thương Chợ Quán, không thì ông chết mất.
Thế mà, không đầy một tuần sau, Tổng bí thư trở về khám, vui vẻ như thường. Ai chữa, uống thuốc gì mà lại hết bệnh nhanh vậy?
Số là Hà Huy Tập gặp Tạ Thu Thâu, lãnh tụ đệ tứ tại nhà thương Chợ Quán. Hai lãnh tụ đệ tam và đệ tứ bất ngờ đụng đầu nhau, họ tranh luận với nhau hết sức sôi nổi về cách mạng, về đất nước, về đường lối. Cãi nhau rồi ăn cơm, ăn cơm rồi tiếp tục cãi nhau kịch liệt, bất phân thắng bại. Đêm ấy, sau trận khẩu chiến, Tổng bí thư ngủ một giấc tới sáng trưa, ăn cơm rồi lại ngủ. Bệnh mất ngủ của Tổng bí thư dứt hẳn, khỏi phải uống thuốc gì hết! Nợ nước, tình nhà là như vậy đó!
Trở lại với Tổng bí thư vừa có bài thuyết giảng về tính “ưu việt của CNXH” tại Cuba gây chấn động dư luận thế giới. Lịch sử đôi khi trở nên điên rồ – nếu có thể nói như vậy, vì một vài sự kiện. Cuba, mảnh đất anh hùng bên kia bán cầu, lại diễn ra nhiều sự kiện thật đặc biệt, làm cho những ai quan tâm tới lịch sử các Tổng bí thư và thời cuộc không khỏi cảm thấy “lạ lùng”.
Thế nhưng, năm 1989, trong chuyến thăm Cuba sau khi dự Quốc khánh Ấn Độ, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh không có một bài giảng nào về tính “ưu việt của CNXH” ở đấy. Và thay vì trở về Hà Nội theo kế hoạch, ông ra lệnh từ La Habana bay thẳng về Tân Sơn Nhất để ngày hôm sau chủ trì một hội nghị bàn về xuất khẩu gạo tổ chức tại Saigon. Điều này lúc bấy giờ không mấy ai nghĩ tới, vì chỉ một năm trước thôi, cả nước có hơn 7 triệu người lâm vào nạn đói. Quả nhiên, năm ấy, VN đã xuất khẩu gạo và đây là một trong những thành quả bước đầu của công cuộc đổi mới mà thực chất là trả lại quyền làm ăn cho người dân.
Nguyễn Văn Linh nhận thấy, lối tư duy cũ kỹ, giáo điều, lạc hậu là một lực cản rất lớn đối với công cuộc đổi mới. Đánh giá về những người nhân danh CNXH, nhân danh lập trường cách mạng…để ngăn cản công cuộc đổi mới, Tổng bí thư nói:
“Họ chỉ biết huyênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng, về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc thực tế cụ thể nào cho ra hồn”.
Câu nói rất hay, rất sâu sắc của Nguyễn Văn Linh thực sự là một bài học cho các nhà lãnh đạo, càng nghe chúng ta càng thấy rõ tính thời sự của nó. Rõ ràng, không phải cứ mang danh là “nhà nho”, là Giáo sư hay Tiến sỹ mà có thể cao giọng thuyết giảng bất chấp thực tế, bất chấp quy luật khách quan và tri thức của loài người đã tích lũy hàng ngàn năm.
Và gần 2 ngàn năm trước, nhà chính trị, quân sự đại tài Khổng Minh Gia Cát Lượng cũng từng nói về bọn “hủ nho”:
“Nho cũng có nho quân tử, cũng có nho tiểu nhân. Nho quân tử thì trung vua yêu nước, giữ chính ghét tà, chăm những sự ơn khắp một đời, tiếng để đời sau. Còn như nho tiểu nhân thì chỉ chăm một việc văn chương, khéo nghề nghiên bút; xuân xanh làm phú, đầu bạc đọc kinh, dưới ngòi bút dẫu có nghìn lời, trọng bụng không được một mẹo”.
Nếu người ta không nhắm mắt trước thực tế cuộc sống, nếu chỉ cần “giải quyết được một công việc thực tế cụ thể cho ra hồn” hoặc “dưới ngòi bút nghìn lời, trọng bụng được một mẹo” thì đã là một sự may mắn cho đất nước và nhân dân rồi.
Nguyễn Văn Linh là một trong những tác giả chính của công cuộc đổi mới và là người thực thi chính sách đổi mới được coi là quốc sách vào năm 1986 – một sự “chọn mặt gửi vàng” của ĐCSVN. Sau năm 1975, ông từng được giao làm Trưởng ban cải tạo công thương nghiệp miền Nam. Là người gắn bó lâu năm với miền Nam kể từ thời chống Mỹ, hiểu rõ nền kinh tế thị trường của Nam VN nên ông chủ trương không cải tạo ồ ạt, nóng vội, xóa bỏ tất cả cùng một lúc. Lịch sử cho thấy quan điểm đó của ông là đúng đắn. Nhưng có lẽ ông phải trả giá cho quan điểm của mình bằng việc phải ra khỏi Bộ chính trị. Ông lại trở về Nam và tiếp tục lãnh đạo Saigon – nay lấy tên là thành phố Hồ Chí Minh, đạt được những thành tựu xuất sắc trong giai đoạn đất nước đầy khó khăn, thử thách.
Trong tác phẩm Thành phố Hồ Chí Minh mười năm, ông khẳng định:
“Sở dĩ thành phố Hồ Chí Minh đạt được những thành tựu xuất sắc như 10 năm qua là nhờ có tư duy độc lập, sáng tạo, không đi theo vết mòn của những nếp suy nghĩ cũ kỹ”.
Và ông khuyến khích sự tranh luận:
“Hết sức tránh tình trạng một mình độc quyền chân lý, còn mọi người thì chỉ có quyền chấp hành thụ động, không dám tranh luận. Chúng ta phải tạo ra thói quen biết thảo luận và tranh luận”.
Người tiền nhiệm của Nguyễn Văn Linh là Trường Chinh, hai lần làm Tổng bí thư. Lần thứ nhất, từ năm 1941 đến năm 1956 (cho dù cuối năm 1945 đến năm 1951, ĐCS áp dụng chiến thuật “tự giải tán”); lần thứ hai, sau khi Lê Duẩn mất, từ tháng 7.1986 đến tháng 12.1986 – một thời gian ngắn nhưng đầy ý nghĩa.
Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng:
“Người ta ai cũng có phong cách riêng. Phong cách của Trường Chinh là kín đáo, nói năng cân nhắc, từ tốn, lắng nghe người khác rồi mới nói. Với Bác Hồ, bao giờ ông cũng nhường lời, khi có ý kiến khác, ông trình bày đầy đủ, một cách lễ phép”. Về điểm này, ông khác với Lê Duẩn, Lê Đức Thọ.
Sự trang nghiêm và phong thái lãnh tụ của Trường Chinh làm Võ Văn Kiệt, mặc dù được coi là người có “gan to” cũng cảm thấy “ớn” khi Trường Chinh tới dự một buổi biểu diễn văn nghệ ở Việt Bắc. Võ Văn Kiệt tham gia tiết mục diễn kịch, đóng vai địa chủ. Trước khi bắt đầu, ông xung phong làm một màn múa lân cho nóng người để lấy can đảm. Hết vở kịch, nhiều người khen và Trường Chinh đến bắt tay ông. “Đồng chí diễn khá lắm, nhưng đấy là địa chủ Nam Bộ chứ không giống địa chủ Bắc Bộ”. Ông Kiệt rất thán phục. Lại một lần khác, Trường Chinh lưu ý Võ Văn Kiệt một nhân vật đang sống tại Saigon, ông Kiệt lấy sổ tay và theo thói quen, ghi là “Nguyển” chứ không phải “Nguyễn”. Trường Chinh ngó qua và bảo: “Đồng chí viết lộn rồi, dấu ngã chứ không phải dấu hỏi”. Ông Kiệt lại càng thán phục sự cẩn thận của Trường Chinh.
Sau vụ đổi tiền năm 1985, Võ Văn Kiệt gửi thư cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng, nhận định về những nguyên nhân thất bại của chính sách ấy. Trường Chinh xem thư và nói, Sáu Dân đúng là con người có trí tuệ. Trước đó, Trường Chinh cũng đã gửi thư cho Bộ chính trị không tán thành đổi tiền. Bộ chính trị trả lời, “chúng ta đang cưỡi lên lưng hổ, không thể xuống được nữa”. Thế là, với tư cách Chủ tịch nước, Trường Chinh lại phải cầm bút ký lệnh đổi tiền.
Trường Chinh là nhà lý luận hàng đầu của ĐCSVN. Nói về lý luận, thế hệ sau này không thể so sánh với ông. Các tác phẩm nổi tiếng của ông như: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Chủ nghĩa Mác và văn hóa VN, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân VN…đã giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng VN. Trường Chinh được coi là con người thận trọng, có phần cứng nhắc, thậm chí “bảo thủ”. Thế mà cuối đời, Trường Chinh lại dám rẽ ngoặt trong tư duy, là một trong những người chủ chốt khởi xướng công cuộc đổi mới, cứu vãn nền kinh tế VN bên bờ vực của sự sụp đổ.
Tất nhiên, chúng ta thấy, chiến thắng sự bảo thủ với lối mòn suy nghĩ cũ kỹ, lạc hậu là điều không hề dễ dàng – nhất là khi danh vọng, quyền lợi của người ta gắn chặt vào đó. Họ sợ hiện thực phũ phàng nên nhắm mắt làm ngơ, họ thiếu hiểu biết cả về lý luận và thực tiễn, họ ngại tranh luận, ngại cuộc đua bình đẳng mà tiếng nói của trí tuệ, của trình độ mới quyết định người thắng chứ không phải ở địa vị, chức tước. Tổng bí thư Trường Chinh chia tay với lối mòn một cách dứt khoát, bởi ông có đủ tri thức, đủ lý luận, đủ uy tín và dũng khí. Và, điều chủ yếu phải chăng là Tổng bí thư đã đặt lợi ích dân tộc, lợi ích đất nước VN lên trên hết?
Đã có lúc (tháng 4.1986) ông bị phê phán gay gắt, nào là “chạy theo chủ nghĩa xã hội thị trường, bắt chước các quan điểm của nước ngoài” và bị chụp mũ “chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh”. Ông đã bình tĩnh phản bác: “Điều tuyệt đối tránh là không vì những ý kiến khác nhau mà dẫn đến chia rẽ, bè phái, không vì thấy người khác trái ý mình thì khó chịu, rồi truy chụp quy kết về chính trị. Điều đó chỉ có hại chứ không giúp gì cho sự đoàn kết. Chúng ta đã cùng làm việc với nhau hơn nửa thế kỷ, ngọt bùi, đắng cay đều đã nếm qua, còn gì không hiểu nhau nữa mà phải dùng những lời lẽ nặng nề như vậy”. Cuộc đấu tranh nội bộ không phải bình thường – Võ Nguyên Giáp.
Lịch sử phát triển loài người cho thấy, “tương lai là bất định, khám phá tương lai là cả một chuỗi hoạt động không bao giờ ngừng. Loài người sáng tạo nên lý thuyết để có thể hiểu tương lai ở một thời điểm nào đó, rồi lý thuyết ấy nó lạc hậu đi. Phải đột phá để nâng nó lên một trình độ mới, hoặc tìm ra một lý thuyết thay đổi nó” (Đặng Quốc Bảo). Chỉ có như thế mới thích ứng được với sự thay đổi cực kỳ nhanh chóng của thế giới hiện đại. Do vậy, những tư tưởng giáo điều, bảo thủ là lực cản lớn, không thể đưa đất nước tiến lên.
“Đổi mới hay là chết”, “đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại” (Trường Chinh), “đổi mới để tiến lên” (Nguyễn Văn Linh). Không cần cao giọng thuyết giảng, phải chăng những tư tưởng đổi mới của hai Tổng bí thư càng có ý nghĩa với đất nước hơn bao giờ hết.
Trong cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, tác giả Tân Tử Lăng có dẫn hồi ức của Liuba, cháu gái Leonid Ilich Brezhnev, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô nói với người em trai: “Chủ nghĩa cộng sản là cái quái gì, đều là những lời nói trống rỗng lừa bịp dân chúng”.
Ta có thể nghĩ gì về nhận xét đó của Tổng bí thư? Nếu như ngay chính bản thân Tổng bí thư cũng không tin tưởng gì ở cái CNCS nữa, mà vẫn tiếp tục lấy lý luận ấy làm ý thức hệ chính trị để lừa gạt dân chúng, chẳng lẽ ông ta không sợ bị lịch sử lên án?
Vào tháng 4.1943, Brezhnev được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm chính trị Tập đoàn quân 18, bấy giờ đang tác chiến ở vùng Đất Nhỏ – một căn cứ bàn đạp rất quan trọng mà Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô ra lệnh phải giữ bằng bất cứ giá nào. Trước đó, Brezhnev là Bí thư tỉnh ủy Đnheprôpêtrốpxcơ. Khi chiến tranh với Đức nổ ra, ông lập tức xin ra mặt trận và quãng đời chiến đấu của ông, có thể nói, gắn liền với Tập đoàn quân 18.
Ngày 18.4.1943, Nguyên soái Zhukov, đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao đã bay tới Bộ tham mưu mặt trận Bắc Capcadơ. Ngay hôm ấy, cùng với Bộ trưởng dân ủy Hải quân và Tư lệnh không quân, Nguyên soái đến Bộ tham mưu Tập đoàn quân 18. Đại tá Brezhnev được thông báo là Nguyên soái Zhukov muốn nói chuyện với ông ta chứ không phải là một mệnh lệnh bắt buộc thực hiện. Song, Brezhnev nghĩ rằng, ý kiến của mình đã trao đổi với Tư lệnh Tập đoàn quân và Ủy viên hội đồng quân sự rồi, và chắc rằng họ sẽ báo cáo với Nguyên soái. Vì vậy, tốt hơn hết là mình không nên rời căn cứ bàn đạp trong lúc gay go này. Đó là cơ hội duy nhất có thể gặp Nguyên soái Zhukov trong thời kỳ chiến tranh của Brezhnev.
Hơn hai mươi năm sau, Khrushchev bị hạ bệ bởi âm mưu của nhóm Brezhnev. Từ nhà nghỉ trở về, đột nhiên Khrushchev được nhận luôn quyết định nghỉ hưu. Cũng chính thời gian này, Zhukov đang bị thất sủng. Thế là đám mây đen lơ lửng trên đầu của Zhukov bỗng nhiên tan biến đi, vì Brezhnev và ban lãnh đạo mới muốn làm tăng ảnh hưởng bằng cách đề cao Zhukov – người mà toàn thể dân chúng đều ca ngợi. Dưới thời Brezhnev, dù sao người anh hùng đánh thắng quân phát xít cũng dễ thở hơn. Thậm chí, sau này ông còn được xuất bản hồi ký nổi tiếng của mình: Nhớ lại và suy nghĩ.
Tháng 4.1966, Brezhnev lên làm Tổng bí thư ĐCS Liên Xô. Các nhà quan sát chính trị phát hiện ra một điểm thú vị. Ấy là ở Liên Xô, các nhân vật lên nắm quyền lãnh đạo thường theo một trình tự nhất định: người hói rồi đến người rậm râu tóc. Theo đúng quy luật ấy, Khrushchev đầu trọc nhẵn thín được thay bằng Brezhnev – người có bờm tóc và cặp lông mày rậm rạp.
Khác với Khrushchev, Brezhnev là con người mềm mỏng, không ưa mạo hiểm, không muốn tình hình căng thẳng. Ông ta được coi là người vô hại, không có lõi thép bên trong như một người cộng sản cần phải có. Ông ta rất mau nước mắt, có thể rơi nước mắt khi xem phim về các con vật và chính ông ta đã bật khóc như một đứa trẻ khi người ta báo cho biết là âm mưu hạ bệ Khrushchev có thể bị thất bại.
Tuy nhiên, Tổng bí thư trông không như một ông giáo – lại càng không như một ông giáo làng nhu mỳ. Ông ta cũng không phải là một nhà lý luận, dù là lý luận giáo điều. Dù sao, ông ta cũng chứng tỏ được tài năng và thành tích của mình. Ông có những cống hiến trong thời kỳ chiến tranh. Sau chiến tranh, ông có nhiều đóng góp trong việc khôi phục sản xuất, phụ trách công nghiệp quốc phòng và công nghiệp vũ trụ của Liên Xô. Và, con người đã hạ bệ được Khrushchev thì hẳn nhiên người đó phải có bản lĩnh cao cường chứ?
Đạo đức và cách sống của Tổng bí thư lúc đầu được nhân dân ủng hộ. Ông không lợi dụng chức vụ, say mê bóng đá và khúc côn cầu, say mê săn bắn và phóng xe hơi với tốc độ cao. Qua kênh bí mật, Tổng bí thư đã gợi ý rất khéo để Nixon tặng một chiếc xe hơi đời mới, hiệu “Continental” nhân chuyến thăm Mỹ của ông. Tại Trại Đavid, Tổng bí thư nóng lòng muốn thử chiếc xe mới sản xuất, máy rất khỏe. Ông muốn Nixon ngồi bên cạnh để biểu diễn nghệ thuật lái xe của mình. Tổng bí thư lái xe quả thật không tồi, song ông có vẻ sốt ruột và dận ga thật mạnh, chiếc xe chồm lên. Nixon suýt nữa thì bị đập đầu vào kính phía trước và rất hoảng hốt khi xe chạy được khoảng một trăm mét phải hãm phanh đột ngột vì đến chỗ rẽ. Tuy rất kinh hãi, Nixon vẫn cố trấn tĩnh và nói một cách ngoại giao: “Thưa Tổng bí thư, Ngài lái xe giỏi lắm”. Tổng bí thư lại tưởng lời khen đó là thật.
Kissinger cũng được một phen hốt hoảng khi ngồi xe do Tổng bí thư lái, mặc dù trên bàn đàm phán với Brezhnev, ông ta rất sắc sảo. Sau khi hội đàm (tại Mátxcơva), Tổng bí thư rủ Kissinger đi chơi bằng ô tô trong vùng nông thôn có phong cảnh đẹp. Tổng bí thư tự lái xe với tốc độ rất nhanh, trên con đường quanh co và hẹp, bỏ xa xe bảo vệ chạy theo phía sau. Chuyến đi làm Kissinger hết sức kinh hãi. Ngay sau đó lại một cuộc dạo chơi tốc độ nữa trên một chiếc tàu ở thượng nguồn sông Vônga. Nó thực sự làm Kissinger hoàn toàn bị choáng và có lúc đã đánh mất tính hài hước vốn có của ông ta.
Thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh rất căng thẳng. Xử lý mối quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ có ý nghĩa rất lớn trong việc tránh cho loài người khỏi thảm họa bị hủy diệt. Brezhnev dần dần đã nắm chắc vấn đề đối ngoại và là người có tiếng nói quyết định trong việc thực thi chính sách đối ngoại của Liên Xô.
Đáp lại chuyến đi đầy ấn tượng của Nixon đến Bắc Kinh vào tháng 2.1972, Liên Xô muốn mời Nixon đến Mátxcơva. Bộ chính trị đã có cuộc họp rất sôi nổi, chủ để thảo luận là liệu có nên đón Nixon hay không, trong khi cuộc tấn công mùa hè đỏ lửa đang diễn ra ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – một đồng minh thân cận của Mátxcơva. Bản thân Tổng bí thư rất muốn cuộc gặp gỡ đầu tiên với Nixon, nó làm tăng uy tín của ông ta, song ông ta chưa tỏ thái độ. Phái quân sự do Grescô đứng đầu và Pốtgoócnưu phản đối cuộc gặp. Nhà tư tưởng chủ chốt Suslốp thì do dự. Côxưghin và Grômưcô tán thành.
Rốt cuộc, lập luận sau đây đã thắng thế: Hà Nội tuy là đồng minh về tư tưởng, nhưng không chịu cho Liên Xô biết kế hoạch hiện nay và sau này đối với Đông Nam Á và Mỹ như thế nào, mặc dù Liên Xô vẫn dành cho họ sự giúp đỡ to lớn về kinh tế và quân sự. Kết quả là VN đã nhiều lần đưa Liên Xô vào tình thế khó khăn bằng việc tiến hành hết hành động bất ngờ này đến hành động bất ngờ khác, mà không hề tính tới điều đó sẽ ảnh hưởng quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ như thế nào. Về cuộc đàm phán giữa VN và Mỹ, Liên Xô nắm được qua người Mỹ nhiều hơn là qua VN. Không thể vì VN mà làm hỏng quan hệ của Liên Xô và Mỹ được – Bộ chính trị quyết định dứt khoát đón Nixon.
Sau đó, Tổng bí thư thăm Mỹ đáp lễ. Một khoảnh khắc lịch sử, khi trong phòng tiệc có tiếng hô vang và yêu cầu mọi người đứng dậy: “Thưa quý ông, quý bà, Tổng bí thư ĐCS Liên Xô đã ra”. Lần đầu tiên, câu nói đó được vang lên dưới vòm của Nhà trắng. Lúc đó, liệu Tổng bí thư có biết rằng, chưa đầy hai chục năm sau, sẽ không còn đảng cầm quyền đó nữa và Nhà nước Liên Xô cũng chấm dứt sự tồn tại.
Đêm trước khi rời nước Mỹ, Tổng bí thư mới chợt nhớ ra rằng, Bộ chính trị giao cho ông phải cố gắng thuyết phục Nixon bán cho Liên Xô vài triệu tấn ngũ cốc. Song, các cuộc gặp chính thức với Nixon đã hết và bây giờ đã là ba giờ sáng. Làm sao để hoàn thành nhiệm vụ Bộ chính trị giao? Tổng bí thư bèn phái Ngoại trưởng Grômưcô cấp tốc gặp Kissinger, rằng đây là yêu cầu riêng của Brezhnev. Kissinger không thể hứa, song nói với Grômưcô sáng sớm mai sẽ báo cáo Tổng thống và tin rằng Nixon sẽ chấp thuận. Với kết quả đó, Tổng bí thư lên đường về Mátxcơva.
Một ngày năm 1972, người dân Liên Xô dán mắt vào tivi đang truyền đi hình ảnh Brezhnev – cha đang tặng huân chương cho Brezhnev – con, Thứ trưởng Bộ Ngoại thương (Bộ Xây dựng?) nhân dịp con trai tròn 40 tuổi. Người cha rơm rớm nước mắt vì xúc động, còn người con có vẻ không được tự nhiên lắm. Chưa hết, Tổng bí thư còn ký quyết định phong con rể lên Thiếu tướng, giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Thật là quá thể – người dân Liên Xô bàn tán.
Con gái Tổng bí thư thường làm cho những người xung quanh sửng sốt vì số kim cương mà cô ta đeo mỗi khi xuất hiện trước công chúng. Con trai, con rể, cháu của Tổng bí thư đi trên những chiếc xe hơi sang trọng trong bộ sưu tập của ông chủ gia đình. Bộ sưu tập đó có cả Mercedes, Roll – Royce và những mác xe hơi ngoại khác vừa xuất hiện ở Mátxcơva. Sau khi Tổng bí thư mất, còn 40 chiếc xe hơi trong bộ sưu tập đó.
Những năm cuối đời, việc Tổng bí thư nghiện thuốc ngủ đã trở thành tai họa thực sự cho Đảng và Nhà nước. Sau một thời gian sử dụng thuốc, ông rơi vào trạng thái trì trệ. Tổng bí thư liên tục yêu cầu các bác sỹ tăng liều và họ đã phải lừa ông bằng những viên thuốc giống hệt về kích cỡ và màu sắc, không có chất độc hại, song, như một chú mèo tinh quái, ông vẫn theo đuổi những viên thuốc thật kia. Đã thế, Tổng bí thư lại muốn uống thuốc bằng rượu vodka nữa!
Những người xung quanh Tổng bí thư đều nhận thấy trạng thái nửa mê, nửa tỉnh của ông. Song, họ không lấy làm lo ngại, họ chỉ cần ông như một hình tượng, tô vẽ và thổi phồng uy tín của ông.
Nhìn rộng ra, đất nước Liên Xô cũng ở trong tình trạng tương tự. Điều đó giải thích sự sụp đổ không thể nào tránh khỏi của Nhà nước XHCN một thời hùng mạnh. Lịch sử các Tổng bí thư tiếp theo càng chứng tỏ điều đó.
(96 năm CM Tháng Mười).
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 25, 2014 15:52:19 GMT 9
Giai Thoại Về Trường Hợp Y Tá Cạo Gió Nhảy Lên Thủ Tướng
Nguyễn Thị Cỏ May
Theo tác giả “Quyền bính”, phe “cốt cán theo Tàu” trong Trung ương đảng, như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng và nhứt là Nguyễn văn Linh không thể để cho Ông Võ văn Kiệt nắm Tổng Bí thư đảng bởi họ lo sợ đường lối đổi mới của Ông Kiệt thành công thì đảng cộng sản sẽ không còn chổ đứng. Họ vẫn biết rỏ đổi mới thật sự là hợp lòng dân nhưng họ phải bám theo nguyên lý “thà mất nước hơn mất đảng”. Ông Phan văn Khải gỉải thích tại sao phe cốt cán chống Ông Kiệt “Không chỉ có Ông Linh. Cái gốc của vấn đề là Ông Đỗ Mười và các ông khác đều rất sợ Ông Kiệt làm Tổng Bí thư. Bỡi nếu Ông Kiệt làm Tổng Bí thư, Việt nam sẽ đổi mới nhanh hơn. Tuy không được đào tạo hệ thống nhưng Ông Kiệt luôn nhất quán ủng hộ cái mới. Ông chán đến tận cổ mô hình xã hội chủ nghĩa miền bắc và ông làm tất cả để phá bỏ nó”.
Đến khi ông bị Nguyễn Hà Phan và nhóm đỡ đầu Phan tấn ông vào tận chưn tường, những đồng chí chí tình với ông mới phản ứng để cứu ông nhưng vẫn không đưa được ông lên ghế Tổng Bí thư. Cái bất hạnh của Việt nam là bị cộng sản và tới lúc mạc vận, bị tên Lê Khả Phiêu và nhóm cốt cán Đỗ Mười, Lê Đức Anh đem đất nước dâng cho Tàu ở Thành đô. Sự can thiệp của các đồng chí của Ông Kiệt chỉ giúp ông không bị kỷ luật và ở tiếp ghế Thủ tướng nhưng lại mở đường cho Nguyễn Tấn Dũng phất cờ, cũng lại phất về phía Bắc kinh.
Nguyễn Hà Phan, tên Nam kỳ gian
Theo Huy Đức, Nguyễn Hà Phan chẳng bao lâu, cơn thèm khát quyền lực đã làm Phan bỏ Kiệt không thương tiếc để kề vai sát cánh với “lũ chim sẻ chim ri” Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Bình, thậm thụt vào ra với đám “MA vương” Mười – Anh, và Nguyễn Văn Linh.
Khi ông Kiệt chọn Úc thăm dò dầu khí ở mỏ Đại Hùng, ông Phan bảo “miền Nam không ai đồng tình vì bọn Úc đã đưa quân vào tàn sát đồng bào ta”. Khi ông Kiệt chủ trương cho Malaysia xây dựng sân bay Nội Bài, Phan đưa lý do “an ninh quốc gia”, không cho nước ngoài đầu tư ở cửa ngõ Thủ đô.
Lúc làm Bí thư Tỉnh Hậu giang, Phan ủng hộ chánh sách đa sở hữu đất đai, công nhận quyền tư hữu về ruộng đất. Nhưng khi ra Hà nội, được vào Ban Bí thư, Phan lập tức bọc sát theo Đỗ Mười, quay lại cực lực chống tư nhân hóa đất đai và trở thành một trong những người lớn tiếng bảo vệ chủ trương “sở hữu toàn dân”. …
Nhờ biết thay đổi quan điểm, Nguyễn Hà Phan rất được lòng Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười và cả Lê Phước Thọ, Trưởng Ban Tổ chức. Phan đã được đề nghị thay thế Ông Kiệt ở chức vụ Thủ tướng.
Tháng 1 năm 1994 tại hội nghị giữa nhiệm kỳ, Phan đưa ra một bản thống kê mười sáu điểm chệch hướng của chính phủ ông Kiệt (…) để nhằm kết thúc sự nghiệp Ông Kiệt.
Cơ hội lớn đã đến với những đối thủ của ông Kiệt khi ông công bố “Thư gởi Bộ Chính Trị” (…)
Người chống đối lá thư này mạnh nhất là Nguyễn Hà Phan. Phan kết tội ông Kiệt là “nối giáo cho giặc”, “không vững vàng”, “ chệch hướng 100% ”.
Thảm đỏ đã trải ra để ông Phan bước vào leo lên chiếc ghế Thủ tướng chánh phủ ở Hà nội nếu như không có một vụ án “ Nguyễn Hà Phan”“!
Nguyễn văn Linh không chỉ chống Võ văn Kiệt vì chống cánh nam kỳ tiến bộ trong đảng mà chống cả những người nam kỳ khác không trực tiếp tranh quyền lãnh đạo chánh trị với ông. Như truờng hợp Lý Chánh Trung, trí thức nam kỳ, trong vụ “Bão tố tận diệt mầm mống phản động của những phần tử trong nhóm Những Người Kháng Chiến Củ” (Nguyễn văn Lục, Lý Chánh Trung, đcv). Linh phải dập tắt ngay mọi mầm móng làm sống lại phong trào kháng chiến trong Nam vì như vậy mới dành trọn công đánh Tây đánh Mỹ về cho đảng cộng sản của cánh miền Bắc lãnh đạo. Trước kia, Hồ Chí Minh cũng đã dẹp Nguyễn Bình, Trần văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch, …và Nam bộ kháng chiến để lãnh đạo kháng chiến chỉ còn đảng cộng sản bắc kỳ.
Lê Khả Phiêu phản ứng cực kỳ mạnh bức thư gởi Bộ Chánh trị của Ông Kiệt khi phổ biến trên báo Quân đội nhân dân và nhờ đó được làm Tổng Bí thư, hất văng Kiệt ra xa khỏi cuộc chơi, kế nhiệm Đỗ Mười.
Tại sao Ông Linh chống Ông Kiệt chết bỏ trong lúc đó ông lại chọn ủng hộ Nguyễn Hà Phan cũng cùng dân nam kỳ như nhau và là đàn em của Ông Kiệt đã từng được Ông Kiệt nhiệt tình ủng hộ? Phải chăng vì ăn cánh hay không ăn cánh với nhau? Nhưng theo qui luật biện chứng thì cộng sản chỉ tồn tại khi còn dựa được trên những mâu thuẫn. Nên họ nhìn đâu cũng thấy có mâu thuẫn và nếu không, thì cũng phải thường xuyên tạo mâu thuẫn, ngay cả trong nội bô đảng? Cái mâu thuẫn mà Linh thấy là chủ trương đẩy mạnh “đổi mời” thật sự của Ông Kiệt. Lúc nằm nhà thương chợ Rẩy điều trị cơn bịnh thập tử nhứt sanh, Ông Linh vẫn giử quyết tâm chống Ông Kiệt để ngăn chận Ông Kiệt làm Tổng Bí thư đảng: “Nhiều anh em không hiểu vì sao mình đi đâu cũng nói chuyện Sáu Dân. Trên thực tế, mình lo. Nếu tới đây, Sáu Dân trở thành Tổng Bí thư thì gay lắm. Sáu Dân thông minh, phiếu cao, rất dể thành Tổng Bí thư ….”. Ở cương vị Tổng Bí thư, khi “đổi mới thật sự” thành công thì cánh Linh không có chổ đứng. Kiệt nắm đảng. Lần đầu tiên, cờ lọt vào tay cánh nam kỳ! Điều này không có một ủy viên Chánh trị bộ nào chấp nhận cả. Nhứt là khi còn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, …nắm đảng.
Bức thư gởi Bộ Chánh trị
Trong bức thư gởi Bộ Chánh trị, Ông Kiệt đưa ra những điểm then chốt. Về tình hình quốc tế, ông cho rằng”tính chất đa dạng, đa cực” đang chi phối quan hệ giữa các quốc gia thay vì “mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc” như đảng từng quan niệm. Ông Kiệt nhấn mạnh Việt nam theo chủ nghĩa xã hội vẫn có thể trở thành thành viên của ASEAN, ký hiệp định khung với Liên Hiệp Âu châu. Cũng trong thư, Ông Kiệt nói tiếp, rỏ hơn “Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập họp lực lượng chống lại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam như trước nữa”.
Lại rõ hơn, cũng trong thư, Ông Kiệt cho rằng không nên kỳ vọng vào sự phục hồi của “phong trào cộng sản và công nhân quốc tế” bởi nó không bao giờ có “giá trị và chất lượng cộng sản như ngày xưa nữa”. Với 4 nước xã hội chủ nghĩa còn lại, Ông Kiệt cũng cho rằng “tính chất quốc gia sẽ lấn át tính chất xã hội chủ nghĩa”, thậm chí quan hệ Việt nam-Trung quốc vẫn “tồn tại nhiều điểm nóng” ….
Ông Kiệt còn cảnh báo sẽ là “thảm họa cho đát nước” nếu Đại Hội “rụt rè bỏ lở cơ hội xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời, nếu không đáp ứng được đòi hỏi phát triển của đất nước, “đảng sẽ đứng trước nguy cơ bị tước quyền lãnh đạo”!
Về “kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa”, Ông Kiệt phê phán “để giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi bức xúc là phải nâng cao tính hiệu quả của kinh tế quốc doanh, nhằm làm cho nó chiếm một vai trò chủ đạo trong thị trường nước ta chứ không phải dành cho nó “quyền nắm thứ này, thứ khác”…
Lúc bấy giờ, qua một loạt thành công của chánh phủ nhờ sự giúp đở tận tình của một nhóm người Miền nam cũ, họ là những chuyên viên kinh nghiệm về các nghành nghề quản trị đất nước được Ông Kiệt can thiệp ra tù sớm, làm cho uy tín của Ông Kiệt lên cao từ bên trong nước tới bên ngoài, có thể đưa ông lên Tổng Bí thư đảng, điều mà Trung quốc, Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Nguyễn văn Linh, … không có ai muốn cả.
Đến khi Ông Đặng văn Thượng báo tin cho Ông Kiệt là Ông Linh đang ráo riết vận động đưa Nguyễn Hà Phan thay thế Ông Kiệt làm Thủ tướng, vì “Nguyễn Hà Phan là người có lịch sử chánh trị suôn sẻ, tận tụy vô tư, sẽ giúp nhân dân đồng bằng sông Cữu long phát triển …”, thì bổng có hàng loạt đơn, thư tố cáo Nguyễn Hà Phan đã từng khai báo nghiêm trọng và khi ra tù, nhận làm nội gián cho địch”. Vụ này, Đỗ Mười biết lúc đưa Phan vào Bộ Chánh trị nhưng vì nhiệt tình ủng hộ Phán, chống Kiệt nên Đỗ Mười tuyên bố “không bươi đào quá khứ”. Nay trước khối thư gởi về khui quá khứ đen tối của Phan với những dẩn chứng đầy thuyết phục, Đỗ Mười, Lê Đức Anh phải chấp thuận cho mở cuộc điều tra. Nguyễn văn Linh nhứt định phản đối. Nên nhớ Ông Linh là người biết rõ Ông Kiệt hơn ai hết vì cùng hoạt động trong nam suốt thời gian dài.
Việc tìm sự thât về Nguyễn Hà Phan trong văn khố của đảng không phải đơn giản vì khối lượng tài liệu quá lớn và tệ hại hơn là có một số giấy tờ bị đốt trong thời gian có những biến cố. Nhưng Ông Kìệt cho biết sẽ tìm thầy lang giỏi cho Ông Nguyễn đình Hương. Thầy lang mà Ông Kiệt nói, đó là một “ông Đại tá lớn tuổi, trước kia ở Khu IX”. Và một người nữa biết khá rõ Phan là Ông Nguyễn văn Hơn, Bí thư An giang.
Ông Nguyễn đình Hương báo cáo hồ sơ Nguyễn Hà Phan suốt 2 giờ trước Bộ Chánh trị. Nguyễn Hà Phan nhận tội. Linh nghe qua, im lặng. Bộ Chánh trị đề nghị cách chức, không khai trừ khỏi đảng. Nhưng sau đó, Phan bị đuổi ra khỏi đảng và khăn gói ra về lại Miền nam. Lặng nhìn Phan đi như một tên tù vừa ra khỏi khám, Nguyễn văn Linh tím ruột bầm gan.
Ông Kiệt dĩ nhiên làm Thủ tướng cho tới ngày hưu trí chớ không leo lên Tổng Bí thơ được. Mục đích của Ông Linh kéo cẳng Ông Kiệt khỏi chức vụ tột đỉnh của hệ thống cộng sản như vậy là thành công. Nhưng Ông Linh thất bại đã không cài được con gà của mình vào chức vụ Thủ tướng và Đào Duy Tùng không nắm được chức Tổng Bí thơ vì đột ngột bị tai biến mạch máu nảo, phải qua Singapour cấp cứu.
Nguyễn Tấn Dũng nhảy lên Trung ương
Về vụ Nguyễn Hà Phan theo Huy Đức như trên đây (Quyền Bính, trg 302 tới 315), Cỏ May góp riêng một giai thoại nghe được trực tiếp từ một người biết chuyện kể lại. Ông HQN, vừa học xong Tiểu học ở Cà mau, cùng với em trai HQM, dẩn nhau đi theo kháng chiến. Cả hai anh em bắt đầu sự nghiệp cách mạng cộng sản bằng nghề đặc công. Sau hiệp định đình chiến Genève, cả hai anh em đều tập kết ra Bắc.
Sau 30/04/75, những người nam kỳ tập kết kéo nhau về. Ba N và Tư M cũng về trong những đợt hồi hương này. Về trong niềm hân hoan chiến thắng.
Ba N ở Sài gòn làm Hiệu trưởng Trường Kinh tế vì ông có Phó Tiến sĩ Kinh tế ở Liên-sô. Sau khi chữa bịnh ở Pháp về, ông được cử làm Hiệu trưởng trường Đảng Nguyễn Ái Quốc ở Thủ đức.
Nhơn một hôm nói chuyện về tình hình Việt nam và vụ án Nguyễn Hà Phan trong lúc ông còn ở Paris, Ba N mới kể lại vụ Nguyễn Hà Phan vì Phan, trước kia, cùng hoạt động ở Miền Tây với ông. Hai người cùng trang lứa và quen biết nhau.
Theo Ba N, trong một trận đụng độ với bên quốc gia (địa điểm và thời gian, Ba Nhựt có nói rõ, nhưng lâu ngày đã quên – xin cáo lỗi), bên Việt cộng bị tiêu diệt sạch, chỉ còn Nguyễn Hà Phan sống sót nhờ lủi trốn kịp. Sau đó, Phan mới lập hồ sơ báo cáo có lợi cho mình và giành công về mình. Lúc bấy giờ vì giữ bí mật do hoạt động trong vùng địch, đảng được tổ chức ngăn cách chặt chẻ. Việc kiểm chứng đúng sai, thiệt giả một sự việc không phải đơn giản. Thế là Phan nhận đủ thành tích về mình.
Thời gian sau, Phan bị phía quốc gia bắt và khai thác. Phan khai thật chỉ ra hết cơ sở, nhờ đó bên quốc gia mới càn quét dọn sạch. Chyện này, Phan giữ kín. Bên quốc gia cũng không tiết lộ cho báo chí. Nhờ thành tích đó mà Phan được thăng quan tiến chức mau.
Đến khi Phan, ở Hà nội, say mê vinh quang, dọn mình bước lên ghế Thủ tướng, kết cánh với phe Linh, quay ngược lại phản thùng với người đã từng nâng đỡ mình là Võ van Kiệt, thì một người trong gia đình của Nguyễn Tấn Dũng (không biết có phải vị Đại tá lớn tuổi trước kia ở Khu IX trên đây không), biết rõ hai trường hợp gian dối của Nguyễn Hà Phan, không thể giữ im lặng được nữa, bèn đưa thông tin về Nguyễn Hà Phan cho Ba Dũng tố cáo phản đòn.
Nhờ đó, Ông Kiệt giữ ghế Thủ tướng, Ông Phan văn Khải, rồi Nguyễn Tấn Dũng, từ Thứ trưởng Nội vụ, Bộ trưởng và sau cùng Thủ tướng cho tới ngày nay. Đúng như Ba Dũng nói chính đảng cử ông làm Thủ tướng chớ ông không xin nên ông không thể từ chức được!
Phải thấy rõ nếu không nhờ hồ sơ hạ bệ Nguyễn Hà Phan, Ba Dũng khó mà bước chân về tới Sài gòn chớ đừng mơ chức Thủ tướng.
Qua suốt “Quyền Bính”, người ta không thấy Ông Kiệt thừa thắng xông lên hạ luôn cánh Nguyễn văn Linh đã vi phạm sai lầm nghiêm trọng ủng hộ vào chức vụ Thủ tướng chánh phủ một cán bộ phản bội đồng đội, đồng chí. Ông Kiệt không phản ứng, lẽ ra phải có một cách bình thường, phải chăng vì sợ ảnh hưởng xấu đến uy tín của đảng? Hay vì tánh nam kỳ “xuề xà, cực chẳng đả mới làm và như vậy cũng đủ rồi”?
Khi nhắc lại chuyện cũ tới đây, cỏ May chợt nhớ lời của một người bạn cựu Đại tá Quân đội VNCH, quê Long Xuyên, thường nói với bạn bè “Dân nam kỳ đi cờ bạc, bị sạch túi vì không đủ sức với cờ gian bạc lận, đi buôn bán thua lổ vì không lanh lợi, đi làm chánh trị, không bằng ai vì không dám làm hết mình và không biết bám mục tiêu, bị đè đầu. Dân nam kỳ chỉ có ăn nhậu, tức lên, chửi đổng …”.
Thực tế cho thấy Nam Bộ Kháng chiến rồi Mặt trận Giải phóng Miền nam đều bị cộng sản bắc kỳ bóp mũi chết tức tưởi mà không dám hó hé! Chẳng lẽ dân nam kỳ tệ như vậy thiệt sao?
Còn Ông Linh? Dỉ nhiên Ông Linh không như Ông Kiệt giử an phận “chuyện xong rồi!”. Lúc về hưu, ông Linh thề cống hiến cho đảng đến hơi thở cuối cùng. Viêc cống hiến trong hơn mười năm cuối đời này là ông Linh chỉ làm một việc “Mang ông Kiệt ra thui như người ta thui bê làm món nhậu”!
Trường hợp ông Kiệt có giá trị tấm gương cho “Việt kiều” ngày nay đem tâm trí và tiền bạc về xây dựng quê hương khi Việt nam còn dưới chế độ cai trị bằng Điều IV Hiến pháp. Họ sẽ được cộng sản chiêu đải bê thui hay chính họ sẽ là bê thui đãi các “đồng chí” cộng sản đây?
Nguyễn Thị cỏ May
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 18, 2015 8:38:42 GMT 9
Tưởng Giới Thạch lãnh đạoHồ Bạch Thảo Chương 1 Sau khi Tôn Trung Sơn mất, Quốc dân đảng thay đổi lãnh tụ [1925-1926] Tưởng Trung Chính [Giới Thạch, 1887-1975] NGUỒN : wikipedia 1. Bước đầu thành tựu quân sự Cải tổ Quốc dân đảng là việc đại sự trong lịch sử Trung Quốc cận đại, trường quân sự Hoàng Phố thành lập cũng là việc đại sự trong lịch sử Quốc dân đảng. Không đầy một năm, học hiệu này đào tạo các sĩ quan mới, thu được thành quả khác thường ; tuy được Nga Xô viện trợ, nhưng Tưởng Trung Chính [1887-1975] thực sự là nhân vật chủ chốt. Tưởng Trung Chính tự là Giới Thạch, ý lấy từ Kinh Dịch hàm nghĩa trung kiên ; quê tại Phụng Hoá [Fenghua], Chiết Giang ; năm 9 tuổi cha chết, được mẹ nuôi dưỡng dạy dỗ, lúc nhỏ học kinh sử tại trường tư thục, năm 17 tuổi mới theo tân học. Nhân chịu ảnh hưởng bởi chiến tranh Trung Nhật, mùa xuân năm 1906 vượt biển sang Nhật Bản, định học về lục quân nhưng chưa thực hiện được ; vào lúc này giao du với Trần Kỳ Mỹ ; mùa đông quay trở về Trung Quốc. Mùa hè năm 1907 vào học trường cấp tốc lục quân Bảo Định [Baoding, Hà Bắc], nhân quen Trương Quần ; năm sau được học bổng nhà nước, cùng Trương Quần sang Nhật Bản học trường võ bị Chấn Vũ ; được Trần Kỳ Mỹ giới thiệu, gia nhập Đồng minh hội ; lại tham gia Trượng phu đoàn do Hoàng Phu lãnh đạo, cùng sáng lập Vũ Học Tạp Chí. Năm 1910 là học sinh Sĩ quan học hiệu hậu bổ, tháng 6 cùng năm, lần đầu tiên gặp Tôn Trung Sơn ; tháng 12 vào liên đội pháo binh dã chiến thuộc Cao Điền lục quân tại Nhật với chức vụ Sĩ quan hậu bổ. Lúc cách mệnh Tân Hợi nổi lên, Tưởng trở về Thượng Hải giúp Trần Kỳ Mỹ, tham gia chiến dịch khôi phục Hàng Châu [Hangzhou, Chiết Giang], rồi trở về Thượng Hải giữ chức Đoàn trưởng, dưới quyền Sư trưởng Hoàng Phu ; dịp này cùng Trần Kỳ Mỹ, Hoàng Phu kết nghĩa anh em. Ngày 14/1/1912, nhân tranh chấp phái hệ, Trần Kỳ Mỹ sai Tưởng lập kế giết Đào Thành Chương, Thủ lãnh Quang Phục Hội, tại phòng bệnh Quảng Từ y viện, rồi Tưởng trốn án, chạy sang Nhật Bản. Năm 1913 tham gia cách mệnh lần thứ hai, nhận mệnh Tôn Trung Sơn, Trần Kỳ Mỹ hoạt động tại Thượng Hải và Cáp Nhĩ Tân [Harbin, Hắc Long Giang]. Từ năm 1915-1916, tham gia cuộc chiến phản đế tại Thượng Hải, Sơn Đông. Năm 1918, theo lệnh Tôn Trung Sơn đến Quảng Đông, giúp Trần Quýnh Minh kinh dinh tỉnh Phúc Kiến, giữ chức Khoá trưởng tác chiến cùng Chi đội trưởng ; có cảm tình đối với cuộc vận động Tân văn hoá, thường đọc các tạp chí Tân Thanh Niên, Tân Trào và các sách liên quan đến cách mệnh Nga. Năm 1920 trở về Quảng Đông, tham mưu việc quân, chỉ huy tác chiến ; Tôn Trung Sơn khen rằng dũng cảm trung thành, lại hiểu việc binh. Năm 1922, Trần Quýnh Minh làm phản gây biến, Tưởng và Tôn Trung Sơn cùng chung hoạn nạn 40 ngày tại quân hạm trên sông tại Quảng Châu [Guangzhou, Quảng Đông]. Trong thời gian này Tưởng ngày đêm cùng Tôn Trung Sơn chỉ huy hải quân yểm trợ bộ binh chiến đấu. Đến ngày 9/8, bộ binh thua rút, Tưởng bèn hộ vệ Tôn lên Thượng Hải, cùng viết hồi ký Tôn đại Tổng thống Quảng Châu mông nạn ký để kể tội Trần Quýnh Minh. Sau biến cố này được Tôn Trung Sơn trọng vọng tin dùng, gặp việc thường bàn bạc ; Tưởng đối với việc chỉnh đốn đảng chủ trương kết nạp thanh niên, chú trọng tuyên truyền. Lúc đầu tiên Tôn Trung Sơn bàn với Đại diện Nga Xô Adolf A. Joffe [Việt Phi] yêu cầu phái nhân viên quân sự đến giúp ; Liêu Trọng Khải lại bàn thêm việc thành lập trường quân sự. Tháng 8/1923 Tưởng Giới Thạch phụng mệnh Tôn Trung Sơn, đưa đoàn đại biểu đến thăm Nga Xô khảo sát đảng vụ, quân sự, chính trị, công xưởng, nông thôn ; tham quan Cộng sản quốc tế uỷ viên hội nghị, các cấp Xô Viết hội nghị. Đối với tổ chức Hồng quân, hết sức lưu ý đến huấn luyện, trang bị ; từng gặp mặt lãnh tụ Leon Trotsky, Thứ trưởng lục quân Sklianski, Tham mưu tổng trưởng, Tổng giám huấn luyện, để bàn về việc hợp tác quân sự. Ngoại trừ việc trực tiếp mang quân đến giúp, Trotsky chấp thuận viện trợ vũ khí, kinh tế cho cách mệnh Trung Quốc ; riêng Sklianski khuyên nên chuẩn bị tổ chức dân chúng, công tác tuyên truyền tạo cơ sở, rồi hãy dùng biện pháp quân sự. Tưởng Giới Thạch yêu cầu Nga xô giúp Quốc dân đảng luyện binh tại Mông Cổ, nhưng Uỷ viên trưởng ngoại giao Địch Thu Lâm khéo léo từ chối, bảo rằng người Mông Cổ nghi ngờ Trung Quốc. Nga Xô đối với đoàn đại biểu thi hành phân hoá, khiến đảng viên Trung cộng và Quốc dân đảng đối lập. Cộng sản quốc tế tìm cách hạ giá trị Quốc dân đảng càng làm cho Tưởng phẫn khích, nhận ra rằng phương châm của Nga Xô muốn tạo cho Trung Cộng thành chính thống, quyết không thuỷ chung thành thực hợp tác với Quốc dân đảng. Một khi chính quyền Nga Xô vững mạnh, sẽ khôi phục lại dã tâm thời Nga Hoàng ; không chỉ muốn biến các vùng Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương, Tây Tạng thành Xô Viết, mà còn nhuộm đỏ toàn bộ Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa quốc tế và cách mệnh thế giới chỉ là chủ nghĩa đế quốc đổi tên, chẳng khác gì Anh, Nhật. Đó là quan niệm của Tưởng trong cuộc thăm viếng Nga, nên đối với chủ trương liên Nga dung Cộng đặt lòng tin rất ít. Tháng 12 Tưởng từ Nga trở về nước, cố tình trì hoãn không đến Quảng Châu, khiến Tôn Trung Sơn, Liêu Trọng Khải phải đánh điện thúc giục, đến tháng 1/1924, trước khi cuộc họp toàn quốc đại biểu Quốc dân đảng một ngày, mới đến nơi. Tôn Trung Sơn giao chức Uỷ viên trưởng trù bị trường lục quân Quốc dân đảng, nhưng cương quyết từ chối ; Đái Truyền Hiền khuyên rằng “ Tạm thời nhẫn nại, trước hết phải lo nắm thực lực, để xem sự biến ” ; có thể vì lời khuyên này nên Tưởng nhậm chức. Tháng 5/1924 Tôn Trung Sơn chính thức phái Tưởng Giới Thạch làm Hiệu trưởng Quân quan học hiệu, Liêu Trọng Khải làm Đại biểu đảng ; trụ sở của trường tại Hoàng Phố [Huangpu, Quảng Đông], nên tên quen dùng là quân hiệu Hoàng Phố ; tiền dùng mở trường 6 vạn nguyên. Kỳ thứ nhất số học sinh 460 người đến từ các tỉnh, khoá học 6 tháng tốt nghiệp, huấn luyện chính trị là chính. Chủ chốt giảng dạy có Hồ Hán Dân, Uông Triệu Minh ; phía đảng viên Trung Cộng có Chu Ân Lai, Uẩn Đại Anh, Cao Ngộ Hãn, Trần Nghị, Niếp Vĩnh Trăn đều là Giáo quan về chính trị. Phụ trách huấn luyện về quân sự phần lớn xuất thân từ trường võ bị Nhật, hoặc trường võ bị Bảo Định, như Hà Ứng Khâm, Vương Bá Linh, Trần Thành, Đặng Diễn Đạt. Vào tháng 7 Tưởng kiêm nhiệm chức Uỷ viên trưởng huấn luyện cho các quân, đoàn giáo huấn trường Hoàng Phố kế đó thành lập. Cố vấn Nga Xô bang trợ rất nhiều, đoàn cố vấn thành lập lúc đầu do Poliak, A. Z. Cherepanov, N. Tereshatov [Gia Luân] phụ trách, vào tháng 1/1924 do Govoroff, tức P.A. Pavlov làm Chủ nhiệm, sau đó Galen 1 thay thế. Dẹp tan Thương đoàn biến loạn là lần đầu tiên Tưởng Giới Thạch lãnh đạo học sinh Hoàng Phố lập chiến công. Tháng 12/1924 Trần Quýnh Minh thừa dịp Tôn Trung Sơn lên Bắc Kinh, bèn tự xưng Tổng tư lệnh cứu quân Quảng Đông, chuẩn bị tiến công về phía tây chiếm Quảng Châu. Quyền đại Nguyên soái Hồ Hán Dân cùng Liêu Trọng Khải quyết định điều 3 lộ phản công ; nhắm bảo vệ Quảng Châu và làm tăng uy thế của Tôn Trung Sơn tại phương bắc. Trong 3 lộ thì quân Vân Nam tại lộ phía bắc, quân Quảng Tây tại trung lộ, chần chừ không chịu tiến ; nam lộ gồm thống lãnh 1 vạn quân Quảng Đông và Tưởng Giới Thạch thống lãnh Giáo đạo quân tiến thẳng. Giáo đạo đoàn thuộc trường Hoàng Phố được trang bị chính trị quân sự, tinh thần cao, dân chúng hợp tác, trong vòng một tháng càng đánh càng thắng, chiếm được Triều Châu [Chaozhou, Quảng Đông], Sán Đầu [Shantou, Quảng Đông], Gia Ứng [Jiaying, Quảng Đông]. Quân Trần Quýnh Minh thua bốn phía, rút về phía nam tỉnh Phúc Kiến, danh tiếng Giáo đạo quân lại vang lên; đó là cuộc đông chinh lần thứ nhất của đạo quân này. Lúc Tôn Trung Sơn tại Quảng Đông, Tổng tư lệnh quân Vân Nam đóng tại Quảng Đông Dương Hy Mẫn, Tổng tư lệnh quân Quảng Tây Lưu Chấn Hoàn còn e sợ. Đến lúc Tôn lên phía bắc, Dương ám thông với Đoàn Kỳ Thuỵ, mưu độc chiếm Quảng Đông ; Lưu cấu kết với Đường Kế Nghiêu, muốn quay về chiếm tỉnh Quảng Tây. Lúc quân Quảng Đông và Giáo đạo đoàn lo đông chinh, Tôn Trung Sơn mất ; Dương, Lưu, cho là cơ hội tốt để lật đổ chính phủ Quảng Châu. Tháng 4/1925 Dương chiếm lãnh binh công xưởng Quảng Châu, Lưu ngang nhiên chỉ trích Quốc dân đảng. Hồ Hán Dân, Liêu Trọng Khải, cùng Cố vấn Nga Xô Poliak [Gia Luân] bàn phương sách thảo phạt ; lại cùng với các lực lượng bị Dương, Lưu áp bách như quân Hồ Nam của Đàm Diên Khải, quân Vân Nam của Chu Bồi Đức nhất trí hành động ; cử Tưởng Giới Thạch làm Tổng chỉ huy. Đầu tháng 5, Tưởng suất lãnh Đảng quân [Giáo đạo quân] cùng quân Quảng Đông tây tiến ; Hứa Sùng Trí lưu giữ Triều Châu, Sán Đầu ; kế hoạch tác chiến do Poliak soạn thảo sẵn. Cố vấn Michael Borodin [Bào La Đình] từng ra sức ngăn cản việc gây hấn với Dương, Lưu nhưng Hồ Hán Dân không nghe, vào ngày 5/6 ngang nhiên cách chức Dương Hy Mẫn, Lưu Chấn Hoàn. Công nhân đường sắt, tàu thuyền, công xưởng tại vùng phụ cận Quảng Châu bãi công, khiến quân Lưu, Dương gặp khó khăn. Ngày 26/7 quân Quảng Đông và đảng quân tấn công mạnh ; các quân Hà Nam [quân Lý Phúc Lâm], Bắc Giang [Tương Quân, Đàm Diên Khải], Tây Giang [Lương Hồng Giai, Lý Tế Thâm] cùng hải quân chia đường tiến bức, dân Quảng Đông vùng lên trợ chiến ; hơn 3 vạn quân Vân Nam, Quảng Tây lâm vào cảnh 4 phía bị bao vây, toàn bộ tan vỡ. Tưởng Giới Thạch được giao chức Quảng Châu vệ nhung Tư lệnh, không những trở thành anh hùng cách mệnh, mà lại trở thành người thực tế thống trị Quảng Châu. 2. Tập trung quyền lực Lúc Tôn Trung Sơn bệnh tình nguy cấp, các yếu nhân Quốc dân đảng thương thảo về lãnh tụ trong tương lai, có người đề nghị theo chế độ Uỷ viên. Sau khi Tôn Trung Sơn mất, Hồ Hán Dân tuyên bố noi theo chí hướng của Tôn Trung Sơn tiếp tục cách mệnh. Tháng 5/1925 Đại diện Nga Xô Michael Borodin, Uông Triệu Minh trở về Quảng Đông ; Uỷ viên ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng tuyên bố nắm tay cùng Nga Xô, đả đảo chủ nghĩa đế quốc, đả đảo quân phiệt ; ngoại trừ ban chấp hành trung ương nắm trách nhiệm, quyết không đổi sang chế độ Tổng lý [Thủ tướng]. Về tổ chức chính phủ, chủ trương theo chế độ hợp nghị [cùng bàn bạc] ; nhưng trước tình hình quân vụ khẩn cấp, chưa kịp thi hành. Trước đó Tôn Trung Sơn từng đề cử Đường Kế Nghiêu làm Phó nguyên soái, Đường chưa nhậm chức ; nay lại hốt nhiên nhậm chức, nhưng Quốc dân đảng không thừa nhận. Vào ngày 5/6, hội nghị ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng quyết nghị đổi Đại nguyên soái thành Quốc dân chính phủ ; ngày 1/7 thành lập gồm 16 Uỷ viên : Uông Triệu Minh, Hồ Hán Dân, Hứa Sùng Trí, Liêu Trọng Khải, Ngũ Triều Khu, Cố Ứng Phân, Tôn Khoa đều gốc Quảng Đông ; Đái Tuyền Hiền, Trương Nhân Kiệt gốc Chiết Giang ; Đàm Diên Khải gốc Hồ Bắc ; Trình Tiềm gốc Hồ Nam ; Vu Thạch Nhiệm gốc Thiểm Tây ; Trương Kế gốc Trực Lệ ; Từ Khiêm gốc An Huy, Lâm Sâm gốc Phúc Kiến ; Chu Bồi Đức gốc Vân Nam. Trong đó Hứa, Đàm, Trình, Chu cầm quân ; riêng Tưởng Giới Thạch không có tên trong danh sách, có thuyết cho rằng đã từ chối. Cử Uông Triệu Minh làm Chủ tịch, Hồ Hán Dân, Hứa Sùng Trí, Liêu Trọng Khải phân nhiệm các bộ Ngoại giao, Quân sự, Tài chánh ; lại lập thêm Quân sự uỷ viên hội do Uông kiêm nhiệm chức Chủ tịch, Hứa Sùng Trí làm Chủ tịch tỉnh Quảng Đông. Uy vọng của Hồ Hán Dân trong Quốc dân đảng chỉ dưới Tôn Trung Sơn một bực, lúc đó lại nhiệm chức đại lý Đại nguyên soái ; nhưng Chủ tịch chính phủ lại về tay Uông Triệu Minh ; Uông chưa từng giữ trọng trách về hành chánh, nhưng đoạt chức nhờ có các Đại diện Nga Xô như Leo Karakhan, Michael Borodin ủng hộ. Karakhan và Borodin sớm lưu ý chọn lựa người thừa kế Tôn Trung Sơn ; nhận thấy Hồ tính cảnh giác, khó có thể chiều theo người khác ; riêng Uông nhiều cảm tình, thiếu chủ trương, dễ bị người thao túng, Borodin mấy lần ca ngợi Uông xứng đáng là lãnh tụ. Đầu tháng 5, Uông đến Sán Đầu [Shantou, Quảng Đông] mật đàm với Tưởng Giới Thạch về những việc nên hoặc không nên làm, Tưởng cảm lòng thành, biểu thị ủng hộ. Hứa Sùng Trí vốn không hoà mục với Hồ Hán Dân ; riêng Liêu Trọng Khải thân Nga, đối với sự an bài của Karakhan và Borodin ắt không có lời dị nghị. Đàm Diên Khải, Chu Bồi Đức quan hệ với Quốc dân đảng chưa sâu nên không quyết liệt phản đối hoặc đồng ý ; nên việc Uông Tinh Vệ thay Hồ Hán Dân được quyết đoạt. Quốc dân chính phủ thành lập chưa được bao lâu thì phát sinh vụ ám sát Liêu Trọng Khải làm rúng động cả Quảng Châu, liên tiếp gây nên biến động về chính trị. Sau khi Tôn Trung Sơn mất, nội bộ Quốc dân đảng, hai phái thân Cộng và chống Cộng xung đột mãnh liệt. Phái chống Cộng đối với việc không dùng Hồ Hán Dân vào địa vị lãnh tụ, càng tỏ ra bất bình ; quân nhân gốc Quảng Đông thấy thế lực ngày một mạnh của Tưởng Giới Thạch tỏ ra đố kỵ, cho rằng do một tay Borodin chế tạo ; Uông Triệu Minh, Liêu Trọng Khải cam tâm cho Nga Xô dùng, chỉ có cách trừ bỏ đi mà thôi. Chính khách bất mãn, cấu kết với các thương nhân bị tổn thất vì bãi công ; lại liên kết với nhà đương cục Hương Cảng cùng thương nhân người Anh mưu lật đổ chính phủ Quảng Châu, bài trừ thế lực Nga Xô. Ngày 26/7 Tổng đốc Hương Cảng E. R. Stubbs [Tư Tháp Bố Tư] xin chính phủ Luân Đôn phát 100 vạn tiền Hương Cảng dùng để chống chính phủ Quảng Châu, diệt đảng Cộng sản ; tuy chưa được chính phủ chấp nhận, nhưng ngày 20/8 Liêu Trọng Khải đã bị giết chết. Sự kiện phát sinh trong ngày, do đề nghị của Borodin Quảng Châu tổ chức Đặc biệt uỷ viên hội gồm Uông Triệu Minh, Hứa Sùng Trí, Tưởng Giới Thạch nắm hết quyền quân chính, tuyên bố giới nghiêm. Đây là lần thứ nhất Tưởng tham gia quyết sách đại kế, thanh ngôn vụ án Liêu Trọng Khải là cuộc đấu tranh giữa cách mệnh và phản cách mệnh, phản Cộng bị cho là Đế quốc chủ nghĩa. Người em con chú của Hồ Hán Dân là Hồ Nghị Sinh bị cho là hết sức chống cộng, chịu sự hiềm nghi nhiều, sau khi vụ án xảy ra bèn bỏ trốn, Borodin cho rằng Hồ Hán Dân có dự mưu, nên Hồ bị mất tự do. Ngày 25/8 Đặc biệt uỷ viên hội hạ lệnh bắt hơn 10 tướng lãnh cao cấp Quảng Đông, giải tán quân đội dưới quyền, Hồ Hán Dân bị giữ tại trường Hoàng Phố ; có thể nói đây là chính biến thứ nhất tại Quảng Châu. Sau khi đánh dẹp quân Vân Nam, Quảng Tây, qua cuộc hội nghị uỷ viên ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng, quyết định chỉnh lý quân dân tài chính, thiết lập đoàn tham mưu, dùng người Nga, Victor Rogachev [La Gia Lạc Phu], làm chủ nhiệm. Tháng 7, sửa đổi gọi các quân là Quân dân cách mệnh, phái cố vấn Nga Xô đến, đặt đại biểu đảng cùng huấn luyện chính trị bộ. Ngày 1/8, các Tổng tư lệnh bị giải chức ; Hứa Sùng Trí thủ lãnh quân Quảng Đông, tuy quân đông nhưng không chỉnh đốn, Poliak khuyên Tưởng Giới Thạch tìm cách chế tài. Ngày 25/8, nhiều Tướng lãnh quân Quảng Đông bị bắt. Ngày 26 Quốc dân chính phủ giao trách nhiệm cho Tưởng Giới Thạch, Đàm Diên Khải, Chu Bồi Đức làm Quân trưởng đệ nhất, đệ nhị, đệ tam quân. Đệ nhất quân ước 1 vạn, lương tháng 45 vạn nguyên. Đệ nhị, đệ tam quân cộng 2 vạn 2 ngàn, lương tháng cộng 42 vạn nguyên. Đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục quân, hợp kể 3 vạn, đều là quân Quảng Đông ; tiền lương 93 vạn, thực tế chỉ riêng Đệ tứ quân của Hứa Sùng Trí lãnh hết. Ngày 1/9 đặc biệt uỷ viên hội nghị quyết định thống nhất tài chính ; các thứ thuế thâu đều giao nạp bộ Tài chính ; ngày hôm sau tổ chức tài chánh uỷ viên hội giao cho Hứa Sùng Trí làm Giám đốc. Hứa muốn hạn chế sự phát triển của đệ nhất quân, gây mâu thuẫn với Tưởng ; Đàm Diên Khải, Chu Bồi Đức, Lý Tế Thâm đối với sự chặt chẽ của Hứa đều cảm thấy bất bình. Vào ngày 17/9, Quân sự uỷ viên hội thông qua đề nghị của Tưởng, đem quân Quảng Đông biên chế thành 2 quân, do Tưởng toàn quyền quản lý. Ngày 20/9 Hứa bị ép rời khỏi Quảng Đông, có thể nói lại có thêm một lần chính biến ; Hồ Hán Dân với danh nghĩa Đại biểu tại Nga, đến Mạc Tư Khoa. Hai kẻ tay chân, một văn một võ dưới thời Tôn Trung Sơn lần lượt bị đuổi đi ; Quảng Châu biến thành nơi Uông, Tưởng cùng nhau cai trị. Uông chủ chính trị đảng, Tưởng chủ quân sự ; Tống Tử Văn nắm Bộ trưởng Tài chính, kiêm Quảng Châu Tài chính sảnh trưởng, người Nga làm Cố vấn uỷ hội. Quân đông chinh trở về không lâu, miền đông tỉnh Quảng Đông lại do Trần Quýnh Minh chiếm. Sau khi cục thế Quảng Châu đại định, vào ngày 22/9 Quốc dân chính phủ quyết tái đông chinh, giao cho Tưởng Giới Thạch chức Tổng chỉ huy, dùng đệ nhất, đệ tứ quân làm thành phần chủ lực. Vào đầu tháng 10 xuất phát, một lần ra quân đánh tan thành Huệ Châu [Huizhou, Quảng Đông] kiên cố, 2 năm nay chưa từng hạ được ; lại tiếp tục khắc phục Gia Ứng, Triều Châu, Sán Đầu trong thời gian chỉ một tháng. Phía nam Đặng Bản Ân từ Quỳnh Châu [Hainan, Hải Nam] tiếp ứng cho Trần, xâm phạm Cao Châu [Gaozhou, Quảng Đông], Lôi Châu [Leizhou, Quảng Đông] thế lực tương đối mạnh ; từ tháng 11 đến tháng 12 bị quân của Chu Bồi Đức và quân Quảng Tây đánh bại ; đầu tháng 1/1926 thu phục đảo Hải Nam, toàn bộ tỉnh Quảng Đông được bình định. Năm 1925, Nga Xô viện trợ Quốc dân đảng rất tích cực. Tài liệu ghi nhận được nhân viên Cố vấn đạt đến 100 ; tháng 3, dùng 100 vạn Lô bố [đồng Rúp của Nga] làm kinh phí cho trường Hoàng Phố trong 2 tháng, 400 vạn Lô bố cho đảng quân mới biên chế. Trong tháng 4 và tháng 5 tàu thuyền Nga đến không ngừng, phần lớn vận chuyển dầu hoả ; tháng 7 lập cục hàng không, cùng tháng 3 tàu Nga đến, 1 chiếc chở nhu liệu, 1 chiếc chở khí giới. Trong vòng tháng 8, chỉ trong 1 tuần lễ có 6 chiếc tàu Nga đến, cục hải quân thành lập. Borodin xin Karakhan mua 6 chiếc phi cơ, phái 10 phi công đến, cùng tiếp tế vũ khí đạn dược. Tháng 11, đại học Tôn Dật Tiên thành lập tại Mạc Tư Khoa, trước sau Quảng Châu phái 300 học viên đến học tập, trong số đó có Tưởng Kinh Quốc, con trai Tưởng Giới Thạch. Tưởng lại nhấn mạnh Trung Nga đoàn kết, cách mệnh thế giới thống nhất chỉ huy ; cách mệnh Trung Quốc là một phần tử của cách mệnh thế giới. Quảng Tây bình định cũng xẩy ra trong năm 1925. Từ năm 1924 Lý Tông Nhân, Hoàng Thiệu Hoằng, Bạch Sùng Hy đã chiếm được quá nửa tỉnh ; đầu năm 1925, quân Quảng Đông giúp đánh bại Thẩm Hồng Anh, chiếm Quế Lâm [Quilin, Quảng Tây] ; trong thời gian tháng 6-7, đánh bại quân Vân Nam của Đường Kế Nghiêu xâm nhập, nên toàn tỉnh Quảng Tây được bình định. Tháng 3/1926, Quốc dân chính phủ giao cho Lý Tông Nhân làm Đệ thất quân trưởng Quân dân cách mệnh quân, Hoàng Thiệu Hoằng làm Chủ tịch Quảng Tây chính phủ. Lúc này Quốc dân đảng có được Quảng Đông, Quảng Tây, quân lực khoảng 10 vạn người. 3. Quốc dân đảng chế tài Trung Cộng Việc Quốc dân đảng dung Cộng thực ra do Tôn Trung Sơn độc đoán, không ít cán bộ cao cấp tỏ ra phản đối lúc đầu. Sau khi đảng cải tổ, đảng viên Trung cộng lợi dụng sự hợp pháp, tăng cường quyền lực trong Quốc dân đảng ; sách lược của họ chia Quốc dân đảng thành 2 phái tả, hữu để dễ dàng khuynh loát ; gọi tả phái là cách mệnh, hữu phái là thoả hiệp. Trương Kế trước kia đã từng giới thiệu yếu nhân Trung cộng Lý Đại Sao gia nhập Quốc dân đảng, vào tháng 6/1924 cùng Tạ Trì, Đặng Trạch Như đàn hặc Trung cộng ; những người này đều là Giám sát uỷ viên Quốc dân đảng sau khi cải tổ. Sau khi Tôn Trung Sơn mất 4 tháng, Đái Truyền Hiền, người từng tham dự buổi họp sáng lập Trung cộng, tuyên bố hai quyển sách Tôn Văn Chủ Nghĩa Đích Triết Học Cơ Sở và Quốc Dân Cách Mệnh Dữ Trung Quốc Quốc Dân Đảng, phân tích rõ tư tưởng Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Mác Xít không tương đồng ; Trung Quốc cần Quốc dân cách mệnh của Tam dân chủ nghĩa 2, không phải cách mệnh Cộng sản ; không thể dùng duy vật sử quan để đả phá quốc dân cách mệnh ; chỉ trích phá hoại nội bộ Quốc dân đảng, khuếch trương tổ chức Trung Cộng. Đến lúc Hồ Hán Dân, Hứa Sùng Trí bị xua đuổi ; Uỷ viên ban chấp hành trung ương Quốc dân đảng Lâm Sâm, Trâu Lỗ cũng bị cưỡng bách lìa Quảng Đông. Trung cộng tăng cường liên lạc với Quốc dân đảng tả phái Uông Triệu Minh, công kích phái hữu chống Cộng, Đái Truyền Hiền được liệt vào trung phái. Bọn Trương Kế, Lâm Sâm được Đái Truyền Hiền, Tôn Khoa, Ngô Cảnh Hoàn chi trì ; vào tháng 11/1925, trước linh sàng của Tôn Trung Sơn tại Tây Sơn [Xishan, Bắc Kinh], cử hành Trung ương chấp hành đệ tứ thứ hội nghị, còn gọi là Tây Sơn hội nghị ; quyết nghị thủ tiêu đảng tịch Quốc dân đảng của đảng viên Trung Cộng, giải chức cố vấn của Michael Borodin, ngăn trừng Uông Triệu Minh. Nhân chính phủ tại Quảng Châu không thừa nhận, bài xích là phi pháp, bèn đặt ban chấp hành trung ương tại Thượng Hải, nội bộ Quốc dân đảng chính thức chia cắt. Sau khi Tưởng Giới Thạch thăm Nga Xô trở về, biết rằng Nga không có hảo ý với Trung Quốc; nhưng Tôn Trung Sơn kiên trì hợp tác, nên bề ngoài ra vẻ thoả thuận để mưu tự lập. Borodin đối với Tưởng hết sức tranh thủ, nhưng cuối cùng không tín nhiệm, không muốn cho nắm hết binh quyền. Sau khi khoá 1 trường Hoàng Phố tốt nghiệp, Giáo đạo đoàn thành lập chưa được bao lâu, tháng 1/1925 lại thành lập Thanh niên quân nhân liên hiệp hội, do Borodin chỉ huy hướng dẫn, thành phần đều là đảng viên Cộng sản. Sau lần thứ nhất đông chinh, quân nhân thuộc Quốc dân đảng tổ chức Tôn Văn chủ nghĩa học hội, hai bên tranh đấu với nhau, khiến Tưởng rất khổ tâm. Uông Triệu Minh giữ chức Quốc dân chính phủ Chủ tịch, thành thủ lãnh đảng và chính phủ ; thực sự do Borodin chi trì. Đến lúc quân Vân Nam, Quảng Tây bị tiêu diệt ; địa vị của Tưởng lên cao như mặt trời phương đông ; uy vọng càng lớn, thì mối kỵ của Borodin càng sâu, và Uông cũng cảm thấy bất an. Hội nghị Tây Sơn chĩa mũi tên vào Uông, nhưng không đề cập đến Tưởng, chẳng khác gì lửa cháy trút thêm dầu. Tháng 1/1926 Borodin cùng Uông Triệu Minh thao túng đệ nhị thứ toàn quốc Quốc dân đảng đại biểu hội nghị tại Quảng Châu ; mục đích chủ yếu đả kích Tây Sơn hội nghị, cuộc vận động đánh đổ Tưởng cũng bắt đầu. Tưởng vì đoàn kết, mong hội nghị không đề cập đến việc Tây Sơn ; Uông càng tin rằng Tưởng có thông mưu trong vụ này. Đại hội không đếm xỉa đến lời khuyến cáo của Tưởng, thông qua việc trừng xử các đảng viên liên quan đến hội nghị Tây Sơn. Uỷ viên chấp hành mới được tuyển gồm 60 người, phái Uông chiếm 20, Trung cộng chiếm 14 ; Trung ương thường vụ Uỷ viên gồm 9 người, Uông phái và Trung cộng chiếm 3 ; trung ương đảng bộ phụ trách các đơn vị cũng phần lớn thuộc phái Uông và Trung cộng ; Uông và Borodin hợp mưu khống chế Tưởng càng lộ liễu, mối xích mích hai bên càng ngày càng sâu. Sau cuộc đông chinh lần thứ hai, Tưởng lập tức có kế hoạch bắc phạt. Borodin cho rằng thế lực Trung cộng chưa đủ lớn, nếu địa vị Quốc dân đảng và Cách mệnh quân càng ổn định, lo uy tín của Tưởng tiếp tục phát triển ; nên bảo rằng thời cơ bắc phạt chưa tới. Chủ nhiệm Cố vấn Nga Xô Kissanga, V. V. Kuybyshev [Quý Sơn Gia] và Chủ nhiệm Tham mưu đoàn La Gia Giác Phu càng ra sức phản đối. Tưởng lâm vào hoàn cảnh hiểm ác, xin từ chức rồi lại quyết tâm xung phá ; Uông đối với việc từ chức của Tưởng không phê chuẩn mà cũng không lưu giữ. Vào cuối tháng 2/1926 Tưởng bắt giam một Sư đoàn trưởng Đệ nhất quân, do V. V. Kuybyshev lợi dụng làm điều sai. Đầu tháng 3 Uông với danh nghĩa Chủ tịch Uỷ viên hội quân sự chấp thuận Tưởng giải trừ chức Tư lệnh vệ nhung Quảng Châu ; lại có truyền đơn chống Tưởng xuất hiện. Tưởng đau khổ trình bày với Uông rằng thực quyền cách mệnh không thể để rơi vào tay người nước ngoài ; liên lạc với cộng sản quốc tế cũng nên có chừng mực, không để mất quyền tự chủ ; Uông đem việc này kể lại cho V. V. Kuybyshev nghe. Trung cộng chỉ trích Tưởng là quân phiệt mới, là một Đoàn Kỳ Thuỵ trong tổ chức cách mệnh. Vào ngày 14/3 Uông ngỏ ý bảo Tưởng rời khỏi Quảng Đông, Tưởng cảm thấy “ Bốn bề thụ địch, mối lo từ trong nách, hãm vào thế trùng vây ; chỉ có cách phấn đấu quyết chiến, trong cái chết tìm cái sống.” Trung Sơn hạm là chiến hạm Tưởng dùng để đi về từ Quảng Châu đến Hoàng Phố, do đảng viên Trung cộng Lý Chi Long, Đại lý hải quân cục trưởng, chịu trách nhiệm. Ngày 19/3 Tưởng phát hiện trên chiến hạm có hành động khả nghi, lại nhận tin báo rằng Lý âm mưu chờ cho Tưởng lên tàu, sẽ uy hiếp chở lên Hải Sâm Uy [Vladivostok, Nga], nên Tưởng ra tay trước khống chế. Ngày 20/3 Tưởng ra lệnh thiết quân luật, bắt Lý Chi Long cùng đại biểu đảng Cộng sản tại các quân, vây uỷ viên bãi công tỉnh, giám sát chỗ ở của các Cố vấn Nga. Đó là nội dung Trung Sơn hạm sự biến và cũng là lần thứ nhất Tưởng đối với Trung Cộng chế tài. Uông Tinh Vệ cho rằng Tưởng hành động tự tiện vô chính phủ, rất lấy làm giận dữ ; các Quân trưởng khác cũng không đồng ý. Để mong thống nhất nội bộ và được Nga Xô tiếp tục yểm trợ, Tưởng chuyển sang hoà hoãn, bèn nói với Tham nghị Nga xô Solovyev [Tố Lạc Duy Dã Phu] rằng hành động nêu trên do chống lại vài cá nhân, chứ không phải chống lại Nga Xô. Tưởng lại bàn bạc với đại biểu Nga Xô Ivanovsky [Y Vạn Nặc Phu Tư Cơ] cho V. V. Kuybyshev và La Gia Giác Phu trở về nước, và mời Poliak thay thế. Nhưng Uông cũng không tiện lưu lại, nên xưng bệnh xin nghỉ dài hạn ; chức Chủ tịch Quốc dân chính phủ do Đàm Diên Khải làm Đại lý. Trung cộng rút ra khỏi Đệ nhất quân và trường Hoàng Phố ; các tổ chức như Thanh niên quân nhân liên hiệp hội và Tôn Văn chủ nghĩa học hội đều bị giải tán. Do phái phản Cộng tổ chức hội nghị Tây Sơn, Tưởng đối với Cố vấn Nga xô lại không hoà mục ; nên Stalin cho vời Hồ Hán Dân, lúc này còn trú tại Mạc Tư Khoa, đến để tìm cách lung lạc. Sau khi bàn bạc, Hồ khởi hành trở về Trung Quốc, đến giữa đường thì Trung Sơn hạm sự biến bắt đầu, Stalin nghĩ rằng nếu Hồ đến Quảng Châu sẽ có tác dụng hoà hoãn, bèn ra lệnh Borodin trên đường trở về Nga nghỉ phép, cùng quay lại Quảng Châu. Ngày 24/4/1926 Hồ cùng Borodin từ Hải Sâm Uy [Vladivostok] đến Quảng Châu, được hoan nghênh nhiệt liệt, Hồ được cử làm Uỷ viên chính trị ; cuối cùng không hoà hợp với Borodin nên lại ra đi lần nữa. Lúc này Borodin qua lại nhiều lần với Tưởng, ngày 15/6 Nga tiếp tế một số vũ khí, khiến Tưởng rất an ủi, ngày mồng 8 Borodin đàm luận 3 giờ, cự tuyệt gặp mặt Hồ Hán Dân, khiến ngày 12 Hồ đi Thượng Hải. Cùng ngày Uông Triệu Minh đến nước Pháp, những người thân cận với Hồ như Ngũ Triều Khu cũng tiếp tục bị đuổi đi ; Tưởng trở thành trung tâm lãnh tụ tại Quảng Châu. Trước kia Trần Độc Tú chủ trương rằng Trung cộng nên rút ra khỏi Quốc dân đảng ; đổi hợp tác trong đảng thành liên minh ngoài đảng ; Cộng sản quốc tế chống lại cho rằng không được, bèn phái Cục trưởng Viễn đông G. N. Voitinsky [Ngô Đình Khang] đến chỉ đạo. Trần Độc Tú từ đó trở về sau đề xuất chính sách Trung cộng đối với Quốc dân đảng có phần nhẹ gánh hơn “ Biện nhi bất bao, thoái nhi bất xuất ” ; Borodin cũng chủ trương tạm thời lùi bước, cùng Tưởng Giới Thạch bàn định phương án chỉnh lý đảng vụ Quốc dân đảng. Ngày 17/5 do hội nghị uỷ viên ban chấp hành Quốc dân đảng lần thứ 2 thông qua những điểm quan trọng như tổ chức hội nghị liên tịch 3 Quốc, Cộng để thẩm định đảng viên ngôn luận hành động ; Trung cộng ra huấn lệnh cho Trung cộng đảng viên đáng được thông qua tại hội nghị liên tịch ; đảng viên Trung cộng tại đảng bộ Quốc dân đảng cao cấp không được quá 1/3, không được giữ chức Bộ trưởng các cơ quan Quốc dân đảng ; đảng viên Quốc dân đảng không được gia nhập đảng Trung cộng. Tưởng Giới Thạch cho rằng từ nay trở về sau Trung cộng không thể thay thế Quốc dân đảng, nhưng thực tế chứng minh không phải như vậy. Trần Độc Tú đối với phương án này rất lấy làm bất mãn ; riêng Borodin, G. N. Voitinsky, thì cho rằng “ hiện tại là giai đoạn Trung cộng đáng đem khổ lực giúp cho Quốc dân đảng ” ; thực chất tạm rút ra khỏi thượng từng kiến trúc của Quốc dân đảng, tập trung toàn lực vào hạ tầng cơ sở. Hồ Bạch Thảo 1 Galen nguyên tên là V. K. Blucher ; từng tham gia Đệ nhất thế chiến. Sau khi bị thương, bèn giải ngũ rồi gia nhập đảng Cộng sản Nga, chỉ huy du kích đánh bại bạch Nga tại Tây Bá Lợi Á, được thăng Sư đoàn trưởng, năm 1920 được tấn phong Tư lệnh quân đoàn, bình định nam Nga. Năm 1924 giữ chức Chủ nhiệm Cố vấn đoàn tại Trung Quốc, năm 1925 trở về nước. Năm 1926 do lời xin của Tưởng Giới Thạch trở lại chức, đi theo cố vấn đoàn quân bắc phạt, tháng 7/1927 trở về nước. Năm 1935 thăng Nguyên soái, tháng 11/1938 bị Stalin xử tử lúc 49 tuổi. 2 Tam dân chủ nghĩa do Tôn Trung Sơn đề xuất, gồm : dân tộc chủ nghĩa, dân quyền chủ nghĩa, dân sinh chủ nghĩa. 3 Liên tịch : tức 2 chiếu, ý chỉ hai phe cùng tham gia hội nghị.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 18, 2015 8:40:20 GMT 9
Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Hồ Bạch Thảo Chương 2 Quân dân cách mệnh bắc phạt[1926-1927] Uông Triệu Minh [Tinh Vệ] NGUỒN : wikipedia 1. Tiến công vào các tỉnh miền trung Trung Quốc Trong khi Quốc dân đảng bình định xong Quảng Đông, Quảng Tây ; chính là lúc quân phiệt Trực hệ [Ngô Bội Phu], Phụng hệ [Trương Tác Lâm] liên kết đánh Quốc dân quân của phe Phùng Ngọc Tường. Tưởng Giới Thạch ước tính vận mệnh của phe quân phiệt không lâu, trong 3 năm có thể hoàn thành thống nhất. Sau biến cố Trung Sơn hạm, Tưởng nắm toàn quyền, Nga Xô vẫn tiếp tục chi trì ; chính có thể lợi dụng đối ngoại phát triển, để tiêu trừ mâu thuẫn bên trong ; ngoài ra tình trạng nội biến tại Hồ Nam cũng có thể thừa cơ. Lúc bấy giờ Sư đoàn trưởng Đường Sinh Trí đóng tại phía nam tỉnh Hồ Nam, muốn giành chức Tỉnh trưởng của Triệu Hằng Dịch, bèn quay sang Quảng Đông, Quảng Tây xin quân. Tưởng định chiến lược lúc đầu, một mặt liên lạc với Quốc dân quân của Phùng Ngọc Tường, và Diêm Tích Sơn tại Sơn Tây để chế ngự Phụng quân của Trương Tác Lâm ; mặt thứ hai, liên lạc với quân Quý Châu, Tứ Xuyên nhắm khiên chế Ngô Bội Phu tại Hồ Bắc và quân Vân Nam của Đường Kế Nghiêu ; mặt thứ 3 trung lập các tỉnh Giang Tây, Chiết Giang của Tôn Truyền Phương, để cho địch khỏi dùng. Mặt thứ 4, cũng là nỗ lực chính, lợi dụng lúc Quốc dân quân chưa bị tiêu diệt, thế lực của Ngô Bội Phu chưa đủ sung túc, bèn động viên binh lực 8 vạn, dự trù đủ 2 tháng quân lương với 500 vạn nguyên, hẹn trong vòng 3 tháng chiếm cho được Vũ Hán [Wuhan, Hồ Bắc]. Quốc dân đảng trung ương uỷ viên hội, sau khi chỉnh lý đảng vụ 4 ngày ; vào ngày 21/5/1926 lại thông qua đề án bắc phạt. Ngày 5/6 Quốc dân chính phủ chỉ định Tưởng Giới Thạch làm Tổng tư lệnh Quốc dân cách mệnh quân ; ngày 2/7 ban bố lệnh động viên bắc phạt. Ngày mồng 9, Tưởng làm lễ thệ sư, thanh ngôn 3 điều : thứ nhất, sẽ cùng đế quốc chủ nghĩa và quân phiệt quyết chiến, không điều hoà ; thứ hai, mưu cầu quân nhân toàn quốc nhất trí cộng đồng cách mệnh, sớm thực hiện Tam dân chủ nghĩa ; thứ ba, quân cách mệnh và nhân dân kết hợp thành quân đội của nhân dân, để nhân dân toàn quốc cùng đảm đương nhiệm vụ cách mệnh. Buổi thệ sư, khí thế rất hùng tráng, ý nghĩa mới mẻ. Quân bắc phạt chia làm 3 lộ : Lộ thứ nhất gồm đệ nhất, đệ tứ, đệ thất quân ; mỗi đơn vị khoảng nửa số, tổng cộng 3 vạn ; phối hợp với đệ bát quân của Đường Sinh Trí mới biên chế 2 vạn người ; nhiệm vụ chủ công. Lộ thứ hai gồm đệ nhị, đệ tam, đệ lục quân, ước 3 vạn, hướng Giang Tây, nhiệm vụ yểm trợ. Lộ thứ ba, gồm một nửa đệ nhất quân, do Hà Ứng Khâm chỉ huy, phòng bị phía đông Quảng Đông, đợi thời cơ đánh Phúc Kiến. Lý Tế Thâm dùng một nữa đệ tứ quân, cùng đệ ngũ quân giữ Quảng Châu. Các quân Quân trưởng cùng Cố vấn Nga Xô, liệt kê như sau : – Đệ nhất quân, thành phần nòng cốt từ Giáo đạo đoàn Hoàng Phố, có 4 sư ; lúc đầu Tưởng Giới Thạch làm Quân trưởng, sau đó Hà Ứng Khâm thay thế ; Cố vấn A. Z. Cherapanov. – Đệ nhị quân, có 3 sư, do quân Hồ Nam biên thành, Quân trưởng Đàm Diên Khải, Cố vấn Z. Y. Zenek. – Đệ tam quân, có 3 sư, do quân Vân Nam biên thành, Quân trưởng Chu Bồi Đức, Cố vấn F. G. Matseylik. – Đệ tứ quân, có 4 sư, do quân Quảng Đông biên thành, Quân trưởng Lý Tế Thâm, Cố vấn V. Gorev. – Đệ ngũ quân, có 2 sư, quân Quảng Đông biên thành, Quân trưởng Lý Phúc Lâm, Cố vấn Lunev. – Đệ Lục Quân, có 3 sư, phần lớn quân Hồ Nam biên thành, Quân trưởng Trình Tiềm, Cố vấn Z.Konchits. – Đệ thất quân, có 6 sư, do quân Quảng Tây biên thành, Quân trưởng Lý Tông Nhân, Cố vấn Z. K. Mamaiv. – Đệ bát quân, do quân Hồ Nam mới biên chế trước khi bắc phạt, có 4 sư, Quân trưởng Hứa Sùng Trí, Cố vấn F. L. Olshevsky. Mục đích đầu tiên của hành quân bắc phạt là đánh chiếm Hồ Nam, Hồ Bắc. Quân của Đường Sinh Trí được sự yểm trợ của đệ nhất, đệ tứ, đệ thất quân ; ngày 11/7/1926 khắc phục Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], rồi dừng lại để đợi quân đến tiếp. Ngày 27/7 Tưởng Giới Thạch, cùng Tham mưu trưởng Bạch Sùng Hy, Cố vấn Poliak, rời Quảng Châu lên phía bắc ; vùng giao giới hai tỉnh Quảng Đông, Hồ Nam gập ghềnh, đường hành quân gian nan vất vả. Nhưng các công nhân bãi công tại Hương Cảng sung vào đội tiếp vận, trên đường phục vụ chuyển lương thực vũ khí, dọc đường nông dân hăng hái giúp đỡ. Tưởng có nhận xét rằng sau khi tiến vào đất Hồ Nam “ Dọc đường dân chúng hoan nghênh… hiệp hội nông dân tổ chức rất chỉnh tề ; sau này cách mệnh thành công, tỉnh Hồ Nam đáng đứng vào đệ nhất ”. Vào ngày 11/8 bộ chỉ huy đến Trường Sa, lại có nhận xét thêm “ Cảm thấy lòng dân mạnh, tình thần cách mệnh nồng hậu khẩn trương ; chưa đến đất này thấy muôn vàn khó khăn, đến nơi rồi mọi khó khăn biến đi hết.” Những hiện tượng này, cố nhiên do Trung cộng hoạt động trong nông thôn mấy năm gần đây, cùng công lao tuyên truyền về chính trị ; nhưng cũng do nhân dân từ lâu bị cực khổ vì quân phiệt, nay gặp quân cách mệnh như đại hạn gặp mưa ; đây chính là nhân tố chiến thắng của quân cách mệnh ; các tỉnh khác cũng cùng chung tình trạng như vậy. Đầu tháng 8, các Tướng lãnh tại Tứ Xuyên, Quý Châu rầm rộ đến quy phụ ; ngày 19/8 quân bắc phạt tại Hồ Nam bắt đầu tổng công kích, trong 3 ngày khắc phục Nhạc Dương [Yueyang, Hồ Nam], rồi theo hai đường thuỷ, bộ cùng tiến. Lực lượng của Ngô Bội Phu hơn 10 vạn, nhưng các trận trước đó đã chịu nhiều tổn thất, lại còn phải mệt nhọc tại chiến trận phương bắc, nên sau khi bị thua tại Nam Khẩu, phải rút về Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] 1. Sau khi quân bắc phạt đã vào phía nam tỉnh Hồ Bắc, từ ngày 26 đến ngày 30/8, đánh tan quân chủ lực của Ngô tại các cầu Đinh Tây, Hạ Thắng rồi tiến đến Vũ Hán [Wuhan], vào ngày 6/9 chiếm lãnh Hán Dương [Hanyang], ngày 7 chiếm Hán Khẩu vây Vũ Xương [Wugang]. Đến ngày 10/10 khắc phục Vũ Xương, quân Ngô Bội Phu hoàn toàn suy sụp, noi theo phía bắc chạy lên tỉnh Hà Nam. Các đơn vị lập thành tích lớn trong chiến dịch này phài kể đến 2 sư đoàn dưới quyền Trương Phát Khuê, Trần Minh Khu và một đơn vị độc lập do Diệp Đình đảng viên Trung cộng chỉ huy. Tôn Truyền Phương làm Tổng tư lệnh 5 tỉnh : Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tô, An Huy, Giang Tây ; thực lực còn vượt quá Ngô Bội Phu. Lúc vấn đề Hồ Nam mới xẩy ra, Tôn án binh bất động ; đến lúc quân cách mệnh chiếm được Trường Sa Tôn bắt đầu tăng quân tại Giang Tây, chỉ trích quân cách mệnh là “ Nghịch đỏ ”, nếu xâm phạm vào một trong năm tỉnh sẽ đem toàn lực chống cự. Vào ngày 23/8 Tôn gửi thư cho Tưởng Giới Thạch yêu cầu đuổi người Nga và Trung cộng, nếu không sẽ mang quân đánh Nghịch đỏ ; cùng lúc tập trung quân 8 vạn tại vùng phía tây và bắc tỉnh Giang Tây. Sau khi điều binh đánh tan quân Ngô Bội Phu tại Hán Dương, Hán Khẩu, Tưởng Giới Thạch quyết định đánh Giang Tây, dùng binh lực khoảng 5 vạn. Ngày 19/9 quân cách mệnh đánh Nam Xương [Nanchang, Giang Tây], bị quân Tôn Truyền Phương đánh lui, tổn thất tương đối lớn. Tưởng điều thêm viện quân 2 vạn, ngày 20/10 lấy được Nam Xương, lại bị quân Tôn chiếm lại. Bấy giờ Tôn gặp khó khăn nội bộ, như Tỉnh trưởng Chiết Giang đòi độc lập, quân tại Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] chống mệnh, nên xin hoà, nhưng Tưởng không chấp nhận. Ngày 2/11 quân cách mệnh tấn công lần thứ ba, ngày 4 khắc phục Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], ngày 7 lấy Nam Xương, quân Tôn thua to, thành phần tinh nhuệ suy sụp ; đây là chiến dịch quy mô nhất trong chiến tranh bắc phạt. Bộ tư lệnh quân cách mệnh bèn dời đến Nam Xương. Các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây là chiến trường chính của quân bắc phạt. Thượng tuần tháng 10, Tổng tư lệnh Phúc Kiến Chu Ấm Nhân mang quân đánh miền đông tỉnh Quảng Đông, bị Quân trưởng đệ nhất quân Hà Ứng Khâm đánh bại ; tháng 12, quân Hà Ứng Khâm tiến vào Phúc Châu [Fuzhou, Phúc Kiến]. Kể từ khi bắc phạt xuất sư, trong vòng nửa năm quân cách mệnh đánh bại hai trùm quân phiệt lớn : Ngô Bội Phu và Tôn Truyền Phương ; khu vực thống trị từ Lưỡng Quảng khuếch đại đến 4 tỉnh : Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây và Phúc Kiến; trên danh nghĩa còn có cả Quý Châu và Tứ Xuyên. 2. Hoạt động chống Tưởng phản Anh của Borodin, cùng việc Tưởng chiếm miền Hoa đông Sau biến cố Trung Sơn hạm xảy ra tại Quảng Châu, thì vấn đề chia tay giữa Tưởng và Cộng sản chỉ là chuyện sớm hoặc muộn ; việc Tưởng quyết thực hiện bắc phạt, ý muốn tranh thủ thời gian. Riêng Trung cộng thì cho rằng bắc phạt chỉ có lợi cho lãnh tụ quân nhân gia tăng quyền vị, không mang ý nghĩa cách mệnh ; nếu có thắng lợi cũng không phải là thắng lợi của cách mệnh. Bởi vậy trước hết cần củng cố lực lượng cách mệnh tại Quảng Châu, đừng để cho đám quân chống cộng tiến vào Hồ Nam. Đến lúc bắc phạt trên đường thuận lợi, Trung cộng lại bảo rằng đó không phải là hành động của quần chúng cách mệnh, chỉ có tác dụng bởi vài lãnh tụ quân sự ; từ nay trở về sau quyền uy của đảng cần nằm tại lãnh tụ quân sự, để chi phối mọi mặt. Lại cho rằng hiện tại Quốc dân chính phủ có tên, nhưng không có thực quyền, cần yêu cầu Uông Triệu Minh chấm dứt nghỉ phép trở về nắm quyền, để việc chính trị có riềng mối, xuất phát từ trung tâm lãnh đạo. Về mặt quốc tế Cộng sản, Trung Quốc là đầu đề tranh chấp giữa Stalin và Trotsky. Trosky chủ trương Trung Cộng rút ra khỏi Quốc dân đảng, tự lập chính quyền Xô Viết. Riêng Stalin chủ trương Trung cộng kiên trì liên hợp cùng Quốc dân đảng. Từ tháng 11-12, thông qua hội nghị lần thứ 7 của ban chấp hành uỷ viên quốc tế cộng sản, quyết định 2 điều về Trung Quốc : Thứ nhất, hiện tại cần vận động giai cấp vô sản lãnh đạo tại Trung Quốc, kết hợp nông dân, các từng lớp khác bị bóc lột, cùng giai cấp tiểu tư sản thành thị, quyền lãnh đạo đưa vào giai cấp vô sản. Trung cộng không chỉ lưu lại trong nội bộ Quốc dân đảng, mà cần phải gia nhập Quốc dân chính phủ, thực hành chính phủ phản đế quốc chủ nghĩa, cương quyết phản đối phái hữu trong Quốc dân đảng, thân mật hợp tác với tả phái, phê bình trung phái bị dao động. Tăng cường tổ chức và huấn luyện giai cấp vô sản, công tác chính trị trong quân ngũ và vũ trang công nhân, nông dân. Thứ hai, đả kích thế lực đế quốc chủ nghĩa tại Trung Quốc, không chỉ riêng đòi hỏi thủ tiêu bất bình đẳng điều ước, thu hồi tô giới, cần phải đánh gục cơ sở thế lực kinh tế của chủ nghĩa đế quốc. Ngoài đảng viên tả phái Quốc dân đảng, cộng sản còn muốn lợi dụng cả phái quân nhân. Lúc bấy giờ Quân trưởng đệ bát quân, kiêm chỉ huy tiền tuyến Đường Sinh Trí tham vọng rất lớn, không muốn đứng dưới Tưởng ; sau khi khắc phục Vũ Hán, muốn mượn sức Nga Xô để chống lại Tưởng, một mình chiếm Hồ Nam, Hồ Bắc, cấu kết với Tôn Truyền Phương, chia phần thượng lưu, hạ lưu sông Trường Giang. Tưởng Giới Thạch đối với Đường không yên tâm, lúc đang tiến quân đánh Giang Tây, bèn đem đảng bộ Quốc dân đảng cùng Quốc dân chính phủ từ Quảng Châu dời đến Vũ Hán để tiện bề kiểm soát. Vào ngày 9/2 Borodin đến Vũ Hán, vào ngày 13, y tập hợp uỷ viên trung ương thành lập trung ương liên tịch hội nghị, hành sử tối cao quyền lực, bầu Từ Khiêm mới từ Mạc Tư Khoa trở về làm Chủ tịch, để khống chế Tưởng. Từ tháng 5/1926 Phùng Ngọc Tường từ Tuy Viễn qua Mông Cổ đến Mạc Tư Khoa, lưu lại 3 tháng, nhận được Nga Xô viện trợ, rồi trở về. Ngày 16/9 tại Tuy Viễn giữ chức Tổng tư lệnh Quốc dân liên quân, binh lực khoảng 5 vạn. Tháng 10, tiến xuống phương nam theo đường Ninh Hạ, Cam Túc ; tháng 12 đánh bại quân Lưu Trấn Hoa, thuộc hệ Ngô Bội Phu, lực lượng này từng bao vây Tây An [Xian, Thiểm Tây] trong vòng 7 tháng. Phùng chiếm được vùng tây bắc, Borodin có thêm lực lượng ủng hộ. Cuộc bãi công tại Hương Cảng là đấu tranh chính trị với nước Anh ; về mặt kinh tế cả Quảng Châu, Hương Cảng đều bị tổn thất. Trước khi bắc phạt, Tưởng Giới Thạch mưu quan hệ hoà hoãn với Anh, nhà đương cục Hương Cảng cũng muốn liên lạc tốt đẹp với Quảng Châu, nên tháng 7 hai bên bắt đầu đàm phán. Tháng 8 Tưởng phát biểu tuyên ngôn tại Trường Sa rằng không kể nước nào, nếu không có hành động phương hại đến Quốc dân cách mệnh thì sinh mệnh tài sản đều được bảo hộ. Tháng 9, Quảng Châu đình chỉ bài Anh, tháng 10 đạt được hiệp nghị, chấm dứt cuộc bãi công dài 1 năm 4 tháng tại các cảng khẩu trong tỉnh. Tháng 11/1926 địa vị quân cách mệnh tại sông Trường Giang tương đối ổn định, nước Anh không thể không trực tiếp tiếp xúc. Tháng 12 viên tân Công sứ Anh Miles Lampson [Lam Phố Sinh] đến Vũ Hán hội đàm với Trần Hữu Nhân, quyền Bộ trưởng ngoại giao Quốc dân chính phủ. Trần Hữu Nhân yêu cầu phế trừ bất bình đẳng điều ước, thừa nhận Quốc dân chính phủ; Lampson đề nghị chờ đất nước thống nhất rồi sẽ bàn tiếp việc này. Ngày 16 cùng tháng, nước Anh tuyên bố 16 điều đối Trung Quốc, đồng tình cuộc vận động dân tộc của Trung Quốc, cùng chuẩn bị tu chỉnh điều ước. Trong thời gian chính phủ thống nhất Trung Quốc chưa thành lập, các nước cần chọn lựa những điều phù hợp với hội nghị Hoa Thịnh Đốn [1921], thích hợp với chính sách tích cực hiện tại, phê chuẩn thuế phụ thu cho hải quan. Quốc dân chính phủ đối với những điều biểu thị này, không cảm thấy hứng thú ; thuế phụ thu cho hải quan nếu như được thi hành, thì có lợi cho chính phủ Bắc Kinh hơn là chính phủ phương nam. Nga Xô tối kỵ việc Quốc dân đảng thoả hiệp với Anh. Sau ngày thứ 2 Lampson hội nghị với Trần Hữu Nhân [11/12], cuộc vận động chống Anh tại Vũ Hán bắt đầu. Sau khi nước Anh tuyên bố 16 điều, ngày hôm sau Borodin diễn thuyết phản đối. Lại 2 ngày sau, hội nghị liên tịch trung ương chính thức phản đối Anh. Ngày 2/1/1927 dân chúng tại phụ cận tô giới Hán Khẩu tuyên truyền, xung đột với thuỷ quân Anh ; ngày hôm sau vào chiếm tô giới, quân Anh buộc phải rút lui, tô giới do Trung Quốc tiếp quản ; ngày 6/1 Trung quốc cũng theo phương thức trên thu hồi tô giới Cửu Giang. Lampson chủ trương dùng vũ lực để lấy lại tô giới Hán Khẩu, chính phủ Anh cho rằng quân tại Trung Quốc không đủ, nên quyết định một mặt tăng quân tại Thượng Hải, một mặt đàm phán với Trần Hữu Nhân. Sau hội nghị liên tịch trung ương tại Vũ Hán, Borodin tin ở thế lực phe mình, hành động độc đoán. Tưởng Giới Thạch định đưa trung ương đảng bộ cùng Quốc dân chính phủ tạm về Nam Xương, yêu cầu đình chỉ trung ương liên tịch hội nghị, đợi cho cuộc hội nghị đệ tam thứ trung ương toàn thể chấp hành giải quyết. Nhưng phe Vũ Hán cự tuyệt, cao giọng hô hào “ đề cao đảng quyền ”, “ phản đối quân sự độc tài ”, “ đả đảo tân quân phiệt ” ; công khai chống lại Tưởng Giới Thạch. Tháng 2/1927, kinh qua Chủ tịch Quốc dân chính phủ điều đình, cuối cùng trung ương đảng bộ cùng Quốc dân chính phủ di chuyển đến Hồ Bắc, cuộc vận động phản Tưởng trở nên kịch liệt, Chủ tịch bộ chính trị cách mệnh quân Đặng Diễn Đạt là người chủ yếu lãnh đạo. Tháng 3, cử hành hội nghị Quốc dân đảng kỳ thứ 2 Tam trung toàn hội tại Hán Khẩu, ban hành quyết nghị trọng yếu : Thứ nhất, thống nhất sự lãnh đạo duy nhất của đảng, tước doạt chức vụ của Tưởng Giới Thạch tại đảng, tước giảm quyền lực Tổng tư lệnh. Thứ hai, thống nhất thế lực cách mệnh, do hai đảng Quốc, Cộng liên tịch hội nghị giải quyết, cùng chỉ đạo chung vận động quần chúng, phụ trách chính trị ; Quốc dân đảng phái đại biểu tham gia hội nghị Cộng sản quốc tế, chính thức thừa nhận địa vị Trung cộng tương đương với Quốc dân đảng và tuân theo quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản quốc tế. Từ đó quyền lực nằm trong tay phái tả và Trung Cộng, mọi việc đều nghe lệnh Borodin. Trong giai đoạn đấu tranh này, Tưởng đứng vào thế yếu, nhân vì phe Vũ Hán được Nga Xô viện trợ ; do đó Tưởng không thể không tìm ngoại viện chi trì, mục tiêu chính là Nhật Bản. Tháng 1/1927, những người hiểu rõ tình hình Nhật Bản, lại thân cận với Tưởng như Hoàng Phu, Đái Truyền Hiền tìm cách tiến hành. Hoàng Phu thay mặt Tưởng đến gặp Lãnh sự Nhật tại Hán Khẩu dò ý, mong hai bên tránh được xung đột. Đái Truyền Hiền đến Đông Kinh hơn một tháng, mấy lần giao thiệp với các quan chức ngoại giao Nhật, nhưng nước này tỏ thái độ thận trọng chần chừ. Tài chính là vấn đề tối quan trọng, ngày ra quân lương hướng khó khăn ; từng phát hành 1.000 vạn đồng công trái, nhưng số người mua rất ít. Sau khi khắc phục Giang Tây, được ngân hàng Trung Quốc Trương Gia Ngao tại Thượng Hải giúp đỡ cho mượn 50 vạn nguyên, Tưởng lập tức hạ lệnh tiến binh hạ lưu sông Trường Giang. Bạch Sùng Hy, Hà Ứng Khâm chia đường từ Giang Tây, Phúc Kiến, tấn công Chiết Giang, Thượng Hải. Trình Tiềm, Lý Tông Nhân, cất quân xuống phía đông sông Trường Giang chiếm Nam Kinh. Lúc bấy giờ lực lượng quân phiệt mạnh nhất đóng tại Bắc Kinh, xưng là Tổng tư lệnh An quốc quân Trương Tác Lâm ; thành phần phụ thuộc có Trương Tông Xương, cùng bại binh của Tôn Truyền Phương từ Giang Tô rút về, đóng tại Sơn Đông, Trực Lệ. Ngô Bội Phu tuy không chịu cúi đầu, nhưng thực lực không đáng kể. Trước đó Trương Tác Lâm mệnh Trương Tông Xương phòng thủ tại An Huy, Giang Tô, Tôn Truyền Phương phòng thủ Chiết Giang. Ngày 18/2/1927 quân cách mệnh tiến chiếm Hàng Châu [Hangzhou, Chiết Giang], trên đường đến Thượng Hải ; công nhân dấy lên hưởng ứng, Trương Tông Xương thua rút. Ngày 22/3, Bạch Sùng Hy chiếm lãnh Thượng Hải, ngày 23 Trình Tiềm chiếm Nam Kinh. Sau khi những sự kiện phát sinh tại tô giới Anh, Hán Khẩu, Cửu Giang ; quân hạm ngoại quốc tập trung tại sông Trường Giang và dọc theo cửa biển có đến hơn 170 chiếc, quá nửa số thuộc nước Anh. Các ngoại kiều dọc theo sông rầm rộ rút về Thượng Hải, hơn 1 vạn lục quân Anh tập trung tại Thượng Hải, thái độ rất mực khẩn trương. Sau khi quân cách mệnh chiếm được Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] 1 ngày [24/3/1927] ; các lãnh sự quán Anh, Mỹ, Nhật, cùng giáo đường, trường học, y viện, tiệm buôn, nhà ở ngoại quốc bị cướp phá ; người Mỹ, Phó hiệu trưởng đại học Kim Lăng John E. Williams, cùng Giáo sĩ gồm 2 người Anh, 1 người Pháp, 1 người Ý bị giết, Lãnh sự Anh bị thương. Quân hạm Anh, Mỹ từ sông Trường Giang pháo kích vào thành, dân Trung Quốc chết hơn 30 người. Có thuyết cho rằng người chủ trương cướp giết người ngoại quốc là Borodin và Lâm Tổ Hàm, đảng viên Trung cộng Chủ nhiệm bộ chính trị Đệ lục quân, đơn vị này vào chiếm Nam Kinh trước tiên ; mục đích khuếch đại sự xung đột giữa quân cách mệnh và ngoại quốc, phá hoại thanh danh của Tưởng Giới Thạch, khiến không còn đường để ứng phó. Bằng chứng là huấn lệnh của Nga Xô trước đó cho các võ quan trú tại Bắc Kinh có đoạn rằng “ …Khuếch đại lợi dụng các sự kiện như tại Hán Khẩu, cùng thái độ nước Anh đối với các sự kiện này, đặt ra phương pháp, khích động quần chúng trong nước bài xích ngoại quốc… Dẫn dụ ngoại quốc can thiệp, cần phải quán triệt nhiệm vụ, không tiếc sử dụng phương pháp nào, thậm chí bắn cướp hoặc giết, cũng có thể thi hành….” 3. Thanh đảng và tình trạng đối lập giữa Nam Kinh và Vũ Hán Nguyên nhân gần thanh đảng là việc tranh giành quyết liệt quyền khống chế Thượng Hải giữa Tưởng Giới Thạch và Borodin cùng Trung Cộng. Ngày 26/3 Tưởng đến Thượng Hải, dùng Bạch Sùng Hy làm Vệ nhung tư lệnh. Trung cộng tự tổ chức chính phủ thị dân Thượng Hải ; chính quyền Vũ Hán [Quốc dân chính phủ tả phái] không cho phép Tưởng lấn sang địa hạt ngoại giao và tài chánh. Có tin truyền rằng Công nhân củ sát đội chuẩn bị xông vào tô giới, Đệ nhất quân nhận được tin tức bất ổn ; chính quyền Vũ Hán doạ rằng nếu tự ý giải tán Công nhân củ sát đội, sẽ bị coi như là phản đảng. Tưởng thanh minh cùng ký giả báo chí rằng đối với vấn đề Nam Kinh nguyện chịu trách nhiệm, sẽ điều tra xử lý, bảo đảm không để cho quần chúng hoặc lực lượng bạo động làm thay đổi địa vị tô giới. Quốc dân chính phủ sẽ dùng phương pháp hiệp thương hoà bình, đặt địa vị bình đẳng trên trường quốc tế ; phàm các nước đối xử tốt với Trung Quốc, nguyện cùng hợp tác. Quốc tế đối với lời tuyên bố của Tưởng, có phản ứng tốt ; Ngoại trưởng Nhật Bản Tệ Nguyên gặp mặt Đại sứ Mỹ tại Nhật tỏ ý tin rằng Tưởng cương quyết phản đối hành động bài ngoại ; phiến động tại Nam Kinh là do phần tử quá khích gây nên. Giới tài chính tại Thượng Hải ủng hộ phe Tưởng là một điều quan trọng, trước sau cho vay và mua công trái số tiền tổng cộng 130 triệu ; những nhân vật chính là Trương Gia Ngao, Trung Quốc ngân hàng ; Trần Huy Đức, Thượng Hải thương nghiệp trử súc ngân hàng ; Tiền Vĩnh Minh, Tứ hàng liên hợp trử bị khố ; Lý Minh, Chiết Giang thực nghiệp ngân hàng ; Trương, Trần người gốc Giang Tô, Tiền, Lý gốc Chiết Giang ; người đời thường gọi là Giang, Chiết tài phiệt.æ Ngày 28/3 Giám sát uỷ viên Quốc dân đảng Ngô Cảnh Hoàn, Thái Nguyên Bồi, Trương Nhân Kiệt, Lý Dục Doanh tại Thượng Hải đề xuất bảo hộ đảng cứu nước ; ngày 2/4 chính thức nghị quyết thực hành thanh trừ phần tử cộng sản trong đảng. Bắt đầu từ tháng 9 năm ngoái [1926], Trung cộng và thành phần tả phái Quốc dân đảng, triển khai việc “ nghênh Uông [Triệu Minh] phục chức ” ; ngày 1/4 Uông từ Pháp ghé qua Mạc Tư Khoa rồi trở về Thượng Hải. Ngày mồng 3 hội đàm với Tưởng, ngày 5 liên danh với Trần Độc Tú phát hành thư cho các đảng viên Quốc dân đảng, Cộng sản, khuyên lập tức bỏ sự nghi ngờ lẫn nhau, mọi việc với lòng thành tiến hành bàn luận liệu biện. Rồi Uông lại họp với Tưởng, định ngày 15/4 khai mạc hội nghị chấp hành trung ương, Giám sát uỷ viên tại Nam Kinh. Trước đó Uông thông tri cho Trần Độc Tú đình chỉ hoạt động của Trung cộng, tạm không thừa nhận mệnh lệnh từ Vũ Hán, Công nhân củ sát đội Thượng Hải cần giao cho Tưởng chỉ huy. Chính phủ Vũ Hán thì ra lệnh Tưởng Giới Thạch phải đến Nam Kinh trong ngày, nếu không nhận mệnh lệnh của chính phủ không được phát biểu ý kiến về ngoại giao, giải trừ chức Tổng tư lệnh Quốc dân cách mệnh quân, chỉ giữ chức Tư lệnh đệ nhất tập đoàn quân, riêng đệ nhị tập đoàn quân do Phùng Ngọc Tường chỉ huy. Uông muốn thừa cơ hội khống chế Tưởng, trong ngày bí mật đến Vũ Hán. Ngày 9/4 Giám sát uỷ viên trung ương truyền điện đả kích những sai lầm của hội nghị trung ương liên tịch tại Vũ Hán. Tưởng cũng trách Chủ nhiệm bộ tổng chính trị Đặng Diễn Đạt phá hoại trận tuyến cách mệnh, trong ngày vào đóng tại Nam Kinh, khởi đầu bắt đảng viên đảng bộ Trung Cộng tại tỉnh Giang Tô. Ngày 12/4, quân trú phòng tại Thượng Hải cưỡng bách tịch thu vũ khí của công nhân củ sát đội, khiến hơn 300 công nhân tử thương ; các địa phương khác cũng có hành động tương tự, nhưng Quảng Đông rất nghiêm trọng. Ngày 18, Quốc dân chính phủ Nam Kinh [hữu phái] thành lập, Hồ Hán Dân giữ chức Chủ tịch; ra lệnh bắt Cố vấn Nga Xô cùng các yếu nhân Trung Cộng hơn 190 người ; trong đó có Borodin, Trần Độc Tú, Lâm Tổ Hàm, Cù Thu Bạch, Mao Trạch Đông, Uẩn Đại Anh, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Trương Quốc Trù, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Hoà Sâm, Phương Chí Mẫn ; nhưng vẫn biểu thị cư xử hữu hảo, tỏ chút dư tình, sau đó thả ra. Thái độ của Nga Xô và Vũ Hán tỏ ra quyết liệt, cộng sản quốc tế chỉ trích Tưởng phản bội, là giặc thông đồng với đế quốc, kẻ địch của cách mệnh Quốc đân đảng và giai cấp công nhân. Chính phủ Vũ Hán khai trừ Tưởng Giới Thạch ra khỏi đảng, cách trừ các chức, ra lệnh đánh dẹp. Bàn về khu vực kiểm soát và tuân theo mệnh lệnh, phe Nam Kinh có các tỉnh An Huy, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam. Phe Vũ Hán chỉ có 3 tỉnh, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây ; bị bao vây bởi thế lực phe Nam Kinh. Về binh lực phe Nam Kinh có Đệ nhất, Đệ thất quân đóng tại hạ lưu sông Trường Giang ; Đệ ngũ quân, và một nửa Đệ tứ quân đóng tại Quảng Đông ; Đệ thập ngũ quân tại Quảng Tây, cùng số quân mới theo, tổng cộng khoảng 15 vạn ; đó là chưa kể quân tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam. Ủng hộ phe Vũ Hán có các quân Đệ nhị, Đệ tam, một nửa Đệ tứ, Đệ lục, Đệ bát ; hợp lại khoảng 12 vạn. Về phương diện vật lực thì Vũ Hán không bằng Nam Kinh ; Giang Tô, Chiết Giang, Quảng Đông đều là những tỉnh giàu có, Thượng Hải, Quảng Châu đều là khu vực buôn bán quốc tế; riêng vị trí Vũ Hán tại nội địa, dễ bị phong toả. Hơn nữa thanh vọng của Tưởng lên cao, có sức hiệu triệu ; tâm lý số đông bấy giờ cho rằng Tưởng ở đâu là Quốc dân chính phủ ở đó, họ coi Nam Kinh là chính thống. Tình hình quốc tế đối với chính phủ Vũ Hán cũng rất bất lợi ; Trần Hữu Nhân lưu tâm liên lạc với Nhật Bản, nhưng ngày 4/3 thuỷ binh Nhật tại Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] xung đột, khiến 10 người Hoa bị giết, bị thương 80, phía Nhật 2 người chết ; quân Nhật đổ bộ, kiều dân rút đi, tình hình trở nên nguy hiểm. Ngày 11, đối với sự kiện tại Nam Kinh, các nước Anh, Mỹ, Pháp, Nhật, Ý, yêu cầu xử phạt các quan chịu trách nhiệm ; nên Tổng tư lệnh đích thân xin lỗi, bồi thường tổn thất ; nếu chưa mãn ý sẽ tìm cách xử sự thích đáng. Uông Triệu Minh cảm thấy khủng hoảng, cho rằng vận động phản đế quốc thái quá, khiến các nước liên hợp phản đối. Ngày 14, Trần Hữu Nhân phúc đáp Nhật, yêu cầu hai bên cùng điều tra ; mong Nhật Bản không cùng các nước tham gia hành động. Ngày 22, tân Thủ tướng Nhật, Điền Trung Nghĩa Nhất, tuyên bố đối với sự việc Trung Cộng dấy lên, không thể không hỏi đến. Ngày 9/5 Đại thần ngoại vụ nước Anh Arthur Neville Chamberlain [Trương Bá Luân] diễn thuyết rằng cộng sản gây biến đã bị Trung Quốc xử phạt [thanh đảng], chính phủ Vũ Hán đánh mất địa vị thống trị ; nước Anh đối với chính phủ Nam Kinh sẽ thi hành chính sách hoà hoãn. Ngày 17 Lãnh sự Anh tại Vũ Hán trách Quốc dân chính phủ Vũ Hán không thực sự hoà hoãn, dung túng tổ chức vận động phản Anh, sau đó rời Vũ Hán đến Bắc Kinh. Ngày 20, Sứ thần Nhật tại Trung Quốc, Điền Trung Lãnh, tuyên bố ủng hộ chính phủ Nam Kinh có hành động chống Cộng, tin tưởng Tưởng Giới Thạch là nhân vật duy nhất được tín nhiệm. Sau hội nghị Tây Sơn, Quốc dân đảng bị chia làm hai ; sau khi thanh đảng lại chia làm ba. Đồng thời cục diện Trung Quốc cũng tạo thành thế đỉnh vạc ; ngoài Nam Kinh, Vũ Hán, còn có Trương Tác Lâm khống chế chính phủ Bắc Kinh. Tháng 3/1927 Trương nhắm ngăn trở quân cách mệnh bắc tiến, nhân Ngô Bội Phu nguy ngập bèn mang quân kéo xuống tỉnh Hà Nam chiếm cứ Khai Phong [Kaifeng], Trịnh Châu [Zhengzhou] ; Ngô chạy xuống phương nam, trốn vào tỉnh Tứ Xuyên. Đối với Nga Xô, Trương hận thấu xương ; tháng 9/1926 Trương bức bách xua đuổi Sứ thần Leo Karakhan ; ngày 6/4/1927 được Công sứ đoàn ngầm hứa, bèn sưu tra đại sứ quán Nga Xô thu thập được văn thư liên lạc giữa Nga Xô cùng Quốc dân quân, Quốc dân đảng và Trung Cộng, cùng bắt giữ đảng viên Trung Cộng trốn trong sứ quán gồm bọn Lý Đại Sao hơn 60 người. Nga Xô chỉ trích nước Anh đứng đầu xui biểu, chính phủ Bắc Kinh là công cụ của đế quốc ; chính phủ Vũ Hán cũng cùng lên tiếng đả kích. Nhắm xung kích phá bao vây, phòng ngự Phụng quân Trương Tác Lâm tấn công, cùng tiếp xúc liên hệ được với lực lượng Phùng Ngọc Tường ở miền tây bắc để tiện liên lạc với Nga Xô, tiến có thể chiếm Bắc Kinh, lại có thể phản bao vây từ Nam Kinh ; nên chính phủ Vũ Hán quyết bắc phạt, tiến công Hồ Nam. Phía chính phủ Nam Kinh cũng hiểu ý đồ của Vũ Hán, tuy sẵn sàng phòng ngừa, nhưng cũng chia đường bắc phạt, tảo thanh phía bắc sông Trường Giang. Tháng 5/1927 quân bắc phạt của Đường Sinh Trí, Trương Phát Khuê đánh phá Phụng quân ; phía Phụng quân lại bị quân Diêm Tích Sơn tại Sơn Tây uy hiếp, nên phải rút về phía bắc sông Hoàng Hà. Đầu tháng 6, quân bắc phạt của Vũ Hán họp được với quân Phùng Ngọc Tường tại Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà Nam], đồng thời quân chính phủ Nam Kinh đánh bại lực lượng Trương Tông Xương, Tôn Truyền Phương, chiếm lãnh Từ Châu [Xuzhou, Giang Tô]. Hồ Bạch Thảo 1 Hán Khẩu : vị trí 3 thành phố Hán Khẩu, Hán Dương, Vũ Xương chỉ cách nhau bởi những con sông ; Vũ Hán là tên chung của 3 thành phố này.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 18, 2015 8:42:04 GMT 9
Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Hồ Bạch Thảo Chương 3 Quốc dân đảng và Cộng sản đấu tranh ác liệt[1927-1928] Phùng Ngọc Tường [1882-1948] Nguồn : zh.wikipedia.org/zh/冯玉祥 1. Chính phủ Vũ Hán gặp khó khăn Bắc phạt thắng lợi chính nhờ sự kết hợp giữa vũ lực của cách mệnh và vận động dân chúng. Vũ lực nằm trong tay Quốc dân đảng, còn vận động quần chúng phần lớn nhờ Trung cộng. Tháng 1/1925 tại hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 4, Trung cộng đặc biệt nhấn mạnh vai trò trọng yếu của công nhân và nông dân ; đổi đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa thành Thanh niên cộng sản chủ nghĩa. Trung cộng hoạt động tại hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc đã được 6 năm ; sau khi quân cách mệnh tiến đến Hồ Nam, tổ chức nông dân phát triển nhanh chóng. Tháng 11/1926 có đến 50 huyện hội được thành lập, với 132 vạn hội viên. Toàn thể nông dân hội nghị quyết định giảm tô, bớt tiền lời cho vay, phản đối thuế nặng. Tháng 1/1927 số hội viên tăng đến tăng đến 200 vạn, vào tháng 2 năm này Mao Trạch Đông khảo sát cuộc vận động của 5 huyện rồi báo cáo rằng nông dân triệt để đả đảo thổ hào, thân sĩ xấu, địa chủ chiếm đặc quyền. Hiệp hội nông dân là cơ quan duy nhất có quyền lực tại nông thôn “ thuận theo thì còn, chống lại bị tiêu diệt ”, những người giàu có lớn không có ai không bị ghép vào cường hào, thân sĩ xấu ; đến như nhà của con cháu Tăng Quốc Phiên cũng bị phá huỷ. Riêng việc vận động công nhân, tại Vũ Hán [Wuhan, Hồ Bắc] quyết liệt nhất ; vào cuối năm 1926 hội viên công hội Hồ Bắc lên đến lên đến 35 vạn người ; với các hoạt động như khai hội, biểu tình, bãi công ; có trường hợp liên quan đến cải thiện tiền lương, cuộc sống ; có trường hợp liên quan đến chính trị, ngoại giao ; khiến không ít công xưởng, tiệm buôn phải đóng cửa, phần lớn công nhân thất nghiệp. Tháng 3/1927, riêng thành phố Hán Khẩu [Hankou], một trong những thành phố lớn của Vũ Hán, số hội viên lên tới 20 vạn người, tháng 4 tăng đến 30 vạn người. Lại do miền hạ lưu sông Trường Giang bị chính phủ Nam Kinh phong toả, hàng hoá tắc nghẽn, nhu yếu phẩm thiếu thốn, các hàng xưởng không có nguyên liệu, giá cả đắt đỏ. Chính phủ Vũ Hán lại muốn tập trung tiền bạc, phàm nạp thuế, lưu thông thị trường chỉ dùng tiền của 3 ngân hàng : Trung ương, Trung Quốc, Giao thông ; cấm chỉ ngoại tệ và các loại tiền khác xuất khẩu ; do đó giá bạc xuống nhanh, giá hàng tăng cao, thương nghiệp đình đốn, đồ thường dùng hàng ngày không có chỗ mà mua, tài nguyên khô kiệt lại là một đòn trí mệnh. So với quá khứ mỗi tháng tỉnh Hồ Bắc chỉ thu được ¼ số thuế, Hồ Nam 1/5, Giang Tây ½ ; nên Borodin không thể không thi hành chiến lược tạm lùi bước bằng cách bảo hộ tài sản ngoại quốc, thương nghiệp, cùng giai cấp tiểu tư sản ; ngăn cản bệnh ấu trĩ tả khuynh của Trung Cộng, để bảo hộ thị trường, giải quyết công nhân thất nghiệp ; nhưng vẫn không thu được hiệu quả. Ngày 27/4 tại Hán Khẩu, Trung Cộng mở đại hội đại biểu lần thứ 5, lúc này số đảng viên toàn quốc đạt đến 57.900 người ; Trần Độc Tú vẫn tiếp tục giữ chức Tổng thư ký kiêm Chủ tịch chính trị cục ; Chu Ân Lai, Bành Thuật Chi, Cù Thu Bạch, Tô Triệu Chinh làm Uỷ viên thường vụ ; Trương Quốc Đảo làm Trưởng bộ tổ chức, Bành Thuật Chi kiêm bộ tuyên truyền, Chu Ân Lai kiêm bộ quân sự, Cù Thu Bạch kiêm bộ nông dân, Tô Triệu Chinh kiêm bộ chức công. Trong cuộc hội, đại biểu cộng sản quốc tế Manabendra Nath Roy [Lỗ Dịch] chủ trương thi hành cải cách ruộng đất để cách mệnh thâm nhập, khiến các tỉnh Lưỡng Hồ, Giang Tây được củng cố. Borodin chủ trương tạm hoà hoãn, thi hành bắc phạt trước, thu phục thế lực Hoa bắc, khiến cách mệnh khuếch đại. Borodin tuy được Trần Độc Tú ủng hộ, nhưng phe M. N. Roy thắng lợi. Đại hội nhận định rằng cách mệnh Trung Quốc hiện tại do công nhân, nông dân, kết hợp với giai cấp tiểu tư sản ; công nhân là giai cấp lãnh đạo, nông dân cần tổ chức lực lượng quân sự, chính trị ; đem toàn lực đấu tranh với thế lực phong kiến, biến thành cuộc cách mệnh ruộng đất, tịch thu ruộng đất công và ruộng đất địa chủ, xoá bỏ quyền lợi và uy thế của địa chủ cùng thân sĩ, thành lập chính phủ nông dân tự trị tại nông thôn, tổ chức lực lượng nông dân tự vệ. Lúc này nông dân hiệp hội hội viên tại tỉnh Hồ Nam ước chừng 450 vạn người, Hồ Bắc 250 vạn, khí thế bừng lên như lửa. Quan quân phần lớn có ruộng đất, gia thuộc bà con đều bị nhiễu hại, khích động họ trực tiếp hành động. Người đầu tiên nổi lên là Sư đoàn trưởng Hạ Đấu Dần, trú đóng tại Nghi Xương [Yichang, Hồ Bắc], thượng du Vũ Hán. Hạ người gốc Hồ Bắc, đảng viên Quốc dân đảng, là tướng lãnh nắm thực lực, bắc phạt có công khắc phục Hồ Bắc nhưng không được thăng thưởng. Qua sự sách động của chính phủ Nam Kinh, thừa dịp quân Vũ Hán kéo lên tỉnh Hà Nam phía bắc, ngày 6/5/1927 Hạ mang quân xuôi phía đông, nhắm lật đổ chính phủ Vũ Hán. Ngày 19 tiến đến vùng phụ cận Vũ Xương khiến Vũ Hán chấn động, bèn động viên lực lượng tại chỗ, đánh lui ; nhưng không ngờ lại có cuộc nổi dậy khác lớn hơn tại Trường Sa [Changsha, Hồ Nam]. Nguyên Đường Sinh Trí ngoài việc ưa quyền lực, không có lập trường về chính trị ; riêng bộ hạ của Đường là Hà Kiện ghét cộng sản. Ngày 19/5 cha của Hà bị công nhân Trường Sa bắt ; ngày 21 bộ hạ của Hà là Đoàn trưởng Hứa Khắc Tường giải tán Công nhân củ sát đội, Nông dân tự vệ đội, đóng cửa Hồ Nam tổng công hội, Nông dân hiệp hội và bắt giết đảng viên cộng sản, tuyên bố ủng hộ chính phủ Nam Kinh ; biến cố này được gọi là “ Mã nhật sự biến ” 1. Ngày 23/5 bọn Hứa Khắc Tường thành lập “ Trung Quốc Quốc dân đảng Hồ Nam cứu đảng biện sự xứ ” ; ngày 28/5 lập “ Trung Quốc Quốc dân đảng Hồ Nam cứu đảng uỷ viên hội ”, đưa các tổ chức này xuống tận các huyện, thị. Mã nhật sự biến thực tế là bước đầu cho việc “ Phân cộng ” 2. Sau khi sự biến phát sinh, Đường Sinh Tri mang quân từ Hà Nam trở về, đòi trị tội Hứa Khắc Tường lạm quyền, Hứa bèn mang quân theo chính phủ Nam Kinh của Tưởng Giới Thạch. Borodin và Trung cộng cảm thấy sự việc đến hồi nghiêm trọng, sợ toàn quân của Đường Sinh Trí phản biến, bèn dùng biện pháp pháp luật bảo hộ công xưởng, tiệm buôn ; cấm chỉ công hội bắt bớ hiếp bách những người ngoài tổ chức, không được quấy nhiễu tài sản của quân nhân và gia thuộc. Chính phủ Vũ Hán trước đó sai Borodin đến Trường Sa để điều tra liệu biện, nhưng bị Hứa Khắc Tường cự, bèn thay đổi mệnh lệnh, giao cho Đường Sinh Trí hỏi tội Hứa. Ngoài ra, ngày 29 cùng tháng, Đệ tam quân trưởng kiêm Chủ tịch tỉnh Giang Tây Chu Bồi Đức, ra lệnh cưỡng bách đảng viên Trung cộng ra khỏi tỉnh, đình chỉ hoạt động Công hội và Nông dân hiệp hội. 2. Chính phủ Vũ Hán chia tay với cộng sản Tưởng Giới Thạch thanh đảng là một thất bại lớn về chính sách của Stalin đối với Trung Quốc; nhưng Stalin vẫn muốn Trung cộng tiếp tục hợp tác với Quốc dân đảng tả phái, biến chính phủ Vũ Hán thành chính quyền độc tài công nông, Quốc dân đảng đứng tên, nhưng cộng sản nắm thực quyền, để cho việc tương tự như Thanh đảng không thể xẩy ra. Vào ngày 18 đến ngày 30/5/1927, chính lúc Cộng sản quốc tế đang họp chấp hành uỷ viên lần thứ 8, thì Hạ Đấu Dần mang quân tiến công Vũ Hán, kế tiếp đến Mã nhật sự biến, nên ngay lúc đó hội nghị ban hành “ Trung Quốc vấn đề quyết nghị án ” huấn lệnh Trung cộng chấp hành 4 điều, nội dung muốn biến Quốc dân đảng tả phái hoàn toàn trở thành bù nhìn cho Trung cộng : – Thứ nhất, cương quyết thi hành cách mệnh ruộng đất, do Hiệp hội nông dân đoạt lấy ruộng đất, không thông qua Quốc dân chính phủ tịch thu. – Thứ hai, những lãnh tụ già Quốc dân đảng phần lớn dao động và dễ thoả hiệp ; cần hấp thụ nhiều lãnh tụ thuộc thành phần nông công gia nhập Quốc dân đảng trung ương, cải tổ cơ cấu mới. – Thứ ba, nhắm trừ tận gốc những Tướng lãnh không thể tin được, động viên 2 vạn đảng viên cộng sản, cùng 5 vạn công nhân, nông dân cách mệnh tại Hồ Nam, Hồ Bắc, biên chế thành đạo quân mới. – Thứ tư, dùng một nhân vật Quốc dân đảng có danh tiếng cho đứng đầu ; lập toà án cách mệnh, trừng trị quan quân phản động. Điều quan trọng là thành phần cộng sản phải lưu lại trong tổ chức Quốc dân đảng, đợi thời cơ thuận lợi thiết lập chính quyền Xô viết. Trước tình thế phản cộng của quân nhân, Borodin nhận định trong giai đoạn hiện tại cần chiều theo Quốc dân đảng tả phái, thừa nhận cuộc vận động dân chúng đi đến chỗ quá trớn ; ngoài việc bảo hộ lợi ích của công nhân, nông dân, cũng cần bảo hộ lợi ích công, thương nghiệp trung đẳng. Nhưng Cố vấn M. N. Roy chủ trương cải tạo Quốc dân đảng trung ương thành chính phủ độc tài chuyên chính công nông. Lúc đầu ý kiến của Trung Cộng chưa ngả về phía nào, sau bèn theo M. N. Roy vì y là đại biểu cho quốc tế Cộng sản ; bèn tỏ ra cường ngạnh với Quốc dân đảng tả phái, yêu cầu lập tức đánh dẹp thành phần phản động, bình định Hồ Nam, tuyên bố cho tổ chức công nông và Trung cộng được hoạt động tự do. Ngoài ra Trung cộng tuyên bố Cáo nông dân thư, đả đảo Hứa Khắc Tường, đả đảo đại địa chủ, cùng thân sĩ xấu. Ngày 5/6, Roy gửi huấn lệnh của cộng sản quốc tế cho Uông Triệu Minh, hy vọng có thể hiệp thương. Uông cho rằng đó là âm mưu tiêu diệt Quốc dân đảng, qua quyết nghị của cuộc hội nghị chính trị, bèn giải trừ chức Cố vấn của Borodin ; ngày hôm sau Uông cùng Đường Sinh Trí đến Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà Nam] họp bàn với Phùng Ngọc Tường. Trong tình huống chính phủ Vũ Hán và Nam Kinh thế không cùng tồn tại, cả hai phe đều muốn tranh thủ Phùng Ngọc Tường hợp tác. Trung Cộng cũng muốn giành Phùng Ngọc Tường, nhắm sử dụng một mũi tên để bắn 2 chim, mong có thể tiêu diệt cả Nam Kinh và Vũ Hán. Trong cuộc hội đàm giữa Uông Triệu Minh và Phùng Ngọc Tường từ ngày 10-11/6 tại Trịnh Châu, Uông thuyết phục Phùng cùng đánh Nam Kinh nhưng bị Phùng cự tuyệt ; Phùng chủ trương Vũ Hán, Nam Kinh hợp nhất cùng Bắc phạt. Roy gửi thư cho Phùng khuyên đánh dẹp Nam Kinh, Quảng Châu, tảo thanh phản động tại Lưỡng Hồ và Giang Tây ; những điều này không phải là sở nguyện, mà cũng ngoài khả năng của Phùng. Uông muốn bảo toàn địa vị tại Vũ Hán, quyết định rút quân, tự lo việc đông chinh ; đem phần đất đã chiếm được tại Hà Nam giao cho Phùng, để làm màn che phía bắc. Đường Sinh Trí cũng lo vùng đất Lưỡng Hồ bị Trung Cộng đoạt, rất mực tán thành ; vào ngày 13/6 bọn Uông trở về Vũ Hán, Đường Sinh Trí, Trương Phát Khuê tiếp tục rút về phương nam. M. N. Roy cho rằng thái độ của Phùng Ngọc Tường dao động, bèn chủ trương công khai chống lại Phùng, phát động tổng bãi công tại Vũ Hán, nhưng Borodin và Trần Độc Tú phản đối. Vào ngày 15/6 Trung cộng phúc trình lên Cộng sản quốc tế rằng không thể thi hành mệnh lệnh, tịch thu đất đai cần phải đình hoãn, công nông dân chủ độc tài trong đoản kỳ không thể hoàn thành, cải tổ Quốc dân đảng tả phái và bỏ Uông Triệu Minh không dễ ; trước mắt cần duy trì quan hệ tốt với Quốc dân đảng tả phái và lãnh tụ quân sự, chỉnh sửa hành động quá khích của nông dân để làm yên tâm quan quân và chính quyền. Borodin và Roy cũng muốn tiếp tục lung lạc Uông Triệu Minh và Đường Sinh Trí, chuẩn cấp tiền cho vay, tán thành đông chinh ; nhưng Uông, Đường đều biết rằng Cộng sản quốc tế muốn dẹp bỏ Quốc dân đảng cùng quân đội, nên khó có thể tiếp tục hợp tác. Sau cuộc hội nghị tại Trịnh Châu 9 ngày, Phùng Ngọc Tường đến Từ Châu [Xuzhou, Giang Tô] hội nghị với Tưởng Giới Thạch. Tưởng chủ trương bình định Vũ Hán trước, Phùng không đồng ý ; tuy nhiên Phùng gửi điện cho Vũ Hán, trách hành động của Trung cộng, đốc thúc Borodin trở về nước ; ngoài ra Phùng và Tưởng cùng tuyên bố tiếp tục bắc phạt. Nói tổng quát Tưởng cũng thu hoạch được phần lợi, ngoài ra mỗi tháng Phùng cũng được chính phủ Nam Kinh gửi cho 200 vạn nguyên quân lương. Sau khi quân bắc phạt khắc phục Nam Kinh, Thượng Hải ; Diêm Tích Sơn thống trị tại Sơn Tây liên lạc với Tưởng, tuy vẫn giao thiệp với phe Vũ Hán, nhưng không bằng lòng Cộng sản hoạt động tại tỉnh Sơn Tây. Vào ngày 6/6, Diêm Tích Sơn trên danh nghĩa nhận chức Tổng tư lệnh quân cách mệnh phương bắc của chính phủ Nam Kinh, nhưng không chịu nhận chức đệ tam tập đoàn Tổng tư lệnh do Vũ Hán cấp ; Diêm khuyên Trương Tác Lâm bắt tay với Tưởng. Ngày 18/6 Trương Tác Lâm tại Bắc Kinh tự phong Đại nguyên soái, xưng là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, đối với phe Quốc dân đảng không trái ngược với Tam dân chủ nghĩa [ý chỉ Nam Kinh] thì coi như bạn, đối với kẻ cam tâm xích hoá 3 [chỉ Vũ Hán] thì hài tội đánh dẹp. Ngày 25/6, Hà Kiện tại Vũ Hán loan truyền cáo văn chống cộng xuống bộ hạ. Ngày 26, Đường Sinh Trí cấm chỉ đoàn thể dân chúng tại Hồ Nam hoạt động. Ngày 27, Trung cộng hiệu triệu giai cấp công, nông, tiểu tư sản kết hợp, chiến đấu chống tân quân phiệt. Ngày 28, Tổng công hội Củ sát đội tỉnh Hồ Bắc bị Đường Sinh Trí giải tán. Cộng sản quốc tế ra lệnh Trung cộng tuyên chiến với Phùng Ngọc Tường, đừng tiếp tục tín nhiệm quân nhân, tự tổ chức lấy vũ lực. Lúc này Uông Triệu Minh thị ý cho 2 thành viên trong Quốc dân chính phủ gồm Bộ trưởng nông chính Đàm Bình Sơn, Bộ trưởng lao công Tô Triệu Chinh từ chức ; trước đó thành phần thân cộng, Đặng Diễn Đạt, cũng rời Vũ Hán. Ban chấp hành trung ương Trung cộng họp hội nghị, mưu cùng Uông, Đường liên hợp đông chinh, riêng Roy thì chủ trương nam chinh, ngày 3/7 trung ương Trung cộng quyết định cho viên Cố vấn này rời chức. Ngày 6/7 cuộc hội nghị tại Vũ Hán thông qua đề án thảo phạt Nam Kinh của Uông, bộ hạ của Trương Phát Khuê di chuyển xuôi dòng Trường Giang. Cộng sản quốc tế bất mãn với Trung cộng, triệu hồi Borodin, ra lệnh cải tổ Trung cộng trung ương, rút ra khỏi chính phủ Vũ Hán nhưng vẫn tạm lưu lại trong nội bộ Quốc dân đảng. Borodin chỉ định 5 người trong Trung ương cục thường vụ uỷ viên, trong đó có Trương Quốc Đảo, Chu Ân Lai, riêng Trần Độc Tú không còn giữ nhiệm vụ. Ngày 13/7 Trung cộng ra tuyên ngôn bài xích Quốc dân đảng dung dưỡng quan quân phản cách mệnh, quyết định đảng viên Cộng sản rút ra khỏi Quốc dân đảng ; nhưng vẫn căn cứ vào chính sách liên Nga, liên Cộng, và 3 chính sách lớn cho công, nông của Tôn Trung Sơn để phấn đấu cách mệnh. Cộng sản quốc tế cũng tuyên bố chính phủ Vũ Hán bị thế lực phản cách mệnh khống chế. Uông Triệu Minh muốn thực hiện đông chinh, nên cũng không có ý quyết liệt với Trung cộng ; nhưng bộ hạ của Dường Sinh Trí đưa lời rằng không chia tay với Cộng sản không thể đông chinh, vì không muốn đông chinh cho Trung cộng. Uông bắt đầu tuyên bố rằng Cộng sản quốc tế ra huấn lệnh cho Trung cộng căn bản rất nguy hại cho Quốc dân đảng. Ngày 5/7 trung ương Quốc dân đảng tại Vũ Hán thông qua nghị quyết cấm chỉ Cộng sản, chế tài hành động trái với chính sách của Quốc dân đảng, phái đại biểu đến Mạc Tư Khoa bàn luận thiết thực vấn đề, bảo hộ cá nhân đảng viên Trung cộng được tự do ; đó là chính sách “ Hoà bình phân Cộng ” [chia tay hoà bình với Cộng sản] của Vũ Hán, khác với vũ lực “ Thanh đảng ” của Tưởng Giới Thạch, thời gian hai cuộc chính biến xảy ra chỉ cách nhau có 3 tháng. Sau khi Uông nhận được tuyên ngôn của Trung cộng ngày 13/7, ngày 16 lại ra lệnh rằng việc cấm đảng Cộng sản là căn cứ vào lợi ích của cách mệnh, cần nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật. Ngày 19 Trung cộng, cùng đoàn thanh niên cộng sản tiếp tục đả kích Quốc dân đảng và Uông Triệu Minh. Ngày 26, Quốc dân đảng thi hành chính sách nghiêm khắc, trừ bỏ đảng viên Trung cộng tại các cơ quan. Ngày 27, Borodin rời Hán Khẩu, theo đường Hà Nam, Thiểm Tây, Mông Cổ ; thất bại trở về nước. Ngày 1/8 Trung cộng bạo động tại Nam Xương [Nanchang, Giang Tây], chính phủ Vũ Hán hạ lệnh đánh dẹp, như vậy “ hoà bình chia tay ” đã biến thành vũ lực chống cộng ; từ đó Quốc, Cộng hai đảng coi như là nước, lửa không thể dung hợp. 3. Nội bộ Quốc dân đảng xung đột không ngừng Sau khi quân chính phủ Vũ Hán từ Trịnh Châu rút về Hồ Bắc để chuẩn bị đông chinh, chính phủ Nam Kinh cũng rút quân tinh nhuệ tại Từ Châu về trấn tại thượng du sông Trường Giang nhắm đề phòng. Ngày 24/7/1927 Trương Tông Xương, Tôn Truyền Phượng lại chiếm đoạt Từ Châu, Tưởng Giới Thạch ra sức phản công nhưng thất bại, các yếu điểm phía bắc sông Trường Giang đều mất. Phía Vũ Hán dựa vào chủ tướng Trương Phát Khuê để đông chinh, nhân Trung cộng bạo động tại Nam Xương, thực lực bị tổn thất, nên Trương suất bộ hạ trở về Quảng Đông, việc đông chinh không có khả năng thực hiện. Uông Triệu Minh triệu tập lần thứ 2 đệ tứ kỳ toàn thể trung ương chấp hành uỷ viên Quốc dân đảng [tức Tứ trung toàn hội] ; lúc bấy giờ Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy, Hà Ứng Khâm là rường cột của quân đội Nam Kinh ; Lý, Bạch muốn hoà, Hà cũng không thích đánh. Đường Sinh Trí dàn quân tại vùng Hồ Bắc, Giang Tây tuyên bố chỉ muốn đánh Tưởng ; Lý, Bạch, Hà muốn Vũ Hán, Nam Kinh thuận lợi hợp nhất bèn yêu cầu Tưởng Giới Thạch từ chức. Chủ tịch chính phủ Nam Kinh Hồ Hán Dân không bằng lòng, nên ngày 20/8 khi Tưởng ra khỏi Nam Kinh, thì Hồ Hán Dân cũng rút lui. Sau khi từ chức Tưởng về quê tảo mộ, tháng 9 sang Nhật nghiên cứu chính sách Nhật đối với Hoa, tháng 11 hội đàm với Thủ tướng Nhật Điền Trung Nghĩa Nhất, ngày 10/11 trở về nước. Ngày 19/8, chính phủ Vũ Hán tuyên bố dời đến Nam Kinh ; cục diện đưa đẩy như vậy do bởi những lý do sau đây : thứ nhất, Từ Châu không giữ được, Lý, Bạch chống lại Tưởng ; thứ hai, Nam Xương bạo động, Trương Phát Khuê rút quân về phía nam, Đường Sinh Trí có dã tâm, nếu đông chinh thành công thì chỉ có lợi cho Đường khuyếch trương mà thôi. Ngay lúc chính phủ Vũ Hán dời sang phía đông, bắt đầu từ ngày 25/8 Tôn Truyền Phương điều trên 5 vạn quân vượt sông Trường Giang chiếm lãnh Long Đàm, vùng đất nằm giữa Nam Kinh và Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô], nhắm bức bách vùng ngoại ô đông bắc Nam Kinh. Hà Ứng Khâm, Bạch Sùng Hy, Lý Tông Nhân ra sức đề kháng, huyết chiến trong 6 ngày, quân của Tôn Truyền Phương đại bại. Phái hội nghị Tây Sơn tuy không có quân đội và địa bàn hoạt động, nhưng vẫn có thế lực trong đảng, đặt bản doanh tại Thượng Hải. Sau khi Thanh đảng, Nam Kinh và Tây Sơn từ từ tiếp xúc; lại sau khi phân Cộng tại Vũ Hán, phái này liên lạc với Uông Triệu Minh định đem 3 phái Vũ Hán, Nam Kinh và Thượng Hải hợp làm một. Vào ngày 1/9 ba phe họp tại Thượng Hải nghị quyết tổ chức Quốc dân đảng Trung ương đặc biệt uỷ viên hội thay mặt thi hành Trung ương chấp hành uỷ viên hội chức quyền, Tưởng Giới Thạch và Hồ Hán Dân mâu thuẫn với Uông nên không dự hội, đại biểu Thượng Hải, Nam Kinh lại phản đối nghị quyết Tứ trung toàn hội, nên Uông Triệu Minh giận bỏ đi ; nhưng cuối cùng tổ chức thành Trung ương đặc biệt uỷ viên hội và Tân quốc dân chính phủ. Có thuyết cho rằng Đường Sinh Trí thấy Tưởng Giới Thạch từ chức, bèn mưu với Tôn Truyền Phương cùng mang quân đánh Nam Kinh, ngày 20/10 Tân quốc dân chính phủ mệnh Lý Tông Nhân, Trình Tiềm thảo phạt ; trước kia có chương trình Vũ Hán đông chinh, nay ngược lại biến thành Nam Kinh tây chinh, đây là lần thứ nhất nội bộ Quốc dân đảng cùng tàn sát. Ngày 14/11 tây chinh chiếm Vũ Hán, Đường Sinh Trí chạy trốn. Trung ương đặc biệt uỷ viên hội và Tân quốc dân chính phủ từ đầu cơ sở chưa ổn định, Uông cho là bất hợp pháp ; Tưởng Giới Thạch và Hồ Hán Dân đều không tham gia. Qua sự điều đình của Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy ; Uông, Tưởng lại trở nên hoà hảo. Cũng cần nhấn mạnh vào ngày 1/12/1927 Tưởng Giới Thạch kết hôn với Tống Mỹ Linh, từng lưu học tại trường Wellsley College, một Đại học nổi tiếng cho nữ giới tại bang Massachusetts, Mỹ quốc ; như vậy Tống Tử Văn trở thành anh vợ, Khổng Tường Hy là anh rể của Tưởng. Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy đặc biệt chi trì cho Trung ương đặc biệt uỷ viên hội, chưa giải được hiềm khích với Tưởng ; tướng Trương Phát Khuê vốn ủng hộ Uông Triệu Minh, trở về Quảng Đông có mâu thuẫn với Chủ tịch tỉnh Lý Tế Thâm. Lý Tông Nhân, Bạch Sùng Hy, Lý Tế Thâm đều là người Quảng Tây nên thuộc Quế hệ. Ngày 17/11 Trương Phát Khuê làm chính biến, chiếm lãnh Quảng Châu, Quế hệ cho rằng đó là âm mưu của Uông. Ngày 22/11 phái ủng hộ Tưởng tại Nam Kinh công khai phản đối Đặc biệt uỷ viên hội, cùng quân cảnh xung đột, chết 3 người, bị thương 10 ; căn cứ ngày tháng xảy ra, được đặt tên là “ Nhất nhất nhị nhị thảm án ”. Uông cho rằng do phái Tây Sơn và Quế hệ gây nên, riêng Tưởng thì chỉ đích danh phái Tây Sơn. Ngày 3/12 Uông, Tưởng tại Thượng Hải triệu tập hội nghị trù bị cho Tứ trung toàn hội ; Quế hệ đòi điều tra Uông về biến cố tại Quảng Châu ; Uông biết rằng khó mà xuất hiện lần này, nên đề nghị Tưởng tiếp tục giữ chức Tổng tư lệnh quân Quốc dân cách mệnh, cùng yêu cầu trù biện Tứ trung toàn hội. Ngày 21/12 Trung cộng lại bạo động tại Quảng Châu, Uông trở thành cái đích cho mọi phe đả kích, bèn rời Thượng Hải xuất ngoại. Trương Phát Khuê tuy bình định được Trung cộng bạo động, cuối cùng không được Quế hệ bao dung, bèn đem bộ hạ qua Giang Tây, chịu dưới quyền tiết chế của Tưởng. Tháng 1/1928, Tưởng chính thức nhận chức, tháng 2, Tứ trung toàn hội suy cử lên chức Chủ tịch chính trị uỷ viên hội Trung ương thường vụ uỷ viên. Uông không thu hoạch được gì, nên dần dần hướng theo con đường phản Tưởng. Phái Tây Sơn nhân bị Tưởng bài xích, bèn hợp tác với Uông, Quốc dân đảng muốn hợp nhưng không hợp được, vẫn tiếp tục ở trạng thái phân liệt. 4. Trung cộng đấu tranh vũ trang Đầu tháng 6/1927 Cố vấn Nga xô M. N. Roy [Lỗ Dịch] có ý muốn để Trung cộng bạo động ngay, nhưng các đại biểu mới Cộng sản quốc tế như B. Lominadze [La Minh Nạp Tư], H. Neumann [Nữu Man], cùng Borodin, Trần Độc Tú phản đối. Đến lúc Roy, Borodin trở về nước; do Chu Ân Lai, Lý Lập Tam, Hồn Đại Anh, Đàm Bình Sơn tổ chức Tiền địch uỷ viên hội, Trung cộng lợi dụng bộ hạ của Trương Phát Khuê nổi dậy tại Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], Nam Xương [Nanchang, Giang Tây]. Ngày 1/8 bộ hạ của Trương gồm Sư trưởng Diệp Đình 4, Quân trưởng Hạ Long 5, cùng bộ hạ của Chu Bồi Đức, Giáo đạo Chu Đức 6, tổng số khoảng 2 vạn quân khởi sự tại Nam Xương, vẫn trương cờ Quốc dân đảng, tổ chức Quốc dân đảng Cách mệnh uỷ viên hội. Nhân bị quân Trương Phát Khuê, Chu Bồi Đức bao vây ; vào ngày 5/8 quân của Diệp, Hạ, hướng xuống Quảng Đông, trên đường quân lính đào ngũ, bệnh chết, đến phía nam Giang Tây bị quân Quốc dân đảng ngăn đánh, chỉ còn khoảng 8.000. Rồi chuyển đường sang phía tây Phúc Kiến, đến phía đông tỉnh Quảng Đông ; vào ngày 24/9 chiếm lãnh Triều Châu [Chaozhou, Quảng Đông], Sán Đầu [Shantou, Quảng Đông] hy vọng có thể được tiếp tế từ biển ; rồi hợp với tổ chức dân quân tại Hải Phong [Haifeng, Quảng Đông], Lục Phong [Lufeng, Quảng Đông] tiến đánh Quảng Châu. Sau đó 6 ngày bị quân Quảng Đông, Quảng Tây đánh bại, toàn quân tan rã ; Diệp, Hạ, cùng Chu Ân Lai chạy trốn đến Hương Cảng. Riêng Chu Đức mang hơn 1.000 quân theo phía nam Giang Tây đến phía bắc Quảng Đông theo đám quân Vân Nam tại Thiều Quan [Shaoguan, Quảng Đông]. Sau khi B. Lominadze [La Minh Nạp Tư] và H. Neumann [Nữu Man] thay Stalin nhận sai lầm, để tránh sự đả kích của Trotsky ; Stalin vạch kế hoạch cải tổ căn bản trung ương đảng Trung cộng. Mệnh Trung cộng vào ngày 7/8 tổ chức hội nghị khẩn cấp tại Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc], đem tất cả quá khứ sai lầm đổ cho Trần Độc Tú với tội thoả hiệp hữu khuynh cơ hội chủ nghĩa. Từ nay trở về sau quyết lấy quần chúng làm lực lượng, triệt để thực hành cách mệnh ruộng đất, thành lập chính quyền Xô Viết ; định vào vụ lúa mùa thu, tổ chức bạo động tại Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tây, Quảng Đông. Cù Thu Bạch chủ trì cục trung ương, tuyên bố mở đầu cho “ Bố Nhĩ Thập Duy Khắc ” [布尔什维克化, Bolshevik] của Lenin, sau này bị coi là tả khuynh mạo hiểm chủ nghĩa, căn cứ theo ngày tháng cuộc hội này được gọi là “ Bát thất hội nghị ”. Trung cộng bảo rằng “ Hội nghị lần này chấn chỉnh và kết thúc chủ nghĩa đầu hàng của Trần Độc Tú, xác định cách mệnh ruộng đất, cùng vũ trang phản đối phái Quốc dân đảng phản động với chính sách chém giết ; hiệu triệu đảng và nhân dân tiếp tục chiến đấu ”. Trong hội nghị Mao Trạch Đông tuyên bố quan điểm “ khẩu súng đẻ ra chính quyền ” và được cử làm Uỷ viên trừ bị lâm thời trung ương chính trị cục. Ngày 27/9, Stalin tuyên bố với quốc tế cộng sản Trung cộng lãnh đạo Trung quốc Xô viết, không tái tục liên hiệp với Quốc dân đảng. Sau Bát thất hội nghị, kế đến bạo động tại kỳ thu hoạch mùa thu, rất kỳ vọng ở tỉnh Hồ Nam. Ngày 8/9, Mao Trạch Đông thu thập lực lượng, gồm nông dân tại miền đông bắc Hồ Nam, tây bắc Giang Tây ; công nhân và cảnh vệ đến từ Vũ Hán ; thành lập Sư đoàn thứ nhất Công nông cách mệnh quân, ước chừng 2.000, chia đường tấn công, nhưng đều gặp thất bại. Mao bị bắt rồi trốn thoát, đem tàn quân đến đóng tại vùng Vĩnh Tân [Yongxin, Giang Tây], Tam Loan [Sanwanxiang, Giang Tây], biên chế thành 1 đoàn, chưa đến 1000 người ; nhưng tổ chức nghiêm mật, xác định quyền lãnh đạo của đảng với khẩu hiệu “ đảng chỉ huy súng ”, đầu tháng 10 tiến vào lập căn cứ tại vùng núi Ninh Khu [Ninggang, Giang Tây]. Tại Quảng Đông, Hải Phong Lục Phong là những vùng trọng yếu xẩy ra bạo động ; sau khi tàn quân của Diệp Đình, Hạ Long gia nhập, ngày 17/11 thành lập chính quyền Xô viết do Bành Bái lãnh đạo, sau đó 3 tháng bị quân Quảng Đông tiêu diệt. Cuộc bạo động tại Quảng Châu được xem là quan trọng nhất, không thua gì cuộc nổi dậy tại Nam Xương. Sau 2 ngày Trương Phát Khuê làm cuộc chính biến tại Quảng Châu [18/11], Trương Đại Lôi phe Trung cộng, quyết thừa cơ phát động. Bộ hạ của Trương Phát Khuê phải chế ngự quân Quảng Đông của Lý Tế Thâm, quân Quảng Tây cùa Hoàng Thiệu Hoằng nên phải đem quân chủ lực điều đến Tây Giang, Đông Giang. Ngày 11/12 Giáo đạo đoàn phòng thủ Quảng Châu do Diệp Kiếm Anh chỉ huy cùng Cảnh bị đoàn hơn 2.000 quân, và mấy ngàn quân Công nông liên hiệp nổi dậy, chiếm toàn thành, thiết lập chính phủ Xô viết, Trương Đại Lôi làm Chủ tịch. Bộ hạ của Trương Phát Khuê phản công ; chiến hạm Anh, Pháp, Nhật pháo kích, Công nhân cơ khí phản cộng trợ chiến, Trương Đại Lôi tử trận ; ngày 13 quân Trương Phát Khuê chiếm lại Quảng Châu. Trong vòng 3 ngày dân chúng chết hơn 1.000 người, đảng viên Trung cộng cùng những người tham gia chết hơn 5.000 người, tàn quân của công nông Hồng quân hơn 2.000 rút về Hải Phong ; Stalin khen rằng đây là cuộc rút quân anh hùng. Cuộc bạo động tại Quảng Châu thực do Cộng sản quốc tế H. Neumann và Gerhart Eisler tại lãnh sự quán Nga Xô sách động, Cộng sản Nga cung cấp hơn 200 vạn Mỹ kim. Sau khi Trương Phát Khuê chiếm được Quảng Châu, bọn H. Neumann trốn thoát ; Phó lãnh sự A. I. Hassis cùng 5 người bị giết. Ngày 14/12 Quốc dân chính phủ tuyệt giao với Nga Xô, không thừa nhận lãnh sự quán Nga Xô tại các nơi, đóng cửa các cơ quan quốc doanh của Nga Xô, đòi các kiều dân Nga Xô trở về nước. Nga Xô thanh minh rằng từ trước tới nay chưa từng công nhận Quốc dân chính phủ, lãnh sự quán Nga Xô quan hệ với chính phủ Bắc Kinh, Quốc dân chính phủ không có quyền triệt tiêu thừa nhận. Nhưng rồi các lãnh sự tại Thượng Hải, Hán Khẩu, Trường Sa đều hạ cờ trở về nước ; trải qua 4 năm Quốc dân đảng với chính sách liên Nga, bị Thanh đảng, Phân cộng kết thúc, mọi quan hệ với Nga Xô đình chỉ. Đại biện Nga Xô tại Bắc Kinh, sau khi Trương Tác Lâm sưu tra đại sứ quán bèn lìa bỏ, thực tế Bắc Kinh không có quan hệ ngoại giao với Nga Xô. Hồ Bạch Thảo 1 Vào thời Trung Quốc mới dùng điện báo, mỗi chữ đánh đi phải trả tiền nhiều, nên bưu điện nghỉ ra cách dùng chữ có vần gần giống, đơn giản để thay cho con số. Như ngày 21 tức “ nhị thập nhất nhật ” đổi thành “ mã nhật ”, từ 4 chữ tiết kiệm lại chỉ còn 2 chữ, nên trả tiền ít hơn. Do đó sự biến ngày 21/5 gọi là “ Mã nhật sự biến ”. 2 Phân cộng : chính sách chia tay với công sản của Quốc dân chính phủ tại Vũ Hán, sẽ đề cập ở phần sau. 3 Xích hoá : hoá thành đỏ, ý chỉ theo Cộng sản. 4 Diệp Đình : người Quảng Đông, xuất thân từ quân Quảng Đông. Năm 1925 đến Mạc Tư Khoa, thời bắc phạt giữ chức Đoàn trưởng đơn vị độc lập thuộc Đệ tứ quân, sau thăng chức Sư trưởng. 5 Hạ Long : người tỉnh Hồ Nam, xuất thân từ chốn thảo dã, từng được quân phiệt Hồ Nam, Tứ Xuyên chiêu phủ ; năm 1926 tham gia bắc phạt. 6 Chu Đức : người tỉnh Tứ Xuyên, tốt nghiệp Vân Nam giảng vũ đường, theo Hộ quốc quân của Thái Ngạc vào Tứ Xuyên, lên đến chức Sư trưởng. Năm 1922 sau khi Cố Phẩm Trân bại chết, Chu Đức đến Thượng Hải, từng gặp Tôn Trung Sơn, Trần Độc Tú, rồi sang Đức, gia nhập Cộng sản. Năm 1926 trở về nước, nhậm chức tại quân Tứ Xuyên. Năm 1927 Chủ tịch tỉnh Giang Tây Chu Bồi Đức giao chức Cục trưởng công an Nam Xương, Đoàn trưởng giáo đạo.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 18, 2015 8:43:13 GMT 9
Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Hồ Bạch Thảo Chương bốn Tiếp tục bắc phạt[1927-1928] Diêm Tích Sơn [1883-1960] Nguồn: zh.wikipedia.org/zh 1. Chiến tranh tại phía bắc Trung Quốc Từ tháng 3/1927 trở về sau, chủ yếu địch thủ của quân cách mệnh là Trương Tác Lâm. Trương vì hình thế cô đơn, tuyên bố rằng nếu Tưởng Giới Thạch đuổi được người Nga, hai bên sẽ trò chuyện hoà hiếu. Tháng 5 khi Phụng hệ, cùng quân Trương Tông Xương bị bại tại Hà Nam và bắc sông Trường Giang ; phía bên hông lại chịu sự uy hiếp của Diêm Tích Sơn tại Sơn Tây ; do đó Trương Tác Lâm chủ trương thoả hiệp với Tưởng và Diêm ; nếu như không thành công, sẽ rút quân về phía đông bắc. Nhưng Tôn Truyền Phương lại cho rằng nội bộ quân cách mệnh đang đánh nhau, trước mắt còn có thể thi thố ; Trương bèn tự xưng Nguyên soái, Trương Tông Xương, Tôn Truyền Phương mang đại binh xâm lăng phương nam. Trương Tác Lâm chuẩn bị tiến công Phùng Ngọc Tường tại Hà Nam, bức bách Diêm Tích Sơn triệt thoái khỏi Thạch Gia Trang [Shijiazhuang, Hà Bắc]. Diêm lo nếu Phùng thua, thì quân bản bộ cũng không giữ được, nên ra tay trước để chế ngự. Cuối tháng 9, Diêm chia quân theo đường sắt Kinh Tuy [Bắc Kinh – Tuy Viễn] và Kinh Hán [Bắc Kinh – Hán Khẩu] phát động, cuối cùng bị Phụng quân đánh bại, bèn rút về Sơn Tây. Trong lúc quân Trương Tác Lâm và Diêm Tích Sơn giao tranh, thì lực lượng của Trương Tông Xương dựa theo đường sắt Lũng Hải [Cam Túc cảng tại Giang Tô] tiến về tây đến phía đông tỉnh Hà Nam, nhưng đến đầu tháng 11 bị quân Phùng Ngọc Tường đánh bại. Phụng quân theo thiết lộ Kinh Hán [Bắc Kinh – Hán Khẩu] xuống phía nam, đánh bại quân Diêm Tích Sơn, rồi tiến chiếm Chương Đức [Zhangde] phía bắc Hà Nam. Hạ tuần tháng 11, Phùng Ngọc Tường lại đánh bại Trương Tông Xương, tháng 12 quân bắc phạt thuộc chính phủ Nam Kinh lại khắc phục Từ Châu [Xuzhou, Giang Tô] ; 20 ngày sau, quân Phùng Ngọc Tường thu hồi Chương Đức. Sau khi Tưởng Giới Thạch trở lại chức, củng cố lại lực lượng, tiếp tục bắc phạt. Cải biên quân đội phía nam sông Trường Giang thành Đệ nhất tập đoàn quân, trực tiếp chỉ huy ; chia quân của Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, thành Đệ nhị, Đệ tam tập đoàn ; quân đóng tại Lưỡng Hồ biên chế thành Đệ tứ tập đoàn do Lý Tông Nhân làm Tư lệnh. Đệ nhất và Đệ nhị tập đoàn hợp lực tấn công Sơn Đông, Đệ nhị và Đệ tam tập đoàn hợp công Trực Lệ. Phía Trương Tác Lâm dùng Phụng quân đối địch Hà Nam, Sơn Tây ; lực lượng của Tôn Truyền Phương, Trương Tông Xương phòng thủ Sơn Đông. Tháng 4/1928 Đệ tam tập đoàn quân thất lợi, Đệ nhị tập đoàn hoạch thắng. Ngày 1/5 Đệ nhất tập đoàn quân chiếm lãnh thủ phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, không cho đảng Cộng sản hoạt động. Ôn lại năm trước, khi quân bắc phạt hướng đến Sơn Đông, Tưởng sai người đến Đông Kinh để mưu cầu giải quyết ổn thoả. Thủ tướng Điền Trung Nghĩa Nhất chỉ muốn quân bắc phạt dừng lại tại Từ Châu, khi được biết quân bắc phạt đã tiến đến Phong Phụ [Bangbu, An Huy], Điền Trung lấy danh nghĩa bảo hộ Nhật kiều, cho mang quân đến Sơn Đông. Sau khi quân bắc phạt khắc phục Từ Châu, tạm thời ngừng tiến, nguyên nhân chính là muốn tránh khỏi quân Nhật can thiệp. Vào tháng 6, 7, Nhật mở Đông phương hội nghị thương thảo chính sách đối Hoa, quyết định rằng nếu quyền lợi Nhật bị xâm hại tức quyết nhiên xử trí. Lại cho rằng mối động loạn như làn sóng, không kể đến từ phương nào, nếu lan đến vùng Mãn, Mông, cần phải phòng ngừa. Vào tháng 8, Tưởng từ chức, quân Nhật tại Sơn Đông rút lui. Tháng 10, Tưởng đích thân sang Nhật Bản, cùng với Trương Quần bạn đồng học tại trường võ bị Chấn Vũ, đồng hành. Ngày 5/11/1927 gặp Thủ tướng Điền Trung, bàn về cải thiện ngoại giao với Trung Quốc. Điền Trung khuyên Tưởng chỉ nên thống nhất đến lưu vực sông Trường Giang, không nên cấp tốc tiếp tục bắc phạt, hai bên ý kiến đối chọi với nhau. Qua nhật ký, Tưởng Giới Thạch nhận xét “ Không có chút thành ý nào… Làm trở ngại hành động bắc phạt của quân cách mệnh ta, nhắm ngăn ngừa Trung Quốc thống nhất ”. 2. Nhật Bản cản trở cùng việc bắc phạt kết thúc Cuộc vận động phản đế quốc trong giai đoạn đầu bắc phạt, đối tượng chính là nước Anh ; lúc đầu Nhật Bản giữ thái độ yên tĩnh, Tưởng Giới Thạch cũng lưu ý liên lạc tốt. Tháng 4/1927, Đại tướng Điền Trung Nghĩa Nhất, Tổng tài Chính hữu hội, lập nội các, kiêm chức Đại thần ngoại vụ ; tuyên bố rằng không phản đối nguyện vọng hợp lý của Trung Quốc. Đầu năm 1928, Tưởng Giới Thạch trở lại chức ; dùng Hoàng Phu, người đã từng tiếp xúc đối với Nhật trên một năm nay, làm Bộ trưởng ngoại giao ; mệnh kín đáo ngỏ ý cho Điền Trung biết rằng nếu như Trương Tác Lâm trở về miền Đông Tam Tỉnh 1, thì quân cách mệnh sẽ không truy kích ; lại phái Ân Nhữ Canh, người thông thạo về tình hình tại Nhật, làm Đại biểu tại Đông Kinh. Tháng 4, bắc phạt tái triển khai, Tưởng tuyên bố bảo hộ kiều dân nơi chiến địa, đặc biệt thông tri cho Lãnh sự Nhật tại Thượng Hải, Điền Trung vẫn ngang nhiên không đoái đến, ngày 20 cùng tháng, lại cho mang quân đến Sơn Đông lần nữa, vào thẳng Tế Nam. Ngày 1/5 quân bắc phạt chiếm lãnh Tế Nam, ngày hôm sau Tưởng cùng Hoàng Phu đến nơi để ứng phó vấn đề với Nhật ; Sư đoàn trưởng Nhật, Phúc Điền Nhan Trợ, cũng đến. Ngày 3/5 quân Nhật ra tay gây hấn, bắn quân dân Trung Quốc, giết nhân viên giao thiệp Thái Công Thời, lăng nhục Hoàng Phu, đó là nội dung “ Tế Nam sự biến ”. Ngày 5, Tưởng rời Tế Nam, vẫn sai người tiếp tục thương lượng, Phúc Điền yêu cầu trừng trị tướng lãnh cao cấp, giải trừ vũ trang quân đối kháng với Nhật, không được trú quân cách đường sắt Giao Tế [Giao Châu loan – Tế Nam] 20 dặm. Tưởng tuy phần lớn bằng lòng, nhưng Nhật vẫn tiến binh không ngừng, lại kế tục tăng quân tại Sơn Đông, riêng quân hạm chạy dọc sông Trường Giang và vùng bờ biển phía đông nam. Ngày 10, Tế Nam không giữ được, quân dân Trung Quốc chết khoảng 3.000 người. Lúc bấy giờ Trương Quần đã đến Đông Kinh, Thủ tướng Điền Trung cho biết không giúp Trương Tác Lâm, không làm trở ngại việc bắc phạt. Tưởng lui binh đến vùng phía nam Tế Nam, điều động quân chủ lực đi đường vòng vượt sông Hoàng Hà. Nhật Bản lưu ý nhất tại vấn đề Mãn, Mông, cùng thái độ đối với Trương Tác Lâm. Sau hội nghị Đông phương vào tháng 7/1927, Tổng lãnh sự Cát Điền Mậu yêu cầu Trương Tác Lâm, đông bắc đương cục, giải quyết những đề án còn vướng mắc. Có thuyết cho rằng ngày 25/7, Thủ tướng Điền Trung trong “ Đại lục chính sách tấu chiết ” có câu “ Muốn chinh phục Trung Quốc, phải chinh phục Mãn Mông trước ”. Tháng 8 Công sứ Nhật Bản tại Bắc Kinh, Phương Trạch Khiêm Cát, cưỡng bách Trương Tác Lâm chấp nhận cho Nhật Bản xây thêm đường sắt tại miền đông bắc, Trương ra lệnh cho Dương Vu Đình đàm phán việc này. Tháng 10, Tổng tài Nam Mãn hội xã, Sơn Bản Điều Thái Lang gặp mặt Trương Tác Lâm đề xuất xây 5 đường sắt ; gồm các tuyến : Đôn Hoá – Đông Môn Giang [từ tỉnh thành Cát Lâm đến phía đông tuyến đường sắt Hội Ninh tại Triều Tiên] ; Trường Xuân [Changchun, Cát Lâm] – Đại Lãi [huyện thuộc Cát Lâm] ; Vĩnh Cát [Yongji, Cát Lâm] – Ngũ Thường [Wuchang, Hắc Long Giang] ; Diên Cát [Yanbian, Cát Lâm] – Hải Lâm [Hailin, Hắc Long Giang] ; Thao Nam [Taonan, Cát Lâm] – Sách Luân [Suolunzhen, Nội Mông]. Ngày 12/11 hiệp nghị thành lập, Thủ tướng Điền Trung muốn chính thức hoá, bèn sai Công sứ Phương Trạch đàm phán thêm tại Bắc Kinh, cùng khuyên Trương Tác Lâm đi ra ngoài quan ải, ý muốn vùng đông bắc tách ra khỏi Trung Quốc. Khi sự kiện tại Tế Nam phát sinh, Trương gửi điện đình chiến, phía Nhật cũng bức bách gấp rút. Từ ngày 13 đến ngày 15, ngoại trừ tuyến đường Vĩnh Cát đến Ngũ Thường, 4 tuyến đường kia đều đính ước xong hợp đồng. Ngày 17 Phương Trạch bảo Trương hãy đi về phía đông sớm, nếu chờ chiến bại mới rút, để cho quân cách mệnh tiếp tục truy kích, thì quân Nhật tại vùng phụ cận Sơn Hải Quan [Shanhaiguan, Hà Bắc] sẽ tước khí giới cả hai phe. Ngày 18 Nhật Bản gửi giác thư cho hai phe Bắc Kinh, Nam Kinh tuyên bố rằng chiến sự nếu như xảy ra tại Mãn Châu, Nhật Bản sẽ chọn hành động thích nghi để thi thố. Nước Mỹ tuyên bố rằng Mãn Châu thuộc chủ quyền Trung Quốc, Nhật Bản nếu có hành động nên báo cho Mỹ biết trước. Thủ tướng Điền Trung cho rằng Trương Tác Lâm đã đáp ứng phần lớn điều kiện, lại tư lự về thái độ của Mỹ, nên quyết định bảo lưu địa vị của Trương ; ngày 31/5 thủ tiêu kế hoạch ngăn chặn quân Trương Tác Lâm tại Sơn Hải Quan. Nhưng đạo quân Quan Đông đã được tập trung tại Thẩm Dương [Shanyang, Liêu Ninh], quyết đặt Trương vào chỗ chết, để cho vùng Mãn Châu hỗn loạn, rồi ra tay chiếm đoạt. Vào ngày 3/6 Trương đáp xe lửa đi về phía đông, ngày hôm sau đến Kinh Phụng gần Thẩm Dương, tại chỗ phía dưới cầu giáp giới với đồn Hoàng Cô thì bị tạc đạn ; Trương cùng người đến đón là Đốc biện Hắc Long Giang, Ngô Tuấn Thăng đều chết. Tỉnh trưởng Phụng Thiên Lưu Thượng Thăng giữ kín không tuyên bố ; hai tuần sau Trương Học Lương bí mật về đến Thẩm Dương, ngày 21 phát tang cho cha. Ngày 4/7 Học Lương giữ chức Tổng tư lệnh bộ bảo an Đông Tam Tỉnh, cục thế trở nên ổn định. Sau khi quân bắc phạt vượt sông Hoàng Hà, bèn hướng đến Thiên Tân ; Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường tiến đến Bắc Kinh. Ngày 29/5 Tưởng ra lệnh các quân đình chỉ đợi mệnh ; để cùng Công sứ đoàn bàn cách tiếp thu Bắc Kinh và Thiên Tân, ngày 30 Phụng quân rút hết. Ngày 8/6 quân Diêm Tích Sơn vào Bắc Kinh, chính phủ Bắc Kinh bị tiêu huỷ. Quốc dân chính phủ đổi tỉnh Trực Lệ thành tỉnh Hà Bắc, Bắc Kinh thành Bắc Bình, không còn là thủ đô Trung Quốc. Trương Học Lương, mới 28 tuổi, là Tướng lãnh Phụng hệ thuộc tân phái chủ hoà ; đối với Nhật Bản có mối thù giết cha, muốn nghị hoà với phe cách mệnh, nhưng bị Lãnh sự Nhật Bản, Lâm Cửu Trị ra mặt ngăn cản. Trương Học Lương bèn thanh minh rằng không muốn làm ngăn trở sự thống nhất đất nước, bèn phái đại biểu đến gặp Tưởng. Lâm Cửu Trị tiếp tục can thiệp, thuyết rằng nếu như Nam Kinh dùng vũ lực áp bách, Nhật Bản sẽ hết sức tương trợ. Tháng 8, Đặc sứ Nhật Bản đến Thẩm Dương, uy hiếp nặng, không cho thoả hiệp với Nam Kinh, nếu không sẽ sinh đại biến, can thiệp vào nội bộ cũng không từ; Trương Học Lương hứa trì hoãn đến 3 tháng. Sau khi Phụng quân ra khỏi quan ải, quân Tôn Truyền Phương quy thuận cách mệnh ; lực lượng Trương Tông Xương vẫn đóng tại vùng Thiên Tân, Sơn Hải Quan [Shanhaiguan, Hà Bắc] ; phe cách mệnh và Phụng quân tìm cách giải quyết, do đó Trương Học Lương và Quốc dân chính phủ hợp tác tiến lên một bước. Đồng thời Anh, Mỹ thanh minh rằng Mãn Châu là lãnh thổ Trung Quốc ; nước Mỹ phủ nhận quyền lợi đặc biệt của Nhật Bản tại Mãn Châu. Tưởng Giới Thạch lại ra lệnh Trương Quần đến gặp Thủ tướng Điền Trung, hứa sẽ duy trì miền đông bắc như hiện trạng. Tháng 11, nhân lễ Gia miện 2 của Thiên hoàng, Trương Học Lương sai Mạc Đức Huệ đến mừng, để bàn việc đổi cờ theo chính phủ cách mệnh, Thủ tướng Điền Trung không còn phản đối. Ngày 29/12 miền đông bắc chính thức treo cờ Dân quốc “ Thanh thiên bạch nhật ”, Quốc dân chính phủ mệnh Trương Học Lương làm Tư lệnh trưởng miền đông bắc ; Chủ tịch 4 tỉnh : Phụng Thiên, Cát Lâm, Hắc Long Giang, Nhiệt Hà. Chính phủ đổi tỉnh Phụng Thiên thành Liêu Ninh, toàn quốc thống nhất. Các tỉnh tại tây nam và tây bắc quy phụ Quốc dân chính phủ trước miền đông bắc. Năm 1925 nội chiến dấy lên tại Tứ Xuyên, quân phiệt chia nhau cát cứ các nơi ; phía đông Tứ Xuyên thuộc Dương Sâm, Trùng Khánh thuộc Lưu Tương ; Thành Đô cùng phía tây và bắc Tứ Xuyên thuộc Đặng Tích Hầu, Lưu Văn Huy. Khi quân bắc phạt tiến vào Hồ Nam, Hồ Bắc, các tướng lãnh tại Tứ Xuyên tuy chịu sự uỷ nhiệm của Tưởng Giới Thạch, nhưng không ai chịu dưới quyền ai, trong số đó thế lực Lưu Tương, Lưu Văn Huy tương đối lớn hơn. Năm 1927, Đường Kế Nghiêu tại Vân Nam bị bộ hạ Long Vân và Hồ Nhược Ngu đánh đổ, rồi Long lại đánh bại Hồ, Quốc dân chính phủ bèn cử Long Vân làm Chủ tịch tỉnh. Quân Quý Châu tham gia bắc phạt tương đối sớm, do Chu Tây Thành đứng đầu, năm 1927 trên danh nghĩa theo hiệu lệnh của chính phủ Nam Kinh. Tại Tân Cương Dương Tăng Tân thống trị 17 năm, lập mưu qua tiệc rượu giết những người khác ý kiến ; sau khi quân bắc phạt khắc phục Bắc Kinh, Dương tuyên bố phục tùng chính phủ Nam Kinh. Sau đó vào ngày 7/7/1928 bị Phan Diệu Nam, Hiệu trưởng trường Nga văn giết, rồi trong ngày Phan bị viên Sảnh trưởng dân chính Kim Thụ Nhân giết ; Kim giành được chính quyền và vẫn tiếp tục thần phục chính phủ trung ương. Hồ Bạch Thảo (Tham khảo từ : Cận Đại Trung Quốc Sử Cương, Quách Đình Dĩ ; Xô Nga Tại Trung Quốc, Tưởng Trung Chính ; Wikipedia Anh văn, Trung văn ; Bản đồ Google) 1 Đông Tam Tỉnh : ba tỉnh phía đông bắc, tức Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh. 2 Gia miện : lễ đội mũ lên ngôi của vua.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 20, 2015 7:31:34 GMT 9
Sư chính trị (I) April 16, 2015 Mark Moyar | Trần Hải dịch Mark Moyar là tác giả của Triumph Forsaken – The Vietnam War 1954-1965 (Cambridge University Press 2006). Bài viết sau đây do Trần Hải Dịch từ “Political Monks: The Militant Buddhist Movement during the Vietnam War” của Mark Moyar, đăng trên Modern Asian Studies 38, 4 (2004) pp. 749–784. Bài của của tác giả Trần Hải trên DCVOnline đã bị Trần Chung Ngọc phê bình rất gay gắt và cũng là bài được tờ Nhân Dân chọn ghi ở mục tham khảo cho một bài đăng trên tờ báo đó vào tháng 8, 2007. Được biết bài dịch của tác giả Trần Hải đã đăng ở Talawas, © 2007, trước khi tác giả gởi đến DCVOnline; như thế nhận định của Trần Chung Ngọc cũng như chọn lựa bài đăng trên DCVOnline, một tờ báo bị chính quyền trong nước chận tường lừa, làm tham khảo trên tờ Nhân Dân không thể là một sự tình cờ. Chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc bài “Sư chính trị: Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam” của Trần Hải. Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam Tóm lược: Từ tháng Mười Một năm 1963 đến tháng Bảy năm 1965, phong trào Phật tử xuống đường tranh đấu là nguyên nhân chính yếu gây bất ổn chính trị tại Nam Việt Nam. Trong khi các Phật tử xuống đường phát biểu rằng họ đại diện cho đông đảo quần chúng Phật tử và chỉ tranh đấu cho tự do tôn giáo, thực chất họ chỉ gồm một thiểu số nhỏ, không mang tính đại diện, đang tìm cách gây ảnh hưởng về chính trị. Khai thác triệt để những âm mưu đen tối và bạo loạn quần chúng để khuynh đảo chính quyền, những Phật tử cực đoan đã tiến hành một hình thức sinh hoạt chính trị trái với truyền thống Phật giáo Việt Nam. Có bằng chứng cho thấy một số Phật tử trong phong trào này làm việc cho cộng sản Việt Nam. *** Giai đoạn từ cuối năm 1963 đến tháng Bảy năm 1965 đã được chú ý nhiều hơn bất cứ khoảng thời gian nào trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phần lớn là vì trong giai đoạn này Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson đã quyết định tham chiến trên bộ. Hầu như mọi sử gia của giai đoạn này đều xem sự yếu kém của chính quyền Nam Việt Nam là nguyên nhân trọng yếu dẫn đến sự can thiệp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ít có sử gia nào phân tích các lý do của sự yếu kém này. Những người có đề cập đến vấn đề này thường cho nguyên nhân sự yếu kém của chính quyền nói chung chỉ là do năng lực kém cỏi và thiếu tinh thần của tầng lớp lãnh đạo.[1] Một số nhân vật cầm quyền thì đúng là những người lãnh đạo tồi, nhưng cũng có những người có tư chất lãnh đạo tốt. Sự thất bại của những cá nhân có năng lực có nhiều phần do tác động của một ngoại lực: những Phật tử tranh đấu.[2] Trường phái mạnh nhất của các sử gia về Việt Nam, được gọi là trường phái chính thống, thường viết về những Phật tử này như những nhà tu hành không phải là cộng sản mà chỉ đấu tranh nhằm cải thiện tình trạng độc tôn và đàn áp tôn giáo.[3] Trên thực tế, những lãnh đạo phong trào Phật tử tranh đấu cố tình khuynh đảo mọi chính quyền từ 1963 về sau vì những lý do không liên quan gì đến tự do tôn giáo. Tuyệt đại đa số những cáo buộc về đàn áp tôn giáo mà họ dùng để biện minh cho hoạt động của họ đều là giả dối. Hơn nữa, ít nhất cũng có một vài vị lãnh tụ phong trào này đã tự nguyện cộng tác với cộng sản. Ở một mức độ nào đó, phong trào Phật giáo tranh đấu đã tiến hành các hoạt động bí mật, và rất có hiệu quả. Hiếm khi mà một phong trào đối lập có thể gây rối cho nhiều chính quyền một cách có hiệu quả với nguồn lực ít ỏi như thế. Phần lớn thông tin hiện có về phong trào Phật tử tranh đấu và chính trường Nam Việt Nam đều từ các nguồn ở phương Tây. Kể từ khi Hoa Kỳ bắt đầu dính líu đến Việt Nam năm 1950 cho đến khi kết thúc năm 1975, một số lớn nhân viên chính phủ Hoa Kỳ và phóng viên đã đặt nhiệm sở tại Nam Việt Nam. Đồng minh của Hoa Kỳ từ Châu Âu, nhất là Anh Quốc, cũng đã có nhân viên ngoại giao và phóng viên ở Nam Việt Nam. Bài báo này chủ yếu dưạ trên các nguồn thông tin từ Hoa Kỳ và Anh Quốc, là hai nguồn phong phú nhất hiện có. Các tài liệu có liên quan của Nam Việt Nam, còn gọi là Việt Nam Cộng hoà, hiện đang ở trong tay Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Những tài liệu này và những tài liệu tương ứng của Bắc Việt vẫn chưa được công bố cho giới nghiên cứu ngoại quốc. Trong khi Việt Nam đã xuất bản một số tài liệu lịch sử hữu ích từ khi chiến tranh chấm dứt, các tài liệu đó lại không chứa đựng thông tin quan trọng nào liên quan đến những biến động Phật giáo giữa thập niên 1960. Khi những tài liệu đó được cộng bố, sẽ có các thông tin xác đáng về một số vấn đề, nhất là sự can thiệp của Bắc Việt trong phong trào Phật tử tranh đấu. Dẫu vậy, các nguồn thông tin phương Tây, cũng trình bày nhiều khía cạnh của phong trào Phật tử tranh đấu một cách đầy đủ, và cũng khách quan hơn nhiều so với các tài liệu nguồn Việt Nam có thể có. Các thương nhân và tu sĩ Ấn Độ truyền Phật giáo vào Việt Nam trong thế kỷ đầu của Công nguyên. Tôn giáo này đã nhanh chóng thu nhận được rất đông tín đồ, và nhiều người, dù không xuất gia, cũng theo các nghi lễ và nguyên lý Phật giáo. Nhưng Phật giáo và văn hoá Ấn đã không bao giờ thống trị Việt Nam như ở Cam bốt, Thái, và Miến điện. Nguồn ảnh hưởng chính lúc nào cũng là người Trung Hoa, kẻ đã kiểm soát Việt Nam khi Phật giáo xuất hiện và tiếp tục thống trị cho đến thế kỷ thứ mười. Người Trung Hoa đã gieo rắc sâu xa lý thuyết của Khổng Tử ở Việt Nam và Khổng giáo đã đóng một vai trò ưu việt trong lịch sử lâu dài của Việt Nam, cho đến cả thế kỷ hai mươi. Cho dù Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tinh thần của vua chúa và dân dã trong nhiều thời kỳ, các nguyên tắc Khổng giáo vẫn thống trị các mối quan hệ gia đình và chính trị, ngay cả giữa những Phật tử với nhau.[4] Nam Việt Nam trong thế kỷ hai mươi thường bị gọi nhầm là một đất nước Phật giáo. Trong một đất nước với 15 trrệu dân, có khoảng 3 đến 4 triệu Phật tử và trong số này chỉ khoảng một nửa thực sự hành đạo. Khoảng 4 triệu người cho Khổng giáo là tín ngưỡng cơ bản. Trong những người theo Khổng giáo, một số có liên hệ lỏng lẻo với bên Phật giáo nhưng họ không hề xác định mình là Phật tử theo tổ chức của giáo hội Phật giáo. Trong giao đoạn có xung đột tôn giáo từ 1963 đến 1966, những người đó thường không ủng hộ phong trào Phật tử xuống đường. Một triệu rưỡi công dân Việt Nam theo Công giáo, và khoảng hai triệu rưỡi hay ba triệu theo đạo Cao Đài và Hoà Hảo. Số còn lại thờ linh vật hoặc theo đạo Lão, Tin lành, Ấn Độ giáo, hay Hồi giáo, v.v.[5] Trong khi có hiện tượng gần như sự phục hưng của Phật giáo trong những năm trước giai đoạn biến động 1963-1966, Phật giáo Việt Nam vẫn còn tương đối yếu. Quần chúng Phật tử Việt nam không hề có biểu hiện cuồng nhiệt tôn giáo như giới Phật tử ở các nước Châu Á khác. Trước cuộc bạo động Phật giáo năm 1963, giới sư sãi Việt nam hiếm khi chủ động tham gia chính sự quốc gia. Họ và Phật tử dùng tôn giáo của mình để giải quyết những vấn đề tâm linh nội tại, không quan tâm đến việc trần thế của chính quyền. Phật giáo Việt Nam cũng phân chia ra thành nhiều hệ phái mà không có phái nào có cơ cấu tổ chức mạnh và chặt chẽ. Ba miền cuả Việt Nam – Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ – mỗi miền đều có những nhóm Phật tử cục bộ. Miền Nam Việt Nam bao gồm Nam kỳ và phần nam Trung kỳ, cũng có một số lớn dân di cư đã bỏ Bắc kỳ và phần phía bắc Trung kỳ vào năm 1954. Phật giáo Việt Nam còn bị phân chia theo phái Tiểu Thừa (Theravada – Nam Tông) và Đại Thừa (Mahayana – Bắc Tông).[6] Xung khắc giữa Phật giáo và chính quyền Sài Gòn khởi đầu vào ngày 8 tháng Năm năm 1963, khi 9 thường dân bị chết một cách đầy bí ẩn trong một buổi biểu tình của Phật tử ở Huế. Dưới sự lãnh đạo của sư Thích Trí Quang, một mhóm Phật tử tổ chức biểu tình và nói với báo chí ngoại quốc là chính quyền Diệm đàn áp Phật giáo. Nhóm này sau đó được biết đến với danh xưng “Phật tử tranh đấu”. Diệm từ chối không chịu nhân nhượng và thực thi những cải cách theo yêu cầu của nhóm Phật tử đấu tranh và phía Mỹ. Kết quả là Người Mỹ đã quay lưng lại với Diệm. Vào tháng 10 năm 1963, Toà Đại sứ Mỹ chấp thuận một âm mưu đảo chánh do mấy tướng lãnh cao cấp Việt Nam dự mưu, và vào ngày 1 tháng 11, các tướng này lật đổ Diệm và hạ sát ông ta. Một Hội đồng tướng lãnh, do Đại tướng Dương Văn Minh lãnh đạo, nắm quyền sau cuộc đảo chánh. Mong tìm sự ủng hộ từ những nhóm chính trị rắc rối nhất, chế độ mới nhanh chóng thả ngay tất cả các sinh viên và Phật tử chống đối bị Diệm cầm tù trước đó. Theo lời cố vấn của Toà Đại sứ Mỹ, các tướng lãnh hứa sẽ thực thi những cải cách chính trị Tây phương mà người đã Mỹ thúc đẩy từ lâu, kể cả tự do báo chí và tự do phát biểu chính kiến. Tuy nhiên, mặc dầu đã trả tự do cho những Phật tử tranh đấu và thực thi cải cách, vấn đề Phật tử đã không được hoá giải. Trong tháng đầu tiên của chế độ mới, ba Phật tử đã tự tuẫn để phản đối chính quyền.[7] Đó chính là chiến thuật mà các Phật tử đã dùng để chống Diệm. Chỉ trong bốn tháng sau khi Diệm bị lật đổ, số Phật tử tự tuẫn vì lý do chính trị còn nhiều hơn là trong suốt những năm Diệm làm Tổng thống. Tướng Minh đã lộ diện là người lãnh đạo quốc gia bất tài. Các tướng khác không ai bù đắp cho sự yếu kém của ông ta được và thay vào đó dành nhiều thời gian cãi cọ nhau và bắt bớ những người đã ủng hộ Diệm trước đây.[8] Hậu quả của tình trạng chính quyền trì trệ đã tạo cơ hội cho Việt cộng tăng cường và khai thác tối đa vị thế quân sự của mình. Tình trạng bất lực của “chính quyền Hội đồng” này chẳng bao lâu đã làm cả người Mỹ lẫn người Việt hết chịu nổi. Vào cuối tháng Một, tướng Nguyễn Khánh cho người Mỹ biết một số tướng lãnh thân Pháp sắp đảo chánh, và họ dự định sau đó sẽ biến Nam Việt Nam trở thành một nước trung lập. Một nước Việt Nam Cộng hoà trung lập sẽ “đặt dấu chấm dứt cho” quan hệ đồng minh với Mỹ và sẽ đi đến thoả hiệp với Bắc Việt. Sự trung thực của tướng Khánh không bao giờ được thẩm định vì không có chứng cớ. Tướng Khánh cũng phát hoảng vì sự kém cỏi của Tướng Minh và Hội đồng tướng lãnh của ông ta, đồng thời Tướng Khánh cũng cho là mình có thể làm tốt hơn tướng Minh. Hơn nữa, Khánh cũng bực bội về chuyện Hội đồng quân nhân đảo chính do Minh cầm đầu đã giết Diệm vì Khánh có cảm tình với Diệm và vì các tướng lãnh đã hứa sẽ không hại Diệm.[9] Vào ngày 30 tháng Một, được Mỹ hậu thuẫn, Khánh giành chính quyền bằng một cuộc đảo chính không đổ máu. Khánh giam giữ Minh cùng các cộng sự thân cận nhất của ông ta và tự phong mình làm thủ tướng. Trung tướng Nguyễn Khánh, tháng Giêng 1964 (T), 4 tháng 9, 1964 (P) cạo chòm râu dê – dứt bỏ quá khứ cống hiến cho tương lai. Hình AP Về phương diện lãnh đạo quốc gia, Khánh đã tỏ ra có năng lực hơn các vị tiền nhiệm. Tuy nhiên, Khánh lại tiếp tục chính sách thuyên chuyển xoay vòng các tỉnh và quận trưởng, vốn đã làm suy yếu các chính quyền tiền nhiệm.[10] Khánh đưa vào một số người trước đây ủng hộ Diệm và bị mất chức vào tháng 11 năm 1963. Tái xuất hiện trên chính trường vào thời điểm này là những Phật tử tranh đấu, vào khoảng đầu năm 1964 đã kết hợp thành một tổ chức với tên gọi là “Viện Hoá đạo” do Trí Quang và Tâm Châu đứng đầu. Trí Quang và các sư tranh đấu khác tố cáo một cách vô căn cứ rằng Khánh – vốn là một Phật tử – và chính quyền hầu hết là Phật tử của ông, đang trở lại chính sách bách hại Phật tử của Diệm. Vì thiếu kinh nghiệm và dễ bị đe doạ, Khánh sụp đổ trước áp lực này. Ông ngừng bổ nhiệm những viên chức thân Diệm, sa thải một số đang tại chức, và cầm tù thêm một số người thân Diệm khác.[11] Trung tướng Nguyễn Khánh đi cạnhThương tọa Thích Tâm Châu, Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Saigon, háng 9, 1964. Ảnh: LIFE Việc Khánh nhượng bộ những đòi hỏi này đã không giúp ông ta thoát khỏi sự chỉ trích của các Phật tử tranh đấu.[12] Trong khi một số sư lãnh đạo trong Viện Hoá đạo và một số Phật tử có uy tín chấp thuận tướng Khánh thì Trí Quang lại tố cáo Khánh là không cho Phật tử được tự do tôn giáo và cho phép viên chức chính quyền tự do cầm tù Phật tử.[13] Hệt như đã xảy ra trong vụ xung đột giữa Diệm với giới Phật tử, Tướng Khánh càng nhượng bộ, Trí Quang càng đòi hỏi nhiều hơn. Không như Diệm, Khánh tiếp tục thoả mãn các yêu sách không ngừng nghỉ. Một cách giải thích về thái độ của Khánh là vì ông ta tin rằng nếu chống đối lại các Phật tử thì sẽ làm người Mỹ xa lánh, như đã xảy ra với Diệm. Phần khác là do sự ngây thơ và non kém về chính trị của chính bản thân Khánh. Để thoả mãn Trí Quang, Khánh buộc quân đội phải cách chức tất cả các linh mục tuyên uý Công giáo.[14] Áp lực từ Trí Quang cũng buộc Khánh phải kết án chung thân khổ sai Đặng Sỹ, một sỹ quan Công giáo có liên quan đến sự cố chết người bí ẩn trong cuộc biểu tình ngày 8 tháng Năm năm 1963.[15] Không như các Phật tử khác, Trí Quang đòi tử hình em trai của Diệm là Ngô Đình Cẩn, người đang bị chính quyền của Khánh xét xử vì bị tố giác một số tội. Đưa ra lập luận, sau này sẽ trở thành nền tảng cho hầu như tất cả mọi sự chỉ trích chính quyền, Trí Quang cảnh báo rằng Cẩn phải bị xử tử để chống lại một âm mưu đen tối của người Công giáo, các dư Đảng Cần lao, và những kẻ đã ủng hộ Diệm, nhằm lập lại một chính quyền kiểu Diệm.[16] Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Henry Cabot Lodge đã thỉnh cầu các lãnh đạo Nam Việt Nam tha mạng cho Cẩn bằng cách nhắc nhở rằng chính quyền đã không đưa ra được chứng cớ rõ ràng nào về tội của Cẩn.[17] Thủ Tướng Khánh, dẫu vậy, vẫn quyết định làm hài lòng các Phật tử tranh đấu hơn là người Mỹ, và Khánh đã cho xử tử Cẩn ngày 9 tháng Năm. Nếu không vì quá sợ sự chống đối của Phật tử thì Khánh hẳn đã không chọn hướng làm vừa lòng Phật tử tranh đấu hơn là người Mỹ, cho dù như thế có thể dễ làm mất lòng người Mỹ và cả Khánh lẫn quốc gia của ông ta không thể trụ được nếu không có sử ủng hộ của người Mỹ.[18] Đại sứ Lodge đã ủng hộ Trí Quang mạnh mẽ trong năm 1963. Thực ra ngay từ đầu nhiệm kỳ, Lodge đã đề nghị đưa Trí Quang vào thành phần chính phủ nhằm mở rộng nền tảng đại diện của chính phủ. Nhưng đến đầu năm 1964, Lodge đã mất hết thiện cảm với Trí Quang và phong trào tranh đấu. Lodge nhận xét trong mùa xuân năm này, “Tôi cho rằng Phật giáo có thể là một mối nguy hiểm cho chính quyền. Cụ thể, tôi nghĩ rằng Trí Quang, lãnh tụ Phật giáo, là kẻ có tiềm năng gây rối. Đã lật đổ được một chính quyền, ông ta có thể muốn làm lại như thế đối với Khánh.” Nhận xét về những lời công kích của Trí Quang đối với Khánh, Lodge lưu ý rằng Trí Quang “đã cho tôi biết là ông ấy không coi Khánh là một ‘Phật tử tốt’ – hẳn có nghĩa là, một Phật tử không theo sự chỉ giáo của Trí Quang.” Một dịp khác, Lodge nói rằng Trí Quang “đầy tham vọng, chống Thiên chúa giáo, đầy hận thù, và chống Khánh ra mặt,” và rằng, “có sự xâm nhập của cộng sản vào tổ chức Phật tử.” Cũng giống như Lodge, nhiều thành viên của ngoại giao đoàn và báo giới trước đây đã ủng hộ Trí Quang và các Phật tử tranh đấu khác trong năm 1963, đến năm 1964 bỗng trở nên nghi ngờ họ.[19] Thượng tọa Thích Trí Quang đi xích lô đạp, Saigon 18 tháng 12, 1964. Nguồn: AP Từ đầu, nhiều quan sát viên Việt Nam đã tố cáo Trí Quang là một điệp viên cộng sản. Nói chung, các chứng cớ cũng cho thấy quan điểm này là đúng, cho dù không có bằng chứng tuyệt đối. Sinh ra ở miền Bắc, Trí Quang đã phục vụ cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến Pháp-Việt. Anh của Trí Quang là một quan chức trong chính quyền Bắc Việt, một sự thật được chính Trí Quang xác nhận. Khi những cuộc phản đối nổ ra ở Nam Việt Nam, có thông tin cho thấy người anh trai này đã cầm đầu các chương trình hoạt động bí mật của Bắc Việt ở Miền Nam.[20] Trong tháng Sáu năm 1963, Trí Quang thúc đẩy các Phật tử tìm kiếm hậu thuẫn từ phía Việt cộng để chống lại chính quyền của Diệm.[21] Những phương pháp vận động chính trị của Trí Quang gần giống với những phương pháp của cộng sản và tiến bộ hơn hẳn phương pháp của những Phật tử khác. Khi cộng sản chiếm Miền Nam năm 1975, Trí Quang được bố trí một công việc ở Huế và ông ta không có một phát ngôn chống đối nào đối với chế độ, trong khi họ cầm tù rất nhiều sư đã có thành tích tranh đấu.[22] Trí Quang liên tục tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng sản, cho dù vẫn chỉ trích chính quyền.[23] Hành động của ông, tuy vậy, không phù hợp với lời nói. Hành động của Trí Quang đã gây tác hại lớn cho mọi chính quyền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến 1966, và những hành động đó đã có thể huỷ diệt chính quyền nếu rốt cục các lãnh đạo quân đội không quyết định chặn đứng Trí Quang. Nếu Trí Quang không phải là một người cộng sản trung kiên, thì chắc hẳn ông có ảo tưởng ngông cuồng là tự mình có thể ngăn chặn cộng sản sau khi chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ. Vào ngày 5 tháng Tám năm 1964, Mỹ ném bom tàu bè và các căn cứ hải quân Bắc Việt để trả đũa cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” được nêu là có hai vụ tấn công tàu chiến Mỹ trong Vịnh. Tổng thống Lyndon Johnson vận dụng sự kiện này để được Quốc Hội chấp thuận cho phép dùng mọi biện pháp cần thiết ở Đông Nam Á. Tướng Khánh cũng tin rằng thời điểm căng thẳng quốc tế này là một cơ hội tốt cho ông gia tăng quyền lực. Do đó, ông tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” vào ngày 7 tháng Tám. Khánh ban bố nghị định cho phép cảnh sát cấm biểu tình, lục soát nhà cửa bất cứ lúc nào, và bắt giam “những thành phần được xem là nguy hiểm cho an ninh quốc gia.” Chính quyền ban hành lệnh kiểm duyệt và ngăn cản “việc lưu hành những ấn bản, tài liệu, và truyền đơn được xem là nguy hại đến trật tự công cộng.”[24] Khánh cũng soạn thảo một hiến pháp mới, với mục đích gia tăng quyền lực của mình và lấy hết thẩm quyền còn lại của Tướng Minh.[25] Thay vì củng cố quyền lực của Khánh, những biện pháp đó làm bùng nổ một cơn khủng hoảng chính trị tồi tệ. Tại những cuộc biểu tình lớn trong các đô thị, các Phật tử tranh đấu và nhóm sinh viên – phần nhiều bị ảnh hưởng nặng nề từ phía Phật tử tranh đấu – đòi Khánh chấm dứt tình trạng khẩn cấp và huỷ bỏ hiến pháp mới.[26] Nhóm Phật tử tuyên bố là có một âm mưu của phe Diệm, liên quan đến các cựu đảng viên Cần lao, Công giáo, và Đảng Đại Việt do các Tướng Khiêm và Thiệu lãnh đạo. Những người tranh đấu đã cáo buộc là phe Diệm đã đàn áp Phật tử. Phóng đại ảnh hưởng của Công giáo trong chính quyền của Khánh, Trí Quang nói với các viên chức Mỹ tại toà đại sứ rằng, “Phật tử không thể chấp nhận chính quyền bởi người Công giáo.” Trừ khi ảnh hưởng của những người Công giáo bị loại bỏ, Trí Quang cảnh cáo, Phật tử “sẽ rút lui khỏi cuộc chiến, để chỉ người Công giáo với sự ủng hộ của Mỹ chống lại Cộng sản.”[27] Những cáo buộc mới về đàn áp tôn giáo này cũng vô căn cứ như những cáo buộc trước. Maxwell Taylor, người vừa thay thế Lodge làm đại sứ Mỹ, nhận xét rằng cái gọi là âm mưu Cần lao-Công giáo-Đại Việt chỉ là “một bóng ma” bởi vì không có bằng chứng gì về việc chính quyền tìm cách ngược đãi Phật tử.[28] Những đám đông Phật tử phá huỷ nhà cửa và nhà thờ Công giáo. Quân đội và cảnh sát không can thiệp để chận đứng bạo lực, ngay cả khi có nổi loạn xảy ra trước mắt họ.[29] Bài học về chế độ Diệm hẳn đã làm cho các quan chức chính quyền tin rằng đàn áp biểu tình, nhất là các cuộc do sư lãnh đạo, sẽ làm người Mỹ xa lánh. Ở Đà Nẵng, ba ngày xung đột giữa Phật tử và người Công giáo đã làm 12 người chết. Trong khi các Phật tử trước đây cố gắng tránh đối kháng với người Mỹ, thì nay họ trút một phần cuồng nộ lên đầu người Mỹ; 2000 người biểu tình ném đá một trại lính Mỹ trong khi hò hét khẩu hiệu chống Mỹ.[30] Phong trào Phật tử tranh đấu đã ngày càng rời xa đặc tính tâm linh của Phật giáo Việt Nam. Như bao lần trước, Trí Quang và các lãnh tụ Phật giáo khác nói riêng với người Mỹ rằng họ chống cộng. Dẫu vậy họ từ chối không tuyên bố công khai lập trường này. Trí Quang tuyên bố rằng chưa tới lúc cần phải công khai lập trường chống cộng của mình, rằng ông ta chọn thái độ im lặng để khỏi bị cáo buộc là làm việc cho chính quyền và người Mỹ.[31] Khi mà những hoạt động của Trí Quang đã làm suy yếu trầm trọng chính nghĩa chống cộng, thật khó tin được rằng Trí Quang thực sự xem một lời tuyên bố công khai là không cần thiết. Những Phật tử khác phát biểu rằng họ không tố cộng vì họ không quan tâm đến chính trị, chỉ quan tâm đến tự do tôn giáo. Tuy vậy cùng lúc họ chỉ chỉ trích Khánh, chính quyền Sài Gòn, quân đội Nam Việt Nam, và người Mỹ, không ai trong số đó đụng chạm đến tự do tôn giáo.[32] Đến thời điểm đó, hầu hết các quan sát viên vô tư đã kết luận rằng các điệp viên cộng sản đã đóng vai quan trọng trong phong trào Phật tử tranh đấu. Xâm nhập phong trào là chuyện rất dễ. Bất cứ ai cũng có thể trở thành một nhà sư bằng cách cạo trọc đầu và khoác chiếc áo màu vàng nghệ. Trước tháng 11 năm 1963, cảnh sát Nam Việt Nam đã có thể kiểm soát được hoạt động của cộng sản trong các đô thị, nhưng những vụ thanh trừng các lãnh đạo cảnh sát sau thời Diệm đã làm què quặt cơ quan cảnh sát. Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhiều vụ nổi loạn bí mật trước đó và không có lý do gì họ lại không tìm cách gài người vào trong một tổ chức có ảnh hưởng rộng lớn mà dễ xâm nhập như thế.[33] Một số lớn Phật tử bị bắt vì hành vi bạo loạn lại không có thẻ căn cước quốc gia, một dấu hiệu khá rõ về mối liên quan với Việt cộng. Một số Phật tử tranh đấu đã di chuyển theo phương pháp quân sự với hiệu lệnh bằng trống và còi, và đã lập nên những công sự phòng thủ chống lại lực lượng chính quyền.[34] Giới Phật tử thuần tuý chắc hẳn đã không thể tự mình vạch ra những chiến thuật như thế. Càng ngày càng có nhiều người đi đến kết luận rằng chính Trí Quang là một người cộng sản. Trong năm 1964, những vị lãnh đạo Phật giáo khác – kể cả những cựu đệ tử nổi tiếng của ông ta – bắt đầu tố cáo Trí Quang cộng tác với Việt cộng.[35] Trí Quang tuyên bố rằng mình không có liên quan gì đến các Hội đồng Nhân dân Cách mạng mới được thành lập ở miền Trung để tiến hành các hoạt động chống chính quyền và đưa ra những mục tiêu rất giống với Cộng sản.[36] Nhưng một người thân cận của Trí Quang là bác sĩ Lê Khắc Quyến đã cầm đầu Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng tại thành phố Huế – một vị trí chiến lược. Việc Trí Quang thường cáo buộc các viên chức chính quyền có năng lực và không có quá khứ ngược đãi Phật giáo đã làm dầy thêm nguyên nhân dẫn đến mối nghi ngờ về động cơ của Trí Quang.[37] Đại tướng Dương Văn Minh bắt tay Bác sĩ Lê Khắc Quyến, một thành viên của Thượng Hội đồng Quốc Gia, Saigon 24/3/1964. Ảnh: LIFE Một số viện chức cao cấp Mỹ vào thời điểm đó cũng tin Trí Quang là cộng sản. Tuy vậy, CIA (Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ) vẫn chưa thực sự tin như vậy. Qua những vụ nổi loạn, cơ quan này đã thực hiện một phân tích đặc biệt về khả năng Trí Quang cộng tác với cộng sản. Kết quả là cho dù có nhiều báo cáo cho rằng Trí Quang là một người cộng sản, “vẫn còn thiếu thông tin tình báo chắc chắn để khẳng định điều mà nhiều người Việt tin, rằng Trí Quang thật sự là cộng sản.” Với nguyên nhân thiếu chứng cớ chắc chắn và những thẩm định chủ quan, phân tích đó kết luận rằng Trí Quang không phải là một điệp viên của cộng sản Việt Nam. Báo cáo đó cho rằng những hoạt động chống đối chính quyền xuất phát từ tham vọng, tinh thần bài ngoại, và ước muốn biến Nam Việt Nam thành một đất nước theo giáo quyền Phật giáo.[38] Thủ tướng Khánh lại chứng tỏ mình dễ bị lung lạc bởi những kẻ mỵ dân và đám biểu tình. Trong một cuộc biểu tình phản đối, khi hàng ngàn người hô vang khẩu hiệu, “Đả đảo độc tài quân phiệt,” Khánh cũng tham gia hô hào lớn tiếng như ai. Ông ta gắng sức làm vừa lòng những những kẻ tố cáo ông hơn là tìm cách bào chữa cho mình hay dùng sức mạnh để tái lập trật tự. Qua đó, ông ta hứa sẽ liên tục thoả mãn các yêu sách mới nhất.[39] Ở Việt Nam, sự hoà hoãn và chiều chuộng đối phương như thế là một sự mất mặt lớn và làm mất lòng tin của các viên chức chính quyền và công chúng. Theo truyền thống Khổng giáo, người Việt coi trọng sự cai trị của một nhân vật hùng mạnh không dung thứ những kẻ đối lập. Nhận thấy tình hình trở nên tuyệt vọng, Khánh tìm cách gặp các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu vào đêm 24 tháng Tám. Khánh yêu cầu Trí Quang, Tâm Châu, và Thiện Minh ra Vũng Tàu để thảo luận. Khi các vị sư này từ chối thì Khánh tức tốc về Sài Gòn để gặp họ, điều này hiển nhiên khẳng định nhận định của phía Phật tử là họ có thể lợi dụng được Khánh. Ba vị sư đưa cho Khánh một văn bản các yêu sách. Theo danh sách này thì Khánh phải huỷ bỏ hiến chương mới, Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng sẽ bầu cử tống thống rồi Hội đồng giải tán để tách quân đội ra khỏi chính sự. Các sư cũng đòi hỏi phải sa thải tất cả những đảng viên Cần lao đang phục vụ trong chính quyền của Khánh. Ngoài ra, Khánh phải công khai tuyên bố là đang đáp ứng các yêu cầu của Phật giáo. Nếu Khánh từ chối không thực thi những điều này thì lãnh đạo Phật tử sẽ tổ chức một chiến dịch phản đối rộng khắp bằng phương pháp bất bạo động. Ngay sau khi gặp các vị sư, Khánh hỏi ý kiến Đại sứ Mỹ Taylor. Taylor nói với Khánh, “Tôi nghĩ đó sẽ là một sai lầm khi nhượng bộ áp lực của một nhóm thiểu số về một vấn đề trọng đại, nhất là khi họ đưa một tối hậu thư và yêu cầu thực thi trong thời hạn ngắn ngủi như thế. Làm như vậy sẽ chỉ khiến họ đưa thêm yêu sách mới mà thôi”[40] Tướng Nguyễn Khánh hội ý với Đại sứ Mỹ Maxwell Taylor, bên cạnh là Đại tướng Westmoreland. Nguồn: Nguyen van Duc . Taylor đã nhận định được sự nguy hiểm này khi quan sát những tháng cuối cùng của chế độ Diệm và khi Khánh cầm quyền. Khánh đã can dự vào những biến cố lúc đó nhưng không rút tỉa được bài học nào. Vị thủ tướng Miền Nam Việt Nam đã chứng tỏ sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Phật giáo trên cơ sở là để tránh bất hoà giữa Phật giáo và Công giáo trong quần chúng và quân đội. Khánh nghĩ là không thể thắng trong cuộc chiến với cộng sản nếu không có sự ủng hộ của Phật giáo.[41] Chỉ vài giờ sau buổi họp, Khánh ra thông cáo trong đó có lời hứa sửa hiến pháp, giảm bớt kiểm soát báo chí, cho phép biểu tình nơi công cộng, và sửa sai những vụ quá tay trong quá khứ với những toà án lưu động đặc biệt. Tuy nhiên, như Taylor đã tiên đoán, những nhượng bộ này chỉ dẫn đến những yêu sách khác, và những cuộc biểu tình phản đối của Phật tử và sinh viên. Khánh lại đưa ra một kế hoạch mới rồi tìm cách thông qua trong một phiên họp rút gọn của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Theo kế hoạch này, hiến chương mới bị bãi bỏ, Hội đồng Quân nhân Cách mạng bầu ra quốc truởng rồi Hội đồng tự giải tán.[42] Như thế Khánh đã chấp nhận tất cả những đòi hỏi mới nhất của phía Phật giáo và còn nhân nhượng nhiều hơn thế. Sự đầu hàng này của Khánh vẫn chưa đủ để được giới Phật giáo tranh đấu công khai ủng hộ. Chỉ sau khi Khánh đã đưa cho Trí Quang 300,000 US đô la tiền mặt thì Trí Quang và Tâm Châu mới ký một lá thư bày tỏ ủng hộ mà Khánh sau đó cho công bố để chứng tỏ mình được sự hậu thuẫn của Phật giáo.[43] Dẫu vậy, bức thư này lại cũng có những đòi hỏi khác. Để duy trì được sự ủng hộ của các sư, Khánh phải mạnh tay với Cần lao và phải bầu ra quốc hội mới trong vòng một năm.[44] Những quan sát viên tinh ý nhận ra rằng những nhượng bộ quá đáng của Khánh đối với Phật giáo có nghĩa rằng quyền lực hầu như đã được trao từ phía những người muốn có một sự bình ổn bề ngoài nhờ phong cách quân sự qua tay các nhà sư Phật giáo với chủ ý phục vụ lợi ích riêng của mình mà cũng có thể cho cả cộng sản. Khi thực thi những nhượng bộ này Khánh đã phải chấm dứt nhiều biện pháp chống phản loạn có hiệu quả. Nhiều tướng lãnh Nam Việt Nam trở nên hết sức quan ngại về tình hình đất nước. Các tướng có mặt trong buổi họp của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đã chấp thuận kế hoạch của Khánh một cách miễn cưỡng và có sự cân nhắc vì Khánh được Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ. Một vài tướng vắng mặt tại cuộc họp đã trở nên giận dữ khi biết sự tình, đã công khai chỉ trích Khánh về các biện pháp làm suy yếu chính quyền. Nổi bật trong số các tướng chống lại chính sách của Khánh đối với Phật giáo là Tướng Khiêm và Tướng Thiệu. Sau đó họ tìm hậu thuẫn để thay đổi Khánh bằng tướng Dương Văn Minh, và họ cũng nhận được sự hợp tác của những vị trước đây đã theo Khánh.[45] Cả đám đến gặp đại sứ Taylor và yêu cầu được phép hạ bệ Khánh. Tuy nhiên, Taylor trả lời rằng không nên có thêm đảo chính nữa bởi làm thế chính quyền lại càng suy yếu thêm. Lời cảnh cáo này đủ để ngăn việc lật đổ Khánh.[46] Sau mấy ngày tranh cãi, các tướng thoả thuận thành lập tam đầu chế gồm Khánh. Minh, Khiêm để nắm quyền trong hai tháng cho đến khi một chính quyền mới được thành lập. Tam đầu chế Khánh-Minh-Khiêm, Saigon tháng 9, 1964 Tam đầu chế này mang đơn vị nhảy dù về Sài Gòn và dẹp tan các cuộc nổi loạn.[47] Hành động quyết liệt ban đầu này, tuy vậy, đã không được tiếp tục vì rõ ràng là tam đầu chế thiếu đoàn kết và không cùng chung mục đích.[48] Khánh có quyết định tối hậu trong khi Khiêm và Minh không có ảnh hưởng gì mấy; Khánh vẫn còn phục tùng nhóm Phật giáo tranh đấu. Áp lực từ nhóm Phật giáo và các Hội đồng Nhân dân Cách mạng buộc Khánh phải sa thải nhiều viên chức dân sự và sĩ quan quân đội dù họ không “chống Phật giáo,” trong đó có những lãnh đạo tốt nhất của đất nước.[49] Sức ép của nhóm Phật giáo cũng khiến Khánh chấm dứt kiểm duyệt báo chí và ra lệnh thả tất cả những người trước đó bị bắt trong các buổi bạo loạn, trong đó có it nhất 11 người được biết chắc là cán bộ Việt cộng cấp cao.[50] (Còn tiếp phần II, Kết) trích đăng lại bài từ DCVOnline.net Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh họa [1]Xem Fredrik Logevall, Choosing War: The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1999); Brian VanDeMark, Into the Quagmire: Lyndon Johnson and the Escalation of the VietnamWar (New York: Oxford University Press, 1991); Robert Buzzanco, Masters of War: Military Dissent and Politics in the Vietnam Era (Cambridge: Cambridge University Press, 1996); George McT. Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Alfred A. Knopf, 1986); Gabriel Kolko, Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (New York: Pantheon Books, 1985); Jeffrey Record, The Wrong War: Why We Lost in Vietnam (Annapolis: Naval Institute Press, 1998). [2]Thật đáng ngạc nhiên là người ta ít đề cập đến những hoạt động chính trị của các Phật tử tranh đấu vào những năm 1964 và 1965. Chỉ có rất ít hoặc thậm chí không có dòng nào đề cập đến họ trong Buzzanco, Masters of War; Kolko, Anatomy of a War; Lloyd C. Gardner, Pay Any Price: Lyndon Johnson and the Wars for Vietnam (Chicago: Ivan R. Dee, 1995); George C. Herring, America’s Longest War: The United States and Vietnam, 1950–1975, 3rd ed. (New York: McGraw-Hill, 1996); Robert Mann, A Grand Delusion: America’s Descent into Vietnam (New York: Basic Books, 2001); H. R. McMaster, Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies That Led to Vietnam (New York: HarperCollins, 1997); Marilyn B. Young, The Vietnam Wars, 1945–1990 (New York: HarperCollins, 1991); Robert D. Schulzinger, A Time for War: The United States and Vietnam, 1941–1975 (New York: Oxford University Press, 1997). Cuốn sách có những đề cập đáng kể về đề tài này là Arthur J. Dommen, The Indochina Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos and Vietnam (Bloomington: Indiana University Press), 2001. Kahin cũng phân tích phong trào Phật tử khá kỹ trong cuốn Intervention, nhưng ông bỏ sót một khối lượng thông tin lớn (mà nếu đưa vào sẽ) phản ánh bất lợi về Phật tử. [3]William Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, 2nd ed. (Boulder, Colo.: Westview Press, 1996); Robert J. Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964–1966 (Lexington, KY: University Press of Kentucky, 2002); David Kaiser, American Tragedy: Kennedy, Johnson, and the Origins of the Vietnam War (Cambridge: Harvard University Press, 2000); A. J. Langguth, Our Vietnam: The War, 1954–1975 (New York: Simon & Schuster, 2000); Kahin, Intervention; Schulzinger, A Time for War; Young, Vietnam Wars. [4]Ðể biết lịch sử Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ 20, xem Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1983); Oscar M. Chapuis, A History of Vietnam: From Hong Bang to Tu Duc (Westport, Conn.: Praeger, 1995); Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Praeger, 1967); Ralph Smith, Viet-Nam and the West (Ithaca: Cornell University Press, 1968). [5]Ellen J. Hammer, A Death in November: America in Vietnam, 1963 (New York: E. P. Dutton, 1987), 139; Richard Critchfield, Long Charade: Political Subversion in the Vietnam War (New York: Harcourt, Brace, and World, 1968), 70; Piero Gheddo, The Cross and the Bo-Tree: Catholics and Buddhists in Vietnam (New York: Sheed and Ward, 1970), 187; Marguerite Higgins, Our Vietnam Nightmare (New York: Harper & Row, 1965), 47; CIA, Office of Current Intelligence, “The Buddhists in South Vietnam,” 28 June 1963, John F. Kennedy Library, NSF, Box 197; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, Lyndon B. Johnson Library [hereafter LBJL], NSF, VNCF, box 9. [6] Smith, Viet-Nam and the West; Taylor, The Birth of Vietnam; Hammer, A Death in November. [7]“South Viet Nam,” Time, 13 December 1963, 32. [8]Peer de Silva, Sub Rosa: The CIA and the Uses of Intelligence (New York: New York Times Book Co., 1978), 216. [9]Saigon to State, 4 November 1963, Foreign Relations of the United States [hereafter FRUS], 1961–1963, vol. 4, 289; Robert Shaplen, Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946–1966 (New York: Harper and Row, 1966), 230. [10]Shaplen, Lost Revolution, 243–4; CIA, “Appraisal of Nguyen Khanh,” 20 March 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3; memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 151; Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam (London: Oxford University Press, 1968), 356–7; Saigon to State, 10 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 306. [11]CIA, “The Situation in South Vietnam,” 28 February 1964, Declassified Document Reference System [hereafter DDRS], 1975, fiche 247D; Saigon to State, 22 April 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 123; Ulysses S.G. Sharp and William C. Westmoreland, Report on the War in Vietnam (Washington, DC: Government Printing Office, 1969), 92–3. [12]Tâm Châu phần nào ít quá khích hơn Trí Quang. Ông ủng hộ một chính phủ không thân Cộng sản mà cũng không thân Mỹ. Các phương tiện thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải Phóng công kích ông thường xuyên hơn Trí Quang rất nhiều. Pike, Viet Cong: The Organization and Techniques of the National Liberation Front of South Vietnam (Cambridge: M.I.T. Press, 1966), 204. [13]New York Times, 10 May 1964. [14]Memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 151. [15]Saigon to State, 14 May 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4; Higgins, Our Vietnam Nightmare, 98. [16]Saigon to State, 24 April 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 125; Saigon to State, 25 April 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3. [17]Saigon to State, 27 February 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 2. [18]Saigon to State, 9 May 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4. [19]Lodge to Bundy, 25 October 1963, FRUS, 1961–1963, vol. 4, 436; Memcon, 11 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 147; Memcon, 12 May 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 151; Newsweek, 7 September 1964; Time, 4 and 11 December 1964. [20]CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E. Critchfield, Long Charade, 62–81; Higgins, Our Vietnam Nightmare, 29; Jean Lacouture, Vietnam: Between Two Truces (New York: Random House, 1966), 222. [21]Saigon to State, 1 June 1963, FRUS, 1961–1963, vol. 3, doc. 142. [22]Washington Post, 2 November 1983. [23]Có báo cáo là ông thậm chí đã nhận từ CIA một khoản tiền nhỏ cho việc cung cấp thông tin, điều này dẫn đến những phỏng đoán ông làm cho Mỹ. Langguth, Our Vietnam, 292. Nhưng nhiều khả năng là Trí Quang làm như vậy để duy trì uy tín của mình với người Mỹ. [24]Saigon to State, 7 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; Time, 14 August 1964; Shaplen, Lost Revolution, 270. [25]William H. Sullivan, Obbligato, 1939–1979: Notes on a Foreign Service Career (New York: Norton, 1984), 207–8; Saigon to State, 15 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 317. [26]New Yorker, 19 September 1964; Saigon to FO, 24 August 1964, Public Record Office [hereafter PRO], FO 371/175472; Saigon to State, 22 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 321; New York Times, 22 August 1964. [27]Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7. [28]Saigon to State, 22 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 321; Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; New Yorker, 19 September 1964; New York Times, 10 September 1964; Lacouture, Vietnam, 211. [29]New York Times, 31 August 1964. [30]State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; Saigon to FO, 25 August 1964, PRO, FO371/175472; Lacouture, Vietnam, 207–8; New York Times, 24, 27 August 1964. [31]Saigon to State, 26 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7. [32]Saigon to State, 23 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360. [33]CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9. [34]Saigon to FO, 24 August 1964, PRO, FO371/175472; Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; CIA, “Situation in Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; SNIE 53–64, 8 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 341; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; New Yorker, 19 September 1964; New York Times, 29 August 1964; Time, 4 September 1964. [35]CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E; Topmiller, The Lotus Unleashed, 8. [36]Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, 355–6; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368; New Yorker, 19 September 1964; Saigon to State, 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 8; Shaplen, Lost Revolution, 279. [37]See Higgins, Our Vietnam Nightmare, 285–6. [38]CIA, “An Analysis of Thich Tri Quang’s Possible Communist Affiliations, Personality and Goals,” 28 August 1964, DDRS, 1976, fiche 22E. See also CIA, “The Situation in South Vietnam,” 27 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7; CIA, “Tri Quang and the Buddhist–Catholic Discord in South Vietnam,” 19 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9. [39]Shaplen, Lost Revolution, 272, 274; State to Saigon, 24 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 323; Lacouture, Vietnam, 135; New York Times, 24 August 1964; Saigon to State, 3 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13. [40]Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 324. [41]Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; CIA, “Details of the 26 and 27 August 1964 Meetings of the Military Revolutionary Council,” 1 September 1964, DDRS, 1977, fiche 278A. [42]Saigon to State, 25 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 325; The Pentagon Papers: The Defense Department, History of Decision making on Vietnam, Senator Gravel edition (Boston: Beacon Press, 1971–1972), vol. 3, doc. 86. [43]New Yorker, 19 September 1964. [44]Saigon to State, 26 August 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7. [45]Saigon to State, 26 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 328; Saigon to State, 27 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 330; Saigon to State, 2 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 336. [46]Saigon to State, 26 August 1964, National Archives II [hereafter NA II], RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2946; Saigon to State, 26 August 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 328. [47]Pentagon Papers, vol. 3, 86; New York Times, 29 August 1964. [48]Saigon to State, 2 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 336; Saigon to State, 4 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 338; CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; Saigon to State, 28 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 365. [49]Westmoreland to Taylor, 6 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 340; Saigon to State, 28 September 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 8; Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, 355–6. [50]New York Times, 3, 10 September 1964.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 20, 2015 7:38:37 GMT 9
Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam(Tiếp theo phần I) Hai tướng chỉnh lý không thành. Nguồn: DCVOnline tổng hợp Những hành động này và các nhân nhượng khác đối với Phật giáo của Tướng Khánh làm gia tăng sự chống đối chính quyền từ phía các tướng lãnh, thường dân Công giáo, cựu đảng viên Cần lao, Đại Việt.[51] Các nhóm này nuối tiếc chế độ Diệm vì đã cầm quyền hiệu quả so với các chính quyền nối tiếp. Ngày 13 tháng Chín, sự thất vọng đó đã bùng nổ thành một cuộc nổi loạn công khai. Vụ lật Khánh này do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Tướng Lâm Văn Phát, và tư lệnh Quân đoàn IV, Tướng Dương Văn Đức. Hai tướng này đã chán ngán sự cai trị yếu kém của Khánh và nhất là sự phục tùng các yêu sách từ phía Phật giáo. Hai tướng này ở trong đám tướng lãnh Khánh vừa quyết định cách chức dưới áp lực của Phật giáo.[52] Lực lượng nổi dậy chiếm trung tâm thành phố mà không cần nổ một phát súng nhưng họ đã không tìm ra Khánh vì ông đã trốn lên Đà Lạt ngay khi nội loạn bắt đầu. Trên đài phát thanh quốc gia, Tướng Phát tuyên bố rằng ông ta đã lật đổ chính quyền và sẽ bắt giữ Khánh.[53] Thành phần lãnh đạo mới sẽ phục hồi tinh thần của Diệm và uy tín của Diệm sẽ là nền tảng cho sức mạnh của chính quyền mới.[54] Tướng Phát đã thảo luận riêng các kế hoạch chính trị với Phó Đại sứ Mỹ U. Alexis Johnson và Tướng William C. Westmoreland, tư lệnh lực lượng quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tuy nhiên, người Mỹ kết luận rằng các lãnh tụ đảo chính đã không chuẩn bị sẵn sằng để thành lập một chính quyền mới. Họ bảo Phát và các cộng sự hãy chấm dứt cuộc nổi loạn và cảnh cáo rằng Mỹ vẫn còn ủng hộ chính quyền đương thời. Thái độ phản đối của người Mỹ đối với cuộc đảo chính này đã khiến các tướng lãnh khác không tham gia, dẫn đến việc sau đó Phát và Đức đầu hàng.[55] Điên đầu vì tình trạng chống đối nhau liên tục trong giới chóp bu Nam Việt Nam, người Mỹ cảnh cáo Khánh, Minh và những nhân vật có máu mặt khác rằng, nếu cứ tiếp tục đấm đá nhau có thể khiến Mỹ chấm dứt việc hỗ trợ Nam Việt Nam và như thế chắc chắn đất nước sẽ sụp đổ. [56] Dẫu vậy, những lời cảnh cáo này vẫn không mấy tác dụng! Sau vụ nổi loạn, Khánh cách chức ba tư lệnh vùng và sáu (trong tổng số chín) sư đoàn trưởng vì đã không hậu thuẫn Khánh trong cuộc đảo chánh.[57] Những dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, thấy những nhượng bộ của Khánh đối với Phật giáo, cho rằng đã đến lúc họ đưa ra những đòi hỏi riêng cho mình. Khánh lại tiếp tục thoả mãn những yêu sách của cả hai nhóm này. Đại sứ Taylor, một lần nữa chứng tỏ sự nắm bắt chính xác về tình hình chính trị Nam Việt Nam, đã nhận định rằng khi nhân nhượng như thế, “Khánh chỉ làm tăng thêm sự yếu kém ngày càng vây bọc ông ta. Khánh dường như chỉ tồn tại bằng cách nhượng bộ liên tiếp mỗi khi có một nhóm gây áp lực ra mặt. Ai cũng nhận thấy rằng tiến trình đó không thể kéo dài mãi mà không làm tiêu tan uy tín của chính quyền. Chúng ta sắp đến giai đoạn đó rồi.”[58] Những hỗn loạn khác tiếp tục xảy ra, đáng kể nhất là cuộc bạo loạn lớn ở Qui Nhơn làm tê liệt chính quyền địa phương một thời gian. Việt cộng càng ngày càng nhúng tay sâu hơn vào các cuộc bạo loạn.[59] Tại những thành phố phía bắc miền Nam Việt Nam, các viên chức chính quyền đã không làm gì để ngăn chặn hay chấm dứt những kẻ bạo loạn, khích động. Họ đã không nhận được chỉ thị nào từ thượng cấp và họ cũng đã thấy kinh nghiệm nhãn tiền là những ai ra tay cưỡng chế sau đó đều bị sa thải theo tố giác của bên Phật giáo. Tình trạng mất tinh thần trở nên lan tràn trong giới công chức tại các thành phố và đô thị, kể cả Sài Gòn.[60] Thượng Hội đồng Quốc gia, vừa được thành lập gồm có những đại diện của những nhóm lớn trong nước, được triệu tập vào khoảng cuối tháng Mười để chọn lãnh đạo mới cho đất nước. Hội đồng đã chọn Phạm Khắc Sửu – một nhân vật đã lớn tuổi làm quốc trưởng, và Sửu cử Trần Văn Hương làm thủ tướng, chức vụ với quyền lực lớn nhất. [61] Hương là một người theo chủ nghĩa quốc gia bướng bỉnh, bảo thủ, ghét cộng sản và đã từ chối phục vụ trong chính quyền Bảo Đại trước đây. Ông ấy là một trong số ít người có bản lĩnh và quyết tâm và chính là người cần thiết lúc ấy để chấm dứt tình trạnh hỗn loạn ở Sài Gòn. Hương chống lại chính sách hoà hoãn của Khánh đối với Phật giáo và dự định thực thi một chính sách tương tự như của Diệm, qua đó trật tự được ổn định cho dù có nghĩa là phải đàn áp sự chống đối của phía Phật giáo. Quốc trưởng Phan Khác Sửu đưng trước Nội các của Thủ tướng Trần Văn Hương (phía sau là các ông Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Xuân Oánh). Saigon, Dinh Gia Long, tháng 10, 1964-tháng 1, 1965. Nguồn: Flickr.com Giống Diệm và khác Khánh, Hương xem Trí Quang là một mối đe doạ không thể cùng tồn tại đối với sự sống còn của đất nước. Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên người Mỹ Marguerite Higgins, Huơng nói về Trí Quang, “Ông ta nói như một người cộng sản. Những điều ông làm có lợi cho cộng sản. Nhưng người Mỹ quí vị muốn chứng cớ tuyệt đối. Và bằng chứng thì không phải là chứng cớ tuyệt đối. Chúng tôi có thể chứng minh là Trí Quang đã họp với cán bộ Việt cộng cao cấp ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Nhưng Thích Trí Quang lại có thể nói rằng ông ta đến đó là để cải giáo những người cộng sản thành Phật tử – và một số người cũng tin ông ta!”[62] Những Phật tử tranh đấu ngay lập tức thử sức Hương. Họ tổ chức biểu tình đấu tố chính quyền và đòi nội các từ chức. Trong một thông báo công khai, họ gọi Hương là “kẻ ngu xuẩn, phản quốc, mập phệ, cứng đầu vô chính sách.” Họ xem chính quyền Hương “không cách mạng” và có chứa tàn dư của chế độ Diệm.” Điều tố cáo này không có cơ sở vì đa số các thành viên nội các được chọn vì đã không tham gia hoạt động chính trị của đảng phái nào. Trí Quang cũng không nêu được một ai khác có thể thay thế Hương. “Chúng tôi không bao giờ ham muốn gì cả, và nói rằng Phật giáo muốn điều này, điều nọ là sai. Chúng tôi không bao giờ bảo trợ một cá nhân nào.”[63] Câu này đã phủ nhận những cáo buộc đối với Diệm, Khánh, Hương, người Công giáo, Đảng Cần lao và Đại Việt, cũng như lời hứa ủng hộ mà Trí Quang đã bán cho Khánh trong tháng Tám. Sự bảo trợ, và chống đối, của Trí Quang đối với cá nhân các chính trị gia sẽ gia tăng ngay trong những tháng sau đó. Cho dù những Phật tử tranh đấu thường dùng ngôn từ mập mờ, chung chung khi bày tỏ sự chống đối Hương, điều làm họ bực nhất là Hương chủ ý tái lập trật tự và từ chối đáp ứng những yêu sách của Phật giáo. Các lãnh tụ Phật tử lên án mạnh mẽ kế hoạch của Hương nhằm hạn chế những cuộc biểu tình, và một số thậm chí còn kêu gọi cắt giảm các hoạt động quân sự.[64] Các lãnh tụ Phật giáo tuyên bố họ thích tình trạng bất ổn định và sự rã đám của chính quyền hơn là một chính quyền có khả năng do Hương lãnh đạo, cho dù điều đó có tiếp tay cho Việt cộng. Một lãnh tụ Phật giáo đã nói, “Chẳng thà chính trị bỏ ngỏ còn hơn là để Hương cầm quyền. Chính quyền này sẽ phải ra đi.”[65] Mặc dù bị áp lực từ phía Phật giáo, Hương nhất định không dung thứ những cuộc biểu tình có hơi hướng bạo loạn, cũng không chịu nhượng bộ. Khi những Phật tử tranh đấu và sinh viên tổ chức biểu tình lớn, Hương ra lệnh cho quân đội giải tán với vòi rồng và lựu đạn cay và binh sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ.[66] Các Phật tử tranh đấu lại cáo buộc các lực lượng an ninh đã làm một số người chết và bị thương trong trong những tuần đầu của nhiệm kỳ của Hương, nhưng thực ra không có ai chết và số bị thương rất thấp so với những lời tố cáo từ phía Phật giáo.[67] Hương cũng áp đặt kiểm duyệt báo chí, đóng cửa 10 tờ báo bị nghi ngờ là cộng tác với cộng sản.[68] Tại một buổi biểu tình chống chính quyền khoảng cuối tháng Mười Một, phía Phật tử tranh đấu gia tăng bạo loạn. Một đám đông gồm nhóm Phật tử tranh đấu và những kẻ phản đối khác ném đá và tấn công cảnh sát bằng gậy gộc. Một vài kẻ ném lựu đạn có sức ép mạnh, loại Việt cộng thường dùng, vì vậy một binh sĩ Nhảy Dù đã bắn súng lục về phía đó. Những loạt đạn này lại làm chết một em trai 15 tuổi. Phía Phật giáo sau đó ra tối hậu thư đòi quân đội và cảnh sát không được đụng đến những kẻ biểu tình và buộc Hương phải từ chức. Hương đáp lại bằng lệnh cấm tụ tập nơi công cộng và đóng cửa một số trường học. Công khai thể hiện mối nghi ngờ có sự đồng loã với cộng sản, Hương tuyên bố trên đài phát thanh rằng bất ổn là do lỗi “của những kẻ vô trách nhiệm, những người đã vô tình hay cố ý theo kế hoạch của cộng sản.”[69] Hương đã thành công trong việc dẹp loạn ở Sài Gòn, nhưng ông đã không đạt đươc tiến bộ trong một số lãnh vực quan trọng. Trước những mưu đồ của phía Phật giáo và sự bất đồng về cách giải quyết đối với những cuộc biểu tình của Phật tử càng làm chia rẽ thành phần lãnh đạo của Nam Việt Nam. Nội các của Hương và các tướng lãnh đã chia thành hai phe, bên theo và bên chống Hương, và những kẻ chống Hương lại hợp tác với Trí Quang. Vì sự thiếu đoàn kết này và những rạn vỡ đã xảy ra trước đó, Hương đã không thể phục hồi cơ cấu hành chính trên cả nước. Như Taylor đã nhận xét trong một báo cáo. “Hậu quả của tình trạng bế tắc chính trị ở Sài Gòn dần dần xuất hiện tại các tỉnh. Nhất là các công chức không biết phải hành động ra sao và do đó thường theo khuynh hướng e dè cố hữu khi không có một tiếng nói mạnh mẽ có thẩm quyền chỉ đạo họ.”[70] Vào đầu tháng Mười hai, sau khi đã tham khảo ý kiến Tổng thống Johnson ở Washington, Đại sứ Taylor thực hiện một chương trình mật để kiềm chế sự chống đối từ Phật giáo. Ông ra lệnh cho các viên chức toà đại sứ Mỹ tìm cách cô lập Trí Quang và Tâm Châu với những Phật tử khác. Tình hình lúc đó thuận lợi cho việc này vì ngày càng có nhiều lãnh tụ Phật tử đã tỉnh ngộ vì Trí Quang chống đối chính quyền dữ dội nhằm phá hoại một chính quyền chẳng có vẻ gì là thiếu bao dung về tôn giáo. Vào cuối năm, Mai Thọ Truyền và hệ phái Phật giáo Miền Nam cắt đứt liên hệ với Trí Quang. Các nỗ lực thống nhất Phật giáo miền Nam với các nhóm chống Trí Quang khác, dẫu vậy, đã không thành công vì sự chia rẽ trong giới Phật tử.[71] Thủ tướng Trần Văn Hương và Đại sứ Mỹ Maxwell Taylor. Nguồn: OntheNet Taylor cũng tìm cách tiết giảm cường độ chống đối của Trí Quang bằng cách tạo áp lực trực tiếp. Các viên chức toà đại sứ thông báo cho Trí Quang và các lãnh tụ Việt Nam khác rằng ý nguyện của Mỹ giúp Việt Nam không thể tiếp tục trừ khi mọi người đoàn kết sau lưng chính quyền Hương. Những lời đe doạ này được đưa ra dựa trên một tiền đề không lấy gì làm chắc chắn, rằng Trí Quang không muốn người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam. Đối với những Phật tử nằm vùng cho Hà Nội, những đe doạ như thế chỉ khuyến khích họ càng chống đối Hương. Cùng lúc đó, cơ quan CIA cũng đang tiếp cận những thuộc cấp của Trí Quang và khuyến khích họ tìm cách tác động khéo léo tới sư thầy. Chiến dịch áp lực này đã không mang lại mấy kết quả. Trí Quang và các lãnh tụ khác tiếp tục công khai chỉ trích chính quyền là chống Phật giáo, và họ đe doạ sẽ lên án cả người Mỹ nếu vẫn tiếp tục ủng hộ Hương.[72] Khủng hoảng chính trị kế tiếp xảy ra vào ngày 19 tháng Mười hai, và một lần nữa lại do tác động và ảnh hưởng của những người Phật tử tranh đấu. Khánh và một nhóm tướng lãnh trẻ, năng động, có biệt hiệu “Nhóm Trẻ Hăng Say – Young Turks” yêu cầu Thượng Hội đồng Quốc gia cho giải ngũ tất cả những sỹ quan quân đội có hơn hai mươi lăm năm binh nghiệp. Cả Khánh và các tướng trẻ này nghĩ rằng các sỹ quan già hơn họ không những chỉ thiếu năng lực mà còn cảm tình quá độ với nhóm Phật giáo tranh đấu. Hội đồng không chấp thuận yêu cầu này dẫn đến việc nhóm tướng trẻ này giải tán Hội đồng và bắt giữ luôn các thành viên.[73] Taylor hết sức giận dữ khi biết cơ sự. Ông ta đã nghĩ rằng các tướng sẽ báo trước về những kế hoạch như thế và ông cũng tin đó là một nước cờ chính trị tệ hại.[74] Taylor nghi ngờ rằng việc làm đó là một phần trong ý đồ của Khánh để lấy lại quyền hành trong chính phủ, cộng với những biến cố trong quá khứ khiến Talyor đi đến kết luận rằng Khánh không có khả năng cầm quyền hiệu quả cũng như chống lại áp lực từ phía Phật giáo.[75] Thực ra Taylor đã suy diễn sai những gì đã xảy ra, bởi vì Hương đã đồng ý với việc giải thể Hội đồng Quốc gia Tối cao, và nhóm tướng trẻ đã ủng hộ việc đó như là một cách để trao thêm quyền cho Hương, không phải cho Khánh. Hương đã liên minh với các tướng để họ giúp ông chống lại Phật tử tranh đấu mà ông coi là vấn đề tệ hại nhất của đất nước.[76] Khi Taylor đề nghị Hương nên từ chối việc giải thể Hội đồng, Hương chỉ gạt đi với nhận xét rằng người Việt “giải quyết vấn đề theo tình hơn là theo lý” và do đó vai trò của Hội đồng ít quan trọng hơn là “uy tín đạo đức của lãnh đạo.”[77] Các cố vấn Mỹ và các sỹ quan tình báo có liên lạc với các tướng lãnh Việt Nam thấy rằng giới lãnh đạo quân đội cũng không nghĩ rằng hành động đó là phi pháp.[78] Quá giận, Talyor mắng mỏ các tướng trẻ. “Các ông đã làm rối tung hết cả rồi!” Talyor bảo họ. “Chúng tôi không thể bao che mãi nếu các ông cứ vẽ sự như thế.” Nguyễn Cao Kỳ, tư lệnh Không quân Nam Việt Nam, trả lời rằng cần phải có thay đổi bởi vì “tình hình chính trị còn tệ hại hơn thời Diệm.” Kỳ giải thích là Hội đồng cần được giải thể vì nhu cầu thực tế. Kỳ khẳng định “Chúng tôi biết rằng quý ông muốn ổn định, nhưng có đoàn kết mới ổn định được.” Một số thành viên Hội đồng đã loan truyền tin đồn đảo chánh và tạo nghi kỵ. Các lãnh đạo quân sự cũng như dân sự đều đồng ý rằng sự hiện diện của các thành viên này trong Hội đồng đã gây chia rẽ trong quân đội vì ảnh hưởng của ho.[79] Trong một quốc gia mà tình trạng phe phái đang làm hỏng mọi việc và nơi mà sự phân chia quyền lực gây cảm giác bất ổn theo lối nghĩ của người dân vốn nặng tư tưởng Khổng giáo, thì việc giải thể Hội đồng, thực chất, có thể cải thiện được hoạt động của chính quyền. Trong một cuộc họp riêng với Khánh, Taylor chỉ trích nặng nề việc giải thể Thượng Hội đồng và cho rằng điều đó không phù hợp với điều người Mỹ mong muốn là ổn định và lòng trung nghĩa từ phía chính quyền Nam Việt Nam. Khánh trả lời rằng cần phải có lòng trung nghĩa từ cả hai phía trong một mối quan hệ, và khẳng định rằng đất nước này không phải là chư hầu của Mỹ. Khánh gợi lại có lần Diệm nói rằng Mỹ đã không trung nghĩa với ông. Taylor buột miệng nói rằng không còn tin tưởng Khánh nữa. Khánh trả đũa lại rằng một đại sứ không nên hành xử như thế.[80] Sau buổi họp căng thẳng này, Khánh khởi động một chiến dịch tuyên truyền chống Mỹ mạnh mẽ. Trên đài phát thanh Việt Nam, Khánh tuyên bố rằng “thà sống nghèo mà hãnh diện là công dân tự do của một nước độc lập hơn là xa hoa mà ô nhục như kẻ nô lệ của ngoại bang và cộng sản.”[81] Khánh nói với một nhà báo Mỹ rằng, “Nếu Taylor không hành xử thông minh hơn, Đông Nam Á sẽ mất.” Để thành công ở Việt Nam, người Mỹ cần “thực tế” hơn và chấm dứt việc biến Nam Việt Nam thành một bản sao của Mỹ, điều trách móc này hoàn toàn chính đáng vì Taylor cứ khăng khăng yêu cầu giữ nguyên Thượng Hội đồng Quốc gia.[82] Hương đã không có thái độ cứng rắn đối với hành động của các tướng lãnh, rốt cục đã thuyết phục người Mỹ phải hàn gắn quan hệ với các lãnh đạo Nam Việt Nam. Khánh có vẻ hài lòng. Ngày 6 tháng Một, quân đội chính thức trao chính quyền lại cho một chính phủ dân sự do Hương lãnh đạo.[83] Tuy nhiên Khánh và một số thuộc hạ trong quân đội ngay lập tức nhập bọn với Trí Quang trong âm mưu lật đổ chính quyền mới.[84] Các lãnh tụ Phật tử và sinh viên tổ chức đình công và biểu tình và chỉ trích Hương. Một uỷ ban liên tôn thuyết phục các Phật tử tranh đấu hãy giải quyết các khiếu tố với đại diện của Hương thay vì biểu tình phản đối nhưng đều vô hiệu. Trong một buổi gặp Đại sứ Taylor, Trí Quang nhất định đòi Mỹ phải buộc Hương từ chức. Taylor trả lời nhân dân Việt Nam cần ủng hộ Hương để có chính quyền ổn định. Phấn khởi trước những thành công ban đầu của Hương trong việc dẹp bỏ những bạo loạn từ phía Phật giáo tranh đấu, người Mỹ xem Hương là một nhà lãnh đạo giỏi hơn Khánh. Ngoài ra, các viên chức toà đại sứ Mỹ đã trở nên chán Trí Quang hơn bao giờ hết vì những cáo buộc vô căn cứ đối với chính quyền và lại không đưa ra được chính kiến xây dựng nào.[85] Sau một buổi họp với Trí Quang, Taylor than phiền, “Rốt cục vẫn là nhai đi nhắc lại những khiếu tố chỉ lọt tai những chức sắc Viện Hoá đạo.”[86] Khi Trí Quang cáo buộc là cảnh sát đã bắn chết bốn người và làm bị thương 30 người đang trên đường đi lễ chùa, người Mỹ điều tra sự việc và khám phá ra rằng không có ai bị giết, chỉ có bốn người bị thương, rằng sự việc đã được khích động bởi một kẻ gây rối đã được nhận diện, và không có lực lượng quân đội nào tìm cách đàn áp biểu tình.[87] Chính Khánh đã phải nhìn nhận với Alexis Johnson rằng những khiếu nại của phía Phật tử đối với chính quyền Hương là “không có cơ sở,” bởi vì những hành động bách hại là “không có thực.”[88] Quân nhân và dân chúng chào đón Thượng tọa Thích Trí Quang đến Đà Nẵng để yêu cầu phật tử ngưng biểu tình chống chính phủ. Hình: UPI/Vo Thanh Son Các viên chức toà đại sứ cũng có nhận xét về những thất bại của Phật tử tranh đấu trong việc vận động dân chúng tham gia biểu tình. Người Mỹ kết luận rằng những thất bại này cho thấy đám Phật tử tranh đấu không thực sự đại diện cho quần chúng Phật tử.[89] Người Mỹ quyết định rằng chính quyền Sài Gòn sớm muộn cũng phải đối đầu với Viện Hoá đạo của Trí Quang, nên làm càng sớm càng tốt bởi vì chuyện đó sẽ khó hơn sau mỗi thành công của phe tranh đấu. Những nhận định gay gắt về phong trào Phật giáo tranh đấu đã được phụ hoạ bởi một số nguồn thông tin phương Tây, kể cả những tổ chức báo chí trước đây đã ủng hộ Trí Quang năm 1963. Peter Grose của tờ New York Times tường trình, “Các quan sát viên Việt Nam và ngoại quốc đồng ý rằng chính sách của Phật giáo không phải là một chính sách xuất phát từ tâm tư tín ngưỡng của tín đồ, mà đúng hơn là nỗ lực của các sư để thâu tóm quyền lực chính trị thế sự.” Các lãnh tụ Phật tử không còn khả năng tổ chức biểu tình rất đông người, nhà báo này nhận xét, và “những cuộc biểu tình công cộng, nay càng có tính chính trị, càng trở nên hỗn loạn, không còn theo đúng tinh thần hiền hoà của Phật giáo.”[90] Tạp chí Newsweek nhận xét rằng Trí Quang và các đồng sự “chỉ đại diện cho một thiểu số nhỏ Phật tử Việt Nam.” Ngoại trừ ở các đô thị, các Phật tử tranh đấu “ít được biết đến và nhiều Phật tử ở nông thôn nếu biết về họ cũng không chấp thuận việc lũng đoạn lòng mộ đạo vì mục đích chính trị.”[91] (Còn phần Kết) Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh họa [51]CIA, “Situation in South Vietnam,” 1 September 1964, DDRS, 1979, fiche 20C; Harris, “Government of Vietnam,” 2 September 1964, NA II, RG 319, Westmoreland Personal Papers, box 39. [52]William C. Westmoreland, A Soldier Reports (Garden City: Doubleday, 1976), 72– 3; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; Saigon to State, 14 September 1964, DDRS, 1979, fiche 94F. [53]Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360. [54]Nguyen Cao Ky, Twenty Years and Twenty Days (New York: Stein and Day, 1976), 49–50. [55]Saigon to State, 13 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 348; Saigon to State, 14 September 1964, DDRS, 1979, fiche 94F; U. Alexis Johnson, The Right Hand of Power (Englewood Cliffs, N. J.: Prentice-Hall, 1984), 414–5; Westmoreland to Wheeler, n.d., FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 351; Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 360; Westmoreland, A Soldier Reports, 72–3. [56]Saigon to State, 14 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 352. [57]Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122. [58]Saigon to State, 24 September 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 359. [59]SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368. [60]Saigon to State, 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 8. See also CIA, “Deterioration in South Vietnam,” 28 September 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9; SNIE 53-2-64, 1 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 368. [61]Taylor to Johnson, 28 October 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 389; Maxwell Taylor, Swords and Plowshares (New York: Norton, 1972), 322–3; Saigon to State, 4 November 1964, DDRS, 1985, fiche 122. [62]Higgins, Our Vietnam Nightmare, 261. [63]Lacouture, Vietnam, 215–6. Saigon to State, 6 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 404; Washington Post, 23 November 1964; Time, 4 and 11 December 1964; Saigon to State, 4 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10. [64]Lacouture, Vietnam, 212–13. [65]Time, 4 December 1964. [66]Taylor to Johnson, 17 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 413; Washington Post, 23 November 1964; New York Times, 23 and 25 November 1964; Time, 4 December 1964; Dommen, The Indochinese Experience of the French and the Americans, 628. [67]Taylor to Johnson, 24 November 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 421. Các Phật tử tranh đấu đã thổi phồng quá mức quy mô chính phủ sử dụng bạo lực trong những tháng cuối của chính thể Diệm. [68]Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448. [69]Time, 4 December 1964. [70]NSC working group, ‘Intelligence Assessment,’ 24 November 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 45; Pentagon Papers, vol. 2, 342; Saigon to State, 6 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 14. [71]Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 444; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; Saigon to State, memcon, 18 December 1964, LBJL,NSF, VNCF, box 11; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29. [72]CIA, “Buddhist Plans,” 3 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 10; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; Saigon to State, 16 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 448; New York Times, 11 December 1964; Cooper to Bundy, “Stability of South Vietnam’s Government, Report No. 1,” 10 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 444; Taylor to Johnson, 16 December 1964, DDRS, 1988, fiche 55. [73]CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C; Ky, Twenty Years and Twenty Days, 52; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Historical Division of the Joint Secretariat, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam (Washington, DC: Joint History Office, 1970), chap. 15, 5; Johnson, Right Hand of Power, 417. [74]Westmoreland, A Soldier Reports, 93; Michael Charlton and Anthony Moncrieff, Many Reasons Why: The American Involvement in Vietnam (New York: Hill &Wang, 1978). [75]Saigon to State, 20 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 452; memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454. [76]Taylor to Johnson, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 461. [77]Newsweek, 18 January 1965. [78]Saigon to State, 23 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 460; Saigon to State, 24 December 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 11; CIA Watch Office to State, 25 December 1964, DDRS, 1979, fiche 132C. [79]Airgram A-493, 24 December 1964, DDRS, 1978, fiche 433D. [80]Memcon, 21 December 1964, FRUS, 1964–1968, vol. 1, doc. 454; Saigon to State, 21 December 1964, DDRS, 1979, fiche 206D. [81]Saigon to State, 22 December 1964, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2949. [82]William M. Hammond, Public Affairs: The Military and the Media, 1962–1968 (Washington, DC: Center of Military History, 1988), 119; The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, chap. 15, 8. [83]Shaplen, The Lost Revolution, 297–8; Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29. [84]CIA, “Thich Tri Quang’s Campaign to Bring Down the Tran Van Huong Government,” 21 January 1965, DDRS, 1976, fiche 24E. [85]Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 3 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 59; Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39. [86]Saigon to State, 20 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 29. [87]Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12. [88]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12. [89]Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Saigon to State, 11 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 105. [90]New York Times, 23 January 1965. [91]Newsweek, 8 February 1965. Nguồn: Modern Asian Studies 38, 4 (2004) pp. 749–784. Cambridge University Press, 2004
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 20, 2015 7:48:52 GMT 9
Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam(Tiếp theo phần II) Thượng tọa Thích Huyền Quang tại Lễ khai mạc Đại hội Phật Giáo Thống Nhất. Ngồi hàng đầu là ĐT Dương Văn Minh và ĐS Mỹ Henry Cabot Lodge, 1964. Nguồn: thuvienhoasen.org Các viên chức toà đại sứ Mỹ tiếp tục tin rằng hầu hết các lãnh đạo Phật giáo cao nhất vẫn chống cộng, nhưng ngày càng nhiều người trong số họ nghĩ rằng ít nhất thì Trí Quang cũng đang cộng tác với cộng sản. Các chuyên gia ở toà đại sứ đồng ý rằng các lãnh đạo Phật giáo thấp hơn, nhất là những người thân thiết với Trí Quang, là đồng hội đồng thuyền với Việt cộng. Nổi bật nhất trong đám này là Thích Huyền Quang, Tổng Thư ký Viện Hoá đạo và là bạn thân của Trí Quang. Nhiều người cả trong lẫn ngoài phong trào Phật giáo tranh đấu đã tố cáo ông này là có cảm tình với cộng sản. Phụ tá của Huyền Quang là Trần Đính cũng đã bị nhận diện như thế.[92] Thật vậy, vào lúc đó cộng sản đang gia tăng các nỗ lực xâm nhập các tổ chức chống đối. Một lãnh đạo Việt cộng sau này đã tiết lộ rằng cộng sản đã đưa ra những kế hoạch mới, dùng những tổ chức được coi là phi cộng sản để tuyên truyền chống Mỹ và chính quyền. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, mạng lưới cộng sản bí mật trong các đô thị đã lên cao chưa từng có. Trong một nghị quyết vào tháng Ba năm 1965, uỷ ban tuyên bố, “Phong trào đô thị đã tăng trưởng mạnh ở tất cả các đô thị lớn và hấu hết các thành phố nhỏ.”[93] Ngày 18 tháng Một, khác với lập trường cứng rắn mọi khi, Hương tìm cách xoa dịu phía Phật giáo bằng cách sa thải hai bộ trưởng bị nhóm Phật giáo tranh đấu chỉ trích trước đó.[94] Nhưng cử chỉ nhân nhượng này cũng không mang lại cho Hương điều gì tốt đẹp hơn so với Diệm hoặc Khánh. Tại một buổi họp báo hai ngày sau đó, Trí Quang và một số thuộc hạ tuyên bố họ sẽ bắt đầu một cuộc tuyệt thực cho đến khi Hương từ chức.[95] Thiện Minh, đồng chí thân cận nhất của Trí Quang trong phong trào, phụ hoạ thêm rằng nếu Hương không bị loại bỏ, Phật giáo sẽ bắt đầu “kêu gọi hoà bình.”[96] Đối với dân chúng Nam Việt Nam, hành động kêu gọi hoà bình công khai được hiểu là tấn công chính quyền Sài Gòn vì đó là cách cộng sản thường tuyên truyền để làm suy yếu quyết tâm tiếp tục cuộc chiến của chính phủ Nam Việt Nam. Vì Hà Nội mạnh hơn về quân sự, một sự dàn xếp hoà bình hiển nhiên sẽ có lợi cho Hà Nội và có thể sẽ liên quan đến việc người Mỹ rút quân. Trí Quang hứa rằng lãnh đạo Phật giáo sẽ không tổ chức biểu tình cho đến sau Tết, và Tâm Châu cũng hứa là không có biểu tình trong thời gian tuyệt thực.[97] Vẫn theo thông lệ, các Phật tử tranh đấu đã nhanh chóng nuốt lời hứa. Dưới sự lãnh đạo của Trí Quang và Tâm Châu, Phật tử khởi xướng một chiến dịch phản đối bài Mỹ một cách điên cuồng vào ngày 23 tháng Một. Các tuyên cáo của họ cũng lộng ngôn như những lần trước. Ở Sài Gòn, Phật tử và sinh viên biểu tình với số khá đông trước toà đại sứ Mỹ và tại thư viện Abraham Lincoln thuộc Phòng Thông tin Hoa Kỳ. Những người biểu tình tố cáo chính quyền đàn áp Phật giáo, chế diễu Hương là “tay sai” của Talyor và đòi Talylor phải rời Việt Nam. Các tăng ni mang những biểu ngữ đòi hoà bình. Sau khi đám biểu tình đập cửa và ném đá tấn công cảnh sát dã chiến, Hương điều lính dù đến giải tán bằng lựu đạn cay và dùi cui. Ở Huế, 5.000 người biểu tình đập phá thư viện hai tầng của Phòng Thông tin Văn hoá Hoa Kỳ, sau đó đốt 8.000 quyển sách. Cộng sự của Trí Quang là Huyền Quang ra một thông cáo cho rằng, “chính sách của đại sứ Mỹ và Hương, tay sai của đại sứ Mỹ, là ép các lãnh đạo Phật giáo đến chết và tiêu diệt Phật giáo Việt Nam.” Ở Đà Nẵng, Quảng Trị, và Nha Trang, Phật tử tranh đấu vận động các hàng quán không phục vụ người Mỹ. Nghe theo lời kêu gọi tử vì đạo của các lãnh tụ Phật giáo, một ni cô tự thiêu ở Nha Trang và một nhà sư tự chém huỷ mình trong một cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Những tên côn đồ đội lốt Phật tử đốt cháy một người Công giáo tại Sài Gòn.[98] Thượng tọa Thích Thiện Minh (1921-1978): “…nếu Hương không bị loại bỏ, Phật giáo sẽ bắt đầu “kêu gọi hoà bình””. Nguồn: ONtheNet Ở các tỉnh phía bắc, Khánh và đồng loã chính là Tướng Nguyễn Chánh Thi, đã không làm gì để kiểm soát đám đông và bảo vệ tài sản của Việt Nam và Mỹ. Họ cho rằng hỗn loạn sẽ làm sụp đổ chính quyền Hương và họ sẽ nắm quyền.[99] Khi những cuộc bạo loạn đang tiếp diễn, Khánh lại đi dàn xếp với các lãnh tụ Phật giáo. Quân đội sẽ nắm chính quyền, loại bỏ Hương, tôn trọng “tự do tôn giáo” và thanh trừng những kẻ thân Diệm mà những đợt trước chưa loại bỏ hết. Để đáp lại, Phật giáo sẽ ủng hộ chính quyền mới ít nhất trong hai năm, và sẽ đưa Trí Quang, Tâm Châu và Hộ Giác ra ngoại quốc. [100] Khi Alexis Johnson biết được kế hoạch này, ông cảnh cáo Khánh rằng Mỹ muốn quân đội ủng hộ chính quyền Hương. Khánh chỉ lờ đi. Sáng ngày 27 tháng Một, Khánh cầm đầu một cuộc lật đổ không bạo loạn với sự ủng hộ của Tướng Thi và Tư lệnh Không quân Kỳ. Khánh thuyết phục Hội đồng Quân lực để Khánh nắm chính quyền, với lời đảm bảo sẽ rời bỏ chính trường khi một Hội đồng cố vấn 20 người chọn được một quốc trưởng dân sự. Tuy nhiên, một số sỹ quan cấp cao chấp nhận sự sắp xếp này vì họ nghĩ là nó sẽ phản tác dụng, dẫn đến việc loại bỏ Khánh và dẹp loạn Phật tử tranh đấu.[101] Ngay từ ngày đầu của cuộc đảo chính, Trí Quang đã âm mưu tìm cách hất cẳng Khánh và chiều hôm sau ông ta bắt đầu nỗ lực đó.[102] Bước đầu tiên là ông ta thông báo cho các tướng rằng Phật giáo sẽ không thực hiện các lời hứa là không dính đến chính trị, ủng hộ chính quyền, và ba sư đi ngoại quốc. Các lời hứa này không còn giá trị vì, theo các Phật tử tranh đấu, quân đội đã hứa lật đổ chính quyền vào ngày 25 hoặc 26 mà vẫn chưa thực hiện khi đã sang ngày 27 tháng Một. Ngoài tính lố bịch, lập luận này còn đầy trí trá vì Trí Quang đã biết trước là cuộc lật đổ sẽ không xảy ra cho đến ngày 27 tháng Một.[103] Hành động lật lọng này là một trong những điều tồi tệ nhất mà phía Phật tử tranh đấu đã làm cho đến lúc đó, và nó củng cố quan điểm của những kẻ dèm pha rằng các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu là những kẻ dối trá chỉ muốn huỷ hoại chính quyền hơn là tiêu diệt Việt cộng. Việc chối bỏ những hứa hẹn làm một số tướng lãnh giận điên; một người đã nói với người Mỹ rằng nếu Khánh không đối mặt với Viện Hoá đạo ngay lúc này, “mạng sống ông ta sẽ bị đe doạ.”[104] British PATHÉ, Unrest South Vietnam Khánh đã không đối đầu với phía Phật giáo, thay vào đó lại nhượng bộ các đòi hỏi trong khi tìm cách bám lấy quyền lực. Khánh thuyên chuyển tướng Phạm Văn Đổng là tổng trấn vùng thủ đô đi làm tư lệnh Quân đoàn II, như thế đẩy ông này xa rời trung tâm quyền lực và không còn ảnh hưởng gì đến chính trị. Phạm Văn Đổng đã làm Phật tử tranh đấu khó chịu vì ông đã hoàn thành nhiệm vụ dẹp bỏ các cuộc bạo loạn và biểu tình tại Sài Gòn.[105] Một lần nữa, phía Phật giáo chẳng làm gì để đáp lại lòng tốt của Khánh. Họ muốn chính Phật giáo là kẻ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo kế tiếp, và kẻ đó không phải Khánh. Chức vụ cao nhất về tay Bác sĩ Phan Huy Quát, người mà Trí Quang hằng vận động trước đây. Nhiều quan sát viên nghĩ rằng Quát hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Trí Quang. Phần lớn các quan chức khác trong chính quyền cũng là đồng minh của Trí Quang và chống “chủ nghĩa Diệm”, theo ngôn từ của Phật tử tranh đấu, có nghĩa là chống cộng mãnh liệt và không dung túng những hành động phá hoại của phong trào Phật giáo. [106] Vào ngày 19 tháng Hai, chỉ ba ngày sau khi chính quyền mới lên nắm quyền, một cuộc đảo chính lại xảy ra do Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu.[107] Quân đảo chính chiếm đài phát thanh Sài Gòn và phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Khánh lại một lần nữa chạy thoát ra Vũng Tàu. Hầu hết các đơn vị trong vùng phụ cận Sài Gòn án binh bất động, không theo phe nào trong cuộc tranh chấp này.[108] Cũng như đã xảy ra trong cuộc lật đổ ngày 19 tháng Chín, những kẻ cầm đầu tuyên bố cảm phục Diệm và họ muốn có chính phủ gần giống chế độ của Diệm. Trên đài phát thanh, phe đảo chính tuyên bố, “Lodge đã sai khi khuyến khích đảo chính lật đổ Diệm thay vì chấn chỉnh ý đồ lầm lạc này.” Phát và Thảo báo riêng cho Kỳ biết là họ và cộng sự sẽ chấm dứt đảo chính nếu Khánh bị loại bỏ. Ba người này thoả thuận dàn xếp để sau đó quân đảo chính giải tán nhanh tránh sự cố. Hội đồng Quân Lực ra lệnh cho Khánh rời Việt Nam ngay. Sau một nỗ lực không thành để vận động ủng hộ từ các viên chức địa phương, Khánh đồng ý từ chức và đi ngoại quốc.[109] Khi chính quyền Quát bắt đầu hoạt động, một loạt biện pháp được lòng Trí Quang được thực hiện. Tất cả mọi người bị bắt trước đây trong những cuộc biểu tình chống Hương đều được thả, trong đó một số là cộng sản. Để thoả mãn Trí Quang và ngăn ngừa nội loạn tiếp diễn, Quát và các tướng lĩnh thân cận cho tiến hành một đợt thanh trừng mới. Trong số những nạn nhân có Tướng Phạm Văn Đổng, Đại tá Trần Thanh Bền, Tướng Trần Văn Minh, Đô đốc Chung Tấn Cang, và Tướng Đặng Văn Quang – những người có năng lực nhưng bị Trí Quang chống đối vì họ đã đàn áp biểu tình của Phật tử hoặc đã can thiệp vào kế hoạch của ông. Quát và đồng minh của mình phân tán quyền lực trong quân đội nhằm ngăn chặn việc một sĩ quan nào đó thâu tóm quá nhiều quyền hành.[110] Vì những cuộc thanh trừng này, lãnh đạo quân đội trở nên manh mún và nhờ Phật giáo ủng hộ, chính quyền Quát ít bị chống đối hơn so với các chính quyền trước. Vào đầu tháng Tư, CIA đã có thể báo cáo rằng, “Đây là lần đầu tiên sau khi lật đổ chế độ Diệm, tình trạng xuống dốc không phanh của tình hình chính trị có vẻ đã bị chặn đứng.” Tuy nhiên, sự ổn định này đã phải trả giá đắt. Những cuộc thanh trừng của chính quyền và nhượng bộ Phật giáo đã làm yếu kém trầm trọng tình trạng lãnh đạo trong quân đội. Không có lúc nào trong lịch sử 21 năm mà quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu tệ hại như trong thời Quát. Vào ngày 26 tháng Ba tướng Westmoreland nhận định rằng quân lực Nam Việt Nam đã “bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, và không còn hệ thống chỉ huy kiến hiệu. Quân lực được điều hành bởi các uỷ ban và chính các uỷ ban cũng là những đấu trường đầy âm mưu và tham vọng cá nhân.” [111] Thành tích nghèo nàn của chính quyền Quát chứng minh một sự thực thể hiện rõ ràng trong thời Khánh là một chính quyền bị Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu lũng đoạn sẽ không đủ năng lực và ý chí để duy trì cuộc chiến. Trong khi Trí Quang và các lãnh đạo của Viện Hoá đạo bày tỏ sự chấp thuận chính quyền của Quát và hạn chế việc gây rối, họ vẫn không chừa các màn phá phách khác. Quảng Liên và năm ba lãnh đạo Phật tử từ Viện Hoá đạo công bố một kế hoạch hoà bình có liên quan đến việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Các chức sắc cao cấp tại Viện Hoá đạo, kể cả Trí Quang, nói với các viên chức toà đại sứ Mỹ rằng họ không đồng ý với Quảng Liên. Tuy vậy, trước những cử toạ khác, họ lại tán thành lập trường của Quảng Liên. Trí Quang nói với tờ Hongkong Standard rằng Hà Nội và Washington nên “bắt đầu thảo luận ngay” để mang lại hoà bình, vì, “chúng tôi đã chịu khổ nhiều rồi, cả về nhân mạng cũng như vật chất.”[112] Khi người Mỹ đến tìm hiểu về bài phỏng vấn này, Trí Quang lại giở chiến thuật thường ngày là nói với người Mỹ rằng ông ta tán thành chính sách của Mỹ. Ông tuyên bố là ông không thực sự ngụ ý là Mỹ phải đàm phán ngay, và rằng thật ra, ông nghĩ là người Mỹ nên trì hoãn đàm phán cho đến khi tình hình quân sự đã được cải thiện.”[113] Vài tuần sau đó, Trí Quang khuyên Taylor nên bỏ bom Bắc Việt.[114] Trong trường hợp này, có những bằng chứng trực tiếp là lời khuyên này chỉ để duy trì thiện cảm của Mỹ để nhóm Phật tử tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động khuynh đảo chính quyền. Robert Thompson, một chuyên viên lừng danh của Anh về chống phiến loạn ở Mã lai và sau đó là cố vấn cao cấp cho chính quyền Nam Việt Nam, nhớ lại rằng sau khi có lời khuyên này với Taylor, Trí Quang “đến gặp ngay người Pháp để giải thích rằng ông ta chỉ tìm cách giải toả những nghi kỵ của Taylor nhằm rảnh tay thúc đẩy kế hoạch bí mật vì hoà bình dù với bất cứ giá nào.”[115] Điều làm người ta nghi ngờ hơn nữa về tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng của người Mỹ là một bức thư nhà sư này gửi cho người Mỹ giữa tháng Năm. Trong lá thư, Trí Quang miêu tả người Mỹ như là kẻ gây đau khổ cho Nam Việt Nam chứ không phải là kẻ cứu giúp. Ông ta cáo buộc rằng trong khi người Mỹ “tin tưởng và ngầm chiếu cố người Công giáo một cách thiên kiến,” họ lại “lo lắng và e dè đối với Phật giáo giống như kẻ cai trị đối với dân bản xứ.” Dân chúng Việt Nam nghĩ rằng người Mỹ dùng “người Công giáo để tiêu diệt Phật giáo” và họ “tin chắc rằng tất cả các sự đàn áp đều có sự dàn xếp và đồng ý của người Mỹ.” Người Mỹ sẽ thua, Trí Quang cảnh cáo, trừ khi họ chấm dứt việc thiên vị Công giáo.[116] Những cáo buộc này phi lý, không phải chỉ vì không ai tìm cách tiêu diệt Phật giáo, mà cũng vì cả người Mỹ lẫn chính quyền Nam Việt Nam đều không làm gì ưu đãi Công giáo hơn Phật giáo. Thủ tướng Phan Huy Quát, 1965. Nguồn: LIFE Magazine Trong thời Quát, nhiều nhóm mới đòi hoà bình hay trung lập mọc lên ở Nam Việt Nam, và những màn tuyên tuyền gia tăng mạnh. Ngạc nhiên thay, Quát lại lớn tiếng chống những nhóm này. Ông ta tuyên bố, sẽ không có hoà bình hay trung lập cho đến khi miền Bắc chấm dứt việc đưa người và vũ khí vào Nam. Ông tuyên bố rằng chính quyền sẽ dùng “mọi biện pháp để đập tan những thủ đoạn tuyên truyền lừa đảo của cộng sản nhằm đánh lừa công luận, gây rối loạn trong dân chúng, lợi dụng sự cả tin … và tiến hành những thủ đoạn chính trị thậm tệ để thống trị toàn cõi Việt Nam.” Quát sa thải 300 công chức đã ký kiến nghị đòi hỏi đàm phán chấm dứt chiến tranh, Tuy nhiên, Quát đã không đụng đến một ai trong Viện Hoá đạo vận động cho hoà bình hoặc trung lập. Quát thuyết phục Quảng Liên rút lại chương trình trung lập hoá nhưng với cái giá là phải thả tất cả các lãnh đạo phong trào hoà bình có liên hệ với phía Phật giáo.[117] Một khủng hoảng chính trị lại xảy ra ở Sài Gòn vào cuối tháng Năm năm 1965 khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ngăn chặn kế hoạch của Thủ Tướng Quát thay thế hai bộ trưởng mà cả Quát và người Mỹ đều cho là thiếu khả năng.[118] Sửu làm vậy vì được sự khuyến khích của nhóm chính trị gia Miền Nam và các lãnh đạo Công giáo vì họ không bằng lòng với sự thiên vị nhóm Phật giáo tranh đấu của Quát.[119] Khi khủng hoảng tiếp diễn, Trí Quang bắt đầu rút lập trường ủng hộ Quát, vì Quát đã có thái độ độc lập làm Trí Quang khó chịu. Trong một lần nói chuyện với lãnh sự Mỹ tại Huế, Trí Quang nói là nếu Quát không giải quyết được khủng hoảng hiện thời mà không phải nhượng bộ phía chống đối thì quân đội nên thế chỗ Quát. Rõ ràng Trí Quang lo Quát sẽ nhân nhượng quá độ đối với phía Công giáo và những phe mà Trí Quang không chấp nhận, và rằng Quát sẽ có biện pháp chống lại những kẻ hô hào trung lập. Nếu cần thay Quát, Trí Quang nói rằng vị thủ tướng mới “phải là người có tín ngưỡng.” Người duy nhất mà Trí Quang đề cập là Tướng Thi. “Thi là một Phật tử trên danh nghĩa,” Trí Quang nói, “nhưng ông ta không quan tâm đến tôn giáo,” một nhận định đáng ngờ vì Thi đã liên tục cộng tác với phe Phật tử tranh đấu.[120] Ngày 9 tháng Sáu, Quát thỉnh cầu các tướng lãnh hoà giải mối bất hoà.[121] Trong một buổi họp với Quát, các tướng đã bộc lộ sự chán ngán về tình trạng bất lực của các chính quyền dân sự. Họ cũng bực bội vì những thanh trừng trong quân đội Nam Việt Nam trong thời Quát, và vì những trận thất bại lớn trong mấy tuần vừa qua. Mất nhuệ khí khi bị các tướng lãnh chỉ trích, Quát đồng ý từ chức và trao quyền lại cho quân đội.[122] Mọi việc tiến triển như Trí Quang dự liệu cho đến khi lãnh đạo mới được chọn. Các chức vụ cao nhất đã không vào tay Tướng Thi nhưng lại về tay Tướng Kỳ, người trở thành thủ tướng và chủ tịch hành pháp, và Tướng Thiệu chủ tịch uỷ ban lãnh đạo. Các tướng lãnh rõ ràng muốn chấm dứt tình trạng Trí Quang lũng đoạn chính quyền và vì Kỳ và Thiệu quan tâm đến việc chiến đấu chống cộng hơn là thoả hiệp với Phật giáo tranh đấu. Thái độ này được bộc lộ rất nhanh, khi Kỳ, Thiệu và các tướng quyết định rằng chính quyền mới sẽ bắt đầu bằng “tuần lễ nín thở.” Các hoạt động trong tuần đó gồm việc áp đặt kiểm duyệt, đóng cửa nhiều tờ báo, và đình chỉ các tự do dân sự. Mục tiêu kế tiếp là chuyển giao những tranh cãi chính trị của các chính khách Sài Gòn về một “biệt thự nhiều cổ thụ,” nơi họ có thể “thảo luận và soạn thảo các chương trình ủng hộ chính quyền.” Về vấn đề chống đối từ các nhóm tôn giáo và chính trị, họ quyết tâm “lờ đi với quy định rằng kẻ làm loạn sẽ bị bắn.” Các tướng cũng đưa ra các biện pháp để tổ chức dân chúng thành các lực lượng bán quân sự. Tiếp sức cho chính quyền dân sự bằng sự xốc vác và quyết đoán, các tướng lãnh đạo đã không chần chừ thực hiện ngay các kế hoạch này.[123] Trí Quang hẳn đã không phản đối mạnh việc chỉ định Kỳ và Thiệu và tin rằng ông ta có thể khuynh đảo họ cũng như với Khánh. Lúc đầu, Trí Quang tuyên bố ủng hộ chính quyền mới. Tuy nhiên, chỉ trong một tháng, khi chính quyền mới cho thấy những dấu hiệu đầy triển vọng, Trí Quang lại đòi loại bỏ. Ông tố cáo Thiệu là dư Đảng Cần lao – cho dù Thiệu đã đóng vai trò quan trọng khi lật đổ Diệm – và còn buộc Thiệu là có “khuynh hướng phát xít.” Trí Quang cáo buộc rằng “những dư Đảng Cần lao chung quanh Kỳ đã phá hoại các chương trình của Kỳ.” Cũng như trước, những cáo buộc chung chung của Trí Quang vượt quá xa những điều cụ thể. Khi bị yêu cầu đưa ra ví dụ về việc phá sản chương trình của Kỳ, Trí Quang chỉ cóthể đưa ra câu trả lời kỳ quái như: “Quyết định của Kỳ bắn tất cả những kẻ đầu cơ, đơn giản là biện pháp đó không thể thực hiện được.”[124] Tù trái: Đại sứ Mỹ, Cabot Lodge, Bộ trưởng QP Mỹ McManara, CT Ủy ban Lãnh đạo QG, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, CT Ủy ban Hành pháp Trung ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. (Saigon, 16 tháng 7, 1965). Image by © Bettmann/CORBIS Trí Quang tiếp tục đưa ra những cáo buộc chính quyền vô căn cứ và những yêu sách không thể thoả mãn nổi – hai điều này cộng lại thành vũ khí chủ yếu của ông ta làm suy yếu chính quyền – cho đến cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966. Khi cuộc khủng hoảng này bùng nổ, các Phật tử nổi loạn gây rắc rối nhiều đến nỗi chính quyền phải dùng quân đội để dẹp bằng bạo lực, một lần cho xong. Kỳ đày Trí Quang về một tịnh thất miền núi. Chính quyền cuối cùng đã trực diện đối đầu Phật tử tranh đấu và đạt kết quả tốt. Sẽ không bao giờ còn chuyện Phật giáo tạo rắc rối chính trị cho chính quyền Nam Việt Nam. Từ thời Diệm cho đến khủng hoảng Phật giáo năm 1966, Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu đã theo đuổi chiến lược giống nhau. Họ tìm cách làm suy yếu chính quyền qua biểu tình công khai và đòi hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Bảo vệ tự do tôn giáo không bao giờ là một trong những mục đích chính bởi vì tự do tôn giáo của họ không bao giờ bị đe doạ. Thay vào đó, điều mà họ muốn là ưu thế chính trị. Một số Phật tử tranh đấu muốn chính quyền thiên vị Phật giáo so với các nhóm khác trong xã hội Nam Việt Nam, trong khi một số khác bí mật thông đồng mở đường cho một chính quyền cộng sản. Nếu quân đội Nam Việt Nam không thành công trong việc chống lại Phật tử tranh đấu vào năm 1965 và dẹp tan nhóm này vào năm 1966, có khả năng nhóm Phật tử tranh đấu sẽ lái chính quyền về phe cộng sản, vì người cầm đầu phong trào này, Thích Trí Quang, hoặc là đồng Hội đồng thuyền với cộng sản hay là vì tự huyễn hoặc rằng mình có thể ngăn chặn cộng sản mà không cần đến một chính quyền vững mạnh, thân Mỹ. Những thành công chính trị của phong trào Phật giáo tranh đấu tuỳ thuộc vào thành phần lãnh đạo của chính quyền Sài Gòn và thái độ của Mỹ. Sau một loạt những nhượng bộ vô hiệu, Ngô Đình Diệm chấm dứt nhân nhượng vì rõ ràng là các nhượng bộ đã không làm hài lòng các Phật tử. Ông đàn áp phong trào bằng cách đóng cửa chùa và bắt giữ các nhân vật chủ chốt, nhưng thắng lợi này phù du vì nó lại thúc đẩy người Mỹ ủng hộ việc lật đổ Diệm. Nguyễn Khánh cho phép chống đối chính quyền công khai và dành nhiều thời giờ nhượng bộ các Phật tử, nhưng những kết quả biện pháp này mang lại chỉ là sự suy yếu của các lực lượng chống cộng và mở đường cho những phản đối, yêu sách mới từ phía Phật giáo tranh đấu. Trần Văn Hương chọn sách lược của Diệm hơn là cách của Khánh, không nương nhẹ các hành vi bạo loạn hay đáp ứng yêu sách của Phật giáo. Chính sách này rõ ràng có triển vọng thành công hơn và người Mỹ lúc này cũng dễ thuận theo hành động cứng rắn. Tuy nhiên, Hương không thể thực thi trọn vẹn chính sách này vì Khánh đã lật ông. Ảnh hưởng của phong trào Phật giáo tranh đấu lên tột đỉnh khi Phan Huy Quát lãnh đạo đất nước. Quát làm mọi chuyện Phật giáo muốn trong phần lớn thời gian cầm quyền. Hành động của Quát làm hiệu năng chống cộng của Nam Việt Nam xuống thấp chưa từng có, khẳng định bài học từ nhiệm kỳ của Khánh rằng hiệu quả chiến đấu tỷ lệ nghịch với việc đáp ứng các đòi hỏi của Phật giáo tranh đấu. Lý do phản biện chính yếu mà Khánh và những người khác đưa ra để không dùng phương pháp của Diệm đối với Phật tử tranh đấu là sợ làm quần chúng Phật tử xa lánh đến độ làm mất khả năng duy trì cuộc chiến. Khánh đã đánh giá quá cao ảnh hưởng của Phật tử tranh đấu đối với bá tánh Phật tử; chỉ một thiểu số nhỏ ủng hộ động cơ của Phật tử tranh đấu. Cuôc khủng hoảng Phật giáo năm 1966 cho thấy nhóm Phật tử tranh đấu có thể bị dẹp mà không làm mất khả năng tiếp tục chiến đấu. Việc đàn áp Phật tử năm 1966 đã vĩnh viễn giải phóng chính quyền khỏi những áp lực Phật giáo nguy hại và tạo điều kiện xây dựng được sự gắn bó quốc gia chặt chẽ hơn ở Nam Việt Nam từ đó về sau. (Đọc phần I, II) đăng lại bài từ DCVOnline.net Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh họa [92]Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Newsweek, 8 February 1965. [93]Một số văn kiện của Ðảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1954–1965) (Hà Nội: Sự Thật, 1985), 211–27. [94]New York Times, 19 January 1965. [95]Saigon to State, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12. [96]Ibid. [97]Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon toState, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12. [98]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29; Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, 2000, fiche 9; Saigon to State, 28 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 45; Truong Nhu Tang, A Vietcong Memoir, 95–8; Shaplen, The Lost Revolution, 300; New York Times, 23, 24, and 25 January 1965; CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B. [99]Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12. [100]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39. [101]Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 27 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 41. [102]CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B. [103]CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA, “Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39. [104]Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12. [105]CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13. [106]Saigon to State, 16 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 123; Taylor, Swords and Plowshares, 336; Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Critchfield, The Long Charade, 130; Saigon to State, 23 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 154; Saigon to State, 27 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol.2, doc.169; CIA, “Phan Huy Quat,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29. [107]Ðại tá Phạm Ngọc Thảo, một chuyên gia hoạch định âm mưu, là một điệp viên của Cộng sản. Việc liệu Hà Nội có lệnh cho Thảo gây ra cuộc nổi loạn này không thì chưa rõ. [108]INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B. [109]MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA Vietnam Working Group, “Implications of the Saigon Coup Events,” 20 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14;CIA, “The Situation in Vietnam,” 19 February 1965, DDRS, 1976, fiche 26A; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; State to Saigon, 19 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 147; Corcoran, “Saigon Coup Situation,” 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 45; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B; Shaplen, Lost Revolution, 312; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; John M. Taylor, General Maxwell Taylor: The Sword and the Pen (New York: Doubleday, 1985), 307; MACV to NMCC, 21 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; MACV to NMCC, 22 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14. [110]CIA, “The Situation in Vietnam,” 26 February 1965, DDRS, 1983, fiche 91; CIA, “Individuals and Cliques in South Vietnam,” 25 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; McCone, memcon, 25 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 165; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 14 April 1965, DDRS, 1979, fiche 239A; Anne E. Blair, There to the Bitter End:Ted Serong in Vietnam (Crows Nest: Allen & Unwin, 2001), 114–16; Critchfield, The Long Charade, 140–2; Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; Shaplen, The Lost Revolution, 344; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A. [111]Westmoreland, “Commander’s Estimate of the Situation in South Vietnam,” 26 March 1965, LBJL, Westmoreland Papers, History Backup, box 5. [112]New York Times, 28 February 1965; Saigon to State, 26 February 1965,NA II, RG 319, Central Files, 1964–1966, box 2952; Hong Kong to State, 19 February 1965, LBJL, NSF, Country File, Asia and the Pacific, China, box 238; Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; Saigon to State, 17 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 202. [113]Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14. [114]Saigon to State, 22 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15. [115]Critchfield, The Long Charade, 131–2. [116]Saigon to State, 15 May 1965, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2959. [117]CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Saigon to State, 2 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 177; New York Times, 27 February and 7 March 1965; Saigon to State, 12 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Shaplen, Lost Revolution, 319–21. [118]Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; Saigon to State, 25 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18. [119]CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18; Saigon to State, 5 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 332; Saigon to State, 26 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A. [120]Saigon to State, 12 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18. [121]Pentagon Papers, vol. 2, 434; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18. [122]Johnson, Right Hand of Power, 437; Bui Diem, In the Jaws of Victory, 146–7. [123]Nguyen Cao Ky, Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York: St. Martin’s Press, 2002), 142; CIA, “Military Plans for a Revolutionary Government to Replace the Present Government of Vietnam,” 11 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35B; Saigon to State, 17 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 5; Saigon to State, 21 June 1965, DDRS, 1979, fiche 455B. [124]memcon, 9 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 11 July 1965, LBJL, NSF, NSC History, DMUSF, box 43; memcon, 14 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 27 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19. Nguồn: Modern Asian Studies 38, 4 (2004) pp. 749–784. Cambridge University Press, 2004
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 6, 2015 7:56:13 GMT 9
NHỮNG HỒI KÝ CẦN ĐỌC hoamunich.wordpress.com/2014/02/12/nhung-cuon-hoi-ky-can-doc/Những bí ẩn đằng sau vụ Hồ sơ PanamaBy Vũ Hiến - April 23, 2016 Vụ Hồ sơ Panama nổ ra từ hơn hai tuần qua và cho đến nay vẫn còn là đề tài nóng hổi đối với thời sự quốc tế, tạo nên những cơn bão chính trị tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia phương Tây nơi mà quyền tự do báo chí được bảo đảm. Nhưng đây mới chỉ là những đợt bão đầu tiên và có lẽ còn kéo dài trong nhiều năm nữa vì khối lượng tài liệu khổng lồ mà một nhóm nhà báo quốc tế đã thu thập được.
Hồ sơ Panama được xem là vụ rò rỉ thông tin lớn nhất từ trước đến nay, vượt xa vụ WikiLeaks xảy ra cách đây năm năm, với 11.5 triệu trang tài liệu mà nhóm nhà báo quốc tế nhận được từ một nguồn bí mật so với vụ WikiLeaks chỉ vào khoảng 1.2 triệu trang. Để có được khái niệm về sự to lớn của khối lượng tài liệu này, người ta tính ra phải cần tới hơn 38,000 cuốn sách khổ trung bình thì mới in được hết những trang tài liệu trên.
Cho đến nay, qua hơn một chục tờ báo uy tín được tiếp cận với khối tài liệu, người ta nhận diện được khoảng 140 chính trị gia hoặc giới chức cao cấp của các chính phủ trên khắp thế giới có trực tiếp hay gián tiếp làm chủ những công ty “vỏ bọc” đặt trụ sở ở ngoại quốc hay liên hệ tới những vụ chuyển ngân bí mật, trong đó có những vị vua chúa cùng hoàng thân quốc thích của họ, có những nguyên thủ quốc gia và những chính trị gia cũ trước đây và hiện thời.Vụ rò rỉ thông tin lớn nhất này ngay từ lúc khởi đầu đã là một sự bí ẩn không kém phần ly kỳ như trong những cuốn tiểu thuyết gián điệp hay hình sự quốc tế. Câu chuyện bắt đầu vào tháng 2 năm 2015, với một bài báo được đăng trên tờ Süddeutsche Zeitung hé mở cho biết tờ nhật báo của Đức này đang có trong tay một số hồ sơ bí mật về những công ty ngoại quốc được ghi trong sổ sách kế toán của công ty luật tại Panama có tên là Mossack Fonseca & Co. Những tài liệu này được ghi vào bộ nhớ USB phần lớn liên quan tới những khách hàng của một chi nhánh văn phòng thuộc Mossack Fonseca đặt trụ sở tại Luxembourg và được trao cho tờ Süddeutsche Zeitung từ cuối năm 2014. Mấy tuần lễ sau đó, hai ký giả làm công việc điều tra về số tài liệu mật này của tờ báo là Bastian Obermayer và Frederik Obermaier được nhân vật bí mật kia, sau khi đã đọc bài báo trên và muốn chia sẻ thêm thông tin, tìm cách liên lạc lại, với một tin nhắn như sau: “Chào bạn, đây là John Doe. Bạn có thích thú về những tài liệu đó không?” (John Doe trong tiếng Anh thường được dùng để chỉ một người vô danh tính hay danh tính chưa được biết tới). Nhân vật bí mật trên đòi hỏi danh tính phải được tuyệt đối bảo mật. Cho đến nay, danh tính của nhân vật này vẫn còn là một điều bí ẩn đối với những nhà báo điều tra trong vụ Hồ sơ Panama. Trong một mẩu tin nhắn khác còn giải thích cặn kẽ hơn: “Cuộc sống của tôi đang gặp nguy hiểm, chúng ta sẽ chỉ được quyền nói chuyện qua dạng những hồ sơ đã được mã hoá. Sẽ không có một cuộc gặp mặt nào.” Tiếp sau đó, số tài liệu còn lại đã được chuyển tới tờ báo. Ramon Fonseca, một trong những người sáng lập của công ty luật Mossack Fonseca, Panama – nguồn newsweek.com Những tài liệu này đã hé mở cho thấy cách mà nhiều lãnh tụ cũng như những nhân vật nổi tiếng và những người giàu có trên thế giới đã sử dụng những công ty ngoại quốc ra sao để che giấu tài sản của họ, và trong một số trường hợp là để trốn thuế hoặc ngụy trang cho những hoạt động phi pháp. Trong hàng ngàn nhân vật có tên trong khối tài liệu này là Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko, vua Salman của Ả Rập Saudi, một số thành viên trong gia đình của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, nhiều nhân vật thân cận của Tổng thống Nga Vladimir Putin, người cha quá cố của Thủ tướng Anh David Cameron, và siêu sao bóng đá Lionel Messi. Hơn một năm sau khi nhân vật Doe trên liên lạc với nhật báo Süddeutsche Zeitung, hai ký giả Obermayer và Obermaier vẫn chưa biết nhân vật này là ai và lý do tại sao nhân vật này lại tìm đến với họ. Hai ký giả trên cũng cho biết nhân vật bí mật này chưa từng bao giờ lên tiếng nhắc hay đòi tiền thưởng. Vì khối tài liệu của Mossack Fonseca & Co. quá lớn mà chỉ riêng một tờ báo, cho dù là tờ nhật báo lớn nhất của Đức, cũng sẽ không đủ khả năng để điều tra cặn kẽ, đã buộc hai ký giả trên tìm đến một tổ chức chuyên về điều tra những vụ tai tiếng lớn có liên quan đến tài chánh quốc tế là International Consortium of Investigative Journalists (ICIJ) mà trụ sở chính được đặt tại Washington để nhờ được giúp đỡ. Bắt tay vào làm việc, tổ chức ICIJ đã cho thành lập một nhóm gồm 370 ký giả đến từ khoảng 100 tổ chức truyền thông của hơn 70 quốc gia trên thế giới. Mục tiêu của họ là sử dụng ký giả địa phương là những người hiểu rõ tình hình của khu vực đó thay vì đưa ký giả ở những nơi khác tới điều tra bởi vì các trang tài liệu có quá nhiều chi tiết phức tạp và mang tính cách toàn cầu. Cảnh sát đột kích trụ sở của Mossack Fonseca ở Panama City. Alejandro Bolivar / EPA Cuộc điều tra, trong nội bộ được biết dưới tên gọi là Dự án Prometheus, đòi hỏi một sự hợp tác hiếm hoi và ít khi xảy ra giữa những cơ quan truyền thông thường hay có những sự cạnh tranh nghề nghiệp. Sự hợp tác lạ lùng này đòi hỏi tất cả những ai liên quan phải đồng ý chia sẻ tin tức trong nhóm với nhau, và không một cơ quan nào được phép đăng tải bất kỳ thông tin nào có liên quan đến cuộc điều tra cho tới Chủ Nhật 3 Tháng 4, ngày mà một loạt các bản tin được tung ra cùng lúc tạo thành “vụ nổ” Hồ sơ Panama. Tuy nhiên, nghi vấn lớn nhất vẫn là nguyên nhân và mục đích gì đã đưa đến vụ rò rỉ thông tin lớn đến như vậy? Và cho đến nay, tất cả những suy luận và phỏng đoán vẫn chỉ là những giả thuyết, hoàn toàn là giả thuyết. Một trong những giả thuyết được chú ý nhiều nhất là của Clifford Gaddy, kinh tế gia và là chuyên gia nghiên cứu lỗi lạc về Nga của viện nghiên cứu Brookings. Trong một trang blog đăng trên trang mạng của Brookings, Gaddy nghĩ rằng chính một tay tin tặc được sự hậu thuẫn của chính phủ Nga đã gửi email cho tờ báo của Đức và cuộc tiếp xúc đó đã đưa đến vụ rò rỉ Hồ sơ Panama. Trên trang blog, Gaddy viết nguyên văn như sau: “Bất cứ sự thiệt hại thanh danh thật sự nào đối với Putin hay nước Nga gây ra bởi Hồ sơ Panama thật ra không đáng kể. Với một cái giá tương đối rẻ, Nga đã: 1) phơi bày ra ánh sáng những chính trị gia tham nhũng ở khắp nơi, kể cả những quốc gia dân chủ “mẫu mực” của phương Tây, và 2) kích động sự bất ổn [chính trị] ở một số quốc gia phương Tây. Điều mà tôi thắc mắc là: Đây có phải là một vụ được sắp đặt sẵn? Nga đã thảy ra miếng mồi, và Hoa Kỳ đã nhai ngấu nghiến vào bụng. Những câu chuyện trong vụ Hồ sơ Panama chảy tuột khỏi Putin [không để lại một vết nhơ] như nước đổ đầu vịt. Tuy nhiên, vụ này đã để lại ảnh hưởng tiêu cực lên sự ổn định của phương Tây.” Suy luận của giả thuyết trên thật ra ta thấy phần nào có lý. Trước hết, mặc dù danh sách những nhân vật liên hệ với Putin có trong Hồ sơ Panama được biết đã tìm cách che giấu khối tài sản lên đến $2 tỉ, nhưng cho đến nay dường như điều này vẫn không làm sự nghiệp chính trị của Putin mảy may sứt mẻ gì, trong khi một số lãnh tụ khác trên thế giới đã từng có những quan hệ va chạm với Nga trước đây – ví dụ, David Cameron của Anh Quốc và Petro Poroshenko của Ukraine – mà tương lai chính trị của họ đang bị rúng động nghiêm trọng bởi sự liên hệ của họ tới vụ tai tiếng trên. Dù không được nêu tên trong “Tài liệu Panama”, ông Putin vẫn bị truyền thông nhắm tới – nguồn www.masadi.mePutin đã từng bị chỉ trích là tay tham nhũng có tiếng và từng bị cáo buộc sở hữu một khối lượng tài sản bòn rút từ của công lên tới $200 tỉ. Nếu những cáo buộc này chỉ đúng dù một nửa thôi cũng đủ để cho ông này thành nhân vật giàu có nhất trên thế giới. Vậy thì với $2 tỉ được nêu lên trong Hồ sơ Panama nào có thấm thía vào đâu. Putin đã từng thoát hiểm nhiều vụ tai tiếng còn lớn hơn vụ Hồ sơ Panama nhiều lần. Riêng phía ông Putin, trong tuần qua, đã lên tiếng cáo buộc rằng chính Hoa Kỳ đứng đằng sau vụ rò rỉ thông tin này để cố tình làm mất mặt chính phủ và dân chúng Nga. Một giả thuyết khác cho rằng chính tình báo Hoa Kỳ đã làm việc này để lấy lại những nguồn thuế bị thất thu như họ đã từng làm trước đây trong một vụ tương tự như thế liên quan tới một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Nếu vậy, thì giải thích sao về việc không một người Mỹ nào có tên trong danh sách của Hồ sơ Panama? Những bí ẩn đằng sau vụ Hồ sơ Panama đến nay vẫn chưa ai có thể biết được, kể cả hai ký giả của nhật báo Süddeutsche Zeitung, là những người đầu tiên được tiếp cận với những tài liệu này. Chỉ có thời gian mới trả lời được nghi vấn trên. VH
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 28, 2016 0:41:08 GMT 9
Trả lại Sự thật cho Lịch sử: Ai bắn què chân con hùm xám Nguyễn Ngọc Loan?Ngẫm hay muôn sự tại Trời Nguyễn Du Cho đến nay các sử gia đều tin rằng tấm hình nổi tiếng một thời của Eddie Adams đã kết liễu cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Không sai, nhưng chỉ đúng một nửa. Chính nhiếp ảnh gia đoạt giải Pulitzer của AP này đã viết trong tuần báo TIME (1): “Ông tướng giết thằng Việt Cộng; tôi giết ông tướng bằng máy chụp hình của tôi”. Đó là tấm hình chụp tướng Loan thản nhiên hành quyết một tù binh cộng sản bị còng tay sau lưng, mặt mếu máo. Một hành vi sát nhân ghê tởm gây chấn động toàn thế giới. Mặc dù sau đó Adams đã thú nhận: “Người ta tin vào hình ảnh, nhưng hình ảnh cũng nói dối, cho dù không có sửa đổi gì. Chúng chỉ là những nửa sự thật”. Dẫu vậy nhưng nó cũng đã đánh dấu khúc ngoặt quan trọng của cuộc chiến: Dư luận phản chiến nở rộ tại Hoa kỳ đã khiến Tổng thống Johnson mất niềm tin vào một chiến thắng quân sự tại miền Nam Việt Nam. Và cuộc thương thảo với Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam (MTGPMN) đã diễn ra sau đó dưới triều đại Nixon như giải pháp duy nhất đem lại hòa bình. Đằng sau tất cả những sự kiện lịch sử ấy là chuyển động âm thầm nhưng có ảnh hưởng quyết định của tình báo chiến lược. Cơ quan CIA (Tình Báo Trung Ương) Hoa kỳ và đối tác VNCH ở cấp cao đã phải đối mặt với những tình huống gây ra mâu thuẫn trầm trọng giữa một bên là MACV (Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ), CIA, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và bên kia là Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia khi ấy do Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan nắm giữ. Bối cảnh chung là cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng – khi ấy vẫn được báo chí Mỹ coi là MTGPMN, tách biệt với Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), một huyền tích chỉ được giải ảo sau 1975 – trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân (tháng 1, 1968). Nguyễn Ngọc Loan: Ông là Ai? Tướng Nguyễn Ngọc Loan, hỗn danh Sáu Lèo, sinh năm 1930 tại Huế. Chị cả của ông, bà Bích Hồng, là phu nhân Đại tá Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đô trưởng thành phố Sài Gòn (1965-68) (2). Ông học trường Trung học Albert Sarraut và đậu Tú tài Toán toàn phần rồi bị động viên Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định). Thiếu úy Loan theo học Trường Sĩ quan Không quân Pháp Salon de Provence năm 1953 rồi thực tập hoa tiêu khu trục phản lực tại căn cứ Meknes, Maroc, trở thành phi công khu trục phản lực đầu tiên của Không lực VNCH. Về nước, ông được bổ nhiệm Phi đoàn trưởng Phi đoàn 2 Quan sát. Được thuộc cấp nể trọng nhưng ông không được các sĩ quan Cố vấn Hoa kỳ ưa thích vì ông hay đả kích lề lối làm việc máy móc của họ. Năm 1964, ông Loan thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm “Tư lệnh Phó Không Quân VNCH” dưới quyền Tư lệnh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1965, vinh thăng Chuẩn tướng, ông tham dự chiến dịch không kích Bắc Việt trong khu vực Đồng hới – Vĩ tuyến 17 (Bến Hải). Những năm kế tiếp, tướng Loan được đề cử đảm nhiệm 3 chức vụ an ninh, tình báo quan yếu của VNCH: – Đặc ủy trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo – Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và – Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội. Lòng tận tụy với trách nhiệm nặng nề và tính “bất cần đời” của tướng Loan, coi cái chết “như pha” tạo cho ông một cá tính gồ ghề, bề ngoài tưởng như ngổ ngáo, hãnh tiến, nhưng thật ra ông là con người đầy cảm tính và “cận nhân tình”, được cấp dưới nể trọng và bạn hữu chí tình thương mến. Thỉnh thoảng gặp ông tại Phủ Thủ Tướng (Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương – UBHPTƯ), ông cười nói xuề xòa, moa moa, toa toa, miệng không ngớt chửi thề: đ.. cụ, đ.. cụ. Tuy nhiên, Định Mệnh dường như đã an bài cho ông một số phận khắc nghiệt. Chỉ nội trong ngày 31 tháng 1 năm 1968, sự nghiệp của ông được kể như chấm dứt vì một quyết định làm cho người Mỹ coi ông là kẻ phản bội. Mặt khác, có thật là bức hình của Eddie Adams chụp cảnh ông xử bắn tên đặc công Lém ở đường Ấn Quang ngày 4 tháng 2, 1968 mới là nguyên nhân chính? Sự thực không phải như vậy. Hoa kỳ đi đêm với MTGPMN Kề từ tháng 2 năm 1967, Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Sài Gòn đã có những tiếp xúc sơ bộ với một số cán bộ cấp thấp thuộc MTGPMN. Sau đó,với sự trợ giúp của Tình báo Hải ngoại Pháp (SDECE, Service de Documentation et de Contre-Espionage), cộng đồng tình báo Mỹ ở Việt Nam đã bắt tay được với những nhân vật trọng yếu của Cục R (Trung Ương Cục miền Nam) và MTGPMN như: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đồng Văn Cống, Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng, Cục trưởng Cục R (3). Sau việc hộ tống êm thắm vợ con Trần Bửu Kiếm và Trần Bạch Đằng ra vùng “giải phóng” an toàn, Sứ quán Hoa kỳ móc nối với Nguyễn Thị Bình (qua trung gian LS Đinh Trịnh Chính, Bộ trưởng Chiêu Hồi, Dân Vận VNCH) toan tính thành lập chính phủ “liên hiệp hòa giải dân tộc” với 2 thành phần: MTGPMN và chính quyền VNCH. Tất cả những tiếp xúc “đi đêm” nói trên đều không lọt qua con mắt của tướng Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Tướng Loan ra lệnh cho S-6 (Cảnh Sát Đặc Biệt) tống giam một số nhân vật MTGPMN khi ấy đang được Sứ quán Hoa kỳ bảo vệ tại các “nhà an toàn” (safe house) ở ven đô Sài Gòn và Tây Ninh. Sứ quán Hoa kỳ gây áp lực với tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, phải thả lập tức các sứ giả MTGPMN và yêu cầu các cơ quan an ninh VNCH không được phép xâm nhập các nhà an toàn và những khu vực dành riêng cho nhân viên ngoại giao Hoa kỳ trên khắp lãnh thổ VNCH. Mặt khác, Tổng thống Lyndon B. Johnson được Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker bảo đảm rằng Sài Gòn là thủ đô an toàn và Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Saigon là khu vực an ninh 100% không bao giờ bị tấn công vì đây sẽ là địa điểm mật đàm đã được thỏa thuận giữa Hoa kỳ và MTGPMN. Tòa Đại sứ Hoa kỳ rơi vào tay Đặc Công CSVN Trong trận mở màn Chiến dịch Tổng Tấn Công – Tổng Khởi Nghĩa của CSVN, một biến cố ít ai biết đến, kể cả báo chí Mỹ, là Tòa ĐS Hoa kỳ đường Thống Nhất đã rơi vào tay Đặc công CS ngay những phút đầu. Đó là hậu quả của việc tướng Loan đã cho rút 2 trung đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ bên ngoài TĐS Mỹ về tăng cường cho Dinh Độc Lập. Diễn tiến: Tổ C-10 gồm 18 tên đặc công CS thuộc Tiểu đoàn Đặc công 276 của Đặc Khu Ủy Sài gòn – Chợ Lớn đã xuất phát lúc 1 giờ đêm 31 tháng 1, 1968 từ tiệm Phở Bình đường Yên Đổ, góc Hai Bà Trưng, trên 1 xe van mầu trắng. Hai giờ sáng, xe dừng trước cửa sau Tòa ĐS đường Mạc Đĩnh Chi lúc đó chỉ có một tiểu đội Quân Cảnh Mỹ giữ an ninh phía trong. Bọn đặc công CS chia làm 6 mũi khai hỏa tấn công. Chúng dùng bộc pha, B-40 và AK-47 báng xếp triệt hạ vọng gác của Cảnh sát QG đặt giữa Lãnh sự và tòa nhà chính. Nhưng vọng gác này đã bỏ trống từ chiều hôm trước cùng lúc với hai trung đội Cảnh Sát Dã Chiến, theo lệnh của tướng Loan. Hai tên đặc công tấn công vào cửa chính Tòa ĐS, tức thì bị QC Mỹ hạ sát. Sau đó QC Mỹ rút vào trong và dùng radio cầu cứu. Hai tên đặc công khác dùng bộc pha phá thủng một lỗ lớn tường rào góc đường Thống Nhất – Mạc Đĩnh Chi, giúp cho toàn bọn C-10 tràn vào vườn hoa rồi tiến chiếm Lầu 1 và Lầu 2 trong khi QC Mỹ rút lên Lầu 3 cố thủ. Lầu 2 Đại Sứ quán Mỹ là Tổng Hành Dinh Tình Báo Chiến Lược của Hoa kỳ ở Đông Nam Á. Toàn bộ tài liệu mật mã “Tuyệt Mật” của CS Bắc Việt mà Mỹ thủ đắc được từ 1961, gồm hồ sơ chính sách, cương lĩnh, nghị quyết tấn công quân sự miền Nam, cùng các tài liệu khác liên quan đến cuộc chiến, đều được lưu trữ trong các tủ và két sắt Diebolt nặng trên 1 tấn (4). Bốn tên đặc công CS cố thủ Lầu 2 ra sức cậy phá, tháo gỡ 6 ổ khóa của 12 két sắt nhưng vô hiệu. Mười hai giờ khuya (12 giờ trưa Washington, D.C.), tại trụ sở CIA, Giám Đốc Richard Helms đang khoản đãi ông William Colby, tân Giám đốc CORDS (5) Việt Nam. Giữa tiệc, một thiếu tá tùy viên hối hả xin gặp để trình một công điện Hỏa Tốc từ MACV: “Trụ sở CIA và Sứ quán Hoa kỳ Saigon đã lọt vào tay đặc công MTGPMN từ 1 giờ sáng 31 tháng 1, 1968”. Cùng lúc, Tòa Bạch Ốc cũng nhận được công điện hỏa tốc: “Saigon đang bị 5 tiểu đoàn địa phương MTGPMN tấn công ồ ạt. Tòa ĐS ở trung tâm thủ đô thất thủ. Bộ Tư Lệnh MACV và Bộ TTM/QLVNCH tràn ngập khói súng, chống trả yếu ớt vì bị bất ngờ”. Giám đốc CIA Richard Helms đọc công điện 3 lần vẫn cả quyết với quan khách: “Đây là những ‘điều giả tưởng’ không thể nào có thể xẩy ra được với Hoa kỳ”. Sáu giờ sáng, một đại đội xung kích thuộc Sư đoàn Không kỵ 101 được trực thăng vận đổ xuống từ nóc Tòa ĐS, đột nhập Lầu 3 rồi Lầu 2, cận chiến với 12 đặc công CS, tiêu diệt toàn bọn và giải tỏa Tòa ĐS — biểu tượng của sức mạnh Hoa kỳ tại Đông Nam Á. Lãnh đạo VNCH, đệ I và II Cộng Hòa, biết gì? Đầu tháng 2, 1975, tôi đến Washington D.C. nhận nhiệm vụ Tùy Viên Lục Quân tại Tòa Đại sứ VNCH, ưu tiên tìm hiểu và báo cáo về quân viện Mỹ cho VNCH lúc đó đang lửng lơ. Một chị bạn nhà tôi, tên Dung, Đệ Nhị Tham Vụ, mời tôi đi ăn lunch. Tò mò, tôi hỏi chị: “Tòa Đại Sứ mình vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ra sao?” Chị đáp: “Tôi vẫn bỏ tiền túi mời mấy ông dân biểu đi ăn lunch”. Vậy thôi? Tôi nghĩ, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu, các nhà lãnh đạo VNCH có thể ví như những người đi buôn không vốn, không hiểu rành rọt về tổ chức và vận hành của chính quyền Hoa Kỳ, cho nên không biết đến hiệu quả của “lobby” và không giám hay không biết “chi” cho nỗ lực này vì không vốn (?). Khoảng cuối thập niên 70 bỗng sì căng đan “Koreagate”, bùng nổ. Điệp viên KCIA (Tình Báo Trung Ương Đại Hàn) Tongsun Park đã tung hàng trăm ngàn đô mua chuộc ảnh hưởng của một số nhà lập pháp Hoa kỳ để chống lại nguy cơ Nixon đòi rút quân khỏi Nam Hàn như đã làm ở Nam Việt Nam khiến VNCH rơi vào tay CSBV. Ở đời ai dại, ai khôn? Thành thử, chúng ta luôn luôn cầm dao đằng lưỡi để cho đối phương tuốt dao máu chẩy thành vòi! Lý do: không nắm được những nguyên lý căn bản về Tình Báo Chiến Lược để sử dụng nó hữu hiệu trong chiến tranh. Có ai ý thức được rằng Hoa kỳ ào ạt đổ quân vào Việt Nam, thật ra, không phải là để bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của VNCH? Có ai ý thức được rằng, với Hoa kỳ, không có quốc gia nào là bạn lâu dài và cũng chẳng có nước nào là kẻ thù vĩnh viễn, mà chỉ có quyền lợi của Hoa kỳ là vĩnh cửu? Có ai biết rằng: Trong thời gian CSVN làm xiếc đi giây giữa Liên Xô và Trung Cộng, Trung Cộng coi VNCH là bạn và là đối trọng răn đe CS Bắc Việt? Với Trung Cộng, Liên Xô và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) là hai kẻ thù không đội trời chung? Mặc dầu Mao vẫn chi viện cho Hồ để đoạt hai chiến thắng vang dội: Chiến dịch Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ, 1954. Nhưng cũng vì vậy mà Trung Cộng phải dè chừng. Cuộc chiến biên giới 1979 đã chứng minh cho điều này khi Đặng Tiểu Bình muốn “dậy” cho Việt Nam một bài học. Tướng Nguyễn Ngọc Loan CIA ra lệnh “vô hiệu hóa” (neutralize) Nguyễn Ngọc Loan Tháng 4 , 1968, Cố vấn trưởng Cảnh sát Quốc gia VNCH, J. Accompura (nguyên đại tá Lục quân Hoa kỳ) được mời đến gặp vị tân Trưởng Trạm CIA (Station Chief) tại VNCH, ông George Weisz đến thay thế ông Jorgensen. Không úp mở, ông Weisz cho Accompura hay: “Chính phủ Hoa kỳ quyết định “vô hiệu hóa” (neutralize) Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan”. Mặc dầu làm cố vấn cho tướng Loan chưa được 2 năm, Accompura lại rất thân tình và cảm mến ông. Accompura dấu kín chuyện CIA sẽ thủ tiêu ông, nhưng yêu cầu tướng Loan không được rời khỏi Dinh Độc Lập và không được tham gia bất cứ trận đánh nào có mục đích tiễu trừ các lực lượng MTGPMN tại trung tâm và ven đô Sài Gòn. Tướng Loan hứa xuông với Accompura cho qua chuyện, nhưng ông không ngồi yên. Ở đâu có tiếng súng AK-47 là ông nhào tới. Chỉ cần một tấm áo giáp, một khẩu M-16, với 12 băng đạn 5.56 ly vòng quanh bụng, đầu không nón sắt, chân dép cao su, không lon không lá, tướng Sáu Lèo lâm trận… không coi mũi tên hòn đạn của kẻ thù có kí lô nào. Một Don Quixote hay Triệu Tử Long? Có lẽ cả hai gom một. Nhiều người coi ông như “người hùng đơn độc”, một phán xét có phần cảm tính. Tôi quan niệm đơn giản: Ông là người chỉ huy biết lãnh đạo. Lãnh đạo bằng cách làm gương, nghĩa là sát cánh cùng quân sĩ, đồng lao cộng khổ, ngay nơi trận tiền. A true leader. Phải nói như thế. Như người Mỹ thường nói. Đầu tháng 5, 1968, hay tin VC tràn về khu Tân Cảng, tướng Loan điều động 2 đại đội CS Dã Chiến truy kích Tiểu đoàn Thủ-Biên (6) MTGPMN đang đốt nhà dân để “chém vè” vì bị trực thăng võ trang UH-1B của Sư đoàn 25 BB Mỹ tấn kích từ phía bắc cầu Sài Gòn. Hay tin tướng Loan dẫn CSDC ra Tân Cảng, Accompura vội nhẩy xe Jeep Cảnh sát chặn đoàn xe của ông Sáu Lèo ở ngã tư Dakao – Phan Thanh Giản và yêu cầu ông cùng về Tổng Nha tham dự buổi họp Chương Trình Phượng Hoàng do W. Colby chủ tọa. Tướng Sáu Lèo từ chối. Ai bắn nát chân tướng Loan? Tin tức loan tải: 11 giờ 45 ngày 7 tháng 5, 1968, một tên VC núp dưới chân cầu Sài Gòn bắn sẻ viên đạn “dum dum” (7) phá vỡ nát bắp chân trái tướng Nguyễn Ngọc Loan. Các bác sĩ giải phẫu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi khám vết thương, nêu thắc mắc và khẳng định: – Đầu đạn phá nát bắp chân trái tướng Loan không phải là “dum dum”. Nếu phải thì nó phải để lại những mảnh li ti và dấu vết thuốc nổ khi đầu đạn nổ lần thứ 2. – Súng xung kích AK-47 của CS Bắc Việt sử dụng ở miển Nam không trang bị loại đạn “dum dum”. – Súng bắn sẻ CKC của Tiệp Khắc cũng không trang bị đầu đạn “dum dum”. – Đầu đạn AK-47 và CKC không phải là đạn xuyên phá. Loại đạn này chỉ tạo 1 lỗ nhỏ đường kính không quá 1 cm ở mặt trước vết thương, và mặt sau ít khi có lỗ rộng quá 5 cm. Có lẽ chỉ có cố vấn Accompura biết rõ viên đạn làm tan nát cuộc đời binh nghiệp của tướng Loan là loại đạn gì. Và sát thủ là ai? 2005: Sau rốt, màn bí mật cũng được vén lên, bởi không ai khác là chính Accompura. Sát thủ thi hành bản án tử hình tướng Loan là một hạ sĩ quan TQLC Hoa kỳ có vợ Việt Nam, làm việc cho CIA Sài Gòn. Khẩu súng bắn lén tướng Loan là M-16 gắn viễn vọng kính. Viên đạn M-16 cỡ 5.56 mm thuộc loại Flechette (8). Chi tiết được biết thêm: Sát thủ đứng trên sàn trực thăng võ trang UH-1B, qua viễn vọng kính đã lẩy cò khi chiếu môn thập tự [+] nhắm trúng đầu tướng Loan. May thay,“Thiên bất dung gian”, người không thể giết người, chỉ có Trời mới giết được người. Lúc sát thủ lẩy cò cũng vừa là lúc trực thăng gặp “air turbulence” hụt hẫng đưa viên đạn trúng bắp chân trái Sáu Lèo đang gác trên thành cầu thay vì trúng đầu ông. Viên đạn Flechette 5.56mm đã phá nát bấy toàn thể bắp chân trái tướng Loan, cắt đứt gân lòng thòng và động mạch tiếp tế máu cho bàn chân. Bác sĩ Trưởng Khoa Giải Phẫu Tổng Y Viện Cộng Hòa đề nghị cắt bàn chân bởi vì động mạch đã bị phá nát, nếu không, một thời gian ngắn bàn chân sẽ bị hư thối. Tướng Loan yêu cầu, bằng mọi cách, giữ lại bàn chân trái cho ông. Ảnh hưởng tiêu cực của tấm hình hay do lệnh CIA? Bác sĩ cố vấn trưởng Tổng Y Viện đề nghị đưa tướng Loan đến điều trị tại Bệnh viện Quân Y Mỹ tại Long Bình. Giám đốc Bệnh viện từ chối vì không có khả năng nối động mạch vi ti ở bắp chân. Tướng Kỳ yêu cầu MACV can thiệp với Hạm Đội 7 có tầu bệnh viện đón nhận tướng Loan để chữa trị. Tầu Bệnh Viện Đệ Thất Hạm Đội từ chối. Chính phủ VNCH yêu cầu Tòa Đại sứ Hoa kỳ giúp đỡ đưa tướng Loan đến Bệnh viện Jama trên đất Nhật. Tòa Đai sứ Hoa kỳ khước từ. Không thể trông cậy vào Đồng minh Hoa Kỳ giúp đỡ, tướng Kỳ cuối cùng nhờ đến Tòa Đại sứ Úc chấp thuận cho tướng Loan được điều trị tại Canberra. Chính quyền Canberra khước từ lời yêu cầu của VNCH, viện cớ dư luận dân chúng Úc không đồng tình chứa chấp một kẻ giết tù binh chiến tranh không vũ khí trong tay (9). Tướng Loan giải ngũ, trở lại đời sống dân sự. Tướng Kỳ mất một người vừa là bạn thân, vừa là quân sư lỗi lạc trong cuộc đời tham chính của mình. Hoa kỳ không giết chết được Loan nhưng vẫn căm tức “Sáu Lèo” một lúc phá hỏng hai giải pháp chính trị và quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Họ quả quyết: “Nếu Loan không rút 2 trung đội Cảnh sát Dã chiến bảo vệ Sứ quán ở đường Thống Nhất thì không tài nào tổ đặc công C-10 của MTGPMN có thể xâm nhập thành lũy tối cao và kiên cố nhất của Mỹ, làm ô danh siêu cường số 1 thế giới”. Rất có lý, nhưng Hoa kỳ vẫn khờ khạo khi tin rằng “nắm được Nguyễn Thị Bình, Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà là chế ngự được thế thượng phong quân sự của đối phương”. Sự thực phũ phàng là [như ngày nay ai cũng biết] Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy Tết Mậu Thân 1968 của CSVN là thuộc quyền quyết định và được điều khiển bởi Lê Đức Thọ, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam và Võ Văn Kiệt, Bí thư Đặc ủy Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn. Lý do tướng Loan rút 2 trung đội CSDC bảo vệ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ trên đường Thống Nhất rất đơn giản và ngay thẳng. Đã là nơi sẽ diễn ra thương thảo giữa MTGPMN và Hoa Kỳ, thì VNCH cần gì phải canh gác? Đó là trách nhiệm của Mỹ. Dự tính bắt cóc 6,000 người Mỹ làm con tin Trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, TS Nguyễn Tiến Hưng có đề cập đến một tình huống mà ông gọi là “cực kỳ ê chề” (10) khi Tòa Đại sứ Mỹ phải đối diện, nếu và khi QLVNCH hay Cảnh sát “nổi khùng” mà cưỡng chế cuộc di tản 6 ngàn người Mỹ và một số người Việt thân quen hay làm việc cho Mỹ khi thấy những người này cứ kìn kìn ra đi, bỏ mặc họ cho số phận. Nên nhớ là khi ấy, trong nội vi Sài Gòn, lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến hầu như nguyên vẹn cũng như một số đơn vị Nhẩy Dù và TQLC. Nếu có ai xúi dục và thuyết phục được họ đó là biện pháp duy nhất có thể làm để Mỹ phải đem quân tham chiến trở lại thì họ có khả năng quay súng bắn lại người Mỹ. Do đó, Hoa kỳ cũng có kế hoạch phòng hờ (11) đối phó với tình huống này, và Đại sứ Graham Martin cứ phải hành xử “bình chân như vại” cho tới phút chót mới chịu ra đi sáng ngày 30 tháng 4. Điều này lý giải tại sao Mỹ phải cho ưu tiên di tản những phi công khu trục sang Utapao, Thái Lan, bởi vì QLVNCH chỉ cần vài chiếc F-5 là có thể bắn hạ những trực thăng di tản rơi rụng như sung. Trong tình huống này, TS Hưng lập luận, VNCH sẽ tức khắc trở thành thù địch, và sẽ không thể có Eden Center, Little Saigon hay Cabramatta vì không có người Việt nào được di tản thì làm gì có cộng đồng Người Việt Hải Ngoại như ngày nay? Ý tưởng “bắt con tin” này có thể đã nhen nhúm trong đầu óc tướng Loan và có thể ông đã bàn bạc với bạn bè hay người thân. Từ ý tưởng sang ý định và đem ra thực hiện thì một người có uy tín và thành tích như ông có thể dễ dàng thuyết phục bạn bè tướng lãnh và thuộc cấp trong Không Quân và Cảnh Sát Quốc Gia. Nhưng ông đã không làm mặc dù Mỹ đã thù hận ông vì làm như thế sẽ có hại cho cả hai bên Việt, Mỹ và CSVN sẽ là kẻ thủ lợi. Ý tưởng này đã được một chuẩn úy KQVN kể lại cho Tòa Đại sứ Mỹ. Từ cuối 1972, tướng Loan đã được một người bạn chính trị gia làm việc ở Tòa Bạch Ốc gửi thư riêng thông báo đầy đủ về kế hoạch rút quân của Hoa kỳ theo đúng những điều khoản của Hiệp Định Paris ký kết giữa Lê Đức Thọ và H. Kissinger ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối thư, người bạn khuyên ông liên lạc với TVQL Anh tại Sài Gòn để thu xếp việc di tản cho chính bản thân ông và gia đình một khi Sài Gòn lọt vào tay các toán tiền tiêu của 6 sư đoàn CSBV. Ông biết là Hoa Kỳ sẽ chẳng bao giờ đem quân trở lại tham chiến tại miền Nam. Trừ phi… Rốt cuộc, trưa ngày 29 tháng 4, 75, tướng Loan và gia đình đã phải chật vật lắm mới leo lên được một vận tải cơ C-130 và tới Utapao lúc 16:00 giờ chiều. Trời kia đã bắt làm người có thân – Nguyễn Du Để kết thúc câu chuyện, tôi xin nhường lời cho Eddie Adams: “Ông Loan chạy thoát Việt Nam trong thời gian Sài Gòn xụp đổ và đến Mỹ. Sau cùng ông định cư ở vùng Burke, tiểu bang Virginia. Ông gắng mở một tiệm ăn ở miền Bắc Virginia nhưng khi có người biết ông là chủ thì tiệm ăn đóng cửa. Có những người phản đối đi vòng quanh khu đó hò hét để xả hơi nỗi bất bình của họ một cách thời thượng, an toàn. “Ông ta rất đau yếu vì bị ung thư một thời gian. Và tôi nói chuyện với ông trên điện thoại tôi muốn làm một cái gì đó. Tôi giải thích mọi điều và kể lại chuyện tấm hình đã hủy hoại đời ông như thế nào thì ông ta chỉ muốn quên chuyện đó. Ông nói thôi bỏ đi. Còn tôi thì không muốn ông bỏ đi như vậy.” “Thiếu tướng Loan từ gĩa cõi đời cách đây một năm và một tháng (12). Ông để lại vợ và năm đứa con. Phần lớn những bản tóm lược tiểu sử người quá cố cũng giống như tấm ảnh đã hủy hoại đời ông, chỉ có một chiều và cố chấp”. Adams gửi hoa phúng điếu với một tấm thiệp trên viết dòng chữ, “Cho tôi xin lỗi. Lệ đang ứa trong mắt tôi.” Chu Việt Tháng 5, 2012 www.vietthuc.orgNguồn: Tài liệu Ngành Tình Báo Điện Tử (SIGINT, Signal Intelligence) QLVNCH Tuần báo TIME ngày 27 July, 1998 (1) Tuần báo TIME ra ngày July 27, 1998. (2) Đại tá Của bị trọng thương do trực thăng Mỹ bắn lầm quân bạn tại đường Khổng Tử, Chợ Lớn trong cuộc Tổng Công Kích đợt II, tháng 5, 1968. Cũng bị sát hại nơi đây là Trung tá Phó Quốc Trụ, Quận trưởng 5 Cảnh sát và Thiếu tá Nguyễn Bảo Thùy (em trai Trung tướng Nguyễn Bảo Trị) là bạn người viết bài này. (3) Trong thời gian này, Trần Văn Trà là Tư lệnh CT-5 (CT = Công Trường hay Sư đoàn), Nguyễn Văn Sỹ, Tư lệnh CT-7, và Đồng Văn Cống, Tư lệnh CT-9. Trần Bửu Kiếm là Ủy viên Ngoại Giao của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Nguyễn Thị Bình là Bộ trưởng Ngoại Giao, Dương Quỳnh Hoa, Bộ trưởng Y tế và Nguyễn Hưũ Thọ, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời MTGPMN. (4) Loại két sắt này chịu được nhiệt hỏa hoạn cao hàng ngàn độ C, phía trong được trang bị chất phóng xạ radium chống chụp hình lén. (5) CORDS (Civil Operations and Revolutionary Development Support) là nỗ lực bình định nông thôn miền Nam của Hoa Kỳ qua chương trình “Phượng Hoàng”. (6) Thủ Dầu Một – Biên Hòa (7) Đầu đạn “dum dum” có sức công phá mạnh vì dãn nở hay nổ lần thứ hai khi xuyên vào mục tiêu. Do đó, công ước The Hague đã cấm chỉ sử dụng. (8) Đạn Flechette BF3, tốc độ cực nhanh có thể xuyên qua thiết giáp. (9) Đại úy đặc công Nguyễn văn Lém bị Cảnh Sát Dã Chiến bắt tại trại gia binh Thiết Giáp Phù Đổng Thiên Vương, Gò Vấp, sau khi hắn đã tàn sát dã man tòan thể gia đình Trung tá Tuấn, gồm cha mẹ và vợ con ông (trong đó có đứa 6 tuổi). Tuấn là bạn đồng khóa, rất thân với tướng Loan. Khi bị bắt, trong mình Lém vẫn còn dấu khẩu súng lục K-54 bị áo che khuất. Lém không được coi là tù binh chiến tranh theo Công Ước Geneva. (10) Xem Chương 15: “Vào để giúp… Ra lại Bắn Nhau?”. (11) Kế hoạch phòng hờ này được TS Hưng lược trình trong Chương 15, Sách đã dẫn. Đại sứ Martin gọi nó là “crazy” (điên rồ) và cực lực phản đối. Đại khái, nó bao gồm 3 phương sách thay thế nhau để di tản 6,000 người Mỹ và một số người Việt nhất định: – Mỹ trải 2,000 TQLC dọc theo QL-15 (Sài Gòn – Vũng Tầu) giữ an ninh di tản. – Mỹ thiết lập cầu không vận bằng C-130 và C-141 giữa Tân Sơn Nhất và Utapao. – Mỹ thiết lập cầu không vận trực thăng giữa Sài Gòn và các quân vận hạm ngoài khơi Vũng Tầu. (12) Ông mất ngày 14 tháng 7, 1998 ở tuổi 68. www.vietthuc.org/tr%E1%BA%A3-l%E1%BA%A1i-s%E1%BB%B1…/
|
|