|
Post by Huu Le on Sept 25, 2007 2:52:02 GMT 9
Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ (I)Minh Võ Như đã hứa cách đây hai tháng (1), ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phũ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. 1. Minh Võ (MV): Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh? Cao Xuân Vỹ (CXV): Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi. 2. MV: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không? Căn nhà gạch Phó bảng Cao Xuân Tiếu mua của ông Quan Khố Vàng về hưu để cho gia đình bạn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc Nguồn: Ảnh tư liệu gia đình CXV -------------------------------------------------------------------------------- CXV: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. 3. MV: Có tài liệu của phía cộng sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không? CXV: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu Phó bảng. Khóa ấy có 9 Tiến sĩ, 13 Phó bảng. Ông Sắc đậu Phó bảng thứ 11. 4. MV: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của cộng sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không? CXV: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả cộng sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, tương đương với chức Thủ tướng thời nay, đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ cộng sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài. 5. MV: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không? CXV: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam Độc Lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là cộng sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là cộng sản. 6. MV: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không? Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan Nguồn: DCVOnline -------------------------------------------------------------------------------- CXV: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngòai rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đặc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đóan... Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu. 7. MV: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh? CXV: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ... 8. MV: Khi nào thì các ông rời Hà Nội? CXV: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến thì chúng tôi gồm 36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị. 9. MV: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không? Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh voltairenet.org -------------------------------------------------------------------------------- CXV: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v... Các ông này về sau đã hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo. Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải cộng sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng cộng sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi cộng sản trong đó ngòai những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn. 10. MV: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu? CXV: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khỏang đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an tòan tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thóat được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945. Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ cộng sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Công. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết cộng sản dã man chừng nào. 11. MV: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu? CXV: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du.. 12. MV: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương? CXV: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức. Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đòan viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì. Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đê “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v... thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu. 13. MV: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không? CXV: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngòai, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thanh những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu cộng sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất. 14. MV: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu? CXV: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm. 15. MV: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không? Giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam Nguồn: yxine.com -------------------------------------------------------------------------------- CXV: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc dân. Tôi còn nhớ khỏang năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu để tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh... Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với cộng sản lên đó lập nghiệp.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 27, 2007 1:55:21 GMT 9
16. (MV): Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại? (CXV): Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng. Tướng Nguyễn Hữu Có ngothelinh.150m.com -------------------------------------------------------------------------------- Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes. Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho thực dân, cộng sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi. 17. (MV): Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, thanh niên Cộng Hoà đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng đặc biệt. Điều này có đúng không? (CXV): Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà. 18. (MV): Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không? (CXV): Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo rõi. 19. (MV): Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không? Phạm Hùng và Ngô Đình Nhu Nguồn: DCVOnline -------------------------------------------------------------------------------- (CXV): Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm sóat. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông. ...Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp... Tổng thống D. Einsenhower và T. Th. Ngô Đình Diệm (Washington, D.C. 08/05/1957) Nguồn: jhu.edu -------------------------------------------------------------------------------- Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn: – – Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do. – Rồi cho dân qua lại tự do – Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn – Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nama đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn. – Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương . – Và sau cùng là tổng tuyển cử. Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đóan rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khỏang 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng. 20. (MV): Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Marốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không? (CXV): Dĩ nhiên là có. Vì giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Marốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp.Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh. 21. (MV): Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không? (CXV): Không. 22. (MV): Trong cuốn nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không? (CXV): Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống. Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả? Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao? Ông quát lên: Chết thì đã sao. Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói Quân Đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống. Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được. Lúc ấy không phải chỉ có Lữ đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận. Viên Đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì. 23. (MV): Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất? (CXV): Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thịệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lô Ồ. Còn các tướng thì rất sợ Tổng thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật... địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên. 24. (MV): Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không? Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seatle. Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa. Tôi đề nghị ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu. 25. (MV): Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khỏang 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không? (CXV): Lúc ấy nhiều người nói Tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại! Ông cười. Ông bảo: người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. Tôi phải trả lời cho họ chứ. 26. (MV): Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà đại sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biệt họ thảo luận về việc gì không? (CXV): Tôi có biết và nhớ là Tổng thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được. 27. (MV): Xin ông tha lỗi, ông là Phật Tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không? (CXV): Phải, tôi là Phật Tử đã quy y... (Rồi ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp - MV). Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Toạ Thích Trí Quang ... nhưng Hoà Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật Tử đứng đầu là Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật Tử. 28. (MV): Theo ông thì ai cố ý giết hai ông? Các tướng Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Vỹ Và Mai Hữu Xuân (Giam lỏng ở Đà Lạt 09/1964) Nguồn: ngothelinh.150m.com -------------------------------------------------------------------------------- (CXV): Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ” (!) Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào con dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của Tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, thì tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu miệng nói: “Mission Accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh. 29. (MV): Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Cụ Cao Xuân Vỹ tại lễ tưởng niệm Tổng thống Ngô Đình Diệm (California 2006) Nguồn: webshots/Ảnh © hoapham -------------------------------------------------------------------------------- (CXV): Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ đất nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc. Cụ Vỹ giằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 2:46:57 GMT 9
OSS và Hồ Chí Minh - Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật LƯƠNG LÊ GIANG dịch đăng ngày 27/08/2007 Có lẽ ít người biết được rằng Hồ Chủ tịch và lực lượng Việt Minh đã từng có mối quan hệ với nước Mỹ, cụ thể là Cơ quan Tình báo chiến lược Mỹ (OSS) - tiền thân của CIA - nhằm củng cố thêm sức mạnh cho Việt Nam trong thời kỳ giành chính quyền những ngày đầu. Cuốn sách OSS và Hồ Chí Minh - Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật của giáo sư Dixee R. Bartholomew-Feis do NXB Trường đại học Kansas (Mỹ) xuất bản năm 2006, được NXB Thế Giới và Công ty văn hóa và truyền thông Võ Thị dịch và xuất bản tại VN tháng 8-2007. Đây là một tư liệu mới của Mỹ lần đầu tiên được giới thiệu tại VN - một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nhất về lịch sử quan hệ Việt - Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đồng minh OSS trong cuộc kháng Nhật - Kỳ 1: Đặt nền móng đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhà lãnh đạo Võ Nguyên Giáp (đứng thứ ba và thứ năm từ trái qua) chụp ảnh với những người bạn Mỹ. Chỉ huy đội Hươu của OSS là Allison Thomas (đứng thứ tư từ trái qua) - Ảnh tư liệu TT - Sau khi đảo chính Pháp, Nhật dàn xếp một cấp độ kiểm soát mới tại VN. Người VN tìm cách thoát khỏi tình trạng cùng khổ, và ở miền Bắc, một vị cứu tinh hợp lý - Việt Minh - đang giành được động lực thúc đẩy tiến trình phát triển. Nhiệm vụ của Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS) tại châu Á lúc đó là nhằm đánh bại phát xít Nhật, do đó các nhân viên OSS buộc phải tuyển mộ đặc tình, sau đó là các nhóm vũ trang quân sự dưới sự bảo trợ của OSS rồi phái họ trở lại khu vực này. Vì vậy đường lối của hai dân tộc Việt và Mỹ gặp nhau trong một thời khắc ngắn ngủi - một thời khắc vừa nguy hiểm lại vừa đầy hứa hẹn đối với tương lai của cả hai nước. Đến Việt Nam Vào ngày 2-11-1944, trong một chuyến trinh sát, trung úy Shaw - một phi công Mỹ - buộc phải đáp xuống vùng ven Cao Bằng. Trong cuốn Từ Côn Minh về Pắc Bó, Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông Hải), một nhà tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Côn Minh và Việt Bắc, nhớ lại: “Một hôm, tại Cao Bằng, một tổ chức cứu quốc đã cứu sống một viên phi công Mỹ đáp xuống lãnh thổ của chúng ta do trục trặc động cơ. Anh là trung úy Shaw. Pháp và Nhật đang truy tìm anh, nhưng các nhà cách mạng đã bảo vệ anh, đưa anh tới phòng làm việc của ông Phạm Văn Đồng tại vùng Nước Hai. Ông Phạm Văn Đồng đưa anh tới gặp Bác Hồ. Shaw được đón tiếp chu đáo và rất vui khi gặp Bác. Anh nói rằng anh đã nghe những lời tuyên truyền bị bóp méo liên quan đến Việt Minh, và chỉ đến lúc đó anh mới nhận ra sự thật”. Sau này Shaw mới khám phá nhiều điều khác về Việt Minh. Khi còn ở Côn Minh (Trung Quốc), Shaw đã công bố một số thông tin, trong đó có một quyển sách nhỏ dạng nhật ký có tựa đề Một Đông Dương thực sự dưới con mắt trung úy Shaw. Shaw kể rằng: “Ngay khi tôi chạm đất, một người Đông Dương trẻ tuổi bước tới mỉm cười, thân mật bắt cả hai tay tôi và ra hiệu tôi đi theo anh ta. Tôi đưa cho anh ta 600 đồng Đông Dương. Anh ta nhất quyết không nhận tiền và trông có vẻ bị xúc phạm. Tôi rất ngạc nhiên với thái độ của anh ta và nghĩ có lẽ anh ta cho rằng ngần ấy tiền chưa đủ. Đó là một sai lầm lớn của tôi! Lúc đầu tôi nghĩ họ là những kẻ tham lam, nhưng trên thực tế hầu hết những người yêu nước Đông Dương lại rất đức độ. Họ giúp chúng tôi không phải vì tiền của chúng tôi, mà vì tình yêu thương và tình bằng hữu. Họ biết rằng chúng tôi đang chiến đấu không chỉ vì nước Mỹ mà còn vì tự do và dân chủ của thế giới, và cũng vì đất nước của họ nữa. Vì lý do đó mà họ coi bổn phận yêu nước của mình là giúp đỡ chúng tôi - những đồng minh của họ”. Mười ngày sau, Shaw nhận được lá thư từ Ủy ban Trung ương Việt Minh chào mừng anh và thông báo: “Chúng tôi đã ra lệnh cho căn cứ địa của chúng tôi tại Cao Bằng tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng ngài và hộ tống ngài ra biên giới Bắc kỳ - Trung Quốc”. Ủy ban Trung ương đề nghị Shaw giúp xây dựng tình hữu nghị vững mạnh giữa Mỹ và Việt Nam. Năm 1995 là năm Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Cùng năm đó, tôi viết lời giới thiệu và đứng tên để xuất bản cuốn Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) của Archimedes Patti. Cuốn sách được xuất bản tại Mỹ mười năm trước đó (1985). Tác giả của cuốn sách từng là người chỉ huy cao nhất của Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS - tiền thân của CIA) đã có mặt ở Việt Nam khi Cách mạng Tháng Tám 1945 vừa thành công. Cũng năm ấy, đoàn các cựu chiến binh của nhóm OSS cộng tác với Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Hà Nội và gặp lại những người đồng minh từ nửa thế kỷ trước. Tôi may mắn được tham dự và chứng kiến, chợt nhận ra rằng trong lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có... Hoa Kỳ! Tất cả những gì chứa đựng trong những sự kiện trên có thể tìm thấy trong cuốn sách 0SS và Hồ Chí Minh - Những đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật. Đây là một công trình nghiên cứu được coi là hoàn chỉnh nhất về lịch sử quan hệ Việt - Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng là một thời đoạn quan trọng trong tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Nhà sử học DƯƠNG TRUNG QUỐC Ngoài ra, cuốn sách cũng tiết lộ nguồn gốc và mục đích của Việt Minh cũng như vị trí của họ trong mối quan hệ với Đồng Minh: “Việt Minh hùng mạnh thế nào, tôi không biết. Nhưng như những gì tôi đã chứng kiến thì tổ chức này rất được nhân dân ủng hộ. Đi đến đâu tôi cũng được dân làng chào với hai tiếng “Việt Minh! Việt Minh!” và họ làm tất cả để giúp những người yêu nước, cho dù có bị ngăn cấm và đàn áp”. Shaw kể: “Tháng mười hai, những người bạn Đông Dương đưa tôi trở về Trung Quốc. Trước khi chia tay, họ dặn đi dặn lại tôi phải gửi lời chào tốt đẹp nhất của họ tới quân đội và nhân dân Mỹ. Tôi rất vui khi được quay trở lại và kể với đất nước tôi về tình hình thực tế tại Đông Dương... Tôi khiêm nhường nghĩ rằng vì nhiệm vụ dân chủ cũng như vì lợi ích chiến lược, chúng ta phải giúp đỡ phong trào chống Nhật, chống phát xít của Đông Dương một cách có hiệu quả”. Những người bạn Ngày 20-3, Wedemeyer - tư lệnh quân Mỹ tại mặt trận Trung Quốc - đã phê chuẩn QUAIL, một chiến dịch lớn tại Đông Dương, để “thiết lập những mạng lưới tình báo quân sự và cho phép chúng ta cấp vũ khí và đạn dược cho những ai kháng Nhật”. Ngày 13-4, Archimedes Patti, một cựu chiến binh của OSS trong các chiến dịch Ý, từ Washington tới đảm nhận chức vụ lãnh đạo phái đoàn OSS tại Đông Dương. Khi Patti bắt đầu tìm hiểu nơi ở của Hồ Chí Minh thì hai thành viên khác của OSS là Frank Tan và Mac Shin đang ở Tĩnh Tây, chuẩn bị cho chuyến đi hai tuần qua biên giới xuống phía nam Đông Dương, vào VN để đào tạo một nhóm du kích Việt Minh. Hồ Chí Minh đã đi trước hai người này và ra lệnh cho 20 người của mình quay lại hộ tống và bảo vệ họ trước quân Nhật. Hồ Chí Minh đã cùng đi với họ trong chặng cuối của cuộc hành trình tới Việt Bắc. Khi mọi người đã qua biên giới an toàn, cả nhóm tiếp tục đi tới căn cứ của Việt Minh tại Tân Trào. Chặng này nhóm có đông người hơn. Hồ Chí Minh, Tan (người mà Việt Minh gọi là Tam Xinh Shan để che giấu danh tính của ông) và Shin (bí danh là Nguyễn Tư Tác) nhập cùng những thành viên khác của Việt Minh, gồm năm nhân viên điện đài vừa hoàn thành khóa học tại Trung Quốc, mười học viên điện đài cho công tác tình báo, sáu người mang máy phát tín hiệu truyền thông, mười vệ sĩ - phần lớn trong số họ đã được huấn luyện kỹ tại Gio Jio và đang ở cấp bậc trung úy, được trang bị tiểu liên và súng cacbin và một nhóm thanh niên được tuyển chọn riêng để học điều khiển điện đài tại Tân Trào. Khi cả nhóm đến Tân Trào, Hồ Chí Minh đưa cho Tan một bản báo cáo cuộc hành quân được đánh máy với nhiều chi tiết về địa thế hiểm trở, những mối nguy hiểm khi hành quân ban đêm, hệ thống quân thám và phu khuân vác phức tạp dọc đường, những động vật hoang dã gặp phải... Và, giống như Shaw, Tan cũng bị chinh phục khi trò chuyện tới khuya với con người có sức lôi cuốn quần chúng này qua rất nhiều đêm ở bên nhau trong những khu rừng đại ngàn Bắc Việt Nam. Frank Tan và Mac Shin ở Tân Trào gần bốn tháng. Trong những tháng làm việc bên nhau, Hồ Chí Minh và Tan đã có một tình bạn đặc biệt thân thiết. Cả hai đều đã trải qua sự phân biệt đối xử tại quê nhà - Hồ Chí Minh dưới ách thống trị của Pháp và Tan là người Hoa lớn lên trong khu vực toàn “người da trắng” tại Boston. Tan hồi tưởng: “Khi quan hệ của tôi với Hồ Chí Minh trở nên thân thiết hơn, tôi bắt đầu hiểu rõ con người ông - một người hiến dâng cả cuộc đời để giành lại tự do cho nhân dân mình. Một sự hi sinh như thế khiến ông chẳng làm gì khác ngoài nghĩ và hành động cho một mục tiêu duy nhất”. DIXEE R. BARTHOLOMEW-FEIS (LƯƠNG LÊ GIANG dịch) Năm 1995 là năm Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Cùng năm đó, tôi viết lời giới thiệu và đứng tên để xuất bản cuốn Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) của Archimedes Patti. Cuốn sách được xuất bản tại Mỹ mười năm trước đó (1985). Tác giả của cuốn sách từng là người chỉ huy cao nhất của Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS - tiền thân của CIA) đã có mặt ở Việt Nam khi Cách mạng Tháng Tám 1945 vừa thành công. Cũng năm ấy, đoàn các cựu chiến binh của nhóm OSS cộng tác với Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Hà Nội và gặp lại những người đồng minh từ nửa thế kỷ trước. Tôi may mắn được tham dự và chứng kiến, chợt nhận ra rằng trong lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có... Hoa Kỳ! Tất cả những gì chứa đựng trong những sự kiện trên có thể tìm thấy trong cuốn sách 0SS và Hồ Chí Minh - Những đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật. Đây là một công trình nghiên cứu được coi là hoàn chỉnh nhất về lịch sử quan hệ Việt - Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, cũng là một thời đoạn quan trọng trong tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Nhà sử học DƯƠNG TRUNG QUỐC
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 3:04:27 GMT 9
Phạm Xuân Ẩn tin tưởng rằng con trai mình có thể đại diện cho một cây cầu mới nối giữa nhân dân VN và nhân dân Mỹ thời kỳ sau chiến tranh: "Suốt cuộc đời mình, tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một là nghĩa vụ của tôi đối với Tổ quốc. Hai là trách nhiệm của tôi đối với những người bạn Mỹ. Mong ước của tôi là: đấu tranh cho đến khi đất nước giành được độc lập và sau đó lập quan hệ ngoại giao và bình thường hóa quan hệ giữa VN và Mỹ, được như vậy thì tôi có thể mỉm cười mà nhắm mắt xuôi tay bất cứ lúc nào cũng thỏa lòng rồi".PhamXuanHoangAn
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:32:49 GMT 9
Bài 1: Những lá thý gửi ngýời Mỹ
Chủ tịch Hồ Chí Minh với một số quân nhân Mỹ trong phái ðoàn IOSS tại Hà Nội, nãm 1945. Ảnh tý liệu TT - Trong rất nhiều lá thý riêng của Bác Hồ, có những lá thý gửi ngýời Mỹ. Ðó là những lá thý gửi những ngýời bạn ðã từng giúp Mặt trận Việt Minh trong những ngày ðầu kháng chiến. Và cả những lá thý gửi các tổng thống Mỹ. Tuổi Trẻ trích ðãng một số lá thý ðó.
Thý gửi những ngýời bạn
Tháng 3-1945, Cụ Hồ Chí Minh ðã tiếp xúc ðýợc với các sĩ quan trong quân ðội Mỹ. Các sĩ quan này ðã ðýợc ðýa vào chiến khu Việt Bắc, dạy cho các chiến sĩ ta cách dùng các loại vũ khí, vô tuyến ðiện... Rất nhiều trong số các sĩ quan Mỹ nhý Charles Fenn, Thomas, Charles Roland, Arlison, Tan F... ðã ðýợc tiếp xúc với Cụ Hồ Chí Minh nhiều lần tại các khu cãn cứ của ta, rất quí trọng Ngýời.
“Ông Bécna và ông Phen thân mến!
Tôi hết lòng cảm õn các ông về sự giúp ðỡ của các ông cho các bạn chúng tôi. Tôi mong muốn là các bạn của chúng tôi sẽ học ðýợc vô tuyến ðiện và những thứ cần thiết khác cho cuộc ðấu tranh chung chống Nhật của chúng ta. Tôi hy vọng một ngày gần ðây nhất sẽ hân hạnh ðýợc tiếp các ông tại khu cãn cứ của chúng tôi. Nếu ðýợc thế thì thật là tuyệt. Cho phép tôi gửi lời chào kính trọng tới týớng Sênôn. 9-5-1945 Chân thành gửi tới các ông lời chúc mừng tốt ðẹp nhất. Thân mến HỒ”.
Những bức thý của Bác Hồ gửi cho các sĩ quan Mỹ ðýợc Tuổi Trẻ trích ðãng ðều lấy từ cuốn Thý riêng của Bác Hồ do Trần Quân Ngọc sýu tầm và giới thiệu, NXB Trẻ tháng 4-2006. Có ðối chiếu với Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia nãm 2002.
Thý trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon ðýợc Tuổi Trẻ trích từ Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính Trị Quốc Gia nãm 2002. Một tháng sau, Cụ Hồ Chí Minh gửi một bức thý khác cho Fenn. Bức thý viết:
“Ông Phen thân mến!
Ông T và ngýời giúp việc của ông ta vẫn mạnh khỏe. Chúng tôi ðã trở nên bạn bè thân thiết nhý anh em một nhà. Tôi hy vọng ông sẽ ðến thãm chúng tôi một ngày gần nhất.
Ông làm õn ðýa bức thý này tới ngýời bạn của tôi tên là Tống Minh Phýõng ở quán cà phê Ðông Dýõng. Mýời hoặc mýời hai ngày sau ðó họ sẽ trao cho ông một gói quà trong ðó có lá cờ của Ðồng minh. Tôi rất cảm õn ông nếu ông gửi những thứ ðó cho tôi bằng cách nhanh nhất.
Xin gửi ông và ông Bécna cùng các bạn những lời tốt ðẹp nhất. Chúc ông sức khỏe và may mắn.
9-6-1945 Thân mến
HỒ”.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhýng ở nýớc ta cuộc khởi nghĩa mới bắt ðầu lan ra từ các tỉnh phía Bắc vào phía Nam. Là ngýời trực tiếp theo dõi và chỉ ðạo cuộc cách mạng từ chiến khu Tân Trào, Cụ Hồ Chí Minh làm việc bận rộn suốt ngày ðêm. Song Ngýời vẫn dành thời gian viết những lá thý bằng tiếng Anh ðể chia tay những ngýời bạn Mỹ ðã từng có một thời gian ðồng cam cộng khổ với những chiến sĩ giải phóng VN chiến ðấu chống phát xít Nhật.
“Trung úy Phen thân mến!
Chiến tranh ðã kết thúc. Ðấy là ðiều tốt cho mọi ngýời. Tôi cảm thấy áy náy khi những ngýời bạn Mỹ phải rời chúng tôi quá nhanh. Việc ra ði của họ khỏi ðất nýớc này có nghĩa là mối quan hệ giữa ông và chúng tôi sẽ khó khãn hõn.
Chiến tranh ðã kết thúc thắng lợi. Nhýng chúng tôi, những nýớc nhỏ và phụ thuộc, không có phần ðóng góp hoặc ðóng góp rất ít vào thắng lợi của tự do, của dân chủ. Nếu muốn ðóng góp một phần xứng ðáng chúng tôi phải tiếp tục chiến ðấu. Tôi tin rằng ông và nhân dân Mỹ vĩ ðại sẽ luôn ủng hộ chúng tôi.
Tôi cũng tin rằng sớm hay muộn chúng tôi cũng sẽ ðạt ðýợc mục ðích của mình, bởi mục ðích ðó là chính nghĩa. Và ðất nýớc chúng tôi sẽ ðộc lập. Tôi trông chờ ngày hạnh phúc ðýợc gặp ông và những ngýời bạn Mỹ của chúng ta ở Ðông Dýõng hay trên ðất Mỹ. Chúc ông may mắn và sức khỏe.
Tháng 8-1945
C.M.HỒ”.
Cũng khoảng trong ngày 18-8-1945, Ngýời còn viết một lá thý khác gửi cho Tan F. Tan ðýợc ðýa vào cãn cứ ðịa của ta ðể huấn luyện cách dùng ðiện ðài vô tuyến ðiện cho các chiến sĩ du kích Việt Minh. Tan rất quí trọng Cụ Hồ và còn ðýợc Cụ ðặt tên Việt là Ðàn. Trýớc khi Tan rời VN, Cụ ðã viết cho Tan một lá thý bằng tiếng Anh, ðọc nó ta càng thấy sự chu ðáo của Ngýời.
“Ông Tan thân mến,
Chiến tranh ðã kết thúc. Mọi thứ ðều thay ðổi. Nhýng tình bạn của chúng ta vẫn thế, không bao giờ thay ðổi.
...Chúng tôi sẽ không bao giờ quên ông. Ông cũng ðừng quên chúng tôi nhé! Ngày mai týõi sáng chúng ta sẽ gặp nhau, chúng ta trông chờ ngày ðó!
Thýa ông, ngýời bạn ðýợc giao nhiệm vụ mua những vòng xuyến cho ông bị ốm và anh ta trao công việc ðó cho ngýời khác. Nhýng ngýời này lại nhận công tác xa Hà Nội, nên anh ta ðã trao công việc ðó cho ngýời thứ ba. Ngýời này không thực hiện ðúng mà chỉ mua ðýợc một số cái mà ông muốn.
Tất cả giá 440 piastres.
Tôi gửi lại ông những gì mà họ chuyển cho tôi và số tiền còn lại là 2.560 piastres. Chúc ông sức khỏe và may mắn. Và chúc ông sớm gặp ngýời bạn ðời tốt. Hãy tin ở tôi, tôi sẽ mãi mãi nhý xýa.
8-1945 Thân mến
C.M.HỒ”.
“Bác ðể tình thýõng cho chúng con. Một ðời thanh bạch chẳng vàng son” (Tố Hữu). Những lá thý của Bác Hồ gửi ðồng bào, ðồng chí, ngýời thân... thấm ðẫm tình yêu thýõng, ðầy tình ngýời. Qua ðó càng hiểu thêm nhân cách vĩ ðại của Ngýời.
Thý trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon
Lá thý này ðề ngày 25-8-1969, một tuần trýớc khi Ngýời ra ði.
“Gửi Ngài Risớt M.Níchxõn, Tổng thống nýớc Mỹ
Oasinhtõn
Ngài Tổng thống,
Tôi ðã nhận ðýợc thý của Ngài.
Cuộc chiến tranh xâm lýợc Việt Nam, chà ðạp lên các quyền dân tộc cõ bản của nhân dân Việt Nam, ðến nay vẫn kéo dài ở miền Nam Việt Nam. Mỹ vẫn ðẩy mạnh các cuộc hành quân càn quét, tãng cýờng các cuộc ðánh phá máy bay B.52 và chất ðộc hóa học, gây thêm nhiều tội ác ðối với nhân dân Việt Nam. Chiến tranh kéo dài làm cho nýớc Mỹ càng hao ngýời tốn của. Tôi vô cùng công phẫn trýớc những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và ðất nýớc chúng tôi; tôi cũng rất xúc ðộng thấy ngày càng có nhiều thanh niên Mỹ chết vô ích ở Việt Nam vì chính sách của nhà cầm quyền Mỹ.
Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân chính trong ðộc lập và tự do thật sự. Nhân dân Việt Nam quyết chiến ðấu ðến cùng, không sợ hi sinh gian khổ, ðể bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc thiêng liêng của mình. Giải pháp toàn bộ 10 ðiểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là cõ sở hợp tình hợp lý ðể giải quyết vấn ðề Việt Nam, giải pháp ðó ðã ðýợc nhân dân thế giới ðồng tình và ủng hộ.
Trong thý, Ngài bày tỏ lòng mong muốn hành ðộng cho một nền hòa bình công bằng. Muốn vậy, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lýợc và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam và dân tộc Việt Nam, không có sự can thiệp của nýớc ngoài. Ðó là cách ðúng ðắn ðể giải quyết vấn ðề Việt Nam phù hợp với quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam, với lợi ích của nýớc Mỹ và nguyện vọng hòa bình của nhân dân thế giới.
Ðó là con ðýờng ðể Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự. Với thiện chí của phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể ði tới những cố gắng chung ðể tìm một giải pháp ðúng ðắn cho vấn ðề Việt Nam.
Chào Ngài.
Hà Nội, ngày 25 tháng 8 nãm 1969
HỒ CHÍ MINH”.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:36:26 GMT 9
Người giữ chìa khóa kho vàng
Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn - hiện là giám đốc đối ngoại Pepsi Co.VN - Ảnh: T.T.D. TT - Người giữ chìa khóa kho vàng lúc đó là ông Huỳnh Bửu Sơn - làm việc trong ban lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia. Dưới đây là hồi ức của ông về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng trước khi bàn giao cho chính quyền cách mạng.
>> Kỳ 1: Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ? >> Kỳ 2: Chuyến ra đi bí mật >> Kỳ 3: Không có ánh sáng cuối đường hầm >> Kỳ 4: Kế hoạch bí mật từ dinh tổng thống >> Kỳ 5: Vàng đổi chủ
Khi lịch sử sang trang Sài Gòn ngày 30-4-1975.
Đó là những giờ phút mà sau này tôi mới thấy hết ý nghĩa trọng đại của nó đối với lịch sử dân tộc, nhưng vào lúc đó tôi vẫn còn chưa hết bàng hoàng.
Những ngày đầu tháng 5-1975, tôi vào trình diện tại Ngân hàng Quốc gia ở 17 Bến Chương Dương cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.
Phải nói đó là những ngày rất thảnh thơi đối với tất cả anh em chúng tôi, hầu hết ở độ tuổi trên dưới ba mươi. Chúng tôi vui vẻ, yên tâm. Thái độ của các anh cán bộ trong Ban Quân quản rất lịch sự, đúng mực nhưng khá xa cách. Vào thời điểm đó, nhiều người trong chúng tôi chưa nghĩ đến tương lai như thế nào. Mong muốn của tôi cũng như những người khác vào lúc đó là an ninh trật tự sẽ được vãn hồi, mỗi người sẽ có một vị trí làm việc trong chế độ mới và tiếp tục đóng góp theo khả năng của mình cho xứ sở.
Cuối tháng 5-1975, chúng tôi được lệnh trình diện tập trung đi học tập cải tạo tại Trường nữ trung học Gia Long (bây giờ là Trường Nguyễn Thị Minh Khai). Nhóm viên chức Ngân hàng Quốc gia được xếp vào mấy tổ, tôi thuộc tổ 32. Trong ba ngày tập trung tại Trường Gia Long, chúng tôi được phục vụ ăn uống khá chu đáo. Chiều ngày thứ ba, sau khi dùng cơm chiều xong, vào khoảng 6 giờ, loa phóng thanh đọc danh sách những người phải thu dọn đồ đạc và tập trung tại sân cờ nghe lệnh. Tên tôi có trong danh sách đó.
Lúc đó tôi cảm thấy rất lo lắng, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra, nhất là khi thấy danh sách người được gọi tên chiếm không đến 10% sĩ số. Nhưng khi đến tập trung tại sân cờ, tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe ban chỉ huy trại thông báo là do số người trình diện quá đông nên một số được cho về nhà vào tối đó, hôm sau đến để nhận giấy tờ tùy thân và trình diện cơ quan đang công tác, chờ lệnh tập trung mới. Bảy giờ sáng hôm sau, tôi quay trở lại Trường Gia Long, thấy ngôi trường vắng lặng như tờ.
Như vậy là trong đêm trước mọi người đã di chuyển. Một lần nữa số mệnh đã cho tôi ở lại. Tôi đến trình diện tại Ngân hàng Quốc gia và được phân công tác tại Vụ Phát hành và kho quĩ. Những ngày tiếp theo, Ban Quân quản tổ chức học tập tại chỗ ba ngày cho các viên chức ở lại và cấp giấy chứng nhận học tập cải tạo. Lúc đó, giấy chứng nhận này chính là một lá bùa hộ mệnh.
Sau này, vào cuối tháng tám, khi có lệnh gọi tập trung lần thứ hai cho những người được trả về đợt trước, tôi có đến gặp và hỏi ý kiến anh Ba Sáng, cán bộ Ban Quân quản. Sau khi tham khảo ý kiến Ban Quân quản, anh thông báo cho tôi biết trường hợp của tôi đã được Ban Quân quản xem xét, tôi được bố trí tham gia chiến dịch đổi tiền Sài Gòn cũ và cải tạo tư sản nên không phải đi trình diện học tập tập trung.
Lần kiểm kê cuối cùng
Vào đầu tháng 6-1975, tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia tiến hành kiểm kê kho tiền và vàng của chế độ cũ, các kho tiền và vàng của Ngân hàng Quốc gia thuộc quyền quản lý của Nha Phát hành, nơi tôi làm việc trong ban lãnh đạo từ năm 1970 với tư cách là kiểm soát viên. Anh giám đốc Nha Phát hành đã đi cải tạo tập trung, do đó trong số người còn ở lại chỉ có tôi là người giữ chìa khóa và anh Lê Minh Kiêm - chánh sự vụ - là người giữ mã số của các hầm bạc.
Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.
Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.
Đại diện Ban Quân quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt - chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân hàng Quốc gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân hàng Quốc gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi - Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.
Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.
Chúng tôi thực hiện công tác kiểm kê trong hai ngày liền. Thật ra công việc cũng khá đơn giản. Số giấy bạc dự trữ giữ trong các thùng bằng gỗ thông được niền bằng đai sắt và niêm chì, mỗi thùng ghi rõ mệnh giá, loại giấy bạc, số lượng. Do đó chỉ cần kiểm kê số lượng thùng bạc, các chi tiết tương ứng và đối chiếu với sổ sách được điện toán hóa là biết khớp đúng ngay.
Lúc đó, loại giấy bạc mệnh giá cao nhất chỉ có 1.000 đồng, thuộc xêri mới phát hành, có in hình các con thú hoang dã trong rừng rậm Việt Nam. Ngoài ra vẫn còn tồn kho và tiếp tục phát hành loại giấy bạc nổi tiếng có in hình danh tướng Trần Hưng Đạo, mệnh giá 500 đồng. Tổng giá trị giấy bạc dự trữ trong kho lúc đó (nếu tôi nhớ không lầm) khoảng hơn 1.000 tỉ đồng, gấp đôi lượng tiền lưu hành tại miền Nam vào thời điểm giải phóng.
Chỉ trong một buổi sáng, chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ. Việc kiểm kê số vàng chiếm nhiều thời gian hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng một để xem trọng lượng, tuổi vàng và số hiệu có khớp đúng với sổ sách hay không.
Cuộc kiểm kê kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân hàng Quốc gia.
HÙYNH BỬU SƠN
Bảng kê thoi vàng đựng trong các tủ sắt
Hầm số 3 Hầm số 6 Tủ số 40: 80 thoi
Tủ số 41: 80 thoi
Tủ số 42: 80 thoi
Tủ số 43: 80 thoi
Tủ số 44: 80 thoi
Tủ số 45: 80 thoi
Tủ số 46: 80 thoi
Tủ số 47: 73 thoi Tủ số 202: 35 thoi
Tủ số 203: 80 thoi
Tủ số 204: 80 thoi
Tủ số 205: 80 thoi
Tủ số 206: 79 thoi
Tủ số 207: 89 thoi
Tủ số 215: 88 thoi
Tủ số 216: 70 thoi 633 thoi 601 thoi
Tổng cộng: 1.234 thoi vàng
(Nguồn: Nha Phát hành, tháng 4-1975)
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:39:51 GMT 9
Tìm đọc lại những nhật báo Sài Gòn tháng 4-1975, thấy trên mặt báo tràn ngập tin tức chiến sự và di tản. Đột nhiên, nhiều báo ra giữa tháng tư đã đồng loạt đăng một bản tin đáng chú ý về 16 tấn vàng. Như tờ Chính Luận ngày 16-4 đã đăng như sau:
“Phát ngôn viên chính phủ: Hoàn toàn bác bỏ tin 16 tấn vàng.
Sáng nay, được hỏi về vụ có 16 tấn vàng của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Kampuchia Lon Nol chở từ Việt Nam ra ngoại quốc do Hãng AP (Mỹ) loan tin (chi tiết hóa tin của đài BBC loan tải trước đây), phát ngôn viên chính phủ tuyên bố: “Hoàn toàn là tin thất thiệt, đầy ác ý, cố ý bôi lọ”. Phát ngôn viên nhấn mạnh: “Tình trạng loan tin thất thiệt và cố ý bôi lọ của các hãng thông tấn và báo chí ngoại quốc loan đi không phải mới xảy ra mà đã kéo dài từ lâu”.
Lời bác bỏ nói trên dường như xác nhận một điều là vào lúc đó, nhiều hãng tin nước ngoài và các tờ báo lớn có phóng viên thường trú tại Sài Gòn đã cùng đưa tin “tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị mang 16 tấn vàng ra khỏi VN”. Không chỉ BBC, AP mà nhiều tờ báo lớn khác ở Mỹ như Los Angeles Times lúc đó đã đăng tin như sau: “Công ty vận chuyển đường không Balair của Thụy Sĩ vào hôm thứ hai đã xác nhận rằng: họ đã từ chối chở 16 tấn vàng, dường như thuộc quyền sở hữu của tổng thống Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu, từ Sài Gòn sang Thụy Sĩ”.
Những thông tin có dẫn nguồn rõ ràng như thế đã tạo ra nhiều nghi vấn, dù nó đã bị chính quyền Sài Gòn lúc đó bác bỏ. Có lẽ giới báo chí quốc tế ngày ấy đã biết sơ qua về một kế hoạch bí mật từ dinh Độc Lập, và kế hoạch bí mật đó dường như đã bị “xì” ra ngoài “Radio Catinat” - tức các quán cà phê Givral, Brodard... (trên đường Đồng Khởi ngày nay), nơi tụ tập thường xuyên của các nhà báo, dân biểu, chính khách Sài Gòn lúc bấy giờ.
Trong khi dư luận còn bán tín bán nghi thì báo Độc Lập ngày 28-4 đã đăng một bản tin về chuyến ra đi bí mật của ông Nguyễn Văn Thiệu với chi tiết như sau: “Theo tin UPI, Bộ Ngoại giao Đài Loan cho biết cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã đến Đài Bắc bằng phi cơ quân sự Mỹ vào lúc 4 giờ sáng thứ bảy 26-4 với 16 viên chức Việt Nam cộng hòa cùng thân nhân tháp tùng. Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”.
... Có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975. Trong một cuốn sách khá nổi tiếng đã được tái bản khá nhiều lần trong hơn 20 năm qua, người ta đọc được một đoạn “có vẻ chắc chắn” như sau: “Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang còn làm đại sứ (tức ông Nguyễn Văn Kiểu - NV). Thiệu mang theo năm vali chứa đầy đôla. Trước đó, Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi VN 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quí mà gia đình y đã vơ vét được sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống”.
Còn trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia trên mạng Internet, một “sử gia” nào đó đã cung cấp những thông tin “giật gân” hơn nữa: “Martin (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - NV) giúp gia đình Thiệu ra đi, nhưng chỉ cho mang theo đồ vật cá nhân nhỏ. Thế là tay cựu tổng thống và bà vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh (vợ Thiệu) đã xoay xở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng quốc gia bằng cách ép dọa thuộc cấp. Bà ta cho chuyển phần lớn số vàng thỏi ấy lên một chiếc máy bay thuê của Hãng hàng không Thụy Sĩ. Nhưng các phi công, sau khi khám phá ra đó là vàng, đã hỏi sứ quán Thụy Sĩ và cuối cùng từ chối không chở nữa. Lý Long Thân (chồng em nuôi vợ Thiệu) nhảy vào cứu nguy. Thân ra lệnh chở vàng bằng tàu Trương Tinh đi Pháp, để sau này Thiệu nhận lại ở đó”.
Có khá nhiều “dị bản” như thế xung quanh chuyện ra đi và tẩu tán vàng của ông Nguyễn Văn Thiệu năm 1975. Trong đó, “dị bản” của BBC là mới nhất và bị phê phán nhiều nhất.
BÙI THANH
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:42:20 GMT 9
Chuyến ra đi bí mật
Ông Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức và chửi Mỹ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo" - Ảnh tư liệu TT - Kỳ trước, chúng tôi đã thuật lại tin tức trên báo chí Sài Gòn và những “dị bản” về chuyện 16 tấn vàng tài sản quốc gia. Những thông tin đó vào cuối tháng 4-1975 đã gắn chặt với chuyến ra đi bí mật của ông Thiệu. 16 tấn vàng đã lên máy bay cùng ông Thiệu? Vào lúc đó không ai được biết.
>> Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?
Ông Thiệu đã từ chức ra sao?
Vào đầu tháng tư, sau khi quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng và hành quân thần tốc về phía Nam, chiếc ghế tổng thống của ông Thiệu đã bắt đầu lung lay.
Lúc đó, người Mỹ, kể cả những người Pháp ở sứ quán Sài Gòn, đang toan tính về một giải pháp thương lượng với Hà Nội. Ông Thiệu trở thành vật cản lớn cho những toan tính đó. Theo hồi ký của nhân viên CIA tại Sài Gòn Frank Snepp, ngày 13-4 trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar đã gửi về Washington một bản tường trình có chủ ý: "Nhiều sĩ quan cao cấp và nhân vật chính trị muốn tổng thống Thiệu từ chức để tránh một thất bại quân sự hoàn toàn". Bản tường trình đó có nhắc đến hai từ "đảo chính".
Và tấm bia mộ chính trị của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã được tạc vào chiều 17-4 khi đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin quyết định đề nghị với Nhà Trắng một phương án: Thiệu phải ra đi! Theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (người sau này đã phỏng vấn Martin nhiều lần tại Mỹ), đại sứ Martin đã gửi mật điện cho ngoại trưởng Kissinger như sau: "Tôi sẽ cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô tư là nếu ông ta không chịu xuống thì các tướng lĩnh dưới quyền ông ta sẽ bắt buộc ông ta làm điều này. Có một cách rút lui êm đẹp nhất là tự ý ông từ chức…".
Ba ngày sau, đại sứ Martin đến gặp ông Thiệu để nói thẳng điều đó, trong cuộc trò chuyện căng thẳng kéo dài hơn một giờ rưỡi.
... Tối đó (tức ngày 20-4), tổng thống Thiệu quyết định từ chức. Và trưa ngày hôm sau, ông ta triệu tập phó tổng thống Trần Văn Hương và tướng Trần Thiện Khiêm đến dinh Độc Lập, báo cho hai người đó biết ông ta sẽ tuyên bố từ chức tối nay. Thiệu chỉ có một yêu cầu: việc chuyển giao quyền lực được thực hiện theo đúng hiến pháp để tránh lộn xộn...
Tại sao Frank Snepp biết chính xác nội dung cuộc gặp đó và thuật lại như trên trong cuốn Decent Interval (đã được dịch ra tiếng Việt với tựa đề Cuộc tháo chạy tán loạn)? Câu trả lời thật đáng kinh ngạc: máy nghe lén của CIA đặt bí mật trong phòng làm việc của tổng thống Thiệu tại dinh Độc Lập đã truyền đi từng lời nói về trụ sở CIA tại Sài Gòn.
Tối 21-4, sau khi tuyến phòng thủ quan trọng nhất của quân đội Sài Gòn là Xuân Lộc đã bị quân giải phóng chọc thủng, ông Nguyễn Văn Thiệu lên tivi tuyên bố từ chức tổng thống. Trong cuộc diễn thuyết kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ, ông ta vừa khóc lóc bảo vệ mình trước lịch sử, vừa lên án gay gắt sự phản bội của chính quyền Mỹ:
... Nếu tôi không nói rằng các ông đã bị cộng sản đánh bại ở VN thì tôi cũng xin thưa rằng các ông cũng không thắng được họ. Nhưng các ông đã tìm được một lối tháo lui trong danh dự. Và bây giờ khi quân đội chúng tôi thiếu súng ống, đạn dược, trực thăng, phi cơ và B52, các ông lại bắt chúng tôi làm một việc như lấp cạn bể Đông, tỉ như các ông cho tôi ba đồng bạc mà bắt chúng tôi lấy vé máy bay hạng nhất, thuê phòng ngủ 30 đồng một ngày, ăn bốn năm miếng bít-tết và uống bảy tám ly rượu vang một ngày. Thật là phi lý !... (trích nguyên văn)
Và trong cuộc diễn thuyết cuối cùng trên tivi đó, ông Thiệu cũng đã chửi thẳng Hoa Kỳ là "một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo".
Giây phút "nồng ấm" của ông Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Mỹ Lyndon Johnson - Ảnh tư liệu Ông Thiệu đã ra đi như thế nào?
Sau khi từ chức tổng thống, ông Thiệu dọn về ở nhà quốc khách trong khu Hải quân (nay là đường Tôn Đức Thắng). Tài sản riêng của gia đình ông đã được chuyển đi trước đó. Dù không còn quyền hành gì, nhưng sự có mặt của ông Thiệu tại Sài Gòn trong những ngày căng thẳng nhốn nháo đó không phải là một điều hay ho đối với nhiều người.
Theo lời kể của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong cuốn The Palace File (Hồ sơ mật dinh Độc Lập), tân tổng thống Trần Văn Hương đã gọi điện thoại khuyên ông Thiệu nên sớm rời khỏi VN. Ông Hương cũng đề nghị đại sứ Mỹ Martin dàn xếp giùm cho chuyến ra đi của ông Thiệu.
Cùng lúc ấy, ông Nguyễn Văn Kiểu, em ông Thiệu, cũng bay về nước khuyên ông Thiệu sớm ra đi và địa chỉ đến an toàn nhất là Đài Loan (vì ông Kiểu đang làm đại sứ VN cộng hòa tại Đài Loan). Cũng theo tiến sĩ Hưng, để sự ra đi của ông Thiệu được hợp pháp, tổng thống Hương đã ký quyết định cử ông Thiệu làm đặc sứ của VN cộng hòa đi Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (ông Tưởng Giới Thạch mất ngày 5-4).
Ngày 25-4, ông Thiệu ra đi lặng lẽ không cờ không trống. Và cũng không có một quan chức người Việt nào tiễn đưa ông cựu tổng thống hết thời. Trớ trêu thay, những người đưa ông ra sân bay lại là các nhân viên CIA Mỹ tại Sài Gòn, trong đó có Frank Snepp. Frank Snepp chính là người lái xe đưa ông Thiệu ra phi trường Tân Sơn Nhất.
Đó là một chuyến ra đi bí mật trong đêm. Nhưng ông Thiệu có mang theo 16 tấn vàng không? Theo lời Frank Snepp thuật lại trong cuốn Decent Interval, vào chiều 25-4, nhóm CIA tại Sài Gòn bất ngờ nhận được lệnh đưa cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra nước ngoài trên một chuyến bay đặc biệt của quân đội Mỹ.
...Khoảng 20g30, bốn người chúng tôi (tức bốn tay nhân viên CIA tại Sài Gòn: Charles Timmes, Thomas Polgar, Joy Kingsley và Frank Snepp - NV) đi ba xe đến bộ tổng tham mưu Nam Việt Nam. Nhà Khiêm nằm trong khu vực này. Chúng tôi không thể không tính đến việc tái diễn cuộc ám sát như đã xảy ra đối với anh em Diệm - Nhu trước đó. Chúng tôi vạch kế hoạch: nếu có những sĩ quan trẻ nào đó trong quân đội Sài Gòn ngăn chúng tôi lại trên đường đi và có ý định bắt, tức thì chúng tôi sẽ nổ súng…
Hơn 21 giờ, đoàn xe CIA dừng trước nhà ông Khiêm, đợi ở đó. Một lát sau, chiếc Mercedes đưa đến "một người tầm thước, tóc bạc và chải lật ra sau, mặt bôi kem, quần áo chỉnh tề". Đó là ông Nguyễn Văn Thiệu, mà theo Frank Snepp, trông giống một người mặc quần áo quảng cáo trên một tạp chí châu Á hơn là một nguyên thủ quốc gia.
...Ít phút sau, có mấy người lực lưỡng, mỗi người xách một vali nặng đi đến chỗ xe chúng tôi và xếp vali vào.
Tiếp đó Thiệu, Khiêm, Polgar, Timmes cùng một vài nhân vật người Việt (phụ tá và cận vệ) bước nhanh ra khỏi cửa nhà Khiêm rồi chui vào xe. Thiệu ngồi xe tôi, ở ghế đằng sau, giữa Timmes và một người Việt. Timmes khuyên ông Thiệu: tổng thống ngồi thấp xuống để được yên ổn!
Đoàn xe lao nhanh về phía sân bay Tân Sơn Nhất. Trên đường băng, một chiếc máy bay bốn động cơ C118 của không quân Mỹ đang đậu ở đấy. Đại sứ Mỹ Martin và các tay súng thủy quân lục chiến Mỹ mặc thường phục đã có mặt ở đó từ lâu. Ông Thiệu và ông Khiêm rời xe, lặng lẽ lên máy bay. Những nhân viên tùy tùng theo sau, tay xách vali…
Như vậy, theo Frank Snepp, chuyến bay đặc biệt đêm 25-4 chở ông Thiệu qua Đài Loan không mang theo 16 tấn vàng. Bởi không thể nào nhét số lượng vàng thỏi khổng lồ ấy vào mấy chiếc vali xách tay được. Còn trước đó một ngày, bà Mai Anh, vợ ông Thiệu, cũng đã bay sang Bangkok (Thái Lan) trên một chuyến bay thương mại bình thường.
BÙI THANH
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:43:38 GMT 9
Không có ánh sáng cuối đường hầm
Từ phải sang: Tổng thống Gerald Ford, phó tổng thống Nelson Rockefeller và ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger. Một không khí căng thẳng bao trùm Nhà Trắng vào những ngày cuối tháng 4-1975 trước những tin tức liên quan đến VN. Ảnh tư liệu TT - Trong những ngày tháng 4-1975, trước bước tiến thần tốc của quân giải phóng, chính quyền Sài Gòn ra sức tìm kiếm những nguồn tài chính mới để mua thêm đạn dược, vũ khí. Nhưng tiền ở đâu ra? Viện trợ của Mỹ, những mỏ dầu hay vàng dự trữ?
>> Kỳ 1: Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ?
>> Kỳ 2: Chuyến ra đi bí mật
“Nắm lấy bất cứ cái phao nào...”
Ngày 25-3-1975, ông vua Faisal của Saudi Arabia bị cháu mình ám sát chết.
Nhiều tờ báo ở Sài Gòn lúc ấy đã đưa chi tiết chuyện này ở mục thời sự quốc tế, như một “breaking news” (tin nóng) ở xứ người. Chỉ vậy thôi.
Trong khi đó, lật lại những chồng báo cũ tháng ba, tháng tư năm ấy, người ta thấy mục quảng cáo rao vặt “bán nhà ở Sài Gòn” tăng vọt, đồng thời xuất hiện một mục mới chiếm nhiều diện tích trên các nhật báo: “Tìm người thân mất tích” trong các đợt di tản từ miền Trung vào Sài Gòn.
Nhưng cái chết của vua Faisal lại làm choáng váng tổng thống VN cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu và các cộng sự ở dinh Độc Lập!
Vì sao vậy? Vì nó liên quan đến những cam kết bí mật về tài chính của ông vua xứ dầu lửa này với chính quyền Sài Gòn. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tổng trưởng kế hoạch VN cộng hòa lúc ấy, đã nói về sự cam kết đó rằng: “Khi sắp chết đuối, ta nắm lấy bất cứ cái phao nào nổi!”.
Có nghĩa là chính quyền Sài Gòn lúc đó đang “sắp chết đuối” về mặt tài chính. Các tài liệu lưu trữ cho biết rằng cái túi viện trợ khổng lồ của Mỹ ngày càng xẹp đi nhanh chóng và sắp sửa trống rỗng. Để làm đầy lại cái túi đó, ông Thiệu trông chờ vào những cái phao.
Và một cái phao có thể nổi như dầu là vua Faisal. Cuốn Hồ sơ mật dinh Độc Lập của Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L.Schecter viết: Đầu năm 1975 vua Faisal đã bí mật đồng ý trên nguyên tắc cho chính quyền Sài Gòn vay dài hạn mấy trăm triệu USD với lãi suất thấp.
Số tiền này được dùng để vực dậy nền kinh tế và mua thêm nhiên liệu, đạn dược cho quân đội Sài Gòn. Một cách thức khác cũng được thỏa thuận với Faisal: Saudi Arabia sẽ đứng ra bảo đảm cho VN cộng hòa vay viện trợ quân sự của Mỹ để mua thêm súng đạn từ Mỹ (cho tương thích với vũ khí Mỹ đã đổ vào miền Nam trước đó).
Đùng một cái, vua Faisal bị ám sát chết. Kế hoạch đó đã bị phá sản ngay khi bắt đầu thực thi.
Nhưng thật ra cái phao lớn nhất mà ông Thiệu cố vói tới lúc đó chính là Quốc hội Mỹ. Trong những ngày hấp hối của chế độ VN cộng hòa tháng 4-1975, ông Thiệu đã tiếp đón tham mưu trưởng lục quân Mỹ Frederick C. Weyand tại Sài Gòn. Vị tướng Mỹ cùng êkip sang VN để tìm biện pháp khẩn cấp cứu lấy chính quyền VN cộng hòa.
Theo nhân viên chiến lược CIA Frank Snepp trong cuốn Decent interval (Cuộc tháo chạy tán loạn), trong cuộc gặp với tướng Weyand, ông Thiệu đã đề nghị Mỹ tăng viện trợ quân sự khẩn cấp để chặn bước tiến của quân giải phóng. Ngoài ra, ông Thiệu còn có thêm một yêu cầu đáng sợ: cho máy bay B-52 của quân đội Mỹ ném bom rải thảm để bảo vệ Sài Gòn.
Sau đó, tướng Weyand bay về California tường trình với tổng thống Gerald Ford và ngoại trưởng Henry Kissinger: phải viện trợ quân sự khẩn cấp cho chính quyền Sài Gòn 722 triệu USD.
... Ngày 10-4 giờ Washington, tổng thống Ford đọc bài diễn văn quan trọng trước quốc hội về tình hình VN và Campuchia. Ông ta yêu cầu quốc hội chấp thuận ngân khoản 722 triệu USD để viện trợ khẩn cấp cho VN cộng hòa và còn ấn định hạn chót để quốc hội đưa ra quyết định là 19-4-1975. “Đúng như dự đoán của đại sứ VNCH Trần Kim Phượng trong bức điện đánh về cho ông Thiệu: thỉnh cầu một ngân khoản lớn như thế chắc chắn sẽ “gây ra kinh hoàng và la ó tại Quốc hội Mỹ” - tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nhớ lại như thế trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập.
Còn thượng nghị sĩ Mỹ Jackson đã tuyên bố thẳng thừng về yêu cầu của tổng thống Ford trên tờ New York Times ngày 12-4: “Yêu cầu đó chết rồi! Không một ai trong phe mà tôi biết lại ủng hộ nó”.
... Ở đây xin mở ngoặc nói thêm một chút về những giếng dầu đầu tiên. Việc thăm dò và khai thác dầu khí ở miền Nam bắt đầu từ năm 1973. Rất nhiều hãng dầu quốc tế nhảy vào. Chỉ qua hai vòng đấu thầu năm đó, chính phủ VN cộng hòa đã thu được 17 triệu USD và đến năm 1974, số tiền thu được lên đến 30 triệu USD. Việc phát hiện mỏ dầu ở vùng biển VN đã làm nức lòng bao người VN (nhưng ngay sau đó, vào tháng 1-1974, Trung Quốc đã đưa hải quân tấn công quân đội Sài Gòn và xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa cho tới nay). Ngày 17-8-1974, Hãng Pecten khoan trúng dầu ở lô 08-LTD, đặt tên là Hồng-X, rồi giếng thứ hai là Dừa 1-X. Tới tháng 10-1974, Hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ 1. Hãng Marathon và Union Texas quyết định khoan dầu vào cuối năm 1974, còn Hãng Esso và Sunningdale dự định bắt tay vào tháng 4-1975... Thế chấp cả mỏ dầu và vàng dự trữ
Thế là xong, cái phao của chú Sam đã tự xì trước khi ông Thiệu với tới nó.
Nhưng còn nước còn tát. Ngay sau khi được tin vua Faisal bị ám sát chết, tổng thống Thiệu đã chỉ thị cho ngoại trưởng Vương Văn Bắc bay sang Saudi Arabia. Trong cuốn sách Khi đồng minh tháo chạy xuất bản ở Mỹ năm 2005, TS Nguyễn Tiến Hưng cho biết mục đích chuyến đi của ngoại trưởng Bắc là xin quốc vương Haled (vừa kế vị vua Faisal) tiếp tục đồng ý cho VN cộng hòa vay tiền như phụ vương của ông ta đã hứa trước khi bị hạ sát.
Trong bức điện gửi về cho ông Thiệu ngày 14-4, ông Bắc thông báo là đã “nhận được những bảo đảm vững chắc từ phía quốc vương mới và thủ tướng Saudi Arabia”. “Tôi hi vọng là quyết định về khoản tiền và phương thức của viện trợ sẽ được Chính phủ Saudi Arabia cứu xét sớm” - ngoại trưởng Bắc lạc quan như vậy.
Cũng theo TS Nguyễn Tiến Hưng, ông Thiệu biết rõ rằng việc thương thuyết vay tiền của Saudi Arabia phải mất ít nhất ba bốn tháng, trong khi “số mạng” của VN cộng hòa lúc đó đang được tính từng ngày một. Do đó, tổng thống Thiệu bèn tính tới một nước cờ khác: bắt tay vào kế hoạch vay nợ của Mỹ, với số vay khổng lồ - 3 tỉ USD. Cần nói rõ đây là vay, chứ không phải xin viện trợ Mỹ như trước đó.
TS Nguyễn Tiến Hưng nhớ lại:
“... Ngày 14-4-1975, ông Thiệu bảo tôi thảo gấp một lá thư cho tổng thống Ford đề nghị vay 3 tỉ USD trong ba năm, chia ra mỗi năm 1 tỉ USD. Theo kế hoạch, nếu tại Washington tôi dò xét thấy có triển vọng về khoản vay đó thì đánh điện về ngay để ông Thiệu ký thư và trao cho đại sứ Mỹ Martin”.
Ngày hôm sau, 15-4-1975, tổng trưởng kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng bay sang Mỹ để cùng ngoại trưởng Vương Văn Bắc xúc tiến “lobby” (vận động hành lang) vụ vay 3 tỉ USD nói trên. Ông Hưng đã mang theo lá thư của ông Thiệu gửi tổng thống Ford, trong đó có đoạn: “Tôi trân trọng thỉnh cầu ngài kêu gọi quốc hội cho VN cộng hòa vay dài hạn 3 tỉ USD, chia làm ba năm, lãi suất do quốc hội ấn định, và xin triển hạn 10 năm trước khi trả vốn và lời. Tài nguyên dầu hỏa và canh nông của VN cộng hòa sẽ dùng làm tiền thế chân cho món nợ này”.
Tài nguyên canh nông nói trên chính là tiềm năng xuất khẩu gạo của miền Nam. Còn tài nguyên dầu hỏa? Đó là mỏ dầu có trữ lượng lớn vừa phát hiện ở thềm lục địa VN.
Tuy nhiên, ngoài tiềm năng dầu lửa và xuất khẩu gạo, trong cuốn Khi đồng minh tháo chạy, TS Nguyễn Tiến Hưng đã khẳng định thêm hai khoản thế chân khác được đưa ra khi mặc cả với người Mỹ.
Đó là số tiền mấy trăm triệu USD mà quốc vương Haled hứa cho vay. Còn khoản thế chân cuối cùng chính là 16 tấn vàng dự trữ đang nằm trong hầm của Ngân hàng Quốc gia ở bến Chương Dương.
BÙI THANH
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:46:45 GMT 9
Thụy Sĩ hay New York?
Dinh Độc Lập, ngày 1-4-1975. Một không khí nặng nề và căng thẳng bao trùm cuộc họp của các nhân vật chóp bu chính quyền Sài Gòn trước tin tức nghiêm trọng về việc quân giải phóng đã tiến vào giải phóng Đà Nẵng.
Tự thuật trong cuốn Hồ sơ mật Dinh Độc Lập (The Palace File), tổng trưởng kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng cho biết trong cuộc họp đó tướng Cao Văn Viên đã đề nghị dùng hỏa lực mạnh, vũ khí hạng nặng để ngăn bước tiến của "Việt Cộng".
Nhưng trong tình hình tài chính cạn kiệt lúc đó, ông Hưng đã đề nghị "dùng số dự trữ của Ngân hàng quốc gia, bằng vàng hay ngoại tệ, để mua thêm đạn dược" cho quân đội Sài Gòn. Không ai thảo luận tiếp.
Sang hôm sau, 2-4, nội các nhóm họp. Ông Nguyễn Tiến Hưng lại nêu tiếp việc di chuyển và sử dụng số vàng dự trữ vào "nỗ lực phòng thủ cuối cùng".
Ông ta cũng trình bày với nội các về thông lệ của các quốc gia trên thế giới thường ký thác dự trữ vàng tại Ngân hàng Thanh toán quốc tế ở Thụy Sĩ hoặc Ngân hàng Dự trữ liên bang tại New York. Nội các đã đi đến quyết định chuyển vàng một cách bí mật ra nước ngoài. Nơi đến là Thụy Sĩ - Ngân hàng Bank of International Settlement.
Thống đốc Ngân hàng quốc gia lúc đó là ông Lê Quang Uyển đã được lệnh thi hành nhiệm vụ bí mật này và không cho người Mỹ biết. Ông Uyển lập tức liên lạc với các hãng hàng không TWA, Pan Am và Hãng bảo hiểm Lloyd's ở London (Anh).
Nhưng thật không ngờ, kế hoạch tuyệt mật đó ngay lập tức đã lọt ra "radio catinat" và đến tai các phóng viên nước ngoài thường trú tại Sài Gòn. Và từ ngày 5-4, một số tờ báo nước ngoài đã bắt đầu đăng tải những bản tin sốt dẻo đó, với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ai đã "xì" tin đó ra ngoài? Không ai biết, nhưng có một điều chắc chắn là phòng làm việc của ông Thiệu ở dinh Độc Lập đã bị cài rất nhiều "rệp" nghe lén. Nhưng CIA có can dự vào vụ nghe lén và làm lộ kế hoạch bí mật này?
Trong cuốn Decent Interval (Cuộc tháo chạy tán loạn), nhân viên CIA tại Sài Gòn Frank Snepp đã tiết lộ: "Trước khi 16 tấn vàng được chuyển đi Thụy Sĩ, có một người đã báo tin cho sứ quán Mỹ biết. Một cộng tác viên của đại sứ Martin cho là không thể tin được ông Thiệu nên đã tố cáo với giới báo chí".
Nhưng cũng có tài liệu cho rằng chính những người chống đối lại việc đưa 16 tấn vàng tài sản quốc gia ra nước ngoài đã bắn tin cho giới báo chí. Như vậy, tin tức về việc chuyển vàng đi Thụy Sĩ mà báo chí loan tin lúc đó là sự thật, mặc dù chính quyền Sài Gòn đã liên tục bác bỏ.
Kế hoạch chuyển vàng đi Thụy Sĩ vì thế đã bị vỡ. Các hãng hàng không và bảo hiểm quốc tế từ chối phi vụ này vì sợ báo chí công kích.
Cuối cùng, dù không muốn, dinh Độc Lập vẫn buộc phải nhờ cậy đến người Mỹ. Theo Frank Snepp, đại sứ Mỹ Martin đã đề nghị ông Thiệu chuyển số vàng đó sang Mỹ. Ông Thiệu đồng ý.
Ngày 16-4, đại sứ Martin đã điện về Washington xin một chuyến bay quân sự đặc biệt được bảo hiểm để chở số vàng đó đi New York. Nhưng không quân Mỹ và Ngân hàng dự trữ liên bang New York đã không dễ dàng tìm được hợp đồng bảo hiểm cho một khối tài sản lớn như thế từ một nước đang có chiến tranh. Cuối cùng thì Bộ Ngoại giao Mỹ cũng dàn xếp xong vấn đề bảo hiểm.
Cái gì của Việt Nam phải để lại Việt Nam!
Ngày 25-4-1975, một chiếc máy bay quân sự từ căn cứ Clark (Philippines) đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất và sẵn sàng bốc 16 tấn vàng ra khỏi VN "trước 7 giờ sáng 27-4".
Nhưng tình thế đã đổi thay: lúc chiếc máy bay đó đáp xuống Tân Sơn Nhất, ông Thiệu đã từ chức tổng thống và ông Trần Văn Hương lên nắm quyền. Những người có thẩm quyền lúc đó đã không chịu làm theo ý ông Thiệu nữa! Các tài liệu lưu trữ nhắc nhiều đến cái tên Nguyễn Văn Hảo - phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm tổng trưởng canh nông và kỹ nghệ.
Ông Nguyễn Văn Hảo lúc đó là người giữ liên lạc giữa chính quyền Sài Gòn và sứ quán Mỹ, hoàn toàn không muốn chuyển 16 tấn vàng ra khỏi VN.
Trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập, TS Nguyễn Tiến Hưng mô tả như sau: Hảo vào gặp tổng thống Trần Văn Hương và dọa rằng: "Nếu tổng thống cho phép chuyển số vàng ấy ra ngoại quốc thì trong trường hợp tướng Minh (tức ông Dương Văn Minh) lên thay, tổng thống sẽ bị lên án là phản quốc!".
Ông Hương hoảng sợ và đồng ý phải giữ vàng lại. Ngay sau đó, Hảo điện cho cố vấn kinh tế đại sứ quán Mỹ Denny Ellerman, nói rằng: tổng thống Trần Văn Hương đã quyết định không chuyển vàng ra khỏi VN!...
Đại sứ Martin bất ngờ trước tin này. Theo hồi ký của Frank Snepp, đại sứ Martin đã yêu cầu máy bay tiếp tục nằm chờ ở Tân Sơn Nhất, đồng thời cố thuyết phục ông Hương hủy bỏ lệnh ấy. Không có kết quả.
Thậm chí trong một cuộc họp, ông Hương còn nói: "Cái gì của VN phải để lại VN!". Martin xoay qua tác động ông Nguyễn Văn Hảo nhưng cũng không thành công. "Hảo đã không muốn chuyển vàng đi, có thế thôi. Ông ta đã tưởng tượng là có thể sống chung được với những người cộng sản", Martin sau này kể lại.
Quả thật lúc ấy đại sứ Mỹ Martin rất điên khi không lấy được 16 tấn vàng chở qua Mỹ. Đến mức, trong cuộc trả lời phỏng vấn TS Nguyễn Tiến Hưng ngày 27-3-1985, Martin thú nhận một điều điên rồ: "Vào lúc chót, tôi (tức Martin - NV) có nghĩ đến việc liên lạc với người bạn cũ ở Thái Lan là tư lệnh không quân Dhawee Chulasapaya. Sau đó, kêu gọi thêm một số thủy quân lục chiến Thái Lan bay qua Sài Gòn để giải phóng số vàng, mang nó đi. Nhưng chỉ nghĩ thế thôi… Vàng vẫn còn lại ở đó".
Vàng còn ở đó là ở đâu, khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn? Theo TS Nguyễn Tiến Hưng, 16 tấn vàng đã được đóng thùng sẵn ở ngân hàng. Còn theo Frank Snepp, "16 tấn vàng nằm trong khoang một chiếc máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất lúc quân của tướng Dũng (tức đại tướng Văn Tiến Dũng - NV) tràn vào Sài Gòn".
BÙI THANH
Cả hai đều không chính xác. Vàng không đóng thùng gì cả và cũng không nằm ở sân bay Tân Sơn Nhất. Vậy nó ở đâu? Những nhân chứng của ngày 30-4 sẽ trả lời câu hỏi này trong số báo tới.
Ngày 27-1-1976, cựu đại sứ Martin đã giải trình về chuyện 16 tấn vàng trước Quốc hội Mỹ như sau:
"...Những sắp xếp tạm thời đã được thực hiện để chuyển số vàng dự trữ của VN cộng hòa sang Ngân hàng Bank of International Settlement (BIS) ở Basel bên Thụy Sĩ nhằm có thể làm thế chấp cho một khoản vay mua đạn dược tại châu Âu. Khi tin này lộ ra thì không có cách nào chở vàng đi bằng đường hàng không thương mại được nữa.
Bởi vậy đã có những sắp xếp tiếp theo để chuyển nó sang tài khoản (của VN cộng hòa - NV) tại Ngân hàng Dự trữ liên bang New York (Federal Reserve Bank of New York).
Chẳng may, đang khi có sự chậm trễ về phía Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm nguồn bảo hiểm (cho việc chuyên chở số vàng) thì tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra đi. Ông phó thủ tướng (Nguyễn Văn Hảo) và tổng trưởng tài chính đã không xin được phép của tân tổng thống (Trần Văn Hương) để chuyển số vàng này đi...".
(Nguồn: Khi đồng minh tháo chạy, Nguyễn Tiến Hưng)
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 5, 2007 4:49:43 GMT 9
Vàng đổi chủ
Từ trái sang: ông Nguyễn Văn Binh, ông Nguyễn Hữu Hạnh, ông Dương Văn Minh, ông Nguyễn Văn Hảo (đứng phía sau ông Minh) và ông Vũ Văn Mẫu đang nói chuyện với đại diện quân giải phóng trưa 30-4-1975. (Ảnh do gia đình nhà báo Boris Gallash tặng đại tá chính ủy Bùi Văn Tùng) TT - Kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra khỏi VN đã không thành. Chiếc máy bay của không quân Mỹ cất cánh từ Tân Sơn Nhất quay lại căn cứ Clark (Philippines) ngày 27-4 hoàn toàn trống rỗng. Đó cũng là lúc quân giải phóng tiến sát Sài Gòn.
16 tấn vàng vẫn nằm trong kho cho đến trưa 30-4-1975.
>> Kỳ 1: Ông Thiệu đã chuyển 16 tấn vàng sang Mỹ? >> Kỳ 2: Chuyến ra đi bí mật >> Kỳ 3: Không có ánh sáng cuối đường hầm >> Kỳ 4: Kế hoạch bí mật từ dinh tổng thống
“Tôi đến đây vì 16 tấn vàng...”
Khoảng 8g ngày 30-4, những chiếc xe tăng T54 đầu tiên thuộc lữ đoàn 203 của quân giải phóng lao nhanh về hướng cầu Sài Gòn.
Cùng lúc đó, tổng thống Dương Văn Minh (lên nắm quyền thay ông Trần Văn Hương ngày 28-4), phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng trưởng thông tin Lý Quí Chung cùng những người thuộc “nhóm ông Minh” và lực lượng thứ ba đang có mặt đông đủ tại phủ thủ tướng (số 7 Lê Duẩn hiện nay). Công việc quan trọng nhất của ông Minh và cộng sự lúc này là soạn thảo và thu âm lời tuyên bố về việc ngưng bắn, chờ bàn giao chính quyền cho chính phủ cách mạng.
Trong khi thủ tướng Vũ Văn Mẫu đang thảo lời tuyên bố nói trên thì có một nhân vật xuất hiện. Đó là tiến sĩ kinh tế Nguyễn Văn Hảo. Ông Hảo là phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm tổng trưởng canh nông và kỹ nghệ của chính phủ Nguyễn Bá Cẩn, nên khi ông Minh lên làm tổng thống, ông Hảo sẽ không còn quyền hành chức trách nữa. Vậy ông đến đây để làm gì? Dân biểu Nguyễn Văn Binh (có mặt tại phủ thủ tướng và dinh Độc Lập ngày 30-4-1975) kể lại với Tuổi Trẻ vào tháng 4-1995:
“...Lúc đó tôi đang trò chuyện với tổng thống Dương Văn Minh. Cuộc trò chuyện phải tạm dừng vì có người cần gặp tôi ngoài cổng. Đó là tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo. Ông Hảo lúc đó đang phân bua gì đó với tốp lính gác. Thấy tôi bước ra, ông Hảo liền nói:
- Anh Binh, tôi cần gặp đại tướng có chuyện quan trọng, liên quan đến khoản tài sản lớn của quốc gia.
- Tài sản gì?
- Vàng! Tôi đến đây vì chuyện đó...
Tôi đưa ông Hảo vào gặp tổng thống Dương Văn Minh và tiến sĩ kinh tế Nguyễn Văn Diệp. Sau đó, ông Hảo và ông Diệp trao đổi khá lâu về chuyện 16 tấn vàng mà ông Hảo biết rất rõ”.
9g30, đoàn xe đưa ông Dương Văn Minh và cộng sự từ phủ thủ tướng về dinh Độc Lập. Ông Nguyễn Văn Hảo cũng đi theo.
Gần hai tiếng đồng hồ sau, xe tăng quân giải phóng tiến vào sân dinh. Ông Minh, ông Huyền, ông Mẫu, ông Binh và hơn 10 người khác (kể cả ông Nguyễn Văn Hảo) bị tạm giữ cho đến chiều 2-5-1975, sau khi đại diện Ủy ban quân quản tuyên bố: “Kể từ giờ phút này, các anh là khách của chúng tôi, các anh sẽ được tự do về nhà sống trong hòa bình”.
Nhưng trước khi được trả tự do vào tối 2-5, ông Nguyễn Văn Hảo cứ đi đi lại lại trong phòng, với “tâm sự” về 16 tấn vàng chưa được ai lưu ý. Khi biết ông Minh, ông Huyền, ông Mẫu được mời lên gặp gỡ riêng với tướng Trần Văn Trà, ông Hảo cũng đã đề nghị được làm việc về một chuyện quan trọng. Cuối cùng, ông Hảo đã được mời lên lầu gặp lãnh đạo Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định. Câu chuyện liên quan đến 16 tấn vàng đã được ông Hảo trình bày chi tiết và đề nghị Ủy ban quân quản tiến hành tiếp quản và kiểm kê ngay.
Tiếp quản kho vàng 16 tấn vàng lúc đó nằm ở đâu?
Ông Hoàng Minh Duyệt - Ảnh: T.T.D. Vẫn nằm ở trụ sở Ngân hàng Quốc gia. Cả hai chi tiết mà Frank Snepp và tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nêu ra trong Cuộc tháo chạy tán loạn và Hồ sơ mật dinh Độc Lập đều thiếu chính xác. Không có chuyện 16 tấn vàng đã được đóng thùng sẵn (chờ chở đi) và lại càng không có chuyện “số vàng ấy nằm ở sân bay khi quân của tướng Dũng tràn vào Tân Sơn Nhất”.
Nó vẫn nằm nguyên vẹn dưới tầng hầm ở số 17 Bến Chương Dương.
Vào chiều 30-4, sau khi tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng và Sài Gòn được giải phóng hoàn toàn, trụ sở Ngân hàng Quốc gia vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt bởi các nhân viên ngân hàng và các cảnh sát viên, dưới sự chỉ huy của một thiếu tá. Họ đã không rời vị trí vì nhiệm vụ của họ là bảo vệ an toàn kho tiền và vàng dự trữ, không để nó bị xâm nhập, cướp phá giống như nhiều tòa nhà và trụ sở lân cận. Họ giữ vị trí cho đến khi những người lính giải phóng xuất hiện.
Người kể chi tiết đó là ông Hoàng Minh Duyệt, chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân hàng Quốc gia. Là chuẩn úy thuộc lực lượng công an vũ trang, ông Duyệt được điều động vào Tây Ninh, công tác tại đơn vị C282 Q.
“Chúng tôi được giao nhiệm vụ vào tiếp quản các ngân hàng ở Sài Gòn - Gia Định. Chiều tối 30-4, đơn vị chúng tôi vào tới nội thành và tạm trú tại Trường Cao Thắng. Lúc đó trong Trường Cao Thắng có rất đông đồng bào miền Trung di tản cũng tạm trú ở đó. Thoạt đầu bà con rất sợ chúng tôi (chắc do tin đồn Việt cộng sẽ “tắm máu”), nhiều thiếu niên bỏ trốn khi chúng tôi vào. Nhưng rồi tối đó, chúng tôi cùng đồng bào trò chuyện ca hát suốt đêm...
Sáng 1-5, theo phân công, đơn vị chúng tôi đến trụ sở Ngân hàng Quốc gia số 17 Bến Chương Dương. Trước cửa trụ sở lúc đó ngổn ngang súng ống, quần áo, đồ đạc nhà binh. Chúng tôi tiến vào bên trong ngân hàng. Các nhân viên bảo vệ ngân hàng vẫn còn đó, kể cả viên thiếu tá cảnh sát.
Chúng tôi cho họ về nhà và triển khai đội hình bảo vệ tòa nhà. Lúc ấy, thú thật là chúng tôi không hề biết trong đó có 16 tấn vàng, chỉ biết đây là mục tiêu cần bảo vệ nghiêm ngặt trong những ngày đầu giải phóng. Tôi cũng không biết ông Nguyễn Văn Hảo là ai, nhưng chúng tôi được lệnh của cấp trên là phải cử hai chiến sĩ đi bảo vệ ông Hảo. Vào thời gian ấy, tôi thấy ông Hảo thỉnh thoảng có đến ngân hàng làm việc gì đó.
Tôi chỉ biết được tầng hầm chứa vàng ở đây khi tham gia nhóm kiểm kê. Nhóm kiểm kê lúc đó có tôi, anh Lân và anh em trong đơn vị; về phía Ban kinh tài có anh Huỳnh Kỳ Thanh, cô Tiếp... Về phía Ngân hàng Quốc gia có hai anh viên chức cũ ở đây là anh Huỳnh Bửu Sơn và anh Lê Minh Kiêm.
Tầng hầm chứa vàng sáng choang, khá rộng, rộng đến mức có thể... đá bóng được. Tiền và vàng được cất giữ trong những tủ sắt đặt trong các hầm. Mỗi cửa hầm đều có ổ khóa riêng, sau lớp cửa đó là cửa hầm tự động với khóa bằng mã số. Lần đầu tiên tôi thấy vàng nhiều như thế, thấy được những thỏi vàng như thế.
Tôi thò tay định cầm thử một thỏi lên, anh Huỳnh Bửu Sơn thấy vậy phì cười: “Không lấy thế thì khó mà nhấc được”. Quả thật, một thỏi vàng coi nhỏ vậy mà nặng khoảng 13kg. Tôi lại thấy nhiều loại đồng tiền vàng rất đẹp, rất lạ và nghe nói rất quí, cả những cúc áo bằng vàng thật độc đáo.
Chúng tôi nhìn rất thích nhưng chẳng ai “xơ múi” dù chỉ một đồng tiền vàng. Mà thật ra không ai trong chúng tôi có ý nghĩ gì bậy bạ, bởi mọi người đều rất vô tư và trong sáng. Cả những anh em viên chức cũ của ngân hàng cũng vậy, như anh Huỳnh Bửu Sơn chẳng hạn. Tôi và Sơn lúc ấy còn rất trẻ và cùng lứa tuổi với nhau.
Chỉ cách đó vài hôm, chúng tôi là hai người thuộc hai chế độ khác nhau, còn bây giờ chúng tôi hay ngồi đánh cờ và tâm sự với nhau trong hòa bình... Sơn nói: “Mình sẽ không ra đi, mình ở lại VN và góp chút sức mình cho xứ sở...”.
Chúng tôi lúc ấy ngồi trên một đống vàng, nhưng những khao khát xen lẫn suy tư về ngày mai còn nặng hơn số vàng 16 tấn kia”.
Ông Hoàng Minh Duyệt đã nhắc đến ông Huỳnh Bửu Sơn, người quản lý kho vàng nhiều năm với tư cách là lãnh đạo Nha phát hành Ngân hàng Quốc gia. Trong số báo tới, chúng ta sẽ nghe câu chuyện và tâm sự của ông Huỳnh Bửu Sơn trong những ngày đó, cũng như chi tiết về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng trước khi giao cho chính quyền cách mạng.
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 4:22:29 GMT 9
Cộng sản xâm lăng miền Nam: dưới thời đệ I Cộng Hòa (1954-1963) ( Trong tác phẩm: ‘’ Nhìn lại cuộc chiến tranh VN 1954-75 ’’ của GS Lê Đình Cai, sẽ xuất bản. Diễn Đàn Quốc Tế khởi đăng thử một đoạn để lấy ý kiến độc giả trước khi quyết định các phần kế tiếp ) Tác giả: GS Lê Đình Cai Đối với cộng sản, Hiệp định Genève (21-7-54) chỉ là một giai đoạn tạm thời trên một tiến trình vạch sẵn nhằm nhuộm đỏ toàn bộ Việt Nam và đẩy toàn bộ Đông Dương vào qũy đạo của Đệ Tam Quốc Tế. Khi tạm xong công việc cai trị miền Bắc, khi đã đặt được toàn thể nhân dân bên kia vỹ tuyến 17 dưới gọng kềm sắt máu của họ, đảng Cộng sản miền Bắc bắt đầu tính toán cuộc xâm lăng miền Nam. Đầu năm 1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (Khóa II) quyết định "những vấn đề lớn về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ miền Bắc, chuẩn bị về quân sự cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới". Đồng thời Bộ Chính Trị ra nghị quyết "Chuẩn bị phát động cuộc khởi nghĩa ở miền Nam để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tiến tới thống nhất đất nước bằng đấu tranh vũ trang" (1). Trong Hội nghị Trung ương lần thứ 13 vào tháng 12 năm 1957, Hồ Chí Minh phát biểu: "Ta đang đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm. Tuy vậy, nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới..., lực lượng cách mạng ở miền Nam được duy trì và phát triển thì đó là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam". (2) Âm mưu và kế hoạch xâm lăng miền Nam của cộng sản Bắc Việt hoàn toàn đã được bạch hóa ngay trong các tài liệu của sử gia cộng sản . Đoạn I - Giai đoạn thứ nhất (1955-1960): 1.- Sự chuẩn bị đấu tranh chính trị: Trong hai năm đầu 1955-56, đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh chính trị tại miền Nam, nhiều cuộc biểu tình được tổ chức nhiều nơi để đòi chồng đòi con trở về, vận động rã ngũ, đào ngũ trong quân đội miền Nam, đòi củng cố hòa bình, thực hiện các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, đặc biệt là đòi hiệp thương tuyển cử với miền Bắc theo quy định của Hiệp định Genève. Để hổ trợ cho những đòi hỏi chính trị này trong giai đoạn đầu, họ cho một số cán bộ chính trị của họ xuất hiện trong khi chuẩn bị khá kỹ cho cuộc nổi dậy võ trang sau này khi cuộc đấu tranh chính trị thất bại. Theo tài liệu của chính các sử gia cộng sản công bố sau này thì Nghị Quyết Bộ Chính Trị trong phiên họp từ ngày 5 đến 7-9-54 có đoạn đề cập đến miền Nam như sau: "Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại,v.v..), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập". (3) Theo sự phân công của Bộ Chính Trị (4): Lê Duẩn quay trở lại miền Nam bằng máy bay của Ủy Hội Quốc Tế, qua Quy Nhơn rồi trở về Cần Thơ vào mùa Thu năm 1954. Tháng 3, 1955, Trần Lương, Võ Chí Công được cử vào giữ chức Bí thư đảng bộ Liên khu V. Đầu tháng 8-1955, Nguyễn Xuân Hữu, Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa (đã tập kết ra Bắc) cùng 12 cán b ộ đặc công được Cục Quân Báo Bộ Tổng Tham Mưu Cộng sản huấn luyện, lên đường trở lại miền Nam và đã về lại Khánh Hòa hoạt động với giấy tờ hợp pháp (giấy tờ giả). Cùng các cán bộ tình báo chiến lược cũng đã được gửi vào Nam như Đặng Ngọc Phách, Vũ Văn Thiều, Vũ Ngọc Nhạ, Đinh Thị Vân... Tháng 10-1954, tại căn cứ Chắc Bảng (Cà Mâu), Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ được tổ chức. Lê Duẩn được cử làm bí thư Xứ ủy Nam Bộ, bao gồm liên tỉnh ủy miền Tây (Nguyễn Thái Bường bí thư), Liên tỉnh ủy miền Đông (Trần Văn Đức bí thư), Liên tỉnh ủy miền Trung (Nguyễn Văn Mùi bí thư) và Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn do Nguyễn Văn Linh làm bí thư, Nguyễn Hữu Xuyến được giao công tác phụ trách quân sự ở Nam Bộ. Cũng theo tài liệu cộng sản thì con số cán bộ họ để lại không phải là từ 8.000 đến 10.000 người như Neil Sheehan nói trong "L, Innocence perdue" mà Hoàng Cơ Thụy đã dẫn lại trong Việt Sử Khảo Luận (sđd, tập 11, tr. 2780) mà là 60.000 người. Trong "Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-75" tập II, Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam thuộc Bộ Quốc Phòng Cộng Sản Hà Nội đã không cần giấu diếm điều này khi viết: "Nam Bộ có khoảng 60.000 đảng viên ở lại rút vào hoạt động bí mật. Số cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thì vẫn sống hợp pháp, làm ăn sinh sống như mọi người dân, tùy cơ ứng biến mà vận dụng các khả năng hợp pháp hoặc không hợp pháp để hoạt đng. Số đồng chí đã bị lộ thì chuyển sang hoạt động bí mật hoặc chuyển vùng công tác, nhờ sự che chở đùm bọc của nhân dân. Tổ chức chi bộ chia thành hai loại: loại A gồm đảng viên sống và hoạt đng bất hợp pháp, loại B là đảng viên sống hợp pháp, hoạt động hợp pháp và bán hợp pháp". (5) Cũng theo tài liệu cộng sản thì "để phòng ngừa khả năng xấu, nhiều tỉnh ở miền Nam đã được lênh chôn giấu vũ khí, đạn được. Quân giới Nam bộ được lệnh cất giấu máy móc, dụng cụ ở rừng U Minh để xây dựng công binh xưởng sau này. Quảng Nam chôn 70 súng; Gia Lai để lại hai hầm gồm 70 súng trường, 7 tiểu liên, 60 súng ngắn, đạn tiểu liêu mỗi khẩu 30 viên, súng trường mỗi khẩu 200 viên; Công Tum để lại gần 80 súng các loại và 4 tấn đạn. Quân khu V đã chôn giấu trong khu vực từ Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) đến bắc Bình Định một số vũ khí đủ để trang bị cho hai tiểu đoàn và một số đại đội độc lập. Miền đông Nam bộ chôn giấu nhiều hầm súng đạn, có cả súng trung liên, đại liên đủ trang bị cho 3 đại đội. Chiến khu D cất giấu 450 súng các loại; từ súng ngắn đến cối đại liên, cả máy tiện, máy in... Tỉnh Bạc Liêu đề cử người dùng ghe xuồng ra tầu Liên Xô đậu tại Vàm sông Ông Đối chở trên 6 tấn súng đạn đã đóng thùng sẵn đem về cất giấu ở các xã vùng U Minh Hạ. Cà Mâu cất dấu 2000 khẩu tiểu liên, trung liên, súng trường" (6).
Cũng tài liệu của Bộ Quốc Phòng Cộng Sản (Viện Lịch Sử Quân Sự) cho biết: "Ngày 8-2-1955 con tầu Liên Xô Xtav-rôpôn trên dòng sông Ông Đốc chuẩn bị kéo neo rời bến đưa cán bộ, chiến sĩ tập kết chuyến cuối cùng ra bắc, đồng chí Lê Duẩn lên tầu giả đi tập kết rồi bí mật xuống một chiếc xuồng con trở lại đất mũi Cà Mâu. Đồng chí Võ Văn kiệt, ủy viên Liên tỉnh ủy miền Tây đưa đồng chí Lê Duẩn về các cơ sở cách mạng ở Tân Hưng Tây (Cái Nước) rồi Khai long, Rạch Gốc (huyện Ngọc Hiển) Nguyên Phích, Cái Tầu (huyện Trần Văn Thời)... trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân’’. (7) Tài liệu này cũng đề cập đến việc Phạm Văn Đồng, thay mặt trung ương giao nhiệm vụ cho một số anh em trí thức là đảng viên vào miền Nam hoạt động công khai hoặc hợp pháp trong "Phong trào đấu tranh chống Mỹ-Diệm". Tài liệu cũng nhắc đến tên các trí thức này như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giáo sư Phạm Huy Thông đã lãnh đạo "Phong trào Hòa bình" ở Sài Gòn - Chợ Lớn. (8) Ngày 4-2-1955, Hồ Chí Minh tuyên bố: "Sẵn sàng lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam-Bắc như hiệp định Genève năm 1954 qui định nhằm tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, cho nhân dân ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau, được tự do đi lại giữa hai miền." Ngày 19 tháng 7, 1955, chính phủ Hà Nội gửi công hàm cho chính quyền miền Nam đề nghị cử đại biểu tham dự hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20 tháng 7, 1955 để bàn về việc thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc theo đúng như hiệp định Genève qui định. Trong bức công hàm này. Phạm Văn Đồng đã mở đầu "Kính thưa Tổng thống", theo lời thuật lại của ông Đoàn Văn Thêm, người từng nắm chức vụ cao trong Dinh Độc Lập (từ 12-7-1954 đến ngày 1-11-1963) (9). Tuy nhiên, ông Diệm vì không muốn công nhận Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên sai các Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa phân phát một giác thư đại ý nói rằng: "Chúng tôi không có ký hiệp định Genève, chúng tôi không bị bó buộc vào một điều khoản nào của hiệp định ấy... Chúng tôi sẽ đấu tranh để thống nhất đất nước. Chúng tôi không bác bỏ nguyên tắc tổng tuyển cử tự do là phương tiện hòa bình và dân chủ để thực hiện thống nhất. Song đứng trước chế độ áp bức của Việt Minh, chúng tôi hoài nghi rằng ở Bắc Việt khó có thể thực hiện một cuộc bầu cử tự do... "Đối với những người sống trên vĩ tuyến 17, tôi (tức Ngô Đình Diệm) kêu gọi họ cứ tin tưởng. Với sự chấp thuận và hỗ trợ của Thế giới Tự do, Chính phủ Quốc Gia sẽ đem lại cho các người độc lập tự do." (10) Về việc này, ông Nguyễn Trân, cựu tỉnh trưởng Khánh Hòa (Nha Trang) rồi Định Tường (Mỹ Tho) có viết lại trong hồi ký "Công và Tội: Những sự thật lịch sử" rằng: "Một hôm có việc vào Dinh Độc Lập, tôi gặp Tổng thống Diệm và đề nghị với ông nên đòi hiệp thương tổng tuyển cử với miền Bắc với những điều kiện có lợi cho quốc gia. Nếu cộng sản chấp nhận thì theo điều kiện của chúng ta, nếu từ chối sẽ mất lập trường. "Nếu cụ để miền Bắc đòi", tôi nói, "mà cụ từ chối thì rất bất lợi". Đ hơn một tháng sau tôi có việc gặp lại Tổng thống. Lúc bấy giờ ông đã từ chối lời yêu cầu mở Hiệp thương của Phạm Văn Đồng với lời tuyên bố như sau: "Chúng ta không ký hiệp định Genève, chúng ta không bị hiệp định đó ràng buộc, vì trái với ý muốn của nhân dân. Chúng ta không thể xem xét đề nghị của Việt Minh nếu không đủ bằng cớ rằng Việt Minh đặt quyền lợi tối cao của cộng đồng dân tộc lên trên quyền lợi của cộng sản." Cảm thấy sự bất lợi đã từ chối như tôi đã nói trước với ông, ông nói với tôi: "Phải chi tôi nghe lời anh thì được việc rồi!" (11) Hoàng Cơ Thụy đã trích dẫn một tài liệu mật của Ngũ Giác Đài (The Pentagon papers) công bố năm 1971 cho biết rằng: "... Trong thực tế, cuộc xâm nhập của Việt Minh từ Bắc Việt vào Nam đã bắt đầu ngay từ năm 1955 nhưng chỉ đến năm 1959 thì cơ quan tình báo CIA mới có đủ chứng cớ rằng sự xâm nhập ấy đã có tầm vóc lớn". (12). Cũng tài liệu của Ngũ Giác Đài trên đây cho biết thêm: "Lê Duẩn, gốc người Nam Việt (?) trở ra Hà Nội năm 1957 sau khi đã lén lút ở trong miền Nam hai năm (tức là các năm 1955-56); hắn báo cáo với Bộ Chính Trị của đảng Lao Động (le politburo) rằng cuộc kháng chiến ở trong Nam có kết qủa rất kém, vậy không nên mất thì giờ làm đấu tranh chính trị nữa, cần phải cấp tốc làm đấu tranh quân sự. - Tháng 12-1958, CIA bắt được một chỉ thị của Hà Nội gửi cho Bộ chỉ huy vùng Cao Nguyên trung phần, cho hay rằng Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động đã quyết định "khai nguyên một giai đoạn mới đấu tranh". - Tháng 1-1959 CIA bắt được một mệnh lệnh (của Hà Nội) ra chỉ thị thành lập hai căn cứ để làm địa bàn cho du kích chiến, một ở Tây Ninh cạnh biên giới Cao Miên, một ở miền Tây cao nguyên Trung Việt. - Hồi ấy Lê Duẩn lại lén lút trở vô Nam. - Đến tháng 5-1959 thì quyết định trên đây của Bộ Chính Trị được Ban Chấp Hành trung Ương đảng Lao Động (le comité Central), khóa thứ 15, hoàn toàn chuẩn y. "Vậy khởi điểm chính thức của sự can thiệp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (vào xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa) là bản nghị quyết tháng 5-1959 ấy" (13) Đem đối chiếu tài liệu của Ngũ Giác Đài thu nhận với những gì mà các sử gia cộng sản đã công bố thì rất khớp với nhau. Trong sách "Việt Nam, những sự kiện 1945-75", Viện Sử Học Hà Nội ghi lại:
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 4:22:58 GMT 9
"Năm 1959, tháng 5 - Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 15. Hội nghị kiểm điểm tình hình và đề ra đường lối cho cách mạng miền Nam nhằm thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ củng cố miền Bắc làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào ta ở miền Nam nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước". (14).
Với tất cả những sử kiện thu thập được như trên từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta có thể kết luận dứt khoát: - Đảng Lao Động (tức đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên) chính thức điều động cuộc xâm lăng miền Nam. - Bắc Việt được xử dụng như là căn cứ địa để chỉ huy và viện trợ về nhân lực và tài lực cho cuộc xâm lăng ấy.
II.- Sự chuẩn bị võ trang bạo động "Phong Trào Hòa Bình" năm 1954 do luật sư Nguyễn Hữu Thọ cầm đầu hoạt động khá mạnh sau hiệp định Genève. Chính quyền miền Nam đã phải ra lệnh bắt giam một số người lãnh đạo như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, Thạc sĩ Phạm Huy Thông. Nhưng tất cả đều được thả ra vào cuối năm 1956. Trần Bửu Kiếm (nguyên Tổng thư ký Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ và bây giờ là Kỳ ủy đảng Dân Chủ Nam Bộ do Trung ương Cục miền Nam đảng Lao Động biệt phái sang và lãnh đạo ngầm) được lệnh đi tìm thăm các nhân vật trong "Phong trào Hòa bình" đặc biệt là LS Nguyễn Hữu Thọ (đang sinh sống tại Nha Trang) để chuẩn bị nhân sự cho một thế đấu tranh mới kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh võ trang theo đường lối cách mạng vô sản chuyên chính. Năm 1958 coi như năm cực thịnh của chính quyền miền Nam và cũng là năm xem như toàn bộ hệ thống cơ sở của Việt Cộng gài lại hoạt động ở miền Nam tan tác không còn gì. Giữa lúc đó, Hà Nội quyết định gửi cán bộ vào Nam, mở đầu cho phong trào "Hồi kết", xây dựng lại lực lượng, lập lại cơ sở để mở phong trào "Đồng Khởi" toàn bộ vào năm 1959. Dù muốn dù không, dù coi thường hiệp định Genève đến đâu, hai bên Sài Gòn và Hà Nội vẫn còn bị hiệp định Genève ràng buộc, còn sợ bị dư luận và ảnh hưởng thế giới kềm chế, nên đối với Hà Nội, muốn mở lại cuộc chiến tranh vũ trang, đánh miền Nam không thể và không dám làm một cách công khai được. Muốn che mắt thiên hạ, muốn cho thiên hạ lầm lẫn và không thể đổ trách nhiệm về mình, Hà Nội cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bí mật vào Nam quan sát tình hình thi hành quyết nghị mật của Bộ Chính Trị (Nguyễn Chí Thanh nguyên là Ủy viên B chính trị, Bí thư Trung ương Đảng trong Ban Bí Thư, phụ trách về vấn đề nông dân và thanh niên, đồng thời là bí thư Tổng quân ủy Trung ương hay nói cách khác là Chính ủy Toàn quân). (15)
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 4:24:22 GMT 9
Ðầu nãm 1959, Hà Nội cho thành lập "những toán chở ðồ lậu" (des équipes de contrabandiers) gồm những ngýời gốc miền Nam ðã tập kết ra Bắc hồi nãm 1954. Họ có nhiệm vụ chuyên chở vật thực, thuốc men và những nhu phẩm khác, dọc theo ðýờng mòn của hệ thống xuyên sõn. Trong hai nãm 1959-60, ðã có chừng 26 toán, tổng cộng là 4.500 ngýời ðã vô Nam. Hai phần ba những ngýời ấy là ðảng viên ðảng Lao Ðộng (tức ðảng Cng sản). (16) Tháng 4-1959 Hà Nội ðã thiết lập Lữ ðoàn Chuyên Chở số 559 ðặc dýới quyền chỉ huy trực tiếp của Ban chấp hành trung ýõng Ðảng ðể chuyên lo những dịch vụ xâm nhập vào miền Nam. Chính lữ ðoàn này, dýới quyền Ðại tá Ðồng Sĩ Nguyên ðã lo xây ðắp "ðýờng mòn Hồ Chí Minh". Ông Ðỗ Mậu trong "Việt Nam Máu Lửa Quê Hýõng Tôi" ghi nhận "Ngay từ nãm 1956, sau khi ông Diệm ðýợc Hoa Kỳ khuyến khích và bảo trợ việc tổ chức tổng tuyền cử hai miền theo qui ðịnh của hiệp ýớc Genève, nên tập ðoàn lãnh ðạo Hà Nội một mặt cho ðài phát thanh Hà Nội suốt ngày tố cáo sự vi phạm trắng trợn này và kêu gọi nhân dân miền Nam nổi dậy, mặt khác tiến hành việc khai thông và chỉnh trang lại con ðýờng giao liên và vận chuyển từ Bắc vào Nam gọi là "ðýờng giây ông Cụ" ðể sau này (từ 1959-60) biến thành "ðýờng mòn Hồ Chí Minh" (17) Ðýờng mòn Hồ Chí Minh xuất phát từ Vinh ði dọc theo dãy Trýờng Sõn ðến gần vùng vĩ tuyến 17 thì bám sát biên giới Lào Việt, bám sát Trýờng Sõn Ðông ðể mớ lối chuyển quân về Thừa Thiên Huế, Ðà Nẵng, vào cao nguyên miền Trung nhý Daksut, Dakto, Kontum ðể tiến về An Khê Bình Ðịnh. Rồi ðýờng mòn bãng qua ðất Campuchia tiến về chiến khu D trong vùng biên giới Miên-Việt rồi từ ðó mở ðýờng tiến quân về Lộc Ninh. Ðýờng mòn HCM ðã nắm giữ vai tró huyết mạch trong việc chuyển vận lýõng thực, ðạn ðýợc, quân trang, quân dụng và cả nhân lực từ miền Bắc vào chiến trýờng miền Nam. Cựu Tổng thống Hoa Kỳ, Richard Nixon ðã ðề cập ðến tầm quan trọng chiến lýợc của ðýờng mòn HCM nhý sau: "Ðýờng mòn HCM khiến cho quân ðội cộng sản có thể ði vòng quanh khu phi quân sự giữa Bắc Nam ðể ðánh miền Nam vào chỗ nào mà ðối phýõng không ngờ tới. Nếu Nam Việt chỉ phải chống xâm lãng của Bắc Việt ở 70 cây số "khu phi quân sự", thì họ có thể tự bảo vệ mà không cần ðến quân lực Hoa Kỳ. Trong cuộc chiến tranh Cao Ly, Bắc Hàn chỉ tấn công ở biên giới chứ không thể dùng ðại dýõng nhý hai bờ Nam Hàn làm thánh ðịa ðể tấn công. Nhýng Hà Nội có nhiều thánh ðịa tại Ai Lao và Cao Miên, dùng làm bàn ðạp ðể tấn công chớp nhoáng Nam Việt rồi rút lui lập tức. Mà biên giới phải bảo vệ thì kéo dài từ 70 lên ðến 1000 cây số... Tuân theo hiệp ðịnh nãm 1962 về việc trung lập hóa Ai Lao, Mỹ ðã phải rút quân hết ra khỏi nýớc Lào, nên không thể ngãn cản Bắc Việt kiện toàn ðýờng mòn HCM kể từ nãm ðó, gây ảnh hýởng rất tai hại cho những giai ðoạn sau của chiến tranh." (18) - Ngoài việc vận chuyển qua ðýờng mòn Hồ Chí Minh, cộng sản Hà Nội còn vận chuyển võ khí quân nhý vào miền Nam bằng ðýờng biển, qua hải cảng Sihanoukville của Cao Miên do Hải ðoàn 579 phụ trách (19). Song song với việc chuyển ngýời và vũ khí ðạn ðýợc vào miền Nam, những cán bộ cộng sản nằm vùng ðẩy mạnh công tác gián ðiệp tình báo và kinh tài. Cao Thế Dung kể rằng: "Theo giới tình báo, sau Genève 54, cộng sản ðã ðể lại Sài Gòn 50 triệu bạc ðể tiếp tục gây dựng cõ sở kinh tài và nuôi tình báo... Họ cho ngýời ðem tiền ấy vào các kinh doanh tý nhân góp vốn, nhý hãng tầu chuyên chở Nguyễn Vãn Bửu (ở Trung), hãng bào chế OPV của Nguyễn Cao Thãng, nhà máy sợi Vimytex, công ty thủy tinh Thanh Hoa (ở Nam), nhất là cõ sở kinh doanh của nhóm Nguyễn Trung Thành và Ngân hàng Việt Nam mà Nguyễn Vãn Diệp là ðiển hình (nãm 1973 Diệp trở thành Tổng trýởng Thýõng Mại của chính phủ Trần Thiện Khiêm". (20) Một mặt họ tìm cách khuyến dụ dân miền Nam theo "kháng chiến" chống lại cái mà họ gọi là "chế ðộ Mỹ-Diệm", mặt khác họ thi hành chính sách thủ tiêu, ám sát những viên chức mà họ gọi là "tay sai" của chính phủ Diệm, ða phần là các viên chức xã, ấp. Theo ghi nhận của Tòa Ðại Sứ Mỹ thì "nếu cả nãm 1958 chỉ mới có 193 vụ ám sát các xã trýởng, thì riêng trong 4 tháng sau cùng của nãm 1959 ðã có thêm 119 vụ ám sát nữa" (21). Ðỗ Mậu cho biết con số tổn thất của số cán bộ chính quyền cao hõn nhiều: "Chỉ nói riêng nãm 1957 mà thôi, số cán bộ chính quyền bị thủ tiêu ðã lên ðến 472 ngýời. Con số này tãng gấp ðôi vào nãm 1958 và ðến 1959 thì trung bình cứ mỗi tuần lễ có ðến 15 cán bộ nông thôn hoặc viên chức xã ấp bị Việt cộng giết" (22) Ngày 8-7-1959, hai quân nhân Mỹ ðầu tiên bị tử thýõng khi một trái bom nổ trong cãn cứ không quân Biên Hòa. Ngày 26-9-1959 một cuộc phục kích của Việt Cộng làm tử trận 12 ngýời lính của hai Ðại ðội thuộc Sý ðoàn 23 Việt Nam Cộng Hòa, cýớp ði hầu hết các vũ khí. Ngày 26-1-1960 một Trung ðoàn thuộc Sý ðoàn 21 ðóng ở Trảng Sụp, cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 12 cây số bị Việt Cộng tấn công gây thiệt hại nặng nề cả nhân mạng lẫn vũ khí. Sý ðoàn 21 do trung tá Trần Thanh Chiêu chỉ huy. Týớng Trần Vãn Ðôn kể lại: "Ðầu nãm 1960, Việt Cộng gia tãng tấn công vào các ðồn, nhất là cuộc tấn công ðại quy mô vào một Trung ðoàn thuộc Sý ðoàn 12 ở Tây Ninh do Trung tá Trần Thanh Chiêu chỉ huy (ông Ðôn ghi nhầm, ðúng ra là Sý ðoàn 21) . Ðiều này chứng tỏ Việt cộng ðã hoạt ðộng mạnh và lúc ðó Bắc Việt ðã cho quân vào Nam, nhýng trên ðài phát thanh, Hà Nội tuyên bố có mấy Sý ðoàn của họ ly khai ðể tránh tiếng với thế giới." (23)
III.- Việc thành lập mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (20-12-1960): Vào tháng 5-1959, Ban chấp hành trung ýõng ðảng Lao Ðộng Việt Nam họp khóa 15, quyết ðịnh rằng Bắc Việt sẽ chính thức chỉ huy cuộc xâm lãng miền Nam bằng võ trang quân sự. Hai chiến khu cũ ðýợc tái lập: một ở Tây Ninh gọi là "R", một ở Cao nguyên miền Trung tức Liên ðoàn V cũ. Viện Sử Học Hà Nội trong "Việt Nam, Những Sự Kiện" tập I ðã kể rằng: "Trong cao trào cách mạng, hồi 8 giờ tối 19-12-1960, tại một vùng giải phóng của miền Ðông Nam Bộ, ðại biểu các cấp, các ðảng phái, các tôn giáo, các dân tộc toàn miền Nam ðã họp Ðại hội ðể thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Một giờ sáng ngày 20-12, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành lập, Mặt trận công bố chýõng trình hành ðng gồm 10 ðiểm mà nội dung cõ bản là ðánh ðổ chế ðộ thuộc ðịa trá hình của ðế quốc Mỹ và chế ðộ ðộc tài Ngô Ðình Diệm, nhằm xây dựng một miền Nam ðộc lập, dân chủ, hòa bình, thống nhất nýớc nhà. "Ngay sau khi Mặt Trận ra ðời, ðông ðảo công nhân ðồn diền cao su Trảng Bàng và nhiều ðồn ðiền khác thuộc tỉnh Tây Ninh ðã cùng tham gia mít tinh, biểu tình thị uy chung với nông dân hoan nghênh Mặt Trận thành lập và tố cáo tội ác khủng bố nhân dân của Mỹ-Diệm". (24) Lời týờng thuật trên ðây cho chúng ta thấy là MTDTGPMNVN là một tổ chức tự phát của nhân dâm miền Nam nhằm mục ðích ðánh ðổ chế ðộ của Ngô Ðình Diệm và sự can thiệp của "Ðế Quốc Mỹ". Nhýng sự thật không ðúng nhý vậy. MTDTGPMNVN chỉ là con ðẻ của cộng sản Hà Nội nhý sẽ ðýợc minh chứng qua các tài liệu sử dýới ðây. Ðảng cộng sản với sở trýờng thay hình ðổi dạng muôn mặt ðể lýờng gạt quần chúng nhằm thực hiện mýu ðồ xích hóa toàn bộ Việt Nam và Ðông Dýõng dýới ngọn cờ của Ðệ Tam Quốc Tế. Họ ðã lừa gạt nhân dân lần thứ nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp khi cho ra ðời "Mặt Trận Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh" (gọi tãt là Việt Minh) dýới thời Ðông Dýõng Cộng Sản Ðảng. Nay ðảng Lao Ðộng (chỉ ðổi tên thực chất vẫn nhý vậy) lại cho ra ðời ở miền Nam cái gọi là MTDTGPMNVN ðể lôi kéo toàn dân từ Bắc chí Nam làm "kháng chiến chống Mỹ-Diệm", ðây là vụ lýờng gạt lần thứ hai. Không phải ai cũng nhận ra ðýợc sự lýờng gạt này của cộng sản Hà Nội. Ngay chính Ðại týớng Nguyễn Khánh, cựu Quốc trýởng VNCH (1963-65) cũng vẫn chýa nắm rõ quyền lực thật sự nằm sau MTDTGPMNVN là ai nên ông ðã kể lại trong những cuộc gặp gỡ riêng tý với chúng tôi ở San Jose và gần ðây trong buổi nói chuyện của ông ở trýờng Texas Technology University tại thành phố Lubbock (Texas) ngày 16-4-1999 rằng: "Về nỗ lực hòa bình, tôi ðã bắt ðýợc ðýờng giây liên lạc với các lãnh ðạo cao cấp của MTDTGPMNVN nhý kỹ sý Huỳnh Tấn Phát, Phó chủ tịch. Sau này ông Phát trở thành thủ týớng chính phủ thuộc MTGPMNVN... Chỉ vỏn vẹn một tuần trýớc khi tôi bị bắt buộc phải lýu vong xa xứ tôi ðã nhân ðýợc một lá thý của Huỳnh Tấn Phát nói lên sự mong muốn thảo luận các vấn ðề hòa bình với chính phủ VNCH" (Týớng Nguyễn Khánh ðã phải rời xứ vào ngày 25-2-1965). (25).
1.- Nguyên nhân thành lập: Sau khi việc hiệp thýõng và tổng tuyển cử bất thành. Bộ Chính Trị cộng sản ở Hà Nội ðã quyết ðịnh chuyển qua giai ðoạn ðấu tranh chính trị (1955-1956), qua giai ðoạn ðấu tranh kết hợp chính trị và vũ trang kể từ ðầu 1958. Họ nhất quyết "thi hành nhiệm vụ quốc tế" là thống nhất Nam-Bắc ðể cộng sản hóa Việt Nam rồi toàn thể Ðông Dýõng, MTDTGPMNVN ra ðời ðể nhắm tới mục tiêu ðó. Việc hình thành Mặt Trận này giúp họ tránh ðýợc sự chỉ trích của công luận thế giới vì họ cố ra sức tuyên truyền rằng ðây chỉ là tổ chức tự phát do nhân dân miền Nam nổi dậy chống lại ðộc tài Ngô Ðình Diệm và sự hiện diện của ngoại bang (Mỹ thay thế Pháp). Kim Nhật tác giả cuốn "Về R" ðã xác ðịnh rõ lý do liên quan ðến dý luận quốc tế này nhý ðã trích dẫn ở phần trên. Tác giả Kim Nhật cũng kể lại lời phát biểu của Nguyễn Hữu Thọ khi nói chuyện cùng Trần Bửu Kiếm "Tôi cũng biết từ trýớc ðến nay cuộc cách mạng này là do Ðảng lãnh ðạo. Tất cả thành qủa ðạt ðýợc ngày nay ðều do các cán bộ của Ðảng thực hiện, chịu bao nhiêu gian khổ hy sinh tạo nên. Nhýng ngày nay ở vào cái thế không dừng ðýợc, phải ra mặt công khai chống ðối, ðánh ðuổi kẻ thù vì cái thế chính trị cũng nhý dựa vào những ðiều kiện khách quan ở bên ngoài và chủ quan ở trong nýớc, trong nội bộ của chúng ta nên mấy anh mới vận ðộng thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam này..." (26).
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 11, 2008 4:25:09 GMT 9
Mot lý do nữa để MTDTGPMNVN ra đời là chính sách tố cộng cùng sự đàn áp mọi xu hướng chính trị đối lập của chế độ Diệm đã đẩy rất nhiều thành phần bất mãn chống lại chính quyền. Họ cần được tập hợp lại và đảng Lao Đng đã nhìn được lợi thế này. Đỗ Mậu đưa ra nhận xét: "Chính vì đã không xây dựng được niềm tin đó (của quần chúng), chính vì đã không xây dựng được sự ủng h đó cho nên khi cái gọi là MTDTGPMNVN ra đời, chúng đã có sẵn một đại khối thôn quê (đang là nạn nhân bất mãn với chính quyền) che chở, bảo vệ và yểm trợ. Không triệt tiêu được từ trong trứng nước mầm mống cộng sản tại miền Nam mà lại còn trực tiếp đóng góp cho sự lớn mạnh của chúng, chính là tội lớn của chế độ Ngô Đình Diệm..." (27)
2.- Thanh phần lãnh đạo MTDTGP-MNVN. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (như đã nhắc đến trong phần trước) từ Hà Nội cải trang vào Nam Vang và cho người về liên lạc với Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đóng ở rừng sâu Chiến khu D thuộc tỉnh Phước Thành. Nguyễn Chí Thanh sau khi nghe báo cáo tình hình, trao quyết nghị của Trung ương Đảng chỉ thị cho Trung ương Cục Miền Nam phải gấp rút chuẩn bị cho công bố một tổ chức, tên được chọn sẵn là "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam". Theo Kim Nhật trong "Về R" thì: "Thế là từ cuối năm 1958, cuộc vận động thuộc Trung ương Cục Miền Nam tiến hành ráo riết. Nhưng còn mỗi một băn khoăn lớn là không biết chọn ai làm chủ tịch, cầm đầu cho cái tổ chức đó. Nếu đưa một cán bộ của Đảng, một ủy viên Trung ương Đảng thì dễ qúa, thiếu gì người, nhưng như vậy thì việc đó tự nó đã tố cáo sự vi phạm trắng trợn của Hà Nội lại không có lợi về mặt tuyền truyền. Phải chọn một người trong giới trí thức tương đối có tiếng tăm để gây nên một tiếng vang, nhưng người đó là ai? Ai có thể chịu, dám từ bỏ mọi sự nghiệp, chịu gian khổ, hy sinh đến tiếng tăm mình? Nhiều người được đặt ra để vận động nhưng không thành. Cuc vận động giữa Trần Bửu Kiếm và Nguyễn Hữu Thọ trở nên ráo riết, cũng chưa mang lại kết qủa nào. Trong lúc đó, Hà Nội thúc dục hàng ngày việc công bố danh sách và tổ chức "MTDTGPMN". Đến giữa năm 1960, việc đưa Nguyễn Hữu Thọ ra làm chủ tịch Mặt Trận vẫn chưa thành, Trung ương Cục miền Nam bèn dự định chọn Bác sĩ Phùng Văn Cung. Sứ giả được tung ra, đi mời những đại biểu được vận động trước và chọn sẵn về dự buổi họp tại căn cứ giữa rừng sâu, gần cầu Cần Đăng, trên đường đá đỏ Trà Băng, Trại Bí - Xóm Mới - Bổ túc - Sóc Ông Trang thuộc tỉnh Tây Ninh, cách biên giới Việt Miên quãng 7 cây số ngàn. Nhưng vào một sáng tháng mười năm 1960, trạm giao liên Suối Đá của "đường dây ông Cụ" (tức đường giao liên đưa cán bộ từ bắc vào nam) tiếp nhận hai người khách đặc biệt cùng một đại đi theo bảo vệ. Họ đi từ phiá sông Đồng Nai, vượt qua đồi Bù Cháp, đồi Tam Cấp đến. Hai người khách đó, một mặc sơ mi trắng cụt tay, quần tây xám, mang giầy bata, cỡi ngựa, và một mặc bộ bà ba đen đi bộ, chân mang dép râu. Cả hai đều mồ hôi nhễ nhại, dù đường đi lá rừng che phủ không lọt chút nắng và khí hậu về trưa vẫn còn gai gai lạnh. Hai người khách đó là Trần Bửu kiếm và Nguyễn Hữu Thọ." (28) Rồi Kim Nhật kể tiếp: "Trong buổi tiệc tối được người ta mệnh danh là "buổi tiệc họp mặt" của Ủy ban Vận đng Đại hội Nhân dân Miền Nam, Nguyễn Hữu Thọ được Trần Bửu Kiếm giới thiệu cùng mọi người: - Thưa qúy vị, hôm nay tôi rất sung sướng và hân hạnh được giới thiệu với qúy vị: đây là luật sư Nguyễn Hữu Thọ, linh hồn của "Phong Trào Hòa Bình" năm 1954, người mà bọn thực dân Pháp và Mỹ-Diệm cúi đầu kính nể sợ hãi, nhiều phen âm mưu sát hại nhưng không sao sát hại được. Và Ủy ban Vận động của chúng ta, luật sư cũng là người góp nhiều công trạng nhất..." (29) Và như vậy người được Trung ương Cục miền Nam chọn để nắm chức Chủ tịch MTDTGPMN là luật sư Nguyễn Hữu Thọ (cũng nên biết rằng khi chưa được Nguyễn Hữu Thọ về cục R, Trung ương Cục Miền Nam đã có dự định chọn bác sĩ Phùng Văn Cung làm chủ tịch). Luật sư Nguyễn Hữu Thọ có tên trong số 352 nhà trí thức ký bản "Tuyên Ngôn Hòa Bình" ở Sài Gòn hồi tháng 5-1954 là những người có cảm tình với Việt Minh kháng chiến và chống Pháp; ông có bị chính phủ Pháp bắt giam nhưng đến năm 1955 thì được thả và chỉ định cư trú ở Nha Trang. Trần Bửu Kiếm được trung ương Cục Miền Nam ủy đi vận động Nguyễn Hữu Thọ tham gia Mặt Trận như Kim Nhật trong "Về R" đã kể lại. Kiếm đã đưa Thọ trốn khỏi Nha Trang và sau đó có cả một đại đội Việt Minh đi hộ tống để đưa Thọ về căn cứ R ở vùng Tây Ninh gần biên giới Việt-Miên vào giữa tháng 11-1960. Khi Thọ về tới nơi, Trung ương Cục làm báo cáo lên Trung Ương Đảng đề nghị Thọ làm chủ tịch Mặt Trận và đồng thời đề nghị mở Đại hội thành lập Mặt Trận vào ngày 19-12-1960 nhằm ngày kỷ niệm kháng chiến toàn quốc chống Pháp 19-12-1946. Trung ương Đảng đồng ý và cử đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào Nam để thi hành quyết nghị mật của Bộ Chính Trị về công tác xâm lăng miền Nam bằng võ lực. Để phòng hờ Nguyễn Chí Thanh từ Nam Vang đến chậm nên Đại hội được ấn định là 20-12-1960. Đại hội gồm 300 đại biểu do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm trưởng ban tổ chức. Từ hôm trước (19-12) và từ tờ mờ sáng hôm sau 20-12, tất cả các đại biểu được nhân viên Ban Tổ Chức phân phát những tài liệu về Đại hội để họ đọc qua trước khi thảo luận (để đỡ mất thì giờ). Trong số đại biểu, có một đại biểu nữ đáng chú ý là chị Ba Định tức Nguyễn Thị Định, người đã lãnh đạo cuộc "đồng khởi" ở Bến Tre năm 1959. Đại hội đã kéo dài hết hai ngày từ 20-12 đến 21-12 và bầu Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch MTDTGPMN như Trung ương Đảng ở Hà Nội đã chuẩn thuận. Đại hội đã thông qua các bản báo cáo về quân sự, chính trị và nhiều vấn đề khác nữa. Đặc biệt chỉ thị của đại diện Trung Ương Đảng từ Hà Nội vào là Nguyễn Chí Thanh tức Trường Sơn, tức Sáu Vi về một số điểm quan trọng: "Quân đội là sức mạnh của Đảng, là công cụ, là cánh tay mặt của Đảng để bảo vệ Đảng và thực hiện mọi chính sách của Đảng. Do đó, quân đội phải thuần nhất, phải trung thành tuyệt đối với Đảng. Đảng phải nắm quân đội. Đảng lãnh đạo một cách tuyệt đối và chuyên chính, không chấp nhận một tư tưởng nào khác ngoài tư tưởng Mác Lê. Từ trên xuống dưới, đảng ủy, cấp ủy của cấp lãnh đạo, phải triệt để thi hành, tuân theo chỉ thị của Đảng và hoàn toàn chịu trách nhiệm với Tổng Quân ủy về đơn vị của mình. Quân giải phóng là một bộ phận của quân đội nhân dân, thực hiện nhiệm vụ "giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc". Học tập và noi theo truyền thống của quân đội nhân dân miền Bắc, từ ngày thành lập "Đội võ trang tuyên truyền giải phóng quân" vào thời kỳ chống Nhật, rồi "Vệ Quốc Đoàn" thời kỳ chống Pháp và "Quân Đội Nhân Dân" trong nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa ngày nay, quân giải phóng anh dũng chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, chiến đấu cho giai cấp công nông, mà họ là những con em của giai cấp đó. Những lời tâm niệm này, bất cứ là du kích, là địa phương quân, cơ động hay chủ lực cũng phải thuộc nằm lòng là: - Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thẳng. Quân đội là công cụ của Đảng, Đảng chuyên chính trong quân đội. Đảng thực hiện cuộc cách mạng đó.’’ Sáu Vi còn nhấn mạnh thêm: "Chính sách trong giải phóng quân là chính sách của Đảng, không có một chính sách nào khác, chỉ trừ về phiá Mặt Trận thì ta mới có chính sách đãi ngộ mà thôi..." Về trường hợp của 4 tướng Trần Lương, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn và Trần Đ, anh Sáu Vi cho biết thêm là cũng vì lý do chính trị và nguyên tắc cảnh giác cách mạng, nên các đồng chí đó chưa thể vào Nam ngay được. Danh sách của các ủy viên trong Mặt Trận vẫn không thay đổi chỉ trừ ủy viên quân sự, trước đây chỉ định Trần Công Khanh nhưng bây giờ, vào phút chót Bộ Chính Trị chỉ định Trần Lương thay vào đó với cái tên mới Trần Nam Trung". (30). Như vậy Đại Hội thành lập MTDT-GPMNVN đã khai mạc vào buổi sáng ngày 20-12 và kéo dài đến 11:30 đêm 21-12-60 mới bế mạc. Đại Hội đã thông qua cương lĩnh của Mặt Trận. Mặt Trận nhắm đến ba mục tiêu chính là chống đế quốc Mỹ, chống phong kiến Diệm, và thực hiện cách mạng xã hội bằng cách đem lại ruộng đất cho nông dân. Tuyên ngôn của Mặt Trận gồm 10 điểm chính như sau: 1.- Đánh đổ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ. 2.- Thiết lập chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ 3.- Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. 4.- Giảm tô, bảo đảm nguyên canh, cải cách điền địa. 5.- Xây dựng một nền văn hóa giáo dục dân tộc và tiến bộ. 6.- Xây dựng quân đội dân tộc bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ nhân dân. 7.- Thực hiện nam nữ bình quyền, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, và thực hiện quyền tự trị của các dân tộc thiểu số. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều ở Việt nam và quyền lợi của kiều bào ở hải ngoại. 8.- Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập 9.- Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ Quốc. 10.- Chống chiến tranh xâm lược. Tích cực bảo vệ hòa bình thế giới. (31) Ngày 23-12-1960, Nguyễn Hữu Thọ đã họp với trung ương Cục Miền Nam để thành lập Ban Thường Vụ Trung Ương của Mặt Trận. Đa số là đảng viên cao cấp của đảng Lao Động (hậu thân của đảng cộng sản Đông Dương): Chủ tịch: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ Phó chủ tịch thứ nhất: Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát Phó chủ tịch thứ hai: Bác sĩ Phùng Văn Cung Ủy viên chủ tịch đoàn: Trần Bửu Kiếm Ban đối ngoại: Giáo sư nguyễn Văn Hiếu Ban quân sự: Trung tướng Trần Nam Trung, tên thật là Trần Lương, nay chưa tiện vào Nam; Thượng tá Trần Công Khanh tạm thời thay thế trưởng ban quân sự sẽ kiêm luôn chức tư lệnh các lực lượng Giải phóng quân. Ban kinh tài: Tư Thắng (đang phụ trách về hậu cần) Ban dân y: Mười Năng tức "Bác sĩ Điện Biên" Vũ Cương. Ban tuyên huấn: Trần Bạch Đằng (lo luôn tờ báo Giải Phóng và Đài Phát Thanh Giải Phóng) Ban tiếp tân: Huỳnh Tấn Phát Văn phòng Mặt Trận sẽ lập căn cứ bên kia đường 22, sát bờ sông tại biên giới Việt-Miên. Có động, chỉ cần vượt qua con sông chưa đầy chục thước, tức đã đến đất Miên rồi.(32) Tác giả: GS Lê Đình Cai Chú thích cho đến hết Đoạn I (1) Trần Văn Quang và mt số tác giả, "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước", Hà Nội: nxb: Chính trị Quốc Gia, 1996, tr. 41; xem thêm Kim Nhật, "Về R", Sài gòn, nxb: Sống, 1967, in lại tại Hoa kỳ (không thấy đề nơi và năm tái bản) tr, 138. (2) Ibid, tr. 40 (3) B Quốc Phòng, Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam (Cộng sản), "Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-75" tập II, Hà Nội, nxb: Chính trị Quốc gia, 1996, tr. 14 (4) Ibid, tr. 15-19 (5) Ibid, tr. 19 (6) Ibid, tr. 19, 20, 21 (phần chú thích) (7) Ibid, tr. 25 (8) Ibid, tr. 26 (9) Đoàn Thêm, "Những ngày chưa quên", tập 2, xuất bản tại Sài Gòn 1969, tái bản tại Hoa Kỳ, Xuân Thu, 1989, tr. 42 (10) Hoàng Cơ Thụy ghi nhận trong "VSKL" sđd, tập 11, tr. 2780 (11) Nguyễn Trân, "Công và Tội,..", Hoa Kỳ. nxb: Xuân Thu, 1992, tr. 165 (12) Hoàng Cơ Thụy, sđd, tập 11, tr. 2803 (13) Ibid, tr. 2803 (14) Viện Sử Học, "Việt Nam, Những sự kiện 1945-1975" Tập I, Hà Nội, 1975, tr. 176 (15) Kim Nhật, "Về R", Sài Gòn, nxb: Sống, 1967, in lại tại Hoa kỳ (không thấy đề nơi và năm tái bản) tr. 15-16 (16) Theo tài liệu của Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) công bố năm 1971 và Hoàng Cơ thụy đã dẫn lại trong "VSKL", sđd, tập 11, tr. 2804 (17) Đỗ Mậu, VNMLQHT, sđd, tr. 398 (18) Richard Nixon. "The Real War" (bản dịch tiếng Pháp "La Vraie Guerre") Paris: Albin Michel, 1980, tr. 121-122 được Hoàng Cơ thụy dẫn lại trong VSKL, sđd, tập 11, tr. 2804. (19) Hoàng Lạc, Hà Mai Việt "Nam Việt nam 1954-1975", xuất bản tại Hoa kỳ, 1990, tr. 46. (20) Cao thế Dung, "Việt Nam ba mươi năm máu lửa", Hoa kỳ, nxb: Alpha, 1991, tr. 482 - 493 (21) Hoàng Cơ Thụy ghi lại theo tài liệu của Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers, 1971) trong VSKL, sđd, tập 11, tr. 2806. (22) Đỗ Mậu, sđd, tr. 399 (23) Trần Văn Đôn, "Việt Nam Nhân Chứng", sđd, tr. 164 (24) Viện Sử Học, "Việt Nam Những sự kiện 1945-75" sđd, tr. 278 (25) Bài phát biểu của tướng Nguyễn Khánh được viết bằng tiếng Anh. Lê Đình Cai đã dịch lại toàn văn ra tiếng Việt đăng trên tuần báo "Chính Luận" số 126 ra ngày 30-4-99 tại Seattle, Wa; và trong "Thế Giới Mới" số 292 ra ngày 21-5-99 tại Arlington, TX sau đó. (26) Kim Nhật, "Về R", sđd, tr. 116, 117 (27) Đỗ Mậu, sđd, tr. 317 (28) Kim Nhật "Về R", sđd, tr. 16, 17. (29) Ibid, tr. 23, 24 (30) Ibid, tr. 74, 75, 76 (31) Hoàng Cơ Thụy, sđd, tập 12, tr. 2925-2926. Dẫn từ tài liệu của Ủy ban Khoa học Xã hội (cộng sản), "Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp luật VN", Hà Nội, 1983, tr. 181 (32) Hoàng Cơ Thụy, sđd, tập 12, tr. 2926
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:37:43 GMT 9
Ðại cương về người Việt Phạm quân Khanh 1. Đại Cương Về Người Việt A. Nhân-Chủng Người Việt có màu da ngà và đa số có máu loại O và RH + (rê-giút dương) (80%); có nhiều huyết sắc E nên cơ-thể có sức chịu đựng bền-bỉ và thích-ứng dễ-dàng với các loại thời khí cùng các thực-phẩm khác biệt. Râu và tóc đen, tiết diện tròn nên có dáng thẳng. Về già, râu tóc đổi thành mầu bạc (trắng). Mắt có dáng ngang, hơi chéo lên ở phía dưới mi mắt dưới. Độ chéo ở đuôi mắt đối với đường ngang từ đầu mắt trung-bình từ 3 độ tới 5 độ. Con ngươi thường có mầu đen hoặc nâu sậm. Mi mắt dưới có bầu dài theo mắt (gọi là ngoạ tầm) (chi-tiết này là một trong các đặc điểm nhân-chủng của người Việt). Mí mắt trên có hai mí. Độ dầy căn-bản của mắt bằng độ phẳng hợp bởi xương mi và xương gò má. Khuôn mặt có cằm trung-bình, xương hàm không to. Đa số người Việt có sống mũi hơi trũng (gẫy) ở khoảng ngang hai mắt. Hệ thống xương đầu có chỉ số 80 (đầu tròn). Các trẻ em mới sinh có bớt mầu chàm ở lưng, từ khoảng ngang thắt lưng tới vùng cuối xương sống (chi-tiết này cũng là một trong các đặc-điểm nhân-chủng của người Việt). Người Việt có môi thuộc loại có nét (vành môi rõ rệt) và độ dầy trung-bình, môi dưới thường nhỉnh hơn môi trên. Độ dầy trung-bình bằng 1/4 bề ngang (chiều rộng của miệng ngậm). Răng to và dài vừa phải. Bề mặt bộ răng thường xếp không phẳng. Từ đầu thế-kỉ 20 trở về trước hầu hết dân Việt nhuộm răng đen. Người Việt có dáng điệu bình-thản và tinh-nhanh. Khổ người trung-bình, bề cao của nam giới khoảng 1 thước 65 và nữ giới khoảng 1 thước 58. Bề cao thay đổi tuỳ điều-kiện sinh-hoạt và ẩm-thực. B. Y-Phục, Di-Chuyển Và Thực-Phẩm Y-phục của người Việt thay đổi theo thời-gian, hoàn-cảnh sinh-hoạt và địa-lí. Từ đầu thế-kỉ 20 trở về trước, thường ngày đa-số dân chúng mặc quần, áo ngắn, gọn gàng, mầu xẫm gần với mầu đất, mầu vỏ cây hoặc lá. Đội đầu gồm có khăn và nón. Trong các lễ-nghi, y-phục thường dài, rộng. Di-chuyển trên bộ thường đi chân, cưỡi ngựa hoặc dùng xe kéo bằng trâu, bò hay ngựa. Cũng có khi dùng cáng, kiệu do người khiêng. Trên nước di-chuyển bằng thuyền. Có nhiều loại thuyền, thường thường làm bằng tre và gỗ. Loại thuyền gỗ bọc đồng dùng cho quân đội. Kiểu thuyền tuỳ thuộc vào nhu-cầu và diện-tích của vùng nước (sông hay biển). Y-phục và phương-tiện di-chuyển thay-đổi nhiều từ khi Việt-nam tiếp-xúc với các quốc-gia kĩ-nghệ Âu-Mĩ, nhưng vì dân chúng Việt-nam sống trong hoàn-cảnh kĩ-thuật chậm-tiến và nghèo khó nên các loại phương-tiện hiện-đại không được đầy đủ. Thực-phẩm chính của người Việt là lúa gạo. Trong bữa ăn hàng ngày, cơm là thức ăn chính rồi kế tiếp là nước mắm, rau, cá, thịt ... C. Trí-Tuệ Người Việt có đời sống tâm-linh cao. Quý-trọng đạo-đức hơn vật-chất. Biết quân-bình tình và lí. Thông-minh, trí nhớ bền; có khả-năng thích-ứng với mọi hoàn-cảnh. Người Việt nói cùng một thứ ngôn ngữ - tiếng Việt - nhưng thay đổi đôi chút tuỳ theo không-gian (địa-phương) và thời-gian.
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:46:42 GMT 9
Dân tộc thiểu số Việt Nam Huyền Trân Người Việt Nam (còn gọi là người Kinh) chiếm 90% tổng số dân số. Nước Việt Nam rất phức tạp về dân số và về ngôn ngữ: nước ta có 54 dân tộc thượng du (miền núi). Ta phân biệt được họ nhờ trang phục và độ cao nơi sinh sống Áo đàn bà Nùng Áo đàn bà Yao Nhà Miền Bắc Việt Nam, người Thái chiếm những triền dốc đầu tiên của núi, rồi cao hơn là người Mán (giữa độ cao 300-800 m ). Cao trên 900m ta thấy dân tộc Mèo. Trong lúc dân tộc thiểu số miền Trung, họ luôn chiếm các cao nguyên. Người Ba Na ( Bahnar ) Người Bố Y Người Brâu ( Brau ) Người Bru-Vân Kiều Người Chàm Người Chu Ru Người Cho Ro Người Chut Người Co Người Cống Người Co Ho Người Co Lao Người Co Tu Người Dào (Les Yao) Người Ê Dê (Eddé Radhé ) Người Giáy Người Gia Rai ( Jorai ) Người Gié Triêng ( Jeh ) Người Hà Nhi ( Hani ) Người Hmong (hay người Mèo, les Miao) Người Hoa ( người Hán , người Trung hoa ) Người Hrê ( Sré ) Người Kha'ng Người Khmers Người Kmu Người La Chi Người La Ha Người La Hủ ( La Hu ) Người Lào Người Lô Lô Người Lư Người Ma. Người Máng Người Mnông Người Mường Người Nga'i Người Nùng Người Ơ Du Người Pà Thẻn Người Phù Lá ( Phu La ) Người Pu Péo Người Ra Glai Người Rơ Mam Người Sán Chay Người Sán Dìu ( Man ) Người Si La Người Tày Người Tà Ôi ( Paco ) Người Tha'i Người Thổ Người Việt Người Xinh Mun Người Xơ Dang ( Sédang ) Người Xtiêng
|
|
|
Post by Can Tho on May 31, 2008 7:49:44 GMT 9
Cái nhìn mới về Việt Nam . BBC phỏng vấn giáo sư Keith Weller Taylor, giảng dạy môn lịch sử Việt Nam tại đại học Cornell, Hoa Kỳ xoay quanh một số quan điểm mới của giới nghiên cứu nước ngoài nhìn về Việt Nam.
Keith Taylor: Lịch sử chính trị của người Việt từ thế kỉ 15 đến bây giờ chủ yếu là lịch sử đấu tranh giữa những địa phương. Hiện nay ở Việt Nam chính phủ rất muốn nói rằng lịch sử Việt Nam là một lịch sử thống nhất và người Việt Nam là một cộng đồng thống nhất. Nhưng thật ra theo tôi, về quan điểm lịch sử thì điều đó không đúng.
BBC: 20 năm trước, ông xuất bản cuốn sách tên "Sự khai sinh của Việt Nam" nói về sự quan hệ lịch sử giữa tổ tiên người Việt và Trung Quốc. Từ đó đến nay quan điểm nói chung của ông có gì thay đổi?
Keith Taylor: Quyển sách của tôi in 20 năm trước rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ. Tôi đã nghĩ rằng chúng ta có thể nói về người Việt trong những thế kỷ trước kia như ta nói về người Việt hiện nay. Nhưng bây giờ tôi không nghĩ như thế nữa.
So sánh với thời cận đại thì thời quá khứ thật là kỳ lạ. Người Việt thế kỷ thứ 13, 15, 17 không giống người Việt thế kỷ thứ 20. Cho nên tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học.
BBC: Vì sao ông cho rằng không khó khăn để nói nhiều nhân vật lịch sử như vua Hùng, Lê Lợi, Hai Bà Trưng là người Việt mà cũng là người Mường.
Keith Taylor: Trước thế kỷ 20, những người mà hiện nay ta gọi là người Kinh hay người Mường đã bị không bị phân biệt. Tất cả những người này đã cư trú trong một khu vực chính trị. Rất nhiều người có vai trò quan trọng trong lịch sử như Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lê Lợi đã ở những vùng mà hiện nay ta gọi là những địa phương người Mường.
BBC: Ông có viết là ngày xưa người Mường nhận diện bản thân họ và các dân tộc khác dưạ trên các địa danh nhưng ngày nay họ trở thành một sắc dân thiểu số. Ông có giải thích ý này được không?
Keith Taylor: Năm 1925, tạp chí Nam Phong đã in hai bài về người Mường. Một là do một người Mường đã viết, bài này không dùng thuật ngữ Mường mà chỉ nói về văn hoá tỉnh Hòa Bình và nói về những thế hệ lãnh đạo gọi Quan Lang bao gồm Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn... Quan Lang là tước hiệu của người lãnh đạo trong những địa phương hiện nay ta gọi vùng người Mường.
Bài thứ hai do một người Kinh viết, và bài này hoàn toàn về người Mường - người Mường là thế nào, ý kíên dân tộc Người Mường trước thời Pháp thuộc thường gọi mình là người của chỗ này, chỗ kia...không bao giờ gọi mình là người Mường. Người Pháp đến muốn thống nhất hiểu biết về mọi loại người để đơn giản hóa hành chính và dễ cai trị. Và người Kinh đã theo xu hướng này cho nên rất nhiều loại người ở vùng trung du từ sông Hồng vào miền Trung bị thống nhất dưới tên người Mường. Chương trình phân loại người ra các dân tộc thiểu số là phát minh của chính phủ cận đại, chính phủ thuộc địa Pháp hoặc là chính phủ quốc gia Việt Nam.
BBC: Nhiều người vẫn hay cho rằng Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm nhưng gần đây một số nhà nghiên cứu, trong đó có ông cho rằng có nhiều khả năng quy nguyên nhân của nhiều cuộc chiến tranh và khởi nghĩa là do các xung đột nội bộ trong từng vùng giữa các dân tộc nói tiếng Việt. Ví dụ ông có nói chiến dịch chống nhà Minh của Lê Lợi có thể được hiểu là một cuộc chinh phục của vùng Thanh Nghệ nghĩa là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, đối với vùng Đông Kinh, tức là đồng bằng sông Hồng. Ông có giải thích ý này không?
Keith Taylor: Lúc đó phần nhiều người ở các vùng xung quanh Hà Nội tức là Đông Kinh theo chính trị của người Minh. Nguyễn Trãi là người Bắc thường, và ông phải chạy đến Thanh Hóa. Hơn 9000 người Đông Kinh đã làm việc cai trị cho người Minh. Nguyễn Trãi viết thư cố thuyết phục họ bỏ người Minh theo Lê Lợi. Người Đông Kinh nhìn Lê Lợi như một kẻ nổi loạn nhà quê. Sau khi Lê Lợi nắm quyền, những người này bị gọi là ngụy quan và bị phạt nặng.
BBC: Nhưng người ta hay nói mối quan hệ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi như một ví dụ cho sự đoàn kết giữa các vùng?
Keith Taylor: Nhà sử muốn nói rằng VN là một nước thống nhất, không có Đông Kinh và Thanh Nghệ. Nguyễn Trãi là người Đông Kinh và Lê Lợi là người Thanh Nghệ, vì thế việc hai người này trở nên đoàn kết sẽ chứng minh cho sự thống nhất của đất nước. Nguyễn Trãi là một nhà thơ tài năng, nhưng vai trò của ông về mặt chính trị và quân đội thì khá mờ nhạt. Lê Lợi và các tướng lĩnh khác chỉ muốn dùng tài năng thơ văn của Nguyễn Trãi để tuyên truyền và vận động dân chúng đứng về phía mình.
BBC: Ông nhìn về cuộc Nam tiến và nhân vật Nguyễn Hoàng như thế nào?
Keith Taylor: Nam tiến là một thuật ngữ lịch sử cận đại, là một học thuyết để khẳng định từ Bắc vào Nam chỉ có một nước và một người. Đây là sự tuyên truyền của chủ nghĩa quốc gia, muốn phủ nhận những sự khác nhau giữa miền Nam và miền Bắc và muốn nói rằng văn hóa miền Nam chỉ có một nguồn. Và nguồn này phải ở miền Bắc, tức là lý do cho phép miền Bắc đô hộ miền Nam để giảng dạy người Nam thế nào là một người Việt Nam thật sự.
Nguyễn Hoàng đã bỏ miền Bắc để xây dựng ở biên giới Nam. Nguyễn Hoàng đã có chính sách mở cửa về buôn bán nước ngoài, đã dùng người có khả năng. Tôi không có ý định thần tượng hóa Nguyễn Hoàn của tự do miền Nam. Trong lịch sử quốc gia Việt Nam hiện nay, Nguyễn Hoàng không được đánh giá cao bởi vì vai trò lịch sử của ông không hợp với học thuyết thống nhất quốc gia của chính phủ.
BBC: Ông có cho rằng cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn có phải là cuộc chiến giữa hai quốc gia hay không?
Keith Taylor: Tôi nghĩ rằng trong hai thế kỷ 17 và 18 Đàng Trong và Đàng Ngoài là hai nước. Vì sao Việt Nam phải là một nước thôi là vấn đề chiến tranh và chính trị, không là vấn đề lịch sử, xã hội và văn hóa.
BBC: Tại sao ông nói cuộc xung đột trong hoàng cung sau cái chết của vua Tự Đức năm 1883 có thể xem là một cuộc xung đột giữa Thuận Quảng và Thanh Nghệ?
Keith Taylor: Lúc người Pháp nắm quyền ở Huế, phần nhiều nhà nho trong địa phương Huế đã theo chính sách Pháp nhưng nhiều người lãnh đạo phong trào Cần Vương là người Thanh Nghệ. Cái này chỉ là tiếp tục của vấn đề tranh chấp giữa hai vùng này đã có từ lâu rồi trước khi người Pháp đến.
BBC: Theo cách kể của ông, tôi cảm thấy rằng những người ở vùng Thanh Nghệ luôn có sẵn tinh thần chống ngoại xâm. Tại sao lại như vậy?
Keith Taylor: Người Thanh Nghệ nghèo và khổ sở, cho nên rất dễ đi lính. Chúa Trịnh đã động viên phần nhiều lính ở Thanh Nghệ. Trong thời Chiến tranh thế giới I, phần nhiều người Việt tình nguyện sang Pháp đi lính hay làm việc là người Thanh Nghệ. Người Thanh Nghệ cũng rất dễ nổi loạn. Năm 1957 cũng có nhiều người nổi dậy chống sự áp bức. Vấn đề này không có quan hệ gì đến lòng yêu nước. ............................................................................................................................... Đọc thêm: Keith Taylor: “Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, trong tạp chí Journal of Asian Studies 57, no.4 (Tháng 11-1998)
Nola Cooke: 'Regionalism and the Nature of Nguyen Rule in Seventeenth-Century Dang Trong", trong tạp chí Journal of Southeast Asian Studies, 29:122-161, 1998
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jan 23, 2009 10:37:02 GMT 9
www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=2377Kết cục hai kẻ theo Bắc triều. 18.06.2008 06:30 Thấy Tàu Bẩn đang tổ chức làm phim về nước Nam Việt . Trong đó chắc là sẽ có những nội dung bóp méo sự thật, hoặc bôi xấu VN vì thỉnh thoảng trong các phim cổ của Tàu bẩn vẫn thế ( Bao Công chẳng hạn) . Trong thời gian bộ phim này chưa ra mắt, mời các bác đọc truyện ngắn do tớ sáng tác cũng về Nam Việt ( dựa trên truyện có thật) để sau này so sánh truyện của tớ với phim của Tàu có thấy buồn cười không . Truyện: Kết cục hai kẻ theo Bắc triều Tác giả: Manh Hung - thành viên hoangsa.org. Thể loại: Truyện dựa trên câu truyện có thật ( xảy vào khoảng hơn 100 năm trước CN). Lời nói đầu: Tớ vốn viết văn kém. Hồi học phổ thông điểm văn toàn 5 với 6 đổ xuống. Vì vậy mong bà con cô bác bỏ qua những chỗ câu chữ lủng củng, chỉ tập chung vào nội dung chính câu chuyện BEGIN: Trên thành Trường An của Hán Triều, trời nhiều mây, u ám. Đã đến giờ mão mà trên mặt đất sương vẫn chưa tan hết . Hơi sương thoang thoảng trên đất, lẫn trong các lùm cây, bụi cỏ. Đường phố Trường An đã tấp nập với những người mua kẻ bán, khách bộ hành đi đi lại lại. Thỉnh thoảng có những tiếng lừa kêu, ngựa hý xen lẫn tiếng nói chuyện ồn ào . Nhưng trên quảng trường nhỏ trước Hoàng thành thì không khí trái ngược hẳn : Thật vắng lặng. Lác đác đây đó những nhóm lính canh , tay phải thì cầm kích, tay trái thì chống nách đứng dạng 2 chân tỏ vẻ ngạo nghễ . Một tên mặc chiếc áo giáp màu vàng, quần áo chỉnh tề hơn những tên lính canh, tay cầm bảo đao, đi đi lại lại trước cổng thành. Không khó cũng có thể đoán ra đó là một tên đội trưởng nào đó, cấp trên của bọn lính canh kia. Với ai đó thì buổi sáng hôm nay có thể là một buổi sáng mát mẻ, dễ chịu nhưng với tên quan tứ phẩm họ là An Quốc, tên là Thiếu Quý thì điều đó hoàn toàn chẳng đáng bận tâm. Trong đầu hắn lúc này đang căng lên với thắc mắc : “Không hiểu Hoàng đế triệu hắn-một viên quan cấp trung bình- vào cung có việc gì nhỉ ?” . Hắn luýnh quýnh bước theo tên thái giám dẫn đường, trời không nóng mà mồ hôi trên mặt hắn nhễ nhại. *** Viên thái giám dẫn đường dẫn Thiếu Quý đến một cái đình nhỏ, xung quanh có hồ nước và lắm các loại cây cảnh, Thiếu Quý nhìn thấy Hán Vũ Đế đang ngồi đó chờ, xung quanh là mấy viên đại thần của Hán triều được Văn Đế tin tưởng - Hạ thần là An Quốc Thiếu Quý xin bái yết Hoàng Thượng, Hoàng Thượng vạn tuế , vạn tuế vạn vạn tuế …<o:p> - Bình thân ! – Hán Vũ Đế ra hiệu cho Thiếu Quý đứng dậy. - Đội ơn Hoàng Thượng ! - Thiếu Quý … - Dạ ! - Ta nghe nói đương kim Thái hậu Nam Việt trước đây đã từng có “quan hệ” với nhà ngươi phải không ? - Ơ .. dạ … dạ..da... - Hoàng thượng hỏi sao nhà ngươi không trả lời ngay đi, dạ dạ cái gì hả ? – Một viên quan lớn đứng canh Vũ Đế bực mình quát . - Bẩm Hoàng Thượng, nói ra thật xấu hổ, đúng là hạ thần từng có quan hệ với đương kim Thái hậu hiện nay của Nam Việt ạ ! - Khà khà... Nhà ngươi không phải xấu hổ . Mau nói cho trẫm biết, quan hệ của ngươi với Cù thị ( Thái hậu Nam Việt mang họ là Cù ) là như thế nào ? Nhà ngươi cứ việc nói thật, không phải e ngại ! Thiếu Quý trong lòng vừa mừng vừa lo. Mừng vì xem thái độ nhẹ nhàng, hơi đùa cợt của Vũ Đế thì hôm nay Văn Đế triệu Thiếu Quý đến không phải để hỏi tội . Lo vì không hiểu sao Vũ Đế lại đem chuyện tình cảm thời trai trẻ của hắn ra hỏi ngay trước mặt các quan lớn triều đình như vậy . - Muôn tâu Hoàng thượng, quả là ngày xưa thần từng có quan hệ tình cảm với Cù thị nhưng Cù thị vốn là kẻ đam mê quyền lực, danh vọng nên đã bỏ thần để lấy Anh Tề ( con Triệu Văn Vương, tức chắt của Triệu Đà ) khi Anh Tề sang làm con tin ở nước ta ạ ! *** Sau khi Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, đã lập ra nhà Hán . Sử cũ gọi đây là thời kì Tây Hán để phân biệt với thời Đông Hán-khi triều Hán bị Tào Tháo ép phải chuyển Kinh Đô sang phía đông. Sau khi Lưu Bang lấy được thiên hạ ( TQ ), nghe tin Triệu Đà ở phương nam cũng xưng đế liền cử xứ giả sang giả vờ hòa hảo đồng thời để tuyên truyền sức mạnh nhà Hán: “...đất rộng hàng muôn dặm, của nhiều người đông, quyền lực thống nhất tập trung trong tay nhà Hán, nếu không phải vì không muốn thiên hạ một phen chết chóc đau khổ thì chỉ cần một trận là Hán Đế sẽ nuốt gọn Nam Việt... “ . Mục đích để vừa xoa dịu, vừa răn đe Triệu Đà, chờ thời cơ thích hợp sẽ phát binh tiến đánh. Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 934x701 và nang 189KB. Nhưng Triệu Đà là một tay cáo già đâu dễ bị chơi xỏ . Một mặt Triệu Đà giả vờ giao hảo, coi Hán triều là anh em, cùng chung hưởng thái bình, đồng ý nhận chiếc ấn Nam Việt Vương mà Lưu Bang gửi; một mặt Triệu Đà tăng cường củng cố biên cương, xây thành đắp lũy, cắt cử quân tướng canh gác cẩn mật. Cho nên đến chết Lưu Bang vẫn chưa nuốt được Nam Việt. ( Hình vẽ: hình võ sĩ Nam Việt trên đồ cổ ) Sau khi Triệu Đà chết, cháu Triệu Đà là Triệu Hồ lên ngôi, xưng là Triệu Văn Vương. Để giữ hòa khí với Hán triều, Triệu Văn Vương cho con là Thái tử Anh Tề sang nhà Hán làm con tin. Trong thời gian sống tại đây, Triệu Anh Tề đã lấy Cù Thị làm vợ. Triệu Văn Vương mất, Anh Tề lên ngôi ( Triệu Minh Vương), Cù Thị nghiễm nhiên trở thành hoàng hậu. Mười hai năm sau, Minh Vương mất, con Cù Thị là Triệu Hưng được lên ngôi, xưng là Triệu Ai Vương. Cù Thị trở thành Thái hậu của Nam Việt. Vì Triệu Ai vương còn nhỏ nên quyền lực bị Cù Thị-mẹ lấn át, việc lớn trong triều phần nhiều do Thái hậu quyết định. Quay lại chuyện An Quốc Thiếu Quý được Hán Vũ Đế triệu đến. - Thiếu Quý ! – Vũ Đế nói. - Dạ ! - Hiện nay tình hình Nam Việt đang bất ổn . Triệu Minh Vương mới mất, Triệu Ai Vương lên nối ngôi nhưng tuổi đời còn trẻ, bản lĩnh không có, lòng người chưa định . Đây là cơ hội tốt để triều ta thu phục Nam Việt . Trẫm và các đại thần đã bàn và quyết định chọn ngươi làm sứ giả để sang Nam Việt. Hiện nay người nắm quyền thực sự ở Nam Việt là Thái hậu , nhà ngươi và Cù Thị từng có tình cảm với nhau, nếu ngươi sang Nam Việt chắc Cù Thị sẽ dễ dàng chấp thuận các yêu sách của Trẫm . Người thấy thể nào hả ? - Hạ thần xin nguyện hết sức cố gắng ạ Phái đoàn do An Quốc Thiếu Úy kéo sang Nam Việt rất đông và rẩm rộ. Văn thì có bọn biện sĩ ( chuyên đi tuyên truyền, thuyết phục) do quan Gián nghị Đại Phu Chung Quân cầm đầu . Võ thì Hán Triều cử quan Vệ Úy là Lộ Đức Bác dẫn một đạo quân đến Quế Dương để Yểm trợ từ xa. Theo lệnh của Hán Vũ Đế, Thiếu Quý sang Nam Việt chiêu dụ Cù Thị sang nhà Hán để chầu Hán Đế giống như các chư hầu trong nội địa Trung Quốc , thực chất tức là chấp nhận làm một quận của Hán triều . Đúng như mong muốn của Hán triều, sau khi nhận được yêu sách do Thiếu Quý mang sang, Cù Thị đã chấp nhận và còn tiếp đãi Thiếu Quý rất nồng hậu . Cù thị tuy không còn trẻ nhưng nhan sắc vẫn còn mặn mà. Vốn có tình cảm từ xưa, nay gặp lại nên chẳng mấy chốc hai người lại tiếp tục “chuyện cũ”. Cái kim trong bọc tất sẽ lòi ra, vải thưa không che được mắt thánh. Tin Thái hậu theo ngoại bang và làm chuyện dâm loạn không có cánh mà lan đi rõ nhanh. Dân Nam Việt khắp nơi bàn tán, nhiều người tỏ ý bất bình, không phục Thái hậu . *** - Hoàng nhi và các quan tính thế nào ? Bây giờ bọn dân đen đâu đâu cũng nói xấu Ta và Hoàng nhi đó. Bây giờ bất cứ lúc nào chúng cũng có thể nổi loạn . Chi bằng bây giờ hãy đẩy nhanh việc xin nội thuộc vào nhà Hán để được nhà Hán che trở ?! Triệu Ai Vương dùng dằng , chưa thật ủng hộ còn các quan trong triều nhiểu người trong lòng phản đối nhưng không dám công khai ra miệng. Thấy vậy Thái hậu liền tự ý nhờ Thiếu Quý dâng thư cho Hán Đế xin được theo lệ như các chư hầu nội hạt ( kiểu như vùng tự trị thời nay), cứ ba năm vào chầu một lần, triệt bỏ các cứ điểm canh phòng ở các cửa ải với nhà Hán. Việc này tất nhiên được nhà Hán bằng lòng vì nó nằm trong âm mưu, mong muốn của Hán triều. Để tỏ rõ sự thay đổi này, Hán đế ban cho Triệu Ai Vương quả ấn bằng bạc và các quả ấn mới khác cho các quan lại Nam Việt . Luật pháp của Nam Việt được thay thế bằng luật pháp của Hán triều, ... Đồng thời Hán đế sai nhiều sứ giả sang ở Nam Việt để lo “vỗ về dân chúng”. *** Nay mới nói về nhân vật chính, đó là thừa tướng Lữ Gia của Nam Việt . Tuy tuổi đã cao, râu tóc bạc phơ nhưng ông vẫn tỏ ra khỏe mạnh, minh mẫn. Là vị quan trải qua ba triều : Văn Vương, Minh Vương và triều đình hiện nay , ông là người chính trực, có nhiều uy tín. Một người như ông sao có thể chấp nhận chuyện để cho gian sơn xã tắc lọt vào tay Hán triều một cách dễ dàng thế được, cho nên nhiều lần ông dâng sớ can Triệu Ai Vương đừng đem đất nước lệ thuộc vào nhà Hán . Triệu Ai Vương vốn chẳng có bản lĩnh cộng them bị mẹ là Thái hậu tác động, quyết theo Hán nên Triệu vương đã gạt bỏ những lời can ngăn của Lữ Gia. Vốn là vị quan rất trung thành nhưng thấy vua định đem cả giang sơn theo theo Hán , Lữ Gia bắt đầu đâm ra thù ghét vua và Thái hậu, ý đồ đảo chính bắt đầu sinh ra và lớn lên trong lòng ông. *** - Xin thái hậu hãy liệu mà tìm cách trà khử Lữ Gia đi –Sứ giả Hán triều nói với Thái hậu - . Thằng già đó có họ hàng đông đúc hơn bảy chục người, con trai con gái hắn đều lấy người trong tôn thất, Tần Vương ở Thương Ngô cũng là thông gia với hắn. Uy tín của hắn bây giờ còn lớn hơn cả vua . Nhiều lần tại hạ đến thăm hắn nhưng đều bị hắn giả vờ cáo bệnh để khước từ. Rõ ràng là hắn có ý đồ chống lại Vua và Thái hậu, chống lại Thiên triều . - Đâu phải ta không biết thằng giặc già đó có ý làm phản. Chỉ có điều hiện nay đâu đâu bọn dân đen cũng nói ta và Hoàng Nhi bán nước. Nhiều binh tướng tỏ ý không phục, nếu ra lệnh giết Lữ Gia e rằng chẳng có mấy người theo ! - Ha ha ... tưởng gì , việc đó quá đơn giản ! Xin Thái Hậu và hoàng thượng hãy mở tiệc rượu rồi mời các quan đại thần đến dự . Trong tiệc rượu hãy kiếm một cớ gì đó rồi giết hắn đi là xong ! Ha ha .. - Đúng rồi ! Thế mà ta không nghĩ ra, ngài quả thật là cao tay ... *** Tại phủ Tể tướng. - Đại ca , nghe nói nhà vua mở tiệc rượu và mời các quan đến có phải không ? - Em trai tể tướng hỏi- Vua và thái hậu định đem cả giang sơn theo nhà Hán, nay bỗng dưng mời các quan đến dự tiệc, e là có chuyện chẳng lành. Vậy hãy để em mang theo quân lính hộ tống đại ca đến dự tiệc ! - Ừm ... Ta cũng nghĩ như vậy. – Lữ Gia nói. *** Tại hoàng cung, các đại thần lục tục kéo đến. Tuy là đến để dự tiệc nhưng chẳng ai tỏ vẻ vui mừng, hớn hở. Vị thì vừa đi vừa cúi gằm, chỗ thì dăm ba vị quan túm tụm lại nói chuyện, chốc chốc lại thở dài tỏ vẻ ngao ngán. Sau khi để quân lính đóng ở ngoài cung, Lữ Gia bước vào dự tiệc. Tiệc rượu vừa mới bắt đầu, Thái hậu đã dở giọng khiêu khích: - Lữ Gia ! Nam Việt xin nội thuộc vào Hán triều là việc có ích cho nước nhà, giúp trăm họ tránh khỏi cảnh binh đao, tại sao tướng quân lại cho là bất tiện ? Câu nói đó nhằm mục đích chọc tức Lữ Gia, nhằm mục đích khêu gợi Lữ Gia có hành động phạm thượng khi quân , lúc đó Thái hậu sẽ có cớ bắt Lữ Gia. Sứ giả Hán triều hôm đó cũng dự tiệc, hằm hè theo dõi xem thái độ phản ứng của Lữ Gia như thế nào. Là người từng trải, nhìn thái độ của thái hậu, sứ giả Hán triều và mọi người có vẻ khác thường, Lữ Gia hiểu ngay bản chất bữa tiệc này là gì. Trái với dự đoán của thái hậu, thay vì đứng giữa triều đình để đôi co với thái hậu, nêu ra những điều vô lý của việc xin làm một quận huyện của nhà Hán, Lữ Gia lập tức đứng dậy, bỏ ra ngoài. Bị Lữ Gia coi thường, thái hậu giật lấy ngọn dáo của một tên lính canh định đâm Lữ Gia nhưng Triệu Ai Vương đã kịp ngăn lại. Về nhà, anh em Lữ Gia chia quân canh gác cẩn thận và không chịu gặp vua và sứ giả Hán triều. - Thừa tướng ! Ngày nay, vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu chuyên quyền, làm chuyện dâm loạn với An Quốc Thiếu Quý-sứ giả của nhà Hán . Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa. - Thừa Tướng ! Nước ta từ thời Triệu Vũ Đế ( Triệu Đà) đến nay trải ngót trăm năm, đất đai kể cũng hàng ngàn dặm, người đông hàng chục vạn, đâu có nhỏ bé gì . Thế mà nay, chưa đánh với nhà Hán trận nào để so tài cao thấp, đã có kẻ hèn nhát, muốn chấp nhận làm tôi tớ nhà Hán. Lúc sinh thời , Văn Vương và Minh Vương đâu có đối xử tệ bạc với thừa tướng, xin thừa tướng hãy nghĩ đến giang sơn xã tắc, nghĩ đến công ơn của Văn Vương và Minh Vương mà ra tay trừ gian ! - Thừa tướng ! Đất nước lâm nguy, xin thừa tướng hãy đứng ra liên kết các văn quan, võ tướng trong nước đứng lên tiễu trừ nội phản. - Thừa tướng ! Xin thừa tướng hãy ra lệnh . Lũ hạ quan xin được liều mình vì nước . - Thừa tướng ! Xin hãy ra lệnh. Dù phải chết thuộc hạ cũng xin nguyện hết sức cố gắng. .... Lúc này , những văn võ bá quan biết lo nghĩ tới vận mệnh nước Nam Việt ai cũng đều hướng về Lữ Gia, mong Lữ Gia liên kết mọi người nổi lên giết Vua và Thái hậu- hai kẻ muốn bán nước, chạy theo Hán triều. Tuy nhiên, vốn là kẻ ăn lộc lâu năm nhà họ Triệu, trung thành với nhà họ Triệu, dù biết vua và thái hậu là những kẻ xấu nhưng Lữ Gia vẫn còn chưa nỡ xuống tay. - Giết vua , giết thái hậu là phạm tội đại nghịch, bất trung . Chúng ta hưởng bổng lộc nhà họ triệu thì phải lo phò tá nhà Triệu. Vả lại hôm dự tiệc nhà vua ngăn khong cho thái hậu cầm giáo đâm ta tức là nhà vua không muốn giết ta . Làm thế e rằng không ổn. – Lữ Gia phân trần. - Thừa tướng ! Vua không ra vua thì thần sao có thể ra thần được . Thái hậu và cua quyết theo nhà Hán, đem mọi thứ châu báu của tiên vương dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, bắt nhiều người mang đến Trường An để làm đầy tớ cho người ta, ... làm gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng không chút xót thương gì tới nhân dân, xã tắc, chẳng hề lo kế lâu dài cho đất nước, loại như thế có đáng để trung thành không ? - Đúng vậy ! Trừ khử bọn gian tà để bảo toàn đất nước, đó mới chính là trung thành với họ Triệu ! – Một vị khác phụ họa theo. - Thôi được rồi , các vị để tôi suy nghĩ thêm đã – Lữ Gia trả lời. Thế là tình thế Nam Việt bấy giờ tiếp tục ở thế giằng co. Thái hậu thì không đủ lực lượng ủng hộ để giết Lữ Gia. Còn Lữ Gia thì chưa muốn động binh làm phản. *** Tin Lữ Gia không còn tuân lệnh vua Nam Việt, còn Thái hậu và vua bị cô lập, yếu ớt, không chế ngự được Lữ Gia chẳng mấy chốc bay đến Hán triều. Hán Vũ Đế liền tính chuyện phát binh sang Nam Việt để giết Lữ Gia. - Trang Sâm – Văn đế hỏi một viên tướng Hán – Ta muốn cử ngươi mang hai ngàn tinh binh sang Nam Việt giết Lữ Gia, ngươi có thể đảm nhận việc này không ? - Nếu lấy sự hòa hiếu mà sang thì chỉ cần vài người đi cùng cũng đủ, còn như lấy vũ lực mà sang thì ...-Trang Sâm chần trừ một lúc- .. thì hai ngàn tinh binh cũng chẳng làm được gì . Hạ thần không thể đảm nhận được ạ ! - Đồ khốn, việc cỏn con vậy mà cũng không làm được là sao hả ?- Vũ Đế giận dữ- Quân bay đâu, lôt mũ áo của Trang Sâm, đuổi hắn về quê ! Sau khi Trang Sâm bị tống khỏi triều, Vũ Đế hỏi tiếp: - Các khanh, trong các khanh có ai có thể đảm nhận việc này chăng ? - Một nước Việt cỏn con, trong thì đã có Vương và Thái hậu làm nội ứng, nay nếu cần trừng trị Thừa tướng Lữ Gia, tôi đây chỉ cần ba trăm dũng sĩ, thế nào cũng chém được đầu của Lữ Gia đem về ! Kẻ vừa to mồm giữa Hán triều là Hàn Thiên Thu, trước đây từng trấn giữ vùng biên giới phía Bắc-giữa nhà Hán với Hung Nô. Nghe vậy Vũ Đế vui lắm, phong cho Hàn Thiên Thu làm tướng, mang hai ngàn quân tiến vào đất Việt. *** Tin quân Hán tiến vào đất Việt bay đến Lữ Gia phủ . Lữ thừa tướng không thể chần chừ được nữa, vội cấp báo cho những văn quan, võ tướng ủng hộ giết Vua và Thái hậu đến họp bàn. - Các chư vị, thám báo của ta ở biên cương vừa cấp báo: quân Hán đã tiến vào đất Việt . Tình thế hết sức cấp bách. Giang sơn nước Việt có vẹn toàn hay không chính là ở lúc này đây. Xin các vị hãy cùng ta tiến đánh Vua và Thái hậu, bảo toàn đất nước. Các quan đồng thanh hô vang: - Xin vâng lệnh thừa tướng. Lữ thừa tướng thảo một tờ hịch kể tội vua và thái hậu bán nước cho giặc, đặt lợi ích riêng lên trên giang sơn xã tắc rồi sai quân gửi đi khắp các trấn trong nước . Xong liền kéo quân đến Hoàng thành đánh Vua , Thái hậu và bọn sứ giả của Hán Triều . Quân lính ở hoàng thành đa số đều bất phục Thái hậu và vua từ lâu nên thấy quân Lữ Gia kéo đến kẻ thì bỏ chạy, kẻ thì quy hàng. Đạo quân bảo vệ hoàng thành tan rã nhanh chóng . Một viên tướng cưỡi ngựa dẫn một toán quân xông thẳng vào chính điện. Bằng vài đường gươm dũng mãnh, viên tướng đã loại bỏ mấy tên ngự lâm cản đường . Đến bậc thềm, viên tướng nhảy phốc xuống ngựa, xông thẳng vào trong. Tại đây, Thái hậu và Vua đang ngồi chờ đợi trong tuyệt vọng. - Quân hỗn láo, ai cho chúng bay làm phản hả ? – Ở thế đường cùng, Cù Thị vẫn tỏ ra ngoan cố. Không thèm trả lời , viên tướng hô to : - Cù Thị, Triệu Hưng ! Chúng mày đem giang sơn xã tắc dâng cho giặc, tội chúng bay đáng chết ! Thanh gươm sáng vung lên đưa hai kẻ tội đồ về chầu Diêm vương. Trong khi đó bọn sứ giả Hán triều bị quân lính dồn vào một góc sân. Biết kết cục sắp xảy ra, đứa nào đứa nấy kêu la thảm thiết. Thật khó hình dung mới hôm qua bọn chúng vẫn còn nghênh ngang khệnh khạng đi lại trên phố của kinh thành Phiên Ngung, ra vẻ ta đây là quan từ Thiên triều đến, nhìn dân Việt bằng nửa con mắt. Nhưng giờ đây chúng chỉ còn là đống thịt băm nhão nhoét.Tất cả đều bị giết sạch. *** Nghe tin Vua , Thái hậu và bọn sứ giả đã bị giết, không còn lực lượng nội ứng nữa, đang đêm, quân của Hàn Thiên Thu nhổ trại, cuốn cờ im trống cút thẳng khỏi đất Việt . Ngày hôm sau, Lữ Gia lập con trưởng của Triệu Minh Vương là Thuật Dương Hầu Triệu Kiến Đức lên làm vua, chấm dứt một phen sóng gió với nước Nam Việt . END. Manh Hung - Thành viên hoangsa.org.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 11:06:11 GMT 9
Ứng Xử Sai Lầm Với Lịch Sử Trần Thị Hồng Sương “… hiện thực “độc tài toàn trị" tiếp diễn không cho phép làm được điều đó, cho nên vẫn không chấp nhận được hiện tại và âu lo tương lai chứ không phải nuôi lòng thù hận quá khứ! Biết sai không sửa, biết hại cho đất nước vẫn làm là kẻ phản quốc, kẻ có tâm hồn ác không đáng được khoan dung!…” Sẽ rất bất hạnh nếu không lưu giữ được gì trong ký ức ! Có lẽ giống chó có trí nhớ, nhớ những sự việc đơn giản được lặp đi lặp lại, nhưng chó không có trí khôn suy xét cho nên chó quên ngay cú đá của người chủ côn đồ và vẫn xum xoe liếm tay vẫy đuôi, tự ràng buộc số phận mình vào việc trung thành với miếng cơm của người chủ ban cho! Người không có trí khôn sẽ giống người bệnh tâm thần! Nhưng nhớ, suy xét, đau buồn không có nghĩa là thù, thù dai... chờ ngày trả thù, mà là để cảnh giác và nhận biết bạn thù và sẵn sàng kháng cự hiệu quả. Cho nên: “Tha thứ: Được!; Quên: Không!” (Forgive: yes!; Forget: No!) Phải khẳng định không có gì có thể mất đi: tình yêu, ân oán, lòng thù hận, điều lành điều ác...! Kẻ giết người dù có phi tang không chút dấu vết, thoát tội trước luật pháp nhưng vẫn còn ghi dấu trong ký ức kẻ sát nhân! Phật giáo cho rằng đời này gây oan trái nếu chưa trả, thì kiếp sau sẽ phải trả món nợ tiền kiếp. Quá khứ đất nước sẽ thành lịch sử, quá khứ cuộc đời con người ghi dấu trong ký ức, hiện ra trong giấc mơ, tái hiện bất chợt trong từng cá nhân hay được khơi lại từ những sự kiện làm liên tưởng đến vết thương tâm linh. Các nghiên cứu hiện đại phát kiến nhiều chi tiết hơn để trả lời câu hỏi: Tố chất nào hình thành nên một thiên tài? Con người có trí khôn khác nhau theo mức của chỉ số thông minh IQ (intelligence quotient). IQ là khả năng giải quyết các vấn đề mang tính logic (used to solve logical problems) mỗi người có IQ cao trong một lãnh vực khác nhau, nhưng chỉ có chỉ số thông minh IQ sẽ không giải thích được nhờ đâu có được những loé sáng kỳ diệu từ cảnh quan bình thường như Isaac Newton, nhìn trái táo rơi như mọi người từng nhìn từ hàng nhiều ngàn năm qua, bỗng loé ra ý tưởng lực hấp dẫn vũ trụ và cuối cùng suy ra định luật vạn vật hấp dẫn. Vào giữa thập niên 1990, Daniel Goleman đưa ra công luận các nghiên cứu về thần kinh học và tâm lý học nhấn mạnh đến sự quan trọng của chỉ số xúc cảm EQ (Emotional Quotient) giúp con người nhận biết cảm xúc của mình và của người khác. EQ cao giúp có được khả năng đồng cảm (empathy) tức khả năng hiểu được ý nghĩ và cảm xúc của người khác, (motivation) khả năng gợi cảm hứng thúc đẩy hoạt động và (Compassion, sympathy) nhân hậu biết cảm thương nỗi đau khổ của tha nhân thường luôn kèm theo ý nguyện giúp đỡ và cón có thêm một kỹ năng diễn cảm bằng hùng biện hay văn tài về niềm vui hay nỗi khổ Goleman tranh luận rằng chính EQ là yêu cầu căn bản để có thể sử dụng IQ. Nếu vùng não của chức năng nầy bị tổn thương thì khả năng suy nghĩ hiệu quả bị xoá sạch. Quá trình phát kiến về trí tuệ con người còn có phát hiện khác như chỉ số tâm linh SQ (Spiritual Quotient) giúp nhận biết ý nghĩa và giá trị cuộc sống. Đây là khuynh hướng của các nhà tư tưởng, triết gia, học giả và các giáo sĩ. Như vậy khoa học đã lý giải về nhiều loại người trí thức có học có kiến thức trong nhiều lãnh vực khác nhau thuộc IQ. Nhưng nếu không có EQ và SQ không thành tài năng và sống thiếu lòng nhân hậu cảm thông. Những người này để chữ nghĩa lời nói mình thiếu sự trung thực, xúc phạm làm tổn thương người khác, suy xét thiếu một lộ trình xuyên suốt toàn vẹn, không tôn trọng giá trị cuộc sống tâm linh... Đó là những người có kỹ năng song không có tài năng và hùng biện truyền đạt để thu phục nhân tâm. Biết vậy nên chẳng có gì khó hiểu khi còn có những người như ông Trần Chung Ngọc chủ quan thiên kiến, bà Tôn Nữ Thị Ninh nói chuyện với Việt Kiều không phải để chia sẻ ý kiến, cảm thông mà chỉ nói “theo đơn đặt hàng của nhà nước CSVN“. Brian Đoàn, Trần Trường, Huỳnh Thuỷ Châu bị phủ vây bởi sự thiếu thông tin chính xác, hành động nông nổi chỉ để nổi danh… Xã hội luôn có thành phần như thế tồn tại song hành, như dòng nước đối lưu không muốn theo hay không theo nổi trào lưu là dòng chảy chính của nền văn minh đương thời! Dù sao cũng hy vọng những người còn trẻ như Brian Đoàn chưa va chạm với CS để nhận ra bản chất chế độ độc tài toàn trị khủng khiếp, không một ai không là đảng viên mà có thể đảm nhiệm vai trò xã hội gì, chỉ phải làm theo yêu cầu của Đảng và cách quảng bá bằng dối trá tuyệt vời của CS. Brian Đoàn và Huỳnh Thuỷ Châu cần học hiểu thêm về chính trị rồi hãy đường hoàng làm chính trị thay vì làm chính trị bằng tâm hồn hoạ sĩ hay núp bóng hội hoạ! Ai cũng hành động từng lúc theo hiểu biết và lòng tin chắc chắn nhất thời lúc đó. Nhưng qua nâng cao học vấn kinh nghiệm, qua phát kiến khoa học, đối chiếu hiện thực, tư tưởng sẽ phải có thay đổi suy nghĩ khác, hành động khác cao hơn, hiệu quả hơn. Socrates tự biết rằng ông không khôn ngoan hoàn toàn, và nghịch lý xảy ra khiến ông thành là người khôn ngoan duy nhất kể từ khi ông hiểu biết những điều ông từng không biết. Muốn khôn ngoan ai cũng phải làm một hành trình tư duy bới tìm những thứ bị che lấp chôn vùi và nhất là cá nhân không làm người cơ hội, không bị ràng buộc bởi quyền lợi, khiến bị khống chế không còn lòng trung thực, không thể tiếp cận sự thật vốn không có lợi cho riêng mình, chỉ có lợi cho chân lý cho nền văn minh cho tiến bộ xã hội cho mọi người trong đó có mình. Jean-Paul Sartre là trí thức sống trong tháp ngà chữ nghĩa, xa xôi với hiện thực Việt Nam, ông không bới tìm sự thật nhưng thảm hoạ trên biển của thuyền nhân giúp ông thấy ra sự thật. Đối chiếu hiện thực trong chiến tranh mình tham dự nhà văn Dương Thu Hương bức xúc trăn trở, vượt qua được định kiến và nỗi sợ để nói lên sự thật ! Sau 1975 có nhiều sự sụp đổ văn hoá qua thứ giáo dục trở về kiểu “quốc tử giám” chỉ dành cho con cháu quan chức Cộng Sản trong chủ nghĩa lý lịch. Gãy đổ tình đoàn kết dân tộc, khơi dậy lòng thù nghịch ở miền Nam Việt Nam sau 1975 với chứng cứ không gì bác bỏ nổi như cấm con sĩ quan vào đại học, học tập không án... là những lý do lớn để toàn dân kết luận: “Cột đèn có chân cũng đi khỏi Việt Nam!”. Ai cũng muốn chấm dứt chiến tranh để cuộc sống miền Nam Việt Nam vốn ngang hay đi trước Philippines-Thái Lan-Singapore không bị chiến tranh làm chậm bước... Nhưng sau 1975, CSVN đi ngược chiều nền văn minh, xoá bỏ nền chính trị dân chủ tự do mà VNCH đã khởi đầu qua luật pháp với chế độ đa nguyên đa đảng. Đời thường còn có nhiều chuyện dị thường như xởn tóc, cắt ống quần, thay tên “xưởng đẻ” cho phòng sanh trong bệnh viện Từ Dũ như thể con người là robot vô hồn đang được...lắp ráp! Kể ra hết thì giống chuyện tiếu lâm rơi nước mắt... khi người bị CS Bắc Việt biến cả nước thành Mán rừng! “Mán rừng vào Thành phố”! Người miền Nam ủng hộ buông súng và nhìn các Mán ngơ ngáo thấy cảm thương bởi cùng máu đỏ màu da vàng phải biết chia sẻ áo cơm, nhưng cấp chỉ huy của Mán dạy phải cướp và thù... Trong nước đã vậy, tất cả sự thật làm những người từ các nước từng ủng hộ CSVN thấy rõ bị lừa dối, cảm thấy mình có lỗi phải làm điều gì đó đền đáp... Triết gia Jean-Paul Sartre và Raymond Aron, hai nhà trí thức từng đối đầu hơn hai mươi năm, mỗi người ủng hộ một phía của hai nền chính trị đối đầu ở Việt Nam là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà với Chủ nghĩa Cộng Sản trong nền kinh tế chỉ huy bao cấp và chính thể Việt Nam Cộng Hoà dân chủ tự do trong nền kinh tế thị trường! Hai ông đã cùng xuất hiện và Sartre tuyên bố thay đổi lập trường, lên án ba mươi năm dối trá của CSVN trước công chúng Pháp và kêu gọi góp quỹ giúp thuyền nhân Việt Nam. Đó là biểu tượng hoà giải tri thức của người ủng hộ Cộng Sản và không ủng hộ Cộng Sản hàng đầu ở Pháp. Người Việt Nam cần học ý nghĩa về sự thật chân lý trong hành vi mang tính phản tỉnh và làm biểu tượng thời hậu chiến của Việt Nam khi tiếp cận được sự thật của phía Cộng Sản VN. Các lễ hội ca tụng, các bài viết biện hộ, lời bình khích bác là điều gợi nhớ khơi lại... đống tro tàn, làm bùng cháy ngọn lửa đau thương, nuôi lớn lòng oán hận. Biết được tính phá hoại đoàn kết trầm trọng của các hành vi này nên ông Võ Văn Kiệt mới lên tiếng yêu cầu đảng Cộng Sản chớ có khơi lại nỗi đau buồn dân tộc, triệu người vui sao nên khi còn có triệu kẻ đau buồn ! Qua hành xử có thế thấy Ông Kiệt có IQ ra sao không biết vì ông không được tiếp cận học vấn, song có cơ sở kết luận ông là người có EQ, SQ cao! Trí thức XHCN, vì lý do quyền lợi hay định kiến hoặc nỗi sợ khó vượt qua vẫn tiếp tục ca ngợi biện hộ lý luận kiểu ngụy biện để vẽ vời cho Nguyễn Tất Thành, chê trách những người bất đồng chính kiến đang muốn giúp CSVN thấy ra đâu là sự thật! Socrate chống lại thứ tư duy “Chân lý thuộc về kẻ mạnh” mang danh Ruồi Trâu, Ruồi nhỏ yếu mà dám châm chích trâu mộng và cũng từng bị kết án tử hình! Ông đối diện với cái chết cách hiên ngang. Theo ông sự thật còn quan trọng hơn với cả sự sống. Lịch sử cho thấy ông được tôn vinh làm biểu tượng của chân lý chứ không phải kẻ kết án ông. Ông dùng phương pháp “truy vấn biện chứng” dưới tên gọi “phương pháp Socrates” hay phương pháp “bác bỏ bằng logic” (elenchus) để bác bỏ các ngụy biện ! Để quá khứ phá huỷ tương lai mình là tự nhân đôi tai hoạ, như vết cắt cứ để cho mưng mủ! Nhưng quá khứ phải được sửa sai. Cuộc sống là quá trình sáng tạo giá trị và phạm sai lầm. Lịch sử đất nước hay cuộc sống tương lai của cá nhân đều lưu giữ giá trị và phải sửa chữa sai lầm quá khứ. Nhưng nếu không sửa sai lầm quá khứ là không đáng được khoan dung, càng không thể...chấp nhận. Con người luôn rất mau quên đau thương của người khác! Ngụy biện khi chấp nhận sai lầm của ai đó đúng là sai lầm nhưng muốn mọi người chấp nhận để sai lầm...tiếp diễn. Rất nhiều nạn nhân chiến tranh đã phần nào nguôi ngoai quá khứ, muốn dùng hy vọng niềm vui hiện tại và tương lai để bù đắp cho quá khứ tổn thương, nhưng hiện thực “độc tài toàn trị" tiếp diễn không cho phép làm được điều đó, cho nên vẫn không chấp nhận được hiện tại và âu lo tương lai chứ không phải nuôi lòng thù hận quá khứ! Biết sai không sửa, biết hại cho đất nước vẫn làm là kẻ phản quốc, kẻ có tâm hồn ác không đáng được khoan dung! Có người VN nào muốn ứng xử với Cộng Sản độc tài toàn trị hôm nay ở VN giống như người Hán ở Trung Quốc thời rợ Mãn Châu buộc cạo nửa đầu tóc bím thần phục qua những cuộc thảm sát kinh hoàng không? (Có tài liệu nói sau Thái Bình Thiên Quốc số chết là 50 triệu người Hán). Dân Hán kinh khiếp sự tàn bạo đến tan rã nhân cách, không chống ngoại bang Mãn Châu nữa mà chấp nhận: “Thà làm chó Hoà Bình hơn làm người Chiến Tranh!” Hãy đọc các câu chuyện sau đây của những con người đương đại có văn hoá, ứng xử quyết liệt với sai lầm thiển cận của chính mình: Tác phẩm nhiếp ảnh nổi tiếng của Kevin Carter đoạt giải Pulitzer 1994 làm cả thế giới bàng hoàng, được chụp khi xảy ra nạn đói khủng khiếp ở Châu Phi. Một bé gái đang đói lả gần chết nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hiệp Quốc. Con chim kên kên lẽo đẽo theo sau, như canh chờ đứa trẻ chết để ăn thịt.
|
|
|
Post by Huu Le on May 23, 2009 11:09:16 GMT 9
Không ai biết điều gì xảy ra với em bé sau đó, kể cả Kevin Carter, người đã vội vã rời khỏi hiện trường ngay sau khi bấm máy. Có tờ báo đã viết về Carter như thế này: “Kẻ chỉ chú tâm chụp ảnh, nhưng lại vô cảm trước thảm cảnh của cô bé da đen, thì cũng chỉ là một con vật ăn thịt, một con kên kên thứ hai trong bối cảnh tàn bạo ấy mà thôi”. (The man adjusting his lens to take just the right frame of her suffering, might just as well be a predator, another vulture on the scene). Kevin Carter đã đọc được câu này và anh đã tự sát.
Eddie Adams cũng có một bức hình được giải đoạt giải Pulitzer, chụp cảnh tướng Loan bắn một đặc công phía CS bị bắt. Sau khi báo giới phân tích nhiều khía cạnh, Eddie Adams đã có cái nhìn toàn diện hơn. Ông đã ân hận xin lỗi tướng Loan, loại bỏ bức hình, và làm một việc có ý nghĩa là lao vào giúp các thuyền nhân, góp phần vào công cuộc vận động chính phủ Mỹ và các nước cũng đồng chia sẻ gánh nặng nầy như Pháp, Úc, Canada... cứu giúp cả triệu người!
Hoàn toàn trái ngược với sự tự vấn, chịu nghe chịu học hỏi chịu đối chiếu hiện thực như của hai nhà nhiếp ảnh Mỹ nêu trên, là một hiện tượng lập ngôn của một người có quốc tịch Mỹ gốc Việt Nam: ông Trần Chung Ngọc.
Phải nói ngay là ông Trần Chung Ngọc có nhiều nhận định không chính xác. Ông Trần Chung Ngọc viết:“Không có gì minh hoạ rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng là không thích đáng”. Bảo là tương phản, sao lại có thể có câu nói này của ông Nguyễn Tất Thành: “Các chú cứ làm theo, tôi cam đoan lãnh tụ của chúng ta Staline và Mao Trạch Đông không bao giờ phạm sai lầm!”. Câu nói được ghi trong sách sử Cộng Sản Việt Nam! Giả thử ông Nguyễn Tất Thành có nói vậy, nhưng ông đã làm gì trong Cải Cách Ruộng Đất với hai trăm ngàn người chết mà sau này bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai. Những người khác là đảng phái không Cộng Sản và đảng viên Cộng Sản nghi ngờ nhân thân và không tan thành đường lối độc tài của ông Nguyễn Tất Thành. Qua cuộc thảm sát này chắc chắn không ít người miền Bắc: “Thà làm chó gặm xương hơn làm người phản kháng!”
Ông Trần Chung Ngọc có quyền biện hộ nhưng đừng ngụy biện. Chỉ là một câu đàm thoại tranh luận và trong hiện thực có chứng cứ là ông Nguyễn Tất Thành, sau thảo luận, chẳng những không làm như lời nói của mình mà học theo làm theo Mao, Lưu chăm chỉ hơn tàn ác nhiều hơn khi thực hiện CCRĐ. Ông Trần Chung Ngọc phạm phải ngụy biện có tên “Khái quát hóa vội vã”, chưa có đủ chứng cứ mà đã kết luận!
Người ta chê trách ông Nguyễn Tất Thành là ăn cắp công, đánh bóng cá nhân nói một đàng làm một nẻo... là đúng!
Đảng Cộng Sản VN đã nhận ra ba sai lầm là CCRĐ, Nhân Văn Giai Phẩm và đánh tư sản lập ra kinh tế bao cấp nhưng vẫn cực kỳ bất công vô tâm khi không truy điệu người chết oan, tạ tội với người chết và khó hiểu gì khác hơn là nhóm người bám đặc quyền vì cực kỳ ích kỷ tham lam khi không dân chủ hoá đất nước!
Con người chất chồng sai lầm, can dự đến nhiều cái chết oan khiên như Nguyễn Tất Thành này, cần để cho lịch sử được vô tư xác lập công tội. Người nào hôm nay nhìn lại lịch sử mà vô cảm với cảnh chôn sống trong CCRĐ, không thấy thanh niên cả miền Bắc bị lừa đưa vào chiến tranh, cũng đáng được coi chính là những con người muốn kéo dài tội ác...
Cứ theo lẽ thường của một xã hội bình thường, ông Nguyễn Tất Thành sai thì phải xuống vì là bằng chứng của không sự có khả năng. Lẽ ra ông phải tự tử cho rồi như Kevin Carter chứ không phải đóng kịch ăn mặc chỉnh chu, thấm nước mắt trước ống kính! Tôi nói là đóng kịch như diễn viên vì người thường không ai cảm xúc thật và khóc được khi đèn 500 Watts chiếu thẳng vào mặt để quay phim... Ông là con bài của Mao nên không ai thay được khi Mao chưa muốn mà cứ biện hộ, để tại vị... làm sai tiếp. Từ 1945 tại vị tới chết như Vua, đã là không thể chấp nhận!
Ai mà còn không biết vụ đánh tư sản miền Bắc, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét lại chống Đảng, thảm sát Huế? Còn nhiều vụ án chưa được làm rõ như vụ học sinh miền Nam bị Phùng Thế Tài cận tướng của Nguyễn Tất Thành gạt và bắn chết mà ông Tô Ký cứ kiện mãi lên Bộ Chính Trị, vụ hơn hai trăm thanh niên miền Bắc đòi công bằng trong quân dịch khi con các ông lớn mang áo lính đi Liên Xô Trung Quốc hay các nước Đông Âu học tập, con dân thì chết trong chiến trường miền Nam, cũng bị ông tướng Phùng Thế Tài gốc trẻ bụi đời cận vệ của Nguyễn Tât Thành này bắn chết. Đừng để tất cả tội ác này chìm vào quên lãng mà phải trả danh dự về cho người chết. Ai cũng biết, ông Nguyễn Tất Thành đã chết, không nạn nhân oan sai nào trong CCRĐ, trong Nhân Văn Giai Phẩm, trong Xét lại chống Đảng... đòi được món nợ máu. “Cọp chết để da người ta chết để tiếng”, phải trả danh dự giá trị làm người về cho từng người nạn nhân của ông Nguyễn Tất Thành. Hiện nay Cộng Sản Việt Nam đang dẫn dắt đất nước trong chủ nghĩa Cộng Sản là tư thế “chết đứng” trong dòng chảy văn minh.
Không chịu nghiên cứu thay đổi chính sách thay đổi tư duy cầm quyền mà muốn học tập “gương bác Hồ” người của hơn 60 năm trước, ít học, thất bại, chỉ biết làm theo Mao-Staline, cá nhân chỉ có lời nói việc làm tủn mủn đóng kịch thể hiện sự kém cỏi, không biết làm chủ thế hệ hiện sinh của mình! Cũng có thể cực kỳ ích kỷ tàn ác vì muốn theo chủ trương của Ông Nguyễn Tất Thành và đảng CS Bắc Việt nắm quyền ban phát đặc ân từ miếng cơm ghi trong sổ gạo cho đến cây kim thước vải trong phiếu mua hàng. Ai tuân phục cá nhân thì cho và kháng cự thì thu sổ gạo !
Nhìn cung cách các ông Nông Đức Mạnh hay Tô Huy Rứa ra sức cản trở quyền hạn báo chí, vô hiệu hoá Quốc Hội, đáng ngờ là CSVN đang bị buộc hay bị lừa thực hiện âm mưu của Trung Quốc, vì ông Nguyễn tất Thành là con chủ bài của Mao để TQ nắm VN trong tư thế ân nhân. Phản đối ông Nguyễn Tất Thành, khước từ công lao, chỉ ra sự kém cỏi khi lôi đất nước vào chiến tranh so với lân bang như Indonesia, kết án việc không chịu hợp tác với Bảo Đại mà “cõng rắn cắn gà nhà” như Lê Chiêu Thống, sẽ có hệ lụy là coi Trung Quốc như... đối thủ không đội trời chung !
Ca tụng Nguyễn Tất Thành còn có thể giữ VN trong tư thế một dân tộc tan tác yếu đuối lạc hậu không phát triển...phải dùng sản phẩm kém chất lượng, bưng bê công nghệ lạc hậu của TQ thải ra như vụ các nhà máy đường. Trong chính trị những việc như thế không hiếm.
Ông Trần Chung Ngọc nhắc đến Bác sĩ Allen Hassan, thì đây là câu chuyện của tôi và quyển sách của Bác sĩ Allen Hassan. Từ Việt Nam, qua Amazon.com, tôi mua quyển nguyên tác của Allen Hassan tựa đề Failure to Atone (The true story of a Jungle Surgon in Việt Nam). Tôi đã liên lạc được với nhóm phụ trách của ông Allen Hassan. Các ông cho biết quyển sách có thiện ý chống chiến tranh và mô tả thảm cảnh của binh sĩ Mỹ chưa được chăm sóc đúng mức cũng như việc thường dân VN bị chết quá nhiều. Tôi cho ông Hassan biết ý kiến tôi rằng, sau khi đọc cả nguyên tác và bản dịch tiếng Việt (Không thể chuộc lỗi), tôi thấy bản dịch tại Việt Nam không có cùng một mục đích một nội dung là chống chiến tranh như ông Hassan cho biết. Ông bảo không đọc được tiếng Việt như tôi có thể đọc tiếng Anh, nên tôi bảo ông chỉ cần xem hình ảnh trong quyển nguyên tác bị quyển tiếng Việt tráo đổi thêm vào, kể cả thêm vào ảnh tướng Loan bắn đặc công Việt Cộng mà Eddie Adams đã loại khỏi tập ảnh và xin lỗi tướng Loan. Chắc chắn là ông phải biết chuyện Eddie Adams và tướng Loan, và lẽ nào ông không xem được hình bản tiếng Việt nhiều hình ảnh mô tả việc giết người của quân đội Mỹ? Như thế là không trung thực không công bằng! Tôi hỏi thêm, khi ông bán bản quyền ông có ghi điều khoản nào yêu cầu phải tôn trọng nguyên tác hay cho quyền sửa nội dung không? Tôi cũng cho ông biết tôi rất quen với một bác sĩ khi xưa làm ở Bệnh Viện Thủ khoa Nghĩa Cần Thơ là Robert K Boese ở New York mà ông có ghi nhận trong quyển sách của ông. BS Boese có vợ là cô y công trẻ xinh đẹp ở phòng mổ, người Việt Nam quê ở Cần Thơ sống gần nhà tôi. Khi ông Boese chết vì bệnh, chúng tôi có nhận được thiệp báo tử từ người vợ và các con ông ở New York.
Tựa đề quyển sách là dựa theo câu chuyện mở đầu. Phần 1 mở đầu ông Allen Hassan viết về cái chết của 40 đứa trẻ từ 1-5 tuổi vào cuối tháng 5-1968 (không nói rõ ngày), phi cơ Mỹ chuyển về bệnh viện Quảng Trị nơi ông làm việc 40 đứa trẻ từ sơ sinh đến lớn nhất là 5 tuổi, mỗi trẻ bị bắn một viên đạn vào đầu, đều hấp hối và đều chết sau đó với băng tay ghi “Interrogated USMC” (Thuỷ quân lục chiến Mỹ thẩm vấn). Ông Allen Hassan cảm thấy thật tàn khốc vô nhân và nếu ai đó trong lực lượng hải quân mà ông là cựu binh trong đơn vị đó làm thì... không thể chuộc lỗi! Tất nhiên không phải là “Không thể chuộc lỗi” về cuộc chiến chống Cộng Sản của Mỹ như ông Trần Chung Ngọc viết!
Tôi muốn truy tìm lại bằng chứng ở Bệnh viện Quảng Trị vì có quá nhiều lỗ hổng trong câu chuyện. Câu chuyện bỏ lửng không kết luận là ai đã hành hình các cháu nhỏ và ai đã thẩm vấn ai khi các cháu... chưa biết nói. Câu chuyện được Tiến sĩ Quách Thu Nguyệt kết nối như sau: “Đọc dòng mở đầu tập sách ai cũng như tôi liên tưởng ngay đến thảm sát Mỹ Lai!” Tiến sĩ Thu Nguyệt, một trí thức XHCN, đã phạm phải ngụy biện kiểu “bỏ thuốc độc xuống giếng”, tức là lối kết tội vu cáo đối phương trước khi độc giả đọc và có ý kiến. Từ một nghi vấn mà liên kết với chuyện Mỹ Lai có thật ám chỉ 40 cháu bé bị Mỹ giết!
Về chuyện Mỹ Lai xảy ra ngày 16.3.1968 xin đừng bỏ quên cột mốc thời gian này ở miền Trung ! Đó là đợt truy quét đặc biệt quyết liệt sau trận tấn công Tết Mậu Thân 1968 của Cộng quân. Thường dân chết sao khỏi thương tâm, người Mỹ cũng không đến VN để làm kẻ sát nhân, nhưng có hai việc khiến quân đội Mỹ luôn sa vào tai tiếng là không thể có quyết định theo nguyên tắc... tránh thường dân. Thứ nhất miền Bắc dùng bệnh viện trường học cất giấu vũ khí, thứ hai bộ đội Cộng Sản là bộ đội duy nhất trên lịch sử quân sự thế giới là không có quân lương, Bộ đội du kích phải luôn bám sát dân để có ăn, lấy dân làm bia đỡ đạn. Che chắn cho mình gây hoạ cho dân là một yếu tố nổi bật của cuộc chiến không đáng có 54-75. Do đó có những tình huống thật kinh hoàng và nghiệt ngã như thế vẫn xảy ra cho dân chúng khi người Mỹ không biết ai là đối phương khi bộ đội giấu mặt, làm dân thường! Trong khi rút quân Tết Mâu Thân bộ đội miền Bắc cũng áp sát dân chạy loạn nên số dân chết do bom đạn Mỹ lẫn với bộ đội là không ít. Số thương vong của dân thường trong cuộc chiến lớn hơn quân chính quy.
Tôi không liên tưởng kiểu ngụy biện “đơn giản hóa” như bà Thu Nguyệt mà thường phải hiểu có hệ thống và chi tiết. Tôi tự hỏi, nếu là chuyện có thật chứ không hư cấu hay trích từ ác mộng của Allen Hassan thì hành trình bay, số hiệu trực thăng, tên phi công của quân lực Mỹ phải có ghi. Hoàn toàn mất dấu không có một chi tiết nào là sao?
Theo tự thuật của Allen Hassan thì ông có cha là người gốc Hồi giáo sinh ra ở Palestine Trung Đông, Mẹ người Thụy Điển và Ireland nhập cư, mẹ ông Hassan tự tử sau khi sinh ông ở tuổi 21 bằng cách bắn vào đầu ngay trong cửa hiệu của cha Hassan do người cha theo Hồi giáo không chấp nhận lối sống của bà. Gốc không Mỹ, gia đình theo Hồi giáo của ông khiến ông dễ có điều khác biệt với người Mỹ chính thống! Nếu ông khác biệt thì sao? Chắc chắn phải chừa lại... một dấu hỏi về nhân thân và quan điểm cá nhân của ông Hassan!
Vì sao quân lực Mỹ hành hình mà còn chở trẻ hấp hối này về bệnh viện Quảng trị cho ông Hassan cứu chữa? Về phía bệnh viện, phải có sổ nhận bệnh, các cháu được ai chôn cất và chôn cất ở đâu. Là quân nhân chắc Allen Hassan biêt lấy viên đạn sẽ truy ra loại vũ khí ai sử dụng, ai bắn, không khó. Bệnh viện Quảng Trị không phải một mình Allen Hassan làm từ bác sĩ đến y công. Phải có ai đó người VN cùng chứng kiến.
Tôi viết thư xin ông Allen Hassan cho biết tên vài người y tá hay y công cùng làm với ông, cùng chứng kiến với ông, các cháu được ai chôn, chôn ở đâu để có thể khai quật lấy viên đạn ra giảo nghiệm. Sao không nghe bà mẹ nào tìm con bị mất hay là các cháu từ trại mồ côi nào? Đâu khó để truy tìm sự thật? Tôi hứa sẽ truy tìm sự thật cho ông không đòi một đồng VN chi phí! Bức email tôi không được trả lời và các bức email tiếp theo cũng vậy. Tôi thấy việc phát hành quyển này bỗng chựng lại, không còn giới thiệu rầm rộ ở VN như quyển Đặng Thuỳ Trâm, nên cũng thôi! Tôi hy vọng người có học như ông Allen Hassan sẽ ứng xử như Eddie Adams, hay nhà báo Kevin Carter!
Ông Trần Chung Ngọc đang ở Mỹ, có thể liên lạc với ông Allen Hassan và có muốn tôi đi Quảng trị tìm kiếm nhân chứng không? Tôi không cần một đồng chi phí nào, nhưng sẽ gặp khó với nhà nước VN trong mục đích vạch trần sự thật mà nhà nước muốn ám thị độc giả trẻ tuổi ở Việt Nam. Tôi cần sự hỗ trợ như thư xác nhận là chuyện không hư cấu, có thật, và yêu cầu của ông Allen Hassan, để may ra còn có thể làm việc với bệnh viện Quảng Trị!
Sự thật không dễ dàng có được nên Socrates từng nói: "Tôi biết anh sẽ không tin tôi, nhưng hình thức cao nhất của tinh tuý con người là tự hỏi và hỏi người khác”. Ai biết ứng xử như thế sẽ không thành cố chấp !
Ông Trần Chung Ngọc không thông tuệ giáo lý nhà Phật và ít lòng cảm thông. Ấn Độ trên nền của Ấn độ giáo Bà la Môn phân chia giai cấp rất nặng nề bất công, rồi tiểu thừa-đại thừa, Phật dạy rằng: "Không có giai cấp trong máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn". Trong thời Phật Thích Ca Mâu Ni hoằng hoá, Phật không hề chống đối giai cấp Bà-la-môn nhưng bảo rằng không phải sinh ra trong một gia đình dòng dõi Bà-la-môn là tự nhiên trở thành một Bà-la-môn. Người ta "trở thành" một Bà-la-môn với những hành động, những ý nghĩ cao thượng và đó chính là những tiêu chuẩn đích thật. Tầm cao bao quát của giáo lý đạo Phật được ông Albert Einstein cho là đạo Phật không có đối kháng mà dung nạp khoa học khác tôn giáo khác. Ông Trần Chung Ngọc hẹp lòng và nặng sân si quá.
Một tôn giáo nếu còn tín đồ và không gây hại không vi phạm luật pháp thì cần tôn trọng và có quyền tồn tại. Thiên Chúa giáo cần được tôn trọng. Người làm sai lợi dụng tôn giáo thì cứ... vạch mặt chỉ tên nêu ý kiến phản đối... Thảm sát Huế ở khe Đá Mài kinh hoàng nhất gồm dân chạy loạn và có nhiều giáo dân Phú Cam nhưng nơi khác chỉ là dân, cho nên lên án thảm sát chỉ là vì bảo vệ quyền làm người của dân chúng bất kể là thuộc sắc màu tôn giáo nào!
Với Việt Kiều có người thành công có người không, cũng có người làm chuyện sai trái, song đó là nhìn vào cá nhân trong tầm vi mô. Nhìn tầm vĩ mô, cộng đồng Việt Nam thành đạt không kém cộng đồng người Châu Á nào và hơn người da màu ở Mỹ. Nếu không có tiền gửi về cho thân nhân thì Việt Nam sau 1975 cấm vận dân trong đã đói dài cổ! Lớn tiếng ca công thành tích xoá đói giảm nghèo nhanh được LHQ khen ngợi mà không phân tích thật ra chính là nhờ Việt Kiều gửi tiền về là phần lớn!
Nhiều người đảng viên nói Việt Kiều gửi tiền quà về cho cha mẹ thân nhân chứ có gửi cho nhà nước đâu mà kể công! Sao lại không? Có đô la làm trữ kim bảo đảm nhà nước có quyền in tiền tương xứng đưa vào nền kinh tế mà không gây suy thoái kinh tế! Tiền này giống tiền lời mà không cần đầu tư một đồng đô la nào cả, không sợ lỗ phá sản chỉ có lời! Hãy so sánh: cả nước xuất khẩu gạo cả vốn lẫn lời chỉ đủ tiền mua phân bón và thuốc trừ sâu khoảng 1,3 tỉ đô la mà dân VN 70% còn là nông dân!
Điều đáng nói là người VN miền Nam ra đi bất ngờ hoảng loạn không có chút chuẩn bị khả năng để phù hợp với cuộc sống mới. Tuy nhiên so với Nguyễn Tất Thành suốt thời gian ở nước Pháp nghèo đói đến ăn không no, mặc không ấm phải dùng gạch nung, không học hành gì được thêm hay sang Mỹ làm gia nhân dọn vườn, sang Anh làm bồi bàn, phu cào tuyết thì chớ có làm chuyện quên trước quên sau, chê nghề Nails là nặng nhọc như Huỳnh Thuỷ Châu !
Những người cùng phải bỏ nước ra đi, có trình độ, có lòng, đã đứng ra tổ chức trợ giúp người VN ổn định cuộc sống, lo học hành thành danh. Còn một số khác chỉ ca cẩm chê bai, không giúp gì được cho ai, có chăng theo đuôi CSVN trong nước, nói năng điều gì thì chỉ là nói lấy được cho phần mình. Thế đấy! Trần thị Hồng Sương 6.5.2009
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:17:25 GMT 9
QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG HOA TRONG THẾ GIỚI MỚI NGÀY NAY
Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế
-Quá khứ
-Tương lai
-Hiện tại đang diễn tiến ra sao???
-Con đường dân tộc ta đi.
QUÁ KHỨ
Một ngàn năm bị Tầu đô hộ, một trăm năm với thực dân Pháp, ba mươi năm nội chiến … điều đó nói lên khái quát những đau thương trong lịch sử VN suốt 20 thế kỷ qua. Nhưng chúng ta cũng có vài trăm năm thịnh trị và oai hùng trải từ Ngô Quyền thắng quân Nam Hán (938), Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn sứ quân (980), Lê Đại Hành thắng Tống (981) sang Triều Lý với 215 năm độc lập (1010 – 1225), Triều Trần 175 năm (1225 – 1400) với bao chiến công lẫy lừng của Hưng Đạo Đại Vương hai lần đại thắng quân Nguyên, rồi Triều Lê Sơ gần 100 năm (1428 – 1527) với anh hùng áo vải Lê Lợi, Triều Hậu Lê (hay Lê trung hưng) với Trịnh-Nguyễn phân tranh gần 200 năm (1592 – 1789) có công của Chúa Nguyễn khai khẩn mở mang bờ cõi xuống phương Nam, Triều Tây Sơn (1778 – 1783) thống nhất sơn hà về một mối với Quang Trung đại thắng 20 vạn quân Thanh trong trận Đống Đa. Quang Trung chết, vua Gia Long phục nghiệp lên ngôi (1802) và Triều Nguyễn kéo dài đến 1945 với biết bao biến động thăng trầm khi đụng nền văn minh cơ khí Âu Châu do Pháp chiếm ta.
1858 dưới triều Tự Đức, Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh vô Đà Nẵng, 1884 đặt ánh thống trị trên toàn lãnh thổ. Chống Pháp bắt đầu. Chúng ta có thể chia thành mấy giai đoạn:
- Giai đọan từ khi Pháp xâm lựơc VN (1858) đến trứơc thế chiến II.
- Giai đọan trong thế chiến (1939-1945).
- Giai đọan sau thế chiến với chiến tranh VN lần thứ nhất, chấm dứt Pháp thuộc nhưng đất nước bị chia đôi ở vĩ tuyến 17, miền Bắc thuộc CS và Nam thuộc thế giới Tự Do.
- Cuộc chiến tranh VN lần thứ hai: xung đột của phe CS với Thế Giới Tự Do trên đất nước ta.
- Từ Tết Mậu Thân đến Ngày-N sắp tới đây: Tiến trình giải quyết dứt khoát cuộc chiến tranh bởi lẽ chiến lược toàn cầu biến đổi từ đối đầu Đông – Tây sang hợp tác Bắc – Nam.
Giai đọan 1858-1939
Khi Pháp chiếm VN , nhiều phong trào tranh đấu đã nổ ra nhưng đều thất bại vì phạm những lỗi lầm cơ bản sau đây :
· Không đặt đựơc cụôc xâm lựơc của Pháp trong bối cảnh hai nền văn minh đụng nhau, mà lại coi cũng giống như những cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống trong qúa khứ (VN & Tầu trong cùng 1 nền văn minh, khi Tầu đánh ta, chỉ cần huy động sức đánh bật ra, sau đó trở lại nếp sống cũ). Cuộc xâm lăng của Pháp hoàn toàn khác hẳn, vì Pháp đại diện cho nền văn minh cơ khí Aâu Châu. Vấn đề là: làm sao bắt kịp nền văn minh Aâu Châu. Dành độc lập chỉ là một trong những mục tiêu. Đặt giành độc lập làm cứu cánh duy nhất là sai lầm cơ bản .
· Đánh vào sở trừơng của địch: ưu thế quân sự của Pháp lúc đó là tuyệt đối nên khó thành công,chống đối bằng vũ lực mang tính cách tự sát để tỏ lòng trung quân ái quốc nhiều hơn.
· Trứơc văn minh Tây Phương, Tầu thành lạc hậu. Nắm bắt ngay những kỹ thuật mới để thoát ảnh hửơng của Tầu nhưng cha ông chúng ta đã để lỡ cơ hội .
· Tầng lớp thống trị phong kiến vì mất quyền lợi, đánh Tây chỉ nhằm khôi phục địa vị, chứ không có dấu hiệu gì cho thấy họ có quyết tâm cũng như khả năng kỹ nghệ hóa đất nứơc, vì một lẽ dễ hiễu là khi cuộc Cách mạng này diễn ra thì phong kiến sẽ mất vai trò lãnh đạo xã hội .
Bình tĩnh vấn đề cần đặt ra như sau :
Tìm hiểu & học hỏi khoa học của Aâu Châu để giải quyết dần dần quan hệ bất bình đẳng với Pháp bằng cách đưa ngay những tư tưởng Tự Do - Dân Chủ - Cộng Hòa thay thế tư tửơng phong kiến & tiến hành kỹ nghệ hóa . Tiếc thay những nhà yêu nứơc VN chỉ khu trú vào thượng từng nhằm dành lại ưu quyền thống trị, không nhìn đại cuộc trong bối cảnh hai nền văn minh đụng nhau.
Trong thế chiến 39-45
Thế chiến bùng nổ, Pháp bị Đức chiếm, Pháp ở Đông Dương như rắn mất đầu. Các phong trào chống Pháp bùng lên. Có bốn khuynh hứơng, tất cả đề mắc những sai lầm nghiêm trọng sau đây:
· Nhiều nhóm nhỏ phản ứng theo cảm tính, họat động tự lập, rải rác, bị mật thám Pháp đàn áp mặc dầu lúc này chúng rất yếu .
· Trông chờ vào Trung Quốc : Sau Cách mạng tư sản 1911, ở Tầu xuất hiện hai khuynh hứơng : canh tân tư sản & vô sản. Ở VN cũng giống thế. Một số các đảng phái quốc gia dựa vào sự giúp đỡ của Quốc Dân Đảng Tàu, còn Hồ Chí Minh thì đi theo Cộng Sản Trung Hoa. Khi Mao thắng Tưởng ở Hoa Lục , Mao tận tình giúp đỡ Hồ Chí Minh chiếm được miền Bắc và sau đó Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Cộng Sản Việt Nam xâm chiếm miền Nam. Sự lệ thuộc qúa nhiều vào Trung Quốc đã đưa đến tình trạng mất chủ quyền , mất đất như ngày hôm nay.
· Trông chờ Nhật : Nhật kỹ nghệ hóa theo nền văn minh Aâu Châu từ giữa thế kỷ 19. Thay Pháp bằng Nhật cùng trong nền văn minh với Pháp mà tham vọng thực dân còn mạnh hơn, đúng là cái vòng luẩn quẩn. Nhật bại trận (15-8-45), khuynh hứơng này cũng tắt ngấm theo .
· Cộng tác với Tây nhưng chỉ thừa hành chứ không có đừơng lối giải quyết vấn đề chậm tiến của xã hội VN .
Khi thế chiến thứ hai đi vào giai đoạn cuối, ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, lập chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật. 6 tháng sau 15/8/45 Nhật đầu hàng, Pháp chưa quay trở lại kịp, Hồ Chí Minh nhẩy ra hò hét là cướp chính quyền, làm cách mạng tháng tám thành công, sự thực là chính quyền bỏ trống.
Sau thế chiến
Vì phe Đồng Minh không công nhận Hồ Chí Minh mà vẫn coi Đông Dương thuộc Pháp, nên Pháp trở lại, Hồ Chí Minh û chạy khỏi Hà Nội, tung ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-46 rồi bỏ chạy lên Việt Bắc. Từ 46-49 Việt Minh rất yếu , nhưng khi Mao lên ở Hoa Lục giúp tổ chức Đảng vô sản & giúp khí giới, mới có sức đánh Điện Biên Phủ (Hai Tướng Trần Canh & Vị Quốc Thanh được phái sang cố vấn). Pháp nay đã mất thế đế quốc đụng Việt Minh được Trung Cộng hỗ trợ, tuy lúc này chưa công khai rõ ràng lắm. Điện Biên Phủ là một thử nghiệm để Pháp có thái độ dứt khoát:
. nếu Trung Cộng không trực tiếp xiá vô thì Pháp sẽ thắng Việt Minh không mấy khó khăn.
. nếu Trung Cộng trực tiếp giúp thì nhiệm vụ đối phó là Mỹ, cầm đầu thế giới tự do, chứ không phải Pháp vì giữ được Đông Dương thì Mỹ hưởng, còn không giữ nổi, nền kinh tế Pháp suy sụp thì Pháp chịu. Tất nhiên không ai chịu ăn cơm nhà vác ngà voi . Khi Điện Biên Phủ thất thủ Pháp ký ngay Hiệp định Genève 20-7-54 , chia đôi VN ở vĩ tuyến 17, nhường cho Mỹ đối phó với CS, nhưng lại chủ trương trung lập Lào & Campuchia để duy trì quyền lợi của mình .
1954-1956-1960
Hiệp định Genève qui định hai năm sau tổng tuyển cử thống nhất đất nứơc, nhưng đã không tổ chức đựơc vì sự chi phối của hai phe Thế Giới Tự Do & CS quá nặng và phong trào Trung Lập lúc đó lại quá yếu.
Từ 1956-1960, cả hai miền Nam-Bắc đều không có đừơng lối rõ ràng nào để thống nhất đất nứơc .
Giai đọan 1960-1968
Sau khi lên ở Bắc Kinh năm 1949, Hoa Lục chịu thế gọng kìm: bao vây bằng quân sự của Mỹ và sự khống chế của Liên Xô (Trung Cộng không có tiếng nói tại LHQ, phải qua đàn anh Liên Xô)
Trong thập niên 1950 Trung Cộng dốc toàn lực kỹ nghệ hóa sản xuất được xe tăng, pháo… và phát triển bom nguyên tử, 1964 cho nổ quả đầu tiên, trở thành cường quốc thứ năm có nguyên tử sau Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp .
Cuối thập niên 1950 đầu 60 Trung Cộng cho thi hành "học thuyết ba thế giới" cùng một lúc vừa chống đế quốc Mỹ vừa chống khuynh hướng xét lại của Liên Xô. Trung Cộng tung 2 đòn:
+ Đòn quân sự : Lập các Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng ở các nơi, MTDTGPMNVN là thí điểm đầu tiên & quan trọng nhất. Cuối 1959 Hồ Chí Minh họp đại hội III đảng CS VN ra nghị quyết 'dùng bạo lực để giải phóng miền Nam VN'. Ngày 20-12-1960 MTGPMNVN ra đời mở đầu cuộc chiến tranh VN lần thứ hai, với Mỹ giúp Nam VN thành lập guồng máy chiến tranh kiểu tư sản chủ về hoả lực & Trung Cộng giúp Bắc VN với guồng máy chiến tranh kiểu vô sản chuyên đánh du kích.
+ Đòn ngọai giao : Thành lập Phong Trào Phi Liên Kết (1961) ở thủ đô Belgrade (Nam Tư) với hai khẩu hiệu chính 'không liên kết quân sự với Mỹ& Liên Xô vì cả hai đều là đế quốc & 'ủng hộ MTDTGP' ở các nơi trên thế giới.
Trung Cộng thi hành học thuyết ba thế giới trong bối cảnh Mỹ & Liên Xô đã nắm được những phát minh khoa học mới (thám hiểm không gian), báo hiệu cuộc cách mạng vi điện tử sắp diễn ra. Nếu muốn được hưởng những tiến bộ và hạnh phúc do cuộccách mạng này mang lại, thì Mỹ & Liên Xô phải duyệt xét lại thế chiến lược toàn cầu Yalta chia đôi thế giới, nếu không Trung Cộng sẽ giúp các MTDTGP đánh phá các nơi gây ‘thiên hạ đại loạn’.
Do có những phát minh khoa học mới, các nước giầu bắt từ đầu năm 1968 ngả dần sang khuynh hướng chạy đua áp dụng kỹ thuật cao phát triển kinh tế hơn là tiếp tục đối đầu:
+ Ở Aâu Châu, nhiều tiếng nói cất lên đòi một 'Aâu Châu nhất thể ' , muốn Mỹ & Nga giảm bớt ảnh hưởng để Đông -Tây Aâu trao đổi ngoại giao, văn hóa, kinh tế.
+ Hòa hoãn trong giọng điệu của điện Cẩm Linh với phương Tây và đặc biệt là ký tài giảm vũ khí chiến lược với Mỹ qua Hiệp Định chống phi đạn đạn đạo ABM (1972).
+ Trung Quốc đả kích bọn xét lại Liên Xô, lên đến cao điểm là cuộc pháo kích qua lại dọc theo Hắc Long giang năm 1969.
+ Nhật & Tây Đức nhanh chóng trở thành những cường quốc kinh tế dùng kỹ thuật cao.
+ 1971 Trung Quốc thay Đài Loan trong vai trò hội viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc với quyền phủ quyết của 1 siêu cường.
+ Đặc biệt Mỹ & Trung Quốc ký thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972. Vì đạt được Thượng Hải mới ký được hiệp định Paris ngày 27-3-1973 cho thấy hướng giải quyết chiến tranh VN trên cơ sở: Các yếu tố ngoại nhập rút ra và để dân tộc Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình.
Hiện chúng ta đang ở vào giai đoạn đưa chủ nghĩa CS vào quá khứ. Tiến trình đào thải do chính sức mạnh quần chúng nhân dân VN trong ngoài đóng góp bởi vì chủ nghĩa Mác-Lênin-tư tưởng Hồ Chí Minh lỗi thời, không giải quyết được vấn đề cơm áo, phát triển. Quần chúng đang ngày càng khủng hoảng niềm tin. Khủng hoảng, quần chúng phản ứng ngược lại. Tất cả những phản ứng bất lợi này được đặt vào một cuộc chiến đấu chung, đánh thẳng vào khả năng tham mưu của Bộ chính trị ĐCSVN, đưa chúng đến chỗ bắt buộc phải mở cửa với thế giới bên ngoài thông qua Hiệp định thương mại Mỹ –Việt 10-12-2001 và rồi đây vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, nghĩa là bắt chúng phải áp dụng kinh tế thị trường, phải chấp nhận tự do cạnh tranh, phải công nhận quyền tư hữu…Hội nhập với cộng đồng thế giới, phải tuỳ tục quốc tế, sẽ làm thay đổi hẳn hạ tầng cơ sở xã hội VN, không còn gì là Xã Hội Chủ Nghĩa nữa. Hạ tầng mới sẽ quyết định thượng tầng phù hợp, thuận cho cuộc đấu tranh của dân tộc ta đang mạnh mẽ đòi hỏi phát triển phải đi đôi với Dân Chủ.
Sau thay đổi cơ bản về chính trị ở VN, các siêu cường kinh tế đều có hiện diện làm ăn buôn bán, đầu tư tại Đông Nam Á qua các chính sách điều phối của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới(WTO) với Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á(ASEAN)).
Giai đọan 1968 - ngày N sắp tới đây
Tiến trình giải quyết chiến tranh VN gồm ba giai đọan:
_ Phe Thế Giới Tự Do rút ra (Tết Mậu Thân - 30/4/75)
_ Đảng CSVN ra đi (30/4/1975 cho đến ngày N)
_ Thể chế mới ra đời thông qua bầu công bằng & tự do (ngày N trở đi).
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:18:34 GMT 9
TƯƠNG LAI
Chiến tranh lạnh bắt đầu đi vào qúa khứ với sụp đổ của Liên Xô và khối Đông Aâu vào cuối thập niên 1980 đầu 90.
Tình hình thế giới hiện đang biến đổi lớn lao, nhất là sau biến cố 11-9-2001 ở Mỹ. Mâu thuẫn chính trên thế giới không còn là ý thức hệ, mà là hố xa cách giữa nước giầu & nước nghèo đã đến mức độ nổ tung, buộc mọi người cũng như mọi chính phủ phải quan tâm giải quyết.
Cách biệt giầu nghèo xuất hiện khi Ââu Châu diễn ra kỹ nghệ hóa hồi thế kỷ 18. Suốt bathế kỷ qua, trong khi các nước giầu chạy đua phát triển, các nước nghèo triền miên ở trong tình trạng chiến tranh, nghèo đói & thất học: hậu qủa là hố xa cách càng ngày càng xâu thêm.
Đến nay các nước giầu lại nắm trong tay những phát minh mới đưa đến cách mạng vi điện tử, 1 bước nhẩy vọt, khiến hố giầu-nghèo trở thành không thể chấp nhận được đối với cả người dân trong nước giầu lẫn nước nghèo. Biến cố 11-9 là dấu hiệu không tốt báo động nước nghèo dễ bị lôi kéo đi theo ‘ma quỉ’ bạo động để đạp đổ bữa yến tiệc mà các nước giầu đang an hưởng.
Nhân loại phải có lối nhìn & cách giải quyết mới, nếu muốn xã hội loài người tiến lên tốt đẹp hơn xã hội hiện hữu.
Ngày nay sức mạnh chi phối thế giới đang chuyển từ quân sự sang kinh tế, năm trung tâm quyền lực xuất hiện: Mỹ, Nga, Nhật, Đức với Cộng Đồng Aâu Châu & Trung Quốc.
Trong thế kỷ 20, có nhiều khám mới về đại vũ trụ & tiểu vũ trụ dẫn đến đổi thay hết sức cơ bản, chúng ta có thể tóm lược như sau:
1. Không gian ba chiều tách biệt với thời gian trở thành không gian bốn chiều với chiều thứ tư là thời gian: liên không-thời.
2. Tâm & vật có tương quan với nhau, tác động qua lại và hoán chuyển lẫn nhau qua sinh năng: liên tâm-vật. Tâm hoạt động chủ yếu theo thời gian, vật theo không gian ba chiều.
3. Tiểu vũ trụ & đại vũ trụ ở trong một thể thống nhất: Sinh năng (là photon ảo, giống như photon nhưng không bay ra ngoài vũ trụ, chỉ hoạt động trong phạm vi tiểu vũ trụ) là một phần của vũ trụ năng (photon). Vũ trụ năng trực tiếp ảnh hưởng đến sinh năng. Toàn thể vũ trụ là năng lượng và năng lượng = động.
Những hiểu biết mới về đại vũ trụ đưa đến kỷ nguyên thám hiểm không gian & cãi cọ duy vật - duy tâm mất dần hấp dẫn dưới ánh sáng mới của cơ học lượng tử. Sau phát minh tất yếu phải sang giai đoạn áp dụng để phục vụ hạnh phúc con người. Do đó, nhân loại đang đi vào nền văn minh mới với hai cuộc cách mạng:
~ Cách mạng vi điện tử có nội dung chủ yếu là áp dụng những kỹ thuật thám hiểm không gian vào những kỹ nghệ trên trái đất, để phục vụ con người cũng như để khống chế con người.
~ Cách mạng Nhân Bản Hóa liên quan đến hoạt động & tổ chức của xã hội loài người, kể cả những thể chế chính trị, theo quan niệm triết lý mới về con người (tiểu vũ trụ).
Nhân loại hiện có những vấn đề phải giải quyết như :
a/ Khan hiếm lương thực, thực phẩm. Khám phá DNA (Desoxy-ribonucleic acid) và công nghệ biến đổi gien di truyền đưa khả năng giải quyết lên cao hơn trước rất nhiều.
b/ Khan hiếm nhiên liệu, năng lượng. Sau củi, than đá, dầu hỏa, nhân loại bắt đầu xử dụng năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, gió, thủy triều…
c/ Khan hiếm tài nguyên kỹ nghệ. Trong hướng giải quyết xuất hiện sự kiện mới: khai thác đáy biển. Biển chiếm 3/4 vỏ qủa đất, tài nguyên phong phú & đa dạng như trong đất liền, chưa từng bị khai thác suốt bao thế kỷ qua vì không có kỹ thuật ; nhưng nay kỹ thuật vi điện tử cho phép mở kho tàng quí giá này, dẫn đến hai hệ luận:
Lục địa không còn là miếng mồi ngon để các cường quốc tranh chấp nữa.
Phân chia được đặt ra vì đáy biển là của chung. Các cường quốc đang tìm cách soạn thảo các đạo luật có lợi cho họ.
d/ Nạn nhân mãn
Kìm hãm bùng nổ dân số vì nhu cầu đòi hỏi rất cao để phát triển những thế hệ trẻ khi đi vào nền văn minh mới. Tuy nhiên, kế hoạch hóa gia đình chỉ thành công ở đa số các quốc gia nghèo khi nạn chậm tiến được thanh toán dần theo hướng đi lên chung của nhân loại.
e/ Nổi loạn của các nước nghèo
Nếu các nước giầu cứ tiến hành CM vi điện tử trong điều kiện tiếp tục khống chế các nước nghèo bằng quân sự, thế giới khó tránh khỏi bất ổn khắp nơi vì các nước nghèo không còn con đường nào, phương cách nào, khả năng nào ngoài bạo động để đập tan trật tự bất công mà các nước giầu muốn duy trì, chỉ vì quyền lợi vị kỷ của thiểu số, không đếm xỉa gì quyền lợi của đa số.
Đứng trước cục diện thế giới nêu trên, năm trung tâm quyền lực Mỹ, Nga, Nhật, Đức với Cộng Đồng Aâu Châu và Trung Quốc chắc chắn bắt buộc phải _ vì quyền lợi thiết thân _ chấp nhận thế chiến lược toàn cầu chung:
Vẫn có mâu thuẫn nhưng là phụ so với mâu thuẫn chính hố giầu-nghèo, năm siêu cường hợp thành thế liên hoàn để:
- một mặt, giữ vững thế khống chế của các nước giầu khi tiến hành Cách mạng vi điện tử.
- mặt khác, chuyển giao Cách mạng kỹ nghệ hóa cho các nước kém mở mang để lấp bớt hố xa cách giầu-nghèo, một điều kiện quan yếu không thể thiếu được nếu các nước giầu muốn tiến thêm bước nữa.
Tóm lại
Thế đối đầu Đông-Tây đang chuyển dần sang hợp tác Bắc-Nam.
Bắc gồm Mỹ, Nga, Nhật, Đức với CĐ Aâu Châu & Trung Quốc, thủ đô nămnước nối lại đều nằm về Bắc bán cầu, chiếm gần 1/3 dân số toàn cầu.
Nam gồm các nước kém mở mang, chiếm khoảng 2/3 dân số thế giới, ở Nam bán cầu, đa số trong phong trào Phi Liên Kết (với chủ trương không liên minh quân sự với các siêu cường) thì nay ngược lại năm trung tâm quyền lực mới Phi Liên Kết quân sự với các nước nghèo, thay vào đó là tự do liên lạc giao thương về kinh tế, thương mại.
Các nước tiên tiến khác như Anh, Pháp, Uùc, Canada, các nước Bắc Âu.…tiến hành mạnh mẽ CM vi điện tử, nhưng không thủ giữ vai trò trung tâm quyền lực quan trọng trong nền sinh hoạt chính trị toàn cầu.
Mối tương tác Bắc-Nam diễn ra dưới chính sách mới, chủ yếu chi phối bằng kinh tế xuyên qua chuyển giao vốn-kỹ thuật-quản lý và văn hoá, rồi mới đến quân sự (khi chẳng đặng đừng như diệt Taliban & phong trào khủng bố al-Qaeda hiện nay).
Khối Nam gồm năm vùng: Đông Nam Á – Thái Bình Dương, Trung Đông, Phi Châu, Tiểu Lục Địa Aán Độ và Châu Mỹ La-Tinh.
Nhìn riêng Đông Nam ÁÙ – Thái Bình Dương trong bối cảnh thế chiến lược toàn cầu đang xoay chuyển từ đối đầu Đông-Tây sang hợp tác Bắc-Nam, vùng này có ba đặc điểm:
· Mỹ rút ra khỏi miền Nam VN mà không mất quân bình lực luợng tại vùng này vì đã có thông cáo chung Thượng Hải Mỹ-Trung Quốc 1972 bảo đảm.
· Giải tán Liên Phòng Đông Nam, ÁÙ, một công cụ phòng thủ quân sự của Mỹ chống bành trướng Trung Quốc..
· Ra đời Hiệp Hội các quốc gia Đông Nasm ÁÙ (ASEAN 1967), một tổ chức cấp vùng để phát triển kinh tế và văn hoá.
Thế chiến lược toàn cầu mới cộng với ba đặc điểm vùng cho phép chúng ta suy ra chiến lược của các cường quốc cực Mỹ, Nga, Nhật, Đức với Cộng Đồng Aâu Châu & Trung Quốctại vùng này: Eùp Đông Nam Á- Thái Bình Dương đi vào hòa bình, ổn định, phi liên kết & hợp tác vùng bằng ba cách:
1-Tái thiết lớn toàn diện Đông Dương diễn ra cùng với thay đổi cơ bản về nền tảng chính trị của Đông Dương.
2- Đẩy VN, Lào, Campuchia & Miến Điện vào ASEAN, buộc Hà nội phải bỏ sở trường đánh nhau để đi vào sở đoản phát triển kinh tế.
3- Ủng hộ mạnh mẽ Kinh Tế Thị Trường, Nhân Quyền, Dân Chủ để loại bỏ những phần tử hiếu chiến cực tả (bộ chính trị đảng CSVN).
Chỉ khi nào một chính quyền dân chủ lên ở VN thì vùng này mới thực sự đi vào hòa bình, ổn định, phi liên kết & hợp tác vùng được.
HIỆN TẠI
Gạch nối giữa quá khứ và tương lai cho thấy những gì đang diễn tiến tại VN:
Ngay sau 30-4-75 Cộng VN đánh Cộng Campuchia, dẫn đến VN phải mang quân sang Campuchia (đầu 1979) và lập tức Trung Quốc dậy VN một bài học dọc theo biên giới miền Bắc, Trung Quốc chiếm giữ những vùng mà hai đảng thỏa thuận ngầm làm an toàn khu cho Đảng CSVN hoạt động trong những ngày còn cơ hàn khó khăn. Rõ ràng phong trào CS Á Châu đang thoái trào.
Bị thế giới cấm vận Hà nội không chịu nổi phải rút quân khỏi Campuchia, công bố đổi mới (1986), nối lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc (1991) và với Hoa Kỳ (1995), gia nhập Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (1997) và nhất là cuối năm 2001 chưa sẵn sàng mà vẫn phải thi hành Hiệp Đinh Thương Mại Việt – Mỹ, cùng với Hiệp Định Biên Giới Trên Bộ & Trên Biển với TQ để mất gần 1000km2 và ¾ biển Đông vì năm 1958 đã công nhận hải phận Trung Quốc là 12 hải lý và tháng 1-1974 không lên tiếng xác nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa khi xẩy ra tranh chấp giữa Việt Nam Cộng Hòa &Trung Quốc. Đúng 30 năm sau ngày Nixon – Kissinger gặp Mao – Chu, 21-2-2002 Bush gặp Giang Trạch Dân bàn quan hệ song phương khi TQ gia nhập WTO với tư thế là 1 cường quốc kinh tế, giải pháp hoà bình cho vấn đề Đài Loan dưới 1 hình thức nào đó mà cả 2 bên eo biển chấp nhận được và khi TQ đi vào thế hợp tác liên hoàn với Mỹ, Nga, Nhật, Đức với CĐ Aâu Châu, thì TQ sẽ tích cực tham gia thi hành chính sách Siêu Thực Dân của khối Bắc đối với khối Nam nhằm lấp hố xa cách giầu - nghèo, có thể mô tả như sau:
. đòn vuốt: chuyển giao kỹ thuật – vốn – quản lý cho các nước khối Nam để tiến hành kỹ nghệ hoá, mà nay các nước giầu tiến sang làm cách mạng vi điện tử mà tầm quan trọng lớn hơn rất nhiều.
. đòn thủ: thông qua chuyển giao, các nước giầu chi phối hạ tầng cơ sở nền kinh tế các nước đang phát triển. Tác động trên hạ tầng có thể làm thay đổi thượng tầng, không cần dùng quân sự đảo chánh như trước đây, việc này chỉ thực thi được khi các siêu cường ở vào thế hợp tác.
. đòn công: Các siêu cường vẫn duy trì một tiềm năng quân sự mạnh, không phải để đối đầu nhau, mà là để cùng nhau theo dõi, ngăn ngừa & đập tan những mưu đồ đi ngược lại thế liên hoàn.
Trong tương lai năm vùng khối Nam (ĐNÁ-TBD, Trung Đông, Phi Châu, Nam Á, Châu Mỹ La-Tinh) đều có cạnh tranh ảnh hưởng của năm siêu cường Mỹ, Nga, Nhật, Đức với Aâu Châu và Trung Quốc nhưng lần này là kinh tế (đầu tư, buôn bán theo những qui luật điều hành của WTO), chứ không phải là lôi kéo vào các liên minh quân sự như trong thế đối đầu Đông – Tây hay mỗi siêu cường thiết lập vùng ảnh hưởng kinh tế riêng. Thực sự các nước nghèo đang trở thành gánh nặng khi các nước giầu ở vào thế hợp tác.
Điển hình trường hợp VN:
Mỹ và Trung Quốc cùng Nga rút hoàn toàn quân sự khỏi chiến tranh VN, nhưng đang tiến trở lại bằng con đường kinh tế. Đồng thời Cộng Đồng Aâu Châu và Nhật cũng đang xông vào thông qua đầu tư và thương mại.
TQ nước đã đỡ đầu Đảng CSVN từ trong trứng nước, nay đang:
Ø vừa xoay chuyển từ bỏ Xã Hội Chủ Nghĩa để đi vào thế hợp tác liên hoàn trong khối Bắc.
Ø vừa thiết đặt cơ chế nhằm phát huy chính sách Siêu Thực Dân, bảo đảm vai trò của mình trong thế liên hoàn này.
Cuối năm 2001, Trung Quốc ép Hà Nội thiết lập cột mốc theo những hiệp định biên giới ký năm 1999 và 2000, cho thấy VN mất đất đai và biển cho TQ, gây phản ứng rộng khắp trong quần chúng cả trong lẫn ngoài nước và trên thế giới, bộ chính trị Đảng CSVN từ Hồ Chí Minh cho đến Mạnh – Lương – Khải đang bị nguyền rủa thậm tệ.
Một chính quyền vô hiệu năng tham nhũng, ngồi ôm thần tượng cụt đầu nhai đi nhai lại mớ lý thuyết lỗi thời, đang bị toàn dân khinh bỉ, mà lại phải xoay chuyển _trong khi không đạt được thế vững trên trường quốc tế_ vào toàn cầu hoá mà với Xã Hội Chủ Nghĩa kỵ như nước với lửa. Khi Đảng CSVN ra đi là nhân dân VN không còn chấp nhận nữa, chứ Trung Quốc không ruồng bỏ công cụ, vắt chanh bỏ vỏ. Hiện tập đoàn Hà Nội đang phải làm nốt nhiệm vụ cuối cùng là phục vụ Trung Quốc trở lại chi phối vùng này bằng kinh tế và đặt dân tộc ta trước một sự ‘mất đất’ đã rồi, để Trung Quốc luôn giữ thế thượng phong tại ngay biên giới và trong quan hệ giữa hai nước sau này. Trung Quốc còn giữ nhiều bí mật chết người xuyên suốt quá trình ‘môi hở răng lạnh’ mà tập đoàn Hà Nội chỉ còn biết ngậm bồ hòn .
ĐỀ NGHỊ CON ĐƯỜNG DÂN TỘC TA ĐI
Tất cả mọi thay đổi lớn lao trên thế giới là do có những phát minh khoa học ở đầu thế kỷ 20, mà chính yếu là ‘Thuyết Tương Đối’ của Einstein (1905 & 1916) khiến sự nhận thức về vũ trụ xung quanh khác với nền Vật Lý cũ do Newton đi đầu lập lên. Những định lý của Newton chỉ đúng trên trái đất khi mọi vật đều chịu chung một chuyển động nên kết quả thí nghiệm lập lại vẫn hoàn toàn đúng. Nhưng cũng thí nghiệm đó tiến hành trên một ngôi sao khác có chuyển động và vận tốc không giống trái đất, dùng ‘tương đối rộng của Einstein’ chuyển đổi thì kết quả sẽ được lập lại như khi làm trên trái đất..
Vật Lý Newton đã đưa nền văn minh nhân loại lên đến đỉnh cao là cách mạng kỹ nghệ hoá trong những thế kỷ 18, 19 và 20.
Đến 1927 Cơ Học Lượng Tử ra đời với Niels Bohr , Werner Heisenberg…
Thuyết Tương Đối Hẹp & Rộng cùng Cơ Học Lượng Tử đã khai sinh nền Vật Lý Mới, không phủ nhận vật lý cũ của Newton mà bao gồm, cũng giống như leo lên một đỉnh núi cao hơn, đỉnh núi cũ vẫn còn đó nhưng cảnh quan trên cao hơn bao giờ cũng rộng lớn hơn rất nhiều. Trong bước tiến của nhân loại còn đỉnh cao chinh phục, hiểu biết đại và tiểu vũ trụ sẽ lại mở rộng thêm.
Vấn đề là:
Nhân loại đang ở vào thời điểm không phải nền văn minh theo hướng Newton cũ với những phát kiến tân kỳ hơn, mà là nền văn minh đi theo một hướng khác, một chân trời mới rộng mở. Đã gọi là mới thì mới với tất cả, ai biết & nhanh chân có vai trò. Sự cách biệt trong văn minh Newton mất tính quyết định. Nước nào bất kể giầu nghèo, lớn nhỏ, mạnh yếu tiến hành cân bằng Cách mạng vi điện tử & Cách mạng Nhân Bản Hoá đều thành công trong mưu tìm hạnh phúc cho dân tộc mình. Nghiêng nhiều về một phía, coi nhẹ cái kia là sai lầm. Chính trị đang đi dần vào một nền Kỹ Trị Nhân Bản.
Con đường dân tộc ta muốn đi là: Ngay từ bây giờ, sớm nhất, nhắm ngay nền văn minh mới xuất hiện. Tiến hành kỹ nghệ hoá do chuyển giao để no bụng, còn chuyện chính là Nhân Bản Hoá và rõ ràng động cơ phải là nền Văn Hoá Giáo Dục mang tính Nhân Bản, Khoa Học, Đại Chúng, Khai Phóng & Sáng Tạo.
Đi theo con đường mòn cũ của Aâu Châu trong thời kỳ bắt đầu kỹ nghệ hoá hồi thế kỷ 18, để sau này các nước khác quay rồi mình mới quay theo, là điều thật đáng tiếc.
Nền văn minh mới đang xuất hiện với cách mạng vi điện tử & nhân bản hóa, chúng ta có thể nói một cách tổng quát là đối với tất cả các nước dù giầu hay nghèo, bất cứ đường lối phát triển hữu hiệu nào trong thế giới mới ngày nay tự thân đều mang ba tính chất đại chúng, nhân bản & tiến bộ:
- Tính Đại Chúng: nhà nước nhân bản là của toàn dân, chứ không phải của một giai cấp nào, lấy ý dân qua thăm dò để xây dựng luật pháp và có những quốc sách hợp lòng người.
Trả lại thẩm quyền kinh tế - văn hóa về tận tay người dân, hình thành xã hội dân sự sinh hoạt tự do theo luật pháp (tính xã hội mà đường lối mới chủ trương là xu thế mới, hoàn toàn khác hẳn quái thai Xã Hội Chủ Nghĩa của CS. Một bên là tiến trình đi lên tự nhiên của Tư Bản Chủ Nghĩa khi diễn ra cách mạng vi điện tử & Nhân Bản hoá và bên kia là tiến trình không tưởng của chủ nghĩa Marx-Lénin áp đặt lên tiến hoá của nhân loại, nay đã bị phủ nhận & phá sản).
Tản quyền. Nhà nước chỉ giữ vai trò điều hợp. Mọi thay đổi lãnh đạo phải diễn ra định kỳ theo thể thức dân chủ.
-Tính Nhân-Bản: xã hội xây dựng trên quan niệm triết lý mới về con người với chứng cứ khoa học ngày càng vững vàng. Đó là Tâm & Vật của con người có tương quan với nhau, hỗ tương tác động & hoán chuyển lẫn nhau qua sinh-năng. Sinh năng là một phần của vũ trụ năng & vũ trụ năng trực tiếp ảnh hưởng trên sinh năng.
-Tính Tiến-Bộ: đường lối mới phát triển xã hội đồng đều cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất. Phát triển kinh tế kỹ thuật mới mang lại ấm no thịnh vượng và đầu óc tiến bộ với nền Giáo Dục-Văn Hóa Nhân Bản.
Đường lối mới đưa nhân loại xích lại gần nhau, cùng tiến vào kỷ nguyên toàn cầu hoá kinh tế, toàn cầu hóa văn hóa & toàn cầu hóa chính trị với bản tuyên ngôn quốc tế Nhân Quyền là hiến pháp tối cao chung cho tất cả các dân tộc.
Tương lai rộng mở. Hướng đi đã rõ.
Trong bối cảnh phức tạp nhưng thuận lợi của tình hình quốc tế và trong nước, Bộ chính trị Đảng CSVN phải ra đi, nhường bước cho Dân Chủ là điều chắc chắn xẩy ra. Thời gian lâu hay mau tùy thuộc chúng ta vận động quần chúng cô lập chúng bằng đường lối mới mà toàn dân ta đang mong muốn.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ làm thay đổi hạ tầng cơ sở xã hội VN. Nhân dân VN chán ghét tham nhũng bất công. Hiệp định biên giới Việt – Hoa lộ rõ bản chất bán nước cầu vinh của giới cầm quyền CS.
21-2-2002 TT Mỹ gặp Chủ Tịch Trung Quốc. Bè lũ Cộng Sản Việt Nam lo không biết phận mình ra sao. Nhưng nhân dân ta biết rất rõ, dù có dâng đất vẫn không toàn mạng.vì Giang Trạch Dân phải phục vụ quyền lợi của Trung Quốc dù có phải hy sinh tính mạng của bè lũ Lương- Mạnh – Khải. Một tuần sau, họ Giang đi Hà Nội vào ngày 27-2 để gặp giới lãnh đạo Đảng CSVN, đúng vào lúc nhân dân ta khắp nơi trong và ngoài nước đang mạnh mẽ lên tiếng không chấp nhận các cột mốc biên giới nhằm hợp pháp hoá những việc làm khuất tất của hai đảng.
Giới lãnh đạo Hà Nội đang cô đơn hơn bao giờ hết: Bị non sông ghét bỏ giống nòi khinh./.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:28:03 GMT 9
King C. Chen: Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979: phần 1
-------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Cùng chủ đề:1 2 Kinh C. Chen Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ Phần 1
Cơ Cấu Chính Sách Ngoại Giao Bắc Kinh
Trước khi bàn đến cuộc chiến Trung-Việt 1979, cần phải thiết lập ra một bộ khung để phân tích. Bắc Kinh đã đưa ra kế hoạch thực hiện “cuộc phản công tự vệ” chống Việt Nam, nên vấn đề cần phải được phân tích bằng việc hướng vào cách tiếp cận của Trung Quốc. Theo cách thức đó, chính sách ngoại giao Bắc Kinh có thể là cơ sở để phân tích vấn đề phức tạp này.
Chính phủ CHND Trung Hoa chưa bao giờ lý giải một cách rõ ràng chính sách của mình. Điều đó tồn tại khi chúng ta diễn giải phản ứng quốc tế của Trung Quốc. Đó là một nền tảng lý thuyết chỉ đạo chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Vì thế, lý thuyết và thực tiễn sẽ mang lại nền tảng cho cơ sở phân tích. Một cách lý giải cô đọng và súc tích là cần thiết.
Nền tảng Lý thuyết
Về lý thuyết, chính sách ngoại giao Bắc Kinh thiết lập từ triết lý đối ngoại truyền thống của Trung Quốc, ý thức hệ cộng sản, cơ sở chiến lược và lợi ích quốc gia. Những yếu tố này biểu hiện rất rỏ nét khi đặt vào bối cảnh quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Theo truyền thống, quan hệ đối ngoại Trung Quốc bắt nguồn từ khái nhiệm “Thiên tử”. Biện minh cho quyền lực này, những triều đại của Trung Nguyên xem Trung Quốc là trung tâm của thế giới và những nước bên ngoài chỉ là những nước láng giềng man rợ. Trung Hoa thiết lập quan hệ với những nước này thông qua qui tắc cống nạp-thể chế quan hệ ngoại giao duy nhất. Sau một thời gian dài thực hiện, Trung Hoa xây dựng uy quyền bằng đô hộ chính trị và vượt trội văn hóa. Mặc dù, những cuộc nổi dậy quân sự đôi khi cũng diễn ra, nhưng chúng chỉ là những cuộc nổi dậy theo yêu cầu của lân bang hoặc để duy trì qui tắc cống nạp. Vì thế, chính sách này thực hiện nhằm mang lại lợi ích về chính trị, văn hóa và chiến lược cho Trung Quốc.
Trong khi loại trừ được những cường quốc hùng mạnh khác trong khu vực, sự thống trị về chính trị cũng làm cho Trung Quốc bị cô lập chính trị. Để duy trì vị trí thống lĩnh tại Châu Á, Trung Quốc đã thực hiện theo qui tắc truyền thống là: “khen thưởng người vâng lời và trừng trị kẻ chống đối”. Chính sách thưởng phạt này áp dụng trên toàn bộ khu vực Châu Á, từ Triều Tiên tới Annam (Việt Nam) cho đến Nepal, và hầu hết đều rất thành công.
Nhưng tình hình đã thay đổi sau khi những cường quốc Tây phương xuất hiện. Anh, Pháp, Đức, Nga và thậm chí cả Nhật Bản đều đòi hỏi ảnh hưởng trên toàn Trung Quốc. Trung Quốc trở nên yếu kém và nhục nhã. Cơ chế triều cống chấm dứt từ cuối thể kỷ 19 cho dù lợi ích của Trung Quốc tại Châu Á vẫn không thay đổi.
Sau khi thành lập chính quyền tại Bắc Kinh năm 1949, Trung Quốc xác lập lại chủ nghĩa dân tộc cũng như khẳng định lại vị trí của mình tại Châu Á. Trong số những tuyên bố của Bắc Kinh thì một trong những biểu hiện rõ nhất đó là bài xã luận đăng trên báo Trung Quốc trong thời kỳ diễn ra Hội nghị Geneva về Đông Dương 1954. Bài xã luận tuyên bố một cách kêu ngạo rằng Chu Ân Lai, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc tại Hội nghị Geneva, không phải chỉ nói cho “500 triệu người Trung Quốc” mà còn nói cho “toàn bộ những người yêu chuộng hòa bình tại Châu Á”. Bắc Việt mù quáng lập lại điều này một cách rất tích cực và cho rằng “không có Trung Quốc thì không thể nào giải quyết được vấn đề của Châu Á, không có Trung Quốc thì sẽ không thể có giải pháp giải quyết những mối quan hệ quốc tế”. Việt Nam rỏ ràng đã chấp nhận vai trò lãnh đạo mới của Trung Quốc tại Á Châu. Từ trước cho đến nay, vai trò lãnh đạo là yếu tố mà hai quốc gia này hợp tác. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Việt Nam (1964-1975) và Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1965-1976) kết thúc, Trung Quốc phải đối chọi với một Việt Nam ngày càng độc lập và lớn mạnh hơn tại Đông Dương. Cường quốc mới là Liên Xô đã nhảy vào hỗ trợ Việt Nam. Quan hệ Trung-Việt trở nên xấu đi và nhân tố lãnh đạo trở thành một yếu tố của xung đột.
Tuy nhiên, để giữ mối quan hệ “anh em” và truyền thống lâu dài với Việt Nam, Trung Quốc duy trì và tránh mở rộng quá mức quyền lực tại Đông Dương cho dù. Về ý thức hệ cộng sản, chính quyền Bắc Kinh tuyên bố hồi năm 1950 rằng chính sách Trung Quốc thiết lập trên nguyên tắc khoa học của Marx, Engel, Lenin, Stalin và kiến thức khoa học của qui luật phát triển xã hội. Trung Quốc gần như diễn giải mọi vấn đề quốc tế theo lý luận biên chứng của Mao, gồm tư tưởng về sự đối lập, khái niệm “khu vực trung gian” và lý thuyết “ba thế giới”. Khi Trung Quốc áp dụng ý thức hệ vào mối quan hệ Việt-Trung, Trung Quốc xem xét đến những mục tiêu chung và sự khác biệt của hai nước.
Những mục tiêu chung là đấu tranh chống phản động và đế quốc chuyển biến xã hội thành xã hội chủ nghĩa. Trong xác nhận mục tiêu chung, hai bên sử dụng ý thức hệ để tăng cường quan hệ song phương. Tuy nhiên, khi những mục tiêu chung bị lu mờ bởi xung đột lợi ích, cả hai đều diễn giải chủ nghĩa Marx-Lenin theo cách có lợi cho mình. Do đó, Trung Quốc lý luận rằng sự hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô là một công cụ bá quyền nhằm bao vay Trung Quốc và xem cuộc chiến tranh du kích của Pol Pot như là một cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của Việt Nam đối với Campuchia. Ngược lại, Việt Nam cáo buộc Trung Quốc vi phạm tội ác bá quyền bằng việc đàn áp và xâm lược Việt Nam. Vì thế, ý thức hệ cũng được hai bên cũng sử dụng để leo thang xung đột.
Khái niệm chung về chiến lược và lợi ích quốc gia là hiểu rõ được. Rõ ràng, hai nước đều chấp nhận điều này như là nguyên tắc hướng dẫn thực hiện chính sách ngoại giao. Cả hai đều theo đuổi vấn đề an ninh quốc gia, thống nhất đất nước, chấp dứt can thiệp của ngoại bang, phát triển kinh tế, quyền lực và ảnh hưởng quốc gia. Trong vài trường hợp, sự giúp đỡ lẫn nhau để thúc đẩy các lợi ích này đã tăng cường hợp tác và thống nhất giữa hai nước, như việc Trung Quốc cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam và Việt Nam học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc về cải cách ruộng đất, thương mại và trao đổi văn hóa.
Tuy nhiên trong quá trình thúc đẩy lợi ích, hai nước cũng chứng kiến nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Mỗi giai đoạn khác nhau cần có những chính sách khác nhau mà thông thường là do ảnh hưởng bởi những thời kỳ và môi trường khác nhau, gồm cả sự can thiệp của những cường quốc bên ngoài. Khi thiết lập nên những chính sách khác nhau, hai nước đi đến đối đầu về lợi ích. Cuộc tấn công Việt Nam 1979 của Trung Quốc là hình mẫu trong xung đột lợi ích dưới hình thức nghiêm trọng nhất từ 1949. Kết quả là yếu tố lợi ích chiến lược và lợi ích quốc gia cũng trở thành một yếu tố của xung đột.
Nhưng vì nhiều lý do khác nhau xung đột lợi ích đã không đi đến đỉnh điểm. Trung Quốc nhận thấy việc tiến hành chính sách chống Việt Nam ở mức độ hạn chế cũng mang lại lợi ích cho mình.
Thực tiễn
Để minh chứng cho học thuyết diễn giải chính sách đối ngoại của Bắc Kinh đã nêu ở trên, chúng ta phải đánh giá phản ứng quốc tế của Trung Quốc. Một cuộc khảo sát vắn tắt về sự dính líu của Trung Quốc trong 8 cuộc khủng hoảng trước 1979 sẽ cho thấy mức độ thực hiện chính sách đối ngoại và từ đó hỗ trợ cho cách diễn giải nêu trên.
Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), 320.000-400.000 quân “tình nguyện” Trung Quốc đã chiến đấu quyết liệt chống lại các lực lượng Liên Hiệp Quốc và đẩy lực lượng này lùi về phía nam. Tuy nhiên, quân Trung Cộng không tấn công quân Liên Hiệp Quốc đến tận Pusan. Thay vào đó, họ dừng lại ở khoảng vỹ tuyến 38. Thông điệp đưa ra là rõ ràng: Trung Quốc đã đã “giải cứu” Bắc Triều khỏi bị thống nhất với miền nam bởi quân Liên Hiệp Quốc và bảo vệ an ninh của vùng Mãn Châu. Việc quân đội Trung Quốc chiếm đóng Nam Hàn không mang lại lợi ích cho Bắc Kinh, mặc dù họ không bị hạn chế về khả năng.
Trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương (1950-1954 và 1964-1975), Trung Quốc nỗ lực trợ giúp những người đồng chí tại Đông Dương. An ninh Trung Quốc không trực tiếp bị đe dọa. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều thấy Trung Quốc không cần thiết phải can thiệp quân sự tại đây.
Các vụ ném bom vào đảo Quemoy và Matsu (1954-1955 và 1958) là những chiến dịch mạo hiểm nhưng rủi ro thấp vì Trung Quốc không thể nào chiếm được những đảo này với giá thấp. Tuy nhiên, Trung Quốc có khả năng gây ra thiệt hại nặng nề trên đảo, nhất là năm 1958 khi quân trên đảo gần như bị phong tỏa và nhận lệnh không được bắn trả nhằm bảo đảm đạn dược đề phòng nguy cơ cộng quân bất ngờ đổ bộ lên đảo.
Trong hai cuộc xung đột biên giới với Ấn Độ vào năm 1959 và 1962, Bắc Kinh chứng tỏ rỏ ràng sự kiềm chế của mình. Sau khi dạy cho Ấn Độ một bài học đau đớn, Trung Quốc không nỗ lực để giành một chiến thắng quân sự to lớn trước Ấn Độ. Việc đơn phương rút quân sau một tháng từ tháng 10 đến tháng 11 năm 1962 rỏ ràng cho thấy phản ứng quân sự của Trung Quốc được tính toán rất kỹ lưỡng và hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát.
Cuộc chiến biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969 càng minh chứng thêm sự bất ngờ nhưng có giới hạn trong chính sách của Trung Quốc. Đối mặt với một kẻ thù nguy hiểm và hùng mạnh hơn, năng lực yếu kém và sự tính toán thực tế đã ngăn cản Trung Quốc khỏi việc đẩy xung đột thành một cuộc chiến lớn.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 27, 2009 4:30:28 GMT 9
King C. Chen: Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979-------------------------------------------------------------------------------- Ngược dòng lịch sử Kinh C. Chen Vô Thường, X-Cafe chuyển ngữ Lời Cảm Tạ Cuốn sách này là kết quả mối quan tâm lâu dài của tôi về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Dù phần lớn cuốn sách này đã viết xong trong mùa hè và mùa đông nhưng cuốn sách là kết quả làm việc liên tục trong nhiều năm. Trong quá trình nghiên cứu, phỏng vấn, viết rồi viết lại, tôi đã được nhiều bạn bè và học giả giúp đỡ. Tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn của tôi với tất cả mọi người đặc biệt là những người sau đây: Zbigniew Brezeninski của Đại học Columbia, tôi cảm ơn sự giúp đỡ của trong phần nghiên cứu ban đầu. Tôi xin cảm ơn Thomas W. Robinson, Donald S, Zagoria, Michael Y.M. Kau, Hungdah Chiu, William M. Kissam, Joseph Zasloff, William J. Duiker (Hoa Kỳ); Philippe Devillers (Pháp); Pao-min Chang (Singapore); Carlyle A. Thayer (Australia); Feilung Lui, Ming-hsiung Hsu (Đài Loan); Kong-Ja Chang (Triều Tiên); Henry Kamm (New York Times) và Alexander Casella (Geneva) đã góp ý, cung cấp thông tin và tài liệu. Tôi xin cảm ơn những ấn phẩm và sự giúp đỡ của Ủy ban lâm thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân Chủ tại Liên Hiệp Quốc. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến những người sau đây đã giành cho tôi những cuộc phỏng vấn trò chuyện. Đó là Hoàng thân Norodom Sihanouk, Ieng Sary (Campuchia); Nitya Phibulsonggram (Phibunsongkhram), Preedee Kasemsup, Lawat Tangthongthawi, Shen Ke-chin, Lin Tien-hsiu (Thái Lan) Chen Ch’ing-li (trước đây ở Việt Nam, hiện nay ở tại Đài Loan); Chang Wen-ho, Nguyễn Văn Châu, Vũ K. Thu (trước ở Việt Nam nay định cư tại Hoa Kỳ); Lo Kau (Hong Kong); và một số “người tị nạn” Trung Quốc và Đông Dương tại Thái Lan, Hong Kong, Đài Loan và Hoa Kỳ, những người đã trò chuyện với tôi nhưng không sẳn sàng nêu rỏ danh tính. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Uỷ ban Thái Lan và Indonesia tại Liên Hiệp Quốc đã cung cấp dữ liệu và Bộ ngoại giao Malaysia cung cấp Chính sách Tị nạn Malaysia. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Đại học Rutgers đã tài trợ cho việc nghiên cứu; Học viện Hoover đã hổ trợ và Cô Linda W. Perry đã giúp đỡ biên tập rất tốt. Tôi gửi lời cảm ơn đến vợ tôi Grace và các con tôi đã tích cực khuyến khích và giúp đỡ tôi trong dự án đầy thử thách này. Giới Thiệu Với qui mô và thương vong chưa từng có, cuộc chiến biến giới ngắn ngủi 1979 là cuộc xung đột quân sự đẩm máu nhất giữa “những người anh em” trong thế giới cộng sản. Có nhiều lý do gây nên cuộc chiến. Mối quan hệ thất thường giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ, xung đột biên giới, yếu tố Liên Xô, vấn đề Campuchia và Hoa Kiều, tất cả đã góp phần quan trọng làm leo thang xung đột. Tuy nhiên, Trung Quốc là nước đã phát động chiến tranh. Bằng cách ồ ạt tấn công Việt Nam, Bắc Kinh muốn đạt được những mục tiêu trong chính sách ngoại giao. Kết quả là, cuộc chiến không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ Việt-Trung mà còn còn ảnh hưởng sâu rộng đến những hệ quả quốc tế. Vấn đề rất phức tạp và đan xen nhau khi xem xét đến những khía cạnh trong đó, nếu bỏ qua những yếu tố khác, thì đó là một đánh giá sai lệch hoàn toàn. Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu cuộc chiến 16 ngày này đòi hỏi một cuộc nghiên cứu toàn diện gồm cơ cấu chính sách đối ngoại Trung Quốc, bối cảnh, quyết định, bản thân cuộc chiến và sự can dự của quốc tế. Cơ cấu chính sách và bối cảnh cho thấy phạm vi và khuôn mẫu hoạt động ngoại giao-quân sự của Trung Quốc trong quá khứ và tính chất nghiêm trọng trong nhiều vấn đề khác nhau đã dẫn hai nước “anh em” đi đến chiến tranh. Cần có sự lưu tâm đặc biệt vế khía cạnh ra quyết định, chính trị, mô hình và tiến trình. Chính trị rất cần thiết dưới sự khôi phục lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, chỉ ra mối liên hệ giữa chính trị trong nước và chính sách ngoại giao dưới hình thức tranh giành quyền lực vào thời điểm đó, gồm tranh cải ý thức hệ và tái lập phe phái. Cuộc chiến này được minh chứng khi quyền lực của Đặng Tiểu Bình càng được tăng cường hơn sau năm 1979 do được ủng hộ bởi dòng chảy ôn hòa thông tin từ đại lục ra thế giới bên ngoài. Mô hình được xây dựng lên nhằm minh họa quyết định đi đến chiến tranh đã xảy ra như thế nào. Tiến trình hình thành do tình hình trong nước và quốc tế tại thời điểm đó và tính thẳng thắn trong Đặng Tiểu Bình. Đó là một hoàn cảnh hiếm thấy. Bàn luận về sự dính líu quốc tế là đánh giá sâu rộng ảnh hưởng của nhiều vấn đề quốc tế khác nhau. Tầm quan trọng về hậu quả của cuộc chiến hạn chế này có thể đo lường bằng mối quan hệ đối nghịch giữa Việt Nam- Trung Quốc hiện nay, vấn đề Trung-Xô chưa được giải quyết, tình trạng phức tạp của Campuchia và sự gia tăng ảnh hưởng Liên Xô tại Châu Á. Những vấn đề này tạo ra một thách thức vớí Hoa Kỳ. Những nhà nghiên cứu về cộng sản thường gặp khó khăn về sự khan hiếm tài liệu để phân tích và diễn giải. Thậm chí khó khăn hơn nửa là việc tiếp cận thông tin về những người làm chính sách và qui trình đưa ra quyết định. Điều này xảy ra trong sự kiện Trung Quốc can dự vào Chiến tranh Triều Tiên và xung đột biên giới. Từ năm 1949, Bắc Kinh kiểm soát chặt chẽ tất cả thông tin, bề ngoài là để bảo vệ bí mật nhà nước. Người ngoài kể cả những nhà nghiên cứu về Trung Quốc gần như không thể tiếp cận được bất kỳ thông tin nào ngoại trừ những thông do chính phủ công bố. Người nghiên cứu phụ thuộc rất lớn và những thông tin không chính thức còn giới hạn. Tuy nhiên, trong cuộc chiến 1979 đã có ít nhiều sự khác biệt. Chiến dịch bất ngờ và ngắn ngủi nhằm “giải phóng” suy nghĩ nhân dân kéo dài từ 1977-1979 đã khuyến khích nhiều thông tin truyền miệng. Đây là chiến dịch Đặng Tiểu Bình phát động nhằm chống lại phe cánh chính trị của Mao Trạch Đông và vai trò lãnh đạo của Hoa Quốc Phong. Chiến dịch này cũng làm gia tăng việc tiết lộ một số bí mật nhà nước từ đại lục đến Hong Kong và những khu vực ngoại vi. Sự tiết lộ này rất quan trọng đối với người bên ngoài, đặc là những nhà nghiên cứu học thuật. Bằng cách thức lựa chọn nghiêm túc, tôi đã đưa vào cuốn sách nhiều tài liệu có được từ các cuộc phỏng vấn và thông tin thu tập tại Hong Kong và những nơi khác. Đây là những thông tin rất hữu ích. Niềm tin của tôi vào những nguồn thông tin này được cũng cố vững chắc sau khi tôi đọc ba cuốn hồi ký quan trọng là Giữ vững Niềm tin (Keeping Faith) của Jimmy Carter, Quy tắc và Quyền lực (Power and Principle) của Zbigniew Brzezinski và Lựa chọn Khó khăn (Hard Choices) của Cyrus Vance về đàm phán giữa Đặng Tiểu Bình và chính quyền Carter vào đầu năm 1979 về kế hoạch chống Việt Nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nghiên cứu của tôi về nguồn gốc cuộc chiến của Đặng Tiểu Bình gần như hoàn tất vào tháng 12 năm 1980, trong khi ba cuốn hồi ký này xuất bản vào năm 1982 và 1983. Sự giống nhau đáng lưu ý giữa thông tin về Đặng Tiểu Bình và thông tin tại Hong Kong với một ít khác biệt, không chỉ xác nhận giá trị của thông tin truyền miệng và thông tin bị tiết lộ mà còn chứng tỏ Đặng Tiểu Bình là người đứng trong việc đưa ra quyết định cho cuộc chiến. Điều này cũng cho thấy quyết định phát động chiến tranh có thể được xem là quyết định của Đặng Tiểu Bình và cuộc chiến chính là cuộc chiến tranh của Đặng Tiểu Bình. Hai lĩnh vực nghiên cứu khác là mô hình quan hệ Việt-Trung và mức độ kiểm soát khủng hoảng của Trung Quốc. Về khía cạnh lịch sử, cuộc chiến 1979 là một gia đoạn trong mối quan hệ lịch sử lâu đời giữa Việt Nam và Trung Quốc và cho thấy mô hình trong quan hệ giữa hai nước. Tác giả đã phân tích mô hình trong công trình nghiên cứu trước đây là cuốn sách Việt Nam-Trung Quốc 1938-1954. Khi Trung Quốc còn mạnh, thân thiện và hào hiệp, Việt Nam tôn trọng, hợp tác và noi gương Trung Quốc. Khi Trung Quốc bị phân chia và hoảng loạn, Việt Nam hưởng được độc lập và tự do hơn và khi Trung Quốc tấn công,Việt Nam sẽ kháng cự. Trong mối quan hệ một ngàn năm với Trung Quốc, Việt Nam chứng minh cho thấy là một dân tộc anh hùng và độc lập. Nhưng quan hệ đồng minh Việt-Xô gần đây đã làm phức tạp mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Trong mức độ nhất định, điều này cũng làm lu mờ vị thế hoàn toàn độc lập của Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã chiến đấu rất gian khổ mới giành được. Trong khi mô hình quan hệ không thay đổi thì những yếu tố thiết lập nên mô hình quan hệ đã bắt đầu đổi thay. Biến chuyển này là ví dụ cho thấy lợi ích dân tộc và chiến lược đã làm lu mờ ràng buộc chung về ý thức hệ cộng sản. Nếu quan hệ đồng minh chiến lược Việt-Xô trở nên vững chắc như Hiệp ước Warsaw, điều khó xảy ra hiện nay, thì mô hình quan hệ Việt-Trung sẽ trải qua những thay đổi lớn. Việc quản lý khủng hoảng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một vấn đề của sự gia tăng lợi ích. Nhiều nhà nghiên cứu đã bàn luận về vấn đề này, nhưng vẫn chưa đưa ra được một cơ cấu cụ thể để phân tích mức độ và cách thức quản lý khủng hoảng của Bắc Kinh. Trong nỗ lực nhằm đáp ứng nhu cầu này, tôi trình bày trong công trình nghiên cứu này một cơ cấu gồm 6 thành phần khủng hoảng và hệ thống xếp hạng. 8 cuộc khủng hoảng trong quá khứ (trước cuộc chiến 1979) được sử dụng để lập ra tiêu chí đánh giá mức độ và cách thức quản lý của Bắc Kinh. Kết quả là bản cơ cấu cho thấy không chỉ được áp dụng trong chiến tranh 1979 và những cuộc khủng hoảng khác của Trung Quốc mà còn cả những cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh Thế giới lần Thứ hai. Trong quá trình nghiên cứu mức độ can dự vào khủng hoảng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vấn đề về “chiến tranh giới hạn” và “chiến tranh nhân dân” được nêu ra vào từng thời điểm. Cỏ vẻ như, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiến hành chiến tranh giới hạn trong tất cả những cuộc khủng hoảng từ 1949 đến 1978, ngoại trừ cuộc xung đột Triều Tiên. Tuy nhiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không thể thực hiện chiến tranh chống lại Việt Nam vào năm 1979 như dự định và như những gì mà họ đã làm trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản trong giai đoạn 1937-1945. Lý do chính là những điều kiện của một cuộc chiến tranh nhân đã không có tại Trung Quốc, những điều kiện này đòi hỏi tiêu chí về một ý thức chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ và sự tham gia rộng lớn của quần chúng nhân dân. Ngược lại, Việt Nam có khả năng chống chiến tranh giới hại của Trung Quốc năm 1979 không chỉ vì vấn đề chiến lược mà còn vì Việt Nam có những điều kiện để thực hiện. Cuối cùng, một điểm nhận xét cần phải nêu ra đây là trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế trước đây, Trung Quốc đã hoán đổi giữa việc sử dụng những biện pháp hòa bình và quân sự. Bắc Kinh đang đấu tranh thực hiện chương trình hiện đại hóa. Chương trình này đòi hỏi phải mất 3 đến 4 thập niên mới đạt được và một môi trường hòa bình trong nước và quốc tế là điều kiện tiên quyết để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao này. Nếu những nhà hoạch định chính sách Bắc Kinh không nhận thức đầy đủ điều kiện thiết yếu đó trong thời điểm quan trọng này và áp dụng những biện pháp quân sự vào các vấn đề quốc tế và trong nước như đã làm định kỳ từ 1949, thì cơ hội hiện đại hóa có thể sẽ trôi qua. Để tránh nhầm lẫn, cần phải lưu ý về việc chuyển từ ở đây. Đối với tài liệu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tôi sử dụng Pinyin còn với tài liệu của Đài Loan, tôi sử dụng phương pháp phát âm tiếng Quan Thoại bằng ký tự Latinh (Phương pháp Wade Giles).
|
|