|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:42:22 GMT 9
Trong luc hang van nguoi chien si VNCH dang bi giam cam trong nguc tu CS, hang trieu nguoi co nhi ,qua phu tu si dang khoc than thi ngai " Dai Tuong, Tong Thong, Tong chi huy Quan Doi VNCH" anh dung, nguoi dan dat toan dan Mien Nam chien thang oanh liet cuoc cach mang giet Tong Thong NDD cua minh . Lai tro thanh nguoi cong dan nuoc CH XHCN VN Duong Van Minh , ho hoi phat bieu “ …Ngày hôm nay, đại diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. (Trích băng ghi âm)Mọi người được về với gia đình ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị tổng thống 48 giờ nói:- Thôi, giã từ quá khứ chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.(Theo Tuổi Trẻ) Cuối tháng Tư năm nay, ba mươi năm sau ngày Saigon sụp đổ. Đối với tôi, ở tuổi 11 vào năm bảy lăm, tôi còn nhỏ. Xã hội quanh tôi cũng nhỏ: gia đình, vài đứa bạn tiểu học, hàng quán quanh nhà, chợ Ông Tạ, nhà thờ An Lạc, nhà thờ Nam Thái, trường Bắc Hải... Vậy thôi! Thế nhưng cái xã hội nhỏ và đơn giản của tôi phải mang một dấu ấn sắc, nhọn, lầy lụa, dã man. Ba mươi năm sau “ngày ấy,” tôi viết lại câu chuyện này để một lần nhìn vào dấu sẹo trong tâm hồn mình. Viết để lý luận về nó một cách bình tĩnh và trưởng thành hơn. Viết để nói với những người đã đem đến cho tôi kinh nghiệm kinh khủng đó. Nói chung, viết là lối giải tỏa tâm lý ẩn ức của người viết. Ngày 30/4/1975, lời tuyên bố đầu hàng đã truyền đi. Lá cờ tai họa đã bay trên Dinh Độc Lập. Bố tôi từ Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị về nhà. Mắt ông đỏ tia máu. Trước nhà tôi, những người lính cởi trần ngồi trên lề đường khóc. Họ chửi rủa rằng họ bị phản bội, bị bỏ rơi. Họ nói đến chuyện tự tử để không thẹn với hồn thiêng sông núi. Có gì đó khủng khiếp khi những người đàn ông khóc. Hàng xóm xúm lại an ủi họ. Trời chang chang nắng đổ, súng ống quân phục đầy đường từ Ngã Tư Bẩy Hiền vào Lê Văn Duyệt. Tiếng súng do bọn thanh thiếu niên hoang loạn bắn từ vũ khí vương vãi trên hè phố nổ rền suốt mấy giờ liền. Đến khoảng 2 giờ chiều chỉ còn lác đác tiếng súng ở xa. Nỗi hoang mang tiếp tục gia tăng khi người ta bắt đầu nhìn thấy những người lính miền Bắc đeo ba lô, đi dép râu, mặt mũi lơ láo, lạ lẫm bắt đầu đi vào con đường hẻm. Bất thình lình, trong cái oi bức, ngột ngạt của không gian, trong cái căng thẳng kinh hoàng của đầu óc, có những tiếng súng nhỏ vang lên trong một căn nhà. Những tiếng súng ấy nhỏ và không vội vã như người ta bắn qua lại khi giao tranh. Những tiếng súng ấy bình tĩnh, cách nhau đều đặn. Chúng vang lên một cách chắc chắn, chắc chắn như quyết định của người nổ súng. Đó chính là tiếng súng mà Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh đã nổ để kết liễu mạng sống của ông và cả gia đình gồm vợ và bảy người con. Khoảng đâu đó cuối năm 1974, Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh bán căn nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Bắc Hải và dọn về ngôi nhà nhỏ xinh cách nhà tôi khoảng 10 căn. Ngôi nhà màu xanh lá cây, cổng gạch trắng, không có garage đậu xe, mang số 98/39 đường Phạm Hồng Thái, Gia Định, thuộc Ấp Hoà Bình, quận Tân Bình. Đường hẻm lớn này thường được gọi là Hẻm Con Mắt, Khu Ông Tạ. Ngôi nhà nay là 98/39 Cách Mạng Tháng Tám, phường 5, Tân Bình. Trung Tá Vĩnh thường mang xe sang gửi tại sân nhà ông Năm Châu xế cửa. Đó cũng là nơi tôi nhìn thấy Trung Tá lần cuối khi ông còn sống. Bà Trung Tá Vĩnh tên tục là Trần Ánh Nguyệt, chị kế của phu nhân lão thi sĩ Hà Thượng Nhân. Đám cưới hai ông bà diễn ra vào khoảng năm 1944-1945. Ông bà từng làm chủ một nhà in. Ông tốt nghiệp Khóa 3 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1953. Năm 1954, theo vận nước, ông bà Vĩnh vào Saigon. Ông bà có tất cả bảy người con. Người con cả, anh Đặng Trần Vinh, sinh năm 1948. Hai cô con gái út là một cặp sinh đôi, khoảng 15 tuổi năm 1975. Trung Tá Vĩnh từng phục vụ tại Phòng Nhì bộ Tổng Tham Mưu và sang làm việc tại Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia từ cuối thập niên 1960. Theo lão thi sĩ Hà Thượng Nhân, ông Vĩnh là người rất hiền từ. Một số quí vị đã có dịp làm việc với ông Vĩnh đồng ý như vậy. Theo các vị này, ông Vĩnh không cau có, cãi cọ với ai bao giờ. Ông điềm tĩnh và nhân hậu. Trong ký ức trẻ thơ của tôi, ông Vĩnh lúc ấy 56 tuổi mà còn phong độ. Gặp bố tôi, ông trao đổi một vài câu chuyện với giọng thật hiền hòa, thân thiện. Anh Vinh con ông lúc ấy 27 tuổi. Anh hỏi tôi học lớp mấy, trường nào. Hai cô em gái sinh đôi của anh đùa nghịch cười rúc rích. Họ đồng tuổi với chị Trang tôi. Da họ trắng, tóc dài đen nhánh buộc bằng nơ đỏ và xanh dương. Âm thanh và hình ảnh của gia đình Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh, nếu chỉ có thế trong tôi, đã không trở thành ký ức dễ sợ. Ký ức đó chỉ một thời gian ngắn sau, đã bằng những tiếng súng chuyển thành kinh khủng. Bố tôi nói buổi trưa ngày 30/4 khi nghe tiếng súng: “Chắc bác Vĩnh tự tử rồi!” Mắt ông vẫn đỏ tia máu. Tôi dư biết ông có khẩu súng lục và một trái lựu đạn trong ngăn kéo trên lầu. Bố tôi không nói gì nữa. Ông ngồi đó mà không ăn trưa, hai mắt lừ lừ. Tôi không tin lời bố tôi nói. Một đứa trẻ 11 tuổi chưa đủ khả năng để lượng định những áp lực tinh thần đang đè nặng trên vai kẻ sĩ ở lúc đất nước rơi vào tay giặc. Thực sự, dù có tin, tôi cũng không nghĩ đến cái chết của người khác vào lúc đó. Nhưng tôi sợ cái chết của bác Vĩnh và cả nhà sẽ khiến bố tôi quyết định cùng gia đình chọn cái chết hơn là sống với chế độ miền Bắc. Mẹ tôi lo ngại, lén lấy súng lục và lựu đạn của bố gói trong bao vải ném xuống kinh Nhiêu Lộc. Mẹ tôi chỉ nói ngắn gọn với bố: “Anh muốn làm gì cũng phải bàn với cả nhà, nhất là với mẹ, người sinh ra anh trên đời này..”. Bà tôi thấy vậy cũng sợ, bắt chúng tôi 4 đứa âm thầm thay phiên nhau canh chừng bố. May thay sau đó bố tôi đã thoát được những ám ảnh từ gia đình bác Vĩnh. Những tiếng súng của gia đình Trung Tá Vĩnh vang lên như vậy, rồi lặng đi. Phải đến ngày hôm sau, hàng xóm mới phá cửa vào trong. Tôi chạy theo, hối hả chen vào, để rồi chết lặng khi thấy mình đứng cách những xác chết không đầy một thước. Bố tôi nói không sai. Gia đình bác Vĩnh tự tử thật. Ngoài phòng khách, bác treo bộ quân phục đại lễ oai nghi. Nơi phòng trong, quạt máy trên trần vẫn chạy. Những tấm nệm lấy từ trên lầu xuống được xếp ngay ngắn. Xác của bảy người con bác Vĩnh cũng ngay ngắn. Họ nằm cạnh nhau trên nệm, đầu quay ra cửa. Anh Vinh lớn nhất nằm phía ngoài cùng, bên phải. Hai cô con gái sinh đôi nằm ngoài cùng bên trái. Bác Vĩnh gái nằm quay ngang dưới chân các con. Mỗi người có một vết đạn duy nhất ở thái dương. Những vũng máu đông đặc. Bác Vĩnh trai nằm trong tư thế như không được ai sắp xếp cho. Từ nơi tôi đứng có thể nhìn thấy bàn ăn. Thức ăn còn đầy trong đĩa, trong bát. Những ly nước trên bàn còn một nửa. Mỗi ly đều có một lớp dầy cặn màu trắng. Bác Vĩnh có để lại một lá thư cho ông Đặng Sỹ Toản, anh trai của bác. Trong một thư ngắn khác, bác có lời xin lỗi hàng xóm vì quyết định của gia đình bác có thể làm phiền lòng họ. Bác còn xin họ giúp báo tin cho thân nhân của bác để lo chôn cất. Bác cho biết bác còn một ít tiền để trong ngăn kéo. Ngay buổi tối hôm bác Vĩnh ra đi cùng gia đình, bọn du thủ du thực trong ấp đã cạy cửa vào lục lọi khắp trong nhà bác và lấy hết tiền bạc cùng những gì chúng tìm thấy trước khi thân nhân đến nơi. Hàng xóm đã làm theo lời bác khẩn cầu. Họ báo với ông Đặng Sỹ Toản. Ông Toản báo với bà Hà Thượng Nhân. Chính bà Hà Thượng Nhân đã cùng chị là bà Chấn, chị dâu là bà Tâm, em gái là bà Viên, làm tang lễ vội vàng tiễn đưa gia đình bác Vĩnh tại nghĩa trang Chí Hòa ngày hôm sau. Quanh xóm tôi, người ta đoán gia đình bác Vĩnh đã uống thuốc ngủ hoặc một chất độc vì nhìn thấy nhiều cặn mầu trắng trong những ly nước. Người ta đoán bác Vĩnh là người cuối cùng ra khỏi cuộc đời vì xác bác nằm không ngay ngắn. Còn tôi, tôi lạnh người trong nhiều năm mường tượng về giây phút cuối cùng của gia đình bác Vĩnh. Tôi thắc mắc đủ điều. Ai là người xướng ra đề nghị đó? Tôi cứ cho rằng chỉ có thể là bác Vĩnh hay anh Vinh. Nhưng Bác Vĩnh hay anh Vinh? Người hiền như bác Vĩnh sao đi đến quyết định như vậy? Bác Vĩnh hay anh Vinh có bàn thảo với bác Vĩnh gái trước không? Có nói gì với những người còn lại trong gia đình không? Nói thế nào? Nếu có nói, làm sao có thể thuyết phục người khác cùng chết với mình? Thuyết phục bằng nỗi sợ Cộng Sản? Thuyết phục bằng tình gia đình sống chết có nhau? Thuyết phục bằng lý tưởng không đội trời chung với Cộng Sản? Nếu bác Vĩnh là người cuối cùng ra đi, bác nghĩ gì vào giây phút ấy? Sau này, người ta lấy nhà bác Vĩnh làm hợp tác xã, rồi phường đội, v.v.. .Những ai ngủ tại đó không bao giờ dám tắt đèn. Tôi nghĩ bác Vĩnh hiền thế, dọa họ làm chi. Tôi lại ước bác Vĩnh hay các anh chị con bác trở lại thế gian này khóc lóc như những vong hồn chết oan. Với riêng tôi, nếu có thế, hình ảnh gia đình bác không ám ảnh tôi. Thì ít nhất họ cũng thường tình: chết mà không muốn chết nên hiện về phá phách. Nhưng không, chẳng có ai hiện về. Chín thành viên gia đình bác Vĩnh tự tử mà như bằng lòng với chọn lựa của mình. Họ chết cái chết can đảm và chính trực. Nhưng tại sao người chính trực phải chết thảm cả gia đình? Tiếng súng của gia đình bác Vĩnh từ đó cho tôi cái nhìn trần tục hơn về xã hội chung quanh. Lý giải về người hiền người ác không chỉ còn trong cổ tích Trời giúp kẻ hiền lương. Nếu Trời luôn giúp kẻ hiền, sao cả gia đình bác Vĩnh chỉ còn một đường chết? Niềm tin của tôi không có chỗ dựa vững chãi: Thượng Đế tạo con gà, con thỏ xinh xinh, rồi lại tạo con cọp con cáo làm gì? Tôi xét đoán về người đối diện một cách dè dặt hơn, bởi có ai đoán nổi quyết định của bác Vĩnh? Bác Vĩnh hiền còn dám thế, người hung hãn sẽ bán cả trời khi uất hận! Tôi gõ cửa ông bà Hà Thượng Nhân tìm một giải tỏa cho nỗi ám ảnh của mình. Tôi viết như viết tâm sự của mình khi kể lại chuyện thương tâm của gia đình Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh. Hình ảnh anh Vinh và hai chị sinh đôi cùng 4 anh chị em còn lại, mặt trắng bệch, mắt nhắm nghiền, máu chảy thành vũng từ thái dương, tóc bay lơ thơ dưới quạt trần, từ nay xin là những đau thương của quá khứ. Chính từ những đau thương ấy, xin cho hiện tại được chăm chút trân trọng hơn. Xin cho tương lai được coi là quan trọng hơn hết khi kính mến những hy sinh, khổ sầu của người đã chết vì vận nước. Xin thắp một nén nhang cho mỗi người trong gia đình Trung Tá Đặng Sỹ Vĩnh. Xin gửi lời người đã khuất cầu nguyện cho đất nước, và cho chính tôi được nhẹ nhàng. Nguyễn Hà Tường Anh [/center] NHÂN DỊP CỰU ĐẠI TƯỚNG, QUỐC TRƯỞNG, TỔNG THỐNG 24 GIỜ DƯƠNG VĂN MINH TỪ TRẦN TẠI MỸ QUỐC, THỬ PHÁC HOẠ VÀI NÉT VỀ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CHÁNH TRỊ CỦA MỘT VỊ TƯỚNG NẰM VÙNG ĐÃ GÂY NHIỀU ĐỎ VỠ TAN NÁT NHỤC NHÃ CHO MIỀN NAM! Đặng Văn Nhâm LỜI TOÀ SOẠN.- Theo tin tức của truyền thông báo chí và phát thanh, ngày 8.8.01, cựu đại tướng, cựu quốc trưởng, và cựu tổng thống 24 giờ Dương Văn Minh mới từ trần ngày 8.8.2001 vưà qua, tại Pasadena, Cali., HK, sau một thời gian dài cư trú ở Ba Lê, với tính cách "cựu trung úy trong quân đội phu lực của Pháp ở VN". Dịp này, chúng tôi cho đăng tải bài sau đây của nhà báo Đặng Văn Nhâm, một phần trích trong bộ sách BMHTCTMN, để bạn đọc có dịp ôn lại một thời nhiễu nhương, hỗn loạn của miền Nam VN, dưới quyền cai trị của các tướng lãnh, mà trong đó tướng Minh đã từng đóng nhiều vai trò then chốt với những trách nhiệm rất nặng nề trước lịch sử dân tộc. ĐẠI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH:VÀI NÉT VỀ THÂN THẾ Trong số 4 ông đại tướng của miền Nam: Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên và Dương Văn Minh, có lẽ Dương Văn Minh là người có nhiều biệt danh nhất, và cũng là người có nhiều mặt, nhiều cá tính đáng nói nhất. Ngoài những cái tên Minh Cồ, Minh Bự, Minh Sún, Minh Ngu, người Mỹ còn gọi Dương Văn Minh là "Big Minh"! Ông Dương Văn Minh sanh ngày 19. 2. 1916, ở Phú Lâm, con ông đốc phủ sứ Dương Văn Mau, làm thơ ký hành chánh trong dinh phó soái Nam Kỳ, sau này gọi là dinh Gia Long. Còn dinh Thống Soái hay còn gọi là Chánh Soái Nam Kỳ thì đặt tại dinh Norordom, sau gọi là dinh Độc Lập. Chức đốc phủ sứ của ông Dương Văn Mau chỉ là chức HÀM, chớ không phải thực thụ. Thuở nhỏ, gia đình ông Dương Văn Minh cư ngụ gần chợ Phú Lâm. Ta đến chợ Phú Lâm, rời khỏi ngã ba chợ Phú Lâm, khoảng 200 mét, trên con đường từ Chợ Lớn đi Mỹ tho, về phía bên trái, sẽ thấy nhà của ông Dương Văn Minh. Nhưng nay, sau 70 trời, khu này đã cải biến rất nhiều. Có lẽ chỉ ông Dương Văn Minh mới có thể tìm lại được dấu vết xưa thuở thiếu thời. Lớn lên, ông Minh được nhập học trường Chasseloup Laubat (người Việt thường gọi tắt là: Xách Lu). Dưới thời Tây cai trị, ở Sài Gòn có 2 trường công lập nổi tiếng là: Chasseloup Laubat và trường Pétrus Ký. Trường Xách Lu dành riêng cho con tây, tây lai con, con nhà VN dân tây. Còn bọn con nhà VN thuần túy, học giỏi chỉ được thi vào Lycée Pétrus Ký. Ngoài ra còn có trường tư của Thiên Chúa giáo là trường Taberd, với một trường nữ sinh, gọi là trường Áo Tím. Thuở tôi còn đi học, các nữ sinh trường Áo Tím (sau gọi là Gia Long) chỉ học đến 4 ème année, hay 3ème Moderne. Thi xong Brevet hay Diplôme, các cô muốn học lên đệ nhị cấp, seconde và Première, phải sang Pétrus Ký học chung với tụi qủy sứ chúng tôi. Theo hồi ký của tướng Trần Văn Đôn, "Việt Nam Nhân Chứng", thuở còn là học sinh, ông Dương Văn Minh đã học cùng trường với ông Đôn. Trong trường, ông Minh rất giỏi về thể thao, nhứt là chạy bộ và đá banh. Trong đội banh của nhà trường, ông Minh luôn luôn giữ vai thủ môn, và ông giữ rất tài. Đến đầu thập niên 40, ông Minh đã thi đậu bằng Tú Tài phần nhứt, Bacc. 1 ère partie, nhưng không muốn tiếp tục học nữa, và chỉ muốn ra đi làm, và lấy vợ. Nhưng làm gì với cái bằng Tú Tài qùe quặt như thế, ngoài việc làm thơ ký còm! Ngặt một nỗi, lúc bấy giờ chánh phủ thuộc địa lại mới ban hành nghị định đình chỉ các cuộc thi tuyển thơ ký chánh phủ, còn gọi là thơ ký hành chánh Nam Kỳ. Lúc bấy giờ ông Dương Văn Mau muốn đem con vào cùng làm việc trong dinh phó soái Nam kỳ. Nhưng ông không biết phải làm sao, bèn ngỏ ý cậy một bạn đồng sự giúp đỡ. Vị này chính là một sư huynh đồng môn của tôi, tên Trần V.K. Năm nay ông đã già lắm rồi, nhưng còn khang kiện. ÔÂng cư ngụ tại Thụy Điển, cách Đan mạch không xa lắm. Ông đã kể hết chuyện thuở mới vào đời, xin vào làm việc trong dinh phó soái, rồi về sau xin đi lính cho Tây của ông Minh cho tôi nghe. Vị sư huynh của tôi, tuy lúc ấy còn trẻ tuổi, nhưng cũng đã nhập ngạch, và tòng sự tại dinh phó soái Nam Kỳ từ lâu năm, cùng thời với các ông Quách Tòng Đức, Châu Văn Tích, Vương Hồng Sển v.v...Vị sư huynh của tôi đã giúp ông Dương Văn Mau đem con là Dương Văn Minh vô làm thơ ký công nhật, chia việc công văn với ông Châu Văn Tích. Thoạt đầu, ông Minh lo về công văn "DÉPART" (công văn ĐI), ông Châu Văn Tích lo về công văn ĐẾN "ARRIVÉE". CUỘC ĐỜI BINH NGHIỆP. Làm thơ ký công nhật trong dinh phó soái Nam Kỳ không được bao lâu, ông Minh đã nghe theo lời khuyên của vị sư huynh của tôi, xin đăng lính, đi sĩ quan cho Pháp, khởi sự huấn luyện tại VN. Từ đó ông Minh tiếp tục tiến thân trên con đường binh nghiệp. Năm 1948, ông Minh mang lon thiếu uý, rồi trung úy thuộc binh đoàn 11 è RIC. Khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp hành chức vụ thủ tướng, ông Dương Văn Minh đã mang lon đại tá. Sau khi Bình Xuyên nổi loạn, đánh phá trong đô thành thất bại, Bảy Viễn kéo tàn quân ra Rừng Sác cố thủ. Để tiễu trừ dứt hậu hoạn, TT Diệm ra lịnh cho bộ Tổng Tham Mưu quân lực VNCH mở chiến dịch Hoàng Diệu, khai diễn từ ngày 21. 9. 55 đến 24. 10. 55. Lúc bấy giờ Dương Văn Minh đang làm chi huy trưởng phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, nên đã được trao cho nhiệm vụ điều khiển chiến dịch. Bộ chỉ huy chiến dịch đóng tại Rạch Cát, cùng với sự tham dự của các tiểu đoàn nhảy dù 1, 5, 6, do thiếu tá Nguyễn Chánh Thi, chỉ huy phó liên đoàn Dù. Khi chiến dịch Hoàng Diệu đã kết thúc, ngày 6. 11. 55, trong một cuộc lễ trọng thể, đón tiếp các chiến sĩ Rừng Sát, đại tá Dương Văn Minh đã được tổng thống Diệm vinh thăng lên thiếu tướng. Đến tháng 2. 1957, ông Dương Văn Minh lại được ông Diệm thăng chức, cho lên trung tướng, cùng một ngày với tướng Trần Văn Đôn. Sau đó, ông Minh được cử đi Mỹ tu nghiệp trong một thời gian ngắn, mở đầu cho giai đoạn thất sủng. Bởi trong thời gian chỉ huy chiến dịch "Rừng Sác", ông Minh đã ngấm ngầm thủ đắc nhiều và báu vật của Bảy Viễn, cùng với một số bạc khổng lồ của lực lượng Bình Xuyên. Hành động chiếm đoạt "chiến lợi phẩm" dùng làm tài sản tư hữu cá nhân của ông Minh, trong hàng tướng lãnh VNCH lúc bấy giờ đã có nhiều người biết. Về sau chuyện đó thấu tai hai ông Diệm-Nhu... Khi về, 1958, không có một nhiệm sở nào thích hợp cho ông, TT Diệm đã bày ra một văn phòng, gọi là Bộ Tư Lệnh Hành Quân, để cho ông Minh ngồi chơi sơi nước. Đến năm 1960, Bộ Tư Lệnh Hành Quân bị giải tán. Ông Minh được ông Diệm phong cho làm cố vấn quân sự. Nhưng thực chất chỉ là một chức vụ lèo, không có nhiệm sở, chẳng có được cái bàn giấy với cái ghế ngồi. Từ đây ông Dương Văn Minh bắt đầu lập tâm thù hận gia đình anh em ông Diệm.Trong 2 người, ông Diệm còn chút khoan nhượng với ông Minh. Nhưng ông Nhu đã tỏ ra cứng rắn và rất ghét ông Minh. Nhân cuộc binh biến ngày năm 1960, ông Minh còn dại dột tuyên bố "trung lập", nghĩa là không theo phe đảo chánh của đại tá Nguyễn Chánh Thi, nhưng cũng không ủng hộ ông Diệm. Hành động ấy chứng tỏ trong lòng ông Minh đã chất chứa mối oán thù rất nặng nề đối với anh em ông Diệm và ông Nhu. Ông ta chỉ còn chờ cơ hội để thanh toán 2 kẻ thù bất cộng đái thiên ấy mà thôi. Mối thâm thù 2 anh em ông Diệm-Nhu chứa chất nặng chĩu trong lòng ông Dương Văn Minh, đã phát lộ rõ ràng qua 2 sự kiện cụ thể, với bằng chứng rành rành sau đây: - Từ năm 1960, Dương Văn Minh đã ngầm tiếp xúc, và làm việc cho CSBV, qua trung gian của người em ruột, tên Dương Văn Nhựt, đảng danh là Mười Ty, lúc ấy hãy còn mang quân hàm thiếu tá của quân đội CSBV. - Ông Minh vốn là một kẻ thiển cận, tâm điạ hẹp hòi, và thù dai, nên đã ghim mối hận "thất sủng" kể trên, chờ đợi mãi cho đến năm 1963, khi thời cơ thuận lợi đến, đã ra tay rửa hận.Sáng ngày 2. 11. 1963... ông Minh đã ngầm ra lịnh cho bộ hạ là thiếu tá Nhung, sát hại cùng một lúc cả 2 anh em ông Diệm và Nhu trong thiết vận xa. Bây giờ, 33 năm lịch sử đã trôi qua, nhân dịp đảo chánh ngày 1, tháng 11, 1963, tôi ngồi ôn lại ký ức, mở chồng tài liệu cũ, để khắc họa lại chân dung của tướng Dương Văn Minh, một nhân vật đã từng 2 lần đóng vai tuồng lãnh đạo miền Nam. Lần nào cũng ngắn ngủi. Nhưng mỗi lần đều đem đến tai biến thảm khốc vô lường cho nhân dân miền Nam. Theo dõi cuộc đời của ông Dương Văn Minh, từ thuở còn là một học sinh trung học cho đến nay, đã 80 tuổi, và đang sống lưu vong ở Paris, bằng tiền hưu dưỡng cựu trung úy trong quân đội Pháp ở Đông Dương, tôi thấy có thể tạm chia ra làm các thời kỳ sinh hoạt sau đây: - Thời kỳ học sinh, từ năm 1916 đến 1940. -Thời kỳ làm thơ ký công nhật trong dinh phó soái Nam Kỳ, từ 1941 đến 1945. - Thời kỳ gia nhập quân đội Pháp, từ 1946 đến 1950. - Thời kỳ chuyển qua quân đội quốc gia, từ 1950 đến 1954. Căn cứ vào ngày 11. 5. 1950, quốc hội Pháp chấp thuận cho VN được thành lập quân đội. Cùng trong ngày này thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập quân đội quốc gia, gồm 60.000 người. - Thời kỳ phục vụ nhà Ngô và bị thất sủng, từ 1955 đến 1963. - Thời kỳ làm... "cách mạng", và giữ vai trò quốc trưởng, từ ngày 1.11.63 đến ngày 30. 1. 1964 bị tướng Nguyễn Khánh chỉnh lý, cho làm quốc trưởng Bù Nhìn! - Thời kỳ lưu vong ở Thái Lan, từ tháng 2, 1965 đến 1970. Dương Văn Minh ra tranh cử tổng thống lần thứ nhì với Nguyễn Văn Thiệu, được CSBV ủng hộ, và đại sứ Mỹ Bunker đưa cho 3 triệu Mỹ Kim để vận động tranh cử. Minh đã nhận tiền, bỏ vào ngân hàng Tokyo Bank (theo Frank Sneep). Nhưng tới giờ chót Minh không ra tranh cử , vì không hội đủ 100 chữ ký giới thiệu theo luật định. - Thời kỳ quy tụ "thành phần thứ ba", từ 1971 đến 1975. Nhưng thực chất, chỉ là một ổ tập trung toàn những cán bộ CS nằm vùng, hầu hết đều là người miền Nam, như: Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Qúy Chung, Nguyễn Hữu Chung, Vũ Hạnh, Huỳnh Văn Tòng, Hồ Ngọc Cứ, Huỳnh Tấn Mẫm v.v..., để thực thi chỉ thị của CSBV trong mục tiêu chiếm trọn miền Nam. - Thời kỳ làm tổng thống, không do dân bầu, trong 24 giờ, để bàn giao miền Nam VN cho CSBV, từ ngày 28. 4. đến 30.4. 1975. - Thời kỳ lưu vong tị nạn ở Pháp, từ 1982 đến... QÚA TRÌNH ĐI ĐÊM VỚI CSBV. Ngay từ năm 1960, khi mới bị nhà Ngô thất sủng, ông Dương Văn Minh đã bắt đầu đi đêm với CSBV. Trước đây khá lâu, thuở đại tá Phạm Ngọc Thảo còn sống, đã có lần anh kể cho tôi nghe chuyện ông Minh thường liên hệ chặt chẽ với người em ruột, tên Dương Văn Nhựt, là một cán bộ của phe bên kia. Khi chế độ nhà Ngô chưa sụp đổ, ông Minh còn giữ gìn kín đáo, và dè dặt. Nhưng sau khi ông Minh đã lên làm quốc trưởng, khoảng từ năm 1963 đến 1965, ngồi trong dinh Gia Long, tức nơi ông đã xuất thân với nghề thơ ký công nhật cho Tây, ông không cần phải che đậy giấu diếm nữa. Đã nhiều lần ông Dương Văn Minh kêu đại tá Phạm Ngọc Thảo đến bên nói chuyện tâm tình và khoe: - "Thảo à, thằng Nhựt nó đang ở trong dinh nè. Toa có muốn nói chuyện với nó một chút hông?" Sở dĩ ông Minh đã khoe như thế với đại tá Phạm Ngọc Thảo, vì ông nghĩ: đại tá Thảo cũng là một nhân vật từng tham gia kháng chiến chống Pháp, từ hồi Mùa Thu 1945.Trong khi đó, Dương Văn Nhựt, cũng là người theo kháng chiến, rồi tập kết ra Bắc vào khoảng năm 1954, chiếu theo hiệp định Genève thỏa hiệp giữa quân đội viễn chinh Pháp và quân đội VM. Những lần như thế, đại tá Thảo đều tìm cớ thoái thác khéo léo, để khỏi bị vướng mắc giây dưa phiền nhiễu thêm. Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã không dè hành động né tránh tế nhị ấy, dù không tiết lộ, gây thiệt hại gì cho ông Minh, nhưng từ đó ông Minh vẫn ngấm ngầm lập tâm thù hận P.N. Thảo. Theo tôi biết, khoảng năm 1960, Ủy Ban Binh Địch Vận (viết tắt: UBBĐV) của Trung Ương Cục miền Nam (TUCMN) đã dò la tìm hiểu được sự thất sủng của nhà Ngô đối với ông Dương Văn Minh. Họ cũng biết được cả tâm trạng bất mãn, đến lòng thù hận sâu cay 2 anh em ông Diệm -Nhu của Dương Văn Minh. Lúc bấy giờ UBBĐV của TUCMN, dưới quyền chỉ huy của ủy viên Nguyễn Huy Dân, liền căng một cái bẫy tình cảm, để lôi cuốn ông Minh ngả theo phe CS, và hoạt động ngầm trong bí mật cho Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN). CSBV đem lá bài Dương Văn Nhựt, có bí danh Mười Ty, ra xài. Lá bài này, mang lon thiếu tá,từ bao lâu rồi vẫn bị vứt lăn lóc trong một xó xỉnhù, trong Bộ Tổng Tham Mưu của quân đội CSBV, để cho buị thời gian phủ dầy. Một hôm thiếu tá Mười Ty được lệnh trên phải về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của Mười Ty được nói rõ: chủ yếu chỉ nhắm tranh thủ người anh là tướng Dương Văn Minh, lôi kéo ông Minh theo phe MT và hoạt động có lợi cho đảng trong công cuộc thống nhất tòan bộ VN. Tàu bay của quân đội nhân dân CSBV đưa thiếu tá Mười Ty vào tận Đồng Hới. Sau đó TT Mười Ty dùng xe com măng ca vượt đường rừng, xuyên qua đường mòn Hồ Chí Minh, vào đến vùng ải địa đầu Bùi Gia Mập, tỉnh Phước Bình. Nơi đây Ban BĐV của TUCMN đã cử người đến đón, với đầy đủ giấy tờ tùy thân hợp lệ, gồm cả căn cước bọc nhựa hợp pháp của chánh quyền miền Nam cấp phát. Dĩ nhiên tên tuổi trên giấy tờ cũa Mười Ty hoàn toàn gỉa tạo. Sau đó UBBĐV của TUCMN đã tìm mọi phương tiện thuận lợi, và an toàn nhất, để đưa Mười Ty vào Sài Gòn, trà trộn trong đám đông quần chúng đông đảo trên 5 triệu người, trong một thành phố chật hẹp.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:42:51 GMT 9
Công việc trước tiên của Mười Ty là bắt liên lạc với người em gái. Tất cả những chi tiết về địa chỉ, thời giờ hoạt động của người em gái Dương Văn Nhựt đã được UBBĐV cung cấp đầy đủ rõ ràng từng chi tiết. Nhờ vậy, Dương Văn Nhựt đã bắt được liên lạc với ngưòi em gái rất dễ dàng. Qua trung gian của người em gái, Dương Văn Nhựt đã được kín đáo chuyển đến cư ngụ hẳn trong gia đình của Dương Văn Minh. Lần đầu tiên, sau 16 năm xa cách, mỗi người một phương trời cách biệt, tưởng chừng anh em không bao giờ còn hội ngộ, ai ngờ bây giờ lại bỗng nhiên đoàn tụ, ông Minh đã giữ Dương Văn Nhựt trong nhà suốt một tuần lễ trong cuộc gặp gỡ lần đầu tiên. Ngay cuộc tái ngộ đầu tiên ấy, thay vì ông Minh thuyết phục người em, nên bỏ hàng ngũ CS độc tài vô nhân, theo về phe quốc gia. Nhưng ngược lại, ông Dương Văn Minh đã bị người em dùng tình cảm gia đình, thuyết phục hoàn tòan. Điều này kể ra cũng rất dễ hiểu. Vì một phần do bản chất nhu nhược, và dễ bị ảnh hưởng của người khác. Đó là nhận xét của ông Trần Trung Dung khi ông còn giữ chức vụ tổng trưởng bộ Quốc Phòng, thời ông Diệm mới về nước chấp chánh. Một phần do lòng dạ nhỏ nhen, thiển cận, hay thù vặt, oán dai. Ông Minh đã thâm thù 2 anh em ông Diệm. Bây giờ có môi trường thuận lợi, đi theo kẻ tử thù của 2 anh em ông Diệm, để rửa hận cũng là lẽ thường tình của tâm lý người đời. Từ đó Mười Ty được lịnh bám sát Dương Văn Minh luôn. Mười Ty thường xuyên ra khu lãnh chỉ thị, rồi lại trở vào Sài Gòn, liên lạc với Dương Văn Minh, trao truyền chỉ thị. Theo sự tiết lộ của ủy viên Nguyễn Huy Dân, đặc trách UBBĐV của TUCMN, khi ông Minh bị Thiệu-Kỳ cưỡng bách lưu đày tại Thái Lan, cũng vẫn không mất liên lạc với CSBV và MTDTGPMNVN. Lúc bấy giờ Mười Ty cũng được TUVMN bố trí thường xuyên sang Căm Bu Chia, để lấy đường qua Thái Lan cách kín đáo, không bị sự dòm ngó của tình báo VNCH và của CIA Mỹ. Mỗi lần qua Căm Bu Chia, Mười Ty thường tạm trú trong nhà một Hoa thương khá giả, buôn bán ở Nam Vang, rất có cảm tình với CSVN và MTDTGPMNVN. Trong thời gian tạm trú trong nhà Hoa thương này, Mười Ty còn học thêm tiếng Trung Hoa, để dễ dàng đóng vai trò một Hoa Kiều qua lại Bangkok làm ăn. Tuy nhiên, khi nào có những tài liệu công tác quan trọng cần trao đổi Mười Ty không thể bay từ Nam Vang qua Bangkok, mà phải bố trí đánh lạc hướng tình báo, bằng cách bay vòng sang Ý Đại Lợi. Rồi từ Ý, Mười Ty mới bay qua Paris. Mỗi lần như thế, cơ sở hoạt động của CSBV ở Paris cũng đã được thông báo trước, để chuẩn bị đón tiếp Mười Ty. Mặt khác, vợ chồng Dương Văn Minh cũng đã được thông báo trước cuộc hội ngộ. Nhưng thường chỉ có vợ của Dương Văn Minh, theo chỉ thị của chồng, ôm theo tài liệu, và hồ sơ mật qua Paris, hội ngộ với Mười Ty. Dương Văn Minh không dám đến Paris vì sợ lộ diện. Vì trong thời gian ấy có hội nghị Hoà Đàm 4 bên ở Paris, nên có rất nhiều tai mắt của cả tình báo VNCH và CIA Mỹ. Đến năm 1970, sau khi đã hoàn toàn làm chủ được mục tiêu, tức là CSBV và MTDTGPMN đã nắm đựơc trọn cả phần hồn lẫn phần xác của Dương Văn Minh rồi, công tác của Mười Ty đến đó kể như chấm dứt. Thời gian này Dương Văn Minh đã được trở về sinh sống ở Sài Gòn, nhưng TUCMN nại cớ tình hình chiến sự ngày càng gay cấn hơn, nên không cho Mười Ty về thành liên lạc với Dương Văn Minh nữa. Như thế không có nghĩa CSBV đã thả lỏng con mồi bự, rất ngoan ngoãn Dương Văn Minh đâu. Đừng một ai nghĩ thế mà lầm! CSVN không dại, mà hớ hênh, tới cỡ đó. Hành động ấy chứng tỏ CSVN đã cấy xong "SINH TỬ PHÙ" vào con người của Dương Văn Minh rồi. Từ đây, nếu Dương Văn Minh mà bỗng nhiên trở quẻ, thì chỉ có chết, hoặc thân bại danh liệt suốt đời mà thôi. Mặt khác,TUCMN cần phải lôi Mười Ty vào khu chiến, để tránh hậu hoạn. Mười Ty có thể lâu dần bị hủ hóa. Hơn thế nữa, vì tình cảm gia đình, Mười Ty không tiện đưa ra những quyết định cứng rắn, khốc liệt, có thể làm hỏng đại cuộc...Tức là kể từ đó, ông Minh đã bắt đầu "ĐI CHÀNG HẢNG" giữa 2 phe QG và CSBV. Cũng từ đó ông Minh đã khởi sự "ĐI ĐÊM" với CSBV, và MTDTGPMNVN, lãnh chỉ thị thi hành đường lối của trung ương cục miền Nam, tức là lại làm "BÙ NHÌN" và "TAY SAI" của CSBV, để tìm mọi cách ngấm ngầm phá hoại, làm suy yếu tiềm lực chống CS của phe quốc gia và Mỹ. THÀNH PHẦN THỨ 3: Ổ CÁN BỘ CS NĂM VÙNG! Sau khi được về nước, ông Minh đã quên hẳn lời nói trước kia với tôi, khi ông còn ở Thái Lan. Lời này cho đến bây giờ tôi còn nhớ rõ không sót một chữ: "Qua nhớ nhà, nhớ quê hương. Qua chỉ muốn về V.N. để vui hưởng tuổi già. Qua không còn ham muốn làm chánh trị nữa!" Tôi cũng thừa biết tâm trạng của ông Minh khi ở Thái khác với tâm trạng ông Minh lúc đã trở về dinh Hoa Lan, đường Trần Qúy Cáp. Lúc bấy giờ, kẻ ra người vào tấp nập, toàn những khuôn mặt mà tôi đã quen biết từ đầu thập niên 50, hầu hết đều là người miền Nam, và là cán bộ CS nằm vùng. Như các dân biểu hạ viện: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Ngọc Cứ, Lý Qúy Chung, Nguyễn Hữu Chung, Dương Văn Ba, cựu đại tá, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng, Vũ Hạnh, Huỳnh Bá Thành v.v...Kín đáo hơn, bên trong còn có cựu chuẩn tướng nhảy dù Nguyễn Hữu Hạnh... Trường hợp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã bị ban Binh Địch Vận của TUCMN móc nối cũng tương tự như tướng Dương Văn Minh. Thời điểm móc nối của 2 tướng Minh và Hạnh giống nhau, cùng xảy ra trong thời gian 1960. Cung cách móc nối cũng tương tự như nhau, nghĩa là Ban BĐV của CS cũng dùng người trong thân quyến, để thuyết phục 2 ông. Về phần tướng Minh, tôi đã trình bày rõ ở đoạn trên rồi. Bây giờ tôi xin kể đến trường hợp của chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Khoảng năm 1960, Ủy Ban Binh địch Vận của TUCMN, do uỷ viên Nguyễn Huy Dân chỉ huy, đã ra lịnh cho Bảy Lương, một cán bộ Binh Địch Vận giữ chức vụ đội trưởng "ĐỘI VẬN ĐỘNG SĨ QUAN CHẾ ĐỘ SÀI GÒN", phải xâm nhập vào thủ đô, để thi hành công tác đơn tuyến. Thoạt tiên, được ném vào lòng địch, với 2 bộ quần áo, và một cái thẻ kiểm tra mang tên gỉa mạo, Bảy Lương không nhà cửa, không họ hàng bà con thân thích nào để nương tựa. Mục tiêu chủ yếu của Bảy Lương, đã được chỉ định, là phải lôi cuốn cho bằng được đại tá Nguyễn Hữu Hạnh. Lúc ấy Hạnh đang giữ chức tư lệnh phó vùng 4 chiến thuật. Mục tiêu này có vẻ rất khó vận động. Vì Hạnh là một sĩ quan nhảy dù, đã có nhiều thành tích diệt cộng từ thuở còn là binh nhì, đã từng được du học Mỹ Quốc về ngành tình báo. Địa vị trong quân đội vững chắc, và con dường tương lai còn nhiều hứa hẹn sáng sủa. Về gia cảnh, Hạnh đông con, sống đầy đủ về mọi mặt. Nhưng Bảy Lương đặc biệt chú ý đến chi tiết quê quán, và nguồn gốc xuất thân của Nguyễn Hữu Hạnh. Trong cuộc điều nghiên, Bảy Lương biết được đại tá Hạnh là người sanh trưởng ở xã Phú Phong, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Đây là một vùng" sôi đậu ", một vùng "giải phóng lõm". Nơi đây, đồng bào sống dưới áp lực của cả đôi bên: chánh quyền QG và CS. Bảy Lương liền tìm đường đến xã Kim Sơn, nằm kế cận xã Phú Phong, tiếp xúc với một số đồng bào quen thuộc ở đó, để dò la, tìm hiểu chi tiết về gia cảnh, họ hàng, bà con thân thuộc của đại tá Hạnh. Bảy Lương được biết, tuy hiện đã làm nên danh phận, nhưng đại tá Hạnh vẫn còn giữ nhiều liên hệ với nơi chôn nhau cắt rún của mình. Họ hàng, bà con của Hạnh nhiều người vẫn còn cư ngụ trong xã Phú Phong. Bảy Lương bèn lần mò đến làm quen và gắn bó tình cảm với thân nhân của ĐT Hạnh. Khi thân sinh của ĐT Hạnh qua đời, Bảy Lương can thiệp với xã ủy Phú Phong, bắn tin cho ĐT Hạnh biết ông được phép đem thi hài cha về quê mai táng. Đến ngày giỗ mở cữa mả, ĐT Hạnh cũng được phe MTDTGPMN cho biết: ông được phép dùng phi cơ trinh sát lượn thấp 3 vòng trên mả cha, cách an toàn, không bị quân giải phóng ở đó bắn lên. Từ những việc lấy lòng, gây thiện cãm, nho nhỏ ấy, Bảy Lương tiếp tục đi sâu thêm vào lãnh vực tình cảm cũa Nguyễn Hữu Hạnh. Bảy Lương thừa biết, đối với những người có trình độ như Nguyễn Hữu Hạnh, không thể đem chủ thuyết CS,hay khái niệm giải phóng, đánh đuổi ngoại nhân, như Tây, Mỹ v.v... ra khỏi nước, để thuyết phục đựợc. Trái lại, có khi còn tạo nên tranh luận dông dài vô cùng nguy hiểm. Muốn đi sâu vào lãnh vực tình cảm của Ng. H. Hạnh, Bảy Lương cũng tự biết không đủ niềm tin để dẫn dụ NH Hạnh. Bảy Lương nhận thấy, trong xã có ông Tám "VÔ TƯ", một thầy thuốc Nam, vốn có họ hàng, bà con với Hạnh. Thuở Hạnh còn nhỏ, ông Tám Vô Tư còn là người đã dạy vỡ lòng A,B,C...cho Hạnh. Vì thế, N.H. Hạnh đã tỏ ra rất quí mến, và ngưỡng mộ ông Tám Vô Tư. NHỮNG THÀNH QUẢ CHIẾN LƯỢC DÂNG CHO CSBV. Mới đây theo tiết lộ của Nguyễn Huy Dân, ủy viên UBBĐV của TUCMN, sau khi cuộc đảo chánh ngày 1. 11. 63 thành công, Dương Văn Minh đã tạo được những thành tích quan trọng, đáng kể nhất là những món qùa tinh thần để dâng lên cho Bác và đảng như sau: - Thành tích đặc biệt có lợi cho công cuộc trường kỳ kháng chiến của quân dân cả nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là: Dương Văn Minh đã can đảm ra lịnh hạ sát cả 2 anh em Diệm -Nhu, như chặt rắn mất đầu, để các lực lượng phản động, ngoan cố ở miền Nam không còn một lãnh tụ chánh trị nào xứng đáng nữa. - Khi vừa lên giữ chức quốc trưởng, Dương Văn Minh đã hạ lịnh triệt tiêu 16.000 ấp chiến lược trên toàn thể lãnh thổ miền Nam. Đây là một thành tích cực kỳ lớn lao, đã đóng góp đắc lực trong công cuộc tái sinh các kế hoạch du kích chiến của TUCMN.Từ đây, các lực lượng vũ trang nhân dân của TUCMN đã có thể lần hồi khôi phục được sinh lực, sống với dân như cá với nước, khiến các mũi nhọn tiến công của Mỹ và Ngụy bị vô hiệu hóa đến 80 %. Về sau, để khắc phục sai lầm này, chế độ Thiệu-Kỳ mới đẻ ra "chiến dịch PHƯỢNG HOÀNG", nhưng kết qủa vẫn không đáng cho các lực lượng võ trang nhân dân của ta lo ngại. - Về mặt chiến lược, khi bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc. Namara đề nghị ném bom nổ chậm xuống đê sông Hồng, ở miền Bắc, để làm cho miền Bắc bị nạn lụt lội, bị mất mùa, dân chúng đói khổ, tinh thần chiến đấu của quân đội nhân dân miền Bắc bị suy giảm. Nhưng đồng chí Dương Văn Minh đã cương quyết lắc đầu, trả lời Mac Namara: "Tôi không muốn đồng bào miền Bắc bị đói!" Nhờ công trạng đó, mà cuộc chiến của quân đội nhân dân vẫn tiếp tục duy trì cường độ, áp lực Mỹ Ngụy phải bước đến bàn hội nghị. - Chính vì những hành vi yêu nước ấy, công khai phản kháng các kế hoạch tàn bạo của đế quốc Mỹ, nên Dương Văn Minh đã làm mích lòng người Mỹ, khiến ông bị đảo chánh vào năm 1964. (ám chỉ cuộc chỉnh lý 30. 1. 64, của tướng Nguyễn Khánh). - Sau hơn 10 năm sống lưu vong ở Thái Lan, khi về nước Dương Văn Minh đã có công tập họp các lực lượng đấu tranh chống Mỹ và Ngụy quyền ở Sài Gòn, và nhất là đã có công bảo vệ các cơ sở nội tuyến của cách mạng, để chờ thời cơ hành sự. - Ngày 28.4.1975, Dương Văn Minh đã hi sinh thêm một lần nữa, cố gắng tranh thủ cho bằng được chức vụ tổng thống đang trong tay những lực lượng phản động, khát máu. Dương Văn Minh lập nội các mới, nhất quyết không nhường các ghế quốc phòng, nội vụ, kinh tế cho những phần tử hiếu chiến, phản động. Ông đã chọn ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu làm phó tổng thống, và thủ tướng. Vì 2 người ấy hiểu biết thời cuộc đang diễn tiến theo chiều hướng nào. Dương Văn Minh cũng chọn Nguyễn Văn Hảo làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế, là một cơ sở cảm tình của cách mạng.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:43:28 GMT 9
- Về mặt an ninh trong đô thành, Dương Văn Minh đã được phe ta đề cử luật sư Triệu Quốc Mạnh, một cơ sở nội tuyến của cách mệnh, nắm chức chỉ huy ngành cảnh sát. (Tôi xin đính chánh điểm này: Triệu Quốc Mạnh lúc bấy giờ đang giữ chức phó biện lý, tòa sơ thẩm Gia Định, dưới quyền chánh biện lý Nguyễn Thế Cường, hiện đang tị nạn ở Glendale, Cali, Mỹ quốc. Từ khi được bổ nhiệm chức phó biện lý tòa Gia Định Triệu Quốc Mạnh đã đóng kịch "SẠCH ", bằng cách không thèm đi xe hơi, chỉ chạy Mobylette!).
- Về mặt quân sự, Dương Văn Minh đã mau chóng triệu thỉnh cựu chuẩn tướng nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh về cho giữ chức phụ tá Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực VNCH, để kềm sát bên tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu Trưởng bù nhìn. Nhưng chỉ trong vòng 24 giờ, tướng Vĩnh Lộc thấy khó ăn, cũng đã bõ của chạy lấy người, đem theo nàng Minh Hiếu sang Mỹ!
- Trong cơn dầu sôi lửa bỏng, tướng Vanuxem của Pháp, nhận thấy: dù vậy vẫn còn con đường cứu nguy miền Nam, ông đã đề nghị rút tàn quân VNCH về miền Tây, kéo dài cuộc chiến, để có tư thế thương thuyết với CSBV. Nhưng Dương Văn Minh đã nhận được chỉ thị của Lê Đức Thọ, qua người em là đại tá Mười Ty Dương Văn Nhựt, để tuyên bố "ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN", tức dâng trọn miền Nam cho quân CSBV. Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng vào lúc 9 giờ 30 phút sáng ngày 30.4.75, sau khi chỉ làm tổng thống có chưa đầy 24 giờ đồng hồ!
- Theo tường thuật của báo chí, và các tài liệu lịch sử, đã được phổ biến rộng rãi khắp 2 phía Quốc Cộng, sáng ngày 30.4.75, một tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn LÔI HỔ đã gặp Dương Văn Minh để phản đối quyết định đầu hàng. Ông Minh đã trả lời vị sĩ quan Lôi Hổ ấy nguyên văn như sau:
- "Qua cũng như em đều là quân nhân. Người lính buông súng đầu hàng là nhục nhã, nhưng để tránh đổ máu..., qua yêu cầu em..."
Đây là lần thứ nhì tướng Dương Văn Minh viện cớ "SỢ ĐỔ MÁU". Lần thứ nhứt, trong khoảng những ngày từ 21 đến 28. 7. 64, ông Minh đã trả lời tướng Đôn: "Tôi sợ đổ máu!", khi bị tướng Đôn chất vấn, tại sao ông không dám can thiệp với Nguyễn Khánh.(VNNC, TVĐ, trang 308).
Những câu: "TRÁNH ĐỔ MÁU", và "SỢ ĐỔ MÁU" của tướng Minh chẳng qua chỉ để che đậy cho những hành động phản phúc, và hèn nhát của ông mà thôi. Chính ông Đôn cũng đã kết luận như thế trước tôi.(xin xem VNNC,TVĐ, trang 308,309).
NHỮNG THỦ HẠ NẰM VÙNG ĐÃ NÓI GÌ VỀ DƯƠNG VĂN MINH?
Dưới đây là những đoạn văn của một số tay chân thủ hạ, thân tín của Dương Văn Minh, trong cái gọi là "THÀNH PHẦN THỨ BA", hay còn gọi là "TRUNG LẬP". Nhưng thực chất, nhóm này chỉ là một ổ cán bộ CS nằm vùng, mà tên tuổi, tôi đã nêu lên trong các phần trên. Nay, tôi trích một vài đoạn văn của những người ấy, đã đăng tải trong quyển "CHUNG MỘT BÓNG CỜ", do CSVN ấn hành, sau ngày 30.4.75, tại VN, để bạn đọc có thêm dữ kiện, để nhận định về cái mặt nạ quốc gia gỉa hiệu của Dương Văn Minh.
- LÝ CHÁNH TRUNG.- Có một lần tôi hỏi tướng Minh: "Tại sao hồi 1945, đại tướng không theo kháng chiến?"
Minh trả lời: "Có, nhưng theo không nổi. Hồi đó, tôi còn làm trung úy trong quân giới Pháp. Theo kháng chiến, mấy anh cũng cho tôi làm quân giới, nhưng khi Pháp chiếm Sài Gòn, thì chúng tôi rút về Mỹ Tho. Khi các anh ấy rút, không cho tôi biết, đến sáng Pháp đã lấy thành. Tôi lên xe đạp chạy tìm, nhưng Tây đã chặn hết các nút rồi. Tôi bị một thằng bạn cũ chặn bắt, đem nhốt tôi ở bót Catinat. Bị giam mấy tháng thì đầu hàng và ra làm việc lại. Lúc đầu tôi không muốn hành quân,nhưng sau cũng không giữ được."
Lúc Minh ra tranh cử tổng thống Sài Gòn (1969), trong một cuộc họp báo chí, có một phóng viên Mỹ hỏi: "Nếu ông được làm tổng thống, mà có yêu cầu đưa thi hài chủ tịch Hồ Chí Minh vào Nam thì ông nghĩ sao?"
Minh trả lời: "Đối với chúng tôi, điều trăn trối của người sắp chết rất thiêng liêng. Nếu Hồ chủ tịch đã trăn trối như vậy thì cứ đưa vào!"
Một lần nữa, lúc Mỹ ném bom miền Bắc trong một cuộc họp tôi nói: "Nếu tôi là thanh niên miền Bắc mà Mỹ dội bom như thế này thì nhất định tôi phải đi lính, đại tướng có nghĩ như tôi không?". Minh gật đầu tán đồng.
Theo ý riêng của tôi, Minh xem mình thuộc phe gọi là: "QUỐC GIA THÂN CỘNG SẢN".
- Nguyễn Hữu Hạnh: - Minh có thổ lộ với tôi lý do Mỹ phải chỉnh lý Minh: "Thứ nhất, MC. Namara gặp và yêu cầu Minh ra lệnh bỏ bom ở mấy cơ sở miền Bắc. Minh từ chối, viện lý do: bỏ bom thì còn miểng và người ta sẽ biết là bom của Mỹ. Thứ hai, Mỹ chủ trương phá đê sông Hồng. Minh cũng phản đối, bảo là không thể làm được. Từ đó, đại sứ Mỹ Martin gặp Minh và cho biết có lẽ là "khó hợp tác".
Minh còn cho biết ông có tìm cách liên lạc với MTDTGPMNVN. Minh chống cái gọi là "QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC" của Diệm. Sau khi lật Diệm, Minh đã ra lệnh xóa bỏ hệ thống Ấp Chiến Lược. Chủ trương này của minh cùng với cao trào cách mạng phá ấp chiến lược khắp miền Nam lúc đó đã tạo điều kiện làm chuyển biến mạnh tình hình chiến trường miền Nam.
Minh thường nói rõ quan điểm của mình là không muốn cho quân Mỹ và đồng minh vào miền Nam (1964-65)...
Lý Quý Chung: - Trong nhóm Minh, anh em gần như nhất trí đấu tranh cho một chánh phủ liên hiệp với MTDTGPMNVN, chứ không liên hiệp với Thiệu. Minh nhất trí với quan điểm đó cho nên ta hiểu được tại sao tới giờ phút cuối cùng Minh đã giao quyền cho cách mạng.
Ngoài những "món nợ" giữa 2 bên từ hồi đảo chánh (1963) còn có nhiều sự kiện khác. Như khi tranh cử tổng thống lần thứ hai (1971), Minh đã triển khai guồng máy vận động tranh cử, chủ yếu nhằm tuyên truyền chống Thiệu. Đến giờ chót, Minh viện cớ bầu cử gian lận nên rút tên. Thái độ này của Minh làm cho Mỹ hoảng sợ, vì đối với chế độ Sài Gòn không có gì lố bịch bằng bầu cử gọi là dân chủ mà cuối cùng lại trở thành độc diễn. Cái hiểm của Minh là để đến giờ chót mới rút. Đại sứ Mỹ Bunker phải trực tiếp đến gặp Minh để hỏi lý do rút. Minh cho rằng guồng máy của mình không đủ để có thể đối đầu với Thiệu được. Bunker hỏi: "Vậy theo đại tướng, cần cở bao nhiêu mới làm được?". Minh bảo: "Cả triệu đô la mới được!". Bunker bảo: "Sẽ có một triệu đô la..."
TẠI SAO MINH CỐ XIN CHỨC TỔNG THỐNG, ĐỂ RỒI ĐẦU HÀNG NGAY?
LÝ CHÁNH TRUNG.- Tôi đã đặt câu hỏi này với tướng Minh, ông đã trả lời: "Tôi cũng biết như vậy, nhưng ở đây còn là vấn đề nhân đạo. Bớt đổ xương máu chừng nào tốt chừng nấy." Theo tôi, lúc nhận chức TT, tướng Minh không hề có ảo tưởng gì về giải pháp chánh trị.
TRẦN NGỌC LIỄNG.- Khi Hương đã chấp nhận giao quyền lại cho Minh, tôi nói với Minh: "Tình hình đã thay đổi rồi, giờ này còn nhận làm gì nữa?" Minh nêu 2 lý do tại sao Minh quyết định như vậy: Một là, nếu Minh không đứng ra, Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm đảo chánh, dân chúng sẽ chết nữa. Hai là, Mỹ đã nói với Thiệu, sau hiệp định Paris, nếu VC tiến công thì Mỹ sẽ thả bom CBU là vũ khí giết người hàng loạt, sẽ chết dân chúng."...
HỒ VĂN MINH.- Lúc Trần Văn Hương đã chấp nhận trao quyền rồi, sau bữa cơm trưa, tôi hỏi tướng Minh: "Theo đại tướng, tình hình đã đến thế này, còn có thể làm gì được nữa?" Tướng Minh trầm ngâm một lát rồi nói: "Tình hình tuy đen tối, nhưng vẫn phải làm chánh trị, tôi nghĩ bên kia cũng cần mình".
Cuối cùng, trước ngày mất miền Nam, ông Trần Văn Hương đã mắng ông Minh trên Tivi rằng: "Thằng Minh, nó là học trò của tôi. Tôi biết nó quá mà... NÓ TỰ VẼ LẤY BÙA MÀ ĐEO!". Như thế ý ông Hương muốn nói: Ông Minh đã tự gán cho mình vai trò sứ mệnh đứng ra thương thuyết với bên kia, để khẩn khoản xin ông Hương nhượng quyền tổng thống...
Nhưng theo tôi, thật ra bùa đó không phải do Minh tự vẽ, mà do CSBV, với sự yểm trợ của Trí Quang, đã vẽ cho Minh!
Dù sao bây giờ ông Minh cũng đã ra người thiên cổ.Vậy, tôi xin dâng hiến những chi tiết trên đây cho lịch sử gọi là đóng góp phần nào nhỏ nhặt trong sự việc "cái quan định luận"!
Đặng Văn Nhâm
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:46:32 GMT 9
Duong Van Minh : Nguoi hung cua VN , da co cong giet 2 nen Cong Hoa cua VN : 1963 De I Cong Hoa VN. 1975 De II Cong Hoa VN. SAU KHI ĐÃ ĐẾN PHÁP TỊ NẠN, CỰU ĐẠI TƯỚNG, TỔNG THỐNG NẰM VÙNG DƯƠNG VĂN MINH VẪN CÒN THÈM KHÁT DANH VỌNG, MUỐN VỀ V.N. PHỤC VỤ CHẾ ĐỘ C.S.! * TRONG CUỘC PHỎNG VẤN ĐẶC BIỆT DÀNH CHO BÁO "NHÂN BẢN" CUẢ TỔNG HỘI SINH VIÊN BA LÊ, DƯƠNG VĂN MINH TUYÊN BỐ: - TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG MÀ TRAO QUYỀN! - ĐẶT QUYỀN LỢI TỔ QUỐC TRÊN QUYỀN LỢI CÁ NHÂN VÀ PHE PHÁI. - CHUYỆN HÀNG TRIỆU NGƯỜI VƯỢT BIÊN THÌ KHÔNG CÓ AI ĐOÁN TRƯỚC ĐƯỢC! Đặng Văn Nhâm Lời toà soạn.- Sau cái chết cuả ông Dương Văn Minh, một cựu đại tướng nằm vùng cho CS, cựu quốc trưởng, cựu tổng thống 24 giờ ngày cuối cùng ở miền Nam VN, để cho việc "cái quan định luận" cuả một nhân vật lịch sử được thêm phần xác đáng, chúng tôi xin cống hiến bạn đọc bài sau đây cuả nhà báo Đặng Văn Nhâm. Bài này đã viết sau khi chính ông Minh , hồi còn ở Pháp, đã công khai dành một cuộc phỏng vấn hãn hữu cho một số sinh viên, chủ biên báo Nhân Bản, ở Paris, trước khi ông sẽ về VN để phục vụ đất nước, theo lời mời cuả chánh phủ CSVN. Nhận xét như thế nào về những lời tuyên bố cuả ông Minh cũng như lời phê bình cuả tác giả Đặng Văn Nhâm đều thuộc quyền cuả mỗi người đọc. ĐÁNH TRỐNG KHUA CHUÔNG Đây là một chuyện khá hi hữu, có thể coi như một sự phá lệ của ông Dương Văn Minh. Từ khi ngấm ngầm ra lịnh cho bộ hạ là đại úy Nhung, giết chết 2 anh em ông Diệm cho đến nay đã ngót 34 năm, lần đầu tiên ông Minh đã dành cho báo Nhân Bản, phát hành ở Paris, một cuộc phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn ấy đã diễn ra nhân dịp ông tiếp xúc với Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris. Như vậy, ai cũng có thể nhận ra cuộc phỏng vấn này hoàn toàn không có tính cách bất ngờ, nếu không muốn nói là dàn xếp trước. Một điểm đặc biệt đáng chú ý nhất là: trước đó không lâu, báo "TUỔI TRẺ CHỦ NHẬT" của CSVN xuất bản tại Sài Gòn đã chánh thức loan tin ông Minh sẽ về nước. Với chỉ dấu rõ rệt và cụ thể ấy, mọi người đều thừa biết: ông Minh đã ngấm ngầm liên lạc,và thoả thuận với chánh quyền CSVN về việc ông ta sẽ trở về VN. Trước đây, trên mặt báo này, tôi cũng đã loan báo tin CSVN đã sửa sang lại dinh Hoa Lan, số 3 Trần Quý Cáp, để đón ông Minh về nước. Tin ấy cũng đã được các báo CS trong nước loan báo. Đó là mặt nổi. Còn mặt chìm, chắc chắn trước khi ra lịnh sửa sang lại dinh Hoa Lan, nhà cầm quyền CSVN đã phải thu xếp xong chuyện hồi hương của ông Minh rồi. Đây hiển nhiên không phải là chuyện ngẫu nhiên, cao hứng, như chuyện của các Việt kiều khác về thăm gia đình, bà con. Còn chuyện ông Minh về nước để làm gì cho CSVN, thì không ai có thể đoán biết được. Dù vậy, căn cứ trên những hành động của ông Minh từ 1962 đến ngày 30.4.75, ngưòi Việt tị nạn ở hải ngoại vẫn có thể hình dung được một cách khá chính xác vai trò của ông Minh khi trở về VN như sau: - Tiếp tục đóng vai TAY SAI, CÒ MỒI cho CSVN. - Làm bù nhìn, tạo cớ cho CSVN tuyên truyền lừa bịp dư luận thế giới Tây phương và đồng bào VN trong cũng như ngoài nước về vấn đề DÂN CHỦ, và HOÀ HỢP, HOÀ GIẢI DÂN TỘC. Vì hiện nay VN vẫn còn bị các cơ quan quốc tế nhân quyền tố cáo nặng nề, và dân chúng VN đã mất hết tin tưởng vào chế độ. Ngay trong lời tuyên bố của ông Minh dành cho báo Nhân Bản, chúng ta cũng đã thấy được mục tiêu ấy lộ dạng. Nguyên văn như sau: "...Việc xây dựng đất nước phải có sự hợp tác của cả 2 bên, ở trong cũng như ở ngoài... Tôi rất muốn thấy tự do và hoà bình dân tộc trên đất nước VN... Bây giờ tôi muốn tự tôi thấy... Tranh đấu với sự đả phá thì tôi thấy nó không hay bằng việc xây dựng... Tôi mong rằng chúng ta sẽ xây dựng trong tinh thần hoà giải, dân chủ, tự do..." Sau khi đã đọc hết những hàng chữ vắn tắt nêu trên, tôi nghĩ bạn đọc cũng như tôi, chúng ta đã thấy hiển lộ rõ ràng những điểm sâu kín sau đây trong tâm trạng của Dương Văn Minh, một phản tướng, đã lỡ lầm nằm vùng cho CSVN từ năm 1962 đến ngày 30.4.75. Sau một thời gian chung sống với CSVN, thấy không chịu nổi, ông Minh đã xin qua Pháp tị nạn, sống nhờ vào đồng lương truy lãnh chật hẹp của quân đội Pháp, với cấp bực trung úy. Thoạt tiên, ông Minh tưởng rằng, ra hải ngoại, ông sẽ có dịp được tiếp tục múa may trong cộng đồng người VN hải ngoại. Ông không ngờ, khi ông đặt chân đến Paris dư luận báo chí VN đã không thèm đếm xỉa gì đến ông. Đồng bào VN tị nạn khắp nơi ở hải ngoại đã coi ông như một món đồ phế thải, bẩn thỉu, và vô dụng hoàn toàn. Bùi Tín, Nguyễn Chí Thiện còn được báo chí đề cập đến ít nhiều, và đồng bào ở một vài nơi còn chịu tốn kém mời mọc đến nói chuyện, và thuyết trình lăng nhăng nọ kia. Riêng ông Minh không ai thèm nhắc đến, cũng chẳng ai muốn tốn một xu ten nào cho ông. Từ ngày dắt díu vợ con đến Paris , ông Minh đã phải sống trong âm thầm tủi nhục của quên lãng. Thực không có gì đau đớn cho bằng tâm trạng của một anh kép hát vô duyên lúc về gìa, không còn ăn khách dưới ánh đèn sân khấu phường tuồng nữa. Nay ông công khai tuyên bố sẻ trở về VN. Chuyện ở hay đi của ông Minh, chắc cũng chẳng mấy ai trong cộng động ngư?i Việt tị nạn hải ngoại quan tâm làm gì. Ngày xưa ông đến Paris trong âm thầm tủi hổ. Nay chẳng lẽ ông quay trở về cũng với cung cách ấy. Chẳng khác nào như mấy chú bồi nhà hàng, rửa chén bát trong tiệm ăn Tàu,sau 22 năm ở hải ngoại, mặc áo gấm về làng để lấy le với bà con chòm xóm chơi. Ông phải đánh trống thổi kèn lên, để cho mọi người đừng quên rằng: dù sao trong cộng động người VN hải ngoại này cũng đang có mặt của một kẻ mang cái tên Dương Văn Minh sắp về nước đây. Nếu ông Minh chỉ đánh trống thổi kèn, kêu gọi sự chú ý của đồng bào thôi, chúng tôi không thừa thì giờ để bàn đến chuyện của ông làm gì. Nhưng ngặt nỗi, khi tuyên bố với báo Nhân Bản, ông còn tỏ ra vô cùng gian trá và ngụy biện, đến mức khiến cho những ai đã từng biết ít nhiều về tông tích và hành vi của ông trong dĩ vãng đều không khỏi ngứa ngáy, nhột nhạt. Tôi là một trong số những người ấy, nên chẳng đặng đừng, phải chịu mất thêm chút thì giờ, để "lật tẩy" ông một lần nữa trước công luận. Tôi hy vọng, ông Minh sẽ trả lời những điểm tôi lật tẩy ông sau đây, để cho dư luận được thêm phần sáng tỏ. Dĩ nhiên, nếu tôi có sai lầm nào, tôi sẽ sẵn sàng tự nhận lỗi ngay. TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG CHỈ TRAO QUYỀN THÔI! Thực quả ông Minh là người danh bất hư truyền. Từ thời ờ VN, danh ông đã nổi như cồn. Cha ông phải cái danh cầm quân đánh giặc, chẳng phải cái danh làm quốc trưởng bù nhìn dưới thời Nguyễn Khánh, cũng chẳng phải cái danh phản tứơng nằm vùng cho CSBV từ năm 1962, qua trung gian của người em là Dương Văn Nhựt, một sĩ quan cấp tá của CSBV. Ông cũng chẳng phải nổi danh, vì đã mưu sát anh em TT Diệm, để rửa hận tư thù. Ông nổi danh vì một câu vè đã phổ biến rất rộng rãi trong dân chúng miền Nam như sau: "MIỀN NAM CÓ 4 YÊN HÙNG: THIỆU GIAN, KỲ LÁO, HƯƠNG KHÙNG, MINH NGU"! Nhận xét của dân gian sao mà chính xác đến thế. Ở đời, ai cũng biết: hễ đã gian thì phải ngoan. Khi muốn nói láo thì phải nói láo cho có căn, mới hòng lừa gạt được dư luận. Ngược lại, chỉ rước thêm nhucỳ nhã vào người. Thí dụ như câu ông vừa tuyên bố ở trên: "Tôi không đầu hàng chỉ trao quyền thôi!" Khi báo Nhân Bản hỏi tiếp: "Thưa ông, vậy thì lúc trao quyền chánh thức khi đó là đối với ai?" Ông Minh đã trả lời: "Tôi không nhớ rõ đúng ngày, nhưng bữa sau thì có một phái đoàn đi vào dinh. Tôi cũng không biết ai là ai. Trong số đó,tôi nhớ có một người tự xưng là tướng Trà. Ông đến để nhận lãnh trao quyền hành "... Năm nay ông Minh đã 82 tuổi. Đã gìa rồi. Tôi không biết ông đã lú lẫn chưa, đã lâm vào cảnh "đi ỉa không biết đường lại, đi đái không biết đường về hay chưa", nhưng nghe câu trả lời kể trên của ông, tôi cảm tưởng như ông đã lẩm cẩm lắm rồi. Nếu những dự đoán kể trên của tôi mà không đúng, thì chắc chắn ông Minh đã gian trá và ngụy biện một cách thiếu khôn ngoan. Tôi xin mạn phép nhắc cho ông biết rằng: Trong thời kháng chiến chống Pháp, chính ông Minh tự khai đã có một thời gian theo kháng chiến, nhưng bị bỏ rơi, nên tìm về đầu thú với Pháp. Thời này, ông Trần Văn Trà cùng một lứa tuổi với ông Minh cũng đi theo kháng chiến chống Pháp ở vùng quê hương ông Minh là Phú Lâm, Chợ Gạo v.v... Ông Minh đã làm nên tới đại tướng trong quân đội VNCH, đã trải qua nhiều nhiệm vụ, đã từng đánh nhau với CSVN suốt mấy chục năm trời, mà ông không biết đối phương của mình là ai,và ông Trần Văn Trà là ai, thì nghe thực không xuôi tai chút nào. Giả thiết ông Minh chỉ là một chú binh nhì, loại lính kiểng, trong QĐ-VNCH, và ông Trần Văn Trà chỉ là một tên du kích xã vô danh tiểu tốt, thì ông Minh nói như vậy còn nghe tạm được. Câu này ông Minh đã để lòi cái đuôi gian trá ra dài quá! Chưa hết, ông Minh còn ngụy biện. Ông phủ nhận 2 chử "ĐẦU HÀNG" và chỉ chịu 2 chữ "TRAO QUYỀN" mà thôi. Phải rồi thân làm đến đại tướng, trong mấy ngày cuối cùng, lại còn khổ công chạy đôn chạy đáo, lạy lục ông Trần Văn Hương, kể cả nhẫn nhục, chịu nghe lời ông Hương sỉ vả "vẽ bùa lấy mà đeo" và gọi bằng thằng này thằng kia, coi như thứ đồ vô loại, để xin ông Hương chịu trao quyền tổng thống chưa đầy 24 giờ để "ĐẦU HÀNG" thì tệ quá. Ông Minh đã phải cố gắng cưỡng ép danh từ, gọi chuyện ĐẦU HÀNG của ông bằng 2 chữ "TRAO QUYỀN", nghe cho nó có vẻ rồng rắn, hoa lá cành một chút. Nhưng ông Minh đã quên mất rằng, dù cho ông có vận dụng đến danh từ hoa mỹ nào chăng nữa, ông vẫn không thể nào xoá bỏ được sự thật, và những chứng tích của lịch sử hãy còn ràng ràng trên giấy trắng mực đen của phe bên kia, đã ghi chép tại chỗ, ngay lúc bấy giờ, giữa thời điểm của lịch sử. Đây tôi xin trích dẫn nguyên văn một đoạn tường thuật của nhà báo Thành Tín, tức Bùi Tín, trong quyển "SAÌ GÒN TRONG ÁNH CHỚP CHÓI LỌI CỦA LỊCH SỬ" nhà x.b.tp. Hồ Chí Minh, 1978, trang 14-15-16: - "Đài phát thanh vắng quá... Tùng (tức đại tá Bùi Văn Tùng) và Thệ tranh thủ hội ý về nội dung bản tuyên bố đầu hàng của tổng thống ngụy. Trong chừng 10 phút, Tùng thảo xong. Anh đưa Dương Văn Minh xem.Minh chỉ xin bỏ 2 chữ "tổng thống". Cuộc đối thoại như sau: - Tôi đề nghị các ông cho bỏ chữ tổng thống. - Sao lại bỏ? Chức của ông hiện nay là tổng thống ngụy quyền, có phải không? - Tôi xin nói thật, tôi không thích cái chữ tổng thống. - Không thích là một chuyện. Ông đọc tuyên bố này trên cương vị là tổng thống chính quyền Sài Gòn chứ có phải với cương vị nào khác đâu. - Dạ đúng. Nhưng thưa qúy ông, chỉ cần nói cấp và tên của tôi: đại tướng Dương Văn Minh, là binh sĩ nghe theo tôi. - Không được. Đây là cương vị của ông. Cách mạng yêu cầu ông phải nói cho rõ, cho đúng cương vị này. Minh vẫn lưỡng lự. Tùng biết đã đến lúc phải quyết đoán. Anh nghiêm nét mặt, nói dằn từng chữ: - Ông không thích, nhưng chúng tôi biết, hôm kia ông đã chính thức làm lễ nhậm chức tổng thống từ Trần Văn Hương chuyển qua. Thế là Minh ngồi xuống, chăm chú chép lại trên một tờ giấy rời nguyên văn bản dự thảo: "Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi quân lực VNCH hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương cho chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam VN". (xin xem phóng ảnh bản tuyên bố đầu hàng viết tay đính kèm). Tùng lại nghĩ: đã có đầu hàng thì phải có tiếp nhận sự đầu hàng. Anh lại lấy giấy thảo: "Chúng tôi đại diện lực lượng vũ trang cách mạng, đơn vị đánh chiếm dinh Độc Lập, long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng và chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống nguỵ quyền" (xin xem phóng ảnh đính kèm). Phóng ảnh bản thảo tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh và lời tuyên bố chấp nhận sự đầu hàng của đại tá CSBV Bùi Văn Tùng không tìm thấy trong tác phẩm của Bùi Tín, mà trong tài liệu của đại tá nhà văn Nguyễn Trần Thiết, sanh năm 1929, tại Thanh Hoá, người đã thẩm cung các thành viên trong nội các Dương Văn Minh, ngày 30.4.75. Hơn thế nữa,chắc ông Minh vẫn chưa quên chuyện sáng ngày 30.4. 75, một tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn LÔI HỔ đã vào dinh Độc Lập, đòi gặp ông Minh, để phản đối quyết định đầu hàng. Chuyện này do Nguyễn Văn Diệp, cựu tổng trưởng kinh tế trong nội các của Trần Thiện Khiêm, một cán bộ CS nằm vùng, bộ hạ thân cận nhất của ông Minh trong những ngày cuối cùng của miền Nam đã tự thuật nguyên văn như sau:
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:47:16 GMT 9
- "Lúc đó khoảng 9.30. Buổi sáng tiếng súng nghe nhiều. Nhưng bây giờ đã thấy vắng lặng. Tôi cũng mừng trong bụng. Bỗng nhìn phía dưới sân, thấy có một chiếc xe bọc thép đầy lính, chạy xộc vào đậu trước dinh. Tôi đưa tay chỉ cho anh Minh xem. Và cũng không biết chuyện gì.
Một lúc liền sau đó, có một anh chàng mặc đồ lính rằn ri. Súng nịch bên hông. Tuớng người mập mạp có ngang, bặm trợn, đeo bông mai thiếu tá hay trung tá gì đó, tôi cũng không nhớ rõ, trông vẻ kịch cợm giông giống như Nguyễn Khánh, bước thẳng lại trước mặt ông Minh, cách chừng lối một thước, tôi cũng đứng bên ông Minh, anh ta đưa tay chào ông Minh đàng hoàng- sau này mới biết đám ấy thuộc binh đoàn Lôi Hổ- anh ta hỏi:
- "Thưa đại tướng. Anh em chúng tôi sẵng sàng chiến đấu. Sao đại tướng lại đầu hàng? Tại sao?"
Hỏi, nhưng mà không phải hỏi thường đâu. Hỏi chất vấn đó. Cái bộ tịch, tôi đã xem phim cao bồi tôi biết, bộ tịch ngó dữ dằn. Đứng hai chân bẹt bẹt ra. Hai tay oam oam như sẵn sàng móc súng. Tôi đứng bên ông Minh tôi cũng lạnh xương sống, ớn da gà. Mà chẳng lẽ bỏ chạy. Chạy đi đâu giờ. Thôi thì bấm bụng đứng lại với ông Minh.Ông Minh trầm ngâm nhìn anh chàng này, im lặng khoảng một giây gì đó, rồi mới nói:
- "Qua cũng như em, là quân nhân, đầu hàng thật là nhục nhã. Nhưng mà em nên nghĩ, nếu tiếp tục đánh nhau, thì số phận của anh em binh sĩ sẽ ra sao? Và đánh nhau rồi, thì dân chúng sẽ chịu sao nổi!"...(trích truyện "NGÀY CUỐI CÙNG CUỘC CHIẾN TRANH CỦA SÀI GÒN", do nhà văn CS Võ Trần Nhã ghi theo lời kể của Nguyễn Văn Diệp, đăng trong tuyển tập "30 tháng tư ", nhà x.b. tp Hồ Chí Minh, 1985).
Như thế, câu nói: "Qua cũng như em, là quân nhân, đầu hàng thật là nhục nhã..." đã phát xuất từ cửa miệng của ông Minh từ lúc 9 giờ 30, sáng ngày 30.4.75. Vậy mà bây giờ ông lại chối quanh, gọi là "TRAO QUYỀN"! Vậy, rõ ràng ông Minh đã trắng trợn lừa gạt những người trẻ đang đối thoại với ông, tức báo Nhân Bản và anh em trong Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris. Vì những người này đã không biết gì về "cái tẩy" của ông Minh. Nhất là ông đã lừa gạt và đâm sau lưng anh em chiến sĩ trong quân đội VNCH bằng những lát dao chí tử.
Tuy nhiên, từ đó đến nay, không hiểu tại sao các tướng tá và binh sĩ VNCH hiện đang tị nạn ở hải ngoại đều nín khe, không một ai dám hó hé biện bạch một lời nào với ông Minh. Lẽ đâu lại có sự sợ hãi hèn nhát đến thế nhỉ? Như vậy, nếu đem sự tan vỡ nhục nhã cuả quân đội VNCH năm 1975 ra mà xét theo định luật "NHÂN NÀO QUẢ NẤY" thì thực không có gì đáng tiếc hết thảy. Phải không quí bạn đọc?
Nên nhớ, đây là lần thứ nhì, ông Minh đã nại cớ "SỢ ĐỔ MÁU" để che đậy bản chất hèn nhát, và âm mưu bất chính của ông. Lần thứ nhất, trong khoảng những ngày từ 21 đến 28. 7. 64, ông Minh đã trả lời tưóng Đôn: "TÔI SỢ ĐỔ MÁU ", khi bị tướng Đôn chất vấn, tại sao ông đã không dám can thiệp với Nguyễn Khánh cho 4 tướng bị giam trên Đà Lạt. Để kết luận về chuyện này, tướng Đôn đã nhận xét ông Minh là một kẻ hèn nhát! (xin xem VNNC, của Trần Văn Đôn, trang 308).
Nếu ai chịu khó suy nghĩ một chút về 2 trường hợp "SỢ ĐỔ MÁU" của ông Minh đã viện dẫn,sẽ thấy ngay sự thật: ÔNG MINH CHỈ SỢ ĐỔ MÁU CỦA MÌNH, CHỚ KHÔNG SỢ ĐỔ MÁU CỦA NGƯỜI KHÁC"!
Nhưng ông Minh giảo quyệt lái ý nghĩa của mấy chữ "SỢ ĐỔ MÁU" sang chiều hướng từ bi, nhân đạo không đúng chỗ.
Nếu ông Minh là một nhân vật dân sự như ông Hương, không biết cầm cây súng ra sao, thì câu nói ấy ta có thể tin được phần nào. Trái lại, ông Minh vốn xuất thân là một kẻ võ biền, đã được tây đào tạo để bắn giết. Cuộc đời của ông Minh,từ khi mang lon thiếu úy cho đến cấp đại tướng, ông đã từng giết hại bao nhiêu mạng người rồi? Chắc không đếm xuể, phải không?. Vì cổ nhân đã có câu:" nhất tướng công thành vạn cốt khô!". Ngoài ra, cả nước VN còn đã biết:tối thiểu ông Minh cũng đã trực tiếp giết 2 mạng người một cách dã man và hèn hạ là: anh em ông Diệm và ô.Nhu. Hành động ấy của ông Minh đã khiến cho một vị sư huynh của tôi, hiện đang cư ngụ tại Thụy Điển, vốn là bạn đồng liêu với ông Dương Văn Mau, thân sinh của ông Minh, và còn là một ân nhân đã có công đem ông Minh vào làm thơ ký công nhật trong dinh Phó Soái Nam Kỳ, trước khi ông Minh đi lính cho tây, đã có lần phải mắng vào mặt ông Minh bằng câu tiếng tây như sau: "Tu es responsable de ton crime!" Kể từ đó, vị sư huynh của tôi đã từ mặt ông Minh luôn, và đã kể chuyện này lại cho tôi nghe. Nếu ông Minh không nhớ, tôi sẵn sàng nhắc tên vị ân nhân ấy cho ông Minh nghe trong một cuộc đối chất tay đôi.
Vậy, bây giờ tôi yêu cầu ông Minh hãy bình tĩnh, lấy lương tâm tối thiểu của một "quân nhân", - trả lời cho tôi cũng như cho tất cả đồng bào tị nạn hải ngoại biết ông có "ĐẦU HÀNG" không, hay vẫn còn cố ngụy biện "CHỈ TRAO QUYỀN" mà thôi!
Tôi thừa biết quân đội VNCH có nhiều anh em binh sĩ can đảm và ngay thẳng hơn ông Minh rất nhiều.Tôi cũng biết: sở dĩ miền Nam thất trận, khiến hàng triệu đồng bào phải vượt biên tìm tự do và cả trăm ngàn sĩ quan VNCH đã bị đày ải nhục nhã hàng chục năm trời ròng rã,trong các trại tù cải tạo của quân CSBV, chỉ vì họ đã có một ông đại tứơng, và tổng thống kiểu Dương Văn Minh!
Ngoài ra, bạn đọc còn có thể nhận ra được cái tâm trạng ẩm ương, dở hơi dở hám của ông Minh, khi đòi bỏ 2 chữ tổng thống trong bản tuyên bố đầu hàng do đại tá CS Bùi Văn Tùng soạn cho trên đài phát thanh. Ông đã lý luận kiểu trẻ con "TÔI KHÔNG THÍCH CÁI CHỮ TỔNG THỐNG". Đến bấy giờ ông Minh mới nói không thích. Nhưng khoảng trên 24 giờ đồng hồ trước đó, ai cũng biết ông Minh đã chạy hết đầu này đầu kia để lạy lục, xin cho bằng được chức tổng thống đang trong tay ông Trần Văn Hương.
Tóm lại, ông Minh càng biện luận, càng vùng vẫy cố ngoi lên khỏi vũng bùn ô nhục bao nhiêu,thì người ta thấy ông càng bị lún sâu thêm bấy nhiêu, đến ngập cả đầu cả cổ,mà vẫn chưa chịu tỉnh ngộ! Tội nghiệp cho thân danh của một ông đại tướng!
ÔNG MINH ĐÃ LỜ TỊT THÀNH TÍCH NẰM VÙNG CHO CSBV.
Khi đối đáp với báo NB, ông Minh đã cố tình đánh trống lảng chuyện ông nằm vùng, và bị địch vận, sang chuyện khác. Nguyên văn ông trả lời báo NB như sau:
- "Tôi cũng có nghe nói là tôi đã bị địch vận rồi phải không? Tôi không phải khoe khoang,nhưng không lúc nào tôi nghĩ là quân đội VN thời đó có thể thua một quân đội nào khác. Quân đội mình lúc đó có nhiều khả năng lắm chứ!"
Đọc câu ông Minh tự hỏi: "Tôi cũng có nghe nói là tôi đã bị địch vận rồi phải không?", ai cũng nghĩ câu kế tiếp chắc chắn ông Minh sẽ biện giải, bác khước hoặc phủ nhận, những dư luận baó chí đã kết tội ông nằm vùng, vì bị địch vận. Nhưng bất ngờ ông Minh đã thình lình ngưng ngang tại đó, và quay sang khen tặng lếu láo "quân đội mình lúc đó có nhiều khả năng lắm chứ!". Sở dĩ tôi nói ông Minh đã khen quân đội cách lếu láo, vì trước đó không đầy 1 phút đồng hồ,ông đã nói nguyên văn: "tinh thần binh sĩ lúc đó rất suy kém!".
Tinh thần binh sĩ đã suy kém mà còn có nhiều khả năng cái nỗi gì?!
Chẳng qua ông Minh đã phải dùng câu khen lếu láo ấy đột ngột, vì thâm tâm ông Minh đã chợt nhận ra mình vừa trót dại, lỡ mồm lỡ miệng, khơi động vụ nằm vùng và bị địch vận ra trước công luận. Nếu nhà báo lanh lợi biết đi sâu vào chuyện này, thì ông Minh sẽ không sao tránh khỏi cơn bối rối,chắc chắn sẽ trả lời kiểu giấu đầu lòi đuôi, lạy ông con ở bụi này, làm trò cười và để bia miệng tiếng đời cho cho thiên hạ hậu thế.
Nhưng dù ông Minh có lật lọng tráo trở như thế nào chăng nữa, ông vẫn không thể xoá bỏ được sự thật của lịch sử hãy còn chứng tích và nhân chứng sờ sờ ra đó. Ông Minh sẽ trả lời tôi và dư luận báo chí hải ngoại như thế nào về chuyện anh chị Phạm Ngọc Thảo đã kể cho tôi nghe chuyện: vào khoảng thời gian ông Minh đóng vai quốc trưởng, ngồi trong dinh Gia Long,(nơi mà thời tây ông đã từng làm việc ởƯ đó với thân phận một thơ ký công nhật quèn của phủ Phó Soái Nam Kỳ), đã có lần ông Minh kêu đại tá Phạm Ngọc Thảo mà bảo rằng:
- "Ê, Thảo à, thằng Nhựt nó đang ở trong dinh nè, toi có muốn gặp nó nói chuyện một chút hôn?".
Sở dĩ ông Minh đã khoe như thế với ĐT Phạm Ngọc Thảo, vì ông nghĩ, anh Thảo cũng là một nhân vật miền Nam theo kháng chiến chống Pháp. Nay ĐT Thảo về làm việc cho quốc gia, chắc cũng nằm vùng như anh em ông, nên ông muốn bắt thân và nối cầu liên lạc.ĐT Thảo biết Dương Văn Nhựt, là một đảng viên CSVN, bí danh Mười Ty, em của ông Minh, đã theo CS tập kết ra Bắc. Lúc bấy giờ Dương Văn Nhựt đã theo chương trình hồi kết cán bộ Mùa Thu của miền Nam, lẩn trốn vào Sài Gòn, hoạt động nằm vùng với Dương Văn Minh. Vì thế, ĐT Thảo đã tìm mọi cách từ chối khéo léo, khiến cho ông Minh không khỏi bẽ bàng và lo ngại. Về sau ông minh đã lập tâm tìm cách ám hại ông Thảo bất thành. Bây giờ ĐT Phạm Ngọc Thảo đã ra người thiên cổ, nhưng chị Thảo, một nhân chứng sống hãy còn sờ sờ ở Mỹ, làm sao ông Minh có thể chối cãi chuyện này được.
Chưa hết, một bài báo của nhà văn, đại tá CSBV tên Nguyễn Trần Thiết,(người đã thẩm cung ông Minh và nội các của ông trong ngày 30.4.75), đã kể lại thành tích nằm vùng của ông Minh như sau:
- "...Từ ngày đó, tôi luôn ấp ủ khát vọng viết tác phẩm: "VIÊN TỔNG THỐNG CUỐI CÙNG". Thủ tướng Võ Văn Kiệt người trực tiếp chỉ đạo nắm Dương Văn Minh trong những năm đánh Mỹ đã viết thư giới thiệu tôi với "Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh" Anh bảo tôi: "Thời thiếu thời, ông Minh có cô bạn gái rất thân. Chị đi theo kháng chiến, làm thứ trưởng bộ Y Tế của chánh phủ cách mạng lâm thời CHMNVN. Tháng 5. 1975, hai người bạn cũ gặp lại nhau ở Sài Gòn. Tình bạn của họ càng thêm khắng khít.
Anh Kiệt viết thơ riêng giới thiệu tôi với chị Năm. Chị Năm tiếp tôi rất niềm nỡ, thân tình. Chị cho tôi xem (không đọc) lá thư ông Minh mới viết cho chị dày 16 trang. Chị chỉ vào những dấu chấm than ở cuối thư bình phẩm:
- Ngày ông Minh sang Pháp có hơn 2 chục xe công và tư đưa tiễn ông. Tôi tin là ngày ông Minh trở về nước không xa nữa. Con người này không thể quên quê hương. Ngày bị đầy sang Thái Lan, nếu về nước sẽ bị vào tù và không loại trừ khả năng bị xử bắn, nhưng ông vẫn trở lại mảnh đất quê hương.
Tôi tin vào lời khẳng định của người bạn gái từ hơn nửa thế kỷ của ông Minh"
(chép nguyên văn của Nguyễn Trần Thiết).
Tôi xin nói thêm người bạn gái ấy của ông Minh tên là Bùi Thị Mè, rất thân cận với Võ Văn Kiệt.
Trong khi đó, trả lời báo NB, ông Minh đã dám nói nguyên văn:
- "Trước năm 1975, tôi không bao giờ gặp ông Kiệt và cũng không biết ông Kiệt là ai."
Một lần nữa, ông Minh lại tỏ ra thiếu thành thực. Ông Minh đã từng làm tới đại tướng, quốc trưởng, và tổng thống, chỉ huy trên một triệu binh sĩ , đánh nhau hằng ngày với CS, và lãnh đạo trên 25 triệu sanh linh của một nửa nước ở miền Nam, mà ông không biết các lãnh tụ đối phương của ông, như tướng Trần Văn Trà và Võ Văn Kiệt là ai, thì quả thực là một điều rất khó tin như chuyện ma quái hoang đư?ng "CON MA VÚ DÀI TRÊN CÂY DA XÀ" của báo Sài Gòn Mới!
Gỉa thiết, nếu ông Minh là một người thật thà như đếm, và "ngu" đúng mức y như câu vè truyền khẩu đã kể trong dân gian, thì ôi thôi dân tộc VN quả đã tới thời mạt vận mới sanh ra một ông đại tướng, kiêm tổng thống Dương Văn Minh. Như thế, chuyện đồng minh Mỹ đã vội vã thắt hầu bao, và rút quân cấp tốc ra khỏi VN năm 1973 quả là một hành động khôn ngoan, sáng suốt. Vậy, tôi khuyên ông Minh không nên nông cạn qui trách cho người Mỹ đã bỏ rơi VN lúc bấy giờ. Ông Minh hãy mở to mắt ra mà xem thái độ của ngừơi Mỹ đối với chánh phủ và nhân dân Nam Hàn. Nước Đại Hàn cùng một hoàn cảnh chia đôi như VN. Người Mỹ cũng đã tốn hao nhiều sinh mạng và tiền bạc, để giúp đỡ Nam Hàn chống chọi lại mọi làn sóng xâm lăng thô bạo của Bắc Hàn. Cho đến nay, về mặt kinh tế Nam Hàn đã trở thành một trong 4 con rồng Á Châu. Về mặt quân sự và chánh trị, quân Bắc Hàn đã nhiều phen tìm mọi cách đánh phá xâm nhập Nam Hàn đều bị thất bại. Cho đến giờ phút này người Mỹ vẫn còn duy trì một lực lượng quân sự ở Đại Hàn.
Với bài học trước mắt ấy, Ông Minh có biết tại sao không?
Câu trả lời rất giản dị là:vì trong hàng tướng lãnh, và tổng thống Nam Hàn đã không có một người nào giống như ông Dương Văn Minh hết thảy!
Có khi nào ông Minh chịu khó tự vấn lương tâm, để tự thành khẩn chấp nhận tội lỗi của mình trước lịch sử dân tộc hay không?
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 16:47:40 GMT 9
Trong đời làm tướng, có khi nào ông Minh nghe ai kể chuyện các sĩ quan Nhật thời đệ nhị thế chiến đã dùng Hara-Kiri, mổ bụng tự sát, khi nước Nhựt đầu hàng hay không? Nếu có, ông Minh có hiểu tại sao các sĩ quan Nhật ấy đã phải tự sát không?
- "Thưa ông đại tướng Dương Văn Minh, chỉ vì họ không chịu nổi cái nhục đấy ông Minh ạ!"
Gần đây hơn nhất, hồi tháng 5, năm ngoái, 1996, đô đốc hải quân Mỹ Jeremy Mike Boorda đã dùng khẩu súng lục P. 38, bắn vào ngực để tự sát, giữa lúc ông ta mới 56 tuổi, có vợ, 4 con, và đời ông ta đang lên hương. Nguyên nhân chỉ vì báo Newsweek đã nêu lên thắc mắc về 2 chiếc mề đay có chữ "V" trên ngực của ông, đã được tưởng thưởng công trạng từ năm1965 đến 1973, khi ông phục vụ trên các chiến hạm USS Craig, và USS Brooke, ở VN. Báo Newsweek cho rằng ông không đủ tư cách mang 2 chiếc huy chương có chữ "V" như thế. Chuyện chỉ đơn giản như vậy. Nhưng đô đốc Jeremy Mike Boorda đã cho rằng danh dự người quân nhân của ông bị tổn thương, và ông chỉ còn lấy cái chết để bảo tồn danh dự. Cái chết bất ngờ của đô đốc Jeremy Mike Boorda chẵng những khiến cho binh sĩ trong quân đội Mỹ xúc động mà còn khiến cho cả dân tộc Mỹ nghiêng mình kính phục, coi ông như một vị anh hùng hiếm có trong lịch sử quân đội Mỹ.
Đọc tin này, tôi không biết ông đại tướng Dương Văn Minh của quân đội VNCH có cảm thấy tự thẹn chút nào không? Hay là ông đã lẩm bẩm một mình: "Ồ, cái thằng cha khùng!"
Thế mới biết chức vụ, và địa vị vẫn không phải là cái thang để đo mức độ liêm sỉ của con người!
KÉO BÈ KẾT CÁNH LẬP THÀNH PHẦN THỨ 3, TOÀN LÀ CÁN BỘ CS NẰM VÙNG NGƯỜI MIỀN NAM!
Trong thời gian ông Minh bị 2 ông Thiệu- kỳ đày sang Thái Lan, tôi đã sang Thái nhiều lần, nhờ anh Nguyễn Văn Ứng, nhân viên của toà đại sứ VN tại Bangkok, đưa đến nhà ông Minh, để thăm ông. Dịp này ông Minh đã nói với tôi:
- "Em à, em về nói với 2 ông Thiệu- Kỳ cho qua về nước. Qua không làm chánh trị nữa đâu. Qua nhớ nhà.Qua về, chỉ lo vui tuổi gìa với vườn Lan thoại!"
Chẳng bao lâu sau khi ông Minh về nước, tôi thấy trong nhà ông đã dập dìu tấp nập toàn những người miền Nam, như: Lý Quí Chung, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều, Lý Chánh Trung, Trần Ngọc Liễng, Huỳnh Tấn Mẫm, nghị sĩ, cựu đại tá Hồng Sơn Đông, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,và Triệu Quốc Mạnh, phó biện lý toà sơ thẩm Gia Định...Đám này đã họp thành một khối chánh trị mệnh danh "thành phần thứ 3", mang màu sắc trung lập, nhưng thực chất đều là bọn CS nằm vùng, hoặc thân cộng.
Trong cơn dầu sôi lửa bỏng ở Sài gòn, ông Minh đã vội vàng phong ngay cho chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một sĩ quan đã giải ngũ, nằm vùng cho CS, đảm nhiệm chức vụ trọng yếu phụ tá tổng tham mưu trưởng, dưới quyền của Vĩnh Lộc. Đồng thời, ông còn phong cho Triệu Quốc Mạnh, một tên cán bộ CS, lãnh chức giám đốc cảnh sát đô thành. Ngoài ra ông Minh còn liên lạc chặt chẽ với Lê Đức Thọ, Võ Văn Kiệt... qua trung gian của người em tên Dương Văn Nhựt, bí danh Mười Ty.
Theo lời của tướng Nguyễn Hữu Có, lúc bấy giờ đang đóng vai phụ tá cho ông Minh,kể lại như sau:
- "Ngày 29.4.75, là ngày tôi vất vả nhất. Đi đâu Minh Cồ cũng đem tôi theo, nhất là họp hội bên Ấn Quang. Lệnh thầy bảo đến lúc nào là đi lúc đó. Tội nghiệp cho Minh cồ làm tổng thống nhưng lại giữ nhiệm vụ kẻ thừa hành, giống như một đại đội trưởng nhận lệnh miệng của tiểu đoàn trưởng thôi. Nhiều lúc tôi tự nghĩ Minh cồ làm tổng thống hay Thích Trí Quang đây?...
Thực sự hôm nay ở trong tù tôi nghĩ lại mà thấy tội nghiệp cho Minh Cồ, thích làm tổng thống mà khả năng quá hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện...
Ngày lịch sử trong đời làm chánh trị của Minh Cồ không phải là ngày nhận chức tổng thống mà chính là ngày 29.4.75, vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh Cồ và tôi phải đến "hoàng cung Ấn Quang" 5 lần và lần nào cũng với nội dung là "thầy" cũng hứa hẹn một cách chắc chắn không thể sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm là tối 29.4.75 hay sáng 30.4.75 sẽ bàn thảo việc thành lập chánh phủ liên hiệp..." (trích trong bài "TÂM TÌNH TƯỚNG CÓ TRONG NHÀ TÙ HÀ TÂY" của nhà báo CS Hồ Văn Quang ghi lại).
Nói về Thích Trí Quang, nếu ai đã đọc quyển "BẠCH THƯ" CỦA HOÀ THƯỢNG THÍCH TÂM CHÂU, phát hành tại Canada, năm 1994, đều thấy rõ Thích Trí Quang chẳng qua chỉ là một tên tay sai nằm vùng của CSBV mà thôi. Trong Bạch Thư, trang 29, có câu nguyên văn, chứng tỏ phe PG đấu tranh miền Trung và Ấn Quang chỉ là một tổ chức ngoại vi của CSBV, nhằm phá hoại hàng ngũ quốc gia miền Nam:" Khi quâạn Cộng Sản từ rừng về Sài gòn, đã có gần 500 tăng ni của phe tranh đấu Ấn quang ra chào đón"!
Với những bằng chứng cụ thể, có mức độ khả tín cao,vừa nêu trên, chắc bạn đọc đã nhận ra được phần nào chân tướng của Dương Văn Minh. Ngoài miệng ông ta nói với báo NB là:
- Phải đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi cá nhân và phe phái.
Nhưng thực chất, ông Minh đã có tinh thần bè phái rất cao, đến mức có thể coi như kỳ thị Nam -Bắc. Ông đã thành lập thành phần thứ 3 toàn là người miền Nam, khiến đã có dư luận Dương Văn Minh muốn phục hồi: NAM KỲ QUỐC. Nhưng sở dĩ ông Minh đã không làm nổi như Nguyễn Phong Tân, đả đảo Bắc Kỳ Cá Rô Cây, chỉ vì thời thế đã đổi thay, và ông Minh không đủ khả năng như Nguyễn Phong Tân. Chẳng khác nào tướng Nguyễn Hữu Có đã nhận xét về Minh Cồ rất xác đáng: ham làm tổng thống lắm, nhưng khả năng quá giới hạn.!
Vì không có khả năng, gian trá, thiếu đức độ, nhưng tham vọng lại quá lớn, nên ông Minh đã phải hạ mình chầu chực Trí Quang một cách hèn hạ quá đáng. Hành động như thế chứng tỏ ông Minh đã chẳng phải vì quyền lợi tổ quốc nào cả, mà chỉ vì muốn củng cố cái ghế tổng thống 3 chân của mình mà thôi!
KHÔNG AI TIÊN ĐOÁN ĐƯỢC HÀNG TRIỆU NGƯỜI MIỀN NAM ĐÃ VƯỢT BIÊN
Đó là câu trả lời báo NB của ông Minh. Đọc câu này tôi có cảm tưởng, ông Minh chỉ biết nói mà không suy nghĩ kỹ điều mình nói. Thoáng nghe qua, lời ông có vẻ hợp lý. Nhưng suy nghĩ cho kỹ, lời ông Minh rất hàm hồ, nông cạn. Người ta thường nói: "làm chánh trị là tiên liệu". Năm nay ông Minh đã 82 tuổi rồi, chớ không phải còn non trẻ gì. Hơn thế nữa, ông đã làm nên tới chức đại tướng, từng đóng vai quốc trưởng, dù chỉ là bù nhìn, đóng vai tổng thống, dù chưa đầy 24 giờ đồng hồ...
Chính vì trí óc nông cạn, đần độn, lại thêm tham vọng quá lớn, đã khiến cho ông Minh trở nên mù quáng và ích kỷ. Trong cơn dầu sôi lửa bỏng của đất nước và dân tộc, ông đã tỏ ra vô cùng ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mạng sống cá nhân ông, địa vị của riêng ông, và sự yên ổn cho gia đình của ông. Ông đã đem hết bầu đàn thê tử, và gia nô của ông vào trú ngụ trong dinh Độc Lập, để bảo toàn an ninh cho họ. Trong khi đó các người khác, như ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu không ai làm như vậy. Bởi quá ích kỷ như thế, làm sao ông Minh còn đầu óc đâu để nghĩ đến số phận của hàng trăm ngàn chiến hữu của ông, chỉ vài ngày sau, đã bị quân CSBV lừa đi học tập cải tạo cách khổ sở nhục nhã suốt cả chục năm trời. Vì bản chất ích kỷ lại thêm đần độn, nên ông Minh đã không tiên đoán được chuyện: sau ngày 30.4.75, miền Nam sẽ trở thành một trại tập trung cải tạo lao động khổng lồ kiểu Liên Sô. Nếu ông Minh chịu khó đọc sử sách một chút, chắc ông đã thừa biết, sau khi bọn Bôn xê vích lên cầm quyền ở Nga Sô, toàn thể hoàng gia Nga đã bị thủ tiêu, hàng triệu người thuộc chế độ cũ đã bị vuì thân trong các trại cải tạo lao động vùng Tây Bá Lợi Á.
Ngày 11.4.75, tức 19 ngày trước khi miền Nam rơi vào tay CSBV, chính đại văn hào Nga Alexandre Soljenitsyne, đang ở một chân trời xa VN tít tắp đã tiên đoán không sai lầm chút nào bằng câu nguyên văn: "Tout le Vietnam sera transformé en un camp de concentration"!
Hơn thế nữa, ngay sau khi Ban Mê Thuột vừa bị mất vào tay CSBV, Don Rockland, cố vấn tâm lý chiến của tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng tổng cục chiến tranh chánh trị, cùng với một ê kíp chuyên viên Mỹ, như Martin,Jacobson, Bill Lehmann v.v...hằng ngày đã ra rả báo tin cảnh tỉnh nhân dân miền Nam, sau này cả miền Nam sẽ bị tắm máu, nhân dân miền Nam sẽ bị bọn CSBV trả thù tàn bạo, và thâm độc, vì bọn CS đã phải gian nan vất vả suốt mấy chục năm trời để đoạt được chánh quyền về tay chúng...
Như thế, trước những hành vi cướp bóc, hãm hại, trả thù tàn ác vô nhân đạo của bọn CSBV , nhân dân VN phải liều chết bồng bế nhau chạy ra biển tìm tự do là chuyện rất dễ hiểu và rất dễ thấy. Chuyện ấy đơn giản và thuận lý như công thức: hễ nước bị lửa đốt nóng, nước sẽ sôi, và bốc hơi...!
Điều này ai cũng có thể thấy trước. Vậy mà ông Minh lại ngụy biện cho là: "KHÔNG AI TIÊN ĐOÁN ĐƯỢC"!
Chắc ông Minh tưởng đầu óc mọi người đều giống như đầu óc của ông thôi!
KẾT LUẬN
Nếu muốn mổ xẻ cho tận cùng những lời tuyên bố của ông Minh trước khi ông ta về với CS, như lá rụng về cội, tôi thấy còn rất nhiều điều đáng nói. Nhưng, tôi chợt nghĩ chúng ta đã mất thì giờ với ông đến như thế này là đã quá nhiều rồi. Chúng ta không nên phí phạm thêm một chút giây phút nào nữa cho ông Minh.
Trước khi kết luận bài phân tách này, tôi muốn mượn lời cuối của ông Minh nói với báo NB và anh em tổng hội SVVN tại Paris, nguyên văn như sau: "...tôi tin tưởng là các cây viết trẻ không bóp méo sự thật".
Câu nói này của ông Minh, một mặt có tính cách vuốt ve, mơn trớn, để phỉnh gạt tuổi trẻ. Mặt khác, muốn xỏ xiên những người làm báo nhà nghề, đã biết tẩy ông quá nhiều. Ông rất sợ phải đối diện với giới báo chí nhà nghề. Vì ông sợ bị lật tẩy trước công luận thì ê mặt lắm.
Với những bằng chứng và các luận cứ mà tôi vừa nêu trên đây , chẳng ai cần bóp mép sự thật làm gì. Vì trong lời tuyên bố kể trên, chính ông Minh đã ngụy biện để bóp sự thật của lịch sử méo xẹo theo gian ý của ông trước rồi. Bây giờ, chúng tôi, những người làm báo nhà nghề, đã từng theo dõi các hành vi của ông, từ lúc ông còn là một anh thơ ký công nhật tầm thường của dinh Phó Soái Nam Kỳ cho đến khi ông trở thành một đại tướng, làm quốc trưởng, và tổng thống 24 giờ, chúng tôi có bổn phận trả sự thật lại cho lịch sử. Những hạng tội đồ dân tộc như ông, càng vùng vẫy, càng ngoan cố, thì vết nhơ trong lịch sử càng thêm lan rộng mãi ra mà thôi. Tôi thiển nghĩ, ông nên để cho lịch sử phán xét vô tư thì hơn. Ông chẳng cần biện bạch chạy tội làm gì. Như thế ông chỉ mua giây mà cột thêm vào người đấy thôi!
Về phần anh em THSVVN ở Paris và báo Nhân Bản, sau khi đã đọc xong bài này, chắc sẽ không khỏi cảm thấy có một chút gì đắng cay vướng víu trong cổ họng.
Tuổi trẻ lúc nào cũng đáng yêu và đáng quí. Tuổi trẻ không gian trá, lưu manh và qủy quyệt. Tuổi trẻ ở hải ngoại cũng như trong nước, bây giờ không ai đần độn, và tham vọng mù quáng đến mức thảm hại như một vài người đã từng đóng vai trò lãnh đạo bất thành của miền Nam VN. Những người lãnh đạo già nua bất tài, nhiều tham vọng lố bịchợ ấy đã để lại cho giới trẻ hải ngoại cả một bài học chua cay, tủi nhục, ê chề.
Đêm nằm vắt tay lên trán, họ suy nghĩ: "Vì sao họ phải chịu thân phân lưu vong như thế này? Lỗi ấy do đâu? Bởi ai mà ra?" Chắc chắn họ đã tìm thấy ngay câu trả lời cụ thể:
- Là do tập đoàn tướng lãnh ngu dốt, bất tài, tham nhũng, thối nát cầm quyền ở miền Nam mà ra. Những tẩu tướng, phản tướng bất tài của VN đã biến cả mấy thế hệ "con rồng cháu tiên" thành những con cháu của loài giun, dế!
Nếu tài năng và nhân cách của mấy ông tướng VN chỉ được bằng 1 phần 10 của các nhà lãnh đạo Nam Hàn, thì tuổi trẻ VN đã không phải sống cuộc đời lưu vong tủi nhục hiện nay ở hải ngoại. Họ đã được hãnh diện như các thanh niên Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore v.v..., mấy con rồng Á Châu.
Đặng Văn Nhâm
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 8, 2008 8:26:48 GMT 9
MỘT CÁI HÔNẢnh sưu tập từ Internet : Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tướng Dương Văn Minh. [Saigon Điểm Tin] Sắp đến 30-Tháng 4, một ngày trọng đại nhưng khó thống nhất tên gọi, SGĐT giới thiệu với bạn đọc Nam - Bắc, một cái hôn cũng khó gọi tên, của hai nhân vật tiêu biểu, một người mở đầu, một người kết thúc nền Cộng Hòa Việt Nam. Họ đã để lại những dấu ấn trong lịch sử... Hà Văn Thùy Những điểm nút trong lịch sử Trong lịch sử có những điểm nút có ý nghĩa quyết định chiều hướng của lịch sử: từ điểm nút ấy, lịch sử đi về phía này hay phía khác. Ðể nó về phía này mà không phải phía kia là tài năng của những người lèo lái con thuyền thời cuộc. Việc vượt qua được điểm nút ấy là một đại sự, nói chung rất khó khăn. Nhưng cũng có khi, vì một lẽ nào đó người ta lại lướt qua nó một cách dễ dàng. Và rồi vì dễ dàng quá nên người ta cũng dễ quên... Xin kể lại hai trong rất nhiều những điểm nút ấy của lịch sử Việt Nam. Theo Hiệp định Genève năm 1954, Uỷ ban Quốc tế giám sát và kiểm soát thực hiện Hiệp định đình chiến ở Ðông Dương được thành lập, do Ấn Ðộ làm chủ tịch, hai thành viên là Ba Lan và Canada. Ba Lan và Canada là “hai ông Tây đứng về hai phe” không có gì để nói. Như vậy vai trò quyết định ở đây là Ấn Ðộ. Là chủ tịch Ủy ban, lại là nước dân tộc chủ nghĩa châu Á nên tiếng nói của phái đoàn Ấn Ðộ là quyết định, không chỉ bằng lá phiếu mà còn bằng dư luận. Ấn Ðộ của Tổng thống Prasad cùng Thủ tướng Nehru thời đó mang xu hướng dân tộc chủ nghĩa và không muốn bạo lực. Với thái độ như thế, trọng tài Ấn Ðộ làm việc thẳng thừng, thổi còi bắt ta nhiều pha việt vị, gây cho ta những khó khăn. Thêm nữa, do vị trí của mình, Ấn Ðộ ngày càng có vai trò quan trọng ở khu vực và thế giới. Ðặt được mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp với Ấn Ðộ không chỉ phá được thế kẹt trước mắt mà còn là lợi ích lâu dài của đất nước. Vì nhiệm vụ chiến lược này, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã mời Tổng thống Prasad sang thăm Việt Nam. Với cương vị Chủ tịch Uỷ ban Quốc tế, Tổng thống Prasad đã nhận lời. Nhưng về phía ngoại giao, ta biết bạn còn một vài bất đồng quan trọng với ta mà nếu không giải quyết được, cuộc đến thăm sẽ kém kết quả. Việc này cũng như nhiều vấn đề ngoại giao khác, chỉ có thể sắp xếp bằng con đường vận động hành lang. Biết vậy nhưng vận động cách nào đây? Nghĩ nát nước, ông Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng ngoại giao lúc đó chợt nhớ tới Phật sống Ba Chà mà ông từng gặp gỡ và bố trí công tác ở miền Tây Nam bộ. Người Ấn Ðộ sùng đạo Phật, Tổng thống Prasad và phu nhân là Phật tử, vậy thì đưa ông Phật sống Ấn Ðộ ra gặp gỡ, vận động hành lang là quá ngon rồi! Ý kiến đó được báo lên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Hồ đồng ý rồi giao cho bên quân đội tìm Phật sống. Biết Phật sống ra tập kết và đang trong quân số lính miền Tây nhưng tìm không dễ vì ông Ung Văn Khiêm chỉ nhớ tên dân gian Ba Chà (tức người con thứ hai, còn Chà là Chà Và tức Ấn Ðộ) trong khi đó từ lâu ông Phật sống lấy lại tên chính thức: Ba Danh. Khó khăn đấy nhưng rồi cuối cùng cũng tìm được. Thượng uý Lưu Công Danh được đưa tới Phủ Thủ tướng gặp Phó Thủ tướng Phan Kế Toại bàn việc tiếp khách Ấn Ðộ. Bác Hồ gặp ông Ba Danh. Bác nói: “Ấn Ðộ với mình có khó khăn. Nếu bà Prasad muốn gặp thì chú cứ gặp, nói chuyện thoải mái.” Như dự đoán, hội đàm diễn ra không suôn sẻ. Ta gợi ý để bà Prasad xin tiếp kiến Phật sống. Cuộc gặp gỡ diễn ra trong khoảng hai tiếng. Và thật không ngờ, cuộc hội đàm sau đó chuyển biến tốt. Tuyên bố chung được ký. Tổng thống Prasad mời Bác Hồ qua thăm Ấn. Chuyến thăm Ấn Ðộ của Bác kết quả lẫy lừng khiến cho nhiều người tưởng như mọi cái thuận lợi tốt đẹp từ đầu! (Tư liệu này tôi ghi được từ ông Trần Hữu Đức, bộ đội chống Pháp, người Phú Quốc, cùng đi tập kết và là con nuôi ông Ba Danh; ông Đặng Hữu Thạch chiến sĩ Tiểu đoàn 307, nguyên Giám đốc Sở Công nghiệp Kiên Giang, bạn thân của ông Ba Danh.) Vấn đề ở đây là gì? Cái nút của lịch sử lúc này là bàn đàm phán giữa hai bên có những mối bất đồng, dòng lịch sử bị chặn lại để rồi có thể quẹo hướng này hay sang hướng khác mà nguyên thủ quốc gia cùng những nhà ngoại giao tài năng không lái được! Nhưng thật nhẹ nhàng, chỉ hai giờ chuyện trò thoải mái vui vẻ giữa một ông lính già và bà vợ của chính khách, câu chuyện kết thúc tốt đẹp. Lịch sử chuyển sang dòng thuận! Thật quá dễ. Dễ đến mức người ta quên đi là không có chuyện đó nữa. Dễ đến nỗi cả Vua Phật cũng không hề biết mình làm nên kỳ tích!
Câu chuyện khác, đó là việc Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng. Ở cái “nút” ấy, một người trong cương vị ông Dương Văn Minh có thể có nhiều quyết định. Nếu quyết định khác đi, sẽ là máu đổ, sẽ là nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn. Sài Gòn sẽ tan tành... Lúc đó có nhiều người nói ông Dương Văn Minh yêu nước thương dân nhưng cũng có người hoài nghi: hay cả ông này cũng ngầm theo cách mạng? Sau những Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ cùng nhiều nhà tình báo vĩ đại khác, suy nghĩ trên không phải không có cơ sở. Tôi là người nghĩ theo hướng đó nhưng sau không thấy tài liệu chính thức nào nói về chuyện này, tôi tự cho mình lầm.
Nhưng mới đây, trong câu chuyện với ông Nguyễn Thành Thơ nguyên Phó Bí thư Thành uỷ Sài Gòn-Gia Ðịnh, tôi lại thấy phán đoán của mình năm xưa không sai. Sau Mậu Thân, từ miền Tây Nam bộ, ông được điều lên Sài Gòn-Gia Ðịnh phụ trách binh vận. Các ông Phạm Hùng và Phan Văn Ðáng giao cho ông nhiệm vụ tìm cách tranh thủ tướng Dương Văn Minh, lợi dụng thời cơ chiếm địa vị trong chính quyền Sài Gòn để thực hiện hòa giải hoà hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh. Trung ương điều ông Dương Ngọc Nhựt là em trai tướng Minh từ miền Bắc về kết hợp với ông Mười Thơ lo chuyện này. Ông Mười Thơ cho biết:
Nhựt báo cáo: “Thời Ngô Ðình Diệm, Dương Văn Minh đảo chánh Diệm, Ðảng có kêu tôi đi gặp Minh, bàn với Minh khi làm tổng thống, bãi bỏ ấp chiến lược đi.” Minh trả lời: “Sẽ bãi bỏ ấp chiến lược, nhưng chùa Phật, nhà thờ Thiên chúa được dựng theo gom dân lập ấp chiến lược vẫn giữ.” Khi ta tấn công Mậu Thân, Ðảng bảo tôi đi gặp Minh, tôi đến nhà Minh, biết Minh đi Thuỵ Sĩ, tôi lên máy bay bay qua Thụy Sĩ. Biết Minh về Thái Lan, tôi theo về Thái Lan, gặp được Minh. Tôi nói: “Ông Nguyễn Hữu Thọ mời anh về tham gia Mặt trận Giải phóng và chánh quyền liên hiệp”. Minh nói: “Không biết làm chính trị, việc đó dành cho ông Thọ”.
Tôi nói với Nhựt: “Như vậy Minh là nhân vật trung gian, có quan điểm trung gian, theo địch nhưng cũng có cảm tình với ta. Vậy Nhựt đi làm việc với Minh là đi tranh thủ Minh lợi dụng tình hình để giành địa vị trong ngụy quyền, hiệp thương với ta thực hiện hoà hợp”. Nhựt nói: “Yêu cầu như thế, ta tranh thủ Minh, hướng dẫn Minh giành quyền rất dễ, tôi tin Minh sẽ hăng hái làm theo.” Sau đó Nhựt báo cáo: “Ðến nhà Minh gặp mẹ tôi, mẹ tôi ôm tôi khóc, tôi cũng khóc, thấy vợ chồng Minh rất xúc động. Vợ Minh lo ăn ngủ cho tôi chu đáo còn con Minh vui mừng vì có người chú đứng trong hàng ngũ cách mạng. Lúc nào Minh rảnh rỗi tôi nói chuyện với Minh nhiều chủ đề để xiết vô tranh thủ Minh nghe theo hướng dẫn. Minh chỉ hỏi để hiểu rõ thêm ý của ta mà không phản ứng gì. Ðến ngày chót, Minh tổ chức chiếu bóng cho gia đình xem. Minh ngồi trên xe, tôi ngồi một bên, một người Mỹ ngồi một bên chuyên nhìn lén tôi. Sau đó Minh đưa xe cho tôi về Tây Ninh. Theo tôi nhận xét, Minh ngồi giữa coi chiếu bóng, có một người Mỹ ở bên để ngầm cho tôi biết, việc Minh giành chức vụ trong chính quyền ngụy để thương lượng với ta, được một trường phái Mỹ ủng hộ.
Ông Mười Thơ báo cáo lại, ông Phạm Hùng nói: “Minh nghe lời ta, có thể đạt yêu cầu mong muốn. Từ nay cắt đứt liên lạc tránh bị lộ. Chuyện như vậy là có quá trình, có đi sẽ đến. Trả Dương Ngọc Nhựt về Bắc.”
Tối 29 tháng 4 năm 75 trên đường tiến vào Sài Gòn, ông Mười Thơ mở đài BBC nghe nói: “Dương Văn Minh kêu gọi bình tĩnh!” Sao kỳ vậy, ông thắc mắc: Ðịch tiến vô thành mà cứ kêu lính bình tĩnh? Vậy là ông ta làm theo hướng dẫn của ta rồi, Sài Gòn mở cửa rồi! Ngay sau đó ông nghe bộ đàm của đơn vị đánh cầu Rạch Chiếc: “Giằng co ác liệt, ta có hy sinh, đề nghị cho tôi rút!” Ông Mười đang do dự thì bỗng lại nghe: “Tôi nghe tiếng xe tăng qua sông Cát Lái rồi. Không đề nghị rút nữa.”
Sau này vào năm 1985, khi tổng kết chiến tranh, có người nói: “Ta đã bắt nó đầu hàng, điều này đã đi vào lịch sử. Không nên thay đổi.” Lại có người nói: “Nếu theo quan điểm của Bác Hồ thì khác: Bảo Ðại đầu hàng. Bác bảo Trần Huy Liệu vô sửa lại là giao chánh quyền. Vấn đề không phải với một người mà một lớp người.” (Điều này chính ông Mười Thơ kể với tôi. Sau này ông viết trong hồi ký Cuối đời nhìn lại chưa xuất bản.) Duong Van Minh thuoc hang nguoi nao day ? Hay ong ta la "nguoi " hong giong nguoi nao ? "Người hạng trên là những người không dạy mà thiện, người hạng thứ là những người phải dạy mới thiện, còn hạng kém là những người dạy cũng không sao mà thiện được. Không dạy mà thiện, chẳng phải là thánh ru? Dạy rồi mới thiện, chẳng phải là hiền ru? Dạy cũng không sao mà thiện được chẳng phải là dốt ru? Vì thế biết thiện là cát. Không thiện ấy là hung. Cát là mắt không xem sắc phi lễ, tai không nghe điều phi lễ, miệng không nói lời phi lễ, chân không dẵm đất phi lễ. Người phi nghĩa không chơi, của phi nghĩa không lấy. Gần người hiền như cạnh chi lan, lánh kẻ ác như xa rắn rết. Được như thế mà có kẻ cho là không phải người tốt thì ta không tin vậy. Còn hung là nói năng quỉ quyệt, hành động nham hiểm, thích lợi lộc, quen xằng bậy, mê dâm dục vui họa hoạn, ghét người lương thiện như thù hằn, phạm vào luật pháp như ăn uống. Nhỏ thì diệt thân diệt tính, lớn thì tuyệt giòng tuyệt giống. Như thế có kẻ cho là không phải người xấu thì ta không tin vậy (Thiệu Khang Tiết)
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 13, 2009 17:15:44 GMT 9
Phút cuối của Ngô Đình Cẩn 19:48:00 08/07/2009 Nguyễn Như Phong Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam. Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. >> Vụ xử bắn thứ nhất tại Chí Hòa Ngày hôm sau, đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã được chuyển đến tướng Dương Văn Minh là Quốc trưởng. Rồi Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư tới Dương Văn Minh xin ân xá cho tử tội Ngô Đình Cẩn với lý do là Cẩn đang bị bệnh rất nặng, ngày sống chỉ đếm được trên đầu ngón tay cho nên không cần thiết phải hành quyết Cẩn. Nhưng tất cả đều bị Dương Văn Minh bác thẳng thừng. Tòa án báo cho thân nhân của gia đình Ngô Đình Cẩn là bà Ngô Đình Thị Hiệp, bà Ngô Đình Thị Hoàng (thường gọi là bà cả Lễ...) là đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã bị Quốc trưởng bác bỏ. Ngô Đình Cẩn sẽ bị hành quyết vào lúc 17h ngày 9/5/1964 tại Khám Chí Hòa. Trước làn sóng phản đối việc kết án tử hình Ngô Đình Cẩn ngày càng lan rộng trong giáo dân, chính quyền Dương Văn Minh - Nguyễn Khánh quyết thi hành án sớm. Tại Sài Gòn, ngày giờ xử bắn Ngô Đình Cẩn được giữ rất kín. Có hai người được biết trước là luật sư Võ Văn Quan và linh mục Jean Baptiste Lê Văn Thí. Ngày 8/5, linh mục Thí được vào gặp Ngô Đình Cẩn để làm lễ rước mình Thánh Chúa an ủi người sắp chết. Khi ông Thí vừa vào, chào hỏi xong thì Ngô Đình Cẩn đã hỏi ngay: "Ngày mai, họ đem con đi bắn phải không cha?". Linh mục Thí im lặng và khẽ gật đầu rồi hỏi lại: "Cậu có sợ không?". Ngô Đình Cẩn gượng cười, trả lời khá bình thản: "Con không sợ chút mô hết cha à!". Linh mục Thí hỏi tiếp: "Cậu có tha thứ cho những người đã làm khổ cậu và gia đình cậu không?". Ngô Đình Cẩn nói lớn, và rành rẽ: "Con tha thứ". Rồi Cẩn nói tiếp: "Con cũng mang tên Thánh là Jean Baptiste và cha cũng mang tên Thánh Jean Baptiste. Xin cha nhớ cầu nguyện cho con sớm lên Thiên đàng chầu Chúa và xin mọi người có đạo chứng kiến con chịu chết, xin đọc cho con một kinh lạy cha "Xin cho chúng tôi hàng ngày đủ dùng và tha tội cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi". (Ngô Đình Cẩn là con út trong nhà nên hay được gọi là cậu Cẩn. Sau này khi Ngô Đình Diệm giành được quyền lực thì Ngô Đình Cẩn cũng được coi là nhân vật cực kỳ thế lực ở khu vực miền Trung, cho nên ai đến với Cẩn cũng không dám gọi tên mà chỉ gọi là ông Cậu). Hôm sau, 10h trưa ngày 9/5, luật sư Võ Văn Quan vào thăm Ngô Đình Cẩn lần cuối cùng. Sau này, ông Quan kể lại cho nhà báo Phan Kim Thịnh: "Sáng sớm ngày 9/5, cháu Ngô Đình Cẩn là Trần Trung Dung vào thăm. Ông Cẩn nói chuyện một cách thản nhiên, không hề biểu lộ thái độ lo lắng, sợ sệt. Người cháu gái thì ngồi cạnh giường, khóc và nguyền rủa những kẻ phản phúc nhà họ Ngô. Nhưng ông Cẩn điềm tĩnh nói: "Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết". Khi gặp luật sư Quan, ông Cẩn cũng vẫn tỏ thái độ bình thản. Ông Quan cũng không hề biết là chính Ngô Đình Cẩn cũng đã biết rõ ngày giờ thi hành án. Lúc đầu, hai bên chỉ nói chuyện có tính chất xã giao nhưng rồi đột nhiên ông Cẩn tâm sự về thân thế của ông và tiết lộ một số câu chuyện bí mật. Lời nói của ông như là một sự trăng trối khiến luật sư Quan giật mình và thầm nghĩ: "Có lẽ ông Cẩn biết rồi". Rồi Ngô Đình Cẩn chuyển sang giãi bày những thủ đoạn chính trị của mình với giọng hùng hồn, hoạt bát, mạch lạc. Ngô Đình Cẩn cũng nhắc lại những cuộc tàn sát đẫm máu đối với những người Cộng sản khi Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, và khẳng định làm chính trị thì phải chấp nhận thế thôi. Khi nói đến việc đàn áp những người Cộng sản, Ngô Đình Cẩn ngẩng cao đầu, mắt sáng long lanh, mặt đỏ bừng và nói như đếm từng tiếng. Nhìn đồng hồ đã thấy gần 12h trưa, Ngô Đình Cẩn bảo: "Luật sư đưa cho tôi cái danh thiếp của ông". Ông Quan ngạc nhiên không hiểu lúc này Ngô Đình Cẩn còn muốn có danh thiếp của mình để làm gì. Nhưng chiều ý, ông vẫn lấy danh thiếp đưa cho Ngô Đình Cẩn. Bút tích của Ngô Đình Cẩn. Ông Cẩn lấy bút viết vào phía sau danh thiếp: "Xin hết lòng đa tạ" và viết tên Ngô Đình Cẩn. Đưa lại danh thiếp cho luật sư, Ngô Đình Cẩn dịu giọng nói: "Tôi xin gửi lại chút này để cám ơn luật sư đã hết lòng biện hộ cho tôi". Luật sư Quan bối rối: "Thật sự tôi có giúp được gì cho ông đâu, họ vẫn xử tối đa". Ông Cẩn khẽ lắc đầu, gượng cười: "Vấn đề không phải ở đó. Viết mấy chữ này, tôi muốn tỏ lòng tri ân đối với người luật sư không từng quen biết, nhưng đã tận tình và can đảm nói lên giữa phiên tòa những gì tôi muốn nói". Rồi Ngô Đình Cẩn lại bình tĩnh trò chuyện, lấy giấy cuốn thuốc lá theo kiểu sâu kèn, phì phèo hút, rồi lại têm trầu nhàn nhã nhai bỏm bẻm. Ông Quan đứng dậy cáo từ cố giữ nét mặt bình thường. Ngô Đình Cẩn bắt tay luật sư Quan rất chặt và rất lâu, đồng thời luồn bàn tay trái xuống gầm bàn, nhìn xuống đó ra hiệu. Ông Quan thấy bàn tay trái của Ngô Đình Cẩn xòe ra 5 ngón như thể báo hiệu rằng chiều nay vào lúc 5h ông sẽ bị hành quyết. Sau này, mỗi khi nhớ lại vụ hành quyết Ngô Đình Cẩn, luật sư Quan vẫn tỏ thái độ kính trọng, khâm phục một con người biết cái chết đang đến với mình từng giờ, từng phút mà vẫn ngồi nói chuyện bình tĩnh hàng tiếng đồng hồ. Cũng phải nói thêm rằng, sau ngày Ngô Đình Cẩn bị hành quyết đã có nhiều tin đồn rằng Ngô Đình Cẩn khi chết đi để lại rất nhiều của cải cho nhiều người thừa hưởng. Ngay chuyện Ngô Đình Cẩn bảo đại úy Nguyễn Văn Minh giao số vàng, đôla, kim loại quý cho tướng Đỗ Cao Trí giữ là "2 bao"... nhưng thực chất đó cũng chỉ là những lời đồn thổi vì chính đại úy Minh cũng không biết có bao nhiêu vàng và tướng Trí khi nhận túi vàng, valy tiền cũng không kiểm đếm. Tuy nhiên, theo điều tra của các nhà báo về sau thì số bất động sản do Ngô Đình Cẩn giao cho người khác đứng tên không phải là ít. Năm 1989, tướng ngụy quyền Trần Văn Đôn có viết cuốn hồi ký "Việt Nam nhân chứng", và khi nói về cái chết của Ngô Đình Cẩn, ông ta viết như sau: "Vài tháng sau ngày chỉnh lý, tướng Nguyễn Khánh có phái đại tá Lâm Văn Phát thông qua bà Trần Trung Dung và nhờ chuyển lời nói với ông Cẩn rằng, hãy chuyển số tiền 6 triệu USD mà ông Cẩn có trong một ngân hàng Thụy Sĩ cho tướng Nguyễn Khánh. Đổi lại tướng Khánh sẽ cho một chiếc phi cơ đưa ông Cẩn đi Singapore. Bà Trần Trung Dung yêu cầu đừng ghi âm khi bà ấy vào khám hỏi ông Cẩn. Sau khi nghe bà Dung trình bày, Ngô Đình Cẩn không chịu giao số tiền đó cho ông Khánh, rồi hỏi bà Dung có cần lấy thì ông giao cho. Lúc đó bà Dung sợ liên lụy nên không dám nhận. Mấy ngày sau, nhân dịp một vị linh mục vào làm lễ cho ông Cẩn, ông đã ký giấy ủy quyền cho nhà dòng Cứu Thế số tiền đó. Giấy ủy quyền được để trong một cuốn kinh Thánh...". Như vậy, xem ra sự kiện Ngô Đình Cẩn có mấy triệu đôla là có thể tin được. Nhưng thực sự chuyện Ngô Đình Cẩn chuyển 6 triệu đôla cho nhà thờ cũng có thể rất khó xảy ra, bởi lẽ với một số tiền lớn như vậy không thể cầm tờ giấy ủy quyền có mấy chữ rồi ký tên cho người khác đi lĩnh, đặc biệt đối với các ngân hàng nước ngoài. Ngay linh mục Lê Văn Thí cũng khẳng định là chẳng làm gì có số tiền đó. Sáng 9/5, các nhà báo sau khi dự buổi hành quyết Phan Quang Đông tại Huế thì vội vàng ra máy bay về Sài Gòn. Buổi tử hình Phan Quang Đông diễn ra rất ghê rợn. Vợ Phan Quang Đông đang bụng mang dạ chửa sắp đến tháng đẻ, đã ngất lịm ngay tại pháp trường khi chứng kiến cảnh chồng bị trói vào cọc... Linh mục làm lễ rửa tội cho Ngô Đình Cẩn trước giờ ra pháp trường. Sau khi làm các thủ tục về giấy tờ, Các nhà báo có mặt ở Bộ Thông tin từ lúc 14h. Và được đưa tất cả lên chiếc xe 18 chỗ đi vào Khám Chí Hòa. Tới cổng khám, ở trạm gác thứ nhất, nhân viên yêu cầu khám xét hành lý và thu giữ lại tất cả máy ảnh. Chụp ảnh buổi hành quyết chỉ có 3 người của Bộ Thông tin và nhân viên của an ninh quân đội. Sau đó các nhà báo được dẫn ra một sân rộng đầy cỏ cây hoang dại và có chôn sẵn một chiếc cột gỗ và trường bắn nằm gần một ngôi chùa nhỏ. 5h chiều, các thủ tục cho buổi hành quyết Ngô Đình Cẩn được bắt đầu tại phòng làm việc của trung tá Phạm Văn Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa. Những người có mặt tại đây là đại tá Trang Văn Chính, Giám đốc cảnh sát đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn; thiếu tá Nguyễn Văn Đức, Chưởng lý Tòa án quân sự; bà cả Lễ là chị ruột Ngô Đình Cẩn; luật sư Võ Văn Quan và một số người khác nữa. Đoàn người đến thẳng phòng giam của Ngô Đình Cẩn và lặng lẽ bước vào. Nghe tiếng giày, Ngô Đình Cẩn đang nằm trên giường hé mắt nhìn rồi khép lại, miệng lầm rầm cầu nguyện cùng với một vị linh mục đứng cạnh giường đọc kinh. Bóng đèn điện từ trên trần nhà tỏa sáng một màu ánh sáng vàng vọt, thê lương. Thiếu tá Đức đến bên giường, đọc bản bác đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn. Khi Nguyễn Văn Đức đọc xong, luật sư Quan đến bên ông Cẩn nắm lấy hai bàn tay. Tay Ngô Đình Cẩn nóng hổi, mặt ửng hồng và rõ ràng đang sốt rất cao. Luật sư Quan cố gượng nói: "Thôi ông cố vấn đừng quá đau buồn. Trên cõi đời này dù sớm hay muộn rồi ai cũng phải ra đi”. Ngô Đình Cẩn điềm tĩnh: "Luật sư đừng có buồn cho tôi. Tôi đi theo mấy ông anh của tôi. Tôi trở về với Chúa. Tôi không sợ chết đâu. Nhưng tôi lo cho luật sư, lúc cãi cho tôi, luật sư có đụng chạm tới họ. Không biết luật sư ở lại có bị họ làm khó dễ hay không". Luật sư Quan ứa nước mắt: "Không sao đâu, ông cố vấn đừng lo cho tôi. Xin cầu chúc ông cố vấn được vào nước Chúa". Thủ tục tiếp theo là vị linh mục làm lễ và cầu nguyện cùng ông Cẩn. Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam (ngày ấy chính quyền Ngô Đình Diệm quy định "quốc phục" của Việt Nam Cộng hòa là quần trắng, áo dài đen, đội khăn xếp). Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Rồi ông cũng nói với mọi người là ông tha thứ cho những người đã giết ông. Yêu cầu của Ngô Đình Cẩn được đáp ứng, những viên cai ngục giúp ông thay quần áo. Rồi thiếu tá Nguyễn Văn Đức ra lệnh cho 2 nhân viên xốc nách dìu ông Cẩn ra khỏi phòng giam và xuống cầu thang. Vì Ngô Đình Cẩn không thể đi được, nên người ta phải đặt ông lên một chiếc băng ca và đẩy đi suốt hành lang này qua hành lang khác. Ra khỏi khu "lò bát quái", Ngô Đình Cẩn được chuyển sang một băng ca khác do 4 người cai ngục khiêng, chiếc băng ca được khiêng ra giữa sân có cắm một chiếc cọc thì cả đoàn người dừng lại... Thiếu tá Đức ra lệnh cho đám cai tù xốc nách đỡ Ngô Đình Cẩn dậy, dìu ra cột. Khi Cẩn được dìu tới cột gỗ thì một người lính trong đội hành quyết nói nhỏ với Cẩn là xin phép được trói hai tay ra đằng sau, hai tay được đặt lên một thanh ngang giống như cây thánh giá mục đích là để người bị tử hình không tụt được xuống. Một người lính cai ngục lấy chiếc khăn đen bịt mắt tử tội thì Ngô Đình Cẩn lắc đầu liên tục và nói: "Tôi không chịu bịt mắt. Tôi không sợ chết". Nhưng người ta vẫn buộc khăn vào một cách vụng về, vì vậy không chỉ bịt mắt mà bịt gần hết khuôn mặt ông Cẩn. Đội hành quyết có 10 người và đội mũ lính quân cảnh có in 2 chữ MP, chia làm 2 hàng. Hàng trước 5 người quỳ, hàng sau 5 người đứng. Trong 10 người thì có 1 người được sử dụng khẩu súng mà trong đó lắp 1 viên đạn mã tử (không có đầu đạn mà chỉ bịt giấy). Đúng 18h20, phút hành quyết đã tới, Nguyễn Văn Đức giơ tay ra lệnh thi hành. Viên sĩ quan chỉ huy đội hành quyết hô lớn: “Bắn!". Một loạt súng nổ, Ngô Đình Cẩn giũ người xuống ngay lập tức. Máu từ trên ngực chảy loang xuống chiếc quần trắng. Ngay sau đó viên chỉ huy đội hành quyết chạy đến gí khẩu súng colt 12 ly vào tai Ngô Đình Cẩn và bắn phát ân huệ. Bác sĩ pháp y chạy ra dùng ống nghe gí vào ngực Ngô Đình Cẩn nghe ngóng, vạch mắt ra xem, rồi quay lại gật gật đầu ra ý là Ngô Đình Cẩn đã chết. Trung tá Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa ra lệnh cho mấy viên cai ngục cởi trói hạ xác Ngô Đình Cẩn đặt vào băng ca rồi khiêng vào Khám Chí Hòa để khâm liệm và cho thân nhân nhận xác mang về chôn cất. Xác Ngô Đình Cẩn được đưa về an táng tại nghĩa trang chùa Phổ Quang, tức nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế gần sân bay Tân Sân Nhất. Sở sĩ gia đình an táng Ngô Đình Cẩn tại đây là vì Thượng tọa Thích Chí Dũng là người thân quen với gia đình họ Ngô. Sau năm 1975, khi quy hoạch lại TP HCM nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế ở chùa Phổ Quang được di dời về Lái Thiêu. Mộ Ngô Đình Cẩn cũng được đưa về đó nằm cạnh mộ của thân mẫu và 2 người anh là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 13, 2009 17:23:46 GMT 9
Bóng ma sống của viên tư lệnh 16:21:00 01/05/2009 Nguyễn Hồng Lam Ông Thạch cho rằng Đinh Đồng Phủ chỉ là một cái tên giả để che giấu một thân phận thật mà nếu được thừa nhận, một số chi tiết lịch sử sẽ phải được viết lại! Ông ta chính là... cựu Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt dưới thời Ngô Đình Diệm! Bất ngờ từ một vụ án nhỏ Ngày 12/11/2004, Công an huyện Định Quán, Đồng Nai đã bắt quả tang một đối tượng làm giả giấy tờ để đưa người xuất cảnh sang Mỹ. Kẻ bị bắt tên là Đinh Đồng Phủ, 73 tuổi, Việt kiều Mỹ. Sử dụng một số giấy tờ giả, Đinh Đồng Phủ tự xưng là viên chức của Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP HCM, làm việc tại bộ phận phụ trách tái định cư. “Nhiệm vụ” của Đinh Đồng Phủ, theo lời “tự giới thiệu”, là tìm hiểu và hướng dẫn những người trong diện ra đi có trật tự (ODP) và diện con của sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa (HO), giúp họ hoàn tất thủ tục để sang Mỹ định cư trong đợt bổ sung vào cuối năm 2004. Mỗi người muốn ra đi phải đóng cho Phủ hàng ngàn USD để làm hồ sơ. Lừa được khoảng 30 người thì Phủ bị phát hiện và bắt giữ. Đinh Đồng Phủ bị bắt buổi sáng thì ngay chiều hôm đó, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP HCM đã nhanh chóng đưa ra thông cáo: hai chương trình tái định cư cho những người thuộc diện ODP và HO năm 2004 đã hoàn toàn chấm dứt từ tháng 9. Sau thời điểm đó, phía Hoa Kỳ sẽ không nhận thêm bất kỳ một hồ sơ nào khác, chỉ giải quyết những hồ sơ đã nộp từ trước. Mặt khác, Tổng Lãnh sự quán cũng khẳng định: họ không hề có bất kỳ một nhân viên nào tên là Đinh Đồng Phủ. Mẩu “tin vắn” về vụ việc này hầu như chẳng khiến mấy người lưu tâm. Nhưng đến thời điểm tưởng chừng như vụ việc đã bị chìm hẳn vào quên lãng thì nó lại được xới lên. Áp Tết Nguyên đán 2009, có một Việt Kiều Canada tên là Phan Bảo Thạch về tìm gặp chúng tôi, mang theo một số mẩu báo có đăng tin về vụ Đinh Đồng Phủ đã khá cũ kỹ và một số tài liệu khác. Với một niềm tin mạnh mẽ, ông Thạch cố chứng minh rằng sự việc của hơn 4 năm trước không đơn giản chỉ là một vụ án lừa đảo bình thường. Ông Thạch cho biết, cả ông lẫn một số người từng là quan chức chế độ cũ hiện đang sinh sống ở Hoa Kỳ, Canada, Australia đều hoài nghi nhân vật Đinh Đồng Phủ đang hoạt động... gián điệp. Hơn thế nữa, Đinh Đồng Phủ chỉ là một cái tên giả để che giấu một thân phận thật mà nếu được thừa nhận, một số chi tiết lịch sử sẽ phải được viết lại! Ông ta chính là... cựu Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt dưới thời Ngô Đình Diệm! Thảm kịch của tham vọng và quyền lực Khác xa cái tên Đinh Đồng Phủ vô danh, Lê Quang Tung từng là một nhân vật đặc biệt quan trọng của nền đệ nhất Cộng Hòa. Sinh năm 1926 (có tài liệu ghi là 1923 - TG), Lê Quang Tung xuất thân là một chủng sinh trường dòng nhưng không trở thành linh mục Thiên Chúa giáo mà chọn binh nghiệp làm sự nghiệp. Ông ta được xem như nhân vật quyền lực số 2 sau Ngô Đình Nhu trong đảng Cần lao Nhân vị. Tháng 2/1956, khi đơn vị đầu tiên của Liên đội quan sát số 1, sau đổi thành Liên đoàn quan sát số 1 được thành lập, Ngô Đình Nhu đã giao nó cho Lê Quang Tung chỉ huy. Sau khi bị đảo chính hụt ngày 11/11/1960, Ngô Đình Nhu đã ráo riết nâng cấp, mở rộng Liên đoàn quan sát, xây dựng nó thành Lực lượng đặc biệt nằm ngoài biên chế quân đội, chuyên trách các hoạt động bí mật như do thám, phá hoại, ám sát, thủ tiêu, phản gián... nhằm loại trừ nguy cơ và những phần tử đối lập trong lòng chế độ. Lê Quang Tung được thăng hàm Đại tá, chính thức được bổ làm Tư lệnh LLĐB từ ngày 1/1/1961, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Em ruột Lê Quang Tung là Thiếu tá Lê Quang Triệu được cử làm Tham mưu trưởng của LLĐB. Trên toàn miền Nam Việt Nam, quyền lực của LLĐB và anh em Tung - Triệu có thể nói là vô biên, đứng cao hơn cả hiến pháp và pháp luật! Ân sủng của nhà Ngô dành cho anh em họ lại là nguyên nhân dẫn đến một kết cục cực kỳ bi thảm. Trong mắt những tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa theo Dương Văn Minh dự mưu đảo chính anh em Ngô Đình Diệm thì Lê Quang Tung - Tư lệnh LLĐB cùng với Đại tá Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải quân đích thực là hai cái gai. Hai nhân vật này tuyệt đối trung thành với nhà Ngô, thuyết phục họ theo phe đảo chính là điều không thể. Để cho họ sống lại càng cực kỳ nguy hiểm. Trong biến cố 11/11/1960, Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung chính là hai người đã chỉ huy Hải quân và Liên Binh phòng vệ chống trả quyết liệt làm đảo ngược thế cờ, dẫn đến sự thảm bại của phe đảo chính. Vì thế, tiếng súng đảo chính chưa nổ, số phận của hai nhân vật này đã được định đoạt. Cả hai đều nhận được điện thoại mời đến Bộ Tổng tham mưu dự họp trước giờ nổ ra đảo chính. Trưa ngày lễ Các Thánh 1/11/1963, lấy lý do mừng sinh nhật lần thứ 36 của Đại tá Hồ Tấn Quyền, Thiếu tá Trương Ngọc Lực, Chỉ huy trưởng vùng III Sông ngòi và Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang, Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24 kiêm Chỉ huy trưởng đoàn Giang Vận đã mời Đại tá Quyền ra Thủ Đức dự tiệc do một số sĩ quan Hải Quân tổ chức. Ban đầu, Đại tá Quyền từ chối, nhưng Lực và Giang năn nỉ mãi nên cuối cùng viên tư lệnh Hải Quân cũng gật đầu. Đích thân viên Đại tá ngồi sau tay lái chiếc Citroen đưa hai “đệ tử cật ruột” đến buổi tiệc. Khi xe vừa rẽ khỏi xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, Thiếu tá Trương Ngọc Lực ngồi ghế kế bên đã bất ngờ rút dao găm đâm Hồ Tấn Quyền. Đang giằng co, giành được dao găm đâm một nhát vào tay tên đàn em, Đại tá Quyền đã bị Đại úy Giang ngồi băng sau rút súng ngắn chĩa vào vai bắn chết. Đến Bộ Tổng Tham mưu dự họp, số phận của viên Tư lệnh LLĐB cũng kết thúc không mấy khác. Khi vào phòng họp, Lê Quang Tung được thông báo: chỉ được chọn lựa giữa hai con đường: hoặc phản anh em Ngô Đình Diệm, theo phe đảo chính, hoặc chết. Dương Văn Minh và các tướng lĩnh chóp bu trong “Hội đồng quân nhân cách mạng” Trước đông đảo tướng lĩnh của cái Hội đồng quân nhân cách mạng vừa tuyên bố thành lập, Lê Quang Tung đã từ chối thẳng thừng và lớn tiếng mạt sát: “Tụi bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú quí, lạy lục để được Tổng thống Diệm ban ơn mà nay lại giở trò bất nhân bất nghĩa...”. Đến đó, theo lệnh Dương Văn Minh, Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai tên thuộc hạ của Nhung đã xô tới kè chặt vai Lê Quang Tung lôi ra khỏi phòng họp. Tung bị ba tên đồ tể lôi ra nghĩa trang Bắc Việt tương tế nằm ngay sau lưng Bộ Tổng Tham mưu và đâm nát người bằng dao găm, vùi xác ngay tại chỗ không quan tài hay bó liệm gì cả. Nghe tin anh mình bị bắt, Thiếu tá Lê Quang Triệu vội chạy đến Bộ Tổng tham mưu hỏi thăm tin tức và cũng chịu chung số phận. Triệu rất khỏe, dù bị đâm vẫn vẫy vùng chống cự quyết liệt. Phải vất vả lắm, Đại úy Nhung và hai tên thuộc hạ mới giết được anh ta và chôn sơ sài bên cạnh chỗ người anh mới bị vùi xác. Rất nhiều sách báo viết về sự kết thúc của nền đệ nhất Cộng hòa đã mô tả những chi tiết này. Trong hầu hết hồi ký của các tướng lĩnh Sài Gòn dự phần đảo chính, những người từng có mặt và chứng kiến vụ việc, cái chết của Lê Quang Tung đều được xác nhận. Người ra lệnh, kẻ trực tiếp thực hiện việc hạ sát anh em Tung, Triệu đều được điểm mặt, chỉ tên. Vì thế, chúng tôi đã hết sức ngạc nhiên và hoài nghi trước thông tin Lê Quang Tung còn sống, núp dưới cái tên giả là Đinh Đồng Phủ mà ông Phan Bảo Thạch và một số người khác đưa ra. Thế nhưng, câu chuyện mà ông Thạch thuật lại mang nhiều yếu tố ly kỳ, nghe qua cũng khá có cơ sở. Người bạn tù bí ẩn Cuối năm 1976, vì tội tổ chức đưa người vượt biên trái phép, Phan Bảo Thạch bị chính quyền Cách mạng bắt giam tại Trại giam Chí Hòa, chung khu giam giữ với một số đối tượng sĩ quan, viên chức chế độ cũ bị bắt học tập cải tạo. Những ân oán, xích mích trong trại giam đã dẫn đến việc Phan Bảo Thạch bị bạn tù đâm lén. May mắn thoát chết, anh được đưa ra trạm xá trại giam điều trị vết thương. Chung buồng bệnh với anh là một người tù bị lao phổi nặng, có lẽ đã chuyển thành ung thư đang nằm chờ chết, người teo tóp chỉ còn da bọc xương. Trong hồ sơ khai báo tại trại, ông ta tên là Đinh Đồng Phủ, 50 tuổi. Tuy nhiên bệnh tật đã khiến bề ngoài ông ta già yếu hơn nhiều Dù hơi thở chỉ còn thoi thóp, nhân vật này vẫn cố duy trì một lịch biểu sinh hoạt đều đặn, gần như bất di bất dịch. Ông ta thường dậy rất sớm và thức rất khuya để đọc kinh, dù chẳng đọc ra hơi. Không hiểu nghĩa nhưng ông Thạch cũng đoán được là ông ta đọc bằng tiếng Latin. Tình trạng bệnh tật của người bạn tù khiến Phan Bảo Thạch có sự xót thương. Khi vết thương của bản thân đã tạm ổn, anh thường hay giúp đỡ người bạn chung buồng những việc lặt vặt như rót nước, bón cháo, cho đến những việc chẳng ai muốn như đổ bô, dọn vệ sinh... Có lẽ sự tử tế của Thạch đã khiến bộ xương di động kia cảm động. Một hôm, ông ta thều thào gọi Phan Bảo Thạch lại ngồi bên mép giường và dặn dò đứt quãng: - Anh là người tốt. Tôi cho anh biết một bí mật. Cứ đem việc này báo với cán bộ trại giam, có lẽ anh sẽ được sớm ra tù. Tôi là Lê Quang Tung, nguyên Tư Lệnh LLĐB dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Câu chuyện của người tự xưng là viên tư lệnh thuở nào đẫm màu sắc huyền hoặc. Theo đó, Lê Quang Tung không chết dưới tay dao của Đại úy Nguyễn Văn Nhung và hai thuộc hạ mà bị hành quyết bằng súng kê vào ngực bắn gần bởi Đại úy Lê Minh Đảo, người đến gần tàn cuộc chiến đã được gắn lon tướng, nổi tiếng với câu tuyên bố: “Tôi sẽ chết trên thành phố Huế, Việt cộng muốn chiếm thành phố Huế phải bước qua xác tôi”, sau đó bỏ mặc quân tướng chạy trốn nhưng không thoát. Sau khi bị hành quyết, Lê Quang Tung bị hai tên hạ sĩ quan khiêng xác vứt cạnh một chiếc thiết vận xa đang đậu ngay bên hàng rào Bộ Tổng Tham mưu. Tuy nhiên, Tung chỉ bị thương rất nặng nhưng không chết. Người của Hắc Long, Cơ quan Tình báo Nhật Bản đã tìm thấy và cứu sống ông ta, sau đó bí mật đưa về Nhật Bản dưỡng thương. Tung bình phục, theo sự sắp xếp của Hắc Long, ông ta được ngụy tạo một lý lịch mới mang tên Đinh Đồng Phủ và đưa sang Thái Lan, Philippines làm việc với vai trò một chuyên gia quân sự của khối Hiệp ước phòng thủ chung Đông Nam Á (SEATO). Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đinh Đồng Phủ đã đeo lon... Trung tướng SEATO. Ông ta được SEATO đưa vào Việt Nam để bí mật tổ chức các hoạt động phá hoại, gây bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Ông Thạch là người đầu tiên được Đinh Đồng Phủ cho biết đầy đủ danh phận thật. Đằng nào sự sống của Đinh Đồng Phủ, tức Lê Quang Tung, cũng chỉ được tính bằng ngày, chẳng còn gì phải lo lắng nữa. Nếu là một trường hợp khác, có lẽ “câu chuyện làm quà” của người bạn tù sẽ bị ông Thạch bỏ qua dễ dàng. Nhưng nhân vật Lê Quang Tung thì khác. Sau đảo chính, cái chết của Lê Quang Tung đã được nhắc đến rất nhiều nhưng không thống nhất. Nhiều người từng có người thân là nạn nhân của những cuộc bắt cóc, ám sát, tra tấn dã man dưới thời đệ nhất Cộng hòa nhắc đến cái chết thảm khốc của anh em Tung, Triệu, những hung thần của chế độ với một thái độ hả hê không giấu giếm. Những người chịu nhiều ân sủng của chế độ Ngô Đình Diệm thì thường nhắc đến Tung như một sự luyến tiếc chế độ, lấy sự trung thành với nhà Ngô của ông để làm cớ bài xích, mạt sát những nhân vật tai to mặt lớn từng dự mưu đảo chính mà họ không ưa. Đầu năm 1971, khi xuất bản cuốn sách “Công dân áo gấm” viết về cựu đại sứ Henry Cabot Lodge, người được xem như “phù thủy” đã bật đèn xanh cho cuộc đảo chính hạ anh em ông Diệm, tác giả Lê Tử Hùng đã úp mở tuyên bố là có đủ bằng chứng chứng tỏ Lê Quang Tung còn sống. Những người còn luyến tiếc nhà Ngô và bất mãn với nền đệ nhị Cộng hòa miền Nam lại có chỗ bám víu để tự huyễn hoặc mình trong một giấc mơ quyền lực. Ngược lại, những kẻ đã trót nhúng tay vào máu thì vừa lớn tiếng bác bỏ, vừa hồi hộp nghe ngóng thực hư. Với ông Thạch, sự quan tâm còn vì những lý do riêng, bởi tuy nhỏ tuổi hơn, ông cũng đã từng là bạn của Thiếu tá Lê Quang Triệu. Ít nhiều, hiểu biết chắc chắn về kết cục số phận của anh em người bạn thuở nào cũng là điều mà ông rất mong muốn. Tuy nhiên, câu chuyện của Đinh Đồng Phủ lại dường như quá hoang đường nên ông Thạch không vội tin ngay. Để kiểm tra, Phan Bảo Thạch đã đem toàn bộ câu chuyện kể lại với linh mục Giuse Trần Hữu Thanh, lúc đó cũng đang bị cải tạo tại Trại Chí Hòa. Ở miền Nam, linh mục Trần Hữu Thanh là một người rất nổi tiếng, có uy tín cả trong Giáo hội Thiên Chúa giáo lẫn trong đời sống thế tục của xã hội và chính trường. Năm 1974, cha Thanh là người đứng đầu một nhóm 301 linh mục ký tên vào bản tuyên ngôn chống tham nhũng ở miền Nam. Ông chính là người phát hiện và đấu tranh quyết liệt chống âm mưu tẩu tán 16 tấn vàng trong ngân khố quốc gia ra nước ngoài của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Với gia đình Lê Quang Tung, cha Thanh cũng rất thân thiết. Ông chính là cha chủ lễ thay mặt Chúa tác thành cho cuộc hôn nhân của vợ chồng Lê Quang Tung. Không mấy tin tưởng việc Lê Quang Tung còn nhưng linh mục Trần Hữu Thanh lại cung cấp thêm cho ông Thạch một số thông tin đầy nghi hoặc. Dù Lê Quang Tung được ghi nhận là đã bị thanh toán một cách bi thảm, gia đình, bạn hữu của viên tư lệnh vẫn không hề tổ chức tang lễ, cải táng hay bất kỳ một nghi lễ tôn giáo nào cho ông ta. Không khí trong gia đình Lê Quang Tung sau đó cũng chẳng quá nặng nề tang tóc như thường gặp ở những gia đình có nạn nhân chết thảm khác. Hơn thế nữa, cuộc sống của vợ và con Lê Quang Tung cũng không vì thiếu chồng, cha mà quá chật vật. Hằng năm, vợ Lê Quang Tung vẫn nhận được một khoản trợ cấp không nhỏ nhưng từ đâu gửi đến thì cha Thanh không biết. Mặt khác, khi Tung bị hạ sát, người vợ của ông ta cũng chỉ mới trên dưới 30 tuổi nhưng nhiều năm sau đó vẫn không tái giá. Những biểu hiện trong gia đình rõ ràng là giống như Lê Quang Tung chỉ đi vắng lâu ngày chứ không phải đã bỏ mạng. Không có cơ hội gặp mặt Đinh Đồng Phủ, cha Thanh không khẳng định nhưng cũng không bác bỏ việc ông ta có phải Lê Quang Tung hay không. Tuy nhiên, nếu đúng đó thật sự là Lê Quang Tung thì ở anh ta phải có hai điều. Một là trên đùi trái của anh ta phải có một vết thẹo do đạn bắn. Thứ hai, là một thầy tu xuất, Lê Quang Tung sẽ rất thông thạo tiếng Latin. Để kiểm tra, cha Thanh bày cho Phan Bảo Thạch một vài câu tiếng Latin mà ông Thạch không hiểu nghĩa, dặn ông lựa lúc vờ buột miệng nhắc đến trước mặt Đinh Đồng Phủ. Nếu là Lê Quang Tung, ông ta sẽ chắc chắn chỉ trả lời lại bằng tiếng Latin với những câu tương ứng. Phan Bảo Thạch đã thử. Quả thật, Đinh Đồng Phủ có đủ cả vết đạn lẫn những câu trả lời tiếng Latin trôi chảy mà không cần suy nghĩ. Bí mật chưa được làm sáng tỏ thì vết thương của ông Thạch đã lành. Ông được rời bệnh xá và không lâu sau đó cũng được trả tự do. Những mối băn khoăn về Đinh Đồng Phủ - Lê Quang Tung cứ nhạt dần. Trong thâm tâm, ông đinh ninh Đinh Đồng Phủ cũng đã chết từ lâu vì bệnh tật. Sự thật về một bóng ma Mãi đến cuối năm 2004, qua báo chí, ông chợt gặp lại cái tên Đinh Đồng Phủ. Sự trùng hợp bởi cái tên không mấy phổ biến đã thôi thúc ông trở lại với hành trình xác minh một thân phận. Ông Thạch cho rằng, nếu quả thật người bạn tù Đinh Đồng Phủ ngày xưa còn sống và chính là Đinh Đồng Phủ vừa bị bắt năm 2004, rất có thể hành vi móc nối đưa người đi Mỹ trái phép của ông ta sẽ mang những âm mưu, mục đích khác lớn hơn nhiều so với hành vi lừa đảo giấy tờ chỉ vì động cơ trục lợi. Đối với ông Thạch, dường như việc cơ quan Lãnh sự quán Hoa Kỳ quá nhanh chóng trong việc khẳng định Đinh Đồng Phủ không liên quan gì đến cơ quan này dường như là không bình thường. Cộng hết thảy những điều bất thường, mối nghi hoặc về việc Lê Quang Tung, kẻ dự phần lịch sử còn sống hay đã chết lại một lần nữa trỗi dậy. Tuy nhiên, khi ông có điều kiện về Việt Nam, Đinh Đồng Phủ đã được trả tự do - có vẻ sớm hơn bình thường - và đã quay trở về Mỹ. Tất cả những cơ quan liên quan mà ông tìm hỏi đều không cung cấp thêm được chút thông tin nào để khẳng định hay bác bỏ giả thiết. Nhận thấy mối nghi hoặc của ông Thạch ẩn chứa bên trong nó nhiều tình tiết thú vị, chúng tôi đã bỏ khá nhiều thời gian cùng với ông tìm hiểu, điều tra và đối chứng lại các tư liệu. Tổng thống Ngô Đình Diệm duyệt quân ngũ LLĐB. Từ nguồn thông tin tìm hiểu từ một số đơn vị liên quan thuộc Bộ Công an, chúng tôi có thể khẳng định vụ việc Đinh Đồng Phủ năm 2004 đơn thuần chỉ là một vụ án lừa đảo bình thường, không liên quan đến những mưu đồ chính trị như ông Thạch và một số người băn khoăn. Việc lên tiếng của cơ quan Lãnh sự quán Mỹ chỉ là một thủ tục xử lý thường vụ bình thường theo qui tắc ngoại giao. Rất có thể hai nhân vật mà ông Thạch từng biết chỉ tình cờ trùng đủ họ tên, bởi nếu so tuổi tác, Đinh Đồng Phủ ông gặp ở bệnh xá Chí Hòa lớn hơn Đinh Đồng Phủ lừa đảo năm 2004 từ 6 đến 10 tuổi. Những hồ sơ tài liệu của chế độ Việt Nam Cộng hòa còn được Bộ Công an lưu trữ cũng cho thấy chẳng có gì phải nghi ngờ về việc viên Tư lệnh Lê Quang Tung đã chết năm 1963 đúng như nhiều sách báo đã mô tả. Khi đưa ra một câu chuyện ly kỳ về hành trình che giấu thân phận từ Lê Quang Tung thành Đinh Đồng Phủ, người bệnh phạm lao phổi nặng ở Trại Chí Hòa đã quên mất khá nhiều điều bất hợp lý. Nhằm mục đích “ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản”, dưới sự chủ xướng của Hoa Kỳ, ngày 8/9/1954, Tổ chức Phòng thủ, hợp tác kinh tế Đông Nam Á - Thái Bình Dương (Southeast Asia Treaty Organization, viết tắt là SEATO) đã được thành lập, với sự tham gia của 8 thành viên gồm Hoa Kỳ, Australia, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippines và Thái Lan. Nhật Bản hoàn toàn không có tên trong hiệp ước này, cho nên việc cơ quan tình báo Hắc Long “bố trí” để thay tên đổi họ đưa Lê Quang Tung vào làm “chuyên gia” tại SEATO là điều không thể xảy ra. Trong thực tế, với một hiến chương không ràng buộc các quốc gia thành viên phải giúp đỡ lẫn nhau chống lại một mối đe dọa quân sự, SEATO cũng chỉ là một liên minh lỏng lẻo. Từ năm 1967, Pháp đã rút tên khỏi hiệp ước này. Tính chất liên minh của nó, sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam cũng nhanh chóng trở nên lỗi thời, dẫn đến việc các quốc gia thành viên đồng thuận giải tán liên minh vào ngày 30/6/1977. Chính vì thế, chẳng làm gì có cái gọi là “quân hàm Trung tướng SEATO” như Đinh Đồng Phủ tự nhận. Có chăng, cấp bậc này chỉ nằm trong trí tưởng tượng vụng về và hiểu biết sứt mẻ của một kẻ bạo loạn sắp chết vì lao phổi! Tóm lại, Lê Quang Tung không chết trong biến cố 1/11/1963 chỉ là điều tưởng tượng và bịa đặt. Mà giả sử viên Tư lệnh LLĐB, rồi Trung tướng SEATO còn sống thật đi chăng nữa chắc tư cách, điều kiện ông ta cũng chẳng thảm hại đến mức tự biến mình thành một tay lừa đảo vì tiền tầm thường để rồi bị bắt như Đinh Đồng Phủ của vụ án năm 2004! Kiểm tra mọi chứng cứ, chúng tôi cho rằng, mục đích chính của một giả thuyết to tát và ly kỳ hóa ra lại chỉ nhằm một mục đích vụ lợi bé mọn và thiển cận. Vào thời điểm năm 1977, kinh tế khó khăn, năng lực y tế của Việt Nam còn hạn chế, thuốc men thiếu thốn, bệnh lao phổi thậm chí đã sắp chuyển sang ung thư như Đinh Đồng Phủ xem ra đã là quá trầm trọng, khó hy vọng có thể cứu sống. Trong tuyệt vọng, niềm ham sống đã khiến ông ta thu hết tàn lực bịa ra một câu chuyện về một nhân vật dự phần lịch sử quan trọng, hy vọng sự quan tâm đối với vai trò của nhân vật sẽ khiến ông ta được hưởng sự chăm sóc y tế tốt hơn, được cứu sống. Nếu trực tiếp bịa đặt thân phận với cơ quan an ninh, ông ta dễ bị lật tẩy hoặc dễ bị bỏ qua. Đánh đường vòng sang ông Phan Bảo Thạch, một bạn tù khác, đó chính là cách làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện bịa đặt, tăng cao cơ hội thành công để được quan tâm. Có thể nhân vật Đinh Đồng Phủ của thời điểm đó đã từng quen biết, hoặc từng là thuộc hạ của Lê Quang Tung nên ông ta có được một số hiểu biết về viên Tư lệnh để dựng nên câu chuyện mạo nhận. Đáng tiếc, hiểu biết của ông ta về nhân vật, lịch sử, cơ cấu các tổ chức chính trị lại không tỷ lệ thuận với ao ước. Ông ta cũng quên mất rằng, bất kỳ một tù nhân nào cũng được chăm sóc y tế như nhau, trong điều kiện chung có thể cho nên nỗ lực bịa đặt chỉ là công việc vô ích. Một điều không thể thay đổi là lịch sử chỉ có một, không có chữ “nếu”. Không ít thế lực, không ít cá nhân, vì không hiểu hoặc cố tình không hiểu điều đó, vẫn cố tình bám víu vào những hoài niệm và hy vọng hão huyền để cố giải thích hoặc tìm kiếm một vài cơ hội thay đổi mơ hồ, đi ngược vòng quay lịch sử. Đó chính là mảnh đất màu mỡ để những câu chuyện hoang đường mượn vay sự thật có thể tồn tại. Đó cũng chính là lý do để bóng ma của viên Tư lệnh LLĐB Lê Quang Tung còn có thể lởn vởn và ám ảnh tâm trí một số người, nhất là những người mà sự nghiệp, cơ hội đã không còn nữa. Sự thực, ông ta đã chết
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 18, 2009 18:34:20 GMT 9
Nhớ ngày 1-11-1963: Tại sao có cuộc Đảo Chánh lật đổ Ông Ngô Đình DiệmTác Giả Phan Đức MinhĐăng ngày hôm nayChính trị Việt Nam Phan Đức Minh - 78 tuổi (2009), cựu Thẩm Phán Quốc Gia, Thiếu Tá Phó Uỷ Viên Chính Phủ Toà Án Quân Sư Mặt Trận Quân Khu I / VNCH, Cố Vấn Pháp Luật cuả nghiệp đoàn ký giả miền Trung Việt Nam. Đi tù cải tạo trên 12 năm. Định cư tại San Diego, California năm 1992. Ba năm liền 1995 - 1996 - 1997 đoạt 3 giải “ Outstanding Poetry Prizes “ cuả các Hội Nhà Thơ Hoa Kỳ và Quốc Tế. Đoạt giải thứ 16 về văn Học vào Tết Kỷ Sửu, 2009 tại Toronto - Canada. Nay là : - Member of the International Society of Poets - 1997. - Outstanding Figure in Literature 2004 of Asian Community & ASIA Journal in San Diego. - Winner of 16 Literary Prizes, 5 of which are American & International ones (1- 2009). Lời tác giả : Loạt bài 3 bài viết này : A - Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đình Diệm? B - Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đình Diệm. C - Ai ra lệnh giết hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu ? Tại sao ?, chỉ viết về cuộc đảo chánh ông Ngô Đình Diệm mà thôi, còn thời gian trước đó, mọi vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội... được viết trong những bài khác.1- Tình hình trước khi xẩy ra cuộc Đảo Chánh : * Những tháng giữa năm 1960, Ông Diệm với tư cách Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, đi thăm các Bộ Tư lệnh Quân Khu I - 2 - 3 - 4 và Quân Khu Thủ Đô để nói chuyện với các Sĩ Quan thuộc các Quân Binh Chủng về một vấn đề vô cùng quan trọng : Người Mỹ muốn đổ các đơn vị tác chiến (Combatant Units) cuả họ vào lãnh thổ Nam Việt Nam để đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong công cuộc chiến đấu chống cộng sản trên chiến trường này... Tại Hội trường Bộ Tư lệnh Quân Khu I, Đà Nẵng, trước mặt rất đông Sĩ Quan : cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, Ông Diệm đã nói rõ ý chí cuả Ông là nhất định không chấp nhận cho người Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam mà chỉ chấp nhận vai trò cuả người Mỹ trong nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Ông nói : "Chúng ta cần có sự cố vấn và huấn luyện cuả Mỹ, chúng ta cần có sự viện trợ quân sự, kinh tế cuả người Mỹ, nhưng chúng ta không cần, và nhất định không chấp nhận để cho người Mỹ chiến đấu thay thế cho chúng ta trong công cuộc bảo vệ Quê Hương, Đất Nước này. Cuộc chiến đấu này không thể đơn thuần giải quyết bằng sức mạnh cuả vũ khí chiến tranh, nhất là bằng một đạo quân viễn chinh từ một quốc gia khác kéo đến. Nếu người Mỹ làm việc đó, chúng ta sẽ mất hết chính nghiã, mất sự hậu thuẫn cuả nhân dân, tôi sẽ trở thành Tổng Thống bù nhìn và anh em, các Sĩ Quan, sẽ chỉ còn là những kẻ đánh thuê cho ngoại quốc... Ông nói thật nhiều, với tất cả tấm lòng và trái tim cuả Ông. Rồi ông kêu gọi tất cả các Sĩ Quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, đã từng nêu cao tinh thần anh dũng, can đảm trên mọi chiến truờng khắp các Vùng Chiến Thuật (Tactical Areas), hãy cùng Ông bằng mọi giá, giữ vững lập trường, đi đúng đường lối lãnh đạo chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc mà ông đã vạch ra và quyết tâm theo đuổi, bấp chấp mọi sức ép bất cứ từ đâu đếùn! Những cánh tay giơ lên, những tiếng hô vang làm rung chuyển cả Hội Trường Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I- Quân Khu I "Quyết tâm ủng hộ Tổng Thống ! Quyết tâm giữ vững lập truờng chiến đấu cuả Tổng Thống để bảo vệ Tổ Quốc !" Tôi lúc đó chỉ là một Chuẩn Uý hiện dịch, nhưng với cái vốn kinh nghiệm gần 7 năm kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, 2 lần bị Tây bắt nhốt đầu vào tù, và hơn 6 năm chống cộng sản, tôi cũng đủ trí khôn để thông cảm với những khó khăn, nguy hiểm đang đợi chờ Ông Diệm, vị Tổng Thổng đầu tiên cuả nền Cộng Hoà non trẻ tại Nam Việt Nam. Tôi nhìn các Sĩ Quan đàn anh đứng chung quanh, hình như ai nấy đều linh cảm thấy có một cái gì nặng nề, nguy hiểm đang đợi chờ vị Tổng Thống khả kính và can đảm cuả mình. Phải thành thực mà công nhận rằng : vào thời gian đó, dưới sự lãnh đạo cuả Ông Diệm, Quân Đội ra Quân Đội, Tướng Tá ra Tướng Tá, Sĩ Quan ra Sĩ Quan, chớ không có... hổ lốn, bát nháo như một số khá đông cuả những thời gian sau này, sau khi Ông Diệm không còn nưã... Tôi không phải là người công giáo như Ông Diệm , mà chỉ là một quân nhân hiện dịch thuần tuý, nhưng cũng thấy mắt mình nhoà đi. Tôi cầu xin Ơn Trên phù hộ, che chở cho Ông, cũng như cho Đất Nước này... * Ngày 19 - 6 -1960 : Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, Elbridge Durbrow, gửi cho ngoại trưởng Mỹ, Christian Herter ở Hoa Thịnh Đốn 1 điện văn mật thông báo tình hình Sài Gòn : Có thể có 1 cuộc đảo chánh nhằm lật đổ chính quyền cuả Ông Diệm, trong khi đó ở nông thôn, hoạt động cuả cộng sản gia tăng mạnh mẽ... Phần cuối, bản văn kết thúc "Nếu thế đứng cuả Ông Diệm tiếp tục giảm sút, không còn phù hợp với tình thế chính trị, tâm lý, kinh tế và an ninh tại đây nưã thì có thể là điều mà chính phủ Hoa Kỳ nên tính đến những phương cách khác để hành động và thay thế người lãnh đạo hầu đạt đến những mục tiêu cuả chúng ta" ( If Diem's position in the country continues to deteriorate as result failure adopt proper political, psychological, economic and security measures, it may become necessary for US Government to begin consideration for alternative courses of action and leaders in order to achieve our objectives...). * Ngày 11 - 12 tháng 11 - 1960 : Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Lữ Đoàn nhẩy dù và Trung Tá Vương Văn Đông chỉ huy một lực lượng quân sự gồm nhiều Tiểu Đoàn nhẩy dù và 1 đơn vị Thuỷ Quân Lục Chiến, bao vây dinh Tổng Thống để làm một cuộc đảo chánh với lý do được công bố trên đài phát thanh Sài Gòn đã bị quân đảo chánh chiếm giữ "...Ông Diệm đã tỏ ra không đủ khả năng cứu đất nước khỏi họa cộng sản cũng như bảo vệ sự đoàn kết quốc gia... - Diem has shown himself incapable of saving the country from Communism and protecting natinal unity..." Biết rằng cuộc âm mưu đảo chánh này không do những nhân vật chính trị có danh tiếng, không có hậu thuẫn chính trị thực sự cuả dân chúng, không có sự tham gia cuả các Tướng Lãnh cũng như lực lượng quân đội dưới quyền cho nên Ông Diệm tạo thế trì hoãn, thoái thác nhượng bộ trước sự đòi hỏi cuả phe đảo chánh là từ bỏ chính quyền và đợi cho các lực lượng quân đội, hầu hết vẫn còn trung thành với ông, từ các nơi kéo về dẹp loạn. Cuộc đảo chánh bất thành vì quá non kém về tổ chức, lãnh đạo cũng như đường lối chinh trị và quân sự. Tuy nhiên cuộc đảo chánh bất thành này đã đem lại cho chính quyền cuả Ông Diệm những bài học quan trọng : A.- Cộng sản càng tích cực tung cán bộ vào thành phố khai thác những mâu thuẫn, bất đồng giưã chính quyền và các nhân vật , các nhóm chống đối tại thành thị. Những mâu thuẫn này tất nhiên phải có trong hoàn cảnh miền Nam Việt Nam đang phải thực hiện một xã hội tương đối tự do, dân chủ, phồn thịnh ( hơn hẳn miền Bắc ), cùng một lúc phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lăng, phá hoại toàn diện cuả cộng sản Hà Nội, được chỉ đạo và yểm trợ từ Mạc-Tư-Khoa cũng như từ Bắc Kinh, theo "Đường lối cách mạng vô sản toàn cầu cuả Đệ Tam Quốc tế -Global Proletarian Revolution Policy of the Third International " B.- Thi hành 1 đường lối vô cùng khó khăn khả dĩ đáp ứng được nhu cầu cuả tình thế : * Giữ vững chính quyền đang bị âm mưu khuynh đảo từ bên ngoài do bọn tài phiệt quốc tế, ở bên trong thì do cộng sản chỉ đạo. Ngay trong nội bộ hàng ngũ quốc gia cũng có những phần tử ham danh, hám lợi cũng như quyền lực đang chờ đợi thời cơ để hành động. * Giữ vững tinh thần kỷ luật và lòng trung thành cuả quân đội, là sức mạnh bảo vệ chính quyền, chế độ. Đồng thời giữ vững sự đoàn kết các tôn giáo là sức mạnh hậu thuẫn cuả nhân dân, nhưng cả hai : Quân Đội và Tôn giáo lại là những mục tiêu quan trọng nhất mà cả 3 lực lượng chống phá nói trên ( Tài phiệt quốc tế, cộng sản và các nhóm chống đối trong nước ) đang nhắm vào để tạo ra một động lực làm nổ bùng một cuộc đảo chánh khác, có tầm vóc quy mô, có tổ chức tinh vi và cao cấp hơn cuộc đảo chánh đã thất bại một cách dễ dàng ngày 11 tháng 11 năm 1960. * Ngày 20 -12 - 1960 : Để đánh lưà dư luận quốc tế, để thu hút các nhóm chống đối và lôi kéo nhân dân Miền Nam, cộng sản Hà Nội tuyên bố chính thức cho ra mắt công khai Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam tại 1 Chiến Khu ( Strategic War Zone ) cuả cộng sản tại phiá Đông cuả Nam Việt Nam, thành phần bao gồm chừng 100 nhân vật nói là đại diện cho các nhóm chính trị đối lập với chính quyền, đại diện cho các tôn giáo có mặt tại Nam Việt Nam, các lực lượng vũ trang còn sót lại sau khi bị quân chính phủ đánh tan trong các chiến dịch hành quân tại miền Tây trước đó vài ba năm. Mặt trận này thực sự đặt dưới quyền lãnh đạo cuả một cán bộ cao cấp cuả Hà Nội , thuộc Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng ( Political Bureau of the Party's Central Committee ) . Ngày 1 tháng 4 - 1961 : Cộng sản tung 1 Tiểu Đoàn chủ lực quân, có du kích địa phương tăng cường, gồm hơn 400 quân, tấn công thử sức vào 1 ngôi làng chiến đấu kiểu mẫu cuả " Quốc sách ấp chiến lược - National policy of Strategic Hamlets" thuộc Tỉnh Kiến Hoà, nhưng bị quân đội Cộng Hoà đánh tan và bị thiệt hại nặng nề. Hai ngày sau, cộng sản thử sức lần nưã bằng cách tấn công vũ bão và bất ngờ vào khu vực bến cát, phiá Bắc Sài Gòn, nhưng hơn 100 quân cộng sản bị quân Cộng Hoà tiêu diệt, bỏ xác tại trận. Cộng sản buộc phải đổi hướng, tập trung nỗ lực vào những hoạt động võ trang phá hoại tại các thành phố, tung cán bộ len lỏi vào trong các tầng lớp nhân dân, hàng ngũ tôn giáo có đông đảo quần chúng để tìm cơ hội gây xáo trộn chính trị tại các thị trấn, nơi tập trung đông đảo dân cư, làm suy yếu chính quyền Miền Nam thay vì nôn nóng giành chiến thắng quân sự để hỗ trợ cho các hoạt động chính trị và ngoại giao. Ngày 12 -5 -1961 : Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson , trong cuộc viếng thăm Á Châu, đã gặp Tổng Thống Diệm tại sài Gòn. Ông Johnson ca tụng Tổng Thống Diệm là một Churchill cuả Á Châu và nói, "Đối với thế đứng cuả Hoa Kỳ tại Á Châu, Tổng Thống Diệm là nhân vật, là người bạn không thể thiếu được." Tuy nhiên, khi trở về Mỹ, ông Johnson lại báo cáo cho Tổng Thống Kennedy cũng như cho các nhân vật chính trị cao cấp biết rằng : Ông Diệm vẫn giữ vững lập trường không có quân chiến đấu cuả Hoa Kỳ tại Việt Nam, trừ phi cộng sản Hà Nội xua quân tràn qua vĩ tuyến 17 một cách đại quy mô như cộng sản Bắc Hàn đã xua quân tràn qua vĩ tuyến 38 hồi 1950. "Theo cuốn sách "President Kennedy, Profile of Power", Richard Reeves có nói đến việc : khi đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting, theo lệnh của Tòa Bạch Ốc, đến gặp Tổn Thống Diệm để nói về việc Hoa Kỳ muốn chia sẻ trách nhiệm với Việt Nam Công Hoà về những quyết định chính trị, quân sự, kính tế, (nói theo cách văn vẻ, nhẹ nhàng của nhà ngoại giao). Tổng thống Diệm đã nói thẳng: "Chúng tôi không muốn trở thành một xứ thuộc địa của Hoa Kỳ." * Ngày 18 - 9 - 1991 : Cộng sản bất thần mở trận đánh lớn cấp Trung Đoàn ( Regiment ), tung 1,500 quân bao vây và đành chiếm Tỉnh Lỵ Phước Vinh, sau khi đã mở chiến dịch gồm 41 trận đánh lớn nhỏ trên khắp lãnh thổ Miền Nam để áp đảo và chia sẻ lực lượng đối phương. Sau đó 3 tuần lễ, tại diễn đàn Quốc Hội, Tổng Thống Diệm chính thức tuyên bố với quốc dân và thế giới là Việt Cộng, với sự chỉ đạo và yểm trợ cuả cộng sản quốc tế đã chính thức biến cuộc chiến tranh du kích trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà thành một thứ chiến tranh xâm lăng quy mô thực sự, có sự tham chiến cuả quân chính quy cộng sản, được trang bị tối tân và hùng hậu... ****************** CỤC ĐỊCH VẬN CỦA CỘNG SẢN HÀ NỘI NHÚNG TAY VÀO VỤ ĐẢO CHÁNH 1963Ở vào thời điểm 1958, Cục Trưởng Cục Địch Vận của cộng sản Hà Nội là Võ Văn Thời, 40 tuổi, xuất thân là người miền nam, tập kết ra Bắc 1954. Võ Văn Thời lúc còn trẻ, có một người bạn rất thân trước khi tập kết ra bắc là Dương Văn Nhật thường được gọi là anh Ba Nhật. Chính Võ Văn Thời là người móc nối Dương Văn Nhật tham gia kháng chiến Nam bộ, rồi sau đó Dương Văn Nhật trở thành đảng viên cộng sản. Năm 1954 Dương Văn Nhật cũng tập kết ra Bắc. Dòng họ Dương vốn từ miền Bắc. Đời Vua Gia Long, 3 anh em nhà họ Dương bỏ miền Bắc vào Nam sinh sống. Ông Tổ của Dương Văn Nhật định cư tại vùng Đồng Tháp Mười. Người thứ hai định cư tại vùng U Minh, và người thứ ba định cư tại vùng Bà Rịa, Vũng Tàu. Thân Phụ của Dương Văn Minh làm Đốc học thời kỳ Pháp. Ông ta dạy lớp nhất Cours Superieur, ở một trường tiểu học Phú Lâm, Chợ Lớn, sau đó được Triều đình Huế bổ đi làm Tri Huyện. Ông ngoại của Dương văn Minh làm quan đến chức Tri Phủ của Triều đình nhà Nguyễn. Dương Văn Minh có 3 anh em trai: Người đầu là Dương Văn Minh, Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Người giữa là Dương Văn Nhật tức anh Ba Nhật bí danh Mười Ty, Thiếu Tá quân đội Nhân dân cộng sản Hà Nội. Người nhỏ nhất là Dương Văn Sơn, Trung Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong công tác địch vận, Cục Trưởng Võ Văn Thời tìm kiếm trong số hồ sơ của 80 ngàn cán binh và cán bộ Miền Nam đã tập kết ra Bắc vào năm 1954, những ai hiện có thân nhân ở Miền Nam và hiện đang giữ những chức vụ quan trọng, hoặc có cấp bậc cao trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, để tổ chức móc nối, tuyển mộ, làm nội tuyến cho Cục Địch Vận. Võ Văn Thời tìm ra người bạn thân của mình là Dương Văn Nhật đã tập kết ra Bắc từ 1954 và hiện đang phục vụ trong Sư Đoàn Nam Bộ, có anh ruột là Dương Văn Minh, Trung Tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cục Trưởng Địch Vận Võ Văn Thời đã gặp Dương Văn Nhật nêu rõ ý định của Cục Địch Vận. Dương Văn Nhật nhận lời, và liền ngay khi đó Dương Văn Nhật từ giã Sư Đoàn Nam Bộ theo Võ Văn Thời về Cục Địch Vận tại Hà Nội để được huấn luyện trở thành một điệp viên. Hai tháng sau, Dương Văn Nhật tốt nghiệp khóa huấn luyện cho một điệp viên hoạt động đơn tuyến trong lòng địch, bao gồm nhiều khả năng chuyên môn như: Chụp ảnh, sang ảnh, lái xe, mật mã, xử dụng điện đài truyền và nhận tin, báo cáo và phân tích tình hình địch v.v… Theo quy định của chính phủ Hà Nội mỗi cán binh của Quân đội Nhân Dân trước khi lên đường đi B (vào miền Nam) làm nghĩa vụ, họ đều được thăng một cấp. Thiếu Tá Dương Quang Nhật tức anh Ba Nhật, bí danh Mười Ty trước ngày lên đường vào Nam được đặt cách thăng Trung Tá. Cục Tình Báo Chiến Lược và Cục Địch Vận của cộng sản Hà Nội thường gởi những điệp viên quan trọng của họ xâm nhập vào địa bàn hoạt động tại miền Nam bằng nhiều cách: 1- Đổi quốc tịch, trả tiền cho các thuyền trưởng các tàu buôn quốc tế để điệp viên của họ đóng vai thủy thủ, khi tàu cập bến Sài Gòn, lẻn lên bờ sẽ có cơ sở đón. 2- Nhờ Sứ Quán của Tàu cộng tại Campuchia tiếp tay bằng cách điệp viên của Hà Nội đóng vai là thương gia người Tàu, hay nhân viên của Sứ quán, và sau đó Sứ quán Tàu cộng sẽ tìm cách đưa điệp viên nầy về vùng Chợ Lớn an toàn. 3- Đưa điệp viên sang Thái Lan, và tại đây các tổ tình báo của cộng sản Hà Nội đưa điệp viên của họ xâm nhập địa bàn hoạt dộng nam Việt Nam bằng những giấy tờ tùy thân giả. Thế nhưng lần nầy để đánh lạc hướng theo dõi của Tình báo Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Hùng Thủ Trưởng Tổng Cục Chính Trị và Võ Văn Thời quyết định đưa Dương Văn Nhật xâm nhập vào Nam Việt Nam bằng cửa ngõ bình thường mà các đoàn cán binh của họ thường dùng là đường mòn Hồ Chí Minh dọc Trường Sơn. Trước giờ lên đường, Cục trưởng Cục Địch Vận Võ Văn Thời nhắc lại những Huấn thị công tác đặc biệt với Trung Tá Dương Văn Nhật tức Mười Ty: 1- Khi vào đến miền nam, Dương Văn Nhật trực thuộc Ban Binh Vận Trung Ương Cục Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. 2- Khi Dương Văn Nhật xâm nhập vào Sài Gòn là địa bàn hoạt động, để bảo đảm an ninh cho bản thân và công tác, Dương Văn Nhật bằng mọi cách vận dụng tình cảm anh em ruột thịt để được ở trong tư dinh của Trung Tướng Dương Văn Minh. 3- Nhiệm vụ của Dương Văn Nhật là tổ chức, móc nối, Trung Tướng Dương Văn Minh cộng tác với Cục Địch Vận. 4- Thâu lượm, khai thác mọi tin tức quân sự, chính trị, ngoại giao từ Trung tướng Dương Văn Minh. 5- Sao chép và hoặc chụp hình lại tất cả các tài liệu mật có tại tư thất Trung Tướng Dương Văn Minh. Cuối năm 1960, Trung Tá Dương Văn Nhật tức anh Ba Nhật, bí danh Mười Ty từ Cục Địch Vận Hà Nội lên đường xâm nhập vào nam Việt Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh. Đặt chân đến Ban Binh Vận Trung ương Cục Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Dương Văn Nhật liền bắt liên lạc và tiếp xúc với Cậu Tư, người em ruột của mẹ y. Nhật nói rõ ý định với Cậu Tư là y muốn vào Sài Gòn sống với anh hai Dương Văn Minh để an toàn hoạt động. Cậu Tư nhận lời, cậu về Sài Gòn báo cho chị gái mình biết thằng con giữa của bà đã có mặt tại miền Nam và muốn vào Sài Gòn sống với anh hai Minh của nó, bà liền đi gặp anh hai Dương Văn Minh, và anh hai Dương Văn Minh bằng lòng, sắp xếp kế hoạch đón thằng em ruột của từ Ban Binh Vận của Trung Ương Cục Giải Phóng Miền Nam vào Sài Gòn ở trong tư dinh của mình. Hai kế hoạch được đưa ra để đón cán bộ địch vận Dương Văn Nhật vào tư dinh của Trung Tướng Dương Văn Minh tại Sài Gòn, và hai người thi hành kế hoạch nầy không ai khác hơn là vợ của Dương Văn Nhật, và người là em ruột của Dương Văn Nhật tức Trung Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Dương Văn Sơn. - Kế hoạch I. Dương Văn Nhật sẽ đứng chờ ở một nơi nào đó tại vùng giáp ranh vào thành phố, Trung Tá Dương Văn Sơn sẽ đến điểm hẹn đúng giờ mời Dương Văn Nhật lên xe. Thế nhưng kế hoạch nầy có vẻ không qua mặt nhân viên an ninh của Việt Nam Cộng Hòa vì người lạ ngồi trên xe của Trung Tá Dương văn Sơn ở vùng giáp ranh (vùng D, kém an ninh). Hủy bỏ kế hoạch nầy. - Kế hoạch II. Trung Tá Dương Văn Sơn dùng một tài xế có tầm gần giống như Dương Văn Nhật, lái xe chở vợ của Dương Văn Nhật ra vùng giáp ranh, nơi đã quy định trước. Dương Văn Nhật thay thế người tài xế lái xe đưa vợ đến tại địa điểm thứ hai nơi Trung Tá Dương Văn Sơn đang đợi. Riêng người tài xế thì tự kiếm phương tiện rời khỏi vùng. Sau khi gặp Trung Tá Dương Văn Sơn, Dương Văn Nhật trao tay lái lại cho Dương Văn Sơn. Sơn lái xe vào thành phố Sài Gòn đến thẳng nhà Trung Tướng Dương Văn Minh. Ban Binh Vận Trung Ương Cục chấp thuận kế hoạch nầy và bọn họ đã thành công đưa được Trung Tá Việt Cộng Dương Văn Nhật tức anh Ba Nhật, bí danh Mười Ty vào nằm gọn trong tư dinh của Trung Tướng VNCH Dương Văn Minh từ tháng 1/1962 - 30/4/1975 để móc nối lèo lái Trung Tướng Dương Văn Minh hoạt động cho Cộng Sản Hà Nội qua Cục Địch Vận. Trong vòng 13 năm, từ 1/1962 - 30/4/ 1975, Tổ Địch Vận của Trung Tướng Dương Văn Minh, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh [Nguyên Tham mưu Trưởng Quân Đoàn IV Quân lực VNCH], Trung Tá Quân Lực VNCH Dương Văn Sơn và Trung Tá Việt Cộng Dương Văn Nhật thuộc Cục Địch Vận cộng sản Hà Nội đã gây ra bao nhiêu thiệt hại cho nền an ninh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Bao nhiêu bí mật quốc gia, bao nhiêu bí mật quốc phòng, bao nhiêu cuộc hành quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật từ cấp Quân Đoàn, Sư Đoàn đã bị tiết lộ cho cộng sản Hà Nội? Bao Nhiêu sinh mạng của những người lính Việt Nam Cộng Hòa, bao nhiêu sinh mạng của đồng bào vô tội miền Nam đã phải nằm xuống, đã phải trả giá cho sự phản bội Tổ Quốc, phản bội đồng đội, phản bội đồng bào của 3 anh em nhà họ Dương và của tên Nguyễn Hữu Hạnh??? Chúng ta không nắm sự thiệt hại đó là bao nhiêu, thế nhưng chúng ta biết rõ rằng vụ đảo chánh 1963, sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn đã có bàn tay của Cộng sản Hà Nội nhúng vào qua Tổng Cục Địch Vận và qua Trung Tá Việt Cộng Dương Văn Nhật bi danh Mười Ty. Xin bạn đọc hãy đọc một đoạn ngắn cuộc đối thoại giữa hai anh em Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tá Việt Cộng Dương văn Nhật tại tư thất của Dương Văn Minh: “Anh Hai Dương Văn Minh luôn kín đáo, ngoại trừ việc ca ngợi Bác Hồ và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Dương Văn Nhật lên án chế độ Diệm và đề nghị anh Hai Minh nghĩ cách loại trừ Diệm, làm đảo chánh lật đổ Diệm, anh hai nói: Rủi tôi thất bại, chú có đón tôi không? Chú khuyên tôi ra bưng biền, chú yêu cầu tôi lật đổ Ngô Đình Diệm nếu tôi thành công sẽ rất tốt, trong trường hợp tôi thất bại chú có đón được tôi không? Anh Ba Nhật sốt sắng: Em bảo đảm việc đó bất cứ thời gian nào, ngay cả anh ra chiến khu bây giờ mấy anh rất hoang nghênh, anh tin em đi.” Và lệnh đầu hàng buông súng của Dương Văn Minh đối với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chắc chắn cũng phải có sự thúc đẩy của Cục Địch Vận Hà Nội qua người em ruột của Dương Văn Minh là Trung Tá Cộng Sản Dương Văn Nhật. Xin đọc giả hãy đọc những phát biểu, nhận xét, của Võ Văn Kiệt Thủ Tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trong ngày 30/4/2000, về ông Dương Văn Minh liên quan đến lệnh dầu hàng buông súng mà ông Dương Văn Minh với tư cách là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Tư Lệnh Quân Đội gởi cho toàn thể Quân Lực VNCH đang chiến đấu trên khắp các đường phố Sài Gòn Chợ Lớn và vùng IV Chiến Thuật mà Tư Lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam vào 10 giờ sáng ngày 30/4/1975. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhân dịp nầy một lần nữa chúng ta ghi nhận sự đóng góp của đông đảo những người đứng trong hàng ngũ địch từ Trị Thiên đến mũi Cà Mâu, trước sự tấn công và nổi dậy vũ bão của quân và dân ta, đã bỏ vũ khí trở về với nhân dân hoặc vào giờ phút định đoạt đã đi tới những quyết định phù hợp với lợi ích của dân tộc giảm bớt được đổ máu". ************* Đại Tướng : Dương Văn Minh 📷“Tổng thống” Dương Văn Minh trên đường tới đài phát thanh ban lệnh buông súng, sáng 30/4/75 Dương Văn Minh, có bộ mặt phì nộn, không biết thế lực nào xô đẩy, ông ta đứng ra làm quốc truởng, trong ba ngày cuối cùng của miền Nam Việt Nam, ông không có chủ trương nào đáng giá một xu, ông hoàn toàn nương tựa vào Thích Trí Quang, để T T Q, làm cầu nối với mặt trận bù nhìn “Giải Phóng Miền Nam” tạo ra chính phủ ba thành phần! Dương Văn Minh có niềm tin vào CS tới độ khôi hài, trong ba ngày DVM luôn luôn nóng ruột, đi tới đi lui, bồn chồn chờ những cú phone hứa hẹn của “thầy”. Theo lời cán bộ CS Hồ Văn Quang, thẩm vấn Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, trong trại tù Hà Tây, nói về DVM như sau: … “Thực sự hôm nay ở trong tù, tôi nghĩ lại mà thấy thương cho Minh cồ, thích làm Tổng Thống mà khả năng qúa hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện… Ngày lịch sử trong đời làm chính trị của Minh cồ, không phải là ngày nhậm chức TT mà chính là ngày 29.4.1975. Vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh cồ và tôi (Nguyễn Hữu Có) phải đến HOÀNG CUNG ẤN QUANG 5 lần và lần nào cũng với nội dung là “thầy” hứa hẹn một cách chắn chắn, không sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm tối 29.4.75 hay sáng 30.4.1975 sẽ bàn thảo việc thành lập chính phủ liên hiệp. Sở dĩ đêm 29.4.75 có chuyện tôi đi đến Ấn Quang cũng là vì lời hứa miệng của TTQ này. Lúc 2 giờ sáng, chúng tôi phải rời Ấn Quang, trở về Dinh Độc Lập chờ ý “thầy,” mệt mỏi thật. Minh cồ ngồi nơi bàn TT bên cạnh một dàn điện thoại, trong đó có một cái đặc biệt nhất, dễ nhận ra là cái dành riêng cho “thầy”. Đường dây dành cho “thầy” không phải ưu tiên một, mà ưu tiên “super”, có thể nói với Minh cồ nó là “Over Super”. Chúng tôi mỗi người một chỗ ngồi nghỉ, hoặc ngả lưng trên sofa, chờ tin tức phía bên kia họp bàn. Rõ ràng lời “thầy” vừa mới nói: “Tổng Thống cũng như quý ngài đây yên chí, tôi đã cho người liên lạc được với mặt trận giải phóng miền Nam và họ đã gặp riêng tôi nói chắc rằng đã lập xong phái đoàn, đang trên đường đến đây. Vì bí mật nên không cho biết giờ tiếp đón. Quý ngài cứ yên tâm về nghỉ và khi họ đến tôi điện thoại ngay” Ra về, tôi thấy nét mặt của Minh cồ còn hy vọng nhiều., ông Vũ Văn Mẫu thinh thinh ít nói, Lý Chánh Trung đến giờ phút ấy vẫn hớn hở. Riêng tôi thấy tình hình ồn ào lộn xộn tại nội thành Sài Gòn, đã đến lúc phải nổ tung không thể tránh khỏi… 4 giờ 30 phút sáng 30.4.75 Minh cồ sốt ruột không thể chờ thêm được nữa, phải nhắc điện thoại lên xin gặp “thầy”, trong khi tiếng đì đùng của loại súng AK nghe càng rõ mồn một, Minh cồ càng quýnh hơn: - Thưa thầy, tôi TT DVM, muốn biết ý kiến thầy. Sao chờ đến giờ này không thấy gì hết? Anh em chúng tôi đang có mặt hết tại đây. Tình hình hiện tại qúa lộn xộn. Xin thầy quyết định thế nào chớ tôi thấy hoàn toàn bí lối, có lẽ nguy khốn hơn, chớ không thể nói gì với bên kia được… Tiếng Thích Trí Quang rè rè trong điện thoại: - Thưa TT, cũng như TT là tôi vẫn chờ đến giờ này (không biết đây là lời nói thật hay nói dối của ổng) và theo tôi nghĩ với tình thế hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng. Chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xảy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống”. Minh cồ chỉ trả lời gọn lỏn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy. Lúc đó là 5 giờ kém 15 phút sáng 30.4.1975. Hết trích. Minh cồ tin vào TTQ và MTGPMN là chuyện điên rồ, bao năm chinh chiến, không hiểu gì đối phương, giả sử có một chính phủ 3 thành phần, thử hỏi tồn tại đước mấy ngày! DVM kêu gọi buông súng đầu hàng, hay không thì vẫn có ngày 30.4.1975. Nhưng thân làm Đại Tướng, làm Tổng Thống thiết nghĩ nên tránh mặt, bỏ về nhà ngồi chờ VC đến nhà bắt, chắc cũng còn một chút để thiên hạ nể nang, hơn là ngồi chờ… bàn giao, để cuối cùng nghe thằng bộ đội ranh thét mắng: “Không có chuyện bàn giao, cũng không có ai là Tổng Thống ở đây cả, vì chúng tôi đã chiến thắng”. Trước đó ít phút “Dương Văn Minh cùng đồng bọn bị bộ đội chĩa súng vào mặt, và phải tuân lệnh dơ hai tay lên đầu hàng” đó là những chuyện kể đó đây, không đồng nhất vào giờ cuối cùng tại Dinh Độc Lập. Ngày 7 tháng 8 năm 2001 ông Dương Văn Minh đã chết âm thầm tại nam California, Hoa Kỳ. Đám tang diễn ra trong im lặng, ngoài thân nhân, quan khách tham dự chỉ có một mình phản Tướng Tôn Thất Đính.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 18, 2009 18:35:49 GMT 9
Bọn tài phiệt quốc tế, buôn bán chiến tranh, càng thêm cơ hội để tung tiền và thủ đoạn để đưa đám "Lobbyists" vào các hành lang, ngõ ngách cuả Quốc Hội, hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, dọn đường cho một kế hoạch ào ạt đổ quân tác chiến cuả Mỹ và lôi kéo một số đơn vị quân đội Đồng Minh vào chiến trường Nam Việt Nam. Chậm chân là thiệt hại cả núi đô la chớ không phải chuyện đuà. Nhưng, lại tiếng nhưng ở chỗ này ! Nhưng Ông Diệm nhất định không chấp nhận cho quân đội tác chiến cuả Mỹ chiến đấu tại Nam Việt Nam. Còn Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy thì cũng không hăng hái, thiết tha cho lắm với việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào chiến trường Miền Nam trong hoàn cảnh lúc này, không như lúc cộng sản Bắc Hàn xua quân cấp Quân Đoàn ( Army Corps ) tràn qua vĩ tuyến hồi năm 1950, Ông Kennedy vẫn trung thành với "Đường lối ngăn chặn - Containment Policy" để chống lại sự bành trướng cuả phong trào cộng sản trên thế giới từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, bằng những phương cách ít tốn sinh mạng người Mỹ nhất, trừ trường hợp nền an ninh cuả Mỹ bị đe dọa trực tiếp, nghiã là ông Kennedy chỉ chấp nhận hy sinh nhân mạng cuả Mỹ trong " Trường hợp bất khả kháng - In case of absolute necessity" .
Thế thì "chúng nó" bắt buộc phải loại trừ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh đạo Nam Việt Nam trước đã, và sau đó bất cứ kẻ nào làm ngăn trở việc đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào Nam Việt Nam cũng đều bị "chúng nó" xoá sổ hết (kể luôn cả Tổng Thống Mỹ).
* Ngày 2 - 1 -1963 : Tại Aáp Bắc, cách Sài Gòn 40 dậm về phiá Đông Nam, gần 2 Trung Đoàn ( 2,500 quân ) thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, trang bị vũ khí tự động, có xe tăng, thiết vận xa, pháo binh và không quân ( cả khu trục cơ lẫn trực thăng ) yểm trợ, mở cuộc hành quân bao vây, tiêu diệt 1 lực lượng cộng sản gồm chừng I Tiểu Đoàn ( Battalion ) độ 300 quân chủ lực địa phương, với hoả lực yếu kém hơn rất nhiều, lại không có xe tăng cũng như không quân, pháo binh yểm trợ. Kết quả thật là đau buồn : Cộng quân thoát khỏi vòng vây gần như toàn vẹn chủ lực, sau khi đã gây cho quân chính phủ những tổn thất đáng kể.
Thật là một cơ hội bằng vàng để bọn tài phiệt quốc tế dùng ảnh hưởng, sức mạnh cuả đồng đô la để lái các cơ quan truyền thông , hướng dẫn dư luận, gây áp lực tại Hoa Kỳ, từ Quốc Hội cho đến chính phủ phải bằng mọi giá đổ quân tác chiến cuả Mỹ vào Việt Nam ngay lập tức. Nếu không, "Tiền đồn chống cộng" cuả Mỹ tại Á Châu sẽ xụp đổ và "Chính sách ngăn chặn cộng sản" cuả Mỹ trên thế giới sẽ thất bại và "nền anh ninh cuả chính nước Mỹ cũng sẽ bị lâm nguy" Chúng đem câu nói cuả Lenin, Sư Tổ cuả cách mạng vô sản 1917 tại Nga, người đã mở đường cho phong trào cộng sản thế giới bùng ra hết cách ngăn cản sau thế chiến thứ 2, mà dọa cả nước Mỹ "Trước hết, chúng ta hãy chiếm giữ Đông Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á Châu, sau đó bao vây Hoa Kỳ là thành lũy cuối cùng cuả chủ nghiã tư bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa Kỳ cũng sẽ rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rưã - First, we will take eastern Europe, then the masses of Asia, then we will encircle the United States which will be the last bastion of Capitalism. We will not have to attack, it will fall into our hands like an overipe fruit...(The Death of A Nation - John A. Stormer - The Liberty Bell Press - Florissant Missouri, July 1968, Page 14 ).
* Ngày 8 -5 -1963: Bùng nổ vụ rối loạn, chống đối ở Cố Đô Huế, giưã hàng chục ngàn tín đồ Phật Giáo với nhân viên chính quyền địa phương và các lực lượng an ninh. Tổng Thống Diệm tuyên bố trên đài phát thanh quốc gia là vụ này có bàn tay cuả cộng sản nhúng vào, gây thêm tình trạng khó khăn cho địa phương, tạo thêm sự mâu thuẫn trầm trọng giưã chính phủ và 1 tôn giáo lớn trong nước. Cuộc rối loạn ngày càng gay go, dữ dội, quyết liệt và biến sang hình thức "Một tôn giáo lớn nhất trong nước chống lại một hệ thống chính quyền được lãnh đạo bởi 1 Tổng Thống và các nhân vật cao cấp, trọng yếu, đa số là người thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã." Phiá chính phủ thì lên tiếng : Tổng Thống Diệm sử dụng người theo nguyên tắc thông thường cuả các nhà lãnh đạo là căn cứ vào tài năng, đức độ, sự tin cậy, thích hợp cho công việc và lợi ích quốc gia, chớ không phải vì kỳ thị tôn giáo ( Lúc này Cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo, kìm kẹp kẻ đối lập, áp bức dân chúng gấp triệu lần Ông Diệm, mà sao chưa thấy biểu tình, chống đối để lật đổ chính quyền hà ? Chắc là còn sợ và Đại Nguyên Soái Đô La chưa ra quân ! )
Sự rối loạn càng bùng lên dữ đội và lan mạnh tới các thành phố lớn rồi di chuyển trung tâm đấu tranh chống chính phủ về ngay tại Thủ Đô Sài Gòn, nơi tập trung các cơ quan quyền lực quốc gia, các Toà Đại Sứ ngoại quốc, cũng như các cơ sở truyền thông quốc tế. Tại đây, Thượng Toạ Thích Trí Quang, một trong những vị lãnh đạo cao cấp Phật Giáo, gốc người Bắc Việt, được dư luận trong và ngoài nước coi là một nhân vật tôn giáo đặc biệt, có tài tổ chức, lãnh đạo quần chúng trong các hoạt động đấu tranh chính trị... đứng ra phát động và lãnh đạo cuộc đấu tranh cuả dân chúng. Thượng Toạ thông báo cho phiá Mỹ biết là người Mỹ phải chịu trách nhiệm về những hoạt động cuả chính quyền Sài Gòn do Mỹ ủng hộ... ( Thich Tri Quang, a politically sophisticated monk of North Vietnamese origin, twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections, stirs the people against Diem and informs US officials, whom he holds responsible for Diem because of US support).
* Ngày 7 - 6 - 1963: Bà Ngô Đình Nhu lên tiếng tố cáo trước dư luận là người Mỹ đã cố tình nhúng tay vào, tạo nên vụ biến động này và thúc đẩy cho ngày một thêm trầm trọng, phức tạp thêm, nhằm khuynh đảo chính quyền cuả Tổng Thống Diệm vì Tổng Thống Diệm cương quyết không chấp nhận chính sách can thiệp chính trị và quân sự cuả người Mỹ, là chính sách đi ngược lại ý nguyện và quyền lợi cuả dân chúng Nam Việt Nam .
* Ngày 11 - 6 -1963 : Thượng Toạ Thích Quảng Đức tự thiêu ngay tại trung tâm thủ đô Sài Gòn, để phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo cuả chính phủ. Dư luận dân chúng trong nước và thế giới bị xúc động mạnh. Báo chí trong và ngoài nước, các cơ quan truyền thông khác, nhất là tại Mỹ ( đã bị lâm trận hoả mù cuả bọn Lobbyists nói ở trên ) khai thác tối đa vụ này theo chiều hướng "Phải thay thế ngay người lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam". Thay thế bằng nhân vật nào ?- Các cơ quan truyền thông Mỹ không nói rõ, nhưng chỉ hướng dẫn dư luận : loại bỏ Ông Diệm khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền là được rồi. Đang cơn dầu sôi lưả bỏng như thế thì Bà Ngô Đình Nhu, vì tức giận người Mỹ và lực lượng đấu tranh nên đã nóng giận, mất sự khôn ngoan, bình tĩnh cần thiết trước tình thế bất lợi cho chính phủ. Bà Nhu lên tiếng mạt sát, thoá mạ cuộc tự thiêu cuả Thượng Toạ Quảng Đức. Thật là "Lửa đã đỏ lại đổ thêm dầu". Điều này làm cho dư luận dân chúng thêm phẫn nộ, nghiêng hẳn về phiá lực lượng đấu tranh chống chính phủ.
* Ngày 27 - 6 -1963 : Thấy tình hình Sài Gòn rối loạn, khó gỡ được ra, Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bổ nhiệm Ông Henry Cabot Lodge, thuộc Đảng Cộng Hoà, sang Sài Gòn giữ chức vụ Đại Sứ Hoa Kỳ, thay thế cho Đại Sứ Nolting , người đang tỏ ra bất lực trong việc gỡ rối cho tình hình Sài Gòn theo chiều hướng có lợi cho chính sách cuả Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Thực tâm Tổng Thống Kennedy là chỉ gỡ rối sao cho êm đẹp, thuận lợi cho đường lối, chính sách cuả Hoa Kỳ, cuả Ông Kennedy, chớ Ông Kennedy lúc này không hề nghĩ đến việc lật đổ Ông Diệm, nhất là không bao giờ nghĩ đến việc phải giết Ông Diệm. Ông Cabot Lodge được giới chính trị và truyền thông Hoa Kỳ coi là "Một con cáo già chính trị" và đồng thời là một "Chuyên viên đảo chánh", và hiện đang theo đuổi một chính sách mang tính cách "Diều hâu" khác hẳn với Ông Kennedy về vấn đề Việt Nam. Một Cabot Lodge, cáo già chính trị, chuyên viên đảo chánh, không cùng 1 Đảng với Ông Kennedy, thuộc Đảng Cộng Hoà, có nhiều liên hệ với quyền lợi cuả bọn tài phiệt buôn bán chiến tranh, mà sang làm Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn thì tình hình sẽ ra sao ? Cabot Lodge được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ "gỡ rối - Untangling" tình hình, nhưng Cabot Lodge lại quyết định chọn "phương cách gỡ rối" bằng một "Cuộc đảo chánh - Coup d'état" êm ái, nhẹ nhàng, không chọc giận Ông Kennedy, sinh trưởng trong 1 gia đình theo đạo Thiên Chuá, nghiã là chỉ cần đẩy Ông Diệm ra khỏi ngôi vị lãnh đạo chính quyền Nam Việt Nam, đưa Ông Diệm đi sống lưu vong ở một quốc gia nào đó nằm trong "Quỹ đạo chính trị - Political circle" cuả Hoa Kỳ, như Đài Loan, Thái Lan chẳng hạn là đủ rồi. Sau đó, Cabot Lodge sẽ dựng lên một thứ chính quyền mới hoàn toàn biết vâng phục theo ý muốn cuả Hoa Kỳ, hay đúng ra trong lúc này, là ý muốn cuả "Giới tài phiệt - Financial Oligarchy" cuả Mỹ đang tính chuyện kiếm lời thật lớn lao trong cuộc chiến tranh đang xẩy ra trên đất nước Việt nam nhỏ bé nhưng đầy đau khổ, máu xương và nước mắt này...
Đó ! Câu trả lời cho cái đầu đề cuả bài viết này "Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đình Diệm ?" tưởng đã đủ rõ ràng, khả dĩ góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ 1 trang lịch sử cận đại cuả một đất nước, một dân tộc anh hùng, nhưng quá bé nhỏ trước nanh vuốt cuả một bầy thú dữ khổng lồ, hung bạo nên đành phải chịu chấp nhận đau thương...
San Diego, California
© Đàn Chim Việt Online
--------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo : * The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press - Missouri, 1968. * The World Almanac of The Vietnam War.- John S. Bowman ( General Editor ) .- Bison Books Corp.- New York,1985. * Vietnam : The History & The Tactics .- Ahsley Brown & Adrian Gilbert .- Orbis Publishing Limited .- London,1982. . * The Final Days .- Bob Woodward & Carl Bernstein.- The Hearst Corporation.- New York, 1976. * Henry Kissinger Diplomacy.- Simon & Schuster.- New York, 1994.- * Kennedy .- Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965.- * A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan .- Scholastic Incorporation.- New York,1984.-
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 30, 2009 17:31:15 GMT 9
Nhớ ngày 1-11-1963: Tại sao có cuộc Đảo Chánh lật đổ Ông Ngô Đình Diệm (3) Tác Giả Phan Đức MinhĐăng ngày hôm quaChính trị Việt Nam Phan Đức Minh - 78 tuổi (2009), cựu Thẩm Phán Quốc Gia, Thiếu Tá Phó Uỷ Viên Chính Phủ Toà Án Quân Sư Mặt Trận Quân Khu I / VNCH, Cố Vấn Pháp Luật cuả nghiệp đoàn ký giả miền Trung Việt Nam. Đi tù cải tạo trên 12 năm. Định cư tại San Diego, California năm 1992. Ba năm liền 1995 - 1996 - 1997 đoạt 3 giải “ Outstanding Poetry Prizes “ cuả các Hội Nhà Thơ Hoa Kỳ và Quốc Tế. Đoạt giải thứ 16 về văn Học vào Tết Kỷ Sửu, 2009 tại Toronto - Canada. Nay là : - Member of the International Society of Poets - 1997. - Outstanding Figure in Literature 2004 of Asian Community & ASIA Journal in San Diego. - Winner of 16 Literary Prizes, 5 of which are American & International ones (1- 2009).
View all articles by Phan Đức Minh 3- Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đình Diệm & Tại Sao?
1- Cuộc đảo chánh thực sự bùng nổ
Ngày 1 – 11 – 1963, quân đảo chánh bao vây dinh Tổng Thống (là dinh Gia Long vì dinh Độc Lập đang sưả chưã). Lúc ban đầu, hai ông Diệm và Nhu vẫn còn yên trí rằng đây là “ Kế hoạch chống đảo chánh – Plan of Countercoup “ cuả ông Nhu và Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 (Commander of the 3rd Army Corps) đã hoạch định trước đó để “ dập luôn “ âm mưu đảo chánh, đồng thời bắt hết Bộ Chỉ Huy cuả lực lượng này (Diem and Nhu at first believe the attack to be opening of a Countercoup engineered by Nhu and General Ton That Dinh, 3rd Army Corps Commander…). Thế nhưng vào phút chót, các Tướng đảo chánh đã liên lạc, thuyết phục Tướng Đính đồng thời “ dúi nhẹ “ cho Tướng Đính 1 mớ đô la, (đô la Mỹ chớ không phải đô … Hồ đâu, mà giá trị cuả năm 1963 đó). Thế là xong! Tướng Đính thấy rằng tình thế đã đến nước này thì… lượm đô cuả Cabot Lodge lợi hơn, khôn hơn. Nếu chống lại thì bắt buộc con cáo già Cabot Lodge, bọn CIA và đám cầm đầu đảo chánh cũng phải bằng mọi cách, xoá sổ luôn cả mình mà thôi, dù cho Tướng Đính nắm quân rất mạnh và xưa nay Tướng Đính được coi là 1 Tướng gan lì, đánh giặc thì Tướng cộng sản cũng phải nể. Thế mới hay “ Có tiền mua Tiên cũng được – A golden key opens all doors “ là thế đó! Cabot Lodge khỏi cần dùng đến Binh Pháp Tôn Tử, Clausewitz, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon … chi cả. Cứ sài binh pháp cuả Đại Danh Tướng Đô La là ăn chắc, đánh đâu thắng đó, thành quách nào cũng tan. Hai ông Diệm và Nhu hết còn trông cậy vào ai được nưá! Tứ bề thọ địch mất rồi! Hai ông đành tính chuyện thoát thân… Chừng 8 giờ 00 tối ngày 1 - 11 - 1963, ông Cao Xuân Vỹ, Tổng Giám Đốc Thanh Niên (được coi là can đảm, có nghiã, có tình đối với ông Diệm) lái chiếc xe nhỏ Citroen 2 chevaux, theo lối cổng đường Pasteur, vào dinh Gia Long. Hướng này bỏ trống vì bên trong không còn sức kháng cự cuả Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống nưã cho nên bên ngoài, quân đảo chánh không cần kiểm soát chặt chẽ, chỉ cần đợi ông Diệm tuyên bố đầu hàng hay tới giờ G, giờ H thì vô bắt mà thôi. Chủ quan thiệt! Từ dưới đường hầm bí mật (lo xa từ trước rồi) dinh Gia Long, ông Diệm cùng ông Nhu lên xe do Cao Xuân Vỹ lái, có sĩ quan tuỳ viên, Đại Úy Đỗ Thọ xách cặp đựng giấy tờ, tài liệu đi theo. Cao Xuân Vỹ lái xe vào Chợ Lớn, tới nơi đặt trụ sở Tổng Nha Thanh Niên Cộng Hoà cuả Vỹ thì Trung Tá Phước, Phó Đô Trưởng Nội An, lấy xe Desoto đón 2 ông Diệm và Nhu, đem theo một vài vệ sĩ thân tín, chạy tới nhà Mã Tuyên, một Bang Trưởng người Hoa Kiều và là một Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hoà, được Vỹ tin cậy. Qua đêm trời gần sáng, ông Diệm hỏi Mã Tuyên coi có nhà thờ công giáo nào ở gần đấy thì đưa ông tới. Đoàn tuỳ tùng đưa 2 ông Diệm và Nhu đến nhà thờ Cha Tam, là nhà thờ cuả đa số là người Hoa ở vùng này.
2- Ai ra lệnh giết ông Diệm?
Nhiều người, kể cả nhiều người Mỹ cũng bảo “Mỹ, Cabot Lodge không ra lệnh giết thì Bố ai dám giết Ông Diệm!“ Vậy mà không phải vậy đâu! Tướng Trần Văn Đôn có lần nói: Tướng Minh ra lệnh giết bằng cách ra mật hiệu cho Đại Úy Nhung, cận vệ(bodyguard), tuy trong Hồi Ký viết bằng Việt Ngữ, Tướng Đôn nói là không biết. Trong Hồi Ký viết bằng Anh Ngữ và trong 1 cuộc phỏng vấn, Tướng Đôn lại quả quyết là Tướng Minh ra lệnh giết. Trong sách của cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, có viết: Có người hỏi thẳng Tướng Minh “Có phải Ông ra lệnh giết 2 Ông Diệm và Nhu không?“ Tướng Minh trả lời “Muốn hiểu sao thì hiểu!“. Theo Bà Ellen J. Hammer, người quen biết rất nhiều với các nhân vật quan trọng ở Miền Nam, trong cuốn “ A Death in November “, có nói: Sau khi tình hình đã thay đổi nhiều trong liên hệ của các Tướng Lãnh, năm 1971 Tổng Thống Thiệu đã nói thẳng “ Tướng Big Minh là người ra lệnh giết 2 Ông Diệm và Nhu “ Cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh, hồi cuối năm 2001, tại Orange County, đã trả lời nữ Phóng Viên truyền hình Thanh Thúy hỏi về cái chết của hai Ông Diệm và Nhu “Dương Văn Minh ra lệnh giết 2 ông Diệm và Nhu vì tư thù...“ Riêng kẻ viết bài này đã nhiều lần viết “Tướng Dương Văn Minh ra mật lệnh cho Đại Úy Nhung, cận vệ, phải giết cả 2 Ông Diệm và Nhu“. Bây giờ ta coi tiếp.
Ngày 2 - 11 - 1963: Vào khoảng 6 giờ 00 sáng, ông Diệm bắt đầu điều đình với các Tướng đảo chánh bằng cách điện thoại cho Tướng Trần Thiện Khiêm, yêu cầu thông báo cho các Tướng đảo chánh là muốn nói chuyện với Tổng Thống về tình hình đất nước thì cho người tới gặp Tổng Thống tại nhà thờ Cha Tam, Tổng Thống đang làm Lễ tại đây.
Các Tướng đảo chánh liên lạc ngay với Cabot Lodge và bảo đảm với Cabot Lodge là tính mạng cuả ông Diệm sẽ được an toàn (At about 6:00 a.m. Diem begins negotiating with the Generals, Who have assured that Diem’s life will be spared.) Tại sao các Tướng đảo chánh lại phải cam kết với Cabot Lodge là bảo toàn tính mạng cho ông Diệm? Vì Cabot Lodge không cho lệnh giết, trái lại khi chi tiền, còn yêu cầu các Tướng đảo chánh không được giết ông Diệm. Thế mà cuối cùng ông Diệm lại bị giết mới thật là rắc rối khó hiểu. Những điều khó tin lại hay có thật!
A.- Ông Kennedy có ra lệnh giết ông Diệm không? Không! Vì trước khi cuộc đảo chánh xẩy ra, ông Kennedy đã gửi điện văn khẩn cấp cho Cabot Lodge, ra lệnh liên lạc ngay với các Tướng đảo chánh hoãn cuộc đảo chánh lại kia mà! (President Kennedy cables Lodge urgently to ask the Generals to postpone the coup …) Ông Diệm còn lãnh đạo miền Nam thì ông Kennedy còn hi vọng ngăn chặn cộng sản hữu hiệu tại vùng này theo chính sách ngăn chặn cộng sản (Containment Policy against the Communism) cuả Mỹ đã áp dụng trên toàn cầu, kể từ sau Thế Chiến thú 2. Mất ông Diệm, ông Kennedy quả thực không tìm ra nhân vật nào khác ở miền Nam có khả năng lãnh đạo và chống cộng sản tốt hơn, giỏi hơn ông Diệm. Chẳng vậy mà khi nghe tin ông Diệm bị giết chết, ông Kennedy đã vô cùng sững sờ, hoảng hốt (President Kennedy is extremely shocked at the news of Diem’s death…). Ý chí bám víu gượng gạo vào cái “ vũng lầy Việt Nam – the Vietnam Morass “ cuả ông Kennedy đến đây kể như hoàn toàn rã rời.
Giết chết ông Diệm, nắm được chính quyền rồi thì họ lại chẳng biết làm gì cả. Họ chỉ làm được có mỗi một việc là cho mở lại các vũ trường, những chốn ăn chơi đốt tiền, đốt bạc, ăn chơi đĩ điếm. Có thế thôi! Ở các thành phố thì càng thêm rối loạn, mất an ninh, trật tự, tranh giành quyền lực để đưa đến cuộc Chỉnh Lý (Governmental readjustment), thực ra là một cuộc đảo chánh khác (another coup d’état) cuả Tướng Nguyễn Khánh sau đó không lâu. Ở thôn quê thì coi như bỏ ngỏ, mặc cho cộng sản muốn làm chi thì làm vì hệ thống ấp chiến lược một công trình xây dựng cuả ông Nhu, tuy không hoàn hảo, nhưng đã làm cho cộng sản thực sự mất đi một sức mạnh từ cơ sở nông thôn, khó tuyển được quân, thu gom thóc luá lương thực…khó thực hiện được kế hoạch bao vây và tiêu diệt các thành thị cuả miền Nam. Ông Diệm bị giết, là bọn tài phiệt quốc tế buôn bán chiến tranh vui mừng, vì sẽ được tự do buôn bán chiến tranh trên xương máu cuả các chiến binh Mỹ cũng như Việt Nam Cộng Hoà và cộng sản, luôn cả dân chúng 2 miền Nam, Bắc. Chúng sẽ 1 tay đẩy cho quân Mỹ đánh nhau với cộng sản, tiêu thụ cả núi, cả biển tiền bạc, quân nhu, quân dụng, vũ khí đắt tiền nhất và cả trăm thứ bắt buộc phải có cho đạo quân viễn chinh dự trù có thể lên đến hơn nưả triệu người, từ bên kia bán cầu, kéo sang đất nước Việt Nam nhỏ bé để đánh nhau theo kiểu quân đội nhà giầu. Còn tay kia chúng nó sẽ lén lút hoặc công khai buôn bán, làm ăn với Liên Sô, với tất cả khối cộng sản trên thế giới bằng những vật liệu, món hàng, mà sau đó biến thành phương tiện chiến tranh và lại chạy sang quân cảng Hải Phòng hay sân bay Hà Nội để cho quân đội cộng sản dùng những thứ đó mà giết lính Mỹ trên chiến truờng Việt Nam (By sending his men to fight in Southeast Asia, President Johnson seemingly recognized communism as an enemy. However, he made agrements to sell or give the Soviet Union and her communist satellites hundreds of millions of dollars worth of food, electronic computers, chemical plants, oil refinery equipment, airborne radar apparatus, jet aircraft engines, machine tools for $800-million auto assembly plant and military rifles…). Toàn những thứ để cho quân cộng sản giết lính Mỹ tại chiến truờng Việt Nam không hà! Ông Diệm bị giết rồi thì ông Kennedy liền nghĩ ngay đến việc rút chân ra khỏi vũng lầy Việt nam càng sớm càng tốt, nếu không muốn phải chờ đến lúc Liên Sô, Bắc Kinh cùng với Hà Nội thực sự đánh gục Hoa Kỳ trên chiến truờng này.
Ông Kennedy cho lệnh thực hiện gấp kế hoạch rút Sĩ Quan cố vấn, huấn luyện và các chuyên viên Mỹ về nước… Ông Kennedy quên rằng Kế hoạch buôn bán chiến tranh Việt Nam cuả “ chúng nó “ đã sẵn sàng rồi mà nay Ông lại định phá đám chúng nó hay sao? Bắt buộc chúng nó phải xoá sổ luôn cả Ông, mặc dầu Ông là Tổng Thống Hoa Kỳ. Mới kéo được về nước 1,500 cố vấn, chuyên viên thì 20 ngày sau, kể từ khi Ông Diệm bị giết ở Việt Nam, thì chính Ông Kennedy, Tổng Thống thứ 35 cuả Hoa Kỳ cũng bị bắn chết tại Dallas, Tiểu Bang Texas cuả chính đất nước Ông. Chánh phạm (principal) trong vụ bắn chết Ông Kennedy sau đó cũng bị giết luôn (tương tự như Đại Uý Nhung bắn chết Ông Diệm) để thủ tiêu chứng nhân lịch sử. Trước khi đi Dallas, người bạn thân cuả Ông Kennedy, một Giáo Sư Đại Học đã khuyên “ … Tổng Thống không nên đi chuyến này. Ở đó nguy hiểm lắm! “ Ông Kennedy đã trả lời “ Nếu chúng nó đã định giết tôi thì không giết tôi ở đó, chúng nó cũng sẽ giết tôi ở nơi khác. Nếu tôi không dám đi, truớc hết, tôi là một kẻ hèn. Mà Kennedy không được phép là một kẻ hèn! “ Vậy là Ông Kennedy không muốn đảo chánh, lật đổ Ông Diệm, chớ chưa nói chi đến việc ra lệnh giết Ông Diệm!
B.- Cabot Lodge có ra lệnh giết Ông Diệm không? Cũng không! Tại sao? Ngay lúc quân đội đảo chánh đã bao vây chặt chẽ dinh Gia Long, nơi 2 Ông Diệm và Nhu đang ở, Thủy Quân Lục Chiến và nhẩy Dù cùng nhiều đơn vị Bộ Binh đã kiểm soát hết các địa điểm kháng cự của phía quân đội bảo vệ cũng như trung thành với Ông Diệm, đường điện thoại duy nhất còn lại từ bên ngoài liên lạc vào hầm dinh Gia Long reo lên. Một sĩ quan cầm ống nghe rồi đưa cho Ông Diệm vì đầu dây đằng kia chính là Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge. Ông Diệm nghe xong rồi trả lời bằng tiếng Pháp: “ Non, je refuse, mais merci quand même de votre charité - Không, tôi từ chối, nhưng cũng xin cảm ơn lòng nhân đức của Ông). Ông Diệm bỏ máy rồi quay sang nói với Ông Nhu “ Cabot Lodege vừa kêu máy, đề nghị chúng ta ra đi. Ông ta hứa bảo đảm với các Tướng Lãnh để cho chúng ta ra đi an toàn. Họ dành sẵn cho chúng ta một phi cơ, nhưng tôi đã từ chối “. Ngoài ra, ta còn biết rằng:
Thứ nhất: Nhiệm vụ cuả Cabot Lodge chỉ là làm sao thay thế Ông Diệm bằng người cầm quyền khác, biết tuân theo ý muốn cuả giới tài phiệt Mỹ, Ô Kê cho chúng đổ quân tác chiến Mỹ vào Việt Nam, đánh nhau với cộng sản 5, 10 năm thôi. Ai cũng biết mọi tội vạ cuả vụ đảo chánh này đổ hết lên đầu Cabot Lodge rồi. Nếu Cabot Lodge cho giết ông Diệm, biết đâu, lại chẳng có người, vì sót thương Ông Diệm, vì căm thù Cabot Lodge, vì tự ái dân tộc, mà liều thân, thí mạng, tặng cho Cabot Lodge 1 trái lựu đạn, 1 quả mìn trên đường xe chạy, hay cho luôn 1 băng tiểu liên vào đầu, bể sọ ra thì cũng rồi đời. Cabot Lodge dư biết rằng: khi người ta đã liều mạng để giết ai, thì giết 1 Tổng Thống, kể cả Tổng Thống Mỹ, người ta cũng dư sức làm được. Trên thế giới này, Tổng Thống, Thủ Tướng bị giết đầy ra đó! Chớ cỡ Cabot Lodge, 1 anh Đại Sứ còm ở cái xứ chiến tranh, loạn lạc liên tu bất tận này thì việc giết đâu có khó! Con cáo già Cabot Lodge đâu có dại gì mà làm thêm cái việc vô ích, không cần thiết, thêm nhiều oán thù đó!
Thứ hai: Cabot Lodge dù sao đi nưã, lúc này cũng chỉ là 1 anh Đại Sứ cuả Mỹ tại Việt Nam, dưới quyền Ông Kennedy. Cabot lodge đã nhiều phen qua mặt Ông Kennedy trong vụ đảo chánh này rồi. Ông Kennedy đâu có ngu, có đần. Vậy thì khi Ông Kennedy ra lệnh cho Cabot Lodge “ Khoan! Hãy ngưng ngay kế hoạch đảo chánh! “ mà Cabot Lodge vẫn cứ phe lờ đã là 1 chuyện đáng để Ông Kennedy trừng trị về tội bất tuân thượng lệnh. Ông Kennedy cũng biết bực mình, mất mặt về hành động cuả Cabot lodge, dám khinh thường Tổng Thống lắm chớ! Cabot Lodge dư thưà khôn ngoan để biết đâu là cái giới hạn cuả thái độ khinh thường Ông Kennedy để mà dừng lại đúng mức. Vượt qua giới hạn đó, Ông Kennedy bắt buộc phải có thái độ để bảo vệ uy quyền cuả Ông. Thế cho nên Cabot Lodge dại gì mà giết Ông Diệm để chọc giận Ông Kennedy thêm nưã! Dại dột, vô ích! Ông Kennedy có đủ uy quyền để “ đuổi cổ – kick out “ Lodge ra khỏi chức vụ Đại Sứ, lôi đầu về Mỹ trị tội kia mà! Cabot Lodge khôn lắm, không dại gì đi làm cái việc vô ích, chẳng lợi lộc gì.
Thứ ba: Khi phác họa cuộc đảo chánh, Cabot Lodge đã họp các Tướng Lãnh phản loạn lại, khuyến khích, chi tiền và bắt các Tướng phải cam kết là không được giết Ông Diệm! Bởi cái chỗ đó cho nên ở trên có nói: Khi Ông Diệm liên lạc điện thoại với Tướng Trần Thiện Khiêm,tỏ ý muốn gặp các Tướng đảo chánh thì Bộ Chỉ Huy đảo chánh đã tức tốc liên lạc ngay với Cabot Lodge và cam đoan với Cabot Lodge là tính mạng cuả Ông Diệm sẽ được an toàn (… Diem begins negotiating with the Generals, who have assured that Diem’s life will be spared…). Vậy thì Cabot Lodge đâu có muốn, đâu có ra lệnh giết Ông Diệm! Lodge chỉ phải … tạ tội, thanh minh thanh nga với ông Kennedy bằng 1 điện văn, trong đó có đoạn “… We could neither manage nor stop the coup once it got started… It is equally certain that the coup would not have happened as it did without our preparation…” (có cả tội cuả Ngài ở trong đó đấy, xin Ngài chớ buồn làm chi…).
Tại sao Tướng Dương Văn Minh phải ra lệnh cho Đại Úy Nhung giết 2 Ông Diệm và Nhu?
Lịch Sử cũng như Quân Sử cuả Hoa Kỳ đã ghi chép rằng “… Finally an US-built M – 113 armored personnel carrier is sent to pick up Diem and Nhu up from Francis Xavier Church in Cholon. General Minh’s bodyguard, Captain Nhung, murders Diem and Nhu on their way to staff headquarters, at Minh’s orders.” Chẳng lẽ những sử gia viết lịch sử và quân sử Hoa Kỳ lại hèn nhát đến mức độ không dám nhận rằng Ông Kennedy, Cabot Lodge đã ra lệnh giết Ông Diệm để rồi viết sách, đổ đại cho Dương Văn Minh làm cái việc này, và chỉ cho Dương Văn Minh phải lấp lửng nói với đám Tướng Lãnh đảo chánh “ Việc đã qua rồi, bới ra làm chi nưã! “ mỗi khi Dương Văn Minh bị các Tướng này vặn hỏi “ Tại sao lại giết Ông Diệm? “ vì khi họp bàn với nhau, các Tướng Lãnh đều đồng ý với quan điểm cuả Cabot Lodge là phải bảo toàn tính mạng cho Ông Diệm, không được giết! Chỉ tách Ông Diệm ra khỏi quyền lực, đưa đi sống lưu vong ở đâu đó, Đài Loan hay Thái Lan chẳng hạn. Thế là xong! Bây giờ câu hỏi là: Tại sao Dương Văn Minh phải ra lệnh giết Ông Diệm?
A.- Dương Văn Minh phải giết Ông Diệm vì: Hai Tướng Tôn Thất Đính và Nguyễn Khánh, 2 Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, có quân rất mạnh trong tay, chỉ chịu theo phe đảo chánh vào phút chót, một cách bắt buộc. Nếu Ông Diệm còn, dù ở đâu đi nưã, Dương Văn Minh vẫn tin, vẫn sợ rằng trong tình thế lộn xộn, mà bắt buộc phải lộn xộn, 2 Tướng này có thể nhân danh quyền lợi quốc gia, dân tộc, không chấp nhận sự phản loạn lật đổ Ông Diệm, do tài phiệt quốc tế chỉ huy, đạo diễn, để quật lại phe đảo chánh thì Tướng Minh cũng ngán, cũng run lắm chớ! Vậy cứ giết quách Ông Diệm là xong! Khỏi lo! Tướng Minh phải cho Đại Úy Nhung, sĩ quan cận vệ, lúc nào cũng luôn ở sát bên mình, đi lo vụ giết này mới an tâm. Mà Đại Úy Nhung là một con người xuất thân từ lính Commando của Pháp, khi trước, giết người xong, còn thích cắt đầu, xẻo tai đem về trình cho cấp chỉ huy của mình nữa mới ghê gớm, đúng là thứ ác quỷ, cuồng tín, say máu giết người.
B.- Tướng Dương Văn Minh phải giết Ông Diệm vì: âm mưu đảo chánh đã quá rõ ràng, cơ quan Mật Vụ (Secret service) và Ông Nhu đã nắm hết mọi chi tiết trong tay. Ông Nhu đã lập kế hoạch cùng với Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 (3rd Army Corps Commander) bất thình lình tung ra 1 màn “Chống đảo chánh –Countercoup “ để nắm đầu hết trơn kia mà! Dương Văn Minh là kẻ đứng đầu âm mưu đảo chánh, kể như đã leo lên lưng cọp rồi,với cái thế “Trèo cao thì té nặng – The higher up, the greater the fall“, càng đầu trò thì càng to tội. Vậy mà Ông Kennedy lại cứ…thụt lui, bước tới, ba hồi đã ô kê, bốn hồi lại…sì tốp, âm mưu bại lộ hết trơn thì chỉ có nước chết với Ông Nhu và đám sĩ quan, quân đội còn thương mến, trung thành với Ông Diệm. Nguy hiểm quá! Ngộ lỡ ông Nhu và các Tướng Đính và Khánh nắm được đầu thì Tướng Minh chỉ có nước: bị tước hết binh quyền, ra trước Toà Aùn Quân Sự Mặt Trận Vùng 3 Chiến Thuật (3rd Tactical Area’s Field Court Martial) để lãnh bản án tử hình. Rồøi Tổng Thống Diệm bác đơn xin ân xá. Cuối cùng thì Dương Văn Minh bị lôi ra pháp trường, hai tay bị trói giật cánh khuỷu vào cây cột, mắt bị bịt kín bằng miếng vải đen. Một tiếng hô chỉ huy và 1 loạt đạn cuả Tiểu Đội Hành Quyết (Executing squad) thi nhau xuyên thủng ngực, và Dương Văn Minh gục đầu, máu tuôn ra đầy ngực… Nghĩ đến đây là Dương Văn Minh bắt buộc phải chọn giải pháp “ Giết ông Diệm!“ Dương Văn Minh thuộc lòng câu “Cẩn tắc vô ưu - Safety first“ hơn ai hết trong lúc này. Tướng Minh trông Sĩ Quan nào cũng đáng nghi ngờ, không tin ai được bởi vì theo Văn Hào Shakespeare thì “ Sự nghi ngờ luôn ám ảnh tâm trí kẻ phạm tội; Tên ăn trộm sợ rằng ở mỗi bụi rậm đều có 1 viên cảnh sát - Suspicion always haunts the guilty mind; The thief doth fears each bush a police officer.” Bắt được hai Ồng Diệm, Nhu, cứ giết quách đi là chắc ăn, khỏi lo!
C.- Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh giết hai Ông Diệm và Nhu vì Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh cho CIA, Cabot Lodge “ Không can thiệp chi tiết vào kế hoạch đảo chánh, cứ để các Tướng tùy theo tình hình thực tế mà hành động. “ Dương Văn Minh tự diễn dịch “ Người lãnh đạo cao nhất nước Mỹ đâu có cấm Tướng Minh giết Ông Diệm khi ra lệnh này! “ Xử lý hành động tuỳ theo tình hình kia mà!
D.- Tướng Dương Văn Minh đã cho lệnh mật để Đại Uý Nhung giết Ông Diệm vì khi bàn thảo việc đảo chánh, Cabot Lodge chi tiền và yêu cầu các Tướng không được giết ông Diệm chẳng qua là vì Cabot Lodge không muốn chọc giận ông Kennedy, và qua mặt Tổng Thống nhiều quá. Nay Tướng Minh có nêu ra: vì tình trạng hỗn loạn, vì vấn đề an nguy cuả đại cuộc, cuả chính sinh mạng mình, tức là coi như ở vào tình trạng… In case of absolute necessity, in case of riots, hay nói theo kiểu Tây là en cas de situation troublée… thì cứ coi như việc giết ông Diệm cũng … huề cả làng, mọi tội xí xoá... thì ông Kennedy cũng… đành huề thôi. Còn đối với Cabot Lodge, con cáo già chính trị, chuyên viên đảo chánh, người đã quá quen thuộc với những vụ chết chóc trong nghề đảo chánh thì… tiền đã chi cho cướp, chia nhau hết rồi, Tướng Minh có giết 1 ông Diệm, chớ giết đến 10 ông Diệm cũng… sức mấy mà Cabot Lodge đòi tiền lại được! Chẳng lẽ lôi Tướng Minh ra mà đập, mà kiện hay sao? Kiện ở đâu? Có điều Tướng Minh không dám nói thẳng, nói thực vấn đề với các Tướng Lãnh khác, sau khi sự việc đã xong, và Tướng Minh đã trở thành nhân vật lãnh đạo số 1 cuả quốc gia, đã ở vào địa vị coi như Quốc Trưởng, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách mạng (Chairman of the Revolutionary Military Council) thì Tướng Minh không thể được xếp vào loại người “ Có gan ăn cướp, phải có gan chịu đòn – As you brew, so must you drink “, không xứng đáng với thái độ cuả một Tướng Lãnh đã từng nhiều phen cầm quân đánh giặc và lúc này đã ở vào địa vị cao nhất trong xã hội Miền Nam. Ông Diệm có coi thường và không trọng dụng cũng là phải.Trong khi đó, ông Diệm lại trọng dụng những Tướng cứng đầu, dữ dằn, những Sĩ Quan cao cấp, đã có thời còn là Đại Tá (Colonel), còn là Chuẩn Tướng (Sub-brigadier General) mà đã dám cầm “Gậy Chỉ Huy – Command stick “ mà Tây thì kêu là “ Bâton de Commandement “ gõ vào đầu Sĩ Quan Cố Vấn cuả Tây, cuả Mỹ và quát “ Không được vô lễ đối với Sĩ Quan Việt Nam! “ khi những tay Cố Vấn này muốn làm … ông nội người ta, tỏ thái độ vô lễ đối với Sĩ Quan Việt Nam ngay trước mặt các vị Sĩ Quan Việt Nam cầm Gậy Chỉ Huy này. 3.- Sau cái chết của Ông Ngô Đình Diệm:
A.- Tổng Thống Kennedy kinh hoàng, cho rút sĩ quan, cố vấn, chuyên viên Mỹ về nước, tính chuyện bỏ cuộc. Kết quả ông Kennedy cũng bị bắn chết 20 ngày, sau ông Diệm, để cho ông Phó Lyndon B. Johnson lên thay, và quân tác chiến Mỹ ào ạt đổ vào Việt Nam và cuối cùng cũng như người Pháp…quân đội Mỹ ra đi không kèn, không trống. Về nước chẳng ai thèm chào mừng, đón rước, chẳng có lấy một vòng hoa chiến thắng, mà còn bị biểu tình sỉ vả, mặc dầu đã có gần 60 ngàn quân nhân Mỹ tử trận tại chiến trường, mấy ngàn người còn ghi mất tích, và cả triệu người Mỹ phải gánh chịu chung niềm đau tủi, mất mát, đui què, mẻ sứt hay điên khùng…Đau thật! Lịch sử và Quân Sử Hoa Kỳ đã phải ghi “ Lần đầu tiên trong lịch sử, quân đội bách chiến bách thắng của Hoa Kỳ đã thua trận một cách đau đớn ê chề trên chiến trường Việt Nam – The first time in the American History, the unvanquisable armed forces of the United States lost ignominiously the war in Vietnam battle field...”
B.- Ông Diệm chết đi thì Miền Nam như rắn không đầu, cá mè một lưá, càng thêm hỗn loạn, rồi Tướng Khánh làm cuộc “ Chỉnh Lý “ nhưng thực ra là cuộc đảo chánh khác để “ hốt “ các Tướng đã đảo chánh ông Diệm, nhốt đầu vào 1 chỗ (Tướng Minh được tha vì thuộc loại to đầu mà dại, không đáng lo, khỏi cần nhốt) cho ngồi chơi mà ngẫm nghĩ sự đời đen bạc, phản phúc, và thế nào là “ Làm điều lành, Trời báo cho bằng phước; Làm điều dữ, Trời báo cho bằng họa - Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; Vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa “ hay nói theo Tây thì “ On récolte ce qu’on a semé “, còn nói theo kiểu Mỹ và Ăng-Lê thì “ Who sows the wind will reap the whirlwind “ Tất cả giống nhau: “ Gieo gió thì gặt bão “. Tiếp theo là những ngày tháng tối đen 1966, Miền Nam lại hỗn loạn đấu tranh, cũng phát xuất từ Huế, với cái vụ Tướng Nguyễn Chánh Thi, người đã một phen đảo chánh không ra cái gì cả vì chỉ là một sự thử nghiệm của CIA, nhưng lan vào đến Đà Nẵng thì Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Không Quân râu kẽm, một phật tử chính hiệu, đưa Quân Đội và Quân Cảnh từ trong Nam ra dẹp hết trơn, nhốt đầu những tay lãnh đao. Thế là hết đấu tranh!
C.- Ông Diệm chết đi thì Hồ Chí Minh ở Hà Nội không còn đối thủ, biết trước tình thế, bèn lên đài phát thanh Hà Nội hiệu triệu quốc dân đồng bào: “Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta sẵn sàng chiến đấu chống Mỹ cứu Nước trên khắp các mặt trận của ba miền đất nước! Quân đội và nhân dân Việt Nam anh hùng sẽ đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược không những trên Quê Hương, Tổ Quốc Việt Nam, mà còn đánh thắng đế quốc Mỹ ngay trên đường phố, tại các trường Đại Học cuả chúng nưã! Kháng chiến nhất định thắng lợi! Thống Nhất, Độc Lập nhất định thành công! “ Theo Giáo Sư Francis Xavier Winters, năm 1999 viết trên tạp chí “ World Affairs “ của Ấn Độ, có nói là: Sau cái chết của Ông Diệm, Hồ Chí Minh lại còn lên giọng trịch thượng, nói với Wilfrid Burchett, một ký giả cộng sản hạng nặng, là: “Tôi không thể ngờ là tụi Mỹ lại ngu đến thế!“ Rồi Tướng cộng sản Võ Nguyên Giáp gặp McNamara ở Hà Nội tháng 11 – 1995, thì nói: “Chính sách của người Mỹ sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là người có tinh thần quốc gia rất mạnh. Không bao giờ Ông ta để cho người Mỹ giành lấy quyền điều khiển chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam.. Người Mỹ đã làm điều đó bất chấp sự phản đối của Ông Diệm để rồi mua lấy một thất bại thảm khốc. Ông Diệm chết thì cũng chấm dứt sự hiện diện quân sự của người Mỹ tại đây một cách sớm hơn”. Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam“ nói với phóng viên Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức của Cộng Sản Hà Nội: “Sự lật đổ Ngô Đình Diệm là một món quà Trời tặng cho chúng tôi.“ Trần Nam Trung, Phó Chủ Tịch Mặt Trận tuyên bố: “Đế Quốc Mỹ chơi đòn đổi ngựa giũa dòng, nhưng chúng sẽ không bao giờ tìm được người chống Cách Mạng hiệu quả hơn Ngô Đình Diệm “
D.- Ông Diệm chết đi thì Liên Sô, thành luỹ cuả Phong trào cộng sản thế giới (International movement of communism’s Stronghold) vô cùng mừng rỡ vì Liên Sô sẽ dứt điểm Việt Nam trong một ngày không xa để chuyển “ Nỗ lực đấu tranh chống chủ nghiã tư bản đế quốc – Struggling efforts against Capitalism and Imperialism “ sang những vùng khác ở Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Chẳng vậy mà tờ báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận và đấu tranh chính thức cuả Đảng Cộng Sản Liên Sô lại dành chỗ trang trọng nhất để phô bầy sự phấn khởi trước cái chết cuả ông Diệm và khẳng định rằng “… Bọn tay sai bù nhìn của Mỹ đã nắm được chính
quyền “ để tạo thêm sự dễ dàng cho cộng sản Hà Nội chiến thắng mau lẹ hơn …- The Soviet newspaper Izvestia expresses satisfaction at Diem’s end while asserting that American puppets have come to power…”
E.- Ông Diệm chết đi, quả thực không có người thay thế được. Nam Việt Nam trên đường tuột dốc và đi đến sự sụp đổ. Kẻ có lợi là cộng sản Hà Nội, phong trào cộng sản thế giới, bọn tài phiệt quốc tế. Còn bọn Tướng Lãnh đảo chánh thì chỉ được lợi về … đô la, và sau này tha hồ tham nhũng, hối mại quyền thế, buôn quan, bán lính, nhưng không thoát khỏi cái nhục chung cuả nhân dân và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, khi mất nước, phải bỏ Tổ Quốc ra đi, có khi với trăm ngàn khổ ải, nhục nhằn, hay phải sống đọa đầy nhục nhã hơn cả súc vật trong những trại tù cải tạo, dưới bàn tay sắt máu cuả bọn cộng sản Hà Nội kiêu binh thắng trận, vô cùng dã man, tàn bạo, ác độc hơn cả loài sa-tăng quỷ dữ… San Diego, California
--------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo: • The Death of A Nation.- John A. Stormer.- Liberty Bell Press.- Missouri, 1978. • The World Almanac of The Vietnam War.- John S. Bowman (General Editor).- Bison Books Corp.- New York, 1985. • Vietnam: The History & The Tactics.- Ahsley Brown & Adrian Gilbert.- Orbis Publishing Limited.- London, 1982. * The Final Days.- Bob Woodward & Carl Bernstein.- The Hearst Corp.- New York,1976. * Henry Kissinger Diplomacy.- Simon & Schuster. - New York, 1994. • Kennedy. – Theodore Sorensen.- Harper & Row.- New York, 1965. • A Book of U.S. Presidents.- George Sullivan.- Scholastic Incorporation.- New York, 1984.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 6, 2009 16:30:32 GMT 9
Minh Võ trả lời phỏng vấn của đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngọai về việc ông Ngô Đình Nhu tiếp xúc với đại diện của nước Pháp và Bắc Việt năm 1962 về vấn đề hiệp thương giữa Nam- Bắc Việt Nam..
Người hỏi là nhà báo Hồng Phúc Lê Hồng Long, chủ nhiệm báo Thế Giới Ngày Nay
Hỏi: Trong cuộc mạn đàm giữa ông và ông Cao Xuân Vỹ đăng trên DCV Online mới đây, ông Cao Xuân Vỹ có nói đến cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình Nhu với ông Pinay, đại diện Tổng Thống Pháp Charles De Gaulle và sau đó với Phạm Hùng, cán bộ cao cấp của Việt Cộng, sau này từng là thủ tướng Bắc Việt. Nhiều độc giả rất quan tâm đến vấn đề chính trị tế nhị này. Theo ông, các cuộc tiếp xúc này ảnh hưởng thế nào dến tình hình chính trị Việt nam vào thời gian đó ?
Đáp: Theo tôi nghĩ đây là dịp để những người Mỹ không ưa Tổng Thống Diệm và đặc biệt có ác cảm với ông Nhu vin vào chuyện nầy để tìm cách lật đổ Đệ Nhất Cộng Hoà. Trong lần tiếp xúc với ông Cao Xuân Vỹ vừa qua, ông Vỹ có nói một điều không được tôi ghi trong bài đã đăng trên Đàn Chim Việt. Ông Vỹ bảo tôi, khi bàn với ông Nhu về đề nghị của Bắc Việt muốn hai miền hiệp thương, ông Pinay đã nói "nửa đùa nửa thật": Coi chừng người Mỹ họ mà biết chuyện này, họ sẽ đảo chính các ông đấy!" Dĩ nhiên một số người Mỹ trong chính quyền Kennedy đã muốn làm đảo chính từ 3 năm trước cơ. Nhưng lần này họ cũng có thêm ít nhất là một cái cớ hợp lý để giải thích với dư luận.
Hỏi: Ông có thấy là hai anh em ông Diệm tự mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất không? Trước kia, năm 1955, ông Hồ đã nhiều lần đề nghị hai mìền hiệp thương để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử vào năm 1956. Lúc ấy các ông đã cực lực từ chối. Thì tại sao bây giờ lại tán thành ?
Đáp: Đúng ra năm 1955 Chính Phủ Ngô Đình Diệm đã từ chối vì lý do miền Bắc không có tự do, và cũng viện cớ không ký hiệp định Giơ Neo, thì không bị ràng buộc bởi hiệp định đó trong vấn đề tổng tuyển cử. Ông Diệm khi nhận lời cựu hòang Bảo Đại về chấp chánh năm 1954, ông đã biết mình phải làm gì để cứu ít nhất nửa nước khỏi họa Cộng Sản, vì ông đã quá hiểu thế nào là một nền chuyên chính vô sản, và các biện pháp tàn bạo của chế độ ấy. Cho nên không thể nào ông để cho một cuộc tuyển cử không công bằng, không có tự do này đưa nốt miền Nam cho Cộng Sản Quốc Tế. Vì ông cũng biết rõ ông Hồ là tay sai của Quốc Tế CS, chẳng thực tâm yêu nước, mà chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhiều thành phần dân tộc để chiến đấu cho ảo tưởng chế độ đại đồng của Mác.
Hơn nữa cũng phải nhìn nhận là lúc đầu trong những năm 1954- 1955 Miền Nam còn nhiều khó khăn chồng chất. Dân số lại ít hơn miền Bắc nhiều, nếu chấp nhận tổng tuyển cử ngay thì khó thắng được. Nhưng đến năm 1963 thì miền Nam đã vượt xa miền Bắc về mọi mặt. Tôi chỉ nêu vài con số. Ví dụ số nước có tòa đại sứ ở Saigon lúc ấy là 81, gần gấp đôi số nước có bang giao với Hànội. Trong khi dân miền Bắc không đủ gạo ăn thì Saigon xuất cảng gạo, từ 70,000 tấn vào năm 1955 đã tăng lên đến 340,000 tấn xuất cảng vào năm 1962. Số lượng gia súc trong 7 năm đã tăng tới 500 lần. Thịt gia súc như heo, gà, vịt xuất cảng trong năm 1961 đã trị giá gần 140 triệu đồng (vào khỏang 4 triệu Đô la, tính theo giá chính thức là 35 Đồng một Đôla.). Và còn nhiều ưu điểm khác không kể xiết.
Để nói lên một cách cụ thể về cảnh thanh bình trù phú của miền Nam thời ấy tôi xin trích dẫn chỉ một đọan vắn thôi của tác giả Hồ Sỹ Khuê, một người vốn chê ông Diệm là độc tài và kỳ thị tôn giáo, thậm chí đàn áp Phật Giáo. Ông Hồ Sỹ Khuê nói về cảnh thanh bình phồn thịnh ấy như sau:-- Đây tôi đọc từ cuốn sách đồ sộ của ông nhan đề Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trong đó có nhiều câu đại lọai như thế này:
"Cuộc sống hằng ngày con nhà nông không còn đầu tắt mặt tối quá đáng. Thanh niên miệt vườn dùng quen tay nên biết ham chuộng máy móc. Nhờ giao thông tiện lợi hơn xưa, nên rành cảnh sống phố phường, mà không phải so bì hơn kém. Giáo dục mở mang. Trường ốc mở rộng thêm nhiều. Trẻ em miệt vườn trước không qua bậc tiểu học, nay đi vào trung học là chuyện bình thường. Báo chí sách vở lan tràn khắp nơi, mở rộng tầm hiểu biết phổ thông. Người lớn trẻ con đều thạo tin tức thế giới và chuyện xảy ra hằng ngày trong nước. Không còn mấy ai chìm trong vòng ngu tối nữa.... "Nông thôn không còn bần cố nông. Thành thị cũng không bao giờ còn gọi là vô sản được...." Đây là một cảnh sống của dân lao động ở thành thị được ông mô tả như sau: "Tài xế tắc xi nhưng trưa đến không kể khách, nằm gác chân xem báo. Đạp xích lô nhưng mỗi chiều ngồi nhậu nhẹt lai rai bàn chuyện thời cuộc với xóm giềng. Những cảnh sống như thế xóa sạch mọi đẳng cấp thầy thợ trong xã hội, tạo một không khí hòa đồng vươn cao. Con em lao động đã bắt đầu vào đại học, làm giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, sánh vai cùng bạn bè đồng lứa, xuất phát từ đủ mọi thành phần xã hội.....Thực thế, dân Miền Nam thời Cộng Hòa Nhân Vị có một cuộc sống vât chất đầy đủ.... Đầy đủ. Chưa đúng. Thừa thãi."
Ông Khuê còn viết nhiều rất nhiều nữa về cảnh thanh bình phồn thịnh của miền Nam trong cuốn Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.Tôi nghĩ, trong cảnh phồn thịnh như thế, nông thôn không còn bần cố nông, thành thị hết vô sản, nếu hiệp thương để tuyển cử tự do miền Nam có nhiều hy vọng sẽ thắng.
Hỏi: Thế còn cuộc sống ở mìền Bắc thì sao?
Đáp: Tôi không có số liệu chính thức.Thực ra số liệu chính thức do CS đưa ra nhiều khi cũng chẳng đáng tin. Nhưng cứ đọc mấy truyện của một số nhà văn nhà thơ thì cũng đủ thấy cuộc sống ở miền Bắc, không phải chỉ thua miền Nam, mà là rất bi đát khó có thể tưởng tượng nổi. Ví dụ chỉ cần đọc Nỗi Oan của Đào Hiếu, Con Bò Thải và Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì của Phùng Gia Lộc, Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, hay Ông Tướng Về Hưu, và Con Gái Thủy Thần của Nguyễn Huy Thiệp thì sẽ rõ. Ngọc, vai chính trong Nỗi Oan mới 12 tuổi đã phải leo xuống giếng sâu thăm thẳm, đường lên trơn trượt để múc nước, gánh nước. Rồi khi lớn lên thấy trong làng "sao mà lắm người tự tử thế? Nhiều người tự thắt cổ. Có người nhảy xuống giếng mà chết. Người sống thì mùa đông chui vào đống lá khô cho đỡ rét...
Gia đình cậu Chính của Hằng vai chính trong Thiên Đường Mù bữa ăn chỉ có một đĩa rau muống luộc và một đĩa nhộng rang hành chia ra làm 3 ô, mỗi ô chỉ có 15, 16 con bé tí bằng đầu đũa. Thằng anh chọc đũa vào phần của thằng em bị mẹ dở đầu đũa gõ vào đầu thắng anh. Thằng anh khóc ré lên... Con bò của hợp tác xã trong Con Bò Thải của Phùng Gia Lộc thì gầy nhom, chả bù cho khi nó chưa vào hợp tác xã thì béo tốt. Cái cảnh cha chung không ai khóc ở các hợp tác xã quá tàn tệ. Nếu thu họach có khá đôi chút thì cũng chỉ béo mấy kẻ trong ban quản trị. Xã viên vẫn đói meo. Đặc biết dân quê nghèo đến độ trẻ con đã chín mười tuổi cũng không có quần. Không chỉ có thơ của Nguyễn Chí Thiện tả trẻ con trong tù lon ton không phải mặc quần.
Mà cả chuyện Cô Gái Thủy Thần của Nguyễn Huy Thiệp cũng tả cảnh một bé gái 12 tuổi cởi truồng cầm đầu một tóan 6,7 đứa trẻ ban đêm cũng trần truồng đi ăn trộm mía của hợp tác xã. Còn con trai mới 14 tuổi đã phải đi cầy. Mà lại còn là thợ cầy chủ lực của hợp tác xã. Tối đến về nhà lại còn phải đi đào đá ong! Trong Ông Tướng về hưu một nhân vật nói mỗi ngày trong nước có cả ngàn người chết khắc khỏai, chỉ ước được chết nhanh như lính. "Lính các anh sướng, đòm một phát. Sướng!" Chỉ mấy hàng đã đủ đau lòng. Có lẽ tin tức tình báo cũng cho ông Diệm biết tình cảnh đó. Nên nếu hiệp thương được, mà có dịp chia bớt phần lúa gạo, vải vóc ở miền Nam cho dân quê miền Bắc, thì đã là một cử chỉ bác ái, từ thiện rồi. Hơn nữa ai cũng biết ông là một nhà ái quốc, rất thương dân.
Hỏi: Ông có nghĩ rằng khi tính chuyện hiệp thương với Hồ Chí Minh, là ông Nhu đã mắc mưu trúng kế của con cáo già rồi không ?
Đáp: Quả quýt dầy đã có móng tay nhọn. Tôi nghĩ ông Nhu không thể không biết mưu mô của CS. Và ông cũng phải tính toán kỹ lắm trước khi dấn thân vào những cuộc tiếp xúc nguy hiểm như vậy, nhất là vào mật khu của Việt Cộng không có hộ tống vũ trang. Chắc rằng trong các cuộc thương lượng ở Paris năm trước, có các nhà lãnh đạo Pháp Quốc bảo đảm, ông Nhu đã có thể có một sự tin tưởng nào đó, cũng như phải tự tin lắm, mới giấn thân như vậy. Chứ ông Nhu không phải con người xốc nổi, làm liều. Vả lại cũng vì nhiệt tình mong ước tránh được một cuộc xung đột vũ trang rộng lớn, trong đó có thể sẽ có sự tham dự của lực lượng vũ trang đáng kinh sợ của các đại cường. Chính ông Đỗ Mậu, tác giả "hữu danh vô thực" của cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Văn Nghệ xuất bản tại Nam Cali năm 1993) đã trích đăng một lá thư riêng của một người bạn của ông, trong đó có nói đến những lời cố Tổng Thống Diệm nói với ông Võ Như Nguyện là một đồng chí của Tổng Thống rằng, "Vả tôi với chú Nhu có ý dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp, nhưng đều là máu mủ ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản...." Trong cuốn Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê tôi đã trích dẫn đầy đủ hơn và đã có lời bình. Ông Đỗ Mậu trích lại bức thư của người bạn này để chứng minh Tổng Thống Diệm có ý định thỏa hiệp với Cộng Sản, bán đứng miền Nam. Nhưng tôi lại thấy đây là bằng chứng cho thấy anh em ông Diệm thực sự yêu nước, thương dân, không muốn chiến tranh tiếp tục, mở rộng, gây thêm tang thương, chết chóc.
Hỏi: Ông có nghĩ rằng, nếu anh em ông Diệm không bị giết, và Hoa Kỳ ủng hộ ông trong việc hiệp thương với Bắc Việt thì Miền Nam sẽ không bị mất vào tay Cộng Sản không?
Đáp: Rất tiếc rằng lịch sử không có chữ nếu hay chữ giả sử. Hơn nữa để trả lời câu hỏi hóc búa này tôi phải tự đặt mình vào địa vị hai ông mới thỏa đáng và công bình. Nhưng lại cũng tiếc rằng tôi không phải là một chính khách, chỉ viết báo, nghiên cứu và theo rõi thời cuộc với một nhãn quan hạn chế. Có thể nào ông miễn cho tôi khỏi trả lời câu hỏi nầy không ?
Hỏi: Đã đành là thế. Nhưng ông vừa nói ông từng nghiên cứu và theo rõi thời cuộc, vậy cứ như những gì ông nghiên cứu được, ông cứ thử đưa ra một nhận định và ước đóan tương đối thực tiễn xem sao?
Đáp: Đã vậy, thì xin ông cũng như qúy thính giả hãy coi như đây chỉ là phỏng định về tình hình có thể đã xảy ra trong dĩ vãng, theo nhãn quan của tôi mà thôi. Theo tôi biết thì nhiều người chê ông Diệm quá ngay thẳng dễ bị lừa. Còn ông Nhu thì quá kiêu ngạo lại có ảo tưởng. Nhưng ngược lại cũng có người khen ông Nhu là có nhiều mưu lược và trầm tĩnh. Và nhiều người hơn nữa khen ông Diệm là người có viễn kiến chính trị như một nhà tiên tri, kiến thức về chiến lược sách lược quân sự của ông cũng rất là uyên bác.
Tôi chỉ xin nêu lên vài danh tánh và sự việc mà hiện tôi còn nhớ. Tôi không nhắc lại lời ca tụng của những danh nhân Mỹ như 3 vị Tổng Thống Mỹ là Dwight Eisenhower, Richard Nixon, Lyndon B. Johnson, Thống Tướng Maxwell Taylor hay đại sứ Frederick Nolting, hay nữ ký giả tên tuổi Marguerite Higgins, hay nhất là học giả, sử gia, nữ Tiến Sĩ Ellen Hammer là những người ai cũng biết là rất ngưỡng mộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi chỉ xin trưng dẫn mấy nhà báo Mỹ, Anh, Pháp, Úc đã từng chỉ trích nặng nề ông Diệm là độc tài gia đình trị, và coi ông thua kém ông Hồ. Tôi muốn nói đến những Stanley Karnow, Bernard Fall, Dennis J. Duncanson, Denis Warner. Người Việt thì có ông Hồ Sỹ Khuê đã nêu trên. Tất cả những người trên đều nêu những bằng chứng cho thấy ông Diệm có một viễn kiến chính trị như nhà tiên tri. Bernard Fall đã trưng dẫn một bản tin tình báo của Pháp năm 1948 đã phúc trình rằng ông Diệm lúc ấy đã biết trước Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam, rồi Bernard Fall phê rằng viễn kiến đó rõ ràng là một lời tiên tri mà lúc ấy (1948) chẳng ai để ý. Karnow cũng khen ông Diệm đã tiên tri là phe Quốc Gia sẽ thua ... Về phía người Việt, có ông Hồ Sỹ Khuê đã nêu lên ít nhất là 3 trường hợp chứng tỏ ông Diệm nhìn trước thời cuộc như một nhà tiên tri. Riêng nhà báo Úc Denis Warner, trong cuốn The Last Confucian, --gọi ông Diệm là Nhà Nho Cuối Cùng-- đã thuật lại trường hợp ông Diệm chỉ cho ông trên bản đồ thấy chiến lược chiến thuật của Việt Cộng ở vùng Việt Bắc hồi 1948-50 ra sao. Ông cũng nhắc lại lời Tổng Thống Diệm nói về chiến lược của Mao Trạch Đông mà ông (Tổng Thống Diệm) cho rằng rất đơn sơ nhưng trên thế giới lại chỉ có hai người hiểu nổi là Che Guevara và Hồ Chí Minh. Phân tích kỹ nhận định này thì thấy ông Diệm phải là một người rất am tường về lịch sử và chiến lược mới có thể có một nhận xét trong một lúc về 3 nhân vật Cộng Sản trong chỉ một câu nói như vậy. Một người không nghiên cứu kỹ về Mao Trạch Đông, về Hồ Chí Minh, về Che Guevara, và phong trào Cộng Sản ở Nam Mỹ, thì không thể nào dám nói lời khẳng định như đinh đóng cột với một nhà báo nổi tiếng của Úc như Denis Warner.
Hỏi: Tôi cũng nghĩ ông Diệm là một lãnh tụ có tài mới có thể dẹp tan nạn thập nhị sứ quân trong một năm, rồi sau đó, tạo lập được một miền Nam trù phú và tương đối an bình chỉ trong vòng mấy năm. Nhưng nếu thực hiện 6 giai đọan để hiệp thương theo kế họach của Tổng Thống Diệm, như tự do trao đổi thư tín, tự do đi lại thăm viếng giữa hai miền, nhất là tự do chuyển cư từ Bắc vào Nam, thì sẽ chẳng khác gì mở toang cửa cho CS xâm nhập để rồi sau đó nó đánh phá mình thì sao? Trong số 3000 dân mà ông Nhu ước tính sẽ bỏ miền Bắc để di cư vào Nam sinh sống, thế nào chẳng có hàng trăm cán bộ tính báo gián điệp của Cộng Sản.
Đáp: Trước khi thực hiện 6 giai đọan hiệp thương tất nhiên đã phải có một thỏa hiệp chấm dứt các hành động vũ trang chống phá lẫn nhau. Từ chỗ có những tiếp xúc giữa ông Nhu với Phạm Hùng sẽ có thể dẫn đến một cuộc họp thượng đỉnh giữa hai nhà lãnh đạo tối cao hai miền. Hay ít nhất cũng phải có một văn kiện ký kết giữa các bộ trưởng ngọai giao hai miền trước sự chứng kiến của các quan sát viên quốc tế. Cho nên việc gián điệp xâm nhập dù có cũng chỉ là những họat động thông thường không có nguy cơ đưa đến những xung đột vũ trang công khai được. Vả lại nếu miền Bắc có phái điệp viên vào Nam được một cách dễ dàng, thì miền Nam cũng có thể đưa gián điệp vào miền Bắc vậy. Tắt một lời, khi đã thỏa hiệp được với nhau thì chẳng những nguy cơ lan rộng chiến tranh không còn, mà còn có thể ngăn chặn hay giảm thiểu được những hành động quấy phá lẻ tẻ nữa. Dầu sao thì để đi tới đựơc một thỏa hiệp như thế đường đi dĩ nhiên còn dài chứ không thể thành tựu được chỉ qua một lần tiếp xúc giữa ông Nhu và Phạm Hùng. Trong khi đó thì cả hai bên đều phải tính tóan điều hơn lẽ thiệt, tìm hiểu thiện ý của nhau, thông cảm nhau hơn mới có thể thành đạt. Tóm lại đây là một cuộc đấu trí cam go, chứ không dễ dàng.
Hỏi: Việc hai bên thù địch tính chuyện hòa giải thường phải có trung gian, và khi thưong thuyết cũng cần có người chứng kiến. Ví dụ hiệp định Giơ Ne Vơ trước khi Pháp và Việt Minh ký kết, thì đã có những cuộc thảo luận, bàn cãi, mặc cả kéo dài nhiều tháng. Vậy trong việc ông Nhu tiếp xúc với đại diện của Hà Nội, ngòai các nhà lãnh đạo Pháp quốc ra như Tổng Thống De Gaulle và ông Pinay ra có còn nước nào biết không?
Đáp: Theo Tiến sĩ Ellen Hammer, tác giả cuốn A Death In November, thì trong buổi tiếp tân ra mắt của tân ngọai trưởng Trương Công Cừu vào cuối tháng 8 năm 1963, ông Nhu đã tiếp xúc với trưởng đòan Balan trong ủy hội Quốc Tế Kiểm Sóat Đình Chiến (ICC) là luật sư Mieczyslaw Maneli, lúc ấy có sự hiện diện của các đại sứ Ấn Độ, đại sứ Pháp, đại sứ Ý và đại diện Vatican. Đúng ra Maneli đã từ Hà Nội vào Saigon vào mùa xuân, trước đó khá lâu. Nhưng khi một số nhà ngọai giao, trong đó dĩ nhiên có đại sứ Pháp Lalouette, tiếp xúc được với Maneli để khuyên ông ta nên gặp ông Ngô Đình Nhu thì vụ Phật Giáo bùng nổ. Cho nên mãi đến cuối tháng 8 hai người mới có dịp gặp nhau tại buổi tiếp tân. Tiến Sĩ Hammer thuật lại rằng lúc ấy Maneli đang nói chuyện với đức cha Asta, đại diện tòa thánh Vatican, thì thấy ông Ngô Đình Nhu cũng đứng đó không xa, đức cha liền kéo Maneli đến giới thiệu với ông Nhu. Lập tức 3 nhà ngoại giao khác cùng tiến về phía họ. Đó là các ông Lalouette, đại sứ Pháp, D'Orlandi, đại sứ Ý và Goburdhun, đại sứ Ấn Độ, cũng là chủ tịch Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Sóat Đình Chiến. Tưởng cùng cần lưu ý là tân đại sứ Mỹ là ông Henry Cabot Lodge cũng có mặt trong cuộc tiếp tân này và cũng đứng cách đó không xa lắm. Tiến Sĩ Hammer thuật lại nhiều điều trao đổi giữa hai người. Nhưng trong đó tôi chỉ chú ý tới việc ông Nhu nhấn mạnh đến mục đích đem lại hòa bình. Và trong lời đối thọai với Maneli, mà nhiều nghe được, ông Nhu thẳng thắn phê bình các chế độ thực dân, còn nhấn mạnh không chỉ phê bình người Tầu mà thôi, khiến nhiều nhà ngọai giao có mặt tự hỏi, không biết có phải ông nhắm gián tiếp đả kích cả Hoa Kỳ hay không. Còn Maneli thì hứa sẵn sàng giữ vai trò tích cực nhất. Sau đó Maneli nhận được giấy mời đến gặp ông Nhu tại dinh Gia Long vào ngày 2-9-1963. Về cuộc gặp gỡ này thì không thấy có tài liệu nào cho biết nội dung ra sao cả.
Hỏi: Có tài liệu nói Maneli có gặp ông Nhu tại nhà riêng của ông đại sứ Lalouette trong ngày 14-7-63, tức là ngày Quốc Khánh của Pháp. Ông có tin tức gì về nội dung cuộc gặp gỡ này không?
Đáp: Tin này do tờ Jeune Afrique (Châu Phi Trẻ) loan. Nhưng chính Maneli đã phủ nhận trong tác phẩm The War Of The Vanquished (Cuộc chiến của những kẻ chiến bại). Hai người gặp nhau lần đầu trong buổi tiếp tân của Ngọai Trường Trương Công Cừu. Và lần thứ hai, cũng là lần chót, vào ngày 2-9-63 tại dinh Gia Long.
Hỏi: Về phía nhà cầm quyền miền Bắc, phản ứng của họ ra sao, và những đìều kiện họ đưa ra là gì?
Đáp: Theo bà Hammer, tác giả cuốn A Death In November, thì khi ông Goburghun, đại sứ Ấn đi Hà Nội với tư cách chủ tịch Ủy Ban Kiểm Sóat Đình Chiến, đến gặp ông Hồ Chí Minh thì thấy ông ta chẳng những không thấy có gì ngăn cản cuộc hiệp thương với Saigon, ông ta còn bảo đại sứ Ấn: "Ngô Đình Diệm là người yêu nước theo cách của ông ta...hãy bắt tay ông ấy thay tôi, nếu gặp." Về ông đại sứ Ấn này, thì chính Maneli cũng cho rằng ông ta, cũng như dân Ấn đứng hẳn về phía anh em ông Diệm và sẽ rất buồn nếu "mất lá bài này". Cho nên Goburghun, cũng như Lalouette, tìm mọi cách để tránh đảo chính. Nhất là ông Lalouette đã nhiều lần cố thuyết phục ông Cagot Lodge, nhưng không thành công. Khi Maneli đến Hà Nội trình bày kế họach theo sự hướng dẫn của các ông Lalouette và Goburghun, thì chỉ hai ngày sau Hà Nội đã có đáp ứng: Hà Nội sẵn sàng khởi sự thương thuyết bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai. Bộ trưởng ngọai giao Xuân Thủy, theo chỉ thị của chủ tịch và thủ tướng sẽ sẵn sàng trình lên một danh sách những hàng hóa có thể trao đổi giữa hai miền. Còn điều kiện, Hà Nội chỉ cần thấy Mỹ rút khỏi miền Nam, thì sẵn sàng bàn thảo về bất cứ điều gì ?
Hỏi: Về nội dung các cuộc thương thuyết, ông có tài liệu nào về tin đồn hồi ấy rằng sẽ có một chính phủ liên hiệp quốc cộng, hay một thứ liên bang Đông Dương không?
Đáp: Theo tôi, có lẽ tin đồn này phát xuất từ báo cáo của Maneli. Trong cuốn sách nói trên, Maneli có viết rằng ông ta hỏi Phạm Văn Đồng trước mặt ông Hồ về một khả năng có một thứ chính phủ liên bang với miền Nam, hay một thứ chính phủ liên hiệp không, thì Phạm Văn Đồng trả lời là, mọi sự đều có thể thương lượng trên cơ sở nền độc lập và chủ quyền tối thượng của dân tộc. Mấy lời trên, tác giả Maneli đã trích dẫn báo cáo tối mật của ông ta chỉ gửi cho chính phủ CS Balan, và tòa đại sứ Liên Xô ngày 10-7-63. Cũng về tin đồn này còn có một nguồn tin khác liên quan đến câu chuyện giữa tướng Nguyễn Khánh và trưởng nhiệm sở CIA ở Saigon lúc ấy là John Richardson. Họ bàn về một lời tuyên bố nào đó của ông Hồ Chí Minh. Người ta còn đồn rằng trong năm 1963 đã có một hội nghị tại Cam Bốt để bàn về vấn đền Liên Bang này trong hội nghị đó có đại diện của ông Hồ và đại diện của ông Nhu. Nhưng không có chi tiết gì cụ thể về những tin đồn nầy.
Hỏi: Ông có tin rằng ông Hồ được hòan tòan tự do để thương lượng mà không bị Liên Xô và Trung Cộng ngăn cản không?
Đáp: Từ khi Khrutshchev hạ bệ Stalin rồi đưa ra 5 nguyên tắc sống chung, thì áp lực của Liên Xô trên các nước chư hầu có giảm bớt. Hơn nữa Khrutshchev đã từng đề nghị cho cả Việt Nam Cộng Hòa thời ông Diệm vào Liên Hiệp Quốc, thì có lẽ lúc ấy Liên Xô không chống việc hai miền hiệp thương với nhau, để làm giảm bớt sự căng thẳng, chẳng những giữa hai miền mà cả giữa hai khối Đông Tây nữa. Còn Trung Cộng, thì ta đã biết họ vẫn có thiện cảm với chính quyền Ngô Đình Diệm, ngay từ khi vừa thành hình. Thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã nhiều lần đề nghị lập bang giao giữa Nam Việt và Bắc Kinh. Nhưng dầu sao thì trong vấn đề này xin để Maneli có ý kiến: Trong báo cáo tối mật ngày 10-7-63 Maneli nói hai bên muốn có thể đi tới một thỏa hiệp mà không có sự tham dự của các đại cường. Về phản ứng của Liên Xô, Maneli trích lời của ông đại sứ nói với Maneli răng, có lý do để nghi rằng người Việt họ muốn thu xếp riêng với nhau. Còn về phía Trung Quốc, thì qua cuộc tiếp xúc với sứ quan Trung Cộng ở Hà Nội, Maneli cho rằng Trung Cộng không biết gì về cuộc tiếp xúc giữa Saigon và Hà Nội. Nhưng Maneli lại thêm rằng, hoặc giả họ biết nhưng không chấp nhận. Rồi Maneli phê một câu làm lời kết luận của chương sách dài 20 trang về cuộc gặp gỡ giữa ông với ông Ngô Đình Nhu: Xét về mặt chính trị mà nói thì việc Hà Nội hành động mà không có sự chấp thuận của Bắc Kinh là điều có ý nghĩa nhất.
Hỏi: Điều này đối với tôi hơi khó tin. Theo tôi nghĩ, chẳng những Trung Cộng mà cả đàn em của ông Hồ cũng không thể chấp nhận cho ông ta tự ý thương lượng với chính quyền Miền Nam. Không biết ông có tin là ngòai hai bản di chúc ông Hồ để lại, được nhà cầm quyền Hà Nội công bố, còn có một bản di chúc ông ấy viết tay không? Trong bản di chúc này, mà người ta bảo đã đựoc giảo nghiệm tự dạng thì chắc chắn là của ông Hồ thật. Trong bản di chúc này ông Hồ có nói đến việc ông có một cô con gái với một người Pháp và về việc ông tính chuyện thương lượng với ông Ngô Đình Diệm, và vì vậy ông đã bị nhóm Lê Duẫn hiếu chiến hãm hại, từ đó về sau mất hết quyền hành.
Đáp: Tôi cũng có nghe nói đến bản di chúc viết tay này rồi cũng đi tìm đọc thì thấy không đáng tin lắm. Tôi cũng có hỏi mấy cựu cán bộ cao cấp Cộng Sản ở hải ngọai thì họ cũng nói có biết có một di chúc như vậy, nhưng văn phong không phải của ông Hồ. Theo tôi nghĩ, muốn kiểm chứng xem đây có phải là di chúc thật hay không, nên tìm người con gái của ông Hồ để hỏi cho ra lẽ. Nhưng tôi nghĩ, nếu bà ấy còn sống, nay cũng đã ngòai 90 rồi. Tiếc rằng những người đưa bản di chúc này ra trên báo, đã không trưng dẫn được xuất xứ đáng tin cậy. Vì vậy rất khó tin. Riêng chúng tôi vẫn nghĩ ông Hồ vẫn còn đầy đủ quyền lực vào những năm cuối đời. Trong cuốn Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp chúng tôi đã để hẳn một chương để chừng minh điều đó.
Hỏi: Hiệp thưong từng đã là một cạm bẫy làm cho các đảng phái quốc gia hồi 1945 sa vào mà trở thành thân bại danh liệt, khiến đa số bị hại hay phải chạy trốn sang Tầu. Ông có nghĩ anh em ông Diệm có tài để không mắc bẫy không?
Đáp: Ông Diệm đã không sa bẫy lúc ấy. Các ông Hùynh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đòan, Phan Kế Tọai đều nghe lời dụ dỗ của ông Hồ ra hợp tác. Các đảng phái quốc gia như Việt Quốc, Việt Cách của các ông Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần v.v... đều mắc bẫy tham gia chính phủ liên hiệp và nhận 70 ghế ở quốc hội mà không được bầu. Nhưng như tôi từng viết chỉ có ông Diệm không mắc bẫy. Chính Hồ Chí Minh đã mời ông Diệm giữ chức bộ trưởng Nội Vụ mà bị ông Diệm từ chối thẳng thừng, trong lúc đang ở trong tay sinh sát của ông Hồ. Đó là trước kia, lúc ông ở vào cái thế thập tử nhất sinh, hòan tòan trong tay ông Hồ, mà ông còn không nhượng bộ để mắc bẫy. Còn bây giờ ông Diệm đã có một nửa nước phồn thịnh và hùng mạnh hơn ông Hồ. Nếu có hiệp thương là hiệp thương ở thế mạnh, thì sao lại phải sợ. Hơn nữa bất cứ một cuộc xung đột vũ trang hay chính trị nào cũng đều phải đi tới một cuộc thương thuyết để chấm dứt xung đột. Đặc biệt là cuộc xung đột giữa ý thức hệ CS một bên, và bên kia là thế giới tự do, cuộc xung đột bao trùm khắp hòan vũ cũng đã kết thúc bằng một lọat những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và thương thuyết giữa các nhà lãnh đạo hai bên. Thì lúc ấy dù bên nào đi bước trước để mở đường cho một giải pháp chính trị cũng đều đáng hoan nghênh.
Tuy nhiên cũng phải thú thực rằng có nhiều người coi việc ông Hồ tặng ông Ngô Đình Diệm cành đào dịp xuân Qúy Mão (1963) cũng tương tự như Vương Dõan, trong truyện Tam Quốc, tặng cho Đổng Trác con hát ả đào Điêu Thuyền, khiến Lữ Bố vì ghen mà giết cha nuôi. Họ cho rằng cành đào tượng trưng và mở đầu cho những cuộc tiếp xúc giữa hai miển đã làm cho người Mỹ ra tay hạ ông Diệm. Nhưng riêng tôi không nghĩ thế. Hỏi: Nhiều sử gia Mỹ cho rằng ông Nhu tiếp xúc với Bắc Việt là cố ý làm "săng ta" với Mỹ, khi thấy áp lực của Mỹ quá nặng. Ông có nghĩ như vậy không?
Đáp: Nếu chỉ nhìn vào những diễn biến trong mấy tháng giữa năm 1963, thì suy đóan như thế cũng có lý. Nhưng thực ra người Mỹ đã muốn thay ông Diệm hay ít nhất cố làm áp lực để đưa ông Nhu ra ngọai quốc từ lâu trước đó. Và hai anh em Tổng Thống Diệm cũng đã có những toan tính về một kế họach hòa bình qua những cuộc tiếp xúc ngọai giao được bộc lộ từ năm 1962 trước kia rồi. Người Mỹ muốn hạ ông Diệm, không phải vì ông đàn áp Phật Giáo, cũng không phải vì ông định đi đến một giải pháp với Bắc Việt. Mà theo tôi nghĩ, lý do chính họ muốn hạ ông Diệm vì ông không đồng ý cho họ đem quân ồ ạt vào Việt Nam. Ông Diệm muốn dần dần tiến tới hiệp thương với Bắc Việt chỉ vì muốn tìm kiếm cho nhân dân Việt Nam một nền hòa bình, dù tạm thời và giới hạn chăng nữa, còn hơn là càng ngày càng dấn sâu vào một cuộc chiến mỗi lúc một thêm ác liệt. Nhất là khi mà số người ngọai quốc càng ngày càng gia tăng mãi, như từ 1962.
Minh Võ
Cuộc phỏng vấn này đã được phát thanh ngày chủ nhật 7-10-2007 trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 3:51:37 GMT 9
CUỘC ĐẢO CHÁNH 01-11-1963 Ls Trương Phú Thứ Cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963, gắn liền với người đứng đầu: Dương Văn Minh, được biết, DVM sinh ngày 19 tháng 2 năm 1916, ở Phú Lâm, ngoại thành Chợ lớn. Cuộc đời hoạn lộ của Dương Văn Minh bắt đầu bằng chân thư ký công nhật tại Dinh Phó Soái Nam Kỳ, thời Việt Nam Cộng Hòa, gọi Dinh Gia Long. Sau đó, Dương Văn Minh đăng lính, học lớp sĩ quan phục vụ trong quân đội Pháp. Khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh vào năm 1954; Dương Văn Minh đã mang cấp bậc Đại tá. Sau chiến dịch Rừng Sát, Dương Văn Minh đã bị bỏ xó, vì tư cách cá nhân “yếu hèn nhu nhược”, từ những thùng vàng và tiền giấy lấy được của Bẩy Viễn. Dương Văn Minh rắp tâm thù hận Tổng thống Ngô Đình Diệm, và chờ đợi thanh toán bằng mọi giá. Những người quen biết, hoặc có dịp làm việc với Dương Văn Minh đều có chung một nhận định: Đó là một con người lười biếng, thiển cận và ngờ nghệch.Cuộc đời Dương Văn Minh cột chặt với biến cố 01-11-1963 và việc chiếm đoạt quyền hành vào cuối tháng 4 năm 1975. Dương Văn Minh đã mở cửa cho Cộng sản Bắc Việt tiến chiếm miền Nam-VNCH, bằng cuộc đảo chánh 01-11-1963, và cũng chính Dương Văn Minh đã dâng trọn miền Nam-VNCH cho Cộng sản Bắc Việt bằng cái nhãn hiệu “tổng thống” hai ngày. Cuộc đảo chánh 01-11-1963: Người trực tiếp điều động và nắm giữ kế hoạch đảo chánh 01-11-1963, là Trần Thiện Khiêm, một con người gian manh giảo hoạt, luôn núp mình sau bóng tối, để giật dây thủ lợi. Dương Văn Minh chỉ là một cái hình nộm của bọn phản loạn, nhân cơ hội dã tâm ra lệnh cho bộ hạ Nguyễn Văn Nhung, Dương Hiếu Nghĩa thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Bị công luận kết án là một tên sát nhân hèn hạ, Dương Văn Minh đã không chối cãi hay tìm cách bào chữa cho hành động dã man, tàn ác này. Cuộc đảo chánh 01-11-1963, thực chất chỉ là cuộc tạo phản, nhằm thỏa mãn thú tính của một số cá nhân, tham vọng bè phái, và nhất là phục vụ quyền lợi và đòi hỏi của ngoại bang. Cuộc đảo chánh này, đã tạo ra một hỗn loạn triền miên trong sinh hoạt chính trị ở miền Nam-VNCH, đã gây nên những đổ vỡ chia rẽ trầm trọng giữa các thành phần dân chúng, và ngay cả trong các đơn vị quân đội. Tất nhiên, những bóng đen đứng sau cuộc đảo chánh, là những người thủ lợi, và đạt được những gì họ muốn. Dương Văn Minh đã làm tay sai cho Mỹ qua Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Dương Văn Minh đã làm tay sai cho Cộng sản Bắc Việt qua người em ruột là Dương Văn Nhựt, bí danh Mười Ty, một “cán bộ”Cộng sản tập kết. Dương Văn Minh đã ngả theo Cộng sản từ năm 1960, vì hận thù chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và vì tình cảm gia đình, do người em được cộng sản Bắc Việt bố trí lôi kéo. Sau ngày đảo chánh, Dương Văn Minh làm Quốc trưởng, “cán bộ” Cộng sản tràn ngập trong Dinh Gia Long. Khi bị đẩy ra ngoại quốc, Dương Văn Minh thường xuyên liên lạc và nhận chỉ thị của Cộng sản Bắc Việt. Lúc được trở về Sài Gòn, Dương Văn Minh công khai hoạt động cho Cộng sản qua lá chắn của “thành phần thứ ba”, với bọn Cộng sản nằm vùng hoặc thân Cộng. Dương Văn Minh đã tuân hành chỉ thị của Bắc Bộ Phủ ra lệnh hủy bỏ Ấp Chiến Lược, để mở đường cho các đại đơn vị Cộng sản Bắc Việt tiến quân ồ ạt vào miền Nam, và bọn Cộng sản địa phương có phương tiện và cơ hội phát triển. Đó là mục tiêu tối hậu của Dương Văn Minh trong cuộc đảo chánh 01-11-1963, bên cạnh lòng hận thù chính quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Cuộc đảo chánh 01-11-1963, kéo theo sự sụp đổ toàn diện của một Quốc Gia có Chủ Quyền, và một xã hội nền nếp. Cả thế gới kinh hoàng khi nhìn tấm hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm hai tay bị trói quặt ra sau, và bị bắn chết trong lòng thiết vận xa M 113. Tội ác của Dương Van Minh đã không dừng ở chiếc thiết vận xa oan nghiệt này. Tội ác của Dương Văn Minh còn kéo dài ra đến dọc đường số I, nơi hàng vạn đồng bào vô tội đã chết tức tưởi vì đạn của quân xâm lược từ phương Bắc. Tội ác của Dương Văn Minh ở Bình Long Anh Dũng, ở Kontum Kiêu Hùng, ở Trị Thiên Vùng Dậy. Máu chảy thành sông, xương khô chất thành núi. Tội ác của Dương Văn Minh là vô số thân xác của đông bào, trẻ em vượt biển ngoài đại dương. Tội ác của Dương Văn Minh là lòng căm phẫn, oán hờn của hàng trăm ngàn Dân-Quân-Cán-Chính VNCH trong các trại tù của Cộng sản Hà Nội. Vụ chiếm đoạt quyền hành ngày 28-4-1975: Do áp lực của Mỹ, Dương Văn Minh được về lại quê hương, sau một thời gian dài bị đẩy ra ngoại quốc. sự hiện diện của Dương Văn Minh ở Sài Gòn là một lưỡi gươm kề ngay vào hông Dinh Độc Lập. Cái gọi là “thành phần thứ ba”, gồm toàn những cán bộ Cộng sản nằm vùng, và các thành phần thân Cộng tụ tập chung quanh Dương Văn Minh, để lèo lái con người “yếu hèn nhu nhược”, không biết gì chính trị và khả năng quân sự lại rất tồi tệ. Thành phần này, đã đóng góp công trạng rất lớn lao cho Cộng sản Bắc Việt xâm-chiếm miền Nam VNCH. Vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, “thành phần thứ ba”, thực chất chỉ là bọn tay sai của Cộng sản Bắc Việt công khai xuất đầu lộ diện. Những con lật đật u mê trong danh vọng hão huyền, chạy ngược, chạy xuôi giữa đường phố Sài Gòn, mơ tưởng chuyện đội đá vá trời. Dương Văn Minh đã bị kẹt cứng trong vòng kiềm tỏa trong tay của bọn tay sai của ngoại bang và Cộng sản Bắc Việt. Dương Văn Minh đã bị bọn phù thủy thúc đẩy cưỡng đoạt danh hiệu Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa. Nên biết, Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa không có điều khoản, hoặc bất cứ một trù liệu nào, cho sự chuyển nhượng quyền hành như vậy. Cụ Trần văn Hương đã không chịu nổi áp lực từ nhiều phía, và cuối cùng đã buông xuôi. Lá bài Dương Văn Minh do ngoại bang và Cộng sản Bắc Việt nuôi dưỡng từ nhiều năm được ném ra chiếu bạc, và Dương Văn Minh đã hoàn thành công tác được ủy nhiệm và thi hành: Đầu hàng Cộng sản Bắc Việt, sau hai ngày chiếm giữ quyền hành. Nhiều người lý luận, bất cứ một nhân vật nào, ở vào hoàn cảnh và vị trí của Dương Văn Minh vào thời điểm đó, cũng không thể làm khác hơn được. Lý luận này, có thể chấp nhận, nếu người kéo cờ trắng đầu hàng Cộng sản Bắc Việt không phải là Dương Văn Minh. Trường hợp Dương Văn Minh là một sự xếp đặt và sửa soạn lâu dài của ngoại bang và Cộng sản Bắc Việt. Con người “yếu hèn nhu nhược” của Dương Văn Minh đã được nhồi nặn để làm cái công việc dâng hiến miền Nam-VNCH cho Cộng sản Bắc Việt kể từ những ngày đầu của thập niên 1960. Cục đất tội tình không đủ lý trí để cân nhắc hơn thiệt, phải trái, chỉ biết cúi đầu theo sự lôi cuốn của bè phái và dục vọng cá nhân, cuối cùng phải lãnh nhận tất cả những cặn bã của một vũng bùn ô nhục. Dương Văn Minh đã ra người thiên cổ. Dương Văn Minh đã không về được Dinh Hoa Lan để an dưỡng tuổi già như lòng mong muốn, mặc dù Cộng sản đã tu bổ sửa sang lại, để chờ đón. Dương Văn Minh đã sống những năm tháng cuối đời trong âm thầm nghèo khó. Còn bao nhiêu câu hỏi chưa được trả lời, bao nhiêu hận thù, ân oán được chôn theo thân xác của một con người đã gây ra quá nhiều những tang tóc cho đất nước, thống khổ trầm luân cho hàng triệu sinh lính. Báo chí Việt ngữ ở hải ngoại, đã loan tin một rất bình thường về cái chết của Dương Văn Minh. Nhưng, báo chí trong nước như “Lao Động” và “Nhân Dân”, đều có đăng tải tin tức với những lời lẽ rất thiện cảm. “Nhà nước” Cộng sản Việt Nam, qua lời của “phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao” ở Hà Nội, cũng đã “thành thật chia buồn với gia đình”. Một kiếp người đã ra đi, để lại đàng sau một đám bụi mù. Ls Trương Phú Thứ ************************** DƯƠNG VĂN MINH HÀNG TƯỚNG Lữ Giang LTS. Lịch sử cận đại của VNCH còn nhiều mãng đen cần được các sử gia khai thác nhiều nguồn tài liệu để viết một cách công chính. NKLT đăng lại bài viết sau đây như một trong số các tài liệu ấy. Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ. Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng” , nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh. VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại: Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: -2- “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1] Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể. Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo -3- nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố.. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này. Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2] Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!” CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén.. Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt -4- hiện đang sống tại Sài Gòn.. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm. Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh. Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?” Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết. Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau: “Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam - được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia -5- chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn... Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. Bài báo viết thêm: “Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.” BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ. 1 - Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm. Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ. -6- Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không. Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh: - Tại sao hai ông ấy chết? Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3] 2 - Giết ông Ngô Đình Cẩn Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn. Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.” Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn! BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!” Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến -7- thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi. Frank Snepp cho biết thêm:“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng” . [4] Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội. Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151. Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại. Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp.. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 31, 2010 3:53:41 GMT 9
“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống...” Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại. Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5] Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt. Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự” . Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!” . Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh. Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30. Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng! -9- NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau: "Thi, “Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm. “Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm... Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không - Pháp chẳng giúp đỡ gì - mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên. “Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết. “Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi. “Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra...” Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên. Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây: • Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm: (1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra. (2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế. -10- • Thứ hai là ngố: Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ: (1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền. (2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng! • Thứ ba là hèn: (1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào! (2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại: - Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định. Tổng Thống Minh trả lời: - Các em chuẩn bị bàn giao đi. Thiếu Tá Tài hỏi lại: - Có phải là đầu hàng không? Tổng Thống Minh trả lời: - Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Thiếu Tá Tài nói: - Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?" Tổng Thống Minh trả lời: - Tùy ý các anh em. -11- Nói xong cúp máy! (3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò... Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”. Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng” ! NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây. Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California. Ngày 29.4.2009 Ghi chú: [1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28. [2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70. [3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231. [4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr... 382 – 383. [5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540. Lữ Giang Nguồn: VietCatholic News (30 Apr 2009 05:43)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 3:21:37 GMT 9
Mặt thật hàng tướng Dương Văn Minh Mỗi lần 30 tháng 4 đến, người Việt tỵ nạn lại nhắc đến Dương Văn Minh và gọi ông là “Hàng Tướng”. Nhưng hành tung và vai trò của ông trong cuộc chiến VN vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra và có một vài tranh luận xung quanh hàng tướng này. Hôm đám tang Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, cựu dân biểu VNCH, có đọc một bài điếu văn, nói rằng “Đây là cái chết lần thứ nhì của một người lính suốt đời lo cho đất nước”. Tuy nhiên, qua bài điếu văn đó, người ta nhận thấy Nguyễn Hữu Chung muốn mượn cái chết của Tướng Dương Văn Minh để nói về mình hơn là nói về Tướng Minh. Đó là cái bệnh trầm kha của nhiều “lãnh tụ” quốc gia. Hôm 30 tháng tư vừa qua, nhân kỹ niệm 30 năm mất miền Nam, Đại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, có viết bài “Tưởng Niệm Big Minh, Một Vòng Hoa Cho Niên Trưởng”, nhưng nội dung bài này cũng chỉ để nói lên tình “huynh đệ chi binh” mà thôi. Website của Giao Điểm, [một diễn đàn chống "Giatô" và kêu gọi Phật giáo Ấn Quang "hồi tà", trở về với Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh,] đã phổ biến bài “Cái chết của một Hàng Tướng: Dương Văn Minh (1916-2001)” của Vũ Ngự Chiêu, tức Chánh Đạo, tức Nguyên Vũ, nói là trích trong “Ngàn Năm Soi Mặt, tâm bút”, để bênh vực cho Tướng Dương Văn Minh. Trong nỗ lực bôi đen “Giatô”, Vũ ngư. Chiêu viết rằng ông Lâm Lễ Trinh đã “làm án tử hình Ba Cụt hầu chuẩn bị bước lên chức Bộ trưởng Nội vụ – một bản án tiêu biểu cho chế độ giáo phiệt của anh em ông Diệm” (tr. 137), mặc dù Ba Cụt đã chịu đầu hàng. Ở cuối bài, Vũ Ngự Chiêu đã kết kuận như sau: “Hậu thế sẽ có dịp thẩm giá Tướng Minh một cách trung thực hơn. Vì Tướng Minh, giống như ông Trần Văn Hương, chỉ là những tác nhân phụ thuộc, ở buổi “hết quan, tàn quân.” Nhóm Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, v.. v… mới là những tội nhân chính của lịch sử.” Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ. Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh. * Vài nét về Tướng Big Minh Dương Văn Minh sinh ngày 16.2.1916 tại Vĩnh Long (có tài liệu nói sinh tại Mỹ Tho). Sỡ dĩ ông có biệt danh là Big Minh vì cao 6 feet và nặng 200 pounds, và được gọi như thế để khỏi lẫn lộn với Tướng Trần Văn Minh. Ông có vợ và ba con: hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm hiện ở Pháp, và người con gái là Dương Mai, có chồng là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, hiện ở Pasadena, California. Lúc nhỏ ông theo học trường Chasseloup Laubat ở Saigon và đỗ tú tài II vào năm 1938 cùng một lớp với Tướng Trần Văn Đôn. Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bi. Thủ Dầu Một với cấp bậc Aspirant tức là Chuẩn Úy. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Caps Jacques (Vũng Tàu) và bi. Nhật cầm tù. Khi Pháp trở lại, ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp năm 1946 với cấp bậc Thiếu Úy. Năm 1952 ông mang cấp bậc Đại Úy và phục vụ tại Phủ Thủ Hiến Nam Phần. Từ Năm 1953 – 1954, ông được thăng Thiếu Tá rồi Trung Tá và phục vụ tại Tổng Tham Mưu Quân Khu 1. Năm 1954 – 1955 ông là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Saigon. Dương Văn Minh là cháu của Nguyễn Ngọc Thợ Khi ông Diệm về chấp chánh, ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đã đề cư? Dương Văn Minh chỉ huy huy lực lượng bảo vệ Saigon. Ngày 3.5.1955, Dương Văn Minh được thăng Đại Tá và giữ chức Quân Trấn Trưởng Saigon. Dương Văn Minh Nguyễn Ngọc Thơ Người đầu tiên đã giúp ông Diệm chống lại các giáo phái không phải là Đại Tá Dương Văn Minh mà Đại Tá Dương Văn Đức. Ngày 5.6.1955, Đại Tá Đức được cử chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam Phần. Ông cho quân tiến chiếm Cái Vồn (Cần Thơ), phá tan đại bản doanh của Tướng Trần Văn Soái. Ngày 29.6.1955 ông tiến vào núi Ba Chúc, tấn công lực lượng của Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt. Ngày 21.9.1955, với tư cách Quân Trấn Trưởng Saigon, Đại Tá Dương Văn Minh được cử làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Diệu, mở cuộc hành quân truy kích tàn quân Bình Xuyên tại Rừng Sát. Trung tá Nguyễn Khánh làm Chỉ Huy Phó và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh làm Tham Mưu Trưởng.. Sau khi Chiến Dịch Hoàng Diệu chấm dứt, ngày 6.11.1955, ông Diệm cho tổ chức biểu tình hoan hô các chiến sĩ Rừng Sát trở về. Đại Tá Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng. (Có tài liệu nói Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng ngày 23.10.1955). Trong thời gian ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần, nhưng ông vẫn thoát được. Để đối lại, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông xin xử dụng Tướng Dương Văn Minh vào công tác này. Vì thế, ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và cho Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này. Do đó, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn. Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đô? Dương Văn Minh, Tướng Đức đã đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy bớp tai trước mặt mọi người! Mặc dầu Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cư? Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây. Ngày 13.4.1955 Tướng Ba Cụt đã bị bắt ở Chắc Cá Đao, cách Long Xuyên 15 cây số và bi. Tòa Án Quân Sự tuyên án tử hình. Sáng 13.7.1956, lúc 5 giờ 40 sáng, Tướng Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa địa ở đường Hoa Bình, Cần Thợ Trong cuộc phỏng ván ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y, lúc đó là Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, cho biết sau khi xử bắn và chôn Ba Cụt xong, Nguyễn Văn Nhung có về gặp ông và cho ông biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho anh ta đào xác Ba Cụt lên đem đi thiêu rồi lấy tro rải xuống sông Cửu Long, để tay chân bộ hạ của Ba Cụt không lấy xác ông ta đem về lập đền thờ. Nhưng có nhân chứng khác cho biết Nguyễn Văn Nhung đã đào xác Ba Cụt lên, văm nhỏ rồi bỏ vào bao bố đem rải xuống sông chứ không hề thiêu. Trong cuốn hồi ký “VN máu lửa quê hương tôi” Đỗ Mậu phịa rằng “vì ông Diệm nhiều lần dụ dỗ Lê Quang Vinh theo đạo Thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Saigon và sẽ được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng.” (trang 124). Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Ông Diệm lại cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 29.8.1956 ông Diệm cử Tướng Minh làm Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng, chỉ huy Phân Khu Saigon.Chợ Lớn và tiếp tục chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định miền Tây. Ngày 30.10.1956, chiến dịch này kết thúc với kết quả 441 bị tử trận, 948 về quy thuận, 1169 bị bắt và hơn 1.000 súng bị tịch thụ Ngày 1.2.1957 Dương Văn Minh được thăng Trung Tướng và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Chức Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng được trao lại cho Tướng Dương Văn Đức mới đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Mỹ về. (Khi Tướng Đức xin đi Pháp, chức này lại được trao cho Tướng Nguyễn Khánh). Tướng Minh cũng được gởi qua Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại ỤS. Command and General Staff College ở Fort Leavenworth thuộc bang Kansas. Đầu năm 1960, cơ quan tình báo khám phá ra Tướng Dương Văn Minh đã liên lạc với Hà Nội qua người em là Thiếu Tá VC Dương Văn Nhựt, nên Tướng Minh không được tin dùng nữa (chúng tôi sẽ tường thuật sau). Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cư? Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới từ Hoa Kỳ về làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát Tướng Minh. Cuối năm 1962 Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Vùng I, được cử làm Tư Lệnh Lục Quân, một chức vụ mới đặt để thay thế Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Lúc đầu, Tướng Harking tỏ vẽ bất bình về chuyện Tướng Minh bị hạ tầng công tác. Ông ta nghĩ rằng ông Diệm sơ. Tướng Minh làm đảo chánh nên đã hành động như vậy. Nhưng sau khi biết được Tướng Minh có liên lạc với VC, cơ quan CIA cũng đồng ý về biện pháp này. Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên khi muốn lật đổ ông Diệm, CIA quyết định xử dụng Tướng Minh. Nhưng sau đó chỉ cho Tướng Minh làm Quốc Trưởng 3 tháng. Ngày 30.1.1964, theo sự sắp xếp của CIA, Tướng Nguyễn Khánh làm “chỉnh lý” xúc các tướng đảo chánh và biến Dương Văn Minh thành Quốc Trưởng bù nhìn. Ngày 24.10.1964, Nguyễn Khánh đưa ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc Trưởng thay Dương Văn Minh. Ngày 24.11.1964, ông Sửu thăng cho cả Nguyễn Khánh lẫn Dương Văn Minh lên Đại Tướng. Ngày 20.12.1964, Nguyễn Khánh bắt Dương Văn Minh đi lưu vong, làm Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. Mãi đến năm 1968, khi ông Trần Văn Hương lên làm Thủ Tướng, Dương Văn Minh mới được trở về VN. Ông đã đến Saigon ngày 5.10.1968. Sau đây là một số bí ẩn chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh. VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại: Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1] Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể. Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này. Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2] Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!” CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén. Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm. Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10., Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh. Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?” Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết. Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau: “Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam – được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. Bài báo viết thêm: “Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.” BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ. 1.- Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm. Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ. Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không. Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh: – Tại sao hai ông ấy chết? Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3] “Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) ” DVM 2.- Giết ông Ngô Đình Cẩn Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn. Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.” Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 21, 2010 3:22:41 GMT 9
BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNGVào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!” Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi. Frank Snepp cho biết thêm: “Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4] Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội. Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151. Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập. Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại. Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại, lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại: “Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống…” Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại. Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5] Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt. “Văn Kiện” Đầu hàng Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền… Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh. Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30. Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng! --------------------------------------------- ----------------------------------- Quyết định trả tự do tại dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Binh… được trả tự do. Quyết định trả tự do của Ủy ban quân quản được thông báo tại buổi lễ trang trọng và thân mật tại hội trường dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Tại buổi lễ này, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn – Gia Định Cao Đăng Chiếm đã phát biểu với một chất giọng miền Nam trầm ấm: “…Nhân dân Việt Nam chúng ta đã trải qua cuộc đấu tranh anh dũng và khốc liệt, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để giành thắng lợi vĩ đại và vô cùng to lớn từ xưa đến nay. Thi hành chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chính phủ mong rằng trong tình hình mới chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực xây dựng lại Tổ quốc của chúng ta, làm cho nhân dân chúng ta giàu mạnh, Tổ quốc của chúng ta hùng cường. Do đó, chúng tôi mong rằng mỗi người VN chúng ta đều tùy theo khả năng của mình, góp công sức vào việc xây dựng Tổ quốc của chúng ta. Bữa nay, thi hành lệnh của cấp trên, các anh được tự do về với gia đình. Chúng tôi sẽ tổ chức đưa các anh về đến nơi đến chốn…”. (Trích băng ghi âm) Đáp lại, ông Dương Văn Minh nói ngắn gọn thế này:“ …Ngày hôm nay, đại diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. (Trích băng ghi âm)Mọi người được về với gia đình ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị tổng thống 48 giờ nói:- Thôi, giã từ quá khứ chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.(Theo Tuổi Trẻ) @@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@ Những lời nói của cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương 3 Nhận xét p324530 viết ngày 10-12-2010 lúc 02:50 PM (890 Lần xem) Sống anh hùng, chết cũng anh hùng! Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không chịu di tản Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người tị nạn VN. Đại Sứ Martin cũng đã tìm cách đến gặp cụ Trần Văn Hương, cựu tổng thống VNCH tại phủ Phó Tổng Thống trên đường Công Lý lần chót. Theo GS Nguyễn Ngọc An, bạn thâm giao của cụ Hương thì cuộc gặp gỡ nầy đã diễn ra như sau: "Cũng ngày đó, 29 tháng 4 năm 1975, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái đại sứ nói: "Thưa tổng thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho đến ngày tổng thống trăm tuổi già» Tổng Thống Trần Văn Hương mĩm cười trả lời: "Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi." Khi nghe câu "Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), Đại Sứ Martin giựt mình nhìn trân trân ông Trần Văn Hương. Năm 1980, ông Hương thuật lại với tôi: Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main" (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày) Cựu Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày tháng cuối cùng trong tháng 4, 1975, cụ Trần Văn Hương đã nói với anh em phục vụ tại phủ Phó Tổng Thống rằng: "Thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh, qua rất thương, nhưng số phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng" Sau khi bàn giao chức vụ TT cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng Tư, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sáng hôm sau, ngày 29 tháng tư, cụ phải trở lại dinh Phó Tổng Thống ở đường Công Lý một lần cuối để tiếp kiến Đại Sứ Martin khi Martin đến từ giã cụ. Trong một cuộc tiếp xúc với BS Nguyễn Lưu Viên, cựu phó thủ tướng VNCH, tại Westminster vào cuối 2002, BS Viên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và ông bà Trần Văn Văn đến thăm cụ Trần Văn Hương một lần cuối và cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn, nhưng ông đã từ chối lời mời của họ. Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại "quyền công dân cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù học tập cải tạo đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu "Tổng Thống» Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu Quốc Hội "đảng cử dân bầu" của Cộng Sản. Cụ Trần Văn Hương cũng được CS trả lại quyền công dân, nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đã gởi bức thư sau đây đến cấp lãnh đạo chính quyền CS: "… Hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng đến Tổng bộ trưởng,các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp, các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ VNCH, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chánh phủ mới thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chánh phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi" Cụ Trần Văn Hương không hề nhận quyền công dân của Cộng Sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa. (Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 Ngày Cuối Cùng. California) @@@@@@@@@@@@@@@@@@@@ --------------------------------------------- ----------------------------------- NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau: “Thi, “Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm. “Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên. “Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết. “Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi. “Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra…” Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên. Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây: Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm: (1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra. (2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế. Thứ hai là ngố: Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ: (1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền. (2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng! Thứ ba là hèn: (1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào! (2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại: - Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định. Tổng Thống Minh trả lời: - Các em chuẩn bị bàn giao đi. Thiếu Tá Tài hỏi lại: - Có phải là đầu hàng không? Tổng Thống Minh trả lời: - Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Thiếu Tá Tài nói: - Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?” Tổng Thống Minh trả lời: - Tùy ý các anh em. Nói xong cúp máy! (3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò… Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”. Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”! NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây. Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California. Lữ Giang 29.4.2009 Ghi chú: [1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28. [2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70. [3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231. [4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383. [5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 25, 2010 3:36:40 GMT 9
Kính thưa quý vị Trong thời gian gần đây đã có những bài viết về vụ Ai Đã Giết Đại Tá Lê Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu. 1/ Khởi sự là Bà Lệ Tuyền với lời lẽ có vẻ hơi gay gắt như bó buộc cựu Th/Tướng Lê Minh Đảo rằng Th/Tg LMĐ đã giết cố Đại Tá Lề Quang Tung và cố Th/Tá Lê Quang Triệu và nếu tuớng Lê Minh Đảo không chịu nhận tội thì bà Lệ Tuyền sẽ đưa nhân chứng ra 2/ Tướng Lê Minh Đảo viết rằng Th/Tg Đ đã không liện hệ gì tới cái chết của anh em Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu 3/ Bà Lệ Tuyền liền dẫn chứng bằng những gì Th/Tg Hoàng Lạc và Đ/Tá Hà Mai Việt viết trong hai trang sách của cuốn “Nam Việt Nam 1954-1975. Những sự thật chưa hề nhắc tới”. Bà Lệ Tuyền vô can vì bà CHỈ viết theo hai trang sách của Th/Tg HL và Đại Tá HMV xuất bản năm 1990 4/ Bài nhận định cuả Lữ Giang khẳng định Tướng Lê Minh Đảo không giết Đaị Ta Tung và viết đại khái như là nếu đã giết thì cũng bị chết rồi 5/ Cựu Tr.Tá Paul Vân viết rằng theo cuộc hội kiến với Cô Đ/Tg Cao văn Viên thì đại úy Nguyễn văn Nhung đã giết anh em Đại Tá LQ Tung và LQ Triệu 6/ Đoàn Kết Chống Cộng ngày 15/11/10 đã viết chi tiêt về vụ triệu tập buổi họp như thế nào để Đ/T LQT tói họp và rồi bị Đại úy Nhung giết do lệnh của Tg DV Mimh 7/ V..v.. Những điều đáng lưu ý trong những bài viết của quý vị đã kể trên và vài vị khác tôi đã mạn phép tô mầu tím. . Xin mời qúy vị vui lòng miễn trách, vì mục đích cốt để rõ nét và để qúy vị dẽ dàng tìm kiếm đọc lại lập luận của mỗi vị. Vậy thì SỰ THẬT AI ĐÃ GIẾT CỐ ĐẠI TÁ LÊ QUANG TUNG? Tôi xin mạn phép thưa qúy vị vài điều trước khi trả lời câu hỏi trên. Đối với những ai chưa biết, tôi xin thưa rằng tôi là Cựu Đại Tá Trần Doãn Thường, thuộc Binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Vào thời điểm đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tôi là Chánh Văn Phòng của Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm mà Th/Tg LVN là một thành viên trong hàng ngũ sĩ quan đảo chánh, như vậy những điều cố Thiếu Tướng LVN thuật với tôi là Chánh Văn Phòng ắt Phải là những điều khả tín và có giá trị A1. Tại sao tôi đã không lên tiếng khi biết sự thật Ai đã giết Đại Tá Lê Quang Tung từ 47 năm trươc mà nay lại viết ra? Lý do là: a/vào thời điểm đó, không khí “cách mạng” sục xôi, nói những điều mà không khí cách mạng và tình thế chưa ổn định thì kẻ “hớt lẻo” đương nhiên là sẽ và phải chịu hậu quả khó lường. b/ Vào thời điểm khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm cầm quyền thì mọi sự coi như đã ổn cố, nếu tiết lộ bí mật ra chắc sẽ gây xáo trộn và hậu quả chắc không mấy tốt đẹp. c/ Sau 1975 nếu tiết lộ bí mật này ra thi để làm gì khi nước đã mất, nhà đã tan? Tại sao nay tôi lại lên tiếng sau khi đã im lặng 47 năm từ 1963 tới nay? Lý do là tôi đã thấy: a/ Những sự buộc tội gây hàm oan cho người khác là Th/ Tg Lê Minh Đảo b/ Những sự vu khống , bịa đặt cho người đã chết là đại úy Nguyễn văn Nhung. Vu khống để buộc tội cho người đã chết, đã có thành tích giết cố TT NĐD và CV NĐN là chuyện quá dễ và thông thường vì Người chết không đội mồ lên mà cải chính hàm oan được. c/ Những vị viết hồi ký có thể là đã có thoả thuận qui kết cho đại úy Nhung giết Đai Tá LQT, một là để chạy tội hai là để kết tội, ba là như ngạn ngữ “Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết” Chuyện này chỉ những ai ngây thơ mù quáng tin tưởng vào các hồi kỳ để chạy tội và buộc tội hoặc là các vị trong trường phái viết sử PHỊA có thể làm được . AI ĐÃ GIẾT CỐ ĐẠI TÁ LÊ QUANG TUNG? Đó là một trung sĩ Quân Cảnh canh gác ở Tòa Nhà Chính Bộ Tổng Tham Mưu ĐẠI TÁ LÊ QUANG TUNG ĐÃ BỊ GIẾT NHƯ THẾ NÀO? Theo lời Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm thuật lại cho tôi và hai sĩ quan cấp úy thường chầu chưc tại tư dinh th/tg LVN vào chiếu tối 2/11/1963 thì: Do lệnh của Tướng Dương Văn Minh, Trung Tưóng Trần văn Đôn đã điện thoại kêu Đại Tá LQT tới bộ TTM họp vì có tin có kẻ định ám sát và đảo chánh TT NĐD. Đại Tá Tung liền qua họp, (không phải là để qua dự Lunch Party) Tr/tg Trần văn Đôn đã ra lệnh cho Quân Cảnh canh gác trước phòng hội Toà Nhà Chính Bộ TTM là “BẤT CỨ AI BƯỚC RA KHỎI PHÒNG HỌP NÀY LÀ PHẢI BẮN CHẾT NGAY” Trong khi họp đã có tuyên bố là sẽ đảo chánh TT NĐD và nếu ai không đồng ý thì cứ việc ra về. Đại Tá Tung liền bỏ ra và bị bắn chết ngay tại hành lang của toà nhà chính nới có phòng họp. Sự thật mà Th/Tg Lê Văn Nghiêm đã thuật cho nghe là như vậy. Tóm lược là 1/ Đại Tá Tung được mời qua dự họp 2/ Lý do là để thảo luận kế hoạch vì có tin ám sát TT NĐD và đảo chánh 3/ Cố Đại Tá LQT bị bắn chết ngay khi bước ra khỏi phòng họp 4/ Không có chuyện cố Đại Tá LQT chửi bới, mắng nhiếc, 5/Không có chuyện ép cố Đại Tá Tung gọi điện thoại vì dã bị giết ngay khi bước ra khỏi phòng họp 6/ Không có chuyện đại úy Nhung lôi anh em LQT và LQTr lên sân thượng toà nhà chính Bộ TTM để bắn chết ngay vì Th/Ta LQTr chỉ tới Bộ TTM vào buỏi tối khi đi kiếm cố Đại Tá LQT 7/ Chi tiết những lời trung thực của Tướng Lê Văn Nghiêm có thể không đúng 100% nhưng đại ý là như vậy. Tướng LVN đã không nói gì về những mắng chửi của cố Đại Tá LQT và cũng không nói gì về ai đã hạ sát th/tá LQTriệu, vì thế tôi khẳng định là không hề có chuyện cố Đại Tá LQT mắng chửi, và bị đại úy Nguyễn văn Nhung đưa hai anh em đại Tá Tung và Triệu lên sân thượng và bắn chết ở chòi canh, hoặc đưa hai anh em LQT & LQTr ra sân cỏ sát trường bay để bắn chết và vùi thây xuống huyệt nông. Tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự trung thực trong lời thuật lại của Th/Tg Lê văn Nghìêm. Tôi xin qúy vị nên vì danh dự cá nhân, nhất là danh dự của một sĩ quan QLVNCH hãy đừng “Phịạ” chuyển để bôi nhọ ngưòi chết vì người chết không thể đội mồ dậy để minh oan, hoặc nhục mạ người sống khi người sống khinh bỉ mà không thèm lên tiếng. Xin hãy nhớ câu người xưa thường noi “Lời nói là đọi máu” và “Lời nói có quỷ thần hai vai chứng giám” Kính Trần Doãn Thường AKA Thomas D Tran Buổi trưa 30/4/1975 tại Dinh Độc Lập Xe 390 húc văng hai cánh cổng chính, còn xe 843 bị kẹt lại ở cổng phụ. Bùi Quang Thận nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào. Khi chiếc tăng 390 đỗ xịch trước dinh, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ Bùi Quang Thận đang cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm dinh trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và với một tinh thần “cảnh giác cao độ”. Bùi Quang Thận hơi lo khi thấy bên trong lố nhố nhiều người mặc quân phục. Và có lẽ do “cảnh giác cao độ” quá nên anh lao thẳng vào cửa kính, ngã bật ra phía sau nhưng tay vẫn cầm chắc lá cờ. Lúc này, từ trong dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, thân thiện mời hai anh lính tăng giải phóng vào. Bùi Quang Thận thoáng chút bối rối trước tình huống này: Không biết phải “xử lý” thế nào với Tổng thống và mấy ông nội các Sài Gòn, bởi nhiệm vụ của những người lính tăng như anh là chiếm dinh và cắm cờ. Cuối cùng, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng” các thành viên nội các và chờ cấp chỉ huy đến, còn mình phải thực hiện cho được nhiệm vụ cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập. Người được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc dinh cắm cờ là đại tá Chiêm, chỉ huy trưởng lực lượng phòng vệ phủ tổng thống. Cùng đi theo hỗ trợ Bùi Quang Thận cắm cờ còn có hai người nữa: sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và tiến sĩ báo chí Huỳnh Văn Tòng. Tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng và sinh viên Nguyễn Hữu Thái cùng nhà báo Cung Văn đến dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn trên đài phát thanh. Họ đến để đón quân giải phóng và hy vọng góp phần nhỏ của mình cho một kết cục hòa bình và êm thắm nhất. “Đêm 29/4 chúng tôi không ngủ được - tiến sĩ Tòng nhớ lại - Sài Gòn lan truyền tin đồn "Việt cộng đã chuẩn bị hàng vạn quả đạn pháo và sẽ rót vào thành phố này sáng mai. Sài Gòn sẽ đổ nát và dân chúng sẽ khốn khổ, nếu không có một giải pháp thích hợp nào". Sáng sớm 30/4, anh em chúng tôi đã bàn nhau làm được nhiều việc. Và chúng tôi kéo nhau đến dinh Độc Lập. Tôi không phải là “thành phần thứ ba”. Tôi ngả hẳn về phía cách mạng và mong muốn Sài Gòn được giải phóng nhanh chóng”. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy (phải đi thang máy vì cầu thang chính không còn sử dụng được, do bị phi công Nguyễn Thành Trung ném bom làm sập ngày 8/4). Đến trước thang máy, Bùi Quang Thận thấy... lạ quá nên nhất quyết không vào. “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như... cái hòm - Bùi Quang Thận nhớ lại - Vào đó nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu vào nhưng lại cảnh giác yêu cầu ông đại tá vào trước... Cuối cùng thì Bùi Quang Thận, Huỳnh Văn Tòng, Nguyễn Hữu Thái cũng lên được nóc dinh. “Chúng tôi còn trèo thêm một cầu thang gỗ mới ra được chân cột cờ - kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái kể - Để treo lá cờ giải phóng lên, phải hạ lá cờ vàng ba sọc xuống. Nhưng lá cờ ba sọc quá lớn, lại được cột chắc chắn nên phải mất khá lâu chúng tôi mới hạ xuống được”. Bùi Quang Thận kéo lá cờ giải phóng xanh đỏ sao vàng lên, sau khi viết và ký tên vào lá cờ: “11g30 ngày 30/4. Thận”. “Dường như tất cả chúng tôi đều không cầm được nước mắt", KTS Thái nhớ lại. "Sài Gòn đã được giải phóng, hòa bình được lập lại và đất nước từ nay thống nhất làm một, không gì có thể chia cắt được nữa”. Bùi Quang Thận lúc đầu định ném lá cờ ba sọc xuống sân, nhưng nghĩ tới nghĩ lui sao đó, xếp lá cờ lại và đem xuống cất vào chiếc xe tăng 843 của mình. Cũng nhờ vậy mà sau này Bùi Quang Thận mới đưa ra được “bằng chứng”, khi cấp trên cho người đi xác minh: ai mới là người cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập. Lá cờ cất trong xe tăng của Bùi Quang Thận có một vết rách trùng khớp với phần còn sót lại trên cột cờ. Thật ra, cùng lúc lá cờ ba sọc được hạ xuống trên nóc dinh thì các chiến sĩ bộ binh trung đoàn bộ binh 66 và biệt động đặc công trung đoàn 116 cũng đã phất những lá cờ giải phóng từ ban công tầng hai. Lá cờ xanh đỏ sao vàng lớn nhất được phất lên lúc đó là của một người dân ở miệt Thị Nghè. Ông cầm lá cờ lao ra từ Thảo cầm viên, rồi leo lên chiếc xe Jeep của đại úy Phạm Xuân Thệ vào dinh, chỉ ít phút sau khi xe tăng 390 húc đổ cổng sắt. Trung đoàn phó trung đoàn bộ binh 66 Phạm Xuân Thệ là viên chỉ huy đầu tiên “làm việc” với tổng thống Dương Văn Minh và những người bên trong dinh. Giống như Bùi Quang Thận trong khoảnh khắc đầu tiên, đại úy Phạm Xuân Thệ cũng hơi ngỡ ngàng và chưa biết phải làm gì. “Tôi chỉ được giao nhiệm vụ chiếm dinh Độc Lập. Việc của tôi là kiểm soát tòa nhà và cho anh em lên cắm cờ. Làm việc gì và làm như thế nào với tổng thống và nội các này đây?”. ông Thệ nhớ lại. Tổng thống Dương Văn Minh thông báo đã tuyên bố ngừng bắn và đang chuẩn bị tiến hành bàn giao chính quyền cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Nhưng trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ không chấp nhận chuyện bàn giao mà tuyên bố: Phải đầu hàng! Trung úy Phùng Bá Đam cùng các sĩ quan bộ binh đã bàn với Phạm Xuân Thệ là cho tuyên bố đầu hàng ngay tại dinh. Nhưng đường dây từ dinh Độc Lập ra đài phát thanh không hoạt động được nữa do nhân viên đài lúc ấy đã “biến” hết. Phải ra đài phát thanh! Ngay lúc đó, trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng xuất hiện. Các sĩ quan biệt động đặc công đưa ông vào gặp tổng thống Dương Văn Minh. Trung tá Bùi Văn Tùng cũng bác bỏ lời đề nghị bàn giao chính quyền và tuyên bố giải pháp duy nhất là phải đầu hàng. Khoảng 12 giờ trưa 30/4, đại úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống Dương Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch và Hà Huy Đỉnh. Đặc biệt, chạy trước hai chiếc xe nói trên là một chiếc UTE của Hãng tin AP (Mỹ), nhưng lại cắm cờ giải phóng và chở hai sĩ quan bộ binh. Người cầm lái là nhà báo Kỳ Nhân. Trước đó không lâu, trưởng văn phòng AP George Esper yêu cầu Kỳ Nhân bỏ lá cờ giải phóng xuống vì đây là xe của hãng tin Mỹ. Nhưng nhà báo này không tháo bỏ và xách xe đi chở… Việt cộng, “bởi vì tôi là người VN và tôi hiểu mình phải làm gì trong lúc này”. Nguyễn Hữu Có Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Tướng Nguyễn Hữu Có (1964) Nguyễn Hữu Có (sinh năm 1925) là trung tướng, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng Việt Nam Cộng Hòa (1965–1967). Cuộc đời binh nghiệp và chính trường Năm 1939, ông gia nhập lực lượng Thiếu sinh quân Đông Dương, đến tháng 4 năm 1946, gia nhập quân đội Pháp với hàm Trung úy, dưới quyền đại úy Phan Tử Nghi. Sau khi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thành lập, ông tiếp tục giữ chức Liên đoàn trưởng Liên đoàn 33, hàm Trung tá. Ông tham gia đảo chính 1963 khi đang giữ chức vụ Tư lệnh phân liên khu miền Đông, hàm Đại tá. Sau đảo chính, ông được phong Thiếu tướng, ủy viên Hội đồng Quân nhân Cách mạng, kiêm chức Tư lệnh Sư đoàn 7. Tham gia cuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh, ông được thăng chức Phó tư lệnh Quân đoàn IV, rồi tư lệnh Quân đoàn II. Sau khi nhóm các tướng trẻ lật đổ Nguyễn Khánh để lên nắm chính quyền, ông trở thành nhân vật số 3 trong chính quyền, sau tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Quốc gia, giữ chức Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng tham mưu trưởng. Tháng 11 năm 1965, ông được thăng Trung tướng. [sửa]Rời bỏ chính trường Những năm tiếp theo, ông trở thành đối tượng mà tướng Thiệu và tướng Kỳ phải gạt bỏ. Năm 1967, trong khi đang đi công tác ở Đài Loan, ông bị gạt ra khỏi mọi chức vụ trong quân đội và cử làm Đại sứ, phải lưu vọng tại Đài Loan cho đến năm 1970 mới được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương. Sau khi được hồi hương, ông tham gia thương trường và từng giữ chức Phó tổng giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng (từ 1971 đến 1973). Tuy được xem là kẻ cựu thù, nhưng ông lại là người ủng hộ tướng Dương Văn Minh làm lãnh đạo của lực lượng thứ ba tham gia chính trường. Năm 1975, khi tướng Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống, ông được cử giữ chức cố vấn quân sự. Ông là một trong 2 tướng lĩnh còn ở lại bên tổng thống đến giờ phút cuối cùng của Sài Gòn (người kia là Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh). Tập tin:ManhHanhCo.jpg Ông Nguyễn Hữu Có, Ủy viên TW MTTQ VN [sửa]Cuộc sống sau 1975 Sau năm 1975, ông bị chính quyền Việt Nam bắt đi cải tạo đến năm 1987. Trong thời gian bị cải tạo, ông gia nhập đạo Tin Lành. Đến cuối năm 2004, ông được bầu làm Ủy viên vào Ban chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là nhân sĩ tự do. Ông được chính phủ Việt Nam xem như một biểu tượng của sự hòa giải dân tộc, xóa bỏ hận thù của 30 năm chiến tranh. Ông hiện đang sống tại Thành Hồ
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 8:39:22 GMT 9
Những tiếng súng cuối cùngTờ lịch ngày 30-4-1975 do bà Nguyễn Thị Tính cất giữ (ảnh chụp lại tại Bảo tàng TP.HCM) - Ảnh: Thanh Đạm Tháng 4-1975. Những người dân Sài Gòn dường như dừng lại lâu hơn trước tờ lịch mới: thứ tư ngày 30 (nhằm ngày 19-3 năm Ất Mão). Nhiều người trong số họ biết rằng lịch sử sẽ đọng lại ở ngày này, trước khi sang trang mới. ...Tiếng động cơ trực thăng ì ầm suốt đêm qua đã im tiếng. Đại sứ Martin và những tay súng thủy quân lục chiến người Mỹ cuối cùng đã rời khỏi đất nước này vào lúc tinh mơ. Không phải ra đi, mà là tháo chạy tán loạn. Cả Sài Gòn lúc ấy dường như đang chờ đợi. Một cái gì đó khác lạ, mới mẻ và lớn lao đang đến... Xe tăng đang đến. Những chiếc xe tăng T54 và T59 thuộc lữ đoàn 203 cắm cờ xanh đỏ sao vàng ầm ầm từ hướng Biên Hòa lao về mục tiêu cuối cùng: dinh Độc Lập. Lúc đó là khoảng 9g30. Bất ngờ, đoàn xe tăng bị chặn lại tại cầu Sài Gòn bởi hỏa lực của tám chiếc M48 và M113. Cùng lúc, những chiếc tàu chiến của hải quân Sài Gòn đang neo đậu ở Tân Cảng cũng bắt đầu nã đạn như mưa vào đoàn tăng giải phóng. Hai chiếc T54 đi đầu bị bắn cháy, hai chiếc khác bị hỏng và lao xuống vệ đường. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 xe tăng Ngô Quang Nhỡ và nhiều chiến sĩ khác hi sinh tại chỗ. Vào lúc này, trên radio, tổng thống Dương Văn Minh đã đơn phương tuyên bố ngừng bắn và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh “yêu cầu binh sĩ chấp hành lệnh của tổng thống”. Nhưng bất chấp lệnh đó, tiếng súng kháng cự vẫn nổ và cuộc giao tranh vẫn diễn ra ác liệt ngay cửa ngõ Sài Gòn. Không để ổ kháng cự ở cầu Sài Gòn cầm chân quân giải phóng quá lâu, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 đã ra lệnh cho lực lượng pháo binh, cao xạ và bộ binh sư đoàn 304 tham chiến. Tiếng súng chỉ ngưng khi hai chiếc M48 của quân VNCH nổ tung ngay trên cầu. Hai chiếc tàu chiến bị bắn cháy, những chiếc khác chạy thẳng ra phía biển sau khi trút những loạt đạn cuối cùng. Những chiếc tăng T54 và T59 vọt qua cầu (xe T54 do Liên Xô sản xuất, còn T59 do Trung Quốc sản xuất theo công nghệ Liên Xô). Trên những chiếc tăng lúc này còn có những chiến sĩ thuộc trung đoàn đặc công biệt động 116 và trung đoàn bộ binh 66. Đặc biệt, có một phóng viên ảnh của Hãng tin Mỹ UPI - đó là Hoàng Văn Cường. ...Hoàng Văn Cường kể: "Tôi được văn phòng UPI Sài Gòn yêu cầu ra ngoại ô để có được những hình ảnh nóng nhất trước giờ G. Đến ngã ba Vũng Tàu thì bất ngờ gặp xe tăng của “mấy ổng” ầm ầm lao tới. Tôi hoảng quá, vội lột bỏ áo giáp chống đạn, để lộ ra chiếc áo trắng và lỉnh kỉnh đủ thứ máy ảnh cho “mấy ổng” thấy, rồi giơ hai tay lên vẫy chào. Một chiếc tăng dừng lại. Tôi nghe “mấy ổng” xì xào: “Phóng viên! Phóng viên!...”, rồi bất ngờ cho tôi lên xe luôn. “Mấy ổng” hỏi tôi đủ thứ, nhưng tôi chỉ trả lời bằng... tiếng Nhật”. “Tại sao anh lại giả bộ là một phóng viên Nhật?”. “Bởi vì lúc ấy tôi đang làm cho một hãng tin Mỹ. Thật tình tôi không biết Việt cộng sẽ đối xử với tôi ra sao. Tôi sợ “mấy ổng”... bắn!”. Những chiếc xe tăng đầu tiên đã tiến đến ngã tư Hàng Xanh. Sài Gòn đã ở trước mặt! Nhưng đường nào vào dinh Độc Lập đây? Những người lính tăng tự hỏi. Trước giờ xuất quân, họ được hướng dẫn: quẹo trái, đi tiếp bảy ngã tư rồi quẹo trái tiếp... Nhưng hướng dẫn là một chuyện, còn thực tế đường phố xa lạ và chằng chịt trước mặt lại là chuyện khác. Cả lực lượng đột kích thọc sâu này chỉ có một bản đồ Sài Gòn - Gia Định. Và đó lại là tấm bản đồ du lịch mà một người bà con ở Đà Nẵng tặng cho trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng (ông Tùng quê ở Đà Nẵng). “Đến ngã tư Hàng Xanh, quẹo trái!”. Những chiếc tăng đầu tiên quẹo trái theo lệnh, rồi ầm ầm lao thẳng về phía Thị Nghè. Đi đầu là chiếc tăng T59 số hiệu 387, đi thứ hai cũng là một chiếc T59 số hiệu 390. Xe T54 số hiệu 843 của đại đội trưởng Bùi Quang Thận đi thứ ba... Theo sau những chiếc tăng dẫn đầu là chiếc Jeep (xe chiến lợi phẩm lấy từ Đà Nẵng) chở đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó trung đoàn bộ binh 66 (hiện nay là trung tướng tư lệnh Quân khu I). Sau cuộc chạm súng cuối cùng diễn ra tại khu vực cầu Thị Nghè, người dân đã tràn ra đường đón chào quân giải phóng. Trên cầu vẫn còn công sự và xe tăng M41 của quân VNCH - Ảnh tư liệu TTXVN Phố xá vắng tanh, không một bóng người. Tất cả những ngôi nhà đều đóng cửa. Vì sao vậy? Những người lính tăng căng thẳng. Rồi câu trả lời xuất hiện ngay lập tức: một ổ kháng cự mọc ngay trên cầu Thị Nghè, với cả xe tăng M41 và M113. Cuộc chạm súng cuối cùng đã diễn ra ngay trong nội thành Sài Gòn. Ổ kháng cự trên cầu bị “dập tắt” không lâu sau đó. Nhưng bên này, chiếc tăng dẫn đầu 387 đã trúng đạn. Một chiến sĩ công binh ngồi trên xe hi sinh. Riêng trưởng xe 387 là trung đội trưởng Lê Tiến Hùng bị thương một cách hi hữu. Anh ngồi trong xe tăng, chỉ ló đầu ra ngoài quan sát thôi, nhưng không hiểu sao lại bị thương rất nặng ngay “chỗ ấy”. Đồng đội khiêng anh xuống xe, gõ cửa nhà một gia đình người Hoa để nhờ giúp đỡ cứu chữa (anh Hùng sau đó được cứu sống, về quê lấy vợ rất vui vẻ và đã có hai con). Sau khi chiếc 387 bị bắn hỏng phải nằm lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn cho xe 390 vượt qua cầu Thị Nghè và trở thành chiếc tăng dẫn đầu lực lượng đột kích thọc sâu. Theo sau là chiếc 843 của đại đội trưởng Bùi Quang Thận. Nhưng tại sao chiếc xe đi sau lại húc vào cổng dinh Độc Lập trước? “Chúng tôi đi lạc vì không biết đường - Vũ Đăng Toàn kể - Xe 390 của chúng tôi cứ thẳng tiến theo đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) và không biết chính xác phải quẹo trái ở ngã tư nào để đến dinh”. Khi xe 390 vượt qua luôn ngã tư Công Lý - Hồng Thập Tự, đến cổng Trường Lê Quý Đôn thì nhận được tín hiệu của Bùi Quang Thận từ phía sau: phải quay lại! Thật ra thì đại đội trưởng Bùi Quang Thận cũng chẳng biết đường, dù dinh Độc Lập ở ngay bên cạnh rồi. Anh cho xe 843 dừng lại. Đang bối rối giữa phố phường vắng lặng thì bỗng xuất hiện một cô gái đi xe máy. Bùi Quang Thận ra lệnh cho cô gái dừng lại. Dù thất kinh hồn vía trước lính tăng Việt cộng, cô gái cuối cùng cũng hướng dẫn xe 843 quẹo qua đường Pasteur, rồi theo đường Thống Nhất thẳng đến dinh. “Dinh Độc Lập đây rồi!”. Những người lính tăng trên chiếc 843 bỗng hồi hộp và căng thẳng hơn bao giờ hết. Và do căng thẳng, trưởng xe Bùi Quang Thận đã đi đến một quyết định bất ngờ: bắn đại bác vào dinh Độc Lập! “Khi xe tăng 843 còn cách dinh hơn 50m, tôi ra lệnh cho pháo thủ nạp đạn pháo và bắn thẳng. Đạn không nổ! Tôi ra lệnh nạp đạn bắn lần thứ hai. Lần này không bắn điện nữa mà chuyển sang bắn cơ. Đạn vẫn không nổ! Thật kỳ lạ. Khi pháo thủ cho biết trong xe chỉ còn một viên đạn pháo cuối cùng, tôi quyết định không bắn nữa, mà cho xe lao lên húc thẳng vào cổng dinh”. - Tại sao lúc đó anh lại cho đại bác bắn thẳng vào dinh? - Tôi bắn để uy hiếp đối phương. Lúc đó nhìn qua nhìn lại chỉ mới có xe của tôi đối diện với dinh thôi. Tôi nghĩ đây là ổ kháng cự cuối cùng và họ sẽ kháng cự dữ dội. Anh thấy ngay ở cầu Sài Gòn, cầu Thị Nghè chúng tôi đã bị bắn như thế nào rồi… - Anh có biết lúc đó trong dinh có ông Dương Văn Minh và các thành viên nội các Sài Gòn? - Không. Lúc đó chúng tôi không hề biết. Chúng tôi không nghĩ họ đang ở đó, vì quân giải phóng đang tấn công thì nội các ở đó làm gì? Nếu chẳng may đạn pháo nổ trong dinh làm bị thương thành viên nội các nào đó thì chúng tôi cũng không có lỗi gì. Bởi vì chúng tôi là những người lính... Loạt bài này được thực hiện dựa theo nội dung những cuộc phỏng vấn vào tháng 4-2005 giữa phóng viên TS với nhiều nhân chứng và nhân vật có liên quan: trung tướng Phạm Xuân Thệ, thiếu tướng Thiều Chí Đinh, đại tá Bùi Văn Tùng, đại tá Bùi Quang Thận, PGĐ phân xưởng sơn Kovik Vũ Đăng Toàn, đại tá Phùng Bá Đam, ông Phạm Công Dũng (Bộ Ngoại giao), ông Nguyễn Hữu Hạnh, KTS Nguyễn Hữu Thái, tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng, nhà báo Kỳ Nhân... Xe 843 xả hết tốc lực húc vào cổng phụ bên trái. Nhưng xe lại húc thẳng vào trụ cổng khá vững chắc nên cổng không đổ. Bùi Quang Thận cho xe lùi lại tiếp tục húc, nhưng lại va vào trụ cổng... Ngay lúc đó, xe 390 xuất hiện từ phía đường Công Lý, quẹo phải lao thẳng vào cổng chính và ủi văng hai cánh cửa sắt. Xe 390 tiếp tục tiến thẳng vào dinh. Súng đại liên trên xe bắn liên tục. Cùng lúc đó, Bùi Quang Thận giật phăng cần ăngten có gắn cờ giải phóng, nhảy khỏi xe 843, chạy bộ vào dinh. Trước khi đi, Bùi Quang Thận nói: “Nếu không thấy mình trở ra thì các cậu hãy bắn nốt viên đạn pháo còn lại. Và hãy báo cáo chỉ huy là đại đội trưởng đã vào dinh”. Anh cầm lá cờ xanh đỏ sao vàng nhuốm màu lửa đạn và bụi đường lao vào dinh mà không hề biết chuyện gì đang chờ đợi mình. Lúc này, trên đường Thống Nhất, một cảnh tượng chưa từng có: xe tăng, xe bọc thép, xe Molotova chở bộ binh ầm ầm nối đuôi nhau hướng về dinh Độc Lập. Súng nổ vang trời. Tiếng súng chỉ thiên mừng chiến thắng của quân giải phóng xen lẫn với những tiếng súng kháng cự cuối cùng của những tay súng biệt kích dù 81 từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao (nay là Sở Ngoại vụ TP.HCM). Chiến sĩ tiểu đoàn 7 bộ binh Tô Văn Thành đang ngồi trên thành xe tăng bị bắn rớt xuống đường. Đó là người lính cuối cùng hi sinh, ngay trước dinh Độc Lập. BÙI THANH
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 8:18:38 GMT 9
Trich tu website: baovecovang.wordpress.com/2009/05/04/m%E1%BA%B9-vn-%C6%A1i-ch%C6%B0%C6%A1ng-21/CHƯƠNG 21 ÔNG DƯƠNG VĂN MINH LÀ AI ? Hình ảnh của tướng Dương Văn Minh do các ủng hộ viên của ông đưa lên ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc đã được rút ngắn gọn lại chỉ còn một vài nét ca tụng cá nhân, nhưng thường không đúng và có quá nhiều sự việc, chi tiết quan trọng thì đã bị bỏ lửng trong bóng tối. Hình ảnh đó được tóm gọn trong một vài phẩm cách căn bản cần thiết và có lợi cho những người lãnh đạo như: đó là một người chủ trương “hòa bình”, liêm chính, trung trực, bình dân và được kính nể,v.v… Cộng Sản Bắc Việt xem ông ta như một “người đối thoại có giá trị”. Tờ Kinh Tế Viễn Đông còn trịnh trọng xác nhận ông ta đã tốt nghiệp trường Des Charles của Pháp nữa. Nhân vật nầy có thể không cần phải có những nhận xét quá đơn thuần như thế đâu, nếu người ta nghĩ tới động cơ nào đã thúc đẩy ông đi tới hành động và nếu chịu khó nghiên cứu kỹ về tiểu sử của ông người ta sẽ thấy là các phẩm tính đã gán cho ông không được chính xác lắm đâu. Những biến cố mà ông đã dính vào, sự bất nhất và những mâu thuẫn của những người chung quanh ông đã cho thấy rằng ông thường là công cụ của những khuynh hướng chánh trị khác nhau hoặc của những nhân vật có tham vọng cá nhân nhưng sau đó họ đã bỏ rơi ông ta trong sự bối rối không biết phải làm gì . Ông sanh ngày 19 tháng 2 năm 1916 tại Mỹ Tho, ngay thị xã của một tỉnh cũ của người Khờ Me, một giang cảng quan trọng thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Ông đã lớn lên ở Miền Tây Nam Bộ trong vùng đồng ruộng mênh mông có nhiều sông rạch rộng và sâu. Thân phụ ông là một người cao lớn hiền lành, thông phán của Chánh Phủ, giỏi về văn chương thơ phú Việt Nam và triết học Lão Giáo, chỉ sống cho bạn bè. Thân mẫu ông cũng to con, đen đúa có giòng máu Cam-pu-chia. Từ hệ gia tộc như vậy, ông Minh là một mẫu người đặc biệt, thích có bạn bè, không sợ cái chết, thường có sự kính trọng các quan chức, và cũng có một màu da ngâm đen. Ông học hết bậc trung học ở trường Pháp Chasseloup-Laubat và có tú tài đôi, khoa học. Ông ta gần như là một lực sĩ, bơi lội giỏi và là một tay chơi quần vợt rất có hạng. Năm 1939 ông bị động viên vào bộ binh của người Pháp. (nguyên tác: infanterie coloniale). Vào thời đó, các binh sĩ bộ binh nầy thường có biệt danh là những con “cá heo”, là những tay đấm đá, dân xâm mình, hay nhậu nhẹt và lúc nào cũng sẵn sàng đánh nhau. Không như các bạn Việt Nam yếu đuối khác thường tránh gây sự, ông Minh to mồm và hiếu chiến, không bỏ qua chuyện gì hết, cứ húc thẳng mỗi khi bị khiêu khích và húc mạnh. Năm 1940, ông ra trường với cấp bậc chuẩn úy ở Thủ Dầu Một, đứng hạng 3. Năm 1945 được thăng trung úy và là sĩ quan thể thao của đồn quân Vũng Tàu. Cũng vào năm đó, ngày 9 tháng 3 khi quân Nhật tấn công các đơn vị Pháp, ông chiến đấu mãnh liệt suốt đêm, nhưng khi cuộc chiến chấm dứt, ông đã ngã theo Nhật, đó là một điểm quá yếu. Khi Nhật đầu hàng, để tránh ra hội đồng quân pháp, ông lui về quê nhà ở Mỹ Tho sống với môt quan chức, ông Nguyễn Ngọc Thơ, bạn của thân phụ ông. Trong vòng mấy tuần lễ với sự sảng khoái của nền độc lập vừa mới tìm lại được, ông lại ngồi vào “ủy ban hành chánh Việt Minh” của tỉnh Mỹ Tho. Đến tháng 10 năm 1945, khi đoàn quân thiết giáp của đại tá Massu vào Mỹ Tho, ông tự để cho họ bắt mà không kháng cự. Được hộ tống về Sài Gòn, nơi ông bị truy tầm như một quân nhân đào ngũ, chánh quyền đưa ông sang Cảnh Sát đặc biệt ở đường Catinat đễ điều tra. Ở đó ông bị qua một cơn hành xác quá khủng khiếp. Các nhân viên điều tra đã đánh ông bằng gót giầy làm gãy hết hàm răng trên chỉ còn lại một chiếc. Từ lúc đó ông mới có biệt danh là “Minh sún” (nguyên tác :”L’Édenté”). Mãi đến năm 1947 ông mới được trở vào quân đội Pháp lại với cấp bậc cũ. Là một sĩ quan tốt, rất chịu khó chiến đấu không mệt mỏi, ông được binh sĩ trực thuộc thương mến. Năm 1951, ông được thăng cấp Đại Úy và đảm nhiệm chức vụ sĩ quan tùy viên cho ông Trần Văn Hữu, Thủ Tướng Việt Nam. Năm 1952 ông được thăng thiếu tá và được gởi đi thụ huấn lớp Chỉ Huy Tham Mưu ở Pháp. Đến 1953, ông ra trường và trở về Miền Trung Việt Nam với cấp bằng Chỉ Huy Tham Mưu cao cấp. Ở đây ông chỉ huy nhiều cuộc hành quân trong vùng rừng thiêng nước độc của “dãy phố buồn hiu”. Sau Hiệp ước Genève 1954, ông được gọi về Sài Gòn. Thủ đô Sài Gòn lúc bấy giờ như một thùng thuốc súng sắp nổ, không người nào tin vào khả năng đứng vững của tân Chánh Phủ của ông Diệm. Ở Miền Nam Việt Nam các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên rất hùng mạnh. Lực lượng quân sự của họ nếu tính chung lại được lên quá con số 50.000 người và những vùng ảnh hưởng của họ trải rộng khoản 1/3 đất nước. Bảy Viễn, lãnh tụ Bình Xuyên từ một cựu thảo khấu đã trở thành một tướng lãnh, là một người hung bạo và gan dạ như một con trâu rừng, làm chủ cả thủ đô mà không còn ai nghi ngờ gì nữa. Ông ta nắm cảnh sát, nắm sòng bạc Đại Thế Giới, kiểm soát bọn con buôn người Tàu, các lò sát sinh, và mọi sự lưu thông đường bộ cũng như đường thủy. Do đó ông ta rất giàu mạnh, dân chúng ai cũng sợ. Nhưng ông Diệm có quyết tâm cần phải phá bỏ tập đoàn phong kiến và chứng tỏ uy quyền của Chánh Phủ mình. Do đó ông cho thăng cấp ông Minh lên đại tá, trao cho ông quyền chỉ huy tiểu khu Sài Gòn Chợ Lớn với toàn quyền hành động. Lúc bấy giờ ông Minh mới kêu gọi đến sự hợp tác của các sĩ quan thâm niên thuộc các tiểu đoàn Dù. Ngày 28 tháng 4 năm 1955 hồi 4 giờ sáng có tiếng bách kích pháo nặng nổ trong thành phố. Một cột khói đen khổng lồ bốc cao trên nền trời. Cuộc chiến chống các giáo phái bắt đầu. Cuộc chiến nầy kéo dài 2 năm. Một cuộc nội chiến đẫm máu, không khoan nhượng, nếu không muốn nói đến hai chữ “tàn nhẫn”, từ chiến đấu trong đường phố đến các trận tập kích của đặc công trong vùng sình lầy, các trận xung kích của thiết giáp suốt cả Miền Tây Nam Bộ. Ông Minh có mặt khắp nơi khi có chạm súng nặng. Người của ông ta đã phạm vào một vài hành động “thất nhân tâm”, cướp một xe hàng hóa gọi là chiến lợi phẩm trị giá 8 triệu đồng, chia cả kho bạc của Bảy Viễn trên 100 triệu đồng (tương đương với 1 tỷ quan Pháp cũ lúc bấy giờ). Thanh toán Bình Xuyên xong là đến lượt Hòa Hảo, một cuộc đuổi bắt với đủ loại cạm bẩy, xuyên qua các đồng ruộng mênh mông ngập nước, xuyên qua các giồng cát, các kênh rạch hay các rừng đước rừng tràm. Hàng loạt cuộc săn lùng người khắp nơi, không nhân chứng, được diễn ra trên hàng trăm cây số từ Đồng Tháp Mười đến núi Thất Sơn qua tận biên giới Việt Miên. Cho đến khi với hành động phản trắc bắt được tướng Ba Cụt, một nhân vật nổi tiếng, một vị chỉ huy trưởng gầy gò để tóc dài của kháng chiến quân Hòa Hảo mà cả người Pháp lẫn Cộng Sản không hạ được và cũng không khuất phục được. Ba Cụt bị xử tử bằng máy chém và cả Hoà Hảo không bao giờ tha thứ cho ông Minh về chuyện nầy. Lúc bấy giờ ông Minh là một quân nhân và sự thù hận nầy không làm cho ông quan tâm lắm. Sự chống đối triền miên của giáo phái Hòa Hảo được ăn sâu trong cả 11 tỉnh đông dân cư của đồng bằng sông Cửu Long đã làm suy giảm một cách đáng kể đến tầm vóc của người lãnh đạo Miền Nam khi ông Minh thật sự bước vào con đường chánh trị . Nhưng đây là một việc khác… Năm 1958, tướng Minh về Saigon trong chiến thắng. Lễ lạc, tràng hoa, vinh thăng trung tướng…. diễn hành, duyệt binh, kèn trống …. Nhưng bà Ngô Đình Nhu cố vấn chánh trị và em dâu của ông Diệm lại không tin tưởng những tướng lãnh quá bình dân. Bà nói với ông Diệm : -” Không nên để cho lớn mạnh dưới trướng của mình một quân nhân có quá nhiều ảnh hưởng trong quân đội . Với khuynh hướng thông thường thích các cuộc đảo chánh kiểu Nam Mỹ của người Anh, đã là một người chiến đấu giỏi, nhưng dễ bị mua chuộc, không thông minh lắm và nhất là không biết gì lắm về chánh trị, tướng Minh không khéo rồi sẽ trở thành một tướng lãnh để cho người ta nhắm vào. Chỉ cần có một đường giây nhỏ nào đó của tòa đại sứ hay Bộ Ngoại Giao Mỹ và một cố vấn có hạng của bọn Trung ương tình báo Hoa kỲ ( CIA ) là đủ rồi. Cho nên tốt hơn hết là chúng ta nên giữ một khoảng cách nào đó đối với ông ta.” Mặc dầu các phe phái đã bị đập tan, các cán bộ Cộng Sản không có được bao nhiêu, nhưng chế độ của ông Diệm cũng chưa được tự tại cho lắm. Là một người ngoan đạo lại thấm nhuần tập quán của Khổng Mạnh, vị Tổng Thống của Miền Nam Việt Nam là một người quốc gia cực đoan và đến giờ nầy vẫn còn độc thân, sống khắc khổ, nên có một đường lối chánh trị đặt trên nền tảng “tập trung quyền hành”, với một tinh thần đạo đức khắc nghiệt, tôn trọng và bảo vệ triệt để tôn ti trật tự trong gia đình, cùng với một sự hướng dẫn chánh trị cho dân chúng và một sự nâng đỡ vô điều kiện đối với khối giáo dân di cư từ Miền Bắc. Các vũ trường và tiệm hút đều bị đóng cửa, cờ bạc bị cấm, vợ chồng phải có cưới hỏi hợp pháp, tội ngoại tình phải bị xử tù và học tập chánh trị bắt buộc. Hầu hết các vị trí then chốt trong chánh quyền đều do trí thức Miền Trung nắm giữ. Tướng Minh vốn là người Nam, gốc Miền Nam Việt Nam, rất sợ những sự gò bó, nghi lễ và những mánh khóe chia rẽ bạn bè. Ông mạnh mẽ chỉ trích các trí thức Miền Bắc và Trung hèn hạ, thượng đội hạ đạp, tự cho mình là “những con mọt sách”. Ông không cần biết đến “dịch rửa tội” nó đang tàn phá hàng ngũ các cấp tá đang chạy lo cho vấn đề thăng thưởng của họ. Khi có dịp đi thăm miền quê với Tổng trưởng quốc phòng, ông tự tách rời khỏi đoàn quan khách, đi lẫn lộn trong đám nông dân, có khi lội xuống ruộng sình lầy mà không cần phải xăn quần hay cởi giầy., còn có đổ mồ hôi thì tự kéo tay áo lên chùi trán. Với hàng binh sĩ thì ông nói công khai :”Nên để thì giờ chạy theo tán gái còn hay hơn là chạy theo mấy ông cố đạo” Trong các cuộc tiếp tân thì ông từ chối tán tỉnh để kiếm điểm với bà Nhu, chỉ trích công khai các công chức và các sĩ quan xin vào đảng “Cần Lao” (chú thích của tác giả: dưới chiêu bài của “đảng Cần Lao”, đây là một sự tuyển chọn một đội ngũ cán bộ và những người được gọi là ưu tú để phục vụ chánh quyền hiện tại) Vị thế của ông lần lần bị lu mờ. Vào cuối năm 1959, ông được cử làm thanh tra các Quân Đoàn I và Quân Đoàn II (Vùng Huế và Cao Nguyên Trung Phần). Nhưng thật sự ông không rời khỏi Sai Gon và cứ ngồi ỳ trong văn phòng của mình. Vì các đặc quyền của ông đã được ông Ngô Đình Cẩn làm hết rồi, ông nầy là người em “út” của ông Diệm, một vị lãnh chúa xảo quyệt và bí mật, một ủy viên chánh trị và thủ quỹ của Miền Trung Việt, một người nắm hết cả vùng với một mạng lưới cán bộ đảng viên đảng Cần Lao, từ cảnh sát đến binh sĩ và điềm chỉ viên, một người tự cho mình là thấy hết, biết hết, mua chuộc và bảo đảm sự trung thành của mọi người bằng tiền bạc hay bằng một sự giúp đỡ nào đó… một người không chịu bỏ qua bất cứ một chuyện lớn nhỏ nào cả. Ngày 11 tháng 11 năm 1960, hai vị đại tá thuộc binh chủng Nhảy Dù đã làm một cuộc đảo chánh ở Sai Gon với 3 tiểu đoàn Dù, họ đã chiếm hết các điểm trọng yếu trong thủ đô, đánh vào Liên đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gần vườn Bách Thảo và bao vây Dinh Độc Lập. Các sĩ quan nầy đã mời ông Minh lãnh đạo cuộc binh biến nầy nhưng ông từ chối, không tham gia. Cuộc đảo chánh thất bại. Các sĩ quan chạy qua Cam Bốt. Tướng Minh cũng không được ân huệ gì hơn. Đến năm 1961, ông nhận một chức vụ mới :”Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân” của quân đội. Nhưng cũng chỉ là một chức vụ tượng trưng “ngồi chơi xơi nước” mà thôi. Bởi vì trong những cuộc hành quân chống du kích đầu tiên và thành lập các “Khu trù mật”, ít khi mà quân đội can dự vào. Bất bình vì coi như đương nhiên bị gạt ra ngoài vòng, ông ta càu nhàu, gậm nhấm mối hận nầy, nhưng vẫn giữ một thái độ hết sức thận trọng. Năm 1963 ông lại được chỉ định làm “Cố vấn quân sự cho Phủ Tổng Thống”, một chức vụ hoàn toàn có tánh cách danh dự và thụ động. Dù sao thì ông vẫn là người rất bình dân trong quân đội nên có một nhóm tướng lãnh và đại tá đã tiếp xúc với ông để chuẩn bị cho một cuộc đảo chánh, Ông Ngô Đình Nhu nhờ cảnh sát mật vụ của ông cho biết nên đã cảnh giác đề phòng. Nhưng ông không tin là ông Minh có đủ tài cán, nên bỏ qua việc nầy với một câu nói có vẻ khinh bỉ : - ” Anh ta có sức như một con voi nhưng có bộ óc của một con chim muỗi. Không có quản tượng thì voi không thể làm gì được đâu. “. Ông Nhu nói cũng đúng lắm nhưng ông đã lầm. Tướng Minh và “nhóm đảo chánh” của ông không thiếu quản tượng đâu : - Tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng Thống Kennedy là người đầu tiên đã tiếp xúc và khuyến khích những người tạo phản. - Đại sứ lỗi lạc của Hoa Kỳ ông Henry Cabot-Lodge, nhà quý tộc của thành phố Boston, một người biết tính toán và rất lạnh lùng… đã làm gạch nối với sự trợ giúp của một kỹ thuật gia thuộc Cục Trung Ương Tình Báo : đại tá Lou Conein (18 năm ở Việt Nam ), một bợm rượu có hạng, một kẻ phiêu lưu rất nên thơ nhưng rất dữ dằn, cha là người Nga mẹ là người Pháp, vợ là người lai Âu Á, anh là cựu chiến binh của OSS (tiền thân của CIA ) ở bưng biền Bắc Việt, cựu huấn luyện viên của những toán đặc công Việt Minh đầu tiên vào năm 1945… - Đại sứ lỗi lạc của Hoa Kỳ ông Henry Cabot-Lodge, nhà quý tộc của thành phố Boston, một người biết tính toán và rất lạnh lùng… đã làm gạch nối với sự trợ giúp của một kỹ thuật gia thuộc Cục Trung Ương Tình Báo : đại tá Lou Conein (18 năm ở Việt Nam ), một bợm rượu có hạng, một kẻ phiêu lưu rất nên thơ nhưng rất dữ dằn, cha là người Nga mẹ là người Pháp, vợ là người lai Âu Á, anh là cựu chiến binh của OSS (tiền thân của CIA ) ở bưng biền Bắc Việt, cựu huấn luyện viên của những toán đặc công Việt Minh đầu tiên vào năm 1945… (chú thích thêm của tác giả :Có một chuyên viên CIA khác làm việc chung với Lou Conein. Đó là đại tá Spera, người sau nầy được nổi tiếng là đã thanh toán Che Guevera ở Bolivie). Tướng Minh và Lou Conein đã biết nhau từ chiến dịch đánh Bình xuyên, một chiến dịch đã gây ra những sự đụng chạm nặng giữa sĩ quan Phòng Nhì của Pháp và cố vấn quân sự của CIA . Người Pháp thì ủng hộ Bình Xuyên, những người đồng minh cũ trung thành với Pháp. Người Mỹ thì ủng hộ ông Diệm và tướng Minh trong việc nắm lại thị trấn Sài Gòn – Chợ Lớn. Cộng tác chung quanh tướng Minh và Conein trong việc chuẩn bị lật đổ ông Diệm, còn có cả một nhóm chuyên viên: tướng Lê Văn Kim, một sĩ quan tham mưu quan trọng (trước thế chiến 2 ở Paris là người đạo diễn đã làm việc với Marcel Pagnol), tướng Trần Thiện Khiêm (sau nầy là Thủ Tướng và là cánh tay mặt của Tổng Thống Thiệu), tướng Mai Hữu Xuân, (cựu tư lệnh Cảnh Sát Đặc Biệt, một người có tánh dứt khoát, hung dữ và thù hận, biết rất nhiều chuyện bí mật và có dưới trướng nhiều toán sát thủ trung thành và phục vụ vô điều kiện.), Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, cựu trung sĩ vệ binh Việt Nam thời Pháp, một con người mưu sĩ đầy mánh khóe nhưng không biết ngại ngùng là gì. Con bài chủ của nhóm người nầy là tướng Trần Văn Đôn, Tham mưu trưởng QLVNCH, người được bà Nhu vừa đẹp vừa say mê bảo vệ đặc biệt. Tướng Đôn là người được Tổng Thống Diệm và ông Nhu tín nhiệm hoàn toàn, sẽ là người phối hợp không bị nghi ngờ cho toàn nhóm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, chế độ bị lật đổ, Cả hai ông Diệm và Nhu đều bị Đại Úy Nhung thanh toán bằng mấy phát súng lục 12 ly và bị đâm thêm nhiều nhát dao găm. Đại Úy Nhung, sĩ quan cận vệ của tướng Minh, là người thi hành tất cả lệnh của tướng Minh một cách mù quáng. Sau khi thành công, nhóm đảo chánh thành lập “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng” và tướng Minh được giao cho chức Chủ tịch nắm lấy chánh quyền. Nhưng không phải chỉ hạ bệ một ông Tổng Thống bằng đại bác là đã chứng minh được là mình có khả năng trị quốc. Tướng Minh lúc nào cũng trung thành với bạn bè nên đã chỉ định người bạn cũ trong kháng chiến và cũng là bạn trong tù là vị quan lại Nguyễn Ngọc Thơ vào chức vụ Thủ Tướng Chánh Phủ, và giao Bộ Thể Thao cho một người bạn khác của ông, một kiến trúc sư ốm yếu bệnh hoạn, một người suốt cả đời chưa bao giờ biết làm một động tác thể dục nào. Hội đồng Quân Nhân quá bận tâm với hồ sơ về “sự độc tài của chế độ Diệm” nên không có đưa ra được một chương trình hành động về chánh trị hay kinh tế nào . Tướng Minh đã có những lời tuyên bố làm cho các nhà báo sửng sốt : “Chúng tôi cũng đã nghĩ tới học thuyết. Nhưng trong hiện tại, có rất nhiều việc quan trọng hơn: nắm vững lại công việc để đi tới chiến thắng.” Ngoài ra, vì các đơn vị ưu tú của quân đội cứ tập trung và đóng mãi ở thủ đô, cũng như có nhiều tướng lãnh mải lo tìm chức vụ và bổng lộc, nên đã có một khoảng trống trầm trọng trong lãnh thổ. Các “ấp chiến lược” từng được xem là xương sống của hệ thống phòng thủ của dân chúng chống lại Việt Cộng lại bị phá tan. Có nhiều vị tổng bộ trưởng và công chức cao cấp bị bắt giam hay lưu đày, và có nhiều vị tỉnh trưởng bị cách chức. Cộng Sản lợi dụng tình trạng hỗn loạn trong quân đội, lợi dụng khoảng không chánh trị và sự thiếu vắng của nền hành chánh trong lúc nầy để tiến hành những hành động qui mô hơn trong tất cả vùng quê thuộc đồng bằng sông Cửu Long . Còn nói về việc “nắm chặt tình hình” của các tướng lãnh thì đó thường được diễn dịch ra là những cuộc ”làm tiền”. Trước tiên, các “ông đảo chánh” bắt đầu là “đánh vào” các kỹ nghệ gia, họ cho đó là những người đã làm giàu dưới trào chế độ cũ. Cố vấn tài chánh của ông Nhu, một nhà tư sản có hạng ở Huế đã bị bắt buộc phải nộp 60 triệu đồng. Theo lệnh của tướng Minh, vị linh mục từng làm lễ rửa tội cho ông Diệm bị bắt . Bị hăm dọa xử tử hình, linh mục nầy phải giao lại cho vị nguyên thủ quốc gia 35 triệu đồng, số tiền đã được Tổng Thống Diệm giao cho nhà thờ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng.. Sau đó, các “ông đảo chánh” tự chia nhau khoản 500 triệu tiền công quỹ còn lại sau cái chết của ông Diệm. Ở Dinh Độc Lập, chán nản và phiền phức vì cứ phải cứu xét các hồ sơ, tướng Minh tiếp hết mọi người . . làm cho các cơ quan an ninh muốn điên lên. Có một ngày nào đó, trên 20 người mặc quần ngắn không cà vạt đi giầy bố, đến trính diện ở cổng. Tất cả đều là bạn quần vợt của ông Minh, những ông thông ông phán, những thầy thơ ký, những người gác cửa, lục sự và có cả những người lượm banh nữa. Tất cả đều vào công viên và chơi ở sân quần vợt của Phủ Tổng Thống luôn trong suốt hai giờ đồng hồ với tướng Minh. Ngay ở nhà ông Minh ở đường Chasseloup Laubat, các cửa vào ra cũng không có người canh gác. Còn Bà tướng Minh thì cũng đẹp, lớn con, lúc nào cũng tươi cười, không kiểu cách, mời tất cả bạn bè. Nhà luôn luôn có bạn bè khách khứa, nhạc sĩ, các chiêm tinh gia, và mấy tay tứ sắc… Nhưng dân chúng thì không ai chú ý nữa. Cách đây mấy tuần, dân chúng Sài Gòn rất mừng rỡ hoan nghênh tận tình sự sụp đổ của một chế độ mà họ chán ghét. Các tướng lãnh thấy được hoan hô nhiệt liệt, ngây thơ tưởng rằng dân chúng hoan hô mình. Thật không còn cái lầm nào hơn !. Đám đông dân chúng chỉ vui mừng vì tìm lại được sự tự do và nhất là lời hứa là Miền Nam Việt Nam có triển vọng chấm dứt được trận giặc đã kéo dài quá lâu rồi. Dân chúng thật thà tưởng rằng sự sụp đổ của chế độ Diệm là có thể dàn xếp được tất cả. Nhưng giờ đây họ thấy là cuộc chiến chẳng những vẫn tiếp tục mà còn bành truớng mạnh thêm lên, họ thấy là khó mà có được thanh bình và cánh cửa Tự Do vừa thấy mở ra được một lúc thì lại được đóng lại ngay rồi. Một luật sư Việt Nam được ra khỏi nhà tù, không bị tình nghi là có cảm tình với chế độ cũ, đã tâm sự với một đặc phái viên của một tờ báo lớn ở Paris : “Ông biết bây giờ có một sự khác biệt nào với “lúc trước” không ? Các cô gái điếm có thể níu kéo khách rất là tự do trên đường Tự Do. Còn ở các quán rượu thì người hầu bàn không còn bị bắt buộc phải mặc chiếc áo bờ lu trắng theo lệnh của bà Nhu nữa, mà họ được phép ăn mặc theo sở thích và theo khuynh hướng riêng của họ. Tôi quên nói là kể từ nay được nhảy tuýt một cách hợp pháp nữa.. Thật là quá yếu !” Thật ra thì không còn có vấn đề hứa hẹn gì về Tự Do đâu. Các cuộc phổ thông đầu phiếu coi như được dời lại sau khi chiến tranh kết thúc.Một “Hội Đồng Nhân Sĩ” được thành lập với nhiệm vụ rất khiêm nhường là soi sáng Chánh Phủ trong mọi quyết định. Nhưng rồi Hội Đồng nầy cũng không đi đến đâu cả. Người ta ghi nhận có một số người mới tự thiêu. Thật khó mà tin được . Theo luận điệu chánh thức của chánh quyền thì “họ chỉ tỏ thái độ vui mừng vì cuộc đàn áp Phật Giáo đã chấm dứt”. Các đảng phái chánh trị tái hoạt động một cách khó khăn. Báo chí thì tràn ngập (trên 50 tờ báo được xuất bản sau ngày đảo chánh, và chỉ cần có một lá thơ giới thiệu của một tướng lãnh nào đó là giấy phép ra một tờ nhật báo có thể được phê chuẩn ngay). Báo chí được phép tố cáo chế độ cũ. Nhưng nếu tờ báo nào tự do chỉ trích hành động của các tướng lãnh thì sẽ bị tịch thu ngay và vĩnh viễn bị đóng cửa. (việc này đã xảy ra ba lần trong vòng không đến một tuần). Chế độ của ông Diệm dĩ nhiên phải có những lỗi lầm (lỗi lầm chính yếu nhất là đã làm phật lòng người Hoa Kỳ), nhưng chế độ nầy đã góp công vào sự ra đời và tồn tại của chánh quyền Miền Nam Việt Nam. Chế độ đó cũng đã thiết lập được một hàng rào ngăn chặn bọn Việt Cộng, có thể là chưa hữu hiệu lắm, nhưng cũng là một rào cản. Bây giờ thì không còn gì cả. Miền Nam Việt Nam là một đất nước đang trong thời nội chiến mà lại không thấy có chánh quyền nào hết! Dưới thời ông Diệm, đã có một ý kiến, một cán bộ xã hội và kinh tế, một đường lối chánh trị và một niềm tin. Đã có được một người : Nhu, người biết làm cho người ta nghe lời, và mọi người đều run sợ trước người đó. Những mệnh lệnh của ông ta nói ra đều được thi hành. Nhưng bây giờ thì là một nền Cộng Hòa của những người bạn nhỏ . Người nào cũng là chỉ huy hết mà không có ai là người tuân hành. Thật là cả một sự hỗn độn. Tất cả quyền hành quân sự lẫn hành chánh đều nằm trong tay “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”.. Nhưng rất rõ ràng là những người lãnh đạo của nhóm đảo chánh hình như không biết phải làm gì với quyền bính đó. Dân chúng đã tin tưởng rằng các tướng lãnh khi nắm được chánh quyền rồi thì phải có quyết định đi đến hành động, sau khi đã suy tính về kế hoạch của họ, dù là có quá lâu. Không có gì không đúng ! Cuộc đảo chánh không phải là một cuộc hành quân “vì” một chuyện chơi nào đó! mà là để “chống” một chế độ hiện hành: chế độ gia đình trị của nhà họ Ngô. Và hành động bằng vũ lực nầy kéo theo 2 án mạng đã tỏ ra thật sự vô nghĩa. Rất mau chóng những người không được chuẩn bị cho việc nầy thấy là mình bị đứng trước một nhiệm vụ là phải soạn thảo một chương trình hành động mới, một nhiệm vụ quá cao đối với họ. Nhưng thay vì phải hoạch định một học thuyết, họ chỉ cần cho bộ máy hành chánh cũng như kinh tế chạy lại, và cho dân chúng tham gia…. Các tướng lãnh cứ tự giam mình trong văn phòng của bộ tham mưu với những cuộc thương nghị dài dòng vô ích mà cuối cùng chỉ thấy có một quyết định cụ thể duy nhất được thông báo cho dân chúng. Đó là “lệnh tịch thu” tài sản của tất cả thành viên thuộc gia đình họ Ngô, còn sống hay đã chết cũng vậy, và của tất cả những người cộng sự thân cận của họ. Bây giờ chỉ còn trông chờ ở người Mỹ mà thôi. Nhưng đại sứ Cabot Lodge, nản lòng vì những sự cãi vã và bất lực rõ ràng của các tướng lãnh, đã giữ khoảng cách xa trở lại. Không còn những buổi chơi quần vợt, không còn những cuộc tiếp tân thân mật ở tòa đại sứ Mỹ nữa, tất cả những gì để cho dân chúng thấy được, nhất là gia đình họ, những người quân nhân đó bị thất vọng phần nào vì không quen lễ nghi danh dự cho những nhân vật quan trọng. Không đầy 3 tháng sau sự thành công nổi bật của cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11, vì tuyên bố “trung lập” và “thân Pháp”, tướng Minh đã bị tướng Khánh bắt giữ và đuổi ra khỏi chánh quyền. Tướng Khánh là một nhân vật béo tròn, hung tợn và để râu cầm, là người được Cabot Lodge đưa vào quỹ đạo để dễ điều khiển. Nhưng tướng Minh bị giữ không bao lâu và chính tướng Khánh đã nài nỉ để ông Minh trở lại với chức vụ nguyên thủ quốc gia . Sau vài ngày lưỡng lự, tướng Minh cuối cùng đã chấp nhận. Ông ở chức vụ đó cho đến ngày 15 tháng 9 1964, nhưng thực tế cũng không có quyền hành gì . Vào cuối tháng 10 năm đó, tướng Khánh lại bị tướng Không Quân lật đổ. Tướng Minh bị đày sang Thái Lan dưới danh nghĩa là “đại sứ lưu động”, chức vụ thì giả định, nhưng lương bổng thì đầy đủ. Trong khoảng 4 năm sống lưu vong ở Bangkok, tướng Minh liên tiếp được các Chánh Phủ sau nầy ở Sài Gòn cho hưởng lương đại sứ rất đầy đủ. Biệt thự của ông nằm ở vùng ngoại ô Bangkok, những người dân Thái ở gần ông thường gọi là “ông Việt Nam to con”, nhưng ở đây ông buồn, vì ông nhớ nhà. Để giết thì giờ, ông đọc hàng loạt sách loại trinh thám (Proudhon và Mémorial de Sainte-Hélène), nuôi cá và trồng lan. (ông có cả một bộ sưu tập lan rất đẹp). Các bạn bè có dịp ghé lại Bangkok đều có đến thăm ông. Ông muốn trở về Việt Nam nhưng Sài Gòn vẫn làm lơ giả điếc.. . Vào một ngày tốt trời nào đó trong năm 1965, ông chịu hết nổi nên đáp máy bay hàng không Thái về Sài Gòn .Tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc bấy giờ là Thủ Tướng, cấm không cho phi cơ đáp xuống và cho một phi tuần phóng pháo cơ hộ tống chiếc phi cơ hàng không đến tận biên giới Thái Lan. Chiếc phi cơ phải trở về Bangkok với tất cả hành khách của nó . Vào tháng 5 năm 1967, vốn muốn về lại Sài Gòn hơn là muốn hoạt động chánh trị trở lại, Tướng Minh tuyên bố sẽ về ứng cử Tổng Thống vào tháng 9. Nhưng tên ông bị gạt ra ngoài danh sách ứng cử viên Tổng Thống và tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử. Cuối cùng mãi đến ngày 5 tháng 10 năm 1968 tướng Minh mới được phép về Việt Nam .. Ông đến gặp ngay Tổng Thống Thiệu, người đã cầm quyền từ 3 năm rồi, được Tổng Thống đề nghị giữ chức vụ cố vấn cho Tổng Thống. Ông vừa từ chối vừa càu nhàu: - “Tôi đã biết quá về cái món nầy ở Phủ Tổng Thống rồi ! Tôi đã có lần ở chức vụ nầy rồi. Tôi không muốn làm chiếc bình chưng bông bày trên kệ nữa” Với các nhà báo thì ông chỉ tuyên bố nhẹ nhàng:”Tôi muốn đứng ngoài mọi hoạt động chánh trị, trong vị trí của một quan sát viên.” Một vài tuần lễ trôi qua, sau đó trong những ngày đầu tháng 11, tướng Minh nêu lên một phản đối “chống lại việc Hoa Kỳ ngưng dội bom ngoài Bắc Việt vô điều kiện” một điều mà ông coi như một sự “đầu hàng” và một “hành động khuyến khích kẻ xâm lăng” . Một năm sau, ngày 1 tháng 11 năm 1969, ông tập họp các cựu tướng lãnh trong cuộc đảo chánh để “kỷ niệm ngày lật đổ chế độ độc tài của ông Diệm”. Báo chí đối lập đã ghi nhận một cách hiểm độc rằng :”một người duy nhất có giá trị lại vắng mặt trong buổi họp mặt thân mật nầy là Tổng Thống Thiệu, một người đã có một vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh nầy.” . Lo âu sợ thua kém các đồng nghiệp, một bình luận gia thân Chánh Phủ nghiêm khắc nhận xét là - “lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nơi mà sự kính trọng người chết là một điều thiêng liêng, thì những người có trách nhiệm trong hai án mạng lại dám trân tráo lăng nhục linh hồn của các nạn nhân của họ bằng cách uống rượu ăn mừng hành động tội ác của mình.” Kế tiếp, ngày hôm sau, chúa nhật 2 tháng 11, Tổng Thống Thiệu cho phép cử hành một buổi lễ “Tưởng Niệm” cầu siêu cho linh hồn của ông Diệm và ông Nhu, một buổi lễ đạo rất long trọng tại nhà thờ Chánh Tòa ở Sài Gòn, có sự tham gia của Tổng Trưởng Thông Tin, đại diện của Chánh Phủ. Sau buổi lễ, một đoàn khoản 2000 giáo dân mang hoa đi trong vòng trật tự đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nơi hai anh em Diệm Nhu được an táng trong hai ngôi mộ cạnh nhau cùng chung dưới một tấm xi măng đúc. Được phỏng vấn sau đó, ông Tổng trưởng Thông Tin trả lời cho các phóng viên là “sự có mặt của ông nơi đây là “để tỏ lòng tưởng nhớ đến ông Diệm, một vị anh hùng dân tộc, một gương mặt lịch sử của nước Việt Nam độc lập”. Tức khắc các tờ báo theo Phật Giáo cho đó là một sự “khiêu khích”. Tướng Minh phá vỡ thình lình sự im lặng của chính mình bằng hai bản thông cáo đặt vấn đề tính cách đại diện của Tổng Thống Thiệu. Đồng thời ông tuyên bố chủ trương tổ chức trưng cầu dân ý về “một hình thức chánh trị” thật sự cho nền độc lập quốc gia về sự giải ước của quốc gia Việt Nam là “không thể ngả theo bên tả hay bên hữu mà phải ở vị trí trung lập, ở giữa hai thế giới tư bản và Cộng Sản” Tổng Thống Thiệu xẵng giọng cãi lại ngay: “Chánh Phủ VNCH được thành lập từ “tự do phổ thông đầu phiếu”. Tôi thi hành sứ mạng do dân chúng phó thác cho tôi. Chúng ta đã đi gần đến chiến thắng rồi. Trung lập là môt điều phi lý, là một hình thức ngụy trang đi đến đầu hàng Cộng Sản. Có nhiều chánh trị gia bực tức chỉ vì với mục đích thỏa mãn dục vọng cá nhân, đe dọa sự đoàn kết quốc gia trước kẻ thù”. Thế là cuộc so kiếm đã bắt đầu. Nhưng đó chỉ là một màn chạm trán nhỏ thôi. Cuộc chiến thật sự sẽ được diễn ra trong tương lai. Tướng Minh lại giữ im lặng, mỗi năm chỉ đi ra khỏi nhà đôi ba lần để chua chát chỉ trích chế độ mỗi lần một nhiều hơn.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 8:19:58 GMT 9
Biệt thự ở đường Chasseloup Laubat không vì thế mà thiếu vắng người lui tới : bạn bè, khách khứa, thân hữu, sư sãi, thầy bói, sứ giả mang tin tức đến từ Pháp, Nhật hay Hoa Kỳ, các tướng lãnh khác hay Tổng Bộ trưởng bị lưu đày. Người ta trò chuyện, đánh bài, và uống trà. Khi ông không tiếp khách thì ông đến “Câu lạc bộ thể thao Sài Gòn ” với cây vợt trên tay. Ông đánh quần vợt với mấy ông nghị sĩ, dân biểu, các tướng lãnh, các giáo sư, với người Mỹ, với nhân viên ngoại giao của các sứ quán ngoại quốc.. Ở vùng Đông Nam Á, chơi quần vợt có một đặc điểm là tạo được sợi dây thân ái giữa các đấu thủ không phân biệt chánh kiến. Và tướng Minh là một đấu thủ chơi không biết mệt. Tất cả những người đến với ông ta đều nhấn mạnh là viên cựu tướng lãnh đáng sợ này đã già dặn hơn trước nhiều, và đã thay đổi rõ nét là một người tranh đấu cho “hòa bình”. Ông chỉ nổi giận lên khi người ta nói đến “người Bắc kỳ” (nguyên tác “Tonkinois” ) Tuy nhiên dần dần ông Minh cũng thành lập một nhóm chánh trị, mở rộng thêm ra và cố gắng hướng dẫn các lực lượng đối lập. Những người của ông ta và những người hợp tác với ông được phân ra thành 4 nhóm rõ rệt : - những ông đốc phủ, chủ sự hành chánh và cựu tỉnh trưởng, những công chức già nổi bật với nền văn hóa Pháp, những người được kính trọng qua nhiều thể chế. - Những sư sãi cốt cán của chùa Ấn Quang và của nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, tiến sĩ luật, chủ tịch Phong Trào Hòa Giải Quốc Gia (phần đông là Phật Tử), được người Mỹ tài trợ và hoạt động từ lâu. - một số sĩ quan trẻ, giáo sư, nhà báo đối lập, và những công chức chuyên nghiệp có khuynh hướng tiến bộ được đào tạo ở trường Quốc Gia Hành Chánh có liên lạc với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, những người cấp tiến chủ trương cải cách xã hội Việt Nam, và chủ trương một Chánh Phủ Liên hiệp với Cộng Sản . - Những cựu tướng lãnh của cuộc đảo chánh 1 / 11, đã từ lâu đứng ngoài chánh quyền và không có một trách vụ quân sự nào, vừa chống ông Thiệu vừa chống Cộng Sản . Sự khác biệt nhau của các nhóm nầy, tuy cùng đồng ý với nhau về sự ra đi của Tổng Thống Thiệu nhưng có nhiều bất đồng về phương pháp áp dụng, và đường lối chánh trị phải theo để đi đến mục đích, đã giải thích phần nào những cuộc vận động bất thần và những lập trường mâu thuẩn của tướng Minh, thường hay ngả theo kẻ đối thoại nào ăn nói thuyết phục nhất . Vì thế mà sau nhiều lần tránh né, bàn bạc, rụt rè… tuớng Minh mới bất thần loan báo là sẽ ra ứng cử Tổng Thống vào năm 1971. Cuộc vận động bắt đầu, lúc đó tôi còn ở Sài Gòn. Các quan sát viên ngoại quốc nhận xét là tướng Minh có vài lợi thế trong chuyện tranh cử: ngoài những nhóm đã nói ở trên, ông còn được sự ủng hộ của Đức Giám Mục Bình của địa phận Sài Gòn, và của Phong Trào Trung Lập ở Paris của cựu Thủ Tướng Trần văn Hữu, người đỡ đầu cũ của ông. Ngoài ra ông cũng có một người em út là tướng Cộng Sản Dương Văn Nhật (1) thuộc “quân đội nhân dân Bắc Việt”, điều nầy giải thích tại sao đài Hà Nội và đài Mặt Trận không bao giờ tấn công tướng Minh trên hệ thống truyền thanh. Có 4 người lo vận động tranh cử cho ông . Hai nhân sĩ là ông Tôn Thất Thiện và ông Nguyễn Ngọc Thơ. Hai dân biểu trẻ là ông Lý Quý Chung và Ngô Công Đức. Trong thời gian nầy tôi đã có gặp tất cả 4 người nầy nhiều lần. - Ông Tôn Thất Thiện sống trong một căn nhà rất đẹp với đầy đủ tiện nghi được xây cất trong một miếng vườn được phát họa rất là chu đáo. Ông là người miền Trung, ốm yếu và nóng tánh, có gương mặt quí phái, thuộc một gia đình quý tộc ở Huế. Là một con người kiêu kỳ và kiên quyết, ông nói thành thạo tiếng Anh và tiếng Pháp. Một vài chỉ dấu đặc biệt :ông có một người anh em là tướng trong Không Quân Bắc Việt; ông có liên lạc chặt chẽ với cơ quan tình báo Anh, và không thích người Miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois). Ông bắt đầu đi vào con đường chánh trị trong chức vụ Tùy Viên Báo Chí và thông dịch viên chánh thức của Tổng Thống Diệm. Không đồng ý với những phương pháp và mục tiêu của Tổng Thống, ông từ chức và đi Thụy Sĩ để hoàn tất học vị tiến sĩ về khoa học chánh trị . Sau đó ông là Bộ trưởng của Phó Tổng Thống Hương, nhưng nhận thấy ông nầy quá lạc hậu và thiển cận nên lại từ nhiệm một lần nữa và nhảy sang phía đối lập. Bây giờ thì số phận của ông được gắn liền với số phận của tướng Minh Dương, ông tổ chức các buổi phỏng vấn và thu xếp các buổi tiếp xúc với dân chúng cho tướng Minh, đồng thời ông cũng đi dạy ở trường đại học Phật Giáo ở Sài Gòn và cộng tác với tờ báo Kinh Tế Viễn Đông của Hong Kong. Ông nói với tôi : -”Tôi chấp nhận yểm trợ cho ông Minh vì ông là một tướng lãnh biết chấp nhận uy quyền hành chánh đối với quân nhân . Ông hiểu rõ về tính cách pháp lý, và biết tôn trọng dân chúng. Ông ta muốn chấm dứt cuộc chiến và nói chuyện với “Mặt Trận”. Còn ông Thiệu lại là người của chiến tranh. Ông chỉ tồn tại và sống được là nhờ vào chiến tranh và sự yểm trợ của người Mỹ, cố vấn và trả lương cho ông ta và áp đặt cuộc chiến đối với chúng ta. Nước Việt Nam phải chấm dứt không còn là một “trại lính” hay một nhà kho khổng lồ chứa đầy dụng cụ chiến tranh do một bọn côn đồ đần độn mặc quân phục điều hành, một bọn người chỉ có một công tác chính yếu là “đếm xác chết” . Các tướng lãnh của chúng ta thường hay quên rằng những xác chết lạnh cứng mà họ xếp lên bàn như những con thỏ mà họ đã đi săn được, không phải là những con thú vật mà chính là những người Việt Nam như chúng ta .” Khi tôi lưu ý với ông là “trong cuộc đời binh nghiệp của mình, tướng Minh cũng thường phải làm những bản tổng kết tương tự, và lúc ông có chánh quyền trong tay các tổng bộ trưởng dân sự của ông không thể làm gì được nếu không có ý kiến của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm toàn là tướng lãnh . Hơn nữa bọn Việt Cộng mỗi ngày cũng đều có thông báo nêu lên con số hàng trăm binh sĩ và những viên chức Chánh Phủ bị họ giết…” thì ông Tôn Thất Thiện cương quyết ngăn tôi lại ngay và nói : - ” Chỉ có những người ngu xuẩn mới không chịu thay đổi quan điểm hoặc không có khả năng rút tỉa những bài học từ những sự thất bại của họ. Tướng Minh đã từng bị thất sủng và lưu đày, nên có thì giờ suy gẫm. Bây giờ thì ông đã biết rõ là không phải chỉ tăng thêm các sư đoàn, không phải chỉ khóa mồm báo chí, hay tăng quân số cho cảnh sát là có thể cai trị đất nước được đâu. Dĩ nhiên là ông không hiểu nhiều về kinh tế và chưa có một ý kiến nào chính xác về các bài toán quốc tế. Nhưng đã có chúng tôi ở đây để giúp đỡ và hướng dẫn cho ông. Điều quan trọng là ông ta có thể tái lập lại sự Tự Do cho nền Dân Chủ và khóa các họng súng lại. ” - Một vị cố vấn khác mà tướng Minh thường nghe theo là ông Nguyễn Ngọc Thơ, một người khôn khéo và ít đanh thép hơn. Là con của một đại điền chủ ở Miền Nam, ông là một quan chức già, khuôn mẫu, khôn ngoan, lịch lãm, luôn tươi cười . Dưới thời Pháp, ông là một “chức sắc” của giáo phái Cao Đài, và bí thư của vị Toàn Quyền Đô Đốc Decoux, kế đó là cộng sự viên của người Nhật và đã nhiều lần ở chức vụ tỉnh trưởng trước khi đi tập sự một khóa trong bưng biền với Việt Minh. Tổng Thống Diệm rất quý trọng ông nên đã đưa ông đi nhận chức đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Nhật Bản, sau đó lại gọi ông về giao cho chức vụ Tổng trưởng Bộ Kinh Tế, và cuối cùng là Phó Tổng Thống . Sau đó nhờ hợp tác với những người đảo chánh ông Diệm ngày 1/11/63 ông lại kế nghiệp người đã bảo trợ và nâng đỡ ông trong chức vụ lãnh đạo Chánh Phủ không khó khăn gì ! Qua những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời nghiệp vụ của mình, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã giữ được một số lớn kinh nghiệm cho những chuyện công cộng, một hệ thống tin tức rất tốt, một sự ủng hộ đắc lực của các hội viên hội Tam Điểm và những người tư bản ở Paris, một vài bạn bè còn sót lại trong nhóm lãnh đạo Cộng Sản, những liên hệ rất tốt với các trung tâm dịch vụ và một vài nhóm chánh trị Nhật Bản, và những tài liệu mật được cập nhật rất cẩn thận. Tính ông vốn người thận trọng, lại thêm dè dặt vì hoàn toàn bị lãng tai, ông ở xa thành phố trong một ngôi nhà kín đáo nhưng sang trọng, có khá nhiều người phục dịch tuy luôn mặc áo bỏ ngoài nhưng khó che dấu được súng lục đeo ở thắt lưng, ngay cả lúc mời trà. Khác hẳn với ông Tôn Thất Thiện thường thích trình bày dài dòng kiểu triết lý – sử học, với những lý luận biện chứng, ông Nguyễn Ngọc Thơ hay dùng những câu ngắn gọn nhưng đầy thuyết phục. Với một nụ cười ranh mãnh, ông nói: - “Từ hai năm nay người Mỹ và người Tầu đã kín đáo gặp nhau. Cách đây 2 tháng họ đã công khai hóa những mối quan hệ giữa họ với nhau. Bây giờ thì họ liên lạc điện thoại với nhau hằng ngày. Rồi đây họ sẽ ăn chung với nhau một bàn . Ông Thiệu là hòn sỏi trong tô canh của họ. Dĩ nhiên là họ cần phải vứt bỏ hòn sỏi đó nếu họ muốn ăn chén súp đó một cách yên lành. Đối với “kế hoạch 7 điểm” của Mặt Trận đưa ra, người ta chỉ nêu lên 2 chủ đề không đồng ý : - chuyện rút quân tức khắc của Hoa Kỳ và chuyện ra đi của ông Thiệu. Điểm thứ nhất sẽ được giải quyết không xa. Người Mỹ ra đi, việc nầy không có gì phải bàn cãi nữa. Chỉ còn lại điểm thứ hai. Chương trình và đề tài tranh cử của chúng tôi được đặt trên sự vãng hồi hòa bình với 2 lý do : Trước hết bởi vì bắt buộc các cuộc chiến phải được chấm dứt . Ngưới ta không thể vừa nói chuyện ích lợi với nhau mà vừa bắn nhau. Thứ đến bởi vì chúng tôi chắc chắn rằng ông Thiệu không thể cưỡng lại nền hòa bình bao lâu nữa . Ông ta là một người chống Cộng Sản nhưng thiển cận còn hơn Cộng Sản nữa. Và chế độ của ông nói là chống Cộng Sản nhưng hành sử cũng máy móc giống y như họ vậy. Lực lượng quân sự, hành động tâm lý chiến, và cảnh sát có mặt khắp nơi… Tất cả kết cấu chánh trị của ông Thiệu đều dặt trọng tâm vào chiến tranh. Và chiến tranh giải thích tất cả, và chứng minh cho tất cả. Những sự hy sinh, đòi hỏi ngân khoản, sự lạm phát, các sự trấn áp, khủng bố những người đối lập … Chấm dứt được chiến tranh là tất cả kết cấu đều sụp đổ theo hết. Không có gì giản dị cho bằng !” - Ông Lý Quý Chung, trưởng nhóm trẻ, là một người có cử chỉ lanh lợi và ăn nói dễ dàng. Xuất thân từ một gia đình khá giả ở đồng bằng sông Cửu Long, tuổi vào khoảng trên 30, tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, tiên khởi ông là giáo sư sinh ngữ (Anh và Pháp), trước khi nhảy vào làng báo như một tổng biên tập viên cho nhiều tờ báo. Sau đó ông ra một tờ nhật báo cho chính mình: tờ “Tiếng Dân”. Chính trong tờ báo nầy ông đặt lại rõ ràng “tấn bi kịch của những người Việt Nam đứng ngoài cuộc chiến”, bị kẹt giữa 2 khối đối kháng, và từ đó ông đưa ra ý kiến thành lập “lực lượng thứ ba”. Năm 1966 ông đắc cử dân biểu, và nhanh chóng nổi tiếng qua những cuộc can thiệp gay gắt và liên tục với “chánh quyền quân sự”, đồng thời tập hợp và thành lập một nhóm 18 dân biểu đối lập rất năng nổ. Lúc nào không có mặt trong Quốc Hội thì ông thích ngồi ở phòng trà Givral ở đường Tự Do, nơi hẹn hò thích nhất của các nhà báo Mỹ mà ông tìm cách nhập bọn. Ông thường nói với tôi : -”Các nhà báo ngoại quốc là phương tiện duy nhất của chúng tôi để mở nắp nồi “sốt de” đầy hơi mà Tổng ThốngThiệu đã đặt trên đầu của chúng tôi cho ra bớt hơi nóng. Những câu chuyện và những tin tức mà chúng tôi trao đổi với họ thường là khởi điểm của các cuộc điều tra giúp đưa ra ánh sáng những vụ tai tiếng và những chuyện buôn lậu mà Chánh Phủ muốn ém nhẹm.” - Cựu dân biểu Ngô Công Đức, 39 tuổi, đẹp trai, trác táng, tính hơi ngông và rỡm, là một nhà doanh nghiệp và anh có một chỗ đứng riêng biệt trong sinh hoạt chánh trị ở Miền Nam. Anh là cháu của Đức Cha Bình Giám Mục ở địa phận Sài Gòn, cha anh là một người công giáo bị Việt Cộng hành quyết vào thập niên 50 ở vùng Trà Vinh, một tỉnh cũ của Cam Bốt bên bờ sông Cửu Long. Anh có tài hái ra tiền nhưng cũng xài tiền ra như nước . Anh đã tuần tự là chủ báo, thầu khoán, và cả bốc dỡ hàng có giao kèo cho người Mỹ, đắc cử dân biểu năm 1967. Sau khi thất cử năm 1971 thình lình anh trở thành người của thời cuộc khi anh sang Paris (Pháp) và trình bày kế hoạch “hòa bình” của anh : ” Việt Nam Hóa” là độc tài cộng (+) với chiến tranh”. Từ đó giới quân sự đã liệt anh vào loại “bồi bút” của Cộng Sản, và anh đã trở thành kẻ thù của chế độ ông Thiệu. Tờ “Tin Sáng” của anh nhiều lần bị tịch thu, nhà của anh bị cho nổ bom và xe của anh bị đốt. Anh viết nhiều bài theo nhu cầu của báo chí Mỹ và Pháp. Bị cảnh sát quấy rầy quá mức, anh đành phải chạy sang Pháp tỵ nạn, trong lúc tờ Tin Sáng của anh vẫn tiếp tục đánh phá không ngừng chống sự độc tài của ông Thiệu. Từ Paris nơi anh đã tăng thêm sự liên lạc với các phái đoàn của Cộng Sản Bắc Việt, của Mặt Trận, và của nhóm trung lập, anh đã gởi về những bản tường trình dài nhằm phân tách tình hình giúp tướng Minh . Những người chống đối anh thường biết về anh rất rõ, nên rất ngạc nhiên khi thấy anh viết trên diễn đàn của tờ Le Monde những bài rất đặc sắc với một cú pháp quá điêu luyện, trong khi bản thân anh thường nói tiếng Pháp gần như không có quy tắc nào hết. Sự thật là khi nói chuyện với anh ta nhiều lần, tôi nhận thấy trình độ học vấn của anh chỉ ở cấp tiểu học mà thôi. Trong vấn đề chánh trị, kinh nghiệm cho thấy là thường chỉ cần có gan, vài ý kiến hay .. và một ít tiền. Sau đó những cây viết hay sẽ tìm đến không khó lắm.. (sau đó anh phát động phong trào “phản chiến” mạnh mẻ ngay bên Mỹ và Pháp tiếp tay cho kế hoạch xâm chiếm Miền Nam Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt). Cuộc tranh cử năm 1971 khởi đầu bằng dục vọng và sự náo nhiệt. Hai bên hiện diện đối chọi nhau mãnh liệt… Không khí căng thẳng lại tăng thêm gấp bội khi một ứng cử viên thứ ba nhảy vào cuộc : tướng sáng giá Nguyễn Cao Kỳ. Có nhiều phòng trà bị đánh bằng chất nổ, 15 chiếc xe Mỹ bị đốt chỉ trong vòng 10 ngày, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa kêu gọi “một triệu đoàn viên” thuộc phong trào Phật Giáo đấu tranh của Ấn Quang hãy đoàn kết lại, hàng ngàn thương phế binh đội nón lá vẽ đủ mọi khẩu hiệu chống Mỹ tập trung trước tòa đại sứ Hoa Kỳ, thượng nghị sĩ Mc Govern, người chủ trương “hòa bình” tình cờ ghé ngang Sài Gòn bị vây trong một nhà thờ và bị một đám đông giáo dân chống cộng hăm dọa treo cổ; sinh viên và cảnh sát đụng nhau, bom xăng chống lựu đạn cay. Nhà kiếng, trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao động, thân Chánh Phủ bị các cựu chiến binh đốt phá và tấn công bằng cốt mìn…. Chánh trị Việt Nam đang xuống đường ! Một nhóm đại tá trẻ thân Tổng Thống Thiệu đổ hết trách nhiệm cho đối lập và đặc biệt là tướng Dương Văn Minh. Một vị trong nhóm nói với tôi : - ” Ông Minh Dương bình dân thật vì ông không có làm gì hết. Ông là một người tốt, không ai nghi ngờ điều đó, nhưng trong quân đội ông không đại diện cho ai cả. Khi ông sang Thái Lan năm 1964, cuộc chiến thật sự chưa bắt đầu. Trong suốt 7 năm liền, ông chỉ chơi quần vợt và trồng hoa lan. Trong lúc đó thì ở đây chúng tôi phải chiến đấu và chiến đấu rất khốc liệt. Một thế hệ chỉ huy khác trẻ hơn và tân tiến hơn đã thành hình nhờ được trui rèn trong lửa đạn, trong chiến đấu. Đối với các sĩ quan đó, lịch sử cũ coi như không còn nữa! ” Còn Tôn Thất Thiện thì lại khác. Ông ta là một người thông minh thật nhưng có quá nhiều tham vọng và bất mãn vì thấy không ai biết đến tài năng của ông. Thật là một người đối lập cố chấp.. Đối với ông ta tướng Minh chỉ là một cái đầu để cho ông quảng cáo thôi không hơn không kém ! Cái mà ông Thiện nhắm vào trên hết chỉ là cái ghế Thủ Tướng. Lúc nào cũng thấy ông nói đến dân chúng, nhưng ông có biết dân chúng là ai không đã ? Ông xuất thân từ một gia đình hoàng tộc, triều thần và chuyên chạy áp phe, Chân ông không bao giờ lấm, tay ông không bao giờ dính bùn. Ông cũng không bao giờ ở trong quân đội . Những người trí thức Việt Nam cỡ ông đó hay học lực còn cao hơn ông gấp bội ăn nói vanh vách còn có cả ngàn người, ở Mỹ cũng như ở Pháp… Hàng chục ông trong số nầy họp nhau lại âm mưu chuyện nầy chuyện nọ, nghĩ rằng chỉ có mình mới có một công thức duy nhất khả dĩ mang lại “hòa bình” . Các ông đó không đồng ý nhau chuyện gì hết, trừ một chuyện, đó là “nhu cầu thay đổi chế độ”, dĩ nhiên với điều kiện là họ phải có được ghế Tổng bộ trưởng nào đó trong thành phần mới của Chánh Phủ . Nhưng chúng tôi không muốn như vậy . ” Họ là những người chưa từng biết sống chết như chúng tôi . Họ chưa từng bao giờ chia xẻ nỗi đau khổ của chúng tôi . Họ chưa bao giờ biết trả giá bằng máu như chúng tôi . Dân chúng không bận tâm đến những lý thuyết đồ sộ của những người huênh hoang nói với họ từ trên cao và từ ngoài xa. Dân chúng chỉ muốn được bảo vệ, muốn được vĩnh viễn thoát khỏi vòng khủng bố và hỗn độn như địa ngục. Chúng tôi đã đem lại cho họ sự an ninh, sự tự do lưu thông, và họ được gặt lúa một cách thực tế. Họ sẽ theo chúng tôi. “Các nhóm chánh trị gia trưởng giả đó của Sài Gòn vẫn biết rằng họ không tác động được đất nước . Nhóm Phật Giáo đấu tranh của chùa Ấn Quang làm gì có “hằng triệu tín đồ” sau lưng họ ? Khoảng 30 ngàn là cùng, và phần đông các sư sãi đang rất bận rộn trong công tác quyên góp tiền bạc hay đang đầu cơ trong việc mua bán đất đai. Khi quả quyết là họ có một lực lượng chánh trị mới, không màng quyền lợi, thì hoặc họ chỉ là những người không tưởng, hoặc họ là những người chuyên nghiệp không có niềm tin. ” Nhưng rồi tất cả đều phải tin chắc điều nầy : Nếu quân nhân chúng tôi buông súng xuống, thì đối mặt với Cộng Sản họ không đáng một gram nào hết. Hoặc họ sẽ chịu khuất thân làm bù nhìn hay tôi tớ cho Cộng Sản, hoặc họ sẽ bị Cộng Sản thanh toán. Và đến ngày đó thì không còn một người phóng viên báo ngoại quốc nào để đăng giùm những lời kêu ca hay chỉ trích cho họ !” Chuyện tranh cử Tổng Thống giữa hai ông Thiệu và Minh cuối cùng không có nữa. Ngày 23 tháng 10 năm 1973, một tháng rưỡi sau đợt vận động rất ồn ào sôi động, tướng Minh cho là “cuộc bầu bán sắp tới chỉ là một trò hề” nên thình lình rút tên ra khỏi danh sách ứng cử. Ngay sau đó tướng Kỳ cũng rút tên không ứng cử nữa. Ông Thiệu đương nhiên không còn ai là đối thủ nữa và trở thành “độc diễn” Cuộc bầu cử Tổng Thống bị phá hoại ngầm nên đương nhiên trở thành một cuộc biểu quyết thông qua của dân chúng mà thôi. Sự rút lui của tướng Minh làm cho mọi người đều ngạc nhiên, bè bạn, thân hữu, và kể cả đối thủ. Ai cũng đồng ý là tướng Minh có một quyết định quá hời hợt. Những nhóm sinh viên từng ủng hộ hành động của người lãnh đạo Miền Nam đều giận dữ vì quá thất vọng. Một trong những trưởng nhóm, anh Ngọc, 26 tuổi, sinh viên năm thứ năm ngành Y, chưa hết giận : -”Chúng tôi đã vận động mấy tháng nay cho cuộc bầu cử này, chúng tôi đã bỏ cả học hành, suốt đêm đi gõ cửa từng nhà, đã in truyền đơn vận động, lo soạn từng tấm biểu ngữ, tổ chức các buổi họp… Chúng tôi đã bị cảnh sát đánh đập. nhiều em đã bị bắt. Tất cả công việc làm của chúng tôi đều nhắm vào ông Minh Dương, Ông ta đã cam kết đi cho đến cùng và thình lình, không báo trước gì cả, ngay trong lúc cuộc vận động đang thực sự bắt đầu thì ông lại buông bỏ chúng tôi “. Thượng nghị sĩ Đông, một Phật Tử ôn hòa, cử nhân khoa học còn nghiêm khắc hơn, rất chẫm rãi nhưng đắn đo, ông nói : -”Tôi không thích Tổng Thống Thiệu và phương pháp làm việc của ông ta . Nhưng tôi từ chối không ủng hộ tướng Minh. Về phương diện sức khỏe ông to con mạnh khỏe thật đấy nhưng hoàn toàn kém thông minh trên phương diện chánh trị. Nhìn bề ngoài thì thấy ông có vẻ ung dung và bình tĩnh đâu ngờ lại có những phản ứng mạnh không chính chắn như vậy. Ông ta vừa mới chứng minh điều đó hôm nay đây” Ông Võ Văn Hải, cựu chánh văn phòng của ông Diệm, vừa mới chạy theo tướng Minh mấy tháng nay đã xác nhận : -“Tướng Minh là một người can đảm và trung trực, có đầy đủ lương tri. Chúng tôi là bằng hữu và bạn tranh đấu của ông, chúng tôi là những người đầu tiên lấy làm tiếc về sự rút lui của ông ta. Chung quanh ông toàn là những nhân vật hàng đầu ở Việt Nam nầy, ông lại được tài trợ rất mạnh và hy vọng có thể tập trung tất cả các lực lượng đối lập để thành lập một đảng chánh trị lớn. Tôi đoan chắc là qua sự rút lui nầy ông đã mất hết cơ may. Trong vòng 4 năm nữa chắc chắn sẽ là quá muộn. Nhưng ông rất chán vì những áp lực của Tổng Thống Thiệu đối với người của ông, đối với báo chí, đối với hành chánh cũng như đối với quân đội. Và dù sao chúng tôi cũng không thể nói hết được những lý do thật sự thầm kín của sự rút lui nầy. Ông Thiệu có vô số phương tiện để cho ông được thắng cử. Ông có biết là ở Việt Nam có một câu tục ngữ nầy không? “Vai mang túi bạc kè kè Nói bậy nói bạ người nghe thiếu gì ” Những “lý do thầm kín” mà ông Hải vừa nói đó quả nhiên đã có một vai trò không nhỏ trong quyết định bỏ cuộc của tướng Minh. Vừa mở màn chiến dịch tranh cử, người Mỹ lo lắng muốn cho cuộc tranh cử Tổng Thống phải có một vẻ dân chủ nên đã tiếp xúc với tướng Minh. Đại sứ Bunker theo người ta nói đã mong muốn có một cuộc tranh cử tay đôi giữa hai ứng cử viên nên đã tài trợ cho tướng Minh để ông nầy có phương tiện vận động tranh cử. Việc nầy được thực hiện vài ngày sau đó bằng một tín dụng thư 200 triệu đồng gởi vào chương mục được mở ra cho ông ở Đông Kinh Ngân Hàng (qua trung gian của một kỹ nghệ gia Nhật Bản). Ông Minh đã lãnh ra 100 triệu trước để cho các chi phí đầu tiên. Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ước tính là tướng Minh sẽ được một tỷ lệ vào khoản 30 đến 40 phần trăm trong tổng số phiếu bầu. Như vậy là đã quá đẹp và quá tốt cho cuộc bầu cử rồi. Ông Thiệu sẽ được đắc cử không có gì khó khăn lắm và tướng Minh sẽ có một tầm vóc chánh trị khả quan hơn để giúp ông lãnh đạo một đối lập vững chắc. Tuy nhiên trong những ngày đầu của tháng 10 năm đó, một chỉ thị mật của Hà Nội (văn phòng trung ương trong Bộ Tham mưu Cộng Sản phối hợp đấu tranh chánh trị và quân sự ở Miền Nam Việt Nam,) do cơ quan kiểm thính của Mỹ giải mã được, ra lệnh cho “tất cả cán bộ đảng viên thuộc mọi cơ cấu của Việt Cộng ở Miền Nam phải dồn phiếu cho tướng Minh.” Tỷ lệ số phiếu bầu do Việt Cộng kiểm soát được ước tính khoảng 15 % của tổng số, như vậy kết quả bầu cử sẽ có thể bị hiện tượng “ngựa về ngược”, phần thắng có thể ngã về tướng Minh thì Sài Gòn sẽ có nguy cơ có một Chánh Phủ trung lập, Chánh Phủ nầy sẽ đặt lại vấn đề “sự có mặt của quân đội Mỹ ở Việt Nam ” . Do đó ông Bunker báo động ngay cho Hoa Thạnh Đốn . Ở đây sau khi tham khảo lại với ông qua điện thoại đã quyết định bớt phương tiện tài trợ cho tướng Minh. Và khi ông Minh đến Ngân Hàng Đông Kinh để rút tiền thêm lần thứ hai, thì ngân hàng từ chối và người ta đã trả lời cho ông là chương mục đã được kết toán. Ngày thứ năm 19 tháng 10 vào buổi sáng vài giờ trước khi ông tiếp xúc với ông Bunker, lúc ông nầy vừa từ Hoa Thạnh Đốn trở về thì tướng Minh lại bị một đòn đau nữa: Một thông cáo từ chùa Ấn Quang đã báo cho ông biết là sau 3 giờ thảo luận, tất cả 7 vị sư đại diện cho phong trào Phật Giáo Cải Cách (Phật Giáo đấu tranh mà tướng Minh nghĩ rằng sẽ hoàn toàn đứng sau lưng mình), đã quyết định chấm dứt sự ủng hộ ứng cử viên Dương Văn Minh (với 6 phiếu thuận 1 phiếu chống của thượng tọa Thích thiện Minh). Trong văn thư thông báo quyết định nầy cho tướng Minh, các Sư đồng thời cũng cho ông biết những lý do đưa đến quyết định chấm dứt sự ủng hộ nầy như sau : “Phong trào tranh đấu của Ấn Quang đã bỏ ra 4 năm để tái lập lại đội ngũ cán bộ, vì tổ chức và các phương tiện của họ đã bị đập tan trong thời kỳ tranh đấu chống Chánh Phủ năm 1966. Chúng tôi xét thấy tướng Minh không có một cơ may nào được đắc cử và chúng tôi không muốn bị lôi cuốn vào những hành động cực đoan quá khích nữa để chúng tôi bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và phải hứng chịu những đòn trả thù nặng nề của chánh quyền lúc đó. Phong trào khước từ không vận dụng bộ máy vận động của mình, để dồn hết phương tiện và ngân khoản vào cuộc bầu cử dân biểu Quốc Hội, ở đó Phong Trào mới mong thành lập được một khối đối lập quan trọng như đã có ở Thượng Viện, khả dĩ có thể cân bằng với hành động của chánh quyền trong khuôn khổ hợp hiến.” Như vậy lực lượng chánh trị trong khối cử tri ở Miền Nam Việt Nam được chia ra như sau: Quân Đội, công chức hành chánh, những Phật Tử ôn hòa, những Phật Tử đấu tranh của Ấn Quang, những người di cư từ Miền Bắc 1954, những người công giáo, Mặt Trận Giải Phóng và thân hữu của họ, và các Giáo Phái. Quân Đội thì đã là một khối sau lưng Tổng Thống Thiệu, và Hành Chánh thì dĩ nhiên phải tuân theo ông rồi. Các Phật Tử ôn hòa vẫn có mối giao hảo tốt với Chánh Phủ và lúc nào cũng đứng ngoài mọi tranh chấp chánh trị; Những người Bắc di cư thì ủng hộ tướng Kỳ. Còn phần lớn giáo dân ở Miền Nam từ sau cuộc đảo chánh 1963 và cái chết của Tổng Thống Diệm thì chống hẳn tướng Minh. Giáo phái “Hòa Hảo” rất đông và rất mạnh ở các tỉnh giàu có của Miền Tây thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long thì không bao giờ quên các cuộc hành quân giết người của tướng Minh đối với họ vào những năm 1955 và 1956 trong “chiến dịch diệt giáo phái”. Phong trào Phật Giáo Ấn Quang, rất mạnh ở miền Trung và ở nhiều thành phố lớn trong nước đương nhiên là một lực lượng tôn giáo và chánh trị có tổ chức, một lực lượng duy nhất mà tướng Minh có thể dựa vào. Sự rút lui bất thình lình và không ai chờ đợi, đã giảm xuống đến con số không tất cả mọi hy vọng của ông ta, làm cho ông không có một con đường nào khác ngoài một kết quả bầu cử tệ hại nhờ vào phiếu bầu của Cộng Sản . Không còn đủ phương tiện tài chánh (ông không muốn phiêu lưu với tiền riêng của mình vả lại cũng không đủ), lại bị một vố đau của người Mỹ, và bị những đồng minh tốt nhất bỏ rơi, tướng Minh đành phải chọn con đường bỏ cuộc “rút lui ” mà thôi. Ngày 3 tháng 11 năm 1971, Tổng Thống Thiệu không có đối thủ, đắc cử với 94 % số phiếu bầu. Tướng Minh cho ra một thông cáo theo đó ông tuyên bố :”không hợp tác với một chế độ đã mất hết danh dự và tất cả phẩm cách.” Thế là lần đó coi như tướng Minh đã mất tất cả. Dù sao thì ông cũng bắt đầu đi qua sa mạc một lần thứ hai nữa. Hầu hết các người ủng hộ ông – ngoại trừ một vài bạn thật thân thiết- không biết được những lý do thật sự và thầm kín khiến ông phải rút lui… đã tránh xa ông. Ông nói đi nói lại với những người thân :” Chánh trị là cả một cơn ác mộng !” Ông lại đọc sách trở lại. Nhân vật De Gaulle làm ông bị quyến rũ.. Theo gương ông nầy tướng Minh gần như tự đặt mình ngoài vòng của chế độ Cộng Hòa. Ông sống như vậy suốt trên 3 năm, giới hạn trong các tố cáo hành động của chế độ với những ngôn từ gay gắt, kêu gọi một sự tái lập một nền dân chủ thật sự và sự thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Ba Lê. Các nhóm khác nhau thuuộc lực lượng thứ ba lại bắt đầu dựa vào ông trở lại. Ông cũng thường tiếp vị cố vấn chánh trị của tòa đại sứ Pháp, ông Brochand, một người dân miền Nam nước Pháp, lanh lợi nhưng ranh mãnh, rất khôn khéo trong việc dựng lên những tổ hợp chánh trị, là người của ông Froment-Meurisse, Giám đốc Á Châu Sự Vụ ở Quai D’Orsay (Phủ Thủ tướng Pháp) Ông Brochand đã tin chắc chiến thắng tất yếu của Miền Bắc từ nhiều năm rồi. Những sự giao thiệp của ông ta với tướng Minh kèm theo với một đại diện của tòa đại sứ Pháp đã làm cho người Việt Nam lầm tưởng rằng tướng Minh được Ba Lê ủng hộ sẽ là một ứng viên được CPLTCHMN chấp nhận . Chỉ mới cách đây vài tháng thôi., các thành viên của phái đoàn điều tra thuộc Quốc Hội Hoa Kỳ đã có tiếp xúc rất lâu với ông Minh và động viên ông ta nên hoạt động chánh trị trở lại . Ông cũng chỉ nghe vậy thôi. Người cố vấn lão thành của ông là ông Nguyễn Ngọc Thơ đã qua đời rồi vì bệnh ung thư. Còn ông giáo sư chánh trị của ông Minh, là ông Tôn Thất Thiện lỗi lạc kia, sau khi bắt được ngọn gió từ tòa đại sứ Anh và xét thấy chiến thắng của Bắc Việt đã gần kề và không sao tránh khỏi .. nên ông ta thu xếp và vọt đi êm trên một chiếc phi cơ của hội Hồng Thập Tư Riêng về phía các tướng lãnh bạn của ông Minh thì luôn luôn lúc nào cũng nghi ngờ đối với Cộng Sản Bắc Việt, nên đã khuyên ông ta nên cẩn thận. Chỉ riêng có nghị sĩ năng động Vũ Văn Mẫu, người hay tiếp xúc với ông rất thường, và nhóm “tranh đấu trẻ” của Lý Quý Chung đã thúc hối ông hãy nắm lấy chánh quyền và “đưa ra những điều kiện”. Trên thực tế, tướng Minh không phải là một nhà chánh trị. Lúc nào ông cũng chỉ mong muốn là một người hòa giải và chỉ muốn đóng vai trò hoà giải! Và hiển nhiên từ lúc ông thất bại năm 1971, ông có thể sẽ có một vai trò nào đó khi nào Miền Nam Việt Nam đứng trước một thảm họa. Quả nhiên, bây giờ chính là lúc chuyện đó đang xảy ra. Đồng ý nhận thấy là tai họa mà Tổng Thống Thiệu phải gánh một phần lớn trách nhiệm, bạn bè của tướng Minh và một phần của các đối thủ của ông muốn ông phải cứu lấy những gì còn có thể cứu được. Sau nhiều ngày mặc cả gay go và đôi khi cứng rắn với ông Tổng Thống Hương già nua, cuối cùng tướng Minh cũng đã nhận được đầy đủ quyền hành. Chánh Phủ của ông đã được thành lập. Trong vài giờ sắp tới đây, ông Minh sẽ vào chiếm lĩnh Dinh Độc Lập. Bạn bè thân hữu của ông vui mừng hớn hở. Sau nhiều năm bị lưu đày, ở thế đối lập và bị hất hủi, cuối cùng tướng Minh cũng lại trở lại là vị nguyên thủ quốc gia… và những người đã thúc đẩy và đưa ông ta lên như một món hàng rồi đây sẽ có thể được ngồi vào các ghế dựa nhung đỏ…. Nhưng liệu sẽ được bao lâu đây? Chú thích của dịch giả: (1)- Thật ra người em trai của tướng Dương Văn Minh là Dương văn Nhật không phải là sĩ quan cấp tướng như nhiều người hiểu lầm (kể cả tác giả) mà anh ta chỉ mang “quân hàm cấp tá” trong hàng ngũ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tức không thuộc quân đội chánh quy Bắc Việt) . Cộng Sản Hà Nội xử dụng Dương văn Nhật như một liên lạc viên giữa họ và ông Minh mà thôi theo từng nhu cầu trong từng giai đoạn của đảng. - Lợi dụng lúc ông Minh chán nản mất tinh thần, nhớ nhà v.v.. Cộng Sản cho Dương văn Nhật sang Bangkok “móc nối” ngay từ năm 1965, nhưng chưa giao cho tướng Minh một công tác nào cả cho đến khi ông về nước. - Công tác thật sự được giao cho ông Minh là từ sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết, có nghĩa là từ lúc Bắc Việt cho quân đội ồ ạt tiến chiếm Miền Nam Kể từ Tết năm 1973, Dương văn Nhật về Sài Gòn nằm luôn cho đến ngày 30 tháng 4 1975., rất an toàn, Dương văn Nhật là người trực tiếp trao kế hoạch hành sự của Cộng Sản cho tướng Minh, sau khi anh ta đi nhận lệnh ở một “hợp thơ” nào đó, hay đôi khi có người mang thẳng đến cho đương sự. Sau 30/4/75, rồi Dương văn Nhật cũng vẫn chịu chung số phận của những anh Việt Cộng trong MTGPMN: thất sủng sau khi MTGPMN bị Cộng Sản Bắc Việt giải tán
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 21, 2013 9:17:11 GMT 9
Lucien Conein Sự Thật Sau Cái Chết Của Ông Ngô Đình CẩnNhư Phong Ngày 19/07/2009 - Như Phong (Hình ông NDC sau khi bị xử Bắn) Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam. Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Ngày hôm sau, đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã được chuyển đến tướng Dương Văn Minh là Quốc trưởng. Rồi Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư tới Dương Văn Minh xin ân xá cho tử tội Ngô Đình Cẩn với lý do là Cẩn đang bị bệnh rất nặng, ngày sống chỉ đếm được trên đầu ngón tay cho nên không cần thiết phải hành quyết Cẩn. Nhưng tất cả đều bị Dương Văn Minh bác thẳng thừng. Tòa án báo cho thân nhân của gia đình Ngô Đình Cẩn là bà Ngô Đình Thị Hiệp, bà Ngô Đình Thị Hoàng (thường gọi là bà cả Lễ...) là đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn đã bị Quốc trưởng bác bỏ. Ngô Đình Cẩn sẽ bị hành quyết vào lúc 17h ngày 9/5/1964 tại Khám Chí Hòa. Trước làn sóng phản đối việc kết án tử hình Ngô Đình Cẩn ngày càng lan rộng trong giáo dân, chính quyền Dương Văn Minh - Nguyễn Khánh quyết thi hành án sớm. Tại Sài Gòn, ngày giờ xử bắn Ngô Đình Cẩn được giữ rất kín. Có hai người được biết trước là luật sư Võ Văn Quan và linh mục Jean Baptiste Lê Văn Thí. (JPG) Ngày 8/5, linh mục Thí được vào gặp Ngô Đình Cẩn để làm lễ rước mình Thánh Chúa an ủi người sắp chết. Khi ông Thí vừa vào, chào hỏi xong thì Ngô Đình Cẩn đã hỏi ngay: "Ngày mai, họ đem con đi bắn phải không cha?". Linh mục Thí im lặng và khẽ gật đầu rồi hỏi lại: "Cậu có sợ không?". Ngô Đình Cẩn gượng cười, trả lời khá bình thản: "Con không sợ chút mô hết cha à!". Linh mục Thí hỏi tiếp: "Cậu có tha thứ cho những người đã làm khổ cậu và gia đình cậu không?". Ngô Đình Cẩn nói lớn, và rành rẽ: "Con tha thứ". Rồi Cẩn nói tiếp: "Con cũng mang tên Thánh là Jean Baptiste và cha cũng mang tên Thánh Jean Baptiste. Xin cha nhớ cầu nguyện cho con sớm lên Thiên đàng chầu Chúa và xin mọi người có đạo chứng kiến con chịu chết, xin đọc cho con một kinh lạy cha "Xin cho chúng tôi hàng ngày đủ dùng và tha tội cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi". (Ngô Đình Cẩn là con út trong nhà nên hay được gọi là cậu Cẩn. Sau này khi TT Ngô Đình Diệm giành được quyền lực thì Ngô Đình Cẩn cũng được coi là nhân vật cực kỳ thế lực ở khu vực miền Trung, cho nên ai đến với Cẩn cũng không dám gọi tên mà chỉ gọi là ông Cậu). Hôm sau, 10h trưa ngày 9/5, luật sư Võ Văn Quan vào thăm Ngô Đình Cẩn lần cuối cùng. Sau này, ông Quan kể lại cho nhà báo Phan Kim Thịnh: "Sáng sớm ngày 9/5, cháu Ngô Đình Cẩn là Trần Trung Dung vào thăm. Ông Cẩn nói chuyện một cách thản nhiên, không hề biểu lộ thái độ lo lắng, sợ sệt. Người cháu gái thì ngồi cạnh giường, khóc và nguyền rủa những kẻ phản phúc nhà họ Ngô. Nhưng ông Cẩn điềm tĩnh nói: "Không có gì đáng buồn mà phải khóc lóc. Làm chính trị là phải như thế. Cậu không có gì oán thán hết". Khi gặp luật sư Quan, ông Cẩn cũng vẫn tỏ thái độ bình thản. Ông Quan cũng không hề biết là chính Ngô Đình Cẩn cũng đã biết rõ ngày giờ thi hành án. Lúc đầu, hai bên chỉ nói chuyện có tính chất xã giao nhưng rồi đột nhiên ông Cẩn tâm sự về thân thế của ông và tiết lộ một số câu chuyện bí mật. Lời nói của ông như là một sự trăng trối khiến luật sư Quan giật mình và thầm nghĩ: "Có lẽ ông Cẩn biết rồi". Rồi Ngô Đình Cẩn chuyển sang giãi bày những thủ đoạn chính trị của mình với giọng hùng hồn, hoạt bát, mạch lạc. Ngô Đình Cẩn cũng nhắc lại những cuộc tàn sát đẫm máu đối với những người Cộng sản khi Ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, và khẳng định làm chính trị thì phải chấp nhận thế thôi. Khi nói đến việc đàn áp những người Cộng sản, Ngô Đình Cẩn ngẩng cao đầu, mắt sáng long lanh, mặt đỏ bừng và nói như đếm từng tiếng. Nhìn đồng hồ đã thấy gần 12h trưa, Ngô Đình Cẩn bảo: "Luật sư đưa cho tôi cái danh thiếp của ông". Ông Quan ngạc nhiên không hiểu lúc này Ngô Đình Cẩn còn muốn có danh thiếp của mình để làm gì. Nhưng chiều ý, ông vẫn lấy danh thiếp đưa cho Ngô Đình Cẩn. Ông Cẩn lấy bút viết vào phía sau danh thiếp: "Xin hết lòng đa tạ" và viết tên Ngô Đình Cẩn. Đưa lại danh thiếp cho luật sư, Ngô Đình Cẩn dịu giọng nói: "Tôi xin gửi lại chút này để cám ơn luật sư đã hết lòng biện hộ cho tôi". Luật sư Quan bối rối: "Thật sự tôi có giúp được gì cho ông đâu, họ vẫn xử tối đa". Ông Cẩn khẽ lắc đầu, gượng cười: "Vấn đề không phải ở đó. Viết mấy chữ này, tôi muốn tỏ lòng tri ân đối với người luật sư không từng quen biết, nhưng đã tận tình và can đảm nói lên giữa phiên tòa những gì tôi muốn nói". Rồi Ngô Đình Cẩn lại bình tĩnh trò chuyện, lấy giấy cuốn thuốc lá theo kiểu sâu kèn, phì phèo hút, rồi lại têm trầu nhàn nhã nhai bỏm bẻm. Ông Quan đứng dậy cáo từ cố giữ nét mặt bình thường. Ngô Đình Cẩn bắt tay luật sư Quan rất chặt và rất lâu, đồng thời luồn bàn tay trái xuống gầm bàn, nhìn xuống đó ra hiệu. Ông Quan thấy bàn tay trái của Ngô Đình Cẩn xòe ra 5 ngón như thể báo hiệu rằng chiều nay vào lúc 5h ông sẽ bị hành quyết. Sau này, mỗi khi nhớ lại vụ hành quyết Ngô Đình Cẩn, luật sư Quan vẫn tỏ thái độ kính trọng, khâm phục một con người biết cái chết đang đến với mình từng giờ, từng phút mà vẫn ngồi nói chuyện bình tĩnh hàng tiếng đồng hồ. Cũng phải nói thêm rằng, sau ngày Ngô Đình Cẩn bị hành quyết đã có nhiều tin đồn rằng Ngô Đình Cẩn khi chết đi để lại rất nhiều của cải cho nhiều người thừa hưởng. Ngay chuyện Ngô Đình Cẩn bảo đại úy Nguyễn Văn Minh giao số vàng, đôla, kim loại quý cho tướng Đỗ Cao Trí giữ là "2 bao"... nhưng thực chất đó cũng chỉ là những lời đồn thổi vì chính đại úy Minh cũng không biết có bao nhiêu vàng và tướng Trí khi nhận túi vàng, valy tiền cũng không kiểm đếm. Tuy nhiên, theo điều tra của các nhà báo về sau thì số bất động sản do Ngô Đình Cẩn giao cho người khác đứng tên không phải là ít. Năm 1989, tướng ngụy quyền Trần Văn Đôn có viết cuốn hồi ký "Việt Nam nhân chứng", và khi nói về cái chết của Ngô Đình Cẩn, ông ta viết như sau: "Vài tháng sau ngày chỉnh lý, tướng Nguyễn Khánh có phái đại tá Lâm Văn Phát thông qua bà Trần Trung Dung và nhờ chuyển lời nói với ông Cẩn rằng, hãy chuyển số tiền 6 triệu USD mà ông Cẩn có trong một ngân hàng Thụy Sĩ cho tướng Nguyễn Khánh. Đổi lại tướng Khánh sẽ cho một chiếc phi cơ đưa ông Cẩn đi Singapore. Bà Trần Trung Dung yêu cầu đừng ghi âm khi bà ấy vào khám hỏi ông Cẩn. Sau khi nghe bà Dung trình bày, Ngô Đình Cẩn không chịu giao số tiền đó cho ông Khánh, rồi hỏi bà Dung có cần lấy thì ông giao cho. Lúc đó bà Dung sợ liên lụy nên không dám nhận. Mấy ngày sau, nhân dịp một vị linh mục vào làm lễ cho ông Cẩn, ông đã ký giấy ủy quyền cho nhà dòng Cứu Thế số tiền đó. Giấy ủy quyền được để trong một cuốn kinh Thánh...". Như vậy, xem ra sự kiện Ngô Đình Cẩn có mấy triệu đôla là có thể tin được. Nhưng thực sự chuyện Ngô Đình Cẩn chuyển 6 triệu đôla cho nhà thờ cũng có thể rất khó xảy ra, bởi lẽ với một số tiền lớn như vậy không thể cầm tờ giấy ủy quyền có mấy chữ rồi ký tên cho người khác đi lĩnh, đặc biệt đối với các ngân hàng nước ngoài. Ngay linh mục Lê Văn Thí cũng khẳng định là chẳng làm gì có số tiền đó. Sáng 9/5, các nhà báo sau khi dự buổi hành quyết Phan Quang Đông tại Huế thì vội vàng ra máy bay về Sài Gòn. Buổi tử hình Phan Quang Đông diễn ra rất ghê rợn. Vợ Phan Quang Đông đang bụng mang dạ chửa sắp đến tháng đẻ, đã ngất lịm ngay tại pháp trường khi chứng kiến cảnh chồng bị trói vào cọc... Sau khi làm các thủ tục về giấy tờ, Các nhà báo có mặt ở Bộ Thông tin từ lúc 14h. Và được đưa tất cả lên chiếc xe 18 chỗ đi vào Khám Chí Hòa. Tới cổng khám, ở trạm gác thứ nhất, nhân viên yêu cầu khám xét hành lý và thu giữ lại tất cả máy ảnh. Chụp ảnh buổi hành quyết chỉ có 3 người của Bộ Thông tin và nhân viên của an ninh quân đội. Sau đó các nhà báo được dẫn ra một sân rộng đầy cỏ cây hoang dại và có chôn sẵn một chiếc cột gỗ và trường bắn nằm gần một ngôi chùa nhỏ. 5h chiều, các thủ tục cho buổi hành quyết Ngô Đình Cẩn được bắt đầu tại phòng làm việc của trung tá Phạm Văn Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa. Những người có mặt tại đây là đại tá Trang Văn Chính, Giám đốc cảnh sát đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn; thiếu tá Nguyễn Văn Đức, Chưởng lý Tòa án quân sự; bà cả Lễ là chị ruột Ngô Đình Cẩn; luật sư Võ Văn Quan và một số người khác nữa. Đoàn người đến thẳng phòng giam của Ngô Đình Cẩn và lặng lẽ bước vào. Nghe tiếng giày, Ngô Đình Cẩn đang nằm trên giường hé mắt nhìn rồi khép lại, miệng lầm rầm cầu nguyện cùng với một vị linh mục đứng cạnh giường đọc kinh. Bóng đèn điện từ trên trần nhà tỏa sáng một màu ánh sáng vàng vọt, thê lương. Thiếu tá Đức đến bên giường, đọc bản bác đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn. Khi Nguyễn Văn Đức đọc xong, luật sư Quan đến bên ông Cẩn nắm lấy hai bàn tay. Tay Ngô Đình Cẩn nóng hổi, mặt ửng hồng và rõ ràng đang sốt rất cao. Luật sư Quan cố gượng nói: "Thôi ông cố vấn đừng quá đau buồn. Trên cõi đời này dù sớm hay muộn rồi ai cũng phải ra đi”. Ngô Đình Cẩn điềm tĩnh: "Luật sư đừng có buồn cho tôi. Tôi đi theo mấy ông anh của tôi. Tôi trở về với Chúa. Tôi không sợ chết đâu. Nhưng tôi lo cho luật sư, lúc cãi cho tôi, luật sư có đụng chạm tới họ. Không biết luật sư ở lại có bị họ làm khó dễ hay không". Luật sư Quan ứa nước mắt: "Không sao đâu, ông cố vấn đừng lo cho tôi. Xin cầu chúc ông cố vấn được vào nước Chúa". Thủ tục tiếp theo là vị linh mục làm lễ và cầu nguyện cùng ông Cẩn. Khi được nói lời cuối cùng là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ "quốc phục" Việt Nam (ngày ấy chính quyền Ngô Đình Diệm quy định "quốc phục" của Việt Nam Cộng hòa là quần trắng, áo dài đen, đội khăn xếp). Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Rồi ông cũng nói với mọi người là ông tha thứ cho những người đã giết ông. Yêu cầu của Ngô Đình Cẩn được đáp ứng, những viên cai ngục giúp ông thay quần áo. Rồi thiếu tá Nguyễn Văn Đức ra lệnh cho 2 nhân viên xốc nách dìu ông Cẩn ra khỏi phòng giam và xuống cầu thang. Vì Ngô Đình Cẩn không thể đi được, nên người ta phải đặt ông lên một chiếc băng ca và đẩy đi suốt hành lang này qua hành lang khác. Ra khỏi khu "lò bát quái", Ngô Đình Cẩn được chuyển sang một băng ca khác do 4 người cai ngục khiêng, chiếc băng ca được khiêng ra giữa sân có cắm một chiếc cọc thì cả đoàn người dừng lại... Thiếu tá Đức ra lệnh cho đám cai tù xốc nách đỡ Ngô Đình Cẩn dậy, dìu ra cột. Khi Cẩn được dìu tới cột gỗ thì một người lính trong đội hành quyết nói nhỏ với Cẩn là xin phép được trói hai tay ra đằng sau, hai tay được đặt lên một thanh ngang giống như cây thánh giá mục đích là để người bị tử hình không tụt được xuống. Một người lính cai ngục lấy chiếc khăn đen bịt mắt tử tội thì Ngô Đình Cẩn lắc đầu liên tục và nói: "Tôi không chịu bịt mắt. Tôi không sợ chết". Nhưng người ta vẫn buộc khăn vào một cách vụng về, vì vậy không chỉ bịt mắt mà bịt gần hết khuôn mặt ông Cẩn. Đội hành quyết có 10 người và đội mũ lính quân cảnh có in 2 chữ MP, chia làm 2 hàng. Hàng trước 5 người quỳ, hàng sau 5 người đứng. Trong 10 người thì có 1 người được sử dụng khẩu súng mà trong đó lắp 1 viên đạn mã tử (không có đầu đạn mà chỉ bịt giấy). Đúng 18h20, phút hành quyết đã tới, Nguyễn Văn Đức giơ tay ra lệnh thi hành. Viên sĩ quan chỉ huy đội hành quyết hô lớn: “Bắn!". Một loạt súng nổ, Ngô Đình Cẩn giũ người xuống ngay lập tức. Máu từ trên ngực chảy loang xuống chiếc quần trắng. Ngay sau đó viên chỉ huy đội hành quyết chạy đến gí khẩu súng colt 12 ly vào tai Ngô Đình Cẩn và bắn phát ân huệ. Bác sĩ pháp y chạy ra dùng ống nghe gí vào ngực Ngô Đình Cẩn nghe ngóng, vạch mắt ra xem, rồi quay lại gật gật đầu ra ý là Ngô Đình Cẩn đã chết. Trung tá Luyện, Quản đốc Khám Chí Hòa ra lệnh cho mấy viên cai ngục cởi trói hạ xác Ngô Đình Cẩn đặt vào băng ca rồi khiêng vào Khám Chí Hòa để khâm liệm và cho thân nhân nhận xác mang về chôn cất. Xác Ngô Đình Cẩn được đưa về an táng tại nghĩa trang chùa Phổ Quang, tức nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế gần sân bay Tân Sân Nhất. Sở sĩ gia đình an táng Ngô Đình Cẩn tại đây là vì Thượng tọa Thích Chí Dũng là người thân quen với gia đình họ Ngô. Sau năm 1975, khi quy hoạch lại TP HCM nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế ở chùa Phổ Quang được di dời về Lái Thiêu. Mộ Ngô Đình Cẩn cũng được đưa về đó nằm cạnh mộ của thân mẫu và 2 người anh là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu Như Phong
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 21, 2013 9:18:59 GMT 9
Biến Động Miền Trung
LIÊN THÀNH
PHẦN 10
CHỐNG BẦU CỬ TỔNG THỐNG
NHIỆM KỲ II - 1971
Tình hình chính trị lại sôi động trở lại, Hoàng Kim Loan và Phật Giáo Ấn Quang tại Huế dùng sinh viên, học sinh và tín đồ Phật Giáo phát động một vụ biến động mới tại Huế: Chống bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ II.
1971 là năm bầu cử Tổng Thống nhiệm kỳ II vào ngày 1-10 1971. chỉ độc nhất có một liên danh ra ứng cử là liên danh Nguyễn Văn Thiệu- Trần văn Hương, vì thế báo chí đối lập gọi cuộc bầu cử này là "Bầu cử độc diễn".
Phật giáo Ấn Quang chống đối mãnh liệt 'Bầu cử độc diễn'. Các khuôn hội Phật giáo, Tỉnh Hội Phật giáo được lệnh chỉnh đốn hàng ngũ để chờ lệnh 'Thầy' hành động. Hoàng Kim Loan nhảy vào cuộc, mọi cơ sở nội, ngoại thành, nằm trong Phật giáo, học sinh, sinh viên, tiểu thương chợ Đông Ba được lệnh sẵn sàng tham chiến. Ngoài hai lực lượng kể trên, còn có những thành phần đối lập, phe nhóm chính trị chống đối Tổng thống Thiệu, đã âm thầm nhảy vào ăn có, tạo cho tình hình chính trị, an ninh tại Huế vừa phức tạp, vừa nguy hiểm.
Đương nhiên, tôi có nhân viên nằm vùng trong mọi tổ chức của bọn họ nên nắm vững và rõ ràng kế hoạch hành động của bọn chúng trong ngày bầu cử. Bọn chúng áp dụng kỹ thuật tác chiến của Tướng Trung Cộng Lâm Bưu:
Dùng 5 mũi giáp công tiến vào thành phố (ba mũi đã chết ngắc, huống gì năm mũi), đồng thời tại trung tâm thành phố bọn chúng dùng chiến thuật 'Nở hoa trong lòng địch'.
Năm mũi giáp công đó là 5 đoàn biểu tình, mỗi đoàn khoảng hơn 1 ngàn người kéo vào thành phố từ 5 hướng khác nhau: Từ Đàm, An Cựu, Đập Đá, Bao Vinh, An Hoà.
Nở hoa trong lòng địch là lực lượng Sinh Viên Đại Học Huế, và Tiểu thương chợ Đông Ba.
Bộ chỉ huy điều khiển cuộc biểu tình này đóng tại Đại Học Văn Khoa ngay đầu cầu Tràng Tiền, đối diện với đài phát thanh Huế, do nhóm sinh viên cơ sở nội thành của Hoàng kim Loan chỉ huy. Trước một ngày xảy ra biến động (ngày bầu cử Tổng Thống VNCH, nhiệm kỳ II), tôi làm phiếu trình Đại tá Tỉnh Trưởng về lực lượng, kế hoạch hành động của Phật Giáo Ấn Quang và đám sinh viên tranh đấu vào sáng sớm ngày hôm sau, ngày bầu cử 1-10-1971. Cuối bản phúc trình tôi còn nhớ tôi đã viết: ''Xin Đại Tá Tỉnh Truởng ban chỉ thị cho Ty tôi thi hành''. Phúc trình gởi đi, chẳng thấy hồi âm, Đại Tá Tỉnh trưởng chẳng có một chỉ thị nào.
Trong đêm trước, sau khi phân phối công việc cho mọi cấp chỉ huy, tôi cho rút các đơn vị CSDC hiện đang tăng phái cho các quận yểm trợ cho chương trình Phụng Hoàng cấp tốc về BCH tỉnh.
7:30 sáng ngày 1-10-1971, ngày bầu cử Tổng Thống, các điạ điểm thùng phiếu bắt đầu mở cửacho dân chúng đi bầu, Đại tá tỉnh Trưởng gọi tôi đến gặp ông tại sân bay trực thăng ngay trước trường Quốc học:
- Đại úy, tôi đã đọc phiếu trình của anh hồi đêm. Tôi chẳng có chỉ thị gì cho anh cả. Tốt hơn anh nên liên lạc với Tư Lệnh của anh tại Sàigòn để xin chỉ thị của ông ta. Bây giờ tôi phải đi thanh tra Quận, mọi chuyện anh liên lạc máy báo cáo cho tôi biết.
Nói dứt câu, ông bắt tay tôi bước lên trực thăng, máy bay cất cánh. Tôi chưa kịp nói một lời nào, nhìn lên cao bóng dáng chiếc trực thăng chỉ còn là một chấm nhỏ giữa bầu trời xanh biếc. Một thoáng buồn chợt đến với nỗi bất bình trong lòng.
Ông là Tỉnh Trưởng, Hiến Pháp VNCH đã quy định quyền hạn và nhiệm vụ của ông. Ông là Tổng Thống tại địa phương này. Ông có đầy đủ quyền hạn để ra lệnh cho thuộc cấp, cùng gánh trách nhiệm với thuộc cấp, đó là trách nhiệm và bổn phận của ông. Tại sao lại phủi tay?
Huế là trung tâm điểm của những trận cuồng phong chính trị, cơn lốc có thể kéo đến tận Sàigòn và giựt sập chính phủ Trung ương. Vì vậy mà đã hơn một tuần nay, Ông Nguyễn văn Ngân, Phụ tá Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và bộ tham mưu của ông đã có mặt tại Tòa Đại Biểu Huế, tiếp xúc với thân hào nhân sĩ, đảng phái chính trị, tôn giáo, mưu tìm sự hổ trợ cho Tổng Thống Thiệu, và cũng để theo dõi, giám sát cuộc bầu cử.
Một vài ngày truớc ngày bầu cử, theo chỉ thị, tôi cũng đã gặp ông Nguyễn văn Ngân và bộ tham mưu của ông để trình bày mọi tin tức liên quan đến cuộc bầu cử, đặc biệt là những tin tức Phật Giáo Ấn Quang kết hợp với lực lượng Sinh Viên sẽ phá rối, ngăn chặn cuộc bầu cử, và kế hoạch bảo vệ an ninh, duy trì trật tự của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế trong ngày bầu cử. Bây giờ 8 giờ sáng ngày bầu cử, 1-10-1971, Huế sắp phải gánh chịu tai ương, gây rối loạn, bạo động trong thành phố của Phật Giáo Ấn Quang và đám cơ sở học sinh, sinh viên "Giải Phóng" của Trung tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan, lần này cũng tương tự như cuộc nổi loạn của họ vào tháng 6-1966.
Tôi không có một chỉ thị nào, một lệnh lạc nào của thượng cấp, cho dù là khẩu lệnh, để đối phó với tình hình nguy kịch này. Tôi hiểu, nếu tôi có xin lệnh vị Tư Lệnh trực tiếp của tôi, ngành CSQG tại Trung ương cũng bằng thừa. Lý do dễ hiểu: ông Tư Lệnh ở xa nơi xảy ra biến động cả trên 1200 cây số, làm sao nắm vững tình hình để cho lệnh tôi hành động, và lẽ đương nhiên ông không thể chen vào quyền hạn của Tỉnh Truởng tại địa phương, vì đây là vấn đề chính trị rắc rối nhiều mặt, và hậu quả sẽ vô cùng tai hại nếu tôi hành động sai.
Tôi hiểu, lệnh hành động giờ này không xuất phát từ đâu xa, mà từ lý trí, trách nhiệm và bổn phận của tôi, của một người cầm đầu lực lương CSQG tại Thừa Thiên Huế và của tất cả anh em Sĩ Quan và Hạ sĩ quan thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Chúng tôi có trách nhiệm và bổn phận duy trì luật pháp quốc gia, giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ sinh mạng đồng bào. Đã nắm rõ mục đích, bản chất của đám sẽ gây rối loạn là ai, tôi quyết định đàn áp không nương tay với đám gây rối bạo động này.
Khoảng 9 giờ 10 sáng 1-10-1971, năm đoàn biểu tình từ các quận nông thôn kéo lên thành phố đã xuất hiện tại 5 cửa ngõ ra vào thành phố Huế, đại đa số lực lượng này là người của các khuôn hội Phật Giáo tại các quận. Các đoàn biểu tình không gặp trở ngại tại năm cửa ngõ vào thành phố, họ không bị ngăn chặn bởi lực lượng Cảnh Sát, thật ra điều này nằm trong kế hoạch của tôi. Tôi muốn để họ vào và trực diện với họ một lần cho xong, tôi không đủ lực lượng CSDC để trấn áp bạo động và giải tán biểu tình từng điạ điểm. Với quân số 500 CSDC, nếu xé lẻ thì nỗ lực chính tại trung tâm thành phố sẽ yếu đi, khó đương đầu nổi với lực lượng biểu tình của bọn họ gần mười ngàn người.
9 giờ 40 phút sáng 1-10-71 , lực lượng biểu tình đã tập trung đông đảo tại hai địa điểm:
1- Đường Phan Bội Châu, đường Trần Hưng Đạo, ngay mặt tiền của Ty Thông Tin cạnh đầu cầu Tràng Tiền là hai dãy phố chính của thành phố, và khu chợ Đông Ba ngay trung tâm thành phố, vào khoảng 4, 5 ngàn người, đủ mọi thành phần học sinh, sinh viên, tiểu thương chợ Đông Ba, và lực lượng của 2 mũi giáp công An Hoà, Bao Vinh kéo đến.
2- Trong và ngoài khuôn viên Đại Học Văn Khoa, Đài phát thanh Huế, dọc đường Lê Lợi, Duy Tân, khoảng 3 ngàn Sinh viên, Học sinh, cộng thêm lực lượng của 3 mũi giáp công Đập Đá, An Cựu, Từ Đàm nhập vào. Cũng tại khuôn viên Đại học Văn khoa, loa phóng thanh của lực lượng biểu tình bắt đầu kêu gọi học sinh, Sinh viên bãi khóa, mọi nơi đình công bãi thị xuống đường chống bầu cử 'độc diễn'. Mọi sinh hoạt bình thường của dân chúng trong thành phố bị ngưng đọng, giao thông trong thành phố và các tuyến đường đi Huế-Đà Nẵng, Huế-Quảng Trị bị cắt đứt hoàn toàn, cảnh tượng chẳng khác gì những ngày xáo trộn của cuộc tranh đấu Phật Giáo vào tháng 6-1966 tại Huế.
Để chống bạo loạn và dẹp tan đám biểu tình, bảo vệ an ninh cho ngày bầu cử, đêm hôm trước BCH chúng tôi đã họp bàn soạn kế hoạch đối phó. Tôi xử dụng và phối trí lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế như sau:
- 500 CSDC ( Đại đội 102 CSDC) - 400 Cảnh sát sắc phục - 600 Cảnh Sát Đặc Biệt cộng Biệt đội Thiên Nga. - Biệt Đội Hình cảnh. Lực lượng được chia làm hai phần, nỗ lực chính và nỗ lực phụ.
- Nỗ lực chính do tôi chỉ huy cùng với Đại Úy Trần văn Tý Đại đội trưởng 102 CSDC
- Nỗ lực phụ do Đại úy Trương văn Vinh Chỉ huy Phó chỉ huy cùng với Đại úy Bác sĩ Hồ, Đại đội phó 102 CSDC.
Đại úy Trương công Ân, Trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt, tung 600 nhân viên trà trộn vào các đám biểu tình ghi nhận mọi tin tức quan trọng thông báo ngay để kịp thời phản ứng, đồng thời bắt giữ các thành phần nòng cốt trong đám biểu tình.
Khác với những lần giải tán biểu tình trước đây, lần này tôi cho lệnh trang bị tối đa lựu đạn cay cho lực lượng trấn áp bạo động, và cho lệnh các đơn vị xử dụng tối đa, tổng cộng gần 2 ngàn lựu đạn cay được phân phối cho các đơn vị.
Kim đồng hồ chỉ đúng 10 giờ sáng ngày 1-10-1971, cuộc bạo động tại thành phố Huế bắt đầu.
Tại Quận II trung tâm của thành phố, đoàn biểu tình bắt đầu di chuyển từ đường Trần Hưng Đạo, ngang qua chợ Đông Ba, tiểu thương chợ Đông Ba ào ra, nhập vào đoàn biểu tình. Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB báo về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, số lượng đồng bào biểu tình tại quận II khoảng hơn 6 ngàn nguời.
Tại Khu Đại Học Văn Khoa số lượng học sinh, sinh viên tập trung khoảng gần 5 ngàn, họ đang có ý định kéo sang cầu Tràng Tiền nhập vào với đoàn biểu tình Quận II.
Tôi nói với ông phó Trưởng Ty Trương Văn Vinh:
- Mình xuất phát, anh đổ quân bao vây khu Đại học Văn Khoa, và chặn ngay bên này cầu Tràng Tiền không cho bọn chúng kéo sang nhập với đoàn biểu tình Quận II. Cố gắng cầm chân bọn họ, đợi tôi giải tán đám biểu tình ở Quận II xong, giao lại cho Đại úy Tý tôi sẽ quay sang với anh ngay.
Xe tôi dẫn đầu theo sau là xe Đại úy Tý, băng qua cầu Tràng Tiền vừa đến đoạn cuối của chiếc cầu thuộc phạm vi Quận II. Tất cả đoàn xe phải dừng lại, ngay trước mặt tiền của Ty Thông Tin đường Trần Hưng Đạo, sát ngay đầu cầu Tràng Tiền, lửa khói đã bốc cao từ một đống khoảng 40 vỏ xe hơi. Ân cũng báo cho biết một số địa điểm bỏ phiếu bị đập phá, một vài nơi khác đang bị đốt cháy.
Tôi gọi máy nói với Đại úy Tý:
- Tý, mình dừng tại đây, đổ quân. Cho lệnh các Trung đội đi bộ và giàn đội hình, mình sẽ tiến sát và khi đối diện với đám biểu tình thì anh cho lệnh dừng lại.
- Nhận rõ thẩm quyền. Nhìn cách dàn quân, bố trí đội hình, phải công nhận Đại úy Tý là một tay chuyên nghiệp giải tán biểu tình, không chê vào đâu được. Khi đụng việc, Tý là một sĩ quan trầm tĩnh, cương quyết, cứng rắn. Đại úy Tý là một Sĩ Quan CSQG rất trẻ, đẹp trai, còn độc thân, tay chơi thứ thiệt, một tay nhậu thuộc loại trời nghiêng đất lở. Mấy ông quan ba, quan tư, Nguyễn Lô, Lê văn Mễ, Phạm Như Đà Lạt, Phan Nhật Nam trong sư Đoàn Nhảy Dù đấu tay đôi với hắn, chưa chắc đã thắng nỗi hắn. Hắn mang chiến tích đầy người vì nhậu, nướng mực khô với rượu đế, rượu bốc cháy, hắn bị phỏng đầy người ở cấp độ hai, ba mươi phần trăm. Tôi phải gởi hắn ra Hạm đội Mỹ chữa trị. Về lại đơn vị hắn tiếp tục nhậu.
Ngoài Tý, đại đội 102/CSDC còn có những Thiếu uý Trung Đội trưởng cự phách như Thiếu úy Hoàng Công Sủng, Thiếu úy Nguyễn Thế Quang, Thiếu Úy Truật, họ là những sĩ quan rất trẻ, năng động và là những chuyên viên trấn áp bạo động thứ thiệt của đaị đội 102 Cảnh Sát Dã Chiế .
Tôi, Tý và khoảng 300 CSDC đối diện với đám biểu tình khoảng trên 5 ngàn người. Một rừng biểu ngữ đả đảo 'Bầu cử độc diễn', đả đảo Tổng thống Thiệu, và nhiều thứ đả đảo loạn xà ngầu chẳng đâu vào đâu. Đứng đầu đoàn biểu tình là một lũ đầu trâu mặt ngựa. Khoảng hơn 1 trăm tên, không biết từ đâu ra, bắt đầu văng tục, la hét, chửi bới um xùm, chửi ông Thiệu, ông Kỳ, ông Khiêm và thậm tệ nhất là ông Liên Thành.
Tôi lấy trong túi áo giáp ra băng cờ biểu tượng cho Quốc gia khoác ngang vào người. Đó là thủ tục pháp lý khi giải tán biểu tình, và bắt đầu dùng loa phóng thanh nhân danh đủ thứ để kêu gọi đám biểu tình. Tôi còn nhớ đại khái lời kêu gọi có nội dung như sau:
- ''Nhân danh luật pháp Quốc gia, nhân danh Tổng Thống VNCH, tôi yêu cầu đồng bào giải tán, bằng không, buộc lòng nhân viên Công lực phải hành động giải tán cuộc biểu tình này. Mọi cản trở lưu thông, ngăn cản sinh hoạt của dân chúng trong giờ này là vi phạm luật pháp Quốc Gia, yêu cầu đồng bào giải tán. Đây là lần đốc thúc thứ nhất''
Luật pháp quy định phải kêu gọi ba lần, mỗi lần cách nhau 5 phút.
Tôi và Tý đã giải tán hằng chục lần biểu tình trong vòng 5 năm nay, nên đến lần đốc thúc thứ nhì, Tý cho lệnh anh em mang mặt nạ chống hơi cay và sẵn sàng hành động.
Tôi nhắc lại với Tý:
- Anh nhớ dặn lính bắn phi tiễn sát đất, cấm không được bắn trực xạ. Lỡ có ai bị thương, tình hình thêm rắc rối. Mình sẽ đẩy đoàn biểu tình chạy về cầu Gia Hội, chặn đường Phan Bội Châu, chừa đường Chi Lăng cho họ chạy, sau đó anh canh giữ cầu Gia Hội không cho họ kéo lên nữa. Sau khi kêu gọi lần thứ 3, tôi sẽ bắn quả phi tiễn đầu tiên vào đám biểu tình và ngay lập tức anh cho lệnh đơn vị xử dụng tối đa phi tiễn và lựu đạn cay đẩy lui đám biểu tình.
Vừa dứt lời đốc thúc lần thứ 3, tôi bắn quả phi tiễn đầu tiên sát mặt đất, vào ngay đám biểu tình. Lập tức hằng trăm quả lựu đạn cay và phi tiễn được tung vào đám biểu tình. Đám biểu tình dùng bao nylon che mặt chống hơi cay, dùng những bom xăng chống trả với lực lượng CSDC. Bom xăng được chế tạo bằng cách đổ xăng vào chai với một số vòng cao su, trên miệng chai là một nùi vải, châm lửa và ném vào CSDC, thường gọi là bom lửa Molotov. Tôi cũng chẳng biết tại sao có danh từ này.
Đám biểu tình chịu đựng và chống trả được cuộc tấn công của CSDC đợt lựu đạn cay đầu tiên, nhưng đợt tấn công lần thứ 2 thì họ hết chịu nổi. Đoàn biểu tình lùi dần phía cầu Gia Hội. Mặt nạ chống hơi cay còn chịu không nổi, bao nylon và vài quả chanh có sá gì với gần cả ngàn quả lựu đạn cay chúng tôi tung vào.
Bây giờ thì thành phố Huế đầy khói của lốp xe hơi bị đốt và lựu đạn cay, Huế ngày xưa trong buổi thanh bình của thi sĩ Hàn Mạc Tử với: 'Ở đây sương khói, mờ nhân ảnh' đã không còn nữa. Mà 'suơng khói mờ hơi cay', ngày hôm nay, vào giờ này, không phải của thiên nhiên, của trời, của đất, của Hàn Mạc Tử, mà là khói lựu đạn cay, của lực lượng CSQG/ Thừa Thiên-Huế đang chống biểu tình.
Khói lựu đạn cay bồng bềnh giăng đầy phố Huế, từ đường Trần hưng Đạo, chợ Đông Ba, Phan Bội Châu, Hàng Bè, Bạch Đằng, Chi Lăng, Chùa Diệu Đế, đến tận Gia Hội, Bãi Dâu, mơ màng trên sông Huơng, qua đến quận III, khu Đại Học, Tòa Đại Biểu,và lang thang từ đường lớn, đường nhỏ đến tận hang cùng ngõ hẻm trong thành phố Huế.
Quần thảo với đám biểu tình này khoảng hơn một giờ chúng tôi mới đẩy lui họ qua được vùng Chi Lăng, Gia Hội, đoàn biểu tình chạy toán loạn và giải tán.
An ninh trật tự đã vãn hồi tại Quận II vào khoảng 12 giờ trưa ngày 1-10-1971. Tôi yêu cầu ty Thông Tin dùng xe phóng thanh kêu gọi đồng bào trong quận đi bỏ phiếu.
Qua hệ thống máy Motorola, tiếng của Đại úy Vinh Chỉ huy phó gọi tôi:
- Thẩm quyền, ông qua gấp bên này, bọn chúng bắt đầu đốt Đại học Văn Khoa.
- Nhận rỏ, tôi và Tý sang ngay, bình tĩnh.
Tôi giao trách nhiệm lại cho Đại Úy Ngô Trọng Thành, Chỉ Huy Trưởng CSQG quận II, tôi cùng với Đại Úy Tý và lực lượng CSDC quay sang Khu Đại học Văn Khoa.
Đại học Văn Khoa nằm ngay đầu cầu Tràng Tiền thuộc quận III. Đối diện với đài phát thanh Huế và trường trung học Kiểu Mẫu, mặt tiền là giao điểm của đường Lê Lợi và Duy Tân. Chúng tôi vừa đổ quân ngay ngã tư Lê Lợi-Duy Tân, cạnh Đài phát Thanh Huế, nhìn lên trên sân thượng của lầu Đại học Văn khoa đã thấy lửa bắt đầu cháy phía mặt tiền của Đại học Văn Khoa rồi.
Lực lượng biểu tình ở đây cũng đông không khác gì bên quận II. Bọn họ chia làm 3 toán: một toán ở góc đường Lê Lợi, một toán ở góc đường Duy Tân, một toán trong khuôn viên Đại học và trên sân thượng lầu Đại học Văn Khoa.
Năm anh em chúng tôi Vinh, Ân, Tý, Hồ và tôi đứng ngay tại lề đường đối diện với Đại học Văn Khoa, tôi chia phần cho 4 Đại uý:
-Đường Lê Lợi phần của Đại Úy Tý, Đại đội trưởng. -Đường Duy Tân là phần của Đại đội phó Bác sĩ Hồ. -Đại úy Vinh chỉ huy phó chia đôi lực lượng tăng cường cho Tý và Hồ. Đại úy Vinh đi với lực lượng Đại uý Hồ. -Tôi lãnh phần tấn công thẳng vào Đại học Văn Khoa. Tôi nói nhỏ với Vinh, Ân, Hồ, Tý ... Cả 4 đại úy đều khen ý kiến hay. Tôi cười nhìn họ: - Bọn mình hay từ lâu rồi. Khi Ân thi hành kế hoạch.. . xong, đợi tôi nói dứt câu: 'Đây là lần đốc thúc thúc 3' là tấn công ngay, xử dụng tối đa lưụ đạn cay, cho lệnh bắn trực xạ phi tiễn vào các cửa kính để đưa hơi cay vào trong khuôn viên đại học.
Ân lặng lẽ đi thi hành kế hoạch, chúng tôi đợi Ân...
Chỉ 15 phút sau một xe Dodge của Cảnh Sát mệt nhọc lăn bánh chạy chậm ngang qua đoàn biểu tình đến ngay mặt tiền Đại học Văn Khoa thì xe bị hư máy không chạy được nữa. Tài xế xuống xe, mở nắp xe cúi mình vào sửa chữa, thì bỗng trong đám biểu tình có nhiều tiếng la lớn:
Đốt xe Cảnh Sát,... đốt xe Cảnh Sát...
Một nhóm người trong đám biểu tình xông ra đổ xăng châm lửa, ngọn lửa bốc cao chiếc xe bắt đầu cháy lớn.
Như vậy là quá đủ, vừa đốt cháy Đại học Văn khoa, vừa đốt xe nhân viên công lực, đám biểu tình đã vi phạm luật pháp một cách trầm trọng:
Phá hoại tài sản Quốc gia, nhân viên công lực buộc lòng phải can thiệp. Đám biểu tình và sinh viên không còn to miệng la lớn: ' Đại Học tự trị'. Chúng tôi sẽ xông thẳng vào khuôn viên Đại học để dẹp bọn quá khích này, tái lập an ninh trật tự, và bảo vệ tài sản Quốc gia.
Tôi vừa dứt câu: 'Đây là lần đốc thúc thứ 3'. Tý ở góc đường Lê Lợi, Hồ ở góc đường Duy Tân bắn hàng lọat phi tiễn và lựu đạn cay vào hai đoàn biểu tình. Phần tôi cho lệnh bắn trực xạ vào tất cả các cửa kính của trưòng Đại học Văn khoa nằm về phía đường Lê Lợi và Duy Tân để chuyển hơi cay vào khuôn viên Đại học.
Đám biểu tình và sinh viên phản công lại bằng bom xăng Molotov, hàng trăm chai xăng đỏ lửa bay tới tấp về phía chúng tôi, một vài Cảnh Sát Dã Chiến bị phỏng nhẹ vì bom xăng.
Hai đoàn biểu tình la hét vang dội cả khu Đại học: 'Đả đảo Nguyễn văn Thiệu, đảù đảo 'Bầu cử độc diễn', đả đảo Liên Thành đàn áp học sinh sinh viên. Yêu cầu đồng bào đình công bãi thị, bãi khoá, chống bầu cử độc diễn, v.v...'
Khói lựu đạn cay và phi tiễn hòa lẫn với khói bom xăng bay mù mịt phủ kín cả khu đại học Văn khoa. Sau đợt tấn công lần đầu của CSDC, đám biểu tình vẫn chưa nao núng, vẫn la hét chửi bới, vẫn tiếp tục ném hằng loạt bom xăng vào CSDC. Tôi gọi máy nói với Tý, Vinh và Hồ:
- Chuẩn bị tấn công đợt 2, sau khi xử dụng lựu đạn cay và phi tiễn, xông vào cận chiến, không nhân nhượng được nữa.
Tôi hỏi Tý:
- Anh cần tôi tăng cường cho anh không? Vì đám biểu tình bên phía anh quá đông.
- Không cần thẩm quyền, vừa rồi tôi chỉ mới mời họ ăn điểm tâm, bây giờ tôi mời họ ăn trưa, ông yên tâm, mười lăm phút nữa là xong.
- Vinh, Hồ, hai anh cần tăng cường không?
- Chúng tôi dư sức chơi với bọn này, thẩm quyền lo cho Tý đi, bên cánh Tý nặng hơn chúng tôi.
Sau nhiều loạt lựu đạn cay và phi tiễn, cả hai cánh quân đều xông vào cận chiến với đám biểu tình bằng khiên và gậy cao su.
Bây giờ là 12 giờ 40 trưa ngày 1-10-1971, nắng thu vàng không đủ xuyên qua làn khói hơi cay, cả khu Văn khoa, Lê Lợi, Duy Tân mịt mù chìm trong khói xám dày đặc. Chỉ cách nhau khoảng năm mười thứơc đã thấy mờ nhân ảnh. Hơi cay thấm vào da thịt, vào mắt vào mũi, tượng đá cũng phải tuôn lệ có xá gì mặt nạ hoặc bao nylon. Cảnh Sát Dã Chiến và cả đám biểu tình đều khóc, tuôn trào nước mắt không ngưng.
Đám biểu tình không còn chịu nổi sức ép cận chiến quá mạnh của Tý, Vinh và Hồ, hai đám biểu tình lùi dần... lùi dần. Cuối cùng cánh quân của Tý dẹp tan đoàn biểu tình ngay tại khu thư viện đại học, đối diện với Câu lạc bộ thể thao - Cánh quân của Vinh và Hồ đẩy đám biểu tình chạy dài đến ngã tư Duy Tân và Lê Thánh Tôn, đám biểu tình tự động tan hàng, rã đám. Tý gọi tôi:
- Xong rồi thẩm quyền, tôi để lại một trung đội chặn ngay khu đó.
- Đồng ý, số còn lại, anh kéo hết về ngay nhà thuốc tây Lê đình Phòng, tôi đợi anh ở đó.
- Nhận rỏ thẩm quyền.
Tôi gọi máy cho Đại úy Hồ:
- Ông Bác sĩ, phía ông và Đại uý Vinh xong chưa?
Dân trí thức, khoa bảng của bộ chỉ huy CSQG/Thừa Thiên-Huế văng tục:
- Xong lâu rồi thẩm quyền. Chỉ mười phút là xong ngay, giống như đi vào động...
- Chưa xong đâu ông bác sĩ, để lại một trung đội giữ khu đó, số còn lại kéo hết về đây. Mình dứt điểm khu Đại học Văn khoa.
Mười phút sau, chúng tôi gặp nhau tại ngã ba Lê Lợi -Lý thường Kiệt cạnh nhà thuốc tây Lê đình Phòng, đối diện với cổng vào Đại học Văn Khoa.
Bây giờ chỉ còn mục tiêu cuối cùng là Đại học Văn khoa, nơi bộ chỉ huy đầu não của cuộc biểu tình, theo phân chia từ trước, tôi chỉ huy thanh toán mục tiêu này.
Lực lượng của Vinh, Hồ, làm thành phần trừ bị vòng ngoài, tôi, Tý chỉ huy 3 trung đội CSDC, Đại úy Ân với hơn một trăm CSDB xông thẳng vào khuôn viên Đại học Văn Khoa.
Tôi dặn Ân và Tý:
- Ân, đám đầu não hốt trọn gói đem về trung tâm thẩm vấn. Tý, số sinh viên, học sinh còn lại là đám a dua, ham chơi, chừa đường cho bọn hắn chạy. Còn lại bao nhiêu lựu đạn cay và phi tiễn dùng hết, Đại úy Vinh đã gọi về Đại úy Trinh TTHQ/Cảnh Lực yêu cầu tái tiếp tế rồi anh khỏi lo. Tý dàn đội hình, tôi và Tý đứng ngay hàng đầu với phi tiễn cầm tay, 3 trung đội đã mang mặt nạ chống hơi cay, tôi và Tý vẫn đội trên đầu chưa kéo xuống mặt.
Loa phóng thanh trong khuôn viên Đại học Văn khoa có lẽ đã bị hơi cay quá nhiều nên tiếng nói vừa rè vừa ấp úng:
- Đả đảo Đại úy Liên Thành, Đại úy Trần Văn Tý đàn áp sinh viên, học sinh.
- Yêu cầu Đại úy Liên Thành tôn trọng 'quy chế Đại Học tự trị', lực lượng Công An Cảnh Sát không có quyền xâm phạm vào khu đại học Văn Khoa...
Tôi dùng loa trả lời họ:
- Quy chế Đại học tự trị trong hoàn cảnh này không còn được nhân viên công lực tôn trọng, các anh đã dùng công ốc của đại học biểu tình chống đối chính phủ. Các anh đã vi phạm luật pháp khi nổi lửa đốt đại học Văn Khoa, hủy hoại tài sản quốc gia, đốt xe của nhân viên công lực khi đang thi hành phận sự. Tôi cho phép năm phút để lực lượng biểu tình đang chiếm giữ khu đại học phải giải tán, bằng không, để bảo vệ tài sản quốc gia, tái lập an ninh trật tự, lực lương CSQG/Thừa Thiên- Huế buộc lòng phải can thiệp.
Tiên lễ, hậu binh, sau 5 phút chờ đợi, tôi xoay qua Tý và Ân:
- Mình bắt đầu.
Sau hai trái phi tiễn của tôi và Tý bắn đi, hàng loạt, hàng đợt phi tiễn và lựu đạn cay được gởi vào đại học Văn Khoa. Khoảng gần hai trăm Cảnh Sát Dã Chiến và Cảnh Sát Đặc Biệt xông vào sân trường Đại học Văn khoa, vì địa thế quá hẹp không khai triển đội hình được. Tôi nói nhanh với Tý:
- Mình chia đôi lực lượng. Anh bên mặt, tôi bên trái. Xử dụng thêm một đợt lựu đạn cay nữa, ép đẩy bọn chúng ra cổng chính.
Khói cay bay mù mịt, đám sinh viên phản công bằng hàng loạt bom xăng tung vào chúng tôi. Hơi xăng và hơi cay trộn lẫn vào nhau, sức trâu còn không chịu nỗi huống gì sức người. Tôi và Tý đều cho gia tăng tối đa hơi cay và xông thẳng vào cận chiến với đám sinh viên. Hai cánh quân của tôi và Tý một bên phải, một bên trái khép chặt vòng vây, đẩy đám sinh viên vào giữa và đẩy họ ra cổng chính của khu đại học Văn Khoa.
Đám sinh viên vừa thoát ra được cổng chính chạy về hướng đường Lê Lợi gặp ngay lực lượng của Hồ. Hồ đẩy họ lui, chạy về hướng đường Lý Thường Kiệt, Trần Cao Vân. Hồ cho 3 trung đội rượt theo đến ngay ty Bưu Điện Huế, đám sinh viên tan hàng. Trong khi đó, lực lượng CSĐB của Đại úy Ân đã bắt giữ toàn bộ đám sinh viên nòng cốt của cuộc biểu tình.
Chúng tôi chiếm lại và kiễm soát khu đại học Văn Khoa vào khoảng 1 giờ 45 trưa ngày 1-10-1971.
2 giờ 30 ngày 1-10-1971 an ninh trật tự đã được tái lập. Sinh hoạt bình thường của dân chúng đã vãn hồi, phố phường mở của trở lại, khu chợ Đông Ba mọi người lại tấp nập mua bán, và đồng bào lũ lượt kéo đến địa điểm bỏ phiếu.
Huế trong triền miên biểu tình, hàng tháng, hàng năm, vì thế mà người Huế đâm ra thành thói quen, cứ sau mỗi lần hít thở hơi lựu đạn cay, họ lại tỉnh bơ trở lại sinh hoạt bình thường, xem như không có hơi cay thì... nhớ. Có rồi lại thôi, hết nhớ...
9 giờ 30 phút tối 1-10-71 các địa điểm bỏ phiếu trong toàn tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế đóng cửa.
11 giờ 45 khuya ngày 1-10-71 trung tâm kiểm phiếu trung ương đặt tại toà Hành Chánh tỉnh kiểm phiếu xong. Liên danh Nguyễn văn Thiệu-Trần văn Hương thắng phiếu tại Thừa Thiên- Huế.
Trường hợp vị Tỉnh Truởng tỉnh Thừa Thiên,Thị trưởng thành phố Huế. Ông làm Tỉnh Trưởng là làm một nghề Chính trị, nhưng ông đã đánh sai ván cờ chính trị lần này. Vì vậy mà chỉ vỏn vẹn có mấy giờ, sau khi Trung tâm kiểm phiếu tại toà hành chánh tỉnh Thừa Thiên-Huế thông báo kết quả bầu cử, thì 9 giờ sáng ngày hôm sau, 2-10-1971 ông bị cách chức, bàn giao chức vụ lại cho Đại Tá Tôn Thất Khiên Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị vào thay thế.
Từ 10 giờ sáng ngày 2-10-1971, hầu hết các cơ quan Tình báo hoạt động tại Huế đến gặp tôi xin bảo lãnh người, vì khoảng một phần ba trong số sinh viên bị bắt là người của họ.
Sở dĩ tôi đề cập đến cuộc biểu tình chống bầu cử Tổng Thống vào năm 1971, là để chứng minh một điều:
-Tổng hội Sinh Viên Đại học Huế là một chiến trường Tình báo, Gián điệp của mọi cơ quan tình báo VNCH hợp lực đấu trí với Tinh báo Việt Cộng tại đó.
Tôi trở lại đối tượng cuối cùng của hoàng Kim Loan trong điệp vụ của hắn:
VI- Đối tượng Phật Giáo.
Viết lại những gì đã xảy ra trong một thời đại nhiễu loạn từ 6/1966 - 9/1972 của Huế và Phật Giáo, mà trong đó tôi là người đã tham dự trực tiếp với chức vụ là Trưởng ty CSQG Thừa thiên và Thị Xã Huế và cũng là người bắt và thẩm vấn tên Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan, thuộc Cục TBCL Cộng Sản, uỷ viên Thành ủy Huế, không ngoài mục đích kể lại những sự thật cho những ai chưa biết và muốn biết, những gì đã xảy ra cho Huế và Phật Giáo, mà đạo diễn chính là Bộ chính trị Trung ương đảng Cộng Sản Hà Nội, và người thi hành công tác đó là Thích Trí Quang và Hoàng Kim Loan.
Trong một khoảng thời gian khá dài gần hai mươi năm cài người xâm nhập, nằm vùng, trong hàng ngũ phật giáo, dùng 'Phật Giáo làm ngọn cờ' gây ra bao cuộc bạo loạn chính trị cho chính quyền miền nam Việt Nam, để hổ trợ cho lực lượng quân sự của chúng trong kế hoạch xâm chiếm miền nam Việt Nam.
Có thể nói tín đồ Phật Giáo ở Huế chiếm gần 2/3 dân số. Trước 1963, phật giáo đồ tại Huế là một lực lượng thuần nhất, tổ chức chặt chẽ, hầu như không tham gia vào các sinh hoạt chính trị, mà chỉ lo việc tu đạo. Trong mọi gia đình ở Huế ngoài bàn thờ tổ tiên ông bà, nhà nào cũng có bàn thờ Phật, các thầy đối với họ là những thần tượng đạo đức tuyệt đối, lời các thầy dạy sao, tín đồ nghe theo không phản đối, không tranh luận. Đó chính là yếu huyệt mà Hoàng Kim Loan đánh vào. Hắn chỉ cần tuyển mộ, cầm nắm những nhân vật quan trọng trong tổ chức Phật Giáo, từ khuôn hội các xã, quận, lên đến Tỉnh Giáo hội, và một số Thượng Tọa, Đại Đức làm việc cho hắn là xem như hắn đã làm chủ cả lực lượng Phật Giáo tại Huế.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 21, 2013 9:21:00 GMT 9
Biến Động Miền TrungLIÊN THÀNH PHẦN 11 . . . . . . Hoàng kim Loan đã khai những cơ sở bí mật của hắn trong Phật Giáo tại Huế như sau: - Thích Đôn Hậu. Thích Đôn Hậu trụ trì chùa Thiên Mụ, là Chánh Đại Diện Phật GiáoẤn Quan miền Vạn Hạnh (Miền Trung). Cơ sở Tôn giáo Vận, được Hoàng Kim Loan tổ chức từ trước năm 1963. Chùa Thiên Mụ là một trạm giao liên nội thành rất quan trọng của cơ quan Thành ủy Huế trong suốt thời gian Thích Đôn Hậu trụ trì chùa này cho đến Mậu Thân 1968, khi Thích Đôn Hậu thoát ly ra Bắc. Trong Tết Mậu Thân 1968, Thích Đôn Hậu được Hoàng Kim Loan giao chức vụ: Phó Chủ tịch Lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hoà Bình. Sau Mậu Thân Thích Đôn Hậu ra Hà Nội được Trung ương đảng Cộng Sản bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch phái đoàn đại diện cho quần chúng, Tôn Giáo, trí thức miền Nam công du một số nước Cộng sản như Trung Côïng, Tây Tạng v. v... để cổ võ, tuyên truyền cho Hà Nội. Theo Hoàng Kim Loan, nếu không có vụ Mậu Thân 1968, thì trong năm đó Thích Đôn Hậu cũng sẽ thoát ly ra Bắt để tham gia vào phái đoàn, vì chính Hoàng Kim Loan hắn đã nhận được chỉ thị chuẩn bị kế hoạch để đưa Thích Đôn Hậu rời khỏi Huế ra Hà Nội thì xảy ra biến cố Mậu Thân. Sau 1975, Thích Đôn Hậu trở về lại Chùa Thiên Mụ và giữ chức Chủ tịch Phật Giáo quốc doanh. - Thich Trí Quang. Cư ngụ chính thức tại Chùa Từ Đàm, từ trước 1963. Đảng viên Côïng Sản, gia nhập Đảng Cộng sản vào 1949. Người kết nạp là Tôn Thất Lành tự Tố Hữu. Lời khai của Hoàng kim Loan phù hợp với tiết lộ của Tố Hữu vào năm 2000 tại Hà Nội, chính y là người kết nạp Thích Trí Quang vào đảng Cộng Sản. Tố Hữu cũng nói thêm: "Sau 1963 Thích Trí Quang có ngỏ ý xin Trung Ương Đảng cho tạm nghỉ một thời gian để có thì giờ chấn chỉnh nội bộ Phật Giáo Ấn Quang, nhưng lời yêu cầu đó không được Trung ương đảng chấp thuận." Tố Hữu còn có nhận xét về Trí Quang: ' Vào lúc đó uy tín và ảnh hưởng của ông Bồng[Trí Quang] đối với quần chúng nhất là tín đồ Phật Giáo quá lớn, ông ta nghĩ không cần đảng nữa, ông ta muốn thiết lập một chế độ Giáo quyền tại miền Nam, mà trong đó ông đóng vai 'Quốc Phụ'. Và lời khai của Hoàng Kim Loan cũng phù hợp với tài liệu của Sở Mật Thám Pháp còn lưu giữ tại trung tâm Văn khố của BCH Cảnh Sát Thừa Thiên Huế: Thích Trí Quang là cán bộ Cộng Sản, là Đảng viên Cộng Sản. Hoàng Kim Loan xác nhận hắn không phải là Cán Bộ điều khiển của Thích Trí Quang. Trước 1963 cán bộ điều khiển của Thích Trí Quang là Thượng Tá Lê Câu, chỉ huy Truởng màng lưới điệp báo từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Sau 1963 ai là cán bộ điều khiển Trí Quang thì Hoàng Kim Loan không rõ, hắn chỉ được lệnh phối hợp hành động với Thích Trí Quang trong vụ đảo chánh 1963, và vụ biến động Miền Trung vào tháng 6/1966. - Nguyễn Khắc Từ, viên Bí Thư của Thích Trí Quang. Cũng theo Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan khai báo: Cơ quan Tình Báo Chiến lược của Cộng Sản Hà Nội đã bố trí một nhân vật tình báo cao cấp của bọn chúng bên cạnh Thích Trí Quang, với vai trò là Bí Thư cho Thích Trí Quang, đó là tên Nguyễn Khắc Từ. Nguyễn Khắc Từ được cơ quan Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng giao nhiệm vụ: 1- Theo dõi và kiểm soát mọi hành động của Thich Trí Quang. 2- Cán bộ giao liên giữa Thích Trí Quang và Cụm Tình Báo Chiến lược Hà Nội 3- Cán bộ Giao liên giữa Thích Trí Quang và Trung Tá Cộng Sản Hoàng Kim Loan. 4- Quan Sát, theo dõi, và thiết lập hồ sơ chuyển về cơ quan Tinh Báo Chiến lược những thành phần ''Tốt'' trong hàng Sĩ Quan [Phải là cấp Đại Úy trở lên] thuộc Sư Đoàn I Bộ Binh để cơ quan này tuyển mộ hoạt động cho bọn chúng. 5- Công chức trong chính quyền VNCH tại Thừa Thiên Huế [Phải là cấp Trưởng Ty trở lên]. 6- Phân loại Sinh viên của Đại học Huế đang giữ chức vụ đại diện các phân khoa, và một số thành phần quan trọng trong Tổng Hôị Sinh Viên Đại Học Huế. Một số giáo Sư Đại Học và Trung học ở Huế. Tất cả các đối tượng Quân Đội, Công chức, Giáo sư, Sinh Viên kể trên đều tham gia và nằm trong các lực lượng dấy loạn miền Trung vào năm 1966 của Trí Quang và Trung Tá Cộng sản Hoàng Kim Loan. 7- Phân loại và thiết lập hồ sơ các thành phần Đại Đức, Thượng Tọa, của Phật Giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh tại Huế. 8- Các thành phần chủ chốt của các khuôn hội Phật Giáo từ cấp Quận trở lên Từ sau 1963 đến 1966, Nguyễn Khắc Từ với vai trò là Bí Thư của 'Quốc Phụ' Thích Trí Quang, hắn trở thành nhân vật đầy quyền uy thứ 2 của Phật Giáo Ấn Quang miền Trung. Trong thời gian này từ Tư Lệnh Quân Đoàn, Tư lệnh Sư Đoàn, đến hàng sĩ quan cấp tá, các Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, Trưởng Ty Cảnh Sát tại miền Trung trong phong trào tranh đấu, muốn diện kiến Trí Quang để xin chút ân huệ Trí Quang ban cho, đều phải qua tay của Nguyễn Khắc Từ mới có kết quả. Đối với hàng Phật giáo đồ tại miền Trung, hắn là một nhân vật biểu tượng gương mẫu của một người đạo đức tu hành, suốt đời hy sinh tranh đấu cho cho đạo pháp bị 'lâm nguy'. Thế nhưng, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phật Giáo đồ tại Huế, quí Đại Đức,Thượng Tọa, các bậc tu hành chân chính đã phải kinh hoàng khi thấy Nguyễn Khắc Từ lộ nguyên hình là tên Cán bộ Việt Cộng cao cấp, và hắn là Phó Trưởng Ban Tôn Giáo của Mặt Trận Tổ Quốc thuộc Thành Ủy Sài Gòn. Nằm vùng quá lâu trong Phật Giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh, là con rận Việt Cộng nằm trong áo Cà Sa của Quí thầy, hắn đã phân loại từng nhân vật, từ các Thượng Tọa, Đại Đức, đến các thành phần trưởng các khuôn hội Phật Giáo, các Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Bây giờ Nguyễn Khắc Từ nguyên là viên Bí thư và là cánh tay mặt của Thích Trí Quang là Phó trưởng Ban Tôn Giáo của Mặt trận Tổ Quốc Thành Ủy Sàigòn sau ngày 30/4/1975. Thử hỏi Tăng Ni và Phật Tử làm sao chịu nổi những đòn phép mà hắn và Đảng Cộng Sản Việt Nam tung ra để tiêu diệt Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Nhớ lại vào tháng 6/1966 khi Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Lực Lượng CSQG Thừa Thiên-Huế dẹp loạn Tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, tôi đã bắt Nguyễn Khắc Từ. - Nguyễn Khắc Từ chắc hẳn ông vẫn còn nhớ rõ Tình báo Chiến Lược Cộng Sản Việt Nam thả con rận độc Nguyễn Khắc Từ vào nằm trong áo cà sa của quí thầy trong bao nhiêu năm cùng với Thích Trí Quang và Trung Tá Cộng Sản Tình Báo Chiến Lược Hoàng Kim Loan, để cầm nắm lèo lái Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất theo ý muốn và mưu đồ của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thế nhưng bọn chúng quên một điều: Ở cõi đời này có luật thừa trừ 'Vỏ quít dày, vẫn còn có móng tay nhọn.'. Con rận độc Nguyễn khắc Từ vào tháng 6/1966 cũng đã bị cấy vào người một chất Sinh tử phù cực độc. Nguyễn khắc Từ, chắc ông vẫn chưa quên ai là Cán Bộ Điều Khiển? Hãy dừng tay lại ngay lập tức, Nguyễn Khắc Từ, tên phản bội, tên Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo. Đừng tưởng rằng sau 1975, Chính phủ VNCH không còn nữa, Cảnh sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế đã bị xoá tên thì chất độc Sinh tử phù sẽ không còn tác dụng. Lầm lớn rồi Nguyễn khắc Từ, đồng ý, miền Nam đã không còn trong tay người Quốc Gia, nước mất, nhà tan, thân phận lưu lạc, chúng tôi những kẻ đã bị chôn, nhưng chưa chết. Nếu tôi phá vỡ nguyên tắc, bạch hoá hồ sơ, thì chính ông là kẻ chưa chết, nhưng sẽ bị chôn, hậu quả như thế nào chắc ông hiểu rõ hơn tôi nhiều. 'Báo nhận hiểu và thi hành' đi, Nguyễn Khắc Từ, tên Việt Cộng nhơ nhớp, bẩn thỉu, hơn loài cầm thú. - Thích Chánh Trực Tu tại Chùa Tường Vân, Ngôi chùa nằm phía sau đồi Quảng Tế. Ngôi chùa này chính là nơi tu đạo của Ngài Đại Lão Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, Giáo Chủ Phật Giáo Việt Nam thống nhất. Thích Chánh Trực có nét mặt và dáng dấp của một tên thảo khấu giang hồ, nhưng lại có tài ăn nói, hùng biện, thu hút quần chúng. Thích Chánh Trực là cánh tay mặt và là truyền nhân của Thích Trí Quang, cũng là sơ sở quan trọng của Hoàng Kim Loan trong công tác Tôn Giáo Vận. Mọi cuộc biểu tình của Phật giáo tổ chức, chống đối chính quyền, hắn là nhân vật chính, hướng dẫn, xách động. Thích Chánh Trực là Đảng viên Cộng Sản do Hoàng Kim Loan kết nạp. Hoàng Kim Loan còn khai, có một khoảng thời gian sau Mậu Thân, vì tình hình an ninh quá căng thẳng, trong thành phố Huế không còn là nơi an toàn cho hắn trú ẩn, vì lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế tổ chức hành quân Cảnh Sát liên miên, lục soát bất chợt. Hoàng Kim Loan đã được Thích Chánh Trực đưa vào trú ngụ với y tại chùa Tường Vân, khoảng trên một năm. Hoàng Kim Loan phát giác Thích Chánh Trực đã có dan díu với một nữ tín đồ và có một đứa con trai với người này. Cũng theo Hoàng Kim Loan, bản chất tên này hung ác, dâm loạn, trẻ không tha, già không bỏ. Có một lần Hoàng Kim Loan bắt gặp hắn hành lạc với một nữ tín đồ ngay trong phòng của hắn, và chính Hoàng Kim Loan đã phê bình với Chánh Trực làm như vậy là 'thiếu đạo đức cách mạng', nhưng hắn vẫn chứng nào tật đó. Hắn thường ăn mặn, không ăn chay, thức ăn của hắn do các nữ tín đồ tình nhân đem đến chùa cho hắn, thường là đậu đen được hầm với thịt thái nhỏ, có trời mà biết được hắn ăn mặn. - Thích Thiện Siêu Thích thiện Siêu trụ trì Chùa Từ Đàm, đảng viên Cộng Sản do Hoàng Kim Loan kết nạp. Một trong những cơ sở quan trọng Tôn giáo vận của Hoàng Kim Loan. Hắn hoạt động chìm, có trách nhiệm nghiên cứu các đối tượng ở các khuôn hội Phật giáo, các phật tử, cung cấp cho Hoàng Kim Loan để tổ chức, kết nạp. Sau 1975, Thích Thiện Siêu được Trung ương đảng Cộng Sản tiến cử làm dân biểu Quốc hội. - Thích Như Ý Thích Như Ý, trụ trì chùa Trà Am. Cơ sở Tôn Giáo vận. Hoàng Kim Loan tổ chức và kết nạp y vào trước 1963. Chùa Trà Am cũng là trạm giao liên ngoại thành của cơ quan Thành ủy Huế - Huế có hằng trăm ngôi chùa, nhưng có thể nói không một ngôi chùa nào có cảnh trí thanh nhã bằng chùa Trà Am. Nằm cách núi Ngự Bình khoảng bốn cây số đường bộ về hướng nam, trong vùng Tứ Ngũ Tây thuộc quận Hương Thủy. Sau lưng chùa là những đồi thông, một giòng suối chảy ngang trước mặt chùa, muốn vào chùa phải đi qua chiếc cầu nhỏ bắc qua giòng suối, những tàn cây cổ thụ cả trăm năm phủ rợp bóng từ cổng chùa vào đến tận bên trong. Chùa chỉ có hai căn nhà mái ngói rêu phong, đó là khu chánh điện và nhà hậu trai, đâu đâu cũng đầy hoa thơm cỏ lạ, phảng phất mùi hương nhẹ nhàng. Nơi đây là một cảnh tiên trong cõi trần tục. Chùa Long Giáng của Khái Hưng trong Hồn Bướm Mơ Tiên cũng chỉ là một nét nhỏ của chùa Trà Am. Đã bước vào đây thì mọi phiền lụy trong cõi hồng trần đều rũ sạch, vậy mà tiếc thay, bọn Việt Cộng lại dùng nơi đây làm trạm liên lạc, chuyển vận người và dụng cụ về mật khu, ra vào thành phố Huế, và vị sư trù trì là Thích Như Ý lại là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Lời khai của Hoàng Kim Loan làm tôi hồi tưởng lại. Vào mùa hè năm 1970, tôi cũng đã vào ngôi chùa Trà Am bắt Thích Như Ý và đám cơ sở nội thành Việt Cộng đang nhóm họp. Vụ này đã tạo cơn bão chính trị lớn tại thành phố Huế, hàng loạt biểu tình của Phật giáo phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo. Chuyện xẫy ra như sau: Vào khoảng cuối tháng 12/1969, nhiều lần cơ quan tình báo quân sự Hoa Kỳ CID tại Phú Bài thông báo cho tôi, tại tọa độ... có điện đài đang phát sóng. Dò trên bản đồ quân sự 1/100,000 thì đó là địa điểm của Chùa Trà Am. Hai tháng sau đó, vào tháng 2/1970, qua viên Thiếu tá cố vấn chương trình Phụng Hoàng, CID chuyển cho tôi bốn tấm không ảnh chụp về đêm phát hiện có một toán nhỏ 3 tên Việt Cộng có vũ trang, xuất hiện phía sau nhà hậu trai của ngôi chùa. Ảnh chụp rất rõ ràng. Tôi bàn với Đại úy Trương Công Ân trưởng phòng CSĐB, và sau đó chúng tôi đã thiết lập một trạm bí mật theo dõi, giám sát hàng ngày ngôi chùa này, chỉ ban ngày mà thôi, ban đêm toán theo dõi được rút về, vì đây là khu vực vùng D, vùng xôi đậu, có phần nguy hiểm cho toán theo dõi. Chỉ không đầy 6 tuần lễ sau, chúng tôi phát giác có một số cơ sở nội thành Việt Cộng, đang nằm trong mục tiêu theo dõi của chúng tôi đã lên hội họp tại đây vào những ngày thứ bảy hoặc chúa nhật, khi mà thiện nam tín nữ thăm viếng chùa đông đảo. Trung tuần tháng 5/1970, cơ sở chúng tôi trong lực lượng Học Sinh, Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế, báo cho biết sẽ có phiên họp của đám cơ sở nội thành tại chùa Trà Am. Vào 6 giờ 30 sáng ngày 19-5-1970, tôi đổ 2 trung đội CSDC và khoảng 20 CSĐB bao vây chặn mặt sau ngôi chùa. Tôi, Đại úy Ân, một số CSĐB và một trung đội CSDC tiến thẳng vào chùa bằng cổng chính. Có lẽ trong chùa đã biết, nên khi chúng tôi vừa vào đến sân, thì gặp ngay vị sư Thích Như Ý đang lơ đãng quét lá vàng vào ban sáng, có ý chặn chúng tôi lại ngay tại đó. Ông làm ra bộ ngạc nhiên cất giọng hỏi chúng tôi: - Chào Đại úy, ông và anh em Cảnh Sát đi đâu sớm vậy mà sao lại lạc vào đây? - Bạch Thầy, chúng con không đi lạc, chúng con đang hành quân Cảnh Sát ở vùng này. Bạch Thầy, con là Đại úy Liên Thành, Trưởng ty Cảnh Sát. - Tôi biết, vội vàng chi, mời Đại úy và anh em vào hậu trai uống tí trà vào buổi sáng. - Cám ơn Thầy, nhưng anh em đang làm việc. Tôi đi thẳng vào ngay vấn đề: - Thưa Thầy, chiều qua có một số thanh niên vào chùa, mãi đến tối không thấy trở ra, con muốn tìm kiếm đám này, vì họ là đám phá rối trị an, cơ sở Việt Cộng. Ông lạnh lùng nhìn tôi và nói: - Đại úy Liên Thành, ông thấy đó, cảnh chùa vắng vẽ có ai đâu. Tôi tự nói với mình: ''A di đà Phật, bậc tu hành sao còn nói láo'' - Vâng, sân chùa vắng vẻ, chẳng có ai, nhưng con nghĩ họ ở trong chùa, vì thế con muốn thầy cho phép soát trong chùa. - Ông Trưởng ty muốn lục soát chùa cũng được, nhưng ông Trưởng ty có giấy cho phép của Thượng Tọa chánh Đại Diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh hay không? Nếu có thì ông Ty cứ tự nhiên, còn bằng không, thì ông Ty không thể vào lục soát được. - Thưa Thầy, luật pháp quốc gia không có quy định nhân viên Công lực khi thi hành phận sự phải xin phép một tôn giáo nào cả. Bây giờ không phải là năm 1966, CSQG/Thừa Thiên-Huế phải xin phép, tuân lệnh các thầy. Con xin phép Thầy chỉ là vấn đề lịch sự, không phải là thủ tục pháp lý. Ông nhìn tôi và nặng lời: - Ông Trưởng ty Liên Thành là con giòng cháu giống, cháu nội Kỳ Ngoại Hậu Cường Để sao lại chạy theo Thiệu Kỳ đàn áp Phật Giáo? - Con không còn nhớ mình là cháu nội của ai, chỉ biết giờ này là Trưởng ty Cảnh Sát, đang thi hành phận sự của một nhân viên công lực, yêu cầu thầy đứng qua một bên đừng cản trở nhân viên công lực thi hành nhiệm vụ. Bốn nhân viên Cảnh sát, hai Đặc biệt, hai Dã chiến, vây ông ta vào giữa. Vừa ngay khi đó thì đơn vị bọc sau lưng chùa dẫn vào năm thiếu niên và một phụ nữ dáng dấp chưa đầy ba mươi tuổi. Trung đội trưởng CSDC có nhiệm vụ chặn phía sau chùa cho biết cả sáu người này từ trong chùa chạy ra thì bị bắt giữ ngay. Tôi cho lệnh soát chùa nhưng dặn anh em phải hết sức cẩn thận. Mục đích lục soát là kiếm người và tìm điện đài, người đã bắt được rồi. Nhưng điện đài thì thật khó, vì điện đài là một vật nhỏ nếu không biết vị trí cất dấu chính xác thì khó mà tìm dược. Sau gần 45 phút tim kiếm điện đài, chúng tôi đành bỏ cuộc, rời khỏi chùa Trà Am vào hồi 9 giờ sáng, ngày 19-5-1970 mang theo năm thanh niên một phụ nữ cùng thầy Thích Như Ý và một số tài liệu trong đó có một bản Nghị Quyết mới nhất của Trung ương Đảng Cộng Sản Hà Nội, (tôi không còn nhớ đó là bản Nghị quyết số mấy). Tổng Cộng bảy người, tất cả bị bắt đem về Trung tâm thẩm vấn. 3 giờ chiều cùng ngày, ngày 19-5-1970, Phật Giáo bắt đầu biểu tình. Đoàn biểu tình rầm rộ kéo xuống trước Tòa Hành Chánh Tỉnh phản đối chính quyền đàn áp Phật Giáo và yêu cầu thả người. Tôi liền cho 3 trung đội CSDC tăng cường giữ an ninh Toà Hành Chánh tỉnh, nhưng không cho lệnh giải tán đoàn biểu tình. Tại Trung Tâm thẩm vấn, Trung Úy Hồ Lang, Trưởng cơ quan G-4 (Trung tâm thẩm vấn), cùng anh Trần Vững, Trưởng ban khai thác tin tức, không gặp khó khăn trong việc thẩm vấn và khai thác tin tức của năm thanh niên và ngươì phụ nữ kia. Y thị nhìn nhận mục đích buổi họp tối hôm đó tại chùa Trà Am là để bố trí công tác cho năm cơ sở nội thành, thực hiện một số mục tiêu phá hoại bằng chất nổ tại một vài cơ sở quan trọng của chính quyền trong thành phố Huế, và đặt chất nổ tại 2 rạp chiếu bóng, đó là rạp Ciné Tân Tân ở đường Trần Hưng Đạo và rạp Ciné Châu Tinh tại đường Chi Lăng quận II thành phố Huế. Người đàn bà này có tên là Lê thị Út, cán bộ an ninh cơ quan Thành ủy Huế, đã chuyển vận một số chất nổ từ mật khu về chùa Trà Am, và đem cất dấu tại khu nghiõa trang dưới chân núi Ngự Bình. Đợi sau khi y thị họp xong với năm thanh niên cơ sở nội thành này, y thị sẽ chỉ chỗ cất dấu chất nổ cho họ đến lấy và thi hành công tác phá hoại. Đại úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB, cùng với một toán CSĐB đi cùng y thị đến chỗ cất dấu chất nổ, đã tịch thu được một số lượng khoảng 6 Kg chất nổ TNT, và 8 ngòi nổ chậm. Riêng về phần thẩm vấn Thích như Ý thật khó khăn. Hai chuyên viên lỗi lạc trong ngành thẩm vấn là Trung Úy Hồ Lang, Truởng cơ quan G-4 và anh Trần Vững, Trưởng ban khai thác tin tức cũng đã phải nao núng. Bởi lẽ đầu tiên ông ta vẫn mặc y phục của vị tu hành phật giáo, không chịu thay y phục của tù nhân, điều này đã tạo khó khăn về mặt tâm lý và tôn giáo không ít cho thẩm vấn viên. Huế sau 1963, ngoài xã hội có bao nhiêu đảng phái chính trị, bao nhiêu tôn giáo, thì trong lực lượng CSQG /Thừa Thiên Huế đều có bấy nhiêu, tỷ như: Chi Bộ Cảnh Sát Quốc Dân Đảng, Chi Bộ Cảnh Sát Đại Việt Cách Mạng, Chi Bộ Cảnh sát Nhân Xã Đảng, Chi Bộ Cảnh Sát Tân Đại Việt, và nhiều thứ Chi Bộ Cảnh Sát của các đảng phái khác, thật kể không hết. Cũng may là không có Chi bộ Cảnh Sát đảng Cộng Sản, nếu có, thì BCH/ Cảnh Sát Thừa Thiên-Huế đã trở thành Lực lượng Liên Minh Dân tộc, Hoà Hợp, Hoà giải. Hoa Kỳ, Cộng Sản, và VNCH chẳng cần tốn thì giờ và bút mực ký hoà đàm Paris làm chi cho mệt... Về Tôn giáo thì có Cảnh Sát Phật Tử, Cảnh Sát Công Giáo v. v.. Đó là thực trạng đáng buồn trong BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế sau 1963. Thật khó khăn cho cho tôi trong việc chỉ huy và điều hành một lực lượng đông đảo trên 5000 nhân viên, có lẽ vì vậy mà chẳng ai muốn thay thế tôi trong chức vụ Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên-Huế, và cũng vì thế mà tôi phải ngồi lỳ trong 9 năm trời tại nhiệm sở này. Không một thẩm vấn viên nào chịu phụ trách thẩm vấn Thích như Ý. Đưa người này thẩm vấn thì: - Thưa ông Ty, em Phật tử, em không dám, xin ông Ty cử người khác. Giao thẩm vấn viên khác phụ trách, cũng lại: - Thưa ông Ty, em Công Giáo, sợ mất lòng bên anh em Phật giáo. Tôi nỗi giận: - Ông nào cũng là Cảnh sát, cũng là nhân viên công lực, ăn lương chính phủ mà lại từ chối nhiệm vụ giao phó, tại sao lại đưa Tôn giáo vào nơi này? Ông Công Giáo sợ ông Phật Giáo. Ông Phật Giáo sợ một tên Việt Cộng đội lốt tu hành. Được rồi, anh em không làm thì tôi làm. Tôi thấy ngay trở ngại đầu tiên là tấm áo nâu sồng khoát trên người một kẻ đã lợi dụng màu áo nâu tu hành làm vỏ bọc để hoạt động cho Cộng sản, nhưng lại có giá trị khơi động niềm tin tôn giáo và sự nể trọng các bậc tu hành trong lòng thẩm vấn viên. Vì vậy phải tháo bỏ tấm áo này thì nhân viên thẩm vấn mới khỏi lẫn lộn giữa đạo và đời, giữa vị chân tu và kẻ lợi dụng tôn giáo hoạt động cho địch. Tôi nói với trưởng cơ quan G-4, Trung Úy Hồ Lang ý nghĩ của tôi, và yêu cầu anh ta lấy áo tù, và tôi sẽ phụ trách chuyện này. Tôi vào phòng thẩm vấn gặp Thích như Ý: - Nơi này không phải là chùa Trà Am, mà là Trung tâm thẩm vấn, vì thế tôi yêu cầu ông thay áo quần can phạm, ông không bằng lòng tôi vẫn phải thay cho ông, đây là thủ tục bắt buộc. Miệng nói, tôi tiến về phía ông với bộ áo quần trên tay. Ông ta có vẽ hoảng hốt: - Tôi thay... Tôi thay... Tôi đã đoán đúng tâm lý của ông ta: Mặc dầu ông ta hoạt động cho Việt Cộng, nhưng bản chất vẫn là một kẻ tu hành, không bao giờ để thân thể trần truồng trước mắt kẻ lạ, vì thế ông hốt hoảng tự động làm việc đó mà không cần đến tôi. Tôi bước ra khỏi phòng và chỉ năm, mười phút sau quay lại, ông ta đã thay xong, mặc bộ đồ đen. Suốt đêm 19-5-1970, Tôi, Ân, trưởng cơ quan G-4 và Trần Vũng, thay phiên nhau thẩm vấn ông ta. Mãi gần trưa ngày hôm sau, đã quá mệt mỏi không chống mỗi với chiến thật xa luân chiến của chúng tôi, và sau khi cho ông xem lời khai của sáu cơ sở đã bị chúng tôi bắt trong chùa của ông, biết là khó chối cãi, khi đó ông mới bắt đầu khai rõ mọi hoạt động. Tôi còn nhớ ông ta ăn nói thô bạo và tục tĩu còn hơn nhân vật sư Lỗ Trí Thâm trong truyện Thủy Hử của Trung quốc. Trong đời tôi, đây là lần đầu, tôi được nghe được những lời chửi rủa, văng tục từ miệng một kẻ tu hành. tôi ngạc nhiên và xấu hổ. Ông ta lôi từ ông sơ, ông cố của tôi, từ Vua Gia Long, đến ông nội của tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cuờng Để ra chửi. Ông ta ví mặt tôi và anh em thẩm vấn viên giống như cái đó... của đàn bà, và là đồ mật thám, chó săn, chạy theo Thiệu, Kỳ đàn áp Phật Giáo. Mỗi lần ông ta văng tục xong tôi lại hỏi ông: -'A di Đà Phật', ông chuởi xong chưa? Sao tu hành mà ăn nói tục tĩu như vậy. Đây là một câu chuyện thật về ông Như Ý, ngoài tôi, số anh em thẩm vấn viên đã bị ông ta chửi tục hiện định cư tại Hoa Kỳ chắc không quên chuyện đó. Ngày 20-5-1970 lực lượng Phật Giáo vẫn tiếp tục biểu tình phản đối chính quyền đàn áp Phật Giáo, và yêu cầu chính quyền thả người. Cũng trong ngày này, tôi nhận được hai Công điện khẩn cấp, một của Văn phòng Tư Lệnh CSQG, Thiếu Tướng Trần Thanh Phong, và một của Đại Tá Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Đặc Biệt, yêu cầu tôi báo cáo tình hình và giải thích nội vụ bắt giữ Thích như Ý. Tôi đánh điện phúc trình nội vụ. Tôi cũng đã tiên liệu trước, vụ này sẽ trở thành lớn chuyện, vì Thích Như Ý có liên hệ gia đình với Thượng Tọa Thích Trí Thủ, Tổng thư ký Viện Hoá Đạo tại Sàigòn. Tôi suy nghĩ với tình hình này, nếu để lâu, nội vụ sẽ là cơ hội tốt cho cho nhóm cơ sở Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo tạo ra biến động lớn, và sẽ gây nhiều phiền toái cho chính phủ và nhất là cho chúng tôi. Tôi họp với Ân và một số anh em Sĩ Quan trong ban tham mưu, đưa ra hai giải pháp để giải quyết: 1- Lập hồ sơ nội vụ thật nhanh để giải tòa, hoặc đưa ra Hội Đồng An Ninh Tỉnh với tội danh: Hoạt động cho Việt Cộng và âm mưu phá rối trị an, và nếu cần họp báo công bố nội vụ. 2- Thương lượng, trao đổi trực tiếp, với Giáo Hội Phật Giáo tại Huế. Anh em đều chọn giải pháp thứ hai. Tiên lễ, hậu binh. Thương lượng trước. 8 giờ tối ngày ngày 21-5-1970, tôi lên Chùa Linh Quang gặp Thượng Tọa Thích Mật Nguyện với đầy đủ hồ sơ của Thích như Ý và đồng bọn. Chùa Linh Quang nằm trong khu vực Từ Đàm, phía sau lăng Cụ Phan Bội Châu. Thượng Tọa Thích Mật Nguyện là một vị cao tăng đức hạnh, đối với Phật Giáo đồ và ngay cả những người ngoại đạo, những ai đã gặp ông đều phải nể trọng, cung kính. Năm 1968, khi Thích Đôn Hậu thoát ly ra Hà Nội, Hoà Thượng Thích Mật Nguyện được Giáo Hội đề cử vào chức Chánh Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh thay thế Thích Đôn Hậu.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 21, 2013 9:22:06 GMT 9
Biến Động Miền Trung
LIÊN THÀNH
PHẦN 3
. . . . . .
2- Thành phần chống đối tích cực:
Các đảng phái chính trị quốc gia như:
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đại Việt Cách Mạng của Ông Hà Thúc Ký. Lực lượng nòng cốt của Đại Việt Cách Mạng tại Thừa Thiên-Huế là Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn do Thiếu Tá Nguyễn văn Lý làm Tỉnh Đoàn Trưởng. Ô ng là một lãnh tụ quan trọng và cao cấp của Đảng Đại Việt. Một nhân vật chống Cộng Sản tuyệt đối, nếu không nói là quá khích.
Tỉnh đoàn Xây Dựng Nông Thôn đã góp công lớn trong việc dẹp loạn Miền Trung. Họ tung nhân viên tham gia vào Lực Lượng Tranh Đấu thu thập tin tức, thiết lập hồ sơ những thanh phần quá khích cung cấp cho đơn vị hành quân dẹp loạn.
Cũng không thể không nói đến một góp sức không nhỏ cho việc dẹp loạn Miền Trung là Cơ Quan Dân Ý Vụ. Đây là một cơ quan được thành lập vào năm 1965, phụ trách về Tình Báo Nhân Dân, lãnh lương từ ngân sách Viện Trợ. Chỉ Huy Trưởng cơ Quan này là ông Trần Đông Hoài, một giáo sư dạy Pháp Văn tại trường Trung Học Thiên Hựu, nói ngoại ngữ Anh và Pháp giống như người ngoại quốc. Mặc dầu là một nhà giáo, nhưng lại có thiên phú đặc biệt Tình báo. Cơ Quan Dân Ý Vụ cung cấp hầu hết các kế hoạch hành động của Lực lượng tranh đấu.
Ngoài ra, lực lượng quân sự chống lại cuộc nổi loạn miền Trung chỉ có 3 đơn vị nhỏ đó là:
1- Phía Bắc Thừa Thiên: Quận Quảng Điền do Đaị úy Trần Đức Anh làm Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng. Ông là thành viên cao cấp của Quốc Dân Đảng. Đại úy Anh dự định lập Khu Biệt lập Quảng Điền dùng lực lượng quân sự của Chi Khu chống lại đám dấy loạn Miền Trung. Công việc bại lộ Đại úy Anh phải đào tẩu vào Đà Nẵng trình diện Thiếu Tướng Tư Lênh Quân đoàn I, Trần Thanh Phong. Khi lực lượng hành quân của Chính phủ đổ quân ra Huế dẹp loạn, ông theo lực lượng hành quân ra Huế trở lại nhiệm sở cũ, chức vụ cũ. Sau đó, trong một cuộc đụng trận lớn với lực lượng Cộng Sản tại Quận lỵ Quảng Điền vào năm 1967, Đại úy Anh đã anh dũng đền nợ nước.
2- Phía Nam Thừa Thiên: Quận lỵ Hương Thủy nằm về phía Nam thành phố Huế. Bộ Chỉ Huy Quận và Chi Khu Hương Thủy nằm cạnh phi trường Phú Bài và căn cứ của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Phú Bài, cạnh quốc lộ I trên dường vào Đà Nẵng.
Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng là Thiếu Tá Tăng. Thiếu Tá Quận Trưởng Hương Thủy là một trong những đơn vị trưởng quân sự đầu tiên chống lại Phong Trào Tranh Đấu Miền Trung. Trong những ngày đầu của cuộc tranh đấu ông cho lực lượng quân sự Chi Khu bố trí và án ngữ ngay vùng Dạ Lê trên quốc lộ I, đồng thời ông cũng yêu cầu đơn vị TQLC Mỹ tại Phú Bài tăng phái 2 xe tăng M 48 chận ngay quốc lộ I vùng Dạ Lê, ngăn chặn không cho lực lượng tranh đấu từ thành phố Huế tràn xuống. Văn phòng Quận, Chi Khu Hương Thủy bấy giờ trở thành BCH của lực lượng chống Phong trào Tranh Đấu.
Trung Tá Phan Văn Khoa Tỉnh trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng Thị Xã Huế, kiêm Tiểu Khu Trưởng là vị Tỉnh Trưởng đầu tiên tại miền Trung chống lại phong trào tranh đấu, ông dời văn phòng Tỉnh Trưởng về quận Hương Thủy vì Tòa Hành Chánh Tỉnh đã bị đám mỗi loạn chiếm cứ.
BCH lực lượng chống tranh đấu hằng ngày tấp nập các phái đoàn của Chính phủ trung ương Saigòn bay ra hội họp, lãnh tụ các đảng phái Chính trị và nhiều phái đoàn quân sự cũng như tình báo Mỹ, họp với Trung Tá Tỉnh Trưởng bàn soạn kế hoạch tái chiếm lại thành phố Huế hiện đang nằm trong tay đám tranh đấu.
Tại Thành phố Huế, độc nhất còn lại BCH Tiểu khu Thừa Thiên chưa bị đám phản loạn chiếm cứ. BCH Tiểu Khu Thừa Thiên đóng gần Đài Phát Thanh Huế. Trung Tá Khoa giao cho Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố Trưởng Phòng II Tiểu Khu trấn giữ. Đám tranh đấu chưa dám chiếm Tiểu Khu vì đây là cơ quan Quân Sự.
Huế hoàn toàn bỏ trống, không còn chính quyền, thành phố nằm gọn trong tay đám tranh đấu Thích Trí Quang.
3- Phía Tây Thành Phố Huế: Lực lượng thứ 3 chống lại đám tranh đấu là Quận Nam Hòa nằm về phía Tây thành phố Huế. Quận Nam Hòa là một quận miền núi, mặc dầu chỉ cách thành phố Huế khoảng 12Km. Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng là Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt. Phụ Tá Quận Trưởng kiêm Chi Khu Phó là tôi, Thiếu úy Liên Thành.
Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt là vị chỉ huy đầu đời trong đời binh nghiệp của tôi. Ông là một sĩ quan trẻ cấp Thiếu Tá, nhưng ông có đủ khả năng quân sự vừa chiến thuật và chiến lược. Vốn là người Bắc nên rất tế nhị, cẩn trọng trong mọi vấn đề, mọi trường hợp. Trong những ngày đầu của cuộc dấy loạn Miền Trung, ông không chống mà cũng chẳng ngã về phong trào tranh đấu. Chỉ đứng khoanh tay nhìn thời cuộc. Cách hay nhất của ông là cáo bệnh giao hết mọi việc của Quận và Chi Khu cho tôi, mỗi buổi chiều lên xe Jeep về thành phố.
Lực lượng quân sự của Chi Khu Nam Hòa gồm có :
200 Dân Vệ (sau gọi là Nghĩa Quân). 2 Đại Đội tăng phái từ Tiểu Khu . 1 Pháo Đội 105 ly tăng phái từ Sư Đoàn I BB Tôi vừa là Chi Khu Phó vừa là Liên Đại Đội Trưởng. Trong thời gian thành phố biểu tình lên đường, xuống đường thì tình hình địch tại Nam Hòa mỗi ngày mỗi nặng. Hai Đại Đội chạm địch liên miên, ngày nào cũng có binh sĩ bị thương hoặc tử thương.
Tôi còn nhớ vào một đêm trong tháng 3-1966 Đại đội do tôi chỉ huy đụng nặng với đơn vị Việt Cộng. Tôi gọi máy xin pháo đội 105 ly pháo binh Quận yểm trợ. Tọa độ xin tác xạ là 76.. .. bản đồ tỷ lệ 1/100,000 ba tràng đạn nổ chạm. Chỉ 5 phút sau pháo đội báo: Đạn đi, đợi hoài chẳng thấy đạn nổ mà chỉ nghe ba tràng đạn nổ từ xa vọng lại, rất xa tọa độ tôi xin.
Sáng hôm sau tôi kéo Đại Đội vượt nguồn hữu ngạn sông Hương trở về Quận, vừa đến chợ Tuần thì đại họa đến. Đại Đội tôi đụng đầu với một đoàn biểu tình của nhóm Tranh Đấu từ thành phố Huế kéo lên, toàn là Sinh Viên, Học Sinh đang đứng gần chợ Tuần. Họ la lớn, đả đảo Cần Lao đàn áp Phật Giáo bắn sập Chùa, giết hại Tăng Ni. Đoàn biểu tình kéo lại định vây đơn vị tôi vào giữa. Lính vừa đói vừa mệt lả, tôi cũng vậy. Tôi phản ứng rất nhanh nhưng mà dại. Tôi quay qua viên Thượng Sĩ Đại Đội ra lệnh rất nhanh: Đội Hình. Binh sĩ túa ra bố trí. Đoàn biểu tình thấy lính phản ứng nên lùi lại. Cũng may trong đám biểu tình có tiếng la lớn: khoan đã, đừng làm bậy, hắn là Liên Thành con thầy Trợ Cử (phụ thân tôi là một nhà giáo), cháu của Ngài Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết không phải Cần Lao đâu. Tiếng la đó phát xuất từ thằng bạn học cũ của tôi ở Trường Quốc Học và cũng ở cùng xóm Chùa Từ Đàm với tôi. Anh ta là Trần Văn Rô, Sinh Viên Đại Học Khoa Học. Tôi chưng hửng hỏi Trần văn Rô:
- Chuyện gì vậy ?
- Tối hôm qua mày bắn sập chùa Sư Nữ ở Cầu Lim, gần Đàn Nam Giao phải không? Rô trả lời,
- Có, tao có gọi pháo binh bắn yểm trợ, vì tụi tao đụng nặng với Việt Côïng, nhưng tụi tao đánh nhau bên kia sông, trong núi đâu phải bên này. Chuyện này tao vô can. Tôi trả lời Rô.
Đoàn biểu tình kéo về Huế. Trên đường về Quận tôi nghĩ mình ngu quá, ra lệnh cho binh sĩ dàn đội hình tác chiến, lỡ có người lính nào mất bình tĩnh bắn đại vào đám sinh viên biểu tình thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Khi về đến Quận đã thấy có phái đoàn điều tra của Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo và ty Cảnh Sát hiện diện tại đó. Sự việc sáng tỏ. Tôi gọi bắn yểm trợ ở tọa độ 76. (trục hoành độ ). Nhưng vì cả pháo đội đang có sòng xì phé đến hồi gay cấn, lúc tôi gọi xin tác xạ, viên thượng sĩ già mắc dịch làm xạ bản tác xạ đang thua bạc, hấp tấp viết số 76 thành 70 có tí râu, nên trục hoành độ đã dời qua phiá đông 6 cây số, đạn rơi trúng phóc vào chùa Sư Nữ ở Cầu Lim. Cũng may chỉ sập 1 góc chùa, các vị Sư Nữ đêm đó kéo nhau ra giếng ngoài ruộng tắm giặt nên chẳng ai bị thương tích gì, thật hú hồn.
Những ngày kế tiếp, lính tại đơn vị mỗi ngày mỗi thưa dần, đa số đã bỏ súng tại đơn vị, trốn về Huế gia nhập chiến đoàn Nguyễn Đại Thức bảo vệ Thầy, bảo vệ đạo pháp đang lâm nguy. Số binh sĩ hiện diện tại đơn vị đa số là người Công Giáo và lính già. Cùng thời gian tôi nhận được công điện Hỏa Tốc của BCH Tiểu Khu Thừa Thiên: Yêu cầu quí đơn vị hạn chế tối đa đạn dược và điện trì cho máy truyền tin, vì không còn nhận được tiếp tế từ Quân Đoàn.
Thời gian đó tại mỗi Quận, Chi Khu đều có Văn Phòng Cố Vấn Mỹ. Viên cố vấn cho Chi Khu Nam Hòa tên Bob cấp bậc Thiếu tá. Tôi phải vận dụng tối đa công lực vừa miệng vừa tay xổ tiếng Mỹ với viên Thiếu Tá, cho ông ta biết tình trạng hiện tại và nói tôi muốn trốn vào Đà Nẵng trình diện Quân Đoàn.
- Anh không theo Tranh Đấu? Ông ta hỏi tôi.
- Như vậy có khác gì theo Việt Cộng. Tôi cười trả lời.
- Hỏi vậy thôi chứ tôi biết rõ Thiếu úy, tôi sẽ giúp Thiếu úy, tuy nhiên Thiếu úy cũng nên bàn với Thiếu Tá Quận Trưởng. Viên thiếu tá Mỹ nói.
- Tôi sẽ bàn với ông ta. Tôi nói. Trong khi đang đứng nói chuyện với tôi bỗng nhiên anh ta giật mình nói nhỏ với tôi:
- Thiếu úy, nhìn kìa. Tôi nhìn theo hướng tay ông ta chỉ về phía pháo đội 105 ly thì thấy cả hai khẩu pháo 105 ly đã quay hướng súng về phía Căn cứ Phú Bài từ hồi nào. Trong lúc đó tôi vẫn còn 1 Đại Đội đang hoạt động trong vùng trách nhiệm phía vùng núi bên kia sông, vùng núi Kim Phụng. Pháo đội phải quay súng về hướng đó để sẵn sàng tác xạ yểm trợ theo yêu cầu, tại sao lại quay hướng súng về Phú Bài. Tôi đang suy nghĩ thì viên Thiếu tá Mỹ nói ngay:
- Tôi nghĩ Pháo đội nầy đã theo lực lượng tranh đấu. Họ quay hướng súng về phía Phú Bài để tác xạ vào Sư Đoàn TQLC Mỹ của chúng tôi. Tôi sẽ báo ngay cho Bộ Chỉ Huy MACV. Nói xong ông ta đi vào văn phòng. Khoảng 30 phút sau đó Thiếu Tá Bob trở ra và mời tôi vào văn phòng của ông ta và nói ngay:
- Thiếu úy, mình phải chiếm hai khẩu súng nầy ngay lập tức. Bây giờ thì không thể xài tiếng Mỹ bằng miệng và bằng tay được nữa, mà phải xài tiếng Mỹ qua Thông dịch viên. Tôi hỏi viên Thiếu Tá:
- Thông dịch viên anh đâu, tôi cần hắn dịch rõ ràng vì chuyện quan trọng.
- Có ngay, Viên thiếu tá Mỹ nói. Và ông ta gọi viên trung sĩ Mỹ vào làm thông dịch. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì bao lâu nay tôi chưa từng nghe người trung sĩ Mỹ nầy nói một chữ tiếng Việt. Với giọng Bắc rất rõ ràng viên Trung Sĩ Mỹ nói:
- Thiếu tá chúng tôi cần Thiếu úy ra lệnh cho Pháo Đội quay hướng súng lên núi, nếu Pháo đội không chịu thì phải dùng vũ lực chiếm 2 khẩu súng này vì họ muốn tác xạ vào đơn vị TQLC của chúng tôi.
- Trong vòng 1 giờ nữa sẽ có một Trung Đội TQLC của chúng tôi đến đây giúp Thiếu úy. Viên Trung Sĩ nói tiếp.
Qua Thông dịch viên tôi nói với Thiếu Tá Bob:
- OK, nhưng để tôi cho mời Trung úy Pháo đội trưởng lên đây mình nói chuyện với ông ta trước để rõ sự việc như thế nào. Tôi không muốn phe mình bắn phe ta.
Chỉ trong vòng 10 phút sau Trung úy Pháo đội Trưởng đã có mặt. Tôi nói ngay:
- Ông hơn cấp bậc tôi, nhưng ông tăng phái cho tôi, lẽ dĩ nhiên phải dưới quyền chỉ huy và điều động của tôi. Xin Trung úy cho biết ai cho quay hướng súng về Phú Bài, trong khi đó tôi đang còn một đơn vị đang hành quân bên kia sông hướng núi Kim Phụng.
- Tôi nhận lệnh của Sư Đoàn quay súng về phía đó và đợi lệnh. Pháo đội trưởng chậm rải trả lời.
- Nếu có lệnh của Sư Đoàn Trung úy có bắn không? Tôi hỏi viên pháo đội trưởng.
- Không.
- Tại sao?
- Tôi không theo đám Tranh Đấu.
- Tôi tin trung úy. Bây giờ xin cho quay hướng súng trở lại. Nếu có ai báo cáo với Sư Đoàn trung úy cứ nói theo yêu cầu của Chi Khu vì họ cần tác xạ vào một số tọa độ khuấy rối trong đêm. Tôi nói tiếp với Trung úy Pháo Đội Trưởng.
- Ông yên tâm, tôi cho quay hướng súng lại ngay. Hai phần ba binh sĩ của pháo đội tôi đã trốn theo tranh đấu, số còn lại là đệ tử thân tín của tôi.
Trong khi tôi nói chuyện với Trung úy Pháo Đội Trưởng thì viên Hạ sĩ quan Mỹ đã dịch hết cho Thiếu Tá Bob nghe rồi. Tôi xoay qua viên Thiếu tá Mỹ hỏi ông cần nói gì với Trung úy không? Ông ta bắt tay Trung úy Pháo đội trưởng nói:
- Tôi tin ông, nhưng kể từ giờ phút nầy Chi Khu không cần Pháo binh của ông yểm trợ nữa. Pháo Binh của Sư Đoàn TQLC Hoa kỳ tại Phú Bài sẽ đảm trách. Chốc nữa, sẽ có 1 trung đội TQLC Hoa kỳ xuống đây, nếu có lộn xộn tôi sẽ cho lệnh trung đội nầy phá hủy ngay 2 khẩu 105 ly của Trung úy.
- Ok, Thiếu tá. Trung úy pháo đội trưởng nói. Mọi người cùng cười, tan hàng. Sáng hôm sau tôi về Huế gặp Thiếu Tá Quận trưởng, sau khi trình bày tình hình với ông tôi kết luận:
- Không còn gì nữa, lính đào ngũ theo tranh đấu. Đạn và điện trì cho máy truyền tin cũng cạn, lấy gì đánh nhau với Việt Cộng.
Tôi cho Ông biết ý định của tôi và tôi hỏi Ông:
- Thiếu Tá, ông đi không?
- Bao giờ?
- Ngày mai, 10 giờ sáng.
- Đi, sáng mai tôi lên Quận đi với anh.
Đúng 10 giờ sáng ngày hôm sau, trực thăng của Thiếu Tá Bob đón chúng tôi bay vào Quân Đoàn I trình diện Thiếu Tướng Tư Lệnh Trần Thanh Phong. Trước khi đi tôi nói với Thiếu úy Hành Trưởng ban 3:
- Anh coi nhà, tôi và Thiếu Tá Quận Trưởng và Thiếu Tá Bob đi họp hành quân với TQLC Mỹ sẽ về trong ngày. Khoảng 45 phút sau, chúng tôi đáp xuống sân bay trực thăng của BTL/ Quân Đoàn. Tại sân bay đã có một Trung Tá Mỹ đón chúng tôi và đưa thẳng vào phòng hội của BTL.
Người đầu tiên chúng tôi gặp là Đại úy Anh, Quận Trưởng Quận Quảng Điền, người đã chạy thoát khỏi cuộc lùng bắt của đám Sinh Viên Quyết tử tại Huế khi ông chống lại Phong trào Tranh Đấu của bọn chúng. Chúng tôi mừng rỡ ôm choàng nhau
Phòng hội có khoảng 30 sĩ quan cấp Tá trở lên vừa Việt, vừa Mỹ. Khoảng 5 phút sau Thiếu Tướng Tư Lệnh vào Phòng Hội. Sau phần trình bày tình hình tại Huế của Thiếu tá Quận Trưởng Nam Hòa Phạm Khắc Đạt, Thiếu Tướng tư Lệnh chỉ thị chúng tôi trở lại Huế. Thiếu Tá liên lạc với Trung Tá Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa hiện đang có mặt tại Quận Hương Thủy để nhận lệnh. Phần tôi trở lại Chi Khu Nam Hòa chỉ huy 2 đại đôi cơ hữu đợi lệnh. Hằng ngày Đại úy Anh sẽ liên lạc với tôi.
Chúng tôi chào từ giã Thiếu Tướng Tư Lệnh. Thiếu Tá Bob gặp chúng tôi ngay phòng hội cho biết 3 giờ sau sẽ gặp nhau tại bãi đáp trực thăng Quân Đoàn để trở về lại Huế.
Đại úy Anh chở chúng tôi đi ăn phở tại Đà Nẵng. Ông đưa cho tôi một đặc lệnh truyền tin và nhiều tần số liên lạc. Hàng ngày vào buổi sáng ông sẽ bay ra Nam Hòa và sẽ liên lạc với tôi để nhận báo cáo tình hình, ông dặn dò:
- Nói ngắn, gọn, đề phòng bọn nó vào tần số mình nghe lén. Mỗi ngày thay đổi tần số liên lạc như đã qui định. Chúng tôi trở lại Nam Hòa cùng ngày. Thiếu Tá Quận Trưởng về Hương Thủy gặp Trung Tá Tỉnh trưởng nhận lệnh hành động. Tôi tiếp tục ở lại quận.
Đầu tháng 5-1966, Thiếu Tá Đạt gọi tôi về gặp ông ta và Trung Tá Tỉnh Trưởng tại BCH/ chống Tranh Đấu tại Chi Khu Hương Thủy. Trung Tá Tỉnh trưởng hỏi tôi:
- Liên Thành, anh có liên hệ gia đình với Ngài Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết phải không ?
- Dạ đúng.
- Anh có người anh đi tu là Đại Đức Thích.. ..
- Dạ đúng.
- Anh có nhiều bạn trong đám sinh viên Đại Học Huế
- Dạ đúng.
- Vậy thì tốt, công tác nầy anh làm được, bọn Tranh Đấu không nghi ngờ. Đã đến lúc phải tắt tiếng Đài Phát Thanh tranh đấu của bọn chúng. Đài Phát Thanh Huế của Chính quyền bọn hắn chiếm bây giờ mình phải lấy lại.
- Dạ, với 2 Đại đội cơ hữu của em, em tấn công thẳng chiếm lại Đài Phát Thành Huế, không trở ngại. Tôi nói không suy nghĩ.
Trung Tá Tỉnh Trưởng và Thiếu Tá Đạt cùng cười. Tôi biết mình hố rồi. Trung Tá Tỉnh Trưởng nói :
- Tấn công cái... đầu của anh. Lính Sư Đoàn I và chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức bọn chúng xơi tái 2 Đại Đội của anh ngay. Vụ nầy chỉ có một mình anh làm mà thôi.
- Trung Tá nói vậy nghĩa là sao? Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Người Mỹ sẽ huấn luyện và chỉ cách cho anh.
Hai người Mỹ dân sự huấn luyện tôi trong hai ngày tại Căn Cứ Phú Bài, đủ để hiểu cách thức phá hoại bộ phận nào trong đám máy móc phát thanh của Đài Phát Thanh Huế. Ba ngày sau tôi trở về Huế, ghé thăm gia đình cởi bỏ đồ lính thay thường phục, ghé đài phát thanh Huế kiếm mấy thằng bạn sinh viên tranh đấu mời chúng nó đi uống café Lạc Sơn. Mấy thằng bạn gặp tôi mừng lắm, bọn chúng hỏi tới tấp:
- Liên Thành, sao về được?
- Lính về tham gia tranh đấu hết rồi, bây giờ tao tà tà.
- Thôi về đi, tham gia với bọn tao, lật đỗ Thiệu, Kỳ xong rồi tính.
- Có lý. Cả bọn kéo nhau sang Lạc Sơn uống Café.
Trời đã về chiều tôi nói với mấy thằng bạn:
- Thôi, chiều rồi, tao về, vài hôm nữa gặp.
- Mầy bận việc?
- Không, lính tráng trốn đi hết rồi, bây giờ đâu có đánh đá gì đâu.
- Vậy đêm nay ở lại với bọn tao cho vui, mình về đài phát thanh, tối nầy ăn cháo gà ca hát, ngày trước ở trường Quốc Học nầy hát hay lắm mà. Không suy nghĩ tôi nói ngay:
- Được rồi, đêm nay ở lại với tụi mầy cho vui.
Tôi nghĩ thầm: Chết tụi mầy, tụi mầy rước cọp về rừng.
. . . . . .
|
|