|
Post by nguyendonganh on Jul 21, 2013 9:24:34 GMT 9
Biến Động Miền Trung
LIÊN THÀNH
PHẦN 4
. . . . . .
Cũng thoáng một chút buồn vì nghỉ mình đang lợi dụng tình bạn. Nhưng nghĩ lại mình là một người lính nhận lệnh cấp chỉ huy phải thi hành thì trong lòng cũng nhẹ đi đôi chút.
Đúng 4 giờ sáng tôi thi hành kế hoạch phá hoại. Công việc hoàn tất trong vòng 10 phút, vượt quá thời gian ấn định 1 phút 17 giây. Đám Sinh Viên tranh đấu vẫn ngủ say. Tôi rời Đài Phát Thanh Huế đến điểm hẹn cách Đài phát thanh không xa, trễ mất 4 phút, đã có xe đợi sẵn chở tôi về lại Hương Thủy. Thường ngày vào 6 giờ sáng dân Huế mở Radio đều nghe tiếng nói lanh lảnh của xướng ngôn viên:
- Đây là Tiếng nói của Lực Lượng Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung nhưng sáng nay mở Radio không còn nghe được nữa. Đài phát thanh đã tắt tiếng.
Nhiệm vụ tôi hoàn tất.
Thế nhưng chỉ vài ngày sau Tiếng nói phát thanh Tranh Đấu được phát trở lại. Đơn vị kỷ thuật dò tìm làn sóng phát thanh của Mỹ cho biết làn sóng được phát đi tại Chùa Ông. Chùa Ông là một ngôi chùa nhỏ nằm phía sau chùa Diệu Đế, cạnh bờ sông Gia Hội đường Bạch Đằng. Thì ra sau khi bộ phận phát thanh tại Đài Phát Thanh Huế bị phá hủy, không phát thanh được nữa. Bọn tranh đấu tháo gỡ toàn bộ hệ thống tiếp vận và phát tuyến điện thoại của Ty Bưu Điện Huế đặt tại đường Hàng Muối gần Trường Nữ Hộ Sinh Quốc gia đem sang Chùa Ông thiết lập đài Phát thanh.
Giữa tháng 5-1966, tôi nhận lệnh dùng 2 Đại đội cơ hữu giữ an ninh và đánh dấu bãi đáp trực thăng để lực lượng quân sự đổ quân dùng Tỉnh lộ Huế-Tuần tiến quân vào thành phố Huế trong đêm. Tôi sửa soạn đơn vị chuẩn bị xuất phát thì có lệnh hủy bỏ.
Tình hình Huế mỗi ngày một sôi động, Đài phát thanh tranh đấu Phật Giáo loan tin khẩn cấp từng giờ một: Quân đội Thiệu Kỳ đã đổ quân ra Đà Nẵng, sắp sửa ra Huế . Đài phát thanh cũng kêu gọi đồng bào Phật Tử, lực lượng Tranh Đấu, Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức thiết lập các chướng ngại vật ngoài đường phố ngăn cản, đặt súng phòng không trên các cao ốc và những vị trí trọng yếu.
Sáng ngày 4 tháng 6-1966, Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt gọi tôi về gấp Chi Khu Hương Thủy họp khẩn cấp. Trong phiên họp Trung tá Tỉnh Trưởng tuyên bố:
- Tình hình đã quá trầm trọng, nếu mình không ra tay thì bọn tranh đấu sẽ đưa lực lượng quân sự Việt Cộng chiếm thành phố.
- Đêm nay, mình vào Huế.
Nhiệm vụ được trao cặn kẻ cho mỗi đơn vị trưởng. Phần tôi, dùng 2 Đại Đôi cơ hữu chiếm Ty Cảnh sát trong đêm nay. Tôi hỏi Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt:
- Em có lực lượng trừ bị không, Thiếu Tá có đi với đơn vị em không?
Thiếu Tá Đạt cười:
- Không có lực lượng trừ bị. Tôi có công việc khác phải làm, không đi với anh được. Đừng lo, anh lạnh cẳng rồi hay sao, tôi nghĩ, đối với bọn nó Liên Thành đủ sức chơi, nếu chơi không nổi thì cứ ôm quần chạy ngược lên Nam Hòa đợi, tôi sẽ bốc anh về Hương Thủy. Nhưng mà tôi biết anh dư sức. Nhớ một điều quan trọng: Chỉ trong trường hợp tự vệ, bị bọn chúng bắn, ngoài ra không được nổ súng. Chiếm Ty Cảnh Sát trong thành phố không phải hành quân đánh nhau với Việt Cộïng ở Nam Hòa.
- Nhận rõ, Thiếu tá.
-Vậy thôi, anh trở về lại Nam Hòa chuẩn bị. Khi cho đơn vị xuất phát gọi máy báo cho tôi biết ngay.
Khuya ngày 4-6-1966, chúng tôi xuất phát từ Nam Hòa xuống Cầu Lim, qua Đàn Nam Giao, ngang núi Ngự Bình đến cầu An Cựu đột nhập thành thành phố. Vừa đến cầu An Cựu, một lần nữa tôi nhắc lại kế hoạch với Thượng Sĩ Bái:
- Từ đây đến Ty Cảnh Sát thành phố không xa, anh cho lính đi thật thưa, bám sát phía trái đường Duy Tân, mình băng qua đồng An Cựu một đoạn ngắn là đến Ty Cảnh Sát nằm bên tay trái. Nếu gặp bọn chúng thì cứ la to là phe ta. Lính đồn Vận Tải An Cựu đi tuần, bọn chúng không nghi ngờ đâu. Đến cổng Ty Cảnh Sát, toán của anh lo chế ngự mấy ông Cảnh Sát gác cửa, tôi và toán của tôi xông thẳng vào trong. Chiếm mục tiêu được rồi anh rải lính bố trí quanh Ty Cảnh Sát. Nhớ kỹ lệnh cấm không được nổ súng.
- Nhận rỏ, Thiếu úy.
Trong bóng đêm mờ ảo tôi thấy anh ta quay lưng làm dấu Thánh Giá, miệng lẫm bẩm: Lệnh lạc gì kỳ cục vậy, đi hành quân chạm địch mà không được nổ súng. Tôi nói nhỏ theo vừa đủ cho anh ta nghe:
- Địch con mẹ gì, mấy thằng Tranh Đấu, bắn bọn hắn ngày mai bọn mình lãnh đủ.
Chỉ khoảng hai mươi phút sau chúng tôi đã cách cổng Ty Cảnh Sát thành phố khoảng 150 mét. Tôi và Thượng Sĩ Bái cùng quan sát, gật đầu: cổng chính không có lính gác. Tôi nói nhỏ với Thượng Sĩ Bái:
- Cả hai toán cùng vào một lúc. Anh chiếm cổng chính đặt trạm gác và bố trí lính ngay lập tức. Tôi và toán của tôi xông thẳng vào bên trong.
- Nhận rõ Thiếu úy, ông cẩn thận ở trong tụi hắn bắn ra là ông tan xác đó.
Thượng Sĩ Bái lẹ làng chiếm ngay cổng chính, lính túa vào bố trí. Phần tôi xông thẳng vào cửa chính, tầng lầu thứ nhất, không gặp một ai. Để lại một toán nhỏ giữ lầu một, tôi và một toán khác chạy lên lầu nhì. Tại đây chỉ có 2 người đang nằm ngũ trên 2 chiếc ghế bố trong căn phòng cạnh cầu thang. Phòng không thắp đèn chỉ có ánh điện ngoài hành lang chiếu vào lờ mờ, nghe tiếng động cả hai đều vùng dậy. Một người hốt hoảng la lớn: Lính. Người kia đang còn đang ngái ngủ chẳng nói gì. Tôi nói ngay:
- Đúng rồi, lính. Các anh có bao nhiêu người, sao chỉ có 2 người thôi, đi đâu cả rồi.
Người ngái ngủ bây giờ đã tỉnh, quay lại nhìn tôi, hắn la lớn: Liên Thành.
Hắn ở trong phòng tối, tôi ở ngoài hành lang không thấy rỏ mặt hắn, tôi hỏi lớn:
- Ai đó?
- Trần văn Em đây. Mi đi mô mà khuya rứa. Vô đây làm chi?
- Chiếm Ty Cảnh Sát. Tôi trả lời hắn.
Đèn trong phòng bật sáng, nhìn rõ. Đúng hắn là Trần văn Em, thằng bạn học từ thuở học trường làng, trường tiểu học Nam Giao, cùng vào Hướng Đạo, Thiếu Đoàn Đinh Bộ Lĩnh. Vào đời hắn đi Cảnh Sát, tôi đi lính. Đã lâu lắm bây giờ gặp mới gặp lại. Tôi định hỏi hắn thì hắn chận ngang:
- Khoan đã, nói mấy ông Lính của mi hạ súng xuống, 8 cây súng hướng vào tau, thấy cũng muốn xỉu, bóp cò là tan xác. Tôi xoay lại cười với đám lính: Phe mình. Cả bọn cùng cười.
Thượng Sĩ Bái cũng vừa dưới lầu đi lên:
- Xong rồi Thiếu úy. Tôi cho lục soát kỹ không có ai ở dưới cả, trống trơn.
Người Cảnh Sát mà tôi chưa biết tên nói với Thượng Sĩ Bái:
- Chỉ có 2 chúng tôi trực thôi. Không có ai hết, mấy anh đừng lo.
Tôi nói với Thượng Sĩ Bái:
- Gần sáng rồi, tôi gọi máy trình thẩm quyền xong, mình nghỉ sáng mai rồi tính.
- Tôi và hai thằng con lớn về đến nhà rồi, vợ tôi dẫn mấy đứa nhỏ đi về bên ngoại hết, nhà trống trơn, mọi chuyện yên ổn. Tôi gọi máy nói lóng với Thiếu Tá Đạt,
- Tốt lắm. Cha con anh đi nghỉ đi, ngày mai tôi đến thăm.
- Nhận rõ thẩm quyền.
- Ông cũng đã mệt quá rồi, sắp xếâp cho lính xong Ông nghỉ đi, mọi chuyện để sáng mai. Tôi nói với Thượng Sĩ Bái.
Bái và đám lính đi xuống lầu. Bây giờ Trần văn Em hỏi tôi:
- Mày nói sao, mày chiếm Ty Cảnh Sát thật à. Có lẽ trong đời này không còn ai ngu hơn mày. Bộ mày tưởng với đám lính quèn đó mày chống lại được Lực Lượng tranh đấu sao? Ngoài Lính Sư Đoàn, Chiến đoàn Quân nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức còn có bọn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử. Bọn này sắt máu và rất nguy hiểm, toàn là Việt Cộng nằm vùng. Hai kho súng, lựu đạn, máy móc truyền tin, xe cộ của Ty Cảnh Sát tụi hắn lấy hết rồi. Bây giờ thì bọn hắn thằng nào cũng có súng, có lựu đạn. Bọn hắn mà biết mày chống lại bọn hắn là chết. Mày chết đã đành, bọn hắn còn kéo đến đốt nhà đánh đập mọi người trong nhà mày, mày biết không? Tôi nói:
- Tao là quân nhân, sống trong kỷ luật của Quân Đội. Lệnh đánh là đánh. Lệnh chiếm Ty Cảnh Sát là chiếm Ty Cảnh Sát chỉ có thế thôi. Vả lại bọn làm loạn này trước sau gì rồi cũng phải dẹp, đồng ý không?
Hắn im lặng.. Khoảng 11 giờ sáng ngày 5-6-1966 Thiếu Tá Đạt gặp tôi và Thượng Sĩ Bái tại sân Ty Cảnh Sát Huế, sau vài câu khen ngợi công việc hồi đêm. Ông nói ngay:
- Địa điểm này là đầu cầu an ninh cho lực lượng của Chính Phủ sẽ đổ quân trong vài ngày tới. Có thể Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến Sài Gòn đến trước. Mình sẽ giao trụ sở này cho họ. Chúng tôi đang nói chuyện thì Trần Văn Em từ trong văn phòng Ty Cảnh Sát ra, gặp chúng tôi, hắn nói:
- Đài Phát Thanh Tranh Đấu vừa loan tin Quân Đội Thiệu Kỳ đã đột nhập thành Phố Huế và đã chiếm Ty Cảnh Sát thành phố vào hồi khuya này. Tôi sợ bọn tranh đấu sẽ kéo đến đây bây giờ. Thiếu Tá Đạt hỏi tôi :
- Người đó là ai?
- Hắn là Cảnh Sát, bạn thân từ nhỏ.
- Tin được không?
- Tin được Thiếu Tá.
Thiếu Tá Đạt bàn với tôi:
- Tôi không tin là đám tranh đấu sẽ tấn công mình lúc này đâu, vì họ chưa nắm vững tình hình, chưa biết mình thuộc lực lượng nào , nhiều hay ít. Dù sao mình là lính có súng, đụng mặt với mình họ còn e ngại. Nếu họ kéo đến anh cố gắng thương lượng kéo dài thời gian, cứ giải thích là mình được lệnh của Trung Tá Tỉnh Trưởng tăng cường lo an ninh cho thành Phố đề phòng bọn Việt cộng phá hoại. Mình không phải là lực lượng được Saigòn gởi ra chống họ. Có thể mình sẽ bị một vài thành phần trong đám tranh đấu khiêu khích chọc giận để mình mất bình tĩnh và có những hành động lọt vào bẫy của họ. Vì vậy, chính anh phải bình tĩnh và dặn dò binh sĩ phải bình tĩnh. Anh chỉ cần giữ địa điểm này trong vòng vài hôm đợi lực lượng Saigòn ra là xong. Hiện tại họ đã ra Đà Nẵng.
Đến 8giờ 45 sáng ngày 6-6-1966 qua hệ thống truyền tin, Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt cho biết: Khoảng 10 giờ sáng Trung Tá Phan Văn Khoa,Tỉnh Trưởng sẽ đến thăm đơn vị tôi. Trung Tá Tỉnh Trưởng cũng muốn gặp và nói chuyện với nhân viên Cảnh Sát tại hội trường của Ty Cảnh Sát. Tôi báo cho Trần văn Em và nhờ hắn giúp thông báo với anh em Cảnh Sát.
Đến 10 giờ 10 phút sáng, Trung Tá Tỉnh Trưởng, Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt đến. Tôi đón cả hai ngoài cổng chính. Ông bắt tay tôi thật mạnh và nói:
- Liên Thành, giỏi lắm, sợ tụi hắn không?
- Chưa đụng tụi hắn, không sợ Trung Tá. Tôi trả lời tỉnh khô.
Cả hai chỉ thăm và nói chuyện với binh sĩ chưa đầy 10 phút, sau đó đi thẳng vào Phòng Hội Ty Cảnh Sát. Đến ngoài cửa phòng hội, tôi dừng lại vì nghĩ không phải việc của mình, nhưng Trung Tá Khoa quay lại:
- Liên Thành, anh vào trong này luôn.
Thiếu Tá Đạt đẩy tôi lên phía trước đi với Trung Tá Khoa vào phòng hội. Ông đi tà tà phía sau. Quang cảnh phòng hội thật thê lương. Ngoài Trần văn Em bạn tôi, có 14 ông Cảnh Sát già, mối lo âu sợ sệt hiện rõ trên nét mặt. Họ ngồi yên và chờ đợi. Trung Tá Tỉnh Trưởng bước lên bục cao. Thiếu Tá Đạt và tôi đứng cạnh Ông. Trung tá Tỉnh Trưởng nói lớn nhưng chậm rãi:
- Như mọi người đã biết, hơn hai tháng nay Thừa Thiên-Huế hầu như không còn có chính quyền. Nhóm người Tranh Đấu đã dùng bạo lực ép bức đồng bào đình công, bãi thị. Các trường Trung Học và Đại Học Huế phải đóng cửa. Bọn họ ép buộc học sinh, sinh viên bãi khóa. Bọn chúng đã xâm phạm và chiếm giữ các cơ sở của chính quyền, như chiếm Đài phát thanh, tháo gỡ toàn bộ hê thống phát tín của Ty Bưu Điện, biến chế thành Đài Phát thanh Tiếng Nói Tranh Đấu. Hai kho vũ khí của 2 Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, và Thị Xã Huế đã bị bọn chúng chiếm đoạt. Khoảng hơn 4000 ngàn vũ khí các loại, toàn bộ hệ thống truyền tin tối tân của Cảnh sát và xe cộ đã bị bọn chúng lấy đi và hiện đang dùng làm phương tiện chống chính phủ. Đi xa hơn nữa bọn chúng đã tấn công và đốt phá tài sản của ngoại kiều, bao vây Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Tại Huế, đốt cháy tan tành thư viện và phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại đường Lý Thường Kiệt Quận Ba- Huế.
Lực lượng quân sự của Chính Phủ Trung Ương sẽ yểm trợ mạnh mẽ cho chính quyền địa phương Thừa Thiên Huế tái lập an ninh trật tự trong một vài ngày tới. Tôi kêu gọi hơn 4000 nhân viên công lực của hai ty cảnh sát Thừa Thiên, Huế, lập tức trình diện nhiệm sở. Với tư cách Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Thị Trưởng Thị Xã Huế, tôi hứa sẽ không truy cứu một ai. Và hôm nay là ngày 6-6-1966, trong quyền hạn của một Tỉnh Trưởng kiêm Thị Trưởng, Tôi bổ nhiệm:
-Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên và Thị Xã Huế. Thiếu Úy Liên Thành, Phó Trưởng Ty, phụ trách Cảnh Sát Đặc Biệt.
Tôi chưng hửng, mình có nghe nhầm không. Khoảng 5 phút sau buổi gặp mặt chấm dứt. Chúng tôi rời khỏi phòng hội, tôi hỏi ngay Trung Tá Tỉnh Trưởng:
- Sao khi hồi Trung Tá không nói trước. Em là lính làm sao chỉ huy Cảnh Sát được, khó quá.
- Trong những ngày sắp đến tình hình sẽ rất khó khăn, hoặc là mình đánh gục bọn chúng, hoặc bọn Tranh Đấu đánh gục bọn mình, tôi cần những sĩ quan như em và Đạt. Phải cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ, nếu cần thêm lực lượng tôi sẽ tăng cường thêm 1 Đại Đội nữa. Cố gắng kêu gọi anh em Cảnh Sát trở lại làm việc. Ông bắt tay tôi lên xe rời Ty Cảnh Sát. Trung Tá Tỉnh Trưởng nói:
- Anh lo dùm mọi việc, tôi phải đi họp. Thiếu Tá Đạt cũng bắt tay tôi:
Đài phát thanh Tranh Đấu loan tin Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa vừa bổ nhiệm Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt trưởng Ty Cảnh Sát, Thiếu Úy Liên Thành Phó trưởng Ty CSĐB. Bọn họ chuẩn bị đàn áp phong trào tranh đấu. Lực Lượng Tranh Đấu báo động. Chúng tôi đi ra trạm gác phía sau Ty định ăn trưa thì Đài Phát Thanh Phật Giáo Tranh Đấu phát đi lời kêu gọi của Thích Trí Quang với nội dung tóm tắt như sau:
Khuya 5-6-1966 Lực lượng Thiệu Kỳ đã bất thần chiếm Ty Cảnh Sát Thị xã Huế. Trong những ngày kế tiếp Thiệu Kỳ sẽ đưa lực lượng Quân Sự từ Đà Nẵng và Saigòn ra Huế để đàn áp Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung. Yêu cầu Phật giáo đồ, Khuôn Hội Phật Tử mọi cấp, và đồng bào đem Bàn Thờ Phật xuống đường ngăn chận quân đội Thiệâu Kỳ tiến vào thành phố Huế.
Lời kêu gọi của Thích Trí Quang phát đi trên làn sóng của Đài phát thanh Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung đúng 12 giờ trưa ngày 6 tháng 6 năm 1966. Tôi gọi máy cho Thiếu Tá Đạt:
- Thẩm quyền nghe chưa?
- Tôi và Trung Tá Tỉnh Trưởng vừa nghe xong. Có lẽ lần này bọn chúng sẽ kéo đến thăm anh đó. Giữ vững vị trí, không để cho bọn chúng lọt vào trong. Nếu cần chỉ xử dụng hơi cay mà thôi.
- Trình thẩm quyền mình đâu được trang bị hơi cay.
- Tiểu Khu sẽ chuyển qua cho anh bây giờ.
- Nhận rõ.
- Ông cho anh em vào vị trí đi, tăng cường thật mạnh ở cổng trước. Thâu hồi lựu đạn M 26, mình sẽ phát cho lính lựu đạn cay và mặt nạ. Bọn chúng kéo đến chỉ la hét phía ngoài thì kệ họ. Nhưng bọn chúng xông vào thì xử dụng tối đa lựu đạn cay để đẩy bọn chúng ra. Tuyệt đối không được nổ súng. Tôi nói với Thượng sĩ Bái:
- Nhưng nếu bọn tranh đấu tấn công mình bằng súng thì sao?
- Bọn hắn súng nhỏ, mình súng lớn ông sợ sao?
- Tôi chỉ sợ lính Sư Đoàn.
Tôi đi với Trần văn Em vào văn phòng. Tôi nói với anh ta :
- Mình đến phòng truyền tin tôi muốn nói chuyện với mấy ông trưởng CSĐB các quận.
Hệ thống truyền tin của 13 quận vẫn còn làm viêc với BCH tỉnh. Tôi nói rất gọn với họ:
- Tôi là Thiếu úy Liên Thành vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng bổ nhiệm vào chức vụ Phó Trưởng Ty CSĐB vào 10:30 sáng ngày hôm nay 6-6-66. Kể từ giờ này tôi yêu cầu các đơn vị trưởng ngành CSĐB, mỗi quận vào mỗi đầu giờ báo cáo mọi diễn biến xảy ra trong phạm vi trách nhiệm lên BCH Tỉnh. Tôi cũng yêu cầu các đơn vị trưởng CSĐB kêu gọi nhân viên trực thuộc trở về đơn vị làm việc. Sau 7 ngày kể từ ngày hôm nay, những ai không trở lại nhiệm sở tôi xem như họ đào nhiệm và sẽ đề nghị sa thải khỏi ngành CSQG. Chấm dứt.
- Đến 1:46 chiều ngày 6-6-1966 theo lệnh Trí Quang, các đoàn Sinh Viên Quyết Tử đi từng khu phố, từng phường, từng khóm, từng tư gia bắt buộc dân chúng đem bàn thờ Phật xuống đường. Tại quận II, trung tâm thành phố Huế từ bến xe Nguyễn Hoàng dọc đường Trần Hưng Đạo về đến cầu Gia Hội, đường Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Chi Lăng Bạch Đằng, đường lớn, đường nhỏ, bàn thờ Phật dày đặc, được đặt ngay giữa đường. Tại Quận Ba, từ khu chợ An Cựu ra đến đoạn nối liền Quốc lộ I về Phú Bài, đường Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Huệ, Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm v..v; hàng ngàn, hàng ngàn bàn thờ Phật, lớn, nhỏ đặt ngay giữa đường ngăn chận lối đi. Tại Quận I, quận Thành nội, bàn thờ Phật được đặt dọc đường Đinh Bộ Lĩnh, từ cửa Thượng Tứ vào tận cổng BTL/Sư đoàn I. Bàn thờ Phật cũng được Thích Trí Quang cho lệnh trải dài trên quốc lộ I từ Lăng Cô đến Cầu Hai, Truồi, An Nong I, An Nong II, đến gần Phú Bài, từ Dạ Lê, Hương Thủy qua khỏi quận lỵ Hương Trà.
Quốc lộ I nối liền Đà Nẵng-Huế- Quảng Trị ngưng hoạt động. Không còn thấy bóng dáng một chiếc xe đò nào chở khách Huế-Đà Nẵng, Huế- Quảng Trị, hoặc các đoàn xe của Quân Đội VN, Hoa Kỳ di chuyển trên quốc lộ I vì đã bị bàn thờ Phật chận lối đi. Huế hỗn loạn. Huế thất thần. Huế lo âu. Dân chúng đổ ra đường đi tìm mua mắm muối dự trữ cho những ngày biến loạn đang tiếp diễn. Nhưng mua ở đâu? Trí Quang đã cho lệnh đình công bãi thị. Chợ không đông, cửa hàng nhu yếu phẩm không mở. Ngoài đường phố toàn là bàn thờ Phật, và từng đoàn Sinh Viên Quyết tử của Trí Quang đang đi xách động, dọa nạt, cưỡng bức dân lành đem bàn thờ Phật xuống đường chống Thiệu Kỳ.
Không một chiếc xe hơi nào có thể di chuyển được trong thành phố Huế lúc này. Mọi nơi trong thành phố bàn thờ Phật đã bít lối đi. Dân Huế, mặc dầu là Phật Giáo đồ, đã bắt đầu thấm đòn của Trí Quang, bắt đầu hé một mắt để nhìn chân dung Trí Quang xem hắn thật sự là ai, Quốc gia hay Cộng Sản, là kẻ tu hành hay Sư Hổ mang, vì Đạo Pháp hay vì mưu đồ cá nhân của hắn. Thật hay giả thì chưa biết nhưng có một điều không thể chấp nhận được đó là bắt tín đồ đem bàn thờ Phật ra đường, đối với tín đồ đây là một hành động xúc phạm nặng nề đối với niềm tin thiêng liêng và sự kính trọng. Nhiều khu phố, nhiều phường, nhiều khóm đã chống lại lệnh của Trí Quang không chịu đem bàn thờ Phật ra đường, nhưng chống sao nổi với những đoàn Sinh Viên Quyết Tử mang băng đỏ của Trí Quang. Những ai chống lại là người của Thiệu Kỳ, và Đoàn Quyết Tử của Trí Quang sẽ đem đại họa đến với cá nhân và cả gia đình họ. Đám này chẳng khác gì Vệ Binh Đỏ của Mao Trạch Đông và Giang Thanh ở Đường Phố Bắc Kinh, Trung Cộng, thời Cách Mạng Văn Hóa.
- 1:45 Trưa ngày 7/6/66 Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến và Trung Tá Phan Huy Sảnh Chỉ Huy Trưởng Biệt Đoàn, lực lượng tổng trừ bị của Tổng Nha Cảnh Sát được không vận đến Huế. Tôi bàn giao trụ sở Cảnh Sát thành phố lại cho Biệt Đoàn 222 CSDC. Đơn vị tôi di chuyển sang trú đóng tại trụ sở Nha Cảnh Sát vùng I, sau này là BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế.
- Ngày 8/6/66 Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh phó Không quân, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo đến Huế. Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan là Tư lệnh hành quân dẹp loạn miền Trung. BCH hành quân đặt tại Toà Đại Biểu chính phủ thuộc quận 3 thành phố Huế.
Dân Huế sống trong lo âu sợ sệt, một trận đụng độ lớn có thể xảy ra bất cứ lúc nào giữa lực lượng dẹp loạn của Chính phủ trung ương do Đại Tá Ngưyễn Ngọc Loan chỉ huy và đám tranh đấu cũng như đại đơn vị Sư Đoàn I BB ly khai do Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận chỉ huy. Thế nhưng từ ngày 8/6/66 đến ngày 12/6/66, Đại Tá Loan vẫn án binh bất động, ngoại trừ ông cho lệnh một đơn vị thuộc Biệt Đoàn 222 chiếm lại đài phát thanh Huế và nhóm chuyên viên kỹ thuật từ Saìgòn ra sửa chữa đài phát thanh Huế tái hoạt động.
Tối ngày 15/6/66 Đại Tá Loan chỉ thị tôi chỉ huy 1 Đại đội CSDC thuộc Biệt Đoàn 222, bắt đầu giải tỏa bàn thờ Phật tại vùng An Cựu thuộc quận 3. Khoảng 9 giờ 15 tối, tôi rải lực lượng CSDC từ ngã tư Duy Tân và Nguyễn Huệ đến quá cổng Cung An Định. Vừa bố trí xong thì ngay lập tức, đám tranh đấu dùng loa phóng thanh và đài phát thanh tranh đấu loan tin: "Cảnh sát Dã Chiến Saìgon đang đập phá và dẹp bàn thờ Phật tại vùng An Cựu. Yêu cầu đồng bào moị giới tập trung ngăn chận". Chỉ trong vòng 10 phút hàng ngàn người đã vây chúng tôi vào giữa. Trong đám đông có những tên đầu trâu mặt ngựa, ăn nói thô tục bắt đầu chửi rủa chúng tôi thậm tệ. Đại đội CSDC đúng là dân chuyên nghiệp, mặc cho thiên hạ chửi rủa, họ vẫn đứng tỉnh khô, đợi lệnh. Viên đại đội trưởng nói với tôi:
- Ông Phó, đừng lo, chỉ cần ông Phó ra lệnh là bọn em dẹp đám này ngay.
Bây giờ thì bọn tranh đấu bắt đầu đốt lốp xe hơi chung quanh chúng tôi. Ánh lửa bập bùng đễ đưa chúng tôi vào bạo lực. Tôi cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh nói với viên Đại đội trưởng:
- Ông cho dàn đội hình, mang mặt mạ chuẩn bị giải tán đám này. Vừa ngay khi đó thì BCH hành quân của Đại Tá Loan gọi tôi báo cáo tình hình. Sau phần báo cáo tôi nói thêm:
- Tôi đang chuẩn bị giải tán đám này và dẹp bàn thờ.
- Anh đợi, tôi trình thẩm quyền.
- Nhận rõ.
- Lệnh thẩm quyền không giải tán đám đó, không cần dẹp bàn thờ nữa. Tránh đụng chạm, đưa con cái anh trở về.
-Nhận rõ.
Vưà cương vừa nhu, cuối cùng tôi cũng đưa được đại đội CSDC ra khỏi vòng vây về lại BCH. Đại tá Loan đợi tôi tại BCH, ông nói:
-Tốt lắm, mình chỉ thử xem bọn chúng phản ứng thế nào, mọi chuyện ngày mai hãy tính.
-10:30 đêm ngày 17/6/66, Đại tá Loan ra lệnh cho Biệt đoàn 222 CSDC rải quân dọc đường Trần Hưng Đạo, đại lộ chính của thành phố Huế, và cũng là nơi bàn thờ Phật dày đặc. Tôi được lệnh tháp tùng theo Đại Tá Loan và toàn ban tham mưu cuả ông sang phố Trần Hưng Đạo.
Đường Trần Hưng Đạo khói hương nghi ngút, các sư cô ngồi ngay dưới bàn thờ tụng kinh. Đám phật tử và sinh viên tranh đấu ngồi vây quanh các sư cô. Đại tá Loan đi bộ tà tà dọc theo các bàn thờ, thỉnh thoảng dừng lại ngồi gần các sư cô thầm thì nói chuyện, có trời cũng chẳng biết được ông định làm gì. Đến 1 giờ 45 khuya, bỗng Đại Tá Loan gọi tôi:
- Liên Thành đâu!
- Tôi đây Đại Tá.
- Mày 1 bên, đại tá 1 bên, mình khiêng bàn thờ bỏ vào vệ đường. Tôi và Đaị Tá Loan vừa đặt bàn thờ vào vệ đường thì lập tức Biệt đoàn 222 túa ra như ong vỡ tổ. Chỉ 10 phút sau không còn một bàn thờ Phật nào trên đường Trần Hưng Đạo .
Biệt đoàn 222 CSDC tiếp tục dẹp bàn thờ trong quận 2 và quận 3. Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau thì công việc dẹp bàn thờ tại thành phố Huế đã hoàn tất, ngoại trừ quận I Thành Nội Huế, nơi có BTL Sư Đoàn I, Đại Tá Loan chưa đụng đến.
Suốt ngày 18 tháng 6/66 mỗi đầu giờ đài phát thanh Huế truyền đi lời kêu gọi của BCH hành quân, yêu cầu quân nhân các cấp thuộc Sư Đoàn nằm trong lực lượng Tranh Đấu chống Chính Phủ, các thành phần dân sự sinh viên, học sinh, giáo chức, công chức, Cảnh Sát Quốc Gia, v..v.. trình diện BCH hành quân đặt tại Công Trường Phu Văn Lâu.
Tổng cộng hơn 1000 quân nhân các cấp bị tạm giữ tại Cục An Ninh Quân Đội tại Sàigòn và Phú Quốc.
Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đầu hàng, trình diện Đại Tá Loan, và bị đưa vào giam tại Sàigòn chờ ngày ra toà. Tư Lệnh Sư Đoàn I được thay thế bởi Đại Tá Ngô Quang Trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy Dù. Về phần dân sự khoảng gần 2000 người bị tạm giữ. Sau thời gian điều tra, một số được trả tự do một số khác bị giữ lại truy tố ra toà với tội danh phá rối trị an. Số cơ sở nòng cốt Cộng Sản nằm vùng của Hoàng Kim Loan đã được y phái cán bộ đường dây, đón ra mật khu. Một số khác giả dạng thày tu chạy vào trốn tại các chùa quanh thành phố Huế.
Thích Trí Quang bây giờ đã vào đường cùng. Y tuyên bố tuyệt thực 90 ngày, định ngồi lì tại sân toà Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên, nhưng Đaị Tá Loan đã cho lệnh bắt giữ, giải vào Sàigòn và cô lập tại bệnh viện Bác sĩ Tài.
Sáng ngày 20 tháng 6 /66, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan gọi Thiếu Tá trưởng ty Phạm Khắc Đạt và tôi lên Toà Đại Biểu Chính Phủ gặp ông. Ông cho lệnh chúng tôi bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi đem về toà đại Biểu chính phủ gặp ông. Thật khó cho chúng tôi, nhất là Thiếu Tá Đạt, vì khi chúng tôi còn ở Quận Nam Hoà Trung Tướng Thi là tư lệnh Sư Đoàn I, rồi Tư lệnh Quân Đoàn I, thường thăm viếng quận Nam Hoà và rất ưu ái, nâng đỡ Thiếu Tá Quận Trưởng Phạm Khắc Đạt. Nay vì khác chính kiến trở thành đối nghịch, đệ tử nhận lệnh đi bắt ông thày, lương tâm đâu ổn. Nhìn nét mặt tư lự của ông tôi hiểu ngay, tôi nói với Thiếu tá Đạt:
- Thiếu tá khỏi lo, tôi là thằng sĩ quan hạng bét, ông Trung Tướng không nhớ mặt tôi đâu, để tôi đi trước vào mời Trung Tướng, ông tà tà theo sau.
Tư dinh Trung Tương Thi tại số 12 đường Lê Thánh Tôn thuộc quận 3, sau lưng nhà thờ Nhà Nước (Phan xi cô". Tôi và Thiếu tá Đạt cùng đi một xe đến thẳng tư dinh Trung Tướng Thi. Chúng tôi gặp Tùy viên của Trung Tướng tại phòng khách. Liền ngay đó thì Trung Tướng Thi từ trên lầu bước xuống, hình như ông đã biết mọi việc. Ông nói với Thiếu Tá Đạt:
- Sao Đạt, Đại Tá Loan cho lệnh bắt Trung Tướng phải không? Các em muốn Trung Tướng đi xe của Cảnh Sát hay xe của Trung Tuớng?
- Xin Trung Tướng dùng xe quân đội, chúng em chạy theo sau.
Tôi còn nhớ ông mặc đồ dân sự, áo xanh quần đà, nhưng đi xe quân đội gắn 3 sao, bảng đỏ.
Đến cuối tháng 7/66 thì an ninh, trật tự đã vãn hồi tại tại miền Trung và Thừa Thiên, Huế. Tôi và Thiếu tá Đạt nhận lệnh biệt phái sang lực lượng CSQG đến 30/4/75.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 21, 2013 9:25:59 GMT 9
Những Tên Giết Người Man RợNguyễn Thanh Ty nhân chứng sống cho biết Hoàng Văn Giàu= Hoàng nguyên Nhuận đi chôn sống dân Huế!! ...mấy thằng du kích VC. Trong đám đó tôi còn thấy anh Hoàng Văn Giàu nữa. Anh Hoàng Văn Giàu là một sinh viên học ở Huế. Tôi phải sống mà chứng kiến những sự tàn sát theo lệnh của thầy Tôn Thất Dương Tiềm tại thành phố Huế, tại ngã tư Nguyễn Thành và Mai Thúc Loan tại khu thượng thành đó. Sáng ngày mồng 2 Tết khi VC xuất hiện, nó bắt đầu xách ra... nó bắt ở đâu không biết, nó bắt ra được 5 người, nó trói tay sau lưng, một số còn mặc áo quần ngủ, một số mặc áo quần bình thường, mặc áo pijama, bộ đồ ngủ - đang ngủ ở nhà nó xách ra. Đến trưa trưa 11, 12 giờ ngày mồng 2 Tết, tôi thấy mấy thằng du kích nó dắt ra, dắt ra. Có mấy thằng loong toong VC nằm vùng cỡ như Hoàng Văn Giàu chạy theo đít, chạy theo, chạy theo, ra tới ngay chỗ cửa Đông Ba. Người ta trói cả rồi, bắt đầu đứng sắp hàng, xoay lưng vô thượng thành - thành cao lắm. Tôi thấy ông Tiềm sắp đủ 5 người, sắp lần lần 1, 2 ,3 ,4, bắt đầu 5 người. Tôi thấy đông, chạy tới tôi coi. Tôi cũng núp núp mà tôi coi. Tôi thấy ông Tiềm ra lệnh cho thằng cán bộ VC nói tiếng Bắc. Thằng đó mới ra lệnh cho thằng VC mặc bộ đồ quần đùi đen, bắt đầu giương súng bắn... Tết Mậu Thân và những kẻ có máu lạnh Nguyễn thanh Ty Từ tết Mậu Thân, 1968, đến tết Mậu Tý năm nay, 2008, thời gian tròn chẵn 40 năm. Bốn mươi năm, gần nửa thế kỷ, nửa đời người, đã biết bao nhiêu vật đổi sao dời, song người dân miền Nam, vẫn không làm sao quên được một cái Tết hãi hùng, kinh khiếp mà Việt cộng đã tạo nên, đã đang tay tàn sát dân lành vô tội một cách man rợ nhất trong lịch sử cổ kim trên khắp miền Nam Việt Nam. Nhất là ở Huế - Thừa Thiên, đã có khoảng sáu ngàn người bị thảm sát dã man. Họ đã bị Việt cộng giết bằng những cán cuốc đập vào đầu hoặc bị chôn sống. Cứ mỗi lần Tết đến là xứ Huế lại đắm chìm trong bầu không khí u buồn với màu khăn trắng tang tóc của nhiều ngàn gia đình có thân nhân bị Việt cộng sát hại. Các đám tang tập thể vào các năm 1968-1969 là hình ảnh người ta không thể nào quên. Trong bài viết “Mass Murder, Mass Burial” của nhà báo Tito V.Carballo, đăng trên VietNam Bulletin vào năm 1969 có đoạn mô tả: “Dưới ánh mặt trời chói chang, những dãy quan tài được xếp thành từng hàng ngay ngắn. Bên trong mỗi quan tài đóng vội này là những gì còn sót lại của các thi hài được tìm thấy. Khoảng 15.000 người, trong áo tang trắng, đứng chịu trận dưới trời nắng chang chang. Một ai đó âm thầm khóc, một ai khác khóc to vật vã. Thỉnh thoảng họ lại nhìn nhau như thể đang tìm một lời an ủi, rằng đây không phải là sự thật, đây chỉ là một giấc chiêm bao.” Suốt hai mươi sáu ngày trong tháng giêng, ngày nào, chỗ nào cũng có đám giỗ. Khắp nơi, người dân Huế đều tổ chức cúng giỗ cho người thân của mình trước bàn thờ khói nhang nghi ngút. Tiếng khóc than kể lể của người dân Huế nghe vang vọng cả một trời sầu thảm. Cùng lúc đó, mĩa mai thay, bên cạnh tiếng khóc than đớn đau của người dân thì Việt cộng lại “hồ hởi phấn khởi” rầm rộ tổ chức ăn mừng “chiến thắng Mậu Thân”. Thật đúng với câu “Chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại với nỗi đau của đồng loại để thản nhiên trau chuốt bộ lông của mình” Họ đã ngoãnh mặt trước nỗi khổ đau của đồng bào mà cùng nhau hả hê ca ngợi “chiến công hiển hách” của mình khi tấn công vào miền Nam và thi nhau kể lể thành tích sát nhân của mình. Năm nay, năm Mậu Tý, tại Sài Gòn, những con người Việt cộng lại càng tổ chức rầm rộ hơn nữa, rất trọng thể, để mừng ngày mà họ gọi là “lễ lớn kỷ niệm 40 năm cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân”. Họ khoe rằng, buổi lễ có tới mười ngàn người tham dự rất “hoành tráng” gồm “4000 quần chúng, 1.500 dân quân tự vệ, 2.349 người tham gia diễu binh, 1.700 người tham gia diễu hành nghệ thuật quần chúng...” Trong buổi lễ, Phạm văn Hải, Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ TP.HCM cao giọng khẳng định rằng: “Năm tháng sẽ qua đi nhưng với cả nước, với miền Nam thành đồng, với TP mang tên Bác Hồ kính yêu, chiến công của cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 sẽ mãi mãi sống trong lòng các thế hệ người Việt Nam, vì đó là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng, là khí phách Việt Nam...” Lê Thanh Hải, Bí thư Thành ủy TP. HCM, phát biểu khoa trương: “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 đã tạo “một cú choáng đột ngột” với địch ở miền Nam..., là điểm son chói lọi của lịch sử Việt Nam.” Cuộc thảm sát xảy ra cho Huế mùa Xuân năm 1968 mà Việt cộng hiện nay vẫn còn hãnh diện khoe khoang là “chiến công sống mãi trong lòng các thế hệ trẻ” là “đỉnh cao của chủ nghĩa” là “điểm son chói lọi” là những thành tích gì? Đó là nỗi kinh hoàng đối với người dân Huế. Đó là vết thương chưa khô máu. Đó là vết sẹo chưa lành vẫn còn đau thốn tim can mỗi khi có ai nhắc đến. Chúng ta hãy giở lại trang sử cũ, Tết Mậu Thân, để nhìn lại những “những bộ lông” mà Việt cộng đã “trau chuốt” lập nên xem nó chói lọi đến độ nào và tạo đỉnh cao tới đâu. Lẫn trong tiếng pháo nổ rền đón mừng năm mới, đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968, Việt cộng đã đồng loạt bất ngờ nổ súng tấn công 4 thành phố lớn, trọng tâm là Sài Gòn, Gia Định và Huế, 37 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn của miền Nam. Việt cộng tưởng đâu lợi dụng yếu tố bất ngờ giây phút thiêng liêng trong đêm giao thừa, toàn thể quân dân miền Nam đang long trọng đón rước tổ tiên, ông bà về ăn Tết với con cháu, giáng một đòn sinh tử chớp nhoáng xuống miền Nam để có thể “ăn chắc” như ông Hồ muốn “Xuân này chiến thắng ắt về ta”. Nhưng, thiên địa bất dung gian, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, chỉ hơn một tuần lễ sau, quân lực VNCH đã bẻ gẫy tất cả các nổ lực của Cộng quân và đã đánh bật chúng ra khỏi các thành phố và các thị xã mà chúng chiếm được lúc đầu. Chỉ trong mấy ngày, quân Việt cộng đã trả một giá quá đắt: 32 ngàn bị thương vong và khoảng 5.800 bị bắt. Riêng thành phố Huế, Cộng quân cố liều chết, chiếm giữ lâu nhất là 26 ngày. Ngày 25 tháng 2, những lực lượng cuối cùng của Việt cộng bị đẩy lui ra khỏi thành phố Huế. Trong 26 ngày bị vây hãm, Việt cộng không còn khả năng chiến đấu, trước khi tháo chạy, đã điên cuồng say máu giết hại người dân lành để trả thù. Bao nhiêu người dân Huế bị Việt cộng sát hại?Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5.300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên. Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2.326 sọ người. Các gia đình kê khai có người chết và mất tích lên đến 4000 người. Người ta ước tính khoảng 6000 người. (Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó Trưởng Ty Cảnh sát Đặc biệt Lực lượng Cảnh sát Quốc gia tỉnh Thừa Thiên và Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu Khu vực Thừa Thiên.) Nơi đầu tiên tìm thấy các nạn nhân Việt cộng là sân trường Trung Học Gia Hội vào sáng ngày 26 tháng Hai, tổng cộng có 170 xác. Mấy tháng sau, người ta tìm thấy thêm 18 nơi chôn tập thể, lớn nhất là khu ở gần chùa Tăng Quang, 67 thi thể, Bãi Dâu, 77, khu chợ Thông, khoảng 100, khu lăng tẩm, 201, Thiên Hàm khoảng 200, Đồng Gi, khoảng 100. Tổng cộng khoảng 1.200 thi thể tìm thấy trong những hầm hố lấp vội vã. Dần dần các ngôi mộ tập thể được tìm thấy khắp nơi. Tại quận Phú Thứ, những vùng đồi cát Lệ Xá tây, làng Văn Hoà, Xuân Dương. Quận Vinh Lộc. quận Nam Hòa. Nhiều nhất là tìm thấy ở những đồi cát của ba làng Vinh Lưu, Lệ Xá đông và Xuân Ô. Hơn 800 người được tìm thấy ở khu nầy. Ở khe Đá Mài tìm được 428 bộ xương... Thành phần nào bị giết?Ông Nguyễn Lý Tưởng kể: “Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói.” Ông Liên Thành nhớ lại: “Riêng tại quận ba, Việt cộng bắt đi hơn 500 người đang trốn trong Dòng Chúc Cứu Thế, dẫn đi hết, rồi chôn sống. Tội nghiệp nhất là một số nạn nhân hoàn hoàn không dính dáng gì đến chính quyền. Ngoài ra trong số này có một người rất tiếng tăm là Thượng Nghị sĩ Trần Điền. Ngoài ra, tại vùng Phủ Cam, bốn ngày sau khi Việt cộng chiếm Huế, nhà thờ lớn Phủ Cam bị ập vào, bắt đi 300 thanh niên sau này được tìm thấy xác ở vùng phía tây Nam Hòa, tức vùng núi dọc khe Đá Mài, lăng Gia Long” Việt cộng giết người dân vô tội bằng cách nào?Hãy nghe một nhân chứng còn sống sau 40 năm thuật lại: “Sau chùa Diệu Đế, chúng nó đưa về phiá Gia Hội, sống xung quanh mấy nhà dân. Chúng bắt chúng tôi đi khiêng vác trong vòng mấy ngày sau, thì bắt đầu tôi thấy phía bên chỗ Đông Ba, máy bay bắn xuống dữ lắm. Tụi tôi thấy chắc là phản công rồi, lính VNCH mình phản công chúng nó rồi. Tôi cũng cầu nguyện, cầu nguyện, nhưng không phải là đi dân công đâu quý vị ơi. Đến tối đó, nó phát cho mấy cái cuốc, nó nói bây giờ đi đào mấy cái hào, cái hầm. Tại vì máy bay bắn xuống quá, tôi nghĩ chắc nó sai tụi tôi đi đào mấy cái hầm để cho tụi nó núp, giống như công sự, núp để tránh đạn tránh bom. Tụi tôi mười mấy thằng còn xác vác cuốc đi đào, cũng đào, đào, nghĩa là tối xuống đi đào, đào. Cái hố bề sâu xuống là một thước, bề ngang bằng một sải tay, một sải tay ngang, cứ đi tới, đi tới, một thằng một khúc, cứ đào. Đào cứ nối liền nhau, nối liền nhau. Đào xong cái này rồi bắt đầu đi đào cái khác, như là đào tuyến công sự đó mà. Nhưng quý vị biết không, sau khi đào xong lúc 3 giờ sáng, lần đầu tiên tôi thấy nó dẫn ra một đám người từ xa trong bóng tối. Những người này khi tiến tới gần, bấy giờ tôi mới thấy là tay trói về phía sau, cột trùm, cột dính vào với nhau bằng sợi dây điện thoại màu đen đen. Nó cột trùm, người ta dắt ra , dắt ra. Mỗi toán nó dắt ra như vậy là khoảng 14, 15 người. Những cái hố chúng tôi đào cũng vừa cái khoảng đó. Nó mới bắt những người đó đứng xoay lưng về cái hố. Còn nhiệm vụ chúng tôi thì chúng tôi đang đứng, đang đào đất, tay chúng tôi đang cầm cuốc. Nó mới sắp hàng những người kia, những người mà nó bắt, bị cột sợi dây điện thoại, dính trùm với nhau. Số người này, một số mặc đồ ngủ hoặc mặc bộ đồ thường, có người mang dép, có người đi chưn, kể cả những người mặc quần xà loỏn. Nó sắp người ta xoay lưng về cái hố mà chúng tôi đào (ông T thở mạnh như bị ngộp thở, khóc thút thít), rồi cái thằng cán bộ VC mặc áo trắng và quần cán bộ chính quy, đội nón cối, nó đọc, nó đọc bản án tội ác của những người đó. Nó nói những người đó có tội với nhân dân, có tội với cách mạng. Nó vừa đọc xong bản án thì thằng du kích VC, thằng đứng đầu mặc quần xà loỏn, quần đen áo đen, nó lấy súng AK bắn người đầu tiên, nó bắn rào, nó bắn rafale. Ông này bị trúng, ông lật ngược ra, đằng sau đâu có cái gì đâu, là cái hố!” Ổng té xuống, quý vị biết không, mấy người sau đâu có trúng đạn gì đâu, cũng lăn xuống. Lăn và lộn, lộn vòng xuống, lật ngửa ra. (Ông T khóc rống lên) Nó bắt tôi lấp! Nó kêu lấp, lấp, lấp lẹ! (vẫn khóc) Tôi không lấp, nó đánh tôi. Tôi nhìn mấy người đó, tôi khóc, tôi khóc, khóc, khóc! Không! Người ta còn sống mà lấp đi! Không! Thôi nó dọng báng súng tôi, súng AK nó dọng, nó dọng đằng sau xương sống tôi (vừa thở như bị ngộp, vừa khóc). Chưa được, nó quay mũi lưỡi lê nó đâm tôi, nó đâm ba sườn tôi. Trời ơi, máu me nó đâm! Mấy thằng, thằng nào cũng khóc, nó đánh, nó đánh. Tôi phải lấp, phải lấp. Tôi lấp đồng bào tôi (khóc nức nở). Trời ơi, trời ơi, Thượng Đế coi này! Bây giờ tôi nhớ tôi có tội quá. Tôi nhớ mấy con mắt đồng bào, mấy người dưới hố ngó tôi. Trời, trời, trời, trời ơi VC ơi là VC! Không lấp thì nó đánh! Lấp thí bà con tôi chết! Thôi, thôi, lạy Phật, lạy trời, lạy Thượng Đế. Chưa có thằng nào nó tàn ác như vậy... ( Nam Dao thực hiện phỏng vấn. Tamthuc.com) Hầu hết những hố chôn tập thể tìm thấy được, các xác nạn nhân đều bị trói từng chùm với nhau cả. Và đa số đều bị đập bể đầu vì cán cuốc. Được hỏi vì sao Việt cộng lại tàn sát đồng bào man rợ đến như vậy, một trung tá Việt cộng bị bắt tên Hoàng Kim Loan, thành ủy viên hoạt động bí mật tại Huế 20 năm trả lời: “ Đây là chủ trương bạo lực cách mạng của cấp trên chỉ thị. Thứ hai, trên đường rút lui, do không thể đem theo tù nhân, nên phải giết. Người Cộng sản chúng tôi có chủ trương thà giết lầm hơn bỏ sót” Được hỏi tại sao không bắn họ, cho họ viên đạn còn dễ hơn lấy cuốc đập đầu và đẩy xuống hố, Loan nói: “Đạn chúng tôi để bắn Mỹ Ngụy. Đạn đâu để bắn những đám người như vậy.” Vì sao Việt cộng lại điên cuồng tàn sát người dân Huế?Trong bài viết mới đây, 30/01/2008, “ Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – Nét đặc sắc của Chiến tranh Nhân dân”, Nguyễn mạnh Hưởng (CS trong nước) đã thú nhận: “ ...Để thắng kẻ địch, chúng ta phải phát huy cao độ ưu thế và sức mạnh của chiến tranh nhân dân, quân và dân ta phải có quyết tâm sắt đá...Quần chúng nhân dân trên các mặt trận nổi dậy có tổ chức, với khí thế quyết tâm cao, đặc biệt là tại thành phố Huế, quần chúng đã hăng hái tham gia vào các lực lượng chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong thành phố. Với 26 ngày đêm chiếm giữ thành phố Huế, thắng lợi của quân dân ta là nguồn vũ to lớn, thúc dục các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân trên khắp các chiến trường tiến công và nổi dậy, tiêu diệt địch và dành quyền làm chủ...” Cái mà cán bộ Hưởng gọi là “sức mạnh nổi dậy của quần chúng” thực tế đã trả lời cay đắng cho mộng tưởng. Người dân Huế đã không những không nổi dậy, không hưởng ứng mà lại ùn ùn lánh nạn cùng nhau chạy về phía quân đội VNCH để được bảo vệ. Đó là lý do khiến cho quân Việt cộng tức giận điên cuồng nổi lên thú tánh, giết người trả thù cho hả gan. Ông Trần Tiễn San, trung úy tiểu đoàn 39 Biệt Động quân đã tham gia tái chiếm Huế, kể lại: “ Lúc đánh ở Vỹ Dạ, lực lượng chính của Việt cộng không còn nữa. Nhưng khó đánh vô cùng. Mình tiến từ nhà này sang nhà khác, nhà thì có kẽm gai, bờ tường. Mình thì bên này, dân chúng bên kia, họ thấy là đâm đầu chạy qua...” Đây là chủ trương của Hà Nội, là dùng bạo lực cách mạng trấn áp dân Huế. Hà Nội tin là khi họ chiếm Huế, người dân Huế sẽ nổi dậy theo họ. Đó là một đánh giá sai lầm. Người Huế sợ Cộng sản vô cùng. Vô cùng sợ. Khi Việt cộng tràn vô Huế, họ đến đâu, dân chúng bỏ chạy đến đó. Mà chạy thì họ bắn. Đó là sự thật. Những ai sống tại Huế thời đó đều biết.” Hà Nội đã đánh giá sai lầm người dân Huế qua các báo cáo láo, nịnh bợ, tâng công của những tên nằm vùng ở Huế. Những tên nằm vùng đó là ai?Ngày nay thì mọi ngưòi đều đã nhẵn mặt những tên: Đóa, Tiềm, Tường, Phan, Xuân... Đó là những hung thần ác sát và năng nổ nhất trong việc chỉ điểm lùng bắt những ai không theo hoặc chống chúng. Chúng ta nghe tiếp nhân chứng sống kể lại tội ác của một nhân vật điển hình trong số bọn này: “Tôi xin kể với chị Nam Dao nghe là đến ngày mồng 2 Tết, mở mắt ra thì thấy VC đi vòng vòng. Người đầu tiên tôi thấy là ông thầy tôi, ông Tôn Thất Dương Tiềm. Ông dạy môn Việt văn cho lớp đệ tam chúng tôi, mà bây giờ gọi là lớp 10. Tôi đang học lớp đệ tam thì khi đó ông dạy tôi Việt văn. Thầy dạy tôi thế nào là thương đồng bào, yêu tổ quốc, yêu quê hương. Ông Tiềm là người mở cho tôi con đường thấy rõ được bổn phận của thanh niên là phải làm gì cho quê hương. Nhưng quý vị biết không, trời đất ơi, chính ông Tiềm lại là người dạy cho tôi thế nào là tàn ác của VC! Ông Tiềm là người vác súng K54, dưới thì ông mặc quần xanh xanh của cán bộ chính quy, trên thì ông mặc áo màu trắng, áo sơ mi. Tôi thấy ông Tiềm lúc đó đang chỉ huy những người cũng mặc áo trắng, mặc quần bộ đội, tức là cán bộ, đeo súng K54 làm làm gì đó, nói sầm nói sì gì đó, sau đó mấy người đó mới chỉ trỏ cho mấy người mặc bộ đồ đen, tức là mấy thằng du kích VC. Trong đám đó tôi còn thấy anh Hoàng Văn Giàu nữa. Anh Hoàng Văn Giàu là một sinh viên học ở Huế. Tôi phải sống mà chứng kiến những sự tàn sát theo lệnh của thầy Tôn Thất Dương Tiềm tại thành phố Huế, tại ngã tư Nguyễn Thành và Mai Thúc Loan tại khu thượng thành đó. Sáng ngày mồng 2 Tết khi VC xuất hiện, nó bắt đầu xách ra... nó bắt ở đâu không biết, nó bắt ra được 5 người, nó trói tay sau lưng, một số còn mặc áo quần ngủ, một số mặc áo quần bình thường, mặc áo pijama, bộ đồ ngủ - đang ngủ ở nhà nó xách ra. Đến trưa trưa 11, 12 giờ ngày mồng 2 Tết, tôi thấy mấy thằng du kích nó dắt ra, dắt ra. Có mấy thằng loong toong VC nằm vùng cỡ như Hoàng Văn Giàu chạy theo đít, chạy theo, chạy theo, ra tới ngay chỗ cửa Đông Ba. Người ta trói cả rồi, bắt đầu đứng sắp hàng, xoay lưng vô thượng thành - thành cao lắm. Tôi thấy ông Tiềm sắp đủ 5 người, sắp lần lần 1, 2 ,3 ,4, bắt đầu 5 người. Tôi thấy đông, chạy tới tôi coi. Tôi cũng núp núp mà tôi coi. Tôi thấy ông Tiềm ra lệnh cho thằng cán bộ VC nói tiếng Bắc. Thằng đó mới ra lệnh cho thằng VC mặc bộ đồ quần đùi đen, bắt đầu giương súng bắn. Trong đó tôi thấy có ông Quế ở tại đường Nguyễn Thành. Ông này hồi trước làm cảnh sát gì đó, bây giờ đã già rồi....” 40 năm, sau ngày bàn tay đẫm máu đồng bào Huế, những tên này không biết có hối hận ăn năn về tội ác của mình hay không, nhưng chúng luôn chối bai bải về tội ác của mình. Đứa nào cũng nói với tác giả “Giải khăn sô cho Huế” bà Nhã Ca rằng “chúng tôi chớ hề biết về các vụ thảm sát này và chúng tôi rất đau buồn”. Hãy nghe tác giả “Giải khăn sô cho Huế” kể lại:...Về “những nhân vật thật”, nêu đích danh chỉ có anh Lê Văn Hảo, thị trưởng Huế Mậu Thân do phía quân giải phóng cử ra. Anh Hảo nay đã tị nạn cộng sản tại Pháp, đã chính thức lên án việc quân giải phóng tàn sát dân Huế hồi Tết Mậu Thân. Nhân vật thứ hai trong sách mang tên Phủ là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên Tổng Thư Ký Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế thời Tết Mậu Thân. Ðây là chức vụ “phụ trách công việc chính trị” có nghĩa là “xếp” của cả chức thị trưởng. Năm 1997, anh Tường đã đến Paris, lên tiếng trên đài RFI, nói về - xin trích nguyên văn: “nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Ðó là một sai lầm không thể nào biện bác được...” Anh cũng đã công khai “gửi lời cám ơn sự khách quan của chị Nhã Ca dành cho tôi” và nói nguyên văn rằng “Giải Khăn Sô Cho Huế đối với tôi, vẫn là một bút ký hay viết về Huế Mậu Thân; hàng chục năm qua đọc lại, tôi vẫn còn thấy quặn lòng.” Văn bản lời anh Tường trả lời cuộc phỏng vấn của chị Thụy Khuê đài RFI hiện còn lưu trên internet, ai cũng có thể đọc được. Nhân vật thứ ba trong sách có tên là Ðắc, theo lời kể mà tai tôi nghe, liên quan tới cái chết đau thương của người bạn tên là Mậu Tý. Nhà báo Nguyễn Ðắc Xuân, một phụ tá của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, có viết bài phản bác, nói là anh không hề liên quan. Cả ba nhân vật kể trên, đều đã có lòng đích thân đến gặp tôi trước ngày chúng tôi rời Saigon sang Thụy Ðiển.” . Thủ phạm của vụ thảm sát là ai? Ai chịu trách nhiệm?Đã 40 năm qua, đã 40 lần Việt cộng tổ chức ăn mừng, ca hát trên xác chết của hơn 6000 nạn nhân ở ở Huế, nhưng bọn chúng vẫn không hề nhận tội của mình đã ra lệnh tàn sát người dân Huế vô tội. Vậy ai là sẽ là kẻ chịu trách nhiệm về những cái chết oan khuất của nhiều ngàn người Huế trong tết Mậu Thân? Đa số dư luận ở Huế đều nói rằng chính những thành phần thiên Cộng tại Huế, là đám sinh viên, đã thoát ly lên mật khu năm 1966 trong các phong trào sinh viên tranh đấu phải chịu trách nhiệm. Trong số này có những tên được đồng bào chỉ đích danh nhiều lần gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê văn Hảo, Tôn thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, Nguyễn văn Đóa... Cả ông Lê văn Hảo từng là Chủ tịch Ủy Ban Nhân dân Cách Mạng Thừa Thiên vào thời ấy, bây giờ cũng chối tội:“Đó không phải là sự thật lịch sử. Tôi chỉ là một con tin(!) trong thế kẹt, phải nhận một chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mong có ngày về với vợ con thôi. Chứ tôi nói thật, trong Tết Mậu Thân, vai trò của tôi hoàn toàn thụ động... Sự việc diễn tiến như vậy thì mình đi theo Cách Mạng thôi.” “Khi lên trên núi, tôi biết ngay Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chỉ là một trò bịp bợm, một tổ chức hữu danh vô thực của Cộng sản mà thôi, do Hà Nội chỉ đạo. Mà họ có dấu điều đó đâu.” Thực ra cái bọn trí thức chồn lùi như Hảo, Tường, Phan, Xuân, Tiềm, Đóa... chỉ là bọn cò mồi ăn theo, nói leo, vượt thoát lên mật khu đã trở về thực hiện một số vụ hành quyết, chôn sống bạn bè để trả thù cá nhân còn thì làm công việc chỉ điểm để cho bọn Bắc Việt bắt bớ. Theo ông Bùi Tín, cựu đại tá CS, đang tị nạn Cộng sản tại Pháp, “giữ một thái độ công bằng, nói có bằng chứng, không biết không nói, không yêu nên tốt, ghét nên xấu” theo cách nói của ông: “ Riêng Mậu Thân, tôi biết Tổng Cục Chiến tranh Chính trị có in một chỉ thị - truyền đơn 10 điều kỷ luật chiến trường, đại để là: phục tùng mệnh lệnh, vào vùng giải phóng không quấy nhiễu dân, không lấy cây kim sợi chỉ của dân, làm dân vận, kẻ địch bỏ súng không được tự động giết ... Khi Thủy quân lục chiến cùng VNCH phản công, bộ đội được lệnh rút lên núi phía Tây Huế, cũng có lệnh giải theo tù binh lên núi, nhưng không được để tù binh thoát, lộ bí mật quân sự, chính đại tá Lê Minh, tư lệnh thành Huế ra Hà Nội kể cho tôi nghe chuyện này và cho biết các đại đội và tiểu đoàn đều có thủ tiêu tù bình. Tướng Trần văn Quang tư lệnh quân khu Trị Thiên-Huế chỉ bị “phê bình” khi chuyện tàn sát “hàng ngàn” tù binh đã xảy ra. Hơn nữa, các đơn vị trừ gian của ngành an ninh, công an, bảo vệ quân đội đi theo các mũi tiến quân mới là những đơn vị trực tiếp tàn sát nhiều tù binh, họ dựa vào bọn cơ hội - học sinh, sinh viên nằm vùng làm chỉ điểm, tâng bốc là giác ngộ, yêu nước, cách mạng, bọn này lộng hành để cố chứng minh lòng “hăng hái cách mạng” và có khi trả thù cá nhân. Họ tàn sát, gây không khí khủng bố để hăm dọa toàn dân. Tôi cũng nói rõ đảng cộng sản hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi cuộc tàn sát trong chiến tranh, vì họ đã giáo dục căm thù kiểu nhồi sọ có hệ thống, tự nhận là có cả một nền khoa học giáo dục về căm thù giai cấp, coi quân lực miền Nam là kẻ thù không đội trời chung..” Đã 40 năm qua, mỗi lần Tết đến, người miền Nam dù trong hay ngoài nước, nhất là người dân Huế, không ai là không đau lòng nhớ lại cái Tết Mậu Thân kinh hoàng đẫm máu. Chỉ riêng những con người cộng sản có máu lạnh mới thản nhiên tổ chức ăn mừng, nhảy múa, “hát trên những xác người”. Thử hỏi một người còn có chút lương tri và nhân tính liệu có thể nào trở lại Bãi Dâu để mà vỗ tay ca hát, ăn mừng chiến thắng như có người đã từng: “Chiều đi lên Bãi Dâu, hát trên những xác người, tôi đã thấy những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em, xác người nằm trôi sông, trôi trên ruộng đồng, xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa, trong giáo đường, trền thềm nhà. Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh. Bên xác người già yếu có xác còn ngây thơ...” Đó là xác của những tên “phản cách mạng” “thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân” như lời phát biểu của tên đao phủ thủ Hoàng Phủ Ngọc Phan đã chủ trương giết lầm hơn bỏ sót đó ư? Sau Tết Mậu Thân, với thảm trạng nhiều ngàn người dân vô tội ở Huế bị Cộng sản trói tay từng chùm với nhau đem chôn sống tập thể hoặc dùng đánh cuốc vào đầu nạn nhân vỡ sọ chết hàng loạt rồi vùi lấp trong các hố để trả thù, người ta càng rùng mình ghê rợn nhận rõ chân tướng loài Cộng sản là một loại ác thú có hình dáng giống người, nhưng không có tim, lại có máu lạnh, thích giết hại và ăn thịt đồng loại. Riêng kiểu giết người bằng cách dùng cuốc đập đầu là phương pháp độc nhất vô nhị dã man của Cộng sản đã được tên Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn dùng để giết cô Nông thị Xuân, người vợ hờ của “Bác Hồ muôn vàn kính yêu” để phi tang vụ Bác làm cho cô có con. Phương pháp này truyền cho bọn MTGPMN, một thời, dùng để lùng giết, thủ tiêu viên chức Xã Ấp VNCH ở các vùng nông thôn hẻo lánh, hoặc dùng để khủng bố dân chúng không tiếp tế cho chúng. Tết Mậu Thân, Việt Cộng lại áp dụng đại trà giết dân lành tại Huế. Và bọn Khờ Me đỏ Pol Pot cũng áp dụng kiểu này ở Cămpuchia để giết hại hàng triệu dân mình. Cộng sản thì ở đâu cũng ác độc giống nhau. Mỗi độ tết về, dù nhà cầm quyền Cộng sản cố tình tổ chức rình rang, “hoành tráng” cách mấy chăng nữa để gọi là ăn mừng chiến thắng Tết Mậu cũng vẫn không cách gì che đậy được tội ác của mình với toàn thể nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân loại nói chung. Năm 1975, khi mới tiến vào miền Nam, nghĩa trang trên núi Ba Tầng, còn gọi là núi Bân, nơi an táng khoảng 400 thi hài tìm được nơi khe Đá Mài vùng Đình Môn Kim Ngọc lập tức bị Cộng sản đập phá tan hoang để hòng bôi xóa vết tích tội ác của mình, cũng đủ nói lên cái “đạo đức cách mạng” mà hiện nay nhà nước ta đang phát động học tập. Oan khiên và thảm thay cho người chết hai lần. Đào Hiếu, một sinh viên miền Nam đã từng một thời với Huỳnh tấn Mẫm, Nguyễn tấn Tài, Cao thị Quế Dương, Võ thị Thắng v.v...... nhẹ dạ, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, đã sớm sáng mắt sáng lòng, nhận ra mặt thật của đảng CS, đã tố cáo sự man rợ tàn ác của Cộng sản trong nhiều tác phẩm của mình. Trong cuốn tự truyện mới nhất, 2008, nhan đề “Lạc đường”, Đào Hiếu đã vạch rõ:“ Hóa ra thiện hay ác, văn minh hay man rợ không phải do dân tộc mà là do chính quyền. Chính quyền man rợ sẽ đẩy dân tộc mình vào man rợ”. Đào Hiếu muốn nói cái chính quyền man rợ nào ở đây?Nguyễn Thanh Ty Dương Văn Minh (16/2/1916 - 6/8/2001)Dương Văn Minh (16 tháng 2 năm1916 – 6 tháng 8 năm 2001), còn gọi là Minh Cồ hay Big Minh, là tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Dù làm tổng thống trong thời gian quá ngắn ngủi, vỏn vẹn 3 ngày (từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975), nhưng ông được xem là có công chính cho Sài Gòn khỏi bị tàn phá bằng cách kêu gọi binh sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện thể theo yêu cầu của Quân giải phóng miền Nam khi họ bắt đầu tấn công vào thành phố này vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.[1] Tuy nhiên, điều này cũng còn gây nhiều tranh cãi trong dư luận cả hai phía và cả trong giới sử học[cần dẫn nguồn]. Mục lục 1 Tiểu sử 2 Nhận xét 3 Chú thích 4 Liên kết ngoài Tiểu sửDương Văn Minh sinh năm 1916 tại Mỹ Tho (có tài liệu cho rằng nơi sinh có thể là Long An hoặc Vĩnh Long). Lúc nhỏ ông học trường Collège Chasseloup-Laubat (nay là trường THPT Lê Quý Đôn) ở Sài Gòn, đỗ Tú tài II chương trình Pháp ban toán vào năm 1938 cùng một lớp với tướng Trần Văn Đôn (Quốc vương Norodom Sihanouk của Campuchia cũng từng là học sinh trường này). Gia nhập quân đội Pháp năm 1940 với cấp bậc Aspirant tức Chuẩn úy sau khi tốt nghiệp Trường Hạ sĩ quan Thủ Dầu Một. Khi Nhật đảo chính Pháp, ông Minh đang phục vụ tại Cap St. Jacques và bị Nhật cầm tù năm 1945. Khi Pháp trở lại, ông bị Tây bắt cùng với ông Nguyễn Ngọc Thơ. Hai cái răng cửa của ông bị Tây đánh gẫy và nhiều năm sau này ông vẫn không trồng răng giả để giữ kỷ niệm về trận đòn của công an Pháp. Vì vậy trong quân đội còn gọi ông là "Minh Sún". Năm 1946, ông được thăng cấp thiếu úy, hai năm sau lên trung úy. Năm 1952 ông là đại úy tùy viên tại Phủ Thủ hiến Nam phần; năm 1953-1954 là thiếu tá, rồi Trung tá Tham mưu trưởng Quân khu 1. Biệt danh "Minh Cồ" là do chiều cao 1,83 m của ông, dùng để phân biệt với "Minh Con" (hay Trần Văn Minh), người đã cùng tham gia cuộc đảo chính năm 1963. Báo chí Hoa Kỳ gọi ông là "Big Minh". Năm 1955, khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông giữ chức Chỉ huy trưởng Phân khu Sài Gòn, sau được thăng Đại tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 8 cùng năm, ông được Ngô Đình Diệm (lúc đó là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam) cử làm Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu, tiêu diệt lực lượng Bình Xuyên. Với công tích này, ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông được thăng thiếu tướng. Sau khi hoàn tất việc dẹp Bình Xuyên, ông Minh được cử giữ chức vụ tư lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ rồi tiếp đến Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu để bình định miền Tây, đánh quân Hòa Hảo của tướng Ba Cụt. Tuy nhiên, ông nhanh chóng bị thất sủng vì bị Ngô Đình Diệm (lúc này là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa) nghi ngờ (Tham nhung $, Vang thu duoc cua lực lượng Bình Xuyên ). Năm 1956, ông giữ chức Tổng thư ký thường trực Bộ Quốc phòng. Năm 1957, thăng trung tướng. Từ tháng 7 năm 1957 đến tháng 12 năm 1962, Tư lệnh Bộ Tư lệnh hành quân; từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 11 năm 1963, Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống. Cộng với mâu thuẫn tôn giáo (ông theo đạo Phật) với sự kiện Phật Đản, 1963 của chế độ Ngô Đình Diệm, ông nảy sinh tâm lý chống lại chế độ này. Tướng Dương Văn Minh, lúc là Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng Trong cuộc đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm (do Mỹ hậu thuẫn) ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đóng vai trò chính với cương vị Chủ tịch [Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam, 1963)|Hội đồng Quân nhân Cách mạng]], cùng với các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu... Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, tướng Nguyễn Khánh lật đổ chính quyền quân sự này và giành quyền cai trị miền Nam Việt Nam. Ông bị thất thế trong một thời gian ngắn, mặc dù vẫn được giữ chức Chủ tịch Hội đồng kiêm Quốc trưởng.Từ năm 1962 ,phía Bắc việt đã đưa em trai ông là tướng tình báo Dương Văn Nhật vào nam tiếp xúc với ông Minh để vận động ông theo về với Cách Mạng .Thông tin này đã có từ những ngày đầu Giải phóng,nhưng đến gần đây mới chính thức được công khai.[2] Năm 1964, ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu thăng đại tướng, nhưng ông không nhận (?). Tháng 12 năm đó, ông bị ép đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan cho đến năm 1968 mới được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho hồi hương. Năm 1971, ông trở lại chính trường để đối đầu với đương kim tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ ủng hộ, trong cuộc tranh cử tổng thống. Tuy được nhiều người cho rằng rất có thể ông là lãnh đạo của "Lực lượng thứ ba", có thể nói chuyện hòa bình với miền Bắc để tránh một chiến tranh lâu dài, nhưng nỗ lực của ông đã bị Nguyễn Văn Thiệu cản trở. Cuối cùng, ông đã rút ra khỏi cuộc tranh cử sau khi tuyên bố rằng cuộc bầu cử chỉ là trò múa rối. Nguyễn Văn Thiệu, do đó, đắc cử tổng thống mà không phải cạnh tranh với ai cả. Tuy nhiên, với sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Nam Cộng hòa sau khi Mỹ rút quân, ông lại trở thành một nhân vật quan trọng cho chức vụ tổng thống. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu, rồi Trần Văn Hương từ chức, ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông chính thức nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Hai ngày sau (30 tháng 4), trong cương vị Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ông tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên đài phát thanh trước đại diện của Quân giải phóng miền Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chính thức sụp đổ. Năm 1983, chính quyền Việt Nam cho phép ông được tự do định cư. Ông sang Pháp, nhưng sau đó lại chuyển sang California (Hoa Kỳ), sống với vợ chồng người con gái. Ông qua đời ngày 6 tháng 8 năm 2001 tại đó, thọ 86 tuổi. Nhận xétDương Minh Đức, con trai của Dương Văn Minh, nói về cha mình[3]: Ông là người không thích làm chính trị ( tham tien ) , mục tiêu suốt đời của ông là hòa giải, hòa bình dân tộc, nước Việt Nam phải do người Việt Nam làm chủ, vì vậy ngừng chiến là phương cách tốt nhất, bất cứ chính quyền phía nào nắm quyền cũng được, cũng là điều tốt nếu chính quyền đó biết lo cho dân. Ông cho rằng: nếu một chiến thắng mà phải đánh đổi bằng hàng triệu sinh mạng đồng bào thì đó không phải là một chiến thắng ( 1 trieu boat people ). Ông yêu hòa bình, ông đã nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ Cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước vào ngày 2 tháng 5 năm 1975 tại buổi lễ trả tự do cho các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa trong nội các. Ông có nguyện vọng được trở về quê hương lúc cuối đời và sống như một người dân Việt Nam bình thường trong dinh thự Hoa Lan vẫn còn nguyên vẹn cùng bạn bè cũ. Chú thích ^ Huỳnh Phan (29/04/2011). “Dương Văn Minh qua con mắt những thuộc cấp”. VietNamNet. ^ “Nam bộ những ngày hào hùng - Kỳ 5: Phương án Dương Văn Minh”. Báo Tuổi Trẻ (28/04/2011). Truy cập 29/04/2011. ^ VietnamNet, “Ba tôi luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc” 09:52' 29/04/2007 Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng_V%C4%83n_MinhTrò chuyện với con trai Dương Văn Minh: “Ba tôi hay nhắc làm gì cũng phải nghĩ đến dân tộc” – Kỹ sư Dương Minh Đức KIM ỬNG Kỹ sư Dương Minh Đức (con trai ông Dương Văn Minh – nguyên Tổng thống chính quyền miền Nam, nhậm chức không đầy 72 giờ trước 30/4/1975) được du học ở Pháp từ năm 1962. Ông tốt nghiệp kỹ sư ngành điện lạnh và sau này làm việc hãng Konica. Về thăm quê nhà đúng dịp kỷ niệm 34 năm giải phóng miền Nam, ông bày tỏ một số suy nghĩ về ngày 30/4. Ông Dương Minh Đức - Từ sau khi ba tôi mất, nhiều lần trở lại Việt Nam, chứng kiến nhiều đổi thay của đất nước, tôi càng thấm thía khi nhớ lại những lời ba tôi thường nhắc nhở: “Mình có làm gì, đi đâu cũng phải nghĩ đến dân tộc là trên hết, phải trở về với dân tộc”. Kỹ sư Dương Minh Đức bày tỏ trong buổi trò chuyện với chúng tôi tại ngôi nhà riêng trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (ngôi nhà nằm trên khu đất rộng còn gọi là dinh Hoa Lan, được cấp cho gia đình Đại tướng Dương Văn Minh từ thời chính quyền cũ). Tản mạn một chút về tuổi thơ, kỹ sư Đức nhắc lại vài kỷ niệm cùng người chị gái Dương Thị Xuân Mai, em trai Dương Minh Tâm và Dương Thanh Bình, Dương Thanh Xuân – hai cô em con chú ruột (con ông Dương Thanh Nhựt, lúc ấy đang được ông bà Dương Văn Minh cưu mang). Hồi trước khuôn viên dinh Hoa Lan có giàn hoa lan rất đẹp; giờ không còn hoa vì không còn ai chăm sóc. Trong nhà, trừ phòng khách, cách bài trí ở các gian phòng đã thay đổi theo thời gian khá nhiều. Thế nhưng, đôi lúc ngồi lặng yên, kỹ sư Đức tưởng như không khí sinh hoạt thân mật của gia đình vẫn còn bàng bạc trong ngôi nhà, nơi bàn ăn lớn. Lũ trẻ năm xưa, giờ có người định cư ở Mỹ, người là kỹ sư tin học ở Pháp, người là giáo sư Toán ở Australia và người đang là luật sư làm việc tại Việt Nam. Ngẫm lại, hình như mỗi gia đình đều có câu chuyện riêng trong hoàn cảnh chung của đất nước. Tuy vậy, kỹ sư Đức cười nhẹ – ông cho rằng câu chuyện gia đình mình với người cha ruột là vị tướng lãnh của Sài Gòn cũ vang danh sau đảo chính Ngô Đình Diệm và chú ruột là người của cách mạng, không phải là trường hợp hiếm hoi của một gia đình Việt Nam trong giai đoạn lịch sử vừa qua. Nhưng đó là “điểm đáng chú ý” để Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ nghi ngờ dinh Hoa Lan là nơi che giấu ông Dương Thanh Nhựt. Gia đình Dương Văn Minh ở Đà Lạt Ông ấy có từng về dinh Hoa Lan không? Khi chúng tôi đặt câu hỏi, kỹ sư Đức khẳng định chú ruột của ông không hoạt động ở đây (bởi hai cô con gái của ông Nhựt lúc ấy đang ở dinh Hoa Lan, dù đã thay tên, đổi họ nhưng vẫn sợ bị lộ khi nhận ra ông!). Mãi sau này, lúc còn là sinh viên ở Paris, kỹ sư Đức mới có cơ hội gặp gỡ ông Dương Thanh Nhựt trên đất Pháp. Được hỏi ý kiến nhận xét sự kiện lịch sử ngày 30/4/1975, kỹ sư Dương Minh Đức cho rằng với tư cách là một người con, ông có thể hiểu phần nào tâm tư, quan điểm của người cha, khi ông Dương Văn Minh đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ. - Tôi rất yêu quý ba tôi và vì là con trai lớn trong gia đình, được ông trò chuyện, trao đổi nhiều vấn đề nên tôi có thể cảm nhận được quan điểm sống, quan điểm chính trị của ông. Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ; trong tình thế các quân khu thi nhau thất thủ, các tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháo chạy và quân đội giải phóng đang chuẩn bị các mũi tiến công vào phòng tuyến Sài Gòn… Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc ? và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu “tử thủ” Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông “ yêu nước trước hết là phải cứu dân”. Trước đây, khi Mỹ đòi ném bom trên đê sông Hồng, chính ba tôi đã phản đối hành động này của Mỹ, họ làm như vậy chính là nhằm hủy diệt Hà Nội, sát hại nhân dân Việt Nam…! *** Cha nao ,con nay .Kỹ sư Dương Minh Đức cho biết ông có ý định trở về sống hẳn ở Việt Nam. Quê nhà đã thực sự làm ông thoải mái khi luôn được nghe tiếng mẹ đẻ, hiểu rõ tâm tư và được trò chuyện, san sẻ nhiều điều với bạn bè. Hiện tại, ông tham gia hoạt động làm từ thiện cùng NSƯT Kim Cương trong việc hỗ trợ máy vi tính cho chương trình đào tạo nghề cho người mù ở Xuân Thới Thượng – Hóc Môn. Ông bày tỏ: Hồi nhỏ, sống ở dinh Hoa Lan, chúng tôi chịu ảnh hưởng má ở tính hay làm từ thiện. Má tôi chủ trương công việc làm từ thiện thật căn cơ, cụ thể. Nếu muốn giúp đỡ ai thì phải làm sao đỡ đầu cho đến khi họ tự lực được. Má tôi giúp trẻ mồ côi bằng cách mua lò bánh mì và tạo điều cho trẻ học nghề. Các em khi biết làm bánh mì, sẽ tự xoay xở sống bằng chính tay nghề của mình. Lâu nay tôi muốn góp phần trang bị kiến thức, đào tạo kỹ năng, dạy nghề thiết thực về vi tính, về kỹ thuật làm phim ảnh cho người khuyết tật để họ có thể phát huy óc sáng tạo, làm ra sản phẩm và sống được bằng nghề nghiệp chuyên môn của họ. Tôi đã có dự án đào tạo và tìm đầu ra cho sản phẩm. Trong tương lai, nếu được phép, tôi nghĩ địa điểm dinh Hoa Lan sẽ là nơi góp phần hỗ trợ hữu hiệu nhất cho hoạt động từ thiện này. Tháng Tư và chuyện hai ông Đại TướngÔng Đại Tướng thứ nhất: Không có tên trong quân bạ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không có họ, không chữ lót. Có mỗi tên Tôn mà thôi. Khi bọn người rừng, đầu đội nón cối, chân dép râu, ôm súng AK chạy vào thủ đô Sài Gòn, để tạo thành ngày 30 tháng Tư đen, Đại Tướng Tôn, mới 12 tuổi trở thành người tù trẻ nhất, của thời ấy. Đại Tướng Tôn, con của một Đại Úy QLVNCH, bị cải tạo, Tôn nhớ cha, oán Cộng Sản, viết hai câu khẩu hiệu: - Đả đảo Cộng Sản – đả đảo Hồ Chí Minh, đem dán trước cổng trường Lý Thường Kiệt, Tân Bình – Sài Gòn, tất nhiên bị CS bắt. Cán bộ hỏi cung: Tôn làm gì? Trả lời: Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH. Cán bộ: Ai xúi dục? Trả lời: Đã là Đại Tướng, tự mình chủ trương, còn ai dám xúi dục. Cán bộ: Đồng bọn có bao nhiêu người? Trả lời: Đã bắt được tướng, còn hỏi quân làm gì!? Bọn CS tức tối, đánh đập chán chê, quay ra dụ dỗ đủ điều, nhưng trước sau Tôn cũng chỉ trả lời như vậy. Ông Đại Tướng trên đây, không phải là sản phẩm tưởng tượng, mà nhân vật có thật trong đời thường, xuất hiện trong tác phẩm Trại Kiên Giam, của tác giả Nguyễn Chí Thiệp, nguyên Phó Tỉnh Trưởng, tỉnh Quảng Nam. Ông Nguyễn Chí Thiệp là người chơn chất, ông viết sách kể chuyện tù, như người nông dân xứ Quảng, kể chuyện làm mùa. Nếu còn chưa tin, cần nhớ lại cơn biến loạn kinh khủng ngày ấy, tưởng như trời sụp, ai cũng sợ thất thần, từ Cao Nguyên, từ miền Trung và mọi miền đổ dồn vào Sài Gòn, cho đến lúc cùng đường. Tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, chững chạc kêu gọi CS đợi cho anh em làm lễ hạ quốc kỳ, trước khi họ tiến chiếm, lễ hạ quốc kỳ đã diễn ra như ý muốn, hình ảnh kiêu hùng ấy còn tồn tại đến hôm nay và mãi mãi. Không có hình ảnh, chỉ có 11 dòng cuối trang 224, trong tác phẩm Trại Kiên Giam, của tác giả Nguyễn Chí Thiệp, người đọc có thể tưởng tượng Đại Tướng Tôn nói năng rạch ròi đĩnh đạc, hẳn thân thể cũng rắn chắc, với khuôn mặt khôi ngô, tuấn tú. Là Hạ Sĩ Nhất QLVNCH, nếu có diễm phúc một lần được gặp ông Tôn, tôi sẽ chào ông đúng quân cách, với tất cả lòng trọng kính, như một quân nhân với một Đại Tướng thực thụ. Tổng thống Dương Văn Minh trên đường tới đài phát thanh ban lệnh buông súng, sáng 30/4/75 Đại Tướng thứ nhì: Dương Văn Minh Dương Văn Minh, có bộ mặt phì nộn, không biết thế lực nào xô đẩy, ông ta đứng ra làm quốc truởng, trong ba ngày cuối cùng của miền Nam Việt Nam, ông không có chủ trương nào đáng giá một xu, ông hoàn toàn nương tựa vào Thích Trí Quang, để T T Q, làm cầu nối với mặt trận bù nhìn “Giải Phóng Miền Nam” tạo ra chính phủ ba thành phần! Dương Văn Minh có niềm tin vào CS tới độ khôi hài, trong ba ngày DVM luôn luôn nóng ruột, đi tới đi lui, bồn chồn chờ những cú phone hứa hẹn của “thầy”. Theo lời cán bộ CS Hồ Văn Quang, thẩm vấn Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, trong trại tù Hà Tây, nói về DVM như sau: …”Thực sự hôm nay ở trong tù, tôi nghĩ lại mà thấy thương cho Minh cồ, thích làm Tổng Thống mà khả năng qúa hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện… Ngày lịch sử trong đời làm chính trị của Minh cồ, không phải là ngày nhậm chức TT mà chính là ngày 29.4.1975. Vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh cồ và tôi (Nguyễn Hữu Có) phải đến HOÀNG CUNG ẤN QUANG 5 lần và lần nào cũng với nội dung là “thầy” hứa hẹn một cách chắn chắn, không sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm tối 29.4.75 hay sáng 30.4.1975 sẽ bàn thảo việc thành lập chính phủ liên hiệp. Sở dĩ đêm 29.4.75 có chuyện tôi đi đến Ấn Quang cũng là vì lời hứa miệng của TTQ này. Lúc 2 giờ sáng, chúng tôi phải rời Ấn Quang, trở về Dinh Độc Lập chờ ý “thầy,” mệt mỏi thật. Minh cồ ngồi nơi bàn TT bên cạnh một dàn điện thoại, trong đó có một cái đặc biệt nhất, dễ nhận ra là cái dành riêng cho “thầy”. Đường dây dành cho “thầy” không phải ưu tiên một, mà ưu tiên “super”, có thể nói với Minh cồ nó là “Over Super”. Chúng tôi mỗi người một chỗ ngồi nghỉ, hoặc ngả lưng trên sofa, chờ tin tức phía bên kia họp bàn. Rõ ràng lời “thầy” vừa mới nói: “Tổng Thống cũng như quý ngài đây yên chí, tôi đã cho người liên lạc được với mặt trận giải phóng miền Nam và họ đã gặp riêng tôi nói chắc rằng đã lập xong phái đoàn, đang trên đường đến đây. Vì bí mật nên không cho biết giờ tiếp đón. Quý ngài cứ yên tâm về nghỉ và khi họ đến tôi điện thoại ngay” Ra về, tôi thấy nét mặt của Minh cồ còn hy vọng nhiều., ông Vũ Văn Mẫu thinh thinh ít nói, Lý Chánh Trung đến giờ phút ấy vẫn hớn hở. Riêng tôi thấy tình hình ồn ào lộn xộn tại nội thành Sài Gòn, đã đến lúc phải nổ tung không thể tránh khỏi… 4 giờ 30 phút sáng 30.4.75 Minh cồ sốt ruột không thể chờ thêm được nữa, phải nhắc điện thoại lên xin gặp “thầy”, trong khi tiếng đì đùng của loại súng AK nghe càng rõ mồn một, Minh cồ càng quýnh hơn: - Thưa thầy, tôi TT DVM, muốn biết ý kiến thầy. Sao chờ đến giờ này không thấy gì hết? Anh em chúng tôi đang có mặt hết tại đây. Tình hình hiện tại qúa lộn xộn. Xin thầy quyết định thế nào chớ tôi thấy hoàn toàn bí lối, có lẽ nguy khốn hơn, chớ không thể nói gì với bên kia được… Tiếng Thích Trí Quang rè rè trong điện thoại: - Thưa TT, cũng như TT là tôi vẫn chờ đến giờ này (không biết đây là lời nói thật hay nói dối của ổng) và theo tôi nghĩ với tình thế hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng. Chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xảy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống”. Minh cồ chỉ trả lời gọn lỏn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy. Lúc đó là 5 giờ kém 15 phút sáng 30.4.1975. Hết trích. Minh cồ tin vào TTQ và MTGPMN là chuyện điên rồ, bao năm chinh chiến, không hiểu gì đối phương, giả sử có một chính phủ 3 thành phần, thử hỏi tồn tại đước mấy ngày! DVM kêu gọi buông súng đầu hàng, hay không thì vẫn có ngày 30.4.1975. Nhưng thân làm Đại Tướng, làm Tổng Thống nên tránh mặt, bỏ về nhà ngồi chờ VC đến nhà bắt, chắc cũng còn một chút để thiên hạ nể nang, hơn là ngồi chờ… bàn giao, để cuối cùng nghe thằng bộ đội ranh thét mắng: “Không có chuyện bàn giao, cũng không có ai là Tổng Thống ở đây cả, vì chúng tôi đã chiến thắng”. Trước đó ít phút “Dương Văn Minh cùng đồng bọn bị bộ đội chĩa súng vào mặt, và phải tuân lệnh dơ hai tay lên đầu hàng” đó là những chuyện kể đó đây, không đồng nhất vào giờ cuối cùng tại Dinh Độc Lập. Dương Văn Minh, có bằng “tú tài Tây” Đại Tướng thực thụ, thời điểm 30.4.75 ông Minh 59 tuổi. Nhưng tài năng và đảm lược, kém xa một cậu bé mới 12 tuổi. Ông Bút
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 30, 2013 9:13:00 GMT 9
Thư của Tướng Dương văn Minh viết cho Tướng Nguyễn chánh Thi 15-4-87 Thi, Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm. Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên. Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết. Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi. Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân. Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ : - Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh. - Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi. Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ. Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn. Thân mến Dương văn Minh Tiết lộ chấn động của người bắt giữ tướng Dương Văn Minh “Khi các ông chưa tiến công vào, bên dưới tôi còn rất nhiều người chưa đồng tình với tôi mà nếu tôi tuyên bố đầu hàng trước thì người ta khử tôi mất”, tướng Dương Văn Minh nói với trung đoàn phó của quân giải phóng, đang cầm chắc khẩu súng trong tay. Trung tướng cs Phạm Xuân Thệ Đó là lời kể của Trung tướng Phạm Xuân Thệ về tháng 4 lịch sử năm xưa trong đó có những chi tiết lịch sử đặc biệt lần đầu tiên được ông kể. “Thời kỳ đó tôi là trung đoàn phó của Trung đoàn 66 thuộc sư đoàn 304 của quân đoàn 2. Năm 1974, trung đoàn 66 của tôi chiến đấu trên mặt trận Quảng Đà đánh chiếm quận địa Thượng Đức và giải phóng được quận địa này. Đầu năm 1975, chiến dịch Tây Nguyên mở màn. Xuân 1975, thắng lợi xong thì Bộ chính trị và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Đến 29/3/1975 đơn vị tôi lại vào đánh chiếm sân bay Đà Nẵng và giải phóng TP. Đà Nẵng. Ngày 6/4/1975, toàn bộ binh đoàn duyên hải (quân đoàn 2, Tư lệnh là tướng Nguyễn Hữu An) đã bắt đầu hành quân từ Đà Nẵng vào tiếp tục chiến đấu để giải phóng các tỉnh còn lại ở miền Trung. Riêng sư đoàn 304 của tôi đi cùng quân đoàn. Đến 10/4/1975, chúng tôi được lệnh hành quân vào phía Nam thực hành tiến công hành tiến. Lúc đó tất cả các đơn vị khác của quân đoàn 2 đi theo đường Tây Trường Sơn đã vào trong miền Nam hết rồi. Còn lại của quân đoàn 2 là trung đoàn tôi với lực lượng của quân khu 5 quân khu Trị Thiên đảm nhiệm tiến công chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Trung tướng Phạm Xuân Thệ cùng ban chỉ huy trung đoàn 66 (Ảnh tư liệu) Sau khi giải phóng TX. Hàm Tân, đêm 21/4/1975 nhận nhiệm vụ thì đến ngày 22/4/1975 nổ súng chiến đấu giải phóng được TX. Hàm Tân làm chủ được sân bay… Đến sáng hôm sau thì giải phóng được toàn bộ tỉnh Bình Tuy. Rạng sáng ngày 23/4, chúng tôi lại tiếp tục hành quân vào. Đến chiều 24/4, khoảng 3 - 4h, chúng tôi tập kết ở 1 đồn điền cao su (đồn điền ông Quế) cách TP. Sài Gòn khoảng 60km. Lúc này chúng tôi mới biết mình được tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn. Ngày 24/4 chúng tôi làm nhiệm vụ trinh sát. Ngày 25/4, trinh sát và chuẩn bị lực lượng xong thì 17h ngày 26/4, chiến dịch Hồ Chí Minh nổ súng bắt đầu trên mặt trận hướng Đông. Hướng Đông gồm quân đoàn 2. Sư đoàn 304( gồm 2 trung đoàn 24 và trung đoàn 9 đảm nhiệm đánh căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình) sư đoàn 3, sư đoàn 35 (đánh Bà Rịa Vũng tàu và sau đó vượt Cát Lái đánh vào quận Nhà Bè) còn trung đoàn 66 "bị" quân đoàn để lại làm lực lượng dự bị vừa cho quân đoàn, vừa cho sư đoàn. Khi nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 2 thành lập một binh đoàn thọc sâu, trung đoàn 66 cùng các đơn vị tiến đánh căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình. Khi các trung đoàn 9, trung đoàn 24 đánh xong trận Nước Trong, một phần tổng kho Long Bình thì cùng trung đoàn 66 tiến thẳng vào nội đô TP. Sài Gòn. Đích cuối cùng là Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn và Dinh Độc lập. Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 gồm trung đoàn 66, Lữ đoàn xe tăng 203, pháo binh, công binh, đặc công và các binh chủng phục vụ chuẩn bị tiến đánh vào Sài Gòn. Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn giải Dương Văn Minh ra đài phát thanh Chiều 27/4/1975, chúng tôi đánh chiếm căn cứ Nước Trong. Đến trưa hôm sau, quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ Nước Trong. Đây là trận đánh quan trọng góp phần đưa các binh đoàn của ta triệt tiêu sinh lực địch, áp sát Sài Gòn. Bắt đầu 17h ngày 29/4 thì xuất phát, đến 21h chúng tôi vượt qua cầu Sông Buông, khi đó địch phá hỏng nên chúng phải khắc phục lại cho đến đến 24h mới đến được cầu Xa Lộ, vượt qua đầu cầu Xa Lộ đến Thủ Đức cũng đã 4h sáng. Tuy nhiên, lực lượng đi đầu vào đầu cầu Sài Gòn bị địch chống cự rất quyết liệt. Đồng chí Ngô Văn Nhỡ - Đại úy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng của Lữ đoàn 203 đã hy sinh ngay trên tháp pháo. Tuy nhiên, sau đó chúng tôi cũng đã bắn hạ được 4 – 5 chiếc xe tăng trên cầu Sài Gòn và 3 tàu chiến của địch. Thế trận giằng co, đến 8h sáng thì chúng tôi mới giải quyết xong cứ điểm này. Thông cầu Sài Gòn, chúng tôi thọc thẳng vào nội đô thành phố. Khi vượt qua cầu Thị Nghè thì có dân chỉ đường cho. Tại đây quân địch chống cự ít nhiều nhưng không đáng kể. Khi đến cổng Dinh Độc Lập, xe tăng thứ nhất do anh Bùi Quang Thận chỉ huy húc vào cánh cổng bên trái của cổng chính Dinh Độc Lập và mắc kẹt vào đó. Xe tăng thứ hai do anh Lê Đăng Toàn chỉ huy đâm bật tung cánh cổng chính tiến vào sân... Nội các Dương Văn Minh ở thời điểm 30/4/1975 (Ảnh tư liệu) Chiếc xe Jeep của chúng tôi theo xe anh Toàn đi vào. Vừa đặt chân đến tiền sảnh tầng 1 của Dinh Độc Lập, xe dừng lại. Chúng tôi bước xuống thảm cỏ rồi tiến nhanh vào Dinh Độc Lập để cắm cờ. Lên hết cầu thang tầng 1, chúng tôi gặp một người cao to, mặc áo cộc tay. Đó là ông Nguyễn Hữu Hạnh, ông ta nói: "Tôi là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá cho Tổng thống Dương Văn Minh. Toàn bộ nội các của Tổng thống Dương Văn Minh đang ngồi trong phòng họp, mời cấp chỉ huy vào làm việc". Ông Nguyễn Hữu Hạnh dẫn chúng tôi đi khoảng hơn 10m, đến một cửa phòng lớn, ông Hạnh giới thiệu đây là Tổng thống Dương Văn Minh. Đến lúc này tôi mới biết ông Dương Văn Minh, trước đó chỉ nghe trên đài nói là ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống nguỵ quyền Sài Gòn, nhưng chưa hề biết mặt mũi ông Minh như thế nào. Khi vào bên trong, ông Hạnh giới thiệu Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Tổng thống Dương Văn Minh nói: "Chúng tôi đã biết quân giải phóng tiến quân vào nội đô và đang chờ quân giải phóng vào để bàn giao". Ngay lập tức, tôi trả lời: "Các ông đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, không có bàn giao gì cả". Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh (Ảnh tư liệu) Khi đó quân giải phóng đã chiếm được Sài Gòn, những tiếng súng nổ ăn mừng khắp xung quanh Dinh Độc lập, khiến cho nội các của Dương Văn Minh lo sợ. Ông Minh nhất quyết không ra Đài phát thanh để đọc lời đầu hàng. 5 phút rồi 10 phút trôi qua, tiếng súng vẫn nổ ra không ngớt. Tay phải tôi cầm một khẩu súng ngắn. Mặc dù trong phòng có điều hòa nhưng mồ hôi trên trán ông Minh vẫn rịn ra. Không khí căng thẳng. Khoảng 30 phút sau khi thuyết phục Dương Văn Minh miễn cưỡng đồng ý ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng. Khi đó Dương Văn Minh nói: “Ra đài phát thanh sợ không đảm bảo an toàn”. Tuy nhiên, chúng tôi nhất quyết buộc Dương Văn Minh phải ra Đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Tôi nói: "Chúng tôi đã làm chủ Sài Gòn và sẽ đảm bảo an toàn cho ông...". Rồi chính Dương Văn Minh lên xe Jeep đưa đường đưa ra Đài phát thanh. Tôi và Dương Văn Minh ngồi cùng một ghế ở bên ghế phụ, bên cạnh lái chính. Dương Văn Minh ngồi trong, tôi ngồi ngoài. Khi đó trên xe còn có cả Vũ Văn Mẫu. Tay tôi vẫn cầm khẩu súng ngắn. Lúc này quân Giải phóng ở đó rất nhiều rồi: xe tăng, xe ô tô, bộ đội ta vào rất đông nên chúng tôi đi phải lách vì từ Dinh độc lập ra Đài phát thanh mất khoảng 20 phút. Trên đường đi, thấy xe tăng, pháo binh của ta hai bên đường rất đông thì tôi mới hỏi Dương Văn Minh: “Thấy sức mạnh quân giải phóng như thế nào?”. Dương Văn Minh trả lời: “Chúng tôi biết khi quân giả phóng tiến công vào là chúng tôi sẽ thất bại”. Tôi hỏi tiếp: “Tại sao các ông biết thất bại mà không tuyên bố đầu hàng trước để chúng tôi phải đánh vào đến và bắt các ông thì các ông mới tuyên bố đầu hàng?”. Dương Văn Minh nói: “Khi các ông chưa tiến công vào mà bên dưới tôi còn rất nhiều người chưa đồng tình với tôi mà nếu tôi tuyên bố đầu hàng trước thì người ta khử tôi mất”. "Điều đó chứng tỏ Dưỡng Văn Minh rất sợ hãi", tướng Thệ nhớ lại. Dương Văn Minh tại đài phát thanh ngày 30/4 (Ảnh tư liệu) Sau khi đưa Dương Văn Minh đến Đài phát thanh, tôi đã soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh. Khi đang soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh thì có một ông đến nói: “Anh là ai?” Tôi nói: “Tôi là Phạm Xuân Thệ - đoàn phó đoàn Đông Sơn”. Sau đó, tôi mới biết đó là đồng chí Bùi Tùng – chính ủy lữ đoàn 203. Rồi chúng tôi cùng soạn thảo để cho Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tuy nhiên khi tôi đưa cho Dương Văn Minh đọc thì Dương Văn Minh không đọc được và nói: “Chữ viết do cấp chỉ huy viết xấu tôi không đọc được”. Thế là tôi phải đọc lại cho Dương Văn Minh viết lại. Sau đó, chúng tôi lại đưa Dương văn Minh quay trở về Dinh độc lập. Tại đây, gặp bộ tư lệnh quân đoàn, có một đồng chí chỉ huy quát tôi: “Anh là ai? Ở đâu?Anh ở đơn vị nào? Ai cho phép anh tự ý đưa Tổng thống Dương Văn Minh đến Đài phát thanh? Nếu anh làm sai tôi cách chức anh, bỏ tù anh…”. Tôi tức cũng quát lại (vì không biết ông ta là ai, hồi đó không phải lính nào cũng biết mặt các chỉ huy cấp trên): “Tôi đưa Tổng thống Dương Văn Minh đi đọc tuyên bố đầu hàng, anh làm gì mà nhắng lên thế”. Lúc đó tôi nhìn thấy mặt ông ta rất tức giận. Sau mới biết đó là Phó chính ủy quân đoàn 2 Công Trang. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng (Ảnh tư liệu) Lúc đó, sư trưởng trực tiếp của tôi là ông Nguyễn Ân (Sư trưởng sư đoàn 304) nói: “Nó là thằng Thệ, E phó E66. Sai đâu để sau. Cho nó về chỉ huy đơn vị”. Thế là tôi chạy một mạch ra chiếc xe Jeep, về đơn vị đang đóng quân ở cảng Sài Gòn. Vậy là miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất. Lúc đó tôi vừa vui vừa buồn. Vui vì sau bao nhiêu năm, đất nước đã được giải phóng, độc lập hoàn toàn. Nhưng tôi cũng buồn vì trong trận cuối cùng, có những đồng đội đã hy sinh khi chỉ còn cách giờ phút chiến thắng vài giờ đồng hồ. Khi nhắc đến những hy sinh của đồng đội, ông ngồi lặng, đi đôi mắt rưng rưng, vết sẹo dài trên tay ông giật giật. Chúng tôi biết ông đang xúc động mạnh. Qua nhiều lần tiếp xúc và qua những tâm sự của ông, chúng tôi biết trong trái tim người anh hùng này vẫn đau đáu một nỗi niềm: “Mình chưa hoàn thành trách nhiệm với bạn bè, đồng đội đang nằm lại nơi chiến trường”... 30/4/1975, Dương Văn Minh và tôi Nguyễn Hữu Thái 3/2008 Tác giả bài viết là người giới thiệu lời đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh Tổng thống cuối cùng Việt Nam Cộng Hòa tại đài phát thanh Sài Gòn vào trưa ngày 30/4/1975. Anh nguyên là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963-64) từng có nhiều dịp tiếp xúc với tướng Minh và cũng là một nhân chứng trong ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bản thân tôi đã từng gặp gỡ tướng Dương Văn Minh vào nhiều thời điểm và tình huống lịch sử khác nhau trong những năm 50-70 của thế kỷ trước. Thời học sinh năm 1955, lần đầu tôi nhìn thấy ông như người hùng diệt Bình Xuyên. Năm 1963 làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, tôi có dịp tiếp cận nhiều lần với Trung tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Năm 1971 tôi ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) dưới chiêu bài hòa bình hòa giải dân tộc trong nhóm Dương Văn Minh. Vào ngày lịch sử 30/4/1975, chính tôi là người giới thiệu lời đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ VNCH trên đài phát thanh Sài Gòn. Người hùng lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm 1963 Lần đầu tiên nhìn thấy tướng Dương Văn Minh rất trẻ ở tuổi chưa tới 40 là vào năm 1955 khi tôi còn là một học sinh trường Taberd Sài Gòn. Vị Đại tá mới vinh thăng Thiếu tướng Dương Văn Minh oai phong dẫn đầu đoàn quân chiến thắng quân Bình Xuyên của Bảy Viễn từ Rừng Sát quay về, trong cuộc duyệt binh lớn trên đường Catinat (nay là Đồng Khởi) vào những ngày đầu chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Bẳng đi một thời gian không nghe nhắc đến tên ông. Tên tuổi Dương Văn Minh bỗng lại nổi lên như cồn vào năm 1963 khi ông lãnh đạo “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Báo chí phương Tây thường gọi ông là “Big Minh” (Minh Lớn). Tuy vóc dáng dềnh dàng rất nhà binh, ông là một Phật tử có tâm, ăn nói điềm đạm, ôn tồn và chất phát kiểu một “bon papa” (người cha hiền lành dễ chịu). Ông sinh năm 1916 tại Mỹ Tho, đang là sinh viên trường thuốc, thì bị gọi thi hành nghĩa vụ quân sự vào hàng sĩ quan trừ bị quân đội Pháp khi nổ ra Thế chiến II. Có lẽ ông không đồng chính kiến với người em đi theo Việt Minh chống Pháp vì quan niệm rằng Việt Nam có thể được trao trả độc lập nằm trong khối Liên hiệp Pháp. Vào năm 1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm sử dụng ông để diệt các nhóm chống đối vũ trang Bình Xuyên và giáo phái ly khai ở miền Tây Nam Bộ. E ngại ảnh hưởng của ông quá lớn, Ngô Đình Diệm không dám giao ông chức vụ gì quan trọng, chỉ cử ông sang Mỹ học một khóa tham mưu cao cấp rồi phong quân hàm trung tướng, giữ một chức vụ hữu danh vô thực “Cố vấn quân sự của Tổng thống”, ngồi chơi xơi nước! Tướng Dương Văn Minh ngày lật đổ Ngô Đình Diệm, 1963 Tôi được tập thể sinh viên Sài Gòn đề cử làm chủ tịch đầu tiên ngay sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ. Chính Hội đồng Quân nhân Cách mạng lúc đó đã ký giấy giao tòa nhà số 4 đường Duy Tân (nay là Nhà Văn hóa Thanh niên đường Phạm Ngọc Thạch), nguyên là trụ sở Thanh niên Cộng hòa của Ngô Đình Nhu cho sinh viên làm nơi hoạt động và tôi là người đích thân đứng ra nhận lãnh. Tuy vậy, trong nội bộ tướng lãnh lại sớm lục đục nhau. Chỉ ba tháng sau ngày lật đổ Ngô Đình Diệm, vào đầu năm 1964, Trung tướng Nguyễn Khánh từ Quân đoàn II ở Tây Nguyên bay về hợp cùng nhóm Đại Việt thân Mỹ làm cuộc “Chỉnh lý” (đảo chính êm thắm) bắt giữ hầu hết những người chung quanh tướng Minh. Họ tố cáo nhóm ông thân Pháp và âm mưu đưa miền Nam Việt Nam vào con đường trung lập do Tổng thống De Gaulle chủ xướng, tuy họ vẫn phải giữ ông lại ngôi vị bù nhìn Chủ tịch Hội đồng Quân nhân (tương đương vai trò Quốc trưởng) do uy tín ông còn quá lớn trong nhân dân và quân đội Tết năm đó, tôi đại diện sinh viên Sài Gòn dự buổi tiếp tân Tất niên tại dinh Gia Long của Quốc trưởng. Trung tướng Minh chỉ làm vì, quyền hành thực sự nằm trong tay tướng Nguyễn Khánh và nhóm tướng lãnh trẻ, người Mỹ gọi là “Junta”. Cuộc đảo chính của tướng Khánh mới xảy ra, nên cuộc vui cũng không trọn. Các tướng lãnh, chính khách, đại diện các đoàn thể nhân dân, tôn giáo đều có mặt. Lần đầu tiên tôi gặp mặt hầu hết các tướng lãnh VNCH. Tôi chỉ góp chuyện xã giao với tướng Minh và các nhân vật đang lên vào lúc đó là các tướng Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm. Tôi còn nhớ Nguyễn Văn Thiệu mới được vinh thăng thiếu tướng và đảm trách chức vụ tham mưu trưởng Quân lực VNCH, được tướng Minh nhắc nhở, nửa đùa nửa thật: “Hãy coi chừng! Việt Cộng hoạt động dữ lắm trong mấy ngày Tết!” Cuộc họp mặt cuối năm diễn ra khá hình thức và buồn tẻ. Tôi đứng chụp hình chung với một số tướng lãnh và Tổng giám mục Công giáo Nguyễn Văn Bình rồi rời dinh Gia Long, trong lòng không vui. Do công tác, sinh viên chúng tôi lại có dịp hội kiến Quốc trưởng Dương Văn Minh. Nhân phút nhàn đàm về viễn tượng chiến tranh và hòa bình, tướng Minh tâm tình: “...Bộ các em không muốn nước Việt Nam mình trung lập như Thụy Sĩ hay sao?” Có lẽ do những ý hướng hòa bình, trung lập kiểu đó mà tướng Minh từ năm 1964 đã sớm bị nhóm tướng Nguyễn Khánh cùng người Mỹ chủ trương leo thang chiến tranh đẩy ra khỏi chính trường miền Nam và bị lưu đày nhiều năm ở nước ngoài. Vào thời đó, tôi không biết đích xác sự việc bên trong ra sao, chỉ nghe tin đồn là Dương Văn Nhựt, người em ruột tướng Minh theo Việt Minh tập kết ra Bắc nay quay vào Nam bắt liên lạc và tác động tướng Minh ngả về chủ trương trung lập hóa miền Nam để chấm dứt chiến tranh. Con đường hòa giải dân tộc Phật giáo Sau vụ chính biến Phật giáo Miền Trung đấu tranh chống “Nội các chiến tranh” Nguyễn Cao Kỳ năm 1966, tôi bị bắt. Ra tù đầu năm 1968, tôi bị đưa thẳng vào quân trường đi lính. Nhờ được công tác tại Sài Gòn, tôi quan hệ với nhiều anh em tiến bộ tán thành lập trường hòa bình, hòa giải dân tộc trong số dân biểu đối lập chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và nhóm trí thức tiến bộ tập hợp chung quanh tướng Minh vừa từ Bangkok quay về cuối năm 1968. Chúng tôi chủ yếu hoạt động trong tờ báo Tin Sáng do dân biểu đối lập Ngô Công Đức chủ biên. Năm 1971, VNCH tổ chức bầu cử Quốc hội và tiếp theo là bầu cử Tổng thống. Người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đề nghị tôi ra tranh cử với lập trường hòa bình đứng giữa, chuẩn bị cho “Thành phần thứ ba”. Hội nghị Paris về vấn đề Việt Nam tuy chưa ngả ngũ nhưng người ta đang bàn luận đến việc lập chính phủ ba thành phần, trong đó có thành phần đứng giữa làm trung gian hòa giải trong chính phủ liên hiệp tương lai. Thật khó khăn nếu tự ra ứng cử đơn thương độc mã một mình. Tên tuổi của tôi tuy cũng có một thời được nhiều người biết đến, nhưng nay chắc không ai còn nhớ đến trong cái Sài Gòn rộng lớn và bận rộn làm ăn này. Dẫu có tự do bỏ phiếu thì tranh cử kiểu không tiền bạc, không thế lực nào hậu thuẩn như tôi chỉ là chuyện vô ích. Yểm trợ Nguyễn Hữu Thái ra tranh cử Quốc hội Sài Gòn, 1971 Phải tìm hậu thuẩn nơi khối đông đảo quần chúng đô thị, lúc này không ai khác hơn là lực lượng Phật giáo, nhất là ở miền Trung. Tôi bàn bạc với người Mặt trận Giải phóng sẽ về Đà Nẵng quê tôi để tranh cử. Bấy giờ tôi có thuận lợi là vừa được sự ủng hộ của nhóm tướng Dương Văn Minh, người sẽ ra tranh cử Tổng thống với chiêu bài hòa bình lẫn sự hỗ trợ của Thượng tọa Thích Trí Quang. Nhà lãnh đạo Phật giáo uy tín nhất miền Nam lúc đó đang bị Thiệu-Kỳ cô lập ở Sài Gòn đã đích thân gửi thư yêu cầu vị sư đại diện tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng là Thích Minh Chiếu sắp tên tôi vào danh sách những người được Phật giáo ủng hộ công khai. Nhưng việc đó không thành, do lủng củng bên trong nội bộ lãnh đạo giáo hội. Phe chống Cộng như các Thương tọa Thiện Minh, Huyền Quang không chấp nhận tôi, nghi ngờ là người của Giải phóng, nên tôi đã thất cử. Tướng Minh vào giờ chót cũng rút lui ra khỏi cuộc tranh cử Tổng thống và chuẩn bị lực lượng cho một vận hội mới vào một thời điểm thích hợp hơn. Tôi ngày càng gắn bó hơn với nhóm trí thức trẻ hoạt động chung quanh tướng Minh, đặc biệt với các dân biểu đối lập và tiến bộ như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quí Chung, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Binh… Tôi trở thành một trong các cây bút chủ lực báo Điện Tín do nhóm Dương Văn Minh chủ trương, sau khi tờ Tin Sáng quyết liệt chống Nguyễn Văn Thiệu bị đóng cửa và nhiều dân biểu chủ trương hòa hợp hòa giải bị loại ra khỏi Quốc hội. Thay người khác mà vác cờ trắng Tôi lại bị chính quyền Sài Gòn bắt giam trước ngày ký kết Hiệp định Paris về hòa bình Việt Nam vào cuối năm 1972 do bị tố cáo là thuộc Thành phần thứ ba thân Cộng. Khi ra tù năm 1974, tình hình đã biến chuyển nhanh theo hướng chấm dứt chiến tranh. Chính quyền Sài Gòn ráo riết đàn áp đối lập và những ai kêu gọi hòa bình hòa giải dân tộc. Tôi phải trốn tránh, rút lui vào hoạt động bí mật. Về tình hình trong tháng tư năm 1975 liên quan đến việc tướng Minh ra nhận chính quyền VNCH, sau này tôi đọc được trong tập hồi ức của Thượng tọa Trí Quang ghi rằng: “...Ấy thế mọi việc diễn ra có lúc đến chóng mặt. Cho đến mùa xuân 2519 (1975) thì một ngày mà có người ba lần đến vận động tôi đừng chống việc ông Dương Văn Minh đứng ra, “vì chính quyền của ông ấy sẽ có bảy phần mười là người tiến bộ ”. Tôi không nói lại gì cả, chỉ quan tâm lời thầy Trí Thủ nói, rằng chim cá còn mua mà phóng sinh, lẽ nào đồng bào mà không hy sinh cấp cứu. Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai mảnh giấy báo cáo mật cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và nói ông không vụ lợi vì lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc trưởng là cùng, ông chỉ không nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như thế là ông làm như lời thầy Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác cờ trắng !“ Tôi đang trốn tránh trong nhà dân biểu Lý Quí Chung do Thượng tọa Trí Quang gửi gắm và biết anh là một trong những người thân cận nhất của tướng Dương Văn Minh vào thời điểm đó. Tôi chú ý thấy tướng Minh thường ghé nhà anh bàn bạc. Sau này, anh nói rằng sự thật thì từ giữa tháng 4/1975, nhóm Dương Văn Minh đã quyết tâm ra nắm chính quyền với mục tiêu tìm mọi cách chấm dứt cuộc chiến, nếu cần phải cầm cờ trắng đầu hàng. Anh cho rằng: “quyết định làm người cầm cờ đầu hàng cũng là một sứ mạng lịch sử”! Cụ thể là đã có đến ba phần tư những người trí thức hoạt động chính trị chung quanh tướng Minh đã quan hệ với Mặt trận Giải phóng hoặc là cán bộ Cách mạng rồi. Đó là những người như thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, bộ trưởng Nguyễn Văn Diệp, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư Lý Chánh Trung,... Tướng Dương Văn Minh dẫu sao cũng đại diện cho một phần nhân dân miền Nam và là vị tướng lãnh có uy tín cuối cùng không bỏ chạy khỏi miền Nam Việt Nam vào lúc đó. Bản thân Lý Quí Chung không trực tiếp quan hệ với cách mạng, nhưng anh có những bạn bè gần gũi như các nhà báo Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt, sau này là Tổng biên tập báo Công An TP.HCM), Nguyễn Vạn Hồng (Cung Văn), Trương Lộc… mà anh biết là người của Mặt trận Giải phóng. Tướng Dương Văn Minh và Lý Quí Chung Tuy vậy, sự việc cụ thể diển biến không mấy bình thường như Lý Quí Chung suy nghĩ và viết ra trong hồi ký của mình. Đã thật sự xuất hiện không ít âm mưu kéo dài tình trạng nhập nhằng với sức ép đàng sau của cả bạn lẫn thù của phe cách mạng. Không ít người trong nhóm Dương Văn Minh đã tìm nhiều cách, vận động nhiều hướng, nhiều phía để tìm kiếm sự ủng hộ nước ngoài. Cho đến giờ chót, họ vẫn ấp ủ hy vọng chính quyền Dương Văn Minh tồn tại lâu dài và được công nhận như một chính phủ hoặc một thành phần quan trọng trong “Chính phủ Liên hiệp” mà họ tự nghĩ ra ! Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng… Sáng tinh mơ ngày 30/4, từ cơ sở chuẩn bị nổi dậy của sinh viên ở Đại học Vạn Hạnh (gần chợ Trương Minh Giảng), tôi bàn với Nguyễn Trực người thân cận với Thượng tọa Trí Quang rồi chạy vội lên chùa Ấn Quang (đường Sư Vạn Hạnh) gặp vị sư lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn trên nhóm Dương Văn Minh này. Lâu nay tôi vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với ông, tuy ông biết rõ tôi đến từ phía nào rồi. Tôi báo ngay: “Tình hình cấp bách quá rồi, xin Thầy làm sao tác động gấp nhóm ông Minh chủ động tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến để tránh đổ máu và tàn phá Sài Gòn. Các đường giây liên lạc với bên kia nay đã đứt hết rồi, không còn thì giờ đưa giải pháp này nọ nữa đâu…” Thượng tọa Trí Quang hiểu ngay và choàng áo sang phòng bên gọi điện thoại. Tôi nghe vị Thượng tọa nói chuyện qua lại một hồi, rồi quay về cho biết: -Thái cứ yên tâm, Thầy không gặp được ông Minh (Tổng thống mới nhậm chức), nhưng đã nói chuyện với ông Mẫu (Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng nội các mới), có lẽ họ cũng nhanh chóng hành động theo hướng đó… Tôi quay về Đại học Vạn Hạnh và khoảng hơn 9 giờ (giờ Sài Gòn thời đó, sớm hơn nay một giờ), thì nghe tướng Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn: “Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, không nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong một trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”. (Theo băng ghi âm Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nay còn cất giữ). Sinh viên chúng tôi bèn chia làm 2 mũi lên đường hướng về các đài phát thanh và truyền hình nhắm chiếm đài, phát đi tiếng nói Cách mạng. Một nhóm anh em sinh viên có trang bị vũ khí nhẹ lên xe ca đến đại học Nông lâm súc, áp sát chuẩn bị xâm nhập vào các đài. Tôi cùng nhà báo Nguyễn Vạn Hồng và giáo sư Huỳnh Văn Tòng (tiến sĩ sử học tiến bộ ở Pháp về, giảng dạy báo chí ở các đại học) vào dinh Độc Lập nhắm thuyết phục những người quen biết trong chính quyền tướng Minh bàn giao chính quyền VNCH cho phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng một cách êm thắm nhất. Khoảng 10 giờ, chúng tôi lên chiếc xe Renault 8 màu xanh của Hồng. Nhà báo có giấy phép đặc biệt vào ra Phủ Tổng thống nên chắc không có gì trở ngại. Nhưng khi xe chạy vào cửa hông đường Nguyễn Du, thấy vắng tanh nên tiến thẳng luôn vào thềm dinh. Tôi vội vàng đi tìm Lý Quí Chung, lúc đó là Tổng trưởng Thông tin duy nhất được chỉ định chính thức trong Nội các mới. Chung đồng ý ra đài phát thanh ngay với chúng tôi trên một công xa, nhưng không một tài xế nào chịu lái đi vì sợ bị bắn. Chúng tôi đang loay hoay thì bỗng mọi người cùng hướng nhìn về đại lộ Thống Nhất (Lê Duẩn ngày nay). Một cảnh tượng hùng tráng diễn ra: một đoàn xe tăng rầm rộ tiến về hướng dinh. Bổng chốc cổng dinh bị húc đổ, đoàn tăng cày lên thảm cỏ, tiến thẳng đến thềm dinh. Tôi và anh Huỳnh Văn Tòng giúp người bộ đội xe tăng cầm cờ Giải phóng cắm lên nóc Dinh. Phải ra ngay đài phát thanh, tôi tháp tùng xe của Chính ủy Bùi Văn Tùng cùng các nhà báo Tây Đức Von Boric Gallasch và Hà Huy Đĩnh đưa Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và Tổng trưởng Thông tin Lý Quí Chung ra đài phát thanh. Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh về vấn đề đầu hàng Anh em sinh viên đã cùng bộ đội chiếm giữ đài rồi nhưng không vận hành được cũng như không biết phát đi nội dung gì. Chúng tôi tìm được anh Trần Văn Bảng kỹ thuật viên phát thanh vận hành lại đài, còn nhà báo Đức thì cho mượn chiếc cát xết thu lời đầu hàng của tướng Minh và lời chấp nhận đầu hàng của chính ủy Bùi văn Tùng, do chính ông Tùng soạn thảo. Tướng Minh nhìn thấy tôi trong đám người này có vẻ cũng yên lòng. Trông ông mệt mõi và không mấy vui. Thân hình ông vẫn to lớn nhưng mặt ông hơi hốc hác. Dẫu sao ông cũng đã hy sinh danh dự của một tướng lãnh (dù là một tướng bại trận) để thực sự cứu thành phố này khỏi cảnh tàn phá và đổ nát. Sau này tôi mới biết là ông và bộ tham mưu từ mấy ngày qua đã quyết định đầu hàng dẫu có bị đối xử không tương xứng của phía đối nghịch. Đó cũng là một hành động can đảm và đáng ca ngợi của một Phật tử vào cuối đời. Có lẽ ông chưa bao giờ thành công trong hoạt động chính trị. Ông chỉ là nhân vật cần thiết của tình thế nhưng không nắm được quyền lâu dài. Vào năm 1963, không ai ngoài ông trong số tướng lãnh đủ uy tín đứng ra lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lần này, có lẽ chính quyền VNCH cũng không còn con bài nào khác để chấm dứt cuộc chiến một cách êm thắm. Ít ra ông còn giữ được nguyên vẹn Sài Gòn và phần còn lại của miền Nam tránh khỏi đổ nát và đổ máu thêm một cách vô ích trong cuộc thư hùng cuối cùng giữa những người anh em ruột thịt. Tôi nhìn sang Giáo sư Vũ Văn Mẫu, ông có vẻ bình thản trong bộ complê màu xanh nhạt luôn chỉnh tề của một nhà giáo đại học. Khi còn học ở khoa Luật, tôi rất thích lối giảng các bài pháp chế sử, mạch lạc, hùng biện và cả hóm hỉnh của ông. Tuy xuất thân trong gia đình quan lại miền Bắc và di cư vào Nam năm 1954, khi nổ ra vụ tranh đấu Phật giáo năm 1963, đang giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao VNCH ông can đảm từ nhiệm và cạo trọc đầu phản kháng Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Nay ra lãnh chức vụ Thủ tướng tôi nghĩ ông không có ước mong gì khác hơn là đem lại hòa bình, hòa hợp hòa giải thật sự cho dân tộc. Về nội dung bản tuyên bố đầu hàng, tôi nhìn thấy giữa tướng Minh và chính ủy Tùng có lời qua tiếng lại. Hình như tướng Minh không muốn nêu chữ “Tổng thống” mà dùng tiếng “Đại tướng” quen thuộc hơn. Ông Tùng cương quyết không chịu vì cho rằng dẫu sao thì tướng Minh cũng đã làm Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, nay phải tuyên bố với tư cách đó mới ra lệnh được cho cả bên dân sự lẫn quân sự. Thu băng thử đi thử lại mấy lần mới xong. Lời phát biểu của Thủ tướng Mẫu thì ông được nói trực tiếp. Loay hoay đến gần hai giờ chiều (giờ Sài Gòn lúc đó, sớm hơn hiện nay một giờ) chúng tôi mới phát đi được tiếng nói cách mạng đầu tiên trên đài phát thanh Sài Gòn. Nguyên văn tiếng nói mở đầu của tôi: “Chúng tôi là những người đại diện cho Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định. Chúng tôi là những người đầu tiên tới dinh Độc Lập trước 12 giờ và đã cùng anh em quân đội giải phóng cắm cờ trên dinh Độc Lập. Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng và cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái… Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay đã được giải phóng… Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của chính quyền Sài Gòn về vấn đề đầu hàng ở thành phố này…” Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975, tác giả thứ 2 (cầm tập giấy) kể từ phải (bức ảnh do nhà báo Kỳ Nhân, phóng viên ảnh hãng thông tấn AP Mỹ, thực hiện) Đại tướng Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng theo bản văn do Chính ủy Bùi Văn Tùng soạn thảo: “Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam” Giáo sư Vũ Văn Mẫu phát biểu trực tiếp: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào hãy vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Chuyên viên của các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ dưới sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”. Tiếp đó là lời Chính ủy Bùi Văn Tùng: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn” Và tôi tiếp tục dẫn chương trình: “…Quân Giải phóng đã tiến vào dinh Độc Lập và đã làm chủ hoàn toàn các điểm chốt quân sự cũng như dân sự của vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định…” (Các lời tuyên bố trên đài phát thanh đều còn giữ lại được trong một băng ghi âm do Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã thu trong chiều 30/4/75) Sau đó, bộ đội đưa đoàn tướng Minh về lại Dinh Độc Lập. Tôi đích thân đứng ra điều hành buổi phát thanh cho đến 4 giờ chiều thì giao lại cho nhóm anh em sinh viên đại học Khoa học Sài Gòn, do tôi phải lên trường Petrus Ký (nay là trường Lê Hồng Phong) nơi đóng quân của ban chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn gặp ông Mai Chí Thọ. Sinh viên chỉ giao lại đài phát thanh cho ban phát thanh Giải phóng vào tối hôm đó. Tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài Gòn Những người thân cận tướng Dương Văn Minh ở Dinh Độc Lập nhớ lại mấy sự kiện này. Vào sáng sớm có một đơn vị thiết giáp đến vây quanh dinh, viên chỉ huy đề nghị tướng Minh tử thủ. Ông từ chối và thuyết phục họ rút đi. Ông cũng làm như vậy với nhóm biệt kích Lôi Hổ đằng đằng sát khí. Cuối cùng, một số sĩ quan cao cấp hải quân đến mời tướng Minh xuống tàu chạy đi, ông cũng từ chối. Lát sau viên tướng Pháp đội lốt ký giả Francois Vanuxem hối hả vào xin gặp tướng Minh và nói với họ: “Hãy rút về Cần Thơ, cố thủ Vùng 4 chiến thuật, chỉ vài ngày nữa thôi thì Trung Quốc sẽ áp đặt giải pháp trung lập hóa Miền Nam”. Tướng Minh than: “Hết Tây đến Mỹ, chẳng lẽ bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao !” Việc Tổng thống VNCH Dương Văn Minh đầu hàng ở cái “nút” ấy, một người trong cương vị ông Minh có thể có nhiều quyết định. Nếu quyết định khác đi, sẽ là máu đổ, sẽ là nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn. Sài Gòn sẽ tan tành... Lúc đó có nhiều người nói ông Dương Văn Minh yêu nước thương dân nhưng cũng có người hoài nghi cho rằng ông Minh đã ngầm theo Cách mạng? Sau những Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn cùng nhiều nhà tình báo vĩ đại khác, suy nghĩ trên không phải không có cơ sở. Tướng Dương Văn Minh nguyên là một sinh viên miền Nam ra học trường thuốc ở Hà Nội cùng thời với kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, một trong các lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Khác chính kiến với người em trai tham gia phong trào Việt Minh, ông đã trở thành sĩ quan trong quân đội Pháp và nghĩ rằng Việt Nam có thể độc lập trong khối Liên hiệp Pháp. Phải chăng do sai lầm đó mà nay tại Dinh Độc Lập ông đã quyết tâm quên mình chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện để cứu người thôi đổ máu theo tinh thần của một Phật tử. Trong buổi lễ, Chủ tịch Ủy ban Quân quản tướng Trần Văn Trà đã phát biểu: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng ai là kẻ bại. Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng, chỉ có đế quốc Mỹ xâm lược là kẻ chiến bại. Nhân dân Việt Nam là dân tộc duy nhất trong lịch sử nhân loại đã đánh bại quân Mông Cổ. Vào năm 1954, chúng ta đã đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ, và nay chúng ta đã đánh bại Hoa Kỳ, nước tự hào cho mình là hùng mạnh nhất thế giới. Đây là niềm hãnh diện chung của tất cả nhân dân Việt Nam chúng ta”. Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2/5/1975 Tướng Dương Văn Minh đã trả lời thật chân tình: “Ngày hôm nay, đại diện cho các anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước... Tôi nghĩ rằng với hành động của mình, tôi đã góp phần tránh một cuộc đổ máu vô ích cuối cùng cho Sài Gòn. Đó là phần đóng góp cụ thể của tôi trong cuộc chiến đấu này. Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. (Theo băng ghi âm buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tối ngày 2/5/1975 tại Dinh Độc Lập) Ba mươi ba năm đã trôi qua sau sự kiện lịch sử giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, tôi ghi lại những gì chính bản thân mình đã tai nghe mắt thấy về nhân vật Dương Văn Minh, mong cung cấp một số tư liệu sống về diễn biến các hoạt động của một vị tướng VNCH nổi tiếng và từng gây nhiều tranh cải nhất liên quan đến ngày 30/4/1975.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2013 3:31:15 GMT 9
Trông Cây Lại Nhớ Đến Người. Trông Hoàng Đế Phổ Nghi , lại nhớ đến "công dân" Dương Minh **********************
Bữa tiệc Tết Tàu Nhâm Dần 1962 trong Tử Cấm Thành tưởng như tại Thủ đô Thụy Điển Văn minh ************************
« Chúng tôi đã được ngồi ăn cơm chung bàn với Bác MAO, chụp ảnh chung với vị Chủ tịch vĩ đại của chúng ta. Đây là một ngày hạnh phúc nhất và vinh dự nhất trong đời mà tôi sẽ không bao giờ quên. Đó cũng là bữa tiệc truyền sức mạnh cho tôi và cổ vũ cho tôi đủ để tiếp tục cố sống .. .. » (1)
TRÍCH Hồi ký – Phổ Nghi, Hoàng đế Trung Hoa cuối cùng
Bác MAO béo mập trong Di Niên Đường Vị Hoàng đế cuối cùng vừa ra tù gầy xương Không bao giờ quên tra tấn tinh thần trong trại lao cải Nhưng mặt lại rưng rưng cảm động Bác MAO Hồng vương ! .. .. Được « vị nguyên thủ khai quốc » cho vào trại học tập Thành Người dân tốt rồi cho về với hàng tỉ Dân lương
Ngài Hoàng đế cuối cùng gầy xương trước Vị Hồng đế béo mập Cảm động rưng rưng như muốn « cảm ơn đồng chí MAO Quân vương Giúp tôi Phổ Nghi con dân thấy cái tội tày đình của bản thân mình .. .. » Từ năm 1949 suốt ngày đêm tra khảo tâm lý thể xác Hàng ngàn trận đánh đẹp thẩm tra mớm cung ép cung tận tình
Vị Hoàng đế cuối cùng thành Phổ Nghi lột xác tẩy não Đang được Bác và Đảng mời bữa cơm quang vinh « Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO, nhờ ơn Nhà nước Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. .. Được ngồi ăn cơm, chụp ảnh chng với vị Chủ tịch vĩ đại của chúng ta. Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO, nhờ ơn Nhà nước Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. .. Đây là một ngày hạnh phúc Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO, nhờ ơn Nhà nước Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. .. Đây là vinh dự nhất trong cuộc đời mà tôi con dân sẽ không bao giờ quên Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO, nhờ ơn Nhà nước Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. ..
Bữa tiệc Tết Tàu Nhâm Dần 1962 trong Tử Cấm Thành Tưởng như giữa Thủ đô Thụy Điển Văn minh Bác MAO béo mập trong Di Niên Đường Vị Hoàng đế cuối cùng vừa ra tù gầy xương Không bao giờ quên tra tấn tinh thần trong trại lao cải Nhưng mặt Phổ Nghi lại rưng rưng cảm động Bác MAO Hồng vương ! .. .. « Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO, nhờ ơn Nhà nước Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. .. » Lời phát biểu đầu tiên của công dân Phổ Nghi Đầy Hội chứng ‘bị tống tù – rồi kết thân’ « Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO, nhờ ơn Nhà nước Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. .. »
Đầy Hội chứng ‘bị tống tù – rồi kết thân’ Đầy Hội chứng ‘Thủ đô Thụy Điển ‘ Đầy Hội chứng ‘ Stockholm’
Bữa tiệc Tết Tàu Nhâm Dần 1962 trong Tử Cấm Thành Tưởng như giữa Thủ đô Thụy Điển Văn minh Bác MAO béo mập trong Di Niên Đường Vị Hoàng đế cuối cùng vừa ra tù gầy xương Không bao giờ quên tra tấn tinh thần trong trại lao cải Nhưng mặt Phổ Nghi lại rưng rưng cảm động Bác MAO Hồng vương ! .. ..
Hàng trăm triệu triểu tư sản Tàu không dấu nỗi bực mình Về lão Phổ Nghi thành khẩn biết ơn kẻ hành hạ mình Một cách rất ngờ nghệch ngốc nghếch như thế
Song, trách làm chi trăm triệu cô Xẩm chú Chệt Biết gì đến cái Tâm lý học ngành Phân tâm Hội chứng ‘bị tống tù – rồi kết thân’ Hiện tượng tâm lý Hội chứng ‘ Stockholm’ Trong đó nạn nhân con tin thể hiện sự đồng cảm cảm thông Biểu hiện cảm xúc tích cực đối với kẻ tội phạm bắt cóc họ Đôi khi còn sống chết bảo vệ mụ mệ mìn đó.
Trách làm chi trăm triệu cô Xẩm chú Chệt Biết gì đến cái Tâm lý học ngành Phân tâm Hội chứng ‘Thủ đô Thụy Điển ‘ Cái bệnh tâm thần ‘vào tù được khen & ra tù được thưởng’ Hội chứng ‘bị Bác MAO tống tù – rồi kết thân Bác MAO’
Đành thốt lên « Khổng Tử ơi : Khổng Chết hỡi ! Âu chính ra Cuộc đời không đơn giản ! .. .. » Như tuồng chèo Bắc Kinh hát bội Tàu ! Nhân sinh quan Khổng giáo rất sến
Cho nên, từ Vị Hoàng đế cuối cùng .. .. Tưng tửng ơn Đảng, nhờ ơn Bác MAO Nhờ ơn Nhà nước Cộng hò Nhăn Răng Trung Hoa Mà
tôi Phổ Nghi phỏng d..ái thành Dân ngu khu đen Mà
tôi Phổ Nghi được giải oan giải phóng ! .. ..
*
Bác MAO béo mập trong Di Niên Đường Vị Hoàng đế cuối cùng vừa ra tù gầy xương Mặt lại rưng rưng cảm động Bác MAO Hồng vương ! .. ..
Bác MAO vội vàng giã từ vỗ vai dân đen Phổ Nghi « Xin phép đồng chí nhé ! Trẫm bận tư tác trên chiếc giường gỗ ‘khủng’ huyền thoại .. .. Hẹn gặp lại Kiếp sau nhé đồng chí Phổ Nghi »
Vị Hoàng đế cuối cùng vừa xuất trại cải tạo gầy xương Không bao giờ quên tra tấn tinh thần trong trại lao cải Phổ Nghi có biết đâu nữ Hồng vệ binh Cô cháu gái chân dài cực trẻ đang đợi Hồng đế MAO Trên chiếc giường gỗ ‘khủng’ huyền thoại ! .. ..
TỶ LƯƠNG DÂN
(1) ĐÂY là một Case Study hay nhất của khoa Phân tâm học
Hội chứng ‘bị tống tù – rồi kết thân’ Hiện tượng tâm lý Hội chứng ‘ Stockholm’ Trong đó nạn nhân con tin thể hiện sự đồng cảm cảm thông Biểu hiện cảm xúc tích cực đối với kẻ tội phạm bắt cóc họ Đôi khi còn sống chết bảo vệ mụ mệ mìn đó.
ĐÂY là một Case Study hay nhất của khoa Phân tâm học Hội chứng ‘Thủ đô Thụy Điển ‘ Cái bệnh tâm thần ‘vào tù được khen & ra tù được thưởng’ Hội chứng ‘bị Bác MAO tống tù – rồi kết thân Bác MAO’
Hội chứng ‘ Stockholm’ đủ để cách nghĩa TẠI SAO VÌ SAO dân Bắc Triều Tiên lên đồng khóc tập thể khi Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật chết
Hội chứng ‘ Stockholm’ đủ để cách nghĩaTẠI SAO VÌ SAO dân TÀU Hoa Lục lên đồng khóc tập thể khi MAO TRẠCH ĐÔNG chết
Hội chứng ‘ Stockholm’ đủ để cách nghĩa TẠI SAO VÌ SAO dân Miền Bắc lên đồng khóc tập thể ….
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:10:37 GMT 9
BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG - PHẦN I 1 2 3 4 5 6 website than cong : biendongmientrung-lienthanh.blogspot.com/phan hoi: ĐÔI ĐIỀU VỚI TIẾN SĨ TRẦN KIÊM ĐOÀN motgoctroi.com/HoiKy/BienDongMT/DoidieuvoiTKDoan.htmTran KiemDoan la ai ? motgoctroi.com/HoiKy/BienDongMT/TKDoanlaai.htmCuốn sách sau nhiều năm chờ đợi! Đôi lúc ngồi nhớ lại những giai đoạn đen tối của đất nước, không ít người, chắc vẫn còn bàng hoàng tự hỏi:- VNCH thua trận chiến cuối cùng ngày 30-4-1975 là bởi lý do gì. Sự việc đã ngoài ba chục năm, đáng lẽ chìm vào quên lãng từ lâu, nhưng có nhiều điều nghịch lý trong kết quả chung cuộc ấy, nên những người còn chút tâm huyết với quốc gia, dân tộc, vẫn tìm tòi, truy cứu để làm sáng tỏ vấn đề. Thiếu Tá Liên Thành, Tác Giả, 1972 Thiếu Úy Liên Thành Công việc này cũng không đơn giản, vì tài liệu không có nhiều, vả lại những tài liệu có được thường là những hồi ký của một vài người liên quan đến sự việc - Những hồi ký này không nhằm mục đích cung cấp tài liệu để tìm sự thực, mà chỉ tự đề cao cá nhân, hoặc là kể công, hay là chạy tội, nên rất hời hợt, chủ quan. Còn một số vị biết rõ sự thật, có thể cung cấp những dữ kiện thật, lại ngại ngùng, không muốn lên tiếng, sợ mất lòng đảng phái này, tôn giáo nọ, hoặc sợ bị trả thù v...v.... Thời gian lần lượt trôi đi, không ít vị đã đem những hiểu biết ấy về lòng đất lạnh. Chờ đợi hơn 30 năm, nay chúng tôi mới được đọc cuốn "Biến Động Miền Trung" của ông Liên Thành, cựu Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng CSQG/Thừa Thiên - Huế. Tôi thấy tác giả kể lại những sự kiện mà ông đã biết, những công việc mà ông đã làm trong suốt thời gian ông phục vụ tại Thừa Thiên - Huế. Dưới ngòi bút của ông, sự thật được phơi bầy trọn vẹn, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn - Rồi đến những nhân sự xuất đầu lộ diện ở miền Trung mà ông đã gặp, ai chính, ai tà, ai chủ mưu, ai xúi dục, khích động những hành động phá rối trị an, khi đốt chợ, lúc đốt... người v...v... Căn cứ vào đó mà tôi đã tìm ra được thêm một số lý do, để giải đáp phần nào những câu hỏi lẩn quẩn trong đầu óc từ bao năm nay. Rõ ràng miền Nam chúng ta bị bức tử vì thù trong, giặc ngoài, vì những nhát đâm chí tử của bọn "ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản", bọn "đón gió, trở cờ", bọn nằm vùng trong tôn giáo, trong chính quyền, trong quân đội... *** Tác giả Liên Thành đã đưa người đọc đi qua suốt một đoạn thời gian, từ cuối năm 1963 cho đến ngày mất nước 30-4-1975. Những công tác mà ông tham gia với tư cách một sĩ quan tác chiến, rồi biệt phái sang Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia - Từ cấp Thiếu úy Phó Ty lên đến Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên - Huế. Theo tác giả, trong thời gian này, dân chúng Thừa Thiên - Huế, đã bị cuốn hút vào những cuộc đấu tranh với những mục đích chìm, nổi khác nhau - Nhưng phần nhiều đều núp dưới chiêu bài đòi hỏi "tự do tôn giáo", để dễ dàng lôi kéo Phật giáo đồ, hay nói đúng hơn, lợi dụng được Phật tử vào những cuộc đấu tranh đó. Cán bộ cộng sản núp dưới danh nghĩa của các bậc tu trì có phẩm trật cao trong hàng giáo phẩm lúc bấy giờ, đã lèo lái Phật giáo đồ miền Trung đấu tranh lật đổ chính phủ trung ương - Những việc chống đối như vậy, chưa cần nghĩ đến kết quả, chỉ với những xáo trộn trong xã hội, ngày này qua ngày khác, đã mang lợi ích không nhiều thì ít cho phía cộng sản. Ít ra chúng cũng đã có được những yếu tố để tuyên truyền với dư luận quốc tế , bêu xấu chế độ chúng ta không hợp lòng dân, nên dân chúng nổi lên chống đối v....v... Theo dõi diễn tiến trong cuốn sách, đã được tác giả sắp xếp, trình bày liên tục từng giai đoạn, người đọc như được sống lại quãng thời gian sự kiện đang xảy ra - Đầu óc tìm tòi cũng vì thế được thoả mãn phần nào, và quan trọng hơn hết, là qua những sự kiện tác giả trình bày, chính chúng ta có thể phân biệt rạch ròi bạn và thù. Sau khi đọc xong cuốn sách này, chắc chắn những suy luận, phán đoán của người đọc về các biến cố đã qua, cũng sẽ thay đổi phần nào, vì người đọc bây giờ được cung cấp những sự thật, mà xưa nay chưa ai công bố, hoặc đã có công bố nhưng chưa rõ ràng, đầy đủ. Với lối viết bình dị, giống như chỗ thân tình bạn bè kể cho nhau nghe - Tác giả đã thuật lại một trường hợp thương tâm, làm nhiều người uất ức, khi đọc đến đoạn một nhân viên tình báo thượng thặng của VNCH, người đã lập nhiều thành quả, tổ chức và chỉ huy các điệp viên xâm nhập miền Bắc. Sau ngày 1-11-63, ông bị vu cáo đàn áp Phật giáo, bị đưa ra tòa, rồi bị chính những kẻ được gọi là "cùng chung chiến tuyến" với ông kết án tử hình. Người đọc cũng chia sẻ nỗi chua cay, đau xót của tác giả, khi ông bị chính hai vị thượng cấp của mình, không hiểu vì lý do gì, buộc ông phải trả tự do cho hai cán bộ kinh tài Việt cộng, mà ông và những người cộng tác đã phải tốn biết bao công sức mới bắt được chúng với đầy đủ bằng chứng. Rất nhiều lúc người đọc cảm thấy ngỡ ngàng, vì những hành động của các vị tu sĩ - Dù đã biết rằng, họ chỉ là cán bộ cộng sản xâm nhập vào hàng ngũ lãnh đạo - Cách này, cách khác, họ xúi dục dân chúng nổi loạn - Chứa chấp đặc công và tàng trữ vũ khí dưới hầm bí mật trong chùa - Tạo điều kiện cho bọn khủng bố Việt cộng giết hại dân lành - Lúc bị bắt quả tang, vẫn cố bám víu vào chiếc áo nâu sồng, để làm khó dễ nhân viên thi hành công vụ - Khi lộ rõ chân tướng thì nói năng thô bỉ, chửi bới nhân viên công lực, văng tục còn hơn dân dã ngoài đời... Còn nhiều và còn nhiều - Với hơn 400 trang sách, tác giả kể cho ta biết từng việc, từng chi tiết thật rõ ràng - Phải chính quý vị tìm đọc, chính quý vị tận tay lật từng trang sách để xem, mới cảm thấy thấm thía cuộc đời... Mỗi gia đình người Việt tỵ nạn nên có một cuốn "Biến Động Miền Trung" - Nhất là các gia đình sinh quán tại Thừa Thiên - Huế. Chúng ta cần phải lưu giữ những chứng cớ về tội ác của cộng sản đã gây ra trong dịp Tết Mậu Thân, để con cháu chúng ta sau này hiểu rõ mà tránh xa, đồng thời cũng có tài liệu để mỗi khi cần tham khảo. Đọc cuốn sách này xong, có lẽ quý vị sẽ tự nhủ: "Đây là cuốn sách chứa đựng nhiều sự thật mà ta mong đợi từ bấy lâu nay". Hy vọng sau tác giả Liên Thành, còn nhiều vị biết rõ những sự thật, liên quan đến vận mệnh đất nước trong giai đoạn đã qua, nhưng ngại ngùng chưa tiết lộ. Xin cứ mạnh dạn công bố như tác giả Liên Thành đã làm. Đa số độc giả chúng tôi là những người thầm lặng, yêu chuộng sự thật sẽ hết lòng ủng hộ - Mong lắm thay!!! (Giai đoạn 1963-1975) Phần 1 Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế) Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên, Huế, đại đa số quần chúng theo đạo Phật, có thể đến 2/3 dân số. Trong cuộc đảo chánh 1/11/1963 lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng hai bào đệ của Tổng Thống là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, ngoài Hoa Kỳ và một số Tướng Lãnh VNCH, Phật Giáo Ấn Quang là một trong những lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh này. Vì vậy sau khi thành công, thế lực và ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Quang trong chính quyền và quần chúng rất mạnh. Thành phố Huế có 3 quận đó là quận 1,2,3. (hay Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội). Tỉnh Thừa Thiên có 10 quận từ bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền,Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía tây là Quận lỵ Nam Hòa. Tổng cộng có 73 Xã. Dựa theo hệ thống tổ chức địa dư và hành chánh của Chính Phủ VNCH, Phật Giáo Ấn Quang có 73 Khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Xã, 13 Khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Quận, và Tỉnh hội Phật Giáo. Ngoài ra, trong chính quyền, Phật Giáo Ấn Quang còn có các tổ chức ngoại vi: Công Chức Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Sư Đoàn I thì có Quân Nhân Phật Tử (Chiến Đoàn Nguyễn đại Thức). Cảnh Sát Quốc Gia thì có Cảnh Sát Phật Tử, đặc biệt hơn nữa là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba. Lãnh đạo Phật giáo miền Trung và Thừa Thiên Huế là thầy Thích Đôn Hậu, trụ trì Chùa Linh Mụ, với chức vụ Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh. Thích Đôn Hậu là cơ sở nòng cốt và lá bài tối quan trọng của Cộng Sản tại miền Trung, bắt rễ sâu trong Phật Giáo. Tên cán bộ cộng sản điều khiển Thích Đôn Hậu trong bóng tối chính là Hoàng Kim Loan. (Thích Đôn Hậu: 1905-1992,sau biến cố Mậu Thân năm 1968, ra Hà Nội. Tháng 6/1968: Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (Việt Cộng), năm 1976: Đại biểu Quốc hội khóa VI Cộng Sản Việt Nam) Mậu Thân 1968, trong những ngày đầu chiếm Huế, Hà Nội tưởng đã thắng nên cho Thầy tu Thích Đôn Hậu xuất đầu lộ diện trong lực lượng ngoại vi của Cộng Sản: Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Những ngày kế tiếp khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Cảnh Sát Quốc Gia và lực lượng Hoa kỳ phản công mạnh tái chiếm Huế, Hoàng Kim Loan đã phái cán bộ hộ tống Thích Đôn Hậu qua ngã Chợ Thông, Văn Thánh lên mật khu và từ đó đi ra Bắc. Tại Hà Nội, Đôn Hậu cùng với các tên Cộng Sản nằm vùng tại Huế trước 1966 như Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm v.v.. theo lệnh Trung Ương Đảng thành lập phái đoàn Đại Diện Trí Thức và Tôn Giáo Miền Nam đi Trung Cộng, Tây Tạng, truyên truyền cho Hà Nội. Đến 1975, y trở lại trụ trì tại Chùa Linh Mụ. Nhân vật thứ hai đầy quyền uy không những đối với Phật Giáo đồ miền Trung mà toàn cả Phật Giáo đồ miền Nam Việt Nam đó là Thích Trí Quang - Ông này tên thật là Phạm Văn Bồng, quê quán làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cùng quê với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Xuất gia từ năm 14 tuổi, trước 1955 y đã trú ngụ tại Chùa Từ Đàm.Chùa Từ Đàm nằm về phía tây thành phố Huế cạnh dốc Nam Giao và dốc Bến Ngự, sát bên nhà thờ cụ Phan Bội Châu. Trụ trì chùa Từ Đàm là Thích Thiện Siêu cũng là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Sau năm 1975, Thiện Siêu được Hà Nội cho làm Dân Biểu trong Quốc Hội Của chúng. Theo hồ sơ của sở Liêm Phóng tức Mật Thám Pháp còn lưu tại ban Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên, Huế và sau nầy tin tức thẩm vấn cán bộ Việt Cộng được cập nhật thêm, thì Thích Trí Quang là đảng viên Côïng Sản. Thích Trí Quang gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam vào 1949 tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa. Lương Miêu. Dương Hòa là một làng nhỏ nằm về phía tây lăng vua Gia Long cách làng Đình Môn khảng 30 cây số đường bộ. Người kết nạp và chủ tọa buổi lễ gia nhập đảng cho Thích trí Quang là Tố Hữu, đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam. Mùa thu năm 2000 tại Hà Nội, nhân nói đến các nhân vật chính trị tại miền Nam trước 1975, chính Tố Hữu xác nhận y là người kết nạp Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang vào đảng Cộng Sản. Tên Việt Cộng thứ 3 đội lốt thầy tu, tối nguy hiểm, đó là Thích Chánh Trực, đệ tử ruột, truyền nhân của Thích Trí Quang. Thích Chánh Trực tu tại Chùa Tường Vân, nằm giữa chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao. Chùa Tường Vân là nơi tu hành của Ngài Thích Tịnh Khiết Giáo Chủ Phật Giáo V. N. Thích Chánh Trực hoạt động bề nổi, mọi cuộc biểu tình, tuyệt thực, lên đường xuống đường, đều có mặt Thích Chánh Trực. Trực là cơ sở Tôn Giáo Vận của Hoàng Kim Loan đã từng đưa Hoàng Kim Loan vào ở với y tại Chùa Tường Vân trong hơn 1 năm. Tên này dáng dấp cao to, mắt trắng môi thâm, nhìn thẳng vào hắn thấy rõ 3 chữ: Tham, Sân, Si, hiện trên nét mặt, khuôn mặt của kẻ lưu manh gian ác. Hắn đã lén lút có một đứa con trai với một nữ tín đồ, chuyện này Hoàng Kim Loan biết rõ hơn ai hết. Từ sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, thế lực, quyền lực tột đỉnh của Phật Giáo Ấn Quang tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế, nằm gọn trong tay của 3 tên Cộng Sản: Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực. Phía sau hậu trường là Hoàng Kim Loan cán bộ Điệp báo phụ trách Dân Vận, Trí Vận và Tôn Giáo Vận sắp xếp và giựt giây. Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập tại miền Trung, Trung Tâm Quyền Lực. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy Hành Chánh và Quân sự từ Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v.v... tại 6 Tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa thiên - Huế, đều phải có sự chấp thuận của Chùa Từ Đàm, của Thầy. Mọi cuộc biểu tình, lên đường, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu chống đối chính quyền Trung Ương Sài Gòn, đều xuất phát từ chùa Từ Đàm, từ Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu. Trong khi đó thì tên điệp báo Việt Cộng Hoàng Kim Loan dựa vào thế lực của Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, tổ chức, kết nạp và gài nội tuyến vào hàng ngũ Phật Giáo. Từ khuôn Hội Phật Giáo ở cấp Xã, Quận, Tỉnh Hội, vào Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, vào Tổng Hội học sinh tại các trường Trung Học, vào các nhóm tiểu thương chợ Đông Ba, Bến Ngự, và vào cơ quan Quân Sự, Hành Chánh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Thừa Thiên, Huế. Ngay cả một vài Đảng phái chính trị xưa nay nổi tiếng chống Cộng cũng bị Hoàng kim Loan cài nội tuyến vào. Ngay khi tiếng súng Cách Mạng 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng Kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia và giải thoát tất cả các cán bộ cao cấp của bọn chúng đã bị các cơ quan này bắt giữ. Thừa Thiên- Huế trước 1963, các cơ quan An ninh, Tình báo hoạt động rất hữu hiệu. Hầu hết các tổ chức, cơ sở Việt Cộng đều bị khám phá và bị bắt giữ bởi Ty Công An Thừa Thiên. Trưởng Ty là Ông Lê Văn Dư, và Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung, Trưởng Đoàn là Ông Dương Văn Hiếu. Thế nhưng, còn có một cơ quan tình báo tối mật của quốc gia đóng tại Huế mà hầu như ít ai biết được. Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh Tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự màu hồng, trang nhã, trầm lặng, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương, một dàn hoa vông vang vàng như nghệ phủ kín bờ tường, đường vào cổng chính của ngôi biệt thự cứ mỗi độ hè về hai hàng phượng vĩ bên vệ đường nở đỏ phủ đầy lối đi. Thoạt nhìn cứ ngỡ ngôi biệt thự màu hồng nầy là của một giai nhân quí phái nào đó ở đất Thần kinh. Nào có ai ngờ rằng ngôi biệt thự màu hồng thơ mộng này chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ ngoài Bắc. Những điệp viên của cơ quan nầy tung ra miền Bắc với nhiệm vụ phá rối Chính Trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội. Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này. Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người nầy thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm thì cũng nghỉ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia với những Điệp Vụ phía bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một Bông Hồng hiếm quí của Tình Báo miền Nam. Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc Cách Mạng lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, theo lệnh của của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật Giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả đảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm. Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công An Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền bắc là Phan Quang Đông cũng cùng chung số phận. Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh lực lượng đảo chánh tại Huế đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên Sĩ Quan: - Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh. Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận. Buổi gặp mặt chỉ có 3 người. Tướng Đỗ Cao Trí, ông Phan Quang Đông và chánh văn phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí: - Chúng tôi hoạt động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang hoạt động ngoài đó Thiếu tướng lo cho họ. Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy nóc truyền tin liên lạc ngoài Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ trước khi căn nhà màu hồng nầy bị bao vây. Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những Điệp viên đang hoạt động và đang kẹt lại tại miền Bắc. Các cuộc biểu tình hoan hô Cách Mạng, đã đảo Nhu, Diệm, Cần Lao, Công An, Mật Vụ vẫn tiếp tục tại Huế. Một nguồn tin được tung ra: Một số quí Thầy bị Mật Vụ Nhu, Diệm bắt hiện đang giam tại Chín Hầm. Trước 1963, ít ai nghe và cũng chẳng ai biết địa danh Chín Hầm. Chín Hầm nằm về phía Tây thành phố Huế, ngay phía sau lăng Vua Khải Định và cạnh dòng tu Thiên An. Đó là một dãy 9 hầm của quân đội Nhật, rồi đến quân đội Pháp dùng để chứa đạn, đúng nghĩa đó là 9 hầm chứa đạn, kho đạn. Sau khi nguồn tin được tung ra là các Thầy bị giam tại Chín Hầm, đã có người hướng dẫn, hằng ngàn thiện nam, tín nữ, Sinh Viên, Học Sinh, các bà tiểu thương chợ Đông Ba ào ạt kéo lên Chín Hầm giải thoát cho Quí Thầy. Màn kịch diễn ra tại Chín Hầm thật thương tâm, khiến người thiệt thà ngây thơ đứng xem phải rơi lệ. Soạn giả và diễn viên của vở kịch nầy quá xuất sắc. Quí Thầy được các tín đồ đưa từ các hầm giam ra ngoài, có thầy quá đuối sức đi không nổi phải có người dìu đi. Quí thầy đều mặc áo nâu sồng, đầu cạo láng bóng. Tín đồ nhào vào nhất là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba ôm chầm Quí Thầy khóc lóc thảm thiết. Nào ai biết được, tất cả là đồ giả, Quí Thầy là đồ giả. Bọn chúng là đám Việt Cộng thứ thiệt, thứ cao cấp bị bắt giữ. Trước đó một vài hôm, cơ sở của bọn chúng đã đem áo nâu sồng vào cho bọn chúng mặc, cạo đầu láng bóng, ngồi đợi để được giải thoát. Mà Quí Thầy được giải thoát thật. Nhưng sau khi được giải thoát, Quý Thầy không về chùa mà lại lên núi tu hành tại các mật khu để rồi Mậu Thân 1968 tu hành đắc đạo xuống núi bắn giết đồng bào Huế. Ra lệnh chôn sống gần 5000 ngàn thường dân trong những mồ chôn tập thể, trong số 5000 ngàn nạn nhân đó số lượng phật giáo đồ chân chính không phải là nhỏ, rồi đến 1975 bọn này lại bắt bớ tù đày biết bao nhiều người dân Huế. Màn bi kịch Chín Hầm vừa nói trên đạo diễn là Thích Đôn Hậu, ThíchTrí Quang, Thích Chánh Trực. Diễn viên là Hoàng Kim Loan và các cơ sở của hắn đã cài vào trong hàng ngũ Phật Giáo. Bọn chúng đã hoàn tất nhiệm vụ mà Hà Nội giao phó: Giải Thoát tất cả các cán bộ Cộng Sản cao cấp bị lực lượng An ninh của Chính Phủ Việt Nam Coông Hòa bắt giữ. Những ngày kế tiếp, dưới áp lực của Quí Thầy, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho thành lập Tòa Án Quân sự tại Huế đem Ông Phan Quang Đông ra xử. Với tội danh: Mật Vụ Nhu, Diệm. đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu, bắt giam và hành hạ dã man, tàn bạo Quí Thầy và tín đồ Phật Giáo. Với tội danh bị vu cáo này, toà tuyên án tử hình Phan Quang Đông. Và Ông đã bị xử bắn tại sân vận động Tự Do tức sân Vận Động Bảo Long tại Huế. Đồng ý khi bước chân vào nghề Tình báo, nghề của một Điệp Viên, sinh nghề tử nghiệp đó là chuyện thường tình khi bị sa vào tay địch. Nhưng đau đớn và nghiệt ngã là địch đã dùng những người Quốc Gia, dùng súng của những người cùng chiến tuyến chống Cộng Sản, bắn những phát đạn vào thân thể ông. Nỗi oan khiên ngút tận trời xanh, chỉ có Ông biết, chiến hữu của Ông biết, trời biết, đất biết, hồn thiêng sông núi biết và..Tổ Quốc Ghi Công. Những người ngồi xử ông Phan Quang Đông, từ Chánh Án, Chánh Thẩm, Công Tố là những Sĩ Quan, là những viên chức cao cấp hành chánh của Chính Phủ miền Nam Việt Nam. Giờ này họ còn hay đã mất, tại quê nhà hay hải ngoại, có ai hối hận không, khi đem Ông Phan Quang Đông một cấp Chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngoài Bắc ra xử bắn. Các ông đã quá hèn hạ sợ mất lon, mất chức, bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu, cúi đầu theo lệnh những tên Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo như Đôn Hậu, Trí Quang và sau lưng là Hoàng Kim Loan, là Cục 2 Quân Báo và Nha Liên Lạc tức Cục Tình Báo Chiến Lược của Hà Nội. Sau ngày 1-11-1963, hệ thống tình báo hữu hiệu của miền Nam đối đầu với 2 cơ quan Cục Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của Cộng Sản Hà Nội hoàn toàn bị sụp đổ. Cơ quan Tình Báo phụ trách miền Bắc của ông Phan Quang Đông và Đoàn các Công Tác Đặc Biệt phụ trách an ninh miền Nam của Ông Dương Văn Hiếu bị địch dùng bàn tay người quốc gia: Hội Đồng Cách Mạng đánh phá tan tành, kẻ bị bắt tù đày, kẻ bị sa thải. Tất cả đều mang tội danh Mật Vụ của Nhu, Diệm đàn áp Phật Giáo.. Thử nhìn lại một vài thành quả công tác của hai cơ quan này, để thấy có phải họ là Mật Vụ đàn áp Phật Giáo hay không: Vụ nhân dân Quỳnh Lưu Tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền miền Bắc năm 1956, kế hoạch và hành động đều do ông Phan Quang Đông và những Điệp viên ông gởi ra miền Bắc thực hiện. Còn nhiều những điệp vụ khác nữa, mà mãi đến nay tuy thời gian tính cũng đã quá lâu, nhưng vẫn không thể tiết lộ. Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do Ông Dương Văn Hiếu Chỉ huy. Trách nhiệm của cơ quan này là đối đầu và vô hiệu hóa mọi hoạt động của những Điệp viên thuộc hai cơ quan tình báo miền Bắc gởi vào Nam: Đó là Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược tức Nha Liên Lạc. Tổ chức Điệp Báo của Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lươc của Cộng Sản rất tinh vi, phương pháp hành động của chúng là: Đơn Tuyến, Chia cách, và Bảo Mật tối đa.Chỉ Huy Trưởng Cục 2 Quân Báo tại Hà Nội là Đại Tá Lê Trọng Nghĩa. Tại Miền Nam, Bộ chỉ Huy Cục 2 Quân báo đóng tại vùng núi Cao nguyên Trung phần thuộc Tỉnh Pleiku và Đại Tá Lê Câu làm Chỉ Huy Trưởng. Trước 1954, Lê Câu với quân hàm Thiếu Tá, chỉ huy màng lưới Quân Báo các Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đại Tá Lê Câu bị Đoàn Đặc Nhiệm miền Trung bắt vào năm 1961, khi y rời căn cứ về Sài Gòn, đến nhà Phạm Bá Lương để tiếp xúc và nhận tài liệu mật của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa do Phạm Bá Lương cung cấp. Phạm Bá Lương là cơ sở nội tuyến của Đại Tá Lê Câu. Phạm bá Lương làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa với chức Vụ Công Cán ủy Viên. Bộ trưởng Ngoại Giao thời đó là ông Vũ Văn Mẫu. Sau 1975, Lê Câu giữ chức Vụ Tổng Thanh Tra ngành Công An Việt Cộng. Nhân vật kế tiếp bị Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung bắt là Trần Quang, Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm trưởng lưới Điệp Báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Nguyễn Vĩnh Nghiệp cán bộ đặc trách Khu ủy Sài Gòn. Tư Hùng Cán Bộ Đặc Khu Sài Gòn. Toàn bộ là Đảng viên Cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung. Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5 gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của Đảng Cộng Sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958. Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Saigòn. Mục tiêu kế tiếp của Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng hay Nha Liên Lạc. Chỉ huy trưởng Tổng Cục Tình Báo Chiến lược Việt Cộng là Trần Hiệu. Người chỉ huy Cục Tình báo Chiến Lược Việt Cộng tại Miền Nam Việt Nam là Trần Quốc Hương tự Trần Ngọc Trí tức Mười Hương. Mười Hương là Khu Uỷ Viên là Chính Ủy. Từ miền Bắc hắn vào miền Nam với nhiệm vụ kiểm tra và chỉ đạo mọi công tác của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng tại miền Nam, đồng thời phân tích và lượng giá tình hình quân sự và chính trị của chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để Trung Ương Đảng tại Hà Nội có kế hoạch đối phó. Mười Hương đã bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt tại Sài Gòn vào tháng 7 năm 1958. Minh Vân tức Đại Tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình Báo Chiến lược Việt Cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958. Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình Báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp bằng cách nhập vào đoàn dân di cư vào Nam 1954. Tại Sàigòn, y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958. Đại Tá Văn Quang tức Trang Công Doanh, cán bộ nòng cốt của Cục Tình Báo Chiến lược. Đại Tá Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Saigon - Chợ Lớn Cộng Sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Saigòn. Đại Tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958. Lê Thanh Đường, phái khiển Tình Báo. Thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam. Nghề Nghiệp hợp pháp tại Sàigòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sàigòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959. Tôn Hoàng, phái khiển Tình Báo,Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam,Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959. Dư Văn Chất, phái khiển Tình Báo, Cục TBCL Cộng Sản, theo đợt di cư 1954 vào Saigòn, chức vụ Trưởng Lưới Tình Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Saigòn. Sau 1975 Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy. Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình Báo Chiến lược. Trước 1954 Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo Của Liên Khu Ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục TBCL Việt Cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958. Hoàng Hồ, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản. Hoàng Hồ là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sàigòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa y là Dân Biểu. Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên thuộc Cục TBCL Cộng Sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại Sàigòn. Sau đó bị Đại Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và bộ phận Đặc Biệt của ông gồm những người cũ trong Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung của Ông Dương Văn Hiếu bắt lần thứ 2, và triệt tiêu Cụm A 22 TBCL khi y xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH. Trước đó, hầu hết những cán bộ Cộng Sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lươc Cộng Sản bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao Thừa Phủ (Mặt sau tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xã Huế) hoặc Chín Hầm. Những ngày đầu của cuộc Cách Mạng 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo,và Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển Tình Báo, Điệp viên Hoàng Kim Loan đã giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm. Số còn lại cách đó không lâu, đã được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đưa vào SàiGòn, và Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh, và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đã trân trọng trả tự do cho bọn Cộng Sản này vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động mạnh hơn, tinh vi hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi đoàn thể chính trị, đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong Quân Đội mà không một ai dám đụng đến bọn chúng kể cả các Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đến các chỉ Huy trưởng mọi cơ quan Tình Báo Dân Sự cũng như Tình Báo Quân Đội, và ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân Khu, có gan to bằng trời cũng không dám đụng đến bọn cán bộ Cộng Sản thứ thiệt và đám Việt Cộng đội lốt Thầy Tu này, vì đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ: Tàn dư chế độ Nhu, Diệm, dư Đảng Cần Lao, đàn áp Quí Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu tình đả đảo và bay chức ngay.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:13:30 GMT 9
Trí quang Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không một Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàigòn có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi lệch hướng chỉ đạo của ông ta. Tướng lãnh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu thanh toán nhau tranh dành Ngôi Báu. Tướng lãnh lợi dụng Trí Quang để có được hậu thuẫn quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lãnh cho mưu đồ và tham vọng của hắn.
Các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại Saigòn, nay đảo chánh mai chỉnh lý, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965. Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo chánh.
Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lý của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm do bàn tay của Cục TBCL Cộng Sản đạo diễn.
Ngày 19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân Lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn Mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng Cộng Sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa. Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được Trung Ương Đảng Cộng Sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên nầy là điệp viên của Tổng Cục 2 TBCL Cộng Sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt Cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố.
Tháng 2-1965 Công Trường 5 Đặc Công của Đại tá Việt Cộng Thân Trọng Một, tung 2 tiểu đoàn đặc công K1, K2 tấn công quận lỵ Nam Hòa phía tây thành phố Huế. Quận lỵ Nam Hòa cách thành phố chưa đầy 10 Km. Cuộc tấn công của Việt Cộng bị lực lượng quân sự tại Chi Khu Nam Hòa phản công và đẩy lui. Trong khi đó Chỉ huy hai cơ quan chịu trách nhiệm an ninh tại thành Phố Huế là Ty Công An Thừa Thiên và ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là hai nhân vật được Trí Quang và Đôn Hậu đề cử.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là Nguyễn văn Cán thường được gọi là Quận Cán vì đương sự có bằng Cử Nhân Luật ngạch Quận Trưởng (Commissioner) , đương sự có anh ruột là cán bộ Cộng Sản quân hàm Đại Tá. Quận Cán là Cơ sở của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng, cán bộ điều khiển của y là Hoàng Kim Loan. Trưởng Ty Công An tỉnh Thừa Thiên là Lê Văn Phú. Phú là em rể của Nguyễn văn Cư, đệ tử thân tín của Thích Đôn Hậu. (Sẽ đề cập đến Quận Cán tên điệp viên Côïng Sản này ở phần sau). Thời gian này hai ty Cảnh sát chưa sáp nhập, một bên là ty Công An Thừa Thiên, một bên là ty Cảnh Sát thị Xã Huế.
Đến tháng 6-1966, khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Cảnh Sát, ông cho sát nhập 2 thành một, gọi là Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, để tiện điều hành và thống nhất chỉ huy. Về Quân Sự, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế gọi là Khu 11 Chiến thuật, dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn I (Nguyễn Chánh Thi).......
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 2 nguyễn chánh thi Tướng Thi Ông (Tướng Nguyễn Chánh Thi 1923-2007- hình bên cạnh) đúng nghĩa là một ông Tướng của chiến trận không phải là một nhà chính trị, vì thế dễ dàng bị Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu xỏ mũi kéo đi. Chung quanh ông Tướng toàn là người của Trí Quang và Đôn Hậu cài vào. Nhất cử nhất động của ông Tướng đều được các cơ sở của hai tên nầy báo cáo đầy đủ lên Trung Tâm Quyền Lực Từ Đàm. Ông Tướng nghĩ rằng lợi dụng được Thích Trí Quang và Đôn Hậu thì có thể dùng lực lượng đông đảo Phật Giáo Đồ tại Huế và miền Trung, để áp lực với Chính Phủ Trung Ương cho quyền lợi và mưu đồ riêng của ông. Thế nhưng ông Tướng đã lầm, lầm to, lầm lớn. Ông chưa đủ mưu mô thủ đoạn khôn ngoan để lợi dụng Thích Trí Quang, Đôn Hậu và đằng sau là Hoàng Kim Loan, là Cục Tình Báo Chiến Lược (TBCL) Cộng Sản. Ngược lại, bọn chúng cho ông vào tròng, lợi dụng ông và dùng Sư Đoàn I BB của Ông làm lực lượng nòng cốt trong cuộc khởi loạn miền Trung năm 1966, để rồi phải gánh chịu hậu quả là ông bị rời khỏi quân đội, rời khỏi quê hương, lưu đày ở xứ Cờ Hoa từ 1966 cho đến nay.
Nhắc đến Trung tướng Nguyễn chánh Thi, ai cũng biết ông là chuyên viên, là vua đảo chánh. Ngày 11-11-1960 ông đảo chánh Tổng Thống Diệm, thất bại ông chạy sang Cao Miên. Ngày 1-11-1963 Tướng lãnh đảo chánh thành công ông từ Cao Miên về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I BB, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I với cấp bậc Trung Tướng. Mỗi khi bất bình chính phủ Trung Ương ông lên máy bay vào Sài Gòn đảo chánh, vì thế ông Tướng mới có biệt danh là Vua đảo chánh.
Vụ khởi loạn tại miền Trung - Huế của Thích Trí Quang và Đôn Hậu quá dài giòng và mọi người đều biết, tôi chỉ nói những điểm chính mà thôi. Đầu tháng 6-1965, tình hình Chính trị tại Saigòn tạm ổn định. Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ra đời do quân đội (VNCH) nhận lãnh trách nhiệm. Chủ Tịch là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Sau đó ngày 19-6-1965, Nội Các Chiến Tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập. Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ tướng). Nhìn vào thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Nội các Chiến tranh, hầu như không có người của Thích Trí Quang. Phản ứng đầu tiên của Trí Quang là gặp Đại Sứ Mỹ Tại Sàigòn tỏ ý muốn tổ chức đảo chánh lật Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đại Sứ Mỹ hỏi Trí Quang: Nếu đảo chánh lật "Thiếu Tướng Kỳ thì Thượng Tọa đưa ai thay thế", Trí Quang không trả lời được câu hỏi của Đại Sứ Mỹ, lẳng lặng ra về.
Thích Trí Quang từ Sàigon ra Huế, phát động cuộc dấy loạn miền Trung. Bộ Chỉ Huy đầu não cuộc tranh đấu Miền Trung của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Thích Trí Quang lãnh đạo đặt tại Chùa Từ Đàm. Mục đích của Trí Quang khi phát động cuộc tranh đấu Phật Giáo Miền Trung là lật đổ Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Chính Phủ Trung Ương do Quân Đội nắm giữ, qua đại diện là Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu một tín đồ Thiên Chúa Giáo, và Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ, hầụ để nắm lại quyền chủ động kiểm soát và sắp đặt nhân sự từ Chính phủ Trung ương đến địa phương, mà y đã dần dần mất đi sau ngày 1-11-1963 và sau các cuộc chỉnh lý, đảo chánh của Tướng lãnh tại Sàigon. Hình ảnh một Trí Quang trong cuộc Cách Mạng 1963 đối với các Tướng Lãnh trẻ và quần chúng miền Nam đã mờ nhạt và như vậy Ngôi Quốc Phụ của y khó đứng vững.
Yêu sách đầu tiên của Trí Quang là yêu cầu Chính Phủ soạn thảo Hiến Pháp mới, tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Pháp và đả đảo Thiệu-Kỳ, đả đảo chế độ Quân Phiệt, đả đảo dư Đảng Cần Lao. Từ cuối tháng 2-1966, Miền Trung và Thừa Thiên-Huế bắt đầu dậy sóng. Theo lệnh của Trí Quang và Thích Đôn Hậu, quần chúng Phật Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh chuẩn bị xuống đường ào ạt. Đầu tháng 3-1966, cuộc dấy loạn bắt đầu. Các Khuôn Hội Phật Giáo từ Xã, Quận, Tỉnh, Học Sinh, Sinh Viên Đại Học Huế bãi Khóa. Tiểu thương Chợ Đông Ba và Thành Phố Huế đình công bãi thị, chợ không đông, phố xá đóng cửa. Mọi sinh hoạt thường nhật của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Hàng loạt các cuộc biểu tình diễn ra trên đường phố, từ đường Lê Lợi, qua cầu Tràng Tiền, khu phố Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu. Khẩu hiệu đả đảo Thiệu, Kỳ, đả đảo Quân Phiệt, đả đảo dư đảng Cần Lao được nghe suốt ngày đêm.
Màn thứ 2, kế tiếp Thích Trí Quang cho tổ chức các lực lượng xung kích: Đoàn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử, lẽ dĩ nhiên trong đó gồm cơ sở Học Sinh, Sinh Viên Cơ Sở Nội Thành Việt Cộng. Tất Cả Đoàn viên quyết tử đều mang băng đỏ, Cảnh sát Phật tử, Công Chức Phật Tử, Quân Nhân Phật Tử, Tiểu thương Phật Tử. Vẫn tiếp tục lên đường xuống đường hằng ngày, loa phóng thanh đặt mọi ngã đường trong thành phố rộn rã kêu gọi dân chúng xuống đường, đình công bãi thị, chống Thiệu Kỳ.
Màn thứ 3, kế tiếp: Bạo Động. Cướp Chính Quyền. Màn này có sự đạo điễn của Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản Hà Nội. Cán bộ Cục TBCL Cộng Sản Hoàng Kim Loan nhảy vào cuộc. Một nửa quân số của Sư Đoàn I BB, các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân các quận, buông súng trở về thành phố tham gia cuộc nổi loạn chống Thiệu, Kỳ và chính Phủ Trung Ương. Nhóm Quân Nhân Phật Tử thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức.
Công Chức các ngành, Giáo chức mọi cấp nghỉ việc, nghỉ dạy, tham gia tranh đấu chống chính phủ. Thích Trí Quang cho lệnh chiếm Đài phát thanh Huế. Đài Phát Thanh Huế của Chính Phủ trở thành Đài Phát Thanh của Lực Lượng tranh đấu Phật Giáo miền Trung. Hằng giờ phát đi lời kêu gọi của Trí Quang và của Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Tranh Đấu tại Từ Đàm, xen kẽ chương trình là nhạc tranh đấu và nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Dân Huế hằng giờ nghe rền rỉ bên tai bản nhạc: Kẻ thù ta đâu phải là người.. Giết người đi thì ta ở với ai...
Trong khi đó thì một phần của lực lượng Học Sinh, Sinh Viên quyết tử chiếm Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Thành Phố Huế.
Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên người của Thích Đôn Hậu, Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế Nguyễn văn Cán là Cán Bộ Cộng Sản nằm vùng cơ sở của Cục TBCL Hoàng Kim Loan. Bọn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử này phá kho súng của 2 Ty Cảnh Sát, trang bị cho hàng ngàn đoàn viên Quyết Tử. Khoảng gần 4000 ngàn súng, gồm tiểu liên, Shotgun, và súng lục, 120 thùng lựu đạn M 26. Khoảng 100 xe Jeep Cảnh Sát và toàn bộ máy móc truyền tin bị bọn chúng lấy đi. Bọn chúng dùng xe, máy móc truyền tin, và súng của Cảnh Sát tuần tiểu và canh gác trong thành phố.
Thích Trí Quang và Hoàng Kim Loan đi xa hơn nữa là cho lệnh Đoàn Học Sinh,Sinh Viên Quyết Tử bao vây Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ, tại Đường Lý Thường Kiệt, Quận 3 thành phố Huế, và nhào vô đốt phá tan tành phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Huế.
Bây giờ thì Miền Trung và Thừa Thiên-Huế hoàn toàn vô Chính Phủ, không còn có luật pháp quốc gia. Mọi quyền hạn nằm trong tay Quốc Phụ Thích Trí Quang và đám tranh đấu áp dụng luật Rừng trong thành phố. Bọn chúng chia ra từng tổ, từng toán gõ cửa mỗi nhà, yêu cầu tham gia phong trào tranh đấu, gia đình nào lơ là hoặc từ chối, bị chúng phao vu là dư đảng Cần Lao, hoặc là người của Thiệu, Kỳ, lập tức bị dọa nạt đốt nhà đốt cửa, hoặc bị hành hung. Một số gia đình đã phải bỏ nhà, trốn vào làng Phú Cam nơi an toàn khu, vì nơi đây là khu Công Giáo, Trí Quang và đám Quyết Tử chưa dám đụng đến. Đời sống dân chúng mỗi ngày một khó khăn, dân chúng hoang mang lo sợ. Quân đội và Công Chức sống nhờ vào đồng lương của Chính Phủ, bây giờ đình công bãi thị, chống chính phủ thì lương hàng tháng có đâu để nuôi vợ, con. Một số ít đơn vị quân sự đang ở vị trí hành quân tác chiến cũng gặp trở ngại không nhỏ. Quân số thiếu hụt trầm trọng, vì một số lớn sĩ quan và binh sĩ bỏ đơn vị về thành phố tham gia tranh đấu. Đạn dược và điện trì truyền tin cho hệ thống hành quân tác chiến bị hạn chế tối đa vì không còn được cung cấp từ Trung Ương.
Tình hình an ninh tại Quảng Trị và Thừa Thiên ở mức báo động đỏ. Các Công trường 4,5,6 của Quân Khu Trị Thiên Việt Cộng lởn vởn ở vòng đai an ninh xa, phía Tây của thành phố Huế. Trong lòng Cố Đô Huế thì đám cán bộ và cơ sở nội thành của Cộng Sản công khai hoạt động. Bọn chúng nằm trong bộ chỉ huy của lực Tranh Đấu, nắm giữ những vai trò then chốt và quan trọng, tỷ như: Nguyễn Đắc Xuân sinh viên Sư Phạm.
Trần Quang Long sinh viên Sư Phạm, Hoàng Phủ Ngọc Phan sinh viên Y khoa, Phan Chánh Dinh tức Phan Duy Nhân sinh viên, Nguyễn Thiết tức Hoàng Dung sinh viên Luật Khoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường Giáo Sư Trường Quốc Học. Nguyễn Hữu Châu Phan giáo sư, Hoàng Thị Thọ nữ sinh Đồng Khánh, Phạm thị Xuân Quế sinh viên Y Khoa. Tôn Thất Kỳ sinh viên, Bửu Chỉ sinh viên. Và nhiều, nhiều nữa.... (Khi cuộc dấy loạn miền Trung bị dẹp tan, Hoàng Kim Loan đưa đám nầy ra mật khu, và năm Mậu Thân 1968 bọn chúng trở lại Huế bắn giết, tàn sát vô số kể đồng bào vô tội).
Trí Quang và Cộng Sản đã ước tính sai khi tung ra cuộc dấy loạn Miền Trung năm 1966. Vào năm 1963 Tướng Lãnh và Mỹ dùng Trí Quang và quần chúng Phật giáo để lật đổ Tống Thống Ngô Đình Diệm. Bây giờ là 1966, Trí Quang không còn có giá trị lợi dụng nữa. Đối với các Tướng Lãnh VNCH đang nắm quyền thì Trí Quang là một trở ngại, một chướng ngại vật trên bước đường công danh và sự nghiệp của họ, chướng ngại vật này phải được dẹp bỏ.
Còn đối với người Mỹ và đặc biệt là cơ quan tình báo của họ, phương tiện nào cũng tốt, miễn là đạt được mục đích, quốc gia hay cộng sản cũng vậy thôi. Họ dư biết Trí Quang là Cộng Sản, là đảng viên Cộng sản, và trong hàng ngũ của Trí Quang có quá nhiều cán bộ Cộng Sản nằm vùng. Nhưng vì nhu cầu, họ vẫn tạo hình tượng Thích Trí Quang cho hào quang bóng nhoáng. Sau 1963 hình tượng đó không còn cần thiết nữa mà còn tạo nhiều trở ngại, thì Trí Quang phải được dẹp bỏ.
Năm 1966 Mỹ đang đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Chính phủ Mỹ đang cần một hậu phương Miền Nam. Dưới mắt ông Đại Sứ Mỹ tại Sài gòn bấy giờ thì Trí Quang là một kẻ gây rối, một kẻ tham, sân, si, say mê quyền lực và một trở ngại lớn của Tòa Đại Sứ Mỹ cho việc ổn định tình hình chính trị tại Saigòn. Trí Quang phải được dẹp bỏ lập tức, mạnh mẽ, không nương tay, không nhân nhượng. ổn định chính trị. Trí Quang và Cộng Sản đã quá lầm lẫn, nếu không nói là ngu, khi phát động Phong Trào Tranh Đấu Miền Trung trong thời gian này
Người Mỹ giúp mọi phương tiện cần thiết cho Chính Phủ Saigòn mở cuộc hành quân dẹp loạn tại Miền Trung. Ngày 4-4-1966 bằng phương tiện Không Vận của Hoa Kỳ, lực lượng Quân Lực VNCH đổ quân xuống Đà Nẵng.
Tư lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh là Tướng Nguyễn văn Chuân, Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Tướng Chuân được cử thay thế Trung Tướng Thi, Trung Tướng Thi bay ra Huế. Như đã biết, Trung Tướng Thi là người của Trí Quang. Những ngày kế tiếp Trung Tướng Nguyễn Hữu Có ra Đà Nẵng gặp Tướng Nguyễn văn Chuân, sau đó Tướng Chuân theo Trung Tướng Có vào Sàigòn. Sàigòn cử Trung Tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng thay thế Trung Tướng Thi, mọi chuyện không ổn, Trung Tướng Đính phải chạy vào BCH của Thủy Quân Lục Chiến của Mỹ xin tỵ nạn. Chính Phủ lại cử Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra thay Trung tướng Đính.
Thiếu tướng Huỳnh văn Cao là tín đồ Công Giáo. Khi từ Đà Nẵng đến Huế cùng với viên đại tá Cố Vấn phó Quân Đoàn là Arch Hamblen, Thiếu tướng Cao đã bị các Lực Lượng Tranh Đấu do đám Sinh Viên Hoc Sinh Quyết Tử cầm đầu biểu tình phản đối. Đoàn biểu tình hàng ngàn người bao vây, Tướng Cao và đoàn cận vệ khó khăn lắm mới chạy thoát vào sân bay Tây Lộc, Thành Nội. Tại đây một phi cơ trực thăng của quân đội Hoa Kỳ đợi sẵn để đưa ông vào Đà Nẵng. Đoàn biểu tình rượt theo tướng Cao và đại tá Arch Hamblen vào tận sân bay Tây Lộc, Trực thăng chở tướng Cao và đại tá Arch Hamblem vừa rời khỏi mặt đất vài chục mét thì trong đoàn biểu tình, viên sĩ quan của Sư Đoàn I BB, trung úy Nguyễn Đại Thức rút súng lục bắn tướng Cao, may mắn ông không bị trúng đạn, lập tức xạ thủ đại liên của trực thăng, viên hạ sĩ quan người Mỹ, nổ súng đại liên bắn trả, trung úy Nguyễn Đại Thức chết gục tại chỗ. Những ngày sau khi Thích trí Quang thành lập Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử của Sư Đoàn I BB, cho lấy tên viên sĩ quan nầy đặt tên cho Chiến đoàn, gọi là Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức.
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 3
Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế) Cũng giống Trung tướng Tôn Thất Đính, Thiếu tướng Huỳnh văn Cao vào Đà Nẵng, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn I. Thiếu tướng Cao liên lạc với tướng Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và tỵ nạn tại đó .
Bây giờ thì miền Trung và Thừa Thiên Huế hoàn toàn vô Chính Phủ, mặc sức Thích Trí Quang và đám Cộng Sản Hoàng Kim Loan tung hoành. Dân chúng sống từng giờ trong nơm nớp lo sợ: sợ Thầy, sợ Việt Cộng, sợ các Đoàn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử của Thầy. Công chức, quân nhân sợ không được lãnh lương, vợ con đói.
Vị Tướng kế tiếp được Chính Phủ cử ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn I là Thiếu Tướng Trần Thanh Phong. Thiếu Tướng Phong đến Đà Nẵng đúng vào thời gian cao điểm của phong trào Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung. Ông chuẩn bị cho cuộc đổ quân ra Huế dẹp loạn. Trong khi đó thì tại Huế lực lượng chống lại phong trào tranh đấu được phân loại như sau:
1- Thành phần chống đối tiêu cực:
Khối Công giáo: Đại đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo sống tại làng Phú Cam nơi có nhà thờ Chính Tòa Phú Cam, vùng dòng Chúa Cứu Thế, nơi có nhà thờ và dòng tu, dòng Chúa Cứu Thế, vùng Gia Hội có nhà thờ Gia Hội, vùng Kim Long nơi có Dòng Tu kín của các Nữ tu. Họ chống lại Phong trào Tranh Đấu nhưng tiêu cực, các vị lãnh đạo không muốn giáo dân vướng vào vòng xung đột của hai tôn giáo là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Khu an toàn Phú Cam được giáo dân canh gác, đề phòng cẩn mật vì sợ các đoàn Quyết Tử của Phong Trào Tranh Đấu quấy phá. Họ sẵn sàng chống trả chỉ trong trường hợp tự vệ. Đại đa số trầm lặng là giáo chức, thành phần trí thức, những người lớn tuổi, và Hoàng Tộc, họ đều bất bình và chống lại cuộc Tranh Đấu Miền Trung nhưng họ chỉ giữ thái độ im lặng và không hợp tác.
2- Thành phần chống đối tích cực:
Các đảng phái quốc gia như:
- Việt Nam Quốc Dân Đảng
- Đại Việt Cách Mạng của ông Hà Thúc Ký.
Lực lượng nòng cốt của Đại Việt Cách Mạng tại Thừa Thiên-Huế là Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn do thiếu tá Nguyễn Văn Lý là Tỉnh Đoàn Trưởng. Ông là lãnh tụ quan trọng và cao cấp của đảng Đại Việt. Một nhân vật chống Cộng Sản tuyệt đối nếu không nói là quá khích.
Tỉnh Đòan Xây Dựng Nông Thôn đã góp công lớn trong việc dẹp loạn Miền Trung. Họ tung nhân viên tham gia Lực Lượng Đấu Tranh thu thập tin tức, thiết lập hồ sơ những thành phần quá khích cung cấp cho đơn vị hành quân dẹp loạn.
Cũng không thể nói đến một góp sức không nhỏ cho việc dẹp loạn Miền Trung là Cơ Quan Dân Ý Vụ. Đây là một cơ quan thành lập năm 1965 phụ trách Tình Báo Nhân Dân. Chỉ huy trưởng cơ quan này là ông Trần Đông Hoài, một giáo sư dạy Pháp Văn tại trường Trung Học Thiên Hựu, nói ngoại ngữ Anh và Pháp giống như người ngoại quốc. Mặc dầu là một nhà giáo, nhưng lại có thiên phú đặc biệt tình báo. Cơ Quân Dân Ý Vụ cung cấp hầu hết các kế hoạch hành động của lực lượng tranh đấu.
Ngoài ra, lực lượng quân sự chống lại cuộc nổi loạn miến Trung chỉ có ba đơn vị như sau:
1- Phía Bắc Thừa Thiên:
Quận Quảng Điền do đại úy Trần Đức Anh làm Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng. Ông là thành viên cao cấp Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đại úy Anh dự định lập Khu Biệt Lập Quảng Điền dùng lực lượng quân sự của Chi Khu chống lại đám dấy loạn miền Trung. Công việc bại lộ Đại uý Anh phải đào tẩu vào Đà Nẵng trình diện Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, Trần Thanh Phong. Khi lực lượng hành quân của chính phủ ra Huế dẹp loạn, ông theo lực lượng hành quân ra Huế trở lại nhiệm sở cũ, chức vụ cũ. Sau đó, trong một cuộc đụng trận lớn với Việt Cộng tại Quận lỵ Quảng Điền vào năm 1967, Đại Úy Anh đã anh dũng đền nợ nước.
2- Phía Nam Thừa Thiên:
Quận lỵ Hương Thủy nằm phía Nam thành phố Huế. Bộ chỉ huy quận và chi khu Hương Thủy nằm cạnh phi trường Phú Bài và căn cứ quân sự của sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, Phú Bài, cạnh Quốc Lộ I trên đường vào Đà Nẵng.
Quận trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Hương Thủy là thiếu tá Nguyễn Văn Tăng, Thiếu Tá Quận Trưởng Hương Thủy là một trong những đơn vị trưởng đầu tiên chống lại Phong Trào Tranh Đấu Miền Trung. Trong những ngày đầu của cuộc tranh đấu ông cho lực lượng quân sự của Chi Khu bố trí và án ngữ ngay vùng Dạ Lê trên Quốc Lộ I, đồng thời yêu cầu đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tăng phái 2 xe tăng M 48 chận ngay Quaốc Lộ I vùng Dạ Lê không cho lực lượng tranh đấu từ thành phố Huế tràn xuống. Văn phòng quận, Chi Khu Hương Thủy bấy giờ trở thành bộ chỉ huy của Lực Lượng Chống Phong Trào Tranh Đấu.
Trung Tá Phan Văn Khoa, tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên, thị xã Huế, kiêm Tiểu Khu Trưởng là vị tỉnh trưởng đầu tiên tại Miền Trung chống Phong Trào Tranh Đấu. Ông dời văn phòng Tỉnh Trưởng về quận Hương Thủy vì toà Hành Chánh Tỉnh bị bọn nổi loạn chiếm cứ.
Bộ Chỉ Huy lực lượng đấu tranh càng ngày càng tấp nập các phái đoàn Chính Phủ Trung Ương Sài Gòn ra hội họp, các lãnh tụ các Đảng Chính Trị và nhiều phái đoàn quân sự cũng như tình báo Hoa kỳ, họp với Trung Tá Tỉnh Trưởng bàn soạn kế hoạch tái chiếm lại thành phố Huế hiện đang nằm trong tay đám tranh đấu.
Tại thành phố Huế, độc nhất còn lại Bộ Chỉ Huy tiểu khu Thừa Thiên đóng gần Đài Phát Thanh Huế. Trung Tá Khoa giao cho Thiếu tá Nguyễn Văn Tố, Trưởng Phòng II Tiểu Khu trấn giữ. Đám tranh đấu chưa dám chiếm Tiểu Khu vì đây là cơ quan quân sự.
Huế hoàn toàn bỏ trống, không còn chính quyền, thành phố nằm gọn trong tay đám tranh đấu Thích Trí Quang.
3- Phiá Tây Thành Phố Huế:
Lực lượng thứ 3 chống lại đám tranh đấu là quận Nam Hòa nằm phía Tây thành phố Huế. Quận Nam Hòa nằm phía Tây Thành phố Huế. Quận Nam Hòa là quận miền núi, mặc dầu cách thành phố Huế khoảng 12 Km. Quận trưởng kiêm Chi Khu Trưởng là Thiếu tá Phạm Khắc Đạt, phụ tá Quận Trưởng kiêm Chi Khu Phó là tôi, Thiếu Úy Liên Thành.
Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt là vị chỉ huy đầu đời binh nghiệp của tôi. Ông là một sĩ quan trẻ cấp Thiếu Tá, nhưng ông có đủ khả năng quân sự vừa chiến thuật vừa chiến lược. Vốn là người Bắc nên rất tế nhị, cẩn trọng trong mọi vấn đề, mọi trường hợp. Trong những ngày đầu của cuộc dấy loạn Miền Trung, ông không chống mà cũng chẳng ngã về Phong Trào Tranh Đấu. Chỉ đứng khoanh tay nhìn thời cuộc. Cách hay nhất của ông là cáo bệnh giao hết mọi việc của Quận và Chi Khu cho tôi, một buổi chiều lên xe Jeep về thành phố. Lực lượng quân sự của Chi Khu Nam Hòa gồm có:
- 200 Dân Vệ (sau gọi là Nghĩa Quân)
- 2 Đại đội tăng phái từ Tiểu Khu
- 1 Pháo Đội 105 ly tăng phái từ Sư Đoàn I Bộ Binh.
Tôi vừa là Chi Khu Phó vừa là Liên Đại Đội Trưởng.
Trong thời gian thành phố biểu tình lên đường, xuống đường thì tình hình địch tại Nam Hòa mỗi ngày mỗi nặng. Hai đại đội chạm địch liên miên, ngày nào cũng có binh sĩ bị thương hoặc tử thương.
Tôi còn nhờ vào một đêm trong tháng 3-1966 đại đội tôi chỉ huy đụng nặng với đơn vị Việt Cộng. Tôi gọi máy xin pháo đội 105 ly pháo binh yểm trợ. Toạ độ xin tác xạ là 76.... bản đồ tỷ lệ 1/100,000 ba tràng đạn nổ chạm. Chỉ 5 phút sau pháo đội báo: Đạn đi, đợi hoài chẳng thấy đạn nổ mà chỉ nghe ba tràng đạn nổ từ xa vọng lại, rất xa toạ độ tôi xin. Sáng hôm sau tôi kéo Đại Đội vượt nguồn hữu ngạn sông Hương trở về Quận, vừa đến chợ Tuần thì đại hoạ đến, Đại Đội tôi đụng đầu với một đoàn biểu tình của nhóm Tranh Đấu từ thành phố Huế kéo lên, toàn là Sinh Viên, Học Sinh đang đứng gần chợ Tuần, họ la lớn đả đảo Cần Lao đàn áp Phật Giáo bắn sập Chùa, giết hại Tăng Ni. Đoàn biểu tình kéo lại định vây đơn vị tôi vào giữa. Lính vừa đói vừa mệt lả, tôi cũng vậy. Tôi phản ứng rất nhanh nhưng mà dại. Tôi quay qua viên Thượng Sĩ Đại Đội ra lệnh rất nhanh: Đội hình. Binh sĩ túa ra bố trí. Đoàn biểu tình thấy lính phản ứng nên lùi lại, cũng may trong đám biểu tình có tiếng la lớn: khoan đã, đừng làm bậy, hắn là Liên Thành con thầy Trợ Cử (phụ thân tôi là một nhà giáo), cháu của ngài Hoà thượng Thích Tịnh khiết không phải Cần Lao đâu. Tiếng la đó phát xuất từ thằng bạn học cũ của tôi ở trường Quốc Học và cũng ở cùng xóm Chùa Từ Đàm với tôi. Anh ta là Trần Văn Rô, sinh viên đại học khoa học. Tôi chưng hửng hỏi Trần Văn Rô:
- Chuyện gì vậy?
Rô trả lời:
- Tối hôm qua mày bắn sập chùa Sư Nữ ở Cầu Lim, gần Đàn Nam giao phải không?
Tôi trả lời Rô:
- Có, tao có gọi pháo binh bắn yểm trợ, vì tụi tao đụng nặng với Việt Cộng, nhưng tụi tao đánh nhau bên kia sông, trong núi đâu phải bên này. Chuyên này tao vô can. Đoàn biểu tình kéo nhau về Huế.
Trên đường về Quận, tôi nghĩ mình ngu quá, ra lệnh cho binh sĩ dàn đội hình tác chiến, lỡ có người lính nào mất bình tĩnh bắn đại vào đám sinh viên biểu tình thì tôi không hiểu chuyện gì sẽ xẩy ra. Khi về đến Quận đã thấy có phái đoàn điều tra của Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo và ty Cảnh Sát hiện diện tại đó. Sự việc sáng tỏ, tôi gọi bắn yểm trợ ở toạ độ 76.. (trục hoành độ), nhưng vì cả pháo đội đang có sòng xì phé đến hồi gay cấn, lúc tôi gọi xin tác xạ, viên thượng sĩ già mắc dịch làm xạ bản tác xạ đang thua bạc, hấp tấp viết số 76 thành 70 có tí râu, nên trục hoành độ đã dời qua phiá đông 6 cây số, đạn rơi trúng phóc và chùa Sư Nữ ở Cầu Lim. Cũng may chỉ sập một góc chùa, các Sư Nữ đêm đó kéo nhau ra giếng ngoài ruộng tắm giặt nên chẳng ai bị thương tích gì, thật hú hồn.
Những ngày kế tiếp, lính tại đơn vị mỗi ngày mỗi thưa dần, đa số đã bỏ súng tại đơn vị, trốn về Huế gia nhập chiến đoàn Nguyễn Đại Thức bảo vệ Thầy, bảo vệ đạo pháp đang lâm nguy. Số binh sĩ hiện diện tại đơn vị đa số là người Công Giáo và lính già. Cùng thời gian tôi nhận được công điện hỏa tốc của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Thừa Thiên: Yêu cầu qúy đơn vị hạn chế tối đa đạn dược và điện trì cho máy truyền tin, vì không còn nhận được tiếp tế từ Quân Đoàn.
Thời gian đó tại mỗi Quận, Chi Khu đều có Văn Phòng Cố Vấn Mỹ. Viên cố vấn cho Chi Khu Nam Hòa tên Bob cấp bậc Thiếu Tá. Tôi phải vận dụng tối đa công lực vừa miệng vừa tay xổ tiếng Mỹ với viên Thiếu Tá, cho ông ta biết tình trạng hiện tại và nói tôi muốn trốn vào Đà Nẵng trình diện Quân Đoàn.
Ông ta hỏi tôi:
- Anh không theo tranh đấu?
Tôi cười trả lời:
- Nhu vậy có khác gì theo Việt Cộng.
Viên Thiếu tá Mỷ nói:
- Hỏi vậy thôi chứ tôi hiểu rõ Thiếu úy, tôi sẽ gíup Thiếu úy, tuy nhiên Thiếu úy cũng nên bàn với Thiếu tá Quận Trưởng.
Tôi nói:
- Tôi sẽ bàn với ông ta.
Trong khi đang nói chuyện với tôi bỗng nhiên anh ta giật mình nói nhỏ với tôi:
- Thiếu úy, nhìn kìa.
Tôi nhìn theo hướng tay ông ông ta về phía pháo đội 105 ly thì thấy cả hai khẩu pháo 105 ly đã quay hướng súng về phía căn cứ Phú Bài từ hồi nào. Trong lúc đó tôi vẫn còn một Đại Đội đang hoạt động trong vùng trách nhiệm phía vùng núi bên kia song, vùng núi Kim Phụng, pháo đội phải quay súng về hướng đó để sẵn sàng tác xạ yểm trợ theo yều cầu, tại sao lại quay hướng súng về Phú Bài. Tôi đang suy nghĩ thì viên Thiếu tá Mỷ nói ngay:
- Tôi nghĩ Pháo đội này đã theo lực lượng tranh đấu, họ quay súng về phía Phú Bài để tác xạ vào Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ của chúng tôi. Tôi sẽ báo ngay cho Bộ Chỉ Huy MACV. Nói xong ông ta đi vào văn phòng. Khoảng 30 phút sau đó Thiếu Tá Bob trở ra và mời tôi vào văn phòng của ông ta và nói ngay:
- Thiếu úy, mình phải chiếm hai khẩu súng này ngay lập tức.
Bây giờ thì không thể xài tiếng Mỹ bằng miệng và bằng tay được nữa, mà phải xài tiếng Mỹ qua thông dịch viên. Tôi hỏi viên Thiếu Tá:
- Thông dịch viên anh đâu, tôi cần hắn dịch rõ ràng vì chuyện quan trọng. Viên Thiếu Tá Mỷ nói: Có ngay, và ông ta gọi viên Trung Sĩ Mỹ vào làm thông dịch. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì bao lâu nay tôi chưa từng nghe người Trung Sĩ Mỹ này nói một chữ tiếng Việt.
Với giọng Bắc rất rõ ràng viên Trung Sĩ Mỹ nói:
- Thiếu Tá chúng tôi cần Thiếu úy ra lệnh cho Pháo Đội quay hướng súng lên núi, nếu Pháo đội không chịu thì phải dùng vũ lực chiếm 2 khẩu súng này vì họ muốn tác xạ vào đơn vị TQLC của chúng tôi. Viên Trung sĩ nói tiếp:
- Trong vòng một giờ nữa sẽ có một trung đội TQLC của chúng tôi đến đây giúp Thiếu úy. Qua thông dịch viên tôi nói với Thiếu tá Bob:
- OK, nhưng để tôi cho mời Trung úy Pháo đội trưởng lên đây mình nói chuyện với ông ta trước để rõ sự việc như thế nào. Tôi không muốn phe mình đánh phe ta. Chỉ trong vòng 10 phút sau Trung úy Pháo đội trưởng đã có mặt. Tôi nói ngay:
- Ông hơn cấp bậc tôi, nhưng ông tăng phái cho tôi, lẽ dĩ nhiên dưới quyền chỉ huy và điều động của tôi. Xin Trung úy cho biết ai quay hướng súng về Phú Bài, trong khi đó tôi còn một đơn vị đang hành quân bên kia sông hướng núi Kim Phụng.
Pháo đội trưởng chậm rãi trả lời:
- Tôi nhận lệnh của Sư Đoàn quay súng về phía đó và đợi lệnh.
Tôi hỏi viên Pháo đội trưởng:
- Nếu cò lệnh Sư Đòan Trung úy có bắn không?
- Không.
- Tại sao?
- Tôi không theo đám Tranh Đấu.
Tôi nói tiếp với Trung úy Pháo đội trưởng:
- Tôi tin Trung úy, bây giời xin cho quay hướng súng trở lại
Nếu ai có báo cáo với Sư Đòan Trung úy cứ nói theo yêu cầu của Chi Khu vì họ cần tác xạ vào một số toạ độ khuấy rối trong đêm.
- Ông yên tâm, cho cho quay hướng súng lại ngay. Hai phần ba binh sĩ của Pháo đội tôi đã trốn theo tranh đấu, số còn lại là đệ tử thân tín của tôi.
Trong khi tôi nói chuyện với Trung úy Pháo đội trưởng thì viên Hạ Sĩ Quan Mỹ đã dịch hết cho Thiếu Tá Bob nghe rồi. Tôi xoay qua viên Thiếu Tá Mỹ hỏi ông cần nói gì với Trung úy không? Ông ta bắt tay Trung Úy Pháo đội trưởng và nói:
- Tôi tin ông, nhưng kể từ giờ phút này Chi Khu không cần pháo binh của ông yểm trợ nữa. Pháo Binh của sư đoàn TQLC Hoa Kỳ tại Phú Bài sẽ đảm trách. Chốc nữa, sẽ có 1 trung đội TQLC Hoa Kỳ xuống đây, nếu có lộn xộn tôi sẽ cho lệnh trung đội nầy phá hủy ngay hai khẩu 105 ly của Trung Úy.
Trung úy pháo đội trưởng:
- OK, Thiếu tá.
Mọi người cùng cười, tan hàng.
Sáng hôm sau tôi về Huế gặp Thiếu tá Quận Trưởng, sau khi trình bày tình hình với ông tôi kết luận:
- Không còn gì nữa, lính đào ngũ theo tranh đấu. Đạn và điện trì cho máy truyền tin cũng cạn, lấy gì đánh đau với Việt Cộng.
Tôi cho ông biết ý định của tôi và tôi hỏi Ông:
- Thiếu Tá, ông đi không?
- Bao giờ?
- Ngày mai, 10 giờ sáng.
- Đi, sáng mai tôi lên Quận đi với anh.
Đúng 10 giờ sáng ngày hôm sau, trực thăng của thiếu tá Bob đón chúng tôi bay vào Quân Đoàn I trình diện Thiếu Tướng Tư Lệnh Trần Thanh Phong. Trước khi đi tôi nói với Thiếu úy Hành, Trưởng ban 3.
- Anh coi nhà, tôi và Thiếu tá Quận Trưởng và Thiếu Tá Bob đi họp hành quân với TQLC Mỹ, sẽ về trong ngày.
Khoảng 45 phút sau, chúng tôi đáp xuống sân bay trực thăng của Bộ Tư Lệnh / Quân Đoàn. Tại sân bay đã có một Trung Tá Mỹ đón chúng tôi và đưa thẳng vào phòng hội của BTL.
Người đầu tiên chúng tôi gặp là Đại úy Anh. Quận trưởng quận Quảng Điền, người đã chạy thoát khỏi cuộc lùng bắt của đám Sinh Viên Quyết Tử tại Huế khi ông chống lại Phong Trào Tranh Đấu của bọn chúng. Chúng tôi mừng rỡ ôm choàng nhau.....
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:14:47 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 4 Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế) Phòng hội có khoảng 30 sĩ quan cấp Tá trở lên vừa Việt, vừa Mỹ. Khoảng 5 phút sau Thiếu Tướng Tư Lệnh vào Phòng Hội. Sau phần trình bày tình hình tại Huế của Thiếu tá Quận Trưởng Nam Hòa Phạm Khắc Đạt, Thiếu Tướng Tư Lệnh chỉ thị chúng tôi trở lại Huế. Thiếu Tá liên lạc với Trung Tá Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa hiện đang có mặt tại Quận Hương Thủy để nhận lệnh. Phần tôi trở lại Chi Khu Nam Hòa chỉ huy 2 đại đôi cơ hữu đợi lệnh. Hằng ngày Đại úy Anh sẽ liên lạc với tôi.
Chúng tôi chào từ giã Thiếu Tướng Tư Lệnh. Thiếu Tá Bob gặp chúng tôi ngay phòng hội cho biết 3 giờ sau sẽ gặp nhau tại bãi đáp trực thăng Quân Đoàn để trở về lại Huế. Đại úy Anh chở chúng tôi đi ăn phở tại Đà Nẵng. Ông đưa cho tôi một đặc lệnh truyền tin và nhiều tần số liên lạc. Hàng ngày vào buổi sáng ông sẽ bay ra Nam Hòa và sẽ liên lạc với tôi để nhận báo cáo tình hình, ông dặn dò:
- Nói ngắn, gọn, đề phòng bọn nó vào tần số mình nghe lén. Mỗi ngày thay đổi tần số liên lạc như đã qui định. Chúng tôi trở lại Nam Hòa cùng ngày. Thiếu Tá Quận Trưởng về Hương Thủy gặp Trung Tá Tỉnh trưởng nhận lệnh hành động. Tôi tiếp tục ở lại quận.
Đầu tháng 5-1966, Thiếu Tá Đạt gọi tôi về gặp ông ta và Trung Tá Tỉnh Trưởng tại BCH/ chống Tranh Đấu tại Chi Khu Hương Thủy. Trung Tá Tỉnh trưởng hỏi tôi:
- Liên Thành, anh có liên hệ gia đình với Ngài Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết phải không ?
- Dạ đúng.
- Anh có người anh đi tu là Đại Đức Thích.. ..
- Dạ đúng.
- Anh có nhiều bạn trong đám sinh viên Đại Học Huế
- Dạ đúng.
- Vậy thì tốt, công tác nầy anh làm được, bọn Tranh Đấu không nghi ngờ. Đã đến lúc phải tắt tiếng Đài Phát Thanh tranh đấu của bọn chúng. Đài Phát Thanh Huế của Chính quyền bọn hắn chiếm bây giờ mình phải lấy lại.
- Dạ, với 2 Đại đội cơ hữu của em, em tấn công thẳng chiếm lại Đài Phát Thành Huế, không trở ngại. Tôi nói không suy nghĩ.
Trung Tá Tỉnh Trưởng và Thiếu Tá Đạt cùng cười. Tôi biết mình hố rồi. Trung Tá Tỉnh Trưởng nói :
- Tấn công cái... đầu của anh. Lính Sư Đoàn I và chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức bọn chúng xơi tái 2 Đại Đội của anh ngay. Vụ nầy chỉ có một mình anh làm mà thôi.
- Trung Tá nói vậy nghĩa là sao? Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Người Mỹ sẽ huấn luyện và chỉ cách cho anh.
Hai người Mỹ dân sự huấn luyện tôi trong hai ngày tại Căn Cứ Phú Bài, đủ để hiểu cách thức phá hoại bộ phận nào trong đám máy móc phát thanh của Đài Phát Thanh Huế. Ba ngày sau tôi trở về Huế, ghé thăm gia đình cởi bỏ đồ lính thay thường phục, ghé đài phát thanh Huế kiếm mấy thằng bạn sinh viên tranh đấu mời chúng nó đi uống café Lạc Sơn. Mấy thằng bạn gặp tôi mừng lắm, bọn chúng hỏi tới tấp:
- Liên Thành, sao về được?
- Lính về tham gia tranh đấu hết rồi, bây giờ tao tà tà.
- Thôi về đi, tham gia với bọn tao, lật đỗ Thiệu, Kỳ xong rồi tính.
- Có lý. Cả bọn kéo nhau sang Lạc Sơn uống Café.
Trời đã về chiều tôi nói với mấy thằng bạn:
- Thôi, chiều rồi, tao về, vài hôm nữa gặp.
- Mầy bận việc?
- Không, lính tráng trốn đi hết rồi, bây giờ đâu có đánh đá gì đâu.
- Vậy đêm nay ở lại với bọn tao cho vui, mình về đài phát thanh, tối nầy ăn cháo gà ca hát, ngày trước ở trường Quốc Học mầy hát hay lắm mà. Không suy nghĩ tôi nói ngay:
- Được rồi, đêm nay ở lại với tụi mầy cho vui.
Tôi nghĩ thầm: Chết tụi mầy, tụi mầy rước cọp về rừng. Cũng thoáng một chút buồn vì nghỉ mình đang lợi dụng tình bạn. Nhưng nghĩ lại mình là một người lính nhận lệnh cấp chỉ huy phải thi hành thì trong lòng cũng nhẹ đi đôi chút.
Đúng 4 giờ sáng tôi thi hành kế hoạch phá hoại. Công việc hoàn tất trong vòng 10 phút, vượt quá thời gian ấn định 1 phút 17 giây. Đám Sinh Viên tranh đấu vẫn ngủ say. Tôi rời Đài Phát Thanh Huế đến điểm hẹn cách Đài phát thanh không xa, trễ mất 4 phút, đã có xe đợi sẵn chở tôi về lại Hương Thủy. Thường ngày vào 6 giờ sáng dân Huế mở Radio đều nghe tiếng nói lanh lảnh của xướng ngôn viên:
- Đây là Tiếng nói của Lực Lượng Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung nhưng sáng nay mở Radio không còn nghe được nữa. Đài phát thanh đã tắt tiếng.
Nhiệm vụ tôi hoàn tất.
Thế nhưng chỉ vài ngày sau Tiếng nói phát thanh Tranh Đấu được phát trở lại. Đơn vị kỷ thuật dò tìm làn sóng phát thanh của Mỹ cho biết làn sóng được phát đi tại Chùa Ông. Chùa Ông là một ngôi chùa nhỏ nằm phía sau chùa Diệu Đế, cạnh bờ sông Gia Hội đường Bạch Đằng. Thì ra sau khi bộ phận phát thanh tại Đài Phát Thanh Huế bị phá hủy, không phát thanh được nữa. Bọn tranh đấu tháo gỡ toàn bộ hệ thống tiếp vận và phát tuyến điện thoại của Ty Bưu Điện Huế đặt tại đường Hàng Muối gần Trường Nữ Hộ Sinh Quốc gia đem sang Chùa Ông thiết lập đài Phát thanh.
Giữa tháng 5-1966, tôi nhận lệnh dùng 2 Đại đội cơ hữu giữ an ninh và đánh dấu bãi đáp trực thăng để lực lượng quân sự đổ quân dùng Tỉnh lộ Huế-Tuần tiến quân vào thành phố Huế trong đêm. Tôi sửa soạn đơn vị chuẩn bị xuất phát thì có lệnh hủy bỏ.
Tình hình Huế mỗi ngày một sôi động, Đài phát thanh tranh đấu Phật Giáo loan tin khẩn cấp từng giờ một: Quân đội Thiệu Kỳ đã đổ quân ra Đà Nẵng, sắp sửa ra Huế . Đài phát thanh cũng kêu gọi đồng bào Phật Tử, lực lượng Tranh Đấu, Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức thiết lập các chướng ngại vật ngoài đường phố ngăn cản, đặt súng phòng không trên các cao ốc và những vị trí trọng yếu.
Sáng ngày 4 tháng 6-1966, Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt gọi tôi về gấp Chi Khu Hương Thủy họp khẩn cấp. Trong phiên họp Trung tá Tỉnh Trưởng tuyên bố:
- Tình hình đã quá trầm trọng, nếu mình không ra tay thì bọn tranh đấu sẽ đưa lực lượng quân sự Việt Cộng chiếm thành phố.
- Đêm nay, mình vào Huế.
Nhiệm vụ được trao cặn kẻ cho mỗi đơn vị trưởng. Phần tôi, dùng 2 Đại Đôi cơ hữu chiếm Ty Cảnh sát trong đêm nay. Tôi hỏi Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt:
- Em có lực lượng trừ bị không, Thiếu Tá có đi với đơn vị em không?
Thiếu Tá Đạt cười:
- Không có lực lượng trừ bị. Tôi có công việc khác phải làm, không đi với anh được. Đừng lo, anh lạnh cẳng rồi hay sao, tôi nghĩ, đối với bọn nó Liên Thành đủ sức chơi, nếu chơi không nổi thì cứ ôm quần chạy ngược lên Nam Hòa đợi, tôi sẽ bốc anh về Hương Thủy. Nhưng mà tôi biết anh dư sức. Nhớ một điều quan trọng: Chỉ trong trường hợp tự vệ, bị bọn chúng bắn, ngoài ra không được nổ súng. Chiếm Ty Cảnh Sát trong thành phố không phải hành quân đánh nhau với Việt Cộng ở Nam Hòa.
- Nhận rõ, Thiếu tá.
-Vậy thôi, anh trở về lại Nam Hòa chuẩn bị. Khi cho đơn vị xuất phát gọi máy báo cho tôi biết ngay.
Khuya ngày 4-6-1966, chúng tôi xuất phát từ Nam Hòa xuống Cầu Lim, qua Đàn Nam Giao, ngang núi Ngự Bình đến cầu An Cựu đột nhập thành thành phố. Vừa đến cầu An Cựu, một lần nữa tôi nhắc lại kế hoạch với Thượng Sĩ Bái:
- Từ đây đến Ty Cảnh Sát thành phố không xa, anh cho lính đi thật thưa, bám sát phía trái đường Duy Tân, mình băng qua đồng An Cựu một đoạn ngắn là đến Ty Cảnh Sát nằm bên tay trái. Nếu gặp bọn chúng thì cứ la to là phe ta. Lính đồn Vận Tải An Cựu đi tuần, bọn chúng không nghi ngờ đâu. Đến cổng Ty Cảnh Sát, toán của anh lo chế ngự mấy ông Cảnh Sát gác cửa, tôi và toán của tôi xông thẳng vào trong. Chiếm mục tiêu được rồi anh rải lính bố trí quanh Ty Cảnh Sát. Nhớ kỹ lệnh cấm không được nổ súng.
- Nhận rỏ, Thiếu úy.
Trong bóng đêm mờ ảo tôi thấy anh ta quay lưng làm dấu Thánh Giá, miệng lẫm bẩm: Lệnh lạc gì kỳ cục vậy, đi hành quân chạm địch mà không được nổ súng. Tôi nói nhỏ theo vừa đủ cho anh ta nghe:
- Địch con mẹ gì, mấy thằng Tranh Đấu, bắn bọn hắn ngày mai bọn mình lãnh đủ.
Chỉ khoảng hai mươi phút sau chúng tôi đã cách cổng Ty Cảnh Sát thành phố khoảng 150 mét. Tôi và Thượng Sĩ Bái cùng quan sát, gật đầu: cổng chính không có lính gác. Tôi nói nhỏ với Thượng Sĩ Bái:
- Cả hai toán cùng vào một lúc. Anh chiếm cổng chính đặt trạm gác và bố trí lính ngay lập tức. Tôi và toán của tôi xông thẳng vào bên trong.
- Nhận rõ Thiếu úy, ông cẩn thận ở trong tụi hắn bắn ra là ông tan xác đó.
Thượng Sĩ Bái lẹ làng chiếm ngay cổng chính, lính túa vào bố trí. Phần tôi xông thẳng vào cửa chính, tầng lầu thứ nhất, không gặp một ai. Để lại một toán nhỏ giữ lầu một, tôi và một toán khác chạy lên lầu nhì. Tại đây chỉ có 2 người đang nằm ngũ trên 2 chiếc ghế bố trong căn phòng cạnh cầu thang. Phòng không thắp đèn chỉ có ánh điện ngoài hành lang chiếu vào lờ mờ, nghe tiếng động cả hai đều vùng dậy. Một người hốt hoảng la lớn: Lính. Người kia đang còn đang ngái ngủ chẳng nói gì. Tôi nói ngay:
- Đúng rồi, lính. Các anh có bao nhiêu người, sao chỉ có 2 người thôi, đi đâu cả rồi.
Người ngái ngủ bây giờ đã tỉnh, quay lại nhìn tôi, hắn la lớn: Liên Thành.
Hắn ở trong phòng tối, tôi ở ngoài hành lang không thấy rỏ mặt hắn, tôi hỏi lớn:
- Ai đó?
- Trần văn Em đây. Mi đi mô mà khuya rứa. Vô đây làm chi?
- Chiếm Ty Cảnh Sát. Tôi trả lời hắn.
Đèn trong phòng bật sáng, nhìn rõ. Đúng hắn là Trần văn Em, thằng bạn học từ thuở học trường làng, trường tiểu học Nam Giao, cùng vào Hướng Đạo, Thiếu Đoàn Đinh Bộ Lĩnh. Vào đời hắn đi Cảnh Sát, tôi đi lính. Đã lâu lắm bây giờ gặp mới gặp lại. Tôi định hỏi hắn thì hắn chận ngang:
- Khoan đã, nói mấy ông Lính của mi hạ súng xuống, 8 cây súng hướng vào tau, thấy cũng muốn xỉu, bóp cò là tan xác. Tôi xoay lại cười với đám lính: Phe mình. Cả bọn cùng cười.
Thượng Sĩ Bái cũng vừa dưới lầu đi lên:
- Xong rồi Thiếu úy. Tôi cho lục soát kỹ không có ai ở dưới cả, trống trơn.
Người Cảnh Sát mà tôi chưa biết tên nói với Thượng Sĩ Bái:
- Chỉ có 2 chúng tôi trực thôi. Không có ai hết, mấy anh đừng lo.
Tôi nói với Thượng Sĩ Bái:
- Gần sáng rồi, tôi gọi máy trình thẩm quyền xong, mình nghỉ sáng mai rồi tính.
- Tôi và hai thằng con lớn về đến nhà rồi, vợ tôi dẫn mấy đứa nhỏ đi về bên ngoại hết, nhà trống trơn, mọi chuyện yên ổn. Tôi gọi máy nói lóng với Thiếu Tá Đạt,
- Tốt lắm. Cha con anh đi nghỉ đi, ngày mai tôi đến thăm.
- Nhận rõ thẩm quyền.
- Ông cũng đã mệt quá rồi, sắp xếp cho lính xong Ông nghỉ đi, mọi chuyện để sáng mai. Tôi nói với Thượng Sĩ Bái.
Bái và đám lính đi xuống lầu. Bây giờ Trần văn Em hỏi tôi:
- Mày nói sao, mày chiếm Ty Cảnh Sát thật à. Có lẽ trong đời này không còn ai ngu hơn mày. Bộ mày tưởng với đám lính quèn đó mày chống lại được Lực Lượng tranh đấu sao? Ngoài Lính Sư Đoàn, Chiến đoàn Quân nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức còn có bọn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử. Bọn này sắt máu và rất nguy hiểm, toàn là Việt Cộng nằm vùng. Hai kho súng, lựu đạn, máy móc truyền tin, xe cộ của Ty Cảnh Sát tụi hắn lấy hết rồi. Bây giờ thì bọn hắn thằng nào cũng có súng, có lựu đạn. Bọn hắn mà biết mày chống lại bọn hắn là chết. Mày chết đã đành, bọn hắn còn kéo đến đốt nhà đánh đập mọi người trong nhà mày, mày biết không? Tôi nói:
- Tao là quân nhân, sống trong kỷ luật của Quân Đội. Lệnh đánh là đánh. Lệnh chiếm Ty Cảnh Sát là chiếm Ty Cảnh Sát chỉ có thế thôi. Vả lại bọn làm loạn này trước sau gì rồi cũng phải dẹp, đồng ý không?
Hắn im lặng.. Khoảng 11 giờ sáng ngày 5-6-1966 Thiếu Tá Đạt gặp tôi và Thượng Sĩ Bái tại sân Ty Cảnh Sát Huế, sau vài câu khen ngợi công việc hồi đêm. Ông nói ngay:
- Địa điểm này là đầu cầu an ninh cho lực lượng của Chính Phủ sẽ đổ quân trong vài ngày tới. Có thể Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến Sài Gòn đến trước. Mình sẽ giao trụ sở này cho họ. Chúng tôi đang nói chuyện thì Trần Văn Em từ trong văn phòng Ty Cảnh Sát ra, gặp chúng tôi, hắn nói:
- Đài Phát Thanh Tranh Đấu vừa loan tin Quân Đội Thiệu Kỳ đã đột nhập thành Phố Huế và đã chiếm Ty Cảnh Sát thành phố vào hồi khuya này. Tôi sợ bọn tranh đấu sẽ kéo đến đây bây giờ. Thiếu Tá Đạt hỏi tôi :
- Người đó là ai?
- Hắn là Cảnh Sát, bạn thân từ nhỏ.
- Tin được không?
- Tin được Thiếu Tá.
Thiếu Tá Đạt bàn với tôi:
- Tôi không tin là đám tranh đấu sẽ tấn công mình lúc này đâu, vì họ chưa nắm vững tình hình, chưa biết mình thuộc lực lượng nào , nhiều hay ít. Dù sao mình là lính có súng, đụng mặt với mình họ còn e ngại. Nếu họ kéo đến anh cố gắng thương lượng kéo dài thời gian, cứ giải thích là mình được lệnh của Trung Tá Tỉnh Trưởng tăng cường lo an ninh cho thành Phố đề phòng bọn Việt cộng phá hoại. Mình không phải là lực lượng được Saigòn gởi ra chống họ. Có thể mình sẽ bị một vài thành phần trong đám tranh đấu khiêu khích chọc giận để mình mất bình tĩnh và có những hành động lọt vào bẫy của họ. Vì vậy, chính anh phải bình tĩnh và dặn dò binh sĩ phải bình tĩnh. Anh chỉ cần giữ địa điểm này trong vòng vài hôm đợi lực lượng Saigòn ra là xong. Hiện tại họ đã ra Đà Nẵng.
Đến 8giờ 45 sáng ngày 6-6-1966 qua hệ thống truyền tin, Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt cho biết: Khoảng 10 giờ sáng Trung Tá Phan Văn Khoa,Tỉnh Trưởng sẽ đến thăm đơn vị tôi. Trung Tá Tỉnh Trưởng cũng muốn gặp và nói chuyện với nhân viên Cảnh Sát tại hội trường của Ty Cảnh Sát. Tôi báo cho Trần văn Em và nhờ hắn giúp thông báo với anh em Cảnh Sát.
Đến 10 giờ 10 phút sáng, Trung Tá Tỉnh Trưởng, Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt đến. Tôi đón cả hai ngoài cổng chính. Ông bắt tay tôi thật mạnh và nói:
- Liên Thành, giỏi lắm, sợ tụi hắn không?
- Chưa đụng tụi hắn, không sợ Trung Tá. Tôi trả lời tỉnh khô.
Cả hai chỉ thăm và nói chuyện với binh sĩ chưa đầy 10 phút, sau đó đi thẳng vào Phòng Hội Ty Cảnh Sát. Đến ngoài cửa phòng hội, tôi dừng lại vì nghĩ không phải việc của mình, nhưng Trung Tá Khoa quay lại:
- Liên Thành, anh vào trong này luôn.
Thiếu Tá Đạt đẩy tôi lên phía trước đi với Trung Tá Khoa vào phòng hội. Ông đi tà tà phía sau. Quang cảnh phòng hội thật thê lương. Ngoài Trần văn Em bạn tôi, có 14 ông Cảnh Sát già, mối lo âu sợ sệt hiện rõ trên nét mặt. Họ ngồi yên và chờ đợi. Trung Tá Tỉnh Trưởng bước lên bục cao. Thiếu Tá Đạt và tôi đứng cạnh Ông. Trung tá Tỉnh Trưởng nói lớn nhưng chậm rãi:
- Như mọi người đã biết, hơn hai tháng nay Thừa Thiên-Huế hầu như không còn có chính quyền. Nhóm người Tranh Đấu đã dùng bạo lực ép bức đồng bào đình công, bãi thị. Các trường Trung Học và Đại Học Huế phải đóng cửa. Bọn họ ép buộc học sinh, sinh viên bãi khóa. Bọn chúng đã xâm phạm và chiếm giữ các cơ sở của chính quyền, như chiếm Đài phát thanh, tháo gỡ toàn bộ hê thống phát tín của Ty Bưu Điện, biến chế thành Đài Phát thanh Tiếng Nói Tranh Đấu. Hai kho vũ khí của 2 Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, và Thị Xã Huế đã bị bọn chúng chiếm đoạt. Khoảng hơn 4000 ngàn vũ khí các loại, toàn bộ hệ thống truyền tin tối tân của Cảnh sát và xe cộ đã bị bọn chúng lấy đi và hiện đang dùng làm phương tiện chống chính phủ. Đi xa hơn nữa bọn chúng đã tấn công và đốt phá tài sản của ngoại kiều, bao vây Tòa Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Tại Huế, đốt cháy tan tành thư viện và phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại đường Lý Thường Kiệt Quận Ba- Huế.
Lực lượng quân sự của Chính Phủ Trung Ương sẽ yểm trợ mạnh mẽ cho chính quyền địa phương Thừa Thiên Huế tái lập an ninh trật tự trong một vài ngày tới. Tôi kêu gọi hơn 4000 nhân viên công lực của hai ty cảnh sát Thừa Thiên, Huế, lập tức trình diện nhiệm sở. Với tư cách Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Thị Trưởng Thị Xã Huế, tôi hứa sẽ không truy cứu một ai. Và hôm nay là ngày 6-6-1966, trong quyền hạn của một Tỉnh Trưởng kiêm Thị Trưởng, Tôi bổ nhiệm:
-Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên và Thị Xã Huế. Thiếu Úy Liên Thành, Phó Trưởng Ty, phụ trách Cảnh Sát Đặc Biệt.
Tôi chưng hửng, mình có nghe nhầm không. Khoảng 5 phút sau buổi gặp mặt chấm dứt. Chúng tôi rời khỏi phòng hội, tôi hỏi ngay Trung Tá Tỉnh Trưởng:
- Sao khi hồi Trung Tá không nói trước. Em là lính làm sao chỉ huy Cảnh Sát được, khó quá.
- Trong những ngày sắp đến tình hình sẽ rất khó khăn, hoặc là mình đánh gục bọn chúng, hoặc bọn Tranh Đấu đánh gục bọn mình, tôi cần những sĩ quan như em và Đạt. Phải cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ, nếu cần thêm lực lượng tôi sẽ tăng cường thêm 1 Đại Đội nữa. Cố gắng kêu gọi anh em Cảnh Sát trở lại làm việc. Ông bắt tay tôi lên xe rời Ty Cảnh Sát. Trung Tá Tỉnh Trưởng nói:
- Anh lo dùm mọi việc, tôi phải đi họp. Thiếu Tá Đạt cũng bắt tay tôi:
Đài phát thanh Tranh Đấu loan tin Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa vừa bổ nhiệm Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt trưởng Ty Cảnh Sát, Thiếu Úy Liên Thành Phó trưởng Ty CSĐB. Bọn họ chuẩn bị đàn áp phong trào tranh đấu. Lực Lượng Tranh Đấu báo động. Chúng tôi đi ra trạm gác phía sau Ty định ăn trưa thì Đài Phát Thanh Phật Giáo Tranh Đấu phát đi lời kêu gọi của Thích Trí Quang với nội dung tóm tắt như sau:
Khuya 5-6-1966 Lực lượng Thiệu Kỳ đã bất thần chiếm Ty Cảnh Sát Thị xã Huế. Trong những ngày kế tiếp Thiệu Kỳ sẽ đưa lực lượng Quân Sự từ Đà Nẵng và Saigòn ra Huế để đàn áp Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung. Yêu cầu Phật giáo đồ, Khuôn Hội Phật Tử mọi cấp, và đồng bào đem Bàn Thờ Phật xuống đường ngăn chận quân đội Thiệu Kỳ tiến vào thành phố Huế.
Lời kêu gọi của Thích Trí Quang phát đi trên làn sóng của Đài phát thanh Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung đúng 12 giờ trưa ngày 6 tháng 6 năm 1966. Tôi gọi máy cho Thiếu Tá Đạt:
- Thẩm quyền nghe chưa?
- Tôi và Trung Tá Tỉnh Trưởng vừa nghe xong. Có lẽ lần này bọn chúng sẽ kéo đến thăm anh đó. Giữ vững vị trí, không để cho bọn chúng lọt vào trong. Nếu cần chỉ xử dụng hơi cay mà thôi.
- Trình thẩm quyền mình đâu được trang bị hơi cay.
- Tiểu Khu sẽ chuyển qua cho anh bây giờ.
- Nhận rõ.
- Ông cho anh em vào vị trí đi, tăng cường thật mạnh ở cổng trước. Thâu hồi lựu đạn M 26, mình sẽ phát cho lính lựu đạn cay và mặt nạ. Bọn chúng kéo đến chỉ la hét phía ngoài thì kệ họ. Nhưng bọn chúng xông vào thì xử dụng tối đa lựu đạn cay để đẩy bọn chúng ra. Tuyệt đối không được nổ súng. Tôi nói với Thượng sĩ Bái:
- Nhưng nếu bọn tranh đấu tấn công mình bằng súng thì sao?
- Bọn hắn súng nhỏ, mình súng lớn ông sợ sao?
- Tôi chỉ sợ lính Sư Đoàn.
Tôi đi với Trần văn Em vào văn phòng. Tôi nói với anh ta :
- Mình đến phòng truyền tin tôi muốn nói chuyện với mấy ông trưởng CSĐB các quận.
Hệ thống truyền tin của 13 quận vẫn còn làm viêc với BCH tỉnh. Tôi nói rất gọn với họ:
- Tôi là Thiếu úy Liên Thành vừa được Trung Tá Tỉnh Trưởng bổ nhiệm vào chức vụ Phó Trưởng Ty CSĐB vào 10:30 sáng ngày hôm nay 6-6-66. Kể từ giờ này tôi yêu cầu các đơn vị trưởng ngành CSĐB, mỗi quận vào mỗi đầu giờ báo cáo mọi diễn biến xảy ra trong phạm vi trách nhiệm lên BCH Tỉnh. Tôi cũng yêu cầu các đơn vị trưởng CSĐB kêu gọi nhân viên trực thuộc trở về đơn vị làm việc. Sau 7 ngày kể từ ngày hôm nay, những ai không trở lại nhiệm sở tôi xem như họ đào nhiệm và sẽ đề nghị sa thải khỏi ngành CSQG. Chấm dứt.
- Đến 1:46 chiều ngày 6-6-1966 theo lệnh Trí Quang, các đoàn Sinh Viên Quyết Tử đi từng khu phố, từng phường, từng khóm, từng tư gia bắt buộc dân chúng đem bàn thờ Phật xuống đường. Tại quận II, trung tâm thành phố Huế từ bến xe Nguyễn Hoàng dọc đường Trần Hưng Đạo về đến cầu Gia Hội, đường Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Chi Lăng Bạch Đằng, đường lớn, đường nhỏ, bàn thờ Phật dày đặc, được đặt ngay giữa đường. Tại Quận Ba, từ khu chợ An Cựu ra đến đoạn nối liền Quốc lộ I về Phú Bài, đường Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Huệ, Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm v..v; hàng ngàn, hàng ngàn bàn thờ Phật, lớn, nhỏ đặt ngay giữa đường ngăn chận lối đi. Tại Quận I, quận Thành nội, bàn thờ Phật được đặt dọc đường Đinh Bộ Lĩnh, từ cửa Thượng Tứ vào tận cổng BTL/Sư đoàn I. Bàn thờ Phật cũng được Thích Trí Quang cho lệnh trải dài trên quốc lộ I từ Lăng Cô đến Cầu Hai, Truồi, An Nong I, An Nong II, đến gần Phú Bài, từ Dạ Lê, Hương Thủy qua khỏi quận lỵ Hương Trà.
Quốc lộ I nối liền Đà Nẵng-Huế- Quảng Trị ngưng hoạt động. Không còn thấy bóng dáng một chiếc xe đò nào chở khách Huế-Đà Nẵng, Huế- Quảng Trị, hoặc các đoàn xe của Quân Đội VN, Hoa Kỳ di chuyển trên quốc lộ I vì đã bị bàn thờ Phật chận lối đi. Huế hỗn loạn. Huế thất thần. Huế lo âu. Dân chúng đổ ra đường đi tìm mua mắm muối dự trữ cho những ngày biến loạn đang tiếp diễn. Nhưng mua ở đâu? Trí Quang đã cho lệnh đình công bãi thị. Chợ không đông, cửa hàng nhu yếu phẩm không mở. Ngoài đường phố toàn là bàn thờ Phật, và từng đoàn Sinh Viên Quyết tử của Trí Quang đang đi xách động, dọa nạt, cưỡng bức dân lành đem bàn thờ Phật xuống đường chống Thiệu Kỳ.
Không một chiếc xe hơi nào có thể di chuyển được trong thành phố Huế lúc này. Mọi nơi trong thành phố bàn thờ Phật đã bít lối đi. Dân Huế, mặc dầu là Phật Giáo đồ, đã bắt đầu thấm đòn của Trí Quang, bắt đầu hé một mắt để nhìn chân dung Trí Quang xem hắn thật sự là ai, Quốc gia hay Cộng Sản, là kẻ tu hành hay Sư Hổ mang, vì Đạo Pháp hay vì mưu đồ cá nhân của hắn. Thật hay giả thì chưa biết nhưng có một điều không thể chấp nhận được đó là bắt tín đồ đem bàn thờ Phật ra đường, đối với tín đồ đây là một hành động xúc phạm nặng nề đối với niềm tin thiêng liêng và sự kính trọng. Nhiều khu phố, nhiều phường, nhiều khóm đã chống lại lệnh của Trí Quang không chịu đem bàn thờ Phật ra đường, nhưng chống sao nổi với những đoàn Sinh Viên Quyết Tử mang băng đỏ của Trí Quang. Những ai chống lại là người của Thiệu Kỳ, và Đoàn Quyết Tử của Trí Quang sẽ đem đại họa đến với cá nhân và cả gia đình họ. Đám này chẳng khác gì Vệ Binh Đỏ của Mao Trạch Đông và Giang Thanh ở Đường Phố Bắc Kinh, Trung Cộng, thời Cách Mạng Văn Hóa.
- 1:45 Trưa ngày 7/6/66 Biệt Đoàn 222 Cảnh Sát Dã Chiến và Trung Tá Phan Huy Sảnh Chỉ Huy Trưởng Biệt Đoàn, lực lượng tổng trừ bị của Tổng Nha Cảnh Sát được không vận đến Huế. Tôi bàn giao trụ sở Cảnh Sát thành phố lại cho Biệt Đoàn 222 CSDC. Đơn vị tôi di chuyển sang trú đóng tại trụ sở Nha Cảnh Sát vùng I, sau này là BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế.
- Ngày 8/6/66 Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh phó Không quân, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo đến Huế. Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan là Tư lệnh hành quân dẹp loạn miền Trung. BCH hành quân đặt tại Toà Đại Biểu chính phủ thuộc quận 3 thành phố Huế.
Dân Huế sống trong lo âu sợ sệt, một trận đụng độ lớn có thể xảy ra bất cứ lúc nào giữa lực lượng dẹp loạn của Chính phủ trung ương do Đại Tá Ngưyễn Ngọc Loan chỉ huy và đám tranh đấu cũng như đại đơn vị Sư Đoàn I BB ly khai do Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận chỉ huy. Thế nhưng từ ngày 8/6/66 đến ngày 12/6/66, Đại Tá Loan vẫn án binh bất động, ngoại trừ ông cho lệnh một đơn vị thuộc Biệt Đoàn 222 chiếm lại đài phát thanh Huế và nhóm chuyên viên kỹ thuật từ Saìgòn ra sửa chữa đài phát thanh Huế tái hoạt động.
Tối ngày 15/6/66 Đại Tá Loan chỉ thị tôi chỉ huy 1 Đại đội CSDC thuộc Biệt Đoàn 222, bắt đầu giải tỏa bàn thờ Phật tại vùng An Cựu thuộc quận 3. Khoảng 9 giờ 15 tối, tôi rải lực lượng CSDC từ ngã tư Duy Tân và Nguyễn Huệ đến quá cổng Cung An Định. Vừa bố trí xong thì ngay lập tức, đám tranh đấu dùng loa phóng thanh và đài phát thanh tranh đấu loan tin: "Cảnh sát Dã Chiến Saìgon đang đập phá và dẹp bàn thờ Phật tại vùng An Cựu. Yêu cầu đồng bào moị giới tập trung ngăn chận". Chỉ trong vòng 10 phút hàng ngàn người đã vây chúng tôi vào giữa. Trong đám đông có những tên đầu trâu mặt ngựa, ăn nói thô tục bắt đầu chửi rủa chúng tôi thậm tệ. Đại đội CSDC đúng là dân chuyên nghiệp, mặc cho thiên hạ chửi rủa, họ vẫn đứng tỉnh khô, đợi lệnh. Viên đại đội trưởng nói với tôi:
- Ông Phó, đừng lo, chỉ cần ông Phó ra lệnh là bọn em dẹp đám này ngay.
Bây giờ thì bọn tranh đấu bắt đầu đốt lốp xe hơi chung quanh chúng tôi. Ánh lửa bập bùng đễ đưa chúng tôi vào bạo lực. Tôi cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh nói với viên Đại đội trưởng:
- Ông cho dàn đội hình, mang mặt mạ chuẩn bị giải tán đám này. Vừa ngay khi đó thì BCH hành quân của Đại Tá Loan gọi tôi báo cáo tình hình. Sau phần báo cáo tôi nói thêm:
- Tôi đang chuẩn bị giải tán đám này và dẹp bàn thờ.
- Anh đợi, tôi trình thẩm quyền.
- Nhận rõ.
- Lệnh thẩm quyền không giải tán đám đó, không cần dẹp bàn thờ nữa. Tránh đụng chạm, đưa con cái anh trở về.
-Nhận rõ.
Vưà cương vừa nhu, cuối cùng tôi cũng đưa được đại đội CSDC ra khỏi vòng vây về lại BCH. Đại tá Loan đợi tôi tại BCH, ông nói:
-Tốt lắm, mình chỉ thử xem bọn chúng phản ứng thế nào, mọi chuyện ngày mai hãy tính.
-10:30 đêm ngày 17/6/66, Đại tá Loan ra lệnh cho Biệt đoàn 222 CSDC rải quân dọc đường Trần Hưng Đạo, đại lộ chính của thành phố Huế, và cũng là nơi bàn thờ Phật dày đặc. Tôi được lệnh tháp tùng theo Đại Tá Loan và toàn ban tham mưu cuả ông sang phố Trần Hưng Đạo.
Đường Trần Hưng Đạo khói hương nghi ngút, các sư cô ngồi ngay dưới bàn thờ tụng kinh. Đám phật tử và sinh viên tranh đấu ngồi vây quanh các sư cô. Đại tá Loan đi bộ tà tà dọc theo các bàn thờ, thỉnh thoảng dừng lại ngồi gần các sư cô thầm thì nói chuyện, có trời cũng chẳng biết được ông định làm gì. Đến 1 giờ 45 khuya, bỗng Đại Tá Loan gọi tôi:
- Liên Thành đâu!
- Tôi đây Đại Tá.
- Mày 1 bên, đại tá 1 bên, mình khiêng bàn thờ bỏ vào vệ đường. Tôi và Đaị Tá Loan vừa đặt bàn thờ vào vệ đường thì lập tức Biệt đoàn 222 túa ra như ong vỡ tổ. Chỉ 10 phút sau không còn một bàn thờ Phật nào trên đường Trần Hưng Đạo .
Biệt đoàn 222 CSDC tiếp tục dẹp bàn thờ trong quận 2 và quận 3. Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau thì công việc dẹp bàn thờ tại thành phố Huế đã hoàn tất, ngoại trừ quận I Thành Nội Huế, nơi có BTL Sư Đoàn I, Đại Tá Loan chưa đụng đến.
Suốt ngày 18 tháng 6/66 mỗi đầu giờ đài phát thanh Huế truyền đi lời kêu gọi của BCH hành quân, yêu cầu quân nhân các cấp thuộc Sư Đoàn nằm trong lực lượng Tranh Đấu chống Chính Phủ, các thành phần dân sự sinh viên, học sinh, giáo chức, công chức, Cảnh Sát Quốc Gia, v..v.. trình diện BCH hành quân đặt tại Công Trường Phu Văn Lâu.
Tổng cộng hơn 1000 quân nhân các cấp bị tạm giữ tại Cục An Ninh Quân Đội tại Sàigòn và Phú Quốc.
Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận đầu hàng, trình diện Đại Tá Loan, và bị đưa vào giam tại Sàigòn chờ ngày ra toà. Tư Lệnh Sư Đoàn I được thay thế bởi Đại Tá Ngô Quang Trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy Dù. Về phần dân sự khoảng gần 2000 người bị tạm giữ. Sau thời gian điều tra, một số được trả tự do một số khác bị giữ lại truy tố ra toà với tội danh phá rối trị an. Số cơ sở nòng cốt Cộng Sản nằm vùng của Hoàng Kim Loan đã được y phái cán bộ đường dây, đón ra mật khu. Một số khác giả dạng thày tu chạy vào trốn tại các chùa quanh thành phố Huế.
Thích Trí Quang bây giờ đã vào đường cùng. Y tuyên bố tuyệt thực 90 ngày, định ngồi lì tại sân toà Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên, nhưng Đaị Tá Loan đã cho lệnh bắt giữ, giải vào Sàigòn và cô lập tại bệnh viện Bác sĩ Tài.
Sáng ngày 20 tháng 6 /66, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan gọi Thiếu Tá trưởng ty Phạm Khắc Đạt và tôi lên Toà Đại Biểu Chính Phủ gặp ông. Ông cho lệnh chúng tôi bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi đem về toà đại Biểu chính phủ gặp ông. Thật khó cho chúng tôi, nhất là Thiếu Tá Đạt, vì khi chúng tôi còn ở Quận Nam Hoà Trung Tướng Thi là tư lệnh Sư Đoàn I, rồi Tư lệnh Quân Đoàn I, thường thăm viếng quận Nam Hoà và rất ưu ái, nâng đỡ Thiếu Tá Quận Trưởng Phạm Khắc Đạt. Nay vì khác chính kiến trở thành đối nghịch, đệ tử nhận lệnh đi bắt ông thày, lương tâm đâu ổn. Nhìn nét mặt tư lự của ông tôi hiểu ngay, tôi nói với Thiếu tá Đạt:
- Thiếu tá khỏi lo, tôi là thằng sĩ quan hạng bét, ông Trung Tướng không nhớ mặt tôi đâu, để tôi đi trước vào mời Trung Tướng, ông tà tà theo sau.
Tư dinh Trung Tương Thi tại số 12 đường Lê Thánh Tôn thuộc quận 3, sau lưng nhà thờ Nhà Nước (Phan xi cô". Tôi và Thiếu tá Đạt cùng đi một xe đến thẳng tư dinh Trung Tướng Thi. Chúng tôi gặp Tùy viên của Trung Tướng tại phòng khách. Liền ngay đó thì Trung Tướng Thi từ trên lầu bước xuống, hình như ông đã biết mọi việc. Ông nói với Thiếu Tá Đạt:
- Sao Đạt, Đại Tá Loan cho lệnh bắt Trung Tướng phải không? Các em muốn Trung Tướng đi xe của Cảnh Sát hay xe của Trung Tuớng?
- Xin Trung Tướng dùng xe quân đội, chúng em chạy theo sau.
Tôi còn nhớ ông mặc đồ dân sự, áo xanh quần đà, nhưng đi xe quân đội gắn 3 sao, bảng đỏ.
Đến cuối tháng 7/66 thì an ninh, trật tự đã vãn hồi tại miền Trung và Thừa Thiên, Huế. Tôi và Thiếu tá Đạt nhận lệnh biệt phái sang lực lượng CSQG đến 30/4/75. Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 5
Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế)
HUẾ, MÙA HÈ ĐỎ LỬA
- CSQG phá vỡ kế Hoạch Tổng nổi dậy của VC tại Huế.
- Bắt Trung tá VC Hoàng kim Loan và 1500 cơ sở VC.
Ngày 30-3-1972, chiến dịch Nguyễn Huệ của Bắc quân bắt đầu. Trên 10,000 quân bộ chiến gồm Sư Đoàn 304, 308 và 4 Trung đoàn Đặc công 31, 426, 270 của mặt trận B2, với sự yểm trợ của của 3 trung đoàn pháo nặng, 38, 68, 84, cùng với 200 chiến xa vượt vùng phi quân sự tấn công thị xã Đồng Hà một thành phố nhỏ nằm về cực Bắc. Thị xã Đồng Hà thất thủ.
Ngày 30-4-1972, một phần phía bắc tỉnh lỵ Quảng Trị lọt vào tay quân Cộng Sản. Chiều ngày 31-4-1972 Tướng Vũ văn Giai Tư Lệnh Sư Đoàn 3 cùng bộ tham mưu và Cố vấn Mỹ dùng trực thăng rời khỏi Cổ Thành Quảng Trị nơi đặt BTL/Sư Đoàn 3. Tỉnh lỵ Quảng Trị thất thủ lọt vào tay CSBV.
Vào lúc 5 giờ sáng ngày 1-5-72 tôi tăng cường cho trạm kiểm soát An Hoà một trung đội Cảnh Sát Dã chiến để kiểm soát và hướng dẫn đồng bào Quảng Trị trên đường di tản vào thành phố Huế. Khoảng 8 giờ 30 sáng, đoàn người chạy giặc đầu tiên đã xuất hiện tại trạm kiểm soát. Họ là dân tỉnh Quảng Trị chạy giặc, di tản bằng đường bộ dọc theo quốc lộ I, xuôi về hướng nam vào thành phố Huế.
Bắc quân trải pháo trên một đoạn đường dài 9 cây số, đoạn đường mà dân chúng đang tháo chạy về hướng nam. Hàng ngàn thân xác ông già, bà lão, trẻ thơ gục chết trên đoạn đường 9 cây số, thịt xương rơi vãi khắp nơi, quân Cộng Sản tạo đoạn đường này thành ''Đại Lộ máu, Đại lộ kinh hoàng''. Họ đã dã man tàn sát dân lành vô tội đang tìm đường chạy thoát khỏi sự chiếm đóng của họ.
Dân chúng thuộc các quận phía bắc Thừa Thiên-Huế: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền nhập với đoàn người chạy giặc Quảng Trị vượt sông Mỹ Chánh chạy vào Huế. Gần cả trăm ngàn người chạy giặc trên đoạn đường máu, đoạn đường của tử thân, nhưng dù chết dù sống đoàn người tỵ nạn vẫn cố vượt qua để xuôi về hướng Nam.
Đoạn đầu của đoàn người đã vào đến cửa phía bắc cuả thành phố Huế, cửa An Hòa, đoạn cuối của đoàn người này vẫn còn tại quận Phong Điền, giáp ranh với tỉnh lỵ Quảng Trị. Họ hốt hoảng, kinh hoàng, đói khát, nối tiếp nhau tiến vào thành phố, dưới cơn nắng bốc lửa của mùa hạ.
Từ cửa An Hoà, đến cầu Bạch Hổ, xuống Phu văn Lâu, đường Trần Hưng Đạo, Chợ Đông Ba, Cầu Mới, cầu Tràng Tiền, trường Trung học Kiểu mẫu, khu Đại học Văn Khoa, người tỵ nạn nằm ngồi la liệt, rục rã bất động. Hằng trăm chiếc xe máy cày từ vùng đồng quê Phong Điền, Quảng Điền, chất đầy người và vật dụng chiếu, mền, nồi niêu soong chảo, treo lủng lẳng hai bên, nối tiếp nhau mệt nhọc lăn bánh vào thành phố. Dân chạy giặc đã đến được thành phố, nhưng rồi còn chạy đi đâu? Sau Quảng Trị, Huế đang nằm trong vòng vây cuả Bắc quân.
Phía bắc Thừa Thiên-Huế đã có mặt các đại đơn vị của cộng quân từ Đồng Hà Quảng Trị kéo vào. Phía Tây thành phố Huế ngay vòng đai an ninh xa, địch đã xuất hiện với lực lượng gồm Sư Đoàn 324B, Công trường 5 đặc công, Công trường 4, 6, cùng với 1 trung đoàn pháo nặng, tất cả được đặt dưới sự chỉ huy của Quân Khu Trị Thiên Cộng Sản, đang giao tranh với Sư Đoàn I BB. Cao điểm chiến lược Baston phía Tây Huế đã bị cộng quân chiếm giữ từ tháng 2/1972.
Địch bắt đầu pháo kích vào Huế từng giờ một, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và 130 ly. Huế bắt đầu rối loạn, Huế kinh hoàng, Huế hốt hoảng. Huế từ từ rã ra từng mảnh trong ngơ ngác, sợ sệt. Hình ảnh đám sát thủ Cộng Sản của năm Mậu Thân 1968 lại hiện về với người dân Huế. Việt Cộng vào thành phố là đem theo chết chóc, chết đứng, chết ngồi, chết hàng loạt, chết tức tưởi, chết bị trói hai tay bằng dây kẽm gai, chết bị chôn sống, ngộp thở dươí đáy hố sâu, hàng chục, hàng trăm thi thể cùng một hố, mồ chôn tập thể.
Dân tỵ nạn Quảng Trị nhập với dân Huế bắt đầu di tản, chạy giặc xuôi về hướng Nam, hướng Đà Nẵng. Bằng mọi phương tiện, xe hai bánh, xe 4 bánh, bằng đôi chân, họ kéo nhau di tản trên quốc lộ I, Huế - Đà Nẵng, đoạn đường dài 102 Km. Họ băng qua Dạ Lê, Phù Lương, Phú Bài, An Nông 1, An Nông 2, Truồi, Cầu Hai, Phú Lộc, Lăng Cô, vượt đèo Hải Vân cao ngút ngàn !!! vào Đà Nẵng. Tất cả rời bỏ xứ Huế thân yêu, rời bỏ quê hương xứ sở, bỏ lại nhà cửa, tài sản, chỉ mong thoát khỏi vùng lửa đạn, lánh xa bọn quỉ dữ Cộng Sản. Tôi đứng ngay cầu Tràng Tiền nhìn đoàn người chạy giặc lòng bỗng chùng xuống, nỗi buồn vô hạn làm uất nghẹn lòng tôi, sao điêu linh, khổ nạn cứ bám sát nguời dân Huế mãi không thôi.
Bây giờ là 2 giờ chiều ngày 4-5-1972, từ sáng sớm đến giờ, Bắc quân đã pháo kích 6 đợt hỏa tiển 122 và 130 ly vào Huế, nhắm vào Bộ Tư lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I tại Mang Cá, Thành Nội, vào BCH/Cảnh Sát, Tiểu Khu, MacV thuộc quận 3. Bọn chúng bắn khá chính xác, có lẽ tiền sát Pháo binh của bọn chúng ngụy trang chạy theo đoàn người tỵ nạn đã lọt vào thành phố.
9giờ 30 tối ngày 4-5-1972, sau một vòng tuần tiễu và kiểm soát các đơn vị CSQG bố trí phòng thủ tại các nút chận và các yếu điểm trong thành phố, tôi đậu xe ngay Cầu Mới, cây cầu cạnh bệnh viện Trung Ương Huế và Câu lạc bộ Thể Thao. Đang mải nhìn phiá Chùa Thiên Mụ, Văn Thánh, nơi có ánh hỏa châu soi sáng, và xa hơn tận chân núi là những ánh lửa loé sáng của đạn pháo, thì bỗng có tiếng la thất thanh của Nguyễn Đình Ánh, người cận vệ của tôi, vừa là nhân viên truyền tin đang ngồi trên xe:
- Đại Úy, Đại Úy, Chợ Đông Ba cháy!!!
Quả thật, chợ Đông Ba cháy. Ngọn lửa mới bắt đầu bùng lên, nhưng cũng đã soi sáng một góc phố Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu. Ngay lúc đó tôi nghe giọng nói cuả Đại Úy Ngô Trọng Thành, Chỉ Huy Trưởng CSQG quận 2, phát qua loa khuếch đại cuả máy truyền tin Motorola gọi tôi:
- Tango,Tango (danh hiệu truyền tin cuả tôi). Trình thẩm quyền chợ Đông Ba bị cháy.
- Tôi nghe anh, tôi đang đứng ở cầu Mới. Tôi thấy rồi, nhưng tại sao cháy?
- Trình thẩm quyền chưa rõ nguyên nhân, nhưng nhiều người trong chợ chạy ra họ nói: ''Lính chạy làng Sư Đoàn 3 đốt chợ''.
- Tôi cho xe cứu hỏa qua giúp anh ngay. Anh cẩn thận, để lại trung đội CSDC giữ BCH quận, đề phòng bọn đặc công Việt Cộng tấn công. Còn tất cả nhân viên xông vào chợ cứu số đồng bào đang bị kẹt trong đó. Tôi sẽ đến ngay.
Tôi vào hệ thống truyền tin C46 báo cáo cho Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng, Đại Tá Tôn Thất Khiên:
- Trình thẩm quyền chợ Đông Ba đang bị cháy, chưa rõ nguyên nhân, tai nạn hay bị phá hoại, tôi đã cho 5 xe cứu hoả sang chữa cháy.
- Anh đang ở đâu?
- Tôi đang ở cầu Mới.
- Anh đợi, tôi đến ngay.
Có lẽ Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng đang đi tuần tra gần đó, nên chưa đầy 2 phút sau ông đã có mặt tại Cầu Mới. Sang xe tôi, ông ngồi ghế trưởng xa và tôi lái. Tôi bật còi hụ và đèn khẩn cấp, lái thật nhanh, chỉ khoảng 5 phút là đã đến ngay trước chợ Đông Ba.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:15:27 GMT 9
Bây giờ thì ngọn lửa đã quá lớn, bốc cao đỏ rực cả thành phố. Năm xe cứu hỏa sắp cạn nước, đội cứu hỏa, và gần 100 nhân viên Cảnh sát tăng cường, cả tôi lẫn Đại Tá Tỉnh trưởng lăn xả vào chợ. Cuối cùng cũng phải đành bó tay trước ngọn lửa điên cuồng, thiêu rụi gần cả mặt trước của khu chợ Đông Ba. Trong khi đó thì lực lượng Nhân dân Tự Vệ phường, khóm, nổ súng loạn xạ. Dân chúng cư ngụ dọc dãy phố Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Huỳnh thúc Kháng, Chi Lăng cộng thêm dân tỵ nạn Quảng Trị nằm dọc hai bên vệ đường, vừa thấy chợ Đông Ba Cháy, vừa nghe tiếng súng nổ, tưởng Việt Cộng đã vào thành phố, ùn nhau kéo chạy. Cảnh tượng vô cùng hỗn loạn, tưởng chừng không thể tái lập được an ninh trật tự. Tôi nói với Đại Tá Tỉnh Trưởng:
- Đại Tá, ông rời khỏi đây ngay, nơi nầy nguy hiểm quá. Nếu Đại tá có chuyện gì là dân Thừa Thiên-Huế như rắn không đầu. Ở đây tôi lo được.
Miệng nói, tay ngoắc 2 người lính cận vệ cuả ông, và 4 người của tôi, hộ tống ông ra xe rời khỏi vùng chợ Đông Ba.
Tôi dùng loa phóng thanh trên xe tôi kêu gọi đồng bào bình tĩnh, và giải thích cho họ rõ, chợ cháy là do tai nạn, tiếng súng nổ là do lực lượng Nhân dân tự vệ bắn bừa bãi chứ không phải của Việt Cộng. Nửa giờ sau, an ninh, trật tự vãn hồi. Khu chợ Đông Ba đã chạy rụi gần một nửa. Những ngày sau vẫn còn dư âm: '' Lính chạy làng đốt chợ Đông Ba''.
Tôi vẫn không tin, khi bắt được tên Hoàng Kim Loan tôi là người trực tiếp thẩm vấn Hoàng Kim Loan nhiều lần, có một lần đang hỏi hắn về những vấn đề khác, tôi đột ngột nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:
- Tại sao anh cho lệnh đốt chợ Đông Ba?
Với câu hỏi đột ngột, không kịp phản ứng, hắn trả lời:
- Đúng, người cho lệnh đốt chợ là tôi. Thi hành công tác là cơ sở nội thành của tôi.
- Tại sao?
- Gây hoang mang, hỗn loạn trong quần chúng, và tạo tiếng vang, chuẩn bị cho cuộc Tổng nổi dậy.
- Các anh mệnh danh là quân Giải Phóng, sao lại Giải phóng luôn cả tính mạng và tài sản của dân lành vô tội. Anh có biết là khi anh cho lệnh đốt chợ Đông Ba là đốt luôn tài sản của dân chúng và đốt luôn cả cuộc đời của họ. Giờ đây hàng ngàn gia đình không còn phương tiện sinh sống, vì tài sản của họ đã bị anh Giải phóng sạch sẽ. Các anh đốt chợ, lại phao tin '' Lính Sư Đoàn 3 chạy làng, đốt chợ Đông Ba''. Có phải chính anh cho cơ sở phao tin nầy hay không?
- Đúng, khi đó chúng tôi muốn dân chúng Huế ghê tởm các anh, những kẻ tay sai và lính đánh thuê cho giặc Mỹ xâm lược.
- Anh lầm, với kinh nghiệm Mậu Thân 1968, dân Huế đã quá biết thủ phạm trong vụ đốt chợ Đông Ba là quân Giải phóng các anh, là những người Cộng Sản, không còn có chút nhân tính. Từ mùa hè đỏ lửa năm 1972 đến nay là năm 2007, đã 35 năm trôi qua, người dân xứ Huế và những ai đã ở lại Huế trong những ngày binh lửa và đã chứng kiến cảnh chợ Đông Ba bị đốt cháy. Đến nay mỗi lần nhắc đến Huế, hoài niệm những ngày tháng cũ, chắc hẳn trong lòng vẫn còn câu hỏi, ai đốt chợ Đông Ba? Lính Quốc Gia hay là Việt Cộng?
Đã 35 năm trôi qua, giờ đây tôi mới có cơ hội trình bày sự thật và nêu đích danh thủ phạm vụ đốt cháy chợ Đông Ba. Tôi mong những nạn nhân trong vụ cháy và những ai đã từng chứng kiến cảnh tượng bi thảm, hãi hùng đêm hôm đó, ngày hôm nay, còn ở quê nhà, xứ Huế hay ở hải ngoại, xin hiểu cho rằng:
- Người lính VNCH, lính Sư Đoàn 3 BB mặc dầu trong điều kiện ngặt nghèo họ phải di tản nhưng không vô kỷ luật đến độ đi dốt phá tài sản của đồng bào. Chợ Đông Ba bị đốt cháy là do tên Trung Tá Cộng Sản Hoàng Kim Loan, Ủy Viên Thành Ủy Huế và cơ sở nội thành cuả hắn thực hiện, để gây kinh hoàng, xáo trộn, tạo điều kiện và hoàn cảnh thuận lợi cho cuộc Tổng nổi dậy tại thành phố Huế, mà bọn chúng định thực hiện trong tháng 5, mùa hè đỏ 1972. Thủ phạm là Hoàng Kim Loan và đồng bọn. Xin trả lại sự công bằng và minh oan cho nguời lính Sư Đoàn 3 BB, đã phải gánh chịu một hàm oan nhục nhã '' Lính chạy làng Sư Đoàn 3 đốt chợ Đông Ba'' mà bọn Cộng Sản đã phao vu và gán ghép cho họ.
Trở lại tình hình Huế, từ nhiều ngày nay, kể từ khi Bắc quân vượt vùng phi quân sự tấn công Đồng Hà, Quảng Trị. Tin tức từ các đường giây đơn tuyến nằm sâu trong Quân Khu Trị Thiên và hai cơ quan Tỉnh Ủy và Thành Ủy Huế cuả Cộng Sản dồn dập gởi về, xác nhận Quân Khu Trị Thiên sắp tung một cuộc tấn công lớn vào thành phố Huế. Tỉnh thị Ủy Thừa Thiên-Huế đã có kế hoạch ''Dùng lực lượng quân sự hổ trợ cho lực lượng chính trị'', Tổng nổi dậy cuớp chính quyền tại Huế.
Nhân vật lãnh đạo trong kế hoạch cướp chính quyền tại Huế chính là Hoàng Kim Loan.
Hoàng Kim Loan, hắn là ai?
Hoàng Kim Loan sinh và chánh quán tại xã Phong An, Quận Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên. Tính đến tháng 5-1972 hắn vừa đúng 56 tuổi. Có vợ trú ngụ taị xã Phong An. Có hai con, một gái và một trai. Con trai của hắn phục vụ trong Binh chủng Thiết Giáp Quân Lực VNCH cấp bậc Đại Uý, con gái buôn bán và sống với mẹ.
Ngoài ra, em ruột của hắn là Hoàng Mạnh Hùng, làm Chủ tịch Hội đồng Xã Phong An, Chính quyền VNCH.
Hoàng Kim Loan theo Cộng Sản từ thời kháng chiến chống Pháp, cùng lứa với Đại Tá Thân Trọng Một, Trung Đoàn trưởng, trung đoàn 5 Đặc Công Cộng Sản. (Thân Trọng Một quê ở Nguyệt Biều, Lương Quán thuộc quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên). Tính đến năm 1972, Hoàng Kim Loan đã có 18 năm tuổi Đảng. Quân hàm Trung Tá.
Năm 1954 thay vì tập kết ra Bắc, hắn được gài ở lại. Địa bàn họat động của hắn là Thừa Thiên và thành phố Huế. Hoàng Kim Loan gốc thuộc Nha Liên Lạc hay Cục Tình Báo Chiến Lược. Sau này vì nhu cầu đòi hỏi, hắn kiêm chức Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, phụ trách Tôn Giáo vận, Trí thức vận kể cả Học sinh và Sinh viên.
Với thời gian dài gần 20 năm hoạt động trong lòng địch, địa bàn Thừa Thiên-Huế, từ tôn giáo, Đảng phái chính trị, giới trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức chính quyền và ngay cả quân đội, đều bị Hoàng Kim Loan cấy, gài người vào hoạt động cho hắn. Mọi biến động chính trị, lên đường xuống đường, chống đối chính quyền Trung Ương VNCH và tại Thừa Thiên-Huế đều do một tay hắn và đám cơ sở của hắn nằm trong Tôn giáo, học sinh, sinh viên khuấy động. Hắn biết nắm thời cơ, lợi dụng sức mạnh và quyền lực của Phật giáo Ấn Quang tại Thừa Thiên-Huế. Sau ngày đảo chánh lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm, qua các cơ sở quan trọng nằm vùng trong Phật Giáo như Thích Đôn Hậu, Chánh Đại diện Phật Giáo Ấn Quang miền Trung, Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu trụ trì Chùa Từ Đàm, Thích Chánh Trực trụ trì chùa Tường Vân và hàng ngàn cơ sở nằm trong các khuôn hội tại 13 quận thuộc Thừa Thiên-Huế, để thi hành các công tác khuấy động chính trị gây xáo trộn và rối loạn tại miền Trung và Thừa Thiên Huế. Hắn áp dụng đúng sách lược '' Dùng Phật Giáo làm ngọn cờ, dùng sinh viên, học sinh làm ngòi nổ''.
Những công tác mà hắn đã thực hiện sau 1963:
- Vô hiệu hóa các cơ quan, và nhân viên tình báo của Chính Phủ thuộc Đệ I Cộng Hòa. Áp lực chính quyền sau ngày Cách Mạng truy tố và sau đó xử bắn ông Phan Quang Đông, Giám Đốc cơ quan Tình Báo hoạt động bên kia Vỹ tuyến 17, qua các biểu tình rầm rộ tại Huế, vu khống, chụp mũ họ là Mật Vụ Nhu-Diệm đàn áp Phật gíao, bắt cóc thủ tiêu Quí Thầy v..v..
- Giải thoát một số Cán bộ cao cấp Cộng Sản bị giam giữ tại Chín Hầm (một địa danh ở Huế) sau ngày Cách mạng 1-11-63.
- Vụ nỗi loạn miền Trung của Thích Trí Quang mùa hè năm 1966.
- Mậu Thân 1968, Hoàng Kim Loan phụ trách công tác Tổng Khởi Nghĩa, thành lập Ủy Ban Nhân dân Cách Mạng tại Thừa Thiên-Huế, cùng với Nguyễn Trung Chính cán bộ nằm vùng, Phan Nam tức Lương cán bộ Thành Ủy đã đưa Nguyễn Hữu Vấn giáo sư trường Quốc Gia âm nhạc làm Chủ Tịch Ủy ban Nhân dân quận I. Nguyễn Thiết bí danh Hoàng Dung làm Chủ Tịch ủy ban Nhân dân Quận 2. Năm 1955 (?) Thuyết vượt vỹ tuyến 17 ngoài Bắc vào Nam với ngụy thức tìm tự do, sau đó học luật và len lỏi vào được ban chấp hành Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, tại đây Thiết phụ trách Sinh Viên vận.
Trước Mậu Thân mấy ngày Hoàng Kim Loan đưa Lê văn Hảo, giáo sư Nhân chủng học, đại học Huế lên mật khu nhận chức Chủ Tịch Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình và sau đó là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thừa Thiên Huế. Ngày 14-2-1968, trong thời gian Cộng Sản chiếm Huế, Hà Nội tuyên bố đã thành lập chính quyền Cộng Sản tại Thừa Thiên-Huế. Chủ Tịch là Lê văn Hảo, đồng phó Chủ Tịch là Hoàng Phương Thảo, Thành Ủy Viên Cộng Sản và Bà Tuần Chi tức Đào thị Yến, Hiệu Truởng Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, Huế. Bà Tuần Chi là mẹ nuôi của Bà Hoài Nam, vợ của một Trung Tướng (-Trần Văn Trung) trong Quân Lực VNCH. (* Sau 1975 Lê văn Hảo không còn giá trị lơị dụng nữa, bọn cộng sản cho hắn chức Phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Trị-Thiên, ngồi chơi xơi nước. Hảo bất mãn, nhờ một Giáo Sư Đại Học người Pháp, thuộc Đảng Cộng Sản Pháp, mời hắn Sang Paris thuyết trình. Nhân cơ hội đó, Hảo trốn ở lại Paris).
Mậu Thân 1968, Hoàng Kim Loan cùng với tên Lê Minh, trưởng ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên, tên Tống Hoàng Nguyên, tên Nguyễn Mậu Huyên tức Bảy Lanh cán bộ An Ninh Cấp Khu Ủy, điều khiển những cuộc bắn giết, chôn sống đồng bào, nhân viên chính quyền, Cảnh Sát Quốc Gia và Quân nhân mà tổng số nạn nhân vô tội lên đến trên 5000 người. (* Nguyễn Mậu Huyên tức Bảy Lanh là con nuôi chủ tiệm Thuốc Bắc Thiên Tường ngay đường Duy Tân đối diện chợ An Cựu, Quận 3). Nếu dùng danh từ luật pháp thì tội danh của Hoàng kim Loan và đồng bọn trong dịp Tết Mậu Thân tại Cố Đô Huế là tội diệt chủng, cũng giống bọn Khmer Rouge của xứ Cao Miên. Tóm lại sau gần 20 năm hoạt động tại địa bàn Thừa Thiên-Huế, Hoàng Kim Loan đã xây dựng và tổ chức được một hệ thống tình báo mạnh, vững chắc, kín đáo, nằm sâu vào mọi cơ quan dân sự, quân sự, an ninh, Cảnh Sát Quốc Gia, đảng phái Chính trị, tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên của Chính quyền quốc gia tại Thừa Thiên- Huế. Đặc biệt là Phật Giáo Ấn Quang, bị hắn cài người xâm nhập nặng nề nhất. Cơ sở nội tuyến của hắn phải tính đến hằng ngàn, thật kinh khủng ngoài sức tưởng tượng.
Bây giờ là tháng 5-1972, mùa hè đỏ lửa, Cộng sản Hà Nội và Hoàng Kim Loan đang sửa soạn diễn lại màn bi kịch Mậu Thân 1968, tổng nổi dậy và tắm máu dân Huế một lần nữa. Nhưng Hoàng kim Loan không ngờ lần này, hắn gặp một một đối thủ dù tuổi đời chỉ mới 26, thua hắn 30 năm, vào nghề sau hắn 18 năm, nhưng thừa khả năng, lòng can đảm, ý chí sắt đá của một Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và là nhân viên công lực của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia Miền Nam Việt Nam. Viên Sĩ Quan trẻ tuổi này bẻ gãy kế hoạch của Hà Nội và Hoàng Kim Loan. Bắt giữ gần 1500 cơ sở nội tuyến mà hắn, Cục Tình Báo Chiến Lược, và Tổng Cục 2 Quân Báo Cộng Sản, của ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên, và của Tỉnh, Thị Ủy Thừa Thiên-Huế, đã bỏ ra gần 20 năm gây dựng tại Thừa Thiên-Huế. Và chính hắn, Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan cũng phải đưa tay chịu trói.
Viên Sĩ quan đó là tôi, Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế.
Công bằng mà nói, Hoàng Kim Loan là một trong những điệp viên suất sắc của Cộng Sản, hoạt động trong lòng địch gần 20 năm. Trong 15 năm đầu, không một cơ quan tình báo nào của Chính phủ VNCH phát giác được hắn. Khi bị tôi còng tay vào tháng 5/1972, hắn 56 tuổi, cao khoảng 1m60, nặng khoảng 58kg, da trắng, mái tóc bềnh bồng, bạc hoa râm, mang kính trắng. Hắn có dáng dấp của một học giả, một nhà thơ, hay giáo sư văn chương. Bất kỳ ai, ngay cả nhân viên công lực, tình báo, không thể ngờ hắn là một cán bộ Cộng Sản cao cấp, một điệp viên Cộng sản. Hắn hoạt động, tổ chức cơ sở dưới dạng đơn tuyến, ngăn cách và rất thận trọng, bảo mật tối đa. Sống bất hợp pháp trong thành phố Huế gần 20 năm, thay đổi chỗ ở đến độ các toán theo dõi hắn mà tôi phái đi phải chóng mặt. Có một chỉ dấu nào hắn hơi nghi là lập tức hắn đổi chỗ ở. Nhưng đó cũng là yếu điểm, chính hắn đã tự tố cáo các cơ sở nằm vùng của hắn cho tôi. Thường thì hắn chọn các cơ sở của hắn có thế lực, có uy tin và các cơ sở có chức vụ trong chính quyền, các cơ sở tôn giáo như các chùa để trú ngụ, hầu tránh mọi nghi ngờ phát giác. Những nơi hắn đã ở điển hình như:
Nhà của Nguyễn Hữu Đính, cơ sở nội thành ở đường Nguyễn Huệ, cạnh Toà Đại Biểu. Nguyễn Hữu Đính là anh ruột của thầy Nguyễn hữu Thứ, giáo sư trường Quốc học và là Chánh Án toà Sơ thẩm Huế. Nguyễn hữu Đính có con trai Nguyễn Hữu Châu Phan, cơ sở nội thành, sinh viên tranh đấu.
Nhà của Tổng Thư Ký Viện Đại Học Huế.( niên khoá 1967-1968)
Nhà của Nguyễn Đóa, Giám thị Trường Quốc Học
Nhà của Truởng Ty Cảnh Sát thành phố Huế, Nguyễn văn Cán, thường gọi là Quận Cán, ở đường Triệu Ẩu gần ngã tư bùng binh chợ An Cựu. -Nhà cuả Tôn thất Dương Tiềm ở đường Hoà Bình quận Thành Nội (quận I)
Chùa Tường Vân phiá trên dốc Nam Giao, sau đồi Quảng Tế.
Chùa Trà Am, nằm về phía tây núi Ngự Bình cách núi Ngự khoảng 3Km.?..Và nhiều, nhiều nữa...
Mỗi lần di chuyển trong thành phố hắn rất khôn ngoan, lựa những giờ 12 giờ trưa hoặc 6 giờ chiều là những giờ cao điểm lưu thông, công chức bãi sở, học sinh, sinh viên tan học, nhân viên công lực đổi phiên, lơ là kiểm soát. Một đôi khi hắn ngụy trang đi với một cặp vợ chồng cơ sở của hắn, dắt con dại đi theo. Hắn đóng vai ông nội hoặc ông ngoại của đứa bé, qua mặt nhân viên công lực trong thành phố tỉnh bơ và dễ dàng.
Hắn đâu ngờ hành tung của hắn đã bị chúng tôi phát gíác và nhận diện từ tháng 11-1966, sau vụ hắn và Thích Trí Quang dấy loạn taị miền Trung và Thừa Thiên-Huế.
Sau một thời gian phối kiễm với một số cơ sở nội tuyến của chúng tôi, vào tháng 5-1967, tôi quyết định cho mở hồ sơ, và mở chiến dịch xâm nhập vào tổ chức của Hoàng Kim Loan.
Thông thường thì một dự án (project) xâm nhập phải xét qua những chính điểm sau:
Mục tiêu xâm nhập
Thời gian
Ước tính ngân khoản
Nhân sự: tuyển chọn nhân viên và cán bộ điều khiển
Phương tiện: Nhà an toàn, xe cộ để theo dõi mục tiêu, phương tiện kỹ thuật.
Tôi đặt tên cho chiến dịch nầy là: 'San hô đỏ' vì thằng này hắn lặn sâu quá, giống như san hô nằm dưới đáy biển. Ngân khoản, phương tiện và máy móc do Cố vấn Mỹ cung cấp. Tôi tuyển chọn một số nhân viên thượng đẳng cuả ban xâm nhập thuộc phòng CSĐB tung vào chiến dịch.
Trong suốt thời gian 5 năm, từ 5-1967 đến 5-1972, nhờ xâm nhập theo dõi Hoàng Kim Loan và đám cơ sở nội thành của hắn, mà lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế, đã ngăn chận đuợc một số hoạt động phá hoại của bọn chúng trong thành phố Huế, đã chặn đứng được những cuộc âm mưu khuấy động chính trị do Hoàng Kim Loan núp phía sau thế lực tôn giáo và đám Sinh Viên Học Sinh nội thành, do hắn điều khiển. Chúng tôi đã phát hiện được nhiều cơ sở của hắn, biết rõ từng địa điểm hội họp, và những nơi Hoàng Kim Loan trú ngụ. Trong khoảng thời gian này, nếu tôi muốn bắt Hoàng Kim Loan thì thật quá dễ dàng, nhưng nguyên tắc xâm nhập là lún sâu và trèo cao, dại gì ăn non. Vào ngày 5-5-1972, Huế bây giờ đang trong cơ "thập tử nhất sinh", mười chết một sống, giống như con bệnh sắp đến hồi kết thúc, thần chết lảng vảng chung quanh. Huế còn thở được bao lâu? Huế bây giờ giặc ngoài loạn trong. Giặc ngoài đã có các đại đơn vị tinh nhuệ của Quân Lực VNCH chận đánh, nhưng loạn trong là trách nhiệm và bổn phận của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế.
2 giờ 40 chiều ngày 5-5-1972, Huế vừa nhận thêm đợt pháo hỏa tiễn 122 ly của Việt Cộng gởi về từ vùng núi phiá Tây thành phố, đây là đợt pháo thứ tư trong ngày. Cứ sau mỗi đợt pháo, dân chúng lại hốt hoảng, rời bỏ Huế chạy về hướng Đà Nẵng. Nếu Việt Cộng thực hiện cuộc Tổng nổi dậy trong thời gian này thì thật là một đại họa cho đồng bào Huế.
Trong hoàn cảnh này, muốn chận đứng kế hoạch Tổng nổi dậy của Việt Cộng là phải ra tay truớc, thật nhanh và thật mạnh. Bắt tên cầm đầu Trung Tá VC Hoàng Kim Loan, đám cơ sở nội thành của hắn, và đám cơ sở của ban An ninh Khu Ủy Trị Thiên, Huế mà chúng tôi đã phát hiện và thiết lập danh sách từ 4 năm nay, con số đã lên gần 1500.
Đám cơ sở Việt Cộng nầy phải được nhanh chóng bắt giữ, cô lập, và vô hiệu hoá bọn chúng ngay. Cũng giống như cua bị bẻ gãy càng lớn, chân nhỏ, thì bò được đi đâu, có như vậy mới chận đứng và đập tan mưu toan Tổng nổi dậy tại Huế của bọn Việt Cộng.
Tôi quyết định mở cuộc hành quân trên khắp 10 quận nông thôn của tỉnh Thừa Thiên, và 3 quận trong thành Phố Huế, đồng loạt truy bắt bọn này. Tôi bàn với Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt, Ân cũng đồng ý.
Tôi nói Ân mời Đại Úy Trương văn Vinh, Chỉ huy Phó, Cố vấn CSĐB, Thiếu Tá Cố Vấn chương trình Phụng Hoàng, Cố vấn Đại Đội CSDC, cố vấn trưởng BCH, và Đại Úy Trần văn Trinh, Trung tâm trưởng Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực một giờ sau họp khẩn cấp tại văn phòng tôi.
5 giờ 25 chiều ngày 5-5-1972, bốn Cố vấn Mỹ đến văn phòng tôi, người nào cũng nón sắt, áo giáp, súng M18 cầm tay nét mặt căng thẳng, viên Thiếu tá Cố vấn chương trình Phụng Hoàng hỏi ngay:
- Sao rồi Đại Úy, tình hình trầm trọng lắm không?
Tôi mời mọi người ngồi vào bàn họp chậm rải trả lời:
- Đúng, tình hình an ninh mỗi ngày mỗi tệ hơn. Như chúng ta đã biết, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã đến Huế (ngày 2-5-1972) thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân Đoàn I, chỉ huy mặt trận Trị Thiên. Mặt trận phía Bắc Thừa Thiên- Huế, các đại đơn vị của quân lực VNCH, đang thiết lập tuyến phòng thủ Huế bên này bờ sông Mỹ Chánh. Liên Đoàn Biệt Động Quân, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn Nhảy Dù đang chận đánh các Sư Đoàn của Việt Cộng đang trên trục tiến quân vào Huế. Mặt trận phía Tây thành phố Huế, Sư Đoàn I BB đang đụng nặng với Sư Đoàn 324B và các trung đoàn 4,5,6, cuả Quân khu Trị Thiên, nói chung tình hình vẫn chưa sáng sủa. Điều quan trọng nhất mà giờ nà tôi mời quí vị họp khẩn cấp là tình hình an ninh tại thành phố Huế.
Như quí vị đã được tôi thông báo nhiều ngày truớc đây, nếu lực lượng quân sự của Việt Cộng tiến sát gần thành phố Huế, thì ngay lập tức bọn Việt Cộng sẽ phát động cuộc tổng nổi dậy tại thành phố, cướp chính quyền, và thành lập chính quyền Cách Mạng của bọn chúng như đã xảy ra hồi Tết Mậu Thân 1968. Hậu quả sẽ là một cuộc tắm máu lần thứ hai, mà lần này có lẽ còn tàn bạo hơn, khốc liệt hơn Mậu thân 1968. Vì vậy tôi quyết định ra tay trước khi quá trễ. Lực lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế sẽ mở một cuộc hành quân đại quy mô trong 10 quận nông thôn, trải dài từ bắc Thừa Thiên đến nam Thừa Thiên và 3 quận trong thành phố Huế, truy bắt tất cả hạ tầng cơ sở Việt Cộng, và các cán bộ Cộng Sản nằm vùng trong các cơ quan của chính quyền, học sinh, sinh viên, các thành phần công tác với địch, nằm vùng trong Quân đội, đảng phái, trong các giới thương gia, tiểu thương v.v...
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 6 Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế)
Tất cả những người này, chúng tôi đã có hồ sơ từ lâu, nhưng vì một số lớn nằm trong các tổ chức nội thành của Việt Cộng mà Cảnh Sát Đặc Biệt đã mở những Chiến dịch xâm nhập, nên chưa đến lúc phải phá vỡ. Nhưng nay vì tình hình khẩn trương, để chận đứng cuộc Tổng nổi dậy của bọn chúng, tôi quyết định giữ lại một số chiến dịch xâm nhập lâu dài, số còn lại phá vỡ và bắt giữ toàn bộ. Số lượng nằm trong danh sách khoảng 1500 cơ sở, và sẽ phải di chuyển họ rời khỏi Huế ngay. Chúng ta không còn nhiều thì giờ, nếu tình hình quân sự diễn biến nhanh và bất lợi cho quân lực VNCH, thì lập tức bọn Cán bộ chính trị Việt Cộng sẽ phát động cuộc Tổng nổi dậy. Vì thế tôi nghĩ cuộc hành quân của chúng ta chậm nhất là phải khai diễn vào 6 giờ sáng ngày mai 6-6-1972.
Nếu theo kiểu nói giang hồ thì lần nầy tôi đem hết tài sản của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế ra chơi canh bạc xì phé với tên Trung Tá Việt Công Hoàng Kim Loan và đám giặc cỏ của hắn và chắc chắn tôi sẽ làm cho hắn cháy túi. Tôi sẽ xử dụng 2/3 lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế vào cuộc hành quân này, gồm có:
- Cảnh Sát Đặc Biệt - Cảnh sát sắc phục.
*(BCH /CSQG Thừa Thiên-Huế là đơn vị CSQG lớn nhất toàn quốc. Tổng số khoảng 5300 nhân viên CSQG, chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ của 10 quận nông thôn, gồm 73 xã thuộc tỉnh Thừa Thiên, và 3 quận 1,2,3 thị xã Huế)
Chúng ta sẽ có cuộc họp toàn bộ các Chỉ Huy Trưởng, và phụ tá CSĐB quận, các cấp chỉ huy cuả BCH vào khoảng 9 giờ tối ngày hôm nay, vì vậy tôi yêu cầu văn phòng Cố Vấn Đặc Biệt, hoặc Phụng Hoàng giúp phương tiện trực thăng chở các Chỉ Huy Trưởng và phụ tá Đặc Biệt quận về BCH tỉnh trước 9 giờ tối nay, và hoàn trả họ lại đơn vị sau khi họp xong.
Thiếu tá Cố Vấn Phụng Hoàng cho biết:
- Đại Úy Thành, tôi có thể giúp, hiện tôi đang có trực thăng trực cho tôi và Đại tá Cố Vấn Tỉnh, Ông có thể xử dụng. Tôi có một yêu cầu: Vào ngày hôm qua tất cả những thành phần không quan trọng thuộc cơ quan Cố Vấn Tỉnh (Cord) đã di tản vào Đà Nẵng, chỉ còn một số ít nhân viên ở lại Huế. Tôi muốn Đại Úy cho phép tôi và một toán nhỏ về đóng tại Trung Tâm HQCL để tiện liên lạc.
- Không có gì trở ngại. Ông liên lạc với Đại Úy Trinh, Trung Tâm trưởng TTHQCL. Trinh sẽ sắp xếp cho ông.
Cố vấn CSĐB hỏi tôi:
- Đại Úy, phần trước ông cho biết có thể số người bị tạm giữ gần 1500, ông định di chuyển họ ra khỏi Huế. Vậy đưa họ đi đâu và bằng phương tiện nào?
- Bình thường những tù nhân đã lãnh án, đều được di chuyển ra Côn Sơn, và phương tiện di chuyển đều do Bộ Tư Lệnh CSQG tại SàiGòn cung cấp. Tuy nhiên lần này vì tình hình đặc biệt, ngoài Bộ Tư Lệnh CSQG Sàigòn, tôi sẽ trình bày với Đại Tá Tỉnh Trưởng và nhờ ông can thiệp với Bộ Tư Lệnh Tiền phương Quân Đoàn I, cung cấp phương tiện chuyển vận và địa điểm là Côn Sơn. Họ sẽ bị giữ tại đây trong một thời gian ngắn, khi tình hình Huế ổn định, tôi sẽ đem họ về và tuần tự thanh lọc.
Ngoài số người này, hiện tại Trung Tâm Cải Huấn có khoảng 400 tù Cộng Sản. Số này đáng lý phải di chuyển hơn một tuần trước đây, nhưng vì tình hình chiến sự họ vẫn còn tại Trung tâm Cải Huấn. Số 400 tù Cộng Sản nầy phải di chuyển ngay, nếu họ nổi loạn phá nhà lao, hoặc lực lượng Đặc Công Việt Cộng tấn công trung tâm Cải Huấn giải thoát đám này ra ngoài thì hậu quả thật khó lường. Điểm cuối cùng, tôi có ý định đặt tên cho cuộc hành quân này là "Chiến Dịch Bình Minh", với mong mỏi sau cuộc hành quân phá vỡ âm mưu Tổng nổi dậy cuả bọn Việt Cộng. Một Bình Minh an lành sẽ đến với đồng bào Huế.
Mọi người đều thuận ý lấy tên như vậy. Tôi nói Đại Úy Trần văn Trinh cho quay ronéo 1500 lệnh tạm giữ, tôi sẽ ký khống chỉ và giao cho các Chỉ Huy Trưởng quận trong phiên họp tối nay. Riêng Đại Úy Ân liên lạc ngay với các Chỉ Huy Trưởng Quận và phụ tá CSĐB, chuẩn bị hồ sơ hạ tầng cơ sở địch trong phạm vi trách nhiệm, mang theo khi trực thăng đón lên họp tại BCH Tỉnh tối nay.
Phiên họp chấm dứt, và hẹn gặp lại 9 giờ tối.
CHIẾN DỊCH BÌNH MINH
9 giờ 15 tối ngày 5-5-1972, tại phòng hội BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, thành phần tham dự gồm có:
- Chỉ huy Trưởng CSQG/ Thừa Thiên-Huế, kiêm Tổng thư ký điều hành Ủy Ban Phụng Hoàng: Đại Úy Liên Thành
- CHP/ CSQG/Thừa Thiên-Huế: Đại Úy Truơng Văn Vinh
- Trưởng Phòng CSĐB: Đại Úy Trương Công Ân
- Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên Nga : Nữ Đại Úy...?
- Trưởng Phòng Cảnh Sát Tư Pháp: Đại Úy Nguyễn văn Ngôn
- Trung Tâm Trưởng TTHQ/Cảnh Lực, kiêm phụ tá Tổng thư ký Ủy Ban Phụng Hoàng Tỉnh: Đại Úy Trần văn Trinh
- Trưởng phòng Hành Chánh, tiếp liệu: Đại Úy Trần văn Quế
- Trưởng Ban Nhân Viên: Trung Úy Phạm Thìn
- Trưởng ban An Ninh Nội Bộ: Trung Úy Lê khắc Kỷ
- Đại Đội trưởng Đại Đội CSDC: Đại Úy Trần Văn Tý
- Trưởng ban Tuần tiễu Hỗn hợp: Đại Úy Đoàn Đích
- Biệt Đội Trưởng BĐ Hình Cảnh:Trung Uý Văn Hữu Tuất -Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Giang Cảnh: Đại Úy ... ??.
- Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Thẩm Vấn: Trung Úy Nguyễn Thế Thông -Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Tạm giam: Trung Úy.......
-Trưởng Ban Hoạt Vụ: Thiếu Úy Dương Văn Sỏ
- CHT Quận 1 và phụ tá CSĐB: Đại Úy Lê Khắc Vấn
- CHT Quận 2 và phụ tá CSĐB: Đại Úy Ngô Trọng Thành
- CHT Quận 3 và Phụ tá CSĐB: Trung Úy Phạm Cần
- CHT Quận Phong Điền và PT/CSĐB: Đại Úy Trần Thế Hiển
- CHT Quận Quảng Điền và PT/ CSĐB: Đại Úy Trần Đức Tuất - CHT Quận Hương Điền và Phụ Tá CSĐB : Đaị Úy. . ??.
- CHT Quận Hương Trà và PT/ CSĐB: Đại Úy Lê Văn Phi
- CHT Quận Nam Hoà và PT/ CSĐ: Đại Úy Dương Phước Tấn
- CHT Quận Hương Thủy và PT/ CSĐ: Đại Úy Phạm Bá Nhạc -CHT Quận Phú Vang và PT CSĐB Đại Úy Nguyễn văn Hướng
- CHT Quận Phú Thứ và PT/ CSĐB: Đại Uy Lê văn Thiện - CHT Quận Vinh Lộc và PT/ CSĐB: Đại Úy Tôn Thất Trang
- CHT Quận Phú Lộc và PT/ CSĐB: Đại Úy Nguyễn văn Toàn - Đại Úy Dụng đại diện Ty An Ninh Quân Đội Thừa Thiên tại Ủy Ban Phụng Hoàng Tỉnh.
- Trung Úy Lợi đại diện Phòng 2 và Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu Thừa Thiên tại Ủy Ban Phụng Hoàng Tỉnh.
Về phiá phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ gồm có:
- thiếu tá Cố vấn chương trình Phụng Hoàng Tỉnh
-Đại diện văn phòng cố vấn CSĐB
-Cố vấn Đại đội CSDC
-Cố Vấn Trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế.
Mở đầu buổi họp là phần thuyết trình diễn biến tình hình chiến sự của hai mặt trận phía Bắc và phía Tây thành phố Huế, do Đại Úy Trinh, Trung Tâm trưởng TTHQ/Cảnh Lực trình bày. Kế tiếp, Đại Úy Truơng Công Ân Trưởng phòng CSĐB trình bày kế hoạch và khả năng của địch trong âm mưu phát động cuộc Tổng nổi dậy tại thành phố Huế trong những ngày sắp đến.
Phần tôi, tôi thông báo cho mọi đơn vị trưởng biết quyết định cuả Bộ Chỉ Huy tỉnh trong phiên họp hồi chiều là mở cuộc hành quân rộng lớn bắt giữ tất cả các thành phần nòng cốt hạ tầng cơ sở địch trong toàn tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, để chận đứng cuộc Tổng Nổi Dậy của bọn chúng. Ngoài ra thành phố phải được kiểm soát thật chặt chẽ đề phòng các toán tiền phương đặc công Việt Cộng xâm nhập, bất thần tấn công các cơ sở quan trọng của chính quyền như: Trung Tâm Cải huấn (nhà lao Thừa Phủ), Toà Hành Chánh Tỉnh, đài phát thanh, đài truyền hình, Ty ngân khố, Ty bưu điện, các trụ sở phát tuyến hệ thống phát thanh ra miền Bắc của các đài Tiếng Nói Tự Do, Gươm Thiêng Ái Quốc, và nhất là đặc công thủy có thể đặt chất nổ phá sập 3 cây cầu quan trọng đó là cầu Bạch Hổ, cầu Mới và cầu Tràng Tiền. Vì thế trách nhiệm của chúng ta, lực luợng CSQG Thừa Thiên- Huế trong giờ phút này hết sức nặng nề, chúng ta phải đối phó hai mặt:
* An ninh trong thành phố * Ngăn chận cuộc Tổng nổi dậy.
Vì vậy tôi có ý định xử dụng khoảng 3000 nhân viên vào hai công tác này và được phân chia như sau:
- Đại Đội 102 Cảnh Sát Dã Chiến có 10 trung đội, quân số vào khoảng 500 người (không giống như cấp số của quân đội)
- Trung đội tăng cường cho Cảnh Sát sắc phục taị các nút chận cửa ngõ ra vào thành phố như: An Hòa, Bao Vinh, Đập Đá, Chợ Cống, An Cựu, Nam Giao, Cầu Lòn.
- Trung đội tăng cường canh giữ các yếu điểm quan trọng trong thành phố.
- Trung đội tăng cường cho phòng CSĐB yểm trợ cho cuộc hành quân.
- Các trung đội còn lại là lực lượng trừ bị sẵn sàng ứng phó mọi biến động xảy ra trong thành phố và nhất là trấn áp các cuộc biểu tình bạo động. Đơn vị 102 CSDC đặt dưới quyền chỉ huy và điều động của Đại Úy Trần văn Tý, Đại đội trưởng, và đại đội phó Đại Úy Bác Sĩ Chung Châu Hồ ( Bác sĩ Hồ xuất thân Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, ra trường phục vụ tại BCH/CSQG Thừa Thiên. Đại đội phó 102 CSDC, anh ta học y khoa tại Đại Học Y Khoa Huế, rất hiếu học, vì thế tôi giúp anh ta có thì giờ học hành, mặc dầu đã tốt nghiệp Bác Sĩ, nhưng anh ta vẫn làm đại đội phó 102 CSDC). Tôi lưu ý Đại Úy Trần văn Tý, với tình hình hiện tại nếu có biểu tình bạo động xảy ra, thì đó là cuộc biểu tình của đám cơ sở nội thành Việt Cộng, vì thế phải đàn áp thật mạnh và dập tắt tức thời, những ai chống lại bằng vũ khí, cho lệnh nổ súng bắn trả ngay, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lệnh này.
- Đơn vị Biệt Đội Hình Cảnh. Trung Úy Văn Hữu Tuất, Biệt Đội Trưởng
- Đơn vị Tuần tra Hỗn Hợp. Đại Úy Đoàn Đích chỉ huy.
Trong 2 ngày nay đã có những vụ cướp giựt trên đường phố, và trộm cắp tài sản của nhiều gia đình đã chạy giặc vào Đà Nẵng. Để bảo vệ an ninh và tài sản của đồng bào, hai đơn vị trên phải phối hợp chặt chẽ, truy bắt hết bọn bất lương này, giao cho phòng Tư Pháp, đợi tình hình ổn định, lập thủ tục truy tố bọn chúng ra toà.
- Phòng Cảnh Sát Đặc Biệt . Nỗ lực chính của Chiến dịch Bình Minh. Xử dụng 1200 nhân viên CSĐB, tăng cường 100 Cảnh Sát Dã Chiến yểm trợ, và 400 nhân viên Cảnh Sát Sắc Phục yểm trợ lục soát và lập biên bản theo đúng thủ tục luật pháp quy định. Lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Trương Công Ân Trưởng Phòng cảnh Sát Đặc Biệt.
Tôi lưu ý với các cấp chỉ huy hiện diện trong phiên họp:
Tình hình Huế mỗi giờ mỗi trầm trọng, cơ quan Tỉnh Ủy và Thị Ủy Việt Cộng sẽ phát động cuộc Tổng nổi dậy cướp chính quyền tại Huế bất cứ giờ nào, Kể từ ngày mai 6-5-1972, vì vậy chúng ta cần phải ra tay trước thật nhanh, mạnh mẽ và quyết liệt. Bất kỳ ai, dù họ là cấp nào, giới chức nào, tôn giáo hay phe phái nào, đã nằm trong danh sách đều phải bị bắt giữ. Tất cả phải được giải giao về trại tạm giam và trung tâm thẩm vấn. Trung Úy Hồng trại trưởng Tạm Giam và Trung Úy Nguyễn Thế Thông, Trung tâm Trưởng Trung Tâm Thẩm vấn phối hợp lập hồ sơ thật nhanh, chờ phương tiện di chuyển họ ra Côn Sơn.
Tôi cũng tiên liệu rằng trong thời gian cuộc hành quân đang tiếp diễn, hoặc sau khi chấm dứt chúng ta sẽ gặp rất nhiều chống đối, bôi nhọ, vu khống của những phe phái đối lập, Tôn Giáo, và ngay cả những cơ sở Việt Cộng nằm trong cơ quan lập pháp của Chính Phủ VNCH, v.v. . . Mọi hậu quả, với tư cách là người chỉ huy, tôi nhận lãnh trách nhiệm. Vì vậy tôi đã ký khống chỉ gần 2000 lệnh bắt giữ, chốc nữa đây Đại Úy Ân trưởng phòng CSĐB sẽ giao cho anh em chỉ huy trưởng quận. Đây là lệnh của tôi, của Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên- Huế bằng bút ký lệnh, bằng giấy trắng mực đen, chứ không bằng khẩu lệnh, anh em yên tâm thi hành. Tôi chỉ xin anh em một điều duy nhất:
- Cũng như tôi, hãy đem danh dự, tuổi trẻ, và tâm hồn trong sáng của một sĩ quan Quân Lực VNCH, của một sĩ quan Cảnh Sát Quốc Gia, thi hành nghiêm chỉnh lệnh thượng cấp giao phó. Đừng đem tư thù, hoặc quyền lợi nhỏ nhen cá nhân mà vu khống, chụp mũ, bắt người vô tội. Nhớ kỹ: "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại". Gieo oan ức cho kẻ khác, cho dù anh em thuộc tôn giáo nào cũng phải tin rằng, nếu đời này ta không trả món món nợ oan nghiệt đó, thì đời sau con cháu chúng ta sẽ phải trả nặng gấp bội phần. Tôi nhắc lại:
- Bất kỳ cấp nào vi phạm những điều tôi vừa nêu trên, ngay lập tức sẽ bị câu lưu và truy tố ra toà.
- Ngày N cuả chiến dịch Binh Minh là ngày mai: 6-5-1972
- Giờ G là 6 giờ sáng. Một lực lượng Đặc nhiệm được thành lập để truy bắt Trung Tá Việt Cọng Hoàng Kim Loan gồm có:
20 nhân viên CSĐB
30 nhân viên CSDC yểm trợ tôi trực tiếp chỉ huy, Đại Úy Ân trưởng phòng CSĐB, Thiếu Úy Dương văn Sỏ trưởng ban Hoạt Vụ, phụ tá.
Giờ xuất phát cuả lực lượng đặc nhiệm là G -2 tức 4 giờ sáng ngày 6-5-1972. Sở dĩ tôi chọn 4 giờ sáng, 2 giờ trước chiến dịch Bình Minh khai diễn là để khỏi bị động, tên nầy có thể chạy thoát.
Phiên họp hành quân chấm dứt vào lúc 11 giờ 20 tối. Các Chỉ Huy truởng và phụ tá Đặc biệt lần luợt lên trực thăng trở về nhiệm sở.
Các đơn vị trưởng khác không cần điều động đơn vị đều đựơc giữ laị BCH, để khỏi bị tiết lộ tin tức hành quân. Tất cả đều dùng cơm khuya tại Câu lạc Bộ của BCH.
KẾT QUẢ:
- 4 giờ 54 phút sáng ngày 6-5-1972, Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan, Thành Ủy viên Thành Ủy Huế, bị Lực Lượng Đặc Nhiệm BCH/ CSQG Thừa Thiên-Huế bắt sống tại Vỹ Dạ.
Diễn tiến hành động:
Từ nhiều ngày nay, các toán theo dõi đã bám sát mục tiêu Hoàng Kim Loan, và gần nhất ghi nhận:
- Ngày 2-5-1972 hắn di chuyển đến nhà tên Lê Vân, cở sở nội thành, nhà nằm trên khu thượng thành, gần cửa Thượng Tứ.
- Ngày 3-5-1972 di chuyển ra ở khách sạn Hương Bình ngay tại đường Trần Hưng Đaọ đối diện với vườn hoa Nguyễn Hoàng, đóng vai làm bồi phòng khách sạn. Khách sạn Hương Bình là cơ sở kinh tài của cơ quan Thành Ủy Huế.
- Ngày 4-5-1972, di chuyển đến tiệm ảnh Lê Quang cũng ở đường Trần Hưng Đaọ, tại đây còn có một hầm bí mật trong nhà.
- Sáng ngày 5-5-1972, Hoàng Kim Loan di chuyển đến nhà Lê Phước Á, giaó sư trường Trung Học Nguyễn Du, Lê phước Á có vợ là Huyền Tôn Nữ Kim Cương. Cả hai vợ chồng đều là cơ sở Trí Vận của Hoàng Kim Loan. Đây là địa điểm cuối cùng, hắn chọn nơi đây làm BCH điều khiển cuộc Tổng Nổi Dậy. Hắn là người Cộng Sản nên không tin vào tướng số, phong thủy, hắn đã chọn đúng tử địa chui vào, và gặp ngay khắc tinh của hắn là tôi, có lẽ số hắn đã tận.
Đúng 4 giờ sáng ngày 6-5-1972, Lực lượng Đặc Nhiệm xuất phát. Trước khi rời BCH tôi dặn Đại Úy Vinh là chỉ huy phó và Đại Úy Trần văn Trinh, Trung Tâm Trưỏng Trung Tâm Hành quân Cảnh Lực:
- Tôi và Ân đi đón khách quí, anh trực máy với tôi nhưng im lặng vô tuyến, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Chỉ 2 giờ sau chúng tôi trở về.
Đại Uý Trinh nói với giọng hơi lo lắng:
- Hai ông cẩn thận, lực lượng trừ bị của Đại Úy Tý đã sẵn sàng, có chuyện tôi gọi Tý điều động tiếp ứng ngay.
Ân lái, tôi ngồi bên cạnh, đoàn xe lặng lẽ rời khỏi BCH, trời vẫn còn tối. Khi đoàn xe đến Đập Đá tôi chợt nguớc nhìn phía Phu văn Lâu, bến Thương Bạc khu Hoàng Thành. Tất cả đều im lìm, mờ nhạt. Huế trong những ngày thanh bình giờ này đã có những chuyến đò dọc, xuôi nguợc trên giòng sông Hương, những chuyến đò chở đầy cát, sạn, từ huớng chùa Thiên Mụ, Nguyệt Biều, Luơng Quán xuôi về Bao Vinh, làng Sình, hoặc những chuyến đò đầy những thùng nước được lấy từ Điện Hòn Chén, chở về bán cho dân thành phố. Vào mùa hè giòng sông Huơng về phía tây thường bị nước mặn Thuận An tràn vào. Bây giờ Huế đang trong những ngày lửa đạn, chinh chiến, giờ này không một bóng đò xuôi ngược, giòng sông không một gợn sóng, lạnh lùng, âm thầm lặng lẽ trôi, giống như đời người dân Huế suốt đời an phận.
Tôi nhìn phía bên kia Đập Đá là thôn Hô Lâu, Thọ Lộc, nơi có Phủ của Ngài Đông Cung Anh Duệ Hoàng Thái Tử Cảnh, vị con trưởng của Vua Gia Long. Thuở nhỏ, anh em chúng tôi thường theo cha về Phủ trong những ngày kỵ giỗ, từ sáng tinh mơ đã có những chiếc đò nhỏ lưới cá trên dòng sông Hô Lâu, trước mặt Phủ, với giọng hò vang vọng giữa dòng sông mờ ảo: "Gió đưa cành trúc là đà. Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xuơng" nghe buồn lạ lùng. Nhưng giờ này, đi ngang qua đây, không còn nghe tiếng chuông Thiên Mụ, mà chỉ nghe tiếng đạn pháo từ Thiên Mụ vọng về, và ánh hoả châu chập chùng trên dòng sông Hô Lâu. Huế đang trong cơn binh lửa. Đoàn xe đi qua Đập Đá, Ân có vẽ trầm tư. Tôi hỏi Ân:
- Sao Ân, hồi hộp không?
- Có một tí Đại Úy.
- Không sao đâu, đừng lo. Mình sẽ tóm được hắn.
Câu nói, vừa an ủi Ân mà cũng vừa trấn an cho mình. Ân là một Sĩ Quan Cảnh Sát thứ thiệt, không phải là thứ đồ giả như tôi, biệt phái từ quân đội sang. Ân rời bỏ sân trường Đại Học Huế, chọn nghành CSQG. Xuất thân Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, Biên tập viên khoá I. Là một sĩ quan trẻ, trầm tĩnh và mưu lược, dư khả năng chuyên môn và thừa sức để chỉ huy một lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt đông đảo gần 2000 nhân viên.
- 4 giờ 20 phút sáng ngày 6-5-1972, chỉ còn cách mục tiêu khoảng 300 mét, Ân giảm tốc độ, tắt đèn và đậu xe sát lề đường, các xe khác tuần tự theo sau tấp vào. Lực Lượng Đặc Nhiệm đổ quân, sẵn sàng xuất phát bao vây căn nhà.
Thôn Vỹ Dạ vào sáng sớm mùa hè 72, sương mù bao phủ, ánh sáng của những ngọn đèn đường không đủ soi lối đi, tầm nhìn hạn chế. Tôi nói Ân cho lệnh đơn vị di chuyển sát vào nhau để khỏi ngộ nhận, chúng tôi di chuyển thật nhanh đến mục tiêu.
- 4 giờ 30 phút sáng, chúng tôi đã đến cổng chính của ngôi nhà.
Theo kế hoạch: Toán 1 gồm 30 CSDC, 10 nhân viên CSĐB, lực lượng bao vây căn nhà, chận cửa trước và bít cửa sau, Thiếu úy Dương văn Sỏ Trưởng ban Hoạt Vụ, và Thiếu úy Trung đội trưởng trung đôi CSDC chỉ huy. Toán 2, nỗ lực chính, do tôi và Đại úy Ân chỉ huy gồm có 10 CSDC, và 9 nhân viên CSĐB. Nhiệm vụ của toán 2 là xông thẳng vào nhà bằng cửa chính. Đây là một ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong khu vườn rộng mênh mông, với những tàn cây nhãn lồng và cây vú sữa lâu đời che khuất. Từ cổng vào nhà là con đường đất với hai hàng cây hoa ngâu chạy dọc theo lối đi, mùa này, sáng tinh mơ hoa ngâu tỏa huơng thơm phảng phất nhẹ nhàng, có một ánh đèn nhỏ le lói sau tàn cây.
Rất nhanh, và không gây một tiếng động nào, lực lượng CSDC và CSĐB của Thiếu úy Sỏ đã âm thầm vây kín căn nhà. Tôi nói rất nhỏ với Ân:
- Bây giờ đến phiên mình xông vào cửa chính. Anh chọn 2 CSDC thật mạnh, đạp cửa chính. Tôi chạy truớc. Anh và anh em phía sau. Có thể bị bọn chúng bắn ra. Nếu ai bị đạn cứ để toán sau tiếp cứu, mình phải thật nhanh không cho hắn một cơ hội nào đào thoát, hoặc tự sát.
Mọi người sẵn sàng, tôi hướng dẫn chạy trước. Đoạn đường từ cổng chính vào nhà khoảng 150 mét, chúng tôi chạy đến đích tưởng chừng như chỉ mất một giây đồng hồ. Đến cửa chính tôi vừa lách người sang một bên, cánh cửa đã bị 2 nhân viên CSDC đạp mở tung.
Mười nòng súng M16 chĩa vào 3 người đang ngồi nơi chiếc bàn nhỏ với ba tách trà. Vì sự việc xảy quá nhanh, họ không kịp phản ứng. Thần kinh tê liệt, nỗi sợ hãi đã làm cho họ tê cứng, cấm khẩu, ngồì yên bất động giống như những vị sư đang ngồi thiền.
Ba người đó là:
Trung tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan, Lê Phước Á, giáo sư trường Trung học Nguyễn Du, Lê quang Nguyện, Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên (Chính quyền VNCH)
Tôi nhận ra ngay người ngồi giữa là Hoàng Kim Loan, vì đã nhiều lần nhìn mặt hắn qua các bức ảnh mà các toán theo dõi đã chụp lén được. Tôi tiến ngay đến trước mặt hắn và dùng đúng ngôn ngữ cuả bọn Việt Cộng:
- Chào Trung Tá Hoàng Kim Loan, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, tôi Đại Úy Liên Thành Trưởng Ty Công An Thừa Thiên-Huế. Cuộc chơi của mình chấm dứt ở đây. Ông thua rồi! Trong phút chốc, hắn lấy lại bình tĩnh và trả lời tôi:
- Ông lầm rồi Đại Úy Liên Thành. "Kẻ thua cuộc chính là ông, là đám Ngụy quân, Ngụy quyền các ông. Chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ nữa đây, trong ngày hôm nay, quân Giải phóng và Quân Đôị Nhân Dân sẽ tiến vào thành phố. Nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế sẽ Tổng nổi dậy lật đổ chính quyền bù nhìn các anh, chính quyền Cách Mạng sẽ thành lập. Hắn còn buông câu thơ con cóc cuả ông Hồ: Mỹ thua, Mỹ chạy về Mỹ. Ngụy thua Ngụy chạy về đâu? Đại Úy Liên Thành, ông buông súng đầu hàng đi, Chính quyền Cách Mạng sẽ khoan hồng cho ông".
Hắn vừa dứt câu, tôi cảm thấy tức ngực và chóng mặt, nổi giận đến tột độ. Nếu trong đời, cho tôi đuợc phép một lần, chỉ một lần thôi, tôi sẽ chọn lúc này bóp nguyên băng M18 đang cầm trên tay. Nhưng rất nhanh, tôi chế ngự được, bình thản trả lời hắn:
- Trung Tá Loan, bây giờ đã gần 5 giờ sáng. Ông cũng đã thức dậy từ lâu, sao còn mơ ngủ, mộng du vậy. Lực lượng Giải Phóng và quân đội Nhân Dân của các ông chẳng bao giờ tiến được nửa bước vào vòng đai ngoài của thành phố Huế. Bởi vì mặt trận phía bắc thành phố, các đại đơn vị của các ông đang bị các Sư Đoàn thiện chiến Nhảy Dù, TQLC, BĐQ/ QLVNCH chận đánh tan nát bên kia bờ sông Mỹ Chánh. Mặt trận phía Tây thành phố Huế, Sư Đoàn 324B, các trung đoàn 4, 5, 6 của các ông đang bị thiệt hại năng nề và không nhích đựơc một bước khi phải giao tranh với một trong những sư đoàn thiện chiến nhất của quân lực VNCH, đó là Sư Đoàn I BB. Như vậy, ông còn gì để hy vọng lực lượng Giải Phóng, quân đội Nhân Dân sẽ vào thành phố Huế trong vài giờ nữa đây.
Nói về cuộc tổng nổi dậy sắp đến của ông và của đám nhân dân anh hùng Thừa Thiên - Huế, tôi cho ông biết sự thật ông lại càng thất vọng hơn nữa. Từ hơn 5 năm nay, hành tung của ông và đám cơ sở của ông đã bị lực luợng Công An Thưà Thiên- Huế cuả chúng tôi phát giác và theo dõi chặt chẽ. Mọi âm mưu, mọi hành động gây rối của ông, và đám cơ sở đó đã từng bị chúng tôi chận đứng. Bây giờ chỉ còn 30 phút nữa thôi, đúng 6 giờ sáng ngày hôm nay 6-5-1972, một cuộc hành quân rộng lớn khắp toàn tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã sẽ khai diễn để bắt giữ đám nhân dân anh hùng Thừa Thiên Huế của ông, đập tan cuộc Tổng nổi dậy. Các ông mang danh là lực lượng Giải Phóng, là quân đội Nhân Dân, sao lại đem hoả tiễn 130 ly, B40, Ak 47 chọn nhân dân làm mục tiêu để giải phóng, để chiến thắng cái mà ông gọi là Ngụy Quân, Ngụy Quyền, thật là hèn hạ.
Người dân Huế bây giờ hễ nghe đến quân Giải phóng, nghe đến Việt Cộng các ông là bỏ hết tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn bồng bế con ù té chạy, chạy vắt chân lên cổ, chạy bá thở ù tai, để khỏi gặp các ông. Họ đã có quá nhiều kinh nghiệm đau thương tang tóc trong mùa xuân năm Mậu Thân 1968. Các ông vào thành phố Huế là dân chết hàng loạt, họ chết oan chết ức, chết đứng, chết nằm, chết ngồi, chết trên bờ cây ngọn cỏ, chết trên đường lớn, đường nhỏ, chết trong hang cùng ngõ hẻm. Chính ông là thủ phạm giết hại hơn 5000 nạn nhân vô tội trong Tết Mậu Thân. Ông đã nhân danh Cách Mạng mở toà án Nhân Dân tại quận 1, 2, 3 trong thành phố Huế, xử bắn và chôn sống hàng ngàn người. Bản chất độc ác và thù hận của người Cộng Sản như ông thật quá lớn, ông đã gây oan nghiệt quá nhiều, sao không chiụ ngừng tay, bây giờ còn mưu toan tái diễn một Mậu Thân thứ 2.
Tôi xoay qua nói với tên Lê quang Nguyện:
- Ông Nghị viên, nếu tôi nhớ không lầm thì Đức Phật có dạy: "Buông dao xuống sẽ thành Phật", có đúng vậy không ông nghị viên? Sao Ông chưa chịu buông.
Hắn im lặng không trả lời. Lê Quang Nguyện là một tên Cộng Sản nằm vùng trong Phật Giáo Ấn Quang tại Huế đã từ bao nhiêu năm nay. Hắn nằm trong tổ Tôn giáo Vận của Hoàng Kim Loan. Điều oái oăm là hắn đắc cử chức Nghị Viên Hội Đồng tỉnh Thừa Thiên là do Phật Giáo Ấn Quang hổ trợ mạnh mẽ cho hắn trong kỳ bầu cử. Trở laị đấu lý với Hoàng Kim Loan:
- Bây giờ thì chắc ông đã tỉnh cơn mê . Ông chẳng còn gì để kêu gọi tôi buông súng đầu hàng, người thua trong cuộc chơi này chính là ông. Ông là gã lái buôn, buôn sinh mạng, và xương trắng máu đào cuả đồng bào vô tội, gã lái buôn đã kiệt vốn, ông còn gì nữa để mưu toan buôn bán lớn, ngừng tay đi.
Bây giờ tôi chứng minh cho ông thấy ai là người thua trong cuộc chơi này:
- Nhân danh luật pháp Quốc Gia Việt Nam Công Hoà, tôi Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, ra lệnh Đại Úy Trương Công Ân trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt BCH/CSQG Thừa Thiên Huế bắt:
-Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan
- Giáo Sư Lê Phưóc Á
- Lê Quang Nguyện, Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên .
Một nhân viên CSĐB rút còng số 8 định còng tay Hoàng Kim Loan nhưng tôi cản lại:
- Không cần thiết, cứ để ông ta ngồi thoải mái với xe Đại Uý Ân, có các anh ngồi cạnh là được rồi.
Thiếu úy Dương văn Sỏ nói nhỏ với tôi và Ân:
- Đã lục soát kỹ, tịch thu được một số tài liệu quan trọng.
- Anh nhớ lập biên bản soát nhà, đúng thủ tục, luật pháp, đưa chủ nhà ký vào để tránh rắc rối sau nầy. Tôi dặn Thiếu úy Sỏ:
Xoay qua Ân, tôi nói:
- Đấu lý với hắn đủ rồi, bây giờ mình rút. Nhớ để lại một toán nhỏ bám sát cơ sở cuả hắn đến họp sáng nay, hốt hết đem về Trung Tâm thẩm Vấn. Tên Hoàng Kim Loan anh đưa về nhà an toàn, lấy lời khai sơ khởi ngay. Hai tên kia giao cho anh Sỏ đem về giao cho Trung úy Nguyễn thế Thông, Trung tâm trưởng Trung tâm thẩm vấn. Tôi về BCH, hành quân Bình Minh sắp khai diễn, sắp xếp xong mọi việc tôi sẽ đến ngay nhà an toàn đổi phiên cho anh. Chúng tôi rời khỏi địa điểm vaò đúng 5 giờ 52 phút sáng ngày 6-5-1972, trả lại sự yên tĩnh cho ngôi nhà với ánh đèn le lói và một toán CSĐB phục kích bên trong. Về đến BCH đúng 6 giờ 10 phút sáng 6-5-1972, vừa thấy tôi xuất hiện tại ngưỡng cửa của TTHQ/ Cảnh Lực, mọi người đều túa ra vây quanh, Chỉ huy Phó Trương văn Vinh là người hỏi tôi đầu tiên:
- Sao rồi ông, được không?
Tôi làm ra bộ thất vọng, nhưng rồi nói lớn:
- Bắt được rồi, cá mập.
Mọi người cùng la to vang dội cả căn phòng. Tôi kể chi tiết cuộc đột kích và đấu lý với Hoàng Kim Loan, Phó Vinh nổi nóng:
- Sao ông không cho hắn một đạp.
Lần đầu tiên tôi thấy ông Phó nổi nóng, nên nói :
- Mình dân anh hùng mã thượng, đâu cần đạp người dưới ngựa.
Vinh cười, nụ cười hiền lành giống như ông thầy giáo, mà thầy giáo thiệt. Trước đây Vinh là giáo sư trường trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị, bỏ nghề dạy học vào lực lượng CSQG, xuất thân Học Viện Cảnh Sát, Biên tập viên khoá I, cùng khoá với Ân. Là một người luôn luôn nói đến nguyên tắc và luật pháp, đang học luật tại Đại học Luật Khoa Huế, vì thế mọi việc trong BCH tôi rất yên tâm giao hết cho Vinh điều hành, kiểm soát, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến Tư pháp, ngoại trừ phòng CSĐB. Đang nói chuyện với mọi người, thì Trinh trao cho tôi một ly café nóng, uống một tí café đã thấy tỉnh táo. Nhiều khi trong đời người, hạnh phúc không cần tìm kiếm đâu xa, mà hạnh phúc chỉ là ly càfe nhỏ mà đồng đội trao cho, là tiếng reo hò chiến thắng của anh em trong đơn vị.
Chiến dịch Bình Minh đã khai diễn gần 2 tiếng đồng hồ. Mọi hệ thống liên lạc truyền tin từ BCH các quận đến TTHQ/Cảnh lực Tỉnh, và từ tỉnh chuyển vào BCH/CSQG Quân khu I, và Trung tâm HQ/CL Bộ Tư lệnh CSQG tại Sàigòn, đều bận rộn vì chiến Dịch Bình Minh.
Sau khi dặn Vinh và Trinh báo cáo lên Đại Tá Tỉnh Trưởng, BCH/CSQG Vùng I và BTL/CSQG Sài gòn, kết quả sơ khởi của Chiến dịch Bình Minh và vụ bắt Trung tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan, tôi rời BCH đến nhà an toàn thay Ân, bắt đầu vào việc với Hoàng Kim Loan...
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:16:55 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 7
Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế)
THẨM VẤN HOÀNG KIM LOAN Nhà an toàn, danh từ hơi khó hiểu và mập mờ, nếu không ở trong giới tình báo thì ít người được nghe và biết đến. Hầu như không có một cơ quan tình báo nào không có nhà an toàn, đó là một trong những căn nhà được thuê mướn nằm trong khu nhà cửa đông đúc của dân chúng, hoặc công thự của cơ quan ít ai để ý, và địch khó phát giác. Nhà an toàn là nơi:
Tiếp xúc với các nguồn tin. Tiếp xúc các nhân viên của cơ quan đang hoạt động trong hàng ngũ địch.
Để thẩm vấn những nhân vật quan trọng của địch mà cơ quan bắt được, hầu bảo vệ tính mạng cho chính đương sự, và bảo mật các tin tức quan trọng không bị tiết lộ ra ngoàị Trong vài trường hợp các nhân vật này chịu hợp tác, họ được bí mật tung ngược trở lại hàng ngũ địch.. v.v...
Bây giờ là giai đoạn khó khăn và cam go nhất, bắt được Hoàng kim Loan đã là chuyện khó, nhưng muốn hắn nói thành thật những gì mình muốn biết lại là chuyện khó khăn bội phần. Nhiều người thường có ý nghĩ thẩm vấn thường đi kèm với bạo lực, đó là một ý tưởng hết sức sai lầm, nếu thẩm vấn đi kèm với bạo lực sẽ đồng nghĩa với thiếu khả năng, đầu hàng đối tượng và càng khích động lòng trung kiên của đối tượng mà thôị Kết quả thâu lượm được sẽ là số không. Vì thế, một thẩm vấn viên giỏi cần phải:
Trầm tĩnh, luôn luôn chế ngự được sự nóng giận do đối tượng khiêu kích trong mọi tình huống. Hiểu biết thật rộng rãi về hệ thống tổ chức, địa bàn hoạt động, đối tượng móc nối, kết nạp, và các nhân vật trong tổ chức của địch, nếu không, rất dễ dàng bị đối tượng man khai, cung cấp những tin tức sai lạc khó phân tích và hậu quả hết sức tai hạị Tỉnh Ủy Thừa Thiên và Thành Ủy Huế là hai đối tượng và mục tiêu mà chúng tôi phải đương đầu hằng ngày, nên chúng tôi nắm rất vững vàng về tổ chức, nhân su +., và mọi hoạt động của họ, và được cập nhật thường xuyên. Ngay cả những thay đổi nhân sự trong nội bộ của địch chỉ trong một thời gian rất ngắn, vài tuần là chúng tôi biết ngaỵ Nhưng đối với Tổng cục 2 Quân Báo, và Cục Tình Báo Chiến Lược phải thành thật mà nhận rằng, hiểu biết của chúng tôi về hai cơ quan này rất hạn hẹp, vì không nằm trong trách nhiệm của chúng tôi, mà là của các cơ quan tình báo quân sự và dân sự cao cấp trong chính phủ VNCH tại Sài gòn. Mọi hồ sơ liên quan đến hai cơ quan này hầu như không được phổ biến. Đây là điểm khó khăn chính trong khi thẩm vấn Hoàng Kim Loan. cũng may, tôi hỏi văn phòng Cố vấn CSĐB, được họ thuyết trình và cung cấp đầy đủ mọi tài liệu thật chi tiết về hai cơ quan Tổng Cục 2 Quân Báo và Cục TBCL.
Ngày 6-5-72 vào lúc 10giờ sáng, Đại úy Ân đón tôi ngay ngoài cửa nhà an toàn. Ân lắc đầu:
- Miếng mồi khó nuốt thật, tinh thần hắn còn vững lắm. Từ sáng sớm đến giờ ngọai trừ bản khai lý lịch vắn tắt, hắn chẳng nói gì thêm, hắn muốn gặp anh.
Ân đưa bản khai của hắn cho tôi xem, trong phần gia cảnh hắn khai: Có vợ và 2 con, vợ và con gái hiện ở tại Hà Nội, con trai hiện đang du học tại Liên Sộ Tôi bàn với Ân:
- Bây giờ mình vào gặp hắn, sau đó anh gọi máy Thiếu úy Sỏ và Trung úy Thông thay thế. Mình ra quán bún chị Sỏ ăn một tí gì, đói lắm rồi, vừa ăn vừa bàn kế hoạch đối phó.
Tôi và Đại úy Ân bước vào nhà an toàn. Căn nhà trang hoàng bình thường giống như mọi tư gia, một giường nhỏ, một bàn ăn, một bộ salon nhỏ tiếp khách, chỉ khác chăng là khắp nơi trong nhà đều có gắn những mirophone cực nhỏ và 2 chiếc máy thâu âm tinh vi, có thể thâu âm 24/24, mà không cần thay băng.
Hoàng Kim Loan đang ngồi, nét mặt trầm tư, đối diện là 1 nhân viên thẩm vấn và 2 nhân viên an ninh. Vừa thấy tôi hắn đứng dậy, tôi bắt tay hắn và hỏi ngay:
- Sao rồi Trung tá Loan, ông muốn gặp tôỉ
- Vâng, tôi muốn gặp ông Trưởng tỵ Tôi muốn trình bày với ông Ty một vài việc:
Thứ nhất: Tôi quân hàm Trung Tá, vì vậy tôi yêu cầu ông chuyển tôi qua quy chế Tù Binh.
Thứ hai : Tôi là một đảng viên Cộng sản cao cấp, suốt đời phục vụ cho đảng, cho lý tưởng của tôi, vì vậy mà ông Trưởng ty sẽ không có một hy vọng nào để thẩm vấn, khai thác tin tức nơi tôị Tôi sẽ giữ im lặng hoàn toàn. Muốn đánh, muốn đập, muốn bắn, muốn giết đó là quyền của ông Trưởng tỵ
Tôi mỉm cười nhìn hắn:
- Ông ngồi xuống đi, mình nói chuyện. Ông và tôi đều là nhà binh, tôi hy vọng mình có thể nói chuyện thẳng thắn và thành thật với nhau, mặc dầu ông là lính miền Bắc, tôi là lính miền Nam.
Hắn ngồi xuống ghế đối diện với tôi và Đại úy Ân.
- Thứ nhất, về yêu cầu của ông, muốn tôi chuyển ông qua quy chế tù binh. Ông và tôi đều là dân Tình báo chuyên nghiệp, hơn nữa ông lại là một điệp viên bị bắt trong khi hoạt động, mình đều biết rõ cả miền Bắc lẫn miền Nam làm gì có quy chế tù binh cho một điệp viên, cho loại dân tình báo như ông và tôị Tình báo chỉ có luật giang hồ và chỉ đối xử với nhau bằng luật lệ đó, có khác chăng một bên là Tà phái, một bên là Chánh pháị Ông đang được đối xử bằng luật lệ giang hồ của Chánh pháị Hiện tại ông không bị đưa vào nhà lao, không mặc áo tù, không ăn cơm tù, không bị ràng buộc bởi kỷ luật của nhà laọ Ông muốn ăn uống nghỉ ngơi, càfé, thuốc lá bất cứ giờ nào ông muốn. Anh em ở đây đâu có ai cấm đoán ông đâụ Tôi nghĩ như vậy còn tốt hơn quy chế tù binh nhiềụ
(Thật tình tôi mù mờ không hiểu có quy chế tù binh cho những gián điệp bị bắt hay không? Phải gặp những chuyên viên của VNCH về vấn đề tù binh để hỏi mới thông hiểu rõ ràng).
Trở lại nói chuyện với Hoàng Kim Loan, tôi nói tiếp:
- Thứ hai, trong quyền hạn tôi có thể làm được là chuyển ông sang quy chế Chiêu Hồi, nhưng chuyện đó hoàn toàn tùy thuộc vào ông, vào thái độ hợp tác của ông.
Thật tình tôi nói vậy để dụ hắn và cũng để dò xem tinh thần hắn ở mức độ nàọ Cho dù hắn có hợp tác đến đâu, kết thúc, tôi vẫn lôi hắn và đám giặc cỏ "nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế" của hắn ra tòa trả Lời trước công lý về hành động man rợ của hắn, của đám giặc cỏ, và của bọn Việt Cộng trong Chính Trị Bộ Cộng Sản miền Bắc về tội diệt chủng. Tội bắn giết, chôn sống trên 5000 ngàn dân lành vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968. Để chính hắn, Hoàng Kim Loan và đồng bọn phải trả lại cho 5000 ngàn oan hồn tử sĩ món nợ mà bọn chúng đã vay: đó là nợ oan, nợ ức, nợ xương, nợ máu, nợ bị trói tay bằng giây kẽm gai xô xuống hố sâu chôn sống, ghê rợn và kinh hồn đến độ vài tháng sau khi tìm thấy những ngôi mộ tập thể trong những vùng cát khô, thi thể chưa bị hủy, đào lên, một giòng máu tươi ứa ra mơi miệng người chết. Họ chết trong uất hận, trong nỗi sợ tột cùng, tóc tai dựng đứng. Họ chết không yên lành, không mơ, như văn chương chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn "nằm chết như mơ". Tôi trả lời tiếp câu thứ 2 của Hoàng Kim Loan:
- Trung tá Loan, ông đã quá lầm nghĩ rằng khi rơi vào tay chúng tôi ông sẽ bị chúng tôi dùng bạo lực hành hạ, để mong lấy được một một số tin tức nơi ông. Miền Nam Việt Nam hay nói khác hơn là Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà là một quốc gia pháp trị, có luật pháp hẳn hoi, luật pháp không cho phép chúng tôi hành hạ tù nhân. Tù nhân có quy chế của họ, từ vấn đề thực phẩm, y tế, thăm nuôi, sinh hoạt và được theo dõi, kiểm soát từ chính quyền Trung ương Saigòn và Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế thường xuyên thăm viếng kiểm soát các trung tâm cải huấn. Hãy so sánh những người tù Quốc Gia được ngưo +`i Cộng Sản các ông thả về, họ như những thây ma, bệnh hoạn, suy nhược. Ngược lại, những đồng chí của ông đu +ợc chúng tôi thả về, họ mập mạp, to béo, khoẻ mạnh, thời gian ở tù của họ chỉ là khoảng thời gian để họ bồi dưỡng sức khoẻ rồi khi được chúng tôi thả ra họ lại tái hoạt đô.ng.
Ông thấy đó, chế độ giam giữ tù nhân của Chính phủ VNCH nhân đạo gấp cả triệu lần những người Cộng Sản các ông. Đừng suy bụng ta ra bụng người, đừng lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử. Hơn nữa, thế hệ chúng tôi, những người trẻ, chúng tôi rời bỏ sân trường, rời xa gia đình xông vào cuộc chiến, kề vai và còng lưng chống đỡ cuộc xâm lăng của các ông từ miền Bắc muốn đem chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, tàn bạo, ác độc trùm lên 17 triệu dân miền Nam. Chúng tôi chiến đấu vì tự vệ, và với tấm lòng trong sáng không hận thù, như vậy thì không có lý gì khi bắt được ông chúng tôi lại hành hạ, bắn giết ông, để làm gì? Ngoài ra, chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà còn có Bộ Chiêu Hồi, Chính phủ VNCH sẵn sàng đón tiếp những người Cộng Sản quay về với chúng tôị
Chúng tôi, hay nói rộng hơn là 17 triệu dân miền Nam, trong đó có hơn nửa triệu nguời dân Huế, họ ghê tởm, và kinh hoàng trước hành động bạo lực, bắn giết, mà các ông, những người Cộng Sản đã tặng cho dân Huế vào năm Mậu Thân 1968. Tôi không gởi trả lại ông những điều ông đã làm cho dân Huế trong những ngày đầu xuân năm 1968, không bao giờ, tin hay không là tùy ông. Kế tiếp, ông có quyền im lặng, tôi chẳng cần ông khai báo một lời nàọ Chúng tôi đã khám phá hành tung của ông, đã biết rõ toàn bộ đám cơ sở nội, ngoại thành của ông từ hơn 5 năm naỵ Mọi mưu toan, kế hoạch của ông, của Tỉnh ủy Thừa Thiên và Thị ủy Huế, chúng tôi đã nắm thật rõ ràng và tường tận từng chi tiết một, vì vậy mà ngày hôm nay ông bị bắt và đám cơ sở nội, ngọai thành của ông hiện đang lần lượt bị lực lượng CSQG Thưà Thiên-Huế bắt giữ.
Cuộc hành quân chống lại kế hoạch Tổng Nổi Dậy của ông và đám "Nhân dân anh hùng Thừa Thiên - Huế" hiện giờ này đang tiếp diễn. Như thế ông hiểu cho rằng tôi chẳng cần thiết một lời khai báo hoặc tin tức nào của ông cả. Điều tôi muốn không phải là tin tức quân sự, hoặc tình báo mà ông biết, mà là sự hợp tác của ông, và mong ông trở về với chúng tôị Như ông đã biết và nhớ rõ, những đồng chí, và đồng đội cuả ông trong cơ quan Cục Quân Báo, Cục tình Báo Chiến Lược trước đây đã bị bắt, và sau đó đã trở về với chúng tôi như anh Lê Đình Khôi, anh Lê văn Lư.. Ông biết hai người đó hiện giờ ở đâu và giữ chức vụ gì trong chính quyền VNCH không? Anh Lê đình Khôi là Chủ Sự phòng Cảnh Sát Đặc Biệt BCH/CSQG vùng I, tức là người Chỉ huy lực lượng CSĐB vùng Ị Anh Lê văn Lự là Giám Đốc trường Tình Báo CSQG vùng I Chiến thuật.
Hoàng Kim Loan nhìn tôi và trả lời:
- Đó là những kẻ phản bộị
- Trung tá Loan, ông lầm rồị Thế hệ của ông và của hai anh đó là những người yêu nước thật sự, nhưng bị ông Hồ phỉnh gạt đưa ông và họ vào con đường Cộng Sản vô luân, tàn bạo, và bần cùng hóa cả một dân tộc. Hai người đồng chí của anh đã sớm thấy là mình đi lạc đường, nên trở về với những người Quốc gia, tại sao gọi họ là phản bộị - Những gì ông cần gặp tôi, tôi đã nói xong. Tôi đã đọc bản viết tay về lý lịch và gia cảnh do chính ông viết. Tôi cám ơn và hoàn trả lại ông vì chẳng có một tí giá trị nào cả, vì chúng tôi đã biết từ lâu lắm rồi, nhất là gia cảnh. Ông có vơ.. Vợ và con gái hiện ở tại Hà Nộị Con trai ông hiện đang tu nghiệp tại Liên Sộ
Vừa nói tôi vừa đưa tờ giấy lại cho hắn và nhìn thẳng vào mặt hắn, hắn ngại ngùng đưa tay đón mảnh giấy, tôi biết trong đầu hắn đang nghĩ gì: "Tên Đại uý "ngụy" này khó nói láo với hắn quá!"
- Trung tá Loan, ông suy nghĩ kỹ những điều tôi vừa nói với ông, và bất cứ lúc nào cần gặp tôi, ông cứ nói với anh em ở đây, tôi sẽ đến gặp ông ngaỵ
********
Tôi và Ân rời nhà an toàn ra quán bún bò chị Sỏ, hai anh em ngôì trầm ngâm suy nghĩ, tôi bàn với Ân:
- Anh thấy đó, tôi đấu khẩu với hắn gần cả tiếng đồng hồ. Tinh thần hắn cứng ngắc, việc đầu tiên là mình phải đánh gục tinh thần hắn trước. Mặc dầu hắn là người Cộng Sản, nhưng hoạt động lâu trong vùng quốc gia, nên còn có chút nhân tính. Hắn còn tình cảm gia đình, muốn bảo vệ vợ con, vì thế trước tiên mình đánh vào yếu điểm nầy truớc. Như vậy anh sẽ phải làm như thế này... thế này...
- Việc thứ hai là mình sẽ liên lạc với Anh Lê Đình Khôi hoặc anh Lự, nhờ họ ra thăm hắn vói tình đồng chí cũ và tình đồng đội trong đơn vị Quân Báo và Cụm Tình Báo Chiến Lược.
- Việc thứ ba là anh sắp xếp cho hắn thấy mặt những cơ sở quan trọng của hắn vừa bị mình bắt trong chiến dịch Bình Minh.
- Việc thứ tư là anh sắp xếp và cùng với Trung úy Thông, Trung tâm Trưởng trung tâm Thẩm vấn tuyển lựa khoảng 15 nhân viên thẩm vấn có kinh nghiệm và thật giỏi, thay phiên nhau thẩm vấn hắn 24/24. Mình dùng chiến thuật xa luân chiến, ngoại trừ giờ ăn, cứ hỏi hắn liên tục, bất cứ chuyện gì, miễn sao làm cho hắn mỏi mệt, tinh thần xuống thấp, khi đó anh và tôi nhảy vào phần chính - Đồng ý không?
Ân khen tôi giỏi, tính kế nhanh. Tôi cười:
- Giỏi lâu rồi bây giờ anh mới khen. Không giỏi thì làm sao mới Trung úy đã làm trưởng ty Cảnh Sát, mấy năm rồi bây giờ vẫn còn Đại úỵ
Hai anh em cùng cườị Ân về thẳng trại tạm giam và trung tâm thẩm vấn lo công việc vì số hạ tầng cơ sở bị giữ trong chiến dịch Bình Minh các Quận chuyển về mỗi giờ mỗi đông. Phần tôi đi gặp Đại Tá Tỉnh Trưởng Tôn Thất Khiên trình bày kết quả sơ khởi của cuộc hành quân và nhờ ông xin phương tiện của BTL Tiền phương Quân Đoàn I, chuẩn bị di chuyển số tù Cộng Sản trong Trung Tâm Cải Huấn và số hạ tầng cơ sở Việt Cộng vừa mới bắt giữ sáng nay đi Côn Sơn càng sớm càng tốt.
12 giờ 30 khuya ngày 7-5-1972, Đại úy Ân theo kế hoạch, cho di chuyển tạm thời Hoàng Kim Loan sang một nhà an toàn khác, để sáng mai tôi diễn phần I, đoạn tuồng hát ly kỳ, hấp dẫn cho Hoàng Kim Loan thưởng thức.
3 giờ 15 chiều ngày 7-5-1972, tôi đến nhà an toàn tạm thời, vưà gặp Hoàng kim Loan tôi nói ngay:
- Xin lỗi, làm ông mất ngủ hồi đêm, nhưng vì nhu cầu an ninh tôi chuyển ông sang đâỵ Tối nay ông về lại nhà cũ.
- Tôi là tù nhân của ông Ty, đưa tôi đi đâu, làm gì, đó là quyền của ông Ty, hà tất ông Ty phải xin lỗị
- Trung tá Loan, ngày hôm qua khi đọc bản lý lịch của ông, đoạn về gia cảnh ông có cho biết bà nhà và cô con gái hiện đang ở Hà Nội, cậu con trai hiện đang tu nghiệp ở Liên Sộ Ông có thư từ liên lạc với gia đình không? Từ bao lâu rồi trước ngày ông bị bắt?
- Cũng đã từ lâu tôi không nhận được thư từ của họ, nhưng tôi nghĩ họ vẫn bình thường, sống ở ngoại thành Hà Nội, và con trai tôi vẫn còn tu nghiệp tại Liên Sô, có lẽ đến năm tới mới xong. Hoàng kim Loan trả lời câu hỏi của tôi trong phong cách bình thường, giọng nói hắn chậm rãị
Tôi cười nhẹ, nhìn hắn:
- Chiều nầy tôi đến gặp ông là muốn đem đến tặng ông món quà.
Tôi xoay qua Ân:
- Cho đem quà vào đị
Cánh cửa lớn bật mở, một người đàn bà bước vào và theo sau là một là một người đàn ông mặc quân phục Quân lực VNCH cấp bậc Đại úy, bên vai mang phù hiệu Binh chủng Thiết giáp. Vừa thấy 2 người đó, Hoàng Kim Loan su +~ng sờ bất động, mặt tái xanh.
- Trung tá Loan, bà này ở ngoại thành Hà Nội vào thăm ông, và người này đang tu nghiệp ở Liên Sô về thăm ông. Người đàn bà đó chính là vợ Hoàng Kim Loan, hiện đang trú ngụ tại Xã Phong An, quận Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, khoảng chừng 50 tuổi, dáng dấp hiền lành, mặt mày phúc hậụ Người kia, là con trai độc nhất của Hoàng Kim Loan đang phục vụ trong Quân Lực VNCH, đơn vị Thiếp Giáp, cấp bậc Đại úỵ Hoàng Kim Loan che dấu vì sợ liên lụy đến vợ, con. Đó là một trong những yếu điểm của hắn mà tôi đã đánh trúng, và cũng là khuyết điểm của cơ quan tình báo Việt Cộng đã để cho một cán bộ hoạt động trong vùng địch quá lâụ Trong phút chốc bàng hoàng, cả ba người đều xúc động, đứng yên không nói được với nhau một lời nào, bỗng chốc đôi giòng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt tiền tụy của người đàn bà, không hiểu những giọt nước mắt đó vì xúc động khi gặp lại chồng trong nghịch cảnh, hay chính là những giọt nước mắt vì lo sợ cho chồng, con, và bản thân mình. Tôi là đạo diễn và là diễn viên trong trong màn bi kịch này cũng không tránh khỏi nỗi xúc động, nhưng biết làm sao hơn, vì bổn phận và trách nhiệm, vì sự an nguy, mất còn của Huế trong giờ phút quyết liệt. Thật tình trong lòng không muốn tạo dựng ra cảnh bi thương nầỵ Tôi nói với vợ Hoàng Kim Loan:
- Chị lau mước mắt đi, đừng sợ, chị và ông Đại úy không có tội tình gì cả. Chị và ông Đại úy không có một liên hệ nào trong công việc của Trung tá Loan. Luật pháp VNCH đặt những người Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật (Dụ 59A từ thời Đệ I Cộng Hoà) nhưng không có một chữ nào quy tội vợ, con, những người Cộng Sản, ngoại trừ những người đó có liên hệ tiếp tay hoạt động cho Cộng Sản. Trong cuộc chiến tàn khốc và bi thảm này, điều nghịch lý là cả Bắc lẫn Nam đều có gia đình, thân nhân liên hệ, cha Cộng Sản, con Quốc Gia, anh Quốc Gia, em Cộng Sản, như vậy thì quy tội họ hết saọ
Tôi quay qua nói với Hoàng Kim Loan:
- Trung tá Loan, ông có một giờ để gặp gia đình, vợ, con. Tôi buộc lòng phải để lại 2 nhân viên giám thị, vì không muốn ông dùng vợ con để thông tin ra ngoàị Riêng Đại úy, tôi mời ông đến đây, trước là để ông có dịp gặp lại cha, và kế tiếp tôi muốn ông nói rõ cho Trung Tá Loan biết về tình hình chiến sự hiện đang diễn biến giữa ta và địch, đừng thêm vào và cũng đừng bớt đi, để Trung Tá Loan có một nhận định sáng suốt và thực tế có lợi cho bản thân ông ta và gia đình. Tôi xác nhận một lần nữa, ông vô tội, không liên quan, vì không bị địch móc nối hoạt đô.ng. Tôi không bắt ông, và cũng không báo cho Ty An Ninh Quân Đội chuyện nàỵ Sau khi nói chuyện xong, ông có thể đưa mẹ ông về. Có một điều quan trọng cần nói rõ với ông là ông không được tiết lộ cuộc gặp gỡ này với bất
kỳ một ai vì chưa phải lúc. Bằng không, ông sẽ gặp rắc rối ngay, và tôi cũng nhờ ông chuyển lời với mẹ ông như vậỵ
*****
Một giờ sau, tôi và Ân trở vào, hai nhân viên thẩm vấn cho biết họ chẳng nói gì ngoài chuyện gia đình, tuy nhiên Hoàng kim Loan hắn đưa chiếc đồng hồ Omega của hắn cho vợ, nói là đem bán đi để có tiền chi tiêu trong gia đình. Cả ba người bây giờ có vẽ bình tĩnh hơn, tôi nói với vợ Hoàng Kim Loan:
- Bây giờ chị có thể về, sau này bất cứ lúc nào chị muốn thăm ông, gặp tôi hay Đại úy Ân.
Tôi mò túi áo có được 1500 đồng (tiền VNCH), hiểu ý tôi, Ân cũng cũng đưa ra được 1200, tôi hỏi nhỏ Ân:
- Tiền nhậu phải không? 'Ôi Thiên Tường , ôi ba xi đế 'phải không? (rượu).
Ân cườị Tôi cuộn tròn số bạc dúi vào tay chị ta:
- Chị cầm lấy, lần sau chúng tôi giúp chị nhiều hơn. Chị giao lại chiếc đồng hồ cho ông, không cần thiết phải bán.
Chị ta lúng túng nói nhỏ lời cám ơn và giao lại chiếc đồng hồ cho Hoàng Kim Loan. Tôi và Ân giúp chị ta một ít tiền xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, đối với một người đàn bà nghèo khó đang gặp khổ nạn, hoàn toàn không có ý lợi dụng hành động đó để mua chuộc Hoàng Kim Loan.
Ân đưa vợ con Hoàng Kim Loan ra về, tôi nói với Hoàng kim Loan:
-Trung tá Loan, tôi cho ông gặp mặt vợ con để chứng minh một điều: - Chúng tôi biết rõ và rất tường tận về ông, gia đình ông, về mọi hoạt động, mọi kế hoạch và cơ sở nội tuyến mà ông đã cài đặt. Xin ông chấm dứt trò chơi tung hỏa mù nàỵ Ngày mai, tôi sẽ cho ông xem những hình ảnh sinh hoạt của ông mà các toán theo dõi cuả chúng tôi đã chụp được, và nhất là những hình ảnh các cơ sở quan trọng và bí mật của ông hiện đã bị bắt và đang bị thẩm vấn tại Trung tâm thẩm vấn. Tôi cũng nói rõ thêm, lực lượng CSQG Việt Nam Cộng Hoà không chơi trò hèn hạ bắt vợ con ông làm áp lực để ép ông, trò chơi đó chỉ có những người Việt Cộng các ông dùng, chúng tôi lực luợng CSQG miền Nam Việt Nam không thèm dùng đến, vì thế tôi xác nhận với ông là: Vợ con ông không bị bắt, không bị làm khó dễ. Họ an toàn, ông yên tâm.
Từ giờ này trở đi, hợp tác và thành thật hay không là quyền ông quyết đi.nh. Nếu không, ông sẽ phải đối đầu vơí 15 thẩm vấn viên của tôi họ sẽ nói chuyện với ông liên tục. Một điều quan trọng nữa, mọi lời khai của ông đều được kiểm chứng qua tin tức, tài liệu mà chúng tôi đã có sẵn, và chúng tôi sẽ yêu cầu ông đo máy sự thật (Test Polygrap) để kiểm chứng. Tôi để ông có thì giờ suy nghĩ, mai tôi sẽ trở lạị
*****
Trở lại BCH, tôi họp bàn với Đại úy Ân, soạn thảo một số nhu cầu tin tức cần phối kiểm và cần biết để hướng dẫn cho các thẩm vấn viên:
Kế hoạch và lực lượng Tổng nổi dậy của VC tại Huế. Lực lượng quân sự và kế hoạch tấn công Huế Sơ đồ trận liệt và lý lịch các nhân vật chủ chốt của: Quân Khu, Quân ủy Trị Thiên, Tỉnh ủy, Thị ủy Huế và các ban An ninh liên hê.. Các cơ sở bí mật nằm trong chính quyền, CSQG, Quân đội, Đảng phái, Tôn Giáo, Học sinh, sinh viên, thương gia, tiểu thương, và quần chúng v.v..
Các đường dây giao liên, các trạm giao liên, cửa ngõ xâm nhập.
Tổ chức kinh tài, tiếp tế.
Sơ đồ trận liệt, cách thức hoạt động, móc nối, các cơ sở và những điệp viên của hai cơ quan Tổng Cục 2 Quân Báo và Cụm Tình Báo Chiến Lược hiện đang hoạt động tại Thừa Thiên-Huế.
Trong 2 ngày kế tiếp 9,10 tháng 5-72, Hoàng Kim Loan bắt đầu thấm mệt vì những loạt thẩm vấn lâu dài của 15 thẩm vấn viên. Đêm 10-5-72, hắn xin được nghĩ một đêm. Hắn thức suốt đêm đó, trong đêm tối lâu lâu lại thấy hắn dùng tay gạt nước mắt. Có lẽ, lương tâm hắn có răng và biết cắn, lương tâm hắn đang cắn rứt giữa lời thề và sự phản bội. Trong 2 ngày này, Việt Cộng vẫn đều đặn bắn từng đợt pháo 130 ly vào thành phố.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:17:37 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975)- Phần 8 Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế) THẨM VẤN HOÀNG KIM LOAN (Tiếp Theo) 9 giờ 30 sáng ngày 10-5-72 sau đợt pháo kích lần thứ 2, Trung úy Uyên, phụ tá trưởng phòng Tư Pháp đang đứng nói chuyện với tôi ngoài sân cờ BCH ông ta bỗng nóí với tôi: - Đại úy, ông cho phép tôi về thăm nhà một tí, mấy ngày nay cấm trại không về nhà. - Được, ông đi đi, chiều tối về, không cần gấp. Tôi cười nhìn ông tiếp: - Mấy ngày cấm trại, nhớ vợ rồi phải không? - Không đâu Đại uý, thăm nhà một chút tôi về ngaỵ 15 phút sau, Việt Cộng pháo đợt thứ 3. Lần này nặng ho +n, 30 quả 130 ly rớt vào vùng BTL tiền phương Quân Đoàn I và vùng hồ Tịnh Tâm. Tôi chạy vào TTHQ Cảnh Lực để theo dõi tình hình và nghe báo cáo thiệt hạị Trên hệ thống máy tuần tiễu tôi nghe giọng của Đại Uý Đoàn Đích la lớn hốt hoảng: - Trình thẩm quyền. . . . Trung úy Uyên chết rồi, một quả pháo 130 nổ gần ông taị hồ Tịnh Tâm. Tôi bóp chặt ống liên hợp máy Motorola trả lời: - Tôi nhận rõ. Tôi buông ống liên hợp đứng im lặng sững sờ, tự nhiên thấy cay mắt và mặn ở môi, thì ra tôi chảy nước mắt. Chỉ 15 phút trước, phải chi tôi không cho ông đi, hoặc nói chuyện với ông thêm vài phút nữa thì ông đâu đến nỗi tử vong. Ngày 11-5-72 Đại úy Ân trình tôi một loạt lời khai của Hoàng Kim Loan, đọc xong tôi trả laị cho Ân và cùng có nhận xét như Ân: -Thằng nầy rất khôn, hắn khai toàn những cơ sở của hắn trong thời gian tranh đấu Phật Giáo tại Miền Trung và Mậu Thân 68. Tất cả các cơ sở đó một số lớn đã bị bắt, số còn lại đã lên mật khu hoặc đi ra Bắc. + [Số cơ sở này tôi đã đề cập trong bài Biến động Miền Trung 1966]. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau thời gian ngoại giao đã qua, bây giờ là lúc phải tăng áp lực thật mạnh với Hoàng Kim Loan để buộc hắn phải hợp tác. Tôi thay Ân thẩm vấn Hoàng Kim Loan, lên xe đến nhà an toàn. Xe vừa rời BCH nhìn lại phía băng ghế sau thiếu mất tên đệ tử phụ trách máy truyền tin, tôi hỏi Thêm, người tài xế lái xe: - Ông thần Ánh đâu rồi, hồi đêm lại nhậu say rồi phải không? Cả hai tên đệ tử không trả lời tôi mà chỉ khúc khích cườị - Ông thần Ánh làm chuyện gì nữa đây, sao hai đứa không trả lời mà lại cườị Người lính tên Minh ngồi sau trả lời: - Không phải hắn nhậu đâu ông ơị Hồi đêm hắn xuống vạn đò, đò Mụ Lừ. Hắn uống càfe đen, sáng nay hắn đái ra café sữạ Hắn sợ quá đi tìm Bác Sĩ Đaị đội phó CSDC xin thuốc. Hắn sợ ông la, dặn tuị tui dấu ông. - Uống café có chi quan trọng mà phải dấu, tại sao uống café đen mà lại đái ra cafésữa, bọn bây nói chuyện gì ta không hiểu chi cả. - Ông thiệt không hiểủ - Hiểu thì hỏi tụi bây làm chị - Hồi đêm hắn xuống đò Mụ Lừ chơi bờị Gặp em gái hậu phương bị lậu, hắn dính vào, sáng ni bị đái ra mủ, hắn bị lây bệnh lậụ - Chết cha, bệnh lậu đó có lây không? Nói hắn nghỉ 1 tuần chữa bệnh cho lành rồi hãy đi làm. - Bệnh đó không lâỵ Chỉ đàn ông, đàn bà làm chuyện đó với nhau thì mới lâỵ Nhưng bị thì sợ và mất tinh thần lắm, đái vừa ra mủ, vừa rát vừa đau, khủng khiếp lắm. - Mi cũng rành quá hả, tụi bây bị rồi phải không? - Tụi em thằng nào cũng qua đoạn đường chiến binh đó rồị Không qua đoạn đường chiến binh làm sao trở thành lính chiến được. [Tất cả đám cận vệ của tôi đều là quân nhân biệt phái, họ là lính tác chiến bị thương, biệt phái sang Cảnh sát]. Hắn cườị Xe gần đến nhà an toan, bỗng tôi nói với người đệ tử: - Thêm, quay xe trở về BCH. Nhiều khi chỉ là một câu chuyện vu vơ, như chuyện tên đệ tử đi chơi bời bị bệnh lậu mà lại giúp được việc lớn. Một ý tưởng đến thật nhanh trong đầu tôi, thật tồi bại, hạ cấp, nhưng biết làm sao hơn, khi tôi đã đối xử với Hoàng Kim Loan bằng luật giang hồ của Chánh phái, nhưng không có kết quả, bây giờ tôi phải dùng luật giang hồ của Tà pháị Tự cổ chí kim đã có biết bao nhiêu nguời quyền cao chức trọng bị rơi vào bẫy 'Mỹ nhân kế' cuả của đối thủ mà thân bại danh liệt, trong giới tình báo cũng thuờng dùng loại này, nhưng tôi sẽ dùng, không phải là 'Mỹ nhân kế' mà là 'Tình dục kế' với tên Việt Cộng Hoàng Kim Loan. Tôi quay điện thoại gọi Trung úy Tuất, Biệt đội trưởng Biệt đội Hình Cảnh qua BCH gặp tôi, nhưng tình cờ lại gặp ngay Nguyễn văn Quan, Trưởng ban Bài trừ Mãi dâm, đúng là người tôi muốn gặp. - Anh sang BCH gặp tôi, tôi có chuyện cần nhờ anh. Nguyễn văn Quan, tay này tuổi trẻ, 23 tuổi dáng dấp thư sinh, trắng trẻo đẹp trai hơn tài tử phim Hồng Kông nhiềụ Con nhà thế giạ Nguyễn văn Quan là tay chơi thứ thiệt, năm học Đệ I, Quốc Học, tôi làm thầy dạy kèm cho hắn, học thì nhác nhưng chơi thì không ai địch hắn nổị Tôi và hắn thân tình như anh em ruột, lớn lên hắn vào Cảnh Sát lại gặp tôi, thật là oan giạ Tôi đặt hắn vào Trưởng ban Bài trừ Mãi Dâm thật là đúng chỗ. Hắn gặp tôi tại văn phòng, tôi hỏi hắn: - Trong đám các chị em ta bị anh bắt, có người nào dáng dấp coi được, tuổi chừng 25 - 26? Hắn trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên: - Có 5 ngưòi, trong đám đó có một em trông ngộ lắm, khoảng 25 tuổi, người Nam, mới từ Saigòn ra Huế mấy tuần thì bị bắt. Đang làm phiếu trình chờ anh ký lệnh tống xuất khỏi Huế, nhưng em này bị bệnh, nhẹ thôị - Sao anh biết? - Mấy thằng đệ tử của tôi dính rồị - Tôi muốn em này, anh đem sang đây gặp tôi được không? Hắn nói lớn trong phòng: - Thiên hạ ơi! Thầy tu phá giớị - Nói nhỏ thôi, đám tà lọt ngoài cửa nghe hết bây giờ, anh suy nghĩ bậy bạ rồi phải không? Vụ nầy là 'Điệp Vụ' thứ thiệt đấy !!! Một giờ sau, Nguyễn văn Quan đem cô gái đến văn phòng tôị Thoạt nhìn, không thể tưởng tượng nổi đây là một cô gái làm nghề mãi dâm. Cô ta còn rất trẻ, dáng dấp hiền lành, điểm đặc biệt là người Nam mà lại có mái tóc thề. Vừa bước vào trông thấy tôi, cô ta sợ sệt đứng sát vào người Nguyễn văn Quan. - Không có chi phải sợ, cô ngồi xuống đị Cô tên gì, mấy tuổỉ - Dạ thưa quan Đại Tá, em 25 tuổi, tên Thu Cúc. Em ở Cần Thơ mới ra Huế có mấy tuần thì bị bắt. - Tôi không phải là Quan Đại Tá, mà Đại Úy, Trưởng Ty Cả nh Sát. Tôi có tí việc cần nhờ cô gíúp, nếu cô hoàn tất được công việc này, tôi sẽ tha cô, cho cô vé máy bay và một ít tiền về lại Cần Thơ, chịu không? - Dạ được. . . dạ chịụ - Cô nấu ăn được không? - Dạ được, đàn bà con gái ai mà chẳng biết nấu ăn, em nấu theo kiểu người Nam. - Nam, Bắc, Trung gì cũng được, không phải là chuyện chính. Chúng tôi có một người bạn trên 50 tuổi, nhiều năm rồi chỉ ăn chay chứ không chịu ăn mặn, anh em chúng tôi cá với nhau ai làm cho hắn chịu ăn mặn thì người đó thắng cuộc, cô giúp chúng tôi được không? - Dạ dễ, em làm được. Như vậy ông nầy tu tại gia, ông ăn chay sao lại bắt ăn mặn làm gì, tội ông tạ - Sao cô biết tu tại giả - Dạ em có người anh cả, tu tại gia, đạo Cao Đàị Ông ăn trường chaỵ Nguyễn văn Quan, thằng cha đại ba trợn, hắn chen ngay vào: - Không phải đâu em gái ơi! Không phải ăn chay, ăn mặn thứ thiệt như em nghĩ đâu, mà ăn mặn là thứ em thường nằm sấp, nằm ngửa với khách hàng đó, hiểu chưa em. Cô gái thẹn thùng, có một tí mắc cở hiện trên khuôn mặt. Thì ra trong tận cùng đáy lòng của một cô gái giang hồ còn giữ được bản chất của một nguời phụ nữ. - Dạ, tưởng gì chứ chuyện đó em làm được, nghề của em mà. Nguyễn văn Quan lại chen vào: - Thì đúng rồi, tên em là Thu Cúc, nói lái đi một tí, đúng là nghề của em. - Dễ mà khó, cái khó là làm sao cô dụ được ông tạ - Dạ được, em bảo đảm. - Vậy tốt. Tôi cho cô thời hạn 1 tuần. Trong thời gian này, cô sẽ ở với ông ta, nấu ăn cho ông, và ban đêm ngủ lạị Cô thành công, chỉ một lần với ông ta cũng được, tuần sau cô sẽ nhận được vé máy bay và một ít tiền để về lại Cần Thợ Có một điều quan trọng là cô không được nói cô là ai, không được nói đã gặp tôi, nếu ông ta có hỏi cô, cô chỉ nói ngưòi trong nhà thuê cô đến giúp việc mà thôị Nếu cô nói ra, sẽ không đựợc về lại Cần Thơ mà còn bị giữ lại lâu lắm. Cô lặp lại đi, lời tôi vừa dặn cộ Cô gái lặp lại gọn gàng và rõ ràng. Cô gái ngập ngừng, bẽn lẽn nhìn tôi: - Thưa Đại Úy có điều này em muốn thưa với Đại úỵ - Cô nói đị - Em bị bệnh, đang uống thuốc, gần lành rồị - Tôi biết rồi, xong việc, tôi cho bác sĩ khám bệnh chu +~a cho cộ Yên tâm đi ! Chiều ngày 11-5-72 Hoàng Kim Loan được nhân viên an ninh thông báo: - Kể từ nay sẽ có ngươì nữ đến giúp việc, lo cơm nước cho ông, khỏi cần bới xách bất tiện. Ông muốn ăn gì cứ việc nói với người giúp việc. Lẽ đương nhiên, đây là một trò ấu trĩ, hạ cấp, người binh thường còn đặt nghi vấn, huống gì hắn là một tay cáo già lão luyện trong nghề tình báo, hắn nghĩ đây là =AB Mỹ nhân kế =BB mà tôi sắp đặt, chắc hẳn trong lòng hắn nghĩ thằng 'Đại úy Công An Ngụý quá trẻ con chơi trò này, đời nào hắn có thể bị vướng vào bẫỵ Nhưng hắn không ngờ, đây không là mỹ nhân kế mà là 'Tình dục kế' do tôi sáng chế. Tuy hạ cấp, tồi bại, và bẩn thỉu, nhưng hắn không đỡ nổi, vì hắn là người trần tục, cũng tham sân si, hỉ nộ ái ố, và cũng đã từ lâu lắm không gần đàn bà, lại gặp phải 'chị em tá, đã biết cách khiêu khích mà còn được cố vấn và sắp đặt, thì hắn phải vào bẫy là cái chắc. S au này, khi nghe kể lại câu chuyện, thấy tôi tỏ ý áy náy vì đã áp dụng kế sách này, bạn bè thường nói với tôi: - Suy cho cùng, thì =ABMỹ nhân kế=BB cũng chỉ là khởi đầu để đưa đến 'tình dục kế' chứ có gì =AB thơm tho =BB hơn đâu mà Thành cứ phải nghĩ ngợỉ! Trong những ngày này chúng tôi giảm giờ thẩm vấn Hoàng Kim Loan, để tạo điều kiện cho Thu Cúc ngoài giờ cơm nuớc, có cơ hội tiếp cận khiêu khích Hoàng Kim Loan. Hắn bị dồn nén từ bao nhiêu năm, nay hằng ngày được nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp, mặc áo cánh không nịt ngực, nhìn xa nhìn gần đều thấy rõ, thử hỏi Hoàng Kim Loan hắn đang nghĩ gì? Căn nhà an toàn Hoàng Kim Loan đang trú ngụ chúng tôi đặt 3 vòng đai an ninh: - Vòng đai an ninh tiếp cận. [trong phòng] - An ninh gần [chung quanh nhà] - An ninh xạ [cách nhà khoảng 200m] Kể từ ngày 11-5-72. Vào mỗi buổi tối sau 9 giờ, nhóm an ninh tiếp cận có 4 nhân viên theo kế hoạch rút ra ngoài phòng, để lại bên trong chỉ còn lại Hoàng kim Loan ngủ ở chiếc giường gỗ, và em gái hậu phương Thu Cúc ngủ ở chiếc giường bố. Thời gian khiêu chiến, dụ địch đã quá ba ngày, tôi cho lệnh em gái hậu phương Thu Cúc đêm nay 14-5-72 tấn công, dứt điểm mục tiêụ Sáng ngày hôm sau 15-5-72, xem như mọi chuyện bình thường, Thu Cúc viện cớ đi chợ, gặp chúng tôi trình bày tường tận trận đánh quyết liệt hồi đêm, vì chữ nghĩa không được phép trình bày ở đây, mà chỉ có thể tóm lược kết quả trận đánh như sau: Ta và địch đánh cận chiến. Ta tấn công, địch phản công thô bạo, nhưng chỉ được hai lần rưởi thì địch đuối sức. Trận chiến kết thúc, Trung tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan, Ủy viên Thành Ủy Huế và em gái Nam bộ, Thu Cúc, ký nghị định thư đình chiến, cùng ca bài: 'Như có Hồ râu trong ngày vui đại thắng'. Giữ đúng lời hứa, sau khi Bác Sĩ Đaị đội phó CSDC khám bệnh, chích thuốc và cho cô ta một số thuốc trụ sinh chữa bệnh, tôi cám ơn cô ta và cho cô ta số tiền hai mươi ngàn (do văn phòng Cố vấn CSĐB yểm trợ), trưởng ban Bài trừ mãi dâm đưa cô ta ra phi trường Phú Bài đi chuyến bay sớm nhất về Saigon. Thu Cúc ra đi không một lời từ biệt Trung Tá Loan, nhưng cô em đã gởi lại cho Trung Tá Loan một kỷ niệm khó quên, đó là bệnh... Trong hai ngày kế tiếp, Đại úy Ân cho gia tăng số giờ thẩm vấn, các thẩm vấn viên luân phiên hỏi Hoàng kim Loan bất cứ chuyện gì, chuyện trên trời, dưới đất, không đâu vào đâu, mục đích làm cho hắn rối loạn, đuối dần, cộng thêm Ân cho hắn xem những tấm hình đã chụp lén hắn vớí đám cơ sở của hắn từ trước khi hắn bị bắt, và những tấm ảnh chụp các cơ sở quan trọng của hắn hiện đã bị bắt và đang bị thẩm vấn. Cũng trong 2 ngày này, chúng tôi sắp xếp để một vài người bạn cũ của hắn, từng hoạt động với hắn trong Cục Quân Báo và Cục TBCL, đã rời bỏ hàng ngũ, hiện đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan của chính quyền VNCH đến thăm hắn. Hoàng Kim Loan bị giao động mạnh, tình thần sa sút. Đến ngày 18-5-72 thì hắn gục ngã, mất hết bản năng tự vệ, đối kháng. Hắn nói với nhân viên an ninh, xin phép cho hắn gặp Bác sĩ khám bệnh, vì không hiểu sao đã gần 2 ngày nay, 'cái đó'... của hắn bị sưng, đi tiểu rát và đau lắm, chẳng biết bệnh gì. Đại úy Ân, trưỏng phòng CSĐB đến gặp hắn và đưa điều kiện: - Trung tá Loan, trong hơn tuần nay, tôi và ông Trưởng ty đã đã đối xử với ông rất đàng hoàng, nhưng ngược lại ông vẫn dẫn chúng tôi đi vòng quanh, những tin tức của ông cung cấp hoàn toàn vô giá trị, nếu không nói là quá cũ, đã mất thời gian tính. Đã đến lúc phải đặt điều kiện trao đổi với nhau - Bác sĩ sẽ đến khám bệnh và chữa trị cho ông, ngược lại chúng tôi phải nhận được những tin tức có giá trị, đứng đắn và không mất thời gian tính. Trong khi đó Bác Sĩ Hồ, Đại đội phó CSDC/102 gặp tôi: - Bác sĩ, tôi cần anh chữa bệnh cho một người, hắn bị bệnh nhưng chưa cần chữa dứt hẳn, chỉ cầm chừng. - Ông Ty lại chơi trò gì nữa đây, sao lại không chữa cho lành luôn? - Thằng này Việt Cộng thứ hạng nặng đã bị mình bắt, hắn bị em gái hậu phương Thu Cúc cấy 'Sinh tử phù' vào người hắn, hắn bị rồị Anh chữa cầm chừng, mình cần làm áp lực với hắn. - Tôi hiểu rồi, chuyện dễ, tôi chỉ cho chích và uống thuốc nhẹ thôi, thì bệnh hắn sẽ kéo dài, không nặng, không nhẹ, đến khi nào có lệnh của ông, tôi chữa lành ngaỵ Bệnh này thường lắm, nếu chỉ nóng sốt, đau nhức ở chỗ đó, khó tiểu và có tí mủ. - Đúng là bệnh của hắn. Tôi sẽ gọi anh bất cứ khi nào, nhanh nhất là ngày mai để cùng đi gặp hắn. Đúng như dự tính, ngày hôm sau 19-5- 72, Hoàng Kim Loan xin gặp tôi, tôi gọi Bác Sĩ Hồ cùng đi, gặp bệnh nhân. Trung tá Loan có vẻ dè dặt khi thấy một người mặc sắc phục rằn ri CSDC mang cấp Đại úy, tôi giới thiệu với Hoàng Kim Loan: - Bác sĩ Hồ, Đại úy Cảnh Sát, Đại đội phó đại đội CSDC của tôị Ông là Bác sĩ thứ thiệt, tốt nghiệp Đại Học y khoa Huế, hành nghề đã hơn 1 năm, Bác sĩ đến để khám bệnh cho ông. Tôi ra ngoài để Bác sĩ Hồ khám bệnh cho hắn, nửa giờ sau Bác sĩ Hồ trở ra nói với tôi: - Tôi khám cho hắn rồi, bị sốt nhẹ, tôi chích cho hắn 1 mũi và cho hắn uống thuốc rồi, khi nào ông muốn hắn lành bệnh tôi chỉ chữa vài ngày là xong. Tôi phịa chuyện vì hắn ở dơ lâu ngày nên bộ phận đó hiện đang bị nhiễm trùng nặng, hơi nguy hiểm, phải chữa trị liên tục một vài tuần thì mới khỏị Tôi trực ở Đaị đội, ông gọi là có ngay, tôi về trước. Tôi và Ân vào phòng gặp Hoàng Kim Loan, hắn ở trong tình trạng bệ rạc, xuống dốc cả về thể xác lẫn tinh thần, một phần vì bị thẩm vấn liên tục, bị rúng động mạnh khi xem hình ảnh của hắn, của đám cơ sở nòng cốt đã bị bắt, vì lời khuyên của những đồng chí cũ đã đến thăm hắn, vì bệnh... đang hành hạ hắn. Quan trọng nhất là sự chờ đợi quân Giải phóng vào thành phố Huế, đã 7 ngày qua mà chẳng thấy đâu, và cuối cùng là cuộc Tổng nổi dậy tại Huế do hắn cầm đầu đã bị lực lượng CSQG Thưà Thiên- Huế đập nát từng mảnh vụn, bẻ gãy kế hoạch của hắn ngay từ trong trứng nước, hắn và đám người của hắn giờ đây mang thân cá chậu chim lồng. Nỗi thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt hắn. Ân nhắc tôi: - Anh đừng bắt tay hắn, hắn đang bị bệnh... đó. Tôi không bắt tay hắn, nhưng hỏi ngay: - Sao rồi Trung Tá Loan, ông muốn gặp tôỉ Những gì ông yêu cầu tôi đã làm cho ông, bây giờ đến phiên ông. - Tôi đã suy nghĩ nhiều, và quyết định ngày hôm nay muốn gặp ông Trưởng ty để cung cấp một vài tin tức, tôi nghĩ ông Trưởng ty đang cần. Ngược lại tôi có những điều kiện sau đây: 1- Tôi xin được bảo vệ an ninh tối đa, tôi nghĩ cơ quan chúng tôi đã biết tôi bị bắt, vì thời gian ấn định cuộc Tổng nổi dậy do tôi lãnh đạo đã trôi qua, tôi không liên lạc được với cơ quan. Mặt khác, bên ngoài các cơ sở nội ngoại thành của chúng tôi đang bị lùng bắt, tất nhiên họ nghĩ tôi đang bị khai thác và tiết lộ những tin tức quan trọng, hậu quả họ sẽ tung lực luợng trinh sát tìm kiếm tôi để thủ tiêu bịt miê.ng. Trước đây vào khoảng ngày 2-5-72 đã có 3 toán Trinh sát đột nhập vào thành phố Huế rồi, những toán trinh sát này họ có cơ sở riêng, có thể tìm ra tôi bất cứ khi nàọ Nơi này hoàn toàn không an ninh, ngày hôm qua khi ông Trưởng ty cho tôi gặp những người bạn cũ của tôi, tôi không tin tưởng ở ho.. Nơi này đã bị lộ, tốt hơn ông Ty nên dời tôi qua một địa điểm khác ngay, càng sớm, càng tốt. 2- Xin đừng bắt giữ vợ con tôi, họ là những người vô tội, không dính dấp gì đến những hoạt động của tôi, và cũng xin ông Ty bảo vệ cho ho.. Tôi sợ cơ quan tôi sẽ có hành động đối với ho.. 3- Bây giờ còn quá sớm, nhưng tôi xin nói trước, tôi muốn đổi sang quy chế Hồi chánh viên. Tôi trả lời ngay cho hắn: - Cả 3 yêu cầu của ông đều nằm trong quyền hạn của tôi, không có gì trở ngạị Điều kiện thứ 2 về vợ con ông, ông yêu cầu hơi thừa, tôi nhắc lại cho ông rõ và sẽ chẳng bao giờ đề cập nữa: Vợ con ông vô tội, họ an toàn, liên hệ gia đình với người Cộng sản không là tội, ngay tôi muốn làm khó dễ họ cũng không được. Luật pháp VNCH bảo vệ, che chở ho.. Chúng tôi là nhân viên công lực, là lực lượng CSQG, những người thừa hành luật pháp quốc gia, bổn phận của chúng tôi là phải bảo vệ họ, huống gì tôi không hề có ý nghĩ làm khó ho.. Ông yên tâm đi, ông muốn gặp họ khi nào cũng được cả. Tôi diễn giải thêm cho hắn yên tâm - Tôi cũng đồng ý với ông, căn nhà này không còn an toàn nữa, chúng tôi đã nghĩ đến điều đó. Tối nay, Đại úy Ân sẽ đổi nhà cho ông. Ông có nhận xét rất đúng và kịp thời, chuyện ông bị bắt đã lộ, vì quá thời gian tính, cơ quan ông, họ đã biết ông bị bắt, đương nhiên họ đang tìm kiếm ông. Đường về của ông đã bị bọn họ khóa chặt, ông đã bị họ loại, vì sau khi ông bị bắt, hầu hết các cơ sở quan trọng của ông, của ban an ninh Quân Khu Trị thiên, của 2 ban an ninh Tỉnh Ủy và Thị Ủy Thừa Thiên Huế đều bị bắt giữ. Thử hỏi tại saỏ Họ nghĩ ông đã tiết lộ, và ông là kẻ phản bộị Đối với một cơ quan Tình báo, nhất là cơ quan Tình báo Việt Cộng của ông, kẻ phản bội sẽ lãnh hậu quả tàn khốc như thế nào, ông hiểu rõ hơn tôi nhiều - Đường về đã bị bít kín, không còn nữa, tại sao không ở lại với chúng tôỉ Nghề nghiệp của ông và tôi đều tạo cho mình đa đoan, mưu lược và quỷ quyệt, đương nhiên ông chưa hẳn đã tin tôi, và tôi cũng vậy, vì thế tôi nói trước để ông hiểu: Mọi tin tức của ông sẽ được thâu băng, và cũng do ông viết trên giấy trắng mực đen. Sau đó chúng tôi sẽ phối kiểm qua các nhân viên của chúng tôi hiện đang nằm trong hàng ngũ các ông, và cuối cùng qua hệ thống máy đo sự thật (Test Polygrap) mà chúng tôi sẽ đo trên người ông, tôi mong ông hiểu đuợc điều đó. Hoàng Kim Loan trả lời tôi: - Tôi hiểu rõ điều đó ông trưởng Ty. - Mọi chuyện đã thông suốt, rõ ràng, và minh bạch. Bây giờ những điều gì ông muốn cho tôi biết, ông có thể bắt đầu. - Tôi sẽ nói những gì trong phạm vi của tôi và những gì ngoài phạm vi của tôi mà tôi biết được qua nhiều đối tượng khác nhau. Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 9 Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế) THẨM VẤN HOÀNG KIM LOAN I- Đối Tượng Cảnh Sát Quốc Gia. + 1)- Thiếu tá Quân lực VNCH Lê Cảnh Thâm, Trưởng ty CSQG tỉnh Quảng Tri.. Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Quảng Trị 1966 đến sau Mậu thân 1968. Hiện tại là Chi Khu Phó chi khu Hương Trà.Trước khi tôi bị bắt, đương sự đã có lệnh thuyên chuyển BTL/Tiền Phương Quân Đoàn I, phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân. Lê Cảnh Thâm có người anh ruột là Lê Cảnh Xuân tự là Nam Đen, Quân hàm Thiếu Tá Quân Báọ Tôi móc nối Thâm hoạt động từ khi hắn còn là Trung Sĩ phục vụ tại phòng 2 Sư Đoàn. Sau đó hắn được chuyển qua cho cơ quan Quân Báo điều khiển. Qua tiền bạc của cơ quan Quân báo, hắn đút lót cho cấp chỉ huy, hắn được đề nghị gởi đi học khoá Sĩ Quan Đặc Biệt tại Nha Trang, ra truờng mang cấp Chuẩn úỵ Đến 1966, nhờ thế lực hắn được đề cử đi làm Trưởng ty CSQG tại tỉnh Quảng Tri.. Trong suốt thời gian này cơ quan Quân Báo hầu như không giao cho hắn một công tác đặc biệt nào, để hắn lún sâu, nằm yên. Cho đến tháng 2/1972 cơ quan Quân báo cho người tiếp xúc với hắn và giao công tác, người tiếp xúc với hắn thời gian gần đây nhất, chính là Thiếu Tá Quân Báo Lê Cảnh Xuân tự Nam Đen, anh ruột hắn. + 2)- Nguyễn văn Cán, quận trưởng Cảnh Sát. (Commissioner). Trưởng Ty CSQG Thị xã Huế, sau 1963 đến tháng 5-1966. Nguyễn văn Cán có người anh ruột quân hàm Đại Tá Quân Báo Cô=EFng Sản, em ruột lại là Thiếu Tá Tế, thuộc đơn vị Truyền tin Quân Đoàn I/ QLVNCH. Nguyễn văn Cán được móc nối hoạt động qua quan hệ gia đình, hoạt động sau 1963, trực thuộc Cụm Tình báo Chiến Lược. Trước trận đánh Mậu Thân 1968, Tôi (HKLoan) đã trú ngụ tại nhà Quận Cán nhiều lần. + 3)- Đoàn Công Lập. Trưởng Ty CSQG Thừa Thiên và Thị Xã Huế từ tháng 7/1966 đến 2/1968 sau Mậu Thân. Đoàn Công Lập nguyên cán binh Trung Đoàn 95 chính quy Việt Cộng, phục vụ tại đơn vị Quân Báọ Vào 1953 trong cuộc hành quân mang tên Camargue của quân đội Pháp khai diễn taị vùng Vân Trình đến An Hội, từ sông Mỹ Chánh ra đến biển, vùng 'Dãy phố buồn hiú [tên này do lính Pháp đặt], kéo dài đến Thanh Hương, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc 2 quận Phong Điền và Quảng Điền nằm về phiá Bắc Tỉnh Thừa Thiên. Hai Trung Đoàn 101, và 95 Chính quy Việt Cộng bị tổn thất nặng nề. Đoàn công Lập ra đầu hàng với quân đội Pháp trong trận này tại vùng Thanh Hương. Saụ 1954 trở về Huế sinh sống bình thường, nghề cuối cùng trước khi làm Trưởng Ty Cảnh Sát là phóng viên thể thao, tường trình các trận đấu banh tại Huế. Truớc 1963 theo chỉ thị của cơ quan, tôi (HKLoan) móc nối Đoàn Công Lập hoạt động trở lạị Đoàn công Lập khôn ngoan đã gia nhập một đảng chính trị nổi tiếng chống Cộng để làm bình phong. Đến tháng 7/1966 được tiến cử làm Trưởng Ty Cả nh Sát Quốc Gia Thừa Thiên- Huế. Hoàng kim Loan nói tiếp: - Tôi là cán bộ điều khiển của Đoàn Công Lập. Chúng tôi thiết lập 2 trạm liên lạc, một ở nội thành và một ở ngoại thành. Trạm liên lạc nội thành: Nhà và cũng là văn phòng khám bệnh của Bác sĩ Hoàng Bá, nằm ngay đầu cầu Nam Giao, trên đường Phan Chu Trinh, quận 3 thành phố Huế. Bác sĩ Hoàng Bá là cơ sở đường dây nội thành. Trạm liên lạc ngoại thành: Đặt tại vùng Cầu Lim, là Chùa... Từ thành phố Huế đi lên qua khỏi Đàn Nam Giao, vừa qua khỏi Cầu Lim phía trái có con đường nhỏ, cuối đuờng này là ngôi chùạ Trụ trì chùa này là cơ sở đường dây ngoại thành. Trong suốt thời gian gần hai năm Đoàn Công Lập làm Trưởng Ty, chúng tôi hầu như làm chủ ty Cảnh Sát. Qua Đoàn Công Lập, mọi hoạt động chìm, nỗi của Cảnh Sát chúng tôi đều biết trước, rõ ràng và tường tận. Ngoài ra cơ quan chúng tôi đã có kế hoạch đẩy hắn xâm nhập vào cơ quan tình báo Hoa Kỳ và Toà Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế, qua ngõ Văn phòng Cố Vấn CSĐB.Chúng tôi đã cung cấp cho Đoàn Công Lập một số tin tức có giá trị cao như Nghị Quyết mới nhất của Trung Ương Đảng, báo chí và nhất là một số tài liệu quan trọng có giá trị để hắn thường xuyên cung cấp cho Văn Phòng Cố Vấn CSĐB. Đối với Toà Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ Tại Huế chúng tôi giao cho Đoàn Công Lập các tài liệu liên quan đến mọi hoạt động của Phật giáo Ấn Quang, Đảng phái Chính trị như: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng, Cần Laọv v... Tóm lại là những tin tức tình báo và chính trị mà 2 cơ quan này cần, với mục đích để hắn mỗi ngày mỗi tiếp cận và tạo uy tín khả năng tình báo của hắn với 2 cơ quan trên. Hy vọng trong tương lai gần, Tình báo dân sự Hoa Kỳ sẽ tuyển mộ hắn. Trong Mậu Thân 1968, nhiệm vụ chính của Đoàn Công Lập là chiếm giữ Đài phát thanh Huế hợp pháp, chờ đợi lực lượng Giải phóng kiểm soát toàn bộ thành phố Huế thì đài phát thanh sẽ phát đi lời kêu gọi của chính quyền Cách Mạng Thành phố Huế và những thông tin cần thiết. Với 3 cơ sở Hoàng Kim Loan vừa khai báo, tôi yêu cầu hắn dừng ngang đó, để hắn có thì giờ viết lạị Trong 3 cơ sở, chuyện về Quận Cán đã quá thời gian tính, sau Mậu Thân chính Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã cho bắt quận Cán và giao cho Trung Tá Cường, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội Đà Nẵng. Trung tá Cường là 1 đại sư phụ trong ngành An Ninh Quân Độị Ông hoạt động trong ngành tình báo, kể cả tình báo hải ngoại, từ lúc còn Trung úy trong thời Đệ I Cộng Hoà. Giữ chức vụ Trưởng Ty ANQĐ Đà Nẵng trong 11 năm, bản chất ngang tàng, không sợ trời mà cũng chẳng sợ đất, rất hợp với Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Thiếu Tướng Loan giao cho ông vụ Quận Cán là đúng người, đúng việc. Trường hợp của Thiếu Tá Lê Cảnh Thâm và ông Đoàn Công Lập. Việc đầu tiên sau lời khai của Hoàng Kim Loan, tôi yêu cầu Văn Phòng Cố Vấn CSĐB gởi 1 chuyên viên và máy đo sự thật ra Huế. Sau cuộc trắc nghiệm với máy đo sự thật xác nhận lời khai cuả HK Loan là đúng. ++[ Máy đo sự thật là một loại máy đo dựa trên căn bản hoạt động của nhịp đập tim và hoạt động thần kinh não bộ của người bị đo, để ghi nhận sự biến đổi và phản ứng của hai bộ phận nàỵ Người bị đo máy được hỏi những câu hỏi rất ngắn, gọn, một số là câu hỏi vu vơ, một số là những câu hỏi cần biết đương sự có nói dối hay không, và người bị hỏi chỉ trả lời: Có/Không, Yes/Nọ Ví dụ: Anh Tên là Loan phải không? Yes. - Anh có 2 con, 1 gái,1 trai phải không? Yes. - Anh đặt chuyện để vu khống cho Ông Thâm, Cán và Lập phải không? Nếu hắn nói láo thì phản ứng tự nhiên để chống lại câu hỏi đó được phát hiện trên một biểu đồ hình Sin trong toán học, qua máy đo vì sự biến đổi của nhịp tim mà máy có thể ghi lại trên biểu đồ trong khoảng 1/ bao nhiêu ngàn giây đồng hồ. Mặc dầu cho đến ngày nay máy đo sự thật vẫn không đuợc chấp nhận có đủ tư cách pháp lý làm bằng chứng để buộc tội, nhưng các cơ quan Tình báo họ tin máy này còn hơn tin Tổng Thống của ho.. Bây giờ tôi đủ 3 dữ kiện để có thể hành động ngay mà không sợ lầm lẫn: Lời khai của HK Loan đã được thâu băng. Lời khai do chính hắn viết taỵ Kết quả máy đo sự thật. Tôi ký giấy bắt giữ Thiếu Tá Lê Cảnh Thâm, thẩm vấn sơ khởi trong vòng 24 giờ, sau đó giải giao đương sự cho Thiếu tá Truật, Trưởng Ty ANQĐ Thừa Thiên-Huế, 'Tuỳ nghí. Tôi cho lệnh bắt giữ Bác Sĩ Hoàng Bá, và cơ sở trạm giao liên ở chùa gần Cầu Lim. Riêng Ông Đoàn Công Lập, đây là một trường hợp rất khó cho tôi, mặc dầu ông hoạt động cho địch, nhưng dù sao ông cũng là ông Chief cũ của tôi trong 2 năm. Khi ông thay Thiếu tá Phạm Khắc Đạt làm Trưởng ty, tôi vẫn là Phó Trưởng ty CSĐB làm duới quyền ông Lập. Bây giờ nếu tôi ký lệnh bắt ông ta, tôi chẳng biết tôi là loại người gì? Lương tâm, tình cảm và nhiệm vụ, tôi phải chọn đường nàỏ Tôi hỏi ý kiến phụ Tá của tôi Đại Úy Trương Công Ân Trưởng Phòng CSĐB. Có thể nói trong BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, ngoài tôi ra, Ân là người xếp hàng thứ hai khi trực diện đối đầu với đám giặc cỏ Việt Cộng, chúng tôi chẳng bao giờ tương nhượng và lùi bước một ly tấc nàọ Hắn đúng là Sĩ Cảnh Sát Đặc Biệt thứ thiệt, loại sĩ quan nòng cốt của Lực lượng CSQG. Trả lời câu hỏi của tôi, hắn nói: - Thường ngày đụng việc, nhất là đối với đám Việt Cộng, anh cứng ngắc. Sao đối với chuyện này anh yếu xìủ Có gì đâu, tội hắn còn nặng hơn Việt Cộng, Trưởng ty CSQG mà làm nội tuyến. Nếu tôi là anh, tôi ký giấy bắt ngaỵ Hắn dứt câu, tôi thấy có tí hổ thẹn trong lòng, tôi nói để chống đỡ: - Thì đó, vì mình là người quốc gia, nhiều khi tình cảm yếu đuối thật. Cuối cùng tôi chọn giải pháp trình Bộ Tư Lệnh CSQG tại Sàigòn xin BTL thụ lý vụ ông Đoàn công Lập. Tôi nhẹ người, trút được gánh nặng ngàn cân. Ngày hôm sau, 21-5-72, tôi tiếp tục nói chuyện với HK Loan. Hắn khai tiếp những cơ sở nội tuyến của Tổng Cục 2 Quân Báo và Cụm TBCL trong các đơn vị quân lực VNCH. Tôi chỉ nêu một hai nhân vật điển hình như sau: II- Đối tượng QLVNCH + 1)- Thiếu tá Phan Huệ Thiếu Tá Phan Huê là Chỉ huy trưởng Quân bưu cục (KBC) tại Huế. Cán bộ tình báo Việt Cộng điều khiển Thiếu tá Huê chính là Hoàng Kim Loan. Công tác chính của Thiếu tá Huê là sao chép, chụp hình những thư từ và các tài liệu quan trọng được chuyển qua hệ thống KBC, và chuyển lại cho Hoàng Kim Loan. + 2)- Một Cựu Thiếu Tuớng QLVNCH (xin được miễn đề cập danh tánh và chi tiết nội vụ) Ông này bị cơ quan Quân Báo Việt Cộng móc nối hoạt động từ khi còn mang cấp Tá. Cán bộ tình báo Việt Cộng điều khiển là Đại Tá quân Báo Việt Cộng Hà Văn Lâụ + 3)- Một Trung Tướng Quân Lực VNCH còn tại chức vào năm 1972 (Xin được miễn nêu danh tánh và chi tiết nội vụ). Cán bộ Tình Báo Việt Cộng đầu tiên được lệnh của cơ quan Cục TBCL /VC điều tra sưu tập toàn bộ lý lịch để mở đầu mối xâm nhập, tổ chức ông Trung Tướng này, chính là hắn, HK Loan. Sau đó Hoàng Kim Loan được lệnh chuyển giao toàn bộ đầu mối xâm nhập này lại cho Cục TBCL tại Hà Nội điều khiển, hắn không còn biết thêm gì nữạ Hắn vưà dứt lời khai, toàn thân tôi như có một luồng hơi lạnh chạy suốt từ chân đến đầụ Tôi ngồi yên bất đô.ng. nếu quả đúng, thật là một đại họa, một tai ương, bất hạnh quá lớn cho quốc gia, và cho tập thể Quân Lực VNCH. Tôi dừng cuộc thẩm vấn, để HK Loan viết lời khaị Tôi trở về BCH gọi Ân, hai anh em cùng bàn soạn với nhau: - Ân, mình phải cẩn thận hết sức. Có thể hắn khai thật, nhưng cũng phải đề phòng. Hắn là một con cáo già đã thành tinh đội lốt người trong giới Tình báọ Hắn dùng mình để gây xáo trộn, lũng đoạn, nghi ngờ trong nội tình Chính phủ, và cũng để hủy diệt mình. Bây giờ mình đi gặp chuyên viên đo máy sự thật yêu cầu họ soạn thảo thật nhiều và chi tiết các câu hỏi liên quan đến vụ này, yêu cầu đo máy chiều naỵ Nếu mọi lời khai của hắn đúng, làm phiếu trình Thiếu Tướng Tư Lê.nh. Tôi không thể rời nhiệm sở lúc nàỵ Anh thay tôi, sáng mai lấy chuyến bay sớm nhất vào gặp Đại Tá trưởng khối CSĐB của anh, trình bày rõ ràng, để ông trình Thiếu Tướng Tư Lệnh, chuyện này ngoài tầm tay của mình. Cuộc đo máy sự thật được thực hiện ngay chiều hôm đó và kéo dài khoảng gần 2 giờ. Kết quả chuyên viên cho biết lời khai của Hoàng Kim Loan thành thật. + 4)- Một Nhân viên ngườì Việt Nam (Xin được miễn nêu danh tánh) làm tại phòng Thông Tin Văn Hóa Hoa Kỳ tại Huế là tình báo viên của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt Cô.ng. Khi HK Loan khai báo về người này, tôi được Văn Phòng Cố Vấn CSĐB yêu cầu giữ kín nội vu.. III- Đối tượng Chính quyền. + 1)- Cựu Trưởng Ty Nội An Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế. (Đương sự hiện đang cư ngụ tại Hoa Kỳ, xin được miễn nêu danh tánh) Tham gia kháng chiến, 1953 được bố trí ra đầu thú để hoạt động nằm vùng. Cán bộ điều khiển người này là Hoàng Kim Loan. Trước ngày ra đầu thú chính Hoàng Kim Loan đã tặng người này chiếc áo lạnh màu lục vì khi đó thời tiết quá lạnh vào tháng 2/1953. Trong hệ thống chính quyền Tỉnh, về phương diện an ninh, Trưởng Ty Nội an Tỉnh được xếp vào hàng thứ 2, giữ nhiệm vụ quan trọng sau Trưởng ty Cảnh Sát. Ngoài việc tiếp nhận tin tức về vấn đề an ninh do Cơ quan Cảnh sát, phòng 2 Tiểu khu, Ty An Ninh Quân đội, Ty Chiêu Hồi gởi đến trình vị Tỉnh Trưởng sở tạị Trưởng ty Nội An là tổng thư ký Hội đồng An ninh tỉnh, có nhiệm vụ nghiên cứu và đề nghị biện pháp trừng phạt, chế tài những tù nhân Cộng Sản được ty Cảnh Sát đệ nạp đưa ra Hội đồng An ninh tỉnh xét xử. Thường thì đề nghị 6 tháng, 1 năm giam giữ, hoặc vì tình hình an ninh có thể giữ đến 2 năm và tái xét. Trong Hội đồng An ninh tỉnh, Trưởng ty Nội an có thể dùng quyền hạn giảm án tối đa cho những thành phần đó. Hoàng Kim Loan dùng y trong nhiệm vụ này, và ngoài ra chuyển những tin tức quan trọng mà các cơ quan an ninh, tình báo gởi trình vị Tỉnh trưởng. ++[Hội đồng An Ninh Tỉnh gồm có: Chủ Tịch: Tỉnh Trưởng, Trưởng ty Cảnh Sát: phó chủ tịch, Trưởng ty nội an: Tổng Thư ký. Hôị viên: Trưởng ty An Ninh Quân Đội, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu, Trưởng Ty Chiêu Hồi] Tôi ký lệnh bắt ỵ Khi thẩm vấn, y chối quanh không nhận, nhưng khi nhắc lại chiếc áo lạnh màu lục của nguời bạn tặng trong tháng 2-1953, khi hắn ra đầu thú, và sau đó tôi còn cho hắn nhìn thấy Hoàng Kin Loan bằng xương bằng thịt, người bạn năm xưa, và hiện tại là cán bộ điều khiển hắn. Hắn hết chối cãị + 2)- Viên tùy phái của Đại Tá Tỉnh Trưởng. Công việc thường nhật của y là đi sớm về muộn, đóng mở cửa văn phòng Tỉnh trưởng, lau bàn quét bụi, trà nuớc cho khách, sắp xếp hồ sơ tại văn phòng Tỉnh trưởng. Y phục vụ đến 3 đời Tỉnh trưởng: Đaị Tá Phan Văn Khoa, Đại Tá Lê văn Thân, Đại tá Tôn Thất Khiên. Đến đời Đại Tá Tôn Thất Khiên thì hắn mới bị phát giác và bị bắt. Nhiệm vụ mà Hoàng kim Loan giao cho y là nghe lén tin tức và đánh cắp một số tài liệu quan trọng trong văn phòng Tỉnh truởng. + 3)- Lê Quang Nguyện. Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Thưà Thiên. Lê quang Nguyện là cơ sở lâu đời mà Hoàng Kim Loan gài nằm vùng trong Phật Giáọ Bị bắt cùng một lần với HK Loan. + 4)- Nguyễn khoa Phẩm,Chủ Tịch Hội Đồng Tỉnh Thưà Thiên. Nguyễn Khoa Phẩm có người chị ruột là Nguyễn Khoa Diệu Hồng, Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Việt Nam tại Hà Nộị Nguyễn khoa Diệu Hồng là thành phần tín cẩn của Hồ chí Minh, được Hồ Chí Minh nhận làm... em nuôi...(...!!!) . Nguyễn khoa Phẩm là cơ sở nội thành của Hoàng Kim Loan, nằm trong tổ trí thức vận IV- Cơ sở Trí Thức Vận và Lực Luợng "Học Sinh Sinh Viên Giải Phóng". Cơ sở Trí vận và lực lượng "Học sinh, Sinh viên Giải Phóng" của HK Loan mà hắn kê khai tôi có thể viết đến cả trăm trang giấy cũng không hết. Hầu hết những thành phần giáo sư, học sinh , sinh viên chủ chốt trong trong vụ Phật Giáo tranh đấu Miền Trung vào năm 1966 đều là cơ sở trí vận và lực lượng học sinh sinh viên Giảỉ Phóng của Hoàng Kim Loan. Những người này tôi đã đề cập đến trong bài Biến Động Miền Trung đăng trong các số báo trước, tưởng không cần nhắc lạị Ngoài số cơ sở cũ đó. Hoàng Kim Loan bổ túc thêm những nhân vật sau đây: + 1)- Giáo Sư Châu Trọng Ngộ Ông là giáo sư toán lâu đời tại trường Quốc Học. Những thế hệ học trò Đệ nhất B (ban toán), từ những năm 57- 61, hầu như tất cả đều là học trò của thầy Châu Trọng Ngộ Tôi cũng nằm trong số đó. Ông là giáo sư toán lâu đời tại trường Quốc Học mà cũng là cơ sở trí vận nằm vùng lâu đời của Hoàng Kim Loan. Ông có người em ruột bạn cùng lớp với tôi tại trường Quốc Học. Tôi nhớ không lầm thì vào năm đệ nhị hay đệ nhất, tôi không còn gặp người bạn đó trong lớp nữạ Năm 1997 Đại sứ nuớc Cộng Hoà Xã hôi chủ Nghiã Việt Nam tại Thái Lan là đại Sứ Lê Maị Đại Sứ Lê Mai chính là người bạn học đã vắng bóng mà tôi vừa đề cập, chính là em ruột của Giáo Sư Châu Trọng Ngộ Có lẽ khi vào bưng anh ta đã thay tên đổi họ để khỏi liên lụy đến gia đình. Tôi và Đại Úy Ân đều tránh không gặp ông tại Trung tâm Thẩm vấn, vì cả hai chúng tôi đều là học trò ông. Trung úy Nguyễn thế Thông, Trung tâm trưởng trung tâm thẩm vấn đảm trách chuyện đó. Chỉ 2 tuần sau kể từ ngày bị bắt, tôi ký giấy trả tự do cho ông theo lệnh BTL/ CSQG tại Saìgòn vì Bộ Quốc gia Giáo Dục can thiệp với BTL Cảnh Sát. Tôi có thể viện nhiều lý do để không thả ông trong lúc đó, nhưng thôi, tình nghĩa thầy trò. + 2)- Giáo Sư Lý Kiềụ Ông ta là cơ sở trí vận của Hoàng Kim Loan, nằm vùng lâu đời nhất từ năm 1954, mãi đến tháng 5-1972 mới bị bắt. Ông ta là bạn thân nhóm trí vận Tôn thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, cùng ở chung và sinh hoạt với nhau tại Liên Khu IV, tức vùng Nghệ An, Thanh Hóa, trước hiệp định Genevạ Sau năm 1954 vào Huế, sống nghề dạy học. Truớc ngày bị bắt ông là giáo sư tại trường Trung học Nguyễn Du, Huế. Sau 1975, ông ra tranh cử chủ tịch Phường Thành Nội, nhưng thua phiếu một phu đạp xích lộ Đây là nỗi đau cuả người trí thức đi lầm đường. Có lẽ ông quên câu nói của Mao Trạch Đông: 'Giá trị của đám trí thức còn thua giá trị một bãi phân?. + 3)- Lý Văn Bút. Con trai Lý Kiều, cơ sở tình báo của cơ quan an ninh Tỉnh,Thị ủy Thừa Thiên-Huế. Cán bộ điều khiển là Nguyễn Mậu Huyên, tức Bảy Lanh thường được gọi là anh Bảy. Bảy Lanh là con nuôi chủ tiệm thuốc Bắc Thiên Tường ở đường Duy Tân cạnh chợ An Cựụ Bảy Lanh là Trưởng ban An Ninh Tỉnh Thị ủy Thừa Thiên Huế. Bảy Lanh và cha nuôi hắn Thiên Tường là hung thủ bắn, giết và chôn sống hàng trăm đồng bào vô tội trong Quận 3 (Hữu Ngạn) vào Mậu thân 1968. Lý văn Bút nguyên giáo sư bị gọi động viên, cấp bậc cuối cùng Trung úy QLVNCH, được biệt phái trở lại đi dạy tại trường Trung học Hàm Nghi- Huế. Một câu chuyện liên quan đến hoạt động của Lý Văn Bút đã trải qua gần 37 năm, quá đủ thời gian tính để giải mật và cũng để giải tỏa nghi vấn cho đám giặc cỏ Việt Cộng, bọn chúng tìm tòi mà vẫn không có đáp số đúng. Vào đầu tháng 4-1970 cơ quan Tỉnh ủy Thừa Thiên phái một nữ cán bộ từ cơ quan ở vùng gần Tà Bạt, A Lưới thuộc quận miền núi Nam Hoà về Huế công tác và mua một ít vật dụng cho cơ quan, trong đó cần mua một máy đánh chữ. Người nữ Cán bộ nầy tên là Nguyễn Thị Gái. Sau nhiều ngày Nguyễn thị Gái đến được làng Đình Môn, mặt tiền lăng Vua Gia Long, vượt nguồn tả sông Hương, qua làng Vỹ Dạ thuộc Nam Hoà, điểm hẹn là làng Gia Lê Thượng, thuộc quạân Huơng Thủy, sẽ có giao liên nội thành đón vào thành phố. Giao liên nội thành đến điểm hẹn đúng giờ và chở Nguyễn thị Gái bằng xe Honda vào thành phố. Người giao liên nội thành đó chính là Lý văn Bút, giáo sư trường Trung Học Hàm Nghi và cũng là Trung úy QLVNCH biệt phái. Từ Dạ Lê Thượng vào thành phố Huế chỉ là một đoạn đường ngắn, nhưng trước khi vào thành phố lại có một trạm kiểm soát rất chặt chẽ của lực lượng CSQG/Thừa Thiên Huế, được tăng cường và phối hợp một số Quân Cảnh để kiểm soát cả dân sự và quân nhân, đó là trở ngại và là mối lo lớn của Lý văn Bút. Nhưng Lý văn Bút không biết rằng có hai người còn lo hơn hắn, đó là tôi, và Đại úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB, mặc thường phục, cũng chở nhau bằng xe Honda chạy sau Lý Văn Bút để hộ tống cho Nguyễn Thị Gái, vì Nguyễn Thị Gái là cơ sở nằm vùng của chúng tôi. Cũng may, Lý văn Bút và Nguyễn thị Gái qua lọt trạm kiểm soát, nếu bị chận hỏi lôi thôi, thì một trong hai chúng tôi phải can thiệp ngầm để Nguyễn thị Gái khỏi bị bắt, như vậy có thể bại lộ công tác. Sau mười ngày, Nguyễn thị Gái trở lên cơ quan với nhiều vật dụng trong đó có chiếc máy đánh chữ. Khoảng 2 tuần sau đó, những trận mưa bom liên tục trút xuống khu vực cơ quan Tỉnh ủy Thừa Thiên. Những đợt oanh tạc này đã gây thiệt hại nặng nề nhân mạng, và cơ sở cho Tỉnh ủy Thừa Thiên, nhưng ngược lại chúng tôi cũng bị thiệt hại: Nguyễn thị Gái cơ sở nằm vùng của chúng tôi đã hy sinh. Địa điểm trú đóng của Tinh Ủy Thừa Thiên bị phát giác và các phi cơ không lực HK oanh tạc rất chính xác, tại saỏ Câu hỏi bao nhiêu năm mà bọn giặc cỏ Việt Cộng vẫn thắc mắc, tìm hiểu, mà không bao giờ có giải đáp đúng, thì giờ đây là câu trả lời: - Chiếc maý đánh chữ do chúng tôi cung cấp hiệu Oliver, một máy phát làn sóng lên thẳng được chuyên viên kỹ thuật ngoại quốc khéo léo đặt trong máy đánh chữ. Máy phát làn sóng lên thẳng này vận hành trên căn bản cũng giống như máy của các đơn vị biệt kích nhảy toán, hoặc các phi công thường dùng để định vị trí khi cấp cứu, chi tiết hơn thì tôi không rõ. Khi tôi giao máy đánh chữ cho Nguyễn thị Gái và bí mật hộ tống Nguyễn thị Gái vào vùng Dạ Lê để trở lại mật khu, là lúc máy bay không thám của HK bắt đầu bao vùng theo dõi và ghi nhận làn sóng, sau đó là cuộc oanh kích dữ đội của không lực HK vào cơ quan Tỉnh Ủy Việt Cô.ng. V- Đối tượng Học Sinh, Sinh Viên. Chủ trương của Trung Ương Đảng Cộng Sản Hà Nội, do Hoàng Kim Loan thực hiện, là dùng lực lượng Học Sinh, Sinh viên làm... "Ngòi nổ" cho mọi cuộc dấy loạn, gây rối, bất ổn, xáo trộn chính trị tại miền Nam Việt Nam, và tạo những suy sụp, đổ vỡ cho nhiều chính phủ VNCH. Học sinh, Sinh viên là một trong những lực lượng chủ lực của mọi cuộc xách động biểu tình, lên đường xuống đường triền miên, xảy ra từ khi manh nha lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đến khi giựt xập nền Đệ I Cộng Hoà vào năm 1963, kéo dài cho đến cuộc nổi loạn miền Trung năm 1966 của Thích Trí Quang/Hoàng Kim Loan, và tiếp tục gây rối đến thời Đệ II Cộng Hoà, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, mà Huế là trung tâm điểm xuất phát. Từ sau năm 1963, hằng tháng, hằng năm, hằng loạt các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường, đình công bãi thị chống đối chính phủ, cái gì cũng chống, từ chống tàn dư "Mật vụ Nhu Diệm, dư đảng Cần lao", "Đạo pháp lâm nguy", chống chiến tranh, đuổi Mỹ về nước, chống Quân sự học đường, chống bầu cử độc diễn, và cuối cùng chống luôn cả 17 triệu dân miền Nam vì họ không chấp nhận chế độ Cộng Sản. Mọi cuộc biến động chính trị tại Huế trong thời gian này đều xuất phát từ Trung Tâm gây rối Từ Đàm, từ tiểu thương chợ Đông Ba, và từ đám cơ sở nội thành Học sinh, Sinh viên Giải Phóng, nằm trong Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế. Tổng Hội Sinh viên Đại học Huế biến thành đấu trường Gián điệp giữa Quốc gia và Cộng sản, giữa Chính phủ và các phe nhóm đối lập, kẻ nào cầm nắm được Tổng hội SV kẻ đó có thể hướng dẫn một phần nào Tổng Hội SV đi theo con đường mình muốn. Hai lực lượng chính đối đầu nhau trong mục tiêu Tổng hội SV Đại học Huế: 1- Lực lượng địch gồm có: Tổng Cục 2 Quân Báo Cộng Sản Hà Nội. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng Sản Hà Nộị Ban An ninh Quân khu Trị Thiên . Ban An ninh Tỉnh, Thị Ủy Huế, Điệp viên VC Trung Tá Hoàng Kim Loan, và Thích Trí Quang. 2- Lực lượng ta gồm có: Phủ Đặc ủy Trung ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hoà Cảnh Sát Quốc gia Thưà Thiên-Huế. An Ninh Quân Đội . Đơn vị 101 Quân báo tại Huế. Tình báo Dân sự Hoa Kỳ. Mọi cơ quan tình báo của địch và ta đều có sách lược riêng để xâm nhập, cài người vàọ Mục tiêu của cả hai phe Quốc, Cộng tại Đại Học Huế là Ban chấp Hành Tổng Hội Sinh viên, từ Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên đến phó chủ tịch, Tổng thứ ký và hội viên trong ban chấp hành. Bên nào nắm được Ban chấp hành Tổng Hội Sinh viên, bên đó ở thế thượng phong. Từ 1963 đến 1966, Hoàng Kim Loan và Thích Trí Quang chủ động mọi hoạt động của Tổng hội Sinh Viên Đại Học Huế. Từ chủ tịch Sinh Viên đến toàn bộ ban chấp hành Tổng hội Sinh Viên hầu hết là co + sở nội thành Việt Cộng và là người của Trí Quang, bọn họ chỉ huy đám sinh viên nòng cốt này để phát động mọi cuộc gây rối loạn tại Huế. Điển hình là những sinh viên dưới đây: Nguyễn Đắc Xuân, SV Sư phạm. Hoàng Phủ Ngọc Phan, SV Y khoạ Nguyễn Thiết tức Hoàng Dung, SV Luật Khoa. Phạm Thị Xuân Quế, SV Y khoạ Tôn Thất Kỳ, SV. Hoàng Văn Giàu, SV. Phan Chánh Dinh tức Phan Duy Nhân, SV. Bửu Chỉ, SV. Nguyễn Hữu Châu Phan, SV. Hoàng Thị Thọ, Nữ sinh Đồng Khánh. Trần Quang Long, SV Sư Phạm. Võ Khuê, SV Văn Khoa. Phạm Cần, SV Y khoa. Trần văn Hoà, SV Cao Đẳng Mỹ Thuật. Trần Minh Thảo, SV Sư phạm. Trần Hoài, SV Sư phạm. Hồ Cư, Sinh viên ban Sử địa Và quá nhiều... Biến động miền Trung 6-1966, một số trong đám này bị lực lượng CSQG/Thừa Thiên- Huế bắt giữ, một số khác chạy thoát lên mật khu, để rồi Mậu Thân 1968, bọn chúng trở vào Huế, trả mối hận xưa, bắn giết không nương tay hàng ngàn người dân Huế. Một số khác trong đám này bị bắt trong chiến dịch Bình Minh 5/1972, và đưa ra tạm giữ tại Côn Sơn. Từ sau 1968 đến 1970, ban chấp hành Tổng Hội sinh viên Đại Học Huế có một số sinh viên của chúng tôi lọt vào được ban chấp hành Tổng hội, trong đó có 2 sinh viên là Sĩ Quan Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ là 2 trong 8 Sĩ Quan Cảnh Sát vừa mới ra trường từ Học viện Cảnh Sát Quốc Gia, được thuyên chuyển ra Huế, bổ sung cho phòng CSĐB. Tôi chọn 2 sĩ quan này, dáng dấp thư sinh, một người đã có một chứng chỉ Đại học và người kia cũng đã học Đại học được một năm. Từ sau buổi trình diện tại BCH, không còn ai biết họ là Sĩ quan CSĐB, ngoại trừ tôi và Đại Úy Ân. Họ thường gặp chúng tôi tại "nhà an toàn", để trình báo công tác và nhận chỉ thị. Họ đã trở thành sinh viên Đại Học Huế, hàng ngày chăm chỉ đến giảng đường Đại Học như mọi sinh viên khác. Với khả năng chuyên môn được đào tạo kỹ lưỡng từ Học viện CSQG, lần hồi họ đã lọt vào được ban chấp hành tổng hội Sinh viên và giữ chức vụ quan trọng. Vì thế chúng tôi nắm rất vững mọi hoạt động của đám sinh viên cơ sở nội thành, dưới quyền lãnh đạo của Trung tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan ..
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:19:03 GMT 9
Biến Động Miền Trung Phần 10 (Giai đoạn 1963-1975) Chống Bầu Cử Tổng Thống Nhiệm Kỳ II - 1971 Tình hình chính trị lại sôi động trở lại, Hoàng Kim Loan và Phật Giáo Ấn Quang tại Huế dùng sinh viên, học sinh và tín đồ Phật Giáo phát động một vụ biến động mới tại Huế : Chống bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ II. 1971 là năm bầu cử Tổng Thống nhiệm kỳ II vào ngày 1-10 1971, chỉ độc nhất có một liên danh ra ứng cử là liên danh Nguyễn Văn Thiệu - Trần văn Hương, vì thế báo chí đối lập gọi cuộc bầu cử này là “Bầu cử độc diễn” Phật giáo Ấn Quang chống đối mãnh liệt “Bầu cử độc diễn”. Các khuôn hội Phật giáo, Tỉnh Hội Phật giáo được lệnh chỉnh đốn hàng ngũ để chờ lệnh “Thầy” hành động. Hoàng Kim Loan nhảy vào cuộc, mọi cơ sở nội, ngoại thành, nằm trong Phật giáo, học sinh, sinh viên, tiểu thương chợ Đông Ba được lệnh sẵn sàng tham chiến. Ngoài hai lực lượng kể trên, còn có những thành phần đối lập, phe nhóm chính trị chống đối Tổng thống Thiệu, đã âm thầm nhảy vào ăn có, tạo cho tình hình chính trị, an ninh tại Huế vừa phức tạp, vừa nguy hiểm. Đương nhiên, tôi có nhân viên nằm vùng trong mọi tổ chức của bọn họ, nên nắm vững và rõ ràng, kế hoạch hành động của bọn chúng trong ngày bầu cử. Bọn chúng áp dụng kỹ thuật tác chiến của Tướng Trung Cộng Lâm Bưu : Dùng 5 mũi giáp công tiến vào thành phố (ba mũi đã chết ngắc, huống gì năm mũi), đồng thời tại trung tâm thành phố bọn chúng dùng chiến thuật “Nở hoa trong lòng địch”. Năm mũi giáp công đó là 5 đoàn biểu tình, mỗi đoàn khoảng hơn 1 ngàn người kéo vào thành phố từ 5 hướng khác nhau: Từ Đàm, An Cựu, Đập Đá, Bao Vinh, An Hoà. Nở hoa trong lòng địch là lực lượng Sinh Viên Đại Học Huế, và Tiểu thương chợ Đông Ba. Bộ chỉ huy điều khiển cuộc biểu tình này đóng tại Đại Học Văn Khoa, ngay đầu cầu Tràng Tiền, đối diện với đài phát thanh Huế, do nhóm sinh viên cơ sở nội thành của Hoàng kim Loan chỉ huy. Trước một ngày xảy ra biến động (ngày bầu cử Tổng Thống VNCH, nhiệm kỳ II), tôi làm phiếu trình Đại tá Tỉnh Trưởng về lực lượng, kế hoạch hành động của Phật giáo Ấn Quang và đám sinh viên tranh đấu vào sáng sớm ngày hôm sau, ngày bầu cử 1-10-1971, cuối bản phúc trình tôi còn nhớ tôi đã viết: ''Xin Đại Tá Tỉnh Trưởng ban chỉ thị cho Ty tôi thi hành''. Phúc trình gởi đi, chẳng thấy hồi âm, Đại Tá Tỉnh trưởng chẳng có một chỉ thị nào. Trong đêm trước, sau khi phân phối công việc cho mọi cấp chỉ huy, tôi cho rút các đơn vị CSDC hiện đang tăng phái cho các quận yểm trợ cho chương trình Phụng Hoàng cấp tốc về BCH tỉnh. 7:30 sáng ngày 1-10-1971 ngày bầu cử Tổng Thống, các địa điểm thùng phiếu bắt đầu mở cửa cho dân chúng đi bầu, Đại tá Tỉnh Trưởng gọi tôi đến gặp ông tại sân bay trực thăng ngay trước trường Quốc học: - Đại úy, tôi đã đọc phiếu trình của anh hồi đêm, tôi chẳng có chỉ thị gì cho anh cả. Tốt hơn anh nên liên lạc với Tư Lệnh của anh tại Sàigòn để xin chỉ thị của ông ta. Bây giờ tôi phải đi thanh tra Quận, mọi chuyện anh liên lạc máy báo cáo cho tôi biết. Nói dứt câu, ông bắt tay tôi bước lên trực thăng, máy bay cất cánh, tôi chưa kịp nói một lời nào, nhìn lên cao bóng dáng chiếc trực thăng chỉ còn là một chấm nhỏ giữa bầu trời xanh biếc. Một thoáng buồn chợt đến với nỗi bất bình trong lòng . Ông là Tỉnh Trưởng, Hiến Pháp VNCH đã quy định quyền hạn và nhiệm vụ của ông, ông là Tổng Thống tại địa phương này, ông có đầy đủ quyền hạn để ra lệnh cho thuộc cấp, cùng gánh trách nhiệm với thuộc cấp, đó là trách nhiệm và bổn phận của ông, tại sao lại phủi tay. Huế là trung tâm điểm của những trận cuồng phong chính trị, cơn lốc có thể kéo đến tận Sàigòn và giựt sập chính phủ Trung ương, vì vậy mà đã hơn một tuần nay, ông Nguyễn văn Ngân, Phụ tá Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và bộ tham mưu của ông đã có mặt tại Tòa Đại Biểu Huế, tiếp xúc với thân hào nhân sĩ, đảng phái chính trị, tôn giáo, mưu tìm sự hổ trợ cho Tổng Thống Thiệu, và cũng để theo dõi, giám sát cuộc bầu cử. Một vài hôm trước ngày bầu cử, theo chỉ thị, tôi cũng đã gặp ông Nguyễn văn Ngân và bộ tham mưu của ông để trình bày mọi tin tức liên quan đến cuộc bầu cử, đặc biệt là những tin tức Phật giáo Ấn Quang kết hợp với lực lượng Sinh Viên sẽ phá rối, ngăn chặn cuộc bầu cử, và kế hoạch bảo vệ an ninh, duy trì trật tự của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế trong ngày bầu cử. Bây giờ 8 giờ sáng ngày bầu cử, 1-10-1971, Huế sắp phải gánh chịu tai ương, gây rối loạn, bạo động trong thành phố của Phật giáo Ấn Quang và đám cơ sở học sinh, sinh viên “Giải Phóng” của Trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan, lần này cũng tương tự như cuộc nổi loạn của họ vào tháng 6-1966. Tôi không có một chỉ thị nào, một lệnh lạc nào của thượng cấp, cho dù là khẩu lệnh, để đối phó với tình hình nguy kịch này. Tôi hiểu, nếu tôi có xin lệnh vị Tư Lệnh trực tiếp của tôi, ngành CSQG tại Trung ương cũng bằng thừa, lý do dễ hiểu: ông Tư Lệnh ở xa nơi xảy ra biến động cả trên 1200 cây số, làm sao nắm vững tình hình để cho lệnh tôi hành động, và lẽ đương nhiên ông không thể chen vào quyền hạn của Tỉnh Truởng tại địa phương, vì đây là vấn đề chính trị rắc rối nhiều mặt, và hậu quả sẽ vô cùng tai hại nếu tôi hành động sai. Tôi hiểu, lệnh hành động giờ này không xuất phát từ đâu xa, mà từ lý trí, trách nhiệm và bổn phận của tôi, của một người cầm đầu lực lượng CSQG tại Thừa Thiên Huế và của tất cả anh em Sĩ Quan và Hạ sĩ quan thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên - Huế, chúng tôi có trách nhiệm và bổn phận duy trì luật pháp quốc gia, giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ sinh mạng đồng bào. Đã nắm rõ mục đích, bản chất của đám sẽ gây rối loạn là ai, tôi quyết định đàn áp không nương tay với đám gây rối bạo động này. Khoảng 9 giờ 10, sáng 1-10-1971, năm đoàn biểu tình từ các quận nông thôn kéo lên thành phố đã xuất hiện tại 5 cửa ngõ ra vào thành phố Huế, đại đa số lực lượng này là người của các khuôn hội Phật giáo tại các quận. Các đoàn biểu tình không gặp trở ngại tại năm cửa ngõ vào thành phố, họ không bị ngăn chặn bởi lực lượng Cảnh sát, thật ra điều này nằm trong kế hoạch của tôi, tôi muốn để họ vào và trực diện với họ một lần cho xong, tôi không đủ lực lượng CSDC để trấn áp bạo động và giải tán biểu tình từng điïa điểm. Với quân số 500 CSDC, nếu xé lẻ thì nỗ lực chính tại trung tâm thành phố sẽ yếu đi, khó đương đầu nổi với lực lượng biểu tình của bọn họ gần mười ngàn người. 9 giờ 40 phút sáng 1-10-71, lực lượng biểu tình đã tập trung đông đảo tại hai địa điểm: 1- Đường Phan Bội Châu, đường Trần Hưng Đạo, ngay mặt tiền của Ty Thông Tin cạnh đầu cầu Tràng Tiền là hai dãy phố chính của thành phố, và khu chợ Đông Ba ngay trung tâm thành phố, vào khoảng 4, 5 ngàn người, đủ mọi thành phần học sinh, sinh viên, tiểu thương chợ Đông Ba, và lực lượng của 2 mũi giáp công An Hoà, Bao Vinh kéo đến. 2- Trong và ngoài khuôn viên Đại Học Văn Khoa, Đài phát thanh Huế, dọc đường Lê Lợi, Duy Tân, khoảng 3 ngàn sinh viên, học sinh, côïng thêm lực lượng của 3 mũi giáp công Đập Đá, An Cựu, Từ Đàm nhập vào. Cũng tại khuôn viên Đại học Văn khoa, loa phóng thanh của lực lượng biểu tình bắt đầu kêu gọi học sinh, sinh viên bãi khóa, mọi nơi đình công bãi thị xuống đường chống bầu cử “độc diễn”. Mọi sinh hoạt bình thường của dân chúng trong thành phố bị ngưng đọng, giao thông trong thành phố và các tuyến đường đi Đà Nẵng, Quảng Trị bị cắt đứt hoàn toàn, cảnh tượng chẳng khác gì những ngày xáo trộn của cuộc tranh đấu Phật Giáo vào tháng 6-1966 tại Huế. Để chống bạo loạn và dẹp tan đám biểu tình, bảo vệ an ninh cho ngày bầu cử, đêm hôm trước, BCH chúng tôi đã họp bàn soạn kế hoạch đối phó, tôi xử dụng và phối trí lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế như sau : - 500 CSDC ( Đại đội 102 CSDC) - 400 Cảnh sát sắc phục . - 600 Cảnh Sát Đặc Biệt cộng Biệt đội Thiên Nga. - Biệt Đội Hình cảnh. Lực lượng được chia làm hai phần, nỗ lực chính và nỗ lực phụ : -Nỗ lực chính do tôi chỉ huy cùng với Đại Úy Trần văn Tý Đại đội trưởng 102 CSDC. -Nỗ lực phụ do Đại úy Trương văn Vinh Chỉ huy Phó chỉ huy, cùng với Đại úy Bác sĩ Hồ, Đại đội phó 102 CSDC. Đại úy Trương công Ân, Trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt, tung 600 nhân viên trà trộn vào các đám biểu tình ghi nhận mọi tin tức quan trọng, thông báo ngay để kịp thời phản ứng, đồng thời bắt giữ các thành phần nòng cốt trong đám biểu tình. Khác với những lần giải tán biểu tình trước đây, lần này tôi cho lệnh trang bị tối đa lựu đạn cay cho lực lượng trấn áp bạo động, và cho lệnh các đơn vị xử dụng tối đa, tổng cộng gần 2 ngàn lựu đạn cay được phân phối cho các đơn vị. Kim đồng hồ chỉ đúng 10 giờ sáng ngày 1-10-1971 cuộc bạo động tại thành phố Huế bắt đầu. Tại Quận II, trung tâm của thành phố, đoàn biểu tình bắt đầu di chuyển từ đường Trần Hưng Đạo, ngang qua chợ Đông Ba, tiểu thương chợ Đông Ba ào ra, nhập vào đoàn biểu tình. Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB báo về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, số lượng đồng bào biểu tình tại quận II khoảng hơn 6 ngàn nguời. Tại Khu Đại Học Văn Khoa số lượng học sinh, sinh viên tập trung khoảng gần 5 ngàn, họ đang có ý định kéo sang cầu Tràng Tiền nhập vào với đoàn biểu tình Quận II. Tôi nói với ông phó Trưởng Ty Trương Văn Vinh: - Mình xuất phát, anh đổ quân bao vây khu Đại học Văn Khoa, và chặn ngay bên này cầu Tràng Tiền không cho bọn chúng kéo sang nhập với đoàn biểu tình Quận II, cố gắng cầm chân bọn họ, đợi tôi giải tán đám biểu tình ở Quận II xong, giao lại cho Đại úy Tý tôi sẽ quay sang với anh ngay. Xe tôi dẫn đầu, theo sau là xe Đại úy Tý, băng qua cầu Tràng Tiền vừa đến đoạn cuối của chiếc cầu thuộc phạm vi Quận II, tất cả đoàn xe phải dừng lại, ngay trước mặt tiền của Ty Thông Tin đường Trần Hưng Đạo, sát ngay đầu cầu Tràng Tiền, lửa khói đã bốc cao từ một đống khoảng 40 vỏ xe hơi. Ân cũng báo cho biết một số địa điểm bỏ phiếu bị đập phá, một vài nơi khác đang bị đốt cháy. Tôi gọi máy nói với Đại úy Tý: - Tý, mình dừng tại đây, đổ quân, cho lệnh các Trung đội đi bộ và dàn đội hình, mình sẽ tiến sát và khi đối diện với đám biểu tình thì anh cho lệnh dừng lại. - Nhận rõ thẩm quyền. Nhìn cách dàn quận, bố trí đội hình, phải công nhận Đại úy Tý là một tay chuyên nghiệp giải tán biểu tình, không chê vào đâu được. Khi đụng việc, Tý là một sĩ quan trầm tĩnh, cương quyết, cứng rắn. Đại úy Tý là một Sĩ Quan CSQG rất trẻ, đẹp trai, còn độc thân, tay chơi thứ thiệt, một tay nhậu thuộc loại trời nghiêng đất lở, mấy ông quan ba, quan tư, Nguyễn Lô, Lê văn Mễ, Phạm Như Đà Lạt, Phan Nhật Nam trong Sư Đoàn Nhảy Dù đấu tay đôi với hắn, chưa chắc đã thắng nỗi hắn. Hắn mang chiến tích đầy người vì nhậu, nướng mực khô với rượu đế, rượu bốc cháy, hắn bị phỏng đầy người ở cấp độ hai, ba mươi phần trăm, tôi phải gởi hắn ra Hạm đội Mỹ chữa trị, về lại đơn vị hắn tiếp tục nhậu. Ngoài Tý, đại đội 102/CSDC còn có những Thiếu úy Trung Đội trưởng cự phách như Thiếu úy Hoàng Công Sủng, Thiếu úy Nguyễn Thế Quang, Thiếu Úy Truật, họ là những sĩ quan rất trẻ, năng động và là những chuyên viên trấn áp bạo động thứ thiệt của Đại đội 102 Cảnh Sát Dã Chiến . Tôi, Tý và khoảng 300 CSDC đối diện với đám biểu tình, khoảng trên 5 ngàn người, một rừng biểu ngữ đả đảo “Bầu cử độc diễn”, đả đảo Tổng thống Thiệu, và nhiều thứ đả đảo loạn xà ngầu, chẳng đâu vào đâu. Đứng đầu đoàn biểu tình là một lũ đầu trâu mặt ngựa, khoảng hơn 1 trăm tên, không biết từ đâu ra, bắt đầu văng tục, la hét, chửi bới um xùm, chửi ông Thiệu, ông Kỳ, ông Khiêm và thậm tệ nhất là ông ..... Liên Thành. Tôi lấy trong túi áo giáp ra băng cờ biểu tượng cho Quốc gia khoác ngang vào người, đó là thủ tục pháp lý khi giải tán biểu tình, và bắt đầu dùng loa phóng thanh nhân danh đủ thứ để kêu gọi đám biểu tình, tôi còn nhớ đại khái lời kêu gọi có nội dung như sau: - ''Nhân danh luật pháp quốc gia, nhân danh Tổng Thống VNCH, tôi yêu cầu đồng bào giải tán, bằng không, buộc lòng nhân viên công lực phải hành động giải tán cuộc biểu tình này. Mọi cản trở lưu thông, ngăn cản sinh hoạt của dân chúng trong giờ này là vi phạm luật pháp quốc gia, yêu cầu đồng bào giải tán. Đây là lần đốc thúc thứ nhất'' Luật pháp quy định phải kêu gọi ba lần, mỗi lần cách nhau 5 phút. Tôi và Tý đã giải tán hằng chục lần biểu tình trong vòng 5 năm nay, nên đến lần đốc thúc thứ nhì, Tý cho lệnh anh em mang mặt nạ chống hơi cay và sẵn sàng hành động. Tôi nhắc lại với Tý: - Anh nhớ dặn lính bắn phi tiễn sát đất, cấm không được bắn trực xạ, lỡ có ai bị thương, tình hình thêm rắc rối. Mình sẽ đẩy đoàn biểu tình chạy về cầu Gia Hội, chặn đường Phan Bội Châu, chừa đường Chi Lăng cho họ chạy, sau đó anh canh giữ cầu Gia Hội không cho họ kéo lên nữa. Sau khi kêu gọi lần thứ 3, tôi sẽ bắn quả phi tiễn đầu tiên vào đám biểu tình và ngay lập tức anh cho lệnh đơn vị xử dụng tối đa phi tiễn và lựu đạn cay đẩy lui đám biểu tình. Vừa dứt lời đốc thúc lần thứ 3, tôi bắn quả phi tiễn đầu tiên sát mặt đất, vào ngay đám biểu tình, lập tức hằng trăm quả lựu đạn cay và phi tiễn được tung vào đám biểu tình. Đám biểu tình dùng bao nylon che mặt chống hơi cay, dùng những bom xăng chống trả với lực lượng CSDC. Bom xăng được chế tạo bằng cách đổ xăng vào chai với một số vòng cao su, trên miệng chai là một nùi vải, châm lửa và ném vào CSDC, thường gọi là bom lửa Molotov, tôi cũng chẳng biết tại sao có danh từ này. Đám biểu tình chịu đựng và chống trả được cuộc tấn công của CSDC đợt lựu đạn cay đầu tiên, nhưng đợt tấn công lần thứ 2 thì họ hết chịu nổi, đoàn biểu tình lùi dần về phía cầu Gia Hội. Mặt nạ chống hơi cay còn chịu không nổi, bao nylon và vài quả chanh có sá gì với gần cả ngàn quả lựu đạn cay chúng tôi tung vào. Bây giờ thì thành phố Huế đầy khói của lốp xe hơi bị đốt và lựu đạn cay, Huế ngày xưa trong buổi thanh bình của thi sĩ Hàn Mạc Tử với : “Ở đây sương khói, mờ nhân ảnh” đã không còn nữa, mà “sương khói mờ hơi cay”, ngày hôm nay, vào giờ này, không phải của thiên nhiên, của trời, của đất, của Hàn Mạc Tử, mà là khói lựu đạn cay, của lực lượng CSQG/ Thừa Thiên-Huế đang chống biểu tình. Khói lựu đạn cay bồng bềnh giăng đầy phố Huế, từ đường Trần hưng Đạo, chợ Đông Ba, Phan Bội Châu, Hàng Bè, Bạch Đằng, Chi Lăng, chùa Diệu Đế, đến tận Gia Hội, Bãi Dâu, mơ màng trên sông Hương, qua đến quận III, khu Đại Học, Tòa Đại Biểu, và lang thang từ đường lớn, đường nhỏ đến tận hang cùng ngõ hẻm trong thành phố Huế. Quần thảo với đám biểu tình này khoảng hơn một giờ chúng tôi mới đẩy lui họ qua được vùng Chi Lăng, Gia Hội, đoàn biểu tình chạy tán loạn và giải tán. An ninh trật tự đã vãn hồi tại Quận II vào khoảng 12 giờ trưa ngày 1-10-1971. Tôi yêu cầu ty Thông Tin dùng xe phóng thanh kêu gọi đồng bào trong quận đi bỏ phiếu. Qua hệ thống máy Motorola, tiếng của Đại úy Vinh Chỉ huy phó gọi tôi: - Thẩm quyền, ông qua gấp bên này, bọn chúng bắt đầu đốt Đại học Văn Khoa. - Nhận rõ, tôi và Tý sang ngay, bình tĩnh. Tôi giao trách nhiệm lại cho Đại Úy Ngô Trọng Thành, Chỉ Huy Trưởng CSQG quận II, tôi cùng với Đại Úy Tý và lực lượng CSDC quay sang Khu Đại học Văn Khoa. Đại học Văn Khoa nằm ngay đầu cầu Tràng Tiền thuộc quận III, đối diện với đài phát thanh Huế và trường trung học Kiểu Mẫu, mặt tiền là giao điểm của đường Lê Lợi và Duy Tân. Chúng tôi vừa đổ quân ngay ngã tư Lê Lợi - Duy Tân, cạnh Đài phát Thanh Huế, nhìn lên trên sân thượng của lầu Đại học Văn khoa đã thấy lửa bắt đầu cháy phía mặt tiền của Đại học Văn Khoa rồi . Lực lượng biểu tình ở đây cũng đông không khác gì bên quận II. Bọn họ chia làm 3 toán : một toán ở góc đường Lê Lợi, một toán ở góc đường Duy Tân, một toán trong khuôn viên Đại học và trên sân thượng lầu Đại học Văn Khoa. Năm anh em chúng tôi Vinh, Ân, Tý, Hồ và tôi đứng ngay tại lề đường, đối diện với Đại học Văn Khoa, tôi chia phần cho 4 Đại uý: -Đường Lê Lợi phần của Đại Úy Tý, Đại đội trưởng. -Đường Duy Tân là phần của Đại đội phó Bác sĩ Hồ. -Đại úy Vinh chỉ huy phó chia đôi lực lượng tăng cường cho Tý và Hồ. Đại úy Vinh đi với lực lượng Đại uý Hồ. -Tôi lãnh phần tấn công thẳng vào Đại học Văn Khoa. Tôi nói nhỏ với Vinh, Ân, Hồ, Tý . . . . . . cả 4 đại úy đều khen ý kiến hay, tôi cười nhìn ho ï: - Bọn mình hay từ lâu rồi. - Khi Ân thi hành kế hoạch.. . xong, đợi tôi nói dứt câu: “Đây là lần đốc thúc thúc 3” là tấn công ngay, xử dụng tối đa lựu đạn cay, cho lệnh bắn trực xạ phi tiễn vào các cửa kính để đưa hơi cay vào trong khuôn viên đại học. Ân lặng lẽ đi thi hành kế hoạch, chúng tôi đợi Ân.. . . . . . Chỉ 15 phút sau một xe Dodge của Cảnh Sát mệt nhọc lăn bánh chạy chậm chậm ngang qua đoàn biểu tình đến ngay mặt tiền Đại học Văn Khoa thì xe bị hư máy không chạy được nữa. Tài xế xuống xe, mở nắp xe cúi mình vào sửa chữa, thì bỗng trong đám biểu tình có nhiều tiếng la lớn: -Đốt xe Cảnh Sát,... đốt xe Cảnh Sát. . . Một nhóm người trong đám biểu tình xông ra đổ xăng châm lửa, ngọn lửa bốc cao chiếc xe bắt đầu cháy lớn. Như vậy là quá đủ, vừa đốt cháy Đại học Văn khoa, vừa đốt xe nhân viên công lực, đám biểu tình đã vi phạm luật pháp một cách trầm trọng: Phá hoại tài sản Quốc gia, nhân viên công lực buộc lòng phải can thiệp. Đám biểu tình và sinh viên không còn to miệng la lớn: “Đại Học tự trị”. Chúng tôi sẽ xông thẳng vào khuôn viên Đại học để dẹp bọn quá khích này, tái lập an ninh trật tự, và bảo vệ tài sản Quốc gia. Tôi vừa dứt câu: “Đây là lần đốc thúc thứ 3”, Tý ở góc đường Lê Lợi, Hồ ở góc đường Duy Tân bắn hàng lọat phi tiễn và lựu đạn cay vào hai đoàn biểu tình, phần tôi cho lệnh bắn trực xạ vào tất cả các cửa kính của trường Đại học Văn khoa nằm về phía đường Lê Lợi và Duy Tân để chuyển hơi cay vào khuôn viên Đại học. Đám biểu tình và sinh viên phản công lại bằng bom xăng Molotov, hàng trăm chai xăng đỏ lửa bay tới tấp về phía chúng tôi, một vài Cảnh Sát Dã Chiến bị phỏng nhẹ vì bom xăng. Hai đoàn biểu tình la hét vang dội cả khu Đại học: “Đả đảo Nguyễn văn Thiệu, đảù đảo bầu cử độc diễn”, “đả đảo Liên Thành đàn áp học sinh sinh viên”. Yêu cầu đồng bào đình công bãi thị, bãi khoá, chống bầu cử độc diễn, v...v. . . Khói lựu đạn cay và phi tiễn hòa lẫn với khói bom xăng bay mù mịt, phủ kín cả khu đại học Văn khoa. Sau đợt tấn công lần đầu của CSDC, đám biểu tình vẫn chưa nao núng, vẫn la hét chửi bới, vẫn tiếp tục ném hằng loạt bom xăng vào CSDC. Tôi gọi máy nói với Tý, Vinh và Hồ: - Chuẩn bị tấn công đợt 2, sau khi xử dụng lựu đạn cay và phi tiễn, xông vào cận chiến, không nhân nhượng được nữa. Tôi hỏi Tý: - Anh cần tôi tăng cường cho anh không? Vì đám biểu tình bên phía anh quá đông. - Không cần thẩm quyền, vừa rồi tôi chỉ mới mời họ ăn điểm tâm, bây giờ tôi mời họ ăn trưa, ông yên tâm, mười lăm phút nữa là xong. - Vinh, Hồ, hai anh cần tăng cường không? - Chúng tôi dư sức chơi với bọn này, thẩm quyền lo cho Tý đi, bên cánh Tý nặng hơn chúng tôi. Sau nhiều loạt lựu đạn cay và phi tiễn, cả hai cánh quân đều xông vào cận chiến với đám biểu tình bằng khiên và gậy cao su. Bây giờ là 12 giờ 40 trưa ngày 1-10-1971, nắng thu vàng không đủ xuyên qua làn khói hơi cay, cả khu Văn khoa, Lê Lợi, Duy Tân mịt mù chìm trong khói xám dày đặc, chỉ cách nhau khoảng năm mười thước đã thấy mờ nhân ảnh. Hơi cay thấm vào da thịt, vào mắt vào mũi, tượng đá cũng phải tuôn lệ có xá gì mặt nạ hoặc bao nylon. Cảnh Sát Dã Chiến và cả đám biểu tình đều khóc, tuôn trào nước mắt không ngưng. Đám biểu tình không còn chịu nổi sức ép cận chiến quá mạnh của Tý, Vinh và Hồ, hai đám biểu tình lùi dần... lùi dần, cuối cùng cánh quân của Tý dẹp tan đoàn biểu tình ngay tại khu thư viện đại học, đối diện với Câu lạc bộ thể thao - Cánh quân của Vinh và Hồ đẩy đám biểu tình chạy dài đến ngã tư Duy Tân và Lê Thánh Tôn, đám biểu tình tự động tan hàng, rã đám. Tý gọi tôi: - Xong rồi thẩm quyền, tôi để lại một Trung đội chặn ngay khu đó. - Đồng ý, số còn lại, anh kéo hết về ngay nhà thuốc tây Lê đình Phòng, tôi đợi anh ở đó. - Nhận rõ thẩm quyền. Tôi gọi máy cho Đại úy Hồ: - Ông Bác sĩ, phía ông và Đại uý Vinh xong chưa? Dân trí thức, khoa bảng của bộ chỉ huy CSQG/Thừa Thiên-Huế văng tục: - Xong lâu rồi thẩm quyền, chỉ mười phút là xong ngay, giống như đi vào động. . . - Chưa xong đâu ông bác sĩ, để lại một trung đội giữ khu đó, số còn lại kéo hết về đây, mình dứt điểm khu Đại học Văn khoa. Mười phút sau, chúng tôi gặp nhau tại ngã ba Lê Lợi-Lý thường Kiệt cạnh nhà thuốc tây Lê đình Phòng, đối diện với cổng vào Đại học Văn Khoa. Bây giờ chỉ còn mục tiêu cuối cùng là Đại học Văn khoa, nơi bộ chỉ huy đầu não của cuộc biểu tình, theo phân chia từ trước, tôi chỉ huy thanh toán mục tiêu này. Lực lượng của Vinh, Hồ, làm thành phần trừ bị vòng ngoài, tôi, Tý chỉ huy 3 trung đội CSDC, Đại úy Ân với hơn một trăm CSĐB xông thẳng vào khuôn viên Đại học Văn Khoa. Tôi dặn Ân và Tý: - Ân, đám đầu não hốt trọn gói đem về trung tâm thẩm vấn. - Tý, số sinh viên, học sinh còn lại là đám a dua, ham chơi, chừa đường cho bọn hắn chạy. Còn lại bao nhiêu lựu đạn cay và phi tiễn dùng hết, Đại úy Vinh đã gọi về Đại úy Trinh TTHQ/Cảnh Lực, yêu cầu tái tiếp tế rồi anh khỏi lo. Tý dàn đội hình, tôi và Tý đứng ngay hàng đầu với phi tiễn cầm tay, 3 trung đội đã mang mặt nạ chống hơi cay, tôi và Tý vẫn đội trên đầu chưa kéo xuống mặt. Loa phóng thanh trong khuôn viên Đại học Văn khoa có lẽ đã bị hơi cay quá nhiều nên tiếng nói vừa rè vừa ấp úng: - Đả đảo Đại úy Liên Thành, Đại úy Trần Văn Tý đàn áp sinh viên, học sinh. - Yêu cầu Đại úy Liên Thành tôn trọng “quy chế Đại Học tự trị”, lực lượng Công An Cảnh Sát không có quyền xâm phạm vào khu đại học Văn Khoa. . . . Tôi dùng loa trả lời họ: - Quy chế Đại học tự trị trong hoàn cảnh này không còn được nhân viên công lực tôn trọng, các anh đã dùng công ốc của đại học biểu tình chống đối chính phủ, các anh đã vi phạm luật pháp khi nổi lửa đốt đại học Văn Khoa, hủy hoại tài sản quốc gia, đốt xe của nhân viên công lực khi đang thi hành phận sự. - Tôi cho phép năm phút để lực lượng biểu tình đang chiếm giữ khu đại học phải giải tán, bằng không, để bảo vệ tài sản quốc gia, tái lập an ninh trật tự, lực lượng CSQG/Thừa Thiên- Huế buộc lòng phải can thiệp. Tiên lễ, hậu binh, sau 5 phút chờ đợi, tôi xoay qua Tý và Ân: - Mình bắt đầu. Sau hai trái phi tiễn của tôi và Tý bắn đi, hàng loạt, hàng đợt phi tiễn và lựu đạn cay được gởi vào đại học Văn Khoa. Khoảng gần hai trăm Cảnh Sát Dã Chiến và Cảnh Sát Đặc Biệt xông vào sân trường Đại học Văn khoa, vì địa thế quá hẹp không khai triển đội hình được, tôi nói nhanh với Tý: - Mình chia đôi lực lượng, anh bên mặt, tôi bên trái, xử dụng thêm một đợt lựu đạn cay nữa, ép đẩy bọn chúng ra cổng chính. Khói cay bay mù mịt, đám sinh viên phản công bằng hàng loạt bom xăng tung vào chúng tôi, hơi xăng và hơi cay trộn lẫn vào nhau, sức trâu còn không chịu nỗi huống gì sức người, tôi và Tý đều cho gia tăng tối đa hơi cay và xông thẳng vào cận chiến với đám sinh viên, hai cánh quân của tôi và Tý một bên phải, một bên trái khép chặt vòng vây, đẩy đám sinh viên vào giữa và đẩy họ ra cổng chính của khu đại học Văn Khoa. Đám sinh viên vừa thoát ra được cổng chính chạy về hướng đường Lê Lợi, gặp ngay lực lượng của Hồ, Hồ đẩy họ lui, chạy về hướng đường Lý Thường Kiệt, Trần Cao Vân, Hồ cho 3 trung đội rượt theo đến ngay ty Bưu Điện Huế, đám sinh viên tan hàng. Trong khi đó, lực lượng CSĐB của Đại úy Ân đã bắt giữ toàn bộ đám sinh viên nòng cốt của cuộc biểu tình. Chúng tôi chiếm lại và kiểm soát khu đại học Văn Khoa vào khoảng 1 giờ 45 trưa ngày 1-10-1971. 2 giờ 30 ngày 1-10-1971 an ninh trật tự đã được tái lập. Sinh hoạt bình thường của dân chúng đã vãn hồi, phố phường mở cửa trở lại, khu chợ Đông Ba mọi người lại tấp nập mua bán, và đồng bào lũ lượt kéo đến địa điểm bỏ phiếu. Huế trong triền miên biểu tình, hàng tháng, hàng năm, vì thế mà người Huế đâm ra thành thói quen, cứ sau mỗi lần hít thở hơi lựu đạn cay, họ lại tỉnh bơ trở lại sinh hoạt bình thường, xem như không có hơi cay thì . . . nhớ, có rồi lại thôi, hết nhớ. . . 9 giờ 30 phút tối 1-10-71 các địa điểm bỏ phiếu trong toàn tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế đóng cửa. 11 giờ 45 khuya ngày 1-10-71 trung tâm kiểm phiếu trung ương đặt tại toà Hành Chánh tỉnh kiểm phiếu xong. Liên danh Nguyễn văn Thiệu-Trần văn Hương thắng phiếu tại Thừa Thiên- Huế. Trường hợp vị Tỉnh Trưởng tỉnh Thừa Thiên, Thị trưởng thành phố Huế, ông làm Tỉnh Trưởng là làm một nghề chính trị, nhưng ông đã đánh sai ván cờ chính trị lần này, vì vậy mà chỉ vỏn vẹn có mấy giờ, sau khi Trung tâm kiểm phiếu tại toà hành chánh tỉnh Thừa Thiên-Huế thông báo kết quả bầu cử, thì 9 giờ sáng ngày hôm sau, 2-10-1971 ông bị cách chức, bàn giao chức vụ lại cho Đại Tá Tôn Thất Khiên, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị vào thay thế. Từ 10 giờ sáng ngày 2-10-1971, hầu hết các cơ quan Tình báo hoạt động tại Huế đến gặp tôi xin bảo lãnh người, vì khoảng một phần ba trong số sinh viên bị bắt là người của họ. Sở dĩ tôi đề cập đến cuộc biểu tình chống bầu cử Tổng Thống vào năm 1971, là để chứng minh một điều : -Tổng hội Sinh Viên Đại học Huế là một chiến trường Tình báo, Gián điệp, của mọi cơ quan tình báo VNCH, hợp lực đấu trí với tình báo Việt cộng tại đó.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:20:08 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 11
HUẾ, MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972
***
- CSQG phá vỡ kế Hoạch Tổng nổi dậy của VC tại Huế. - Bắt Trung tá VC Hoàng kim Loan và 1500 cơ sở VC.
Ngày 30-3-1972, chiến dịch Nguyễn Huệ của Bắc quân bắt đầu. Trên 10,000 quân bộ chiến, gồm Sư Đoàn 304, 308 và 4 Trung đoàn đặc công 31, 426, 270 của mặt trận B2, với sự yểm trợ của 3 trung đoàn pháo nặng, 38, 68, 84, cùng với 200 chiến xa, vượt vùng phi quân sự tấn công thị xã Đồng Hà một thành phố nhỏ nằm về cực Bắc. Thị xã Đồng Hà thất thủ. Ngày 30-4-1972, một phần phía Bắc tỉnh lỵ Quảng Trị lọt vào tay quân Côïng sản. Chiều ngày 30-4-1972, Tướng Vũ văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 cùng bộ tham mưu và Cố vấn My, đã dùng trực thăng rời khỏi Cổ Thành Quảng Trị, nơi đặt BTL/Sư Đoàn 3. Tỉnh lỵ Quảng Trị thất thủ, lọt vào tay CSBV. Vào lúc 5 giờ sáng ngày 1-5-72, tôi tăng cường cho trạm kiểm soát An Hòa một trung đội Cảnh Sát Dã chiến để kiểm soát và hướng dẫn đồng bào Quảng Trị, trên đường di tản vào thành phố Huế. Khoảng 8 giờ 30 sáng, đoàn người chạy giặc đầu tiên đã xuất hiện tại trạm kiểm soát. Họ là dân tỉnh Quảng Trị chạy giặc, di tản bằng đường bộ, dọc theo quốc lộ I, xuôi về hướng Nam vào thành phố Huế. Bắc quân trải pháo trên một đoạn đường dài 9 cây số, đoạn đường mà dân chúng đang tháo chạy về hướng Nam. Hàng ngàn thân xác ông già, bà lão, trẻ thơ gục chết trên đoạn đường 9 cây số, thịt xương rơi vãi khắp nơi, quân cộng sản tạo đoạn đường này thành ''Đại lộ Máu, Đại lộ Kinh Hoàng''. Họ đã dã man tàn sát dân lành đang tìm đường chạy thoát khỏi sự chiếm đóng của họ. Dân chúng thuộc các quận phía Bắc Thừa Thiên-Huế như Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, nhập với đoàn người chạy giặc Quảng Trị vượt sông Mỹ Chánh chạy vào Huế. Gần cả trăm ngàn người chạy giặc trên đoạn đường máu, đoạn đường của tử thần, nhưng dù chết dù sống, đoàn người tỵ nạn vẫn cố vượt qua để xuôi về hướng Nam. Đoạn đầu của đoàn người đã vào đến cửa phía Bắc thành phố Huế, cửa An Hòa, đoạn cuối của đoàn người này vẫn còn tại quận Phong Điền, giáp ranh với tỉnh lỵ Quảng Trị. Họ hốt hoảng, kinh hoàng, đói khát, nối tiếp nhau tiến vào thành phố, dưới cơn nắng bốc lửa của mùa hạ. Từ cửa An Hòa, đến cầu Bạch Hổ, xuống Phu văn Lâu, đường Trầân Hưng Đạo, Chợ Đông Ba, Cầu Mới, cầu Tràng Tiền, trường Trung học Kiểu Mẫu, khu Đại học Văn Khoa, người tỵ nạn nằm ngồi la liệt, rục rã bất động. Hằng trăm chiếc xe máy cày từ vùng đồng quê Phong Điền, Quảng Điền, chất đầy người và vật dụng, chiếu, mền, nồi niêu soong chảo, treo lủng lẳng hai bên, nối tiếp nhau, mệt nhọc lăn bánh vào thành phố. Dân chạy giặc đã đến được thành phố, nhưng rồi còn chạy đi đâu? Sau Quảng Trị, Huế đang nằm trong vòng vây của Bắc quân. Phía Bắc Thừa Thiên-Huế đã có mặt các đại đơn vị của cộng quân từ Đồng Hà, Quảng Trị kéo vào. Phía Tây thành phố Huế ngay vòng đai an ninh xa, địch đã xuất hiện với lực lượng gồm Sư Đoàn 324B, Công trường 5 đặc công, Công trường 4, 6, cùng với 1 trung đoàn pháo nặng, tất cả được đặt dưới sự chỉ huy của Quân khu Trị Thiên cộng sản, đang giao tranh với Sư Đoàn I BB. Cao điểm chiến lược Bastogne, phía Tây Huế đã bị cộng quân chiếm giữ từ tháng 2/1972. Địch bắt đầu pháo kích vào Huế từng giờ một, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và 130 ly. Huế bắt đầu rối loạn, Huế kinh hoàng, Huế hốt hoảng. Huế từ từ rã ra từng mảnh trong ngơ ngác, sợ sệt. Hình ảnh đám sát thủ Cộng sản của năm Mậu Thân 1968 lại hiện về với người dân Huế. Việt cộng vào thành phố là đem theo chết chóc, chết đứng, chết ngồi, chết hàng loạt, chết tức tưởi, chết bị trói hai tay bằng dây kẽm gai, chết bị chôn sống, ngộp thở dưới đáy hố sâu, hàng chục, hàng trăm thi thể cùng một hố, mồ chôn tập thể. Dân tỵ nạn Quảng Trị nhập với dân Huế, bắt đầu di tản, chạy giặc xuôi về hướng Nam, hướng Đà Nẵng. Bằng mọi phương tiện, xe hai bánh, xe 4 bánh, bằng đôi chân, họ kéo nhau di tản trên quốc lộ I, Huế - Đà Nẵng, đoạn đường dài 102 Km. Họ băng qua Dạ Lê, Phù Lương, Phú Bài, An Nông 1, An Nông 2, Truồi, Cầu Hai, Phú Lộc, Lăng Cô, vượt đèo Hải Vân cao ngút ngàn !!! vào Đà Nẵng. Tất cả rời bỏ xứ Huế thân yêu, rời bỏ quê hương xứ sở, bỏ lại nhà cửa, tài sản, chỉ mong thoát khỏi vùng lửa đạn, lánh xa bọn quỉ dữ cộng sản. Tôi đứng ngay cầu Tràng Tiền nhìn đoàn người chạy giặc lòng bỗng chùng xuống, nỗi buồn vô hạn làm uất nghẹn lòng tôi, sao điêu linh, khổ nạn cứ bám sát nguời dân Huế mãi không thôi. Bây giờ là 2 giờ chiều ngày 4-5-1972, từ sáng sớm đến giờ, Bắc quân đã pháo kích 6 đợt hỏa tiễn 122 và 130 ly vào Huế, nhắm vào Bộ Tư lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I tại Mang Cá, Thành Nội, vào BCH/Cảnh Sát, Tiểu Khu, Mac-V thuộc quận 3. Bọn chúng bắn khá chính xác, có lẽ tiền sát pháo binh của bọn chúng ngụy trang chạy theo đoàn người tỵ nạn đã lọt vào thành phố. 9giờ 30 tối ngày 4-5-1972, sau một vòng tuần tiễu và kiểm soát các đơn vị CSQG bố trí phòng thủ tại các nút chận và các yếu điểm trong thành phố, tôi đậu xe ngay Cầu Mới, cây cầu cạnh bệnh viện Trung Ương Huế và Câu lạc bộ Thể Thao. Đang mải nhìn phía Chùa Thiên Mụ, Văn Thánh, nơi có ánh hỏa châu soi sáng, và xa hơn tận chân núi là những ánh lửa loé sáng của đạn pháo, thì bỗng có tiếng la thất thanh của Nguyễn Đình Ánh, người cận vệ của tôi, vừa là nhân viên truyền tin đang ngồi trên xe : - Đại Úy, Đại Úy, Chợ Đông Ba cháy ! ! ! Quả thật, chợ Đông Ba cháy. Ngọn lửa mới bắt đầu bùng lên, nhưng cũng đã soi sáng một góc phố Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu. Ngay lúc đó tôi nghe giọng nói của Đại Úy Ngô Trọng Thành, Chỉ Huy Trưởng CSQG quận 2, phát qua loa khuyếch đại của máy truyền tin Motorola gọi tôi: - Tango,Tango (danh hiệu truyền tin của tôi): Trình thẩm quyền chợ Đông Ba bị cháy. - Tôi nghe anh, tôi đang đứng ở cầu Mới tôi thấy rồi, nhưng tại sao cháy? - Trình thẩm quyền chưa rõ nguyên nhân, nhưng nhiều người trong chợ chạy ra họ nói: ''Lính chạy làng Sư Đoàn 3 đốt chợ''. - Tôi cho xe cứu hỏa qua giúp anh ngay, anh cẩn thận, để lại trung đội CSDC giữ BCH quận, đề phòng bọn đặc công Việt cộng tấn công, còn tất cả nhân viên xông vào chợ cứu số đồng bào đang bị kẹt trong đó. Tôi sẽ đến ngay. Tôi vào hệ thống truyền tin C.46 báo cáo cho Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng, Đại Tá Tôn Thất Khiên : -Trình thẩm quyền chợ Đông Ba đang bị cháy, chưa rõ nguyên nhân, tai nạn hay bị phá hoại, tôi đã cho 5 xe cứu hỏa sang chữa cháy. - Anh đang ở đâu? - Tôi đang ở cầu Mới. - Anh đợi, tôi đến ngay. Có lẽ Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng đang đi tuần tra gần đó, nên chưa đầy 2 phút sau ông đã có mặt tại Cầu Mới. Sang xe tôi, ông ngồi ghế trưởng xa và tôi lái. Tôi bật còi hụ và đèn khẩn cấp, lái thật nhanh, chỉ khoảng 5 phút là đã đến ngay trước chợ Đông Ba. Bây giờ thì ngọn lửa đã quá lớn, bốc cao đỏ rực cả thành phố. Năm xe cứu hỏa sắp cạn nước, đội cứu hỏa, và gần 100 nhân viên Cảnh sát tăng cường, cả tôi lẫn Đại Tá Tỉnh trưởng lăn xả vào chợ. Cuối cùng cũng phải đành bó tay trước ngọn lửa điên cuồng, thiêu rụi gần cả mặt trước của khu chợ Đông Ba. Trong khi đó thì lực lượng Nhân Dân Tự Vệ phường, khóm, nổ súng loạn xạ. Dân chúng cư ngụ dọc dãy phố Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Huỳnh thúc Kháng, Chi Lăng, cộng thêm dân tỵ nạn Quảng Trị nằm dọc hai bên vệ đường, vừa thấy chợ Đông Ba cháy, vừa nghe tiếng súng nổ, tưởng Việt cộng đã vào thành phố, ùn nhau kéo chạy. Cảnh tượng vô cùng hỗn loạn, tưởng chừng không thể tái lập được an ninh trật tự. Tôi nói với Đại Tá Tỉnh Trưởng: - Đại Tá, ông rời khỏi đây ngay, nơi này nguy hiểm quá, nếu Đại tá có chuyện gì là dân Thừa Thiên-Huế như rắn không đầu, ở đây tôi lo được. Miệng nói, tay ngoắc 2 người lính cận vệ của ông, và 4 người của tôi, hộ tống ông ra xe rời khỏi vùng chợ Đông Ba. Tôi dùng loa phóng thanh trên xe kêu gọi đồng bào bình tĩnh, và giải thích cho họ rõ, chợ cháy là do tai nạn, tiếng súng nổ là do lực lượng Nhân dân tự vệ bắn bừa bãi chứ không phải của Việt cộng. Nửa giờ sau, an ninh, trật tự vãn hồi. Khu chợ Đông Ba đã cháy rụi gần một nửa. Những ngày sau vẫn còn dư âm : '' Lính chạy làng đốt chợ Đông Ba''. Tôi vẫn không tin, sau này, khi bắt được tên Hoàng Kim Loan, tôi là người trực tiếp thẩm vấn Hoàng Kim Loan nhiều lần, có một lần đang hỏi hắn về những vấn đề khác, tôi đột ngột nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi: - Tại sao anh cho lệnh đốt chợ Đông Ba? Với câu hỏi đột ngột, không kịp phản ứng, hắn trả lời: - Đúng, người cho lệnh đốt chợ là tôi, thi hành công tác là cơ sở nội thành của tôi. - Tại sao? - Gây hoang mang, hỗn loạn trong quần chúng, và tạo tiếng vang, chuẩn bị cho cuộc Tổng nổi dậy. - Các anh mệnh danh là quân “Giải Phóng”, sao lại Giải phóng luôn cả tính mạng và tài sản của dân lành vô tội. Anh có biết là khi anh cho lệnh đốt chợ Đông Ba là đốt luôn tài sản của dân chúng và đốt luôn cả cuộc đời của họ. Giờ đây hàng ngàn gia đình không còn phương tiện sinh sống, vì tài sản của họ đã bị anh giải phóng sạch sẽ. Các anh đốt chợ, lại phao tin '' Lính Sư Đoàn 3 chạy làng, đốt chợ Đông Ba'', có phải chính anh cho cơ sở phao tin này hay không? - Đúng, khi đó chúng tôi muốn dân chúng Huế ghê tởm các anh, những kẻ tay sai và lính đánh thuê cho giặc Mỹ xâm lược. - Anh lầm, với kinh nghiệm Mậu Thân 1968, dân Huế đã quá biết thủ phạm trong vụ đốt chợ Đông Ba là quân “giải phóng” các anh, là những người cộng sản, không còn có chút nhân tính. Từ mùa hè đỏ lửa năm 1972 đến nay là năm 2007, đã 35 năm trôi qua, người dân xứ Huế và những ai đã ở lại Huế trong những ngày binh lửa và đã chứng kiến cảnh chợ Đông Ba bị đốt cháy, đến nay mỗi lần nhắc đến Huế, hoài niệm những ngày tháng cũ, chắc hẳn trong lòng vẫn còn câu hỏi, ai đốt chợ Đông Ba? Lính Quốc Gia hay là Việt cộng? Đã 35 năm trôi qua, giờ đây tôi mới có cơ hội trình bày sự thật và nêu đích danh thủ phạm vụ đốt chợ Đông Ba. Tôi mong những nạn nhân trong vụ cháy và những ai đã từng chứng kiến cảnh tượng bi thảm, hãi hùng đêm hôm đó, ngày hôm nay, còn ở quê nhà, xứ Huế hay ở hải ngoại, xin hiểu cho rằng: - Người lính VNCH, lính Sư Đoàn 3 BB mặc dầu trong điều kiện ngặt nghèo họ phải di tản, nhưng không vô kỷ luật đến độ đi đốt phá tài sản của đồng bào, và chợ Đông Ba bị đốt cháy là do tên Trung Tá cộng sản Hoàng Kim Loan, Ủy Viên Thành Ủy Huế và cơ sở nội thành của hắn thực hiện, để gây kinh hoàng, xáo trộn, tạo điều kiện và hoàn cảnh thuận lợi cho cuộc tổng nổi dậy tại thành phố Huế, mà bọn chúng định thực hiện trong tháng 5, mùa hè đỏ 1972. Thủ phạm là Hoàng Kim Loan và đồng bọn. Xin trả lại sự công bằng và minh oan cho nguời lính Sư Đoàn 3 BB, đã phải gánh chịu một hàm oan nhục nhã, mà bọn cộng sản đã phao vu và gán ghép cho họ. Trở lại tình hình Huế, từ nhiều ngày nay, kể từ khi Bắc quân vượt vùng phi quân sự tấn công Đồng Hà, Quảng Trị. Tin tức từ các đường giây đơn tuyến nằm sâu trong Quân khu Trị Thiên và hai cơ quan Tỉnh Ủy và Thành Ủy Huế của cộng sản dồn dập gởi về, xác nhận Quân khu Trị Thiên sắp tung một cuộc tấn công lớn vào thành phố Huế. Tỉnh thị Ủy Thừa Thiên-Huế đã có kế hoạch ''Dùng lực lượng quân sự hổ trợ cho lực lượng chính trị'', Tổng nổi dậy cướp chính quyền tại Huế. Nhân vật lãnh đạo trong kế hoạch cướp chính quyền tại Huế chính là Hoàng Kim Loan.
*** Hoàng Kim Loan, hắn là ai ?
Hoàng Kim Loan sinh và chánh quán tại xã Phong An, Quận Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên. Tính đến tháng 5-1972 hắn vừa đúng 56 tuổi. Có vợ trú ngụ tại xã Phong An. Có hai con, một gái và một trai. Con trai của hắn phục vụ trong Binh chủng Thiết Giáp Quân lực VNCH cấp bậc Đại úùy, con gái buôn bán và sống với mẹ. Ngoài ra, em ruột của hắn là Hoàng Mạnh Hùng, làm Chủ tịch Hội đồng Xã Phong An, Chính quyền VNCH. Hoàng Kim Loan theo Cộng sản từ thời kháng chiến chống Pháp, cùng lứa với Đại Tá Thân Trọng Một, Trung Đoàn trưởng, trung đoàn 5 Đặc Công cộng sản. (Thân Trọng Một quê ở Nguyệt Biều, Lương Quán, thuộc quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên). Tính đến năm 1972, Hoàng Kim Loan đã có 18 năm tuổi Đảng, “quân hàm” Trung Tá. Năm 1954, thay vì tập kết ra Bắc, hắn được gài ở lại. Địa bàn họat động của hắn là Thừa Thiên và thành phố Huế. Hoàng Kim Loan gốc thuộc Nha Liên Lạc hay Cục Tình Báo Chiến Lược, sau này vì nhu cầu đòi hỏi, hắn kiêm chức Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, phụ trách Tôn Giáo vận, Trí thức vận, kể cả Học sinh và Sinh viên. Với thời gian dài gần 20 năm hoạt động trong vùng quốc gia, địa bàn Thừa Thiên-Huế, từ tôn giáo, đảng phái chính trị, giới trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức chính quyền và ngay cả quân đội, đều bị Hoàng Kim Loan cấy, gài người vào hoạt động cho hắn. Mọi biến động chính trị, lên đường xuống đường, chống đối chính quyền Trung Ương VNCH và tại Thừa Thiên-Huế đều do một tay hắn và đám cơ sở của hắn nằm trong tôn giáo, học sinh, sinh viên khuấy động. Hắn biết nắm thời cơ, lợi dụng sức mạnh và quyền lực của Phật giáo Ấn Quang tại Thừa Thiên-Huế. Sau ngày đảo chánh lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và Tổng Thống Ngô Đình Diệm, qua các cơ sở quan trọng nằm vùng trong Phật giáo như Thích Đôn Hậêu, Chánh Đại diện Phật giáo Ấn Quang miền Trung, Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, trụ trì chùa Từ Đàm, Thích Chánh Trực trụ trì chùa Tường Vân và hàng ngàn cơ sở nằm trong các khuôn hội tại 13 quận thuộc Thừa Thiên-Huế, để thi hành các công tác khuấy động chính trị, gây xáo trộn và rối loạn tại miền Trung và Thừa Thiên Huế. Hắn áp dụng đúng sách lược :'' Dùng Phật Giáo làm ngọn cờ, dùng sinh viên, học sinh làm ngòi nổ''. Những công tác mà hắn đã thực hiện sau 1963: - Vô hiệu hóa các cơ quan, và nhân viên tình báo của Chính Phủ thuộc Đệ I Cộng Hòa. Áp lực chính quyền sau ngày “cách mạng”, truy tố và sau đó xử bắn ông Phan Quang Đông, Giám Đốc cơ quan Tình Báo hoạt động bên kia vỹ tuyến 17, qua các biểu tình rầm rộ tại Huế, vu khống, chụp mũ họ là Mật Vụ Nhu-Diệm đàn áp Phật giáo, bắt cóc thủ tiêu quý Thầy v..v.. - Giải thoát một số Cán bộ cao cấp côïng sản bị giam giữ tại Chín Hầm (một địa danh ở Huế) sau ngày “cách mạng” 1-11-63. - Vụ nổi loạn miền Trung của Thích Trí Quang mùa hè năm 1966. - Mậu Thân 1968, Hoàng Kim Loan phụ trách công tác Tổng Khởi Nghĩa, thành lập Ủy Ban Nhân dân Cách Mạng tại Thừa Thiên-Huế, cùng với Nguyễn Trung Chính cán bộ nằm vùng, Phan Nam tức Lương, cán bộ Thành Uûy, đã đưa Nguyễn Hữu Vấn, giáo sư trường Quốc Gia âm nhạc làm Chủ Tịch Ủy ban Nhân dân quận I. Nguyễn Thiết, bí danh Hoàng Dung làm Chủ Tịch ủy ban Nhân dân Quận 2. Năm 1955 (?) Thiết vượt vỹ tuyến 17 ngoài Bắc vào Nam với ngụy thức tìm tự do, sau đó học luật và len lỏi vào được ban chấp hành Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, tại đây Thiết phụ trách Sinh Viên vận. Trước Mậu Thân mấy ngày, Hoàng Kim Loan đưa Lê văn Hảo, giáo sư Nhân chủng học, đại học Huế lên mật khu nhận chức Chủ Tịch Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình và sau đó là Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thừa Thiên Huế. Ngày 14-2-1968, trong thời gian Cộng sản chiếm Huế, Hà Nội tuyên bố đã thành lập chính quyền Cộng sản tại Thừa Thiên-Huế. Chủ Tịch là Lê văn Hảo, đồng phó Chủ Tịch là Hoàng Phương Thảo, Thành Ủy Viên Cộng sản và Bà Tuần Chi tức Đào thị Yến, Hiệu Truởng Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, Huế. Bà Tuần Chi là mẹ nuôi của Bà Hoài Nam, vợ của một Trung Tướng trong Quân lực VNCH.(* Sau 1975 Lê văn Hảo không còn giá trị lơị dụng nữa, bọn cộng sản cho hắn chức Phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Trị-Thiên, ngồi chơi xơi nước, Hảo bất mãn, nhờ một Giáo Sư Đại Học người Pháp, thuộc Đảng Cộng sản Pháp, mời hắn Sang Paris thuyết trình. Nhân cơ hội đó, Hảo trốn ở lại Paris). Mậu Thân 1968, Hoàng Kim Loan cùng với tên Lê Minh, Tư lệnh mặt trận Huế - Trưởng ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên, tên Tống Hoàng Nguyên, tên Nguyễn Mậu Huyên tức Bảy Lanh, cán bộ An Ninh Cấp Khu Ủy, điều khiển những cuộc bắn giết, chôn sống đồng bào, nhân viên chính quyền, Cảnh Sát Quốc Gia và Quân nhân mà tổng số nạn nhân vô tội lên đến trên 5000 người. (*Nguyễn Mậu Huyên tức Bảy Lanh là con nuôi chủ tiệm Thuốc Bắc Thiên Tường ngay đường Duy Tân, đối diện chợ An Cựu, Quận 3). Nếu dùng danh từ luật pháp thì tội danh của Hoàng kim Loan và đồng bọn trong dịp Tết Mậu Thân tại Cố Đô Huế là tội diệt chủng, cũng giống bọn Khmer Rouge của xứ Cao Miên. Tóm lại sau gần 20 năm hoạt động tại địa bàn Thừa Thiên-Huế, Hoàng Kim Loan đã xây dựng và tổ chức được một hệ thống tình báo mạnh, vững chắc, kín đáo, nằm sâu vào mọi cơ quan dân sự, quân sự, an ninh, Cảnh Sát Quốc Gia, đảng phái chính trị, tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, của chính quyền quốc gia tại Thừa Thiên-Huế. Đặc biệt là Phật Giáo Ấn Quang, bị hắn cài người xâm nhập nặng nề nhất. Cơ sở nội tuyến của hắn phải tính đến hằng ngàn, thật kinh khủng ngoài sức tưởng tượng. Bây giờ là tháng 5-1972, mùa hè đỏ lửa, cộng sản Hà Nội và Hoàng Kim Loan đang sửa soạn diễn lại màn bi kịch Mậu Thân 1968, tổng nổi dậy và tắm máu dân Huế một lần nữa. Nhưng Hoàng kim Loan không ngờ lần này, hắn gặp một một đối thủ dù tuổi đời mới ngoài 30, chỉ hơn phân nửa tuổi hắn, vào nghề sau hắn 18 năm, nhưng đầy khả năng, lòng can đảm, ý chí sắt đá của một Sĩ quan Quân lực Việt Nam Côïng Hoà, lại đang là nhân viên công lực trong lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. Viên sĩ quan trẻ tuổi này đã bẻ gãy kế hoạch của Hà Nội và Hoàng Kim Loan. Bắt giữ gần 1500 cơ sở nội tuyến mà hắn, Cục Tình Báo Chiến Lược, và Tổng Cục 2 Quân Báo cộng sản, của ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên, và của Tỉnh, Thị Ủy Thừa Thiên-Huế, đã bỏ ra gần 20 năm gây dựng tại Thừa Thiên-Huế. Và chính hắn, Trung Tá Việt côïng Hoàng Kim Loan cũng phải đưa tay chịu trói. Vốn tính khiêm nhường, nhưng tôi cũng phải mạnh dạn thưa thật : Viên Sĩ quan đó là tôi, Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng CSQG/Thừa Thiên và Thị Xã Huế, với sự đóng góp công sức của toàn thể nhân viên các cấp thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế . Công bằng mà nói, Hoàng Kim Loan là một trong những điệp viên xuất sắc của cộng sản, hoạt động trong lòng “địch” gần 20 năm. Trong 15 năm đầu, không một cơ quan tình báo nào của Chính phủ VNCH phát giác được hắn. Khi bị tôi còng tay vào tháng 5/1972, hắn 56 tuổi, cao khoảng 1m60, nặng khoảng 58kg, da trắng, mái tóc bềnh bồng, bạc hoa râm, mang kính trắng. Hắn có dáng dấp của một học giả, một nhà thơ, hay giáo sư văn chương. Bất kỳ ai, ngay cả nhân viên công lực, tình báo, không thể ngờ hắn là một cán bộ cộng sản cao cấp, một điệp viên cộng sản. Hắn hoạt động, tổ chức cơ sở dưới dạng đơn tuyến, ngăn cách và rất thận trọng, bảo mật tối đa. Sống bất hợp pháp trong thành phố Huế gần 20 năm, thay đổi chỗ ở đến độ các toán theo dõi hắn mà tôi phái đi phải chóng mặt. Có một chỉ dấu nào hắn hơi nghi là lập tức hắn đổi chỗ ở, nhưng đó cũng là yếu điểm, chính hắn đã tự tố cáo các cơ sở nằm vùng của hắn cho tôi. Thường thì hắn chọn các cơ sở của hắn có thế lực, có uy tín và các cơ sở có chức vụ trong chính quyền, các cơ sở tôn giáo như các chùa để trú ngụ, hầu tránh mọi nghi ngờ phát giác. Những nơi hắn đã ở điển hình như : - Nhà của Nguyễn Hữu Đính, cơ sở nội thành ở đường Nguyễn Huệ, cạnh Toà Đại Biểu. Nguyễn Hữu Đính là anh ruột của thầy Nguyễn Hữu Thứ, giáo sư trường Quốc học và là Chánh Án toà Sơ thẩm Huế. Nguyễn hữu Đính có con trai Nguyễn Hữu Châu Phan, cơ sở nội thành, sinh viên tranh đấu. -Nhà của Tổng Thư Ký Viện Đại Học Huế.( niên khoá 1967-1968) - Nhà của Nguyễn Đóa, Giám thị Trường Quốc Học . - Nhà của Trưởng Ty Cảnh Sát thành phố Huế, Nguyễn văn Cán, thường gọi là Quận Cán, ở đường Triệu Ẩu, gần ngã tư bùng binh chợ An Cựu. - Nhà của Tôn thất Dương Tiềm ở đường Hoà Bình quận Thành Nội (quận I) - Chùa Tường Vân phía trên dốc Nam Giao, sau đồi Quảng Tế. - Chùa Trà Am, nằm về phía Tây núi Ngự Bình cách núi Ngự khoảng 3Km.…..Và nhiều, nhiều nữa... Mỗi lần di chuyển trong thành phố hắn rất khôn ngoan, lựa những giờ 12 giờ trưa, hoặc 6 giờ chiều là những giờ cao điểm lưu thông, công chức bãi sở, học sinh, sinh viên tan học, nhân viên công lực đổi phiên, lơ là kiểm soát. Một đôi khi hắn ngụy trang đi với một cặp vợ chồng cơ sở của hắn, dắt con dại đi theo, hắn đóng vai ông nội hoặc ông ngoại của đứa bé, qua mặt nhân viên công lực trong thành phố tỉnh bơ và dễ dàng. Hắn đâu ngờ hành tung của hắn đã bị chúng tôi phát giác và nhận diện từ tháng 11-1966, sau vụ hắn và Thích Trí Quang dấy loạn tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế. Sau một thời gian phối kiểm với một số cơ sở nội tuyến của chúng tôi, vào tháng 5-1967 tôi quyết định cho mở hồ sơ, và mở chiến dịch xâm nhập vào tổ chức của Hoàng Kim Loan. Thông thường thì một dự án (project) xâm nhập phải xét qua những chính điểm sau: - Mục tiêu xâm nhập . - Thời gian . - Ước tính ngân khoản . - Nhân sự : tuyển chọn nhân viên và cán bộ điều khiển . - Phương tiện : Nhà an toàn, xe cộ để theo dõi mục tiêu, phương tiện kỹ thuật. Tôi đặt tên cho chiến dịch này là:'San hô đỏ' vì thằng này hắn lặn sâu quá, giống như san hô nằm dưới đáy biển. Ngân khoản, phương tiện và máy móc do Cố vấn Mỹ cung cấp. Tôi tuyển chọn một số nhân viên thượng đẳng của ban xâm nhập, thuộc phòng CSĐB tung vào chiến dịch. Trong suốt thời gian 5 năm, từ 5-1967 đến 5-1972, nhờ xâm nhập theo dõi Hoàng Kim Loan và đám cơ sở nội thành của hắn, mà lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế, đã ngăn chận được một số hoạt động phá hoại của bọn chúng trong thành phố Huế, đã chặn đứng được những cuộc âm mưu khuấy động chính trị do Hoàng Kim Loan núp phiùa sau thế lực tôn giáo và đám Sinh Viên Học Sinh nội thành, do hắn điều khiển. Chúng tôi đã khám phá được nhiều cơ sở của hắn, biết rõ từng địa điểm hội họp, và những nơi Hoàng Kim Loan trú ngụ. Trong khoảng thời gian này, nếu tôi muốn bắt Hoàng Kim Loan thì thật quá dễ dàng, nhưng nguyên tắc xâm nhập là lún sâu và trèo cao, dại gì ăn non. Vào ngày 5-5-1972, Huế bây giờ đang trong cơn “thập tử nhất sinh”, mười chết một sống, giống như con bệnh sắp đến hồi kết thúc, thần chết lảng vảng chung quanh. Huế còn thở được bao lâu? Huế bây giờ giặc ngoài, loạn trong. Giặc ngoài đã có các đại đơn vị tinh nhuệ của Quân lực VNCH chận đánh, nhưng loạn trong là trách nhiệm và bổn phận của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế. 2 giờ 40 chiều ngày 5-5-1972, Huế vừa nhận thêm đợt pháo hỏa tiễn 122 ly của Việt cộng gởi về từ vùng núi phía Tây thành phố, đây là đợt pháo thứ tư trong ngày. Cứ sau mỗi đợt pháo, dân chúng lại hốt hoảng, rời bỏ Huế chạy về hướng Đà Nẵng. Nếu Việt cộng thực hiện cuộc Tổng nổi dậy trong thời gian này thì thật là một đại họa cho đồng bào Huế. Trong hoàn cảnh này, muốn chận đứng kế hoạch Tổng nổi dậy của Việt cộng là phải ra tay trước, thật nhanh và thật mạnh. Bắt tên cầm đầu Trung Tá VC Hoàng Kim Loan, đám cơ sở nội thành của hắn, và đám cơ sở của ban An ninh Khu Ủy Trị Thiên – Huế, mà chúng tôi đã phát giác và thiết lập danh sách từ 4 năm nay, con số đã lên gần 1500. Đám cơ sở Việt cộng này phải được nhanh chóng bắt giữ, cô lập, và vô hiệu hoá bọn chúng ngay. Cũng giống như cua bị bẻ gãy càng lớn, chân nhỏ, thì bò được đi đâu, có như vậy mới chận đứng và đập tan mưu toan tổng nổi dậy tại Huế của bọn Việt cộïng. Tôi quyết định mở cuộc hành quân trên khắp 10 quận nông thôn của tỉnh Thừa Thiên, và 3 quận trong thành phố Huế, đồng loạt truy bắt bọn này. Tôi bàn với Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt, Ân cũng đồng ý. Tôi nói Ân mời Đại Úy Trương văn Vinh, Chỉ huy Phó, Cố vấn CSĐB, Thiếu Tá Cố Vấn chương trình Phụng Hoàng, Cố vấn Đại Đội CSDC, cố vấn trưởng BCH, và Đại Úy Trần văn Trinh, Trung tâm trưởng Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, một giờ sau họp khẩn cấp tại văn phòng tôi. 5 giờ 25 chiều ngày 5-5-1972, bốn Cố vấn Mỹ đến văn phòng tôi, người nào cũng nón sắt, áo giáp, súng M18 cầm tay, nét mặt căng thẳng, viên Thiếu tá Cố vấn chương trình Phụng Hoàng hỏi ngay: - Sao rồi Đại Úy, tình hình trầm trọng lắm không? Tôi mời mọi người ngồi vào bàn họp chậm rải trả lời: - Đúng, tình hình an ninh mỗi ngày mỗi tệ hơn, như chúng ta đã biết, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã đến Huế (ngày 2-5-1972) thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân Đoàn I, chỉ huy mặt trận Trị Thiên. Mặt trận phía Bắc Thừa Thiên- Huế, các đại đơn vị của quân lực VNCH, đang thiết lập tuyến phòng thủ Huế bên này bờ sông Mỹ Chánh. Liên Đoàn Biệt Động Quân, Sư Đoàn Thủy Quận Lục Chiến, Sư Đoàn Nhảy Dù, đang chận đánh các Sư Đoàn của Việt cộng trên trục tiến quân vào Huế. Mặt trận phiùa Tây thành phố Huế, Sư Đoàn I BB đang đụng nặng với Sư Đoàn 324B và các trung đoàn 4 5, 6, của Quân khu Trị Thiên, tình hình vẫn chưa sáng sủa. Điều quan trọng nhất mà giờ này tôi mời quý vị họp khẩn cấp là tình hình an ninh tại thành phố Huế. Như quý vị đã được tôi thông báo nhiều ngày trước đây, nếu lực lượng quân sự của Việt cộng tiến sát gần thành phố Huế, thì ngay lập tức bọn Việt cộng sẽ phát động cuộc tổng nổi dậy tại thành phố, cướp chính quyền, và thành lập “chính quyền cách mạng” của bọn chúng như đã xảy ra hồi Tết Mậu Thân 1968. Hậu quả sẽ là một cuộc tắm máu lần thứ hai, mà lần này có lẽ còn tàn bạo hơn, khốc liệt hơn Mậu thân 1968. Vì vậy tôi quyết định ra tay trước khi quá trễ. Lực lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế sẽ mở một cuộc Hành Quân đại quy mô trong 10 quận nông thôn, trải dài từ Bắc Thừa Thiên đến Nam Thừa Thiên và 3 quận trong thành phố Huế, truy bắt tất cả hạ tầng cơ sở Việt cộng, và các cán bộ Cộng sản nằm vùng trong các cơ quan của chính quyền, học sinh, sinh viên, các thành phần côïng tác với địch, nằm vùng trong Quân đội, đảng phái, trong các giới thương gia, tiểu thương v.v. Tất cả những người này, chúng tôi đã có hồ sơ từ lâu, nhưng vì một số lớn nằm trong các tổ chức nội thành của Việt cộng mà Cảnh Sát Đặc Biệt đã mở những chiến dịch xâm nhập, nên chưa đến lúc phải phá vỡ, nhưng nay vì tình hình khẩn trương, để chận đứng cuộc tổng nổi dậy của bọn chúng, tôi quyết định giữ lại một số chiến dịch xâm nhập lâu dài, số còn lại phá vỡ và bắt giữ toàn bộ. Số lượng nằm trong danh sách khoảng 1500 cơ sở, và sẽ phải di chuyển họ rời khỏi Huế ngay. Chúng ta không còn nhiều thì giờ, nếu tình hình quân sự diễn biến nhanh và bất lợi cho quân lực VNCH, thì lập tức bọn cán bộ chính trị Việt cộng sẽ phát động cuộc tổng nổi dậy. Vì thế tôi nghĩ cuộc hành quân của chúng ta chậm nhất là phải khai diễn vào 6 giờ sáng ngày mai 6-5-1972. Nếu theo kiểu nói giang hồ, thì lần này tôi đem hết tài sản của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế ra chơi cạn láng canh xì phé với tên Trung Tá Việt Côïng Hoàng Kim Loan cùng đám giặc cỏ của hắn và tôi tin chắc chắn, tôi sẽ làm cho hắn cháy túi. Tôi sẽ xử dụng 2/3 lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế vào cuộc Hành Quân này, gồm có : - Cảnh Sát Đặc Biệt . - Cảnh Sát Dã Chiến . - Cảnh sát sắc phục . *(BCH /CSQG Thừa Thiên-Huế là đơn vị CSQG lớn nhất toàn quốc. Tổng số khoảng 5300 nhân viên CSQG, chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ của 10 quận nông thôn, gồm 73 xã thuộc tỉnh Thừa Thiên, và 3 quận 1, 2, 3 thị xã Huế) Chúng ta sẽ có cuộc họp toàn bộ các Chỉ Huy Trưởng, và phụ tá CSĐB quận, các cấp chỉ huy của BCH vào khoảng 9 giờ tối ngày hôm nay, vì vậy tôi yêu cầu văn phòng Cố Vấn Đặc Biệt, hoặc Phụng Hoàng giúp phương tiện trực thăng, chở các Chỉ Huy Trưởng và phụ tá Đặc Biệt quận về BCH tỉnh trước 9 giờ tối nay, và hoàn trả họ lại đơn vị sau khi họp xong. Thiếu tá Cố Vấn Phụng Hoàng cho biết: - Đại Úy Thành, tôi có thể giúp, hiện tôi đang có trực thăng trực cho tôi và Đại tá Cố Vấn Tỉnh, Ông có thể xử dụng. Tôi có một yêu cầu: Vào ngày hôm qua, tất cả những thành phần không quan trọng thuộc cơ quan Cố Vấn Tỉnh (Cord) đã di tản vào Đà Nẵng, chỉ còn một số ít nhân viên ở lại Huế, tôi muốn Đại Úy cho phép tôi và một toán nhỏ về đóng tại Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực để tiện liên lạc. - Không có gì trở ngại, Ông liên lạc với Đại Úy Trinh, Trung Tâm trưởng TTHQCL, Trinh sẽ sắp xếp cho ông. Cố vấn CSĐB hỏi tôi: - Đại Úy, phần trước ông cho biết có thể số người bị tạm giữ gần 1500, ông định di chuyển họ ra khỏi Huế, vậy đưa họ đi đâu và bằng phương tiện nào? - Bình thường những tù nhân đã lãnh án, đều được di chuyển ra Côn Sơn, và phương tiện di chuyển đều do Bộ Tư Lệnh CSQG tại Sàigòn cung cấp, tuy nhiên lần này vì tình hình đặc biệt, ngoài Bộ Tư Lệnh CSQG Sàigòn, tôi sẽ trình bày với Đại Tá Tỉnh Trưởng và nhờ ông can thiệp với Bộ Tư Lệnh Tiền phương Quân Đoàn I, cung cấp phương tiện chuyển vận, và địa điểm là Côn Sơn. Họ sẽ bị giữ tại đây trong một thời gian ngắn, khi tình hình Huế ổn định, tôi sẽ đem họ về và tuần tự thanh lọc. Ngoài số người này, hiện tại Trung Tâm Cải Huấn có khoảng 400 tù Cộng sản, số này đáng lý phải di chuyển hơn một tuần trước đây, nhưng vì tình hình chiến sự, họ vẫn còn tại Trung tâm Cải Huấn. Số 400 tù Cộng sản này phải di chuyển ngay, nếu họ nổi loạn phá nhà lao, hoặc lực lượng Đặc Công Việt cộng tấn công trung tâm Cải Huấn giải thoát đám này ra ngoài, thì hậu quả thật khó lường. Điểm cuối cùng, tôi có ý định đặt tên cho cuộc Hành Quân này là “Chiến Dịch Bình Minh”, với mong mỏi sau cuộc Hành Quân phá vỡ âm mưu Tổng nổi dậy của bọn Việt cộng, một Bình Minh an lành sẽ đến với đồng bào Huế. Mọi người đều thuận ý lấy tên như vậy. Tôi nói Đại Úy Trần văn Trinh cho quay ronéo 1500 lệnh tạm giữ, tôi sẽ ký khống chỉ và giao cho các Chỉ Huy Trưởng quận trong phiên họp tối nay. Riêng Đại Úy Ân liên lạc ngay với các Chỉ Huy Trưởng Quận và phụ tá CSĐB, chuẩn bị hồ sơ hạ tầng cơ sở địch trong phạm vi trách nhiệm, mang theo khi trực thăng đón lên họp tại BCH Tỉnh tối nay. Phiên họp chấm dứt, và hẹn gặp lại 9 giờ tối.
CHIẾN DỊCH BÌNH MINH
***
9 giờ 15 tối ngày 5-5-1972, tại phòng hội BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, thành phần tham dự gồm có: -Chỉ huy Trưởng CSQG/Thừa Thiên-Huế, kiêm Tổng thư ký điều hành Ủy Ban Phụng Hoàng : Đại Úy Liên Thành -CHP/ CSQG/Thừa Thiên-Huế : Đại Úy Trương Văn Vinh -Trưởng Phòng CSĐB : Đại Úy Trương Công Ân - Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên Nga: Nữ Đại Úy. . -Trưởng Phòng Cảnh Sát Tư Pháp : Đại Úy Nguyễn văn Ngôn -Trung Tâm Trưởng TTHQ/Cảnh Lực, kiêm phụ tá Tổng thư ký ỦyBan Phụng Hoàng Tỉnh : Đại Úy Trần văn Trinh -Trưởng phòng Hành Chánh, tiếp liệu : Đại Úy Trần văn Quế -Trưởng Ban Nhân Viên : Trung Úy Phạm Thìn. -Trưởng ban An Ninh Nội Bộ : Trung Úy Lê khắc Kỷ -Đại Đội trưởng ĐĐ/CSDC : Đại Úy Trần Văn Tý -Trưởng ban Tuần tiễu Hỗn hợp : Đại Úy Đoàn Đích -Biệt Đội Trưởng BĐ Hình Cảnh : Trung Uý Văn Hữu Tuất -Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Giang Cảnh :Đại Úy ... ... -Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Thẩm Vấn: Trung Úy Hồ Lang . -Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Tạm giam : Trung Úy Trần Văn Hồng . -Trưởng Ban Hoạt Vụ : Thiếu Úy Dương Văn Sỏ. -CHT Quận 1, phụ tá CSĐB : Đại Úy Lê Khắc Vấn. -CHT Quận 2, Phụ tá CSĐB : Đại Úy Ngô Trọng Thành . -CHT Quận 3 , Phụ tá CSĐB : Trung Úy Phạm Cần . -CHT Quận Phong Điền và PT/CSĐB: Đại Úy Trần Thế Hiển. -CHT Quận Quảng Điền và PT/ CSĐB: Đại Úy Trần Đức Tuất -CHT Quận Hương Điền, Phụ Tá CSĐB : Đại Úy. . -CHT Quận Hương Trà, PT/ CSĐB : Đại Úy Lê Văn Phi -CHT Quận Nam Hoà, PT/ CSĐB : Đại Úy Dương Phước Tấn -CHT Quận Hương Thủy, PT/ CSĐB : Đại Úy Phạm Bá Nhạc -CHT Quận Phú Vang, PT CSĐB : Đại Úy Nguyễn văn Hướng -CHT Quận Phú Thứ, PT/ CSĐB : Đại Uùy Lê văn Thiện. -CHT Quận Vinh Lộc, PT/ CSĐB: Đại Úy Tôn Thất Trang -CHT Quận Phú Lộc, PT/ CSĐB: Đại Úy Nguyễn văn Toàn -Đại Úy Dụng đại diện Ty An Ninh Quân đội ThừaThiên tại Ủy Ban Phụng Hoàng Tỉnh. -Trung Úy Lợi, Đại diện Phòng 2 và Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu Thừa Thiên tại Ủy Ban Phụng Hoàng Tỉnh. Về phía phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ gồm có: -Thiếu tá Cố vấn chương trình Phụng Hoàng Tỉnh. -Đại diện văn phòng cố vấn CSĐB. -Cố vấn Đại đội CSDC. -Cố Vấn Trưởng BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Mở đầu buổi họp là phần thuyết trình diễn biến tình hình chiến sự của hai mặt trận phía Bắc và phía Tây thành phố Huế, do Đại Úy Trinh, Trung Tâm trưởng TTHQ/Cảnh Lực trình bày. Kế tiếp, Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB trình bày kế hoạch và khả năng của địch trong âm mưu phát động cuộc Tổng nổi dậy tại thành phố Huế trong những ngày sắp đến. Phần tôi, tôi thông báo cho mọi đơn vị trưởng biết quyết định của Bộ Chỉ Huy Tỉnh, trong phiên họp hồi chiều là mở cuộc Hành Quân rộng lớn, bắt giữ tất cả các thành phần nòng cốt, hạ tầng cơ sở địch trong toàn tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, để chận đứng cuộc Tổng Nổi Dậy của bọn chúng. Ngoài ra, thành phố phải được kiểm soát thật chặt chẽ, đề phòng các toán tiền phương đặc công Việt cộng xâm nhập, bất thần tấn công các cơ sở quan trọng của chính quyền như : Trung Tâm Cải Huấn (nhà lao Thừa Phủ), Toà Hành Chánh Tỉnh, đài Phát Thanh, đài Truyền hình, Ty Ngân khố, Ty Bưu điện, các trụ sở phát tuyến hệ thống phát thanh ra miền Bắc của các đài Tiếng Nói Tự Do, Gươm Thiêng Ái Quốc, và nhất là đặc công thủy, có thể đặt chất nổ phá sập 3 cây cầu quan trọng đó là cầu Bạch Hổ, cầu Mới và cầu Tràng Tiền. Vì thế trách nhiệm của chúng ta, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế trong giờ phút này hết sức nặng nề, chúng ta phải đối phó hai mặt : - An ninh trong thành phố . - Ngăn chận cuộc Tổng nổi dậy. Vì vậy tôi có ý định xử dụng khoảng 3000 nhân viên vào hai công tác này và được phân chia như sau: - Đại Đội 102 Cảnh Sát Dã Chiến có 10 trung đội, quân số vào khoảng 500 người (không giống như cấp số của quân đội) - 1 Trung đội tăng cường cho Cảnh Sát sắc phục tại các nút chận cửa ngõ ra vào thành phố như : An Hòa, Bao Vinh, Đập Đá, Chợ Cống, An Cựu, Nam Giao, Cầu Lòn. - 2 Trung đội tăng cường canh giữ các yếu điểm quan trọng trong thành phố. - 3 Trung đội tăng cường cho phòng CSĐB yểm trợ cho cuộc Hành Quân.
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 11
HUẾ, MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972
***
- CSQG phá vỡ kế Hoạch Tổng nổi dậy của VC tại Huế. - Bắt Trung tá VC Hoàng kim Loan và 1500 cơ sở VC. ... Các trung đội còn lại là lực lượng trừ bị sẵn sàng ứng phó mọi biến động xảy ra trong thành phố và nhất là trấn áp các cuộc biểu tình bạo động. Đơn vị 102 CSDC, đặt dưới quyền chỉ huy và điều động của Đại Úy Trần văn Tý, Đại đội trưởng, và đại đội phó Đại Úy Bác Sĩ Chung Châu Hồ (Bác sĩ Hồ xuất thân Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, ra trường phục vụ tại BCH/CSQG Thừa Thiên. Đại đội phó 102 CSDC, anh ta học y khoa tại Đại Học Y Khoa Huế, rất hiếu học, vì thế tôi giúp anh ta có thì giờ học hành, mặc dầu đã tốt nghiệp Bác Sĩ, nhưng anh ta vẫn làm đại đội phó 102 CSDC). Tôi lưu ý Đại Úy Trần văn Tý, với tình hình hiện tại nếu có biểu tình bạo động xảy ra, thì đó là cuộc biểu tình của đám cơ sở nội thành Việt cộng, vì thế phải đàn áp thật mạnh và dập tắt tức thời, những ai chống lại bằng vũ khí, cho lệnh nổ súng bắn trả ngay, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lệnh này. - Đơn vị Biệt Đội Hình Cảnh. Trung Úy Văn Hữu Tuất, Biệt Đội Trưởng . - Đơn vị Tuần tra Hỗn Hợp. Đại Úy Đoàn Đích chỉ huy. Trong 2 ngày nay đã có những vụ cướp giựt trên đường phố, và trộm cắp tài sản của nhiều gia đình đã chạy giặc vào Đà Nẵng. Để bảo vệ an ninh và tài sản của đồng bào, hai đơn vị trên phải phối hợp chặt chẽ, truy bắt hết bọn bất lương này, giao cho phòng Tư Pháp, đợi tình hình ổn định, lập thủ tục truy tố bọn chúng ra toà. - Phòng Cảnh Sát Đặc Biệt. Nỗ lực chính của Chiến dịch Bình Minh. Xử dụng 1200 nhân viên CSĐB, tăng cường 100 Cảnh Sát Dã Chiến yểm trợ, và 400 nhân viên Cảnh Sát Sắc Phục yểm trợ lục soát và lập biên bản theo đúng thủ tục luật pháp quy định. Lực lượng này được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng Phòng Cảnh Sát Đặc Biệt. Tôi lưu ý với các cấp chỉ huy hiện diện trong phiên họp: Tình hình Huế mỗi giờ mỗi trầm trọng, cơ quan Tỉnh Ủy và Thị Ủy Việt cộng sẽ phát động cuộc Tổng nổi dậy cướp chính quyền tại Huế bất cứ giờ nào, kể từ ngày mai 6-5-1972, vì vậy chúng ta cần phải ra tay trước thật nhanh, mạnh mẽ và quyết liệt. Bất kỳ ai, dù họ là cấp nào, giới chức nào, tôn giáo hay phe phái nào, đã nằm trong danh sách đều phải bị bắt giữ. Tất cả phải được giải giao về trại tạm giam và trung tâm thẩm vấn. Trung Úy Hồng, trại trưởng Tạm Giam và Trung Úy Nguyễn Thế Thông, Trung tâm Trưởng Trung Tâm Thẩm vấn, phối hợp lập hồ sơ thật nhanh, chờ phương tiện di chuyển họ ra Côn Sơn. Tôi cũng tiên liệu rằng, trong thời gian cuộc hành quân đang tiếp diễn, hoặc sau khi chấm dứt, chúng ta sẽ gặp rất nhiều chống đối, bôi nhọ, vu khống của những phe phái đối lập, tôn giáo, và ngay cả những cơ sở Việt cộng nằm trong cơ quan lập pháp của Chính Phủ VNCH, v.v. . . Mọi hậu quả, với tư cách là người chỉ huy, tôi nhận lãnh trách nhiệm. Vì vậy tôi đã ký khống chỉ gần 2000 lệnh bắt giữ, chốc nữa đây Đại Úy Ân trưởng phòng CSĐB sẽ giao cho anh em chỉ huy trưởng quận. Đây là lệnh của tôi, của Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên- Huế, bằng bút ký lệnh, bằng giấy trắng mực đen, chứ không bằng khẩu lệnh, anh em yên tâm thi hành. Tôi chỉ xin anh em một điều duy nhất : - Cũng như tôi, hãy đem danh dự, tuổi trẻ, và tâm hồn trong sáng của một sĩ quan Quân lực VNCH, của một sĩ quan Cảnh Sát Quốc Gia, thi hành nghiêm chỉnh lệnh thượng cấp giao phó. Đừng đem tư thù, hoặc quyền lợi nhỏ nhen cá nhân mà vu khống, chụp mũ, bắt người vô tội. Nhớ kỹ: “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”. Gieo oan ức cho kẻ khác, cho dù anh em thuộc tôn giáo nào, cũng phải tin rằng, nếu đời này ta không trả món món nợ oan nghiệt đó, thì đời sau con cháu chúng ta sẽ phải trả nặng gấp bội phần. Tôi nhắc lại: - Bất kỳ cấp nào vi phạm những điều tôi vừa nêu trên, ngay lập tức sẽ bị câu lưu và truy tố ra toà. - Ngày N của chiến dịch Binh Minh là ngày mai: 6-5-1972 . - Giờ G là 6 giờ sáng. Một lực lượng Đặc nhiệm được thành lập để truy bắt Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan gồm có: - 20 nhân viên CSĐB - 30 nhân viên CSDC yểm trợ Tôi trực tiếp chỉ huy, Đại Úy Ân trưởng phòng CSĐB, Thiếu Úy Dương văn Sỏ trưởng ban Hoạt Vụ, phụ tá. - Giờ xuất phát của lực lượng đặc nhiệm là G -2 tức 4 giờ sáng ngày 6-5-1972. Sở dĩ tôi chọn 4 giờ sáng, 2 giờ trước chiến dịch Bình Minh khai diễn là để khỏi bị động, tên này có thể chạy thoát. Phiên họp Hành Quân chấm dứt vào lúc 11 giờ 20 tối. Các Chỉ Huy truởng và phụ tá Đặc biệt lần lượt lên trực thăng trở về nhiệm sở. Các đơn vị trưởng khác không cần điều động đơn vị đều đựơc giữ lại BCH, để khỏi bị tiết lộ tin tức hành quân. Tất cả đều dùng cơm khuya tại Câu lạc Bộ của BCH.
KẾT QUẢ :
- 4 giờ 54 phút sáng ngày 6-5-1972, Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan, Thành Ủy viên Thành Ủy Huế - Bị Lực Lượng Đặc Nhiệm BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế bắt sống tại Vỹ Dạ. Diễn tiến hành động : Từ nhiều ngày nay, các toán theo dõi đã bám sát mục tiêu Hoàng Kim Loan, và gần nhất ghi nhận : - Ngày 2-5-1972 hắn di chuyển đến nhà tên Lê Vân, cở sở nội thành, nhà nằm trên khu thượng thành, gần cửa Thượng Tứ. - Ngày 3-5-1972 di chuyển ra ở khách sạn Hương Bình ngay tại đường Trần Hưng Đaọ đối diện với vườn hoa Nguyễn Hoàng, đóng vai làm bồi phòng khách sạn. Khách sạn Hương Bình là cơ sở kinh tài của cơ quan Thành Ủy Huế. - Ngày 4-5-1972, di chuyển đến tiệm ảnh Lê Quang cũng ở đường Trần Hưng Đaọ, tại đây còn có một hầm bí mật trong nhà. - Sáng ngày 5-5-1972, Hoàng Kim Loan di chuyển đến nhà Lê Phước Á, giáo sư trường Trung Học Nguyễn Du, Lê phước Á có vợ là Huyền Tôn Nữ Kim Cương. Cả hai vợ chồng đều là cơ sở Trí Vận của Hoàng Kim Loan. Đây là địa điểm cuối cùng, hắn chọn nơi đây làm BCH điều khiển cuộc Tổng Nổi Dậy. Hắn là người Cộng sản nên không tin vào tướng số, phong thủy, hắn đã chọn đúng tử địa chui vào, và gặp ngay khắc tinh của hắn là tôi, có lẽ số hắn đã tận. Đúng 4 giờ sáng ngày 6-5-1972, Lực lượng Đặc Nhiệm xuất phát. Trước khi rời BCH tôi dặn Đại Úy Vinh là chỉ huy phó và Đại Úy Trần văn Trinh, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực: - Tôi và Ân đi đón khách quý, anh trực máy với tôi nhưng im lặng vô tuyến, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Chỉ 2 giờ sau chúng tôi trở về. Đại Uý Trinh nói với giọng hơi lo lắng: - Hai ông cẩn thận, lực lượng trừ bị của Đại Úy Tý đã sẵn sàng, có chuyện tôi gọi Tý điều động tiếp ứng ngay. Ân lái, tôi ngồi bên cạnh, đoàn xe lặng lẽ rời khỏi BCH, trời vẫn còn tối. Khi đoàn xe đến Đập Đá tôi chợt ngước nhìn phiùa Phu văn Lâu, bến Thương Bạc, khu Hoàng Thành, tất cả đều im lìm, mờ nhạt. Huế trong những ngày thanh bình giờ này đã có những chuyến đò dọc, xuôi nguợc trên giòng sông Hương, những chuyến đò chở đầy cát, sạn, từ hướng chùa Thiên Mụ, Nguyệt Biều, Lương Quán xuôi về Bao Vinh, làng Sình, hoặc những chuyến đò đầy những thùng nước, được lấy từ Điện Hòn Chén, chở về bán cho dân thành phố. Vào mùa hè giòng sông Hương về phía Tây thường bị nước mặn Thuận An tràn vào. Bây giờ Huế đang trong những ngày lửa đạn, chinh chiến, giờ này không một bóng đò xuôi ngược, giòng sông không một gợn sóng, lạnh lùng, âm thầm lặng lẽ trôi, giống như đời người dân Huế suốt đời an phận. Tôi nhìn phía bên kia Đập Đá là thôn Hô Lâu, Thọ Lộc, nơi có Phủ của Ngài Đông Cung Anh Duệ Hoàng Thái Tử Cảnh, vị con trưởng của Vua Gia Long. Thuở nhỏ, anh em chúng tôi thường theo cha về Phủ trong những ngày kỵ giỗ, từ sáng tinh mơ đã có những chiếc đò nhỏ lưới cá trên dòng sông Hô Lâu, trước mặt Phủ, với giọng hò vang vọng giữa dòng sông mờ ảo:“Gió đưa cành trúc là đà. Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương” nghe buồn lạ lùng, nhưng giờ này, đi ngang qua đây, không còn nghe tiếng chuông Thiên Mụ, mà chỉ nghe tiếng đạn pháo từ Thiên Mụ vọng về, và ánh hoả châu chập chùng trên dòng sông Hô Lâu. Huế đang trong cơn binh lửa. Đoàn xe đi qua Đập Đá, Ân có vẽ trầm tư. Tôi hỏi Ân: - Sao Ân, hồi hộp không ? - Có một tí Đại Úy. - Không sao đâu, đừng lo, mình sẽ tóm được hắn. Câu nói, vừa an ủi Ân mà cũng vừa trấn an cho mình. Ân là một Sĩ Quan Cảnh Sát thứ thiệt, không phải là thứ đồ giả như tôi, biệt phái từ quân đội sang. Ân rời bỏ sân trường Đại Học Huế, chọn ngành CSQG. Xuất thân Học Việân Cảnh Sát Quốc Gia, Biên tập viên khoá I. Là một sĩ quan trẻ, trầm tĩnh và mưu lược, dư khả năng chuyên môn và thừa sức để chỉ huy một lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt đông đảo gần 2000 nhân viên. - 4 giờ 20 phút sáng ngày 6-5-1972, chỉ còn cách mục tiêu khoảng 300 mét, Ân giảm tốc độ, tắt đèn và đậu xe sát lề đường, các xe khác tuần tự theo sau tấp vào. Lực Lượng Đặc Nhiệm đổ quân, sẵn sàng xuất phát bao vây căn nhà. Thôn Vỹ Dạ vào sáng sớm mùa hè 72, sương mù bao phủ, ánh sáng của những ngọn đèn đường không đủ soi lối đi, tầm nhìn hạn chế, tôi nói Ân cho lệnh đơn vị di chuyển sát vào nhau để khỏi ngộ nhận, chúng tôi di chuyển thật nhanh đến mục tiêu. - 4 giờ 30 phút sáng, chúng tôi đã đến cổng chính của ngôi nhà. Theo kế hoạch: Toán 1 gồm 30 CSDC, 10 nhân viên CSĐB, lực lượng bao vây căn nhà, chận cửa trước và bít cửa sau, Thiếu úy Dương văn Sỏ, Trưởng ban Hoạt Vụ, và Thiếu úy Trung đội trưởng trung đội CSDC chỉ huy. Toán 2, nỗ lực chính, do tôi và Đại úy Ân chỉ huy gồm có 10 CSDC, và 9 nhân viên CSĐB. Nhiệm vụ của toán 2 là xông thẳng vào nhà bằng cửa chính. Đây là một ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong khu vườn rộng mênh mông, với những tàn cây nhãn lồng và cây vú sữa lâu đời che khuất. Từ cổng vào nhà là con đường đất với hai hàng cây hoa ngâu chạy dọc theo lối đi, mùa này, sáng tinh mơ hoa ngâu tỏa hương thơm phảng phất nhẹ nhàng, có một ánh đèn nhỏ le lói sau tàn cây. Rất nhanh, và không gây một tiếng động nào, lực lượng CSDC và CSĐB của Thiếu úy Sỏ đã âm thầm vây kín căn nhà. Tôi nói rất nhỏ với Ân : - Bây giờ đến phiên mình xông vào cửa chính. Anh chọn 2 CSDC thật mạnh, đạp cửa chính, tôi chạy trước, anh và anh em phiùa sau, có thể bị bọn chúng bắn ra, nếu ai bị đạn cứ để toán sau tiếp cứu, mình phải thật nhanh không cho hắn một cơ hội nào đào thoát, hoặc tự sát. Mọi người sẵn sàng, tôi hướng dẫn chạy trước. Đoạn đường từ cổng chính vào nhà khoảng 150 mét, chúng tôi chạy đến đích tưởng chừng như chỉ mất một giây đồng hồ. Đến cửa chính tôi vừa lách người sang một bên, cánh cửa đã bị 2 nhân viên CSDC đạp mở tung. Mười nòng súng M16 chĩa vào 3 người đang ngồi nơi chiếc bàn nhỏ với ba tách trà. Vì sự việc xảy quá nhanh, họ không kịp phản ứng, thần kinh tê liệt, nỗi sợ hãi đã làm cho họ tê cứng, cấm khẩu, ngồi yên bất động giống như những vị sư đang ngồi thiền. Ba người đó là: - Trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan . - Lê Phước Á, giáo sư trường Trung học Nguyễn Du. - Lê quang Nguyện, Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên (Chính quyền VNCH). Tôi nhận ra ngay người ngồi giữa là Hoàng Kim Loan, vì đã nhiều lần nhìn mặt hắn qua các bức ảnh mà các toán theo dõi đã chụp lén được. Tôi tiến ngay đến trước mặt hắn và dùng đúng ngôn ngữ của bọn Việt cộng: - Chào Trung Tá Hoàng Kim Loan, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế, tôi Đại Úy Liên Thành Trưởng Ty Công An Thừa Thiên-Huế. Cuộc chơi của mình chấm dứt ở đây. Ông thua rồi !!! Trong phút chốc, hắn lấy lại bình tĩnh và trả lời tôi: - Ông lầm rồi Đại Úy Liên Thành, kẻ thua cuộc chính là ông, là đám Ngụy quân, Ngụy quyền các ông. Chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ nữa đây, trong ngày hôm nay, quân Giải Phóng và Quân đội Nhân Dân sẽ tiến vào thành phố, nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế sẽ Tổng nổi dậy lật đổ chính quyền bù nhìn các anh, chính quyền cách mạng sẽ thành lập. Hắn còn buông câu thơ con cóc của ông Hồ: Mỹ thua, Mỹ chạy về Mỹ. Ngụy thua Ngụy chạy về đâu? Đại Úy Liên Thành, ông buông súng đầu hàng đi, Chính quyền Cách Mạng sẽ khoan hồng cho ông. Hắn vừa dứt câu, tôi cảm thấy tức ngực và chóng mặt, nổi giận đến tột độ. Nếu trong đời, cho tôi được phép một lần, chỉ một lần thôi, tôi sẽ chọn lúc này bóp nguyên băng M18 đang cầm trên tay. Nhưng rất nhanh, tôi chế ngự được, bình thản trả lời hắn: - Trung Tá Loan, bây giờ đã gần 5 giờ sáng, ông cũng đã thức dậy từ lâu, sao còn mơ ngủ, mộng du vậy. Lực lượng Giải Phóng và quân đội Nhân Dân của các ông chẳng bao giờ tiến được nửa bước vào vòng đai ngoài của thành phố Huế, bởi vì mặt trận phía Bắc thành phố, các đại đơn vị của các ông đang bị các Sư Đoàn thiện chiến Nhảy Dù, TQLC, BĐQ/ QLVNCH chận đánh tan nát bên kia bờ sông Mỹ Chánh. Mặt trận phía Tây thành phố Huế, Sư Đoàn 324B, các trung đoàn 4, 5, 6 của các ông đang bị thiệt hại năïng nề và không nhích đựơc một bước khi phải giao tranh với một trong những sư đoàn thiện chiến nhất của quân lực VNCH, đó là Sư Đoàn I BB. Như vậy, ông còn gì để hy vọng lực lượng Giải Phóng, quân đội Nhân Dân sẽ vào thành phố Huế trong vài giờ nữa đây. Nói về cuộc tổng nổi dậy sắp đến của ông và của đám nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế, tôi cho ông biết sự thật ông lại càng thất vọng hơn nữa. Từ hơn 5 năm nay, hành tung của ông và đám cơ sở của ông đã bị lực lượng Công An Thừa Thiên-Huế của chúng tôi phát giác và theo dõi chặt chẽ, mọi âm mưu, mọi hành động gây rối của ông, và đám cơ sở đó đã từng bị chúng tôi chận đứng. Bây giờ chỉ còn 30 phút nữa thôi, đúng 6 giờ sáng ngày hôm nay 6-5-1972, một cuộc Hành Quân rộng lớn khắp toàn tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã sẽ khai diễn để bắt giữ đám nhân dân anh hùng Thừa Thiên Huế của ông, đập tan cuộc Tổng nổi dậy. Các ông mang danh là lực lượng Giải Phóng, là quân đội Nhân Dân, sao lại đem hoả tiễn 130 ly, B40, Ak 47 chọn nhân dân làm mục tiêu để giải phóng, để chiến thắng cái mà ông gọi là Ngụy Quân, Ngụy Quyền, thật là hèn hạ. Người dân Huế bây giờ hễ nghe đến quân Giải Phóng, nghe đến Việt cộng các ông là bỏ hết tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn bồng bế con ù té chạy, chạy vắt chân lên cổ, chạy bá thở ù tai, để khỏi gặp các ông. Họ đã có quá nhiều kinh nghiệm đau thương tang tóc trong mùa xuân năm Mậu Thân 1968. Các ông vào thành phố Huế là dân chết hàng loạt, họ chết oan chết ức, chết đứng, chết nằm, chết ngồi, chết trên bờ cây ngọn cỏ, chết trên đường lớn, đường nhỏ, chết trong hang cùng ngõ hẻm. Chính ông là thủ phạm giết hại hơn 5000 nạn nhân vô tội trong Tết Mậu Thân. Ông đã nhân danh Cách Mạng mở toà án Nhân Dân tại quận 1, 2, 3 trong thành phố Huế, xử bắn và chôn sống hàng ngàn người. Bản chất độc ác và thù hận của người cộng sản như ông thật quá lớn, ông đã gây oan nghiệt quá nhiều, sao không chiụ ngừng tay, bây giờ còn mưu toan tái diễn một Mậu Thân thứ 2. Tôi xoay qua nói với tên Lê quang Nguyện : - Ông Nghị viên, nếu tôi nhớ không lầm thì Đức Phật có dạy: “Buông dao xuống sẽ thành Phật”, có đúng vậy không ông nghị viên? Sao Ông chưa chịu buông. Hắn im lặng không trả lời. Lê Quang Nguyện là một tên cộng sản nằm vùng trong Phật giáo Ấn Quang tại Huế đã từ bao nhiêu năm nay. Hắn nằm trong tổ Tôn giáo vận của Hoàng Kim Loan. Điều oái oăm là hắn đắc cử chức Nghị Viên Hội Đồng tỉnh Thừa Thiên là do Phật giáo Ấn Quang hổ trợ mạnh mẽ cho hắn trong kỳ bầu cử. Trở lại đấu lý với Hoàng Kim Loan: - Bây giờ thì chắc ông đã tỉnh cơn mê. Ông chẳng còn gì để kêu gọi tôi buông súng đầu hàng, người thua trong cuộc chơi này chính là ông. Ông là gã lái buôn, buôn sinh mạng, và xương trắng máu đào của đồng bào vô tội, gã lái buôn đã kiệt vốn, ông còn gì nữa để mưu toan buôn bán lớn, ngừng tay đi. Bây giờ tôi chứng minh cho ông thấy ai là người thua trong cuộc chơi này: - Nhân danh luật pháp Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, Tôi Đại Úy Liên Thành, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, ra lệnh Đại Úy Trương Công Ân trưởng phòng Cảnh Sát Đặc Biệt BCH/CSQG Thừa Thiên Huế bắt : - Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan. - Giáo Sư Lê Phưóc Á. - Lê Quang Nguyện, Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên . Một nhân viên CSĐB rút còng số 8 định còng tay Hoàng Kim Loan nhưng tôi cản lại: - Không cần thiết, cứ để ông ta ngồi thoải mái với xe Đại Uý Ân, có các anh ngồi cạnh là được rồi. Thiếu úy Dương văn Sỏ nói nhỏ với tôi và Ân: - Đã lục soát kỹ, tịch thu được một số tài liệu quan trọng. Tôi dặn Thiếu úy Sỏ: - Anh nhớ lập biên bản soát nhà, đúng thủ tục, luật pháp, đưa chủ nhà ký vào để tránh rắc rối sau này. Xoay qua Ân, tôi nói: - Đấu lý với hắn đủ rồi, bây giờ mình rút. Nhớ để lại một toán nhỏ bám sát cơ sở của hắn đến họp sáng nay, hốt hết đem về Trung Tâm Thẩm Vấn. Tên Hoàng Kim Loan anh đưa về nhà an toàn, lấy lời khai sơ khởi ngay. Hai tên kia giao cho anh Sỏ đem về giao cho Trung úy Nguyễn thế Thông, Trung tâm trưởng Trung tâm thẩm vấn. Tôi về BCH, Hành Quân Bình Minh sắp khai diễn, sắp xếp xong mọi việc tôi sẽ đến ngay nhà an toàn đổi phiên cho anh. Chúng tôi rời khỏi địa điểm vào đúng 5 giờ 52 phút sáng ngày 6-5-1972, trả lại sự yên tĩnh cho ngôi nhà với ánh đèn le lói và một toán CSĐB phục kích bên trong. Về đến BCH đúng 6 giờ 10 phút sáng 6-5-1972, vừa thấy tôi xuất hiện tại ngưỡng cửa của TTHQ/ Cảnh Lực, mọi người đều túa ra vây quanh, Chỉ huy Phó Trương Văn Vinh là người hỏi tôi đầu tiên : - Sao rồi ông, được không? Tôi làm ra bộ thất vọng, nhưng rồi nói lớn : - Bắt được rồi, cá mập. Mọi người cùng la to vang dội cả căn phòng. Tôi kể chi tiết cuộc đột kích và đấu lý với Hoàng Kim Loan, Phó Vinh nổi nóng : - Sao ông không cho hắn một đạp. Lần đầu tiên tôi thấy ông Phó nổi nóng, nên nói : - Mình dân anh hùng mã thượng, đâu cần đạp người dưới ngựa - Vinh cười, nụ cười hiền lành giống như ông thầy giáo, mà thầy giáo thiệt. Trước đây Vinh là giáo sư trường trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị, bỏ nghề dạy học vào lực lượng CSQG, xuất thân Học Viện Cảnh Sát, Biên tập viên khoá I, cùng khoá với Ân. Là một người luôn luôn nói đến nguyên tắc và luật pháp, đang học luật tại Đại học Luật Khoa Huế, vì thế mọi việc trong BCH tôi rất yên tâm giao hết cho Vinh điều hành, kiểm soát, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến Tư pháp, ngoại trừ phòng CSĐB. Đang nói chuyện với mọi người, thì Trinh trao cho tôi một ly café nóng, uống một tí café đã thấy tỉnh táo. Nhiều khi trong đời người, hạnh phúc không cần tìm kiếm đâu xa, mà hạnh phúc chỉ là ly càfe nhỏ mà đồng đội trao cho, là tiếng reo hò chiến thắng của anh em trong đơn vị. Thời gian qua mau, chiến dịch Bình Minh đã khai diễn gần 2 tiếng đồng hồ. Mọi hệ thống liên lạc truyền tin từ BCH các quận đến TTHQ/Cảnh lực Tỉnh, và từ Tỉnh chuyển vào BCH/CSQG Quân khu I, và Trung tâm HQ/CL Bộ Tư lệnh CSQG tại Sàigòn, đều bận rộn vì chiến Dịch Bình Minh. Sau khi dặn Vinh và Trinh báo cáo lên Đại Tá Tỉnh Trưởng, BCH/CSQG Vùng I và BTL/CSQG Sài gòn, kết quả sơ khởi của Chiến dịch Bình Minh và vụ bắt Trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan, tôi rời BCH đến nhà an toàn thay Ân, bắt đầu vào việc với Hoàng Kim Loan. ….
***
THẨM VẤN HOÀNG KIM LOAN
***
Nhà an toàn, danh từ hơi khó hiểu và mập mờ, nếu không ở trong giới tình báo thì ít người được nghe và biết đến. Hầu như không có một cơ quan tình báo nào không có nhà an toàn, đó là một trong những căn nhà được thuê mướn, nằm trong khu nhà cửa đông đúc của dân chúng, hoặc công thự của cơ quan ít ai để ý, và địch khó phát giác. Nhà an toàn là nơi : - Tiếp xúc với các nguồn tin. - Tiếp xúc các nhân viên của cơ quan đang hoạt động trong hàng ngũ địch. - Để thẩm vấn những nhân vật quan trọng của địch mà cơ quan bắt được, hầu bảo vệ tính mạng cho chính đương sự, và bảo mật các tin tức quan trọng không bị tiết lộ ra ngoài. Trong vài trường hợp các nhân vật này chịu hợp tác, họ được bí mật tung ngược trở lại hàng ngũ địch ..v.v... *** Bây giờ là giai đoạn khó khăn và cam go nhất, bắt được Hoàng kim Loan đã là chuyện khó, nhưng muốn hắn nói thành thật những gì mình muốn biết lại là chuyện khó khăn bội phần. Nhiều người thường có ý nghĩ thẩm vấn thường đi kèm với bạo lực, đó là một ý tưởng hết sức sai lầm, nếu thẩm vấn đi kèm với bạo lực, sẽ đồng nghĩa với thiếu khả năng, đầu hàng đối tượng và càng khích động lòng trung kiên của đối tượng mà thôi. Kết quả thâu lượm được sẽ là số không. Vì thế, một thẩm vấn viên giỏi cần phải : Trầm tĩnh, luôn luôn chế ngự được sự nóng giận do đối tượng khiêu khích trong mọi tình huống. Hiểu biết thật rộng rãi về hệ thống tổ chức, địa bàn hoạt động, đối tượng móc nối, kết nạp, và các nhân vật trong tổ chức của địch, nếu không, rất dễ dàng bị đối tượng man khai, cung cấp những tin tức sai lạc khó phân tích và hậu quả hết sức tai hại. Tỉnh Ủy Thừa Thiên và Thành Ủy Huế là hai đối tượng và mục tiêu mà chúng tôi phải đương đầu hằng ngày, nên chúng tôi nắm rất vững vàng về tổ chức, nhân sự, và mọi hoạt động của họ, và được cập nhật thường xuyên. Ngay cả những thay đổi nhân sự trong nội bộ của địch, chỉ trong một thời gian rất ngắn, vài tuần là chúng tôi biết ngay. Nhưng đối với Tổng cục 2 Quân Báo, và Cục Tình Báo Chiến Lược, phải thành thật mà nhận rằng, hiểu biết của chúng tôi về hai cơ quan này rất hạn hẹp, vì không nằm trong trách nhiệm của chúng tôi, mà là của các cơ quan tình báo quân sự và dân sự cao cấp trong chính phủ VNCH tại Sài gòn. Mọi hồ sơ liên quan đến hai cơ quan này hầu như không được phổ biến. Đây là điểm khó khăn chính trong khi thẩm vấn Hoàng Kim Loan, cũng may, tôi hỏi văn phòng Cố vấn CSĐB, được họ thuyết trình và cung cấp đầy đủ mọi tài liệu thật chi tiết về hai cơ quan Tổng Cục 2 Quân Báo và Cục TBCL. Ngày 6-5-72 vào lúc 10giờ sáng, Đại úy Ân đón tôi ngay ngoài cửa nhà an toàn, Ân lắc đầu : - Miếng mồi khó nuốt thật, tinh thần hắn còn vững lắm, từ sáng sớm đến giờ ngoại trừ bản khai lý lịch vắn tắt, hắn chẳng nói gì thêm, hắn muốn gặp anh. Ân đưa bản khai của hắn cho tôi xem, trong phần gia cảnh hắn khai : Có vợ và 2 con, vợ và con gái hiện ở tại Hà Nội, con trai hiện đang du học tại Liên Sô. Tôi bàn với Ân: - Bây giờ mình vào gặp hắn, sau đó anh gọi máy Thiếu úy Sỏ và Trung úy Thông thay thế, mình ra quán bún chị Sỏ ăn một tí gì, đói lắm rồi, vừa ăn vừa bàn kế hoạch đối phó. Tôi và Đại úy Ân bước vào nhà an toàn. Căn nhà trang hoàng bình thường giống như mọi tư gia, một giường nhỏ, một bàn ăn, một bộ salon nhỏ tiếp khách, chỉ khác chăng là khắp nơi trong nhà đều có gắn những mirophone cực nhỏ và 2 chiếc máy thâu âm tinh vi, có thể thâu âm 24/24, mà không cần thay băng. Hoàng Kim Loan đang ngồi, nét mặt trầm tư, đối diện là 1 nhân viên thẩm vấn và 2 nhân viên an ninh. Vừa thấy tôi hắn đứng dậy, tôi bắt tay hắn và hỏi ngay: - Sao rồi Trung tá Loan, ông muốn gặp tôi? - Vâng, tôi muốn gặp ông Trưởng ty, tôi muốn trình bày với ông Ty một vài việc : - Thứ nhất: Tôi quân hàm Trung Tá, vì vậy tôi yêu cầu ông chuyển tôi qua quy chế tù binh. - Thứ hai : Tôi là một đảng viên Cộng sản cao cấp, suốt đời phục vụ cho đảng, cho lý tưởng của tôi, vì vậy mà ông Trưởng ty sẽ không có một hy vọng nào để thẩm vấn, khai thác tin tức nơi tôi, tôi sẽ giữ im lặng hoàn toàn, muốn đánh, muốn đập, muốn bắn, muốn giết đó là quyền của ông Trưởng ty. Tôi mỉm cười nhìn hắn : - Ông ngồi xuống đi, mình nói chuyện. Ông và tôi đều là nhà binh, tôi hy vọng mình có thể nói chuyện thẳng thắn và thành thật với nhau, mặc dầu ông là lính miền Bắc, tôi là lính miền Nam. Hắn ngồi xuống ghế đối diện với tôi và Đại úy Ân. - Thứ nhất, về yêu cầu của ông, muốn tôi chuyển ông qua quy chế tù binh. Ông và tôi đều là dân Tình báo chuyên nghiệp, hơn nữa ông lại là một điệp viên bị bắt trong khi hoạt động, mình đều biết rõ, cả miền Bắc lẫn miền Nam làm gì có quy chế tù binh cho một điệp viên, cho loại dân tình báo như ông và tôi. Tình báo chỉ có luật giang hồ và chỉ đối xử với nhau bằng luật lệ đó, có khác chăng một bên là Tà phái, một bên là Chánh phái, ông đang được đối xử bằng luật lệ giang hồ của Chánh phái. Hiện tại ông không bị đưa vào nhà lao, không mặc áo tù, không ăn cơm tù, không bị ràng buộc bởi kỷ luật của nhà lao, ông muốn ăn uống nghỉ ngơi, càfé, thuốc lá bất cứ giờ nào ông muốn, anh em ở đây đâu có ai cấm đoán ông đâu. Tôi nghĩ như vậy còn tốt hơn quy chế tù binh nhiều. (Thật tình tôi mù mờ không hiểu có quy chế tù binh cho những gián điệp bị bắt hay không? Phải gặp những chuyên viên của VNCH về vấn đề tù binh để hỏi mới thông hiểu rõ ràng). Trở lại nói chuyện với Hoàng Kim Loan tôi nói tiếp: - Thứ hai, trong quyền hạn tôi có thể làm được là chuyển ông sang quy chế Chiêu Hồi, nhưng chuyện đó hoàn toàn tùy thuộc vào ông, vào thái độ hợp tác của ông. Thật tình tôi nói vậy để dụ hắn và cũng để dò xem tinh thần hắn ở mức độ nào. Cho dù hắn có hợp tác đến đâu, kết thúc, tôi vẫn lôi hắn và đám giặc cỏ "nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế" của hắn ra tòa trả lời trước công lý về hành động man rợ của hắn, của đám giặc cỏ, và của bọn Việt cộng trong Chính Trị Bộ Cộng sản miền Bắc về tội diệt chủng. Tội bắn giết, chôn sống trên 5000 ngàn dân lành vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968. Để chính hắn, Hoàng Kim Loan và đồng bọn phải trả lại cho 5000 ngàn oan hồn tử sĩ món nợ mà bọn chúng đã vay : đó là nợ oan, nợ ức, nợ xương, nợ máu, nợ bị trói tay bằng giây kẽm gai xô xuống hố sâu chôn sống, ghê rợn và kinh hồn đến độ vài tháng sau, khi tìm thấy những ngôi mộ tập thể trong những vùng cát khô, thi thể chưa bị hủy, đào lên, một giòng máu tươi ứa ra nơi miệng người chết. Họ chết trong uất hận, trong nỗi sợ tột cùng, tóc tai dựng đứng, họ chết không yên lành, không mơ, như văn chương chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn “nằm chết như mơ”. Tôi trả lời tiếp câu thứ 2 của Hoàng Kim Loan: - Trung tá Loan, ông đã quá lầm nghĩ rằng khi rơi vào tay chúng tôi ông sẽ bị chúng tôi dùng bạo lực hành hạ, để mong lấy được một một số tin tức nơi ông. Miền Nam Việt Nam hay nói khác hơn là Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà là một quốc gia pháp trị, có luật pháp hẳn hoi, luật pháp không cho phép chúng tôi hành hạ tù nhân. Tù nhân có quy chế của họ, từ vấn đề thực phẩm, y tế, thăm nuôi, sinh hoạt và được theo dõi, kiểm soát từ chính quyền Trung ương Saigòn và Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế thường xuyên thăm viếng kiểm soát các trung tâm cải huấn. Hãy so sánh những người tù Quốc Gia được người Cộng sản các ông thả về, họ như những thây ma, bệnh hoạn, suy nhược. Ngược lại, những đồng chí của ông được chúng tôi thả về, họ mập mạp, to béo, khoẻ mạnh, thời gian ở tù của họ chỉ là khoảng thời gian để họ bồi dưỡng sức khoẻ rồi khi được chúng tôi thả ra họ lại tái hoạt động. Ông thấy đó, chế độ giam giữ tù nhân của Chính phủ VNCH nhân đạo gấp cả triệu lần những người Cộng sản các ông. Đừng suy bụng ta ra bụng người, đừng lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử. Hơn nữa, thế hệ chúng tôi, những người trẻ, chúng tôi rời bỏ sân trường, rời xa gia đình xông vào cuộc chiến, kề vai và còng lưng chống đỡ cuộc xâm lăng của các ông từ miền Bắc muốn đem chủ nghĩa Cộng sản vô thần, tàn bạo, ác độc trùm lên 17 triệu dân miền Nam. Chúng tôi chiến đấu vì tự vệ, và với tấm lòng trong sáng không hận thù, như vậy thì không có lý gì khi bắt được ông chúng tôi lại hành hạ, bắn giết ông, để làm gì ? Ngoài ra, chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà còn có Bộ Chiêu Hồi, Chính phủ VNCH sẵn sàng đón tiếp những người Cộng sản quay về với chúng tôi. Chúng tôi, hay nói rộng hơn là 17 triệu dân miền Nam, trong đó có hơn nửa triệu nguời dân Huế, họ ghê tởm, và kinh hoàng trước hành động bạo lực, bắn giết, mà các ông, những người Cộng sản đã tặng cho dân Huế vào năm Mậu Thân 1968. Tôi không gởi trả lại ông những điều ông đã làm cho dân Huế trong những ngày đầu xuân năm 1968 - không bao giờ - tin hay không là tùy ông. Kế tiếp, ông có quyền im lặng, tôi chẳng cần ông khai báo một lời nào. Chúng tôi đã khám phá hành tung của ông, đã biết rõ toàn bộ đám cơ sở nội, ngoại thành của ông từ hơn 5 năm nay. Mọi mưu toan, kế hoạch của ông, của Tỉnh ủy Thừa Thiên và Thị ủy Huế, chúng tôi đã nắm thật rõ ràng và tường tận từng chi tiết một, vì vậy mà ngày hôm nay ông bị bắt và đám cơ sở nội, ngoại thành của ông hiện đang lần lượt bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế bắt giữ. Cuộc hành quân chống lại kế hoạch Tổng Nổi Dậy của ông và đám "Nhân dân anh hùng Thừa Thiên - Huế" hiện giờ này đang tiếp diễn, như thế ông hiểu cho rằng tôi chẳng cần thiết một lời khai báo hoặc tin tức nào của ông cả. Điều tôi muốn không phải là tin tức quân sự, hoặc tình báo mà ông biết, mà là sự hợp tác của ông, và mong ông trở về với chúng tôi. Như ông đã biết và nhớ rõ, những đồng chí, và đồng đội của ông trong cơ quan Cục Quân Báo, Cục tình Báo Chiến Lược trước đây đã bị bắt, và sau đó đã trở về với chúng tôi như anh Lê Đình Khôi, anh Lê văn Lự. Ông biết hai người đó hiện giờ ở đâu và giữ chức vụ gì trong chính quyền VNCH không? Anh Lê đình Khôi là Chủ Sự phòng Cảnh Sát Đặc Biệt BCH/CSQG vùng I. Tức là người Chỉ huy lực lượng CSĐB vùng I. Anh Lê văn Lự là Giám Đốc trường Tình Báo CSGQ vùng I Chiến thuật. Hoàng Kim Loan nhìn tôi và trả lời: - Đó là những kẻ phản bội. - Trung tá Loan, ông lầm rồi, thế hệ của ông và của hai anh đó là những người yêu nước thật sự, nhưng bị ông Hồ phỉnh gạt, đưa ông và họ vào con đường Cộng sản vô luân, tàn bạo, và bần cùng hóa cả một dân tộc, hai người đồng chí của anh đã sớm thấy là mình đi lạc đường, nên trở về với những người Quốc gia, tại sao gọi họ là phản bội. - Những gì ông cần gặp tôi, tôi đã nói xong. Tôi đã đọc bản viết tay về lý lịch và gia cảnh do chính ông viết, tôi cám ơn và hoàn trả lại ông, vì chẳng có một tí giá trị nào cả, vì chúng tôi đã biết từ lâu lắm rồi, nhất là gia cảnh, ông có vợ, vợ và con gái hiện ở tại Hà Nội, con trai ông hiện đang tu nghiệp tại Liên Sô. Vừa nói tôi vừa đưa tờ giấy lại cho hắn và nhìn thẳng vào mặt hắn, hắn ngại ngùng đưa tay đón mảnh giấy, tôi biết trong đầu hắn đang nghĩ gì: “Tên Đại uý “ngụy” này khó nói láo với hắn quá !" - Trung tá Loan, ông suy nghĩ kỹ những điều tôi vừa nói với ông, và bất cứ lúc nào cần gặp tôi, ông cứ nói với anh em ở đây, tôi sẽ đến gặp ông ngay.
***
Tôi và Ân rời nhà an toàn ra quán bún bò chị Sỏ, hai anh em ngôì trầm ngâm suy nghĩ, tôi bàn với Ân: - Anh thấy đó, tôi đấu khẩu với hắn gần cả tiếng đồng hồ, tinh thần hắn cứng ngắc, việc đầu tiên là mình phải đánh gục tinh thần hắn trước. Mặc dầu hắn là người Cộng sản, nhưng hoạt động lâu trong vùng quốc gia, nên còn có chút nhân tính. Hắn còn tình cảm gia đình, muốn bảo vệ vợ con, vì thế trước tiên mình đánh vào yếu điểm này trước. Như vậy anh sẽ phải làm như thế này . . . thế này . . . . . - Việc thứ hai là mình sẽ liên lạc với Anh Lê Đình Khôi hoặc anh Lự, nhờ họ ra thăm hắn với tình đồng chí cũ và tình đồng đội trong đơn vị Quân Báo và Cụm Tình Báo Chiến Lược. - Việc thứ ba là anh sắp xếp cho hắn thấy mặt những cơ sở quan trọng của hắn vừa bị mình bắt trong chiến dịch Bình Minh. - Việc thứ tư là anh sắp xếp và cùng với Trung úy Thông, Trung tâm Trưởng trung tâm Thẩm vấn tuyển lựa khoảng 15 nhân viên thẩm vấn có kinh nghiệm và thật giỏi, thay phiên nhau thẩm vấn hắn 24/24, mình dùng chiến thuật xa luân chiến, ngoại trừ giờ ăn, cứ hỏi hắn liên tục, bất cứ chuyện gì, miễn sao làm cho hắn mỏi mệt, tinh thần xuống thấp, khi đó anh và tôi nhảy vào phần chính - Đồng ý không ? Ân khen tôi giỏi, tính kế nhanh. Tôi cười : - Giỏi lâu rồi bây giờ anh mới khen, không giỏi thì làm sao mới Trung úy đã làm trưởng ty Cảnh Sát, mấy năm rồi bây giờ vẫn còn Đại úy. Hai anh em cùng cười. Ân về thẳng trại tạm giam và trung tâm thẩm vấn lo công việc vì số hạ tầng cơ sở Vc bị giữ trong chiến dịch Bình Minh từ các Quận chuyển về mỗi giờ mỗi đông. Phần tôi đi gặp Đại Tá Tỉnh Trưởng Tôn Thất Khiên trình bày kết quả sơ khởi của cuộc Hành Quân và nhờ ông xin phương tiện của BTL Tiền phương Quân Đoàn I, chuẩn bị di chuyển số tù cộng sản trong Trung Tâm Cải Huấn và số hạ tầng cơ sở Việt cộng vừa mới bắt giữ sáng nay đi Côn Sơn, càng sớm càng tốt. 12 giờ 30 khuya ngày 7-5-1972 Đại úy Ân theo kế hoạch, cho di chuyển tạm thời Hoàng Kim Loan sang một nhà an toàn khác, để sáng mai tôi diễn phần I, đoạn tuồng hát ly kỳ, hấp dẫn cho Hoàng Kim Loan thưởng thức. 3 giờ 15 chiều ngày 7-5-1972 tôi đến nhà an toàn tạm thời, vừa gặp Hoàng kim Loan tôi nói ngay: - Xin lỗi, làm ông mất ngủ hồi đêm, nhưng vì nhu cầu an ninh tôi chuyển ông sang đây, tối nay ông về lại nhà cũ. - Tôi là tù nhân của ông Ty, đưa tôi đi đâu, làm gì, đó là quyền của ông Ty, hà tất ông Ty phải xin lỗi. - Trung tá Loan, ngày hôm qua khi đọc bản lý lịch của ông, đoạn về gia cảnh ông có cho biết bà nhà và cô con gái hiện đang ở Hà Nội, cậu con trai hiện đang tu nghiệp ở Liên Sô, ông có thư từ liên lạc với gia đình không ? từ bao lâu rồi trước ngày ông bị bắt ? - Cũng đã từ lâu tôi không nhận được thư từ của họ, nhưng tôi nghĩ họ vẫn bình thường, sống ở ngoại thành Hà Nội, và con trai tôi vẫn còn tu nghiệp tại Liên Sô, có lẽ đến năm tới mới xong. Hoàng kim Loan trả lời câu hỏi của tôi trong phong cách bình thường, giọng nói hắn chậm rãi. Tôi cười nhẹ, nhìn hắn: - Chiều này tôi đến gặp ông là muốn đem đến tặng ông món quà, tôi xoay qua Ân : - Cho đem quà vào đi. Cánh cửa lớn bật mở, một người đàn bà bước vào và theo sau là một người đàn ông mặc quân phục Quân lực VNCH, cấp bậc Đại úy, bên vai mang phù hiệu Binh chủng Thiết giáp. Vừa thấy 2 người đó, Hoàng Kim Loan sững sờ bất động, mặt tái xanh. - Trung tá Loan, bà này ở ngoại thành Hà Nội vào thăm ông, và người này đang tu nghiệp ở Liên Sô về thăm ông. Người đàn bà đó chính là vợ Hoàng Kim Loan, hiện đang trú ngụ tại Xã Phong An, quận Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, khoảng chừng 50 tuổi, dáng dấp hiền lành, mặt mày phúc hậu. Người kia, là con trai độc nhất của Hoàng Kim Loan đang phục vụ trong Quân lực VNCH, đơn vị Thiếp Giáp, cấp bậc Đại úy. Hoàng Kim Loan che dấu vì sợ liên lụy đến vợ, con. Đó là một trong những yếu điểm của hắn mà tôi đã đánh trúng, và cũng là khuyết điểm của cơ quan tình báo Việt cộng, đã để cho một cán bộ hoạt động trong “vùng địch” quá lâu. Trong phút chốc bàng hoàng, cả ba người đều xúc động, đứng yên không nói được với nhau một lời nào, bỗng chốc đôi giòng nước mắt chảy dài trên khuôn mặt tiền tụy của người đàn bà, không hiểu những giọt nước mắt đó vì xúc động khi gặp lại chồng trong nghịch cảnh, hay chính là những giọt nước mắt vì lo sợ cho chồng, con, và bản thân mình. Tôi là đạo diễn và là diễn viên trong trong màn bi kịch này cũng không tránh khỏi nỗi xúc động, nhưng biết làm sao hơn, vì bổn phận và trách nhiệm, vì sự an nguy, mất còn của Huế trong giờ phút quyết liệt, thật tình trong lòng không muốn tạo dựng ra cảnh bi thương này. Tôi nói với vợ Hoàng Kim Loan: - Chị lau mước mắt đi, đừng sợ, chị và ông Đại úy không có tội tình gì cả, chị và ông Đại úy không có một liên hệ nào trong công việc của Trung tá Loan. Luật pháp VNCH đặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật (Dụ 59A từ thời Đệ I Cộng Hoà) nhưng không có một chữ nào quy tội vợ, con, những người cộng sản, ngoại trừ những người đó có liên hệ tiếp tay hoạt động cho Cộng sản. Trong cuộc chiến tàn khốc và bi thảm này, điều nghịch lý là cả Bắc lẫn Nam đều có gia đình, thân nhân liên hệ, cha Cộng sản, con Quốc Gia, anh Quốc Gia, em Cộng sản, như vậy thì quy tội họ hết sao. Tôi quay qua nói với Hoàng Kim Loan : - Trung tá Loan, ông có một giờ để gặp gia đình, vợ, con. Tôi buộc lòng phải để lại 2 nhân viên giám thị, vì không muốn ông dùng vợ con để thông tin ra ngoài. Riêng Đại úy, tôi mời ông đến đây, trước là để ông có dịp gặp lại cha, và kế tiếp tôi muốn ông nói rõ cho Trung Tá Loan biết về tình hình chiến sự hiện đang diễn biến giữa ta và địch, đừng thêm vào và cũng đừng bớt đi, để Trung Tá Loan có một nhận định sáng suốt và thực tế có lợi cho bản thân ông ta và gia đình. Tôi xác nhận một lần nữa, ông vô tội, không liên quan, vì không bị địch móc nối hoạt động. Tôi không bắt ông, và cũng không báo cho Ty An Ninh Quân đội chuyện này. Sau khi nói chuyện xong, ông có thể đưa mẹ ông về. Có một điều quan trọng cần nói rõ với ông là ông không được tiết lộ cuộc gặp gỡ này với bất kỳ một ai, vì chưa phải lúc, bằng không, ông sẽ gặp rắc rối ngay, và tôi cũng nhờ ông chuyển lời với mẹ ông như vậy. *** Một giờ sau, tôi và Ân trở vào, hai nhân viên thẩm vấn cho biết họ chẳng nói gì ngoài chuyện gia đình, tuy nhiên Hoàng kim Loan, hắn đưa chiếc đồng hồ Oméga của hắn cho vợ, nói là đem bán đi để có tiền chi tiêu trong gia đình. Cả ba người bây giờ có vẽ bình tĩnh hơn, tôi nói với vợ Hoàng Kim Loan: - Bây giờ chị có thể về, sau này bất cứ lúc nào chị muốn thăm ông, gặp tôi hay Đại úy Ân. Tôi mò túi áo có được 1500 đồng (tiền VNCH), hiểu ý tôi, Ân cũng cũng đưa ra được 1200, tôi hỏi nhỏ Ân: - Tiền nhậu phải không? “Ôi Thiên Tường, ôi ba xi đế ” phải không? (rượu). Ân cười. Tôi cuộn tròn số bạc dúi vào tay chị ta: - Chị cầm lấy, lần sau chúng tôi giúp chị nhiều hơn. chị giao lại chiếc đồng hồ cho ông, không cần thiết phải bán. Chị ta lúng túng nói nhỏ lời cám ơn và giao lại chiếc đồng hồ cho Hoàng Kim Loan. Tôi và Ân giúp chị ta một ít tiền xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, đối với một người đàn bà nghèo khó đang gặp khổ nạn, hoàn toàn không có ý lợi dụng hành động đó để mua chuộc Hoàng Kim Loan. Ân đưa vợ con Hoàng Kim Loan ra về, tôi nói với Hoàng kim Loan: -Trung tá Loan, tôi cho ông gặp mặt vợ con để chứng minh một điều: - Chúng tôi biết rõ và rất tường tận về ông, gia đình ông, về mọi hoạt động, mọi kế hoạch và cơ sở nội tuyến mà ông đã cài đặt. Xin ông chấm dứt trò chơi tung hỏa mù này. Ngày mai, tôi sẽ cho ông xem những hình ảnh sinh hoạt của ông, mà các toán theo dõi của chúng tôi đã chụp được, và nhất là những hình ảnh các cơ sở quan trọng và bí mật của ông hiện đã bị bắt và đang bị thẩm vấn tại Trung tâm thẩm vấn. Tôi cũng nói rõ thêm, lực lượng CSQG Việt Nam Cộng Hoà không chơi trò hèn hạ bắt vợ con ông làm áp lực để ép ông, trò chơi đó chỉ có những người Việt cộng các ông dùng, chúng tôi lực lượng CSQG miền Nam Việt Nam không thèm dùng đến, vì thế tôi xác nhận với ông là vợ con ông không bị bắt, không bị làm khó dễ. Họ an toàn, ông yên tâm. Từ giờ này trở đi, hợp tác và thành thật hay không là quyền ông quyết định, nếu không, ông sẽ phải đối đầu vơí 15 thẩm vấn viên của tôi, họ sẽ nói chuyện với ông liên tục. Một điều quan trọng nữa, mọi lời khai của ông đều được kiểm chứng qua tin tức, tài liệu mà chúng tôi đã có sẵn, và chúng tôi sẽ yêu cầu ông đo máy sự thật (Test Polygrap) để kiểm chứng. Tôi để ông có thì giờ suy nghĩ, mai tôi sẽ trở lại. *** Trở lại BCH, tôi họp bàn với Đại úy Ân, soạn thảo một số nhu cầu tin tức cần phối kiểm và cần biết để hướng dẫn cho các thẩm vấn viên: 1- Kế hoạch và lực lượng Tổng nổi dậy của VC tại Huế. 2- Lực lượng quân sự và kế hoạch tấn công Huế 3- Sơ đồ trận liệt và lý lịch các nhân vật chủ chốt của Quân Khu, Quân ủy Trị Thiên, Tỉnh ủy, Thị ủy Huế và các ban An ninh liên hệ. 4- Các cơ sở bí mật nằm trong chính quyền, CSQG, Quận đội, Đảng phái, Tôn Giáo, Học sinh, sinh viên, thương gia, tiểu thương, và quần chúng v. v. . . 5- Các đường dây giao liên, các trạm giao liên, cửa ngõ xâm nhập. 6- Tổ chức kinh tài, tiếp tế. 7- Sơ đồ trận liệt, cách thức hoạt động, móc nối, các cơ sở và những điệp viên của hai cơ quan Tổng Cục 2 Quân Báo và Cụm Tình Báo Chiến Lược hiện đang hoạt động tại Thừa Thiên-Huế. Trong 2 ngày kế tiếp 9, 10 tháng 5-72 Hoàng Kim Loan bắt đầu thấm mệt vì những loạt thẩm vấn lâu dài của 15 thẩm vấn viên. Đêm ngày 10-5-72 hắn xin được nghỉ một đêm. Theo báo cáo, hắn thức suốt đêm đó, trong đêm tối lâu lâu lại thấy hắn dùng tay gạt nước mắt. Có lẽ, lương tâm hắn có răng và biết cắn, lương tâm hắn đang cắn rứt giữa lời thề và sự phản bội. Trong 2 ngày này, Việt cộng vẫn đều đặn bắn từng đợt pháo 130 ly vào thành phố. 9 giờ 30 sáng ngày 10-5-72, sau đợt pháo kích lần thứ 2, Trung úy Uyên, phụ tá trưởng phòng Tư Pháp đang đứng nói chuyện với tôi ngoài sân cờ BCH ông ta bỗng nói với tôi : - Đại úy, ông cho phép tôi về thăm nhà một tí, mấy ngày nay cấm trại không về nhà. - Được, ông đi đi, chiều tối về, không cần gấp. Tôi cười nhìn ông tiếp : - Mấy ngày cấm trại, nhớ vợ rồi phải không? - Không đâu Đại úy, thăm nhà một chút tôi về ngay. 15 phút sau, Việt cộng pháo đợt thứ 3, lần này nặng hơn, 30 quả 130 ly rớt vào vùng BTL tiền phương Quân Đoàn I và vùng hồ Tịnh Tâm. Tôi chạy vào TTHQ Cảnh Lực để theo dõi tình hình và nghe báo cáo thiệt hại. Trên hệ thống máy tuần tiễu tôi nghe giọng của Đại Uý Đoàn Đích la lớn hốt hoảng: - Trình thẩm quyền. . . . Trung úy Uyên chết rồi, một quả pháo 130 nổ gần ông tại hồ Tịnh Tâm. Tôi bóp chặt ống liên hợp máy Motorola trả lời: - Tôi nhận rõ. Tôi buông ống liên hợp đứng im lặng sững sờ, tự nhiên thấy cay mắt và mặn ở môi, thì ra tôi chảy nước mắt. Chỉ 15 phút trước, phải chi tôi không cho ông đi, hoặc nói chuyện với ông thêm vài phút nữa thì ông đâu đến nỗi tử vong. Ngày 11-5-72 Đại úy Ân trình tôi một loạt lời khai của Hoàng Kim Loan, đọc xong tôi trả laị cho Ân và cùng có nhận xét như Ân: -Thằng này rất khôn, hắn khai toàn những cơ sở của hắn trong thời gian tranh đấu Phật Giáo tại Miền Trung và Mậu Thân 68. Tất cả các cơ sở đó một số lớn đã bị bắt, số còn lại đã lên mật khu hoặc đi ra Bắc. * [Số cơ sở này tôi đã đề cập trong bài Biến động Miền Trung 1966]. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau thời gian ngoại giao đã qua, bây giờ là lúc phải tăng áp lực thật mạnh với Hoàng Kim Loan để buộc hắn phải hợp tác. Tôi thay Ân thẩm vấn Hoàng Kim Loan, lên xe đến nhà an toàn. Xe vừa rời BCH nhìn lại phía băng ghế sau thiếu mất tên đệ tử phụ trách máy truyền tin, tôi hỏi Thêm, người tài xế lái xe: - Ông thần Ánh đâu rồi, hồi đêm lại nhậu say rồi phải không? - Cả hai tên đệ tử không trả lời tôi mà chỉ khúc khích cười. - Ông thần Ánh làm chuyện gì nữa đây, sao hai đứa không trả lời mà lại cười. Người lính tên Minh ngồi sau trả lời: - Không phải hắn nhậu đâu ông ơi, hồi đêm hắn xuống vạn đò, đò Mụ Lừ, hắn uống càfe đen, sáng nay hắn đái ra café sữa. Hắn sợ quá đi tìm Bác Sĩ Đại đội phó CSDC xin thuốc, hắn sợ ông la, dặn tụi tui dấu ông . - Uống café có chi quan trọng mà phải dấu, tại sao uống café đen mà lại đái ra café sữa, bọn bây nói chuyện gì ta không hiểu chi cả. - Ông thiệt không hiểu? - Hiểu thì hỏi tụi bây làm chi. - Hồi đêm hắn xuống đò Mụ Lừ chơi bời, gặp em gái hậu phương bị lậu, hắn dính vào, sáng ni bị đái ra mủ, hắn bị lây bệnh lậu. - Chết cha, bệânh lậu đó có lây không? Nói hắn nghỉ 1 tuần chữa bệnh cho lành rồi hãy đi làm. - Bệnh đó không lây, chỉ đàn ông, đàn bà làm chuyện đó với nhau thì mới lây. Nhưng bị thì sợ và mất tinh thần lắm, đái vừa ra mủ, vừa rát vừa đau, khủng khiếp lắm. - Mi cũng rành quá hả, tụi bây bị rồi phải không? - Hắn cười, tụi em thằng nào cũng qua đoạn đường chiến binh đó rồi. Không qua đoạn đường chiến binh làm sao trở thành lính chiến được. [Tất cả đám cận vệ của tôi đều là quân nhân biệt phái, họ là lính tác chiến bị thương, biệt phái sang Cảnh sát]. Xe gần đến nhà an toan, bỗng tôi nói với người đệ tử: - Thêm, quay xe trở về BCH. Nhiều khi chỉ là một câu chuyện vu vơ, như chuyện tên đệ tử đi chơi bời bị bệnh lậu mà lại giúp được việc lớn. Một ý tưởng đến thật nhanh trong đầu tôi, thật tồi bại, hạ cấp, nhưng biết làm sao hơn, khi tôi đã đối xử với Hoàng Kim Loan bằng luật giang hồ của Chánh phái, nhưng không có kết quả, bây giờ tôi phải dùng luật giang hồ của Tà phái. Tự cổ chí kim đã có biết bao nhiêu nguời quyền cao chức trọng bị rơi vào bẫy “Mỹ nhân kế” của đối thủ mà thân bại danh liệt, trong giới tình báo cũng thường dùng loại này, nhưng tôi sẽ dùng, không phải là “Mỹ nhân kế” mà là “Tình dục kế” với tên Việt cộng Hoàng Kim Loan. Tôi quay điện thoại gọi Trung úy Tuất, Biệt đội trưởng Biệt đội Hình Cảnh, bảo qua BCH gặp tôi, nhưng tình cờ lại gặp ngay Nguyễn văn Quan, Trưởng ban Bài trừ Mãi dâm, đúng là người tôi muốn gặp. - Anh sang BCH gặp tôi, có chuyện cần nhờ anh. Nguyễn văn Quan, tay này còn trẻ, 23 tuổi, dáng dấp thư sinh, trắng trẻo, đẹp trai hơn tài tử phim Hồng Kông nhiều. Con nhà thế gia. Nguyễn văn Quan là tay chơi thứ thiệt, năm học Đệ I, Quốc Học, tôi làm thầy dạy kèm cho hắn, học thì nhác, nhưng chơi thì không ai địch hắn nổi. Tôi và hắn thân tình như anh em ruột, lớn lên hắn vào Cảnh Sát lại gặp tôi, thật là oan gia. Tôi đặt hắn vào Trưởng ban Bài trừ Mãi Dâm thật là đúng chỗ. Hắn gặp tôi tại văn phòng, tôi hỏi hắn: - Trong đám các chị em ta bị anh bắt, có người nào dáng dấp coi được, tuổi chừng 25 – 26 ? Hắn trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên: - Có 5 người, trong đám đó có một em trông ngộ lắm, khoảng 25 tuổi, người Nam, mới từ Saigòn ra Huế mấy tuần thì bị bắt, đang làm phiếu trình chờ anh ký lệnh tống xuất khỏi Huế, nhưng em này bị bệnh, nhẹ thôi. - Sao anh biết ? - Mấy thằng đệ tử của tôi dính rồi. - Tôi muốn em này, anh đem sang đây gặp tôi được không? Hắn nói lớn trong phòng: - Thiên hạ ơi! thầy tu phá giới. - Nói nhỏ thôi, đám tà lọt ngoài cửa nghe hết bây giờ, anh suy nghĩ bậy bạ rồi phải không? Vụ này là “Điệp Vụ” thứ thiệt đấy !!! Một giờ sau, Nguyễn văn Quan đem cô gái đến văn phòng tôi. Thoạt nhìn, không thể tưởng tượng nổi đây là một cô gái làm nghề mãi dâm, cô ta còn rất trẻ, dáng dấp hiền lành, điểm đặc biệt là người Nam mà lại có mái tóc thề. Vừa bước vào trông thấy tôi, cô ta sợ sệt đứng sát vào người Nguyễn văn Quan. - Không có chi phải sợ, cô ngồi xuống đi, cô tên gì, mấy tuổi ? - Dạ thưa quan Đại Tá, em 25 tuổi, tên Thu Cúc. Em ở Cần Thơ mới ra Huế có mấy tuần thì bị bắt. - Tôi không phải là quan Đại Tá, mà Đại Úy, Trưởng Ty Cảnh Sát. Tôi có tí việc cần nhờ cô giúp, nếu cô hoàn tất được công việc này, tôi sẽ tha cô, cho cô vé máy bay và một ít tiền về lại Cần Thơ, chịu không ? - Dạ được. . . dạ chiụ. - Cô nấu ăn được không? - Dạ được, đàn bà con gái ai mà chẳng biết nấu ăn, em nấu theo kiểu người Nam. - Nam, Bắc, Trung gì cũng được, không phải là chuyện chính. Chúng tôi có một người bạn trên 50 tuổi, nhiều năm rồi chỉ ăn chay chứ không chịu ăn mặn, anh em chúng tôi cá với nhau ai làm cho hắn chịu ăn mặn thì người đó thắng cuộc, cô giúp chúng tôi được không ? - Dạ dễ, em làm được, như vậy ông này tu tại gia, ông ăn chay sao lại bắt ăn mặn làm gì, tội ông ta. - Sao cô biết tu tại gia? - Dạ em có người anh cả, tu tại gia, đạo Cao Đài, ông ăn trường chay. Nguyễn văn Quan, thằng cha đại ba trợn, hắn chen ngay vào : - Không phải đâu em gái ơi ! Không phải ăn chay, ăn mặn thứ thiệt như em nghĩ đâu, mà ăn mặn là thứ em thường nằm sấp, nằm ngửa với khách hàng đó, hiểu chưa em. Cô gái thẹn thùng, có một tí mắc cở hiện trên khuôn mặt. Thì ra trong tận cùng đáy lòng của một cô gái giang hồ còn giữ được bản chất của một nguời phụ nữ. - Dạ, tưởng gì chứ chuyện đó em làm được, nghề của em mà. Nguyễn văn Quan lại chen vào: - Thì đúng rồi, tên em là Thu Cúc, nói lái đi một tí, đúng là nghề của em. - Dễ mà khó, cái khó là làm sao cô dụ được ông ta. - Dạ được, em bảo đảm . - Vậy tốt, tôi cho cô thời hạn 1 tuần, trong thời gian này, cô sẽ ở với ông ta, nấu ăn cho ông, và ban đêm ngủ lại. Cô thành công, chỉ một lần với ông ta cũng được, tuần sau cô sẽ nhận được vé máy bay và một ít tiền để về lại Cần Thơ. Có một điều quan trọng là cô không được nói cô là ai, không được nói đã gặp tôi, nếu ông ta có hỏi cô, cô chỉ nói người trong nhà thuê cô đến giúp việc mà thôi, nếu cô nói ra, sẽ không được về lại Cần Thơ mà còn bị giữ lại lâu lắm. Cô lặp lại đi, lời tôi vừa dặn cô. Cô gái lặp lại gọn gàng và rõ ràng sau đó ngập ngừng, bẽn lẽn nhìn tôi: Thưa Đại Úy có điều này em muốn thưa với Đại úy. - Cô nói đi. - Em bị bệnh, đang uống thuốc, gần lành rồi. - Tôi biết rồi, xong việc, tôi cho bác sĩ khám bệnh chữa cho cô. Yên tâm đi ! Chiều ngày 11-5-72 Hoàng Kim Loan được nhân viên an ninh thông báo : Kể từ nay sẽ có người nữ đến giúp việc, lo cơm nước cho ông, khỏi cần bới xách bất tiện, ông muốn ăn gì cứ việc nói với người giúp việc. Lẽ đương nhiên, đây là một trò ấu trĩ, người bình thường còn đặt nghi vấn, huống gì hắn là một tay cáo già lão luyện trong nghề tình báo, hắn sẽ nghĩ đây là « Mỹ nhân kế » mà tôi sắp đặt, chắc hẳn trong lòng hắn nghĩ thằng ‘’Đại úy Công An Ngụy’’ quá trẻ con chơi trò này, đời nào hắn có thể bị vướng vào bẫy. Nhưng hắn không ngờ, đây không là mỹ nhân kế mà là 'Tình dục kế' do tôi sáng chế, tuy hạ cấp, tồi bại, và bẩn thỉu, nhưng hắn không đỡ nổi, vì hắn là người trần tục, cũng tham sân si, hỉ nộ ái ố, và cũng đã từ lâu lắm không gần đàn bà, lại gặp phải 'chị em ta', đã biết cách khiêu khích mà còn được cố vấn và sắp đặt, thì hắn phải vào bẫy là cái chắc. Sau này, khi nghe kể lại câu chuyện, thấy tôi tỏ ý áy náy vì đã áp dụng kế sách này, bạn bè thường nói với tôi:-Suy cho cùng, thì « Mỹ nhân kế » cũng chỉ là khởi đầu để đưa đến ‘tình dục kế’ chứ có gì « thơm tho » hơn đâu mà Thành cứ phải nghĩ ngợi ?! . Trong những ngày này, chúng tôi giảm giờ thẩm vấn Hoàng Kim Loan, để tạo điều kiện cho Thu Cúc, ngoài giờ cơm nước, có cơ hội tiếp cận khiêu khích Hoàng Kim Loan, hắn bị dồn nén từ bao nhiêu năm, nay hằng ngày được nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp, mặc áo cánh không nịt ngực, nhìn xa nhìn gần đều thấy rõ, thử hỏi Hoàng Kim Loan hắn đang nghĩ gì ? Căn nhà an toàn Hoàng Kim Loan đang trú ngụ chúng tôi đặt 3 vòng đai an ninh : - Vòng đai an ninh tiếp cận . [trong phòng] - An ninh gần . [chung quanh nhà] - An ninh xa . [cách nhà khoảng 200m] Kể từ ngày 11-5-72. Vào mỗi buổi tối sau 9 giờ, nhóm an ninh tiếp cận có 4 nhân viên theo kế hoạch rút ra ngoài phòng, để lại bên trong chỉ còn lại Hoàng kim Loan ngủ ở chiếc giường gỗ, và em gái hậu phương Thu Cúc ngủ ở chiếc giường bố. Thời gian khiêu chiến, dụ địch đã quá ba ngày, tôi cho lệnh em gái hậu phương Thu Cúc đêm nay 14-5-72 tấn công, dứt điểm mục tiêu. Sáng ngày hôm sau 15-5-72, xem như mọi chuyện bình thường, Thu Cúc viện cớ đi chợ, gặp chúng tôi trình bày tường tận trận đánh quyết liệt hồi đêm, vì chữ nghĩa không được phép trình bày ở đây, mà chỉ có thể tóm lược kết quả trận đánh như sau : Ta và địch đánh cận chiến. Ta tấn công, địch phản công thô bạo, nhưng chỉ được hai lần rưỡi thì địch đuối sức. Trận chiến kết thúc, Trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan, Ủy viên Thành Ủy Huế và em gái Nam bộ, Thu Cúc, ký nghị định thư đình chiến, cùng ca bài: “Như có Hồ râu trong ngày vui đại thắng”. Giữ đúng lời hứa, sau khi Bác Sĩ Đại đội phó CSDC khám bệnh, chích thuốc và cho cô ta một số thuốc trụ sinh chữa bệnh, tôi cám ơn cô ta và cho cô ta số tiền hai mươi ngàn (do văn phòng Cố vấn CSĐB yểm trợ), trưởng ban Bài trừ mãi dâm đưa cô ta ra phi trường Phú Bài, đi chuyến bay sớm nhất về Saigon. Thu Cúc ra đi không một lời từ biệt Trung Tá Loan, nhưng cô em đã gởi lại cho Trung Tá Loan một kỷ niệm khó quên, đó là bệnh. .. . Trong hai ngày kế tiếp, Đại úy Ân cho gia tăng số giờ thẩm vấn, các thẩm vấn viên luân phiên hỏi Hoàng kim Loan bất cứ chuyện gì, chuyện trên trời, dưới đất, không đâu vào đâu, mục đích làm cho hắn rối loạn, đuối dần, cộng thêm Ân cho hắn xem những tấm hình đã chụp lén hắn vớí đám cơ sở của hắn từ trước khi hắn bị bắt, và những tấm ảnh chụp các cơ sở quan trọng của hắn hiện đã bị bắt và đang bị thẩm vấn. Cũng trong 2 ngày này, chúng tôi sắp xếp để một vài người bạn cũ của hắn, từng hoạt động với hắn trong Cục Quân Báo và Cục TBCL, đã rời bỏ hàng ngũ, hiện đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan của chính quyền VNCH đến thăm hắn. Hoàng Kim Loan bị giao động mạnh, tình thần sa sút. Đến ngày 18-5-72 thì hắn gục ngã, mất hết bản năng tự vệ, đối kháng. Hắn nói với nhân viên an ninh, xin phép cho hắn gặp Bác sĩ khám bệnh, vì không hiểu sao đã gần 2 ngày nay, 'cái đó'. . . của hắn bị sưng, đi tiểu rát và đau lắm, chẳng biết bệnh gì. Đại úy Ân, trưỏng phòng CSĐB đến gặp hắn và đưa điều kiện : - Trung tá Loan, trong hơn tuần nay, tôi và ông Trưởng ty đã đã đối xử với ông rất đàng hoàng, nhưng ngược lại ông vẫn dẫn chúng tôi đi vòng quanh, những tin tức của ông cung cấp hoàn toàn vô giá trị, nếu không nói là quá cũ, đã mất thời gian tính. Đã đến lúc phải đặt điều kiện trao đổi với nhau - Bác sĩ sẽ đến khám bệnh và chữa trị cho ông, ngược lại chúng tôi phải nhận được những tin tức có giá trị, đứng đắn và không mất thời gian tính. Trong khi đó Bác Sĩ Hồ, Đại đội phó CSDC/102 gặp tôi : - Bác sĩ, tôi cần anh chữa bệnh cho một người, hắn bị bệnh nhưng chưa cần chữa dứt hẳn, chỉ cầm chừng. - Ông Ty lại chơi trò gì nữa đây, sao lại không chữa cho lành luôn ? - Thằng này Việt cộng thứ hạng nặng đã bị mình bắt, hắn bị em gái hậu phương Thu Cúc cấy 'Sinh tử phù' vào người hắn, hắn bị rồi. Anh chữa cầm chừng, mình cần làm áp lực với hắn. - Tôi hiểu rồi, chuyện dễ, tôi chỉ cho chích và uống thuốc nhẹ thôi, thì bệnh hắn sẽ kéo dài, không nặng, không nhẹ, đến khi nào có lệnh của ông, tôi chữa lành ngay. Bệnh này thường lắm, nếu chỉ nóng sốt , đau nhức ở chỗ đó, khó tiểu và có tí mủ. - Đúng là bệnh của hắn, tôi sẽ gọi anh bất cứ khi nào, nhanh nhất là ngày mai để cùng đi gặp hắn. Đúng như dự tính, ngày hôm sau 19-5-72, Hoàng Kim Loan xin gặp tôi, tôi gọi Bác Sĩ Hồ cùng đi, gặp bệnh nhân. Trung tá Loan có vẻ dè dặt khi thấy một người mặc sắc phục rằn ri CSDC mang cấp Đại úy, tôi giới thiệu với Hoàng Kim Loan: - Bác sĩ Hồ, Đại úy Cảnh Sát, Đại đội phó đại đội CSDC của tôi, ông là Bác sĩ thứ thiệt, tốt nghiệp Đại Học y khoa Huế, hành nghề đã hơn 1 năm, Bác sĩ đến để khám bệnh cho ông. Tôi ra ngoài để Bác sĩ Hồ khám bệnh cho hắn, nửa giờ sau Bác sĩ Hồ trở ra nói với tôi : - Tôi khám cho hắn rồi, bị sốt nhẹ, tôi chích cho hắn 1 mũi và cho hắn uống thuốc rồi, khi nào ông muốn hắn lành bệnh tôi chỉ chữa vài ngày là xong. Tôi phịa chuyện vì hắn ở dơ lâu ngày nên bộ phận đó hiện đang bị nhiễm trùng nặng, hơi nguy hiểm, phải chữa trị liên tục một vài tuần thì mới khỏi. Tôi trực ở Đaị đội, ông gọi là có ngay, tôi về trước. Tôi và Ân vào phòng gặp Hoàng Kim Loan, hắn ở trong tình trạng bệ rạc, xuống dốc cả về thể xác lẫn tinh thần, một phần vì bị thẩm vấn liên tục, bị rúng động mạnh khi xem hình ảnh của hắn, của đám cơ sở nòng cốt đã bị bắt, vì lời khuyên của những đồng chí cũ đã đến thăm hắn, vì bệnh . . . đang hành hạ hắn. Quan trọng nhất là sự chờ đợi “quân Giải Phóng” vào thành phố Huế, đã 7 ngày qua mà chẳng thấy đâu, và cuối cùng là cuộc Tổng nổi dậy tại Huế do hắn cầm đầu đã bị lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế đập nát từng mảnh vụn, bẻ gãy kế hoạch của hắn ngay từ trong trứng nước, hắn và đám người của hắn giờ đây mang thân cá chậu chim lồng. Nỗi thất vọng hiện rõ trên khuôn mặt hắn. Ân nhắc tôi: - Anh đừng bắt tay hắn, hắn đang bị bệnh . . . đó. Tôi không bắt tay hắn, nhưng hỏi ngay: - Sao rồi Trung Tá Loan, ông muốn gặp tôi ? Những gì ông yêu cầu tôi đã làm cho ông, bây giờ đến phiên ông. - Tôi đã suy nghĩ nhiều, và quyết định ngày hôm nay muốn gặp ông Trưởng ty để cung cấp một vài tin tức, tôi nghĩ ông Trưởng ty đang cần. Ngược lại tôi có những điều kiện sau đây: 1- Tôi xin được bảo vệ an ninh tối đa, tôi nghĩ cơ quan chúng tôi đã biết tôi bị bắt, vì thời gian ấn định cuộc tổng nổi dậy do tôi lãnh đạo đã trôi qua, tôi không liên lạc được với cơ quan, mặt khác, bên ngoài các cơ sở nội ngoại thành của chúng tôi đang bị lùng bắt, tất nhiên họ nghĩ tôi đang bị khai thác và tiết lộ những tin tức quan trọng, hậu quả họ sẽ tung lực lượng trinh sát tìm kiếm tôi để thủ tiêu bịt miệng, trước đây vào khoảng ngày 2-5-72 đã có 3 toán Trinh sát đột nhập vào thành phố Huế rồi, những toán trinh sát này họ có cơ sở riêng, có thể tìm ra tôi bất cứ khi nào. Nơi này hoàn toàn không an ninh, ngày hôm qua khi ông Trưởng ty cho tôi gặp những người bạn cũ của tôi, tôi không tin tưởng ở họ. Nơi này đã bị lộ, tốt hơn ông Ty nên dời tôi qua một địa điểm khác ngay, càng sớm, càng tốt. 2- Xin đừng bắt giữ vợ con tôi, họ là những người vô tội, không dính dấp gì đến những hoạt động của tôi, và cũng xin ông Ty bảo vệ cho họ, tôi sợ cơ quan tôi sẽ có hành động đối với họ. 3- Bây giờ còn quá sớm, nhưng tôi xin nói trước, tôi muốn đổi sang quy chế Hồi chánh viên. Tôi trả lời ngay cho hắn : - Cả 3 yêu cầu của ông đều nằm trong quyền hạn của tôi, không có gì trở ngại – Tôi diễn giải thêm cho hắn yên tâm : - Điều kiện thứ 2 về vợ con ông, ông yêu cầu hơi thừa, tôi nhắc lại cho ông rõ và sẽ chẳng bao giờ đề cập nữa : Vợ con ông vô tội, họ an toàn, liên hệ gia đình với người Cộng sản không là tội, ngay tôi muốn làm khó dễ họ cũng không được. Luật pháp VNCH bảo vệ, che chở họ, chúng tôi là nhân viên công lực, là lực lượng CSQG, những người thừa hành luật pháp quốc gia, bổn phận của chúng tôi là phải bảo vệ họ, huống gì tôi không hề có ý nghĩ làm khó họ. Ông yên tâm đi, ông muốn gặp họ khi nào cũng được cả. Tôi cũng đồng ý với ông, căn nhà này không còn an toàn nữa, chúng tôi đã nghĩ đến điều đó, tối nay, Đại úy Ân sẽ đổi nhà cho ông. Ông có nhận xét rất đúng và kịp thời, chuyện ông bị bắt đã lộ, vì quá thời gian tính, cơ quan ông, họ đã biết ông bị bắt, đương nhiên họ đang tìm kiếm ông. Đường về của ông đã bị bọn họ khóa chặt, ông đã bị họ loại, vì sau khi ông bị bắt, hầu hết các cơ sở quan trọng của ông, của ban an ninh Quân khu Trị Thiên, của 2 ban an ninh Tỉnh Ủy và Thị Ủy Thừa Thiên Huế đều bị bắt giữ, thử hỏi tại sao? Họ nghĩ ông đã tiết lộ, và ông là kẻ phản bội. Đối với một cơ quan Tình báo, nhất là cơ quan Tình báo Việt cộng của ông, kẻ phản bội sẽ lãnh hậu quả tàn khốc như thế nào, ông hiểu rõ hơn tôi nhiều - Đường về đã bị bít kín, không còn nữa, tại sao không ở lại với chúng tôi ? Nghề nghiệp của ông và tôi đều tạo cho mình đa đoan, mưu lược và quỷ quyệt, đương nhiên ông chưa hẳn đã tin tôi, và tôi cũng vậy, vì thế tôi nói trước để ông hiểu: Mọi tin tức của ông sẽ được thâu băng, và cũng do ông viết trên giấy trắng mực đen, sau đó chúng tôi sẽ phối kiểm qua các nhân viên của chúng tôi hiện đang nằm trong hàng ngũ các ông, và cuối cùng qua hệ thống máy đo sự thật (Test Polygrap) mà chúng tôi sẽ đo trên người ông, tôi mong ông hiểu đuợc điều đó. Hoàng Kim Loan trả lời tôi: - Tôi hiểu rõ điều đó ông trưởng Ty. - Mọi chuyện đã thông suốt, rõ ràng, và minh bạch, bây giờ những điều gì ông muốn cho tôi biết, ông có thể bắt đầu. - Tôi sẽ nói những gì trong phạm vi của tôi và những gì ngoài phạm vi của tôi mà tôi biết được qua nhiều đối tượng khác nhau.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:22:09 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 12 Hoàng kim Loan đã khai những cơ sở bí mật của hắn trong Phật Giáo tại Huế như sau: - Thích Đôn Hậu. Thích Đôn Hậu trụ trì chùa Thiên Mụ, là Chánh Đại Diện Phật GiáoẤn Quan miền Vạn Hạnh (Miền Trung). Cơ sở Tôn giáo Vận, được Hoàng Kim Loan tổ chức từ trước năm 1963. Chùa Thiên Mụ là một trạm giao liên nội thành rất quan trọng của cơ quan Thành ủy Huế trong suốt thời gian Thích Đôn Hậu trụ trì chùa này cho đến Mậu Thân 1968, khi Thích Đôn Hậu thoát ly ra Bắc. Trong Tết Mậu Thân 1968, Thích Đôn Hậu được Hoàng Kim Loan giao chức vụ: Phó Chủ tịch Lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hoà Bình. Sau Mậu Thân, Thích Đôn Hậu ra Hà Nội được Trung ương đảng Cộng Sản bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch phái đoàn đại diện cho quần chúng, Tôn Giáo, trí thức miền Nam công du một số nước Cộng sản như Trung Cộng, Tây Tạng v. v… để cổ võ, tuyên truyền cho Hà Nội. Theo Hoàng Kim Loan, nếu không có vụ Mậu Thân 1968, thì trong năm đó Thích Đôn Hậu cũng sẽ thoát ly ra Bắt để tham gia vào phái đoàn, vì chính Hoàng Kim Loan hắn đã nhận được chỉ thị chuẩn bị kế hoạch để đưa Thích Đôn Hậu rời khỏi Huế ra Hà Nội thì xảy ra biến cố Mậu Thân. Sau 1975, Thích Đôn Hậu trở về lại Chùa Thiên Mụ và giữ chức Chủ tịch Phật Giáo quốc doanh. - Thich Trí Quang. Cư ngụ chính thức tại Chùa Từ Đàm, từ trước 1963. Đảng viên Cộng Sản, gia nhập Đảng Cộng sản vào 1949. Người kết nạp là Tôn Thất Lành tự Tố Hữu. Lời khai của Hoàng kim Loan phù hợp với tiết lộ của Tố Hữu vào năm 2000 tại Hà Nội, chính y là người kết nạp Thích Trí Quang vào đảng Cộng Sản. Tố Hữu cũng nói thêm: “Sau 1963 Thích Trí Quang có ngỏ ý xin Trung Ương Đảng cho tạm nghỉ một thời gian để có thì giờ chấn chỉnh nội bộ Phật Giáo Ấn Quang, nhưng lời yêu cầu đó không được Trung ương đảng chấp thuận.” Tố Hữu còn có nhận xét về Trí Quang: ‘ Vào lúc đó uy tín và ảnh hưởng của ông Bồng [Trí Quang] đối với quần chúng nhất là tín đồ Phật Giáo quá lớn, ông ta nghĩ không cần đảng nữa, ông ta muốn thiết lập một chế độ Giáo quyền tại miền Nam, mà trong đó ông đóng vai ‘Quốc Phụ’. Và lời khai của Hoàng Kim Loan cũng phù hợp với tài liệu của Sở Mật Thám Pháp còn lưu giữ tại trung tâm Văn khố của BCH Cảnh Sát Thừa Thiên Huế: Thích Trí Quang là cán bộ Cộng Sản, là Đảng viên Cộng Sản. Hoàng Kim Loan xác nhận hắn không phải là Cán Bộ điều khiển của Thích Trí Quang. Trước 1963 cán bộ điều khiển của Thích Trí Quang là Thượng Tá Lê Câu, chỉ huy Truởng màng lưới điệp báo từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Sau 1963 ai là cán bộ điều khiển Trí Quang thì Hoàng Kim Loan không rõ, hắn chỉ được lệnh phối hợp hành động với Thích Trí Quang trong vụ đảo chánh 1963, và vụ biến động Miền Trung vào tháng 6/1966. - Nguyễn Khắc Từ, viên Bí Thư của Thích Trí Quang. Cũng theo Trung Tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan khai báo: Cơ quan Tình Báo Chiến lược của Cộng Sản Hà Nội đã bố trí một nhân vật tình báo cao cấp của bọn chúng bên cạnh Thích Trí Quang, với vai trò là Bí Thư cho Thích Trí Quang, đó là tên Nguyễn Khắc Từ. Nguyễn Khắc Từ được cơ quan Tình Báo Chiến Lược Việt Cộng giao nhiệm vụ: 1- Theo dõi và kiểm soát mọi hành động của Thích Trí Quang. 2- Cán bộ giao liên giữa Thích Trí Quang và Cụm Tình Báo Chiến lược Hà Nội 3- Cán bộ Giao liên giữa Thích Trí Quang và Trung Tá Cộng Sản Hoàng Kim Loan. 4- Quan Sát, theo dõi, và thiết lập hồ sơ chuyển về cơ quan Tinh Báo Chiến lược những thành phần ”Tốt” trong hàng Sĩ Quan [Phải là cấp Đại Úy trở lên] thuộc Sư Đoàn I Bộ Binh để cơ quan này tuyển mộ hoạt động cho bọn chúng. 5- Công chức trong chính quyền VNCH tại Thừa Thiên Huế [Phải là cấp Trưởng Ty trở lên]. 6- Phân loại Sinh viên của Đại học Huế đang giữ chức vụ đại diện các phân khoa, và một số thành phần quan trọng trong Tổng Hôị Sinh Viên Đại Học Huế. Một số giáo Sư Đại Học và Trung học ở Huế. Tất cả các đối tượng Quân Đội, Công chức, Giáo sư, Sinh Viên kể trên đều tham gia và nằm trong các lực lượng dấy loạn miền Trung vào năm 1966 của Trí Quang và Trung Tá Cộng sản Hoàng Kim Loan. 7- Phân loại và thiết lập hồ sơ các thành phần Đại Đức, Thượng Tọa, của Phật Giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh tại Huế. 8- Các thành phần chủ chốt của các khuôn hội Phật Giáo từ cấp Quận trở lên Từ sau 1963 đến 1966, Nguyễn Khắc Từ với vai trò là Bí Thư của ‘Quốc Phụ’ Thích Trí Quang, hắn trở thành nhân vật đầy quyền uy thứ 2 của Phật Giáo Ấn Quang miền Trung. Trong thời gian này từ Tư Lệnh Quân Đoàn, Tư lệnh Sư Đoàn, đến hàng sĩ quan cấp tá, các Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, Trưởng Ty Cảnh Sát tại miền Trung trong phong trào tranh đấu, muốn diện kiến Trí Quang để xin chút ân huệ Trí Quang ban cho, đều phải qua tay của Nguyễn Khắc Từ mới có kết quả. Đối với hàng Phật giáo đồ tại miền Trung, hắn là một nhân vật biểu tượng gương mẫu của một người đạo đức tu hành, suốt đời hy sinh tranh đấu cho cho đạo pháp bị ‘lâm nguy’. Thế nhưng, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phật Giáo đồ tại Huế, quí Đại Đức,Thượng Tọa, các bậc tu hành chân chính đã phải kinh hoàng khi thấy Nguyễn Khắc Từ lộ nguyên hình là tên Cán bộ Việt Cộng cao cấp, và hắn là Phó Trưởng Ban Tôn Giáo của Mặt Trận Tổ Quốc thuộc Thành Ủy Sài Gòn. Nằm vùng quá lâu trong Phật Giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh, là con rận Việt Cộng nằm trong áo Cà Sa của Quí thầy, hắn đã phân loại từng nhân vật, từ các Thượng Tọa, Đại Đức, đến các thành phần trưởng các khuôn hội Phật Giáo, các Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Bây giờ Nguyễn Khắc Từ nguyên là viên Bí thư và là cánh tay mặt của Thích Trí Quang là Phó trưởng Ban Tôn Giáo của Mặt trận Tổ Quốc Thành Ủy Sàigòn sau ngày 30/4/1975. Thử hỏi Tăng Ni và Phật Tử làm sao chịu nổi những đòn phép mà hắn và Đảng Cộng Sản Việt Nam tung ra để tiêu diệt Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Nhớ lại vào tháng 6/1966 khi Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Lực Lượng CSQG Thừa Thiên-Huế dẹp loạn Tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, tôi đã bắt Nguyễn Khắc Từ. - Nguyễn Khắc Từ chắc hẳn ông vẫn còn nhớ rõ Tình báo Chiến Lược Cộng Sản Việt Nam thả con rận độc Nguyễn Khắc Từ vào nằm trong áo cà sa của quí thầy trong bao nhiêu năm cùng với Thích Trí Quang và Trung Tá Cộng Sản Tình Báo Chiến Lược Hoàng Kim Loan, để cầm nắm lèo lái Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất theo ý muốn và mưu đồ của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thế nhưng bọn chúng quên một điều: Ở cõi đời này có luật thừa trừ ‘Vỏ quít dày, vẫn còn có móng tay nhọn.’. Con rận độc Nguyễn khắc Từ vào tháng 6/1966 cũng đã bị cấy vào người một chất Sinh tử phù cực độc. Nguyễn khắc Từ, chắc ông vẫn chưa quên ai là Cán Bộ Điều Khiển? Hãy dừng tay lại ngay lập tức, Nguyễn Khắc Từ, tên phản bội, tên Việt Cộng nằm vùng trong Phật Giáo. Đừng tưởng rằng sau 1975, Chính phủ VNCH không còn nữa, Cảnh sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế đã bị xoá tên thì chất độc Sinh tử phù sẽ không còn tác dụng. Lầm lớn rồi Nguyễn khắc Từ, đồng ý, miền Nam đã không còn trong tay người Quốc Gia, nước mất, nhà tan, thân phận lưu lạc, chúng tôi những kẻ đã bị chôn, nhưng chưa chết. Nếu tôi phá vỡ nguyên tắc, bạch hoá hồ sơ, thì chính ông là kẻ chưa chết, nhưng sẽ bị chôn, hậu quả như thế nào chắc ông hiểu rõ hơn tôi nhiều. ‘Báo nhận hiểu và thi hành’ đi, Nguyễn Khắc Từ, tên Việt Cộng nhơ nhớp, bẩn thỉu, hơn loài cầm thú. - Thích Chánh Trực Tu tại Chùa Tường Vân, Ngôi chùa nằm phía sau đồi Quảng Tế. Ngôi chùa này chính là nơi tu đạo của Ngài Đại Lão Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, Giáo Chủ Phật Giáo Việt Nam thống nhất. Thích Chánh Trực có nét mặt và dáng dấp của một tên thảo khấu giang hồ, nhưng lại có tài ăn nói, hùng biện, thu hút quần chúng. Thích Chánh Trực là cánh tay mặt và là truyền nhân của Thích Trí Quang, cũng là sơ sở quan trọng của Hoàng Kim Loan trong công tác Tôn Giáo Vận. Mọi cuộc biểu tình của Phật giáo tổ chức, chống đối chính quyền, hắn là nhân vật chính, hướng dẫn, xách động. Thích Chánh Trực là Đảng viên Cộng Sản do Hoàng Kim Loan kết nạp. Hoàng Kim Loan còn khai, có một khoảng thời gian sau Mậu Thân, vì tình hình an ninh quá căng thẳng, trong thành phố Huế không còn là nơi an toàn cho hắn trú ẩn, vì lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế tổ chức hành quân Cảnh Sát liên miên, lục soát bất chợt. Hoàng Kim Loan đã được Thích Chánh Trực đưa vào trú ngụ với y tại chùa Tường Vân, khoảng trên một năm. Hoàng Kim Loan phát giác Thích Chánh Trực đã có dan díu với một nữ tín đồ và có một đứa con trai với người này. Cũng theo Hoàng Kim Loan, bản chất tên này hung ác, dâm loạn, trẻ không tha, già không bỏ. Có một lần Hoàng Kim Loan bắt gặp hắn hành lạc với một nữ tín đồ ngay trong phòng của hắn, và chính Hoàng Kim Loan đã phê bình với Chánh Trực làm như vậy là ‘thiếu đạo đức cách mạng’, nhưng hắn vẫn chứng nào tật đó. Hắn thường ăn mặn, không ăn chay, thức ăn của hắn do các nữ tín đồ tình nhân đem đến chùa cho hắn, thường là đậu đen được hầm với thịt thái nhỏ, có trời mà biết được hắn ăn mặn. - Thích Thiện Siêu Thích thiện Siêu trụ trì Chùa Từ Đàm, đảng viên Cộng Sản do Hoàng Kim Loan kết nạp. Một trong những cơ sở quan trọng Tôn giáo vận của Hoàng Kim Loan. Hắn hoạt động chìm, có trách nhiệm nghiên cứu các đối tượng ở các khuôn hội Phật giáo, các phật tử, cung cấp cho Hoàng Kim Loan để tổ chức, kết nạp. Sau 1975, Thích Thiện Siêu được Trung ương đảng Cộng Sản tiến cử làm dân biểu Quốc hội. - Thích Như Ý Thích Như Ý, trụ trì chùa Trà Am. Cơ sở Tôn Giáo vận. Hoàng Kim Loan tổ chức và kết nạp y vào trước 1963. Chùa Trà Am cũng là trạm giao liên ngoại thành của cơ quan Thành ủy Huế – Huế có hằng trăm ngôi chùa, nhưng có thể nói không một ngôi chùa nào có cảnh trí thanh nhã bằng chùa Trà Am. Nằm cách núi Ngự Bình khoảng bốn cây số đường bộ về hướng nam, trong vùng Tứ Ngũ Tây thuộc quận Hương Thủy. Sau lưng chùa là những đồi thông, một giòng suối chảy ngang trước mặt chùa, muốn vào chùa phải đi qua chiếc cầu nhỏ bắc qua giòng suối, những tàn cây cổ thụ cả trăm năm phủ rợp bóng từ cổng chùa vào đến tận bên trong. Chùa chỉ có hai căn nhà mái ngói rêu phong, đó là khu chánh điện và nhà hậu trai, đâu đâu cũng đầy hoa thơm cỏ lạ, phảng phất mùi hương nhẹ nhàng. Nơi đây là một cảnh tiên trong cõi trần tục. Chùa Long Giáng của Khái Hưng trong Hồn Bướm Mơ Tiên cũng chỉ là một nét nhỏ của chùa Trà Am. Đã bước vào đây thì mọi phiền lụy trong cõi hồng trần đều rũ sạch, vậy mà tiếc thay, bọn Việt Cộng lại dùng nơi đây làm trạm liên lạc, chuyển vận người và dụng cụ về mật khu, ra vào thành phố Huế, và vị sư trù trì là Thích Như Ý lại là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Lời khai của Hoàng Kim Loan làm tôi hồi tưởng lại. Vào mùa hè năm 1970, tôi cũng đã vào ngôi chùa Trà Am bắt Thích Như Ý và đám cơ sở nội thành Việt Cộng đang nhóm họp. Vụ này đã tạo cơn bão chính trị lớn tại thành phố Huế, hàng loạt biểu tình của Phật giáo phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo. Chuyện xảy ra như sau: Vào khoảng cuối tháng 12/1969, nhiều lần cơ quan tình báo quân sự Hoa Kỳ CID tại Phú Bài thông báo cho tôi, tại tọa độ… có điện đài đang phát sóng. Dò trên bản đồ quân sự 1/100,000 thì đó là địa điểm của Chùa Trà Am. Hai tháng sau đó, vào tháng 2/1970, qua viên Thiếu tá cố vấn chương trình Phụng Hoàng, CID chuyển cho tôi bốn tấm không ảnh chụp về đêm phát hiện có một toán nhỏ 3 tên Việt Cộng có vũ trang, xuất hiện phía sau nhà hậu trai của ngôi chùa. Ảnh chụp rất rõ ràng. Tôi bàn với Đại úy Trương Công Ân trưởng phòng CSĐB, và sau đó chúng tôi đã thiết lập một trạm bí mật theo dõi, giám sát hàng ngày ngôi chùa này, chỉ ban ngày mà thôi, ban đêm toán theo dõi được rút về, vì đây là khu vực vùng D, vùng xôi đậu, có phần nguy hiểm cho toán theo dõi. Chỉ không đầy 6 tuần lễ sau, chúng tôi phát giác có một số cơ sở nội thành Việt Cộng, đang nằm trong mục tiêu theo dõi của chúng tôi đã lên hội họp tại đây vào những ngày thứ bảy hoặc chúa nhật, khi mà thiện nam tín nữ thăm viếng chùa đông đảo. Trung tuần tháng 5/1970, cơ sở chúng tôi trong lực lượng Học Sinh, Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế, báo cho biết sẽ có phiên họp của đám cơ sở nội thành tại chùa Trà Am. Vào 6 giờ 30 sáng ngày 19-5-1970, tôi đổ 2 trung đội CSDC và khoảng 20 CSĐB bao vây chặn mặt sau ngôi chùa. Tôi, Đại úy Ân, một số CSĐB và một trung đội CSDC tiến thẳng vào chùa bằng cổng chính. Có lẽ trong chùa đã biết, nên khi chúng tôi vừa vào đến sân, thì gặp ngay vị sư Thích Như Ý đang lơ đãng quét lá vàng vào ban sáng, có ý chặn chúng tôi lại ngay tại đó. Ông làm ra bộ ngạc nhiên cất giọng hỏi chúng tôi: - Chào Đại úy, ông và anh em Cảnh Sát đi đâu sớm vậy mà sao lại lạc vào đây? - Bạch Thầy, chúng con không đi lạc, chúng con đang hành quân Cảnh Sát ở vùng này. Bạch Thầy, con là Đại úy Liên Thành, Trưởng ty Cảnh Sát. - Tôi biết, vội vàng chi, mời Đại úy và anh em vào hậu trai uống tí trà vào buổi sáng. - Cám ơn Thầy, nhưng anh em đang làm việc. Tôi đi thẳng vào ngay vấn đề: - Thưa Thầy, chiều qua có một số thanh niên vào chùa, mãi đến tối không thấy trở ra, con muốn tìm kiếm đám này, vì họ là đám phá rối trị an, cơ sở Việt Cộng. Ông lạnh lùng nhìn tôi và nói: - Đại úy Liên Thành, ông thấy đó, cảnh chùa vắng vẽ có ai đâu. Tôi tự nói với mình: ”A di đà Phật, bậc tu hành sao còn nói láo” - Vâng, sân chùa vắng vẻ, chẳng có ai, nhưng con nghĩ họ ở trong chùa, vì thế con muốn thầy cho phép soát trong chùa. - Ông Trưởng ty muốn lục soát chùa cũng được, nhưng ông Trưởng ty có giấy cho phép của Thượng Tọa chánh Đại Diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh hay không? Nếu có thì ông Ty cứ tự nhiên, còn bằng không, thì ông Ty không thể vào lục soát được. - Thưa Thầy, luật pháp quốc gia không có quy định nhân viên Công lực khi thi hành phận sự phải xin phép một tôn giáo nào cả. Bây giờ không phải là năm 1966, CSQG/Thừa Thiên-Huế phải xin phép, tuân lệnh các thầy. Con xin phép Thầy chỉ là vấn đề lịch sự, không phải là thủ tục pháp lý. Ông nhìn tôi và nặng lời: - Ông Trưởng ty Liên Thành là con giòng cháu giống, cháu nội Kỳ Ngoại Hậu Cường Để sao lại chạy theo Thiệu Kỳ đàn áp Phật Giáo? - Con không còn nhớ mình là cháu nội của ai, chỉ biết giờ này là Trưởng ty Cảnh Sát, đang thi hành phận sự của một nhân viên công lực, yêu cầu thầy đứng qua một bên đừng cản trở nhân viên công lực thi hành nhiệm vụ. Bốn nhân viên Cảnh sát, hai Đặc biệt, hai Dã chiến, vây ông ta vào giữa. Vừa ngay khi đó thì đơn vị bọc sau lưng chùa dẫn vào năm thiếu niên và một phụ nữ dáng dấp chưa đầy ba mươi tuổi. Trung đội trưởng CSDC có nhiệm vụ chặn phía sau chùa cho biết cả sáu người này từ trong chùa chạy ra thì bị bắt giữ ngay. Tôi cho lệnh soát chùa nhưng dặn anh em phải hết sức cẩn thận. Mục đích lục soát là kiếm người và tìm điện đài, người đã bắt được rồi. Nhưng điện đài thì thật khó, vì điện đài là một vật nhỏ nếu không biết vị trí cất dấu chính xác thì khó mà tìm dược. Sau gần 45 phút tim kiếm điện đài, chúng tôi đành bỏ cuộc, rời khỏi chùa Trà Am vào hồi 9 giờ sáng, ngày 19-5-1970 mang theo năm thanh niên một phụ nữ cùng thầy Thích Như Ý và một số tài liệu trong đó có một bản Nghị Quyết mới nhất của Trung ương Đảng Cộng Sản Hà Nội, (tôi không còn nhớ đó là bản Nghị quyết số mấy). Tổng Cộng bảy người, tất cả bị bắt đem về Trung tâm thẩm vấn. 3 giờ chiều cùng ngày, ngày 19-5-1970, Phật Giáo bắt đầu biểu tình. Đoàn biểu tình rầm rộ kéo xuống trước Tòa Hành Chánh Tỉnh phản đối chính quyền đàn áp Phật Giáo và yêu cầu thả người. Tôi liền cho 3 trung đội CSDC tăng cường giữ an ninh Toà Hành Chánh tỉnh, nhưng không cho lệnh giải tán đoàn biểu tình. Tại Trung Tâm thẩm vấn, Trung Úy Hồ Lang, Trưởng cơ quan G-4 (Trung tâm thẩm vấn), cùng anh Trần Vững, Trưởng ban khai thác tin tức, không gặp khó khăn trong việc thẩm vấn và khai thác tin tức của năm thanh niên và ngươì phụ nữ kia. Y thị nhìn nhận mục đích buổi họp tối hôm đó tại chùa Trà Am là để bố trí công tác cho năm cơ sở nội thành, thực hiện một số mục tiêu phá hoại bằng chất nổ tại một vài cơ sở quan trọng của chính quyền trong thành phố Huế, và đặt chất nổ tại 2 rạp chiếu bóng, đó là rạp Ciné Tân Tân ở đường Trần Hưng Đạo và rạp Ciné Châu Tinh tại đường Chi Lăng quận II thành phố Huế. Người đàn bà này có tên là Lê thị Út, cán bộ an ninh cơ quan Thành ủy Huế, đã chuyển vận một số chất nổ từ mật khu về chùa Trà Am, và đem cất dấu tại khu nghĩa trang dưới chân núi Ngự Bình. Đợi sau khi y thị họp xong với năm thanh niên cơ sở nội thành này, y thị sẽ chỉ chỗ cất dấu chất nổ cho họ đến lấy và thi hành công tác phá hoại. Đại úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB, cùng với một toán CSĐB đi cùng y thị đến chỗ cất dấu chất nổ, đã tịch thu được một số lượng khoảng 6 Kg chất nổ TNT, và 8 ngòi nổ chậm. Riêng về phần thẩm vấn Thích như Ý thật khó khăn. Hai chuyên viên lỗi lạc trong ngành thẩm vấn là Trung Úy Hồ Lang, Truởng cơ quan G-4 và anh Trần Vững, Trưởng ban khai thác tin tức cũng đã phải nao núng. Bởi lẽ đầu tiên ông ta vẫn mặc y phục của vị tu hành phật giáo, không chịu thay y phục của tù nhân, điều này đã tạo khó khăn về mặt tâm lý và tôn giáo không ít cho thẩm vấn viên. Huế sau 1963, ngoài xã hội có bao nhiêu đảng phái chính trị, bao nhiêu tôn giáo, thì trong lực lượng CSQG /Thừa Thiên Huế đều có bấy nhiêu, tỷ như: Chi Bộ Cảnh Sát Quốc Dân Đảng, Chi Bộ Cảnh Sát Đại Việt Cách Mạng, Chi Bộ Cảnh sát Nhân Xã Đảng, Chi Bộ Cảnh Sát Tân Đại Việt, và nhiều thứ Chi Bộ Cảnh Sát của các đảng phái khác, thật kể không hết. Cũng may là không có Chi bộ Cảnh Sát đảng Cộng Sản, nếu có, thì BCH/ Cảnh Sát Thừa Thiên-Huế đã trở thành Lực lượng Liên Minh Dân tộc, Hoà Hợp, Hoà giải. Hoa Kỳ, Cộng Sản, và VNCH chẳng cần tốn thì giờ và bút mực ký hoà đàm Paris làm chi cho mệt… Về Tôn giáo thì có Cảnh Sát Phật Tử, Cảnh Sát Công Giáo v. v.. Đó là thực trạng đáng buồn trong BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế sau 1963. Thật khó khăn cho cho tôi trong việc chỉ huy và điều hành một lực lượng đông đảo trên 5000 nhân viên, có lẽ vì vậy mà chẳng ai muốn thay thế tôi trong chức vụ Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên-Huế, và cũng vì thế mà tôi phải ngồi lỳ trong 9 năm trời tại nhiệm sở này. Không một thẩm vấn viên nào chịu phụ trách thẩm vấn Thích như Ý. Đưa người này thẩm vấn thì: - Thưa ông Ty, em Phật tử, em không dám, xin ông Ty cử người khác. Giao thẩm vấn viên khác phụ trách, cũng lại: - Thưa ông Ty, em Công Giáo, sợ mất lòng bên anh em Phật giáo. Tôi nỗi giận: - Ông nào cũng là Cảnh sát, cũng là nhân viên công lực, ăn lương chính phủ mà lại từ chối nhiệm vụ giao phó, tại sao lại đưa Tôn giáo vào nơi này? Ông Công Giáo sợ ông Phật Giáo. Ông Phật Giáo sợ một tên Việt Cộng đội lốt tu hành. Được rồi, anh em không làm thì tôi làm. Tôi thấy ngay trở ngại đầu tiên là tấm áo nâu sồng khoát trên người một kẻ đã lợi dụng màu áo nâu tu hành làm vỏ bọc để hoạt động cho Cộng sản, nhưng lại có giá trị khơi động niềm tin tôn giáo và sự nể trọng các bậc tu hành trong lòng thẩm vấn viên. Vì vậy phải tháo bỏ tấm áo này thì nhân viên thẩm vấn mới khỏi lẫn lộn giữa đạo và đời, giữa vị chân tu và kẻ lợi dụng tôn giáo hoạt động cho địch. Tôi nói với trưởng cơ quan G-4, Trung Úy Hồ Lang ý nghĩ của tôi, và yêu cầu anh ta lấy áo tù, và tôi sẽ phụ trách chuyện này. Tôi vào phòng thẩm vấn gặp Thích như Ý: - Nơi này không phải là chùa Trà Am, mà là Trung tâm thẩm vấn, vì thế tôi yêu cầu ông thay áo quần can phạm, ông không bằng lòng tôi vẫn phải thay cho ông, đây là thủ tục bắt buộc. Miệng nói, tôi tiến về phía ông với bộ áo quần trên tay. Ông ta có vẽ hoảng hốt: - Tôi thay… Tôi thay… Tôi đã đoán đúng tâm lý của ông ta: Mặc dầu ông ta hoạt động cho Việt Cộng, nhưng bản chất vẫn là một kẻ tu hành, không bao giờ để thân thể trần truồng trước mắt kẻ lạ, vì thế ông hốt hoảng tự động làm việc đó mà không cần đến tôi. Tôi bước ra khỏi phòng và chỉ năm, mười phút sau quay lại, ông ta đã thay xong, mặc bộ đồ đen. Suốt đêm 19-5-1970, Tôi, Ân, trưởng cơ quan G-4 và Trần Vũng, thay phiên nhau thẩm vấn ông ta. Mãi gần trưa ngày hôm sau, đã quá mệt mỏi không chống mỗi với chiến thuật xa luân chiến của chúng tôi, và sau khi cho ông xem lời khai của sáu cơ sở đã bị chúng tôi bắt trong chùa của ông, biết là khó chối cãi, khi đó ông mới bắt đầu khai rõ mọi hoạt động. Tôi còn nhớ ông ta ăn nói thô bạo và tục tĩu còn hơn nhân vật sư Lỗ Trí Thâm trong truyện Thủy Hử của Trung quốc. Trong đời tôi, đây là lần đầu, tôi được nghe được những lời chửi rủa, văng tục từ miệng một kẻ tu hành. tôi ngạc nhiên và xấu hổ. Ông ta lôi từ ông sơ, ông cố của tôi, từ Vua Gia Long, đến ông nội của tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cuờng Để ra chửi. Ông ta ví mặt tôi và anh em thẩm vấn viên giống như cái đó… của đàn bà, và là đồ mật thám, chó săn, chạy theo Thiệu, Kỳ đàn áp Phật Giáo. Mỗi lần ông ta văng tục xong tôi lại hỏi ông: -’A di Đà Phật’, ông chưởi xong chưa? Sao tu hành mà ăn nói tục tĩu như vậy. Đây là một câu chuyện thật về ông Như Ý, ngoài tôi, số anh em thẩm vấn viên đã bị ông ta chửi tục hiện định cư tại Hoa Kỳ chắc không quên chuyện đó. Ngày 20-5-1970 lực lượng Phật Giáo vẫn tiếp tục biểu tình phản đối chính quyền đàn áp Phật Giáo, và yêu cầu chính quyền thả người. Cũng trong ngày này, tôi nhận được hai Công điện khẩn cấp, một của Văn phòng Tư Lệnh CSQG, Thiếu Tướng Trần Thanh Phong, và một của Đại Tá Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Đặc Biệt, yêu cầu tôi báo cáo tình hình và giải thích nội vụ bắt giữ Thích như Ý. Tôi đánh điện phúc trình nội vụ. Tôi cũng đã tiên liệu trước, vụ này sẽ trở thành lớn chuyện, vì Thích Như Ý có liên hệ gia đình với Thượng Tọa Thích Trí Thủ, Tổng thư ký Viện Hoá Đạo tại Sàigòn. Tôi suy nghĩ với tình hình này, nếu để lâu, nội vụ sẽ là cơ hội tốt cho cho nhóm cơ sở Việt Cộng nằm vùng trong Phật giáo tạo ra biến động lớn, và sẽ gây nhiều phiền toái cho chính phủ và nhất là cho chúng tôi. Tôi họp với Ân và một số anh em Sĩ Quan trong ban tham mưu, đưa ra hai giải pháp để giải quyết: 1- Lập hồ sơ nội vụ thật nhanh để giải tòa, hoặc đưa ra Hội Đồng An Ninh Tỉnh với tội danh: Hoạt động cho Việt Cộng và âm mưu phá rối trị an, và nếu cần họp báo công bố nội vụ. 2- Thương lượng, trao đổi trực tiếp, với Giáo Hội Phật Giáo tại Huế. Anh em đều chọn giải pháp thứ hai. Tiên lễ, hậu binh. Thương lượng trước. 8 giờ tối ngày ngày 21-5-1970, tôi lên Chùa Linh Quang gặp Thượng Tọa Thích Mật Nguyện với đầy đủ hồ sơ của Thích như Ý và đồng bọn. Chùa Linh Quang nằm trong khu vực Từ Đàm, phía sau lăng Cụ Phan Bội Châu. Thượng Tọa Thích Mật Nguyện là một vị cao tăng đức hạnh, đối với Phật Giáo đồ và ngay cả những người ngoại đạo, những ai đã gặp ông đều phải nể trọng, cung kính. Năm 1968, khi Thích Đôn Hậu thoát ly ra Hà Nội, Hoà Thượng Thích Mật Nguyện được Giáo Hội đề cử vào chức Chánh Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh thay thế Thích Đôn Hậu.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:30:55 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 13 (Thích Đôn Hậu và Tôn Thất Dương Tiềm tại Mông Cổ) Là một vị lãnh đạo Phật Giáo Ấn Quang tại Miền Trung sau 1968, với tấm lòng từ bi, trong mọi tình huống gay cấn, khó khăn giữa giáo hội và Chính quyền, Hòa Thượng vẫn luôn luôn chủ trương hoà giải, mặc dầu Hoà Thượng vẫn thường xuyên gặp áp lực nặng nề của những tín đồ quá khích và đám cơ sở Việt Cộng nằm vùng trong Giáo Hội. Tôi được Hòa thượng tiếp tại nhà hậu trai, sau khi trình bày rõ ràng nội vụ, và để Hòa thượng xem lời khai của Thích như Ý và đồng bọn, cùng một số tin tức, tài liệu quan trọng trong đó có bốn tấm không ảnh. Tôi kết luận: - Bạch Thượng tọa, lời khai của họ đã rõ ràng, đủ yếu tố đưa họ ra Tòa, hoặc Hội đồng An ninh Tỉnh. Nếu cần con có thể mở cuộc họp báo để bạch hoá hồ sơ, công bố chi tiết nội vụ cho báo chí và đồng bào rõ đâu là sự thật. Tôi hỏi Thượng Tọa Thích Mật Nguyện: - Bạch thầy, cứ mỗi lần Lực Lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế phá vỡ một tổ chức Việt Cộng và bắt giữ một số cơ sở nội thành của tổ chức đó, thì Giáo Hội tại Huế lại biểu tình chống đối và cho đó là hành động đàn áp Phật Giáo. Vậy những người biểu tình đó họ là ai? Đang ở chiến tuyến nào? Bắc hay Nam vĩ tuyến 17? Thượng tọa ngồi trầm ngâm suy nghĩ, cuối cùng ông nói với tôi: -Con đã biết trong Giáo Hội tại Huế nguời của bên kia cũng nhiều, khó mà kiễm soát được họ. Nhưng thôi, Thầy không muốn đề cập đến chuyện này. Các cuộc biểu tình vừa rồi, không phải Giáo hội hành động, mà là một nhóm phật giáo đồ, khi nghe tin chùa Trà Am bị lục soát và thầy Thích như Ý bị chính quyền bắt, họ hấp tấp tự động tổ chức biểu tình phản đối. Họ chẳng cần xin lệnh của Giáo hội, chẳng có lệnh của thầy. Mọi chuyện có thể trở nên trầm trọng hơn, thôi thì mỗi bên nhường nhịn nhau một tí. Thầy sẽ cho họ biết rõ nội vụ và yêu cầu họ chấm dứt biểu tình. Phần con, cũng nên tha cho thầy Như Ý và mấy người đó đi, hoá giải tất cả. - Bạch thầy, thật khó cho con. Thầy Thich Như Ý và mấy người kia là cơ sở và cán bộ an ninh nội thành Việt Cộng. Họ đang mưu toan và đã có kế hoạch đặt chất nổ phá hoại, và giết hại dân lành, họ phải bị truy tố ra toà. Thượng toạ cắt ngang lời nói của tôi: - Thôi được, mấy người kia là chuyện ngoài đời, thế tục, thầy không muốn nhúng tay vào. Riêng thầy Thích Như Ý, con tha cho ông ta. Con có muốn thầy đứng bảo lãnh cho thầy Như Ý không? - Dạ, không dám. Con chỉ có thể hứa với thầy và sẽ làm đúng lời hứa là thay vì đưa thầy Như Ý ra toà, con sẽ đưa ra Ủy Ban An ninh Tỉnh, với đề nghị thật nhẹ. Nhưng 6 người kia con vẫn lập thủ tục giải toà. Lời hứa thứ hai là sẽ không tổ chức họp báo công bố nội vụ, nhưng với điều kiện sẽ không có cuộc biểu tình nào nữa vào ngày mai. - Con yên tâm đi, thôi con về. Xe để ở đâu? Con ra cửa sau, cẩn thận đừng để ai thấy. Thiên hạ lại tung tin thầy có quan hệ với ông Liên Thành, với Mỹ. Ngoại trừ chuyện quan trọng, khẩn cấp, bình thường, con cứ nói thằng Bích lên gặp thầy là được rồi. ‘Thằng Bích’ là chú tiểu Bích, tu đạo tại chùa này, chùa Linh Quang, không biết từ hồi mấy tuổi, nhưng năm tôi học tiểu học trường Nam Giao, tôi đã chơi thân với chú tiểu Bích, vì gia đình tôi ở ngay trong vườn lăng Cụ Phan Bội Châu, chỉ cách chùa Linh Quang một con đường nhỏ.Tôi thường vào chùa rủ hắn đi đánh bi với đám bạn trong xóm Từ Đàm- Linh Quang. Hắn tu chưa lên được chức Đại đức thì giai nhân xuất hiện, người đẹp là em ruột của thầy Thích Mật Nguyện. Hắn phải lòng người đẹp nên ốm tương tư, cuối cùng xin cởi áo tu, hoàn tục, và xin Thuợng Tọa Thích Mật Nguyện cưới nguời đẹp làm vợ, một mái lều tranh hai quả tim… chì cạnh chùa Linh Quang. Năm 1966, khi tôi về Cảnh Sát thì gặp hắn chững chạc trong bộ cảnh sát sắc phục. Tôi rút hắn về văn phòng tôi, thường đi với tôi trong mọi công tác. Hoàn tục đã lâu, nhưng chiếc đầu vẫn trọc lóc không một sợi tóc. Tôi thăng cấp tu hành cho hắn, thường gọi hắn là ‘Thượng Tọa Bích’. Hắn chỉ nhăn răng cười mà không cự nự. Hắn là một gạch nối giữa tôi và Hoà Thượng Thích Mật Nguyện trong những công việc cần dàn xếp giữa chính quyền và Giáo Hội. Ngày 28-2-1975, khi Việt Cộng chiếm Huế, Bích là chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia đầu tiên của lực lượng CSQG ThừaThiên -Huế rút súng bắn vào đầu tự sát ngay dốc Bến Ngự, cách chùa Linh Quang không xa. Ngày nay cứ mỗi độ 30 tháng 4 về, anh em chúng tôi thường nhắc đến anh: Nguyễn Văn Bích với tấm chân tình kính trọng một vị anh hùng liệt sĩ Cảnh Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế. Xin cầu nguyện cho anh đời đời yên nghỉ ở cõi Niết Bàn, nơi mà anh đã chọn tìm đến từ thuở tuổi ấu thơ. Vĩnh Biệt Nguyễn văn Bích… ‘Thượng tọa Bích’. Trở lại chuyện Thích như Ý: Ngày hôm sau, 22-5-1971, hồ sơ Thích Như Ý, và sáu người kia được chuyển qua Hội Đồng An ninh Tỉnh truy tố tội danh, với đề nghị: - Thích như Ý : 3 tháng. - Sáu người kia: 2 năm tái xét. Cuộc biểu tình chấm dứt kể từ 10 giờ sáng ngày 22-5-1970. Tưởng mọi chuyện đã yên ổn, nhưng lại không bình yên. Ba ngày sau, 26-5-1970 khoảng 9 giờ sáng viên Cố vấn CSĐB gặp tôi: - Đại úy Thành, ông gặp rắc rối rồi, một tí thôi. - Chuyện gì xảy ra? Tôi ngạc nhiên hỏi ông ta. Ông ta nói: - Nội trong ngày hôm nay, có thể là hai, hoặc ba giờ chiều, Thiếu Tuớng Phong, Tư Lệnh của ông, cùng với một phái đoàn cao cấp của Chính Phủ Sàigon sẽ gặp ông, để điều tra Vụ Chùa Trà Am. Quả đúng như lời của viên cố vấn CSĐB. Khoảng 3 giờ chiều cùng ngày, điện thoại reo, đầu đây bên kia là giọng nói của Thiếu úy Chính, Trưởng Ban an ninh phi trường Phú Bài: - Đại úy, em Thiếu úy Chính, Đại úy giữ máy. Thiếu tướng Tư lệnh muốn nói chuyện với Đại úy. - Allo! Thiếu tướng Tư lệnh đây Liên Thành.Thiếu tướng đang ở phòng khách của phi trường Phú Bài. Em đem hết hồ sơ vụ chùa Trà Am xuống đây gặp Thiếu Tướng. - Em nhận rõ Thiếu Tướng. Xin Thiếu Tướng cho em khoảng 30 phút em sẽ trình diện Thiếu Tướng. Hơn ba mươi phút sau tôi có mặt tại phòng khách danh dự phi trường Phú Bài. Mọi người đang đợi tôi trong phòng khách danh dự, gồm có: - Thiếu Tướng Trần Thanh Phong, Tư lệnh CSQG - Đại Tá Nguyễn Khắc Bình, Giám đốc Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo - Một Đại Tá thuộc Cục An ninh Quân Đội (nếu tôi nhớ không lầm là Đại Tá Nhuận) - 4 sĩ quan cao cấp của Khối CSĐB/ BTL. Sau khi tôi chào Thiếu Tướng Tư Lệnh và các sĩ quan trong phái đoàn, Thiếu Tuớng Tư lệnh nói với tôi: - Vì không có thì giờ, nên Thiếu Tướng gặp em ở đây, dịp khác Thiếu Tướng sẽ thăm BCH. Bây giờ em trình bày cặn kẽ vụ chùa Trà Am cho Thiếu Tướng và phái đoàn rõ. Tôi hiểu ngay đây là một cuộc điều tra. Thân phận của tôi chỉ là một hạt bụi nhỏ trong cơn lốc chính trị giữa hai luồng áp suất mạnh: Phật giáo và Chính phủ trung ương, vì Thích như Ý là anh ruột của Ngài Hoà Thượng Thích Trí Thủ Tổng thư Ký Viện Hoá Đạo Phật Giáo Ấn Quang tại Sàigòn. Tôi bắt đầu trình bày từng chi tiết một, diễn biến vụ chùa Trà Am: 1- Khởi đầu, cơ quan Tình báo quân đội Hoa Kỳ(CID), bộ phận kiểm thính báo cho tôi biết có điện đài Việt Cộng phát tuyến nhiều lần tại Chùa Trà Am. Sau đó CID lại chuyển tiếp cho tôi 4 bức không ảnh do phi cơ thám thính của CID chụp được, phát hiện một toán 3 tên Việt Cộng có võ trang đang đứng sau nhà Hậu trai của Chùa Trà Am. 2- Tôi chỉ thị cho phòng CSĐB đặt trạm theo dõi gần Chùa Trà Am, và sau đó phát giác một số cơ sở nội thành Việt Cộng vào ra ngôi chùa. Số cơ sở này chúng tôi đã biết từ trước, vì hiện đang nằm trong một vài chiến dịch xâm nhập của phòng CSĐB. 3- Trước ngày 18-5-1970, nguồn tin nội tuyến từ trong lực lượng Học Sinh, Sinh Viên, Giải Phóng thành Phố Huế của Việt Cộng báo tin: ‘Sẽ có một phiên họp quan trọng tại Chùa Trà Am vào tối ngày 18-5-1970′ 4-Vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày 19-5-1970, bao vây chùa Trà Am và bắt giữ một nữ cán bộ an ninh thành, tên Lê Thị Út, sáu cơ sở Việt Cộng trong đó Thích Như Ý. 5- Sau khi thẩm vấn, tất cả người này đều nhìn nhận họ hoạt động cho cơ quan An ninh Thành Ủy Huế và mục đích của buổi họp này là lên kế hoạch đặt chất nổ một vài địa điểm trong thành phố như: Ty Bưu Điện, Ty Ngân Khố, Toà Hành Chánh Tỉnh và 2 rạp chiếu bóng Tân Tân, và Châu Tinh. 6- Tang vật tịch thu được gồm có: một số tài liệu quan trọng, trong đó có bản Nghị Quyết mới nhất của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau đó theo hướng dẫn của nữ cán bộ Lê Thị Út, thuộc cơ quan An Ninh Thành ủy Huế, Đại Úy Trưởng Công Ân, Trưởng phòng CSĐB đã tịch thâu được khoảng 6kg chất nổ TNT và 8 ngòi nổ chậm, tại vùng nghiã trang gần núi Ngự Bình mà y thị chuyển từ mật khu về Chùa Trà Am và sau đó đem cất dấu tại địa điểm trên, chờ họp xong chỉ cho năm cơ sở kia đến lấy để thi hành công tác phá hoại. Ngoài ra, vì khu chùa quá rộng không thể tìm được điện đài họ cất dấu ở đâu. Trong khi tôi thuyết trình, một trong bốn sĩ quan BTL ngồi ghi chép. Một người khác lâu lâu lại rờ vào tay nắm của chiếc cặp để cạnh ông ta. Tôi mỉm cười nhìn ông, và ngưng thuyết trình, ghé vào tai ông ta nói nhỏ: - Ông khởi lo, tôi sẽ nói lớn hơn để ông thâu cho rõ. Như một đứa trẻ ăn vụng bị bắt gặp, nét mặt ông ta thẹn thùng, vì bên trong chiếc cặp là một máy thâu băng. Không hiểu ông ta đã được huấn luyện bao nhiêu khoá Tinh báo, mà hành sự quá tệ. Sau gần 30 phút trình bày nội vụ, tôi ngưng cuộc thuyết trình, và trình Thiếu Tướng Tư Lệnh, cùng phái đoàn hồ sơ liên hệ nội vụ gồm có: a- Tin tức của cơ quan Quân báo Hoa Kỳ (CID) về điện đài phát tuyến tại Trà Am. b- Bốn tấm lớn không ảnh mà máy bay không thám CID chụp về đêm phát hiện toán võ trang Việt Cộng tại sau nhà hậu trai chùa Trà Am. c- Lời khai của Thích như Ý và đồng bọn. d- Tài liệu mật đã tịch thu được trong đó có bản nghị quyết mới của Trung ương đảng Cộng sản. e- Ảnh chụp tang vật: 6 kg chất nổ TNT và 8 ngoài nổ chậm f- Bản báo cáo của cơ sở nằm vùng trong tổ chức Học sinh, Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế về phiên họp sắp xảy ra tại chùa Trà Am. g- Hồ sơ cá nhân của tình báo viên nằm vùng trong tổ chức Học sinh, sinh viên Giải phóng thành phố Huế . [Để bảo mật, và bảo vệ sinh mạng cho tình báo viên, tôi chỉ trình riêng hồ sơ này với Thiếu tướng Tư lệnh mà thôi,. Sau khi Thiếu Tướng xem xong, tôi lấy lại ngay, không để bất kỳ một ai trong phái đoàn được đọc hồ sơ này]. Tôi tiếp tục: - Trình Thiếu Tướng và quí vị trong phái đoàn. Số tang vật 6Kg chất nổ TNT và 8 ngoài nổ chậm tôi có mang theo xuống đây, hiện đang để ngoài xe, nếu quí vị muốn xem tôi đem vào. - Không cần đâu Liên Thành, Thiếu tướng muốn hỏi em một câu nữa: Tại sao Phật giáo ngưng biểu tình? Tôi trình bày nội dung cuộc tiếp xúc của tôi với Ngài Hoà Thượng Thích Mật Nguyện, Chánh đại diện Phật giáo miền Trung, và kết luận: - Hai bên cùng thuận với những điều kiện được nêu ra nên cuộc biểu tình chấm dứt. Tôi hiểu phần trình bày của tôi đến đây đã quá đủ, và Thiếu Tướng Tư lệnh cũng cần bàn bạc riêng với phái đoàn, nên tôi xin phép Thiếu tướng Tư lệnh ra ngoài. Hiểu ý tôi, ông gật đầu. Rời phòng khách danh dự, đứng ngay cửa dành cho hành khách ra phi cơ, tôi ngước nhìn trời xanh, mây trắng, lòng thấy thanh thản, nhẹ nhàng như trút đi được bao nhọc nhằn căng thẳng đã gần cả tuần nay, khi đối đầu với vụ chùa Trà Am, và bây giờ với phái đoàn điều tra hỗn hợp: BTL/Cảnh Sát, Phủ Đặc ủy Trung Ương Tình Báo, Cục An Ninh Quân Đội. Tôi tự hỏi: Chẳng lẽ vụ này đụng chạm quá lớn, chính phủ phải cử phái đoàn điều tra hư thực? Chẳng lẽ mình hành động sai? Tôi không chủ quan, nhưng không tìm thấy chỗ nào sai.Bắt một kẻ đội lốt tu hành hoạt động cho Việt Cộng, một nữ cán bộ an ninh Thành Ủy Huế và 5 cơ sở của y thị, cùng tài liệu và chất nổ, lục soát một nơi có chỉ dấu Việt Cộng đặt điện đài ngay tại chùa Trà Am, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế đã phá vỡ kế hoạch của bọn chúng đang mưu toan đặt chất nổ vào các cơ sở của chính quyền, và gài chất nổ giết hại dân chúng trong hai rạp chiếu bóng tại thành phố Huế.Chúng tôi, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế đã làm đủ, và đúng trong trách nhiệm mà chính phủ giao phó: – Duy trì luật pháp Quốc Gia, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào. Vậy sai ở chỗ nào, ở điểm nào? Mà nếu đã không sai, thì sao lại có phái đoàn điều tra? Tôi tự hỏi mà vẫn không tìm ra đáp số đúng. Mãi suy nghĩ, thì ông chuyên viên thâu băng ra gặp tôi: - Đại úy, Thiếu Tướng gặp anh, và ông ta tự giới thiệu: - Tôi, Thiếu tá C. . . khối CSĐB/BTL. Đại úy Ân khá không? Có lẽ ông Thiếu tá này muốn nói cho tôi biết ông ta là cấp trên của Ân trong khối CSĐB/BTL. Nhìn dáng dấp và hành động vụng về của hắn khi thâu băng lén trong phòng họp, tôi thật tình không có cảm tình: - Hân hạnh gặp Thiếu tá, Trương Công Ân là một nhân tài, một chuyên viên tình báo lỗi lạc, trong Khối CSĐB/BTL khó có người so sánh với Trương Công Ân. Hắn không đến nỗi tối dạ không hiểu tôi đang nói móc hắn, hắn lảng sang chuyện khác: - Mình vào kẻo Thiếu Tướng đợi. Không khí trong phòng khách danh dự bây giờ có vẻ nhẹ nhàng hơn, không như lúc đầu. Vừa thấy tôi Thiếu Tướng Tư lệnh nói ngay: - Liên Thành, Thiếu Tướng và phái đoàn phải trở vào Saigòn bây giờ. Vụ Trà Am, Thiếu tướng và phái đoàn đã hiểu rõ. Tôi đưa Thiếu Tướng và phái đoàn ra phi cơ, trước khi bước lên phi cơ Thiếu tướng Tư lệnh nói với tôi: - Huế khó lắm, em chu toàn công việc như vậy là tốt lắm rồi, gắng lên. Về ông Như Ý cũng nên nhẹ tay cho ông ta một phần nào. Mọi người lần lượt bắt tay tôi bước lên máy bay, Đại Tá Nguyễn Khắc Bình siết mạnh tay tôi. Tôi hiểu đó là cử chỉ biểu lộ sự thông cảm và thấu hiểu mà ông dành cho tôi, tôi nói vừa đủ để ông nghe: - Cám ơn Đại Tá. Phi cơ cất cánh, để lại một làn khói trắng phía sau giữa bầu trời trong xanh, và cũng để lại trong lòng tôi những suy tư ưu phiền: “Mình đã hành động đúng hay sai?” Tôi đi vào bên trong, vừa đi vừa suy nghĩ mông lung, mãi không để ý, một thân hình to lớn chấn ngay lối đi của tôi. Nhìn lên, viên Cố vấn CSĐB đã đứng chắn trước mặt tôi từ hồi nào. Một thoáng ngạc nhiên tôi hỏi anh ta: - Anh đến hồi nào? - Chỉ sau Đại úy năm, mười phút. - Làm gì? - Tôi nhận lệnh xuống đây, tôi tưởng họ đã đem ông theo vào Sàigòn, cũng may họ giữ đúng lời. - Tại sao? - Có lẽ còn quá sớm để ông biết rõ chuyện này. Dân ngoại giao, tình báo thường hay nói nửa vời, hiểu sao thì hiểu, tôi cũng chẳng muốn hỏi thêm. - Đại úy, tôi biết ông bây giờ vừa đói và mệt, mình vào Câu lạc bộ của Sư Đoàn USMC ăn một tí gì, sau đó tôi dẫn ông đi gặp bác sĩ khám bệnh cho ông. - Đói và mệt thì có, nhưng bệnh thì không. Như anh biết, vụ Trà Am, năm, sáu ngày nay tôi và một số anh em đã quá mệt. Rời khỏi Câu lạc bộ của Sư Đoàn USMC tại căn cứ Phú Bài, tôi cùng viên Cố vấn vào bệnh viện dã chiến. Khi tôi tỉnh dậy thấy mình đang ở trong một thế giới xa lạ, tưởng là nằm mơ, chung quanh tôi toàn là thương bệnh binh Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, viên cố vấn CSĐB đã đứng cạnh giường tôi, tôi hỏi hắn: - Sao tôi lại ở đây, đây là đâu, bao lâu rồi? - Bệnh viện dã chiến của USMC. Ông đã ở đây gần hai mươi bốn giờ. Tôi giật mình nói với hắn: - Thôi chết.Vậy ai lo công việc ở BCH. Anh em họ đâu biết tôi đi đâu. - Ông khỏi lo, mọi việc tôi đã báo cho Đại úy Ân sau khi ông vào đây. Không có chuyện gì quan trọng xảy ra trong hai mươi bốn giờ qua. Tôi thắc mắc hỏi hắn: - Nhưng tại sao lại bỏ tôi ngủ lâu như vậy? Vẫn câu trả lời nửa vời: - Tôi sẽ giải thích với ông sau. Làm việc chung với những người này, những gì họ không muốn nói có cạy răng họ cũng không nói, thôi đành bỏ qua. Ngoại trừ Đại úy Ân, chẳng một ai trong BCH biết đuợc tôi đã nằm bệnh viện dã chiến của USMC tại căn cứ Phú Bài gần một ngày một đêm. Sáu năm sau, 1976 tôi gặp lại viên Cố vấn tại Hoa Kỳ, hỏi lại chuyện xưa thì hắn thong thả kể cho tôi nghe: - Ngày đó họ có ý định gọi anh về Phú Bài và bắt giữ anh đem vào Sàigòn ngay để điều tra. Một trong bốn sĩ quan của BTL đi theo ông Tướng sẽ thay thế anh. Nhưng sau khi nghe anh thuyết trình, họ thấy không có lý do nào để bắt anh, vì thế mà họ ra về tay không. Người giúp anh hôm đó chính là anh. Chúng tôi rất lo cho anh, nhưng chỉ giúp anh một phần nào thôi. Còn việc anh vào nằm bệnh viện, thứ nhất là để anh phục hồi sức khoẻ, thứ hai là để bảo vệ anh, có vậy thôi. Tôi tạm dừng ngang đây vì chuyện hắn kể tôi không thể kiễm chứng làm sao biết đúng hay không. Tôi trở lại tiếp tục lời khai của Hoàng Kim Loan trong đối tượng Phật Giáo tại Huế. - Thích Thiện Lạc và ngôi Chùa An Lăng. Hoàng kim Loan khai: Chùa An Lăng là trạm giao liên quan trọng của cơ quan Thành Ủy Huế, và Thích Thiện Lạc trụ trì chùa này là một trong những cơ sở nòng cốt của Hoàng Kim Loan. Thiện Lạc có 12 năm tuổi đảng, do chính hắn kết nạp Thiện Lạc vào Đảng Cộng Sản từ năm 1960. Dân chúng và tín đồ trong vùng An Lăng thường quen miệng gọi ông ta là Thầy Ngoạn. Ngôi chùa An Lăng này nằm về phía tây nam thành phố Huế, chỉ cách thành phố khoảng hai cây số, đối diện với trụ sở xã Thủy Phước, cách làng Phủ Cam khoảng một cây số và nằm gần lăng Vua Dục Đức và Vua Thành Thái tại làng An Lăng. An Lăng là một xóm nhỏ cạnh núi Ngự Bình, nằm trên trục xâm nhập của cán bộ thành từ vùng Tứ Tây, Ngũ Tây về thành phố Huế. Lời khai của Hoàng Kim Loan về ngôi chùa và ông thầy Ngoạn, đã phù hợp với tin tức và hành động của chúng tôi vào gần cuối tháng 12/1970. Vào ngày 17/12/1970, nguồn tin tình báo viên xâm nhập gởi về cho hay Thiếu Tá Việt Cộng Nguyễn Đối, bí danh Thanh Bình, thuộc ban An Ninh Thành ủy Huế và một toán đặc công thành sẽ về ém quân trong ngôi chùa này vào khuya ngày 23/12/1970, để tối hôm sau, vào đêm Noel 24/12/1970 lợi dụng hàng ngàn người đi xem đèn, xem máng cỏ Chúa Hài Đồng tại xóm đạo Phủ Cam, bọn chúng sẽ trà trộn vào đám đông và bất thần tung cuộc đột kích vào trụ sở xã Thủy Phước để tạo tiếng vang. Tôi họp ban tham mưu soạn thảo kế hoạch hành quân phục kích ngay tại ngôi chùa An Lăng. Ưu tiên một là bắt sống tên Thiếu Tá Việt Cộng An Ninh Thành ủy Huế Nguyễn Đối. Nếu tình huống không thuận tiện thì tiêu diệt toàn bộ bọn chúng. Cuộc phục kích này sẽ do tôi chỉ huy, với 9 nhân viên CSĐB. Họ là những quân nhân có kinh nghiệm hành quân tác chiến, là những đồng đội của tôi đã theo tôi từ Nam Hoà biệt phái về CSQG từ 1966. Tôi đích thân chỉ huy cuộc phục kích này vì 3 lý do: - Đây là cuộc phục kích ngay trong chùa, mà hậu quả có thể đụng chạm lớn đến tôn giáo, và nhất là niềm tin của Phật giáo đồ, hậu quả thật khó lường. - Tôi là sĩ quan quân đội, đã từng là Đại đội trưởng tác chiến. Ít nhiều thì tôi vẫn có kinh nghiệm về hành quân, phục kích, chạm địch, hơn anh em Sĩ quan Cảnh sát Quốc Gia. - Đây là một trách nhiệm nặng nề, và có thể đụng chạm đến Phật Giáo. Tôi là cấp chỉ huy, phải nhận lãnh mọi hậu quả về hành động này, tôi không muốn anh em thuộc cấp dính vào. Đại úy Ân trưởng Phòng CSĐB phái một nữ nhân viên thuộc Biệt Đội Thiên Nga và một nam nhân viên CSĐB, đóng vai cặp tình nhân viếng cảnh chùa. Họ có nhiệm vụ quan sát tỉ mỉ và ghi nhớ về vẽ lại sơ đồ ngôi chùa từng chi tiết một, từ ngôi chánh điện, khu nhà trai, ngõ trước, cửa sau, tóm lại không bỏ sót một điểm nhỏ nào. Tôi cũng họp với Cố vấn CSĐB, và viên Thiếu Tá Cố Vấn chương trình Phụng Hoàng, báo cho họ biết kế hoạch của tôi và yêu cầu họ nếu có thể được, cung cấp cho tôi một số không ảnh vùng chùa An Lăng, để tiện nghiên cứu, hướng và đường đột nhập vào chùa của tên Thiếu Tá Đối và đám đặc công của hắn, hầu tôi có thể đặt toán phục kích đúng hướng bọn chúng đi vào. Bốn ngày sau, 21/12/1970, tôi đã có tấm họa đồ với đầy đủ chi tiết do Đại úy Ân cung cấp và 6 tấm không ảnh do cố vấn phòng CSĐB cung cấp. Như vậy đã quá đủ đồ nghề dư sức chơi với đám giặc cỏ. Sau khi nghiên cứu, tôi quyết định sẽ bố trí toán phục kích nằm về hướng bắc của sân chùa vì huớng nam sân chùa là con đường mòn, nối liền từ cồn mã phía ngoài vào chùa. Bọn Việt cộng sẽ dùng con đường này để đi vào, và như vậy khi toán phục kích của chúng tôi nổ súng thì đạn đạo sẽ đi từ hướng bắc xuyên ngang sân chùa về hướng nam không đụng vào chùa. Đêm 23/12/1970, 19 giờ 10 lực lượng của chúng tôi đã sẵn sàng, chúng tôi có 3 tổ, mỗi tổ 3 nhân viên, theo kế hoạch bố trí hàng ngang, nằm về phía bắc sân chùa. Tôi ở tổ 1, nằm ở vị trí đầu của toán phục kich. Tất cả được trang bị M16, và không mang theo lựu đạn, vì địa thế hẹp không thể xử dụng, và có thể gây hư hại nặng cho chùa. Lực lượng trừ bị cho tôi có hai trung đội CSDC, và 20 CSĐB do Đại úy Tý, và Đại úy Ân chỉ huy, trực tại BCH sẵn sàng tiếp ứng khi tôi yêu cầu. Khoảng gần 20 giờ 15 ngày 23/12/1970, chúng tôi xuất phát từ BCH. Huế vào những ngày gần lễ Giáng Sinh trời thật lạnh. Ai đã từng ở Huế mới thấm được cái lạnh của Huế. Lạnh cắt da, lạnh luồn vào thân thể, mặc bao nhiêu áo cũng không đủ ấm. Đêm nay quá lạnh, lại có từng cơn mưa nhẹ, vì đi phục kích nên chúng tôi không một ai mặc áo mưa. An Lăng là một xóm nghèo hầu như mọi nhà đều không có đèn điện, chỉ ánh đèn dầu le lói bên trong. Chúng tôi đổ quân cách ngôi chùa khoảng gần một cây số, len lỏi vào bóng đêm vắng lặng, chúng tôi tiến dần đến mục tiêu, thời gian di chuyển chỉ khoảng gần hai mươi phút. Nhìn đồng hồ dạ quang, bây giờ là 21 giờ 20, chúng tôi đã ở sát hông chùa. Ngôi chùa nằm im lìm trong bóng đêm, chỉ có hai ánh đèn nhỏ bên trong khu nhà hậu trai. Từng tổ một, chúng tôi âm thầm tiến vào vị trí phục kích. Tôi khom người nhẹ nhàng đến từng tổ kiểm soát và nhắc lại một lần chót, rất nhỏ: - Tôi sẽ khai hỏa trước. Địa thế quá chật, cẩn thận kẻo bắn lầm nhau. Không được ho, không được hút thuốc. Tôi trụ về tổ 1, tổ chúng tôi có bốn người, dưới cơn mưa, lạnh, ngồi sát vào nhau cho ấm và chờ đợi… Mưa vẫn tiếp tục, thật lạnh, và bóng đêm dày đặc, thỉnh thoảng chúng tôi lại nghe tiếng chó sủa từ thôn xóm xa vọng lại. Im lặng và chờ đợi… 21 giờ 50 phút có tiếng động ở phía nhà hậu trai, cánh cửa bật mở, một người từ trong nhà hậu trai bước ra, tay cầm cây đèn dầu trên tay, ánh đèn dầu soi rõ mặt người đó, tôi giật mình: Ông Thầy Ngoạn ! Thầy Thích Thiện Lạc. Ông ta cầm cây đèn dầu đi một vòng chung quanh chùa rồi trở vào bên trong nhà hậu trai kép cửa lại. 22 giờ 30 phút, cánh cửa nhà hậu trai lại mở, lần này thầy cầm cây đèn đưa cao lên và đi ra sân chùa, tiến về phía bắc sân chùa, chỉ cách chúng tôi một thân cây cổ thụ to lớn. Chúng tôi đang bố trí phía sau thân cây, sát bụi hoa bông cẩn, ông ta dừng lại để cây đèn xuống đất, vén áo cà sa, thoải mái tè vào gốc cây cổ thụ Mộc lan, tè xong ông lại cầm đèn trở lại nhà hậu trai khép cửa. Chúng tôi ngồi cứng người, nín thở chỉ sợ ông ta phát giác, nhưng may ông ta không thấy chúng tôi. 23 giờ 10 phút, lần thứ 3, thầy Ngoạn lại mở cửa cầm đèn đi hai vòng quanh chùa, lại trở vào nhà hậu trai. Có lẽ đây là lần cảnh giới thứ ba của ông ta, và hai lần cầm đèn đi chung quanh chùa là dấu hiệu báo cho Việt Cộng biết tình hình an toàn, bọn chúng có thể vào chùa. Chúng tôi vẫn ngồi co mình chờ đợi. Tiếng chó bắt đầu sủa dồn cuối xóm An Lăng, từ hướng Nam. Tôi nói nhỏ cho Trung sĩ Ánh sát tôi, chuyền cho các tổ sau chuẩn bị, có thể bọn Việt Cộng sắp xuất hiện. Khoảng mười phút sau, ba bóng người xuất hiện, ba tên Việt Cộng tổ tiền sát. Bọn chúng mặc quần đùi, tay cầm súng tiểu liên AK di chuyển chậm và nhẹ nhàng không nghe tiếng động. Ba tên túa ra ba góc cuối sân chùa quan sát. Khoảng ba phút sau một tên đi lộn lại về lối đường mòn và biến mất trong bóng đêm. Với kinh nghiệm trong đời lính tác chiến, chúng tôi hiểu tên đi ngược trở về là để báo cho toán sau biết tình hình, và hướng dẫn, hố tống nhóm chính vào chùa. Quả đúng như chúng tôi tiên liệu, khoảng 10 phút sau, 7 tên Việt Cộng xuất hiện ngay cuối sân chùa. Rất nhanh, tôi nhẹ nhàng làm thủ lệnh cho Trung sĩ Ánh và tôi tác xạ vào mục tiêu 7 tên Việt Cộng, 2 anh em kia trong toán tác xạ vào 2 tên đang đứng gác cuối sân chùa. Nhẹ nhàng mở khóa an toàn, một, hai, ba… Bốn loạt đạn M16 nổ chát chúa vào đám Việt Cộng, hai tổ sau cũng rất nhanh đồng loạt khai hoả. Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 14 (Tôn Thất Dương Kỵ ) Tiếng đạn nổ lớn trong sân chùa, 3 trong 7 tên rớt ngay tại chỗ nằm yên không dậy. Vừa bóp xong băng đầu tiên, chúng tôi đồng loạt lăn người sang chỗ khác. Bọn chúng bắn trả hàng loạt AK về phía chúng tôi. Chúng tôi bắn thêm loạt đạn thứ hai, bọn chúng tung lựu đạn về phía chúng tôi. Tôi la to: - Lựu đạn. Bốn tiếng nổ thật lớn. Sau 4 tiếng nổ, những tên còn lại ù té chạy vào bóng đêm. Tôi không cho lệnh truy kích vì sợ anh em gặp nguy hiểm, và cũng cần phải kiểm soát ngay xem anh em chúng tôi có ai bị thương, hoặc tử thương không. Cũng may chỉ có 2 người ở tổ thứ 3 bị thương ở chân và bắp vế vì bị mảnh lựu đạn, máu ra hơi nhiều. Chúng tôi cấp thời dùng băng cá nhân băng bó cho cả hai. Hệ thống truyền tin FM1 bắt đầu đầu hoạt động: - Tango. . . Tango, ông có sao không? Chúng tôi nghe rõ tiếng súng và 4 tiếng nổ lớn ở hướng ông. Đó là giọng nói của Ân, rồi đến Tý, Trinh, và phó Vinh. Tôi trả lời họ: - Chúng tôi đang chạm địch ngay trong sân chùa An Lăng, khoảng một tiểu đội Việt Cộng. Hai anh em bị thương nhẹ. Hạ được ba tên. Cho xe cứu thương và Bác Sĩ Hồ Đại Đội Phó đến ngay để lo cho hai anh em thị thương. Tý nói: - Nhận rõ. Tôi đưa 2 trung đội đến tiếp viện cho thẩm quyền ngay. Trong khi chờ đợi, trung sĩ Ánh và trung sĩ Trọc thay phiên nhau giựt một số hoả châu cầm tay lên trời, ánh sáng hoả châu nhỏ soi sáng đủ cho chúng tôi nhận rõ 3 xác Việt Cộng nằm ngay sân chùa. Để lại một tổ giữ an ninh phía ngoài, tôi cho hai tổ kia vào chùa lục soát. Không có gì trong chùa, tôi cho lệnh bắt Thích thiện Lạc tức thầy Ngoạn còng tay dẫn ra sân. Hai trung đội CSDC, Tý, Ân, Vinh, Hồ, Trinh và Đại Úy Trịnh công Hà, Quân Trấn Phó, chỉ huy 2 chiếc Commando Car của Quân Trấn Huế cũng đã vừa đến tiếp viện cho tôi. Hà là em ruột của nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn. Hai chúng tôi là bạn học thân tình từ thuở nhỏ, và tôi cũng là sư huynh của hắn trong Judo Club Huế, hắn đai nâu, tôi đai đen. Ra đời hai thằng cùng ở lính. Hắn về Quân Trấn, tôi biệt phái Cảnh Sát. Cả hai cùng một nhiệm vụ giữ gìn an ninh thành phố Huế. Ban đêm đang đi tuần tiễu vòng đai thành phố, nghe tôi đụng giặc, hắn đi cứu. Gặp tôi hắn hỏi: - Liên Thành, có hề hấn gì không? - Việt Cộng nghe xe tăng của ông đến, chạy hết rồi, có gì thì đã nằm ngay đơ rồi, đâu còn nói chuyện được với ông. Cả hai đứa cùng cười. Bây giờ thì hắn định cư tại Sacramento. Tý rải 2 trung đội CSDC bố trí quanh chùa. Hai Commando car của Đại úy Hà đậu ngay cổng. Mọi người đều đổ dồn đến 3 xác Việt Cộng nằm giữa sân chùa. Tôi nói Đại úy Vinh Chỉ huy phó: - Vinh, anh liên lạc với cuộc Cảnh sát xã Thủy An và ông xã trưởng đến ngay để lập biên bản. Sau đó anh giao cho xã chôn cất họ cho đàng hoàng, dù sao thì họ cũng đã chết rồi. [Tôi còn nhớ ông xã Trưởng Thủy An là Nguyễn Mạnh. Sau vụ này khoảng 8 tháng sau, ông ta bị Việt Cộng ám sát chết ngay tại cổng nhà của ông ta. Thật tội nghiệp] Trời sáng dần, cơn mưa nhẹ vẫn chưa dứt và gió thật lạnh. Tôi không đạo đức giả, nhưng nhìn ba xác chết trong lòng chợt buồn, nhưng chợt nghĩ, trước đây vài giờ, nếu mình trúng đạn của họ thì giờ đây mình cũng đã nằm bất động đi vào cõi thiên thu như ba người này. Thôi thì… coi như một lời an ủi cho chính mình, may ra có vơi nhẹ đi nỗi buồn và một thoáng hối hận chợt đến, khi nhìn ba hình hài nằm dài giữa những vũng máu. Trong cảnh máu nhuộm sân chùa vào buổi sáng tinh mơ của những ngày mùa đông xứ Huế, cơn gió lạnh thoảng qua, có chút mùi tanh của máu nguời, tôi nói nhỏ một mình trong nỗi buồn… “cuộc chiến này quả thật tàn bạo?” Dân chúng làng An Lăng và Phủ Cam kéo đến xem mỗi lúc mỗi đông, trời đã sáng hẳn. Bất chợt tôi nghe Đại Úy Ân hỏi Thích Thiện Lạc: - Ông biết ba người này không? - Tôi biết người nằm giữa là Ông Đối, Nguyễn Đối. - Còn hai người kia? - Tôi không rõ. Ân kề tai tôi nói nhỏ: - Thiếu Tá Nguyễn Đối bí danh Thanh Bình. Tôi gật đầu. Chúng tôi rời khỏi chùa vào hồi 7 giờ sáng. Ngày hôm sau không có cuộc biểu tình nào xảy ra để “đả đảo Đại Úy Liên Thành đàn áp Phật Giáo, vô cớ bắt bớ tăng ni”. Nhưng tôi lại gặp một cuộc biểu tình phản đối, mà muôn đời không bao giờ dẹp được, đó là Mẹ tôi. Bà là một người mộ đạo, là đệ tử của Thầy Ngoạn. Ngày rằm bà đi chùa của Thầy, anh chị em tôi bà đều đem quy y vào chùa Thầy Ngoạn và ông là người đứng làm lễ quy y cho chúng tôi. Anh chị em tôi và ngay cả tôi đều có Pháp danh do Thầy Ngoạn đặt cho, mẹ tôi nghe tôi bắt thầy Ngoạn bà hốt hoảng nhắn với anh tôi: - ”Nói hắn thả Thầy ra. Đời thủa nhà ai hắn lại đi bắt Thầy đã làm lễ quy y và đặt Pháp danh cho hắn. Thằng con bất hiếu.” Mẹ tôi cũng như hằng trăm ngàn Phật tử ở Huế, họ đối với quý Thầy một lòng tôn kính, điều thầy nói, việc Thầy làm tất cả đều đúng, tuyệt đối phải nghe lời Thầy dạy. Tôi bắt những tên Việt Cộng đội lốt thầy tu, thầy tu hoạt động cho Việt Cộng. Thầy Ngoạn hoạt động cho Việt Cộng, chứ đâu bắt Thầy Ngoạn đạo đức tu hành như Mẹ tôi và hằng trăm ngàn Phật Tử ở Huế vẫn lầm tưởng. Đối với Mẹ, tôi là thằng con bất hiếu. Đối với hằng trăm ngàn Phật Tử ở Huế tôi là thằng phản đạo, ”nỗi oan này biết ngỏ cùng ai, thôi đành… kiếp làm thân chịu”. Sau 30/4/1975 những con quỷ đỏ đó, cởi bỏ áo cà sa, hiện nguyên hình một bầy quỷ dữ, thẳng tay đàn áp, tiêu diệt Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đến nay đã hơn 32 năm vẫn còn tiếp tục. Từ Huế, nơi xa xôi vạn dặm, nơi ngàn trùng xa cách, ở đây tôi nghe được tiếng vọng những lời hối hận: - “Tội nghiệp ông Liên Thành. Ngày trước mình chửi ông ta là tên phản đạo. Bây giờ mới thấy có trật ai đâu, bọn chúng đã lộ mặt là Cộng Sản nằm vùng trong Phật giáo. Thật không ngờ”. Vâng, thật không ngờ. Mà quả tình quý Thầy và đồng bào Phật Tử chân chính làm sao ngờ được. Bọn chúng là loại quỷ dữ tu luyện ngàn năm, đã hoá thành tinh, biến thành kiếp người, chỉ có những thầy Pháp cao tay, họa may mới có thể khám phá và trừ khử được bọn chúng, nhưng vận nước và Pháp nạn đã đến, có hối hận cũng bằng không. Trở lại trường hợp của Thầy Ngoạn. Một tuần sau, hồ sơ thiết lập xong, và chuyển sang Hội Đồng An Ninh Tỉnh. Đại Tá Lê Văn Thân, Tỉnh Trưởng né tránh, vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo, ông đi thanh tra quận. Tôi chức vụ Tổng Thư Ký hội Đồng An Ninh Tỉnh, Đại tá Tỉnh Trưởng chỉ thị tôi thay ông, ngồi nghế Chủ tịch Hội Đồng An Ninh Tỉnh. Trưởng Ty Nội An Tỉnh, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, Trưởng Phòng Hai Tiểu Khu, Trưởng Ty Chiêu Hồi, họ là hội viên. Trưởng Ty Nội An và Chiêu Hồi đề nghị: ”Sáu tháng tù ở cho Thầy Ngoạn và không tái xét.” Ty An ninh Quân Đội và Phòng II Tiểu Khu: ” Một năm tù ở không tái xét”. Tôi là người quyết định cuối cùng: ” Hai năm, không tái xét, đưa đi Côn Sơn”. Ông Trưởng Ty Nội An một công chức lớn tuổi phản đối: - Quá nặng, “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, hai năm quá nặng xin hội đồng xét lại. Tôi lý luận với ông Trưởng Ty Nội An: - Thưa ông Trưởng Ty, tôi biết ông là một Phật Tử, thờ Phật, kính Thầy, và tôi cũng là một Phật Tử. Nhưng trường hợp ông thầy Ngoạn này xin ông hiểu cho, ông ta không phải là kẻ tu hành, mà là cơ sở của ban An Ninh Thành Ủy Việt Cộng. Ông ta và đám Đặc công Thành do Thiếu tá Việt Cộng Thanh Bình chỉ huy, định dùng Chùa An Lăng của ông ta làm nơi xuất phát tấn công trụ sở xã Thủy Phước vào đêm Giáng Sinh. Nếu lực Lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế không phát giác kịp thời, ngăn chặn và phá vỡ âm mưu của bọn chúng, có lẽ một số cán bộ xã Thủy Phước và đồng bào đi dự lễ Giáng Sinh đã bị bọn chúng sát hại. Vì thế hai năm là quá nhẹ. Thiếu Tá Truật, Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, và Đại úy đại diện phòng II Tiểu Khu, nghe tôi lý luận với ông Trưởng Ty Nội An xong cũng đồng ý 2 năm. Mọi người đều ký vào biên bản. Ba tuần sau, chúng tôi nhận được báo cáo từ tình báo viên xâm nhập gởi về xác nhận: ‘Thiếu Tá Nguyễn Đối tự Thanh Bình thuộc Ban An Ninh Thành Ủy Huế và 2 đặc công đã tử trận vì bị phục kích tại chùa An Lăng’. Lần này Lực lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế đã kịp thời ngăn chặn cuộc đột kích của Việt Cộng vào Xã Thủy Phước trong làng Phủ Cam vào ngày lễ Giáng Sinh 24/12/1970. Tôi trở lại tiếp tục lời khai của Hoàng Kim Loan: - Thích Chơn Thông Ngôi chùa nhỏ Thiên Ấn tại đường Duy Tân thuộc Quận III thành phố Huế và hầm bí mật dưới chuồng nuôi heo của Chùa. Ngôi chùa nhỏ này là một trạm giao liên bản lề, rất quan trọng của cơ quan thành ủy Huế. Nơi đây là trạm tiền phương, chuyển vận cán bộ nội thành ra vào hoạt động trong thành phố, là trạm giao liên chuyển nhận mọi tin tức quan trọng và khẩn cấp từ nội thành lên khu và ngược lại. Trạm giao liên này đã được Hoàng Kim Loan thiết lập từ năm 1964, và chính y cũng đã từng trú ngụ nhiều lần tại ngôi chùa này, trước thời gian xảy ra vụ tấn công Huế vào năm Mậu Thân 1968. Trụ trì ngôi chùa nhỏ này là Thích Chơn Thông cơ sở nội thành và được y kết nạp vào đảng từ năm 1961. Đây là ngôi chùa độc nhất trong Quận III thành phố Huế, nằm ngay trên đường Duy Tân, cạnh chợ An Cựu và cách quận đường quận III chưa đầy 300 mét. Tôi còn nhớ trước tháng 3/1971, tôi nhận được bản tin từ cơ sở nội tuyến gởi về báo cho biết một toán đặc công thành, gồm 2 nam và 1 nữ, sẽ đột nhập vào thành phố và sẽ trú trong một hầm bí mật tại ngôi chùa trên. Vũ khí sẽ được chuyển vào cho toán đặc công này là 2 súng AK báng xếp, 1 B40, một số chất nổ và đạn dược. Nhiệm vụ của toán đặc công này là bất thần tấn công quận đường quận III. Ngày giờ tấn công nguồn tin không xác nhận được vì sẽ do trưởng toán Đặc công quyết định. Kèm theo bản tin là sơ đồ vị trí hầm bí mật tại ngôi chùa trên. Ngày 12/3/1971 nguồn tin xác nhận toán đặc công đã có mặt tại chùa, và bọn chúng đang điều nghiên, quan sát vị trí quận đường Quạân III. Ngay lúc đầu, tôi có ý định đặt một toán theo dõi để khám phá thêm số cơ sở nội thành, mà bọn đặc công này sẽ tiếp xúc để thu lượm tin tức bổ túc cho kế hoạch tấn công quận III của bọn chúng, nhưng nghĩ lại, mình đang dự định chơi một trò chơi nguy hiểm vì: – Ngày giờ tấn công của bọn đặc công mình không nắm vững, nếu bọn chúng ra tay sớm, sẽ có nhiều mạng sống của nhân viên chính quyền và dân chúng bị hy sinh. Tôi quyết định ra tay trước bọn chúng, ngăn chặn cuộc tấn công của bọn Đặc công Cộng Sản nhắm vào Quận III thị xã Huế. 15giờ 30 chiều ngày 14/3/1971, hai trung đội CSDC do Đại úy Trần Văn Tý chỉ huy, 20 CSĐB do Đại úy Trương Công Ân chỉ huy, tôi chỉ huy tổng quát đổ quân bao vây chùa. Dân chúng khu phố An Cựu, đường Duy Tân, đường Nguyễn Huệ, Chợ Cống, Cầu số 7, và ngay trong chợ An Cựu thấy chúng tôi đỗ quân vây chùa ùn ùn kéo đến mỗi lúc mỗi đông. Họ tụ tập bên này lề đường nhìn sang Chùa, và bắt đầu có tiếng chửi rủa la ó: ”đả đảo Liên Thành, đả đảo Cảnh Sát đàn áp Phật Giáo, bắt bớ tăng ni”. Đã lâu lắm rồi, từ bao năm nay, cá nhân tôi và anh em thường bị chửi như vậy. Chúng tôi cũng đã quen tai nên chỉ cười với nhau và cũng chẳng phiền hà gì chuyện đó. Ngôi chùa nằm sát lề đường Duy Tân, tôi đứng bên này lề đường nói thật lớn với đám đông dân chúng tụ tập bên kia đường: - Tôi, Đại úy Liên Thành, Trưởng ty Cảnh sát, yêu cầu đồng bào đừng sang phía bên này, nhân viên công lực chúng tôi đang hành sự. Chúng tôi đang bao vây 1 toán Việt Cộng hiện đang trú ẩn trong chùa. Một tên đầu trâu mặt ngựa đứng truớc đám đông la to: - Đồng bào đừng tin hắn, hắn nói láo đó. Hắn vây chùa bắt quí thầy, yêu cầu đồng bào tràn vào chùa giải thoát quí thầy. Đã đến lúc phải làm mạnh với tên này, tôi bước xuống đường, đi về phía hắn. Tôi dí sát mủi súng M18 vào vế hắn: - Anh đứng yên tại chỗ. Chỉ cần anh bước nửa bước xuống đường, tôi sẽ bắn gãy chân anh ngay, anh nghe rõ chưa? Mặt hắn tái xanh, lủi vào đám đông mất dạng. Tôi trở lại cổng chùa ngay lề đường đợi Tý bố trí lực lượng bao vây, và gọi máy yêu cầu Chỉ huy trưởng CSQG/Quận 3, Trung úy Phạm Cần chỉ huy một đơn vị Cảnh sát sắc phục đến giữ an ninh, ngăn chặn không để đồng bào tụ tập trước cổng Chùa. Hai trung đội CSDC đã bao vây kín ngôi chùa nhỏ, và Đại úy Ân cũng đã mời hết mọi người trong chùa ra ra ngoài sân kể cả Thích Chơn Thông, vì sợ họ có thể bị nguy hiểm khi chúng tôi giao tranh với đám đặc công Việt Cộng. Theo họa đồ mà chúng tôi có trong tay, thì vị trí hầm bí mật là chuồng nuôi heo của Chùa, nối liền với khu nhà bếp. Miệng hầm bí mật nằm về phía tay phải của chuồng heo, và lỗ thông hơi là một ống sắt được ngụy trang khéo léo từ ngoài gốc bụi chuối phía sau, sát với chuồng heo vào tận bên trong hầm. Hai yếu tố quan trọng để tránh thiệt hại nhân mạng khi khui hầm bí mật Việt Cộng là phải biết rõ vị trí miệng hầm và lỗ thông hơi, vì bọn Việt Cộng thường dùng hai vị trí này để bắn lên. Một tiểu đội CSDC và CSĐB đã bố trí gần chuồng heo của chùa đang đợi tôi, Ân và Tý. Tôi nói Tý vị trí này quá chật, chỉ cần tôi, Tý, và ba nhân viên là đủ. Chuồng heo được xây một bức tuờng chung quanh chỉ cao quá đầu gối, không có cửa, đó là trở ngại chính vì trong chuồn có hai chú heo nhỏ, phải hai CSDC lựa thế mới đem được hai chú heo ra khỏi chuồng. Chúng tôi tìm ra nắp hầm bí mật không mấy khó khăn, chỉ cần dồn phân heo và rơm rạ từ phía phải trong chuồng sang một bên là đã thấy ngay. Tiếng súng AK bắt đầu nổ dòn khi chúng tôi cậy tung nắp hầm, ba loạt AK từ dưới hầm bắn lên, chúng tôi không bắn trả vì muốn bắt sống ba tên đặc công này, nhưng nếu có bắn trả cũng chẳng thấy bọn chúng ở đâu mà bắn vì dưới hầm quá tối. Tôi la to: - Tý, thẩy lựu đạn cay xuống hầm. Đại úy Tý và hai CSDC nhanh nhẹn gởi xuống hầm tặng bọn đặc công 6 trái lựu cay, khói cay toả lên miệng hầm mù mịt, có tiếng ho sặc sụa của bọn chúng. Tôi nói lớn: - Các anh đầu hàng đi, tôi cho 5 phút để đầu hàng, bằng không tôi sẽ thẩy lựu đạn nổ mạnh xuống hầm. Có tiếng ho, và tiếng đàn bà la lớn dưới hầm: - Chúng tôi đầu hàng… Chúng tôi đầu hàng… Cho chúng tôi lên, đừng liệng lựu đạn xuống. - Có bao nhiêu người dưới hầm? - Chúng tôi có ba người. - Liệng súng lên miệng hầm truớc, người lên sau. Tuần tự từng người một, hai tay đưa lên khỏi đầu. Nếu có vũ khí cầm tay sẽ bị bắn hạ ngay. Tiếng nói dưới hầm vọng lên: - Chúng tôi nghe rõ. - Bây giờ bắt đầu, liệng vũ khí lên đi. Hai súng AK 47 và một súng B41 từ dưới hầm chuyển lên. Sau đó từng người một đưa hai tay cao quá đầu chui từ hầm bí mật trồi lên. Người đầu tiên là một phụ nữ khoảng trên hai mươi tuổi, và sau đó là hai người đàn ông chưa đầy ba mươi tuổi. Cả ba người vừa lên khỏi hầm bí mật đã ngồi qụy xuống ngay nền chuồng heo đầy phân heo, thở dồn dập. Có lẽ chỉ cần chậm thêm vài phút họ đã ngất xỉu, vì hơi cay và thiếu dưỡng khí trong hầm bí mật. Ba nhân viên CSĐB đã còng tay họ xong, Đaị úy Ân hỏi họ: - Đạn B41 và chất nổ để ở đâu? - Còn dưới hầm. Ân định cho một toán xuống lục soát hầm lấy đạn B41 và chất nổ lên. Tôi cản lại: - Khoan đã Ân. Coi chừng bọn chúng gài chất nổ chậm dưới hầm. Đem họ đi. Tất cả anh em rời khỏi đây ra ngoài sân chùa ngay. Coi chừng hầm nổ tung bây giờ, một hai giờ sau xuống lục soát chưa muộn. Chúng tôi rời chuồng heo dẫn họ ra sân chùa. Bây giờ tôi mới có dịp quan sát kỹ ba tên đặc công: Người đàn bà, nữ đặc công là một thiếu nữ mặt còn rất trẻ, hai người đàn ông kia cũng khoảng dưới ba mươi tuổi, tất cả mặt mày xanh xao, quần xắn cao, phân heo dính đầy người và đặc biệt từ mắt cá chân trở xuống nuớc phân heo đã nhuộm đen đôi bàn chân của họ. Phải nhìn thấy một sự thật rõ ràng, sức chịu đựng gian khổ của họ đã vượt quá mức. Mọi người có mặt hôm đó thật tình không hiểu nổi làm sao họ có thể đứng nhiều ngày dưới một hầm phân heo ngập quá mắt cá chân. Tôi hỏi người nữ đặc công: - Chị và hai người kia ở dưới hầm bao lâu rồi? - Ba đêm, bốn ngày. Ban đêm chúng tôi lên khỏi hầm đi quan sát và điều nghiên mục tiêu. - Mục tiêu nào? - Quận đường Quận III. - Khi nào tổ của chị tấn công? - Tối hôm nay, một giờ sáng. - Tổ của chị thuộc đơn vị nào? - Đơn vị Đặc công H1 cơ quan Thành ủy. Tôi định hỏi tiếp người nữ Đặc công này thì một toán chuyên viên thâu hình của đài truyền hình Huế, một số ký giả và đài phát thanh Huế đã vào sân chùa từ hồi nào và muốn phỏng vấn tôi. Tôi từ chối khéo, vì chuyện chúng tôi làm là chuyện tình báo, chuyện kín, chuyện hở, chuyện trên trời dưới đất, làm sao nói được. Sẵn có Vinh đứng gần tôi, tôi chuyển qua cho Đại Úy Vinh: - Tôi quá bận, xin quí vị gặp Đại úy Vinh Chỉ huy phó của tôi. Ông ta sẵn sàng tiếp tất cả quí vị, ngoài ra nếu quí vị muốn thâu hình 3 Đặc công Việt Cộng, vũ khí tịch thâu được và hầm bí mật xin cứ tự nhiên. Tôi thoát nợ. Bây giờ thì đồng bào đã tràn vào sân chùa, họ đứng xem, xầm xì, bàn tán, tôi nghe có người nói: - Mình đã nghi oan cho Cảnh Sát. Họ vây chùa khui hầm bí mật bắt Việt Cộng, chứ đâu bắt quí thầy. Tôi nghe rõ và trả lời với họ: - Tôi cám ơn người nào vừa nói câu đó, cám ơn đã trả lại công bằng cho Lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế chúng tôi. Cách đây vàì giờ, khi chúng tôi đổ quân vây chùa, đồng bào đã phản đối, cho rằng chúng tôi đàn áp Phật Giáo, vây chùa bắt Tăng, Ni. Bây giờ có ai chứng minh được ba tên đang ngồi đó là Tăng, Ni. Tôi sẽ mở còng cho họ, và giao lại cho đồng bào rước ‘Tăng, Ni’, trở lại chùa? Mọi người đều im lặng, bỗng từ trong đám đông, một người đàn bà xông ra, chỉ vào mặt ba tên Đặc công Việt cộng, với một giọng Huế nhưng thuộc Quận Hương Điền rất khó nghe: - “Ba đứa ni mà Tăng, Ni chi, tụi hắn là Việt Cộng. Ông cha mồ tổ bây, Mậu Thân bây bắt chồng tau đem đi chôn dập chôn vùi ở mô mà nấy năm trời ni tau đi cùng vành non nước tìm xác không ra, tổ cha mụ nội bây, đồ Việt Cộng ác ôn”. Vừa la hét, chửi bới, chị ta xông vào định hành hung tên nữ Đặc công. Một CSDC cản lại. Một CSDC đứng gần tôi, nói vớí tôi: - Chị ta là vợ của một Cảnh Sát Quận III, bị Việt Cộng bắt đi chôn sống năm Mậu Thân, để lại cho chị 8 đứa con dại nheo nhóc. Gia đình chị ta ở gần nhà em, lâu lâu lại sang nhà em mượn gạo. Thật tội nghiệp, thường ngày chị ta hiền lắm. Vừa nghe nói chị ta là vợ nhân viên Cảnh sát, tôi móc trong túi có được ít tiền dúi vào tay chị ta: - Thôi được rồi, chị hả giận chưa, đi về mua gạo cho con đi. Chị chửi Việt Cộng ác ôn chỉ gãi ngứa cho tụi hắn mà thôi, lần sau có chửi thì phải chửi: “Ông cha mồ tổ thằng Hồ Chí Minh” may ra tụi hắn mới đau.” - Thưa Ôn, em còn ức lắm. Cho em nói với ôn Chơn Thông một câu nữa rồi em về. Miệng nói, chân bước đến ngay trước mặt Thích Chơn Thông đang bị còng tay ngồi cùng với ba tên Đặc công Việt Công: - Lâu nay trong xóm ai cũng tưởng Ôn là người tu hành, té ra Ôn là Việt Cộng. Ôn đào hầm bí mật chứa Việt Cộng trong chùa, đồ Việt Cộng ác ôn… Nhìn cảnh người đàn bà uất hận chửi bới Việt Cộng, tôi hiểu ngay phải đem 3 tên Đặc công và Thích Chơn Thông rời khỏi chùa càng sớm càng tốt, bằng không sẽ sinh loạn, vì khu vực này năm Mậu Thân 1968, Việt Cộng đã bắt 500 người đem đi chôn sống. 500 gia đình nạn nhân họ kéo đến thì thật đại họa. Tôi gọi Đại Úy Ân: - Ân, đưa bọn họ về Trung Tâm Thẩm vấn. Nhiều gia đình có thân nhân đã bị Việt Cộng chôn sống họ kéo đến thì phiền lắm. Ân cho xe chở 3 Đặc công Việt Cộng và Thích Chơn Thông về Trung Tâm Thẩm vấn. Đại úy Tý cho một toán CSDC xuống lục soát dưới hầm bí mật, tịch thu 3 quả đạn B41, một số chất nổ cùng đạn AK47. Đồng bào từ từ giải tán, có tiếng la to: - Đả đảo Việt Cộng ác ôn. Hoan hô Cảnh sát. Hoan hô Đại úy Liên Thành. Tôi cười, và cũng la to trả lời họ: “Hoan hô đồng bào!” Từ tháng 10/1966 đến 10/1974 lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế đã khám phá hàng chục hầm bí mật tương tự như tôi vừa kể trên. Nếu viết ra cả hàng trăm trang giấy cũng vẫn chưa hết, đó là một sự thật đáng buồn. Phật Giáo tại Huế từ lâu đã bị Việt Cộng xâm nhập quá sâu, từ hạ, đến thượng tầng cơ sở, những chuyện tương tự còn quá nhiều, xin hẹn một dịp khác. Tôi xin tạm dừng ngang đây để trở lại những sự kiện và lời khai của Trung tá Việt Cộng Hoàng Kim Loan về các tổ chức khác của hắn, tại thành phố Huế. . . . . . . . (Còn tiếp) LỜI MINH XÁC: Chúng tôi vừa nhận được ý kiến thắc mắc của một độc giả từ Âu Châu như sau: ” – Bên Na Uy hiện nay mới có một ngôi chùa đặt tên là “Chùa Đôn Hậu”?. Vậy những điều mà tác giả Liên Thành viết trên TS BĐQ tố cáo Thích Đôn Hậu là VC, đã cùng Thích Trí Quang chủ mưu những biến động ở miền Trung, gây ra biết bao tang tóc cho dân chúng, có đáng tin cậy không? – Nhà tu Thích Đôn Hậu phải là người đức cao vọng trọng mới được người đời dùng tên đặt cho chùa chớ…!!” Để làm bằng chứng, vị độc giả Niên Trưởng này còn gởi kèm một phóng ảnh trang báo có đăng bản tin: “Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng chùa Đôn Hậu – Na Uy” – Trong đó có ghi địa chỉ ngôi chùa như sau: Chùa Đôn Hậu – Sivet Thonstadv 10A – 7080 Norvège (Norway) Tél : (0047) 07-260-2119. Chúng tôi xin minh xác cùng quý độc giả, những điều tác giả Liên Thành viết hoàn toàn đúng sự thật. Đây là vấn đề quan trọng, có liên quan đến lịch sử và tôn giáo – Với tinh thần tôn trọng sự thật, với lương tâm của người cầm bút, TS BĐQ và tác giả Liên Thành hoàn toàn chịu trách nhiệm về những điều đã viết, đã đăng trên Tập San. Chúng tôi chỉ làm công việc của một chứng nhân trong giai đoạn lịch sử đó, đồng thời vạch mặt những cán bộ cộng sản đội lốt nhà tu để lợi dụng tôn giáo thôi. Còn việc đặt tên “chùa Đôn Hậu”, chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là chuyện… bình thường của hệ thống tuyên truyền cộng sản, luôn đổi trắng thay đen. Quý độc giả hẳn đã biết người quốc gia chúng ta, coi ông Hồ Chí Minh như một tên tội đồ của dân tộc. Ông ta đã gây ra biết bao nhiêu tội ác đẫm máu dân lành, khi áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên đất nước VN, nào là cải cách ruộng đất, đánh tư sản mại bản, bắt bớ văn nghệ sĩ, đấu tố địa chủ vv… Đã giết hại biết bao nhiêu người, vậy mà vẫn có những “đệ tử” của ông ta tạc tượng sơn son, thiếp vàng, đem vào chùa đặt trước tượng Phật đấy! (Chùa Đại Nam thuộc tỉnh Bình Dương). Ai bất phục, chống đối, đả phá, thì cũng chỉ dám âm thầm chửi rủa – Còn nhóm sư, tăng quốc doanh chúng vẫn cứ xì xụp lễ bái, nhà nước khuyến khích. Mấy chục năm nay, người cộng sản cầm quyền ở VN, họ ra sức đánh phá, đàn áp các tôn giáo dưới mọi hình thức, từ cấm đoán sinh hoạt, đến việc gài người vào để lèo lái tôn giáo đó theo ý họ, hoặc quậy phá, chia rẽ nội bộ các tôn giáo – Ngoài ra họ luôn luôn nói một đường, làm một nẻo, trường hợp bắt bỏ tù Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân vừa rồi là những biểu tượng rõ ràng sự ăn ngang, nói ngược của nhà cầm quyền cộng sản, chắc quý độc giả đã rõ, không cần chúng tôi phải nhắc lại. Dưới đây là 2 tấm hình chúng tôi trích trong website Take2Tango, quý vị có thể vào kiểm chứng Tượng HCM đặt trong chuà Đại Nam ở Bình Dương Công An VC đội lốt nhà sư đang chén tạc chén thù * Chuyện “Biến Động Miền Trung” cuả tác giả Liên Thành được tam ngưng tại đây.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:32:45 GMT 9
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 16
Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế)
Và bây giờ là tháng 5/1972, sau lời khai của Trung tá cộng sản Hoàng Kim Loan về tổ chức kinh tài của cơ quan Thành Ủy Việt cộng tại Huế, cũng lại là đám Lê Hữu Trí, Nguyễn Xin, Nguyễn Hải v ,v. Lần này thì bọn chúng bị lực lượng CSQG Thừa Thiên- Huế hốt sạch sẽ, không còn ai can thiệp, và bọn chúng được đưa vào hàng đầu danh sách đợi phương tiện đi Côn Sơn.
Ngoài các cơ sở kinh tài cộng sản của Trí, Hải, Xin, cũng cần phải nói rõ thêm ba cơ sở vừa làm kinh tài, vừa tiếp tế thuốc tây, và cũng là trạm giao liên của cơ quan Thành ủy Việt cộng Huế : - Nhà sách Ưng Hạ. Nằm trên đường Trần Hưng Đạo, cạnh Ty Thông Tin, mặt tiền đối diện với vườn hoa Nguyễn Hoàng. Nhà sách Ưng Hạ là một trong những nhà sách lớn và lâu đời nhất tại thành phố Huế. Chủ nhân của nhà sách Ưng Hạ là mệ Bửu Thân. Theo Hoàng Kim Loan thì chính hắn đã móc nối mệ Bửu Thân hoạt động cho ban kinh tài Thành Ủy Huế vào khoảng giữa năm 1965. Ngoài nhiệm vụ kinh tài, Hoàng Kim Loan còn xử dụng mệ Bửu Thân trong nhiệm vụ đường dây thông tin liên lạc, vì nhà sách Ưng Hạ thường ngày khách mua bán vào ra tấp nập, mà đại đa số là học sinh, sinh viên, đây là một địa điểm lý tưởng cho việc thông tin liên lạc, cơ quan an ninh khó mà khám phá. Tôi ký lệnh bắt giữ mệ Bửu Thân, các mệ trong hoàng tộc xôn xao: - “Mệ Liên Thành bắt mệ Bửu Thân rồi”. Hoàng tộc can thiệp, nhưng... xin lỗi, “Pháp bất vị thân” không thể chiều lòng mấy mệ trong hoàng tộc được. - Café Phấn. Nằm cạnh Café Lạc Sơn trước mặt tiền chợ Đông Ba, trên đường Trần Hưng Đạo, đối diện với nhà sách Ái Hoa và nhà sách Nam Hưng. Hai tiệm café Phấn và Lạc Sơn nằm sát cạnh nhau. Từ bao nhiêu thế hệ học trò tại Huế, cứ mỗi lần có giờ trống, hoặc là vào ngày nghỉ, hay những ngày Huế mờ ảo trong làn mưa bụi, với từng cơn gió nhẹ se sắt lạnh, không gì thú vị hơn ngồi tại café Phấn với ly café đen, cùng bạn bạn bè đấu láo, ngắm nhìn thiên hạ “dập dìu tài tử giai nhân” trên dãy phố Trần Hưng Đạo. Xa Huế đã lâu, gần trọn nửa đời người ở nơi xứ lạ quê người, cách xa Huế hàng vạn dặm, mỗi lần cơn mưa phùn chợt đến lại thấy nhớ Huế, nhớ da diết, Huế có nhiều thứ, nhiều chuyện để nhớ, nhưng nỗi nhớ không bao giờ tàn phai là quán Café Phấn, càfé Lạc Sơn với đám bạn học của tuổi học trò, của những ngày tháng cũ tại Huế . Chủ nhân của café Phấn là nột gã trung niên, cao to, đỏm dáng, mái tóc hắn luôn đen và láng mượt, y như đôi giày đen của hắn. Hắn là Trần Phấn, có lẽ hắn lấy tên của hắn đặt cho tiệm café. Một giai thoại nhỏ về hắn, do mấy ông thần cận vệ của tôi kể lại, đã giúp tôi mách nước cho thẩm vấn viên thẩm vấn hắn rất dễ dàng: Trong các em của vạn đò Đông Ba, không một em nào không biết ông chủ càfé Phấn quý đôi giày đen bóng loáng của ông ta còn hơn sinh mạng, hơn cả vợ con. Một em kể rằng, có lần em và ông chủ café Phấn đang “sóng vỗ dập dình” trên đò, bỗng ông ta ngưng lại, vì hai chiếc giày nằm chồng lên nhau, ông ta sửa lại cho ngay ngắn, lấy khăn tay trong túi quần chùi giày sạch sẽ, mọi chuyện tươm tất đâu đó, ông ta mới tiếp tục “dập dình sóng vỗ” với em gái vạn đò Đông Ba. Nếu ông Bác sĩ Tôn Thất Hứa đang hành nghề ở Tây Đức giải thích được hắn mắc bệnh gì, bảo đảm viện Hàn Lâm khoa học Thụy Điển sẽ trao giải Nobel Y học ngay. Tại phòng thẩm vấn của Trung Tâm Thẩm Vấn BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, nhân viên thẩm vấn chỉ dọa Trần Phấn sẽ dùng dao rạch nát đôi giày đen thân yêu của hắn, hắn tái mặt, xin khai hết mọi chuyện để đổi lại được giữ đôi giày. Theo hắn khai, hắn được Hoàng Kim Loan tổ chức hoạt động nội thành vào khoảng giữa năm 1964, với nhiệm vụ đường dây thông tin liên lạc. Sau này hắn được giao thêm nhiệm vụ bán công khố phiếu của “mặt trận giải phóng”, thu thuế nuôi quân trong thành phố Huế. Trần Phấn đã khai ra khoảng 20 cơ sở kinh tài nội thành mà hầu hết là các thương gia, các chủ tiệm buôn trên đường Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Chi Lăng, thuộc Quận II thành phố Huế, và khoảng 40 cơ sở tiểu thương chợ Đông Ba. Gần 60 sơ sở kinh tài nội thành Huế đã bị bắt giữ. Trần Phấn còn khai thêm hắn được Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan cho vào danh sách dự khuyết đảng viên đảng Cộng sản, thuộc 1 trong 8 Chi Bộ đảng Cộng sản Việt Nam tại thành phố Huế. - Pharmacy Tràng Tiền cơ sở của Cục Tình Báo Chiến Lược với hai nhân vật bí mật : Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng và Nguyễn Thúc Tuân. Nhà thuốc tây Tràng Tiền là một trong những Pharmacy lâu đời nhất tại thành phố Huế. Nằm trên đường Trần Hưng Đạo, cạnh Ty Thông Tin, sát ngay đầu cầu Tràng Tiền. Theo lời khai của Trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan thì Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng khởi đầu sự nghiệp tại pharmacy Trường Tiền, sau khi đã được cơ quan Quân Báo Việt cộng bố trí từ chiến khu về đầu thú với chính quyền quốc gia vào năm 1951. Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng lập gia đình với một thiếu nữ khuê các, của một đại gia tộc có tiếng tăm lớn và rất giàu sang ở làng Phủ Cam, huyện Hương Thủy Tỉnh Thừa Thiên. Làng Phủ Cam giáp ranh với Quận 3 (Hữu Ngạn) thành phố Huế. Thiếu nữ khuê các đó là bà Nguyễn thị Ngọc Diệp, con gái của ông Nguyễn văn Nghi, thường được gọi là ông Hội Nghi. Ông Hội Nghi là bác ruột của ông Nguyễn văn Ấm, chồng của bà Ngô Đình Thị Hiệp, em gái Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngoài ra, người con trai đầu của ông Hội Nghi là Nguyễn văn Lễ thường được gọi là ông Cả Lễ, chồng của bà Ngô Đình Thị Hoàng cũng là em gái của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhờ vào thế lực của gia đình bên vợ, vào thời Đệ I Cộng Hoà, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng đắc cử Dân Biểu nhiệm kỳ 1 đơn vị Tỉnh Quảng Trị. Một thời gian sau đó, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng ly dị với bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp và lập gia đình với hai chị em ruột là bà Tôn Nữ Ngọc Cẩm và bà Tôn Nữ Ngọc Liễn. Cả hai bà Tôn Nữ này trước đó ngụ tại số 36 B đường Chợ Xép, thuộc Quận Thành Nội, tức Quận I thành Phố Huế. Sau đó Nguyễn Cao Thăng lấy thêm bà Trương thị Ngọc Diệp, bà này thuộc dòng họ quan đại thần triều đình nhà Nguyễn, Trương Như Cương, (sau bà ta được NCT đưa ra làm Dân biểu Đệ nhị Cộng hòa). Nguyễn Cao Thăng còn lấy luôn bà chị và bà mẹ của Trương thị Ngọc Diệp nữa. Trước 1963, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng đã là một một tỷ phú, là Tổng Giám Đốc công ty bào chế dược phẩm OPV tại Sàigòn.
Thích Đôn Hậu và Tôn Thất Dương Tiềm tại Mông Cổ Vẫn theo lời khai của Trung Tá Hoàng Kim Loan, Cục Tình Báo chiến lược cộng sản, thì trước 1963 Hoàng Kim Loan biết rõ Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng vẫn hoạt động cho Cục Tình Báo Chiến Lược, và vụ đắc cử vào ghế Dân Biểu Quốc Hội VNCH nhiệm kỳ I, thời Đệ I Cộng Hòa, ngoài thế lực của gia đình bên vợ (Bà Nguyễn thị Ngọc Diệp), Tỉnh Ủy Việt cộng tỉnh Quảng Trị cũng đã chỉ thị cơ sở quần chúng bỏ phiếu cho Nguyễn Cao Thăng. Đến thời Đệ II Cộng Hòa, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu bổ nhiệm vào chức Phụ Tá Tổng Thống, thay thế ông Nguyễn Văn Hướng, Tổng thư ký Phủ Tổng Thống. Trước tháng 4/1975, ông Nguyễn Cao Thăng đã mất trên một chuyến bay từ Paris về Sàigòn, vì chứng bệnh ung thư. Năm 1983 [?], Công ty bào chế dược phẩm OPV của tỷ phú Nguyễn Cao Thăng đã mở cửa hoạt động tại Sàigòn, do hai bà vợ của ông ta điều hành. Thử hỏi nếu không có một liên hệ đặc biệt với Việt cộng, công ty OPV của Nguyễn Cao Thăng, một phụ tá Đặc biệt của Tổng Thống VNCH, có thể mở cửa hoạt động tại Sàigòn hay không trong thời điểm đó ? Câu trả lời này tôi xin dành cho bạn đọc ... - Nguyễn Thúc Tuân. Nguyễn Thúc Tuân làm việc tại Pharmacy Tràng Tiền, vào thời điểm 1972, ông ta khoảng 50 tuổi, thân hình nhỏ và thấp, bản tính trầm tĩnh, nói năng nhẹ nhàng, khi tiếp xúc dễ lôi cuốn cảm tình với người đối diện. Nói lưu loát tiếng Pháp và tiếng Anh. Ông ta tự học và đỗ bằng Cử nhân văn chương Anh tại Đại học Huế. Nguyễn Thúc Tuân còn là Trưởng của phong trào Hướng Đạo tại Huế. Ông ta cũng là một thông dịch viên cho các phái đoàn quan trọng của Mỹ. Nguyễn Thúc Tuân, một con người nhìn bề ngoài hiền lành và trí thức như vậy, nhưng con người đó là một nhân vật tình báo của Cụm Tình Báo Chiến Lược Việt cộng, nằm trong tổ Trí vận của nhóm Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Dương Kỵ, giáo sư trung học Nguyễn Du, Lê văn Hảo, giáo sư nhân Chủng Học Viện Đại Học Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường, giáo sư Văn Chương và Triết học tại trường Quốc học, Lê Cảnh Đạm Trưởng Hướng Đạo. Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan thuộc Cục Tình báo Chiến Lược khai, chính hắn là Cán Bộ Điều Khiển của Nguyễn Thúc Tuân.
Tôn Thất Dương Kỵ Còn nhớ vụ tranh đấu Phật giáo năm 1966 của Thích Trí Quang và Hoàng Kim Loan tại Huế, chính Nguyễn Thúc Tuân đã chỉ thị cho ông Lê Cảnh Đạm, dùng xe hơi màu trắng của bà Tuần Chi đến nhà Trịnh Cơng Sơn chở Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan thoát vòng vây của CSĐB lên mật khu an toàn, vì đêm trước khi y lên mật khu, Hoàng Phủ Ngọc Tuờng ăn cơm tối tại nhà Trinh Cơng Sơn.
Sau 1975 ông Lê Cảnh Đạm được đảng Cộng sản tuyên dương và trao tặng huy chương, vì đã có công giải thoát cho hai tên đồ tể Tường và Phan và nuôi dưỡng Thiếu tá quân báo Vc Lê Cảnh Xuân, tự Nam Đen trong nhà.
Thoát ly ra Bắc cùng với Thích Đôn Hậu, Bà Tuần Chi, Dương Tiềm, Dương Kỵ và nhóm trí thức Huế vào năm Mậu Thân 1968, trở lại Huế sau ngày 28/2/1975, Dương Tiềm giữ chức vụ Giám đốc sở Học Chánh Trung Trung Bộ và Nguyễn Thúc Tuân được Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế giao cho chức vụ trông coi Ty Thông Tin, nhưng sau đó cả hai cùng bị Đại Tá Công An Việt cộng Nguyễn Đình Bảy, bí danh Bảy Lanh, Trưởng Ty Công An Việt cộng Thừa Thiên-Huế bắt và gán cho tội “gián điệp nhị trùng”, và sau đó bị toà án Việt cộng tại Huế tuyên án mỗi người 18 năm tù. Về nhân vật Bảy Lanh, trước 1975, Bảy Lanh là Trưởng ban An ninh Tỉnh Thị ủy Thừa Thiên-Huế. Tết Mậu Thân 1968, y phụ trách an ninh Quận 3 [Hữu Ngạn] thị xã Huế, chính y đã ra lệnh chôn sống trên 500 đồng bào vô tội, cán bộ, công chức của chính phủ VNCH tại Lăng Xá Bầu. Bảy Lanh xuất thân từ một lò mổ trâu, cũng có giây dưa nghề nghiệp với đồng chí Đỗ Mười, Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam, và sau đó là tên ở đợ cho chủ tiệm thuốc Bắc Thiên Tường, tại đường Duy Tân, đối diện chợ An Cựu, thuộc Quận 3 thị xã Huế. Được chủ thương, nhận làm con nuôi. Bảy Lanh cũng như Đại Tá Thân Trọng Một, Trung đoàn Trưởng Trung Đoàn 5 Đặc Công, thường gọi là Công Trường 5 của Tỉnh đội Thừa Thiên, cả hai đều mù chữ, không biết đọc và cũng chẳng biết viết một chữ nào. Đại Tá Thân Trọng Một ký tên mình bằng một gạch thẳng [số 1] và Đại Tá Bảy Lanh thường ký tên bằng một gạch thẳng và có gạch ngang nhỏ ở giữa [số 7]. Trình độ học vấn “đỉnh cao trí tuệ” của hàng sĩ quan Cấp Tá thuộc Quân đội Nhân dân Hà Nội chỉ có vậy mà thôi. Hoàng Kim Loan kể với tôi một chuyện về Bảy Lanh Một chiếc máy bay “Bà già” [Máy bay L-19 loại quan sát] không hiểu vì kỹ thuật, hay bị du kích bắn rơi tại vùng núi Truồi, thuộc quận Phú Lộc, gần vùng trú đóng của Ban an ninh Nguyễn đình Bảy. Nguyễn đình Bảy đã cho nhân viên đến lục soát chiếc máy bay này, nhưng sau đó chẳng thấy báo cáo lên cơ quan Tỉnh Ủy. Tỉnh ủy gởi văn thư cho Nguyễn Đình Bảy: “Yêu cầu báo cáo và giao nạp chiến lợi phẩm” . Nhờ người khác đọc xong văn thư, Nguyễn đình Bảy viết vào văn thư chỉ 2 số: số 7 và số 0, gởi trả lại cơ quan Tỉnh Ủy. Một vài tuần sau Tỉnh ủy gởi cán bộ vận tải về cơ quan An ninh để mang 70 chiến lợi phẩm lên cơ quan Tỉnh ủy. Nguyễn Đình Bảy tức giận nói với đồng chí cán bộ vận tải : “Sao họ ngu quá vậy. Trong văn thư gởi lên Tỉnh ủy tôi đã báo cáo rõ ràng rồi: Số 7 là tên của tôi Nguyễn đình Bảy, Bảy Lanh - Số 0 là không tịch thu được chiến lợi phẩm nào cả. Rõ ràng như vậy mà họ không hiểu, làm gì có 70 chiến lợi phẩm mà giao nạp” . Hoàng Kim Loan kết luận: -“Bảy Lanh đã ngu mà Tỉnh ủy lại còn ngu hơn Bảy Lanh, đọc báo cáo của Bảy Lanh mà chẳng hiểu gì cả” !
Biến Động Miền Trung (Giai đoạn 1963-1975) - Phần 17
Liên Thành (Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế) TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO
***
TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO CHÍN NĂM giữa Đại Tá Công an Việt cộng Bảy Lanh Trưởng Ty Công An/ Vc Thừa Thiên Huế, Với Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên-Huế.
Trong trách nhiệm Chính Phủ giao phó, chỉ huy lực lượng CSQG thừa Thiên-Huế, để duy trì luật pháp quốc gia, ổn định ninh trật tự cộng cộng, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, tôi và toàn thể nhân viên các cấp thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế hầu như đã hoàn tất được nhiệm vụ mà thượng cấp giao phó. Mọi mưu toan khuấy rối, tấn công, đặt chất nổ nhằm mục đích gây tiếng vang, sát hại đồng bào vô tội tại Huế của bọn chúng, đều bị lực lượng CSQG ngăn chận, bóp nát từ trong trứng nước - Cơ sở nội thành của bọn chúng đều bị BCH/CSQG Thừa Thiên bắt giữ vô hiệu hoá, và đương nhiên tổ chức an ninh của chúng cũng đã bị CSQG Thừa Thiên-Huế gài người xâm nhập nặng nề. Hai đơn vị An ninh của Việt cộng và CSQG/ Thừa Thiên-Huế, đã có hằng trăm lần đấu trí, và ban An ninh Việt cộng tại ThừaThiên-Huế của Bảy Lanh đã nhận lãnh hằng ngàn lần thua. Nói hay, nói tốt, cho cá nhân mình là điều tối kỵ, nhưng nói cho lực lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế là điều nên và cần phải nói, vì “Sự thật vẫn là sự thật” . Vòng đai an ninh của lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế được dựng lên, để bao bọc và bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào Huế, là một bức tường “Thép” đúng nghĩa. Chín năm trời kể từ 1966, không một lần nào Đại Tá Bảy Lanh và lực lượng An Ninh của hắn có thể chọc thủng được. Cho dù ai, cá nhân, đoàn thể hay tôn giáo nào đó, dù không có cảm tình, dù chẳng ưa gì CSQG Thừa Thiên Huế, nhưng chắc chắn phải nhìn nhận sự thật một cách minh bạch rõ ràng là : Trong suốt chín năm, bọn Việt cộng không thực hiện được một vụ phá hoại nào trong thành phố Huế, như ám sát, đặt chất nổ sát hại dân chúng, ngoại trừ Tết Mậu Thân, trường hợp này, ngoài tầm tay và khả năng của lực lượng CSQG Thừa Thiên Huế. Nói phải có sách, mách phải có chứng, tôi xin nêu một vài trường hợp điển hình mà Bảy Lanh, Trưởng Ban An ninh của Tỉnh thị ủy Thừa Thiên-Huế âm mưu thực hiện nhưng đã bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế ngăn chận, phá vỡ. Tôi cũng cần nói rõ, nghề Tình Báo là một nghề khắc nghiệt, những ai đã ở trong nghề này đều phải chấp nhận cuộc đời nghiệt ngã, bị ràng buộc rất nghiêm khắc bởi luật pháp Quốc Gia và những quy luật chặt chẽ của cơ quan suốt cả cuộc đời, cho dù còn phục vụ hay đã hưu trí. Họ sống thu mình, im lặng, câm nín, chôn chặt những gì mình đã làm, những gì mình đã biết, cho đến lúc lìa khỏi cõi đời. Nói đúng nghĩa là : ''sống để dạ, chết mang theo”. Nhưng hôm nay, trong cảnh quốc phá gia vong, vận nước điêu linh, thân phận lưu lạc, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã không còn nữa, Cảnh Sát Quốc Gia cũng không, thế nhưng nguyên tắc vẫn là nguyên tắc, vì vậy, những trường hợp đối đầu với tên Đại Tá Việt cộng Bảy Lanh và ban An Ninh Thành ủy Huế, trong một số chiến dịch xâm nhập, mà tôi sắp kể ra đây, chỉ là một số ít trường hợp đã hết thời gian tính, mà tôi có thể nói được, viết được. Và những Tình báo viên, Mật báo viên, hoạt động trong các chiến dịch xâm nhập này, đã không còn trong cõi đời phiền muộn này nữa, họ đã ngàn năm yên nghĩ. Bọn cộng sản hiện tại sẽ chẳng truy nguyên, truy tầm được một vết tích nào, để gây hại cho bất kỳ một ai hiện còn ở Việt Nam. Ngoại trừ những kẻ nội gian như : Trung úy Cảnh Sát Tôn Thất Khiên, Trung Úy Cảnh Sát Lê văn Tiu, Trung Sĩ Cảnh Sát Huỳnh Công Lý, và Trưởng Toán Tình báo Phủ Đặc ủy tại Huế Trần văn Luật. Bọn chúng là những kẻ phản quốc, phản bội quê hương, phản bội đồng đội, hợp tác với địch. Dù chúng còn sống hay đã chết, tôi vẫn đề cập đến mà không cần phải giữ gìn ý tứ gì cả. Tưởng cũng cần nói rõ thêm về trương hợpTrung Úy Cảnh Sát Lê văn Tíu , y bị móc nối vì vợ của y có bà con với tên Phan Nam, Thành Ủy viên Việt Cộng, chính hai vợ chồng Tíu đã nuôi giùm con của Phan Nam trong nhà, khi hai vợ chồng Phan Nam thoát ly lên mật khu. Chúng tôi đã dùng bọn chúng như miếng mồi nhử những con thú dữ cộng sản vào bẫy, trong một số chiến dịch phản gián, tất nhiên đã gây tổn thất nặng nề cho Đại Tá Việt cộng Bảy Lanh và An ninh Thành Ủy Thừa Thiên-Huế. Vì vậy, tôi dành quyền cho Đại Tá Việt cộng Bảy Lanh, hoặc đàn em của hắn, toàn quyền “Làm việc và xử lý” mấy tên nội gian này. Thành thật cám ơn, và muôn vàn cảm tạ các....... “đồng rận”. 1- Vụ đặt chất nổ tại rạp Ciné Tân Tân tại đường Trần Hưng Đạo Huế. Ngày 17/5/1970, trước hai ngày sinh nhật của ông Hồ Chí Minh, Bảy Lanh, Trưởng Ty Công An Việt cộng định dùng xương trắng máu đào của đồng bào vô tội Huế, dâng quà sinh nhật lên lãnh tụ Hồ Chí Minh, bằng cách cho lệnh cơ sở đặc công nội thành Huế đặt chất nổ tại rạp Ciné Tân Tân, ngay đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế. Nếu vụ này CSQG/Thừa Thiên-Huế không ngăn chận kịp thời, đã có vài trăm thây người ngã gục, một hành động quá tàn bạo và ác độc, chỉ có những loài cầm thú như bọn Việt cộng mới có thể làm điều đó, bọn họ xem sinh mạng con người rẻ như cỏ rác, bèo bọt. Những kẻ họ định sát hại đa số là những người trẻ, học sinh, sinh viên, không có hận thù, chẳng “mắc nợ máu với nhân dân và cách mạng” họ đi xem ciné vào sáng thứ bảy, vậy mà Bảy Lanh vẫn quyết định sát hại họ. Cũng may, chúng tôi “Công An Ngụy”, danh từ mà Việt cộng thường dùng để gọi chúng tôi, đã ngăn chận kịp thời, tóm bắt toàn bộ toán đặc công nội thành, tịch thu một khối chất nổ khoảng hơn 2kg ngay tại rạp ciné Tân Tân. Tôi còn nhớ rõ, khi lực lượng CSĐB âm thầm ập vào rạp Tân Tân, căn phòng lờ mờ trong bóng tối, mọi người đang mải mê xem film. Tùy theo niềm tin tôn giáo của mỗi người, có thể nói đây là một phép lạ, mà ơn trên chỉ dẫn cho chúng tôi - Tên soát vé Lê văn Lữ đang lom khom ở hàng ghế thứ nhất, bên tay phải, từ ngoài cửa đi vào, trên tay đang cầm một xách tay nhỏ. Chúng tôi dí súng vào người hắn và giật lấy xách nhỏ mà hắn đang cầm. Mở xách của hắn ra thì chất nổ được chứa trong một lon bằng kim loại, đã găm ngòi nổ, chúng tôi không biết ngòi nổ hắn đã cho vận hành từ bao lâu, có thể một phút, hai phút, năm phút, mười phút..... Hơn hai trăm mạng người đang mải mê ngồi xem film trong rạp, và anh em chúng tôi đang ở trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi giữa cõi chết và sự sống. Nếu khối TNT nổ ngay, trong hơn hai trăm người đang ngồi đó, có bao nhiêu người chết, bao nhiêu người bị thương thì chưa rõ, nhưng điều chắc chắn là ba anh em chúng tôi chẳng còn một ai trên cõi trần thế này nữa. Rất nhanh, ngòi nổ được Đại úy Thiện rút ra khỏi chất nổ. Đại Úy Phó Trưởng Ty Huỳnh Văn Thiện, đã bị ngòi nổ chậm phát nổ ngay trên tay. Ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn rời bàn tay mặt văng xa, máu tươi tuôn xối xả thành dòng. Nhìn lại Thiện chỉ còn nửa bàn tay mặt, tôi cứng người, sửng sốt. Một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng, thẳng lên óc, toàn thân nổi gai ốc – Phép lạ đã đem may mắn đến trong tích tắc, vì Thiện vừa kịp rút ngòi nổ ra khỏi khối chất nổ – Chỉ một “sát na” mà anh em chúng tôi thoát chết và mọi người trong rạp được an toàn. Sau nhiều năm tù tội trong trại tù Cộng sản, ngày Thiện và gia đình đến Mỹ theo diện HO, tôi đến thăm Thiện và gia đình vào buổi sáng, tối đến khoảng hơn 12 giờ khuya, Thiện gọi điện thoại cho tôi: - Anh ơi, Anh đến gấp chở cho nhà em vào bệnh viện, nhà em đau nặng quá. Chỉ 10 phút sau tôi chở chị Thiện và Thiện vào một bệnh viện tại đường Valley View, cạnh Free way 22, Orange County, Cali. Nhìn cảnh Thiện dùng cánh tay mặt tàn phế, lạng quạng đỡ vợ ra khỏi xe, tôi phụ với Thiện đỡ chị vào phòng cấp cứu, chợt nhớ chuyện xưa, những ngày tháng cũ ở Huế, tôi và Thiện, một Trưởng Ty, một Phó Trưởng ty, tình như anh em, bao nhiêu năm xa cách, nay gặp lại Thiện, nhìn cánh tay mặt của Thiện bị tàn phế suốt đời vì nghĩa vụ, lòng tôi thật xót xa. Tóm tắt vụ này, toàn bộ đám cơ sở đặc công nội thành bị bắt giữ, trong đám này có tên Tôn Thất Trai, cơ sở chủ chốt lại là bà con của ông bà Tôn Thất Ngọc chủ rạp Ciné Tân Tân. Ông Bà Tôn Thất Ngọc là bạn thâm giao lâu đời của Cố Trung Tướng Trần Văn Đôn, vì vậy mà Ông bà Ngọc đã nhờ cố Trung Tướng Trần Văn Đôn can thiệp. Sau khi nghe tôi trình bày nội vụ, Trung Tướng hủy bỏ ý định can thiệp cho tên Tôn Thất Trai được tự do. 2- Tấn công trụ sở Xã Thủy Tường nằm cạnh trường tiểu học Nam Giao, thuộc huyện Hương Thủy. Mở màn cho chiến dịch Đông, Xuân vào cuối tháng 11/1971, theo yêu cầu của Tỉnh Đội Thừa Thiên, cơ quan An Ninh Tỉnh đã gởi một trinh sát về vùng xã Thủy Trường, điều nghiên tình hình, vẽ sơ đồ và thu thập tin tức cần thiết chuẩn bị cho cuộc tấn công xã Thủy Trường. Viên Trinh Sát được gởi về điều nghiên đã báo cáo tình hình rất chính xác: - Lực lượng cơ hữu của xã Thủy Trường gồm có 12 Cảnh Sát xã, một tiểu đội Nghĩa Quân, khoảng 20 Nhân Dân Tự Vệ, 9 cán bộ Xã, kể cả ông Xã Trưởng Nguyễn Y, tổng cộng trên dưới 50 người. Hằng đêm số người này thường tụ tập tại nhà ông Nguyễn Thể, cai trường Tiểu học Nam Giao, cạnh trụ sở xã để đánh bạc [lắc điã]. Từ ông Xã trưởng đến ông Cuộc trưởng Cuộc Cảnh sát đều chủ quan, lơ là trong việc bố trí an ninh, canh gác ban đêm. Về hướng tiến quân và trục di chuyển để tấn công xã Thủy Trường, viên trinh sát đề nghị lộ trình an toàn là băng qua chân núi Ngự Bình đến núi Ba Vành, băng qua chùa Quốc Ân, bám sát khu nghĩa địa Nam Giao, tấn công xã Thủy Trường. [Núi Ba Vành hay Ba Tầng, hay núi Bàn Sơn, là nơi vào ngày 25 tháng 1 năm 1788, năm Mậu Thân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cùng binh lính đã dừng chân tại đó, làm lễ tế trời, lên ngôi Hoàng Đế sau đó kéo quân ra Bắc Hà đánh tan quận nhà Thanh] Vào khoảng 1 giờ sáng ngày 28/11/1971, theo lộ trình “an toàn”, hai tiểu đội thuộc Tỉnh Đội Thừa Thiên chỉ còn cách mục tiêu trụ sở Xã Thủy Trường khoảng 300 mét thì bị phục kích. Mìn Claymore và súng M16, đã nổ xối xả vào hai tiểu đội Việt cộng đang mưu toan tiến dần đến tấn công trụ sở xã Thủy Trường. Thường trong kỹ thuật tác chiến, nếu bị phục kích thì đến 99% là thác - Con đường sống duy nhất là xông thẳng vào toán phục kích, (chiến thuật phản phục kích của Biệt Động Quân). Nhưng đám Việt cộng hèn nhát không có can đảm làm chuyện đó, nên bị thiệt hại rất nặng. Bọn chúng, kẻ sống, kéo đứa bị thương, kéo luôn xác chết, dìu nhau chạy. Bốn ngày sau dân chúng vùng Tứ Tây, trong vùng nghĩa địa gần chùa Trà Am, phát giác có bốn ngôi mộ mới chôn, không biết của ai và chôn từ hồi nào, lại không được chôn cất kỹ lưỡng, nên một phần thân thể bị chó moi, dân chúng phải cùng nhau chôn lại cho tươm tất hơn. Ba tuần sau chúng tôi mới phối kiểm được trong trận phục kích đêm hôm đó địch có 4 chết và 3 bị thương. Lực lượng Việt cộng lần này bị thiệt hại nặng, chính Ban An Ninh gởi trinh sát về điều nghiên địa thế, vẽ sơ đồ mục tiêu, thu thập tin tức, chỉ dẫn lộ trình di chuyển an toàn, nhưng tại sao lại bị địch phục kích ? Chẳng có gì lạ, kẻ vẽ sơ đồ mục tiêu, cung cấp tin tức, chỉ dẫn lộ trình cho đơn vị Tỉnh Đội đi vào ổ phục kích, vào vùng tử địa, và còn đích thân chỉ huy đơn vị Đặc Biệt phục kích là Chỉ Huy Trưởng CSQG/ Thừa Thiên-Huế, là tôi, Đại Úy Liên Thành. Chắc hẳn Trưởng Ban An Ninh Đại Tá Bảy Lanh phải ngạc nhiên lắm, nội vụ được sắp đặt như sau: Sau khi nhận đựơc nhu cầu của ban An Ninh Thành Ủy cho mục tiêu trụ sở Xã Thủy Trường, gởi cho cho cơ sở nội thành, phối hợp với trinh sát viên, thâu thập tin tức, điều nghiên địa thế, cơ sở nội thành này của Bảy Lanh mà cũng là của tôi. Tôi đã trình toàn bộ hồ sơ xâm nhập nội vụ với Đại Tá Tôn Thất Khiên, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng thị xã Huế, với đề nghị cho phép tôi cung cấp cho địch toàn bộ nhu cầu về tin tức, vẽ sơ đồ trụ sở xã Thủy Trường, và đề nghị lộ trình di chuyển của địch đến mục tiêu. Ngoài ra tôi cũng trình với Đại Tá Tỉnh Trưởng, tôi sẽ chỉ huy một đơn vị Đặc Biệt của BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, phục kích trên lộ trình di chuyển của địch. Đại Tá Tỉnh Trưởng đã chấp thuận đề nghị và kế hoạch của tôi. Tóm tắt, những gì Ban An Ninh Việt cộng cần cho mục tiêu trụ sở Xã Thủy Trường, tôi đã cung cấp cho họ quá đầy đủ và chính xác ở mức độ 100%. Duy chỉ có một điều mà tôi không cung cấp cho ban An Ninh Việt cộng được, đó là: Tôi và lực lượng CSQG đã đợi đơn vị Tỉnh Đội Việt cộng Thừa Thiên tại điểm hẹn tử thần, mà tôi đã chọn cho họ, là khu nghĩa trang rộng mênh mông, gần trường tiểu học Nam Giao cạnh xã Thủy Trường. Hai nhân chứng sống trong vụ này còn đây : Đại Tá Tôn Thất Khiên, cựu Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng Thị Xã Huế, hiện đang định cư tại miền Đông Bắc Hoa Kỳ, và Đại Úy Cảnh Sát Phạm Bá Nhạc, Chỉ Huy Trưởng CSQG quận Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, người đã chỉ huy hai chiếc xe Commando car của Quân Trấn Huế tiếp ứng cho tôi, khi tôi và đơn vị CSQG Thừa Thiên Huế, đụng trận với hai tiểu đội Việt cộng của Tỉnh Đội Thừa Thiên-Huế, tại nghĩa trang Nam Giao gần trụ sở Xã Thủy Trường. Đại Úy Phạm Bá Nhạc hiện đang định cư tại nam California, Hoa Kỳ. Tại sao Đại úy Cảnh Sát Phạm Bá Nhạc lại chỉ huy hai chiếc Commando car của Quân Trấn Huế : Đêm hôm đó, vì tình hình an ninh đặc biệt, trụ sở xã Thủy Trường nằm ngay vòng đai an ninh thành phố Huế, chỉ cách tư dinh Đại tá Tỉnh Trưởng chưa đầy 7km, đề phòng mọi chuyện bất trắc ngoài dự tính có thể xảy ra, tôi liên lạc với Thiếu Tá Sang, Quân Trấn Trưởng Huế và cử Đại Úy Cảnh Sát Phạm Bá Nhạc, Sĩ quan liên lạc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế, phối hợp với Quân Trấn tăng cường tuần tiễu thành phố, và bảo vệ tư thất Đại Tá Tỉnh Trưởng. Quân Trấn giao cho Nhạc chỉ huy hai xe Commando car, Nhạc đem hai xe trấn ngay cửa tư dinh Đại Tá Tỉnh Trưởng. Qua hệ thống truyền tin, Nhạc nghe tôi đang liên lạc với Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu và Cảnh Sát, chẳng cần xin lệnh, Nhạc điều động hai xe Commando car, bỏ dinh Tỉnh Trưởng chạy thẳng tới vùng xã Thuỷ Trường. Nhạc gọi tôi : - Tango, em và hai xe Commando car đang đi chuyển đến anh. - Ông ơi, ông dừng ngay lại, bố trí tại trụ sở xã Thủy Trường là được rồi, đừng vào sâu hơn nữa, bọn chúng có súng B40, chúng tặng ông hai quả B40 ông thành thằng Tây đen, Mạ anh khóc đó ! Nhạc vốn là Sinh viên Đại học Khoa học của viện Đại Học Huế, rời bỏ sân trường xông vào cuộc chiến, tốt nghiệp khóa I Học Viện CSQG, cùng khóa với Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước Cộng Hoà Xã Hội cộng sản Việt Nam hiện nay. Bản chất thông minh mà lại gan lì không sợ hiểm nguy, hắn thuộc loại “điếc không sợ súng”, phải chi hắn ở Quân đội thì hoặc là hắn “đỏ ngực”, hoặc “xanh cỏ”. Sau vụ xã Thủy Trường, tôi bổ nhiệm Nhạc làm Chỉ Huy Trưởng CSQG quận Hương Thủy, cho đến ngày mất Huế. Nhạc bị bắt ngay tại mặt trận khi đang điều động Cảnh Sát Quận Hương Thủy đánh nhau với Việt cộng vào ngày 28/2/1975. Sau 1975, Phạm Bá Nhạc cũng đã gỡ mất 13 cuốn lịch trong trại tù Việt cộng. Ngày gặp nhau tại Cali, hắn chẳng có gì thay đổi, vẫn với nụ cười lang bạt như xưa. 3- Vụ đặt chất nổ tại quán cơm Âm Phủ, mưu toan sát hại phái đoàn cao cấp tháp tùng Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu kinh lý Thừa Thiên-Huế. Chắc hẳn Bảy Lanh và Ban An Ninh Tỉnh Thị Ủy Thừa Thiên-Huế vẫn chưa quên vụ gởi 3kg chất nổ Plastic (hợp chất C.4) từ mật khu về cho cơ sở đặc công nội thành Huế, mưu toan đặt chất nổ sát hại phái đoàn Tướng lãnh và các Bộ Trưởng tháp tùng Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu đi kinh lý Thừa Thiên-Huế tại quán cơm Âm Phủ, gần sân vận động Tự Do, thuộc Quận III, thành phố Huế vào khoảng tháng 12/1971: Tên Nguyễn Thôi, chủ quán cơm Âm Phủ đã từ lâu chúng tôi khám phá hắn là cơ sở nội thành của ông, nhưng chúng tôi vẫn để yên. Chính hắn là người đã theo dõi, báo cáo cho Ban An Ninh Việt cộng, thói quen của các phái đoàn cao cấp tháp tùng Tổng thống VNCH, mỗi lần kinh lý ở Thừa Thiên-Huế - Vào ban đêm, khoảng sau 9 giờ, thường kéo nhau về ăn tối tại quán cơm Âm Phủ của tên Thôi. Báo cáo của tên chủ quán Âm Phủ Nguyễn Thôi gởi cho Ban An Ninh Việt cộng không có sai, hoàn toàn đúng một trăm phần trăm. Quả vậy, mỗi lần Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đi kinh lý tại Huế, nếu nghỉ lại đêm thì nghỉ tại Tòa Đại Biểu, và sau 9 giờ tối Tổng Thống nghĩ ngơi không còn tiếp ai nữa. Lợi dụng khoảng thời gian này, phái đoàn cao cấp của Chính phủ và Quân đội tháp tùng Tổng Thống, thường kéo về quán cơm Âm Phủ để ăn tối. Bảy Lanh và Ban An Ninh của hắn đã chuẩn bị kế hoạch đó từ lâu, chỉ đợi thời cơ đến là ra tay, và tôi cũng đã nhận được đầy đủ và chi tiết kế hoạch hành động của họ. Ngày giờ đã đến, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà và phái đoàn cao cấp tháp tùng Tổng Thống đáp xuống sân bay trực thăng, trước tư thất Tỉnh Trưởng cạnh trường Quốc Học vào khoảng 10 giờ 30 phút sáng ngày 19/12/1971. Lẽ đương nhiên đám cơ sở đặc công nội thành Việt cộng có tái sinh thêm bốn kiếp người, vẫn không thể biết được ngày giờ nào Tổng Thống VNCH và phái đoàn cao cấp đến Huế, bọn họ chỉ có thể biết được khi thấy một đoàn trực thăng đáp xuống sân bay trước tư dinh Tỉnh trưởng, và nhìn thấy đoàn xe hộ tống của CSQG Thừa Thiên-Huế, Quân Cảnh, đang chờ sẵn. Theo kế hoạch, Bảy Lanh dự định cho nổ tung quán cơm Âm Phủ, với 3kg chất nổ C.4, dư sức sát hại trọn gói phái đoàn cao cấp của chính phủ VNCH, và giờ hành động từ 9 giờ tối trở đi, tùy theo thời gian phái đoàn đến ăn tối sớm hay muộn. Quán cơm Âm Phủ tối hôm 19/12/1971, thực khách đông hơn thường nhật, có khoảng trên 25 người, trong đó 7 người khách là những nhân vật quan trọng và cao cấp của chính phủ tháp tùng Tổng Thống, số còn lại là khách địa phương. Khoảng 10 giờ 50 tối, một tiếng nổ nhỏ nghe. . . “Bẹt”. . tỉ như người vỗ nhẹ hai tay vào nhau gần đâu đó, thực khách có ai nghe cũng chẳng thèm để ý. Thật ra tiếng “Bẹt” đó là tiếng nổ kích hoả của ngòi nổ chậm, trong một khối chất nổ đã được cơ sở đặc công Việt cộng ngụy trang khéo léo, đặt ở ở một góc trong quán Âm Phủ. Ngòi nổ đã kích hoả, nhưng chất nổ C.4 lại không nổ. Đối với người bình thường, nếu nhìn thấy thì cho đây là một phép lạ, vì không thể nào ngòi nổ đã kích hoả mà chất xúc tác là C.4 lại không phát nổ. Còn đối với Đại Tá Công An Bảy Lanh, và đám người của hắn sau khi kiểm thảo và phê bình công tác, thì cho đây là lỗi kỹ thuật, chất nổ đã quá cũ, bị hư nên không phát nổ. Thật tình mà nói trình độ của Bảy Lanh và đám người của hắn quá kém, nếu không lịch sự thì có thể dùng chữ quá ngu mới đúng : Chẳng có phép lạ nào, hoặc vì lỗi kỹ thuật mà 3kg chất nổ C.4 không phát nổ. Bất cứ loại chất nổ nào, không bao giờ để quá lâu và quá cũ mà bị hư không dùng được, có thể để bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm khi dùng vẫn được như thường, cho là lỗi kỹ thuật là lầm lẫn lớn, chẳng hiểu biết gì cả về chất nổ. Vụ đặt chất nổ ở quán cơm Âm Phủ tối hôm 19/2/1971 bị thất bại, 3kg chất C.4 không phát nổ nguyên nhân là do tay người làm - là chính tôi - là lực lượng CSQG/ Thừa Thiên-Huế ngăn chận và phá vỡ. Chất nổ C.4 được Ban An Ninh Việt cộng chuyển về cho cơ sở đặc công nội thành Huế, nhưng rủi thay, (rủi chúng, may mình), cơ sở đặc công nội thành đó lại là người của tôi. Khi tôi nhận được 3kg chất nổ C.4 tôi đã yêu cầu chuyên viên chất nổ của cơ quan Tình báo Đồng Minh giúp đỡ, và trước đó 6 giờ đồng hồ, một chuyến trực thăng từ Đà Nẵng bay ra Huế, chuyển cho tôi 2 lít hoá chất Acéton đặc biệt. Tại nhà an toàn, chính tôi đã dùng một thau giặt lớn, bỏ 3kg chất C.4 dẻo, màu ngà ngà, y như chất bột dẻo làm bánh bao và đổ 2 lít Acéton vào, nhào trộn với nhau trong gần một giờ đồng hồ. Chất C.4 trộn đều với hóa chất đặc biệt, chất nổ này đã trở thành một khối bột vô dụng, có đốt cũng không cháy, đừng nói gì loại ngòi nổ chậm chỉ xẹt có tí lửa không đủ sức kích hoả khối chất nổ. Vụ đặt chất nổ tại quán cơm Âm Phủ, ngoài tôi là kẻ chủ động, bẻ gãy kế hoạch của Bảy Lanh, còn có hai nhân chứng biết rất rõ nội vụ : Người thứ 1: đó là Đại Tá Tôn Thất Khiên Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng thành phố Huế, lẽ đương nhiên tôi phải trình với ông nội vụ và kế hoạch của tôi, là vẫn để cho đám cơ sở của Ban An Ninh Tỉnh Thị Ủy Việt cộng thi hành công tác, hầu bảo vệ và bảo mật cho người của tôi khỏi bị bọn chúng nghi ngờ, mặt khác, ngăn chận không cho phát nổ bằng chất Acéton đặc biệt. Kế hoạch của tôi đã được Đại Tá Tôn Thất Khiên Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên Thị Trưởng thành phố Huế chấp thuận. Người thứ 2 biết rõ nội vụ là Đại Úy Trương Công Ân, Trưởng phòng CSĐB của tôi. 4- Ba tên nội gian tại BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Bảy Lanh tổ chức cài nội tuyến vào CSQG Thừa Thiên-Huế, và cho đó là một thắng lợi to lớn của cách mạng, của hắn ta, của Ban An Ninh Thị Ủy Thừa Thiên- Huế. Ba tên nội tuyến đó là: 1- Trung úy Cảnh sát Tôn Thất Khiên, hắn giữ chức vụ Trưởng ban CSĐB Quận III. 2- Trung Úy Cảnh Sát Lê Văn Tiếu 3- Trung sĩ Cảnh Sát Đặc Biệt Huỳnh Công Lý. Chúng tôi biết rõ và tường tận trường hợp ba tên nội gian này này: - Tên Trung úy Tôn Thất Khiên (tên này anh em thường gọi là Khiên lé, trùng tên, họ, với Đại Tá Tỉnh Trưởng) đã lớn tuổi nhưng háo sắc, hắn bị mỹ nhân kế. Người đàn bà gài cho Tôn thất Khiên tên là Trương thị Hồng, 36 tuổi, góa chồng, không có con, ở làng Triều Sơn Tây, thuộc quận Hương Trà. Trương thị Hồng thuộc cơ sở của nội thành, gia đình có thân nhân tập kết. - Tên Trung úy Lê văn Tíu, hắn bị móc nối qua quan hệ gia đình. - Tên Trung sĩ Huỳnh Công Lý, hắn có một điểm quan trọng mà Bảy Lanh nhắm vào, đó là em ruột của Huỳnh Công Lý tên Huỳnh văn Cận, một cán bộ điều khiển một vài chiến dịch xâm nhập của phòng CSĐB. Hai khuyết điểm của tên Lý là ham mê cờ bạc và nói quá nhiều. Bảy Lanh dùng tiền bạc để mua chuộc tên này. Nhưng trong luật chơi trò phản gián, Bảy Lanh là vỏ quýt dày. Tôi có móng tay nhọn. Phát giác ngay từ đầu, tôi không cho lệnh Đại Úy Trương Công Ân trưởng phòng CSĐB bắt bọn chúng, mà còn để cho bọn chúng thong thả, thoải mái đánh cắp tài liệu, nghe ngóng tin tức chuyển giao cho Bảy Lanh. Trong một khoảng thời gian rất dài, Đại Tá Bảy Lanh đã xài đồ giả: “Made in CSQG/Thừa Thiên-Huế” chế tạo cung cấp, mà Bảy Lanh và Ban An Ninh Tỉnh Thị ủy Thừa Thiên-Huế không đủ khả năng khám phá, thật quá tệ. Tệ hại hơn nữa là sau 1975, Bảy Lanh đã đem tên Huỳnh Công Lý ra Hà Nội khoe công trình xâm nhập của hắn và xin gắn huy chương cho Huỳnh Công Lý. 5- Những trạm giao thông, liên lạc của Đại Tá Việt cộng Bảy Lanh tại nội thành Huế. Tại nội thành Huế, Bảy Lanh đặt những trạm giao thông liên lạc chính, bao nhiêu năm hắn vẫn vô tư xử dụng, những tưởng là tôi không biết, thật ra tôi biết từ lâu, và lực lượng CSĐB đã đặt các toán theo dõi và đã khám phá hầu hết các sở giao thông liên lạc nội thành của hắn, đó là: a- Trung Tâm dạy đánh máy chữ tại góc đường Trần Cao Vân và Lý Thường Kiệt, cạnh quán ăn Lưu Hương, trước ty Bưu Điện Huế, thuộc Quận III. Người điều khiển trung tâm này là người của Bảy Lanh, hắn tên Trần văn Sơn, người An Nong 3, huyện Phú Lộc, có cha tham gia kháng chiến năm 1947 và đi tập kết 1954. b- Quán ăn Lạc Thành ngay cửa Thượng Tứ. Nơi đây, trước vài ngày khi cuộc tấn công Mậu Thân Huế của Việt cộng bắt đầu, chính là nơi tụ tập hội họp của đám cơ sở nội thành và đám sinh viên tranh đấu năm 1966 của ông Thích Trí Quang. Bọn chúng đã bị tôi vây bắt, một số chạy thoát được, sau đó lên mật khu, những ngày cận Tết từ mật khu đột nhập thành phố, sửa soạn thi hành cuộc tàn sát tắm máu dân lành vô tội ở Huế năm 1968, Tết Mậu Thân. c- Quán ăn Quốc Tế ngay đường Phan Bội Châu, cạnh rạp ciné Ly Đô cũ và nhà Hát Bộ bà Tuần. Tên Nguyễn Tròn là cơ sơ giao thông liên lạc nội thành. Trong phong trào tranh đấu 1966 của Thích Trí Quang, hắn là cơ sở tin cậy, một tay xách động, quá khích. d- Bến xe đò Huế-Sịa nằm ngay đường Nguyễn Hoàng gần Phu Văn Lâu. Đây là trạm thông tin liên lạc từ nội thành Huế ra miền bắc Thừa Thiên của các huyện Quảng Điền, Phong Điền. Nữ cán bộ giao liên tại đây là Nguyễn thị Lụt, 46 tuổi, răng nhuộm đen, quê quán tại Huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên, cùng quê với Tổng Cục Trưởng Cục Tình Báo Chiến Lược, Trung Tướng Việt cộng Nguyễn Chí Vịnh, con của Đại Tướng Việt cộng Nguyễn Chí Thanh, sau khi Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh chết, Tôn Thất Lành tự Tố Hữu anh em kết nghĩa của Nguyễn Chí Thanh nhận Nguyễn Chí Vịnh làm con nuôi. Người đàn bà giao liên Nguyễn thị Lụt này, thường ngày ngụy thức buôn bán bánh kẹo tại bến xe đò Nguyễn Hoàng. Mỗi khi có tin tức cần chuyển cho cơ sở nội thành, chiếc nón lá của y thị đươc lật úp, nếu không có thì chiếc nón được lật ngửa, trong trường hợp y thị nghi đang bị theo dõi, y thị kẹp chiếc nón lá về bên tay trái. 6- Những vụ Việt cộng rải truyền đơn tại thành phố Huế. Vào những ngày đại lễ của cộng sản, như kỷ niệm thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, tuyên bố độc lập ngày 2/9. Ngày thành lập Mặt trận Giải Phóng Miền Nam 20/12. Ngày Lao Động Quốc Tế 1/5. Ngày sinh nhật Ông Hồ Chí Minh 19/5. Trong những ngày này, Tỉnh Thị Ủy Việt cộng Thừa Thiên-Huế và Ban An Ninh của Bảy Lanh thường chỉ thị cho cơ sở nội thành khuấy động trong thành phố như : - Đặt chất nổ sát hại đồng bào, hoặc rải truyền đơn trong thành phố Huế để tạo tiếng vang. Lẽ đương nhiên, lực lượng CSQG phối hợp cùng Quân Trấn, lực lượng Nhân Dân Tự Vệ ba Quận Thị Xã I, II, III, tăng cường biện pháp bảo vệ an ninh tối đa, đề phòng mọi bất trắc, mọi gây rối của cộng sản. Lực lượng an ninh rải đầy thành phố, hằng chục nút chận được thiết lập cố định, hoặc bất chợt kiểm soát chặt chẽ trên đường phố, các ngõ ra vào thành phố suốt ngày đêm. Trong khi đó, phòng CSĐB ra lệnh cho các trưởng toán đầu mối xâm nhập tiếp xúc thường nhật các cơ sở nội tuyến, nằm vùng, trong hàng ngũ Việt cộng, phát giác kịp thời mọi mưu toan của địch. Lực lượng an ninh rải cùng khắp mọi nơi, kiến cũng không lọt nổi, huống gì là người, vậy mà cơ sở nội thành của Bảy Lanh vẫn rải truyền đơn Việt cộng tại đường Phan Chu Trinh, đường Nguyễn Huệ, Quận III, đường Thống Nhất trước Phu Văn Lâu, bến xe Nguyễn Hoàng, và ngay cả đường phố chính Phan Bội Châu thuộc Quận II thành phố Huế. Thế nhưng, tất cả các vụ rải truyền đơn Việt cộng đó đều do Trưởng Ty CSQG Thừa Thiên - Huế, Đại Úy Liên Thành và Trưởng Phòng CSĐB, Đại Úy Trương Công Ân, đích thân đi rải thay cho cơ sở nội thành của Bảy Lanh, vì trong tình trạng lực lượng an ninh bố trí dày đặc như vậy, cơ sở nội thành của Bảy Lanh thi thành công tác rải truyền đơn sẽ bị bắt ngay, vì vậy mà Trưởng Ty CSQG/Thừa Thiên-Huế và Trưởng Phòng Cảnh Sát Đặc Biệt phải đich thân thực hiện công tác đó, vì cơ sở nội thành của Bảy Lanh cũng chính là. . . tình báo viên của CSQG, nằm vùng trong ban An Ninh Thành Ủy Việt cộng Thừa Thiên Huế. Chúng tôi đâu muốn tình báo viên của chúng tôi bị lực lượng an ninh phát giác bắt giữ, và cũng để tạo thêm tin tưởng của Bảy Lanh đối với họ, báo hại tôi và Ân làm công không, đi rải truyền đơn cho Việt cộng, sự việc diễn tiến như sau: Ân và tôi mặc thường phục, Ân lái xe gắn máy, tôi ngồi sau ôm eo Ân, truyền đơn được tôi kẹp dưới bàn đạp xe Honda. Trong đêm tối, nhân viên công lực tại các nút chận có thể nhìn thấy Ân, nhưng không thể nhìn thấy tôi vì tôi nép mặt sau lưng Ân. Mỗi lần vuợt qua khỏi trạm kiểm soát, Ân nói nhỏ: “An toàn”, tôi ngồi sau dở cao đế giày, một loạt truyền đơn bay như bươm bướm trong đêm tối. Mỗi lần như vậy, vừa về đến BCH thì đã nghe trên hệ thống truyền tin Chỉ huy Trưởng CSQG của Quận III, và Quận II, và các xe tuần tiễu gọi tôi: - Trình thẩm quyền Việt cộng vừa rải truyền đơn tại.. - Nhận rõ Tôi và Ân nhìn nhau cười. Việt cộng rải truyền đơn?
7- Tên nội gian Trần Văn Luật, Trưởng toán Tình Báo Phủ Đặc Ủy TUTB của VNCH tại Huế, và vụ treo cờ đỏ sao vàng tại Quận 3 thị xã Huế, trước ngày 27/1/1973, ngày ký kết Hiệp Định Paris.
Trần văn Luật, Trưởng toán tình báo của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH tại Huế. Ngụy thức công việc Tình Báo của hắn thuờng ngày là một gã lái buôn, buôn bò. Hắn đi khắp các nơi, mua bò chỗ này, bán lại chỗ kia. Là một nhân viên tình báo, nhưng Trần văn Luật lại không có bản chất cần thiết của một người làm tình báo, không kín đáo, cẩu thả trong khi tiếp xúc với cơ sở, và yếu điểm tại hại nhất của hắn là một gã háo sắc. Nắm được những yếu điểm của hắn, Bảy Lanh đã dùng mỹ nhân kế để đưa hắn vào tròng. Chiếc bẫy đã giăng ra và vòng thòng lọng thắt vào cổ Trần văn Luật là ở làng An Ninh Hạ, thuộc quận Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên, nơi mà hắn thường lui tới để mua bò, và cũng là nơi có người em gái nhỏ xinh xắn tên là Nguyễn Thị. . . người mà hắn say mê đến độ quên cả bổn phận, và trách nhiệm của một nhân viên tình báo, cam tâm hợp tác với kẻ thù, phản bội Tổ Quốc. Chính Trung uy Nguyễn Xuân Vân Phụ tá CSĐB quận Huơng Trà đã bắt y thị, nhưng sau đó Trần Văn Luật đã làm giấy tờ bảo lãnh với Đại Úy Lê Văn Phi CHT/Quận Hương Trà, và Trung Úy Nguyễn Xuân Vân phụ tá Đạc Biệt. Trong giấy bảo lãnh, Trân văn Luật nói rằng Y thị là Tình báo Viên của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, và y làm cán bộ Điều khiển Y thị. [Đại úy Lê Văn Phi hiện định cư tại California, Hoa Kỳ Trung úy Nguyễn Xuân Vân hiện định cư tại Verginia, Hoa kỳ] Chỉ bốn, năm tháng sau, người em gái xinh xắn tại thôn An Ninh Hạ, huyện Hương Trà đã bị trúng.... độc, chiếc bụng mỗi ngày mỗi lớn, tròn như trái bí ngô, thôi hết rồi, Trần Văn Luật đã bị Bảy Lanh xiết chặt cái thòng lọng, không còn cựa quậy được nữa, hắn vĩnh viễn cam tâm làm kẻ nội gian. Với tư cách là trưởng toán Tình báo của Phủ Đặc uỷ tại Huế, Trần văn Luật có đủ tư cách pháp nhân, để tiếp xúc trao đổi tin tức với các trưởng cơ quan Tình báo tại Huế như : Trưởng Ty An Ninh Quân đội, Trưởng phòng 2 Tiểâu Khu, Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn, và Chỉ Huy Trưởng CSQG. Đó là những mục tiêu mà Bảy Lanh nhắm vào và dùng tên nội gian Trần văn Luật để thu thập tin tức tình báo. Ban Cố vấn Đồng Minh của CSĐB Thừa Thiên Huế cũng là Cố vấn của toán Tình báo Phủ Đặc ủy tại Huế. Qua tin tức của Trần văn Luật cung cấp, ban phân tích và lượng giá tin tức ở trung ương Sàigòn, đã phát giác ra ngay, tin tức do Trần Văn Luật cung cấp có một số là tin giả, và Sài gòn đã khẩn cấp thông báo ra Huế. Tôi còn nhớ rõ câu nói của viên cố vấn nói với tôi: “Nghề chúng ta luôn bắt buộc phải ở vị trí đứng sau lưng kẻ thù để nhìn rõ kẻ thù, tệ lắm là đứng ngang hàng nhìn sang bọn chúng, nếu để kẻ thù đứng sau lưng thì xem như chúng ta đang ở trong tình trạng nguy hiểm.” Ngoài thông báo của Sàigòn, chúng tôi, văn phòng Cố vấn và CSQG Thừa Thiên-Huế, cũng đã nhận được tin tức từ một đường dây đơn tuyến khác, nằm vùng trong cơ quan của Bảy Lanh báo cho biết Tình báo viên mang bí số.......đã bị phát giác do tin tức từ nội thành chuyển lên. Tôi và viên cố vấn họp bàn để kiểm soát lại hồ sơ xâm nhập, thì mới phát giác ra tình báo viên này đã làm cho hai cơ quan : CSQG/ Thừa Thiên Huế, và toán tình báo của Phủ Đặc ủy tại Huế. Phía Phủ Đặc ủy, Trần văn Luật là Cán bộ điều khiển. Phía CSQG/Thừa Thiên Huế, tôi là cán bộ điều khiển. Chiếc bẫy đã được giăng ra, Trần văn Luật đã lọt vào bẫy quá dễ đàng, ngoài dự tính của chúng tôi, và chúng tôi phát giác thân phận tình báo viên bị tiết lộ xuất phát từ Trần văn Luật . Tôi sẽ nói rõ hơn, chi tiết hơn về vụ này, một điệp vụ phản gián điệp của cơ quan Tình báo Đồng Minh, phối hợp cùng cơ quan Tình Báo CSQG Thừa Thiên-Huế, đã giáng một đòn chí mạng lên đầu Ban An Ninh Tỉnh, Thị Ủy Việt cộng Thừa Thiên- Huế. Một điều nữa đáng nói và nhắc lại, là tên nội gian Trần văn Luật, xử dụng cơ sở của hắn để treo cờ Việt cộng vào trước ngày bốn phe : Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ, Hà Nội và cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam con đẻ của Hà Nội, ký hiệp định đình chiến tại Paris ngày 27/1/1973.[Ngày giờ của Âu Châu]. Tôi nghĩ, có lẽ Bảy Lanh đã dành hết cái ngu của thiên hạ, nên mới hành động như vậy. Hắn đã xử dụng một cán bộ nội tuyến quan trọng như Trần văn Luật, đi làm một công tác quá tầm thường và dễ bị khám phá, là giao cho Trần văn Luật phụ trách điều động cơ sở nội thành treo cờ Việt cộng trong thành phố Huế, trước ngày ký Hoà Đàm Paris. Bọn chúng nghĩ rằng sự hiện diện của vài ba lá cờ Việt cộng trong quận III, thị xã Huế là có thể chứng minh cho quốc tế thấy được vùng bọn chúng cắm cờ Việt cộng là vùng thuộc quyền kiểm soát của đám Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ? Vào đêm 25/1/1973, khoảng 8 giờ 30 tối, tại một đường hẻm nối liền với đường Nguyễn Huệ, thuộc Quận 3 thành phố Huế, đã xuất hiện một số cờ đỏ sao vàng của của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Cộng sản Hà Nội. Khoảng gần ba mươi phút sau, dân chúng trong vùng phát giác, nhà này truyền sang nhà kia cùng nhau kéo chạy, gây náo loạn cả một khu vực Quận III, lời đồn loan truyền rất nhanh trong vùng : '' Còn hai ngày nữa mới đình chiến, Việt cộng đã kéo vào Quận III, họ đã treo cờ đỏ sao vàng đầy đường''. Ông Thiếu Tá Quận Trưởng Quận III đến nơi tháo cờ đem về quận đường, gọi điện thoại trình thượng cấp, Đại Tá Tỉnh Trưởng Tôn Thất Khiên, và báo Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu cũng như Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I. Có thể nói thời gian trước ngày ký Hiệp Định đình chiến của hai miền Nam, Bắc tại Paris là khoảng thời gian vất vả và nhọc nhằn của Lực Lượng CSQG. Tại Thừa Thiên-Huế, tôi đã cho lệnh cấm trại 100%, năm ngày trước khi Hiệp Định được ký kết, toàn lực lượng được tung ra bảo vệ an ninh thành phố Huế, ngay cả các cấp chỉ huy và nhân viên văn phòng cũng được bổ sung, tăng phái, phụ trách tuần tiễu ngày cũng như đêm, trong 3 quận thị xã Huế, đề phòng mọi bất trắc, mọi biến động có thể xảy ra. Khi xảy ra vụ treo cờ Việt cộng, tôi đang ngồi trên xe tuần tiễu vùng Quận II, qua hệ thống truyền tin, Ân gọi tôi : - Thẩm quyền, ông qua ngay Quận III, chuyện thật lạ lùng, Việt cộng treo cờ tại vùng Quận III, đường Nguyễn Huệ. - Nhận rõ, tôi đến ngay. Vừa dứt câu nói với Ân thì cả ba hệ thống truyền tin trên xe tôi hoạt động đồng loạt, tiếng ta lẫn tiếng Mỹ : Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Đại Úy Trinh gọi tôi : - Thẩm quyền, Đại Tá Tỉnh Trưởng cần gặp ông gấp tại tư dinh Đại Tá. - Nhận rõ. Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu Thừa Thiên : - Thẩm quyền cho biết thêm chi tiết vụ Việt cộng treo cờ để trình với Đại Tá Tiểu Khu Trưởng. - Nhận rõ, anh liên lạc với Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Đại Úy Trinh. Văn phòng Cố Vấn Đặc Biệt : - Xin vui lòng cho biết thêm chi tiết vụ Việt cộng treo cờ tại Quận III. - Ông đợi, tôi sẽ gặp ông sau. Xem ra các cơ quan an ninh, các giới chức thẩm quyền và dân chúng trong thành phố Huế có vẻ hốt hoảng, hoang mang, ''Việt cộng treo cờ trong thành phố Huế trước ngày ký Hiệp Định Đình Chiến Paris.''. Nhưng đối với lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế thì không, nghề nghiệp và nhiệm vụ bắt buộc chúng tôi phải bình tĩnh và sáng suốt trong mọi tình huống, suy nghĩ và phân tích sự kiện xảy ra, tôi phát giác chuyện này có điều bất ổn và nghịch lý. Chỉ khoảng năm phút, sau khi Ân và các nơi gọi tôi, tôi đã có mặt tại quận đường Quận III, vị trí tại gần ngã tư đường Nguyễn Huệ, Duy Tân thành phố Huế. Quận Trưởng là một Thiếu tá QLVNCH, cũng đã lớn tuổi, mặt mày không có gì là sáng sủa cho lắm, ông bắt tay tôi trong niềm hân hoan, vì đã lập được công lớn. Ông ta bắt đầu tự tuyên dương công trạng của mình : - Anh Liên Thành thấy tôi hay không? Bọn Việt cộng vừa treo cờ trong xóm, sát đường Nguyễn Huệ là tôi biết ngay và đích thân đến tháo gỡ, anh xem, tám lá cờ cỡ lớn, cờ đỏ sao vàng. Tôi vừa trình với Đại Tá Tỉnh Trưởng và báo cho Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I, có lẽ Trung Tướng cũng đã biết rồi . [Trung Tướng Ngô Quang Trưởng]. Có khoảng trên hai mươi người, họ là Nhân Dân Tự Vệ, hoặc nhân viên của quận đứng quanh ông Quận Trưởng, nét mặt hân hoan và lộ vẻ thán phục. Có lẽ nếu để cho Thiếu Tá Quận Trưởng tiếp tục tuyên dương công trạng thì ít nhất cũng phải mất ba mươi phút nữa ông ta mới chấm dứt, tôi đành cắt ngang : - Thiếu Tá, ở đây đông người quá, mình vào văn phòng nói chuyện tiện hơn, miệng nói tôi vừa quay lưng bước đi về hướng văn phòng của ông ta. Ân cũng vừa đến, bắt tay Thiếu Tá Quận Trưởng và theo tôi đi vào văn phòng ông Quận Trưởng. Tại văn phòng ông Quận Trưởng, không thể mất thì giờ thêm nữa, tôi nói ngay với ông ta: - Vâng, Đại Tá Tỉnh Trưởng vừa gọi tôi gặp ông ta gấp tại tư dinh, và Trung Tâm Hành Quân Tìền Phương BTL/QĐI cũng đã yêu cầu tôi trình rõ chi tiết đễ họ trình với Trung Tướng Tư Lệnh. Ông Quận Trưởng có thể cho biết thêm chi tiết rõ ràng vụ treo cờ Việt cộng này hay không? - Từ lâu tôi đã tổ chức được một cơ sở nội tuyến cao cấp trong hàng ngũ Việt cộng, vụ treo cờ này tôi đã cho phép cơ sở nội tuyến của tôi thực hiện theo yêu cầu của Việt cộng, như anh biết, chỉ khoảng nửa giờ sau là tôi đích thân đến tháo gỡ ngay. Vừa nghe ông Quận trưởng nói dứt câu này, tôi có cảm tưởng như đang nghe một người bị bệnh “Thần Kinh thương nhớ” nói chuyện. Như vậy khi ngồi trên xe đi đến quận đường Quận III, tôi đã có suy nghĩ và nhận xét vụ Việt cộng treo cờ có gì không ổn bên trong, có lẽ đã có một phần nào đúng với sự việc xảy ra. Tôi vẫn giữ lịch sự với ông Quận trưởng: - Thiếu tá, nhân viên nội tuyến cao cấp của Thiếu tá hiện hoạt động trong nội thành, hay ở vùng Việt cộng kiểm soát ? - Anh ta hoạt động nội thành, anh ta ở đây, ngay Quận III . - Thiếu tá cho tôi gặp người này được không? - Chuyện này không thể được anh Liên Thành, tôi xin lỗi, vì đây là cơ sở bí mật. Đã đến lúc tôi cần phải nói thẳng để ông Quận trưởng thấy việc làm thiếu hiểu biết và ngớ ngẩn của ông ta đã mang lại hậu quả tai hại là gây hoang mang cho dân chúng, tạo hỗn loạn cho tình hình an ninh tại thành phố Huế trong những ngày trước khi hai phe Quốc, Cộng, Nam, Bắc Việt Nam ký hoà ước đình chiến tại Paris. - Tôi có một vài nhận xét về vụ này và muốn trình bày với Thiếu Tá Quận Trưởng : Tôi nghĩ, nguyên tắc và quyền hạn mà chính phủ đã quy định thì : 1- Thiếu Tá, với chức vụ Quận trưởng quận III, Thị xã Huế, ông là một vị Quận Trưởng hầu như thuần tuý về hành chánh. Nếu Thiếu Tá là Quận Trưởng kiêm Chi khu Trưởng của các quận ngoài Thị xã Huế, có binh lực trong tay, có các Liên đội, Đại đội Địa Phương quân, Nghĩa quân, và hàng ngày phải điều động hành quân tác chiến với địch, thì việc tổ chức cơ sở nội tuyến để có tin tức tốt là điều tối cần thiết. Tuy nhiên phải báo ngay và giao việc đó cho Ban 2 Chi Khu, hoặc toán An Ninh Quân đội, hoặc lực lượng CSQG tại quận, vì họ là những đơn vị chuyên nghiệp tình báo, và đó là bổn phận và nhiệm vụ chính của họ. Nếu ông Quận Trưởng không thông báo và giao cho họ làm việc đó, âm thầm hành động, khi các cơ quan này phát giác được, tình ngay lý gian, ông sẽ bị quy tội liên lạc và tiếp xúc với địch. Đây chính là trường hợp Thiếu Tá đang vấp phải. 2- Từ sau ngày Hà Nội phát động cuộc chiến xâm lăng miền Nam, Bộ chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hà Nội đã chuyển vũ khí, đưa binh lính, cán bộ chính trị, quân sự, tình báo, vào miền Nam, và ngày 20 tháng 12 năm 1960, Hà Nội cho thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, từ đó cho đến ngày hôm nay, mọi hoạt động của Hà Nội đều ngụy trang và núp bóng dưới lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đó là cờ có hai màu, đỏ và xanh nhạt giữa có ngôi sao vàng . Che dấu, không để lộ hành tung và ý đồ xâm lăng miền Nam Việt Nam, bất cứ nơi đâu, tại các diễn đàn quốc tế, Hà Nội thường chối bỏ có sự hiện của binh lính, cán bộ ngoại nhập từ miền Bắc xâm nhập hoạt động tại miền Nam, thì nay họ không dại gì mà lại treo cờ của họ tại Quận III Thị xã Huế, một hành động vạch áo cho người xem lưng, tự đi tố cáo minh. Thiếu Tá, ông đã thiếu hiểu biết về chính trị, về sách lược, về chủ trương và bản chất láo lường của đảng Cộng sản Việt Nam, thay vì treo cờ Giải Phóng Miền Nam, ông lại cho treo cờ đỏ sao vàng của Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa miền Bắc, đó chính là lý do nhân viên công lực chúng tôi thấy ngay đây là một vụ giả tạo. Tóm lại, chính Thiếu Tá ông dàn dựng vụ này, giả mạo, lừa dối cấp trên ở mức nghiêm trọng, gây bất ổn và xáo trộn cho tình hình an ninh. Ngoài ra, ông còn tạo thêm khó khăn cho Đại Tá Tỉnh Trưởng và Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, nếu sáng mai báo chí và các đài phát thanh ngoại quốc loan tin : “Việt cộng đã treo cờ tại thành phố Huế trước ngày ký Hiệp Định Đình Chiến” . Thử hỏi Đại Tá Tỉnh Trưởng và Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ giải thích như thế nào với chính phủ trung ương. Có lẽ Thiếu Tá Quận Trưởng ông đã không biết, hiện tại có khoảng 20 phái viên báo chí ngoại quốc Anh, Pháp, Mỹ và phái viên các đài phát thanh BBC, VOA, cùng với một số ký giả Việt Nam của các tờ báo lớn tại Sàigòn, đang có mặt tại khách sạn Hương Giang, họ ăn chực nằm chờ gần cả tuần nay, để săn tin tức Huế trong những ngày quan trọng này, nếu họ biết được và tung tin tức này ra thì thật là bỉ mặt cho chính phủ VNCH tại hòa hội Paris. Ngưng một chút, tôi kết luận : - Bây giờ thì tôi không muốn gặp “Tình báo viên tối mật” của Thiếu Tá nữa, mà tôi phải bắt tên đó - Giao tên đó ra hay không là tùy Thiếu Tá. Mọi hậu quả Thiếu tá sẽ phải gánh chịu. Ông Quận trưởng bắt đầu bối rối, mặt mày đổi sắc. Tôi nhìn sang hai người đứng cạnh Thiếu tá Quận trưởng người đứng phía trái của ông ta cũng mất bình tĩnh, mặt tái xanh, tôi xoay qua Ân, Trưởng Phòng CSĐB và nói với Ân: - Ân, bắt tên này lại, đem về Trung tâm thẩm vấn, tôi chỉ ngay tên đứng cạnh tay trái Thiếu Tá Quận Trưởng, hắn chính là “Tình báo viên tối mật” của ông Quận trưởng. Tôi quay hỏi Thiếu Tá Quận Trưởng: - Có phải tên này là “Tình báo viên tối mật” của ông Thiếu Tá không? Thiếu Tá Quận Trưởng không trả lời mà chỉ gật đầu. Ân và hai nhân viên CSĐB dẫn tên “tình báo viên” của ông Quận trưởng ra xe về Trung tâm thẩm vấn. Tôi xoay qua nói với Thiếu Tá Quận Trưởng: - Ông đã dàn cảnh một vụ hết sức là sai trái và vụng về, nếu muốn được thượng cấp khen thưởng, sao lại chọn con đường tà đạo này, nó sẽ là con đường đưa Thiếu Tá đến chỗ thân bại danh liệt. Huế đang ở trong thời tiết lạnh, vậy vầng trán ông Thiếu Tá Quận Trưởng đã có những giọt mồ hôi, chắc hẳn ông đã biết sợ, ông nhìn tôi cầu cứu: - Anh Liên Thành giúp tôi, tôi đã thấy việc làm của tôi quả thật không đúng, tôi không ngờ hậu quả lại trầm trọng như vậy. - Thiếu Tá, với tội danh ngụy tạo sự việc, lừa đảo thượng cấp, gây hoang mang trong quần chúng, làm xáo trộn tình hình an ninh tại địa phương và nhất là không thông báo với thượng cấp và cơ quan an ninh hữu trách khi tiếp xúc với địch, tôi đã có quá đủ yếu tố để trình thượng cấp xin lệnh câu lưu Thiếu Tá, nhưng cho đến giờ này tôi vẫn không làm chuyện đó, như vậy là đã giúp Thiếu Tá rồi, phần còn lại Thiếu Tá phải tự gỡ rối cho mình tôi không còn có cách nào khác hơn để giúp Thiếu Tá. Rời khỏi quận đường, với 8 lá cờ đỏ sao vàng cỡ lớn, chiến lợi phẩm của Ông Quận Trưởng vừa giao cho tôi, vì cần thêm một số dữ kiện chính xác mới có thể trình Đại Tá Tỉnh Trưởng, tôi đến thẳng Trung Tâm Thẩm Vấn, tại đây, Ân Trưởng phòng CSĐB cho tôi biết : Theo lời khai sơ khởi của tên Nguyễn Lâm, tên “tình báo viên tối mật” của ông Quận trưởng thì hắn không phải là tình báo viên của ông Quận trưởng mà chỉ là người thân cận của ông ta mà thôi. Hắn là cơ sở nội thành của ban An Ninh Thành ủy Huế. Hắn giữ vai trò giao liên cho ông Luật. Năm ngày trước đây, ông Luật đã giao cho hắn 12 ngàn đồng (tiền VNCH), chỉ thị cho hắn đi mua vải và phối hợp với Lê thị Ngàn may cờ treo ở khu vực Quận 3 trước ngày đình chiến. Theo Nguyễn Lâm, ông Quận Trưởng có cảm tình đặc biệt với Lê thị Ngàn, nên thường lui tới nhà Lê thị Ngàn, và tình cờ bắt gặp Ngàn và hắn đang may cờ, không thể chối cãi, Nguyễn Lâm đành thú thật với ông Quận Trưởng hắn và Lê Thị Ngàn là cơ sở nội thành, được lệnh của ông Luật may cờ và sẽ cắm cờ trong khu vực quận III, vào hai ngày trước khi có lệnh đình chiến. Hắn rất ngạc nhiên thay vì bị ông Quận trưởng bắt hắn và Lê Thị Ngàn, thì ông Quận trưởng lại cho phép và dặn hắn phải báo cho ông ta trước một giờ khi hắn và Lê Thị Nhàn hành động. Về Lê Thị Ngàn, thị là mục tiêu mà Phòng CSĐB đang theo dõi gần cả năm nay. Trong hồ sơ Lê Thị Ngàn nguyên là du kích Huyện đội Phú Lộc, địa bàn hoạt động là vùng Truồi, Cầu Hai, y thị ra hồi chánh khoảng hơn một năm trước. Sau một thời gian ngắn ở tại Trung Tâm Chiêu Hồi tại Quận I Thành Nội, Huế, y thị được tự do trở về đời sống bình thường và cư ngụ tại Quận III. Thật ra Lê Thị Ngàn không phải là du kích của Huyện đội Phú Lộc, mà là cán bộ An ninh Thành ủy, được bố trí trá hồi chánh, để hợp pháp hoạt động trong thành phố. Chính sách Chiêu Hồi của Chính phủ VNCH đã quá nhân đạo, với phương châm “Lấy tình thương xoá bỏ hận thù”, đã là một cơ hội tốt cho Việt cộng tung hàng loạt cán bộ chính trị, tình báo, đặc công, trá hồi trở vào thành phố sống hợp pháp và hoạt động bí mật, đây chính là trường hợp của Lê Thị Ngàn. Tôi cho lệnh Ân, Trưởng phòng CSĐB bắt giữ Lê thị Ngàn ngay. Về trường hợp ông Luật, người đã chỉ thị cho Nguyễn Lâm và Lê Thị Ngàn may và treo cờ Việt cộng, sau khi Nguyễn Lâm tả hình dạng của ông Luật, và còn cho thêm chi tiết ông ta là anh ruột của Trung Úy Cảnh Sát Trần văn Hồng, Trại trưởng trại tạm giam của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế, chúng tôi xác nhận được ngay : Ông Luật này chính là Trần văn Luật Trưởng Toán Tình báo của Phủ Đặc ủy Trung Ương Tình báo VNCH tại Huế. Với lời khai của tên Lâm vẫn chưa đủ để kết luận trắng đen việc làm của Trần văn Luật, vì biết đâu đây là một chiến dịch xâm nhập của toán tình báo Phủ Đặc ủy. Một người có thể xác nhận được, là viên Phối trí viên cho Phòng CSĐB, cũng là Phối trí viên của toán Tình báo Phủ Đặc Uỷ trong mọi công tác xâm nhập, và lẽ đương nhiên trong công tác phối hợp, ông ta đều có một phó bản mọi công tác xâm nhập của hai cơ quan trên. Tôi đến thẳng nhà của ông ta, sau khi cho ông ta biết rõ nội vụ xảy ra, và với một yêu cầu duy nhất : - Tôi biết câu hỏi tôi sắp hỏi ông là không đúng nguyên tắc, trái với quy luật tình báo, ông có thể không trả lời, hoặc chỉ trả lời Yes or No, đó là hai tên Nguyễn Lâm và Lê thị Ngàn có nằm trong chiến dịch nào thuộc bên phía Phủ Đặc Ủy của ông Trần văn Luật hay không? Câu hỏi đột ngột của tôi đã làm ông ta khựng lại, suy nghĩ, nhưng cuối cùng ông ta cũng chậm rải trả lời: - Bên phía ông Luật có rất ít chiến dịch xâm nhập, tôi nắm vững và nhớ rõ không có tên hai người này. Vì cần trình gấp với Đại Tá Tỉnh Trưởng nội vụ xảy ra, tôi bắt tay viên Phối trí viên và hẹn với ông ta ngày mai sẽ gặp lại để bàn kỹ vụ Trần Văn Luật. Tôi gặp Đại Tá Tỉnh Trưởng Tôn Thất Khiên vào khoảng 10 giờ 30 tối tại tư dinh của Đại Tá, trình chi tiết nội vụ, và nêu phần nhận xét của tôi trong vụ này : - Trình Đại Tá, vụ này có thể chia làm hai phần : phần thật, và phần giả tạo, khó khăn trong vụ này để tìm ra sự thật là: giả mà thật, thật mà giả. Theo chỉ thị của Chính phủ và của Đại Tá, mọi nơi, mọi nhà trong lãnh thổ Thừa Thiên-Huế, đều sơn và treo cờ VNCH, ngược lại bọn Việt cộng cũng chủ trương như vậy, để truyên truyền với quốc tế lãnh thổ mà bọn chúng kiểm soát được trước ngày ký hiệp định Paris. Cho đến giờ này trên toàn lãnh thổ Thừa Thiên- Huế, bọn Việt cộng không thể thực hiện được ngoại trừ Quận III, Thị xã Huế, vì kẻ cho lệnh treo cờ đỏ sao vàng của của Chính phủ Cộng sản Miền Bắc lại chính là Ông Thiếu Tá Quận Trưởng quận III của chúng ta, và ông Trần văn Luật, trưởng Toán Tình Báo của Phủ Đặc Ủy VNCH tại Huế. Ông Thiếu Tá Quận Trưởng Quận III, lấy của người khác làm của mình, ngụy tạo, dàn dựng sự việc do chính ông tổ chức cơ sở Việt cộng, rồi cũng chính ông khám phá vụ treo cờ đỏ sao vàng trong lãnh thổ trách nhiệm của ông ta, mục đích của ông ta chỉ là muốn lập công với Đại Tá. Trường hợp của Thiếu Tá Quận Trưởng, xin để Đại Tá quyết định, chúng tôi, lực luợng CSQG không có đề nghị nào, vì ông Thiếu Tá Quận Trưởng không liên quan gì trong hoạt động thật sự của đám Trần Lâm và Lê Thị Ngàn. Khó khăn trong vụ này là ông Luật, vì hai tên Nguyễn Lâm, và nữ cán bộ An ninh Việt cộng thuộc Thành ủy trá hồi chánh Lê thị Ngàn có phải là tình báo viên của Phủ Đặc Ủy trong một chiến dịch xâm nhập nào đó của họ hay không chưa xác nhận được, tôi cũng đã hỏi viên Phối trí viên của Trần văn Luật, thì ông ta xác nhận là không hề có hồ sơ xâm nhập nào có tên hai người này, vậy thì câu hỏi được đặt ra có thể ông Luật chưa trình với thượng cấp của ông ta tại Sàigon và chưa mở chiến dịch, nên văn phòng Phối trí viên không có hồ sơ, hoặc giả ông ta là kẻ nội gian, hoạt động cho địch. Vì vậy phải Trình Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư Lệnh CSQG quyết định, vì Thiếu Tướng Tư Lệnh cũng là Đặc Ủy Trưởng của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH. Đại Tá Tỉnh Trưởng hỏi tôi: - Vậy anh đã trình với Thiếu Tướng chưa? - Trình Đại Tá chưa. - Anh gọi ngay đi, tôi không chấp nhận mọi chuyện lộn xộn xảy ra trong thời điểm quan trọng này tại thành phố Huế. Dùng điện thoại tại tư thất Đại Tá, bấy giờ đã gần 12 giờ đêm, cũng đã quá khuya vậy mà Thiếu Tướng Tư Lệnh vẫn còn làm việc tại văn phòng. Sau cuộc điện đàm, tôi trình lại với Đại Tá Tỉnh Trưởng: - Trình Đại Tá, theo lệnh của Thiếu Tướng Bình, sáng mai Thiếu Tướng sẽ cho phái đoàn bên Phủ Đặc uỷ ra Huế để điều tra nội vụ, tôi sẽ chuyển giao toàn bộ nội vụ cho phái đoàn. Vụ treo cờ đỏ sao vàng tại Quận III, trước ngày ký Hiệp định Paris, xem như đóng hồ sơ. Ông Quận Trưởng rời khỏi nhiệm sở hai mươi bốn giờ sau đó. Riêng tên Trần Luật, tôi không biết gì thêm vì không được phái đoàn điều tra của Phủ Đặc ủy thông báo kết quả điều tra nội vụ. Ngày 28 tháng 2 năm 1975, Việt cộng chiếm Huế, Trần văn Luật lộ nguyên hình tên nội gian, hắn chẳng trình diện mà cũng chẳng đi cải tạo, sống nhởn nhơ, bình yên vô sự tại Huế. Trong khi đó thì các tình báo viên, mật báo viên, các cơ sở bí mật của Phủ Đặc Ủy tại Huế, dưới quyền chỉ huy của Trần văn Luật trước 1975, đã bị Trưởng Ty Công An Việt cộng Thừa Thiên-Huế, Đại Tá Nguyễn Đình Bảy, tức Nguyễn Mậu Huyên, bí danh Bảy Lanh truy bắt hầu như không sót một ai. Sau này tại Huế, một nguời bạn của Trần văn Luật tình cờ gặp ngạc nhiên hỏi hắn : - Anh là nhân viên tình báo cao cấp của chính phủ cũ, nhân viên của anh đều bị bắt, đi tù cải tạo, chỉ mình anh không bị gì cả. Anh hay thật. Trần văn Luật trả lời người bạn: - Có gì đâu, ngày trước tôi đối xử tốt với họ, bây giờ họ đối xử tốt với tôi. Đó là mẩu đối thoại ngắn ngủi giữa người bạn của Trần văn Luật là Trung Uý Cảnh Sát Nguyễn Thế Thông với trên 10 năm tù cải tạo, hiện định cư tại Wichita, Kansas. USA. Đó cũng chính là câu trả lời xác nhận những gì mà tên phản bội Trần văn Luật đã gây nguy hại cho an ninh quốc gia VNCH trước 1975, khi hắn là Trưởng Toán Tình báo của Phủ Đặc ủy, và cũng chính là lời xác nhận những hành động của một loài cầm thú, khi đem bán thuộc cấp mình cho Trưởng Ty Công An Việt cộng Đại Tá Bảy Lanh, để đổi lấy an toàn cho bản thân. Cuối cùng, Trần Văn Luật hắn là ai? Xin nhường lại phần phán xét khách quan cho bạn đọc. ....... (phần 17)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 17:33:37 GMT 9
Giai Đoạn chót của "Chiến Dịch Bình Minh" Cho đến ngày 14/5/1972 áp lực quân sự của địch vẫn còn đè nặng lên Huế, căn cứ Bastogne vẫn còn bị địch chiếm giữ, pháo 130 ly của Việt cộng vẫn từng giờ một bắn đều đặn vào thành phố Huế và tuyến đường Huế-Đà Nẵng, đồng bào Huế vẫn tiếp tục di tản xuôi về phương Nam để tránh giặc cộng, thì ngay đêm hôm đó tôi nhận được điện thoại của Trung tá Tạo, Chánh văn phòng của Tư lệnh CSQG, Đại tá Nguyễn Khắc Bình : - Liên Thành, ngày mai Đại tá Tư lệnh sẽ ra thăm đơn vị em, gởi gấp nội đêm nay vào cho Trung Tá bản đề nghị thăng cấp và trao tặêng huy chương cho một số nhân viên hữu công của em, hàng sĩ quan cũng như Hạ sĩ quan (CSQG chức vụ thấp nhất là Hạ sĩ quan), ngày mai Đại tá Tư Lệnh sẽ trao gắn cho họ, nhớ tổ chức buổi lễ cho chu đáo. Tôi ngắt lời Trung tá Chánh văn phòng: - Trình Trung tá, Đại tá Tư lệnh ra Huế lúc này nguy hiểm quá. Tình hình vẫn còn rất nặng, mặt trận phía Bắc và Tây thành phố Huế, đang ở giai đoạn cao điểm. Bastogne còn nằm trong tay bọn chúng, Huế tiếp tục bị pháo hằng giờ, dân chúng vẫn hỗn loạn, vẫn tiếp tục di tản vào Đà Nẵng . - Trung tá hiểu, nhưng những gì ông đã quyết định rồi thì ông không thay đổi đâu ! Ngay tối hôm đó, tôi họp với Đại úy Vinh, Ân, Trinh, Đại úy Quế, Trưởng phòng Quản trị, và Trung úy Phạm Thìn, Trưởng ban Nhân viên. Chúng tôi thiết lập một danh sách đề nghị thăng cấp cho một số anh em hữu công trong chiến dịch Bình Minh. Danh sách dài lê thê như sớ táo quân, thật tình không nhớ hết, tôi chỉ nhớ đã đề nghị cho 10 Đại úy thăng cấp Thiếu Tá, khoảng14 trung úy thăng Đại úy, số Thiếu úy thăng Trung uý và các anh em Hạ sĩ quan, cũng như số huy chương quá nhiều không nhớ hết nổi. Cũng trong phiên họp Đại úy Vinh hỏi tôi: - Vậy tên anh đâu? Tôi cười nhìn anh em: - Ôn Phó ơi ! mình đi khen mình, rồi lại đề nghị thăng cấp cho mình, vậy thì mình là dân đại cà chớn. Ôn phó yên chí, kỳ này Ôn lên Thiếu tá, mình đổi, Ôn lên làm Chỉ huy trưởng, tôi trụt xuống làm Chỉ huy phó có sao đâu, cả bọn anh em tôi đều cười. Ngày hôm sau, tức ngày 15/5/1972 Đại tá Tư lệnh CSQG Nguyễn Khắc Bình và phái đoàn từ Sàigòn ra thăm BCH/Thừa Thiên- Huế vào khoảng 1 giờ chiều. Huế trong ngày này tình hình địch còn rất nặng, Việt cộng tiếp tục pháo hằng loạt 130 ly vào thành phố, cuộc hành quân Bình Minh của lực lượng CSQG/ Thừa Thiên- Huế vẫn đang tiếp diễn. Mặc dầu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã có mặt tại Huế từ hơn hai tuần nay, nhưng dân chúng di tản về hướng Đà Nẵng vẫn tiếp tục, có lẽ một ám ảnh Mậu Thân vẫn chưa nhạt mờ trong trí họ. Sự hiện diện của Đại Tá Tư Lệnh CSQG Nguyễn Khắc Bình và phái đoàn tại mặt trận Huế, thoạt đầu chỉ là thị sát cuộc hành quân Bình Minh, mà lực lượng Cảnh sát đang mở ra trên toàn lãnh thổ Thừa Thiên-Huế, với mục đích phá vỡ mọi mưu toan của địch, định thực hiện một cuộc tổng nổi dậy tại Huế. Ông và phái đoàn đến Huế cũng với mục đích thăm viếng, an ủi, săn sóc, khích lệ tinh thần anh em Cảnh sát Thừa Thiên Huế, không ngờ lại có một tác dụng và hậu quả hết sức quan trọng đối với tình hình Huế lúc đó, hành động này đã tác động rất mạnh tới tinh thần đồng bào Huế. Vì lạ lùng thay, ngay vào chiều hôm đó, khi tôi yêu cầu đài phát thanh Huế phát đi nhiều lần phóng sự cuộc thăm viếng của Đại Tá Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh CSQG và buổi lễ tưởng thưởng chiến sĩ CSQG hữu công, nhất là đài truyền hình số 9 Huế, phát nhiều lần hình ảnh buổi lễ, thì ngay sáng ngày hôm sau, Trưởng trạm kiểm soát Huế- Đà Nẵng, đã trình với tôi số lượng dân chúng di tản vào Đà Nẵng giảm xuống rất nhiều. Tôi phân vân, nghĩ mãi vẫn không có câu trả lời, tại sao lại có chuyện này, nguyên do nào đã làm cho dân chúng Huế ngưng không di tản vào Đà Nẵng nữa ? Vào khoảng 3 giờ chiều cùng ngày, khi tôi đang bận rộn tại Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, thì nhân viên tiếp tân báo cho tôi biết có một vị Thượng Tọa muốn gặp tôi, tôi giật mình và thầm nghĩ: "Giặc đã sát bên lưng, các ông còn muốn gì nữa mà gặp tôi, lại muốn biểu tình phản đối chuyện gì nữa đây?" - Tuy nhiên tôi vẫn nói với nhân viên mời Thượng Tọa vào phòng tiếp chuyện. Vừa rời Trung tâm Hành quân Cảnh Lực, tôi đã gặp vị Thượng Tọa đang đứng đợi ngay ngoài cửa phòng của tôi, tôi rất ngạc nhiên, nhưng vì có nhân viên đứng cạnh nên tôi vẫn giữ lễ chắp tay và miệng nói : - A di Đà Phật, Thầy đi mô đây ? - Vô phòng, vô phòng, rồi nói chuyện. Ông là Thượng Tọa Thích Chơn Trí, chú của tôi, đi tu từ nhỏ. Vừa khép cửa phòng tôi hỏi Ông : - Thưa Chú, có chuyện chi cần không, bọn chúng đang pháo dữ lắm, chú đi nguy hiểm quá. - Biết cháu bận, chú chỉ gặp và hỏi cháu tình hình có yên không, vì các gia đình Phật tử của chú họ định chạy vào Đà Nẵng lánh nạn, nhưng hồi đêm xem đài truyền hình thấy ông Chánh Mật Thám ở Sàigòn ra thăm Huế làm lễ gắn lon, gắn huy chương cho Cảnh Sát, chú và các gia đình Phật tử suy luận như vậy là mình không mất Huế, Chính phủ không bỏ Huế phải không? Chú muốn hỏi cháu để về nói lại với họ, vì cháu biết rồi, chạy giặc cực khổ lắm. Tôi cười và nói với ông: - Chú ơi, chú nhà quê quá, bây giờ còn Tây nữa đâu mà gọi ông ta là "Chánh Mật Thám", ông là Đại tá Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh Sát của bọn cháu. Tình hình mỗi ngày một khá hơn, Trung Tướng Trưởng đã có mặt tại Huế cả hai tuần nay, lực lượng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Sư Đoàn I BB, dưới quyền của Trung tướng Trưởng đang phản công đẩy lui bọn Việt cộng ra xa thành phố Huế, và ngày hôm qua (15/5/1972), đơn vị Trinh sát của Sư đoàn I BB đã nhảy xuống chiếm lại căn cứ Bastogne, và như chú và đồng bào thấy đó, Đại Tá Bình ngày hôm qua có mặt ở Huế, ông là nhân vật quan trọng của Chính phủ, ông ra Huế trong cảnh súng vẫn còn nổ, pháo địch vẫn còn bắn vào thành phố, có phải là ông muốn nói với đồng bào Huế và Phật tử của chú là chính phủ quyết tâm giữ Huế hay không, đúng vậy không? - Đúng rồi ! - Vậy thì tại sao chú và đồng bào Phật tử của chú lại định bỏ Huế mà đi? - Đúng rồi ! - Vậy là không cần phải chạy nữa phải không? Ông Chánh Mật Thám từ Sài gòn ra thăm Huế, thì tại răng mình lại bỏ Huế mà chạy. - Thì đúng rồi, chú và đồng bào Phật tử chạy làm chi. Tôi không biết mình đã trở thành sĩ quan Tâm lý chiến từ hồi nào mà truyên truyền với ông chú của tôi Thượng Tọa Thích Chơn Trí, một cách ngọt lịm như vậy, nhưng một điều chắc chắn là những ngày sau, còn rất ít dân chúng bỏ Huế chạy vào Đà Nẵng. Cám ơn Thiếu Tướng Tư lệnh Nguyễn Khắc Bình và phái đoàn của Ông. Ông đã ra Huế trong cảnh Huế đang là một chiến trường nặng ký, pháo 130 của cộng sản đã dàn chào ông hai lần, khi ông và phái đoàn vừa đặt chân xuống thành phố Huế và trong khi ông đang có mặt tại BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Chúng tôi, những thuộc cấp của ông trong lực lượng CSQG Thừa Thiên Huế, rất xúc động và hiểu rõ rằng, đó là tình cảm ưu ái của một người chủ gia đình đối với các thành viên dưới một mái nhà, hơn là hành động của một vị chỉ huy khi thăm viếng để khích lệ, săn sóc, an ủi những chiến sĩ CSQG dưới quyền, đang cố gắng thi hành trách nhiệm và bổn phận mà ông giao phó : Bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào . Ngoài ra cũng không quên ơn ông và phái đoàn, vì sự hiện diện của ông và phái đoàn tại Huế vào thời điểm đó đã tạo miền tin cho dân chúng Huế : Huế sẽ không mất, Chính phủ quyết tâm giữ Huế. Ông đã tạo được niềm tin trong lòng người dân Huế, vì thế dân chúng quyết ở lại Huế, không bỏ Huế mà chạy. Tôi cũng không quên nói thêm sau phần thuyết trình của tôi với Đại Tá Tư lệnh và phái đoàn, cuối buổi thuyết trình Đại Tá Tư lệnh hỏi tôi : - Hiện tại em cần BTL giúp gì? - Khó khăn và trở ngại nhất của BCH/Thừa Thiên-Huế là càng sớm càng tốt, phải di chuyển số tù nhân vừa mới tạm giữ trong chiến dịch Bình Minh, và số tù nhân cũ hiện đang giữ tại Trung Tâm cải huấn, tổng số khoảng gần 2 ngàn, họ phải rời khỏi Huế ngay, vì nếu Việt cộng tấn công vào Huế, số này được chúng giải thoát và trang bị cho, thì thật là một đại họa cho Huế, cho dân chúng Huế, cuộc tắm máu lần này nếu xảy ra, sẽ tàn bạo gấp mấy lần Mậu Thân 1968. Xin Đại Tá cấp cho phương tiện di chuyển họ ra khỏi Huế càng sớm càng tốt. - Em định đưa họ đi đâu? - Trình Đại tá Côn Sơn. - Được rồi, BTL sẽ cố gắng cấp phương tiện cho em trong thời gian sớm nhất. Hơn một tuần sau, Dương vận hạm HQ500 của BTL Hải Quân VNCH cập bến Thuận An, tôi giao trách nhiệm di chuyển số tù nhân này xuống tàu cho Chỉ huy phó của tôi là Đại úy Trương văn Vinh, và Phụ tá ngành Đặc biệt của tôi là Đại Úy Trương Công Ân, đồng thời cử Trung Tâm phó Trung Tâm thẩm vấn, Trung úy Nguyễn Thế Thông, cùng với 20 thẩm vấn viên đi cùng tù nhân ra Côn Sơn, để hoàn tất hồ sơ thẩm vấn. Chúng tôi cũng được BTL tăng cường 20 thẩm vấn viên của Khối CSĐB, do Thiếu tá Hải làm trưởng đoàn, bay ra Côn Sơn phụ giúp thẩm vấn để hoàn tất thật nhanh hồ sơ theo lệnh của Đại Tá Tư lệnh. Xin cám ơn Đại Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng khối CSĐB, xin cám ơn Thiếu tá Hải [Tôi xin lỗi đã không nhớ rõ họ của ông] đã giúp đỡ tận tình cho BCH/CSQG Thừa Thiên hoàn tất nhiệm vụ rất nhanh, chỉ trong vòng 1 tháng. Ngoài ra trong dịp thăm viếng này, Đại tá Tư lệnh đã thăng cấp cho một số sĩ quan và Hạ sĩ quan của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế, trong đó có tôi, thăng cấp Thiếu tá ngày hôm đó, số còn lại sau đó tuần tự Nghị định thăng cấp gởi về, tổng cộng có 9 Sĩ quan thăng cấp Thiếu Tá kể cả tôi : 1- Chỉ huy Phó : Thiếu tá Trương văn Vinh 2- Phụ tá ngành CSĐB : Thiếu tá Trương công Ân 3- Trưởng Phòng Hành quân : Thiếu tá Đoàn Đích 4- CHT/ quậân Phong Điền : Thiếu tá Nguyễn thế Hiển 5- CHT/ quận Quảng Điền : Thiếu tá Trần Đức Túc 6- CHT/ quận Nam Hoà :Thiếu Tá Dương Phước Tấn 7- CHT/ quậân Vinh Lộc :Thiếu Tá Tôn Thất Trang 8- Trưởng phòng Tư Pháp: Thiếu tá Nguyễn văn Ngôn Có hai Sĩ quan rất xứng đáng, tôi trông mong cho họ được thăng cấp trong lần đó, là Đại úy Lê Văn Phi, Chỉ huy trưởng quận Hương Trà và Đại úy Phạm bá Nhạc, Chỉ huy trưởng quận Hương Thủy, nhưng lần này họ không có tên trong bản Nghị định, có lẽ họ đã thiếu một số điều kiện nào đó. Tôi xin lỗi hai anh. Sau này bạn đồng nghiệp của tôi Thiếu Tá Hàn, Chỉ huy trưởng BCH/ tỉnh Quảng Tín nói đùa với tôi: - BCH/Thừa Thiên là con đẻ của Thiếu Tướng Tư lệnh, thăng cấp một lần 9 Thiếu tá. Tôi nói với Thiếu tá Hàn: - Ông nói sai rồi, chúng tôi là con cưng của Thiếu tướng Tư lệnh, vì chúng tôi đội trên đầu gần 1 ngàn quả đạn 130 ly của Việt cộng thì vai phải mang Thiếu tá là đúng rồi. *** ĐOẠN KẾT *** Tôi là kẻ đang kể câu chuyện "Ngàn lẻ một đêm" của xứ Huế. Vì có cả ngàn chuyện, nên cứ lan man từ chuyện này sang chuyện khác – Tôi cũng đã cố gắng hết sức, nhưng quý vị cũng hiểu dùm, không thể một lần, hay một cuốn sách, mà tường trình cặn kẽ đủ hết chi tiết đã xảy ra trong hàng chục năm trời cùng quý độc giả được. Nếu quý vị cho phép, tôi hy vọng sẽ được kể tiếp vào những dịp khác . Bây giờ, tôi xin phép ngưng câu chuyện dưới đây, để tạm kết thúc một phần trong giai đoạn này . Phái đoàn Quốc hội VNCH thăm Huế. - Quý vị Dân Biểu các ông là ai ? Tình hình chiến sự tại chiến trường Huế mỗi ngày mỗi mỗi lạc quan hơn, phần thắng nghiêng hẳn về phía Quân lực VNCH. Thành phố Huế từ sau ngày 15/5/1972, ngày Thiếu úy Hiệp, Trung đội trưởng cùng Trung đội Trinh sát của ông ta nhảy trực thăng ngay trên đầu địch, đánh bật cộng quân ra khỏi cao điểm Bastogne, Huế không còn bị địch pháo kích nữa . Ngày 19 tháng 5/1972, một phái đoàn dân biểu của Quốc hội VNCH từ Saigòn ra thăm chiến trường Trị Thiên-Huế. Gọi là phái đoàn cho có vẻ long trọng, thật ra chỉ có 4 vị Dân biểu thuộc thành phần đối lập với chính phủ, những Dân biểu thuộc khối Ấn Quang, hai trong bốn người đó là đệ tử thân tín của "Thầy" Thiện Siêu, của chùa Từ Đàm. Trước đây họ đắc cử Dân biểu đơn vị Thừa Thiên-Huế cũng nhờ thầy lo cho, trong 4 người đó có nữ Dân biểu Kiều Mộng Thu, mà báo chí Sàigòn thường gọi là " Kiều lá đổ ". Họ đến Huế sau khi thăm xã giao Đại Tá Tỉnh Trưởng Tôn Thất Khiên, bốn vị dân biểu yêu cầu Đại tá Tỉnh Trưởng lệnh cho Cảnh sát, để họ vào trại tạm giam thăm số tù nhân vừa bị bắt trong chiến dịch Bình Minh. Tôi được Trung úy Tế, Chánh văn phòng của Đại tá Tỉnh trưởng chuyển lệnh Đại tá tiếp phái đoàn Dân biểu và tùy nghi hướng dẫn phái đoàn thăm viếng tù nhân. Đại tá Tỉnh trưởng là người ở vị trí và cương vị của một ông quan đầu tỉnh, của một người cai trị dân, là cương vị của một người làm chính trị và ngoại giao, phải mềm dẻo, xã giao với phái đoàn Dân biểu Quốc hội, nhất là những vị này thuộc khối đối lập trong Quốc hội VNCH. Nhưng tôi ở trong cương vị của một người chịu trách nhiệm về an ninh tình báo, thì thật tình, cho dù có lệnh của Đại tá Tỉnh trưởng, tôi vẫn không thể thoả mãn những yêu cầu của phái đoàn Dân biểu bởi lẽ : - Tôi hiểu rõ mục đích và ngụ ý của cuộc thăm viếng gọi là ''Thăm viếng chiến trường trị Thiên-Huế'', nhưng thực chất là thăm viếng tù nhân của chiến dịch Bình Minh, để thông tin, để tạo niềm tin cho một số cơ sở nằm vùng Việt cộïng, đã bị bắt, đừng khai báo gì, và cũng để có thể xin bảo lãnh số cơ sở nào đó, theo lời yêu cầu của Thích Thiện Siêu. Nếu họ làm được những yêu cầu của Thích Thiện Siêu, đương nhiên nhiệm kỳ bầu cử kế tiếp họ sẽ được Thích Thiện Siêu yểm trợ để tái đắc cử. Thực chất là vậy, họ viếng thăm chiến trường Trị Thiên-Huế chẳng phải vì gian lao, cực nhọc của các chiến sĩ đang ngày đêm xả thân bảo vệ Trị Thiên-Huế, trước làn sóng xâm lăng của bọn cộng sản. Sao họ không thăm viếng chiến trường, ủy lạo anh em binh sĩ, sao không vào thăm Quân y viện Nguyễn Tri Phương, để thấy tận mắt những chiến sĩ Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Binh sĩ Sư đoàn I BB đang quằn quạïi đau đớn trên giường bệnh, những người đó đã hy sinh một phần thân thể, và cả cuộc đời cho đất nước, cho dân tộc, mà họ lại ra Huế chỉ để đi thăm những kẻ hoạt động cho địch, đang mưu toan Tổng nổi dậy, biến Huế thành một Mậu Thân lần thứ hai, đã bị lực lượng CSQG/Thừa Thiên-Huế bắt giữ. Tóm lại, họ chỉ vì muốn được hổ trợ của quý Thầy, để có được những lá phiếu của đồng bào Phật tử Huế cho nhiệm kỳ Dân biểu kế tiếp của họ mà thôi. Nói ra thì thật đau lòng, nhưng đó là một sự thật - Hành động của họ thật đáng buồn, đáng phỉ nhổ ! Khoảng 3 giờ chiều ngày 19/5/1972, tôi tiếp phái đoàn 4 vị Dân biểu. Theo lẽ thông thường, tôi thuyết trình tình hình địch, tình hình bạn v .v. . , nhưng tôi không làm chuyện đó, lởi lẽ tôi đã biết rõ mục đích của họ, và nói thật lòng, họ không đáng và không xứng, để tôi phải thuyết trình mọi việc. Sau khi phái đoàn an vị, nữ Dân biểu vào đề ngay: - Chúng tôi đã gặp Đại Tá Tỉnh trưởng sáng nay, và đã được Đại tá chấp thuận, mong rằng Thiếu Tá Trưởng ty cho chúng tôi được thăm viếng một số đồng bào đã bị Thiếu tá bắt giữ trong những ngày vừa qua, và đây là danh sách những người mà chúng tôi muốn gặp và trực tiếp nói chuyện với họ – Vừa nói vừa đưa cho tôi một danh sách dài. Tôi nhìn vào danh sách có khoảng 20 người gồm có: Bửu Chỉ, Sinh viên, Nguyễn Hữu Đính, kỹ sư Canh nông, Hoàng thị Thọ, học sinh, Nguyễn khoa Phẩm, chủ tịch Hội đồng Tỉnh Thừa Thiên, Lê Phước Á, giáo sư, Lê Quang Nguyện, Nghị viên Hội đồng Tỉnh, v.v. . . Tôi mỉm cười giao lại bản danh sách cho nữ Dân biểu Kiều Mộng Thu và nói: - Thưa bà và quý vị Dân Biểu, tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của quý vị được, bởi lẽ những người này là cơ sở nội thành của Trung tá cộng sản Hoàng Kim Loan, hơn nữa, họ đang ở trong thời gian thẩm vấn không thể gặp gỡ thăm viếng họ được. Cả 4 Dân biểu đều đổi sắc mặt và có chút giận dữ trên nét mặt của họ. Ông Dân Biểu người Huế hỏi lại tôi: - Ông Trưởng ty nói chi? Chúng tôi là Dân biểu, những người đại diện cho dân, chúng tôi có quyền thăm viếng những người dân lành vô tội bị ông bắt bớ bừa bãi. - Vâng đúng quý vị là Dân biểu, quý vị có quyền đó, và nhiều quyền nữa, ngay cả quyền bất khả xâm phạm, và quyền vu khống nhân viên công lực. Ông Dân biểu có bằng chứng nào buộc tội chúng tôi bắt bớ dân lành vô tội? Trong bản danh sách bà Nữ Dân biểu vừa đưa cho tôi xem, tất cả những người đó là cơ sở nội thành quan trọng của tên trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan. - Chúng tôi muốn xem hồ sơ những người đó. - Xin lỗi tôi không thể để ông Dân biểu xem những hồ sơ đó được, ông Dân Biểu không có quyền. - Anh cho lệnh Cảnh sát bắt bớ dân lành từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, nhốt vào trại giam cả hơn một ngàn người thật là quá đáng, chuyện này chúng tôi sẽ đưa ra Quốc hội, và có thể tôi sẽ đề nghị cắt giảm ngân sách của bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ông Trưởng ty cứ chờ xem. - Vâng tôi chờ, nhưng đó là chuyện của ông Dân Biểu và BTL Cảnh sát, chẳng liên quan gì đến tôi. - Thật là một Trưởng ty Cảnh sát du đãng, không xem luật pháp ra gì. Thật tình đã quá mức chịu đựng của tôi, nhưng tôi vẫn bình tĩnh trả lời ông ta: - Ông Dân biểu gọi tôi là Trưởng ty Cảnh sát du đãng vẫn chưa đúng, phải gọi tôi là Trưởng ty Trùm du đãng thì đúng hơn, vì du đãng không trị được du đãng mà phải là trùm du đãng mới trị được du đãng. - Khẩu hiệu của các anh là : "Cảnh sát là bạn dân". Bạn dân cái gì mà bắt nhốt dân hằng loạt ? - Ông Tư Lệnh của chúng tôi Đại Tá Nguyễn Khắc Bình đã có giải thích khẩu hiệu đó rồi: "Cảnh Sát là bạn dân, nhưng chỉ bạn của dân lương thiện mà thôi " . Nếu ông Dân biểu còn giữ thái độ nóng nảy không lịch sự, tôi buộc lòng không tiếp ông được nữa, và xin mời ông ra ngoài, tôi chỉ tiếp ba vị này mà thôi. Nữ Dân biểu Kiều Mộng Thu thấy tình hình quá gây cấn, vội can: - Thôi, thôi, bỏ qua đi, Liên Thành em cho chị và ba vị đây vào thăm họ một lúc thôi, mọi chuyện xong ngay, xem như chẳng có gì xảy ra. Tôi vẫn giữ nguyên quyết định lúc đầu: - Thưa bà Dân Biểu, không thể được, sau khi thẩm vấn xong, quý vị muốn thăm bất cứ khi nào bao lâu cũng được. Ông Dân biểu hỏi tôi: - Vậy thì bao lâu? - Tùy theo họ, tùy theo sự hợp tác của họ với nhân viên thẩm vấn. - Nói như vậy thì cũng bằng không. Có lẽ ông Dân biểu này quá giận, nên đã không kiểm soát nổi hành động và lời nói của mình, nên ông tiếp tục hỏi tôi một câu hết sức không thông minh chút nào: - Nếu bây giờ chúng tôi qua thẳng Trung Tâm Thẩm Vấn , lính gác và ông có cho chúng tôi vào không? Tôi bây giờ thật sự đã hết kiên nhẫn với ông Dân biểu này, tôi nói bằng giọng từ tốn, nhưng chắc nịch : - Tôi nhắc lại với ông Dân biểu, Huế thật sự chưa yên, đang trong tình trạng chiến tranh, kẻ nào mưu toan hoặc có hành động xâm nhập cơ quan công quyền, nhất là Trung tâm thẩm vấn, nơi đang giam giữ tù nhân Việt cộng tôi sẽ cho lệnh lính gác bắn hạ ngay, ông Dân biểu nghe rõ chưa? Hai ngày sau, ông Dân biểu họp báo tại Sàigòn, báo chí thân hữu của ông ta đăng tải lung tung, nào là Thừa Thiên Huế có 2 Tỉnh trưởng, ngoài Đại Tá Tôn Thất Khiên còn có Tỉnh Trưởng Liên Thành, nào là Trưởng ty Cảnh sát vô kỷ luật, hành động phạm pháp bắt người bừa bãi, BTL Cảnh sát phải cất chức Trưởng ty Liên Thành truy tố ra tòa, đòi cắt ngân khoản của lực lượng CSQG ..... Cũng may, Tư lệnh của tôi Đại Tá Nguyễn Khắc Bình, ông là người mà không một ai có thể che dấu sự thật trước mặt được - Hơn nữa, đây là chuyện ông đã nắm vững tường tận. Một người nếu không có khả năng chuyên nghiệp, thì làm sao có thể một lúc kiêm luôn ba chức vụ tối hệ trọng của quốc gia, đó là Tư Lệnh CSQG, Đặc ủy Trưởng Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, và Tổng thư ký Hội đồng An ninh và Tình Báo Quốc Gia. Còn ông Dân biểu là người đã mang tai tiếng nhiều (xin đừng lộn với tiếng tăm), làm sao vu khống tôi trước mặt Đại Tá Nguyễn khắc Bình được. Sau hàng loạt bài báo của ông Dân biểu, tôi sẵn sàng chờ đợi bàn giao để trở về đơn vị tác chiến. Nhưng ngày qua ngày, Huế bình yên và tôi .....cũng bình yên. Tôi sở dĩ không nêu tên vị Dân biểu đó ra đây, vì hiện ông cũng đã lớn tuổi, cũng đang định cư tại nước ngoài, vì tôn trọng tuổi già không muốn gợi lại kỷ niệm buồn giữa ông và tôi. (tôi với ông chỉ là cá nhân, đúng hơn, phải nói giữa ông với đất nước). Hiện tại ông cũng như bao nhiêu người, phải bỏ nước ra đi lưu lạc xứ người, chắc ông cũng đã có nhiều suy nghĩ vì những hành động "nối giáo cho giặc" khi xưa, nếu thật sự ông là người quốc gia chân chính - Nỗi buồn to lớn nhất trong đời của tôi và ngay của ông là nỗi buồn mất nước, mang thân phận lưu vong xứ người cũng đã quá đủ, không cần nhắc thêm nữa. Nhưng cũng phải xin có một kết luận chung : Dù bạn hay thù, dù vô tình hay cố ý, dù vì bất cứ mục đích nào, những kẻ cầm dao đâm sau lưng, bao giờ cũng đáng bị nguyền rủa hơn bất cứ loại người nào khác... *** Trên nguyên tắc, "Chiến dịch Bình Minh" kết thúc vào đúng 3 giờ chiều ngày 22 tháng 5/ 1972. Với kết quả 1500 cơ sở nội ngoại thành bị bắt giữ. Lực lượng CSQG Thừa Thiên Huế đã phá vỡ và đập tan âm mưu Tổng nổi dậy của Vc vào mùa hè đỏ lửa 1972. Thành ủy viên Thành ủy Việt cộng Huế, Hoàng Kim Loan, kẻ cầm đầu cuộc Tổng nổi dậy bị bắt giữ. Riêng 1500 cơ sở Việt cộng bị bắt, đã tức tốc chuyển ra Côn Sơn cô lập tại đó. Sau trận đánh Trị Thiên- Huế, chỉ trong vòng 1 tháng vào cuối tháng 6/1972, 1500 cơ sở Việt cộng này đã được phân loại và tất cả được đưa về BTL/CSQG Sàigon. Một số đã được BTL lập thủ tục truy tố ra tòa, một số khác thành phần nhẹ hơn, được trả về lại cho BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế trả tự do, nhưng đặt trong tình trạng theo dõi. Riêng Hoàng Kim Loan, theo lệnh của BTL Sàigòn, ngày 23 tháng 5/1972, giải giao y vào khối CSĐB/ BTL/CSQG Sàigòn để khai thác thêm những tin tức cần thiết, và sau đó khối CSĐB lại chuyển y qua Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia . Trung tâm thẩm vấn Quốc gia là trung tâm thẩm vấn cao nhất của Chính phủ VNCH, đặt thuộc quyền của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo VNCH. Trung tâm này chỉ thẩm vấn những can phạm Việt cộng, quân sự cũng như dân sự cao cấp và có tầm mức quan trọng trong lãnh vực an ninh quốc gia, trong lãnh vực tình báo chiến lược. Đội ngũ thẩm vấn viên của trung tâm này là những người ưu tú, những tinh hoa của ngành tình báo VNCH, thêm vào đó còn được trang bị những máy móc tối tân nhất của thời đại điện tử lúc đó. *** Sau tháng 4/1975, Hoàng Kim Loan được đưa từ Côn Sơn về Sàigòn, rồi ra Hà Nội, y được Trung ương đảng đón tiếp long trọng, được gắn huy chương, được thăng cấp. Nhưng sau đó, y bị Cục Tình báo giữ lại và đã trải qua một cuộc thẩm vấn, kiểm thảo trong 4 tháng trời, sau đó được trả tự do và phục hồi chức vụ. Hai tháng sau, sau khi tham dự một bữa tiệc do Cục Tình báo khoản đãi, vài giờ sau khi trở về nhà, thì gục chết, với những vết bầm tím do độc dược. Hoàng Kim Loan đã bị cục Tình báo xử tử hình bằng chất độc, vì tội danh phản bội, khi rơi vào tay địch, đã cộng tác với địch, khai báo mọi cơ sở quan trọng của cơ quan. [Tin tức này từ Việt Nam, xin cho phép tôi miễn nêu xuất xứ nguồn tin] Về cá nhân Hoàng Kim Loan, là một người thẩm vấn Hoàng Kim Loan, tôi có những nhận xét như sau: Phải thành thật nhận rằng, Hoàng Kim Loan là một điệp viên thượng thặng, một cán bộ cộïng sản rất giỏi, thông minh, có trí nhớ rất tốt. Y đã hoạt động bí mật gần 15 năm trong lòng địch, mà không bị bại lộ. Sau năm thứ 15, cơ quan tình báo CSQG mới phát giác được, và phải mất 5 năm theo dõi, bám sát, mới bắt được Hoàng Kim Loan. Y đã tổ chức được một mạng lưới tình báo rộng lớn trong thành phố Huế, tuyên truyền lôi kéo một số thành phần trí thức, sinh viên học sinh, giới chức chính quyền VNCH tại Huế theo hàng ngũ cộng sản, xâm nhập sâu, rộng trong hàng ngũ Phật giáo miền Trung từ hạ tầng đến thượng tầng . Ngược lại, tôi vẫn khinh thường Hoàng Kim Loan, vì hắn yếu đuối trong tình cảm, dễ bị cám dỗ, nhất là trong vấn đề sắc dục. Hắn biết tôi gài vụ cô Thu Cúc cho hắn, vậy mà hắn vẫn bị dính vào. Khi tinh thần sa sút, sức khoẻ yếu kém, hắn sẵn sàng cộng tác, những hành động đó thật sự không đúng với thiên chức của một cán bộ tình báo chuyên nghiệp. Về cái chết của Hoàng Kim Loan, theo tôi, nguyên nhân chính đưa đến không phải là vấn đề khai báo và tiết lộ các cơ sở của hắn, của Cục Tình báo Chiến Lược, của Cục Quân Báo, mà nguyên nhân chính vì hắn là nhân chứng của vụ tàn sát đẫm máu đồng bào vô tội tại Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Chính hắn, Tống Hoàng Nguyên, Trưởng ban An ninh Quân khu Trị Thiên, Bảy Lanh trưởng ban An ninh Thành ủy Huế, nhận lệnh thi hành "Bạo lực Cách mạng" từ Lê Chưởng, Chính ủy mặt trận của Bộ tư lệnh Quân Khu Trị Thiên ra lệnh. Sau Mậu Thân, đảng Cộng sản Việt Nam chối tội, không lẽ để cho hắn sống, bởi hắn đã khai báo với chúng tôi những chuyện đó và kết luận rằng chính ông Hồ chí Minh và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra lệnh vụ tàn sát đó. Không một cá nhân, một viên chức cao cấp nào trong Đảng có quyền ra lệnh đó. Sự việc này chắc chắn trong 4 tháng trời hắn bị Cục Tình báo kiểm thảo, thế nào hắn cũng phải tiết lộ những gì hắn đã khai với chúng tôi, đó là nguyên nhân chính, mà Cục Tình báo xử tử hắn bằng chất độc. Đây chỉ là suy nghĩ của cá nhân tôi về nguyên nhân cái chết của Hoàng Kim Loan, không căn cứ và dựa vào một tài liệu nào cả. Tôi kết thúc loạt bài này đúng vào ngày 24 tháng 4 năm 2008. Chỉ còn 6 ngày nữa là 30 tháng 4, tính trọn đúng 33 năm miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản miền Bắc. Nhiều tài liệu, nhiều sách vở đã nói đến những đau thương, nhọc nhằn, tủi hận của 17 triệu dân chúng miền Nam. Kẻ ở lại, người vượt thoát ra nước ngoài, và nhất là gần một triệu Quân, Cán, Chính của Việt Nam Cộng Hoà đã bị Việt cộng trả thù, hành hạ, thủ tiêu, trong các trại tù của cộïng sản Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng với những biến cố xảy ra tại Huế từ 1966 đến 1972 ít được đề cấp đến. Là một người, nếu nói là chứng nhân trong giai đoạn đó tại Huế thì quá lớn lao, điều đó tôi không dám nhận, nhưng ít nhất trong một khoảng thời gian dài từ 1966-1975, thời gian của những xáo trộn chính trị, của những kinh hoàng đẫm máu Mậu Thân, và của cơn biển lửa mùa hè 1972, tôi đã có mặt và trong trách nhiệm của một nhân viên công lực, trách nhiệm của một Phó Trưởng Ty Cảnh sát Đặc biệt Thừa Thiên-Huế, trong biến động miền Trung năm 1966. Phó Trưởng ty CSĐB, kiêm Quận Trưởng quận III Thị xã Huế, trong thời gian biến cố Tết Mậu Thân 1968. Và trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên-Huế trong trận đánh mùa hè đỏ lửa 1972 . Với nhiệm vụ được giao phó : Duy trì luật pháp quốc gia, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào tại Thừa Thiên Huế, tôi đã viết lại những gì đã thấy, đã biết, đã làm, với một tấm chân tình vô tư, tôn trọng sự thật, để mai hậu, có ai muốn tìm hiểu những sự việc đã xảy ra trong giai đoạn đó tại Huế, thì ít nhất họ cũng có được một phần nhỏ nào các dữ kiện đó, với mức độ chính xác có thể chấp nhận được. Tôi quan niệm rằng, là một kẻ đã từng có trách nhiệm trong ba biến cố đã xảy ra tại Huế, đã từng trực diện với những gì đã xảy ra trong thời gian đó, đã thấy tận mắt, nghe tận tai, nếu không nói lên sự thật, đúng sự thật, tôi sẽ là một kẻ có tội đối với những người đã mất, và những người còn sống ngày hôm nay và đời sau. Công bằng và công lý phải được trân trọng trả lại cho những người là nạn nhân của 3 biến cố tại Huế từ 1963-1966. Công lý và công bằng phải được trả lại cho 5327 nạn nhân đã bị ông Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam ra lệnh cho đám sát nhân của họ ra tay giết hại trong Tết Mậu Thân 1968. *** Trong thời gian gần đây bài viết của tôi đã được một số báo chí trích đăng từ Tập san BĐQ, tôi có nhận Email của một người chưa quen, Email nói rằng: '' Liên Thành đã xúc phạm hàng Giáo phẩm Phật giáo''. Thưa người chưa quen, tôi chưa bao giờ và chẳng bao giờ dám xúc phạm đến hàng Giáo Phẩm Phật Giáo. Những ông Đôn Hậu, Trí Quang, Thiện Siêu, Chánh Trực, Như Ý v.v. . . mà tôi đã nêu đích danh trong những loạt bài của tôi là những Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo, lợi dụng Phật giáo, lợi dụng tín đồ, lợi dụng Phật tử, để thực hiện những chỉ thị, những âm mưu của Côïng sản Việt Nam đối với Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và quần chúng Phật tử thời bấy giờ. Họ hoàn toàn phục vụ cho âm mưu thôn tính miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc Việt . Tôi đã nêu đích danh họ, vì họ là đảng viên Cộng sản, vì họ là cơ sở Việt cộng nằm vùng của cơ quan Tình báo Chiến Lược Cộng sản Hà Nội, là cơ sở Tôn Giáo vận của cơ quan Thành ủy Việt cộng Thừa Thiên Huế, của Thành ủy viên Việt cộng Hoàng Kim Loan, vì họ lợi dụng nơi tôn nghiêm thờ phụng, chứa chấp cán bộ cộng sản, chứa chấp súng đạn, chất nổ để tấn công, sát hại dân chúng miền Nam Việt Nam. Những chuyện đó là một sự thật không thể chối cãi, cũng không thể bóp méo. Tôi đã nêu đích danh, vì sự thật đã phơi bày, đã lộ diện trong Tết Mậu Thân, khi ông Đôn Hậu giữ chức Phó chủ tịch Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ, Dân Tộc, Hòa Bình, một tổ chức được thành lập theo chỉ thị của ông Hồ chí Minh và Bộ chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ thị đó đã được Bộ Chính trị gởi cho Trần văn Quang Tư Lệnh Mặt Trận Trị Thiên vào ngày 21/1/1968 trước trận tấn công Mậu Thân tại Huế. Khi Việt Cộng chiếm Huế, lá cờ mà bọn Việt cộng treo trên kỳ đài Ngọ Môn tại Huế vào sáng ngày mồng 2 Tết Mậu Thân không phải là cờ của bọn Mặt trận Giải phóng Miền Nam, mà là cờ của Lực lượng Liên Minh , cờ của tổ chức mà ông Đôn Hậu làm Phó chủ tịch. Gần 10 ngàn quân Cộng sản Bắc Việt, và đám cơ sở Việt cộng phục vụ và nhân danh lá cờ đó trong 26 ngày đau thương tại Huế, bọn chúng đã giết hại biết bao nhiêu thường dân vô tội, người Email có biết không? Tôi nhắc lại : 5327 người bị giết và hơn 1200 mất tích. Tôi nêu đích danh vì ông Đôn Hậu là thành viên Mặt trận Giải Phóng miền Nam 1968. Là ủy viên Hội Đồng Cố vấn Chính phủ lâm thời Cộng Hòa miền Nam vào tháng 6/1968. Là Đại Biểu Quốc Hội khoá VI của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghiõa Việt Nam. Ủy Viên, Đoàn chủ Tịch ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc. Tôi nêu đích danh Thích Thiẹân Siêu vì hắn là đảng viên cộng sản, cơ sở tối quan trọng của Hoàng Kim Loan Thành Ủy viên Việt cộng. Và sau 1975 người Email có biết Thích Thiện Siêu làm gì không? Hắn là Đại Biểu Quốc Hội liên tiếp 3 khóa: Khóa 8, 9 và khoá 10 của Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Năm 1995, Thích Thiện Siêu là thành viên của phái đoàn quốc hội của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với chủ tịch quốc hội là Nông Đức Mạnh [ Bây giờ năm 2008 là Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam] đi thăm một số quốc gia và thăm viếng một số Nghị viện ở Âu Châu. Năm 2000, chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao tặng Huân chương Độc Lập hạng II cho Thích Thiện Siêu. Người Email, nếu còn thắc mắc xin về Việt Nam, về Huế, để phối kiểm lại hàng giáo phẩm Phật giáo của ông. Tôi xin nói lại với ông một lần nữa: Hàng giáo phẩm Phật giáo đó là của ông và của nhà nước cộng sản Việt Nam, chứ không phải của tôi và của đa số Phật giáo đồ chân chính . Tóm lại, tôi nêu đích danh họ vì tôi có đủ bằng chứng, qua tin tức tình báo xâm nhập, qua hồ sơ tài liệu, qua cung từ của các cán bộ Việt cộng mà chúng tôi đã bắt, và qua sự thật đã phơi bày sau năm 1975. Tôi nói cho người Email biết một cách rõ ràng rằng, hàng Giáo Phẩm của tôi là: Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang. Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Là Chú của tôi, Đại lão Hoà Thượng Thích Chơn Trí. Là Anh của tôi, Đại Lão Hoà thượng Thích Chơn Kim...... Và cuối cùng hàng giáo phẩm Phật giáo của tôi và của gần 80 phần trăm các Phật tử, trong 82 triệu đồng bào Việt Nam, là các bậc chân tu trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, họ hiện đang bị đàn áp, tù đày, ngăn cấm không được hành đạo, tu hành tại Việt Nam hiện nay, chứ không phải loại Phật giáo quốc doanh do Ban Tôn Giáo của Mặt trận Tổ quốc của đảng Côïng sản Việt Nam khai sinh và nuôi dưỡng để lũng loạn Phật giáo. Như vậy cũng đã quá đủ, từ nay tôi không còn muốn tranh luận với ông nữa, người Email. Ngoài ra để sau này những ai muốn truy cập thêm những thành phần trí thức, giáo sư, sinh viên tham gia hoạt động trong cả 4 lần biến động tại Huế từ : - 1963 đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm - 1966 tranh đấu của Phật giáo miền Trung - 1968 biến cố Mậu Thân có thêm một số tư liệu, dữ kiện về bọn chúng, tôi xin sắp xếp và phân loại như sau: 1- 1963 những thành phần sinh viên tham dự vào cuộc tranh đấu cùng Phật giáo lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm: - Nguyễn Thiết, sinh viên Luật Khoa, thoát ly năm 1965. Phụ trách thanh niên Thành ủy Huế. Chủ tịch chính quyền cách mạng Quận II trong Mậu Thân, bị bắn chết vào ngày 3 Tết. - Lê Minh Trường, sinh viên Mỹ Thuật, cán bộ thuộc Thành ủy Huế. Năm 1969 bị lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế phục kích bắn chết tại làng Hải Cát Hạ, gần Điện Hòn Chén thuộc Quận Nam Hòa. - Vĩnh Kha, sinh viên Văn Khoa. Chủ tịch Tổng hội Sinh Viên Huế. Trưởng đoàn Sinh Viên Phật Tử. Đã chết năm 1980. - Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài gòn, sau này là giáo sư Việt Văn trường Quốc Học. Thoát ly lên mật khu vào tháng 6 năm 1966. Hiện sống ở Huế và là một nhà văn. - Hoàng Phủ Ngọc Phan, sinh viên Y khoa. Thoát ly lên mật khu tháng 6/1966. hiện là nhà báo. - Nguyễn Đính, sinh viên Văn Khoa. Làm thơ bút hiệu Trần Vàng Sao. Thoát ly năm 1965. Hiện sống ở Vỹ Dạ. - Phạm Thị Xuân Quế, sinh viên Y Khoa. Sau 1975 Chủ tịch Hội phụ nữ Thành phố Huế . - Thái thị Ngọc Dư, sau này du học tại Pháp đậu Tiến sĩ Địa lý học. Giáo sư Đại Học Quốc Gia thành phố hcm Sàigòn. Đã về hưu, hiện sống tại Sàigòn -Trần Anh Tuấn, sinh viên. Du học Mỹ, đậu Tiến sĩ Luật, hiện là Luật sư tại Sàigòn. - Hoàng văn Giàu, Phụ khảo Đại học Văn khoa Huế. Đoàn trưởng đoàn sinh viên Phật tử Huế. Sau 1975 định cư tại Úc Châu. -Thái thị Kim Lan, sinh viên. Du học Đức đậu Tiến sĩ Triết Học. Hiện sống tại Đức. -Tôn Nữ Quỳnh Tư, sinh viên văn khoa, sau du học tại Pháp, đậu Tiến sĩ. - Nguyễn Đắc Xuân, sinh viên Văn Khoa, Đại học Sư Phạm. Tham gia hoạt động vào tháng 3/1963, hiện làm báo tại Sàigòn . 2- Thành phần sinh viên, học sinh tham gia tranh đấu biến động Miềân Trung 1966 : - Đặng văn Sở, sinh viên Đại học Sư Phạm Anh văn. Thoát ly năm 1968 . Hiện ở Đà Nẵng Viẹât Nam - Huỳnh Sơn Trà, sinh viên Y khoa. Thoát ly 1968. Đã chết . - Lê thanh Xuân, sinh viên Luật, thoát ly 1968. Hiện tại là nhà báo, viết cho tờ "Sàigòn Giải Phóng", bút hiệu Hải Nam. - Nguyễn Hữu Ngô, sinh viên Mỹ Thuật, hiện sống ở Huế. Làm nghề vẽ tranh. - Hồ Cư, sinh viên văn khoa, hiện dạy học ở Đà Nẵng - Nguyễn Văn Quang, học sinh, thoát ly năm 1966, hiện là Bí thư Thành ủy Huế. - Trần Hoài, sinh viên Đại học sư phạm Việt Hán, thoát ly năm 1972. Hiện là Thường vụ Thành ủy Huế, chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc thành Phố Huế . - Tôn Thất Kỳ, sinh viên Y Khoa, Chủ tịch mặt Trận Nhân Dân tranh thủ Hòa bình. - Nguyễn Hữu Giao, sinh viên Luật Khoa. Chủ tịch Mặt trận Sinh viên tranh thủ Dân Chủ. - Nguyễn Đắc Xuân, trưởng đoàn sinh viên quyết tử, tổ chức thành 3 Đại Đội, khoảng gần 1 ngàn đoàn viên. Nguyễn Đắc Xuân thoát ly ra mật khu vào tháng 7/1966. 3- Thành Phần sinh viên học sinh tham gia cuộc tàn sát dân lành Huế trong Tết Mậu Thân 1968. - Nguyễn Đắc Xuân, người tổ chức lực lượng Nghĩa binh Cảnh Sát, Nghĩa binh Quân nhân ly khai và các đội Tự Vệ thành. - Nguyễn Đức Thuận, sinh viên Đại học Sư Phạm Anh văn . Thoát ly năm 1968. Tử trận trên đường ra mật khu. - Trần bá Chữ , sinh viên Đại học Sư phạm Toán. Thoát ly 1968. Du học Đông Đức. Hiện phục vụ trong Bộ Quốc phòng quân đội nhân dân ở Hà Nội - Lê Hữu Dũng [con Lê Hũu Tý], sinh viên đại học Sàigòn, ra Huế tham dự trận đánh Mậu Thân. 1968 thoát ly ra Bắc. Sau 1975 làm ở Đài Truyền hình Huế. - Nguyễn thị Đoan Trinh [Con Nguyễn Đoá] thoát ly ra Bắc năm 1968. Học dược tại Hà Nội, sau 1975 hành nghề tại Sàigòn. - Trương Quang Ân, học sinh. Thoát ly ra Bắc năm 1968. Hiện là Giám đốc Đài Truyền hình Huế. - Lê văn Tài, sinh viên Mỹ thuật. Thoát ly 1968, hiện là họa sĩ tại Úc Châu . - Nguyễn văn Mễ, học sinh Đệ nhất C Quốc Học.Thoát ly năm 1968. Chủ tịch Hội đồng Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên năm 2003. - Lê công Cơ, sinh viên Đại học Khoa học. Hiện là chủ tịch ban quản trị đại học Duy Tân Đà Nẵng. - Ngô Yên Thi, sinh viên Văn khoa. Thoát ly năm 1968. Ủy viên Trung ương đảng. Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Hiện là Trưởng ban Tôn Giáo Trung ương. -Bửu Chỉ, sinh viên tranh đấu 1966-1972. Thân sinh là cụ Ưng Thuyên. Cháu nội Ngài Tuy Lý Vương. Bửu Chỉ chết năm 2002 tại Huế. -Trần Phá Nhạc, sinh viên. -Thái Ngọc Sang, sinh viên. -Võ Quê, sinh viên. Cả ba sinh viên này thoát ly ra mật khu vào năm 1972 3- Về thành phần trí thức, giáo sư gồm có: - Tôn Thất Dương Kỵ, theo hồ sơ tại trung tâm Văn Khố BCH/CSQG Thừa Thiên Huế, thì Tôn Thất Dương Kỵ thuộc dòng dõi hậu duệ vị Hoàng tử thứ 13 của vua Gia Long là Từ Sơn Dương. Cư ngụ tại làng Vân Dương, xã Thủy Vân, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. 1945 làm thư ký Hội trí thức cứu quốc Thừa Thiên. 1954 dạy học ở Khải Định [Quốc Học], hoạt động bí mật từ đó. Năm 1962 bị mật vụ Đặc Nhiệm Miền Trung bắt, sau đảo chánh 1963 được trả tự do. Thành phần chủ chốt của phong trào Hoà bình và Tự quyết bị bắt - và sáng ngày 19/3/1965, tại Cầu Hiền Lương trong một buổi lễ do Tướng Nguyễn Chánh Thi chủ tọa, ba nhân vật côïng sản thuộc phong trào Hoà Bình Tự Quyết: Tôn Thất Dương Kỵ, nhà báo Phi Bằng tức Cao Minh Chiến, Bác sĩ Phạm Huyến được thả ra miền Bắc theo ngã đường bộ, qua cầu Hiền Lương vĩ tuyến 17. - Tôn Thất Dương Tiềm, em Dương Kỵ, giáo sư cơ sở thành ủy Việt Cộng Huế. - Kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, cơ sở nội thành . - Giáo sư Lê văn Hảo, con ông Lê Văn Tập. Lê văn Hảo hoạt động chung với Hoàng Phủ Ngọc Tường từ trước năm 1966. Theo tin tức của BCH Cảnh sát Thừa Thiên Huế, thì Lê Văn Hảo trong thời gian đó là người cầm đầu nhóm chủ biên, cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường, của tập san Việt Nam. Việt Nam, in và phát hành ngay tại phòng riêng của Lê văn Hảo. Bọn chúng nghĩ rằng như vậy sẽ được bảo mật kín đáo, nhưng thật ra lực lượng CSQG Thừa Thiên Huế đã nắm vững tất cả nhưng không ra tay, vì cần nuôi dưỡng đi sâu và trèo cao hơn. 1968 Mậu Thân tại Huế, Lê văn Hảo kiêm nhiệm hai chức vụ: - Chủ tịch lực lượng Liên minh Dân chủ, Dân tộc, Hoà bình. - Chủ tịch chính quyền cách mạng Thừa Thiên Huế Lê văn Hảo gần đây qua đài Tiếng nói Tự do Á châu, cũng đã chối không nhúng tay vào vụ tàn sát đồng bào Huế Tết Mậu Thân. Nhưng thật ra y cũng như Tường, Xuân, Phan, bọn chúng tay đều dính máu. Hèn hạ là cả bốn đều chối. Hiện nay Lê văn Hảo đang định cư tại Pháp. Ngoài ra, trong những loạt bài tôi đã viết, mục đích là muốn nói lên những sự thật mà tôi đã biết, nhưng giữ kín bấy lâu nay, thêm vào đó, tôi muốn nhắc đến việc làm âm thầm, ít người biết của Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia toàn quốc nói chung, và của toàn thể hơn 5 ngàn nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế nói riêng, trong những nhiệm vụ mà họ đã được Tổ Quốc và Chính phủ giao phó. Thường thì đồng bào chỉ nhìn thấy nhiệm vụ của người Cảnh sát qua hình ảnh của những nhân viên công lộ điều hành lưu thông ngoài đường phố, qua hình ảnh của những nhân viên công lực, trong những vụ bắt bớ trộm cắp, những kẻ nghiện hút, băng đảng, để duy trì an ninh trật tự, bảo vệ đời sống an lành của đồng bào, đó chỉ là những trách nhiệm bề nổi, thuộc lực lượng Cảnh Sát sắc phục. Bề chìm âm thầm và bí mật ít người biết đến, đó là lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt. Nhiệm vụ họ là xâm nhập vào hàng ngũ địch, thu lượm tin tức, ngăn chận mọi mưu toan của địch nhắm vào sinh mạng và tài sản của đồng bào, nhắm vào phá rối an ninh đô thị, làng xóm ........ Họ là những chuyên viên tình báo chuyên nghiệp, được huấn luyện kỹ càng, chu đáo - Là những chuyên viên tình báo đúng nghĩa, nhiều trường hợp họ nằm trong lòng địch, an ninh cá nhân bị đe dọa, mạng sống nhiều khi như "chỉ mành treo chuông", có hy sinh vì Tổ Quốc, cũng trong âm thầm, bí mật, ít ai biết đến họ. Họ là những chuyên viên xâm nhập vào mọi nơi, mọi hướng, mọi đối tượng, để khám phá kịp thời, trình về BCH của họ, để có biện pháp ngăn chận đúng lúc và hữu hiệu, những vụ gây rối chính trị, bạo loạn, do đám cán bộ côïng sản nằêm vùng giật dây, hoặc do bất kỳ phe nhóm nào chống đối chính phủ thúc đẩy . Tại Huế, từ 1966 đến 1972, ba vụ biến động lớn đã xảy ra liên quan đến an nguy của đất nước, liên quan đến sinh mạng và tài sản của đồng bào, lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của BCH/Thừa Thiên-Huế với gần 2 ngàn nhân viên, đã hoàn thành trách nhiệm ngăn chận và phá vỡ các âm mưu của địch. Đó là biến động Miền Trung 1966, Mậu Thân 1968, và cuộc tổng tấn công của lực lượng quân sự Bắc cộng, song hành với âm mưu tổng nổi dậy tại Huế vào tháng 5/1972. Sau Mậu Thân 1968, toàn bộ cơ sở nội thành Việt cộng, trong đó có những thành phần đã từng nhúng tay vào các vụ tàn sát đồng bào Huế, đã bị lực lượng CSĐB Thừa Thiên bắt giữ, vô hiệu hoá. Mùa hè đỏ lửa 1972, trong cuộc hành quân Bình Minh, lực lượng CSĐB là thành phần nỗ lực chính của cuộc hành quân, họ đã truy bắt gần 1500 cơ sở địch, bắt sống tên Trung tá Việt cộng Hoàng Kim Loan, ngăn chận và phá vỡ cuộc tổng nổi dậy của Việt cộng và cơ sở nội thành Viêt cộng tại Huế. Tại BCH/CSQG Thừa Thiên- Huế, ngoài tôi là Sĩ quan Quân lực VNCH biệt phái, hai thành phần Cảnh sát nổi (sắc phục), và thành phần chìm (CSĐB), đều được chỉ huy bởi những Sĩ quan xuất thân từ Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, họ nắm giữ những chức vụ từ Chỉ huy phó BCH Tỉnh, Phụ Tá Đặc Biệt ngành CSĐB, Trưởng ban, Trưởng phòng, Trung Tâm HQ/Cảnh lực, Phượng Hoàng, v. v. . . Tất cả đều là những Sĩ quan thuộc thế hệ trẻ, trình độâ văn hoá cao, hầu hết nguyên là sinh viên Đại Học Huế, rời bỏ sân trường đại học, xông vào cuộc chiến, chọn ngành CSQG để phục vụ. Họ đã đem hết khả năng, trí thông minh, bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, dâng hiến cho lý tưởng và cho trách nhiệm của họ : Duy trì luật pháp quốc gia, bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào Huế. Họ có quyền nhìn thẳng và hãnh diện với đồng bào Huế về nhiều thành quả mà họ đã làm cho quê hương, cho đồng bào và cho xứ Huế thân yêu của họ . Ngoại trừ Mậu Thân 1968, khả năng bảo vệ đồng bào Huế ngoài tầm tay của họ, trong vòng 9 năm, từ 1966-1975, chưa một lần nào Việt cộng có thể đặt được chất nổ tại bất kỳ nơi đâu trong thành phố, để sát hại đồng bào. Chưa có một cuộc bạo loạn nào mà không bị họ phá vỡ. Họ là: Thiếu tá Trương Văn Vinh, Thiếu tá Trương Công Ân, Thiếu tá Dương Phước Tấn, Thiếu tá Trần Đức Túc, Thiếu tá Nguyễn Văn Ngôn, là Thiếu tá Tôn Thất Trang, Thiếu tá Nguyễn Thế Hiển, cố Thiếu tá Đoàn Đích. Là : Đại úy Phạm Bá Nhạc, Đại úy Lê Văn Phi, Đại úy Trần Văn Tý, Đại Úy Ngô Trọng Thành, Đại úy Trần Văn Trinh, Đại úy Lê Khắc Vấn, Đại úy Huỳnh Văn Thiện, Đại úy Nguyễn Văn Toàn. Đại úy Hoàng Thanh Tùng. Là : Trung úy Nguyễn Thế Thông, Trung úy Hồ Lang, Trung úy Lê Khắc Kỷ, Trung úy Văn Hữu Tuất, Thiếu úy Hoàng Công Sủng, Thiếu úy Nguyễn Thế Quang, Thiếu úy Truật . Là : 2 nữ Đại úy, 1 nữ Thiếu úy và nhiều người khác của Biệt Đội Thiên Nga, Phượng Hoàng . Là hai em ruột của tôi trong lực lượng CSĐB Liên Hướng, Liên Chi, và còn gần 100 Đại úy, Trung úy, Thiếu úy mà tôi không thể nhớ hết tên, cùng hơn 5 ngàn nhân viên CSQG. Thưa anh chị em, Nửa cuộc đời tuổi trẻ của anh chị em đã tận tụy cho lý tưởng Quốc gia, đồng bào, cho quê hương xứ sở, cho Huế. Gần nửa đời sau của tuổi trẻ các anh chị đã bị tù tội, hành hạ, tủi nhục trong các lao tù tàn bạo của cộng sản, rất nhiều đồng đội đã ra đi trong các trại tù cải tạo đó, vĩnh viễn không bao giờ gặp lại nhau. Giờ đây, các anh chị em, những người còn sống sót trong tai ương, đọa đày của kiếp tù tội, chúng ta gặp lại nhau, mái tóc đã điểm màu, tuổi đời còn lại quá ngắn, tại nơi chốn lưu lạc này, nhìn lại quãng đời đã qua, xét lại trách nhiệm và bổn phận của chúng ta, dù muốn dù không, chúng ta phải nhận lỗi là đã không hoàn tất được những trách nhiệm của chúng ta, những người chiến sĩ CSQG Việt Nam Vì vậy, xin anh chị em cùng với tôi tưởng niệm những đồng đội của chúng ta đã Vị Quốc Vong Thân và cùng với tôi hướng về quê mẹ, xin cùng nói với tôi: ''Chúng tôi, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế, xin tạ tội và tạ lỗi với hồn thiêng sông núi, với tiền nhân và với đồng bào Huế : "Nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, chúng tôi đã tận lực, nhưng cũng không thể hoàn tất nhiệm vụ để đồng bào Huế đã bị thảm sát trong biến cố Mậu Thân 1968 và ngày nay đất nước phải điêu linh. Chúng tôi, lực lượng CSQG Thừa Thiên-Huế, xin cúi đầu nhận tội và xin lỗi ". Cuối cùng, xin chép hai câu thơ của Vua Duy Tân, tỏ bày tâm sự của mình trong khi bị Pháp lưu đày tại hải đảo Réunion, gởi đến những chiến sĩ Quân lực VNCH và CSQG, những người đã dâng trọn tuổi trẻ cho quê hương Việt Nam: Tấm thân phiêu dạt quê người Linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà. HẾT
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 18:01:57 GMT 9
NHỮNG KẺ ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN: TRƯỜNG HỢP LÝ CHÁNH TRUNG - PHẦN 1 Lý Chánh Trung, Tố Hữu, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Đình Thi.Nguyễn Văn Lục Trong một bài biên khảo nhan đề: 20 năm giới trí thức miền Nam, tôi đã có dịp đề cập đến trường hợp Lý Chánh Trung.. như một biểu tượng của trí thức thiên tả miền Nam trước 1975. Nhưng nay ông vào tuổi xế chiều mà thời gian còn lại cho ông không còn bao nhiêu nữa. Vinh danh và quyền lực của đảng cộng sản dành cho ông như chức tước cũng đã đến lúc trắng tay. Cuộc sống của ông hiện nay lúc cuối đời xem ra thanh bạch, đạm bạc mà nhiều phần là túng thiếu. Còn nhớ vào những năm tháng ấy, sau 1975- quyền lực trong tay cũng có- vậy mà Lý Chánh Trung cảm động và khoe một cách hãnh diện là vừa có học trò cho một bao gạo. Bao gạo ấy đượm tình nghĩa thầy trò của người miền Nam, nhưng nó tố cáo một cách gián tiếp chế độ bất nhân ấy. Cái còn lại như chứng tích duy nhất của nền Đệ Nhất Cộng Hòa để lại cho ông là căn nhà của ông ở làng đại học Thủ Đức, số 17 đường công lý, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, Sài gòn. Chính nơi đây con cái ông lớn lên, được nuôi dưỡng ăn học và nay là cái mái che mưa nắng cho ông lúc tuổi xế chiều[1] Sự đãi ngộ ấy có thể ông không bao giờ muốn nhìn nhận, có thể ông chỉ coi như một điều đương nhiên là như thế.. Nay được biết ông lại bị bệnh lãng trí nặng, đi lang thang quên cả lối về nhà. Chắc nhiều bạn bè thương cảm và buồn cho ông. Buồn thì đúng rồi. Nhưng với tôi, tôi nghĩ nó lại là cơ may, là nguồn hạnh phúc cho riêng ông. Nếu ông còn trí nhớ, còn biết vui buồn, còn biết phân biệt thị phi nhìn thấy cảnh đất nước như ngày hôm nay- như trường hợp luật sư Lê Hiếu Đằng- thì có khi đến chết ông cũng không nhắm mắt được. Lý Chánh Trung hơn ai hết là một giáo sư triết hiểu sự mất trí nhớ đôi khi lại là là con đường giải thoát cho riêng ông. Mới đây nhất, cậu con trai út Lý Trung Dũng, sinh năm 1970, phóng viên báo Tuổi Trẻ trước đây bị xe ô tô cán, sau nhiều năm chữa trị đã qua đời ngày 22 tháng11-2013. Cuộc sống vắn vỏi ấy kết thúc một cuộc đời-kết thúc cả cuộc đời tuổi trẻ đến phi lý- phải chăng Lý Trung Dũng như một con chiên làm vật hiến tế thay cho bố? Tin chắc là ông buồn vô kể. Như một phần đời của ông không còn nữa. Tôi còn nhớ, đến thăm ông, tiếng kêu của Dũng ở trong nhà vọng ra ngoài phòng khách, ông làm như thản nhiên tiếp tục nói chuyện. Khi buổi chiều ra về, lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn. Trên tay cầm cuốn: Một thời bom đạn, một thời Hòa Bình. [2] Lý Chánh Trung trước 1975, khi viết thường luôn luôn kết án chế độ tư bản bóc lột, đã làm tha hóa con người. Theo ông,con người bị vong thân trở thành những công cụ. Đó là hình ảnh của những con sen, thằng ở, cô vũ nữ, anh bồi, anh tài xế.. những người lao động là nạn nhận nằm trong mối tương quan :ông chủ- thằng ở. Hoàn cảnh ấy so với người trí thức miền Nam trở thành công cụ cho chế độ cộng sản thì có khác gì? Nghĩ tới hoàn cảnh người trí thức miền Nam, miền Bắc- hoàn cảnh của một Lý Chánh Trung hiện nay thì cũng chỉ là một công cụ của chế độ? Nói huỵch tẹt là một thứ nô lệ tệ hơn nô lệ. Bảo sao thì phải nói vậy. Có bao giờ Lý Chánh Trung nghĩ rằng chính ông hiện đang vong thân, tự đánh mất phẩm tính, nhân cách con người, trở thành những con vẹt biết nói? Vì thế, tôi thiết nghĩ cần có một bài viết đầy đủ về ông- như một nhân chứng sáng giá nhất cũng như bi kịch nhất- của một trí thức miền Nam đã tự vong thân cho cộng sản và nếu không nói bây giờ thì còn có dịp nào để nói? Một lần nữa, tôi muốn đi lại hành trình trí thức cũng như những hoạt động thời VNCH và thời sau 1975 của ông. Đó là hai thời kỳ, hai chặng đường của một người trí thức tiêu biểu của miền Nam. Hai thời kỳ ấy, ông đã diễn dịch và phân định bằng hai biểu tượng là: Một Thời đạn bom. Một thời Hòa Bình.[3] Một thời đạn bom được hiểu là một thời oan trái do bom đạn Mỹ gây ra. Và một thời Hòa Bình, thời sau 1975 mà dân chúng được hưởng tự do, an bình, hạnh phúc, ấm no. Thật là mỉa mai quá. Thời bom đạn vì ai nên nỗi. Và thời Hòa Bình, hạnh phúc nơi mô? Hòa bình kiển nào, cho ai sau 1975? Sự phân hai thời kỳ của Lý Chánh Trung đã giản dị hóa đến cùng cực thực tế đau buồn của cả hai thời kỳ. Nó chỉ còn là những tuyên truyền đầy cảm tính. Cuộc chiến được tô vẽ như một bên thật giầu, thật lớn, thật mạnh, một bên thật nghèo, thật nhỏ, thật yếu. Một bên thả bom, một bên hứng bom. Một bên đi giầy, một bên chân không, một bên mập lù, một bên ốm nhách. Một bên cỡi máy bay, một bên chạy bộ…Và cứ thế, trong năm năm trời, không bên nào thắng bên nào.. Và ông có một giấc mơ được huyễn hoặc: Trên đỉnh núi Sọ, trơ vơ một cây thập giá. Trên cây Thập giá, có một người bị đóng đinh đang hấp hối.. Chung quanh người bị đóng đinh vần vũ một bầy kên lông trắng, lông vàng với những cái cánh bao la che kín mặt trời.. Tôi đến dưới chân Thập giá, ngước mắt nhìn lên. Người bị đóng đinh là dân tộc tôi. [4] Đọc những dòng trên, tôi có cảm tưởng Lý Chánh Trung chả thua gì một Tố Hữu ngoài Bắc. Tôi không nói oan cho ông đâu. Những Lê Hiếu Đằng, những ông Hồ Ngọc Nhuận, những Lý Quý Chung cũng đã từng là những con vẹt biết nói tiếng người như thế cả. Trách ai bây giờ? Lý Quý Chung trong một dịp trả lời phỏng vấn của Alain Ruscio nhận xét : "Như phần đông những người bạn tôi ở đây, tôi đã sống nghiệm trải hai chế độ báo chí..Trước đây chúng tôi đã là những người thợ bửa củi, còn bây giờ, chúng tôi là những người thợ mộc. Thái độ đã hoàn toàn khác. Bây giờ chúng tôi lao mình vào việc xây dựng. Bây giờ tôi cảm thấy mình có ích cho xã hội hơn cho Việt Nasm, cho dân tộc tôi, liên hệ gắn bó với dân tộc, trách nhiệm hơn’.[5] Hãy cứ hỏi 700 tờ báo hiện nay ở VN họ là thợ bửa củi hay họ là thợ mộc? Chính vì làm báo kiểu thợ mộc Lý Quý Chung mà khi giáo sư Trần Văn Giàu đến thăm tòa báo Tin Sáng lần đâu tiên đã đưa ra lời nhận xét khen mà mỉa mai như sau : ‘ Các anh làm báo cộng sản Như… Cộng sản Lần sau ông đến khen nhiều hơn : Các anh làm báo cộng sản Hơn.. cộng sản.[6]. Lời khen này nếu hiểu ra thì quả thực Trần Văn Giàu quá hiểu cộng sản cũng như quá hiểu những kẻ nịnh cộng sản. Có nghĩa là các anh nịnh giỏi quá. Vì thế, Hồ Ngọc Nhuận khi viết cuốn Hồi Ký Đời, đã ghi chú thêm : Chuyện về những người tù của tôiNhững người tù ở đây là ai? Là Nguyễn Ngọc Lan, là Lý Chánh Trung, là Lê Hiếu Đằng, là Ngô Công Đức, là Dương Văn Ba, là Nguyễn Hữu Hiệp mặc dầu họ chưa đi tù một ngày nào trong chế độ mới. Nói chung, đọc hết các sách của Lý Chánh Trung như Tìm Về Dân tộc, Tôn Giáo và Dân Tộc, Những Ngày Buồn Nôn. Tôi chỉ thấy những lời nguyền rủa và xưng tụng. Nó thiếu vắng một nụ cười . Để cho việc vẽ lại chân dung và diện mạo cũng như hành trình nhận thức hay hành trạng cuộc đời Lý Chánh Trung được đầy đủ, xin chia bài viết làm hai phần: - Lý Chánh Trung trước 1975- Thời đạn bom - Lý Chánh Trung sau 1975- Thời Hòa Bình .- Cuộc đời Hoạt động của ông trước 1975 Lý Chánh Trung và những người trí thức công giáo Ông đã tự vẽ chân dung của mình là khi từ Bỉ về nước, ông đã về quê ở Vĩnh Bình và dạy cho một trường học là cơ sở của Cách mạng. Một thời gian ngắn sau ông lên Sài Gòn..Năm 1955, ông từ bỏ Vĩnh Bình- quê ông- và gia nhập vào trong nhóm trí thức công giáo Pax Romana với các quý ông như bs Nguyễn Văn Ái, lm Nguyễn Bình An( qua đời rất sớm vì bệnh cancer) bs Nguyễn Văn Thơ, luật sư Nguyễn Văn Huyền, các giáo sư Phạm Thị Tự, Phó Bá Long, Trần Long, các chuyên viên như Lâm Võ Hoàng, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Đoản Thanh Liêm vv Nhóm này đã tổ chức’ Tuần lễ Hội Học công giáo ‘ và và cho ra ‘ Tủ sách Đạo và Đời» Đây là giai đoạn hiền lành và trong sáng nhất của một người trí thức như ông. Nó tiêu biểu cho giới trí thức công giáo thành thị mà phần đông du học ở ngoại quốc về. Sau đó do sáng kiến phần lớn của Nguyễn Đình Đầu để thể hiện tinh thần Công đồng Vatican 2, ông cùng với Nguyễn Văn Trung Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn Trang chủ trương tờ tuần báo Sống Đạo. Trụ sở tờ báo là mượn văn phòng xã hội của linh mục Parrel, trên đường Nguyễn Du, cạnh nhà thờ Đức Bà. Tổ chức tờ báo có hai bộ phận. Bộ phận viết bài chủ lực là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn Trang., Bộ phận phát hành do các anh em trong phong trào Thanh Sinh Công, do anh Phong trách nhiệm đi các giáo xứ. Anh Phong đã ra đi rất sớm khi còn trẻ . Thật đáng tiếc một con người hoạt động xông xáo, lúc nào cũng vui vẻ nhanh nhẹn. Tinh thần của anh Phong là phục vụ-. phục vụ cho xã hội, cho con người- và cũng là vâng theo Chúa của anh. Sau đây, xin trích dẫn vài bài báo của Lý Chánh Trung đã được đăng trên Sống Đạo vào các tháng 7,8,9 năm 1962 như : Thân Phận tôi đòi Ông chủ xe hơi và cô thư ký- Hai giới thanh niên Những gót chân non Các bài viết của Lý Chánh Trung trong thời kỳ này đã có những ám ảnh mà chủ yếu đặt nặng vấn đề Công Bằng Xã hội- một đề tải quen thuộc và được ông khai thác nhiều lần-. Nó phản ánh một phần các tư tưởng xã hội của chủ nghĩa Mác Xít trong đó có các vấn đề Cần Lao, vấn đề Vong Thân, vấn đề Bạo động tranh đấu giai câp, vấn đề Bóc lột giữa chủ và thợ ..vv.. Những ý tưởng then chốt về công bằng xã hội sẽ là những bước mở đường cho Lý Chánh Trung một ngày không xa đến thực sự với cộng sản. Nói như thế chỉ là hoàn cảnh đặc biệt dành cho Lý Chánh Trung thôi.. Những sinh viên nào ngồi trên ghế nhà trường đã bước qua cổng trường của Platon thì không có gì xa lạ với những chủ đề xã hội trên Lý Chánh Trung và Lý Lan Phương, con gái Lý Chánh Đức Tôi còn nhớ, lúc bấy giờ Báo Sống Đạo bán rất chạy, gây được tiếng vang lớn. Ai cũng hăng say tin tưởng từ anh em viết bài chủ lực, đến các sinh viên và đến anh em phụ trách phát báo.. Phản ứng của độc giả thì nhiều- đủ loai khen chê tức giận cũng có, đôi khi cấm bán báo nữa.- Phần Lý Chánh Trung được đề nghị làm chủ bút. Nhưng ông thừa biết, bọn trí thức Bắc Kỳ công giáo làm hết mọi chuyện:-Từ sáng kiến cũng do họ- tổ chức do họ- phương tiện vật chất do họ tự liệu- viết cũng do họ. Nhưng họ vẫn đẩy ông ra làm người đứng đầu.. Sau này cũng thế khi làm các tờ Hành Trình, ông vẫn giữ vai trò chủ bút. Nguyễn Văn Trung vai chủ nhiệm. Việc thì người khác làm, danh xưng thì ông nhận.[7] Và nhóm trí thức này cũng đã tổ chức được một tuần lễ Hội học xã hội dưới nhan đề: Lương tâm công giáo và công bằng xã hội vào năm 1963, do nhóm Trí thức công giáo Sài gòn. Điều hành và tổ chức cũng do tụi công giáo Bắc Kỳ làm hết. Nhưng bài thuyết trình khai mạc cũng dành cái vinh dự đó cho ông..Với sự góp mặt của Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Trần Long, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Mai Văn Lễ, Lm Nguyễn Bình An, Nguyễn Văn Trung. Lý Chánh Trung với bài tham luận khai mạc: Sự phát triển của ý niệm Công Bằng trong lịch sử. Nguyễn Văn Trung là người kết thúc tuần lễ hội thảo với:Trách nhiệm hiện tại của người công giáo. [8] Xin lưu ý là trong tuần lễ Hội thảo này, ban tổ chức đã chỉ mời giới chưc lãnh đạo tôn giáo như TGM Nguyễn Văn Bình, cả Khâm sứ tòa Thánh.. Nhưng đã không mời đại diện chính quyền như ông Trần Kim Tuyến hay Ngô Đình Nhu.. Điều đó muốn nói lên tính cách độc lập của buổi Hội thảo. Và họ củng thừa biết rằng, dù có mời, ông Ngô Đình Nhu cũng không đi dự vì ông không muốn dính dáng vào sinh hoạt của tôn giáo… Giữa ông Diệm, ông Hồ, Lý Chánh Trung chọn ai? Một chọn lựa chính trị? Ông đặc biệt ác cảm với ông Diệm ngay từ lần đầu gặp gỡ khi còn là sinh viên ở Bỉ. Ông kể lại có gặp ông Diệm một lần khi ông nảy đến thăm sinh viên. Ông tỏ ra thất vọng vì ông Diệm thân Mỹ và không am hiểu hết về các vấn đề xã hội. Trong một bài viết, ông còn tỏ ra bất công và miệt thị ông Diệm một cách nặng nề. Mặc dầu khi về Việt Nam, ông cũng đã được trọng dụng hơn ai hết trong guồng máy giáo dục miền Nam. Ông cũng như ông anh ruột Lý Chánh Đức trở thành nhữngcông chức cao cấp trong ngành giáo dục với vị trí giám đốc và Tổng Thư ký bộ giáo dục, rồi giáo sư đại học, có nhà ở khu làng đại học Thủ Đức và đây là những nhận xét đầy miệt thị của ông trước cái chết của ông Diệm: Nhưng từ đó mà cho rằng chế độ ông Diệm là một thời đại hoàng kim và chỉ cần bắt chước ông Diệm là có thể giải quyết những vấn đề đất nước, như một số tay chân bộ hạ của ông đang tuyên bố rùm beng thì thật là lố bịch và vô liêm sỉ. Những người đang hò hét khóc lóc chung quanh cái tên ông Diệm như một bầy quạ trên một xác chết.. Và nếu họ không còn chút tự trọng, xin họ dầu sao cũng thương dùm ông Diệm. Tội nghiệp ông! Tôi ứa nước mắt mà viết câu này, xin họ hiểu cho.[15] Nhưng đối với ông Hồ Chí Minh thì ông tỏ ra cung kính hết mực như trong một bài viết của ông nhan đề:Nói chuyện với người đã khuất, nhân dịp Hồ Chí Minh qua đời.[16] Cho nên tôi không tiếc mà cũng không trách cụ Hồ đã lựa chọn con đường cộng sản. Tôi chỉ khâm phục Cụ đã trung thành tuyệt đối với sự lựa chọn của mình. Tôi không thể đi theo con đường của Cụ, nhưng tôi có thể noi gương Cụ để đi tận cùng con đường của tôi, con đường mà tôi đã lựa chọn trước lương tâm tôi, như Cụ đã làm 50 năm trước. 50 năm trước, với sự thành công của Cách Mạng tháng 10, với nhân cách và tài năng vô song của Lê Nin, với cái bầu khí huynh đệ, chí tình, hăng say và tin tưởng trong một đệ tam Quốc tế vừa thành lập với một điểm tựa vững chắc, chủ nghĩa cộng sản đã hiện ra tước mắt Cụ như là con đường duy nhất để giải phóng/ dân tộc và giải phóng con người… Những đoạn văn viết như thế này, nếu có dịp đọc lại thấy ngượng- ngượng cho cả người viết lẫn người đọc-. Ông viết như thế mà nhiều người không thù oán ông và chính thể của nền Đệ Nhị Công Hòa cũng để ông yên. Ông vẫn được làm đổng lý văn phòng Bộ giáo dục. Đi làm vẫn có tài xế đưa đón. Ông ăn thóc nhà Chu mà chửi nhà Chu. Hoặc ông rập khuôn cái tinh thần : Nắng được lúc nào thì cứ nắng như trong một bài viết của cụ Phan Khôi chăng? Nhưng người cộng sản đọc thì đánh giá ông là người cộng sản không có thẻ đảng. Một lời khen hay một lời cảnh cáo? Thế nhưng, trong cả hai chế độ Đệ Nhất và Đệ Nhị miền Nam, ông đều tạo cho mình một chỗ đứng cao và không phe phái nào oán ghét cả. Và từ chỗ đó, ông là người người miền Nam duy nhất có thể thỏa hiệp, đồng hành với nhiều phía ở ngoài chính quyền. Từ cấp tiến tới khuynh tả rồi cuối cùng tới cộng sản, từ công giáo tới Phật giáo, từ phe cánh miền Nam tới thành phần lực lượng thứ ba thiên tả. Chỗ nào có chống đối là có ông. Lý Chánh Trung- nhà trí thức thiên tả- Hoạt động Cánh tả. “Những Ngày Buồn Nôn” của tác giả Lý Chánh Trung Sau 1963, tình thế xã hội, chính trị,quân sự có nhiều dấu hiệu xấu đi. Tình thế mỗi ngày mỗi bi quan tỏ ra lúng túng, rối loạn, không đường lối, thiếu cả chính nghĩa đến tính hợp pháp. Sự bất tài càng rõ nét nơi các nhà lãnh đạo miền Nam. Họ thay đổi chính phủ như cơm bửa tạo ra một tình thế bất ổn chính trị. Nghĩ là có một khoảng trống chính trị về quyền lực nên một năm thay đổi ba bốn chính quyền. Tâm trạng giới trẻ và giới trí thức rơi vào tinh trạng chán nản và mất tin tưởng hay trăn trở muốn đi tìm một giải pháp cứu nguy miền Nam. Khuynh tả với thành phần thứ ba xuất hiện như một giải pháp của không giải pháp. Kể từ đây, gió đổi chiều. Lý Chánh Trung nổi bật lên như một người trí thức tiêu biểu nhất!!! Trí thức khuynh tả đã ra đời trong hoàn cảnh này và thuộc nhiều dạng, nhiều thành phần, nhiều mức độ. Có loại như Thích Nhất Hạnh, Trí Quang, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh, Thiện Cẩm. Hầu hết thuộc giới tu sĩ công giáo hay Phật giáo. Cái lợi điểm của những vị này là bộ áo nhà tu- mầu nâu hay mầu đen không đáng kể- mặc bộ áo nhà tu như một thứ lá chắn chính trị không ai dám đụng tới họ. Phần lớn chỉ sau 1975, họ mới ló dạng và cho biết họ là ai. Có loại trí thức tham gia tích cực như Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Trần Ngọc Liễng, Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Nguyễn Hữu Hiệp, Trần Hữu Lục, Châu Tâm luân, Ngô Kha, Thế Nguyên ..Họ được coi là trí thức thiên tả và sau tự nhận là trí thức thuộc lực lượng thứ ba (Troisième force) rồi lần lượt ngả theo cộng sản và chịu sự chỉ huy của cộng sản. Ở miền Trung có Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường mà mức độ ngả theo cộng sản cũng khác nhau. Có theo đậm, có theo một cách chừng mực, nửa chân trong chân ngoài. Loại đông nhất chiếm đa số chỉ lên tiếng phản kháng- trí thức thiên tả- mà không hẳn ngả theo cộng sản. Có thể gọi chung là trí thức sa lông chỉ nói mà không dám làm, chỉ viết mà không thực sự dấn thân nhập cuộc. Họ là những trí thức, giáo sư, nhà văn, có cả sĩ quan trong quân đội VNCH. Đứng đầu là Nguyễn Văn Trung rồi kéo theo Trần Bích Lan tức Nguyên sa, Nguyễn Khắc Ngữ, Diễm Châu, Trịnh Viết Đức, Nguyễn Đông Ngạc, Thảo Trường, Nguyễn Tử Lộc, Đỗ Long Vân, Thái Lãng, Thế Uyên. Và nhiều tên tuổi khác viết cho Đất nước, Hành Trình như Nguyễn Quốc Thái, Du Tử Lê, Bùi Khải Nguyên,Trần Văn Toàn. Huỳnh Kim Khánh, Bùi Tiến, Sầm Thương, Thế Phong. Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Tử Quý, Ngô Thế Vinh, Trần Tuấn Nhậm, Võ Hồng Ngự, Nguyễn Quốc Thái, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Thanh Tùng, Chu Vương Miện, Hương Khê, Thái Lãng, Luân Hoán, Trịnh Viết Đức Mặc dầu viết cho Hành Trình, Đất Nước hay Trình Bảy, mặc dầu bầy tỏ thái độ băn khoăn có thể bất mãn, họ vẫn có tư thế độc lập. Nhóm Hành Trình không phải đơn độc. Bên cạnh đó còn có nhiểu nhóm khác như Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, Phong trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận động Hòa Bình, Phong trào Bảo vệ Hòa Bình, Hạnh Phúc dân tộc và cuối cùng là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc. Những phong trào này- dù chỉ là những tên gọi khác nhau- có dấu hiệu cho người ta ngờ vực là con bài của cộng sản như trường hợp Thích Quảng Liên. Bên cạnh đó còn có những phong trào văn nghệ phản kháng, trở về nguồn như Phong trào Du Ca, Tâm Ca, Da vàng ca.. Những phong trào văn nghệ này thực chất có thể chỉ là những khát vọng Tuổi trẻ và không có những vận động chính trị hay sự xâm nhập của cộng sản.. Và vì thế, nó được nhiều giới trẻ hưởng ứng tham gia. Cho nên việc phân định ranh giới rõ rệt các nhóm trí thức khuynh tả không phải là một điều dễ dàng gì. Nhưng nhìn chung, nhóm Hành Trình được coi là nhóm khuynh tả tiêu biểu ..Đa số những người trong nhóm đã ở tuổi trưởng thành, có sự nghiệp vững vàng và họ tham gia với tính cách tự nguyện. Sợi dây nối kết họ lại với nhau chỉ vì họ có một số quan điểm khá tương đồng có thể gói trọn trong một số ý tưởng nòng cốt sau đây : - Chống mọi hình thức can thiệp của Mỹ vào miền Nam. Điều mà có thể thời chính ông Diệm, ông Nhu cũng chủ trương như thế. - Chống lại cuộc chiến tranh đang diễn ra mà theo họ, đó chỉ là một thứ chiến tranh ủy nhiệm. - Gián tiếp chống lại chính quyền miền Nam mà theo họ chỉ là tay sai bản xứ do Mỹ chỉ đạo. - Cổ võ cho một quan điểm Cách Mạng Xã Hội không cộng sản được gọi là đường lối thứ ba. Phải nhìn nhận rằng đa số thành viên chính của tờ Hành Trình đểu là người công giáo, nhưng với chủ điểm và đường lối của họ đã tách rời khỏi đường lối chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng như giáo dân Việt Nam. Nhất là nó đi ngược với đa số người công giáo nói chung. Trên căn bản, những người công giáo đa số thầm lặng này vẫn khẳng định vị thế đối kháng đến một mất một còn với cộng sản.. Nội dung các bài viết nhất là nhóm Đất Nước, Hành Trình thường bầy tỏ nỗi băn khoăn, trăn trở về thời cuộc, về hiện tình đất nước và muốn tìm ra những giải pháp và hướng đi cho mình.. Đó là các bài viết mang tựa đề như: Cùng nhau cảm thức về một nỗi buồn nhược tiểu, Cách mạng của người nghèo,, Độc tài hay dân chủ, Tìm một hướng đi cụ thể cho cuộc cách mạng Việt Nam, Cách mạng và dân chủ, Nhưng chỉ đến đây là điểm chung, điểm dừng lại, điểm rẽ ngoặc giữa Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung.. Họ khác nhau vì thái độ chọn lựa dấn thân, hành động hay không hành động. Lý Chánh Trung cũng như Nguyễn Văn Trung và có thể nhiều người khác như giáo sư Châu Tâm Luân, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, luật sư Trần Ngọc Liễng đều nhận được những bức thư lấy danh nghĩa sinh viên học trò. Trong đó, đại diện cộng sản tìm cách thúc dục đặt vấn đề tranh đấu, dấn thân cụ thể thay vì chỉ sống trong môi trường đại học viết bài. Người thảo ra những bức thư ấy có thể là Trần Bạch Đằng, Phạm Chánh Trực hay Năm Nghị. Sau đó được giao những sinh viên như Trần Thị Lan tiếp xúc các vị trên.. Nhiều người trong số đó đã bị mắc bãy và chính họ – như trường hợp Lý Chánh Trung đã thú nhận.. Lý Chánh Trung viết: Chính anh em sinh viên đã kéo tôi ra khỏi tình trạng bất động ấy bằng lời mời gọi của họ. Sự dũng cảm ấy đập vào tim óc mọi người và bắt mọi người phải suy nghĩ.. Nhất là trong bài viết: Nói chuyện với người học trò, ông ghi lại như sau: Theo con nghĩ, cần phải có một hành động cụ thể, kịp thời, không trí thức và hữu hiệu. Hành động cụ thể, kẻ cạn suy xét mới không ngộ nhận hành vi của thầy là một phản ứng nhát thời của lương tâm trí thức, hay một sự hiện diện tượng trưng, coi cho được với lịch sử.. Thầy chỉ suy tư về những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng của kẻ khác, mà thầy chưa nằm trong những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng đó. Thế đứng của thầy là ở ngoài, ở trên. Thầy cũng đã suy tư về một cuộc cách mạng theo phương cách nào đó cho một lý tưởng công bằng xã hội mà em biết rằng thầy chỉ đứng ngoải cuộc cách mạng lý tưởng đó thôi..[17] Đây là những lời lẽ khích động, đánh đòn tâm não, đánh vào tự ái của người trí thức.. Lý Chánh Trung đã bị kích động và làm theo sự kích động ấy sau nhiều trăn trở.. Và cũng kể từ đây có một Lý Chánh Trung đã lột xác, đã dấn thân, nhập cuộc. Và cũng kể từ đây chia ngã rẽ với những người như Nguyễn Văn Truug. Một bên rời bỏ tháp ngà suy tưởng, một bên tiếp tục con đường suy tư- nhưng ngại dấn thân, ngại nhập cuộc.. Và dần dần kể từ năm 1968, Lý Chánh Trung đã có thể tự coi mình là người của Đảng- đã tiếp xúc với người của Mặt trận- đã được đưa lên vùng mật khu- đã nhận chỉ thị, đã viết theo đường lối của Mặt trận.. Thay vì được điều động vào mật khu, Lý Chánh Trung được khuyến cáo ở lại thành phố, quấy phá bằng ngòi bút, có mặt trong các cuộc biểu tình, xuống đường của giới sinh viên.. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thời bấy giờ cùng lúc phải đối đầu với hai mặt trận. Ngoài Sài gòn, cuộc chiến được giải quyết bằng bom đạn, bằng những trận mưa pháo ban đêm vọng về thành phố ngủ không yên giấc vì những tiếng ì ầm. Binh lính ngày đêm phải đối đâu trực diện với cái chết từng ngày, từng giờ. Trong thành phố là một trận chiến bằng hàng rào kẽm gai, bằng lưu đạn cay và những biểu ngữ, hô hào đủ kiểu.. Và Lý Chánh Trung đứng bên ngoài cổ võ: “Khóc đi con, khóc cho quê hương của con đã rách nát như áo ăn mày, cho những cánh đồng loang lổ vỉ bom đan, xơ xác vì thuốc khai quang, cho những thành phố tanh ôi mùi tinh trùng Mỹ, cứt đái Mỹ, rác rến Mỹ, đô la Mỹ.. Khóc đi con, khóc cho các anh các chị con đang bị giam cầm, đánh đập mà không ai biết vì tội gì, và sắp được đưa ra xử trước một tòa án mà không ai tin”.[18] Có nhiều cách móc nối. Và cộng sản đã móc nối được nhiều người, trên dưới cả trăm người. Tôi không biết ai đã móc nối Lý Chánh Trung mà cứ như những điều ông trình bày thì có thể là học trò. Trường họp Nguyễn Trọng Văn cũng vậy. Riêng Nguyễn Văn Trung thì có ông Thanh Nghị (chồng bà Tâm Vấn) rủ Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đỉnh Đầu, Nguyễn Ngọc Lan vào khu. Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu từ chối tham gia vào sinh hoạt chính trị. Chỉ có Nguyễn Ngọc Lan nhận lời và đã vào khu.. Những việc móc nối này, theo tôi, ngành mật vụ biết hết, nhưng để yên, chỉ theo dõi.. Năm 1968- Tết Mậu Thân là thời điểm quyết dịnh dứt khoát ai theo, ai không theo cộng sản. Có một lằn ranh rõ rệt, lộ mặt và nhiều khi không còn dấu diếm nữa Như Lý Chánh Trung tự thú nhận: Trong những năm đó, nhất là từ sau tết Mạu Thân, tôi đã tham gia hầu hết các phong trào đấu tranh công khai tại thành phố.[19] Ông xác định rõ hơn: Nhưng tôi cũng phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, và nếu không có sự mời mọc, lôi kéo của những người trẻ tuổi, thì rất có thể tôi đã không tham gia đến mức độ ấy. [20] Nhưng những cái chung đó không đủ để nối kết họ làm một.. khi tình thế chuyển biến.. Nguyễn Văn Trung dừng lại ở bình diện nhận thức, phân tích, tra hỏi, bới tìm, chứng minh bằng lý luận. Lý Chánh Trung viết ít chú ý đến mặt lý luận với nhiều độ cảm tính, viết bằng cả tâm tình, khơi dậy, đánh động và nhất là nhập cuộc, tham gia gia vào các cuộc biểu tình, xuống đường.. và ở cuối đường gia nhập tổ chức cộng sản..[21] Rồi đến 1975 thì kết quả một người bị đi tù, một người được trọng vọng, cất nhắc..Nhưng số phận sau cùng dành cho họ ra sao. Đó mới là điều quan trọng. Sắc thái chung của những trí thức thiên tả Đó là một sinh hoạt đứng bên lề trái, đứng để phê phán, đứng để chống lại cái chính thống. Đó là thái độ bất mãn thường trực với cái đang có, cái trật tự hiện có còn dở dang, chưa hoàn chỉnh,-cái chính quyền hiện tại-. Chống bất kể là ai, bất kể là đệ nhất hay đệ nhị cộng hòa, Chống là chống. Hay cũng chống, dở cũng chống, chống một phía. Người cánh tả thường chỉ nhìn thấy những kẽ hở, những điều xấu, điều tiêu cực-quên đi những điều tốt đẹp- đứng về phía thiểu số hay đứng về phía kẻ bị coi là bị áp bức, người nghèo. Hoặc rộng lớn hơn họ đứng lên bênh vực các nước nghèo, nước bị trị, kém mở mang.. Sau này tạm đủ lớn mạnh, ông đã tự nhận mình là thuộc thành phần lực lượng thứ ba.(Troisième Force). Có nghĩa không phải là quốc gia chống Cộng mà cũng không hẳn là cộng sản. Nhiều chỗ trong những bài báo trên Hành Trình, Đất Nước, Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung gọi đó là một thứ Xã Hội chủ nghĩa không cộng sản.. Trong tình thế đất nước chúng ta, lồi hô hào xuông một chủ nghĩa xã hội không cộng sản là một ảo tưởng. Đó là một ước mơ và một đề nghị lơ lửng và còn tin rằng có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản. Chính Lý Chánh Trung sau này cũng phải nhìn nhận rằng: ‘ Lực lượng hay Thành phần thứ ba chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế họ không có một ý thức hệ chính xác nào”.[22] Chính vì mấy chữ này mà ông bị Nguyễn Trọng Văn viết tham luận tố giác ông và Nguyễn Văn Trung sau 1975. Nguyễn Trọng Văn đóng vai một kẻ đấu tố- một phiên bản của những cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất. Hay là phiên bản của vụ Nhân Văn Giai Phẩm? Hiện tượng tố giác này, sau 20 năm sống ở miền Nam, tôi chưa hề bao giờ thấy xẩy ra. Tại sao Nguyễn Trọng Văn vốn cũng là một trí thức miền Nam có hạng, trở thành một tên chỉ điểm, đi tố giác đàn anh. Kẻ đi tố cáo đã tự làm mất bản thân mình trở thành tên đao phủ như Tố Hữu? Trước những lời tố cáo như thế, Lý Chánh Trung giữ thái độ im lặng. Trước 1975, ông nghênh ngang ngậm tẩu, đầy phong cách trí thức, đầy tự tin, tham dự các cuộc mít tinh biểu tỉnh như một thứ lãnh tụ sinh viên. Sau 1975, ông học làm thinh. Và để gỡ tội với chế độ, ông đã điều chỉnh cách nhìn, quay 180 độ, đổi giọng. và đây mới là điều đáng trách, đây mới là điều tủi hổ cho trí thức miền Nam. Thà chạy mẹ ra nước ngoài cho yên. Thà buông súng đầu hàng Hay thà ngồi trong trại Cải Tạo nó bảo trắng thì mình bảo trắng, nó bảo đen thì mình bảo đen.. Ở đây có ai bắt ông chịu nhục phải viết như thế!! Trong một bài phỏng vấn của nhà báo Alain Ruscio, ông nói: Đã từ lâu, tôi vẫn mơ một cuộc cách mạng khoan hòa, đúng mực và khoan nhượng… Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đáp đúng nguyện vọng của tôi.. Chúng tôi đã làm mọi cách để xã hội mới được hình thành với ít đau đớn bao nhiêu hay bấy nhiêu… Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về điều này là một yếu tố quyết định.[23] Ở chỗ bạn bè, chỗ những người quốc gia, ông lý luận rất khéo léo để che đậy, rất thuyết phục. Tôi chỉ đồng hành với họ (cộng sản), nhưng không là đồng chí. Một lối nói ngụy biện chỉ những tay biện luận triết học có tay nghề mới nói được như thế. Bởi vì cũng trong một bài trả lời phỏng vấn Alain Ruscio, ông được coi là dại diện cho thành phần thứ ba, ông lại nói khác. Ông cho rằng: Người ta không thể nào là người yêu nước, yêu hòa bình, hòa hợp dân tộc mà lại đồng thời có thể chống lại cộng sản.[24] Ở đây lại là một lối ngụy biện cao đồng hóa tình tự yêu nước và yêu Đảng vào làm một. Điều này rõ ràng ông học được- không phải từ trường đại học Louvain- mà từ trường Đảng, trường dạy ngụy biện gian dối có đẳng cấp nhất mà tôi thường được nghe từ những nhà trí thức đủ loại ở Hà Nội. Tôi có thể bỏ qua cho ông tất cả những gì ông đã làm, đã nói trước 1975-. Nhưng thật là khó cho tôi không thể dung nhượng được những điều ông nói và làm sau 1975.. Nói cho cùng, cả Lý Chánh Trung, cả Nguyễn Trọng Văn tiêu biểu cho một bi kịch của trí thức miền Nam sau 1975. Có lẽ lời nhận đinh của Nguyễn Văn Trung đáng nhẽ trước tiên phải được dành ưu tiên cho Lý Chánh Trung- người bạn đồng hành của ông- mới phải: Tham gia cách mạng là tham gia vào quá trình tự tiêu diệt chính mình. Ông chọn một thế đứng chênh vênh như thế ở miền Nam trước 1975 cũng có phần nào hiểu được, nhưng nhiều phần đó chỉ là một ảo tưởng, lãng mạn chính trị. Nhiều phần là không thực tế. Nếu không nói là ngây thơ, khờ khạo vì không hiểu được thực tại chính trị. Ngay từ thời sinh viên khi còn học triết học ở Louvain vào thập niên 1950 cùng với nhiều sinh viên khác như Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm vv, ông đã ngả theo khuynh hướng triết học Mác Xít, chống Pháp. Sự ngả theo như thế hầu như là một cái mốt của giới trí thức trẻ. Phảỉ tả phái mới được. Tả khuynh mới được coi là có đầu óc, trí thức. Nó chẳng khác gì cánh trí thức tả của Pháp như A. Camus, Simone de Beauvoir, J.P. Sartre, André Gide hay các nhà báo như Bernard B. Fall, J. Lacouture, Stanley Karnow, Alain Ruscio, David Halberstam, Oriana Fallaci vv.. Và nếu nói theo khoa học bây giờ, người ta tìm thấy trong đầu con người có những loại Genes đặc biệt như Gène de Dieu, có tên khoa học là VMT, gène về đồng tính vv . Người có gène tôn giáo này có những khuynh hướng thần tính, siêu nhiên khó mà cắt nghĩa được. Cái Gène tôn giáo xác định cái căn cước, cái thần linh ngự trị trong cuộc sống của một người.?.[25] Nếu đã có những gènes về tôn giáo và đồng tính thì cũng có thể có những loại Gènes về chống đối, bất mãn và xung đột..Nếu thực sự cũng có những gènes như vậy thì có thể lý giải được nhiều điều về cá tính con người cũng như cách hành xử của những người tả phái. Họ có cái gene bất mãn nên luôn ở thế đối đầu, chống đối. Phải chăng Lý Chánh Trung về phạm vi tâm sinh lý có một não trạng bất mãn thường trực và điều đó làm nên cá tính, nhân cách của ông chăng? Nhưng nói chung, trong số thành phần trí thức thiên tả ngả theo cộng sản thì theo tôi người tiêu biểu về mọi phương diện là Lý Chánh Trung…Tiêu biểu của ông có thể về mặt nhận thức, trí thức, về mặt dấn thân nhập cuộc, tiêu biểu cả về mặt thành thật hoặc không thành thật, tiêu biểu của việc đón chiều gió, tính cơ hội cũng có, khi nào cần phải lên tiếng và khi nào cần biết im lặng. Có thể ông không phải là loại người quá khích, hung hăng sốc nổi. Trái lại điềm tĩnh và cân nhắc mỗi khi phát biểu, đôi khi dè dặt cẩn trọng, có tính toán, cân nhắc… Vì ở thế đối lập, ông luôn tỏ ra thái độ từ bất mãn đến chống đối các chính thể từ Đệ Nhất sang Đệ Nhị Cộng Hòa. Ông luôn có việc để làm, để chống đối mà không bao giờ sợ thất nghiệp. Vậy mà ông đã thất nghiệp sau 1975, vì không có gì để chống đối nữa. Chống độc tài, chống kỳ thị tôn giáo, chống gia đình trị, chống cá nhân ông Diệm, chống chiến tranh, chống Mỹ Ngụy, chống tham nhũng, chống cá nhân ông Thiệu như tay sai Mỹ. Nhưng đó là thứ chống một phía. Không bao giờ dám nhìn nhận sự thật phía cộng sản đang làm gì ? Chống chán rồi đòi. Đòi tự do, tự do báo chí, đòi dân chủ, đòi thả tù nhân chính trị, đòi thả những sinh viên theo cộng cộng sản nằm vùng, ngay cả những đặc công cộng sản. đòi quyền cho phụ nữ.. Chống và đòi. Đó là hai công việc đi đôi với nhau của ông Lý Chánh Trung.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 6, 2014 18:04:20 GMT 9
NHỮNG KẺ ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN: TRƯỜNG HỢP LÝ CHÁNH TRUNG - PHẦN 2 Nguyễn Văn Lục Lý Chánh Trung và nhóm Liên Trường Nhóm Liên Trường còn được gọi là nhóm Phục Hưng miền Nam. Rất có thể là do những người đứng ra khởi đầu như các ông Nguyễn Văn Lộc, Huỳnh Văn Đạo, Lý Quý Phát. Vả sau đó được sự hỗ trợ của các ông Phan Khắc Sửu, nhất là cụ Trần Văn Hương. Theo giáo sư Lưu Trung Khảo thì do gợi ý của tướng Mai Hữu Xuân với tướng Trần Văn Đôn như một điều chỉnh lại tình trạng lép vế của người miền Nam so với người Bắc. Sự phục hưng miền Nam thật ra chỉ là đòi quyền lợi, đòi chia ghế, đòi chức vụ mà đăc biệt xảy ra dưới thời cụ Trần Văn Huong- đặc biệt trong ngành giáo dục. Các trí thức trẻ trong nhóm Liên Trường coi cụ Trần Văn Hương như một mẫu người miền Nam trong sạch, đạo đức, không tỳ vết chính trị. Họ đã ủng hộ cụ trong việc thành lập chính phủ và chỉ thực sự chán nản khi cụ Hương quyết định đứng chung liên danh với ông Nguyễn Văn Thiệu. Vấn đề Liên Trường mặt trái của nó là vấn đề Nam-Bắc. Mà tiền sử của nó có thể từ thời Đàng Trong và Đàng Ngoài, thời Trinh-Nguyễn..kéo dài gần ba thế kỷ. Nó bắt đầu từ sự khoanh vùng địa lý, sở hữu đất đai và bảo vệ sở hữu đó nên phải đụng đến binh đao. Nhưng để biện minh cho một thứ chính nghĩa thì người ta phải vận dụng đến vấn đề lịch sử, luân lý và ngay cả một số huyền thoại, vấn đề chính tà để biện minh cho những tham vọng của cả hai phía. Nhà Nguyễn thống nhất ngôi vua chưa đầy 60 năm chưa đủ thời gian để xóa cào bằng những ranh giới phân biệt địa lý chính trị lịch sử giữa hai miền. Khi ngưới Pháp chiếm Nam Kỳ, họ đã lợi dụng lá bài Nam- Bắc và chỉ 40 chục năm sau, 1940, họ đã đào tạo được những thành phần tay sai bản xứ có trình độ chuyên môn cho một loại trí thức Nam Kỳ tự trị..Thật sự thành phần này chẳng những kỳ thị Nam-Bắc, còn phân biệt giai cấp giàu- nghèo, giai cấp thống trị- bị trị như một thứ người ngoại quốc trên chính quê hương mình. Khi người Pháp ra đi thì không có nghĩa là ảnh hưởng văn hóa Pháp không còn nữa. Nó tạo ra một tồn tích mà nay ta gọi là hiện tượng hậu thuộc địa. Cái chết của Thủ tướng Thinh coi như một lời cảnh cáo cho những ai còn nuối tiếc nó.. Sau 1955, tưởng như vấn đề kỳ thị Nam- Bắc nay nó đã thuộc về lịch sử rồi. Nhưng cuộc di cư 1955 một cách gián tiếp như một cú sốc về văn hóa, xã hội..Cú sốc ấy hiểu được và không tránh khỏi được những đụng chạm phải có.. Ông Diệm có thể là người đã dẹp tan và giải mã được những đợt sóng ngầm ấy. Sau 1963- một thời kỳ nhố nhăng, đầy xáo trộn đã tạo dịp cho những cơ muu chính trị nhó đầu lên. Cái nhen nhúm ấy thật sự chỉ nhằm một thế đứng chính trị chẳng khác gi cái thế đứng dựa vào các tôn giáo lớn như Phật giáo-công giáo. Người làm chính trị muốncó cái thế thì phải đi qua cổng nhà chùa hoặc cổng nhà thờ hoặc tính địa phương.. Nhiều dân biểu đắc cử vì dựa vào cái thế địa phương của mình. Lý Chánh Trung có mặt trong nhóm Liên Trường và được giữ chức Đổng lý văn Phòng bộ giáo dục.. Công việc của ông là dọn dẹp một số chức vụ chỉ huy trong ngành giáo dục và Vụ Học Đường Mới. Việc làm này hết sức đáng trách như những việc sau đây: Thuyên chuyển giáo sư Đàm Xuân Thiều (gốc Bắc) vốn là một nhà giáo gương mẫu, thanh liêm và đạo đức từ Giám Đốc Nha Trung Học đầy lên Ban Mê Thuột. Ông Đặng Trần Thường, cũng bị mất chức giám đốc Nha khảo thí cũng bị đầy lên cao nguyên Giáo sư Trần Ngọc Ninh nói với tôi rằng chính ông là người đề ra Chương trình Học Đường Mới, có tên là CPS nhằm đưa giới trẻ vào các sinh hoạt ngoài phạm vi nhà trường. Có khoảng 30 gíáo sư nằm trong chương trình này. Ông đang đi dự một Hội Nghị Quốc tế về Giáo dục do Unesco tổ chức tại Băng Cốc mà lần đầu tiên Nga tham dự. Khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất- do áp lực của nhóm Liên Trường áp lực ông Nguyễn Cao Kỳ- buộc giáo sư Trần Ngọc Ninh phải từ chức. Họ đã thay thế Tổng trưởng giáo dục bằng một người khác là ông Nguyễn Văn Trường. Ông Trần Ngọc Ninh sau đó lẳng lặng rút lui. Và những người thay thế là Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung đã xóa sạch toàn bộ các chương trình ấy. Hiệu trưởng các trường trung học gốc Bắc như Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục bị thay thế thế bằng người miền Nam.. Trường hợp ông Lâm Phi Điểu- một người bạn tâm giao của ông Võ Long Triều được điều về làm Hiệu trưởng Hồ Ngọc Cẩn.. Chẳng may ông này bị tai biến mạch máu não phải ngồi xe lăn. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ chức Hiệu trưởng nên các giấy tờ công văn, tùy phái phải đến nhà ông để ông duyệt xét ký. Một số hơn 20 giáo sư trung học nằm trong chương trình Học Đường Mới bị trả về nhiệm sở cũ..như các quý ông Lê Đình Điểu, Hà Tường Cát, Phạm Phú Minh, Đỗ Quý Toàn, Trần Đại Lộc, Phan Văn Phùng… Chính tôi đã hỏi thẳng ông Lý Chánh Trung về việc thuyên chuyển này, nhưng ông chối quanh và không nhận trách nhiệm do chính tay ông ký Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển Nhìn lại việc này, tôi vẫn cảm thấy bực bội về thái độ và cách hành xử của giáo sư Lý Chánh Trung và bao nhiêu những cảm tình tốt dành cho ông từ những năm làm báo Sống Đạo tan ra mây khói.. Những việc tranh đấu, những điều ông viết trở thành những dấu hỏi về tính lương thiện trí thức có hay không?[27] Từ đó nó cũng đặt câu hỏi phải chăng ông là người có tính xu thời, thứ chủ nghĩa cơ hội, gió chiều nào ngả theo chiều đó.Tôi thật sự không dám dấn sâu hơn những suy nghĩ của mình về vấn đề này.. Cũng may là bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, một người cũng miền Nam- một tổng trưởng liêm chính- sau đó thay thế ông Nguyển Văn Trường đã không đồng ý các việc giáng chức, bổ nhiệm có tính cách trừng phạt ấy. Lý Chánh Trung với các sinh viên tranh đấu theo cộng sản Việc từ bỏ tháp ngà của một giáo sư đại học văn khoa cũng như một công chức cấp cao của ngành giáo dục và quyết định dấn thân sát cánh với nhóm sinh viên tranh đấu thân cộng sản là một bước ngoặt trong cuộc đời sinh hoạt chính trị của ông.. Những băn khoăn, thắc mắc của tôi là tại sao ông chọn lựa thái độ dấn thân ấy? Tôi đã thăm dò nơi một hai người bạn thân của ông..Nhưng kết quả không là bao nhiêu… Tôi cũng không bằng lòng với những bài viết như thú nhận tại sao ông đã nhập cuộc và theo cộng sản vì lý tưởng cộng sản un đúc từ thời sinh viên, vì nghĩ rằng nó có tính cách trang điểm cho những việc làm của ông sau này.trước Đảng..Bài viết của ông nhan đề: Làm Và Tin viết như một thứ Trả Bài làm tôi nghi ngờ tính lương thiện trí thức ở trong đó, bởi vì nó được nhắc nhở đến ngay từ hồi còn sinh viên mà Lý Chánh Trung đã có niềm xác tín như thế với Đảng cộng sản Ông đã viết như sau: Lúc còn bên Pháp trong những năm 1950, tôi đã nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng trên toàn thế giới như nó đã thắng tại nước Nga, tại các nước Đông Âu và tại Trung Quốc, như nó đã thắng tại Việt Nam, không những vì đó là hướng đi của lịch sử mà còn vì đảng cộng sản là một tổ chức hữu hiệu nhất đã xuất hiện trong lịch sử từ trước đến nay. Riêng tại Việt Nam, hiệu năng ấy còn tăng lên gấp bội vì ở đây, Đảng cộng sản đã lãnh đạo từ đầu cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc và đã thu hút được sự ủng hộ của mọi tầng lớp và mọi giới đồng bào. Tuy không phải là người cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghỉa cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi chon rằng chỉ chủ nghĩa cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước. Những tin tưởng hoàn toàn nơi thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản như tin một sự thật khoa học, bất kể những điều kiện khách quan có thể biến đổi ra sao, thì thú thật là tôi chưa tin nổi[28] Tôi đi tìm một lối giải thích khác và tôi nghỉ là nó chính xác hơn.. Ông đã chạy theo những đám thanh niên thiên tả mà một số là cộng sản nằm vùng. Đặc biệt nhất là sinh viên Y khoa Huỳnh Tấn Mẫm. Đối với tôi thì sinh viên này trước 1975 là thứ phá hoại- một thứ phá làng phá xóm do cộng sản giật giây. Giá trị của anh ta là ở chỗ ấy.. Sau 1975, không dùng được vào việc gì cùng lắm dùng làm cảnh.. Từ đó đến nay, gần 40 năm, anh sinh viên nay mang thân phận dư thừa. Không có chỗ đứng. Có dịp đọc lại hết những hoạt động của Thành Đoàn TNCS của thành phố Hồ Chí Minh mới chính thức được thành lập năm 1966, tôi thấy hết được bối cảnh chính trị miền Nam trong những năm tháng cuối cùng.. Chúng ta biết rằng có một cuộc chiến tranh trực diện, cuộc chiến tranh ở ngoài Sài gòn bằng bom đạn, bằng trực thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng đô la để đổi lấy những xác chết- và cũng có một cuộc chiến bằng súng cối, bằng hầm chông, bằng ám sát, thủ tiêu và cuối cùng bằng xe tăng đại pháo với những xác người bị phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch. Nhưng có một cuộc chiến tranh thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực, xuống đường, bằng hô hào đả đảo, bằng lựu đạn cay và nước mắt và bằng những hàng rào kẽm gai Cuộc chiến cân não này ít ai nói tới vì không thể đếm những xác người. Nó cũng không có biên giơi rõ rệt, trộn lẫn Ta và Địch, vì Địch cũng có thể là ta. Cuộc chiến trên đường phố ở Sài Gòn diễn ra ở hai mặt: - Mặt nổi là những cuộc biểu dương lưc lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình, xuống đường, đòi cái này, cái kia, ngay cả việc đòi thả những cán bộ cộng sản như Vũ Hạnh, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Lý Chánh Trung đã có mặt trong nhữ cuộc biểu dương này và ông đã viết như sau trong Một thời đạn bom, một thời Hòa Binh: ‘ Tôi đã đến đây tham dự buổi tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu học tại tỏa Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòa. Trong lúc mấy anh em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn xuống..[29] Thế nào là trái phép? Bắt giam một anh cộng sản nằm vùng là trái phép? Đã không ai đặt ra câu hỏi này cả..Và sau 1975, Đã bao nhiều người đã vào tù một cách oan khuất, đã có lần nào, Lý Chánh Trung dám lên tiếng một lần’? - Mặt thứ hai của cuộc chiến tranh đang diễn ra tại thành phố Sài Gòn là công tác được chỉ huy của các đồng chí như Nguễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng, Phạm Phương Thảo với vô số tên tuổi như Nguyễn Đông Thức,Hồ Dũng, Anh Ngọc, Lê Văn Nuôi, Hàng Chức Nguyên, Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Phạm Chánh Trực. Và với nhiều bí danh như Tám Lượng, Hai Nghị, Út Thu, Mười Hương, Ba Hoàng, Tư Kiên, Mười Hải, Mười Dũng,, Ba Liễu, Tư Thanhvv.. Đã có hằng trăm tên như thế. Công việc của họ là ám sát các nhân vật có uy tín của miền Nam như giáo sư Nguyễn Văn Bông, ký giả Từ Chung, báo Chính Luận, chủ bút Chu Tử, hai giáo sư Y khoa là giáo sư Lê Minh Trí, giáo sư Trần Anh và sinh viên Lê khắc Sinh Nhật.. Những công tác của các tổ ám sát này sau được phép kể lại công khai trên báo chí như một thứ giải trí hay một thứ thành tích giết người đang được tự hào. Sau nữa là việc đốt xe Mỹ xảy ra ở nhiều nơi.. Để hỗ trợ cho việc đốt xe Mỹ này, tờ Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung đưa ra một bản tin như sau : Phong trảo đốt xe Mỹ càng ngày càng vang dội vả được mở rộng, thu hút được nhiều tần lớp nhân dân tham gia. Ở Thủ Đức, vào lúc 10 giờ sáng ngày 10 tháng19 năm 1971,đồng bào đã tự động phóng hỏa đốt một xe Đại Hàn. Hành động này, đồng bào Thủ Đức nói là hỗ trợ cho chiến dịch đốt xe Mỹ của Ủy Ban đòi Quyền sống đồng bào tổ chức nhằm trả thù cho đồng bào Bình Thạnh và các tỉnh miền Trung bị lính Đại Hàn giở trò man rợ’.[30] Cũng tờ Tin Sáng số ra ngày 21 tháng 10 nam8n 1971 với hàng tít lớn : Từ tờ mờ sáng 20-10, sinh viên học sinh mở cuộc săn đốt xe Mỹ trong khu vực tam giác sắt Trần Quốc Toản- Cao Thắng-Kiều Công Hai… Việc đốt xe Mỹ này là do những tổ trinh sát thi hành. Tờ báo Tin Sang đã tuyên truyền bịp bợm đổ cho đồng bào một cách vô tội vạ. Ngày nay, họ còn tỏ ra hãnh diện và công khai hóa những vụ ám sát này như một thứ thành tích đáng được biểu dương.. Một tờ báo như Tin Sáng thế mà không ai nghĩ đến việc đóng cửa và bỏ tù bọn họ. Với hai mặt trận như thế mà chúng ta đành thua người cộng sản. Linh mục Nguyễn Huy Lịch Tôi muốn thêm về vụ linh mục này. Gốc gác gia đình cha Lịch thuộc loại trí thức cấp tiến, thiên tả ở Hà Nội. Bố là luật sư , chống Pháp nên ngả theo phía bên kia. Sau khi cha Lịch thi đỗ tú tài có ngỏ ý xin đi tu và đã bị ông bố tức giận bợp tai vì muốn cha học làm luật sư. Rồi cuối cùng cũng chiều theo con. Cha Lịch sau đó sang Pháp du học. Năm 1954, bố mẹ cha chọn ở lại Hà Nội cùng với một người em gái tên Khanh. Năm 1955, thay vì về Hà Nội với gia đình, cha chọn vào miền Nam. Về làm Tuyên úy sinh viên công giáo Câu Lạc Bộ Phục Hưng, số 43 Nguyễn Thông. Nói đến cha Lịch, một số đông sinh viên công giào cũng như không công giáo đều có một thái độ trân trọng, kính mến cha vì tinh thần cởi mở và hòa hợp- không phân biệt tôn giáo- xu hướng chính trị. Danh sách khỏang 500 sinh viên đã từng ở đây xin kể một vài người : Nguyễn Đức Quý, Hoàng Ngọc Tuệ, Bùi Thế Cần, Ngô Khắc Tỉnh, Đoàn Thanh Liêm, Bửu Sao, Trần Ngọc Báu, Tô Lai Chánh, Đặng Tiến, Cao Huy Thuần, Vĩnh Linh, Pham Đăng Long Cơ, Đỗ Phan Hạnh( Chủ tịch Hội cựu hoc sinh Chu Văn An)[33] Nói chung, người ta nhận ra phong cách trí thức nơi cách diễn đạt- dù bằng những ngôn từ dễ hiểu- pha chút khôi hài tế nhị sự tôn trọng cá nhân cũng như sự tôn trọng ý kiến khác biệt, tạo được bầu khí ôn hòa chấp nhận người khác. Phong cách đạo đức hẳn cũng có. Tuy nhiên có thể cha thiếu một phong cách chính trị nào đó. Tôi rất không vui khi nhìn hình ảnh lm Nguyễn Huy Lịch đang leo cái thang để lên trần nhà để xem chỗ lm bề trên Trần Đình Thủ-một cụ già 80 tuổi đang ẩn nấp ở trên đó. Cái hình ảnh ấy không đẹp tý nào cả. Nó tố cáo một sự hăng say quá mẫn của một linh mục. Vai trò linh mục không ở chỗ ấy. Cũng chẳng phải vai trò như đứng về phía kẻ cầm quyền đi bắt một kẻ gian vốn là đồng đạo, vốn là người anh em của mình. Hình ảnh linh mục Nguyễn Huy Lịch leo thang lên chỗ trú ẩn của cha Trần Đình Thủ mà nhiều người không mấy quan tâm, Nhưng nó lại bộc lộ rõ cái bản chất, cái hoạt cảnh trơ trẽn của đám linh mục trí thức tiến bộ thời ấy. Nó cho người ta thấy rằng có một sự thỏa hiệp đồng lõa giữa những thành phần thiểu số tiến bộ trong công giáo với chính quyền cộng sản.. Trong khi đa số giáo dân, đa số linh mục tu sĩ sống thấm lặng, chịu đựng, giữ phẩm cách và không hùa theo đám giáo sĩ và trí thức tiến bộ mà cái hèn, cái thiển cận, cái óc cơ hội xu thời, cái theo đuôi kẻ mạnh, kẻ chiến thắng mà trước đây nhiều người vẫn coi là kẻ thù nguy hiểm nhất. Họ trở cờ và họ muối mặt hãnh diện về sự trở cờ ấy. Nói nặng thì họ là những kẻ phản bội. Thời xưa, chỉ có một Juda. Nay thì có khá nhiều. Juda Lý Chánh Trung, Juda Trương Bá Cầnnvv.. đếm không xuể.. Họ không khác gì những người đánh trống và thổi kèn cho chế độ mới. Chúng ta cùng nhau đọc lại mấy tin tức thời ấy : Tờ Sài Gòn Giả Phóng, số 117 đưa tin : Đã phá vỡ một ổ phản cách mạng, đội lốt tôn giáo Tờ Tin sáng của nhóm Ngô Công Đức- Hồ Ngọc Nhuận Lý Chánh Trung, số 161 thì kết án mạnh bạo hơn đã đưa tin: Những bằng cớ tịch thu được của bọn phản cách mạng chứng tỏ bọn họ muốn phá bỏ những thành quả của nhân dân ta trong suốt 100 nay. Để tỏ ra khách quan, chính quyền mới đã mời ba người đại diện Thiên Chúa giáo trong vụ vây bắt này là các ông : Huỳnh Hữu Đặng, Nguyễn Đình Đầu và lm Nguyễn Huy Lịch đến chứng kiến vụ vây bắt những người đang cố thủ trong nhà thờ. Một lần nữa linh mục Nguyễn Huy Lịch và đám Tin Sáng với Ngô Công Đức Lý Chành Trung trở thành những kẻ tay sai, đồng lõa.. Riêng vụ án Vinh Sơn thì người ở ngoài giáo hội lại đề cập tới nhiều.. Mới đây nhất, Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc có nhắc tóm tăt đến vụ Vinh Sơn như sau : “Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng ba người khác bị bắt». Huy Đức chỉ căn cứ vào tài liệu của chính quyền cộng sản, sự thực sự việc xảy ra như thế nào? Những người bị bắt trong vụ Vinh Sơn như hai vị linh mục, nhất là Nguyễn Xuân Hùng tự Ali- Hùng bị giam chung với cánh nhà văn cũng bị giam tù thời đó. Vì thế, có đến ba bài ký ức viết về anh lính Ali-Hùng như bà Nhã Ca. Nhất là bài viết của Nguyễn Thụy Long : Ký ức về tiếng hát người tử tù. . Và Duyên Anh, trong Nhà Tù, chương 18. Xin ghi lại một trích đoạn của nhà văn Nguyễn Thụy Long, người chứng kiến những giờ phút chót của người tù tử tội Ali Hùng : Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên : Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.. : Chúng tôi đã mất Sài Gòn thật rồi..[34] Chúng tôi lưu ý đến vụ án này là vì theo một nhân chứng rất quan trong là ông Trần Kim Định, bị án tù chung thân viết lại cho biêt: Trên xe về trại, Ali Hùng nói với tôi: « Em thật không ngờ ông cha Lịch lại nhẫn tâm làm chứng gian cho em. Từ việc bắn chết tên Rạng đến việc dùng loa phát thanh đề do Dũng làm..» Tòa án đã cố tìm chứng cớ để cho đủ bản án tử hình» ( Trần Kim Định, Hồi ký của Trung tá Trần Kim Định). Phần tôi thì tin vào lời trối trăng của Ali Hùng. Linh mục thì không còn nữa Phải chăng Lý Chánh Trung hoặc Nguyễn Đình Đầu có thể viết lại chuyện này? (Tôi cũng mong nếu Trung Tá Trần Kim Định có đọc phần này thì xin cho tôi được có cơ hội đọc cuốn Hồi ký của ông). Bộ trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh và con trai Lý Chánh Trung Lý Tiến Dũng: Nói láo Nhắc đến các con ông, tôi nhớ là trong một lúc vui miệng, ông kể câu chuyện có lần ông Lê Đức Anh đến thăm một đon vị quân đội có nói gì đó đụng chạm đến cá nhân Lý Chánh Trung. Không ngờ con trai Lý Chánh Trung cũng có mặt bữa đó-. Lý Tiến Dũng, một đại úy mới về từ chiến trường Cam Pu Chia đã có mặt.. Muốn hiểu đầu đuôi thì cần phải nhắc lại, khi còn làm đại biệu Quốc Hội, Lý Chánh Trung có đề nghị phải cho báo chí tư nhân hoạt động.. Lời đề nghị đó đi quá xa và làm Nguyễn Văn Linh nổi giận. Bà Ngô Bá Thành- một thành viên của mặt trận củng hùa theo phê phán Lý Chánh Trung dữ dội.. Tiếp theo, Lý Chánh Trung nguyên là Phó chủ tịch Hội Trí thức yêu nước nên có đồng ý để cho tổ chức một buổi nói chuyện cho nhà văn Dương Thu Hương nói về cuốn tiểu thuyết đang gây tranh cãi hồi đó nhan đề : Những Thiên đường mù.. Rõ ràng là một cuốn sách chống Đảng . Từ đó, Lý Chánh Trung không được Mặt trận Tổ Quốc đề cử vào danh sách đại biểu Quốc Hội nữa. Dư luận còn cho rằng, lợi dụng tình hình ở Đông Âu sụp đổ, một số thành phần thuộc lực lượng thứ ba trước đây nay đang có mưu đồ diễn tiến Hòa Bình.. Lê Đức Anh lợi dụng dịp nảy đưa ra trường họp Lý Chánh Trung để mọi cấp cảnh giác. Nhưng chẳng may có mặt con trai của ông ngồi đó. Nó tức khí đứng lên, đập bàn hét lớn: " Nói láo», rồi vội dời khỏi Hội trường,. Sau này, anh ra khỏi quân đội và làm Tổng Biên Tập tờ Đại Đoàn kết. Nó tức khí vì có kẻ đụng chạm đến bố nói- bất kể kẻ đó là ai-, nó buột miệng đứng lên chỉ thẳng mặt Lê Đức Anh: nói láo. Câu chuyện rồi cũng xong, được Lê Đức Anh bỏ qua. Giả dụ nếu không phải là con trai Lý Chánh Trung thì số phận viên đại úy quèn này sẽ ra sao? Kể xong câu chuyện, Lý Chánh Trung cười một cách rất con người-một Lý Chánh Trung là Lý Chánh Trung - Tôi cũng cười nói : Như thế là nó giống bố nó..Tôi cảm nhận và bắt gặp lại cái cười nửa miệng hơn 40 năm về trước của một trí thức miền Nam- với cá tính miền Nam- với phong cách trí thứ áo vét, măng tô- với cái miệng ngậm ống tẩu- đôi chút cao ngạo cùng nhau dạo buổi tối trên một con dốc của Viện Đại Học Đà Lạt. ôi ngậm ngùi đã có một thời, cuộc sống của người miền Nam có thể sống an bình hạnh phúc như thế. Con người trí thức xưa ấy và con người ngày hôm nay ngồi trước măt tôi, hình như không phải một người. Sau vài giây phút thoải mái, Lý Chánh Trung trở lại con người thay vì khoác măng tô mang từ Bỉ về, ông khoác lại chiếc áo Mác Xít và nói : - Này nói chơi thôi nhé, đừng kể cho ai nghe và về bên ấy nhớ đừng viết gì cả Lý Chánh Trung bỏ đạo Chúa theo Mác Điều đáng trách nhất nơi ông- mà điều gì khác cũng có thể xí xóa được- là khi cộng sản vào một thời gian, trước mặt nhiều người, ông tuyên bố công khai kể từ nay, ông bỏ đạo công giáo..Việc công khai hóa ấy ông muốn chứng tỏ cho mọi người biết mà không cần giấu diếm.. Việc công bố này làm bỉ mặt nhiều người..Có ai bắt ông phải làm một điều như vậy? Và được biết, chỉ đến khi con trai ông bị nạn. Ông than thở, cầu cứu khắp nơi và cuối cùng chẳng còn biết trông cậy vào ai, ông mới hồi tâm trở lại. Tuy nhiên, theo tôi được biết thì hiện nay kể như cả gia đình ông đều ra khỏi công giáo.. Khi con trai ông qua đời, không thấy đả động gì đến các nghi thức công giáo cả? Thôi thì cũng đành. Sau 1975, ông đã sống khuôn mình vào môi trường CNXH vốn không dễ gì. Bởi vì, con người Xã Hội chủ nghĩa, ngoài sức khỏe thể xác và tinh thần còn có một thứ sức khỏe không thiếu được: Đó là Sức khỏe chính trị. Mất cái sức khỏe này thì mất tất cả nên ai cũng phải lo giữ gìn. Cho nên, người ta không lấy làm lạ gì khi cấp lãnh đạo Đảng vào thăm thành phố Saigòn năm 1975 đã chỉ đưa ra một nhận xét duy nhất cho một người- một nhận xét xem ra quá khổ về LCT: Lý Chánh Trung là một người cộng sản không có thẻ đảng..Lời khen này có thể là một lời khen thật- vì ông được đề nghị cho vô Quốc Hội mà cũng có thể hàm ý anh vừa vừa thôi nhé, đủ dose rồi..như một lời đe dọa bóng gió. Lời nói bóng gió ấy chắc có kẻ sợ giữ mình. Tôi đã không được biết phản ứng và câu trả lời của Lý Chánh Trung ra sao. Chắc là im lặng. Nguyễn Văn Trung- Lý Chánh Trung đối đấu với Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn Thư của Lý Chánh Trung viết ngày 7/4/1988. Ảnh: Dân Trí Cho đến bây giờ, khi nhắc lại vụ phê bình của Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn(có thêm một người nữa là ông Nguyễn Văn Bảy) về hai người đàn anh của họ là Nguyễn Văn Trung- Lý Chánh Trung, tôi không còn mang nỗi bực tức nữa như trước đây. Mà hiểu răng, điều đó nó phải xảy ra như thế trong một xã hội cộng sản, trong đó nghười ta nghi ngờ nhau, tố cáo nhau, triệt hạ nhau. Và nếu trong tay có quyền thế họ có thể hạ bệ, cách chức và cả thanh trừng nữa.. Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã làm theo đúng sách vở- và nhiều phần làm theo lệnh Đảng hoặc làm để lấy điểm.. Cho nên, tôi sẽ không đề cập đến vấn đề nội dung phê bình đúng sai.. Những nạn nhân như ông Lý Chánh Trung thì nay không còn biết gì nữa. Nguyễn Văn Trung thì từ lâu đã gác mọi chuyện và để ngoài tai cả mười năm nay.. rồi Phần Lữ Phương thì cũng đã thấm đòn, thất vọng ngay từ sau 1975 đã không được trọng dụng và ở thế ngồi chơi xơi nước. Sau đó xoay ra ngồi nghiên cứu phê bình chủ nghĩa Mác Xít-mà tự nó chủ nghĩa này đã lỗi thời- nên cũng chẳng ai quan tâm và chẳng gây đuợc tiếng vang gì. Nguyễn Trọng Văn thì giọng phê bình như đao búa, gần như mạt sát nẩy lửa. Đó cũng là cái tài của anh ta. Chẳng bao lâu sau, lấy điểm cũng không xong, anh ta bị Đảng cấm cầm bút.. Sau đó thì anh ta bị tai biến mạch máu não, phải ngồi xe lăn. Và qua đời cách đây được hơn một năm. Cuộc đời Nguyễn Trọng Văn có cái may là cả hai đời vợ đều tốt nết. Người vợ đầu tôi thấy chị ấy thật là hiền thục. Ít nói, hỏi gì chị chỉ cười nhẹ. Người vợ thứ hai nhanh nhẹn, xinh xắn, hết lòng chăm sóc lo cho NTV từng miếng cơm.. Còn ngoài ra, con người Nguyễn Trọng Văn, ngay từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường đại học, tôi đã nhận ra tính bá đạo dựa trên những suy luận biện chứng. Trong một bữa ăn tụ họp anh em bạn bè cũ cùng học sau 1975 khi tôi có dịp về thăm VN. Một người bạn đã chỉ thẳng mặt Nguyễn Trọng Văn tố cáo Văn đã làm chỉ điểm hại bạn bè.. Những chuyện nghi ngờ như thế, khó kiểm chứng, khó biết thật là đúng hay sai như chuyện làm ăng ten trong các trại cải tạo. Tôi đã đứng lên can thiệp và yêu cầu anh bạn ngồi xuống để bữa ăn họp mặt được trọn vẹn. Phần Nguyễn Trọng Văn ngồi im lặng, không phản ứng gì trong suốt bữa ăn.. Cảnh đó, nghĩ lại nay cũng thấy tội nghiệp. Bạn bè nghi kỵ, trở thành thù địch. Đàn em tố cáo, hại đàn anh..Những điều như thế chỉ có thể xảy ra trong Xã Hội cộng sản. Tôi còn nhớ, khi Nguyễn Trong Văn ra tòa xin ly dị với bà vợ người Tàu lai, làm nghề châm cứu.. Nguyễn Trọng Văn đã tố cáo vợ trước tòa đại loại như sau: Đây là một người đàn bà bất xứng, phản bội lại tổ quốc vì đã vươt biển. Vậy thưa quý tòa, người đàn bà này có còn xứng đáng có quyền để nuôi giữ đưa con trai của tôi Không? Quan tòa nghe vậy thí đành quyết định trao đứa con trai cho Nguyễn Trọng Văn.. Nghe chuyện này, anh em bạn bè đều ngao ngán.. Riêng Nguyễn Ngọc Lan (linh mục hoàn tục)- một cây viết phê bình sắc sảo và khá thâm độc cũng phải lắc đầu: Thật chịu thầy thôi. Hai bài tham luận của Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn cùng một chủ đề. · Bài của Nguyễn Văn Bảy nhan đề: Phê Bình quan điểm Cách Mạng Xã Hội không cộng sản của hai ông Nguyễn Văn Trung trong Nhận Định !V, Nam Sơn, tháng 5- 1966 và của Lý Chánh Trung, trong Cách mạng và Đạo Đức, Nam Sơn, thang1-1966 · Bài của Lữ Phương nhan đề » Vài ý kiến về các xu hướng gọi là ‘Cách mạng Xã Hội không cộng sản“, ở miền Nam trước đây - Bài của Nguyễn Trọng Văn nhan đề: Chủ nghĩa Xã hội không cộng sản tại miền Nam Việt Nam- Nội dung và ảnh hưởng-. (tham luận của Nguyễn Trọng Văn, tại Đại học Tổng Hợp, cơ sở hai, TP Hồ Chí Minh) Hiện tượng tố giác này, sau 20 năm sống ở miền Nam, tôi chưa hề bao giờ thấy xẩy ra. Tại sao, Nguyễn Trọng Văn vốn cũng là một trí thức miền Nam có hạng, trở thành một tên chỉ điểm, đi tố giác đàn anh. Kẻ đi tố cáo đã tự làm mất bản thân mình trở thành tên đao phủ như Tố Hữu? Trước những lời tố cáo như thế, Lý Chánh Trung thay vì ngậm tẩu, im lặng và để làm đẹp lòng chế độ mới, ông đã điều chỉnh, đổi giọng như sau trong một bài phỏng vấn của nhà báo Alain Ruscio, ông nói: Đã từ lâu, tôi vẫn mơ một cuộc cách mạng khoan hòa, đúng mực và khoan nhượng… Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đáp đúng nguyện vọng của tôi.. Chúng tôi đã làm mọi cách để xã hội mới được hình thành với ít đau đớn bao nhiêu hay bấy nhiêu… Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về điều này là một yếu tố quyết định. Ở chỗ bạn bè, chỗ những người quốc gia, ông lý luận rất khéo léo để che đậy, rất thuyết phục. Tôi chỉ đồng hành với họ (cộng sản), nhưng không là đồng chí. Một lối nói ngụy biện chỉ những tay biện luận triết học có tay nghề mới nói được như thế. Bởi vì cũng trong một bài trả lời phỏng vấn Alain Ruscio, ông được coi là dại diện cho thành phần thứ ba, ông lại nói khác. Ông cho rằng: Người ta không thể nào là người yêu nước, yêu hòa bình, hòa hợp dân tộc mà lại đồng thời có thể chống lại cộng sản. Ở đây lại là một lối ngụy biện cao đồng hóa tình tự yêu nước và yêu Đảng vào làm một. Nói cho cùng, cả Lý Chánh Trung, cả Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương tiêu biểu cho một bi kịch của trí thức miền Nam sau 1975. Lý Chánh Trung ra Hà Nội Chiếm xong Sàigòn chưa được bao lâu thì chính quyền cộng sản chuẩn bị đưa một số những vị tiêu biểu có công với Cách Mạng được ra Bắc để mừng Quốc Khánh 2-9. Đã hẳn sự tuyển chọn là có cân nhắc và những người nằm trong danh sách được mời thì cảm thấy đây là một vinh dự hiếm có mà không khỏi hãnh diện lắm. Những khuôn mặt tranh đấu quen thuộc của miền Nam trước 1975 nay có dịp ra gặp gỡ các cấp lãnh đạo miền Bắc trong tinh thân trên dưới một nhà. Trong số họ, người ta thấy có các vị tu sĩ mà tên tuổi quen thuộc như Hòa Thượng Thích Trí Thủ, linh mục Chân Tín, lm Nguyễn Huy Lịch, hòa thượng Thích Hiển Pháp, hòa thượng Thích Minh Nguyệt, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, Ni sư Huỳnh Liên, nữ nghệ sĩ Kim Cương, nhà văn Vũ Hạnh, giáo sư Lý Chánh Trung, bà Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng, ông Nguyễn Văn Hạnh, ông Hồ Ngọc Nhuận, ông Lê Hiếu Đằng, Không có Thích Trí Quang đâu nhé!!Nên ghi nhận sự thiếu vắng có ý nghĩa này Tôi nhớ không lầm thì có cả linh mục Chân Tín nữa. Ông là Ủy viên Ủy Ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam đồng thời còn là Phó Chủ tịch Mặt Trận Thành Phố..một thời gian.. Chắc hẳn chức tước với ông chả là cái gì- chỉ là bánh vẽ- sau chuyến đi này, về Sài Gòn ít lâu, ông bị tước sạch vì tờ báo Đứng Dạy.. với bài của Nguyễn Ngọc Lan với bài nhan đề: Hà Nội tôi thế đó. Hà Nội tôi thế đó là thế nào? Các anh định chửi xỏ xiên Hà Nội chúng tôi đây. Ra lệnh dẹp Đứng Dậy. Gặp người quen, ông nói to: Tôi được giải phóng rồi..Chẳng bao lâu sau, ông được đi »nghỉ mát »ở Cần Giờ. Nhắc lại thôi thì tiệc lớn, tiệc nhỏ.. tình nghĩa ôm hôn thắm thiết. Riêng ông Lê Hiếu Đằng thì đã có một bài văn tả đầy đủ với những cái hôn thắm thiết, những bàn tay siết chặt tưởng như không muốn rời ra.. Tất cả tạo nên một bầu không khí thắm đượm tình tình nghĩa đồng bào, đồng chí. Tôi được biết sau chuyến đi thì mọi người đều phải có một bài báo cáo về chuyến đi khi trở về Sài gòn..một lần ở rạp Rex cũ do Ủy Ban Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng khu Saigòn Gia Định tổ chức và một buổi nữa ở Đại Học. Theo Lý Chánh Trung kể cho tôi nghe thì phái đoàn trong Nam ra đi đến đâu cũng được dân chúng túa ra đón tiếp nồng hậu. Ông được đi tham quan xã Như Quỳnh, cách Hà Nội 20 cây số, trên đường đi Hải Phòng, thuộc tỉnh Hưng Yên cũ. Ở đây, ông bị một chị trong Hợp Tác Xã hỏi đột ngột hỏt: Có phải ông là giáo sư Lý Chánh Trung không? · Thưa phải · Thế thì hân hạnh được gặp giáo sư vì tôi đã có đọc bài của giáo sư viết trước đây.. · Lý Chánh Trung chắc là phải ngỡ ngàng thôi. Khi về lại Hà Nội, cũng một lần cả đoàn đang đi thì có một thanh niên chạy vội lại hỏi to: · Trong đoàn ai là giáo sư Lý Chánh Trung cho tôi gặp mặt. · Lý Chánh Trung lại tách ra khỏi đoàn trả lời: Tôi đây, tôi là Lý Chánh Trung đây. · Thưa giáo sư tôi kính phục giáo sư vì trước đây có được đọc bài của giáo sư.. Ông nhận xét, ngoài Bắc, dù có chiến tranh, nhưng trình độ văn hóa miền Bắc kể là cao hơn miền Nam nhiều lắm. Một người dân thường mà cũng có thể đọc bài viết của Lý Chánh Trung từ trong Nam gửi ra. Nghe chuyện này của Lý Chánh Trung, tôi chỉ cười. Vậy mà tôi được biết có lần Võ Văn Kiệt nhận xét cán bộ của ta biết đọc biết viết đã là may. Mấy ngưỡi đã có cơ hội đọc: Thép đã thôi tôi thế đấy,, Rừng thẳm tuyết dày.. Lý Chánh Trung hãnh diện là phải, vì thế cộng sản mới thắng được đế quốc Mỹ. Lý Chánh Trung và về một môn học mà thầy không muốn dạy và trò không muốn học. Tôi đang ở Munich tại nhà một người bạn vào năm 1988 thì được cho biết là có một bài báo đang gây sôi nổi lắm ở Việt Nam của Lý Chánh Trung. Bài báo được đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, 13-11- 1988. Thú thật đây là bài báo gây sảng khoái, thích thú nhất trong số cả trăm bài khác của ông Lý Chánh Trung mà tôi đã đọc. Phải như thế mới là Lý Chánh Trung. Ông viết thật xuất phát từ tim gan, viết gọn ngắn, rất thẳng thừng. Dù ngắn gọn cũng là ấp ủ một hoài bão muốn xóa bỏ môn học chết tiệt đó. Hơn ai hết, một người thấm nhuần tư tưởng văn học, triết học từ phương Tây làm sao chịu thấu những đinh đề cứng nhắc của triết học Mác Xít? Một nền giáo dục xứng đáng, nhân bản đôi khi chỉ cần là biết trở về nguồn, trở về nguồn cõi đích thực mà cha ông bao đời đã để lại. Người ta đã biến một lý thuyết xã hội thành phương châm, thánh một thứ luân lý chính trị làm kiểu mẫu đạo đức cho giáo dục Việt Nam, cho con người Việt Nam cho thế hệ trẻ Việt Nam. Giáo dục Việt Nam ngày nay nó hỏng từ đó, đục ruỗng từ đó.. Tưởng rằng sau đó nó sẽ được thay đổi!! Cái môn học ấy mà Lý Chánh Trung cho rằng nó làm khổ thầy giáo, làm khổ học trò từ bao nhiêu năm rồi! Không muốn dậy mà cứ phải dậy, không muốn học mà cứ phải học. Học như vẹt- Nay mới có một người dám nói lên sự thật. Bài báo gây chấn động, gây thích thú cho mọi người.. Ông Đoàn Thanh Liêm có kể lại rằng, có một nhân sĩ sau khi đọc xong bài này đã nhờ ông Liêm gửi tặng ông Lý Chánh Trung một món tiền. Phần tôi nghĩ rằng câu nói của Lý Chánh Trung sẽ mãi mãi được người đời ghi nhớ chẳng khác gì câu nói của ông Nguyễn Văn Thiệu. Buồn thay vào ngày 22-12-2004, Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra hai phương án cho các trường đại học áp dụng kỳ thi tốt nghiệp phải có môn học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 27, 2014 11:00:22 GMT 9
Mặt thật hàng tướng Dương Văn Minh 3198490776_4597e4ec3c_o3 Mỗi lần 30 tháng 4 đến, người Việt tỵ nạn lại nhắc đến Dương Văn Minh và gọi ông là “Hàng Tướng”. Nhưng hành tung và vai trò của ông trong cuộc chiến VN vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra và có một vài tranh luận xung quanh hàng tướng này.
Hôm đám tang Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, cựu dân biểu VNCH, có đọc một bài điếu văn, nói rằng “Đây là cái chết lần thứ nhì của một người lính suốt đời lo cho đất nước”. Tuy nhiên, qua bài điếu văn đó, người ta nhận thấy Nguyễn Hữu Chung muốn mượn cái chết của Tướng Dương Văn Minh để nói về mình hơn là nói về Tướng Minh. Đó là cái bệnh trầm kha của nhiều “lãnh tụ” quốc gia. Hôm 30 tháng tư vừa qua, nhân kỹ niệm 30 năm mất miền Nam, Đại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, có viết bài “Tưởng Niệm Big Minh, Một Vòng Hoa Cho Niên Trưởng”, nhưng nội dung bài này cũng chỉ để nói lên tình “huynh đệ chi binh” mà thôi.
Website của Giao Điểm, [một diễn đàn chống "Giatô" và kêu gọi Phật giáo Ấn Quang "hồi tà", trở về với Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh,] đã phổ biến bài “Cái chết của một Hàng Tướng: Dương Văn Minh (1916-2001)” của Vũ Ngự Chiêu, tức Chánh Đạo, tức Nguyên Vũ, nói là trích trong “Ngàn Năm Soi Mặt, tâm bút”, để bênh vực cho Tướng Dương Văn Minh. Trong nỗ lực bôi đen “Giatô”, Vũ ngư. Chiêu viết rằng ông Lâm Lễ Trinh đã “làm án tử hình Ba Cụt hầu chuẩn bị bước lên chức Bộ trưởng Nội vụ – một bản án tiêu biểu cho chế độ giáo phiệt của anh em ông Diệm” (tr. 137), mặc dù Ba Cụt đã chịu đầu hàng. Ở cuối bài, Vũ Ngự Chiêu đã kết kuận như sau: “Hậu thế sẽ có dịp thẩm giá Tướng Minh một cách trung thực hơn. Vì Tướng Minh, giống như ông Trần Văn Hương, chỉ là những tác nhân phụ thuộc, ở buổi “hết quan, tàn quân.” Nhóm Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, v.. v… mới là những tội nhân chính của lịch sử.” Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh.
Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ. Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.
* Vài nét về Tướng Big Minh
Dương Văn Minh sinh ngày 16.2.1916 tại Vĩnh Long (có tài liệu nói sinh tại Mỹ Tho). Sỡ dĩ ông có biệt danh là Big Minh vì cao 6 feet và nặng 200 pounds, và được gọi như thế để khỏi lẫn lộn với Tướng Trần Văn Minh.
Ông có vợ và ba con: hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm hiện ở Pháp, và người con gái là Dương Mai, có chồng là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, hiện ở Pasadena, California.
Lúc nhỏ ông theo học trường Chasseloup Laubat ở Saigon và đỗ tú tài II vào năm 1938 cùng một lớp với Tướng Trần Văn Đôn. Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bi. Thủ Dầu Một với cấp bậc Aspirant tức là Chuẩn Úy. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Caps Jacques (Vũng Tàu) và bi. Nhật cầm tù. Khi Pháp trở lại, ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp năm 1946 với cấp bậc Thiếu Úy.
Năm 1952 ông mang cấp bậc Đại Úy và phục vụ tại Phủ Thủ Hiến Nam Phần. Từ Năm 1953 – 1954, ông được thăng Thiếu Tá rồi Trung Tá và phục vụ tại Tổng Tham Mưu Quân Khu 1. Năm 1954 – 1955 ông là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Saigon.
Dương Văn Minh là cháu của Nguyễn Ngọc Thợ Khi ông Diệm về chấp chánh, ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đã đề cư? Dương Văn Minh chỉ huy huy lực lượng bảo vệ Saigon. Ngày 3.5.1955, Dương Văn Minh được thăng Đại Tá và giữ chức Quân Trấn Trưởng Saigon.
dvmvanguyenngocthoDương Văn Minh Nguyễn Ngọc Thơ
Người đầu tiên đã giúp ông Diệm chống lại các giáo phái không phải là Đại Tá Dương Văn Minh mà Đại Tá Dương Văn Đức. Ngày 5.6.1955, Đại Tá Đức được cử chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam Phần. Ông cho quân tiến chiếm Cái Vồn (Cần Thơ), phá tan đại bản doanh của Tướng Trần Văn Soái. Ngày 29.6.1955 ông tiến vào núi Ba Chúc, tấn công lực lượng của Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt.
Ngày 21.9.1955, với tư cách Quân Trấn Trưởng Saigon, Đại Tá Dương Văn Minh được cử làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Diệu, mở cuộc hành quân truy kích tàn quân Bình Xuyên tại Rừng Sát. Trung tá Nguyễn Khánh làm Chỉ Huy Phó và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh làm Tham Mưu Trưởng.. Sau khi Chiến Dịch Hoàng Diệu chấm dứt, ngày 6.11.1955, ông Diệm cho tổ chức biểu tình hoan hô các chiến sĩ Rừng Sát trở về. Đại Tá Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng. (Có tài liệu nói Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng ngày 23.10.1955).
Trong thời gian ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần, nhưng ông vẫn thoát được. Để đối lại, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông xin xử dụng Tướng Dương Văn Minh vào công tác này. Vì thế, ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và cho Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này.
Do đó, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn.
Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đô? Dương Văn Minh, Tướng Đức đã đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy bớp tai trước mặt mọi người!
Mặc dầu Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cư? Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây. Ngày 13.4.1955 Tướng Ba Cụt đã bị bắt ở Chắc Cá Đao, cách Long Xuyên 15 cây số và bi. Tòa Án Quân Sự tuyên án tử hình. Sáng 13.7.1956, lúc 5 giờ 40 sáng, Tướng Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa địa ở đường Hoa Bình, Cần Thợ
Trong cuộc phỏng ván ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y, lúc đó là Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, cho biết sau khi xử bắn và chôn Ba Cụt xong, Nguyễn Văn Nhung có về gặp ông và cho ông biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho anh ta đào xác Ba Cụt lên đem đi thiêu rồi lấy tro rải xuống sông Cửu Long, để tay chân bộ hạ của Ba Cụt không lấy xác ông ta đem về lập đền thờ. Nhưng có nhân chứng khác cho biết Nguyễn Văn Nhung đã đào xác Ba Cụt lên, văm nhỏ rồi bỏ vào bao bố đem rải xuống sông chứ không hề thiêu.
Trong cuốn hồi ký “VN máu lửa quê hương tôi” Đỗ Mậu phịa rằng “vì ông Diệm nhiều lần dụ dỗ Lê Quang Vinh theo đạo Thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Saigon và sẽ được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng.” (trang 124).
Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Ông Diệm lại cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 29.8.1956 ông Diệm cử Tướng Minh làm Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng, chỉ huy Phân Khu Saigon.Chợ Lớn và tiếp tục chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định miền Tây. Ngày 30.10.1956, chiến dịch này kết thúc với kết quả 441 bị tử trận, 948 về quy thuận, 1169 bị bắt và hơn 1.000 súng bị tịch thụ
Ngày 1.2.1957 Dương Văn Minh được thăng Trung Tướng và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Chức Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng được trao lại cho Tướng Dương Văn Đức mới đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Mỹ về. (Khi Tướng Đức xin đi Pháp, chức này lại được trao cho Tướng Nguyễn Khánh). Tướng Minh cũng được gởi qua Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại ỤS. Command and General Staff College ở Fort Leavenworth thuộc bang Kansas.
Đầu năm 1960, cơ quan tình báo khám phá ra Tướng Dương Văn Minh đã liên lạc với Hà Nội qua người em là Thiếu Tá VC Dương Văn Nhựt, nên Tướng Minh không được tin dùng nữa (chúng tôi sẽ tường thuật sau). Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cư? Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới từ Hoa Kỳ về làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát Tướng Minh. Cuối năm 1962 Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Vùng I, được cử làm Tư Lệnh Lục Quân, một chức vụ mới đặt để thay thế Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
minhmap
Lúc đầu, Tướng Harking tỏ vẽ bất bình về chuyện Tướng Minh bị hạ tầng công tác. Ông ta nghĩ rằng ông Diệm sơ. Tướng Minh làm đảo chánh nên đã hành động như vậy. Nhưng sau khi biết được Tướng Minh có liên lạc với VC, cơ quan CIA cũng đồng ý về biện pháp này.
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên khi muốn lật đổ ông Diệm, CIA quyết định xử dụng Tướng Minh. Nhưng sau đó chỉ cho Tướng Minh làm Quốc Trưởng 3 tháng.
Ngày 30.1.1964, theo sự sắp xếp của CIA, Tướng Nguyễn Khánh làm “chỉnh lý” xúc các tướng đảo chánh và biến Dương Văn Minh thành Quốc Trưởng bù nhìn.
Ngày 24.10.1964, Nguyễn Khánh đưa ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc Trưởng thay Dương Văn Minh. Ngày 24.11.1964, ông Sửu thăng cho cả Nguyễn Khánh lẫn Dương Văn Minh lên Đại Tướng. Ngày 20.12.1964, Nguyễn Khánh bắt Dương Văn Minh đi lưu vong, làm Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. Mãi đến năm 1968, khi ông Trần Văn Hương lên làm Thủ Tướng, Dương Văn Minh mới được trở về VN. Ông đã đến Saigon ngày 5.10.1968.
Sau đây là một số bí ẩn chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh.
VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG
Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại: Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]
Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.
Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.
Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]
Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”
CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG
Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén. Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10., Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh. Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?” Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.
Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy.
Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.
Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau: “Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam – được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. Bài báo viết thêm: “Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”
BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ
dvm1963 Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.
1.- Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm. Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ. Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.mission-accomplished
Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh: – Tại sao hai ông ấy chết? Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3] 200px-diem_dead
“Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) ” DVM
2.- Giết ông Ngô Đình Cẩn Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn. Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”
dvm03 Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!
BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG
Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”
dvm02 Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ
Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.
Frank Snepp cho biết thêm:
“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]
Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.
Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.
Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.
Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.
Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại, lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:
“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống…”
Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.
Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]
Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt. surrender_letter_of_duong_van_minh
“Văn Kiện” Đầu hàng
Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền… Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.
duongvanminh2
Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.
duongvanminhdaiphatthanh1
Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!
duongvanminh31 Quyết định trả tự do tại dinh Độc Lập tối 2/5/1975.
Ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Binh… được trả tự do. Quyết định trả tự do của Ủy ban quân quản được thông báo tại buổi lễ trang trọng và thân mật tại hội trường dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Tại buổi lễ này, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn – Gia Định Cao Đăng Chiếm đã phát biểu với một chất giọng miền Nam trầm ấm:
“…Nhân dân Việt Nam chúng ta đã trải qua cuộc đấu tranh anh dũng và khốc liệt, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để giành thắng lợi vĩ đại và vô cùng to lớn từ xưa đến nay.
Thi hành chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chính phủ mong rằng trong tình hình mới chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực xây dựng lại Tổ quốc của chúng ta, làm cho nhân dân chúng ta giàu mạnh, Tổ quốc của chúng ta hùng cường. Do đó, chúng tôi mong rằng mỗi người VN chúng ta đều tùy theo khả năng của mình, góp công sức vào việc xây dựng Tổ quốc của chúng ta. Bữa nay, thi hành lệnh của cấp trên, các anh được tự do về với gia đình. Chúng tôi sẽ tổ chức đưa các anh về đến nơi đến chốn…”. (Trích băng ghi âm)
Đáp lại, ông Dương Văn Minh nói ngắn gọn thế này:“ …Ngày hôm nay, đại diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. (Trích băng ghi âm)Mọi người được về với gia đình ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị tổng thống 48 giờ nói:- Thôi, giã từ quá khứ chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.(Theo Tuổi Trẻ)
NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:
“Thi,
“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.
“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra…”
Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.
Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:
Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:
(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.
(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.
Thứ hai là ngố:
Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:
(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.
(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!
Thứ ba là hèn:
(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!
(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:
- Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.
Tổng Thống Minh trả lời:
- Các em chuẩn bị bàn giao đi.
Thiếu Tá Tài hỏi lại:
- Có phải là đầu hàng không?
Tổng Thống Minh trả lời:
- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.
Thiếu Tá Tài nói:
- Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?”
Tổng Thống Minh trả lời:
- Tùy ý các anh em.
Nói xong cúp máy!
(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò… Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.
Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây. dvm04 Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.
Lữ Giang 29.4.2009
Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383.
[5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 8:22:34 GMT 9
Cựu Cảnh Sát Trưởng Liên Thành nhắn ông Võ Văn Ái và Trần Đình Minh: "Kiện đi! Đừng nói nhiều!" 6/04/2013 Thưa quý vị, Như quý vị đã biết, tuần vừa qua cựu Cảnh Sát Trưởng Liên Thành, Thừa Thiên Huế, đã gởi hai bức thư đặt câu hỏi với bà Chủ tịch Lippy Liu và ông Giám đốc ban Việt ngữ Nguyễn Khanh, ban quản trị đài RFA, về việc dường như đang có sự vi phạm nguyên tắc truyền thông trung lập của cộng tác viên RFA Faulkner Ỷ Lan, người đã được đích thân ông Thích Quảng Độ giao giữ chức Tổng ủy viên Quốc tế vận của tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Trong suốt nhiều năm qua, bà Faulkner đã dùng tư cách cộng tác viên của đài RFA để đánh bóng quá đáng về ông Thích Quảng Độ và tổ chức. Hành động này đi ngược lại quy định về nguyên tắc đạo đức của RFA cũng như nguyên tắc truyền thông trung lập của một cơ quan hoạt động từ nguồn tài trợ của chính phủ Mỹ. Hành động của cộng tác viên Faulkner Ỷ Lan đã làm có thể gây hậu quả: Hướng dẫn dư luận sai lạc và tạo sự ngộ nhận cho dân biểu nghị sĩ, cũng như đánh bóng để tôn sùng thần tượng "đấu tranh chống cộng sản" cho Thích Quảng Độ và tổ chức mà thực ra là họ đang làm lợi cho cộng sản. Thí dụ như ý đồ lấp liếm những việc hiện tại Thích Quảng Độ và phe nhóm đang làm là tiếp tục luồn lách sâu vào hệ thống chùa chiền tại hải ngoại để tuyên truyền bôi nhọ và sỉ nhục VNCH, điển hình đã xảy ra ngay tại chùa Điều Ngự nam Cali, mà chúng tôi đã nhiều lần đưa ra chứng cớ. Hơn hết là ý đồ tẩy xóa lịch sự bằng việc phủi sạch tội ác bạo động chống lại VNCH "đến giọt máu và hơi thở cuối cùng", đẩy miền Nam vào tay cộng sản của tổ chức GHPGVNTN mà chúng tôi cũng đã nhiều lần đưa ra chứng cớ. Hôm nay chúng tôi vừa nhận được bản copy bài viết đề ngày 4.6.13 của ông phát ngôn nhân Võ Văn Ái, mang danh xưng Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Bài viết này mang tựa đề "Huynh trưởng Trần Đình Minh tiến hành thủ tục pháp lý truy tố ông Liên Thành trước Tòa án Hoa Kỳ về tội vu cáo vô bằng". (Chúng tôi đính kèm bài của ông Võ Văn Ái ở cuối trang này). Bài viết với nội dung theo lối hù dọa của con nít và đánh giá quá thấp người có sự hiểu biết trung bình về luật pháp Mỹ! Đính kèm trong bài viết đề ngày 4.6 này là hai bức thư cũ mà chúng tôi cũng đã nhận được cách đây đã 5 tháng. Nay nhìn lại hai bức thư cũ được Võ Văn Ái đem ra xào lại để lòe và bịp dư luận thì chúng tôi, Ban Kỹ Thuật, thật buồn cười, chẳng lấy làm ngạc nhiên vì chúng tôi đã quá hiểu tim đen của con người này, nhưng không cam tâm im lặng để ông phát ngôn nhân giở trò. Chỉ có những người nào chưa nhìn ra tim đen của Võ Văn Ái, sẽ dễ dàng sập dàn bẫy láo cá mà ông ta rất ưa dùng. Dưới đây là hai bức thư đó: Bức thứ 1 được chú thích: Thư của Tổ Luật sư gửi 2 ông Liên Thành và Dương Đại Hải, xem bản dịch trong Thông cáo báo chí - Hình PTTPGQT Bức thứ 2 được chú thích: Thư viết tay của cựu Phụ tá Cảnh sát Đặc biệt Nguyễn Xuân Tư xác nhận từ 1967 đến 1975 ông Trần Đình Minh không hề bi bắt - Hình PTTPGQT Sau khi nhận được bài viết của phòng thông tin Võ Văn Ái, chúng tôi, Ban Kỹ Thuật của UBTTTADCSVN, cố gắng liên lạc với cựu Cảnh Sát Trưởng Liên Thành để xin ông có ý kiến về vấn đề này. Tuy công việc của ông tại thời điểm này vô cùng bề bộn, mới tuần trước các cộng đồng tiểu bang Pensylvania đã mời ông tham dự Buổi Lễ Tưởng Niệm Thảm Sát Mậu Thân 45 Năm và ông vừa từ đó trở về California, giờ đây là lúc ông đang tập trung vào bước làm việc tiếp theo với Tổ Hợp Luật Sư Quốc Tế N. Kate Kempton, Toronto, Canada, để đưa tập đoàn tội phạm CSVN ra tòa án quốc tế, ông cũng đã dành một ít phút trả lời một cách dứt khoát và ngắn gọn như sau: Tập đoàn PGVNTN, Võ Văn Ái, Trần Đình Minh, hay bất cứ ai đó đang chạy theo nhóm này, cứ hù ma nhát quỷ hoài: "Kiện đi! Đừng nói nhiều!" Vì vậy Ban Kỹ Thuật xin mạn phép ông cựu Cảnh Sát Trưởng viết đôi dòng về bài viết của ông Võ Văn Ái vừa tung ra hôm nay mà mục đích của ông ta, không gì khác hơn, là để nhát ma thiên hạ. Thưa quý vị, ở xứ Mỹ này, việc thuê một luật sư cấp trung bình (không danh tiếng và cấp bậc uy tín không cao) thì cần trả khoảng 1 vài trăm bạc cho việc viết một bức thư với nội dung như thế này: Nếu ông không điều này điều này, thì tôi sẽ tiến hành làm cái này cái kia...vv... Ai cũng có thể thuê mướn luật sư viết được cả. Điều này hẳn ai sống ở Mỹ cũng hiểu rồi. Quan trọng là bước kế tiếp sau bức thư đó là cái gì? "Do nothing", không làm gì cả hay sao? Dường như đó là việc mà tên Trần Đình Minh đang làm và tên Võ Văn Ái dùng cái gọi là phòng thông tin thổ tả PGVNTN của hắn ta để phóng lên mạng làm ồn ào dư luận một cách bịp bợm vì Trần Đình Minh biết, Võ Văn Ái biết, nhưng thiên hạ không biết rằng chúng có dám kiện ông cựu Cảnh Sát Trưởng đâu! Kiện đi! Đừng nói nhiều! Bức thư của luật sư anh ta đề ngày 1.2013 và gởi đến ông cựu Cảnh Sát Trưởng và ông rất vui vẻ chờ đợi được ra tòa, được lôi chúng ra tòa với ông, mà sao lâu quá không thấy gì. Vậy thì cái gọi là "Huynh trưởng Trần Đình Minh tiến hành thủ tục pháp lý truy tố ông Liên Thành trước Tòa án Hoa Kỳ về tội vu cáo vô bằng" chỉ với bức thư này thì chẳng nên làm mất thì giờ của ông Cựu Cảnh Sát Trưởng Thừa Thiên Huế của chúng tôi. Đã 5 tháng rồi nằm im trong kho, nay các ông moi nó ra chỉ có thể hù dọa được những ai ít hiểu biết về luật pháp Mỹ và làm ồn ào trên mạng "được lúc nào hay lúc đó" để lái các cặp mắt tò mò của dư luận ra khỏi vụ RFA Ỷ Lan chăng! Việc làm này chữa cháy của các ông chỉ cho thấy sự hoang man trong lương tâm các ông, và càng chữa cháy thì cháy càng nhiều và lòi ra mặt chuột hết! Nên nhớ ở thời nào cũng vậy, chính nghĩa sẽ thắng! Sự dối trá sẽ bị đẩy lùi và sự láo lường sẽ thất bại. Nhất là với sự hổ trợ của Internet thì sự thật sẽ càng dễ dàng được kiểm chứng! Việc trả 1 vài trăm (thường thì $200) thuê luật sư viết thư rồi dùng danh nghĩa "phòng thông tin" gì đó để tung bức thư của luật sư lên tung lên mạng toàn cầu hòng kích động và hù thiên hạ là việc làm hạ tiện và chẳng chứng minh được gì. Sự thật vẫn là sự thật nên chúng tôi không cần dùng và không chọn dùng bất cứ thủ đoạn hạ tiện nào để lèo lái dư luận. Thời gian và việc làm của ông cựu Cảnh Sát Trưởng sẽ là câu trả lời đúng nhất. Bây giờ, muốn biết Trần Đình Minh có từng bị Bộ Chỉ Huy CSQG bắt tên CS Trần Đình Minh hay không thì tốt hơn hết hãy đưa ông cựu Cảnh Sát Trưởng ra tòa. Please, xin đừng hù ma nhát quỷ làm hoang man dư luận nữa. Xin thưa, như ông cựu Cảnh Sát Trưởng khẳng định bằng giấy trắng mực đen trong bài viết bên dưới: 4 nhân viên cảnh sát quốc gia là những cảnh sát đã trực tiếp bắt tên Trần Đình Minh hiện đang có mặt tại Bolsa, thủ đô tị nạn cộng sản, chứ không đâu xa lạ. Họ sẵn sàng ra tòa làm chứng đó. Vấn đề là có dám đưa ra tòa hay không hay chỉ hù dọa để bịp dư luận ít hiểu biết về luật pháp Mỹ. Để trò bịp được bọc hậu kỹ càng, cái gọi là Phòng Thông Tin PG QT của tổ chức PGVNTN còn thòng thêm câu cuối như sau: "Vậy xin các Huynh trưởng GĐPT tại Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới hãy yên tâm về một sự thật không thể chối cãi của Huynh trưởng Trần Đình Minh. Thủ tục pháp lý tại Hoa Kỳ thường kéo dài nhiều năm cho những vụ kiện như thế." Vâng, chúng tôi cũng đã chờ dài cổ cò rồi! Thưa ông Võ Văn Ái, làm gì có chuyện một vụ kiện cá nhân như thế này mà "kéo dài nhiều năm". Câu nói bọc hậu này chỉ chứng minh rằng ông Võ Văn Ái, ông phát ngôn nhân của tổ chức PGVNTN thật hết sức láo cá và trơ trẽn! Trân trọng, Ban Kỹ Thuật UBTTTADCSVN Xin mời đồng bào đọc lại bài sau đây liên quan vụ CS Trần Đình Minh mà Cựu Cảnh Sát Trưởng đã trả lời rất rõ vào năm 2012: Hoặc đồng bào, quý vị có thể nghe cựu Cảnh sát Trưởng Liên Thành đọc ở: Chùa Điều Ngự Là Một Tổ Chức Của Người Quốc Gia Hay Cộng Sản? Sự Thật và Tư Cách của một số thành viên trong ban điều hành Chùa Điều Ngự qua buổi phỏng vấn trên đài VNA 57.3. _____________________ Thể theo lời yêu cầu của Trần Đình Minh, vào lúc 9 giờ tối, giờ California, ngày 1 tháng 6 năm 2012, đài VNA 57.3 tại Bolsa đã thực hiện một buổi phỏng vấn để tên nội tuyến Trần Đình Minh trả lời về việc tôi, Liên Thành, cựu Chỉ Huy Trưởng CSQG Thừa Thiên Huế đã cáo buộc đương sự chính là một tên nội tuyến hoạt động cho cộng sản, bị tôi ký lệnh bắt trong chiến dịch Bình Minh mùa hè đỏ lửa năm 1972 tại Thừa Thiên Huế. Căn cứ vào việc phỏng vấn tên Việt Cộng Nằm Vùng Trần Đình Minh trên đài VNA 57.3, chúng tôi xin tóm lược và phân tích từng điểm chính mà tên này đã dùng để chối tội và biện minh cho chùa Điều Ngự. Nói về Chùa Điều Ngự thì gần đây, một số người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đã bắt đầu có nghi vấn về hành tung của Chùa Điều Ngự chẳng hạn chùa này đã cố tình tổ chức Phật Đản vào các ngày 28, 29, 30 tháng Tư, là ngày mà mọi người quốc gia chân chính đều biết rằng “Nhà Có Tang” trong khi lễ Phật Đản thực sự là ngày 6 tháng 5, một tuần sau ngày Quốc Hận. Việc thứ hai là thành phần lãnh đạo của chùa Điều Ngự có kẻ đã từng hoạt động cộng sản hoặc có liên hệ nặng với những tên cộng sản gộc. Chúng tôi cũng sẽ phân tích tính chiến lược mà Tổng cục II Tình báo Chiến Lược Cộng Sản Việt Nam bộ phận đặc trách tình báo hải ngoại, sẽ sử dụng để cầm nắm các tổ chức của Người Việt Tỵ Nạn tiến đến xóa bỏ ranh giới và thù hận giữa người Quốc Gia và bọn cộng sản, cuối cùng dứt điểm bằng việc treo lá cờ đỏ sao vàng tại hải ngoại. Tên nội tuyến Trần Đình Minh đã phát biểu 4 điểm chính như sau: 1/ Thứ nhất, tên này phát biểu rằng việc tôi xác nhận hắn là một tên nội tuyến là một chuyện “phịa” vu khống. Lý luận bằng cách nói rằng trước đây Trần Đình Minh hoàn toàn không hề biết tôi là ai nên làm sao có chuyện bắt hắn, và căn cứ vào lá thư viết tay của ông Lê Châu nào đó xác nhận rằng Trần Đình Minh không phải là Việt Cộng, và lá thư của ông Phan văn Ngữ, cựu sĩ quan CSQG tại quận Hương Điền xác nhận rằng ông Phan văn Ngữ không hề bắt tên Việt Cộng nằm vùng này. Ngoài ra tên này cũng nói thêm rằng hắn không có bà con liên hệ gì với ông Cao Chánh Hựu, thì không có chuyện ông Cao Chánh Hựu can thiệp để hắn được thả ra. Trả lời công luận về vấn đề này: Tôi, với tư cách cựu chỉ huy trưởng LL CSQG TT/Huế khẳng định: Việc tôi với tư cách là một trưởng ty CSQG ký lệnh bắt Trần Đình Minh một tên cán bộ hành chánh xã can tội hoạt động nội tuyến không có nghĩa là tôi phải biết mặt tên này hoặc tên này phải biết mặt tôi. Vì vậy lý luận này của tên nằm vùng Trần Đình Minh là một lý luận vô nghĩa. Thứ đến, chiếu theo luật pháp và hệ thống điều hành quốc gia VNCH, tất cả các các lá thư xác nhận rằng đương sự Trần Đình Minh không phải là cộng sản của những người không thuộc cấp thẩm quyền về an ninh tình báo của địa phương, chẳng hạn như lá thư của ông Lê Châu, được xem là không có giá trị pháp lý và giá trị thực tế. Điều này cũng cho thấy ông Lê Châu hoàn toàn thiếu kiến thức căn bản về sự phân nhiệm và phân quyền của bộ máy chính quyền quốc gia. Cơ quan cao nhất có khả năng chuyên môn và có thẩm quyền để xác định ai là cộng sản nằm vùng tại Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế là Ty CSQG Thừa Thiên Huế, và chỉ duy nhất là cơ quan này mà thôi. Bởi vì, theo luật pháp và cơ cấu tổ chức quốc gia của bất cứ một quốc gia pháp trị nào, ngay cả đối với các nước cộng sản, thì chỉ có cơ quan an ninh tình báo địa phương và trung ương là các cơ quan duy nhất có thể kết luận được ai là Việt Cộng, dựa trên những bằng chứng xác thực có giá trị, thu thập được nhờ vào quyền hạn chuyên môn và các phương tiện tình báo. Vì vậy tại Huế, cơ quan duy nhất biết được cũng như có thẩm quyền bắt giữ và khởi tố những tên tội phạm, đặc biệt là những tên Việt Cộng nằm vùng là ty CSQG Thừa Thiên Huế mà thôi. Cá nhân ông Lê Châu chỉ là một nhân viên Hành Chánh cấp Quận, thì xin hỏi, lấy tư cách, quyền hạn, và phương tiện gì để ông Lê Châu kết luận rằng tên Trần Đình Minh không là cộng sản? Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu, lá thư xác nhận Trần Đình Minh không là cộng sản của Lê Châu chỉ là một miếng giấy lộn nên được bỏ vào sọt rác không hơn không kém. Miếng giấy lộn này chỉ lừa được những kẻ ngu dốt, chứ không thể nào bịp được những người bình thường. Hành động này của ông Lê Châu không làm cho tình trạng Việt Cộng của Trần Đình Minh được tẩy xóa, mà chỉ tố cáo kiến thức căn bản về tổ chức và phân nhiệm guồng máy quốc gia của ông Lê Châu quá kém, chẳng lẽ trình độ của ông Lê Châu lại đồng hạng với những tên nhân viên hành chánh cấp xã học lực cỡ tiểu học như tên nằm vùng Trần Đình Minh. Riêng trường hợp lá thư của sĩ quan Đại Úy Cảnh Sát Phan Ngữ, người được tôi bổ nhiệm làm Chỉ Huy Trưởng CSQG quận Hương Điền sau mùa hè đỏ lửa năm 1972, xác nhận ông Phan văn Ngữ không phải là người thi hành chỉ thị của tôi để bắt tên Minh, thì sau khi phối kiểm với Bộ Chỉ Huy CSQG Thừa Thiên Huế, thì vào thời điểm vây bắt tên Trần Đình Minh sĩ quan cảnh sát Phan văn Ngữ chưa được tôi bổ nhiệm vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng CSQG quận Hương Điền, nên người thi hành lệnh bắt tên Trần Đình Minh lúc bấy giờ không phải là ông Phan Van Ngữ mà chính là Phụ Tá Đặc Biệt CSQG Quận Hương Điền và 4 nhân viên CSQG khác. Nhóm đi bắt Trần Đình Minh tất cả hiện định cư tại Bolsa và sẳn sàng làm nhân chứng khi liên quan đến luật pháp. Đôi lời với sĩ quan CSQG Phan Văn Ngữ: Lá thư anh xác nhận không bắt tên nội tuyến Trần Đình Minh là đúng, tuy nhiên, lẽ ra với tư cách là Chỉ Huy Trưởng CSQG quận Hương Điền sau mùa hè đỏ lửa 1972, thì bổn phận của một người sĩ quan CSQG chân chính buộc anh phải viết một cách đầy đủ thế này: Anh không phải là người thi hành lệnh bắt tên Minh mà là vị sĩ quan phụ Tá ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Bởi vì với tư cách là Chi Huy trưởng CSQG, anh có bổn phận phải nắm hết tất cả con số, lý lịch và hành tung của những tên cộng sản nằm vùng tại địa phương của mình. Nói một cách chính xác, lá thư của anh đã thiếu sót hay cố tình thiếu sót, làm cho người quốc gia bị nhầm lẫn tai hại. Bởi vì điều quan trọng không phải là ai đi bắt tên Trần Đình Minh mà điều quan trọng chính là tên Trần Đình Minh đã bị CSQG Thừa Thiên và Thị Xã Huế bắt. Với tư cách là chỉ huy trưởng CSQG Hương Điền anh đã biết và anh phải biết Trần Đình Minh đã từng bị bắt. Thế thì tại sao anh không nói việc này ra? Phải chăng vì tình nghĩa cùng là huynh trưởng gia trưởng gia đình Phật Tử cho nên anh lờ cho tên Trần Đình Minh? Với tư cách là một cựu chỉ huy của anh, tôi thật sự thất vọng vì hành động đã đặt tình nghĩa giáo đồ lên trên bổn phận của một người Việt Quốc Gia như vậy. Trường hợp Trần Đình Minh đựoc sự can thiệp của Trung Tá Cao Chánh Hựu như sau: Trung Tá Cao Chánh Hựu là bạn thân của Đại Tá Dương Quang Tiếp. Trung Tá Cao Chánh Hựu là Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử trung ương (toàn quốc), và là Tổng Thư Ký Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Trung Ương, do đó, một số tu sĩ phật giáo đã làm áp lực với Trung Tá Cao Chánh Hựu phải đứng ra bảo lãnh cho Trần Đình Minh. 2/Thứ hai Trần Đình Minh đưa ra một sự kiện chẳng đâu vào đâu như sau: “Ông Liên Thành nói Chùa Điều Ngự không hề đóng góp trong việc tổ chức bầu cử Cộng Đồng, trong khi đó chùa Điều Ngự đã ký một ngân phiếu đóng góp và thầy Thích Viên Lý có phàn nàn tại sao ông Liên Thành lại nói Chùa không đóng góp và nhờ tôi cầm copy của tờ check này lên đài”. Về việc này, xin nói thẳng, tôi chưa bao giờ phát biểu như vậy. Bởi lẽ rất đơn giản: đây là việc quá nhỏ mọn chẳng liên quan gì đến công việc của tôi nên tôi không có thì giờ để quan tâm. Theo lời của tên nội tuyến Trần Đình Minh trên đài VNA 57.3 thì việc này do ông Thích Viên Lý xác nhận. Thưa ông Thích Viên Lý, nếu lời nói của tên cộng sản nằm vùng Trần Đình Minh liên quan đến cá nhân ông và tôi trong việc vặt vãnh này là do hắn đặt điều, thì những lời lẽ sau đây không nhắm vào ông mà dành cho những kẻ chủ mưu khác của chùa Điều Ngự. Còn nếu những lời xác nhận của tên Trần Đình Minh là sự thật, thì tôi xin thưa, thứ nhất, ông Thích Viên Lý là một người dối trá không xứng với tư cách của một người tu hành, thứ hai, đây là một hành động tìm cách khoe mẽ rằng chùa Điều Ngự có đóng góp trong việc bầu cử. Việc này, vô hình chung những lời dối trá nhỏ nhặt sẽ kéo uy tín của Chùa Điều Ngự xuống thành trung tâm chuyên sản xuất những chuyện chó cán xe xe cán chó. 3/ Trần Đình Minh phát biểu rằng hiện nay chùa Giác Minh của Giáo Hội PGVNTN trong nước, cánh tay mặt của HT Thích Quảng Độ, đang bị cộng sản Việt Nam đàn áp nặng nề, còn ở ngoài nước thì chùa Điều Ngự, cũng là một ngôi chùa đầu não của GHPGVNTN tại hải ngoại đang bị Liên Thành đánh phá, như vậy Liên Thành là ai? Về vấn đề này, với tư cách là một cựu viên chức trong ngành tình báo của chính quyền VNCH, xin hỏi, hiện nay có ai đủ tư cách, đủ thẩm quyền, đủ phương tiên kỹ thuật tình báo để xác định chùa nào tại Việt Nam chùa nào tại hải ngoại, chùa nào là chùa của người quốc gia? Chùa nào là chùa của cộng sản? Việc bố ráp bắt bớ một số tu sĩ của một chùa nào đó tại Việt Nam hoàn toàn không bảo đảm rằng ngôi chùa đó là chùa của người quốc gia. Lý do quá dễ hiểu, vì phải tạo cho cơ sở tôn giáo vận của nó một cái áo quốc gia thu hút những người chống lại chính quyền cộng sản tụ tập lại một nơi cho công an cộng sản phát hiện và truy bắt, cho nên việc tổ chức bắt bớ đàn áp một ngôi chùa nào đó có thể là một trò “khổ nhục kế” giả hiệu. Khổ nhục kế là một kỹ thuật tình báo truyền thống mà ngành tình báo của bất cứ quốc gia nào cũng phải sử dụng. Do đó, chiêu bài một chùa nào đó bị cộng sản đàn áp thì chùa đó là chùa quốc gia, hoặc chùa nào của GHPGVNTN thì chùa đó là chùa của người quốc gia là điều không hoàn toàn không có giá trị. Vì vậy, việc so sánh chùa Giác Minh của GHPGNVTN trong nước bị cộng sản đánh phá với việc chùa Điều Ngự của GHPGVNTN tại Cali “đang bị Liên Thành đánh phá” để hàm ý rằng Liên Thành là cộng sản, là một hạ sách, một trò trẻ con đuối lý mà tổng cục tình báo hải ngoại đang cho đàn em sử dụng. Trò này không lừa được ai. Đánh giá về GHPGVNTN có phải là một giáo hội của người quốc gia hay không, xin điểm lại một vài dữ kiện sau: Trước 1975, một số tăng sĩ của GHPGVNTN đã hoạt động cộng sản có cầu chứng, có thẻ đảng, chẳng hạn Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực. Một số khác đã biểu tình rầm rộ chống lại chính phủ VNCH như HT Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Hộ Giác, Thích Giác Đức…Thích Thiện Minh thì chứa vũ khí trong Đại Học Vạn Hạnh. Một chuyện nữa là Võ Văn Ái là một tên phản chiến gộc, đã cùng với Thích Nhất Hạnh vào tận quốc hội Hoa Kỳ yêu cầu cắt viện trợ cho Miền Nam, hiện nay Võ Văn Ái lại là một nhân vật cao cấp của GHPGVNTN và là tay thân tín số một của Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Chuyện oái ăm cho QLVNCH là Võ Văn Ái, tên cổ động hăng say cho việc cắt viện trợ cho Miền Nam nay là tên điều hành cao cấp của Chùa Điểu Ngự, hắn đã sĩ nhục quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ, nhưng có một thiểu số anh em cựu quân nhân và CSQG VNCH lại vui vẻ và hãnh diện được đứng chung hàng ngũ với tên đã đâm sau lưng và sĩ nhục mình. Chuyện đời quả có những điều khó tin nhưng lại có thật! Tôi xin trình bày tất cả những dữ kiện đã xảy ra cho công luận đánh giá. Về chuyện làm thế nào để nhận diện kẻ thù, xin mạn phép nhắc lại câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”. Chúng ta phải sáng suốt nhận định kẻ thù bằng hành động của chúng trong quá khứ và hiện tại chứ không bằng những lời hô hào VNCH muôn năm đầu môi chót lưỡi. Đối phó với những hoạt động tình báo của cộng sản, phải nhớ rằng những hoạt động bề ngoài không thể là bằng chứng chứng minh chúng là người quốc gia, mà phải để ý kỹ những hành động đáng ngờ bất chợt của chúng. 4/ Trần Đình Minh nói rằng một số người Huế cho hắn biết rằng tôi không có một ngày nào là Phật Tử cả, phù hợp với phong trào tự xưng là Phật Tử để đánh phá Phật Giáo. Quả thật, đây là một sự dối trá hết sức trơ trẽn của những tên Việt Cộng Nằm Vùng hạng bét. Xin hỏi một số người Huế đó là ai, tên gì? Họ có đủ tư cách để xác nhận tôi không phải là Phật Tử hay không? Ai có thể xác nhận Đại Lão HT Thích Tịnh Khiết không phải là ông của tôi? Ai có thể xác nhận Hòa Thượng Thích Chơn Trí không phải là chú của tôi? Ai có thể xác nhận HT Thích Chơn Kim không phải là anh tôi? Và ông Tráng Đinh, đồng sáng lập ra An Nam Phật Học Viện với Bác Sĩ Trần Đình Thám không phải là bác của tôi? Ngoài ra, với tư cách và nhiệm vụ của một người bảo vệ luật pháp quốc gia, bản thân dù là một Phật Tử, chính tôi đã bắn phi tiễn tấn công Linh Mục Trần Hữu Thanh, ông Nghị Sĩ Hoàng Xuân Tửu, anh họ Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và Dân biểu nằm vùng Nguyễn văn Kim khi những người này biểu tình nguy hại đến an ninh trong lúc quốc gia đang có chiến tranh. Không một biên giới của tôn giáo nào có thể bao trùm lên quyền lợi quốc gia, đó là nguyên tắc của một người quốc gia chân chính. Tóm lại tôi là Phật Tử hay không là Phật Tử đều không liên quan gì đến việc vạch mặt những tên cộng sản đội lốt tôn giáo. 5/ Trong buổi phỏng vấn này, không thấy Trần Đình Minh đề cập việc hắn được cộng sản bổ làm cán bộ thu mua hải sản quận Hương Điền. Xin hỏi, trong lúc hầu như tất cả các cán bộ viên chức của chính quyền VNCH dù lớn dù nhở đều phải bị đi học tập cải tạo, thì tên Trần Đình Minh không bị đi cải tạo, mà lại được làm cán bộ thu mua hải sản, một chức vụ rất béo bở để vơ vét bóc lột đồng bào Hương Điền kiếm tiền. Bằng chứng này đã đủ kết luận rằng Trần Đình Minh có công với cách mạng chưa? Xin hỏi chùa Điều Ngự? “Cơ Quan Chủ Quản” của Trần Đình Minh hiện nay? Dĩ nhiên, chẳng ai chịu cha ăn cướp, chẳng có tổ chức tình báo nào của tổng cục II tình báo hải ngoại lại tự nhận mình là cộng sản. Nó phải khoác áo quốc gia và phải gào thét mình là tổ chức là người quốc gia thì mới có thể len lõi cầm nắm và phá hoại được người quốc gia. Muốn nhận diện được những tổ chức cộng sản thì phải nhìn kỹ những gì chúng làm. Mong tất cả những người quốc gia chân chính sáng suốt nhận định và quyết tâm tận diệt bọn cộng sản nằm vùng tại hải ngoại. Liên Thành Chủ Tịch Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam ===//=== Dưới đây là bài viết ngày 4.6 của Võ Văn Ái Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85 Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : pttpgqt@gmail.com Web : www.queme.net THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 4.6.2013 Huynh trưởng Trần Đình Minh tiến hành thủ tục pháp lý truy tố ông Liên Thành trước Tòa án Hoa Kỳ về tội vu cáo vô bằng Tường trình Đại lễ Phật Đản tại Thừa thiên – Huế PARIS, ngày 4.6.2013 (PTTPGQT) - Thời gian qua, chúng tôi nhận được thư của nhiều Huynh trưởng Gia Đình Phật tử tại Việt Nam cũng như trên khắp năm châu hỏi thăm vụ Huynh trưởng Trần Đình Minh, Gia trưởng Gia Đình Phật tử chùa Điều Ngự, bị ông Liên Thành vu cáo là gián điệp Cộng sản và đã bị chính ông Liên Thành, cựu Thiếu tá Cảnh sát Thừa thiên – Huế, bắt giam tại Huế năm 1972. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế không nắm vững sự kiện nói trên, vì vậy đã không thể hồi âm nhanh chóng trước đây. Nay đã liên lạc được Huynh trưởng Trần Đình Minh hỏi thăm sự vụ và được Huynh trưởng giải thích diễn tiến của vụ vu cáo vô bằng. Chúng tôi xin được trả lời chung như sau : Bằng nhiều phương tiện truyền thông trên Mạng, trên các Paltalk hoặc thông qua Đài Truyền hình Vietnam Network 57.10 tại thành phố Garden Grove, tiểu bang Nam California, Hoa Kỳ, ông Liên Thành đã không ngừng vu cáo chùa Điều Ngự của Hòa thượng Thích Viên Lý là ổ Cộng sản, vu cáo Huynh trưởng Trần Đình Minh là Cộng sản : - Rằng trong tư cách Thiếu tá Cảnh sát Thừa thiên – Huế, ông Liên Thành đã bắt giam ông Trần Đình Minh năm 1972 vì tội làm gián điệp cho Cộng sản ; - Rằng trong tư cách Thiếu tá Cảnh sát Thừa thiên – Huế, ông Liên Thành đã chỉ thị cho ông Phan Văn Ngữ bắt giam ông Trần Đình Minh vì tội làm gián điệp cho Cộng sản. Mấy năm qua, ông Liên Thành dụng công vu cáo và mạ lỵ các nhà lãnh đạo cao cấp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, từ Đức cố Đệ Tam Tăng Thống trở đi cho đến nay đều là Cộng sản. Vì vậy, sau nhiều lần thư từ qua lại hay có khi lên Đài giải thích, Huynh trưởng Trần Đình Minh không tìm ra được sự thông cảm hay đối thoại chân thành của ông Liên Thành. Nên Huynh trưởng Minh đã nhờ Tổ hợp Luật sư Harrison & Rodriguez tiến hành thủ tục pháp lý để truy tố sự vu cáo vô bằng của ông Liên Thành. Ngày 15.1.2013 Tổ hợp Luật sư nói trên đã viết văn thư gửi hai ông Liên Thành và Dương Đại Hải, yêu cầu chấm dứt mọi cuộc phỉ báng Huynh trưởng Minh trên Đài Truyền hình Vietnam Network 57.10. Đài Truyền hình Vietnam Netwok 57.10 của ông Dương Đại Hải đã ngưng những cáo buộc vô bằng đối với Huynh trưởng Trần Đình Minh. Tổ Luật sư viết cho ông Liên Thành rằng : “Những tuyên bố trên đây đối với ông Trần Đình Minh hoàn toàn sai sự thật và không có cơ sở, tự nó đã phỉ báng khi miêu tả thân chủ của chúng tôi tham dự các hoạt động phá hoại và xâm phạm các điều luật dân sự và hình sự đối với quê hương yêu quý của ông Minh là Việt Nam Cộng hòa Nam Việt trước kia. “Cộng thêm vào đó, các hành động của ông còn khuyến khích và khẩn khoản sự phỉ báng của khách mời hay người vào đài của ông. Chiếu theo quyết định gần đây của Tòa Phúc thẩm Hoa Kỳ cho Địa hạt thứ 9 [LLC 489 F. 3d 921 (9th Cir.2007)] ông sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng về tái chính đối với ông Minh Trần ngay cho mỗi lần phỉ báng, kể cả những khách mời hay người vào đài của ông phát biểu những lời phỉ báng. “Việc ông lan truyền những lời vu khống, phỉ báng, và tuyên bố về thân chủ chúng tôi đã gây sự tổn hại nghiêm trọng và không thể hồi phục cho phẩm giá và nghề nghiệp của ông Minh Trần. Thân chủ của chúng tôi không thể khoanh tay đứng ngó để cho hành vi sai trái tiếp diễn : “Theo cách này chúng tôi yêu cầu ông [Liên Thành] : 1. “Chấm dứt tức khắc và ngưng ngay những lời nói hay phát thanh phỉ báng thân chủ chúng tôi, dù các lời nói này do ông phát biểu hay do các khách mời của ông hoặc một đệ tam nhân nào khác ; 2. “Cung cấp cho chúng tôi với bảo đảm nhanh chóng rằng ông đã cải chính trên đài sự hủy bỏ các lời phỉ bang theo điều (1) trên đây ; 3. “Bồi thường cho thân chủ chúng tôi tất cả mọi phí tổn luật sư. “Xin ông nhớ cho rằng nếu ông không thi hành các yêu cầu cải chính trên đây của chúng tôi trên đài cho tới ngày 31.1.2013, hay trong thời gian được bộ luật dân sự tiểu bang California § 48 và các điều tiếp theo, thì chúng tôi sẽ khuyến thỉnh thân chủ chúng tôi tiếp tục tiến hành thủ tục pháp lý, kể cả việc tố tụng để bảo vệ quyền lợi thân chủ chúng tôi”. Thư của Tổ Luật sư gửi 2 ông Liên Thành và Dương Đại Hải, xem bản dịch trong Thông cáo báo chí - Hình PTTPGQT Cho đến nay, ông Liên Thành đã không đáp ứng các đòi hỏi trên đây của tổ hợp luật sư. Huynh trưởng Trần Đình Minh đã chỉ thị cho luật sư tiến hành vụ án. Điều cần nói thêm ở đây, lần đầu tiên khi ông Liên Thành vu khống Huynh trưởng Trần Đình Minh là Cộng sản với bằng chứng là ông ta chỉ thị cho Đại úy Phan Văn Ngữ bắt giam Huynh trưởng Minh năm 1972. Thế nhưng cựu Đại úy Phan Văn Ngữ hiện cư ngụ tại thành phố Lincoln liền công bố bức thư viết tay ngày 18.7.2011 cho biết trước năm 1975 ông là Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Quận Hương Điền. Nhưng năm 1972 ông chưa công tác tại quận Hương Điền. Trái lại, ông viết : “Đến năm 1973 tôi mới giữ chức Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Quận Hương Điền, tôi mới biết anh Minh làm việc tại Quận Hương Điền với ông Lê Châu, Chỉ huy trưởng. Suốt trong thời giam làm việc tại Quận Hương Điền tôi không bắt anh Trần Đình Minh với bất cứ tội danh gì cả”. Sau xác nhận trên đây, ông Liên Thành liền tuyên bố trái ngược, rằng chính ông Liên Thành đi bắt ông Trần Đình Minh ! Liền đó, một bức thư khác của ông Nguyễn Xuân Tư viết ngày 18.6.2012 xuất hiện và viết như sau : Thư viết tay của cựu Phụ tá Cảnh sát Đặc biệt Nguyễn Xuân Tư xác nhận từ 1967 đến 1975 ông Trần Đình Minh không hề bi bắt - Hình PTTPGQT “Tôi Nguyễn Xuân Tư, sinh năm 1936 hiện cư trú tại thành phố Gardena thuộc Quận Los Angeles, California, Hoa Kỳ. “Nguyên trước năm 1975 tôi được Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia tỉnh Thừa thiên cử giữ chức vụ Phụ tá Cảnh sát Đặc biệt Quận Hương Điền từ tháng 6 năm 1967 đến tháng 5 năm 1973. Trong suốt thời gian giữ chức vụ nói trên. Đặc biệt là trong chiến dịch Bình Minh năm 1972. Được lệnh của Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Thừa thiên lập danh sách bắt giữ một số cựu cán bộ đưa ra giam giữ ở Côn Đảo. Riêng tại Quận Hương Điền có 9 xã đã bắt trên 20 tên, trong đó có xã Hải Nhuận có bắt 4 tên. Số bị bắt này được di chuyển về Bộ Chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Tỉnh và được đưa ra Côn Đảo giam giữ, sau khoảng 5 tháng, tất cả đều được phóng thích trở về trình diện địa phương. “Tôi xác nhận ông Trần Đình Minh, sinh năm 1945, quê quán tại Hải Nhuận, được tuyển làm cán bộ với chức vụ Phụ tá Phòng Lục sự Quận Hương Điền (ông Lê Châu làm Trưởng Phòng, [ông Châu] hiện cư ngụ tại San Jose, Bắc California. Từ năm 1967 cho đến năm 1975, đương sự không có bị bắt trong Chiến dịch Bình Minh mùa Hè năm 1972”. Hai lá thư trên đây đã nằm trong hồ sơ của Tổ hợp Luật sư về các tài liệu minh chứng Huynh trưởng Trần Đình Minh chưa hề bị bắt và chẳng có bất cứ liên hệ gì với Cộng sản như ông Liên Thành vu cáo. Vậy xin các Huynh trưởng GĐPT tại Việt Nam cũng như khắp nơi trên thế giới hãy yên tâm về một sự thật không thể chối cãi của Huynh trưởng Trần Đình Minh. Thủ tục pháp lý tại Hoa Kỳ thường kéo dài nhiều năm cho những vụ kiện như thế. Nhưng lưới trời lồng lộng, sự thật sẽ phơi bày trong một ngày gần đây trước tòa án để cảnh cáo những kẻ vì lý do này hay lý do khác vu khống, mạ lỵ người hiền lương. queme.net
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 8:40:54 GMT 9
NHỮNG NGƯỜI CS TRONG PHỦ TỔNG THỐNGNgười Mỹ và phe lật đổ đang bí mật áp sát phủ Tổng thống mục tiêu của họ là bắt sống ông Diệm và ông Nhu. Anh Lê Hữu Thuý (người của ta trong phủ Tổng thống) dặn tôi bảo anh phải cẩn trọng. Trong những ngày này tốt nhất là im lặng rời khỏi nơi làm việc. >Tôi đã bị ‘gái gội đầu’ úp sọt / Em rời xa khi tôi giấu chuyện trắng tay / Đánh vợ trước mặt bạn bè để ‘dằn mặt’ Tôi khẽ gật đầu và nói: - Cảm ơn, tôi cũng đã nắm được họ rục rịch từ hơn 1 tuần nay. Nhưng lúc này rời dinh Tổng thống thì không được. Ông Nhu đang cần sự hậu thuẫn của tôi. Ông Duật bảo: - Thế thì rất nguy hiểm. Nếu bắt ông Diệm, ông Nhu, họ sẽ thịt cả anh đấy. Anh phải cảnh giác nhé. Ông Vũ Hữu Duật dặn tôi rồi đi luôn. Ông Vũ Ngọc Nhạ nói: rất may, ông Nhu yêu cầu tôi sáng hôm sau đi gặp các cha đạo để tranh thủ sự ủng hộ của khối Công giáo. Nếu hôm ấy không tách khỏi anh em Diệm, Nhu tôi cũng sẽ phải chết thảm hại như họ. Ngày 1 - 11 - 1963 Mỹ ủng hộ nhóm tướng lĩnh Dương Văn Minh làm đảo chính giết chết anh em Ngô Đình Diệm. Những năm tháng biến cố đầy nguy hiểm, Vũ Ngọc Nhạ vẫn dấu mình trong cái vỏ bọc vững chắc do chính ông khéo léo tạo ra. Nằm trong vỏ bọc để chờ cơ hội và cơ hội đã đến với ông. Bằng phương pháp nghiệp vụ và tài năng hoạt động tình báo của mình, Vũ Ngọc Nhạ đã tiếp cận được với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Và sau đó ông đã trở thành người cố vấn rất tin cậy của chính quyền Sài Gòn do Thiệu cầm đầu. Nguyễn Văn Thiệu coi Vũ Ngọc Nhạ không chỉ là một cố vấn cho mình mà còn là người bạn tri kỷ gắn bó với nhau như "bóng với hình". Nhờ sự tin cậy ấy, cụm tình báo A22 do Vũ Ngọc Nhạ phụ trách đã có cơ hội hoạt động và gài được nhiều người của ta vào các cơ quan đầu não quan trọng của chính quyền Sài Gòn. Nhiều người muốn hiểu rõ cái phép màu gì đã giúp Vũ Ngọc Nhạ từ đức tin của họ Ngô trở thành người thân tín với gia đình họ Nguyễn Tổng Thống. Tôi hỏi ông Nhạ: - Làm cố vấn cho gia đình Ngô Tổng Thống, khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, bằng cách nào ông lại sang làm cố vấn cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu? - Làm cố vấn cho Diệm, ông Nhạ nói, tôi có điều kiện tiếp xúc với người Mỹ. Biết được người Mỹ có ý định chọn đối tượng lên thay Diệm. Tướng Thiệu là một trong những con bài lọt trong mắt họ. Nguyễn Văn Thiệu, một giáo dân ngoan đạo. Các cha cố, linh mục nhiều người có cảm tình với Thiệu. Khi ấy tôi được uỷ quyền đại diện cho khối công giáo tổ chức vận động ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống. Cuộc vận động thành công, Thiệu tha thiết mời tôi vào Dinh Độc Lập làm cố vấn đặc biệt cho ông ta. - Được biết Nguyễn Văn Thiệu cũng rất tin ông và coi ông như một chiến hữu "tử vì đạo"? - Công việc của tôi cần có sự quan hệ như thế. Tôi còn nhớ sau ngày Nguyễn Văn Thiệu lên nhận chức Tổng Thống, ông ta sang phòng làm việc của tôi và bảo: "Thày Hai dàn xếp cùng người Mỹ "đưa tôi" lên làm Tổng Thống, tôi rất biết ơn thày. Nhưng khi thày muốn hạ tôi xuống, thày phải "xi nhan" trước cho tôi xuống nghe, đừng để tôi phải chết nhục như anh em Ngô Đình Diệm!". - Đó là điều kiện "tuyệt vời" để ông "rút ruột" ông Thiệu? - Không chỉ ông Thiệu - Vũ Ngọc Nhạ tiếp. Người Mỹ cũng cần tôi. Vì tôi là cố vấn của Nguyễn Văn Thiệu, qua tôi để thăm dò ông Thiệu. Và ông Thiệu cũng dựa vào tôi để biết "ý tứ" người Mỹ. Tôi có điều kiện nắm bắt tình hình cả hai bên. - Anh, em trong lưới tình báo của ông ngày đó nằm trong dinh Tổng Thống được "sắp xếp" thế nào? - Lọt vào làm việc nắm "quyền hành" trong Dinh Độc Lập là một nghệ thuật cực kỳ mạo hiểm. Việc này do tổ chức và tôi đã "thiết kế" đưa từng anh em "chui thật sâu" vào trong lòng địch, nắm địch. - Họ giữ những trọng trách gì? Nay còn ai không? - Huỳnh Văn Trọng làm cố vấn ngoại giao Phủ Tổng Thống. Nguyễn Xuân Hoè là uỷ viên văn phòng Tổng Thống. Lê Hữu Thuý uỷ viên phụ tá thông tin chiêu hồi. Và ông Vũ Hữu Duật đây (ông Nhạ chỉ tay về phía người đang ngồi bên trái chiếc ghế của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu) nói: Năm 1954, khi đồng chí Mười Hương được Trung ương cử về Thái Bình lấy tôi và ông Duật đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Lúc ấy ông Vũ Hữu Duật là thị uỷ viên trưởng ban tuyên giáo thị uỷ Thái Bình. Thời Ngô Đình Diệm, ông Duật được ta "cài vào" làm việc tại tổng nha cảnh sát Nguỵ. Thời Nguyễn Văn Thiệu, ông Duật là uỷ viên tuyên huấn trung ương lực lượng tự do và làm phó tổng thư ký thường trực đảng liên minh dân chủ (đảng cầm quyền của Nguyễn Văn Thiệu). Nay cả lưới chỉ còn hai chúng tôi. Gia đình tôi và gia đình ông Duật vừa đi thắp hương cho đồng đội của mình ở nghĩa trang đô thành. - Đầu năm 1969, theo chỉ đạo của cấp trên, ông đã dự định "thiết lập" một Chính phủ Việt Nam Cộng hoà gồm hầu hết là những người trong lưới tình báo vào các vị trí quan trọng trong Chính phủ? - Đó là cơ hội tôi đã làm. Danh sách các thành viên Chính phủ đã được Nguyễn Văn Thiệu phê duyệt để trình Quốc hội. Trong đó Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục giữ chức Tổng Thống. Huỳnh Văn Trọng (người của ta) dự định là Thủ tướng Chính phủ. Vũ Hữu Duật đây, ông Nhạ giơ tay về phía ông Duật đang ngồi cạnh tôi, làm Bộ trưởng phụ trách chính trị. Vũ Xuân Hoè (người của ta) làm Bộ trưởng kinh tế. Lê Hữu Thuý (người của ta) làm Bộ trưởng thông tin chiêu hồi… Ông Lê Hữu Thuý, khi đương chức phụ tá thông tin chiêu hồi của Nguyễn Văn Thiệu, là một trong những chiến sĩ tình báo trong lưới của tôi lập công đặc biệt xuất sắc. Năm 2000 vừa qua, Lê Hữu Thuý được Đảng, Nhà nước và quân đội tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. - Vì sao các chiến sĩ tình báo của ta nằm trong danh sách nội các mới của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà không thành? - Bọn CIA và mật vụ nghi chúng tôi "thao túng" Dinh Độc Lập, nên đã theo dõi sát sao và giăng bẫy khắp nơi. Chúng đã gặp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cảnh báo ông ta rằng: một lưới tình báo Bắc Việt trong Dinh Tổng Thống đang ngầm phá Mỹ và Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà. Cầm đầu lưới này là Vũ Ngọc Nhạ, người mà ông tin cẩn nhất. Trước đó tôi đã nói điều đó với ông Thiệu. - Ông Thiệu nghĩ gì khi Mỹ tố cáo ông là "gián điệp" Bắc Việt? - Lúc đầu ông Thiệu cho rằng Huỳnh Văn Trọng, Vũ Hữu Duật có thể là gián điệp. Ông không tin người Mỹ cho tôi là cộng sản nằm vùng và bảo đây chỉ là mưu đồ người Mỹ muốn hạ uy tín của ông. Nhưng sau đó người Mỹ tới Dinh Độc Lập dùng áp lực doạ Nguyễn Văn Thiệu. Họ nói: - Nếu ông không ký lệnh bắt Vũ Ngọc Nhạ, ông sẽ mất chức Tổng Thống. Thế là ngày 16 - 7 - 1969, cả lưới của tôi sa vào tay địch. Bọn mật vụ thuộc Tổng nha cảnh sát Nguỵ và bọn CIA trút mọi cực hình đánh đập, tra khảo chúng tôi suốt 3 tháng trời trước khi chúng đưa ra toà xét xử. Khi bắt được Vũ Ngọc Nhạ, bắt một ông cố vấn của ông Thiệu, cả Sài Gòn huyên náo, xôn xao, bởi họ đã phát hiện và tóm được một lưới tình báo quân sự của Việt cộng nằm ngay trong cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Ngày ấy Báo chí Sài Gòn đưa tin rùm beng trên những hàng tít lớn: "Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại". "Vụ án chính trị của thế kỷ". Các bị cáo đều là những nhân vật trọng yếu trong chính phủ nguỵ quyền: người là cố vấn đặc biệt của Tổng Thống, người là cấp Bộ trưởng, người là tham chính văn phòng Bộ chiêu hồi. Vũ Ngọc Nhạ, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất hiện trước toà với bộ áo trắng, quần đen, cà vạt nâu, miệng luôn luôn tươi cười. Ông từ chối luật sư biện hộ cho mình, và cũng không tự bào chữa. Ông tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét. Sau vụ án chúng đưa các ông Vũ Xuân Hoè, Lê Hữu Thuý, Vũ Hữu Duật ra đày ngoài Côn Đảo. Vũ Ngọc Nhạ và anh Huỳnh Văn Trọng bị chúng giam tại Sài Gòn đến đầu năm 1970 mới đưa ra Côn Đảo. - Làm thế nào từ Côn Đảo ông lại về Sài Gòn rồi lại vào Dinh Độc Lập tiếp tục "hoạt động"? Tôi hỏi. - Tôi không nghĩ mình bị bắt là hết, mà mỗi lần bị bắt lại phải nghĩ cách tìm cho mình một con đường mới, bọc mình một lớp vỏ mới. Ở Côn Đảo, cả lưới của chúng tôi giam chung một biệt khu, nên anh em bàn nhau rất kỹ về "đường đi, nước bước" sau đó. Chúng tôi nhận mình là lực lượng thứ ba, có cơ hội sẽ hợp pháp hoá để hoạt động. Khi hiệp định Pari được thi hành, năm 1973, tôi và anh Huỳnh Văn Trọng được trao trả tại Lộc Ninh. Cha Hoàng cùng một số linh mục ở Bình An - Và khối công giáo Phát Diệm đã móc nối đón tôi vào Sài Gòn./. Nhà văn Minh Chuyên ****************************** Bí mật trong nội các Dương Văn Minh Ngày 28/4, Tổng thống Trần Văn Hương bị buộc phải đọc diễn văn từ chức để trao quyền cho tướng Dương Văn Minh sau một phiên họp lưỡng viện đầy sóng gió. So với nhiều chính khách khác của Sài Gòn, Dương Văn Minh đại diện cho xu hướng hòa giải, thương lượng với quân Giải phóng để chấm dứt chiến tranh. Những cộng sự thân tín của Minh, có đến ba phần tư là những người đã quan hệ với Mặt trận Giải phóng hoặc là cán bộ cách mạng rồi. Đó là các ông như chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Bộ trưởng Nguyễn Văn Diệp, Thẩm phán Triệu Quốc Mạnh… Ảnh chụp từ sách của Nguyễn Hữu Thái. Theo Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, từ khi đảo chính Diệm thành công, Dương Văn Minh đã ngỏ ý muốn thương lượng theo lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc giải phóng để đi đến tuyển cử tự do, thành lập một chính phủ trung lập ở miền Nam Việt Nam. Cũng chính vì lý do này, ông đã bị Mỹ hậu thuẫn cho Nguyễn Khánh lật đổ. Với quan điểm như vậy nên vào những ngày đầu tháng 4/1975, Dương Văn Minh và nhóm của ông đã quyết tâm giành lấy quyền lực để kết thúc chiến tranh bằng các biện pháp: hoặc thương lượng hoặc bàn giao hoặc đầu hàng… Trong hồi ký của dân biểu Lý Quí Chung - Tổng trưởng Thông tin trong nội các của Dương Văn Minh, ông này cho biết: Từ giữa tháng 4/1975, nhóm Dương Văn Minh đã quyết tâm ra nắm chính quyền với mục tiêu tìm mọi cách chấm dứt cuộc chiến, nếu cần phải cầm cờ trắng đầu hàng. Điều này được củng cố thêm nữa khi Dương Văn Minh hỏi ý kiến Thượng tọa Thích Trí Quang. Trong cuốn sách Chuyện ít biết về ngày giải phóng Sài Gòn 30/4 của Nguyễn Hữu Thái, tác giả trích hồi ức của Thượng tọa Trí Quang nói rằng: "Cho đến mùa xuân 2519 (1975) thì một ngày mà có người ba lần đến vận động tôi đừng chống đối việc ông Dương Văn Minh đứng ra, vì chính quyền của ông ấy sẽ có bảy phần mười là người tiến bộ. Tôi không nói lại gì cả, chỉ quan tâm lời thầy Trí Thủ nói, rằng chim cá còn mua mà phóng sinh, lẽ nào đồng bào mà không hy sinh cấp cứu. Rồi ông Dương Văn Minh gặp tôi, đưa ra hai mảnh giấy báo cáo mật cho thấy ngân hàng trống rỗng và quân sự nguy ngập, và nói ông không vụ lợi vì lợi không còn gì, không cầu danh vì danh đến quốc trưởng là cùng, ông chỉ không nỡ ngồi nhìn chết chóc. Tôi nói, nếu lòng ông như thế là ông làm như lời thầy Trí Thủ nói, và có nghĩa ông thay người khác mà vác cờ trắng!" Hai lần tuyên bố trên đài Phát thanh Số đông sách báo chỉ nói đến việc Dương Văn Minh phải đầu hàng vô điều kiện. Tuy nhiên sự thực là trong buổi sáng 30/4/1975, tiếng của ông Dương Văn Minh đã hai lần phát trên sóng phát thanh Sài Gòn. Lần đầu là do ông cho gọi nhân viên nhà đài đến Phủ Tổng thống thu âm còn lần sau là ông đến Đài để thu. Theo tài liệu đã nói ở trên của Nguyễn Hữu Thái, vào sáng 30/4, khi quân Giải phóng áp sát và bịt kín mọi lối thoát ở Sài Gòn, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cùng Trung tướng Nguyễn Hữu Có đến Dinh hoa lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Tướng Hạnh nói: "Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp, chúng ta không thể trì hoãn, rất có hại". Ảnh chụp từ sách của Nguyễn Hữu Thái. Ông Minh hỏi: "Bây giờ Toa muốn gì?". Tướng Hạnh trả lời: "Chuyện chính trị Đại tướng giải quyết thế nào là quyền của mình, nhưng về quân sự thì phải giải quyết gấp, tình hình nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa". Ông Minh suy nghĩ một lát rồi nói: "Thôi để tôi bàn thêm với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi". Sau đó họ cùng đến Phủ Thủ tướng để gặp ông Huyền (Phó Tổng thống) và ông Mẫu (Thủ tướng). Hồi ký của ông Lý Quí Chung cho biết ông Minh đã nói: "Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai họa đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho chính phủ Cách mạng lâm thời". Sau đó, ông Minh nói với các thành viên tân nội các: "Bắt đầu từ giờ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do quyết định sự lựa chọn của mình: Đi hay ở lại. Tôi xin thông báo cho anh em nào muốn đi, hiện chiếc tàu Việt Nam Thương Tín vẫn còn đậu ở cảng". Lúc 9h sáng hôm đó, Dương Văn Minh cho gọi nhân viên đài phát thanh đến thu âm bản tuyên bố ngừng bắn. Vào lúc 9h30, bản thu âm này đã được phát đi phát lại trên đài phát thanh Sài Gòn. Nội dung của nó như sau: "Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh, không nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chánh phủ CMLTCHMNVN ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ CMLTCHMNVN để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong một trật tự tránh đổ máu vô ích của đồng bào". Cùng với tuyên bố của Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Hữu Hạnh cũng thay mặt Tổng tham mưu trưởng thảo một nhật lệnh yêu cầu tướng tá và binh sĩ chế độ Sài Gòn thi hành lệnh của Tổng thống ngay tức khắc. Ghi âm xong ông Minh cùng một số thành phần Nội các về Phủ Tổng thống và khoảng 1 giờ sau thì xe tăng quân Giải phóng tiến vào đánh dấu thời khắc cuối cùng của cuộc chiến như mọi người đã biết. Theo kienthuc.net.vn
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 10:28:34 GMT 9
Tài liệu của Việt cộng trong việc móc nối Dương văn Minh Phần đọc thêm 7 Trong phần trên của Đôi dòng nhìn lại, tôi đã đưa dẫn chứng trong cuốn hồi ký “Cuối đời nhìn lại”...của 1 cán bộ cao cấp trong Trung ương Cục miền Nam của Việt cộng tên Nguyễn thành Thơ, nói vế việc cho Dương văn Nhật em ruột Dương văn Minh vào Saigon gặp Dương văn Minh và tiến hành việc móc nối để đưa để sụp đổ chế độ Việt Nam Cộng hòa. Nay tôi nhận đuợc từ một người bạn ở miền Đông Hoa Kỳ cho đọc một tài liệu mật của Cộng sản VN, về Dương văn Minh. Tôi xin đưa vào Phần đọc thêm, để độc giả có thể hiểu thêm chi tiết tiến trình móc nối tên Dương văn Minh của Việt cộng. * Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh - Tài liệu mật của CSVN 18.2.10 + Thân thế và gia đình - Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Thọ Cha là ông Dương Văn Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con), làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm). Ông Dương Văn Huề (gốc Hoa) và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái. Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân VN . Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ. Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp. - Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị, là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “VNCH”. Ông Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà Bùi Thị Mè (1)là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “VC” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù... - Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30.4.1975, ông được về nhà (98 đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dàỵ Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là đảng và chính quyền thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì phải tập lại cho quen”. Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Saigon đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ VN lo rồi”. Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp. + Quá trình binh địch vận đối với Tướng Dương Văn Minh Công tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục, Tình báo, An ninh T4 (Saigon - Gia Định), Trí vận... 1. Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam Năm 1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN đề nghị và được cấp trên đồng ý điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Tỵ Cuối tháng 12.1960, đồng chí Mười Ty lên đường. Tháng 8.1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Saigon và em thứ tám là Dương Thu Vân. Thấy tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm. Ngày 01.01.1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng VNCH lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận Trung Ương Cục. Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngàỵ Qua nhiều lần gặp và trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này, nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà. Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng: + Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người VN có phong tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời mình và mồ mả ông chạ Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình. + Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân sẽ đói... Dương Văn Minh lắc đầu từ chối. + Tháng 1.1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời. + Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi xu hướng trung lập. - Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng 01.1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa VN bằng một cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để cứu đất nước này khỏi rơi vào tay CS”. Mỹ thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên chỉ thị cho Chính quyền Saigon phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA, làm con bài dự trữ. Cuối năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái, sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Tỵ Nhưng vì bọn CIA bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái Lan, nên không ở lâu hơn được nữa. Khi chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau: “Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi, ở trong này khi cần có lợi hơn... Sau đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm (với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết có khi không làm được...” Cuối năm 1970,... theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn Hữu Hạnh. Tháng 3 và 4.1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Ha.nh. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân. Khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28.4.1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Saigon gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Saigon “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng. 2. Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh” Tháng 9.1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Saigon - Gia Định) thành lập Cụm điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là “nhóm Dương Văn Minh”... (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh, ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo Điện Tín, báo Đại dân tộc...). Đầu năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban Anninh T4, chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn Minhđể tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Thời gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần Văn Hương từ chức (Tổng thống). Ngày 01.3 và cuối tháng 3.1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề...) vào căn cứ báo cáo với đồng chí Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “...Phải bằng mọi cách để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là chủ trương của đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”. 3. Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh Cụm điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Saigon. Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28.4.1975, ông Cang đến gặp Đại tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường Triệu Đà, Saigon, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Saigon. Đồng chí Sáu Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh - Nguyễn Văn Huyền - Vũ Văn Mẫu. 4. Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị Sau hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương (tháng 7.1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo, lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài”. Năm 1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí QuốcHương (Mười Hương), Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba. Trên thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng 6.1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồngminh) phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giảidân tộc. Sau đó, lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luâ.tsư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02.1974, nhóm luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc. Thành viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập, ký giả, tướng lĩnh[1]. Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm DươngVăn Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo chí trong và ngoài nước. -Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4.1975, tướng Dương Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh) bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần chấm dứt chiến tranh. 5. Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Saigon Với các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ, cải thiện dân sinh... các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu hút hàng ngàn, hàng vạn ngườị Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Saigon ngày 10.10.1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần hành ngày 20.4.1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học sinh, trí thức, thương phế binh đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế VAT..., là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris. + Mỹ, Pháp với tướng Dương Văn Minh * Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng Dương Văn Minh từ chốị Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía cửa phòng (không tiếp đại sứ Mỹ nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ - Thiệu. Sau khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống, tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị nhân dân và báo chí Saigon đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn Minh, mãi đến ngày 26.4.1975, lưỡng viện Saigon đã bầu Dương Văn Minh làm Tổng thống VN Cộng hòa với 147.151 phiếu. * Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28.4.1975), Bộ Ngoại giao Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Theo chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30.4.1975, tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi Tàu can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay CS Bắc Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Tàu”. + Tướng Dương Văn MInh với 3 ngày làm tổng thống 15 giờ chiều ngày 28.4.1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng. Tổng thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội, cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng. Về Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ trưởng. (Theo ông Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến tranh). 17 giờ ngày 28.4.1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính). Đêm 28.4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom dinh Hoa Lan (nhà ông Minh). Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28.4.1975, hai đại tá phi công lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập, gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội. Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đị Phần tôi, tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Saigon, không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”. Tướng Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng tại đài phát thanh Saigon trưa ngày 30.4.1975 + Ngày 29.4.1975 Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi VN trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở VN. Đến 16 giờ chiều ngày 29.4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị (trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái). Tổng thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29.4.1975, phụ tá Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu. Sau đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo cho bên trong biết “Saigon không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29.4.1975). Từ chiều và tối ngày 29.4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương Văn Minh hướng “Thành phố để ngỏ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai, thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”[2]. Ngày 30.4.1975 - 6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự.. Sau đó, ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất, nay là đường Lê Duẩn). Tổng thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố này. - 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm. Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý có nhật lệnh cho quân độị Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh nàỵ Đồng thời tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát thanh. 9 giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam VN để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”. Sau đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giaochính quyền cho cách mạng. Sau khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi hay ở thì tùy”. 11 giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Buổi trả tự do cho nhóm Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập tối ngày 2.5.1975 + Kết luận 1. Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc. 2. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29.4.1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v.. 3. Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần chúng ở thành phố Saigon - Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30) ngày 30.4.1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Saigon vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành phố Saigon còn nguyên vẹn và không đổ máụ Nhiều thành phố và thị xã khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng địa phương đóng vai trò quyết đi.nh. Tuy nhiên, công bằng mà nói, hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh sĩ và nhân dân, thành phố Saigon và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh. Chú thích : (1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế - xã hội - thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam . (2) Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản Saigon tuyên bố trả quyền công dân cho toàn bộ viên chức Chính phủ “VNCH”. (3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội. (4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà. Tôi nhận được bài viết này từ một người bạn chuyển cho đọc. Bài viết không ký tên tác giả, chỉ nói là trong Binh chủng Pháo Binh Việt Nam Cộng Hoà và là bạn của Pháo thủ Lê châu Lộc,...người đã từng là Tùy viên của Tổng thống Ngô đình Diệm. Thấy bài viết liên quan đến đề tài “Đôi dòng nhìn lại”, nên tôi đưa nguyên bài vào Phần Phụ để bạn đọc theo dõi, biết thêm về tài năng và đức độ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi không bíêt địa chỉ của 2 vị, mong được 2 vị miễn thứ khi chưa xin phép đã đưa bài của quí vị lên trang báo. Cảm tạ quí vị QH(nvn) Pháo thủ Lê Châu Lộc nói chuyện về cựu Tổng Thống Ngô Đình Diệm Người viết bài này quen biết pháo thủ Lê Châu Lộc vì vừa là đồng nghiệp pháo thủ vừa cùng chung đơn vị với nhau trong những năm 1956, 57, và 58 tại Bình Thủy Cần Thơ, và Trảng Bàng Tây Ninh. Anh là một Sĩ quan Pháo binh Việt Nam Cộng Hòa có quá trình phục vụ và thăng tiến khá đặc biệt. Tốt nghiệp Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức Khóa 5 - Vì Dân. Học Pháo Binh Tại Trường Pháo Binh Phú Lợi, tu nghiệp pháo binh ở Châlons-sur-Marnes (Pháp) và Fort Sill (Hoa Kỳ), từng là huấn luyện viên ở nhiều Trường Pháo Binh trong nước (Phú Lợi, Dục Mỹ) và ngoài nước (Fort Sill USA). Đơn vị chiến đấu đầu tiên Anh phục vụ là Tiểu Đoàn 21 Pháo Binh. Rồi Trường Đại Học Quân Sự, rồi Lữ Đoàn Liên Binh Phủ Tổng Thống. Cuối năm 1959 Anh là Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm cho đến khi chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, 1-11-1963. Rồi Pháo Binh Quân Đoàn III và Trường Pháo Binh. Anh giải ngũ theo đơn xin năm 1965, thi tuyển vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Tốt nghiệp Đốc sự khóa 13 và Cao học Hành chánh khóa 5. Nghiên cứu hậu đại học về Quản Trị Phát Triển Xứ Nghèo tại các trường Đại học London, Oslo, Dublin. Tham quan các hệ thống Phát triển và Phòng vệ tại Do Thái và Ấn Độ. Là giảng viên Trường Quốc Gia Công Tác Xã Hội (Saigon). Cuối năm 1969 Anh tham gia Liên danh Bông Huệ của Luật sư Nguyễn Văn Huyền ứng cử vào Thượng Nghị Viện VNCH. Liên danh Bông Huệ đắc cử. Anh là Nghị sĩ cho đến 30 tháng Tư Đen, 1975. Ra nước ngoài, trong suốt 23 năm (1975-1998), cựu pháo thủ Lê Châu Lộc hoạt động ở khắp Á, Âu, Phi, Mỹ cho công việc cứu trợ những người chạy giặc Cộng sản, từ Đông Dương tỏa ra khắp thế giới. Anh về hưu năm 1998 và an dưỡng tuổi già tại Hoa Kỳ. Mặc dầu Anh đang hưu trí, người ta vẫn thấy Anh xuất hiện trong các hoạt động truyền thông, xã hội, chính trị khi cái lão và cái bệnh không “hành hạ” Anh quá mức. Người viết cũng như những ai từng quen biết Anh trong Pháo binh, trong Thượng viện, hoặc ở các lãnh vực hoạt động khác của Anh đều tìm thấy nơi Anh một người bạn, người cộng sự, người chỉ huy vui vẻ, từ tốn, năng động trong công việc, có tinh thần trách nhiệm, có đạo tâm, và đáng tin cậy. Người viết nghĩ rằng bạn đọc cũng muốn biết nhân vật sẽ “nói” – dù chỉ là một vài việc đơn sơ về Tổng Thống Ngô Đình Diệm – là người thế nào. Lại nghĩ Binh Chủng Pháo Binh VNCH trước kia, có một pháo thủ như thế trong hàng ngũ, hẳn cũng là hảo sự. Vì muốn “tốt đẹp khoe ra” nên đã hơi dài dòng một chút về Anh Lê Châu Lộc. *** Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một con người lịch sử. Ông là Tổng Thống đầu tiên của nền đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam, sau chín năm cầm quyền đã bị thảm sát bởi chính kẻ đồng minh Ông tin cậy, bởi chính hàng khanh tướng Ông tạo ra. Khi Ông nằm xuống, những người mưu giết Ông và những kẻ thù ghét Ông đã bêu xấu Ông tàn tệ bằng những điều tiếng bịa đặt bỉ ổi, bằng những sự thật bị bóp méo để chạy tội, để lấp liếm những ý đồ xấu xa, những tâm địa phản phúc. Đến nay đã 45 năm qua, người đời vẫn còn nhắc tới Ông. Vẫn còn người không ưa, vẫn còn người thương tiếc. Vẫn cỏn lời bôi bác, vẫn còn lời bênh vực. Tuy nhiên những sự thật lịch sử liên quan tới Tổng Thống Ngô Đình Diệm đang dần được sáng tỏ nhờ những phát hiện từ nhiều tài liệu được giải mật, từ lời tuyên bố hoặc bài viết của những người phản tỉnh, và tiết lộ của nhiều nhân chứng đáng tin. Nhà biên khảo Minh Võ đã công phu gom góp rất nhiều những ý kiến trái ngược đó vào một cuốn sách đặc biệt: “Ngô Đình Diệm, lời khen tiếng chê” nhằm trình bày vàng thau trước công luận và trả lại công đạo cho một vị Tổng Thống mà đức hạnh ngời ngời không ai bôi đen được, và mục tiêu chính trị suốt đời chỉ là mưu cầu độc lập, tự chủ cho đất nước, tiến bộ, tự do cho người dân, và an lạc, thịnh vượng cho đời sống. *** Đại úy Lê Châu Lộc được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chọn làm Sĩ quan Tùy viên vào khoảng cuối năm 1959. Trong thời gian ở gần Tổng Thống, chắc chắn Anh thường được chứng kiến sinh hoạt hàng ngày của vị lãnh đạo quốc gia nhưng không thấy Anh viết ra hoặc kể lại. Hình như Anh không muốn dây dưa vào cuộc đôi co về người đã khuất mà Anh rất mực kính trọng. Đã nhiều lần tôi (người viết bài này – LVT) ngỏ ý muốn được Anh kể cho nghe những mẩu chuyện nhỏ Anh cỏn nhớ được vể Tổng Thống Diệm. Mãi gần đây Anh mới đồng ý. Trả lời câu hỏi do đâu Anh trở thành Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống Diệm, Anh Lộc kể: Chuyện bắt đầu từ khi Anh còn là trung úy, được đề cử tu nghiệp Pháo Binh tại Pháp quốc và Hoa Kỳ. Sau khi mãn khóa Pháo binh và làm Huấn luyện viên Pháo Binh cho các sĩ quan hiện dịch khóa 13 tại Fort Sill Hoa Kỳ, Trung úy Lộc được thuyên chuyển về Trường Đại Học Quân sự Sài Gòn với nhiệm vụ thu thập, soạn thảo, và phiên dịch các tài liệu liên quan đến Pháo binh để thành lập binh thư cho binh chủng này. Sau đó được thuyên chuyển về Liên Đội Pháo Binh thuộc Lữ Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ và được lệnh trình diện Biệt Bộ Phủ Tổng Thống. Nơi đây đưa Anh đến trình diện Tổng Thống và đích thân Tổng Thống giao cho Anh công tác đi kiểm soát lại các địa mốc ranh giới Việt Miên Lào, từ Mỏ Vẹt Hậu Nghĩa cho đến Ashau Quảng Trị, so sánh chi tiết bản đồ và hiện thực, những chỗ thiếu thì thiết lập lại các mốc bằng ciment. Trong chương trình phát triển an ninh lãnh thổ, khi tiếp nhận các mật khu của Cộng sản để lại, Tổng Thống đã chỉ thị áp dụng kế hoạch “gắp gai bỏ vào bao tử” bằng cách thiết lập một số tỉnh mới tại những mật khu mà đối phương đã gài cán bộ ở lại cũng như chôn dấu quân dụng trước khi rút ra Bắc. Di một số dân có kinh nghiệm về Cộng sản vào đó, tăng thêm đường xá giao thông để dân chúng di chuyển luôn luôn, có sự hiện diện của dân chúng thì sự có mặt của đối phương sẽ ngày một giảm đi. Trung úy Lộc được trao trách nhiệm thám sát vị trí đặt thị xã cho các tỉnh mới thành lập như Phước Long, Quảng Đức, v.v. Đến tận nơi, chọn lựa, và đề nghị những vị trí thiết lập các cơ sở công quyền, doanh trại quân đội, đường xá trong khu vực, hầu phong tỏa, vô hiệu hóa, và hủy diệt các mật khu của đối phương còn tồn tại. Khi được chấp thuận Trung úy Lộc cùng với các bộ, ngành phóng vị trí, đường xá, v.v Cũng trong thời gian này TT đã triệu tập một hội nghị gồm 7 Cụ học giả với sự có mặt của Tổng Thống Diệm suốt một ngày Chúa nhật tại dinh Độc lập để bàn và kiếm chữ đặt tên cho mấy tỉnh mới thành lập và thay đổi các tên tỉnh lỵ có ý nghĩa hay liên hoàn. Phục hồi ngũ Quảng tại miền Nam: Quảng Trị, Quảng Đức (là tên cũ của Thừa Thiên), Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Nghĩa (kiêng tên Ngãi nên đọc nhái là Nghĩa). Bây giờ dùng tên Quảng Đức cho tỉnh mới thành lập giữa Lâm Đồng và Ban Mê Thuột, Quảng Tín chia bớt đất của Quảng Nam, Sau này mới biết tại sao Trung úy Lộc được gọi trình diện vì theo chỉ thị của Tổng thống, công việc cần một sĩ quan có sức khỏe, biết ngoại ngữ, và giỏi địa hình. Cuối năm 1959, nhân dịp có hai sĩ quan tùy viên được phép trở về đơn vị theo đơn xin, chính Tổng thống ra lệnh chọn “Anh sĩ quan đen đen ấy”, là Đại úy Pháo binh Lê Châu Lộc, làm Sĩ quan Tùy Viên cho Tổng Thống. Mời bạn nghe thêm vài mẩu chuyện sau đây: Về thói quen. -Tổng Thống có lối sống đơn giản của người độc thân, kê một giường ngủ ngay cạnh văn phòng, và Tổng Thống thường ngủ tại đó. Sáng sáng Tổng Thống tham dự thánh lễ. Về tiền bạc. -Tiền lương hàng tháng của Tổng Thống thì Ô. Võ Văn Hải, Bí thư đặc biệt của Tổng Thống lĩnh tiền và giữ. Tiền này thường được chi dùng cho các dịch vụ như trả tiền cơm cho Tổng thống, bà bếp đi chợ nấu ăn cho Tổng Thống và các nhân viên như: Ô Hải, các SQ tùy viên có mặt, v.v., thêm 50 đồng/ngày, và là tiền ủy lạo mỗi khi đi công cán, tặng cho binh sĩ, đơn vị và dân nghèo. -Về ăn uống Thực đơn của bữa điểm tâm thường là cháo trắng, hột vịt muối hay cá kho và dưa món. Bữa trưa cũng chỉ là vài cái bắp luộc với tô nước trà bự rót nước nổi bọt, xong nghỉ ngơi độ nửa giờ. Buổi tối bữa ăn nhiều chuẩn bị hơn, cố nhiên là món miền Trung, họ hàng ở Huế vẫn thường gửi đồ ăn vào cho Tổng Thống như cá kho, … Bữa ăn tối nếu có người trong gia đình như các bà chị, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục thì không khí vui vẻ hơn. Hôm nào buổi tối có dạ tiệc thết khách thì cố nhiên phải chuẩn bị thực đơn tương xứng, tuy nhiên vẫn có thức ăn thanh đạm riêng dành cho Tổng Thống được mang thêm ra. Trang phục. - Quần áo của Tổng Thống do tiệm may Chya đường Lê Thánh Tôn phụ trách và cung cấp, hàng ngày Ông Ẩn lo quần áo. Không có khách thì mặc khăn đống áo dài. Nếu có khách thì Ông Ẩn nhắc và chuẩn bị cho Tổng Thống. Công việc. Mỗi sáng Tổng Thống nghe Sĩ quan Tùy viên trình đọc thời khóa biểu trong ngày, Bác sĩ Bùi Kiến Tín thăm hỏi tình trạng sức khỏe của Tổng Thống. Công việc thì do Ông Võ Văn Hải hay Ông Trần Sử trình, hay nếu quan trọng hơn thì chính Ông Phó Đổng lý Đoàn Thêm hay Ông Đổng lý Quách Tòng Đức, hay đích thân các Ông Bộ trưởng trình bầy. Tình hình Quân sự trong đêm là phần của Tham Mưu Biệt bộ. Vi hành. Tổng Thống thường hay ra lệnh đột ngột đi thăm dân cho biết sự tình, đến các chợ, chùa, nhà thờ xóm đạo để tự tìm hiểu tình hình. Có những chuyến thăm Đô Thành mà không có Đô Trưởng tháp tùng. Một lần năm 1962 sau cuộc bầu cử tổng thống lần thứ hai Tổng Thống thức dậy lúc 5 giờ sáng, gọi Anh Lê Châu Lộc và tỏ ý muốn đến thăm Chùa Ấn Quang để cám ơn quí vị trụ trì đã tham dự cuộc bầu cử vừa qua. Tổng Thống muốn cuộc đi thăm này “không chính thức, tự nhiên, đơn giản, và thân mật”. Tổng Thống muốn đi sớm để tránh nạn kẹt xe cho Đô Thành. Tổng Thống chỉ thị cho Lộc “Anh lái xe, một xe theo sau là đủ rồi”. Cố nhiên vì an ninh cho Tổng Thống, Đại úy Lộc phải chuẩn bị đầy đủ để bảo đảm an toàn cho Tổng Thống. Đoàn xe đến chùa có xe Cảnh sát Đô Thành đi đầu không đèn chớp, không còi hụ, tiếp theo là xe Tổng Thống, có Tham Mưu Biệt Bộ và Sĩ quan Tùy viên Lê Châu Lộc, sau cùng là xe hộ tống. Đến Chùa thì thấy các thầy đã xếp hàng nghênh đón hai bên từ cổng vào. Tổng Thống ngạc nhiên về sự tiếp đón này và vào trước cửa thiền viện ngỏ lời cám ơn, thăm hỏi các tăng ni hiện diện. Tổng Thống quan tâm đến việc đào tạo các cán bộ của đạo, muốn hệ thống hóa thành một tổ chức qui củ, phát triển hữu hiệu. Nhân dịp, hòa thượng Thích Quảng Liên đến chào Tổng Thống và cám ơn vì đã được Tổng Thống đặc biệt gửi đi học Tiến Sĩ Giáo dục tại Michigan State University. Thượng tọa sau này làm Hiệu Trưởng Trường Trung Học Bồ Đề tại Cầu Ông Lãnh Sài Gòn. Một hòa thượng khác nói với Tổng Thống:”Chúng tôi buồn Tổng Thống!. Tổng Thống quay lại hỏi :”Chuyện chi mà buồn”. Hòa thượng nói :Tổng Thống có tin vui mà không chia sẻ cho mọi người, chúng tôi còn biết năm 1959 Tổng Thống đã dành tiền thưởng 10.000.00 của Tổng Thống khi đoạt giải Massasay làm quà tặng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tổng Thống chậm rãi giải thích :”Ừ, tôi đâu có dùng tiền nên biếu Đức Đạt Lai Lạt Ma xử dụng vào việc cần”. Có những việc Tổng Thống đã làm trong kín nhiệm, chính Tổng Thống muốn như vậy. Thế có bao giờ Tổng Thống tỏ ra không bằng lòng không?. Có chứ giận dữ là đàng khác. Hôm đó Tổng Thống đi kinh lý tỉnh Kiến Tường. Khi đáp xuống phi trường thì đã có dân chúng đứng chờ đón Tổng Thống, nhưng vì thấy chung quanh toàn lá cờ Công Giáo La Mả, Tổng Thống lệnh không xuống quay trở về Sài Gòn. Tổng thống giận cầm cây cane dộng xuống sàn máy bay rầm rầm và nói :”Đây đâu có phải Vatican?”. Tuy nhiên chỉ ít phút sau, Ông Tỉnh Trưởng nhận lỗi vì không kiểm sóat nên sự việc đã xẩy ra, 15 phút sau các lá cờ Công giáo La Mã được thay thế bằng lá cờ quốc gia, cũng như biết dân chúng đã đứng chờ đón Tổng Thống từ sáng sớm nên Tổng Thống đã hết giận và xuống máy bay. Lần thứ hai cũng lá cờ, Tổng Thống đi qua đường Võ Tánh Phú Nhuận, có một cơ sở treo một lá cờ quốc gia quá cũ và rách, Tổng Thống lệnh mời Thiếu tá Xích Tỉnh trưởng Gia Định gặp Tổng Thống. Khi trình diện Tổng Thống chỉ thị phải huấn luyện để người dân biết tôn trọng lá quôc kỳ, không thể treo quốc kỳ cũ và rách. Lần thứ ba Tổng Thống nhìn thấy một bức hình chụp ngoài Vũng Tầu bức hình tượng Phật ngồi rất đẹp mắt trong một tờ báo ngoại quốc, chung quanh toàn là cờ Phật giáo, không có một lá cờ quốc gia nào. Tổng Thống biên một cái note cho Ông Quách Tòng Đức nói đại ý, trong bất cứ chổ nào đều phải có cờ quốc gia kể cả Chùa, Nhà thờ tôn giáo, nhưng không chưng cờ tôn giáo ngoài khu vực chùa chiền, nhà thờ. Việc treo cờ phải theo qui luật quốc gia. Việc này Ông Quách Tòng Đức chưa chỉ thị thi hành thì biến cố Miện Trung bùng nổ. Thế còn sở thích.? Tổng Thống thích đọc sách. Ngày nào Tổng Thống cũng đọc sách báo trước bữa ăn sáng, nhất là các sách photography và Reader’s digest. Tổng Thống thích chụp hình. Tổng Thống có một bộ collection máy chụp hình. Sau này Tổng Thống thích xử dụng máy chụp hình Polaroid, có thể lấy hình sau mấy phút. Mỗi khi đi kinh lý, Tổng Thống đều dặn nhớ mang theo máy chụp hình. Có những lần chính Tổng Thống đã chụp hình cho các quân nhân, và cho họ những tấm hình đó để làm kỷ niệm. Tổng Thống nhìn anh em quân nhân vui thì Tổng Thống thích lắm. Tổng Thống cũng mê kiến trúc, Tổng Thống hay đàm đạo với Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ nhất là thời gian sửa dinh Độc Lập. Có khi nói chuyện qua đêm về kiến trúc. Tổng Thống thích đi thăm mấy con ngựa. Thỉnh thoảng sau bữa cơm tối, Tổng Thống đi ủng rồi rủ sĩ quan tùy viên đi thăm mấy con ngựa ở phía sau dinh độc lập. Tổng thống vuốt ve mấy con thú vật, đưa tay về phía sau, sĩ quan tùy viên biết là Tổng Thống đang cần đồ ăn cho ngưa, sĩ quan tùy viên bỏ vào tay Tổng Thống vài cục đường, xong Tổng thổng cho ngựa ăn, những lúc như vậy thấy vẻ mặt vui hiện rõ. - Đừng nghĩ rằng Tổng Thống không biết sự thật, thường bị các nhân viên chung quan lường gạt để thủ lợi. Tổng thống đã dùng những chuyến đi thị sát để tìm hiểu sự tình, thăm dò tin tức giá cả qua bà bếp, nhân viên của nhà may Chya v.v. Có một lần đi thăm Ấp chiến lược miền Tây, Tổng thống đã đổi lộ trình và đến thăm một nơi công tác đang còn dang dở. Tổng Thống nhìn thấy nỗi lo âu của Anh Quận trưởng, đã an ủi rằng ”chưa xong hả, cần thêm thời giờ ?. Trình cho Ông Tỉnh Trưởng hỉ.”. Lần nữa chính Tổng Thống đã chữa lại cho đúng lời Ông Đô trưởng định giá vật dụng 4 đồng trong khi người bán hàng nói với Tổng Thống 8 đồng. Về chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là điều Tổng Thống tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ. Chính Tổng Thống đã biểu lộ ý chí đó bằng lời nói với Ông Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge khi Ông Lodge ngỏ ý đề nghị Tổng Thống thay đổi nhân sự trong guống máy của chính quyền: “Xin Ông Đại sứ biết rằng Ông Đại sứ đang đứng trước mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa”. Tổng Thống cũng biết nếu cần nhờ vả và làm theo lời của Ông Đại sứ thì chắc chắn Tổng Thống đã có được sự đảm bảo an ninh cho Tổng Thống và người thân. Nhưng Tổng Thống đã dứt khoát từ chối xử dụng lối giải quyết như vậy. Tổng Thống không sợ. Tổng Thống Diệm không muốn quân đội nước ngoài hoạt động trong lãnh thổ của mình. Chấp nhận như vậy thì chúng ta đâu còn chính nghĩa, làm sao đối đầu được với đối phương đã luôn tìm cách nói xấu mà lại thêm gian manh, nên Việt Nam đã có cuộc đảo chính và lật đổ Tổng Thống Diệm. Tổng thống đã cảm thấy trước ý đồ của chính phủ Hoa Kỳ ngay lúc Hoa Kỳ bằng lòng trung lập vùng Đông Nam Á theo đòi hỏi của Trung Cộng, nên nhất quyết không ủng hộ thể chế trung lập tại Lào, điều này đã làm xáo trộn chương trình và kế hoạch của Chính phủ Hoa kỳ tại Đông Nam Á. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mất mặt và người trách nhiệm cố tình trả thù Tổng Thống Diệm bằng cách gởi về Hoa Thịnh Đốn những tờ trình ngụy tạo tình hình Việt Nam đặt chính phủ Hoa Kỳ vào cái thế phải quyết định thay thế Tổng Thống Diệm. Vụ đảo chính tháng 11- 1963 được Mỹ bật đèn xanh. Và những kẻ nhận tiền làm đảo chánh đã giết hai Ông Diệm, Nhu vì sợ hậu họa. Về Quân Đội. Với Quân đội, Tổng Thống Diệm đã hết lòng lo lắng. Việc gửi Trung tá Nguyễn Văn Thiệu đi tham quan các trường Võ Bị Westpoint của Hoa Kỳ, Saint Cyr của Pháp và Trường Võ Bị của Anh quốc, là bước đầu trong ý định của Tổng Thống muốn xây dựng một Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (tại Dalat) mà khi tốt nghiệp, các tân Sĩ quan có trình độ và bằng cấp tương đương 4 năm đại học với kiến thức quân sự hiện đại, vững vàng. Tổng Thổng đã từng vào trường Võ Bị Quốc Gia ăn sáng với các Sinh Viên Sĩ quan khi có dịp ghé qua Đà Lạt. Tổng Thống cũng làm những cải tổ như vậy cho các trường Quốc Gia Hành Chánh và Học Viện Cảnh Sát. Tổng Thống không chấp nhận việc Quân đội đánh lộn nhau như trong biến cố 1960 hay cuộc đảo chính 1963. Tổng Thống đã bị thảm sát trên đường tới Bộ Tổng Tham Mưu với ý định trao quyền hành cho Quân Đội, sau khi từ chối đi lên Cao nguyên lánh nạn đế phục hồi quyền lực dẹp đảo chính, và từ chối đề nghị xử dụng Lữ Đoàn Phòng Vệ phản công bắt các Sĩ quan trong lực lượng đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu gần Tân Sơn Nhất. Tổng Thống Diệm không chủ trương thăng cấp bừa bãi. Ông muốn duy trì một Quân Đội có khả năng, thực lực, đáng tự hào. Quân nhân phải có trình độ tri thức, kinh nghiệm chỉ huy, tham mưu và chiến công trận mạc xứng đáng với cấp bậc mình nhận lãnh. Điều này đã làm cho một số sĩ quan bất mãn manh tâm tạo phản. Với Tổng Thống Diệm không có việc “ở lâu thành lão làng”. Sĩ quan chỉ có trình độ tiểu học mà đeo sao làm tướng chắc chắn làm giảm uy tín và năng lực của Quân Đội. Nói thế có nghĩa là Tổng Thống Diệm không sai sót, lỗi lầm gì sao ? Là người ai chẳng có lỗi lầm, sai sót. Tôi nghĩ rằng Tổng Thống Diệm quá hiền từ, nên đã có những người lợi dụng điều đó để mưu tư lợi. Nếu có trách thì trách những “nịnh thần” lợi dụng vị thế một thời được Tổng Thống tin cẩn, đã bày đặt ra chung quanh Tổng Thống những hình thức tiếp xúc phong kiến lỗi thời, ví dụ vào gặp Tổng Thống phải xưng hô Cụ - con, khi cáo từ phải đi dật lùi ra cửa. Cũng có người đã trông thấy có kẻ quỳ, lạy Tổng Thống trong dịp lễ Tết trong khi Tổng Thống thẹn đỏ mặt, ngượng nghịu, lúng túng nói không ra lời. *** Trên đây là những mẩu truyện thật về Tổng Thống Ngô Đình Diệm do Pháo thủ Lê Châu Lộc, Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống kể theo những gì mắt thấy, tai nghe. Người viết ghi lại để những ai quan tâm tìm hiểu về Tổng Thống Diệm có tài liệu đọc thêm hoặc tùy nghi xử dụng. Anh Lộc Cám ơn Anh đã chia sẻ những điều mắt thấy tai nghe lúc Anh là Sĩ quan Tùy viên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đọc những trang giấy này cũng đã giúp chúng tôi xét lại nhiều vấn đề. Lúc nào Anh cũng giữ đúng tư cách của người Pháo Thủ đại diện cho binh chủng có gần một trăm ngàn người phục vụ dưới cờ: binh chủng Pháo Binh. Chúng tôi hãnh diện vì Anh.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 10:42:51 GMT 9
Thích Đôn Hậu tiết lộ: GHPGVNTN đã đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống để đầu hàng CS 19755/01/2013 Đệ III Tăng Thống GHPGVNTN Tự Thuật về Sự Thật Lịch Sử Cận Đại: GHPGVNTN Đồng Hành Cùng Cộng Sản Chủ đề: Thích Đôn Hậu, một đảng viên CS cấp trung ương và là Đệ III Tăng Thống của GHPGVNTN (Ấn Quang), tự thuật lại việc CSVN đã lập tức vắt chanh bỏ vỏ đối với GHPGVNTN ngay sau khi tổ chức này góp công lớn trong việc lật đổ VNCH và vốn từng được Hồ Chí Minh trực tiếp 'cảm ơn' và 'hoan nghênh' vào năm 1968. Đặc biệt, Thích Đôn Hậu tiết lộ: GHPGVNTN đã đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống để đầu hàng CS 1975. Vì phần tự thuật dài trên 1 giờ 30 phút, để quý vị tiện theo dõi và nhận định, phần âm thanh được ghi chép ra thành nhiều đoạn theo đúng thứ tự của bản gốc (http://youtu.be/2xO--Ucc9nA). 1. Cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng vào năm 1976 Tôi kể câu chuyện tôi được tiếp xúc với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng khi ra họp Quốc Hội kỳ 2 năm 1976. Sau khi nói những việc khác, Thủ Tướng hỏi: Thế cụ còn nói chuyện chi nữa không? Tôi nói: Có. Tôi muốn hỏi Thủ Tướng một chuyện. Sau khi tôi ra miền Bắc năm 1968, thì vị mà tôi tiếp xúc đầu tiên là Hồ Chủ Tịch. Khi đó Thủ Tướng mới... Khi gặp Hồ CT, thì câu nói mà có lẽ là câu nói chính của Hồ CT. Hồ CT 'tán dương Phật Giáo (PG). Tán dương việc tranh đấu, phản đối các chánh quyền tay sai do Mỹ tạo nên ở miền Nam Việt Nam.' Rồi Hồ CT tán dương cuộc tranh đấu của PG là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức. 'Tôi rất là cảm kích về phong trào tranh đấu đó là một sự hi sinh của PG. Thay mặt Chánh Phủ Liên Tôn tôi thành thật cảm ơn và đặc biệt tôi rất hoan nghênh những việc tranh đấu đó.' Đại ý như vậy. Khi đó có Thủ Tướng. Thì vài ngày sau, trong buổi chiêu đãi của Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) do cụ Tôn Đức Thắng chủ trì, buổi chiêu đãi của phủ Thủ Tướng do Thủ Tướng chủ trì, buổi chiêu đãi của Trung Ương Đảng do cụ Lê Duẩn chủ trì thì các vị đều tán dương PG, đại khái như Hồ CT đã nói. Chừng đó các vị vẫn còn nhớ. Nhưng điều tôi ngạc nhiên hết sức, đó là khi trong thời chiến. Đến khi thời bình, chúng tôi được về miền Nam VN, chúng tôi thấy sao các vị cán bộ trung cấp (nhất là trung cấp) đối với PG có sự nhục mạ thế này thế khác, nên mới ngạc nhiên hết sức. Sao trớ trêu vậy? Như vậy là tới khi giải phóng rồi lại đối với PG như vậy thì tôi ngạc nhiên hết sức. Tôi nói ở đây tôi ngưng, thì Thủ Tướng nói thế này: Đâu có gì đâu cụ! Tôi hỏi: Xin Thủ Tướng cho biết lý do? Thủ Tướng nói: Đó, thế tại sao cụ biết mà. Trong khi Mỹ đã đi rồi, Thiệu xuống rồi, mà khi đó PG âm mưu lập thành chánh phủ của PG, đưa Dương Văn Minh (DVM) lên để làm tổng thống. Lập để chi vậy? Lập chính phủ đó để mà đánh với Cách Mạng (CM), phải không? Tôi nói: Cái chuyện đó có! Có lập CP. PG chúng tôi lập CP. Nhưng mà thế này thưa Thủ Tướng. Tôi nói với các vị ở trong VHĐ thế này: Các Hòa Thượng nên nhớ rằng PG chúng ta không ngu si cho đến cái độ lập một CP PG sau khi Mỹ đổ (cút rồi), Thiệu nó vơ vét của cải nó đi rồi. Của cải ở miền Nam VN không còn gì nữa. CM đến bên lưng rồi mà thành lập cái CP PG. DVM cũng không đến đỗi ngu gì mà theo những người mà khi đó đưa DVM lên làm TT. Tôi nói: Những vị PG nói với nhau thế này: PG chúng ta con sâu con kiến cũng thương, huống chi là con người. Mà đã bao nhiêu năm chiến tranh rồi, đã chết chóc đau thương chồng chất. Như HT cũng biết đó, nếu bây giờ đây mà chết chóc như vậy nữa. Nếu bây giờ đây nếu để cho ông già lụ khụ Trần Văn Hương đó, thả lỏng cho ông tuyên bố "đánh". Như vậy thì thử hỏi có thể chết thêm bao nhiêu người. Cả hai bên chết thêm bao nhiêu người nữa? Nếu muốn hạn chế... muốn hạn chế... sự chết chóc, hạn chế sự phá hoại của cải cho nên PG chúng ta chủ trương. Thấy khi đó không ai lo hết. Thấy không ai lo cả nên phải lập CP đưa DVM lên là như vậy đó. Nhưng không phải lập để mà đánh với CM. Lập lên để mà đầu hàng, chứ không phải để mà đánh với CM. Thủ Tướng hỏi: Vậy thì tại sao, DVM lên DVM lại tuyên bố 'giữ lại mảnh đất cuối cùng'? Giữ lại mảnh đất cuối cùng nếu không phải là đánh với CM thì giữ sao? Tôi nói: Tôi xin hỏi, khi DVM tuyên bố như vậy về sau có nổ phát súng nào không? Thủ Tướng nói: Không! 'Thì đó. Như vậy thì DVM chỉ tuyên bố mà thôi chớ không phải là đánh.' Thủ Tướng hỏi: Vậy thì tại sao tuyên bố như vậy? Tôi nói: Tôi hỏi rồi. Các vị ở trong VHĐ nói thế này: Năm 1971, thì Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời (CPCMLT), rồi Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (CPVNDCCH) tuyên bố: "Chúng tôi bằng lòng lập CP Liên Hiệp với VNCH không Thiệu." Nhưng mà Thiệu của ai? Thiệu do Mỹ tạo nên. Bây giờ chúng ta muốn đòi hỏi Mỹ rút mà cứ đòi Mỹ gạt Thiệu ra, đó là cái chuyện không được. Nếu Mỹ bảo toàn danh dự của họ thì họ phải giữ gìn Thiệu thôi. Do đó mà cứ mặc cả suốt một năm. Ta gọi là cò kè bớt một thêm hai. Mặc cả suốt một năm. Đến năm 72 (có lẽ), bên CPCM mới thấy rằng muốn cho Mỹ cút thì mình không thể nói như vậy được, không thể nói không có Thiệu được. Thấy như vậy cho nên CPCM với CPVNDCCH tuyên bố rằng: "Chúng tôi bằng lòng lập CP Liên Hiệp với miền Nam VN gồm có ba thành phần. Ba thành phần: Thứ I là CPCMLT, thứ II là Khối Trung Lập, thứ III là VNCH." Không nói, không đòi hỏi cái "không Thiệu" mà chỉ nói là lập CP Liên Hiệp với miền Nam VN gồm có ba thành phần mà thôi. Tuy không nói "có Thiệu" nhưng mà có Thiệu bởi có VNCH, không nói "không Thiệu" thì tức là "có Thiệu". Nếu muốn thực hiện được cái CP Liên Hiệp đó, đưa DVM lên phải tuyên bố giữ lại mảnh đất cuối cùng. Vậy thôi, không có để đánh với CM mà để lập CP Liên Hiệp tại miền Nam VN gồm có ba thành phần như CPCMLT đã đòi hỏi. Nếu như không lập CP, không nói như vậy, không đòi hỏi giữ lại mảnh đất cuối cùng (dù là 5km cũng được, 10km cũng được) để nói đó là VNCH, làm sao mà lập CP Liên Hiệp chớ. Cho nên bắt buộc DVM phải tuyên bố giữ lại mảnh đất cuối cùng. Giữ lại để mà lập CP Liên Hiệp chứ không phải để mà đánh với CM. Cho nên sau khi DVM tuyên bố đâu có phát súng nào. Nói đến đây thì Thủ Tướng nói: Cụ nói như vậy thì PG muốn cho người Mỹ ở mãi ở đây sao? Ở mãi tại miền Nam hay sao? Tôi nói: Chẳng những người Mỹ mà thêm nữa được không? Bởi vì trước kia, chưa ký hiệp định thì họ là người thù, là quân đội là người thù. Đến khi ký hiệp định rồi thì họ không còn là quân đội nữa. Không còn là quân đội nữa thì họ là bạn để mà ăn ở với nhau vui vẻ, sống với nhau thì tốt hơn. Tôi thấy tôi nói như vậy thì Thủ Tướng không nói gì cả. Đó là buổi nói chuyện với Thủ Tướng PVĐ. Thích Đôn Hậu - Nguyễn Hữu Thọ - Tuần Chi (phải) 2. Định phang ghế ngồi vào Võ Nguyên Giáp (http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=14m6s) Bây giờ có người hỏi tôi: Sau khi HT được đắc cử thì có suông sẻ không? Tôi kể cho rõ hơn: Sau khi về miền Nam VN rồi, được vào Sài Gòn, tôi gặp ông Nguyễn Hữu Thọ. Ông NHT hỏi tôi trước khi gặp ông NHT thì đã từng về Thừa Thiên, có nghe nhân dân nói như thế nào không? Tôi nói: Ôi chao! Nghe nói thì nhiều lắm. Ông hỏi: Nghe nói như thế nào? Tôi nói: Họ nói sau khi giải phóng rồi, thì họ tưởng rằng PG đã qua khỏi tai nạn, pháp nạn đã qua. Không ngờ pháp nạn cứ liên tiếp. Ông NHT hỏi: Pháp nạn như thế nào? Tôi nói: Sau khi giải phóng rồi, thì cái nạn phá hoại tượng Phật lộ thiên ở Gia Lai, Kontum... Nhất là bức tượng ở Biển Hồ. Bức tượng xây dựng rất lớn, có cái hồ rất đẹp. Mấy triệu đồng! Cho đến nay cũng đập, bức hiếp... các tượng lộ thiên. Mấy anh em cán bộ, bộ đội xuống đập vỡ tan hết. Do đó, bao nhiêu tình đoàn kết thiêng liêng rã rất nhiều! Bao nhiêu tình thương yêu, quý trọng cán bộ, bộ đội cũng từ đó mà giảm bớt. Rồi họ hỏi: Tại sao các anh làm như vậy? Thì cán bộ nói: Bức tượng đó là của Ngụy Quân nó tạo ra, bây giờ Ngụy Quân nó đi rồi thì phá chớ để làm chi. Họ nói thế này: Mặc đồ lính kêu là Ngụy Quân. Nhưng mà sự thật không phải là Ngụy Quân. Bởi vì đây là cá nhân. Cá nhân của từng người lính họ nói với nhau rằng: Chúng ta ngưng bớt ăn chơi lãng phí. Ngày nào chúng ta cũng góp. Góp lại. Ngày nào cũng góp. Góp nhiều ngày. Góp nhiều ngày thì tự nhiên có số tiền lớn để chúng ta làm việc Phật sự. Thì họ nghe nhau. Họ góp. Góp nhiều ngày, góp nhiều người để có số tiền lớn. Họ mới làm một bức tượng lộ thiên. Khi làm bức tượng đó, các ông Sĩ Quan cũng đến giúp đỡ âm thầm chứ không dám ra mặt. Sĩ Quan mà giúp đỡ cho người lính xây dựng tượng đó thì Sĩ Quan đó sẽ bị cách chức hay là giáng chức. Bởi vì PG lúc đó cứ tranh đấu với CP mãi. Cho nên họ ghét PG ghê lắm. Hết CP này lên rồi CP khác lên mà cứ tranh đấu mãi cho nên họ ghét ghê lắm. Dựng tượng như vậy là tiếp tay cho những người tranh đấu mình cho nên CP ghét. Vì vậy không ai dám giúp đỡ hết, âm thầm thôi. Lính nói với nhau thế này: Mấy ông đó là sĩ quan. Họ sợ cách chức hay giáng chức nên không dám ra mặt, còn chúng ta là lính không sợ chi cả.... Chúng ta chỉ sợ mất lý tưởng, tín ngưỡng mà thôi. Bây giờ muốn bảo tồn tín ngưỡng của mình thì xây dựng bức tượng lộ thiên để mai chiều lễ bái, cầu nguyện. Cứ làm. Nếu chánh quyền thấy ghét chúng ta đuổi đi chổ khác. Đi chổ khác thì càng hay, chúng ta sẽ xây dựng chổ khác. Còn chổ này lỡ việc có anh em khác đến, họ tiếp tục làm. Cho nên họ cứ làm mà ngày nào đó tượng lộ thiên mọc lên rất nhiều. Bây giờ nói rằng CM về, cái gì của Ngụy Quân làm ra, thì Ngụy Quân đi rồi, phá chứ để làm gì. Nói Ngụy Quân thì có một thứ thôi bởi vì họ mặc đồ lính. Đó không phải là Ngụy Quân, mà lính thôi, cá nhân thôi. Nếu đem việc nhà binh ra mà làm thì đó là Ngụy Quân thiệt, còn xây dựng là Ngụy Quân giả. CM về cái gì của Ngụy Quân thì phá hết. Bao nhiêu nhà cửa, tàu bè, máy móc, xe cộ, đường xá... của Ngụy Quân làm... các ông không phá cái chi hết mà để đó dùng. Như vậy cái gì các ông ưng thì các ông cứ để mà dùng, còn cái gì các ông không ưng như Trời Phật thì cứ cho là của Ngụy Quân là phá. Thái độ đó có xứng đáng hay không? Tôi nói tiếp: Tôi trình bày với Chủ Tịch như thế đấy. Tôi không dám cho anh biết đâu, bởi vì cho anh biết là can ngay. Cho nên tôi gặp Thủ Tướng thì tôi nói trực tiếp thôi. Rồi tôi mới nói: Tôi trình bày chuyện đó xong rồi. Bây giờ nói qua việc khác. Việc tôi sắp nói đây không dính dáng chi tới việc tôi vừa trình bày. (Tôi nhắc lại) Khi ở trên Trường Sơn, thì cơ quan có mời tôi vào chức Phó CT Trung Ương Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình Việt Nam. Tôi nói rằng: Ngày nay tôi sống trong gia đình CM, trong đại gia đình CM. Làm cái gì lợi ích cho CM thì tôi không tiếc. Nhưng mà chức vị to như thế này tôi không dám. Tôi từ chối mãi. Sau đó cơ quan nói: Đây là ý kiến của Trung Ương. Tôi nghĩ rằng đã ý kiến của Trung Ương thì tôi đâu dám từ chối. Tôi phải nhận. Nhưng trước khi nhận tôi xin có lời yêu cầu: Thứ nhất là đừng có lấy chùa mà làm trận địa. Đừng lấy chùa mà làm trận địa là đặt súng trong chùa mà bắn người ta. Nếu làm như vậy là gián tiếp phá chùa. Thứ hai là khi hòa bình độc lập rồi, thì cho tôi trở lại cương vị tu sĩ thuần túy của tôi. Tôi yêu cầu như vậy thì mới chịu. Tối lại, có câu trả lời là đồng ý cho tôi là khi hòa bình độc lập thì tôi trở lại cương vị tu sĩ của tôi. Vì bằng lòng lời yêu cầu đó tôi mới nhận. Đến khi ra Hà Nội, ông Lê Toàn Thư nhân danh đại diện cho Ủy Ban Thống Nhất đến chào tôi. Tôi hỏi: Tôi ở trên Trường Sơn, mời tôi vào chức Phó CT TƯ Liên Minh thì tôi có yêu cầu như vậy đó. Anh nghĩ sao? Ông LTT nói: Tốt thôi! Vâng, hòa bình độc lập rồi thì mời HT về tu. Tôi nhắc lại với ông NHT: Vậy thì bây giờ đây hòa bình độc lập rồi thì cho tôi thực hiện cái ý muốn, yêu cầu của tôi tại Trường Sơn. Cho tôi trở về với cương vị tu sĩ thuần túy, đó là cái nguyện vọng khát khao của tôi. Ông NHT nói: Để tôi phản ánh với cấp trên rồi sẽ trả lời sau. Ba ngày sau, ông NHT đưa giấy mời, mời tôi gặp mặt trong buổi họp tại chổ ở của ông NHT. Đúng 3 giờ chiều thì tôi đến. Ông NHT với ông Huỳnh Tấn Phát đang ngồi ngó ra thấy xe tôi đến thì hai ông bước xuống đón. Nói chuyện xã giao vài câu thì thấy nhiều người đến, có ông Trần Minh Trung, ông Trịnh Tiến Thảo, vv..vv... thấy đông vài chục người. Tôi nghĩ hôm nay mời họp thì chương trình nghị sự không thấy, chỉ thấy ông NHT sắp mọi việc mà không thấy chương trình nghị sự. Ông NHT giới thiệu tôi ngồi chủ tọa, (mặc dù ai cũng biết rồi, nhưng đó là cái lệ nói chuyện nên giới thiệu như vậy), rồi giới thiệu cử tọa của tôi. Tiếp theo ông NHT tán dương tôi, tán dương rất nhiều. Sau khi tán dương, ông NHT nói tiếp: Tôi xin thay mặt CPLT và Liên Tôn: 'Yêu cầu bác tiếp tục đóng góp!'. Như vậy là lời yêu cầu trở về cương vị cư sĩ thuần túy của tôi là ông không chấp nhận. Tôi nghĩ rằng vì tôi, vì sự yêu cầu của tôi mà có buổi họp long trọng thế này. Bây giờ ông đã yêu cầu như vậy thì nói sao? Tôi chỉ làm thinh, không nói không cũng không nói có. Khi đó tôi nghĩ rồi đây có ứng cử QH thì mình làm thinh như vậy, đừng ra là được thôi. Tuần đến, tuần hai, tuần ba... tôi thấy êm. Tôi mừng quá. Rồi thấy xôn xao sắp đặt cuộc bầu cử, nào là dán bích chương thế này thế khác mà không nói gì tôi, tôi mừng quá. Nhưng không ngờ, ông Hoàng Phương Thảo lên. Tưởng lên thăm, nhưng ông nói: Tôi là trưởng ban bầu cử Thừa Thiên. Hôm nay lên để mời cụ ra ứng cử Quốc hội. Tôi từ chối, tôi nói ý định của tôi: Tôi đã đóng góp rồi. Giờ tuổi già sức yếu rồi, tôi muốn trở về tu hành. Trở về tu hành cũng là một cái sự đóng góp lớn lao. Ông nói: Đây là ý kiến của Trung Ương. Lại ý kiến của Trung Ương. Tôi nói: Đã ý kiến của Trung Ương thì tôi không dám nói gì rồi. Tôi phải chấp nhận ra ứng cử. Nhưng mà tôi xin có yêu cầu: Mỗi người ai cũng có hai vai mà mỗi người gánh có một, là dân tộc. Tôi hai vai, gánh hai việc mà phải làm tròn: Là dân tộc và PG. Cái nào cũng làm cho tròn. Vậy thì, tôi nhận lời ra ứng cử. Tôi ra ứng cử rủi thì mà đắc cử. (Tôi nhấn mạnh) Nếu rủi thì mà đắc cử, sau đó không làm được một việc gì trong hai việc khi nào là tôi đi khi ấy. Tôi xin yêu cầu như vậy. Ông Hoàng Phương Thảo nói: Cụ cứ ra. Trong Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Pháp đương nhiên có mục tự do tín ngưỡng. Có gì không đồng ý cụ cứ nói đi. Thấy ông nói cho qua việc. Nhưng mà dù sao buộc tôi phải nhận lời. Tôi chấp nhận ra ứng cử. Ra ứng cử thì làm thủ tục thế này thế khác, tôi cũng tuyên bố nhận lời vậy thôi. Ông ấy về thì qua ngày mai tôi bắt đầu đau. Tôi lo nghĩ buồn bực quá, tôi đau. Khi đau, tôi có ý nghĩ quá trớn. Trong khi đau mà chết được thì tốt quá. Nhưng rồi thì có mấy anh đem Lời Giới Thiệu của tôi, Lịch Sử của tôi lên cho tôi coi. Tôi thấy viết bậy quá, lộn bậy lộn bạ quá tôi ngồi sửa. (Khỏe khỏe rồi tôi sửa). Trong khi tôi đang sửa có mấy người khác lên. Thấy tôi đang sửa thì họ mừng quá. Họ lấy để họ in. Dù sao thì tất nhiên tôi cũng ra ứng cử rồi. Tôi thấy tôi buồn quá. Như vậy là phải ra. Buồn quá! Nhưng khi ra ứng cử thì có cái lạ hết sức. Sao nghe dư luận lạ hết sức. Thừa Thiên có 6 huyện mà 4 huyện ra lệnh cho dân trong huyện: "Không nên bầu ông Đôn Hậu", còn 2 huyện Hương Trà, Hương Thủy thì không ra lệnh như vậy mà chỉ có các buổi mạn đàm. Dù không ra lệnh đừng bầu ông Đôn Hậu, trong các buổi mạn đàm đó ra lệnh miệng để cho đừng ai bầu Ôn Đôn Hậu. Thí dụ: CP của ta là CP trẻ trung, phải xây dựng nhiều, cần người trẻ trung, sáng suốt, có khả năng. Cho nên bầu QH thì bầu người sáng suốt, trẻ trung chứ còn các ông già thì để người ta nghỉ thôi. Bầu mấy ông già thì mệt lắm. Họ chẳng có ý kiến gì. Họ già thì chết rồi mất người bầu lại phiền lắm. Trong khi trên bàn chủ tọa đưa ra như vậy, thì ở dưới có người nói: Thưa anh, cho tôi hỏi, cụ Tôn Đức Thắng năm nay bao nhiêu tuổi? '80 thì chắc chắn'. 'Ờ thì đã 80 mà ứng cử được, ôn Đôn Hậu chưa 80 thì ra được thôi.' Nói như vậy thì họ vỗ tay. Thành ra việc cản trở đừng có bầu tôi trong buổi mạn đàm đó bị gãy. Buổi mạn đàm khác: Bàn chủ tọa: Ôn Đôn Hậu có tranh đấu đó nhưng mà Ôn tranh đấu cho PG chứ đâu phải cho dân tộc. Ta nên tìm những người có tranh đấu cho dân tộc mà bầu. Trong hội trường có người trả lời: Theo tôi, trong CP Ngụy Quân, à Ngụy Quyền vừa rồi (như CP Ngô Đình Diệm chẳng hạn). NĐD khi lên làm TT, lê máy chém đi hang cùng ngõ hẻm diệt người kháng chiến, trả thù người yêu nước. Trong khi đó ở miền Nam VN có nhiều đảng phái, nhiều tôn giáo, mà có tôn giáo nào dám đứng phản đối NĐD như PG đâu. Phản đối tức nhiên là vạch trần tội ác của Ngụy Quyền ra. Vạch trần tội ác Ngụy Quyền thì làm cho họ mất tất cả thể diện quốc nội, quốc ngoại. Như vậy không lợi cho CM thì là cái gì? Thành ra tuy là tranh đấu cho PG nhưng cũng làm lợi cho CM ở chổ đó. Ở dưới người ta vỗ tay. Vỗ tay như vậy thì cái luận điệu của người trên bàn chủ tọa bị gãy rồi. [Sao lạ vậy] Buổi mạn đàm thứ ba: Bàn cử tọa: Theo tôi, ông Đôn Hậu (mà buổi mạn đàm nào cũng chăm ông Đôn Hậu mà nói thôi chứ không thấy nói ai) có đi với CM đó nhưng Ôn bị bắt chứ đâu phải tình nguyện đi. Cho nên ta lựa người tình nguyện đi với CM kia. Dứt lời thì ở dưới có người hỏi: Anh cho tôi có ý kiến. 'Ôn Đôn Hậu bị bắt'. Cái câu đó nếu trước đây nói thì bị tù rồi đó, nhưng bây giờ thì không sao. Nhưng nếu như Ôn đã bị bắt thì có tội mới bị bắt chứ. Đã là có tội thì tại sao khi lên Trường Sơn vỏn vẹn đâu trên dưới 10 ngày mà đã đưa cái tội nhân (Đôn Hậu là 'tội nhân' đó) lên làm Phó CT Trung Ương Liên Minh DCDTHBVN. Cái chi lạ vậy, sao đưa tội nhân đó lên cao dữ vậy? Làm Phó CT Trung Ương chứ đâu phải là Địa Phương? Đến năm 69, lại đưa tội nhân đó vào Ban Cố Vấn CP CMLT CH miền Nam VN. CP làm chi lạ vậy? Đưa tội nhân đó lên chức Phó CT Trung Ương CPCMLT miền Nam VN là quá rồi, mà sao đưa lên Hội đồng Cố vấn CP được? Sao lạ vậy? Anh cho biết? Anh kia lúng túng. Tới đó là gãy. Họ vỗ tay. Nhưng nghe đâu đến khi kiểm phiếu, chính ông Hoàng Phương Thảo nói: Lạ quá! Lạ quá! Tôi cũng điên rồi. Sao Ôn Đôn Hậu bị phiếu tụt thế này? Rớt tụt thế này? Thì làm sao? Sau đó nghe đâu ở Trung Ương đưa tin vô: "Không được làm cho ôn Đôn Hậu thất cử." Thế là tôi đắc cử với con số trên 60%. Đó là con số chót. Tất cả các đại biểu ở Thừa Thiên mà chỉ tôi là người chót. Tôi lấy làm lạ mà phải chịu thôi. [Ra Họp Quốc Hội] Đến khi ra họp Quốc Hội. Họp Quốc Hội thì chia ra từng khóm. Nghĩa là mới đến thì họp mỗi tiểu ban. Trong đó có mục Đánh Giá ƯCV. Đến mục đó chưa thấy ai nói gì, tôi hỏi mấy ông (khi đó có anh Trung, anh Nguyễn Tất Trung): Đến cái mục này tôi muốn nói được không? Anh Trung: 'Muốn nói chi ông cứ nói thôi!' Tôi nói: Thưa Quý vị Đại Biểu, theo tôi từ ở trên Trường Sơn như vậy đó, như vậy đó... (Tôi kể hết) Tức là tôi không muốn ra ứng cử chút nào hết, mà đây là sự bắt buộc tôi mới ra. Đến khi tôi ra rồi thì Thừa Thiên có 6 huyện. Bốn huyện thì ra lệnh như vậy còn 2 huyện không ra lệnh mà có những cuộc mạn đàm đưa ra như vậy tức là muốn làm cho tôi thất cử. Không muốn cho tôi ra ứng cử thì tại sao đưa tôi ra mà lại không muốn cho tôi đắc cử. Tôi chưa thấy, trên 70 tuổi [có tiếng tụng kinh...]... [Phang ghế] Nhưng mà ông Võ Nguyên Giáp lên tiếng: Tôn giáo mà họ bầu như vậy là cao lắm đó rồi nhá! Câu nói của ôn VNG, tôi thấy trong khi đó cái bất bình của tôi nó lên cực độ. Trong khi nó lên cực độ tôi mới nhớ lại mình là thầy tu. Mình là thầy tu phải có một thái độ như thế nào để khác với người ta. Nếu không phải là thầy tu đó, thì cái ghế của tôi sẽ phang ông Võ Nguyên Giáp một cái. Nhưng mà may quá tôi thấy mình là thầy tu rồi may quá! Chứ không thôi mọi chuyện xảy ra như vậy đấy. Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Thích Đôn Hậu năm 1976 @ VNExpress 3. Bổ túc về Lời tuyên bố của Dương Văn Minh (http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=46m45s) Tôi xin bổ túc thêm khi nãy nói với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng chuyện Dương Văn Minh tuyên bố 'giữ lại mảnh đất cuối cùng'. PG nghĩ rằng: Như thế này mới buộc DVM phải tuyên bố. Nếu không tuyên bố thì có đất VNCH đâu để mà lập CP Liên Hiệp. Có VNCH trong CP Liên Hiệp thì Thiệu buộc lòng phải nuôi người miền Nam VN, bởi người miền Nam VN là của Thiệu. Mà Thiệu nuôi người miền Nam VN thì buộc Mỹ phải giúp cho Thiệu để Thiệu nuôi. Đồng thời, có giữ lại mảnh đất cuối cùng, có VNCH, do Thiệu làm TT trước kia, thì người Mỹ mới đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh theo họ đã hứa, đã ký trong hiệp định Paris. Nếu không tuyên bố như vậy, (thì lẽ đương nhiên là mình lấy hết, CP Cách Mạng Lâm Thời sẽ lấy hết), mà đã lấy hết, thì còn VNCH đâu mà liên hiệp. Lấy như vậy thì người Mỹ đâu có dại gì mà bỏ 1 đồng xu. Chắc chắn họ sẽ không cho mình một đồng xu nào hết. Vì thế cho nên Minh phải tuyên bố "giữ lại mảnh đất cuối cùng". Ba bốn cây số cũng được, năm mươi hoặc mười cây số cũng được! Thích Đôn Hậu và VC Tôn Thất Dương Tiềm từ Hà Nội đi sang Mông Cổ năm 1969 4. Thừa nhận mình đã tham gia CM (http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=49m12s) Bây giờ tôi kể một chuyện sau khi ở Hà Nội về Huế. Tôi kể ở đây có hơi lộn xộn, nhớ chi nói nấy. Về Huế, cái hi vọng nhất của tôi là vào SG thăm Viện Hóa Đạo, thăm các vị HT và TT trong đó, đã xa cách nhau 8 năm trường. Làm sao vô, phương tiện gì, mà có phương tiện chắc chi mà đi được? - Cứ hi vọng nhưng chưa đạt. Ba tháng sau, bức điện của ông Nguyễn Hữu Thọ đánh ra mời tôi vào họp. Tôi vào thì đi máy bay, vào Đà Nẵng chờ đợi, lên không có máy bay rồi về. Một tuần sau mới đi. Ủy Ban Trung Ương Đà Nẵng đánh điện cho Mặt Trận (MT) là tôi đã lên máy bay. MT độ thời gian lên máy bay và vô trong đó là bao nhiêu, rồi đem xe đến phi trường TSN đón. Lên đón, đợi mãi không có máy bay rồi họ về. Lên lần thứ 2 cũng không có rồi họ về. Thế rồi, đến khi máy bay của tôi đến TSN không biết làm sao đi vì xe cộ không có. Anh Tiềm nóng nảy, tức tối hết sức: Tại sao không có xe của MT lên đón? Anh ấy đâu có biết đã đón 2 lần mà không có, họ về. Anh ấy ra thuê xe Taxi. Anh ấy nói: Bây giờ mời Ôn lại nhà anh Kỵ. Tôi đến ông Kỵ, ăn cơm rồi nghỉ, rồi sau thì hay. Khi đó thấy anh Tiềm có thái độ bực bội ra thuê Taxi đi về, anh Tiềm biết số nhà. Ăn cơm nước xong, nghỉ cái đã. Trong khi về nhà là xe MT lên TSN đón. Lên đó họ cho biết: Có máy bay vô, trong đó có ông sư mà thấy họ thuê xe Taxi đi rồi. Xe MT đoán rằng có lẽ ông ấy đến Ấn Quang chăng? Đến Ấn Quang, họ hỏi: Có HT Đôn Hậu đến đây không? Vô rồi mà bây giờ không biết đi đâu? Do đó mà Ấn Quang biết tôi vô. Hai ngày sau Ấn Quang dò hỏi mới biết tôi ở nơi con đường Phùng Khắc Khoan, ở chung với Thiện Hào. Sau đó, từ VHĐ, các vị lần lượt đến thăm. Nhưng hơn một tuần tôi chưa đến Ấn Quang được, bực bội hết sức. Xin mấy cũng không được vì công việc chưa được. Trước hết, tôi gặp ông Nguyễn Hữu Thọ, ông cho biết: Sở dĩ mà mời bác vào vì trong này có một chuyện gây cấn. Giữa PG Ấn Quang với CP CM có thái độ chưa hiểu nhau, mất đoàn kết. Cho nên mời bác vô làm thế nào đó, vì bác là cả hai bên, để làm dấu nối cho hai bên. À, tôi mới biết là như vậy tôi vô là do đó. Cho nên ông sắp đặt chương trình để tôi đi chổ này chổ khác mà chưa cho đến VHĐ. Nào là thăm Lục Hòa Tăng, nào là thăm PG yêu nước vv... chưa cho thăm VHĐ. Một tuần hay 8 ngày sau, tôi xin thì các vị bằng lòng cho tôi đến VHĐ. Được tin tôi đi VHĐ, các vị VHĐ đến đón tôi. Khi tôi đến thì có TT Thiện Minh, TT Huyền Quang ở sẵn đó. Ngồi nói chuyện một chập thì HT Trí Thủ, Viện trưởng VHĐ đến. Lần lượt Trung Ương Hội Đồng Lưỡng Viện đến đầy đủ. Sau khi nói lời chào mừng thì HT Trí Thủ yêu cầu tôi: - HT đi 8 năm trường thì ở nhà trong HĐ Lưỡng Viện hết sức là trông nhớ. Hôm nay được gặp HT trở lại HĐLV rất là vui mừng. Bây giờ xin HT cho ý kiến Phật giáo nên làm thế nào đây để duy trì đạo pháp, duy trì tổ chức? HT Viện Trưởng dứt lời, tôi nói: - Trước hết, tôi thành thật cám ơn HĐLV, mà HĐLV là tiêu biểu, các tỉnh giáo hội cho đến các khuôn giáo hội. Theo tôi biết, sau khi tôi đi thì, từ HĐLV cho đến các tỉnh các khuôn, tất cả đều làm lễ cầu an cho tôi. Cầu cho trên bước đường phụng sự đạo pháp dân tộc của tôi được luôn luôn thuận bước, an lạc. Để đáp lại đạo tình thân thiết đó, tôi không biết nói gì hơn là tôi thành thật cám ơn, và tin rằng tiếp tục để đóng góp vào việc bảo vệ đạo pháp và dân tộc của Viện. Và tiếp theo, HT Viện Trưởng có tỏ ý: - Bây giờ làm thế nào đây để bảo vệ đạo pháp, bảo vệ tổ chức? Theo ý tôi: Điểm thứ nhất, mà nhất là cấp lãnh đạo, phải củng cố Bồ đề tâm. Bồ đề tâm mà không củng cố thì không còn nói gì nữa, không lãnh đạo ai được hết. Điểm thứ hai, phải giữ gìn Giới hạnh thật trang nghiêm. Nếu Giới hạnh mà không trang nghiêm thì tự mình không được lợi ích mà, nhất là lãnh đạo, không dám nói ai hết. Thứ ba, chúng ta cố gắng xiển dương Chánh pháp. Khi thì ta có thể giảng cho 1000, 100 người. Còn khi không thể thể hiện được, chúng ta có thể giảng 5 người, 10 người. Nhiều lần, nhiều chổ giảng "5 người, 10 người" thì thành đông đúc như một lần giảng "100 người, 1000 người". Thứ tư, chúng ta cố gắng tìm những người thừa kế. Phật có dạy "Phật pháp Pháp Nhị Bảo Do Tự Tăng Hoàng". Nghĩa là Tăng Bảo hoằng dương mà thiếu Tăng Bảo thì thiếu cả Phật Pháp. Không có Tăng Bảo thì không có Phật pháp. Cho nên phải tìm người thừa kế. Tức là Tăng Bảo ở tương lai. Chúng ta cố gắng thực hành phương pháp mình đã lựa chọn. Nếu như tu hành bữa nay thấy thực hành phương pháp niệm Phật không thấy lợi ích thì qua Mật Tôn. Phương pháp này phương pháp khác thay đổi như vậy mãi rồi loay hoay không thành một kết quả nào hết. Cho nên cái phương pháp nào mà mình cố gắng thực hành đều đến kết quả như nhau. Mình cố gắng phương pháp nào mình đã lựa chọn. Cuối cùng, chúng ta cố gắng dắt dìu tín đồ. Chúng ta hướng dẫn cho họ biết đạo, tin Phật một cách chắc chắn. Hướng dẫn cho tín đồ ngày quang chay. Hướng dẫn cho họ nghi lễ ngày Rằm, Mồng Một vv... Nhất là, giao phú cho tín đồ một nhiệm vụ quan trọng: Họ phải làm thế nào để biến gia đình của họ thành ra gia đình Phật hóa. Tôi thấy vừa qua có những gia đình vợ chồng hết sức thuận thành về đạo, lo lắng cho đạo. Nhưng mà họ bỏ lơ con cái, không dạy vẽ chi hết. Có lẽ các đạo hữu ấy nghĩ rằng mình là cha mẹ mà theo Phật thế này thì con cái dám đâu lơ đễnh. Nhưng mà không ngờ rằng vì bỏ lơ không dạy vẽ chi cả, cho nên họ theo bên khác. Họ theo cái khác. Họ trở lại phản đối thì kêu trời không thấu. Cho nên phải dạy vẽ, biến gia đình của mình thành ra là gia đình Phật hóa. Dạy cho nó ngay từ khi 3 tuổi. Dạy con cái lòng tin Phật từ lúc 3 tuổi. Dạy cho nó biết chấp tay trước bàn thờ Phật, dạy cho nó biết ăn chay, dạy cho nó biết cung kính Tam Bảo. Lớn lên một chút dạy cho nó biết chư Phật hộ Phước hộ Thân. Nếu mình không có khả năng thì nhờ các đạo hữu khác hướng dẫn cho nó. Như vậy thì bên tăng đồ, hết thế hệ này đến thế hệ khác và bên tín đồ, qua thế hệ này đến thế hệ khác thừa kế, tiếp nối. Bao giờ cũng có người để duy trì đạo pháp. Duy trì đạo pháp có khi ồ ạt, có khi âm thầm. Mà biết đâu khi âm thầm nó còn lợi hơn khi ồ ạt. Tôi có đôi lời vắn tắt để trả lời câu hỏi của HT Chủ Tịch. Xin hết lời. Từ đó về sau, trong các buổi phát biểu của tôi, HĐLV và một phần đông chư tăng ni không còn ngờ vực tôi nữa. Trước khi chưa nói chuyện, và cái sự kiện về Huế lại không ở chùa mà ở Viện Đại Học. Đến khi vô Sài Gòn không đến VHĐ mà lại ở nhà đường Phùng Khắc Khoan. Những cử chỉ đó làm cho có nhiều người nghi đối với đạo pháp bây giờ tôi lạc lẽo lắm, không đậm đà bằng CM. Cho nên có người nói bây giờ ông ấy "mặc áo vàng bên ngoài thôi, bên trong thì áo đỏ". Có người nói chơi như vậy! Nhưng sau buổi nói chuyện này, có người nói: 'Ô! Ông ấy vàng từ trong ra ngoài. Luôn luôn ông ấy mặc áo vàng mà!' Nói đến đây, TT Thiện Minh hỏi: Thưa HT, HT trước kia thì không nói, nhưng từ nay sắp đi HT tham gia với tư cách gì? Cá nhân hay đoàn thể? Tôi nói: Tôi thì luôn luôn cá nhân thôi, trước kia cũng vậy, mà từ nay sắp lui cũng vậy, luôn luôn là cá nhân. HT TM: Tại sao HT không nhân danh đoàn thể? Tôi nói: Tôi không nỡ nhân danh đoàn thể bởi vì TT cũng như các vị HT, TT khác đã biết Đôn Hậu này, từ khi xuất gia, sau khi học đạo, cho đến mãi mãi ngày nay thì Đôn Hậu không làm một cái việc gì riêng cho mình hết. Trong khi đó làm riêng cái gì cũng được, nhưng mà không, chỉ làm cho đạo thôi. Trước sau chỉ vì đạo thôi thì ở ngoài hay tham gia CM cũng vì đạo mà thôi! Thì làm cái gì, đã là vì đạo, thì có thái độ ngôn ngữ gì lợi cho đạo tôi mới làm. Cái tổn thương cho đạo, nhất định tôi không làm. Tôi làm cái gì lợi ích cho đạo thì trong tổ chức mình được nhờ. Nếu cái gì có hại, thì Đôn Hậu này chịu lấy. Nếu tôi nhân danh đoàn thể mà tôi sai thì đoàn thể sai, tôi không nỡ để đoàn thể phải chịu cái tiếng đó. Nói như vậy TT Thiện Minh gật đầu một cái gần sát bàn. TT Thiện Minh hỏi thêm: Thưa TT, đành rằng TT tham gia tư cách cá nhân, nhưng TT có muốn ai tham gia với TT nữa không? Tôi nói: Tôi chỉ biết tôi tham gia là nhiều thôi. Còn ai nữa thì không dám biết. Dầu có ai tham gia đi nữa thì tôi yêu cầu mình tham thì cứ là mình tham gia, đừng có vì mình tham gia mà bắt buộc người khác tham gia với mình. Cái chuyện đó tôi không đồng ý. TT TM: Tại sao như vậy HT nói rõ ra một chút? Tôi nói: Là thế này, tôi tham gia với tinh thần bảo vệ đạo pháp. Người khác không tham gia với tinh thần bảo vệ đạo pháp. Thì đứng ngoài để bảo vệ đạo pháp, vào trong đó để bảo vệ đạo pháp, y nhau. Cho nên tôi không muốn ai tham gia và tôi không rủ ren ai đi theo với tôi hết. TT TM nói: Đi lâu mới biết đường dài. Ở lâu mới biết con người phải chăng. 5. Tự thú PGVNTN đã đồng hành cùng CS tấn công Huế, Tết Mậu Thân 68 (http://youtu.be/2xO--Ucc9nA?t=1h12m32s) Có một số chư tăng hỏi tôi: Sau khi HT rút lui khỏi chân Đại Biểu Quốc Hội thì có xảy ra cái gì không? Tôi trả lời đúng như sự thật. Đưa đơn từ chức ĐBQH thì 10 ngày sau, dưới tỉnh cho các vị quen biết đến vận động tôi đừng làm việc đó, và cũng vận động những chư tăng quen biết vận động tôi không nên rút lui như vậy. Trước sau có đến 10 lần đến vận động. Tôi nói: Việc làm của tôi là việc làm của người lớn, chứ không phải của con nít. Nghĩa là làm cái gì cân nhắc đắn đo kỹ lưỡng rồi mới làm, chứ không phải nhắm mắt làm càng làm quấy đến khi ai nói rồi rút lui. Thêm nữa, tôi từ chức với Trung Ương chứ không phải với Địa Phương. Cho nên có muốn nói gì thêm thì gặp Trung Ương (T. Ư.) tôi nói thôi. Nói với địa phương tôi không có lời chi hết và các vị cũng không có nhiệm vụ chi mà giải quyết. Khi nào gặp T. Ư. tôi nói thôi. Do đó, mấy ngày sau, dưới tỉnh, Mặt Trận lên nói: HT muốn gặp T.Ư. thì ngoài T.Ư. gởi tin vào mời HT ra để gặp các vị T.Ư. Tôi chỉ mớ giấy mà Ủy Ban Thường Vụ QH đưa thơ triệu tập: Bởi vì tôi đưa đơn từ chức nhưng UBTVQH không nhận lời, nên cứ đưa thơ mời đi họp QH. Họ coi như không chuyện gì xảy ra. Bây giờ tôi đi ra ngoài đó. Các vị bắt tôi ngồi họp thì tôi có từ chức chi nữa không? Tôi xin ở nhà thôi. Tôi ra nhằm mục đích gặp các vị T. Ư. hay là các vị T. Ư. vào gặp tôi cũng như nhau. Các vị đi vô dễ hơn là tôi đi. Tôi xin ở nhà. Khi nào gặp các vị đi vô, tôi nói chuyện. Thế rồi, ngày mùng 8 tháng Chạp năm 1978, thì VP dưới tỉnh cho một vị lên: Có các vị đại biểu thay mặt T. Ư. muốn vào gặp cụ. Nếu được cụ nhận lời thì 10 giờ các vị lên. Tôi nói: Vâng, xin mời các vị lên. Gần 10 giờ, tôi ra trước tiền đường đón ông Bùi Sang và Cổ Kim Thành. Các vị ấy đưa cho tôi một bức điện với đại ý là UBTVQH nhờ hai vị ấy gặp tôi để bàn thêm ý kiến. Đọc xong bức điện, tôi nói: Các vị thì tôi vẫn thường gặp. Nhưng bây giờ các vị lại thay mặt T. Ư. đến gặp tôi tức các vị là T. Ư. Điều tôi trông mong đã lâu thì bây giờ mới thể hiện, tôi rất hoan nghênh. Vậy thì tôi xin nói hết những gì tôi muốn nói. Chắc các vị đã biết một cách rõ ràng là PG chúng tôi luôn luôn gắn liền dân tộc. PG với DT gắn liền nhau như môi với răng. Cho nên khi ra Bắc, tôi được các vị cho biết: Thời gian qua các vị Cách Mạng tiền bối (kể cả Hồ Chủ Tịch và hiện tại như Thủ Tướng Phạm Văn Đồng vv...) đã ở chùa để tiếp tục làm CM. Nếu PG không yêu nước, trong khi các ngài ở chùa, các nhà sư mà xấu thì các ngài cũng không còn đến ngày nay để lãnh đạo. Từ đó về sau, trãi qua những cuộc kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, các vị cũng biết nhà chùa là nơi giúp đỡ chở che cán bộ, bộ đội như thế nào. Ngay cả tết Mậu Thân, cán bộ bộ đội về TP Huế nhiều như vậy. Về thì ở đâu? Không phải ở nhà đạo khác, mà chỉ ở nhà Phật tử. Nếu PT mà xấu, không có tinh thần yêu nước thì khó mà thực hiện được cuộc CM vùng lên trong Tết Mậu Thân. Nói như vậy để thấy PG luôn luôn gắn liền với CM. Vì gắn liền với CM cho nên khi nghe đến giải phóng chổ nào thì người PG hoan nghênh lắm! Mà nhất là khi nghe giải phóng đến Sài Gòn thì họ phấn khởi vô cùng, hoan nghênh hết sức! Từ đó cán bộ, bộ đội về khắp nông thôn cho đến nơi thành thị. Ở đâu có bóng anh em cán bộ, bộ đội thì đồng bào Phật tử hết sức hoan nghênh, vui vẻ. Ra đón chào, người thì bắt tay, vuốt vai, cầm áo, rất hoan nghênh, cứ ngó mãi, cười mãi. Họ nhìn như là anh em, con cháu, chú bác của họ đi xa làm nghĩa vụ thành công về. Từ đó có gì họ cũng đem ra mời ăn. Thành ra đoàn kết mà thương yêu nữa. Chẳng những thương yêu, mà còn kính nể, kính trọng nữa. Bởi họ thấy anh em là những người có công với CM, có công trong cuộc kháng chiến, là người nếm mật nằm gai, đem lại độc lập hòa bình ngày hôm nay. Nhưng mà thưa với quý vị, cái tình đoàn kết đó, thương yêu đó, kính trọng đó chỉ có được 10 ngày thôi. Sau 10 ngày đó thì nó gạt đi đâu hết. Lòng thương yêu đó, sau đó là ghét cay ghét đắng. Lòng kính trọng thành ra khinh đáo để, tại sao vậy? Rất dễ hiểu thôi: Anh em cán bộ, bộ đội về từ thành thị đến nông thôn. Về đạo khác thì không biết, chứ về đạo Phật, các nhà chùa, nhất là những chổ tu học đông, thì anh em nói thế này: Trước kia tu phải rồi, nhưng còn bây giờ hòa bình độc lập rồi tu làm gì nữa. Các người đi về đi, lo tự lực mà sống thì hơn. Chứ chùa là gì? Chùa là xương máu của đồng bào. Rồi đây trước sau gì người ta cũng lấy thôi. Bởi của đồng bào thì lấy để làm công việc cho đồng bào. Khi đó các người cũng sẽ về. Trước sau cũng về thì về trước tốt hơn. Thêm nữa, các người theo đạo Phật thì thử hỏi, Đạo Phật ra đời gần 3000 năm nay, họ có đem gì làm lợi ích cho nhân dân chưa? Mà CM ta làm thành tựu như vậy đó, đem lại hòa bình dân tộc. Như vậy là tôn thờ CM hơn là thờ Phật. Bắt đầu từ đó thì tình đoàn kết, thương yêu kính trọng anh em còn phân nửa thôi. Còn phân nửa rồi sẽ hết, mà còn thâm nữa. Tiếp theo sự vận động, các anh em lại còn khủng bố các chùa, nhục mạ những nơi Phật đường, không cho họ đến làm lễ, nói những lời khiếm nhã. Tiếp theo, các anh em phá hủy tượng Phật lộ thiên (như tôi đã nói khi nãy), bắt bớ, giam cầm nhiều người. Sau đấy [các anh em] còn bắt các vị tu sĩ đại diện các tỉnh. Thí dụ, đưa các vị đó biên bản, bảo ký vô. Trong biên bản đại ý là: "Giảng đường của chùa thì chúng tôi bằng lòng để cho Ủy Ban sử dụng." Đại diện chùa nói: Chúng tôi không thể ký được vì chúng tôi chỉ có nhiệm vụ giữ gìn, không giao cho ai được vì đây là tài sản của VHĐ. Nếu có sự ủy thác, giấy tờ của VHĐ, thì chúng tôi sẵn sàng giao. Ở đây chưa có mà chúng tôi giao thì chúng tôi có lỗi. Họ nói rất có lý. Nhưng rồi các ông đó bị bắt. [Các anh em] không lấy lý do đó mà lấy lý do "mấy ông sư đó phản động, theo CIA, theo Mỹ, theo ngụy" vv... Rồi lần lượt bắt các vị trong VHĐ nữa, bắt Thiện Minh, để Thích Thiện Minh chết... Thưa quý vị, Quý vị biết tôi là người trong VHĐ... Tôi không thể ngồi trên hai cơ quan tối cao của nhà nước mà nhìn PG chúng tôi... [Bản gốc ngừng ngang đây...] HẾT Thay Lời Kết Chúng tôi vừa hoàn tất tất cả 5 phần tài liệu được ghi chép từ audio tự thuật và tự thú của Thích Đôn Hậu. Tài liệu này bao gồm những dữ kiện quan trọng (hầu hết đã được nêu trong sách Biến Động Miền Trung) để từ nay sự thật lịch sử không thể bị chối bỏ hay tẩy xóa. Qua tài liệu Audio TĐH Tự Thuật này: - GHPGVNTN đã đồng hành CS trong việc lật đổ hai chính thể Đệ I và Đệ II VNCH. - GHPGVNTN đã tiếp tay cho CS trong cuộc thảm sát đồng bào Huế Mậu Thân 1968. - GHPGVNTN đã đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống để đầu hàng CS 1975. - Đương sự xác nhận bản thân đã tự nguyện đi theo CS và nằm trong vị trí cao cấp của Trung Ương Đảng CSVN. - Đương sự đã giữ chức Phó CT Trung Ương Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình Việt Nam (Sau đổi tên là Mặt Trận Tổ Quốc VN). - Đương sự hoàn toàn không hề bị ai bắt cóc ra Bắc năm 1968. Ra Bắc 1968, đương sự trực tiếp gặp Hồ Chí Minh và theo lời đương sự kể, 'Hồ Chủ Tịch tán dương cuộc tranh đấu của PG là cả một sự đóng góp lớn lao vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, mà điển hình là việc tự thiêu của sư Quảng Đức' (Xem lại Phần 1).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 11:04:28 GMT 9
Tướng Dương Văn Minh và long mạch huyền bí ở Đồng Tháp Mười ??Phunutoday.vn - 10/08/2011 06:19 00 Tin gốc Tuong Duong Van Minh va long mach huyen bi o Dong Thap Muoi (Phunutoday) - Ngay từ cái thời vùng Đồng Tháp Mười còn là “cánh đồng hoang”, chưa được khai phá, ở nơi đây đã có một cánh đồng nhỏ rộng vài trăm hecta đất đai màu mỡ, về sau trở thành cánh đồng màu mỡ nhất tỉnh Long An, một trong những cánh đồng có năng suất lúa cao nhất miền Tây Nam Bộ. Chính nơi đây đã sản sinh ra hàng trăm giống lúa mới cung cấp khắp các tỉnh đồng bằng. Trên cánh đồng này, phần nhiều cư dân đều mang họ Dương, xuất phát từ cụ tổ họ Dương từ miền Trung vào khai khẩn đất hoang cánh đây vài trăm năm. Đến khoảng đời thứ 6 – thứ 7, nhiều người trong tộc họ Dương bỗng trở nên nổi trội, thành danh trong cuộc sống, mà rõ nhất là Đại tướng, sau trở thành Tổng thống chính quyền Sài Gòn – ông Dương Văn Minh. Cách đây vài năm, cánh đồng “long mạch” này được một doanh nghiệp nước ngoài săn lùng để làm dự án “công viên nghĩa trang”. Nhờ bàn tay, khối óc của con người, mà từ một cánh đồng hoang, ngày nay Đồng Tháp Mười đã trở thành vựa lúa lớn của cả nước, đất đai đã được thuần hóa, trồng lúa 2 – 3 vụ/năm, cho năng suất cao. Trong đó, có một cánh đồng được khai phá vào loại sớm nhất, cũng là cánh đồng màu mỡ nhất, cho năng suất lúa có lúc hơn 10 tấn/ha/vụ. Đây cũng là cánh đồng sản xuất lúa giống của tỉnh Long An, hàng trăm giống lúa mới từ đây đã đi khắp Long An và các tỉnh đồng bằng. Cũng trên cánh đồng này, một nông dân tay lấm chân bùn trở thành Anh hùng lao động. Và chính trên cánh đồng này cậu bé Dương Văn Minh đã từng tung tăng vui đùa, trước khi đi học “trường Tây” và trở thành một trong những nhân vật được nhắc tới nhiều nhất ở miền Nam trong nửa cuối thế thể 20. Cửa ngõ vào Đồng Tháp Mười Ngày nay giao thông đường bộ ở ĐBSCL đã phát triển, chúng ta có nhiều cách để vào Đồng Tháp Mười. Từ Củ Chi (TP. HCM) cũng có thể theo tuyến đường Hồ Chí Minh mới mở đi xuyên ngang Đồng Tháp Mười. Từ thành phố Mỹ Tho hoặc thị trấn Cai Lậy (Tiền Giang), hay từ Cao Lãnh (Đồng Tháp) đều có lối đi thuận tiện để vào trung tâm Đồng Tháp Mười. Thế nhưng, có một tuyến đường gắn với công cuộc khai phá Đồng Tháp Mười, tuyến đường đầu tiên vượt lên trên đỉnh lũ vào năm cao nhất, có vai trò như là “phao cứu sinh” cho vùng đất này vào mùa lũ, ngày nay tiếp tục là tuyến đường chiến lược của vùng Đồng Tháp Mười, đó là quốc lộ 62. Tuyến đường dài 75 cây số này bắt đầu từ quốc lộ 1A tại thành phố Tân An, chạy xuyên qua những cánh rừng tràm, những đồng lúa bát ngát, băng qua hết Đồng Tháp Mười, rồi kết thúc tại cửa khẩu Bình Hiệp giáp ranh với tỉnh SvâyRiêng – Vương quốc Campuchia. Đồng Tháp Mười là một vùng đất ngập nước của đồng bằng sông Cửu Long có diện tích gần 700 ngàn hecta, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp trong đó tỉnh Long An chiếm non phân nửa. Suốt hàng ngàn năm, vùng đất này chịu cảnh hoang hóa, đất đai bị ngập nước mỗi năm 3 – 4 tháng. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đồng Tháp Mười là một trong những chiến khu quan trọng nhất, từng được ví như “Việt Bắc miền Nam”. Thời Pháp, rồi thời Mỹ, đã có nhiều nỗ lực khai phá Đồng Tháp Mười nhưng đều thất bại. Các nhà khoa học trên thế giới từng tính rằng, phải đầu tư vào mỗi hecta ruộng ở Đồng Tháp Mười 1 triệu USD mới có thể cải tạo nó trồng lúa được. Bắt đầu từ thập niên 1980, chỉ với lao động thủ công là chính cùng với kinh nghiệm thực tiễn, hàng triệu người dân ba tỉnh nói trên đã đẩy mạnh khai hoang vùng Đồng Tháp Mười. Hàng trăm ngàn cây số kênh mương đã được đào để thoát nước, xả phèn. Vất vả, kể cả thất bại suốt 20 – 30 năm, người dân nơi đây đã biến Đồng Tháp Mười thành vựa lúa cả nước, góp phần quan trọng đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực thành cường quốc xuất khẩu. Rời thành phố Tân An, xuôi theo quốc lộ 62 khoảng 10 cây số, chúng ta đến ngã tư Mỹ Phú (thuộc xã Mỹ Phú, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An). Đây có thể coi là cửa ngõ của Đồng Tháp Mười. Một cánh đồng bao la hiện ra trước mặt, đồng lúa bất tận xen lẫn với những vạt rừng tràm xanh ngát. Phía bên tay phải ngã tư Mỹ Phú là cánh đồng rộng mấy trăm hecta nằm cặp sông Vàm Cỏ Tây, đất đai ít màu mỡ, đã được cấp phép cho một dự án sân golf mấy năm qua, nhưng đến nay vẫn chưa triển khai. Phía bên trái ngã tư là cánh đồng thuộc ấp xã Mỹ Phú, nơi có thể xem là “cánh đồng huyền diệu” của vùng Đồng Tháp Mười. Cho đến thập niên 1970, tuyến quốc lộ 62 ngày nay chỉ đi qua khỏi ngã tư Mỹ Phú một đoạn rồi kết thúc. Đây cũng là cánh đồng hiếm hoi thuộc vùng Đồng Tháp Mười được khai phá rất sớm, chỉ qua khỏi cánh đồng này một chút là tới “cánh đồng hoang”, không có người sinh sống. Dù cách thành phố Tân An chỉ khoảng 10 cây số, nhưng ngày trước, mỗi năm xã Mỹ Phú phải chịu ngập sâu 2 – 3 tháng. Đó là giai đoạn nông dân nơi đây khai thác nguồn lợi thủy sản phong phú vào mùa lũ để bán cho người dân thành phố Tân An. Cũng chính nhờ hàng năm có mấy tháng đồng ruộng bị ngập, nước lũ mang phù sa về bồi đắp, khi lũ rút, bàn tay con người tiếp tục cải tạo, bồi bổ cho đất. Cứ thế, sau hàng trăm năm, cánh đồng xã Mỹ Phú trở thành vùng đất màu mỡ nhất tỉnh Long An và cả vùng Đồng Tháp Mười. Ngày nay quốc lộ 62 sau khi qua Mỹ Phú tiếp tục chạy thẳng vào trung tâm Đồng Tháp Mười bạt ngàn đồng lúa, rừng tràm. Nhưng những người phương xa khi về thăm Đồng Tháp Mười, họ thường ghé cánh đồng Mỹ Phú để hình dung công cuộc khai phá vùng đất huyền thoại này. Cánh đồng màu mỡ nhất Cánh đồng xã Mỹ Phú từ lâu đã trở nên thân quen với các trường Đại học, Cao đẳng Nông nghiệp. Đây cũng là địa chỉ hay lui tới của các Viện nghiên cứu về nghề trồng lúa. Đó cũng là điểm dừng chân của các đoàn du lịch sinh thái về vùng Đồng Tháp Mười. Mỗi khi cần thử nghiệm một giống lúa mới, các nhà khoa học thường tìm về cánh đồng xã Mỹ Phú. Cần nhân giống đại trà một giống lúa vừa lai tạo thành công, những kỹ sư nông nghiệp cũng khăn gói về ăn ngủ, cấy lúa trên mảnh đất màu mỡ này. Hầu hết các kỹ sư nông nghiệp chuyên về trồng lúa ở các trường đại học phía Nam, chân cẳng đều ít nhiều lấm đất ruộng ở Mỹ Phú. Giáo sư – Tiến sĩ Võ Tòng Xuân đã không biết bao nhiêu lần đặt chân đến cánh đồng xã Mỹ Phú. Nhiều vị lãnh đạo ở Bộ NN&PTNT, các trường đại học, các viện nghiên cứu trên cả nước đã từng đến học tập, nghiên cứu trên cánh đồng này khi còn là sinh viên. Theo thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Long An, đã có khoảng 500 giống lúa mới được nhân giống thành công ở cánh đồng Mỹ Phú, cho ra hàng chục ngàn tấn lúa giống chất lượng cao cung cấp cho cả Đồng Tháp Mười và các tỉnh ĐBSCL. Mọi chuyện bắt đầu vào đầu thập niên 1980, trước tình hình sâu rầy thường xuyên phá hoại mùa màng các tỉnh ĐBSCL, các nhà khoa học ở Viện lúa ĐBSCL đã nghiên cứu lai tạo được giống lúa kháng rầy. Các nông dân ở Mỹ Phú đã xin được ít hạt giống “quý như vàng”. Chỉ sau 3 – 4 vụ lúa, người nông dân nơi đây đã nhân lên thành 50 – 60 tấn lúa giống cung cấp cho cả tỉnh Long An, giúp hàng ngàn nông dân khác tránh được nạn sâu rầy phá lúa, góp phần làm nên những vụ mùa bội thu sau đó. Vụ đông xuân 2000 – 2001, nông dân Dương Văn Hữu (Hai Hữu) ở xã Mỹ Phú đã làm kinh ngạc mọi người khi thu hoạch lúa đạt năng suất hơn 10 tấn/hecta. Thời ấy, các kiện tướng trồng lúa ở Đồng Tháp Mười thi nhau nâng dần năng suất lúa, từ 5 – 6 tấn/hecta/vụ lên 7, rồi 8 tấn. Vì vậy mà khi ông Dương Văn Hữu thu hoạch đúng 10 tấn lúa trên thửa ruộng chưa tới 1 hecta của mình, các “kiện tướng trồng lúa” ở miền Tây Nam Bộ phải chào thua. Thực ra ông Hai Hữu cũng có có “bửu bối” hay giống lúa đặc biệt nào, ông làm nên kỳ tích là nhờ vào “cánh đồng huyền diệu’ Mỹ Phú. Ông Hữu kể, nhờ mùa lũ năm 2000 nước dâng cao kỷ lục, cao nhất trong mấy chục năm qua, nước ngập đồng ruộng kéo dài gần 3 tháng, vì vậy mà lượng phù sa bồi đắp lên đồng ruộng rất nhiều. Sau khi lũ rút, ông thấy phù sa bám trên mặt ruộng một lớp dày cả nửa lóng tay. Đường về xã Mỹ Phú. Cũng nhờ nước lũ ngập cao và ngập lâu, các loại thiên địch hại lúa như sâu rầy, chuột, ốc cũng bị cuốn trôi đi hết. Lượng phèn tiềm ẩn dưới mặt ruộng cũng được nước lũ cuốn trôi đi phần lớn... Với tất cả những lợi ích do mùa lớn mang lại, cộng với đất đã sẵn màu mỡ, cùng tay nghề chăm sóc của kiện tướng trồng lúa Hai Hữu, đám ruộng của ông cứ xanh mượt, rồi trỗ bông nặng oằn, ông Hai Hữu phải căng dây cho lúa đừng ngã. Kết quả, ông được ghi nhận là người nông dân miền Tây Nam Bộ đầu tiên trồng lúa đại trà đạt năng suất trến 10 tấn/hecta/vụ. Những năm sau này Đồng Tháp Mười không có lũ lớn, thậm chí gần như không có lũ trong vài năm trở lại đây, nhưng nhiều nông dân ở đây vẫn duy trì được những vụ lúa có năng suất trên dưới 10 tấn/hecta/vụ. Nông dân Dương Văn Năm cho biết, do phù sa tích tụ hàng ngàn năm, cộng với lớp thực bì khá dày bên dưới mặt đất, nên chỉ cần chịu khó cày sâu, cuốc bẫm, chăm sóc đúng qui trình kỹ thuật, năng suất lúa vẫn luôn đạt rất cao, mặc dù ông không cần phải bón nhiều phân hóa học. Không chỉ trồng lúa đạt năng suất rất cao, vào mùa khô nhiều hộ nông dân trồng xen canh dưa hấu, rau màu và luôn cho những vụ mùa bội thu. Dưa hấu trồng ở đây có thể đạt năng suất gần 30 tấn/hecta, cao hơn mức bình thường ở những nơi khác là 20 – 25 tấn/hecta. Đất đai màu mỡ, người nông dân có truyền thống lao động cần cù từ hàng trăm năm qua, là các yếu tố quan trọng giúp cho cộng đồng dân cư nơi đây có cuộc sống khá giả, nhiều người thành đạt trong cuộc sống và thành danh. Trong số đó phải kể đến là Anh hùng lao động Dương Văn Hữu. Đất lành sinh ra anh hùng Nếu sinh ra ở một nơi nào đó khác torng vùng Đồng Tháp Mười, có lẽ người nông dân nòi Dương Văn Hữu (SN 1923) cũng cả đời chật vật cuộc mưu sinh trên đồng ruộng. Nhờ sinh ra trên cánh đồng Mỹ Phú màu mỡ, cộng với gia đình không biết bao nhiêu đời làm nghề nông, tích lũy nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước, đã giúp cho người nông dân lam lũ trở thành Anh hùng. Ông Hai Hữu kể, những năm sau ngày giải phóng sâu rầy phá hoại lúa rất dữ, trong khi nguồn thuốc xịt rầy lại rất khan hiếm. Để bảo vệ mùa màng, bà con nông dân phải “chế” ra nhiều cách để chống sâu rầy, như dùng nhớt “chết” đổ xuống nước rồi rung cây lúa cho sâu rầy rơi xuống dính vào nhớt; dùng hột trái bình bát đâm nhuyễn hòa nước phun lên thân lúa... Sau trận lụt lịch sử năm 1978, cây lúa miền Tây quằn quại bởi dịch rầy nâu, đẩy nông dân lâm vào cảnh đói khổ. Trước tình hình đó, khi nghe Trường Đại học Cần Thơ triển khai việc nhân giống lúa kháng rầy, ông đã đăng ký thử nghiệm nhân giống trên phần đất của mình. Một mình ông chưa đủ diện tích cần thiết, ông Hai Hữu vận động người thân, bà con lối xóm đưa ruộng làm nhân giống thử nghiệm. Vụ đông xuân năm 1978 đã chính thức xác nhận sự ra đời của tổ nhân giống lúa "Hai Hữu" với 8 hecta ruộng. Đến cuối vụ, họ thu hoạch được 40 tấn lúa giống kháng rầy "quý như vàng". Thành công bước đầu càng kích thích người nông dân ham học hỏi này tìm đến với những điều hay, mới lạ trong nghề trồng lúa nước. Hễ nghe ở đâu có giống lúa mới, kháng rầy tốt, chịu được phèn, là ông tìm tới hỏi thăm, xin ít hạt giống. Năm 1982, ông đến Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp Ô Môn xem thí nghiệm 76 giống lúa chịu phèn, kháng rầy. Ngay từ khi đến đây, ông đặc biệt chú ý đến bụi lúa lá đứng thẳng trong đám lúa trồng thí điểm. Có lần ông đã nghe GS. Võ Tòng Xuân giảng rằng lúa lá thẳng thường là giống tốt, chịu đựng được điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên. Ông Hai Hữu xin kỹ sư canh nông Bùi Bá Bổng (nay là Thứ trưởng Bộ NN&PTNT) bứng bụi lúa này về nuôi dưỡng trên đất Láng Cò – Mỹ Phú quê ông. Sau mấy tháng chăm sóc, bụi lúa ấy đã cho ông 230 hạt. Ông lựa những hạt tốt nhất, đem nhân giống tăng dần rồi phổ biến cho bà con xung quanh làm thử. Ai cũng mừng khi đây là loại giống có sức sống mãnh liệt, chịu hạn, chịu phèn, kháng rầy bền bỉ. Vụ đông xuân 1983-1984, ông Hai Hữu cùng với bà con nông dân xứ Láng Cò bắt tay trồng đại trà và thu hoạch đến 6 tấn/hecta – vô địch về năng suất ở thời điểm đó. Loại giống này trở thành giống lúa chủ lực trên địa bàn huyện Thủ Thừa và Châu Thành (Long An), được đặt tên là IR4625 – nông dân quen gọi là nếp Láng Cò… Từ đó cho tới ngày ông mất (năm 2010), tổ nhân giống lúa Hai Hữu với tổng diện tích khoảng 100 hecta đã nhân thành công khoảng 500 giống lúa. Trong đó, có những giống đã đi vào lịch sử lúa giống Long An và miền Tây Nam Bộ, như giống IR13240-108-2-2-3 và IR6425-469-4-2. Các giống lúa với nhiều tính năng nổi trội ấy còn được nông dân cả tỉnh Long An sử dụng cho đến tận ngày nay. Năm 2002, Chủ tịch nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho ông Hai Hữu. Hiện con cháu ông Hai Hữu còn lưu giữ quyển nhật ký ông ghi lại chi tiết quá trình nhân giống lúa của mình và những lời tâm tình của khách trong và ngoài nước khi đến thăm, học tập kinh nghiệm nhân giống lúa của ông. Ông đã kể rất chân thật quá trình mình đến với nghề nhân giống lúa thế nào. Ông luôn nhận mình là người học trò của “thầy Võ Tòng Xuân”. Trong nhà ông Hai Hữu, tấm ảnh chụp chung ông với GS.TS Võ Tòng Xuân được treo ở nơi trang trọng. Trong quyển nhật ký của ông Hai Hữu còn lưu hàng trăm chữ ký và những dòng ngợi khen đức tính chịu khó học tập của một lão nông Đồng Tháp Mười chân đất đã mày mò, nghiên cứu để tạo nên những hạt giống lúa quý để lại cho đời. Chúng tôi đọc thấy các đơn vị như các Viện, Trường Đại học Nông nghiệp, Sở, Trạm Khuyến nông các tỉnh khu vực ĐBSCL, Công ty Giống Cây trồng các tỉnh... Nhiều nông dân sản xuất giỏi ở tận Bình Phước, Cà Mau, Sóc Trăng khi đến đây học tập và xin giống của ông Hai Hữu về trồng, cũng ghi lại những dòng cảm phục. Nhiều nhà khoa học, nhà báo, nghệ sĩ nổi tiếng… cũng không tiếc lời ca ngợi ông. Một nhà báo viết: "Bác là niềm tự hào cho nông dân Việt Nam chúng ta và con sẽ cố gắng làm việc để đạt được một phần như Bác". Khu mộ gia tộc họ Dương trên “cánh đồng huyền diệu” Mỹ Phú. Nhiều nhà khoa học, nông dân đến đây và ghi lại cảm nhận của mình bằng nhiều thứ tiếng khác nhau như Campuchia, Pháp, Phi-lip-pin, Châu Phi… Ông Hai Hữu mất năm 2010, thọ 88 tuổi, ngôi mộ ông được chôn trên chính cánh đồng màu mỡ nơi ông đã cùng bà con Láng Cò – Mỹ Phú nhân ra hàng trăm tấn lúa giống và nơi ông trở thành Anh hùng. Ông Hai Hữu là người đã viết tiếp những kỳ tích của tộc họ Dương trong thời đại mới. Nơi phát tích tộc họ Dương Nằm giữa cánh đồng Láng Cò – Mỹ Phú có một khu mộ cổ, tuy không thật đồ sộ, nhưng được chôn trên nền đất cao ráo nhằm chống bị ngập nước vào mùa lũ ở Đồng Tháp Mười. Tất cả những ngôi mộ có lưu danh tánh người nằm dưới mộ đều mang họ Dương. Ngôi mộ có ghi danh tánh có niên đại xưa nhất là mộ cụ ông Dương Văn Hiển, sinh năm 1865, mất năm 1917. Nằm hai bên là mộ bà Dương Văn Hiển – nhũ danh Trần Thị Trong (không ghi năm sinh, năm mất) và bà Dương Văn Hiển – nhũ danh Nguyễn Thị Vốn (1881 – 1941). Theo cách chôn và cách ghi tên trên mộ chúng ta hiểu rằng ông Dương Văn Hiển có 2 vợ, cùng sống hạnh phúc và khi mất cùng nằm bên nhau. Điều đó phần nào nói lên tộc họ Dương từ cuối thế kỷ 19 đã khấm khá. Nằm kề bên chùm mộ của vợ chồng ông Dương Văn Hiển là 2 ngôi mộ khác nằm cạnh bên nhau. Trên mộ bia ghi Dương Văn Huề (tức Dương Văn Mau 1891 – 1944) và Nguyễn Thị Kỷ (1895 – 1992). Họ chính là đôi vợ chồng đã sinh ra một nhân vật lịch sử từng làm sôi động chính trường Sài Gòn thập niên 1960 và cũng chính là người làm chiếc cầu nối quan trọng trong cuộc chuyển giao lịch sử giữa chính quyền tay sai Sài Gòn và chính quyền cách mạng vào năm 1975. Ông cũng là người được lịch sử nhắc đến nhiều khi đã có quyết định “lịch sử” giúp cho việc giải phóng Sài Gòn diễn ra thuận lợi, không đổ nhiều máu, giữ cho Sài Gòn được vẹn nguyên. Người đó chính là Đại tướng Dương Văn Minh, cũng là người trở thành “nguyên thủ quốc gia” ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam và thế giới, khi chỉ làm Tổng thống của chính quyền Sài Gòn được chưa tới 48 tiếng đồng hồ. Tính cho tới đời Dương Văn Minh, tộc họ Dương đã định cư trên đất Đồng Tháp Mười được hơn 100 năm, trải qua 6 thế hệ. Chuyện kể rằng, trong đoàn lưu dân từ miền Trung vào khai khẩn đất hoang ở miền Tây Nam Bộ vào cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19, có một nhóm người dừng chân bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, nơi bắt đầu vùng đất hoang huyền thoại Đồng Tháp Mười. Ngày ấy nơi đây còn là rừng rậm, nhiều thú dữ, “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềng như bánh canh”. Trong đoàn lưu dân có đôi vợ chồng trẻ Dương Văn Bảo – Lê Thị Quý. Họ chọn một giồng đất cao ráo so với chung quanh để dựng chòi định cư, khai khẩn đất hoang, làm ruộng. Vùng đất ngoài rìa Đồng Tháp Mười này vào cuối mùa mưa nước từ thượng nguồn sông Vàm Cỏ Tây đổ về ngập trắng đồng, càng lúc càng dâng cao, dìm hết ruộng vườn, cây trái, nhà cửa. Anh hùng Lao động Dương Văn Hữu và GSTS Võ Tòng Xuân. Nhưng nước lũ cũng mang về nguồn lợi thủy sản phong phú, gồm các loại cá, rắn, rùa, bông điên điển, người vùng lũ chỉ cần ngồi trên sàn nhà thòng chân xuống nước lũ cũng có thể tìm được cái ăn qua mùa lũ. Mùa lũ đi qua, cùng lúc với việc chuẩn bị xuống giống cho vụ lúa duy nhất trong năm, người dân Đồng Tháp Mười còn đi ‘thu hoạch” lúa “trời” – một loại lúa tự nhiên trên những cánh đồng hoang, không ai gieo trồng, tự mọc và lớn lên theo con nước lũ, thân dài đến 4 – 5 mét, đến khi lũ rút lúa cũng vừa chín tới, người nông dân chèo xuồng đi cắt từng bông lúa. Cứ thế, vợ chồng ông Dương Văn Bảo vừa khai khẩn đất hoang vừa khai thác các sản vật vùng Đồng Tháp Mười, cùng cộng đồng lưu dân xây dựng xóm ấp, hình thành nên làng Mỹ Phú cho tới ngày nay. Phải mất tới 4 đời, gia tộc họ Dương và những lưu dân từ miền Trung mới thuần hóa cánh đồng hoang xã Mỹ Phú thành cánh đồng màu mỡ, giúp con người trở nên khá giả. Từ đời ông Dương Văn Bảo, qua các đời Dương Văn Long, Dương Văn Lâm, Dương Văn Cường, gia tộc họ Dương đã đổ nhiều mồ hôi, công sức xuống vùng đất Mỹ Phú, cùng lúc cuộc sống của họ cũng khấm khá dần lên. Đến đời ông Dương Văn Hiển, tức đời thứ năm từ khi ông Dương Văn Bảo vào khai khẩn vùng đất Mỹ Phú, gia tộc họ Dương đã bắt đầu giàu có, ruộng vườn “cò bay thẳng cánh”. Nhờ đó mà các con của ông Hiển được học hành đàng hoàng, dù lúc đó ở vùng Tân An còn chưa có trường học. Một người con của ông Hiển rất chí thú học tập, đỗ đạt cao, được bổ nhiệm làm quan triều đình, được cử đi trấn nhậm ở Sài Gòn – Gia Định và vùng Mỹ Tho – Vĩnh Long, có tên là Dương Văn Huề. Sau này khi ra làm quan ông còn có thêm tên là Dương Văn Mau. Trong thời gian ông Mau đi làm quan ở vùng Sài Gòn – Gia Định, vợ ông đã từ Mỹ Phú – Tân An đến thăm và hạ sinh ra người con trai đặt tên là Dương Văn Minh. Vì vậy mà sau này có người tưởng nhầm rằng Dương Văn Minh quê gốc Sài Gòn – Gia Định. Thực ra đó chỉ là nơi ông tình cờ sinh ra, còn quê hương ông là vùng Mỹ Phú ở Đồng Tháp Mười. Ngày bà Nguyễn Thị Kỷ vợ ông Dương Văn Mau hạ sinh đứa con trai đặt tên Dương Văn Minh có hình vóc to lớn hơn người, dù có kỳ vọng con mình sẽ “nên danh nên phận” sau này, nhưng chắc hẳn vợ chồng ông Mau không thể ngờ rằng cậu bé ấy sau này trở thành Tổng thống, là người có vị trí khá đặc biệt trong một giai đoạn bi tráng của dân tộc, đất nước Tướng Dương Văn Minh và cuộc truy tìm long mạch kỳ bí Phunutoday.vn - 11/08/2011 06:34 00 Tin gốc Tuong Duong Van Minh va cuoc truy tim long mach ky bi (Phunutoday) - Từ “cánh đồng huyền diệu” Mỹ Phú, ông Dương Văn Huề (tức Dương Văn Mau) đã ra đi và học hành thành tài và có vị trí nhất định trong xã hội phong kiến triều Nguyễn. Đến đời các con ông, gặp lúc đất nước bị ngoại bang xâm lược và chia cắt, họ cũng tiếp tục chứng tỏ tài năng của mình trong những hoàn cảnh khác nhau. Đặc biệt là Tướng Dương Văn Minh, người đã làm sôi động chính trường Sài Gòn trong thập niên 1960 và chính là người đã đọc lời “đầu hàng” lịch sử trước Quân giải phóng, đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến 30 năm, thống nhất đất nước. Trải qua bao biến thiên của thời cuộc, bây giờ tộc họ Dương lại quây quần trên mảnh đất huyền diệu mà cha ông họ đã dày công khai phá cách đây hàng trăm năm. Tại nơi ấy có một nhà thờ tộc họ Dương mang tên “Từ đường Dương tộc”. Ra đi từ “cánh đồng huyền diệu” Mỹ Phú Trải qua hàng trăm năm khai khẩn, thuần hóa, cánh đồng Mỹ Phú nằm ở vùng rìa của cánh đồng hoang Đồng Tháp Mười, đến đời ông Dương Văn Hiển, những người trong tộc họ Dương đã trở nên khá giả nhờ đất đai các thế hệ trước khai khẩn để lại giờ trở nên màu mỡ, trồng lúa đạt năng suất cao. Nhờ đó mà một người con của ông Hiển tên là Dương Văn Huề được cho đi xa (vì ở Long An thời ấy chưa có trường học) học hành đàng hoàng, rồi ra làm quan dưới thời Pháp thuộc. Từ cái đà của người cha, các con trai của ông Huề là Dương Văn Minh, Dương Văn Nhựt, Dương Văn Sơn cũng rời vùng quê Mỹ Phú đi học “trường Tây” và đều để lại dấu ấn trong đời. Có nguồn sử liệu cho rằng cậu bé Dương Văn Minh chào đời ngày 19- 2-1916 ở Phú Lâm (quận Bình Tân TP. HCM ngày nay), nơi cha ông là Dương Văn Mau (tên khác của Dương Văn Huề) đang làm quan trong Dinh Phó soái Nam Kỳ, sau này gọi là Dinh Gia Long. Nhà thờ gia tộc họ Dương. Một nguồn sử liệu khác cho rằng ông Dương Văn Minh sinh ra ở Mỹ Tho hoặc Vĩnh Long, nơi ông Dương Văn Mau đang làm quan. Cũng có tài liệu cho rằng nơi sinh của ông Minh là Long An, cụ thể là ở làng Mỹ Phú, trên chính mảnh đất tổ tiên ông đã dày công khai phá. Gia đình khá giả, có cha làm quan, nên ngay từ lúc nhỏ ông Minh đã rời khỏi vùng quê Mỹ Phú về học ở Trường Collège Chasseloup-Laubat (nay là Trường THPT Lê Quý Đôn, TP. HCM). Lúc ấy người Việt thường gọi tắt trường này là “Xách Lu”. Dưới thời Pháp thuộc, ở Sài Gòn có 2 trường công lập nổi tiếng là Chasseloup Laubat và Pétrus Ký. Trường “Xách Lu” dành riêng cho con của các viên chức người Pháp hoặc người Việt Nam có quốc tịch Pháp. Còn con em người Việt học giỏi chỉ được thi vào Lyceé Pétrus Ký, nhưng không biết bằng cách nào mà cậu học trò Dương Văn Minh là người Việt Nam mà vẫn được thi và đậu vào trường “Xách Lu”. Những người lớn tuổi ở Mỹ Phú vẫn còn nhớ, ông Minh đi học xa nhà, mỗi năm chỉ về thăm quê vài lần vào dịp nghỉ hè và ngày giỗ, tết. Ngay từ nhỏ ông Minh đã là cậu bé có hình vóc to lớn hơn người, mới hơn 10 tuổi đã cao lớn như một thanh niên trưởng thành. Ông rất yêu thích đồng ruộng, thích lội ruộng bắt ốc, bắt cá, làm lúa với người thân. Theo những người học cùng ông Minh, trong đó có tướng Trần Văn Đôn, ông Minh học rất giỏi. Ở trường, cậu học trò Dương Văn Minh vừa học giỏi, vừa năng luyện tập thể dục thể thao, ông nổi tiếng về chạy bộ và đá banh. Trong đội banh của nhà trường, Dương Văn Minh luôn giữ vai trò thủ môn, ông bắt bóng rất giỏi, không ai có thể thay thế. Đến tuổi trưởng thành, ông Minh trở thành người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, với chiều cao 1,83m, nước da sạm đen như nông dân lực điền. Vì vậy mà ông còn được đặt nhiều biệt danh như Minh Cồ, Minh Bự, "Big Minh". Ông Minh thi đỗ Tú tài II chương trình Pháp ban toán vào năm 1938, rồi đỗ bằng Tú tài phần nhứt, nhưng không muốn tiếp tục học nữa, mà có ý định ra đi làm và lập gia đình. Ông bắt đầu tự lập với nghề Thư ký công nhật chuyên lo công văn đi và đến ở một cơ quan trong bộ máy cai trị của Pháp ở Sài Gòn, trước khi bước sang con đường quân ngũ. Người có duyên với những biến động chính trị ở Sài Gòn Năm 1940, Dương Văn Minh gia nhập quân đội Pháp với cấp bậc Aspirant (tức Chuẩn úy) sau khóa đào tạo ngắn hạn ở Trường Hạ sĩ quan Thủ Dầu Một (Bình Dương). Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Cap Saint Jacques và bị quân Nhật bắt, cầm tù. Khi Pháp trở lại, vì lý do nào đó mà ông bị Pháp nghi ngờ bắt, tra tấn đến gãy 2 cái răng cửa, nhiều năm sau này ông vẫn không trồng răng giả để giữ kỷ niệm về trận đòn của thực dân Pháp. Năm 1946, ông được quân đội Pháp tin dùng và thăng cấp Thiếu úy, hai năm sau lên Trung úy. Năm 1952 ông được thăng hàm Đại úy, làm Tùy viên tại Phủ Thủ hiến Nam phần. Năm 1953 ông được thăng Thiếu tá, năm 1954 là Trung tá Tham mưu trưởng Quân khu 1. Năm 1955, khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông giữ chức Chỉ huy trưởng Phân khu Sài Gòn, sau được thăng Đại tá và giữ chức Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 8-1955, ông được Ngô Đình Diệm (lúc đó là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam) giao làm Tư lệnh Chiến dịch Hoàng Diệu với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân đội ly khai Bình Xuyên. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Diệm thăng quân hàm Thiếu tướng ngày 23-10-1955. Sau đó được giao chức vụ Tư lệnh Chiến dịch Nguyễn Huệ, rồi Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu đánh quân Hòa Hảo của Tướng Ba Cụt ở miền Tây Nam Bộ. Thế nhưng, trong nội bộ chính quyền Diệm bắt đầu có sự phân hóa, nghi kỵ lẫn nhau giữa 2 phe thân Pháp (trong đó có Dương Văn Minh) và thân Mỹ (đứng đầu là anh em Diệm – Nhu). Sự kiện Hà Minh Trí ám sát Ngô Đình Diệm tại Hội chợ Kinh tế Cao Nguyên ở Buôn Mê Thuột vào tháng 2-1957 càng khoét sâu mâu thuẫn này. Người chiến sĩ cách mạng cảm tử đã khai mình là lính giáo phái Cao Đài, ám sát Ngô Đình Diệm theo chỉ đạo của Mai Hữu Xuân và Dương Văn Minh, và đã lừa được anh em Diệm – Nhu. Từ vị trí là Trung tướng tư lệnh Biệt khu Thủ đô, ông Minh bị điều về “ngồi chơi xơi nước” với “hư danh” cố vấn quân sự Phủ Tổng thống. Thế nhưng, một người với nhiều nội lực và từng trải như tướng Minh không dễ đầu hàng số phận, ông đã âm thầm chuẩn bị cho một trận bão lớn – lật đổ chế độ độc tài, gia đình trị Ngô Đình Diệm. Cảnh trong từ đường. Trong cuộc đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh đóng vai trò chính với cương vị Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng cùng với các Tướng Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu... Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, Tướng Nguyễn Khánh lật đổ chính quyền quân sự này và giành quyền cai trị miền Nam Việt Nam. Chính trường Sài Gòn lúc đó như cơn lốc, mọi người gắn với nó đều có thể bị “tung hứng” một cách bất ngờ. Năm 1964, Dương Văn Minh được “Quốc trưởng” Phan Khắc Sửu vừa nắm quyền kiểm soát chế độ Sài Gòn thăng hàm Đại tướng, nhưng ông không nhận, vì nhận định tình hình hình còn diễn biến phức tạp. Tháng 12 năm đó, ông bị ép đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan cho đến năm 1968 mới được hồi hương. Năm 1971, ông trở lại chính trường và đối đầu với đương kim Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ ủng hộ, trong cuộc tranh cử Tổng thống sau đó. Lúc đó dư luận Sài Gòn cho rằng ông là người thích hợp nhất để lãnh đạo "Lực lượng thứ ba" chống lại chiến tranh, tìm đường vãn hồi hòa bình. Thế nhưng, những nỗ lực của ông đã bị NguyễnVăn Thiệu cản trở, ông đã rút ra khỏi cuộc tranh cử sau khi tuyên bố rằng cuộc bầu cử chỉ là trò múa rối. Trước sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Nam Cộng hòa sau khi Mỹ rút quân, ông lại trở thành một nhân vật quan trọng trong chính trường Sài Gòn. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu, rồi Trần Văn Hương từ chức chỉ trong vòng có một tuần lễ, ngày 28-4-1975, Dương Văn Minh chính thức nhậm chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Chưa tới 40 tiếng đồng hồ sau, vào trưa ngày 30-4-1975, trên cương vị Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ông đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân giải phóng miền Nam trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chính thức tan rã, Quân giải phóng làm chủ hoàn toàn miền Nam, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc thắng lợi, đất nước hết chia cắt. Ông đã có những năm sống ý nghĩa với tư cách công dân một nước độc lập sau ngày miền Nam giải phóng. Năm 1983, ông được cho phép sang Pháp định cư với vợ chồng người con gái. Sau ông chuyển qua sống ở California, tại đó ông đã qua đời ngày 6-8-2001, thọ 86 tuổi. Về “quyết định lịch sử” đầu hàng Quân giải phóng trưa ngày 30-4-1975, sau này Dương Văn Minh đã nhiều lần giải thích đại ý là “đây còn là vấn đề nhân đạo, bớt đổ xương máu chừng nào tốt chừng nấy”; nếu Dương Văn Minh không đứng ra nhận vai trò Tổng thống từ Trần Văn Hương, có thể đã có một cuộc đảo chánh ở Sài Gòn, phe hiếu chiến lên cầm quyền, chừng ấy chiến tranh sẽ thêm thảm khốc, dân chúng và binh lính hai bên sẽ chết nhiều thêm nữa trước khi miền Nam thuộc quyền kiểm soát của Quân giải phóng. Nhà thờ gia tộc họ Dương Khi đi trên con đường tỉnh lộ nối liền quốc lộ 62 thuộc tỉnh Long An với huyện Tân Phước thuộc tỉnh Tiền Giang, ngang qua ấp 3 xã Mỹ Phú (huyện Thủ Thừa), du khách dễ dàng nhận ra ngôi nhà đồ sộ nằm bên lề phải, trong khuôn viện rộng chừng 1.000m2, có hàng rào kiên cố, thiết kế đẹp bao quanh. Trên mặt chính của ngôi nhà có hàng chữ đẹp, rất to “Từ đường Dương tộc”. Đây là nhà thờ gia tộc họ Dương, là nơi thờ tự từ ông cụ tổ của họ Dương đến khai khẩn vùng đất Mỹ Phú là Dương Văn Bảo, đến những thế hệ họ Dương tiếp theo, trong đó có vợ chồng ông Dương Văn Hiển (ông bà nội của Dương Văn Minh) và vợ chồng ông Dương Văn Huề (cha mẹ Dương Văn Minh). Di ảnh ông Dương Văn Minh bên ông bà, cha mẹ trên bàn thờ. Tôi đến thăm ngôi từ đường vào một ngày cuối tháng 7-2011, khi đám giỗ lần thứ 10 của ông Dương Văn Minh vừa được tổ chức xong. Nếu tính theo ngày dương, ông Dương Văn Minh mất ngày 6-8, nhưng nếu cúng theo ngày âm, năm nay rơi vào cuối tháng 6 âm lịch, tức cuối tháng 7 dương lịch. Mở cửa đón khách vào thăm ngôi từ đường là người quản gia tên Khưu Công Đáng. Theo vai vế, anh Đáng gọi Dương Văn Minh bằng cậu, mẹ anh và Dương Văn Minh là anh em bà con cô cậu họ, chung đời ông nội Dương Văn Hiển. Nhà của anh Đáng ở gần đó do vợ con anh ở, còn anh ngày đêm coi sóc, lo nhang khói ngôi từ đường này và anh được những con cháu trong tộc họ Dương đang sống ở TP. HCM và ở nước ngoài trả công hàng tháng. Theo anh Đáng, ngôi nhà thờ tổ tiên họ Dương hiện nay, trước đây ông bà, rồi cha mẹ ông Dương Văn Minh từng sống. Họ đã về đây sinh sống lúc tuổi già và khi qua đời được chôn cất trên cánh đồng trước mặt, ở phía bên kia con đường. Đứng trước nhà có thể nhìn bao quát cả “cánh đồng vàng” Mỹ Phú, trên ấy điểm xuyết nhiều ngôi mộ màu trắng của gia tộc họ Dương. Trước đây ngôi nhà cất theo kiểu cổ, lợp ngói âm dương, tường xây gạch thẻ, dày 20 phân... Thời gian sau này ngôi nhà xuống cấp nặng, rất khó tu sửa. Cách đây gần 10 năm, các con của ông Dương Văn Minh, Dương Văn Nhựt, Dương Văn Sơn (đều là em của Dương Văn Minh) đã đứng ra xây lại ngôi nhà mới làm nơi thờ tự ông bà tổ tiên. Ngôi từ đường được xây vừa theo lối cổ, vừa có kiến trúc hiện đại. Hầu hết kết cấu trong ngôi nhà đều là bê tông cốt thép, chứ không giữ kiến trúc lấy chất liệu gỗ làm chủ đạo như xưa. Trong ngôi nhà, ngoài một ít diện tích dùng làm “nhà sau” (buồng ngủ và nhà bếp), phần lớn diện tích còn lại đều là “nhà trên” – nơi thờ tự tổ tiên. Cả gian nhà trên rộng mênh mông khoảng 200m2 dùng để đặt các bàn thờ, trang thờ, các bức hoành phi, bức trướng cổ, nhiều tủ thờ, bàn ghế, trường kỷ, các bộ ván gỗ thường thấy ở các ngôi nhà xưa của các ông Hội đồng, bá hộ vùng nông thôn Nam Bộ. Ông Đáng cho biết, chỉ một số bức trướng, bộ liễn được giữ từ 3 – 4 đời truyền lại, còn lại hầu hết đồ xưa trong nhà đều mới mua sau khi ngôi nhà được xây xong. Trong ngôi nhà, các bậc tổ tiên dòng họ Dương từ đời thứ nhất là Dương Văn Bảo đến đời thứ tư là Dương Văn Cường chỉ được thờ bài vị chứ không có di ảnh. Sơ đồ gia phả tộc họ Dương ở Mỹ Phú. Từ đời ông Dương Văn Hiển (ông nội Dương Văn Minh) trở đi, các bàn thờ đều có di ảnh. Trên gian thờ chính ở giữa nhà, kế bên những bức hoành phi cổ kính là di ảnh của ông bà nội và cha mẹ Dương Văn Minh, được phóng to, lồng khung kính thật đẹp. Đứng khiêm tốn ở góc bàn thờ là di ảnh ông Dương Văn Minh, khung ảnh nhỏ hơn rất nhiều. Anh Đáng giải thích: “Dù ông Minh làm đến Tổng thống, nhưng trong gia đình ông vẫn là con cháu, nên ông được thờ đúng với vị trí của mình trong gia đình”. Trên các bàn thờ, tôi không thấy di ảnh của hai người em của ông Minh là Dương Văn Nhật (sĩ quan cao cấp của Quân giải phóng) và Dương Văn Sơn (từng là Trung tướng của chế độ Sài Gòn). Ông Đáng cho biết, các con cháu của anh em ông Minh hiện đều định cư ở TP. HCM hoặc nước ngoài. Những năm trước đây, giỗ ông Dương Văn Minh được con cháu của ông tổ chức ở TP. HCM hoặc ở nước ngoài, nhưng bắt đầu từ năm nay, theo nguyện vọng của người con gái lớn của ông Minh, đám giỗ ông được tổ chức tại nhà thờ gia tộc ở tại quê hương Mỹ Phú. Nhờ đó mà hàng năm con cháu của họ có dịp tề tựu về Mỹ Phú đông đủ hơn, để nhớ về quê cha đất tổ. Ông Đáng kể, những năm sau ngày miền Nam giải phóng ông Minh sống ở TP. HCM, ông thường về thăm quê mỗi khi tới ngày giỗ ông bà, cha mẹ. Ông Minh là người thích giữ nguyên những gì đang có, từ ngôi nhà thờ cho tới mả mồ của cha mẹ, ông bà, chỉ tôn tạo, sửa sang cho tươm tất, sạch đẹp. Thế nhưng sau này, do ngôi nhà xuống cấp quá nặng, các con cháu ông buộc phải xây dựng lại để làm ngôi từ đường thờ phụng tổ tiên, gia tộc lâu dài. Theo sở nguyện của ông, mồ mả của ông bà được giữ nguyên trạng, chỉ hàng năm quét vôi lại cho khang trang. Theo chân người quản gia, tôi đi ra cánh đồng màu mỡ nhất Đồng Tháp Mười, đến viếng khu mộ của tổ tiên, ông bà Dương Văn Minh. Các ngôi mộ đã được làm cách đây trên dưới nửa thế kỷ, đơn giản như bao ngôi mộ của những người nông dân bình thường trong vùng. Tất cả các nấm mộ đều xây theo kiểu để trống phần mặt trên làm nơi trồng hoa, mô típ này thường thấy ở các nghĩa trang bên châu Âu. Tuy nhiên, có thể do thiếu người chăm sóc mà trên các nấm mộ không có hoa mà mọc đầy cỏ dại. Còn lại một vùng đất Anh Khưu Văn Đáng mở cửa tủ thờ lấy ra cuộn giấy tròn có kích thước 1 x 2m bày ra trên bộ ván ngựa dày 15cm. Đó là sơ đồ gia phả họ Dương mà các con cháu đã dày công sưu tập, vẽ nên. Cụ tổ Dương Văn Bảo sinh ra 8 người con. Người con trai thứ 8 của cụ là Dương Văn Long sinh đến 10 người con. Người con trai thứ 2 (tức thứ 3 theo cách gọi ở Nam Bộ) của cụ Long là Dương Văn Lâm cũng có 8 người con. Một người con đời thứ ba này của tộc họ Dương đã phát triển thành một nhánh khác, sau này sinh ra anh hùng Dương Văn Hữu như đã kể ở bài trước. Người con thứ tư của cụ Lâm là Dương Văn Cường cũng có đến 6 người con, trong đó người con thứ tư Dương Văn Hiển chính là ông nội của Dương Văn Minh sau này. Theo anh Đáng, “nhánh” của ông Dương Văn Hiển hầu hết đều học cao, nhiều người làm quan, trở nên khá giả, hiện hầu hết định cư ở TP.HCM và ở nước ngoài. Các “nhánh” họ Dương còn lại hầu hết tập trung ở xã Mỹ Phú và các xã chung quanh thuộc huyện Thủ Thừa (tỉnh Long An) và huyện Tân Phước (tỉnh Tiền Giang). Phần lớn họ đều gắn bó với đồng ruộng vùng Đồng Tháp Mười, họ đều có cuộc sống khấm khá ở vùng nông thôn, ít người nghèo khó, một số học cao, trở thành lãnh đạo các cấp ở địa phương. Gặp một số hậu duệ của tộc họ Dương ở vùng Mỹ Phú, tôi hơi ngạc nhiên khi họ không những rất thú vị về bề dày truyền thống của dòng họ mình, mà ai cũng muốn xây dựng, giữ gìn “cánh đồng vàng” xã Mỹ Phú mãi mãi là cánh đồng màu mỡ, nơi nhân giống cung cấp cho cả vùng. Không chỉ những con cháu họ Dương bám đất bám ruộng ở lại quê hương, mà ngay cả những người đã thành đạt, giàu có ở TP. HCM cũng muốn gìn giữ ruộng đất của tổ tiên, dù ai có mua giá cao họ cũng không bán. Khi còn sống, ông Dương Văn Hữu đã từ chối khi có người hỏi mua gần 1 hecta ruộng của ông với giá 1 tỉ đồng, trong khi giá đất ruộng ở vị trí thuận lợi hơn lúc đó chỉ khoảng 400 – 500 triệu đồng/ha. Ông Hai Hữu qua đời, các con ông cũng tiếp tục nhân giống lúa, làm giàu trên mảnh ruộng màu mỡ ấy như cha ông họ đã làm suốt hàng trăm năm qua. Một hậu duệ đời thứ 9 của dòng họ Dương xã Mỹ Phú tên là Dương Thị Bạch Tuyết hiện là chủ một nhà hàng lớn ở TP. HCM cho biết, chị em bà hầu hết đang lập nghiệp ở TP. HCM, nhưng ruộng đất cha mẹ để lại ở Mỹ Phú thì vẫn giữ nguyên, nhờ người chăm sóc và canh tác. Cách đây 2 năm, một doanh nghiệp đã gặp bà xin mua ruộng với giá khoảng 1 tỉ đồng/ha, nhưng chị em bà kiên quyết không bán. Bà Tuyết tâm sự: “Mảnh đất đó đã đổ bao mồ hôi công sức của cha ông qua nhiều thế hệ, để biến nó thành cánh đồng màu mỡ nhất vùng, đó là tài sản vô giá, như là báu vật. Vì vậy con cháu nếu không thật sự cần thiết thì không nên bán. Với lại, chị em tôi sinh ra trên mảnh đất đó, lớn lên đi làm ăn xa, nhưng tình yêu quê hương thì vẫn không nguôi. Có thể sau này khi đã lớn tuổi, không còn bon chen với đời, tôi sẽ trở về sống lại với quê hương, với tổ tiên”. Nguyện vọng giữ nguyên “cánh đồng vàng” mà các đời họ Dương đã đổ nhiều công sức để khai phá, làm cho nó ngày càng xứng đáng là cánh đồng nhân lúa giống của cả tỉnh Long An, là tình cảm chung của hầu hết các hộ nông dân sống trên cánh đồng, dù bây giờ họ còn mang họ Dương hay một họ nào khác. Nguyện vọng, tình cảm đó đã từng bị đe dọa cách đây vài năm trước xu thế đô thị hóa vùng nông thôn ĐBSCL. Cánh đồng xã Mỹ Phú chỉ cách thành phố Tân An chưa tới 10 cây số, vì vậy mà cánh tay “đô thị hóa” có thể vươn tới vùng đất màu mỡ này. Nguy cơ đó càng lớn hơn khi bỗng dưng có dư luận râm ran về một vùng đất có “long mạch” kì bí nào đó nằm trên cánh đồng xã Mỹ Phú. Người ta bắt đầu đi lùng mua từng thửa đất ở đây không phải để đầu tư cho nó thêm rạng danh là “cánh đồng vàng” nhân giống cho cả tỉnh, mà là để làm “công viên nghĩa trang” mang tên Vĩnh Hằng. Cánh đồng nổi tiếng nhất tỉnh Long An có nguy cơ không còn những ruộng lúa oằn bông. Người nông dân ở đây đã xôn xao, để rồi kiên quyết bảo vệ “cánh đồng huyền diệu” này.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 1, 2014 12:52:53 GMT 9
Dương Văn Minh qua con mắt thuộc cấpTác giả: HUỲNH PHAN Bài đã được xuất bản.: 29/04/2011 "Cái giá của 30 năm chiến tranh (1945-1975) nó nặng nề lắm. Mọi người phải hiểu, để bình tĩnh mà phát triển" - nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nói trong cuộc họp báo với phóng viên quốc tế nhân 35 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. sự kiện nóng >> Một tháng sau 30.4: Sự mở đầu và kết thúc Trong hồi ức của mình, Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, người có mặt khi ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn đọc tuyên bố đầu hàng tại Đài Phát thanh Sài Gòn vào trưa 30.4.1975, đã viết: "... Dẫu sao ông cũng đã hy sinh danh dự của một tướng lãnh (dù là một tướng bại trận) để cứu thành phố này khỏi cảnh tàn phá và đổ nát. Sau này tôi mới biết là ông và bộ tham mưu từ mấy ngày qua đã quyết định đầu hàng dẫu có bị đối xử không tương xứng của phía đối nghịch. Đó cũng là một hành động can đảm và đáng ca ngợi của một Phật tử vào cuối đời. ... Ít ra ông còn giữ được nguyên vẹn Sài Gòn và phần còn lại của miền Nam tránh khỏi đổ nát và đổ máu thêm một cách vô ích... Nhận xét của người cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã được một nhân chứng lịch sử - cựu Đại uý Phạm Xuân Thệ (nay là Trung tướng) - khẳng định một phần trong các bài viết về ông. Phần còn lại cũng đã được nói tới bởi những nhân chứng lịch sử khác, ở một lát cắt lịch sử khác, và từ một góc nhìn khác. Họ là ông Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng Quân đội Việt Nam Cộng hoà, Luật sư Triệu Quốc Mạnh, hay nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu - những thành viên của nội các cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Thường là trong các cuộc họp báo quốc tế, được tổ chức 5 năm một lần. Ngày 28.4 năm ngoái, họ lại tiếp tục thực hiện cái nhiệm vụ định kỳ này. Nhưng với họ, cuộc họp báo hôm đó không hề mang tính nghĩa vụ nữa, mà đã có thêm ý nghĩa của một sự sẻ chia một hồi ức chung. Và những câu hỏi từ dưới cử toạ lại mang ý nghĩa của một sự gợi mở. Bởi trong số cử toạ ở dưới có một nhóm nhỏ phóng viên quốc tế - những người đã từng có mặt trên mảnh đất Sài Gòn này trên dưới bốn thập kỷ trước, và cũng chứng kiến được nhiều điều tương tự như họ. Mặc dù, không nhất thiết phải là những ngày cuối của tháng Tư năm 1975. Đó là những cái tên như Simon Dring và Jim Pringle (Reuters), Don Kirk (Washington Star), Mike Morrow (Dispatch News Service), hay James Caccavo (Red Cross). Các phóng viên nước ngoài tại cuộc họp báo quốc tế tổ chức ngày 28.4.2010 tại TP.HCM Tất cả những điều đó gộp lại đã khiến cho người viết, từng tham dự ba cuộc họp báo tương tự trước đó, kể từ năm 1995, tại Sở Ngoại vụ TP HCM, cảm nhận được một sự cởi mở chưa từng có, nói đúng hơn là sự "mở lòng". Nhất là khi các nhân chứng nói về ông Dương Văn Minh, đại tướng, Tổng thống VNCH - một nhân vật gây tranh cãi trong những ngày cuối cùng của tháng Tư lịch sử ấy, trước khi Đại uý Thệ và các đồng đội của ông tiến vào Dinh Độc Lập. Và qua đó, người viết cũng hiểu thêm rằng, tại sao cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lại nhận xét về ông Dương Văn Minh trong bài trả lời phỏng vấn tuần báo Quốc tế nhân 30 năm thống nhất đất nước (30.4.2005): "Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ". Tuần Việt Nam giới thiệu lại cuộc họp báo quốc tế tại TP.HCM ngày 28/4/2010 như một tư liệu để tham khảo. Simon Dring: Vào thời điểm cuối 1964, khi lực lượng Việt Cộng hoạt động rất mạnh và rất gần khu vực Sài Gòn, một số người nghĩ rằng Sài Gòn sẽ nhanh chóng bị thất thủ. Lúc đó, Mỹ chưa đưa quân vào Việt Nam. Xin cho biết cảm nghĩ của ông lúc đó. Ông muốn chiến tranh kết thúc với sự thất thủ của Sài Gòn, hay người Mỹ đưa quân vào? Ông Nguyễn Hữu HạnhNguyễn Hữu Hạnh: Tôi là trung tá, trưởng phòng 2 cho ông Dương Văn Minh, từ năm 1959. Lúc đó, ông Minh là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân. Tất cả những nhân vật quan trọng (của Mỹ) đến Việt Nam đều đến thăm ông Minh hết, và (những lần đó) đều có mặt tôi hết. Họ đều hỏi ý kiến ông Minh về việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam. Nhưng ông Minh đều từ chối. Khi đảo chính Ngô Đình Diệm, ông Minh đã phá tất cả những ấp chiến lược mà Mỹ đã làm. Điều đó đã khiến Mỹ không bằng lòng. Mỹ lại yêu cầu đổ quân vào miền Nam, và ông Minh lại từ chối. Mỹ yêu cầu ném bom miền Bắc và phá đê sông Hồng, ông Minh cũng lại từ chối. Lúc đó, người Mỹ nói rằng ông Minh là người khó hợp tác. Thế là năm 1964, Nguyễn Khánh đảo chánh Dương Văn Minh. Dương Văn Minh là người muốn chấm dứt chiến tranh cho đất nước Việt Nam, mặc dù ổng cầm súng của Mỹ. Có nhiều người có nhiều cách nói về ông ấy lắm. Khi ông ấy lên Tổng thống, ông ấy ký một cái giấy yêu cầu cố vấn của Mỹ phải rút đi trong vòng 24 tiếng đồng hồ, để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam. Mike Morrow: Tôi được biết Dương Văn Minh có người em trai ở phía bên kia. Vậy ông Minh, và có thể là cả ông nữa, lần đầu tiên liên hệ với Mặt trân Dân tộc Giải phóng là khi nào? Những năm 50, 60, hay chỉ đến khi Sài Gòn chuẩn bị sụp đổ? Nguyễn Hữu Hạnh: Câu hỏi tốt. Tôi có thể nói rằng người Việt Nam chúng tôi có tới 95% là có người thân ở cả hai phía. Tôi cũng có những người bà con là đảng viên cộng sản. Hay ông Võ Văn Kiệt, một người lãnh tụ ở miền Nam này, cũng có người thân bên phía chúng tôi. Có điều, lúc đó người Mỹ chưa có hiểu người Việt Nam đâu. Nếu có ai đó mà có tội do liên quan đến cộng sản, ngay ở chính quyền Sài Gòn cũng vẫn có người cảm thông, giúp đỡ. Tôi không hiểu người Mỹ, hay CIA, có hiểu được điều này không, nhưng đây là một đặc điểm quan trọng của người Việt chúng tôi. Vào ngày 2.5.1975, khi mà ông Dương Văn Minh gặp ông Trần Văn Trà - một tướng cộng sản, người nhận lãnh thành phố này -, ông Trà đã nói rằng giữa chúng ta không có kẻ thua người thắng, mà dân tộc Việt Nam chúng ta thắng đế quốc Mỹ. Don Kirk: Tôi có nghe về những trại cải tạo sau 4.1975. Chẳng hạn, đến năm 1985, tôi được nghe rằng có những người đi cải tạo mà vẫn chưa được về. Điều này có ngược lại tinh thần của Tướng Trà nói với Tướng Minh hay không? Câu hỏi này cũng rất hay. Chắc ông cũng biết là trong lúc mới giải phóng, ý tưởng của Đảng (Cộng sản Việt Nam) là như vậy. Nhưng nói thực sự với quý ông, tôi được mời tham vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố (HCM), nhưng mà tôi vẫn ái ngại về điều đó. 30 năm đánh nhau ắt hẳn phải có điều nọ điều kia giữa những người nọ và những người kia. Vào năm 1988, tôi có viết một cái bài về hoà hợp dân tộc. Tôi vẫn nghĩ rằng (mặc dù) Đảng Cộng sản Việt Nam muốn điều này, nhưng vẫn còn để một số vấn đề xảy ra. Sau bài viết của tôi, ông bí thư (thành uỷ), rồi ông chủ tịch Mặt trận, đã có những hành động tốt. Các quý vị cũng biết là sau khi hai bên đánh nhau, thì cũng có nhiều khó khăn để giải quyết lắm, và cũng cần thời gian. Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, nguyên Trưởng đoàn đàm phán của chính quyền Dương Văn Minh tại trại David, kể: Chiều 28.4, ông Dương Văn Minh nhậm chức. Sáng 29.4, ông Dương Văn Minh cử tôi đưa một phái đoàn đi trại David, nơi có đại diện của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, để điều đình việc ngưng chiến. Tôi được đại diện của phía bên kia cho biết là chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu, và vì thế không thể ngưng chiến ngay được, mà cần một thời gian. Simon Dring: Vào lúc 11:30 ngày 30.4, ông đang ở đâu? Có phải đang trong trại David không? Nguyễn Đình Đầu: Trưa 29.4 tôi đã về rồi. Simon Dring: Khi đến trại David, không biết ông có thảo luận với phía Mỹ ở đó không? Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình ĐầuNguyễn Đình Đầu: Không. Tôi chỉ đến gặp đại diện của Chính phủ Cách mạng Lâm thời thôi. Chiều 29.4 vẫn còn đánh nhau. Chúng tôi cùng với ông Dương Văn Minh nghĩ rằng ngoài vấn đề thương thuyết, có lẽ chính quân đội của ông phải có thái độ "đàm phán" mạnh hơn nữa thì mới có thể ngưng chiến được. Sáng 30.4, chiến sự vẫn diễn ra gần Sài Gòn. Đến 9 giờ ông Dương Văn Minh đã ra nhật lệnh cho quân đội là đơn phương ngừng bắn, và chờ bên đối phương đến để trao quyền hành. Cho nên, việc giải phóng thành phố này không có chiến tranh, không có chuyện hai bên đánh nhau. Và đến 11:30 quân giải phóng chiếm được Dinh Độc lập. Nhiệm vụ của tôi tuy không thành công, nhưng vẫn coi như đã thành công. Nữ phóng viên từ Romania: Xin cho biết cuộc sống của ông 35 năm vừa rồi ra sao. Nguyễn Đình Đầu: Trước 30.4.1975, người ta coi tôi thuộc thành phần thứ ba. Tôi có một số người bạn ở chế độ cũ, và có một số người bạn bên cách mạng. Do lẽ đó mà ông Dương Văn Minh nhờ tôi đi điều đình việc ngừng bắn vào 29.4. Lúc đó tôi 55 tuổi, còn bây giờ tôi 90 tuổi. Sau ngày giải phóng, tôi không có công, nhưng cũng không có tội. Thành thử tôi được làm nghề nghiên cứu tự do. Nhờ trời thương nên cũng có một số kết quả trong các công trình nghiên cứu sử, địa. Tôi muốn nhắc lại là cái giá của 30 năm chiến tranh (1945-1975) nó nặng nề lắm. Mọi người phải hiểu, để bình tĩnh mà phát triển. Ảnh 13. Đại diện chính phủ Cách mạng lâm thời tuyên bố trả tự do cho "NHAN DAN" Dương Văn Minh. Ong Tran Van Huong da tu choi lam NHAN DAN khi ma Quan Dan Can Chinh VNCH van bi cam tu . Ông NHAN DAN Dương Văn Minh trả lời phỏng vấn của phóng viên nước ngoài. Ảnh tư liệu Luật sư Triệu Quốc Mạnh, nguyên Đô trưởng cảnh sát Sài Gòn - Gia Định, kể: Trước giải phóng tôi là thẩm phán, từ năm 1963 đến tháng 4. 1975. Khoảng 14 ngày trước giải phóng, ông Dương Văn Minh ngỏ ý mời tôi nắm chức đô trưởng cảnh sát Sài Gòn - Gia định. Và khi nhậm chức, người đầu tiên ông Minh tuyên bố bổ nhiệm là tôi. Mặc dù trong chính phủ Dương Văn Minh cũng có những người muốn nắm giữ cảnh sát để tiếp tục chống lại Cách mạng, nhưng ông Dương Văn Minh, theo chúng tôi biết, đã không muốn như vậy. Cho nên, khi tôi nắm được cái đài chỉ huy tác chiến và lệnh của tôi là không được nổ súng trước. Lý do mà tôi giải thích là lúc đó là thời gian đang thương thuyết. Tôi nói láo với họ rằng việc đàm phán là có kết quả 60% rồi cho nên toàn thể phải nghe tôi. Tôi chỉ huy bằng cách ra lệnh không được nổ súng trước, nên rất thuận lợi cho việc tiến quân vào Sài Gòn của bộ đội. Điều thứ hai là tôi lập danh sách tất cả những tù chính trị và ký tên để phóng thích họ. Điều thứ ba là giải tán lực lượng cảnh sát đặc biệt. Bởi cảnh sát có hai loại, một là loại mặc sắc phục chuyên giữ trật tự trị an, và hai là là loại đặc biệt, chuyên bắt bớ những người làm chính trị, sinh viên, công nhân.... Tôi ngồi trên chiếc xe, mang quân hàm chuẩn tướng, đi thị sát một số nơi, chứ không ở cùng nội các ông Minh trong Dinh Độc lập. Tôi có thể nói với quý vị, chỉ huy kiểu đó, chắc có người cười tôi lắm. Nhưng sự hiệu quả là bộ máy cảnh sát gồm 16 ngàn người trở nên rệu rã trong ngay ngày 29.4. Jim Pringle: Ông nghĩ như thế nào về việc Tướng Loan (Nguyễn Ngọc Loan), cũng là chỉ huy trưởng lực lượng cảnh sát, đã bắn chết một tù binh Việt Cộng trong ngày thứ nhất, hoặc ngày thứ hai của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968? Luật sư Triệu Quốc MạnhTriệu Quốc Mạnh: Lúc đó, tôi biết Tướng Loan. Tôi xin diễn tả hình ảnh Tướng Loan một chút thì các vị sẽ biết Tướng Loan là ai. Một kẻ điên hay khùng, hay gì đó tương tự. Ngày nào cũng vậy, (ông ta) cặp nách một chai rượu và tay bên kia cầm một khúc chả lụa,. Vừa nốc rượu, ông ta vừa làm việc với sĩ quan của mình. Khi đó, Bộ trưởng Tư pháp của chế độ Sài Gòn là Huỳnh Đức Bửu dự hội nghị ở Teheran, và họ đã đưa cái ảnh đó (Tướng Loan bắn tù binh Việt Cộng) ra. Tay bộ trưởng này về nói với chính phủ là muốn độn thổ luôn. Hồng Nga (BBC): Tôi biết ông là đảng viện cộng sản. Vậy ông vào Đảng thế nào, và ông Dương Văn Minh có biết điều đó không, khi ông ta bổ nhiệm ông làm đô trưởng cảnh sát? Gần 10 năm sau, khi có một bài báo của một người rất quan trọng viết, ông ta mới tiết lộ rằng tôi là người của Cách mạng. Gia đình tôi, bạn bè tôi, tuyệt đối không ai biết tôi là người cộng sản. Chính vì vậy, ông Dương Văn Minh và nội các của ông ta cũng hoàn toàn không biết điều đó. Cái ý của ông Minh, theo tôi nắm được, là một ngày nào đó có sự bàn giao giữa chính quyền mới và cũ sẽ có sự xáo trộn trong dân rất lớn. Thù oán, xung đột, giết chóc nhau. Vậy ai giữ gìn cái này, và ai có kinh nghiệm của xã hội Sài Gòn lúc này? Chắc là anh em xung quanh ông Dương Văn Minh đánh giá tôi là người có sự chuyên nghiệp. Bởi tôi sinh tại đây, sống tại đây, trưởng thành tại đây, học và làm quan toà tại đây. Tôi cũng rất gần gũi với cảnh sát tại đây. Simon Dring: Kể từ khi vào Đảng, ông đã có những đóng góp tích cực gì cho Cách mạng với tư cách thẩm phán? Triệu Quốc Mạnh: Tôi vào Đảng Cộng sản tháng 6.1966. Tôi vừa đóng vai nói trên, vừa hoàn thành nhiệm vụ thẩm phán một cách hoàn hảo. Về đóng góp cho Cách mạng, tôi có hai việc làm được. Với tư cách thẩm phán, tức là làm cho Bộ Tư pháp, tôi nắm được mấy hồ sơ mật về an ninh mà toàn quốc gửi về cho Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp. Tôi thấy cái nào có lợi cho việc sớm chấm dứt chiến tranh, có lợi cho Cách mạng, tôi cũng có bàn với những người lâu lâu có liên hệ với tôi. Nhiệm vụ thứ hai là tôi làm thẩm phán, có gần gũi với những người hoạt động chính trị, có xu hướng đòi độc lập, đòi hoà bình, thì bàn với họ làm sao để có cách hoạt động, nhất là gầy dựng phong trào có lợi.
|
|