Post by Cửu Long Giang on Jun 16, 2019 4:34:20 GMT 9
“ĐẠI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH, CÔNG VÀ TỘI”
Sau khi miền Nam VN mất về tay Cộng Sản ngày 30-4-1975 nhiều người kết tội Dương Văn Minh đầu hàng giặc, dâng nước cho Bắc Việt, họ nói vì ông mà miền Nam mất. Những người cảm tình với Dương Văn Minh nói ông có công cứu Sài Gòn và miền Nam Việt Nam thoát chết, “nếu ông không ra lệnh đầu hàng thì nó pháo kích chết hết !!!” Sau khi ra Hải ngoại trả lời phỏng vấn báo chí ông nói : “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’ thì tình hình miền nam VN và Sài Gòn cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bốn sao, Ba sao, các ông lớn…đều đã “tẩu vi thượng sách”, Việt Cộng đang tiến quân vào.
Ngược dòng thời gian tháng 11-1972 khi sắp ký Hiệp định Paris, Hoa kỳ đã vội vã cung cấp cho VNCH khoảng gần 600 máy bay các loại gồm : 200 máy bay phản lực chiến đấu, khoảng 340 trực thăng các loại và mấy chục máy bay vận tải, thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286. (Theo Nixon, No More Vietnams, trang 170-171). Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, họ mất khoảng 100 ngàn quân, 700 xe tăng (Nguyễn đức Phương- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), lại nữa cuối 1972, TT Nixon cho B-52 oanh tạc dữ dội Hà nội, Hải phòng đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt”( No More Vietnams. Trang 158). Sau ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH yên tâm vì tiềm năng quân sự miền Nam mạnh hơn miền Bắc.
Tuy nhiên tình hình thay đổi rất nhanh, cán cân lực lượng hai miền đã đảo ngược từ 1974, CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ quân sự đều đặn cho Hà Nội: Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006). Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Xô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Xô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang 481).
Trong khi đó miền Nam bị Quốc hội Mỹ xiết cổ từ từ, Hạ Viện Mỹ 1972 Dân chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Hòa 192 ghế, họ chống đối chiến tranh VN rất mạnh, trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Ngày 15-8 -1973 ban hành luật của Quốc hội cắt bỏ tất cả các ngân khoản dùng trực tiếp gián tiếp cho các hoạt động quận sự Mỹ tại Đông Dương. Ngày 7-11-1973 Quốc Hội ban hành luật War Powers Resolution hạn chế quyền Tổng thống trong chiến tranh, Tổng thống muốn đem quân ra ngoại quốc phải đưa ra Quốc hội để trói tay hành pháp thì số phận của VNCH coi như đã được quyết định rồi .
Kỳ bầu cử Hạ viện Mỹ tháng 11-1974, Dân chủ chiếm đại đa số, tỷ lệ 66.9% Hạ viện với 291 ghế, Cộng Hòa 144 ghế. Dân chủ chống chiến tranh Đông Dương quyết liệt, cắt bỏ bất cứ ngân khoản viện trợ nào giành cho Đông Dương. VNCH lâm vào tình trạng đen tối. Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam ngày càng thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm trên 70%. Theo ông Cao Văn Viên nạn đào ngũ (Những ngày cuối VNCH trang 79) khiến cho quân số thiếu hụt. Hàng tháng lính đào ngũ trung bình lên tới 1,5 hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng định vì nạn trốn quân dịch.
Cuối 1974 đầu 1975, CSBV đánh chiếm Phươc Long để thăm dò Mỹ. Trước nguy cơ sụp đổ, TT Thiệu gửi thư cho TT Ford xin Viện trợ bổ túc 300 triệu. Tháng 3-1974 BV tấn công chiếm Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ bác bỏ khoản viện trợ cho miền Nam và không chuẩn chi cho năm tới 1976.
Tình hình quân sự ngày càng thê thảm, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH, trang 92) cho biết vào tháng 2-75, đạn tồn kho chỉ còn đủ dùng khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris, VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu đã khiến VNCH mất hai quân khu I và II, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và II trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.
BV hối hả đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam, Hà Nội dùng mọi phương tiện không quân, hải quân, đường bộ để chuyển quân gấp rút vào Nam bao vây Saigon. Họ dốc toàn bộ lực lượng vào Nam. Lực lượng tham chiến của BV vào khoảng gần 20 Sư đoàn (gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232, sáu trung đoàn đặc công, 6 trung đoàn độc lập). Vũ khí đạn dược của BV gấp bội lần năm 1972.
Trong thời gian này tại Hoa Thịnh Đốn Kissinger báo cáo trong phiên họp Nội các:
“Toàn bộ lực lượng của QĐBV hiện đã vào nam, chỉ cần một Lữ đoàn TQLC là ta có thể chiếm hết miền Bắc, một sự vi phạm trắng trợn (Larry Berman, No Peace No Honortrang 266). Ông cũng nói “Chúng ta không còn tiền để chơi ván bài”, sự thật Hành pháp đã bị Quốc hội trói tay.
Ngày 10-4-1975, VNCH còn hy vọng vào viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra Quốc hội, ngày 18-4 ngân khoản này bị bác bỏ. Nhiều chính khách nhận định khoản viện trợ này nếu được chấp thuận cũng chỉ kéo dài thêm sự hấp hối của miền Nam mà thôi. Ngày 21-4-1975, TT Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay, mấy ngày sau ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm rời Sài Gòn ra đi hôm 24-4.
Trở lại chuyện ông Dương văn Minh. Sải gòn có nhiều tin đồn về việc ông Dương Văn Minh sắp lên làm Tổng Thống thay Trần Văn Hương.
Cụ Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện tình đất nước trên đài phát thanh Sài Gòn, giọng sướt mướt, vừa nói vừa khóc.
“Thưa đồng bào, tình hình hiện nay vô cùng bi đát… Một vùng Hai miền Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng Ba, vùng Bốn nay cũng đã bị nhiều sứt mẻ. Rồi mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi thủ đô Sài Gòn này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và
đã bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hoà bình cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì. . hở trời!!. .
Người dân vừa sợ vừa thông cảm cho cụ già vì cụ quá thật thà, cụ đã đem hết mọi bí mật quốc gia nói huỵch toẹt trên đài phát thanh! Thực ra nay cũng chẳng còn bí mật gì để giữ.
Những lời đồn nay đã thành sự thật, ông Dương văn Minh sẽ lên làm Tổng thống. Theo lời kể của ông Nguyễn đình Toàn trong bài “Đại Tướng Dương Văn Minh: Em Làm Chứng Cho Goa” (Người Việt Dallas, tháng 4-2011), ông Toàn và các ông Đỗ đình Tứ, Nguyễn Văn Bình đi thuyết phục Dương Văn Minh ra nhận nhiệm vụ, Đại tướng thất vọng nói:
“Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: “Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đã trình bày cho chúng ta biết về tình hình quân đội, về khả năng tái phối trí của quân đội… quân của mình hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, còn các kho vũ khí, súng đạn của mình trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không còn kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàigòn, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của mình cũng không còn, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi thì đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh mình có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi… Tình hình như vậy em bảo làm sao mà ” Goa ” dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?”
Ông Toàn và mấy người bạn nói:
“Nếu Đại Tướng thương nước thương dân thì Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói tình hình nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa… thì Đại Tướng đâu có thương dân thương nước,
Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nhìn thẳng vào tôi và nói:
“Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một mình sao?”
Nghe lời thuyết phục của ông Toàn, về sau Đại Tướng Minh nhận ra trách nhiệm cứu nước.
Tình hình quân sự khi ấy vô cùng nguy khốn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn Ba VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV.
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 phía Đông. Tuyến Long An phía Nam . Lực lượng mỗi tuyến chưa tới một Sư đoàn trong khi VNCH gần hết đạn phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp năm, sáu lần với hỏa lực áp đảo.
Chiều ngày 28-4, Đại Tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống do Cụ Trần Văn Hương trao lại. Ông đọc diễn từ ngỏ lời cùng đồng bào, một lúc sau, năm máy bay CS ném bom phi trường Tân Sơn Nhât gây kinh hoàng cho cả thành phố Sài Gòn.
Ðúng bẩy giờ, đài BBC đọc bản tin tóm tắt về tình hình VN :
“- Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.
-Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.
-Nhiều loạt súng nổ tại Sài Gòn không biết thuộc phe nào.”
Qua phần bình luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Ðộc lập chứng tỏ cho thấy sự tan rã của chính quyền Sài Gòn.
Sáng ngày 29-4, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó đoàn trực thăng gồm 80 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất và tòa Ðại Sứ Mỹ để di tản 1,000 người Mỹ và 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ bay liên tục.
Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Các Tướng Tư lệnh Lý Tòng Bá, Lê Minh Đảo, Lê Nguyên Vỹ, Trần Quang Khôi… đã chiến đấu rất anh dũng trong những giờ phút cuối cùng nhưng không cứu vãn nổi tình thế. Cộng quân đã phá vỡ các phòng tuyến VNCH và tiến vào Thủ đô Sài Gòn.
Lúc 10 giờ rưỡi sáng 30-4-75, ông Dương Văn Minh kêu gọi các cấp quân đội giao nạp vũ khí cho Quân đội Cộng Hòa miền nam VN nơi gần nhất để tránh đổ máu vô ích. Lúc 12 giờ trưa, Quân dội BV tràn vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Tính ra ông Dương Văn Minh làm Tổng thống từ chiều tối ngày 28 -4 cho tới 12 giờ trưa 30-4 thì chỉ được có hơn một ngày rưỡi, chưa tới hai ngày. Nhiều người trách ông không rút về Quân khu Bốn tiếp tục chiến đấu nhưng vấn đề không đơn giản, nếu làm được thì người ta đã làm rồi. Khi ông vừa lên nhậm chức thì CSBV tấn công hối hả, ông chưa kịp trở tay thì đã bị địch xông vào dinh Độc lập thộp cổ rồi. Vấn đề rút về Quân khu Bốn không đơn giản, đạn dược còn bao nhiêu? tinh thần còn bao nhiêu? chiến đấu được bao lâu? Cầm chắc cái thua trong tay rồi chết thêm có lợi ích gì không?
Tác giả Vũ Ánh trong bài: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, đăng trên trang mạng Nguoivietboston tháng 4-2012 đã tiếp xúc với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền khi ông tới đài Truyền hình Sài gòn chiều tối 28-4-1975. Cụ Phó cho biết đã nhịn nhục vào Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn CS chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài Gòn, chết người thêm vô ích. Cụ nói khi ông Thiệu bỏ đi ai cũng biết tình hình cuối cùng sẽ bi đát như hiện nay, cụ ra nhận trách nhiệm khi biết rõ không còn phương cách nào có thể cứu vãn được. Trước khi cụ quyết định nhiều người ngăn cản đừng dại gì làm việc trong hoàn cảnh này nhưng là kẻ sĩ thì không thể thiếu trách nhiệm được, thời bình thì xe ngựa xênh xang, khi đất nước tan hoang thì bỏ trốn.
Nhiều người trách ông Dương văn Minh đầu hàng giặc, nhưng nếu ông không ra cứu nước thì tình hình cũng không khác gì hơn. Chiều 28-4 các vị Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân đoàn Ba đã “tẩu vi thượng sách”. Cụ Hương biết làm gì hơn? Cụ cũng sẽ lên đài phát thanh than thở, khóc lóc cùng đồng bào và Cộng quân cũng sẽ tiến vào dinh Độc Lập bắt tuyên bố đầu hàng, hoặc một người thay mặt cụ tuyên bố hàng. Ông Dương Văn Minh chẳng có tội gì với đất nước.
Nhiều người khen ông Minh có công cứu nguy Sài gòn, nếu ông không lên làm Tổng thống và nếu không kêu gọi đầu hàng thì Việt Cộng đã pháo kích chết hết, thành phố tan nát. Như đã nói ở trên Tướng Toàn thành lập năm tuyến phòng thủ Sài Gòn cách trung tâm thành phố 27 cây số, bằng tầm pháo cùa đại bác 130 ly của quân thù.
Tại trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà đánh chiếm thị xã trước rồi từ đó mới đánh ra
các quận bên ngoài. Khi đánh Sài Gòn thì ngược lại, họ đánh theo lối bóc vỏ, tấn
công phá sập các tuyến phòng thủ bên ngoài rồi mới tiến vào trung tâm thành phố. Mà thực ra sau khi vòng đai bảo vệ Sài Gòn sụp đổ thì các ổ kháng cự bên trong thành phố không còn bao nhiêu, VC chẳng cần phải pháo kích cho tốn đạn, ông Dương Văn Minh cũng chẳng có công trạng gì.
© Trọng Đạt © Đàn Chim Việt
—————————
Tham Khảo:
*Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
*Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
*Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
*Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
*The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
*Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
*Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
*Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
*Vũ Ánh: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, Nguoivietboston.com, tháng 4-2012..
*Nguyễn Đình Toàn: Đại Tướng Dương Văn Minh: “Em làm chứng cho Goa nha!”, Người Việt Dallas, tháng 4-2011.
[Source: www.danchimviet.info/archives/56715 ]
**********************************************************
NHÂN QUẢ (2)
Giữ chùa thờ phật thì ăn oản
Sử sách chép đại ý: “Vua Lê Trung Tông mất mà không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê, nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không nói năng gì, mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương, rồi bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi Trạng lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm”
Không phải chúa Trịnh không muốn làm, mà là không dám làm. Không dám làm vì việc lên ngôi vua tiềm ẩn quá nhiều rủi ro; cái lợi về danh không đáng so với những nguy cơ phải đối mặt.
Thế nhưng không phải ai cũng học được bài học này
1) Dương Văn Minh
Dương văn Minh đầu hàng Việt Cộng, tưởng được ăn cơm thừa canh cặn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhưng chỉ được quyền đi bầu kiểu Cộng sản mà không được thêm một quyền lợi gì, và theo như lời người trong nhà kể lại, thì đồ đạc của nải trong nhà lần lượt đội nón ra đi không hẹn ngày trở lại ... Cho đến năm 1981 hay 1983 gì đó(?) thì Dương văn Minh xin xuất cảnh sang Pháp theo diện sĩ quan quân đội Lê Dương (quân đội Liên hiệp Pháp) và ra đi theo diện cựu lính tẩy của Pháp và ngửa tay xin tiền hưu của chính phủ Pháp theo diện này
Tiền hưu xét theo thâm niên công vụ nên chắc tiền hưu cũng không đủ sống nên Dương văn Minh, năm 1988, âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai và định cư ở đó.
Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây, vì sợ búa rìu dư luận và biết đâu sẽ bị hành hung bởi những người căm hận cái bộ mặt bỉ ổi vô liêm sỉ này
Dương Văn Minh, đã qua đời tối 6/8 tại Bệnh viện Huntington Memorial, bang California (Mỹ), ở tuổi 86, sau nhiều năm bị bệnh phải ngồi xe lăn. Bà Mai Dương cho biết ông chết do bị ngã tại nhà riêng hôm chủ nhật, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi.
Dương Văn Minh hành động sau 1963:
+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược.
Năm 1975, khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội VNCH “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng
Từ một đại tướng VNCH trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt sống bám vào Pháp và Mỹ vào giai đoạn cuối đời thật không còn nhục nhã nào hơn. Khi chết bên cạnh không có nổi một người cận vệ hay hầu cận chăm sóc ngoài người con gái phải đi làm chật vật ở Mỹ, cho nên bị té xe lăn và khi người nhà phát hiện ra thì đã ngắc ngoải rồi
2) Nguyễn Hữu Hạnh
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đang sống trong nghĩa trang
Chuẩn Tướng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Hữu Hạnh, người từng là phụ tá tổng tham mưu trưởng Quân Lực VNCH, đang sống những năm tháng cuối đời tại một căn nhà tuềnh toàng trong khu nghĩa trang ở tỉnh Tiền Giang, cùng với người vợ sau, nhỏ hơn ông 33 tuổi, trước đây làm nghề bán vé số.
Không chỉ là tướng VNCH, ông Hạnh, năm nay 95 tuổi, còn là “cơ sở nội tuyến chiến lược của Ban Binh Vận Trung Ương Cục Miền Nam” của Cộng Sản. Trong ngày 30 Tháng Tư, 1975, ông từng ra lệnh cho sĩ quan, binh sĩ án binh bất động, thuyết phục Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ buông súng đầu hàng.
Đã lập được công trạng với chế độ Cộng Sản như vậy, ông Nguyễn Hữu Hạnh nay bị bỏ rơi như thế nào?
Gian nan tìm nhà Tướng Hạnh
Phóng viên báo Người Việt tìm về “nhà” của ông Nguyễn Hữu Hạnh vào một ngày cuối Tháng Mười Một, năm 2018, với “vốn liếng” chỉ là một địa chỉ khá mơ hồ: “Ở thôn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Ngôi nhà được cất bên cạnh một nghĩa trang.”
Từ Sài Gòn, chúng tôi đến Bến Xe Miền Tây để bắt xe đi xuống Tiền Giang. Sau khi xem địa chỉ mà chúng tôi muốn đến, cô bán vé xe bảo: “Không có chuyến xe nào về chỗ Tân Hiệp này đâu. Chỉ có xe đi Sóc Trăng sẽ đi ngang khu vực này, rồi lên xe em dặn bác lơ xe khi tới vòng xoay Lương Phú thì cho xuống. Rồi từ đó bắt xe ôm thêm 10 km mới tới Tân Hiệp.”
Khi nghe chúng tôi thắc mắc: “Không còn đường nào khác nhanh hơn hả chị?” Cô bán vé lắc đầu: “Chỉ có cách này là nhanh nhất rồi. Vì chỗ đó là vùng quê, không xe nào chạy ngang đó đâu?”
Chúng tôi đành mua vé rồi lên xe.
Ngã tư vòng xoay Lương Phú thuộc tỉnh Tiền Giang, cách Bến Xe Miền Tây ở Sài Gòn tầm 70km. Tới đây chúng tôi xuống xe và đón xe ôm về ấp Me, thôn Tân Hiệp, huyện Châu Thành.
Lên xe ôm chạy được một đoạn, tôi mới hỏi người chạy xe ôm là có biết nhà ông “Nguyễn Hữu Hạnh, khoảng hơn 90 tuổi, trước làm tướng cho chế độ cũ không?” Bác xe ôm lắc đầu, bảo: “Tôi làm nghề này ở đây chắc cũng 40 năm rồi mà chưa nghe đến cái tên như vậy?”
Chúng tôi hỏi tiếp: “Bác có biết có nghĩa trang nào ở khu vực ấp Me đó không? Vì con biết nhà ông Hạnh bên cạnh nghĩa trang.”
“Thật ra người dân ở đây gọi là ‘gò’ chứ không ai gọi là nghĩa trang cả? Vì hầu hết khu vực miền Tây, nghĩa trang không được qui hoạch tập trung, mà mạnh nhà nào nhà đó tự chôn cất người thân khi mất ở đất nhà mình, hoặc đất công cộng nào đó mà không có ai ở là họ tự chôn mà thôi.” Bác tài xế xe ôm cho biết.
Quả thật, đoạn đường từ vòng xoay Lương Phú tới ấp Me, Tân Hiệp có rất nhiều nghĩa trang nhỏ lẻ. Người dân nơi đây tự chôn cất người thân của mình.
Khi đến nơi, tôi hỏi nhiều người dân xung quanh khu vực ấp Me này, về ngôi nhà của “ông Hạnh, đã hơn 90 tuổi sống bên cạnh một nghĩa trang” nhưng không ai biết hết.
Chạy đến khu vực nào có mồ mả là chúng tôi đều dừng lại hỏi, nhưng tất cả đều lắc đầu không biết. Tìm mãi không ra, tôi bèn kêu bác xe ôm chạy ngược ra lại quán nước đầu hẻm, ngõ vào ấp Me, ngồi uống nước.
Chúng tôi đem câu chuyện về ông Hạnh để hỏi cô chủ quán, cô cũng lắc đầu bảo “chắc em tìm lộn địa chỉ, chứ tôi bán quán ở đây hơn 20 năm cũng chưa nghe ông Hạnh nào hơn 90 tuổi ở khu vực này cả. Chỉ có một ông Hạnh, khoảng 80 tuổi, nhưng đã mất cách đây cũng hơn 2 năm rồi.”
Trong lúc đang tuyệt vọng thì có một ông bán vé số vào mời mua. Chúng tôi vội mua tờ vé số ủng hộ ông nhưng chủ yếu để hỏi nhà ông Hạnh, thì lập tức ông trả lời ngay: “Có phải ông Hạnh lớn tuổi, trước ở Sài Gòn làm lớn lắm phải không?” Tôi vui mừng gật đầu “đúng rồi!”
Lập tức ông chỉ đường, bảo cứ chạy vào hẻm này đến gần cuối đường có một cái “gò” (nghĩa trang) lớn lắm. Hỏi nhà bà Tư Bóng là mọi người biết, chứ hỏi nhà ông Hạnh không ai biết đâu.”
Ông giải thích thêm: “Bà Tư Bóng lúc trước bán vé số như tui, nên tui biết. Bà bây giờ cũng hơn 60 tuổi rồi, bà có 5 đứa con, một đứa bị bệnh cũng tội nghiệp lắm. Chồng mất sớm nên bà một tay bán vé số nuôi con. Từ ngày bà gặp ông Hạnh và kết thành vợ chồng thì bà không còn đi bán vé số nữa. Có lẽ ông chồng bả lương cũng khá nên gia đình thấy đỡ lắm rồi.”
Như cánh cửa bị đóng và nay đã có chìa khóa trong tay, quả thật hỏi nhà bà Tư Bóng thì người dân ở đây biết và chỉ dẫn cặn kẽ. Đến gần cuối con đường ấp Me, một nghĩa trang to hiện ra với nhiều ngôi mộ đã được chôn cất. Bên cạnh là một ngôi nhà cấp 4 (loại nhà mái tôn, xây gạch rẻ tiền), khá cũ.
Tiếp chung tôi là một người phụ nữ tầm hơn 60 tuổi. Khi được hỏi “có phải bà là Tư Bóng?’ bà liền xác nhận và bảo “các chú đến tìm anh Hạnh phải không?” Tôi hơi bất ngờ về câu hỏi này, liền được bà cười bảo: “Tìm đến nhà tôi thì chỉ có gặp anh Hạnh, chứ bán vé số như tôi thì ai mà tìm.”
Rồi bà vừa chỉ vào ngôi nhà, vừa bảo: “Ổng mới ngủ dậy đó. Bây giờ già rồi cũng lẫn, không nhớ được gì hết. Mới 3 tháng trước ông phải vào bệnh viện vì bị cao huyết áp.” Bà dẫn chúng tôi đi ngang một ngôi mộ nằm ngay chính giữa cửa chính của ngôi nhà, khiến ai lần đầu bước vào cũng thấy rợn người.
Sống khép kín, ít giao tiếp bên ngoài
Trong nhà không có vật dụng gì quý giá. Trên tường có treo tấm “bằng khen” của chính quyền Cộng Sản trao tặng. Cùng với tấm bảng ghi dòng chữ “Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, sáng ngày 30/4/1975, cơ sở nội tuyến chiến lược của Ban Binh Vận Trung Ương Cục Miền Nam, phụ tá tổng tham mưu Ngụy đã lệnh cho sĩ quan, binh sĩ án binh bất động, thuyết phục Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng quân giải phóng.”
Trước mặt chúng tôi là ông Nguyễn Hữu Hạnh, dáng người ốm, tay chống gậy. Mặc dù ông đang ngồi trên ghế để uống cà phê, nhưng mắt vẫn lim dim mơ màng. Mái tóc lưa thưa bạc trắng, răng rụng hết, nước da sạm với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt đầy những vết chân chim.
Bà Tư Bóng ghé sát tai ông Hạnh bảo: “Có nhà báo trên Sài Gòn xuống thăm anh.” Ông gật đồng ra vẻ biết chuyện.
Khi chúng tôi hỏi: “Ông năm nay được bao nhiêu tuổi rồi?” – Bà Tư ghé sát tai ông nói lại. Ông liền trả lời rất nhanh “Tôi tên Nguyễn Hữu Hạnh, năm nay 95 tuổi.” Rồi như chắc ăn thêm, ông quay sang hỏi vợ: “95 rồi bà nhỉ?” Bà Tư liền trả lời: “Ừ, đúng rồi!”
Rồi bà Tư quay sang bảo tôi: “Tai ông nặng lắm, nói gì phải ghé sát tai nói mới nghe. Chứ nói chuyện bình thường ông không nghe được đâu.”
Bà nói thêm: “Cách đây 2 năm thì ông còn nhớ nhiều, chứ bây giờ dường như ông chẳng nhớ gì hết. Mới 3 tháng trước ông phải vào bệnh viện vì cao huyết áp. Bây giờ ông đi lại rất khó khăn, ăn uống cơm nước một tay tôi lo thôi.”
Ông tướng nên vợ nên chồng với bà bán vé số
Nói về cuộc hôn nhân với ông Hạnh, bà Tư kể: “Tôi tên thật là Trần Thị Hiệp, dân đây gọi là Tư Bóng. Hồi đó nhà nghèo không đất đai gì. Nên về cái ‘gò’ này để tự làm chòi để ở. Vì nghĩ đất nghĩa trang thì không ai đuổi đi. Chồng tôi mất sớm để lại 5 đứa con, nên một tay tôi phải đi bán vé số nuôi con.”
“Tôi gặp ông Hạnh vào năm 2010. Hồi đó ông từ Sài Gòn về ở nhà ông Bảy Rết, là anh em họ hàng với ông Hạnh, nhà cũng sát bên cạnh đây thôi. Ông Hạnh thường hay mua vé số giúp tôi. Gặp nhau vài lần tôi mới biết vợ ông cũng mới mất, nên ông buồn, tìm về quê cho thanh thản, kiếm người hủ hỉ tuổi già. Hồi đó không biết ông là tướng lãnh gì ngày xưa đâu.”
“Tôi lúc đó cũng 53 tuổi rồi. Mới nhìn ông cứ tưởng là cỡ 75 thôi, ai ngờ ông cũng đã 86 tuổi, hơn tôi đến 33 tuổi. Con đầu ông còn lớn tuổi hơn cả tôi. Mới đầu chúng phản đối dữ lắm, vì cho rằng tôi lấy ông là vì tiền bạc, chứ ông già vậy ai mà đi bước nữa với ông. Nhưng bây giờ thì tụi trẻ đã hiểu chuyện, biết cảm ơn tôi, bảo: ‘không có chị chắc ba không sống đến ngày hôm nay?’”
“Hồi đó ở đây chỉ là nhà tranh vách đất. Nhờ ông vay mượn được 30 triệu VND (khoảng $1,300) để xây căn nhà này. Tiền lương của ông lúc đó được 8 triệu, nên ông vừa trả dần một tháng 2 triệu và giúp tôi trả các khoản nợ cũ. Bây giờ thì lương ông đã hơn mười mấy triệu rồi (khoảng $600/tháng, so với thu nhập của người dân là khá cao).”
Chúng tôi hơi bất ngờ về chi tiết này, vì nghĩ ông đã về hưu thì làm sao có mức lương được chính quyền trả như vậy? Thắc mắc thì được bà Hiệp bảo: “Thật ra khoảng 3 năm nay ông không còn đi họp hành gì nữa, nhưng vẫn có tên trong thành viên ‘Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc’ nên mới được mức lương như vậy. Hiện 2 vợ chồng sống dựa vào đồng lương đó thôi.”
Hỏi bà là chính quyền có hay cử người tới thăm ông không? Bà trả lời: “Không, chỉ lâu lâu đến dịp 30 Tháng Tư thì có vài nhà báo xuống thăm trò chuyện mà thôi. Ở đây, ông cũng ít khi ra ngoài nên hàng xóm cũng ít biết đến ông.”
Tới đây chúng tôi mới hiểu lý do vì sao mà lúc tìm nhà ông lại khó khăn như vậy, vì hàng xóm không biết có ông Hạnh nào ở xóm mình cả.
Gần cuối đời sống ở nghĩa trang
Chúng tôi quay sang hỏi ông Hạnh: “Ông có nhớ gì ngày 30 Tháng Tư, 1975 không?” Bà Hiệp kề tai ông nói lại như phiên dịch. Ông trả lời: “Có cái nhớ, có cái không?” Nghe đến đây chúng tôi cũng mừng thầm, vì nghĩ biết đâu ông sẽ kể được chi tiết về biến cố này.
Nhưng khi hỏi tiếp: “Lúc đó ông làm gì?” Thì ông chỉ trả lời: “Lúc đó ở trong mặt trận, tôi là giám đốc miền Nam…”
Rồi ông im lặng, người đơ ra như đang “nghiệm” điều gì đó mà không nhớ ra. Bà Hiệp bên canh nói thêm như giải thích, “ổng quên hết rồi!”
Biết là không thể hỏi thêm được điều gì, nên tôi quay sang nói chuyện tiếp với bà Hiệp.
Thế mấy con của ông có hay từ Sài Gòn xuống thăm không? Bà Hiệp nói như thở dài: “Không, lâu lâu có đám cưới hỏi gì của mấy cháu trong nhà thì cũng có gọi điện báo tin và mời ông về Sài Gòn thì tôi đưa ông lên thôi. Chứ con cái không thấy xuống thăm ông. Có lẽ tụi nó bận công việc.”
Về con cái và nhà cửa của ông Nguyễn Hữu Hạnh, báo Tiền Phong ở Việt Nam trong bài “Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh bây giờ…” xuất bản ngày 26 Tháng Tư, 2017, có đoạn: “…Ngôi biệt thự (của ông Hạnh) ở đường Phan Kế Bính sau khi người bạn đời của 14 người con mất đã bán đi, mua mảnh đất ở ấp Tám, Tân Phú Trung, Củ Chi, Sài Gòn để ở, rồi lại khóa cửa để đấy, ông Hạnh về đây quanh quẩn vui thú điền viên với bạn bè…”
Báo này kể có chi tiết trùng với lời kể của bà Trần Thị Hiệp: “Mươi năm trước, Mặt Trận Tổ Quốc thành phố cho mượn 30 triệu làm 30m2 nhà cấp 4 này, trừ dần vào lương tháng, ông đã trả hết. Mới rồi ông lại mới vay được 10 triệu xây thêm căn bếp.”
Trở lại thực tại, nhìn những ngôi mộ bên cạnh nhà, đặc biệt ngôi mộ ngay chính cổng ra vào, chúng tôi e ngại hỏi: “Sống gần mồ mả vậy có sợ không?” Bà Hiệp nói “thấy cũng bình thường, vì ở đây riết cũng quen rồi. Nghĩa trang này hiện nay họ vẫn tiếp tục chôn. Cứ có người mất thì họ lại đem tới chôn thôi. Không vấn đề gì cả.”
Chúng tôi hỏi nước uống mà gia đình bà đang dùng được lấy từ đâu? Bà bảo: “Thì nước giếng thôi!” Vừa nói bà chỉ ra cái giếng nước bên ngoài, sát bên cạnh những nấm mồ. Nghĩ mà nổi da gà vì nãy giờ cũng đã uống một ly nước ở nhà bà, nguồn nước có thể bị ô nhiễm khi bên cạnh là những nấm mồ.
Câu chuyện giữa chúng tôi và bà Hiệp lâu lâu lại bị ngắt quãng bởi những tiếng ho hay khạc nhổ của ông Hạnh. Dường như ông không còn tự chủ trong các hành động của mình. Nhìn ông, ít người ở đây biết rằng “ông già lẩm cẩm” ở trong căn nhà nhỏ xíu, xung quanh toàn mồ mả này trước đây từng là một vị tướng VNCH quyền uy, một nhân vật quan trọng trong biến cố 30 Tháng Tư 1975, khiến miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Chào ông ra về mà trong đầu chúng tôi băn khoăn về một kiếp người. Phải chăng đây là số phận của một người làm tướng Việt Nam Cộng Hòa nhưng lại nằm vùng cho Cộng Sản, những ngày tháng cuối đời phải sống trong nghĩa trang, làm bạn với những nấm mồ.
TG: Phan Ba Nhật Bình
Đọc thêm:
Ông Nguyễn Hữu Hạnh, sinh năm 1924, là chuẩn tướng Bộ Binh của Quân Lực VNCH. Ông thường được biết đến với vai trò là phụ tá tổng tham mưu trưởng cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, người đã tác động để Tổng Thống Dương Văn Minh sớm đi đến quyết định kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí đầu hàng quân đội Bắc Việt vào ngày 30 Tháng Tư, năm 1975.
Cùng với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, ông Hạnh là một trong 2 vị tướng bên cạnh Tổng Thống Dương Văn Minh trong giờ phút cuối cùng của VNCH.
Sau khi miền Nam VN mất về tay Cộng Sản ngày 30-4-1975 nhiều người kết tội Dương Văn Minh đầu hàng giặc, dâng nước cho Bắc Việt, họ nói vì ông mà miền Nam mất. Những người cảm tình với Dương Văn Minh nói ông có công cứu Sài Gòn và miền Nam Việt Nam thoát chết, “nếu ông không ra lệnh đầu hàng thì nó pháo kích chết hết !!!” Sau khi ra Hải ngoại trả lời phỏng vấn báo chí ông nói : “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’ thì tình hình miền nam VN và Sài Gòn cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bốn sao, Ba sao, các ông lớn…đều đã “tẩu vi thượng sách”, Việt Cộng đang tiến quân vào.
Ngược dòng thời gian tháng 11-1972 khi sắp ký Hiệp định Paris, Hoa kỳ đã vội vã cung cấp cho VNCH khoảng gần 600 máy bay các loại gồm : 200 máy bay phản lực chiến đấu, khoảng 340 trực thăng các loại và mấy chục máy bay vận tải, thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286. (Theo Nixon, No More Vietnams, trang 170-171). Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, họ mất khoảng 100 ngàn quân, 700 xe tăng (Nguyễn đức Phương- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), lại nữa cuối 1972, TT Nixon cho B-52 oanh tạc dữ dội Hà nội, Hải phòng đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt”( No More Vietnams. Trang 158). Sau ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH yên tâm vì tiềm năng quân sự miền Nam mạnh hơn miền Bắc.
Tuy nhiên tình hình thay đổi rất nhanh, cán cân lực lượng hai miền đã đảo ngược từ 1974, CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ quân sự đều đặn cho Hà Nội: Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006). Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Xô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Xô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang 481).
Trong khi đó miền Nam bị Quốc hội Mỹ xiết cổ từ từ, Hạ Viện Mỹ 1972 Dân chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Hòa 192 ghế, họ chống đối chiến tranh VN rất mạnh, trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Ngày 15-8 -1973 ban hành luật của Quốc hội cắt bỏ tất cả các ngân khoản dùng trực tiếp gián tiếp cho các hoạt động quận sự Mỹ tại Đông Dương. Ngày 7-11-1973 Quốc Hội ban hành luật War Powers Resolution hạn chế quyền Tổng thống trong chiến tranh, Tổng thống muốn đem quân ra ngoại quốc phải đưa ra Quốc hội để trói tay hành pháp thì số phận của VNCH coi như đã được quyết định rồi .
Kỳ bầu cử Hạ viện Mỹ tháng 11-1974, Dân chủ chiếm đại đa số, tỷ lệ 66.9% Hạ viện với 291 ghế, Cộng Hòa 144 ghế. Dân chủ chống chiến tranh Đông Dương quyết liệt, cắt bỏ bất cứ ngân khoản viện trợ nào giành cho Đông Dương. VNCH lâm vào tình trạng đen tối. Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam ngày càng thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm trên 70%. Theo ông Cao Văn Viên nạn đào ngũ (Những ngày cuối VNCH trang 79) khiến cho quân số thiếu hụt. Hàng tháng lính đào ngũ trung bình lên tới 1,5 hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng định vì nạn trốn quân dịch.
Cuối 1974 đầu 1975, CSBV đánh chiếm Phươc Long để thăm dò Mỹ. Trước nguy cơ sụp đổ, TT Thiệu gửi thư cho TT Ford xin Viện trợ bổ túc 300 triệu. Tháng 3-1974 BV tấn công chiếm Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ bác bỏ khoản viện trợ cho miền Nam và không chuẩn chi cho năm tới 1976.
Tình hình quân sự ngày càng thê thảm, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH, trang 92) cho biết vào tháng 2-75, đạn tồn kho chỉ còn đủ dùng khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris, VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu đã khiến VNCH mất hai quân khu I và II, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và II trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.
BV hối hả đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam, Hà Nội dùng mọi phương tiện không quân, hải quân, đường bộ để chuyển quân gấp rút vào Nam bao vây Saigon. Họ dốc toàn bộ lực lượng vào Nam. Lực lượng tham chiến của BV vào khoảng gần 20 Sư đoàn (gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232, sáu trung đoàn đặc công, 6 trung đoàn độc lập). Vũ khí đạn dược của BV gấp bội lần năm 1972.
Trong thời gian này tại Hoa Thịnh Đốn Kissinger báo cáo trong phiên họp Nội các:
“Toàn bộ lực lượng của QĐBV hiện đã vào nam, chỉ cần một Lữ đoàn TQLC là ta có thể chiếm hết miền Bắc, một sự vi phạm trắng trợn (Larry Berman, No Peace No Honortrang 266). Ông cũng nói “Chúng ta không còn tiền để chơi ván bài”, sự thật Hành pháp đã bị Quốc hội trói tay.
Ngày 10-4-1975, VNCH còn hy vọng vào viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra Quốc hội, ngày 18-4 ngân khoản này bị bác bỏ. Nhiều chính khách nhận định khoản viện trợ này nếu được chấp thuận cũng chỉ kéo dài thêm sự hấp hối của miền Nam mà thôi. Ngày 21-4-1975, TT Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay, mấy ngày sau ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm rời Sài Gòn ra đi hôm 24-4.
Trở lại chuyện ông Dương văn Minh. Sải gòn có nhiều tin đồn về việc ông Dương Văn Minh sắp lên làm Tổng Thống thay Trần Văn Hương.
Cụ Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện tình đất nước trên đài phát thanh Sài Gòn, giọng sướt mướt, vừa nói vừa khóc.
“Thưa đồng bào, tình hình hiện nay vô cùng bi đát… Một vùng Hai miền Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng Ba, vùng Bốn nay cũng đã bị nhiều sứt mẻ. Rồi mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi thủ đô Sài Gòn này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và
đã bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hoà bình cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì. . hở trời!!. .
Người dân vừa sợ vừa thông cảm cho cụ già vì cụ quá thật thà, cụ đã đem hết mọi bí mật quốc gia nói huỵch toẹt trên đài phát thanh! Thực ra nay cũng chẳng còn bí mật gì để giữ.
Những lời đồn nay đã thành sự thật, ông Dương văn Minh sẽ lên làm Tổng thống. Theo lời kể của ông Nguyễn đình Toàn trong bài “Đại Tướng Dương Văn Minh: Em Làm Chứng Cho Goa” (Người Việt Dallas, tháng 4-2011), ông Toàn và các ông Đỗ đình Tứ, Nguyễn Văn Bình đi thuyết phục Dương Văn Minh ra nhận nhiệm vụ, Đại tướng thất vọng nói:
“Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: “Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đã trình bày cho chúng ta biết về tình hình quân đội, về khả năng tái phối trí của quân đội… quân của mình hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, còn các kho vũ khí, súng đạn của mình trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không còn kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàigòn, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của mình cũng không còn, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi thì đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh mình có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi… Tình hình như vậy em bảo làm sao mà ” Goa ” dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?”
Ông Toàn và mấy người bạn nói:
“Nếu Đại Tướng thương nước thương dân thì Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói tình hình nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa… thì Đại Tướng đâu có thương dân thương nước,
Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nhìn thẳng vào tôi và nói:
“Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một mình sao?”
Nghe lời thuyết phục của ông Toàn, về sau Đại Tướng Minh nhận ra trách nhiệm cứu nước.
Tình hình quân sự khi ấy vô cùng nguy khốn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn Ba VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV.
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 phía Đông. Tuyến Long An phía Nam . Lực lượng mỗi tuyến chưa tới một Sư đoàn trong khi VNCH gần hết đạn phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp năm, sáu lần với hỏa lực áp đảo.
Chiều ngày 28-4, Đại Tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống do Cụ Trần Văn Hương trao lại. Ông đọc diễn từ ngỏ lời cùng đồng bào, một lúc sau, năm máy bay CS ném bom phi trường Tân Sơn Nhât gây kinh hoàng cho cả thành phố Sài Gòn.
Ðúng bẩy giờ, đài BBC đọc bản tin tóm tắt về tình hình VN :
“- Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.
-Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.
-Nhiều loạt súng nổ tại Sài Gòn không biết thuộc phe nào.”
Qua phần bình luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Ðộc lập chứng tỏ cho thấy sự tan rã của chính quyền Sài Gòn.
Sáng ngày 29-4, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó đoàn trực thăng gồm 80 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất và tòa Ðại Sứ Mỹ để di tản 1,000 người Mỹ và 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ bay liên tục.
Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Các Tướng Tư lệnh Lý Tòng Bá, Lê Minh Đảo, Lê Nguyên Vỹ, Trần Quang Khôi… đã chiến đấu rất anh dũng trong những giờ phút cuối cùng nhưng không cứu vãn nổi tình thế. Cộng quân đã phá vỡ các phòng tuyến VNCH và tiến vào Thủ đô Sài Gòn.
Lúc 10 giờ rưỡi sáng 30-4-75, ông Dương Văn Minh kêu gọi các cấp quân đội giao nạp vũ khí cho Quân đội Cộng Hòa miền nam VN nơi gần nhất để tránh đổ máu vô ích. Lúc 12 giờ trưa, Quân dội BV tràn vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Tính ra ông Dương Văn Minh làm Tổng thống từ chiều tối ngày 28 -4 cho tới 12 giờ trưa 30-4 thì chỉ được có hơn một ngày rưỡi, chưa tới hai ngày. Nhiều người trách ông không rút về Quân khu Bốn tiếp tục chiến đấu nhưng vấn đề không đơn giản, nếu làm được thì người ta đã làm rồi. Khi ông vừa lên nhậm chức thì CSBV tấn công hối hả, ông chưa kịp trở tay thì đã bị địch xông vào dinh Độc lập thộp cổ rồi. Vấn đề rút về Quân khu Bốn không đơn giản, đạn dược còn bao nhiêu? tinh thần còn bao nhiêu? chiến đấu được bao lâu? Cầm chắc cái thua trong tay rồi chết thêm có lợi ích gì không?
Tác giả Vũ Ánh trong bài: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, đăng trên trang mạng Nguoivietboston tháng 4-2012 đã tiếp xúc với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền khi ông tới đài Truyền hình Sài gòn chiều tối 28-4-1975. Cụ Phó cho biết đã nhịn nhục vào Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn CS chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài Gòn, chết người thêm vô ích. Cụ nói khi ông Thiệu bỏ đi ai cũng biết tình hình cuối cùng sẽ bi đát như hiện nay, cụ ra nhận trách nhiệm khi biết rõ không còn phương cách nào có thể cứu vãn được. Trước khi cụ quyết định nhiều người ngăn cản đừng dại gì làm việc trong hoàn cảnh này nhưng là kẻ sĩ thì không thể thiếu trách nhiệm được, thời bình thì xe ngựa xênh xang, khi đất nước tan hoang thì bỏ trốn.
Nhiều người trách ông Dương văn Minh đầu hàng giặc, nhưng nếu ông không ra cứu nước thì tình hình cũng không khác gì hơn. Chiều 28-4 các vị Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân đoàn Ba đã “tẩu vi thượng sách”. Cụ Hương biết làm gì hơn? Cụ cũng sẽ lên đài phát thanh than thở, khóc lóc cùng đồng bào và Cộng quân cũng sẽ tiến vào dinh Độc Lập bắt tuyên bố đầu hàng, hoặc một người thay mặt cụ tuyên bố hàng. Ông Dương Văn Minh chẳng có tội gì với đất nước.
Nhiều người khen ông Minh có công cứu nguy Sài gòn, nếu ông không lên làm Tổng thống và nếu không kêu gọi đầu hàng thì Việt Cộng đã pháo kích chết hết, thành phố tan nát. Như đã nói ở trên Tướng Toàn thành lập năm tuyến phòng thủ Sài Gòn cách trung tâm thành phố 27 cây số, bằng tầm pháo cùa đại bác 130 ly của quân thù.
Tại trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà đánh chiếm thị xã trước rồi từ đó mới đánh ra
các quận bên ngoài. Khi đánh Sài Gòn thì ngược lại, họ đánh theo lối bóc vỏ, tấn
công phá sập các tuyến phòng thủ bên ngoài rồi mới tiến vào trung tâm thành phố. Mà thực ra sau khi vòng đai bảo vệ Sài Gòn sụp đổ thì các ổ kháng cự bên trong thành phố không còn bao nhiêu, VC chẳng cần phải pháo kích cho tốn đạn, ông Dương Văn Minh cũng chẳng có công trạng gì.
© Trọng Đạt © Đàn Chim Việt
—————————
Tham Khảo:
*Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
*Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
*Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
*Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
*The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
*Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
*Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
*Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
*Vũ Ánh: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, Nguoivietboston.com, tháng 4-2012..
*Nguyễn Đình Toàn: Đại Tướng Dương Văn Minh: “Em làm chứng cho Goa nha!”, Người Việt Dallas, tháng 4-2011.
[Source: www.danchimviet.info/archives/56715 ]
**********************************************************
NHÂN QUẢ (2)
Giữ chùa thờ phật thì ăn oản
Sử sách chép đại ý: “Vua Lê Trung Tông mất mà không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê, nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không nói năng gì, mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương, rồi bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi Trạng lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm”
Không phải chúa Trịnh không muốn làm, mà là không dám làm. Không dám làm vì việc lên ngôi vua tiềm ẩn quá nhiều rủi ro; cái lợi về danh không đáng so với những nguy cơ phải đối mặt.
Thế nhưng không phải ai cũng học được bài học này
1) Dương Văn Minh
Dương văn Minh đầu hàng Việt Cộng, tưởng được ăn cơm thừa canh cặn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhưng chỉ được quyền đi bầu kiểu Cộng sản mà không được thêm một quyền lợi gì, và theo như lời người trong nhà kể lại, thì đồ đạc của nải trong nhà lần lượt đội nón ra đi không hẹn ngày trở lại ... Cho đến năm 1981 hay 1983 gì đó(?) thì Dương văn Minh xin xuất cảnh sang Pháp theo diện sĩ quan quân đội Lê Dương (quân đội Liên hiệp Pháp) và ra đi theo diện cựu lính tẩy của Pháp và ngửa tay xin tiền hưu của chính phủ Pháp theo diện này
Tiền hưu xét theo thâm niên công vụ nên chắc tiền hưu cũng không đủ sống nên Dương văn Minh, năm 1988, âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai và định cư ở đó.
Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây, vì sợ búa rìu dư luận và biết đâu sẽ bị hành hung bởi những người căm hận cái bộ mặt bỉ ổi vô liêm sỉ này
Dương Văn Minh, đã qua đời tối 6/8 tại Bệnh viện Huntington Memorial, bang California (Mỹ), ở tuổi 86, sau nhiều năm bị bệnh phải ngồi xe lăn. Bà Mai Dương cho biết ông chết do bị ngã tại nhà riêng hôm chủ nhật, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi.
Dương Văn Minh hành động sau 1963:
+ Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược.
Năm 1975, khi được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng, thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội VNCH “án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng
Từ một đại tướng VNCH trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt sống bám vào Pháp và Mỹ vào giai đoạn cuối đời thật không còn nhục nhã nào hơn. Khi chết bên cạnh không có nổi một người cận vệ hay hầu cận chăm sóc ngoài người con gái phải đi làm chật vật ở Mỹ, cho nên bị té xe lăn và khi người nhà phát hiện ra thì đã ngắc ngoải rồi
2) Nguyễn Hữu Hạnh
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đang sống trong nghĩa trang
Chuẩn Tướng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Hữu Hạnh, người từng là phụ tá tổng tham mưu trưởng Quân Lực VNCH, đang sống những năm tháng cuối đời tại một căn nhà tuềnh toàng trong khu nghĩa trang ở tỉnh Tiền Giang, cùng với người vợ sau, nhỏ hơn ông 33 tuổi, trước đây làm nghề bán vé số.
Không chỉ là tướng VNCH, ông Hạnh, năm nay 95 tuổi, còn là “cơ sở nội tuyến chiến lược của Ban Binh Vận Trung Ương Cục Miền Nam” của Cộng Sản. Trong ngày 30 Tháng Tư, 1975, ông từng ra lệnh cho sĩ quan, binh sĩ án binh bất động, thuyết phục Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ buông súng đầu hàng.
Đã lập được công trạng với chế độ Cộng Sản như vậy, ông Nguyễn Hữu Hạnh nay bị bỏ rơi như thế nào?
Gian nan tìm nhà Tướng Hạnh
Phóng viên báo Người Việt tìm về “nhà” của ông Nguyễn Hữu Hạnh vào một ngày cuối Tháng Mười Một, năm 2018, với “vốn liếng” chỉ là một địa chỉ khá mơ hồ: “Ở thôn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Ngôi nhà được cất bên cạnh một nghĩa trang.”
Từ Sài Gòn, chúng tôi đến Bến Xe Miền Tây để bắt xe đi xuống Tiền Giang. Sau khi xem địa chỉ mà chúng tôi muốn đến, cô bán vé xe bảo: “Không có chuyến xe nào về chỗ Tân Hiệp này đâu. Chỉ có xe đi Sóc Trăng sẽ đi ngang khu vực này, rồi lên xe em dặn bác lơ xe khi tới vòng xoay Lương Phú thì cho xuống. Rồi từ đó bắt xe ôm thêm 10 km mới tới Tân Hiệp.”
Khi nghe chúng tôi thắc mắc: “Không còn đường nào khác nhanh hơn hả chị?” Cô bán vé lắc đầu: “Chỉ có cách này là nhanh nhất rồi. Vì chỗ đó là vùng quê, không xe nào chạy ngang đó đâu?”
Chúng tôi đành mua vé rồi lên xe.
Ngã tư vòng xoay Lương Phú thuộc tỉnh Tiền Giang, cách Bến Xe Miền Tây ở Sài Gòn tầm 70km. Tới đây chúng tôi xuống xe và đón xe ôm về ấp Me, thôn Tân Hiệp, huyện Châu Thành.
Lên xe ôm chạy được một đoạn, tôi mới hỏi người chạy xe ôm là có biết nhà ông “Nguyễn Hữu Hạnh, khoảng hơn 90 tuổi, trước làm tướng cho chế độ cũ không?” Bác xe ôm lắc đầu, bảo: “Tôi làm nghề này ở đây chắc cũng 40 năm rồi mà chưa nghe đến cái tên như vậy?”
Chúng tôi hỏi tiếp: “Bác có biết có nghĩa trang nào ở khu vực ấp Me đó không? Vì con biết nhà ông Hạnh bên cạnh nghĩa trang.”
“Thật ra người dân ở đây gọi là ‘gò’ chứ không ai gọi là nghĩa trang cả? Vì hầu hết khu vực miền Tây, nghĩa trang không được qui hoạch tập trung, mà mạnh nhà nào nhà đó tự chôn cất người thân khi mất ở đất nhà mình, hoặc đất công cộng nào đó mà không có ai ở là họ tự chôn mà thôi.” Bác tài xế xe ôm cho biết.
Quả thật, đoạn đường từ vòng xoay Lương Phú tới ấp Me, Tân Hiệp có rất nhiều nghĩa trang nhỏ lẻ. Người dân nơi đây tự chôn cất người thân của mình.
Khi đến nơi, tôi hỏi nhiều người dân xung quanh khu vực ấp Me này, về ngôi nhà của “ông Hạnh, đã hơn 90 tuổi sống bên cạnh một nghĩa trang” nhưng không ai biết hết.
Chạy đến khu vực nào có mồ mả là chúng tôi đều dừng lại hỏi, nhưng tất cả đều lắc đầu không biết. Tìm mãi không ra, tôi bèn kêu bác xe ôm chạy ngược ra lại quán nước đầu hẻm, ngõ vào ấp Me, ngồi uống nước.
Chúng tôi đem câu chuyện về ông Hạnh để hỏi cô chủ quán, cô cũng lắc đầu bảo “chắc em tìm lộn địa chỉ, chứ tôi bán quán ở đây hơn 20 năm cũng chưa nghe ông Hạnh nào hơn 90 tuổi ở khu vực này cả. Chỉ có một ông Hạnh, khoảng 80 tuổi, nhưng đã mất cách đây cũng hơn 2 năm rồi.”
Trong lúc đang tuyệt vọng thì có một ông bán vé số vào mời mua. Chúng tôi vội mua tờ vé số ủng hộ ông nhưng chủ yếu để hỏi nhà ông Hạnh, thì lập tức ông trả lời ngay: “Có phải ông Hạnh lớn tuổi, trước ở Sài Gòn làm lớn lắm phải không?” Tôi vui mừng gật đầu “đúng rồi!”
Lập tức ông chỉ đường, bảo cứ chạy vào hẻm này đến gần cuối đường có một cái “gò” (nghĩa trang) lớn lắm. Hỏi nhà bà Tư Bóng là mọi người biết, chứ hỏi nhà ông Hạnh không ai biết đâu.”
Ông giải thích thêm: “Bà Tư Bóng lúc trước bán vé số như tui, nên tui biết. Bà bây giờ cũng hơn 60 tuổi rồi, bà có 5 đứa con, một đứa bị bệnh cũng tội nghiệp lắm. Chồng mất sớm nên bà một tay bán vé số nuôi con. Từ ngày bà gặp ông Hạnh và kết thành vợ chồng thì bà không còn đi bán vé số nữa. Có lẽ ông chồng bả lương cũng khá nên gia đình thấy đỡ lắm rồi.”
Như cánh cửa bị đóng và nay đã có chìa khóa trong tay, quả thật hỏi nhà bà Tư Bóng thì người dân ở đây biết và chỉ dẫn cặn kẽ. Đến gần cuối con đường ấp Me, một nghĩa trang to hiện ra với nhiều ngôi mộ đã được chôn cất. Bên cạnh là một ngôi nhà cấp 4 (loại nhà mái tôn, xây gạch rẻ tiền), khá cũ.
Tiếp chung tôi là một người phụ nữ tầm hơn 60 tuổi. Khi được hỏi “có phải bà là Tư Bóng?’ bà liền xác nhận và bảo “các chú đến tìm anh Hạnh phải không?” Tôi hơi bất ngờ về câu hỏi này, liền được bà cười bảo: “Tìm đến nhà tôi thì chỉ có gặp anh Hạnh, chứ bán vé số như tôi thì ai mà tìm.”
Rồi bà vừa chỉ vào ngôi nhà, vừa bảo: “Ổng mới ngủ dậy đó. Bây giờ già rồi cũng lẫn, không nhớ được gì hết. Mới 3 tháng trước ông phải vào bệnh viện vì bị cao huyết áp.” Bà dẫn chúng tôi đi ngang một ngôi mộ nằm ngay chính giữa cửa chính của ngôi nhà, khiến ai lần đầu bước vào cũng thấy rợn người.
Sống khép kín, ít giao tiếp bên ngoài
Trong nhà không có vật dụng gì quý giá. Trên tường có treo tấm “bằng khen” của chính quyền Cộng Sản trao tặng. Cùng với tấm bảng ghi dòng chữ “Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, sáng ngày 30/4/1975, cơ sở nội tuyến chiến lược của Ban Binh Vận Trung Ương Cục Miền Nam, phụ tá tổng tham mưu Ngụy đã lệnh cho sĩ quan, binh sĩ án binh bất động, thuyết phục Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng quân giải phóng.”
Trước mặt chúng tôi là ông Nguyễn Hữu Hạnh, dáng người ốm, tay chống gậy. Mặc dù ông đang ngồi trên ghế để uống cà phê, nhưng mắt vẫn lim dim mơ màng. Mái tóc lưa thưa bạc trắng, răng rụng hết, nước da sạm với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt đầy những vết chân chim.
Bà Tư Bóng ghé sát tai ông Hạnh bảo: “Có nhà báo trên Sài Gòn xuống thăm anh.” Ông gật đồng ra vẻ biết chuyện.
Khi chúng tôi hỏi: “Ông năm nay được bao nhiêu tuổi rồi?” – Bà Tư ghé sát tai ông nói lại. Ông liền trả lời rất nhanh “Tôi tên Nguyễn Hữu Hạnh, năm nay 95 tuổi.” Rồi như chắc ăn thêm, ông quay sang hỏi vợ: “95 rồi bà nhỉ?” Bà Tư liền trả lời: “Ừ, đúng rồi!”
Rồi bà Tư quay sang bảo tôi: “Tai ông nặng lắm, nói gì phải ghé sát tai nói mới nghe. Chứ nói chuyện bình thường ông không nghe được đâu.”
Bà nói thêm: “Cách đây 2 năm thì ông còn nhớ nhiều, chứ bây giờ dường như ông chẳng nhớ gì hết. Mới 3 tháng trước ông phải vào bệnh viện vì cao huyết áp. Bây giờ ông đi lại rất khó khăn, ăn uống cơm nước một tay tôi lo thôi.”
Ông tướng nên vợ nên chồng với bà bán vé số
Nói về cuộc hôn nhân với ông Hạnh, bà Tư kể: “Tôi tên thật là Trần Thị Hiệp, dân đây gọi là Tư Bóng. Hồi đó nhà nghèo không đất đai gì. Nên về cái ‘gò’ này để tự làm chòi để ở. Vì nghĩ đất nghĩa trang thì không ai đuổi đi. Chồng tôi mất sớm để lại 5 đứa con, nên một tay tôi phải đi bán vé số nuôi con.”
“Tôi gặp ông Hạnh vào năm 2010. Hồi đó ông từ Sài Gòn về ở nhà ông Bảy Rết, là anh em họ hàng với ông Hạnh, nhà cũng sát bên cạnh đây thôi. Ông Hạnh thường hay mua vé số giúp tôi. Gặp nhau vài lần tôi mới biết vợ ông cũng mới mất, nên ông buồn, tìm về quê cho thanh thản, kiếm người hủ hỉ tuổi già. Hồi đó không biết ông là tướng lãnh gì ngày xưa đâu.”
“Tôi lúc đó cũng 53 tuổi rồi. Mới nhìn ông cứ tưởng là cỡ 75 thôi, ai ngờ ông cũng đã 86 tuổi, hơn tôi đến 33 tuổi. Con đầu ông còn lớn tuổi hơn cả tôi. Mới đầu chúng phản đối dữ lắm, vì cho rằng tôi lấy ông là vì tiền bạc, chứ ông già vậy ai mà đi bước nữa với ông. Nhưng bây giờ thì tụi trẻ đã hiểu chuyện, biết cảm ơn tôi, bảo: ‘không có chị chắc ba không sống đến ngày hôm nay?’”
“Hồi đó ở đây chỉ là nhà tranh vách đất. Nhờ ông vay mượn được 30 triệu VND (khoảng $1,300) để xây căn nhà này. Tiền lương của ông lúc đó được 8 triệu, nên ông vừa trả dần một tháng 2 triệu và giúp tôi trả các khoản nợ cũ. Bây giờ thì lương ông đã hơn mười mấy triệu rồi (khoảng $600/tháng, so với thu nhập của người dân là khá cao).”
Chúng tôi hơi bất ngờ về chi tiết này, vì nghĩ ông đã về hưu thì làm sao có mức lương được chính quyền trả như vậy? Thắc mắc thì được bà Hiệp bảo: “Thật ra khoảng 3 năm nay ông không còn đi họp hành gì nữa, nhưng vẫn có tên trong thành viên ‘Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc’ nên mới được mức lương như vậy. Hiện 2 vợ chồng sống dựa vào đồng lương đó thôi.”
Hỏi bà là chính quyền có hay cử người tới thăm ông không? Bà trả lời: “Không, chỉ lâu lâu đến dịp 30 Tháng Tư thì có vài nhà báo xuống thăm trò chuyện mà thôi. Ở đây, ông cũng ít khi ra ngoài nên hàng xóm cũng ít biết đến ông.”
Tới đây chúng tôi mới hiểu lý do vì sao mà lúc tìm nhà ông lại khó khăn như vậy, vì hàng xóm không biết có ông Hạnh nào ở xóm mình cả.
Gần cuối đời sống ở nghĩa trang
Chúng tôi quay sang hỏi ông Hạnh: “Ông có nhớ gì ngày 30 Tháng Tư, 1975 không?” Bà Hiệp kề tai ông nói lại như phiên dịch. Ông trả lời: “Có cái nhớ, có cái không?” Nghe đến đây chúng tôi cũng mừng thầm, vì nghĩ biết đâu ông sẽ kể được chi tiết về biến cố này.
Nhưng khi hỏi tiếp: “Lúc đó ông làm gì?” Thì ông chỉ trả lời: “Lúc đó ở trong mặt trận, tôi là giám đốc miền Nam…”
Rồi ông im lặng, người đơ ra như đang “nghiệm” điều gì đó mà không nhớ ra. Bà Hiệp bên canh nói thêm như giải thích, “ổng quên hết rồi!”
Biết là không thể hỏi thêm được điều gì, nên tôi quay sang nói chuyện tiếp với bà Hiệp.
Thế mấy con của ông có hay từ Sài Gòn xuống thăm không? Bà Hiệp nói như thở dài: “Không, lâu lâu có đám cưới hỏi gì của mấy cháu trong nhà thì cũng có gọi điện báo tin và mời ông về Sài Gòn thì tôi đưa ông lên thôi. Chứ con cái không thấy xuống thăm ông. Có lẽ tụi nó bận công việc.”
Về con cái và nhà cửa của ông Nguyễn Hữu Hạnh, báo Tiền Phong ở Việt Nam trong bài “Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh bây giờ…” xuất bản ngày 26 Tháng Tư, 2017, có đoạn: “…Ngôi biệt thự (của ông Hạnh) ở đường Phan Kế Bính sau khi người bạn đời của 14 người con mất đã bán đi, mua mảnh đất ở ấp Tám, Tân Phú Trung, Củ Chi, Sài Gòn để ở, rồi lại khóa cửa để đấy, ông Hạnh về đây quanh quẩn vui thú điền viên với bạn bè…”
Báo này kể có chi tiết trùng với lời kể của bà Trần Thị Hiệp: “Mươi năm trước, Mặt Trận Tổ Quốc thành phố cho mượn 30 triệu làm 30m2 nhà cấp 4 này, trừ dần vào lương tháng, ông đã trả hết. Mới rồi ông lại mới vay được 10 triệu xây thêm căn bếp.”
Trở lại thực tại, nhìn những ngôi mộ bên cạnh nhà, đặc biệt ngôi mộ ngay chính cổng ra vào, chúng tôi e ngại hỏi: “Sống gần mồ mả vậy có sợ không?” Bà Hiệp nói “thấy cũng bình thường, vì ở đây riết cũng quen rồi. Nghĩa trang này hiện nay họ vẫn tiếp tục chôn. Cứ có người mất thì họ lại đem tới chôn thôi. Không vấn đề gì cả.”
Chúng tôi hỏi nước uống mà gia đình bà đang dùng được lấy từ đâu? Bà bảo: “Thì nước giếng thôi!” Vừa nói bà chỉ ra cái giếng nước bên ngoài, sát bên cạnh những nấm mồ. Nghĩ mà nổi da gà vì nãy giờ cũng đã uống một ly nước ở nhà bà, nguồn nước có thể bị ô nhiễm khi bên cạnh là những nấm mồ.
Câu chuyện giữa chúng tôi và bà Hiệp lâu lâu lại bị ngắt quãng bởi những tiếng ho hay khạc nhổ của ông Hạnh. Dường như ông không còn tự chủ trong các hành động của mình. Nhìn ông, ít người ở đây biết rằng “ông già lẩm cẩm” ở trong căn nhà nhỏ xíu, xung quanh toàn mồ mả này trước đây từng là một vị tướng VNCH quyền uy, một nhân vật quan trọng trong biến cố 30 Tháng Tư 1975, khiến miền Nam rơi vào tay Cộng Sản.
Chào ông ra về mà trong đầu chúng tôi băn khoăn về một kiếp người. Phải chăng đây là số phận của một người làm tướng Việt Nam Cộng Hòa nhưng lại nằm vùng cho Cộng Sản, những ngày tháng cuối đời phải sống trong nghĩa trang, làm bạn với những nấm mồ.
TG: Phan Ba Nhật Bình
Đọc thêm:
Ông Nguyễn Hữu Hạnh, sinh năm 1924, là chuẩn tướng Bộ Binh của Quân Lực VNCH. Ông thường được biết đến với vai trò là phụ tá tổng tham mưu trưởng cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, người đã tác động để Tổng Thống Dương Văn Minh sớm đi đến quyết định kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí đầu hàng quân đội Bắc Việt vào ngày 30 Tháng Tư, năm 1975.
Cùng với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, ông Hạnh là một trong 2 vị tướng bên cạnh Tổng Thống Dương Văn Minh trong giờ phút cuối cùng của VNCH.