Post by Can Tho on Jun 6, 2020 2:24:04 GMT 9
Công trình sư Trần Văn Học
Gs.Nghiêm Thẩm
Trong bảng danh sách các cổ tích được liệt hạng tại miền Nam, về cổ tích thứ 9 có ghi như sau: “Số thứ tự 9, tỉnh Gia Định, xã Bình Hòa (trong thửa đất của ông Ngô Văn Đức) mộ của Nguyễn Văn Học, tướng của Gia Long (tombeau de Nguyễn Văn Học, général de Gia-long)”.
Bảng danh sách các cổ tích liệt hạng này do Học viện Viễn đông của Pháp (École Francaise d’Extrême- Orient) đề nghị liệt hạng và đã được nghị định ngày 19-5-1925 của toàn quyền Đông Dương phê chuẩn.
LỊCH SỬ CỔ TÍCH “NGUYỄN VĂN HỌC”
Trong các hồ sơ về các cổ tích liệt hạng do Học viện Viễn đông của Pháp, mới trao lại cho tôi có hồ sơ số R.41 thuộc những công cuộc khai quật cổ tích tại tỉnh Gia Định có tờ trình của ông H.Mauger, nguyên Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và phụ trách Bảo tồn cổ tích tại Nam phần, về công cuộc khai quật cổ tích ngôi mộ của Nguyễn Văn Học ngày 28-4-1939.
Tờ trình của ông H. Mauger được đăng nguyên văn trong kỷ yếu của Société des Etudes Indochinoises, tập XIV, số 1-2 năm 1939, trang 119- 128.
Kỷ yếu của Học viện Viễn đông của Pháp (B.E.F.E.O.), tập XXXIX, năm 1939, trang 335, cho ta biết là sở dĩ có cuộc khai quật mộ của Nguyễn Văn Học là vì phải di chuyển ngôi mộ đó đến công viên hiện nay ở trước Trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định.
Ngày 28-4-1939 có viên quan cai trị Pháp là tỉnh trưởng Gia Định và nhiều thân hào của tỉnh đó và một vị sư chứng kiến việc bốc mộ đó.
Khi đào đất đến nắp áo quan thấy trên nắp có hai miếng “phương” hình chữ nhật và “biến” hình trái tim là những miếng vàng để trang hoàng trên cái đai của bộ áo đại triều (xin xem bài nghiên cứu của H. Mauger trong kỷ yếu của Société des Etudes Indochinoises). Sau khi nhấc nắp áo quan bằng gỗ thì thấy:
1. Những miếng vàng được chạm trổ để gắn trên mũ “quan” như kim bác sơn, kim khóa gián, kim ba, kim như ý.
2. Những miếng vàng “phương”, “biến” để trang hoàng “đai” của bộ áo đại triều.
3. Bốn khuy vàng và ba khuy bạc cỡ lớn.
4. Năm mươi khuy nhỏ hoặc bằng bạc hoặc bằng đồng đã han rỉ nhiều.
5. Một mảnh áo đại triều.
6. Một viên đá “saphir” trắng được gọt giũa đường kính chừng 10 ly.
Theo bài, nghiên cứu của H. Mauger thì những cách trang hoàng của mũ áo đại triều thấy trong mộ, khác với những cách trang hoàng trong các bộ mũ áo đại triều do triều Thiệu Trị quyết định trong năm 1845. như vậy những tài liệu tìm được trong ngôi mộ phải có trước khi có sự quyết định của triều Thiệu Trị H. Mauger cho là “tướng Nguyễn Văn Học” mất vào năm 1837.
Những tài liệu tìm thấy trong ngôi mộ ở Gia Định hiện giữ tại Quốc gia Bảo tàng Viện Sài Gòn.
Trong bài khảo cứu của H. Mauger không thấy nói đến mộ chí hay bia ghi công trạng nói ngôi mộ đó là của ai. Như vậy, không biết H. Mauger dựa vào đâu mà bảo ngôi mộ đó là của Nguyễn Văn Học.
NGUYỄN VĂN HỌC HAY TRẦN VĂN HỌC
Trên đây tôi đã nói ngôi mộ này được coi là một cổ tích liệt hạng. Trong danh sách các cổ tích liệt hạng có ghi là: “Mộ Nguyễn Văn Học, tướng của Gia Long”. Như vậy phải có truyền thuyết của địa phương cho đó là ngôi mộ của một vị tướng của vua Gia Long.
Tôi có mang việc này ra hỏi ông Louis Malleret, nguyên Giám đốc Viễn đông Học viện của Pháp, nguyên Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và trong nhiều năm đã trông nom các cổ tích tại Việt Nam.
Ông Malleret có cho tôi hay là chính ông cũng đã cố tìm tiểu sử của Nguyễn Văn Học mà không hề thấy. Ông Malleret nghi là có sự nhầm họ hay tên của người chết trong ngôi mộ. Ông Malleret cho tôi biết là hồi trước ông Mauger, Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và phụ trách công việc Bảo tồn Cổ tích tại Nam Việt có hỏi các người ở chung quanh ngôi mộ thì thấy nói là của một ông tướng của vua Gia Long, tên là Nguyễn Văn Học. Như vậy ông Mauger tin vào truyền thuyết chứ không dựa vào một tài liệu chắc chắn như bia, gia phả hay sử ký. Vì vậy rất có thể là các người chung quanh đã nhớ lộn tên họ.
Nhưng dù sao ta cũng được biết là tài liệu đào được trong mộ là một vị đại thần. Vì những thứ để trang hoàng trên mũ và đai của bộ áo đại triều bằng vàng chạm trổ rất đẹp. Ông Mauger đã so sánh các đề tài trang hoàng tìm được với những tài liệu về mũ áo đại triều do thời vua Thiệu Trị quyết định và thấy là những tài liệu thấy trong ngôi mộ phải được làm ra trước khi có sắc lệnh của vua Thiệu Trị ban ra năm 1845 ấn định về triều phục. Những nhận xét của ông Mauger rất đúng. Ta có thể chắc chắn là người mặc bộ mũ áo đại triều chôn trong mộ ở Gia Định là một đại thần đã chết trước năm 1845 là lúc vua Thiệu Trị ra sắc lệnh ấn định thể thức của triều phục. Nhưng tôi không biết vì sao ông Mauger lại có thể cho là Nguyễn Văn Học chết vào năm 1837, tuy ông cũng dè dặt khi cho năm ông Nguyễn Văn Học: “cette date de décès est donnée sous toute réserve” (Exhumation des restes du Maréchal Nguyễn Văn Học, Bulletin de la Société des Etude Indochinoises, t. XIV, tr.122, đoạn chú thích).
Vì biết ngôi mộ đó là của một vị tướng của vua Gia Long nên ta có thể hy vọng là trong lịch sử nhà Nguyễn có nói đến thân thế và sự nghiệp của vị tướng này.
Tôi có nhờ hai bạn đồng nghiệp của tôi là ông Nguyễn Năng Lự và Bửu Cầm, chuyên viên Hán học tại Viện Khảo cổ tìm trong các thư tịch của triều vua Gia Long xem có thấy tên của Nguyễn Văn Học không. Sau nhiều công tìm kiếm, hai bạn đồng nghiệp của tôi thấy trong Đại Nam chính biên liệt truyện quyển 15 từ trang 16b đến trang 19b nói đến một tướng của Gia Long tên là Trần Văn Học, quê ở Gia Định.
Trong một bài khảo cứu, ông L. Malleret: “Éléments cTune monographie des anciennes Fortifications et Citadelles de Sàigon” (,Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises. T. X, tr.5-108) cùng có in lại một bản đồ Gia Định và vùng lân cận, do Trần Văn Học vẽ ngày 4 tháng 12 Âm lịch năm Gia Long 14 (1815).
Trong mục lục các Hoàng triều châu bản do Viện Bảo tàng Huế gửi vào Viện Khảo cổ (bản đánh máy), hiện giữ ở Thư viện Viện Khảo cổ, ta thấy có ghi ngày 9 tháng 7 năm Gia Long thứ 16 (1817) Trần Văn Học có “dịch thơ của ông chủ tàu Pháp xin vào cửa Cần Giờ và cửa Hàn”. Các châu bản triều Nguyễn chưa được khai thác nên không rõ trong thư này nói những gì, nhưng trong cuốn Histoire Moderne du pays d’Annam của Ch. B. Maybon trang 389, có ghi là năm 1817 có hai tàu buôn “La Paix” và “Henry” của Pháp ghé bến Đà Nẵng tức cửa Hàn.
Như vậy, trong các tài liệu lịch sử chỉ thấy có ghi tên Trần Văn Học, làm quan dưới triều Gia Long mà không hề thấy nói đến ai là Nguyễn Văn Học.
Sau đây là tài liệu nói về Trần Văn Học trong Đại Nam chính biên liệt truyện. Tài liệu này do ô. Nguyễn Năng Lự và Bửu cầm trích dịch:
TIỂU SỬ TRẦN VĂN HỌC
Trần Văn Học, người huyện Bình Dương, thành Gia Định. Lúc đầu, Học theo giám mục Bá Đa Lộc[1](Évêque d’Adran) đến yết kiến Thế tổ Cao hoàng đế tại Gia Định.
Năm Nhâm Dần (1782), quân Tây Sơn vào cướp phá, quân ta thất lợi, Học cùng Bá Đa Lộc hộ tùng xe giá bà mẹ vua Thế Tổ và cung quyến đến trú tại Long Áo (thuộc Cao-man), rồi bàn cùng nhau rằng: “Hiện nay, nước nhà gặp nhiều hoạn nạn, chúng ta nên tùy nghi mà xử sự”; thế rồi Học không đợi mệnh vua, tự tiện ra lệnh cho người Cao-man hộ vệ xa giá bà mẹ vua Thế Tổ và cung quyến dò đường Hậu Giang tiến đến Cần Thơ để tìm vua, lại sai Giám quân Nguyễn Hữu Thụy sang Tiêm La cầu viện.
Đến khi quân Tây Sơn tới, thuyền ngự chạy ra biển, Học theo Bá Đa Lộc đem quốc thư sang triều đình nước Tiêm; vua Tiêm cho binh thuyền đón vua Thế Tổ vào nước, rồi gửi binh lính sang giúp nhưng bị bại trận. Vua Thế Tổ lại sang Tiêm, và sai Học cùng Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhâm, Nguyễn Văn Liêm… hộ tùng hoàng tử Cảnh đi Tây cầu viện. Thuyền đến Tiểu Tây[2], đỗ ở ngoài thành Phong-ti-thê-di (Pondichéry), Học cùng phái bộ đến yết kiến vị trưởng quan trong trấn, nhưng vị ấy lấy cớ trong nước có nhiều biến cố mà từ chối việc viện trợ. Bọn Phạm Văn Nhâm biết rằng vị trưởng quan ở đây không có ý muốn giúp ta, nên khuyên Bá Đa Lộc hãy cầu viện nước Hồng Mao (Angleterre). Bá Đa Lộc nói: “Hồng Mao xảo trá, chẳng như Bút-tu-kê (Portugal) nhu thuận; như bất đắc dĩ, thì nên cầu viện nước Bút-tu-kê”. Rồi viết thư sai người mang tới thành Cô-á (Goa) cầu viện; Bút-tu-kê hứa sẽ gửi viện binh sang; bọn Phạm Văn Nhâm chờ đợi đến mấy tháng vẫn không thấy tin tức gì cả. Nước Hồng mao cũng phái người đến thành Phong-ti-thê-di nói với vị trấn thủ ở đó rằng: “Người ta cầu viện gấp, cớ sao để chậm trễ? Nếu các ông không thể giúp họ được, thì chúng tôi xin gánh vác việc ấy, không nên để cho họ phải phí tổn nhiều vì phải chờ đợi lâu ngày”.
Năm Bính Ngọ (1786), vị đầu mục Tiểu Tây mới sắp sẵn hai chiếc chiến thuyền: một chiếc đưa hoàng tử Cảnh cùng Bá Đa Lộc sang Đại Tây[3]; một chiếc đưa Trần Văn Học, Phạm Văn Nhâm và Nguyễn Văn Liêm về Vọng Các. Khi thuyền của Học về đến đảo Thổ Châu thì Nhâm và Liêm ở lại với vua Thế Tổ, còn Học lại theo thuyền ngoại quốc đi nữa.
Mùa thu năm ấy, nước Bút-tu-kê sai tướng An-tôn-lỗ[4] mang quốc thư và lễ vật đến nơi hành tại để hiến dâng vua Thế Tổ, lại tặng vua Tiêm 100 tấm vải và 20 khẩu súng điểu thương, rồi mời vua Thế Tổ sang nước mình, và nói rằng đã có sẵn 56 chiếc thuyền đậu tại thành Cô-á đang đợi lệnh để kéo tới tiếp viện. Việc ấy đã làm cho người Tiêm sinh lòng ganh tị và tỏ ý không vui. Vua Thể Tổ liền bảo An-tôn-lỗ trở về, rồi phái quan Hộ bộ là Trần Phúc Giai cùng đoàn tùy tùng đi chiếc thuyền của xứ Ma Cao đến thành Cô-á đáp lễ. Lúc thuyền của Trần Văn Học về đến đảo Thổ Châu, vua lại sai Học đi sang Tiểu Tây đem việc đó hiểu dụ Bá Đa Lộc và vị trấn-mục xứ ấy.
Năm Đinh Vị (1787), Trần Văn Học đến Tiểu Tây, xong công tác lại đáp thuyền ngoại quốc mang biểu văn về trình báo. Thuyền Học về đến Ma-lặc (Malacca) vừa gặp binh thuyền Đại Tây, Học cùng với đoàn binh thuyền ấy về đảo Côn Lôn, rồi đem việc tâu lên; vua Thế Tổ liền phái Trương Phúc Luật ra tiếp đón. Học ngồi trên thuyền ngoại quốc bỗng chốc gặp gió lớn thổi bạt qua Lữ-tống (Lucon), hơn một năm sau mới về đến Gia Định. Từ đó, Học ở lại bên vua phụ trách việc thông ngôn tiếng ngoại quốc và cùng ô-li-vi (Olivier) phiên dịch ngữ ngôn văn tự nước ngoài, kiêm cả việc chế tạo hỏa xa[5], địa lôi và các hạng binh khí.
Năm Canh Tuất (1790), xây thành Gia Định, Học đo đất phân khu và trù liệu việc mở các con đường trong thành; Học lại cùng người ngoại quốc là Nguyễn Chấn (Vannier) chỉ huy các thuyền lớn bọc đồng theo quan quân đi đánh giặc.
Năm Nhâm Tý (1792), xây đồn Mỹ Tho, Học dâng vua bản đồ đồn ấy. Học vẽ giỏi, những bản đồ về việc xây dựng đắp đồn bảo, đo đạc đường sá, đều do tay Học vẽ cả.
Năm Gia Long thứ hai (1803), Học được thăng chức Cai-cơ, rồi thiên chức Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ.
Năm Minh Mạng thứ hai (1821), vua sai Học vẽ bản đồ núi sông đường sá các trấn ở thành Gia Định cho đến địa giới Chân Lạp để dâng lên vua. Lúc đó Học đã già, vua dụ rằng: “Người cũng không còn sống được mấy ngày nữa, há chẳng nghĩ đến việc lưu danh lại hậu thế sao?” Rồi vua ban cho Học 100 quan tiền. Chẳng bao lâu Học mất. Học không có con.
(Trích dịch trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 15, tờ 16b-19b).
KẾT LUẬN
Xem tài liệu trên đây ta thấy Trần Văn Học là người tỉnh Gia Định, làm quan dưới thời Gia Long và Minh Mạng và đã được phong chức Cai cơ và chức Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ. Đó là những chức lớn trong hàng tướng của thời bấy giờ.
Trong Đại Nam chính biên liệt truyện không thấy có ghi là Trần Văn Học được đổi họ Trần ra họ Nguyễn là họ của nhà vua.
Tài liệu sử ký trên còn cho ta biết là lúc chết Trần Văn Học không có con. Vì không có người nối dõi săn sóc đến phần mộ nên chắc sau này các người ở gần đó cũng không nhớ được họ của người chết chôn trong ngôi mộ và vì vậy chỉ nhớ là mộ của một vị tướng của vua Gia Long tên là Văn Học còn họ thì nhớ nhầm là họ Nguyễn.
Như vậy ta có thể chắc chắn là ngôi mộ mệnh danh là “Mộ Nguyễn Văn Học, tướng của Gia Long” do Học viện Viễn đông của Pháp liệt hạng và được dời đến địa điểm ngày nay ở trước Trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định phải là mộ của “Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ Trần Văn Học” chứ không phải là Nguyễn Văn Học như H. Mauger nhầm tưởng.
Chú thích:
1. Bá Đa Lộc tức Pignau de Béhaine (1741-1799), làm giám mục đại diện Tông tòa xứ Đàng Trong, được Nguyễn Ánh trao cho hoàng tử Cảnh làm con tin sang Pháp cầu viện và ký kết Hiệp ước Versailles (1787) nhằm thâu phục lại xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn. Hiệp ước này không được thi hành.
2. Các xứ Tây thuộc ở Ấn Độ thuở ấy.
3. Các nước Âu Tây thời đó.
4. Tức Antonio Vincente Da Rosa, xem p. Huard: “Les Portugais et rindochine”, kỷ yếu của Institut Indochinois pour 1’Étude de 1’Homme, T. III, 1940, tr.58.
5. Một thứ chiến cụ.
Bài viết của Gs Nghiêm Thẩm đăng trên tạp chí “Văn hóa” (số 61 năm 1962).
Gs.Nghiêm Thẩm
Trong bảng danh sách các cổ tích được liệt hạng tại miền Nam, về cổ tích thứ 9 có ghi như sau: “Số thứ tự 9, tỉnh Gia Định, xã Bình Hòa (trong thửa đất của ông Ngô Văn Đức) mộ của Nguyễn Văn Học, tướng của Gia Long (tombeau de Nguyễn Văn Học, général de Gia-long)”.
Bảng danh sách các cổ tích liệt hạng này do Học viện Viễn đông của Pháp (École Francaise d’Extrême- Orient) đề nghị liệt hạng và đã được nghị định ngày 19-5-1925 của toàn quyền Đông Dương phê chuẩn.
LỊCH SỬ CỔ TÍCH “NGUYỄN VĂN HỌC”
Trong các hồ sơ về các cổ tích liệt hạng do Học viện Viễn đông của Pháp, mới trao lại cho tôi có hồ sơ số R.41 thuộc những công cuộc khai quật cổ tích tại tỉnh Gia Định có tờ trình của ông H.Mauger, nguyên Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và phụ trách Bảo tồn cổ tích tại Nam phần, về công cuộc khai quật cổ tích ngôi mộ của Nguyễn Văn Học ngày 28-4-1939.
Tờ trình của ông H. Mauger được đăng nguyên văn trong kỷ yếu của Société des Etudes Indochinoises, tập XIV, số 1-2 năm 1939, trang 119- 128.
Kỷ yếu của Học viện Viễn đông của Pháp (B.E.F.E.O.), tập XXXIX, năm 1939, trang 335, cho ta biết là sở dĩ có cuộc khai quật mộ của Nguyễn Văn Học là vì phải di chuyển ngôi mộ đó đến công viên hiện nay ở trước Trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định.
Ngày 28-4-1939 có viên quan cai trị Pháp là tỉnh trưởng Gia Định và nhiều thân hào của tỉnh đó và một vị sư chứng kiến việc bốc mộ đó.
Khi đào đất đến nắp áo quan thấy trên nắp có hai miếng “phương” hình chữ nhật và “biến” hình trái tim là những miếng vàng để trang hoàng trên cái đai của bộ áo đại triều (xin xem bài nghiên cứu của H. Mauger trong kỷ yếu của Société des Etudes Indochinoises). Sau khi nhấc nắp áo quan bằng gỗ thì thấy:
1. Những miếng vàng được chạm trổ để gắn trên mũ “quan” như kim bác sơn, kim khóa gián, kim ba, kim như ý.
2. Những miếng vàng “phương”, “biến” để trang hoàng “đai” của bộ áo đại triều.
3. Bốn khuy vàng và ba khuy bạc cỡ lớn.
4. Năm mươi khuy nhỏ hoặc bằng bạc hoặc bằng đồng đã han rỉ nhiều.
5. Một mảnh áo đại triều.
6. Một viên đá “saphir” trắng được gọt giũa đường kính chừng 10 ly.
Theo bài, nghiên cứu của H. Mauger thì những cách trang hoàng của mũ áo đại triều thấy trong mộ, khác với những cách trang hoàng trong các bộ mũ áo đại triều do triều Thiệu Trị quyết định trong năm 1845. như vậy những tài liệu tìm được trong ngôi mộ phải có trước khi có sự quyết định của triều Thiệu Trị H. Mauger cho là “tướng Nguyễn Văn Học” mất vào năm 1837.
Những tài liệu tìm thấy trong ngôi mộ ở Gia Định hiện giữ tại Quốc gia Bảo tàng Viện Sài Gòn.
Trong bài khảo cứu của H. Mauger không thấy nói đến mộ chí hay bia ghi công trạng nói ngôi mộ đó là của ai. Như vậy, không biết H. Mauger dựa vào đâu mà bảo ngôi mộ đó là của Nguyễn Văn Học.
NGUYỄN VĂN HỌC HAY TRẦN VĂN HỌC
Trên đây tôi đã nói ngôi mộ này được coi là một cổ tích liệt hạng. Trong danh sách các cổ tích liệt hạng có ghi là: “Mộ Nguyễn Văn Học, tướng của Gia Long”. Như vậy phải có truyền thuyết của địa phương cho đó là ngôi mộ của một vị tướng của vua Gia Long.
Tôi có mang việc này ra hỏi ông Louis Malleret, nguyên Giám đốc Viễn đông Học viện của Pháp, nguyên Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và trong nhiều năm đã trông nom các cổ tích tại Việt Nam.
Ông Malleret có cho tôi hay là chính ông cũng đã cố tìm tiểu sử của Nguyễn Văn Học mà không hề thấy. Ông Malleret nghi là có sự nhầm họ hay tên của người chết trong ngôi mộ. Ông Malleret cho tôi biết là hồi trước ông Mauger, Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn và phụ trách công việc Bảo tồn Cổ tích tại Nam Việt có hỏi các người ở chung quanh ngôi mộ thì thấy nói là của một ông tướng của vua Gia Long, tên là Nguyễn Văn Học. Như vậy ông Mauger tin vào truyền thuyết chứ không dựa vào một tài liệu chắc chắn như bia, gia phả hay sử ký. Vì vậy rất có thể là các người chung quanh đã nhớ lộn tên họ.
Nhưng dù sao ta cũng được biết là tài liệu đào được trong mộ là một vị đại thần. Vì những thứ để trang hoàng trên mũ và đai của bộ áo đại triều bằng vàng chạm trổ rất đẹp. Ông Mauger đã so sánh các đề tài trang hoàng tìm được với những tài liệu về mũ áo đại triều do thời vua Thiệu Trị quyết định và thấy là những tài liệu thấy trong ngôi mộ phải được làm ra trước khi có sắc lệnh của vua Thiệu Trị ban ra năm 1845 ấn định về triều phục. Những nhận xét của ông Mauger rất đúng. Ta có thể chắc chắn là người mặc bộ mũ áo đại triều chôn trong mộ ở Gia Định là một đại thần đã chết trước năm 1845 là lúc vua Thiệu Trị ra sắc lệnh ấn định thể thức của triều phục. Nhưng tôi không biết vì sao ông Mauger lại có thể cho là Nguyễn Văn Học chết vào năm 1837, tuy ông cũng dè dặt khi cho năm ông Nguyễn Văn Học: “cette date de décès est donnée sous toute réserve” (Exhumation des restes du Maréchal Nguyễn Văn Học, Bulletin de la Société des Etude Indochinoises, t. XIV, tr.122, đoạn chú thích).
Vì biết ngôi mộ đó là của một vị tướng của vua Gia Long nên ta có thể hy vọng là trong lịch sử nhà Nguyễn có nói đến thân thế và sự nghiệp của vị tướng này.
Tôi có nhờ hai bạn đồng nghiệp của tôi là ông Nguyễn Năng Lự và Bửu Cầm, chuyên viên Hán học tại Viện Khảo cổ tìm trong các thư tịch của triều vua Gia Long xem có thấy tên của Nguyễn Văn Học không. Sau nhiều công tìm kiếm, hai bạn đồng nghiệp của tôi thấy trong Đại Nam chính biên liệt truyện quyển 15 từ trang 16b đến trang 19b nói đến một tướng của Gia Long tên là Trần Văn Học, quê ở Gia Định.
Trong một bài khảo cứu, ông L. Malleret: “Éléments cTune monographie des anciennes Fortifications et Citadelles de Sàigon” (,Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises. T. X, tr.5-108) cùng có in lại một bản đồ Gia Định và vùng lân cận, do Trần Văn Học vẽ ngày 4 tháng 12 Âm lịch năm Gia Long 14 (1815).
Trong mục lục các Hoàng triều châu bản do Viện Bảo tàng Huế gửi vào Viện Khảo cổ (bản đánh máy), hiện giữ ở Thư viện Viện Khảo cổ, ta thấy có ghi ngày 9 tháng 7 năm Gia Long thứ 16 (1817) Trần Văn Học có “dịch thơ của ông chủ tàu Pháp xin vào cửa Cần Giờ và cửa Hàn”. Các châu bản triều Nguyễn chưa được khai thác nên không rõ trong thư này nói những gì, nhưng trong cuốn Histoire Moderne du pays d’Annam của Ch. B. Maybon trang 389, có ghi là năm 1817 có hai tàu buôn “La Paix” và “Henry” của Pháp ghé bến Đà Nẵng tức cửa Hàn.
Như vậy, trong các tài liệu lịch sử chỉ thấy có ghi tên Trần Văn Học, làm quan dưới triều Gia Long mà không hề thấy nói đến ai là Nguyễn Văn Học.
Sau đây là tài liệu nói về Trần Văn Học trong Đại Nam chính biên liệt truyện. Tài liệu này do ô. Nguyễn Năng Lự và Bửu cầm trích dịch:
TIỂU SỬ TRẦN VĂN HỌC
Trần Văn Học, người huyện Bình Dương, thành Gia Định. Lúc đầu, Học theo giám mục Bá Đa Lộc[1](Évêque d’Adran) đến yết kiến Thế tổ Cao hoàng đế tại Gia Định.
Năm Nhâm Dần (1782), quân Tây Sơn vào cướp phá, quân ta thất lợi, Học cùng Bá Đa Lộc hộ tùng xe giá bà mẹ vua Thế Tổ và cung quyến đến trú tại Long Áo (thuộc Cao-man), rồi bàn cùng nhau rằng: “Hiện nay, nước nhà gặp nhiều hoạn nạn, chúng ta nên tùy nghi mà xử sự”; thế rồi Học không đợi mệnh vua, tự tiện ra lệnh cho người Cao-man hộ vệ xa giá bà mẹ vua Thế Tổ và cung quyến dò đường Hậu Giang tiến đến Cần Thơ để tìm vua, lại sai Giám quân Nguyễn Hữu Thụy sang Tiêm La cầu viện.
Đến khi quân Tây Sơn tới, thuyền ngự chạy ra biển, Học theo Bá Đa Lộc đem quốc thư sang triều đình nước Tiêm; vua Tiêm cho binh thuyền đón vua Thế Tổ vào nước, rồi gửi binh lính sang giúp nhưng bị bại trận. Vua Thế Tổ lại sang Tiêm, và sai Học cùng Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhâm, Nguyễn Văn Liêm… hộ tùng hoàng tử Cảnh đi Tây cầu viện. Thuyền đến Tiểu Tây[2], đỗ ở ngoài thành Phong-ti-thê-di (Pondichéry), Học cùng phái bộ đến yết kiến vị trưởng quan trong trấn, nhưng vị ấy lấy cớ trong nước có nhiều biến cố mà từ chối việc viện trợ. Bọn Phạm Văn Nhâm biết rằng vị trưởng quan ở đây không có ý muốn giúp ta, nên khuyên Bá Đa Lộc hãy cầu viện nước Hồng Mao (Angleterre). Bá Đa Lộc nói: “Hồng Mao xảo trá, chẳng như Bút-tu-kê (Portugal) nhu thuận; như bất đắc dĩ, thì nên cầu viện nước Bút-tu-kê”. Rồi viết thư sai người mang tới thành Cô-á (Goa) cầu viện; Bút-tu-kê hứa sẽ gửi viện binh sang; bọn Phạm Văn Nhâm chờ đợi đến mấy tháng vẫn không thấy tin tức gì cả. Nước Hồng mao cũng phái người đến thành Phong-ti-thê-di nói với vị trấn thủ ở đó rằng: “Người ta cầu viện gấp, cớ sao để chậm trễ? Nếu các ông không thể giúp họ được, thì chúng tôi xin gánh vác việc ấy, không nên để cho họ phải phí tổn nhiều vì phải chờ đợi lâu ngày”.
Năm Bính Ngọ (1786), vị đầu mục Tiểu Tây mới sắp sẵn hai chiếc chiến thuyền: một chiếc đưa hoàng tử Cảnh cùng Bá Đa Lộc sang Đại Tây[3]; một chiếc đưa Trần Văn Học, Phạm Văn Nhâm và Nguyễn Văn Liêm về Vọng Các. Khi thuyền của Học về đến đảo Thổ Châu thì Nhâm và Liêm ở lại với vua Thế Tổ, còn Học lại theo thuyền ngoại quốc đi nữa.
Mùa thu năm ấy, nước Bút-tu-kê sai tướng An-tôn-lỗ[4] mang quốc thư và lễ vật đến nơi hành tại để hiến dâng vua Thế Tổ, lại tặng vua Tiêm 100 tấm vải và 20 khẩu súng điểu thương, rồi mời vua Thế Tổ sang nước mình, và nói rằng đã có sẵn 56 chiếc thuyền đậu tại thành Cô-á đang đợi lệnh để kéo tới tiếp viện. Việc ấy đã làm cho người Tiêm sinh lòng ganh tị và tỏ ý không vui. Vua Thể Tổ liền bảo An-tôn-lỗ trở về, rồi phái quan Hộ bộ là Trần Phúc Giai cùng đoàn tùy tùng đi chiếc thuyền của xứ Ma Cao đến thành Cô-á đáp lễ. Lúc thuyền của Trần Văn Học về đến đảo Thổ Châu, vua lại sai Học đi sang Tiểu Tây đem việc đó hiểu dụ Bá Đa Lộc và vị trấn-mục xứ ấy.
Năm Đinh Vị (1787), Trần Văn Học đến Tiểu Tây, xong công tác lại đáp thuyền ngoại quốc mang biểu văn về trình báo. Thuyền Học về đến Ma-lặc (Malacca) vừa gặp binh thuyền Đại Tây, Học cùng với đoàn binh thuyền ấy về đảo Côn Lôn, rồi đem việc tâu lên; vua Thế Tổ liền phái Trương Phúc Luật ra tiếp đón. Học ngồi trên thuyền ngoại quốc bỗng chốc gặp gió lớn thổi bạt qua Lữ-tống (Lucon), hơn một năm sau mới về đến Gia Định. Từ đó, Học ở lại bên vua phụ trách việc thông ngôn tiếng ngoại quốc và cùng ô-li-vi (Olivier) phiên dịch ngữ ngôn văn tự nước ngoài, kiêm cả việc chế tạo hỏa xa[5], địa lôi và các hạng binh khí.
Năm Canh Tuất (1790), xây thành Gia Định, Học đo đất phân khu và trù liệu việc mở các con đường trong thành; Học lại cùng người ngoại quốc là Nguyễn Chấn (Vannier) chỉ huy các thuyền lớn bọc đồng theo quan quân đi đánh giặc.
Năm Nhâm Tý (1792), xây đồn Mỹ Tho, Học dâng vua bản đồ đồn ấy. Học vẽ giỏi, những bản đồ về việc xây dựng đắp đồn bảo, đo đạc đường sá, đều do tay Học vẽ cả.
Năm Gia Long thứ hai (1803), Học được thăng chức Cai-cơ, rồi thiên chức Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ.
Năm Minh Mạng thứ hai (1821), vua sai Học vẽ bản đồ núi sông đường sá các trấn ở thành Gia Định cho đến địa giới Chân Lạp để dâng lên vua. Lúc đó Học đã già, vua dụ rằng: “Người cũng không còn sống được mấy ngày nữa, há chẳng nghĩ đến việc lưu danh lại hậu thế sao?” Rồi vua ban cho Học 100 quan tiền. Chẳng bao lâu Học mất. Học không có con.
(Trích dịch trong Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 15, tờ 16b-19b).
KẾT LUẬN
Xem tài liệu trên đây ta thấy Trần Văn Học là người tỉnh Gia Định, làm quan dưới thời Gia Long và Minh Mạng và đã được phong chức Cai cơ và chức Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ. Đó là những chức lớn trong hàng tướng của thời bấy giờ.
Trong Đại Nam chính biên liệt truyện không thấy có ghi là Trần Văn Học được đổi họ Trần ra họ Nguyễn là họ của nhà vua.
Tài liệu sử ký trên còn cho ta biết là lúc chết Trần Văn Học không có con. Vì không có người nối dõi săn sóc đến phần mộ nên chắc sau này các người ở gần đó cũng không nhớ được họ của người chết chôn trong ngôi mộ và vì vậy chỉ nhớ là mộ của một vị tướng của vua Gia Long tên là Văn Học còn họ thì nhớ nhầm là họ Nguyễn.
Như vậy ta có thể chắc chắn là ngôi mộ mệnh danh là “Mộ Nguyễn Văn Học, tướng của Gia Long” do Học viện Viễn đông của Pháp liệt hạng và được dời đến địa điểm ngày nay ở trước Trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định phải là mộ của “Giám thành sứ Khâm sai Chưởng cơ Trần Văn Học” chứ không phải là Nguyễn Văn Học như H. Mauger nhầm tưởng.
Chú thích:
1. Bá Đa Lộc tức Pignau de Béhaine (1741-1799), làm giám mục đại diện Tông tòa xứ Đàng Trong, được Nguyễn Ánh trao cho hoàng tử Cảnh làm con tin sang Pháp cầu viện và ký kết Hiệp ước Versailles (1787) nhằm thâu phục lại xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn. Hiệp ước này không được thi hành.
2. Các xứ Tây thuộc ở Ấn Độ thuở ấy.
3. Các nước Âu Tây thời đó.
4. Tức Antonio Vincente Da Rosa, xem p. Huard: “Les Portugais et rindochine”, kỷ yếu của Institut Indochinois pour 1’Étude de 1’Homme, T. III, 1940, tr.58.
5. Một thứ chiến cụ.
Bài viết của Gs Nghiêm Thẩm đăng trên tạp chí “Văn hóa” (số 61 năm 1962).