|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 7:02:50 GMT 9
Tiep TheoNgày 23/4, LĐ147/TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC, sau một thời gian ngắn nghỉ bồi dưỡng, đã thay thế vùng trách nhiệm cũa LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng. LĐ258/TQLC và 2 TĐ3 và 7/TQLC về Huế tái bổ xung. Trong thời gian này, Trung Đoàn 57/BB, LĐ1 Kỵ Binh, 2 Liên Đoàn 4 và 5/BĐQ phòng thủ tuyến Đông Hà phía Bắc và Đông căn cứ Ái Tử. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên Đoàn 1/BĐQ phòng thủ thị xã Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hãn. Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa, đã mở nhiều mũi dùi tấn công LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số. Đêm 27/4, pháo binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ. Ngày 28/4, địch đè nặng áp lực lên lực lượng BĐQ tại Đông Hà, khiến đơn vị này phải lui quân về Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC, trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xã Quảng Trị. Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào phòng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đã triệt thoái về Quảng Trị, chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được bảo mật và thi hành tốt đẹp. Nhưng, cũng vì thiếu phối hợp, toán công binh SĐ3/BB đã đặt chất nổ giật xập cầu Quảng Trị trên QL1 và cầu xe lửa bắc qua sông Thạch Hãn trướoc khi đoàn xe của TĐ2/PB/TQLC với 12 khẩu pháo 105 ly đi qua. Đoàn xe và súng kẹt ở bờ phía Bắc, được lệnh phá hủy tại chỗ. Ba TĐ1, 4 và 8/TQLC vượt sông Thạch Hãn an toàn, chiếm giữ các vị trí phòng thủ trong Thị Xã Quảng Trị. Sáng ngày 1/5, BTL/SD3/BB thông báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: "5 giờ chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị", và cho lệnh các đơn vi lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế theo quốc lộ 1. Vào giữa trưa, Bộ tham mưu SĐ3/BB và 8 cố vấn HK đã được 3 trực thăng CH-54 bốc đi từ Cổ Thành Quảng Trị (16 cố vấn TQLC/HK vẫn ở lại với các đơn vị TQLC/VN), để lại phía sau các đơn vị thuộc quyền "tùy nghi ứng biến", đánh dấu một ngày đầy bi thảm của các đơn vị và đồng bào đang kẹt tại Thị Xã Quảng Trị. Quốc lộ 1, quãng đường gần quận Hải Lăng, cách Quảng Trị hơn 10 cây số phía Nam mất an ninh nhiều ngày trước. Đoàn quân triệt thoái không đội hình, quân xa các loại và đồng bào chạy loạn bị địch phục kích tấn công, gây thiệt hại thảm khốc. Hàng trăm chiến xa, xe quân sự, xe hàng, xe tư nhân đủ loại bị bắn cháy, nằm ngổn ngang trên quốc lộ và hai bên đường. Quân nhân và thường dân, lớn bé già trẻ chết thảm khốc, nằm chồng chất lên nhau trên đường, dưới ruộng. Một phóng viên ngoại quốc chứng kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đã đặt tên cho đoạn đường này là "Đại Lộ Kinh Hoàng". Vào lúc 14 giờ 30 chiều, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn và gần 30 chiến xa và thiết vận xa còn lại của LĐ1 Kỵ binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ 1. Thêm nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này gây trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực lượng TQLC đã đụng độ suốt đêm với trung đoàn CSBV tại Hải Lăng, có nhiều quân nhân và đồng bào tháp tùng đã tử thương trong lúc giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của thiết giáp, địch rút lui vào buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa và đoàn người chạy giặc đã tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC án ngữ. Chiều tối, địch nã trọng pháo nặng nề vào tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sáng sớm ngày 3/5, quân CSBV có chiến xa yểm trợ, tấn công cầu Đập Đá trên sông Mỹ Chánh do TĐ9/TQLC án ngữ. Kết quả, 17 chiến xa bị bắn cháy, trên 500 xác địch để lại trận địa. Địch tiến sát phòng tuyến sông Mỹ Chánh và ngăn chận tất cả các ngả đường dân chúng di tản về hướng Nam. ĐOẠN KẾT GIAI ĐOẠN I. Hai LĐ147 và 258/TQLC đã bị tổn thất nặng nề trong giai đoạn 1, nhất là tại mặt trận phía Tây, nhưng các đơn vị vẫn giữ được đội hình và tổ chức, nhờ đó đã tạo được thời gian trì hoãn và truy cản cần thiết để Bộ TTM tại Sài Gòn và BTL/QĐ1 tại Đà Nẵng tái phối trí lực lượng và phản công sau này. Riêng LĐ369/TQLC, đa cố thủ được tuyến Mỹ Chánh, và nhờ đó các đơn vị QLVNCH, những quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào chạy giặc đến được vùng đất an toàn. Đồng thời, đã bẻ gãy kế hoạch thừa thắng tấn chiếm Tỉnh Thừa Thiên và Cố Đô Huế của Võ Nguyên Giáp. Phòng tuyến Mỹ Chánh sau ngày 2/5, do lực lượng của SĐTQLC và một số đơn vị tăng phái án ngữ đã trở thành tuyến đầu cùa VNCH sau cuộc xâm lăng phi pháp của CSBV cuối tháng 3/72. Và cũng từ phòng tuyến này, những đoàn quân dũng mãnh của QLVNCH dùng để xuất phát taqn công tái chiếm vùng đất đã mất là Thị Xã và Cổ Thành Quảng Trị. Trong lúc tình hình khẩn trương và sau khi nhận định Tướng Lãm và BTM/QĐ1 của Ông không còn khả năng và uy tín để chỉ huy những đại đơn vị thuộc quyền, và một phần tình hình quân sự Vùng 4 Chiến Thuật tương đối yên tĩnh, nên ngày 1/5, TT Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐ4 thay thế Tướng Lãm trong chức vụ Tư Lệnh QĐ1. Tướng Trưởng từng là Tư lệnh SĐ1/BB dưới quyền Tướng Lãm, Ông linh cảm được sự thay thế này, nên đã tuyển chọn trước một số sĩ quan thâm niên và kinh nghiệm, cả về chiến thuật lẫn tham mưu để theo Ông ra Vùng I. Ngày 4/5/72, Đại Tá Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Phó SĐ, sĩ quan có nhiều kinh nghiệm về tham mưu, được TT Thiệu bổ nhiệm làm Tư Lệnh SĐ/TQLC thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang. Tướng Khang về Bộ TTM giữ chức vụ Phụ tá Hành quân cho Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên. Kể từ ngày TQLC được tổ chức thành sư đoàn vào đầu năm 1970, lần đầu tiên, BTL/SĐ/TQLC trực tiếp chỉ huy và điều động toàn bộ lực lượng trực thuộc với một vùng trách nhiệm chiến thuật được giao phó. Một vài sự kiện khác cũng đã xảy ra: Ngày 4/5/72, trong khi TT Thiệu thăm viếng vùng hỏa tuyến, tờ nhật báo "Pacific Stars and Stripes" của quân đội HK vùng Thái Bình Dương đăng lá thư của Tướng Vũ Văn Giai bằng Anh ngữ, trong đó Ông viết: "...Tôi chấp nhận hoàn toàn trách nhiệm trước lịch sử và pháp luật về cuộc triệt thoái này. Thị Xã Quảng Trị đã hoang tàn đổ nát. Lương thực, đạn dược và nhiên liệu dự trữ đã cạn. Các đơn vị tác chiến đã quá mệt mỏi. Tôi thấy không còn lý do nào chính đáng để ở lại bảo vệ những hoang tàn đổ nát ấy. Tôi ra lệnh cho các đơn vị thuộc quyền triệt thoái trong trật tự để tái củng cố lực lượng, thiết lập phòng tuyến và mặt trận mới, để tấn công lại đối phương nếu chúng vẫn còn duy trì cuộc chiến tranh đầy sai trái này...". Ngày 5/5/72, TT Thiệu bổ nhiệm Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh thay thế Chuẩn Tướng Giai trong chức vụ Tư Lệnh SĐ3/BB vào lúc đơn vị chỉ còn lại chưa đầy 1/4 quân số (2,700 người), trong đó hơn 1,000 quân nhân được dùng để tái thành lập Trung Đoàn 56/BB (đã đầu hàng tập thể ngày 2/4 tại căn cứ Carroll). SĐ3/BB được lệnh tạm ngưng các cuộc hành quân chiến thuật đến cuối năm 72, để dồn nỗ lực vào việc tái tổ chức và huấn luyện đơn vị. GIAI ĐOẠN 2 : TÁI CHIẾM QUẢNG TRỊ. PHÒNG THỦ HUẾ. Ngay sau khi nhận chức Tư Lệnh Vùng 1 ngày 1 tháng 5, Trung Tưởng Ngô Quang Trưởng thấy ngay hai nhiệm vụ phải hoàn tất: Phòng thủ thị xã Huế và tái chiếm Tỉnh Quảng Trị. Hai nhiệm vụ này không dễ gì đạt được trước tình trnạg tinh thần chiến aấu sa sút của binh sĩ doới quyền. Trong khi đó, hàng trăm ngàn đồng bào tị nạn cộng snả từ Quảng Trị đổ dồn về Huế và Ðà Nẵng, tệ trạng phá phcáh cướp bóc xảy ra trên đường phố Huế, do một số quân nhân thất trận bỏ ngũ ừừ mặt trận Quảng Trị chạy về. Thêm vào đó, đặc công cộng sản trá hình thường dân tuyên truyền rỉ tai, gây bạo động, đốt chợ Động Ba, vật giá leo thang v.v... tất cả đã gây hoang mang và lo sợ cho đồng bào và làm suy giảm thêm tiềm năng chiến đấu của quân đội. Trước tình hình đó, ngày 3/5, Tướng Trưởng ban hành lệnh giới nghiêm toàn tỉnh Thừa Thiên, buộc tất cả quân nhân phải trở về đơn vị, cho lệnh bắn tại chỗ những người mang vũ khí lang thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp. Lực lượng chính yếu phòng thủ Huế chỉ còn lại 2 Trung Đoàn của Sư Đoàn 1/BB và Sư Đoàn TQLC. Lực lượng TQLC phòng thủ từ ranh giới tỉnh Thừa Thiên phía Bắc (sông Mỹ Chánh) tới sông Bồ. Sư Đoàn 1/BB tiếp nối từ sông Bồ về phía Nam thành phố Huế. Với một đường lối chỉ huy rõ ràng, đơn giản và linh động đối với các đon vị trưởng trực thuộc, Tướng Trưởng nói: "...Sư Đoàn TQLC và Sư Đoàn 1/BB, được toàn quyền mở những cuộc hành quân trong khu vực trách nhiệm để tiêu diệt lực lượng địch. Điều quan tâm của tôi lúc này là thiết lập hệ thống phòng thủ có chiều sâu, lực lượng trừ bị mạnh, và xen kẻ các đơn vị Địa Phương Quân vào lực lượng chủ lực quân trong kế hoạch phòng thủ...". Để hổ trợ cho các lực lượng phòng thủ, Tướng Trưởng đề ra một kế hoạch hỏa lực thế công đại quy mô, mang tên "Lôi Phong", gồm hỏa lực của phi cơ chiến lược B-52, phi cơ chiến thuật Việt-Mỹ, hải pháo của Hạm Đội 7 và pháo binh QLVNCH, tập trung vào từng mục tiêu địch, được phối kiểm qua những nguồn tin chính xác cung cấp, đặc biệt nhắm vào những tuyến đường tiếp tế yểm trợ những cuộc tấn công của địch. Một kế hoạch hỏa lực "Lôi Phong" điển hình nhắm vào các lộ trình tiếp vận của địch, đã triệt hạ phần lớn tiềm năng tấn công của địch vào thị xã Huế từ hướng Nam. Nhu cầu tái trang bị cho các đơn vị QLVNCH tại Vùng I trở nên khẩn thiết. Các quân dụng đang được Hoa Kỳ viện trợ cấp thời. Phi trường Đà Nẵng bận rộn ngày đêm với những phi vụ của phi cơ vận tải khổng lồ C-141 và C-5A lên xuống. Trên 200 chiến xa đủ loại, hàng trăm khẩu pháo binh đủ loại và xe vận tải được thay thế cấp thời. Những phi vụ C-130 của TQLC Hoa Kỳ từ Okinawa đến, chở quân dụng và vũ khí thay thế trực tiếp cho các đơn vị TQLC Việt Nam. Lần đầu tiên, từ đầu tháng 5/72, hỏa tiển điều khiển chống chiến xa TOW được dưa qua VN, và theo chỉ thị của Tư Lệnh MACV, Tưóng Creighton Abrams, vũ khí mới này chỉ được trang bị cho các đơn vị TQLC và Nhảy Dù. Để rút ngắn thời gian chuẩn bị, Tướng Trưởng ra lệnh thu ngắn thời gian huấn luyện đơn vị còn lại 2 tuần lễ để sẵn sàng chiến đấu. Ngày 1/5, theo lời yêu cầu khẩn cấp của Tướng Trưởng, Bộ TTM/QLVNCH điều động Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù từ Vùng 3 ra tăng cường Vùng 1, được BTL Quân Đoàn 1 tăng phái cho Sư Đoàn TQLC phòng thủ tuyến đầu. Dau đó, Liên Đoàn 1/BĐQ cũng được tăng cường thêm cho SĐ/TQLC phòng thủ khu vực Tây Bắc. Ngày 5/5, Lữ Đoàn 258/TQLC được điều động lên trách nhiệm phòng thủ phía Tây Quốc lộ 1 từ sông Mỹ Chánh. Lữ Đoàn 369/TQLC phòng thủ phía Đông từ Quốc lộ 1 ra đến bờ biển. PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ Đầu tháng 5/72, Tổng Thống Nixon đã có những quyết định quan trọng: - Cho lệnh ngưng những cuộc đàm phán với CSBV tại Paris - Phong tỏa bờ biển Bắc Việt - Thả thuỷ lôi hải cảng Hải Phòng và nhiều hải cảng khác - Tái oanh tạc các mục tiêu trên toàn lãnh thổ miền Bắc. Không và Hải quân Hoa Kỳ khai diễn cuộc không kích mang tên "Bảo vệ chiến tuyến" (Linebacker). Tất cả những mục tiêu cũ và mới đều bị oanh tạc. Những mục tiêu như cầu Hàm Rồng ở Hà Nội mới vừa sửa chữa xong, những cầu xe lửa quan trọng phía Đông Bắc và Tây Bắc nối liền với Trung Quốc, những bồn chứa dầu, những nhà kho chứa hàng, bãi đậu xe, những trung tâm điện lực, hệ thống ống dẫn dầu và nhất là các vị trí hỏa tiển SAM và phi trường phản lực. Tất cả đều bị oanh tạc và tái oanh tạc nặng nề. Một kế hoạch không tập đặc biệt liên tiếp 11 ngày vào cuối tháng 10/72 với 740 phi vụ B-52 và trên 1,000 phi vụ phản lực cơ chiến thuật nhắm vào những mục tiêu giới hạn như: những nhà ga xe lửa, trung tâm điện lực ở những thành phố lớn, cảng Hải Phòng, những trung tâm viễn thông, những đài radar .... Kết quả của nhiều tháng oanh tạc, phi cơ Hoa Kỳ không còn bắt gặp phi cơ MIG trên không phận Bắc Việt và cường độ hỏa lực phòng không cũng giảm sụt hẳn. Tại miền Nam, không lực Hoa Kỳ, đặc biết phi cơ chiến lược B-52 đã giữ vai trò yểm trợ chủ yếu và hữu hiệu cho QLVNCH, gây tổn thất nặng nề cho lực lượng CSBV, trên trận địa cũng như trên đường mòn HCM, giúp phần lớn vào chiến thắng của QLVNCH trên cả 3 chiến tuyến: Trị Thiên, Cao Nguyên Trung Phần và Bình Long, An Lộc trong mùa hè 1972. NHỮNG CUỘC TẤN CÔNG THĂM DÒ Từ giữa tháng 5/72, các đơn vị phòng thủ Thừa Thiên bắt đầu mở những cuộc tấn công giới hạn để thăm dò. Ngày 12/5, LĐ-369/TQLC mở cuộc hành quân Sóng Thần 5-72, một đơn vị Viễn Thám TQLC vượt sông Mỹ Chánh ban đêm, chiếm cứ một vị trí để đặt bộ chỉ huy hành quân cho ngày hôm sau. Sáng sớm hôm sau, trực thăng của LĐ-9 Thủy Bộ TQLC/Hoa Kỳ từ quân vận hạm Okinawa bay vào bốc Tiểu Đoàn 3 và 8 TQLC đổ bộ xuống vùng kế cận phía Tây quận lỵ Hải Lăng, 10 cây số phía Nam thị xã Quảng Trị. Cuộc hành quân trực thăng vận chớp nhoáng vào hậu tuyến địch đã gây bất ngờ, khiến địch không kịp trở tay. Trên 1,200 Cọp Biển đã được trực thăng vận xông vào lúc 9 giờ sáng, chỉ có một chiếc trực thăng CH-53 bị trúng đạn, được phá hủy tại chỗ. Hai Tiểu Đoàn TQLC tảo thanh nhanh chóng về hướng Nam để giao tiếp với Tiểu Đoàn 9 TQLC, cũng trong buổi sáng hôm đó vướt sông Mỹ Chánh tiến về hướng Bắc. Trung đoàn 66/CSBV bị tấn công bất ngờ từ hai hướng Bắc và Nam đã phân tán lực lượng và né tránh giao tranh. Địch có trên 200 tên chết do hỏa lực của phi pháo, phía TQLC chỉ bị tổn thất nhẹ. Các cánh quân đã tiến nhanh để trở lại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh trong buổi tối cùng ngày. Ba ngày sau 15/5, hai Trung Đoàn của SĐ 1/BB mở cuộc hành quân thăm dò, nhằm tái chiếm những căn cứ đã mất trước đó 3 tuần. Hai Trung Đội cảm tử được trực thăng vận vào căn cứ hỏa lực Bastogne. Bị tấn công bất ngờ, địch bỏ chạy. Chiều tối, lực lượng chính của SĐ 1/BB tiến đến Bastogne và kiểm soát hoàn toàn căn cứ này. Hơn 1 tuần sau đó, căn cứ Checkmate cũng được SĐ 1/BB tái chiếm lại. Kế hoạch hỏa lực "Lôi Phong" của Tưóng Trưởng có kết quả trông thấy, trong vùng hành quân của SĐ 1/BB. Tin tình báo Hoa Kỳ cho biết, SĐ 324B CSBV bị tổn thất nặng nề về nhân mạng do hỏa lực pháo binh ta và đã phải triệt thoái về bên kia biên giới Lào để tái bổ xung. Sau khi bi tan cong bat ngo vao hau tuyen, ngay 21/5, quan CSBV va chien xa, tan cong vao khu vuc Lu Doan 369/TQLC. Khong nhu nhung cuoc tan cong truoc day cua dich thuong ap dung chien thuat "tien phao hau xung", lan nay bo binh va chien xa dich dan doi hinh han hoi tan cong vao tuyen My Chanh theo huong lo 555 gan bo bien. Khi thay chien xa dich xuat hien, luc luong Dia Phuong Quan tai day rut lui. Theo da, dich thoc sau ve tuyen sau cua ta de bao vay va danh boc hau 2 Tieu Doan 3 va 9/TQLC, nhung 2 don vi nay da tai phoi tri ve tuyen sau gan 5 cay so theo ke hoach. Nho hoa luc yem tro cap thoi cua khong quan Viet-My, phao binh va chien xa yem tro truc tiep, TQLC da danh bat dich lui tro lai tuyen phong thu cu vao chieu toi cung ngay. Sang som hom sau 22/5, mot luc luong khac cua dich voi 20 chien xa mo dot tan cong lan thu 2 vao Tieu Doan 3/TQLC va Bo Chi Huy cua Lu Doan 369 TQLC. Cac Cop Bien da xu dung hoa tien TOW va M-72 ban chay nhieu chien xa, 5 chien xa PT-76 bi ban chay cach ham chi huy cua Lu Doan 400 thuoc. Tong ket, sau 2 cuoc tan cong cua dich, 10 chien xa T-54 va PT-76 bi ban chay va 542 xac dich de lai tai cho. Phia TQLC bi thiet hai trung binh. Ngay 25/5, dich chuyen mui dui tan cong sang phia Tay, vung trach nhiem cua Lu Doan 258 TQLC. Ba ngay lien tiep, dich dan tran tan cong giua ban ngay, nhung da tro thanh nhung muc tieu tot cho phao binh va khong quan ta tieu diet. Ngay 26/5, Lien Doan 1/BDQ bi dich tan cong manh, chung co gang pha vo tuyen phong thu cua ta, dich da lot vao duoc toi Bo Chi Huy cua mot vai Tieu Doan BDQ, nhung sau cung, da bi day lui, de lai tren tran dia tren 200 xac chet va nhieu vu khi. Mac du tran chien phia Tay cua Lu Doan 258/TQLC con dang soi dong, Su Doan TQLC mo tiep cuoc hanh quan Song Than 6-72 voi 3 tieu doan cua Lu Doan 147/TQLC. Ngay 23/5, Tieu Doan 7/TQLC di chuyen den ben tau Tan My, 5 cay so phia Dong Bac thi xa Hue, de ra Ham Doi 7 dau ngoai khoi, tham du cuoc hanh quan do bo bang duong bien, phoi hop voi 2 Tieu Doan TQLC khac do bo truc thang vao vung co biet danh chien su "Day pho buon thiu". Cuoc hanh quan khai dien luc 7 gio 30 sang ngay 24/5. Phao binh, hai phao va khong quan oanh kich cac muc tieu tai cac bai do bo, trong khi doan tau cho Tieu Doan 7/TQLC con cach bo 3 cay so. Trong khi do, 2 Tieu Doan TQLC va truc thang Hoa ky san sang tai bai boc. Voi su phoi hop chat che cua hai Bo Tham Muu Su Doan TQLC va Ham Doi 7 dat tren chien ham chi huy USS Blue Ridge, phi vu B-52 bay toi trai nhung tham lua xuong cac bai dap, luc doan tau do bo con cach bo khong day 2 cay so. Khi B-52 vua cham dut oanh tac, 2 dot tau do bo, moi dot 40 chiec cap bai do Tieu Doan 7/TQLC len cac bai an dinh. Khong chan cho, cac Cop Bien xung phong nhu vu bao, tien chiem cac doi cat cao, nhanh chong chiem cac muc tieu, ha sat tai cho tren 50 ten dich, bat song 10 tu binh con ngo ngac so hai. Cung mot luc, 2 Tieu Doan 4 va 6/TQLC duoc truc thang TQLC Hoa ky do xuong khu vuc giao diem cua 2 huong lo 555 va 602. Tai day, luc luong TQLC dung do ngay voi 1 don vi cua Trung Doan 18, Su Doan 325/CSBV, ma chu luc da rut lui truoc do. Cuoc hanh quan Song Than 6-72 cham dut ngay 31/5, sau khi 3 Tieu Doan 4, 6 va 7/TQLC tro lai tuyen phong thu My Chanh. Sau hon 2 tuan le lien tiep giao tranh va bi nhieu ton that nang ne, 2 trung doan 66 va 88 CSBV da phai triet thoai khoi tran dia. Trong thang 5-72, da co tren 2,000 dich bi ha sat, tren 1,000 vu khi bi tich thu va tren 60 chien xa du loai bi pha huy va bi bat. Trong khi luc luong TQLC van giu vung phong tuyen My Chanh, nhung qua nhung cuoc tan cong cua quan CSBV, ngay 22/5, Bo TTM quyet dinh tang cuong them cho Vung 1 Bo Tu Lenh Su Doan ND va Lu Doan 3/ND. Bo Tu Lenh Su Doan ND dat tai can cu Sally va duoc giao vung trach nhiem hoat dong phia Tay Bac thi xa Hue, nam giua Su Doan 1/BB va Su Doan TQLC. Nhung thanh qua thu hoach duoc cua Su Doan TQLC, mot phan, nho hoa luc yem tro cap thoi va huu hieu cua khong quan va phao binh, va phan khac, nho tinh than chien dau hang say va hanh dong can dam cao do cua chien si cac cap. Thang 5-72, danh dau nhung thanh cong khoi dau cua Quan Doan 1. Ngay 28/5, tai ban doanh cua Bo Tu Lenh Su Doan TQLC dat trong Thanh Noi Hue, Tong Thong Thieu da vinh thang cap Chuan Tuong cho Dai Ta Bui The Lan, Tu Lenh Su Doan TQLC va tuong thuong cho nhieu quan nhan TQLC khac. TAI CHIEM QUANG TRI. Thang 6-72 mo man no luc cua TQLC tan cong tai chiem Quang Tri. Ngay 6/6, Su Doan TQLC khai dien cuoc hanh quan Song Than 8-72. Dong loat, 4 Tieu Doan TQLC vuot song My Chanh duoi hoa luc yem tro cua khong quan va phao binh. Cac truc tien quan cua ta gap suc khang cu manh me cua dich, dac biet, canh quan tien theo truc huong lo 555 phia Dong. Tien sau TQLC la nhung don vi Cong binh, co nhiem vu thiet lap va sua chua nhung cau cong, de cac don vi chien xa ban tien len yem tro. Cuoc hanh quan Song Than 8-72 cham dut sau mot tuan le voi ket qua: 230 dich chet, 7 chien xa bi ban chay, TQLC co 9 tu thuong va mot so bi thuong. TQLC chiem giu phan dat vua chiem, thiet lap tuyen phong thu moi phia Bac My Chanh. Ngay 18/6, cuoc hanh quan Song Than 8A-72 duoc khai dien voi cac don vi cua 3 Lu Doan TQLC tien ve huong thi xa Quang Tri. Tieu Doan 7/TQLC tien doc theo bo bien, gap suc khang cu khong dang ke. Tieu Doan 6/TQLC tien song song voi Tieu Doan 7/TQLC theo huong lo 555, gap suc khang cu cua bo binh va chien xa dich. Tieu Doan 5/TQLC tien ben trai, gan quoc lo 1. Cac canh quan khong tien nhanh duoc, mot phan, do su chong tra manh liet cua dich, mot phan khac, do viec thieu phoi hop yem tro hoa luc giua cac canh quan. Cuoc hanh quan Song Than 8A-72 cham dut ngay 27/6 voi ket qua: 761 dich bi ha, 8 chien xa bi pha huy, TQLC co 10 tu thuong va tren 40 bi thuong, tren 2,000 dong bao duoc giai thoat ve Hue. Tuyen phong thu moi duoc thiet lap 4 cay so phia Bac tuyen My Chanh. Ngay 28/6, Bo Tu Lenh Quan Doan 1 khoi dien cuoc hanh quan Lam Son 72, TQLC lay ten la Song Than 9-72, voi Su Doan ND va Su Doan TQLC song song va dong loat tien ve huong Quang Tri, co thanh Dinh Cong Trang la muc tieu cuoi cung cua Su Doan ND. Su Doan TQLC trach nhiem vung hanh quan tu bo bien huong Dong den quoc lo 1 huong Tay. Su Doan ND phu trach khu vuc tu quoc lo 1, giap ranh voi TQLC huong Dong den chan rang Truong Son phia Tay. Lu Doan 2/ND la luc luong tien phong cua Su Doan ND cung voi TQLC va BDQ. Trong thang 6-72, phia dich co 1,515 bi giet, 15 bi bat lam tu binh, 18 xe thiet giap bi pha huy, 4 chiec khac bi bat, tren 500 vu khi du loai bi tich thu. Phia TQLC bi 150 tu thuong va tren 300 bi thuong, vu khi bao toan. Tiep tuc cuoc hanh quan Song Than 9-72, trong thang 7-92, cac don vi TQLC giao tranh manh me tren cac truc tien quan. Dac biet, TQLC da mo 2 cuoc hanh quan truc thang van vao hau phuong dich: -Ngay 11, Tieu Doan 1/TQLC nhay vao vung 2 cay so phia Bac thi xa Quang Tri, chan ngang huong lo 560, truc lo tiep van va chuyen quan cua CSBV vao Quang Tri. Trong cuoc hanh quan nay, 1 truc thang CH-53 bi hoa tien SA-7 ban ha, gay tu thuong cho 30 linh TQLC va phi hanh doan Hoa ky. -Ngay 27, Tieu Doan 5/TQLC duoc truc thang van vao vung 10 cay so phia Dong Bac Quang Tri, gap suc khang cu manh cua dich. Day cung la cuoc yem tro hanh quan truc thang van cuoi cung cua TQLC Hoa ky trong cuoc chien VN. Tong ket trong thang 7-72: Dich co 1,880 ten bi ha sat, 51 chien xa du loai bi pha huy. TQLC tich thu: 3 khau dai bac 130 ly, 7 dai lien phong khong 37 ly, 1,200 vu khi ca nhan va tren 20 tan dan duoc du loai. Su Doan ND tien quan vao thanh pho Quang Tri song song voi Su Doan TQLC tu dau thang 7-72. Nhieu don vi ND, vi bi ton that nhieu qua nhung tran chien ac liet truoc do tai cac mat tran Cao Nguyen, Binh Long va An Loc, nen tien quan cham. Sau hon 1 tuan le, Lu Doan 3/ND moi chi tien duoc toi khu vuc ngoai o thi xa Quang Tri. Nhung tuan le ke tiep la thoi gian chien dau day cam go va chet choc cho ca 2 phia ta va dich. Mac dau voi hoa luc yem tro hung hau cua hai phao, phi co Viet-My va phao binh, nhung don vi tuyen dau cua ND van chua tien sat duoc toi chan tuong cua co thanh Quang Tri. Doi ben khai thac toi da hoa luc cua phao binh va sung coi de tieu diet quan bo chien. Nhung tran mua bom cua B-52, phan luc co du loai cua Hoa ky va phao binh ban tap trung, da gay ton that nang ne cho quan CSBV. Trong luc do, tinh hinh chinh tri quoc te anh huong khong it den chien truong. Bo truong Quoc phong Hoa ky, Ong Melvin Laird ly luan rang: "...Nam VN nen bo y dinh tai chiem Quang Tri, de don no luc bao ve phan dat dang kiem soat se it bi ton that hon...". Mot vien chuc ngoai giao Hoa ky tai Paris noi rang : "...Khi thanh pho Quang Tri duoc dua ra thao luan tren ban hoi nghi, duong nhien, chung ta muon no thuoc ve chung ta...". Tai Sai Gon, Bo TTM/QLVNCH nghien cuu de co the dieu dong 1 su doan bo binh tu Vung 4 tang cuong cho Vung 1, nhung sau cung da phai huy bo, vi thay co qua nhieu tro ngai, tu chien thuat, tiep van den tam ly binh si. Tuong Truong qua quyet rang, Quan doan 1 co du suc danh bai doi phuong bang luc luong hien co. Luc dau, Ong khong dong y ke hoach tan cong thang vao thi xa Quang Tri. Thay vao do, Ong nham vao viec cat dut cac truc lo tiep van va chuyen quan cua dich vao Quang Tri, roi sau do, se tan cong chiem Quang Tri. Nhung sau nay, Tuong Truong doi y, xu dung luc luong hung hau cua Su Doan TQLC thay the Su Doan ND tan cong chiem Quang Tri. Ngay 27/7, luc 9 gio 30 sang, cac tieu doan cua Lu Doan 258/TQLC thay the cac don vi cua ND trong khi doi ben dang giao tranh, vi tri gan nhat, con cach tuong thanh Quang Tri khoang 200 thuoc. Trong thang 8-72, cac trung doan cua Su Doan 325/CSBV de nang ap luc vao cac don vi cua Lu Doan 147/TQLC dang ngan chan truc lo tiep van cua chung theo huong lo 560. Do do, cac nguon tiep te cua dich vao Co Thanh Quang Tri phai bang ngang qua song Thach Han, de dang bi ta phat giac. Cung trong thang nay, cac don vi cua Lu Doan 258 TQLC phai chien dau rat cam go trong thanh pho, duoi hoa luc phao binh va sung coi ngay dem cua dich, tren 50,000 dan phao binh va sung coi dich ban vao cac vi tri TQLC. Mot so vi tri then chot trong thanh pho bi mat va lay lai, dang co giua ta va dich. Dau thang 9-72, Lien Doan 1/BDQ voi 3 tieu doan duoc dieu dong len thay the Lu Doan 147 TQLC an ngu tran tuyen phia Bac. Ngay 9, cuoc tan cong quyet dinh cua Su Doan TQLC bat dau. Bo Tu Lenh Su Doan TQLC xu dung 2 Lu Doan 147 va 258/TQLC tan cong chiem co thanh Quang Tri. Lu Doan 147/TQLC xu dung 2 Tieu Doan 3 va 7 TQLC tan cong tu huong Dong Bac xuong. Lu Doan 258/TQLC dieu dong 3 Tieu Doan 6 va 9 TQLC tan cong tu huong Dong Nam va Tieu Doan 1/TQLC tu huong Nam len. Hoa luc khong quan va phao binh duoc tap trung toi da vao co thanh va vung ke can. Tren 200 phi vu phan luc co Hoa ky oanh tac nhung muc tieu trong co thanh. Trong 2 dem 9 va 10/9, tieu doi biet kich cua Tieu Doan 6/TQLC xam nhap bi mat vao trong co thanh tham sat tinh hinh, trong khi dich quan van khang cu manh me. Sang som ngay 11, trung doi tien phong cua Tieu Doan 6/TQLC da tien sat duoc toi chan tuong co thanh lam dau cau. Ngay 13, Tieu Doan 3/TQLC cung tien den chan tuong Dong Bac co thanh. Ngay 15/9, sau khi phoi hop, 2 Tieu Doan 3 va 6/TQLC dan quan doi hinh tien ve huong Tay, can quet nhung o khang cu con lai trong co thanh. Cac Cop Bien da khong dan duoc niem sung suong ho hoi, ho het trong vui mung khi ho vuot qua nhung hoang tan do nat tien ve bo thanh phia Tay. Dem do, nhung o khang cu cuoi cung cua dich duoc thanh toan va thanh pho Quang Tri da thuc su thuoc quyen kiem soat cua Quan Dan Mien Nam. VAN THU, CONG DIEN CHUC MUNG. Tu phia Viet Nam Cong Hoa: - Dien van cua TT Nguyen Van Thieu: "Toi tran trong yeu cau Dai Tuong chuyen den Trung Tuong Tu Lenh Quan Doan I, Chuan Tuong Tu Lenh Su Doan TQLC cung toan the don vi va chien si TQLC da danh tan quan Cong san xam luoc ra khoi Thi Xa va Co Thanh Quang Tri, loi ngoi khen nong nhiet nhat, dong thoi long kham phuc vo bien cua toi va toan the Chanh Phu hop tai Dinh Doc Lap sang hom 16-9-72... Muu do cua bon Cong san xam luoc muon bien Quang Tri thanh mot Binh Long anh dung, mot Kontum kieu hung cua chung, dong thoi bam lay mot dia danh tam ly va chinh tri de lua bip du luan, da bi toan the anh em danh tan ra may khoi...Toi se den tham cac anh em". Ky ten: TT VNCH Nguyen Van Thieu. - Cong dien cua nhom Dan bieu Quoc gia Ha vien: "Kinh yeu cau Trung Tuong Tu Lenh Quan Doan I chuyen toi Bo Tu Lenh, cac si quan, ha si quan va anh em binh si thuoc Su Doan TQLC, Su Doan ND, Su Doan 1/KQ va toan the chien si Quan Khu I loi nong nhiet chuc mung va ca ngoi cua nhom Dan bieu Quoc gia ve chien thang Quang Tri vo cung anh dung va lay lung - Biet on sau xa doi voi cac hy sinh cao ca cua cac chien si da bo minh hay bi thuong tich va hien con chien dau trong cuoc hanh quan tai chiem Quang Tri, va dac biet Co Thanh. Triet de hau thuan cac chien si giet giac cuu nuoc". Dan bieu: Nguyen Tuan Anh, Nguyen Van Binh, Nguyen Van Cu, Nguyen Duc Cung, Nguyen Minh Dang, Nguyen Van Kim, Duong Minh Kinh, Nguyen Trong Nho, Dang Van Tiep, Pham Ke Toai, Do Sinh Tu. - Buu Diep cua Trung Tuong Tu Lenh Quan Doan 1: "Toi da nhin Quoc ky tung bay tren nen troi Quang Tri chi it lau sau khi nhung ban tay kieu dung cua anh em keo len tu trong Co Thanh hom 16-9-1972. Toi da muon thay tai cho chien thang cua anh em, de ngay tai chien truong, tu cam thay hanh dien duoc chi huy Su Doan TQLC trong mot chien dich quy mo nhat cua Quan Doi. Tu Ben Hai den Ca Mau, got chan nguoi chien si TQLC da trai qua bao nhieu thu thach, gian kho va chien thang. Nhung phai noi rang, day la lan dau tien Su Doan da chien dau trong mot hoan canh dac biet, doi dau voi nhieu kho khan nhat, voi mot ke thu dong gap boi. Vi the, chien thang Quang Tri danh tan quan dich, giai phong Thi Xa, la chien thang lon nhat, lay lung nhat...".Trung Tuong Ngo Quang Truong. - Cong dien cua Dang Cong Nong, co quan do dau Su Doan TQLC: "Toan the anh em Dang Cong Nong VN rat vui mung duoc tin anh em TQLC da anh dung tai chiem Co Thanh va Thi Xa Quang Tri sau cac tran danh vo cung ac liet duoi mua dan va phong ba bao tap. Chung toi xin nghieng minh truoc anh linh cac chien si da hy sinh...". Tran Quoc Buu, Chu tich Dang Cong Nong VN. Tu phia Hoa ky: - Thu cua Dai Tuong Tu Lenh TQLC/HK: "...Chien thang vang son cua quy Binh Chung tai chiem hoan toan Thi Xa Quang Tri da la mot hinh anh hung hon, se mai mai ton tai, de bieu duong long dung cam va kha nang chien dau can truong cua binh chung TQLC/VN...". Dai Tuong R. E. Cushman JR. - Van Thu cua Dai Tuong Tu Lenh MACV: "... Rieng trong cuoc tan cong xam lang cua Cong san vua qua, quy Binh Chung da chung to cho the gioi thay ro kha nang chien dau dung cam va hao hung hon bat cu luc nao. Chien thang lay lung cua quy Binh Chung o Quang Tri da the hien long yeu nuoc va nang cao gia tri va truyen thong cua TQLC VN...". Dai Tuong Fred C. Weyand. - Dien van cua Trung Tuong Tu Lenh luc luong De Tam Thuy Bo TQLC/HK: "...Danh tieng cua quy Binh Chung vang doi khap nam chau, nguoi linh TQLC tren khap the gioi dang theo doi su chien dau cam go va long quyet tam dat den chien thang cua quy Binh Chung...". TrungTuong Metzger. - Dien van cua Tu Lenh Su Doan 1/TQLC/HK: "Nhan ngay ky niem 18 nam thanh lap TQLC/VN, toan the quan nhan thuoc Su Doan 1/TQLC/HK xin chan thanh gui loi chao mung den quy binh chung qua chien thang lay lung tai Quang Tri...". Thieu Tuong Schwenk. - Dien van cua De Doc Tu Lenh Ham Doi 7/HK: "...Chung toi kinh trong va kham phuc Chuan Tuong cung toan the quan nhan cac cap thuoc quy Binh Chung ma chung toi han hanh yem tro trong cac cuoc hanh quan, dat den chien thang vang doi tai tinh Quang Tri...". De Doc W. D. Toole JR. -Va cac dien van cua: Thieu Tuong Fegan, Tu Lenh SD3/TQLC/HK; Dai Ta Charles Williamson, Tu Lenh luc luong 33 Thuy Bo TQLC/HK; Thieu Tuong Cooksey, Co van Truong QD1/QK1; Pho De Doc Wilson, Co van Truong Hai Quan VN; Dai Ta Donald Newton, Tu Lenh luc luong 31 TQLC HK; Dai Ta J. W. Dorsey, Co van Truong Su Doan TQLC VN; Trung Tuong Wilson, Tu Lenh TQLC HK tai Thai Binh Duong; Va Trung Tuong R. P. Keller, Chi huy Truong TTHL/TQLC Hoa ky, Quantico, VA. KET LUAN. - Voi hoa luc yem tro doi dao cua Hoa ky va cac don vi ban, cung voi nhung cong lao chien dau gian kho cua cac chien huu Su Doan 1/BB, Su Doan ND va cac Lien Doan BDQ, Su Doan TQLC da hoan thanh nhiem vu Quan Doi va Chinh phu trao pho: Phong Thu Hue va Tai Chiem Co Thanh Quang Tri. Trong suot 7 tuan le chien dau day mau xuong va nuoc mat cua chien huu dong ngu, duoi nhung lan mua dan phao nang ne cua doi phuong, tinh trung binh, cu 4 nguoi linh TQLC, co 1 nguoi hy sinh. Tinh tu thang 6-72 den ngay toan thang, ve quan so, TQLC bi ton that tren 5,000, trong do co 3,658 chien si hy sinh. - Trua ngay 16/9/72, Tieu Doan 6/TQLC dung ngon co Vang 3 Soc Do dau tien tren cong tuong phia Tay Co Thanh Quang Tri. Voi bieu tuong do, ho cho the gioi biet rang, khong nhung QLVNCH da ngan chan duoc cuoc xam lang, nhung da thuc su danh bai quan chinh quy CSBV. Hinh anh nguoi linh TQLC Viet Nam dung co, tuy voc dang gay om vi chien tran, nhung chat chua day long can dam, cuong quyet va hy sinh, da la bieu tuong nguoi hung cua Quan Luc Mien Nam, truoc nhung cap mat nhin day nguong mo cua cac binh chung TQLC Dong Minh. - Trung Tuong Ngo Quang Truong, nguoi hung cua chien truong Tri Thien, da bao ve duoc Co Do Hue va lam dao nguoc the co cua quan Bac phuong. De ghi nhan chien thang lon lao nay, Tong Thong Thieu da tu Sai Gon bay ra Hue trong ngay vinh quang de chuc mung Tuong Truong, sau do dung truc thang bay len tuyen dau, Co Thanh Quang Tri, bat tay va cam on Tuong Bui The Lan, Tu Lenh Su Doan TQLC. Hung khoi voi chien thang lon, Tong Thong Thieu dung xe jeep den tham Bo Chi Huy Lu Doan 147/TQLC va Tieu Doan 6 TQLC, om hon va chuc mung vi Tieu Doan Truong va anh em binh si da chien dau anh dung, tao nen chien thang vi dai cho Quan Doi va toan Dan Mien Nam. - Sau cuoc tong cong kich Tet Mau Than nam 1968, Tuong Vo Nguyen Giap da thu nhan tham bai voi tren 300,000 can bo va quan linh chet, bi thuong va bi bat. Voi cuoc tan cong mua Xuan 1972, Tuong Giap da tung vao Mien Nam, gan nhu toan bo luc quan Bac Viet: 14 su doan chinh quy va 26 trung doan biet lap, nhung lai mot lan nua, nhan lay that bai nang ne, khong chiem giu duoc mot tinh ly nao cua VNCH, bi "nghien nat" tren chien truong voi tren 120,000 thuong vong, phan lon vu khi va trang bi nang bi mat, do nhung uoc tinh chu quan va vi ap dung chien tranh quy uoc tren 3 tran tuyen rong lon, ngoai kha nang tiep van, tiep lieu va yem tro tu hau phuong Mien Bac (Luc luong chien xa CSBV tai mat tran Vung 3: Binh Long, An Loc bi tieu diet hoan toan). Mien Bac voi nhung hoang tan do nat vi bom dan cua khong quan Hoa ky, da lam tieu tan mong xam lang va chien thang Mien Nam bang vo luc cua tap doan lanh dao quan su Bac Viet. Ngoi sao Vo Nguyen Giap cua chien thang Dien Bien Phu nam 1954, da bi lu mo tu sau nam 1972. Va, ngay 23 thang 1 nam 1973, Ha noi da phai chap nhan ky ket hoa uoc tai Paris, "tam thoi" ngung xam lang Viet Nam Cong Hoa. MX Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN (10/74 - 4/75)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 7:17:16 GMT 9
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân (1931-2002) SQ: 51/600.003 Sinh ngày 12-8-1931 tại Xả Bình Hòa, Tỉnh Gia Định 1951: SVSQ Khóa 1 Lê Văn Duyệt Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức 1952: Thiếu Úy Trung Đoàn 17 Bộ Binh - Tháng 10 Tuyễn chọn vào Không Quân - Tháng 12 Du học khóa Hoa Tiêu Vận Tải DC-3 trường Không Quân Marrakech Maroc 1953: Theo học khóa MD-312 căn cứ Không Quân Avord, Pháp 1954: Tu Nghiệp MD-315 Oanh tạc - Tháng 5 Thụ huấn DC-4 tại Orleans, Pháp - Tháng 10 Hoa tiêu vận tải Loulouse, Pháp 1955: Vận chuyễn đồng bào Di Cư từ Bắc vào Sàigon 1956: Tu nghiệp DC-4 vận tải cơ căn cứ KQ Hickam Field. Honolulu Hoa Kỳ 1957: Thiếu Tá hướng dẫn phái đoàn Không Quân VN thăm viếng Hoa Kỳ 1959: Thăng cấp Trung Tá tạm thời 1961: Du học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu tại Fort Leavenworth, Kansas Hoa Kỳ - Tháng 5 Thăng cấp Trung Tá thực thụ 1964: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. 1965: Tư Lệnh Không Đoàn 33 Chiến thuật Tân Sơn Nhất 1966: Chánh Võ Phòng Phủ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương 1969-1970: Đại Tá theo học khóa Cao Đẳng Quốc Phòng 1970: Chuyên Viên nghiên cứu tại Bộ Quốc Phòng 1971: Du học khóa Quản Trị Quốc Phòng tại Navy Post Graduate School Monterey, California Hoa Kỳ 1972: Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân tân lập Pleiku 1973: 16-12 Tuyên Dương Công Trạng trước Quân Đội Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu 1974: Vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức 1975: ngày 15-3 di tản chiến thuật SD6 KQ từ Pleiku về Phan Rang ngày 16-4 Phan Rang thất thủ bị Cộng Quân bắt lúc 9:00 giờ đêm 22-4 giải ra Bắc và giam giử tại Sơn Tây - Trải qua 17 năm tù tại các trại Yên Bái, Hoàng Liên Sơn 1976 - Hà Tây, Hà Sơn Bình 1978 - Nam Hà, Hà Nam Ninh 1983 - Hàm Tân Z30 1988 1992: Ngày 11-2 ra tù cọng sản sau 17 năm 1993: Định cư tại Garden Grove, California Hoa Kỳ 2002: Mãn phần lúc 6:00 chiều ngày 30-11 Hưởng thọ 71 tuổi Tang Lễ cữ hành rất trọng thể với Phủ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa 8-12-2002 lúc 3 giờ chiều hỏa táng có 3 phi cơ Quan Sát Cessna bay lượn để chào tiễn biệt lần cuối cùng. Huy Chương: - Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân chương - Không Lực Huân Chương - Phi Dũng Bội Tinh với cánh chim Vàng và Bạc - Anh Dũng Bội Tinh Nhành Dương Liễum Ngôi Sao Vàng, Ngôi Sao Bạc và Ngôi Sao Đồng cùng nhiều huy chương Quân Sự, Dân Sự Việt nam và Đồng Minh Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang : Một vì sao lặn -- Hai điều trăn trối : <Mọi người hãy thương yêu nhau> .. .. ******************************************* Hạnh Nhơn , NV 12/17/2002 Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã ra người thiên cổ, nhưng sự qua đời của ông đã để lại cho chúng ta một ấn tượng và những hình ảnh bi hùng của một người lính cho tới chết vẫn trung thành với chất lính, vốn là những con người lúc chiến đấu trận mạc thì qủa cảm, tận tụy và trách nhiệm, khi sa cơ vẫn bảo vệ nhân cách của mình bằng cái chết. Sau đây là một bài viết về một vì sao đã lặn, nhưng chắc chắn sẽ cho chúng ta một tấm gương và niềm hãnh diện: Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã từ trần trong một ngày ảm đạm mùa đông năm 2002. Hội Ái Hữu Không Quân Miền Trung California đứng ra điều hành tang lễ. Từ trước đến nay chưa có đám tang nào có ý nghĩa tuyệt vời như thế. Lễ nghi quân cách trang trọng để tưởng niệm một vị tướng dầy đủ phong cách, thanh liêm, ôn hòa, đôn hậu, dũng cảm và tài năng. Việc tổ chức tang lễ này cho Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang người ta nhận thấy là vì tình thương yêu người niên trưởng đã một thời tận tụy hy sinh cho quê hương, cho chiến hữu hơn là tổ chức chiếu lệ, với hình thức phải có. Những anh chị em thuộc quân chủng Không quân khắp nơi đến thăm viếng không khác gì một buổi họp đại hội Không Quân. Nhiều vị tướng lãnh và các quân nhân các cấp thuộc các quân, binh chủng không hẹn mà đến tham dự đám tang trong tinh thần huynh đệ chi binh rất đông đảọ Ba ngày ở nhà quàn , cứ mười lăm phút là đổi phiên hai sĩ quan Không quân trong lễ phục đứng gác cạnh quan tài, làm chúng ta nhớ lại quân phong, quân kỷ thời trước 1975. Chiều ngày thứ sáu ( 6--12--02) lễ phủ cờ VNCH được tổ chức rất trang nghiêm. Chuẩn Tướng Vỏ Dinh, nguyên Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Không Quân, đứng chủ lễ. Tướng Vỏ Dinh cũng là một vị tướng đầy đủ tư cách, uy nghi tương xứng với vị tướng quá cố. Sau đó là những lời phát biểu của các vị đại diện không ngớt lời ca ngợi và đầy thương tiếc.. .. Chủ nhật 8--12--02 cử hành tang lễ. Khi đưa tiễn từ nhà quàn qua nhà thiêu, trên khung trời trong xanh có nắng ấm, ba chiếc máy bay cessna được điều động quần quanh vùng tang lễ làm ai cũng xúc động và lấy làm vinh dự. Dưới đất, các sĩ quan Không quân trong lễ phục đi hai bên quan tài và trên 500 người thuộc QLVNCH cùng đồng hương im lặng đưa tiễn trong ngậm ngùi, thương kính.. ... Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang đã yên nghĩ, không còn đau đớn xác thân, vong linh đã bay xa lên cõi vĩnh hằng, thanh bình và an lạc. Đặc biệt hơn hết, ông đã để lại hai điều trăng trối làm chúng ta phải động tâm suy gẫm. Điều trăn trối thứ nhất là theo nguyện vọng của Ông, tất cả số tiền phúng điếu sẽ được giúp cho thương phế binh VNCH thiếu may mắn còn ở lại Việt Nam. Một vị tướng có tiếng là thương lính, cùng sống với lính. Nhất là trong cuối trận chiến tháng 4 năm 1975, ông đã cương quyết ở lại chiến đấu cùng anh em, cuối cùng bị sa lưới, lọt vào ổ phục kích của đối phương, để chịu đựng 17 năm trong lao tù Cộng Sản. Trong vòng lao lý, Tướng Phạm Ngọc Sang vẫn giữ đúng nhân cách làm cho các anh em tù nhân khác đều nể phục. Những năm sau cùng, vì sức khỏe quá hao mòn, ông phải mang những chứng bệnh trầm khạ Cho đến khi ra khỏi tù, ông sống rất đạm bạc trong sự tận tình chăm sóc của Chuẩn Tướng phu nhân cùng các con hiếu thảọ Đến Hoa Kỳ năm 1993, dù phải chống chỏi với bệnh hoạn, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang cùng phu nhân vẫn gần gũi với đàn em, bạn bè, không bỏ một buổi mời họp nào của anh em Không Quân, cũng như thường tham dự những ngày lễ lớn. Giai đoạn cuối đời, khi biết mình sắp từ giã cõi trần, ông đã dặn dò gia đình rằng: « Tất cả tiền phúng điếu dành để giúp cho các thương phế binh VNCH đang sống khó khăn ở quê nhà». Đáp ứng với thiện tâm của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, mọi người đã đóng góp một số tiền đáng kể, lên đến 10,040 $ ( Mười ngàn không trăm bốn mươi mỹ kim). Số tiền đã trao cho Hội H.Ọ Cứu--Trợ Thương Phế Binh&Cô Nhi Quả Phụ VNCH để làm theo nguyện vọng của vị Tướng nhân hậụ Số tiền trên có thể cứu giúp cho gần 200 gia đình thương phế binh nghèo khó trong dịp Tết Quý Mùi 2003 năm naỵ Chuẩn Tướng Sang, cho đến chết vẫn còn tưởng nhớ đến các chiến hữu đàn em trước kia đã hi sinh chiến đấu chống Cộng quân để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh cho đồng bào được sống trong no ấm , an lành, mà nay phải chịu cảnh đui mù, què cụt đang lầm than, cơ cực trải qua 28 năm trời nay trong nước. Nghĩa cử đó làm mọi người khâm phục. Và lời trăn trối thứ hai càng ý nghĩa hơn nữạ Gia tài của Chuẩn Tướng Sang đẻ lại chỉ tóm gọn trong một lời kêu gọi : «Mọi người hãy thương yêu nhau». Chỉ có sáu chữ thôi nhưng đó là một lời kêu gọi thống thiết! Hãy yêu thương nhau như ông đã yêu thương tất cả mọi người bằng một tình thương chân thật. Chúng ta đáp ứng làm sao với lời trăng trối đó? Hãy tìm ra một phương cách dung hòa để cuộc sống của chúng ta được vui vẻ hơn, tốt đẹp hơn. Có lẽ Chuẩn Tướng Sang có nghe hoặc cảm thấy một vài bất đồng nào đó trong chúng ta chăng? Và ông đã đau lòng, ước ao được hàn gắn lại chăng? Nhung sức tàn, lực tận, ông không làm gì được nữa, chỉ biết lấy cái chết của mình để gởi thông điệp đó cho chúng ta Rằng, còn lại ở trên cõi đời này, hãy xích lại gần nhau, thương yêu nhau nhiều hơn, tha thứ cho nhau nhiều hơn, tha thứ cho nhau để san bằng những tị hiềm , dị biệt. Rồi từ đó, chúng ta sẽ tìm ra nhiều lối cư xử khác nữạ Nơi đất nước thứ hai này, xin hãy giữ gìn thể thống của dân tộc Việt Nam --Hãy làm gương cho những thế hệ tiếp nốị Tránh những việc làm không xứng đáng và những lời nói gieo đau khổ cho nhaụ «Một sự nhịn, chín sự lành». Nếu thương mình, thương người thì không làm hạ nhân phẩm của mình của người khác. Hãy bắt tay nhau làm lại nếu có những sai lầm, góp ý với nhau bằng những lời lẽ ôn hòa, tử tế, thanh nhã. Cần nhất là không cố chấp, không vì khác chính kiến mà khích bác nhaụ Trong tinh thần hỉ xã, hãy tìm đến nhau xuề xòa, bắt tay nhau với nụ cười chân thật, tâm hồn chúng ta sẽ nhẹ nhàng, thanh thản. Chúng ta sẽ tạo cho đời bộ mặt dễ thương hơn, tốt đẹp, tươi mát hơn. Cộng đồng nhờ đó sẽ đoàn kết hơn. Tinh thần đoàn kết chúng ta vốn sẵn có, điển hình là trong tổ chức đại nhạc hội gây quỷ sậy dựng tượng đài Việt Mỹ vừa quạ Hàng hàng,lớp lớp đồng bào Việt Nam quy tụ lại để góp công, góp của ngoài ước lượng nhu cầu cần đến cho một đại cuộc đầy chính nghĩạ Chỉ cần thiếu, cần bổ túc thêm một tình yêu thương giữa chúng ta, yêu thương và hỉ xã. « Hãy thương lấy nhau, hãy đùm bọc nhau». Tinh thần này do tổ tiên, cha ông ta để lạị Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam phú cường trong tự do, dân chủ , trước tiên chúng ta phải thương yêu, đùm bọc nhau đã. Tinh thần Phạm Ngọc Sang, lời di chúc của một đàn anh khả kính, đạo đức là một vang vọng cấp thiết trong mọi người con dân Việt hôm naỵ Trong một tan hoang, điêu tàn ngôi nhà của Mẹ, xin những đứa con trong dòng máu Tiên Rồng hãy mau mau hồi tỉnh. Chúng ta, những người con ly hương vì Cộng Sản tham tàn, xin hãy ngồi lại bên nhau bên niềm thương yêu, tha thứ và nhất quyết phải làm một điều gì cho Tổ Quốc thôi điêu linh, cho dân tộc thôi đọa dày, cho quê hương thôi nhục nhằn nghèo khó. *********************************** Về Với Không Gian Thân Tình ********************************** Đỗ Tiến Đức, 12.12.2002 Tướng Phạm Ngọc Sang đã mất rồi. Tin ông từ giã cõi đời không làm tôi ngạc nhiên hốt hoảng, nhưng đã khiến hồn tôi lịm đi, đầu óc tôi tê liệt, trống rỗng không biết bao nhiêu lâu. Mãi một lúc sau, tôi thấy hình ảnh Phạm Ngọc Sang đang dần dần hiện ra Đó là cảnh anh nằm bất động trên giường bệnh, phòng số 5, lầu 4 tại nhà thương Garden Grove Hospital. Đó là những lần gặp nhau của gia đình Cao Đẳng Quốc Phòng, anh ngồi lặng lẽ, nghe nhiều hơn nóị Đó là lúc anh cùng một số bạn bè trong gia đình Cao Đẳng Quốc Phòng kéo lên nhà tôi chơi.. .. Mới hai tuần trước, ông bà Nguyễn Xuân Vinh từ San Jose xuống Nam Cali có việc. Khi nghe anh Trần Dật báo tin anh Phạm Ngọc Sang đang nằm trong bệnh viện, e khó qua khỏi, ông bà vội ngỏ ý nhờ anh Dật đưa tới thăm ngay buổi chiều hôm thứ sáu đó. Vợ chồng tôi được anh Trần Dật gọi cùng đi nhân thể, vì anh Dật đã hẹn chở tôi đi thăm anh Sang vào cuối tuần. Cảm động nhất trong chuyến đi này là thái độ của bà Nguyễn Xuân Vinh. Bà đang bị đau chân, mỗi bước một khó khăn dù được chồng dìu đi dịu nhẹ. Thế mà khi tới bệnh viện, bà không chịu ngồi trong xe chờ chúng tôi lên thăm, mà bà nhất định đi cùng. Tôi nhớ bà nói : «Tôi phải lên thăm anh Sang chứ. Mà tôi còn muốn thăm chị Sang nữa, vì chúng tôi quen nhau từ lâu lắm, với lại để an ủi chị ấy vì chị ấy chịu nhiều bất hạnh.. ..». Tướng Sang nằm trong căn phòng hẹp, giữa những chiếc máy bơm thuốc vào cơ thể. Giáo sư Vinh vội vã bước tới bên giường, nắm tay anh, sờ đầu, sờ mặt anh. Giọng ông trầm hẳn xuống : «Sang! tụi này tới thăm Sang! Sang có nhận ra không?» Tướng Sang như bừng tỉnh, đôi mắt mở ra ngu ngợ Trần Dật nói : «Thưa niên trưởng, có ông bà giáo sư Vinh, anh chị Đức tới thăm niên trưởng». Thấy tướng Sang vẫn bất động, anh Dật giải thích với chúng tôi : «Ông ấy không nói được nhưng vẫn nghe được. Ông ấy biết mình tới thăm». Tôi đứng lặng người nhìn Phạm Ngọc Sang và biết ngay rằng người bạn đồng môn trường Cao Đẳng Quốc Phòng này của tôi đang sống những ngày cuối cùng ở thế gian nàỵ Buổi tối hôm đó, khi về nhà tôi đã e mail báo tin cho anh em về tình hình Phạm Ngọc Sang. Tôi viết : Khi chúng tôi ra về, tôi tần ngần đứng lại, nói với ông Sang : «Sang ơi, mình về nhé. Nào, bắt tay nhau một cái đi». Và tôi thấy máy ngón tay của Sang nhúc nhích. Tôi vội nắm lấy những ngón tay ấỵ Tôi có cảm tưởng những ngón tay ông ấy cũng đang muốn nắm lấy những ngón tay tôị..». Lập tức Đại tá Dương Hiếu Nghĩa từ bang Washington đã email lại cho tôi với lời khuyên đại ý : «Niên trưởng ráng lo giữ sức khoẻ, phải lạc quan để sống. Chúng ta sẽ trở về Sài gòn trong vinh quang vào năm 2005». Ông Nghĩa vẫn có thói quen gọi tôi là «niên trưởng» vì tôi học khoá 1, còn ông ấy học khoá 5 trường Cao Đẳng Quốc Phòng. Trên đường về từ bệnh viện, vợ chồng anh Trần Dật kể cho chúng tôi nghe về bệnh tình của tướng Sang. Ông đã ra vào bệnh viện nhiều lần trước khi rơi vào tình trạng nguy cấp hiện naỵ Trần Dật là sĩ quan cấp tá trong Không quân của Việt Nam cộng hòa, tuy không làm dưới quyền tướng Sang, nhưng anh nói : «Tôi rất kính phục tướng Sang. Ông là người có tư cách và nổi tiếng thương lính». Trần Dật kể rằng hơn chục năm trước, anh sáng lập nhóm «Không gian Thân tình» với mục đích kêu gọi những chiến hữu trong không quân ở hải ngoại tương trợ anh em ở quê nhà. Nhóm này có gửi tiền về giúp tướng Sang hai lần, một lần ông còn trong trại tù cải tạo và một lần ông đã được thả. Cả hai lần, tướng Sang đều viết thư trả lờị Trong thư ngày 27 tháng 2, 1991 viết từ Trại Thủ Đức, tướng Sang viết : «.. ..Qua ít hàng này, trước là để xác nhận món qùa nói trên, sau là để cảm ơn qúi anh, mặc dầu xa cách nhau 16 năm, đã còn nhớ đến tôị..». Trong thư ngày 23 tháng 2, 1992, tướng Sang báo tin ông được thả ngày 11 tháng 2. Ông viết : «Hôm 5 tháng 2, 1992 vì bị bệnh đường ruột nên tôi được Trại cho chuyển về Bệnh viện Chợ Rẫỵ Ngày tháng 2, Trại cử cán bộ xuống Chợ Rẫy lăn tay và làm thủ tục xuất trại cho tôị Hôm 18 tháng 2, tôi xuất viện về nhà».. .. Một đoạn khác ông viết : «Như thế là tôi đã ở trong các trại cải tạo từ 16 tháng 4, 1975 đến 12 tháng 2, 1992, còn ít ngày nữa là đủ 17 năm.. ..». Theo anh Trần Dật thì ngay khi tướng Sang đặt chân lên miền đất tự do, ông đã đích thân tới nhà anh nhân buổi sinh hoạt của Nhóm Không Gian Thân Tình để bầy tỏ lòng cảm ơn về những số tiền mà anh em đã gửi về quê nhà giúp đỡ ông. 17 năm trong tù cộng sản! Theo lời chị Sang thì chính vì cuộc sống tù đầy, bị hành hạ cả tâm hồn lẫn thể xác nên anh Sang bị bệnh ra máu đường ruột từ lúc anh ở trong trại tù Hà Nam Ninh tức trại tù Ba Sao nổi tiếng khắc nghiệt của chế độ cộng sản. Tướng Phạm Ngọc Sang sinh năm 1931 tại Gia Định, theo học trường Trung học Petrus Ký rồi bị động viên học khoá 1 Thủ Đức. Năm 1952 ông được cử sang Pháp học khoá 52F huấn luyện phi công Việt Nam đầu tiên. Sau khi mãn khoá, ông về nước và được giao trách nhiệm lái máy bay cho Tổng thống Ngô Đình Diệm từ năm 1955 cho tới ngày chấm dứt chế độ đệ nhất cộng hòạ Ít lâu sau ông được cử ra phục vụ tại trường sĩ quan phi hành Nha Trang. Mang lon Đại tá, ông theo học khóa 3 trường Cao Đẳng Quốc Phòng, rồi năm 1972 ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư đoàn 6 Không quân, đặt bản doanh ở Pleiku, trách nhiệm vùng trời quân đoàn 2. Một năm sau, ông được vinh thăng chuẩn tướng. Vào đầu tháng 3, 1975, khi cộng sản miền Bắc xua quân tấn công miền Nam, theo lệnh di tản của Tổng thống Thiệu, tướng Phạm Ngọc Sang đưa Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 15 th6ang 3, 1975 về tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22 tháng 3 ông được lệnh mang đơn vị về Phan Rang. Chưa kịp thích nghi với sinh hoạt địa phương, Sư đoàn 6 Không Quân đã phải đương đầu với cộng quân như một sư đoàn Bộ binh. Và trong cảnh quân ta từ quân đoàn 1 và quân đoàn 2 rút chạy trong hoảng loạn về phía Nam thì Sư đoàn 6 Không Quân của tướng Sang, từ ngày 1 tháng 4 đã trở thành đơn vị phòng thủ ở tuyến đầu, nắm giữ sinh mạng của thủ đô Sài gòn. Ngày 4 tháng 4, 1975 Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tới Phan Rang thiết lập bộ chỉ huy tiền phương, đã phải ở trong căn cứ của Sư Đoàn 6 Không quân, vì tình hình đã rất nguy ngập do Nha Trang, Cam Ranh đều đã rơi vào tay địch. Tỉnh trưởng Phan Rang cũng đã lặng lẽ bỏ chạỵ Tướng Sang viết : «Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 không quân. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không Quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp này». Theo hồi ký của tướng Sang thì ít ngày sau, tình hình Phan Rang đã vãn hồi trật tự. Quân cộng sản Bắc Việt trên đường vô miền Nam đã bị đánh bật trở lại với những thiệt hại nặng nề. Thế nhưng, bất ngờ vào ngày 12 tháng 4, 1954 lệnh từ Quân Đoàn 3 rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu Đoàn 5 Dù là những đơn vị đang cầm chân địch ở Phan Rang, để thay thế bằng những đơn vị què quặt là Sư đoàn 2 của tướng Trần Văn Nhựt vừa tháo chạy khỏi Quảng Ngãi và Liên đoàn 3 Biệt Động Quân đang thiếu hụt quân số trầm trọng. Cuối cùng thì trong ba vị tướng ở mặt trận Phan Trang, chỉ có tướng Nhựt là thoát kịp, còn hai tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Phạm Ngọc Sang bị cộng sản bắt trên đường rút chạy vào sáng ngày 16 tháng 4, 1975. Trong hồi ký, tướng Sang thuật lại đoạn này như sau : «Trung tướng Nghi, ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Ngoài số quân nhân này bị họ đưa đến một địa điểm khác để giam giữ, riêng ba chúng tôi thì bị chúng dẫn ngược về Nha Trang sáng hôm saụ Trên đường tôi thấy rất nhiều xe thiết giáp, thiết vận xa và vận tải địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thểu, lang thang đi ngược trở về». Nhìn cảnh dân chúng ngơ ngác, thất thểu bên đường, còn mình thì bị địch bắt, tướng Sang ngđm ngùi phẫn hđn : «Tôi bỗng cảm thấy có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành». Cũng trong hồi ký «Trận Phan Rang» viết ngày 15 tháng 1, 2002 tướng Sang nhđn xét rằng «Phan Rang có vị trí rất thun lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được». Thế nhưng Phan Rang vẫn mất thật mau lẹ, giống như nhiều nơi khác, bị mất từ lúc cộng quân chưa kịp di chuyển tớị Phải chi nếu Quân đoàn 3 đừng rút khỏi Phan Rang những đơn vị thiện chiến đang phòng thủ để thay thế bằng những đơn vị què quặt, tinh thần còn dao động, thì biết đâu Phan Rang chẳng đứng vững. Một sĩ quan Không Quân dưới quyền tướng Sang, khi nghe tin ông mất đã kể lại cho bạn bè nghe về lúc đóng quân ở Phan Rang, đã được Thiếu tá Nhẩy Dù Trương Dưỡng viết trong «Đời Chiến Binh» trang 194 đại ý như sau: «Lúc đó có chiếc C47 được trang bị máy móc để làm bộ chỉ huy trên không. Tướng Nghi bảo tướng Sang cùng sĩ quan tham mưu lên bay trên trời để tiếp vđn chỉ huỵ Tướng Sang trả lời rằng : Trung tướng ba sao ở dưới đất, cho tôi là tướng một sao lên trời và có thể bay khỏi đây bất cứ lúc nàọ Không, tôi sẽ ở bên Trung tướng, chịu chung sự nguy hiểm với Trung tướng». Dù không phải là người có trách nhiệm chính trong việc phòng thủ Phan Rang nhưng ông vẫn băn khoăn day dứt về sự thất thủ của Phan Rang. Sau này ông viết : «Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù (của Hà Nội) chúng chỉ có thể tấn công vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng sau chiến thắng đã tuyên bố tại Cuba : «Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam». Lời tuyên bố này chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòạ Việc mất Phan Rang qủa đúng là một tổn thất quá lớn lao cho công cuộc bảo vệ miền Nam «. Tướng Phạm Ngọc Sang đã trải qua nhiều trại tù của cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam. Hai trại tù ông ở lâu nhất là Hà Sơn Bình và Hà Nam Ninh. Cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng đã có một thời gian ở chung trại tù với tướng Sang, nói rằng : «Ông Sang là một người rất có tư cách, rất đàng hoàng. Trong tù, ông ít nói, thường ngồi trầm ngâm như một con hổ nhớ rừng. Ông chỉ tâm sự với những người nào mà ông tin cậy». Nhà văn Nguyễn Vạn Hùng cũng từng ở tù chung với tướng Sang và cựu Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng, nói thêm rằng : «Tướng Sang được mọi người gồm tù và cán bộ cộng sản kính nể. Ông hay giúp đỡ và an ủi anh em trong tù gặp những hoàn cảnh khó khăn». Chị Sang cho biết chị biết anh bị bắt ở Phan Rang khi nghe tiếng anh nói trên đài phát thanh cộng sản. Chị tự an ủi mình và an ủi 5 con rằng, dù sao thì anh Sang còn sống, chị còn hy vọng có ngày gặp lạị Mãi tới năm 1979 chị mới nghe bạn bè cho tin anh Sang đang bị giam ở trại Hà Nam Ninh. Lđp tức chị phải mua «vé đi lại» lần mò ra Bắc kiếm tìm chồng. Khi tới trại tù, chúng chỉ cho chị được gặp anh tối đa 20 phút, và phải soạn sẵn những câu muốn hỏi anh để đưa cho chúng xem trước. Đã thế mà khi hai vợ chồng gặp nhau, tên cán bộ còn ngồi ngay bên cạnh để nghe và kiểm soát. Vào một lần đi thăm nuôi, anh Sang đã cho chị biết anh bị chứng ra máu đường ruột. Rồi vào ngày tết năm 1992, anh ở trại tù Z30D thì bệnh anh trở nặng có thể nguy đến tính mạng. Vì thế, chúng mới đưa anh vào Bệnh viện Chợ Rẫy, rồi hai tuần sau thì cho giấy tha anh ngay trên giường bệnh. Anh chị đã sang Mỹ năm 1993 theo diện đoàn tụ, do người con trai trưởng vượt biên năm 1989 bảo lãnh. Chị nói : «Tôi thương thằng cháu này lắm. Nó rất là có hiếu, nay đã bốn mươi mấy mà nhất định không chịu cưới vợ. Nó cứ nói nó còn phải lo cho cha mẹ cái đã. Thành thử cô bạn gái thương nó, chờ không được, đã đi lấy chồng, còn cháu vẫn ở không». Chị cũng cho tôi biết anh Sang sẽ được hỏa táng. Trong tang lễ của anh, có nhiều chiến hữu của anh từ các nơi về Nam Cali tiễn đưa anh lần cuốị Trong số những người bạn này có ông bà Nguyễn Xuân Vinh. Giáo sư Vinh nói về tướng Phạm Ngọc Sang như sau: «Chúng tôi nhap ngũ cùng một khoá, quen biết nhau đã trên nửa thế kỷ. Sang là một phi công điềm tĩnh, tài bạ Khi tôi làm tư lệnh Không Quân thỉnh thoảng chúng tôi có bay chung với nhaụ Anh ấy là một cấp chỉ huy gương mẫu và là một người bạn tốt». Thôi, xin tạm chia tay nhau, anh Sang. Hạnh Nhơn & Đỗ Tiến Đức Mặt Trận Phan Rang Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đã bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ngòi chờ viện binh. Mãi đến ngày 16.4.1975, khi tung ra toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan Rang. Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, thì căn cứ Phan Rang đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt. Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhứt: từ ngày 1 đến 3.4.1975, là giai đoạn hình thành tuyến phòng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị địa phương quân còn lại. Sư đoàn 6 Không quân gồm: - 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548 - 1 Phi đội A-1 - 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C - 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235 Lữ đoàn 3 Dù gồm: - Bộ chỉ huy - Tiểu đoàn 5 Giai đoạn thứ hai: từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến phòng thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện. Lữ đoàn 2 Dù gồm: - 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 - 1 Tiểu đoàn Pháo binh - Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận Giai đoạn thứ ba: từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm: Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm: - 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52. Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương: - Toán Thám sát / Nha Kỷ thuật Sư đoàn 2 Bộ binh gồm: - 2 Trung đoàn 4 và 5 - 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly - 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc Lực lượng Hải quân gồm: - Duyên đoàn 27 - 2 Khu trục hạm - 1 Giang pháo hạm - 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ Trong 2 ngày 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và phòng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 sư đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên đoàn 27 đã có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ. Lực lượng địch: Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ngòi chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.) I. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quđn canh gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, Tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô đơn. Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí việc phòng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác vòng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của Miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp ngọc Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra tình trạng bung chạy, vì quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh. Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu tình hình mới, chấp nhận thực trạng và hết mình nổ lực chiến đấu vì nhu cầu phòng thủ. Vào buổi chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình hình. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon. Ngày 2.4.1975, Saigon tăng cường một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả. Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung tướng Toàn nói:” kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.” Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang. Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn còn rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt bình thường. Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đã sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu. Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đã bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm. Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch. Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon, thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá. Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như bình thường, bởi cảng Cam Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quđn mà thôi. Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu. Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung tá Lý Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay. II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba Ngòi chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường mòn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.) Thị xã và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xã, mặt đất bằng phẳng. Phi trường Phan Rang rất rộng, hình vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc phòng thủ bao gồm 60 chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa phương quân phụ trâch. Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được Thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ. Vì địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung tướng Nghi quan niệm: ” Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa phương quđn còn lại.”
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 7:19:03 GMT 9
Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được. Đó là: Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ. Mặt phía Tây, trín Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường. Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa phương quân phụ trách. Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân thất lạc trình diện xin phương tiện về Saigon và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng còn nấp chờ chi viện. Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Tòa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về tòa đại sứ. Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy. Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ không quân đã có sự bình thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội Địa phương quân phụ trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về. Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đã xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ. Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ. Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân và Nghĩa quân. Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoăn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường. Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xã đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long. Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, vì ngở Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm thấy bộ đồ bay của Trung úy Lý Tống, thuộc Không đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, còn để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung úy Lý Tống là người đã thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.) Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy. Buổi sáng, lúc Trung úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đã được cấp tốc thi hành, và Trung đã không bay qua đây. Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đã thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch. Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Võ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm kiếm và chở về các toán còn kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường. Trong thị xã, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại bình thường, tạo nhiều phấn khởi. Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân. Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc phòng thủ Phan Rang. Lệnh từ Quân đoăn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa. Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, thì được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng. Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy còn hoang mang, dao động. Vì chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ. Bộ Tổng tham mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang. Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân vă còn đang chờ đợi bổ sung quân số. Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được những đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang. III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến phòng thủ Phan Rang. Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Phòng 7 TTM báo cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt. Tướng Times của Tòa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Tòa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công. Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ không quđn. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích. Tiếc thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần. Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, thì Đại tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân thì chạm súng với các toán thăm dò của địch. Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ. Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Tham mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tđn Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn. Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ và đã bàn giao với Trung đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km. Thị xả được phòng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân còn lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự. Cũng để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành quân. Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đã xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng võ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công. Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc phòng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quđn có mặt tại đây. Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm dò của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua. . Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toăn Tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt. Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, Trung tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long. Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua phòng tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đã ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sâng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530. Tôi cùng Trung tá Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975. Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3 giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoăn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là vì đã 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miíê đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo kích.) Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tđy. Đến khi phòng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích. Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đã vào thị xã khiến cho Trung tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh Văn phòng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét tình hình. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị mình. Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xả, thì bên trong căn cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đã rời căn cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản thương ở lại đến phút chót. Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung đoăn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ. Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét tình hình. Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5. Khoảng 10,30 giờ sáng, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh Tiền phương thì Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Tòa Đại sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam. Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được với Chuẩn tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa. Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống bãi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền phương, nhưng vì Trung tướng Nghi không thuận cho đáp vì lý do an toàn bãi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.) Tiểu đoàn 11 Dù còn lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Qúy về được an toăn. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đã đóng làm nút chận tại đây rồi, Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, thì Sư đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa. Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể vì mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn. Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị chìm và mộït chiến hạm bị pháo. Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung tướng Nghi quyết định vì sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam. Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992. IV. KẾT LUẬN Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư doăn 6 Không quân đã khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh. Địa phương quđn và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo sứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ. Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hảy còn hoang mang, dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự. Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ. Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3 Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được. Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng lý ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ” Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam.” Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quđn lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quâ lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy. Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót. Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002 Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 7:28:27 GMT 9
Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (1932-1996) SQ: 52/600.277 Sanh ngày 1 tháng 8 năm 1932 tại Nha Trang Học Sinh Lycee Chasseloup Laubat Saigon tốt nghiệp Tú Tài phần 2 1954: Trúng tuyễn du học ngành Phi hành trường Võ Bị Không Quân Salon de Provence Pháp, tốt nghiệp Thiếu Úy Hoa tiêu Khu Trục 1965: ngày 1-11 thăng thiếu tá nhiệm chức - Trung Tá Tư lệnh Không Đoàn 41 Chiến thuật 1970: Tháng 9, Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân tân lập Đà Nẵng 1974: Ngày 1-4 Vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức 1975: Định cư tại Montreal Quebec, Canada 1996: Mãn phần lúc 9:10 tối 14 tháng 9 tại Canada Hưởng thọ 64 tuổi ******************* Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân (1934-1972) SQ 54/600.329 Sinh tháng 7-1934 Bến Tre 1953: Dân chính trúng tuyển vào Quân Chủng Không Quân - Du học khóa Hoa tiêu tại trường Không Quân Marrakech, Maroc - Trường Võ Bi Không Quân Salon de Provence, Pháp - Huấn luyện Hoa tiêu vận tải căn cứ Không Quân Avord, Pháp 1955: Tốt Nghiệp Thủ Khoa căn cứ KQ Avord, Pháp với cấp bậc Thiếu Úy - Huấn Luyện Viên phi cơ quan sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang . 1956: Du Học lớp Huấn luyện Hoa tiêu Trực thăng đầu tiên tại căn cứ Không Quân Randolph, San Antonio Texas Hoa Kỳ. - Thụ huấn H-13 và H-19 trực thăng. 1959: Đại Úy Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 1 Trực thăng. 1962- Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 215 1963- Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 211 1965- Tư Lệnh Không Đoàn 74 Chiến thuật 1-11 Trung Tá nhiệm chức - Tư Lệnh Không Đoàn 62 Chiến thuật. 1970: Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân Bình Thủy 1971: 1-11 vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức 1972: 29-2 thăng cấp Chuẩn Tướng Thực thụ 27-4 Tử nạn phi cơ trực thăng UH-1 hưởng dương 38 tuổi - Truy thăng Thiếu Tướng an táng tại Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Trong hơn 19 năm phục vụ trong quân chủng Không Quân có trên 4,000 giờ bay Trực thăng, 4,000 giờ bay Khu trục cơ AD-6 và Phản lực cơ A-37, được ân thưởng 33 huy chương Quân Sự, Dân sự Việt nam và Ngoại quốc .
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 25, 2013 7:36:29 GMT 9
Thiếu Tướng Trương Quang Ân – Tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh Trương Quang Ân (1932-1968) Dương Thị Kim Thanh (1931-1968) Để biết được đầy đủ hơn về cuộc đời kiệt liệt của một người lính cực lớn, chúng ta phải bắt đầu lại chuyện kể từ thời điểm sớm nhất, ngày TSQ Trương Quang Ân tốt nghiệp thiếu úy khóa 7 Sĩ Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với vị thứ thủ khoa, tháng 12, năm 1952. Thiếu úy Trương Quang Ân có đủ tất cả điều kiện thuận lợi để được thuyên chuyển đến một văn phòng bình yên tránh nơi lửa đạn, hoặc một đơn vị tham mưu, chuyên môn (mới thật sự đúng với khả năng tham mưu sắc sảo của ông sẽ được chứng thực ở thời gian sau). Nhưng không, ông đã chọn binh chủng Nhảy Dù, đơn vị tổng trừ bị cho những chiến trận lớn nổ rộng suốt miền châu thổ Bắc Việt Nam, nơi những đỉnh núi cao lẫn trong mây vùng bắc Trường sơn dọc biên giới Lào Việt. Trận Bản Hiu Siu cuối năm 1953 bùng nổ trên vùng Cánh Đồng Chum nơi cao nguyên Trấn Ninh, vị trí xung trí xung yếu của miền Trung Lào, đầu nguồn sông Nậm Ngung, do tướng Cogny, tư lệnh quân đội Pháp miền bắc Đông Dương chỉ huy có mục đích bẻ gãy mũi tiến công của cộng sản có ý tiến về thủ đô Vạn Tượng của Lào (nhưng sau nầy hồ sơ trận liệt giải thích, và giải thích đúng, đấy là ý niệm điều quân của phía bộ đội cộng sản cố đánh lạc hướng, hoặc là cách nhử quân đội Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ) Bộ phận địa phương giữ Bản Hiu Siu xin quân tăng viện, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đầu đời của Thiếu úy Trương Quang Ân nhảy xuống với 2 đại đội của Tiểu đoàn 7 Dù tăng pháị (Lưu ý, tất cả các tiểu đoàn Dù vào giai đoạn nầy mang phiên hiệu BEP hoặc BPC – Battaillon Parachustiste Colonial, thuộc Liên đoàn Không vận số 3 (GAP/3è- Groupe Aeroporté) của quân đội Liên hiệp Pháp; chỉ mỗi Tiểu đoàn 5 Dù nơi miền Nam mới có danh hiệu Tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam (BPVN) Trận đánh không cân sức diễn ra ngay từ phút đầu tiên vì bộ đội Việt Minh sẵn có ưu thế quân số, chuẩn bị, chọn lựa và chiếm giữ trận địa. Nhưng dần dần thắng lợi nghiêng về phía quân Nhảy Dù bởi sức chiến đấu quá đổi kiên cường. Phản công, giữ vững, kiểm soát được những vị trí xung yếu của vùng Cánh Đồng Chum, đẩy quân đội cộng sản trở về hướng Bặc Thành. Quả chiến trận không phải là điều bất ngờ, bởi Tiểu đoàn 3 Dù là một đơn vị ngoại hạng của 17 tiểu đoàn tổng trừ bị mặt trận phía bắc Việt Nam, như trường hợp một đơn vị bạn khác, Tiểu đoàn 6 Dù (6è BEP) đã từng chận đứng một sư đoàn cộng sản (SĐ/320) để những đồn bót thuộc tả ngạn sông Đà có thời gian triệt thoái trong chiến dịch rút bỏ Na Sản, Nghĩa Lộ (cùng năm 1953) Kết quả trận đánh đồng thời đã chứng minh cho thành phần lãnh đạo Pháp Việt thấy rõ một yếu tố mới: những sĩ quan trẻ, những hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt (tình nguyện) trong đơn vị chính là nhân tố kết nên thắng lợi. Quân đội chỉ mới khai sinh trong vài năm qua (1951) nay đã dần trở nên là đạo quân chính qui của một quốc gia đang trong giai đoạn lịch sử quyết định về bản lãnh và giá trị của mình. Chiến sử dài theo những năm sau đã chứng thật đánh giá buổi ban đầu nầy: Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù Việt Nam là một trong những đơn vị đầu tiên của quân đội Cộng Hòa được tuyên dương Bảo quốc huân chương, kỳ hiệu đơn vị mang dây biểu chương Tam hợp vàng xanh đỏ do công trận chỉ huy bởi những những thiếu úy, trung úy của năm 1953 nầy, những sĩ quan có tên Trương Quang Ân, Phan Trọng Chinh… Bộ tư lệnh quân đoàn viễn chinh Pháp với lớp cán bộ nhà nghề cũng đã nhận ra khả năng lãnh đạo tiềm ẩn nơi viên thiếu úy trẻ tuổi mà họa hằm lắm mới biểu lộ ra đối với những sĩ quan trẻ tuổi cực kỳ xuất sắc, như những Thiếu úy de Gaulle, de Lattre của học viện quân sự Saint Cyr, những người đã từng nắm giữ vận mệnh quốc gia và quân đội Pháp, nên họ mau chóng đưa Trung úy Ân vào trường tham mưu quân sự tại Pháp vào năm sau, 1954 khi ông vừa được đặc cách vinh thăng trung úy tại mặt trận. Những sĩ quan chỉ huy Trường Sĩ Quan Đà Lạt và ở bộ tham mưu Liên đoàn Không vận số 3 quả thật đã không lầm khi đánh giá như trên. Hơn thế nữa, họ còn có dự định chọn viên trung úy ngoại hạng nầy vào chức vụ chỉ huy Đại đội xung kích Lê Dương Sen Đầm cho chiến trường Algérie đang bắt đầu có dấu hiệu sôi động. Khóa sĩ quan tham mưu tại Pháp cốt để làm đầu cầu cho dự định nầy. Thêm một lần nữa, ông lại đỗ thủ khoa khóa học, trên cao hơn toàn thể những học viên có 75 quốc tịch của khối Liên hiệp Pháp, đa số là người Tây Âu. Trung úy Trương Quang Ân đậu hạng thủ khoa mà không hề có tị hiềm từ những học viên, bởi qua bản tự đánh giá, khóa học đồng ý hầu như toàn thể về người sĩ quan Việt Nam tài năng xuất sắc nầy. Sau thất bại Điện Biên Phủ, tháng 5, 1954, bộ tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cố gắng tập trung những tiểu đoàn Nhảy Dù còn lại ở miền Bắc đưa gấp vào Đà Nẵng, Nha Trang, để từ đây có kế hoạch tái trang bị, bổ sung sang chiến trường Bắc Phi. Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trở nên đơn vị trụ cột đầu tiên của Liên đoàn Nhảy Dù Việt Nam, thành lập ngày 29 tháng 9, 1954, và Trung úy Trương Quang Ân ở lại với quân đội Việt Nam dưới phiên hiệu đơn vị mới như một điều tất nhiên, nhưng cũng do lời kêu gọi từ một Thiếu sinh quân khác, người anh cả của toàn quân, Thiếu tướng Lê văn Tỵ, vị Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mở đầu kỳ độc lập, tự chủ nơi miền Nam, 29 tháng 11, năm 1954. Ngày 1 tháng 1, 1955 bắt đầu năm mới với những biến động chính trị nghiêm trọng xẩy ra tại thủ đô Sài Gòn từ những mầm mống va chạm sẳn có giữa các lực lượng giáo phái, tổ chức vũ trang với chính phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được thành lập ngày 20 tháng 7, 1954. Chính phủ mới mang đủ tất cả gánh nặng của quá khứ gần 100 năm lệ thuộc người Pháp, tình thế quân sự suy sụp hỗn loạn sau thất trận Điện Biên Phủ của quân đội Pháp và công cuộc định cư hơn triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam. Các lực lượng chống đối kết hợp thành Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm giải tán nội các, cải tổ chính phủ và chấp thuận để họ duy trì tình trạng cát cứ của những tổ chức quân sự tại những địa phương riêng biệt. Chính phủ Sài Gòn giữ nguyên lập trường: thống nhất quân đội trước khi bàn đến những cải tổ chính trị. Thành phần mặt trận gồm 3 khuynh hướng: Phe ôn hòa muốn trở về hợp tác với chính phủ; phe trung lập không có ý kiến và thành phần quá khích nhất quyết tổ chức nổi loạn quân sự. Lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy của Thiếu tướng Lê văn Viễn (quân hàm do chính phủ Pháp trao gắn theo nguyên tắc đồng hóa) thuộc nhóm thứ ba. Ngày 1 tháng 1, 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đóng cửa các cơ sở kinh tài quan trọng của Bình Xuyên, sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung và nhà chứa Bình Khang; ngày 26 tháng 4, cách chức tổng giám đốc Cảnh sát và Công an của Lại văn Sang, một người thân tín đắc lực của Thiếu tướng Viễn. Cuối cùng việc phải đến, ngày 28 tháng 4, lực lượng Bình Xuyên nổ súng tấn công quân chính phủ, nhưng Liên đoàn Nhảy Dù với 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 đã hình thành những trụ cột chống đỡ nền móng quốc gia. Chỉ một ngày sau, quân Nhảy Dù đã làm chủ tình hình toàn bộ đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn. Ngày 30 tháng 4 Nhảy Dù và Bình Xuyên dàn trận đối diện dọc kinh Đôi bên kia cầu chữ Y. Dù đã được người Pháp ngấm ngầm hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những tiểu đoàn Nhảy Dù thiện chiến nên mặt trận Sài Gòn mau chóng kết thúc vào ngày 5 tháng 5, tàn binh Bình Xuyên rút về Rừng Sát, vùng sình lầy dọc theo sông Sài Gòn và Đồng Nai lập thế chống cự. Tháng 9, lực lượng chính phủ mở cuộc hành quân Hoàng Diệu truy quét đám phản loạn, cũng với lực lượng Nhảy Dù làm thành phần xung kích. Ngày 24 tháng 10 kết thúc chiến dịch, nơi khuôn viên Dinh Dộc Lập lần đầu tiên diễn ra khung cảnh đại hội ân thưởng toàn quân kể từ ngày mở nước về phương Nam. Cũng là lần đầu tiên, quân, quốc kỳ cùng bay rạng rỡ trên kỳ đài tòa dinh thự báo hiệu thống nhất quân đội, chủ quyền quốc gia qui về một mối. Trung úy Trương Quang Ân đứng hàng đầu giữa những chiến binh của quân đội Cộng Hòa được tuyên công. Ông được trao gắn một lần hai Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, hiện tượng độc nhất đã xẩy ra trong các quá trình nghi lễ trao gắn huy chương. Cho dù về sau nầy khi chiến trường trở nên nặng độ và có những chiến công lớn lao với những nhân vật xuất chúng khác như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn… cũng không hề được lập lại thêm lần thứ hai. Năm 1957, Đại tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí giữ chức tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù. Đại úy Trương Quang Ân cùng với viên tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, rời Tiểu đoàn 3 Dù về bộ tư lệnh với chức vụ mới, trưởng phòng 3, và tham mưu trưởng Liên đoàn. Bộ tư lệnh Liên đoàn Nhảy Dù với thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu tài năng mới mẻ nầy đã nhanh chóng canh tân, trở nên một đại đơn vị mẫu mực đối với toàn quân, có phẩm, lượng cao về khả năng hành quân tác chiến lẫn tổ chức tham mưu. Một sự kiện quan trọng xẩy ra trong đời sống cá nhân Đại úy Trương Quang Ân, đồng thời cũng là một biểu tượng đặc thù của binh chủng nếu không nói của toàn quân độị Ông làm lễ thành hôn với Chuẩn úy Dương thị Thanh, một trong những nữ quân nhân đầu tiên của binh chủng Nhảy Dù. Cuộc kết ước được chính vị tư lệnh làm chủ hôn, và hôn lễ được thực hiện theo nghi thức thuần túy quân đội: Đại úy Trương Quang Ân trao nhẫn đính hôn cho nữ Chuẩn úy Dương thị Thanh từ nơi cửa máy bay, xong hai người cùng nắm tay điều khiển dù nhảy xuống đất nơi bãi đáp Ấp Đồn, Hóc Môn. Cảnh tượng cảm xúc trên chắc hẳn không phải là màn trình diễn của đôi vợ chồng trẻ muốn làm nên sự kiện độc đáo ngoạn mục, nhưng đấy là hành vi biểu hiện lòng sắc son của hai người lính muốn kết hợp lời nguyền hiến dâng đời sống bản thân, gia đình cho Quân Đội và Tổ Quốc. Chúng ta không nói điều ước đoán theo cảm tính, bởi cuộc sống đầy chiến đấu của hai người suốt quãng đời tiếp theo đã hiện thực nghi lễ cao thượng của buổi thanh xuân nầy trong bầu trời và trên mặt đất quê hương. Năm 1959, Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù được thành lập, Đại úy Trương Quang Ân nhận lãnh chức vụ tiểu đoàn trưởng đầu tiên của đơn vị. Lần xuất quân của Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù cũng là dịp phá vỡ huyền thoại về mật khu Bời Lời (vùng tây bắc ven đô nằm dọc sông Sài Gòn), căn cứ địa đã được lực lượng quân sự cộng sản thành hình từ chiến tranh 1945-1954, nay đang được củng cố cho cuộc chiến mới với nhiệm vụ chiến thuật quan trọng, từ đây làm khu vực bản lề tiếp vận của 3 tỉnh Gia Định, Bình Dương, Hậu Nghĩa, hình thành đầu cầu để tiến chiếm Sài Gòn (chiến dịch Mậu Thân 1968 chứng thực cho quan điểm chiến thuật nầy) Tiểu đoàn 8 Dù đã truy kích địch dài theo con sông, phá vỡ toàn thể những địa đạo vừa được xây dựng, đánh bật tất cả các cụm, tổ du kích, đuổi sạch đám cán bộ vừa trở lại từ miền Bắc, nay được gài chặt với cơ sở địa phương để hình thành lớp cán bộ hạ tầng của Mặt trận giải phóng miền Nam. Công trận nầy cùng lần với những đơn vị quân đội khác đã kiến tạo nên một thời hưng thịnh bình yên từ 1954 đến 1960 ở miền Nam. Dân chúng từ Sài Gòn có thể ra đi bất cứ nơi nào trong đêm và trở lại thủ đô vào giờ rạng sáng để làm việc. Có mấy ai trong thuở ấy và sau nầy nhớ lại buổi bình an kia để nhắc nhở đến gian khổ của mỗi người lính, những người không ai biết đến tính danh. Người hiến dâng đời sống mình cho quê hương, đồng bào nhưng không hề nói lên lời, dù là lời đơn giản, khiêm nhượng. Biến cố 11 tháng 11, 1960 lần đầu tiên đẩy quân đội trực tiếp tham dự vào diễn trường chính trị, Liên đoàn Nhảy Dù lại là thành phần nòng cốt quyết định để thực hiện việc dứt điểm chế độ và người lãnh đạo. Nhưng Đại úy Trương Quang Ân đã vô cùng tinh tế để nhận rõ nguyên do lẫn hậu quả của lần bạo loạn tranh chấp, ông từ nhiệm cáo bịnh lánh mặt khỏi cảnh huống khốc liệt, vị tiểu đoàn phó được chỉ định tạm thời thay thế ông trong tình thế khẩn cấp. Cuộc đảo chính 11 tháng 11 thất bại, những giới chức cao cấp của Liên đoàn Dù phải chịu cảnh chạy trốn, lưu vong ra khỏi nước, hoặc bị bắt giữ; các đơn vị phải tái biên chế, xáo trộn, thay đổi cấp chỉ huy. Chỉ riêng Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù vẫn giữ nguyên phong độ và khả năng chiến đấu truyền thống bởi Thiếu tá Trương Quang Ân lại trở về, giữ vững đơn vị tồn tại, phát triển sau cơn hỗn loạn. Năm 1962, ông di chuyển từ trại Trần Quí Mại của Tiểu đoàn 8, nơi khuôn viên căn cứ Hoàng Hoa Thám của Lữ đoàn Nhảy Dù trong phi cảng Tân Sơn Nhất về trại Quang Trung, Tam Hiệp, Biên Hòa, bản doanh Tiểu đoàn 5 Dù, cũng là của Chiến đoàn 2 Dù, đơn vị chỉ huy chiến thuật vừa được thành lập gồm các Tiểu đoàn 5, 6, 7. Doanh trại xây trên một ngọn đồi hùng vĩ bên cạnh sông Đồng Nai, và người chỉ huy đầu tiên của đơn vị tân lập đã thực hiện những nền tảng vô cùng kiến hiệu để các tiểu đoàn thuộc quyền có điều kiện thuận lợi khai triển tối đa năng lực chiến đấu với tầm vóc mới. Thiếu tá Trương Quang Ân đã chứng thực một khả năng lãnh đạo lớn trong cương vị mới, với kích thước của người chỉ huy tài năng, đạo đức tưởng chừng chỉ có trong những huyền thoại về những con người của lịch sử phương Đông xưa cũ. Vào một buổi họp của toàn thể sĩ quan thuộc các tiểu đoàn trực thuộc và bộ tham mưu chiến đoàn, mọi người đã vào ghế ngồi để đợi vị chỉ huy trưởng. Cây kim chỉ phút của chiếc đồng hồ ở phòng hội sắp sửa chập vào số 12 để chỉ đúng 12 giờ, giờ bắt đầu buổi họp, nhiều người sửa soạn đứng lên để chào đón chiến đoàn trưởng, họ nhìn ra cửa, hướng về phía văn phòng của Thiếu tá Ân cách hội trường một khoảng đồi khá xa, trống trải nằm phơi dưới nắng hạ chí miền Nam. Bỗng một bóng người xuất hiện từ khung cửa căn phòng, gỡ chiếc nón đỏ cầm tay và chạy về phía hội trường với tốc độ cực nhanh, Thiếu tá chiến đoàn trưởng Trương Quang Ân bước vào hội trường. Sau khi đội lại chiếc mũ, chào tay trả lại lệnh chào kính của toàn thể sĩ quan. Ông nói gấp: - Xin lỗi quí vị sĩ quan, tôi bị trễ gần một phút vì phải trả lời điện thoại với Đại tá tư lệnh, nên anh em phải ngồi đợi! Thiếu tá Ân nhìn lên kim đồng hồ vừa nhếch quá chữ số 12. Tính chính xác, hành vi nghiêm chỉnh, sự kính trọng đối với tất cả các cấp quân đội là cách xử thế thường hằng mà người chỉ huy Trương Quang Ân luôn thực hiện, tổng hợp tấm lòng của kẻ sĩ khiêm cung, nhân ái và tính nguyên tắc, tinh thần trách nhiệm cao của người lính. Hàng tháng, nếu không phải bận hành quân, ông soạn lịch trình đến thăm viếng, kiểm soát những tiểu đoàn thuộc quyền. Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù của Thiếu tá Nguyễn văn Minh, người bạn cũ cùng Trường Thiếu Sinh Quân là đơn vị ông lưu tâm nhất vì ở nơi xa xôi (Vũng Tầu) so với 2 tiểu đoàn 5, 7 cùng trong vùng Biên Hòa của chiến đoàn. Mỗi lần thăm viếng đều được ông chuẩn bị nghiêm chỉnh như một cuộc thanh tra đơn vị, mà bản thân ông là người trước tiên phải hội đủ khả năng, tư cách, phẩm chất của một giới chức chỉ huy, thanh tra. Trước ngày đi, ông nói cùng Đại úy Nguyễn Thái Hợp, nay đã kiêm nhiệm chức vụ tham mưu trưởng chiến đoàn: - Đại úy nhớ nhắc nhở, kiểm soát anh em mình phải mang đủ bi đông nước, lương khô để khỏi làm phiền dưới Tiểu đoàn 6 nghe! - Nhưng Thiếu tá Minh đã báo cho tôi bằng 106 (máy truyền tin siêu tần số dùng bạch thoại để chuyển những nội dung không cần phải mã hóa) là dưới đó đã chuẩn bị bữa ăn cho chiến đoàn mình rồi Thiếu tá! - Đại úy Hợp vội vã trả lời. - Cơm thân mật trong tiểu đoàn hay tiệm ngoài phố? - Thiếu tá Ân hỏi gấp. - Vâng, ở một tiệm nơi Bãi Sau! - Vậy đại úy phải nói liền với Thiếu tá Minh là tôi không nhận. Mình đi thanh tra tiểu đoàn chứ đâu phải đi Vũng Tàu tắm biển, ăn tiệc! Cuối cùng, ông lên xe với nón sắt hai lớp, súng Colt nơi thắt lưng có bi đông nước đầy, gói lương khô, và ngồi thẳng trong suốt chặng đường đi từ Tam Hiệp, Biên Hòa về đến Tiểu đoàn 6 ở Vũng Tàu. - Đường đi xa hơn trăm cây số, Thiếu tá dựa lưng một chút cho đỡ mỏi! – Người tài xế ái ngại nhắc nhở. - Không được đâu, mình tới thăm viếng, thanh tra mà lưng áo bị nhăn như thế trông thấy có vẻ thiếu kính trọng đơn vị và anh em! Thiếu tá Ân giải thích với người tài xế, không quên hỏi thêm: - Mà anh có đem đủ bi đông nước dùng cho cả ngày và nhớ bỏ thuốc lọc nước vào chưa? Cũng liên quan đến người tài xế, chiếc xe, một hôm ông gọi bà vào văn phòng với vẻ nghiêm trọng, và sau đó có những lời: - Mình là sĩ quan nữ quân nhân, mình biết cũng rõ quân kỷ như tôi; thế nên, chiếc Jeep là của chiến đoàn cấp cho chiến đoàn trưởng, chứ không phải cho riêng cá nhân tôi. Vậy khi nào mình đi thăm gia đình binh sĩ với tư cách chủ tịch gia đình binh sĩ Chiến đoàn 2 thì mình sử dụng và ngồi vào ghế trưởng xa. Nhưng ngoài giờ làm việc, nếu cần chú tài xế đưa đi đâu thì mình phải ngồi băng sau, vì xe đó là của quân đội chứ đâu phải của riêng gia đình mình. Tôi đã dặn chú ấy, khi nào không có mặt tôi thì lưng ghế trưởng xa phải gập xuống, vậy mình đừng bảo chú ấy làm trái lời tôi! Bà im lặng nghe, và tuân theo lời ông không một phản ứng nhỏ tị hiềm, khó chịu, dẫu bà chỉ thua ông một cấp bậc. Đầu năm 1965 để chuẩn bị đưa ông vào những chức vụ cao hơn, Bộ Tổng tham mưu tuyển chọn Trung tá Ân theo học Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Vào thời điểm nầy, tiếng Anh vẫn còn là một ngôn ngữ xa lạ đối với những sĩ quan xuất thân từ quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng ông đã vượt qua khỏi trở ngại kia bằng biện pháp: luôn luôn trên tay, trước mặt, trong tầm với, có những sách tự học Anh ngữ. Ông vào Trường Sinh Ngữ Quân Đội với thái độ chuyên cần của một sinh viên chuyên khoa, và sử dụng toàn bộ thời giờ vào công việc đọc, viết, học tài liệu khóa học và tài liệu nghiên cứu. Và cũng như hai mươi năm trước, Trung tá Trương Quang Ân lại tốt nghiệp khóa học với vị thứ thủ khoa kèm lời khen ngợi nồng nhiệt kính phục từ ban giám đốc trường. Đây là học viên tốt nghiệp với số điểm cao nhất từ trước đến naỵ Ông đứng đầu trên 45 sĩ quan cao cấp của quân đội toàn thế giới, kể cả những tướng lãnh, cấp tá thuộc quân lực Mỹ. Năm 1966, trong buổi tiệc tiễn ông đi làm tỉnh trưởng Gia Định, binh sĩ, hạ sĩ quan của bộ chỉ huy chiến đoàn và sĩ quan của những tiểu đoàn trực thuộc trong vùng Biên Hòa đều được mời tham dự. Mỗi người có một hộp giấy gồm 2 pâté chaud, 2 bánh ngọt và 1 sandwich; thức uống gồm một chai bia và nước ngọt Quân tiếp vụ. Trung sĩ Đâu, Ban 2 chiến đoàn vốn là tay ưa ăn nhậu, cất tiếng rổn rảng: - Trung tá đi làm tỉnh trưởng cái tỉnh to nhất nước mà không cho tụi em uống một bữa cho đã! Trung tá Ân nghiêm sắc mặt, nhưng từ tốn nói với Đâu: - Trung sĩ Đâu nói như vậy là phụ lòng tôi, bữa tiệc nầy là do tiền lương tôi xin lãnh trước để đãi anh em. Chứ còn như trong Chợ Lớn đã có mấy tiệm ăn, tửu lầu gì đó, nghe tin tôi về làm tỉnh trưởng, họ đã đưa đề nghị đãi hết người của chiến đoàn mình. Nhưng đó là của họ, mình ăn làm chi anh Đâu! Căn phòng im lặng, lắng xuống, Đâu cười cười: - Em nói giỡn cho vui thôi, tụi em biết ông thầy nghèo mà, ông thầy cho uống chi tụi em cũng chịu hết. Vì được ở với ông thầy là vui rồi, nay ông thầy đi tụi em buồn lắm! Vô tình, Đâu đã nói lời tiễn biệt chính xác, hàm xúc nhất với tấm lòng đơn giản trung hậu của người lính đối với một cấp chỉ huy hằng sống với đơn vị mà âm hưởng luôn bền chặt tồn tại. Nhưng nếu có một lần người chỉ huy Trương Quang Ân phải chịu nhận phần tiêu cực thất bại trong toàn bộ sự nghiệp của mình lại là chính với chức vụ không tiếng súng, tại văn phòng bình yên nơi tòa tỉnh trưởng Gia Định. Vào một ngày của năm 1967, Đại tá tỉnh trưởng Gia Định nhận danh thiếp thiếu tá chánh văn phòng của vị phu nhân một viên tướng cao cấp nhất của quân lực. Viên thiếu tá đặt lên bàn giấy ông tỉnh trưởng tập hồ sơ thổ trạch đứng tên bà tướng với lời yêu cầu ông phê chuẩn sự hợp thức hóa tình trạng sỡ hữu phần đất của bà. Sau khi xem xét kỹ hồ sơ và những qui định hành chánh về thủ tục hợp thức hóa đất đai thuộc phạm vi tỉnh, Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân có lời quyết định: - Thiếu tá có thể trở về trình với bà tướng như thế nầy: Tôi đã xem xét kỹ càng về thủ tục hợp thức hóa thổ cư, điền thổ theo như các qui định hành chánh cho phép, nhưng lô đất nầy dẫu thuộc về tỉnh Gia Định, cũng là công thổ quốc gia nên tôi không thể hợp thức hóa quyền sỡ hữu của bà đối với phần đất đó được! Khoảng một thời gian ngắn sau, viên thiếu tá trở lại với lá thư viết tay của bà tướng cũng với yêu cầu như đã kể với lời lẽ quyết liệt dứt khoát hơn, kèm theo ý nghĩa đe dọa, chức vụ ông có thể bị ảnh hưởng xấu nếu tiếp tục đường lối cũ. Và Đại tá tỉnh trưởng Gia Định cũng trả lời dứt khoát với nội dung minh bạch như đã nói một lần: - Công thổ, công điền không thể bị chiếm đoạt, sang nhượng cho bất cứ ai. Kết quả Đại tá tỉnh trưởng Gia Định bàn giao chức vụ lại cho một viên đại tá sau nầy phải ra tòa vì tội buôn lậu và tham nhũng. Đại tá Trương Quang Ân rời tỉnh Gia Định với luyến tiếc của mọi tầng lớp thân hào, nhân sĩ cùng binh sĩ, đồng bào các quận ven đô. Hãy nghe anh Heo, trung đội trưởng Nghĩa quân ấp Vĩnh Lộc, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình nói với chúng tôi (Tiểu đoàn 9 Dù đang giữ an ninh vòng đai Biệt khu Thủ đô vào thời điểm 1966-1967): - Từ khi có ông tỉnh với mấy anh về đây, ban đêm tui ngủ ở nhà và đi nhậu như ở Sài Gòn! Nếu Đại tá tỉnh trưởng Trương Quang Ân còn ở Gia Định vị tất các đơn vị Việt cộng có thể ngang nhiên tập trung nơi những chỗ ém quân ở Nhị Bình, Thạnh Lộc (Gò Vấp), hoặc Bà Điểm, Bà Hom (Hóc Môn), hay Phú Lâm, An Lạc (Bình Chánh)… để tấn công vào Sài Gòn trong những ngày đầu năm 1968. Và nếu điều nầy không xẩy ra thì chắc rằng mặt trận Sài Gòn Chợ Lớn Gia Định ắt sẽ có những hình thái khác. Đau thương của dân chúng, sinh mạng người lính hẳn sẽ bớt phần khốc liệt oan khiên hơn. Nhưng bởi người lính đã ra đi. Vị tỉnh trưởng thanh liêm phải rời bỏ nhiệm sở. *** Phi trường Phụng Dực Ban Mê Thuột hôm ấy có một sinh hoạt khác hơn ngày thường với giàn quân nhạc của Sư đoàn 23 Bộ Binh đứng xếp hàng nhiêm chỉnh. Phòng khách phi trường được quét dọn sạch sẽ, có mặt gần như đầy đủ thành phần sĩ quan cao cấp của đơn vị và tiểu khu Darlac, đơn vị hành chính cùng có chung một địa bàn hoạt động với Sư đoàn, lực lượng diện địa quan yếu của Khu 23 Chiến thuật. Chiếc máy bay C-47 hàng không quân sự đáp xuống, lố nhố những hành khách quân nhân và gia đình ào ra từ cửa máy bay. Giàn quân nhạc chuẩn bị nhạc cụ, sửa soạn trình tấu khúc Thượng Cấp Võ; đám sĩ quan vội vã xếp đội hình, tất cả chờ đợi viên tân tư lệnh xuất hiện. Họ chờ một tướng lãnh mặt trận có uy danh với những chiến công nơi trận địa mà ông đã thu đạt từ binh chủng Nhảy Dù qua những chức vụ sĩ quan chỉ huy những đơn vị tác chiến. Nhưng vị tướng với vóc dáng, y phục, cách thế như chờ đợi ấy đã không xuất hiện. Người ta chỉ thấy một người lính với nón sắt hai lớp, lưới ngụy trang, quân phục tác chiến xanh của bộ binh, vai mang ba lô, tay xách sac marin đi lẫn vào cùng đám quân nhân hành khách. - Hay là ông chưa tới? Có thể ông đi máy bay Air Việt Nam để được sạch sẽ, lịch sự hơn chăng?! Đám sĩ quan nghi lễ bàn tán. Bỗng một người nhác thấy người lính đi hàng cuối mang bảng tên màu trắng kẻ chữ “Ân” đen trên nắp túi áo và ngôi sao huy hiệu cấp tướng màu đen may tiệp vào cổ áo tác chiến. Không một chiếc huy chương ở phần ngực áo. Người nầy vội vã, hốt hoảng: - Vào hàng! Vào hàng! Phắc! Hành khách quân nhân cuối cùng kia vội đi nhanh đến chỗ viên sĩ quan trưởng toán chào kính, và nói nhanh, dẫu tiếng nhỏ nhưng dứt khoát: - Trung tá cho anh em nghỉ, tôi không thể nhận! Và khi đứng hẳn trước đoàn người, tướng Trương Quang Ân khiêm tốn giải thích: - Cám ơn anh em đã đón tôi với đủ lễ nghi quân cách, nhưng tôi không được phép nhận vì chưa bàn giao đơn vị. Vậy chỉ cho tôi một xe Jeep cũng như những sĩ quan vừa đáo nhậm đơn vị mới và chờ cho tôi bàn giao với vị chỉ huy trưởng xong, các anh em hẳn dành cho tôi quân lễ đối với một tân tư lệnh! Ông lên một chiếc Jeep trần trụi, sửa lại thế ngồi, bi đông nước, khẩu súng Colt, chiếc nón sắt hai lớp đội thẳng, sát xuống mí mắt đúng quân phong, quân kỷ ấn định. Đoàn xe ra khỏi phi trường, hướng khu dân cư nơi đặt những cơ sở quân sự của khu chiến thuật và tòa tỉnh trưởng. Sau chiếc Jeep cũ kỷ chở vị tân tư lệnh, một chiếc khác bóng loáng mới tinh khôi cắm cờ hiệu cấp tướng không người ngồi, chạy theo giữa bụi mù. Ngay sau khi nhậm chức, Tướng quân được dịp chứng nghiệm khả năng chỉ huy vào dịp Tết Mậu Thân, 1968 khi quân cộng sản tổng tấn công miền Nam mà thị xã Ban Mê Thuột với bộ tư lệnh Sư đoàn 23 là mục tiêu đầu tiên bị Trung đoàn 33 Cộng sản Bắc Việt tập trung dứt điểm. Liền sau giờ giao thừa, lúc 1 giờ 35 đêm 29 rạng 30 tháng 1, 1968, 4 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 tăng cường 2 Tiểu đoàn 401 và 301 Cơ động tỉnh và 4 đại đội địa phương cùng du kích đồng loạt tấn công những mục tiêu của thị xã. Sở Hành chánh tài chánh, tòa hành chánh, dinh tỉnh trưởng, bộ chỉ huy tiểu khu, Đại đội 514 Vận tải, trại gia binh Đại đội Trinh sát, cư xá sĩ quan và bản doanh bộ tư lệnh sư đoàn là những vị trí phải được chiếm cứ trước hết. Bởi phía chỉ huy quân sự đối phương hiểu rõ rằng, nếu đập vỡ được cơ quan chỉ huy, khống chế được thành phần nhân sự hoặc thân nhân, gia đình của lực lượng trừ bị tiếp ứng (Đại đội Trinh sát, thành phần sĩ quan chỉ huy, tham mưu sư đoàn) thì cuộc tấn công ắt chiếm giữ phần ưu thắng. Nhưng tất cả mũi tấn công đồng bị chận đứng trước cổng các doanh trại và âm mưu lùa dân vào thị xã biểu tình thực hiện bước tổng nổi dậy tiếp theo hoàn toàn bị thất bại. Bởi từ bộ tư lệnh Sư đoàn 23, Tướng quân đã điều động ngay trong đêm cuộc phản công với Thiết đoàn 8 Kỵ binh, các Tiểu đoàn 2, và 3 thuộc Trung đoàn 45 Bộ Binh và Đại đội 45 Trinh sát đang hành quân bên ngoài thị xã. Lực lượng tấn công cộng sản hóa thành bị bao vây, chia cắt bởi đoàn quân tiếp ứng. Sáng ngày 30 (mồng một Tết âm lịch) lực lượng thiết kỵ và bộ binh của sư đoàn đã hoàn toàn giữ vững những vị trí, cơ quan quân sự, hành chánh trọng yếu của tỉnh và thị xã. Về mặt chiến thuật, chúng ta có thể nói rằng âm mưu tiến chiếm Ban Mê Thuột bị dập tắt từ giờ phút đầu tiên, chỉ trừ những cơ sở như ty ngân khố, Sở Hành chánh tài chánh số 3 còn bị những tiểu tổ du kích chiếm đóng mà vì cốt tránh thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản chung nên phía tiểu khu, bộ tư lệnh sư đoàn chưa cho lệnh phản kích lấy lại. Tính đến ngày mồng 6 Tết, mặt trận Ban Mê Thuột hoàn toàn được giải tỏa, Trung đoàn 33 và các đơn vị địa phương, du kích bị đánh bật ra khỏi vành đai thị xã để lại 924 xác trên hiện trường và 143 bị bắt sống. Nhưng mỉa mai thay, có một “lạnh nhạt cố ý” rất đáng chê trách: suốt chiến dịch ca ngợi thắng lợi kiên trì giữ vững miền Nam sau biến cố lớn lao nầy, công trận thủ thắng ở mặt trận Ban Mê Thuột “hình như” được cố ý loại bỏ. Điều nầy càng thấy được cụ thể qua tập quân sử tổng kết “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Việt Cộng Tết Mậu Thân 1968″, danh tính vị Tướng quân tư lệnh Sư đoàn 23, Chuẩn tướng Trương Quang Ân hoàn toàn không được nhắc tới một lần, cho dù có hình ảnh của người cùng viên tư lệnh Quân khu đi xem xét chiến lợi phẩm sau khi mặt trận im tiếng súng và quân địch đã toàn phần bị đánh bại. Khi những người cầm quyền quốc gia, lãnh đạo quân đội xem nhẹ kẻ sĩ, bạc đãi chiến sĩ, danh tướng thì chỉ dấu suy thoái của quốc gia, quân đội đó ắt đã phát hiện. Nếu những người lính mang tên Trương Quang Ân, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam, Trần văn Hai, Lê văn Hưng nắm quyền thống lĩnh quân đội, trọng trách vận mệnh quốc gia từ thập niên 60, đầu những năm 70, thì đâu có ngày đau thương oan nghiệt 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải kêu lên tiếng uất hận vỡ trời cùng anh linh Chiến Sĩ – Tướng Quân. Một ngày hè giữa năm 1970 sau buổi thuyết trình buổi sáng tại trung tâm hành quân, Chuẩn tướng tư lệnh cùng cố vấn sư đoàn, vị sĩ quan Phòng 3 ra bãi đáp trực thăng cạnh bộ tư lệnh để đi thanh tra, kiểm soát những đơn vị thuộc quyền đang hành quân trong phạm vi quận Đức Lập. Theo thường lệ, Tướng quân đi cùng những giới chức trên bằng trực thăng UH-1D của hệ thống cố vấn Mỹ, nhưng bởi sáng nay có bà tháp tùng theo cùng để đến thăm gia đình binh sĩ của đơn vị có hậu cứ tại quận lỵ, nên hai người quyết định sử dụng trực thăng H-34 của Không quân Việt Nam, cũng cốt để chở được nhiều nhu yếu phẩm, quà tặng cho binh sĩ và gia đình của họ. Hai vợ chồng Người Lính lớn nhất của đơn vị đi thăm hỏi mỗi gia đình binh sĩ, bà ngồi xuống giữa những người vợ lính, những em bé xao xác do thiếu dinh dưỡng, trú ngụ nơi những lều trại dã chiến mà người lính tạm dựng lên tại tiền trạm vùng hành quân. Bà bối rối, băn khoăn về nỗi khổ của từng người, bà ôm không hết những em nhỏ với nước mắt rưng rưng thương cảm. Ông yên lặng đi đến tại mỗi vị trí phòng thủ, xem xét những khẩu pháo, hỏi kỹ về nhu cầu của đơn vị và luôn nhắc nhở cán bộ sĩ quan: - Phải luôn cố gắng chăm sóc đời sống anh em, họ đã quá thiếu thốn, quá gian khổ, bổn phận của cấp chỉ huy là phải tận tụy hết lòng với mỗi người lính của mình. Ai cũng có thể có khuyết điểm nhưng cần nhất là biết phục thiện, sửa chữa. Buổi thăm viếng đã quá lâu, cố vấn Mỹ, toán sĩ quan tham mưu, cũng như cá nhân tướng tư lệnh phải trở về Ban Mê Thuột; những người vợ binh sĩ vây quanh bà, bà bước đi ngập ngừng. “Về mình ạ, mình còn trở lại nhiều lần nữa, mình nói với các chị, các cháu như thế!” Ông bắt tay từng sĩ quan, ân cần đáp lại ánh mắt lưu luyến của binh sĩ. Cánh quạt chiếc H-34 bắt đầu quay, Tướng quân đỡ phu nhân, chiến hữu sắc son của Người suốt đời dài binh đao, bước lên cửa máy bay vì sức gió mạnh xô đẩy. Hai Người Lính nhìn lại những bóng người dưới đất bắt đầu mờ dần do nước mắt của bà đã thấm nhòa cảm xúc. Người dưới đất đưa tay ngoắc từ biệt. Bỗng như tia chớp cực mạnh lóe sáng, con tàu bùng vỡ thành khối lửa hung hản ác độc và lao nhanh xuống như một mũi tên. Khu trại gia binh đồng la lớn kinh hoàng: - Chết rồi! Chết rồi trời ơi! – Ông bà tướng chết rồi trời ơi! Trời ơi là trời ơi!! Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến chia buồn cùng tang quyến tại tư gia cố Chuẩn Tướng Trương Quang Ân, số 58 cư xá Lê Đại Hành, Phú Thọ, Sài gòn vào thứ tư ngày 11 tháng 9 năm 1968. Những người vợ lính bật khóc cùng với những đứa con gào ngất trong tay bởi ánh lửa đỏ rực sáng loáng khoảng trời. Tướng quân Trương Quang Ân cùng phu nhân Dương thị Thanh trở về cùng mặt đất quê hương như trong tuổi thanh xuân hai Người Lính đã kết hợp giữa bầu trời Tổ Quốc. Trong buổi phát tang nhị liệt vị, sĩ quan nghi lễ kê khai phần tài sản để lại gồm: 53,000 đồng, tiền lương tháng cuối cùng của Tướng quân, và 8 chiếc áo dài nội hóa của phu nhân. Chúng ta hôm nay cùng sông núi kính cẩn nghiêng mình trước Anh Linh Người Lính Thanh Cao, Trung Liệt đã vô vàn tận hiến với nước Việt Miền Nam: Thiếu Sinh Quân – Người Lính Cộng Hòa Trương Quang Ân. Phan Nhật Nam
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 4, 2013 9:58:45 GMT 9
Một cái tát vào mặt các nhà nghiên cứu Sử học VN và cả Ban Tuyên Giáo?Một bài văn phản ứng của sinh viên Việt Nam ngày nay về bài giảng lịch sử: “ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC” Sunday, December 23rd, 2012 THƯ GỬI CÔ GIÁO SV năm thứ 2 Khoa học Xã hội Nhân Văn Sài Gòn Kính thưa Cô, Đến tận bây giờ, gõ những dòng E-mail trần tình này gửi đến Cô, em vẫn còn trách ông trời, phải chi cuối tiết “Lịch Sử” hôm ấy trời đừng mưa to thì giảng đường Đại Học không ai còn ngồi lại và Cô cũng đâu có thời gian trò chuyện khuyến khích sinh viên mình… Và, hôm nay, em cũng không phải gõ email này gửi Cô mà em biết khi đọc Cô sẽ không vui… Em còn nhớ hôm ấy lời Cô nói: “Lịch sử là những gì diễn ra trong quá khứ, được tái hiện lại, trong hôm nay và ngày mai, phải trung thực, chân thật nhằm cho người sau biết và lấy đó làm kinh nghiệm, xấu xa sai trái thì tránh nếu tốt đẹp có ích thì tự hào để nhân bản thêm lên, vì vậy đề tài bài tham luận: ’37 mùa xuân Đại Thắng’ nói về ‘chiến công thần thánh’ của quân dân ta chống ‘đế quốc Mỹ xâm lược, cứu nước’ của mỗi bạn, cần phải gọt giũa đánh giá cho xứng tầm vĩ đại của dân tộc, trong khi chờ mưa tạnh, chúng ta cùng nói chuyện bên lề ngoài tiết học, các bạn còn điều gì lấn cấn chưa rỏ ở chiều sâu và rộng của bài tham luận mà mỗi bạn sẽ phải hoàn thành, thì cứ hỏi Cô, xem như bạn bè thoải mái bày tỏ quan điểm khách quan và thắc mắc của mình để chúng ta rộng đường suy luận mà viết bài cho sắc sảo có tính thuyết phục cao, ở đây có nhiều bạn theo khoa ‘báo chí’ mà! Nào mời các Phóng Viên tương lai nói chuyện chuyên đề, chờ mưa tạnh…”. Và Cô cười, nụ cười giao lưu rất thoải mái. Em cũng nhớ, mình là người thứ tư, sau các bạn, vô tư ngập ngừng cười, nói với Cô: “Chiến tranh với Mỹ là có thật, nhưng nếu nói đó là chống xâm lược để cứu nước – thì không phải – thưa Cô! Em nghĩ như vậy…” Sau lời nói, thoáng nhiên giảng đường im phăng phắc làm em chột dạ bối rối thấy mình tự nhiên như đông cứng lại tại chỗ ngồi… Em nhớ, nghe xong lời em Cô quay nhanh bước ra gần cửa sổ ngóng màn mưa ngoài trời một thoáng rồi trở lại. Cô nhìn em trong ánh mắt tuồng như rất giống ánh mắt mẹ em khi đi chợ nhìn người bán hàng trước khi trả giá mua. Cô nói với riêng em một câu ngắn gọn nhỏ thôi đủ cho em nghe: “Hình như bạn đùa không phải lúc…” rồi bình thản cô quay lên bục giảng lấy áo mưa, chần chừ chờ giảng đường thưa người, Cô ra về sau cùng. Không mang theo áo ưa nên em ngồi nán lại. Đi ngang qua, Cô dừng chân, như thầy giáo nhắc bài học trò, cô nói với em: “Bạn cần phải lên thư viện nhiều hơn, tìm trong sách, ở đó có nhiều câu trả lời cho vấn đề của bạn vừa nêu ra, tôi nghĩ, không khéo danh hiệu Đoàn viên Thanh niên CS/HCM ưu tú, xuất sắc, đối tượng của đảng nơi bạn sẽ lung lay…” Thưa Cô, Email này của em chắc chắn không phải là chất liệu để em trông đợi giữ cho chặt lại cái danh hiệu “ưu tú-xuất sắc” ấy, mà đơn giản em muốn chứng minh thông điệp – lời cô nói – lịch sử rất cần sự “trung thực, chân thật”. Thưa Cô! Không phải vui đùa đâu ạ, mà em nói thật lòng: “Chiến tranh với Mỹ là có thật, nhưng nếu nói đó là chống xâm lược để cứu nước – thì… không phải vậy…” Xin phép cô, cho em giữ nguyên nhận định này của mình dù em biết có những di luỵ nhất định không mong đợi… Bởi vì có rất nhiều dẫn chứng để “ai đó có thể lừa dối một số người trong một lúc, và lừa dối hết mọi người trong vài lúc, nhưng không thể mãi mãi lừa dối được tất cả mọi người.” (Abraham Lincoln). Nói lên điều này em biết Cô sẽ phiền lòng. Nhưng…Thưa Cô! Em tìm thấy trong tác phẩm dịch từ nguyên tác Nhật Bản “12 người làm nên nước Nhật” của Giáo sư Tiến sĩ Đặng Lương Mô (có thể Cô cũng biết!) Viện sĩ Hàn Lâm Viện Khoa học New York, năm 1992. Uỷ Ban Nhân Dân TP. HCM khen thưởng kiều bào có công với đất nước, năm 2003. Trong danh sách “12 nhân vật mà người dân Nhật Bản tôn vinh” – 12 người đã lập nên một nước Nhật hùng mạnh ngày nay, chúng ta lưu ý đến người mang số 10 không phải là người Nhật: (1) Thái tử: Shotoku, (2) Chính khách: Hikaru Genji, (3) Lý Thuyết Gia: Minamoto Yoritomo, (4) Anh Hùng: Oda Nobunaga, (5) Kỹ sư: Ishida Mitsunari, (6) Nhà cải cách: Tokugawa Yeyasu, (7) Triết Gia: Ishida Baigan, (8) Chính Khách: Okubo Toshimichi, (9) Nhà tư bản học: Shibusawa Ei-ichi, (10) Thống Tướng Hoa kỳ: Douglas MacArthur, (11) Giáo Sư lý thuyết gia: Ikeda Hayato, (12) Doanh Nhân: Matsunutsa Konosuke. Ông ta, chính xác là Thống Tướng quân đội Mỹ. Thật không hề dễ dàng chút nào cho gần hai trăm triệu con cháu “Thái Dương thần nữ” phải nhìn nhận một Tướng Lãnh khét tiếng của Mỹ, kẻ thù không đội chung trời của họ trong Đệ II Thế chiến trên Thái Bình Dương và khắp các mặt trận Châu Á, là Tư lệnh quân đội Mỹ chuẩn thuận văn bản đầu hàng của chính phủ Nhật Bản sau đó đại diện cho LHQ và chính phủ Mỹ chiếm đóng Nhật Bản… trở thành một Anh Hùng, ân nhân của Nhật Bản sau 2 quả bom nguyên tử của Mỹ cũng rơi trên lãnh thổ nước này gây nên nhiều tang thương. Phải là người có nhiều công trạng thực tiễn mang lại một thành quả lớn lao mà giá trị của nó bao hàm đặc tính rõ rệt của chân, thiện, mỹ trong một nhân cách mà người Nhật ví như Anh Hùng (Anh hùng là bậc Chính Nhân Quân Tử) để nhân dân Nhật công nhận, tri ân sánh ngang hàng với Thái Tử và 11 người con cháu ưu tú của “Thần Nữ Thái Dương”. “Nhân vô thập toàn” Thưa Cô! Tướng Mỹ Douglas MacArthur và quân đội của họ không phải là không có nhược điểm, nhưng bù lại họ tạo ra rất nhiều ưu điểm đôi khi vượt lên trên tập quán thông thường mà nhân danh những người chiến thắng đã xử sự với kẻ chiến bại, khiến những nhược hay điểm yếu không còn là đáng kể. Cuối Đệ II Thế chiến, ở Đông Nam Châu Á, đạo quân Mỹ hùng mạnh do Tướng MacArthur chỉ huy đã đánh bại và quét sạch quân phiệt Nhật khỏi Indonesia, giải phóng Philippines, hỗ trợ bảo vệ cho Trung Hoa Dân Quốc tại đảo Đài Loan, rồi thay mặt LHQ giải giới vũ khí chiếm đóng Nhật Bản, Sau đó từ Nhật lại tiến qua giải phóng Cao Ly cứu Nam Hàn sắp bị Cộng Sản Bắc Hàn nuốt chửng. Nhưng thưa Cô! Quân Mỹ đổ máu xương giải phóng (đúng nghĩa giải phóng) các quốc gia này nhưng hoàn toàn không có tham vọng 1 cm2 đất đai nào từ các lãnh thổ ấy. Vì sao vậy? Còn bên kia bán cầu, cũng đạo quân Mỹ (xâm lược?) phối hợp với 2 (cựu đế quốc thực dân) Pháp và Anh chiếm đóng, giải giới, quân phát xít Đức, toàn quyền định đoạt số phận một nửa quốc gia Đức, nhưng sao họ không cùng nhau chia phần xâu xé Tây Đức, mà ngược lại, bảo trợ toàn diện (kẻ thù của họ ở đầu hôm) phát triển vững mạnh trên cái nền tự do dân chủ đến nỗi cảm hoá được phần phía Đông, giả từ CNXH thống nhất quốc gia trong yên bình êm ái? Tại Nhật Bản, Tướng MacArthur và quân đội Mỹ đã áp dụng một chính sách chưa có tiền lệ trong lịch sử thế giới với Nhật Bản “quốc gia tù binh” của họ. Ông tôn trọng Thiên Hoàng Nhật Bản, không ép buộc thoái vị (dù LHQ và chính phủ Hoa Kỳ không cấm ông truất phế). Chưa được Quốc Hội Mỹ chính thức phê chuẩn, nhưng trên cái nền Kế hoạch Marshall (Marshall Plan tên của Ngoại trưởng Mỹ George Marshall người đã khởi xướng) nhằm viện trợ tái thiết một nền móng kinh tế chính trị vững chắc hơn cho các quốc gia Tây Âu nâng cao mức sống và kiến thức của người dân để đẩy lui chủ nghĩa cộng sản sau Thế chiến II. Trong vòng 2 thập kỷ, nhiều quốc gia ở Tây Âu đạt được mức tăng trưởng và phồn vinh chưa từng có nhờ kế hoạch Marshall này. Chính phủ Mỹ thông qua tướng MacArthur cũng có chủ trương tương tự với Nhật Bản, bên cạnh còn cải tổ hệ thống chính quyền, lãnh đạo, từ chính trị, kinh tế, tới sửa đổi hiến pháp, nghi lễ của hoàng gia, nhất thiết mỗi việc đều do một tay MacArthur quyết đoán, ông chỉ ra những khiếm khuyết trong thời chiến tranh mà giới lãnh đạo Nhật Bản đã có những sai lầm, ông đoan chắc cùng nhân dân Nhật khi Nhật Bản trở thành một nước dân chủ, quản lý một nền công nghiệp chiến tranh chuyển đổi qua thời bình một cách khoa học thì sẽ sớm giàu mạnh, không thua gì nước Mỹ, ông không ngần ngại nói với người dân Nhật rằng, Nhật Bản đã thua Mỹ vì kém về mặt vật chất kinh tế tài chính chứ không phải là tinh thần vì họ đã chiến đấu rất dũng cảm mà vẫn thua, nên đa số dân Nhật thuyết phục bởi sự cải tổ ấy. Ông chủ trương phá bỏ chủ nghĩa quốc gia dân tộc và chế độ phụ thuộc quá nhiều vào ảnh hưởng của Hoàng Gia, để Nhật Hoàng chỉ còn là biểu tượng. Nhật Bản cũng có một nền văn hoá tự do coi trọng sự lựa chọn của cá nhân như nước Mỹ, Thủ tướng và nghị viện do người dân trực tiếp chọn lựa qua lá phiếu của mình. Một vài chính khách Nhật còn hoài cổ nặng chủ nghĩa cực đoan dân tộc cho rằng Tướng MacArthur là một chính trị gia độc tài áp đặt, nhưng đại đa số người Nhật cho là sự độc tài ấy để cho một nước Nhật hùng mạnh chứ không là nước Mỹ. Rất ngẫu nhiên cái cách mà người Mỹ, tướng MacArthur đã thể hiện trong cuộc chấn hưng nước Nhật sau chiến tranh nó rất gần với tính cách tinh thần võ sĩ đạo của người Nhật (nhân ái, bao dung thay thù hận) nên mang lại ảnh hưởng mãnh liệt trong xã hội Nhật Bản ngày nay. Ở Châu Âu người ta ví von nước Mỹ có công khi biến Nhật Bản thành một Thuỵ Sĩ Viễn Đông! Vì vậy, Douglas MacArthur đã được mọi thành phần, khuynh hướng, chính đảng, từ Hoàng Gia đến thứ dân đều chọn làm người thứ mười trong “12 người lập ra nước Nhật” hùng mạnh từ trong điêu tàn đổ nát chiến tranh. Đây là người ngoại quốc duy nhất được chọn trong lịch sử nước Nhật. Thưa cô! Lại càng không thể nào đó là bản chất của đế quốc xâm lược thực dân (dù kiểu cũ hay mới) chỉ 6 năm (2/9/1945 – 28/4/1952) sau khi chiếm đóng, nước Mỹ đã trả lại sự độc lập hoàn toàn cho Nhật Bản sớm hơn thời gian trù bị, ngoài sự kỳ vọng của toàn dân Nhật và không hợp logic chút nào khi hiện nay, 2012, chính phủ và người dân Nhật vẫn còn đài thọ mọi chi phí cho gần 40.000 binh sĩ Mỹ hiện diện trên đất nước mình vì sự an toàn cho nền an ninh quốc gia, không ai vui vẻ trả tiền cho một đạo quân có bản chất “xâm lược” ăn ngủ hơn 2/3 thế kỷ trên đất nước mình! Và đạo quân “xâm lược” này chỉ đặt chân lên miền Nam VN, sau 20 năm có mặt tại Hàn và Nhật Bản, hai quốc gia nhờ họ mà “màu mỡ” về kinh tế hơn hẳn VN nhiều lần. Nhưng điều đáng để người VN suy ngẫm là quân Mỹ có mặt nơi đó mà không màng đến “xâm lược” thì họ xâm lăng một VN nghèo khó sau Pháp thuộc để làm gì, ngoài ý định cũng thông qua kế hoạch Marshall giúp VN, cụ thể là miền Nam VN phát triển giàu mạnh ổn định như Hàn Quốc, Nhật Bản hay Đài Loan? Thưa Cô! Làm sao biện minh? 45.000 quân “xâm lược” Mỹ vẫn hiện diện trên đất Hàn Quốc, một quốc gia khủng hoảng lương thực trầm trọng không đủ cơm gạo cho dân sau chiến tranh Nam Bắc nhưng hôm nay thì: nhiều báo chí ở Việt Nam nói về đất nước này hay thường gọi là Kỳ tích sông Hàn hay Huyền thoại sông Hàn. Hàn Quốc từ đống tro tàn của cuộc nội chiến Bắc Nam đã vươn lên thành một quốc gia phát triển hùng mạnh thịnh vượng hơn hẳn nửa kia ở phía Bắc nghèo nàn lạc hậu. GDP cán mốc 1.000 tỷ USD/năm cũng như nhiều tập đoàn lớn nổi tiếng như SamSung, LG, Hyundai, Kia, Daewoo… Nhưng, thành tựu đó họ có được là do đâu? Ngoài sự lãnh đạo sáng suốt của các nguyên thủ Hàn Quốc, thì sự hỗ trợ nhiệt tình như là một đồng minh của Mỹ trên tinh thần kế hoạch Marshall là yếu tố quyết định. Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ ba ở châu Á và đứng thứ 10 trên thế giới theo GDP năm 2006. Kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới (hạ tầng cơ sở, thiên nhiên, thổ nhưỡng kém xa Việt Nam) trở thành một trong những nước giàu nhất. Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. GDP (PPP) bình quân đầu người của đất nước đã nhảy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỷ lục 10.000 USD vào năm 1995 và 25.000 USD vào năm 2007. Bất chấp các ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997, nước này đã khôi phục kinh tế rất nhanh chóng và vững chắc. Người ta thường nhắc đến sự phát triển thần kỳ về kinh tế của Hàn Quốc như là “Huyền thoại sông Hàn” đến nay huyền thoại này vẫn tiếp tục. Với Đài Loan và Phillipines: năm 1950, Không Đoàn 13 của Không quân Mỹ đã từng đóng tại Đài Loan. Tháng 12-1954, Mỹ và Đài Loan ký “Hiệp ước phòng thủ chung”, đặt Đài Loan vào sự bảo hộ của Mỹ. Cũng nằm trong quỹ đạo của kế hoạch Marshall, Đài Loan được hưởng nhiều quy chế ưu đãi thương mại từ nước Mỹ trong một thời gian dài, đưa nền kinh tế nhanh chóng phát triển ngoạn mục thành một con “Rồng” Châu Á mà ngay chính Trung Quốc cũng phải kiêng dè. Tại Phillipines, quân đội Mỹ cũng từng hiện diện trong một thời gian dài. Hạm Đội 7 Thái Bình Dương chọn vịnh Subíc là nơi đóng quân, và trước đó, năm 1935, Douglas MacArthur, được Tổng thống Phillipines Manuel L.Quezon yêu cầu giám sát việc thành lập quân đội Philippines. Ông được phong hàm Thống tướng trong Quân đội Philippines (Field Marshal of the Philippine Army). Ông là sĩ quan cao cấp có tên trên danh sách của Quân đội Philippines ngày nay. Ông cũng là sĩ quan quân sự Mỹ duy nhất giữ cấp bậc thống tướng trong quân đội Philippines. Sau đó, tôn trọng quyết định của nhân dân Phillipines vì sự độc lập toàn vẹn lãnh thổ, quân đội Mỹ đã rút khỏi vịnh SuBíc. Nhưng ngày nay (2012), vì an ninh lãnh thổ đe doạ, Phillipines yêu cầu, quân đội Mỹ vẫn quay lại thể hiện sự trách nhiệm trong hiệp ước hỗ tương… Thưa Cô! Với những gì thuộc thế giới quan mà kiến thức em tích luỹ được, thì dù rất muốn hãnh diện về “chiến công thần thánh” của quân dân ta chống “đế quốc Mỹ xâm lược cứu nước” nhưng: Lịch sử rất cần sự “trung thực” đến “chân thật” (lời Cô nói). Nên: Em cũng muốn tin – nhưng không thể, thưa Cô! Em cám ơn Cô đọc email trần tình này và mong có lời chỉ giáo thêm của Cô. Em kính chào Cô. webwarper.net/ww/www.ndanghung.com/bai-viet/2012/12/23/mot-bai-van-phan-ung-cua-sinh-vien-viet-nam-ngay-nay-ve-bai-giang-lich-su-de-quoc-my-xam-luoc.html/NLG: Đang giữa lúc có nhiều ngày lễ kỉ niệm về cuộc chiến đấu chống Mỹ năm xưa, ngạc nhiên thay lại xuất hiện một bài viết "phủ định" như một cái tát vào những nhà sử học và cả hàng triệu người đã ngã xuống hay còn mang trên mình những vết thương chiến tranh...trong cuộc chiến đấu ác liệt này tuy nhiên "thư gửi cô giáo" không có tên tác giả, và đã được đăng trên Blog của GS Nguyễn Đăng Hưng xin đăng lại để bạn đọc tham khảo.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 12, 2013 19:31:52 GMT 9
Vụ án nghệ sĩ Thanh Nga và vụ án Nguyễn Hữu Giộc cặp bồ với vợ bé Tổng thống Thiệu
Thứ năm, 16/05/2013, 19:05 (GMT+7) Tiếp theo Kỳ 1: Những cuộc đối đầu với gián điệp Mỹ và tên gián điệp Trần Hùng sa lưới trong loạt bài viết “Quan tòa Thanh thiên” và Bức thư cảm động của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ban biên tập xin gửi đến bạn đọc kỳ tiếp theo: >> Trung Quốc "bỏ" đồng minh để lấy lòng Mỹ? >> Sợ bị bỏ rơi, Đài Loan giục Mỹ tiếp tục bán vũ khí >> Càng hung hăng, Trung Quốc càng bị thiệt >> Trung Quốc “còn khuya” mới trở thành một siêu cường >> Đằng sau tuyên bố ly hôn của Tổng thống Nga *** Kỳ 2: Vụ án nghệ sĩ Thanh Nga và vụ án Nguyễn Hữu Giộc cặp bồ với vợ bé Tổng thống Thiệu Trong nhiều vụ án mà quan tòa “Bao Thanh Thiên” – Tư Thắng ngồi ghế xét xử sơ, phúc thẩm, có những vụ án trở thành kinh điển và rất nhiều khó khăn phức tạp trong quá trình xét xử. Tại công đường, thị phi đen trắng đều có thể trở thành minh bạch rõ ràng bởi chứng cứ và pháp luật. Việc lượng hình cho một tội phạm thường là nỗi trăn trở của người thực thi pháp luật. Bao nhiêu vấn đề nhân văn, lương tâm, giữa tình và lý, giữa công và tội trong quy định của pháp luật Việt Nam đôi khi là những lỗ hổng lớn làm lọt tội phạm và làm oan sai cho một người khác. Công lý là cán cân bập bênh ở trạng thái thăng bằng, người giữ cho cán cân ấy luôn cân bằng đòi hỏi tài năng lẫn đức độ và cả bản lĩnh, quyết đoán.
Ông Tư Thắng và đồng chí Nguyễn Tấn Dũng (Ảnh chụp năm 2006) Trong lịch sử các vụ án đã xét xử tại Tòa án nhân dân sau ngày giải phóng đến nay, có những vụ án trở thành lịch sử như vụ án Nữ hoàng sân khấu cải lương Thanh Nga bị sát hại; vụ án Nguyễn Văn Giuộc (Mười Vân)- nguyên giám đốc Công an Đồng Nai bị tử hình; vụ án bia ôm Đường Sơn Quán; vụ án Cimexcol Minh Hải…Quan tòa Tư Thắng đã dũng cảm “đối đầu” với không ít luận cứ, quan điểm sai lệch trong xét xử, để bảo vệ cho lẽ phải, công bằng. Có lúc ông rất cô đơn, cô đơn vì mình làm đúng lương tâm, đúng pháp luật. Sinh thời ông có viết bốn câu thơ để trải lòng mình về nỗi cô đơn được một nhà báo ghi lại vào năm 1988 như sau : Cô đơn thẳng đứng giữa trời xanh Mặc núi rừng, biển bão vây quanh Gian nan trù dập càng vững bước Sống vì dân, thác mãi thơm danh. Vụ án nữ nghệ sĩ Thanh Nga bị sát hại Cuối năm 1978, thành phố Sài Gòn (lúc này mang tên TP Hồ Chí Minh) đã xảy ra một vụ án làm chấn động mọi người : Sau khi kết thúc đêm diễn vở “Thái Hậu Dương Vân Nga” tại rạp Cao Đồng Hưng (nay là rạp Nhân Dân Gia Định), nghệ sĩ Thanh Nga lên xe hơi cùng chồng và con trai ra về thì bất ngờ bị một kẻ lạ mặt chực sẵn trước cổng nhà xông ra bắn chết hai người. Một bầu trời u ám tang tóc bao trùm lên tình cảm người dân thành phố, tiếc thương cho số phận tài hoa bạc mệnh của người nữ nghệ sĩ được phong tặng là nữ hoàng tuyệt sắc trên sân khấu cải lương lúc bấy giờ và căm thù sâu sắc kẻ đã gây ra tội ác dã man này. Sự kiện này khiến mọi người nhớ lại cách đó không lâu, tại sân khấu rạp Lux (Lao Động) trên đường Trần Hưng Đạo, Quận 5 cũng đoàn cải lương Thanh Minh -Thanh Nga đang diễn vở “Tiếng trống Mê Linh” về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống lại ách xâm lăng, đô hộ của nhà Hán phương Bắc, một kẻ lạ mặt đã ném lựu đạn lên sân khấu làm chết một nghệ sĩ, bị thương cụt chân một nhạc công và nghệ sĩ Thanh Nga bị thương nhẹ.
Gia đình nghệ sĩ Thanh Nga Hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ cùng lúc nhân dân phải xây dựng hòa bình vừa phải đương đầu với nạn xâm lăng, gây hấn từ biên giới phía Bắc và Tây Nam. Nữ nghệ sĩ Thanh Nga cả hai lần bị ám sát đều đang thủ vai chính trong vở diễn “Trưng Trắc” trong “Tiếng trống Mê Linh” và “Thái hậu Dương Vân Nga” trong vở diễn cùng tên. Nếu như Trưng Trắc là điển hình của phụ nữ Việt Nam trong buổi bình minh của dân tộc đã dấy binh khởi nghĩa cùng chồng là Thi Sách, em gái là Trưng Nhị đã tụ tập dưới cờ nghĩa hàng vạn người dân yêu nước và hàng chục nữ tướng tài giỏi gươm giáo sáng lòa, voi trận hung dũng uy lức, thế trận mạnh như chẻ trúc Nam Sơn, đánh chiếm thành Luy Lâu đuổi Thái Thú Tô Định chạy thục mạng về nước. Còn tấm gương Thái hậu Dương Vân Nga là một tấm gương trung liệt, bất chấp mọi lễ giáo và sự uy hiếp của thù trong giặc ngoài, bà đã khôn khéo cùng các tướng tâm phúc vạch trần âm mưu cướp ngôi vua, thôn tính nước Đại Cồ Việt của sứ thần nước Tống và một số đại thần bạc nhược, hèn nhát. Bà đã ra một quyết định lịch sử vào thời khắc quan trọng nhất mang tính sống còn của quốc gia, dân tộc đó là tự tay trao chiếc áo long bào cho Thập Đại tướng quân Lê Hoàn từ biên ải chống giặc xâm lăng trở về. Một quyết định trong lịch sử chưa từng có và vô cùng sáng suốt, đúng đắn để vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống xâm lược giữ vững giang san, bờ cõi. Ngày đó, đám tang nữ nghệ sĩ Thanh Nga trở thành một đám tang lớn nhất thành phố lúc bấy giờ với hàng triệu người từ các nơi đổ về và thành phố đưa tiễn, thương khóc tràn nước mắt hai bên đường. Sau một thời gian khẩn trương điều tra, phá án lực lượng Công an đã bắt hung thủ cầm đầu tên Tân và một số đồng bọn gây án. Qua đấu tranh, Công an biết được cũng chính tên Tân và đồng bọn là kẻ đã bắt cóc con trai nữ nghệ sĩ Kim Cương tống tiền trước đó và lần này chúng cũng khai định bắt cóc con trai nghệ sĩ Thanh Nga để tống tiền nhưng bị giằng co không thực hiện được, nên bắn chết hai vợ chồng nghệ sĩ Thanh Nga. Theo chứng cứ và hướng điều tra này, Công an và Viện KSND TP truy tố tên Tân và đồng bọn tội danh “giết người, bắt cóc trẻ con vì mục đích làm tiền, cướp của”.
Hung thủ Nguyễn Thanh Tân. Ảnh chụp qua bộ phim chuyên án TN.11 Từ những nguồn tin riêng đặc tình, Tư Thắng biết được: Tên Tân và đồng bọn trước giờ xuất phát gây án, tại nhà máy xay xát của một ông chủ Hoa kiều ở Xẻo Rô (Sóc Trăng) đã tổ chức chào cờ Tổ quốc, nhận vũ khí và lịnh ám sát Thanh Nga nhưng không cần biết mục đích, lý do. Bọn này cũng không hề biết Thanh Nga có con, do đó mâu thuẫn với lời khai “bắt cóc, tống tiền”. Tuy mức án cuối cùng cho tên Tân vẫn là tử hình, nhưng định tội danh không chính xác. Phải là “giết người, bắt cóc vì mục đích phản cách mạng”chứ không đơn thuần là bắt cóc, tống tiền với trường hợp đặc biệt của vợ chồng nghệ sĩ Thanh Nga. Vào thời điểm bấy giờ, chưa có bộ luật hình sự nên thường có những bất đồng, tranh luận trong quan điểm xét xử. Lúc này, Chánh án TAND TC Phạm Văn Bạch đồng thuận để Tư Thắng soạn thảo bản kháng nghị lên UB Thường vụ Quốc hội, đề nghị hủy án của tòa án đặc biệt thành phố vì đã sai phạm tội danh (vi phạm luật hình sự), sai thẩm quyền (tố tụng), phải đưa ra xét xử đúng trình tự hai cấp và thay đổi tội danh thành “giết người vì mục đích phản cách mạng”. Bản kháng nghị này đã gây ra tranh cãi kéo dài gần 1 năm giữa Công an, TAND TP và TANDTC không ngã ngũ. Tên Tân trở thành tội phạm tử hình được sống lâu nhất chưa thi hành án.
Nghệ sĩ Thanh Nga Cho đến kỳ họp Quốc hội, bà luật sư Ngô Bá Thành – Đoàn đại biểu TP HCM chất vấn TAND TC về vụ án Thanh Nga, cơn sóng về tranh luận chưa dứt lại có dịp bùng phát. Lần này, Tư Thắng cũng nhận được lời đề nghị rút kháng nghị và cho biết nếu “đấu” thì ông Bạch và Tư Thắng sẽ thất bại. Tư Thắng quyết liệt : “Nếu UB Thường vụ Quốc hội kết luận là sai, các anh cách chức, tôi sẵn sàng về làm dân thường. Dứt khoát tôi không rút kháng nghị”. Thường vụ Quốc hội cử người vào điều tra, xác minh lại mọi vấn đề. Cuối cùng, bản án tử hình dành cho kẻ thủ ác đền tội sau 2 năm, nghệ sinh Thanh Nga được truy tặng danh hiệu “Liệt sĩ’. Vụ án Nguyễn Hữu Giộc – Giám đốc Công an Đồng Nai cặp bồ với vợ bé Tổng thống Thiệu Vụ án Nguyễn Hữu Giộc – Mười Vân – Nguyên GĐ Công an Đồng Nai bị tử hình gây chấn động dư luận một thời với những tình tiết đặc biệt nghiêm trọng trong những năm đầu giải phóng miền Nam. Vì sao Mười Vân phải nhận án tử hình ? Câu hỏi đơn giản này đặt ra trong giai đoạn lịch sử nhất định của đất nước không phải ai cũng biết tường tận sự việc. Về gia thế, Nguyễn Hữu Giộc là con ông Chín Nài (Nguyễn Văn Nài) nhà ở gần sông Rạch Chanh, ấp Long Kim, xã Long Định, Cần Đước, Long An. Ông Chín Nài nhà có mấy mẫu ruộng và làm nghề buôn chuyến trên sông chở các loại chiếu dệt ở vùng Long Định ngược theo sông Vàm Cỏ lên Gò Dầu, Trảng Bàng, Tây Ninh để bán và mua hàng nông sản chở về. Năm 1948, Mười Giộc gia nhập vào công an xã Long Định thuộc tỉnh Chợ Lớn lúc bấy giờ. Thời kỳ 1948-1949 huyện Cần Đước tình hình khó khăn, phức tạp. Các cơ quan lãnh đạo của huyện phải chia thành hai khu: khu A đóng tại kinh Bo Bo huyện Thủ Thừa – Tân An. Khu B đóng tại Lý Nhơn – rừng Sác, Nhà Bè. Trưởng công an huyện Trương Văn Tư phụ trách khu A, còn Mười Giộc làm phó phụ trách khu B. Chính trong thời kỳ này, Mười Giộc đã làm mưa làm gió giết hại rất nhiều người trong đó có lãnh đạo huyện đội trưởng và vu cáo vào tội theo “Đại Việt quốc dân đảng” mà Tư và Mười Giộc lập thành tích phá án. Khoảng năm 1951, Tư Thắng làm Phó ty Công an Bà Rịa- Chợ Lớn phát hiện ra việc oan sai tày đình mà Mười Giộc gây ra mấy năm trước khiến nhiều người dân kháng chiến và cán bộ chết oan uổng. Năm 1954, Mười Giộc lên đường tập kết ra Bắc được cử làm Phó phòng CS trị an Ty Công an Hòa Bình. Trong một lần đi săn bắn, Mười Giộc nổ súng bắn chết đồng chí Trưởng phòng. Sau đó vợ người này làm đơn bãi nại cho Giộc vì chỉ là bắn nhầm. Thoát khỏi tội danh “ngộ sát” nên năm 1962 Mười Giộc được bố trí về miền Nam chiến đấu. Đến đây thì mọi người mới ‘vỡ lẽ” ra, đồng chí Giộc có quan hệ bất chính với vợ Trưởng phòng, thậm chí có con chung. Nhưng thời chiến tranh, không phải việc gì cũng được điều tra tường tận, tất cả tập trung cho tiền tuyến, tập trung cho đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và giải phóng miền Nam. Sau năm 1975, Mười Giộc được cử làm giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai. Với bản chất nham hiểm và độc ác, Mười Giộc dùng nhiều thủ đoạn để triệt hạ và hãm hại đồng chí, đồng đội. Giộc cho thả tên Nguyễn Văn Sang là cảnh sát đặc biệt Miền Đông đang giam giữ tại trại giam Tam Hiệp, đặt cho bí số H.20 khống chế tên này khai khống, lập hồ sơ giả tố cáo đồng chí Năm Trang – Thường vụ tỉnh ủy, Bí thư thành ủy Biên Hòa và đồng chí Ba Lan – Tỉnh ủy viên, Bí thư thành ủy Vũng Tàu là người của CIA cài lại. Vụ việc này khiến Tư Thắng day dứt rất nhiều năm. Chuyện là khi giải thể Khu ủy, An ninh Miền Đông, Tư Thắng đề nghị bố trí đồng chí Tư Nam (Anh hùng Đặng Công Hậu đã nghĩ hưu) thay thế chức giám đốc Công an. Nhưng khi về Ban An ninh miền Nam, Tư Thắng lại nghe tin Mười Giộc làm giám đốc, còn Tư Nam làm phó. Mười Giộc tung hỏa mù báo cáo láo với lãnh đạo tỉnh, trung ương và bắt hai đồng chí Bí thư thành ủy là những cán bộ kiên trung hạ ngục tra tấn, bức cung rất dã man. Dã man hơn cả cầm thú, chúng bỏ đói đồng chí Ba Lan, dùng phân trộn với bo bo bắt ăn…Tiếp theo là hàng loạt cán bộ khác không cùng ekip với Giộc lần lượt bị bắt bỏ tù mà không biết lý do gì. Thậm chí có nữ đồng chí bị Giộc hãm hiếp trong tù như bọn chúa ngục trước đây. Có một lần, ông Trương Văn Tư từng là cấp trên Mười Giộc lúc còn ở Cần Đước, sau này là Chi cục phó Chi cục Thống kê TPHCM quá bức xúc trước hành vi tàn bạo mất nhân tính của Giộc đã đến nhà Tư Thắng thú tội ngày trước nghe lời Giộc giết oan nhiều người và xin Tư Thắng nhanh chóng nghĩ ra cách nào đó tác động đến tỉnh ủy Đồng Nai ngăn chặn tội ác của Giộc gây ra… Nhưng có ai ngờ, ông Năm Chữ – Bí thư Đồng Nai lại quá mù mờ cả tin Giộc nên nói với đồng chí Trần Bạch Đằng rằng : “Mười Giộc nó là thằng tốt. Tại Tư Thắng thành kiến với Giộc”. Được bí thư tỉnh ủy dung túng và quyền lực một tay che trời, Giộc ngang nhiên “cặp bồ” với ả hồ ly Trần Kim Anh (Kim Anh Cyrnos) là vợ bé của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bị lực lượng an ninh miền Đông bắt giam cải tạo. Không chỉ phóng thích hồ ly Cyrnos Kim Anh, Mười Giộc còn công khai quan hệ với ả này với âm mưu khủng khiếp. Bố trí cho Kim Anh vượt biên sang Mỹ gầy dựng cơ nghiệp. Mặt khác, trong hai năm 1978-1979, Giộc câu kết với ả nhân tình gián điệp Kim Anh tổ chức hàng chục chuyến tàu vượt biên mua bãi, chung chi đầy đủ tại Hồ Cốc, Bình Châu, Lộc An thu cả nửa tấn vàng chuyển cho Kim Anh xây tổ ấm chờ ngày đoàn tụ. Nhưng thói đời thường tình xưa nay, những kẻ gieo ác luôn gặt tai họa và vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Khi bọn đàn em trong và ngoài tù của Kim Anh kẹt lại Việt Nam được Giộc tạo điều kiện thuận lợi nhất vượt biên an toàn, được tin tưởng Kim Anh giao vàng bạc sang trước, ả bắt đầu lật mặt nạ Giộc ra trước Trung ương. Nghe đâu là ả viết thư gởi lãnh đạo Trung ương kèm theo đầy đủ hình ảnh, băng ghi âm tổ chức vượt biên, thu nhận vàng tiền đóng bãi xuất bến và ăn nằm du hý với vợ bé Tổng thống Thiệu…Ả còn điêu ngoa cảm ơn cách mạng đã đào tạo ra những người như Mười Giộc “hết mình giúp đỡ’ cho bọn phản động vượt biên an toàn.
Ông Tư Thắng và Nam Trang chụp chung sau khi giải phóng Biên Hòa Năm 1983, vụ án Mười Giộc bị Trung ương chỉ đạo phá án. Bộ trưởng Phạm Hùng đích thân ký lệnh bắt Mười Giộc. Đồng chí Phó Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh Nguyễn Phước Tân hồi hộp cầm lệnh tiến đến nhà Tư Thắng bàn bạc phương án bắt gọn Giộc. Theo kế hoạch, sau khi Giộc bàn giao chức giám đốc công an, chắc chắn sẽ về nhà người yêu là cô Nga (vợ Sơn Tiêu) ở 17 Phan Kế Bính, quận 1, TPHCM. Nửa đêm bố trí cảnh sát khu vực và Công an quận 1 đến kiểm tra và bắt tại chỗ. Từng là cấp trên của Mười Giộc nhiều thời kỳ và hiểu mức độ tinh ranh, quỷ quyệt của Giộc nên Tư Thắng bàn: “Kế hoạch này sẽ có 2 khả năng cản trở : Giộc là một tên cáo già, khi ngủ tại nhà người yêu nửa đêm bị kiểm tra y sẽ tìm cách lẩn trốn bằng mọi cách và sinh nghi. Hơn nữa, Giộc cùng đường sẽ kháng cự để tẩu thoát vì hắn có súng và rất khôn ngoan, không thể đổ máu vô ích”. Tư Thắng cho rằng, muốn bắt Giộc phải hết sức bí mật, bất ngờ trở tay không kịp. Bố trí trinh sát hình sự giỏi võ theo từ cơ quan về nhà, dừng xe nơi đèn đỏ bất ngờ kiểm tra đọc lệnh và bắt. Hoặc sắp đặt cho lãnh đạo trên mời lên làm việc sau đó trinh sát ngoại tuyến bất ngờ ra tay. Ngày tàn của bạo chúa Mười Giộc đã đến…Theo giấy mời làm việc của UB Kiểm tra Trung ương tại nhà khách T78, Giộc rất tinh khôn tìm đến trước 2 ngày, nhưng đồng chí phụ trách trả lời bận việc không thể tiếp và hẹn đúng như trong thư. Qủa nhiên kế hoạch bắt Giộc diễn ra rất êm ái và bài bản trong khuôn viên nhà khách T78 khi tra tay vào còng số 8, khuôn mặt ương bướng và nham hiểm của Giộc vẫn không chút thay đổi hay biến sắc. Ngồi trong trại biệt giam, Giộc vẫn còn nghĩ ra quỷ kế để hại người theo một kịch bản dàn dựng sẵn. Giộc khai : Mỗi lần tên thiếu tá Trần Hùng vào chiến khu D đi săn đều ghé nhà H.20 (chỉ tên Nguyễn Văn Sang) thực ra là tìm căn cứ khu ủy miền Đông và Trung ương Cục để chỉ điểm cho Mỹ ném bom hủy diệt. Giộc khai tên Hùng thường ngủ nhà tên Sang có tiết lộ, ngoài việc tìm mục tiêu trên, còn tìm cách liên hệ với cơ sở mật của tình báo Hùng là ông Huỳnh Việt Thắng…Cán bộ an ninh trực tiếp hỏi cung và đối chất với tên Sang (H.20) nhận diện ảnh Trần Hùng cũng không biết, hỏi tên Tư Thắng, Việt Thắng, Mười Qùy cũng không biết. Giộc tưởng mình khôn ngoan hơn tất cả vì nghĩ rằng tên Sang H.20 đã vượt biên không ngờ vẫn còn trong trại giam. Phiên tòa sơ chung thẩm xét xử Mười Giộc tại hội trường lớn tỉnh Đồng Nai là một phiên tòa lịch sử của ngành tòa án Việt Nam do Phó Chánh tòa phúc thẩm tối cao Phạm Như Phấn làm chủ tọa, Tư Thắng đứng sau rèm chỉ huy. Trước Tòa, Giộc vẫn ngoan cố nói: Chỉ khi nào giải phóng khỏi nước Mỹ, lấy hồ sơ Năm Trang, Ba Lan xem mới thấy họ làm cho CIA. Liên quan đến Nguyễn Văn Sang (H20), Tòa đưa lên công đường, Giộc tái méc không còn hột máu trên mặt. Sang khai bị Giộc bắt đánh đập ép cung nhiều lần, ép khai hồ sơ giả mới để yên cho vợ và 8 người con nhỏ dại. Nếu nghe lời, vợ con được sống sung sướng, được cấp xe hơi cho chạy, nếu cãi lời sẽ giam và giết hết. Lời khai của Sang đã khiến Giộc ngã quỵ không nói một lời nào thêm. Sau 3 ngày xét xử, Tòa tuyên án Tử hình Nguyễn Hữu Giộc và Vũ Cao Thanh. Vụ án kết thúc trong niềm vui khôn tả của hàng ngàn người dân, đặc biệt là những người từng phải chết oan, tù tội và nhục hình do Mười Giộc gây ra. Kẻ ác phải đền tội.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 13, 2013 7:52:26 GMT 9
Chiến Ðấu Ðến Cùng: Vai Trò Của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh Và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III Trong Những Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Nhân đọc KBC số 14 “Ngày tàn binh của tôi hay là ngày cuối cùng của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh” của Nguyễn Minh Tánh, ở trang 35 có câu “… nhưng trong thâm tâm tôi lúc đó là rời khỏi đây đi về Vùng 4 Chiến Thuật chứ Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp thì đã tan hàng từ khuya.” Anh Nguyễn Minh Tánh kể lại diễn biến sáng ngày 30-4-1975 tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh ở Lai Khê và nghĩ rằng Lữ Ðoàn Kỵ Binh trấn giữ Biên Hòa lúc đó đã tan hàng từ lâu rồi! Tôi không rõ anh Tánh dựa vào đâu mà nói như vậy. Tôi đề nghị anh công khai đưa lên báo chí hay KBC chứng cớ rõ ràng để cho Cộng Ðồng Việt Nam nhất là những chiến hữu của chúng ta biết rõ. Ðiều mong muốn của tôi là tất cả quân nhân các cấp đã anh dũng chiến đấu, dưới ngọn cờ của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III trong đó có Thiết Giáp Kỵ Binh, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, Quân Y, Quân Cụ, Tiếp Vận, những chiến sĩ kiên cường đã nằm xuống, bị thương tật hay còn sống hiện nay trong nước hay ở ngoài nước không hổ thẹn khi nhắc đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. 1. Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III Lữ Doàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Lực lượng này do Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11/1970 để phục vụ chiến trường Campuchia. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III là một lực lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến đấu trên chiến trường, lúc cao điểm quân số và khả năng tác chiến của nó tương đương với một Sư Ðoàn cơ giới. Ðây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, trừ bị xung kích Quân Ðoàn III, khi thì can thiệp vào khu vực hành quân của Sư Ðoàn 25 Bộ Binh, khi thì tác chiến trong khu vực hành quân của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng III Chiến Thuật, chỗ nào “nặng” là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Thời Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí là Tư Lệnh Quân Ðoàn III kiêm Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, nó là lực lượng chủ lực Quân Ðoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt động trên chiến trường ngoại biên Campuchia. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III đã từng quần thảo nhiều với các Sư Ðoàn cộng sản Bắc Việt còn gọi là Công Trường CT-5, CT-7 và CT-9 ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Ðambe, Krek, Snoul, Ðức Huệ, An Ðiền, Rạch Bắp. Nó cứu Chiến Ðoàn 5 Biệt Ðộng Quân của Ðại Tá Ðương ở Chlong và Ðambe tháng 2/3-71 khi rút ra QL-7. Nó tiếp cứu Chiến Ðoàn 8/SÐ5BB ở Snoul rút về Lộc Ninh tháng 6-71. Nó giải vây và cứu Tiểu Ðoàn 30 BÐQ của Thiếu Tá Võ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11-71. Cuối năm 1971 tôi rời LÐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Trong hai năm 1972-1973 tôi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Ðoàn III phân tán và giải thể LÐ3KB đồng thời giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III. Khi trận An Lộc- Bình Long bùng nổ dữ dội mùa Hè 1972, lực lượng Thiết Giáp QÐ III hoàn toàn bị tê liệt. Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại LÐ3KB. Ngày 7-11-1973 tôi nhận Lữ Ðoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III theo mô hình tổ chức của Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền hành động. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ mình đã có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi Chi Ðội 3 chiến xa M-48, nó nhẹ nhàng, linh hoạt và hữu hiệu hơn 1 Chi Ðội 5 chiến xa. Mỗi Chi Ðoàn 11 chiến xa M-48 giờ đây có 4 Chi Ðoàn chiến xa 44 chiếc và 3 xe chỉ huy = 47 chiếc. Một Thiết Ðoàn chiến xa M-48 tổ chức theo Mỹ có 54 chiếc, vì vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cơ động hóa TÐ61 PB 105/Quân Ðoàn III bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở nặng đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải chở đại bác 105 ly của Pháo Binh đồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ. Ðược tăng phái Liên Ðoàn 33 BÐQ, Tiểu Ðoàn 46 PB 155, Tiểu Ðoàn 61 PB PB 105 và Tiểu Ðoàn 302 CB, tôi tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III thành 3 Chiến Ðoàn Thiết Giáp: Chiến Ðoàn 315, Chiến Ðoàn 318 và Chiến Ðoàn 322. Các Chiến Ðoàn đều có tổ chức giống nhau. Mỗi Chiến Ðoàn có: 2 Chi Ðoàn Thiết Kỵ M-113, 1 Chi Ðoàn Chiến Xa M-48, 1 Tiểu Ðoàn BÐQ, 1 Pháo Ðội 105 ly cơ động trên xe M-548 và 1 Trung Ðội Công Binh. BDH/LÐ 33 BÐQ, Ðội Trinh Sát/LÐ33, PÐ 105/LÐ 33, TÐ 46 PB 155, TÐ 302 CB(-) Chiến Ðoàn Chiến Xa M-48/TH.Ð 22 và ÐÐ Yểm Trợ Tiếp Vận/ BCH3TV. Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và tuyên truyền giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Ðoàn III là chúng tôi đã sẵn sàng. Ngày 2-4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực địch chung quanh đồn Bò Cạp ở Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Ðoàn 315 đập tan TÐ Tây Sơn thuộc Trung Ðoàn 101 địa phương. Cuối tháng 4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III đánh bại hoàn toàn Sư Ðoàn 5 Cộng Sản BV, giải vây cứu TÐ 83 BÐQ Biên Phòng ở Căn Cứ Ðức Huệ. Nó yểm trợ Sư Ðoàn 5 BB phản công chiếm lại An Ðiền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng 7/8-74. Nó giải tỏa áp lực địch ở phía Bắc Bình Dương, tiêu diệt BCH/TÐ Phú Lợi tháng 2-75. Nó giải tỏa áp lực ở Gò Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh tháng 3-75 để yểm trợ SÐ 25 BB tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11-4-75 đến ngày 25-4-75, trong 14 ngày đêm nó chận đứng mũi tấn công của 1 Quân Ðoàn Cộng Sản BV ở Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Ðoàn 52/SÐ 18 BB rút về Long Bình-Biên Hòa. 2. Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Tình hình vào hạ tuần tháng 4-75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Ðông ngày càng nặng, tôi được Quân Ðoàn tăng cường Trung Ðoàn 8/SÐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Ðoàn 52/SÐ18BB của Ðại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. Ở Sài Gòn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa đóng cửa. Ngày 20-4-75 SÐ18BB của Tướng Lê Minh Ðảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21-4-75, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, Phụ Tá Ðại Sứ Martin ở Sài Gòn, đại ý nói: - “Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các Sư Ðoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không. Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho Quân Lực chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đình tôi được di tản đến một nơi an toàn…” Sau khi SÐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25-4-75 Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III được rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Ðoàn 9/SÐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Ðoàn. Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25-4-75, có tin lực lượng địch chiến trường Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Ðoàn, tôi liền phái Chiến Ðoàn 322 tăng cường 1 Tiểu Ðoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Long Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến Ðoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức lòng toàn dân ở Biên Hòa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn III hứa sẽ thưởng 1.200.000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100.000 đồng. Ngày 29-4-75 có lệnh mới của Quân Ðoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III ngoài Liên Ðoàn 33 BÐQ, được tăng phái thêm: Lữ Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù (- Tiểu Ðoàn) và Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu Ðoàn 46 PB 155 và Tiểu Ðoàn 61 PB 106 Quân Ðoàn. 12 giờ trưa ngày 29-4-75, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SÐ18BB ở Long Bình. Chỉ có Toàn, Ðảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SÐ18BB của Ðảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực lượng ÐPQ và NQ của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SÐ25BB ở Củ Chi đã bị địch chiếm, SÐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Ðảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn. Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Ðại Tá Hiếu, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 43/SÐ18BB với giọng rung rung xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bôm và Trung Ðoàn 43 BB đang rút quân về hướng Long Bình, mặt Ðảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu, bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Ðông Biên Hòa ở Trảng Bôm của SÐ18BB khó có thể cầm cự nổi vì SÐ18BB đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Ðảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: - “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.” Xoay qua tôi, anh nói tiếp: - “Còn số tiền thưởng 1.200.000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ Ðoàn.” Ðấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III, tôi liền họp các Lữ Ðoàn Trưởng, Liên Ðoàn Trưởng, Chiến Ðoàn Trưởng và các Ðơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Hòa đã bỏ trốn từ mấy ngày trước. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29-4-75, chỉ thị cho các đơn vị Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xã Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ðể phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III như sau: - Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc BTL/Quân Ðoàn III. - Lữ Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: 1 Tiểu Ðoàn bảo vệ BTL/Quân Ðoàn III, Lữ Ðoàn (- Tiểu Ðoàn) bố trí phòng thủ mặt Nam BTL/Quân Ðoàn III. - Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Ðoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều Tiểu Ðội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới Biên Hòa, giữ Cầu Sắt Biên Hòa và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Hòa. - Chiến Ðoàn 315: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến ngã Tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng). - Chiến Ðoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa (trừ bị 1). - Chiến Ðoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa (trừ bị 2). - Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực. - BTLLÐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III: Ðặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Ðoàn, thì thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ pilot vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lãm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Ðội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa. Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Ðông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân Biệt Ðộng Quân của Chiến Ðoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Ðịch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Ðông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến phòng thủ. Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Ðổng ở Sài Gòn. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách gì liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Sài Gòn. Tôi tự hỏi Ðại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Ðội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không? Ðến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: - “Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Ðại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?” - “Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Ðảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Ðông Biên Hòa.” 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp: - “Ðại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 8 giờ sáng mai, để Ðại Tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự: - “Ðược, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Ðại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: - “Lệnh của Ðại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ sáng ngày 30-4-75. Chúc anh thành công.” Tôi đáp nhận. Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung Ðoàn từ Ngã Ba Hố Nai - Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III. Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðỗ Ðức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Ðịch rút lui. Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, Tướng Lê Minh Ðảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: - “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: - “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?” Ðảo đáp: - “Tôi hiện ở gần nghĩa trang Quân Ðội, đang rút đi về hướng Thủ Ðức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Ðảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Ðảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, vì Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SÐ18BB của Ðảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Ðoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất. Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Hòa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến Ðoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến Ðoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh. Ðúng 08 giờ sáng ngày 30-4-75, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ Ðoàn Trưởng, Liên Ðoàn Trưởng, Chiến Ðoàn Trưởng và các Ðơn Vị Trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trong thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngoài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Ðặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hãm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SÐ18BB rã ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm vì sợ có tình trạng gây mất tinh thần rã ngũ giây chuyền như đã xảy ra ở miền Trung trước đây. Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30-4-75, tôi kết luận buổi họp: - “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Ðô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III về tiếp cứu Sài Gòn.” Tất cả các Ðơn Vị Trưởng ủng hộ quyết định này của tôi. Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III tiến về Sài Gòn theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Hòa-Sài Gòn và xa lộ Ðại Hàn làm hai trục tiến quân chính. a) Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Ðoàn) do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài Gòn. Ðến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh. b) Lữ Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài Gòn. Ðến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh. c) Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh + Liên Ðoàn 33 Biệt Ðộng Quân: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND và TQLC rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Cầu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Ðại Hàn làm trục chính, tiến về Sài Gòn theo thứ tự như sau: - Chiến Ðoàn 315 do Trung Tá Ðỗ Ðức Thảo chỉ huy: Ði trước, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh. - Chiến Ðoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Ði sau CÐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí sau CÐ 315, chờ lệnh. - Chiến Ðoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Ðức Dương chỉ huy: Ði sau cùng, đến Sài Gòn, bố trí sau BTL và Ðơn Vị Yểm Trợ, chờ lệnh. Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30-4-75. Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài Gòn. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với Sài Gòn, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Ðô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: - “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: - “Còn anh thì sao?” - “Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con còn ở Biên Hòa” - “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi.” Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân cộng sản BV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 bò vô Sài Gòn. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Ðổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân Ðoàn III. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung Úy mang huy hiệu Quân Ðoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Ðô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Sài Gòn để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima. Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTÐ và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút. Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Ðội và Tổ Quốc. 3. Quan Ðiểm và Kết Luận Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30-4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên Cộng Sản cũng như của bên ta về cuộc chiến tranh Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Ðặc biết khi viết về Biên Hòa thì không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược số 1 của MNVN, phi trường Biên Hòa còn là nơi đặt bản doanh BTL/Quân Ðoàn III và V3CT, đầu não của bộ máy quân sự miền Ðông. Biên Hòa là cửa ngõ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Ðể mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam Việt Nam. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rõ về Biên Hòa trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, vì nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà mình là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về mình, cái mà tôi không hề thích vì như Pascal nói: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đã viết sai sự thật về LÐ3KB do tôi chỉ huy, đã xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những ngưỡi đã hy sinh và những người còn sống, phải cải chính và nói lại cho rõ để không phụ lòng những chiến sĩ anh hùng đã cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng. Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ Cộng Sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến tranh để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III, đặc biệt chúng bắt tôi viết đề tài “Những nguyên nhân nào mà LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III do tôi chỉ huy không bị tan rã trước sức tấn công của Quân Ðội Cách Mạng.” Chính miệng chúng nói với tôi: - “Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Ðội Sài Gòn chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn.” Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến Ðoàn 318 trên chiến trường.Campuchia thời Tướng Ðỗ Cao Trí của LÐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III mà chúng gọi là những tội ác “Trời không dung Ðất không tha” và kết tội tôi đã kéo dài chiến tranh nhiều năm. Chúng đã chọn và định đưa một số chúng tôi ra Tòa Án Chiến Tranh của chúng xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Ðồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ. Tôi không hề ân hận việc mình đã làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà mình phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, thì tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ. Virginia ngày 16/6/1995
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 20, 2013 10:31:48 GMT 9
Chiến tranh Việt-Mỹ, bài học cay đắng của lịch sửSơn Diệu Mai Sự hèn nhát và cam chịu đó cho phép chúng tiếp tục tồn tại, và điều này hứa hẹn một cách chắc chắn những cuộc huỷ diệt khác, có thể còn bội phần tàn khốc trong tương lai. Ảo tưởng Tất cả những ai quan tâm đến đạo Phật đều biết một ví dụ tiêu biểu nhằm minh chứng tính sai biệt trong nhận thức của con người. Chuyện đó như sau: Thoạt tiên, người ta ngỡ Sợi Thừng là Con Rắn. Họ hốt hoảng kêu trời. Rồi khi định thần mới biết: Con Rắn thực chất chỉ là Sợi Thừng. Họ liền thở dài khoan khoái vì hết sợ. Người ta tưởng nhầm sợi thừng là con rắn khi mắt nhắm mắt mở, khi loạng choạng trong cơn mơ màng, khi tâm thần hoảng hốt, khi trí não bất định…, tóm lại, khi không còn khả năng nhận thức một cách sáng suốt. Hiện thực biến ảo theo con mắt. Con mắt biến ảo theo tâm thức. Tâm thức bị chi phối vì Thèm muốn, lòng Thù hận, sự Mê đắm mà nói theo ngôn ngữ nhà Phật là Tham, Sân, Si. Con người vốn là nô lệ cho thế giới tâm thức của chính họ. Bị Tham, Sân, Si điều khiển, họ hành động như con rối. Tuy nhiên, do hoạt động tâm thức bao gồm hai mặt Hữu thức và Vô thức nên khi mà Hữu thức hành động theo chỉ dẫn của Tham, Sân, Si, Vô thức liền tìm cách biện minh cho hành động đó, nó buộc phải đổi thay hiện thực, nó nhầm tưởng hoặc tự đẩy mình vào sự nhầm tưởng, như thế Sợi thừng biến thành Con Rắn. Đó là trò đánh tráo có tự ngàn năm xưa. Hồ Chí Minh. Nguồn: OntheNet Những biểu tượng có tự ngàn năm, những hình mẫu được liệt vào loại cổ xưa (archaic) có sức sống lâu bền hơn chúng ta thường nghĩ. Đôi khi, lòng kiêu ngạo khiến con người mù quáng nên họ tưởng rằng họ đã bay lên quá cao, bước đi quá xa, và bỏ lại sau lưng mình một quá khứ hoàn toàn bị xoá trắng. Con người đã tiến từ rừng xanh xuống đồng bằng, rời hang đá xây lâu đài và đô thị, họ bỏ những chiếc thuyền buồm để đổi lấy thứ tầu thuỷ chạy bằng hơi nước; rồi từ loại động cơ nhiệt điện họ chuyển sang dùng năng lượng nguyên tử như ngày nay. Vậy mà, xét trên phương diện xã hội, các bi kịch quanh đi quẩn lại vẫn chẳng vượt qua các hình mẫu bi kịch cổ Hy Lạp, sân khấu châu Âu lúc này vẫn diễn đi diễn lại Shakespeare và Chekhov, v.v. Thế nên, sau khi suy ngẫm, một nhà tư tưởng đã thốt lên: “Chẳng có gì mới lạ dưới ánh mặt trời”. Như thế đủ đẻ thấy có một sự khập khiễng khá rõ giữa sự phát triển khoa học kỹ thuật với đời sống tinh thần của loài người. Đủ thấy, các hình mẫu cổ xưa trường tồn hơn tất cả mọi triều đại. Liệt kê và soi xét lại các sự kiện xảy ra trong quá khứ, ta thấy khá nhiều điều, thoạt đầu tưởng là một khám phá ghê gớm, sau phút choáng váng nhìn cho kỹ và suy nghĩ lại, vẫn chỉ là bản sao chép có biến đổi tình tiết nhưng không thoát khỏi các hình mẫu cũ. Có những sự kiện thoạt đầu tưởng chừng là hùng vĩ, lớn lao, suy nghĩ lại hoá ra trò con trẻ. Có những thành công thoạt đầu tưởng như vẻ vang, nhìn cho chỉnh, nghĩ cho sâu, hoá ra điều hổ nhục. Tóm lại, sự nhầm lẫn giữa Sợi Thừng và Con Rắn, diễn đi diễn lại không ngừng trong đời sống mỗi cá nhân, cũng như trong đời sống của các cộng đồng. Ảo vọng không ngừng lừa gạt con người, với tư cách cá thể hoặc với tư cách quốc gia, dân tộc, tuỳ theo nhân nghiệp hay cộng nghiệp. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là một ví dụ điển hình cho hình ảnh Sợi Thừng và Con Rắn, một hiện tượng đặc biệt sâu sắc cho tính tàn khốc của lịch sử cũng như cho sự mỉa mai của số phận, một bài học cay đắng vô tiền khoáng hậu cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Thế hệ chúng tôi được gọi là “thế hệ chống Mỹ”. Tuổi hai mươi của chúng tôi hoà nhập cùng với cuộc xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước và những lời ca đầy hào khí như: “Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn, Đá mòn mà đôi gót không mòn…” Lúc đó, chúng tôi đi mà không nghĩ đến ngày về, theo tinh thần của những người lính ôm bom ba càng năm 1946: Quyết Tử Cho Tổ Quốc Quyết Sinh. Những người bạn thân thiết của tôi đều chết trên chiến trường khu 5 (Quảng Nam, Bình Định, Quảng Trị ) và trên đất Khmer. Có đứa còn tuyên bố: “Cố thắng một trận nữa để được kết nạp vào đảng rồi có chết thì chết.” Một khát vọng thành thực đến đau đớn. Tất cả đều sẵn sàng hy sinh cho một chung cuộc lớn lao: một tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do và phồn vinh. Sau cùng, ngày chiến thắng đã tới. Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngỡ rằng chung cuộc đã đến. Tưởng vậy mà không phải vậy. Bởi vì, không có một chung cuộc lớn lao khi số phận dân tộc bị những cái đầu bé tí điều hành. Không có một chung cuộc lớn lao khi cả dân tộc bị những kẻ đại diện cho chính nó lừa bịp. Không có một chung cuộc lớn lao khi cả dân tộc sống thường trực trong ảo vọng, trong trạng thái lầm tưởng, nhìn sợi thừng mà đinh ninh là con rắn. Trong tình thế lịch sử ấy, mọi sự diễn ra đều mù mờ, cái thực trộn cùng cái giả, các sự kiện cụ thể nhào trộn với các con số ma quỷ, ngay đến mặt người cũng chỉ là các tấm mạt nạ sân khấu Hy Lạp cổ xưa hoặc các vai tuồng cũ được phù phép mà thôi. Ai ai cũng đinh ninh rằng người lãnh đạo tối cao, hình tượng biểu trưng cho quyền lực, linh hồn của cuộc chiến tranh chống Mỹ là Chủ tịch Hồ chí Minh. Trong thực tế, ông Hồ là người kiên quyết chống lại cuộc chiến tranh này. Nhưng ý chí của ông bị dìm sâu trong bóng tối của hậu trường sân khấu chính trị và ông buộc phải sắm vai thủ lĩnh dởm cho đến lúc xuống mồ. Vì ông là kẻ lẻ loi, không vây cánh. Lúc đó thực quyền đã lọt vào tay cặp bài trùng Lê Duẩn – Lê Đức Thọ. Sau lưng ông Hồ chỉ có vài người: thứ trưởng Lê Liêm, tướng Võ nguyên Giáp và mấy uỷ viên trung ương khác. Trong khi đó, toàn bộ số uỷ viên trung ương còn lại, gồm trên ba trăm người, kể cả các uỷ viên Bộ chính trị như ông Trường Chinh, ông Phạm văn Đồng, ông Hoàng quốc Việt …, tất cả đều thuộc phe chủ chiến dưới bóng cờ của hai ông họ Lê. Lê Duẩn – Lê Đức Thọ. Nguồn: OntheNet Mãnh hổ bại quần hồ; một con hổ không thể chống lại một bầy cáo. Đám đông là kẻ chiến thắng trong mọi trò chơi. Như thế, vào giây phút quyết định của đại hội có tính chất lịch sử này, chủ tịch Hồ đã rời phòng họp ra ngoài hành lang hút thuốc, một mình thứ trưởng Lê Liêm bỏ phiếu chống, vài người bỏ phiếu trắng. Kết cục, phe chủ chiến toàn thắng với số phiếu mà theo cách nói của người nước ngoài, “victoire écrasante” hay “lanslide Victory”, chiến thắng long trời lở đất, nghiền nát đối phương. Không cần bắt chước người nước ngoài, phe chủ chiến Hà Nội cũng đã lập tức nghiền nát những kẻ chủ trương chung sống và thi đua hoà bình giữa hai thế giới. Những người này được gọi chung là“ Bọn xét lại, tay chân thằng Khơ-rút-xốp”. Họ bị tống giam không cần xét xử. Trong số đó, có thể kể tên các ông Hoàng Minh Chính, Minh Tranh, Nguyễn Kiên Giang, Trần Châu, Huy Vân, v.v. Lãnh tụ vĩ đại Hồ chí Minh, vì đã được tôn lên quá cao, đã thánh hoá triệt để, không thể nghiền nát ra tương, nên được sử dụng như một zombie dưới cái gậy chỉ huy của đàn em, và cái gậy này được quấn một lượt giấy trang kim sặc sỡ có tên: Kỷ luật đảng – Uy tín đảng. Sự thống nhất được gìn giữ như con ngươi mắt giữa những người cộng sản. Hồ chí Minh đã buộc phải sống trong ngôi nhà sàn tại phủ Chủ tịch, không được quyền tiếp xúc với ai nếu không có lệnh của “chú Ba và chú Sáu”. Ngôi nhà sàn này đích thực là nhà ngục mà ông già họ Hồ đã trải qua những năm tháng cuối của cuộc đời. Ông tiếp tục ủy lạo các đoàn chiến sĩ miền Nam ra Bắc, tiếp tục mỉm cười và phát kẹo cho các cháu thiếu nhi, tiếp tục làm thơ chúc mừng năm mới…Tất cả đều diễn ra một cách máy móc, hoàn toàn không có nội dung. Hãy nhớ lại bài thơ chúc Tết của ông năm 1968: “Năm qua thắng lợi vẻ vang Năm nay tiền tuyến lại càng thắng to…” Năm ấy, cuộc tấn công đại bại, lính chết như ruồi trúng thuốc độc, nhưng Chủ tịch Hồ chí Minh không hề hay biết sự thực, ông có nhiệm vụ làm thơ động viên, ông thi hành “chỉ thị đảng” theo cách một người máy (robot) hoặc một zombie. Cuộc sống đích thực của ông Hồ giai đoạn này có thể sánh với cuộc sống của một nhà vua bị giam trong hầm tối, chỉ có điều nhà sàn thì dễ thở hơn nơi hầm tối mà thôi. Duy nhất có một người đã liều lĩnh vào phủ chủ tịch gặp ông: dân biểu Quốc hội Dương Bạch Mai. Ông Mai bị đầu độc chết tức khắc sau cuộc gặp đó. Như thế, ngay khởi đầu, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ đã diễn ra trong sự lường gạt; ông Hồ buộc phải đóng vai Người lãnh đạo vĩ đại của một cuộc chiến đấu được mệnh danh là vĩ đại mà chính ông không hề mong muốn. Vậy thì, ai là kẻ thực sự mong muốn cuộc chiến tranh này? Chúng ta sẽ xét theo lớp lang: Gần nhất, rõ rệt nhất, hiển nhiên nhất là cặp bài trùng Lê Duẩn-Lê Đức Thọ. Ông Lê Đức Thọ không dấu giếm tham vọng, thường xuyên tuyên bố, “Bây giờ, đến lượt tao”. Đến lượt tao lên ngôi, đến lượt tao cầm trịch. Nhưng muốn lên ngôi, muốn cầm trịch phải có món lễ tế thần, món đồ lễ thích đáng nhất là vòng hoa chiến thắng của một cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh ấy buộc phải gây ấn tượng mạnh, ít nhất phải mạnh hơn cuộc kháng chiến trên vùng núi rừng Việt Bắc dăm bẩy lần. Muốn thế, tầm cỡ của nó phải hùng vĩ hơn để ánh hào quang của nó khiến thiên hạ mờ mắt, tiếng nổ của nó khiến thiên hạ choáng óc, đinh tai. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ đích thực là cuộc chiến tranh gây ấn tượng; một dân tộc nhược tiểu dám đứng lên đối mặt với ông khổng lồ trên tất thảy mọi chiều kích; sự thật ấy đồn thời khiến các dân tộc khác động lòng thương cảm lẫn khâm phục. Phong trào phản chiến những năm cuối thập niên 60 sang thập niên 70 lan rộng khắp địa cầu là bằng chứng hiển nhiên cho mối đồng cảm này. Dẫu rằng tham vọng sôi sùng sục như nồi súp-de, Lê Đức Thọ cũng đủ khôn ngoan để hiểu rằng ông ta không đủ tư thế thoán đoạt ngai vàng một cách trực tiếp từ tay ông Hồ chí Minh nên đã liên kết với Lê Duẩn. Lê Đức Thọ sáng tác câu: Ngọn đèn nghìn nến để gán cho Ba Duẩn, nghĩ rằng với sự khéo léo, xảo quyệt vốn có, ông ta sẽ đạt đến mục đích cuối cùng. Lê Duẩn cao tay hơn, không tuyên bố, nhưng nghiễm nhiên nắm quyền, bởi ông ta là người được ông Hồ chí Minh yêu quý nhất, tin tưởng nhất. Trong thực tế, ông ta đã sử dụng Lê Đức Thọ chứ không để Lê Đức Thọ lợi dụng mình. Chính Lê Đức Thọ đứng ra tổ chức các cuộc vây ráp, bắt bớ, hãm hại, nhằm triệt tiêu vây cánh tướng Võ nguyên Giáp. Trong một thời gian cấp tập, tất thảy những sĩ quan làm việc dưới trướng Võ đại tướng cũng như được đào tạo tại Trường Kutuzov, Liên-xô đều bị lùa vào nhà tù Thanh Liệt. Ở trong đó, một số chết vì tra tấn, số khác mấy chục năm sau mới được thả ra. Lê Đức Thọ cũng là tác giả hiển nhiên những cái chết của các ông Dương Bạch Mai, Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Thế nhưng quyền Tổng bí thư vẫn không lọt vào tay ông ta. Lê Duẩn không cho phép “thứ huynh được quyền phạm thượng”. Ông ta sử dụng sự tín nhiệm của ông Hồ chí Minh như một thứ vũ khí tuỳ thân, trước hết để hạ bệ chính bậc lão huynh, sau đó để gạt bọn người có tiềm năng trở thành đối thủ trên chính trường: Võ nguyên Giáp và Trường Chinh là hai kẻ đáng kể nhất. Trong thâm tâm Lê Duẩn mưu tính dựng lên một Khải hoàn Môn lẫm liệt hơn Khải hoàn Môn của họ Hồ. Ông Hồ làm cuộc kháng chiến chống Pháp, Lê Duẩn làm cuộc chiến tranh chống Mỹ. Nếu Mỹ hùng mạnh hơn Pháp ba mươi lần thì đương nhiên, danh tiếng họ Lê phải được nhân loại thán phục, tôn sùng gấp ba mươi lần danh tiếng họ Hồ. Một thứ lô-gic đơn giản, học sinh cấp 2 cũng tính ra. Xưa nay, quyền lực là thứ khát vọng dẫn đến sự giết người, cha giết con, con giết cha, mẹ giết con, bà giết cháu đã xảy ra trong nhiều triều đại cũ, đặc biệt là dưới các triều đại Trung Hoa. Việc mài gươm cắt cổ giữa “các đồng chí” cũng là điều dễ hiểu. Đạo diễn Hãy tạm coi tấn tuồng tranh quyền, đoạt lợi vừa kể trên là điều khó tránh. Gạt nó sang một bên. Chúng ta tiếp tục tìm xem tác giả sau chót của cuộc chiến tranh thống khổ này là ai. Là ai? Kẻ đứng sau lưng cặp Lê Duẩn, Lê ĐứcThọ và trên ba trăm uỷ viên trung ương đảng vào ngày quyết định? Là ai? Kẻ hưởng lợi trên thứ hư danh mà xương máu mười triệu người Việt Nam đổi lấy, là ai? Là ai? Kẻ coi cuộc chiến này là một hí trường, trong đó xương rơi máu chảy được sánh như phong cảnh kỳ thú, diễm lệ, là ai? Bởi vì, chỉ có kẻ ngồi nhìn cuộc chiến tranh này theo tư cách một khán giả đầy hào hứng, một cổ động viên đầy nhiệt thành, đó mới chính là tác giả cuối cùng và đích thực tạo nên cuộc chiến tranh Việt-Mỹ. Như thường lệ, tác gỉa chính thức của các cuộc chiến tranh bao giờ cũng đứng trong hậu trường. Để xét một cuộc chiến, buộc phải nhìn về hai phía. Về phía Mỹ, đó là chủ trương sử dụng miền Nam Việt Nam như một tên lính đánh thuê để ngăn chặn làn sóng cộng sản. Về phía miền Bắc Việt Nam, những người cộng sản Hà Nội cao giọng tuyên bố rằng họ đang: “Thực thi một sứ mạng lịch sử”. Bởi vì họ “đang đứng trên đỉnh cao thời đại”. Và họ “là lương tâm nhân loại”, v.v. Kể không hết những lời tự tán dương mà ông Tố Hữu là người xướng ngôn tiêu biểu. Điều này thực hay giả? Bao nhiêu phần trăm có căn cứ và bao nhiêu phần trăm là mánh khoé tuyên truyền? Hệ thống tuyên truyền của cộng sản là sự sao chép trung thành hệ thống tuyên truyền của Hitler. Với các điều kiện lịch sử cụ thể lúc ấy, Việt Nam không thể tiến hành cuộc chiến tranh Việt-Mỹ nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc và Liên xô. Trước hết là Trung quốc. Chớ quên rằng từ sau chiến dịch biên giới 1951, các cố vấn Trung Quốc đã tràn qua biên giới và sự lãnh đạo sao sát của họ đặc biệt hữu hiệu kể từ cuộc giảm tô 1953. Đọc lại hồi ký của một số cán bộ cộng sản là thấy rõ cảnh “Sĩ quan Việt Nam phải bưng nước nóng cho các đồng chí cố vấn ngâm chân và nghe giảng giải Cách thực hiện cuộc cải cách”. Cũng chớ quên rằng khởi đầu cuộc chiến tranh, Chỉ thị số Một được ban phát cho đảng cộng sản Việt Nam là: “Đánh Mỹ đi, đừng sợ, Mỹ chỉ là con hổ giấy thôi. Các đồng chí Việt Nam có vinh dự làm cuộc chiến tranh này, các đồng chí là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa.” Con hổ giấy. Nguồn:OntheNet Lời lẽ đó khởi xướng từ Người cầm lái vĩ đại Mao trạch Đông. Chỉ thị do Mao ban phát đã trở thành trụ cột tinh thần của đám cộng sản Hà Nội, niềm hứng khởi cách mạng và đem cho họ quyết tâm sắt đá thực hiện giấc mộng vàng: chiến sĩ tiền đồn phe xã hội chủ nghĩa. Chính niềm hứng khởi này đã khiến hơn ba trăm uỷ viên đảng cộng sản Việt Nam nhất tề đứng về phe chủ chiến của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Chính niềm cảm hứng này đã xui khiến họ đi đến những hành vi vô lại, thậm chí điên rồ. Hãy nhớ lại một cảnh đã xảy ra trong đại hội: Thứ trưởng bộ công an Lê Quốc Thân đã xấn xổ chỉ mặt thứ bộ trưởng bộ văn hoá Lê Liêm mà hét: “Nếu mày còn tiếp tục luận điệu của bọn xét lại, tao sẽ treo cổ mày lên.” Chủ tịch họ Hồ, lúc đó phải can thiệp: “Nếu chú muốn treo cổ chú Liêm, hãy treo cổ tôi trước đã.” Loại hành vi như thế mà diễn ra giữa các bậc lương đống triều đình, phải được coi như biểu hiện của một thứ cuồng tín tôn giáo, nếu không là thói quen của bọn đầu đường xó chợ. Để kết luận hiện tượng này, phải công nhận rằng Mao trạch Đông là kẻ tài tình, một chính trị gia lỗi lạc. Nhẹ nhàng và khéo léo, ông ta đã dẫn dụ đám cộng sản Hà Nội vào con đường mà chính ông ta vạch ra. Họ Mao quả là bậc thầy kiệt xuất trong chính trường, là phù thuỷ lão luyện đối với lũ âm binh xứ Việt. Lúc đó, thứ nghĩa cộng sản nhập cảng với mớ danh từ hào nhoáng của nó khiến đám cầm quyền Việt Nam có mắt như mù, có tai như điếc. Họ không hiểu rằng ngôn từ vốn là con đĩ ngàn đời, rằng lưỡi người không xương và nó có thể uốn đi uốn lại như chiếc lá trong cơn gió. Bởi vì, nếu gạt mớ danh từ mà họ vừa bập bẹ ở đầu môi như: Đồng chí, Tình hữu nghị, Quốc tế vô sản, Bốn bể một nhà, v.v. Mao trạch Đông thực chất là một đại hoàng đế Trung hoa, kẻ thứ hai sau Tần thuỷ Hoàng có khả năng thống nhất Trung quốc. Dù Mao không mặc long bào mà mặc áo cài khuy kiểu Tôn Trung Sơn, tâm địa, lối suy nghĩ của ông ta vẫn tuân theo truyền thống ngàn năm của Đế vương phương bắc. Đối với các Đế vương phương bắc, Việt Nam muôn đời là mảnh thảm chùi chân, nơi tồn tại đám nô lệ rắn mặt, đám mọi bẩn thỉu ngu ngốc, một xứ sở man rợ mà họ đã đặt tên chính thức là Nước chó. Xuất thân là nông dân Hồ Nam, Mao là một lãnh tụ điển hình của Trung Quốc, người thực thi không sai sót những mánh khoé lịch sử đã được sưu tập từ thời ông tổ họ Hán tên Lưu Bang. Không cần thêm một chút sáng tạo nào, chỉ cần sử dụng các bài học rút ra từ Tam quốc chí, Đông Chu liệt quốc, Hán Sở tranh hùng là đủ tạo nên sự nghiệp lừng lẫy. Hãy phân tích hai khẩu hiệu chính thức do Mao chủ tịch chí tôn dạy đám đàn em cộng sản Việt Nam: Chúng ta có sứ mạng cắm ngọn cờ hồng lên toàn trái đất! và Đánh Mỹ đi, đừng sợ, Mỹ chỉ là con hổ giấy thôi! Thứ nhất, nếu quả thật, cầm cắm ngọn cờ hồng lên toàn cõi đất, tại sao Mao không trực tiếp điều binh khiển tướng chống lại Mỹ như ông ta đã từng làm trong cuộc chiến tranh “Chống Mỹ viện Triều”? Biên giới giữa hai nước Bắc và Nam Triều Tiên luôn luôn là một mặt trận dự phòng, sẵn sàng bùng cháy bất cứ lúc nào khi Bắc Kinh châm lửa. Bởi vì, dù tuyên bố hay không Bắc Triều Tiên cũng là một chư hầu vô cùng gần gũi, phụ thuộc hoàn toàn vào triều đình Trung hoa. Chiến tranh thu phục đất Liêu vốn đã xảy ra từ xửa từ xưa, đặc biệt dưới thời Đường Thánh Tông với viên tướng Tiết Nhân Quý được huyền thoại hoá và tiểu thuyết hoá. Đất Liêu không xa lạ đối với người Trung Hoa. Chiến xa lẫn chiến thuyền Trung Hoa đã quen các lối đi về và các chiến binh cũng vậy. Thêm nữa, Nam Triều Tiên cũng như Nhật Bản lại là hai nước đồng minh chắc chắn của Mỹ, hai nền dân chủ phương Tây được trồng cấy một cách hữu hiệu, không như chính quyền Ngô đình Diệm, vừa phong kiến hủ bại và phản động, vừa vô hiệu quả, một niềm thất vọng to lớn đối với Lầu năm góc lẫn Nhà Trắng. Với tất cả những lý do đó, nếu như Mao thực tâm muốn đốt cháy con hổ giấy Mỹ để cắm ngọn cờ hồng lên toàn hành tinh, ông ta phải kéo đại quân qua đất Liêu để dựng Khải hoàn Môn lần thứ hai, sau khi đã đánh lùi quân Mỹ dạt xuống tận vĩ tuyến 38. Điều thứ hai, có thực tình Mao trạch Đông coi Mỹ là Con hổ giấy hay không? Hoặc giả, đó chỉ là lối đại ngôn quen dùng của các tướng Tầu mỗi khi ra trận: “Ta đây là Thanh Long tướng quân, là Bạch hổ tướng quân, ngươi không biết hay sao? Tên tiểu tốt kia mau xuống ngựa buông vũ khí ta sẽ cho toàn mạng, v.v.” Lối đại ngôn này đã là món sở trường lẫn sở đoản của xứ Tầu. Nó chỉ là một thói quen xưng danh, một công thức diễn đạt, hoàn toàn vô nội dung. Vì vậy, gọi Mỹ là con hổ giấy chỉ là một kiểu lộng ngôn, hoặc do thói quen, hoặc để bỡn cợt, hoặc để lừa mị. Thực ra, họ Mao không đếm xỉa đến điều mình nói. Người châu Á vốn quen nói dối, coi nói dối như một phương tiện hữu hiệu để tránh né những tình cảnh khó chịu hoặc để tự bảo vệ bản thân, hoặc để dẫn dụ thiên hạ. Không! Mao trạch Đông không ngớ ngẩn đến mức tin rằng Mỹ là con hổ giấy. Một kẻ đã từng thành công trong cuộc vạn lý trường chinh, dùng hai triệu quân mà đánh tan hơn tám triệu quân của Tưởng Giới Thạch, thâu tóm quyền lực trong toàn cõi Trung hoa; một kẻ quen chiến chinh, tính toán như thần, không thể suy nghĩ hồ đồ theo kiểu ấy. Cho dù thắng Mỹ trong cuộc chiến ở Triều Tiên, Mao không thể không biết rằng một người lính Mỹ ngã xuống phải đổi bằng cả chục mạng lính Tầu, không kể lính bản xứ (và sự thực này cũng lặp lại trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ). Nhưng ở những nước đắm chìm từ ngàn năm trong khói lửa, mạng người không đáng giá hơn mảnh lá chuối là bao. Mao trạch Đông, đế vương của các bậc đế vương phương bắc, kẻ đã gây ra những tổn thất tầy trời cho quốc gia; bỏ đói vài chục triệu dân một cách điềm nhiên như chơi ván cờ; xúi bẩy đám thiếu niên nổi loại để giết vài chục triệu người khác dễ dàng như thay áo lót; rồi khi đã lâm vào cùng đường lại bầy trò Vượt sông Trường giang, đổi bại thành thắng, biến nguy vi an như bỡn; kẻ đó không thể thực lòng coi Mỹ là con hổ giấy. Chỉ có đám cộng sản Hà Nội là thành thực tin vào những điều giả trá đó mà thôi. Theo đúng kiểu những thổ dân da đỏ châu Mỹ trước kia, vì ngu muội mà đổi vàng thật, ngọc thật lấy đám vòng chuỗi bằng nhựa xanh đỏ của đám lái buôn thực dân phương Tây, đảng cộng sản Việt Nam đổi máu dân để lấy thứ hư danh, “Vinh quang thắng Mỹ” thứ hư danh đó được coi như món tiền đặt cược trên chiếu bạc để cường quốc Trung Hoa chơi với cường quốc Mỹ và vênh mặt với phương Tây. Điều đáng kể hơn nữa là đám cầm quyền Hà Nội, trong cơn mải mê truy tìm vinh quang và danh vọng, đã đánh mất khái niệm cỗi rễ về quan hệ quốc gia. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, mối liên quan giữa các nhà nước chỉ đơn thuần vì quyền lợi. Không ai vì ai hết. Tất thảy đều đặt trên con tính lợi quyền. Mọi chính sách đều dựa trên chiến lược và chiến thuật. Chiến lược và chiến thuật đổi thay theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhưng nguyên tắc cốt lõi về lợi quyền là hằng số. Chỉ có đám đầu chuột hoặc óc chim sẻ mới tin vào thứ “Tình cho không, biếu không”. Vì đắm chìm trong vọng Tưởng, đám cộng sản cầm quyền Hà Nội đã nhẩy bổ vào cuộc chiến tranh mà không so đo, tính đếm. Họ hoàn toàn bị chi phối vì giấc mộng đế quốc phương nam, vì cái bóng sừng sững của một Khải Hoàn Môn dựng nên trong trí tưởng. Họ quên chính họ là ai và người đàn anh cộng sản vĩ đại của họ, Mao là ai? Trong thực tế, đại hoàng đế họ Mao đã sử dụng lại một mưu kế có từ xa xưa. Mưu kế này nảy sinh và hữu dụng từ thời Tô Tần, Trương nghi còn tung hoành giữa đám Đông Chu liệt quốc: Toạ sơn quan hổ đấu. Diễn nghĩa nôm na như sau: Ta lùa cho hai con hổ cắn nhau dưới chân núi, ta ngồi trên đỉnh núi ngắm nhìn. Đó quả là quang cảnh kỳ thú làm no nê con mắt. Toạ sơn quan hổ đấu! Ô hô! toàn bộ cuộc xáo động lịch sử thảm khốc của dân tộc Việt sau rốt chỉ là trò vui diễn ra cho bậc đế vương phương Bắc ngắm nhìn. Ô hô! Toạ sơn quan hổ đấu! Sau khi đạo diễn vở tuồng, Mao lại đóng vai khán giả nhiệt tình, thưởng thức và cổ vũ. Chắc chắn, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là trò chơi đáng kể giữa đám trò chơi mà ông lãnh tụ gốc gác tỉnh Hồ Nam đã thực thi trong cuộc đời mình. Thúc đẩy, xui khiến đám chư hầu xứ Việt đánh Mỹ là ván cờ tuyệt vời, chỉ có thắng không có bại. Lý do: 1/ Nếu nó thua, lúc đó ta sẽ thương lượng với Mỹ rồi kéo quân sang thu phục đất Việt như lượm mảnh giẻ chùi chân, hoàn tất cái trò chơi cù nhầy mà bấy lâu nay chưa ngã ngũ. Mỹ chưa thể quên mùi vị của cuộc chiến trên đất Liêu, chỉ cần nhượng cho bọn quỷ lông lá này một số quyền lợi vừa đủ lòng tham của chúng là mọi sự ắt xảy ra như ý muốn. 2/ Nếu thắng, nó cũng sẽ lâm vào thế sức tàn lực kiệt, một kiểu phế nhân. Vả chăng, nó sẽ phải mang món nợ viện trợ như mang gông trên cổ, lúc ấy ta sai khiến gì nó cũng phải làm. Và chiến thắng đó cũng giống như món tiền lớn để ta chơi canh bạc với Mỹ. Richard Nixon – Mao Zedong. Nguồn: OntheNet Mặt nào, cuộc chiến tranh này cũng có lợi cho ta. Thực tế Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay ngót bốn mươi năm đã trôi qua . Thực tế đã diễn ra không sai một ly những điều ông vua họ Mao suy tính. Đám cộng sản Hà Nội lâu nay ngửa cổ cất tiếng cười vì đinh ninh rằng mình đại thắng. Họ cười vì họ chưa tự biết họ là ai đấy thôi. Sự ngu muội bao giờ cũng có khuôn mặt hể hả viên mãn và cặp mắt ti hí vì bị mỡ lấp đầy. Xét về thực chất, họ chỉ là lũ trẻ bị họ Mao sui ăn cứt gà sáp. Họ đã ăn cứt gà sáp một cách hăm hở, một cách sung sướng, với niềm tin chắc chắn đó là thứ thực phẩm thượng thặng trên cõi đời. Cặp bài trùng Lê Duẩn-Lê Đức Thọ đã thắng ông già họ Hồ trong cuộc tranh quyền đoạt tước, đã dẫn dắt cả dân tộc đi vào cuộc chiến tranh mà họ ngỡ rằng thiêng liêng cao cả, nhưng sau rốt, đó chỉ là một cuộc tàn diệt chính dân tộc mình. Họ múa may quay cuồng trong ngày chiến thắng, họ kiêu mạn vì nghĩ mình toả sáng, họ tự ngợi ca như một con thú mải mê liếm không chán bộ lông của chính mình. Vào chính lúc ấy, hoàng đế Mao ngồi ở phương bắc mỉm cười, nheo mắt nhìn đám tốt đen, tốt đỏ phương nam. Sự Mỉa mai của số phận là ở đấy. Nỗi Ô nhục cũng chính từ đó mà nảy sinh. Bốn mươi năm qua. Thời gian trôi nhưng thời gian không là nước sông để có thể rửa sạch nỗi ô nhục vì nỗi ô nhục không phải viên đá cũng chẳng phải bức tường. Nỗi ô nhục này sẽ vĩnh định trong lịch sử Việt Nam và các công dân có lương tri không được quyền quên lãng. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ có kịp nhận ra bản mặt của chính họ trước khi chết hay không? Liệu họ có đủ trí khôn và lòng can đảm để hiểu rằng mọi tham vọng to lớn khởi dậy trong lòng họ thực chất chỉ là một tấn tuồng con nằm trong tấn tuồng lớn; cuộc đời họ cũng chỉ là sân khấu con nằm trong sân khấu lớn mà kẻ điều hành tối thượng nằm ở bắc phương. Tôi không chắc rằng hai con người này đủ lương tri để sám hối. Nhưng điều tôi biết chắc chắn là Khải Hoàn Môn mà họ cố công xây cất bằng mọi giá sẽ trở thành tấm bia ngàn đời ghi lại sự sỉ nhục vô tiền khoáng hậu này. Đúng như lời Lão tử đã nói: “Kẻ nào muốn đứng thật cao thì rơi xuống thấp, kẻ nào muốn Làm ra thật Lớn thì sẽ Biến thành Nhỏ mọn.” Điều đó phải diễn ra hiển nhiên theo luật thừa trừ của đạo trời. Bây giờ, chắc chắn trong đám cộng sản cầm quyền, không nhiều thì ít cũng có kẻ nhận ra Con Rắn chỉ là Sợi Thừng, rằng bấy nay họ sống trong lầm tưởng. Nhưng sự thức tỉnh này không khiến họ mở được mắt ra mà trái lại, làm họ run rẩy kinh hoàng: lương tâm họ không đủ sức đối đầu với hiện thực. Vì công nhận sự thực đồng nghĩa với thú nhận đã nhầm lẫn. Một sự nhầm lẫn khủng khiếp đến như không chỉ đưa đến các mất mát to lớn trong quá khứ mà sẽ không thể tránh được Sự sụp đổ không thể cưỡng lại trong tương lai. Thật là, “Trót rằng tay đã nhúng chàm Dại rồi còn biết khôn làm sao đây?” Vì lẽ đó, họ tiếp tục lặng câm, tiếp tục ôm chân triều đình Trung Quốc, chấp nhận đóng vai Thái thú Tô Định địa phương, tiếp tục trò chơi nhục nhã mà họ đã trót dấn thân vào. Đám cộng sản cầm quyền lúc này, trí não không còn ánh sáng, trái tim đóng băng, phần duy nhất còn hoạt động là cái dạ dày của loài sói đói mà thôi. Đắng cay Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn không quên nổi những người đã chết. Họ đã chết giữa tuổi thanh xuân, chết đi mà không hiểu rằng mình bị lừa phỉnh. Cái chết của họ nằm trong cuộc tự huỷ diệt to lớn mà dân tộc phải gánh chịu như một thứ hình phạt khốc liệt và thảm thương của lịch sử. Đó là số phận cay đắng chung cho một cộng đồng. Một khi những kẻ cầm đầu quốc gia chỉ có bộ óc của loài chim loài chuột ắt dân đen dưới quyền họ phải bị chết thui trong đám lửa cháy nhà. Nỗi bất hạnh này không thể quy lỗi riêng cho những kẻ cầm quyền, nó có phần trách nhiệm hiển nhiên của dân chúng. Sự hèn nhát và cam chịu của họ cho phép đám chuột đưa dẫn họ xuống vực thẳm của sự huỷ diệt. Sự hèn nhát và cam chịu đó cho phép chúng tiếp tục tồn tại, và điều này hứa hẹn một cách chắc chắn những cuộc huỷ diệt khác, có thể còn bội phần tàn khốc trong tương lai. Ngày 8 tháng 6 năm 2013. ***************** Y Kien : Lê Văn • Những điều bài viết trình bày phần lớn là sự thật, tuy chưa nói hết sự thật. Đối với người dân Việt, sự thật quan trọng nhất nhưng bài viết lại nói sai, đó là vai trò của chính HCM. Thứ nhất, chính họ Hồ tạo nên hai tên họ Lê, chứ không phải Tầu hay Nga nặn ra chúng. Thứ hai, Hồ đã bán linh hồn cho quỷ ngày từ ngày gia nhập đảng CS Pháp, rồi sau đó đi Nga (Liên Xô), ở đây Hồ đã ký giấy nguyện làm tay sai cho CSQT. Đây là sự thật muôn đời, dù sau này - từ 1949, khi Mao chiến thắng và trở thành "hoàng đế" của Trung Hoa - Hồ đã chuyển sang làm tay sai (thêm) cho Bắc Kinh, thay vì chỉ làm cho Mạc Tư Khoa (Mốt-cơ-va). Cho đến ngày gần chết, Hồ chỉ viết trong di chúc là đi gặp cụ Mác, cụ Lê (Lê-nin chứ khônb phải Lê Duẩn), mà không hề nói đến Mao, nhưng Mao mới chính là chủ nhân ông thật sự. Tóm lại, họ Hồ là người tù của cả CS Nga và CS Tầu, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chỉ là hai "cán bộ quản giáo" của CSQT. Chuyện Lê Duẩn "theo Nga, chống Tầu" chỉ là mỗt trong những huyền thoại của CSVN tạo ra để gây hỏa mù trong dân chúng miền Bắc lúc đó, góp phần thêm vào sự lừa bịp vĩ đại rằng đảng ta chống Mỹ cứu nước (cứu miền Nam). ************ Tonydo • Năm 1970 chúng tôi bị "Mỹ Ngụy" đánh cho tơi tả,chết như ngả rạ,đa phần chạy dạt qua Miên,riêng đơn vị tôi phải ở lại đánh cầm chân, giữ cứ. Được bổ sung thêm một số lính mới từ Bắc vào. Trong số đó có một anh đã lớn tuổi(tầm gần 30)đang dạy cấp ba ngoài Nam định quê ông Trường Chinh, Thọ,tôi hơi lạ. Anh ta tình nguyện đi vì cô em đang là thanh niên xung phong ở Quảng Trị viết thư về nói toàn chuyện anh hùng,tỷ như vừa làm đường vừa bắn máy bay Mỹ bằng súng K44,rồi là bom mới nổ các cô đã lao ra lấp hố để có đường cho xe chạy.v.v.Anh ta tình nguyện vì anh không hèn,anh nói. Một số xe tăng Mỹ cụm ngoài bìa rừng, đêm hôm đó chúng tôi mò ra đánh. Anh ta không đi được vì đang lên cơn sốt rét,run bần bật.Quần áo anh rách tả tơi nhưng lần đó anh không được phát vì ưu tiên cho người ra trận. Mấy hôm sau chúng tôi lại mò ra ngoài trảng đánh xe tăng. Anh vẫn còn sốt nhưng nhất định đi,anh nói đi để có quần áo mặc. Mặc dù tôi đã cản nhưng Anh vẫn loạng quạng vác súng đi. Anh chẳng bao giờ trở về nữa nhưng nếu không chết hôm đó thì Anh cũng không có quần áo mới vì hậu cần không mang vô được. Tôi đang khóc, khóc cho Anh, khóc cho đất nước VN yêu qúi được lãnh đạo bởi hai tên điên? Cả hai. ************ Lê Văn Tonydo • Chuyện cảm động quá anh Tony ui. Nhưng tôi cũng thường nghe nói, lúc đó những người con trai - và cả con gái - nhà nghèo ở ngoài nớ không xung phong đi B thì cũng không có quần áo "mới" để mặc... nên thà xung phong còn được tiếng là "anh hùng", nhất là tưởng rằng ít nhất bố mẹ được thưởng công, nhờ con cái hy sinh vì tổ quốc. Nhưng bố mẹ nào lại trọng miếng ăn hơn là con cái mình. Nước mắt nào cũng chảy suôi... Rốt cục chỉ còn là tấm ảnh trên bàn thờ hương khói lạnh... ************** TTonydo Lê Văn • Bác Lê Văn nói trúng phóc. Hồi đó ở Hà Nội những người đào ngũ trốn về đều phải đeo một cái biển trước ngực (ai cũng như tôi thì mất nước) rồi được dẫn đi quanh khu phố mình trú ngụ để làm nhục. Tất nhiên là cắt hộ khẩu thì làm gì có sổ gạo và tem vải để có quần áo mặc. Kể bác nghe nhưng chớ cười nhé. Số là khi em đi cải tạo để được đổi thành phần từ con địa chủ xuống công nhân, người bạn gái cùng cảnh quê Tiên lãng, Hải phòng mỗi lần về thăm nhà lại mang cho em một gói thuốc lào, tuy màu không vàng như thuốc lào Vĩnh Bảo nhưng cũng ngon lắm bác ạ. Vì vậy em biết con gái người thường miền bắc hồi đó làm gì có ( gân ở mông ) và nịt ngực đâu. Quần áo dài còn không có mà mặc nữa là. Khi vô Sài Gòn thấy tủ áo của bà cô họ có tới hai mươi mấy cái áo dài đủ màu, em hết hồn, mặc sao hết. Thật ra em viết chưa hết, bởi vì Anh ấy nói:Tớ vào đây là vì tớ nghĩ xa nên mới ra thế này, bây giờ tớ nghĩ gần thôi, đi kiếm bộ quần áo mới đã. Anh ấy coi em là bạn vì anh quý em. Em đã phải ra lệnh ( Đồng chí ở lại ) nhưng Anh vẫn vác súng mò theo sau, em không biết. Cho tới khi bò ra ( trời tối nhưng may có đạn pháo quá nhiều nên em nhận ra ảnh đang rên ). Anh nói Tony hả rồi ra đi, em vuốt mắt cho Anh rồi bò ra. Một quả pháo nổ trước mặt em khoảng hai,ba chục thước, nếu không phải là anh thì chắc em không có cơ hội thư cho bác. Ấy quên ( già lẩm cẩm ) anh ta là con trai một vả lại là giáo chức hơn nữa vào thời điểm đó, anh đã quá tuổi quân dịch. ************ Lê Văn • Hóa ra những gì tôi nghĩ về chế độ còn quá "hiền", sự thật chúng còn tàn bạo hơn tôi tưởng tượng ra quá nhiều. Ngày đó ở miền Nam cũng có ngưòi "trốn lính", nhưng không bao giờ có chuyện làm nhục, mà chỉ bị giam vào quân lao (tù của lính) và nếu tái phạm thì bị bắt làm lao công chiến trường (đi quân vác). Vĩnh Bảo chính là quê tôi, nhưng vì lớn lên ở Sài Gòn, chỉ biết hút thuốc lá đế quốc Mỹ (chủ yếu hiệu Pall Mall, vì được bán ngoai chợ đen nhiều nhất, thuốc thơm điếu lại dài, ba bốn đứa chia nhau mới hút hết) nên tôi chẳng hãnh diện vì quê mình sản xuất ra thuốc lào ngon nhất thế giới! Nhưng tôi hãnh diện về những thứ khác, như quê mình nổi tiếng về văn học (với Trạng Trình, Khái Hưng...) cũng như thành tích chống ngoại xâm từ thời Hai Bà Trưng! Nhân nói về "quê hương", tôi muốn nói thêm về một vấn đề lớn hơn, đó là "chủ nghĩa" Quốc gia và (chủ nghĩa) "Dân tộc", một điều mà FB Trần Minh Khôi hay nói tới, và được đăng lại trên diễn đàn này. Tóm tắt, người Việt vốn không có ý thức về quốc gia, mà chỉ biết hai thứ: dân tộc và làng quê. Dân tộc thì được nói nhiều rồi, còn làng quê thì tới ngày nay vẫn còn giá trị. Nhất là với người Đàng Ngoài... Có thể nói, việc nối kết "đồng hương" ở nơi "đất lạ quê người" chẳn phải điều dở. Vấn đề là sự vắng mặt của một "ý thức quốc gia". Sự khác biệt giữa hai "ý thức" đó - QG và DT - rất lớn, nhưng là vấn đề hơi dài dòng, nên tôi chỉ lấy thì dụ: lòng yêu nước của người Mỹ là biểu hiệu của ý thức QG, còn nơi người Việt là ý thức dân tộc. Điều này cũng liên quan nhiều tới ý thức dân chủ, vốn đi đôi với QG, nhưng không phù hợp lắm với chủ nghĩa dân tộc. (Có dịp tôi sẽ phải viết bài đàng hoàng đầy đủ hơn). ********** Tonydo Lê Văn • Kính bác Lê Văn, bác có khả năng, em biết, nên viết về đề tài này đi bác. Một vấn đề lớn, vĩ mô, cần một cái đầu to và một trái tim đẹp. Người ta nói quá nhiều về chủ nghĩa này, chế độ nọ.v.v tuy nhiên sự thật là rất nhiều người chưa hiểu gì về Democracy, Freedom, Cộng sản .v.v. hoặc họ chỉ hiểu một cách phiến diện, chủ quan. Nói về dân tộc lại phải nghĩ ngay tới trái tim, tức là tình yêu giữa những người cùng máu mủ, văn hoá. Nói tới QG thì lại phải nghĩ ngay tới system, hệ thống. Việt Nam hiện không có cả hai thứ đó. ( Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng ), em tập không đổ lỗi cho người khác, ngay cả con cái, em cũng chỉ là cái thùng rác để chúng nó xả pressure most of the time. Em cũng cố tập không hận thù bất kỳ người nào và kính trọng tất cả mọi người. Tất nhiên người thua trong văn hoá VN có quyền chửi, kẻ thắng có quyền thụ hưởng những chiến lợi phẩm. Tuy nhiên nếu chúng ta không dùng trái tim để nhìn sự việc thì mọi sự chẳng có gì để nói ( chúng ta lại cũng chẳng hơn loài vật ). Em không dám khinh bất kỳ người nào và em không thù hoặc muốn thù bất kỳ một ai. ************ Minh Đức • Trích: "Liệu họ có đủ trí khôn và lòng can đảm để hiểu rằng mọi tham vọng to lớn khởi dậy trong lòng họ thực chất chỉ là một tấn tuồng con nằm trong tấn tuồng lớn" Bài viết này qui tội cho Lê Duẩn và Lê Đức Thọ vì say mê quyền lực, danh vọng mà làm tay sai cho Trung Quốc. Tấn tuồng con là tham vọng muốn chiếm miền Nam của "tập đoàn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ", còn tấm tuồng lớn là mưu đồ bành trướng của Mao Trạch Đông và tập đoàn Trung Cộng. Họ biết đấy! Họ biết đảng Cộng Sản Việt Nam là tấn tuồng con trong tấn tuồng lớn là Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Tấn tuồng lớn không chỉ bao gồm Trung Cộng mà cả Liên Xô . Toàn thể phong trào Cộng Sản dấy lên từ Liên Xô rồi lan qua Trung Quốc, lan qua Đông Âu, lan cả xuống Mã Lai, Singapore, Indonesia. Nếu không có các đảng viên cộng sản say mê tấn tuồng lớn và tình nguyện gia nhập tấn tuồng con thì phong trào Cộng Sản của Lê Nin, Stalin khởi phát ra đâu thể lan xa được. Những người gia nhập tấn tuồng lớn Xã Hội Chủ Nghĩa đó say mê với giấc mộng Thế Giới Đại Đồng, nghĩa sau này Cộng Sản sẽ toàn thắng trên thế giới. Lòng say mê quyền lực được thấy qua các câu mà tác giả nhắc lại như: “Thực thi một sứ mạng lịch sử”, “Đang đứng trên đỉnh cao thời đại”, “Chúng ta là lương tâm nhân loại”, Chúng ta có sứ mạng cắm ngọn cờ hồng lên toàn trái đất! Tất cả những lời lẽ kiểu trên làm cho người nghe thấy rất sướng tai, rất thích thú, thấy mình rất là quan trọng và mình đang làm công việc rất là quan trọng. Lời nói đó làm thỏa mãn lòng say mê quyền lực có trong con người chúng ta. Tuy theo cái lòng say mê quyền lực đó nhiều hay ít mà người đó dốc sức hy sinh cho đảng CS nhiều hay ít. Nhưng cũng có người cũng dửng dưng trước các lời lẽ kêu vang vang như vậy. Giống như cái radio không bắt được một số làn sóng phát ra vì cấu tạo của chiếc radio đó không bắt được loại sóng với băng tần đó. Nếu họ lên tiếng chỉ trích những lời lẽ đó thì họ bị ghép tội phản động, nếu họ im lặng thì họ sẽ sống cuộc đời ở bên lề chế độ. Nhìn theo khía cạnh ba động cơ Lợi, Quyền, Danh thúc đẩy con người thì trong Cuộc Chiến Tranh Lạnh vừa qua, phía Mỹ là những người bị thúc đẩy vì động cơ Lợi, còn phía Cộng Sản là những người bị thúc đẩy bởi động cơ Quyền. Mỹ chỉ muốn ngăn chặn Cộng Sản để bảo vệ cho khu vực làm ăn buôn bán của mình. Còn những người Cộng Sản Nga và Trung Quốc họ cần gì ở các nước mà họ đem khí giới giúp các đảng cộng sản con ở đó? Cái lợi về vật chất tuy có nhưng cái điều họ muốn trước hết là "cắm ngọn cờ hồng lên toàn trái đất" nghĩa là muốn thống trị toàn thế thế giới, muốn toàn thể thế giới phải nằm dưới quyền sinh sát, lèo lái của họ. Liên Xô có vùng Tây Bá Lợi Á mênh mông đầy quặng mỏ, dầu hỏa đâu cần phải đi khai thác tại các nước khác như Anh, Pháp nhưng vẫn muốn bành trướng, khống chế các nước Tây Phương.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2013 10:22:19 GMT 9
Nhà báo Ngô Vương Toại đã qua đời, thọ 67 tuổi(VienDongDaily.Com - 03/04/2014) WESTMINSTER – Sáu mấy năm chống chọi với bệnh tiểu đường, ông Ngô Vương Toại đã ra đi vĩnh viễn tại Fairfax, tiểu bang Virginia vào sáng sớm thứ Năm vừa qua. Nhà báo này từng là chủ bút tờ Diễn Đàn Tự Do trước khi làm việc tại tại đài Á Châu Tự Do (RFA). Tên tuổi của nhà báo này đã gắn liền với những thăng trầm của cuộc chiến chống cộng sản ở Sài Gòn thời 1967, qua sự việc ông bị Việt Cộng bắn lủng ruột tại Sài Gòn. Trong mấy năm gần đây, ít người còn nhớ đến tờ Diễn Đàn Tự Do nhưng không ai có thể quên được hình ảnh một Ngô Vương Toại đã gắng sức vịn vào chiếc Walker đi hàng đầu trong đoàn biểu tình của một ngày tưởng niệm 30/4 ở Thủ độ Hoa Thịnh Đốn. Ông Ngô Vương Toại sinh ngày 12 tháng Tư, 1947 tại Làng Bái Thượng, tỉnh Thanh Hóa, đã từ trần lúc 12g22 sáng thứ Năm, ngày 3 tháng Tư, 2014 tại nhà thương Fairfax, Virginia. Ông để lại người vợ Nghiêm Thị Lan, ba người con, một con dâu và hai cháu nội. Nhà báo Ngô Vương Toại nổi tiếng xông xáo từ thời sinh hoạt sinh viên thập niên 1960s, đặc biệt là khi ông bị đặc công của Việt Cộng (VC) bắn lủng ruột ngay trên sân khấu một buổi ca nhạc đang trình diễn với nhạc sĩ Trịnh Cộng Sơn và ca sĩ Khánh Ly tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn - thời điểm ám sát này là tháng 12-1967, một tháng trước cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân mà VC nhận chìm miền Nam vào biển máu. Khi miền Nam sụp đổ năm 1975, Ngô Vương Toại thoát ra hải ngoại và về Virginia định cư, nơi ông sau này trở thành Chủ Bút Tuần Báo Diễn Đàn Tự Do, và rồi sau đó làm phóng viên cho Đài RFA trước khi phải nghỉ vì bệnh. Sau đây là trích đoạn từ một bài viết của Phạm Trần đăng trên mạng Dân Làm Báo về ông Toại: “Sinh viên Ngô Vương Toại-Giữa cái sống và cái chết. Đó là Tựa đề một bản tin của hãng TV (Tin Việt) viết ngày 18/11/1967 được các báo ở Sài Gòn đăng tải, hai ngày sau khi sinh viên Ngô Vượng Toại bị đặc công Cộng sản bắn trọng thương tại Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. “Toại bị bắn vào dạ dầy, rách 4 đoạn ruột ở tuổi 20 nhưng anh đã được cứu sống để tiếp tục đấu tranh không ngơi nghỉ trên mặt trận báo chí-truyền thông và chính trị thêm 8 năm sau đó ở miền Nam và cho đến khi sức khỏe cạn kiệt ở tuổi 67 ở Hoa Kỳ. “Biến cố Ngô Vương Toại cuối năm 1967 xảy ra giữa cuộc khủng hoảng chính trị-quân sự mới ở miền Nam. Đó là năm miền Nam vừa hoàn tất các cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của nền Đệ II Cộng hòa và cuộc bầu chọn 60 nghị sĩ Thượng Viện diễn ra cùng ngày 3/9 (1967). Hơn tháng sau là cuộc bầu chọn 137 dân biểu Hạ Viện được tổ chức ngày 22/10. “Song song với sự ngột ngạt của chính trị bầu cử là tình hình quân sự trên chiến trường mỗi ngày một gay gắt hơn với cuộc chiến “chiếm đất dành dân” giữa Việt Nam Cộng Hòa và quân Cộng sản. “Một số vụ ám sát, khủng bố, đặt bom của Đặc công Cộng sản cũng đồng loạt gia tăng tại các thành phố, kể cả ở Sài Gòn. Hoạt động này xảy ra sau khi làn sóng biểu tình chống chiến tranh, chống Hoa Kỳ và quân đội Đồng minh của VNCH của các nhóm sinh viên-học sinh và tu sĩ thân Cộng mới bị kiềm chế ở một số tỉnh miền Trung, đặc biệt tại Huế và Đà Nẵng. Giữa bối cảnh này, Ngô Vương Toại và một số Sinh viên chống Cộng đã liên kết với nhau trong Chi hội Việt Nam của Tổ chức Liên Minh Thế giới và Liên minh Á Châu chống Cộng do bác sĩ Phan Huy Quát làm Chủ tịch. Họ tập hợp với nhau trong tinh thần tự nguyện nhằm mục đích chống lại sự phá hoại và lôi kéo sinh viên của nhóm sinh viên thân Mặt trận Giải phóng miền Nam. “Một ranh giới giữa Quốc gia và Cộng sản trong giới sinh viên đã được Toại vạch ra. Một “Quán Văn” cà phê văn nghệ cũng đã được Toại và một số bạn sinh viên yêu ca hát, gặp mặt bỏ tiền túi dựng lên sơ sài ngay trong khuôn viên Đại học Văn Khoa ở đường Cường Để. Các tên tuổi âm nhạc lớn của Việt Nam như Phạm Duy, Thái Thanh, Khánh Lý và Trịnh Công Sơn cũng đã từng đến “Quán Văn” hát cho sinh viên nghe. “Và cũng từ ‘dòng máu văn nghệ và thích đấu tranh,’ đặc công Cộng sản đã tìm cách sát hại Toại trong đêm Văn nghệ Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn tối 16/12/1967.” “Tên VC đứng gần một tay gạt anh Toại một tay chĩa súng vào bụng anh nổ một phát. Hỗn loạn xảy ra, tên VC bắn thêm mấy phát nữa và thừa lúc lộn xộn cả hai đã tẩu thoát. “Sau khi Toại bị đặc công Cộng sản bắn trọng thương thì một số sinh viên thân Cộng đã bỏ Sài Gòn vào bưng với Cộng sản trong vụ Tết Mậu thân năm 1968 dưới cái nhãn ‘Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình.’” “Mới tháng 7 năm 2013, khi ký giả Lê Thiệp, bạn của Tọai qua đời, cựu ký giả Việt Nam Thông Tấn Xã Trần Công Sung từ Pháp qua đưa đám đã bông đùa với các bạn ngay tại nhà quàn: ‘Cậu Toại tuy yếu đấy nhưng còn lâu mới đi dược. Cậu đã qua nhiều phen nên chai rồi.’ “Toại cười rộ lên chêm vào, ‘Tôi đã quá đát rồi!’” Có một giờ G khác vào năm 1974Y Kien : NacDanh:150 phi công F5 của không lực VNCH đòi quyết tử vì Hoàng Sa ...nói thế là ông chê bai phi công chế độ này chắc ?.Suy nghĩ của ông như vậy khiến người ta không dùng ông nữa là phải. Cuối cùng cũng biết là hố nặng nên cắn răng để con gái mình lấy con trai của một anh cựu hạ sĩ quan Không Quân của QLVNCH . Và, giờ đây anh làm tài xế máy bay cho một tên lâm tặc .Ô hô ! Phản thùng cũng như phản phé mà phản phé cũng như phản bội. Chẳng bao giờ được ai tin cho nên mỗi lần bay nhiên liệu chỉ cung cấp nửa cơ số là phải rồi , lăn tăn mà chi ?
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 25, 2013 5:06:12 GMT 9
Số phận bài báo “triệu người vui, triệu người buồn”…suu tamÔng Nguyễn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế (nay là báo Thế Giới và Việt Nam), kể về một câu chuyện trắc trở xung quanh bài phỏng vấn nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông Vĩnh kể đó là một trong những bài báo in trên Quốc Tế được xây dựng công phu nhất nhưng cũng lại là bài báo có số phận trải đủ cung bậc thăng trầm...“Đăng và gỡ”…. Xây dựng công phu nghĩa là thế nào, thưa ông? + Cuối năm 2004, anh em nghiên cứu chính sách đối ngoại bên ngoại giao và báo Quốc Tế được gặp ông Võ Văn Kiệt nhằm trao đổi một số vấn đề đối ngoại. Sau buổi gặp, một phó tổng biên tập được phân công chấp bút, lựa những điều ông Kiệt trăn trở và tâm đắc nhất để soạn lại thành một bài viết dạng phỏng vấn. Hướng nhắm tới là cột mốc quan trọng năm 2005: 30 năm ngày giải phóng miền Nam, rất thích hợp để phát đi một tín hiệu đối ngoại quan trọng từ một nhân vật nguyên là lãnh đạo cấp cao. Bài được gửi xin ý kiến và được nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đồng ý cho đăng với kế hoạch thời gian sẽ đăng Quốc Tế số tết Ất Dậu 2005. . Vậy còn thăng trầm? + Đó là khi bài đã lên khuôn ở nhà in thì tôi nhận được chỉ đạo qua điện thoại không cho phép đăng bài đó. . Một bài báo quan trọng như thế thông thường khi chưa lên trang chỉ nhân vật và tòa soạn biết, tại sao lại rò rỉ để đến mức bị chỉ đạo gỡ bài? + Đó cũng chính là câu tôi đã hỏi vị lãnh đạo đó. Nhưng ông ấy từ chối trả lời mà chỉ yêu cầu tôi thực hiện không cho bài ấy xuất hiện. Cuối cùng, chúng tôi phải bóc hết một “tay in” là tám trang, rồi thay vào một bài khác. . Bài bị gỡ thường là “có vấn đề”, lúc đó ông có sợ trách nhiệm cá nhân của mình không? + Khi thực hiện bài phỏng vấn đặc biệt này, tôi đều có báo cáo với cơ quan chủ quản của báo là Bộ Ngoại giao. Bài viết hoàn thành, chúng tôi cũng gửi lại cho nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc, sau đó ông có phê vào bản thảo là đồng ý cho đăng. Nhà báo Nguyễn Vĩnh. . Phản ứng của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi biết bài không được đăng như thế nào? + Ông ấy không hài lòng. Nguyên Thủ tướng còn viết thư riêng gửi cho một lãnh đạo cao cấp yêu cầu giải thích về việc này. Tôi vẫn còn giữ hai lá thư đó, bản gửi cho tôi biết, như một kỷ niệm công việc. . Nhưng cuối cùng bài báo đó cũng được đăng với tựa đề là “Những đòi hỏi mới của thời cuộc”. + Đúng rồi, sau lá thư của ông Võ Văn Kiệt, không rõ từ lý do nào và ra sao mà một thời gian sau ngày bị dừng thì tổng biên tập lại nhận được chỉ đạo phải đăng bài này. Nhưng đúng lúc đó thì nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt lại không đồng ý để bài đó được đăng nữa. . Báo Quốc Tếđã làm gì để thuyết phục ông Võ Văn Kiệt đồng ý? + Việc này vượt ra ngoài tầm của Ban Biên tập. Đích thân đồng chí Nguyễn Phú Bình lúc đó là thứ trưởng Bộ Ngoại giao vất vả lắm mới nhận được cái gật đầu của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và bài báo đã được in vào ngày 30-3-2005. “Triệu người vui, triệu người buồn” . Dư luận về bài báo đó ra sao, thưa ông? + Dư luận rất tốt, rất nhiều báo ở trong nước và ngoài nước in lại hoặc đưa lên mạng bài báo này. Bài báo hay ở nội dung và tư tưởng. Ngay mở đầu bài viết, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tái khẳng định rằng chiến thắng 30-4 là vĩ đại nhưng người Việt Nam cũng “đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát”. Vì thế một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm sẽ “có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Vết thương chung của dân tộc như vậy cần được giữ lành, “thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Và muốn để mọi người Việt Nam chung tay hàn gắn thì chúng ta, người chiến thắng và đang lãnh đạo đất nước, “phải thực tâm khoan dung và hòa hợp”. Ở một lãnh đạo cấp cao, ý trên thật mới và rất quan trọng cho hòa hợp dân tộc. . Trong bài trả lời phỏng vấn đó, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn có đánh giá về tướng Dương Văn Minh? + Đúng, nguyên Thủ tướng phân tích tướng Minh nhậm chức tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 28-4-1975 là thời điểm mà “một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn”, rồi Sài Gòn không “tử thủ” như các tướng tá khác muốn, trái lại thành phố giữ được nguyên vẹn do ông Minh chấp nhận đầu hàng. Sự việc được ông Kiệt kể lại: “Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30-4, khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường và vào đúng giờ phút ấy mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này”. Với cách nhìn nhận như vậy, ông Kiệt muốn nêu lên một thực tế, ông nói: “Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc Việt Nam chúng ta giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc”. . Việc đánh giá về ông Dương Văn Minh như thế phải chăng cũng là một nguyên do khiến bài phỏng vấn đó bị yêu cầu dừng xuất bản? + Nguyên nhân thực sự tôi không rõ. Tuy nhiên, với hai ý lớn như thế, lại xuất hiện ở thời điểm 2005, khi mà trong nội bộ chúng ta còn có nhận thức và đánh giá chênh nhau, thậm chí khác nhau về thực chất của hòa hợp dân tộc và lực lượng thứ ba có liên quan đến tướng Dương Văn Minh, thì việc bài báo bị dừng lại, tôi nghĩ cũng là điều có thể hiểu được. Ngoại giao văn hóa . Về hưu nhưng ông dường như vẫn quan tâm đến thời cuộc với nhiều bài viết trên blog cá nhân và Facebook... Ông nghĩ thế nào về ngoại giao của ta trong thời điểm hiện nay? + Chúng ta vẫn thường nghe câu “thêm bạn bớt thù” trong quan hệ quốc tế. Như vậy tức là chúng ta vẫn thừa nhận có thù, làm như điều này “không thể hết được”. Nhưng tôi nghĩ không nên tư duy về thù và “sắp xếp” hai khái niệm bạn/thù theo lối cũ, được như thế thì vẫn tốt hơn. Nói cách khác là nên xác định ở thời nay sẽ chẳng có bạn hay thù nào là vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi đất nước và dân tộc là vĩnh viễn và vĩnh cửu. . Nhưng có lúc đấu tranh để bảo vệ quyền lợi dân tộc, chúng ta phải chạm trán với kẻ thù, thưa ông? + Như thế chúng ta mới cần phải có đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn. Cần nhiều cách ứng xử và biện pháp khác nhau vận dụng khôn ngoan. Trong quan hệ là hợp tác cùng có lợi và bình đẳng, là mềm mỏng nhưng cần thì phải đấu tranh khi lợi ích dân tộc bị xâm hại. Trải qua bao chục năm dâu bể, tôi thoáng nghĩ đến phương cách trung lập. Cái thế địa-chính trị của nước ta nó mách bảo điều này. Lãnh đạo cấp cao chúng ta chẳng nói là nước ta không liên minh với nước này chống lại nước kia, cũng không cho ai đặt căn cứ quân sự và nếu phải sắm vũ khí cũng là để phòng thủ… Đây là một chủ đề rất lớn nên chúng mình để lúc khác bàn đến… Ông Nguyễn Vĩnh tốt nghiệp khoa Ngữ Văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội khóa 1963-1967, ra trường ông được nhận vào làm việc như một biên tập viên tập sự tại NXB Ngoại văn. Từ năm 1998 ông được Bộ Ngoại giao bổ nhiệm làm tổng biên tập báo Quốc Tế cho đến năm 2006. Tiếp đó, ông còn là một trong những người gây dựng tuần báo Thời Đại của Liên hiệp Các Tổ chức hữu nghị Việt Nam, là tổng biên tập đầu tiên của tờ báo này đến năm 2008.HỒ VIẾT THỊNH thực hiện Mặt trận Ban Mê Thuột 40 năm: Những ngày cuối cùng của tướng PhúThiếu Tướng Phạm Văn Phú sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù. Ngày 14 tháng 3/1954, trong tình hình chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đã chỉ huy một đại đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống Natasha, một vị trí sát phi đạo chính. Sau hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh, ngày 16 tháng 4/1954, Trung Úy Phạm Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công này, ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26 tháng 4/1954, được cử giữ chức Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định Genève), ông được trao trả và tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). - Năm 1960, được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đã chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. Một năm sau, ông được thăng Đại Tá nhiệm chức. - Đầu năm 1966, không hiểu vì lý do gì, ông bị vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt trình Bộ Quốc Phòng thâu hồi cấp Đại Tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức Phụ Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, giữa năm 1966, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt. - Gần cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai Đại Tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại Tá Vũ Văn Giai — Tư Lệnh phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Tá Hồ Trung Hậu — Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Điềm, Tư Lệnh Phó, xử lý thường vụ. Từ 1973 đến tháng 10/1974, ông giữ chức chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung. - Tháng 11/1974, thể theo đề nghị của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.(Tướng Toàn trở lại binh chủng Thiết giáp, giữ chức chỉ huy trưởng). - Nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 không phải do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại Tướng Cao Văn Viên — Tổng tham mưu trưởng — đề nghị, nên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư Lệnh. Thông thường, các Tư Lệnh Quân Đoàn được quyền chọn lựa tham mưu trưởng, sau đó, bộ Tổng tham mưu sẽ ban hành quyết định hợp thức hóa, thế nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đã bị bộ Tổng tham mưu “hạn chế” các quyền hạn dành cho Tư Lệnh Quân Đoàn. Khi Tướng Phú nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2, vị tham mưu trưởng đương nhiệm là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm. (Trong thời gian từ 1967 đến tháng 6/1968, khi Tướng Phú còn mang cấp Đại Tá và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì tướng Cẩm còn là Trung Tá, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn này). - Trong những tuần lễ đầu tiên, Tướng Phú đã hai lần đề nghị hai vị Đại Tá giữ chức vụ tham mưu trưởng Quân Đoàn thay chuẩn tướng Cẩm được bổ nhiệm làm Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh Quân Đoàn 2, nhưng cả hai lần đều bị Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân trình với Đại Tướng Cao Văn Viên bác bỏ. Cuối cùng, theo đề nghị của Trung Tướng Khuyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đã bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lý, nguyên tham mưu trưởng bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Dù vị tham mưu trưởng không do mình chọn lựa, nhưng Tướng Phú đã tin dùng và ủy nhiệm cho Đại Tá Lê Khắc Lý nhiều quyền hạn trong việc điều hành Bộ Tư Lệnh. - Trước khi cuộc chiến Cao Nguyên (năm 1975) bùng nổ, Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn trình bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10 tháng 3/1975.Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14 tháng 3/1975, trong một cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao nguyên. - Sau khi lực lượng Quân Đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đã bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” để chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu — Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 — tới nhận bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Vào giờ phút đó, quanh Tướng Phú chỉ có: Đại Tá Đức –nguyên Phụ Tá Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu Tá Vinh, chánh văn phòng; Thiếu Tá Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại đây, Tướng Phú đã có quyết định tự sát, nhưng Đại Tá Đức đã kịp thời cản ông. Theo lời kể của Thiếu Tá Phạm Huấn, vào lúc 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu Tá Hóa tới trình cho Tướng Phú là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu Tá Huấn đứng gần Tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu Tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn nòng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại Tá Đức: “Thiếu Tướng”. Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Sự việc này xảy ra quá bất ngờ… - Giữa tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại Tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, nguyên tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Nam, đã vào thăm Tướng Trưởng và Tướng Phú đang nằm dưỡng bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại Tá Chung đã nghe Tướng Phú trăn trối, và kể lại như sau: Rời phòng Trung Tướng Trưởng, tôi (Đại Tá Chung) qua phòng kế bên cạnh là phòng của Thiếu Tướng Phú, cũng đang nằm dưỡng bệnh kế đó. Bước vào phòng tôi thấy Thiếu Tướng Phú đứng dậy ngay và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối: “Anh Chung, anh từng hành quân với tôi đã lâu…” Nói đến đây Thiếu Tướng Phú ôm tôi và khóc tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối: “…mà đêm qua, Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu, bắt tôi phải rút… có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục”. Tôi (Đại Tá Chung) không khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng kính như Thiếu Tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu Tướng hãy bình tỉnh và nên tĩnh dưỡng. - Đó là lần cuối cùng Đại Tá Chung gặp Tướng Phú. Sáng ngày 29 tháng 4/1975, tại căn nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ tìm cách di tản, Tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đã chạy tới vào cho bà biết. Cả gia đình quay về. Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đã vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng Tướng Phú mê man liên miên, mãi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi người vợ đang ngồi cạnh: - Tình hình đến đâu rồi? Bà Phú nói: - Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đã vào tới Sài Gòn! Nghe xong Tướng Phú nhắm mắt lại và “ra đi”. Vương Hồng Anh Trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975TaySau ngày ký Hiệp định Paris, miền Nam Việt Nam mạnh hơn miền Bắc. Tháng 11 năm 1972 TT Nixon vội cho chuyên chở tới VNCH gần 600 máy bay các loại gồm: 208 máy bay phản lực gồm chiến đấu và oanh tạc cơ loại nhẹ và khoảng 360 trực thăng các loại, 23 phi cơ thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48 (Nixon No More Vietnams trang 170-171). Trong khi ấy BV bị thiệt hại nặng và thảm bại trong trận muà hè đỏ lửa, tính tới tháng 9/1972 có vào khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh CS bị giết, khoảng 700 chiến xa bị phá hủy (Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), ngoài ra trận oanh tạc dữ dội Giáng sinh 1972 bằng B-52 đã gây thiệt hại rất nặng cho hạ tầng cơ sở BV như kho hàng, đường xe lửa, nhà máy điện, phi trường…. Mặc dù mạnh hơn miền Bắc rất nhiều nhưng miền Nam không được phép đánh ra Bắc mà chỉ được ở yên trong thế tự vệ chờ địch tới, điều này ai cũng biết cả. Khoảng gần một năm sau tình hình bắt đầu thay đổi, cán cân quân sự nghiêng về phía BV. Ngay sau khi ký Hiệp định Paris, CSBV vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định, chiến tranh vẫn tiếp diễn, trong khi miền Nam VN bị cắt quân viện dần dần , miền Bắc vẫn được CS quốc tế tiếp viện dồi dào, về chi tiết tôi sẽ nói sau. Cuộc chiến tranh giữa hai miền là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên đều không tự sản xuất được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện bên ngoài, bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng. Tình hình chung hai bên Năm 1973 có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ Hiệp Định Ba Lê 28/1 cho tới tháng 10/1973 và giai đoạn bạo lực cách mạng sau tháng 10/1973. Từ sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê đến tháng 10/1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6/1973 Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương Việt, Miên, Lào. Ngày 1/7/1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8/1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10/1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (War Powers Act), Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Thấy thời cơ thuận lợi đã tới, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang quân sự bạo lực. Đại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn Theo Henry Kissinger (Years of Renewal trang 478) sau khi ký Hiệp định Paris, BV bắt đầu cho xây hệ thống đường xâm nhập tiếp liệu chằng chịt dài tổng cộng 20 ngàn km từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, rộng 8m, hàng ngàn km ông dẫn dầu cung cấp cho hàng chục ngàn xe vận tải. Sau Hiệp định khoảng gần một năm, Quốc hội Mỹ cắt giảm quân viện xương tủy VNCH mỗi năm 50%, từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Dưới thời TT Nixon, chính phủ đã đề nghị Quốc hội cấp 1 tỷ 4 viện trợ quân sự cho miền nam VN năm 1975, Ủy ban quốc phòng Thượng viện do Nghị sĩ John Stennis làm chủ tịch cắt bớt còn 1 tỷ, nay dưới thời TT Ford Ủy ban chuẩn chi Thượng viện do Nghị sĩ John McClellan làm chủ tịch cắt 300 triệu còn 700 triệu (Years of Renewal trang 472). Theo bản tin của BBC.com ngày 10/5/2006 một buổi hội thảo qui mô tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 14 và 15/4/2006. Trong số các bài đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch sử Quân sự Cộng sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến. Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí. Như vậy số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau. Theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn Đánh hơi thấy Mỹ quẳng miếng xương Đông Dương, CS quốc tế và CSVN nhanh tay ra vồ ngay lấy. Cuối tháng 10/1974 Bộ Chính Trị Hà Nội quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích. Trong giai đoạn 1969-1972 sự vận chuyển súng đạn của CS vào Nam gặp nhiều khó khăn vì bị không quân Việt-Mỹ ném bom, bắn phá nhưng kể từ sau ngày ký Hiệp Định Paris 1/1973, BV đã dùng 16 ngàn xe vận tải chở súng đạn qua xa lộ Đông trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh một cách tự do thoải mái nên giai đoạn 1973-1975 Hà Nội đã đem được nhiều vũ khí đạn dược vào Nam gấp mấy lần giai đoạn trước ( 1969-1972) Trong khi ấy Tổng Thống Thiệu không có một nhận định nào rõ ràng về lực lượng cũng như kế hoạch sắp tới của CS. Ngày 9/12/1974 , khoảng một tuần trước khi BV tấn công Phước Long, tại dinh Độc Lập trong một phiên họp cao cấp quân sự gồm Hội đồng Tướng lãnh và các vị Tư lệnh Quân khu, ông Thiệu cho biết trong năm 1975 BV có thể đánh với qui mô lớn nhưng không bằng năm 1968 và 1972, địch chưa có đủ khả năng đánh vào các thị xã lớn, dù đánh cũng không giữ được! BV chỉ đánh các thị xã nhỏ như Phước Long, Gia Nghĩa. Về điểm này Frank Snepp, trong Decent Interval, Tướng BV Văn Tiến Dũng và ông Cao Văn Viên đã ghi nhận gần giống nhau như vậy, ông Thiệu lạc quan cho rằng BV chưa phục hồi sau trận mùa hè đỏ lửa 1973. Từ tháng 10 năm 1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính Trị và Quân uỷ Trung ương, họ đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu, Văn Tiến Dũng đã ghi nhận trong hồi ký. “Tháng 10 năm 1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân sự chúng tôi nhớ đến mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp nghe Bộ Tổng tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược. . . . …Hội nghị nhất trí thông qua phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn chiến trường Tây nguyên làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn và rộng khắp năm 1975” (Đại thắng mùa xuân trang 24) BV cho rằng TT Thiệu đã bố trí lực lượng mạnh ở hai đầu, tại Quân khu 1 và 3 thì bố trí nhiều đơn vị chủ lực, nhiều chiến xa, đại bác và máy bay chiến đấu, còn tại Quân khu II ta chỉ để 2 Sư đoàn 22 BB và 23 BB. Quân khu II rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh, VNCH phải trải quân giữ đất nhiều nên khả năng phòng thủ yếu. Bộ chính trị CSBV đã đồng ý kế hoạch nêu trên và chọn Tây nguyên để làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công năm 1975. Hà Nội đã chọn chiến trường Tây Nguyên (Quân khu II) làm chủ yếu vì tại đây lực lượng VNCH yếu hơn ba quân khu I, II, IV. Đại tá Phạm Bá Hoa nói hồi ông học tại trường Đại Học Quân Sự năm 1960 có được đọc một tài liệu nói “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm được cao nguyên miền Trung thì người đó sẽ nắm phần chiến thắng”, Cộng Sản cũng nói ai làm chủ Tây Nguyên thì làm chủ chiến trường. Bắc Việt chủ trương tấn công Quân khu II trước phần vì VNCH phòng thủ yếu tại đây vả nó là vị trí yết hầu. Một phần vì ông Thiệu không chủ trương giữ Quân khu II, một vùng cao nguyên cẵn cỗi mà trong thâm tâm đã có ý tưởng bỏ vùng núi rừng miền Trung rút quân về vùng đất mầu mỡ Quân khu III và IV, trên thực tế lãnh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trừ bị để tăng cường Sau khi lựa chọn chiến trường Tây Nguyên, Bắc Việt lựa chọn địa điểm tấn công, tại buổi họp của Quân Uỷ Trung Ương Bắc Việt ngày 9/11/1974 Lê Đức Thọ tay trùm CSBV tham dự để nâng cao quyết tâm chiếm cho được Ban Mê Thuột, Thọ nói “Phải đăt vấn đề dứt khoát là giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?” (Sách đã dẫn Trang 31) Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước ngày tấn công trong khi ta chưa có tin tức tình báo rõ rệt. Chiến dịch Tây nguyên được mang mật danh 275. Ngày 13/12/1974 Bắc Việt đưa gần ba Sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày 7/1 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch. Tổng số 4,500 binh sĩ, sĩ quan chỉ còn 850 người sống sót. Tỉnh trưởng Phươc Long. Quận trưởng Phước Bình mất tích, 3,000 trong số 30 ngàn dân trốn thoát, một số viên chức hành chánh bị CS hành quyết, thất bại tại Phước Long là đương nhiên vì một Tiểu đoàn bộ binh và 5 Tiểu đoàn địa phương quân không thể chống lại 3 Sư đoàn CS. Chính phủ VNCH không tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng thực hiện tiếp tế, cứu viện bằng trực thăng vận từ Biên Hoà. Nói về mặt kinh tế chính trị Phước Long kém quan trọng hơn Tây Ninh, Pleiku, Huế… Hà Nội cho đánh Phước Long để thăm dò Mỹ, khi thấy Mỹ chỉ phản đối xuông thì họ làm tới. Sau trận Phước Long TT Thiệu biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên đầu năm 1975 nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì địch nghi binh tối đa. Phía VNCH không đoán được ý định của họ, theo Tướng Hoàng Lạc trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh tối đa để đánh lạc hướng Nguỵ. Tình hình chính trị quân sự VNCH năm 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 1971 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm vì Mỹ đang rút quân. Khi nửa triệu quân đồng minh đã rút đi, VNCH phải một mình gánh vác tất cả chiến trường với tiền viện trợ bị cắt giảm từ cuối 1973 mỗi năm 50%. Việc cắt giảm đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH (NNCCVNCH) trang 86, 87. Hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ. Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã dẫn trang 92) Theo sử gia Bill Laurie, cấp số đạn súng lớn như đại bác 105 ly, 155 ly, 175 ly.. năm 1975 đã bị cắt giảm trên 90% . Theo Tướng Cao Văn Viên vì thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, giang thuyền, máy bay …nằm ụ chờ rỉ sét. Thiếu thuốc men, số tử vong tăng cao, tinh thần xuống thấp. Không quân VNCH năm 1975 có 2075 máy bay các loại, đứng thứ tư trên thế giới về số lượng. Binh chủng Thiết giáp có 2,200 chiến xa và thiết xa các loại. Pháo binh có khoảng 1,500 khẩu đại bác . Hải quân có 1,600 tầu chiến và giang thuyền các loại. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế nhiều máy bay, xe tăng.. hư hỏng thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ. Lục quân VNCH có hơn một triệu quân trong đó 40% là chủ lực quân vào khoảng 400 ngàn người gồm những lực lượng tác chiến và yểm trợ, 50% là ĐPQ , Không quân, Hải quân, Cảnh sát. Quân đội VNCH được tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có năm người yểm trợ như hành chánh tài chánh, quân y, quân trang, quân dụng. Trên thực tế lực lượng chiến đấu chỉ vào khoảng từ 170 cho tới 180 ngàn người. Lính nhà nghề chỉ có 13 Sư đoàn chủ lực và 17 Liên đoàn Biệt động quân tương đương khoảng hơn 2 Sư đoàn (trên thực tế một Liên đoàn có hơn 1000 người). Tổng cộng ta có vào khoảng 15 Sư đoàn chính qui (nếu kể cả BĐQ). Lực lượng được bố trí toàn quốc như sau. Quân khu Một: 5 Sư đoàn (1, 2, 3, Nhẩy Dù, TQLC), 4 Liên đoàn BĐQ. Quân khu Hai: 2 Sư đoàn (22, 23), 7 Liên đoàn BĐQ Quân khu Ba: 3 Sư đoàn (5, 18, 25), 4 Liên đoàn BĐQ Quân khu Bốn: 3 Sư đoàn (7, 9, 21) Địa phương quân VNCH năm 1975 có khoảng 325 ngàn người, Tổng cộng VNCH có 15 Sư đoàn chủ lực (nếu kể cả BĐQ) tức 45 trung đoàn, đem chia cho 44 tỉnh toàn quốc thì trung bình mỗi tỉnh chỉ có một Trung đoàn chính qui bảo vệ trong khi BV có khả năng tập trung hằng chục Trung đoàn để tấn công một địa điểm vì họ không phải trải quân giữ đất như Miền Nam. Theo ông Cao Văn Viên trên thực tế quân số VNCH thiếu hụt do nạn đào ngũ, mỗi năm mất khoảng một phần tư (1/4) quân số, ngoài ra ta cũng phải kể nạn lính ma lính kiểng. (NNCVNCH trang 79) Lực lương chính qui Bắc Việt năm 1975 gồm 4 Quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương một Quân đoàn). Mỗi quân đoàn gồm 3 sư đoàn và các lữ đoàn phòng không, pháo binh, thiết giáp, công binh.. Tổng cộng họ có 15 sư đoàn bộ binh, khoảng 6 trung đoàn đặc công và hơn 10 trung đoàn độc lập. Toàn bộ lực lượng tương đương với 20 Sư đoàn bộ binh chưa kể các đơn vụi cơ giới, yểm trợ So về lực lượng chính qui, nhân lực thì quân đội BV đã nhiều hơn quân đội VNCH , họ không phải phòng thủ, mỗi khi tấn công họ dồn lại tạo một mũi dùi mạnh. Trong khi đó Quân đội chủ lực VNCH đã ít hơn lại phải trải rộng từ Cà Mâu ra Bến Hải để giữ đất, như đã nói trên ta có 13 sư đoàn, kể cả 15 liên đoàn Biệt động quân thì có tương đương 15 sư đoàn hay 45 trung đoàn, miền nam có 44 tỉnh, trung bình một tỉnh chỉ có một trung đoàn bảo vệ. Theo hồi ký Văn tiến Dũng tại Cao nguyên về bộ binh BV đông hơn VNCH 5 lần, pháo binh gấp 2 VNCH (sách đã dẫn trang 49) vì họ tập trung Khoảng 80% chủ lực quân CSBV đã có mặt tại miền Nam đầu năm 1975, họ để lại Quân đoàn 1 (gồm 3 Sư đoàn) tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Sau khi Quân khu II và I của VNCH sụp đổ, Bắc Việt đưa hết cả 3 Sư đoàn trừ bị vào Nam. Trong giai đoạn 1973-1975 Hà Nội cho chuyên chở vũ khí vào Nam thoải mái vì không bị oanh kích nên số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của họ tại miền Nam nhiều gấp hai hoặc gấp ba lần năm 1972. Pháo binh và Thiết giáp BV đưa vào Nam được ước lượng không chính xác khoảng hơn 500 khẩu trọng pháo và hơn 500 xe tăng. So sánh với tình hình năm 1972 ta thấy năm 1975 quả là bi đát, năm Quân khu II gồm 12 tỉnh, diện tích rộng lớn nhất, bằng nửa Việt Nam Cộng Hoà mà chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22 và 23) và 7 Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ, toàn bộ lực lượng chưa tới ba Sư đoàn là nơi yếu thế nhất đã được BV chiếu cố tấn công. Quân khu II dân số trên 3 triệu gồm các tỉnh Cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Lâm Đồng, Quảng Đức, Phú Bổn, Tuyên Đức, phía Đông là các tỉnh duyên hải gồm Bình định, Khánh Hoà, Bình Thuận… có 3 thành phố chính là Nha Trang, Qui Nhơn, Tuy Hòa, dân số tại đây thưa thớt hơn các quân khu khác. Sư đoàn 23 BB bảo vệ Cao nguyên, sư đoàn 22BB chịu trách nhiệm các tỉnh duyên hải. Diễn tiến trận đánh Tư Lệnh Quân đoàn II Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh phó Quân đoàn Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Tư Lệnh phó Quân khu Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tham mưu trưởng Đại tá Lê Khắc Lý. Tại Ban Mê Thuột chủ lực quân của VNCH gồm 2 Tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung đoàn 53 đóng tại phi trường Phụng Dực (có nhân chứng nói chỉ có một tiểu đoàn) và ba Tiểu đoàn Địa phương quân. Theo Bút ký của Nguyễn Định, Ban Mê Thuột như một thành phố bỏ hoang, các đơn vị chủ lực đã được đưa tăng cường cho Pleiku và các nơi khác. Cũng theo ông này lực lượng của ta tại đây kể cả Nghĩa quân, Cán bộ xây dựng nông thôn, Nhân dân tự vệ cũng không quá 2,000 người. Con số Nguyễn Định đưa ra có lẽ quá thấp vì quân số tại các tỉnh nhỏ như Phước Long, Bình Long đã vào khoảng trên dưới 3,000 người, lực lượng VNCH tại Ban Mê Thuột chắc hẳn không dưới 3,000 hoặc 4,000 người vì đó là một tỉnh lớn. Lực Lượng CS tại Quân khu II theo tài liệu Bắc Việt như sau: “Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm: 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn bộ binh (25, 271, 95A, 95B), trung đoàn đặc công (14, 27), trung đoàn xe tăng- thiết giáp 273, 2 trung đoàn pháo binh (40, 675), 3 trung đoàn phòng không (232, 234, 593), 2 trung đoàn công binh (7, 575), trung đoàn thông tin 29, 6 tiểu đoàn vận tải, nhiều đơn vị bảo đảm của Bộ và lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh diễn ra chiến dịch. Riêng lực lượng Mặt trận Tây Nguyên tham gia chiến dịch gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn đặc công, 13 tiểu đoàn pháo mặt đất, 18 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp với tổng số quân 44.900 người. Về vũ khí trang bị: có 88 pháo lớn, 1.561 súng chống tăng và hàng vạn súng bộ binh, 6 cơ cấu bắn B-72, 343 súng phòng không, 32 xe tăng, 25 xe bọc thép, 679 xe ô tô các loại. Ngoài ra còn có 21.800 cán bộ chiến sĩ làm lực lượng dự bị ở phía sau và hoạt động ở các hướng khác. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh), Đặng Vũ Hiệp (Chính uỷ) Trich trong: Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.) Như thế lực lượng CS tại Cao nguyên gồm 5 Sư đoàn BB và 4 Trung đoàn độc lập tương đương với 6 Sư đoàn, gấp hơn hai lần chủ lực quân VNCH, tổng số nhân lực kể cả lực lượng dự bị là 66,700 người. Bắc Việt đã được Nga, Tầu viện trợ cho nhiều vũ khí tối tân, ngoài ra họ còn được trang bị nhiều hoả tiễn tầm nhiệt hiện đại. Theo nhận định của phía CS, họ tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên tại đây bộ binh BV đông hơn VNCH gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo binh gấp 2. (Hồi ký ĐTMX Văn tiến Dũng trang 49) Ngày 5/2/1975 Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Đồng Hới rồi vào Quảng Trị, tới sông Bến Hải, y đi xuồng máy tới Bộ chỉ huy chiến dịch tại phía Tây Gio Linh để chỉ đạo toàn bộ chiến dịch. Ban Mê Thuột là tỉnh lỵ của Darlac, dân số 250,000 người gồm Kinh, thượng, Tầu và các chủ đồn điền Pháp và Ý, (cũng có tài liệu nói dân số 150,000 người), thị xã gồm 60,000 người. Tỉnh có nhiều đồn điền cà phê, cao su, nhiều thắng cảnh đẹp, nhiều gỗ quí, dân chúng đa số sống bằng nghề trồng trọt, làm đồn điền. Ban Mê Thuột có vị trí chiến lược quan trọng, phía bắc nối liền Pleiku, Kontum, Phú Bổn.. phía Nam đi Quảng Đức, Phước Long, phía Đông nối liền Nha Trang. Trước khi mặt trận diễn ra, theo Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, BV đưa những tin tức giả qua điện thoại để nghi binh, kế đó tấn công bất ngờ, đông đảo, nghi binh tối đa, họ vờ đánh Pleiku để nhử quân đội VNCH lên giải toả rồi cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công. Các Trung đoàn, Sư đoàn BV cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về phía Bắc (tức Pleiku) sau đó ồ ạt tấn công thị xã Ban Mê Thuột. Theo hồi ký Văn tiến Dũng BV không đóng quân sẵn ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa vận động đến, chuyển quân bằng xe molotova, đây là lần đầu tiên BV đánh trận bằng xe hơi. BV bỏ qua vòng ngoài bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã có sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài, họ không đánh theo lối bóc vỏ. (Sách đã dẫn trang 69) Ngày 1/3/1975 Sư đoàn 968 Bắc Việt chiếm đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh, Pleiku. Ngày 3/3 Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 CS ngăn chận quốc lộ 19 tại An Khê. Ngày 5/3 Trung đoàn 25 CS cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh Dương, cắt đường Nha Trang-Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường Trung đoàn 45 tại Thanh An và cho 2 Tiểu đoàn BĐQ và thiết giáp giải toả quốc lộ 19. Ngày 7/3 Sư đoàn 320 CS chiếm Thuần Mẫn, ngày 9/3 Sư đoàn 10 CSBV tấn công Đức Lập, Quảng Đức, căn cứ núi lửa bị tràn ngập. BV cô lập Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ tư lệnh Quân đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn BĐQ thuộc Liên đoàn 21 từ Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột. Sự sai lầm của Tướng Phú đã được CS khai thác triệt để, họ nghi binh tối đa để đánh lừa ông và gọi đây là cuộc chiến tranh cân não. Ngày 9/3 Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột đã triệu phiên họp khẩn cấp tại toà hành chánh và báo động đỏ, cắm trại 100%. Hai giờ sáng ngày 10/3 đặc công Việt cộng trong thị xã đột nhập phi trường phá huỷ một máy bay, 3 Sư đoàn CS 316, 10, 320 với ba mũi tấn công thị xã phối hợp với đặc công đã nằm bên trong. CS pháo kích ầm ầm như phong ba bão táp vào các vị trí của quân trú phòng rồi đưa xe tăng, xe kéo pháo, phòng không, quân xa.. ồ ạt tiến về thị xã từ xa, lần đầu tiên BV đánh trận bằng xe hơi. Trận bão lửa đã được Nguyễn Định ghi nhận . “…Tiếng rít của hoả tiễn và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ cứ liên tục như những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên màn bạc . . Thành phố đã như con tầu chao nghiêng trong bão tố.”(Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.) Theo hồi ký Văn Tiến Dũng (trang 69), trong một đêm BV đã đưa được một lực lượng đông đảo 12 Trung đoàn gồm bộ binh và các đơn vị xe tăng, pháo binh, phòng không.. khoảng ba Sư đoàn vào trận địa đúng thời gian. Họ bỏ qua các đồn bót dọc đường, tiến về thị xã, bắc phà cho cả đoàn xe vượt sông Serepok, các mũi tiến công đã tiến vào đúng thời gian. Địch chia làm 3 mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trại Mai Hắc Đế, cánh thứ hai đánh phi trường Phụng Dực (có 2 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 53) tại đây 4 xe tăng bị bắn cháy, 200 tên địch bị hạ, cánh thứ ba đánh phi trường L19 để tiến vào thị xã tấn công tiểu khu, khi vào thị xã 10 xe tăng đã bị ĐPQ bắn cháy. Vào buổi chiều Cộng quân chiếm được một nửa thành phố, ĐPQ, nghĩa quân, cảnh sát vẫn chiến đấu anh dũng tại nhiều nơi. Tướng Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 BĐQ xuống Buôn Hô từ đó hành quân vào thị xã tiến chiếm Tiểu khu Ban Mê Thuột nhưng Liên đoàn không đạt được mục tiêu vì sự điều quân vị kỷ của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB. Nhiều tài liệu và nhân chứng cho thấy ông điều động Liên đoàn 21 đưa gia đình, vợ con ông về Trung tâm huấn luyện cách Ban Mê Thuột vài cây số để ông đưa trực thăng xuống bốc đi. Cảnh hoang tàn ghê rợn của thành phố đã được Nguyễn Định mô tả như sau. “Mười sáu giờ ngày thứ hai 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình tại thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh còn được trấn giữ. Trong thành phố tiếng súng nổ đã im, nhưng cảnh hoang tàn của thị xã thật không cách nào tả cho xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt. Đóm lửa, tro tàn, và bụi khói bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lỗ loang những dấu đạn cầy. . . . Rải rác trên các khu phố những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sóc. Thị xã không hẳn là bãi tha ma, mà là hỗn độn của một thế giới nửa sống nửa chết.” (Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.) Và dưới đây lúc sáu giờ chiều. “Trong nội vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận chiến được coi như kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn gợi cho người ta cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người”. ( Nguyễn Định, BMTNĐCC.) Sáng 11/3 không quân oanh tạc lầm vào Bộ Chỉ Huy của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột cắt đứt liên lạc với Quân đoàn II. Bắc Việt cho tăng cường Sư đoàn 320 tiếp tục tấn công phi trường Phụng Dực, Trung đoàn 53 cầm cự đến ngày 17/3 thì chấm dứt, Phạm Huấn cho biết họ chiến đấu quả cảm tới người cuối cùng, nhưng cũng có tài liệu nói một số ít thoát ra khỏi vòng vây chạy vào rừng. Nguyễn Định nói các lực lượng trú phòng như ĐPQ, nghĩa quân, Cảnh sát đã chiến đấu hết sức mình nhưng phải chịu thua trước số đông áp đảo của địch. Ngày 11/3 Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 lập kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột. -Trung đoàn 45 được trực thăng vận từ đèo Tử Sĩ đến quận Phước An để tiến vào hướng Đông thị xã. - Liên đoàn 7 BĐQ được không vận từ Sài Gòn ra thay trung đoàn 44, Trung đoàn này sẽ được trực thăng vận tới Phước An. Ngày 13/3 Trung đoàn 45 tiến về Ban Mê Thuột bị chận đánh cầm chân tại vòng đai thị xã, Liên đoàn 21 Biệt động quân bị đánh rút ra khỏi phi trường L19, cuộc trực thăng vận Trung đoàn 44 bị hủy bỏ, pháo binh chỉ còn hai khẩu 105 ở Phước An, không quân gặp nhiều khó khăn vì BV xử dụng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7. Ngày 15/3 Tổng thống Thiệu hủy bỏ kế hoạch tái chiếm và cho lệnh rút khỏi Phước An. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 thất vọng nói “ không có một tia hy vọng nào giải cứu Ban Mê Thuột”. Cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột thất bại vì ta không đủ lực lượng vả lại các đường dẫn vào Ban Mê Thuột đã bị cắt hết. Nguyên nhân, hậu quả BV lấy được nhiều chiến lợi phẩm của VNCH, Cục trưởng hậu cần BV khoe là họ đã lấy được nhiều lương thực, xe cộ, nhiều đạn trong kho Mai Hắc Đế, Ban Mê Thuột. Tác giả Nguyễn Đức Phương đã nhận xét về diễn tiến trận đánh chiếm Ban Mê Thuột của Cộng quân như sau. “Do những thất lợi về phương tiện vận chuyển và yếu tố quân số của QLVNCH, kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột của Tướng Văn Tiến Dũng khá đơn giản, bao gồm hai yếu tố bí mật bất ngờ và tập trung đông quân số để áp đảo địch quân. Đầu tiên đánh vào một số diện tại quân khu 2 để lôi cuốn các đơn vị QLVNCH có nhiệm vụ giải toả. Sau đó cắt đứt các trục lộ giao thông chính dẫn đến mục tiêu đồng thời chiếm các phi trường để ngăn chận tiếp viện bằng đường hàng không để sau cùng cường tập tiêu diệt điểm với chiến thuật ba mũi giáp công” (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 716.) Hậu quả của trận Ban Mê Thuột không thể lường trước được. Một ngày sau khi BV tấn công Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thịêu mở phiên họp tại Dinh Độc Lập ngày 11/3 gồm Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Quang, Phụ tá an ninh Quốc Gia. Nội dung nói về kế hoạch di tản Quân khu I và II về giữ Quân khu III và IV và chỉ giữ một phần duyên hải Vùng II vì lãnh thổ quá rộng không đủ lực lượng bảo vệ. Ngày 14/3 trong một phiên họp tại Cam ranh với Hội Đồng Tướng Lãnh ông Thiệu quyết định di tản toàn bộ chủ lực thuộc Quân đoàn II về duyên hải qua tỉnh lộ 7. Trận Ban Mê thuột mở đầu cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Việt Nam. BV có yếu tố bất ngờ, bảo mật, Ban Mê Thuột không thuận lợi cho việc phòng thủ. Từ tháng 2/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đã báo cáo tin tức cho thấy BV chuẩn bị đánh Ban Mê thuột do tù binh, hồi chánh viên khai báo kế hoạch của địch. Các cuộc hành quân Phượng Hoàng của Cảnh sát, nghĩa quân, những người khai thác lâm sản… đã báo cáo cho chính quyền Ban Mê Thuột biết tin tức về địch xuất hiện gần thị xã. Khi Tồng thống Thiệu đến ăn Tết với Trung đoàn 44, Trung tá Trưởng phòng 2 Sư đoàn 23 đã trình lên Tổng thống, ông bèn lệnh cho Tướng Phú điều Sư đoàn 23 trở lại Ban Mê Thuột nhưng Tướng Phú tin Cộng quân sẽ đánh Pleiku, chúng giả vờ nghi binh tại Ban Mê Thuột. Tướng Nguyễn cao Kỳ sau này cho biết chúng ta không bị bất ngờ khi CS tấn công Ban mê Thuột, ông Cao Văn Viên đã được thông báo cho biết kế hoạch đánh Ban Mê Thuột, theo ông Kỳ Tướng Viên đã bàn với Tướng Thiệu, Phú về kế hoạch phòng thủ Ban Mê thuột. Tướng Phú cứ nhất quyết ông nắm vững tình hình, địch sẽ đánh Pleiku, sự thực ông đã mắc kế nghi binh của CS, không ai cản được ông ấy. Bộ TTM của QĐVNCH đã cảnh báo Tướng Phú coi chừng BV đánh Ban Mê Thuột nhưng ông vẫn khăng khăng địch sẽ đánh Pleiku. Theo Đại tá Nguyễn Trọng Luật, CS biết phía VNCH hay nghe lén truyền tin của họ và họ đã đưa những tin giả để đánh lừa ta. Tướng Phú đã mắc lừa kế nghi binh của CS, theo Tướng Hoàng Lạc trước ngày Văn Tiến Dũng lên đường vào Nam, Võ Nguyên Giáp đã dặn Dũng phải nghi binh tối đa để đánh hoả mù. Yếu tố bất ngờ của Ban Mê Thuột cũng như Tết Mậu Thân ở chỗ không ai tiên đoán được tầm mức rộng lớn của nó. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II không thể ngờ được Bắc Việt đã đưa vào Quân Khu II đến 6 Sư đoàn vì thiếu tin tình báo, không đánh giá đúng mức lực lượng địch Yếu tố địa hình Ban Mê Thuột không có chướng ngại thiên nhiên như Kontum để trì hoãn sự tiến quân của CSBV, diện tích rộng hơn Kontum Pleiku nhiều. Ban Mê Thuột trên thực tế không có vòng đai phòng thủ liên tục, quá nhiều đồn điền san sát nhau, địch có thể lợi dụng ngụy trang. Những cánh rừng già phía Tây Bắc đã được công binh CS chuẩn bị sẵn. Tại Ban Mê Thuột tấn công bằng chiến xa rất khó, Pleiku với những đồi thoai thoải dễ hơn nhưng BV đã cho công binh dọn đường trước, họ cưa 2 phần 3 các gốc cây lớn, cây không bị đổ, máy bay thám thính ở trên cao nhìn xuống không thấy dấu hiệu gì, CS ngụy trang rất khéo ngay từ thời chiến tranh Việt Pháp 1946-1954 cũng vậy. Khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc ủi sập cây mà tiến vào thị xã dễ dàng. Hai giờ sáng Cộng quân pháo ầm ầm vào thị xã như vũ bão để che lấp tiếng động cơ xe chạy, đến 7 giờ xe tăng địch đã vào trong thành phố. Tướng Phú mới lên nhậm chức Tư lệnh quân đoàn có vài tháng nên không nắm vững tình hình cho lắm, không có uy tín với Bộ Tổng tham mưu. Ông nhậm chức Tư lệnh quân khu ngày 5/11/1974 do Phó Tổng thống Trần văn Hương đề nghị thay thế Tướng Nguyễn Văn Toàn bị kết án tham nhũng, không do Tổng Tham mưu trưởng đề nghị nên trước khi ra đơn vị, lên trình diện Bộ Tổng Tham mưu đã không được Tướng Cao Văn Viên tiếp đón. Theo Phạm Huấn, Quân đoàn II lủng củng nội bộ, nhiều sĩ quan cao cấp tại Quân đoàn vô kỷ luật, bất mãn không hợp tác với Tướng Phú, ông mới nhậm chức chưa đủ thời gian nắm vững tình hình. Ngoài ra 2 tháng trước khi sẩy ra trận Ban Mê Thuột, theo Nguyễn Đức Phương quân số Quân đoàn II không tới 70%, thiếu tiểu đội trưởng. Tham mưu trưởng với Bộ tham mưu bất hợp tác, hai Tướng phó tư lệnh hữu danh vô thực, các đơn vị chỉ phòng ngự mà không có một cuộc hành quân thăm dò nào để tìm diệt địch. Nhiều người qui trách nhiệm cho Tướng Phú đã để mất Ban Mê Thuột, Phạm Huấn cho rằng ông không đủ khả năng nắm giữ một Quân đoàn. Mặc dù đã có tin tức tình báo cho hay Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, ngay cả Tướng Viên và ông Thiệu đã nhắc nhở Tướng Phú coi chừng Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột nhưng ông vẫn nói mình nắm vững tình hình, vẫn một mực tin rằng địch sẽ đánh Pleiku, không ai cản được ông vì đã bị mắc lừa kế nghi binh của CS. Dư luận chung của giới chức cao cấp quân sự và các ký giả, sử gia.. đều cho rằng Tướng Phú là người không đủ khả năng để chỉ huy một đại đơn vị nên đã để mất Ban Mê Thuột. Ông Cao Văn Viên cho rằng việc thay đổi chức vụ Tư Lệnh Quân khu II là một trong những nguyên do đưa tới sự thất thủ Ban Mê Thuột, ý ông nói cựu Tư lệnh Quân khu II Nguyễn Văn Toàn có nhiều kinh nghiệm và khả năng hơn Tướng Phú. Ngoài ra tại Quân khu II lực lượng BV rất mạnh, họ đã đưa vào chiến dịch Tây nguyên tới gần 6 Sư đoàn trong khi ta chỉ để 2 Sư đoàn chủ lực và 7 Liên đoàn Biệt động quân lại phải trải ra phòng thủ nhiều nơi trong Quân khu. Theo Nguyễn Đức Phương dù biết trước Ban Mê Thuột bị tấn công để tăng cường yểm trợ cũng khó mà giữ được, VNCH chỉ có thể đưa tới mặt trận một, hai Trung đoàn hoặc một vài Liên đoàn biệt động quân vì không còn quân trừ bị, cái khó nó bó cái khôn. Nguyễn Đức Phương cho rằng qua kinh nghiệm Mùa hè đỏ lửa 1972, mặc dù đã tập trung Sư đoàn 23 BB tại Kontum nhưng việc phòng thủ khó có thể thành công nếu không có yểm trợ của máy bay chiến lược B-52, mặt trận Ban Mê Thuột chỉ có sự yểm trợ của không quân chiến lược B-52 mới có thể cứu vãn tình thế, nhưng từ nay yểm trợ của B-52 không bao giờ có được. Như đã nói ở trên lực lượng hai bên đã rất chênh lệch CS lại đánh lén, thì họ phải thắng. Theo Nguyễn Đức Phương nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất nặng nề cho BV thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ. Chúng ta có thể kết luận Ban Mê Thuột thất thủ vì. -Lực lượng và hỏa lực hai bên quá chênh lệch, BV đã đưa vào trận địa khoảng 3 Sư đoàn, gấp mười lần quân trú phòng trong khi VNCH chỉ có hai tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung đoàn BB 53, còn lại là phụ lực quân, cảnh sát. Trận giội bão lửa được Văn tiến Dũng kể lại trong hồi ký (trang 68) và Nguyễn Định trong bút ký cho thấy hỏa lực địch áp đảo của địch - Sự sai lầm của Tướng Phú khi cho rằng CSBV tấn công Pleiku trước, ông đã mắc lừa kế nghi binh của đối phương. -Lãnh thổ rộng thu hút gần hết chủ lực quân, lực lượng tổng trừ bị không còn. -Chủ lực quân VNCH tại quân khu II thiếu hụt không đủ để chống lại áp lực mạnh của BV -Thiếu tin tức tình báo. Nhưng phải nói rằng yếu tố chính là VNCH đã bị cắt giảm hỏa lực tới xương tủy. Trước đó vài tháng, tại Phước Long quân đội VNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ đạn dược. Mấy tuần sau khi Phước Long mất, ngày 24 và 25/1/1975 TT Thiệu gửi hai bức thư cho TT Ford phản đối CSBV tấn công chiếm Phước Long vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris. Kissinger trong Years of Renewal trang 490 nói TT Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm hầu còn đạn xử dụng Trận Ban Mê Thuột đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn II và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế, đó là một khúc quành bi thảm trong cuộc chiến tranh dài nhất của thế Kỷ. Trọng Đạt Tài Liệu tham khảo. Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam. Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003 Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988. Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990 Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006. Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005. Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005. Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999 Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985 Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing. Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991. Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002. Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, doanket.orgfree.com Nguyễn Trọng Luật: Nhìn Lại Trận Đánh Ban Mê Thuột, doanket.orgfree.com Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004 Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005. Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 25, 2013 6:55:19 GMT 9
Linh mục Stêphanô CHÂN TÍN(15.11.1920 - 1.12.2012) Linh mục Chân Tín vừa qua đời lúc 16g05 ngày 1 tháng 12 năm 2012, thọ 92 tuổi. Ông là một nhà chân tu, một trí thức suốt đời dấn thân cho độc lập, tự do, dân chủ và quyền con người. Chân Tín sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920 tại làng Vạn Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ngày 02.08.1944, "khấn" lần đầu trong Dòng Chúa Cứu Thế ; ngày 06.06.1949, lãnh sứ vụ linh mục. Năm 1963, ông được Giáo hội bổ nhiệm làm giám đốc nguyệt san Đức Mẹ. Năm 1969, cùng với linh mục Trương Bá Cần, Nguyễn Ngọc Lan và một số linh mục, thân hữu tiến bộ, ông xuất bản tạp chí Đối Diện. Tạp chí này (có lúc phải đổi tên là Đứng Dậy, vẫn hai chữ cái viết tắt ĐD) sẽ là một ngọn cờ của phong trào đô thị miền Nam Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Hoa Kì, chống lại chế độ độc tài Nguyễn Văn Thiệu, chống tham nhũng và bất công xã hội. Năm 1970, cũng với linh mục Nguyễn Huy Lịch (dòng Đa Minh), linh mục Nguyễn Ngọc Lan (cùng Dòng Chúa Cứu Thế), giáo sư Lý Chánh Trung (Công giáo), Chân Tín lên tiếng "xác tín" về việc công an Sài Gòn tra tấn sinh viên... khiến chính quyền N.V. Thiệu phải chùn tay, trả tự do cho một loạt sinh viên, trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm. Phong trào đấu tranh của sinh viên đô thị miền Nam từ đây phát triển nhảy vọt. Trước và sau ngày kí kết Hiệp định Paris (27.1.1973), linh mục Chân Tín là một trong những nhân vật có uy tín của "thành phần thứ ba", và và là ngọn cờ cho cuộc đấu tranh đòi tự do cho tù nhân chính trị. Sau ngày 30.4.1975, quan hệ giữa xu hướng Công giáo tiến bộ và chính quyền của Đảng cộng sản Việt Nam đã bắt đầu trong niềm hân hoan, vai trò cầu nối giữa chính quyền và giáo hội Công giáo của nhóm Công giáo tiến bộ rõ ràng có nhiều triển vọng. Tạp chí Đối Diện và nhật báo Tin Sáng (của dân biểu Ngô Công Đức) là hai tờ báo nhanh chóng được phép tái bản. Nhưng đó là quyết định cá nhân của ông Trần Bạch Đằng, phụ trách tuyên huấn Miền Nam. Quyết định này bị ông Lê Đức Thọ lên án là hữu khuynh (từ đó, bắt đầu sự đi xuống của hoạn lộ cách mạng của ông Trần Bạch Đằng). Việc đóng cửa hai tờ báo này chỉ còn là vấn đề thời gian (Đối Diện năm 1978, Tin Sáng năm 1980). Đường lối tả khuynh của ĐCSVN về kinh tế, chính trị cũng như về tôn giáo lại được nuôi dưỡng bằng mối lo sợ trước "bóng ma Công giáo" xuất hiện ở Ba Lan (Công đoàn Solidarnosc, vai trò của giáo hoàng Gioan-Phaolồ II). Trong nội bộ những linh mục tiến bộ, sự phân hóa từng bước biến thành đối nghịch giữa một bên là nhóm LM. Trương Bá Cần (chủ trương báo Công giáo & Dân tộc) và nhóm LM. Chân Tín & Nguyễn Ngọc Lan. Hi vọng hòa hoãn, nếu không nói là hòa giải, trong mấy năm đổi mới đã tan biến khi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chuyển hướng thành co cụm vào mùa hè 1989, với cuộc thảm sát Thiên An Môn và cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Ba Lan. Tháng 5.1990, linh mục Chân Tín bị chính quyền quản thúc 3 năm tại Cần Giờ (ông Nguyễn Ngọc Lan, đã xuất tu và lập gia đình, bị quản chế tại gia). Năm 1993, ông trở về Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng, nhưng vẫn liên tục bị chính quyền o ép, thậm chí còn dùng những biện pháp thô bạo, bỉ ổi (năm 1998, khi ông Nguyễn Văn Trấn, đảng viên lão thành, từ trần, Nguyễn Ngọc Lan chở Chân Tín bằng xe máy đi viếng, trên đường đi bị công an mặc thường phục tông xe, bị thương khá nặng). Chính sách tệ bạc của chính quyền không thể làm lay chuyển linh mục Chân Tín. Cho đến những tháng chót của cuộc đời, mặc dù bệnh nặng, ông vẫn kiên định lên tiếng đòi tự do, dân chủ và quyền con người. Người ta có thể không chia sẻ với Linh mục Chân Tín mọi ý kiến chính trị và nhận định về tình hình đất nước, nhưng không ai có thể phủ nhận sự trong sáng của lòng yêu nước và lí tưởng dân chủ, tự do, công bằng của ông. Nguyễn Ngọc Giao ****************** Thư không niêm gởi HT Thích Tâm Châu Orange County, California Ngày 13 tháng 7 năm 2013 Thưa Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Trước khi đi vào câu chuyện chính mà tôi muốn thưa với Hòa thượng, tôi xin tự giới thiệu cá nhân tôi về đời tư cũng như đời công để Hòa Thượng rõ về đối tượng đang thưa chuyện với Hòa thượng: Về đời tư: Tôi là Liên Thành xuất thân trong một gia đình Hoàng Tộc, thuộc huyết thống chính thống của Đức Đông Cung Anh Duệ Hoàng Thái Tử Đại Nguyên Soái Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng của Hoàng Đế Gia Long. Ông Nội tôi là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, một nhà cách mạng Việt Nam, ông là cháu đích tôn đời thứ 5 của Hoàng Đế Gia Long. Bà nội tôi là cháu ngoại của Vua Thiệu Trị và là em ruột của Đệ I Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam, Ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Như Vậy trong liên hệ gia đình tôi gọi Ngài Hòa Thượng Đệ I Tăng Thống là Ôn. Ngoài ra người Bác của tôi là Ông Tráng Đinh, người đã từng cùng với bác sĩ Lê Đình Thám lập ra Hội Phật Học Trung Việt từ 1944 và tôi biết rõ rằng chính Ông Trí Quang là một trong những học viên đầu tiên của Hội Phật Giáo Việt Nam tại Trung Việt. Ngoài ra gia đình tôi có anh Liên Phú hiện là Đại Lão Hòa Thượng đang trù trì một ngôi chùa tại Vùng Đơn Dương ở gần thị xã Đà Lạt. Sở dĩ tôi phải đưa lý dịch dài giòng liên hệ của tôi đối với Phật Giáo để chứng minh rằng những lời tôi sắp thưa cùng hòa thượng là những lời lẽ hoàn toàn không có ý tưởng nào gọi là đánh phá Phật Giáo mà chỉ với mục địch nói lên sự thật đã bị cộng sản Việt Nam cũng như một đám Ma Tăng, ác tăng và dâm tăng nằm vùng trong Phật Giáo bóp méo và mưu toan tẩy xóa lịch sử mà thôi. Về đời công: Tôi là lính tình nguyện, xuất thân từ trường sĩ quan Bộ Binh Thủ Đức khóa 16. Tôi chẳng liên hệ gì đến nền Đệ I Cộng Hòa vì khóa 16 chúng tôi ra trường khi mà cuộc phản loạn của đám loạn tướng đã xong. Nhưng trước ngày 8 tháng 5 năm 1963 Phật Đản tôi có mặt tại Huế và đã chứng kiến một số sự việc cho đến ngày tình nguyện đi lính. Từ 6/6/1966 đến đầu 1969 tôi là thiếu úy Phó trưởng ty Cảnh Sát Đặc Biệt tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Từ 1969 đến gần cuối 1974 tôi là Chỉ huy Trưởng BCH/CSQG/TT -Huế. Nói như vậy để hòa thượng thấy rằng tôi là một nhân chứng sống trong một thời đại nhiễu nhương của đất nước từ 1963-1975. Thưa Hòa Thượng, Từ bao nhiêu năm nay cho đến trước cuối tháng 6/2013 Hòa thượng nói chuyện tại chùa Bảo Quang Nam Cali, và trước ngày 4/7/2013 Ký giả Đoàn Trọng phỏng vấn Hòa Thượng trên đài truyền hình channel 57.7 thì cá nhân tôi vẫn một lòng tôn kính Hòa thượng. Nhất là khi Hòa thượng ra cuốn Bạch Thư tố cáo Ác Tăng Thích Trí Quang và Phật Giáo thuộc nhóm Ấn Quang là cộng sản, mặc dầu trước đó trong thời gian cuộc nổi loạn 1963 Hòa Thượng cũng đã sát cánh với Thích Trí Quang và nhóm cộng sản Ấn Quang như Hòa thượng đã tuyên bố trong cuốn Bạch Thư ngày 31/12/1993 tại hải ngoại. trích - Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến, yêu cầu Mỹ rút quân, phản đối chính sách chống Cộng của VNCH, đòi hòa bình. Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên cạnh Hòa Đàm Paris. trích - Thực sự, cuộc tranh đấu từ tháng 6-1966, cho đến nay chia đôi Giáo Hội, đều do bàn tay CS đạo diễn, làm hại cho Phật Giáo và quốc gia VN không nhỏ. Vì vậy, Phật Giáo không phải là không có trách nhiệm, liên đới đến sự để mất VNCH cho CS. Vấn đề này, chính Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: “CS từng tuyên bố: “Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng”. - ngưng trích Bạch Thư Thích Tâm Châu Nhưng nay, sau khi nghe Hòa thượng tuyên bố nguyên nhân của vụ tranh đấu Phật Giáo vào năm 1963 và vụ ông Lâm văn Tức/Thích Quảng Đức tự thiêu, thì tôi xin thưa cùng Hòa Thượng cảm nghĩ của tôi đối với Hòa Thượng như sau: Tôi hoàn toàn thất vọng và khinh bỉ tư cách của Hòa thượng, một kẻ tuổi đời đã 93 tuổi mà có thể ăn nói hồ hồ, vu khống, trở trái làm mặt một cách không ngượng ngùng, và không biết xấu hổ là gì. Trong buổi nói chuyện tại chùa Phổ Quang và buổi phỏng vấn của ký giả Đoàn Trọng trên đài truyền hình FreeVN 57.7 ngày 4/7/2013 Hòa thượng đã nói một số vấn đề tôi xin nêu ra dưới đây để mọi người cùng thấy sự láo lường và tư cách hèn hạ của Hòa Thượng: 1)- Hòa thượng nói rằng: 'Vô tình hay là cố ý đã có một cái thông điệp là cấm treo cờ Phật giáo trong mùa Phật Đản.' Xin hỏi Hòa thượng đã đọc được văn thư của Tổng Thống hay Chính Phủ Đệ I Cộng Hòa cấm treo cờ Phật giáo ở đâu, khi nào, ai đưa cho Hòa thượng đọc. Hòa thượng có dám thề trước tượng Phật là có văn thư nầy và chính Hòa thượng đã đọc được hay không? Lịch sử đã chứng minh và Ủy ban Điều tra của Liên Hiệp Quốc cũng đã chứng minh rằng không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, có nghĩa rằng hoàn toàn không có văn thư nào của Tổng Thống hoặc của chính phủ cấm treo cờ Phật Giáo mà chỉ có văn thư nhắc lại thể thức treo cờ tôn giáo phải nhỏ hơn cờ quốc gia mà thôi. 2)- Hòa thượng nói, mục đích chính của cuộc tranh đấu 1963 là vì cầu cho được "Bình đẳng Tôn giáo" mà thôi. Xin thưa cùng Hòa thượng rằng, những gì mà cộng sản và nhóm Phật Giáo Tranh Đấu 1963 vẫn thường sự dụng Dụ số 10 để gán ghép cho chính phủ Đệ I Cộng Hòa tội bất bình đẳng với Phật giáo. Cũng vì Dụ số 10 này mà ông Thích Quảng Độ vào năm 2011 đã phạm vào tội vọng ngữ thậm xưng không thể tha thứ khi phát biểu rằng: "Dưới thời ngoại thuộc, Phật giáo đã hoàn tất công cuộc Chấn hưng khởi từ những năm 20 thế kỷ trước, bằng cuộc Xuống Đường không tiền khoáng hậu năm 1963, thế kỷ XX, để chấm dứt thời kỳ ngoại thuộc biến một tôn giáo dân tộc thành hội đoàn tư hữu, biến đạo lý truyền thống thành ý lực ngoại bang" (Nguồn - hay www.queme.net/vie/docs_detail.php?numb=1713). Có lẽ các ông chỉ biết "tranh đấu" mà không đọc nên chẳng biết nội dung của Đạo Dụ nói gì và Đạo Dụ nầy có từ bao giờ, do ai, và mục đích của Đạo Dụ nầy là gì. Xin thưa: Dụ số 10 là của Vua Bảo Đại ban hành vào ngày 6/8/1950. Ông Bộ Trưởng bộ Nội Vụ của chính phủ Đệ I Việt Nam Cộng Hòa Bùi văn Lương đã giải thích như sau: Theo Hiến Pháp VNCH, sự tu chính luật phải do Quốc Hội đưa ra. Tóm lại việc tu chính một Dụ phải có hai điều kiện: 1- Xét thấy rằng có nhu cầu phải tu chính. 2- Phải có nhu cầu xuất phát từ dân chúng. Trong cả hai nhiệm kỳ quốc hội mà đa số đều là Phật Tử đều không đưa ra yêu cầu tu chính Dụ số 10, thế thì tại sao nhóm Phật Giáo Tranh Đấu lại đổ tội cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Đổ tội cho Tổng Thống một việc mà hiến pháp quy định không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của Tổng Thống, như vậy những kẻ đã đổ tội có mưu đồ gì, nhất là khi những kẻ đó lại khoác trên mình cái áo của Phật? Trong trường hợp này, rõ ràng Phật là vũ khí để nhóm Phật giáo Tranh Đấu đã dùng để đẻ ra tội cho bất cứ ai mà đám này muốn triệt hạ. - Xét về điểm số 1: Cho đến khi có vụ Phật giáo giáo xẩy ra, đã không có nhu cầu tu chính Dụ số 10. Mặc dầu văn kiện kiểm soát các hội rất chặt chẽ và gắt gao, nhưng chính phủ VNCH không hề áp dụng những điều kiện đó, mà ngược lại lại rất rộng rãi cho tất cả các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Có một điều khoản trong Dụ, ví dụ như điều kiện buộc phải đăng ký với Bộ Nội Vụ tên những thành viên của chùa, Ủy ban, hay Hội Phật Giáo, mà điều này ai cũng thấy là rất cần thiết để đối phó với cộng sản, thì chính phủ đều bỏ qua, đặc biệt ở các tỉnh. Theo ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi văn Lương thì trước 1960 và sau 1960 chính phủ đều không thi hành Dụ số 10 đối với Phật giáo, ngay chính ông ta cũng không kiểm tra. Mãi đến năm 1963 khi xảy ra vụ Phật giáo thì ông Bộ Trưởng Bùi văn Lương mới mở hồ sơ ra xem xét, mới thấy rằng đã từ lâu, 1954 đến 1963 chính phủ đã không hề áp dụng Dụ Số 10. - Xét về điểm số 2: Chính Phủ không hề và chưa bao giờ có yêu cầu, thư tín gì từ phía dân chúng đòi hỏi tu chính Dụ số 10. Từ ngày 16/6/1963, sau khi thỏa hiệp với phái đoàn Phật Giáo, đích thân chính phủ đã đưa vấn đề Dụ số 10 ra Quốc Hội và đã cử một ủy ban đặc biệt để nghiên cứu tu chính Du số 10. Trong khi đó chính phủ cũng đã chính thức tuyên bố ngưng áp dụng Dụ số 10, cho dù chính phủ đã không hề áp dụng từ lâu. Trong ngày 26/10/1955 Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm công bố Hiến Ước tạm thời có câu: “Luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên”, Dụ số 10 nằm trong số các luật lệ hiện hành nên đương nhiên là tạm giữ. Sau đảo chánh, ngày 4/11/1963, Trung Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, khi tuyên bố Hiến Chương tạm thời số 1 cũng có câu “Các luật lệ hiện hành vẫn tạm duy trì”. Như vậy, ngay cả với chính quyền Dương Văn Minh thì Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy bỏ. Chính phủ của Trung Tướng Nguyễn Khánh, và sau nầy là chính phủ Đệ II Cộng Hòa vẫn tham chiếu Dụ số 10 để làm những Nghị Định hay Sắc Luật để phê chuẩn bản Hiến Chương Phật giáo sau nầy. Ngay cả cho đến ngày 30/4/1975, Dụ số 10 vẫn không hề bị hủy bỏ. Như đã biết thủ tục pháp lý để hủy bỏ một Dụ không phải là dễ, và không thuộc quyền hạn và trách nhiệm của hành pháp. Thích Trí Quang đổ tội cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật giáo qua vấn đề Dụ số 10 là hoàn toàn cả vú để lấp miệng em, tuyên truyền lường gạt tín đồ nhẹ dạ không hiểu biết gì về luật pháp và hiến pháp quốc gia. 3)- Hòa Thượng nói rằng: Chùa Từ Đàm và các ngôi chùa tại Huế bị phong tỏa, bị cúp điện, nước, và không cho tiếp tế thực phẩm. Thưa Hòa thượng, sự thật không phải như vậy, có lẽ Hòa thượng không có mặt ở Huế nên ông chẳng biết mô tê là gì. Nhà tôi ở sát cạnh chùa Từ Đàm và tôi đã chứng kiến hàng giờ hằng ngày cho đến khi lên đường đi lính. Sự việc là chỉ có một mình chùa Từ Đàm bị phong tỏa để không cho tín đồ Phật tử tập trung đông đảo tại chùa, chứ điện nước không bị cúp, các thầy và các điệu vẫn vô ra chùa không bị lực lượng an ninh cấm đoán, các điệu các thầy muốn ăn gì, mua gì thì có ai cấm đoán đâu. 4)- Thích Quảng Đức tự thiêu: Theo Hòa thượng phát biểu thì chính Hòa thượng là người chấp thuận đơn xin tự thiêu của Thích Quảng Đức, cũng chính Hòa thượng là người đầu tiên hướng dẫn đoàn biểu tình và cũng là người đầu tiên hướng dẫn cuộc tự thiêu của ông Quang Đức với lý do là để cứu nguy cho Phật giáo tại Huế. Thú thật với Hòa thượng tôi vừa nghe câu nói nầy từ miệng Hòa thượng nói ra tôi bỗng thấy buồn nôn và ói mửa. Thú thật khi đó tôi nhìn mặt Hòa Thượng trên mặt kênh truyền hình mà tưởng như đang nhìn mặt của tên ác quỷ, mặt của một tên sát nhân chứ không phải là mặt của Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu. Hành động chấp thuận và tổ chức cho đồng loại tự thiêu là hành động đáng ghê tởm và là hành động của tên sát nhân, chứ không phải là hành động của kẻ chân tu, Hòa thượng có biết không? Ông Quảng Đức bị thiêu sống chỉ phục vụ cho mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt và chính phủ Mỹ. Bởi vì hơn ai hết Hòa thượng là trưởng phái đoàn Liên Tôn đã hội họp với phái đoàn Liên Bộ của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa về 5 nguyện vọng của phái đoàn Liên Tôn. Hai bên đã giải quyết xong, ổn thỏa trong tinh thân xây dựng, thượng tôn luật pháp. Và chính Hòa thượng cũng đã hai lần được diện kiến Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, và cũng chính Hòa thượng đã nói Hòa thượng rất kính nể Tổng Thống. Mọi việc rắc rối hai phái đoàn đã giải quyết xong thì tại sao phải nướng sống Quảng Đức. Câu trả lời rất dễ hiểu là nếu mọi việc đã giàn xếp xong, tình hình chính trị yên ổn thì lấy lý cớ gì để cho Việt Cộng và Chính phủ Hoa Kỳ lật đổ Tổng Thống Diệm được. Nướng sống Thích Quảng Đức để phát động hận thù tạo bất ổn chính trị đó là lý cớ duy nhất và Quảng Đức chỉ là cục thịt nướng trong bữa tiệc hả hê của Cộng Sản Bắc Việt, của Chính phủ Hoa Kỳ, của Ác Tăng Việt Cộng Thích Trí Quang, và cuối cùng là của kẻ sát nhân Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu mà thôi. Năm mươi năm sau 1963-2013 cộng sản xây tượng phong Liệt Sĩ cho Thích Quảng Đức thì tại Hải Ngoại đám cộng sản nằm vùng trong Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đám cộng sản và việt gian phối hợp với Phật giáo quốc doanh dưới sự chứng kiến của tên Cộng sản gộc Lê Mạnh Thát tổ chức thật rùm beng Lễ Tưởng Niệm Đồng Chí Liệt Sĩ Thích Quảng Đức, vì Bác vì Đảng, tự nướng trong đó có sự ca ngợi của Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu. Câu cuối cùng tôi xin được hỏi Hòa thượng là: Ngày xưa 1963 Hòa thượng đã từng hăng say phối hợp với Ác Tăng Việt cộng Thích Trí Quang đạp đổ Đệ I VNCH sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau đó có phải vì địa vị, tiền bạc thế lực danh vọng giữa Hòa thượng và tên ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang thanh toán nhau. Trí Quang đã dọa thanh toán Hòa thượng ít nhất hai lần bằng "một đĩa máu, một con dao, và một huyết thư" đặt ngay trong Việt Nam Quốc Tự và trong chùa Từ Quang (trích Bạch Thư, Thích Tâm Châu, tr. 28). Hòa thượng phải chạy trốn cuộc truy sát của ác tăng Việt Cộng Thích Trí Quang mà chạy bám theo Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Nguyễn Cao Kỳ để được che chở và để được thành lập khối Việt Nam Quốc Tự đối kháng lại khối Ấn Quang của các Tăng Việt Cộng Thích Trí Quang, chứ thật ra ngài về với Đệ II VNCH chỉ vì cầu xin Đệ II VNCH sự che chở, đùm bọc mạng sống mà thôi, chứ chẳng phải vì quốc gia đạo pháp gì phải không Hòa thượng? Đức Phật đã nói: Ba điều không thể che giấu đó là: Mặt trăng, mặt trời và sự thật. Hòa thượng là kẻ tu hành sao không nghe lời dạy của Đức Phật? Đối với Liên Thành nầy, Hòa thượng không còn là Đại lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu của Bạch Thư năm 1993 nữa, cá nhân tôi, và những người Việt tỵ nạn cộng sản, những Phật tử chân chính, chúng tôi đã quá thật vọng về Hòa thượng. Tôi Liên Thành hoàn toàn chịu trách nhiệm về bài viết nầy và rất mong được công khai nói chuyện cùng Hòa thượng trước sự chứng kiến của mọi giới về vấn đề ông Thích Quảng Đức bị thiêu hay tự thiêu cũng như vấn đề Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đệ I VNCH có đàn áp Phật Giáo hay không? Trân trọng chào Hòa Thượng. Liên Thành P.O. Box 6147. Fullerton, CA 92834. Cell Phone: 626-257-1057.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jan 21, 2014 5:57:36 GMT 9
Tưởng nhớ Tướng Bùi Thế Lân Văn Quang – Viết từ Sài Gòn Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và Tướng Bùi Thế Lân trong chiến dịch tái chiếm cổ thành Quảng Trị tháng 9-1972. Tin Thiếu tướng Bùi Thế Lân từ trần đến với tôi quá đột ngột. Có lẽ cũng như nhiều người quen khác của ông. Bởi mới ba hôm trước đây, tôi nghe nói ông còn khỏe mạnh và còn đi ăn với gia đình. Hơn một tháng trước, ông gửi cho tôi khoảng 50 bức ảnh về ngày sinh nhật thứ 82 của ông tại nhà riêng ở San Jose. Trông ông rất khỏe mạnh, vui tươi, hạnh phúc cùng bạn bè. Có một bức ảnh ông gửi riêng cho tôi và hỏi đùa là “Trông giống Nhật hoàng không?” Tôi trả lời “Giống đến nỗi ông bà đi ngoài đường phố Tokyo, dân bò ra đường chào hết.” Thỉnh thoảng tôi điện thoại sang thăm ông, không có một dấu hiệu nào về bệnh tật của ông cả. Sáng 15-1-2014, tôi dậy vào lúc 5 giờ, mở e-mail đọc. Người đầu tiên báo tin buồn cho tôi là anh Nguyễn Gia Quyết, một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến (TQLC), hiện ở Houston. Chỉ có một dòng ngắn ngủi “Anh ơi, Thiếu Tướng Bùi Thế Lấn đã từ trần sáng nay 14-1 rồi, anh biết tin chưa.” Sau đó một nguồn tin của anh BMH thông báo môt số chi tiết cùng 2 tấm ảnh của ông. Tôi lập tức gọi điện thoại sang cho ông Hùng Sùi, người bạn cùng khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức với tướng Lân và tôi, hiện ông Hùng ở San Jose cùng thành phố với ông Lân. Ông Hùng Sùi xác nhận tin này và cho tôi biết thêm bác sĩ Luyện, cùng khóa với chúng tôi, sau này là bác sĩ tại Mỹ và cũng là BS của gia đình tướng Lân. Theo vị BS này, tướng Lân ra đi đột ngột vì bệnh tim mạch. Ông Hùng cũng nói thêm về dự tính của anh em cùng khóa trong tang lễ của tướng Lân là bạn bè trong Khóa 4 dự tính sẽ phủ cờ, nhưng anh em trong binh chủng TQLC nói để binh chủng của anh em đảm nhận việc này. Tôi nghĩ đó cũng là điều hợp lý. Từ đó chúng tôi ôn lại những kỷ niệm xa gần với người bạn cùng khóa này. Điểm lại Đại Đội 3 - khóa 4 Thủ Đức của chúng tôi có lẽ “sản xuất” ra nhiều vị Tướng nhất trong các khóa Sĩ Quan, kể cả hiện dịch và trừ bị. Từ chuẩn tướng Nguyễn Đình Bảo “người ở lại Charlie” sớm nhất rồi đến tướng Hồ Trung Hậu, Ngô Quang Trưởng, Lê Quang Lưỡng … có lẽ tướng Lân là vị ra đi sau cùng. Những ngày mới gặp Ông Bùi Thế Lân và tôi cùng được động viên vào khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1953 và ra trường với cấp Thiếu Úy vào năm 1954. Ông Lân và tôi cùng các ông Hùng Sùi, Mai Hắc Lào, Ngô Quang Trưởng, Lê Quang Lưỡng… cùng ở chung Đại Đội 3. Lúc đó, đại đội trưởng là một sĩ quan nhảy dù người Pháp - Trung Úy Bardet, đại đội phó là Trung Úy Kỳ Quan Liêm. Trước khi mãn khóa, đại đội 3 của tôi từ Thủ Đức được di chuyển bằng tàu thủy Gascogne ra Bãi Cháy- Quảng Ninh học “Stage Commandos.” Một khóa học rất gian khổ. Lúc đó ông Lân cũng đã đeo cặp kính trắng dày cộm nên được anh em tặng cho cái biệt danh là “Lân mù.” Ông là một sinh viên sĩ quan bình thường như bao nhiêu anh em khác. Cũng đi cầu khỉ, bơi thuyền, leo núi, tập trận bắn đạn thật và hàng chục bài tập nguy hiểm khác đến mờ người, song lúc nào cũng tươi cười, thân thiện với mọi người. Sau hai tháng chúng tôi về thi cuối khóa và làm lễ mãn khóa ngày 01-6-1954 cùng khóa 10 Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt tại Sài Gòn. Cuộc duyệt bính khá rầm rộ, vác khẩu Garant lệch vai. Chúng tôi là dân Bắc Kỳ mới vào Nam nên thường thân thiết với nhau hơn, nhất là khi được phép ra Sài Gòn vào những ngày thứ Bảy - Chủ Nhật. Chúng tôi đi thành nhóm và đôi khi có anh em sống ở miền Nam hướng dẫn đi khắp Sài Gòn, từ Sở Thú đến Chợ Lớn. Năm bảy anh em chỉ dám thuê chung một phòng trong một khách sạn lem nhem trong những con phố hẹp. Nhưng ông Lân thường không hay đi lang thang, không lần mò vào những nơi xa lạ như Kim Chung Đại Thế Giới, Chợ Bến Thành, ông tìm những nơi yên tĩnh nghỉ ngơi. Có lần tôi thấy ông nằm trên ghế đá Thảo Cầm Viên ngủ tỉnh bơ như ở nhà. Sau khi mãn khóa, tôi về làm huấn luyện viên ở Trường Commandos Nord VN từ Bãi Cháy di chuyển vào Đồng Đế - Nha Trang sau hiệp định Génève. Một thời gian sau, ông Bùi Thế Lân cũng về Nha Trang, đó là thời kỳ Binh Chủng TQLC mới thành lập. Có lẽ vì thế ông là Đại Đội Trưởng Đại Đội 1- Tiểu Đoàn 1 của binh chủng này. Chúng tôi thời còn trẻ, tâm hồn phơi phới lại cùng gặp nhau vui đùa trên bãi biển Nha Trang. Vị chỉ huy trẻ đầy tài năng Khi tôi thuyên chuyển về Nha Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư Lệnh của TQLC cũng đặt ở một khu doanh trại tại Saigon. Tôi nhớ vào khoảng năm 1970, lúc đó ông là Đại Tá Tham Mưu Trưởng TQLC, có lần tôi hỏi ông có muốn cho nữ xương ngôn viên Đài Truyền Hình Quân Đội mặc quân phục của TQLC không? Ông gật ngay, “Ừ sang đây, tao cho vải may quân phục.” Rồi ông cười nói, “Nữ xướng ngôn viên thì chỉ thấy nửa thân hình trên màn hình ti vi, chứ đâu có thấy toàn thân nên không cần quần, đúng không?” Tưởng ông nói đùa, tôi sang lấy vải, ông chỉ cho vải đủ may một cái áo thật. Tôi chê ông hà tiện, ông nói “của quân đội đâu phải của chùa.” Từ đó nữ xương ngôn viên đài truyền hình Quân Đội mặc quân phục TQLC và tất nhiên chỉ có cái áo trên màn hình. Vào thời kỳ ông chỉ huy mặt trận Quảng Trị, ông nổi tiếng là môt sĩ quan có kinh nghiệm và biệt tài chỉ huy, đến ngay cả sĩ quan và nhà báo Mỹ cũng ca ngợi tài năng cũng như phẩm chất của ông. Mỗi khi có trận đánh lớn như trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, tôi thường gừi phóng viên chiến trường ra và luôn điện thoại “gửi ông chăm sóc giùm.” Nhờ vậy ông cho phóng viên của Đài Phát Thanh Quân Đội luôn đi theo sát các đơn vị chiến đấu và được chăm sóc cẩn thận. Tôi còn nhớ phóng viên Nhật Lệ đã làm tường thuật truyền thanh ngay tại mặt trận giữa thành phố khi các đơn vị TQLC tiến chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Rất hiếm có phóng viên nào có thể làm được công việc trực tiếp truyền thanh ngay tại mặt trận nếu không được vị tư lệnh chiến trường yểm trợ. Ông là một vị tướng trẻ, được hầu hết Sĩ Quan và Binh Sĩ dưới quyền kính trọng, nể phục. Tính kỷ luật của ông nổi tiếng trong quân lực, gần giống như tác phong của Tướng Đỗ Cao Trí. Song hai vị tướng này cũng là những sĩ quan rất hào hoa. Đôi khi ở chiến trường về đến Sài Gòn, ông đưa cả Bộ Tham Mưu đi ăn đi chơi. Những lúc đó ông rất bình dị và cởi mở với mọi người. Có lẽ kể về thành tích chiến trận của ông phải là một tập sách dầy, tôi không đủ sức làm công việc ấy, xin dành cho nhà viết quân sử VN. Sau những ngày gian khổ, chiếm được cổ thành Quảng Trị, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã có một bức thư ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của các đơn vị tham gia trận đánh này, đặc biệt là Thiếu tướng Bùi Thế Lân và Sư Đoàn TQLC. Ở đây tôi chỉ chú trọng đến một vài kỷ niệm riêng tư mà chắc ít người biết. Vị tướng hào hoa Khi tôi nói chuyện với ông Hùng Sùi sáng 15-1-2014, ông Hùng còn nhắc lại một kỷ niệm ngày họp Khóa 4 ở Câu Lạc Bộ Công Binh – Phú Thọ. Năm ấy dường như là lần họp thứ tư hay thứ năm gì đó của anh em trong khóa. Ông Lân đã là Đại Tá nhưng khi trình diện trước khóa, chúng tôi vẫn giữ đúng tư thế của thời là Sinh Viên Sĩ Quan. Ông đứng nghiêm, giơ tay chào và trình diện, “EOR (Eleve Officier de Reserve) Bùi Thế Lân, Onzième Brigade, Trosième Compagnie.” Sau một ngày ở bên nhau với đủ thứ chuyện, buổi tối chúng tôi có chương trình dạ hội. Tất nhiên tôi phải lãnh phần cung cấp ca nhạc sĩ cho dạ hội. Hầu như tất cả các ca sĩ nổi danh của Saigon đều có mặt góp vui. Hôm đó có cả Kiều Chinh và Kim Vui đến với tư cách khách mời. Ông Lân khoái nhảy Mambo Cha Cha Cha, ông “múa” cũng điệu nghệ lắm. Ông Hùng Sùi nhắc lại một chuyện vui với Tướng Lân. Tối đó bỗng có hai người đẹp lạ mặt đến tìm Đại Tá Lân. Chúng tôi không hề biết hai người đẹp này là ai. Ông Lân ngỏ ý không muốn gặp, ông chỉ ngồi tiếp khách vài phút rồi đứng dậy. Tôi nói Kim Vui ra sàn nhảy với tướng Lân rồi giữa khung cảnh đèn màu chập choạng và piste đông nghẹt, một người bạn khác ra mời Kim Vui nhảy Tango. Ông Lân lịch sự nhường bạn rồi đi theo lối hậu trường sân khấu ra chiếc xe của tôi có tài xế chờ sẵn, đưa thẳng ông về nhà. Hôm sau chúng tôi mới biết đó là hai người đẹp “mê” tiếng “anh hùng hào hoa” của người sĩ quan TQLC nên tìm đến gặp mặt. Ông Lân không muốn dây dưa nên “chuồn” thẳng. Sau này, mỗi lần gặp nhau, chúng tôi thường nói lại chuyện vui này. Lần gặp cuối cùng Tôi gặp tướng Lân lần cuối cùng vào những ngày cuối tháng 4-1975, khi ông đưa quân từ Đà Nẵng về Vũng Tàu. Hôm đó ngồi ăn trưa với tướng Lân ở doanh trại Bộ Tư Lệnh TQLC tại bờ biển Vũng Tàu. Bữa ăn trưa đó còn có ông Nguyễn Quang Đan (hiện đang ở Mỹ) là Chánh Văn Phòng của tướng Lân và cũng là ông chú họ của tôi cũng biết khá rõ. Trong khi ngồi ăn, có chiếc trực thăng trực thăng của Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cùng một sĩ quan Mỹ đáp xuống gặp tướng Lân. Tôi lánh mặt vào phòng trong để cuộc nói chuyện của họ tự nhiên hơn. Chừng nửa giờ sau, chiếc trực thăng cất cánh ra biển. Chúng tôi tiếp tục cuộc nói chuyện. Thật ra cuộc gặp này để nói về cuộc đảo chính khi “tình hình đất nước đã lâm nguy.” Ông đồng ý tham gia cuộc đảo chính để “cứu vãn tình hình” và nhận lời chiếm Dinh Độc Lập. Những người chủ trương đảo chánh tin tưởng tướng Lê Quang Lưỡng –Tư lệnh binh chủng Nhảy Dù, đang đi hành quân song cũng hứa nếu về được sẽ giữ vững cửa ngõ Sài Gòn. Ngoài ra còn Tướng Lê Minh Đảo Tư Lệnh Sư Đoàn 18 ở Long Khánh, các binh chủng thiết giáp, pháo binh, các trường huấn luyện xung quanh khu vực Saigon, số quân nhân còn lại trong các đơn vị, sẽ tham gia với tất cả những gì còn lại. Vì cú lừa ngoạn mục Biết rằng cuộc đảo chính thì dễ nhưng giữ Saigon mới khó vì quân Mỹ đã rút hết, cả những bom đạn, vũ khi yểm trợ cũng chẳng còn gì. Giữ Saigon, đóng cửa phi trường và mang theo, bảo vệ số gia đình người Mỹ còn sót lại. Sau đó nếu thế ta quá yếu, sẽ rút về vùng 4, lúc đó tình hình còn rất sáng sủa. Các vị Tướng lãnh nổi danh như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng… và toàn thể quân nhân vùng 4 sẵn sàng chiến đấu tới phút cuối cùng. Như thế tình hình có thể cứu vãn được bằng một cuộc thương thuyết. Nếu có cuộc đảo chánh đó, biết đâu tình hình có thể sẽ khác đi rất nhiều. Nhưng rồi một ông Trung tướng Mỹ của tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vào thuyết phục người đứng đầu cuộc đảo chính rằng “Các ông không cần đảo chánh, nếu Tổng Thống Thiệu ra đi, chỉ còn các ông chứ ai nữa. Nếu các ông làm người dân thiệt hại nặng nề, thành phố tan hoang, sẽ mang tội với lịch sử. Chi bằng các ông cứ đợi đó, bất chiến tự nhiên thành.” Cú lừa ngoạn mục này đã khiến người đứng đầu đảo chánh dễ dàng buông tay. Lúc đó ở Sài Gòn có Trung Tá Lê Mộng Hoan (hiện ở San Jose) đang là phi đoàn trưởng Phi Đoàn Phản Lực Vùng 4 cũng về nằm trong Tân Sơn Nhất chờ làm đảo chánh. Nhưng phút chót, nếu không ôm được chiếc phản lực còn để ở phi trường quân sự bay về Cần Thơ chắc cũng kẹt lại rồi. Ông Lân thường nhờ ông Nguyễn Quang Đan, liên lạc qua điện thoại với tôi cho kín đáo. Nhưng đợi mãi không có tin tức gì khác nên Tướng Lân buộc phải đưa quân xuống tàu di tản. Trước khi đi, ông cũng cho người gọi điện thoại cho tôi nhưng tôi không thể gặp ông được. Mãi sau này, sau hơn 12 năm ở cái gọi là “trại cải tạo” ra, một thời gian nữa rồi tôi mới liên lạc lại với ông Lân. Nhắc lại chuyện xưa, tướng Lân hỏi tôi có viết hồi ký về cuộc “đảo chánh hụt” đó không. Tôi nói không có ý định gì cả. Ông Lân cũng do dự một chút rồi nói “Quên đi cũng phải, viết cũng chẳng có lợi gì.” Tuy nhiên ông vẫn nói nếu tôi viết lại toàn bộ câu chuyện ông Lân sẽ là một nhân chứng. Nhưng cho đến nay, trước lúc từ biệt người anh hùng TQLC, tôi chỉ nhắc lại một phần chuyện đó để chứng tỏ rằng ông là người sẵn sàng chiến đấu tới phút cuối cùng. Trước nỗi mất mát lớn lao và rất bất ngờ một vị tướng đáng kính và cũng là niềm hãnh diện của Khóa Cương Quyết. Xin giơ tay kính chào vị anh hùng của chúng tôi lần cuối và xin chia buốn cùng tang quyến. Tôi không dám đại diện cho ai cả, nhưng tôi cho rằng đó cũng là nỗi tiếc thương của toàn thể anh em khóa 4 Trường Sĩ Quan Thủ Đức và những anh em Thương phế binh của binh chủng TQLC còn ở lại Sài Gòn mà tôi đã từng gặp mặt. Ông Bùi Thế Lân chụp tháng 11- 2013, vào ngày sinh nhật thứ 82 của ông tại San Jose. ******************* Tiểu sử Thiếu Tướng Bùi Thế Lân (1932-2014)Cố thiếu tướng Bùi Thế Lân sinh tháng 11, năm 1932, tại Hà Nội. Ông là học sinh hai trường trung học Chu Văn An và Dũng Lạc ở Hà Nội. 1953: Động viên vào Khóa 4 Cương Quyết Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, năm 1954 tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy- Sau đó làm Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến. 1960: Trung Úy Tham Mưu Trưởng Liên Đoàn TQLC 1961: 1-6 Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4 TQLC 1963: Bàn giao chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4 TQLC cho Đại Úy Lê Hằng Minh, du học khóa Chỉ Huy và Tham MưuTQLC tại căn cứ TQLC Quantico, Virginia Hoa Kỳ 1964: Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn TQLC thay thế Thiếu Tá Trần Văn Nhật nhậm chức Tùy Viên Quân Sự tại Phi Luật Tân. - Thăng cấp Thiếu Tá 1965: Ngày 1-11, thăng cấp Trung Tá 1966: Thăng cấp Đại Tá 1971: Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn TQLC 1972: Ngày 4-5 Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến thay thế Trung Tướng Lê Nguyên Khang nhận chức vụ Tổng Thanh Tra QLVNCH. - Ngày 28-5 Vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức 1973: Vinh thăng Chuẩn Tướng thực thụ 1975: Đầu tháng 4 vinh thăng Thiếu Tướng nhiệm chức 1975: Định Cư tại Houston, Texas và San Jose California Huy Chương: - Được ân thưởng nhiều huy chương Quân Sự và Dân Sự cao quý kể cả các huy chương của Đồng Minh. - Legion of Merit ( Degree of Commander) Văn Quang Sài Gòn 16-1-2014
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 27, 2014 10:17:06 GMT 9
Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975?Đào Văn Tỉnh lộ 7B. Nguồn: OntheNet Dựa vào phần trình bày của CIA đối chiếu với những lời trần tình của các Tướng Tư lệnh Vùng nêu trên, người đọc có lẽ đã nhận định được ai là người phải chịu trách nhiệm trong vụ ra lệnh triệt thoái Pleiku-Kontum 1975. Tướng Phú hay TT Thiệu và tài liệu CIA (2009) viết gì về vụ này? Vụ triệt thoái khỏi Pleiku-Kontum 1975 đã gây ra nhiều tranh cãi trong quá khứ vì có hai luồng dư luận đối chọi nhau. Luồng thứ nhất thì đổ trách nhiệm cho Tướng [Phạm Văn] Phú; luồng thứ hai thì lại cho rằng Tướng Phú chỉ là người thi hành lệnh của TT Thiệu. Do đó, để bạn đọc có cái nhìn khái quát hơn liên quan đến tiêu đề, người viết sẽ bàn đến 3 cuốn sách và 1 tài liệu viết về cuộc triệt thoái Pleiku-Kontum 1975: Cuốn “Vietnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils” của tác giả Pierre Darcourt, xuất bản 11.1975; Cuốn “The Decent Interval” xuất bản 1977 của tác giả Frank Snepp; Cuốn “The Final Collapse” sách của tướng Cao Văn Viên xuất bản 1983; Tài liệu thứ bốn được CIA giải mật và phổ biến ngày 19.2.2009 có tên là “CIA and the Generals”[1]. Nhưng trước khi bàn đến các sách và tài liệu liên quan, tưởng nên đọc lại các lời tuyên bố của ba Tướng Phú, Tướng Ngô Quang , và Tướng Nguyễn Kho Nam để hầu tiện bề so sánh, đối chiếu. Tướng Phú: Thiếu tương Phạm Văn Phú. Nguồn: OntheNet a. “Tổng ThốngThiệu đã chà đạp danh dự tôi khi ông công khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao Nguyên Trung Phần [...] và ông ta đã ra đi như một người du lịch với những chiếc va ly mà ông đã soạn sẵn [...] Nhưng phần tôi, tôi sẽ ở lại, tôi sẽ tự tử và máu của tôi sẽ rơi trở lại vào lưng ông ta. Tôi chỉ còn có một cách đó để đính chánh lời cáo buộc của ông ta mà thôi”[2]. Khi Nghe tin rút bỏ Pleiku- Kontum, tác giả Pierre Darcourt có đến Bô TTM gặp ĐT Khôi và đi Mỹ Tho gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh Vùng IV) để tìm hiểu thông tin về vụ triệt thóai Quân Khu II, và tường thuật lại trong cuốn “Vietnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils”, xuất bản 11-1975. 1966 ĐT Dương Hiếu Nghĩa dịch sang tiếng Việt đặt tên là “Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên”[3] Tướng Phú: b. “… Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu, bắt tôi phải rút… có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục.”[4]. Tướng Trưởng: “Lệnh của Tổng Thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn I vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn II vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến hà Tiên. Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lịnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lịnh sư đoàn v.v… đã không biết gì về về lịnh rút quân của Quân Đoàn I và II. Lịnh nầy chỉ có Tổng thống và Thủ tướng, Ðại tướng Cao Vãn Viên, tôi (Tư lịnh Quân Đoàn I) và Tư lịnh Quân Đoàn II (Tướng Phạm Vãn Phú) biết mà thôi.”[5] Tướng Nam: “… ngày 14 tháng 3, Tổng Thống gọi ông về Cam Ranh và cho lệnh ông phải lui quân. Bây giờ chúng tôi biết được là cuộc bàn cãi rất là sôi động đầy sóng gió. Tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh. Ông ta đã nói thẳng với Tổng Thống Thiệu: ‘Tôi đã đánh giặc 23 năm rồi, và tôi chưa bao giờ biết lui quân. Hãy tìm một người khác để chỉ huy cuộc chạy trốn này.’’ Nói xong ông vứt khẩu súng lục của ông lên bàn và ra khỏi phòng họp, đóng sầm cửa lại. Và sau đó ông bay về Nha Trang, khai bệnh vào nằm bệnh viện [...] Chính là ông Thiệu (là người ra lệnh triệt thoái ). Sau khi tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh, Tổng Thống Thiệu đã báo động cho đại tá Tất, tư lệnh phó của ông Phú, một sĩ quan Biệt Động Quân và giao cho ông nầy chức vụ Tư Lệnh Vùng.”[6] Theo cuốn “The Decent Interval” của tác giả Frenk Snepp [the CIA’s Chief Strategy Analyst in VN] có đoạn ghi: “Sáng 13 tháng 3, TT Thiệu phổ biến quyết định của ông ta làm cho ai cũng ngạc nhiên. Thủ tướng Khiêm và tướng Viên thật ra muốn đặt một số câu hỏi thiết thực nhưng tiếc thay họ lại nghĩ rằng Thiệu đã không chú ý đến quan điểm của họ,và lúc này đây không phải là lúc tranh luận. Thiệu nói: Không có ai hỏi gì à? Thế thì sang điểm khác của chương trình họp: phản kích ngay ở Buôn Mê Thuột…. Nhưng tướng Phú còn làm gì được nữa? Sư đoàn duy nhất không bị thương vong ở Tây Nguyên của Phú đã rải ra khắp nơi. Ở Buôn Mê Thuột, nhiều trung đoàn bị đánh tan tác coi như bị tiêu diệt. Có thể thả dù xuống hai trung đoàn để tiếp viện nhưng như thế thì bỏ trống Pleiku và Kontum. Không còn quân trừ bị để lấp lỗ trống. Thiệu ngồi một lúc, hai tay chắp vào nhau, để dưới cằm…, ông ta cho tay vào túi, xoa cuống họng và trong tiếng thở dài, tuyên bố quyết định. Ông ta nói: Phải bỏ Pleiku và Kontum thôi. Cuộc rút lui chiến lược bắt đầu từ hai tỉnh ấy. Gian phòng yên lặng. Thiệu nói tiếp: Một cuộc rút lui như thế rất hợp lý và cần thiết, sẽ giải tỏa được lực lượng để cứu Buôn Mê Thuột. Chìa khóa mọi cái nằm ở Ban Mê Thuột…. Cuối cùng Thiệu còn ra lệnh cho mọi người phải kín, không được nói cho ai biết kế hoạch mật này, nhất là không được nói với người Mỹ, họ có cơ hội để giúp ta, họ không làm, họ đã phản bội ta! Ở Cam Ranh, Phú cố tình trình bày tình hình với chiến hữu cũ. Ông ta nói với Thiệu: Lực lượng địch gồm bốn sư đoàn nay đang tỏa khắp vùng từ Pleiku đến Ban Mê Thuột. Mọi đường đi ra bờ biển đều bị cắt. Với lực lượng ông ta có trong tay, ông chỉ giữ được Tây Nguyên trong một, hai tháng với điều kiện được không quân yểm trợ tối đa, tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về vật liệu, vũ khí, đạn dược, bổ sung quân số đủ bù số thiệt hại nặng vừa qua. Nghe những ý kiến ấy Thiệu tối mắt, như nằm trong mộng. Sau đó, ông ta nhìn Phú và lắc đầu: Không có gì hết, không có người, không có thiết bị để cung cấp cho anh. Quân đội đang bị phân tán một cách nguy hiểm ra khắp đất nước, lực lượng dự trữ cần được đưa về giữ những vùng cần bảo vệ. Không có phương tiện gì để tiếp viện cho việc bảo vệ Kontum và Pleiku cho nên phải rút khỏi hai tỉnh ấy, để bảo toàn lực lượng, lấy quân đưa về giữ đồng bằng ven biển, tiếp tế thuận lợi hơn và từ đó phản công lấy lại Ban Mê Thuột. Còn tướng Viên, vì sao không nêu ra những thiếu sót trong lập luận sai lầm của Thiệu? Dù sao, Viên cũng đánh một đòn hiểm vào kế hoạch rút chạy khi ông ta chọn con đường 7B mà chưa hiểu rõ đường ấy có còn đi được hay không. Đường ấy chắc chắn đã đưa quân của Phú đến chỗ bị tiêu diệt. Hội nghị Cam Ranh vừa họp xong thì sĩ quan tham mưu của Phú lại họp để làm kế hoạch rút lui.”[7] Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên: “Một ngày sau khi bỏ Pleiku, có nhóm Hội đồng Nội các [...] Tổng trưởng Ngô Khắc Tỉnh dơ tay lên, nói: ‘Thưa Thủ tướng, tôi xin Thủ tướng một faveur, dầu sao, chúng tôi cũng là nhân viên Hội đồng Nội các, bà xã tôi vừa nghe tin Pleiku mất trên đài BBC và VOA, mới nói lại cho tôi biết. Vậy xin Thủ tướng – nếu có tin gì – thông báo chúng tôi, chớ không kỳ quá!’ Lúc đó. trên bàn chủ tọa, Thủ tướng Khiêm xoay qua tôi ngồi bên phiá trái, nói nhỏ: ‘Moa cũng vậy! [sic]. Tôi ngạc nhiên trả lời, ‘Bộ nói giả ngộ hay sao? anh là Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, Ðại tướng bốn sao mà!’ Ông Khiêm gật đầu: ‘Thật chớ!’ (nguyên văn).”[8] Như trên cho thấy theo lời Tướng Trưởng, ngoài Tổng Thống Thiệu còn có sự hiện diện của Thủ Tướng Khiêm, Tướng Viên, Tướng Trưởng và Tướng Phú trong phiên họp. Hai vị Tướng Phú và Tướng Trưởng đã lên tiếng, còn Đại Tướng Viên thì có tường thuật buổi họp này trong cuốn The Final Collapse, sách phát hành năm 1983 (sẽ bàn chi tiết sau, nhưng xin trích đọan bàn về vụ triệt thoái Vùng II). Trong cuốn “The Final Collapse”, Chương 6: Thảm Bại ở Cao Nguyên, tác giả Cao Văn Viên viết: “Sau khi tướng Phú chấm dứt tường trình của ông, tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất: ‘Tướng Phú có thể nào chiếm lại được Ban Mê Thuột không?’ Như mọi người có thể tiên đoán câu trả lời của tướng Phú: câu trả lời của tướng Phú không xác định và cũng không phủ định, ông chỉ xin tổng thống Thiệu thêm quân tiếp viện [...] “Nhiệm vụ của quân đoàn II là phối trí lại các đơn vị cơ hữu của quân đoàn để chiếm lại Ban Mê Thuột. Và đó là lệnh của tổng thống.” [...] “Di chuyển một đoàn quân cấp quân đoàn kèm theo quân cụ nặng và quân xa, trên một đoạn đường dài 250 cây số của rừng núi miền cao nguyên là một công tác vô cùng nguy hiểm.”[...] “Chuẩn tướng Tất được chỉ định làm tư lệnh cuộc rút quân từ Kontum-Pleiku về Tuy Hòa theo liên tỉnh lộ 7B.”[9] Cuộc triệt thoái thất bại, phía Bộ TTM qui trách nhiệm là do Tướng Phú. Đại tá Khôi TTM: “Chiều tối ngày 14 tháng 3, về đến Pleiku hơi trễ, tướng Phú không cần giải thích, đã cho lệnh Quân Đoàn tiến hành cuộc hành quân triệt thoái ngay vào sáng sớm hôm sau.”[10] Về phía cựu Thủ Tướng Khiêm thì chưa thấy lên tiếng, vì thế 26 năm sau ngày rút bỏ Pleiku (2001) cựu Phó Thủ Tướng Viên có ý lên tiếng nhằm nhắc nhở… Tuy nhiên, nếu chỉ nêu ra các tin tức do phía các tướng lãnh VN lên tiếng thì có thể khó thuyết phục, cho nên để thêm phần khách quan, người viết xin ghi lại các báo cáo của CIA nhằm có thêm thông tin hầu người đọc dễ dàng đưa ra những nhận định khái quát đến vấn đề hơn. Nghĩa là nêu ra tin tức cuả cả 2 phiá Việt và Mỹ về vấn đề rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975. Sau đây xin trích đoạn văn trong tài liệu cuả CIA phổ biến ngày 19.2.2009 (CIA and The Generals) liên quan đến chủ đề (phần lược dịch phiá dưới). Người viết bài xin tóm gọn ý chính của phần trích đoạn trên. P1: Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú rút bỏ Pleiku và Kontum… Tướng Phú sẽ cho tái phối trí Bộ Chỉ huy, nhưng sẽ KHÔNG rút quân khỏi Pleiku và Kontum. P2: Trong khi Tướng Khang vừa mới nói không biết gì về lênh rút quân, thì Tưóng Quang thừa nhận chuyện rút quân khỏi Pleiku có thể xảy ra. Lý do Tướng Khang nói không biết là vì ngay sáng hôm họp tham mưu với Đại Tướng Viên, không nghe thấy Tướng Viên nói gì. Còn phía ông quyền trưởng phái bộ Lehmann có gặp TT Thiệu lúc 9 giờ sáng ngày hôm đó tại Cam Ranh, nhưng TT Thiệu im lặng không nói gì về đề tài này. P3: Theo Polgar suy đoán thì TT Thiệu sẽ không đồng ý với kế hoạch của Tướng Phú là tập trung lực lượng giải cưu Ban Mê Thuôt thay vì rút quân khỏi Pleiku và Kontum. P4: Ngày 17 tháng 3 Tướng Viên có trả lời cho Phái Bộ Quân Sự biết việc rút quân đang diễn ra. Đại diện phái bộ, Tướng Smith có hỏi lại là khi gặp mặt Tướng Viên sau ngày 14 tháng 3, là ngày hội nghị Cam Ranh diễn ra, tại sao lại không nói gì. Tướng Viên trả lời là không có chọn lựa nào khác vì TT Thiệu trực tiếp ra lệnh (direct order) không được tiết lộ về quyết định rút quân. P5: Đoạn này là phần nhận xét về cung cách lãnh đạo và chỉ huy của TT Thiệu …Ngoàì ra, tài liệu còn có ghi phần nhận xét về phía Thủ Tướng Trần Thiên Khiêm và có câu văn ghi như sau: “Prime Minister Khiêm was equally concerned to find a scapegoat…” Thế nhưng, quan điểm của Bộ TTM và của TT Thiệu thì được loan truyền rộng rãi tại hải ngoại (vì nội dung phiên họp theo lệnh của TT Thiệu phải giữ kín đã nêu ra ở phần trên) nên ít người biết đến các diễn biến, lệnh lạc trong phiên họp, cho nên mới có hai luồng dư luận đối nghịch nhau. Dựa vào phần trình bày của CIA đối chiếu với những lời trần tình của các Tướng Tư lệnh Vùng nêu trên, người đọc có lẽ đã nhận định được ai là người phải chịu trách nhiệm trong vụ ra lệnh triệt thoái Pleiku-Kontum 1975. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nguồn: OntheNet. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nguồn: OntheNet. Tuy nhiên, để bổ túc cho câu hỏi nêu ra nơi tiền đề, người viết bài sẽ ghi lại chi tiết phần lên tiếng cuả cựu Đại tướng Cao Văn Viên trong cuốn “The Final Collapse” và nhận xét của tác giả về nguyên nhân khiến VNCH bị sụp đổ để rộng đường dư luân. Đồng thời qua tuyên bố của tướng Westmoreland (tại Nam Cali vào tháng 9, 1995), vì mục tiêu chiến lược của Mỹ, nên Ông ta không được tiến quân ra Bắc, không được phá đường mòn HCM(!) Vậy đâu là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi đem quân vào Việt Nam, xin đọc bài viết tiếp theo sẽ rõ.[11] Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh họa. [1] “CIA and the Generals”, sách dầy 245 trang Cơ quan CIA giải mật phổ biến năm 2009. Để khỏi mất thì giờ download, xin vô đây: “CIA and the Generals” mở coi ngay mà không cần download. Bản chính tại trang web CIA: CIA and the Generals (13.2 MB PDF). Nếu muốn tìm kiếm tài liệu từ trang web chính cuả CIA thì vô link: www.foia.cia.gov/, rồi ghi tên cuốn sách, tên tài liệu, hoặc tên các nhân vật từng một thời lãnh đạo muốn tìm… Trường hợp không biết tên sách hay tài liệu, thì ghi chữ Vietnam war thời sẽ có cả ngàn tài liệu về chiến tranh VN sẽ hiện ra. [2] Trích trong: Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên – Pierre Darcourt, Chương 23. Nguyên tác: “Vietnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils”, xuất bản 11-1975. ĐT Dương Hiếu Nghiã dịch 1996 có tên là “Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên”. [3] Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên. 27 chương, nguyên tác “Vietnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils”, xuất bản 11-1975. ĐT Dương Hiếu Nghiã dịch. [4] TuongPhamVanPhu_NhungNgayCuoiCung (Hon Viet UK) [5] Vì sao tôi rút bỏ Quân Đoàn I (do Lê Bá Chư ghi chép – Lịch Sử Ngàn Người Viết – Trích từ Giai Phẩm Xuân SaiGon Nhỏ 2005). [6] Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên, Pierre Darcourt, Chương 5. [7] The Decent Interval” ( Những tháng đầy biến động cuối cùng…VN). [8] Mạn đàm với Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên – Lâm Lễ Trinh [9] The Final Collapse, Gen Cao Van Vien -Bản dịch: Những Ngày Cuối của VNCH – The Final Collapse [10] Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên, P.Darcourt, Chg 5 [11] Nguyên do chính khiến VNCH bị sụp đổ (theo The Pentagon Paper 2011… và Ghi chú: Ngày 30 tháng 4 năm 2013 ông cựu TT Trần Thiện Khiêm có xuất hiện trên TV San Jose (video clip TTK-1, TTK-2 ) nhưng không nghe thấy nói đến vấn đề rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975).
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 7, 2014 1:56:36 GMT 9
7-4-1975, Gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam Nghe Chuyện TT. Thiệu Và Tướng Phú06/04/2014 Pierre Darcourt là một nhà báo người Pháp sinh năm 1926 tại Saigon và đã sống từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết cuộc của chiến tranh Việt Nam. Suốt Tháng Tư 1975, ông sát cánh với các đơn vị VNCH giờ chót tại các phòng tuyến ven đô cho tới ngày cuối cùng và chỉ rời khỏi Saigon vào buổi trưa 29 tháng 4 năm 1975. Sau đây là phần trích lược từ sách "Vietnam, Qu'as Tu Fait De Tes Fils" của ông, do Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa dịch ra Việt ngữ.
* * * LTS. Suốt Tháng Tư 1975, nhà báo Pierre Darcourt có mặt tại Sàigon, trực tiếp gặp và nghe nhiều điều riêng tư, từ các cấp thẩm quyền quân dân sự miền Nam, như Tướng Nguyễn Khoa Nam, Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, lãnh tụ Ngiệp đoàn Trần Quốc Bửu, tới.... Bà Ngô Bá Thành thủ lãnh phong trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống. Ông cũng sát cánh với các đơn vị VNCH giờ chót tại các phòng tuyến ven đô cho tới ngày cuối cùng và chỉ rời khỏi Saigon vào buổi trưa 29 tháng 4 năm 1975. Những ngày giờ cuối cùng của VNCH được Pierre Darcourt viết thành sách "Vietnam, Qu'as Tu Fait De Tes Fils" do Editions Albatros, Paris xuất bản. Sau đây là một số sự ghi nhận của nhà báo Pháp đặc biệt này, được lược trích theo bản dịch Việt ngữ "Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên" của Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, do Tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành. Tựa đề các trích đoạn do toà báo đặt.* Trường hợp tướng PhúThứ hai, 7 tháng Tư 75 Đại Tá Khôi, sĩ quan phụ tá trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn III tiếp tôi tại Bộ Tổng Tham Mưu QLV NCH, một doanh trại rộng lớn nằm gần sân bay Tân Sơn Nhứt, nơi có rất nhiều ăng-ten và có Thiết Giáp canh gác. Lúc bấy giờ là 9 giờ sáng. Đại Tá Khôi, một cựu sĩ quan lực lượng đặc biệt, được huấn luyện ở Okinawa, là một người cao lớn mảnh khảnh mặt đầy vết thẹo vì ông đã đạp phải mìn năm 1970. Ngày 14 tháng 3, Tổng Thống Thiệu đến căn cứ Hải Quân ở Cam Ranh để có một buổi họp kín của Hội Đồng Quân sự. Có 5 tướng lãnh hiện diện trong buổi họp: Tổng Thống Thiệu, Đại Tướng Khiêm - Thủ tướng Chánh Phủ, Tướng Cao Văn Viên - Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH, Tướng Đặng Văn Quang - Cố vấn quân sự của Tổng Thống và Tướng Phú - Tư lệnh Vùng II Chiến Thuật. Sau một cuộc bàn cãi, tất cả tướng lãnh hiện diện trong buổi họp nầy đều quyết định rút bỏ luôn hai thành phố nằm về hướng Bắc của Vùng Cao Nguyên là Kontum và Pleiku. Kế hoạch được soạn thảo nầy dự trù tập trung các đơn vị xuống vùng duyên hải và từ đó sẽ mở một cuộc phản công lên Ban Mê Thuột. Không có ấn định chính xác giờ giấc để tiến hành cuộc di tản hai thành phố Kontum và Pleiku……'' Đại Tá Khôi bất thình lình ngưng nói, xoa hai bàn tay khô cằn của ông ta, sau đó mới tiếp tục một cách trịnh trọng: - Điểm sau cùng nầy mang một tính cách lịch sử quan trọng. Bốn trong số năm vị tướng lãnh hiện diện đều nghĩ rằng cuộc triệt thoái phải được tiến hành tuần tự và sẽ được kết thúc vào tuần lễ chót của tháng 3. Vị tướng lãnh thứ năm là Tướng Phú, người chịu trách nhiệm về cuộc hành quân nầy, là một sĩ quan có một dĩ vãng quân sự hào hùng, tuy rằng ông đã đi lên từ hàng binh sĩ. Đã từng lăn lóc trên chiến trường suốt 14 năm, ông là một tư lệnh Sư Đoàn tài giỏi nhưng lại là một tư lệnh Quân Đoàn quá yếu. Đã từ lâu rồi ông bị bệnh, ông lại không được chuẩn bị trước và không đủ khả năng điều khiển một cuộc hành quân triệt thoái quy mô như vầy, nghĩa là một trong những cuộc điều quân khó khăn nhất trong các phép dụng binh trong lịch sử chiến tranh" Tôi quan sát rất kỹ Đại Tá Khôi. Thình lình tôi có cảm tưởng khó chịu là hình như ông ta đang cho tôi một bài "diễn văn'' đã được soạn sẵn từ trước. Tôi không muốn ngắt ngang ông ta. Tôi cần phải nghe luận giải của ông đến cùng: cũng sắp sửa đến phần kết luận rồi.Và Đại Tá Khôi nói tiếp: "Chiều tối ngày 14 tháng 3, về đến Pleiku hơi trễ, Tướng Phú không cần giải thích, đã cho lệnh quân đoàn tiến hành cuộc hành quân triệt thoái ngay vào sáng sớm hôm sau. Vào lúc rạng đông ngày 15 tháng 3, tất cả binh sĩ cùng dân chúng của hai tỉnh Kontum và Pleiku đã vội vã rời khỏi hai thành phố nói trên, bỏ lại tại chỗ hàng chục triệu Mỹ kim chiến cụ. Cả hai đoàn người và xe qua quốc lộ 19 rồi mới vào con đường 7 B. Trên con đường 7 B nầy vốn chỉ là một con đường mòn được trải đá sơ sài, tất cả các cầu đều bị giật sập, đi sâu vào một vùng rừng đầy gai góc lùm bụi, cỏ cao ngất trời. Khi các xe vận tải nặng và các xe thiết giáp đi qua rồi thì các đường nước trở thành những vũng sình lầy lội, làm cho hàng ngàn xe khác đi sau bị mắc lầy, tự đâm vào nhau và tắc nghẽn lại hết. Trên đường rút đi, các đơn vị đi trước và đi sau 200.000 dân tị nạn, bị rơi vào một trận phục kích kinh hồn của sư đoàn 320 Bắc Việt. Hai chục ngàn dân (20.000) bị tàn sát, 500 xe đủ loại bị phá hủy, tất cả biến cuộc triệt thoái nầy thành một cuộc tháo chạy trong hỗn loạn. Và cũng từ đó mới gây ra nỗi kinh hoàng khó tả trong dân chúng… Đại Tá Khôi đứng dậy và đi vòng bàn viết của ông ta, điều nầy có nghĩa là buổi nói chuyện của chúng tôi đã chấm dứt. Tôi khẳng định là những tin tức mà ông đã nói với tôi hôm nay chỉ đúng sự thật có một phần nào thôi, nhưng chắc chắn không phải là tất cả sự thật. Cái lối giải thích để làm giảm nhẹ đi phần nào trách nhiệm của Tổng Thống Thiệu nó không đúng với tính tình của các nhân vật trong câu chuyện.. Tôi rất muốn nói với Đại Tá Khôi như vậy, nhưng tôi cảm thấy ông ta không muốn đi ra ngoài luận cứ "chánh thức" mà ông đã cung cấp cho tôi. Do đó tôi chỉ hỏi ông ta: "Xin Đại Tá chỉ giùm tôi có thể đi gặp Tướng Phú ở chỗ nào được ? Gương mặt ông ta lạnh nhạt trở lại, và câu trả lời cụt lủn của ông ta làm tôi hết sức ngạc nhiên: "Tướng Phú đã bị phạt giam, và không thể tiếp ai được hết"' Tôi từ giã Đại Tá Khôi. Nhưng trước khi rời khỏi Bộ Tổng Tham Mưu, tôi nhờ vị sĩ quan báo chí xin giùm tôi một cái hẹn để đi gặp Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau vài lần điện thoại, và gọi vô tuyến, Tướng Nam đã đồng ý gặp tôi sau 3 giờ chiều, nhơn lúc ông ghé lại Mỹ Tho. Cuộc nói chuyện của tôi với Đại Tá Khôi làm tôi đau đầu. Hình ảnh mà ông ta đã tả cho tôi về một Tướng Phú già nua, suy nhược, không còn đủ sáng suốt và khả năng để phối hợp một cuộc điều quân, thực tình không đứng vững. Thật vậy, tôi chỉ không gặp Tướng Phú có sáu tháng, nhưng tôi biết ông ta cách đây 23 năm, từ khi ông ra trường sĩ quan Thủ Đức. Tôi vẫn biết ông ta chỉ còn có một lá phổi. Nhưng dù là nhỏ con ốm yếu nhưng với 49 tuổi đầu, ông là một người dày dạn phong sương. Ông rất cứng rắn đôi với binh sĩ của mình và cũng cứng rắn đối với bản thân, dẽo dai, mưu lược và giỏi về chiến thuật, nên trước hết ông là một sĩ quan của thế công. Ở Điện Biên Phủ, nơi mà ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận, ông đã tạo được lịch sử của ông rồi. Ngày 30 tháng 3 năm 1954, lúc Việt Cộng đánh một trận chiến đẫm máu ở 5 ngọn đồi, trong lúc xáp lá cà, bọn bộ đội đã gọi hỏi nhau ơi ới: "Thằng Phú đâu rồi ? Phải bắt thằng Phú nghe, bắt sống nó nghe !" Ông ta không rơi vào tròng của quân Bắc Việt và liên tiếp mở hết cuộc phản công nầy đến trận phản công khác. Phương pháp chỉ huy của ông Phú rất khắt khe. Với một người có hành động vi phạm kỷ luật mà ông đã ban hành, ông cho cột chân tay người đó vào hàng rào kẽm gai. Mặc dầu luôn luôn bị pháo kích hết sức nặng nề, hệ thống phòng ngự đầy hố tác chiến trên đồi Elian 1 của ông đã giúp ông cầm cự suốt nhiều tuần lễ, đẩy lui tất cả cả các đợt xung phong của địch. Bốn ngày trước khi cứ điểm bị thất thủ, ông còn oanh liệt cho nổ 3 lô cốt có trang bị súng không giật 57 ly, đã kịp thời phát hiện, chận đứng và tấn công một tiểu đoàn Việt Cộng trên sườn đồi, buộc chúng phải rút lui với sự yểm trợ hữu hiệu của pháo binh Pháp do ông đích thân đứng ngay trên địa thế trống trải để điều chỉnh tác xạ thật chính xác. Ông đã sống sót được sau 18 tháng bị bắt giam trong một trại tẩy não Cộng Sản ở Thượng Du Bắc Việt, mà không hề chấp nhận phải ký một bản "thú tội" hay một tờ truyền đơn nào. Và các sinh viên ở Sài Gòn đã tranh đấu với phái đoàn Bắc Việt đang ở khách sạn Majestic lúc bấy giờ để đòi Bắc Việt phải trả tự do cho ông. Từ khi ông được trở về Nam, ông Phú đã tham gia tích cực vào cuộc chiến. Nhất là ở Lào, năm 1971, lúc ông là tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ông đã giúp cho một đoàn xe thiết giáp của Miền Nam thoát được một sự thảm bại trông thấy, trên đường rút lui ở quốc lộ 9. Để cứu đoàn thiết giáp nầy đang bị 2 sư đoàn Bắc Việt tấn công từ hai bên sườn, Tướng Phú đã không ngần ngại đi xuyên qua rừng tìm địch để cuối cùng bẻ gãy được gọng kềm của địch sau 3 ngày tác chiến vất vả có đôi lúc phải đánh xáp lá cà với địch. Vào tháng 5 năm 1972, trong trận tấn công quy mô của Bắc Việt vào Huế, Tướng Phú đã cùng Đại Tá thingyinson đưa tôi đi thanh sát bằng trực thăng ngay trên vùng Việt Cộng. Khi phải cố gắng đáp xuống một mỏm núi đang bị Bắc Việt bao vây, chiếc trực thăng của chúng tôi bị trúng một viên đạn trực xạ của súng 75 không giật, bay mất nửa mảng phía trước và gãy mất một chân càng. Như có một phép lạ, chiếc trực thăng lại bay lên được và Tướng Phú đã bắt phi công phải lượn lại trên vị trí bạn một vòng khi ông nói rằng "tôi muốn cho cả Việt Cộng và binh sĩ của tôi biết rằng tôi hãy còn sống." Tôi nghĩ lại tất cả các chuyện nầy và tôi không bao giờ tin rằng Tướng Phú tự nhiên lại mất bình tĩnh đến độ phải cho lệnh triệt thoái một cách vội vã vô trật tự như vậy để cuối cùng phải đi đến một thảm trạng như thế. Phải chăng vì tôi biết về ông ta quá nhiều, hay vì ông ta là bạn của tôi? * Thiếu Tướng Nam mừng rỡ nắm chặt lấy tay tôi lắc thật mạnh và tiếp tôi trong văn phòng của vị tỉnh trưởng, Người quân nhân Nhảy Dù nầy năm nay 48 tuổi, nước da đen sạm, với gương mặt luôn luôn cảm hóa mọi người, ông đã qua các trường đào tạo "mũ đỏ'' của người Pháp và được người Mỹ huấn luyện về chiến thuật trực thăng vận. Ông là người quân nhân duy nhất thuộc một gia đình quí tộc danh tiếng ở Huế, gồm toàn các cụ đồ nho và quan lại của triều đình. Ở con người ông, nổi bật nhất là tướng người vạm vỡ, cầm vuông rõ nét của một con người thượng võ. Đến giờ nầy ông vẫn sống độc thân không hối tiếc (điều nầy bảo đảm cho tính thanh liêm trong sạch của ông ở một đất nước mà các bà thường mượn uy quyền và địa vị của các ông chồng để làm ra tiền), và ông chỉ thấy vui vẻ thoải mái khi được sống giữa hàng binh sĩ và các đơn vị tác chiến của ông. Người bạn thân nhất của ông là Đại Tá Ninh (một "mũ đỏ'' khác được đào tạo ở trường Nhảy Dù Pau, Pháp) một sĩ quan mảnh khảnh với bộ râu mép ngạo mạn, người đã cùng ông với đạo quân tiếp viện của mình bẻ gãy vòng vây An Lộc, một trận Verdun của Miền Nam Việt Nam. - Sao? Thiếu Tướng Nam vừa cười lớn lên vừa nói với tôi, Anh muốn xuống đây kiếm tôi, chỉ vì các tay trên Tổng Tham Mưu không chịu nói sự thật với anh chớ gì? - Anh Nam ơi, tôi chỉ xuống đây để được biết tin tức thôi. - Được rồi, Chúng ta hãy nói chuyện về Vùng IV của tôi. Đường sá luôn luôn được mở sạch sẽ để cho lưu thông được an toàn, và Việt Cộng không phải là chủ ở đây. Các đơn vị Bảo An và Dân Vệ của tôi giữ chặt lãnh thổ, điều nầy cho phép tôi điều động hoàn toàn 3 sư đoàn chánh quy của tôi trong các cuộc đụng độ mạnh với các đại đơn vị Cộng Sản Bắc Việt đang muốn xâm nhập vào đây từ phía Cam Bốt. Hôm qua, chúng tôi có "sơi'' một trung đoàn thuộc sư đoàn 4 bộ binh Bắc Việt ở Phú Sơn. Hôm nay họ bị dồn về phía trước các hãng đường ở Đức Hòa rồi. Chúng tôi đã tịch thu hơn một trăm vũ khí nặng, súng không giật, súng phóng hỏa tiễn, bách kích pháo và cả một số súng liên thanh phòng không. - Sau thảm trạng ở miền Trung, thật sự quân lực VNCH còn bao nhiêu lực lượng khả dụng? - Còn được 7 sư đoàn với quân số đầy đủ: 6 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn Dù, cộng thêm 2 lữ đoàn thiết giáp và nhiều liên đoàn Biệt Động Quân. Hai lữ đoàn Thủy Quân Lực Chiến và 2 sư đoàn khác (sư đoàn 2 và sư đoàn 4) đang được bổ sung quân số và tái thành lập với những đơn vị vừa từ miền Trung rút về. blank Sài Gòn được phòng thủ rất chặt chẽ với 2 nút chận thật mạnh. Nút chận thứ nhất là vòng đai phòng ngự phía Bắc của thủ đô do sư đoàn 25 bộ binh của tướng Lý Tòng Bá, một kỵ binh lực lưỡng và đầy đủ kinh nghiệm.Trung tâm điểm của tuyến phòng ngự nầy dựa trên thị xã Bến Cát, một vị trí chủ, được xây dựng chung quanh môt ngọn đồi được bố trí các loại súng và có hầm trú ẩn bê tông cốt sắt. Nút chặn thứ hai là tuyến phòng thủ mặt Bắc, tiếp giáp nhau chung quanh thành phố Xuân Lộc, do Sư Đoàn 18 Bộ Binh trấn giữ, một sư đoàn ưu tú mà tư lệnh là Tướng Lê minh Đảo, hùng hục và vui vẻ như một thiếu úy. Tôi nghĩ là Bắc Việt cũng khó mà đánh bật được 2 phòng tuyến nầy. - Dù sao cũng vẫn còn một nguy cơ, ông Nam ơi. Bọn Việt Cộng không có thói quen đánh trực diện vào các cứ điểm mạnh. Họ dùng toàn bộ pháo binh nã vào cứ điểm mạnh nhằm cầm chân các đơn vị của ta để họ lợi dụng vùng rừng bụi tiến đánh bọc hai bên sườn của mình. Nên nhớ là Xuân Lộc và Bến Cát đều có các vuờn cao su và rừng cây bao quanh. - Chắc vì thế mà chúng không dám đến đánh ở địa thế gần như trống trải ở đồng bằng. Có lẽ bọn chúng sẽ cố gắng cô lập Sài Gòn hơn, cắt đứt thủ đô với vùng vựa lúa và giàu nhân lực vì nguy cơ lớn nhất phải đến ngay từ Sài Gòn. Tôi muốn nói đến các chuyện lộn xộn và tham vọng chánh trị ở Sài Gòn. Các nghị sĩ băt đầu rục rịch, các tướng lãnh không có quân cũng đang có âm mưu gì đó, và Tổng Thống Thiệu càng ngày càng bị cô lập. Chánh quyền có thể bất thần sụp đổ và rơi vào tay của những kẻ vô trách nhiệm, sẵn sàng hấp tấp mở cửa rước bộ đội Bắc Việt vào Sài Gòn. - Anh giải thích thế nào về sự sụp đổ đã xảy ra ở miền Trung? Tướng Nam chống tay lên thành ghế ông đang ngồi, và bực tức cằn nhằn: - Có rất nhiều lý do. Mà đầu tiên và trước hết là do ông Thiệu. - Ở Tổng Tham Mưu, Đại Tá Khôi nói với tôi người chịu trách nhiệm là Thiếu Tướng Phú. - Không phải. Anh đã biết Tướng Phú còn hơn tôi nữa mà. Ông là một cấp chỉ huy có khả năng, bám trận địa như một con rận bám sát tóc vậy. Không, ông không phải loại người chuồn đi, bỏ lại cả một thành phố và toàn bộ chiến cụ nguyên vẹn như vậy. Trước khi đổ vấy trách nhiệm cho cấp chỉ huy và cho lỗi lầm chánh trị, có vài điểm kỹ thuật cần được làm sáng tỏ: cuộc tổng tấn công của Cộng Sản vào Vùng Cao Nguyên đã được chờ đợi từ nhiều tuần lễ rồi. Nhưng vì thiếu tin tức chính xác về những cuộc điều quân hay di chuyển của các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt xuyên qua rừng rậm, Tướng Phú nghĩ cũng đúng là nỗ lực chính của Cộng Sản phải nhắm vào Kontum hay Pleiku, nằm ngay ở phía Bắc, và ông ta đã tập trung phần lớn lực lượng vào hai thành phố nầy. Xui cho ông, Bắc Việt lại tấn công vào Ban Mê Thuột, nơi mà quân trú phòng chỉ có một trung đoàn và vài liên đoàn Biệt Động Quân mà phải đương đầu với cả 3 sư đoàn Cộng Sản ! Sau đó Cộng Sản cắt hết các con đường giao thông chính trên Cao Nguyên. Phản ứng đầu tiên của Tướng Phú là phản công. Ông ta cho trực thăng vận 300 binh sĩ Dù và một liên đoàn Biệt Động Quân đổ xuống chiếm lại hai phi trường ở Ban Mê Thuột, và sau đó đã cố gắng vào được thành phố và tảo thanh thị trấn. Trong một vài giờ, Ban Mê Thuột đã biết được một không khí thật sư vui mừng, một cái gì mường tượng như lúc thủ đô Ba Lê được giải phóng. Dân chúng vẫy cờ hoan hô các binh sĩ của Chánh Phủ. Các chủ vườn cao su đem rượu cỏ-nhác ra uống mừng chiến thắng. Nhưng sau đó, đùng một cái, theo lệnh từ Sài Gòn chuyển lên, lực lượng Miền Nam được lệnh phải rời khỏi thành phố. Hai sư đoàn Bắc Việt khép kín họ lại và đã tiêu diệt họ. Còn ở Pleiku và Kontum: còn 2 trung đoàn thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Pleiku là một căn cứ Không Quân quan trọng của một sư đoàn Không Quân, không thiếu một thứ gì từ lương thực đến đạn dược. Tướng Phú đã quyết định đánh và kháng cự. Ông ta đã xác định với các sĩ quan của ông như vậy. Tuy nhiên ngày 14 tháng 3, Tổng Thống gọi ông về Cam Ranh và cho lệnh ông phải lui quân. Bây giờ chúng tôi biết được là cuộc bàn cãi rất là sôi động đầy sóng gió. Tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh. Ông ta đã nói thẳng với Tổng Thống Thiệu: "Tôi đã đánh giặc 23 năm rồi, và tôi chưa bao giờ biết lui quân. Hãy tìm một người khác để chỉ huy cuộc "chạy trốn "nầy.'' Nói xong ông vứt khẩu súng lục của ông lên bàn và ra khỏi phòng họp, đóng sầm cửa lại. Và sau đó ông bay về Nha Trang, khai bệnh vào nằm bệnh viện. Chuyện đâu có khó khăn gì với ông ta đâu, vì anh cũng biết là ông ta luôn luôn bị khó chịu với hai lá phổi của ông. - Đại Tá Khôi lại xác định với tôi là Tướng Phú đã bay về Pleiku và đã cho lệnh triệt thoái vài giờ sau đó. - Đó là luận thuyết chánh thức. Bộ Tổng Tham Mưu quả quyết là khi về đến Pleiku, Tướng Phú đã nói với tư lệnh phó của ông "tôi cho ông hay một bí mật lớn, là chúng ta sẽ phải sớm di tản hết các vị trí của chúng ta". Vị tư lệnh phó nầy lập tức báo tin cho các sĩ quan, và cuộc triệt thoái được thi hành ngay lúc đó. Tôi đã gặp Tướng Phú ở Sài Gòn ngày hôm kia, ông ta đã xác nhận với tôi là ông ta đã không bao giờ ra lệnh triệt thoái. Dù sao thì giải pháp tốt đẹp duy nhất là nên giao cho Tướng Phú một nhiệm vụ hy sinh bằng cách cho lệnh ông phải tử thủ tại chỗ để bảo vệ Pleiku, nhằm mục đích mua thời gian và để cho dân chúng và các liên đoàn Biệt Động Quân rút đi trong vòng trật tự, như thế thì mới tránh được cái dịch hốt hoảng đã đầu độc cả nước. - Như vậy thì ai là người ra lệnh triệt thoái? - Chính là ông Thiệu. Sau khi Tướng Phú đã từ chối không thi hành lệnh, Tổng Thống Thiệu đã báo cho Đại Tá Tất, tư lệnh phó của ông Phú, một sĩ quan Biệt Động Quân và giao cho ông nầy chức vụ Tư Lệnh Vùng. Được Tổng Thống liên lạc thẳng, Tất đã sốt sắng thi hành lệnh, và cho bắt đầu ngay cuộc hành quân triệt thoái, mà không cho tiến hành phá hủy một kho tàng nào. Anh ta đã để lại nguyên vẹn sáu tháng lương thực, một nửa các khẩu pháo và nặng nhất là để nguyên lại 40 chiếc phi cơ và trực thăng còn tốt. Tổng Thống Thiệu đã phạm một lỗi về xét đoán nhân sự không thể nói được khi ông giao quyền chỉ huy cho Đại Tá Tất. Tôi biết anh nầy quá nhiều, ông ta là một sĩ quan can đảm, một sĩ quan chuyên về tác chiến lưu động, đột kích hay phá hoại. Nhưng anh ta không được đào tạo hay huấn luyện một tí gì để có thể hướng dẫn một cuộc hành quân loại triệt thoái rất tế nhị và quan trọng nầy. Tổng Thống Thiệu cũng phải gánh hoàn toàn trách nhiệm trong việc bỏ thành phố Huế và Vùng I Chiến Thuật. Tướng Trưởng có 3 sư đoàn ưu tú để lo phòng thủ Vùng nầy, Sư Đoàn 1 Bộ Binh, sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và sư đoàn Dù. Nhưng ngày 20 tháng 3, Tổng Thống Thiệu vì sợ bị đảo chánh, nên đã cho rút sư đoàn Dù đưa ngay về Sài Gòn làm cho Tướng Trưởng đứng trước một lổ hổng quá rộng trong hệ thống phòng thủ của ông. Vì chỉ với 2 sư đoàn mà ông phải tái phối trí cho một tuyến phòng thủ dài 150 cây số ngàn. Do đó mà ông phải quyết định thu gọn lực lượng về tuyến phòng thủ Đà Nẵng, lực lượng quân sư ưu tiên lui về trước. Trong lúc các đơn vị đang trên đường di chuyển, Tổng Thống Thiệu lại cho lệnh phải trở lui lại Huế, nhưng Cộng Sản Bắc Việt đã chận đường trở lại Huế ở khoảng đèo Hải Vân. Trước hết Sư Đoàn 1 đã đánh một trận khốc liệt để tái chiếm đèo Hải Vân và tái lập lưu thông trở lai. Nhưng vô phước là làn sóng dân chúng chạy loạn như nước vỡ bờ đã phá tan hàng ngũ của sư đoàn 1. Có rất nhiều binh sĩ quá lo âu cho số phận của gia đình mình, nên đã bỏ hàng ngũ, còn một số binh sĩ khác thì đào ngũ hẳn. Vị tư lệnh sư đoàn 1 ở Đà Nẵng đã cố gắng nắm lại sư đoàn của mình nhưng đã bị một anh phản loạn đánh gục. Thiếu Tướng Nam đứng dậy, vươn vai và đi vài bước trong phòng. Sau một vài phút yên lặng, ông lại ngồi xuống và tiếp tục: - Tổng Thống Thiệu bị ám ảnh vì sự bỏ rơi hèn hạ của người Mỹ. Tôi tin chắc là ông ta muốn bi thảm hóa tình hình bất thần như vậy, hy vọng là Tổng Thống Ford sẽ vượt qua được một mức độ khó khăn nào đó để đi đến quyết định phải gởi các oanh tạc cơ hạng nặng qua giúp V NCH. Nhưng sự việc sau đó đã cho thấy là ông tính toán sai. Và chúng ta đã mất mát quá nhiều trong vấn đề đó. Biện pháp hữu hiệu nhất để thuyết phục Quốc Hội và Nhà Trắng, là chúng ta phải chiến đấu tại chỗ cho đến viên đạn cuối cùng. Chính bọn Cộng Sản Bắc Việt cũng không tin là chúng sẽ chiến thắng dễ dàng như vậy. Bằng chứng hùng hồn nhất là cả 4 sư đoàn trừ bị chiến lược của Miền Bắc chỉ mới vượt qua vĩ tuyến 17 trong tuần lễ vừa qua. Trước khi từ biệt, Tướng Nam nói là ông không tin là TT Thiệu sẽ còn khả năng vượt qua được các biến cố. Hai ngày trước khi từ chức, TT Thiệu từng nổi điên, doạ bắn Tổng Trưởng Ngô Khắc Tỉnh Thứ Hai, ngày 21 tháng Tư Vào lúc 5 giờ chiều, Hội đồng chánh phủ họp bất thường tại Dinh Độc Lập. Nhiều người nói đây là một buỗi họp mặt để từ giã nhau. Vào 6 giờ chiều, đài phát thanh báo cho biết là Tổng Thống Thiệu đã mời hết tất tất cả các Tổng Bộ trưởng, Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, các nhân viên Tòa Thượng Thẩm và các vị dân cử thuộc lưỡng viện Quốc Hội, có mặt lúc 7 giờ tối để Tổng Thống đọc một bài diễn văn của ông, được trực tiếp truyền thanh.. Trong ba tuần nay, chiến lược gia của các tiệm cà-phê ở đường Catinat đã tiên đoán là sự từ chức của Tổng Thống Thiệu là chuyện đương nhiên rồi. Trong những ngày đầu tháng tư, một nguồn tin đã được loan đi và báo chí cũng đã có nói lại rõ ràng là một "hội đồng tướng lãnh" của Miền Nam đã trao cho Tổng Thống Thiệu một tối hậu thơ, khuyên ông nên từ chức trong vòng 3 ngày… nhưng rồi có thấy chuyện gì xảy ra đâu ? Khi nào nhịp độ tấn công của Cộng Sản Bắc Việt càng mạnh thì phía đối lập lại cứng rắn thêm. Cảnh sát đã phá vỡ hai mưu toan ám sát và dinh Độc Lập đã bị dội bom. Nhưng cho tới giờ nầy Tổng Thống Thiệu không thấy có một dấu hiệu gì nhượng bộ.. Càng ngày càng có nhiều nhân sĩ chánh trị hay tôn giáo đã công khai yêu cầu ông hãy ra đi, để người ta có thể đàm phán với "phía bên kia". Phần đông các đối thủ của ông dường như tin chắc rằng ông Thiệu muốn ngồi mãi ở cái ghế Tổng Thống nầy cho đến cùng. Ngày hôm kia, ông ta còn dọa giết ông Ngô Khắc Tỉnh, người anh em bà con bạn dì với ông, đương kiêm Tổng Trưởng Giáo Dục, khi ông nầy muốn nói với ông ta về sự nghiêm trọng của tình hình trong hiện tại, làm ông ta giận dữ hét lên: "Anh chỉ là một thằng chủ bại bẩn thỉu. Nếu anh còn tiếp tục nói nữa, thì tôi sẽ cho anh ăn đủ 12 viên đạn của tiểu đội hành quyết ngay bây giờ " Ông Dominique, người chủ tiệm ăn Valinco, chuồi cho tôi một tuy dô "hết ý". Theo ông ta thì Tổng trưởng ngoại giao Sauvagnargues của chúng tôi đã có điện thoại cho ông Mérillon (đại sứ Pháp ở Sài Gòn) để bảo ông nầy "Anh hãy đi gặp ông Thiệu đi, và bảo cho ông Thiệu là ông ta phải đi đi… " (Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tờ báo Nouvel Observateur, ông Sauvagnargues xác nhận tin tức lạ lùng nầy: "Theo đúng chỉ thị của tôi, đại sứ Pháp đã có đến gặp ông Thiệu và nói với ông nầy rằng "Ông phải ra đi thôi…", một cách thi hành Hiệp Định Paris hết sức quái lạ….) Trước cổng vào dinh Tổng Thống, người ta phải mất độ 30 phút để cẩn thận hướng dẫn các xe chánh thức. Vào một buổi hoàng hôn ấm áp, với bãi cỏ và các vòi nước phun lên được đèn rọi chiếu sáng, với các anh tài xế toàn đội kết trắng tinh, tất cả đều làm cho người ta liên tưởng đến một dạ hôi nào đó. Nhưng những chiếc áo dài lụa xinh xắn của Sài Gòn hoa lệ thường hay làm đẹp mắt cho các buổi tiếp tân lại không thấy góp mặt ở đây, mà chỉ thấy toàn là quân cảnh khắp nơi trong khu vực.. Vào hồi 7 giờ rưỡi, nửa giờ trước giờ giới nghiêm (thình lình được tăng lên 1 giờ), đường phố đã gần như vắng vẻ. Đằng sau các tấm rèm che phía trước tiệm buôn, các gia đình tựu họp lại quanh chiếc máy truyền thanh. Các cảnh sát cũng lẩn quẩn ở trước cửa tiệm để cùng nghe diễn văn của Tổng Thống Thiệu. 7 giờ 43 phút: Trong căn phòng lớn ở tầng dưới của Dinh Độc Lập, đứng trước bức họa tượng trưng của 18 vua Hùng, theo truyền thuyết là những vị vua dựng nước Việt Nam, Tổng Thống Thiệu bắt đầu nói. Với một giọng rắn rỏi, bình tĩnh, nhưng không dấu được một sự bực tức, ông đi vào một trong những sự trình bày dài mà đó là sở trường của ông. Ông nhắc lại từng giai đoạn lớn của cuộc chiến ở Việt Nam và những giai đoạn của những cuộc thương thuyết dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Ba Lê. Ông hết sức nhấn mạnh các lần từ chối liên tục mà ông đã phải đối đầu chống lại với Kissinger trong cuộc hòa đàm. Ông kết án "thái độ vô nhân đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc lớn đang trốn tránh trách nhiệm của mình." Với một giọng giận dỗi và khích động, ông Thiệu gào to lên: "Không bao giờ tưởng tượng nổi là tôi có thể chứng kiến trong một thời gian nào đó tấn bi kịch của những sự trả giá bẩn thỉu đang diễn ra bên trong toà nhà Lập Pháp của Quốc Hội Hoa Kỳ. Không bao giờ tôi tưởng tượng nổi một người như Kissinger lại có thể đưa dân tộc Việt Nam mình vào một định mệnh hết sức thảm khốc như ngày hôm nay." Đúng 8 giờ 36 phút, sau 53 phút đọc diễn văn, Ông Thiệu loan báo là ông từ chức. Ông nói thêm: "Tôi nghĩ rằng sự hy sinh của tôi sẽ giúp thay đổi được tiến trình viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa, và giúp thay đổi được diễn tiến trên chiến trường. Nếu nó có thể mang lại hòa bình cho toàn dân, và đem lại cho quân đội và cho đất nước sự giúp đỡ cần thiết cho sự sống còn của họ thì đó chỉ là một sự hy sinh tối thiểu mà thôi. Đối với những người luôn luôn chỉ trích tôi cho tôi là một chướng ngại cho nền hòa bình, tôi xin họ vì tình yêu của Tổ Quốc họ hãy giúp đỡ người kế vị tôi, là Tổng Thống Trần Văn Hương, để ông mang lại hòa bình cho đất nước, một việc mà tôi đã không thể làm được.” Thứ Ba, 22 tháng Tư: Đại sứ Pháp Mérillon lên sân khấuVới sự thờ ơ nhẫn nại trên đường phố Sài Gòn, với sự bối rối ở Hoa Thạnh Đốn, với sự kín đáo ở Mạc Tư Khoa, với niềm hy vọng ở Ba Lê, với sự từ chức của Tổng Thống Thiệu được loan báo chiều hôm qua… cho tới giờ nầy chỉ thấy có phản ứng vừa phải ở khắp mọi nơi thôi. Câu hỏi mà mọi người đều đặt ra chỉ vỏn vẹn là: "Tổng Thống Trần Văn Hương, người được chỉ định thay thế ông Thiệu, theo đúng Hiến Pháp Việt Nam, sẽ giữ được chánh quyền được bao nhiêu thời gian nữa?" Ông Trần Văn Hương, người thay thế ông Thiệu, là một ông già 72 tuổi, người đau yếu được may mắn qua khỏi bệnh bướu tim, có một dáng đi nặng nề và có tính hay do dự, luôn đeo kính râm dày để che dấu và bảo vệ cặp mắt hơn là sợ ánh sáng. Trong hiện tại, với những mặc cả khó khăn, những nhà chánh trị của Miền Nam đang bàn cãi nhắm tìm một người đối thoại khả dĩ có thể được phía Cộng Sản chấp nhận. Nhưng ông Tổng Thống già nầy vẫn cứng rắn không chịu từ chức. Trong khi Tổng Thống Hương tiếp tục thăm dò và thử thành lập một chánh phủ với sự góp ý của các ông Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Huyền và Trần Văn Đôn, thì người ta chú ý nhiều hơn về những cố gắng ngoại giao hướng về một nền "hòa bình qua thương lượng" hơn là về tình hình quân sự thật tình đang rất nguy kịch. Góp mặt như những nhà trung gian hòa giải đắc lực nhất, là người Pháp, họ giữ những sự tiếp xúc với tất cả các bên trong cuộc chiến, không riêng gì ở Sài Gòn, mà cả ở Paris và Hà Nội. Thái độ và hành vi sau cùng của chánh phủ Pháp đã có một tiếng vang nào đó trong thủ đô Miền Nam. Tất cả dân chúng ở Sài Gòn đều nhắm vào ông Đại sứ Pháp Mérillon. Người nhỏ thó, gầy, nhưng nóng tính, tóc đen, ông Mérillon có cặp mắt tròn sáng ngời dưới cặp kính râm. Ông là cựu sinh viên trường E.N.A., năm 1970 đã nổi bật và được dư luận chú ý trong lúc chiến cuộc "tháng chín đen" ở Jordan đang hồi khốc liệt. Lúc bấy giờ ông đang là Đại sứ Pháp ở thủ đô Amman, ông đã bỏ tiền ra bất chấp tốn hao để lo chuyển thực phẩm và thuốc men đến cho dân chúng, cho những người ngoại quốc đang bị phong tỏa kẹt trong vòng chiến, và cho những con tin đang bị du kích Palestine cầm giữ.. Táo tợn hơn dưới cơn mưa đạn và rốc-kết, ông đích thân đứng ra hướng dẫn các phi công của các phi cơ cứu viện đáp xuống phi trường..Là một nhà ngoại giao bất chấp hết thủ tục, thường mặc sơ mi nhẹ và quần kaki dài hơn là đứng đắn có thắt cà vạt, ông hăng say làm việc nhưng không được kiên nhẫn lắm, nên đôi lúc có những cơn nóng giận bất thường. Những người Pháp lớn tuổi ở đây nhận thấy ông đã "tăng cường" nhân viên của Tòa Đại Sứ, để làm tăng giá trị cho vị thế của ông hơn là muốn có một sự hữu hiệu thật sự cho công việc, và họ nhún vai phê bình thêm: "Ông ta khuấy động nhiều quá, làm ồn quá, coi chừng ông ta sẽ có nguy cơ trèo cao té nặng đó!" Thật ra, từ mấy ngày nay, ông Jean- Marie Mérillon đã tỏ ra rất năng động. Tin chắc là cái giá phải trả cho một cuộc "chiến đấu trong danh dự" của Sài Gòn sẽ thật sự rất đắt, nên điều lo lắng đầu tiên của ông là phải cố tránh không để cho thủ đô bị đánh chiếm. Muốn được như vậy, ông hình dung ra một sơ đồ căn cứ trên một ý nghĩ thật giản dị: phải đạt cho được sự từ chức của Tổng Thống Hương và thành lập một Hội Đồng Hòa Hợp Hòa Giải với những nhân vật thuộc "thành phần thứ ba". Hội đồng này chỉ cần tồn tại trong vòng hai hay ba tuần lễ mà thôi. Một thời gian trì hoãn. Muốn được như vậy, là ông phải lắc mạnh cái mà ông gọi là "sự bất động cố hữu" của ông già Hương; phải cố thuyết phục cho đến cùng rằng sự chống trả bằng võ lực bây giờ là điều hoàn toàn vô ích; và cố gắng hòa giải các nhóm "đối lập hợp pháp" vì lúc nào họ cũng chia rẻ với nhau. Vậylà ông bắt đầu tiến hành những cuộc mặc cả hết sức khó khăn rồi trở thành mạnh bạo hơn khi mà mỗi giờ trôi qua là mỗi giờ áp lực của lực lượng Cộng Sản càng nặng thêm lên. Hà Nội vừa mới xác định một lần nữa lập trường của họ: "Trong bộ máy chánh quyền mới sẽ được thành lập ở Sài Gòn, không được có mặt bất cứ người nào đã ở trong bè cánh của Thiệu, có nghĩa là những người đã hợp tác chặt chẽ với Thiệu để chống phá quyền lợi Quốc Gia, kéo dài cuộc chiến và phá hoại Hiệp Định Ba Lê. " Với những lời tuyên bố nầy, đương nhiên bị loại ra ngoài ông Trần Văn Lắm, đương kim Chủ Tịch Thượng Viện và tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng của chánh phủ "chiến đấu", tuy đã từ nhiệm nhưng vẫn còn là "xử lý thường vụ". Do vậy lại bắt đầu trở lại những sự mặc cả mới.., mà ông Mérillon hơi chua chát gọi đó là "những trò chơi viển vông". Trọn một binh đoàn Bắc Việt với chiến xa đại pháo bị huỷ diệt chỉ trong một nháy mắt...Đêm đã xuống hoàn toàn. Binh sĩ đã nằm ở vị trí chiến đấu, và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những hòn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đã sẵn sàng. Dài theo bìa phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên, súng phóng lựu và súng không dật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng. Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần. Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nhìn thấy, đánh dấu bãi đáp để nhận hàng tiếp liệu. Những chiếc trực thăng đảo tròn trên Bộ Chỉ Huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép lòng thòng dưới lườn. Chỉ trong vòng vài phút, họ đã đặt các kiện hàng tiếp liệu xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn bão mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được. Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi….. Nhưng đến 3 giờ sáng thì mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ rực của pháo binh Bắc Việt bay vào ngọn đồi. Có môt số cây bị trốc cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá, phía dưới chân đồi.. Đó là lệnh xung phong của cán binh cộng sản. Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường. Binh sĩ Miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho "bộ đội" đến gần hơn dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt. Mấy ống bách kích pháo nhắm vào hai bên đường, nã đạn, nòng súng gần như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái thì các khẩu trung liên của biệt động quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngã lăn oằn oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai trực thăng võ trang C119 lại xuất hiện, đang xé gió bay tới,,, sau tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt còn sống sót đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng. Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây. Pháo binh 155 ly của Miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét. Đến 5 giờ sáng thì mọi tiếng súng đều ngưng… Lúc trời sáng tỏ thì binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi phòng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều thây của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây. Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói: "Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa là thiếu Tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ đi về với ông ta." Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng Bắc. Nhìn từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ còn mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng. Trực thăng đổi hướng về hướng Đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng Gòn, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt, các chiến xa, các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang. Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Hòa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ. Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A.37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù. Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C.130 thả xuống từ trên cao hai thùng tròn đen, có dù, và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị. Hai ngọn khói hình nấm tròn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi thường đến đỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 500 thước bị ảnh hưởng, phải bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một khoảng không như một hòn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được cự thăng bằng. Khi khói tan biến hết, thì mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe cộ bị lật ngã, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố và thây người chết nằm rãi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị trốc gốc ngã lộn nhào đưa cả rễ lên trời. Thật là một cái nhìn khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt Thiếu tá Luân cho trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai bên đường. Không có một tiếng súng bắn trả: Thì ra thiếu tá Luân đã bắn vào một đoàn người chết….. Sau khi đáp xuống sân bay Biên Hòa, Thiếu tá Luân vừa cởi nón sắt ra vừa nói với tôi; "Anh có thấy rõ mức độ thiệt hại không? Hai thùng tròn đen được thả xuống ban nảy là hai trái bom C.B.U. 55. Một đầu đạn được gắn vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt đất. Như vậy là không có góc độ "tử giác". Trong vòng 150 thước đường bán kính, không còn một chút không khí nào hết, dĩ nhiên là không còn dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn sóng cực mạnh của sức nổ. Cho nên đây là một loại vũ khí kinh hoàng, chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo thì mới có hiệu quả cao. - Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào? - Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Công thức nấy còn là "Tối Mật" và chỉ có người Mỹ là có thể biết thôi. Tôi nghĩ đây là một sự pha trộn giữa chất nổ T.N.T và một chất hóa học nào đó. Loại bom nầy đã có từ lâu rồi, nhưng vì sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ, nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng. Khi rời khỏi Việt Nam, họ để lại cho chúng tôi trên 20 trái bom nầy và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng. Gần như đây là loại vũ khí của "cơ may cuối cùng"…, chúng tôi đã xử dụng 7 trái trong vòng 3 ngày nay. Đại Sứ Pháp Merillon Đạo DIễn Màn Đưa Tướng Minh Lên Làm Tổng ThốngTiếp tục trích lược Hồi Ký của Pierre Darcourt do Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa VNCH dịch sang Việt ngữ: Sau khi TT Thiệu ra đi, Đại sứ Pháp Mérillon nghĩ rằng CPLTCHMN sẽ chấp nhận ông Dương văn Minh, nên hối thúc ông Trần văn Hương nên mời ông Minh lập một Chánh Phủ gọi là "Chánh Phủ để Thương Thuyết". Ông Đại sứ Pháp thấy rằng tình hình đã quá nghiêm trọng rồi nên cần phải có những quyết định cấp bách. Nhưng từ 48 giờ qua, ông vẫn giẫm chân tại chỗ trong sự nhẫn nại. Ông đã hai lần ngồi xe D.S của ông có gắn cờ Pháp để đi vào Dinh Độc Lập hối thúc ông Tổng Thống già nua nên sớm "có hành động" kịp thời. Sau đó, tướng Minh đã mời các nhà báo và đã nói với họ rằng: "Tổng Thống Trần văn Hương đã mời tôi nhận chức vụ Thủ Tướng. Tôi đã từ chối. Ở cương vị Thủ tướng tôi không thể mở đường đi đến một cuộc thương thảo được với "phía bên kia". Tôi đã trả lời cho Tổng Thống Hương là: điều kiện tiên quyết mà những người "cách mạng" đặt ra là Tổng Thống phải từ nhiệm. Đó không phải là một điều mong muốn, mà là một sự bắt buộc. Sự từ chối chức vụ Thủ tướng của tướng Minh đã nói lên ý muốn "đốt giai đoạn" của ông ta. Đại sứ Pháp, người đã hướng dẫn cho ông ta, đã chơi một ván bài nguy hiểm. Sơ đồ hành động của ông, nhằm đẩy cụ già Hương ra khỏi ghế Tổng Thống và thay thế ông bằng một người chưa từng bao giờ "bị phía bên kia chỉ trích", chủ yếu được dựa trên niềm tin rằng cộng sản sẽ sẵn sàng thương thảo trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973. Và theo ông thì không có gì là không vững chắc. Mười hai ngàn người có quốc tịch Pháp ở Miền Nam Việt Nam, được Tổng Thống Giscard d'Estaing và Đại sứ của họ kêu gọi hãy ở lại tại chỗ, có thể có nguy cơ phải trả giá rất đắt với tài sản và sanh mạng của mình, nếu giải pháp chánh trị nầy bất thành. Cân nhắc kỹ lưỡng rồi, ông Mérillon ước tính là cơ nguy đó phải được qua và ông dùng cách để thuyết phục cộng đồng người Pháp ở đây là không có gì đáng phải lo sợ hết. Trước tiên là ông quyết định vẫn giữ nguyên ngày giờ thi Tú Tài toàn phần là ngày thứ hai 28 tháng 4, mặc dầu có những sự vận động khẩn thiết của các phụ huynh học sinh. Kế tiếp là trong lúc hầu hết các tòa đại sứ Tây Phương ở đây đều đóng cửa, ông Jean- Marie Mérillon đã công khai cho sơn lại mặt tiền của tòa đại sứ và cho trồng thêm bông hoa trong khu vườn của tư dinh ông. Có 12 người hiến binh được gởi tới bằng đường hàng không để tăng cường canh gác, Ông đã cho họ thay phiên nhau đứng gác ngoài cổng rào của tòa đại sứ. Ông cho một số thợ hồ xây thêm tường rào tòa đại sứ cho cao hơn lên, vừa để tránh những sự dòm ngó của kẻ tò mò nhằm bảo vệ cho các nhân sĩ Việt Nam ra vào tiếp xúc với Ông, vừa có thể dùng tòa đại sứ như một nơi tỵ nạn đúng theo quyền tỵ nạn chánh trị, nếu có xảy ra chiến trận ở đây. Và cuối cùng, để dự trù trường hợp xấu nhất, có một số tiêu lệnh đã được ban ra cho một số người "đầu đàn" trong cộng đồng người Pháp. Ba điểm tập trung đã được dự trù: đó là bệnh viện Grall, trường trung học Saint Exupéry (Chasseloup Laubat cũ) và cư xá Lareynières, nơi cư trú của các giáo chức Pháp. Tất cả những cơ sở công cộng, tất cả những tiệm buôn và nhà cửa, tài sản hay nơi cư trú của người Pháp đều phải được treo cờ tam tài Pháp. Những người nào còn nghi ngờ về tương lai và thiện chí của cộng sản, tự thấy mình "bi quan thái quá" và muốn nghe câu trả lời thì đây: "Hãy làm một bản thống kê chính xác tất cả tài sản của mình. Thiết lập hồ sơ thật đầy đủ, nhưng vẫn phải ở lại tại chỗ. Vì khi rời khỏi nước Việt Nam, trước tiên là mình sẽ mất hết tất cả các quyền cứu xét để được bồi thường vì lý do chiến tranh, nếu có." Mặc dầu ông Đại Sứ Pháp đã cho thấy tất cả sự lạc quan của mình, cuộc khủng hoảng chánh trị xem ra khó có thể tháo gỡ được. Luật sư Trần văn Tuyên thì tố cáo Đại sứ Pháp đã có hành động không thể tha thứ được là xen vào công việc nội bộ của Việt Nam. Ông Tuyên nói: "Ông Mérillon đã dám xấc xược nói với tôi rằng Tổng Thống Hương đã già yếu bệnh hoạn. Phải đưa ông ta vào bệnh viện để người ta giải phẩu cho ông, và nếu ông nằm ở bệnh viện thì bài toán sẽ được giải quyết " Ông Trần văn Tuyên, 62 tuổi, một luật sư có tài, là trưởng nhóm xã hội trong Quốc Hội và là một đối thủ của ông Thiệu. Ông là một trong những người hoạt động tích cực cho "Phong trào Tự Do Báo Chí". Ông Tuyên nói tiếp: "Tổng Thống Trần văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh khỉnh và không thân thiện của ông Mérillon. Nản lòng vì những lời mỉa mai cay độc nhắm vào ông, và những áp lực đối với ông, vị Tổng Thống lớn tuổi của chúng ta đã đe dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc thạch tín mà ông luôn luôn đeo ở bên mình." Thứ Sáu, ngày 25 tháng Tư, Tổng Thống Hương lại tiếp ông M. Mérillon trong vòng 80 phút và sau đó lại họp với ông M. Martin, Đại sứ Hoa Ky. Cả hai nhà ngoại giao nầy người nào cũng cố thuyết phục Tổng Thống Hương là nên cấp tốc đưa ra một phương thức khả dĩ có thể mở đường cho một cuộc thương thảo với những người "cách mạng" (nguyên văn: révolutionnaires") Cả hai đều nói "phương thức nầy nên gạt ra ngoài Hiến Pháp năm 1967,… cần có sự từ chức của Ngài, và giao lại cho một toán nào đó mà "phía bên kia" có thể chấp nhận được. Vị Tổng Thống già đồng ý chấp thuận mục đích của các đề nghị, nhưng khăng khăng muốn tìm một giải pháp theo đúng với Hiến Pháp. Ông Mérillon càu nhàu: "Ông ta cứng đầu lắm! như một con lừa vậy! Lúc nào cũng "Tôn trọng hình thức hợp Hiến"., ông ta chỉ nói hoài có bấy nhiêu đó. Như một người nghèo sắp sửa bị cháy nhà mà cứ từ chối không chịu kêu lính chữa lửa, vì nghĩ rằng mình đang có trong túi một hợp đồng bảo hiểm đúng cách." Trong cuộc tiếp xúc nầy, Ông Hương đọc lại một bài thơ trào phúng của văn hào Pháp Sully Prud'homme tuyên dương hành động anh hùng của một người chỉ huy Ba Lan, khi ông nầy muốn chận đứng đoàn quân Nga trước một con rạch cạn, bằng cách làm cho họ tin tưởng rằng con rạch nầy khó có thể lội qua được. Để chứng minh điều nầy người Ba Lan lội xuống nước và gập hai chân lại đi bằng đầu gối, rồi sau đó nằm sấp xuống, trước khi giả bộ chìm hẳn và bị chết đuối. Jean M. Mérillon trợn tròn đôi mắt lên nhìn thẳng Tổng Thống Hương và vừa nhún vai vừa sốt ruột nói: "Chúng ta không còn ở thế kỷ 19 nữa, thưa Ngài Tổng Thống, và những tên cộng sản bây giờ đã có những chiến xa lội nước và đã có cầu nổi được kéo theo để qua sông dễ dàng." Kết quả là sau mấy ngày thu xếp lòng vòng, Chủ tịch Thượng Viện Trần văn Lắm triệu tập quốc hội và tuyên bố "Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác là giao hết quyền hành cho tướng Minh Dương. Đây là văn bản mà tôi đề nghị với quý vị: "Quốc Hội với đầy đủ quyền tự do của chế độ, thấy rằng phải mở ngay các cuộc thương thuyết không thể tránh được. Tướng Dương văn Minh được chỉ định thay thế Tổng Thống Trần văn Hương để lãnh đạo Quốc gia, là người có nhiệm vụ phải tiến hành công tác thương thuyết nầy." Lưỡng viện Quốc Hội đã đưa tay bỏ phiếu, chấp thuận bản quyết nghị với đa số 120 phiếu thuận, 32 phiếu chống và 20 phiếu trắng. Lúc đó là 9 giờ đêm Chủ Nhật ngày 27 tháng Tư. Nhà báo Pháp Pierre Darcourt viết về những ngày giờ cuối của Việt Nam Cộng Hoà: Trận Địa Vòng Đai SàiGòn, Giờ Thứ 25Tân Uyên, một quận lỵ nhỏ cách căn cứ Không Quân Biên Hòa khoảng chục cây số đã bị pháo binh Bắc Việt biến thành một đống tro. (2000 quả pháo trong 3 tiếng đồng hồ). Biên Hòa đã có lệnh giới nghiêm 24 trên 24 giờ. Ở 5 cây số về hướng Đông Bắc của Sài Gòn, trực thăng đã tiêu diệt bằng rốc kết và liên thanh một đơn vị nhỏ đặc công Bắc Việt trong lúc họ đang cố phá một chiếc cầu. Cách đó khoảng 4 cây số về hướng Đông là trung tâm Thành Tuy Hạ, kho đạn dược chính của quân đội Miền Nam, không xa Cát Lái bao nhiêu, một căn cứ hải vận trên bờ sông Sài Gòn. Nếu cộng sản làm chủ được khu nầy thì tình hình sẽ không còn hy vọng gì cho quân đội Miền Nam Việt Nam. Có nhiều tàu chiến của giang đoàn đã cho đổ bộ lên đây 3 đại đội Thủy Quân Lục Chiến để họ bám trụ ở đây. Vào lúc 9 giờ sáng, tôi đi theo xa lộ Biên Hòa. Một đoàn xe trên một chục chiếc thiết giáp bắn tạc đạn 105 ly, có thiết vận xa M113 dẫn đầu chở đầy bộ binh trên đó đang trên đường ra trận tuyến.. Cảnh sát dã chiến được bố trí với súng liên thanh trong các hố dọc bên đường. Trước cầu sông Đồng Nai, cách 25 cây số về phía Đông Bắc Sài Gòn, quân đội đã dựng lên một hàng rào cản. Phía bên kia hàng rào cản nầy là an ninh không được bảo đảm. Các chiến xa đến vị trí của họ. Một đại úy Việt Nam chận xe tôi lại: - Ông đi đâu? - Tôi đi Long Thành. Vừa nói tôi vừa đưa thẻ báo chí của tôi ra. Si quan nầy lắc đầu và nói với tôi: - "Ông có thể đi thử. Nhưng ông đến đó chắc không được đâu, hoặc tuy nhiên nếu ông đi đến đó được thì ông cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để trở về. Các chiến xa đang đánh nhau trong vùng. Nhiều đơn vị của sư đoàn 18 đã rút về Bà Rịa và đã đến tiếp tay với các sĩ quan tập sự của trường Thiết Giáp vốn đang bị bao vây và đang bị T.54 bắn vào. Binh sĩ của chúng ta di chuyển quá khó khăn vì các đoàn dân chúng đang tản cư. Pháo binh cộng sản đã bắn hàng chục tràng rốc kết và đại bác 30 ly vào trại tiếp cư An Lợi, kế cận Long Thành, ở đó đang tập trung gần 100 ngàn dân tản cư. Hơn 200 người chết. Tất cả dân tỵ nạn đều bỏ chạy về hướng biển. Nhưng họ không đi xa hơn được vì con đường đi Vũng Tàu đã bị cắt đứt. Đoàn xe của Hội Hồng Thập Tự Việt Nam rời Sài Gòn từ sáng hôm qua mang theo lương thực cho những người dân khốn khổ trong tuyệt vọng nầy, đã có nhiều xe bị cháy khi đi gần đến Long Thành nên họ phải thối lui trở về." Có hai người Pháp tự nguyện trong tổ chức "Bác Sĩ Không Biên Giới", một hiệp hội thiện nguyện từng gởi các thầy thuốc làm việc không thù lao đi khắp nơi nào có đánh nhau trên thế giới, đến trình diện ngay rào cản. Họ có giấy thông hành và muốn cố gắng đến bệnh viện mà họ đã làm việc trong trại An Lợi mấy ngày trước. Binh sĩ xem giấy tờ và cho họ đi qua. Viên sĩ quan trả thẻ báo chí lại cho tôi và nói thêm: "Trái với tin đồn đãi ở Sài Gòn,căn cứ Biên Hòa vẫn còn. Và các chiến xa của Chánh Phủ đã vào Hố Nai để tiếp tay cho các chiến sĩ trẻ ở đó. Chào ông. Đến lượt tôi bước qua rào cản. Quốc lộ gần như vắng tanh. Dân chúng đã cân nhắc kỹ nên tránh xa quốc lộ và băng đồng mà đi. Xa hơn một chút, tôi hiểu ngay tại sao. Phía bên trái cách lề đường chừng 20 thước có 2 chiếc xe vận tải bị vỡ tan vì đạn pháo, đang cháy và bốc lên một mùi khét rất khó chịu của dầu lẩn thịt người. Phía bên phải, là một sườn xe nát vụn của chiếc xe ba bánh Lambretta làm tôi nổi da gà: tử thi của một đứa trẻ khoảng 10 tuổi bị treo lủng lẳn ở phía sau thùng xe, hai tay lòng thòng, đầu bị mảnh đạn cắt đi quá nửa đến cặp mắt. Trong một góc của thùng xe phía sau còn có hai xác chết, một của người đàn bà và một của bé gái ôm nhau nằm bất động, cả ngực và mặt đều bể nát máu me vương vãi. Cách đo 2 thước gần một lỗ được đào hơi cạn dựa nền đường nhựa còn một mảnh kim khí cong vẹo đánh dấu nơi viên đạn rốc kết đã nổ và gây ra một sự tàn sát bẩn thỉu mù quáng nầy. Một sự yên lặng kỳ lạ bao trùm chung quanh căn cứ Long Bình cũ của người Mỹ. Các làng mạc đầy sức sống vừa mới mấy ngày trước đây đang ồn ào náo nhiệt thì nay đã tản cư hết rồi. Các lô cốt dọc theo quốc lộ được các sinh viên sĩ quan trường Võ Bị Quốc Gia Dalat trấn giữ. Những sinh viên sĩ quan trẻ từ 18 đến 20 tuổi đầu, sạch sẽ, gọn ghẽ và bóng láng như những chú lính trong tủ kính. Trên ba lô của họ đặt dưới đất là mũ cát kết truyền thống vàng đỏ của sinh viên trường võ bị…. Một anh sinh viên sĩ quan nói với tôi bằng một giọng gần như rất trịnh trọng: "Chúng tôi sẽ đội mũ sinh viên lên khi thấy mình phải chết! Trong những năm 1965 -1972, Long Bình là một trong những căn cứ tiếp vận lớn nhất của Hoa Kỳ ở Viễn Đông. Một doanh trại quân sự rộng mênh mông trải dài trên gần hơn 7.000 mẫu tây đất, gồm hơn 100 trại lính, những sân trực thăng, bệnh viện…. tất cả đều được nối liền nhau bằng một hệ thống đường sá đẹp như xa lộ. Trên 30.000 lính Mỹ và Lữ Đoàn Không Kỵ số 1 với gần 3000 chiếc trực thăng đã đóng quân tại đây. Một "trung tâm giải trí" gồm có một sân khấu ngoài trời (dành cho các màn biễu diễn của các cô gái tóc hồng tóc hoe của anh hề trứ danh Bop Hope), một hồ bơi lội thế vận, một nhà chơi bowl, nhiều sân quần vợt, 3 sân bắn tên, những câu lạc bộ đánh bạc, các phòng đấm bóp và một nhà hàng Tàu. Bây giờ Long Bình chỉ còn là một cảnh trí rộng lớn đầy cỏ dại với một vài gian nhà rỉ sét, những ụ chiến đấu bằng bao cát và trăm bạn trẻ gan dạ đang sẳn sàng chết với chiếc mũ sinh viên sĩ quan truyền thống trên đầu. Xa xa là những tiếng pháo binh bắn đi từng quả một hòa lẫn với tiếng quay đều đều của các cánh quạt trực thăng đang bay từng đoàn hai hay ba chiếc trên không.. Đi về phía trước một đỗi nữa, tôi gặp một trung đội biệt động quân với mũ nâu trên đầu, quần áo đầy vết mồ hôi loang lổ, với các khẩu trung liên hay M.16 trên tay. Và tiếp theo đó là các đơn vị tiền sát của sư đoàn 18 từ Bà rịa đến. Đơn vị chính của họ đang chạm súng chung quanh Long Thành,.cố phá vỡ vòng vây của cộng sản để tiến tới bố trí sát tường Biên Hòa. Nhưng vòng vây sẽ khó mà phá nổi. Hai cây số kế tiếp thì quốc lộ trở nên đen kịt: một làn sóng người tỵ nạn vĩ đại đang đi theo binh sĩ từng bước một, ồ ạt đi sát nhau, người thì chống tó, người thì chống gậy, các bà thì gánh gồng mang trên vai đủ mọi loại vật dụng, các trẻ nhỏ 6,7 tuổi cõng em chúng trên lưng, mấy ông già mù được các em bé gái nắm tay dắc…. Quân đội đang đánh nhau hai bên đường, cách đây khoản 3 cây số, nơi có nhiều cột khói đen dày đặc bốc lên cao. Khi đi vòng qua một con đường mòn dẫn tới một vị trí phòng thủ hơi cao do 2 chiến xa, một đại đội thuộc sư đoàn 18 trấn đóng với vài khẩu pháo 105 ly, tôi mới khám phá ra tầm rộng lớn kinh khủng của đoàn người. Trải dài khoảng ba hay bốn cây số trên đường chỉ là một giòng người nhấp nhô như một giòng sông vĩ đại đang chảy về Long Bình và Biên Hòa. Cả trăm ngàn con người cùng một tâm trạng hoảng hốt trong ngơ ngác, cùng có một nỗi lo sợ và một quyết tâm phải chạy trốn … đang im lặng tiến từng bước, không một tiếnng nói, không một tiếng kêu la, trong một sự yên lặng hoàn toàn quá đổi kinh ngạc! "Tất cả đều chạy đi từ trại tiếp cư An Lợi, cộng thêm một số lớn dân Long Thành" Đó là nhận xét của một sĩ quan đang dùng ống dòm quan sát đoàn người di chuyển. Hai vị bác sĩ mong đến An Lợi đã hiểu rằng họ không bao giờ thấy được bệnh viện của họ nữa nên đã quay trở lại. Làm sao có đủ can đảm tìm lại được chiếc xe và đi ngược lại về phía An Lợi, xuyên qua khối người khốn khổ đi bộ nầy mà không thể giúp được gì để làm vơi nỗi khổ đau của họ ? Viên sĩ quan mang ống dòm quay lại tôi và nói: "Ông có biết tại sao họ phải đi như vậy không ? Họ phải đi chung từng nhóm cả gia đình với nhau vì cha mẹ lẫn con cái đều biết rằng chỉ một chút lơ đỉnh thôi là họ có thể bị xa rời nhau vĩnh viễn, không còn nhìn thấy nhau nữa và không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa. Nhờ thế họ mới có một động lực kết chặt với nhau một cách thật xúc động như vậy. Để trở lại Biên Hòa, phải vạch lấy đường đi và chạy thật chậm, cảng xe luôn dính sát với người đi bộ, mà phải luôn tỉnh táo để khỏi phải cán lên họ. Đoàn người giạt ra từ từ. Không có một hành động hay cử chỉ nào tỏ ra chống đối, tuyệt nhiên không có một lời trách móc.Tôi chỉ có một sự nóng lòng không biết làm cách nào để "bay" ra khỏi đoàn người dày đặc nầy … ! Đến đoạn giữa Biên Hòa và Sài Gòn giòng người tản cư tự cắt ra thành nhiều đoàn để đi vào hàng chục trại tiếp cư được cấp tốc dựng lên từ nhiều ngày trước. Trên đường cũ đi Biên Hòa, thường vắng xe từ khi có xa lộ, nên dân chạy loạn cố giữ bên phải nhường đường cho xe quân sự chở đầy đạn dược. Hàng chục ngàn thường đi từng hàng dài với đủ mọi loại phương tiện. Xe bò của nông dân (có bò kéo), xe ba bánh đầy ấp đến độ sàn xe muốn đụng mặt đường, xe đạp thồ chở nặng còn hơn lừa, và đi bộ. Họ mang theo tài sản duy nhất của họ: một con gà trống nhốt trong giỏ tre, một chú heo con trong một thùng mủ nhỏ, có cơm. Ba cô tu sĩ được đèo chung trên một chiếc mô tô đang qua mặt mọi người. Và không một ai chú ý đến một thân người rách nát cả lưng đang lê lết dựa bên đường. Khi đám đông tràn ra đường dành cho quân xa đang đi ra tiền tuyến thì binh sĩ bắn chỉ thiên để cho họ tránh ra hai bên đường. Trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa, một nghĩa trang lớn nhất ở Miền Nam, hàng chục hố vừa mới được đào chung quanh một ngôi mộ còn dang dỡ. Trên hai chục chiếc quan tài có phủ cờ, được sấp dài gần văn phòng của nghĩa trang, mỗi chiếc đều có mang tên tuổi, ngày tháng và địa điểm hy sinh. Hầu hết các binh sĩ nầy đều bị tử thương mấy ngày cuối cùng gần đây ở chung quanh thành phố. Người ta đang chôn một thiếu tá Dù. Trong số vài người dân sự đang đứng chung quanh đội kèn quân sự và một tiểu đội linh mũ đỏ, có một bà vợ trẻ, rất đứng đắn và rất đẹp mặc áo tang trắng, đang khóc trong lặng lẽ. Một em bé gái khoảng 10 tuổi đang ôm sát mẹ như một con chim đang sợ sệt…
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 19, 2014 1:29:25 GMT 9
Về Bà Ngô Bá Thành & Lực Lượng Thứ BaThành phố Sài Gòn đầy rẫy tin đồn: Hoa Thạnh Đốn đã quyết định tiến hành nhanh chóng cuộc hành quân di tản công dân của họ. Những chuyến di tản đầu tiên đã được bắt đầu vào ngày 10 tháng 4, khi hầu hết những xí nghiệp lớn của Hoa Kỳ (các hảng Hàng Không, các công ty xăng dầu, và công ty đang có những công tác lớn) đã có quyết định cho hồi hương các cán bộ và nhân viên của họ. 2000 người Mỹ và 6000 người Việt (các chuyên viên kỹ thuật và gia đình của họ) đã được đi sang Hoa Kỳ. Trong tuần lễ từ 14 đến 20 tháng 4, các phi cơ vận tải khổng lồ thuộc cầu không vận quân sự của Ngũ Giác Đài, chuyển quân dụng thay thế cho quân đội Miền Nam (2 liên đội pháo binh, một số cao xạ phòng không và 2 tiểu đoàn chiến xa ) lượt về sẽ được xử dụng để chở những người dân tỵ nạn. Các phi cơ có khả năng chuyên chở nhiều người, loại Galaxie, Starfighter và Hercules. sẽ bốc đi trong 6 ngày khoảng 20.000 người Việt Nam tỵ nạn, và 2000 người Mỹ. Nhưng cũng còn hơn 5000 người Mỹ ở Sài Gòn và Bộ Ngoại Giao ước tính có khoảng 130.000 người Việt Nam mà "tánh mạng bị Cộng Sản đe dọa" cần phải được di tản. Như vậy con số người phải được bốc đi củng không phải nhỏ. Vào hồi 1 giờ trưa, tôi biết được là có một điện tín của hảng thông tấn UPI loan báo là Xuân Lộc đã bị thất thủ. Tin nầy ở đâu ra? Tôi vẫn còn ở Xuân Lộc chỉ cách đây vài giờ, lúc đó binh sĩ còn giữ chặt vị trí của họ kia mà… Tin tức nầy dù sao cũng đã được tung ra khắp thành phố như một giây thuốc pháo và tinh thần của dân chúng do đó đang bị một cú sốc. Tôi cố gắng liên lạc được bằng điện thoại với Đại Tá Xuân ở phòng nhì. Ông ta xác nhận là "Xuân Lộc chưa bị mất, nhưng từ 10 giờ sáng nay Cộng Sản Bắc Việt đã nã vào thành phố điêu tàn nầy bằng pháo binh nặng 130 ly với nhịp độ 2000 quả trong một giờ. Để tránh bị thiệt hại quá nặng về nhân mạng, binh sĩ của tướng Đảo và anh em Biệt Động Quân đã di tản khỏi đống gạch vụn nầy để ra nằm bố trí chung quanh thành phố. Nhưng mặt trận Xuân Lộc chưa bị chọc thủng, chiến trận vẫn còn đang tiếp diễn, liên lạc vô tuyến vẫn chưa bị gián đoạn. Bắt đầu buổi trưa, tôi đi thăm bà Ngô Bá Thành, một người đàn bà nhỏ con đang ở trong một biệt thự khiêm nhường ở trung tâm thủ đô, bên cạnh dãy nhà của những người Pháp và được nằm trong khu vực do tòa đại sứ Pháp bảo vệ như những tấm bảng yết thị mới được thấy dán ở ngoài. Là một mưu sĩ của "lực lượng thứ ba", bà tiếp khách thường xuyên ở ngoài vườn, nhất là những nhà báo ngoại quốc. Bà đỗ ba bằng tiến sĩ luật học (Pháp, Hoa Kỳ và Bồ đào Nha), nói được nhiều ngoại ngữ, bà là Chủ tịch "Phong Trào Phụ Nữ đòi Quyền Sống", một trong nhiều tổ chức đào tạo về công dân, về tôn giáo và về nghiệp vụ trong "Tổ hợp 36 chợ của Sài Gòn" thuộc phong trào chống tham nhũng, dự định sẽ ngồi giữa CPLTCHMN và chánh quyền Sài Gòn trong Hội Đồng Hòa Giải Quốc Gia được dự trù trong Hiệp Định Ba Lê. Là một địch thủ hăng say của Tổng Thống Thiệu, điều làm cho bà phải 4 lần vào khám, bà Thành hiện bị quản thúc tại gia. Báo chí Mỹ trong những tháng gần đây đã từng lên tiếng ồn ào về vấn đề "giải phóng phụ nữ" của bà, đã cho biết là bà hiện đang bị canh phòng cẩn mật. Thế nhưng con trai của bà, một người trẻ tuổi, cao lớn, tóc để dài, là lính đào ngũ mà vẫn sống kín đáo trong nhà nhiều tháng nay mà không sợ gì cảnh sát hết…. Là con gái của một nhân sĩ Miền Bắc, chồng là một bác sĩ thú y dễ dãi và sống âm thầm, bà Thành là một người tranh đấu tiến bộ, quả quyết nhưng ương ngạnh. Bà nói với tôi: "Thiệu đã ở thế cùng rồi, Số phận của ông ta được tính từng giờ. Ông ta dựa vào người Mỹ và quân đội. Người Mỹ đã bỏ rơi ông ta, và quân đội thì đã tan rã rồi. Sĩ quan và binh sĩ đã chán ghét ông ta rồi. Có lẽ ông không biết là các binh sĩ ưu tú - Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến - có nhiệm vụ bảo vệ nơi chôn nhau cắt rún của ông ta gần Phan Rang, đã nổi dậy và đã dùng chất nổ để phá tan mồ mả của gia đình ông ta rồi. Việc phá nát mộ phần của cha mẹ ông bà của ông ta là một sự chối bỏ nghiêm khắc đối với Thiệu và tất cả những gì ông hiện đang nắm giữ. Ở Việt Nam, nơi mà sự thờ cúng ông bà là nền tảng của Tôn Giáo của chúng tôi, không có một sỉ nhục to lớn và nghiêm trọng nào như sự xúc phạm như thế. Đó vừa là một sự chửi rủa, vừa là một sự khinh bỉ hoàn toàn và là một lời nguyền rủa nữa.. Còn về ông Kissinger, thì mới chiều hôm qua đây, ông đã tuyên bố một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa "Hoa Kỳ chúng tôi ủng hộ một chánh phủ Miền Nam Việt Nam, nhưng không ủng hộ đặc biệt một cá nhân nào ca. " Quá rõ rồi phải không ? Hơn nữa, những ngày sau cùng nầy, đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin và đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã tấn công ông Thiệu để bảo ông ta hãy rút lui đi, và nhường chỗ lại cho một toán khác có khả năng chận đứng được chiến cuộc lại." Ông Ngô Bá Thành mời khách dùng trà trong những cốc đẹp màu xanh với cử chỉ chậm chạp giống như các bà, mà không hề nói một tiếng nào. Vợ ông mặt rạng rỡ, cặp mắt sáng ngời, lại tiếp tục đánh tiếp với những luận điệu của bà: "Ông Thiệu bao giờ cũng chỉ biết nghĩ đến tương lai qua một cuộc chống trả cực đoan và một chiến thắng quân sự. Sự tan rã của quân đội ngay tại chiến trường đã lên án ông không chống đỡ nổi. Ông cứ khư khư tin rằng Hoa Kỳ không bao giờ bỏ rơi ông.. Ông không để ý tớí những chuyện thay đổi đã xảy ra ở bên Hoa Kỳ. Từ hai năm nay, dân chúng Hoa Kỳ đã gạch bỏ hai chữ Việt Nam rồi. Quốc Hội đã từ chối không bỏ phiếu cho mọi viện trợ quân sự và họ đã gạt hẳn ra ngoài việc cho phép tái can thiệp bằng võ lực. Ông Ford là một Tổng Thống được chỉ định chớ không phải do dân bầu, nên không có đủ phương tiện để có thể giữ lời hứa của ông Nixon được. Còn Kissinger hả ? ông ta là một con người quá thực tế nên đâu có dại gì đi khư khư bênh vực khi đã nắm chắc phần thua? "Quân đội nhân dân giải phóng" chỉ còn không đầy một tiếng đồng hồ nữa trên đường đến Sài Gòn rồi. Và Hoa Thạnh Đốn cũng dư biết là vài trăm triệu Mỹ kim, vài trăm chiến xa hay đại bác thêm nữa cũng đâu có cứu được nước Việt Nam của ông Thiệu ? Nhiều lắm là nó chỉ có thể kéo dài giây phút hấp hối của một kẻ sắp chết mà thôi…. " Bà đưa ngón tay trỏ chỉ ngay tôi và nói với một giọng đổ lỗi: "Các nhà báo nước Pháp của anh - ngoại trừ các phóng viên của tờ Le Monde - đều không biết làm công việc của họ. Phải đập ông Thiệu. Phải tố cáo những tội sát nhân của ông ta, tố cáo chế độ cảnh sát trị của ông ta. Các anh phải giúp chúng tôi mở cửa các nhà tù đang nhốt 200.000 tù nhân chánh trị. Và hơn thế nữa các anh không đặt nặng tầm quan trọng và một chỗ đứng cho "lực lượng thứ ba" của chúng tôi. Lực lượng nầy có thực, các anh phải thấy rõ là nó có một vai trò chánh trị quan trọng trong đất nước chúng tôi, trong một tương lai rất gần đây thôi. Ngay như những người Cộng Sản, họ củng nhìn nhận là họ phải nghĩ đến chúng tôi." "Thưa bà, các nhà báo Pháp, chưa bao giờ tỏ ra quá mềm dịu đối với Tổng Thống Thiệu đâu. Nhưng chúng tôi không có phận sự phải đề cao một phong trào chánh trị và cho phong trào nầy một tầm vóc hay một sự kết hợp mà nó vốn không có. Về vấn đề tù chánh trị, thì con số 200.000 là con số thật sự được Hà Nội, và phe đối lập của ông Thiệu thổi phồng lên. Con số 200.000 nầy đã nhiều lần được báo chí Tây Phương nhắc đi nhại lại nhưng không bao giờ được Hội Hồng Thập Tự Quốc tế củng như hầu hết các Hội Nhân Quyền quốc tế thuộc các tổ chức Tôn Giáo hay không Tôn giáo xác nhận, dù là tất cả đều rất quan tâm đặc biệt đến vấn đề nầy trong 2 năm gần đây. Theo thống kê thì nhân số trong tất cả các nhà tù của Miền Nam Việt Nam (kể cả các người bị nhốt tạm ở các xã ấp đến những tù nhân đang bị giam giữ ở các nhà lao lớn ở Côn Sơn) đều không quá con số 36.000 người… " Bà Ngô Bá Thành nhảy dựng lên, giận dữ, tuông ra một tràng: "Thật là đê tiện, quá buồn cười, Sai! và hoàn toàn sai bét!" Gương mặt bà thay đổi thình lình, mặt mày nhăn nhó…bà ho lên một tràng dài, ho và nấc lên từng cơn, rung động cả người. Bằng một giọng đau khổ lẫn trách móc, chồng bà nói với tôi: "Lẽ ra ông không nên nói những điều nghịch ý với vợ tôi. Bà vợ tôi đang rất hào hứng khi nói về vấn đề chánh trị. Bà không thể chịu nổi những điều trái ngược với ý của bà ta. Bà ta giận ngay, nhanh lắm, khó chịu lắm và cơn suyễn lại kéo đến và bà ta sẽ ngộp thở. Mỗi lần như vậy là tôi phải cho bà một liều thuốc kháng sinh (nguyên tác: hydrocortisone). Bà vẫn biết đó là thuốc độc, nhưng đó là phương thuốc duy nhất… " Tôi ra về mà không hỏi được bà Ngô Bá Thành một câu hỏi có ích lợi nào cả. Bà ta đã nằm co ro trong cái ghế bành lớn bằng mây rồi. Trông bà có vẻ rất là yếu đuối để bảo đảm sự thay thế các tướng lãnh đang đối diện trận chiến khốc liệt với Cộng Sản Bắc Việt, những bộ đội đã từng sống cam khổ qua những trường huấn luyện rừng núi, nay đang sắp sửa tiến vào Sài Gòn. Và sau đó tôi bỗng thình lình sực nhớ lại cách đây 2 năm, được gọi phải ra gặp vị Chánh Án ở Toà Án tỉnh Gia Định, người đàn bà yếu đuối và bệnh hoạn nầy đã rình trước cửa Tòa Án và dùng một viên đá lớn liệng vỡ kính trước xe của ông Chánh Án nầy. Sau đó bà chạy lại lôi tuột ông nầy ra khỏi xe, kéo vào lề đường và dùng cán dù đánh ông nầy một trận nhừ tử, sau đó lại còn đá ông mấy đá vào cạnh sườn làm ông nầy đo ván luôn . Ngày Thứ Năm, 10 tháng Tư Trước tòa đại sứ Hoa Kỳ, có mấy trăm người Việt Nam đang xếp hàng trên lề đường chờ xin phép nhập cảnh để được đi Mỹ. Đại sứ Graham Martin không tiếp báo chí và đã không bao giờ rời khỏi sứ quán của ông, vừa là một dinh thự vừa là một pháo đài sơn màu trắng ngà, có một bức tường bê tông bao quanh có gằn máy chụp ảnh tự động. Hai anh binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến với lễ phục lớn (kết trắng, găng trắng, quần chạy nếp đỏ) đứng gác lúc nào cũng trong tư thế "Nghiêm" trước hai cánh cửa bọc sắt có ổ khóa chỉ được mở bằng mật mã bằng máy vi tính từ xa. Nóc bằng của sứ quán đã được cải biến thành bãi đáp cho trực thăng. Với 62 tuổi, người cao lớn và rắn rỏi, trán đã có nhiều vết răn sâu, mặt cũng đã có nếp nhăn và quầng thâm, ông vẫn luôn luôn mặc quần áo màu xám, cả giầy cũng vậy, giờ đây ông đã có một dáng đi hơi nặng nề và mệt mỏi của một võ sĩ quyền Anh đánh quá một trận, mà từ khước không chịu cho đôi tay ngơi nghỉ ! Phải nói rằng nhà ngoại giao Hoa Kỳ nầy có một lối xử sự không được bình thường. Trái hẳn các đồng nghiệp của mình luôn có thái độ "lạnh nhạt", dù tình hình quá nghiêm trọng họ vẫn đánh giá bằng một thái độ dửng dưng khác thường, ông Martin là một người biết trọng danh dự, biết thế nào là giá trị của một lời hứa đã được đưa ra, là môt người biết đau khổ và biết xúc động. Ông đã mất một người con trai trong chiến cuộc ở Việt Nam và không chấp nhận là đứa con của mình đã hy sinh một cách vô ích. Ông ta đã tỏ thái độ giận dữ với các nhà báo và các nghị sĩ theo chủ nghĩa "hòa bình", những người quên hay chối bỏ sự hy sinh của 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Thay thế đại sứ Ellsworth Bunker (được coi như người đỡ đầu của Tổng Thống Thiệu) sau khi Hiệp Định Paris vừa được ký kết, ông Graham Martin, một nhân vật thẳng tính và không mưu mẹo quanh co, ngay từ lúc đầu đã cố gắng giúp đở và che chở cho vị Tổng Thống Miền Nam Việt Nam. Ông đã tranh đấu với Quốc Hội năm vừa qua để đòi hỏi Hoa Kỳ phải tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế như đã hứa cho Miền Nam Việt Nam, nhưng ông đã thất bại. Từ sau ngày Cao Nguyên bị thất thủ, ông đã công khai biện hộ và vận động riêng để sự cứu trợ cấp thời phải được gởi sang Việt Nam; và bằng mọi phương tiện mà ông có sẳn, ông đã nâng đỡ tinh thần của người dân Miền Nam. Ông đã đi xa hơn nữa bằng hành động phối hợp cuộc hành quân "bốc trẻ mồ côi", một việc làm chạm tinh thần quốc gia dân tộc và lòng kiêu hãnh của người dân Việt Nam. Trong một bức thư riêng gởi cho Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam, ông đã giải thích rằng những phản ứng xúc động do hoàn cảnh vô cùng khốn đốn của các trẻ mồ côi có thể sẽ làm nghiêng cán cân dư luận của dân chúng Hoa Kỳ có lợi cho Miền Nam Việt Nam. Nhưng nội dung lá thư riêng của ông lại được tung ra cho báo chí gây ra môt làn sóng phản đối dữ dội. Tuy vậy ông Martin không ngã lòng. Và như ông đã khiếp sợ sự "trốn chạy", nên ông cẩn thận hơn một chút đối với các anh nhà báo vá các nghị sĩ quá tò mò, buộc các cộng sự viên của ông phải đề cao cảnh giác và nêu gương phẩm cách của mình, và khuyên họ không nên buông thả theo "tính chủ bại", và ông cũng cố gắng thuyết phục họ là "cuối cùng rồi có lẽ Hoa Kỳ cũng sẽ tỉnh dậy thôi" Trong lúc cuộc tháo chạy đã gần như hoàn toàn, trong khi hàng trăm ngàn dân tị nạn làm nghẽn hết đường sá, và hết thành phố nầy đến thành phố khác cứ tiếp tục thất thủ, ông vẫn phô bày một sự lạc quan không lay chuyển, mỗi ngày cẩn thận tính sổ các xã ấp mà Sai Gòn còn đang kiểm soát được và gởi về Hoa Thịnh Đốn nhiều điện văn "tối khẩn" đòi hỏi những chương trình phát triển kinh tế dài hạn cho phần đất còn lại của Miền Nam Việt Nam. Cho đến khi Hoa Thịnh Đốn đòi hỏi ông Martin phải sẳn sàng để di tản 5000 người Mỹ hiện còn đang ở Miền Nam Việt Nam thì ông đã trả lời bằng một công hàm hết sức gay gắt, khuyên Bộ Ngoại Giao hãy khóa "vòi nước hoảng loạn" lại. Ông Martin không dấu giếm với những người bên cạnh ông rằng ông coi chuyện "di tản" nầy như một cuộc "tháo chạy nhục nhã", một "hành động hèn nhát", một hành động "phản bội có cân nhắc" đối với một người bạn đồng minh đang có nguy cơ đứng trước cái chết…. Thứ Sáu, 18 tháng Tư, 1975 Phnom Penh đã thất thủ. Bị vây trong năm tháng liền, bị pháo binh 105 và rốc-kết nã vào, thủ đô Nam Vang của Campuchia đã chống trả rất can đảm trong vô vọng, bây giờ thì coi như đã hết. Sự thất thủ của thủ đô Campuchia là một biến cố đe dọa nặng nề đối với Miền Nam Việt Nam. Mà còn hơn thế nữa với sự việc Khmer Đỏ đã chiếm được thành phố nầy và cái lối mà người Mỹ đã bỏ rơi thủ đô Pnhom Penh nầy, Sài Gòn đã có một cảm nhận rất nặng nề vừa như một xúc phạm, một sự sỉ nhục, vừa là một loại triệu chứng bất tường cho chính mình. Những cuộc tranh cãi kéo dài vô tận giữa Lập Pháp và Hành Pháp Hoa Kỳ về một sự "cần thiết tối khẩn" cho một ngân khoản viện trợ cho Phnom Penh, cuối cùng bị ngưng trệ vô điều kiện vì những người có trách nhiệm của Hoa Kỳ, đã thực sự báo động cho dân chúng Miền Nam Việt Nam. Họ còn bồn chồn lo sợ hơn nữa khi thấy sự phản đối công khai và hiển nhiên của đa số Quốc Hội Hoa Kỳ đối với những đòi hỏi nhắc đi nhắc lại của Tổng Thống Ford mong muốn giúp cho Sài Gòn, cũng như một cuộc thăm dò dư luận gần đây của đài NBC theo đó 70 % dân chúng Mỹ tin chắc rằng dù Hoa Kỳ có làm gì đi chăng nữa thì cũng không thể ngăn cản được Miền Nam Việt Nam bị rơi chắc chắn vào tay Cộng Sản. Những người Việt Nam đang lo sợ nhất là những người thuộc mấy thành phần rõ rệt sau đây: nhiều nhất trước hết là những người trực tiếp làm việc trong các cơ sở dịch vụ của Hoa Kỳ - như phòng thông tin tuyên truyền và báo chí - các nhân viên tòa đại sứ, các nhà trí thức, các giáo sư, các nhà xuất bản hay chánh trị gia đang hoạt động (số nầy hơn 40.000) kế đó là những nhà hào phú: các ông giàu có nhờ biết lợi dụng chiến tranh (cũng đến hằng ngàn ) đang tìm cách mua giấy phép xuất cảnh hay giấy chứng nhận là công dân ngoại quốc với bất cứ giá nào. Ngoài ra còn có tất cả cán bộ các cấp trong guồng máy quân sự và hành chánh của Miền Nam Việt Nam các sĩ quan cao cấp, sĩ quan an ninh quân đội, tỉnh trưởng hay quận trưởng, thanh tra cảnh sát… những người đang lo sợ nếu Cộng Sản chiếm được Miền Nam. Con số những người nầy cũng từ 150.000 đến 200.000. Đối với 20 triệu dân thì con số nầy chỉ đại diện cho một thiểu số mà thôi (chừng 1 %). Hầu hết dân chúng Miền Nam khiêm nhường và siêng năng đều gắn liền với đồng ruộng của họ. Họ không muốn tự đặt mình dưới sự cai trị của quân thù, nhất là những người đến từ Miền Bắc. Bằng chứng là đã có hằng bao nhiêu ngàn nguời dân sống chết cũng phải bỏ chạy. Họ không chạy đến những người tự xưng là "giải phóng cho họ" và họ cũng không chờ đợi những anh "giải phóng" nầy ở tại làng của họ. Tất cả họ đều kéo nhau chạy về Sài Gòn vì bàn tay sắt khát máu của Cộng Sản đã làm cho họ run sợ. Hơn nữa, tránh được làn sóng hoảng loạn lan truyền trên khắp miền Trung của đất nước, Miền Nam đang cứng rắn chịu đựng mối đe dọa của các sư đoàn Bắc Việt. Ý thức kỳ thị và óc địa phương đã bắt rễ thật sự rồi! Sài Gòn và đồng bằng Cửu Long là vùng đất cũ của người Nam Bộ, và họ muốn giữ lấy cho họ. Quân đội Miền Nam sẽ đánh và sẽ cố giữ từng tấc đất của họ. Các đơn vị địa phương quân tình nguyện tham gia các cuộc hành quân. Tại Vùng 4, tướng Nam giữ chặt tính chủ động, đường sá vẫn được mở cho mọi sự lưu thông và Sài Gòn vốn được tiếp tế đều đặn, không thấy có dấu hiệu hoảng hốt nào. Chánh phủ mới, một "chánh phủ chiến đấu", cuối cùng đã được thành lập xong. Thành phần gồm có những người liêm khiết, những kỹ thuật gia có giá trị, những người lãnh đạo các trường đại học, các lãnh tụ tôn giáo, công đoàn và lần đầu tiên hầu hết đều là những người gốc Miền Nam. Nhưng dù cho có một sự hợp tác rộng rãi của mọi thành phần dân chúng, dù binh sĩ có đầy đủ tinh thần can đảm và ý chí chiến đấu, tương lai gần đây của Miền Nam vẫn phải tùy thuộc vào thái độ của người Mỹ. Muốn đương đầu với môt kẻ thù cứng rắn và cương quyết, được võ trang thật hùng hậu, lại được các đồng minh lớn Liên Xô và Trung Cộng hậu thuẫn vô điều kiện, Miền Nam cần phải có thêm thật nhiều võ khí nặng, đạn dược, cơ phận thay thế và xăng dầu. Chỉ có Hoa Kỳ là có thể cung cấp được ngần ấy thứ mà thôi. Báo chí Mỹ loan báo là Quốc Hội sẽ cho biết quyết định của họ vào ngày mai 19 tháng 4. Nếu các nhà Lập Pháp Hoa Kỳ chấp thuận giải tỏa ngân khoản do Tổng Thống Ford đề nghị, thì chánh phủ chiến đấu mới thành lập nầy còn có cơ may làm tròn nhiệm vụ của họ được. Nhưng nếu không có một sự trợ giúp về tiếp vận và tài chánh, thì chánh phủ này sẽ chỉ là một chánh phủ chyển tiếp mà thôi, đối diện với một thảm kich tấn thối lưỡng nan: hoặc bán đứng Miền Nam và đưa Miền Nam cho Hà Nội giám hộ, hoặc chống cự lại như kiểu Campuchia với cái giá cuối cùng của một sự tắm máu thật kinh khủng. Những tin tức từ mặt trận đưa về thường không đầy đủ. Ba sư đoàn Bắc Việt được rút ra từ sau khi Campuchia bị hoàn toàn thất thủ, đã được tung ra để cô lập hoàn toàn tỉnh Tây Ninh, thủ đô tôn giáo của Đạo Cao Đài nằm về hướng Bắc của Sài Gòn khoản 100 cây số. Bốn sư đoàn khác tiến về hướng Đông cốt đánh bật chốt Xuân Lộc. Trong khu vực nầy lực lượng Miền Nam ngày hôm qua đã thành công giành được chút không khí khi họ tiến lên phía trước khoảng 10 cây số, nhưng sau đó bị Bắc Việt cầm chân bằng nhiều cuộc phản công, đồng thời các đơn vị Bắc Việt đã lợi dụng sự cầm chân nầy để tiến đánh bọc hai bên sườn quân Miền Nam. Hai trung đoàn thuộc sư đoàn 7 Bắc Việt khóa cứng ngã ba Dầu Dây (Suzannah) đồng thời tiến về hướng Trảng Bom. Quân chánh phủ tung ra lực lượng trừ bị cuối cùng: sư đoàn 5 và một lữ đoàn Dù. Lúc nãy, tôi có gặp được bạn tôi là ông Hoàng Đức Nhã, cựu bộ trưởng Thông Tin, ở tại biệt thự của ông trong khu vực của bệnh viện Grall. Ông có vẻ bận rộn nhưng cũng tâm tình với tôi một vài điều: "Ngưòi Mỹ chơi trò lạ lùng lắm. Họ không bao giờ ngưng tiếp xúc với "phía bên kia". Phương tiện họ dùng cũng giản dị thôi. Hằng tuần vẫn có một chiếc phi cơ Mỹ do người Mỹ lái ra Hà Nội. Phi cơ đó chở những nhân viên đi phép thuộc phái đoàn quân sự Bắc Việt trong Ủy Ban Kiểm Soát Ngừng Bắn đang đóng ở Tân Sơn Nhứt. Chúng tôi biết là viên phi công Mỹ lái chiếc máy bay liên lạc nầy, có mang theo một số thư mật của Kissinger gởi cho Thủ Tướng Bắc Việt. Chúng tôi biết từ một nguồn tin chắc chắn là cách nay mấy ngày có một đặc phái viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đến Hà Nội, mang theo một lá thư của chánh phủ Hoa Kỳ. Bức thư đó đã bảo đảm với Bắc Việt rằng trong trường hợp quân đội Miền Nam sụp đổ hoàn toàn, thì Hoa Kỳ sẽ cho rút hết toàn bộ nhân viên của sứ quán Mỹ ở Sài Gòn " với điều kiện là lực lượng Cộng Sản không được bắn vào các trực thăng chuyên chở đang lo việc di tản nầy ". Để cho lời cảnh cáo nầy được thêm nặng ký, bức thư nầy cũng có nhấn mạnh với lãnh đạo Hà Nội rằng "các pháo đài bay B.52 hiện đang đậu trên căn cứ ở Thái Lan và hạm đội VII với tất cả các hàng không mẫu hạm của mình đã ở trong tình trạng báo động." Bất cứ một sơ suất nhỏ nào của bộ đội Bắc Việt cũng sẽ dẫn đến những hành động trả đủa thật ghê gớm." Tin tức nầy có thể là một "ngòi nổ" lớn được lắm đó, nhưng tôi tin chắc rằng người Mỹ sẽ đính chánh ngay thôi, và dù sao hệ thống kiểm duyệt của chánh phủ cũng phải xóa ngay điện tín của tôi. Và hơn nữa tôi không có môt phương tiện nào để kiểm chứng hay phối kiểm được.. Không còn nghi ngờ gì nữa, những ngày sắp tới sẽ là những ngày quyết định. Cơn Bão Lửa Tại Chiến Trường Xuân Lộc7 Ngày 19 Tháng Tư 1975 Ở đầu một đường bay, những người lính chữa lửa đang chữa cho một phi cơ phản lực 2 động cơ, bị trúng một hỏa tiễn SA.7 của Liên Xô lúc mới vừa cất cánh. Cạnh một chiếc xe vận tải tôi nhìn thấy 4 bao ny lông dài đã đóng kín. Đó là những gì còn nhặt lại được từ thân thể của phi hành đoàn 4 người. Vào lúc 2 giờ trưa, tôi lại lên được một chiếc phi cơ vận tải "chinook" để bay lên vùng mặt trận. Tôi được tháp tùng với khoảng 40 anh em biệt kích người vạm vỡ, gọn ghẽ trong bộ quân phục đen, được trang bị súng phóng lựu và tiểu liên 45 ly ngắn nòng M3 A.1 bá xếp. Huy hiệu mà họ mang trên tay áo là một con ó và một chiếc dù được thêu trong một hình tam giác, chỉ cho tôi biết họ thuộc lực lượng biệt kích dù Lôi Hổ (cọp bay). Đây là một đơn vị đặc biệt, chuyên hành quân ban đêm từng toán 3 người một, trong vùng địch, có nhiệm vụ tìm vị trí địch, các trục tấn công của địch, sau đó báo cho pháo binh và không quân bạn để có hành động phản ứng kịp thời. Giờ đây tôi lại đang trên đường đi đến Xuân Lộc: đây là lần thứ ba trong tám ngày nay tôi lên khu vực nầy, mà lần nầy thì chuyến đi có vẻ thoải mái và anh em đoan chắc với tôi là đến một vị trí tương đối yên tĩnh và sạch sẽ hơn. Chiếc trực thăng bay độ 15 phút thì đến vùng Xuân Lộc, bay trên quốc lộ 1 và ngoặc hẳn về hướng Đông, hạ thấp xuống độ 700 bộ đến một vườn cao su bạt ngàn thẳng tắp. Chiếc "chinook" xuống rất nhanh. Từ trên nhìn xuống, Xuân Lộc ít nhất nếu còn gì thì cũng chỉ có một quang cảnh mờ nhạt. Rất lo ngại tôi ghi nhận là có nhiều chùm lửa, cột khói do đạn pháo cứ rơi đều xuống vòng đai đã bị tàn phá. Chiếc "chinook" của chúng tôi hạ cánh đáp xuống làm tung bụi mù đỏ thẳm. Khoảng 50 người dân rách rưới chạy lại bao quanh chiếc trực thăng. Có nhiều người đã bị thương; và vẫn một cảnh tượng cũ: các bà mẹ bế con trẻ áo quần đầy máu, vẻ mặt hốt hoảng đang muốn đi khỏi đây. Một chiếc xe Jeep, chạy gần như nhảy qua các đống gạch vụn, chở tôi đến một trạm cứu thương. Mỗi một làn gió nhẹ đưa tới là có một mùi hôi thối kinh người từ mấy trăm xác chết của Cộng Sản Bắc Việt đầy ruồi nhặng xông lên. Một người y tá nói với tôi: "Chúng tôi làm gì có thì giờ để chôn cất họ, chỉ kịp rải lên mình họ một lớp vài vá cát đá vụn mà thôi". Ở trạm cứu thương nầy đầy những quân nhân bị thương. Có hai vị bác sĩ trẻ đang làm những gì mà họ có thể làm được dưới một ánh đèn mờ màu xanh. Họ gọt, họ cắt xén, khâu lại, hay cưa bỏ. Có nhiều người mang những vết thương kinh hoàng đầy mủ trắng. Các tay chân bị cắt được vất lẫn lộn vào một thùng phuy xăng mà các anh y tá đã mang tới lúc còn đầy xăng. Các mảnh vụn khác thì được chôn ở một hố được đào lên cách đó chừng 20 thước có tưới thuốc khử trùng và được lấp đất lại cẩn thận.. Ngoài sân trời đang vần vũ, mấy đám mây đen kịt đang là đà dưới chân trời. Cơn bão lại sắp đến. Tôi cố tìm Đại Tá Phước, chỉ huy trưởng đơn vị Biệt Động Quân. Một trung sĩ cho tôi biết là ông đang ở gần nhà bưu diện, nơi sắp có cuộc đụng độ mạnh. Mưa đã bắt đầu rơi nặng hột xuống mảnh đất khô khan đầy máu nầy, và sau đó thì mưa to, mưa quá to và chỉ trong vài phút đã làm ướt ngập trũng hết nơi đây. Anh em binh sĩ ai cũng phải choàng áo đi mưa vào. Hằng đàn chuột to từ những lổ cống hay từ các bức tường sập tuông ra. Có đến hằng ngàn con xám đen, từng đàn, lì lợm tuôn ra từ những đống thây ma chôn vội vàng. Một sĩ quan Biệt Động Quân dẫn tôi đi và bắt tôi phải ẩn nấp trong một hầm trú ẩn lụp xụp trong đó có khoảng một tiểu đội với súng liên thanh nhẹ được bố trí đạn đã lên lòng.. Viên trung úy liên lạc vô tuyến. Mưa càng ngày càng to. Các anh em binh sĩ dù nằm hay ngồi dựa lưng sau bức tường sập tất cả ai cũng đều trong tư thế sẵn sàng chờ chiến đấu. Vào lúc cơn mưa bão đang hoành hành, một tràng đạn rốc-kết bay xuống nhà bưu điện và tất cả những vùng quanh đó. Tất cả phải chen nhau xuống hố chiến đấu đầy bùn đầy nước nhầy nhụa hay nấp trong những ô tường không nóc để chịu trận, nghe tiếng gầm rú xé tai và tiếng nổ chát chúa của các quả rốc-kết. Và sau rốc-kết lại đến phiên đạn bách kích pháo, khô khan hơn, chát tai hơn và chính xác hơn. Và thình lình, nhìn xuyên qua cơn mưa tầm tã, xuất hiện những bóng người mặc quân phục xanh sậm. đội nón cối tròn, sát cánh nhau đi tới: đó là bộ đội Bắc Việt đang tấn công. Họ đến từ dường rày xe lửa. Viên trung úy ra hiệu và các súng liên thanh bắt đầu đua nhau nhả đạn. Toán nầy ngã gục nằm xuống lại có toán khác tràn lên. Họ tiến vào bưu điện. Người ta nghe được nhiều loạt nổ của lựu đạn trong nhà bưu điện, và hai tiếng nổ thật lớn sau đó. Một mảnh tường bay lên vụn vằn. Đó là 2 tên đặc công Cộng Sản đang mở đường bằng cốt mìn. Một toán người nhỏ thó đang tràn vào nhà bưu điện. Cùng lúc với cứ điểm nầy, nhiều loạt tấn công khác đã được tiến hành. Cộng Sản Bắc Việt hiện đang ở thế mạnh. Ít nhất cũng phải đến một tiểu đoàn. Họ bắn liên tục không ngừng. Lần xung phong sắp tới, chắc là đến lượt chỗ của chúng tôi. Nhưng một hàng rào chính xác và hữu hiệu của đạn pháo 105 ly trên chiến xa ở phía sau chúng tôi chừng 800 thước đã cứu vãn tình thế. Những trái đạn đi rồi nổ trước mặt chúng tôi làm chúng tôi muốn ngưng thở, nhưng đã sát hại kinh khủng hàng ngũ của Cộng Sản. Qua 10 phút bắn cuốn chiếu, pháo đội ngưng bắn. Các Biệt Động Quân ra khỏi hầm trú ẩn và phản công. Những gì còn lại của nhà bưu điện đang cháy như một ngọn núi lửa. Đến 5 giờ chiều, tất cả coi như xong.. Chu vi bãi chiến trường gần như quang đãng, cơn bão cũng đã qua, bầu trời lại xanh trở lại. Một sự yên tĩnh không tả được đang ở đâu đây, chung quanh chúng tôi.Chỉ có một con chó phèn duy nhất đang đau khổ chạy quanh khu nhà sập đổ nát, kêu la ầm ĩ vì bị các mảnh đạn trên lưng. Tôi quay trở lại bản doanh của sư đoàn. Dưới chân của tượng Chúa trước nhà thờ, một anh lính Dù đội mũ nồi đỏ đang quì cầu nguyện, hai tay chấp lại nhưng vẫn tì trên khẩu súng của mình..Tôi có cảm tưởng là thành phố nầy đã bị cày xới lên bằng máy ủi. Tất cả chỉ còn là những đống gạch vụn của các bức tường đổ nát, các tấm tôn và gạch vữa bị nhào đi nhào lại với nhau rải rác thành từng đống một, và trên tất cả là chiếc thánh giá của nhà thờ với tường lỗ chỗ dầy vết đạn, và những lỗ hổng tác hoác. Trong dãy nhà của trường đạo đầy lỗ thủng đạn, tôi gặp Đại Tá Hiếu, 40 tuổi, quân phục vẫn láng cót, với chiếc nón vải đi rừng nhưng vẫn có khẩu súng lục đeo ngang lưng. Ông rất tự hào về trung đoàn 40 của ông, đơn vị đang phòng thủ cả mặt Nam của thành phố. Ông ta nói: "Anh biết không, chúng tôi có thể đánh họ chớ sao không. Chúng tôi đã đẩy họ ra khỏi thành phố rồi đấy chứ, và chúng tôi không rời khỏi thành phố nầy đâu. Giả thiết mà chúng tôi có được một số đại bác 130 quỷ quái mà họ dùng để nã vô tội vạ vào chúng tôi! Tinh thần dù sao cũng vững lắm, chúng tôi đã lãnh đủ 12 ngàn quả đạn pháo và ba ngàn quả rốc-kết từ ngày 9 tháng 4 đến nay. Cộng Sản đã tấn công chúng tôi 6 trận trong 8 ngày nay. Chúng tôi đã đẩy lui được hết, nhưng trận tấn công quyết liệt nhất chưa đến đâu. Tôi chắc chắn là nó cũng sẽ đến gần đây thôi. Trong vài ngày nữa đây, thế nào họ cũng gom lực lượng của họ lại bằng cách tập trung các sư đoàn được rảnh tay sau khi các tỉnh ở miền Trung bị thất thủ, và đây có lẽ sẽ là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng tôi chịu không nổi, thì Sài Gòn chắc không đứng được lâu đâu." Sau hai giờ tôi vừa sống ở đây, thật tình tôi không muốn nghĩ tới "trận chiến cuối cùng" nó sẽ như thế nào. Phía ngoài, giữa nhà thờ và những gì còn lại của các văn phòng hành chánh, các chiến binh Dù, những người đã đụng trận nặng hồi đêm qua, đang nằm dài nghỉ ngơi dưới đất ở bìa sân bay. Có 3 người trong số nầy gác súng của họ vào môt cái cây và họ ngồi cạnh nhau, vừa đàn guitar vừa hát nho nhỏ theo tiếng đàn.. Trông họ cũng đã có tuổi rồi… Tôi rảo chân đi về phía chợ. Binh sĩ thuộc khu phòng thủ trung ương nầy được rải dài ra trên năm trăm thước khỏi nhà thờ (đã bay hết nóc, kính thì củng vỡ tan, tường rạn nứt), nằm vững chắc trong những hầm núp kiên cố, có bao cát che đầu được sắp trên các tấm đan bằng bê-tông, tất cả đều có đường dây điện thoại chôn duới đất nối liền với nhau. Các vị trí nầy đều tua tủa súng liên thanh, súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa, và đại bác không dật. Các chiến xa M.48, có trang bị đèn chiếu hồng ngoại tuyến cho đại bác để tác chiến ban đêm đang bố trí dài theo hai bên bệnh viện có một đại đội Dù trấn giữ. Đến 6 giờ chiều thì tôi mới được gặp Đại Tá Phước, ông đi thanh sát các tiền đồn vừa mới trở về. Là một sĩ quan với diện mạo và tướng đi trông rất trẻ trung, 39 tuổi, người chắc nịch như một trụ đá, ông Phước không bao giờ đeo súng hay nón sắt tác chiến. Chúng tôi đã biết nhau từ trận tấn kích Tết Mậu Thân của Cộng Sản. Lúc đó ông chỉ huy các liên đội Biệt Động Quân đến thay thế các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ở Chợ Lớn. Ông đã có tiếng là một sĩ quan đặc biệt liêm khiết, ham tiến chớ ít chịu lùi, nhưng biết tiết kiệm gìn giữ từng mạng sống của binh sĩ mình. Sau đó tôi lại gặp ông ở Neak Luông, nơi đó các đơn vị miền Nam đã thiết lập một căn cứ lớn trong chiến dịch tấn kích lên CampuChia. Đại Tá Phước nắm tay tôi và nói: "Vào đây, vào phòng hành quân của tôi, chúng mình sẽ ăn một chén cháo gà với nhau đã. Tôi chưa có ăn gì cả từ sáng đến giờ, đói muốn chết đây bạn " Đại tá Phước rót thêm một tách trà, hớp từng ngụm và tiếp tục: "Trước hết, chúng tôi thiếu cái gì ? Đó là một sư đoàn hành quân di động tốt. Bao giờ chúng tôi mới thật sự đánh úp họ được và bẻ gãy các cuộc tấn công của họ được. Nhưng chúng tôi không - "Như vậy là anh tới thăm tôi ? Tướng Đảo có nói với tôi là anh đã tới đây 3 hôm trước. Ê, được lắm ! Tình hình càng ngày càng quyết liệt hơn rồi đó. Trên phương diện giá trị chiến đấu của binh sĩ, tôi không có gì lo ngại hết. Anh em Dù và Biệt Động Quân đều có cú đấm của mình, và sư đoàn của tướng Đảo là một đơn vị ưu tú. Trước mặt chúng tôi là bộ đội Bắc Việt còn rất trẻ nhưng thiếu kinh nghiệm hơn chúng tôi, nhưng họ có quân trừ bị quan trọng, và có lực lượng tăng cường cho họ đều đều. Vì không có đầy đủ quân số cần thiết nên chúng tôi phải nằm cứng ở thế phòng ngự và vì thế bị chúng nó tấn công có phương pháp. Kết quả là chúng tôi phải đào lỗ và sống như những con chuột chù và thiết trí những hầm trú ẩn hay đường hầm tác chiến! Tướng Đảo đã cố gắng gần một tuần nay để đem về lại Trung đoàn 43 của ông (trung đoàn thứ ba của sư đoàn ) đang bị cầm chưn ở Củ Chi. Bộ Tư Lệnh đã từ chối, và ông rút trung đoàn về không được. Nhưng còn một bài toán rất trầm trọng hơn nữa, đó là vấn đề tiếp vận. Tôi sẽ cho anh một vài con số. Lãnh Tụ TLĐ Lao Công Trần Quốc Bửu Đọc Thư Con Viết Trước Khi Tử Trận, Yêu Cầu Nói Với Người Mỹ “Chúng Tôi Không Hèn Nhát. Chúng Tôi Không Sợ Chết...” * Thứ Hai, 14 tháng Tư, 1975 Vừa là Chủ Tịch "Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam", một tổng liên đoàn rất hùng mạnh vừa là Phó Chủ Tịch Tổng Công Đoàn Công Giáo Quốc Tế, ông Trần Quốc Bửu là một người rất có quyền lực và rất được kính nể. Ở vào trạc tuổi 60, người tuy có hơi gầy nhưng rắn chắc với đôi mắt sáng ngời, ông luôn luôn ăn mặc rất giản dị với chiếc quần dài màu xám và một chiếc áo bốn túi nhẹ bỏ ngoài. Vừa tranh đấu cho lý tưởng quốc gia vừa tranh đấu cho công đoàn, bị lưu đày ra Côn Sơn trong thập niên 40, ở đó ông từng ở chung phòng giam với Lê Duẫn, hiện là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông đã vượt ngục và chỉ huy toán "đặc công 25? nổi danh của ông trong thời gian trên 5 năm kháng chiến chống Pháp. Bị tướng một mắt Nguyễn Bình và đội an ninh chánh trị Cộng Sản hăm dọa tử hình, vì ông không chịu gia nhập đảng, ông về Sai Gòn năm 1951 và qua Pháp. Ở đó ông theo học khóa công đoàn từ 1952 đến 1954 ở đường Montholon, Ba Lê với Tổng Liên Đoàn Lao Công Pháp (C.F.T.C.). Về lại Sai Gòn, ông thành lập Tổng Công Đoàn Lao Công Việt Nam (C.T.V.), nơi tập trung 85% lao công Việt Nam. Tổ chức của ông rất vững mạnh, uy tín và đức tánh bình dân của ông trong giới cần lao đã giúp ông có nhiều sự nâng đỡ từ các công đoàn Hoa Kỳ. Cả phía Cộng Sản cũng muốn chiêu dụ ông. Lê Duẫn người đã từng ở chung nhà lao với ông ở Côn Sơn, bây giờ là tổng bí thư đảng CSVN đã gởi cho ông một bức thư riêng để yêu cầu ông đừng đứng chung với "bọn tư bản", phải giữ "thế trung lập" hoặc"về với chánh nghĩa cách mạng". Ông Bửu đã trả lời thẳng thừng: "Kinh nghiệm mà tôi đã có được với phương pháp của ông, và với lòng tôn kính của tôi đối với quốc gia dân tộc của chúng ta không cho phép tôi tin rằng chủ nghĩa Cộng Sản là giải đáp duy nhất cho nguyện vọng của dân tộc chúng ta". Do đó Cộng Sản đã nhiều lần mưu sát ông nhưng không thành. Trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam nằm ở số 14 đại lộ Lê Văn Duyệt (đường Verdun cũ) trong môt tòa nhà kiếng lớn, nóc nhọn thềm cao, kiến trúc theo kiểu Pháp, trước kia là trụ sở của Câu lạc Bộ Thể Thao Đông Dương. Ông Trần Quốc Bửu tiếp tôi trong phòng làm việc của ông, một căn phòng rộng lớn sáng sủa, có một bàn lớn và một số ghế dựa. Trên tường có treo một bức tranh lụa với hình một con trâu màu xám tro, mõm to, chân đứng dưới ruộng lúa (biểu tượng của Tổng Liên Đoàn là con trâu trong một bánh xe có răng cưa). Trên một giá đầy sách có treo hình một sĩ quan Việt Nam còn trẻ, có cài một băng đen trên chéo góc. Ông Trần Quốc Bửu bắt gặp cái nhìn của tôi, liền giải thích: - "Đó là hình của con trai tôi. tử trận hồi tháng 10 vừa qua. Thằng nhỏ đẹp trai quá, phải không ? Nó là một đứa rất gan dạ, thông minh và thẳng tánh. Môn nào nó cũng thành công, học hành, thể thao, và đường đời nữa. Nó có vợ rất đẹp và nhu mì, và một đứa con trai năm nay 3 tuổi. Nó chỉ huy một đại đội và đóng đồn trong quận lỵ của một quận thuộc tỉnh Bà Rịa. Nó mới vừa được 27 tuổi thì…. Nói tới đây ông Bửu lắc đầu nhè nhẹ, ngưng một vài giây và tiếp tục với một giọng thật rõ ràng, chậm rãi và có mức độ. "Tôi muốn nói cho anh nghe về thằng con trai nầy, anh Pierre ạ. Con trai tôi đã chọn quân đội, không phải vì nó ham chiến tranh, mà vì chúng ta đang ở trong thời chiến. Nó đánh đấm cũng khá lắm và đã được khá nhiều huy chương. Chúng tôi khắng khít với nhau lắm. Nó thường viết thư cho tôi. Vài tháng trước khi chết, nó đã tỏ ra rất băn khoăn lo lắng, có lúc hoảng sợ nữa. Trong những ngày đầu của tháng 10, nó có gởi cho tôi một lá thư, để tôi đọc cho anh nghe. Trần Quốc Bửu lấy trong ví ra 3 tờ giấy mà ông đã xếp thật cẩn thận và ông bắt đầu đọc: "Ba kính yêu, Trong tiểu khu của con tình hình đã đi xuống. Không phải vì dân chúng đã ngả theo sự tuyên truyền của "phía bên kia", mà tại vì chúng tôi đang thiếu phương tiện để chiến đấu. Mấy anh nông dân trong hàng ngũ "nhân dân tự vệ" không có đủ đạn cho súng của họ, và họ còn phải tìm mua lựu đạn của mấy anh lính chánh quy, thường ít đụng trận hơn họ. Phần các đơn vị chánh quy thì không phải họ tránh chạm súng, mà cứ mỗi lần chạm địch, môt địch quân hơn hẳn họ cả về chiến cụ lẫn đạn dược, nên họ cứ bị tổn thất thật nặng. Để Ba hiểu rõ hơn tình hình của tụi con, con phải giải thích cho Ba nghe một vài điểm về kỹ thuật. Cộng Sản Bắc Việt thì dùng chiến xa T. 54 và đại bác 130 ly của Liên Xô. T.54 là loại chiến xa rất năng động, tuy thô kệch nhưng được bọc sắt rất dày và võ trang hùng mạnh: một đại bác 100 ly lòng dài với 34 quả đạn trong xe, 2 liên thanh 30 ly, và một liên thanh 50 ly, có tầm hoạt động 400 cây số đường bán kính. Trong trường hợp tấn công, tụi con chỉ có ống phóng M.72 (loại ba-zô-ca chống chiến xa). Súng nầy chỉ sử dụng có một lần, bắn xong là phải vứt ống phóng đi, và nó chỉ thật sự hữu hiệu trong vòng 100 thước mà thôi. Do đó mình phải bắn chiến xa địch trên bộ, thật gần, mới trúng đích được. Có nghĩa là mình phải đi bộ đến trong tầm tác xạ chính xác của vũ khí tự động trên chiến xa địch, để cho người ta giết chết mình… mà không chắc là mình sẽ hạ được nó. Trên thực tế muốn tiến sát đến gần chiến xa thường rất là khó, gần như không thể được, vì lúc nào chiến xa cũng có "bộ binh tùng thiết" đi mở đường cho nó và bảo vệ nó. Còn pháo binh 130 ly dù là một loại vũ khí xưa, cũ, trên 20 năm rồi nhưng là một vũ khí đáng sợ. Nặng khoản 8 tấn, được xe xích kéo, có tầm tác xạ tới 27 cây số và có thể bắn đi 6 quả đạn trong một phút. Chỉ cần có 3 khẩu pháo 130 dấu kín trong rừng, và với 1 giờ tác xạ (1000 quả đạn thôi) cũng đủ đánh sập quận lỵ của bất cứ một quận nào. Đạn pháo 130 ly có thể phá vỡ một miếng thép dày 27 ly, cho nên không có một kiến trúc nào, một công sự nào chịu nổi sức công phá của loại pháo nầy. Dân chúng bỏ chạy hết và quân đội của tụi con không thể nào chống trả mà không bị thiệt hại nặng vì chúng tôi chỉ có pháo binh 105 ly với tầm tác xạ ngắn hơn nhiều, và đạn pháo thì được đếm từng quả, 3 viên cho một khẩu trong một ngày, trong lúc địch thì được tiếp tế quá dồi dào về đạn dược. Để khóa miệng mấy khẩu pháo binh Cộng Sản nầy, chúng ta bắt buộc phải có ưu thế tuyệt đối về Không Quân. Điều nầy rất đúng trên lý thuyết, nhưng hoàn toàn sai trên thực tế.. Từ khi có cuộc khủng khoảng xăng dầu, trực thăng quan sát và thám thính của chúng ta chỉ được phép bay có 3 giờ mỗi ngày. Ngoài ra Cộng Sản còn được trang bị hoả tiễn tầm nhiệt S.A.7 rất dễ sử dụng và rất chính xác để vô hiệu hóa các loại phi cơ của chúng ta. Thưa Ba yêu quý, Con biết rằng Ba có nhiều mối liên hệ với người Mỹ. Cương vị Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động của Ba sẽ giúp Ba có tiếng nói mạnh hơn. Ba phải giải thích cho họ hiểu rằng tình hình ở đây đã rất là nghiêm trọng lắm rồi. Họ phải cung cấp cho chúng ta vũ khí cần thiết, như hỏa tiễn Tows trên thớt cơ động, và trực thăng võ trang "cobra" trang bị chuyên về chống chiến xa. Họ có hết các thứ nầy mà tại sao họ từ chối? Họ phải viện trợ cho chúng ta về quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Con yêu cầu Ba, Ba ơi, Ba hãy can thiệp với họ. Nếu không thì chúng ta sẽ bị đè bẹp và bại trận ngay. Chúng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Chúng tôi không bao giờ sợ chết. Với điều kiện là còn giữ được một cơ may để chiến thắng, hay là để chống cự với Cộng Sản có hiệu quả. Xin Ba tha lỗi cho con vì bắt Ba phải nghe một tờ trình quân sự quá dài dòng. Trong tiểu khu của con, số lần chạm súng và số lần tác xạ của pháo binh tăng lên theo cấp số nhân. Dù sao thì con cũng giữ được đồn của con và con sẽ không rút đi đâu hết….. dĩ nhiên là vẫn còn sống. Binh sĩ của con theo con, và dân chúng vẫn tin tưởng nơi chúng con. Đứa con lúc nào cũng kính mến và trung thành của Ba" Ông Bửu từ từ xếp lá thư lại, đằng hắng để lấy giọng và để dằn cơn xúc cảm lại rồi mới tiếp tục: "Tất cả mọi thất bại của chúng tôi đều được gói gọn trong những hàng nầy. Tôi nhận được thư nầy của con tôi sau chuyến đi thăm Á Châu và Âu Châu của tôi trở về. Khi tôi đọc được lá thư nầy thì con tôi đã tử trận được 3 ngày rồi. - Ông có nói gì cho người Mỹ họ nghe không ? - Dĩ nhiên là có. Tôi đã gặp Đại sứ Martin, và các tùy viên quân sự Hoa Kỳ. Tôi cũng có viết thư qua Mỹ. Không có người nào nghi ngờ về những tin tức của tôi. Ông Đại sứ và các tùy viên quân sự đã có ghi chú đầy đủ, và tôi cũng nhận thấy thực tình họ đang quá bận rộn. Nhưng không thấy có ai làm gì hết, tôi muốn nói là họ không có một biện pháp cụ thể nào cả. - Như vậy cái gì sẽ xảy ra ? - Chuyện gì cũng được hết ! Các ông dân cử chắc sẽ nhúc nhích. Tổng Thống Ford sẽ có những lời tuyên bố dễ nghe. Quốc Hội sẽ kéo dài các cuộc tranh cãi để khỏi phải chuẩn chi ngân khoản viện trợ. Ông Thiệu sẽ ra đi hay sẽ để bị ám sát. Các sĩ quan và binh sĩ trẻ và tự hào như con trai tôi sẽ bị hy sinh vì danh dự, hay vì để kéo dài thêm thời gian cho một vài chánh trị gia tự phụ kịp leo lên nắm quyền, đủ thời gian để dàn dựng một kịch bản tưởng như bất thần được ứng biến, mà thật ra đã được viết sẵn từ lâu.. Người Mỹ sẽ đóng cửa các văn phòng cuối cùng của họ. Hạm đội 7 sẽ có mặt tuần rỏn ở biển Đông. Rồi Cộng Sản sẽ chiếm Sài Gòn. Và tất cả lỗi đều sẽ được đổ hết cho chúng tôi!!.
|
|
|
Post by nguyendonganh on Apr 19, 2014 1:37:13 GMT 9
Hồi Ký của Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến Tháng Tư Đen Và Binh Chủng Mũ XanhNguyễn Thành Trí 1 Cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, biệt danh Tango, sinh năm 1935, nguyên Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH từ 1972 cho tới cuối ngày 30 Tháng Tư 1975, đã trải qua 13 năm tù cộng sản, tới Hoa Kỳ theo chương trình HO., hiện định cư tại Houston, Texas cùng vợ và 4 con. Ngày 18 tháng Ba 1975, Đại tá Trí là Tư Lệnh Mặt Trận Tây Bắc Huế. Ngày 20-3, từ tuyên Mỹ Chánh trở vào vẫn nguyên vẹn. Mọi cuộc tấn công của Quân Bắc Việt vào phòng tuyến Thuỷ Quân Lục Chiến dọc hành lang sông Bồ và khu vực Cổ Bi đều bị đẩy lui. Nhưng rồi, chỉ 10 ngày sau những lệnh rút quân hoảng loạn từ thượng cấp, Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến tại Vùng I chiến thuật với quân số chừng 11,000, khi được Cơ Xưởng Hạm 802 đưa về đến Vũng Tầu, chỉ còn khoảng 4,000 binh sĩ. Sau đây là chuyện Tháng Tư Đen, trích từ hồi ký "Ngày Tháng Không Quên", của Đại Tá Nguyễn Thành Trí kể về những ngày giờ sau cùng của binh chủng mũ xanh thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. * Ngày 1 Tháng Tư 75 Ngày 1-4-75 khoảng 16:00 giờ SĐ/TQLC về đến VũngTàu và được lệnh di chuyển về đóng quân tại trại Úc Đại Lợi ở Bãi sau. Trại này trước đây do lực lượng Úc tham chiến tại Việt Nam dựng theo lối kiến trúc tiền chế để làm nơi tạm trú đóng và dưỡng quân. Là một thị xã nhỏ về diện tích cũng như dân số, nhưng nhờ có ba bãi biển khá đẹp nên Vũng Tàu được coi như nơi thu hút du khách đến nghỉ mát. Tiểu đoàn 4/TQLC là đơn vị duy nhất trong Sư đoàn có hậu cứ tọa lạc tại Vũng Tàu kể từ năm 1962. Ngày hôm sau Sư đoàn bắt tay ngay vào việc tái trang bị và bổ sung quân số cho các đơn vị. Theo lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu, việc chỉnh trang phải được hoàn tất trong thời gian tối thiểu và SĐ/TQLC phải sẵn sàng được đặt trong tình trạng ứng chiến trong vòng một tuần lễ. Quân trang quân dụng, vũ khí, đạn dược và các nhu cầu khác như thực phẩm, thuốc men… được chở từ hậu cứ các đơn vị hay Sư đoàn từ Sài Gòn ra Vũng Tàu. Trong vòng hơn mười ngày Khối bổ sung cũng đã cung cấp khoảng năm trăm quân nhân trong hai đợt để bổ sung cho các đơn vị. Quân số nói trên, ngoài thành phần Tân binh, Hạ sĩ quan và Sĩ quan mới ra trường, còn có các cựu quân nhân các cấp đã được nhập vào Khối bổ sung sau thời gian bị thương được chữa trị xong từ bệnh viện TQLC hay bệnh viện Cộng Hòa. Cựu quân nhân cũng như quân nhân mới ra trường đều được san sẻ giữa các đơn vị trong chiều hướng làm thế nào khả năng tham chiến của các đơn vị đạt được mức tương đối đồng đều nhau về lượng cũng như phẩm. Tổ chức của SD/TQLC có khác hơn các Sư đoàn Bộ binh là các Tiểu đoàn không trực thuộc các Lữ đoàn như thành phần hữu cơ. Một Tiểu đoàn có thể được BTL/SĐ tăng phái cho bất cứ Lữ đoàn nào để sử dụng trong nhiệm vụ chiến thuật và cũng có thể được thay thế bởi một Tiểu đoàn khác khi quân số bị hao hụt do hậu quả của các trận đụng độ lớn, hoặc đã hành quân trong thời gian quá lâu, cần được rút về hậu tuyến để nghỉ ngơi và chỉnh trang. Nhờ đó mà khả năng tham chiến cũng như tác chiến của các Lũ đoàn lúc nào cũng đạt được mức mong muốn. Tưởng cũng cần nói thêm, khi SĐ/TQLC về đến Vũng Tàu thì Trung tâm huấn luyện TQLC cũng đang ráo riết xúc tiến chương trình huấn luyện cho gần một ngàn năm trăm tân binh và sẽ lần lượt đưa về khối bổ sung để phân phối cho các đơn vị. Còn điều đáng mừng nữa là một số các quân nhân được coi như mất tích trong các cuộc rút quân từ cù lao Vĩnh Lộc, Thừa Thiên và từ Đà Nẵng, cũng lần lượt trở về trình diện thẳng các hậu cứ đơn vị ở Sài Gòn hoặc tại BTL/SĐ/TQLC ở Vũng Tàu. Trong vòng khoảng mười ngày con số nói trên đã lên đến hơn năm trăm, và cứ theo đà này quân số đó có thể tăng gấp đôi hay hơn nữa trong những tuần lễ kế tiếp. Nhìn chung SĐ/TQLC không gặp trở ngại nào đáng kể trong việc bổ sung quân số, ít ra cũng cho hai Lữ đoàn. Vấn đề tế nhị còn lại là mối ưu tư chung của các cấp chỉ huy về các tân binh chưa có kinh nghiệm thực tế ngoài mặt trận trong khi chiến trường càng ngày càng trở nên gay go với hình thái qui ước rõ ràng. Mặt khác về hỏa lực yểm trợ pháo binh cơ hữu thì Sư đoàn chỉ mới được cấp phát có sáu khẩu đại bác 105 ly, đủ để trang bị cho một pháo đội. BTL/SĐ/TQLC luôn theo dõi và đôn đốc việc tái trang bị và bổ sung quân số cho LĐ258 và 468/TQLC. LĐ/468/TQLC được xếp ưu tiên một để lên đường tham dự bất cứ mặt trận nào khi có lệnh của Bộ TTM. Khi Khánh Dương và Tuy Hòa rơi vào tay CSBV, số phận Nha Trang chỉ còn là thời gian: Khánh Dương là tiền đồn trọng yếu để bảo vệ Nha Trang về hướng Tây Bắc trong khi Tuy Hòa, giao điểm Liên lộ 7B và Quốc lộ 1, là tuyến ngăn chặn địch tràn xuống từ hướng Bắc. Ngày 2-4-75 rồi 3-4-75 Nha Trang và Cam Ranh tuần tự bỏ ngỏ. QĐII không còn khả năng thực hiện được một cuộc trì hoãn chiến nào để làm chậm bước tiến của quân CSBV trên Quốc lộ 1. Sư đoàn 2 CSBV được lệnh tiến vào Nam. Chúng sử dụng tất cả các phương tiện chuyển vận của QLVNCH, kể cả chiến xa bỏ lại sau khi rút lui. Mặt khác, sau khi Đà Nẵng bị chiếm, CSBV đã điều động thêm hai Sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 từ Ninh Bình vào chiến trường trong Nam; và như thế, theo tài liệu của Bùi Tín, một Đại tá CSBV, thì miền Bắc chỉ còn lại có Sư đoàn 318 để "bảo vệ hậu phương lớn". Trước đà tiến quân của CSBV, ngày 2-4-75, tuyến cố thủ Phan Rang được tổ chức dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh tiền phương QĐIII. Lãnh thổ từ Phan Rang trở xuống phía Nam, nguyên thuộc Vùng 2 chiến thuật, nay được sát nhập vào Vùng 3 chiến thuật. BTL Tiền phương QĐIII đóng tại sân bay Phan Rang. Lực lượng phòng thủ Phan Rang gồm các đơn vị thuộc SĐ2/BB rút về từ Vùng 1 chiến thuật, LĐ2 Nhảy Dù (về sau được Liên đoàn 31 BĐQ thay thế), lực lượng ĐPQ Ninh Thuận, một chi đoàn Chiến xa, SĐ6 Không Quân và một Duyên đoàn để kiểm soát và bảo vệ bờ biển. Ngày 14-4-75, CSBV tung ra SĐ3 được tăng cường thêm một Trung đoàn để tấn công vào tuyến phòng thủ Phan Rang. Lực lượng phòng thủ Phan Rang được sự yểm trợ của Không quân đã chống trả mãnh liệt và gây cho địch tổn thất nặng nề. Địch tiếp tục duy trì mức độ pháo kích đồng thời chỉnh đốn lại lực lượng để chuẩn bị mở các đợt tấn công mới. blank Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images) Khoảng đầu trung tuần tháng 4-75, theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu, SĐ/TQLC tăng phái cho QĐIII tại Biên Hòa một Lữ đoàn TQLC. LĐ468/TQLC được lệnh lên đường với tổ chức lực lượng như sau: - LĐ468/TQLC (Đại tá Ngô Văn Định, Lữ đoàn trưởng), BCH/LĐ và các đơn vị yểm trợ chuyên môn Công binh, Truyền tin, Quân Y… - Đại đội Viễn thám. - Pháo đội 105 ly/TQLC (thay vì một Tiểu đoàn vì chưa được cấp phát đầy đủ đại bác) - Phân đội chống chiến xa106 ly. - 3 TĐ/TQLC: TĐ1 (Thiếu tá Dương Văn Hưng, Tiểu đoàn trưởng), TĐ8 (Trung tá Nguyễn Đăng Hòa, Tiểu đoàn trưởng), TĐ16 (Thiếu tá Đinh Xuân Lãm, Tiểu đoàn trưởng) Quân số tham chiến của LĐ468/TQLC được khoảng trên 2.500. Đó là điểm đáng mừng vì quân số nói trên không bị sút giảm bao nhiêu so với thời gian trước khi có cuộc rút quân khỏi V1CT. Tuy nhiên đây chỉ nói đến vấn đề "lượng". Dù muốn dù không các đơn vị đang có nhiều tân binh, còn phải trải qua biết bao thử thách trong tương lai hầu có được nhiều kinh nghiệm thực tế trên chiến trường, sức chịu đựng bền bỉ về tinh thần cũng như thể chất. Nhìn các đơn vị tập họp lên xe hành quân mà lòng dâng lên niềm xúc động. Đã lâu rồi mới lại thấy được các đơn vị tập trung đông đủ tại một nơi như thế này. Đoàn xe di chuyển tới Bà Rịa thì được lệnh quay trở lại Vũng Tàu. Lý do được biết là Sài Gòn đang có tin đồn đảo chánh nên mọi cuộc chuyển quân được tạm thời đình chỉ. Ngày hôm sau thì LĐ468/TQLC mới có lệnh rời Vũng Tàu để di chuyển lên Biên Hòa trình diện BTL/QĐIII. Lữ đoàn này đươc giao nhiệm vụ phòng thủ phía Đông và Đông Nam Biên Hòa, trong khu vực giới hạn phía Bắc bởi Quốc lộ 1 và phía Nam bởi Quốc lộ 15. Tuyến phòng thủ kéo dài từ ngã ba Thái Lan đến phía Nam Hố Nai ngăn chặn địch từ hướng Long Khánh và Long Thành. Mặt trận Phan Rang thất thủ vào ngày 16-4-75, sau khi CSBV tung thêm Sư đoàn 325 tấn công dứt điểm. Trước lực lượng đông hơn về quân số tấn công, mạnh hơn về thành phần trừ bị, trong khi lực lượng phòng thủ Phan Rang gồm các đơn vị rút về từ QK1 hoặc từ các mặt trận của QK2 với quân số yếu kém, thiếu thốn phương tiện yểm trợ hỏa lực và nhất là tinh thần binh sĩ khá mệt mỏi, Phan Rang thất thủ là điều đương nhiên. Tại mặt trận này Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh tiền phương QĐIII, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh SĐ6 Không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng LĐ2 Nhảy dù, đã bị địch bắt. Ngày 19-4-75, ta lại mất thêm Bình Thuận, tỉnh cuối cùng của QK2 được sát nhập vào QK3. Trong lúc này mặt trận Xuân Lộc càng ngày càng trở nên gay go khốc liệt. Xuân Lộc bắt đầu nổ súng khi Quân đoàn 4 CSBV tung ra 3 Sư đoàn 6, 7 và 341 tấn công vào ngày 9-4-75. Tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh SĐ18BB, chỉ huy lực lượng phòng thủ đã cương quyết chống trả mặc dù Trung đoàn 52/SĐ18BB trong những ngày đầu đã bị thiệt hại khá nặng nề tại khu vực Tây Bắc Xuân Lộc. Để đáp ứng nhu cầu tình hình, LĐ1 Nhảy dù được gởi đến tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc. Thấy được sự quyết tâm của SĐ18BB trong việc cố thủ Xuân Lộc, CSBV gởi thêm Trung đoàn 95/SĐ325 tăng cường cho Quân đoàn 4. Ngày 16-4-75 khi nắm được tin tức một số đơn vị thuộc SĐ341 CSBV đang tập trung ở phía bác Dầu Giây, QĐIII đã ra lệnh cho Không quân ném hai quả bom CBU với sức tàn phá và sát hại cao, gây cho địch thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như vật chất. Không quân VNCH đã phải biến cải phi cơ C130 để có khả năng chuyên chở và thả xuống mục tieu hai quả bom này. Tiếc thay ta chỉ được Mỹ giao cho vỏn vẹn hai ngòi nổ, nên những quả bom còn lại chỉ như những đống sắc vô dụng. Hậu quả của hai quả bom CBU nói trên đã làm cho địch phải tạm thời ngưng cuộc tấn công để nghiên cứu lại đường lối hành động mới. Trong khi chiến trường đầy sôi động thì Sài Gòn có những âm mưu đảo chánh. Những tin tức như thế chẳng có gì phấn khởi đối với các chiến sĩ đang chiến đấu ngoài mặt trận. Họ chỉ muốn được yên tâm, nắm vũng tay súng để giữ gìn phần đất quê hương càng ngày càng bị thu hẹp dưới bước chân quân thù. blank Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images) Ngày 21-4-75, một LĐ/TQLC thứ hai được lệnh tăng phái cho QĐIII. Thiếu tướng Lân chỉ thị cho tôi tổ chức một BCH nhẹ SĐ để cùng với LĐ258/TQLC di chuyển về Biên Hòa trình diện QĐIII. Tổ chức lực lượng của LĐ258/TQLC như sau: - LĐ258/TQLC (Đại tá Nguyễn Năng Bảo, Lữ đoàn trưởng), BCH/LĐ và các thành phần yểm trợ chuyên môn Công binh, Truyền tin, Quân Y… - Đại đội Viễn thám. - Pháo đội 105 ly TQLC (thay vì một Tiểu đoàn vì chưa được cấp phát đầy đủ đại bác) - Phân đội chống chiến xa 106 ly. 3 TĐ/TQLC: TĐ2/TQLC (Thiếu tá Trần Văn Hợp, Tiểu đoàn trưởng), TĐ4/TQLC (Thiếu tá Trần Ngọc Toàn, Tiểu đoàn trưởng) và TĐ6/TQLC (Trung tá Lê Bá Bình, Tiểu đoàn trưởng) Đoàn xe chở các đơn vị đến Biên Hòa vào khoảng 11:00 giờ và tôi được lệnh vào trình diện Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh QĐIII, để nhận thêm chỉ thị. Trước tiên ông hỏi thăm về quân số của hai Lữ đoàn. Ông tỏ vẻ rất hài lòng khi biết quân số tham chiến của hai LĐ/TQLC ở mức cao trên năm ngàn. Sau đó ông cho biết tình hình tại Xuân Lộc rất nghiêm trọng và nặng nề. Ông ra lệnh cho tôi chịu trách nhiệm tổ chức phòng thủ phía Đông Biên Hòa với hai LĐ/TQLC đang có. (Lúc bấy giờ Tướng Toàn chưa cho tôi biết là SĐ18BB đang rút khỏi Xuân Lộc; có thể ông muốn giữ kín việc này vì sợ nó sẽ ảnh hưởng đến tinh thần của các đơn vị đang chiến đấu tại các nơi. Cho đến ngày hôm sau thì Tướng Lân mới gọi điện thoại báo cho tôi hay là Xuân Lộc đã bỏ ngỏ rồi. Ông lưu ý tôi phải cẩn thận vì lực lượng CSBV tiếp tục tiến về hướng Biên Hòa, Bà Rịa và Long Thành). Dựa vào tuyến phòng thủ của LĐ468/TQLC phía Nam QL1, LĐ258/TQLC tiếp nơi tuyến phòng thủ và kéo dài lên hướng Bắc cho đến sông Đồng Nai. Như vậy tuyến phòng thủ của 2 LĐ/TQLC được tổ chức cách tỉnh lỵ Biên Hòa 13 đến 15 cây số, bảo vệ phía Đông và Đông Nam cho tỉnh này, hướng về Trảng Bom và Long Thành. BCH/LĐ258 đóng tại trại tù Cộng sản Tam Hiệp, BCH nhẹ SĐ/TQLC đóng cạnh BCH/LĐ468 trong căn cứ Long Bình. Buổi tối, một biến cố chính trị quan trọng xãy ra: đài truyền hình phát đi lần ra mắt cuối cùng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước đồng bào sau chín năm lãnh đạo quốc gia. Ông tuyên bố từ chức sau khi đọc một thông điệp dài hơn một tiếng đồng hồ. Theo Hiến Pháp, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ lên thay thế. (Buổi lễ nhậm chức Tổng Thống được cử hành sau đó hai hôm). Trong những ngày 23, 24-4-75 địch tạm ngưng các cuộc tấn công lớn nhưng vẫn duy trì mức độ pháo kích tại khu vực Biên Hòa như sân bay, BTL/QĐIII, căn cứ Long Bình, Trường Bộ binh Thủ Đức và Trường thiết giáp. Mặt khác chúng cũng cho tổ chức các cuộc tấn công có tánh cách thăm dò vào các tuyến phòng thủ của các đơn vị TQLC. Nhưng mọi nỗ lực của chúng chẳng gây được ảnh hưởng gì. Trưa ngày 24-4-75 theo lệnh của BTL/SĐ/TQLC, Trung Tá Nguyễn Đằng Tống đến thay thế cho Đại tá Ngô Văn Định trong chức vụ Lữ đoàn trưởng LĐ468/TQLC. Đại tá Định trở lại Vũng Tàu để xúc tiến việc tái tổ chức LĐ147/TQLC. Hiện tại Vũng Tàu đã có Tiểu đoàn 14/TQLC với quân số và trang bị đầy đủ, đang ứng chiến tại chỗ. Tuy nhiên SĐ/TQLC cần tổ chức thêm hai tiểu đoàn nữa để LĐ147/TQLC có thể thành hình và sẵn sàng tham chiến. Sáng ngày 26-4-75, tôi đi thăm tuyến phòng thủ của LĐ258/TQLC tại khu vực Hố Nai trên quốc lộ 1. Nhìn anh em TĐ6/TQLC trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, tôi cảm thấy rất yên tâm. Hệ thống phòng thủ được tu bổ sửa sang trông khá hơn những ngày đầu mới tới. Đó là công tác quen thuộc hàng ngày của họ, nhưng lần này họ đã ý thức được rằng họ sẽ phải đương đầu với một lực lượng địch đông hơn, chiến xa và pháo cũng hùng hậu hơn. Chi đoàn chiến xa tăng phái cho TĐ6/TQLC đã phối trí hơi lùi về phía sau và được ngụy trang che dấu thật kỹ. Các sinh hoạt dân chúng trong các ấp ở Hố Nai vẫn bình thường ngoại trừ các lực lượng võ trang do các cha xứ tổ chức đang gia tăng tuần tiễu và canh gác trong các ấp. Tiếng súng đầu tiên để bắt đầu cho chiến dịch Hồ Chí Minh, tức chiến dịch tổng tấn công vào thủ đô Sài Gòn, đã nổ ra từ hướng Đông Biên Hòa vào lúc 17:00 giờ. Quân đoàn 2 CSBV đã tung ra sư đoàn 304 với chiến xa và đại pháo yểm trợ, tấn công vào Trường thiết giáp. Sư đoàn 325 với chiến xa và đại pháo yểm trợ, tấn công Chi khu Long Thành trên quốc lộ 15. Cùng lúc, địch pháo kích dữ dội vào sân bay Biên Hòa, căn cứ Long Bình Hố Nai. Một số phi cơ tại căn cứ không quân Biên Hòa phải cất cánh bay về Tân Sơn Nhất để tránh pháo kích. Song song với các cuộc tấn công của Quân đoàn 2 CSBV nói trên, về hướng Bắc, Quân đoàn 4 CSBV với các sư đoàn 6, 7 và 341 được tăng cường chiến xa và đại pháo, đồng loạt tấn công vào Trảng Bom, cách Biên Hòa khoảng 27 cây số về hướng Đông, do Trung đoàn 43/SĐ11BB trấn giữ. Tất cả mũi tấn công của địch thật sự đã gây cho ta bối rối lúc đầu, nhưng sau đó bị chặn đứng nhờ sự yểm trợ hữu hiệu của phi pháo. Tuy nhiên sau đó, ở phía Nam, Trường thiết giáp đã bị một Trung đoàn thuộc Sư đoàn 304 tấn công và chiếm giữ. Dùng Trường thiết giáp làm bàn đạp, chúng triển khai đội hình về hướng Tây Nam với ý định chiếm Quốc lộ 15. Lập tức một Đại đội TĐ1/TQLC được tăng phái cho lực lượng chiến xa thuộc LĐ3KB mở ngay cuộc phản công. Trước hỏa lực mạnh mẽ của pháo binh, chiến xa và sự chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ TQLC cũng như thiết giáp, sau vài giờ chống cự địch phải rút lui về hướng Đông, bỏ lại chiến trường 12 chiến xa và nhiều tử thương (theo tài liệu của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, tư lệnh LĐ3KB). Thiệt hại của ta được coi như là nhẹ. Trong khi đó địch tổ chức các hoạt động trinh sát trước tuyến của các Tiểu đoàn 4 và 6 thuộc LĐ258/TQLC, Tiểu đoàn 16 thuộc LĐ468/TQLC. Vài cuộc chạm súng nhỏ xãy ra, nhưng sau đó địch bỏ chạy. Những cuộc hoạt động trinh sát như thế thường là địch muốn điều nghiên địa thế, tìm hiểu cách phối trí quân của ta, chuẩn bị các hỏa tập cho cuộc tấn công trong tương lai. Các đơn vị TQLC đã quen thuộc với các loại hoạt động này của địch trong thời gian còn hành quân tại Quảng Trị. Sáng ngày 27-4-75, Tướng Toàn yêu cầu tôi hướng dẫn đến thăm tuyến phòng thủ của LĐ468/TQLC trên Quốc lộ 15 tại khu vực của TĐ1/TQLC. Trong dịp này ông lưu ý tôi là địch sẽ còn mở ra những cuộc tấn công kế tiếp mạnh mẽ hơn và chỉ thị cần phải có kế hoạch sử dụng chiến xa cũng như pháo binh cho hữu hiệu. Tuyến phòng thủ do TQLC đảm trách phải dứt khoát được bảo vệ với bất cứ giá nào. Khoảng 13:00 giờ, tôi được Đại tá Lương, Tham mưu trưởng QĐIII, thông báo là sẽ có một Liên đoàn BĐQ đến tăng phái cho TQLC. Có lẽ đây là kết quả do lời trình bày của tôi với Tướng Toàn vào buổi sáng nay về việc 2 LĐ/TQLC đang phòng thủ trên một tuyến khá rộng trên 20 cây số, trong khi BCH nhẹ TQLC cần có một lực lượng trừ bị được tăng cường chiến xa và thiết quân vận, khả dĩ thực hiện được các cuộc phản công chớp nhoáng bất cứ nơi nào khi tuyến phòng thủ bị chọc thủng. Tôi thầm cám ơn Tường Toàn đã thấy được sự cần thiết phải có một lực lượng trừ bị và chấp thuận đề nghị của tôi. Tuy nhiên khi Trung tá Liên đoàn trưởng BĐQ trình diện thì ông cho biết là Liên đoàn của ông vừa rút về từ các mặt trận phía Đông nên quân số bị hao hụt, chỉ còn trên dưới 700 tay súng, trang bị cũng chưa được bổ sung đầy đủ. Tôi đề nghị với Trung tá Liên đoàn trưởng nên tổ chức đơn vị thành một Tiểu đoàn với quân số hùng hậu hơn là cứ giữ nguyên ba Tiểu đoàn mà khả năng và hậu quả tác chiến không đạt được đầy đủ và tương xứng với cấp đơn vị. Dù sao Liên đoàn này cũng cần được chỉnh trang và nghỉ ngơi trong vài hôm. Tôi rất thông cảm với tình trạng của Liên đoàn BĐQ này. Buổi chiều Quân đoàn 2 CSBV tung ra thêm sư đoàn 3 (thuộc Quân khu 5 tăng phái) tấn công ồ ạt chiếm chi khu Đức Thạnh và sau đó chiếm luôn thị xã Bà Rịa do LĐ1 Nhảy dù trấn giữ. Trước lực lượng đông đảo của địch có chiến xa yểm trợ, LĐ1 Nhảy dù phải rút về hướng Vũng Tàu. Cầu Cỏ May trên đường Bà Rịa Vũng Tàu bị ta giật sập. Vào lúc này Sư đoàn 325 CSBV cũng đã chiếm được Long Thành. Chúng đưa một lực lượng vượt qua Quốc lộ 15, theo liên tỉnh lộ 25 tiến về hướng Tây Nam đến Nhơn Trạch. Nhơn Trạch chỉ cách Sài Gòn 13 cây số đường chim bay và ngăn cách với Sài Gòn bởi con sông Sài Gòn. Tại đây đại pháo 130 ly của chúng có thể tác xạ vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đó là nguyên nhân chính yếu khiến cho Sư đoàn 325 CSBV phải tranh thủ chiếm Long Thành cho bằng được càng sớm càng tốt. Nóng lòng trước những biến chuyển nhanh chóng của tình hình chiến sự, khoảng 08:00 giờ ngày 28-4-75, tôi lên BTL/QĐIII để tìm hiểu tình hình chung của Quân đoàn ra sao, nhất là về mặt trận Trảng Bom vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tuyến phòng thủ của LĐ258/TQLC. Những điều tôi muốn biết chỉ được các sĩ quan tham mưu Quân đoàn trả lời một cách chung chung úp mở. Có lẽ một phần họ muốn giữ kín theo lệnh cấp trên, một phần chưa nắm vững đầy đủ dữ kiện. Tuy nhiên tôi nghĩ Trảng Bom đã bỏ ngỏ rồi… Trên bản đồ trận liệt của trung tâm hành quân QĐIII, về hướng Bắc và Tây Bắc Biên Hòa, SĐ5BB và SĐ25BB đang chịu sức ép của Quân đoàn 1 và 3 của CSBV. Hướng Tây Nam Đoàn 232 với 4 Sư đoàn đang vây ép Hậu Nghĩa, Bến Lức, Tân An trên Quốc lộ 4. Tôi trở về BCH nhẹ SĐ giữa lúc căn cứ Long Bình đang bị pháo kích, lòng thấy không yên. Tôi mời các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ để thông báo những gì tôi biết được liên quan đến tình hình ta và địch, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến mặt trận phía Đông Biên Hòa. Tôi yêu cầu mọi người chuẩn bị tinh thần để sẵn sàng đối phó với những cuộc tấn công mới, mạnh mẽ và quyết liệt hơn. ************************ Khoảng 09:30 ngày 28-4-75, giờ tuyến phòng thủ của hai Lữ đoàn đều bị pháo kích. Trước tuyến LĐ258/TQLC địch cho chiến xa dẫn đường, Bộ binh theo sau, tiến vào vị trí của TĐ6/TQLC. Một phần khu vực của TĐ4/TQLC cũng bị tấn công. Cùng lúc, Sư đoàn 304 CSBV cũng tấn công vào tuyến của LĐ468/TQLC. Các tiểu đoàn thuộc LĐ468/TQLC đã sử dụng pháo binh tác xạ chính xác vào đội hình của địch khiến chúng phải chạy lui về phía sau. Ta bắt được một tù binh thuộc một đơn vị của SĐ304 CSBV. Riêng bên LĐ258/TQLC, địch cũng không thể tiến lên được trước hỏa lực mạnh mẽ của chiến xa và bộ binh của ta. Phi cơ lên vùng yểm trợ và oanh kích hữu hiệu vào đội hình của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Địch đã phải rút lui về phía Đông, bỏ lại hai chiến xa do chiến xa ta bắn cháy. Theo cung từ của các tù binh bị bắt, lực lượng tấn công gồm Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 270) và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 266). Hai trung đoàn này thuộc Sư đoàn 341 CSBV. Khoảng 14:00 giờ, Tướng Lân gọi điện thoại hỏi tôi về tình hình tại Biên Hòa ra sao. Tôi trình ông biết là tuyến phòng thủ của hai Lữ đoàn đang chịu áp lực nặng nề của Sư đoàn 341 và 304 CSBV. Cho tới giờ này anh em vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu. Trong dịp này ông lưu ý tôi hãy chuẩn bị tư tưởng vì có thể SĐ/TQLC sẽ phối hợp với "lực lượng bạn" (?) để bảo vệ an ninh trục lộ từ Biên Hòa về Vũng Tàu. Ông không nói thêm mục đích của công tác nói trên cũng như từ đâu có lệnh đó. Tôi không thể hỏi thêm gì dài dòng vì đang trên đường dây điện thoại và nhận thấy mọi việc cần phải được giữ bí mật trong lúc này. Trước khi chấm dứt điện thoại, Tướng Lân khuyên tôi nên đưa gia đình ra Vũng Tàu, ông sẽ lo liệu trong trường hợp phải di tản. Tôi cám ơn về sự quan tâm của ông, nhưng tôi chưa có ý định cho gia đình đi trong lúc này. Tôi suy nghĩ miên man về những gì Tướng Lân vừa cho biết liên quan đến việc bảo vệ an ninh Quốc lộ 15. Trên thực tế cả Quân đoàn 2 CSBV gồm 3 Sư đoàn đang kiểm soát phần lớn Quốc lộ 15 đi Vũng Tàu. Muốn giải tỏa cần phải có một lực lượng lớn hơn và hành quân trong nhiều ngày với hỏa lực yểm trợ hùng hậu. Mặt khác phải có kế hoạch ngăn chặn Quân đoàn 4 tấn công vào Biên Hòa trên Quốc lộ 1, chưa kể Quân đoàn này còn có khả năng tăng cường cho Quân đoàn 2 CSBV trên Quốc lộ 15 bất cứ lúc nào. Khoảng 15:00 giờ, Đại tá Lương, Tham mưu trưởng QĐIII, báo cho tôi biết là BTL/QĐ sẽ di chuyển về trại BCH Thiết giáp ở Gò Vấp vào lúc 16:00 giờ. Trước khi rời Biên Hòa ông muốn biết bên TQLC có cần gì không. Ông cho biết thêm là Trung tâm hành quân Quân đoàn vẫn còn để lại một toán nhỏ để làm việc. Tôi cám ơn ông và cho biết chúng tôi chưa cần gì bây giờ. Buổi tối thì nghe tin Tổng thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ cho Đại Tướng Dương Văn Minh tuyên bố rằng ông muốn hòa giải, tôn trọng Hiệp định ngưng bắn 1973, và đề nghị ngưng bắn để thương thuyết… Làm sao Cộng sản chịu ngồi xuống thương thuyết khi chúng đang ở thế mạnh? Ngày 29-4-75, tôi được lệnh đến họp tại BTL/SĐ18BB vào lúc 12:00 giờ. Hiện diện gồm có Tướng Toàn, Tư lệnh QĐIII, Tướng Đảo, Tư lệnh SĐ18BB, Tướng Khôi, Tư lệnh LĐ3KB, và tôi. Sau khi nghe qua phần trình bày của các vị Tư lệnh và tôi, Tướng Toàn chỉ thị cho các đơn vị rút về gần Biên Hòa và Long Bình để tuyến phòng thủ được bảo vệ chặt chẽ và hữu hiệu hơn. Để có sự thống nhất chỉ huy, do hai LĐ/TQLC khi về vị trí mới thì nằm trong khu vực trách nhiệm của cả LĐ3KB ở phía Bắc và SĐ18BB ở phía Nam, nên LĐ258/TQLC sẽ được tăng phái cho LĐ3KB và LĐ468/TQLC sẽ được tăng phái cho SĐ18BB. Tướng Toàn lưu ý thêm là tôi vẫn chịu trách nhiệm chỉ huy cho đến khi nào các LĐ/TQLC về đến vị trí mới đầy đủ; khi đó phải báo cho ông biết. Về đến BCH tôi chưa kịp mời các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ đến họp về việc rút quân thì địch lại mở cuộc tấn công vào khu vực của TĐ6 và TĐ16/TQLC. Lần tấn công này của địch có vẻ mạnh mẽ hơn. BCH nhẹ SĐ/TQLC liền xin phi cơ lên vùng yểm trợ đồng thời ra lệnh cho Liên đoàn BĐQ sẵn sàng tiếp ứng trong trường hợp cần thiết. Sau vài giờ kịch chiến, địch thấy không thể nào phá được tuyến chặn của ta hai bên Quốc lộ 1, trong khi bị phi cơ ta oanh kích trúng phía sau đội hình nên chúng đành phải rút lui. Trước tuyến của TĐ/16TQLC địch bỏ lại hai chiến xa còn đang bốc cháy. Khoảng 15:30 giờ, tôi họp các Lữ đoàn trưởng TQLC và Liên đoàn trưởng BĐQ để phổ biến kế hoạch rút quân và tái phối trí để bảo vệ căn cứ Long Bình và thị trấn Biên Hòa. Các LĐ/TQLC phải đoạn chiến và rút về phía sau từ 10 đến 12 cây số. Liên đoàn BĐQ di chuyển vào bên trong căn cứ Long Bình, tiếp tục làm trừ bị. Thành phần chiến xa tăng phái cho các đơn vị không gì thay đổi. BCH nhẹ SĐ và BCH/LĐ/468 vẫn đóng tại chỗ. Sau khi các LĐ/TQLC về đến tuyến phòng thủ mới thì sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của LĐ3KB (đối với LĐ258/TQLC) và SĐ18BB (đối với LĐ468/TQLC). Phải có kế hoạch yểm trợ Pháo binh bắn chận khi cần thiết trong lúc rút quân. Tôi lưu ý các đơn vị trưởng là địch đang tấn công dữ dội vào hai Đại đội Nhảy dù có nhiệm vụ bảo vệ cầu Đồng Nai và căn cứ Hải quân cách Long Bình vài cây số về hướng Tây Nam. Khoảng 18:00 giờ, sau nhiều lần phản công tái chiếm một vài vị trí đã bị mất, hai Đại đội Nhảy dù đã phải rút lui trước lực lượng đông đảo của đơn vị thuộc đoàn 116 đặc công của địch. Đường về Sài Gòn trên xa lộ qua cầu Đồng Nai đã bị cắt. Giờ đây chỉ còn lại chiếc cầu Đại Hàn duy nhất bắc qua sông Đồng Nai trên Quốc lộ 1 còn sử dụng được để về Sài Gòn, do hai Đại đội Nhảy dù khác đang bảo vệ. Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images) Khi cầu xa lộ Đồng Nai bị chiếm, lực lượng Địa phương quân có nhiệm vụ canh gác các cổng ra vào, kho tiếp liệu, kho đạn… trong căn cứ Long Bình đã tự động rời bỏ vị trí, nhất là khi địch pháo kích vào dữ dội. Một vài cuộc chạm súng giữa một số binh sĩ giữ an ninh còn lại với các toán đặc công địch đã xãy ra tại một vài địa điểm khác nhau trong căn cứ. Lúc bấy giờ thật khó lòng mà xác định được nơi nào là bạn, nơi nào là địch. Tôi gọi điện thoại cho Đại tá chỉ huy trưởng căn cứ Long Bình nhưng không ai trả lời. Tôi gọi qua Trung tâm hành quân QĐIII tại Biên Hòa (toán liên lạc) để thông báo về tình trạng an ninh trong căn cứ Long Bình không còn kiểm soát được nữa và yêu cầu trình lên thượng cấp để có biện pháp trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Một sĩ quan tại Trung tâm hành quân cho biết không còn ai có thẩm quyền tại đây; anh nói thêm Tướng Toàn đã lên trực thăng lúc 15:00 giờ và BTL/QĐIII ở Gò Vấp cũng không ai biết ông hiện đang ở đâu. Lúc bấy giờ nhiều tiếng súng nổ vang về hướng Biên Hòa. BCH nhẹ SĐ báo cho tôi biết một lực lượng địch đang tấn công vào phía Bắc sân bay Biên Hòa. Độ hơn nửa giờ thì địch bị lực lượng LĐ3KB và BĐQ đẩy lui. Trước đi trời tối BCH nhẹ SĐ và BCH/LĐ468/TQLC di chuyển về khu vực gần cổng trại, cửa đi ra thị trấn Biên Hòa để việc phòng thủ được dễ dàng hơn đồng thời cũng kiểm soát được cổng ra vào quan trọng này. BCH Liên đoàn BĐQ cũng di chuyển theo về gần đó. Tại khu vực này một số văn phòng làm việc vẫn còn để máy lạnh, điện vẫn bật sáng, các máy điện thoại vẫn còn có thể sử dụng được bình thường, nhưng nhân viên chẳng còn ai cả. Mọi thứ vẫn còn bày biện trong văn phòng hay trên bàn làm việc chứng tỏ nhân viên đã rời khỏi nơi này không lâu lắm. Bức ảnh chụp gia đình của một Hạ sĩ quan Mỹ vẫn còn để nguyên trên một nóc tủ đựng hồ sơ, có lẽ trong lúc gấp rút anh ta đã quên mang theo bức ảnh kỷ niệm này. Trong buổi họp lúc 12:00 giờ, khi nhận được lệnh rút khỏi tuyến phòng thủ về bảo vệ vòng đai gần Biên Hòa và Long Bình, chắc ai cũng tự hiểu rằng đây mới chỉ là giai đoạn một. Giai đoạn kế tiếp sẽ có thể là phòng thủ phía Tây sông Đồng Nai, rồi từ đó nếu tình hình nặng hơn, sẽ rút về quanh Sài Gòn. Nhưng giờ đây SĐ18BB, TQLC, LĐ3KB và các đơn vị khác trong khu vực, sẽ phải tự quyết định cách hành động tùy theo sự biến chuyển của tình hình, nhưng chắc chắn không thể nằm lại vòng đai phòng thủ lâu hơn khi không có cấp cao hơn để chịu trách nhiệm về sự thống nhất chỉ huy. Trong những ngày qua nổ lực của Quân đoàn 4 CSBV trên Quốc lộ 1 có phần mạnh mẽ và tập trung hơn do nhu cầu cấp bách của Quân đoàn này phải kết hợp kịp thời với các cánh quân từ các hướng khác để cùng tiến về tổng công kích Thủ đô Sài Gòn. Quân đoàn này tập trung 3 Sư đoàn cứ đánh thẳng từ Đông sang Tây với ý định sau khi chiếm Trảng Bom thì tiếp tục tiến về Biên Hòa và Long Bình rồi sau đó về Sài Gòn. Trong khi áp lực của Quân đoàn 2 CSBV trên Quốc lộ 145 chỉ mạnh mẽ tại khu vực Trường thiết giáp trong lúc đầu với Sư đoàn 304, nhưng không thể nào tiến xa hơn về hướng Long Bình vì gặp phải tuyến phòng thủ của LĐ468/TQLC và lực lượng Thiết giáp. Riêng Sư đoàn 3 và 325 CSBV thì lo tấn công Long Thành và Bà Rịa. Sau khi chiếm được Long Thành thì Sư đoàn 325 CSBV phải tiếp tục băng qua Quốc lộ 15 tiến về hướng Tây Nam để chiếm Nhơn Trạch mà chúng đã có kế hoạch sẽ đặt pháo 130 ly tại đây bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Trong khi Sư đoàn 3 CSBV sau khi chiếm Bà Rịa thì tiếp tục triển khai đội hình về hướng Vũng Tàu. Trong một ký sự lịch sử của Sư đoàn 7 CSBV (Binh đoàn Cửu Long) do nhà xuất bản Quân Đội nhân dân ấn hành tại Hà Nội năm 1986, có ghi đoạn nói về nhiệm vụ của Quân đoàn 4 CSBV như sau: "0 giờ ngày 30 tháng 4 cuộc tổng công kích vào Sài Gòn sẽ bắt đầu. Để cùng với tất cả các cánh quân tiến về Sài Gòn, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết tâm đánh chiếm khu liên hợp công nghiệp Biên Hòa trước 0 giờ đêm nay. Sư đoàn 6 được lệnh bỏ các vị trí, các căn cứ còn lại ở Hố Nai, tiến đánh bên trái đường số 1, đánh chiếm Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 Ngụy và cầu Ghềnh, thọc sang bên kia sông chiếm đầu cầu giữ bàn đạp. Sư đoàn 341 chiếm sân bay Biên Hòa, Sư đoàn 7 không chờ sang bên kia cầu mới tác chiến, mà phải đột phá tiếp trại tù Hố Nai, đục phăng cái lá chắn của địch ở Tam Hiệp, cố gắng đưa hết đội hình sang bờ Tây sông Đồng Nai trong đêm nay"… Xem qua đoạn trên, ta thấy lực lượng địch tấn công Hố Nai trong mấy ngày qua gồm các đơn vị của 3 Sư đoàn khác nhau xa luân chiến: đầu tiên là Sư đoàn 341, kế tiếp là Sư đoàn 6 và cuối cùng là Sư đoàn 7 CSBV. Nhưng chúng không thể nào vượt qua nổi tuyến phòng thủ của LĐ258 và lực lượng chiến xa của LĐ3KB. Khi thấy LĐ258 và 468/TQLC đoạn chiến để rút về vòng đai Biên Hòa và Long Bình vào buổi chiều, địch đưa chiến xa và Bộ binh tiến vào Hố Nai trong đội hình tác chiến. Chúng tưởng rằng lực lượng phòng thủ đã rút về phía Tây sông Đồng Nai để lập tuyến phòng thủ ở đây. Không ngờ chưa ra khỏi thị trấn Hố Nai thì đã bị lực lượng phòng thủ chận đánh vào lúc 23:00 giờ. Trong ký sự lịch sử của Sư đoàn 7 CSBV có đoạn ghi trận đánh này như sau: "Bộ đội ta tiến lên trong màn đêm mưa pháo địch. Khi Trung đoàn 3 Sư đoàn 6 ra khỏi Hố Nai, tiến về Nam Biên Hòa, thì Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 165 (đây là Trung đoàn 165 của Sư đoàn 7, xin đừng lầm với Trung đoàn 165 của sư đoàn 312 mà ta đã đụng độ nhiều lần ở Quảng Trị năm 1972-1975) có 4 xe tăng dẫn đầu, thuộc phân đội đi đầu của Sư đoàn, cũng bắt đầu tiến vào Hố Nai. Đội hình lọt vào giữa hai dãy phố. Trung đoàn trưởng ra lệnh cho xe tăng nổ máy vọt lên. Nhưng bốn chiếc xe tăng vừa tiến lên được một đoạn thì bổng từ hai bên sườn và cả trước mặt nhiều chớp lửa xanh lè lóe lên, từng quả đạn đỏ lừ vun vút lao tới bốn chiếc xe tăng ta. Trung đoàn trưởng lệnh súng cối 120, pháo 85 giá súng bắn trả. Bốn khẩu pháo xe tăng cũng nhả đạn, nhưng mới bắn được vài quả đạn thì ba chiếc trúng hỏa tiển chống tăng của địch bốc cháy… Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Trung đoàn trưởng vừa báo cáo xin chỉ thị của Sư đoàn vừa tổ chức đội phá phòng tuyến… Sư đoàn trưởng phóng xe Honda tới hỏi luôn: "Tình hình ra sao rồi? Gặp khó khăn phải không? Một thằng tù binh vừa khai trước mặt Trung đoàn là LĐ258 lính thủy đánh bộ. Chủ yếu là Tiểu đoàn 6 với 60 xe tăng của Lữ kỹ binh 3 đấy". Trung đoàn trưởng Trần Quang Diệu báo cáo vắn tắt tình hình rồi trình bày ý định tác chiến của Trung đoàn. Sư đoàn trưởng gật đầu: "Tổ chức đánh ngay đi không muộn". Nhưng cũng như các cuộc tấn công trước, địch cuối cùng cũng phải rút lui về Đông với thiệt hại nặng nề mà không thể nào "đục phăng cái lá chắn" của lực lượng phòng thủ. Khoảng 03:00 giờ ngày 30-4-75, LĐ258/TQLC báo cho BCH nhẹ SĐ một số chiến xa của LĐ3KB chạy qua cầu Đại Hàn để qua phía tây sông Đồng Nai và xin ý kiến. Tôi trả lời hãy giữ liên lạc chặc chẽ với LĐ3KB và thi hành theo sự điều động của LĐ3KB (vì LĐ258/TQLC đang được tăng phái cho LĐ3KB), tuy nhiên phải báo cáo mọi diễn tiến cho BCH nhẹ SĐ/TQLC để tiện theo dõi. Lúc bấy giờ BCH nhẹ SĐ, BCH/LĐ468/TQLCvà Liên đoàn BĐQ vẫn còn đóng trong căn cứ Long Bình. Tình hình có vẻ lắng dịu trong tiếng pháo kích cầm chừng của địch. Khoảng 03:30 giờ, LĐ258/TQLC báo cáo bắt đầu di chuyển về phía Tây cùng với một số chiến xa của LĐ3KB và sẽ bố trí bên phía Tây sông Đồng Nai. Tôi gọi qua BTL/SĐ18BB để gặp Tướng Đảo, nhưng không ai trả lời. Tôi ra lệnh cho LĐ258/TQLC để lại một Tiểu đoàn bảo vệ phía Đông cầu Đại Hàn cho đến khi LĐ468/TQLC và Liên đoàn BĐQ rút qua hết. Khoảng 06:30 giờ, khi các đơn vị thuộc LĐ468/TQLC qua gần hết cầu Đồng Nai thì BCH nhẹ SĐ, BCH/LĐ468/TQLC và Liên đoàn BĐQ bắt đầu di chuyển qua phía Tây Sông Đồng Nai. Hai Đại đội Nhảy dù vẫn còn canh gác cầu này. Điều đặc biệt là địch không còn mở ra cuộc tấn công nào nữa mặc dù các đơn vị của ta quan sát vẫn thấy chúng thấp thoáng cách khoảng 3 cây số về hướng Đông. Vào lúc này qua hệ thống máy ANPCR25, LĐ468/TQLC liên lạc được với SĐ18BB và được biết Tướng Đảo cùng với lực lượng của ông đang bố trí tại nghĩa trang quân đội trên xa lộ, cách cầu Đồng Nai hơn bốn cây số về hướng Tây Nam. Trong khi tôi băn khoăn chờ đợi xem có lệnh gì kế tiếp thì Trung tá Huỳnh Văn Lượm, Lữ đoàn phó LĐ258/TQLC đến gặp tôi trên Quốc lộ 1 gần đầu cầu Đại Hàn và cho tôi biết Bộ tổng tham mưu nhờ LĐ3KB làm trung gian chuyển lệnh cho các đơn vị như sau: TQLC về căn cứ Sóng Thần (CCST), LĐ3KB về Gò Vấp chờ lệnh tiếp. Không nghe nói lệnh cho SĐ18BB như thế nào, có lẽ Sư đoàn này nhận lệnh thẳng từ Bộ tổng tham mưu rồi. (Lúc bấy giờ Trung tướng Vĩnh Lộc là Tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Ông vừa nhận chức vụ này vào chiều hôm qua.) Tôi cảm thấy có điều gì không ổn bởi lẽ trong khi chiến trường đang sôi động, khoảng hơn 16 Sư đoàn địch đang siết chặt vòng vây vào Sài Gòn từ nhiều hướng, sao lại có lệnh cho TQLC về căn cứ Sóng Thần, hậu cứ của Sư đoàn? BTL/QĐIII giờ đây coi như không còn ai có thẩm quyền giải quyết được gì nữa. BCH nhẹ SĐ/TQLC thông báo lệnh này cho Liên đoàn BĐQ và yêu cầu Liên đoàn này liên lạc với các đơn vị liên hệ để có phương tiện di chuyển đến nơi nào tùy nghi. Nhiệm vụ tăng phái của Liên đoàn BĐQ cho BCH nhẹ SĐ/TQLC được coi như chấm dứt kể từ giờ phút ấy. Tôi không nắm vững được tình hình của SĐ5BB ở hướng Tây Bắc Biên Hòa lúc bấy giờ ra sao. Nếu như cả Quân đoàn 1 CSBV tiếp tục ép xuống phía Nam dọc theo Quốc lộ 13, thì SĐ5BB sẽ khó lòng giữ được Bến Cát: Tỉnh Bình Dương, quận Lái Thiêu rồi sẽ mất. Cộng quân sẽ nhanh chóng tiến chiếm ngã ba Lái Thiêu và Quốc lộ 1. Căn cứ Sóng Thần nằm giữa Biên Hòa (phía Đông) và Lái Thiêu (phía Tây) sẽ trở thành một mục tiêu hoàn toàn bị cô lập. Sau khi thỏa luận với các cấp chỉ huy của hai Lữ đoàn và một vài Tiểu đoàn đang có mặt, tôi ra lệnh cho LĐ258/TQLC đưa một thành phần về thẳng trại Lê Thánh Tôn, bản doanh của BTL/SĐ/TQLC tại Sài Gòn, như là thành phần tiên phong để chuẩn bị nơi đóng quân cho các đơn vị. Sở dĩ chúng tôi có sự lựa chọn này là vì các lý do như sau: thứ nhất là để tránh trở thành mục tiêu bị cô lập tại căn cứ Sóng Thần như đã nói ở trên. Nếu địch tấn công và ta phải chống trả để cố thủ, thì các trại gia binh chung quanh đó sẽ phải gánh chịu hậu quả vô cùng tai hại. Tại Sài Gòn vẫn có các trại sau đây mà các đơn vị TQLC có thể về tạm đóng quân: đó là trại Lê Thánh Tôn, trại Nguyễn Văn Nho và trại Cửu Long. Thứ hai là các thương bệnh binh đang điều trị tại bệnh viện Lê Hữu Sanh, tức bệnh viện của SĐ/TQLC tại CCST, cũng cần được di tản về Sài Gòn để họ được an toàn hơn. Thứ ba là nếu như Sài Gòn thất thủ, TQLC có thể rút về V4CT tương đối dễ dàng để cùng với lực lượng Quân đoàn IV tiếp tục chiến đấu. Di Tản Từ Cam Rang Tới Vũng Tàu, Tháng 4-1975. Tàu Hải quân Việt nam số hiệu HQ-504 từ Miền Trung tới Cảng Vũng Tàu ngày 3 tháng 4-1975, chở hơn 7,000 lính và dân di tản. Tất cả các thành phố cảng phía bắc của Vũng Tàu lúc này đều đã thất thủ, và Vũng Tàu đã đón hơn 20,000 người di tản từ Cam Ranh qua các tàu Hải quân. (Photo STAFF/AFP/Getty Images) Đoàn xe chở thành phần về Sài Gòn do Thiếu tá Quách Ngọc Lâm, trưởng ban 4 LĐ258/TQLC chỉ huy. Trong khi không thể liên lạc được với BTL/QĐIII và Bộ tổng tham mưu, BCH nhẹ SĐ/TQLC tạm có cách giải quyết riêng hầu tránh được mọi nguy hiểm cho các đơn vị được chừng nào hay chừng ấy. Do quân xa tập trung được có hạn, nên các đơn vị của hai Lữ đoàn chỉ sử dụng được những phương tiện hiện có trong tay, tiếp tục chuyển quân về căn cứ Sóng Thần theo phương cách con thoi, sau đó sẽ có kế hoạch di chuyển về Sài Gòn. Vấn đề là làm sao rời khỏi phía Tây sông Đồng Nai càng nhanh càng tốt để tránh thiệt hại do địch pháo kích. Thời gian di chuyển từ Biên Hòa về CCST khoảng 30 phút theo đội hình đoàn xe. Khoảng 09:30 giờ, BCH nhẹ SĐ/TQLC về đến CCST. Tôi ngạc nhiên khi thấy đoàn xe của Thiếu tá Lâm còn đang đậu trên xa lộ trước cổng CCST, binh sĩ xuống xe bố trí hai bên đường. Thiếu tá Lâm chạy đến cho tôi biết là có cuộc đụng độ dữ dội giữa địch và lực lượng ta tại khu vực ngã ba Lái Thiêu - Quốc lộ 1 và cầu Bình Triệu. Do đó đoàn xe phải quay đầu trở lại. Tôi cảm thấy đầy lo âu và thất vọng. Toán Quân cảnh và binh sĩ canh gác nơi cổng ra vào CCST vẫn làm việc bình thường, quân phục gọn gàng, trông thật hùng dũng và kỷ luật, thể hiện tác phong đứng đắn của những chiến sĩ trong Binh chủng Mũ xanh. Tại BCH/CCST tôi gặp Trung tá Hoàng Ngọc Bảo, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Truyền tin TQLC, Thiếu tá Tô Văn Cấp, Chỉ huy phó CCST và một số anh em sĩ quan khác. Mọi người tỏ ra đăm chiêu nhưng sau đó có vẻ yên tâm khi thấy các đơn vị hành quân di chuyển về càng lúc càng đông đảo. Tôi tìm cách gọi điện thoại về Vũng Tàu để trình cho Tướng Lân về tình hình đang xãy ra tại Biên Hòa cũng như tại CCST, nhưng đường dây không còn liên lạc được nữa. Khoảng 10:00 giờ hơn, Trung tá Bảo từ ngoài cửa văn phòng bước nhanh vào và bằng một giọng trầm hẳn xuống, buồn bã, đầy xúc động, anh báo cho tôi: "Trình Đại tá mình đầu hàng rồi!" Tôi sửng sốt hỏi lại ngay: "Hả? Anh nói sao?" Trung tá Bảo nói tiếp: "Tổng Thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên cáo yêu cầu Quân lực VNCH hãy ở tại chỗ, tránh nổ súng và chờ lực lượng giải phóng đến bàn giao". Tin sét đánh ngang tai. Tôi bàng hoàng không biết phải nói gì với mọi người đang có mặt, dù chỉ một câu thật ngắn ngủi; bởi quả tình tôi chưa hề chuẩn bị một chút tâm tư hay suy nghĩ nào cho những phản ứng trước một sự thật phũ phàng đến như thế; bởi mới hôm qua đây, bao nhiêu anh em vừa mới nằm xuống nơi chiến trường phía Đông không xa lắm, cũng chỉ vì hai chữ "DANH DỰ - TỔ QUỐC"; bởi hai chữ "đầu hàng" hay những cụm từ tương đương với ý nghĩa đó, không bao giờ có trong bất cứ binh thư sách vở nào nơi các quân trường… Nhưng biết làm sao đây, bao nhiêu anh em đang nhìn tôi như chờ đợi một giài đáp. Tôi cho mời tất cả các đơn vị trưởng đang có mặt trong căn cứ đến họp để chính thức thông báo về lời tuyên cáo của Tổng thống Dương Văn Minh. Trước mặt mọi người tôi có vài lời vắn tắt như sau: "Chắc các anh em đã nghe lời tuyên cáo của Tổng thống, cũng là vị Tổng tư lệnh tối cao của Quân lực VNCH. Chúng ta không thể làm gì hơn. Vi là quân nhân, chúng ta phải tuân theo kỷ luật. Yêu cầu các anh em hãy cố gắng tiếp tục đưa đơn vị của mình về CCST, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, đồng thời giải thích cho họ rõ những điều tôi vừa nói để tránh mọi trường hợp đáng tiếc có thể xãy ra. Sau đó anh em có thể cho đơn vị giá súng vào kho và ra về với gia đình. Tôi xin gởi đến tất cả các anh em và gia đình lời chúc bình an và nhiều may mắn. Xin cám ơn tất cả anh em về sự chiến đấu anh dũng và không mệt mỏi trên mặt trận phía Đông Biên Hòa trong những ngày vừa qua"… Có những cặp mắt buồn bã nhìn nhau im lặng… và tôi cũng đã nghẹn ngào, không thể nói thêm được gì hơn. Tôi nhờ Trung tá Bảo gọi bệnh viện Lê Hữu Sanh để tôi hỏi thăm về tình trạng thương bệnh binh ra sao. Một Y tá cho biết Bác sĩ Trần Công Hiệp, Y sĩ trưởng bệnh viện, hiện đang chữa trị cho các thương binh ở khu giải phẫu. Không muốn làm phiền Bác sĩ Hiệp trong lúc ông đang bận săn sóc thương binh, tôi hỏi anh Y tá số thương binh tại bệnh viện hiện giờ là bao nhiêu. Anh cho biết là khoảng gần tám chục người, không kể trên mười thương binh khác trong tình trạng nặng, được chuyển từ mặt trận Biên Hòa về khuya hôm qua và đã được khẩn cấp đưa đi bệnh viện Cộng Hòa điều trị. Bác sĩ Hiệp và các Y tá nam cũng như nữ, vẫn còn tận tụy săn sóc thương binh cho đến giờ phút cuối cùng này. Họ đã chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm, lương tâm của những chiến sĩ quân y TQLC. Sự hiện diện của họ trong lúc này đã xoa dịu phần nào nỗi đau trên thể xác lẫn tâm hồn của các thương bệnh binh. Bên cạnh những bàn tay "Từ mẫu" ấy, các thương bệnh binh hẵn cũng đã tìm được chút niềm an ủi, cảm thấy ấm lòng trong giờ phút đau buồn và tủi nhục nhất của đất nước. Đến trưa thì Bác sĩ Hiệp cho phép các thương bệnh binh và y tá được rời khỏi bệnh viện Lê Hữu Sanh. Các thương binh, kẻ chống nạng, người trên xe lăn, các y tá và bệnh binh còn đi được, thì dắt díu hoặc cõng những thương binh khác, đã nhất quyết rời khỏi bệnh viện vì không muốn chờ kẻ thù đến sỉ nhục hay hành hạ mình. Vâng! Đã đến lúc những thương binh TQLC nói riêng và QLVNCH nói chung, thấy cần phải thể hiện tính khí khái, lòng can đảm và làm bất cứ điều gì mà họ có thể làm được, để bảo vệ danh dự và uy tín của tập thể, mặc dù họ biết chính họ là những kẻ thua thiệt hơn ai hết. Trong giờ phút đầy lo âu và tuyệt vọng này, làm sao quên được những chiến hữu của chúng tôi hiện đang bị bắt làm tù binh hay còn lẩn trốn nơi nào đó ngoài Thừa Thiên và Đà Nẵng. Họ sẽ nghĩ gì khi biết rằng QLVNCH giờ này đã phải ngẩn ngơ buông súng, đầu hàng một cách nhục nhã theo lệnh của Tổng thống VNCH. Họ còn bám víu vào niềm hy vọng nào để tiếp tục phấn đấu trong hoàn cảnh đầy tối tăm ấy? Vợ con và gia đình họ rồi sẽ ra sao? Và cũng mỉa may thay, tôi cũng chưa có được câu trả lời nào dứt khoát cho trường hợp của chính bản thân mình… Khoảng 15:30 giờ, Trung tá Bảo đến khuyên tôi nên ra về vì Căn Cứ Sóng Thần lúc ấy cũng đã vắng vẻ. Chúng tôi cùng một số anh em khác lên chiếc xe Jeep của Trung tá Bảo và hướng ra cổng trại. Điếm canh và vọng gác nơi cổng ra vào CCST lúc bấy giờ cũng đã bỏ trống…
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 26, 2014 3:33:26 GMT 9
Khánh thành Bức Tường Tưởng Niệm 7 vị anh hùng QLVNCH tuẫn tiết ngày 30 tháng TưHình ảnh bảy vị anh hùng trên Bức Tường Tưởng Niệm từ bên trái là Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, và Nguyễn Văn Long. SAN JOSE, Bắc California – Một buổi lễ khánh thành đài tưởng niệm liên quan đến cuộc chiến Việt Nam đã diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm, đầy xúc động tại công viên History Park vào trưa thứ Bảy, ngày 5 tháng Tư vừa qua. Trong hàng trăm người tham dự, có những người lớn tuổi đã mặc quân phục của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ đến để bày tỏ sự tôn kính đối với bảy chiến sĩ đã tuẫn tiết hoặc bị xử bắn trong một cuộc chiến kết thúc trong đau thương với hàng trăm ngàn người phải rời bỏ quê hương và hàng triệu người phải sống dưới chế độ cộng sản từ cuối tháng Tư năm 1975. Một số người đã khóc khi nghe bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa trong lễ chào cờ khánh thành bức tường tưởng niệm bảy chiến sĩ. Các thân nhân của bảy chiến sĩ mà trong đó có các tướng lãnh đã cầm những quả bong bóng màu vàng khi nghe đọc tiểu sử của từng chiến sĩ. Khi bài tiểu sử kết thúc, bong bóng được thả bay cao lên bầu trời xanh biểu tượng cho sự siêu thoát của linh hồn. Trong bảy trái bóng được thả thì sáu đã bay theo gió, riêng một bong bóng đã vướng vào nhánh cây của một cây cao trong Bảo Tàng Viện Lịch Sử Việt Nam (Viet Museum) nằm trong khuôn viên của History Park, đường Senter Road. Bức tường tưởng niệm do nhóm Biệt Đoàn Văn Nghệ Lam Sơn thực hiện sau hơn một năm vận động. Trong thư mời dự lễ khánh thành, Biệt Đoàn Văn nghệ Lam Sơn cho biết như sau về công trình xây dựng Bức Tường Tưởng Niệm: “Biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn thành lập tại San Jose đã liên tiếp trình diễn các chương trình nhạc kịch đề cao tinh thần hy sinh của các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi hoàn toàn tự nguyện và sinh hoạt độc lập, đã có mặt tại nhiều nơi từ Texas, Nevada đến hai miền Nam Bắc California. “Qua nhiều lần sinh hoạt, đoàn chúng tôi học hỏi thêm về sự hy sinh cao cả của 7 vị anh hùng trong thời điểm đau thương 30 tháng 4-1975 của Việt Nam Cộng Hòa. Với tư cách là con cháu của thế hệ tiền nhân anh dũng, chúng tôi đã hoàn tất bức tường tưởng niệm tại Việt Museum trong công viên lịch sử San Jose. “Trên bức tường này có ghi rõ hình ảnh, danh tính và hoàn cảnh tuẫn tiết của các vị anh hùng. Đồng thời cũng có hình ảnh của các chiến sĩ vô danh quân dân cán chính đã hy sinh.” Theo lời đề nghị của ban tổ chức, các cựu chiến binh dự lễ khánh thành đã mặc quân phục và phần lớn các phụ nữ đã mặc áo dài. Trong bảy chiến sĩ đã tuẫn tiết trong biến cố 30 tháng Tư, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được xem nổi bật nhất. Chân dung của ông được đặt ở giữa bảy chiến sĩ. Họ là các tướng tá đã tuẫn tiết hay bị xử bắn sau khi xe tăng bộ đội cộng sản miền Bắc tiến vào Sài Gòn trưa ngày 30-4-1975. Ngoài tướng Nguyễn Khoa Nam, sáu anh hùng của Quân Lực VNCH là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và Trung Tá Nguyễn Văn Long. Lễ động thổ xây dựng đài tưởng niệm được gọi Bức Tường Tưởng Niệm Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng hòa đã diễn ra vào cuối tháng 11 năm ngoái. Theo các tin trước đây, kinh phí xây dựng Bức Tường tốn khoảng $30,000. Biệt Đoàn Văn Nghệ Lam Sơn đã tổ chức những buổi gây quỹ với sự đóng góp của nhiều ca nghệ sĩ trong năm qua. Biệt đoàn gồm khoảng hơn hai mươi người, là những thanh niên, thiếu nữ tuy chưa một lần khoác áo chiến binh nhưng đã có thân nhân là lính nên hiểu được sự hy sinh của chiến sĩ Cộng hòa trong công cuộc bảo vệ tự do cho đất nước. Họ trân quý sự hy sinh của thế hệ cha ông nên đứng ra thực hiện công tác xây dựng đài tưởng niệm. Trong một buổi văn nghệ được trình diễn vào năm ngoái, biệt đoàn đã dựng lại vở bi hùng kịch “Quân Lệnh Cuối Cùng” về những giờ phút cuối của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 Vùng 4 Chiến thuật. Trước khi vở kịch diễn ra, cựu Trung úy Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên ở bên cạnh Tướng Nam cho đến giây phút cuối cùng đã lên diễn đàn nói về vị chỉ huy. Theo ông Danh, Tướng Nam có nhân cách đạo đức của một Phật tử, có tình huynh đệ chi binh của một vị tướng hết lòng với lính, ăn ở và sống gần gũi với thuộc cấp mà không phân biệt quan, quân. Bảy giờ sáng 1-5-1975 tướng Nam đã tự sát bằng súng. Bức Tường Tưởng Niệm khiêm tốn dài 4 mét, cao 2.5 mét, được xây dựng bên cạnh Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa đã có từ mười năm qua. Một trong những người dự lễ khánh khánh là ông Trần Việt, con của cố Chuẩn Tướng Trần Văn Hai. Ông Việt kể với nhật báo Mercury, “Cha tôi có một chiếc trực thăng, nhưng ông quyết định không rời quê hương. Tôi biết tính của cha tôi. Ông không rời bỏ chiến trường. ...” Chuẩn Tướng Trần Văn Hai đã ngồi lại trong văn phòng của ông và uống thuốc độc. Ông Việt nói thêm, “Hôm ấy là một ngày đầy đau thương. Những người sống ở miền Nam Việt Nam tin tưởng ở một chế độ dân chủ tự do. Khi chế độ đó sụp đổ, chúng tôi cảm thấy chúng tôi đã mất quê hương.” Trong những vị anh hùng đã tuẫn tiết, cái chết của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn nói lên sự bi hùng của những tướng tá chấp nhận ở lại thay vì rời bỏ quê hương. Ông Hồ Ngọc Cẩn bị bộ đội cộng sản miền Bắc dẫn vào một sân vận động ở Cần Thơ, nơi ông bị xử bắn vào tháng Tám, mấy tháng sau biến cố 30 tháng Tư, 1975. Thay vì buông súng, ông Cẩn tử thủ cùng với một số binh sĩ tại tỉnh Chương Thiện cho đến khi bị bắt. Một cựu cố vấn Mỹ từng làm việc với ông Cẩn và có mặt trong buổi lễ khánh thành nói rằng cộng sản muốn triệt hạ ông Cẩn vì tinh thần bất khuất của ông. Buổi lễ khánh thành cũng có sự hiện diện của nhiều viên chức địa phương kể cả những ứng cử viên thị trưởng San Jose như Giám Sát Viên Dave Cortese của Hạt Santa Clara, Phó Thị Trưởng Madison Nguyễn và Nghị Viên Sam Liccardo. Nữ Dân Biểu Liên Bang Zoe Lofgren thuộc đảng Dân Chủ, Giám Sát Viên Cindy Chavez, Nghị Viên Ash Kalra và Nghị Viên Xavier Campos cũng có mặt trong buổi lễ khánh thành Bức Tường Tưởng Niệm vinh danh bảy vị anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. ********************************************************* Những Hình Ảnh Tưởng Như Đã Quên Câu Chuyện Của Một Người Tị Nạn Việt Nam 05/09/201500:00:00(Xem: 680) Nam Phương Trần Ngọc Chi (Mary Chi Ray) Những Hình Ảnh Tưởng Như Đã Quên Câu Chuyện Của Một Người Tị Nạn Việt Nam Share on facebook Tháng Tám năm 2015, ở Paris tôi thấy trên màn ảnh truyền hình đầy hình ảnh và phóng sự hàng ngàn người Syria chạy giặc bỏ nước ra đi. Người tị nạn chạy qua Thổ nhĩ kỳ, chia thành hai dòng người, dòng chính vượt eo biển Aegean đến Hy Lạp, từ đó chạy qua Serbia vào Áo và Hung gia lợi. Chính phủ Hung lập hàng rào dây kẽm gai và huy động cảnh sát ngăn không cho người tị nạn vào nước, trong khi Áo tìm cách giúp đỡ làn sóng người tị nạn đến Pháp Ý và Đức. Đó là chưa nói tới trong mùa hè năm nay hàng chục ngàn người dân bắc Phi châu chạy loạn vượt Địa Trung Hải chạy qua Hy Lạp và Ý trên những con thuyền mong manh không chịu nổi sóng gió làm hàng ngàn người bỏ mình trên biển cả. Những hình ảnh đó trong khoảnh khắc làm tôi nhớ lại hình ảnh của chính đồng bào mình chen lấn nhau tìm đường rời khỏi thành phố Sàigòn vào cuối tháng 4 năm 1975 trên màn ảnh truyền hình tại Hoa Thịnh Đốn. Bao nhiêu cuộc đời sẽ đổi thay cũng như cuộc đời tôi đã đổi thay từ giây phút đó. Bỗng chốc tôi là một người tị nạn, một người không còn tổ quốc và quê hương, và bắt đầu một cuộc hành trình mới trên quê hương tạm dung như những người tị nạn đang lang thang không cửa không nhà tại các nước Âu châu hôm nay sẽ bắt đầu cuộc hành trình đầy gian khổ của họ từ giây phút này. Năm 1975 không thể xóa mờ trong tâm trí người Việt, cũng là năm ghi dấu nhiều biến cố quan trọng trên thế giới. Hai tuần trước quân Pol Pot chiếm Phnom Penh, đuổi dân ra khỏi thành phố, giết bất cứ ai biết đọc biết viết. Quân đội Nam Dương tấn công chiếm Đông Timor. Ba nước Angola, Mozambique, Papua New Guinea tuyên bố độc lập. Năm Liên hiệp quốc công bố “Năm Nhân quyền của Người Phụ nữ.” Cũng là năm phi thuyền Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ ghép nhau trong không gian. Và Bill Gates và Paul Allen, hai sinh viên chưa có bằng đại học thành lập công ti Microsoft làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Tổng thống Gerald Ford xin Quốc hội viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) 700 triệu mỹ kim, nhưng Quốc hội chỉ chấp thuận một ngân sách vừa đủ để di tản 130.000 người từng làm việc với người Mỹ ra khỏi nước. Đó là lúc chương trình định cư người Việt tị nạn bắt đầu thành hình tại Văn phòng Định Cư của bộ Y tế và Xã hội Liên bang. Bộ này trước đó đã định cư người Cuba chạy nạn Fidel Castro. Hình ảnh một thời. Những người tị nạn thuộc mọi sắc tộc được đăng ký vào chương trình CETA (Comprehensive Employment and Training Act), một chương trình Liên bang “vừa làm việc vừa học nghề”, kéo dài từ 3 đến 8 tháng được chính phủ trả một nửa lương. Các cơ sở tư nhân nơi họ làm việc trả nửa lương còn lại. Nha Định cư Tị nạn còn có trách nhiệm giúp các tù nhân chính trị trong diện HO không có thân nhân bảo lãnh định cư qua các cơ quan thiện nguyện. Các cơ quan này được trợ cấp mỗi đầu người $800 để giúp các tù nhân ghi danh học Anh Văn, huấn nghệ … Trở lại với người tị nạn từ năm 1975. Không kể các em còn nhỏ theo bố mẹ đến Hoa Kỳ trong số 130.000 người đầu tiên di tản hoặc vượt biên trong khoảng 10 năm sau đó hội nhập vào xã hội mới nhanh chóng và thành công, lớp người lớn tuổi cũng thành công không ít trên nhiều lĩnh vực khác nhau qua các hoạt động của mình trong mọi lĩnh vực, từ chính trị dòng chính cho đến các ngành khoa học và chuyên môn. Tôi đi vào dòng chính để tìm một tiếng nói cho người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ bằng cách tham gia cuộc vận động tranh cử cho Liên danh Reagan-Bush năm 1984 và liên danh Bush-Quayle năm 1988. Trước đó dưới thời tổng thống Jimmy Carter (1976-1980) bà Lê Thị Anh đã là người phụ nữ có sáng kiến và cùng với các nhân vật trong cộng đồng tị nạn tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn phất ngọn cờ đấu tranh chống chính quyền Cộng Sản tại Việt Nam và đẩy mạnh cao trào giúp thuyền nhân vượt biển tìm tự do đang lao đao tại các nước Đông nam á, nhất là Thái Lan và Mã Lai. Chống hải tặc Thái Lan và chống chính sách vô nhân đạo kéo thuyền của thuyền nhân ra biển của Thái Lan, Mã Lai và Indonesia là chính. Bà Lê Thị Anh vận động mở các cuộc điều trần tại Quốc hội về tình trạng nhân quyền và đàn áp tôn giáo của chính quyền cộng sản cho các nhân vật vừa vượt thoát khỏi Việt Nam như Dân biểu của Hà Nội Nguyễn Công Hoan và ông Nguyễn Văn Cội, thuộc Phật giáo Hòa Hảo, và từng hợp tác với dân biểu Don Bailey (DC, Maryland) tổ chức hội nghị Don Bailey tại trụ sở quốc hội Hoa Kỳ với sự tham dự của Đại Tá Edward Lansdale, cựu giám đốc Trung Ương Tình báo Hoa Kỳ (CIA) William Colby và rất nhiều nhân vật đấu tranh trong cộng đồng người Việt tị nạn như cựu thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn, cựu Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, ông Hà Thúc Ký, cựu Đô trưởng Sài gòn Đỗ Kiến Nhiễu, cựu Thượng nghị sĩ Trần Quang Thuận, các ông Trần Quốc Bảo, luật sư Đào Tăng Dực (Úc châu), cựu Đại Tá Hà Mai Việt (Pháp), cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, bác sĩ Trần Văn Tính, dược sĩ Nguyễn Mậu Trinh, bác sĩ Hồ Chung Tú, đại tá Nguyễn Phước Đàn, ông Đinh Văn Ngọc … đặt vấn đề giam giữ cựu sĩ quan và viên chức VNCH. Qua nỗ lực vận động tranh cửa cho các liên danh Reagan-Bush và Bush – Quayle năm 1989 tôi vinh dự là người Việt Nam đầu tiên được tổng thống George Bush bổ nhiệm vào chức vụ Phó Tổng Giám đốc Nha Định cư Tị nạn thuộc chính phủ liên bang Hoa Kỳ phụ trách việc định cư cho người tị nạn thuộc mọi sắc dân ngoài Việt, có Miên, Lào, Nga gốc Do Thái, Ethiopian, Haitian, Cuba … Ở chức vụ đó năm 1989 tôi tham gia phái đoàn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cùng với Dân biểu Robert Dornan (CH, California) do Thứ trưởng bộ Ngoại giao Lawrence Eagleburger (1930-2011) làm trưởng phái đoàn dự Hội nghị quốc tế tại Geneva để cùng với chính quyền Hà Nội hình thành một Kế hoạch hành động toàn diện (Comprehensive Plan of Action – CPA) đẻ ra chương trình “Ra đi có Trật Tự” (Orderly Departure Program- ODP) giải quyết vấn đề ứ đọng người tị nạn tại các nước Đông Nam Á và điều hoà các chương trình bảo lãnh thân nhân, chương trình con lai, v.v… Phái đoàn Hà Nội do Ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cầm đầu. Thời gian này Hà Nội đang khốn đốn với lệnh cấm vận của Hoa Kỳ và ai cũng biết Hà Nội nhượng bộ trong chương trình ODP là điều kiện để Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận. Nhưng để “giữ thể diện” ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Hà Nội Nguyễn Cơ Thạch nhấn mạnh trước hội nghị “no linkage!” Một số đoàn thể người Việt hải ngoại có mặt tại Geneva để áp lực hội nghị như cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm đại diện Phật Giáo cùng với đại diện các tôn giáo khác như Công giáo, Cao Đài. Cá nhân hiện diện có giáo sư Lê Xuân Khoa, giám đốc cơ sở Đông dương Tác vụ (Indochina Refugee Action Center – IRAC) các ông Võ Văn Ái, Nguyễn Ngọc Bích, nhà đạo diễn Vĩnh Noãn... Tôi có dịp cùng với Dân biểu Dornan tường trình diễn tiến hội nghị cho quý vị ấy ngoài hành lang hội nghị. Dù có chương trình ODP, người trong nước vẫn lũ lượt ra đi bất chấp mọi nguy hiểm của sóng gió biển cả và hải tặc đòi hỏi Nha Tị nạn chúng tôi hợp tác với tiến sĩ Nguyễn Hữu Xương và nhà văn Phan Lạc Tiếp, những người đầu tiên chủ xướng “Ủy ban Báo Nguy Người Vượt biển” tại San Diego. Để thuận tiện trong việc vận động sự giúp đỡ của chính phủ, Ủy Ban Báo Nguy chuyển văn phòng về thủ đô Hoa Thịnh Đốn do bà Trương Anh Thụy và ông Nguyễn Ngọc Bích phụ trách và đổi danh xưng thành “Ủy ban Cứu Người Vượt biển” và là tiền thân của chương trình “Boat People SOS” hiện nay do tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng điều hành. Tôi khởi đầu cuộc hành trình tới Hoa Kỳ từ Paris khi được Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ mời dạy học tại Trung tâm Sinh ngữ Quân đội ở Texas trước khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Sau ngày 30-4-1975 với tư cách một người tị nạn định cư hợp lệ, tôi bắt tay vào việc giúp người tị nạn định cư. Tôi được Bộ Tư lệnh Không quân Hoa Kỳ mới đến Florida giúp quản lý trại tị nạn Florida đặt tại căn cứ Không quân Eglin. Eglin là một trong 4 trại tị nạn đầu tiên trên đất Mỹ. Và là trại của những người có điều kiện ra khỏi nước sớm nhất, gồm các phi công lái máy bay phản lực bay qua căn cứ Udon, Thái Lan, và các ngư dân có thuyền chạy ra biển được tàu của Hải quân Hoa Kỳ vớt. Được bảo lãnh ra trại các phi công và ngư dân định cư nhiều ở tiểu bang Louisana kế cận. Các nhân vật tên tuổi như nhạc sĩ Phạm Duy, giáo sư Nguyền Ngọc Bích từng tị nạn tại đây. Sau trại Eglin tôi đến làm việc tại trại tị nạn Pennsylvania ở căn cứ quân sự Fort Indiantown Gap. Thượng tọa Thích Giác Đức, giáo sư Trần Trọng Sanh một nhân vật lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng đã tị nạn tại đây. Từ công việc tị nạn, tôi bước qua lĩnh vực chính trị. Là một thành viên đảng Cộng Hòa, tôi tham gia cuộc vận động tranh cử cho liên danh Reagan-Bush, nhiệm kỳ 2 (1984-1988) và liên danh Bush – Quayle nhiệm kỳ 1988-1992 ở cương vị Đồng Chủ tịch Ủy ban Tranh cử người châu Á trong Ủy ban Tranh cử Trung ương. Nhận thấy sau 1975 cộng đồng người Việt ít có thông tin về Việt Nam, chúng tôi liên hệ với Văn phòng Giao Tế của Tòa Bạch Ốc và tòa Bạch Ốc đã yêu cầu Nha Á châu Sự vụ và Văn phòng Việt – Miên – Lào bên Bộ Ngoại giao do ông Paul Wolfowitz (sau này giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và một thời làm Chủ tịch Ngân hàng Thế Giới) thỉnh thoảng phụ trách thuyết trình cho cộng đồng người Việt. Tham dự những buổi thuyết trình này thường có đại diện báo chí như các ông Đỗ Ngọc Yến, chủ nhiệm báo Người Việt Cali (nay là nhật báo Người Việt), nhà báo Chữ Bá Anh, nhà báo Vũ Quang Ninh, tài tử điện ảnh Kiều Chinh, ông Cao Thế Dung, bà Khúc Minh Thơ chủ tịch Hội Gia đình Cựu Tù nhân Chính trị, bà Jackie Bong Wright, chủ tịch Liên hội Hoa Thịnh Đốn, ông Lê Văn Ba, và còn nhiều nhân vật nữa tôi không nhớ hết. Trong buổi thuyết trình đầu tiên có các nhân vật đại diện Lào và Cambodia gồm tướng Vang Pao, hoàng thân Khamsouk, cựu tham mưu trưởng phủ thủ tướng Lon Nol, trung tướng Soutaine Fernandez. Ông Linas J. Kojelis, đồng Giám đốc Phòng Giao tế của tổng thống Reagan đã rất tích cực trong các cuộc thuyết trình này. Dân biểu Stephen J. Solarz, (DC, New York) Chủ tịch tiểu bang Á châu sự vụ thuộc Ủy Ban Ngoại giao và ông phụ tá Eric Schwartz cũng đã giúp đỡ rất nhiều. Cuộc vận động cho cựu tù nhân chính trị có một thuận lợi. Hà Nội đang muốn đẩy các cựu tù nhân ra khỏi nước trong khi Hoa Kỳ đang muốn làm một cái gì đối với một đồng minh mình đã bỏ rơi. Do đó thành quả là chương trình HO cho phép các cựu sĩ quan và viên chức VNCH đã từng bị giam giữ tại các trại “cải tạo” của chính quyền CSVN hơn 3 năm được định cư tại Hoa Kỳ. Đó là một thành quả chung của cộng đồng và sự nỗ lực của thân nhân các cựu tù nhân chính trị chứ không phải là thành quả của một cá nhân nào. Trong thập niên xáo trộn 1980, dư luận quần chúng Hoa Kỳ hoang mang với Hội chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome) và nghi ngờ sự loan tin thiếu trung thực của báo chí truyền thông (media) trong những năm sau cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam đã thúc đẩy quốc hội Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam, tôi bắt tay hợp tác với tổ chức “Accuracy in Media” của ông Reed Irvine thực hiện hai cuốn phim tài liệu bằng hai ngôn ngữ Anh và Việt để lột trần âm ưu này. Hai tài liệu này còn có mục đích bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của cuốn phim tài liệu: Vietnam: A Television History do nhà báo Stanley Karnov thực hiện và trả lại danh dự cho quân nhân Việt Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam. Một trong hai cuốn phim là cuốn “Television Vietnam: The Real Story” do tài tử điện ảnh Charlton Heston diễn tả được một đoàn chuyên viên dưới sự điều động của ông Vũ Quang Ninh (đài Tiếng Vọng Quê Hương) dịch và diễn đọc (dubbing) thành cuốn phim Việt ngữ nhan đề: “Việt Nam: Câu chuyện thật”. Đoàn chuyên viên giúp ông Vũ Quang Ninh gồm gồm các ông Đinh Xuân Thái, Đinh Xuân Dương (đài Little Sàigòn), ông Nguyễn Thượng Hiệp (báo Tin Việt) và tài tử Lê Tuấn, ông Nguyễn Hữu Công, cô Kim Thanh diễn đọc. Cuốn phim “Việt Nam: Câu chuyện thật” được trình chiếu cho các cộng đồng người Việt tị nạn tại Houston, New Orleans, Little Saigon, San Jose, Fall Church, Kennedy Center, (Washington D.C.)… đã có tác dụng mang lại sự tự tin cho người tị nạn. Trong buổi trình chiếu tại Kennedy Center khi trao bằng tưởng lục cho tài tử Charlton Heston tôi đã nói với ông: “Tôi không ngờ hôm nay tôi hân hạnh được gặp ông, một tài tử nổi danh chúng tôi chỉ thấy được trên màn ảnh truyền hình qua những vai ông đóng từ vua, đến người tị nạn, người tù, người tráng sĩ… nói tiếng Anh, tiếng Pháp nhất là trong hai cuốn phim bất hũ “Ben Hur” (1959) và “The Ten Commandements” (1956) vào cuối thập niên 1950. Hôm nay ở đây tôi được thấy một người Mỹ chân thật can đảm đem uy tín của mình giúp thực hiện tài liệu “Television Vietnam: The real Story” trả lại sự thật cho lịch sử mà không lấy bồi hoàn. Và không gì thú vị hơn được nghe ông giới thiệu bằng Việt ngữ điệp giọng (voice dubbing) trong cuốn “Việt Nam: Câu chuyên thật” này. Tôi xin đa tạ ông.” Trong sinh hoạt đôi khi có những cuộc tranh luận rất lý thú. Một lần đài CNN mời tôi tranh luận với đại sứ Hà Nội Lê Văn Bàng và bà Le Le Hayslip để bác bỏ sự mô tả không trung thực của bà Hayslip (một phụ nữ Việt Nam) trong cuốn sách nhan đề “When Heaven and Earth changed Places”. Một lần khác tôi đã tranh luận với ông William Sullivan 1922 – 2013) giám đốc Phòng Thương Mãi Việt – Mỹ nguyên cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, người ủng hộ tái lập quan hệ thương mãi và ngoại giao với Việt Nam bất chấp chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền và đang chiếm đóng Cambodia. Tôn trọng nhân quyền là điều kiện cần thiết để một quốc gia gia nhập vào sinh hoạt với cộng đồng thế giới một cách lành mạnh. Năm 2000 khi tổng thống George W. Bush ra tranh cử, tôi thành lập Ủy ban Cộng Hòa người Mỹ gốc Á châu vùng Philadelphia để vận động tranh cử cho ông. Tiếp tục hoạt động cho đảng Cộng Hòa, năm 2003 và năm 2006 tôi hai lần được bổ nhiệm vào chức vụ cố vấn của Hội đồng Tiểu thương thuộc chính phủ Liên bang (National Advisory Council of the U.S. Small Business Administration ). Tiểu thương là một sinh hoạt quan trọng trong nền kinh tế quốc gia đối với các thành phần dân tộc thiểu số. Tại quận Fairfax, Virginia nơi tôi cư ngụ tôi từng được bổ nhiệm vào các chức vụ Board Equalization Commision, Fairfax Communities Funding Commission và GOP Central Committee Board. Năm 1994 tôi lập đài truyền hình Việt ngữ đầu tiên tại vùng Hoa Thịnh Đốn, song song với tờ báo Việt ngữ “Ngày Nay” (Vietnam Today) và một đài Radio trên băng tần 1420AM. Năm 1996 tôi thành lập và điều hành hai Trung Tâm Quốc tịch và Di trú Hai cơ sơ này đã giúp nhiều thành phần thiểu số gốc Đông Dương vượt qua thủ tục giấy tờ nhiêu khê của chính phủ để trở thành công dân hay bảo lãnh thân nhân trực hệ. Đến đây tôi không thể không nhắc đến những người đã khuất như giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (Liên Minh Dân chủ VN), ông Lê Quốc Túy (Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam) những nhân vật từng được Viện cố vấn ý kiến (a think-tank) về các vấn đề quốc gia “Heritage Foundation” - mà tôi là một thành viên - mời đến thuyết trình. Chúng ta không quên giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, vào những ngày cuối cùng bị bệnh ung thư hành hạ ông vẫn còn làm việc, và ông Lê Quốc Túy mỗi tuần hai lần thay máu vì thận hư vẫn bôn ba đây đó tìm hậu thuẩn cho cuộc đấu tranh bỏ dở của các chiến hữu Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân. Bốn mươi năm trôi qua, những người có mặt tại Hoa Kỳ trước năm 1975 và những người đến ngay sau đó ngoài việc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam đã không ngừng nghĩ làm việc tạo điều kiên cho những người đến sau. Thế hệ đến Hoa Kỳ qua các chương trình ODP, HO, chương trình Con lai (Amerisian Home Coming Act) trong thập niên 1980, 1990 nhớ đừng quên những người đi trước, và các đại diện dân cử trong Quốc hội Hoa Kỳ. Không có sự vận động của Thượng nghị Sĩ John McCain (CH- Arizona) đã không có chương trình HO, và không có Dân biểu Tom Ridge (CH – Pennsylvania), một cựu chiến binh Việt Nam đệ nạp dự luật Amerisian Home Coming Act đã không có Chương trình Con lai. Ấn tượng mạnh nhất đối với tôi là thảm trạng chiến tranh và đổ vỡ. Nhìn cảnh chạy giặc trên thế giới bất chấp chết chóc trên biển cả, trên đất liền từ Lebanon (thập niên 1980), Iraq (1990 & 2001), Syria (2011 – 2015) và Bắc Phi (2015) tôi không khỏi nhớ lại những ngày tháng đen tối của đất nước. Bây giờ nhìn lại, sau 40 năm người di dân Việt Nam khá thành công tại Hoa Kỳ nhờ thông minh, chịu khó. Nhưng tôi còn chút bất an với cảm nghĩ đó chỉ là sự thành công riêng rẽ của từng cá nhân như những ánh sao sáng riêng rẽ trên bầu trời nước Mỹ, chưa tạo thành sức mạnh của một khối. Đó là ưu và nhược điểm của chúng ta. Không phải chỉ cho người Việt tại Hoa Kỳ mà còn là nhược điểm chung của một dân tộc làm cho nước Việt Nam sau 40 năm hòa bình vẫn lẽo đẽo chạy sau lưng các nước khác ở Đông Nam Á. Tại sao? Nguyên nhân nào? Giải đáp của câu hỏi này biết đâu là chiếc chìa khóa mở cửa ngôi nhà Việt Nam. Để kết thúc, chuyện không thể quên qua 40 năm tị nạn là hình ảnh bức tượng Nữ thần Tự do đưa cao cánh tay chào đón và bảo bọc chúng ta, “những người đói nghèo và kiệt sức, những người bị chính quê hương mình từ chối, những kẻ vô gia cư, những người bị dập vùi sau cơn bão tố!” Virginia September 4, 2015 Nam Phương Trần Ngọc Chi (Mary Chi Ray)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jun 11, 2014 17:13:31 GMT 9
Nghĩa trang Biên Hòa 38 năm sau.Giao Chỉ, San Jose. Đêm canh thức 1974 Ngày 1 tháng 11 năm 1974 tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn chính phủ, các tướng lãnh lên làm lễ tưởng niệm tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Hiệp định Paris đã ký kết. Mỹ đã rút quân về. Quân Bắc Việt vẫn nằm lại miền Nam. Trận chiến dành dân lấn đất vẫn đổ máu. Nền hòa bình giả tạo đang che đậy những ngày bão nổi sắp đến. Dù vậy toàn quốc miền Nam vẫn còn nhớ đến 16 ngàn tử sĩ nằm tại nghĩa trang Biên Hòa. Từ hôm trước, sinh viên sỹ quan quân trường Thủ Đức tham dự đêm canh thức. Trên cánh đồng mộ chí 125 mẫu bao la, một nửa đã có phiến xi măng sơn trắng. Một nửa còn đắp đất. Hàng trăm cây đuốc thắp sáng những con đường và chung quanh nghĩa dũng đài. Hàng ngàn nén hương được cắm xuống. Chiến binh của trung đội thao diễn danh dự trong quân phục liên quân gác quanh vành khăn tang trên Nghĩa Dũng đài. Sinh viên sỹ quan chia nhau đảm trách 24 trạm gác tư thế thao diễn nghỉ. Một tiểu đoàn địa phương quân tiểu khu Biên Hòa lo an ninh vòng ngoài. Đêm canh thức hết sức vĩ đại và bi tráng. Khi tiếng kèn truy điệu nổi lên trong canh khuya. Khói hương bay tỏa lên trời và những giọt nước mắt chảy xuống trên mặt các sinh viên sỹ quan trừ bị 20 tuổi. Nếu chưa bao giờ sống trong cảnh tượng vĩ đại đó thì làm sao nói chuyện nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Sẽ không bao giờ hiểu được lúc nào là giây phút người chết và người sống gặp nhau. Le_tuong_niem_ngay_1-11-74_tai_NTBH (2) Thùng dầu thô của ông Thiệu. Sau 1 đêm dài gần như không ngủ, các sinh viên, binh sĩ và sỹ quan trách nhiệm từ bộ tổng tham mưu đến công binh và quân nhu bắt đầu chuẩn bị cho ngày đại lễ. Xe của các tướng lãnh và thành viên nội các đến trước 9 giờ. Nghĩa trang hình con ong quay đầu ra xa lộ. Trên ngọn đồi nhỏ có đền liệt sĩ là đầu ong với mũi kim chạy dài ra đến tượng Thương Tiếc. Chiến binh dàn chào từ xa lộ, qua tượng chiến sĩ, cổng tam quan, đền tử sĩ cho đến nghĩa dũng đài. 10 giờ sáng trực thăng của tổng thống, phó tổng thống và chủ tịch quốc hội hạ cánh. Sau nghi lễ khai mạc tưởng niệm và dâng hương, tổng thống Thiệu châm lửa đốt một thùng dầu thô lấy từ mỏ dầu Bạch Hổ. Lúc đó có tin những dàn khoan dầu Hoa Hồng, Bạch Hổ và các nơi khác tại biển Đông trong vùng lãnh hải tại Việt Nam đã có dầu. Bằng tiếng nói nghẹn ngào, tổng thống nói rằng: “Bây giờ Mỹ đã bỏ đi, chúng ta phải chiến đấu một mình.. Cầu trời giúp cho có dầu, chúng ta có phương tiện để tiếp tục cuộc chiến”. Tiếp theo phái đoàn chính phủ tham dự buổi thuyết trình của công binh về công tác Nghĩa dũng đài. Phần căn bản của Kiếm đài hùng vĩ này sẽ phải hoàn tất tháng 4 -1975. Sau đó phía trong và ngoài vành khăn tang sẽ khắc hình ảnh các chiến dịch lịch sử giữ nước ngày xưa cho đến các trận Quảng Trị, Bình Long sau này. Đại lễ khánh thành toàn diện nghĩa trang quân đội Biên Hòa dự trù sẽ tổ chức ngày 19 tháng 6 năm 1975. Ngày đó không bao giờ tới. Nhưng riêng ngày 1 tháng 11 năm 1974 thì các phu nhân và các nữ quân nhân thay nhau thắp nhang trên những ngôi mộ. Đó là ngày đại lễ tưởng niệm cuối cùng của 16 ngàn tử sĩ nằm tại nghĩa trang Biên hòa. Những nén hương lịch sử Đầu tháng 4, 1975 phái đoàn quốc hội Hoa kỳ qua thăm Việt Nam để ước lượng tình hình lần cuối. Bộ tổng tham mưu VNCH đem vũ khí tối tân chiến lợi phẩm của cộng sản ra trưng bày. Chuẩn bị buổi thuyết trình qua đề tài yêu cầu quân viện. Đoàn xe của dân biểu Mỹ chạy ngang qua nhưng không ghé lại theo chương trình. Phái đoàn Mỹ cũng chạy ngang qua nghĩa trang Biên Hòa nhưng chẳng ai quan tâm hỏi han. Lên bộ tư lệnh quân đoàn III để hỏi tin tức chiến trường. Họ có ý lấy thành tích ra tận mặt trận nghe tiếng pháo của Bắc quân. Không kèn, không trống rồi các ông bà dân biểu về Mỹ, đó là lần sau cùng lập pháp Hoa Kỳ quay lưng lại Việt Nam. Nhưng có 1 người dừng lại . Đại tướng Frederick C. Weyand Đại tướng Frederick C. Weyand, nguyên tư lệnh quân lực Mỹ cuối cùng tại Việt Nam lúc đó là tham mưu trưởng lục quân. Ông được tổng thống Mỹ ủy nhiệm qua Việt Nam lượng định tình hình quân sự vào giờ chót. Trên đường thăm quân đoàn III, trực thăng của đại tướng đã bất ngờ đáp xuống nghĩa trang Biên Hòa. Cuộc viếng thăm hoàn toàn ngoài chương trình. Toàn thể liên đội chung sự lúc đó chỉ có 1 chuẩn úy Thủ Đức mới ra trường là sĩ quan trực. Là giáo sư bị động viên, anh sĩ quan có đủ chữ nghĩa để hướng dẫn ông đại tướng từ Ngũ Giác Đài và phái đoàn đến thăm. Mộ sơn trắng là tử sĩ chết từ 1968. Mộ đắp đất có bia là chết từ 72, 73. Mộ chưa có bia là vừa hy sinh trong tháng qua. Mộ có cắm cờ là mới đem về. Thi hài các chiến binh Xuân Lộc thuộc sư đoàn 18 còn nằm trong nhà xác. Ông tướng hỏi tổng số bao nhiêu mộ. Thưa hơn 16 ngàn. Tiếp theo, anh chuẩn úy đã theo đúng nguyên tắc nên chỉ dẫn cho đại tướng làm theo thủ tục. Đưa đại tướng ra phần mộ chiến sĩ vô danh. Đưa hương cho ông tướng tưởng niệm. Đại tướng làm đúng theo lời hướng dẫn. Ông chắp tay rồi quỳ gối trước phần mộ và cắm hương. Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh quân đoàn III đứng yên lặng phía sau. Đại Tướng Weyand thắp hương trước mộ Chiến Sĩ Vô Danh Đại tướng Weyand đã làm một cử chỉ đẹp nhất của người chiến binh Hoa Kỳ đối với tử sĩ Việt Nam vào ngày giờ sau cùng. Bắt tay anh chuẩn úy bằng cả 2 tay, đại tướng từ giã nghĩa trang quân đội VNCH. Anh phóng viên của AP chụp hình, nhiếp ảnh gia của Stars and Tripes đi theo đã quay được những thước phim vô cùng xúc động. Đại tướng về Mỹ báo cáo tình hình cho tổng thống. Dù biết rằng bất khả nhưng ông vẫn ghi rằng muốn chặn đứng Bắc quân cần có ngay lời tuyên bố quyết liệt của Hoa Kỳ và B52. Nhưng chuyện nghĩa trang Biên Hòa ông giữ cho riêng ông. Lúc còn tại chức ở Việt Nam, tướng Weyand luôn luôn tin tưởng rằng nếu được yểm trợ đầy đủ về tinh thần và vật chất, QLVNCH sẽ chiến thắng. Chuyến đi Việt Nam lần cuối vào tháng 4-75, ông tướng thấy lòng tan nát. Ông đã mất tháng 2-2010, thọ 93 tuổi. Mong rằng sau này có người chiến binh Cộng Hòa ghé lại nghĩa trang quốc gia vùng Thái Bình Dương tại Honolulu, tìm mộ đại tướng và thắp một nén hương. Nghĩa Trang Quốc Gia Honolulu Những nén hương sau 75. Cuối tháng 4-75 cơn hồng thủy ập đến, chẳng còn ai quan tâm đến nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa. Đơn vị công binh phụ trách công trường nghĩa dũng đài vẫn tiếp tục công tác. Những tấm ciment cuối cùng đã đổ xong và kéo lên đỉnh ngọn kiếm. Anh lính công binh đứng trên đỉnh kiếm của Nghĩa dũng đài ngó về Saigon thấy trực thăng Mỹ lần lượt bốc người đi. Ngó ra xa lộ thấy quân dân từ Long Khánh tất tả rút về. Bên dưới liên đội chung sự tràn ngập xác đưa về bằng các loại phương tiện. Cả dân lẫn quân, tất cả các binh chủng. Nhiều gia đình có thân nhân tự lo tẩm liệm, nhận quan tài và đào huyệt chôn cất lấy. Chiều 30 tháng tư qua ngày 1 tháng 5-1975 hàng trăm xác còn lại đã được chôn tập thể. Không còn nén hương nào dành cho người nằm dưới lòng đất quê hương. Phải đến đầu thập niên 80 các gia đình tại Việt Nam mới tìm lên thăm mộ. Có nhà cải táng về quê, có gia đình tu sửa tại chỗ. Năm 1985 anh em tù “tập trung cải tạo” được tự do mới trở về thăm chiến hữu. Năm 1990 hải ngoại bắt đầu nhớ tới nghĩa trang Biên Hòa. Đại tá Lê Đình Luân luẩn quẩn trên nghĩa trang mấy ngày trước khi HO qua Mỹ. Ông làm báo cáo nhưng không biết gửi cho ai. Thượng sĩ Trần Văn Tảo đại diện anh em thương binh Biệt Khu thủ đô bắt đầu những lần tảo mộ có quay phim chụp hình. Những chuyến viếng thăm đầy nước mắt, những nén hương tình nghĩa đã thắp lên. Những cô con gái của quốc gia nghĩa tử đã họp đoàn thăm mộ cha anh. Những nén hương cắm xuống đôi khi còn kèm theo một điếu thuốc lá với rất nhiều nước mắt. Những nén hương thời sự. Trong suốt 38 năm qua nghĩa trang Biên Hòa đã trải qua những giai đoạn hết sức đau thương nhưng đặc biệt là vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Mười năm đầu nghĩa trang bị tàn phá, phế bỏ và xâm lấn chung quanh trên các phần đất chưa có mộ và người ta vô tình chiếm dụng cả những nơi nhiều xác vô danh chôn tập thể bên dưới. Một đơn vị huấn luyện tân binh trồng cây và xây tường chung quanh để làm nơi tập lính. Vẫn còn có tử sĩ và mồ tập thể bên ngoài bức tường. Khi đơn vị rút đi, nghĩa trang được giao cho dân sự với tên mới là Bình An. Tuy gọi là nghĩa địa nhân dân nhưng thực sự không có dân sự nào được chôn tại đây. Các công trình chung xuống cấp, hư hỏng và hoang phế. Đồng hương và chiến hữu về tảo mộ chui nên làm được đến đâu hay đến đó. Chính quyền địa phương quản trị nghĩa trang không có lệnh chính thức từ trung ương nên quyết định rất tùy tiện. Cho đến cuối tháng 2 vừa qua, những hình ảnh phổ biến đã cho những tin tức mới về một nghĩa trang xưa đầy kỷ niệm. Thiếu tá Nguyễn Đạc Thành hướng dẫn ông Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng ngoại giao của chính quyền cộng sản Việt Nam lên thăm nghĩa trang Biên Hòa. Phái đoàn thắp hương khấn vái. Nén hương của thứ trưởng là nén hương chính trị. Ai cũng biết rõ như thế. Nhưng sự hiện diện của nhân vật cao cấp cộng sản là một thứ chỉ thị bất thành văn cho chính quyền địa phương. Dù bất cứ dưới danh nghĩa gì thì chúng ta cũng có thể hy vọng sự tồn tại của nghĩa trang Biên Hòa. Và sẽ dễ dàng cho việc tu bổ dù là khiêm nhượng cho cả một công trình vĩ đại trước 1975. Cụ thể nhất là dọn sạch nghĩa dũng đài và đưa mộ tập thể dưới lòng đất vào bên trong. Một tuần sau, thiếu tá QLVNCH Nguyễn Đạc Thành lại hướng dẫn ông lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon lên thăm nghĩa trang cùng với viên chức bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Cũng lại thắp hương khấn vái. Nén hương của ông lãnh sự là nén hương ngoại giao. Nhưng ông là người Mỹ gốc Việt nên mùi nhang khói có tình quê hương. Điều quan trọng trên hết là sự hiện diện của ông mang dấu ấn của Hoa Kỳ. Trước sau chỉ có nén hương của Nguyễn Đạc Thành là có tình chiến hữu. Mục tiêu đơn giản Năm 1975 chúng ta mất cả miền Nam. 50 thành phố, thủ đô Saigon, bộ tổng tham mưu và dinh tổng thống. Riêng nghĩa trang quân đội dường như 16 ngàn chiến hữu vẫn nằm yên dưới lòng đất. Các công trình kiến trúc tuy hoang phế và chịu đầy thương tích nhưng vẫn còn đó. Bây giờ 38 năm sau, ông cựu thiếu tá thiết giáp QLVNCH 72 tuổi, quê Bến Tre, nguyên chỉ huy trưởng trung tâm hành quân tiểu khu Châu Đốc, tóc bạc, quần áo chững chạc, phong thái điềm đạm lại là người dướng dẫn cho các viên chức cao cấp cộng sản Việt Nam và tư bản Hoa Kỳ viếng thăm nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa. Chúng ta không thể có được hình ảnh như vậy từ 10, 20 hay 30 năm trước. Khỏi phải đoán già đoán non, chẳng phải nghe cộng sản nói hay nhìn cộng sản làm. Ai cũng biết với Hà Nội đây là thủ đoạn chính trị. Cộng sản bày tỏ tinh thần hòa giải muộn màng qua hình ảnh nghĩa trang. Phía Hoa Kỳ dù có thiện chí nhân đạo nhưng cũng có nhu cầu ngoại giao. Phía chúng ta đơn thuần là tình chiến hữu. Ông già Bến Tre Nguyễn Đạc Thành chỉ có mục đích lo cho xác anh em, lo chỗ anh em ta nằm được sạch sẽ. Tìm cách đưa anh em dưới mộ tập thể vùi dập bên ngoài vào bên trong gần kề các chiến hữu. Ngày xưa đất nghĩa trang trên 120 mẫu, 16 ngàn tử sĩ an táng trên lưng con ong theo vòng cung từ tâm điểm Nghĩa dũng Đài ra phía ngoài. Năm 75 quân dân chánh phe cộng sản mặc sức chiếm ngụ chung quanh phần đất chưa xử dụng. Nhìn vào bản đồ không ảnh, ta thấy việc chiếm đóng vô tội vạ lấn cả vào khu có mộ chính thức cũng như khu mồ tập thể. Bức tường xây quanh hiện chỉ còn 60 mẫu. Biết rõ chuyện xẩy ra như thế, không tìm cách cấp cứu, các công trình xây cất quy mô bên ngoài sẽ đè lên xương cốt chiến hữu, làm ngơ sao đành? Chuyện tao, tao tính. Ở San Jose có một góa phụ của tù cải tạo, quê Cần Thơ. Bà tả lại chuyện ra Bắc thăm chồng. Dẫn các con nhỏ dưới trời mưa tầm tã đứng bên hai bờ rào nhìn thấy chồng trong trại đau ốm gần chết. Cộng sản không cho thăm. Hai bên rào cùng khóc dưới trời mưa. Người tù miền Nam biết đây là lần cuối nên ra dấu cho vợ tìm đường nuôi con. Bà vợ ông trung tá vùng 4 nói rằng: Tụi cộng sản này vô nhân đạo, không có lương tri, không nói được. Việc mày mày tính, việc tao tao tính. Bà về lại Sài Gòn đóng tàu đem con vượt biển. Sau khi định cư ở Mỹ, bà trở về tìm xác chồng ở miền Bắc đem chôn tại miền Nam. Việc mày mày tính, việc tao tao tính. Đó chính là con đường đấu tranh của chúng ta đối với chiến dịch nghĩa trang Biên Hòa. Sau 38 năm tảo mộ chui, 16 ngàn chiến sĩ nằm trong lòng đất lại bị bưng bít không có khói hương tưởng niệm. Nay là lúc nghĩa trang Biên Hòa phải đưa ra ánh sáng. Giữa thanh thiên bạch nhật, hình ảnh nghĩa trang phải được thân nhân biết đến, 80 triệu dân trong nước biết đến. Đồng minh Hoa Kỳ phải biết đến. Toàn thể đồng bào hải ngoại phải biết đến. Và sau cùng chính quyền cộng sản phải biết đến. Còn chuyện bên trong, việc mày mày tính , việc tao tao tính. Tới luôn đi bác Thành. Câu chuyện bên lề. Tôi đem chuyện nghĩa trang Biên Hòa nói với các chiến hữu. Bác sĩ đại tá mũ đỏ Hoàng cơ Lân từ bên Pháp qua thăm viện bào tàng ở San Jose hết sức quan tâm. Ông là người gởi cho tôi tài liệu về các nghĩa trang của nhiều phe thù nghịch sau đệ nhị thế chiến tại Âu châu. Ông nói rằng đồng hương về Việt Nam nên thăm nghĩa trang. Đó là cách giữ cho nghĩa trang tồn tại. Nhẩy dù Bùi Đức Lạc nói rằng mũ đỏ vẫn tảo mộ hàng năm. Trung tướng Lâm quang Thi nói rằng không biết đầu đuôi ra sao mà trên nét nó chửi quá. Ông chưa cho biết ý kiến riêng. Tôi hỏi thăm 2 chiến hữu thiết giáp. Đại tá Hà mai Việt, bạn thân từ tiểu học. Anh thành thật nói rằng bây giờ đang bỏ hết ngày giờ cuối của cuộc đời cho tác phẩm sau cùng viết về chuyện Việt Nam thời kỳ 50-60. Anh không tin cộng sản. Anh gián tiếp quản ngại rằng nếu tôi tham dự vào việc này có thể bị cháy. Tôi thưa rằng, mình đã 80 tuổi. Cháy được sẽ thành than. Còn không thì trước sau cũng hỏa thiêu mà thôi. Nhưng thôi không chọc quê bạn Việt nữa. Để hôm nào sách hoàn tất sẽ lo cho bạn ra mắt tại San Jose, nếu chưa bị cháy. Tôi lại quay sang hỏi ông thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, thủ khoa khóa Nam Định, nguyên tư lệnh sư đoàn 3 BB, gốc thiết giáp. Ông nói chuyện này cần ủng hộ. Bèn gửi cho ông 1 bản tôi lên tiếng ủng hộ thiếu tá Nguyễn Đạc Thành. Nói riêng với các bạn thân cao niên Bắc Kỳ, hình như anh em ta suy tính nhiều quá, người anh hùng đất Thăng Long ngày xưa bỗng mệt mỏi. Phen này trận nghĩa trang Biên Hòa đành phải để phe Nam Kỳ ông già Bến Tre phối hợp với ông lãnh sự Mỹ Gò Công hợp đồng tấn công cho anh em tử sĩ được nhờ. Đây là đấu tranh chính trị, đây là tiếp tục cuộc chiến chứ có hòa bao giờ.Việc nó nó tính, việc mình mình tính. Bà quả phụ Cần Thơ đã nói thế. Bà quả phụ Sa Đéc, Khúc Minh Thơ khi gặp phe cộng sản tại Nữu Ước cũng nghĩ như thế. Chị em chúng tôi mà ngồi chờ các ông cứ mãi mãi can trường trong chiến bại thì bao giờ mới có HO. Vào đất địch lo chuyện chung sự cho chiến hữu là chuyện khó nhất. Cộng sản nó đứng chình ình khắp nơi không đánh, các bạn trẻ cứ quân ta mà dã, các cậu làm cho các bạn tôi đọc bài chửi bới mất mẹ nó tinh thần. Tới luôn đi bác Thành. Năm 20 tuổi không sợ. Vì không thấy quan tài không đổ lệ. Trên 70 tuổi, điếc không sợ súng. Còn gì nữa đâu mà quản ngại. Hãy nhớ rằng anh có hàng trăm tử sĩ đã được bốc mộ luôn luôn phù hộ. Và 16 ngàn chiến binh các quân binh chủng nằm chờ. Đã bắt đầu mà không đi tới, sau này ở quân khu chín suối, gặp lại anh em, biết ăn nói làm sao. Tới luôn đi bác Thành.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 3, 2014 9:28:48 GMT 9
Saigon trong cơn hấp hốiNhan Hữu Hậu (Vũ Ánh hiệu đính) Ông Chung đã đến trước tên cán binh Cộng Sản tự giới thiệu mình là thành phần thứ ba trong chánh phủ Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, nhưng tên cán binh hét lên: “Không có thành phần nào hết, ngồi lại kia.” Thân gởi các bạn A-20(1),
Tôi nhận được bài viết của anh Nhan Hữu Hậu, một trong những niên trưởng của chúng ta cũng đã từng chia sẻ với anh em chúng ta những ngày khốn quẫn, đói khát và bị nhục hình tại trại tù cải tạo trừng giới A-20 Xuân Phước.
Nhân dịp 30 tháng 4 năm nay, niên trưởng Nhan Hữu Hậu nhắc lại một trong những ký ức của anh về giờ phút hấp hối của VNCH tại Phủ Thủ Tướng và Dinh Độc Lập. Anh gởi nhờ tôi hiệu đính theo ngôn ngữ báo chí.
Bài viết của niên trưởng Nhan Hữu Hậu không dùng nhiều tĩnh tự có tính chất phê phán. Anh chỉ kể lại sự kiện mà anh đã trải qua và dành quyền suy nghĩ cho độc giả và công luận .
Nay tôi đã hiệu đính xong, nên gởi để các bạn cùng coi.
Thân
A-20 Vũ Ánh*** Saigon trong cơn hấp hối 30 tháng 4 1975Nhan Hữu Hậu Tác giả: Cựu thiếu tá LLĐB VNCH, cựu tù binh cộng sản. Nguồn: Onthenet Đã 36 năm qua, hình ảnh Saigon trong cơn hấp hối vẫn còn rõ nét trong ký ức tôi. Giờ đây tôi muốn ghi lại những điều tôi biết, tôi thấy và tôi đã làm chỉ để đóng góp một vài sự kiện trong những giờ phút sau cùng của chế độ dưới cái nhìn trong cương vị một sĩ quan cận vệ của Thủ Tướng Chánh Phủ VNCH. Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, tại Dinh Độc Lập, một buổi lễ bàn trong đó Tổng Thống Trần Văn Hương, người kế nhiệm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa từ nhiệm, trao quyền cho Đại Tướng Dương Văn Minh, người duy nhất mà Hà Nội bằng lòng thương thuyết. Chủ tịch Thượng Viện được mời làm Phó Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu được mời thành lập nội các. Buổi lễ trình diện tân nội các được dự định vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuy nhiên, có những biến chuyển khiến chuyện này đã không thể xảy ra. Sáng sớm ngày 30 tháng 4 năm 1975, tại Phủ Thủ Tướng tọa lạc tại số 7 đường Thống Nhất, diễn ra một buổi họp gồm có Nghị Sĩ Vũ Văn Mẫu, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo, cùng một số nghị sĩ, dân biểu, các nhân sĩ có chân trong tân nội các họp với cựu tướng Pháp Vanuxem(2), đặc phái viên của Tổng Thống nước Cộng Hòa Pháp. Phía bên ngoài phòng khách, tôi còn nhận thấy sư hiện diện đặc biệt của cựu Thủ Tướng chánh phủ lâm thời Nguyễn Ngọc Thơ (tháng 11/1963), Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, cựu Tư Lệnh LLĐB/VNCH và một số người tháp tùng ông đang trông chờ kết quả cuộc họp bên trong với tâm trạng lo âu, buồn bã. Độ một giờ sau, cựu tướng Vanuxem ra về để lại trên gương mặt mọi người sự thất vọng và lo sợ. Paul Vanuxem (1904-1979) Sau đó Sở Truyền Tin Phủ Thủ Tướng được lệnh lên phong phòng của Thủ Tướng Mẫu để thu băng một bản hiệu triệu của Tổng Thống Dương Văn Minh. Lời kêu gọi của Tổng Thống Dương Văn Minh được một phóng viên và một kỹ thuật viên âm thanh của Đài Phát Thanh Quốc Gia đưa về đài và cho phát vào lúc 10 giờ sáng và chỉ phát được một lần. Sau đó khi Tổng Thống Dương Văn Minh được phía chiến thắng giải giao về Đài Phát Thanh Quốc Gia thì ông lại bị đẩy vào phòng vi âm thu cuốn băng thứ hai. Cuốn bằng này được phát nhiều lần, trong đó Tổng Thống Dương Văn Minh phải kêu gọi lực lượng còn lại của VNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện. Sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh thu băng tại phòng làm việc của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu xong, ông cùng các vị trong nội các chưa được tấn phong chuẩn bị qua Dinh Độc Lập, có thể là sẵn sàng để chuyển giao quyền hành? Tại phòng khách trên lầu 2 của Dinh Độc Lập, tôi thấy có giáo sư Bùi Tường Huân, các nghị sĩ Vũ Văn Mẫu (Thủ Tướng), Thái Lăng Nghiêm (Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng), Dân Biểu Lý Quí Chung (Bộ Trưởng Thông Tin) và một số người khác. Trong khi ấy, tại phòng làm việc của Tổng Thống Dương Văn Minh có mặt chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QL/VNCH và tôi (Nhan Hữu Hậu). Đại tá Vũ Quang Chiêm Chánh Võ Phòng Tổng Thống, Đại tá Lê Thuần Trí Chánh Sở Quân Vụ, Trung tá Võ Ngọc Lân Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn An Ninh Danh Dự thì ngồi trong phòng làm việc của Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống. Nội các 1 ngày của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Dinh Độc Lập 30/4/1975. Nguồn Giaoduc.net Đại Tướng Minh làm việc một mình trong phòng và không có Chánh Văn Phòng Trương Minh Đẩu cũng như Sĩ Quan Tùy Viên Hoa Hải Đường thường nhật luôn làm việc bên cạnh ông. Thấy vậy, tôi bước đến nghiêm chỉnh và trình: -Thưa Tổng Thống cần gọi đâu, xin Tổng Thống chỉ thị. -Em gọi cho qua Thượng Tọa Trí Quang. Tiếp nhận tờ giấy rời với các số điện thoại chi chít trên tay Tổng Thống Dương văn Minh, tôi gọi Thượng Tọa. Chuông reo một lúc nhưng đầu giây bên kia không có người trả lời. Bên cạnh, một máy điện thoại khác reo, tôi nhắc ống nghe. Từ đầu giây bên kia có giọng nói: -Tôi là Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng lực lượng phòng thủ còn lại tại Tổng Tham Mưu, cho tôi nói chuyện với Đại Tướng Minh. Tôi bảo Thiếu Tá Tài chờ tôi trình Tổng Thống. Áp ống liên hợp vào tai, Tổng Thống Dương Văn Minh nói: “Qua nghe đây em”. -Thưa Đại Tướng, tôi còn quân mà sao Đại Tướng đầu hàng? -Đã trễ rồi em. Tôi muốn tránh cho dân khỏi chết chóc và Saigon khỏi thành bình địa. Mình phải cứu dân trước đã! Nghe đến đây, tôi bước ra ngoài trong lúc Tổng Thống Dương Văn Minh đang còn tranh luận với Thiếu Tá Tài vì sao mà ông phải trao chính quyền cho Cộng Sản. Bước dọc hành lang trên lầu nhìn ra tiền đình Dinh Độc Lập, nhìn thấy hai cánh cổng sắt phía trước đã rộng mở, vũ khí đủ loại và chiến xa của lực lượng phòng thủ Dinh đã được chất thành đống trước bồn nước theo lệnh của vị Tổng Thư Lệnh sau cùng của VNCH. Độ một giờ sau, chiếc GMC chở đầy quân trong các bộ quân phục ngụy trang lẫn lộn, bên thành xe có treo một miếng vải trắng được cột trên cao chạy vào đậu bên trong cánh phải của Dinh, trong tay họ vẫn còn vũ khí cá nhân. Họ chỉa súng vào khoảng không vừa bắn vừa la khóc trong uất hận, rồi xuống xe cởi bỏ áo trận, vất súng ngổn ngang sau đó tự động tan hàng. Khoảng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4, xe tăng Cộng Sản tiến vào Dinh Độc Lập mà không gặp một sức kháng cự nào, vì cổng chánh đã được mở rộng từ trước. (Chú thích của tác giả: Sau giờ phút này, Cộng Sản đã lợi dụng đêm tối, ngụy tạo cho đóng 2 cổng này lại, ủi sập rồi tuyên truyền đây là hang ổ cuối cùng của ngụy quyền đã bị thanh toán). Kể từ lúc này, tôi không thấy 2 vị Đại Tá Vũ Quang Chiêm và Lê Thuần Trí ở bên cạnh Đại Tướng Minh nữa. Cựu tướng Nguyễn Hữu Hạnh khi còn là Đại tá VNCH. Nguồn: OntheNet Từ hành lang lầu 2, phía ngoài phòng khách chỉ còn lại Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh (vẫn mặc quân phục). Trung tá Võ Ngọc Lân và tôi đứng chờ đợi chuyện kế tiếp diễn ra. Một cán binh mặc áo thun trắng chạy lên lầu hỏi trỏng: “Thằng Minh đâu rồi?”. Hắn hỏi như vậy 3 lần, nhưng Tổng Thống Minh chỉ chắp tay sau đít đi tới đi lui mà không trả lời. Tôi chỉ vào ông và nói với hắn: “Tổng Thống Minh đây nè”. Tên cán binh ngó qua xong rồi chỉ tướng Nguyễn Hữu Hạnh bảo cởi quấn phục ra. Tôi lấy chiếc chemise của tôi trao cho ông mặc tạm. Như đã nói ở trên, chúng tôi và một phần nội các chưa tấn phong bị gom lại ngồi trong phòng khách có vệ binh canh giữ bên ngoài, ngoại trừ Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Huyền đã về nhà bằng phương tiện riêng trước khi xe tăng Cộng Sản tiến vào Dinh. Phần còn lại của nội các và quân, cán, chính phục vụ trong Dinh Độc Lập lúc đó bị giữ ở đâu đó tôi không được rõ, vì không nằm trong tầm mắt của tôi. Điều đáng lưu ý là nhóm dân biểu đối lập trước đây thường tự xưng là thành phần thứ ba do Dân Biểu Lý Quí Chung đại diện. Ông Chung đã đến trước tên cán binh Cộng Sản tự giới thiệu mình là thành phần thứ ba trong chánh phủ Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc, nhưng tên cán binh hét lên: “Không có thành phần nào hết, ngồi lại kia.” Tổng thống Dương Ban Minh (T), Bộ trưởng Thông Tin Lý Quý Chung (G), Thủ tướng Vũ Văn Mẫu (P). Nguồn: Hồi ký không tên. Vì chưa được tiếp xúc với đại diện phía bên kia, nên Tổng Thống Dương Văn Minh và chúng tôi vẫn ngồi trong phòng khác dưới sự canh gác chặt chẽ các cán binh Cộng Sản phía bên ngoài. Trời đã xế chiều, bỗng có nhiều tiếng súng nổ từ trong Dinh Độc Lập, chúng tôi được di chuyển xuống tầng hầm, nơi có đặt máy truyền tin để sử dụng khi có biến cố xảy ra, cạnh đấy là phòng dùng làm xạ trường để các cận vệ thực tập tác xạ và một nhà kho dự trữ lương thực phòng khi có biến động. Chúng tôi được đưa lên phòng khách trở lại trên lầu 2 và một cán binh xoa tay giải thích: “Nhân dân vui quá nên đốt pháo ăn mừng?” Sau đó, một phái đoàn Cộng Sản khoảng sáu bẩy người ăn mặc thường phục và quân phục lẫn lộn không đeo quân hàm tiến vào phòng khách. Một người mặc thường phục tự giới thiệu với Tổng Thống Minh là kỹ sư Tô Văn Ký, đại diện Thành Ủy đến tiếp xúc và nói vài lời trấn an. Trước khi rời khỏi phòng, ông ta trao cho Đại Tướng Minh hai gói thuốc lá Điện Biên và hai bánh lương khô Trung Quốc. Ông nhận và giao lại cho tôi giữ. Lúc này sự đi lại của chúng tôi bị kiểm soát rất chặt chẽ, ra vào phải có sự chấp thuận của các cán binh canh gác bên ngoài. Đến tối, chúng tôi được phát mỗi người một ổ bánh mì ngọt ăn với đường thẻ. Riêng Đại Tướng Minh được người nhà gởi vào một nồi cơm chiên và một trái dưa hấu. Ông chia sẻ và yêu cầu mọi người ăn chung. Trong suốt ngày 1 tháng 5 từ sáng đến tối, không có một cuộc tiếp xúc nào hoặc thăm hỏi của phía bên kia, thỉnh thoảng có một nhóm người đi qua ngó vào phòng khách rồi lại đi. Ngày 2 tháng 5 đến gần trưa, một phái đoàn báo chí Miền Bắc trong đó có cả các hãng truyền thanh truyền hình thuộc khối Cộng Sản Đông Âu vào trong Dinh và họ được nói chuyện với Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo đầu tiên. Các phóng viên bấm máy lia lịa, nhưng đến khị họ hỏi chuyện thì ông khoát tay: “Mấy anh tắt máy thu băng đi, đây chỉ là một cuộc nói chuyện bình thường chứ không phải là cuộc phỏng vấn. Hòa hợp hòa giải gì các anh. Hòa hợp hòa giải gì mà hai ngày nay không cho người ta súc miệng rửa mặt?” Sau đó báo chí truyền thông (tất nhiên là của nhà nước Cộng Sản) bắt đầu dàn cảnh quay phim chụp hình. Chúng tôi được đi rửa mặt chải đầu và sửa soạn quần áo cho ngay ngắn, rồi ngồi vào ghế chụp hình quay phim với lệnh mọi người phải tươi cười để họ hoàn thanh cuốn phim thời sự! Khoảng 5 giờ chiều, tôi và một số người mà Cộng Sản cho là không quan trọng được phát mỗi người một tờ giấy đánh máy nhỏ nói là được trả tự do. Nhìn vào tờ giấy, tôi thấy người ký tên là Đại Tá Vương Thế Hiệp, chánh văn phòng của tướng VC Trần Văn Trà. Trước khi rời khỏi nơi này, tôi đến chào từ giã Đại Tướng Dương Văn Minh, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu và Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo. Tôi hỏi ông Hảo có nhắn gì về cho gia đình không, ông chỉ nói: “Em ghé nhà nói với chị là anh vẫn bình yên, kế đó nhờ em ghé nhà báo cho cụ Hương biết là vâng lệnh ông cụ anh đã giữ số vàng còn lại không cho chở ra nước ngoài.” Rời khỏi Dinh, trước tiên tôi đến nhà Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo báo tin cho gia đình biết nơi ông bị giam giữ, rồi sau mới đến nhà Cụ Trần Văn Hương, ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong hẻm 216A Phan Thanh Giản và nói lại những gì Tiến Sĩ Hảo nhờ trình cho cụ hay. Nghe xong, cựu Tổng Thống Trần Văn Hương thở một hơi dài nói: “Mấy hôm nay, qua lo quá, đã dặn em Hảo rồi mà không biết nó có làm kịp không. Qua có gọi cho Hảo nhiều lần, nhưng đường dây bị cắt. Qua có nói với nó: ráng giữ số vàng này, đừng cho mang đi, nếu còn kịp thì mua thêm vũ khí đạn dược tiếp tục chiến đấu, còn như không kịp thì số vàng này của người Việt Nam, hãy để lại cho người Việt Nam sử dụng.” Nhưng hỡi ơi, tình thế đã đổi thay, vận nước đến hồi đen tối, Miền Nam Việt Nam đã lọt vào tay Cộng Sản. Là một quân nhân nhiều năm phục vụ quân đội và phục vụ chính phủ, tôi chỉ biết tuân hành lệnh thượng cấp trong những giờ phút sau cùng và tôi rất hãnh diện khi thi hành xong thượng lệnh và nhiệm vụ. Tôi thiển nghĩ công luận về công hay tội, xin hãy để cho đời sau phê phán. Nhan Hữu Hậu (Cựu tù cải tạo trại A-20) *** Ghi chép thêm Vũ Ánh Sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975, phi công Nguyễn Thành Trung lái chiếc F-5 dội bom vào Dinh Độc Lập. Trái bom phá hủy một lỗ đường kính khoảng 1 mét trước bậc tam cấp dẫn lên lầu 2. Tại Phủ Thủ Tướng, lực lượng phòng tủ đã được tăng cường khi có báo động. Trạm gác ở góc đường Thống nhất Nguyễn Bỉnh Khiêm có binh sĩ Nhảy Dù bố trí tại những vị trí trong yếu, hướng mũi súng về Phủ Thủ Tướng. Tôi lập tức rời văn phòng sang Viện Bảo Tàng trong Thảo Cầm Viên. Tại đây, tôi gặp Thiếu Tá Nghiêm, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2-ND và hỏi lệnh của ai mà ông ấy điều động tiểu đoàn về đây. Thiếu tá Nghiêm cho biết là lệnh của Biệt Khu Thủ Đô. Tôi gọi hỏi từ trưởng phòng 3 đến Tham Mưu Trưởng đều không biết. Tôi gọi cho Trung Tướng Minh và được ông xác nhận: “Lệnh của Tổng Thống. Em trình cho Thủ Tướng biết đi”. Tôi trình cho Thủ Tướng Khiêm. Khoảng 10 phút sau, tôi được Đại Tá Võ Văn Cầm Chánh Văn Phòng của Tổng Thống gọi hỏi: “Hồi nãy toa gọi Trung Tướng Minh làm gì vậy?”. Tôi nói: “Tiểu Đoàn 12 Dù đang bố trí chĩa súng vào Phủ Thủ Tướng nên tôi hỏi Trung Tướng để trình Thủ Tướng.” Ông Cầm nói: “Toa lộn xộn hoài. Từ nay có chuyện gì thì gọi cho moa. Nếu không có thì gọi cho thằng Điền.” (hàm ý Hải Quân Đại Tá Trần Thanh Điền). Tôi vào trình lại với Thủ Tướng thì ông nói ngay: “Thằng làm tàng hoài.” Sau đó tôi hộ tống Thủ Tướng qua Dinh Độc Lập họp, khi xe đến đường Thống Nhất, tôi thấy chiếc xe díp chở Trung Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân theo vào Dinh sau đoàn xe Thủ Tướng. Đây là những dữ kiện gồm những gì mà Đại Tá Vũ Quang Chiêm nói với nhà báo Thanh Thương Hoàng. Vì thế cho nên tôi muốn nhân dịp này viết thêm một đoạn có liên quan đến quyền lực chính trị lúc bấy giờ để tùy dư luận phán xét. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Thanh Thương Hoàng, cựu Đại Tá Vũ Quang Chiêm nói ở đoạn cuối như sau: “Còn một chuyện này nữa, ngày 6 tháng 4 năm 1975, anh Võ Văn Cầm có nói với tôi: kể từ hôm nay và trong 3 ngày sắp tới, nếu có biến cố gì xảy ra anh cố điều động lực lượng phòng vệ Dinh (Độc Lập) cố thủ cho bằng được từ cổng vào tới trong dinh trong thời gian chừng độ nửa giờ, sau đó tôi có người lo. Tôi thắc mặc: tại sao lại có chuyện đó. Anh Cầm nói: Có thể có đảo chánh và sẽ có lực lượng nhảy dù và thiết giáp tiếp cứu.” Không thấy có đảo chánh xảy ra như chúng ta biết mà sáng ngày 8 tháng 4 năm 1975, phi công Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Độc Lập. Vũ Ánh A-20 Nguồn: Saigon trong cơn hấp hối 30/04/1975: Cận vệ ông Vũ Văn Mẫu. Nhan Hữu Hậu (Vũ Ánh hiệu đính). 27/04/2011. DCVOnline minh họa và chú thích. (1) A-20: một trại tù của cộng sản ở Xuân Phước trong một giải thung lũng thuộc huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. (2) Trung tướng hồi hưu Pháp Paul Vanuxem (1904-1979)
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 3, 2014 3:40:48 GMT 9
Cội nguồn và đôi điều suy nghĩ về: Những việc đã, đang và sẽ phải làm cho thương phế binh VNCH(VienDongDaily.Com - 01/08/2014) Hồ Đắc Huân Tem Thương Phế Bình QLVNCH trước 1975. Qua bản thông báo ngày 25/6/2014 của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam California và Hội H.O. cứu trợ Thương Phế Binh-Quả Phụ VNCH (TPB-QP/VNCH), các Hội đã phân công các đại diện thay nhau phổ biến tin tức rộng rãi qua nhiều chương trình trên báo chí, truyền thanh, truyền hình người Việt tại Hoa Kỳ và Hải Ngoại, kể cả trong những buổi họp mặt của các Hội Đoàn tại Nam California cũng được thông báo về Đại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH Kỳ 8” sẽ tổ chức vào ngày Chủ Nhật 3/8/2014, từ 12-19 giờ tại vận động trường Bolsa Grand High School, thành phố Garden Grove. Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ 8 sắp tới cũng như 7 kỳ trước được tổ chức tại Nam, Bắc Cali đã mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại. Kết quả Đại Nhạc Hội của 7 kỳ trước đây thành công rất tốt đẹp đã nói lên ân tình sâu đậm: “Hải Ngoại không quên tình chiến sĩ, Đồng hương nhớ mãi nghĩa thương binh” Việc trợ giúp TPB-QP/VNCH đã được đồng hương định cư khắp thế giới hoan nghênh, hưởng ứng, hỗ trợ vì tử sĩ và thương phế binh VNCH là biểu tượng cho lòng dũng cảm. Họ đã sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ tự do, bờ cõi, hải đảo cùng vùng trời của Tổ Quốc Việt Nam mến yêu do công lao của Tiền Nhân để lại. Họ là những anh hùng thật sự của thời đại này. Nhân Đại Hội Cám Ơn Anh Kỳ 8, là quân nhân cùng một chiến tuyến với anh em TPB, cùng chung màu cờ, sắc áo, cùng lý tưởng Quốc Gia, Dân Tộc, tôi xin ghi lại vài cảm nghĩ về tình đồng đội của chúng tôi trong một giai đoạn lịch sử đã qua nhằm gợi lại cho các bạn trẻ biết rõ về thế hệ cha, anh đã hy sinh, cống hiến đời mình cho Tổ Quốc trong cuộc chiến Quốc-Cộng trước tháng 4/1975 với các sự kiện đích thực như sau: Nguyên nhân cuộc chiến quốc cộng 1960-1975 Hiệp Định Genève ký ngày 20/7/1954 chia đôi nước Việt Nam từ vĩ tuyến 17. Phía bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh), phía Nam là Quốc Gia Việt Nam, trở thành Việt Nam Cộng Hòa từ 26/10/1955. Sáu-mươi năm về trước khi thi hành Hiệp Định Genève, khoảng 1 triệu đồng bào Miền Bắc không chung sống được với Cộng Sản đã lìa bỏ quê hương di cư vào Nam. Trước khi Việt Minh tập kết về Bắc, họ mưu tính chôn giấu lại miền Nam một số vũ khí, sắp xếp cán bộ lẩn trốn lại miền Nam chờ cơ hội đánh phá miền Nam, thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh. Ngày 20/12/1960, Bắc Việt thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Chiến cuộc từ du kích chuyển qua các trận đánh lớn kéo dài đến 30/4/1975 để rồi Việt Nam Cộng Hòa tức tưởi sụp đổ theo vận nước do nhiều nguyên nhân đưa đến. Nguyên nhân chính là đồng minh Hoa Kỳ cắt viện trợ VNCH. Trong lúc đó Cộng Sản Bắc Việt được cả thế giới Cộng Sản ồ ạt viện trợ, nhiều nhất là Trung Cộng và Nga Sô. Trong trận chiến cuối cùng, về quân số và hỏa lực, Cộng Sản Bắc Việt mạnh gấp nhiều lần hơn VNCH. Quân số của QLVNCH 1964-1972 Kể từ 12/1964, cường độ chiến tranh ngày càng thêm ác liệt. QLVNCH gồm Chủ Lực Quân, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân đã gia tăng quân số từng năm một để đáp ứng nhu cầu chiến trường: 12/1964 (363,787 người), 12/1965 (443,165 người), 12/1966 (633,645 người), 12/1967 (678,728 người), 12/1968 (866,728 người), 12/1969 (883,730 người), 12/1970 (1,054,125 người), 12-1971 (1,046,254 người), 12/1972 (1,089,982 người). (1) Tổn thất trong chiến tranh quốc cộng về phía VNCH 1962-1975 Tử trận: 1962 (4,000 người), 1963 (5,200), 1964 (8,200), 1965 (10,600), 1966 (11,800), 1967 (13,500), 1968 (26,500), 1969 (21,700), 1970 (23,000), 1971 (24,200), 1972 (40,500), 1973 (26,100), 1974 (21,000), 1975 (23,000). Tổng cộng: 860,300 (259,300 tử trận; 567,000 bị thương; 34,000 mất tích). (2) Sự đãi ngộ của TPB, quả phụ, cô nhi VNCH Trước tháng 4/1975, thành phần TPB, Quả Phụ và Cô Nhi được chính phủ VNCH luôn luôn trân quý vì chính họ hay chồng con họ đã hy sinh xương máu góp phần bảo vệ Tổ Quốc. Các quân nhân hy sinh hoặc mất tích, các quân nhân bị thương tật tùy theo cấp độ tàn phế và các quả phụ cô nhi đều được Bộ Cựu Chiến Binh trợ cấp. Chính phủ cũng như toàn dân phải tỏ lòng biết ơn sâu xa những người đã hy sinh cho Tổ Quốc. Những điều đã thi hành cho các cựu chiến binh, TPB và cô nhi, quả phụ, tử sĩ đều phải mang nặng tính chất đãi ngộ, đền đáp công ơn, tuyệt đối không mang tính chất từ thiện, bố thí. (3) Chính phủ còn, còn tất cả. chính phủ mất, mất tất cả! Khi chính quyền VNCH sụp đổ, đồng bào miền Nam nói chung đều mất tất cả, từ tự do, nhân quyền cho đến hầu hết các lãnh vực khác. Riêng thành phần Quân, Cán, Chính từ hưu bổng cho đến quyền lợi đều trắng tay, trong đó có Thương Phế Binh và Cô Nhi, Quả Phụ. Từ đó mới có hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do dù họ biết có hàng trăm ngàn người không may đã chết dưới biển hoặc trên rừng họ vẫn vượt biên, thà chết còn hơn sống chung với Cộng Sản, để rồi vào trại tập trung cải tạo, đi vùng kinh tế mới, bị cướp nhà, cướp đất, bị đánh tư sản mại bản, con người sống thì cũng như đã chết rồi! Hoàn cảnh TPB nơi quê nhà Trước và sau 30/4/1975, các TPB nằm điều trị trong các Quân Y Viện bị giặc Cộng xua đuổi tàn nhẫn. Chúng không có lòng nhân đạo, không có tình người, đạo lý. Dưới mắt giặc Cộng, những người khác chiến tuyến là kẻ thù cần tiêu diệt. Dù bị thương nặng nhẹ, chúng không cần biết, tức thì xua đuổi ra khỏi giường bệnh. Anh em dắt díu nhau lê la trên hè phố tìm đường về quê nhà. Những chiến sĩ bị thương quá nặng nằm hấp hối bên vệ đường chờ chết. Có chiến sĩ vết thương lở lói với những túi nylon bọc lấy khúc ruột đầy bụi đất làm sao lê được về nhà dù để chết trên tay vợ con hay cha mẹ. Gần bốn thập niên qua, anh em đa số sống trong cảnh mù lòa, què cụt, thân thể không lành lặn, đầu óc không bình thường, tâm tư luôn buồn phiền. Họ đâu còn bạn đồng ngũ, đơn vị, không còn cấp chỉ huy và nhất là không còn chính phủ để nhận lãnh sự đãi ngộ. Họ lây lất đầu đường xó chợ, đôi khi phải ăn xin kiếm sống qua ngày. Những thương binh có chút ít vốn thì lăn lộn mọi nơi bán những tờ vé số để đắp đổi sự sống. Đời họ vô cùng thê thảm và khổ nhục! Thành phần quân nhân hy sinh nhiều nhất Trong QLVNCH có ba thành phần gồm: hàng binh sĩ, hàng Hạ Sĩ Quan và hàng Sĩ Quan (hàng Sĩ Quan gồm Sĩ Quan cấp Úy, cấp Tá và cấp Tướng). Thành phần hy sinh trên chiến trường nhiều nhất là binh sĩ (binh Nhì, binh Nhất, Hạ Sĩ, Hạ Sĩ Nhất). Trong đội hình tác chiến họ luôn ở tuyến đầu khi xung phong chiếm mục tiêu. Kế đến là hàng Hạ Sĩ Quan, nhất là cấp Trung Sĩ giữ chức vụ Tiểu Đội Trưởng. Họ chỉ huy Tiểu Đội gồm 11 người (cấp số Tiểu Đội của các binh chủng: Bộ Binh, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân). Riêng cấp số Tiểu Đội Thủy Quân Lục Chiến là 14 người. Thực tế nơi chiến trường, quân số tham chiến của đơn vị nói chung và cấp Tiểu Đội nói riêng ít khi đầy đủ theo cấp số lý thuyết. Cấp Trung Sĩ gắn liền với Tiểu Đội nên sự hy sinh đến với họ dễ dàng. Trong hàng Sĩ Quan, cấp Chuẩn Úy hoặc Thiếu Úy chỉ huy cấp Trung Đội. Cấp này hy sinh trên chiến trường không ít. Có khi học từ Thủ Đức (trường Bộ Binh) hay Đồng Đế (trường HSQ) gần một năm ra nhận đơn vị có lúc một hai tuần đã có Chuẩn Úy hy sinh rồi! Còn ở Đà Lạt (trường VBQGVN) tùy theo khóa học từ 1 đến 4 năm ra đơn vị chừng một, hai tháng đã có Thiếu Úy đền nợ nước. Hàng Sĩ Quan càng lên cấp cao tuổi thọ càng dài. Trong QLVNCH có ba quân chủng: Hải, Lục và Không Quân. Về Hải Quân, anh em chiến sĩ tham dự trận hải chiến Hoàng Sa là hy sinh nhiều nhất. Quân chủng Không Quân phần đông hy sinh là sĩ quan phi công tác chiến. Về quân chủng Lục Quân, thành phần hy sinh nhiều là các binh chủng thuộc những đơn vị Tổng Trừ Bị như: Dù, TQLC, Biệt Kích Dù, Biệt Động Quân hay các Sư Đoàn Bộ Binh, thành phần hy sinh đáng kể là ĐPQ-NQ vì họ hoạt động diện địa ở làng xã, huyện, tỉnh, thường đụng độ với địch và thiếu yểm trợ. Tôi muốn ghi lại đoạn này để nói lên anh em TPB phần đông nằm trong các cấp bậc nhỏ và những đơn vị thường đụng độ với địch. Hai triệu thanh niên miền nam mặc quân phục Trong cuộc chiến ý thức hệ Quốc-Cộng, QLVNCH có khoảng trên hai triệu thanh niên vì Tổ Quốc xếp bút nghiên để trở thành quân nhân mặc quân phục. Vào đầu năm 1975, quân số QLVNCH có một triệu quân tại hàng cộng với 860.300 quân nhân đã tử trận hoặc thương phế binh đã giải ngũ hoặc mất tích. Còn lại là thành phần quân nhân đã được giải ngũ với các lý do: đáo hạn tuổi, tình trạng gia cảnh, mãn hạn động viên, quân dịch, đắc cử vào các chức vụ như Nghị Viên, Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ…, lý do chính trị và tôn giáo cùng một số giải ngũ vì các lý do khác. Việc du học trước 1975 Vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, việc du học ngoại quốc không dễ dàng mà phải có các điều kiện: học giỏi, gia đình có đủ tài chánh trợ cấp trong việc du học, hợp lệ tình trạng miễn dịch và được thông qua Hội Đồng Du Học cứu xét. Hội Đồng Du Học hoạch định chương trình huấn luyện nhân viên cho mọi ngành hoạt động của Quốc Gia, tham cứu những đơn xin xuất ngoại du học, nghiên cứu để cải tiến việc huấn luyện thanh niên Việt Nam tại ngoại quốc. Hội Đồng Du Học gồm có: - Chủ Tịch: Bộ Trưởng do Tổng Thống chỉ định. - Hội viên: Viện Trưởng Đại Học, Chủ Tịch Hội Đồng Hoãn Dịch Trung Ương Bộ Quốc Phòng, Tổng Thư Ký Bộ Ngoại Giao, Tổng Thư Ký Bộ Tài Chánh, Tổng Giám Đốc Công Vụ, Tổng Giám Đốc Kế Hoạch là Tổng Thư Ký Thường Trực và Thuyết Trình Viên của Hội Đồng. Một viên chức tại Tổng Nha Kế Hoạch là Thư Ký của các phiên họp. Trong trường hợp các học bổng do các quỹ ngoại viên các cơ quan Quốc Tế hay các Hội tư hoặc tư nhân đài thọ, Hội Đồng sẽ mời thêm đại diện của các cơ quan ấy (4). Vào ngày 8/3/1959, cứu xét 15 người du học Hoa Kỳ, số đơn nộp xin tuyển là 364 (5). Qua thời Đệ Nhị Cộng Hòa, điều kiện xin đi du học do Nha Du Học phụ trách. Hội viên Hội Đồng có thêm đại diện của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Điều kiện tuyển chọn theo quy định tương tự như thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Cuộc vượt biên lớn lao, cả thế giới bàng hoàng Cộng Sản cưỡng chiếm VNCH 4/1975. Đồng bào đã bỏ nước ra đi. Đợt đầu 150,000 rồi lần lượt trốn đi bằng đường biển và đường bộ. - Từ 6/1975-1979 có 326,000 người, trong đó có 311,400 người đi ghe tàu và 14,600 đường bộ. - Từ 1980-1989 450,000 gồm 428,500 thuyền nhân và 21,500 đường bộ. - Từ 1990-1995 sau khi Cao Ủy LHQ khóa sổ các trại tị nạn không nhận người vượt biên. Năm 1989 vẫn có 63,100 tiếp tục đi gồm 56,400 thuyền nhân và 6,700 đường bộ. Họ đến được các đảo Hồng Kông, Palawan (Phi Luật Tân), Bidong (Malaysia), Galang (Indonesia), các trại ở Thái Lan rồi từ đó mới đi định cư khắp các nước trên thế giới. Phỏng chừng có 400,000 đến 500,000 người bỏ mình trên biển, trên rừng. Về sau có thêm thành phần ODP và HO định cư tại hải ngoại. Người Việt hiện nay định cư ở hải ngoại đông nhất là Hoa Kỳ 1.548.449 người (kiểm tra dân số 2010), nhiều nhất là tại Nam California và vùng thủ đô Washington D.C. Ngoài ra còn ở các quốc gia khác như Úc Châu, Canada, Âu Châu, Nhật Bản, Singapore và Phi Luật Tân. (6) Sự ra đời hội H.O. Cứu Trợ TPB và Quả Phụ VNCH Từ 1993, một số anh chị em cựu tù cải tạo sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Họ có lòng ngồi lại với nhau, kể chuyện nhau nghe về anh em TPB&QP ở quê nhà quá cơ cực nên anh chị em tự động chung góp một số tiền kể cả vận động đồng hương đồng tình gởi giúp TPB-QP. Việc làm trên được anh em TPB vô cùng vui mừng. Từ đó anh chị em mới thành lập một Hội lấy tên là Hội H.O Cứu Trợ TPB-QP/VNCH. Sự hoạt động của Hội mỗi ngày một thêm lớn mạnh. Anh chị em đồng ý bầu bà Hạnh Nhơn cùng là H.O làm Chủ Tịch. Trước 1975, bà Hạnh Nhơn là nữ Trung Tá thuộc quân chủng Không Quân. Bà giữ chức Chủ Tịch từ 1993cho đến hiện thời. Tuy bà đã cao tuổi song sức khỏe còn mạnh, tinh thần rất minh mẫn lại có tấm lòng thương quý rất nhiều về anh em TPB&QP. Bà Hạnh Nhơn đã tâm tình, “Chúng tôi đem tình thương để cố gắng làm việc, không quản ngại mệt nhọc vì cảm thông những đau khổ, tủi nhục, thiếu thốn, đói rách của anh em TPB trong nước.” Bà Hạnh Nhơn cũng từng nói, “Cầu mong cho mọi người luôn yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho nhau. Xin chân thành tri ân mọi người đã cho tôi tình thương để vui sống trong thời gian cuối đời này.” Bà tiếp, “Xin cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, Ta có thêm ngày mới để yêu thương.” Xin được nói thêm là văn phòng Hội được đặt ngay tại tư gia bà Hạnh Nhơn để bớt tốn kém và thuận tiện cho việc đi lại của bà. Hội H.O. có giấy phép hoạt động miễn thuế, là một Hội vô vụ lợi, được sự chấp thuận của Tiểu Bang và Liên Bang, có nội quy sinh hoạt. Có 20 anh chị em thiện nguyện viên đều là cựu tù chính trị hết lòng với anh em TPB và cô nhi, quả phụ. Mỗi người phụ trách một phần việc riêng. Thành phần TPB&QP được trợ giúp không chỉ dành riêng cho QLVNCH như CLQ, ĐPQ, NQ mà Hội còn nhận nhiều giấy tờ giúp cả cho những quân nhân một thời phục vụ cho chế độ VNCH đã hy sinh hoặc thương tật trong cuộc chiến như: Cảnh Sát Quốc Gia, chính quyền xã, ấp, cán bộ Xây Dựng Nông Thôn, Nhân Dân Tự Vệ v.v… Do đó số hồ sơ xin giúp đỡ còn ứ đọng rất nhiều. Hội rất mong bà con đồng hương hưởng ứng trong việc trợ giúp. Đặc biệt là xin mỗi gia đình hải ngoại bảo trợ cho một thương binh ở quê nhà. Trên ba triệu người định cư ở hải ngoại Tôi muốn viết thêm mục này và mục việc đi du học trước năm 1975 là có ý giúp các bạn trẻ thuộc thế hệ con em chúng ta nhớ lại trước năm 1975 việc du học khó khăn đến mức nào. Rồi từ đâu hiện nay có hơn 3 triệu người định cư ở nước ngoài, đa số là thành phần trẻ. Khi sống ở các nước tự do, các bạn có cơ hội học thành tài, thành danh rất nhiều, có cả hàng ngàn, hàng vạn bạn trẻ trở thành Bác Sĩ, Luật Sư, Kỹ Sư, Dược Sĩ. Có người thành Thị Trưởng, Nghị Viên các thành phố hoặc Ủy Viên Giáo Dục các học khu. Có người thành khoa học gia. Có người thành Dân Biểu Tiểu Bang, Liên Bang, Giám Sát Viên Quận Hạt. Có người thành Thứ Trưởng, Chánh Án… Đặc biệt có nhiều sĩ quan cấp Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ. Mới đây trong số các Đại Tá có Đại Tá Lương Xuân Việt vừa được chính phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn thuận vinh thăng lên hàng Tướng lãnh. Một buổi lễ chính thức gắn cấp hiệu Chuẩn Tướng cho Đại Tá Việt sẽ được tổ chức vào ngày 6/8/2014 tới đây. Ở Đức, có người đã trở thành Phó Thủ Tướng. Ở Úc có người thành Thống Đốc. Ở Canada cũng đã có Nghị Sĩ là người gốc Việt. Tóm lại, tại hải ngoại, đại đa số các bạn trẻ đã thành danh ở mọi lãnh vực và ngành nghề chuyên môn, nhất là ngành thương mại. Sự thành công của các bạn trẻ như trên là niềm hãnh diện chung cho dân tộc Việt. Việc chuẩn bị Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH Kỳ 8 Theo thông báo của Ban Tổ Chức Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH Kỳ 8 đề ngày 25/6/2014 gồm có: - Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam California. - Hội H.O. Cứu Trợ TPB & Quả Phụ VNCH. - Trung Tâm Asia, Đài Truyền Hình SBTN-SET. Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH Kỳ 8 được tổ chức ngày Chủ Nhật 3/8/2014 từ 12-19 giờ tại Bolsa Grand High School Stadium. Rút ưu, khuyết điểm của 7 lần tổ chức Đại Nhạc Hội trước đây, Ban Tổ Chức lần này đã ước tính mọi công việc liên quan đến Đại Nhạc Hội để lên kế hoạch họp bàn phân công từng phần vụ trách nhiệm trước một tháng để chuẩn bị với sự tình nguyện của 10 xướng ngôn viên tên tuổi thay nhau điều hợp chương trình cùng sự góp mặt của gần 100 ca nghệ sĩ hải ngoại. Cũng như các lần trước, đặc biệt Trung Tâm Asia, Đài Truyền Hình SBTN-SET đảm trách phần văn nghệ và truyền hình trực tiếp làm cho đồng hương ở xa gắn chặt cùng nhịp sống với Đại Nhạc Hội. Hệ thống truyền thông tiếng Việt tại Nam Cali và Hoa Kỳ yểm trợ quảng bá rất rộng rãi. Điểm quan trọng nhất là Đại Nhạc Hội kỳ này đã có hơn 500 thiện nguyện viên, phần lớn là các cựu sĩ quan từ các Hội Đoàn thuộc mọi quân binh chủng với kiến thức và tài năng sẵn có đóng góp vào, chắc chắn Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ 8 sẽ thành công mỹ mãn đúng sự mong ước của Ban Tổ Chức. Những tấm lòng vàng Gần 40 năm ở hải ngoại, nhưng chừng 24 năm trở lại đây khi có phong trào H.O. Từ đó các Hội Đoàn thuộc các đơn vị QLVNCH được thành lập rồi thêm các Hội Đồng Hương... Tùy hoàn cảnh, các Hội tự lo liệu, kêu gọi đóng góp để gởi về giúp TPB&QP. Cụ thể như đơn vị giúp đơn vị, đồng hương giúp cho đồng hương, khóa học giúp cho khóa học. Hội H.O của bà Hạnh Nhơn là một Hội phát triển mạnh, còn những Hội khác có giúp nhưng trong phạm vị đơn vị, khóa học hoặc đồng hương có tính cách hạn chế trong phạm vi Hội mà thôi. Trở lại Hội của bà Hạnh Nhơn, bà cho tôi biết là: - Hàng tháng trong Hội của bà có nhận được những khoản tiền của các cụ ông, cụ bà tuổi khá cao, cũng chỉ hưởng tiền già song họ đã chắt chiu gởi về Hội có khi $20, có khi $50, đặc biệt các cụ gởi đều mỗi tháng. Sự hưởng ứng đó cao quý quá! - Trong những năm gần đây có một số các lão ông, lão bà đoán biết sức khỏe không còn kéo dài tuổi thọ nên dặn dò thân nhân là khi các cụ qua đời, trong cáo phó xin không nhận vòng hoa, nếu thân nhân, bạn bè quý trọng người quá cố thay vì viếng vòng hoa thì đóng góp cho ít hiện kim để giúp đỡ cho TPB. Việc này đã được một số thân nhân làm xin gởi đến Hội mà báo chí thường đề cập trước đây. Đây là những tấm lòng vàng vô cùng quý. - Chưa hết, bà Hạnh Nhơn kể tiếp: Có một số bạn trẻ con em của chúng ta ở hải ngoại đã thành danh, họ rất quan tâm đền ơn, đáp nghĩa các chú bác TPB và QP ở quê nhà, thành phần này cũng khá nhiều. Đó là những tấm gương sáng, là những viên ngọc quý đáng trân trọng. Đồng hương muốn trợ giúp thì làm sao? Mọi sự trợ giúp xin đồng hương lưu ý: - Ngày Đại Nhạc Hội cố gắng mua vé, mỗi vé giá $10 vào tham dự để có cơ hội gặp lại bạn bè và người thân, nhớ mang theo ít tiền để tặng thêm khi các ca, nghệ sĩ mang thùng quyên góp đến nhờ trợ giúp. Nghĩa cử đó nói lên sự đền ơn đáp nghĩa thành phần tử sĩ, TPB VNCH đã hy sinh trước đây. Nhờ sự hy sinh của họ chúng ta mới có cơ hội được sinh sống ở các nước Tự Do. “Kẻ lành lặn ra đi, không quên người tật nguyền ở lại”. - Các đồng hương ở xa có thể gởi chi phiếu đề “ĐNH Cám Ơn Anh Kỳ VIII” và gởi về một trong hai địa chỉ dưới đây: Hội H.O. Cứu Trợ TPB&QP VNCH, P.O. Box 25554, Santa Ana, CA 92799. Đài SBTN, P.O. Box 127, Garden Grove, CA 92842. Một điều mà Hội H.O. mong mỏi là xin mỗi gia đình hải ngoại bảo trợ cho một thương binh ở quê nhà. Xin liên lạc Hội H.O. Cứu Trợ TPB&QP qua địa chỉ trên để được nhận hồ sơ bảo trợ. Thay lời kết Bài “Cội nguồn và đôi điều suy nghĩ về những việc đã, đang và sẽ phải làm cho TPB VNCH” được dựa vào ký ức trong binh nghiệp của người viết cùng một số sử liệu liên quan theo dòng lịch sử của QLVNCH, trong đó có cả các TPB và tử sĩ là biểu tượng cho lòng dũng cảm, sự hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam. Họ là những anh hùng thật sự của thời đại này. Ghi lại sự kiện lịch sử như một nén nhang thắp lên để tưởng nhớ đến các chiến sĩ đã khuất đồng thời nhắc nhở các bạn trẻ để hiểu thêm về giai đoạn mà thế hệ cha anh các bạn đã cống hiến cả đời mình cho Tổ Quốc Việt Nam. Từ đó các bạn có sự nhận định sáng suốt về sự hy sinh thân xác của TPB hầu góp phần trợ giúp để đền ơn đáp nghĩa, an ủi phần nào sự khổ nhục của TPB đang phải gánh chịu triền miên gần 4 thập niên qua tại quê nhà. Sau gần 40 năm kết thúc cuộc chiến Quốc-Cộng, chính nghĩa đã đứng hẳn về phía VNCH, trong đó có sự hy sinh xương máu đáng kể của các tử sĩ và TPB VNCH. Kính chúc Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH Kỳ 8 thành công hơn 7 lần trước. Little Saigon Mùa Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH Kỳ 8. Hồ Đắc Huân 28/7/2014 40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (II)Nguyễn Văn Lục danang4Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng. (Tiếp theo phần I) Chúng tôi muốn Thiệu phải từ chức Bản đồ VNCH ngày 21 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP Bản đồ VNCH ngày 21 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP “Ông ta đã bán miền Nam cho cộng sản. Thiệu đã không cho biết trước có cuộc rút quân này. Chúng tôi đã bốn lần thoát chết.” Một người phụ nữ khác đã nói như thế. Một vị sĩ quan cho biết trong ba ngày đầu, những nạn nhân bị cộng quân phục kích còn được chôn cất hẳn hoi, nhưng sau đó thì những người bị giết hoặc bị thương bị đẩy sang lề đường và cứ thế đôi khi xe cộ cán qua người họ. Khi mà đoàn người bị ứ đọng bởi xe cộ, kẹt cứng trên một đoạn đường dài hơn 10 dặm, bị pháo kích của cộng quân, bị mìn, bị xô đẩy, chen chúc đến không nhúc nhích được thì bùng phát ra các vụ cướp bóc, hôi của cũa những người lính. Xe cộ, tủ lạnh, tivi, quạt máy, giường ngủ, dàn máy hát và đồ đạc tùy thân lúc này trở thành miếng mồi ngon cho sự cướp bóc? Anh hùng hay hèn nhát? Nào ai có thể nói được trong hoàn cảnh những người chạy loạn khốn khổ và cay đắng ấy? Cầu cống chưa sửa kịp tạo ra sự dồn cục, tắc nghẽn như thể chui vào trong một cái rọ cho cộng quân đuổi theo, pháo kích. Nó còn khốn khổ, tồi tệ hơn hoàn cảnh của liên quân Anh Pháp ở Dunkerque. Cái cảnh ấy không bao giờ có thể quên được. Và cứ thế các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột rơi vào tay cộng quân. Miền Nam đã để mất vào tay cộng sản 11.000 dặm vuông và con số hơn một triệu dân. Mặc dầu vậy, hàng ngàn xe cộ, xe gắn máy cũng đã tới được Tuy Hòa. Đến Tuy Hòa, phần lớn đàn bà, trẻ con như lạc mất thần. Họ lặng lẽ lau nước mắt. Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn Trong khi đó, cũng theo tin AP, nơi xứ người, Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn quyết tâm xiết chặt các thành phần đối lập. Trước đó đã có cuộc trưng cầu dân ý đưa đến kết quả dễ dàng one-man rule vào tháng hai vừa qua. Hoàn cảnh Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm giống nhau. Nhưng số phận hai nước lại rẽ theo những hướng khác nhau, một nước mỗi ngày một phát triển, một nước thì lận đận với chiến tranh và rồi mỗi ngày một thêm tụt hậu. Câu hỏi thắc mắc của tôi là ta và Nam Hàn cùng một hoàn cảnh, vậy mà ông Thiệu không sang Đại Hàn một chuyến học hỏi người ta nhỉ? Ngày Đà Nẵng mất cũng là ngày Lon Nol của Cao Mên chuồn mất. Vào đúng ngày Đà Nẵng mất. Thủ tướng Lon Nol dẫn đầu một phái đoàn viếng thăm thiện chí Indonesia và Hoa Kỳ. Trước khi đến Indonesia, Lon Nol quá cảnh ở phi trường Thái Lan Utapao, nhưng bốn ngày sau, ông biến mất. Và kể từ ngày đó, ông không bao giờ quay trở vể nữa. Ông Lon Nol xem ra cũng quá khôn ngoan, giống lãnh đạo của ta không kém gì! Việc ra đi của tướng Lon Nol cũng báo hiệu cho biết con bài tẩy của Kissinger cách đây hơn 4 năm cũng chấm dứt theo. Kissinger là người đầu tư vào lá bài Lon nol. Vậy mà sau đó Kissinger phủi tay. Ngày 25 tháng Ba. Âm mưu ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu Nguồn tin của hãng Reuters trích lại một bài báo đăng trên báo ở Nhật, tờ Mainichi cho hay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa thoát một cách an lành vụ ám sát ông vào ngày chủ nhật vừa qua. Trong ngày thứ hai, người ta cũng nghe được dư luận về vụ ám sát ông Thiệu là do âm mưu của một sĩ quan cao cấp tìm cách tấn công ông Thiệu. Nhưng các cận vệ của ông Thiệu đã phòng ngừa và ngăn cản được vụ tấn công. Và ngay lập tức, viên sĩ quan ấy bị bắt giữ. Nguyên do của vụ mưu sát ông Thiệu liên quan đến việc ông quyết định cho rút khỏi Tây Nguyên vừa qua. Có thể nói, trong thời gian này, ông Nguyễn Văn Thiệu là một người cô độc. Nhiều tin đồn đảo chánh đòi lật đổ. Ông Nguyễn Cao Kỳ được coi là mối nguy hiểm nhất, vốn là một địch thủ, tìm cách móc nối với tướng Lê Minh Đảo, tướng Cao Văn Viên để có thể có thêm vây cánh. Nhưng kết quả là cả tướng Lê Minh Đảo cũng như Cao Văn Viên đều không muốn tham dự. South Viet generals, Plots are all in vain The Ottawa Journal, April 14, 1975, trang 13. The Ottawa Journal, April 14, 1975, trang 13. Phóng viên Mark Gayn có viết một bài diễn tả đủ cái tình trạng miền Nam lúc bấy giờ nhan đề: South Viet generals, Plots are all in vain. Theo Mark Gayn, ít lắm cũng có hai nhóm tính lật đổ ông Nguyễn Văn Thiệu. Thứ nhất, nhóm cựu tướng Dương Văn Minh mà dưới mắt người Mỹ được coi như hết thời. Ngoài thú chơi lan còn đánh Tennis mà người Mỹ đánh giá ông rất thấp. Một thứ Hamlet của chính trị Viêt Nam, tính tình không dứt khoát đi đến chỗ bất lực chẳng giải quyết được gì. Lúc nào cũng là thứ bung xung. Bề ngoài đóng vai trò trung lập. Chỉ không ngờ con bài tẩy ấy nay lại có chỗ để dùng như một con chiên tế thần mà người Mỹ gọi là a Bluff professionnal soldier, nửa mùa theo Tây. Ra vào nhà Dương Văn Minh, có một số đối lập, bất mãn với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Minh che chở như trường hợp cựu dân biểu đối lập Dương Văn Ba. Ông này ăn ở ngay trong dinh Hoa Lan và trốn lính. Cộng thêm vào đó là một vài tướng lãnh còn mong muốn Minh trở lại nắm chính quyền và có cơ may thương thảo hòa bình với cộng sản. Nhưng Minh là người rất ngại Nguyễn Văn Thiệu. Minh có mời Trần Thiện Khiêm lại nhà nói chuyện và thú nhận có liên lạc với phía Mặt trận. Minh cũng khoe là qua tướng Đôn vừa về từ Paris, có liên lạc với Jacques Chirac và Pháp đã công khai cho rằng Minh là người có thể có vai trò hòa giải. Đại sứ Pháp Jean-Marie Merrillon đã đến gặp Minh để tiếp xúc. Người thứ hai là thủ tướng Trần Thiện Khiêm, một người khá nhất trong đám tướng lãnh, một tay chuyên nghiệp trong những âm mưu và khuynh đảo và cũng có thể là người có khả năng nhất để điều hành chính phủ. Vừa qua, nhân danh ông Thiệu, ông Khiêm là người thay đổi ba tướng quân đoàn, 20 đại tá và 200 cấp tá. Ông biết dùng người, ngay cả loại trừ người này, người kia, rồi cài đặt vào vị trí khác khiền ai cũng mắc một món nợ với ông. Tuy nhiên, tình hình quá khẩn trương và thay đổi gấp rút nên việc sắp đặt các chức vụ chỉ huy chưa đem lại kết quả gì khi cộng quân sắp sửa vào đến cửa ngõ trong nhà. Mọi cố gắng thay đổi đề trở nên vô ích. (Xem phần di tản của ông Thiệu để thấy Ông Thiệu và Khiêm là cặp bài trùng) Lần đầu tiên, Đà Nẵng bị pháo kích. Ở phía Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Chu Lai thất thủ giúp cho cộng quân rảnh tay. Nói thất thủ là không đúng, cộng quân chưa tới nơi thì quân dân cán chính đã tự rút lui có chiến thuật, mạnh ai người nấy bỏ chạy. Hết Quảng Ngãi, Chu Lai đến Nha Trang và cứ thế tháo chạy. Cảnh tượng đó bắt nguồn từ cuộc rút quân ngày 16 tháng 3 tại Pleiku, Kontum và như vết dầu loang. Chưa đánh đã bỏ chạy. Thực sự sau trận tấn công dễ dàng vào Ban Mê Thuột ngày 10-3 mở đầu cho chiến dịch, cộng quân chưa hề có trận đụng độ chính thức nào với quân đội miền Nam Việt Nam. Đó là nỗi nhục chung cho quân đội miền Nam. Ngày 27 tháng ba. Mất Bình Định Bản đồ VNCH ngày 27 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP Bản đồ VNCH ngày 27 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP Tỉnh Bình Định đã rơi vào tay cộng quân. Trong khi đó ở Sài Gòn, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh bắt một số khoảng hơn 10 người được coi là có âm mưu lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Danh sách 10 người này là những ai hiện nay chưa được biết chính xác. Nguyên thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo phủ nhận ông không có dính dáng trong những âm mưu tính lật đổ này. Ông cũng kêu gọi thành lập một chính phủ mới ‘được dân chúng và quân đội tin tưởng’. Tuy nhiên ông nói với các thông tín viên báo chí là ông mong muốn có sự thay đổi bằng những phương tiện hòa bình. Ngày 27 tháng 3. Quảng Trị mất Người ta còn nhớ trước đây, cộng quân đã chiếm Quảng Trị vào năm 1972. Trận đánh kéo dài đến tám tháng. Và quân đội VNCH phải mất 2 tháng để chiếm lại Cổ Thành với trợ giúp của gần 5000 chuyến bay B-52 và và gần một triệu viên đạn pháo. Cuộc chiến đấu tái chiếm Quảng Trị là một quyết tâm của quân đội VNCH, đổ ra nhiều xương máu. Trong cuộc tái chiếm của Quảng Trị, người ta cho là trận đánh kinh hoàng nhất. Số thương vong cả hai bên, nhất là phía cộng quân thiệt hại không đếm xuể. Xác người không kịp chôn. Họ đã vùi thây ở đây như một thứ mồ chôn tập thể mà Hà Nội đã đẩy họ vào. B-52 là hung thần của họ. Vậy mà nay đến lượt quân đội miền Nam phải bỏ chạy. Nay thì nhiều đoàn người dân chúng hốt hoảng bỏ chạy. Thừa Thiên có mật độ dân số là 750.000 ngàn người, trong đó thành phố Huế với 200.000. Huế với những cảnh sôi nổi, biểu tình xuống đường trước đây, nay Huế chỉ còn là cảnh vườn không nhà trống. Thông tín viên AP đã phải gọi Huế là vùng no-man’s land. Thành phố Huế vắng hoe. Người ra đi thì đã đi rồi. Người ở lại thì đành chấp nhận cho số phận buông xuôi. Người ta ước lượng con số hơn nửa triệu người đã bỏ chạy. 10 giờ đêm 28 tháng ba Có lệnh bỏ Đà Nẵng. Tướng Truởng đã họp các sĩ quan tham mưu và thông báo cho họ tin triệt thoái khỏi Đà Nẵng. Triệt thoái như thế nào, phương cách làm sao? Từ tướng Trưởng trở xuống, không một ai có lòng dạ nào lo cho cuộc triệt thoái có trật tự, có lớp lang. Ai đi trước, ai đi sau ngăn chặn cộng sản. Kinh nghiệm triệt thoái Cao Nguyên đáng lẽ là một kinh nghiệm đắt giá. Vậy mà bài học Tây nguyên đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì cho cuộc triệt thoái này. Cuối cuối cùng đây là cuộc bỏ chạy thê thảm thứ hai sau Ban Mê Thuột. Trách nhiệm này chắc hẳn tướng Trưởng phải chịu một phần! Cách đây 2 tuần lễ, tại đường số 7, đó là một Dunkerque Việt Nam. Ngày hôm nay, cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng là một nỗi kinh hoàng mà trách nhiệm phần lớn nằm trong tay quân đội, tướng lãnh, sĩ quan cao cấp. Ngày 29 tháng Ba. Đà Nẵng những ngày hấp hối. Miracle Flight from Hell Đà Nẵng sau này trở thành tiêu biểu cho cuộc tháo chạy của quân đội và dân chúng miền Nam lánh nạn cộng sản. Một sự tháo chạy trong hoảng loạng, chà đạp, xô đẩy ngay cả giết chóc để kiếm một chỗ trên máy bay hay trên các tàu thủy. Thảm cảnh ấy chỉ sau này ở hải ngoại Cao Xuân Huy mới viết “Tháng ba gẫy súng”. Đó là một địa ngục trần gian mà những chuyến bay rời khỏi Đà Nẵng những ngày cuối cùng được phóng viên Paul Vogle là nhân chứng diễn tả lại. Câu chuyện về ông Edward Daly Người tị nạn cộng sản, kể cả trẻ mồ côi Việt Nam đến Mỹ bằng phi cơ của World Airways. Nguồn: oaklandaviationmuseum.org Người tị nạn cộng sản, kể cả trẻ mồ côi Việt Nam đến Mỹ bằng phi cơ của World Airways. Nguồn: oaklandaviationmuseum.org Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng thêm 17 lần để cứu vớt những người tỵ nạn mặc sự ngăn cản và chấm dứt hợp đồng của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn sau 3 chuyến di tản. Tất cả chi phí chuyến bay cũng như trách nhiệm là do tự ý Daly quyết định với hy vọng vớt thêm người tỵ nạn. Ông là chủ công ty World Airways từ năm 1950. Cái gương can đảm của Daly thật đáng để kể lại. Phóng viên của hãng UPI, Paul Vogle là một trong những người đi chuyến bay chót từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông cho là một phép lạ chuyến bay có thể cất cánh và an toàn ra khỏi không phận Đà Nẵng vào ngày thứ bẩy. Nhiều người đã giành giật lên máy bay và sẵn sàng giết người khác để giành một chỗ trên chuyến bay. Trang nhất tờ The Hour - Mar 21, 1975. Trang nhất tờ The Hour – Mar 21, 1975. Ông Daly đã bắn một loạt đạn lên trời nhằm cảnh cáo. Nhưng xem ra tất cả đều vô hiệu. Theo Paul Vogle, những người lính VNCH đã xả hàng tràng đạn M16 để ngăn cản những người dân tỵ nạn đổ xô lên máy bay. Trong khi đó cộng quân tiếp tục pháo kích vào phi trường càng làm cho dân chúng hoảng sợ. Paul Vogle đã trông thấy một người lính của quân đội miền Nam đã đạp vào mặt một người đàn bà lớn tuổi để dành chỗ lên máy bay. Người đàn bà lộn nhào xuống ở phi đạo và một tay vẫn cố bám vào phi cơ đã sắp sửa lăn bánh. Một binh sĩ dùng súng đã bắn một tràng súng liên thanh. Trên máy bay, chỉ có các binh sĩ trong quân phục của họ. Phần đông họ thuộc Đại đội Hắc Báo, Sư đoàn 1 Bộ binh (1st Division’s Black Panther Unit). Sàn máy bay đầy những vết máu. Có hai thường dân duy nhất là đàn bà và một đứa trẻ trong chuyến bay phản lực 727. Có vài người bám vào khoang bánh phi cơ và may mắn như một phép lạ nếu họ còn sống sót. Một số người khác không có may mắn như thế khi phi cơ đã lượn ra xa và họ rớt xuống biển. Khi đến phi trường Tân Sơn Nhất, người ta còn thấy thây một người lính với khẩu M16 còn dính vào vai, thây người còn dính lủng lẳng vào bộ bánh hạ cánh của chiếc phi cơ. Theo Frank Snepp sau này cho biết, khi chiếc máy bay World Airways 727 vừa đáp xuống phi đạo thì xe chở quân đội cộng hòa tiến lại gần máy bay và binh lính ào xuống. Khoảng 5000 dân chúng đứng sau một hàng rào nôn nóng chờ đợi đã chạy ào về phía máy bay. Viên phi công vội cho rồ máy và vội vã cất cánh kéo theo một số người còn đang bám dính vào máy bay.(7) Theo Nhiếp ảnh gia Liên Hương của hãng UPI đã có mặt trong chuyến bay thứ nhì từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, nhiếp ảnh gia đã nhìn thấy một số người bám vào chiếc phản lực thứ nhất khi nó cất cánh và một người đã bị rớt xuống biển. Chân ngươi lính VNCH còn trong bánh phi cơ trong bộ phận hạ cánh chủa chiếc World Airways 727 rời Đà Nẵng. Nguồn: UPI Chân một ngươi lính VNCH còn trong bộ phận hạ cánh của chiếc World Airways 727 và cánh trái của phi cơ hư hại vì lựu đạn của lính VNCH nhưng vẫn rời Đà Nẵng. Nguồn: UPI Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng. Còn hàng trăm ngàn binh sĩ và thường dân kẹt lại ở Đà Nẵng trong tình trạng rối loạn và vô trật tự. Mất Đà Nẵng, coi như một thiệt hại lớn lao nhất kể từ năm 1946. Một triệu rưởi ngưởi bị vây hãm ba phía. Và trông ra biển là một lối thoát tuyệt vọng. Có 8 chuyến bay định hạ cánh xuống Đà Nẵng để cứu vớt một số dân tỵ nạn. Nhưng đành bỏ cuộc. Cũng chỉ còn chút may mắn là khoảng từ 35 ngàn đến 50.000 ngàn người đã chạy thoát bằng đường biển, Đà Nẵng ngày 31-3. Babies fall overboard in scramble for ships Vào ngày 29, tướng Trưởng còn ở Đà Nẵng. Nhưng thay vì ở trên bờ thì ông đã leo lên một chiếc canoe tuần tra để ra tầu lớn. Nơi đây, ông còn nán lại thêm hai ngày nữa để chứng kiến cảnh hấp hối của Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn. Sau này, nhiều sĩ quan đã phê bình ông vì ông đã không ở lại Đà Nẵng cho đến ngày chót để giữ tinh thần binh đội của mình.Thảm cảnh giành giật lên máy bay chỉ là một sự thu nhỏ thảm kịch tháo chạy. Tại bãi biễn Đà Nẵng, hàng ngàn con người chờ đợi, lội bì bõm với hy vọng ra được tàu thủy bị sóng vùi lấp, hoặc chen chúc nhau trên các sà lan cả mấy ngày nhịn đó, nhịn khát. Xà lan chở người tị nạn lên tầu SS Pioneer Comander. Nguồn: 1 tháng Tư, 1975 | Tàu nhỏ kéo xà lan chở người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender. Nguồn: AP Radiophoto Trên chiếc tàu buôn dân sự chở hàng khô SS Pionner Contender(7a), theo lời một nhân chứng thuật lại, một số binh sĩ đã nhốt các chỉ huy chiến hạm này vào một cabin, rồi thay nhau hãm hiếp các phụ nữ, sát hại cũng như trấn lột nữ trang, tiền bạc gây hoảng sợ trong số dân chúng ở trên tầu. Đây là tình trạng phẫn nộ của một số binh sĩ về sự sụp đổ cay đắng đang diễn ra. Anh hùng hay hèn nhát? Những thủy thủ người Mỹ trên tầu cho hay có ít nhất 25 người đã bị giết chết khi tranh giành lên tầu. Những người lính thủy quân lục chiến này cho rằng, họ đã giết những người đó vì tình nghi họ là Việt Cộng. SS Pioneer Contender là chiếc tầu cuối cùng rời bến cảng Đà Nẵng. Riêng phóng viên Peter O’Loughlin đã nhìn thấy khoảng 15 xác chết và hàng trăm xác chết khác trên những chiếc xà lan khác. Theo một nguồn tin khác của AP, trên những chiếc xà lan chất đống hàng mấy ngàn người vừa binh sĩ, vừa thường dân với trẻ con sống chen chúc nhau từ 4 ngày nay không có nước uống. Họ trở thành như điên loạn và đôi khi nhảy xuống biển tự vận. Lính thủy người Mỹ trên tầu SS Pioneer Contender làm thành hành rào người để đỡ những đàn bà trẻ em lên tàu. Phải mất tám giờ đồng hồ để đưa họ lên tàu. Hình: 1 April 1975 – Lưới chuyển hàng đưa người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender ở bờ biển, sau khi thành phố Đà Nẵng sụp đổ; Phải mất tám giờ để đưa khoảng 6.000 người tị nạn lên tầu. Nguồn: Peter O'Loughlin / AP 1 April 1975 – Lưới chuyển hàng đưa người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender ở bờ biển, sau khi thành phố Đà Nẵng sụp đổ; Phải mất tám giờ để đưa khoảng 6.000 người tị nạn lên tầu. Nguồn: Peter O’Loughlin / AP Nhiều người bám vào dây neo của tàu để trèo lên. Chiếc SS Pionner Contender thứ nhất đã vớt được 5000 người và đã nhổ neo. Chiếc SS Pioneer Contender đã có thể áp sát tàu vào sà lan giúp cho người ta có thể lên tàu dễ dàng hơn. Khi chiếc Contender, nhổ neo thì không còn sà lan nào khác và tàu trực chỉ phía Nam, rất có thể là sẽ ghé Cam Ranh. Trên tàu thiếu nước uống, chỉ còn vài thùng nước uống không đủ phân phát cho mọi người. Thủy thủ đoàn đã phải biến Cabin trên tàu thành một nhà thương, vì có người đàn bà hạ sinh một đứa trẻ. bác sĩ cho biết đứa trẻ ở trong tình trạng nguy kịch. Tàu trực chỉ hướng Nam và người ta còn nhìn thấy xa xa trên bãi biển như một đống rác với xe gắn máy, valise, dày giép, quần áo vứt hỗn độn cũng như xác một đứa trẻ nằm chết trên bãi. Người ta còn nhớ cảnh tượng hãi hùng khi một vài đứa trẻ bị rớt xuống biển và mẹ chúng nhảy xuống theo với một cố gắng vô ích cuối cùng mong cứu được con của họ. Đó là bài tường thuật của phóng viên AP, tại Đà Nẵng, vào ngày 31 tháng ba với nhan đề: Babies fall overboard in scramble for ships. Chẳng hiểu những ông Thiệu, ông Khiêm, ông Trần Văn Đôn, ông Dương Văn Minh có cơ hội được xem những thảm cảnh này trên truyền hình hay không? Phần tôi, sau này có dịp nghĩ rằng các các cấp lãnh đạo miền Nam và các vị chỉ huy từ cấp đại tá trở lên đang có trách nhiệm ở vùng một đã không làm hết bổn phận của một quân nhân. Hầu hết đã dùng những phương tiện dành cho họ và rút khỏi miền Trung bỏ lại đằng sau các sĩ quan cấp thấp như thiếu tá, đại úy và binh lính của họ. Vì thế, đã có nhiều thành phố buông xuôi, bỏ chạy mà cộng quân đã không phải tốn một phát súng nào. Chẳng hạn như tại Quảng Trị, Bình Định, Tuy Hòa. Người ta có cảm tưởng mạnh ai tìm phương tiện tháo thân và bất kể số phận dân chúng ra sao. Ông Thị trưởng Đà Nẳng đã tỏ ra bất lực và buông xuôi. Một trong những nhân viên CIA làm việc tại Đà Nẵng Francis Gasped đã hét lên khi không cách nào liên lạc được với vị thị trưởng, “Get me the Mayor.” Đã có bao nhiêu ông thị trưởng trốn trách nhiệm vào giờ phút thứ 25 như thế? Và khi đã gặp được viên thị trưởng thì Gaspel nói, “Hãy giúp chúng tôi một tay ở đây. Họ dù sao cũng là dân của các ông.”(8) Người ta ít để ý và ghi nhận là ngoài khơi bãi biển Đà Nẵng có chiếc tầu thủy dành riêng cho nhóm CIA để quan sát tình hình. Tên chiếc tầu là Oseola có nhiệm vụ quan sát, nếu cần tiếp trợ theo khả năng của họ. Trên bong tầu Oseola, người ta có thể quan sát cảnh chen chúc nhau lên chiếc Pioneer Contender, cảnh những xà lan tới tấp đưa người lên chiếc SS Pioneer Contender đã quá tải. Xa xa là chiếc HQ-5 của Hải quân, một tầu tuần duyên. 28 tháng Tư 1975: Tàu SS Pioneer Contender 23 April 1975 – người tị nạn Việt Nam trên tàu SS Pioneer Contender trong giai đoạn kết thúc Chiến tranh Việt Nam; 40 năm trước, vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam thất thủ. Nguồn: Bộ Quốc phòng Mỹ / AP Vài giờ sau, vào lúc nửa đêm, trên chiếc Oseola, người ta có nhận thấy đèn pha trên chiếc SS Pioneer Contender trực chỉ hướng Nam về phía Cam Ranh. Sứ mệnh một con tàu coi như đã hoàn tất. Phần còn lại, để cho số phận quyết định! Có một điều như một tấm gương cho các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp soi gương là người ở lại cuối cùng trước khi rời Đà Nẵng lại là một người Mỹ. Mặc dầu có lệnh của trùm mật vụ Polgar yêu cầu ông phải di tản ngay khỏi Đà Nẵng bằng máy bay. Ông Philip Custer [bí danh của Trưởng Cơ sở CIA tại Đà Nẵng – có thể là Thomas J. Flores] coi như tai điếc vẫn tiếp tục ở lại, coi như không nhận được lệnh. Ông ở lại với hy vọng là cứu vớt được nhiều người khác lên tầu thủy, thêm được tin tức. Nhưng đối với Polgar thì việc trì hoãn di tản là tự chuốc lấy một sự liều lĩnh không cần thiết. Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng để cứu vớt thêm những người tỵ nạn mặc dầu sự ngăn cản của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Nhưng nếu tất cả cấp chỉ huy của chúng ta làm công việc như ông Custer hay ông Daly ở trên thì sự thể sẽ như thế nào? Vào lúc này, tại tòa đại sứ Hoa Kỳ loan báo sẽ có những chuyến bay đặc biệt chở sang Sài gòn các phương tiện thuốc men và cả đồ viện trợ quân sự nữa. Quyết định của sinh viên ở Canada Trước tình hình miền Nam trở thành một sự tuyệt vọng. Anh em sinh viên bên này đã tụ họp lại và đi đến quyết định lên gặp đại diện chính quyền Canada bảo lãnh cho gia đình sang tỵ nạn bên Canda. Hạ tuần tháng 3, 1975 sinh viên Việt Nam đã đến văn phòng Bộ trưởng Bộ Lao động và Di trú Robert Andras yêu cầu chính phủ Canada đưa thân nhân của họ rời khỏi Việt Nam. Mặc dù chỉ có một số nhỏ, sinh viên Việt Nam (khoảng 1500 người ở Ontario và Quebec) khi tình hình xấu đi, trụ sở chính của Bộ Bộ Lao động và Di trú tại Ottawa đã tràn ngập với hàng ngàn đơn xin bảo lãnh cho thân nhân và gia đình ở Việt Nam. Đơn bảo lãnh thân nhân của sinh viên Việt Nam tại Canada, Circa tháng 3, 1975. Nguồn DCVOnline Đơn bảo lãnh thân nhân của sinh viên Việt Nam tại Canada, Circa tháng 3, 1975. Nguồn DCVOnline Các toán công tác của Bộ Lao động và Di trú ở châu Á-Thái Bình Dương không kịp đối phó, và toàn bộ đội ngũ ngoại giao đoàn đã chuyển sang gởi thư và chiếu khán nhập cảnh. Đơn xin bảo lãnh được cứu xét cấp tốc, và telex danh sách người được bảo lãnh được gửi đến đại sứ quán Canada tại Sài Gòn ở tốc độ nhanh nhất. Nhân viên ngoại giao đã làm việc từ 14 đến 16 giờ một ngày. Hai nhân viên đã ngủ tại Trung tâm Thông tin liên lạc của Bộ Ngoại giao để bảo đảm bảo các tin nhắn vào và ra đã được chuyển kịp thời. Và tất cả các trung tâm di trú ở Canada đã mở cửa một ngày cuối tuần để nhận đơn bảo lãnh. Cố gắng của nhân viên Bộ Di trú ở Canada đã đem lại kết quả: mỗi buổi sáng tháng Tư, tòa đại sứ Canada tại Sài Gòn đã nhận được những tờ telex dài từ 7 đến 10 thước với tên và địa chỉ, thường không đầy đủ, của thân nhân của sinh viên và người Việt tại Canada.(9) Chỉ trong tháng Tư 1975, văn phòng visa Canada ở Hồng Kông đã gửi thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh đến 3.500 gia đình (khoảng 15.000 người) ở Việt Nam được người thân ở Canada bảo lãnh.(9a) Thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh Canada, 24 tháng 4, 1975. Nguồn CIHS, số tháng 4, 1975. Thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh Canada, 24 tháng 4, 1975. Nguồn CIHS, số tháng 4, 1975. Nay nhìn lại, người ta thắc mắc không biết có bao nhiêu sinh viên phản chiến ở Canada nộp đơn xin đoàn tụ gia đình? Câu trả lời có thể là từ một người dại diệm nhóm sinh viên thiên tả trong tổ chức UGCV (Union générale des Vietnamiens au Canada. Hội Việt kiều Yêu Nước Tại Canada) – ông Thục Bình nói như sau: Chúng tôi chào đón cuộc chinh phục toàn Đông Dương của người cộng sản. Ông nói tiếp: “Cuộc chiến thắng vào tháng tư 1975 đã làm rung chuyển huyền thoại sức mạnh siêu cường của nước Mỹ. Nó đem đến sự giải phóng cho nhiều quốc gia. Nhờ đó, nó đem lại sự chiến thắng của các lực lượng tiến bộ của lào và Cambodia, sự chấm dứt chế độ thộc địa của Bồ Đào Nha tại Angola, Guinea-Bissau và Mozambique và sự sụp đổ của các nhóm độc tài cựa tả tại Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha.”(10) Phần chính quyền Canada như Bộ trưởng Di trú Robert Andras nhấn mạnh trong buổi họp nội các rằng: “Canada có truyền thống nhân đạo ‘humanitarian considerations ought to be regarded as paramount’ (Sự cứu xét về mặt nhân đạo phải được coi là điều tối quan trọng).” Cứu trợ nhân đạo cũng là để đáp ứng lời kêu gọi của Mỹ muốn các nước đồng minh cùng nhau hợp tác trong một chương trình đa phương nhằm định cư những người Việt. Chẳng những chính phủ Canada chấp nhận cho các sinh viên đang du học tại đây, các người có quyền công dân hay thường trú, khoảng 1500 người được bảo lãnh thân nhân từ Việt Nam sang. Chính quyền còn thỏa thuận nhận khoảng 2000 người không có thân nhân bảo lãnh ở các trại tỵ nạn và 1000 người khác Đông Nam Á.(11) Chúng tôi nghĩ rằng, việc bảo trợ những người Việt Nam tỵ nạn đến Canada ngay sau ngày 30 tháng Tư, 1975 là một việc làm nhân đạo. Nếu có ưu tiên nào, lúc đó, thì ưu tiên duy nhất là có thân nhân hiện ở Canada. Cũng vì tính cách nhân đạo đó, sau này chính phủ Canada đã cho nhập cảnh Canada đủ mọi thành phần, có học cũng như không có học, biết tiếng Pháp cũng như không biết tiếng Pháp. Tài liệu “Indochinese Designated Class Regulations”, S.O.R./78- 931 nêu rõ nhiều chi tiết về tiến trình bảo lãnh/nhập cư vào Canada của người tị nạn Việt, Miên, Lào đã bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng Tư 1975. Một số thành phần thuộc giới có ăn học ở Việt Nam, được bảo lãnh vào Québec chủ quan cho rằng, Québec thường dễ chấp nhận những người có bằng cấp và nói được tiếng Pháp! Đó là một lối suy nghĩ chủ quan không đúng chỗ. Hiện nay di dân người Việt ở Canada đã lên đến con số 250.000 người, vậy thì ai là người có học và ai là người nói tiếng Pháp trong số đó? Trong tập hồ sơ kỷ niệm 40 năm di cư của Hội Sử học Di Dân Canada (The Indochinese Movement: Fortieth Anniversary), ông Bộ trưởng Di trú Robert Andras đã nêu bật tính cách ‘phi chính trị’ trong việc tiếp nhận người tỵ nạn. Vì thế, Canada cùng lúc cho nhập những người Việt Nam tránh nạn cộng sản cũng như cho nhập những người dân Chí Lợi thuộc cánh tả của Tổng thống Allende bị chính quyền độc tài quân phiệt Pinochet săn đuổi và truy lùng. Ngày mồng một, tháng Tư, 1975 | Cong will talk, if Thieu out Trước một nguy cơ miền Nam sụp đổ không tránh được, cộng sản Hà Nội càng tỏ ra quyết liệt. Tin của thông tín viên AP, từ Nhật Bản cho hay, cộng sản Hà Nội tuyên bố miền Nam Việt Nam đang ở một khúc quanh mới (New turning point) về một chiến thắng áp đảo và tràn ngập về quân sự. Nhưng Hà Nội chỉ chịu nói chuyện với một chính quyền mới trong đó không có Nguyễn Văn Thiệu và phe đảng của ông ta. Và rằng trở ngại cuối cùng để đưa đến một cuộc đàm phán chính là Nguyễn Văn Thiệu. và Người Mỹ thì vẫn ngoan cố không chịu chấm dứt sự can thiệp bằng quân sự vào cuộc chiến tranh. Kissinger thất bại trong cuộc đàm phán Do Thái-Ai Cập Những cố gắng ngoại giao trong những ngày gần đây xem ra đã tan ra mây khói. Chính sách ngoại giao con thoi (Shuttle diplomacy) của Kissinger đã chấm dứt bằng sự thất bại vì không đưa được Do Thái-Ai Cập xích lại gần nhau để bàn thảo về tương lai giữa hai nước về việc giải trừ binh bị. Mặc dù gặp thất bại, Kissinger vẫn không ngừng gặp gỡ đôi bên. Ông vẫn hy vọng hai bên đạt được một thỏa hiệp! Refugees plight hopeless Hoàn cảnh của hơn một triệu người hiện nay còn bị kẹt lại Đà Nẵng coi như hết hy vọng. Ít lắm trong số đó có khoảng 120.000 người tỵ nạn có hy vọng được vớt ngoài biển. Đạn trọng pháo của cộng quân vẫn tiếp tục nã vào Đà Nẵng. Hiện nay có khoảng 20 tầu biển đang đậu ngoài khơi hải phận quốc tế để cố gắng tìm cách đưa những người tỵ nạn còn bị kẹt trong đất liền. Nhưng xem ra khó có hy vọng làm được điều gì. Làm thế nào người tỵ nạn có phương tiện để ra gặp tầu biển đậu ngoài khơi? Xem ra mọi chuyện đã quá trễ và hết hy vọng? Họ phải có những tầu đổ bộ (Landing ship transport) chở ra tàu lớn. Chính quyền miền Nam đã nhờ Mỹ can thiệp với Hà Nội để cho những người tỵ nạn ở Đà Nẵng được ra đi thong thả. Hà Nội trả lời là không thể nào có cuộc ngưng bắn đi kèm với việc để những ngươi tỵ nạn ấy ra đi! Chấm hết. Ngày 2 tháng tư, 1975 Theo tin của đài Hà Nội, một chính quyền mới nay đang có trách nhiệm ổn định lại trật tự ở Huế. Một số viên chức cao cấp như cảnh sát và nhân viên chính phủ bị kẹt ở lại được biết đã bị đem ra xử bắn ngay tức khắc. Và như một màn kịch cùng ngày, tướng Thiệu ra lệnh tướng Trưởng phải tái thiết lập Quân đoàn 1 dể phản công lấy lại toàn vùng. Tường Trưởng nghe được lệnh này chắc phải vừa cười, vừa khóc. Đã ít nhất hai lần, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra những lệnh trái ngược nhau liên quan đến Quân khu I. Cuộc triệt thoái khỏi vùng I đã phải trả giá đắt. Với 3 triệu dân chỉ có hơn 70 chục ngàn thoát chạy khỏi vùng I mà phần lớn thoát chạy bằng đường biển. Nay đến lượt thành phố Nha Trang phải di tản. Hôm nay là ngày thứ ba, 2 tháng Tư. Thành phố nhốn nháo với dân tỵ nạn và họ tìm cách chạy ra khỏi thành phố bằng đủ phương tiện. Phần đông họ dùng đường bộ để chạy ra Cam Ranh, cách Nha Trang 40 dặm về phía Nam. Trong số những người tỵ nạn, một số không nhỏ chạy về từ Cao Nguyên và một số chạy vào từ Đà Nẵng mới được vài ngày nay lại một lần nữa chạy khỏi Nha Trang. Tuy nhiên các chức sắc trong thành phố cũng như những người có tiền của, có phương tiện do kinh nghiệm từ Đà Nẵng, họ đã tìm cách đi vào Sài gòn trước khi tình trạng rối loạn ở Nha Trang xảy ra. Tuy vậy, những cảnh tượng hỗn loạn xảy ra ở Đà Nẵng nay tái diễn ở đây ở mức độ nhỏ hơn. Nhà tù được mở cửa tạo thêm sự hỗn loạn với nạn cướp hóc vốn đã có sẵn. Chương trình Orphan Airlift bị bãi bỏ Theo tin của hãng AP từ Sài Gòn đánh đi cho hay dự định cho 500 trẻ em mồ côi được phép đi sang Mỹ dã bị bãi bõ. Chương trình này do tổ chức có tên là Friend of all Children được 4 bác sĩ và 17 nữ trợ tá gồm các quốc tịch như Mỹ, Úc và Anh trợ giúp. Theo dự định, các trẻ em sẽ được chở đi trên các chuyến bay World Airways DC8 Cargo jet đến Chicago, ghé qua Tokyo và Hawaii. Sau đó chẳng bao lâu lại có lệnh cho phép các trẻ em mồ côi được phép ra đi. Ngày 3 tháng tư, 1975 Người dân Đà Nẵng lo trốn chạy cộng sản như thế, nhưng theo phóng viên John Burns của tờ The Globe and Mail cho hay, tại Bắc Kinh, tờ People’s Daily (Nhân dân nhật báo), trích dẫn một nguồn tin của báo chí cộng sản Hà Nội viết hàng trăm ngàn thường dân ‘Who had been forced to retreat with the ennemy from Danang, firmly frustrasted the vicious ennemy scheme and return to city, where they gave the liberation armed forces a rousing welcome’. (Bị áp lực rút theo bọn kẻ thù xấu xa, đã quay trở về thành phố Huế và hoan hô chúc mừng quân đội giải phóng). Bài báo còn cho biết thêm, chính ‘ngụy quyền’ miền Nam đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê chứ không phải người cộng sản. Bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford Theo tin hãng AP, tại Los Angeles, bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford, bà rất lấy làm xúc động khi thấy hoàn cảnh một số trẻ em Việt Nam và bà mong muốn nhận chúng làm con nuôi. Bà Ford đã nói trong một buổi họp báo trong lúc đang đi nghỉ hè tại Palm Springs, bà nói bà ủng hộ chương trình cứu một số trẻ em của Tổng thống Ford, Orphans Airlifts. Bà nói thêm, “Tôi thấy rằng những trẻ em cũng là những đứa trẻ và chúng cũng cần có những cơ hội lớn lên như các con em của chúng ta.” Where is Thi My Kieu? Cũng theo tin AP, tại Pompano beach, Florida, trong một căn phòng mới được trang hoàng dán giấy mầu hồng và mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng. Vợ chồng luật sư Ed Oddo đã sốt ruột trông chờ đứa trẻ Việt Nam được nhận làm con nuôi được sang Hoa Kỳ. Đó là bé gái Kiều Thị Mỹ. Vào hôm thứ tư, ông Ed Oddo nói, “It’s frustrating. We’ve waited so long. You Know, We’ve got her picture. We’ve planned and dreamed, like a family would for any new baby.” Phần bà vợ ông Oddo, Christine, 25 tuổi hy vọng rằng đứa con nuôi ba tháng rưỡi tuổi sẽ đến đây cùng với cùng với các trẻ mồ côi khác trong chuyến bay sắp tới. Ông nói thêm, chúng tôi đã làm tất cả những điều có thể làm để hy vọng Thi My Kieu có thể đến đây. Tin tiếp tục ngày 3-4 | Horror of war behind for 52 Viet orphans Theo tin của hãng UPI, tại San Francisco, 52 trẻ em Việt Nam mồ côi hiện đã đặt chân đến đất Mỹ tuổi từ 3 tháng đến 8 tuổi vào tối thứ tư tại phi trường Oakland International Airport trên chuyến bay World Airways cargo jet. Các trẻ em dã để lại đằng sau hình ảnh một cuộc chiến tranh ghê sợ mà các em chưa nhận thức hết được. Một cuộc sống mới đang mở ra. Chắc chúng còn mệt sau 16 giờ 53 phút bay từ Việt Nam sang đây. Sau đó chúng được chở bằng xe buýt đến Tổng hành dinh của quân đoàn thứ sáu để khám bệnh và làm thủ tục nhận con nuôi. Sở dĩ chúng có thể đến được đây trong ngày hôm nay là do lòng can đảm và tận tụy của Đại úy Ken Healy đã bất chấp lệnh từ Sài Gòn do trạm không lưu ngăn chặn không cho cất cánh bằng những chiếc phi cơ DC8. Đại úy William Keating cũng có mặt trong chuyến bay cắt nghĩa thêm: we were instructed to hold our position by ground control. We ignore that. We taxied down the runway and took off’. Các trẻ em mồ côi này đã vượt được đoạn đường dài 6.993 dặm từ Sài gòn đến San Francisco. Họ còn chuẩn bị một căn phòng cạnh cây cầu Golden Gate để cho các em mới tới vui chơi. Cứ hai em thì có một tấm nệm và căn phòng được trang hoàng đẹp mắt. Cứ mỗi một em thì do một người lớn chăm sóc mọi thứ. Ngày 4 tháng Tư, 1975: Vietnamese cabinet ousted! Theo nguồn tin UPI, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố ngày hôm nay chấp nhận chính phủ của ông sẽ từ chức và được thay thế bằng ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ viện. Vẫn có dư luận đồn thổi trong dân chúng là ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm đảo chánh. Ông Kỳ phủ nhận tin này. Sự thay đổi này chỉ là một sự chút trách nhiệm cho người khác. Nó không phải là giải pháp giải quyết của tình thế. Trong những ngày gần đây, Ông Thiệu đẩy trách nhiệm rút khỏi Tây Nguyên cho tướng Phú, trách nhiệm rút Huế Đà Nẵng cho tướng Trưởng. Tất cả chỉ là những màn chạy tội. Miền Nam chắc sẽ mất vào tay cộng sản vì Mỹ bỏ viện trợ. Quân đội miền Nam VNCH đã từng chiến đấu ròng rã trong suốt 21 năm không lẽ thua trong vài tuần? Ngay cả trường hợp miền Nam bị thua và rơi vào tay cộng quân, chúng ta vẫn có thể chọn lựa cho mình một cách thua khác. Không phải cách thua nhục nhã như thế này! Tướng Weyand, một đặc sứ của Tổng thống Ford gửi sang Việt Nam xem xét tình hình Việt Nam vẫn có thể tuyên bố như sau, “The North Vietnamese army… can be defeated.” Chiến dịch ‘Operation Babylift’ Trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam sắp sửa đi đến chỗ kết thúc. Một trong những người tích cực nhất trong việc di tản một số người Việt ra khỏi đất nước họ là ông Bộ trưởng bộ di trú Canada, ông, Robert Andras. Ông đã cho đặt thêm một emergency desk ngay trong văn phòng làm việc của ông để giải quyết vấn đề người tỵ nạn Đông Dương. Việc làm ấy nằm trong cái tinh thần mà Peter Duschinsky, trong CIHS Bulletin, nhân dịp kỷ niệm 40 Năm sau 1975 với nhan dề bài viết The Human Side of the fall of Saigon.(12) Cuộc chiến ấy nhiều mặt là một bi kịch chiến tranh, nhưng cũng là một thảm họa của nhân loại xét vế mặt con người. Và sự cứu vớt người tỵ nạn ra khỏi cuộc chiến ấy, mặc dầu chỉ là như muối bỏ biển, cũng vẫn mang tính con người. Trong đó người ta nghĩ đến hàng triệu số phận trẻ em mồ côi của miền Nam mà con số may mắn được cứu vớt chỉ khoảng vài ngàn trẻ em. Tuy nhiên, ngay chuyến bay đầu tiên, chiến dịch ấy đã tự nó mang một thảm họa vô cùng thảm khốc. Ngày 4 tháng Tư. Thảm hoạ trên không Hôm này có thể nói cũng là ngày tang thương cho số phận một số trẻ mồ côi trên chiếc máy bay khổng lồ của quân đội Mỹ, chiếc C-5A Galaxy đã cất cánh sau một thời gian ngắn với 305 trẻ em mồ côi để đi Mỹ. Tất cả những em ngồi ở phần đuôi máy bay thì không có hy vọng sống sót. Ít nhất có 178 trẻ em và người lớn bị chết. Cánh cửa phi cơ nổ tung do một số ổ khóa cửa hỏng gây ra, cánh cửa ở phần đuôi máy bay (cargo door) bị bung ra, phi cơ mất cao độ và viên phi công cố gắng quay trở về Tân Sơn Nhất, nhưng đã không thành công. Trẻ mồ côi tử nạn trong chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch Babylifts được đưa đi hỏa thiêu ở Utapao và an táng tại một nghĩa trang Thiên chúa giáo ở Pattaya, Thailand. Nguồn: OntheNet Trẻ mồ côi tử nạn trong chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch Babylifts được đưa đi hỏa thiêu ở căn cứ Utapao và an táng tại một nghĩa trang Thiên chúa giáo ở Pattaya, Thailand. Nguồn: OntheNet Trường hợp này cũng giống như trường hợp chiếc DC 10 cũng đã nổ tung ra khi gần tới Paris năm 1974 làm chết 345 người. Theo nguồn tin của AP thì tòa đại sứ Hoa Kỳ cho rằng có khoảng 100 em mồ côi còn sống sót cộng với 10 đến 15 người lớn. Số người sống sót bao gồm cả viên phi công. Trực thăng đã đến hiện trường và chở 63 em còn sống sót đến nhà thương Seventh-day Adventish hospital.(13) Các em còn sống, mắt mở to ngơ ngác, không khóc và im lặng. They did not speak. They did not cry. Người ta đã chứng kiến và viết lại cái cảnh tượng đó như thế. Việc phi cơ chở trẻ em mồ côi bị rớt trở thành một thảm kịch của những ngày tàn cuộc chiến.(14) Ông Phan Quang Đán là một trong số những người phản đối chương trình này. Và theo tin của UPI vào ngày 7 tháng tư, chương trình mới lại được chính phủ Sài Gòn cho tiếp tục trở lại. Trong khi đó thực sự đã có chuyến bay chở trẻ em côi đến Mỹ và đến Canada. Tại thủ đô Ottawa, ông bộ trưởng di trú Robert Andras cho hay có 300 gia đình ở tỉnh bang Ontario và 100 gia đình ở Nova Scotia bày tỏ ý muốn nhận các trẻ mồ côi đến từ Việt Nam chỉ sau ít giờ sau khi nhận được thông báo. Hiện nay thì có hai chuyến bay sẽ đến Sài Gòn và mỗi chuyến bay sẽ chuyên chở 250 em mồ côi. Chính phủ Liên bang đã chấp thuận một quỹ là 76.000 đô la cho việc chuyên chở này. Một vị ân nhân ẩn danh là một phụ nữ cho biết, “Tất cả điều chúng tôi mong muốn hiện nay là giúp các trẻ em mồ côi đó ra khỏi Việt Nam.” Cũng sẽ có 30 người tình nguyện đáp máy bay đi Sài Gòn để giúp đưa các trẻ mồ côi trong chuyến đi này. Ngày 4 tháng tư, ông bà Tổng thống Ford có chương trình đón tiếp các trẻ em mồ côi trong chuyến bay đầu tiên đến Mỹ. Đây là chuyến bay đầu tiên đến Mỹ nếu không kể chuyến bị rớt trước đó. Chuyến bay này chở 243 em mồ côi sang Mỹ. Chuyến bay sẽ dừng lại ở căn cứ không quân Clark Air Force bên Phi luật Tân, sau đó tiếp tục bay sang California. Chính ở nơi đây, ông bà Ford sẽ đón tiếp các em mồ côi. Nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một màn kịch dở. Tổng thống Ford đã từng quay lưng trong việc không hỗ trợ Việt Nam trong cơn nguy khốn. Việc đón tiếp này vì thế có thể đặt dấu hỏi? Cũng chính vì thế mà có những nhà báo như W.A.Wilson viết bài với nhan đề, “Trẻ em Việt Nam không nên bị bốc ra khỏi quê hương xử sở của chúng”. (Vietnamse children should not be taken from homeland). Việc đưa các trẻ em sang Mỹ cho thấy sự ích kỷ và tính toán của họ. Trên đây chỉ là một quan điểm nhìn của một số người không nhất thiết được mọi người đồng ý. Ngày 7 tháng Tư Hôm nay đã là mồng 7 tháng Tư, coi như vừa đúng một tháng sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột. Có dư luận cho rằng tướng Phú bị cộng sản lừa. Chúng làm nghi binh như thể đánh Pleiku và tướng Phú tin chắc như thế nên đã nhất định để nguyên sư đoàn 23 bộ binh đóng chung quanh Pleiku. Sau này, nhiều vị chỉ huy tại chỗ đã trách tướng Phú, trong đó có đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng quyết định rút quân của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một quyết định sinh tử, như vận mệnh cho số phận quân dân vùng II chiến thuật. Quyết định tái phối trí, rút quân là một quyết định xem ra quá trễ. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại quân sự. Trong số 20 ngàn quân rút lui vào ngày 16-3, đến ngày kéo về được đến Tuy Hòa chỉ còn sót lại có 5.000 người. Số còn lại hoặc bị giết hoặc rã ngũ trên đường rút lui. Cộng sản tiếp tục đòi hỏi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức và thành lập một chính phủ mới để có thể thương thuyết với họ. Chính quyền Sài Gòn ra lệnh ai gây rối sẽ bị xử bắn tại chỗ và lệnh giới nghiêm được nới rộng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng. Chuyến bay đẩu tiên trở 61 các em mồ côi người Việt Nam và Cambodia đến Vancouver, Canada theo nguồn tin CP là ngày 7 tháng tư, 1975. Vì thế, sau này trong CIHS Bulletin, tại Canada, số ra kỷ niệm tháng Tư 1975 đã cho rằng việc mất Sài Gòn để lại ba dấu ấn nổi bật và ấn tượng nhất: Thứ nhất là cảnh trốn chạy khỏi Đà Nẵng trên các bãi biển. Thứ hai là quang cảnh chiếc C-5A, 6 ngày sau đó bị rớt với 135 trẻ mồ côi bị tử nạn. Thứ ba là cảnh những người chạy vào tòa đại sứ Mỹ, đứng trên nóc nhà khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi nơi đây và bỏ rơi họ. Đó là những sad endings! Cũng ngày 7 tháng tư, 1975 Theo nguồn tin UPI, có khoảng 60 trái đạn pháo kích vào khu ngoại ô Sài Gòn, như vùng Nhà Bè, cách Sài Gòn 6 dậm. Điều đó cho thấy cộng quân đã tiến sát quanh Thủ Đô Sài Gòn, chỉ còn cách 8 dặm. Đây là những trái đạn pháo mở màn cho một cuộc tấn công sắp tới. Hôm nay cũng là ngày chính quyền Cambodia thương thảo chấp nhận một cuộc đầu hàng vô điều kiện. Năm năm trước, vào tháng Ba, năm 1970, tướng Lon Nol đã làm đảo chánh. Ông bỏ chính sách trung lập và tuyên bố sẽ chống trả lại Việt Nam cộng sản. Kissinger và Nixon nhảy vào, dùng B-52 bỏ bom quân đội cộng sản Bắc Việt. Trong vòng 5 năm, người Mỹ đã rót vào Cambodia 2 tỉ đô la. Và một lần nữa, Người Mỹ bỏ cuộc để mặc cho số phận Cambodia rơi vào tay bọn Khmer đỏ và nạn diệt chủng đã xảy ra ngay sau đó. Ngày 8 tháng tư, 1975 Theo tin AP, một phản lực cơ của quân đội VNCH đã dội bom và bắn rocket xuống dinh Độc Lập. Nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tránh thoát và không bị thương. Tổng thống Thiệu đã lên vô tuyến truyền hình và nói rằng, có một số cá nhân muốn ám hại ông với ý đồ muốn thay đổi chính phủ. Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân đã lên tiếng là quân đội vẫn trung thành với Tổng thống Thiệu. Và đây chỉ là một hành vi của một cá nhân. Tướng Kỳ lên tiếng và cho rằng ông không dính líu gì đến việc này. Nhưng yêu cầu ông Thiệu từ chức. Ông Thiệu đã lên truyền hình và tuyên bố, “Tôi quyết định tiếp tục lãnh đạo xứ sở này.” Cái câu nói nổi tiếng của Tổng thống Thiệu, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy xem những gì cộng sản làm cũng có thể ứng vào trưởng hợp của chính ông Nguyễn Văn Thiệu.” Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn chúc mừng Nguyễn Thanh Trung sau cuộc đánh bom Dih Độc Lạp ở Sài Gòn. Nguồn: VPAF museum Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn chúc mừng Nguyễn Thành Trung (bìa phải) sau cuộc đánh bom Dih Độc Lạp ở Sài Gòn. Nguồn: VPAF museum Sau này thì người ta được biết chiếc phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập do Nguyễn Thành Trung lái từ Đà Nẵng. Sau đó Trung lái máy bay ở cao độ thấp, đáp xuống một phi đạo dài khoảng 915 m do Việt Cộng lập ở Phước Long, cách Sài Gòn 200 km về hướng Bắc. Cuộc ném bom đã làm cho hai người chết và vài người bị thương. Sài Gòn, ngày 8 tháng Tư, năm 1975: Tiếng súng tại mặt trận An Lộc bắt đầu Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu quân đội VNCH có giữ được phòng tuyến này không? Chiếm được Xuân Lộc, đó là mục tiêu chiến lược của cộng quân. Nhưng họ cũng mong rằng qua thương lượng, political means, qua một cuộc đầu hàng có giàn xếp với một chế độ không phải Thiệu. Nguyễn Thị Bình, ở Paris, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Lâm thời Miền Nam mong muốn đạt được mục tiêu, nếu có thể, mà không phải dùng đến những phương tiện quân sự. Nói với phóng viên tờ Le Monde, bà Bình mô tả hoàn cảnh ở miền Nam hiện nay là không thể đảo ngược được tình thế. Nhưng việc xử dụng quân lực hay sức mạnh quân sự hay không là tùy thuộc vào phía đối phương. Ngày 9 tháng Tư: Secret US-Viet pact claimed. Tiết lộ những trao đổi thư từ bí mật giữa Mỹ và Việt Nam Tùy viên Báo chí Tòa Bạch ốc Ronald Harold Nessen đọc bản thông cáo báo chi ngày 9 tháng Tư trong cuộc họp báo cùng ngày. Nguồn: er “Vietnam - Correspondence from Richard Nixon to Nguyen Van Thieu” of the Richard B. Cheney Files at the Gerald R. Ford Presidential Library. Tùy viên Báo chí Tòa Bạch ốc Ronald Harold Nessen đọc bản thông cáo báo chi ngày 9 tháng Tư trong cuộc họp báo cùng ngày. Nguồn: “Vietnam – Correspondence from Richard Nixon to Nguyen Van Thieu” of the Richard B. Cheney Files at the Gerald R. Ford Presidential Library. Trong giai đoạn trước khi ký Hòa đàm Ba Lê, Tổng thống Nixon đã thuyết phục Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký vào bản Hiệp Định với những lời hứa hẹn bảo đảm sẽ can thiệp vào Việt Nam. Nói chung có tất cả 27 lá thư trao đổi của Tổng thống Nixon gửi cho ông Thiệu. Sau đó tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã gửi cho ông Tổng trưởng Quốc Phòng là James R. Schlesinger một số trong những lá thư đó. Ông này bèn thông báo cho nghị sĩ Henry Jackson biết và ông Jackson đã tìm cách đăt vấn đề với tòa Bạch Ốc. Cuộc họp báo của ông thượng ngị sĩ được diễn ra ngay từ 30 tháng Tư. Trong đó ông cho rằng Kissinger đã che dấu những lá thư này đến ngay Tổng thống Gérald Ford cũng như bộ trưởng Quốc Phòng Schlesinger cũng không hề biết. Thượng nghĩ sĩ Henry Jackson nói tiếp: Đây là lần đầu tiên, Tổng thống Ford biết được những lá thư mật trao đổi giữa Nixon và ông Thiệu. Phía Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói còn giữ đuợc tất cả 27 thư trong khi phía Mỹ không biết tại sao chỉ còn giữ được có 10 bức thư.(15) Theo bản tin của AP tại Hoa Thịnh Đốn, thượng nghị sĩ Hackson chính phủ Hoa Kỳ có bổn phận tinh thần tôn trọng những thỏa thuận ngầm này. Về phần dân chúng hoa Kỳ, họ có quyền được biết về những thỏa thuận giữa hai bên mà đáng lẽ họ phải được thông báo đầy đủ. Nếu cứ đúng như những nội dung mà Nixon đã cam kết với ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ ‘react vigorously’, can thiệp một cách mạnh mẽ nếu Bắc Việt xâm lăng miền Nam bằng quân sự. Và nếu tôn trọng những lời cam kết như trên thì Quốc Hội Hoa Kỳ phải chuẩn chi viện trợ khẩn cấp mà Tổng thống Ford đòi hỏi. Thế nhưng, theo tin của AP, Tổng thống Ford đã nói chuyện với các lãnh tụ Thượng viện Hoa kỳ rằng: “Ông không tìm bất cứ thấy bằng chứng gọi là bí mật trong những thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.” Nói trắng ra Tổng thống Ford muốn phủi tay không muốn bằng bất cứ giá nào can thiệp vào Việt Nam nữa. Rockefeller, Phó tổng thống, theo thông tấn UPI tại New Orleans trong một lởi tuyên bố: U.S. must decide, ông cho rằng nay là lúc Hoa Kỳ phải quyết định nay là lúc chúng ta phải đứng một bên, bởi vì chúng ta đã đảm nhận vai trò trách nhiệm thế giới trong mấy thập niên rồi. và hãy để cho Liên Xô nắm trách nhiệm trọng tài thế giới. Cũng ngày 9 tháng Tư Người ta nói đến một cuộc thanh trừng ở Nam Việt Nam nếu cộng sản Hà Nội nắm chính quyền. Theo các tài liệu báo chí từ Nga thì nếu nắm được chính quyền miền Nam, họ sẽ thực thi chính sách 10 điểm. Tờ Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Liên Xô nói tới: Việc gấp rút để đưa cuộc sống người dân trở lại bình thường và thanh trừng những thành phần tay sai ngụy quyền. Trước hết thanh lọc hết các tổ chức hành chánh, lực lượng quân đội và các tổ chức bù nhìn của chế độ. Và trong một thời gian ngắn nhất thiết lập các cơ chế chính quyền cách mạng ở mọi tầng lớp dân chúng. Tất cả tùy thuộc vào hai chữ thanh trừng (Liquidation). Nhiều người Việt Nam chắc đã không quên khi chiếm được miền Bắc, cộng sản đã áp đặt chính sách cải cách ruộng đất (Land reform) và chính sách tập thể hóa (Collectivization) nhằm loại bỏ các chủ đất. Theo tác giả Bernard Fall, các đợt thanh trừng này đã giết hại 50.000 nông dân và bắt 100.000 người bị tù đầy. Tất cả chúng ta chờ xem mức độ thanh trừng sẽ được diễn ra như thế nào? Ngày 11 tháng Tư, sinh viên Việt Nam du hoc tại Montreal biểu tình Sinh viên Montreal biểu tình ở Quốc hội Canada, tháng 4, 1975. Nguồn: CP Sinh viên Montreal biểu tình ở Quốc hội Canada, 11 tháng 4, 1975. Nguồn: CP Có một nhóm khoảng 50 sinh viên Việt Nam cầm các biểu ngữ đi diễn hành ở trước tiền đình Quốc Hội Canada. Và họ kêu gọi có một chính quyền mạnh hơn chính quyền hiện nay để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng sản Hà Nội vào miền Nam. Lê [Nguyên] Khanh, một trong những phát ngôn viên của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Montreal cho hay hầu hết những người tham dự cuộc biểu tình này đều là giới sinh viên Việt Nam du học mong muốn có một chính quyền mới đủ mạnh để đương đầu với sự xâm lăng của cộng sản Hà Nội. Nhân dịp này, anh Lê [Nguyên] Khanh cũng cám ơn chính phủ Canda cũng như dân chúng Canada đã giúp đỡ một cách nhân đạo cho miền Nam Việt Nam như thực phẩm, thuốc men. Trong các biểu ngữ, người ta đọc được một biểu ngữ với hàng chữ, “Stop Red”. Cũng theo phát ngôn viên của tổ chức sinh viên ở Montréal, họ không thấy thích thú gì việc quảng cáo tuyên truyền cho Operation Babylifts. Nhưng anh nói thêm, nếu những trẻ con này tìm được những cha mẹ nuôi tốt thì cũng tốt cho các trẻ em.(16) 12 tháng tư, 1975 So chính quyền ở Pnom Penh và chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ phút này thì xem ra các lãnh đạo nước láng giềng tỏ ra cương quyết ở tại chỗ để đương đầu với cộng sản. Tướng Sak Suthsakhan, tướng chỉ huy quân độin Cambodia tuyên bố: việc chống đối lại quân Khmer rouge vẫn được tiếp tục. Mặc dầu quân đội Khmer rouge hiện nay, có khoảng 10 ngàn người, đã đến làng Samrong chỉ còn cách phi trường Phnom Penh có một dặm. Có khoảng 1000 quân lính chính phủ hiện đang trấn đóng dọc theo đường xe lửa, song song với đường số 3 dẫn đến phi trường. Dân chúng bằng đủ phương tiện đang ùn ùn kéo về thành phố. Cảnh sát đã bất lực không ngăn cản được dòng người kéo vào thành phố. Thủ tướng Long Boret vẫn còn có thể nói, “We will never surrender.” Nhưng rõ ràng là chẳng bao lâu nữa, quân phiến loạn sẽ tràn ngập thủ đô. Long Boret cùng với bảy nhân vật chính trị và quân sự nhận lãnh trách nhiệm sau khi đại tướng Suthskhan đã bỏ ra đi vào ngày thứ bảy. Người Mỹ đã mở chiến dịch di tản ‘Eagle Pull’ và đã chở được 270 người Mỹ và người Cao Mên ra đi một cách êm ả. Người ta cũng đã không nghe một tiếng súng cũng như không một ai bị thương trong cuộc di tản này! Phúc trình cuối cùng của Mỹ cho hay hoàn cảnh quân sự chung quanh thủ đô hầu như tuyệt vọng và xấu đi từng giờ. Và việc mất Phnom Penh là điều không còn gỉ để nói nữa. Adieu Phnom Penh! Con đường dẫn đến Sài Gòn nay đã được mở rộng thêm! Ngày 12 tháng tư. Việc chuyên chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ. Vàng đó là của chung giữa Việt Nam Và Cam Bốt? Trẻ thơ mồ côi trên đường đến phi trường LAX (Los Angeles) ngày 12 tháng 4, 1975. Ảnh: OntheNet Trẻ thơ mồ côi trên đường đến phi trường LAX (Los Angeles) ngày 12 tháng 4, 1975. Ảnh: OntheNet Theo tin UPI từ Nữu Ước cho hay chính quyền VNCH đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thuyết phục hãng Hàng Không Swiss Charter Airline để chuyên chở 16 tấn vàng từ Sài Gòn sang Thụy Sỹ. Hãng Balair, đại diện cho hãng hàng không Thụy Sỹ từ chối việc chở 16 tấn vàng vì quá nặng và vấn đề cân bằng cho phi cơ. Theo tin từ Time cho rằng việc chuyên chở vàng này có dính dáng đến một hai nhân vật cao cấp như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Cam Bốt Lon Nol. Ở một đoạn văn khác được trích dẫn cũng nói rõ thêm như sau, “The airline also was concerned that the bullion might be part of the official reserves of the two countries. The gold apparently still in Saigon. Time said.” Phải chăng số vàng đó có một phần là tài sản của Cambodia? Tài liệu cho thấy số vàng 16 tấn không phải là của Viêt Nam mà có phần của Cao Mên. Phần là bao nhiêu thì không rõ. Thực sự chưa có tài liệu để nói rõ thêm về việc này. Điều rõ ràng nhất là số vàng ấy sau này trở ra Bắc, rồi từ Bắc trở sang Liên Xô trả nợ. Trẻ em mồ côi giả? Trong số 56 trẻ em mồ côi đến Toronto để giao cho các cha mẹ nuôi, người ta phát hiện ra bé gái Phan Lợi không phải trẻ em mồ côi mà là con gái của một nhân viên làm việc cho lãnh sự Mỹ. Bà Helen Allen, một phát ngôn viên của bộ di trú cho biết họ sẽ phân loại và hỏi xem đứa bé cảm nghĩ gì và điều gì đã thực sự xảy ra. Người thông dịch viên ở San Fran Francisco tuần vừa qua cũng cho biết nhiều cha mẹ việt Nam lo sợ cho tương lai con cái họ nên đã tìm mọi cách để chúng có thể ra đi nước ngoài. Điều này sau này xảy ra những vụ kiện pháp lý gay go. Cha mẹ ruột đứa trẻ tìm đủ mọi cách để đòi lại con mình. Thật là không biết phải nói thế nào. Ai là kẻ được con và mất con? Phần các trẻ em mồ côi khác thì được các cha mẹ nuôi đón tiếp với nước mắt và nỗi vui mừng. Theo tin của AP, San Francisco, bà Jane Barton, thông dịch viên cho hay, bà có nói chuyện với 4 trẻ em và ba em cho biết họ là con của một đại tá và người thứ tư là cháu của vị đại tá ấy. Rõ ràng là có sự giàn xếp để cho cái một số người có tiền của, các viên chức cao cấp muốn cho con em của họ được đi ra ngoại quốc một cách an toàn. (Còn tiếp) © 2015 DCVOnline Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net” (7) Frank Snepp, Ibid, trang 247 (7a) SS Pioneer Contender là tàu buôn dân sự chở hàng khô dài 333 bộ. Thuyền trưởng là Edward Flink do hải quân Mỹ (MSC) thuê làm theo khế ước. Con tàu bắt đầu nhiệm vụ tại Việt Nam trong tháng Ba, năm 1975, cung cấp dịch vụ vận chuyển phi quân sự và giao thông nội bộ cho quân đội VNCH và dân Việt Nam đang di tản, và những người lính Nam Việt có vũ trang. Điển hình của sự tàn ác của quân đội miền Nam Việt với những kẻ bi tình nghi là cảm tình viên của Cộng quân Bắc Việt, là những vụ xử án, ám sát, và giết người khủng khiếp trên con tàu. Rời Đà Nẵng là lúc tồi tệ nhất. Không có mặt của an ninh hàng hải trên tàu lúc đó. (Nguồn: Personal Account – PFC Matthew Phair, Hq. Co., 9th Marines/Detachment Victor) (8) Frank Snepp, Ibid, trang 241 (9) Peter Duschinsky, “The Human Side of the Fall of Saigon”, CIHS Bulletin, Issue #73, April 2015, Canadian Immigration Historical Society. Trang 2-3 (9a) Employment and Immigration Canada, “The Indochinese Refugees: the Canadian Response, 1979 and 1980” (1981, Department of Supply and Services) (10) Gilbert Gendron, B.A, “The Viet cong Front in Quebec”, trang 9-10 (11) Peter Duschinsky, Ibid, trang 2. (12) Peter Duschinsky, Ibid, trang 1-5. (13) Trong một cuốn sách Giá Tự Do mới xuất bản và được giải thưởng Văn Học, do Hội Quốc Tế Y sĩ Việt Nam Tự Do trao tặng giải thưởng Văn Học 2014, không biết dựa trên tài liệu nào, tác giả Lâm Vĩnh Bình đã viết rằng: ‘Tuy nhiên, chuyến bay đầu tiên đã gặp một tai nạn thảm khốc khi chiếc phi cơ trở 300 người gồm trẻ em và người lớn đi theo để săn sóc, vừa cất cánh phi trường Tân Sơn Nhất đã rơi vì phi cơ quá tải, 136 người đã tử nạn. Nguồn: Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do, trang 2. (14) Xem thêm Simon Parry, “Vẫn không nguồn cội” do Trà Mi dịch, DCVOnline.net, 13 -04-2015 đã trích lời các nhân chứng còn sống sót, cho hay có 313 người trên máy bay. Phi công lái máy bay là Dennis ‘Bud’ đả can đảm cứu được 175 người sống sót. Simon Parry, Still rootless: the child refugees of Vietnam war’s chaotic final days, Red Door News Hong Kong, April 2015. (15) Nguyễn Tiến Hưng, “Khi đồng minh tháo chạy”, trang 460-461. (16) CP, “Vietnamese thank Canadians”, The Brandon Sun – Brandon, Manitoba – Apr 12 1975 Chú thích: 1. Trần Gia Phụng, Chiến Tranh Việt Nam 1960-1975, tr. 47. 2. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, Lược Sử VNCH 2011, tr. 816. 3. Bộ Thông Tin Chiêu Hồi, Thành tích hoạt động của Nội Các Chiến Tranh 1966, tr. 167 4. Nguyễn Ngọc Linh, Niên Lịch Công Đàn 1960-1961, tr. 254. 5. Đoàn Thêm, 20 năm qua, tr. 248. 6. Trần Gia Phụng, Chiến Tranh Việt Nam 1960-1975, tr. 459-460.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 3, 2014 4:21:39 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 20 Posted on July 2, 2014 Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR Đối với lực lượng tự xưng là “cách mạng” ở Việt Nam thì sự kiện Sài Gòn thất thủ đã là một chiến thắng vẻ vang mang tính cách lịch sử. Vào ngày 15/ 5/1975, trong một buổi lễ chào mừng chiến thắng này, trên khán đài đặt trước cổng chính của Dinh Độc Lập cũ, những khuôn mặt nổi tiếng tiêu biểu của các chiến sĩ thuộc phe “cách mạng” này đã tề tựu đông đủ. Kẻ thắng người bại và những nấm mộ cô đơn Lê Đức Thọ (T), Tôn Đức Thắng (G), Phạm Hùng (P), tháng 5/1975. Nguồn ảnh: TL-TN Đứng giữa khán đài là chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, một nhân vật từng sát cánh chiến đấu với Hồ Chí Minh trên 30 năm, lúc đó cũng đã 87 tuổi. Tuy vậy, vóc dáng ông rất to béo, tròn trịa đẩy đà và trông ông vẫn còn mạnh khoẻ. Đứng ngay sau lưng ông, người ta thấy khuôn mặt của Lê Đức Thọ, một nhân vật chủ chốt trong tiến trình ký kết hiệp định Ba Lê. Cả hai người này đều là đại diện của miền Bắc trong buổi lễ hôm đó. Dưới ánh nắng chói chang, trên khuôn mặt của ông Thắng và những người chiến sĩ “cách mạng” như càng thể hiện rõ nét tự hào về cuộc thắng lợi to lớn chiếm được miền Nam Việt Nam. Vì đối với họ, sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp thì kế tiếp là buộc được Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi Việt Nam, đồng thời đánh tan luôn chính quyền miền Nam mà họ cho rằng đó là chính quyền bù nhìn của Hoa kỳ. Đứng bên cạnh những người đại diện của miền Bắc là những thành phần đầu não trong chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam VN, người ta ghi nhận sự hiện diện của ông Nguyễn Hữu Thọ chủ tịch MTGPMN kiêm chủ tịch hội đồng tư vấn chính phủ CMLTMNVN. Ông Thọ nguyên là một luật sư ở Sài Gòn dưới thời chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng vì bất mãn chế độ nên đã bí mật trốn vào rừng sâu. Đứng xa hơn một chút nữa là ông Huỳnh Tấn Phát, thủ tướng chính phủ CMLTMNVN. Ông Phát cũng là một nhân vật trí thức ở Sài Gòn trước đó làm nghề kiến trúc sư và nổi tiếng qua công trình thiết kế xây dựng tòa Đại Sứ Nhật Bản. Từ cuối năm 1950, ông Phát vì bất đồng chính kiến với chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên đã rời khỏi Sài Gòn và sinh hoạt trong những căn cứ dưới lòng đất của phe chống chính quyền miền Nam. (T) Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996), (P) Huỳnh Tấn Phát (1913-1989). Nguồn: OntheNet Hai nhân vật này đã được tuyên truyền mạnh mẽ nơi dư luận thế giới như là hình ảnh đại diện cho những chiến sĩ cách mạnh ở miền Nam chiến đấu vì độc lập dân tộc không bị lệ thuộc vào một đảng phái hay hệ tư tưởng chính trị nào. Đồng thời, hai người này cũng vẫn luôn tuyên bố rằng MTGP là một lực lượng vũ trang duy nhất ở miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn, cũng như tại miền Nam không bao giờ có sự hiện diện của quân đội Bắc Việt dù chỉ một người. Như vậy, đúng ra trong buổi lễ này hoặc ông Thọ hay ông Phát phải là đại diện cho miền Nam thì mới hợp tình hợp lý. Nhưng không! Vị trí này đã do một nhân vật khác thay thế khiến cho mọi người phải kinh ngạc một cách bất ngờ. Nguyễn Văn Linh (1915-1998). Nguồn: OntheNet. Đó là Phạm Hùng, một nhân vật người miền Bắc nằm trong bộ chính trị trung ương đảng Lao Động, nay là đảng cộng sản VN. Ông Hùng được giới thiệu đã từng giữ chức phó thủ tướng của phía Bắc Việt và hiện Tổng bí thư đảng bộ miền Nam của đảng Lao Động. Chưa hết, nhân vật thứ hai đại diện cho miền Nam trong buổi lễ này lại là Nguyễn Văn Linh, ủy viên chính trị trung ương đảng lao động VN kiêm phó bí thư đảng bộ miền Nam, tức dưới ông Hùng một bậc. Sự thay đổi nhân sự này càng chứng minh rõ ràng là lực lượng quân đội miền Bắc dưới sự chỉ huy của đảng cộng sản đã nằm ngay trong lòng miền Nam từ trước và trực tiếp chiến đấu chống lại chính quyền VNCH, nhưng lúc nào cũng che dấu dưới tấm bình phông của MTGPMN. Cùng lúc, nó cũng cho thấy việc vắt chanh bỏ vỏ một cách không thương tiếc của đảng cộng sản đối với những nhân vật đầu não của phe cách mạng miền Nam sau khi họ đạt được chiến thắng. Tuy trước đây tôi cũng đã tương đối hiểu rõ về chân tướng của phe cách mạng miền Nam, nhưng tôi không thể nào ngờ được rằng họ lại bị đào thải một cách nhanh chóng và phủ phàng như thế. Điều này cũng khiến cho những ký giả ngoại quốc như chúng tôi phải ú ớ không nói được nên lời. Vì thế, tôi đã không ngạc nhiên về việc nhà cầm quyền cộng sản đã nhanh chóng thiết lập một hệ thống cai trị ở miền Nam bằng hình thức quản lý quân sự qua các ủy ban quân quản và tất cả những chức vụ các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương đều do người miền Bắc nắm giữ. Về phần những người tham gia cách mạng gốc miền Nam thì dù có được hiện diện trong bộ máy hành chính cũng chỉ là bù nhìn và đa số họ đã từ từ biến mất theo những hư cấu ảo tưởng mà phiá BV đã dựng nên cho họ trước kia. Tuy trong khoảng thời gian từ lúc phản kháng chính quyền ông Ngô Đình Diệm cho đến thời điểm tổng tấn công Tết Mậu Thân, những lực lượng cách mạng theo chủ nghĩa dân tộc đã hiện hữu và trực tiếp chiến đấu là điều có phần nào đó xác thực nhưng nếu nhìn một cách toàn diện từ đầu đến cuối và nguyên nhân của cuộc chiến tranh Việt Nam thì rõ ràng là do phía Bắc Việt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái theo chủ nghĩa cộng sản gây ra cũng như nắm giữ vai trò chính yếu. Đây là một sự thật không thể nào chối cãi được. Nhưng tại Nhật Bản thì đa số dư luận đều cho những điều ngụy tạo của Bắc Việt dựng nên là sự thật. Chẳng hạn như về từ ngữ đảng bộ miền Nam, Trung ương Cục miền Nam đã được nhà nghiên cứu về Việt Nam là ông Douglas Pike gọi tắt bằng Anh ngữ là COSVN (Central Office for South Vietnam) và ông đã có những báo cáo chi tiết tường tận về việc này ngay từ từ lúc còn chiến tranh, nhưng phía Nhật Bản lại cho rằng đó chỉ là những hình thức tuyên truyền chống cộng. Sơ đồ tổ chức của quân cộng sản Bắc Việt giai đoạn 1965-1975. Nguồn: OntheNet. Đa số giới trí thức Nhật Bản cũng sai lầm nặng nề khi đã từng cho rằng nếu Hoa Kỳ rút quân thì người VN trên tinh thần hòa giải dân tộc sẽ thực hiện được nền hòa bình tại đây, hoặc nếu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức thì cuộc chiến VN sẽ được giải quyết bằng những cuộc đàm phán giữa hai bên. Rõ ràng đây chỉ là những điều viễn vông đã được chứng minh ngay sau khi cuộc chiến VN kết thúc. Vì từ căn bản, phía BV được đặt dưới hệ tư tưởng chính trị của chủ nghĩa cộng sản đã tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện xâm chiếm miền Nam và trong quá trình cuộc chiến này những ai không đồng thuận theo hệ tư tưởng của họ sẽ bị tiêu diệt. Về điểm này, chủ trương của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu biểu hiện qua những câu nói của ông như: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”, hoặc “Việc thương lượng với những người cộng sản để giải quyết vấn đề là điều không thể nào có được” xem ra quả thật chính xác và đúng đắn. Cuộc chiến VN còn thể hiện hình thức xung đột giữa hai hệ tư tưởng chính trị. Trải bao năm tháng dài của cuộc chiến, tại miền Nam không hề có một sự kiểm duyệt nơi những tin tức loan tải từ giới ký giả và báo chí ngoại quốc nhưng sau khi chính quyền mới được thành lập thì sự kiểm duyệt thông tin đã bắt đầu xuất hiện và rất gắt gao. Mặc dù trong thời chiến, giới truyền thông ngoại quốc hầu như chỉ đưa toàn những tin tức bất cho quân đội của mình nhưng chính quyền miền Nam vẫn chấp nhận tự do thông tin báo chí. Trong khi đó, phía BV chỉ tuyển chọn những ký giả thân cộng để phục vụ cho việc tuyên truyền của họ. Hơn nữa, đài phát thanh quốc doanh của BV lại thường bóp méo sự thật qua những điều bịa đặt giả tạo. Thí dụ như việc Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân BV lúc đó đang ở miền Nam để trực tiếp chỉ huy các cuộc tấn công quân sự thì họ cứ một mực nói dối rằng Văn Tiến Dũng lúc nào cũng ở Hà Nội. Kế đến là việc Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam. Vì Hoa Kỳ là quốc gia theo chủ nghĩa tự do dân chủ nên tất cả những chính sách đều bị ảnh hưởng bởi sự biểu quyết của dân chúng mà cơ quan đại diện là Quốc Hội. Do đó vì sợ dư luận thế giới nhất là giới thông tin quốc tế, chỉ trích là không tôn trọng dân chủ nên Hoa Kỳ đã cắt giảm viện trợ cho miền Nam theo ý quốc nội. Ngược lại, Trung Cộng và Liên Xô là hai nước độc đảng độc quyền nên việc viện trợ cho miền Bắc đã không gặp sự phản đối. Tại sao giới truyền thông quốc tế trong đó có Nhật Bản lại có sự chỉ trích việc VNCH lệ thuộc vào việc trợ của Hoa Kỳ một cách không công bằng như thế? Hay là vì họ run sợ trước những chính quyền độc tài nên cố tình bóp méo thông tin? Trong phần cuối tập hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân, Văn Tiến Dũng đã viết: “Xin được chân thành dâng lên những bó hoa tươi thắm đến chủ tịch HCM, chủ nghĩa Mác Lênin và sự giúp đỡ của quốc tế vô sản”, đã cho thấy là đồng thời với việc tuyên truyền về cuộc đấu tranh vì độc lập, BV đã tiến hành một cuộc chiến mang đặc tính của chủ nghĩa cộng sản. Tranh Babui. Đối với điều này, phần lớn giới trí thức Nhật Bản chỉ nhìn được bề ngoài của cuộc chiến tranh VN mà thôi. Đây là cuộc chiến xung đột giữa hai ý thức hệ giữa những người VN theo chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia. Những người Việt quốc gia vì bị phe cộng sản tấn công, trực tiếp đe dọa đến sự sinh tồn của mình nên đã chọn lựa con đường nhờ vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Nếu giới trí thức Nhật Bản cho rằng việc miền Nam lệ thuộc vào sự bảo vệ của Hoa Kỳ là một điều không chính đáng thì sau đệ Nhị thế chiến đến nay Nhật Bản đã và đang nhờ vào sự bảo vệ an toàn và trợ giúp quân sự của ai? Điều này có chính đáng hay không? Nghĩa trang tử sĩ CSVN tại Bình Dương. Nguồn: OntheNet Từ lúc Sài Gòn thất thủ, 23 năm sau đó tôi lại viếng thăm nơi này và đã đi đến nghĩa trang quân đội Biên Hoà. Nơi đây chia làm hai khu chôn cất những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh VN. Khu nghĩa trang của những người chiến thắng thì được dọn dẹp gọn gàng sạch sẽ, mà trong đó có những tấm bia được trang hoàng thật nghiêm trang thành kính và hầu như trên những nấm mộ này lúc nào cũng khói hương nghi ngút, hoa quả chưng bày để tưởng nhớ người quá cố. Cùng trong khu vực này, nằm khuất dưới chân một ngọn đồi trên đường quốc lộ là khu nghĩa trang của những tướng tá và binh sĩ VNCH. Tuy nhiên, mãi cho đến nay khu này vẫn chưa được coi là một nghĩa trang chính thức nên cỏ dại mọc um tùm trông thật tiêu điều hoang phế. Giữa bãi đất hoang vu không một bóng người nơi đây, tôi nhìn thấy vô số những mộ bia dơ bẩn nằm cô đơn dưới những bãi cỏ hoang mọc bừa bãi. Đứng trước tình cảnh u buồn này, trong một thoáng giây nào đó tôi có cảm giác như là vong hồn của những người bại trận đang chập chờn đâu đây. Những nấm mộ tạ Nghĩa trang Quân đội VNCH tại Biên Hòa. Nguồn: OntheNet Nhưng nếu nhìn kỹ xuống chân, ta sẽ thấy ngay dưới những tấm bia mộ nay đã biến thành màu vàng úa này, lại có những vòng hoa nho nhỏ màu đỏ thắm như muốn ẩn tránh tia nhìn của mọi người và mọc xen lẫn vào đám cỏ dại để tưởng niệm vong linh người chiến bại. Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR Lời kết của dịch giả
Kính thưa quý độc giả,
Đến đây cũng là kỳ cuối cùng chấm dứt loạt bài SGTT của ký giả Komori Yoshihisa mà chúng tôi đã biên soạn lại với nội dung tóm tắt một số bài. Sau 20 kỳ trích dẫn từ loạt bài phóng sự Sài Gòn Thất Thủ, chúng tôi cũng nhận được rất nhiều ý kiến khích lệ từ quý vị, một lần nữa xin gửi lời cảm tạ đến tất cả quý độc giả
Xuyên qua loại bài này, có lẽ điều mà chúng ta nhận thấy rõ nhất là ký giả Komori là một trong những người ngoại quốc hay đúng hơn là một ký giả ngoại quốc hiếm hoi có cái nhìn rất trung thực và thấu suốt về bản chất của cuộc chiến tranh VN mà cho đến nay vẫn còn rất nhiều người bị nhầm lẫn về biến cố lịch sử miền Nam VN sụp đổ. Từ điều quan trọng nhất là phe cộng sản với quân số hùng hậu cùng với sự yểm trợ dồi dào về vũ khí từ Liên Xô, Trung cộng đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam VN, được ông Komori đã vạch rõ bằng những chứng cớ xác thực từ chính những gì tai nghe mắt thấy, chớ không do ảnh hưởng nơi các luận điệu tuyên truyền hay sách vở, tài liệu hoặc hồi ký lịch sử. Đây mới chính là bản chất thật sự của cuộc chiến VN.
Vì vậy, dù đã được đăng tải từ năm 1998, nhưng sau 16 năm ta vẫn nhận thấy được tính cách giá trị lịch sử qua loạt bài ký sự SGTT mà ông Komori muốn gửi đến độc giả Nhật Bản, đúng như ông đã từng nhận định rằng: “Nếu không xem xét lịch sử, thì những tranh chính sử nằm trong bóng tối của sự lừa dối và tuyên truyền sẽ đi vào quên lãng một cách bất công.”
Ngoài những điều ghi nhận về các sự kiện lịch sử, ông Komori còn bày tỏ tâm tư tình cảm với những rung động thật sự đối với con người và nếp sống của miền Nam VN khiến ông vẫn còn nhớ mãi cho đến nay. Điều cảm động nhất, khi trở lại Sài Gòn sau nhiều năm xa cách, nơi ông đặt chân đến đầu tiên là nghĩa trang quân đội Biên Hòa để tưởng niệm vong linh người chiến sĩ bại trận. Cũng từ đó cho đến nay, ông không bao giờ ghé thăm Sài Gòn nữa như muốn giữ mãi hình ảnh đẹp trong tim mình.
Bên cạnh chức nghiệp của một phóng viên, một nhà bình luận, ông Komori cũng là cao thủ môn Nhu Đạo với đẳng cấp 4 tứ đẳng huyền đai khi ông còn làm việc ở Sài Gòn, đã từng huấn luyện cho các vệ sĩ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cũng từng được mời là HLV của đội tuyển Nhu Đạo của VNCH để dự tranh các giải đấu khu vực lẫn thế giới. Nhưng với cá tính khiêm tốn và nhất là rất yêu mến nghề kỳ giả ông đã một mực từ chối.
Sau khi chuyển sang làm việc ở Hoa Kỳ, ông cũng thường xuất hiện trên các đài hình với tư cách là một nhà nhận định thời cuộc có liên quan đến tình hình chính trị tại Nhật Bản, Trung cộng và bán đảo Triều Tiên.
Sau loạt bài này, chúng tôi sẽ cố gắng thực hiện những đề tài khác liên quan đến quốc gia Nhật Bản để gửi đến quý độc giả.
Khôi NguyênNguyên do chính khiến VNCH sụp đổ 1975Posted on April 4, 2014 by editor — 4 Comments ↓ Đào Văn Tướng Westmoreland tuyên bố (tại Nam Cali tháng 9, 1995), vì mục tiêu chiến lược của Mỹ, nên ông ta không được tiến quân ra Bắc, không được phá đường mòn HCM[23]. Vậy đâu là mục tiêu chiến lược của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam? Nguồn: Center of Military History (1983) Để trả lời câu hỏi trên người viết đã tìm kiếm tài liệu, đúc kết thành bài viết này để gửi đến người đọc hầu có chứng cớ dễ dàng đưa ra nhận định về vần đề mà Tướng Westmoreland nêu ra vào năm 1995. Nhưng trước khi bàn đến đề tài trên, người viết xin bổ túc thêm thông tin về câu hỏi đã nêu “Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975”[1]. Các đoạn văn viện dẫn, được trích từ cuốn The Final Collapse của tác giả Cao Văn Viên. Về nguyên nhân VNCH bị sụp đổ, trong cuốn The Final Collapse tác giả tường thuật khá chi tiết nguyên nhân xa gần dẫn đến sự thất bại của cuộc chiến Việt Nam, thí dụ như tin tức về hậu cần, thiếu thiết bị quân sự cung ứng cho chiến tranh, mà theo tác giả cũng là nguyên do đẫn đến sự thất bại. Và còn nguyên do nào khác dẫn đến việc VNCH bị sụp đổ hay không, xin đọc hết bài viết này với tài liệu dẫn chứng trích từ tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc, giải mật và công bố 2002, và The Pentagon Papers, tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam được Bộ Quốc Phòng giải mật và công bố vào ngày 13 Jun. 2011 [2] sẽ rõ. Một đoạn văn trong tác phẩm của Đại Tướng Viên viết: “Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời Việt Nam, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hy vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được. [...] Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng 3-1975 một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công tổng thống Thiệu mời thủ tướng Trần Thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng Văn Quang và tác giả đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói xong về tình hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: “Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ. Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.”[3] Trong cuốn sách The Final Collapse có thuật lại hai phiên họp trước khi rút quân khỏi Pleiku và Kontum. Đó là phiên họp ngày 11 tháng 3 năm 1975, xác nhận có sự hiên diện của TT Thiệu, TT Khiêm, Tướng Quang và Tướng Viên, coi như đó là phiên họp trù bị. Còn phiên họp tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3 năm 1975, có ghi (đoạn này). Có nghĩa là các nhân vật có mặt trước đó 3 ngày thời đều tháp tùng Tổng Thống Thiệu đến họp tại Cam Ranh ngày 14.3.1975[4] Với phần trích dẫn bổ túc tin tức của Tướng Viên nêu trên hy vọng vần đề khá rõ rệt, ai phải chịu trách nhiệm về vụ ra lệnh rút quân, và Thủ Tướng TT Khiêm biết hay không biết việc rút quân tưởng đã sáng tỏ, người viết bài xin nhường bạn đọc thẩm định. (Cuốn sách của Tướng Viên nêu trên phát hành 1983). Về tinh thần chiến đấu… tác giả Cao Văn Viên nhận định: “Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy.” Nhưng có tinh thần chiến đấu mà không có phương tiện thì… “Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn. Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có được một chánh phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục tìm cách lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nỗi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không” Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào số quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.”[3] Phương tiện phục vụ cho quân đội thì lại bị lệ thuộc vào nước ngoài, vì VNCH không có khả năng tự lực… Trong khi đó thì Quốc Hội Mỹ cắt ngân khoản viện trợ quân sự… Đoạn văn Tướng Viên viết về khả năng quân đội VNCH còn cầm cự nổi trong ngắn hạn nếu không triệt thoái Pleiku và Kon tum, nhưng trong dài hạn thì cần có viện trợ quân sự từ phía Mỹ. Điều này phù hợp với ước tính tình báo cuả viên chức DIA, là nếu có đủ phương tiện quân sự thì quân Bắc Việt khó có thể mở cuộc tổng tấn công trong thời gian khoảng 6 tháng tới. Nguồn: Michael B. Petersen / DIA Đoạn văn trên được trích từ cuốn The Viet Nam Cauldron[5] của Michael B. Petersen do cơ quan Tình Báo Quân Đội Mỹ công bố năm 2012. Trong tài liệu này cũng bàn về sự cắt giảm viện trợ cho VNCH phù hợp với những chi tiết mà Tướng Viên nêu ra. Còn nguyên nhân nữa làm Sàigòn thất thủ là sự rút quân đội Mỹ ra khỏi VN thể theo yêu cầu cuả Trung Cộng vì quyền lợi chung của hai nước Mỹ – TQ. Điều này được ghi lại trong biên bản phiên họp giữa TS Kissinger và Thủ Tướng Chu Ân Lai ngày 9 tháng 7 năm 1971: đoạn văn trên trích trong các biên bản chuyến đi TQ của TS Kissinger năm 1971. (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[6] Sang năm 1972, Tổng Thống Nixon chính thức thăm TQ, và biên bản phiên họp giưã Tổng Thống Nixon và Thủ Tướng Chu có đoạn ghi: Tổng Thống Nixon cũng nhắc lại lời đề nghị của Thủ Tướng Chu là sớm giải quyết vấn đề VN, và rằng vần đề VN sẽ không còn chia rẽ hai nước… (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[7]. Ngoài ra còn một lý do rút quân Mỹ khỏi VN, đó là: Về phía Trung Quốc coi vấn đề VN không quan trọng bằng vần đề Liên Xô, Thủ Tướng Chu muốn biết quan điểm của Mỹ đối với Liên Xô… Trả lời về vấn đề Liên Xô, Tổng Thống Nixon cho biết nếu tiếp tục chiến tranh thì lợi thế sẽ nghiêng về phía Liên Xô, vì Liên Xô muốn Mỹ xa lầy tại VN. (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[8] Về chuyện Mỹ-Trung hợp tác chống Liên Xô Vào năm 1979 Ông Đặng Tiểu Bình đi Mỹ, Ông ta hô hào chống Liên Xô, kêu gọi Mỹ hợp tác “trói con gấu Bắc cực”, và có đoạn ghi trong cuốn Mưu Lược Đặng Tiểu Bình như sau: “Trong tình hình không có hy vọng hòa hoãn với Liên xô, Đặng không thể không kế thừa chiến lược quốc tế của những năm cuối đời Mao Trạch Đông: Liên hiệp với Mỹ để cùng ngăn chặn dã tâm bành trướng của Liên xô. Phương pháp này quả nhiên đem lại hiệu quả. Qua việc Đặng sang thăm Mỹ đầu năm 1979, Liên xô giữ thái độ im lặng khi Trung quốc dạy bài học cho Việt Nam.”[9] Phó TT Đặng Tiểu Bình và TT Jimmy Carter ký kết quan hệ ngoại giao January 29, 1979. Nguồn: OntheNet Cho nên có thể nói, chiến tranh tại Việt Nam có ảnh hưởng đến sự tan rã cuả khối Xô Viết 1989, và có thể coi đây cũng là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi đem chiến tranh chống giải phóng (Counter – Insurgency Program – CIP) [10] vào Việt Nam năm 1961 nhằm chống Liên Xô, vì trước đó, năm 1960 Liên xô đã chọn VN để phát động chiến tranh giải phóng[11] như tài liệu The Pentagon Papers[12] được Bộ Quốc Phòng Mỹ giải mật 13/6/2011 đã phơi bày. (Mặt Trận DTGPMNVN ra đời 20/12/1960). Một yếu tố khác liên quan đến tiêu đề tưởng cũng nên ghi lại để rộng đường dư luận. Phía Mỹ đã hai lần từ chối không ký kết thỏa ước quân sự hỗ tương (Mutual Defense Treaty) với VNCH. Lần đầu vào năm 1957[13] Lý do từ chối phía Mỹ viện cớ vì VNCH đã nằm trong khối SEATO – Thế nhưng, Phi Luật Tân là nước cũng nằm trong khối SEATO[14] thì Mỹ lại ký kết Mutual Defense với nước Phi ngày 30/8/1951[15]. Ngoài ra Mỹ cũng ký kết Thoả Hiệp Quân Sự Hỗ Tương với các nước khác trong vùng như Nam Hàn, Nhựt Bản và Đài Loan [16]; Và lần thứ hai vào năm 1961 VNCH nhắc lại yêu cầu Mỹ ký Thỏa Hiệp Quân Sự[17], và VNCH chỉ muốn nhận viên trợ quân sự, mà không muốn Mỹ đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam [18]. Kết cuộc dẫn đến cuộc đảo chánh 1963, và Chính Phủ kế nhiệm đã chấp thuận cho Mỹ đưa quân vào Việt Nam để Mỹ thực hiện chiến lược CIP. Điều này phù hợp với Counter – Insurgency Program của Mỹ đề ra 1961, chứng tỏ rằng Mỹ chỉ xử dụng VNCH như là chiến trường nhằm chống Liên Xô qua chiến tranh giải phóng do Liên Xô khởi xướng (1960). Sau 48 năm kể từ ngày lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm (1963), ngày 13/6/2011 phía Bộ Quốc Phòng Mỹ cho công bố tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam đã chính thức thừa nhận hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đảo chánh 1963, và còn thừa nhận “việc lật đổ Chính phủ Diệm đã làm tăng trách nhiệm của chúng ta là đã can dự vào sự hình thành nên một nước Việt Nam mà thực chất là không có người lãnh đạo”[19]. (Ngoài ra, còn một yếu tố về vụ lật đổ chế độ Đệ I VNCH, theo CIA, Ông Nhu đề ra “giải pháp” Bắc – Nam 1963[20]. Nếu giải pháp Bắc-Nam thành hiện thực thì CIP program của Mỹ dùng VN để chống Liên Xô sẽ không thể áp dụng được, vì Chính phủ Diệm chống việc đưa quân đội Mỹ vào VN, và tự tìm đường lối hòa giải với miền Bắc để chấm dứt chiến tranh). Nay thì nền Đệ I và Đệ II VNCH đã sụp đổ, người viết xin ghi lại câu nói của ông Ngô Đình Nhu trước khi bị sát hại (1963), “… bởi vì ông ta (Ngô Đình Diệm) từ chối là một chính phủ bù nhìn.” (parce qu’il refuse d’être un gouvernement puppet)[21] và tuyên bố từ chức của TT Thiệu (1975): “…thất hứa, thiếu công bằng, thiếu tín nghĩa, vô nhân đạo, đốt một đồng minh đang chịu đau khổ …” [22] để suy xét về số phận của một nước nhược tiểu. Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ. [1] Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975, Tướng Phú hay TT Thiệu và tài liệu CIA (2009) viết gì về vụ này? [2] Tài liệu bị báo chí phanh phui 1971 nhưng không đầy đủ. Toàn bộ tài liệu The Pentagon Papers được giải mật và công bố vào ngày 13 Jun. 2011 và lưu bản văn tại Văn khố quốc gia online: www.archives.gov/research/pentagon-papers/[3] – Trích trong bản dịch cuốn sách cuả tác giả Cao Văn Viên, do Nguyên Kỳ Phong dịch, đây là phần trích đoạn Những Ngày Cuối Cua VNCH đăng trên tờ Viet Báo vào năm 2008, (và toàn bản dịch cuốn: Những Ngày Cuối của VNCH – Nguyên tác- The Final Collapse). [4] Trích trong The Final Collapse do Trung Tâm U S Army Center Military History đã post online, tuy nhiên khi vô link này thời phải download sách hơi mất công, cho nên để tiện lợi cho bạn đọc tham khảo, người post bài đã upload sách vô đây The Final Collapse, Gen Cao Van Vien. Cũng xin nói thêm, nếu bạn đọc muốn tìm sách về chiến tranh VN thì vô link sau, ghi tên sách hay tên tác giả: www.history.army.mil/catalog/search.html, thí dụ: ghi chữ Cao Van Vien thời sách của tác giả sẽ hiên ra và download xuống…, hoặc ghi chữ Vietnam War thời môt số sách cuả các Tướng Mỹ khác sẽ hiên ra – hiên nay trong trang web của Quân Sử Hoa Kỳ online chỉ mới có sách của Tướng Viên – Trong khi hiện nay có một số Tướng lãnh VN cũng viết sách nhưng không tìm thấy trong trang Quân Sử online này.) [5] Michael B. Petersen, The Vietnam Cauldron Defence Intelligence in the War for South East Asia, DIA (2102) [6] Tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc: TL.1 và các tài liệu khác liên quan: TL. 2,TL. 3 [7] Tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc: TL 1 – Feb. 22, 72 [8] Tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc TL 1-Feb. 22, 72 và các biên bản khác liên quan đến chuyến đi TQ của TT Nixon 1972, xin post tất cả ra đây để bạn đọc tiện bề tham khảo:TL-2-Feb. 23.72, TL.3-Feb. 24.72, TL.4-Feb.23.72 [9] Muu Luoc Dang Tieu Binh – chương 7. [10] (The Kennedy Counter Insurgency Program) The problems of dealing with Moscow were far more pressing than those related to Vietnam. A feeling that America’s position in the world had been eroded by the USSR prevailed; Kennedy was particularly determined to regain American strength, prestige and influence. Anything which could be construed as American weakness vis-a-vis the USSR was to be avoided. This affected policy toward Vietnam. [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1 - trang 1 - số bên góc trái là trang 10/197) (công bố 2011)] [11] In November 1960, the Moscow Conference of Communist and Workers’ Parties of Socialist Countries once again declared its support of the sort of “just” war the DRV intended to prosecute. The United States was identified as the principal colonial power, and the right and obligation of communist parties to lead struggles against colonial powers was detailed. By the time Khrushchev cited that Declaration in his “wars of national liberation” speech, the “liberation war” for South Vietnam was nearly a year and a half old. (Trích đọan trong: Origins of the Insurgency – Pentagon Papers,p.IV.A.5 – trang 30 – số bên góc trái là trang 34/373) (công bố 2011) [12] The Pentagon Papers (DoD released 13.Jun.2011 – Full version), (open coi ngay mục lục, sau đó muốn coi từng chương thì download) [13] VNCH xin ký Thỏa Hiệp Quân Sự: 1957 [14] South East Asian Treaty Organization [15] Mutual Defense Treaty với nước Phi Luật Tân [16] Nam Hàn, Nhật Bản, và Đài Loan [17] Oct. 1961 Taylor Mission to Vietnam. On the 18th, Diem said he wanted no U.S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty, more support for ARVN and combat-support equipment (helicopters, aircraft, etc.) [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1- trang 14, số bên góc trái là trang 23/197) (công bố 2011)] [18] [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1 - trang vi, số bên góc trái là trang 8/197) (công bố 2011)] 1961 (The Kennedy Counter Insurgency Program) – Negotiations with Diem came to an end in May, not because the issues had been resolved, but because the U.S. decided to forget trying to pressure Diem for a while and instead try to coax him into reforming by winning his confidence. - – - Consequently, the U.S. bargaining position was feeble. Further, Gaibraith at least, and probably others, advised Kennedy that there was not much point to bargaining with Diem anyway, since he would never follow through on any promises he made. (Galbraith favored promoting an anti-Diem military coup at the earliest convienient moment.) Kennedy ended up settling for a set of promises that fell well short of any serious effort to make the aid program really contingent on reforms by Diem. Since the war soon thereafter began to look better, Kennedy never had any occasion to reconsider his decision on combat troops; and no urgent reason to consider Galbraith’s advice on getting rid of Diem until late 1963. [19] [Trích đoạn trong The Pentagon Papers: Overthrow of Ngo Dinh Diem--IV-B-5-1 - Released 13 Jun. 2011 - số trang viii, hay là 12/126] For the military coup d’etat against Ngo Dinh Diem, the U.S. must accept its full share of responsibility. (Về cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm, chính phủ Mỹ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Từ Tháng 8 – 1963, chúng ta đã ban hành nhiều biện pháp, nhằm cho phép, tán thành, khuyến khích các tướng lãnh người Việt đứng ra làm cuộc đảo chánh và chúng ta hứa hẹn sẽ hoàn toàn hậu thuẫn một Chính phủ kế nhiệm. Tháng 10-1963 chúng ta trực tiếp cự tuyệt và cắt đứt viện trợ dành cho Diệm, bật tín hiệu đèn xanh cho phe tướng lãnh. Chúng ta kín đáo duy trì liên lạc với phe đảo chánh xuyên suốt quá trình từ lúc lên kế hoạch cho đến khi tiến hành cuộc đảo chánh, chúng ta đã duyệt kế hoạch hành động của họ và đề ra thành phầntân chính phủ. Cho nên, sau 9 năm cầm quyền của Chính phủ Diệm đã bị chấm dứt bằng sự đổ máu. Vì thế, sự đồng lỏa của chúng ta trong việc lật đổ Chính phủ Diệm đã làm tăng trách nhiệm của chúng ta là đã can dự vào sự hình thành nên một nước Việt Nam mà thực chất là không có người lãnh đạo) “ For the military coup d’etat against Ngo Dinh Diem, the U.S. must accept its full share of responsibility. Beginning in August of 1963 we variously authorized, sanctioned and encouraged the coup efforts of the Vietnamese generals and offered full support for a successor government. In October we cut off aid to Diem in a direct rebuff, giving a green light to the generals. We maintained clandestine contact with them throughout the planning and execution of the coup and sought to review their operational plans and proposed new government. Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment in an essentially leaderless Vietnam.” [20] [Trích đoạn trong CIA: Giải pháp hoà giải Bắc - Nam 1963 - trang 2-đoạn 2- tài liệu giải mật 2001] Theo CIA: Hai ông Diệm, Nhu, ngoài việc chống đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam, còn tự ý liên hệ với miền Bắc nhằm đề nghi một giải pháp hoà giải… “Do đó, ở một thời điểm nào đó, họ có thể tìm ra một giải pháp chung sống với miền Bắc, do họ tin rằng giải pháp hòa giải với những người cùng một dân tộc vẫn hay hơn là cúi đầu trước áp lực của ngọai bang (Mỹ) (They might at some juncture seek to work out a modus vivendi with the North, out of belief that a deal with kindred peoples was better than submitting to foreign (US) pressures.) [Trích đoạn trong: CIA: Giải pháp hoà giải Bắc-Nam 1963 - trang 2, đoạn 3) (Bản văn thiết lập ngày 14.9.1963 và cuộc đảo chánh ngày1.11.1963 - giải mật và công bố Apr. 2001] Cho nên, việc hai ông Diệm, Nhu tự ý đi tìm thỏa hiệp với miền Bắc được coi như là chiếc đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài chôn vùi chế độ Đê I VNCH bởi… các tướng lãnh Miền Nam VN… “ If it became known that Diem and Nhu seriously intended to seek an accommodation with the North, this might well precipitate a coup attempt by certain South Vietnamese military leaders.” [21] – Video clip: Ông Ngô Đình Nhu lên tiếng về các vụ biểu tình 1963. Nguyên văn lời tuyên bố của ông Nhu trong video trích dẫn: “l’affaire bouddhiste et l’affaire des étudiants ont été montées de toutes pieces et répercutées de facon orchestrée et puissante pour intoxiquer l’opinion interieure comme l’opinion internationale contre le gouvernement du Sud Vietnam parce que ce gouvernement combat le communisme et parce qu’il refuse d’être un gouvernement puppet.” [22] – Video clip: Diễn văn từ chức của TT Nguyễn Văn Thiệu, 21.4.1975 [23] – Tướng Westmoreland có đến Nam Cali và dành cho đài Radio Little Sàigòn phỏng vấn V/v Tết Mậu Thân 1968 – và v/v tiến quân ra Bắc, do Việt Dũng phỏng vấn 9/1995 và bài phỏng vấn loan trên báo Hồn Việt 10/1995: Tướng Westmoreland: Chúng tôi đã biết trước cuộc tổng công kích sẽ xảy ra. Và tôi sẽ thú tội với mọi người khi nghĩ lại, là tôi đáng lý ra đã phải loan báo những tin tức này đến mọi người. Và tôi biết rất rõ ràng những chi tiệt. Tôi biết biết rõ ràng khi nào họ sẽ tấn công, và tôi cũng có đầy đủ những chi tiết để tiên đoán hậu quả của cuộc tấn công này. Đây là con đường tiếp tế huyết mạch của miền Bắc vào Miền Nạm. Không may cho chúng ta Ông Averell Harriman là một người rất có uy tín trong thời gian đó, và có thời gian từng giữ chức vụ phụ tá Tổng Trưởng Ngoại giao, và là cố vấn của Tổng Thống. Ông Averell rất là cứng rắn khi cho rằng cuộc chiến không được lan rộng ra khỏi lãnh thổ miền Nam và điều này đã trở thành chủ trương của Hoa Kỳ trong suốt thời gian tham gia cuộc chiến tại miền Nam, là chúng ta không phát triển cuộc chiến ra ngoài phạm vi lãnh thổ này. Chúng tôi đã có những cuộc xâm nhập bí mật vào đường mòn HCM và tấn công những đơn vị Bắc Việt dùng con đường này để tiếp tế cho Miền Nam, nhưng chúng tôi không bao giờ được quyền đế cắt đứt con đường này dù chúng tôi dư sức làm điều đó, vi` con đường này là mạch sống của địch quân và việc cắt đứt con đường này sẽ giảm thiểu các chiến lược của chúng tôi rất nhiều. Câu hỏi: Vậy đâu là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi mở chiến tranh chống giải phóng (CIP) tại Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này người viết bài đã đi sưu tầm tài liệu và đúc kết thành bài viết trình bầy nêu trên.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 8, 2014 10:02:15 GMT 9
Hành trình từ ngục tù cộng sản đến bến bờ tự doMột gia đình chống cộng và phải trả giá đến 29 năm tù Gia đình bà Vương Thị Viếng Lời đầu, tôi xin cảm tạ Trời cao, Đất dày, cảm tạ hồn thiêng sông núi Việt Nam đã thùy từ giáng lâm, ban ơn lành cho gia đình tôi được mọi sự bình an trong suốt hành trình từ ngục tù cộng sản đến bên bờ tự do sau 10 năm tù đày tại nhà tù nhỏ Z30 D của cộng sản và hơn 8 năm sống lưu vong tại xứ Cao Miên và Xiêm La. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với Phủ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tại Nam Vang và tại Vọng Các đã cộng nhận tư cách tỵ nạn chính trị cho gia đình tôi và cuối cùng đã đưa gia đình tôi tái định cư tại thành phố Bellevue, tiểu bang Washington State mà gia đình tôi vừa đặt chân đến vào cuối giờ của ngày 24 tháng 7 vừa qua. Tôi cũng xin được cảm ơn Luật Sư Nguyễn Kim Anh để hết lòng giúp đỡ cho gia đình tôi từ Cao Miên cho đến Xiêm La, mà nếu không có sự trợ giúp chân tình đó thì việc đến bến bờ tự do của gia đình tôi sẽ khó mà thực hiện được. Video: GIA ĐÌNH CỰU TÙ CHÍNH TRỊ VƯƠNG THỊ VIẾNG ĐÃ ĐẾN BẾN BỜ TỰ DO Và tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn với một vị Mục sư Tin Lành đầy ơn, mà đang chịu rất nhiều điều tiếng do sự tấn công của cộng sản Việt Nam về phương diện truyền thông nhằm vô hiệu hóa công việc chống cộng của vị Mục sư này cũng như mọi hoạt động nhân quyền và trợ giúp những người tỵ nạn cộng sản khác, của ông ấy, mà tất nhiên sự đánh phá đó có luôn cả sự tiếp tay của một số người tỵ nạn “phú bất nhân, bần bất nghĩa” và “ăn cháo đái bát” chỉ vì một chút bã vật chất nhỏ nhoi nhận lãnh từ phía cộng sản, để quay lại cắn xé ân nhân của mình còn hung bạo hơn cả bầy lang sói, mà tôi xin trình bày ở phần sau. Tôi tên là Vương Thị Viếng, sinh năm 1950 tại xã An Bình, quận Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp – Nguyên là một giáo viên tiểu học Cộng Đồng Hồng Ngự, tôi tốt nghiệp Sư Phạm Vĩnh Long năm 1969, và công tác trong ngành giáo dục thuộc ty giáo dục và thanh niên Kiến Phong, cho đến ngày 30 tháng tư năm 1975 thì tôi bỏ việc vì tôi vốn không đội trời chung với cộng sản mà ngoài thù nước, tôi còn có riêng nỗi thù nhà bởi năm 1966, Việt cộng địa phương đã đến nhà tôi lúc nửa đêm bắt cha tôi ra sân và bắn chết trước mặt vợ con, chỉ vì lúc đó cha tôi đang đương nhiệm Xã Trưởng xã An Bình. Vì nợ nước, thù nhà, chúng tôi quyết phải trả, nên năm 1976 cả gia đình chúng tôi đã trốn sang Cao Miên tìm kiếm các tổ chức đảng phái chống cộng để tham gia và may mắn thay, cuối cùng vào năm 1994 chúng tôi đã tìm được cựu dân biểu Lê Văn Tính (Hiện đang thi hành án tù 20 năm) là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Miền Tây, vào thời điểm đó là Xứ Bộ Trưởng Đảng Nhân Dân Hành Động, cả gia đình tôi đều đã được kết nạp vào đảng Nhân Dân Hành Động, các con tôi làm công việc liên lạc và lưu trữ văn thư, chồng tôi Bảo Giang Nguyễn Tuấn Nam (Hiên đang chịu án tù 19 năm) còn tôi làm trưởng ban tuyên huấn. Xuất phát từ lòng yêu nước, yêu tự do dân chủ và căm thù cộng sản sâu sắc của hầu hết đồng bào Việt Nam tại xứ Cao Miên mà công việc tuyển mộ đảng viên gặp rất nhiều thuận lợi, chỉ từ năm 1994 đến 1996, số đảng viên đã phát triển lên hơn 2.000 người với hơn 20 khu bộ. Tuy nhiên, do công việc tuyển mộ và kết nạp được tiến hành một cách đơn giản và nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu phát triển nhân sự, nhằm sớm tiến hành cuộc cách mạng giải phóng quê hương khỏi ách thống trị của bạo quyền cộng sản mà chúng tôi thiếu gạn lọc minh xác nhân thân của cấc đương sự tham gia vào đảng, do đó mà không ít an ninh mật vụ của cộng sản đã được cài cắm vào hàng ngũ của đảng Nhân Dân Hành Động chúng tôi, và việc đó khiến chúng tôi phải trả giá: Cả Xứ Bộ Chùa Tháp của chúng tôi đều đã sa lưới cộng sản, tất cả đều đã bị đưa về Việt Nam bị cộng sản Việt Nam xét xử và kết án nặng nề mà không ít người đã đền nợ nước ngay trong các nhà tù của Cộng Sản mà nhiều người từng biết đến như Trung Úy Không Quân Bùi Đăng Thủy, Hạ Sỹ Quan Nguyễn Văn Trại… một số người đền nợ nước không lâu sau khi được phóng thích, do di chứng của đòn thù cũng như do điều kiện tù đày với thời gian dài đói khát và bị giam hãm trong môi trường kém vệ sinh như Đại Úy Nguyễn Anh Hảo, Nguyễn Việt Nhân… 1. Sự Cài Cắm Của An Ninh Cộng Sản Nhiều người vẫn quen câu cửa miệng rằng “Ngu như bọn Việt cộng là cùng”, thực ra điều đó chỉ đúng đối với chính sách kinh bang tế thế của cộng sản, cũng như đối với chính sách ngoại giao nhất là đối với các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa anh tinh bao Nguyen cong Camem” như Nga Sô và Trung Cộng để mất dần biển đảo và đất liền cho mẫu quốc trên tinh thần “16 chữ vàng và 4 tốt”, nhưng đối với ngành an ninh và tình báo thì Việt cộng tinh ranh hơn hẳn loài cáo, mà nếu khinh xuất thì chúng ta, những người chống cộng ắt sẽ phải trả giá như chúng tôi: Ngoài việc theo dõi và biết được những người mới tham gia vào đảng, nhưng không bắt giam ngay mà chỉ “mời” đi làm việc rồi đe dọa những bản án tù nặng nề cho họ, rồi dụ dỗ, thuyết phục họ cộng tác với cơ quan an ninh A42 của cộng sản, trong khi vẫn tiếp sinh hoạt trong đảng Nhân Dân Hành Động để báo cáo định kỳ cho cơ quan an ninh cộng sản về danh tính, chức vụ của các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của đảng Nhân Dân Hành Động tại các khu bộ, liên khu bộ cũng như thời gian và địa điểm họp hành cũng như kế hoạch hành động của xứ bộ, với những con người hai mang có thể kể đến như, Kim Ny Trần Quốc Thắng, Trương Kim Đời (Út Thy) Hà Văn Sinh, Nguyễn Phùng Phong… Thì an ninh cộng sản còn cài cắm những nhân viên an ninh cộm cán với chuyên môn nghiệp vụ tình báo cao cấp khác như Quang Minh, Hùng Biên Thùy, Nguyễn Công Cẩm, … Trong số đó những tên chó săn hoạt động hai mang như Út Thy tức Trương Kim Đời, Kim Ny Trần Quốc Thắng, Hà Văn Sinh… thì ít nguy hiểm hơn bởi công việc của chúng chủ yếu là theo dõi và báo cáo cho cộng sản về tình hình nội bộ cũng như hoạt động của các khu bộ, xứ bộ mà không trực tiếp bắt bớ hay ám sát. Trong khi những điệp báo viên như Quang Minh, Nguyễn Công Cẩm thì ngoài việc thị sát trực tiếp hoạt động của các đảng viên, lãnh đạo các khu, xứ bộ của đảng Nhân Dân Hành Động, chúng còn có thể trực tiếp bắt cóc hoặc ám sát những yếu nhân của đảng khi có lệnh. Việc này đã xảy ra cho chính Xứ Bộ Chùa Tháp chúng tôi, khi vào tháng 11 năm 1996, chúng tôi được Trung Ương Đảng Nhân Dân Hành Động triệu tập sang Thái Lan để họp, triển khai công tác nhập nội để tiến hành cuộc cách mạng. Đoàn đại biểu gồm 26 người là lãnh đạo các Khu Bộ, Phân Bộ thuộc Xứ Bộ Chùa Tháp với hành trang gồm 18 thùng tài liệu về cơ cấu tổ chức và hồ sơ nhân sự của đảng Nhân Dân Hành Động chúng tôi tại Xứ Bộ Chùa Tháp. Thật cay đắng thay chương trình nghị sự của chúng tôi đã được các “đảng viên Nhân Dân Hành Động” hai mang báo cáo từng chi tiết cho cơ quan an ninh CSVN và trong đoàn đi dự hội nghị lại có mặt cả “đảng viên Nhân Dân Hành Động” Nguyễn Công Cẩm là một sỹ quan tình báo với cấp hàm trung tá thuộc cơ quan tình báo và chống phản gián A 42 của CSVN, cho nên ngay khi cả đoàn chúng tôi vừa vượt khỏi biên giới Miên – Thái thì các lực lượng an ninh Miên và Việt cộng đã tóm gọn chúng tôi. Tất cả 28 chí hữu chúng tôi đều bị đưa về tạm giam tại trại giam Nguyễn Văn Cừ 13 tháng, sau đó chúng tôi bị chuyển qua đại lao Chí Hòa giam tiếp 12 tháng nữa, rồi cuối cùng tất cả chúng tôi bị chuyển xuống trại giam Định Thành, An Giang giam giữ đúng một năm sau chúng tôi mới bị đưa ra tòa án của cộng sản ở An Giang xét xử về tội “âm mưu lật đổ chính quyền”, và “trốn ra nước ngoài hoạt động chống phá đảng và nhà nước CSVN”, không ai trong chúng tôi bị kết án dưới 10 năm tù giam cả. Chồng tôi là Bảo Giang Nguyễn Tuấn Nam bị kết án 19 năm tù, cựu dân biểu Lê Văn Tính bị kết án 20 năm, Cựu Sỹ Quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa Bùi Đăng Thủy bị kết án 18 năm, Cựu Đại Úy QLVNCH Nguyễn Anh Hảo bị kết án 15 năm tù, và một cựu sỹ quan của QLVNCH khác là Nguyễn Văn Trại cũng bị kết án 15 năm, và thật đau thương là chiến hữu Nguyễn Văn Trại đã đền nợ nước ngay trong trại giam Z 30 A Xuân Lộc, Đồng Nai tuổi 74 vào ngày 11 tháng 7 năm 2011 sau khi đã thi hành xong 14 năm 7 tháng tù; và rồi một chiến hữu khác là Thiếu Úy Không Quân Bùi Đăng Thủy cũng đã đền nợ nước tại cùng trại giam này vào ngày 24 tháng 11 năm 2013 sau khi đã chấp hành được 17/19 năm tù. Nhiều chiến hữu khác của đảng Nhân Dân Hành Động, thuộc Xứ bộ Chùa Tháp chúng tôi dù đã mãn án tù những rồi cũng lần lượt ra đi bởi di chứng của những trận đòn thù trong thời gian bị lao lý trong ngục tù của cộng sản: Mong rằng những trang sử Việt sẽ không quên ghi thêm những tội ác này của cộng sản Việt Nam đối với đồng bào, ngoài những tội ác cõng rắn cắn gà nhà hay dâng đắt, bán biển đảo cho ngoại bang. 2. Những Bài Học Về Đạo Lý Và Tình Người Trong Chốn Lao Tù Cũng Như Trong Những Năm Sống Lưu Vong Ở Cao Miên Và Xiêm La Cổ nhân há từng nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”. Chúng tôi đã phải nếm trải cuộc sống tù đày hết sức man rợ qua nhiều ngục tù của cộng sản từ 10 cho đến 20 năm thì không biết đã phải trải qua mấy ngàn thiên niên kỷ tại ngoại! Dẫu vậy chính những năm tháng tù đày lao lý với ngần ấy “thiên niên kỷ tại ngoại” chúng tôi đã được tôi rèn, được trải nghiệm bằng chính những trận đòn thù, những cách đối xử phi nhân của các hung thần quản giáo cộng sản, mà chính những trải nghiệm đó giúp chúng tôi chiêm nghiệm bài học nằm gai từng đêm và nếm mật mỗi ngày của Việt Vương Câu Tiễn, để dù trong hoàn cảnh nào, nghịch cảnh hay thuận duyên, chúng tôi cũng không bao giờ được quên tội ác của cộng sản đối với dân tộc, không bao giờ buông xuôi thua cuộc trong trận chiến với chế độ bạo tàn cộng sản để giải phóng quê hương. Nhưng một bài học không kém phần quý giá khác mà chúng tôi học được trong chốn lao tù của cộng sản chính là tình người giữa những người cùng đứng chung chiến tuyến. Dù không cùng tổ chức, không cùng đảng phái chính trị, nhưng khi đã dấn thân vào cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản phi nhân, chống Hồ Chí Minh và chế độ cộng sản Việt Nam thì chúng tôi là chiến hữu, anh chị em một nhà, luôn hết lòng yêu thương, chăm sóc và bảo vệ lẫn nhau và chia ngọt sẻ bùi, chia cay sớt đắng với nhau trên tinh thần của những người sinh ra cùng một bọc trứng, cùng chí hướng và cùng là nạn nhân của cộng sản – Đó là điều mà tôi thấy được về sự cao cả về tình nghĩa của những người vì nợ nước tình nhà mà lụy vòng lao lý. 3. … Và Những Thất Vọng Về Cái Gọi Là Đạo Lý Trong Cộng Đồng Những Người Tỵ Nạn Tại Cao Miên Và Xiêm La Sau đúng 10 năm lao lý, tù đày, tôi được phóng thích vào tháng 7 năm 2005 với án phạt bổ sung là 4 năm quản chế. Không khuất phục bạo quyền cộng sản, tôi lại tiếp tục đào thoát sang Cao Miên tỵ nạn chính trị. Tại Nam Vang tôi được Mục Sư Ngô Đắc Lũy đón tiếp và trợ giúp về các thủ tục pháp lý nhờ đó mà chỉ đúng một tuần đệ nạp hồ sơ xin tỵ nạn lên Cao Ủy Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Về Người Tỵ Nạn tại Cao Miên cấp quy chế tỵ nạn. Qua sự sắp xếp của Mục Sư Ngô Đắc Lũy, các con tôi lưu lạc trong suốt thời gian cha mẹ ở tù, cũng liên lạc được và đến Nam Vang đệ nạp hồ sơ xin tỵ nạn, và cũng được cấp quy chế tỵ nạn trong một thời ngắn sau đó. Đến đầu tháng 2 năm 2012 gia đình tôi cùng những người tỵ nạn cộng sản tại Cao Miên nhận được thông báo từ Cao Ủy Tỵ Nạn, báo rằng Văn Phòng Cao Ủy Tỵ Nan tại Nam Vang sẽ chính thức đóng cửa vào cuối tháng 5 năm cùng năm, những người tỵ nạn cộng sản chúng tôi sẽ đặt dưới sự quản lý và “bảo vệ” của Bộ Nội Vụ Cao Miên, những người tỵ nạn các sắc tộc khác nhau đều được nhập tịch Cao Miên, trở thành công dân của xứ sở từng diệt chủng này. Vì vậy gia đình chúng tôi lại tiếp tục đào tỵ sang Vọng Các, Xiêm La, trình diện với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc Tại Vọng Các bảo vệ. Lại một lần nữa Mục sư Ngô Đắc Lũy tiến hành các thủ tục pháp lý cho gia đình tôi, nhờ vậy mà chỉ 2 tháng sau thì gia đình tôi được thuyên chuyển quy chế tỵ nạn từ Cao Miên sang Xiêm La và được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc Tại Vọng Các chính thức bảo vệ, và cũng chính Mục sư Ngô Đắc Lũy tiếp tục mọi thủ tục pháp lý cho gia đình tôi được đến bến bờ tự do như hôm nay. Nhưng có một điều mà cả gia đình tôi rất lấy làm hổ thẹn trong suốt thời gian ở Xiêm La suốt 2 năm qua, mà nay qua bài viết này chúng tôi xin được nói lên lời tạ lỗi với Mục Sư Ngô Đắc Lũy: Ấy là việc chúng tôi đã không dám nói lên lời công đạo để bảo vệ sự thật về con người này trước những lời vu cáo, thị phi vô cùng đê tiện của những kẻ đã từng thọ ơn Mục Sư Ngô Đắc Lũy, nay vì sự xúi dục, thuê mướn của an ninh cộng sản mà quay lại đánh phá Mục sư Ngô Đắc Lũy nhằm vô hiệu hóa công việc chống cộng của ông, cũng như cắt đứt mọi sự trợ giúp của ông đối với những nạn nhân của cộng sản cần phải đào tỵ. Sở dĩ chúng tôi không dám lên tiếng bảo vệ sự thật, phản bác lại những sự vu cáo hèn hạ và đốn mạt đó, bởi vì thế lực đen ở Vọng Các quá mạnh, không những được sự lãnh đạo của một trùm buôn người và kinh doanh thân xác phụ nữ từng can án giết người cướp của Nguyễn Phùng Phong, mà những kẻ đánh phá còn được sự trợ giúp của cơ quan tình báo Việt cộng tại Đại Sứ Quán Việt cộng tại Vọng Các. Trước hết là nhân vật Nguyễn Phùng Phong, nguyên là một tù hình sự bởi tội giết người cướp của, trốn tù sang Cao Miên tỵ nạn từ năm 1992, nhưng không được tái định cư vì làm chủ nhà chứa Bình Phong, rồi Phong Kennedy cũng làm trùm một băng đảng Mafia, từng nhiều lần bắt cóc tống tiền tại Nam Vang. Nhà Chứa của Nguyễn Phùng Phong bị đóng cửa năm 2006, vợ hờ của Nguyễn Phùng Phong bị bắt và kết án 5 năm tù vì can tội kinh doanh trinh tiết hơn 360 gái vị thành niên từ 8 đến 12 tuổi. Nguyễn Phùng Phong thoát án tù nhờ bán hết số tài sản kếch sù khoảng 3 triệu Mỹ Kim để lo lót. Sau đó Nguyễn Phùng Phong theo Đạo Tin Lành, theo Mục Sư Ngô Đắc Lũy để tạo chứng cớ ngoại phạm vì “Cơ Đốc Nhân thì không phạm tội buôn người hay kinh doanh thân xác phụ nữ”. Tháng 9 năm 2008, khi Mục Sư Ngô Đắc Lũy bị sự truy bắt của tình báo CSVN, do hoạt động nhân quyền, hoạt động trợ giúp người tỵ nạn cộng sản của ông ấy, cũng như hoạt động chống buôn người của ông ấy đã đụng chạm đến quyền lợi của các quan chức CSVN tại Nam Vang, là chủ nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của các nhà chứa, các đường dây buôn người. Lúc này Nguyễn Phùng Phong vớ một người từng gái làng chơi trong nhà chứa của ông ta là Phan Thị Bé rồi cùng chạy sang Xiêm La với Mục sư Ngô Đắc Lũy, cũng chính Mục sư Lũy đã thiếp lập hồ sơ tỵ nạn cho cả Nguyễn Phùng Phong, Phan Thị Bé và sau này thêm 3 đứa con trai riêng của Thị Bé là Nguyễn Phú Cường, Nguyễn Minh Cảnh và Nguyễn Anh Tuấn, cùng được Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Vọng Các cấp cho quy chế tỵ nạn, và sẽ được đến Washington DC định cư vào cuối tháng 7 này. Sau một năm cùng sống chung với nhau trong một căn hộ chung cư tại Vọng Các, Mục Sư Ngô Đắc Lũy phát hiện ra cha đẻ của Nguyễn Phú Cường, Nguyễn Minh Cảnh và Nguyễn Anh Tuấn tức là chồng chính thức của Phan Thị Bé là một công an ác ôn hiện đang công tác tại Trại Giam An Giang, nên đã quyết định chấm dứt mọi sự trợ giúp pháp lý cho gia đình buôn người và kinh doanh thân xác phụ nữ này và chuyển đi ở riêng cùng cựu tử tù Ngô Văn Tài, một Biệt Kích Quân Lôi Hổ Thuộc chiến Đoàn 1 Tây Sơn, người mà đã được Mục sư Ngô Đắc Lũy vận động với Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Vọng Các cho đi định cư tại Tesax vào tháng 2 năm 2010, sau khi ông Tài đã bị Cao Ủy Tỵ Nạn từ chối quy chế tỵ nạn vì đã sử dụng tên giả là Ngô Văn Tài để lập các giấy tờ tùy thân sau khi vượt ngục Đại Bình thành công vào mùa Giáng Sinh năm 1978, thay vì tên thật là Nguyễn Văn Tần. Cũng trong thời gian đó, vợ hờ trước đây của Nguyễn Phùng Phong mãn án tù tại Nam Vang và đã liên lạc với Phong, tố giác rằng chính Mục Sư Ngô Đắc Lũy trong thời gian làm việc trong một dự án chống buôn người và bảo vệ nạn nhân – Trafficking Prevention anh Victims Protection Projet tại Nam Vang đã góp phần khiến cho nhà thổ Phong Kennedy bị đóng cửa, Thị Bình phải vào tù, và Nguyễn Phùng Phong phải bán hết tài sản để chạy tội. Đây chính là những lý do chính yếu khiến Nguyễn Phùng Phong quay lưng trở mặt với ân nhân của mình, vu cáo người đã hết lòng trợ giúp cho mình, cho cô gái điếm vợ mình và các con của cô ấy được quy chế tỵ nạn để sắp được đến Mỹ định cư. Thay vì ân đền oán trả thì Nguyễn Phùng Phong lại vu cáo cho Mục Sư Ngô Đắc Lũy là cộng sản nằm vùng được cài cắm vào hàng ngũ những người tỵ nạn để hãm hại họ? Xin được hỏi ông Nguyễn Phùng Phong là Mục Sư Ngô Đắc Lũy đã hãm hại những ai? Hay chính ông ấy đã giúp ông thoát án tù vì tội buôn người, để rồi những lúc cơm còn lành, canh còn ngọt tại Cao Miên với nhiều lần trả lời phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông, ông đã từng tán dương nạn nhân của ông như thần như thánh? Hay chính Mục sư Ngô Đắc Lũy sau này tại Vọng Các cũng đã làm việc không mệt mỏi với Cao Ủy, để cô vợ của Phong từ một gái điếm chuyên nghiệp rồi trở thành tú bà, và các con của y thị cũng từng tiếp tay cho ông và cho y thị trong hoạt động buôn người và kinh doanh thân xác phụ nữ ở Nam Vang một thời nay được cấp quy chế tỵ nạn và sắp được đi định cư? Chúng tôi thấy việc Mục sư Ngô Đắc Lũy giúp đỡ cho cô gái điếm kiêm tú bà Phan Thị Bé cùng 3 đứa con trai của y thị là hoàn toàn sai trái, có thể gây phương hại cho cộng đồng người Việt Quốc Gia sau này khi chúng đến định cư ở Mỹ. Nhưng bản thân ông, tú bà Phan Thị Bé cùng các con trai của y thị phải biết ơn người đã hết lòng giúp đỡ ông chứ. Sao lại đem oán để báo ân? Sao lại bịa đặt những điều không thành có để giết ân nhân của mình không gươm dao như thế kia? Sự thật thì chính ông đã cộng tác với cơ quan tình báo của Việt cộng tại Đại Sứ Quán CS tại Nam Vang trong vai trò chỉ điểm, chính ông là một kẻ hai mang dưới trướng của tướng tình báo người Khmer gốc Chàm tên Van Na để đổi lại ông được kinh doanh thân xác phụ nữ suốt 17 năm tại Nam Vang. Chính ông đã nhiều lần báo cáo với Đại Sứ Quán Việt Cộng tại Nam Vang về những hoạt động của Mục sư Ngô Đắc Lũy, mà một số bản báo cáo đó ông đã photo lại cho ông Tài, Mục sư Lũy và chúng tôi đọc để chứng tỏ những điều ông báo cáo cho CS không có hại cho Mục sư Lũy. Thế còn hàng tram bản báo cáo khác mà ông không cho chúng tôi đọc thì sao? Một kẻ từng cướp của giết người như ông, từng buôn người và kinh doanh trinh tiết trẻ em như ông thì liệu còn tội ác nào mà ông chừa ra nữa không? Ông có chút liêm sỷ nào cuối cùng để nhìn nhận những việc ông đã làm hay lại hèn hạ chối bỏ? Ngoài Nguyễn Phùng Phong ra, trong thời gian tỵ nạn tại Xiêm La, tôi cũng từng gặp “cựu tù chính trị” Nguyễn Ngọc Quang, chính Nguyễn Ngọc Quang đã chủ động đến chào tôi và bịp tôi rằng “Em còn giữ một lá thư của chồng chị, anh Bảo Giang Nguyễn Tuấn Nam gởi về cho chị lúc em ra tù….” Hành động bịp bợm của Nguyễn Ngọc Quang nhằm sau đó lôi kéo tôi đánh phá để hãm hại Mục Sư Ngô Đắc Lũy theo sự xúi dục của ông trùm thế lực đen Nguyễn Phùng Phong. Rất may mắn cho tôi và các con tôi là chúng tôi đã từng được giáo dục bởi nền giáo dục tự do, nhân bản và khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa với đạo lý làm người là: “Cư thiên hạ chi quảng cư Lập thiên hạ chi chính vị Hành thiên hạ chi đại đạo Đắc chí dữ dân do chi Bất đắc chí độc hành kỳ đạo Phú quý bất năng dâm Bần tiện bất năng di Uy vũ bất năng khuất Thử chi vị Đại Trượng Phu Nghĩa là: Sống ở chỗ rộng rãi trong thiên hạ Đứng ở vị trí chân chính trong thiên hạ Đi trên con đường lớn trong thiên hạ Đạt được chí mình thì cùng người người hành đạo Chẳng đạt được chí mình thì riêng mình hành đạo Giàu sang chẳng dâm dật Nghèo hèn chẳng đổi lòng Cường quyền không làm khuất phục Người như vậy là bậc Đại Trượng Phu Vì vậy mà chúng tôi đã không bị cuốn vào cơn lốc thị phi, đánh phá người chống cộng. Cũng cần trình bày với quý vị rằng Mục sư Ngô Đắc Lũy cũng chính là người đón tiếp “cựu tù chính trị” Nguyễn Ngọc Quang sang Vọng Các và cũng là người thiếp lập mọi hồ sơ pháp lý cho “cựu tù chính trị” này cũng như giúp đỡ mọi cuộc gặp gỡ đàm tiếu với các nhân viên đại Sư Quán Hoa Kỳ tại cơ quan OPE/IRC tại Nam Vang để hoàn tất thủ tục tỵ nạn cho gia đình Quang, nhờ đó mà Nguyễn Ngọc Quang và vợ con đã đến được Hoa Kỳ vào tháng 8 năm 2012. Quan trọng hơn thế nữa là em trai của Nguyễn Ngọc Quang là Bác Sỹ Nguyễn Ngọc Thiệu trong thời gian sang Mỹ học Thạc Sỹ Y Tế Cộng Đồng tại Boston Massachusettes đã lưu trú trong gia đình người anh cả của Mục Sư Ngô Đắc Lũy, vốn là một sỹ quan QLVNCH từng phải trải qua 10 năm tù trong các trại cải tạo từ ngoài Bắc cho đến những trại Bình Điền Ái Tử. Điều này khiến hơn ai hết “cựu tù chính trị” Nguyễn Ngọc Quang là người biết rõ nhất gia đình của ân nhân mình là một gia đình nạn nhân của CS. Ấy vậy mà vì chút bả vật chất nhỏ nhoi do CS và trùm buôn người ban phát cho, mà “cựu tù chính trị” Ngoc Quang lại dám dẫm đạp lên đạo lý cắn xé ân nhân đã trợ giúp cho em trai mình và cho chính gia đình mình thoát khỏi nhà tù lớn của CSVN và đến bến bờ bình yên một cách an toàn. Thật đáng buồn và đáng xấu hổ cho nhưng kẻ đã quá hà lạm cụm từ “cựu tù chính trị” để làm những việc bất nghĩa, bất nhân, giúp cho cộng sản bất chiến tự nhiên thành. Ngày còn cáp sách đến trường thuở tóc còn để chỏm, chúng tôi đã được học những bài học đạo lý đầu đới rằng: “Cái xấu nhất của con người là lòng phản trắc và thói vong ân”. Vỗ ngực xưng danh là “cựu tù chính trị” là người dấn thân để đấu tranh dành tự do, dân chủ và quyền làm người cho dân tộc mình, để giải phóng cho quê hương mình, vậy việc quý vị đan tâm hãm hại một đồng bào mình mà lại chính ân nhân của mình đang nói lên điều gì về con người của quý vị là “CON” hay là “NGƯỜI”? là “NGƯỜI” hay là “CON”. Xin những ai đó trót mang lòng phản trắc và vong ân, hãy hồi tâm để đừng tiếp tục nối giáo cho cộng sản, đừng tiếp tục giúp cộng sản bất chiến tự nhiên thành. Thành Phố Bellevue, Washington State, ngày thực sự tự do đầu tiên sau hơn 39 năm đất nước rơi vào tay cộng sản. Cựu tù chính trị Vương Thị Viếng và Các con (LTS: Một số thông tin trong bài viết, ĐCV chưa thể kiểm chứng. Chúng tôi đăng tải trong tinh thần dè dặt thường lệ).
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 16, 2015 8:48:17 GMT 9
Những điều chưa được nói tới, về Trung Tướng Ngô Quang TrưởngLTS: Trong bài “Nguyễn Cao Kỳ, con người của thời cuộc” của tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu đã tạo ra dư luận sôi nổi, trong đó có những chi tiết đang được nhiều người quan tâm liên quan đến cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng và những cố gắng của Tướng Kỳ trong những ngày cuối cùng của VNCH. Đàn Chim Việt trích đăng lại bài phỏng vấn của ông Nguyễn Tường Tâm với bà quả phụ Ngô Quang Trưởng, đã được đăng trên Người Việt và mạng lưới Trời Nam trước đây để rộng đường dư luận.Đôi Điều của Trời Nam về bài viết dưới đây của ông Nguyễn Tường Tâm đăng trên Người Việt: Bà Nguyễn Tường Nhung (giữa) phu nhân cố Trung Trướng Ngô Quang Trưởng. Ảnh: Báo Viễn Đông Đầu năm 2004, Tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về Việt Nam khuyên nhà cầm quyền Việt Nam hãy thi hành chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc một cách nghiêm chỉnh để tạo sự đoàn kết trong nhân dân, một số báo chí, đài phát thanh đã lớn tiếng kết án ông Nguyễn Cao Kỳ làm Tướng mà bỏ quân lính chạy trước trong khi ông kêu gọi Quân Đội cố thủ. Chúng tôi đã gọi điện thoại đến Trung tướng Ngô Quang Trưởng lên tiếng để nói cho mọi người chính Tướng Kỳ trong giờ phút tuyệt vọng đã bay sang Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với các Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê văn Hưng nhằm đích thân Tướng Kỳ về Cần Thơ hợp lực nhau lãnh đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Vùng IV Chiến Thuật. Tiếc thay đường dây điện thoại viễn liên giữa Bộ Tổng Tham Mưu và Vùng IV đã bị cắt đứt nên ước muốn giữ vững Vùng IV Chiến thuật đã không thành. Tuy nhiên, vì quyết tâm bảo vệ Miền Nam đến hơi thở cuối cùng mà Tướng Kỳ đã “bốc” được Tướng Ngô Quang Trưởng đang bị Tổng thống Nguyễn văn Thiệu nhốt ở Bộ Tổng Tham Mưu ra Hạm đội 7. Vì Tướng Trưởng là người được quân nhân các cấp Quân Lực VNCH kính trọng, tất nhiên sự lên tiếng nói ra SỰ THẬT thì sẽ khiến cho những luận điệu buộc tội Tướng Kỳ một cách hàm hồ sẽ im đi. Thế nhưng Tướng Ngô Quang Trưởng đã giữ im lặng, mặc cho ân nhân từng ra tay cứu mình trong giờ phút lâm chung của Đất Nước bị miệng lưỡi tàn ác của bọn rắn rết dập vùi. Nay nhân dịp ông Nguyễn Tường Tâm là người bà con của Trung tướng Ngô Quang Trưởng phu nhân viết ra SỰ THẬT qua cuộc phỏng vấn bà chị họ của mình, chúng tôi mạn phép đăng lại SỰ THẬT này để trả SỰ THẬT về cho lịch sử, mặc dù Tướng Nguyễn Cao Kỳ không hề yêu cầu Trời Nam làm công việc này. Hy vọng rằng trong tương lai, những vị làm công tác truyền thông nên có một lương tâm trong sáng đủ để làm tròn chức năng của một ngành gọi là hướng dẫn công luận. Và đây là lời giới thiệu của Người Việt. LTS Báo Người Việt: Nhân ngày giỗ đầu sắp tới của cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên Tư Lệnh Quân Ðoàn IV rồi Quân Ðoàn I, ông Nguyễn Tường Tâm đã nói chuyện với bà quả phụ Ngô Quang Trưởng về một vài điều chưa hề được đề cập về vị tướng lãnh nổi tiếng là liêm khiết, kỷ luật và trọng danh dự này. Những đoạn trích ở đầu bài phỏng vấn là thủ bút của Tướng Creighton Abrams, tư lệnh Lực Lượng Mỹ tại Việt Nam và Tướng Schwarzkopf, tư lệnh mặt trận trên chiến trường Vùng Vịnh lần thứ nhất gởi cho Tướng Trưởng bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ. “Gen. Truong was capable of commanding an American division.” Gen. Creighton Abrams “Dear General Trưởng, … You are one of my greatest teachers. Many of the strategies that I use everyday on this battlefield in Middle East are things that you taught me so well 25 years ago…” Gen. Schwarzkopf Bà Ngô Quang Trưởng là chị họ tôi. Một vài bạn bè báo chí ngỏ ý muốn phỏng vấn bà Ngô Quang Trưởng, tôi thấy bà chị họ tôi rất ngại “được báo chí phỏng vấn” cho nên với những câu hỏi của bạn bè báo chí, tôi thực hiện cuộc phỏng vấn giùm bạn bè cho tiện. Ngoài ra, tôi cũng tổng hợp những lần nói chuyện bình thường giữa hai chị em với lần phỏng vấn thu băng mới nhất để câu chuyện đủ chi tiết hơn. Hỏi: Chị cho biết anh rời Việt Nam hôm nào? Trả lời: Anh rời Việt Nam thì chị không nhớ ngày mấy, nhưng hình như ngày cuối cùng. Hỏi: Ðến đảo Guam bao nhiêu lâu sau chị gặp lại anh? Trả lời: Bây giờ nói về thời gian thì chị không nhớ là bao lâu, thế nhưng không lâu lắm. Hôm đang ở đảo Guam thì thấy một số các vị tướng lên, trong đó có Tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh phó của anh và Ðại Tá Bầu mà không thấy anh thì chị cũng lo. Một hôm đang ngồi trong phòng ăn của trại tị nạn thấy Tướng Kỳ bước vào. Thấy chị, ông Kỳ vừa cười vừa nói, “Này bà, bà phải trả tôi 300 đô la nhá, tại vì tôi đem ông chồng bà đi.” Ông Kỳ thuật tiếp, “Trong lúc Bộ Tổng Tham Mưu người ta đi hết rồi, khi tôi ghé lại thì thấy ông ấy còn đang ngồi nhìn bản đồ và hút thuốc, tôi rủ ông ấy đi xuống ông Nam (Ghi chú của Nguyễn Tường Tâm – tức là Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Vùng IV) để hợp tác với ông Nam ở dưới đó, thì ông Trưởng ra máy bay đi với tôi.” Chị rất là vui khi nghe thấy tin đó. Nhưng mà tự nhiên mình lại giật mình hỏi lại, thế sao Thiếu tướng ở đây mà nhà tôi đâu? Tướng Kỳ cho biết khi tới hạm đội thì ông ấy đi trước. Vì vậy chị lúc nào cũng thấy cám ơn Tướng Kỳ, nhờ ông ấy mà gia đình chị không bị phân ly như nhiều gia đình khác. Kể cũng may. Nếu lúc đó ông Kỳ liên lạc được với Tướng Nam và xuống với Tướng Nam thì có lẽ chết chùm hết.” Sau đó thì anh cũng tới. Vài năm sau, có một lần gặp lại Tướng Kỳ, Tướng Kỳ vẫn nói đùa như trước và nhắc lại, đòi chị trả 300 đô la tiền công ông ấy đưa anh ra đi, và chị vẫn thấy cám ơn Tướng Kỳ. Hỏi: Ðến đảo Guam bao nhiêu lâu thì chị đi ra ngoài? Trả lời: Ở trong trại bao lâu, chị không còn nhớ nữa, nhưng không lâu lắm. Hỏi: Ai bảo lãnh gia đình chị ra? Trả lời: Khi đến trại chị không đi tìm ai bảo lãnh. Một hôm ông Ðại Tá Sauvageot đến liên lạc, lúc đó đã có anh ở đó. (Ðại Tá Sauvageot là người trước đây làm phụ tá cho Tướng Fulcet sang Việt Nam thảo luận vấn đề phóng thích tù cải tạo cho đi Mỹ – ghi chú của Nguyễn Tường Tâm). Ðại Tá Sauvageot cho anh biết là Trung Tướng Cushman cho lệnh đại tá tới đón gia đình anh chị về ở với ông bà trung tướng ở trường Chỉ Huy Tham Mưu Leavenworth. Trung Tướng Cushman lúc đó đang làm chỉ huy trưởng trường này. Ðại Tá Sauvageot tới đón gia đình anh chị bằng xe hơi. Hồi ở Việt Nam lúc anh làm tư lệnh Vùng IV thì Tướng Cushman là cố vấn. Nhà của Tướng Cushman trong trường Leavenworth thật lớn. Ông bà ấy ở nửa căn còn cho gia đình anh chị ở nửa căn. Hỏi: Trong thời gian ở nhà ông bà Cushman, ông bà giúp đỡ anh chị những gì? Trả lời: Ngoài việc giúp ăn ở trong nhà, Tướng Cushman không giúp đỡ tiền bạc gì. Tướng Cushman có đề nghị cho anh làm một việc gì đó ở trường Leavenworth chị không rõ nhưng việc không thành. Lúc đó cũng không biết làm gì nên Tướng Cushman bảo anh đi học nghề nông. Một đại úy Mỹ cho mượn chiếc xe Honda. Anh và cháu Diệp (con trai Tướng Trưởng – ghi chú của Nguyễn Tường Tâm) hàng ngày chở nhau đi học nghề ở một cái nông trại. Chị rời nhà ông Cushman, sang tiểu bang Virginia trước. Anh và cháu Diệp còn ở đó. Nhưng thời gian ngắn sau thì anh có việc gì đó ở Washington D.C. mỗi tháng được $1.000,00 (một ngàn) đô. Tới khi có việc viết sách cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ thì anh sang ở hẳn tiểu bang Virginia (kế cận thủ đô Washington D.C.). Hỏi: Khi tới Mỹ anh chị có bao nhiêu tiền? Trả lời: Có hơn $1.300,00 (một ngàn ba trăm đô). Ðúng ra khi tới trại chị có $1,400 đô, nhưng tiêu mất vài chục đô ở trong trại rồi. Lúc ở nhà Trung Tướng Cushman, một hôm Tướng Cushman bảo anh chị có bao nhiêu tiền thì đưa ông ấy mở tài khoản trong ngân hàng cho. Chị đưa hết số tiền đó cho Tướng Cushman. Có điều buồn cười là khi nghe chị cho Tướng Cushman biết như vậy, anh tròn mắt ngạc nhiên nhìn chị. Sau đó anh hỏi chị là: “Tiền ở đâu mà em có nhiều thế?!” Chị cho biết đó là tiền sau mỗi chuyến công du nhà nước cho một ít để tiêu vặt thì chị không tiêu và không mua sắm gì mà để dành; vì khi đi công du mọi chuyện có người lo hết rồi đâu phải chi tiêu gì. Tới lúc rời nhà Tướng Cushman chuyển tới ở tiểu bang Virginia, Tướng Cushman trao lại cho chị cuốn sổ ngân hàng thì chị thấy trong tài khoản đã có hơn 5.000 đô la (năm ngàn). Số trên 3.500 đô thêm ra là tiền mấy vị tướng Mỹ trong đó có cả Tướng Stiwell góp nhau tặng. Không có tiền của ông Cushman. Hỏi: Các tướng lãnh Mỹ đối với anh như thế nào? Trả lời: Họ rất là tốt, sốt sắng. Ngoài Tướng Cushman, lúc sang Virgina thì Tướng Coxy cũng thăm hỏi và mang những vật dụng trong nhà tới cho. Lúc đó anh chị thuê một căn apartment hai phòng ngủ giá hơn 180 đô/1 tháng. Cái vui nhất là hai ông tướng 3 sao mỗi ông một đầu khiêng cái thảm trải trong apartment cho mình là Tướng Coxy và 1 tướng nữa chị quên tên rồi. Còn cái bàn thờ hiện đang dùng trong nhà là của Tướng Stiwell tặng. Ông Stiwell cho một người nào đó mang tới. Bây giờ cái bàn đó để thờ Phật. Ðại Tướng 4 sao Stiwell trước kia làm tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam và tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Ðại Hàn. Hồi ở Việt Nam đã có lần ông ấy lấy máy bay đưa anh chị đi Thái Lan chơi. Nhưng lần đó mới tới Thái Lan được một ngày thì có một trận đánh nào đó ở miền Trung khiến anh và Tướng Stiwell phải trở về, chỉ có chị ở lại thêm vài ngày nữa rồi trở về sau. Một hôm không biết hôm đó là Thanksgiving hay lễ gì mà thấy ông ấy khệ nệ xách trái cây và một con gà tây tới tặng. Lúc đó mới sang Mỹ nên thấy một ông tướng nhiều quyền uy mà phải tự làm như thế thay vì sai thuộc cấp thì chị lấy làm ngạc nhiên lắm. Nhưng sau này sang lâu rồi mới biết ở xứ này là xứ dân chủ nên chuyện đó rất là thường tình. Sau này cũng có mấy lần Tướng Stiwell mời anh chị tới nhà ăn cơm, chị ngạc nhiên thấy hai ông bà ấy dọn cơm và rồi đích thân ông ấy trộn món cesear salad. Trong đó ông ấy đập trứng lấy lòng đỏ trộn với salad. Hỏi: Nghe nói sau khi di tản Vùng I và Vùng II, có vài vị tướng và sĩ quan cao cấp bị giam giữ ở Tổng Tham Mưu, nếu đúng như vậy thì theo chị ai ra lệnh giam giữ và trong số các tướng bị giam giữ có anh không? Trả lời: Trong vụ di tản Ðà Nẵng, sau khi Sài Gòn biết anh ở trên chiến hạm hải quân, đã ra lệnh cho trực thăng bốc anh về thẳng Sài Gòn nhưng anh từ chối và đòi đi cùng với thủy quân lục chiến cho tới khi tất cả các anh em đều cùng được về miền Nam luôn. Anh sợ rằng nếu anh đi trước thì anh em TQLC không được Bộ Tổng Tham Mưu đưa về thẳng Sài Gòn. Nghe anh kể lại, sau khi chạy ở Ðà Nẵng vào thì Trung Tướng Ðôn (bộ trưởng quốc phòng) ra lệnh bắt nhốt Tướng Phú tư lệnh Vùng II. Còn thuộc Vùng I thì bị bắt giữ gồm có Tướng Khánh, tư lệnh sư đoàn I không quân, Tướng Thi, tư lệnh phó quân đoàn và mấy ông nữa trong đó hình như có cả Ðại Tá Xuân, tỉnh trưởng Quảng Tín. (Ghi chú của Nguyễn Tường Tâm – Tại San Jose, chính Trung Tướng Lâm Quang Thi cũng có lần kể với tôi và mấy người nữa chuyện ông bị giam giữ này). Các vị đó bị giữ ở Bộ Tổng Tham Mưu, còn anh thì không bị đả động gì, nhưng anh tự nguyện vào ở cùng với mấy ông đó. Hỏi: Sau đó anh được giao chức vụ gì? Trả lời: Sau đó anh được giao một chức gì đó ở Tổng Tham Mưu mà chị không rõ. Còn Ðại Úy Hóa, tùy viên của anh từ hồi ở Vùng I vẫn tiếp tục làm tùy viên cho anh. Ðại Úy Hóa cho biết anh vẫn được giao một chiếc trực thăng để đi tới các đơn vị. Viên phi công lái trực thăng cho anh vẫn là Ðại Úy Kim lái cho anh từ hồi ở Vùng I. Nói tóm lại, anh cũng có chức. Nguyễn Tường Tâm (thực hiện) ********************** Philong51 says: 15/01/2015 at 02:15 Sau phi vụ tiêu diệt các dàn hoả tiễn 122 ly của VC ờ gần đài Radar Phú Lâm đang pháo vào phi trường Tân Sơn Nhứt tôi về đáp lúc 06 giờ 55 phút sáng ngày 29/4/75 và trở về cư xá của PĐ C-7 nơi vợ con tôi tạm trú, cạnh đó cư xá Nữ Quân Nhân trúng pháo chỉ còn tro với bụi. Các dãy cư xá nầy nằm bên ngoài dinh Tướng Kỳ vì vậy chúng tôi vội chạy vào dinh ông để trốn pháo và có duyên tiếp xúc với Tướng Kỳ. Vào khoảng sau 09 giờ sáng Tướng Kỳ đáp trưc thăng xuống, bên cạnh ông có 2 anh em Tr/Tá Nguyễn Quốc Hưng và Tr/Tá Nguyễn Quốc Thành mỗi người cầm 1 khẩu M-16, Th/Tá Qui là trưởng phi cơ. Sau khi vào nhà Tướng Kỳ tỏ ra băn khoăn điều gì đứng ngồi không yên. Ông cứ đi ra rồi đi vào phòng làm việc nhiều lần. Nhớ lại đêm 25/4/1975 cũng tại nơi nầy Tướng Kỳ kêu gọi mọi người tử thủ và cùng nhau nâng ly do chính tay Tướng Kỳ phu nhân bưng lên: “chúc mừng và hẹn ngày chiến thắng” nên khi ông bước ngang qua, tôi mạo muội hỏi quyết định của ông ra sao , tử chiến? Tướng Kỳ trả lời “Anh em đã đi hết rồi, còn ai nữa mà đánh với đấm” Trong tâm tôi đồng ý với ông vì sau khi chiếc AC-119K danh hiệu Tinh Long-07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7 rồi cắm xuống đất chừng mươi lăm phút, lúc đó tôi vẫn còn ngoài phi đạo và tôi chứng kiến nhiều loại máy bay F-5, C-130, C-119 ..v…v….lần lượt cất cánh bay lên như dàn ong bị vỡ tổ không thể kiểm soát. Mọi người đều hoảng loạn và tin rằng VC đang tấn công vào phi trường vì họ không biết rằng mục tiêu mà Th/Tá Trương Phùng và Tr/uý Trang Văn Thành oanh tạc và oanh kích dọc theo vòng rào phòng thủ ở hướng Bắc chỉ là do Tr/uý Thành, trưởng phi cơ của chiếc Tinh Long 07 nghi ngờ có năm ba tên VC định cắt hàng rào kẻm gai (lời của Tr/uý Thành trong vô tuyến). Rồi khoảng gần 10 giờ sáng Tướng Kỳ nhờ tôi chuyển lời của ông đến các thân hữu của ông hiên diện tại dinh :”Mỹ đã huỷ bỏ chuyến C-141 dành cho tôi rồi (Tg Kỳ) Bây giờ mọi người nên chạy sang DAO hay xuống Bến Bạch Đằng các tàu của HQ đang chờ. Tôi bay qua đón Tướng Trưởng ở bên Bộ TTM” Như vậy hai Tướng Kỳ và Trưởng đã liên lạc với nhau chặt chẽ, không do tình cờ? Nhờ lời nhắn của tướng Kỳ tôi mới biết được số người trong dinh ông khá đông, hàng trăm người trong số đó có gia đình Dân Bieu Nguyễn Văn Cử. Vào lúc 1 giờ trưa 29/4/75 tại phi trường Trà Nốc-Cần Thơ tôi cố gắng liên lạc điện thoại về dia đình ở SG nhưng chỉ nghe tiếng chuông mà thôi, tất cả các tổng đài ĐT đều không ai trả lời (Tiger, MACV, USAID,, Khải Hoàn, Thống Nhứt…) Những ngày cuối tháng 4/1975 chúng ta không có những tài liệu chính thức chỉ do những tin dĩa hè hay tin từ vẹm mỗi người mỗi ý. Đặc biệt về tình trạng ở phi trường Tân Sơn Nhứt kể cả ông Đại Sứ Mỹ Martin tệ hại nhất là phóng viên & sử gia nổi tiếng người Pháp có tên Olivier Todd trong quyển “sách để đầu giường” THÁNG TƯ NGHIỆT NGÃ . Chương 23 về tình trạng ở TSN ông ta đã bẻ cong ngòi viết nhục mạ anh linh vị anh hùng vị quốc vong thân Tr/Uý Trang Văn Thành40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (Kết)Nguyễn Văn Lục 40 năm nhìn lại ngày 30 tháng Tư, chỉ mong rằng sau này, người ta biết coi là một bài học đau thương của cả một dân tộc. 15-4, 1975 | Phúc trình về số vũ khí viện trợ còn lại ở miền Nam Theo thông tin của hãng AP, tin từ Ngũ Giác đài cho hay số vũ khí, đạn dược, máy bay bị hủy hoại hiện nay tính bằng tiền là 780 triệu Mỹ kim. Nhưng nếu tính cá các kho hàng, phi trường, bến cảng thì số tiền lên đến từ 5 đến 10 tỷ. 300 máy bay mà một nửa là trực thăng đã bị mất, hoặc bất khả dụng vì thiếu phụ tùng thay thế. Trong cuộc triệt thoái Tây nguyên, chúng ta để mất hầu như hơn phân nửa các xe tải, súng đại bác cũng như các xe tăng. 15- 4 | Lời tuyên bố của Thái tử Sihanouk Theo tin cua hãng Reuters, từ Paris cho hay, thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bố tuyên bố, ông sẽ rút lui khỏi chính trường trong trường hợp chính quyền hiện tại rơi vào tay cộng sản. Ông nói, “Sau chiến thắng, tôi tin chắc là tôi sẽ rút lui. Tôi đã ở ngôi vua từ lúc 18 tuổi cho đến nay tôi dã 52 tuổi. Tôi nghĩ rằng tôi đã phục vụ đầy đủ xứ sở của mình.” Ông nói thêm, “Tôi không phải người cộng sản, tôi cũng không phải Khmer rouge. Tôi không muốn là thứ bù nhìn của Khmer rouge.” 15-4, 1975 | Sau 7 ngày bị bao vây và pháo kích liên tục Nguồn: Gucci Bản đồ mặt trận Xuân Lộc , tháng Tư 1975. Nguồn: Gucci | vnafmann.c0m Xuân Lộc (Long Khánh), sau 7 ngày đêm bị bao vây và phái kích liên tục. Nhưng vẫn đứng vững. Phát ngôn viên quân đội Việt Nam cho hay hiện nay họ rút ra bên lề thành phố. Về phía cộng sản, sau 7 ngày giao tranh, Văn Tiến Dũng đã liên lạc với Bộ chính trị tại Hà Nội cho thêm thời gian để tổng tấn công Sài Gòn. Văn Tiến Dũng nhận định rằng sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo đa cầm cự một cách dũng cảm. Mặt khác, tướng Nghi ở Phan Thiết cũng gây cản trở không ít cho việc tiến quân từ Phan Rang vào. Các cánh quân từ vùng một chưa thể kịp thời điều động kịp thời vào miền Nam để tiếp tay đánh chiếm An Lộc Bộ chính trị từ Hà Nội đã cấp thời trả lời: Đồng ý thời hạn cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong bức điện tín ký tên Lê Duẩn. Tin buồn cho Xuân Lộc là Phan Rang đã mất. Phần phi trường Biên Hòa thì bị cộng quân pháo kích nặng nề và trở nên tê liệt. Việc tiếp tế cũng như hỗ trợ bỏ bom bị giới hạn rất nhiều. Số phận An Lộc sẽ tùy vào đó để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng quân. Nhưng trong suốt cuộc thoái quân của quân đội VNCH, người ta thấy rằng nếu muốn, chúng ta có thể cầm cự lâu hơn là chúng ta tưởng! Xuân Lộc đứng vững từ 9 đến 22 tháng Tư, 1975 là một bằng chứng. Sáng ngày 15 tháng tư, 1975 Đây là lần đầu tiên, phi trường Biên Hòa bị pháo kích. Đoàn 325 từ Huế đã vào vị trí tân công ở Xuân Lộc. Trung bình một ngày Xuân Lộc nhận lãnh 2000 quả đạn pháo kích. Một đơn vị quân đội ở phía Đông Xuân Lộc đã được trực thăng bốc đi. Tình hình quân sự càng lúc càng tỏ ra lún sâu thì các vận động chính trị càng trở nên ráo riết. 26 nhà chính trị ở Sài Gòn trong một thông cáo vào ngày 13 thúc dục chính quyền nhường lãnh thổ để có thể để đạt tới ngưng bắn. Tinh thần chủ bại lan rộng vào nhiều tầng lớp dân chúng. TT Trí Quang, nổi tiếng một thời, tuyên bố một cách buồn bã vào ngày 15-4 là “Chiến tranh đã thua. Tất cả mọi chuyện, ngay cả tín ngưỡng rồi cũng sẽ bị tiêu diệt khi cộng sản nắm chính quyền.” Lời tuyên bố muộn màng. Nhưng có còn hơn không! 16 tháng tư, 1975 Bản đồ VNCH Ngày 16 tháng Tư. Nguồn AP Cánh quân ở Phan Rang với 2500 binh sĩ đã rút lui khỏi Phan Rang bằng đường biển, khi bị cộng quân với quân số 5000 người tấn công có xe tăng yểm trợ. Phan Rang cách Sài Gòn 165 dặm. Cộng quân nay kiểm soát 18 thành phố trên tổng số 44 và chiếm hai phần ba lãnh thổ miền Nam. Nguồn tin quân sự cho hay sau khi quân đội VNCH rút đi, máy bay đã đến bỏ bom phi trường Phan Rang. Có thể có hai sĩ quan cao cấp của VNCH đã bị cộng sản bắt cầm tù. Cũng ngày hôm nay, phi trường Biên Hòa tiếp tục bị pháo kích và bộ chỉ huy của quân đoàn III. Có 4 máy bay phản lực F5 đã bị phá hủy và căn cú không quân Biên Hòa phải tạm đóng cửa. Sư đoàn 18 đóng ngoài Xuân Lộc cho đến lúc này cũng khó thoát khỏi bị tràn ngập. Hàng ngàn quả pháo đã rót vào Gia Kiệm, cách Xuân Lộc 8 dặm và có khoảng 2000 binh sĩ sư đoàn 18 đang trấn giữ ở đó. Gia Kiệm cách Sài Gòn 38 dậm. Người ta nhận thấy cộng quân dùng chiến xa của VNCH bỏ lại khi tháo chạy để tấn công ngược lại binh sĩ VNCH. Tinh Thần binh sĩ vì thế càng xuống thấp. Ngày 16 tháng Tư | Tin vui hay tin buồn Theo tin của UPI, từ Washington cho hay Quốc Hội Hoa Kỳ vừa chấp thuận chuẩn chi 200 triệu đô la để giúp việc di tản 5000 người Mỹ và 174.000 người Việt Nam. Thượng nghị sĩ John. J. Sparkman thuộc tiểu bang Alabama nói thêm rằng Quốc Hội cũng cho phép di tản ngay 4000 người Mỹ nội trong tuần này, còn lại 1000 người trong tuần sau. Ngoài ra còn có khoảng 200 triệu cho viện trợ nhân đạo. Cho đến lúc này, Kissinger còn yêu cầu Quốc Hội Mỹ cấp tốc chuẩn chi 1.3 tỉ đô la cho Việt Nam. Khả năng và sức mạnh duy nhất mà quân đội miền Nam có được là các cuộc thả bom xuống các vùng do địch chiếm đóng. Vậy mà phần đông các máy bay F-5 và A-37 tại căn cứ không Biên Hòa không cất cánh được vì các cuộc pháo kích của cộng quân. Chỉ có không quân mới có thể làm chậm bước tiến của cộng sản. Và theo các giới chức Hoa Kỳ, không có máy bay, VNCH sẽ bị tràn ngập bởi ưu thế về người và ưu thế quân sự và những tuần lễ tới đây là những tuần lễ quyết định cho số phận miền Nam. Đã thế, do sự cung cấp của Nga Xô các loại hỏa tiễn surface-to-air missile đã làm giảm thiểu khả năng uy thế của máy bay của không lực Việt Nam. Ngày 20 tháng tư, 1975 Đại sứ Mỹ Martin đến gặp Thiệu không phải với tư cách đại diện nước Mỹ hay đại sứ Mỹ mà như một người bạn để bàn vệc Thiệu cần ra đi. Cuộc nói truyện kéo dài khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Đại sứ Martin không hẳn khuyến khích ông Thiệu từ chức. mà ông nghĩ rằng trước lúc chia tay, Tổng thống Thiệu hứa rằng, ông sẽ làm điều gì xét rằng tốt nhất cho đất nước của ông. Ngày 22 tháng Tư | Thiệu từ chức Trong diễn văn từ chức, ông Thiệu, một lần chót trước công chúng, đã có dịp trả một món nợ cho một người mà ông thù ghét nhất, Henry Kissinger. “I never thought a man like Mr. Kissinger would deliver our people to such a disastrous fate.” – President Thieu in resignation speech. Ông Thiệu đã có lý để làm như vậy trước khi từ chức. Sau này dù Tổng thống Gerald Ford có phủ nhận giá trị ràng buộc những thư mật giữa Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu thì điều đó cũng chỉ cho thấy, người Mỹ đã phản bội những lời hứa hẹn của Tổng thống Nixon. Thượng nghị sĩ Henry Jackson gọi đó là những thỏa thuận bí mật (secret agreement) không chối bỏ được. Trước khi từ chức, ông Thiệu có gọi cho đại sứ Martin có thể nào giúp ông rời khỏi Việt Nam không? Dĩ nhiên là vì đại sứ Mỹ có thể làm được. Đại sứ Martin liền nhờ trùm tình báo Thomas Polgar lo việc này. Polgar lại giao trách nhiệm cho Frank Snepp. Ông này có bổn phận đến ông Thiệu ở tư dinh tướng Khiêm trực tiếp lái xe, đưa ông Thiệu ra phi trường và đại sứ Martin đã ở sẵn đó, có lời giã biệt Thiệu. Trước lúc đó trên một chiế xe Volkswagen, tướng Timmes cùng với viên Đại sứ đi gặp tướng Kỳ. Ở đây, ông Đại sứ khuyên tướng Kỳ không nên hành động gì vì kết quả sẽ chẳng đi đên đâu. Cũng được biết rằng trước đó, ông Hoàng Đức Nhã nhận được một cú điện thoại của Thủ tướng Lý Quang Diệu mời sang Singapore. Sang đến nơi, thủ tướng Lý Quang Diệu cho Hoàng Đức Nhã hay là người Mỹ đã dàn xếp để ông Thiệu có thể rời Việt Nam đến một nước nào đó thuộc Đông Nam Á. Hoàng Đức Nhã gọi điện thoại về cho ông Thiệu. Ông Thiệu trả lời ông đang mong chờ tin tức như thế. Cuộc ra đi của ông Thiệu cùng với Trần Thiện Khiêm cùng với vài sĩ quan phụ tá bay sang Đài Loan. Có tất cả 14 người trong chuyến bay đêm này. Tất cả bọn họ đều là đàn ông. Thư cựu TT Nguyễn Văn Thiệu gởi TT Trần Văn Hương xin người đi công tác, 25/1975. Nguồn: OntheNet Có nhiều người không ngờ rằng, đêm nay ông Thiệu và ông Khiêm lại cùng đến một điểm hẹn. Trước đây dư luận Sài Gòn cho rằng giữa hai người có nhiều khác biệt và thủ tướng Khiêm đang tìm cách để lật đổ ông Thiệu. Rõ ràng là sai lầm. Ông Khiêm luôn luôn chứng tỏ là một người trước sau trung thành với ông Thiệu. Cũng có dư luận cho rằng ông Thiệu mang theo nhiều vàng. Theo ông trùm mật vụ Thomas Polgar, ông Thiệu đã không mang theo một chút vàng nào trong mười mấy chiếc valise của ông. Tổng thống Thiệu hiện có anh ông đang làm đại sứ ở Đài Loan, còn thủ tướng Khiêm cũng từng là cựu đại sứ VNCH tại đây. Người Mỹ đã dùng một chiếc máy bay DC-6 có thể bay đi bất cứ đâu mà không cần tiếp tế nhiên liệu. Ông Thiệu còn cẩn thận xin Tổng thống Trần Văn Hương ký cho một sự vụ lệnh sang Đài Loan thăm viếng, lễ tang Tổng thống Tưởng Giới Thạch, mặc dầu ông này đã chết từ ngày 6 tháng Tư, và đã an táng hôm 16. Tin TT Tưởng Giới Thach qua đời (7/4) và lễ an táng ngày 16/4 và công văn viết tay ngày 25/4 của TT Trần Văn Hương cử cựu TT Nguyễn Văn Thiệu và ĐT Trần Thiện Khiêm đi dự lễ an táng TT Trung Hoa Dân Quốc. Còn lại là số phận miền Nam. The game is over! Theo tin hãng AP từ Sài gòn thì nay Tổng thống Trần Văn Hương định giao cho tướng Minh làm thủ tướng chính phủ, nhưng nhất định từ chối lời yêu cầu của tướng Minh là vai trò tổng thống. Tổng thống Trần Văn Hương sau đó đã mời chủ tịch Thượng Nghị Viện Trần Văn Lắm để chính thức nhường ngôi vị cho ông Dương Văn Minh. Với sự chuẩn y của Quốc Hội. Với 134 thượng nghị sĩ còn sót lại đã tới dự bầu Minh làm tổng thống.(*) Trong khi đó cộng quân vẫn tiến hành cuộc tấn công vào Sài Gòn và chờ đợi một giải pháp chính trị như họ yêu cầu. Theo nguồn tin của tình báo phương Tây thì cộng quân đã ở vào vị trí sẵn sàng tấn công vào Sài gòn vào ngày thứ hai. Nội các của thủ tướng Nguyễn Bá Cấn thì đã từ chức vào thứ tư vừa qua sau chỉ 11 ngày như một nội các tạm thời chờ được thay thế. Những áp lực đòi Tổng thống Trần Văn Hương, 71 tuổi, rút lui để ông Dương Văn Minh có thể tạo một chính phủ mới mà cộng sản có thể chấp nhận thương thảo. Phía bên kia, tướng Dũng gửi một điện cho tướng Tấn, “Phải vượt mọi khó khăn để chùng ta có thể ngày 29 tháng tư mở trận đánh cuối cùng vào Sài gòn.” Nay dù đã thay ông Hương bằng Dương Văn Minh thì phía Hà nội đã cương quyết không có thương lượng gì cả, từ chối đàm phán với ông Minh. Đó chỉ là những đòn phép chính trị giả mạo mà thôi. Người Mỹ đã dùng trực thăng đưa được 4500 người ra tầu biển đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Ngày 24 tháng tư, 1975. Viet Nam war finished for Americans-Ford Vào tối thứ tư, Tổng thống Ford đã đến đọc một bài diễn văn tại đại học Tulane trước 4700 sinh viên đang vui mừng. Tổng thống Ford tuyên bố, “Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Và ông kêu gọi người dân Hoa Kỳ ‘to write a new agenda for the future’. Và ông cho rằng nay là thời gian để Hòa giải, hàn gắn những vết thương và những bất đồng để xây dựng một đất nước Hoa Kỳ tốt đẹp hơn cho tương lai. Các sinh viên đã vỗ tay tán thường khi ông Ford tuyên bố, “Today, America can regain the sense of pride that existed before Vietnam. But it cannot be achieved by re-fighting a war that is finished as far as America is concerned.” 26 tháng tư, 1975 | Một vớt vát cuối mùa Theo tin của hãng AP, Tổng thống Trần Văn Hương đã khởi sự sẵn sàng nói chuyện với Bắc Việt về một giải pháp hòa bình. Ông Trần Văn Huong còn muốn gửi một bộ trưởng trong nội các ra hà nội để thăm dò quan điểm của Hà Nội. Một ngôn viên chính phủ còn cho biết, người Mỹ sẵn sàng cung cấp một máy bay của quân đội Mỹ bay ra Hà Nội. Đó là những dự tính ảo tưởng, cuối mùa và tỏ ra đã quá trễ. Trong khi đó thì tòa đại sứ Canada đã cuốn cờ, khăn gói về nước một cách lặng lẽ. Trong khi đó Ngoại trưởng đương nhiệm của Canada, ông Mitchell Sharp tiết lộ cho hay Canada sẵn sàng chấp nhận 14.000 người Việt sang tỵ nạn Canda. Danh sách cũng như người bảo trợ đã được gửi cho chính quyền Việt Nam cách đây hai tuần. Nhưng Canada đã không nhận được sự chấp thuận chính thức nào. Hàng trăm người Việt đã tức giận đến trước cửa tòa đại sứ Canada. Và họ được ông Ernest Hebert yêu cầu họ quay lại ngày thứ Sáu xem có tin tức gì mới. CBC DIGITAL ARCHIVES | Apr 24, 1975 | 4:40 | Peter Kent | Canadians pull out of Saigon Trong khi đó, cộng quân có đủ khả năng để mở một cuộc tấn công vào Sài Gòn bất cứ lúc nào. Cho đến giờ này đã có khoảng hơn 6000 người Mỹ đã rời khỏi Việt Nam, nay chỉ còn lại khoảng 1681 người tính đến ngày thứ tư tuần này. Và trong một hai ngày nữa, con số sẽ tụ xuống còn 500 người. American luxuries weakened S. Viet backbone Chắc hẳn nhiều người sẽ không quên tên ký giả Malcolm W. Browne vào thời kỳ năm 1963 trong vụ Phật giáo. Bài báo của M. Browne được đăng trên tờ N.Y. Times News Service. Ông ta đặt câu hỏi, tại sao quân đội VNCH lại rơi vào hoàn cảnh như hiện nay? Câu trả lới là quân đội miền Nam đã quá quen thuộc lối đánh nhau của con nhà giàu. Không bao giờ thiếu súng, thiếu đạn, tạo mọi điều kiện cho việc đánh nhau. Đi đâu có xe, có trực thăng chuyên chở. Đến nỗi mỗi khi di chuyển, không ai còn muốn đi bộ, lội rừng, lội suối. Vì thế cũng dễ bị phục kích. Cách đánh nhau như thế khác hẳn với bộ đội cộng sản. Có thể so sánh như một bên đi giầy, một bên đi đất. Ôi! Lúc này bình luận gì, nói gì chả được! South Viets use deadly fire bomb Theo tin của UPI từ Sài Gòn gửi đi cho hay, quân đội Việt Nam được cung cấp loại bom lửa 5 tấn (five-ton fire bomb) có thể sát hại mọi thứ trong vòng bán kính 100 bộ anh. Nguồn tin cho hay không quân Việt Nam đã xử dụng ít lắm là một lần. Nguồn tin này được tiết lộ ra do đài phát thanh Hà Nội tố cáo không quân Việt Nam đã xử dụng một loại vũ khí mới. Họ tố cáo người Mỹ và Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế. Và tội phạm ấy chẳng khác gì tội phạm của Hitler trong quá khứ. Loại bom này cùng một loại với bom Napalm, được thả xuống bởi các máy bay C-130 Hercules, bay ở độ cao 20.000 bộ tạo ra một quả cầu lửa làm bốc cháy tất cả, tạo ra hiện tượng thiếu Oxy làm cho con người chết nghẹt thở trong vòng bán kính 100 bộ Anh. Theo nguồn tin của các binh sĩ VNCH cho hay họ đã thấy hàng chục những thây người bộ độ chết bề ngoài không thấy có vết thương gì. Và họ tin rằng đó là một vũ khí mới trong trận đánh ở Xuân Lộc, cách Sài gòn 38 dặm. Ngày 28 tháng tư, tướng Minh lên nắm chức Tổng thống thay Trần Văn Hương Các thành phần chính phủ Dương Văn Minh gồm luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng thống, ông Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng. Người ta thấy vắng mặt trong những ngày cuối cùng của mộ số người thân tín của ông Dương Văn Minh như các ông Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Nguyễn Hữu Chung,… Sự vắng mặt này có lý do của nó. Một số họ là những người có liên hệ chặt chẽ với cộng sản nên đã được khuyến cáo là không tham gia chính phủ, số khác đã lên tàu vượt biển. Phần cuộc đời ông Dương Văn Minh có thể tóm tắt vào ba việc: Giúp ông Diệm dẹp Bình Xuyên, Bảy Viễn và đã được đền bù bằng số vàng tịch thu được của Bảy Viễn mà khọng khai báo. Sau đó còn được Ông Diệm cho một căn nhà rộng 270 m quay mặt ra Trần Quý Cáp và Hồng Thập tự. Thứ hai đã có công tham gia vào việc lật đổ ông Diệm cũng như ám sát hai anh em ông Diệm theo sự sắp xếp của Mỹ. Có công làm Tổng thống hai ngày mà mục đích chính là trao miền Nam cho cộng sản Bắc Việt. Giờ tuyên bố đầu hàng Cái giờ chính thức mà ông Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh Sài Gòn là khoảng gần trưa Trong khi đó số người tỵ nạn đến được đảo Guam là 40.000. Con số này sẽ còn tăng thêm trong vài ngày sau đó. Người trách nhiệm đứng đầu trông coi sắp xếp người tỵ nạn đến Guam là ông James Megellan. Họ cũng tiết lộ cho hay bà Nguyễn Cao Kỳ đã đến West Coast từ đêm thứ hai, ba ngày trước khi ông Nguyễn Cao Kỳ tố cáo những kẻ trốn chạy là hèn nhát. Bà Kỳ sẽ ở với bà con ở San Francisco. Ông Kỳ khi đó cũng đã lên được chiến hạm USS Blue Ridge, chiến hạm chỉ huy của Hạm đội có trách nhiệm trong Chiến dịch Frequent Wind, di tản người Mỹ và một số đồng minh. Các sĩ quan của Việt Nam thì theo thủ tục phải bị tước vũ khí và khám xét (submitted to the same body search as privates). Một tướng ba sao đã mang theo bên mình một valise. (Trích trong journal News Services nhan đề: Hordes of refugees en route to US.) Món nợ mà Kissinger phải trả với người Việt Nam Cuộc chiến nay đã chấm dứt. Hậu quả để lại nặng hai vai người Miền Nam. Người Mỹ có thể ra đi mà không mất gì. Người Việt miền Nam bây giời mới thật sự họ đang phải chịu đựng một chế độ mới, Họ phải lên tiếng về chính sách của người Mỹ trong 6 năm qua. Người có trách nhiệm về chính sách ấy không ai khác là ngoại trưởng Kissinger. Trong thất bại làm sụp đổ miền Nam ông chịu trách nhiệm một phần không nhỏ. Ít nhất ông cũng phải từ chức vì những chính sách thất bại của ông ở miền Nam. Cũng vậy, khi nước pháp bại trận thì chính phủ Pháp phải xin tứ chức và đưa một người khác lên thay là Thủ tướng Mendes France. Nhờ đó Thủ tướng mới có thể rộng tay thương thuyết với phía cộng sản. Trường hợp ông ngoại trưởng Kissinger có phần khác. Ông đã tiến hành một chính sách bất nhất, hoài nghi. Ông biết rõ những nhược điểm của ông mỗi khi cần thương lượng. Hiệp định Ba Lê hoàn toàn là một sản phẩm của Kissiger với nhiều khoản nhượng bộ đến phi lý. Quan điểm hòa bình của ông chỉ là những điều khoản ràng buộc về trách nhiệm của Hoa Kỳ và Việt Nam để rảnh tay cho phía cộng sản. Chính sách của Hoa Kỳ do một người soạn thảo, một người thương lượng, một người điều hợp tỏ ra không thực tế và ảo tưởng một người ký kết thỏa thuận bất chấp sự chống đối của đồng minh của Hoa Kỳ. Cái hòa bình cũng như khả năng rút quân mà vẫn duy trì được ổn định nay trở thành một ảo tưởng và kết quả là miền Nam rơi vào tay cộng sản. Cái hòa bình mà Kissinger lúc thì đề cao Peace at hand, lúc thì Peace in honor. Thực ra thì đó là Peace with horror! Chúng ta hãy nghe lại những lời tuyên bố của Tổng thống Nixon về Hiệp định Ba Lê và ‘Peace With Honor’ trên đài truyền thanh và truyền hình Mỹ ngày 23 tháng Hai, 1973: …, let us be proud that America did not settle for a peace that would have betrayed our allies, that would have abandoned our prisoners of war, or that would have ended the war for us but would have continued the war for the 50 million people of Indochina. …, chúng ta hãy hãnh diện vì nước Mỹ không thương lượng một giải pháp hòa bình chỉ cho chúng ta mà có thể phản bội lại các đồng minh của mình và bỏ rơi tù binh Mỹ và có thểchấm dứt cuộc chiến cho mình nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục đối với 50 triệu người dân Đông Dương. Sau đó, Kissinger còn định ra Hà Nội quảng cáo cho cái Hòa bình giả hiệu ấy vào ngày 31 tháng 10, chỉ vài ngày trước ngày bầu cử Tổng thống Mỹ. Khi Hiệp Đinh đuợc ký kết, tình trạng quân sự của miền Nam càng ngày càng yếu đi, mất dần các phần đất đã kiên trì bảo vệ trong 21 năm. Chúng ta chỉ cùng nhau đọc những điều giả dối trong Điều 11 là đủ: Ôi. Đều là bánh vẽ thôi! Ông Clark Clifford đã yêu cầu Kissinger phải ra đi. Và ngày hôm nay có những câu hỏi đặt ra về chính sách của Hoa Kỳ dựa trên quan điểm của Kissinger trong nhiều năm là một sự thất bại hoàn toàn. Chính sách ngoại giao con thoi và bí mật chẳng qua chỉ là để che đậy về những yếu kém và nhượng bộ địch! Trong một bài viết của Anthony Lewis với nhan đề “Should Kissinger Quit?” Bài viết đó một cách gián tiếp ám chỉ chính sách của Hoa Kỳ do Kissinger thao túng đã trở nên sai lầm không sửa đổ được như trong trường hợp Việt Nam. Đọc bài viết này, người viết cảm thấy hả dạ một chút. Tên Kissinger được coi như kẻ phản bội Việt Nam số 1. Vì y mà Việt Nam nên nỗi như thế này! Viet Cong Flag Flies over Ho Chi Minh City Những cố gắng cuối cùng để thoát khỏi Sài Gòn. Nguồn: Hugh van Es/REUTERS Những cố gắng cuối cùng để thoát khỏi Sài Gòn. Nguồn: Hugh van Es/REUTERS Theo lời phóng viên Leon Daniel, UPI, có mặt tại chỗ tại Sài Gòn khi những người cộng sản đầu tiên vào thành phố trên những chiếc xe tăng do Nga chế tạo. Họ trước tiên đến đường Tự Do, nơi mà trước đây là nổi tiếng ăn chơi của người Mỹ với hàng loạt các quán bar, nay vắng ngắt, cửa đóng im ỉm. Sau đó họ tiến vế phía Dinh Độc Lập, nơi mà ông Dương Văn Minh cùng với nhân viên chính phủ đang kiên nhẫn đứng đợi họ. Những người lính Việt Cộng xem ra kỷ luật trong khi chiến thắng cũng như khi chiến trận. Phần đông người dân Sài Gòn mở hé cửa nhìn ngắm những chiếc xe tăng chạy qua một cách im lặng. Chỉ một vài người vỗ tay, hoan hô. Nhưng phần đông chỉ đứng nhìn và trông đợi một tương lai không mấy sáng sủa gì về những người chủ mới tới. Chỉ còn vài người Hoa Kỳ còn sót lại, chắc là ký giả Mỹ. Phần ông đại sứ Martin đã rời tòa đại sứ trên một chiếc trực thăng sớm hôm nay. Ông có thể được coi như người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam Trên tờ Le Devoir ở Montreal, “Tous les américains ont quitté”. Tờ Le Devoir, hiện nay vẫn còn xuất bản mỗi ngày, đã chạy tít “La Chute de Sai Gon est Imminente”. Theo tin AFP, 81 trực thăng của Mỹ đã vận chuyển được 6400 người ra các Hàng không Mẫu hạm và tầu chở trực thăng của Mỹ. Cuộc vận chuyển khổng lồ này chỉ kéo dài trong thời gian 13 tiếng đồng hồ và chấm dứt 25 năm người Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Nhiều tiếng súng bắn lên các trực thăng này khi họ bay qua những đám quân nhân uất hận vì bị kẹt ở lại. Đại sứ Graham Martin đã rời tòa đại sứ tại Sài Gòn vào khoảng nửa đêm với những chiếc trực thăng chót. The Ottawa Journal. Wednesday, April 30, page 21: No Viet Flowers as Marines leave Nhà báo Peter Arnett, người từng nhận được giải thưởng Pullitzer Prize, ông còn ở lại Sài Gòn khi những người lính Thủy quân lục chiến cuối cùng rời Việt Nam. Ông còn nhớ lại, cách đây 10 năm, ông là những người lính trong đơn vị Thủy quân lục chiến lần đầu tiên tại bãi biển Đà Nẵng. Ở nơi đây, ông được đón tiếp bằng những vòng hoa do các thiếu nữ xinh đẹp ở Đà Nẵng choàng vào cổ. Một thập niên đã đi qua. Và hôm thứ ba này, tôi được chứng kiến những thủy quân lục chiến lên máy bay. Họ trông cũng vẫn vậy, trông vẫn vóc dáng khỏe mạnh, trẻ đẹp. Cũng vẫn những bộ quân phục là ủi thẳng thướt như lần đấn đây. Nhưng thái độ của người Việt Nam thì có khác. Sau đó đã có khoảng 20 chục ngàn sĩ quan Việt Nam được gửi sang Mỹ để được huấn luyện đánh giặc theo kiểu Mỹ. Một lối đánh giặc chủ yếu dựa vào bom và trọng pháo và sẽ chỉ hữ hiệu bao lâu mà vẫn có đủ máy bay, bom đạn trọng pháo. Binh đội VNCH đã học được thói quen đánh giặc (luxury of the US way). Không có những thứ ấy, họ trở thành bất khiển dụng. Để có thể thắng trận và chiến thắng cộng sản ở Việt Nam, phải có một cách đánh trận theo kiều Việt Nam. Phải chăng đây chỉ là những lời khuyên, hay nhắn nhủ quá muộn màng! Và may mắn ra, chính quyền đệ nhất cộng hòa nghĩ ngay tới chuyện đấu thầu cho khai thác dầu hỏa ngay tứ năm 1955-1956 thì đến 1973 có thể ngoài khơi Vũng Tàu đã có dầu hỏa phun lên. Lúc ấy ta có cần chi đến tiền của Mỹ và ta sẽ đánh trận theo kiểu Mỹ. Rất tiếc là mọi sự ở đời đã không xảy ra như vậy! 30-4 -1975 | Cheers, fears, suicide in Saigon View image | gettyimages.com Saigon (AP) Một sô chừng một chục chiếc xe tăng, xe kéo theo pháo cũng như xe tải làm tại Trung Quốc ngụy trang các lá cây đang chạy trên đại lộ Thống Nhất để tiến vào Dinh Tổng thống vào lúc buổi chiều nay. Một số người miền Nam vỗ tay khi đàn xe đi qua vẫy cờ màu xanh và đỏ của họ với một ngôi sao vàng ở giữa rồi họ dừng xe ngay giữa đại lộ rộng thênh thang. Trong khi đó, trước tiền đình Quốc Hội, một viên trung tá cảnh sát bước đến sát một bức tượng trên đài kỷ niệm, ông dơ tay chào nghiêm và tự nổ súng vào đầu. Ông chết sau ít lâu khi được chở vào nhà thương. Người ta cũng nghe thấy tiếng súng nổ ở gần tòa nhà quốc hội. Một người lính Bắc Việt đứng canh gác trước tiền đình tòa nhà trong bộ quân phục mầu Olive với đôi dép cao su đen. Họ bắn qua lại bằng vài phát súng khi có những cánh tay dơ ra ở một chỗ nào đó gần đấy. Một vài người đi xe gắn máy chạy xe qua đó với vẻ sợ hãi xem ai đang bắn. Một lúc sau thì mọi chuyện trở lại yên tĩnh. Trong khi Tổng thống Dương Văn Minh còn đang đọc diễn văn đầu hàng trên đài truyền hình và cộng quân đang tiến vào thành phố, người dân miền Nam cả binh sĩ cũng như thường dân còn chen chúc nhau trên mấy chiếc tầu chạy ven biển còn neo dọc theo bờ sông Sài Gòn. Giờ phút chót, họ vẫn hy vọng họ có thể đi thoát. Nhưng họ đã phải rời tầu khi thấy một đoàn xe díp chở bộ đội dọc theo bờ sông rồi một phản ứng rất đột ngột, họ vẫy cờ cộng sản và hoan hô. Mộ số dân chúng đứng trước cửa nhà và quan sát đám việt cộng và lính Bắc Việt đi qua. Lúc đầu, họ rụt rè không có phản ứng gì.. Sau đó thì có người bắt đẩu hoan hô khi thấy có nhiều đám bộ đội khác tiến vào thành phố. Kỳ Nhân, một nhiếp ảnh viên người Việt từng làm việc cho hãng The Associated Press trong ba năm đi cùng với một người Việt cộng vốn là bạn và hai lính cộng sản từ miền Bắc vào nói với phóng viên hãng thông tấn AP rằng, “Tôi bảo đảm an ninh cho mọi người ở đây. Tôi từng theo Cách Mạng từ 10 năm nay. Công việc của tôi là liên lạc với báo chí thế giới và thông báo lại cho việt cộng tin tức.Tôi bảo đảm an ninh cho mọi người ở đây.” George Esper, Văn phòng trưởng hãng thông tấn AP, đã tiếp họ nước Coca-Cola và một ít bánh ngọt còn lại. Một trung sĩ Việt cộng tên là Binh Huan Lam, 25 tuổi, anh nói anh dến đây từ Hà Nội và đã đi lính được 10 năm. Tôi đã không cưới vợ bởi vì không cần thiết trong thời chiến tranh. Nhiều người dân thành phố Sài Gòn đi bộ hoặc đi xe đạp trong thành phố. Lính miền Bắc tỏ ra tò mò khi quan sát sinh hoạt thành phố còn người dân cũng tò mò không ít nhìn ngắm cách ăn mặc của bộ đội miền Bắc. Nhưng đã có rất nhiều người khác thì quyết định ở trong nhà. Một phụ nữ 26 tuổi nói: Họ xem ra tử tế, nhưng vẫn phải chờ xem. Nhận xét được coi là khuôn vàng thước ngọc. Phải chờ xem Một thương gia Pháp có được một khung hình quý giá của gia đình Tổng thống Nixon vói chữ viết, To Ambassador and Mrs. Graham Martin with appreciation for their service to the nation. Khung ảnh này chắc do mấy tên thổ phỉ nhặt được trong tòa đại sứ Mỹ, thấy vô dụng nên quẳng đi. Ông người Pháp thì lại nhìn khác. Đây là một bức hình với chữ ký tặng thật có ý nghĩa. Người thương gia Pháp nói, “Tôi quen biết ông đại sứ tôi sẽ tìm trả lại cho ông bức hình này.” Trước tòa đại sứ Mỹ phóng viên Peter Arnett nhìn tòa nhà 6 tầng và thấy rằng tòa nhà tuy rộng, nhưng không thích hợp cho hàng ngàn người dân miền Nam kéo vào xin di tản. Nay thì nhiều người vào hôi của, họ lấy đi tất cả những gì có thề lấy. Nói chung, mặt dân chúng biểu lộ nhiều lo âu hơn là sung sướng. Resignation, relief greet end of war của các nước láng giềng Bài bình luận của phóng viên hãng AP-Reuters: Nói chung nhiều quốc gia phản ứng về sự đầu hàng của chính quyền Nam –Việt Nam bằng sự chịu đựng và thở dài cho chuyện chẳng đặng đừng. Thủ tướng Thái Lan nói cơn hấp hối kéo dài của miền Nam đã đến hồi chung cục. Đó là ý kiến của bộ trưởng bộ Ngoại giao. Phần thủ tướng Thái Kikrit Pramoj chính phủ của ông sẵn sàng nhìn nhận chính quyền mới. Bộ trưởng ngoại giao Phi Luật Tân Carlos Romulo chấp nhận cuộc đầu hàng, nhờ đó nhiều sinh mạng đã được cứu vớt. Ngoại trưởng Indonesia Adam Malik thì nói chính phủ ông không thấy khó khăn gì chẤp nhận chính quyền mới bất kể họ là ai. Ông tiên đoán rằng chính phủ Malaysia sẽ mời chính quyền mới ở Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á vào 13, 15 tại Kual Lampur. Tại Đài Loan, phát ngôn viên chính phủ cho rằng việc thành lập một chính phủ lưu vong tại Đài Loan của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một hy vọng mỏng manh. Chính phủ Úc Đại Lợi trước đây trong 11 năm đã gửi quân chiến đấu sang Việt Nam và 500 binh sĩ Úc đã chết tại Việt Nam. Úc đại lợi sẵn sàng viện trợ cho cả hai bên, miền Bắc cũng như miền Nam. Phần Bộ trưởng bộ ngoại giao Kim Dong-jo của chính phủ Đại Hàn cho rằng Bài học cộng sản ở Việt Nam cho thấy các quốc gia phải mạnh và phải tự cứu lấy mình. Ông Kim nói thêm, “Chúng ta có thể nhìn thấy ở Cao Mên cũng như tại Sài Gòn, họ đã không đủ sức mạnh nên cũng không thể thương thuyết, không thể hòa giải mà chỉ có đẩu hàng.” Chính phủ Do Thái đặt câu hỏi là chính quyền Mỹ học được bài học gì trong những sai lầm ở Việt Nam? Và có thể làm suy yếu Israel? Chính quyền Nhật qua bộ trưởng Bộ ngoại giao Miyazawa cho rằng chính quyền Sài Gòn quyết định đầu hàng là một quyết định khôn ngoan. Và chính phủ đang nghĩ tới nhìn nhận chính quyền mới. Saigon devient Ho Chi Minh. Le transfert se fait dans l’enthousiasme Lâu lắm mới có một bản tin bằng tiếng Pháp. Mấy anh Tây viết thì cứ cho là 3 phần trúng, bảy phần trật. Viết sạo là nghề của các ký giả Pháp. Chúng ta cùng nhau đọc bản tin này do ký giả Pháp viết cho AP, AFP và Reuters nhé. Hầu như không có một sự chống đối nào khi mà các quân đội cách mạng tiến vào Sài Gòn, theo đó chấm dứt một cách đột ngột sau một thế kỷ có mặt của người Âu Châu tại Việt Nam. Giữa những tiếng hoan hô và vỗ tay của đám đông, các lực lượng vũ trang đã phân tán đi khắp mọi đường phố ở Sài Gòn và họ kéo cờ chinh phủ lâm thời cách mạng miền Nam ở ngay nóc dinh Độc Lập mà trước đó vài giờ, ông tổng thồng Dương Văn Minh đã đọc thông cáo đầu hàng vô điều kiện của quân đội miền Nam. Tin tức về sự sụp đổ Sài Gòn, được đổi tên là Hồ Chí Minh đã làm cho hàng ngàn người dân trên các đường phố Hà Nội khóc vì sung sướng. Thành phố này nay trở thành phố ‘La ville la plus heureuse et la plus bruyante du monde’ (thành phố hạnh phúc nhất và náo nhiệt nhất trên thế giới) theo các phóng viên báo chí. Ở Bắc Kinh, các nhà ngoại giao đã nhảy mùa và hát giữa những tiếng pháo nổ. Ở Washington, cũng là một điều khuây khỏa mặc dầu có đượm nét cay đắng. Kết cục là c’est terminé! Sai gon nay mang một bộ mặt bình thường. Những ngưởi bộ hành lễ phép chào các ông bộ đội vả dơ tay cười bắt tay họ, Những chiến xa rồi những binh lính trang bị súng ống, lựu đạn vào thành phố. Các chiến xa này được chế tạo tại Liên Xô mà một trong những chiến xa ấy đã cán sụp một cánh cửa sắt của dinh Độc Lập.. Trong thành phố, có cái không khí của ngày lễ hội. Dân chúng xúm quanh các anh bộ đội mới từ trên rửng trở về để hỏi thăm với sự tò mò thích thú. Amen Tin từ Wagshington, Georges Deschodt, “Hoa Kỳ ngăn chặn mọi giao thiệp thương mại với Việt Nam và được coi như một nước thù nghịch.” Hoa Kỳ đã phản ứng ngay tức khắc khi được tin miền Nam bị sụp đổ vào tay cộng sản. Một biện pháp có hiệu lực ngay là bất cứ quốc gia nào rơi vào một chính quyền được coi là thù nghịch với với nước Mỹ, phong tỏa tất cả mọi giao dịch thương mại và tài chánh. Sẽ không có một chuyến hàng hóa được vận chuyển đến miền Nam, không có chuyễn vốn đến xứ này, căt mọi quỹ mà trước đây VNCH đã ký kết, không có việc nhập cảng bất cứ thứ gì từ xứ này. Nói chung là phong tỏa và cấm vận, xiết chặt và cô lập hóa Việt Nam với thế giới bên ngoải. Việc phong tỏa này không ảnh hưởng gì đến kinh tế Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hầu như không nhập cảng gì từ Sài Gòn và nếu có xuất cảng thì qua trung gian viện trợ kinh tế mà nay không có lý do gì tồn tại nữa. Sẽ gây nhiều trở ngại cho những người Việt Nam có tiền ở nhà băng Hoa Kỳ. Các compte nhà băng này đều bị phoa tỏa. Đặc biệt là Washington cũng như Quốc Hội Hoa Kỳ đã hoàn toàn yên lặng về sự đầu hàng này. Kissinger cũng sẽ làm như vậy và không tuyên bố gì cả. Thắng trận xong, Bắc Việt Nam hầu như bị cô lập với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt với Hoa Kỳ. Chỉ trừ vài nước xã hội chủ nghĩa anh em. Việc Định cư người Việt di tản sang Hoa Kỳ Phần đông người Việt khi được định cư ở Hoa Kỳ hay các nước Tây Phương thì coi như việc đương nhiên và trong lối phát biểu đượm nét tự hào vượt khuôn khổ. Thử hỏi xem đã có bao nhiêu người Việt di tản được định cư ở Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Singapore, Đài Loan, Mã Lai và Nam Dương? Cuối cùng chỉ có 4 nước sau đây là đón nhận rộng lượng nhất. Đó là Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi, và Pháp(**). Việc quyết định số lượng người Việt được tỵ nạn sang Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại. Để tiếp đón người tỵ nạn sang Mỹ, Florida và Arkansas cần 80.000 nhân viên đủ loại. Chi phí tính vào khoảng 327 triệu đôla. Chi phí này đã bị quốc hội từ chối. TT Ford tức giận về sự phủ quyết này và tuyên bố, theo Associated Press, “not worthy of a people which has lived by the philosophy symbolized in the Statue of Liberty.” Theo phát ngôn viên chính phủ, ông Robert Anderson cho hay cho đến thứ Tư này đã có khoảng 80.000 người di tản đến được nước Mỹ. Sẽ còn ít nhất vài chục ngàn nữa. Đã có 40 chiếc tầu chiến của Hoa Kỳ tham dự cuộc di tản người này. Hiện nay còn 60.000 được tạm thời di trú ở Fort Chaffee, Ark., Eglin air force base, Fla., Camp Pendleton, California. Những người di tản đầu tiên đã tới Camp Pendleton là 2315 người Trước khi viết phần này, xin được trích dẫn một đoạn văn được ghi khắc trên Bức tượng Nữ Thần Tự Do ở Nữu Ước: Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breahte free, The Wretched refuse of your teeming shore, Send these, the homeless, tempest-tossed to me… Emma Lazarus, The New Colossus, inscribed on the Statue of Liberty Tinh thần của Bức tượng Tự Do thì đã nêu rõ như thế. Nhưng trong dư luận người Mỹ thì đã có sự chia rẽ và bất đồng về việc thu nhận người Việt vào Nước Mỹ. Thomas Campbell, 24 tuổi, Louisville cho rằng làm thế nào nước Mỹ có thể thu nhận hàng loạt những người Việt Nam tỵ nạn trong khi chính nước Mỹ đang có trở ngại trong vấn đề thất nghiệp? Chúng ta chắc sẽ lại trở thành một thứ melting pot? Phần John Faltin ở New York thì nói rằng, “It seems we’ve got enough refugees here as it is.” Glen Owen, Lansing, Mich thì nói, “I’d burn a cross in their front yard if they moved next door to me.” Bà Rose Gutenkust, New Jersey nói, “Tỉ lệ thất nghiệp ở đây là trên 10% và hầu như đi đến chỗ phá sản. Nếu chính chúng ta không có công việc làm, thì làm thế nào giúp họ được? Người của chúng ta có quyền có công ăn việc làm trước nhất.” Về phần Quốc Hội Hoa Kỳ, sau khi Tổng thống Ford yêu cầu khẩn cấp giúp đỡ khoảng 150.000 người tỵ nạn Đông Dương đã nhận được sự đồng ý của Hạ Viện Hoa Kỳ. Không có con số rõ ràng về việc chuẩn chi này nhưng Tổng thống Ford cần khoảng 507 triệu đô la. A cold life in Tent 57 for Vietnamese refugee Câu chuyện sau đây là của cô Trần Mộng Tú viết từ Camp Pendleton, California do AP tường thuật lại. Trần Mộng Tú là cô gái với thân hình nhỏ bé, mắt sáng vốn là thư ký cho văn phòng The Associated Press ở Sài Gòn cho đến ngày 22 tháng tư khi cô và bố mẹ được đưa ra khỏi Việt Nam. Đây là câu chuyện của cô ở Camp Pendleton, lều 57. “Ban đêm chúng tôi chợt tỉnh dậy, vì trời lạnh quá lạnh không ngủ được. Cái giá lạnh từ những sườn đồi, vì đây không phải là ở thành phố. Chúng tôi xếp hàng, nói chuyện để chờ hàng nửa giờ để đến lượt lãnh phần ăn trong doanh trại. Có người nói ước gì được ăn ở trong một nhà hàng ở Sài Gòn. Chúng tôi thường nói về những người thân thuộc còn kẹt lại Sài Gòn, nói về các gia đình. Chúng tôi hỏi thăm người khác về những người họ hàng. Các gia đình Việt Nam thì thường có mối liên hệ gần gũi như thế. Ở đây tôi sống chung với bố mẹ tôi, chị và chồng con của họ với 5 đứa trẻ, với các chị dâu các ông chồng của họ và 4 đứa nhỏ. Tất cả chui rúc trong 4 căn nhà và một cửa tiệm bán cà phê. Cô cho biết những người lính Mỹ thì cực kỳ tử tế. Đồ ăn thì OK. Có một ông hạ sĩ người Mỹ còn muốn mời mấy cô về nhà dùng cơm. Họ cũng mang đến cho các cô các đôi bít tất. Ở nơi đây, đôi lúc cô nhớ nhà, nhưng làm sao về lại Sài Gòn được và cô có thêm vài người bạn mới! Người tị nạn ở Camp Pendleton, không ở lều 57. Nguồn: DCVOnline tổng hợp. Đọc bài của cô, đúng là cung cách tiểu thư con nhà. WJS | 40 Years After the War, Saigon Đôi dòng cuối cùng sau khi viết “40 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn” Sau khi viết xong bài viết này, vào một đêm tỉnh dậy lúc 2 giờ sáng. Tôi dở ra đọc lại, tự nhiên nước mắt tuôn trào… Biết bao nhiêu sự kiện diễn ra lần lượt trong đầu óc tôi như một cuốn film quay chậm. Những tâm trạng buồn, phẫn uất, chán nản như ngày nào sau 30 tháng Tư còn đọng lại. Trách nhiệm về ai? Dĩ nhiên là người Mỹ từ trong cái Situational Room của Tổng thống Ford và các chính khách Mỹ như tiến sĩ Kissinger, v.v. Nhưng người Việt Nam, chúng ta cũng chia sẻ cái phần trách nhiệm ấy. Trách nhiệm làm mất miền Nam là tướng lãnh, lãnh đạo cấp cao. Còn nhớ ông Nguyễn Cao Kỳ khi đến Hoa Kỳ vào đêm thứ hai, được hãng thông tấn Associated Press phỏng vấn tại camp Pendleton, California, ông đã tuyên bố một câu xanh rờn khi bước ra khỏi phi cơ: “I will try and be a leader for them.” Tôi không biết phải nói thế nào nữa! Trong khi đó nhà chức trách Mỹ ngay khi ông còn ở đảo Guam đã lo sợ cho an ninh bẩn thân của ông Kỳ vì ông đã bỏ trốn đi. Nhưng kể từ đó đến nay, sau 40 năm. Tôi cũng nhận thấy một cách chua chát có một hội chứng sau chiến tranh. Đó là trận chiến ký ức (Memory battlefield) giữa kẻ thua, người thắng. Năm nay kỷ niệm 40 năm miền Nam bị mất vào tay cộng sản. Cuộc chiến tranh với xác người chết không còn nữa. Di hại của người những người bị chết từ hai phía, những người bị thương tật cho đến nay vẫn chưa có một thống kê đầy đủ và rõ ràng. Sự hàn gắn những vết thương chiến tranh hầu như không đáng kể gì! Người chết trên chiến trường và ở các trại tù cải tạo nay vẫn chưa tìm ra dấu tích mồ mả. Chết chưa có chỗ về, thiếu hương khói. Người bị phế tật, nhất là thương phế binh VNCH hầu như bị bỏ rơi cho số phận của họ. Họ đã chết dần chết mòn mà ngày nay số còn lại chỉ còn là một dúm người như vật phế thải. Sự bất nhân của kẻ cầm quyền là sự mất ý thức về lòng nhân bản (Nếu cho là người cộng sản có ý thức nhân bản). Thật vậy, nếu trước đây có hội chứng hậu thuộc địa sau gần 100 năm người Pháp cai trị thì cũng có một hội chứng hậu 1975. Hội chứng ấy là những chấn thương tinh thần mà cả hai bên nhiều khi không chịu nhìn nhận. Nó được hun đúc biến thành một thứ huyền thoại của kẻ thắng trận đồng thời cũng có một thứ huyền thoại của kẻ thua trận. Đó là một cuộc chiến dai dẳng với ký ức đã bị bôi son, trát phấn làm chất liệu. Càng gần đến ngày 30 tháng Tư trận chiến ký ức nhìn lại càng trở nên sôi động từ trong ra đến ngoài nước. Đủ các loại bài viết, các loại tài liệu mật, các bài phỏng vấn từ nhiều phía, các nhân chứng còn sống sót từ phía người Mỹ, người cộng sản, cựu tướng lãnh miền Nam, những người làm báo cho cộng sản, những người cầm bút từ hải ngoại, v.v. Tất cả như chờ đợi trong dịp này thôi, để được bày tỏ, nói lên bằng nhiều tâm trạng khác nhau. Thà rằng nói thật, thà rằng đau xót nhìn nhận trách nhiệm và lỗi lầm. Không. Hầu như đã không ai muốn làm điều đó cả. Nói chung thì đã có một hiện tượng phổ biến về huyền thoại của kẻ thắng trận và một huyền thoại của kẻ thua trận. Phía người chiến thắng Tôi nhớ lại khi De Gaulle đi bộ trên đại lộ Champs-Élysées vào tháng 8-1944 với hàng triệu dân chúng đón tiếpp ông. Điều đó rõ ràng là một sự thật! Một chiến thắng cảm nhận được trên các khuôn mặt của hàng triệu dân chúng Paris với những màn ôm hôn những chiến sĩ trẻ với những vòng hoa, với những nụ cười rạng rỡ, với nước mắt mắt mừng mừng, tủi tủi. Đó là ý nghĩa trọn vẹn của chiến thắng của ngày Giải Phóng Paris. Tôi đã nhận ra được thứ nhân cách chững chạc, phong cách của kẻ anh hùng đó nơi một De Gaulle khi vào Paris. Tôi đã không nhận ra bất cứ điều gì như thế nơi dân chúng miền Nam. Có một vòng hoa nào không? Một thôi cũng được. Có tiếng hoan hô nào không? Có các thiếu nữ ăn mặc đẹp đẽ tươi cười hớn hở ra ôm các anh chiến sĩ ‘giải phóng’ không? Một cô thôi. Ai tiêu biểu cho cuộc chiến giải phóng đó? Lê Duẩn hay Nguyễn Hữu Thọ? Và dĩ nhiên cái không khí sung sướng đến hoan lạc của người dân Paris trên đại lộ Champs-E1ysées ngày nào thì không phải là không khí của đường Tự Do của Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngược lại, đó là thứ không khí của sự lo sợ, đau buồn và tủi nhục. Ngay giữa trung tâm thành phố, xác của Trung tá cảnh sát Nguyễn Văn Long còn nằm đó. Ít ngày sau, đại tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện bị đem ra trước công chúng xử bắn. Đô thành Sài Gòn – 30 tháng 4: Cảnh sát Trung tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trước tượng đài Thủy quân lục chiến (khuôn viên Công trường Lam Sơn. Nguồn: OntheNet Và nói cho thật chính xác là có một không khí của sự tủi nhục và sự cao ngạo! Sự thật rõ ràng là như thế! Chỉ nhìn cái quang cảnh khi những chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập người hiểu chuyện sẽ phải tự hỏi tại sao người dân Sài Gòn thờ ơ đến sợ hãi, nghi ngờ những kẻ chiến thắng? Hàng triệu người đã sợ hãi trốn chạy làm sao có cảnh vui mừng được! Làm thế nào để chúng ta học được bài học lịch sử này mới là điều quan trọng. Trên thế giới ngày nay, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt. Vậy thì cách hành xử, thái độ của những người từng coi nhau như kẻ thù, họ đã có thái độ như thế nào? Có những sự việc thuộc lịch sử của nhà viết sử, có những sự việc của người làm chính trị từ nhiều phía, có những việc thuộc quá khứ mà các thế hệ sau không có trách nhiệm và cũng có những việc thuộc hiện tại mà người ngày hôm nay phải chọn lựa, phải làm. Chọn lựa nào là thích hợp? Người Đức, người Pháp từng là kẻ thù của nhau, nay họ cùng nhau kỷ niệm thì họ đã chọn một thái độ nào? Khi bức tường Bá Linh sụp đổ thì người Đức thuộc Tây Bá Linh đã hành xử ra sao? Câu hỏi ấy, tôi đặt ra cho những kẻ tạm gọi là thắng cuộc! Bởi vì họ là kẻ trách nhiệm toàn thể cái hậu quả sau ngày 30 tháng Tư! Sau 30 tháng Tư, mặc dù có thể có hằng triệu người muốn chạy trốn khỏi cộng sản. Nhưng chỉ có chưa đầy 200.000 có được cái may mắn ấy. Còn lại phải chịu chung số phận của cả miền Nam! Nếu trước 1975, người dân miền Nam chỉ sợ cộng sản thì sau 1975, người dân miền Nam ngoài nỗi sợ còn thêm thù hận và sự khinh miệt người cộng sản. Trước chỉ có 200.000 người trốn chạy khỏi cộng sản thì sau 1975, con số ấy tăng lên gần 2 triệu người. Nhìn những cảnh tượng người dân Syria hôm nay bằng bất cứ giá nào chạy trốn ra khỏi đất nước của họ, chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ rồi vượt biển họ đã chết đuối trên biển Địa Trung Hải thì có khác gì các thuyền nhân người Việt vào cuối thập niên 1970? Phía người thua cuộc Nhiều người bên phía kẻ thua cuộc, nay là dịp may cuối cùng muốn chứng tỏ một điều gì đó với một quá khứ quay quắt chưa hòa giải được, cũng chưa tìm ra một giải pháp gì. Người ta cũng cố gắng giữ lại những hoài niệm đẹp oai hùng của cả một thời và cảm thấy bị xúc phạm nếu ai nói sự thật về họ. Nhưng ít ra họ vẫn nhận ra sự hữu ích của mình, hữu ích theo nghĩa họ còn sống, họ có mặt; họ muốn làm nhân chứng của ký ức, của lịch sử theo nghĩa còn có tôi đây, tôi có mặt trong giai đoạn ấy. Bằng bất cứ giá nào, họ không muốn kẻ thắng trận chà đạp trên lòng tự trọng, trên danh dự của một người lính ngoài mặt trận. Và hơn thế nữa họ muốn đồng hóa thảm cảnh năm 1975 cũng chính là họ với tư cách là nạn nhân của cộng sản. Thảm cảnh ấy chính là đời họ, số phận khắc nghiệt đã phủ lên cuộc đời họ sau 1975. Họ bị tù đầy, mất nhà, mất cửa, mất vợ, mất con và mặc dù đã sang đây trên dưới 30 chục năm, họ vẫn gọi cái ngày 30 tháng Tư là ngày Quốc Hận. Một cụm từ đóng kín bất di dịch và khó để chấp nhận bất cứ danh xưng nào khác. Cái quá khứ ấy với nhiều đau thương lẫn tủi nhục làm sao bắt họ quên được? Về phía người Mỹ, những người trong cuộc, họ thường không có thói quen thù hận người cộng sản nên họ tránh được những thiên khiến. Họ cố gắng dùng cái lăng kính con người nhân bản, nhìn cuộc chiến ấy và chỉ thấy ở đó một thảm kịch con người mà họ đã góp phần. Họ nhìn nhận cái miền Nam sau 21 năm dưới con mắt chia sẻ và hiểu biết hơn là lúc họ còn đang tác nghiệp ở đây trước năm 1975. Tiêu biểu nơi người Mỹ là họ chia xẻ số phận người miền Nam của họ và cảm thấy như một kẻ bội phản. Sau dây là lời trần tình của Frank Sepp, một nhân viên cao cấp CIA được trích lại trong sách của ông. “But that last day, there were no euphemisme for what we’d done. We’d betrayed the Vietnamese who’d depended on us, and those of us who’d worked most closely with them -the young CIA and State Department officers from the trenches- now had blood on our hands, for it was we who in our daily contacts had convinced them to trust us’.(17) Chúng ta tự hỏi, có bao giờ một cách chính thức, người cộng sản miền Bắc nhìn nhận những việc họ đã làm tan hoang miền Nam không? Không, chưa bao giờ. Chẳng những thế, họ còn làm ngược lại. Kể từ sau 30 tháng Tư cuộc sống của con người miền Nam không còn như trước nữa. Họ mất tất cả những cái họ có. Người cộng sản gọi ngày này là Ngày Giải Phóng, Người Quốc Gia gọi nó là Ngày Quốc Hận. Giữa hai cụm từ này là tội ác chống lại con người (crimes contre l’humanité) nhân danh hai chữ Giải Phóng. Tôi đã đọc bài báo: “Không có ngược đãi sau 30 tháng tư”, trao đổi với BBC ngày 18 tháng Tư 2015 của ông phó giáo sư Vũ Quang Hiền, từ Đại học quốc gia Hà Nội. Ông dám nói như thế này: “Sau chiến tranh chấm dứt ngày 30 tháng Tư, 1975, ở Việt Nam không có sự ngược đãi đối với mọi người, trong đó với các lực lượng cựu quân, cán chính của chính quyền Sài Gòn.” Ông nói tiếp: “Tức là tuyên truyền vu cáo về miền Bắc xâm lược miền Nam và dẫn đến sự tàn sát đẫm máu thì rõ ràng là điều đó không có ở miền Nam.” Đang cầm ly cà phê trên tay, nghe những lời tuyên bố trên của tên Phó Giáo sư, tôi chỉ muốn cầm ly cà phê hắt vào mặt tên Vũ Quang Hiền này. Các bài viết mang tính huyênh hoang, chạy tội, dối trá, tuyên truyền bịp bợm đến ngớ ngẩn không thiếu. Họ càng nói càng mất thế giá. Họ càng tìm cách trình diễn, càng trở nên lố bịch! Hà Nội nhân dịp này đang nỗ lực tổ chức hội thảo, rồi tiệc tùng ăn mừng chiến thắng, rồi cho dân nghỉ lễ, rồi có pháo bông để dân nghèo cũng có cơ hội nhìn pháo bông mà quên đi cái thân phận họ. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ có duyệt binh có cả 6000 binh lính tham dự để diễn lại cái cảnh xâm chiếm miền Nam năm 1975! Chắc là cũng tốn kém bạc tỉ? 40 năm nhìn lại, chỉ mong rằng sau này, người ta biết coi là một bài học đau thương của cả một dân tộc. 2015 DCVOnline trích đăng lại bài từ DCVOnline.net (17) Frank Snepp, Irreparable Harm, trang XVII DCVOnline | (*) Quốc hội không có thẩm quyền bầu Tổng thống theo Điều 39, Quyền hạn của Quốc hội, trong Hiến pháp 1967 của Việt Nam Cộng Hòa. Căn cứ vào Điều 56 của Hiến pháp, nhiệm vụ của một Tổng thống chỉ có thể bị chấm dứt trước khi mãn nhiệm trong những trường hợp sau đây: chết, từ chức, mang trọng tội/truất phế, bị bệnh nặng kéo dài. Tất cả những trường hợp vừa kể không thể áp dụng với Tổng Thống Trần Văn Hương. Luận tội/truất phế Tổng thống là một trong những thẩm quyền của Tòa án Đặc biệt theo quyết định dựa trên hai Điều 85 và 87. Như vậy, hành động của Quốc hội trong việc bầu chọn Tướng Dương Văn Minh thay thế Tổng Thống Trần Văn Hương vào ngày 26 tháng tư năm 1975 có thể được coi là không hợp hiến. [Tham khảo: Văn bản của Hiến pháp mới, Việt Nam Perspectives. Vol. 3, số 1 (Tháng Tám, 1967), trang 24-40. Một phiên bản tiếng Việt của “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm 1967” có thể được tìm thấy ở đây: snipurl.com/24o4sn5](**) Theo statistiques de France-terre d’asile, từ tháng 5 năm 1975 đến ngày 31 tháng năm 1990, Pháp đã nhận tổng cộng 42.694 người tị nạn Việt Nam, 1/3 của người tị nạn Đông Dương đến Pháp (126.100) trong giai đoạn này. (Nguồn: Lam Thanh Liem et Jean Maïs, La Diaspora Vietnamienne En France Un Cas Particulier: La Region Parisienne, Bulletin EDA n° 207, 16/10/1995.) Trong cùng thời gian đó có 543.000 người Việt tị nạn tại Mỹ (Hataipreuk Rkasnuam and Jeanne Batalova, Vietnamese Immigrants in the United States, August 25, 2014.) Từ khoảng 3000 người trước 1975, đến 1991 dân số người gốc Việt tại canada tăng lên 91.000 sau những đợt di cư của người tị nạn (Louis-Jacques Dorais, “From refugees to transmigrants: the Vietnamese in Canada”). Trước năm 1975 chỉ có khoảng 700 người gốc Việt Nam tại Úc, con số này tăng lên 124.800 người vào năm 1991 (ABC.net.au, Timeline: Vietnamese immigration to Australia.)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 25, 2015 7:02:26 GMT 9
Tôi Giải Tán Đơn Vị 24/03/2015 Lêtamanh
Bốn mươi năm trước, kể từ ngày vùng đồi núi xứ Bamethuot "nổi cơn gió bụi" thì cả miền Nam, bước vào một khúc quanh lịch sử vô cùng đau thương ngàn đời còn ghi nhớ. Cả đất nước đắm chìm trong ly loạn, chen nhau giữa người và người. Súng đạn đầy đường, áo quần xác xơ, xe đủ thứ nằm bên lề đường bốc khói!
Từng tuyến phòng thủ bị bể, từng đoàn quân xơ xác cùng thân nhân gia đình dìu nhau rời bỏ vùng lửa đạn. Cứ thế mà chạy, cứ thế không quay đầu nhìn lại... Phía sau không có ai, không có đơn vị nào của "Địch" đuổi theo kịp đoàn người phía trước! Quân dân dìu nhau chạy vì "quân vô tướng như... rắn mất đầu". Chẳng có đơn vị nào còn cấp chỉ huy, chẳng còn ông Tướng nào ra lệnh, chẳng có ông Tá nào cầm máy bộ đàm bám theo "Chiến Sĩ"(?) Đài BBC thì tường thuật từng lúc mất nơi nầy đến nơi nọ, nhưng trên thực tế không phải thế. Vì tin thất thiệt đó, do BBC loan tải, mà đoàn người di tản từ Trung vào Nam càng nháo nhào điên loạn, từng lúc, từng nơi bỗng trở nên hỗn tạp vô cùng nguy hiểm.
Trong binh pháp, dễ nhất là tiến quân đánh địch và khó nhất là rút lui. Nhưng nếu rút lui chỉ thuần là những đơn vị quân đội thì sự thiệt hại, nếu có, cũng không đến nỗi “kinh hoàng” như “chiến thuật di tản” của VNCH khỏi Vùng I và Vùng II vào những ngày tháng 3 năm 1975! Mỗi đơn vị quân đi tản đều mang theo gia đình vợ con, của cải, những gì có thể đem theo... Cho nên, về mặt tâm lý, không có một binh sĩ nào, một sĩ quan nào còn nghĩ đến chiến đấu chống trả lại quân địch, mà chỉ lo bảo vệ lấy vợ con, gia sản đang cần sự chở che của mình. Vì thế nên cuộc di tản trở thành cuộc tháo chạy không quay đầu nhìn lại phía sau xem địch quân ra sao.
Sau khi nghe đài BBC lúc 7:30 tối ngày 30 tháng 3 năm 1975. Trong bản tin, BBC loan tải là Nha Trang đã lọt vào tay Cộng Quân. Đoàn người di tản dài thườn thượt trên quốc Lộ 1 hướng vào Nam...Tôi mặc quân phục, mang áo giáp, ăn qua loa vài chén cơm rồi xách súng đến đơn vị trực chiến. Tôi từ Pleiku mới đổi về Đặc Khu Cam Ranh chưa đầy mười ngày, đơn vị đang có bổn phận tiếp nhận "Đoàn quân" từ Quân Khu I theo các tàu chiến của Mỹ vào cảng Cam Ranh, phát gạo và thực phẩm cho họ. Những đoàn tàu vào cảng, đầy nghẹt người và người. Nhưng ít ai muốn xuống Cam Ranh tạm trú vì họ không an tâm rời những con tàu đang chở họ. Họ không biết đi đâu, về đâu, nhưng dù sao họ ngồi lì trên tàu có thể an toàn hơn là xuống Cam Ranh! Số người tạm trú ở Cam Ranh để chúng tôi phục vụ vì thế cũng không là bao, họ đang ở trong các trường học.
Xuống đến đơn vị thì chú lính gác báo cáo là đơn vị trưởng đã đi đâu từ trưa, đơn vị không có cấp chỉ huy. Tôi chạy vội vào cầm điện thoại xin gặp BCH Đặc Khu thì Tổng Đài không ai trả lời. Tôi quay qua hỏi ông Thượng Sĩ trực đơn vị về các việc trong ngày vì tôi đang công tác bên ngoài lo cho các khu tạm cư. Ông Thượng sĩ cho tôi biết từ chiều đến giờ đơn vị trưởng cũng như đơn vị phó và các sĩ quan các ban không ai có mặt, ngay lúc ấy, quân số đơn vị tại chổ còn khoảng 20 người đều là lính và Hạ Sĩ Quan. Liên lạc với Đặc Khu không được và nghe một anh Trung Sĩ nói là mấy ông Đại Tá bên Đặc Khu và các đơn vị đã di tản hết rồi.
Chân ướt chân ráo mới từ Pleiku đổi về Đại Đội CTCT Cam Ranh, Đại Đội Trưởng lúc đó là Tr/Úy Trịnh Thế Hoàng, vì tình hình lập tức phải tôi làm trưởng toán cứu trợ những người chạy từ Vùng I, trên các con tàu cập cảng Cam Ranh. Con số người chịu xuống tạm cư ở Đặc Khu rất ít, vì họ thà ngồi lì trên boong tàu, phó mặc số phận còn hơn phải vào dất liền mà không biết tương lai ra sao!Tôi vào văn phòng bối rối ngồi xuống ghế suy nghĩ. Trong tình trạng nầy thì chỉ có tôi là cấp chỉ huy có cấp bậc. Tôi ra lệnh cho Thượng Sĩ tập họp anh em trước sân cờ. Khi tôi ra đến hàng quân, Thượng Sĩ trình diện và vào hàng.
Quân Đoàn I đã thê thảm, với bao nhiêu cảnh hải hùng ở cửa Tư Hiền, Cửa Thuận An, Cảng Đà Nẵng... Thế mà Quân Đoàn II tiếp nối với Tỉnh Lộ 7 sau khi mất Banmethuot ngày 10 tháng 3 năm 1975. Quân và dân Pleiku ôm nhau chết trên con đường máu Phú Bổn. Đơn vị Đại Đội CTCT Pleiku, nơi tôi vừa giả từ, tất cả đều lọt vào tay dịch, bị bắt cùng các ban ngành Quân Đoàn II và Tiểu Khu Pleiku. Con số còn lại chạy được về Tuy Hòa...!
Tôi ngước nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ đang tung bay trên cột cờ, những vì sao đêm nhấp nháy trên cao, ngoài kia là vịnh Cam Ranh, những con tàu từ từ nhổ neo ra khỏi vịnh... Bỗng nhiên nước mắt tôi trào ra. Đứng trước hàng quân, chỉ có tôi là cấp bực sĩ quan. Làm sao bây giờ trước tình thế! Nếu chần chừ, có thể những người đang đứng trước mặt tôi sẽ mất vợ, mất con...
Đầu óc lùng bùng, nhưng rất sáng suốt, tôi hô lớn: " Nghiêm! Chào cờ, chào!” Trong đầu tôi tuôn trào những ý nghĩ không tên thật buồn, nghiêm chỉnh chào lá cờ tổ quốc lần cuối. Tôi hô khẩu lệnh: “ Phắt...thao diễn – nghĩ! Tất cả nghe đây: Trước tình thế không thể nào chần chừ, tôi, nhân danh Sĩ Quan QLVNCH, ngày hôm nay, tuyên bố giải tán đơn vị, anh em ai lo phận nấy, tôi không còn chỉ huy các anh nữa, - Nghiêm - tan hàng...!"
Cả hai hàng quân không ai nhúc nhích tan hàng theo lệnh mà người nào cũng đứng chết trân nước mắt ròng ròng. Tôi không biết phải làm thế nào nói với họ, không biết diễn tả thế nào về tình hình đất nước ngay lúc ấy. Trung Sĩ lo về xe cộ cho đơn vị lên tiếng: " Trình thẩm quyền, mình có một GMC hồi chiều chở gạo đi phát còn hai chục bao, một xe Dodge. Chúng em xin theo Thẩm Quyền chứ bây giờ không biết đi đâu". Tôi nói: " Các anh có thể về nhà lo cho vợ con gia đình, đơn vị bây giờ tôi đã giải tán và tôi sẽ chịu trách nhiệm, ra tòa án binh nếu sau nầy tình hình sáng sũa trở lại!."
Nhưng những người lính Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ thân yêu ấy vẫn không chịu ra đi, họ bám vào tôi để hy vọng vượt đoạn đường vào Sài Gòn trình diện Bộ Tổng Tham Mưu. Không còn cách nào khác, tôi ra lệnh lên xe, tôi ngồi xe Dodge và toàn thể leo lên, một số ngồi trên GMC. Mới chạy ra khỏi cổng đơn vị thì gặp một người lính, không biết ở đơn vị nào chận xe chúng tôi và thông báo rằng đường vào Phan Rang cầu bị giật mìn sập không đi được đâu. Có đề nghị rằng chúng tôi nên qua cầu Long Hồ để qua vịnh kiếm tàu xuôi Nam. Cũng người Lính ấy nói rằng cầu Long Hồ đã bị giật mìn sập rồi. Tôi và anh em chạy ra bờ vịnh kiếm ghe chài. Nhưng ghe máy không nổ vì bị khóa và hết dầu. Chúng tôi cố chèo nhưng gió từ bên kia bờ vịnh thổi ngược không có thể nào chèo. Chiếc ghe càng lúc càng trôi ngược theo bờ... Tôi nói với mọi người trên ghe: "Chúng mình không thể nào chống lại ý trời, thôi đến đây thì anh em tự lo lấy, tôi đã hết sức mình rồi..."Lúc ấy tôi nghĩ đến Khổng Minh với lời than: "Nhân định như thử như thử, Thiên lý vị nhiên vị nhiên!" Sau nầy tôi mới biết chẳng có cầu đường nào bị giật sập cả. Hóa ra chính mình bị tên VC nằm vùng chơi xỏ lá!
Tôi kể một đoạn về những ngày tháng Tư bốn mươi năm trước của bản thân tôi, để cho mọi người thấy được rằng, cuộc tháo chạy đó bắt đầu từ đâu. Những quân nhân hạ tầng của chúng ta có hèn hay không, những cấp chỉ huy ngày ấy và bây giờ có nhìn lại được hành động trốn chạy của từng người hay không? Những Binh nhì, Binh Nhất. Hạ Sĩ Quan tôi vừa kể có hèn nhát và “tháo chạy” như cấp chỉ huy hay không thì lịch sử đã qua trang và đã ghi rất rõ. Những Sĩ Quan đơn vị, kể cả Đơn Vị Trưởng của tôi ở Cam Ranh, từ đó đến bốn mươi năm sau, tôi tìm hoài cũng không biết tin tức. Không biết họ đã rời khỏi Cam Ranh như thế nào và từ ngày đó họ sống ở phương nao...!
Bốn mươi năm cho một dịp nhìn lá cờ Mỹ và lá cờ máu bắt tay! Người Việt Nam trong và ngoài nước thì đang lay hoay tìm chỗ đứng giữa những con bọ thành người đang trà trộn khắp nơi... Bốn mươi năm, có những người đang ngồi sắm cần câu dài từ Mỹ thả về Việt Nam. Cộng Đồng người Việt tị nạn nghĩ gì trước khi Đại Hội Đảng XII diễn ra và Hoa Kỳ lại muốn quay trở lại với miếng mồi đã vứt bỏ, vì chiến lược sai lầm, để VN rơi vào tay Cộng Sản và hiểm họa China với Biển Đông là “ao nhà” của chúng!
Người ta lúc nào cũng khen Hoa Kỳ là nhất, nhưng suy nghiệm về việc Mỹ bỏ Việt Nam năm 1975 để bây giờ năn nĩ ỉ ôi Cộng Sản VN xin quay trở lại... thì thật là mất mặt đàn anh! Bốn mươi năm không dài lắm với lịch sử của tổ quốc, nó không làm cho đất nước mất đi, nó không làm cho gần 100 triệu người khốn đốn lầm than lắm, nhưng nó đủ để cho toàn thể mọi người chiêm nghiệm. Nhìn lại quá khứ, nhìn lại mình, nhìn lại bạn, nhìn lại thù, nhìn lại chủ nghĩa, tại sao phải là CS tại sao phải là QG. Nghĩ cũng không phải là sớm, không phải là muộn. Nhưng có học được bài học nào từ những ngày tháng TƯ đó hay không là một chuyện khác! Chúng ta hãy nhìn lại chính mình và nhìn sang bên phải, bên trái, sau lưng, trước mặt... Để nhận diện bạn thù trong lúc này. Chỉ có tỉnh táo lắm mới có thể sống còn!
letamanh
|
|